Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
12/01 Bệnh tật tâm hồn và bệnh tật thể xác
- Viết bởi Mc 2, 1-12
Bệnh tật tâm hồn và bệnh tật thể xác.
Thứ Sáu tuần 1 thường niên.
"Con Người có quyền tha tội dưới đất".
LỜI CHÚA: Mc 2, 1-12
Sau ít ngày, Chúa Giêsu lại trở về Capharnaum; nghe tin Người đang ở trong nhà, nhiều người tuôn đến đông đảo, đến nỗi ngoài cửa cũng không còn chỗ đứng, và Người giảng dạy họ.
Người ta mang đến cho Người một kẻ bất toại do bốn người khiêng. Vì dân chúng quá đông, không thể khiêng đến gần Người được, nên họ dỡ mái nhà trên chỗ Người ngồi một lỗ to, rồi thòng chiếc chõng với người bất toại xuống. Thấy lòng tin của họ, Chúa Giêsu nói với người bất toại rằng: "Hỡi con, tội lỗi con được tha".
Lúc ấy, có một ít luật sĩ ngồi đó, họ thầm nghĩ rằng: "Sao ông này lại nói thế? Ông nói phạm thượng. Ai có quyền tha tội, nếu không phải là một mình Thiên Chúa". Chúa Giêsu biết tâm trí họ nghĩ như vậy, liền nói với họ: "Tại sao các ông nghĩ như thế? Nói với người bất toại này: "Tội lỗi con được tha" hay nói: "Hãy chỗi dậy vác chõng mà đi", đàng nào dễ hơn? Nhưng (nói thế là) để các ông biết Con Người có quyền tha tội dưới đất". - Người nói với kẻ bất toại: "Ta truyền cho con hãy chỗi dậy, vác chõng mà về nhà".
Lập tức người ấy đứng dậy, vác chõng ra đi trước mặt mọi người, khiến ai nấy sửng sốt và ngợi khen Thiên Chúa rằng: "Chúng tôi chưa từng thấy như thế bao giờ".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Thấy họ có lòng tin
(Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)
Bối cảnh của bài Tin Mừng là căn nhà của ông Simon ở Caphácnaum.
Đức Giêsu đang được hết sức ái mộ bởi đám đông dân chúng.
Biết ngài trở về, họ tụ tập lại đông đến nỗi cửa cũng chẳng còn lối vào.
Chính vì thế khi bốn người bạn khiêng anh bất toại tới,
họ không biết làm sao mà vào được trong nhà để gặp Đức Giêsu.
Dù sao cũng có một tình cảm nào đó giữa năm người này.
Rất có thể họ là một nhóm bạn quen biết nhau và muốn giúp nhau.
Cả năm người đều tin rằng đến với Đức Giêsu là có hy vọng khỏi bệnh.
Họ đã hẹn nhau vào một ngày nhất định để lên đường.
Tình bạn được biểu lộ qua việc vất vả khiêng người bất toại.
Khi không vào được nhà, chắc cả năm người đều bối rối.
Về ư? hay chờ đợi? hay cứ liều gạt đám đông mà vào?
Hay còn một giải pháp nào khác tốt hơn?
Thời nay chúng ta khó hiểu được chuyện dỡ mái nhà mà vào.
Nhưng mái nhà của người Palestine thời ấy cũng khá đơn sơ,
chỉ gồm những thanh xà đặt trên các tường đá, rồi lợp tranh lên trên.
Nhóm năm người đã chọn giải pháp này, sau khi đã bàn bạc và nhất trí.
Kế đến là chuyện phân công.
Phải xin phép chủ nhà, phải leo lên dỡ mái bằng thang và làm một lỗ hổng,
phải kéo anh bất toại với chõng lên và hạ xuống ngay tại chỗ Đức Giêsu ngồi.
Tất cả công việc này cần nhiều sức mạnh và sự khéo léo,
nhất là cần lòng tin và tình bạn.
Hẳn Đức Giêsu đã hết sức kinh ngạc trước lòng tin này.
Lòng tin mạnh mẽ không lùi bước trước khó khăn cản trở.
Lòng tin đầy sáng tạo, dám tìm ra những con đường mới mẻ và khác thường.
Lòng tin mang tính tập thể, vì là niềm tin của cả nhóm năm người.
Lòng tin đòi vất vả, đổ mồ hôi, chứ không chỉ ở trong tâm trí.
Lòng tin táo bạo vì dỡ mái nhà có thể bị Đức Giêsu coi là là khiếm nhã.
Đức Giêsu đã thấy được lòng tin này và ngài đã chữa lành (c. 5).
Con đường trở về nhà của năm người thật là vui và nhẹ nhàng.
Người ta có thề đi ngang hàng với nhau, chứ không phải khiêng nhau nữa.
Nhìn nhóm người trên, tôi tự đặt cho mình vài câu hỏi.
Khi tôi bất toại, có người bạn nào giúp tôi không?
Tôi có khiêm nhường để cho người khác giúp tôi không?
Tôi có sẵn sàng để người khác đưa tôi đến với Giêsu không?
Tôi có chấp nhận vất vả để giúp một người bạn đang gặp khó khăn không?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải,
để con làm bật rễ khỏi lòng con
những ích kỷ và khép kín.
Xin cho con đức tin can đảm
để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến,
chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.
Xin cho con đức tin sáng suốt
để con thấy được thế giới
mà mắt phàm không thấy,
thấy được Ðấng Vô hình,
nhưng rất gần gũi thân thương,
thấy được Ðức Kitô nơi những người nghèo khổ.
Xin cho con đức tin liều lĩnh,
dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân,
dám tiến bước trong bóng đêm
chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa,
dám lội ngược dòng với thế gian
và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.
Xin cho con đức tin vui tươi,
hạnh phúc vì biết những gì
đang chờ mình ở cuối đường,
sung sướng vì biết mình được yêu
ngay giữa những sa mù của cuộc sống.
Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp
qua những cọ xát đau thương của phận người,
để dù bao thăng trầm dâu bể,
con cũng không để tàn lụi niềm tin
vào Thiên Chúa và vào con người.
Suy Niệm 2: Lắng nghe Lời Chúa
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Lời Chúa có hiệu quả khác nhau. Tuỳ cách ta đón nhận. Có lời rơi trên vệ đường. Chim chóc đến tha đi. Có lời rơi vào đất tốt. Sinh hoa kết quả gấp trăm nghìn.
Lời Chúa tăng cường đức tin cho người bị bại liệt. Đức tin đó ảnh hưởng tới những người thân. Nên họ sẵn sàng khiêng anh tới chỗ Chúa Giê-su. Đức tin của anh càng mãnh liệt hơn khi Chúa nói với anh: “Hãy đứng dậy vác giường mà về”. Nhưng Lời Chúa lại gây bất mãn cho người không tin. Những kinh sư lẩm bẩm: “Ông ta nói phạm thượng. Ai có quyền tha tội nếu không phải là Thiên Chúa”.
Lời Chúa chữa lành người bệnh. Chữa lành nhanh chóng, hiệu quả tức thì. Người bại liệt không đi nổi nay đã tự mình đứng dậy. Trước kia không mang nổi thân mình nay có thể vác giường đivề. Lời Chúa trái lại khiến các kinh sư sinh bệnh. Lúc người bệnh đứng dậy cũng là lúc các kinh sư ngã gục. Lúc người bại liệt vác giường thì các kinh sư lại liệt giường. Lời Chúa nâng dậy người bệnh và xô ngã người kiêu căng cứng cỏi.
Lời Chúa khiến người bại liệt bình an thư thái. Những người lắng nghe Chúa được tràn đầy niềm vui. Chúa đưa họ vào nơi an nghỉ. Vì họ đã có niềm tin yêu phó thác. Tâm hồn được thứ tha tội lỗi hưởng nếm sự ngọt ngào của niềm bình an và tình yêu thương được kết hiệp với Chúa. Đặc biệt người bại liệt không chỉ được Lời Chúa chữa lành thân xác mà còn được chữa lành tâm hồn khi Chúa phán: “Tội con đã được tha”. Vì thế tâm hồn ông tràn đầy bình an. Trái lại, Lời Chúa khiến các kinh sư bất an. Họ trở về tâm hồn bực tức và ganh ghét. Họ càng lún sâu trong tội lỗi nên càng bị bóng tối bất hạnh vây phủ.
Vì thế thánh Phao-lô khuyên nhủ chúng ta “hãy biết sợ rằng trong khi lời hứa được vào chốn yên nghỉ của Thiên Chúa vẫn còn đó, mà có ai trong anh em bị coi đã mất cơ hội”. “Vậy, chúng ta hãy cố gắng vào chốn yên nghỉ này, kẻo có ai cũng theo gương bất tuân đó mà sa ngã”(năm lẻ).
Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước. Là ánh sáng chỉ đường con đi. Hãy tuân theo Lời Chúa, dù phải bỏ ý riêng. Như Sa-mu-en không muốn dân Do Thái có vua. Ông sợ họ lìa xa Chúa. Và có thể ông mất quyền lợi. Nhưng ông đã tuân theo ý Chúa. Xức dầu phong cho dân Do Thái một vị vua. Dù thâm tâm ông không muốn. Xin cho chúng ta luôn sống theo Lời Chúa. Để Lời Chúa hướng dẫn tư tưởng, lời nói, việc làm của ta (năm chẵn).
Suy Niệm 3: Chữa người bất toại
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Một điểm trong phép lạ chữa người bất toại được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay đáng chúng ta lưu ý, đó là Chúa Giêsu không nói ngay: "Ta chữa lành cho con", nhưng Ngài nói với người bất toại: "Con đã được tha tội rồi".
Qua đó, Chúa Giêsu mạc khải Ngài là Thiên Chúa, bởi vì chỉ Thiên Chúa mới có quyền tha tội. Chính những kẻ chống đối Chúa Giêsu cũng nghĩ như thế, và vì không tin Ngài là Thiên Chúa, cho nên họ nghĩ thầm rằng: "Sao ông này lại dám nói như vậy? Ông ta nói phạm thượng". Nhưng Chúa Giêsu đã nhân cơ hội này để một lần nữa chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa, vì Ngài đọc thấu tư tưởng thầm kín của họ. Ngài bảo họ: "Sao trong bụng các ông lại nghĩ những điều ấy?" Rồi Ngài nói với những kẻ không tin: "Trong hai điều: một là bảo người bất toại: "Con đã được tha tội", hai là bảo: "Ðứng dậy, vác chõng mà đi", điều nào dễ hơn". Thật ra, hai điều này đều khó, và Chúa Giêsu quả quyết: "Ðể các ông biết: ở dưới đất, Con Người có quyền tha tội, Ta truyền cho anh hãy đứng dậy, vác chõng đi về nhà", lập tức người ấy đứng dậy vác chõng mà đi trước mặt mọi người, khiến ai nấy đều sửng sốt và tôn vinh Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ để chứng minh Ngài có quyền tha tội, vì Ngài là Thiên Chúa. Như những người chống đối Chúa, ngày nay cũng có nhiều người không chấp nhận quyền tha tội của Chúa, quyền này đã được Chúa trao cho các Tông đồ, và qua các ngài cho Giáo Hội. Giáo Hội vẫn tiếp tục công việc tha tội trong Bí tích sám hối và hòa giải. Nhờ Bí tích này, tội nhân sau khi lãnh Bí tích rửa tội được ơn tha thứ và làm hòa với Thiên Chúa. Từ ít lâu nay, có một cơn khủng hoảng đối với Bí tích giải tội: nhiều người không còn lãnh nhận Bí tích giải tội, không còn quý trọng ơn tha tội, vì đã đánh mất ý thức về tội lỗi: có thể họ cần được Thiên Chúa ban cho điều này điều nọ, nhưng không thấy cần được Thiên Chúa tha cho những tội đã phạm.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta trở về với tác vụ chính của Chúa Giêsu ngay từ đầu: tác vụ tha tội, hòa giải con người với Thiên Chúa. Ước gì chúng ta luôn ý thức về tội lỗi và quý trọng ơn tha thứ qua Bí tích giải tội.
Suy Niệm 4: Trước tiên, phải tha thứ
Bấy giờ người ta đem đến cho Đức Giêsu một kẻ bại liệt, có bốn người khiêng. Nhưng vì dân chúng quá đông, nên họ không sao khiêng đến gần Người được. Họ mới dỡ mái nhà, ngay trên chỗ Người ngồi, làm thành một lỗ hổng, và thả người bại liệt nằm trên chõng xuống. Thấy họ có lòng tin như vậy, Đức Giêsu bảo người bại liệt: “Này con, con đã được tha tội rồi.” (Mc. 2, 3-5)
Thường ta đến cầu nguyện với Chúa, mà lòng nặng trĩu những tâm tư; ta có những nỗi khổ của riêng mình, mà còn mang theo những đớn đau của kẻ khác nữa. Ta muốn phô bày tất cả với Chúa… Ta muốn thả tất cả xuống trước mặt Chúa như người xưa đã làm cho người bại liệt nọ vậy.
Hôm ấy người ta đã khiêng đến một người bại liệt. Vấn đề coi như nan giải, vì dân chúng quá đông, đứng bít cả cửa. Nên người ta đã khéo léo tìm cách rỡ mái nhà để thả được người bại liệt xuống và đặt anh nằm trước mặt Chúa Giêsu. Nhưng kìa Chúa Giêsu lại nói với người ấy rằng: “Này con, con đã được tha tội rồi!”
Có những người nghĩ thầm trong bụng
Khi nghe Chúa nói như vậy, người ta sửng sốt và tỏ ra cứng cỏi. Họ lý luận về hai khía cạnh: ông ta tự coi mình là Thiên Chúa, khi nói lời tha tội. Đó là một thái độ tụ kiêu, ngạo ngược. Sau nữa, cho dù có như thế đi chăng, nói rằng sự tha tội có thể chữa lành bệnh tật, thì quả là một kỳ vọng còn phi lý hơn nữa!
Điều mà các kinh sư xưa nghĩ tưởng, thì nhiều người chúng ta hôm nay cũng suy nghĩ như vậy khi nghe Giáo hội giảng dạy. Phải chăng Giáo hội có thể lấy quyền Thiên Chúa mà tha tội - và nếu có đi chăng, thì làm sao chứng minh được rằng ơn tha tội đem lại một tác động hiệu nghiệm thực? Giải đáp trước nhất cho vấn đề của chúng ta phải chăng là ơn tha thứ?
Phải, tiên vàn phải được ơn tha thứ!
Người ta sẽ có thể giải thích rộng rãi về tầm quan trọng của ơn tha thứ. Tôi chỉ muốn đè cập đến vấn đề này cách dơn giản bằng cách phân biệt ơn tha thứ và ơn chữa lành. Sự khác biệt này càng rõ nét tùy theo tương quan giữa những người liên hệ. Xin đưa ra một thí dụ: một ông bác sĩ có thể chữa trị cái chân của một con bệnh mà không cần phải yêu mến, ngay cả chuyện trò với người ấy. Cũng thế, mỗi người chúng ta có thể tiếp cận người khác theo chức năng hay nghề nghiệp, có thể tham gia vào xã hội hoàn toàn theo những quy tắc luật lệ của môn khoa học hay ngành nghề mình đã theo đuổi. Nhưng con người có những nhu cầu mà nhiều kiến thức chuyên môn sẽ không có thể thỏa mãn được như giữ được niềm tin trong cuộc sống, mặc dầu con người có những yếu đuối và giới hạn; tin theo nghĩa thông thường …
Thực vậy, Thiên Chúa có thể ban ơn tha thứ cho con người thế nào thì chúng ta cũng có thể nhân danh Người mà chuyển giao ơn ấy như vậy, hầu nối kết con người với vận mệnh của mình. Ơn tha thứ khiến cho con người được Thiên Chúa doái nhìn và xót thuơng bù đắp cho những thiếu thốn của con người.
Vậy thì, trưỡc tiên là tha thứ, một người có thể sống trong một thân xác bại liệt, nhưng không thể sống thiếu tình thương.
Suy Niệm 5: Quyền năng của Chúa Giêsu
Đã có lần Đức Giêsu phải than phiền vì dân chúng cứng tin vào Ngài, nhất là khi Ngài trở về quê hương. Chính sự khô cứng làm cho lòng họ trở nên trai đá, vì thế, họ không những không tin vào quyền năng của Đức Giêsu, mà họ còn vấp ngã vì Ngài nữa.
Hôm nay, lại một lần nữa, họ nghi ngờ vì Đức Giêsu lấy quyền của Thiên Chúa để chữa lành bệnh tật và tha tội.
Chuyện xảy ra là: có một người bị bại liệt, và người ta khiêng đến với Đức Giêsu để xin Ngài chữa lành. Thấy lòng tin mãnh liệt của những người khiêng cáng và của chính người bại liệt, Đức Giêsu đã ra tay cứu chữa bệnh tật thể xác và giải phóng hệ lụy phần hồn: ”Tội con đã được tha rồi”; “Hãy đứng dậy, vác chõng mà về”. Thật là vui mừng và hạnh phúc! Từ nay, anh ta được tung tăng chạy nhảy trên chính đôi chân của mình. Cũng từ nay, anh không bị người đời dè bửu, khinh khi và gán cho mình tội lỗi nên mới bị phạt như vậy nữa!
Cuộc đời của chúng ta nhiều khi không bị đau bệnh phần xác như người bại liệt trong bài Tin Mừng hôm nay, nhưng chắc chắn trong tâm hồn, nhiều khi chúng ta cũng mắc phải những căn bệnh bại liệt:
Bại liệt khi chúng ta khinh thường và rẻ rúng những người nghèo, bệnh tật, ốm đau;
Bại liệt khi chúng ta có những ánh mắt phân biệt, ghen tỵ với anh chị em mình;
Bại liệt khi chúng ta thiếu sự liên đới, tình huynh đệ và vô trách nhiệm;
Bại liệt khi chúng ta thờ ơ với Chúa, nguội lạnh với đời sống đạo...
Những lúc như thế, chúng ta hãy xin Chúa đến với mình, xin Ngài đụng chạm và chữa lành, để chúng ta được lành sạch.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con là kẻ có tội, xin cho chúng con năng đến với Chúa nơi Bí tích Hòa Giải để chúng con được Chúa chữa lành. Amen.
Ngọc Biển
Suy Niệm 6: Tin tưởng và thi hành
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Niềm tin là thái độ căn bản của cuộc sống người Kitô hữu, và hồng ân cứu độ tùy thuộc vào mỗi người có đặt hết niềm tin nơi Chúa hay từ chối đón nhận.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, nền văn minh kỹ thuật ngày càng tiến bộ, nhất là về lĩnh vực âm thanh và hình ảnh, con người hầu như thích cảm nhận những gì mắt thấy tai nghe. Vì thế, người ta lao vào lối sống hưởng thụ thực dụng, còn niềm tin là chuyện khó hiểu xa vời.
Nhiều lúc con cũng vậy, cứ mỗi lần đến dịp lễ trọng, nhà thờ trang hoàng rực rỡ, tâm hồn con lại cảm thấy sốt sắng, phấn khởi, tưởng như niềm tin và lòng trông cậy đã đặt trọn vẹn trong tay Chúa. Nhưng Chúa ơi, rồi dịp lễ qua đi, còn lại là chuỗi ngày sống bình thường, hằng ngày phải bon chen, phải vật lộn vất vả. Giữa những khổ đau, bên cạnh những bệnh tật và hoàn cảnh sống, con như mất niềm tin, tâm hồn chao đảo, chán nản và thất vọng. Đôi lúc con cũng tỏ thái độ như những kinh sư: không tin vào quyền năng Chúa. Tuy không dám công khai phủ nhận, nhưng con âm thầm buông xuôi cho trần gian lôi cuốn, đến nỗi không còn nhận ra lòng thương xót và quyền năng của Chúa.
Lạy Chúa, chính niềm tin mãnh liệt đã soi sáng trí khôn, giúp người ta có sáng kiến mang người bất toại đến với Chúa bằng cách bất thường từ trên mái nhà xuống. Ước gì với niềm tin, không có gì ngăn cản được con đến với Chúa, dù trong hoàn cảnh đen tối nhất.
Lạy Chúa, trước lòng tin của những người đưa kẻ bại liệt đến với Chúa, con nhận ra niềm tin mình thật nông cạn. Xin ban cho con một niềm tin đích thực, để cho dù con có bị bại liệt về vật chất, thể xác, thì niềm xác tín và lòng cậy trông vào Chúa vẫn không thay đổi. Amen.
Ghi nhớ: ”Con Người có quyền tha tội dưới đất”.
Suy Niệm 7: Chúa Giêsu chữa người bất toại do 4 người khiêng
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Ngày 6/11/1997, sáng nay các dì kể chuyện. Có một người đàn bà sinh con ngay trong đêm bão. Nhà sập rồi, đành ra bụi trúc mà sinh.
Ông cố biết ai đó không? Mẹ con Mẹt, học trò của mình đấy.
Vậy thì nên đặt tên cho bé là Linda, hoặc Số Năm. Dù bão số 5, dù hồng thủy cũng không tiêu diệt được sự sinh tồn của loài người (Trích Nhật ký truyền giáo của cha Piô Ngô Phúc Hậu).
Cơn bão Linda hay còn gọi là bão số 5 đã vào vùng đất cực Nam của quê mẹ - đất Việt vào tháng 11 năm 1997 đã gây nên bao cái chết của đồng bào, phá hủy của cải, nhà cửa và mùa màng. Nhưng dù cho bão tố nổi lên như thế, vẫn không cản được bước chân tìm kiếm sự sinh tồn cho con mình của một người mẹ, biểu tượng cho sự tìm kiếm sinh tồn của nhân loại.
Hình ảnh những bước đi tìm được sinh tồn cho con của người mẹ gợi nhớ cho chúng ta hình ảnh người bị bại liệt trong Tin Mừng, trước bão tố bệnh tật, anh trở nên bại liệt, nằm bất động không thể làm gì được…
Suy niệm
Người bại liệt nằm bất động không thể làm gì được, nhưng từ trong đáy sâu thẳm niềm tin vào Đấng Mêssia, anh làm mọi cách, qua sự giúp đỡ của những người bạn đi tìm sự sống cho chính mình. Anh tin vào Đấng Mêssia, người có thể chữa lành anh, trả lại cho anh sự sống. Chính trong niềm tin đó, qua sự giúp đỡ của anh em bạn bè mang anh trên băng ca, cất bước tìm kiếm gặp Ngài. Anh và họ như chung niềm tin nơi quyền năng của Đấng nhân danh Chúa đến và cùng nhau bước đi tìm Ngài.
Đến nơi Đấng Mêssia đang giảng dạy, vì dân chúng xô lấn tới nghe Ngài đông quá đến nỗi đường vào nhà bị tắc nghẽn, họ gây trở ngại nghiêm trọng cho bất cứ ai ở ngoài muốn gặp Chúa, trong đó có bốn người khiêng một anh liệt đến. Không thể vào nhà gặp Đấng Mêssia, họ liền nghĩ đến một cách là thả người đau bệnh từ trần nhà xuống trước mặt Chúa Giêsu. Ngài “Thấy lòng tin của họ”:
Đức tin không do dự, suy tính nhưng cương quyết làm tới cùng. Lập tức lên đường, dù bất động bởi bại liệt, nhưng đã quyết là lên đường ngay, đi tìm Đấng mà anh tin với sự giúp đỡ của bạn bè.
Đức tin không chịu lùi bước trước khó khăn, dù đám đông đã lấp kín đường đi, nhưng niềm tin đã tìm ra con đường khác để đến với Đức Giêsu: Không qua bằng cửa chính, nhưng bằng lỗ hổng ở mái nhà.
Lòng tin mang tính liên đới tập thể, đồng tâm nhất trí: Người bại liệt được sự đồng tâm của bốn người bạn, họ hiệp ý tin và cùng nhau giúp đưa người bại liệt đến với Đấng Mêssia.
Lòng tin đòi nỗ lực, đục thủng mái nhà. Đục thủng mái nhà như là biểu tượng đục thủng những gì làm tê bại thân xác và làm băng giá tấm lòng con người, đục thủng những thành kiến và những kỳ thị loại trừ của một xã hội… để được gặp Đấng mình tin.
Đó là những bước đi của đức tin, nhìn vào từng bước đi này, chúng ta càng quả quyết những gì thánh Giacôbê xác tín: “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2,26). Chúa Giêsu nói với anh: “Hỡi con, tội lỗi con được tha”, đó là lời tha thứ nhưng cũng là lời chữa lành khi Người nói tiếp: “Hãy trỗi dậy vác chõng mà đi”. Việc Đức Kitô gắn liền việc chữa lành với lời tha tội, Ngài không ám chỉ tội của người bệnh là nguyên nhân gây bệnh. Ngài cũng không cho rằng tội của anh bại liệt lớn hơn những người khác. Ngài chỉ muốn khẳng định rằng anh trong tư cách là con người cũng là một tội nhân như bao người khác và tội cũng là một căn bệnh, một căn bệnh của linh hồn. Cả bệnh phần xác và bệnh phần hồn, là những biểu hiện khác nhau của căn bệnh nơi nhân loại. Đức Giêsu nói với một người bại liệt: “Anh đã được khỏi. Đừng phạm tội nữa, kẻo phải khốn hơn” (Ga 5,14). Ngài tha tội và chữa bệnh bại liệt của tâm hồn, anh được giải phóng cả hồn lẫn xác, anh đứng dậy, vác chõng đi về nhà, anh được tự do, và hết bị trói buộc: Trói buộc vào chõng với cơn bệnh bại liệt và trói buộc vào tội vì là tội nhân.
Chúng ta trong kinh nghiệm bản thân, đã từng mang ít nhiều những bệnh tật thể xác và mang những bất toại của tâm hồn trong thân phận của sự yếu đuối, tội lỗi, đó là sự bại liệt của con người. Như anh bại liệt, chúng ta hãy vững tin trong sâu thẳm và làm những bước đi cố gắng của niềm tin.
Ý lực sống: “Nhờ đức tin để đưa đến đức tin, như có lời chép: Người công chính nhờ đức tin sẽ được sống” (Rm 1,17).
Suy Niệm 8: Tội con đã được tha
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Nghe tin Chúa Giêsu về Capharnaum, dân chúng khắp nơi tuốn đến chật trong nhà ngoài sân, và Chúa giảng dạy họ. Bỗng có bốn người khiêng một người bất toại đến, nhưng vì dân chúng đông quá, họ phải dỡ mái nhà thòng giường và bệnh nhân xuống trước mặt Chúa. Chúa thấy họ có lòng tin thì nói với người bệnh: “Tội con đã được tha”. Các luật sĩ nghe vậy thì cho là Chúa đã phạm thượng vì họ không tin Người là Thiên Chúa, nên không có quyền tha tội, chỉ Thiên Chúa mới có quyền đó. Chúa biết họ nghĩ thế, Người muốn tỏ cho họ biết Người là Thiên Chúa có quyền tha tội, nên nói với người bại liệt: “Hãy chỗi dậy, vác giường mà về”. Người đó liền chỗi dậy vác giường đi về trước sự kinh ngạc của mọi người.
2. Phép lạ chữa người bất toại hôm nay không phải là mục đích chính, đó chỉ là cái khung hay cái cớ để Chúa Giêsu nói về cái khác, đó là quyền tha tội. Chúa muốn cho họ biết Người là Thiên Chúa nên có quyền tha tội.
Vì thế, người ta khiêng anh bất toại đến để mong Chúa chữa cho anh. Nhưng Chúa Giêsu tha tội trước rồi sau đó mới chữa bệnh. Tội là thứ bệnh của linh hồn, nguy hiểm hơn bệnh thể xác. Nhưng chúng ta thường làm ngược với Chúa Giêsu: khi mang bệnh thể xác thì chúng ta lo chạy chữa mau lẹ, còn khi mang tội chúng ta lại không lo.
3. Người bất toại có lòng tin Chúa nên đã nhờ người khác khiêng mình tới Chúa. Và chính những người này cũng tin Chúa nên đã chịu khó leo lên mái nhà, dỡ ngói ra, thòng người bệnh xuống trước mặt Chúa. Vì thế, muốn gặp Chúa phải có lòng tin, phải cố gắng vượt qua mọi trở ngại, và có khi còn cần nhờ người khác giúp đỡ.
Truyện: Căn nhà bỗng nhiên bốc cháy. Ông bố nghe tin liền chạy về. Về đến nơi, ông thấy đám cháy đã bốc cao và nghe có tiếng kêu thất thanh “Ba ơi cứu con với”. Khi thấy bóng đứa con út trên tầng cao, ông đã nhờ đội cứu hỏa giăng lưới bảo hộ để cho cậu nhảy xuống. Nhưng cậu vẫn do dự và sợ hãi. Lúc ấy ông la lên: “Ba đây, đừng sợ, nhảy xuống đi”. Nhận ra tiếng của cha và thấy bóng ông qua khói lửa, cậu đã thu hết can đảm nhảy xuống. Mở mắt ra, cậu đã nằm trong vòng tay của cha. Niềm tin đã cứu sống cậu (Epphata).
4. Người bất toại thì bất lực không làm được gì. Chúng ta phải ý thức bệnh bất toại của người tội lỗi: không làm được việc gì có giá trị trước mặt Chúa vì không có ân sủng, để nhờ đó chúng ta gớm ghét tội lỗi, xa lánh những dịp tội.
Chúng ta nên biết rằng ý thức về tội không có nghĩa là đánh mất giá trị làm người mà chỉ là nhìn nhận một chân lý khách quan: con người là tạo vật vừa dòn mỏng vừa vĩ đại trước mặt Thiên Chúa. Con người mỏng dòn nên dễ sa ngã. Con người vĩ đại do tự do mà Thiên Chúa ban cho: con người có quyền nói “có” hoặc nói “không” với Thiên Chúa. Nói “không” với Thiên Chúa là phạm tội, vì từ chối tình thương và sự hướng dẫn của Ngài. Ý thức về tội là nhìn nhận quyền năng và lòng thương xót vô bờ bến của Thiên Chúa, và đồng thời là nhìn nhận sự thật có tính giải phóng về bản thân: giải phóng khỏi tình trạng tội lỗi và đưa con người vào mối hiệp thông với Thiên Chúa.
5. Qua phép lạ chữa người bất toại trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta hãy bằng lòng để Chúa Giêsu thực hiện nơi chúng ta những gì Ngài đã làm cho người bất toại. Chúng ta hãy trình diện với Chúa Giêsu trong bí tích Hòa giải và lắng nghe Ngài nói với chúng ta những gì Ngài đã nói với người bất toại: “Tội lỗi con đã được tha”. Tiếp đó, bài Tin mừng mời ta cảm nghiệm sự giải thoát mà người bất toại ấy từng cảm nhận sau khi đã bị ràng buộc đớn đau quá lâu trong bệnh tật và trong tội lỗi của anh.
6. Truyện: Nhà biên kịch Henri Ghéon.
Henri Ghéon là một nhà biên kịch nổi tiếng của Pháp, cũng là một người tội lỗi trong đệ nhị thế chiến, ông ở trong một tâm trạng bất an, đã quay trở lại với Chúa. Ông đến xin lãnh bí tích Giải tội và ông đã kể lại tâm trạng của mình lúc xưng tội như sau: “Hai tay tôi ôm đầu, miệng bập bẹ run run, tôi đổ dòng tội tuôn ra như thác... Tôi cảm thấy một thứ cặn đắng, từng ngụm, từng ngụm trào ra khỏi các thớ thịt con tim tôi với tất cả khối nặng đó, với tất cả chất độc đó đã đè nén tôi suốt hai mươi năm nay. Tôi cố cựa quậy đổ dốc nó ra cho linh mục giải tội. Và Thiên Chúa đã nghe lời tôi: “Hãy về bình an. Thánh Thần đã ngự trong con”! Tôi trẻ lại hai mươi tuổi; hai mươi năm tội lỗi. Một niềm vui sướng mới lạ tràn ngập tâm hồn tôi. Tôi chạy, tôi nhảy, tôi bay, tôi không còn cảm thấy xác thịt nặng nề của tôi nữa”...
Suy Niệm 9: Quyền tha tội của Chúa Giêsu
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Phân tích (Hạt giống...)
Văn thể của đoạn này là "câu nói trong khung", nghĩa là tác giả tuy kể một câu chuyện nhưng chuyện đó chỉ là một cái khung để làm nổi bật một câu nói của Chúa Giêsu. Câu nói quan trọng đó là c.5 "Tội của con đã được tha". Chính câu nói này và cuộc tranh luận về nó mới là trọng tâm. Chuyện chữa người bất toại chỉ là một cơ hội, một cái khung.
Hai chi tiết văn phạm đáng chú ý:
1. Động từ ở thể thụ động (được tha), hiểu ngầm kẻ tha tội là Thiên Chúa. Chúa Giêsu chính là Thiên Chúa.
2. Động từ còn ở thì quá khứ (đã) nghĩa là Thiên Chúa đã tha tội rồi, trước khi anh này phải dâng lễ theo luật buộc (Lv 6,17-23).
Quyền tha tội là độc quyền của Thiên Chúa. Bởi vậy các thông giáo phản ứng ngay "Ông này phạm thượng". Chú ý họ dùng động từ "phạm thượng" y như lời cáo trạng trước Thượng Hội Đồng Do thái (14,63-64).
B. Suy niệm (...nẩy mầm)
1. Người ta khiêng anh bất toại đến để mong Chúa Giêsu chữa bệnh cho anh. Nhưng Chúa Giêsu tha tội trước rồi sau đó mới chữa bệnh. Tội là thứ bệnh của linh hồn, nguy hiểm hơn bệnh thể xác. Nhưng chúng ta thường làm ngược với Chúa Giêsu: khi mang bệnh thể xác thì chúng ta lo lắng chạy chữa mau lẹ, còn khi mang tội chúng ta lại không lo.
2. Thân nhân của người bất toại rất tích cực lo cho anh khỏi bệnh: khiêng đến nơi Chúa Giêsu đang giảng, chen lấn, leo lên mái nhà, gở mái, thòng dây xuống... Ước gì ai cũng biết tích cực lo chữa bệnh linh hồn cho thân nhân mình như vậy.
3. Ngày kia thánh Phanxicô Salêsiô cho một người xưng tội. Người này xưng rất thành thật, khiêm nhượng và hết lòng ăn năn. Thánh nhân cảm động lắm. Sau khi xưng tội xong, người ấy hỏi:
- Bây giờ cha biết tất cả những sự xấu xa của con rồi. Cha nghĩ thế nào về con?
- Bây giờ cha nhìn con như một đấng thánh.
- Chắc cha phải nói ngược lại mới được.
- Không. Cha nói theo lương tâm của cha. Con bây giờ hoàn toàn khác trước rồi.
- Nhưng tội lỗi con đã phạm thì luôn luôn ở với con mà.
- Không phải thế đâu con ạ. Khi bà Mađalêna đã ăn năn trở lại, Chúa xem bà như một đấng thánh. Chỉ có bọn Pharisêu giả hình cứ coi bà là kẻ tội lỗi.
- Nhưng đối với cha, con muốn biết cha nghĩ thế nào về quá khứ của con?
- Cha không nghĩ thế nào cả. Điều gì không có trước mặt Chúa thì cha không nghĩ đến. Cha chỉ biết ngợi khen Chúa và vui mừng vì con đã trở lại với Chúa. Cha muốn cùng các thánh trên trời vui mừng với con.
Nói xong, thánh nhân khóc. Người kia bỡ ngỡ hỏi:
- Cha khóc à? Chắc cha khóc vì thấy con phạm nhiều tội quá?
- Cha khóc vì thấy con đã sống lại với Chúa.
Thánh nhân biết rõ phép Giải tội không phải là che dấu tội ta đã phạm, nhưng là rửa sạch hết mọi tội ta đã khiêm nhường xưng ra. (Trích "Phúc")
4. "Thấy họ có lòng tin như vậy, Chúa Giêsu bảo người bại liệt: Này con, con đã được tha tội rồi" (Mc 2,5)
Căn nhà bỗng nhiên bị bốc cháy. Ông bố nghe tin liền chạy về. Về đến nơi, ông thấy đám cháy đã bốc cao và nghe có tiếng kêu thất thanh ‘Ba ơi cứu con’. Khi thấy bóng đứa con út trên tầng cao, ông đã nhờ đội cứu hoả giăng lưới bảo hộ để cho cậu nhảy xuống. Nhưng cậu vẫn do dự và sợ hãi. Lúc ấy ông la lên: "Ba đây, đừng sợ. Nhảy xuống đi". Nhận ra tiếng của cha và thấy bóng ông qua khói lửa, cậu đã thu hết can đảm nhảy xuống. Mở mắt ra, cậu đã nằm trong vòng tay của cha. Niềm tin đã cứu sống cậu.
Tương tự như thế, niềm tin vào Chúa khiến người bại liệt được chữa lành. Niềm tin cũng đem lại ơn tha thứ cho biết bao tội nhân. Vâng niềm tin đã làm cho cuộc sống tươi sáng và hạnh phúc hơn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con luôn tin tưởng phó thác vào tình yêu của Chúa. Xin cho con biết gieo mình vào bàn tay Ngài giữa cuộc sống bao nỗi băn khoăn khắc khoải, để cuộc sống được an vui và hạnh phúc hơn. (Epphata)
Suy Niệm 10: Chúa có quyền tha tội
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
1. Nghe câu chuyện Tin Mừng kể hôm nay, hầu hết chúng ta chỉ để ý đến người bất toại, mà ít người nghĩ đến 4 người đã khênh người bất toại đến với Chúa Giêsu.
Bốn người này, tuy là những nhân vật phụ, nhưng lại là những nhân vật không kém phần quan trọng. Vì nếu thiếu họ, chắc chắn người bất toại đã không có cách nào để đến được với Chúa.
Qua việc khiêng người bất toại, ta thấy những người này, vừa bày tỏ một niềm tin sáng chói vừa biểu lộ một đức ái nhiệt thành. Thực vậy, nếu không tin vào quyền năng của Chúa, thì những người này đâu có phải vất vả khiêng người bất toại đến với Chúa như thế. Hơn nữa họ lại phải làm một việc xem ra không được lịch sự cho lắm. Đó là khi thấy đám đông cản lối của họ, họ đã phải khiêng người bất toại lên mái nhà. Những ngôi nhà tại Do Thái thời đó đều có mái bằng có thể leo lên được bằng một cầu thang ở phía ngoài. Việc dời ngói, gỗ, và lá lợp trên mái để tạo một khoảng đủ rộng để thả người bất toại xuống không khó khăn gì lắm. Ở đây, chúng ta phải khâm phục những người này. Họ đã quan tâm sâu sắc đến bạn mình và mong muốn nhìn thấy người ấy được cứu giúp. Họ không chỉ “cầu nguyện về điều này”, nhưng còn hành động song song với những lời cầu nguyện đó.
Khi ghi lại sự việc này, thánh sử Marcô còn ghi chú thêm: ”Thấy họ có lòng tin, Chúa Giêsu bảo người bất toại..”. (Mc 2,5). Vâng, khi thấy những việc làm đầy lòng bác ái yêu thương với một đức tin sáng ngời như vậy, thì trái tim của Chúa cũng phải rung động. Đây chính là bài học rất cụ thể cho chúng ta.
2. ”Thấy họ có lòng tin như vậy, Chúa Giêsu bảo người bại liệt: Này con, con đã được tha tội rồi” (Mc 2,5)
Theo Thánh Marcô thì việc Chúa chữa lành người bất toại hôm nay, đánh dấu một khúc quanh trong cuộc đời công khai của Chúa ở trần gian. Chúa muốn xác định với mọi người rằng: Chúa có quyền tha tội.
Mặc dầu, khi Chúa tuyên bố như thế, Chúa biết mình đã đụng phải một điểm rất nhạy cảm của Do Thái giáo, một tôn giáo độc tôn. Dưới mắt của những người Do Thái thì chỉ có Giavê mới là Chúa. Ngoài Giavê Thiên Chúa ra thì không có một Chúa, một thần nào khác. Vì thế, khi Chúa nói là mình có quyền tha tội thì lập tức Chúa bị họ kết án phạm thượng ngay. Sau này vào cuối cuộc đời công khai người ta lại một lần nữa làm như thế. Và kết quả là Thập Giá được dành cho Ngài.
Cám ơn Chúa đã dạy cho chúng ta biết bài học về lòng can đảm và cho dù có phải mất mạng Chúa cũng không bao giờ phản bội sự thật. Và chúng ta cũng phải cám ơn Chúa vì Chúa đã quá yêu thương chúng ta. Bằng sự tha thứ lạ lùng qua Bí tích Hòa giải chúng ta hiểu được tình thương của Chúa như thế nào.
Ngày kia, thánh Phanxicô Salêsiô cho một người xưng tội. Người này xưng rất thành thật, khiêm nhượng và hết lòng ăn năn. Thánh nhân cảm động lắm. Sau khi xưng tội xong, người ấy hỏi:
- Bây giờ cha biết tất cả những sự xấu xa của con rồi. Cha nghĩ thế nào về con?
- Bây giờ cha nhìn con như một đấng thánh.
- Chắc cha phải nói ngược lại, mới được.
- Không. Cha nói theo lương tâm của cha. Con bây giờ hoàn toàn khác trước rồi.
- Nhưng tội lỗi con đã phạm thì luôn luôn ở với con mà.
- Không phải thế đâu con ạ. Khi bà Mađalêna đã ăn năn trở lại, Chúa xem bà như một đấng thánh. Chỉ có bọn Pharisêu giả hình cứ coi bà là kẻ tội lỗi.
- Nhưng đối với cha, con muốn biết cha nghĩ thế nào về quá khứ của con?
- Cha không nghĩ thế nào cả. Điều gì không có trước mặt Chúa thì cha không nghĩ đến. Cha chỉ biết ngợi khen Chúa và vui mừng vì con đã trở lại với Chúa. Cha muốn cùng các thánh trên trời vui mừng với con.
Nói xong, thánh nhân khóc. Người kia bỡ ngỡ hỏi:
- Cha khóc à? Chắc cha khóc vì thấy con phạm nhiều tội quá?
- Cha khóc vì thấy con đã sống lại với Chúa.
Thánh nhân biết rõ phép Giải tội không phải là che dấu tội ta đã phạm, nhưng là rửa sạch hết mọi tội ta đã khiêm nhường xưng ra. (Trích “Phúc”)
Lạy Chúa,
xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin
để nhận ra Chúa hôm nay và hằng ngày,
nơi khuôn mặt khốn khổ
của tất cả những người bị thử thách:
những kẻ đói không chỉ vì thiếu của ăn,
nhưng vì thiếu Lời Chúa;
những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước,
nhưng còn vì thiếu sự bình an, sự thật,
công bằng và tình thương; những kẻ vô gia cư,
không chỉ tìm kiếm một mái nhà,
nhưng còn tìm trái tim hiểu biết, yêu thương; những kẻ bệnh hoạn và hấp hối,
không chỉ trong thân xác, nhưng cả trong tinh thần, bằng cách thực thi lời hy vọng này:
“Điều các con làm cho người bé mọn nhất trong anh em là các con làm cho chính Ta”.
(Mẹ Têrêsa)
11/01 Chữa người phong cùi
- Viết bởi Mc 1, 40-45
Chữa người phong cùi.
Thứ Năm tuần 1 thường niên.
"Bệnh cùi biến mất và người ấy được sạch".
LỜI CHÚA: Mc 1, 40-45
Khi ấy, có một người bệnh cùi đến van xin Chúa Giêsu và quỳ xuống thưa Người rằng: "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể khiến tôi nên sạch".
Ðộng lòng thương, Chúa Giêsu giơ tay đặt trên người ấy và nói: "Ta muốn, anh hãy khỏi bệnh". Tức thì bệnh cùi biến mất và người ấy được sạch. Nhưng Người nghiêm nghị bảo anh đi ngay và dặn rằng: "Anh hãy ý tứ đừng nói gì cho ai biết, một hãy đi trình diện cùng trưởng tế và dâng của lễ theo luật Môsê, để minh chứng mình đã được khỏi bệnh".
Nhưng đi khỏi, người ấy liền cao rao và loan truyền tin đó, nên Chúa Giêsu không thể công khai vào thành nào được. Người dừng lại ở ngoài thành, trong những nơi vắng vẻ, và người ta từ khắp nơi tuôn đến cùng Người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Chạnh lòng thương
(Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)
Đây là quy chế người mắc bệnh phong theo sách Lêvi (13, 45-46).
Người ấy phải mặc quần áo rách, để tóc bù xù, che môi trên,
phải vừa đi vừa kêu lên: “Ô uế! ô uế!” để người ta biết mà tránh xa.
Người phong phải ở một mình, phải ở một chỗ bên ngoài trại…
Như thế từ xa xưa, người ta đã biết đến sự dễ lây lan của bệnh phong
và ảnh hưởng nguy hiểm trên thân xác do chứng bệnh này.
Để được chứng nhận là đã khỏi bệnh, người phong phải trình tư tế,
phải qua một quá trình phức tạp để thanh tẩy trong tám ngày,
và phải dâng những con vật bị sát tế để làm lễ xá tội (Lêvi 14).
Người phong trong bài Tin Mừng hôm nay đã không giữ Luật Môsê.
Anh dám lại gần Đức Giêsu, dám tin ngài có khả năng làm anh được sạch,
mặc dù theo truyền thống Kinh Thánh,
chỉ Thiên Chúa mới làm được chuyện đó.
Đức Giêsu vì thương anh, nên cũng đã làm điều không được phép.
Ngài dám đưa bàn tay ra và đụng đến anh,
đụng đến da thịt nhơ uế của anh, đến chính phận người hẩm hiu của anh,
dù chỉ một lời của ngài thôi cũng đủ làm anh khỏi bệnh.
Cái đụng của bàn tay Đức Giêsu đã không làm ngài bị ô uế.
Trái lại, nó đã đem lại sự thanh sạch cho anh bị phong.
Để làm phép lạ chữa bệnh rất lừng lẫy này, Đức Giêsu đã phải trả giá.
Người phong khi được khỏi, đã không tránh được chuyện rêu rao.
Vì thế người ta đổ xô nhau tới khiến ngài phải ở ngoài thành.
Khi người khỏi bệnh vào được thành thì Đức Giêsu lại phải ở hoang địa!
Thái độ chạnh lòng thương và đụng đến người phong của Đức Giêsu
đã gợi hứng cho nhiều tâm hồn noi gương bắt chước.
Tại nhiều trại phong ở Việt Nam, ta thấy bóng dáng của các nữ tu.
Họ ở trại phong Bến Sắn, Di Linh, Quy Hòa, Văn Môn…
Nhiều nữ tu đã hiến dâng tuổi trẻ của mình để phục vụ người phong,
đụng đến những vết thương tàn phế nơi thân xác họ.
Các chủng sinh Miền Bắc cũng đã quen tiếp xúc với người phong,
ở lại với họ, săn sóc và chia sẻ thân phận của họ.
Giáo hội Công Giáo sung sướng được phục vụ người phong ở khắp nơi,
và coi đây như một nét đặc trưng của khuôn mặt Giáo hội.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu thương mến,
xin ban cho chúng con
tỏa lan hương thơm của Chúa
đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con
bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.
Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con
để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con,
để những người chúng con tiếp xúc
cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa,
không phải bằng lời nói suông,
nhưng bằng cuộc sống chứng tá,
và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa. (Mẹ Têrêxa Calcutta)
Suy Niệm 2: Đức tin ban sự sống
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Theo quan niệm của người Do thái, bệnh tật là tội lỗi, ô uế. Và bệnh phong là nan y. Nên người bệnh phong bị coi như đã chết. Họ chết về thể lý. Vì bệnh là vô phương cứu chữa. Nhưng ghê gớm hơn, họ chết về phương diện xã hội. Vì bị loại trừ ra khỏi xã hội. Không được còn được sống với mọi người. Nhưng kinh khủng nhất là họ chết phần linh hồn vì phạm tội. Khi chữa anh, Chúa không chỉ chữa lành thân xác. Nhưng còn tha thứ tội lỗi. Trả lại cho anh sự sống thể lý khi chữa lành vết thương. Trả lại cho anh sự sống xã hội khi cho anh đi trình diện với thày tư tế. Trả lại cho anh sự sống linh hồn khi tha tội cho anh. Cho anh được đến trước tòa Chúa dâng của lễ. Tất cả là do lòng thương xót của Chúa. Nhưng cũng vì anh tin tưởng vào Chúa. Quả thật đức tin ban cho anh sự sống. Sự sống đời đời.
Vì thế thánh Phao-lô khuyên nhủ ta hãy giữ vững đức tin. Đừng để lòng ra chai đá như người Do thái trong sa mạc. Người Do thái cứng lòng nên đã không được vào Đất Hứa, đất chảy sữa và mật, đất sự sống. Thế hệ đó, kể cả Mô-sê đều chết trong sa mạc (năm lẻ).
Ta có đức tin nhưng phải là đức tin sống động thực sự. Đừng như những người con thày cả Hê-li là Pin-khát và Khóp-ni. Họ không có đức tin. Vì họ không kính sợ Chúa. Không nghe lời răn dậy của Chúa. Dám phạm những tội tầy đình ngay trước mặt Chúa trong lều Hội ngộ. Vậy mà khi đánh nhau với quân Phi-li-tinh, dám cả gan khiêng Hòm Bia ra chiến trận. Đó là mê tín chứ không phải đức tin. Nếu có đức tin họ đã không dám phạm tội trước Nhan Chúa. Và đúng ra họ phải sám hối trước khi lâm trận. Lâm trận rồi họ không còn thời giờ nữa. Vì thế họ đã bị chết. Đến cả Hòm Bia cũng bị quân Phi-li-tinh chiếm mất (năm chẵn).
Vì thế thánh Phao-lô khuyên nhủ chúng ta phải sám hối ngay khi còn kịp. Bao lâu còn là “ngày hôm nay” thì phải lắng nghe tiếng Chúa. Đừng để lòng ra chai đá. Hãy tin. Một đức tin sống động. Như người bệnh phong. Bệnh trầm trọng nhất là tội lỗi. Tội lỗi là thứ bệnh phong không thuốc nào chữa được. Chỉ có sức mạnh, quyền năng và Lòng Thương Xót của Chúa mới chữa ta khỏi. Vì thế ngay hôm nay hãy đến với Chúa. Hãy sám hối ngay. Kẻo không kịp.
Suy Niệm 3: Chữa người phong cùi
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Raoul Folereau, vị đại ân nhân của những người phong cùi đã ghi lại một chuyến đi của ông như sau: Ðến một nơi cách thành phố 15 cây số, chúng tôi lần theo một lối đi được chỉ trước, và sau nửa giờ đi bộ chúng tôi lạc vào một thế giới của buồn thảm, đau khổ và thất vọng. Thật thế, tại một nơi mà không ai muốn đặt chân đến, có khoảng 60 người phong cùi đang sống bên nhau. Trước đây, người ta giam họ trong một trại cùi chẳng khác nào một trại tù, mọi người nhìn họ như những kẻ bị chúc dữ, hoặc tệ hơn nữa, như những con thú dữ. Không chịu nổi sự giam hãm và cách ly như thế, một số người cùi này đã trốn thoát và đến trú ẩn giữa khu rừng này. Tại đây, tình trạng của họ càng thêm tồi tệ hơn, xung quanh họ, trên đất đầy dẫy những vết tích của căn bệnh quái ác này.
Tôi đến bên một người lớn tuổi được xem như đại diện của họ và hỏi:
- Hôm nay là chiều Thứ Bảy, cửa quán ngoài phố xá đã đóng cửa rồi; thứ hai tôi sẽ trở lại và mang theo thức ăn thức uống; tôi cũng sẽ đưa một bác sĩ đến để chăm sóc cho bà con, chúng tôi sẽ cất nhà và sẽ ở lại đây với bà con khi cần, vậy bác hỏi bà con có thể chờ cho đến ngày Thứ Hai không?
Người đó đưa mắt nhìn tôi với vẻ nghi ngờ, vì đã từ lâu họ không còn tin điều đó nữa; đối với họ, xem ra không còn ai đáng tin trên đời này nữa. Rồi ông khẩn khoản nói:
- Ông không thể giúp cho chúng tôi ngay được sao? Chúng tôi vừa mới có một người anh em qua đời, chúng tôi phải dùng đôi tay cùi lở này để đào xới một cái mộ chôn người anh em.
Tôi nhìn đôi bàn tay không nguyên vẹn vì bệnh tật, nay phải mang thương tích vì người đồng loại. Những con người khốn khổ đó nếu không nhìn thấy, không thể tin được là có thật.
Căn bệnh phong cùi vẫn là căn bệnh ghê sợ nhất đối với hiện tại. Người phong cùi đau đớn trên thân xác đã đành, mà còn đau khổ gấp bội phần trong tâm hồn khi cảm thấy bị bỏ rơi.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã gặp gỡ và chữa lành cho người phong cùi. Không những chữa lành tấm thân bệnh hoạn, Ngài còn tái lập họ trong cộng đoàn nhân loại, khi bảo bệnh nhân đi trình diện với các tư tế, nghĩa là hội nhập họ trở lại cuộc sống. Sự tái hội nhập này luôn đòi hỏi sự cảm thông, lòng quảng đại và cởi mở đón nhận của người khác. Vi trùng Hansen đục khoét và hủy hoại thân xác con người, thì cũng có biết bao thứ vi trùng khác độc hại hơn đang ẩn núp trong tâm hồn con người, tên của chúng là dửng dưng, ích kỷ, thù hận. Chúng đang giết dần giết mòn con người mà con người không hay biết.
Xin Chúa tha thứ cho những mù quáng, dửng dưng và ích kỷ của chúng ta trước bao nhiêu cảnh khốn cùng của đồng loại. Xin Ngài ban cho chúng ta một trái tim biết cảm thông và đôi tay rộng mở để san sẻ.
Suy Niệm 4: Hãy coi chừng
Có người bị phong hủi đến gặp Người, anh ta quì xuống van xin rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi!” Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch (Mc. 1, 40-42)
Phúc âm thánh Maccô nhấn mạnh đến một điều khá ngạc nhiên: nhiều lần Maccô tường thuật việc Chúa răn bảo, và cả đến truyền lệnh cho người ta phải giữ kín, không được nói cho ai biết Người là ai, Người làm gì. Xem ra Chúa Giêsu rất dè dặt và khôn ngoan khi nói: “Coi chừng, đừng nói gì với ai cả!”
Đừng có mới nới cũ
Khi dặn dò người phong hủi được chữa lành như vậy, tiên vàn Chúa có ý nhắc nhở anh hãy biết sống trung thành.
Chúa Giêsu không tin người ta một cách mù quáng, Người biết rõ bụng dạ mỗi người. Người biết rõ ta dễ dàng thả mồi bắt bóng. Người biết được một người mắc bệnh nan y lẽ nào lại không bùi tai khi nghe một ông lang vườn nói sẽ cho người ấy rất nhiều hy vọng chữa khỏi. Người biết chúng ta hay thay đổi: chỉ mới nghe nói, đây là phát minh cuối cùng, là đồ mới cáo “tuyệt cú mèo”, là ta đã vội đổ xô đến ngay. Hãy cầm thử một tờ báo mà coi, toàn là những tin tức và sự kiện, mà điều quan trọng là những tin tức và sự kiện ấy phải là sốt dẻo. Nhưng cái là nội dung tờ báo, cái mà xét cho cùng là đường giây mối rợ thông thường và căn bản cho cuộc sống, thì không ai ghi nhớ.
Thế nên, để đối lại với thái độ này của con người là hay thay đổi và chạy theo cái mới, Chúa Giêsu nhắc nhở ta hãy biết sống trung thành, biết giữ lấy sự liên tục: “Vì anh dã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Mô-sê đã truyền để làm chứng cho người ta biết”, có nghĩa là: “Anh đừng vội thay đổi tập tục tôn giáo! Anh hãy liên kết điều vừa xảy ra cho anh với điều anh vốn đã tin. Có một sự liên tục giữa Mô-sê với tôi.Và chúng ta có thể nghe đây như tiếng vang vọng: “Có sự liên tục giữa tập giáo lý đồng ấu với lối dạy giáo lý cho người lớn, có liên tục giữa cộng đoàn lớn với cộng đoàn nhỏ, có liên tục …”
Đào sâu hơn là trải rộng
Việc Chúa Giêsu nhắc nhở người cùi được chữa lành phải kín miệng, cũng làm cho ta ý thức đến một sự lầm lạc khác vốn rình rập ta: đó là tính hời hợt nông cạn. Hãy nhớ kỹ dụ ngôn người gieo giống: cây lúa mọc lên, nhưng chết khô vì thiếu đất ẩm. Hãy coi chừng khi ta hứng lên trở lại với Chúa mà chưa có thời gian thử thách. Đừng coi nước dầu bóng bên ngoài mà cho rằng gỗ tốt: vẻ bóng loáng ấy không nhất thiết đã bền.
Suy Niệm 5: Yêu thương để trở nên giống Chúa
Khi Đức Giêsu đến trần gian, sứ vụ của Ngài là đến với những người nghèo để chữa lành cho họ. Ngài luôn coi đây là điều căn cốt, bởi lẽ bệnh tật theo quan niệm của người Dothái nó gắn liền với tội và hệ lụy của nó là bị Thiên Chúa phạt.
Hơn nữa, bệnh phong cùi lại là thứ bệnh nan y, hay lây và bị người đương thời coi thường, khinh bỉ. Những ai mắc phải thứ bệnh khốn khổ này thì buộc phải sống cách ly khỏi dân chúng. Thường thì họ chọn nơi mồ mả để sinh hoạt. Họ bị cấm đi lại nơi công cộng, và nếu có đi đâu gần dân chúng thì buộc phải lắc chuông để báo cho mọi người biết mà tránh cho xa kẻo bị lây và nhiễm uế.
Tuy nhiên, anh này hôm nay thật may mắn vì đã gặp được Đấng đang tìm anh để chạnh lòng thương anh. Thật vậy, khi gặp người phong cùi này, Đức Giêsu đã không tránh xa, mà ngược lại, Ngài đã đến gần và chạm vào anh để anh được sạch. Không những thế, Ngài còn phục hồi nhân phẩm cho anh khi truyền cho anh đi báo với Tư Tế để được hòa nhập với cộng đồng.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta hãy noi gương người phong cùi, mạnh dạn đến với Chúa, hãy mở rộng tâm hồn cho Đấng đầy yêu thương đụng chạm tới mình, để Ngài chữa lành tâm hồn đui hủi của chúng ta là những thói hư tật xấu và tội lỗi, khô khan, nguội lạnh, thờ ơ với Chúa và vô cảm với anh chị em.
Hơn nữa, chúng ta hãy xin với Chúa cho đôi chân biết đi tới, đôi tay biết vươn xa, và nhất là trái tim biết rộng mở, để đón nhận những anh chị em đau khổ, bệnh tật cả về tinh thần lẫn thể xác, hầu xoa dịu những đau khổ mà anh chị em chúng ta đang phải gánh chịu. Chỉ có thế, chúng ta mới thực sự là môn đệ của Thầy Giêsu mà thôi.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa chữa lành những căn bệnh trong tâm hồn chúng con, để chúng con được trở nên trong sạch. Xin Chúa cho chúng con được hiểu rằng, hạnh phúc của người khác là niềm vui của mình và là vinh quang của Thiên Chúa. Amen.
Ngọc Biển
Suy Niệm 6: Chúa Giêsu sống khiêm tốn, âm thầm hy sinh
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu chữa lành những đau khổ của con người, nhưng Chúa truyền giữ bí mật về vai trò cứu thế của Chúa. Chúa chỉ muốn sống như người tôi tớ khiêm tốn, âm thầm hy sinh phục vụ để cứu độ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, nếu ngày nay Chúa sống trong thân phận con người giữa chúng con, chắc hẳn người ta sẽ đưa Chúa lên báo chí, truyền hình, truyền thanh. Người ta sẽ quảng cáo Chúa khắp các ngả đường. Và Chúa lại phải vất vả trốn vào hoang địa, Chúa lại tiếp tục ra chỉ thị cấm tuyên truyền đồn thổi về một vị cứu tinh mới xuất hiện.
Lạy Chúa, Chúa thực sự là Đấng Cứu Tinh nhân loại, nhưng Chúa chẳng muốn phô trương tuyên truyền. Những lời đồn đãi vội vã thường nông cạn và làm cho người ta hiểu lầm về sứ mạng của Chúa. Chính con đôi lúc vì thiếu học hỏi và suy gẫm về Chúa, nên cũng hiểu Chúa một cách méo mó, mơ hồ. Xin Chúa giúp con biết khám phá Chúa mỗi ngày. Xin giúp con chuyên chăm học hỏi và suy gẫm Lời Chúa, để có được một niềm tin xác thực và chắc chắn. Xin đừng để con theo Chúa chỉ vì những ước mơ trần tục để rồi có lúc phải thất vọng vì ảo tưởng.
Lạy Chúa, Chúa chỉ muốn sống như người tôi tớ, âm thầm, khiêm tốn, hy sinh, phục vụ. Xin cho con biết nhìn vào cuộc đời quên mình và cái chết của Chúa trên thánh giá để nhận ra tình thương và ơn cứu độ của Chúa. Và xin Chúa cho mọi người chúng con biết đem Tin Mừng đến cho người khác, không phải sự tuyên truyền quảng cáo, nhưng bằng một cuộc đời hy sinh phục vụ trong khiêm tốn và âm thầm như Chúa. Amen.
Ghi nhớ: ”Bệnh cùi biến mất và người ấy được sạch”.
Suy Niệm 7: Chúa Giêsu chữa lành người bị bệnh phong cùi
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Tôi còn nhớ hồi nhỏ, ở ngôi chợ nhỏ gần nhà tôi, thường có một ông bị bệnh phong cùi lê lết xin ăn mỗi sáng. Mỗi lần theo mẹ ra chợ, tôi lại thấy ông với cái lon sữa bò cũ, miệng kêu gào lòng thương xót của mọi người.
Chẳng bao giờ tôi dám lại gần mà chỉ đứng xa xa nhìn lại với lòng thương xót xen lẫn ghê tởm. Con người ông không chỉ dơ bẩn, mà còn toát lên một cái gì đó gớm ghiếc với những miếng vải dính đầy máu và mủ trên bàn tay, bàn chân đã cụt hết ngón. Một vài người đi chợ ngang qua, thả vội những đồng bạc cắc rồi đi như chạy. Có lẽ họ cũng như tôi, dù xót thương cho thân ông ăn mày, nhưng cũng không dám lại gần vì sợ lây bệnh (Theo Vũ Ðình Trọng).
Bệnh phong là một bệnh nhiễm mãn tính, trước đây người ta thường gọi miệt thị là bệnh cùi, bệnh hủi. Những bệnh nhân này thường bị người đời xa lánh vì họ có những vết thương lở loét, hình hài không được bình thường, có người mang bệnh miệng méo xệch, thoáng nhìn người ta có cảm giác khiếp đảm, bệnh nhân xấu hổ cố giấu mặt, cử chỉ che giấu ấy thật tội nghiệp. Có những bệnh nhân phong ngón tay rụng hết chỉ còn trơ bàn tay không ngón, đáng sợ. Nhiều dân tộc hay bộ lạc, coi bệnh phong cùi là một hình phạt và người mang bệnh bị hắt hủi, đuổi ra khỏi nhà và khỏi làng. Họ sống lang thang trong rừng sâu, hay tại những nơi hẻo lánh chết trong cô đơn...
Suy niệm
Bệnh phong, đối với con Do Thái chỉ có Thiên Chúa mới chữa được, bởi vì người mắc bệnh phong mà được lành cũng giống như gọi một người chết về lại với cuộc sống. Trong Kinh Thánh Thiên Chúa ban quyền chữa bệnh phong cho những người đến từ Ngài như Môisê (x. Ds 12,9-14; Xh 4,6-8) và ngôn sứ Êlisê (x. 2V 5,9-14). Vì thế anh cùi trong Tin Mừng Maccô 1,40-45, trông cậy vào Đấng Mêssia - Đấng nhân danh Chúa đến chữa lành bệnh tật, giải thoát giam cầm như ngôn sứ Isaia đã loan báo (x. Is 61,1). Anh tìm đến Chúa Giêsu và thưa với tất cả lòng xác tín: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể khiến tôi nên sạch”. “Chạnh lòng thương Chúa Giêsu giơ tay đặt trên người ấy và nói: “Ta muốn, anh hãy khỏi bệnh”. Tức thì bệnh cùi biến mất và người ấy được sạch”. Tin Mừng nhiều lần dùng từ “chạnh lòng thương” để nói tấm lòng của Ngài với người đau khổ, bệnh tật…(x. Mt 9,36; 14,14; 15,32; Mc 1,41; Lc 7,13).
Trong khi mọi người tránh xa anh theo Luật, thì Chúa Giêsu lại tiến gần chữa lành cho anh. Ngài chữa người bị bệnh phong cùi không bằng cách như ngôn sứ Êlisê đã làm đối với Naaman, viên quan của Syria, vị ngôn sứ đã truyền cho ông đến tắm gội dòng sông Giodan (x. 2V 5,1-19). Ngài chữa lành với tấm lòng cảm thương, với một lời xác quyết quyền uy của Đấng chiến thắng trên bệnh tật, sự chết và một cử chỉ cầm tay mang ý nghĩa chia sẻ đầy tình liên đới.
Ngày hôm nay trong cuộc sống có các thứ bệnh cùi của tinh thần, của tâm hồn con người: thái độ sống bất công, gian ác, điêu ngoa, dối trá… Chính những hình thức cùi này làm con người vong thân, biến dạng tâm hồn. Không chỉ cuộc sống tinh thần của cá nhân mà cả một xã hội cùi đang được hình thành, bởi những vi rút cùi gian trá điêu ngoa, thiếu thành thật đang hoành hành trong xã hội.
Ý thức được tình trạng cùi hủi của mình do bởi tội lỗi, chúng ta tin tưởng vào Đấng chữa lành là Giêsu như thánh Paschase Radbert đã suy niệm hình ảnh người phong cùi được Ngài chữa lành: “Thiên Chúa chữa lành mỗi ngày tâm hồn của người kêu cầu đến Ngài, tôn thờ Ngài với tâm hồn thánh thiện và tuyên xưng niềm tin dù mang thân phận lầm lỗi: “Lạy Chúa, nếu Ngài muốn, xin cho con được sạch”.
Ý lực sống: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con,
mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm.
Xin rửa con sạch hết lỗi lầm
tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy”. (Tv 50,3-4).
Suy Niệm 8: Chúa chữa người phong hủi
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Phong hủi đối với những người Do thái là chứng bệnh ghê tởm, nhơ uế, bệnh nhân phải tuyệt thông với mọi người. Ai tiếp xúc với họ cũng bị coi là uế. Vì thế, người phong hủi thường phải ở những nơi cách biệt: đi đến đâu họ phải la lớn để mọi người biết mà tránh xa. Thân phận người phong hủi thật đáng buồn tủi! Bài Tin mừng hôm nay cho biết, người phong hủi dám đến xin Đức Giêsu chữa lành. Điều đó chứng tỏ bệnh nhân có một niềm xác tín vào Chúa Giêsu. Chúa Giêsu vừa quyền phép lại vừa rất thương yêu. Đến với Ngài, chắc chắn sẽ không phải thất vọng.
2. Ông M. Carré nói: “Sống trong một thế giới đầy đau khổ trước mắt, thì chúng ta phải là những nhà chuyên môn của niềm tin cậy trông”. Vâng, trong lúc đau đớn tột cùng nơi thân xác vì bị trùng Hansen gặm nhấm rúc rỉa; trong lúc tâm hồn tan nát vì bị mọi người kinh tởm xa cách, chính trong lúc đau khổ ngút ngàn ấy người phung hủi lại hoàn toàn tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa và trọn vẹn phó thác cho tình yêu của Ngài.
Thấy anh có lòng tin, Chúa Giêsu chạnh lòng thương, giơ tay đặt trên người ấy và nói: “Ta muốn anh khỏi bệnh”. Chạm đến người phung là phạm luật, khiến người ta khó chịu. Ngài muốn thay đổi những lệch lạc trong luật. Qua việc đặt tay của Chúa, con người được tiếp xúc thần tính của Ngài, nhờ đó được nhận lãnh ân sủng là sức sống của Ngài. Chính vì thế mà bệnh phung biến mất và anh ta được sạch.
3. Chúa Giêsu không chỉ chữa bệnh cho người bị phong cùi, mà còn đưa tay đụng đến anh, chứng tỏ Ngài không ghê tởm anh. Ngài còn dạy anh đi trình diện với tư tế để được công nhận hết bệnh và nhờ đó được nhập vào xã hội. Như thế, người phong cùi này vừa được chữa bệnh, vừa được phục hồi nhân phẩm. Nói cách khác, Chúa Giêsu vừa chữa anh khỏi bệnh tật phần xác vừa chữa anh khỏi bệnh tật tâm hồn. Chúng ta tự hỏi mình: sự quan tâm của ta với những người nghèo khổ có được toàn diện như thế chưa?
4. Hãy tỏ lòng yêu thương những người bệnh tật xấu số.
Đọc những vần thơ của thi sĩ Hàn Mặc Tử, người thi sĩ thời danh mắc bệnh cùi cách đây không lâu lắm ở trại cùi Qui Hòa (Bình định), biểu lộ những rung cảm trong cảnh sầu khổ, ta mới hiểu được nỗi đau khổ trong cảnh cô đơn thất vọng của người bị bệnh cùi như thế nào.
Đọc truyện cha Damien, vị tông đồ người hủi, ta mới thấy xúc động và cảm phục. Khi Đức Giám mục ở Hawai giới thiệu cha Damien với dân cùi ở đảo Molokai là cha tình nguyện đến phục vụ họ. Cha Damien rởn tóc gáy khi nhìn thấy họ đến sờ vào thân mình cha. Đức Cha giải thích cho cha Damien là họ không thể hiểu nổi một người ở phương xa, không bà con huyết thống gì với họ, lại còn trẻ, đẹp trai, lại có thể đến phục vụ họ trên mảnh đất cùng khốn này. Họ không tin mắt nhìn của họ nên mới đến sờ thử vào con người của cha, xem có thực sự mắc bệnh cùi không. Rồi họ nói với nhau: “Không”. Dần dần cha Damien hòa đồng được với họ, và không còn cảm thấy như ngày đầu. Một ngày kia đến lượt cha cũng mắc bệnh cùi.
5. Còn bệnh phong hủi thiêng liêng nữa.
Điều đáng nói là chúng ta phải nhìn đến thứ bệnh cùi thiêng liêng như là một thực tế của mọi thời đại. Các nhà tu đức học và dẫn đàng thiêng liêng thường coi tội lỗi là một thứ bệnh cùi thiêng liêng. Nếu bệnh cùi thể xác khiến người ta bị cô lập hóa về phương diện thể lý, nghĩa là phải sống tách biệt khỏi gia đình và xã hội, thì bệnh cùi thiêng liêng là tội lỗi cũng khiến người ta bị cô lập hóa về đời sống thiêng liêng.
Tội làm sứt mẻ tình bạn với Thiên Chúa và người khác. Có những tội khiến ta không còn dám đến nhà thờ và lên rước lễ. Tội còn làm sứt mẻ tình bạn, tình cộng đồng. Khi phạm tội, người ta thường muốn tránh người khác vì mắc cỡ, và người khác cũng không muốn gặp gỡ họ vì đã là nạn nhân hay không muốn trở thành nạn nhân.
6. Truyện: Phải biết cảm ơn Chúa
Trong cuốn truyện thuộc loại Tự Thuật của một người Cha nọ có ghi những ý nghĩ như sau:
Một đêm kia, trong lúc đang đọc báo, tôi nghe đứa con gái bé nhỏ của tôi bảo: ”Bố ơi, con sẽ đếm thử xem trên trời có mấy ngôi sao nhé”!
Sau đó tôi nghe giọng êm đềm dễ mến của con tôi bắt đầu đếm 1,2,3,4.... rồi tôi lại chú tâm vào chuyện đọc báo, không còn để ý đến tiếng con tôi nữa. Đến lúc tôi đọc xong, tôi chú ý lắng tai và nghe tiếng đứa con gái tôi vẫn tiếp tục đếm 223,224,225.... Đến đây, nó bỗng dừng lại, rồi quay sang nói với tôi: ”Bố ơi, con không ngờ trên trời có nhiều sao đến thế”.
Nghe con gái bình luận thế! Tôi chợt nhớ thỉnh thoảng tôi cũng đã thầm nói với Chúa: “Chúa ơi, để con thử đếm xem con đã lãnh nhận bao nhiêu ơn lành của Chúa”. Và càng đếm, trái tim tôi hình như càng cảm thấy thổn thức, không phải vì âu sầu, mà vì quá nhiều hồng ân Chúa đè nặng. Rồi tôi cũng đã thường phải thốt lên như con gái tôi: ”Lạy Chúa, con không ngờ đời con đã lãnh nhận nhiều ơn lành của Chúa đến thế”!
Suy Niệm 9: Chúa Giêsu chữa một người phong cùi
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Phân tích (Hạt giống...)
Chúa Giêsu chữa một người phong cùi:
- Việc chữa người phong cùi làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia về Đấng Messia, chứng minh Chúa Giêsu chính là Đấng Messia.
- Thái độ của người cùi chứng tỏ người này tin Ngài là Messia: anh "sấp mặt xuống" kêu xin; anh nói "Nếu ngài muốn, ngài có thể làm cho tôi được sạch" (thời đó, phong cùi được coi là chứng nan y vô phương chữa trị).
- Thái độ của Chúa Giêsu biểu lộ một sự ưu ái đặc biệt: "Ngài giơ tay đụng vào anh" (không ai khác dám đụng người cùi, vì sợ lây bệnh và lây sự ô uế).
- Lời Ngài bảo anh đi trình diện tư tế và dâng của lễ chứng tỏ Chúa Giêsu tôn trọng luật lệ đạo do thái.
B. Suy niệm (...nẩy mầm)
1. Chúa Giêsu không chỉ chữa bệnh cho người bị phong cùi, mà còn đưa tay đụng anh, chứng tỏ Ngài không ghê tởm anh; Ngài còn dạy anh đi trình diện với tư tế để được công nhận hết bệnh và nhờ đó được hội nhập vào xã hội. Như thế, người phong cùi này vừa được chữa bệnh, vừa được phục hồi nhân phẩm. Nói cách khác, Chúa Giêsu vừa chữa anh khỏi bệnh tật phần xác vừa chữa anh khỏi bệnh tật tâm hồn. Sự quan tâm của ta với những người nghèo khổ có được toàn diện như thế chưa?
2. Cái nghèo cũng là một thứ "tội đầu", vì nghèo nên khổ (như người ta quen nói "nghèo khổ"), vì nghèo khổ nên bị coi khinh và xua đuổi (như người ta quen nói "nghèo hèn").
3. Nạn đói xảy ra trong vùng. Một người ăn xin bên góc đường bước đến bên đại văn hào Nga, Tolstoy, đang đi ngang qua đó. Tolstoy dừng lại, lấy tiền cho nhưng không tìm được đồng nào. Ông nói với sự nuối tiếc: " Này người anh em, đừng giận tôi. Tôi chẳng đem theo gì".
Mặt người ăn xin sáng lên và nói: "Ông gọi tôi là anh em, đó đã là món quà rất lớn rồi!" (Góp nhặt).
Việc giúp đỡ người nghèo khổ chưa chắc có giá trị bằng thái độ tôn trọng của ta đối với họ.
4. "Chúa Giêsu chạnh lòng thương xót, giơ tay đụng vào anh và bảo: ‘Ta muốn, anh sạch đi’. Lập tức chứng phong hủi biến khỏi anh và anh được sạch" (Mc 1,41-42)
Trong chương trình phóng sự về việc giúp đỡ đồng bào lũ lụt của Đài Truyền hình Thành phố, có một em bé đã gởi một cái quần kèm theo 5000 đồng trong túi để giúp người bị nạn. Cô bé đã nói: "Món quà này con tặng cho bạn nào bằng con để đi học". Chắc rằng hình ảnh của những con người bất hạnh đã tạo cho cô bé một lòng thương cảm sâu sắc, và hành vi quảng đại ấy đã phần nào làm vơi bớt nỗi khổ của người bạn chẳng may.
Chúa Giêsu cũng chạnh lòng thương xót. Nhưng Ngài không chỉ làm vơi đi hoặc xóa đi bất hạnh của người bệnh bằng cách chữa lành cho anh, nhưng còn cất đi nỗi bất hạnh lớn lao của cả nhân loại là tội lỗi và cái chết, bằng cái chết trên Thập giá và sự phục sinh của Ngài.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin Ngài đập vỡ quả tim chai đá trong con và đặt trong con quả tim biết yêu thương. (Epphata)
Suy Niệm 10: Bài học về niềm tin và lòng biết ơn
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
Tin mừng hôm nay thuật lại việc Chúa chữa cho một người mắc bệnh phong cùi.
1. Ngày xưa cũng như ngày nay, số phận của những người mắc căn bệnh này rất đáng thương.
Ông Raoul Folereau, vị đại ân nhân của người phong cùi trên thế giới có kể lại mẩu chuyện thương tâm như sau:
“Trong một thị trấn nhỏ nọ, một người đàn ông lâm bệnh nặng. Sau khi khám nghiệm, các bác sĩ nghi ngờ anh ta đã mắc bệnh phong hủi. Tuy chưa phải là một phán quyết dứt khoát, nhưng kể từ đó người ta không còn thấy anh ra khỏi nhà nữa. Gia đình anh mỗi lúc mỗi xác tín hơn về bệnh tình của anh. Thế là để che dấu con người mà họ coi như là một sự xấu hổ chung, những người thân của anh đã giam anh trong một cái mùng lớn. Người đàn ông đáng thương chỉ còn sống vất vưởng nhờ lương thực tiếp tế mỗi ngày. Ngậm đắng nuối cay từng giờ từng phút, người đàn ông chỉ còn nuôi một hy vọng: đó là bỏ trốn khỏi nhà giam của anh... Ngày nọ, anh đã làm như anh nghĩ nhưng chẳng may, anh đã bị bắt lại. Thế là mọi hy vọng đã hết. Và anh nghĩ chỉ có cái chết mới giải phóng được anh. Nghĩ là làm. Anh đã mua thuốc ngủ và tự vận. Cái chết của anh đã gây chấn động trong dư luận. Người ta yêu cầu cho khám nghiệm tử thi.
Kết quả đã làm cho mọi người sửng sốt: anh đã không bao giờ mắc bệnh phong cùi.
2. Bài học.
+ Bài học thứ nhất là bài học về niềm tin.
Người cùi trong bài Tin Mừng hôm nay sống nhưng kể như đã chết. Rất may anh đã gặp được Chúa. Và anh đã tin chỉ có Chúa mới có thể cứu anh. Anh tin thật mãnh liệt nên anh đã nói lên lời van xin của anh với Chúa một cách rất mạnh mẽ. ”Lạy Thầy, nếu thấy muốn, thầy có thể chữa tôi nên sạch” (Mc 1,40). Chỉ cần Chúa muốn là được tất cả. Và Chúa đã trả lời. Chúa muốn và lập tức bệnh cùi biến mất. Một kết quả hết sức tuyệt vời.
Vâng, đức tin là như thế. Đức tin đem lại những thành tựu thật lớn cho con người tin.
Một bà già kia đã có tuổi đi từ Buffalo đến thăm con gái tại Cleveland trên một chiếc tàu chở khách.
Khi tàu đang chạy giữa biển thì bão tố xảy đến. Ai nấy đều hốt hoảng, lo sợ. Chỉ duy có bà vẫn tỏ ra rất bình tĩnh. Bà vẫn ngồi, cúi đầu cầu nguyện.
Lúc trận bão qua rồi, nhiều người đến hỏi vì sao bà giữ được sự bình tĩnh trong cơn nguy biến như vậy. Bà đáp:
- Tôi có hai người con gái. Một đứa đã qua đời đang ở với Chúa trên Thiên Đàng, còn một đứa ở Cleveland. Trong cơn bão tố, tôi không biết mình sắp gặp đứa nào, nếu phải qua đời, tôi sẽ gặp đứa ở thiên thượng, còn nếu bình yên vô sự, tôi sẽ gặp đứa đang ở đó. Cả hai đều là con yêu dấu của tôi, dù gặp con nào tôi cũng vui mừng sung sướng cả. Vì vậy, trong cơn nguy biến, tôi chỉ chờ đợi mà không lo sợ chút nào.
+ Bài học thứ hai là bài học về lòng biết ơn.
Chúng ta còn nhớ đã có lần Chúa chữa cho 10 người mắc bệnh cùi. Chúa bảo họ đi trình diện với thầy tư tế. Đang khi đi dọc đường thì họ được sạch. Trong 10 người đó chỉ có một người trở lại tạ ơn Chúa. Người cùi trong baì Tin Mừng hôm nay cũng vậy. Mặc dầu đã bị Chúa nghiêm cấm, thế nhưng, anh ta cảm thấy mình không thể không nói lên lời cám ơn. Thế là anh đã cất cao lời tôn vinh Chúa và loan báo về Chúa cho mọi người.
Hôm đó, trên chuyến bay từ Ý về Mỹ, mang theo một số Giám Mục mới đi dự Công đồng Vaticanô II về, có mộ nữ chiêu đãi viên rất xinh đẹp. Suốt chuyến bay, cô rất bực mình vì một đôi mắt cứ nhìn chòng chọc vào cô, và đôi mắt đó không phải của ai khác hơn là Đức Cha Fulton Sheen, vị tông đồ lừng danh nước Mỹ. Khi phi cơ hạ cánh, và đợi cho hành khách xuống hết, vị Giám mục mới tiến đến trước mặt cô, nói nửa nghiêm trang nửa bông đùa:
- Cô đẹp lắm! Cô hãy cám ơn Chúa vì đã cho cô đẹp.
Câu chuyện tưởng như vậy là xong. Có ai dè đâu là mấy hôm sau, có tiếng gõ cửa văn phòng làm việc của Đức Cha Fulton Sheen. Cô chiêu đãi viên hôm nọ xuất hiện một cách đầy tự tin. Cô vào thẳng đề tài:
- Câu nói của Đức Cha mấy bữa trước làm cho con suy nghĩ mãi. Con phải cám ơn Chúa thế nào đây?
- Cô biết trại phong cùi Di linh ở Việt Nam chứ?
- Vâng, con đọc báo có nghe nói đến!
- Chúa đã lấy hết sắc đẹp của những người ở đó mà ban cho cô. Cô hãy qua bên đó an ủi họ.
Vâng! Chỉ từng ấy! Cô chiêu đãi viên trút bỏ cả tương lai huy hoàng, khoác bộ áo nữ tu và sau một thời gian tập sự học hỏi, đã tình nguyện sang Việt Nam phục vụ những người cùi ở Di Linh, để cảm ơn Chúa đã ban cho mình sắc đẹp.
10/01 Tiếp tục rao giảng
- Viết bởi Mc 1, 29-39
Tiếp tục rao giảng.
Thứ Tư tuần 1 thường niên.
"Ngài chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau".
LỜI CHÚA: Mc 1, 29-39
Khi ấy Chúa Giêsu ra khỏi hội đường. Người cùng với Giacôbê và Gioan đến nhà Simon và Anrê. Lúc ấy bà nhạc gia của Simon cảm sốt nằm trên giường, lập tức người ta nói cho Người biết bệnh tình của bà. Tiến lại gần, Người cầm tay bà, và nâng đỡ dậy. Bà liền khỏi cảm sốt và đi tiếp đãi các Ngài. Chiều đến, lúc mặt trời đã lặn, người ta dẫn đến Người tất cả những bệnh nhân, tất cả những người bị quỷ ám; và cả thành tụ họp trước cửa nhà. Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau, xua trừ nhiều quỷ, và không cho chúng nói, vì chúng biết Người.
Sáng sớm tinh sương, Người chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng và cầu nguyện tại đó. Simon và các bạn chạy đi tìm Người. Khi tìm được Người, các ông nói cùng Người rằng: "Mọi người đều đi tìm Thầy". Nhưng Người đáp: "Chúng ta hãy đi đến những làng, những thành lân cận, để Ta cũng rao giảng ở đó nữa". Và Người đi rao giảng trong các hội đường, trong khắp xứ Galilêa và xua trừ ma quỷ.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Bà phục vụ các ngài
(Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)
Sau khi chữa người bị quỷ ám tại hội đường Caphácnaum,
Đức Giê su trở về một căn nhà của một gia đình quen biết,
gia đình của hai anh Simon và Anrê, những người mới bỏ nhà để theo ngài.
Không may bà mẹ vợ của Simon lại đang lên cơn sốt.
Đức Giêsu đã lại gần giường bà nằm, cầm lấy tay bà và nâng bà dậy.
Lập tức cơn sốt lui khỏi bà và bà phục vụ các ngài.
Đây là phép lạ chữa bệnh đầu tiên của Đức Giêsu
cho một phụ nữ, tại một ngôi nhà.
Sốt chẳng phải là một bệnh quá nặng và nguy hiểm,
nhưng cũng đủ để làm người bệnh không hoạt động được,
gây cản trở những sinh hoạt bình thường trong gia đình.
Đức Giêsu đến đem lại sự chữa lành, niềm vui và sức sống.
Khi người phụ nữ được khỏi bệnh, mọi sự như sống lại.
Bếp lại có lửa, bàn lại có thức ăn, và người ta ngồi quanh cười nói rôm rả.
Hạnh phúc gia đình có khi chỉ tùy thuộc vào những điều be bé.
Hạnh phúc bị sứt mẻ lắm khi chỉ vì những chuyện không đâu.
Hãy nhìn cách Đức Giêsu chữa bệnh cho người phụ nữ này.
Thật gần gũi và thân tình, ngài chẳng nói lời nào để đuổi cơn sốt.
Khi nắm tay người bệnh nặng, ngài chấp nhận nguy cơ bị nhiễm nhơ uế.
Nhưng Đức Giêsu chẳng hề bị nhiễm gì, trái lại ngài đem đến bình an.
Ngài đã nâng bà dậy (êgeiren), có nghĩa là ngài làm bà phục sinh.
Sau khi được phục sinh thì bà đi phục vụ các vị khách.
Phục vụ hiểu theo nghĩa đơn sơ nhất là đi chuẩn bị bữa ăn.
Các thiên thần cũng đã phục vụ Đức Giê su
sau khi ngài thắng các cơn cám dỗ (Mc 1, 13).
Tuy nhiên có thể hiểu phục vụ theo nghĩa rộng hơn nhiều.
Sau khi Đức Giêsu chết trên thập giá, chỉ còn các phụ nữ ở lại đến cùng.
“Họ đã đi theo ngài và phục vụ ngài từ hồi ngài còn ở Galilê
và họ đã cùng ngài lên Giêrusalem” (Mc 15, 40-41).
Như vậy không phải chỉ các ông môn đệ mới là người phục vụ (Mc 10, 43).
Các bà cũng đã trung tín phục vụ đến cùng,
phục vụ như Thầy Giêsu, Đấng đã đến để phục vụ” (Mc 10, 45).
Chúng ta cần nhìn nhận
vai trò quý báu của người vợ, người mẹ trong nhà,
và vai trò của người phụ nữ trong giáo xứ cũng như ngoài xã hội.
Cầu nguyện:
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận,
xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,
xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ,
xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,
xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi,
Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng,
xin cho các kitô hữu chúng con
trở thành tình yêu
cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài,
biết sống nhờ và sống cho tha nhân,
biết quảng đại cho đi
và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh,
xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa
ở sâu thẳm lòng chúng con,
và trong lòng từng con người bé nhỏ.
Suy Niệm 2: Mầu nhiệm hiệp thông
Chúa Giês-su hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa. “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện”. Kết hợp trọn vẹn với Chúa Cha nên việc cầu nguyện là một việc vừa tự nhiên vừa là nhu cầu thiết yếu của Chúa Giê-su. Bắt đầu ngày mới bằng việc cầu nguyện, Người múc lấy sức mạnh và tìm những chỉ dẫn cho mọi hoạt động từ nơi Chúa Cha. Không chỉ hiệp thông trong tâm tình mà còn trong hành động. Nên Người đã xuống thế làm người theo chương trình của Thiên Chúa. Trong suốt cuộc đời Người không làm gì tự ý mình, nhưng hoàn toàn làm theo thánh ý Chúa Cha. Vâng lời Chúa Cha cho đến bằng lòng chịu chết trên cây thánh giá. Đó là cuộc hiệp thông trọn vẹn. Hoàn toàn từ bỏ bản thân. Để thánh ý Chúa Cha được thể hiện.
Người cũng hoàn toàn hiệp thông với nhân loại. Hiệp thông trọn vẹn với nhân loại nên Người trở nên đồng huyết nhục, trở thành anh em của mọi người. Người đã sống hoàn toàn như một con người. Sống cuộc sống vất vả của người thợ mộc. Lang thang đây đó, “không có nơi tựa đầu”. Chịu đói chịu khát. Trải qua biết bao thử thách và đau khổ. Chịu cám dỗ. Bị phản bội. Bị trao nộp. Chịu hành hình và chịu chết. Người luôn ở gần những người nghèo khổ bệnh tật để giúp đỡ họ. Hãy chiêm ngắm cảnh tượng Người cầm tay bà nhạc mẫu của Phêrô, ân cần nâng dậy và chữa khỏi bệnh tật. Hãy chiêm ngắm cảnh tượng lớp lớp trùng điệp người bệnh vây quanh Người. Tất cả trở nên một cơ thể đau khổ vì Người hoàn toàn hòa nhập với con người. Hiệp thông trọn vẹn với con người, Người trở thành người đại diện, người trung gian, trở thành vị Thượng Tế nhân từ và trung tín dâng tâm tình thờ phượng lên Đức Chúa Cha. Và lời cầu nguyện của Người được đẹp lòng Thiên Chúa. Hiệp thông trọn vẹn với con người nên Người đã dùng cái chết mà giải phóng con người khỏi nô lệ sợ hãi cái chết. Và vì đã trải qua thử thách đau khổ Người có thể cứu những ai bị thử thách (năm lẻ).
Sa-mu-en phần nào giống Chúa Giêsu. Kết hợp mật thiết với Thiên Chúa nên “không để cho một lời nào của Người ra vô hiệu”. Kết hợp mật thiết với toàn dân. Ông quên bản thân mà lo cho việc dân việc nước. Ông đã sống mầu nhiệm hiệp thông (năm chẵn).
Để hiệp thông phải từ bỏ chính mình. Chúa Giê-su đã từ bỏ chính mình. Hoàn toàn sống cho Thiên Chúa. Hoàn toàn hiến mình vì nhân loại. Từ mầu nhiệm hiệp thông phát sinh nguồn ân phúc bao la cho nhân loại. Xin cho chúng ta hiểu điều này. Biết sống mầu nhiệm hiệp thông. Để thế giới được chứa chan ân sủng của Chúa.
Suy Niệm 3: Ðộng lực của việc tông đồ
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Tin Mừng rất nhiều lần nhắc đến Chúa Giêsu cầu nguyện với Cha Ngài, đó là những giây phút gặp gỡ thân tình với Chúa Cha mà Ngài không bao giờ bỏ. Về phương diện thiên tính, Chúa Giêsu là Chúa Con, đồng bản tính với Chúa Cha, cho nên Ngài luôn kết hiệp với Chúa Cha. Nhưng như một con người, Chúa Giêsu đã nêu bật thái độ sống của Ngài, đó là sống mối tương quan thân tình với Chúa Cha qua lời cầu nguyện.
Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Marcô ghi nhận: "Sáng sớm, lúc trời còn tối, Chúa Giêsu đã chỗi dậy, đi đến một nơi vắng vẻ để cầu nguyện". Mặc dù bận rộn với rất nhiều công việc trong ngày, Chúa Giêsu vẫn không quên cầu nguyện. Nhưng đây không phải là lần duy nhất, Tin Mừng còn cho thấy rất nhiều lần Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha, và chính Ngài đã dạy các Tông đồ cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha. Ngài lấy hình ảnh cây nho và cành nho để nói lên tầm quan trọng của cầu nguyện: "Thầy là cây nho, các con là cành nho; ai lưu lại trong Thầy và Thầy trong người ấy, thì người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, các con không thể làm được gì".
Chúng ta hãy noi gương Chúa, dành thời giờ để tiếp xúc, đối thoại, chiêm ngưỡng Thiên Chúa, như Ngài đang hiện diện trước mặt chúng ta. Muốn đạt tới việc cầu nguyện như thế, chúng ta cần phải có đức tin mạnh mẽ và lòng yêu mến Thiên Chúa như người con đối với người cha. Mẹ Têrêsa Calcutta đã nói: "Cầu nguyện là việc tiếp xúc với Thiên Chúa. Hãy bắt đầu và kết thúc mỗi ngày bằng cầu nguyện. Hãy đến với Chúa như đứa con đến với cha mình".
Chúng ta hãy cảm tạ Chúa đã cho chúng ta có những giờ phút thuận lợi để bắt đầu một ngày sống tốt đẹp hơn. Xin cho chúng ta biết sống kết hiệp mật thiết với Chúa trong cầu nguyện, nhờ đó chúng ta có thể chu toàn thánh ý Chúa và phục vụ tha nhân một cách hữu hiệu hơn.
Suy Niệm 4: Một ngày chồng chất công việc
Chiều đến khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa. Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói vì chúng biết Người là ai (Mc. 1, 32-34)
Khi liệt kê tất cả những công việc Chúa Giêsu đã thực hiện trong hai ngày, thánh Maccô cho ta cảm tưởng là Chúa Giêsu không cà kê công việc, mà Người đã phải đầu tắt mặt tối, nào là giảng dạy ở hội đường, đi đến nhà ông bà nhạc của Phêrô, chiều đến lại dành thời giờ chữa nhiều kẻ bệnh tật. Ngày hôm sau Người thức dậy thật sớm, đi cầu nguyện ở một nơi thanh vắng, rồi lại lên đường đi rao giảng và phục vụ những người đau ốm tật nguyền.
Mô tả trên đây giúp chúng ta nhìn ra ba nét tính nơi con người Đức Giêsu.
Một con người hoạt động
Thánh Maccô cho ta thấy Chúa Giêsu mang hình ảnh khá giống với những con người nam nữ thời nay: họ bận bịu với trăm công nghìn việc, lúc nào cũng tất bật và đa đoan đủ chuyện.
Một con người biết dừng lại
Thế nhưng, dù phải đảm đang công kia việc nọ, vậy mà Chúa Giêsu vẫn có thời giờ dừng lại để làm những công chuyện quan trọng như đáp lại tình nghĩa bạn bè và cầu nguyện.
Khoảng thời giờ giữa hai lần giảng dạy cho dân chúng, Người dành cho việc đi thăm tình nghĩa và bao lâu kẻ tiếp đón còn cần đến Người thì Người không vội ra đi.
Chúa Giêsu cũng không cắt xén những thời giờ quý báu dành cho việc cầu nguyện của Người. Người thà cắt bớt giờ ngủ và có lẽ cả giờ nghỉ ngơi giải trí nữa: “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy…”.
Một con người thấy rõ việc phải làm
Đây là nét tính nổi bật nơi con người Đức Giêsu mà ta thường gặp thấy trong sách Phúc âm. Người biết rõ việc Người phải làm. Nếu đã tổ chức chuyến đi truyền giáo lần đầu tiên ở Galilê rồi thì Người lại trở về miền Samari. Nếu đã kết nạp xong mấy môn đệ, thì Người vẫn không quên “những con chiên lạc”. Người không nghỉ ngơi sau một vài thành công. Người biết rõ mình còn phải làm gì và lần lượt tới viếng thăm và giảng dạy ở các hội đường theo một lịch trình rõ rệt.
Còn một ngày của chúng ta thì sao?
Khi phác họa một ngày làm việc của ta, ngày ấy có sẽ đầy đủ công việc như ngày làm việc của Chúa Giêsu không? Ta có biết làm cho ngày đó đầy tràn hiệu quả tốt không? Ta có biết dừng chân để đáp lại tình nghĩa bạn bè, tình nghĩa với Chúa, tình nghĩa với bà con lân cận không? Và mặc dầu đã mệt mỏi rã rời và đã chu toàn bổn phận rồi, ta có dám nhìn trước ngày hôm sau để hoạch định công việc mà không ai sẽ làm thay cho ta?
Suy Niệm 5: Sống tinh thần liên đới
Chúng ta đã nghe đây đó lời của một bài hát, trong đó có đoạn: ”Sống trong cuộc sống, cần có một tấm lòng”. Thật vậy, trong một xã hội ngày càng giàu có, tiện nghi sang trọng, nhiều ngôi nhà cao tầng mọc lên; điện, đường, trường, trạm được mọi người quan tâm... Tuy nhiên, về tinh thần liên đới, trách nhiệm, đạo đức... thì e rằng đang xuống cấp hơn bao giờ hết! Những chuyện vô lương tâm, tàn nhẫn, bất trung diễn ra nhan nhản đến mức báo động! Lại có những chuyện tưởng chừng chỉ trong tiểu thuyết, thì giờ đây nó lại xảy ra như cơm bữa trong đời sống hằng ngày...!
Hôm nay, bài Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu chữa bệnh cho mẹ vợ ông Simon. Mẹ vợ ông Simon được Đức Giêsu biết đến là nhờ vào sự liên đới của mọi người, họ kể cho Ngài nghe về bệnh tình của bà.
Phải chăng Đức Giêsu cần sự thông báo của người ta? hay Ngài buộc họ phải nói thì Ngài mới ra tay cứu giúp? Không! Tuy nhiên, cứ theo cảm tính tự nhiên, thì việc quan tâm này rất cần thiết vì nó thể hiện sự yêu thương, liên đới tới nhau.
Sứ điệp Lời Chúa hôn nay mời gọi mỗi chúng ta hãy sống tinh thần yêu thương, liên đới, để cho ý Chúa được thể hiện trong cuộc sống thường ngày của mình, và để cho mọi người nhận ra chúng ta là con cái của Chúa khi mỗi người sống bác ái, xây dựng tình huynh đệ trong cuộc sống thường ngày.
Lạy Chúa Giêsu, chắc chắn Chúa sẽ không vui khi chúng con sống mà chỉ biết mình. Nhưng Chúa sẽ vui biết bao khi chúng con sống liên đới với tha nhân, nhất là biết giúp đỡ những người khổ đau, nghèo đói.
Xin Chúa ban cho chúng con trái tim của Chúa để chúng con yêu với tình yêu không phân biệt. Amen.
Ngọc Biển
Suy Niệm 6: Tin tưởng đến với Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Mọi hoạt động của Chúa đều nhằm cứu độ con người khỏi sự dữ phần hồn cũng như phần xác. Ta hãy tin tưởng đến với Chúa là Đấng Cứu Độ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Lời Chúa hôm nay gợi lên cho con thực trạng đau khổ của cuộc sống nhân loại. Khi xưa cũng như ngày nay, loài người phải mang lấy biết bao bệnh hoạn, tật nguyền. Đặc biệt con nghĩ đến những chứng bệnh nan y mới phát sinh, đang đe dọa tính mạng của nhiều người. Con nghĩ tới những nạn nhân chiến tranh, những kẻ tàn phế. Con nhớ tới những nạn nhân tâm thần càng ngày càng nhiều. Con nhớ tới những kẻ đang sống nô lệ cho ma quỷ, tội lỗi, sự ác và bất công. Con nhớ tới những đau khổ hồn xác của mọi người trên thế giới, của những người trong gia đình con và của chính con.
Lạy Chúa, những đau khổ ấy thật là khó hiểu và dễ làm con nổi loạn. Nhưng lạy Chúa, con tin Chúa là Đấng giàu lòng thương xót. Trái tim Chúa đã và vẫn mãi ôm ấp và chữa lành những đau khổ của chúng con. Hằng ngày con chạy đến với Chúa trong thánh lễ. Xin Chúa cứu chúng con khỏi mọi sự dữ. Lạy Chúa, ngày nay Chúa vẫn đang hiện diện giữa chúng con và đang biểu lộ quyền năng cứu độ chúng con. Chúa đã lại gần cầm tay bà mẹ vợ ông Simon và đỡ dậy. Con tin rằng trong các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể, Chúa đang lại gần con, cầm tay và đỡ con lên. Chúa có đủ quyền năng và muôn vàn phương thế để phục hồi và tái tạo cuộc đời chúng con cả hồn lẫn xác. Xin Chúa ra tay thực hiện và xin Chúa dạy con biết góp phần xóa bớt những đau khổ của anh chị em, để họ được sống trong niềm vui và hạnh phúc. Amen.
Ghi nhớ: ”Ngài chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau”.
Suy Niệm 7: Chúa Giêsu chữa nhạc mẫu của Phêrô
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Bác sĩ Tissot là một bác sĩ rất nổi tiếng người Thuỵ Sĩ. Tissot theo đạo Tin Lành nhưng luôn tôn trọng nếp sống của người Công giáo.
Một hôm ông tới chữa bệnh cho phụ nữ ngoại quốc, bà đang sốt nặng và tỏ ra hoảng hốt cáu kỉnh. Là người Công giáo, bà đòi gặp một Lm trước rồi mới chịu để bác sĩ chích thuốc chữa bệnh. Sau khi được giải tội và xức dầu, bác sĩ Tissot thấy bệnh nhân bình tĩnh dịu dàng khác thường.
Sáng hôm sau, bác sĩ Tissot trở lại, thấy bà giảm sốt và bắt đầu bình phục. Bác sĩ Tissot thường nói chân thành như là một chứng nhân cho bí tích bệnh nhân: “Nhiều bệnh nhân Công giáo đã lành bệnh nhờ bí tích xức dầu”.
Trong Đức tin Công giáo, bí tích xức dầu trợ giúp người tín hữu trong cơn đau yếu, giúp họ không nao núng trước thử thách bệnh tật cả về thể xác lẫn tinh thần. Người được lãnh bí tích thánh này được giữ vững lòng trung thành với niềm tin. Bí tích xức dầu như là bàn tay của Thiên Chúa thể hiện tình thương của Ngài chăm sóc trên bệnh nhân. Hình ảnh bí tích xức dầu chăm sóc, chữa lành bệnh nhân đưa chúng ta đến hình ảnh Chúa Giêsu đặt tay trên bà nhạc mẫu của Phêrô, bà liền được bình phục.
Suy niệm
Đức Giêsu đã “cầm tay” nhạc mẫu của Phêrô đang cơn bệnh và làm cho bà trỗi dậy. Người cũng đưa tay ra chữa lành tất cả bệnh tật, đau khổ nơi chúng ta như Ngài đã làm cho những kẻ tin được đưa đến bên Ngài (x. Mc 1,29-39).
Trong sự đau khổ bệnh tật của con người, Chúa Giêsu luôn luôn mang trong chính thân thể Ngài những đau khổ của nhân loại qua mọi thời đại. Ngài chăm sóc và chữa lành họ qua các bí tích, chính Ngài đi vào trung tâm lịch sử cứu độ mang tất cả đau thương trong thân xác Ngài trên thập tự để mọi đau thương được chữa lành như Phêrô đã tuyên tín: “Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành” (1Pr 2,24).
Ngài vẫn ở với nhân loại và đưa cánh tay cứu chữa cho những người tin. Tác giả F. Deleclos suy niệm về hình ảnh bà nhạc mẫu của Phêrô được chữa lành trong tương quan với chúng ta trong thế giới hôm nay: “Là những kẻ tội lỗi, chúng ta được quy tụ bởi đức tin, làm nên cộng đoàn Hội Thánh tìm kiếm Đức Kitô và kêu cầu Người. Giống như bà mẹ vợ của ông Phêrô, chúng ta bị nằm liệt giường và lên cơn sốt, chẳng được vui hưởng cuộc sống đích thực” (F. Deleclos, Prends ét mang La Parole, Centurion – Duculot tr. 137-138). Ngài đến và mang niềm vui được chữa lành cho chúng ta và như nhạc mẫu của Phêrô, được chữa lành, đứng lên tiến bước với niềm vui phục vụ.
Chúng ta hãy để Chúa Giêsu đụng vào trái tim nhỏ bé của mình, dù nhỏ bé nhưng vương vấn tội lỗi, để chúng ta được thanh sạch như Lời Chúa trong sách ngôn sứ Êdêkien nói: “Ta sẽ rảy nước thanh sạch trên các ngươi và các ngươi sẽ được thanh sạch, các ngươi sẽ được sạch mọi ô uế và mọi tà thần. Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi” (Ed 36,25-26).
Tất cả những yếu đuối, lo âu, bệnh tật, khiếm khuyết tâm thể lý được chữa lành. Ước chi Ngài cũng vào nhà tâm hồn của tôi, nhà tâm hồn bạn và “nâng chúng ta dậy” để chúng ta không nằm bất toàn trong sự yếu đuối, mất sức lực trong sự dữ, trong cơn u mê tội lỗi… Nhưng nhờ Ngài, chúng ta “đứng lên” như Chúa Giêsu muốn những người chạy đến với Ngài trong cơn đau bệnh.
Ý lực sống: “Người chữa trị bao cõi lòng tan vỡ, những vết thương, băng bó cho lành” (Tv 147,3).
Suy Niệm 8: Làm việc và cầu nguyện
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Một ngày ở Capharnaum, Chúa Giêsu bận bịu với biết bao nhiêu công việc. Ngài giảng dạy trong hội đường, chữa mẹ vợ ông Simon khỏi cơn sốt nặng; chiều đến, Ngài lại chữa mọi người bệnh tật được người ta mang tới. Được thúc đẩy vì tình yêu Cha và yêu con người, Chúa Giêsu tất bật với sứ vụ được trao phó. Ngài con dành thời giờ cầu nguyện vào ban sáng sớm trước khi bắt đầu một ngày mới. Ngài vẫn còn thao thức bồn chồn cho đến khi sứ vụ được hoàn tất.
2. Nhìn lại một ngày làm việc của Chúa Giêsu, ta thấy Ngài rất bận rộn: giảng ở hội đường; giảng xong, chữa một người bị quỉ ám; rời hội đường, Ngài đi chữa bệnh cho nhạc mẫu của ông Simon Phêrô. Chiều đến chưa kịp nghỉ ngơi, người ta lại đem các bệnh nhân tới và Ngài lại cứu chữa họ. Sáng sớm hôm sau khi trời còn tối mịt, Ngài đã thức dậy sớm đi đến một nơi hoang vắng để cầu nguyện, và bắt đầu một ngày mới. Dù rất bận rộn, nhưng Chúa Giêsu vẫn dành thời giờ để cầu nguyện. Dù bị đám đông ồn ào bao vây suốt ngày, Chúa Giêsu cũng có cách tìm nơi yên tĩnh để cầu nguyện.
3. Chúa yêu thương, nâng đỡ và thông cảm với con người, nhất là những con người đang gặp đau khổ. Ngài đến thăm nhà, chữa bệnh cho người ta cũng là cách làm cho người ta được hạnh phúc vì vừa được chữa khỏi bệnh, vừa có dịp được giãi bầu tâm sự.
Người ta kể: Vị linh mục dừng lại ghé thăm một gia đình nghèo ở Kentucky. Vừa khi linh mục chào bà mẹ, bà ứa nước mắt kêu lên: “Ôi thưa cha, con vừa được biết cha đến thăm hôm nay. Con tin cha có thể giúp con”. Bà dốc hết bầu tâm sự, bao lo âu, bao rắc rối. Thỉnh thoảng vị linh mục chen vào một vài lời khích lệ, nhưng ngài cảm thấy hoàn toàn bất lực trước nỗi khổ tâm của bà. Kể xong, bà ngưng một lát rồi kêu lên: “Ôi thưa cha, cha giúp con nhiều quá. Cha đã giải quyết cho con mọi vấn đề”. Vị linh mục bối rối, ngài chẳng giải quyết được vần đề nào cả. Rồi ngài bắt đầu hiểu ra: bà chỉ cần mong được thông cảm.
4. Chúa Giêsu là thầy dạy của sự cầu nguyện.
Chúng ta không muốn định nghĩa sự cầu nguyện như các nhà tu đức học mà chỉ nói đơn sơ như thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã nói: “Con đã ở như một đứa trẻ không biết chữ: con cứ đơn sơ thật thà than thở cùng Chúa những điều con ước muốn, bao giờ con cũng được Chúa hiểu thấu tình”.
Cầu nguyện có thể ví như tình yêu. Chúng ta không thể học yêu qua sách vở được. Phải có phần thực hành. Cầu nguyện ví như học bơi lội, muốn biết bơi thì phải nhảyxuống nước, không thể vừa khô ráo trên bờ lại biết bơi. Cầu nguyện cũng như học gia chánh, muốn thực tập làm các món ăn thì phải lăn vào bếp. Cầu nguyện cũng giống như việc chăm sóc mảnh vườn, muốn có hoa đẹp thì phải trồng, phải vun xới, phải có nắng, phải tưới nước và phải chăm làm cỏ. Cầu nguyện không phải là một đề tài để bàn luận, nhưng là một thực tại để sống. Chúa Kitô là thầy dạy chúng ta, và tất cả chúng ta đều là học trò trong “lớp cầu nguyện”. Muốn có một đời sống sung mãn trong Chúa Kitô, chúng ta phải cầu nguyện (Thanh Thủy, Con đường tình yêu, tr 197).
5. Chiêm ngắm một ngày sống của Chúa, chúng ta được mời gọi sống như Ngài. Cuộc sống người Kitô hữu không thể chỉ có những khoảnh khắc dành cho Chúa trong Thánh lễ hay kinh nguyện, mà còn phải trải dài qua những sinh hoạt và gặp gỡ hằng ngày trong cuộc sống. Người Kitô hữu phải biết thống nhất đời sống bằng cách biến những giây phút hoạt động thành một cuộc gặp gỡ thân tình với Chúa.
Thường người ta quan niệm rằng làm việc và cầu nguyện là hai việc khác nhau, có khi đối chọi nhau. Thực ra, với lòng yêu mến, chúng ta có thể biến tất cả công việc làm của chúng ta thành kinh nguyện. Như thế, suốt ngày làm việc của chúng ta là một lời kinh nguyện dâng lên Chúa. Cần nhất ban sáng khi thức dậy, chúng ta đã dâng lên Chúa mọi công việc trong ngày, thì mọi việc trong một ngày có thể trở thành kinh nguyện liên miên.
6. Truyện: Cầu nguyện và làm việc.
Một ông cụ già dẫn một thanh niên xuống thuyền của mình. Thuyền này có hai mái chèo đề chữ “cầu nguyện”, một chiếc khác có đề hai chữ “làm việc”.
Người thanh niên nói kháy cụ già:
- Ông cụ ơi, chèo thế này chậm lắm. Người đã làm việc thì không cần cầu nguyện nữa (có ý nói: chỉ cần chèo một chiếc chèo có chữ “làm việc” thôi).
Ông cụ không nói gì, chỉ buông chiếc chèo có hai chữ “cầu nguyện” ra thôi, rồi cứ chèo chèo một chiếc có hai chữ “làm việc” kia.
Ông cụ cứ cố sức chèo nhưng thuyền không đi được bước nào, chỉ quay tròn đi thôi.
Thấy thế người thanh niên kia mới hiểu rằng, ngoài chiếc chèo làm việc ra, còn cần phải có chiếc chèo cầu nguyện nữa, thuyền mới đi được.
Suy Niệm 9: Một ngày của Chúa Giêsu ở Capharnaum
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Phân tích (Hạt giống...)
Chuyện này cũng diễn ra trong khung cảnh một ngày ở Capharnaum và tiếp liền chuyện hôm qua. Sau khi làm một cuộc trừ tà ở Hội đường, Chúa Giêsu đi chữa bệnh cho nhạc mẫu của Simon. Chúa Giêsu không nói lời nào, chỉ làm một cử chỉ nhỏ là đến gần cầm tay bà nâng dậy. Việc khỏi bệnh xảy ra tức thì. Bà hết bệnh và lo tiếp đãi các ngài.
Người Do thái quen coi bệnh tật là do ma quỷ gây nên. Đặc biệt bệnh sốt là dấu chỉ Thiên Chúa trừng phạt tội bất trung (x. Lv 26,15-16 Đnl 28,22). Vì người ta coi bệnh này là do ma quỷ gây nên, do đó việc Chúa Giêsu cứu chữa bệnh này cũng là một việc trừ tà (Lc 4,39), cho thấy Chúa Giêsu là Đấng đến giải thoát con người khỏi xiềng xích của sự dữ và sự chết.
Kết thúc một ngày làm việc: "Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Ngài đã dậy, đi ra một nơi hoàng vắng và cầu nguyện".
B. Suy niệm (...nẩy mầm)
1. Nhìn lại một ngày làm việc của Chúa Giêsu, ta thấy Ngài rất bận: giảng ở Hội đường (câu 21); giảng xong, chữa một người bị quỷ ám (cc 23-28); rời hội đường, Ngài đi chữa bệnh cho nhạc mẫu của Simon Phêrô (cc 29-32); chiều đến chưa kịp nghỉ ngơi người ta lại đem các bệnh nhân tới và Ngài lại cứu chữa (cc 32-34); Sáng sớm hôm sau khi trời còn tối mịt, Ngài thức dậy sớm đi đến một nơi hoàng vắng để cầu nguyện (c 35), và bắt đầu một ngày mới cũng rất bận rộn. Dù rất bận rộn, nhưng Chúa Giêsu vẫn dành thời giờ đề cầu nguyện; dù bị đám đông ồn ào bao vây suốt ngày, Chúa Giêsu vẫn có cách tìm nơi yên tĩnh để cầu nguyện.
2. Nhìn lại cuộc sống đã qua, một nhà hiền triết thú nhận: Lúc thiếu thời tôi là một kẻ hiếu động. Trong sự hăng hái của tuổi trẻ, tôi thường xin Chúa cho tôi sức mạnh biến đổi thế giới này nên tốt hơn. Khi được nửa đời người, tôi ý thức mình chưa làm gì được cả, chưa thay đổi được bất cứ người nào, tôi liền đổi lại lời cầu nguyện cho thiết thực hơn: Lạy Chúa, giờ đây con chỉ xin Chúa cho con khả năng thay đổi cuộc sống của những người con tiếp xúc hằng ngày thôi". Nhưng rồi khi tuổi đời sắp hết, tôi thấy rằng mình quá cao vọng và ảo tưởng, tôi lại thay đổi lời cầu nguyện như sau: "Lạy Chúa, xin ban cho con ơn thay đổi chính đời sống của con". Nếu từ tuổi thanh xuân tôi đã cầu nguyện như thế thì có lẻ tôi không phải hối tiếc vì đã sống một cuộc đời vô ích" (Trích "Mỗi ngày một tin vui")
3. "Chúa Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỷ. Nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai" (Mc 1,34)
"Tại sao Con Thiên Chúa không muốn làm vua Do thái hở mẹ? Những điều kỳ diệu của Người khiến con kinh ngạc. Chỉ cần một hơi thở của Người đủ huỷ diệt sức mạnh của Rôma. Thế mà Người lại từ chối sự trợ giúp của các binh đoàn, khiến bao gian lao khó nhọc đã trở thành vô ích? Chúng ta lại phải rên siết dưới sự bảo hộ của Rôma và để vũ khí mà ta khổ công đúc rèn phải rỉ sét ư?"
Ben Hur đã thốt lên lời ấy trong thất vọng, chán chường. Anh cũng như những người do thái khác đã thất vọng về Con Thiên Chúa. Họ chờ đợi Đấng Messia như một người có thể đem lại cho họ phồn vinh và công lý trong trần thế. Họ chỉ muốn thấy vinh quang Thiên Chúa trừng phạt đế quốc Lamã.
Phải chăng vì thế mà Chúa Giêsu không cho quỷ nói Người là ai? Con đường cứu độ không dẫn Người đến ngai vàng và vương miện trần gian. Người đến để mặc khải tình yêu của Cha, và để mặc khải được trọn vẹn, Người đã chết thay cho mọi người, những kẻ đã dửng dưng để cho máu của Người đổ trên đầu mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, giờ đây công cuộc cứu chuộc của Người đã hoàn tất. Xin cho con luôn biết đón nhận con đường của Người, con đường đưa đến sự sống đời đời. (Epphata)
Suy Niệm 10: Một ngày làm việc và cầu nguyện của Chúa Giêsu
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
1. Nhìn lại một ngày làm việc của Chúa Giêsu, ta thấy Ngài rất bận: giảng ở Hội đường (câu 21); giảng xong, chữa một người bị quỷ ám (cc 23-28); rời hội đường, Ngài đi chữa bệnh cho nhạc mẫu của Simon Phêrô (cc 29-32); chiều đến chưa kịp nghỉ ngơi người ta lại đem các bệnh nhân tới và Ngài lại cứu chữa (cc 32-34); Sáng sớm hôm sau khi trời còn tối mịt, Ngài thức dậy sớm đi đến một nơi hoang vắng để cầu nguyện (c 35), rồi lại bắt đầu một ngày mới cũng hết sức bận rộn. Dù rất bận rộn, nhưng Chúa Giêsu vẫn dành thời giờ để cầu nguyện; dù bị đám đông ồn ào bao vây suốt ngày, Chúa Giêsu vẫn có cách tìm nơi yên tĩnh để cầu nguyện. Tại sao Chúa làm thế? Thưa vì cầu nguyện là việc hết sức cần thiết.
Hôm ấy chàng sinh viên Ozanam, bước vào một nhà thờ cổ ở thủ đô Paris để tìm một chút thanh thản cho tâm hồn. Đứng ở cuối nhà thờ nhìn lên, anh thấy một bóng đen đang quì cầu nguyên nơi hàng ghế đầu.
Đến gần, Ozanam mới nhận ra đó chính là nhà bác học André Marie Ampère (1775-1836). Chàng sinh viên không ngừng theo dõi cử chỉ cầu nguyện của vị giáo sư vật lý và hóa học nói trên. Khi ông đứng dậy ra về, chàng liền đi theo cho tới phòng làm việc của ông. Thấy chàng thanh niên đứng trước cửa phòng dáng vẻ rụt rè, giáo sư Ampère liền cất tiếng hỏi
- Này, người bạn trẻ, anh cần gì đó? Tôi có thể giúp anh giải bài toàn vật lý nào không?
Chàng sinh viên nhỏ nhẹ trả lời:
- Thưa giáo sư, con là một sinh viên khoa văn chương. Con dốt khoa học lắm, xin giáo sư cho phép con được hỏi một chút về vấn đề đức tin mà thôi.
Giáo sư Ampère khiêm tốn đáp lại:
- Đức tin là môn yếu nhất của tôi. Nhưng nếu được giúp ích cho anh về điều gì, tôi sẽ lấy làm hân hạnh.
Chàng sinh viên lại hỏi:
- Thưa giáo sư, người ta có thể vừa là nhà bác học vĩ đại vừa là một tín hữu cầu nguyên bình thường được chăng?
Giáo sư Ampère ngỡ ngàng trước câu hỏi vừa nêu. Với cặp môi run rẩy đầy cảm xúc, ông trả lời:
- Chúng ta chỉ vĩ đại khi cầu nguyện mà thôi!
2. Tác giả cuốn “Đường Hy Vọng” viết: “Hoạt động không cầu nguyện là vô ích trước mặt Chúa” (ĐHV 118).
Có lẽ chúng ta sẽ không tìm ra được mẫu gương nào, về việc liên kết giữa cầu nguyện và hoạt động hoàn hảo hơn là mẫu gương Giêsu.
Thánh sử Marcô đã cho biết: “Chiều đến, lúc mặt trời lặn, người ta dẫn đến cho Người, tất cả những bệnh nhân, những người bị quỉ ám... Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau, xua trừ nhiều ma quỉ” (Mc 1,32-35). Chúa rất bận rộn. Chính Chúa đã quả quyết: ”Cha Ta và Ta hằng làm việc luôn” (Ga.5,17). Thế nhưng, không bao giờ vì công việc mà Chúa Giêsu đã bỏ qua việc cầu nguyện.
“Từ sáng sớm tinh sương, Chúa Giêsu đã chỗi dậy, ra khỏi nhà, tìm đến nơi thanh vắng và cầu nguyện tại đó” (Mc 1,35).
Chúa Giêsu đã thực sự hoà nhập hai việc cầu nguyện và hoạt động trong đời sống của Ngài. Với hồn tông đồ đầy nhiệt huyết này, Chúa Giêsu đã hoàn thành sứ mệnh và hoạt động cho Nước Trời Chúa Cha trao phó cho Ngài.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã dành bao nhiêu thời giờ trong ngày cho việc cầu nguyện? Đời sống hạnh phúc thực sự của chúng ta ở đâu? Nhờ Lời Chúa, nhờ sự khát khao đời sống tâm linh, hay nhờ sự cuốn hút của tiền bạc và danh lợi?
Một linh mục kia muốn làm một cuộc thống kê về tình hình của xứ đạo, ngài hỏi gia đình kia một câu hỏi thường lệ:
- Các con có thường cầu nguyện chung cả gia đình không?
Ông gia trưởng trả lời:
- Thưa cha, chúng con không có thời giờ.
- Giả như con biết một đứa con sẽ bị bệnh nếu không cầu nguyện, gia đình con có cầu nguyện không?
- Ồ con đoán chúng con sẽ cầu nguyện.
- Giả sử con biết ngày nào đó khi gia đình lơ là việc cầu nguyện, một đứa con sẽ gặp tai nạn. Con có cùng cầu nguyện không?
- Tất nhiên chúng con sẽ cầu nguyện.
- Giả sử mỗi ngày con quên cầu nguyện, giáo luật phạt 5 đô la. Con có dám sao lãng việc cầu nguyện không?
- Chắc chúng con sẽ cầu nguyện. Nhưng cha hỏi như thế để làm gì?
- Vấn đề của con là không có thời giờ. Con có thể tìm được thời giờ. Con không nghĩ cầu nguyện chung gia đình là quan trọng như nộp phạt hay giữ sức khỏe cho con. Ơn Chúa ban qua lời cầu nguyện quan trọng hơn bất cứ những gì con có thể nghĩ tới.
Bao nhiêu tấm gương của biết bao nhiêu người vẫn còn đó. Bỏ đạo, bỏ Chúa! Người ta nại ra đủ mọi thứ lý do để lý giải cho những hành vi xuống dốc về đời sống tâm linh đạo đức của mình. Nào là bận công ăn việc làm, nào là không có giờ v.v và v.v. Thế nhưng, thử hỏi, kết cục cuộc đời rồi sẽ đi về đâu?
09/01 Công việc của Chúa Giêsu
- Viết bởi Mc 1, 21-28
Công việc của Chúa Giêsu.
Thứ Ba tuần 1 thường niên.
"Ngài giảng dạy người ta như Ðấng có uy quyền".
LỜI CHÚA: Mc 1, 21-28
(Ðến thành Capharnaum), ngày nghỉ lễ, Chúa Giêsu vào giảng dạy trong hội đường. Người ta kinh ngạc về giáo lý của Người, vì Người giảng dạy người ta như Ðấng có uy quyền, chứ không như các luật sĩ.
Ðang lúc đó, trong hội đường có một người bị thần ô uế ám, nên thét lên rằng: "Hỡi Giêsu Nadarét, có chuyện gì giữa chúng tôi và ông? Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai: là Ðấng Thánh của Thiên Chúa". Chúa Giêsu quát bảo nó rằng: "Hãy im đi, và ra khỏi người này!" Thần ô uế liền dằn vật người ấy, thét lên một tiếng lớn, rồi xuất khỏi người ấy.
Mọi người kinh ngạc hỏi nhau rằng: "Cái chi vậy? Ðây là một giáo lý mới ư? Người dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả các thần ô uế, và chúng vâng lệnh Người".
Danh tiếng Người liền đồn ra khắp mọi nơi, và lan tràn khắp vùng lân cận xứ Galilêa.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Đấng thánh của Thiên Chúa
(Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)
Trong Tin Mừng theo thánh Máccô,
ta không thấy có những bài giảng dài như Tin Mừng Mátthêu hay Gioan.
Nhưng bù lại Máccô đã kể khá nhiều phép lạ của Đức Giêsu.
Khung cảnh của bài Tin Mừng hôm nay
là hội đường vùng Caphácnaum vào một ngày sabát.
Theo Máccô, Đức Giêsu đã bắt đầu sứ vụ từ đây.
Chúng ta cần xem Ngài đã sống ngày sabát như thế nào.
Trước hết Ngài đã vào hội đường và giảng dạy.
Thánh Máccô không kể lại nội dung của bài giảng,
chỉ cho biết là người ta sửng sốt khi nghe Ngài
vì cách giảng đầy uy quyền (c. 22) và lời giảng thì mới mẻ (c.27).
Phép lạ đầu tiên Đức Giêsu làm ở hội đường này là trừ quỷ.
Ở đây có một người đàn ông bị thần ô uế ám.
Trước sự hiện diện của Đức Giêsu, anh ta sợ hãi nên kêu lên:
“Ông Giêsu Nadarét, ông đến tiêu diệt chúng tôi ư?
Tôi biết ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (x. câu 24).
Sự hiện diện của Đấng Thánh cũng đủ làm cho thần ô uế phải khiếp sợ,
vì ô uế và thánh thiện không đội trời chung.
và Đấng thánh thiện có khả năng triệt phá thần ô uế.
Lời của Đức Giêsu bây giờ là lời trừ quỷ, lời quát mắng,
lời ra lệnh đầy uy quyền, lời khiến thần ô uế phải tuân theo.
“Câm đi, hãy xuất khỏi người này!”
Thần ô uế đã nhập vào và làm người ấy bị tha hóa,
bị mất tự do, bị chi phối và sai khiến như một nô lệ.
Lời Đức Giêsu là lời giải phóng để anh ấy được thật sự là mình,
được giải thoát khỏi tình trạng ô uế.
Thế giới chúng ta đang sống là một thế giới bị ô nhiễm,
từ không khí, nước uống đến những sản phẩm nhiễm độc của con người.
Nhưng điều đáng sợ hơn cả là bầu khí ô nhiễm về tinh thần,
bầu khí ô uế của sex thấm vào mọi ngõ ngách của cuộc sống.
Xin Đức Giêsu trả lại cho ta sự trong sạch nơi cái nhìn,
sự trong trắng nơi trái tim và sự trong suốt nơi mọi cuộc gặp gỡ.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
giàu sang, danh vọng, khoái lạc
là những điều hấp dẫn chúng con.
Chúng trói buộc chúng con
và không cho chúng con tự do ngước lên cao
để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con
khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,
nhờ cảm nghiệm được phần nào
sự phong phú của kho tàng trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi
bán tất cả những gì chúng con có,
để mua được viên ngọc quý là Nước Trời.
Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng
trước những lời mời gọi của Chúa,
không bao giờ ngoảnh mặt
để tránh cái nhìn yêu thương
Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen.
Suy Niệm 2: Uy quyền của Chúa Giêsu
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thiên Chúa toàn năng uy quyền phép tắc. Đó là điều dễ hiểu và dễ tin nhận. “Một lời Chúa phán làm ra chín tầng trời. Một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú”(Tv 33, 6). Cho người trinh nữ sinh con. Cho người son sẻ như bà Anna được có người con xuất sắc là Samuel. Chúa có thể làm được mọi sự. Nhưng với Chúa Giêsu, Thiên Chúa làm người thì khác. Chúa Giêsu tuy là người nhưng gây ngạc nhiên vì Người rao giảng như Đấng có uy quyền.
Uy quyền trong lời nói. Người đưa ra một giáo lý mới mẻ. Người nói xác quyết. Vì Người biết rõ mọi sự. Vì Người từ trời xuống nên biết rõ những sự trên trời. Vì Người từ Chúa Cha mà ra nên chỉ có Người biết Đức Chúa Cha. Hơn nữa Đức Chúa Cha đã trao cho Người nhiệm vụ làm người lãnh đạo thập toàn, đưa muôn vàn con cái đến vinh quang. Thày cả Hêli cũng có uy quyền trong lời nói. Vì thầy nói lời của Thiên Chúa. Thầy truyền đạt sứ điệp của Thiên Chúa khiến bà Anna đang lo buồn được bình an. Tuy nhiên thầy không có uy quyền trong việc làm vì thầy không thể tự mình làm được những điều kỳ diệu.
Chúa Giêsu không chỉ uy quyền trong lời nói mà còn uy quyền trong việc làm. Không chỉ nói mà còn làm. Những việc làm chưa từng có trong thế giới loài người. Chữa bệnh đã khó nhưng còn thấy được. Phục sinh kẻ chết thì tuyệt nhiên ngoài khả năng của con người kể cả những danh y tài ba lỗi lạc nhất. Nhưng Người còn thống trị được ma quỉ. Đây là điều hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa. Chúa Giêsu có toàn quyền chế ngự được thiên nhiên, vũ trụ, con người và cả ma quỉ cũng phải vâng phục.
Tuy nhiên uy quyền Người chỉ đạt tới mức thập toàn sau khi đã trải qua đau khổ và nhất là trải qua cái chết. Đó chính là để cảm thông với nhân loại. Và nhất là để chiến thắng quyền lực cuối cùng của ma quỉ là cái chết. Từ đó mở ra nguồn ơn cứu độ cho con người. Mở cho con người con đường dẫn đến Thiên Chúa.
Vì thế uy quyền lớn lao nhất của Chúa Giêsu đó là uy quyền thương yêu. Vì thương yêu nên dám hi sinh mạng sống mình. Vì dám chết nên khuất phục được thần chết. Vì thế uy quyền của Chúa Giêsu chính là sự sống cho nhân loại.
Xin cho chúng ta biết đi theo người trên đường thương yêu. Hoàn toàn tin tưởng nơi tình yêu thương của Người. Theo Người trên con đường hi sinh. Đó chính là con đường sự sống.
Suy Niệm 3: Ðấng có uy quyền
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Tin Mừng hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu giảng dạy tại hội đường và chữa lành một người bị quỷ ám.
Sau khi Gioan Tẩy Giả bị bắt giam, Chúa Giêsu trở về Galilê và giảng dạy trong Hội đường một cách công khai. Ngài giảng dạy với uy quyền của Thiên Chúa, chứ không như các Tiên tri trong Cựu Ước là những người được Thiên Chúa ủy thác cho; Ngài cũng không giảng dạy như các kinh sư Do thái là những người chỉ giải thích Kinh thánh và chất lên vai người dân gánh nặng của những luật lệ tỉ mỉ bên ngoài. Giáo huấn của Chúa Giêsu là một cuộc giải phóng, một việc loan Tin Mừng cứu rồi, cách riêng cho những người nghèo khổ, những người bị loại ra bên lề xã hội. Dân chúng nghe Chúa đều nhận thấy có sự khác biệt sâu xa giữa giáolý của Chúa và những lời giảng dạy của các kinh sư Do thái.
Kèm theo lời giảng dạy, Chúa Giêsu còn làm một phép lạ chữa một người bị quỷ ám. Phép lạ này chứng minh Ngài là Thiên Chúa, Ngài có toàn quyền trên quỷ dữ, Ngài đến để chấm dứt quyền thống trị của tà thần trên con người. "Ông ấy ra lệnh cho các thần ô uế và chúng phải vâng theo". Phép lạ Chúa Giêsu thực hiện gây hứng thú và kinh ngạc nơi dân chúng; trái lại, những kẻ chống đối Chúa thì hạch sách Ngài: "Ông lấy quyền nào mà làm như vậy?" Họ không muốn công nhận những việc Chúa làm, họ mơ ước một Vị Cứu Tinh hùng mạnh giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của đế quốc Rôma, trong khi đó Chúa Giêsu lại đến để giải phóng con người khỏi quyền lực của ma quỷ và tội lỗi.
Thánh Phêrô đã mời gọi các người đồng hương của ngài: "Thưa đồng bào Israel, xin hãy lắng nghe Chúa Giêsu Nazaret, là người đã được Thiên Chúa phái đến với anh em. Và để chứng thực sứ mệnh của Ngài, Thiên Chúa đã cho Ngài làm những phép mầu, điềm thiêng và dấu lạ giữa anh em như chính anh em đã biết điều đó".
Nguyện cho Lời Chúa hôm nay củng cố niềm xác tín rằng sứ mệnh cứu thế phát xuất từ nơi Chúa và vẫn tiếp tục trong Giáo Hội. Giáo Hội đã lãnh nhận kho tàng đức tin và quyền thánh hóa và giáo huấn từ nơi Chúa. Xin cho chúng ta luôn trung thành với Giáo Hội và sẵn sàng đón nhận giáo huấn của các chủ chăn mà Chúa đã đặt lên hướng dẫn Dân Chúa trên đường tiến về Nước Trời.
Suy Niệm 4: Trong đám cử tọa
Lập tức trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên rằng: “Ông Giêsu Nagiarét, chuyện chúng tôi có can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” Nhưng Đức Giêsu quát mắng nó: “Câm đi hãy xuất khỏi người này!” Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta (Mc. 1, 23-26).
Ngày nay đâu đâu người ta cũng nghe vang lên những lời quảng cáo rùm beng cao rao cho thông điệp của mình. Và quảng cáo nào thì cũng tìm cách nói hay nói tốt cho mình là muốn phục vụ hạnh phúc mọi người. Nghe rồi, có những cái thu phục được lòng tin tưởng của ta, có những cái lại khiến ta ngờ vực. Nhưng là tín hữu xét cho cùng, chúng ta có Lời Chúa trong Phúc âm làm kim chỉ nam, và ta coi đó là chuẩn mực để đo lường phải trái, thực hư. Ta nhìn nhận rằng Lời Chúa là chân lý và uy quyền. Thế nên mỗi ngày ta tụ họp nhau để siêng năng và chăm chú lắng nghe Lời Chúa. Nhưng…
Vấn đề ai là kẻ chân chính đích thực
Trong đám cử tọa, có một người đã biết rõ Chúa Giêsu là ai: “Tôi biết ông là ai rồi”. Anh ta biết rõ Chúa Giêsu là người có uy quyền và ảnh hưởng: “Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Nhưng cách anh tuyên xưng lại sai lạc; anh biết rõ Người, nhưng anh không phục tùng Người. Anh bài xích, anh đối đầu với Người: “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi?”
Con người Giêsu này luôn đặt ra vấn đề ai là kẻ chân chính đích thực, và nhất là Người thường đặt ra cho chúng tôi mỗi khi chúng tôi tuyên xưng Thiên Chúa là đấng thánh, mỗi khi chúng tôi hát bài ca Thánh, Thánh, Thánh. Giờ đây chúng ta cũng đang là người trong đám cử tọa … Liệu Chúa sẽ bảo ta câm đi hay sẽ chấp nhận lời ta ca tụng Người?
Những đòi hỏi của sự thánh thiện
Khi Mô-sê được Thiên Chúa tỏ cho ông biết sự thánh thiện của Người, tác giả sách Xuất Hành ghi nhận như sau: “Mô-sê lấy khăn che mặt, vì ông không dám nhìn Chúa” (Xh. 3, 6). Còn tác giả Thánh vịnh khi đặt câu hỏi: “Lạy Chúa, ai sẽ được cư ngụ nơi nhà Chúa?”, liền trả lời rằng: “Chính là người sống thanh liêm và thực thi công chính, và trong lòng suy nghĩ điều ngay… Người không làm ác hại đồng liêu, cũng không làm nhục cho ai lân cận …” (Tv. 15).
Bởi thế ta không thể đến với Thiên Chúa thánh thiện, nếu như ta không tỏ lòng thần phục và kính sợ Người, hay những hành động của ta không được ngay thẳng.
Chúa Giêsu nghĩ gì về lời kinh ca ngợi của tôi?
Nếu Chúa Giêsu có bảo người bị quỷ ám ấy câm đi, thì không phải vì những lời anh ta nói có chi sai lạc, mà bởi vì những lời nói ấy không đi đôi với tâm tình của anh. Ta không thể mở miệng cao rao Thiên Chúa thánh thiện, mà lại là kẻ bài xích Người, hoặc ca bài Thánh Thánh Thánh mà lại chẳng thần phục suy tôn Người. Cũng không thể lấy câu hỏi này: “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can chi đến ông?”, mà thay thế cho lời kinh Lạy Cha ta vẫn thường đọc: “Nguyện cho ý Cha thể hiện”.
Suy Niệm 5: Giá trị của Lời Chúa
Ngày nay, rất nhiều người ham mê đọc sách, nào là sách: kiếm hiệp, truyện tranh, tiểu thuyết, nấu ăn, xã giao... lại có những người thích đọc báo, hết báo này rồi lại đến báo khác, cũng có nhiều người mê xem phim ảnh, lướt web...
Họ thi nhau kể thao thao bất tuyệt những câu chuyện ly kỳ, hấp dẫn ”rất new”; và ”hot” mới đọc được đây đó.
Thế nhưng, Lời Chúa là lời Hằng Sống, lời Quyền Năng, lời Biến Đổi thì lại chẳng mấy người để ý tới... Hoặc có để ý thì cũng chẳng mấy chốc Lời Chúa đã đi vào dĩ vãng vì họ không yêu mến và giữ Lời Chúa trong lòng.
Phải chăng chúng ta cũng không khác gì những người đương thời với Đức Giêsu, họ thấy những việc Chúa làm, Lời Chúa nói có uy lực, quyền năng thì trầm trồ khen ngợi, nhưng khi bảo hãy thi hành những gì Chúa dạy thì họ viện đủ mọi lý chứng để khước từ.
Mong sao, mỗi người chúng ta hãy yêu mến Lời Chúa, năng đọc và suy niệm Lời Chúa, hầu đem ra thực hành trong cuộc sống. Có thế, chúng ta mới thực sự là người tin và đi theo Chúa, nếu không, chúng ta chẳng khác gì xác không hồn, hay tin và theo Chúa trong sổ Rửa Tội, còn trong thực tế thì không có chất Kitô gì cả!
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết được giá trị của Lời Chúa, nhất là biết đón nhận Lời Chúa như lương thực cho linh hồn, để chúng con có đủ sức chống trả trước cám dỗ của Ma Quỷ. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Uy quyền của Chúa Giêsu trên quỷ ma
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu đến tiêu diệt quyền lực của ma quỷ. Con người chỉ có thể thoát khỏi sự ràng buộc của nó khi biết chạy đến với Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, với cái nhìn của Chúa, chắc chắn Chúa thấy không phải chỉ có một số ít người bị ma quỷ chế ngự, nhưng là toàn thể loài người, mỗi người một cách, đang bị ma quỷ quấy phá hoặc chế ngự. Từ khi Chúa dựng nên loài người, chẳng bao giờ ma quỷ buông tha chúng con. Nhân loại càng văn minh, ma quỷ lại càng núp dưới những bộ mặt mới lạ hấp dẫn, con người lại càng dễ bị ma quỷ chế ngự. Ảnh hưởng của nó rộng và sâu.
Nhưng lạy Chúa, Chúa là Đấng Thánh và là Con Thiên Chúa. Chúa đã đến tiêu diệt quyền lực ma quỷ và thiết lập triều đại của Thiên Chúa. Quyền năng Chúa đã chiến thắng ma quỷ. Con tin vào Chúa và chạy đến kêu cầu xin Chúa thương cứu con.
Đã nhiều lần ma quỷ chế ngự xác hồn con, đã nhiều lần con quằn quại trong đau khổ vì tội lỗi, đã nhiều lần con muốn chỗi dậy và thoát khỏi sự ràng buộc của nó, nhưng lạy Chúa, con bất lực. Xin Chúa thương nâng đỡ và giải thoát con. Xin Chúa ban ơn thúc đẩy con chạy đến với bí tích Giao Hòa để con tìm lại được sự tự do của con cái Thiên Chúa. Mỗi lần con đến với Chúa trong bí tích Thánh Thể, xin Chúa ở lại với con và ban sức mạnh cho con, để nhờ Chúa, con chiến thắng ma quỷ và tội lỗi. Xin cho con biết tiếp tay với Chúa để đẩy lùi ảnh hưởng của ma quỷ ra khỏi thế giới hôm nay. Amen.
Ghi nhớ: ”Ngài giảng dạy người ta như Ðấng có uy quyền”.
Suy Niệm 7: Chúa Giêsu giảng dạy với uy quyền đến từ Thiên Chúa
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một vị Lm nổi tiếng và thánh thiện đã chia sẻ một sự việc mà chính ngài đã gặp và trực tiếp giải quyết: Một anh thanh niên khoảng 30 tuổi, anh hãnh diện mình là cháu một Đức cha, và tự hào bản thân có nhiều khả năng đặc biệt hơn người. Nhân dịp về Bến Tre, anh ra nghĩa trang thách thức ma quỷ nhập vào mình. Ngay từ đêm ấy anh trở thành một người lạ lùng, bị điên loạn, phá phách, gia đình phải đưa vào nhà thương tâm thần Biên Hoà chữa trị nhưng chữa mãi vẫn không hết. Gia đình đem anh về nhà, ban ngày anh uống thuốc an thần liều cao nên ngủ li bì, nhưng ban đêm dù uống thuốc thế nào anh vẫn tỉnh như sáo, phá phách mọi người…
Một hôm gia đình đưa anh lên gặp cha – vị Lm đang chia sẻ câu chuyện trên. Ngài đề nghị anh xưng tội rồi đặt tay cầu nguyện cho anh. Khi cha đặt tay trên đầu anh để cầu nguyện, anh la hét lớn đến nỗi nhiều người ở dưới đường không biết có chuyện khủng khiếp gì xảy ra. Ngay sau đó tâm trí anh được ổn định và sau nhiều lần đặt tay cầu nguyện ma quỷ không còn phá anh nữa… Điều này nhắc nhở ta đừng bao giờ thách thức quỷ ma. Đây chỉ là một sự việc trong các sự việc về quỷ ám và chữa lành những người bị quỷ ám của vị Lm khả kính… Ma quỷ luôn có mặt trong thế giới con người, cuộc chiến với ma quỷ, con người trong thân phận mỏng giòn không phải là địch thủ ngang tài đồng sức, nên thường thua cuộc nếu không có trợ giúp.
Suy niệm
“Đi vào trong hội đường, Chúa Giêsu giảng dạy”, sự hiện diện của Ngài trong hội đường đã khiến cho Satan - thần ô uế đang mai phục trong một anh em phải chường mặt ra và khiếp sợ thét lên: “Ông Giêsu Nagiarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Mc 1,23-24).
Thật thế, Đức Giêsu là “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Mc 1,24) như chính miệng của quỷ ma tuyên xưng, “vì là Đấng Kitô, nghĩa là Đấng được xức dầu, được thánh hiến, và là Con Thiên Chúa” (Kinh Thánh Tân ước 1995:185). Người đã xuất hiện như một ngôn sứ “có uy quyền” (Mc 1,27) và chính uy quyền đó biểu lộ nơi sức mạnh trấn áp “thần ô uế”: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này” (Mc 1,23). Trước lời giảng dạy, và lời truyền cho Satan phải rút lui, “Người ta kinh ngạc về giáo lý của Người” (Mc 1,22). Ngài giảng dạy không như các ký lục, nhưng Ngài giảng dạy với uy quyền đến từ Thiên Chúa.
Ma quỷ và hoạt động của chúng vẫn luôn hiện hữu trong xã hội ngày nay, chúng tạo vật vô hình, mưu mô, có thật và vẫn còn hoạt động rất mạnh. Nó hành động một cách trực tiếp hoặc qua những sự cám dỗ con người. Riêng trong xã hội Việt Nam hôm nay chúng ta vẫn còn nghe nói và có khi thấy: bùa ngải, thư yểm, nhất là nơi những người buôn bán như ta từng nghe nói: “ngậm ngải tìm trầm” hay “bùa yêu” của một vài người thỉnh về, đó là những thế lực của sự dữ của bóng tối mà Satan làm chủ trói buộc con người.
Chúng ta xin Chúa đến giúp chúng ta khỏi những ách nô lệ của quyền lực bóng tối này như xưa Ngài đã trục xuất chúng ra khỏi người bị quỷ ám trong hội đường lúc Ngài giảng dạy. Theo sự chỉ dẫn của Chúa Giêsu: “Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy họ sẽ trừ được quỷ” (Mc 16,17; x. Lc 9,1; 9,49; 10,17-20). Bản thân của chúng ta tin mạnh, nhưng đức tin được tuyên tín nơi con người hết sức khiêm tốn phục vụ mọi người và tăng cường sự kết hợp mật thiết với Đức Giêsu Kitô bằng đời sống cầu nguyện (x. Mc 9,29), và bằng cuộc sống chay tịnh (x. Mt 17,14-24).
Ý lực sống: “Xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần” (Ga 17,15).
Suy Niệm 8: Một ngày ở Capharnaum
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Đức Giêsu vào hội đường Capharnaum trong ngày hưu lễ để giảng dạy, người ta kinh ngạc về giáo huấn của Ngài. Giao huấn của Đức Kitô mới mẻ vì biểu lộ tình yêu thương vô vị lợi. Ngài dạy dỗ như Đấng có uy quyền vì lời Ngài có sức biến đổi, có sức tiêu diệt thần ô uế. Sự hiện diện của Đức Giêsu làm cho thần ô uế phải tru tréo lên. Mặc dù đối kháng với Thiên Chúa, nhưng ma quỉ cũng phải tuyên xưng Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa và Ngài đã chiến thắng chúng.
2. ”Người giảng dạy như một Đấng có uy quyền chứ không như các luật sĩ”.
Khi giảng dạy, các rabbi Do thái phải dựa theo truyền thống của cha ông chứ không dám có ý kiến riêng; còn Chúa Giêsu thì lấy chính sứ điệp của mình ra giảng dạy, và Ngài dạy một cách xác tín trong tư cách là Đấng Messia.
Chúa Giêsu là bậc Thầy duy nhất hiểu rõ và làm chủ hoàn toàn sứ điệp của Ngài cũng như thấu suốt khả năng thu thập của người nghe những gì hữu ích cho họ trong hoàn cảnh thực tế. Tước vị Thầy đó đã được chính Chúa Giêsu xác nhận với các môn đệ trong bữa tiệc ly: “Các con gọi Ta là Thầy, là Chúa thì thật là đúng: kỳ thực Ta là thế” (Ga 13,13).
3. Kèm theo lời giảng dạy, Chúa Giêsu còn làm một phép lạ chữa một người bị quỉ ám. Phép lạ này chứng minh Ngài là Thiên Chúa, Ngài có quyền trên quĩ dữ, Ngài đến để chấm dứt quyền thống trị của tà thần trên con người. Phép lạ Chúa Giêsu thực hiện gây hứng thú và kinh ngạc nơi dân chúng. Trái lại, những kẻ chống đối Chúa thì hạch sách Ngài: “Ông lấy quyền nào mà làm như vậy”? Họ không muốn công nhận những việc Chúa làm, họ mơ một Vị Cứu Tinh hùng mạnh giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của đế quốc Rôma, trong khi đó Chúa Giêsu lại đến giải phóng con người khỏi quyền lực của ma quỉ và tội lỗi.
Nguyện cho Lời Chúa hôm nay củng cố niềm xác tín rằng sứ mệnh cứu thế phát xuất từ nơi Chúa và tiếp tục trong Giáo hội. Giáo hội đã lãnh nhận kho tàng đức tin và quyền thánh hóa và giáo huấn từ nơi Chúa. Xin cho chúng ta luôn trung thành với Giáo hội và sẵn sàng đón nhận giáo huấn của các chủ chăn mà Chúa đã đặt lên hướng dẫn Dân Chúa trên đường tiến về Nước Trời.
4. Thần ô uế, hoặc ma quỉ, là những thiên thần sa ngã, chúng liên kết với Satan để chống lại Thiên Chúa và chương trình cứu độ của Ngài. Chúng cám dỗ con người phạm tội và gây ra biết bao đau khổ trong đời sống con người. Thế nhưng bất cứ khi nào chúng đối diện với Chúa Giêsu, chúng đều thảm bại. Chúa Giêsu dùng quyền năng của Thiên Chúa để giải thoát con người khỏi sự thống trị của ma quỉ.
Truyện: Chúa có quyền trên quỉ.
Một bé trai hỏi bố:
- Quỉ lớn hơn con không?
- Lớn hơn.
- Quỉ lớn hơn bố không?
- Lớn hơn.
- Quỉ lớn hơn Chúa Giêsu không?
- Không con ạ. Chúa Giêsu lớn hơn quỉ.
Chú bé thinh lặng, rồi mỉm cười:
- Vậy con không sợ quỉ (Góp nhặt).
5. Truyện: Phụng sự cho ai?
Trong kho tàng truyền thuyết của Giáo hội, chúng ta cũng có thấy một câu truyện dụ ngôn về một anh chàng khổng lồ muốn đi tìm một người mạnh mẽ nhất để phục vụ.
Truyện kể rằng: có một người không lồ sống tại đất Canaan chán cuộc sống đơn điệu buồn tẻ, chàng muốn phiêu lưu và quyết tìm cho được một người nào mạnh nhất để phục vụ.
Thoạt đầu chàng nghĩ chẳng ai mạnh bằng tướng cướp, nên xin đi theo hộ vệ cho tướng cướp. Nhưng mỗi lần sắp đi cướp, viên tướng cướp này phải nhờ đến thầy phù thủy làm phép xuất quân, thế là chàng rời bỏ tướng cướp mà đi theo thầy phù thủy.
Một hôm, thầy phù thủy đang đi bỗng gặp một cây Thánh giá thì sợ hãi dừng lại không dám đi tiếp. Thế là chàng khổng lồ bỏ rơi thầy phù thủy đến đứng bên cạnh Thánh giá, để chờ chủ nhân đó đến mà xin đi theo. Chàng cứ đứng đó chờ mãi mà chẳng thấy chủ nhân cây Thánh giá.
Tình cờ anh nghe thấy có tiếng gọi thật nhẹ nhàng. Anh quay lại bắt gặp một cậu bé với đôi má phúng phính và mái tóc óng ánh. Cậu bé nhờ anh chàng này đưa cậu qua khúc sông gần đó. Nhận lời, nhắc cậu bé lên vai, người khổng lồ lội xuống dòng sông đang chảy siết. Nhưng kỳ lạ nước mỗi lúc một dâng cao và chảy mạnh. Cậu bé mỗi lúc một đè nặng trên vai, chống chọi với sông nước để cuối cùng đem cậu bé lên bờ bên kia. Người khổng lồ mới thốt lên:
- Này cậu bé, cậu nặng đến độ tôi tưởng chừng mang cả vũ trụ trên vai.
Cậu bé mỉm cười đáp:
- Ngươi mang Đấng còn hơn cả vũ trụ nữa. Bởi vì chính tôi đã tạo nên cả trời và đất.
Cậu bé còn cho biết thêm mình chính là chủ nhân của cây Thánh giá.
Thế là chàng khổng lồ kia xin phò tá Vị Chúa Tể trời đất. Chúa dạy rằng: muốn phụng sự Ta, ngươi cứ đứng ở khúc sông này, mỗi lần có ai muốn sang sông thì ngươi hãy cõng người ấy sang.
Chàng khồng lồ tuân theo. Từ đó trở đi, người ta gọi tên chàng là Christophe, nghĩa là người mang Chúa Kitô trên vai.
Chúng ta đã chọn Đức Kitô là thủ lãnh của đời ta, chúng ta hãy tin theo và phục vụ Ngài. Nếu chúng ta muốn phụng sự Đức Kitô, chúng ta hãy theo gương thánh Christophe, bởi vì trên đời này không còn ai xứng đáng hơn ngoài Đức Kitô để cho ta đi theo phụng sự.
Suy Niệm 9: Chúa Giêsu giảng dạy và trừ quỷ
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A- Phân tích (Hạt giống...)
1. Đoạn Phúc Âm này mở đầu cho một đơn vị văn chương trải dài từ câu 21 đến câu 34, được gọi là “Một ngày ở Caphácnaum”, trong đó Marcô liệt kê và mô tả những việc làm tiêu biểu của Chúa Giêsu trong một ngày. Việc thứ nhất là giảng dạy, việc thứ hai là trừ quỷ. Đáng chú ý là Chúa Giêsu làm cả hai việc một cách rất uy quyền.
2. ”Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư”: Khi giảng dạy, các rabbi do thái phải dựa theo truyền thống cha ông chứ không dám có ý kiến riêng; còn Chúa Giêsu thì lấy chính sứ điệp của mình ra giảng dạy, và Ngài dạy một cách xác tín trong tư cách là Đấng Messia.
3. Và cũng bằng uy quyền đặc biệt ấy, Chúa Giêsu làm một hành động phi thường, là buộc quỷ xuất khỏi một người bị nó ám.
4. Phản ứng của dân chúng: “Mọi người sửng sốt và hỏi nhau thế nghĩa là gì”: Họ hỏi nhau về nét mới mẻ trong lời giảng của Ngài và về uy quyền đặc biệt của Ngài trên cả tà thần. Câu hỏi này cũng tương đương với câu hỏi “Ông là ai?”, là câu hỏi sẽ được lập đi lập lại mãi trong tác phẩm.
B- Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Mở đầu hoạt động công khai của mình, việc đầu tiên Chúa Giêsu làm là nhằm thuyết phục người ta tin tưởng vào quyền năng của Ngài, quyền năng trong lời giảng dạy và trong hoạt động. Thái độ đầu tiên ta phải có đối với Chúa Giêsu cũng là phải tin tưởng vào quyền năng của Ngài.
2. Nhưng tin tưởng không phải chỉ là tin suông mà còn phải dám phó thác vào Ngài, đừng như câu chuyện sau:
Một người vô thần rất mê leo núi. Ngày kia trượt chân té ngã lăn từ đỉnh núi xuống. Nhưng may thay ông bám được một cành cây nằm chơ vơ giữa đỉnh cao và vực thẳm. Giữa lúc chỉ còn biết chờ chết, một ý nghĩ chợt đến với ông: Tại sao không gọi Chúa đến cứu giúp. Thế là lấy hết sức lực, người vô thần la lớn: “Lạy Chúa”. Tuy nhiên bốn bề chỉ có thinh lặng và ông chỉ nghe được tiếng dội của lời kêu van. Một lần nữa, người vô thần lại kêu xin tha thiết hơn: “Lạy Chúa, nếu quả thật Chúa hiện hữu thì xin hãy cứu con. Con hứa sẽ tin Chúa và dạy cho những người khác cũng tin Chúa”. Sau một hồi thinh lặng, bỗng người vô thần nghe một tiếng vang dậy cả vực thẳm và núi cao: “Gặp hoạn nạn thì ai cũng cầu xin như thế”. “Không, lạy Chúa, nghìn lần không. Con không giống như những người khác. Chúa không thấy sao, con đã bắt đầu tin từ khi nghe tiếng Chúa phán. Nào bây giờ xin Chúa hãy cứu con đi, và con sẽ cao rao danh Chúa cho đến tận cùng trái đất”. Tiếng ấy trả lời: “Được lắm, Ta sẽ cứu ngươi. Vậy nếu ngươi tin thì hãy buông tay ra”. Người vô thần thất vọng thốt lên: “Buông tay ra ư, bộ Chúa tưởng tôi điên sao!” (Trích “Món quà giáng sinh”)
3. Một bé trai hỏi bố:
- Quỷ lớn hơn con không?
- Lớn hơn.
- Quỷ lớn hơn bố không?
- Lớn hơn.
- Quỷ lớn hơn Chúa Giêsu không?
- Không con ạ. Chúa Giêsu lớn hơn Quỷ.
Chú bé thinh lặng, rồi mỉm cười: “Vậy con không sợ Quỷ”. (Góp nhặt)
4. ”Mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: ‘Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có thẩm quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh”. (Mc 1,27)
Vào đại học, tôi cảm thấy mọi cái đều xa lạ. Tôi náo nức chờ buổi học đầu tiên. Ngay buổi đầu, với phương pháp giảng giải, thầy đã đưa tôi đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Tôi thấy thầy thật vĩ đại. Tôi nghĩ: Thầy quả là đường dẫn tôi vào đời. Còn Chúa, Đấng đã dựng nên cả tôi và mọi người xung quanh. Chúa cho tôi tự do, dạy tôi biết yêu thương, biết cho đi và hy sinh vì anh em. Sao tôi lại có thể dửng dưng trước tình yêu và quyền năng của Chúa?
Lạy Chúa, xin cho con biết ngạc nhiên trước những điều kỳ diệu Chúa đã và đang làm cho con cũng như hết mọi người mỗi ngày. (Epphata)
Suy Niệm 10: Uy quyền của Chúa Giêsu
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
1. Vâng, Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đời công khai của Chúa bằng việc giảng dạy. Và Tin Mừng bảo, Chúa giảng dạy như một Đấng có uy quyền chứ không như các luật sĩ. Tại sao lại có sự khác biệt như thế?
Thưa vì khi giảng dạy, các Rabbit Do Thái phải dựa theo truyền thống cha ông chứ không dám có ý kiến riêng; còn Chúa Giêsu thì Ngài lấy chính sứ điệp của mình ra để giảng dạy. Lời của Ngài chính là cuộc sống. Ngài dạy những gì Ngài sống. Ngài dạy một cách xác tín vì Ngài đang sống như thế, chính vì vậy là Lời dạy của Ngài có hấp lực mạnh mẽ và đầy uy quyền.
Tôi tưởng cũng nên nhắc lại ở đây một câu chuyện có thật mà tôi rất thích. Mahatma Gandhi là một vị lãnh tụ chính trị chủ trương bất bạo động, do vậy ông được mọi người dân Ấn Độ tin cậy quí mến trong mọi việc lớn nhỏ. Một hôm, có một bà mẹ dắt một bé gái đến, khẩn nài Gandhi thuyết phục con bà chừa bỏ tật xấu ăn quá nhiều kẹo. Gandhi trầm ngâm hồi lâu rồi bảo:
- Thế này nhé, tôi xin hẹn ba tuần nữa bà đưa cháu bé trở lại đây, tôi sẽ nói chuyện với cháu.
Ba tuần sau, người mẹ đưa con trở lại. Lần này Gandhi gọi bé gái đến bên cạnh và ôn tồn giải thích cho em nghe về những tai hại của thói quen ăn quá nhiều chất ngọt như kẹo bánh. Em bé gật đầu hiểu ra và hứa sẽ chừa bỏ. Bà mẹ mừng rỡ, rối rít cám ơn Gandhi, nhưng bà cũng không quên thắc mắc:
- Thưa ngài sao ngài không bảo ngay cho cháu cũng những lời khuyên quí báu ấy cách đây ba tuần?
Gandhi khiêm tốn thú nhận:
- Cách đây 3 tuần, lúc ấy chính tôi cũng còn đang mắc phải tật xấu ăn quá nhiều đồ ngọt.
Vâng! Muốn cho lời nói có uy, nghĩa là có sức thuyết phục, thì ta phải sống trước.
Người Rôma có câu châm ngôn: Không ai có thể cho cái mình không có.
2. Ngoài việc giảng dạy như một Đấng có uy quyền chúng ta còn thấy Chúa mang trong mình một sức mạnh lạ lùng. Dân chúng khi thấy uy quyền của Chúa như vậy đã phải kinh ngạc thốt lên: ”Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh” (Mc 1,27).
Ngày xưa, ở Nam Mỹ có nhiều sắc tộc chưa được nghe Tin Lành cứu rỗi của Chúa Giêsu. Ông bà Whittington, đã tự nguyện đến Martha Grosso, xứ Brasil để truyền bá danh Chúa cho họ. Hai ông bà đã lập được nhiều cộng đoàn ở đây. Cuộc sống đã được cải thiện cách rõ rệt. Rồi khi nghe còn có một sắc tộc khác nữa chưa biết đến Chúa. Không những chưa biết Chúa mà trái lại họ còn tin theo phù phép, đồng bóng. Hai ông bà quyết định dọn nhà đi đến đó ở.
Ông bà tự túc xây lấy nhà ở của mình và vì cả sắc tộc đều theo đồng bóng nên rất ghét ông bà. Hai ông bà phải tự túc trồng trọt và săn bắn mới đủ mà ăn.
Rồi thình lình một hôm kia, người ta thấy ông lý trưởng và ông trưởng ban pháp sư của sắc tộc cùng với một số người kéo đến nhà của hai ông bà. Họ khẩn khoản:
- Xin ông bà nói cho chúng tôi biết về Chúa của ông bà. Chúng tôi muốn biết rõ để cả làng chúng tôi tôn thờ Ngài.
Ông Whittington lấy làm lạ, vì trước đây họ coi mình như kẻ thù muốn trừ diệt, không biết vì lý do gì mà hôm nay họ mau đổi thái độ như vậy. Ông liền trình bày tình yêu và ơn cứu rỗi bởi Chúa Giêsu cho họ nghe. Nghe xong, tất cả đều quì mọp xuống xin giáo sĩ cầu nguyện cho họ tin Chúa.
Trong mấy tuần lễ tiếp theo, họ hăng hái đốn cây dựng ngay một nhà thờ để làm nơi thờ phượng Chúa.
Một lần kia, ông Whittington hỏi người trước là trưởng ban pháp sư nay đã tin Chúa:
- Tại sao các ông thình lình kéo đến để xin tin Chúa vậy?
Ông chủ bọn đồng bóng trả lời:
- Thưa ông bà, từ đời tổ phụ chúng tôi đến bây giờ. Tất cả chúng tôi đều làm pháp sư, đồng bóng và tà thuật. Chúng tôi nghe ma quỉ cho biết ông bà đến đây trừ diệt chúng nó. Chúng nó tức giận lắm và sai chúng tôi làm ma thuật để giết ông bà. Mỗi lần ma quỉ sai chúng tôi đi như vậy thì không ai thoát chết. Buổi tối nào chúng cũng sai tà thần đến giết ông bà, nhưng lần nào chúng cũng trở về và nói rằng, không làm sao vào nhà được, có hàng rào bọc kín chung quanh vườn, chỉ đi loanh quanh mãi rồi đành trở về. Lúc đó chúng tôi biết rằng, thần của ông bà lớn hơn các quỉ của chúng tôi nên chúng tôi quyết định bỏ tà thuật mà tin theo Đấng Chí Cao.
Lạy Chúa là Chúa toàn năng, mọi sự đều qui phục uy quyền Chúa
và không ai có thể chống lại ý Chúa.
Xin Chúa đừng chê chúng con là gia nghiệp Chúa,
xin dùng uy quyền của Chúa mà thánh hoá chúng con,
để đời đời chúng con ca ngợi danh Chúa. Amen.
08/01 Con yêu dấu của Cha
- Viết bởi Mc 1, 6b-11
Con yêu dấu của Cha.
CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA năm B.
"Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha".
Lời Chúa: Mc 1, 6b-11
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Gioan rao giảng rằng: "Có Ðấng đến sau tôi, nhưng quyền lực hơn tôi, tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Người. Phần tôi, tôi đã rửa anh em trong nước, nhưng Người, Người sẽ rửa anh em trong Thánh Thần."
Và đã xảy ra là trong những ngày đó, Chúa Giêsu từ Nadarét xứ Galilêa đến và chịu phép rửa bởi Gioan ở sông Giođan. Khi vừa lên khỏi nước, Người liền thấy trời mở ra, thấy Thánh Thần như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Và có tiếng từ trời phán: "Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
LỄ CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA – Năm B
Lời Chúa: Is 42,1-4.6-7; Cv 10,34-38; Mc 1,7-11
MỤC LỤC
1. Thần Khí ngự xuống--Manna
2. Cha Hài Lòng Về Con--Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ
3. Sứ mệnh của người đã chịu phép rửa--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
4. Một kỷ nguyên mới--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên
5. Lễ Đức Giêsu chịu phép rửa--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
6. Con chí ái của Cha--ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
7. Chúa Giêsu chịu phép rửa--Lm VIKINI
8. Lễ Đức Giêsu chịu phép rửa--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
9. Một cuộc đổi mới--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
10. Sống hiền hòa và khiêm hạ noi gương Đức Giêsu--Lm. Đan Vinh
11. “Con là Con Yêu Dấu của Cha”--Lm Gioan Phan Tiến Dũng
12. Người Kitô hữu: chứng tá tuy khác nhau nhưng chung quy cho tình yêu--Lm. Xuân Hy Vọng
13. Chúa Giêsu chịu phép rửa--Lm. Inhaxiô Hồ Thông
14. Bí tích Rửa Tội chỉ là sự khởi đầu--Jaime L. Waters - Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển
15. Còn chăng “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy”?--Lm. Anmai CSsR
16. Khúc dạo đầu tình yêu--“Như Thầy Đã Yêu”--Thiên Phúc
17. Chúa Giêsu chịu phép rửa--Lm. Ignatiô Trần Ngà
18. Gioan: con người của canh tân--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
19. Liên đới tội nhân--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
20. Chúa Giêsu chịu phép rửa--Alphonse Marie Trần Bình An
21. Tầm quan trọng của Bí Tích Rửa Tội--Lm. Trần Bình Trọng
22. Chúa Giêsu chịu phép rửa: ân sủng của bí tích Rửa Tội--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
23. Chúa Giêsu chịu phép rửa: Thời đại ân sủng--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
24. Ta hài lòng về Con--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
25. Để làm Cha trên trời hài lòng--Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế SJ
26. Chúa Giêsu chịu phép rửa--Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
27. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam
28. Ba sứ vụ--Lm. Vũ Đình Tường
29. Chúng ta là con trong Con Thiên Chúa--Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
30. Chúa Giêsu chịu phép rửa--Lm. Trầm Phúc
31. Cùng Chết và Phục Sinh với Đức Giêsu Kitô trong Phép Rửa--Lm. Phêrô Lê Văn Chính
32. Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
33. Suy niệm của Lm. Ernest Nguyễn Văn Hương
34. Sống đẹp lòng Chúa--Lm. Anphong Trần Đức Phương
35. Chúa Giêsu chịu phép rửa--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
36. Dòng nước và dòng đời--Trầm Thiên Thu
37. Dòng sông định mệnh--Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
38. Chúa Giêsu chịu phép rửa --Lm. Giuse Lê Danh Tường
39. Con yêu dấu--Lm Luy Nguyễn Quang Vinh
40. Đi tìm tâm điểm--‘Lương Thực Hằng Ngày’
41. Ba Ngôi tỏ mình trong phép rửa--Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng
42. Chúa chịu phép rửa--ĐTC Phanxicô 2015--Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh chuyển dịch
43. Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa--ĐTC Phanxicô--Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh chuyển dịch
44. Người phải được nâng lên--Lm. Thu Băng, CRM
45. Ngày trọng đại nhất--Lm. Minh Vận, CRM
46. Nhận biết mình--Br. Thiện Mỹ, CRM
47. Suy niệm của Lm Augustine
48. Suy niệm của Lm Trọng Hương
49. Con đường của Đức Giêsu--Lm Nguyễn Hữu Thy
50. Lễ Đức Giêsu chịu phép rửa--JKN
51. Đức Giêsu chịu phép rửa--Lm. FX. Vũ Phan Long
52. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux
53. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
54. Sống đời Kitô hữu--Noel Quesson
55. Chú giải của Noel Quesson
56. Chú giải của Fiches Dominicales
57. Chú giải của William Barclay
58. Các biến cố cơ bản--Camille Gagnon
59. Suy niệm của Lm Jos. Nguyễn Văn Tuyên
60. Phép Rửa của Chúa Giêsu thanh luyện chúng ta--Lm. Joshepus Quang Nguyễn
61. Người con yêu quý
62. Công dân Nước Trời
63. Này Là Con Ta Yêu Dấu
64. Đức Giêsu chịu phép rửa
65. Phép rửa
66. Lên khỏi nước
67. Con Yêu Dấu Của Cha
68. Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa
69. Con Thiên Chúa
70. Chúa chịu phép rửa
71. Chúa chịu phép rửa
72. Tình liên đới yêu thương
73. Cái nhìn – cách nhìn
74. Chúa chịu phép rửa
75. Đấng công chính lãnh lấy phần phạt của những kẻ tội lỗi
76. Tất cả là hồng ân
77. Chúa chịu phép rửa
78. Người liền thấy trời mở ra
79. Chúa chịu phép rửa
80. Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa
81. Cộng tác với Chúa
82. Khúc dạo đầu
83. Dòng sông sám hối
84. Người con Chúa
85. Công khai thi hành thánh ý Cha
86. Quyết định. 174
87. Trưởng thành
88. Đồng hóa
89. Sống Bí Tích Thanh Tẩy--Huệ Minh
1.Thần Khí ngự xuống—Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm
Có ai ngờ được trong số những người xếp hàng
chờ đến phiên mình được chịu phép rửa của Gioan
lại có Đức Giêsu, Đấng thánh thiện và cao cả,
Đấng mà Gioan tự nhận không đáng cởi giày cho Ngài?
Tại sao Đức Giêsu lại chịu phép rửa của Gioan?
Ngài có phạm tội và cần xưng thú không? (Mc 1, 5)
Ngài có cần sám hối để được ơn tha thứ không?
Chúng ta tin Đức Giêsu là Đấng hoàn toàn vô tội,
nên việc Ngài chịu phép rửa hẳn phải có một ý nghĩa.
Khi chiêm ngắm Đức Giêsu xếp hàng chung với tội nhân,
chúng ta hiểu được thế nào là liên đới với người khác.
Đức Giêsu đứng chìm trong đám đông.
Con Thiên Chúa làm người
đã không ngại che khuất sự cao sang thánh thiện của bản thân
để dìm mình xuống cùng một dòng nước với họ.
Đấng Cứu Độ lại sống như người cần được cứu độ.
Ngài muốn đi xuống tận đáy vực thẳm của chúng ta
để nâng chúng ta lên với Ngài.
Chỉ tình yêu mới giúp ta hiểu được
mầu nhiệm nơi dòng sông Giođan hôm ấy.
Ngôi Lời làm người chính là để liên đới với loài người.
Ngài đã liên đới với người nghèo ở Bêlem,
với những người lao động ở Nagiarét.
Liên đới khi chịu phép rửa
chỉ là khúc dạo đầu cho sứ vụ tông đồ sau này.
Ngài đã bị mang tiếng là tay ăn nhậu,
bồ bịch với quân thu thuế và tội lỗi (Lc 7,34).
Cuối cùng Ngài đã chết như một tử tội giữa hai tên trộm cướp.
Thánh Phaolô đã viết một câu thật kinh khủng:
"Đấng chẳng hề biết tội là gì
thì Thiên Chúa đã làm cho Ngài thành tội vì chúng ta."
Liên đới với những người sống ngoài lề xã hội và tôn giáo
chính là để đưa họ vào thế giới nồng nàn tình yêu,
thế giới của con người và thế giới của Thiên Chúa.
Trong môi trường chúng ta đang sống,
chỗ nào cũng có những người bị bỏ rơi vì thiếu may mắn,
vì bị chà đạp hay bị ngã sa.
Liên đới là đứng chung với họ, chia sẻ một số phận.
Liên đới cũng là nói thay cho người khác
tiếng nói của lẽ phải, sự thật và công bình.
Cần nhiều khiêm tốn và can đảm
để dám sống và chết vì liên đới như Đức Giêsu.
Sau phép rửa, Đức Giêsu được Thánh Thần ngự xuống.
Ngài biết đã đến lúc mình được Cha sai đi vào đời,
kết thúc hơn ba mươi năm âm thầm ở Nagiarét.
Nhờ phép rửa trong Ba Ngôi,
chúng ta đã trở nên con cái dấu yêu của Thiên Chúa,
nhưng chúng ta có ý thức về ơn gọi lên đường không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Để sống liên đới với những người bị bỏ rơi, bị khinh miệt, bị kỳ thị, theo ý bạn, điều đó có khó không? Bạn có kinh nghiệm nào trong việc bênh vực một người cô thế?
Đức Giêsu đã khiêm tốn dìm mình trong sông Giođan trước khi đi rao giảng Nước Thiên Chúa. Theo ý bạn, chúng ta có cần dìm mình trong dòng truyền thống dân tộc trước khi đi truyền giáo không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
sám hối không phải là điều dễ dàng,
bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn để nhận mình lầm lỗi.
Chúng con ngỡ ngàng khi thấy Chúa là Đấng vô tội
mà lại đứng chung với các tội nhân, chờ Gioan ban phép rửa.
Chúa đã muốn nên bạn đồng hành
với phận người mỏng dòn yếu đuối chúng con.
Xin cho chúng con biết thường xuyên
điều chỉnh lối nghĩ và lối sống của mình,
tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng,
thành thật để khỏi tự dối mình.
Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải,
dám đi đến những hành động cụ thể,
và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau.
Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con niềm vui của Giakêu,
hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến.
2.Cha Hài Lòng Về Con--Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm
Người Do-thái rất nhạy cảm về sự ô uế nơi thân xác.
Theo sách Lêvi, thân xác con người có thể bị ô uế bởi nhiều lý do.
Chạm vào xác chết hay vào người phong làm ta ra ô uế.
Người phụ nữ sinh con hay có phản ứng sinh lý bình thường
cũng trở thành ô uế và cần được thanh tẩy.
Lẽ ra người phụ nữ bị băng huyết không được chạm vào Đức Giêsu.
Đây không phải là sự ô uế do phạm tội về mặt đạo đức,
mà chỉ là sự ô uế khiến người ta không được phép dự các lễ nghi.
Để sạch trở lại, cần được thanh tẩy.
Nước là cách thanh tẩy dễ dàng nhất.
Sách Lêvi hay dùng câu: “lấy nước mà tắm rửa” (chương 14-17).
Nước dùng để thanh tẩy thường là nước nguồn, nước mưa.
Cho đến nay trong nhánh Do-thái giáo Chính Thống hay Bảo Thủ,
nơi thanh tẩy (mikvah) vẫn chiếm vị trí trung tâm của nhà cộng đoàn.
Chúng ta không lấy làm lạ khi Gioan Tẩy giả mời gọi dân chúng
đến với ông để chuẩn bị cho Đấng Mêsia đang gần tới.
Ông kêu gọi người ta hối cải, xưng thú tội lỗi mình,
rồi chịu phép rửa của ông ở dòng nước sông Giođan.
Đức Giêsu đã nghe tiếng kêu của Gioan và đã đến,
đã đứng chung với các tội nhân, chờ đến phiên mình,
đã dìm toàn thân mình dưới nước, và được Gioan ban phép rửa.
Lúc ấy Ngài đã trên ba mươi tuổi, làm thợ nhiều năm ở Nadarét,
đã lặng lẽ và bình an chờ đợi ngày Cha sai mình.
Nhận phép rửa của Gioan là làm một cử chỉ khiêm hạ.
Đức Giêsu không ngờ chính giây phút dìm mình ở con sông này
lại là giây phút Thiên Chúa ngỏ lời với Ngài,
vén mở cho Ngài biết Ngài là ai trong mắt của Thiên Chúa,
và kín đáo mời gọi Ngài rời Nadarét để lên đường.
“Con là Con yêu dấu của Cha !” đó là lời Thiên Chúa từ trời phán.
Như Isaac là con yêu dấu của Abraham (St 22,2),
Đức Giêsu là Con yêu dấu của Cha.
Ngài là Con như vị vua mới đăng quang thuộc dòng Đavít,
được Thiên Chúa tuyển chọn và bảo:
“Con là con của Cha, hôm nay Cha đã sinh ra con” (Tv 2,7).
Như Người Tôi trung được đầy Thánh Thần để làm sứ mạng,
Ngài được Thiên Chúa tuyên bố: “Cha hài lòng về Con” (Is 42,1).
Thiên Chúa Cha hài lòng về Đức Giêsu là người Con yêu dấu,
người đã vâng ý cha suốt bao năm ở Nadarét,
và sẽ còn vâng ý Cha cho đến nỗi hy sinh chính mạng sống mình.
Những gì xảy ra trên sông Giođan hôm nay
sẽ tiếp diễn mãi trong suốt đời của Đức Giêsu.
Ngài không chỉ xếp hàng với những người tội lỗi,
mà hơn nữa, “Đấng không hề biết đến tội, thì vì chúng ta,
Thiên Chúa đã làm Ngài thành thân tội” (2 Cr 5,21).
Thánh Thần đã xuống trên Ngài ở Giođan,
sau đó sẽ đưa Ngài vào hoang địa để chịu thử thách (Mc 1,12).
Đức Giêsu đã khiêm tốn chịu phép rửa bởi Gioan,
và Ngài sẽ còn đau đáu chờ một phép rửa khác nữa (Lc 12,50).
Ngài đã hỏi hai môn đệ xem họ có dám chịu phép rửa
mà Ngài sắp chịu không (Mc 10,38-39).
Phép rửa ấy không gì khác hơn là cái chết để phục vụ,
và hiến mạng làm giá chuộc cho muôn người (Mc 10,45).
Chúng ta đã được chịu Phép Rửa trong Thánh Thần,
nhân danh Chúa Giêsu, để được ơn tha tội (Cv 2,38).
Ước gì Chúa Cha cũng nói với từng người chúng ta:
“Con là con Cha yêu dấu, Cha hài lòng về con.”
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
sám hối không phải là điều dễ dàng,
bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn
để nhận mình lầm lỗi.
Chúng con ngỡ ngàng
khi thấy Chúa là Đấng vô tội
mà lại đứng chung với các tội nhân,
chờ Gioan ban phép rửa.
Chúa đã muốn nên bạn đồng hành
với phận người mỏng dòn yếu đuối chúng con.
Xin cho chúng con biết thường xuyên điều chỉnh
lối nghĩ và lối sống của mình,
tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng,
thành thật để khỏi tự dối mình.
Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải,
dám đi đến những hành động cụ thể,
và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau.
Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con
niềm vui của Gia kêu,
hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến.
3.Sứ mệnh của người đã chịu phép rửa--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Cả ba bài đọc hôm nay đều qui chiếu về Đức Giêsu. Tất cả ba bài đều trình bày cho ta những hình ảnh đẹp về cuộc đời và sứ mạng của Người.
1. Hình ảnh về một Đấng Cứu Thế khiêm nhường tự hạ.
Trong khi dân Do Thái mong chờ một Đấng Cứu Thế oai phong lẫm liệt, thì Đức Giêsu xuất hiện công khai lần đầu tiên trong sự khiêm nhường thống hối. Lúc ấy, Gioan rao giảng sự ăn năn sám hối. Đoàn lũ dân chúng đông đảo kéo đến với ông để xin chịu phép rửa thống hối. Hòa mình vào đoàn lũ những con người tự nhận mình tội lỗi ấy, Đức Giêsu âm thầm khiêm tốn xếp hàng chờ được rửa tội. Thật là lạ lùng. Chính Đấng đã thánh hóa Gioan khi ông còn trong bụng mẹ giờ đây lại đến xin ông làm phép rửa cho. Chính Đấng đến để chuộc tội loài người giờ đây lại xin người khác rửa tội cho mình. Thật là khiêm nhường thẳm sâu. Trong khi loài người tội lỗi luôn kiêu ngạo tìm nâng mình lên thì Thiên Chúa thánh thiện lại tìm hạ mình xuống. Trong khi loài người tội lỗi luôn che dấu, chối không nhận tội thì Thiên Chúa vô tội lại công khai nhận mình tội lỗi. Trong khi loài người tội lỗi tìm tránh hình phạt do tội lỗi họ gây nên thì Thiên Chúa lại ghé vai gánh lấy hết tội lỗi và mọi hình phạt mà loài người đáng phải chịu. Sự khiêm nhường ấy phát xuất từ lòng Thiên Chúa yêu thương con người, muốn chia sẻ kiếp người, muốn cứu chuộc tội đời, muốn thăng tiến nhân loại.
2. Hình ảnh về cuộc giao hòa đất trời.
Chính lúc Đức Giêsu tự nguyện gánh lấy tội lỗi nhân loại, tầng trời bị xé ra. Khi loài người phạm tội, cửa trời đóng lại, đất trời phân ly, ân phúc thôi tuôn đổ. Khi phạm tội, loài người tự giam mình trong bóng tối. Bóng tối tội lỗi giam kín con người trong thân phận bụi đất, không còn hy vọng vươn lên. Hôm nay, tầng trời xé ra có nghĩa là từ nay con người đã có lối thoát. Thân phận con người thay đổi, địa vị con người được nâng lên, vì có ơn Thiên Chúa đổ xuống, có Thiên Chúa đến gieo mầm trường sinh vào kiếp người phàm hèn. Trời đất giao hòa. Thiên giới cúi xuống hạ giới. Thiên Chúa đến ở với con người. Ân phúc tuôn đổ xuống cõi đời nhơ uế.
3. Hình ảnh về sự kết hiệp mật thiết giữa Ba Ngôi Thiên Chúa.
Trong giây phút cảm động ấy, cả Ba Ngôi Thiên Chúa cùng xuất hiện. Chúa Thánh Thần như chim bồ câu đáp xuống. Chúa Thánh Thần là tình yêu. Chúa Thánh Thần ngự xuống trên ai là dấu chỉ Thiên Chúa ưu ái người ấy. Đức Chúa Cha công khai xác nhận sự ưu ái ấy với Đức Giêsu khi lên tiếng: “Đây là Con Ta yêu dấu”. Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Đây không phải là một danh xưng, một tước vị, nhưng là một liên hệ sâu xa mật thiết: Ba Ngôi liên kết trong một tình yêu hiệp thông. Đức Giêsu hoạt động dưới tác động của Chúa Thánh Thần để thi hành thánh ý Chúa Cha. Có thể nói cả Ba Ngôi đều hoạt động trong Đức Giêsu Kitô. Cả Ba Ngôi đều tham gia vào công trình cứu chuộc con người.
4. Hình ảnh về sứ mệnh người được sai đi.
Từ xưa trong Cựu ước, Chúa Thánh Thần ngự xuống là để trao ban một sứ mệnh. Hôm nay, Đức Giêsu cũng đã nhận lãnh một sứ mệnh, đó là cứu nhân độ thế. Là “mở mắt cho người mù”, là “đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ”, là “dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong bóng tối tăm”. Người không đến trong thái độ phô trương quyền lực, nhưng đến trong sự hiền lành khiêm nhường. Người đến không phải để lên án nhưng để tha thứ. Người đến không phải để giết chết nhưng để cứu sống như lời tiên tri Isaia: “Cây lau bị dập, Người không bẻ gẫy. Tim đèn leo lét, Người chẳng nỡ tắt đi”.
Phép rửa của Đức Giêsu mời gọi ta nhớ lại ơn phép rửa tội của mình. Ngày ta được lãnh nhận Bí tích Rửa tội, màn đêm tội lỗi vây phủ ta bị xé ra, Ba Ngôi Thiên Chúa đã đến với ta, ban cho ta cuộc sống thần linh, cho ta được vinh dự làm con Thiên Chúa, cho ta được kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Ngày ta được lãnh nhận Bí tích Rửa tội, Chúa Thánh Thần cũng đã trao cho ta một sứ mệnh, đó là sống xứng đáng một người con hiếu thảo của Chúa, là tiếp tục công việc của Đức Giêsu trong công cuộc cứu nhân độ thế. Đức Giêsu là gương mẫu một người con hiếu thảo, vì Người luôn sống thân mật với Chúa Cha, luôn kết hiệp với Chúa Cha trong kinh nguyện hằng ngày, và nhất là Người luôn tìm thi hành thánh ý Chúa Cha, Người đã vâng lời Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá. Ta hãy noi gương Đức Giêsu, luôn kết hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi, luôn tìm thi hành thánh ý Thiên Chúa, luôn sống một cuộc sống tốt đẹp, luôn tích cực góp phần xây dựng xã hội, tạo hạnh phúc cho những anh em sống chung quanh ta.
Lạy Đức Giêsu Kitô, xin dạy con biết sống ơn Bí tích Rửa tội như Chúa, để con xứng đáng được làm con yêu dấu của Đức Chúa Cha.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Bạn có dễ nhận lỗi không ?
2- Bạn đã thực sự sống như một người con hiếu thảo đối với Chúa chưa ?
3- Ơn phép Rửa tội là gì ? Bạn đã sống ơn Phép Rửa tội chưa ?
4- Bạn đã thực sự là Tin Mừng cho những người chung quanh chưa ?
5- Chúa Giê su chịu phép rửa trình bày cho ta những hình ảnh nào về Chúa.
4.Một kỷ nguyên mới--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên
Chúa nhật tuần trước, chúng ta đã cử hành lễ Hiển Linh, Chúa Giêsu được giới thiệu cho muôn dân mà đại diện là ba nhà đạo sĩ đến từ phương Đông. Hôm nay, Phụng vụ giới thiệu với chúng ta một cuộc “thần hiện” khác qua việc Chúa Giêsu chịu phép rửa. Sự kiện này được trình bày như một nghi thức phong vương long trọng. Qua nghi thức này, chính Chúa Cha giới thiệu với nhân loại về Chúa Con và sứ mạng của Người. Chúa Thánh Thần cũng xuất hiện dưới hình chim bồ câu và đậu trên Chúa Giêsu.
Dưới ngòi bút của thánh sử Maccô, Chúa Giêsu được diễn tả như một Môisen mới. Nếu ông Môisen trong Cựu Ước đã dẫn Dân Thánh đi qua biển đỏ, thì nay, Chúa Giêsu cũng dẫn nhân loại vượt qua tội lỗi đến đạt tới sự thánh thiện. Cách nói “vừa lên khỏi nước” gắn liền với nghi thức thanh tẩy Chúa Giêsu đã lãnh nhận từ tay ông Gioan Tẩy giả, phần nào muốn nhắc tới cuộc vượt qua biển đỏ của dân Do Thái trong lịch sử.
Chi tiết kể lại việc “Chúa Giêsu thấy tầng trời mở ra” có ý nghĩa tượng trưng rất sâu sắc: theo truyền thống Do Thái, cửa trời đã đóng lại sau những vị ngôn sứ cuối cùng (Agê, Giacaria, Malakia) ở thế kỷ thứ V trước Công nguyên. Mối liên hệ giữa Thiên Chúa và con người cũng vì thế mà gián đoạn. Trước khi Chúa Giêsu đến trần gian, dường như hoạt động của Thần Khí đã bị ngưng lại. Với Chúa Giêsu, mọi sự đã thay đổi. Kỷ nguyên mới đã khai mào. Việc các tầng trời mở ra (nguyên văn tiếng Hy lạp: trời xé toạc ra) chứng minh cho thấy mối liên hệ giữa Thiên Chúa và con người không còn ngăn cách nữa, mà được nối lại. Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giêsu như dấu hiệu của thời cứu rỗi và của cuộc sáng tạo mới. Hình ảnh Chúa Thánh Thần ngự xuống nơi Chúa Giêsu dường như phác họa lại thời hoang sơ, trước khi Thiên Chúa thực hiện công trình sáng tạo của Người: “Thần Khí Chúa bay là là trên vực thẳm hỗn mang” (St 1,2). Việc Chúa Thánh Thần dưới hình dạng chim bồ câu giúp chúng ta liên tưởng đến con chim ngậm cành ôliu sau trận Đại hồng thủy trong Cựu Ước. Thần Khí Chúa đến để loan báo cho nhân loại biết thời gian trừng phạt của Chúa đã mãn (x. St 8,8-11). Cũng giống như nước hồng thủy đã rút và một nhân loại mới tinh tuyền thánh thiện đã khởi đầu, thời kỳ cứu độ trong ân sủng đã khai mào trong Chúa Giêsu và nhờ Chúa Giêsu. Vì vậy, từ thời các Giáo phụ, trận lụt Đại hồng thủy, cũnng như cuộc vượt qua Biển Đỏ, đã được chú giải như hình bóng của Bí tích Thanh tẩy của các Kitô hữu.
Một chi tiết nữa rất quan trọng trong trình thuật Chúa Giêsu chịu phép rửa trong Tin Mừng Thánh Máccô, đó là tiếng nói từ trời. “Tiếng nói từ trời” là cách diễn tả Thiên Chúa của người Do Thái, như kiểu người Việt chúng ta kiêng tránh phạm húy. Tiếng nói ấy đã khẳng định: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. Đây cũng là một lời giới thiệu Đấng Mêsia cho nhân loại. Những người hiện diện hôm đó ở bờ sông Giođan, khi nghe câu tuyên bố của Chúa Cha, chắc chắn liên tưởng đến những lời của Cựu Ước: “Con là con Ta, hôm nay Ta đã hạ sinh ra con” (Tv 2,7); hoặc: “Đây là tôi tớ mà Ta tuyển chọn. Ta hài lòng về Người” (Is 42,1-2).
Vì những chú giải ở trên, sự kiện Chúa Giêsu chịu phép rửa được hiểu như một cuộc “thần hiện”, qua đó, sứ mạng của Chúa Giêsu được giới thiệu công khai cho dân chúng. Người là Đấng Cứu độ trần gian. Người đã khởi đầu sứ mạng một cách rất khiêm tốn, hòa vào dòng người đang nhận mình là tội nhân và sám hối bằng cách dìm mình xuống dòng sông để được ông Gioan thanh tẩy.
Theo giáo huấn của Giáo Hội Công giáo, khi chấp nhận dìm mình xuống dòng sông Giordan và lãnh phép rửa bởi tay ông Gioan, Chúa Giêsu đã thiết lập Bí tích Thánh Tẩy, để rồi từ nay, những ai được dòng nước thiêng ấy tẩy rửa, họ sẽ được tha tội Tổ tông và các tội khác đã phạm, trở nên một tạo vật mới tinh tuyền thánh thiện. Thánh sử Maccô đã nhìn thấy bản chất siêu nhiên của bí tích Thanh Tẩy Kitô giáo, khi ghi lại lời của Gioan Tẩy giả: “Tôi thì tôi đã làm phép rửa cho anh em bằng nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần”. Như vậy, trong nghi thức Thanh tẩy, linh mục chủ sự chỉ đóng vai trò như ông Gioan Tẩy giả, còn chính Chúa Giêsu thanh tẩy chúng ta và ban cho chúng ta Chúa Thánh Thần. Nhờ việc ban Chúa Thánh Thần, chúng ta trở nên những người con cái của Thiên Chúa, là người đồng thừa tự với Chúa Giêsu, tức là cùng với Người hưởng gia nghiệp vĩnh cửu mà Chúa hứa ban cho những ai yêu mến Ngài. Nhờ Chúa Giêsu và trong Chúa Giêsu, chúng ta cũng trở nên những người con yêu dấu của Chúa Cha. Nhờ bí tích Thanh tẩy, chúng ta chấm dứt cuộc sống cũ và bước sang thời đại mới, thời đại của ơn cứu rỗi. Huyền nhiệm vinh dự của phép Thanh tẩy chỉ có thể cảm nhận bằng Đức Tin, vì “Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối của các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi chừng ấy” (Bài đọc I).
Nếu Chúa Thánh Thần đã hiện xuống trên Chúa Giêsu dưới hình chim bồ câu, thì vào ngày chúng ta được lãnh nhận Bí tích Thanh Tẩy, chúng ta cũng được lãnh nhận Chúa Thánh Thần như vậy. Chính Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta Đức tin và soi sáng giúp chúng ta nhận biết Đức Giêsu là Đấng Cứu độ nhân loại. Có Đức tin là một ơn Chúa ban. Chúng ta ngỡ ngàng trước mầu nhiệm Thiên Chúa làm người, giống như chúng ta và đã chết trên cây thập giá, đã sống lại vào ngày thứ ba. Đương nhiên chúng ta chưa thể hiểu hết những mầu nhiệm này. Tuy vậy, khi thinh lặng quỳ gối cầu nguyện, chúng ta nhận ra những màu nhiệm ấy là có thật. Khi chiêm ngắm cầu nguyện trước Thánh Thể, là một mầu nhiệm con người không thể hiểu thấu, chúng ta ra về với tâm hồn thanh thản và được tăng thêm sức mạnh.
“Đây là con Ta yêu dấu!”. Chúa Cha đã nói những lời ấy về Chúa Giêsu. Khi được thanh tẩy, Chúa Cha cũng nói về chúng ta như thế. Xin cho chúng ta trở nên hiện thân của Người giữa trần gian, để đem niềm vui và hy vọng đến cho cuộc đời.
5.Lễ Đức Giêsu chịu phép rửa--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
I. Dẫn vào Thánh lễ
Lễ Đức Giêsu chịu phép rửa hôm nay kết thúc mùa Giáng sinh và dẫn chúng ta vào ngưỡng cửa đời sống công khai của Ngài. Lời Chúa trình bày Đức Giêsu là Con yêu dấu của Chúa Cha, được Chúa Thánh Thần tấn phong làm Messia – Đấng cứu thế – nhưng muốn liên đới với loài người tội lỗi. Đây cũng là tấm gương cho chúng ta: chúng ta cũng đã chịu phép rửa trong Chúa Thánh Thần, vậy chúng ta hãy cố gắng sống như những đứa con hiếu thảo của Thiên Chúa và tham gia vào sứ mạng loan Tin Mừng của Đức Giêsu.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta đã lãnh nhận phép rửa. Nhưng chúng ta có sống như những người con hiếu thảo của Thiên Chúa không?
Chúng ta đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần. Nhưng chúng ta có quan tâm đến sứ mạng loan báo Tin Mừng cho anh em chúng ta không?
Chúng ta có luôn sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần không?
III. Lời Chúa
1. Bài đọc 1: Is 42,1-4.6-7
Đây là bài thứ nhất trong 4 bài ca về Người Tôi Tớ trong sách Đệ nhị Isaia.
Người Tôi Tớ của Thiên Chúa là một vị vua hòa bình có sứ mạng "lập giao ước" giữa Thiên Chúa với dân Ngài.
Người Tôi Tớ của Thiên Chúa là "ánh sáng của chư dân", làm cho muôn dân biết rằng Thiên Chúa là Chúa duy nhất, đấng sáng tạo vũ trụ và sẵn sàng cứu độ mọi người chứ không riêng gì người do thái.
Người Tôi Tớ của Thiên Chúa "sẽ xét xử chư dân", nghĩa là Ngài sẽ chấm dứt sự đối đầu từ trước tới nay giữa Thiên Chúa của Israel với các thần của các dân ngoại. Từ nay mọi người sẽ biết rằng chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, còn các thần của các dân ngoại chỉ là đồ hư vô.
Vì được Thánh Thần ngự trên mình, Người Tôi Tớ của Thiên Chúa là Đấng mạnh mẽ và sẽ chiến thắng mọi kẻ thù. Nhưng Ngài không thích dùng bạo lực, trái lại Ngài yêu thương cứu vớt những kẻ tội lỗi yếu đuối, "không lớn tiếng", "không bẻ gãy cây lau bị dập, không dập tắt tim đèn còn leo lét".
Tất cả những nét Isaia mô tả Người Tôi Tớ đều được thực hiện nơi Đức Giêsu.
2. Đáp ca: Tv 28
Tv này ca tụng Thiên Chúa là chủ tế các quyền lực thiên nhiên như sóng nước, thuỷ triều, sấm sét v.v. Hôm nay, tiếng của vị chủ tể thiên nhiên ấy công nhận Đức Giêsu là Con yêu dấu của Ngài.
3. Tin Mừng: Lc 3,15-16.21-22
Đoạn Tin Mừng này gồm hai phần:
Phần đầu (cc 15-16): dân chúng tưởng Gioan tẩy giả là Đấng Messia. Nhưng Gioan xác định ngay ông không phải. Mặc dù ông làm phép rửa nhưng chỉ bằng nước; Đấng Messia thật sẽ đến sau ông nhưng cao trọng hơn ông, Ngài sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần.
Phần sau (cc 21-22): Đức Giêsu đến lãnh nhận phép rửa của Gioan. Đang khi đó thì trời mở ra, Thánh Thần lấy hình chim câu ngự xuống trên Ngài và có tiếng từ trời phán xuống "Con là Con của Cha. Ngày hôm nay Cha đã sinh ra con".
4. Bài đọc 2: Cv 10,34-38
Bối cảnh: Được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, Thánh Phêrô đã rửa tội cho ông Cornêliô, một người rôma. Đây là một hành động có tính cách mạng vì từ trước tới nay các tông đồ chưa từng nghĩ đến việc cho người không Do Thái gia nhập Giáo Hội.
Trong bài nói chuyện trước những người Do thái, Thánh Phêrô đã giải thích cho họ biết tại sao ông làm vậy: "Thiên Chúa không thiên tư tây vị… ai kính sợ Ngài và thực thi công chính đều được Ngài đón nhận". Phêrô còn chứng minh rằng chính Đức Giêsu đã theo đường lối ấy kể từ lúc Ngài chịu phép rửa ở sông Giođan.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Lễ tấn phong
Bài Tin Mừng hôm nay trình bày việc Đức Giêsu chịu phép rửa như một nghi lễ tấn phong: đang khi Thánh Gioan tẩy giả dìm Đức Giêsu trong dòng nước sông Giođan thì ở phía trên trời mở ra, có Chúa Thánh Thần lấy hình chim câu đáp xuống, và có tiếng Chúa Cha từ trời long trọng công bố "Con là con yêu dấu của Cha. Con đẹp lòng Cha". Theo tin tưởng của người do thái, ngày một ông vua được tấn phong cũng là ngày ông được làm Con của Thiên Chúa (thiên tử). Hôm nay Thiên Chúa công nhận Đức Giêsu là Con yêu dấu của Ngài, tức là Thiên Chúa tấn phong Ngài làm Messia, Đấng cứu thế.
Tuy nhiên nếu ta đọc kỹ bản văn Tin Mừng thì sẽ thấy Đấng cứu thế này có vài nét đặc biệt không như người ta vẫn tưởng:
Thứ nhất: Ngài đang ở chung với những kẻ tội lỗi xếp hàng chờ được Gioan Tẩy giả làm phép rửa. Như thế Đức Giêsu tuy là một Đấng cứu thế nhưng không tách biệt với những kẻ phàm tục tội lỗi, mà lại hòa mình với họ.
Thứ hai: tiếng Chúa Cha từ trời gọi Ngài là "Con yêu dấu". Đây là lặp lại câu của Abraham ngày xưa nói với Isaac con yêu dấu của ông. Khi đó Abraham đã già nhưng chỉ có mỗi một đứa con. Để thử lòng ông, Thiên Chúa bảo ông phải đem Isaac đi giết để tế lễ cho Ngài. Abraham thương con lắm nhưng phải vâng lời Thiên Chúa. Ông bảo Isaac vác một bó củi, phần ông thì dấu một con dao trong áo. Hai cha con lên núi chọn chỗ tốt để tế lễ. Isaac ngây thơ hỏi "Củi thì đã có sẵn nhưng lễ vật thì ở đâu?" Câu hỏi ngây thơ của đứa con làm cho lòng Abraham đau như cắt. Nhưng ông đáp "Con yêu dấu ơi. Chúa sẽ lo liệu". Trong chuyện xưa, "con yêu dấu" là cậu bé Isaac sắp bị giết chết làm lễ tế cho Thiên Chúa. Trong đoạn Tin Mừng này, "Con yêu dấu" là chính Đức Giêsu. Ngài cũng sẽ giống như Isaac xưa, sẽ bị giết chết để làm lễ tế dâng lên Thiên Chúa chuộc tội cho loài người.
Như thế ngày Đức Giêsu chịu phép rửa là ngày Ngài được tấn phong làm Đấng cứu thế dùng chính cái chết của mình để cứu chuộc loài người tội lỗi.
* 2. "Cha hài lòng về con"
Đức Giêsu làm gì mà khiến Chúa Cha hài lòng? Lúc đó Đức Giêsu đang chịu phép rửa bởi tay Gioan Tẩy giả trong dòng sông Giođan. Mà phép rửa của Gioan là một nghi thức dành cho người tội lỗi để bày tỏ lòng sám hối. Đức Giêsu không cần phải bày tỏ lòng sám hối bởi vì Ngài không có tội. Vậy mà Ngài chịu phép rửa như một tội nhân. Ngài làm như thế là theo ý muốn của Chúa Cha. Một người con không thể làm gì cho cha mình hài lòng bằng làm theo ý Cha và đúng y như ý Cha muốn. Tóm lại Chúa Cha hài lòng vì thấy Đức Giêsu làm theo ý mình, mặc dù làm như thế thì Đức Giêsu phải hạ mình.
Nhờ thông phần với Đức Giêsu, tôi cũng được nhận làm "con" của Chúa Cha. Nếu tôi muốn cho Cha hài lòng, tôi cũng phải luôn làm theo ý Cha, và tôi phải hạ mình sống khiêm tốn.
3. Tác động của Chúa Thánh Thần
Trong biến cố chịu phép rửa, Đức Giêsu đã được Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên mình, và được tấn phong làm Đấng Messia.
Trong chuyện hồng thuỷ ngày xưa, chim bồ câu là hình ảnh tiên báo cảnh thái bình. Hôm nay Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên Đức Giêsu cũng cho biết Ngài là Đấng cứu thế mang lại thái bình cho loài người.
Thật vậy, như bài đọc I mô tả, Đức Giêsu là một Người Tôi tớ hiền dịu "không lớn tiếng", "không bẻ gãy cây lau bị dập, không dập tắt tim đèn còn leo lét". Phần thánh Phêrô thì khẳng định trong bài đọc II: "Ngài đi qua mọi nơi, ban bố ơn lành và chữa mọi người bị quỷ ám".
Tác động của Chúa Thánh Thần ngày nay cũng thế: bình an, dịu dàng, chữa lành, ban sự sống mới…
4. Thời điểm quyết định trong đời
Nhiều người đã thay đổi hẳn cuộc đời vì một thời điểm quyết định. Thời điểm đó giống như lúc ta đi đến một ngã tư và phải chọn một trong 4 hướng để tiến tới.
Đó là thời điểm mà tâm trí ta được soi sáng đặc biệt. Nếu ta đáp lại thì đời ta sẽ vươn lên, đồng thời kéo theo nhiều người khác cũng vươn lên. Nhưng nếu ta bỏ qua thì cơ may có thể không bao giờ trở lại.
Thời điểm ấy có thể đến một cách đột ngột. Như trường hợp của Matt Talbot, một người nghiện rượu, ngày nào cũng say bí tỉ. Một hôm anh đứng trước quán rượu chìa tay xin tiền những người qua lại mà anh nghĩ là bạn bè thân thuộc. Nhưng mọi người đều đi qua, chẳng ai cho anh một xu. Trong giây phút ấy, giống như những vảy cá trong mắt anh bỗng rơi xuống, anh chợt nhận thức rằng mình đang phá hỏng đời mình. Thế là anh quyết định bỏ rượu và cố gắng nhờ ơn Chúa để trở thành một vị thánh.
Thời điểm ấy cũng có thể đến từ từ. Như trường hợp của Mẹ Têrêxa. Mẹ đang làm việc trong một trường nội trú của những nữ sinh con nhà khá giả ở Calcutta. Nhưng lòng mẹ luôn ray rứt vì thường nhìn thấy những người nghèo nắm vất vưỡng trên những hè phố. Thế là một hôm, Mẹ quyết định đi phục vụ những người nghèo ấy. Từ đó trở đi, tên "Mẹ Têrêxa Calcutta" trở thành điển hình cho việc hiến thân phục vụ những kẻ bị bỏ rơi.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng thuật lại thời điểm quyết định của cuộc đời Đức Giêsu, đó là khi Ngài lãnh nhận phép Thanh tẩy. Trước đó Ngài sống một cuộc sống tương đối bình lặng của một người thợ mộc làng Nadarét. Nhưng khi nhận phép rửa, Ngài đã nghe một tiếng nói từ trời cao, gọi Ngài làm một việc khác quan trọng hơn. Từ đó trở đi Ngài giã từ nếp sống cũ, bắt đầu cuộc sống mới chuyên lo rao giảng Tin Mừng và cứu chữa mọi người.
Tất cả chúng ta cũng đều lãnh nhận Phép Rửa. Đó phải là thời điểm quyết định của cuộc đời chúng ta, bởi vì khi lãnh nhận phép rửa là chúng ta lãnh nhận một cuộc sống mới (Bài đọc I), trong Phép Rửa chúng ta trở thành môn đệ Đức Giêsu, chúng ta được mời gọi chiến đấu chống lại sự dữ và yêu thương anh em mình (Bài đọc II). Tuy nhiên vì khi đó chúng ta chưa ý thức đủ nên cuộc đời chúng ta không đổi thay được gì mấy.
Hôm nay chúng ta hãy ý thức lại thời điểm quan trọng ấy để thay đổi cuộc đời, sống đúng theo ơn gọi của người Kitô hữu (Viết theo Flor McCarthy)
5. Khúc dạo đầu tình yêu
Cha Anthony de Mello có kể một câu chuyện sau đây:
Cả cộng đoàn đều thắc mắc khi thấy vị kinh sư của mình tuần nào cũng biến đâu mất vào hôm trước ngày Sabat. Họ nghĩ rằng ông bí mật đi gặp Đấng Tối Cao. Vì thế, họ cử một người theo dõi ông.
Và đây là điều người ấy chứng kiến. Vị kinh sư hóa trang bằng cách ăn mặc như một dân quê, đến phục vụ một bà già thuộc dân ngoại trong căn lều tồi tàn của bà. Ông quét dọn và nấu ăn cho bà trong ngày Sabat.
Khi thám tử trở về, cộng đoàn hỏi:
- Kinh sư đi đâu? Ngài lên trời phải không?
Người kia đáp:
- Không, ngài còn lên cao hơn cả trời nữa.
****
Có ai ngờ vị kinh sư lại âm thầm đến với người đàn bà ngoại đạo, nghèo hèn để chăm sóc bà trong ngày Sabat? Có ai tin được Đức Giêsu, Đấng thánh thiện cao cả, lại xin Gioan làm phép Rửa cho?
Khi chiêm ngắm Đức Giêsu xếp hàng chung với tội nhân, chúng ta hiểu được thế nào là tình yêu.
Chỉ có Tình yêu mới giúp chúng ta hiểu được mầu nhiệm nơi dòng sông Giođan.
Chỉ có Tình yêu mới làm cho Con Thiên Chúa tự che khuất sự cao sáng thánh thiện, để dìm mình trong phép rửa "thống hối".
Chỉ có Tình yêu mới làm cho Đấng Cứu độ sống như người cần được Cứu độ.
Phép Rửa hôm nay chỉ là khúc đạo đầu của bản trường ca Tình yêu. Để rồi vì yêu thương, từ đây Con Thiên Chúa sẽ bị người đời liệt vào: "Tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thế và phường tội lỗi" (Lc.7,34). Bị người nhà coi là "kẻ mất trí". Bị xua đuổi ra khỏi thành. Bị lên án như một tội nhân. Và bị chết treo giữa những tên trộm cướp. Đến nỗi thánh Phaolô đã phải thốt lên: "Đấng chẳng hề biết tội là gì thì Thiên Chúa đã làm cho Người thành tội vì chúng ta".
Đức Giêsu gọi cuộc thương khó của Người là một "phép rửa". Người trầm mình trong đau khổ để mang lại Ơn Cứu Độ cho mọi người: "Thầy còn một phép rửa phải chịu, lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất" (Lc.12,50).
Qua Bí tích Rửa tội, chúng ta đã trở nên các Kitô hữu, "Con cái yêu dấu" của Thiên Chúa. Chúng ta cũng được mời gọi đi loan báo Tin Vui cứu độ, rằng Thiên Chúa yêu thương con người. Chúng ta được mời gọi đặc biệt để mang Tình yêu Chúa đến cho những người cùng khổ, những người bị bỏ rơi, bị khinh miệt, bị sa ngã trong tội. Martin Luther King có nói: "Hãy yêu thương mọi người đừng vì thiện cảm; cũng không vì cách sống của họ dễ mến, dễ thương. Nhưng vì chính Thiên Chúa ở trong họ". Nếu chúng ta chờ cho họ trở nên đáng yêu rồi mới yêu họ, chúng ta sẽ phải chờ suốt đời. Chính khi được yêu mà họ sẽ trở nên đáng yêu.
Trong biển đời mênh mông này, mỗi người đều không ngừng thay đổi cả hướng tốt lẫn xấu, chúng ta chớ cho rằng mình đã hiểu tới chân tơ kẻ tóc một ai đó. Cứ nghe theo trái tim mách bảo mà quảng đại trao ban.
Zundel viết: "Đừng để ai trong những người anh em của chúng ta có thể phàn nàn, rằng họ chẳng gặp được lòng nhân hậu của Thiên Chúa nơi chúng ta".
****
Lạy Chúa, Chúa đã nên bạn đồng hành với thân phận mỏng dòn yếu đuối của chúng con, xin cho chúng con cũng biết đem Tình yêu cao cả nồng ấm của Chúa đến cho anh chị em chúng con. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
6. Hòa đồng với những người tội lỗi
Mahatma Gandhi không phải là một kitô hữu, nhưng ngài là một trong những người đã sống giống Đức Kitô nhất trong thế kỷ của ngài.
Gandhi kiên quyết chống lại hệ thống phân biệt giai cấp ở Ấn độ. Ngài gọi đó là "một vết nhơ trong linh hồn nước Ấn độ". Ngài đặc biệt ghê tởm cách người ta đối xử với những người "không nên đụng tới", tức là những người không được xếp vào giai cấp nào cả trong xã hội: họ không được vào các đền thờ; nếu sống ở thành thị, họ bị buộc phải ở trong những khu ổ chuột; nếu sống ở thôn quê, họ bị cấm không cho sử dụng những giếng nước công cộng; về việc làm, họ chỉ được làm những việc thấp hèn với đồng lương rất thấp.
Vì là một nhân vật nổi tiếng khắp Ấn độ nên Gandhi đi đến đâu cũng được mọi người tiếp rước nồng hậu. Khi ngài vào một làng nào thì ông trưởng làng mời ngài đến trọ tại nhà ông ta với đầy đủ thức ăn thức uống và mọi tiện nghi dễ chịu. Nhưng Gandhi luôn từ chối một cách lịch sự. Ngài hỏi: "Những người 'không nên đụng tới' ở đâu vậy? Tôi muốn trọ tại nhà họ". Và quả thực ngài đã đến với những người ấy, ở với họ, ăn uống với họ, chơi đùa với con cái họ. Có lần ngài còn nói: "Tôi không thể được sinh ra lần nữa. Nhưng nếu có thể thì tôi muốn sinh ra giữa những người 'không được đụng tới', vì nhớ đó tôi mới có thể giải phóng họ và chính bản thân tôi khỏi cuộc sống khốn khổ". Tóm lại Gandhi đã quên thân phận mình để hòa đồng với những người khốn khổ hầu có thể giải phóng họ.
Hôm nay Đức Giêsu xếp hàng chung với những kẻ khốn khổ để chờ được Gioan làm phép thanh tẩy. Ngài đã quên thân phận mình để hòa mình với những kẻ khốn khổ. Những kẻ khốn khổ ấy là những người tội lỗi, những người nghèo, những người bệnh tật, những kẻ bị xã hội coi khinh. Họ là thành phần đa số trong xã hội Palestina thời đó. Đức Giêsu không tách riêng ra, Ngài không đứng bên lề, không chờ họ đến với Ngài, mà đích thân tìm đến với họ và ở giữa họ.
Chính Chúa Cha từ trời đã vừa ý với sự chọn lựa ấy, nên đã phán: "Con là con yêu dấu của Cha. Cha hài lòng về con" (Viết theo Flor McCarthy)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã lãnh nhận phép rửa của thánh Gioan Tiền Hô, rồi được Chúa Cha tỏ lòng sủng ái, và được Chúa Thánh Thần tấn phong làm Đấng Cứu độ muôn dân. Chúng ta hết lòng cảm tạ và dâng lời cầu xin:
1. Xin cho mọi người đã được Chúa Thánh Thần xức dầu tấn phong làm Kitô hữu/ luôn sẵn sàng cộng tác với Hội thánh để đem ơn cứu độ đến cho thế giới.
2. Xin cho mọi người lương thiện đang kiếm tim hạnh phúc thật/ được gặp thấy Đức Giêsu là Đấng Cứu độ/ và là Đường dẫn tới hạnh phúc thật.
3. Xin cho mọi người đang băn khoăn đau khổ trước cuộc sống đầy bất công và bất hạnh/ biết mở rộng tâm hồn để đón nhận ơn ban của Chúa Thế giới.
4. Xin cho mọi người trong cộng đồng xứ đạo chúng ta đã lãnh nhận bí tích Thêm sức/ luôn nhớ thi hành sứ vụ truyền giáo cho những người chung quanh mình.
Chủ tế: Lạy Chúa, chúng con đã được Rửa tội và được Thêm sức trong Đức Giêsu Kitô và Thánh Thần của Người để được làm con cái Chúa, xin cho chúng con luôn sống xứng đáng người con yêu của Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô...
VI. Trong Thánh lễ
Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta cũng được thanh tẩy trong cùng một Thánh Thần như Đức Giêsu và cũng được làm Con yêu dấu của Chúa Cha. Giờ đây, chúng ta hãy cùng với Đức Giêsu dâng lên Thiên Chúa là Cha những tâm tình con thảo của chúng ta.
Trước lúc rước lễ: Thánh lễ là một bàn tiệc, con cái và cha mẹ quây quần bên nhau trong cùng một bàn ăn. Chúng ta được chia xẻ thân phận làm con của Đức Giêsu nên cũng được mời dự bữa tiệc thánh này. "Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian. Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa"
VII. Giải tán
Chúng ta đã được thanh tẩy trong Đức Giêsu và được tuyển chọn bởi Chúa Thánh Thần để đem Tin Mừng đến cho mọi người. Chúng ta hãy ra đi thi hành sứ mạng cao cả ấy. Chúc anh chị em bình an.
6.Con chí ái của Cha--ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
“Nhật tân, nhật nhật tân, hựu nhật tân” – Mỗi ngày nên mới, ngày ngày nên mới, ngày tới phải nên mới. Đây là câu tâm niệm của vua Thành Thang khắc trên bồn tắm. Vua cho rằng: Người ta phải gội rửa con tim cho sạch tội nhơ như thân xác phải tắm rửa hàng ngày (Sách Đại Học, I, 1).
Bất cứ ai lương thiện đều cần thiết phải gột rửa tâm hồn hàng ngày. Chẳng ngày nào mà không có lỗi.
Gioan Tẩy giả dù sống trong rừng vắng cũng thấy rõ đời sống con người chồng chất tội nhơ. Sao con người dám đón mừng Đấng Cứu Thế đến! Ông đã quyết tâm từ giã hoang địa, đi rảo khắp miền sông Hòa Giang, hô hào dân chúng sám hối, xuống sông thanh tẩy mình dưới giòng nước trong lành. Từ tẩy sạch thân xác cho mát mẻ, họ sẽ thấm sâu ý nghĩa thanh tẩy tâm hồn để được ơn lành mạnh, thánh thiện của Đấng Cứu Thế đến ban cho họ. Gioan đang làm phép rửa và hô hào như thế, không ngờ, Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế đã khiêm tốn ẩn mình trong đám đông dân chúng đến dìm mình dưới sông cho ông thanh tẩy. “Khi Người vừa lên khỏi nước, các tầng trời mở tung ra, Thánh Thần tựa như chim câu ngự xuống trên Người và từ trời có tiếng phán rằng: “Con là Con chí ái của Cha, Cha rất hài lòng về Con”.
Thật kinh ngạc, hôm nay Người đến thánh hóa giòng nước nhờ thân xác chí thánh của Người và nhờ Thánh Thần từ trời xuống trên Người. Chính nước thánh Người ban mới có sức thiêng liêng thanh tẩy tâm hồn vô hình được hoàn toàn trở nên trong sạch, tẩy trừ mọi vết nhơ tội lỗi, cho ta xứng đáng trở nên con yêu dấu của Chúa Cha.
Thế nhưng, người nông nổi bảo: Nước nào cũng thế thôi. Đại tướng Naaman cũng nghĩ thế khi tiên tri Êlisê bảo ông đến tắm nước sông Hòa Giang bảy lần thì khỏi bệnh phong cùi. Ông đã tức giận nói: Nước sông ở nước ta không sạch hơn nước sông ở Israel sao? Ông giận dữ đã bỏ về. Thuộc hạ đã can ông rằng: “Nếu tiên tri bảo đại tướng làm những kỳ công để khỏi bệnh, đại tướng còn làm. Huống chi một việc dễ như vậy, sao đại tướng không làm?”. Naaman đã nghe và xuống sông tắm, da ông được sạch và đẹp đẽ như da trẻ thơ. (2V. 5).
Nước suối Lộ Đức đã làm cho hàng ngàn bác sĩ phải kinh ngạc. Nước đó cũng giống như bao nhiêu nước suối khác. Nhưng với lòng tin, ơn Chúa đã ban cho bao nhiêu bệnh nhân được khỏi bệnh thân xác và tâm hồn một cách lạ lùng, như trường hợp cơn bệnh của nhà bác học nổi tiếng: Bác sĩ Alexis Carrel. Năm 1947, cô Marie Ferrand bị bệnh lao ruột, cả Hội đồng bác sĩ ở Paris khám bệnh đều chắc chắn cô sắp chết. Nhưng cô đã xin được đến tắm suối Lộ Đức. Bác sĩ Carrel đã đi theo để xem xét cô cẩn thận và khuyên không nên cho cô tắm suối vì sẽ chết khi chưa xuống tới suối. Tuy nhiên, để làm vui lòng bệnh nhân, người ta đưa cô xuống tắm nước suối. Thật lạ lùng, cô Marie đã khỏi. Bác sĩ Carrel lấy bút ghi ngay vào tay áo: “2g40 thật bất ngờ, một phép lạ mới xảy ra”. Nước suối với lòng tin mạnh mẽ của cô, cô được khỏi bệnh đã làm cho nhà khoa học vô thần Carrel trở lại, chịu phép Rửa tội Công giáo. Còn bao nhiêu nhà vô thần vị vọng khác đã được khỏi chết đời đời, nhờ một thứ nước thiêng, lạ lùng hơn nước suối Lộ Đức là nước thánh Rửa tội, nước bởi nguồn yêu thương của Thánh Thần chảy ra từ cạnh sườn và trái tim Đức Giêsu Kitô. “Ai không sinh bởi nước và Thánh Thần thì chẳng được vào nước Trời” (Ga. 3, 5).
Mỗi người chúng ta đều được nước thánh ấy đổ trên đầu nhân danh Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Đấy là một công trình tạo dựng mới, một cuộc phục sinh trong Chúa Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại để sống trong sự sống của Chúa Ba Ngôi. Sự sống ấy đầy tràn sức mạnh của Chúa Thánh Thần qua việc xức dầu thánh. Sự sống ấy được bao phủ bằng tấm áo trắng thánh thiện tinh tuyền của Đức Kitô. Sự sống ấy còn được ánh sáng nến phục sinh đốt sáng lên, cho ta xứng đáng là con cái của ánh sáng muôn đời chiếu tỏa trên những kẻ còn ngồi trong tối tăm sự chết.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đến thánh hóa giòng nước trần gian, cho thế nhân nguồn nước trường sinh. Nguồn nước thanh tẩy tội lỗi, nguồn nước tạo dựng con người mới biến đổi con người tội lỗi trở nên con chí ái của Thiên Chúa, trong thân thể phục sinh sáng láng của Đức Kitô, trong nguồn sống vinh quang muôn đời của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Xin cho chúng con biết trung thành sống trong nguồn nước Thần Linh chí thánh ấy, cho thân xác chúng con được mạnh khỏe, cho tâm hồn chúng con được tươi mát, cho đời sống chúng con thành ánh sáng thế gian. Amen.
7.Chúa Giêsu chịu phép rửa--Lm VIKINI
1- Nếu tôi là dân Do thái lúc đó, có thể tôi cũng đi từ Galilê bên Đức Giêsu suốt bốn năm ngày đường, tới sông Gióc đan để chịu phép rửa, mà không ngờ rằng Người là Đấng mà Gioan đang rao giảng. Khi tới nơi chắc chắn tôi sẽ chen lấn Người để tôi được tới gần Gioan hơn. Tôi trố mắt nhìn và lắng tai Gioan kêu gọi tôi sám hối. Tôi cảm động và rán lội tới sát Gioan. Tôi đẩy Người ra để xin Gioan rửa tôi trước, vì tôi nóng lòng mong đợi điều Gioan đang nói: “Hãy dọn đàng cho Đấng Cứu thế đến”. Rửa xong tôi an tâm ra về mà không ngờ Người là Đấng Cứu thế đồng hành với tôi, đứng sát bên tôi, đã bị tôi gạt Người ra ngoài.
Thực tế hàng ngày đã xẩy ra trăm ngàn lần tôi cư xử như thế đối với những người bên cạnh tôi. Tôi không ngờ rằng họ là chi thể Đấng Cứu thế. Tôi bao nhiêu lần xô lấn những người bên cạnh tôi để tôi được hơn, được trước họ mà chẳng nhớ gì lời Chúa dậy: “Con phải kính nhường và yêu mến người bên cạnh con”. Thành thử ra tôi cũng không nhận ra Đấng Cứu thế đang ở với tôi.
2- Nếu tôi được làm địa vị của Gioan tiền hô, thì khi vừa thấy Đấng Cứu thế, tôi sẽ tự đắc hô to: đấy tôi nói có sai đâu, Ngài đến đây nè... rồi tôi kêu gọi mọi người ủng hộ Ngài, hoan hô Ngài, đón rước Ngài, xin Ngài phất cờ giải phóng dân tộc, làm cho nước ta độc lập tự do, giầu mạnh, đem quân xâm chiếm các nước, trở thành bá chủ hoàn cầu. Tôi rất phàn nàn và lấy làm tiếc vì không thể ngờ được rằng Gioan không làm như tôi mong muốn. Trái lại, ông đã cúi mình xuống nhỏ nhẹ thưa với Ngài rằng: “Tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài. Tôi chỉ rửa anh em trong nước, còn chính Ngài mới rửa chúng tôi trong Thánh Thần. Vậy xin Ngài rửa cho tôi đi để tôi được ơn cứu độ”. Thật là con người đầy khiêm tốn, đầy tin tưởng để rồi Gioan đã phó thác trót mạng sống mình cho Đấng Cứu thế: dù phải chặt đầu ông vẫn luôn luôn quyết tâm chu toàn nghĩa vụ Thiên Chúa trao.
3- Còn Đức Giêsu, Người rất từ tốn và ẩn mình tuyệt diệu hơn nữa. Người đã thưa lại Gioan: “Chúng ta cần phải chu toàn nghĩa vụ thánh như thế”. Người đồng hóa mình với dân chúng, chịu những kẻ cậy sức mạnh xô đẩy, chèn ép để thông cảm với mọi nỗi xót xa của cuộc đời những kẻ thấp mũi bé miệng, neo đơn, cô thế, cô thân. Người đã cúi mình trước Gioan làm phép rửa cho Người để cho những tội nhân biết cúi mình xuống trước tòa giải tội. Người đã dìm mình xuống nước để cứu vớt những kẻ chết trong giòng đời, cho họ được sống lại làm con chí ái với Người trong gia đình thiên quốc. Người chôn mình trong bản tính hư nát của loài người để cho con người được trường sinh vinh phúc.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết kính nhường nhau, đó chẳng phải là kính mến Chúa sao? Xin cho chúng con biết phó thác thân phận làm người, làm Kitô hữu cho Đấng Cứu thế, chắc chắn chúng con sẽ được Người thanh tẩy và kết nạp chúng con vào nhà Cha chí ái trên trời.
8.Lễ Đức Giêsu chịu phép rửa--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
I. Dẫn vào Thánh lễ
Lễ Đức Giêsu chịu phép rửa hôm nay kết thúc mùa Giáng sinh và dẫn chúng ta vào ngưỡng cửa đời sống công khai của Ngài. Lời Chúa trình bày Đức Giêsu là Con yêu dấu của Chúa Cha, được Chúa Thánh Thần tấn phong làm Messia – Đấng cứu thế – nhưng muốn liên đới với loài người tội lỗi. Đây cũng là tấm gương cho chúng ta: chúng ta cũng đã chịu phép rửa trong Chúa Thánh Thần, vậy chúng ta hãy cố gắng sống như những đứa con hiếu thảo của Thiên Chúa và tham gia vào sứ mạng loan Tin Mừng của Đức Giêsu.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta đã lãnh nhận phép rửa. Nhưng chúng ta có sống như những người con hiếu thảo của Thiên Chúa không?
Chúng ta đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần. Nhưng chúng ta có quan tâm đến sứ mạng loan báo Tin Mừng cho anh em chúng ta không?
Chúng ta có luôn sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần không?
III. Lời Chúa
1. Bài đọc 1: Is 42,1-4.6-7
Đây là bài thứ nhất trong 4 bài ca về Người Tôi Tớ trong sách Đệ nhị Isaia.
Người Tôi Tớ của Thiên Chúa là một vị vua hòa bình có sứ mạng "lập giao ước" giữa Thiên Chúa với dân Ngài.
Người Tôi Tớ của Thiên Chúa là "ánh sáng của chư dân", làm cho muôn dân biết rằng Thiên Chúa là Chúa duy nhất, đấng sáng tạo vũ trụ và sẵn sàng cứu độ mọi người chứ không riêng gì người do thái.
Người Tôi Tớ của Thiên Chúa "sẽ xét xử chư dân", nghĩa là Ngài sẽ chấm dứt sự đối đầu từ trước tới nay giữa Thiên Chúa của Israel với các thần của các dân ngoại. Từ nay mọi người sẽ biết rằng chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, còn các thần của các dân ngoại chỉ là đồ hư vô.
Vì được Thánh Thần ngự trên mình, Người Tôi Tớ của Thiên Chúa là Đấng mạnh mẽ và sẽ chiến thắng mọi kẻ thù. Nhưng Ngài không thích dùng bạo lực, trái lại Ngài yêu thương cứu vớt những kẻ tội lỗi yếu đuối, "không lớn tiếng", "không bẻ gãy cây lau bị dập, không dập tắt tim đèn còn leo lét".
Tất cả những nét Isaia mô tả Người Tôi Tớ đều được thực hiện nơi Đức Giêsu.
2. Đáp ca: Tv 28
Tv này ca tụng Thiên Chúa là chủ tế các quyền lực thiên nhiên như sóng nước, thuỷ triều, sấm sét v.v. Hôm nay, tiếng của vị chủ tể thiên nhiên ấy công nhận Đức Giêsu là Con yêu dấu của Ngài.
3. Tin Mừng: Lc 3,15-16.21-22
Đoạn Tin Mừng này gồm hai phần:
Phần đầu (cc 15-16): dân chúng tưởng Gioan tẩy giả là Đấng Messia. Nhưng Gioan xác định ngay ông không phải. Mặc dù ông làm phép rửa nhưng chỉ bằng nước; Đấng Messia thật sẽ đến sau ông nhưng cao trọng hơn ông, Ngài sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần.
Phần sau (cc 21-22): Đức Giêsu đến lãnh nhận phép rửa của Gioan. Đang khi đó thì trời mở ra, Thánh Thần lấy hình chim câu ngự xuống trên Ngài và có tiếng từ trời phán xuống "Con là Con của Cha. Ngày hôm nay Cha đã sinh ra con".
4. Bài đọc 2: Cv 10,34-38
Bối cảnh: Được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, Thánh Phêrô đã rửa tội cho ông Cornêliô, một người rôma. Đây là một hành động có tính cách mạng vì từ trước tới nay các tông đồ chưa từng nghĩ đến việc cho người không Do Thái gia nhập Giáo Hội.
Trong bài nói chuyện trước những người Do thái, Thánh Phêrô đã giải thích cho họ biết tại sao ông làm vậy: "Thiên Chúa không thiên tư tây vị… ai kính sợ Ngài và thực thi công chính đều được Ngài đón nhận". Phêrô còn chứng minh rằng chính Đức Giêsu đã theo đường lối ấy kể từ lúc Ngài chịu phép rửa ở sông Giođan.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Lễ tấn phong
Bài Tin Mừng hôm nay trình bày việc Đức Giêsu chịu phép rửa như một nghi lễ tấn phong: đang khi Thánh Gioan tẩy giả dìm Đức Giêsu trong dòng nước sông Giođan thì ở phía trên trời mở ra, có Chúa Thánh Thần lấy hình chim câu đáp xuống, và có tiếng Chúa Cha từ trời long trọng công bố "Con là con yêu dấu của Cha. Con đẹp lòng Cha". Theo tin tưởng của người do thái, ngày một ông vua được tấn phong cũng là ngày ông được làm Con của Thiên Chúa (thiên tử). Hôm nay Thiên Chúa công nhận Đức Giêsu là Con yêu dấu của Ngài, tức là Thiên Chúa tấn phong Ngài làm Messia, Đấng cứu thế.
Tuy nhiên nếu ta đọc kỹ bản văn Tin Mừng thì sẽ thấy Đấng cứu thế này có vài nét đặc biệt không như người ta vẫn tưởng:
Thứ nhất: Ngài đang ở chung với những kẻ tội lỗi xếp hàng chờ được Gioan Tẩy giả làm phép rửa. Như thế Đức Giêsu tuy là một Đấng cứu thế nhưng không tách biệt với những kẻ phàm tục tội lỗi, mà lại hòa mình với họ.
Thứ hai: tiếng Chúa Cha từ trời gọi Ngài là "Con yêu dấu". Đây là lặp lại câu của Abraham ngày xưa nói với Isaac con yêu dấu của ông. Khi đó Abraham đã già nhưng chỉ có mỗi một đứa con. Để thử lòng ông, Thiên Chúa bảo ông phải đem Isaac đi giết để tế lễ cho Ngài. Abraham thương con lắm nhưng phải vâng lời Thiên Chúa. Ông bảo Isaac vác một bó củi, phần ông thì dấu một con dao trong áo. Hai cha con lên núi chọn chỗ tốt để tế lễ. Isaac ngây thơ hỏi "Củi thì đã có sẵn nhưng lễ vật thì ở đâu?" Câu hỏi ngây thơ của đứa con làm cho lòng Abraham đau như cắt. Nhưng ông đáp "Con yêu dấu ơi. Chúa sẽ lo liệu". Trong chuyện xưa, "con yêu dấu" là cậu bé Isaac sắp bị giết chết làm lễ tế cho Thiên Chúa. Trong đoạn Tin Mừng này, "Con yêu dấu" là chính Đức Giêsu. Ngài cũng sẽ giống như Isaac xưa, sẽ bị giết chết để làm lễ tế dâng lên Thiên Chúa chuộc tội cho loài người.
Như thế ngày Đức Giêsu chịu phép rửa là ngày Ngài được tấn phong làm Đấng cứu thế dùng chính cái chết của mình để cứu chuộc loài người tội lỗi.
* 2. "Cha hài lòng về con"
Đức Giêsu làm gì mà khiến Chúa Cha hài lòng? Lúc đó Đức Giêsu đang chịu phép rửa bởi tay Gioan Tẩy giả trong dòng sông Giođan. Mà phép rửa của Gioan là một nghi thức dành cho người tội lỗi để bày tỏ lòng sám hối. Đức Giêsu không cần phải bày tỏ lòng sám hối bởi vì Ngài không có tội. Vậy mà Ngài chịu phép rửa như một tội nhân. Ngài làm như thế là theo ý muốn của Chúa Cha. Một người con không thể làm gì cho cha mình hài lòng bằng làm theo ý Cha và đúng y như ý Cha muốn. Tóm lại Chúa Cha hài lòng vì thấy Đức Giêsu làm theo ý mình, mặc dù làm như thế thì Đức Giêsu phải hạ mình.
Nhờ thông phần với Đức Giêsu, tôi cũng được nhận làm "con" của Chúa Cha. Nếu tôi muốn cho Cha hài lòng, tôi cũng phải luôn làm theo ý Cha, và tôi phải hạ mình sống khiêm tốn.
3. Tác động của Chúa Thánh Thần
Trong biến cố chịu phép rửa, Đức Giêsu đã được Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên mình, và được tấn phong làm Đấng Messia.
Trong chuyện hồng thuỷ ngày xưa, chim bồ câu là hình ảnh tiên báo cảnh thái bình. Hôm nay Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên Đức Giêsu cũng cho biết Ngài là Đấng cứu thế mang lại thái bình cho loài người.
Thật vậy, như bài đọc I mô tả, Đức Giêsu là một Người Tôi tớ hiền dịu "không lớn tiếng", "không bẻ gãy cây lau bị dập, không dập tắt tim đèn còn leo lét". Phần thánh Phêrô thì khẳng định trong bài đọc II: "Ngài đi qua mọi nơi, ban bố ơn lành và chữa mọi người bị quỷ ám".
Tác động của Chúa Thánh Thần ngày nay cũng thế: bình an, dịu dàng, chữa lành, ban sự sống mới…
4. Thời điểm quyết định trong đời
Nhiều người đã thay đổi hẳn cuộc đời vì một thời điểm quyết định. Thời điểm đó giống như lúc ta đi đến một ngã tư và phải chọn một trong 4 hướng để tiến tới.
Đó là thời điểm mà tâm trí ta được soi sáng đặc biệt. Nếu ta đáp lại thì đời ta sẽ vươn lên, đồng thời kéo theo nhiều người khác cũng vươn lên. Nhưng nếu ta bỏ qua thì cơ may có thể không bao giờ trở lại.
Thời điểm ấy có thể đến một cách đột ngột. Như trường hợp của Matt Talbot, một người nghiện rượu, ngày nào cũng say bí tỉ. Một hôm anh đứng trước quán rượu chìa tay xin tiền những người qua lại mà anh nghĩ là bạn bè thân thuộc. Nhưng mọi người đều đi qua, chẳng ai cho anh một xu. Trong giây phút ấy, giống như những vảy cá trong mắt anh bỗng rơi xuống, anh chợt nhận thức rằng mình đang phá hỏng đời mình. Thế là anh quyết định bỏ rượu và cố gắng nhờ ơn Chúa để trở thành một vị thánh.
Thời điểm ấy cũng có thể đến từ từ. Như trường hợp của Mẹ Têrêxa. Mẹ đang làm việc trong một trường nội trú của những nữ sinh con nhà khá giả ở Calcutta. Nhưng lòng mẹ luôn ray rứt vì thường nhìn thấy những người nghèo nắm vất vưỡng trên những hè phố. Thế là một hôm, Mẹ quyết định đi phục vụ những người nghèo ấy. Từ đó trở đi, tên "Mẹ Têrêxa Calcutta" trở thành điển hình cho việc hiến thân phục vụ những kẻ bị bỏ rơi.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng thuật lại thời điểm quyết định của cuộc đời Đức Giêsu, đó là khi Ngài lãnh nhận phép Thanh tẩy. Trước đó Ngài sống một cuộc sống tương đối bình lặng của một người thợ mộc làng Nadarét. Nhưng khi nhận phép rửa, Ngài đã nghe một tiếng nói từ trời cao, gọi Ngài làm một việc khác quan trọng hơn. Từ đó trở đi Ngài giã từ nếp sống cũ, bắt đầu cuộc sống mới chuyên lo rao giảng Tin Mừng và cứu chữa mọi người.
Tất cả chúng ta cũng đều lãnh nhận Phép Rửa. Đó phải là thời điểm quyết định của cuộc đời chúng ta, bởi vì khi lãnh nhận phép rửa là chúng ta lãnh nhận một cuộc sống mới (Bài đọc I), trong Phép Rửa chúng ta trở thành môn đệ Đức Giêsu, chúng ta được mời gọi chiến đấu chống lại sự dữ và yêu thương anh em mình (Bài đọc II). Tuy nhiên vì khi đó chúng ta chưa ý thức đủ nên cuộc đời chúng ta không đổi thay được gì mấy.
Hôm nay chúng ta hãy ý thức lại thời điểm quan trọng ấy để thay đổi cuộc đời, sống đúng theo ơn gọi của người Kitô hữu (Viết theo Flor McCarthy)
5. Khúc dạo đầu tình yêu
Cha Anthony de Mello có kể một câu chuyện sau đây:
Cả cộng đoàn đều thắc mắc khi thấy vị kinh sư của mình tuần nào cũng biến đâu mất vào hôm trước ngày Sabat. Họ nghĩ rằng ông bí mật đi gặp Đấng Tối Cao. Vì thế, họ cử một người theo dõi ông.
Và đây là điều người ấy chứng kiến. Vị kinh sư hóa trang bằng cách ăn mặc như một dân quê, đến phục vụ một bà già thuộc dân ngoại trong căn lều tồi tàn của bà. Ông quét dọn và nấu ăn cho bà trong ngày Sabat.
Khi thám tử trở về, cộng đoàn hỏi:
- Kinh sư đi đâu? Ngài lên trời phải không?
Người kia đáp:
- Không, ngài còn lên cao hơn cả trời nữa.
****
Có ai ngờ vị kinh sư lại âm thầm đến với người đàn bà ngoại đạo, nghèo hèn để chăm sóc bà trong ngày Sabat? Có ai tin được Đức Giêsu, Đấng thánh thiện cao cả, lại xin Gioan làm phép Rửa cho?
Khi chiêm ngắm Đức Giêsu xếp hàng chung với tội nhân, chúng ta hiểu được thế nào là tình yêu.
Chỉ có Tình yêu mới giúp chúng ta hiểu được mầu nhiệm nơi dòng sông Giođan.
Chỉ có Tình yêu mới làm cho Con Thiên Chúa tự che khuất sự cao sáng thánh thiện, để dìm mình trong phép rửa "thống hối".
Chỉ có Tình yêu mới làm cho Đấng Cứu độ sống như người cần được Cứu độ.
Phép Rửa hôm nay chỉ là khúc đạo đầu của bản trường ca Tình yêu. Để rồi vì yêu thương, từ đây Con Thiên Chúa sẽ bị người đời liệt vào: "Tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thế và phường tội lỗi" (Lc.7,34). Bị người nhà coi là "kẻ mất trí". Bị xua đuổi ra khỏi thành. Bị lên án như một tội nhân. Và bị chết treo giữa những tên trộm cướp. Đến nỗi thánh Phaolô đã phải thốt lên: "Đấng chẳng hề biết tội là gì thì Thiên Chúa đã làm cho Người thành tội vì chúng ta".
Đức Giêsu gọi cuộc thương khó của Người là một "phép rửa". Người trầm mình trong đau khổ để mang lại Ơn Cứu Độ cho mọi người: "Thầy còn một phép rửa phải chịu, lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất" (Lc.12,50).
Qua Bí tích Rửa tội, chúng ta đã trở nên các Kitô hữu, "Con cái yêu dấu" của Thiên Chúa. Chúng ta cũng được mời gọi đi loan báo Tin Vui cứu độ, rằng Thiên Chúa yêu thương con người. Chúng ta được mời gọi đặc biệt để mang Tình yêu Chúa đến cho những người cùng khổ, những người bị bỏ rơi, bị khinh miệt, bị sa ngã trong tội. Martin Luther King có nói: "Hãy yêu thương mọi người đừng vì thiện cảm; cũng không vì cách sống của họ dễ mến, dễ thương. Nhưng vì chính Thiên Chúa ở trong họ". Nếu chúng ta chờ cho họ trở nên đáng yêu rồi mới yêu họ, chúng ta sẽ phải chờ suốt đời. Chính khi được yêu mà họ sẽ trở nên đáng yêu.
Trong biển đời mênh mông này, mỗi người đều không ngừng thay đổi cả hướng tốt lẫn xấu, chúng ta chớ cho rằng mình đã hiểu tới chân tơ kẻ tóc một ai đó. Cứ nghe theo trái tim mách bảo mà quảng đại trao ban.
Zundel viết: "Đừng để ai trong những người anh em của chúng ta có thể phàn nàn, rằng họ chẳng gặp được lòng nhân hậu của Thiên Chúa nơi chúng ta".
****
Lạy Chúa, Chúa đã nên bạn đồng hành với thân phận mỏng dòn yếu đuối của chúng con, xin cho chúng con cũng biết đem Tình yêu cao cả nồng ấm của Chúa đến cho anh chị em chúng con. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
6. Hòa đồng với những người tội lỗi
Mahatma Gandhi không phải là một kitô hữu, nhưng ngài là một trong những người đã sống giống Đức Kitô nhất trong thế kỷ của ngài.
Gandhi kiên quyết chống lại hệ thống phân biệt giai cấp ở Ấn độ. Ngài gọi đó là "một vết nhơ trong linh hồn nước Ấn độ". Ngài đặc biệt ghê tởm cách người ta đối xử với những người "không nên đụng tới", tức là những người không được xếp vào giai cấp nào cả trong xã hội: họ không được vào các đền thờ; nếu sống ở thành thị, họ bị buộc phải ở trong những khu ổ chuột; nếu sống ở thôn quê, họ bị cấm không cho sử dụng những giếng nước công cộng; về việc làm, họ chỉ được làm những việc thấp hèn với đồng lương rất thấp.
Vì là một nhân vật nổi tiếng khắp Ấn độ nên Gandhi đi đến đâu cũng được mọi người tiếp rước nồng hậu. Khi ngài vào một làng nào thì ông trưởng làng mời ngài đến trọ tại nhà ông ta với đầy đủ thức ăn thức uống và mọi tiện nghi dễ chịu. Nhưng Gandhi luôn từ chối một cách lịch sự. Ngài hỏi: "Những người 'không nên đụng tới' ở đâu vậy? Tôi muốn trọ tại nhà họ". Và quả thực ngài đã đến với những người ấy, ở với họ, ăn uống với họ, chơi đùa với con cái họ. Có lần ngài còn nói: "Tôi không thể được sinh ra lần nữa. Nhưng nếu có thể thì tôi muốn sinh ra giữa những người 'không được đụng tới', vì nhớ đó tôi mới có thể giải phóng họ và chính bản thân tôi khỏi cuộc sống khốn khổ". Tóm lại Gandhi đã quên thân phận mình để hòa đồng với những người khốn khổ hầu có thể giải phóng họ.
Hôm nay Đức Giêsu xếp hàng chung với những kẻ khốn khổ để chờ được Gioan làm phép thanh tẩy. Ngài đã quên thân phận mình để hòa mình với những kẻ khốn khổ. Những kẻ khốn khổ ấy là những người tội lỗi, những người nghèo, những người bệnh tật, những kẻ bị xã hội coi khinh. Họ là thành phần đa số trong xã hội Palestina thời đó. Đức Giêsu không tách riêng ra, Ngài không đứng bên lề, không chờ họ đến với Ngài, mà đích thân tìm đến với họ và ở giữa họ.
Chính Chúa Cha từ trời đã vừa ý với sự chọn lựa ấy, nên đã phán: "Con là con yêu dấu của Cha. Cha hài lòng về con" (Viết theo Flor McCarthy)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã lãnh nhận phép rửa của thánh Gioan Tiền Hô, rồi được Chúa Cha tỏ lòng sủng ái, và được Chúa Thánh Thần tấn phong làm Đấng Cứu độ muôn dân. Chúng ta hết lòng cảm tạ và dâng lời cầu xin:
1. Xin cho mọi người đã được Chúa Thánh Thần xức dầu tấn phong làm Kitô hữu/ luôn sẵn sàng cộng tác với Hội thánh để đem ơn cứu độ đến cho thế giới.
2. Xin cho mọi người lương thiện đang kiếm tim hạnh phúc thật/ được gặp thấy Đức Giêsu là Đấng Cứu độ/ và là Đường dẫn tới hạnh phúc thật.
3. Xin cho mọi người đang băn khoăn đau khổ trước cuộc sống đầy bất công và bất hạnh/ biết mở rộng tâm hồn để đón nhận ơn ban của Chúa Thế giới.
4. Xin cho mọi người trong cộng đồng xứ đạo chúng ta đã lãnh nhận bí tích Thêm sức/ luôn nhớ thi hành sứ vụ truyền giáo cho những người chung quanh mình.
Chủ tế: Lạy Chúa, chúng con đã được Rửa tội và được Thêm sức trong Đức Giêsu Kitô và Thánh Thần của Người để được làm con cái Chúa, xin cho chúng con luôn sống xứng đáng người con yêu của Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô...
VI. Trong Thánh lễ
Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta cũng được thanh tẩy trong cùng một Thánh Thần như Đức Giêsu và cũng được làm Con yêu dấu của Chúa Cha. Giờ đây, chúng ta hãy cùng với Đức Giêsu dâng lên Thiên Chúa là Cha những tâm tình con thảo của chúng ta.
Trước lúc rước lễ: Thánh lễ là một bàn tiệc, con cái và cha mẹ quây quần bên nhau trong cùng một bàn ăn. Chúng ta được chia xẻ thân phận làm con của Đức Giêsu nên cũng được mời dự bữa tiệc thánh này. "Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian. Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa"
VII. Giải tán
Chúng ta đã được thanh tẩy trong Đức Giêsu và được tuyển chọn bởi Chúa Thánh Thần để đem Tin Mừng đến cho mọi người. Chúng ta hãy ra đi thi hành sứ mạng cao cả ấy. Chúc anh chị em bình an.
9.Một cuộc đổi mới--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP.
Hôm nay Phụng vụ kết thúc mùa Giáng sinh và bắt đầu mùa thường niên. Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa khởi đầu cho mùa thường niên này.
Việc Chúa Giêsu nài ép Gioan làm phép rửa cho mình khiến chúng ta phải ngạc nhiên. Ngài là Đấng “vô tội” tại sao lại xin chịu phép rửa sám hối như một tội nhân? Ngài làm như vậy là vì ngay từ đầu đời sống công khai, Ngài đã thực hiện trọn vẹn ý Cha, như người “Tôi Tớ vâng phục” mà các tiên tri đã loan báo. Ngài sẵn sàng vâng phục chấp nhận cái chết trên thập giá. Phép Rửa bằng máu này dẫn tới và thánh hiến phép rửa bằng nước.
Việc làm của Chúa Giêsu giúp chúng ta nhận ra ý nghĩa Phép Rửa Tội của chúng ta. Nhờ phép rửa tội, chúng ta được nhận lại làm con Chúa, được thừa hưởng Nước Trời. Do đó, chúng ta phải dấn thân trọn vẹn để sống với Chúa trong tình hiệp nhất yêu thương, sống trọn vẹn tình con đối với Cha, sống sao cho xứng danh Kitô hữu để làm vinh danh Cha trên trời.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Is 42,1-4.6-7.
Khi ấy dân Do thái bị thử thách nặng nề, phải đi đầy ở Babylon. Để khích lệ họ, tiên tri Isaia loan báo: họ vinh dự được Thiên Chúa chọn làm đầy tớ lý tưởng của Ngài, có trách nhiệm giới thiệu Thiên Chúa cho dân ngoại.
Đây là bài thứ nhất trong 4 bài ca về Người Tôi Tớ trong sách đệ nhị Isaia. Vì được Thánh Thần ngự trên mình, Người Tôi Tớ của Thiên Chúa là Đấng mạnh mẽ và sẽ chiến thắng mọi kẻ thù. Nhưng Ngài không thích dùng bạo lực, trái lại, Ngài yêu thương cứu vớt những kẻ tội lỗi yếu đuối, “không lớn tiếng, không bẻ gẫy cây lau bị dập, không dập tắt tim đèn còn leo lét”.
Tất cả những nét Isaia mô tả Người Tôi Tớ đều được thực hiện nơi Đức Giêsu. Chính Đức Giêsu sẽ đảm nhận vai trò Người Tôi Tớ. Vai trò này, Ngài sẽ hoàn thành khi biến tôn giáo của đức tin thành một sự ưng thuận thắm tình con thảo mà mọi người đều có thể nói lên, dù người ấy thuộc bất cứ nền văn hoá hay quốc gia nào. Theo gương Đức Kitô, các Kitô hữu cũng phải thực hiện nhiệm vụ trên.
+ Bài đọc 2: Cv 10,34-38.
Đây là phần đầu bài giảng của thánh Phêrô ở Cêsarêa cho ông Corneliô, viên sĩ quan Rôma và gia đình của ông để giúp họ hoán cải và chịu phép rửa. Đây là một việc làm có tính cách cách mạng vì từ trước đến nay các tông đồ chưa nghĩ đến việc cho người ngoại gia nhập Giáo hội.
Trong bài nói chuyện với người Do thái, Phêrô cho biết sở dĩ Ngài dám làm như vậy vì “Thiên Chúa không thiên tư tây vị ai, hễ ai thực hành sự công chính, đều được Ngài đón nhận”. Chính Đức Giêsu Nazareth đã được Thiên Chúa dùng Thánh Thần và quyền năng xức dầu tấn phong Ngài và Ngài đã đi khắp nơi để ban phát ơn lành.
+ Bài Tin mừng: Lc 3,15-16.21-22.
Cả 3 bài Tin mừng của lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa có rất nhiều điểm giống nhau. Chúng ta có thể chia bài Tin mừng thành 2 phần:
* Phần một: Ông Gioan thanh minh là mình không phải là Đấng Kitô như người ta tưởng. Có Đấng sẽ đến sau ông và cao trọng hơn ông. Hiện nay ông chỉ rửa họ bằng nước, còn Đấng đến sau sẽ làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần.
* Phần hai: Đức Giêsu nhận phép rửa của ông Gioan và trong nghi lễ này Đức Giêsu được tấn phong làm Đấng Messia, Đấng Cứu thế. Đó chính là ý nghĩa việc Thánh Thần hiện xuống,”các tầng trời mở ra”, cách diễn tả lấy lại của Isaia 63,11-14.19 khi công bố tấn phong một vị giải phóng mới. Có tiếng nói từ trời vang trên Đức Giêsu, tiếng nói ấy cũng thuộc về nghi thức phong vương một vị vua mới:”Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con”.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Một cuộc đổi mới.
I. NGÀY LỄ PHONG VƯƠNG.
Phụng vụ hôm nay, nhất là bài Tin mừng, gợi lên cho chúng ta ý tưởng về ngày lễ phong vương. Thánh Marcô cho chúng ta biết Đức Giêsu chịu phép rửa của ông Gioan ở sông Giorđan. Chính khi Đức Giêsu được dìm trong nước và được kéo lên thì trời mở ra và có Thánh Thần hiện xuống dưới hình chim bồ câu và tiếng nói từ trời vang xuống:”Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. Đây là tiếng của Thiên Chúa Cha nói với Đức Giêsu để nhận Ngài làm Con. Lời nói ấy khiến chúng ta nghĩ đến một nghi lễ phong vương.
Ngày xưa, khi một người được phong lên làm vua thì phải trải qua một cuộc lễ phong vương với nghi thức gồm 3 phần, và hôm nay Đức Giêsu cũng đã thực hiện 3 phần ấy:
- Phải tắm rửa sạch sẽ.
- Phải được xức dầu.
- Và được tôn xưng làm vua.
1. Phải tắm rửa sạch sẽ.
Đức Giêsu chịu phép rửa ở sông Giorđan bởi tay ông Gioan Tẩy giả. Chỉ ai không trong sạch mới cần tắm rửa. Vậy, Đức Giêsu là chiên của Thiên Chúa, một con chiên trong sạch vô tì tích, tại sao lại phải tẩy rửa tội lỗi? Thưa, Ngài làm như vậy là để hòa đồng với con người khiêm nhường để từ đó dạy ta rằng muốn vào Nước Trời, phải ăn năn sám hối, cải thiện đời sống và phải tắm gội tâm hồn cho trong sạch:”Phúc cho ai có tâm hồn trong sạch vì họ sẽ được xem thấy Chúa”.
2. Phải được xức dầu.
Đức Giêsu được Thánh Thần xức dầu tấn phong. Trong bài đọc 2, thánh Phêrô nói:”Đức Giêsu thành Nazareth được Thiên Chúa dùng Thánh Thần và quyền năng và xức dầu tấn phong cho Ngài”.
Tiên tri Isaia đã nói trước và chính Đức Giêsu đọc đoạn sách của Isaia ở hội đường Do thái:”Thánh Thần Chúa ngự trên tôi: Vì Chúa đã xức dầu cho tôi, Người đã sai tôi đem Tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, báo tin ân xá cho những kẻ bị lưu đầy, phóng thích cho những tù nhân, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa...”(Is 61,1-3). Và Đức Giêsu đã kết luận: hôm nay đã ứng nghiệm lời tiên tri Isaia nói về Ngài.
3. Ngài được phong vương.
Đức Giêsu được tôn phong làm vua, là Đấng Messia, là Chúa Cứu thế.
Trong Tin mừng, Thánh Marcô nói:”Khi Ngài vừa ở dưới nước lên thì Trời mở ra, Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên Ngài và có tiếng từ trời phán:”Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. Đây là lời tuyên phong long trọng Đức Giêsu là Vua, là Con Thiên Chúa.
II. Ý NGHĨA VIỆC CHỊU PHÉP RỬA.
1. Phép rửa của Gioan và của Đức Giêsu.
Chúng ta thấy có sự khác nhau giữa phép rửa của Gioan và của Chúa Giêsu. Phép rửa của Gioan chỉ là dấu hiệu của sự ăn năn sám hối. Người Do thái đến cho Gioan làm phép rửa là để được ăn năn các tội mình để được ơn tha thứ. Còn Chúa Giêsu Kitô, con người vô tội, không thể lãnh nhận Phép rửa với hướng đó. Vậy Ngài đến xin rửa không phải là cho mình, mà là cho người khác, vì người khác. Ngài chịu phép rửa là nói lên, từ nay, Ngài chung số phận với người tội lỗi và đó là tất cả ý nghĩa đời Ngài và cuộc đời này chỉ hoàn tất với phép rửa cuối cùng, của sự chết (Mc 10,38 ; Lc 12,50) vì chết là cùng chung số phận của con người tội lỗi, con người bị sa ngã, và là số phận bi đát nhất.
Phép rửa của Chúa Giêsu là phép rửa “tái sinh”. Nó ban cho mọi người một đời sống toàn vẹn. Giải thích về đời sống mới này, thánh Phaolô đã viết cho các Kitô hữu vừa mới được rửa tội như sau:”Khi được rửa tội là anh em được mai táng với Đức Kitô, và trong phép rửa tội, anh em cũng được sống lại với Đức Kitô. Anh em đã bị chết về mặt tâm linh nhưng giờ đây Thiên Chúa đã mang anh em đến nguồn sống cùng với Đức Kitô”(Cl 2,12-13).
2. Lý do Đức Giêsu chịu phép rửa.
Việc Đức Giêsu tự nguyện đến xin chịu phép rửa của Gioan không nhằm ăn năn sám hối tội lỗi như bao người khác, vì Ngài là Đấng vô tội (Dt 5,15b ; 7,26). Nhưng qua hành động này, Ngài muốn chia sẻ thân phận yếu hèn và cảm thông với các tội nhân để sau này sẽ chịu chết đền tội thay cho họ. Đàng khác, việc toàn thân Chúa Giêsu được Gioan dìm xuống nước sông Giorđan, chính là hình bóng của phép rửa mà Ngài sẽ phải chịu trong mầu nhiệm tử nạn và phục sinh sau này (x.Rm 6,3-4). Và từ mầu nhiệm phục sinh, Chúa Giêsu thiết lập bí tích rửa tội để nhờ đó tái sinh các tín hữu và đổi mới họ nhờ nước và Thánh Thần. Đây cũng là điều kiện để được gia nhập vào Nước Thiên Chúa (x.Ga 3-6 ; Tt 3,5).
Ngoài ra, việc Đức Giêsu đến xin chịu phép rửa của Gioan còn là cơ hội để ông thi hành sứ mệnh tiền hô đi trước dọn đường và làm chứng cho Ngài. Ngài chịu phép rửa của Gioan để sẽ làm cho phép rửa bằng nước trở thành bí tích rửa tội trong Chúa Thánh Thần (x.Mc 1,8) và lửa (x.Lc 3,16; Cv 2,3-4).
3. Ý nghĩa Bí tích rửa tội.
Trước khi về trời, Đức Giêsu lập bí tích rửa tội khi Ngài nói với các môn đệ:”Các con hãy đi rao giảng cho muôn dân, rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần (Mt 26,20).
Chúng ta xem lại phép rửa của Gioan Tiền hô: phép rửa của Gioan Tiền hô chỉ là một nghi thức tượng trưng, có mục đích nhắc nhở và thúc giục người ta ăn năn sám hối và cải thiện đời sống. Phép rửa này không có khả năng tẩy xóa tội lỗi, không có năng lực ban ơn thánh. Bởi vì phép rửa này không phải là một bí tích, đúng như Gioan đã quả quyết, đồng thời Ngài cũng giới thiệu một phép rửa khác, phép rửa của Chúa Giêsu, là phép rửa bằng Thánh Thần, nghĩa là phép rửa của Chúa Giêsu là một bí tích thông ban Chúa Thánh Thần, mặc dầu cũng dùng tới nước, nhưng nước chỉ là điều kiện, là nghi thức bên ngoài, còn thực sự là được rửa bằng Thánh Thần, biến đổi con người tội lỗi nên con Thiên Chúa, và được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu Nước Trời.
Khi chúng ta lãnh nhận phép rửa tội, Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta tham dự vào mầu nhiệm sự chết và sống lại của Ngài. Chúng ta vào đời khi được sinh ra và vào đạo của Thiên Chúa khi được rửa tội. Trong nghi thức rửa tội chúng ta được dìm trong nước hoặc đổ nước trên đầu để chỉ việc tẩy rửa khỏi tội tổ tông và mọi tội riêng, được tái sinh làm con cái của Chúa và gia nhập vào Giáo hội. Vì thế, Giáo hội coi bí tích rửa tội như một cuộc tái sinh, người được rửa tội trở thành một con người mới. Họ thấy đâu là ơn gọi và định mệnh của con người, đâu là ý nghĩa của cuộc đời.
Truyện: Tôi mới có 2 tuổi.
Có một cụ già, mãi tới khi 80 tuổi mới lãnh nhận phép rửa tội. Bắt đầu từ đó cụ sống một đời rất gương mẫu. Hai năm sau, cụ hấp hối. Có người muốn biết cụ bao nhiêu tuổi. Cụ dõng dạc trả lời:”Tôi mới có hai tuổi. Tám mươi năm trước khi rửa tội là những năm chết. Tôi mới bắt đầu sống thật khi tôi chịu phép rửa tội”. Thật là chí lý (Phạm văn Phượng, Chia sẻ TM Chúa nhật, B, tr 38).
III. BÍ TÍCH RỬA TỘI VÀ CHÚNG TA.
Ngày nay, mỗi người chúng ta đã được chịu phép rửa tội để trở thành Kitô hữu, con Thiên Chúa, con của Giáo hội. Bí tích rửa tội là cửa ngõ đưa ta vào trong Giáo hội và Nước Trời. Vậy bí tích rửa tội có tương quan gì với chúng ta không, và chúng ta phải sống thế nào cho xứng với hồng ân ấy?
1. Một cuộc đổi mới.
Chúng ta là những con người tội lỗi, nhờ phép rửa tội chúng ta được tẩy sạch mọi tội lỗi để trở nên con người mới trong trắng, xứng đáng làm con của Đấng đã phán:”Các ngươi hãy nên thánh vì Ta là Đấng thánh”. Tuy thế, sống giữa trần gian đầy cám dỗ, nhiều khi tấm áo tắng trong ngày chịu phép rửa tội đã bị hoen ố vì những hành vi xấu xa của ta, nên phải cố gắng đổi mới cuộc sống của ta theo câu tâm niệm vua Thành Thang đã viết vào trong bồn tắm:”Nhật tân, nhật nhật tân, hựu nhật tân”: mỗi ngày nên mới, ngày ngày nên mới, ngày tới phải nên mới. Vua cho rằng: người ta phải gột rửa con tim cho sạch tội nhơ như thân xác phải tắm rửa hằng ngày (X. Đại học I,1).
Chúng ta phải làm một cuộc cách mạng bản thân nghĩa là phải lột bỏ con người cũ tội lỗi mà mặc lấy con người mới tốt lành thánh thiện như thánh Phaolô đã dạy. Phương pháp giáo dục của người xưa vẫn còn tính cách thời sự nơi chúng ta: Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.Theo trật tự của cuộc cách mạng, thì cách mạng bản thân là điều tiên quyết.
Truyện: Thay đổi chính mình.
Linh mục Anthony de Mello kể lại tâm sự của một nhà hiền triết như sau:
Nhìn lại cuộc sống đã qua, nhà hiền triết thú nhận: Lúc thiếu thời tôi là một kẻ hiếu động. Trong sự hăng hái của tuổi trẻ tôi thường xin Chúa cho tôi sức mạnh biến đổi trái đất này trở nên tốt hơn.
Khi được nửa đời người, tôi ý thức là mình chưa làm được gì cả, chưa thay đổi được bất cứ người nào. Tôi lại đổi lời cầu nguyện cho thiết thực hơn:”Lạy Chúa, giờ đây con chỉ xin Chúa cho con khả năng thay đổi cuộc sống của những người con tiếp xúc hằng ngày thôi”.
Nhưng rồi khi tuổi đời sắp hết, tôi thấy rằng mình quá cao vọng và ảo tưởng, tôi lại thay đổi lời cầu nguyện như sau:”Lạy Chúa, xin ban cho con ơn thay đổi chính bản thân con”.
Nếu từ tuổi thanh xuân tôi đã cầu nguyện như thế, thì có lẽ tôi không phải hối tiếc vì đã sống một đời sống vô ích.
2. Tập sống khiêm nhường.
Việc Đức Giêsu đến xin ông Gioan làm phép rửa làm cho chúng ta phải suy nghĩ: Đức Giêsu được Gioan giới thiệu là “Con chiên Thiên Chúa”, một con chiên vô tì tích tại sao lại đến chịu phép rửa để xin được ơn tha tội như mọi người tội lỗi đến xin? Thánh Matthêu coi cử chỉ đó như là thực hiện “chương trình khiêm hạ và phục vụ” mà các tiên tri đã báo trước (Mt 3,14-15). Đức Giêsu chịu phép rửa để nêu gương cho ta về sự khiêm nhường, Ngài nhận mình là người có tội như mọi người để hòa đồng với mọi người, để giúp cho con người luôn có tinh thần sám hối, tự hạ trước mặt Chúa:”Trong các con ai làm lớn nhất phải xử như kẻ nhỏ nhất. Ai làm đầu kẻ khác phải coi mình như tôi tớ”(Lc 22,26).
Theo nhà Phật, con người có ba chứng nguy hiểm nhất: tham, sân, si.
- Tham là vì ích kỷ.
- Sân là vì tự ái.
- Si là vì ngu muội.
Trong ba chứng bệnh nói đây thì “Sân” là khó diệt hơn cả. Bởi vì lòng tự ái (kiêu ngạo) là một thói xấu sống dẻo dai bậc nhất, đến nỗi thánh Phanxicô Salêsiô phải nói:”Nó chỉ ngưng hoạt động 15 phút sau khi tôi chết”.
Các bậc hiền nhân quân tử đều coi đức “khiêm tốn” là căn bản trong công việc cải tạo con người. Tính tự ái (kiêu ngạo) buộc con người vào dục vọng, làm cho họ phải đảo điên, thì lòng khiêm tốn sẽ là phương tiện giải thoát, đem lại thế quân bình, tức là sự bằng yên cho tâm hồn.
Truyện: Vừa thì đứng
Một hôm Khổng Tử tới thăm miếu vua Hoàn Công nước Lỗ, thấy một chiếc lọ đứng nghiêng nghiêng, ngài hỏi, thì người giữ miếu cho biết:
- Cái lọ này là một bảo vật, thuở trước nhà vua hằng để bên ngai vàng hầu làm gương.
Ngài nói:
- Ta vốn nghe đồn nhà vua có một bảo vật, bỏ không thì nghiêng, đổ nước vào vừa phải thì đứng thẳng, mà đổ đầy thì lại ngã. Có lẽ là vật này chăng?
Rồi ngài bảo học trò múc nước thí nghiệm thì quả nhiên đúng như thế.
Bấy giờ ngài mới trịnh trọng giảng giải:
- Thông minh thánh trí nên giữ bằng cách ngu muội. Có công to trong thiên hạ nên giữ bằng cách khiêm cung. Sức khỏe hơn người nên giữ bằng cách nhút nhát. Giầu có bốn biển nên giữ bằng cách bố thí và thái độ nhún nhường. Đó là lối san sẻ bớt đi để khỏi đầy tràn mà sụp đổ vậy”.
3. Sống xứng danh Kitô hữu.
Khi được chịu phép rửa tội, chúng ta được gọi là Kitô hữu. Danh xưng Kitô hữu là chỉ một người thuộc về Chúa Kitô, là người được mang danh Chúa Kitô, là Kitô khác, là Chúa Kitô nối dài. Để sống xứng đáng với danh hiệu đó, chúng ta phải có nhiều nỗ lực, nhiều khi phải đau khổ, hy sinh, nhục nhã, chịu nhiều phiền toái, thua thiệt...nhưng đó là giá phải trả để chúng ta đạt được niềm vui đích thực trong cuộc đời làm con Chúa.
Truyện: Tên con là Phliliphê.
Một hôm, người ta đem đến trình vua Philiphê một thanh niên bị bắt quả tang ăn trộm. Vua nhìn thẳng vào mặt hắn và hỏi:
- Tên mày là gì?
Anh ta rụt rè thưa:
- Thưa tên con là Philiphê ạ.
Vua trợn mắt nói tiếp:
- Mày là Philiphê trùng với tên tao mà mày lại đi ăn trộm à? Mày làm ô danh tao. Vậy mày phải làm một trong hai việc: một là phải đổi tên đi, hai là phải thay đổi cách sống...
Chúng ta đã lãnh nhận bí tích rửa tội và đã được trở thành con Thiên Chúa. Được làm con Thiên Chúa là một tước hiệu vô cùng cao quí, một hồng ân lớn lao Chúa ban cho con người. Nhưng chúng ta đã sống thế nào với hồng ân cao qúi ấy? Cha trên trời có hài lòng với chúng ta không?
Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, Chúa Cha đã phán:”Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. Vậy Cha trên trời có hài lòng với chúng ta không? Chúng ta đã trở thành con Chúa và được mang danh hiệu là Kitô hữu, vì vậy, nỗ lực của cúng ta là phải luôn cố gắng sống xứng đáng với danh hiệu ấy để được Chúa hài lòng với chúng ta.
10.Sống hiền hòa và khiêm hạ noi gương Đức Giêsu--Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH: Đức Giêsu được tấn phong làm vua Mêsia
Tin mừng Mác-cô trình bày việc Đức Giêsu được tấn phong làm Vua Mê-si-a tương tự như một lễ phong vương gồm 3 nghi thức như sau:
- Một là thanh tẩy: Đức Giêsu được Gio-an Tẩy Giả dìm trong nước sông Gio-đan.
- Hai là xức dầu: Đức Giêsu được Thần Khí, qua hình ảnh chim câu, từ trời đáp xuống trên mình để xức dầu thiêng liêng tấn phong làm Vua Mê-si-a.
- Ba là tung hô: Đức Giêsu cũng được Chúa Cha công khai thừa nhận là “Con rất yêu dấu” luôn làm mọi việc theo thánh ý Cha.
CHÚ THÍCH:
- C 7-8: +Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi: Gio-an là “Sứ giả của Giao Ước”, có nhiệm vụ như Ê-li-a ngày xưa: đến trước để chấn hưng mọi sự, hầu dọn đường cho Đức Chúa ngự đến (x. Ml 3,1-3.23-24). Mọi lời Gio-an rao giảng đều liên quan tới Đấng Thiên Sai. Tuy Đấng Thiên Sai đến sau Gio-an nhưng Người lại có đầy sức mạnh và Thần Khí của Đức Chúa để chiến thắng kẻ thù (x. Is 11,2), cụ thể là chiến thắng Xa-tan cám dỗ (x. Mc 1,12-13). +Tôi không đáng cúi xuống cởi quay dép cho Người: Cởi quai dép là việc làm của người nô lệ. Gio-an khiêm tốn nhận mình không đáng làm nô lệ cho Đấng Thiên Sai sắp đến. +Phép rửa nhờ nước: Khi chịu phép rửa này, người chịu phép được Gio-an dìm xuống sông Gio-đan như dấu hiệu“tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội” (x. Mc 1,4). Từ đây họ được gia nhập vào nhóm những người chuẩn bị đón Đấng Mê-si-a. +“Phép rửa trong Thánh Thần”: Phép Rửa này ám chỉ toàn bộ công trình cứu độ của Đức Giêsu. Những kẻ chịu phép rửa do Đức Giêsu thực hiện sẽ nhận được Thần Khí tuôn đổ vào lòng. Nhờ đó họ được tẩy sạch mọi vết nhơ tội lỗi. Họ sẽ được tặng một quả tim mới bằng thịt biết yêu thương, thay cho quả tim đã hóa ra chai đá (x. Is 44,3).
- C 9-10: +Đức Giêsu từ Na-da-rét miền Ga-li-lê đến, và được ông Gio-an làm phép rửa dưới sông Gio-đan: Đúng như lời Gio-an loan báo, Đức Giêsu đã xuất hiện và trước hết Người đến với ông Gio-an. Gio-an đã thi hành sứ mạng tiền hô khi làm phép rửa cho Người trong nước sông Gio-đan .+Người liền thấy: Mác-cô tường thuật cuộc Thần Hiện của Đức Giêsu lúc chịu phép rửa như một thị kiến mà chỉ riêng mình Người trông thấy, đang khi các Tin Mừng còn lại như Mát-thêu, Lu-ca và Gio-an lại tường thuật đúng như đã xảy ra (x. Mt 3,13-17; Lc 3,21-22; Ga 1,32-34). +Các tầng trời xé ra: Đây là sự đáp ứng của Thiên Chúa cho lòng khát vọng của dân Ít-ra-en và của nhân loại. Người ta chờ mong “trời mở ra và Thiên Chúa sẽ xuống cứu độ dân Người”. Hôm nay qua hiện tượng các tầng trời xé ra, Thiên Chúa bắt đầu thực hiện những lời Ngài đã hứa qua các ngôn sứ (x. Is 63,19b). Ngài sai Thánh Thần ngự xuống trên Đức Giêsu, giống như Đức Chúa trong cuộc Xuất hành đã ngự xuống trên con dân Ít-ra-en (x. Xh 19,11.18). Với việc trời xé ra, Đức Giêsu bắt đầu ra khỏi Na-da-rét để công khai thi hành sứ mạng cứu độ loài người, đối lập với A-đam ngày xưa (x. Rm 5,12-19). +Người liền thấy Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống trên mình: Câu này nhắc tới sự kiện Thần Khí của Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước khi Chúa sáng tạo nên trời đất muôn vật (x. St 1,2), nhằm diễn tả một một cuộc sáng tạo mới được thực hiện nơi Đức Giêsu sau khi chịu phép Rửa. Thánh Thần xức dầu thiêng liêng tấn phong và giới thiệu Người là Đấng Thiên Sai, qua hình ảnh một con chim câu đậu xuống trên mình Người (x. Is 11,2 ; 42,1).
- C 11: +“Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”: Qua câu này, Mác-cô muốn làm nổi bật dung mạo của Đức Giêsu: Người chính là Vua Thiên Sai, được xức dầu tấn phong để cai trị muôn dân (x. Tv 2,7) ; Người là Con Một yêu dấu của Chúa Cha, trở thành của lễ hiến tế trên bàn thờ thập giá (x. St 22,2); Người là Tôi Trung của Thiên Chúa, được sai đến rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chịu chết để đền tội thay cho loài người và sống lại để phục hồi sự sống đời đời cho loài người (x. Is 42,1).
CÂU HỎI: Tại sao Đức Giêsu là “Đấng quyền thế hơn” mà lại xuất hiện như một tội nhân đứng xếp hàng để được Gio-an làm phép rửa tại sông Gio-đan?
ĐÁP: Việc Đức Giêsu tự nguyện đến xin chịu phép Rửa của Gio-an không phải để sám hối tội lỗi như bao người khác, vì Người vô tội (x. Dt 5,15b; 7,26). Nhưng qua hành động này, Người muốn chia sẻ thân phận yếu hèn với các tội nhân và cảm thông với họ (x. Pl 2,6) và sau này Người sẽ còn chịu chết trên cây thập giá để đền tội thay cho họ.
Đàng khác, việc toàn thân Đức Giêsu được Gio-an dìm xuống nước sông Gio-đan, chính là hình ảnh của phép rửa sẽ phải trải qua trong cuộc Tử Nạn và Phục Sinh sau này (x. Rm 6,3-4). Từ mầu nhiệm Phục Sinh, Đức Giêsu sẽ thiết lập bí tích Rửa Tội, để tái sinh các tín hữu trở nên con Thiên Chúa và canh tân họ nhờ nước và Thần Khí. Đây là điều kiện cần có để được gia nhập vào Nước Thiên Chúa (x. Ga 3,3-6). Ngoài ra, đây còn là cơ hội để Gio-an Tẩy Giả thi hành sứ mạng tiền hô đi trước dọn đường và làm chứng Người thực là Đấng Thiên Sai với dân Do thái. Cuối cùng, Đức Giêsu chịu phép rửa của Gio-an để biến đổi phép rửa bằng nước trở thành bí tích Rửa Tội trong Thánh Thần (x Mc 1,8) và lửa (x Lc 3,16;Cv 2,3-4), để ban ơn cứu độ cho các tín hữu.
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Khi ấy, Gio-an rao giảng rằng: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quay dép cho Người” (Mc 1,7).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Giá trị của sự khiêm hạ giữa đời thường:
Một tài xế xe tải kia không dám cho xe tải chạy qua cầu, vì theo anh nghĩ chiếc xe tải có mui xe cao hơn thành cầu tới 10 phân. Trong lúc tiến thoái lưỡng nan, không biết nên giải quyết thế nào, thì có người đề nghị: Hãy xì bớt hơi cho các bánh xe xẹp xuống. Anh tài xế liền làm theo lời khuyên này và cuối cùng chiếc xe của anh đã có thể an toàn đi qua cầu.
Xì hơi cho bánh xe xẹp bớt cũng giống như thái độ khiêm nhường. Trong giao tiếp với tha nhân, nếu “biết mình biết người, thì trăm trận trăm thắng!”. Cũng nhờ biết ứng xử khiêm tốn nhún nhường với tha nhân mà chúng ta sẽ dễ dàng thành công trong mọi việc.
2) Khiêm tốn là luôn trong tư thế quân bình:
Một hôm Khổng Tử tới thăm miếu vua Hoàn Công nước Lỗ, thấy một chiếc lọ đứng nghiêng thì hỏi thăm và được người giữ miếu cho biết:
- Cái lọ này là một bảo vật, thuở trước nhà vua luôn để gần ngai vàng để nhắc nhở mình.
Khổng Tử nói:
- Ta nghe đồn nhà vua có một bảo vật: không cho nước vào thì lọ sẽ đứng nghiêng ; Đổ nước vào vừa phải thì lọ sẽ đứng thẳng. Còn nếu đổ nước đầy tới miệng thì lọ lại sẽ bị đổ ngã. Có lẽ đó là chiếc lọ này chăng?
Rồi ngài bảo học trò múc nước để kiểm tra thì kết quả đúng như thế.
Bấy giờ Khổng Tử mới dạy bài học về sự trung dung như sau:
- Người thông minh thánh trí thì hãy giữ quân bình bằng cách làm việc như một người tầm thường chứ không muốn được nổi bật hơn người khác. Kẻ lập được công to thì hãy giữ quân bình bằng thái độ và lời nói khiêm hạ chứ không khoe mình. Kẻ có sức khỏe vô địch thì nên giữ quân bình bằng thái độ ứng xử nhún nhường chịu đựng tha nhân. Nếu đang là một người giầu có thì hãy giữ quân bình bằng sự quảng đại chia sẻ cơm áo cho người nghèo khổ. Cái lọ của vua Hoàn Công chính là bài học giúp thực hành lối sống quân bình để khỏi bị sụp đổ vậy”.
3) Tôi mới được 2 tuổi:
Một ông cụ mãi đến năm 80 tuổi mới có điều kiện tin theo Chúa và được lãnh bí tích rửa tội để được tái sinh làm con Thiên Chúa. Từ ngày theo đạo, ông cụ đã thay đổi hẳn trở thành một người mới, ông đã bỏ được sở thích uống rượu say xỉn và không còn chơi bài bạc. Ông đi dự lễ nhà thờ hằng ngày và có lối ứng xử khiêm tốn và bác ái với mọi người chung quanh. Hai năm sau cụ lâm trọng bệnh và bị thày thuốc khám bệnh cho biết cụ sắp chết. Nhiều bạn bè đến thăm và có người thắc mắc hỏi cụ được bao nhiêu tuổi. Ông cụ trả lời:”Tôi mới được hai tuổi. Tám mươi năm trước tôi có sống cũng như chết. Chỉ từ ngày theo đạo tôi mới trở nên một người mới và đến nay mới được hai tuổi”.
3. SUY NIỆM:
Tin mừng lễ Đức Giêsu chịu phép rửa hôm nay dạy chúng ta bài học về mầu nhiệm nhập thể của Chúa Giêsu. Người chính là Con Thiên Chúa đã đến lập cư giữa loài người và trở thành người phàm giống như chúng ta mọi đàng ngoại trừ không có tội. Khi đứng xếp hàng để được Gio-an dìm xuống dòng sông để chịu thanh tẩy bằng nước, Đức Giêsu đã thiết lập bí tích rửa tội để thanh tẩy các tín hữu chúng ta bằng Nước và Thánh Thần hầu ban ơn thánh biến hóa chúng ta trở nên con Thiên Chúa giống như Người. Từ nay chúng ta không còn phải là kẻ xa lạ, nhưng là người nhà của Thiên Chúa. Qua bí tích Thánh Tẩy chúng ta đã được tháp nhập làm chi thể của đầu nhiệm thể là Đức Giêsu. Hơn nữa, chúng ta còn được tham phần vào ba chức vụ của Người là ngôn sứ, tư tế và vương đế. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất chúng ta cần học tập noi gương Chúa hôm nay là ăn ở khiêm hạ trong lời nói và việc làm như sau:
1) Sống khiêm hạ noi gương Đức Giêsu và Ông Gioan Tẩy Giả:
- Đức Giêsu đã dạy các môn đệ học tập noi gương khiêm nhường của Người như sau: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11,29). Người đã nêu gương khiêm nhường khi rửa chân hầu hạ các môn đệ và dạy bài học khiêm nhường: “Anh em gọi Thầy là “Thầy” là “Chúa”, điều đó phải lắm. Vì quả thật, Thầy là “Thầy” là “Chúa”. Vậy nếu Thầy là “Chúa” là “Thầy”, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (x. Ga 13,13-15). Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã thể hiện sự khiêm nhường qua việc đến xếp hàng xin ông Gio-an làm phép rửa, mặc dù Người hoàn toàn vô tội (x. Mc 1,9).
- Còn Gio-an Tẩy Giả cũng thể hiện sự khiêm nhường khi nói mình không đáng làm đầy tớ cho Đấng Thiên Sai như sau: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người” (Mc 1,7). Ông cũng khẳng định mình không phải là Đấng Ki-tô Thiên Sai mà chỉ là tiếng người nói trong hoang địa mời người ta chuẩn bị tâm hồn đón Đấng Ki-tô sắp đến (x. Ga 1,20.23). Gio-an còn chứng tỏ có đức khiêm nhường qua việc đề cao Đức Giêsu trước mặt các môn đồ: “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (x.Ga 3,30).
2) Chúng ta cần làm gì để thực hành nhân đức khiêm nhường?:
- Khiêm nhường trong lời nói: Hãy nói ít nghe nhiều; Không khoe khoang thành tích của mình; Không phê bình nói xấu người vắng mặt; Sẵn sàng xin lỗi khi mắc phải sai sót khiến tha nhân buồn lòng; Kịp thời khen thưởng người cộng tác để động viên những cố gắng của họ; Can đảm bênh vực những người yếu đuối thân cô thế cô bị kẻ khác đàn áp bóc lột.
- Khiêm nhường trong thái độ: Năng dâng lời cảm tạ hồng ân Thiên Chúa và cám ơn những ai làm ơn cho mình; Luôn có thái độ hiền hòa và nhẫn nhịn tha nhân; Biết làm chủ tính nóng giận và không to tiếng la mắng người dưới; Luôn sống “dĩ hoà vi quí”, không “Bé xé ra to”, hoặc “chuyện không đáng gì mà làm cho ầm ĩ”; Sẵn sàng đi bước trước đến với tha nhân; Biết bỏ ý riêng mình để làm theo ý Chúa muốn thể hiện qua ý bề trên hay ý chung của tập thể.
- Khiêm nhường trong cách ứng xử: Không đổ lỗi cho người khác, nhưng “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân”; Kiên nhẫn lắng nghe lời phê bình góp ý của người khác; Tận tình phục vụ tha nhân vô vụ lợi kèm theo sự khôn ngoan để tránh bị lợi dụng; Tránh thái độ “Thượng tôn hạ đạp”; Can đảm đứng ra bênh vực những người “thân cô thế cô”; Khi công việc bị thất bại sẽ không đổ lỗi cho người khác, mà nhận phần trách nhiệm của mình; Khi thành công thì nhận là do ơn Chúa ban và là công của tập thể. Khi làm được điều gì tốt thì hãy khiêm tốn tự nhủ: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17,10).
4. THẢO LUẬN: Tuần này bạn sẽ làm gì để tập sống đức khiêm nhường noi gương Chúa Giêsu và ông Gio-an Tẩy Giả?
5. NGUYỆN CẦU:
- Lạy Chúa Giêsu. Qua việc tình nguyện xếp hàng xin Gio-an làm phép rửa, Chúa muốn dạy chúng con thực thi đức khiêm nhường, là nền tảng của sự thánh thiện. Về phần con, con mang đầy những tội lỗi khuyết điểm, thế mà con lại thường ngại ngùng khi phải thú tội trong tòa giải tội. Con chỉ là một kẻ bất tài vô đức, thế mà con lại thích được nổi tiếng, được người đời khen ngợi về tài năng và lòng đạo đức của mình. Con thiếu khả năng lãnh đạo, thế mà con lại muốn nắm giữ những chức vụ quan trọng trong tập thể...
- Lạy Chúa Giêsu, “Đấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng”, xin thanh tẩy con sạch mọi thói hư tật xấu, nhất là thói tự ái cao và tự mãn. Xin giúp con thành tâm hoán cải để luôn ứng xử hiền lành và khiêm tốn hơn, để con đáng được Chúa thứ tha tội lỗi và được hưởng hạnh phúc Nước Trời đời sau.
X. Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con.
11.“Con là Con Yêu Dấu của Cha”--Lm Gioan Phan Tiến Dũng
Là những người cha-mẹ trong gia đình, khi sinh con, nuôi dưỡng, giáo dục con cái, chắc hẳn ai cũng đều có những hoài bão, ước nguyện-khẩn cầu, mong sao con mình mau lớn, khỏe mạnh, sớm trưởng thành, để có thể trở nên những người tốt lành-thánh đức, thành đạt trong cuộc sống. Thật vậy, “con ngoan chính là niềm vui và triều thiên của cha mẹ”. Thế nhưng, liệu sự thành đạt của những người con trong xã hội ngày hôm nay, có thực sự làm cho các bậc cha mẹ được an tâm, vui lòng, hạnh phúc? Đối diện với những thực trạng trong các gia đình ngày nay, chúng ta nên làm gì?
Hôm nay trong Lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa, chính Chúa Cha đã mạc khải và tuyên bố cho chúng ta biết, Chúa Giêsu chính là Người Con Yêu Dấu của Thiên Chúa: “Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha”. Chúa Giêsu qua chính cuộc đời và sứ vụ, Ngài đã khẳng định: Ngài chính là Người Con được Chúa Cha sai đến để minh chứng cho chúng ta biết về Thiên Chúa là Người Cha luôn yêu thương chúng ta và luôn mong muốn chúng ta được hạnh phúc. Không những thế, Chúa Giêsu còn trở nên “gương mẫu Người Con tuyệt vời” để cho chúng ta, những ai muốn trở nên những người con được Chúa yêu thương, chúc phúc, đẹp lòng Thiên Chúa.
Câu hỏi được đặt ra: tại sao Chúa Giêsu, con Thiên Chúa, là Đấng Thánh, không có bất kỳ yếu đuối, tội lỗi nào, thế mà Ngài lại chấp nhận để đi vào hàng ngũ của những người đến để xin Gioan làm phép rửa cho mình? Việc Chúa Giêsu chịu phép rửa rất quan trọng trong giai đoạn khởi đầu đời sống và sứ vụ công khai của Ngài. Do đó, sự kiện này đều được cả bốn tác giả sách Tin mừng tường thuật lại để cho chúng ta thấy tầm quan trọng việc Chúa bước vào hàng ngũ của tội nhân, như là chứng tá, mẫu gương cho chúng ta để trở nên những người con yêu dấu của Thiên Chúa.
Khi Chúa Giêsu khiêm tốn, tự đồng hóa mình chấp nhận trong hàng ngũ với các tội nhân, để khi bị dìm xuống trong dòng nước, Ngài đã cúi xuống để cứu vớt chúng ta, nâng chúng ta lên từ vị trí của những con người yếu đuối tội lỗi, bất xứng, được lãnh nhận ơn tha thứ, thánh hóa, được mặc lấy phẩm giá của con cái Thiên Chúa, được sống trong ân sủng. Đồng thời, qua việc Chúa Giêsu chịu phép rửa, Thánh Thần của Thiên Chúa ngự xuống trên Ngài và cũng chính nguồn ơn Thánh Thần này, Ngài sẽ mở ra, trao ban cho mỗi người chúng ta; Vậy nên, khi lãnh nhận bí tích thánh tẩy, chúng ta cũng được trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu, với danh xưng là Kitô hữu, là con cái của Thiên Chúa. Hơn thế nữa, khi Chúa Giêsu chịu phép rửa bởi Gioan, Thiên Chúa đã không còn đứng bên ngoài, hay từ trên cao để nhìn xuống chúng ta, Ngài đã cùng đồng hành, để chia sẻ, an ủi, nâng đỡ dân Ngài cách cụ thể hơn. Và từ đây, Thiên Chúa sẽ ban ơn tái sinh đổi mới cho những ai biết mở lòng, dám chấp nhận cùng bước vào hàng ngũ với Chúa Giêsu, để cho Thánh Thần của Thiên Chúa tác động và cho thánh ý Chúa được thực hiện. Đây cũng chính là điều mà trong bài đọc một mà Tiên tri Isaia nói về “Người Tôi Trung của Thiên Chúa”, người được Chúa yêu thương, hài lòng và ban thần khí cho. Với ơn Chúa, Người Tôi Trung không bao giờ nghĩ đến cho lợi ích cho bản thân, nhưng làm mọi sự vì phần rỗi của tha nhân và làm theo thánh ý của Thiên Chúa.
ACE thân mến, chắc hẳn ai trong chúng ta cũng đều muốn trở nên những người tốt lành, được hạnh phúc, bình an và cao quý hơn là trở nên người con sống đẹp lòng Thiên Chúa. Thánh Phêrô trong bài đọc hai đã chia sẻ cho chúng ta kinh nghiệm để sống trọn vẹn ơn thánh này. Chúng ta không thể nào sống khác hơn nếu không rập theo mẫu gương của Chúa Giêsu, hay nói khác hơn nếu chúng ta không biết cậy dựa, bám víu vào nguồn ân sủng đã được ban cho chúng ta qua Đức Kitô, Người Con Yêu Dấu, Người được Thánh Thần xức dầu tấn phong và sai đi ban ơn cứu độ thì chúng ta không thể nào trở nên người sống đẹp lòng Chúa.
Thật vậy, Lời Chúa hôm nay đã cho chúng ta một khuôn mẫu tuyệt hảo là chính Đức Giêsu Kitô; hãy học theo và sống như Ngài, hãy luôn khiêm tốn và làm mọi việc theo thánh ý Chúa, để làm vinh danh Thiên Chúa và đem ơn ích cho tha nhân. Lạy Chúa, được trở nên người được Chúa hài lòng-thương yêu chính là thánh ý Chúa cho chúng con và cũng là lý tưởng-lẽ sống của mỗi người chúng con. Xin cho chúng con, hôm nay bắt đầu một chu kỳ mới của năm phụng vụ thường niên, luôn biết khiêm tốn, mở lòng và quyết tâm đến với Chúa mỗi ngày, để với ơn thánh Chúa nâng đỡ, chúng con sẽ quyết tâm sống đẹp lòng Chúa và sống tình tương thân tương ái với anh chị em mình. Amen.
12.Người Kitô hữu: chứng tá tuy khác nhau nhưng chung quy cho tình yêu--Lm. Xuân Hy Vọng
Hôm nay, Hội Thánh hân hoan bước vào Mùa Thường Niên, khởi đầu với lễ Chúa Giê-su chịu Phép Rửa. Thoạt tiên, khi nghe đến thánh lễ Chúa Giê-su chịu Phép Rửa, có lẽ chúng ta không khỏi thắc mắc: Phép Rửa Chúa Giê-su chịu có khác gì so với bí tích Rửa tội mà chúng ta được lãnh nhận hay không? Phép Rửa Chúa Giê-su chịu có gì liên quan đến bí tích Rửa tội hay chăng? v.v…
Một điều rõ ràng, hiển nhiên mà chúng ta có thể phân biệt được là Chúa Giê-su chịu phép Rửa, còn chúng ta thì chịu phép Rửa tội hoặc Thanh tẩy, vì mặc dù Người hoàn toàn giống với con người yếu đuối, mỏng dòn, nhưng khác với chúng ta là: Người không mang tội, Người không mắc tội. Tuy vậy, Người vẫn tự nguyện mặc lấy thân phận tội lỗi con người hầu gánh tội, cứu độ nhân loại.
Khi cử hành thánh lễ Chúa Giê-su chịu Phép Rửa, chúng ta hồi tưởng thời khắc ân sủng, thời điểm chúng ta được thanh tẩy tội Tổ Tông, được thánh hoá trở nên con của Thiên Chúa, con của Đấng Thánh, và được chung phần vào Mẹ Giáo Hôi – Nhiệm thể của Chúa Ki-tô, mà trong đó, chúng ta là chi thể của Thân thể mầu nhiệm ấy. Có lẽ, nhiều người trong chúng ta không còn nhớ ngày mình được nhận lãnh bí tích cao cả này?!!! Ngày chúng ta được giải thoát gông xiềng tội Tổ Tông, tội lỗi, hầu trở nên con người mới, con của Ánh sáng, con của Thiên Chúa nhân từ; ngày chúng ta được biến đổi từ chốn bùn nhơ, tối tăm bước vào đời sống mới, đời sống chân chính. Ngày chúng ta được cứu độ khỏi cảnh ‘không chốn nựa tương’, ‘không lối thoát thân’ vì bị tội lỗi gông cùm, và được mang vào ‘cung lòng ấm áp, sâu thẳm của Thiên Chúa’ qua lòng của Giáo Hội. Ôi, thời khắc hồng ân! Mầu nhiệm cao vời vượt quá lòng mong mỏi của con người, cao siêu, thẳm sâu hơn tâm hồn con người chúng ta! Chúng ta cùng dâng lời ngợi ca, tán tụng không ngơi lên Thiên Chúa vì ân sủng cao cả này; Người chẳng bỏ mặc con người tội lỗi nhưng đã mời gọi, thánh hoá và trao cho sứ mạng thiêng liêng như lời tiên tri I-sa-ia đã tuyên sấm “Người không bẻ gẫy cây lau bị giập, không dập tắt tim đèn còn khói,…, Ta đã gọi con trong công lý, đã cầm lấy tay con, đã gìn giữ con, đã đặt con thành giao ước của dân, và nên ánh sáng của chư dân...” (Is 42, 3. 6).
Ở điểm này, chúng ta được tháp nhập và liên kết chặt chẽ với sứ vụ của Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, đó là: trở nên tiên tri (người rao truyền Tin mừng), tư tế (thánh hoá, dạy dỗ, khuyến dụ) và vương đế (cộng tác điều hành cộng đoàn). Nói tóm lại, chúng ta được trao sứ mạng làm chứng cho Thiên Chúa, làm chứng cho Đấng đã rộng ban, thương yêu trao tặng cho chúng ta mọi thứ một cách nhưng không, kể cả chính mình Người qua Con Một yêu dấu. Hơn nữa, qua lời xác thật, công bố đầy yêu thương của Chúa Cha đối với Đức Ki-tô “Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha” (Mc 1, 11), chúng ta cũng được hiệp thông với Chúa Giê-su trong sứ mạng làm con cái Cha trên trời, Người Cha hằng dủ lòng thương xót đến tất cả mọi người, chứ chẳng thiên vị một ai như lời thánh Phê-rô chứng thực, giảng dạy tại nhà ông Cor-nê-li-ô được thuật lại một cách sống động trong thư Công Vụ Tông Đồ: “Thiên Chúa không thiên tư tây vị, nhưng ở bất cứ xứ nào, ai kính sợ Người và thực hành sự công chính, đều được Người đón nhận” (Cv 10, 34-35). Vì thế, ơn gọi, bậc sống tuy khác nhau, nhưng đều có một sứ mạng; trách nhiệm tuy khác nhau, nhưng cùng chung một sứ vụ; công việc, tính cách khác xa nhau, nhưng cùng chung một mục đích, đó là: đời sống làm chứng cho Tin Mừng, chia san những gì chúng ta được lãnh nhận một cách vô điều kiện từ Thiên Chúa, và nhất là sống làm gương sáng qua lời ăn, tiếng nói, hành vi của người mang danh Thánh Ki-tô (Ki-tô hữu – người thuộc về Chúa Ki-tô).
Để kết thúc bài chia sẻ này, xin quý cộng đoàn cùng tôi lắng đọng, trở về với lòng mình và trong giây phút thinh lặng sâu lắng của tâm hồn, lắng nghe tiếng Chúa thầm thỉ với mình qua câu chuyện làm chứng tá trong thời đại ngày nay như sau: Tờ báo Hoàn Cầu Đêm Khuya xuất bản tại Hoa Kỳ thuật lại gương sống chứng tá Tin Mừng của ông Jewel Pierce tại Tiểu bang Alabama. Trừ ngày Chúa Nhật, mỗi ngày đều đặn một lần, ông đều thả 2 chai không xuống dòng sông Cô-sa; trong 2 chai đó, ông để lại một câu Kinh Thánh nói về tình thương hoặc sứ điệp tương tự, kèm theo lời đề nghị giúp đỡ hết tất cả những ai cần đến ông cả về vật chất cũng như tinh thần. Trong 40 năm ròng rã, ông đã gửi trên 27 ngàn sứ điệp Tin mừng, và hơn 2 ngàn người thuộc 30 quốc gia đã đọc, và liên lạc với ông. Có lẽ chúng ta không có đủ điều kiện, nhuệ khí như ông Jewel Pierce, nhưng thiết nghĩ, mỗi người chúng ta luôn có Chúa ở cùng, đồng hành, nâng đỡ, và cùng ta ra đi chia san những gì chúng ta đã, đang và sẽ được lãnh nhận. Chỉ cần qua cử chỉ thân thiện, yêu thương, lời nói chân thành, góp ý, xây dựng hay một hành động bình thường, nho nhỏ nhưng mang lại niềm khích lệ, động viên anh chị em ta…thì lúc ấy, chúng ta đang sống chứng tá cho Tình yêu rồi.
Xin Chúa đừng để những truân chuyên nơi cuộc sống này làm chúng con nhục chí, thu mình lại mà chẳng dám chia san. Xin đừng để những quyến rũ của trần gian cản lối chúng con dấn thân, làm chứng cho Chúa. Ước gì qua cuộc sống chúng con, mọi người sẽ nhận ra Chúa là nguồn Tình yêu. Amen.
13.Chúa Giêsu chịu phép rửa--Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Hằng năm, vào Chúa Nhật I Thường Niên, chúng ta tưởng niệm biến cố Đức Giêsu chịu phép rửa. Phép rửa nầy được liên kết với cuộc tấn phong diễn ra trong một cuộc Thần Hiển. Đó là lý do tại sao các Giáo Hội Đông Phương cử hành việc Chúa Giêsu chịu phép rửa như một trong ba cuộc Thần Hiển: lễ Hiển Linh, lễ Đức Giêsu chịu phép rửa và lễ Chúa Giêsu Biến Hình.
Is 42: 1-4, 6-7
Bản văn I-sai-a tường thuật cuộc tấn phong của “người Chúa tuyển chọn” mà “Ngài hết lòng quí mến” và cho Thần Khí của Ngài ngự trên người ấy. Đây là một nhân vật bí ẩn mà vị ngôn sứ gọi là “Người Tôi Trung của Đức Chúa”.
Cv 10: 34-38
Bài Đọc II, được trích từ sách Công Vụ Tông Đồ, thuật lại bài giảng thuyết của thánh Phêrô ngỏ lời với ông Conêliô, viên quan bách quản Rôma, và toàn thể gia quyến của ông. Họ là những lương dân đầu tiên được đón nhận vào cộng đoàn Kitô hữu qua Phép Thánh Tẩy. Nhờ mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su Ki-tô, mọi người, bất kỳ ai, thuộc dân tộc nào, đều được mời gọi gia nhập vào dân Thiên Chúa.
Mc 1: 7-11
Thánh Mác-cô tường thuật biến cố Chúa Giê-su chịu phép rửa, để giới thiệu Ngài là “Người Tôi Trung” mà sấm ngôn I-sai-a đã loan báo.
BÀI ĐỌC I (Is 42: 1-4, 6-7)
Bản văn này gợi lên một nhân vật mà Thiên Chúa gọi là “Người Tôi Trung của Ngài”, Ngài hết lòng quí mến và đổ tràn đầy Thần Trí của Ngài trên người ấy. Nơi nhân vật này, Thiên Chúa trao gởi một sứ mạng là thực thi công lý, bày tỏ tấm lòng nhân ái và đức khiêm nhu, để là ánh sáng chiếu soi muôn dân.
Đây là bài thơ đầu tiên trong bốn bài thơ về “Người Tôi Trung của Đức Chúa” trong tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a thời lưu đày (550-540 tCn), được gọi I-sai-a đệ nhị (Is 40-55). Bài thơ nầy được trích từ hai phân đoạn: trong phân đoạn thứ nhất (42: 1-4), Thiên Chúa giới thiệu Người Tôi Trung của Ngài; trong phân đoạn thứ hai (42: 6-7), Thiên Chúa ngỏ lời trực tiếp với nhân vật này.
Nhân vật này là ai? Thật ra, nhân vật bí ẩn nầy trong suốt nhiều thời đại đã được giải thích theo nhiều cách khác nhau: một nhân vật lịch sử là Ky-rô, vua Ba tư; hoặc Ít-ra-en, dân Chúa chọn; hay Đấng Mê-si-a. Đây là nét đặc trưng của các sấm ngôn vừa phát xuất từ những hoàn cảnh lịch sử chính xác vừa vượt qua những viễn cảnh đương thời.
1.Vua Ba Tư là Ky-rô
“Người Tôi Trung” này được Thiên Chúa ban nhiều đặc ân, nhờ đó ông có thể phân xử muôn dân, sửa sai những lỗi lầm, vực dậy những kẻ bị áp bức, phóng thích những tù nhân, phục hưng Giao Ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài, và làm sáng tỏ công lý trước mặt muôn dân.
Hoàn cảnh lịch sử chính xác là cảnh lưu đày ở Ba-by-lon. Vị ngôn sứ ngỏ lời với những người lưu đày này, họ phải chịu một cuộc thử thách dài lâu và mòn mỏi đợi chờ cuộc giải phóng. Ông hứa với họ một nhà giải phóng. Toàn bộ văn mạch hướng về vị vua Ba tư là Kyrô, mà quyền lực của ông mỗi ngày mỗi lớn mạnh trên thế cuộc vùng Trung Đông.
Chương 41 trước đó ám chỉ rõ nét những chiến công lẫy lừng của vua Kyrô:
“Từ Phương Đông, ai đã cho xuất hiện người hùng
đi mở đường cho nền công chính?
….
Đao kiếm của ông làm chúng hóa ra như tro bụi,
cung nỏ của ông khiến chúng tán loạn tựa cọng rơm.
Ông đuổi bắt thù địch, ông tiến bước an toàn
…
Điều đó, ai đã thực hiện, ai đã làm nên?
….
Chính là Ta. Ta là Đức Chúa, Ta là khởi nguyên,
và giữa những người của thời sau hết, Ta vẫn là Ta” (Is 41: 2-4).
Chương 45 còn rõ ràng hơn:
“Đức Chúa nói với kẻ Người xức dầu, với vua Ky-rô
-Ta đã cầm lấy tay phải nó,
để bắt các dân tộc suy phục nó,
Ta tước khí giới của các vua,
mở toang các cửa thành trước mặt nó,
khiến các cổng không còn đóng kín nữa.
….
Vì lợi ích của tôi tớ Ta là Gia-cóp,
và của người Ta đã chọn là Ít-ra-en,
….
Dù ngươi không biết Ta, Ta đã trang bị cho ngươi đầy đủ,
để từ Đông sang Tây, thiên hạ biết rằng
chẳng có thần nào khác, ngoại trừ Ta.
Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác” (Is 45: 1-6).
Các biến cố sắp đến sẽ khẳng định dự đoán thời cuộc của vị ngôn sứ. Không bao lâu sau, vua Ba tư chiếm kinh thành Ba-by-lon mà không phải gặp bất cứ một kháng cự nào, và cũng không gây bất kỳ thiệt hại nào cho kinh thành. Ông thi hành chính sách “thu phục nhân tâm”. Vua Ky-rô không bao giờ sử dụng bạo lực. Xót thương đối với những người Ít-ra-en bị lưu đày như “cây sậy bị dập nát” và “tim đèn còn leo lét”, vua Ba tư tạo điều kiện thuận tiện cho họ trở về cố hương là Giê-ru-sa-lem.
2. Dân Chúa chọn
Sau này, khi quá khứ mờ nhạt trong tâm trí, bản văn được đọc lại theo cách khác. Vị ngôn sứ chủ ý tặng ban danh hiệu “Người Tôi Trung” cho toàn thể dân Ít-ra-en với tư cách là dân Chúa chọn để là chứng nhân của Ngài cho muôn dân nước. Dung mạo Người Tôi Trung được xem như cá nhân hóa dân Chúa chọn mà Ngài nâng đỡ, sủng ái và ban Thần Trí của Ngài. Ngài đã “nắm tay” dân nhỏ bé này. Ở giữa các dân tộc, họ phải chu toàn sứ mạng của mình là trở nên ánh sáng muôn dân qua việc sống trọn niềm tin của mình vào một Thiên Chúa duy nhất và chân thật.
3. Đấng Mêsia
Việc “Người Tôi Trung” này được nhận dạng ở nơi vua Ky-rô không tát cạn sự phong phú của bản văn, hay được cá nhân hóa ở nơi dân Chúa chọn cũng không hoàn toàn làm thỏa mãn. Quan trọng là đặt sứ điệp này được công bố vào trong những giờ phút nghiêm trọng.
Vào giữa thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên, kinh thành Giê-ru-sa-lem bị đánh chiếm và trở thành hoang phế; Đền Thờ bị thiêu hủy; một phần lớn dân cư bị lưu đày; vương quyền của nhà Đa-vít đã bị vùi dập trong phong ba bảo táp; niềm hy vọng vào Đấng Mê-si-a (Đấng được Thiên Chúa xức dầu tấn phong) được đặt vào vương quyền nhà Đa-vít đã bị sụp đổ.
Đây là thời điểm thuận tiện để nâng mặc khải lên đến một giai đoạn mới. Thiên Chúa sẽ can thiệp một cách bất ngờ: Ngài sẽ sai phái “Người Tôi Trung” đầy tràn Thần Khí của Ngài. Nhân vật nầy sẽ thực hiện sứ mạng thực thi công lý với tấm lòng khiêm nhu nhân hậu, dù bên ngoài có vẻ thất bại, chịu nhiều đau khổ (bài thơ thứ tư về Người Tôi Trung). Qua trực giác của vị ngôn sứ, khoa sư phạm của Thiên Chúa bước một bước tiến nhảy vọt. Những sấm ngôn xưa liên quan đến một hậu duệ của nhà Đa-vít không hoàn toàn bị bãi bỏ, nhưng những viễn cảnh mới mà sấm ngôn nầy hé mở, không dính dáng gì đến một quyền lực trần thế nhưng một vương quốc tinh thần.
Trong sách Tin Mừng của mình, thánh Mát-thêu trích dẫn sấm ngôn I-sai-a này (x. Mt 12: 18-21) để chứng minh rằng lời sấm được ứng nghiệm ở nơi con người của Đức Giê-su, sứ mạng của Ngài tuy được thực hiện một cách kín đáo nhưng “sẽ đưa công lý đến toàn thắng, và muôn dân đặt niềm hy vọng nơi danh Ngài”.
Khi chịu phép rửa bởi ông Gioan, Đức Giêsu thấy các tầng trời mở ra, Thần Khí ngự xuống trên mình và có tiếng từ trời phán: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. Bức tranh này mặc nhiên quy chiếu đến bản văn của I-sai-a. Đức Giê-su bắt đầu sứ mạng của “Người Tôi Trung”. Ngài sẽ chu toàn sứ mạng nầy khi thể hiện dung mạo “Người Tôi Trung chịu đau khổ” trong cuộc Khổ Nạn của mình.
BÀI ĐỌC II (Cv 10: 34-38)
Đoạn trích sách Công Vụ Tông Đồ nầy tường thuật một biến cố đánh dấu một khúc quanh quyết định trong lịch sử của Giáo Hội tiên khởi: đây là lần đầu tiên, một lương dân và toàn thể gia quyến của ông được chấp nhận gia nhập trực tiếp vào cộng đoàn Ki-tô hữu nhờ phép Thánh Tẩy mà không phải ngang qua phép cắt bì của Do thái giáo.
1. Hoàn cảnh Giáo Hội vào lúc đó
Cho đến lúc đó, các Tông Đồ ngỏ lời với dân Do thái nhằm chứng minh cho họ biết rằng Đức Giê-su là Đấng Cứu Độ, ở nơi Ngài mọi lời Kinh Thánh được ứng nghiệm. Ki-tô giáo tiên khởi được định vị ở nơi sự nối dài của Do thái giáo. Chiều kích phổ quát đã được các thị kiến ngôn sứ mặc khải: rồi sẽ đến một ngày, muôn dân sẽ lên Đền Thờ Giê-ru-sa-lem mừng kính Đức Chúa đích thật. Vì thế, các Tông Đồ đã không hề nghĩ đến một tiến trình đảo ngược: chính họ phải đi đến với muôn dân loan báo Tin Mừng cho họ.
Ấy vậy, vị lãnh tụ Giáo Hội, thánh Phê-rô, phải nói là bị Chúa Thánh Thần thúc ép đến nhà một người ngoại giáo. Một viên quan Rô-ma, đồn trú ở Xê-da-rê, sai người đến mời thánh nhân đến nhà mình. Lúc đó, thánh Phê-rô đang ở Gia-phô, cách thành Xê-da-rê khoảng năm mươi cây số. Trong thời gian này, thánh nhân đang thực hiện cuộc kinh lý. Sau cuộc bách hại dữ dội đã giáng xuống cộng đoàn Giê-ru-sa-lem non trẻ vào mùa hè năm 36 hay mùa xuân năm 37 (thánh Tê-pha-nô, vị tử đạo đầu tiên vào thời gian nầy), một thời gian yên bình xảy đến. Thánh Phê-rô lợi dụng thời kỳ yên bình nầy để thăm viếng các cộng đoàn Ki-tô hữu non trẻ này.
2. Một khúc quanh mang tính quyết định của Giáo Hội
Thánh Phê-rô đến nhà viên quan Rô-ma. Đây là lần đầu tiên thánh nhân bước qua ngưỡng của của một người chưa cắt bì, bất chấp những cấm kỵ lâu đời. Lệnh cấm không được tiếp xúc với những người chưa cắt bì không được ghi trong Lề Luật, nhưng từ tập quán và lời giải thích của các kinh sư, nhằm tránh tất cả mọi hình thức lây nhiễm ngoại giáo.
Đây là lần đầu tiên thánh nhân đem sứ điệp Tin Mừng đến một người ngoại giáo và toàn thể gia quyến của ông. Đối với thánh nhân, đây thật sự là một kinh nghiệm cảm động và đáng nhớ. Thánh nhân đã hiểu được ý định của Thiên Chúa là muốn cứu độ hết mọi người. Ngay tức khắc, thánh nhân mặc lấy cho hành động của mình một ý nghĩa thần học. Đây là phần mở đầu bài thuyết giáo của thánh nhân mà Phụng Vụ Lời Chúa đề nghị cho chúng ta suy niệm vào ngày lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa hôm nay.
3. Chiều kích phổ quát của ơn cứu độ
“Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào. Nhưng hể ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì bất cứ họ thuộc dân tộc nào, cũng đều được Chúa tiếp nhận”. Lời khẳng định về sự bình đẳng giữa dân ngoại và dân Do thái này hình thành nên một thay đổi lớn lao. Quả thật, trước đây, thánh Phêrô, vốn là một người Do thái, chỉ nghĩ đến những đặc quyền đặc lợi dành riêng cho dân Chúa chọn; nay, vị lãnh tụ của Giáo Hội, được Thánh Thần thúc đẩy, chấp nhận và công bố sự thay đổi khôn sánh này.
Ông Co-nê-li-ô là một “cảm tình viên” của Do thái giáo, cũng được gọi “người kính sợ Chúa”. Đây là một người “ăn ngay ở lành” như bản văn xác nhận. Chắc chắn Thiên Chúa đã gửi “lời loan báo Tin Mừng trước tiên cho dân Ít-ra-en”. Thánh nhân muốn giải thích cho gia chủ và đồng thời muốn thanh minh quyền ưu tiên này: dân Ít-ra-en đã lãnh nhận một sứ mạng là chuẩn bị bình an giữa dân Do thái và muôn dân. Bình an nầy được hiện thực nhờ trung gian của Đức Giê-su Ki-tô, “Ngài là Chúa Tể muôn dân”.
4. Quyền năng của Phép Rửa Kitô giáo
Tiếp đó, thánh Phê-rô tóm tắt các giai đoạn cuộc đời của Chúa Giêsu, bắt đầu từ việc Ngài được Thánh Thần xức dầu tấn phong khi lãnh nhận phép rửa trên dòng sông Giođan. Thánh Tông Đồ mở ra một viễn cảnh, đó sẽ mãi mãi là viễn cảnh của Giáo Hội: ân ban Thánh Thần không đơn giản là một sự thủ đắc, nhưng thật sự là một sức mạnh bùng nổ, một năng lực giúp hoàn thành sứ mạng: “làm chứng”, “thi ân giáng phúc” và “chữa lành mọi kẻ bị ma quỉ kiềm chế”.
TIN MỪNG (Mc 1: 7-11)
Đoạn Tin Mừng hôm nay gồm hai hoạt cảnh được đan quyện vào nhau: phép rửa trong nước ở nơi dòng sông Gio-đan (1: 7-8) và phép rửa trong Thánh Thần ở nơi cuộc Thần Hiển (1: 9-11). Hai hoạt cảnh nầy tương phản với nhau. Hoạt cảnh thứ nhất là một cảnh tượng về sự khiêm hạ đến tột cùng: Đức Giê-su tự hạ mình xuống đến mức ngang hàng với tội nhân. Hoạt cảnh thứ hai là một cảnh tượng hùng vĩ của cuộc tấn phong.
1. Phép rửa trong nước
Đức Giê-su đến từ làng Na-da-rét miền Ga-li-lê để xin Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho mình. Như vậy, khi muốn lãnh nhận phép rửa sám hối của ông Gioan, Đức Giê-su đã tự đặt mình vào hàng các tội nhân. Cách hành xử này là yếu tố khởi đầu sứ mạng Cứu Độ. Kể từ lúc đó, Đức Giê-su muốn đón nhận ở nơi bản thân mình mọi tội lỗi của con người. Đây là bước đầu tiên sẽ dẫn Ngài đến núi Sọ để chịu một phép rửa khác: phép rửa bằng máu.
Chính Đức Giêsu đã sánh ví cuộc Tử Nạn của Ngài với một phép rửa: “Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc nầy hoàn tất” (Lc 12: 50). Đức Giê-su công bố với ông Gia-cô-bê và ông Gioan: “Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” (Mc 10: 38). Động từ “rửa” theo nguyên ngữ là “ngụp lặn”, “nhận chìm”. Đức Giê-su muốn nói rằng Ngài sẽ nhận chìm mình vào trong vực thẳm đau khổ.
Từ phép rửa trong nước đến phép rửa bằng máu, đó là tiến trình cuộc đời của Đức Giê-su Ki-tô. Ở nơi hoạt cảnh phép rửa trong dòng sông Gio-đan ẩn chứa một hậu cảnh bi thảm của thập giá.
2. Phép rửa trong Thánh Thần
Cả bốn sách Tin Mừng đều tường thuật hoạt cảnh này, điều đó nói lên tầm quan trọng mà các ngài đã dành cho giờ phút quyết định nầy về ơn gọi của Đức Giê-su. Cảnh tượng được mô tả thật hùng vĩ: “Vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời mở tung ra và thấy Thần Khí tựa như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”.
Theo truyền thống Do thái, các tầng trời đóng lại với vị ngôn sứ cuối cùng là Ma-la-khi, nghĩa là chấm dứt mọi giao tiếp giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Trong thời gian này, dân Do thái cất lên lời khẩn nguyện thiết tha: “Lạy Chúa, xin hãy xé trời mà đến”. Như vậy, biến cố “Đức Giê-su chịu phép rửa” đánh dấu một khúc quanh mới: “các tầng trời mở tung ra”, nghĩa là mối tương giao giữa Thiên Chúa và con người được nối lại.
Quả thật, Đức Giê-su được thụ thai và sinh hạ bởi quyền năng Chúa Thánh Thần, nhưng trong cuộc sống ẩn dật, Chúa Thánh Thần đã không công khai tỏ mình ra. Vào ngày Ngài chịu phép rửa của ông Gioan, đánh dấu khởi điểm sứ mạng mình, Đức Giê-su cần sức mạnh của Chúa Thánh Thần: “Thần Khí tựa như chim bồ câu ngự xuống trên Ngài”.
Một số người thấy ở nơi hình ảnh “chim bồ câu” là con chim hòa bình mà ông Nô-ê thả trên nước lũ của trận Đại Hồng Thủy (St 8: 8-11). Những người khác nghĩ rằng hình ảnh nầy nhắc nhớ “Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” trong công trình sáng tạo (St 1: 2). Dù hình ảnh nào thì việc Thần Khí ngự xuống trên Đức Giêsu khai mào một kỷ nguyên mới của Ơn Cứu Độ.
Quả thật, trong Cựu Ước, chúng ta gặp thấy nhiều hình ảnh tiên trưng của phép Thánh Tẩy: từ nước của trận Đại Hồng Thủy, xuất hiện một nhân loại mới khởi đi từ ông Nô-ê; từ nước của Biển Đỏ, một nhân loại mới được khai sinh. Cũng vậy, vừa ra khỏi dòng nước sông Gio-đan, Đức Giê-su khai mạc một nhân loại mà Ngài sẽ tái sinh.
3. Ba cuộc tấn phong đồng lúc
Như vậy, trong biến cố nầy, Đức Giêsu lãnh nhận ba cuộc tấn phong đồng một lúc:
– “Cuộc tấn phong với tư cách Con Thiên Chúa”: Tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con yêu dấu của Cha”. Trước hết, “tiếng từ trời” có nghĩa chính Thiên Chúa, đây là cách thức người Do thái bày tỏ niềm tôn kính đối với Thiên Chúa mà họ không dám nêu tên Ngài. Tiếp đó, “Con yêu dấu” gợi lại I-sa-ác, đứa con duy nhất, đứa con yêu quý của ông Áp-ra-ham mà Thiên Chúa truyền lệnh cho ông ra đi hiến tế trên núi mà Ngài sẽ chỉ cho (St 22: 2).
Chúng ta cũng vậy, vào lúc chịu phép Thánh Tẩy, chúng ta cũng được Chúa Cha gọi “Con yêu quý” ở nơi người Con Một, Con yêu quý của Ngài là Đức Giê-su Ki-tô.
– “Cuộc tấn phong với tư cách Vua-Mê-si-a”: Chẳng ngẫu nhiên một chút nào khi tiếng phán từ trời cất lên bằng những từ ngữ mà xưa kia một vị vua được phong vương:
“Tân vương lên tiếng: Tôi xin đọc sắc phong của Chúa,
Người phán với tôi rằng: “Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Tv 2: 7).
Vị Vua-Mê-si-a mà các ngôn sứ loan báo, hậu duệ của nhà Đa-vít nầy, chính là Đức Giê-su. Nhưng Ngài sẽ công bố mình là vua chỉ khi bị xiềng xích và bị điệu ra trước Thượng Hội Đồng Do thái (Mc 14: 61-62) và trước tổng trấn Phi-la-tô (Mc 15: 2).
– “Cuộc tấn phong với tư cách người tôi trung”: Những lời “Cha hài lòng về Con” nhắc nhớ sự tuyển chọn của Người Tôi Trung trong bản văn của I-sai-a (Bài Đọc I).
4. Phép rửa trong cuộc Thần Hiển của Ba Ngôi Thiên Chúa:
Phụng Vụ Đông Phương cử hành lễ Chúa Giê-su chịu phép rửa như ngày lễ Thiên Chúa Ba Ngôi. Quả thật, đây là lần đầu tiên trong Kinh Thánh, Ba Ngôi Thiên Chúa đồng hiện diện trong biến cố nầy. Việc Đức Giê-su chịu phép rửa trong dòng sông Gio-đan được đánh dấu bởi cuộc Thần Hiển của Ba Ngôi Thiên Chúa. Cuộc Thần Hiển này loan báo phép Rửa Ki-tô giáo phù hợp với lời dạy của Đức Giê-su Phục Sinh cho các môn đệ Ngài vào lúc Ngài từ giả các ông mà lên trời: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành muôn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28: 18-20).
Việc nhận chìm vào trong nước và bước ra khỏi nước là biểu tượng của sự chết và sự tái sinh. Hy tế của Đức Giê-su đã đem lại cho biểu tượng nầy tất cả mọi giá trị của nó. Thánh Phao-lô giải thích rõ ràng điều này: “Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6: 4). Thật ý nghĩa biết bao khi nghi thức Thánh Tẩy được cử hành vào lễ Đêm Vọng Phục Sinh.
14.Bí tích Rửa Tội chỉ là sự khởi đầu--Jaime L. Waters - Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển
Hôm nay, chúng ta mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa. Thánh Maccô miêu tả biến cố này với một vài chi tiết chính như Chúa Giêsu chịu phép rửa bởi ông Gioan tại sông Giođan; các tầng trời mở ra; Thánh Thần ngự xuống tựa chim bồ câu và có tiếng từ trời khẳng định Chúa Giêsu là Con yêu dấu. Trình thuật mặc khải cách mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi với Cha, Con và Thánh Thần được trình bày cách rõ ràng và riêng biệt trong biến cố này. Mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa là dịp thuận tiện để suy gẫm về những đòi buộc đi kèm khi lãnh nhận phép rửa.
Bài đọc 1 và 2 đều có hai chọn lựa. Bài đọc 1 trích từ Is 55 phù hợp cho ngày lễ hôm nay “Đến cả đi nước đã sẵn đây” khi tiên tri Isaia trình bày việc Thiên Chúa tuân giữ lời kêu gọi con người. Để bổ túc cho bài đọc này thì nên chọn bài đọc 2 trích từ sách Công vụ Tông Đồ, trình bày việc thánh Phêrô nhấn mạnh đến lòng rộng lượng của Thiên Chúa đối với con người “thuộc mọi dân tộc”, trao ban cho họ Thánh Thần qua phép Rửa.
Bài đọc 1 trích từ Is 42 loan báo ý nghĩa việc Thần Khí ngự xuống. Tiên tri Isaia mô tả một nhân vật chịu đau khổ và phục vụ như ánh sáng chiếu soi muôn dân. Tân ước ám chỉ, trích lại những tiên báo về Người tôi trung đau khổ của Isaia và hiểu một cách mới mẻ dưới ánh sáng cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Trong Isaia, khi Thần Khí ngự trên người tôi trung, đó chính là dấu chỉ ông “sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân”. Khi nhận lãnh Thần Khí, có một lời kêu mời rõ ràng để hành động cho “chiến thắng của công lý”. Bài đọc 2 trích thư thứ nhất của thánh Gioan tông đồ, trình bày các mối tương quan trong Ba Ngôi Thiên Chúa, giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, Đấng thúc đẩy sự thật trên thế giới.
Bài đọc cũng nhấn mạnh chiến thắng nhờ lòng tin vào Đức Kitô là Con Thiên Chúa. Bài Tin mừng hướng chúng ta chú ý đến việc Chúa Giêsu chịu phép rửa. Tin mừng theo thánh Maccô bắt đầu với sự xuất hiện của Gioan Tẩy Giả, và với hành động công khai đầu tiên của Chúa là chịu phép rửa trước Người khi bắt đầu sứ vụ. Chúa Giêsu nêu gương cho này cho những ai theo Người và Người được xưng tụng là Con yêu dấu, được Thánh Thần trao quyền năng để thi hành sứ vụ.
Hôm nay chúng ta cần nhìn lại những tác động của bí tích rửa tội và lòng tin vào Chúa Kitô. Các bài đọc và sứ điệp bao quát hơn của bài Tin mừng khẳng định việc lãnh nhận Thánh Thần khi chịu phép rửa chỉ là sự khởi đầu và có sứ vụ quan trọng đi kèm theo sau. Mọi người đều được đón nhận và mời gọi để lãnh nhận bí tích rửa tội, và phép rửa đòi buộc các tín hữu phải thúc đẩy công lý và sự thật. Thần Khí được kết nối trực tiếp với cả hai lý tưởng đó, và việc lãnh nhận Thần Khí là lời mời gọi để hành động. Trong ngày lễ Chúa Kitô chịu phép rửa, chúng ta hãy để mình được truyền cảm hứng tích cực tham gia vào công cuộc tìm kiếm công lý và sự thật.
Nguồn: https://www.americamagazine.org/faith/2020/12/17/baptism-jesus-gospel-reflection-catholic-scripture-239466
15.Còn chăng “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy”?--Lm. Anmai CSsR
Người ta vẫn thường nói hay đúng hơn là người ta vẫn thường thích cái gì là mới, còn những gì là cũ người ta lại ít trân trọng. Thử hỏi trong nhân gian được mấy người chơi đồ cổ. Chưa chắc chơi đồ cổ vì đã thích đồ cổ vì có thể thích được nổi tiếng hay nắm giữ trong tay tài sản quý chứ thật sự để mà quý mến, để mà trân trọng chắc được mấy người? Người ta vẫn thường ví cho những cái mới được trân trọng bằng câu nói: “Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy!”. Vậy thì sau “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy” con người sẽ ra sao? Thường thì phai dần và nhạt dần theo năm tháng nếu như ta không dừng lại để nhìn, để xem lại vấn đề để mà trân trọng, để mà quý mến.
Một người tu sĩ, ngày khấn dòng với biết bao nhiệt huyết, biết bao nhiêu ơn Thánh, đặc biệt là Thần Khí Chúa sẽ rất quyết tâm, rất cương quyết với lời tuyên khấn của mình. Đơn giản nhất một lời khấn mà người tu thường khấn đó là sự khó nghèo. Sau ngày khấn là những ngày hội nhập với cộng đoàn, cộng đồng vì mãn thời gian Tập Viện. Những ngày ấy riêng về khoản khó nghèo thôi, thử hỏi được mấy người sống được cái thuở ban đầu đơn sơ của đời tu hay là cứ vun vén về cho mình đầy phòng. Nếu thi thoảng không đặt mình xem lại mình về những lời mà mình tuyên khấn thì cũng sẽ quên và lại vun vén, vơ vét cho mình đầy vật chất.
Một linh mục, trong cái ngày được đặt tay để nhận ơn Thánh trong sứ vụ của mình sao mà hay quá! “Con có hứa vâng phục Giám mục và bề trên hợp pháp của con không?” khi nghe Giám mục chủ sự Thánh lễ truyền chức hỏi thì tất cả các ứng sinh nhanh nhảu đáp “Thưa con hứa!”. Và nữa, “con hãy nhận lấy lễ vật này mà dâng lên Thiên Chúa, con hãy rập đời sống con theo Mầu Nhiệm Mình và Máu Thánh Chúa”. Khi ấy, lòng trào dâng ơn Thánh và niềm vui, ứng sinh phấn khởi thưa vâng để lãnh nhận sứ vụ linh mục cao cả mà Thiên Chúa thương ban. Thế nhưng, cuộc đời vị linh mục đâu đơn giản như mọi người nghĩ, đâu thanh thản như mọi người thấy. Những lúc bình lặng của cuộc đời thì không sao nhưng thử hỏi những lúc gặp gian nan thử thách thì cái thuở ban đầu, cái mối tình giữa vị Thiên Chúa mà bao lâu nay vị linh mục theo đuổi còn được bao nhiêu?
Hai vợ chồng trẻ cũng thế! Những ngày đầu đến với nhau, cưới nhau sao mà vui quá, sao mà hạnh phúc quá, sao mà quấn quýt bên nhau thế nhưng rồi những ngày sau đó ra sao? Những ngày chồng ốm, vợ bệnh, con đau còn có còn chăng cái thuở ban đầu, cái vẻ đẹp của ngày mới cưới, cái hồn thiêng của lời thề hứa khi cử hành bí tích Hôn phối chăng? Những ngày mới quen nhau, những ngày mới yêu nhau, những ngày mới cưới sao mà nó hay quá nhưng khi cưới rồi nó như thế nào?
Và rồi, trước khi tuyên lời khấn dòng, hứa sống sứ vụ linh mục hay thề hứa sống đến ngày “răng long đầu bạc” tuỳ theo ơn gọi của mình mỗi kitô hữu phải sống cái Bí Tích Thanh Tẩy hay còn gọi là Phép Rửa mà mỗi người lãnh nhận. Phép Rửa mà chúng ta khi lãnh nhận, căn cốt nhất của Phép Rửa ai ai cũng biết đó là lòng tin, tin nhận vào Đức Giêsu Kitô là Chúa. Như Thánh Gioan trong thư của Ngài vừa nhắc nhở chúng ta:
“Phàm ai tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô,
kẻ ấy đã được Thiên Chúa sinh ra.
Và ai yêu mến Đấng sinh thành,
thì cũng yêu thương kẻ được Đấng ấy sinh ra.
Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được
mình yêu thương con cái Thiên Chúa:
đó là chúng ta yêu mến Thiên Chúa
và thi hành các điều răn của Người.
Quả thật, yêu mến Thiên Chúa
là tuân giữ các điều răn của Người.
Mà các điều răn của Người có nặng nề gì đâu,
vì mọi kẻ đã được Thiên Chúa sinh ra đều thắng được thế gian.
Và điều làm cho chúng ta thắng được thế gian,
đó là lòng tin của chúng ta”. (1 Ga 5, 1-4)
Thánh Gioan nói rất rõ ràng chứ không mập mờ, không hai ý. Ngài nói rõ ràng: Tin là yêu mến! Đơn giản có thế thôi!
Thật ra mà nói, không đơn giản và không dễ chút nào cả.
Như người tu sĩ, linh mục cũng thế, thuở ban đầu quá tin nên quá yêu mến! Đơn giản quá sức nhưng dần dà, thời gian trôi theo năm tháng có còn tin, có còn yêu mến như ngày đầu như đã nói không mới là chuyện quan trọng.
Như hai vợ chồng, ban đầu cũng tin, cũng yêu mến nhưng thời gian dần trôi có còn tin, có còn yêu mến hay không mới là chuyện cần bàn.
Hôm nay, nhân cái ngày mà Chúa Giêsu ra sông Giođan để cho ông Gioan để lãnh nhận Phép Rửa cũng là dịp, là duyên để mỗi người chúng ta nhìn lại Phép Rửa mà chúng ta tin nhận. Cái thuở ban đầu, cái mối tình đẹp giữa ta và anh Hai Giêsu mà ta tin theo còn được bao nhiêu hay là nó cũng nhạt dần, nó cũng phai dần.
Ngày hôm nay, không chỉ ở thành thị, đời sống tôn giáo, lòng tin - cậy - mến vào Thiên Chúa bị giảm sút mà cả ở thôn quê. Điều này gợi lên cho ta nhiều suy nghĩ. Một thực trạng hết sức đau lòng đó là ở những vùng quê nghèo, ban đầu họ theo Chúa, họ tin Chúa rất dễ thương. Sau bao năm tháng, vị linh mục đặc trách cùng với giáo dân miệt mài xây cho cộng đoàn giáo xứ ngôi Thánh Đường thật to, thật lộng lẫy, thật khang trang nhưng lượng giáo dân đến tham dự Thánh Lễ, cử hành các Bí Tích nó cứ giảm dần theo năm tháng. Được biết một ngôi nhà thờ thật là to, tốn không biết bao nhiêu công sức mới tạo dựng. Tưởng chừng ngôi nhà thờ ấy sẽ đáp ứng, sẽ thoả mãn nhu cầu Phụng Vụ nhưng nào ngờ, ngày thường chỉ có loe ngoe vài mạng nên phải dùng tầng hầm của ngôi Thánh Đường đó để dâng lễ! Không chỉ một mà cũng có nhiều Thánh Đường bây giờ rơi vào tình trạng đáng buồn này.
Nguyên nhân của tình trạng này có lẽ là mỗi người chúng ta đã không còn đi đúng đường lối mà Thiên Chúa chỉ dạy, lòng tin mà lòng mến mà Thánh Gioan đã nói. Ngôn sứ Isaia đã nói với chúng ta qua bài đọc thứ nhất mà chúng ta vừa nghe: “Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta sấm ngôn của Đức Chúa. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy. Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó”. (Is 55, 8-11)
Chúng ta, thường rơi vào căn bệnh của chúng ta, rơi vào cái lý luận cùn của chúng ta chứ chúng ta không đi theo đường lối của Thiên Chúa. Tư tưởng của ta lúc nào cũng khác xa tư tưởng của Thiên Chúa vậy mà chúng ta cứ tưởng chúng ta hơn Chúa mới là lạ!
Isia đã không nhắc nhớ chúng ta sao?
Sao lại phí tiền bạc vào của không nuôi sống,
tốn công lao vất vả vào thứ chẳng làm cho chắc dạ no lòng?
Hãy chăm chú nghe Ta, thì các ngươi sẽ được ăn ngon,
được thưởng thức cao lương mỹ vị.
Hãy lắng tai và đến với Ta, hãy nghe thì các ngươi sẽ được sống.
Ta sẽ lập với các ngươi một giao ước vĩnh cửu,
để trọn bề nhân nghĩa với Đa-vít. (Is 5, 2-3)
Chúng ta vẫn cứ mãi cắm cúi đi tìm những cái gì mà không làm cho chúng ta được sống như Chúa nói. Chúng ta vẫn đi tìm cho chúng ta những thứ gì mà sẽ mất ngày mai.
Nhà thơ Tuý Linh đã để lại cho chúng ta câu thơ rất hay:
“Sống trong cuộc đời này không phải để giành giật
Những gì mà ta sẽ mất ngày mai”.
Vâng! Chúng ta nhận Phép Rửa nhiều năm nhưng chúng ta vì lý do này lý do khác đã nhạt nhẽo với tình yêu thuở ban đầu của Thiên Chúa. “Cái thuở ban đầu lưu luyến” giữa ta và Chúa còn đơn sơ, còn mộc mạc, còn dễ thương, còn chân thành như cái ngày mới nhận Phép Rửa hay không? Điều này chỉ có ta và Chúa biết mà thôi.
Hôm nay, xin Chúa nhắc nhớ chúng ta về Phép Rửa mà ta đã tin nhận. Nhận Phép Rửa là Tin, Tin ấy lại biểu lộ ở Tình Yêu. Xin Chúa là Vua Tình Yêu đến và ở lại với mỗi người chúng ta để ngày mỗi ngày chúng ta yêu Chúa và yêu anh chị em đồng loại hơn.
16.Khúc dạo đầu tình yêu--“Như Thầy Đã Yêu”--Thiên Phúc
Cha Anthony de Mello có kể một câu chuyện sau đây:
Cả cộng đoàn đều thắc mắc khi thấy vị kinh sư của mình tuần nào cũng biến đâu mất vào hôm trước ngày Sabat. Họ nghĩ rằng ông bí mật đi gặp Đấng Tối Cao. Vì thế, họ cử một người theo dõi ông.
Và đây là điều người ấy chứng kiến. Vị kinh sư hóa trang bằng cách ăn mặc như một dân quê, đến phục vụ một bà già thuộc dân ngoại trong căn lều tồi tàn của bà. Ông quét dọn và nấu ăn cho bà trong ngày Sabat.
Khi thám tử trở về, cộng đoàn hỏi:
- Kinh sư đi đâu? Ngài lên trời phải không?
Người kia đáp:
- Không, Ngài còn lên cao hơn cả Trời nữa.
+ + +
Có ai ngờ vị kinh sư lại âm thầm đến với người đàn bà ngoại đạo, nghèo hèn để chăm sóc bà trong ngày Sabat? Có ai tin được Đức Giêsu, Đấng thánh thiện cao cả, lại xin Gioan làm phép rửa cho?
Khi chiêm ngắm Đức Giêsu xếp hàng chung với tội nhân, chúng ta hiểu được thế nào là Tình yêu.
Chỉ có Tình yêu mới giúp chúng ta hiểu được mầu nhiệm nơi dòng sông Giođan.
Chỉ có Tình yêu mới làm cho Con Thiên Chúa tự che khuất sự cao sang thánh thiện, để dìm mình trong phép rửa "thống hối".
Chỉ có Tình yêu mới làm cho Đấng Cứu Độ sống như người cần được Cứu Độ.
Phép rửa hôm nay chỉ là khúc dạo đầu của bản trường ca Tình yêu. Để rồi vì yêu thương, từ đây Con Thiên Chúa sẽ bị người đời liệt vào: "Tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi" (Lc 7,34). Bị người nhà coi là "kẻ mất trí". Bị xua đuổi ra khỏi thành. Bị lên án như một tội nhân. Và bị chết treo giữa những tên trộm cướp. Đến nỗi thánh Phao lô đã phải thốt lên: "Đấng chửng hề biết tội là gì thì Thiên Chúa đã làm cho Người thành tội vì chúng ta".
Đức Giêsu gọi cuộc thương khó của Người là một "phép rửa". Người trầm mình trong đau khổ để mang lại Ơn Cứu Độ cho mọi người: "Thầy còn một phép rửa phải chịu và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất" (Lc 12,50).
Qua bí tích rửa Tội, chúng ta đã trở nên các kitô hữu, "con cái yêu dấu" của Thiên Chúa. Chúng ta cũng được mời gọi đi loan báo Tin vui cứu độ, rằng Thiên Chúa yêu thương con người. Chúng ta được mời gọi đặc biệt để mang Tình yêu Chúa đến cho những người cùng khổ, những người bị bỏ rơi, bị khinh miệt, bị sa ngã trong tội. Martin Luther King có nói: "Hãy yêu thương mọi người đừng vì thiện cảm; cũng không vì cách sống của họ dễ mến, dễ thương. Nhưng vì chính Thiên Chúa ở trong họ". Nếu chúng ta chờ cho họ trở nên đáng yêu rồi mới yêu họ, chúng ta sẽ phải chờ suốt đời. Chính khi được yêu mà họ sẽ trở nên đáng yêu.
Trong biển đời mênh mông này, mỗi người đều không ngừng thay đổi cả hướng tốt lẫn hướng xấu, chúng ta chớ cho rằng mình đã hiểu tới chân tơ kẽ tóc một ai đó. Cứ nghe theo trái tim mách bảo mà quảng đại trao ban.
Zundel viết: "Đừng để ai trong những người anh em của chúng ta có thể phàn nàn, rằng họ chửng gặp được lòng nhân hậu của Thiên Chúa nơi chúng ta".
+ + +
Lạy Chúa, Chúa đã nên bạn đồng hành với thân phận mỏng dòn yếu đuối của chúng con, xin cho chúng con cũng biết đem Tình yêu cao cả nồng ấm của Chúa đến cho anh chị em chúng con. Amen.
17.Chúa Giêsu chịu phép rửa--Lm. Ignatiô Trần Ngà
Chủ đề: Người đời thường chạy tội, đổ lỗi cho người khác, còn Chúa Giêsu lại sẵn sàng gánh tội cho hết mọi người.
Một trong những thói xấu nghiêm trọng gây thiệt hại không nhỏ cho xã hội là thói đổ lỗi cho người khác, không chịu nhận trách nhiệm về mình.
Căn bệnh nầy đã xuất hiện ngay từ khởi thuỷ loài người.
Sau khi hai ông bà nguyên tổ phạm tội ăn trái cấm bất tuân lệnh Chúa (St 3, 1-18), Thiên Chúa đến hạch tội A-đam: "Có phải ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi ăn không?"
A-đam bèn đổ lỗi cho cả Thiên Chúa lẫn E-và: Tại vì "người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con mới ăn." Nói như thế, A-đam cho rằng cả Chúa cũng có trách nhiệm trong vụ việc nầy, tại vì Chúa đã trao người đàn bà nhẹ dạ nầy cho ông; giá như Chúa không dựng nên E-và và trao nàng cho Ađam thì đâu đến nỗi nầy).
Bấy giờ Chúa quay ra hỏi tội E-và: "Ngươi đã làm gì?" Người đàn bà liền trút tội cho con rắn: Tại vì "con rắn đã lừa dối con, nên con đã ăn". (St 3, 9-13)
Có vô số dê tế thần để người ta trút hết tội lỗi lên đầu chúng: tại ông, tại bà, tại trời, tại đất, tại gió, tại mưa... Bao nhiêu hậu quả và trách nhiệm đáng phải chịu vì lầm lỗi của mình, người ta đùn đẩy qua cho người khác. Tìm đâu ra con người dũng cảm dám đứng ra nhận lấy phần lỗi của mình và gánh lấy hậu quả do mình gây ra?
Trong khi đó, mặc dầu Chúa Giêsu được Gioan giới thiệu là Đấng quyền thế lớn lao, thậm chí Gioan không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người; là Đấng sẽ cử hành một phép rửa ngàn lần cao trọng hơn phép rửa của Gioan - "Phần tôi, tôi rửa anh em trong nước; còn Người, Người sẽ rửa anh em trong Chúa Thánh Thần" - vậy mà Chúa Giêsu lại đến với Gioan như một người tội lỗi, chăm chú nghe Gioan rao giảng, hoà mình với những người thu thuế, những tên cướp của giết người, những hạng người đàng điếm, côn đồ và với bao nhiêu người tội lỗi khác để chờ đến phiên mình bước xuống dòng sông Gio-đan, nhờ Gioan làm phép rửa cho.
Nhưng, Chúa Giêsu là Đấng không hề vướng tội, thì sao lại phải chịu phép rửa bởi Gioan?
Chúa Giêsu chịu phép rửa không phải vì tội lỗi của Người nhưng vì tội lỗi của nhân loại mà Người đã mang vào thân. Người là "Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta" (2Cr 5, 21). Người đến làm con "Chiên của Thiên Chúa" gánh lấy tội lỗi thế gian (Ga 1,29) thay cho các con chiên đền tội thời Cựu Ước.
Chính vì mang lấy tội lỗi nhân loại vào thân, Chúa Giêsu trở thành tội nhân, nên Người phải hoà mình với những tội nhân khác để cho ngôn sứ Gioan làm phép rửa cho Người.
Chính vì mang lấy tội lỗi nhân loại vào thân, Người đã bị kết án chết thảm thương trên thập giá để đền thay tội lỗi muôn người. "Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá. Để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em được chữa lành". (1 Pr 2, 24).
Cao đẹp thay, quảng đại thay hành vi hạ mình gánh lấy tội lỗi nhân loại của Chúa Giêsu. Người mãi mãi là gương mẫu của chúng ta và đáng cho chúng ta khâm phục tôn thờ.
Lạy Chúa Giêsu,
Biết đến bao giờ con mới chừa bỏ được thói trút tội lên đầu người khác và chối bỏ trách nhiệm của mình?
Biết bao giờ con mới có đủ bản lãnh và can trường để đứng ra chịu trách nhiệm về những thiệt hại mình đã gây ra?
Ước gì tấm gương khiêm nhường của Chúa hạ mình xuống nhận phép rửa dưới dòng sông Gio-đan vì tội lỗi nhân loại sẽ luôn là động cơ giúp con sửa chữa thói chạy tội vô trách nhiệm của mình.
18.Gioan: con người của canh tân--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có ai đó đã nói rằng: “Thà thắp lên một ánh nến còn hơn ngồi nguyền rủa bóng tối”. Lời này thật đúng vào thời Chúa Giêsu tại thế. Lúc đó dân tộc Israel đang sống trong bóng tối lầm than, đoạ đầy. Họ ao ước Đấng cứu tinh sẽ tới để giải thoát họ khỏi kiếp nôlệ cho ngoại bang. Họ chờ mong Đấng cứu tinh sẽ đến để xoay chuyển vận mạng cho dân tộc và cho chính ban thân của từng người khỏi kiếp sống lầm than. Và một tia hy vọng đã bừng sáng lên khi Gioan xuất hiện. Ông xuất hiện như một nguời hùng của dân tộc, như một nhà cách mạng giải cứu cho dân tộc. Ông đưa ra một phương thế có thể thay đổi vận mạng dân tộc: đó là hãy ăn năn sám hối, hãy trở về với Thiên Chúa Giavê và hãy trung thành với giao ước của Người. Đó cũng là cách để tránh khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa vì: “cái rìu đã kề sẵn gốc cây, cây nào không sinh trái sẽ bị đốn chặt đi”. Vì ngày thanh luyện trần gian đã đến. Thiên Chúa sẽ dùng nia mà sàn lọc, phân loại tốt xấu. Kẻ tốt sẽ được trọng thưởng, kẻ xấu sẽ bị quăng vào lửa trầm luân muôn đời.
Lời rao giảng của Gioan đã thức tỉnh lương tâm hàng vạn, hàng vạn người. Người ta thấy trong số đông lũ lượt kéo xuống dòng sông Gioađan năm ấy để lãnh phép rửa có đủ mọi thành phần. Từ anh chàng cù bất cù bơ không cửa không nhà đến hạng quyền qúy cao sang, nhà cao cửa rộng. Từ những con người có chức có quyền đến hạng dân đen thấp cổ bé miệng đều cảm thấy mình cần phải sám hối hầu tránh khỏi cơn thịnh nộ của trời đất, của Đấng tạo thành.
Dòng sông hôm ấy dường như náo nhiệt hơn mọi ngày, vì dòng người tấp lập, vì những lời bàn tán xôn sao về ngày thanh luyện trần gian đã tới. Nhưng một sự kiện còn làm họ bàng hoàng kinh ngạc hơn nữa, khi bầu trời trong sáng lạ thường hơn, cửa trời như được mở toang. Ánh sáng từ trời đã tập trung vào một con người đang nài xin Gioan làm phép rửa cho mình.
Gioan đã lưỡng lự, phân vân, vì ông biết đây chính là Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội gian trần. Ông không hiểu nổi tại sao Con Thiên Chúa, Đấng thánh thiện vô cùng lại cần đến phép rửa của ông. Ông tự biết mình đâu xứng đang cởi dây dầy cho người thì làm sao ông có diễm phúc đổ nước trên đầu một con chiên không tỳ vết, chính là Thiên Chúa của ông. Nhưng rồi, ông đã vâng lời để đổ nước cho Đấng mà bản thân ông không đáng cởi dây dầy cho người. Tức thì ông nghe một tiếng nói từ trời phán ra. Không phải là tiếng xót xa tìm kiếm ngày nào của Giavê khi Adam lẩn trốn vì phạm tội. “Ađam – Ađam ngươi đang ở đâu?”. Đó cũng không phải là lời luận tội vì tội Ađam mà luỵ đến con cháu muôn đời. Nhưng đó là lời giao hoà của Thiên Chúa với con người: “Đây là con Ta yêu qúy, hãy nghe lời Người”.
Kính thưa,
Ngày chúng ta lãnh nhận phép rửa tội, là ngày chúng ta được nhận làm con yêu qúy của Thiên Chúa. Qua cha mẹ và những người đỡ đầu, ánh sáng của đức tin đã được thắp lên trong cuộc đời chúng ta. Nhưng liệu với tuổi đời chồng chất theo thời gian năm tháng. Ta có còn là con yêu qúy của Thiên Chúa và Thiên Chúa có hài lòng về cuộc sống của ta hay không? Hay ta đã bán đi tất cả gia sản của cha mình để buông mình trong những đam mê lầm lạc, trong bóng tối của sa đoạ, tội lỗi, trong những hư danh của trần gian và khước từ ân huệ là con của Thiên Chúa.
Lời Chúa hôm nay không chỉ mời gọi chúng ta gìn giữ ân huệ cao cả được làm con Thiên Chúa mà còn mời gọi chúng ta hãy trở thành một Gioan cho thời đại hôm nay.
Thế giới hôm nay rất cần một con người như Gioan để thức tỉnh nhân loại hãy ăn năn sám hối, hãy trở về với Thiên Chúa hòng tránh cơn thịnh nộ của Đấng tạo hoá chí công.
Thế giới hôm nay rất cần một con người như Gioan dám hy sinh vì chân lý, vì tin mừng cho dù phải trả giá bằng sự nghèo đói, đoạ đầy và cả tính mạng của mình.
Thế giới hôm nay rất cần một con người như Gioan để giới thiệu Chúa cho tha nhân, ngõ hầu muôn dân khắp mặt đất cùng một tâm tình, một ước nguyện, một lời kinh dâng lên Đấng tạo thành trời đất và muôn vật. Xin cho mỗi người chúng ta luôn biết khiêm tốn để Chúa được tỏ hiện trong đời sống của chúng ta. Amen.
19.Liên đới tội nhân--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một lần dạy giáo lý tôi hỏi các em: Thông thường khi phạm tội điều đầu tiên mình phải làm gì?
Một em trả lời: thưa cha bỏ chạy ạ!
Nghe qua tưởng là chuyện đùa nhưng điều đó mới là lẽ thường tình. Ai phạm tội mà không bỏ chạy? Ai có tội mà không che dấu tội? Con người trước khi phạm tội thì rất hung hăng nhưng sau khi phạm tội thì lại hoảng loạn sợ hãi như cha ông ta bảo rằng: “Chưa đánh được người, mặt xanh mày tía. Đánh được người rồi hồn vía lên mây”.
Có một đứa bé đang kiễng chân lên trước cổng của một ngôi nhà to lớn để nhấn chuông, nhưng mãi không nhấn được. Cha sở đi ngang qua thấy vậy liền nói: Để cha giúp con. Thế là cha sở bế thằng bé lên cho nó nhấn chuông. Nhấn chuông xong thả nó xuống đất, cha sở mới hỏi: Con còn cần ta giúp gì nữa không? Thằng bé liền nói: Bỏ chạy ạh! Thế là nó ba chân bốn cẳng bỏ chạy, cha sở ngớ người ra chẳng biết nói gì! Hóa ra thằng nhỏ đến nghịch chuông nhà người ta mà cha sở lại tưởng nó có việc nên nhấn chuông!
Ở đời người ta thường chạy tội, đổ tội cho người khác để giảm khinh cho lỗi của mình. Khi phạm tội ông bà nguyên tổ đã chạy trốn trong bụi cây. Trốn không được nên Adam đã đổ tội cho Eva. Eva đổ tội cho con rắn. Cain thì chối tội. Cuộc đời quanh ta cũng có biết bao người sợ tội, sợ liên lụy nên không dám nhận lỗi lầm về mình, càng không dám để lộ tội lỗi của mình cho người khác biết.
Ở Việt Nam có biết bao con đường chưa xong đã hư, và cũng có biết bao cây cầu chưa khánh thành đã đổ xập. Thế nhưng, điều đáng tiếc là chúng ta cũng chỉ nghe họ đổ tội cho nhau dù đã gây nên biết bao thiệt hại cho xã hội về vật chất, về tiền, có khi cả về mạng sống con người.
Ở gia đình cũng có biết bao cha mẹ thiếu trách nhiệm giáo dục con cái, thiếu cả gương sáng nên con cái hư hỏng, nhưng điều đáng tiếc là họ chỉ đổ tội cho nhau và không bao giờ sám hối về tội của mình.
Có biết bao thanh thiếu niên phạm pháp và xì ke ma túy khi bị bắt họ cũng không nhận lỗi lầm của mình mà còn đổ tội cho cha mẹ vì quá nuông chiều.
Có biết bao mối tình bất chính đã gây nên hậu quả là những cái thai ngoài ý muốn. Điều đáng tiếc là họ cố tình che dấu tội của mình bằng việc tàn sát các thai nhi vô tội.
Chúa Giê-su là Đấng hoàn toàn vô tội. Ngài là Đấng cao cả đến nỗi Gioan bảo không đáng cúi xuống cởi quai dép cho người. Thế mà Ngài lại đến với Gioan như một tội nhân. Ngài hòa mình giữa bao tội nhân để nhận lãnh phép rửa sám hối của Gioan.
Biến cố Chúa Giê-su chịu phép rửa của Gioan là một khởi đầu cho một chuỗi những liên đới với tội nhân. Ngài đã chấp nhận đứng chung với tội nhân để gánh lấy hậu quả của tội lỗi nhân gian. Hậu quả của tội lỗi là đau khổ, là sự chết. Chúa Giê-su đã gánh lấy tội nhân loại khi phải sống kiếp người đầy thăng trầm và khổ đau. Ngài gánh lấy tội nhân loại khi bị kết án, tẩy chay loại trừ. Ngài còn gánh lấy tội nhân gian khi bị chết treo trên thập giá để đền thay tội lỗi nhân gian. Ngài hiến dâng mạng sống mình thành của lễ giao hòa với Thiên Chúa Cha. Qua cuộc Tử Nạn và phục sinh của Ngài mà nhân loại chúng ta được giao hòa với Chúa Cha, được gọi Thiên Chúa là Cha, và được thừa tự phần phúc thiên đàng do công phúc của Chúa Giê-su.
Cuộc đời sẽ hạnh phúc biết bao khi con người biết nhận trách nhiệm về mình, không đổ lỗi, không chạy tội nhưng luôn khiêm tốn nhìn nhận cái sai để sửa, để rút kinh nghiệm, để canh tân. Cuộc đời sẽ không còn nước mắt của sự bỏ rơi, thất vọng khi ai cũng can đảm liên đới với mảnh đời bất hạnh để cảm thông, để an ủi và giúp họ vượt qua những khổ đau. Cuộc đời sẽ công bằng hơn khi ai cũng dám làm dám chịu mà không chạy tội hay đổi tội cho người khác.
Ước gì chúng ta đừng bao giờ chối tội, chạy tội mà luôn biết nhìn nhận những khuyết điểm, những sai lỗi của mình để ăn năn sám hối và canh tân đời sống. Ước gì chúng ta cũng biết liên đới với tội nhân như Chúa Giê-su để dâng những việc lành phúc đức, những lời kinh nguyện, những hy sinh lên Thiên Chúa để đền bù tội lỗi nhân gian. Amen.
20.Chúa Giêsu chịu phép rửa--Alphonse Marie Trần Bình An
Để được thanh tẩy
Theo sách Xuất Hành, Mosê là con trai của Amram, thuộc chi phái Levite, mẹ là Jochebed. Mosê có một chị gái lớn hơn 7 tuổi tên Miriam, và một anh trai lớn hơn 3 tuổi tên Aaron. Theo Sáng Thế Ký (46: 11) Thân phụ của Amram, Kê-hát, ở trong số 70 người thuộc gia đình Jacob vào ngụ cư ở Ai Cập. Như thế, Moses là thế hệ thứ hai sinh trưởng tại Ai Cập.
Mosê chào đời khi Pharaon (Vua Ai Cập) ra lệnh sát hại tất cả bé trai Do Thái bằng cách trấn nước chúng tại sông Nile. Cả kinh Torah và sử gia Flavius Josephus đều không nói gì đến tên tuổi và thân thế của Pharaon này. Người ta không rõ đây là vị Pharaon nào trong lịch sử Ai Cập cổ đại, và có những quan điểm cho rằng đây là vua Seti I hoặc là vua Ramesses II của Vương triều thứ 19.
Jochebed, sau khi sinh hạ một con trai, đã tìm cách giấu đứa bé trong ba tháng. Khi biết không thể bảo vệ đứa bé lâu hơn nữa, Jochebed đặt đứa bé vào một cái nôi và thả trôi theo dòng sông Nile. Miriam, chị của cậu bé, dõi theo canh chừng chiếc thuyền con bé tí này cho đến khi nó trôi giạt vào nơi công chúa Thermuthis (Bithiah) đang tắm cùng các nữ tì. Công chúa thấy đứa bé nằm trong nôi bèn ra lệnh vớt lên. Miriam tìm đến và xin công chúa nhận cô làm vú nuôi chăm sóc đứa bé. Về sau, Jochebed thay thế con gái trở thành vú nuôi của đứa bé. Khi lớn lên, Mosê được đem vào cung và được công chúa nhận làm con nuôi. Công chúa đặt tên đứa bé là Mosê, tiếng Do Thái là mashah nghĩa là được "cứu khỏi nước."
Ông Môsê, ngôn sứ lãnh đạo dân Do Thái thoát khỏi kiếp nô lệ Ai Cập, lưu lạc suốt 40 năm trong sa mạc, đến miền Đất Hứa. Hình ảnh được cứu khỏi nước, ông Môsê thoát chết, khiến tín hữu Kitô liên tưởng đến phép thanh tẩy của Đức Giêsu giải thoát con người khỏi ách nô lệ tội lỗi và sự chết. Hôm nay, Giáo Hội mửng lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa bời ngôn sứ Gioan Tiền Hô. Có thể nhiều người cũng giống thái độ của Gioan, kinh ngạc thấy Đức Giêsu nằng nặc đòi ông Gioan làm phép rửa cho Người, vốn tinh tuyền, trong sạch, hoàn toàn vô tội.
Làm người
Làm sao thấu hiểu được mầu nhiệm Nhập Thể, Thiên Chúa Ở Cùng Chúng Ta, nếu không xác tín vào Kinh Thánh, Lời Chúa? Thánh Phaolô đã tóm lược công trình cứu độ con người: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hủy mình ra không, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng phục cho đến chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2, 6-7).
Đức Giêsu sẵn sàng rời bỏ địa vị cao quý tột cùng, mặc lấy xác phàm, để cùng sống thân phận yếu đuối, mỏng dòn như nhân loại. Chẳng bao giờ có thần thánh nào khác dám tự hạ làm tiện dân bần cùng đến vậy. Chỉ vì tình yêu nhân loại, mà Người bất chấp gian lao, nguy khó, đe dọa và tước đi cả chính sinh mệnh.
Nghèo khó
Đường lối của Thiên Chúa hoàn toàn khác với đường lối con người, vốn ưa chuộng những điều phù phiếm hư ảo. Đức Giêsu không sinh trong gia đình giàu sang, phú quý, danh giá, nhưng trong cảnh nghèo khó mà công chính, đạo đức, thánh thiện. Máng cỏ Bêlem thô kệch, ngứa ngáy thay cho cái nôi ấm áp, êm ái. Thiếu thốn, bần cùng thay cho dư giả, sung túc tiện nghi. “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.” (Mt 5, 3) Trong Bát Phúc, thì tinh thần nghèo khó được Đức Giêsu đặt lên hàng đầu.
“Xin Chúa cho con được khó nghèo như Chúa.” Thường con hay cầu nguyện ngược lại. (Đường Hy Vọng, số 419)
Gian truân
Nhờ hơi ấm bò lừa, Hài Nhi bớt run rẩy trong tiết Đông giá lạnh. Hơn nữa, Hài Nhi hiền hòa còn chịu cảnh bôn ba, vất vả vượt biên Ai Cập, trong khi Mẹ Người và Cha nuôi âu sầu, lo lắng đem Người chạy trốn bạo quyền Hêrôđê lăm le sát hại. “Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Hứa làm gia nghiệp. Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an. (Mt 5, 4 - 5) Người đã nêu gương đích thật về Bát Phúc, tỏa sáng chan hòa cho những ai muốn bước theo Người.
Trong gian khổ có ba điều con nên tránh:
- Đừng điều tra ‘Tại ai?” Hãy cám ơn dụng cụ nào đó, Chúa dung thánh hóa con.
- Đừng than thờ với bất cứ ai. Chúa Thánh Thế, Đức Mẹ là nơi con tâm sự trước hết.
- Khi đã qua, đừng nhắc lại trách móc, hận thù. Hãy quên đi, đừng nhắc lại bao giờ và nói: “Alleluia!” (Đường Hy Vọng, số 700)
Khiêm hạ
Thánh Gioan kinh ngạc thấy Đức Giêsu xếp hàng cùng với tội nhân khắp nơi tuôn đến, xin ngài ban phép rửa. Ai cũng đều không khỏi ngạc nhiên thấy vậy. Đấng Cứu Thế chí tôn, chí nhân, chí thánh lại tự hạ cùng cực, khi hòa mình vào đám đông tội lỗi. Bởi vì Người yêu thương con người, gánh trên mình tất cả tội lỗi gian trần, chịu phép rửa, đồng thời tiên báo cuộc tử nạn và phục sinh hầu cứu độ loài người.
“Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.” (Lc 1, 52) Đức Mẹ Maria đã cảm nghiệm sâu sắc đức khiêm nhường, mà Chúa hằng yêu chuộng.
“Trong cuộc đời Chúa Giêsu, Người yêu thương cách riêng những kẻ khiêm nhường, và quên hết tội lỗi của họ, không bao giờ nhắc lại:
Phêrô
Mađalêna
Giakêu…
Chúa thân hành đến nhà họ, và đành chịu mang tiếng: “Bạn với quân thu thuế và tội lỗi.” (Đường Hy Vọng, số 521)
Vâng phục
“Người đi cùng với cha mẹ, trở về Nazareth và hằng vâng phục các ngài.”(Lc 2, 51) Ba mươi năm sau, Đức Giêsu vẫn tiếp tục vâng theo Thánh Ý Cha, khiêm nhường cúi đầu chịu phép rửa của ông Gioan, toàn tâm, toàn ý trung thành với sứ vụ cứu độ loài người. Người đã làm đẹp lòng Thiên Chúa Cha: “Con là Con yếu dấu của Cha, Cha hài lòng về con.” (Mc 1, 11)
“Vâng phục trong thinh lặng, sự thật sẽ giải thoát con. Thinh lặng trong năm năm, mười năm, cả đời con. Thinh lặng trong sự chết… Chúa biết con đủ rồi, và ngày tận thế nhân loại cũng sẽ biết. (Đường Hy Vọng, số 405)
Lạy Chúa Giêsu, xin thức tỉnh chúng con trở về với Chúa, chừa thói kiêu căng, tự cao tự đắc, tự mãn, mà biết cúi mình, đấm ngực, ăn năn, sám hối, ý thức thân phận tội lỗi, mà canh tân đổi mới cuộc đời, hầu được Chúa giải thoát cứu rỗi.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ giúp chúng con sống tự hạ, khiêm tốn, khó nghèo và vâng phục theo Mẹ, để được Chúa thương dẫn về sự sống. Amen.
21.Tầm quan trọng của Bí Tích Rửa Tội--Lm. Trần Bình Trọng
Nếu phép rửa của ông Gioan tẩy giả không có công hiệu tha tội thì tại sao Ðức Giêsu là Ðấng vô tội lại đến xin chịu phép rửa ở sông Gio-đan? Ðây chính ông Gioan đã trả lời cho câu hỏi này:
Tôi chỉ làm phép rửa bằng nước, còn Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần (Mc 1:8). Như vậy phép rửa của Gioan chỉ là nghi thức, một tác động sám hối để sửa soạn cho người ta đón nhận Ðấng Cứu thế. Bằng việc chịu phép rửa, Ðức Giêsu muốn xác nhận sứ mệnh và phê chuẩn việc làm của ông Gioan. Chúa còn tỏ cho nhân loại thấy tầm quan trọng của Bí tích Rửa tội mà Người sẽ thiết lập sau này.
Mặc dù không phải là bí tích rửa tội, phép rửa mà Ðức Giêsu lãnh nhận bởi ông Gioan cũng đánh dấu quyết liệt trong đời sống của Người. Khi Chúa chịu phép rửa, có tiếng phê chuẩn từ trời: Con là Con yêu dấu của Cha; Cha hài lòng về Con (Mc 1:11). Với tiếng phán từ trời, Chúa Giêsu được Thiên Chúa Cha công nhận là người đến để cứu chuộc nhân loại. Tiếng từ trời phán có liên hệ rất gần gũi với lời ngôn sứ Isaia về người đầy tớ đau khổ: Ðây là người tôi trung Ta nâng đỡ, là người ta tuyển chọn và quí mến (Is 42:1). Từ ngữ Con trong Phúc âm thánh Mác-cô được thay thế vào từ ngữ tôi trung trong sách ngôn sứ Isaia ám chỉ Chúa Giêsu là tôi tớ đau khổ của Ðức Giavê. Và đó là điều mà Gioan Tẩy giả đã giới thiệu Ðức Kitô: Ðây chiên Thiên Chúa, đây Ðấng xoá tội trần gian (Ga 1:29).
Phép rửa mà Đức Giêsu lãnh nhận nhắc nhở cho ta về phép Rửa tội của mỗi người, đánh dấu việc khởi đầu của đời sống đức tin. Ðời sống đức tin của người tín hữu bắt đầu khi ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Trong nước rửa tội, ta trở nên người mới với đời sống mới. Bí tích Rửa tội vừa là việc kết thúc vừa là việc khởi đầu. Bí tích Rửa tội kết thúc đời sống trong bóng tối tội lỗi và bắt đầu đời sống mới trong ơn nghĩa với Chúa. Bí tích Rửa tội là việc tham dự vào cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa, nghĩa là người chịu phép Rửa tội phải chết đi cho tội lỗi, để được sống lại với Chúa trong ơn thánh. Ðó là ý nghĩa của lời Chúa nói với ông Nicôđêmô: Không ai có thể thấy nước Thiên Chúa, nếu không được sinh ra bởi nước và Thánh thần (Ga 3:5). Và rồi Chúa thiết lập Bí tích Rửa tội: Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ, nhân danh Cha, và Con và Thánh thần (Mt 28:19).
Bí tích Rửa tội không phải là giấy thông hành để được vào nước Trời. Người ta có thể chứng minh có tất cả các giấy chứng chỉ về đạo giáo như: chứng chỉ rửa tội, rước lễ lần đầu, thêm sức, cưới hỏi.. Tuy nhiên chưa chắc người ta đã sống đức tin và trưởng thành trong đức tin. Người ta có thể chịu Phép rửa tội lâu năm, nhưng đời sống vẫn không có gì thay đổi, vẫn khô khan, nguội lạnh và làm biếng việc lành. Tại sao lại như vậy? Có lẽ tại vì người ta làm việc đạo một cách máy móc cho qua lần chiếu lệ, hay mặc cả với Chúa để được hưởng giá rẻ trong việc giữ đạo.
Khi chịu Phép Rửa tội, người tín hữu phải tỏ ra tâm tình sám hối đi kèm. Tuy nhiên làm sao trẻ thơ có thể giục lòng sám hối? Ở đây, cha mẹ và người đỡ đầu và toàn thể dân Chúa thay thế cho con trẻ khi chịu phép rửa tội để giục lòng sám hối mà nhận lãnh đức tin. Để nhắc nhở cho người tín hữu về những ơn ích của Bí tích Rửa tội, hằng năm vào lễ Phục sinh, Giáo hội cho ôn lại lời hứa khi chịu Phép Rủa tội là: từ bỏ tội lỗi, từ bỏ Xatan và những quyến rũ gian tà. Giáo hội còn nhắc nhở cho người tín hữu tin vào Thiên Chúa là Cha, tin Chúa Giêsu Kitô và tin Chúa Thánh thần. Ngươòi tín hữu còn được nhắc nhở để đặt niềm tin vào Giáo hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền, tin phép tha tội, tin xác sống lại và sự sống vĩnh cửu nữa.
Bí tích Rửa tội là một biến cố lớn trong đời sống người tín hữu. Hoặc được rửa tội khi còn tuổi măng sữa, hay khi đã lớn khôn, người ta cần đem ý nghĩa vào việc rửa tội. Nếu được rửa tội khi đã khôn lớn, người ta phải xác tín về đức tin và về đạo. Nếu được rửa tội lúc còn nhỏ dại, khi lớn lên, người ta phải tự phê chuẩn đức tin mà ta đã lãnh nhận khi chịu phép Rửa tội. Ta không thể cậy dựa và tuỳ thuộc vào đức tin của cha mẹ và người đỡ đầu mãi mãi. Ta phải tập đi tập đứng trong đức tin. Khi mà hạt giống đức tin được vun trồng trong đời sống, ta phải nuôi dưỡng, chăm sóc, nếu muốn cho đức tin được tăng trưởng và sinh hoa kết quả thiêng liêng.
Lời nguyện xin cho được ơn nhận ra tầm quan trọng của Bí tích Rửa tội.
Lạy Chúa Giêsu! Đấng thiết lập Bí tích Rửa tội.
Bằng việc chịu phép rửa sám hối,
Chúa đã muốn phê chuận sứ mệnh của thánh Gioan.
Chúng con cầu nguyện cho những người tin Chúa
mà không nhận phép rửa tội.
Xin cho họ nhận thức được
tầm quan trọng của Bí tích Rửa tội.
Còn những người đã được sinh lại trong nước và Thánh thần,
xin cho họ được tiếp tục đi tìm kiếm nước Chúa. Amen.
22.Chúa Giêsu chịu phép rửa: ân sủng của bí tích Rửa Tội--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Sự kiện Chúa Giêsu chịu Phép Rửa là gạch nối giữa giai đoạn quan trọng: sống ẩn dật và rao giảng công khai. Sau 30 năm sống âm thầm với gia đình tại Nadarét, Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ loan báo Tin Mừng.
Lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa cũng là gạch nối giữa hai mùa: Giáng sinh và Thường niên. Giáo Hội đã cùng sống với Chúa Giêsu qua các biến cố Giáng Sinh và Hiển Linh. Hôm nay Chúa Nhật I thường niên, Giáo Hội sẽ cùng đồng hành với Người qua các biến cố của đời rao giảng.
1. Chúa Giêsu chịu Phép Rửa
Khởi đầu cuộc sống công khai, lúc đã 30 tuổi, tức là đã trưởng thành trọn vẹn như người Á Đông vẫn quan niệm “tam thập nhi lập”, Chúa Giêsu tìm đến sông Giođan để xin Gioan Tẩy Giả cử hành phép rửa cho mình. Thật lạ lùng, trong số những người đến “xưng thú tội lỗi” (Mc 1,5) và chịu “ phép rửa sám hối để đước ơn tha tội” (Mc 1,4) lại có Chúa Giêsu. Người là Đấng Thánh, là Thiên Chúa, siêu việt tuyệt đối, tại sao lại đến xin Gioan làm phép rửa sám hối? Người là Đấng mà Gioan “không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Ngài ” lại có thể đứng chung với đám đông người tội lỗi chờ đến lượt mình được chịu thanh tẩy? Đây là động thái gây kinh ngạc cho con người thời nay, vì khó hiểu: Đấng không có tội lại đi nhận phép rửa làm gì? Nhưng người ta cũng sớm hiểu ra rằng: phép rửa của Gioan Tẩy Giả chỉ là nghi thức mang tính tẩy trần, nếu có giá trị thì chỉ theo quy định của lề luật thôi, còn chưa có hiệu quả đích thực tôn giáo. Chính Gioan Tẩy Giả đã minh định: “Tôi rửa anh em trong nước, nhưng Đấng đến sau tôi sẽ rửa anh em trong Thánh Thần và trong lửa”. Khi Chúa Giêsu nhận phép rửa này, ngoài việc “nhập thế đến cùng”, khiêm tốn xếp hàng đứng chung với các tội nhân đợi chờ đến phiên, Người còn hữu ý qua động thái có một không hai đó, công khai khởi đầu cuộc sống mới: cuộc rao giảng Tin Mừng cho mọi người.
Tất cả các tiên trưng trong Cựu Ước đều được thực hiện trong Đức Kitô Giêsu. Để “chu toàn thánh ý Thiên Chúa"(Mt 3,15), Chúa Giêsu tự nguyện chịu phép rửa của thánh Gioan, dành cho những người tội lỗi. Cử chỉ này cho thấy Chúa Giêsu đã đi vào mầu nhiệm “tự hạ” (Pl 2,7). Chúa Thánh Thần xưa kia đã bay là là trên mặt nước trong cuộc sáng tạo thứ nhất, nay ngự xuống trên Đức Kitô như khúc nhạc dạo đầu của bản giao hưởng sáng tạo mới, và Chúa Cha giới thiệu Chúa Giêsu là “Con Chí Ái” của Ngài (Mt 3,16-17).
Trong cuộc Vượt Qua, Đức Kitô đã khơi nguồn Bí Tích Rửa Tội cho mọi người. Người nói về cuộc tử nạn sẽ phải chịu tại Giêrusalem như “một Phép Rửa” Người phải lãnh nhận (x. Mc 10,38; Lc 12,50). Máu và nước chảy ra từ cạnh sườn Người bị đâm thâu trên thập giá (Ga 19,34) tiên trưng cho Bí Tích Rửa Tội và Bí Tích Thánh Thể là những bí tích ban sự sống mới (x.1Ga 5,6-8); từ giây phút ấy, chúng ta có thể “sinh ra nhờ nước và Thánh Thần” để được vào Nước Thiên Chúa (Ga 3,5).
Bí Tích Rửa Tội là cánh cửa phân chia tách bạch đời sống, một đàng là khép lại quá khứ của bóng tối, tội lỗi, chết chóc, và đàng khác là mở ra tương lai của ánh sáng, thánh ân, sự sống. Bí Tích Rửa Tội cần thiết cho ơn cứu rỗi, nên bí tích này cũng là khởi đầu cho một sự hiện diện mới: từ kẻ ngoại đạo trở thành người đã tòng giáo; từ một lương dân trở nên tín hữu; từ kẻ xa lạ trở thành người nhà của Thiên Chúa. Quả là một hồng ân vô cùng lớn lao cho những ai đón nhận trong lòng tin.
2. Ân Sủng của Bí Tích Rửa Tội
Khi ban Bí Tích Rửa Tội, Thừa tác viên Giáo Hội đổ nước trên đầu thụ nhân và đọc công thức “Cha rửa con nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Đơn giản trong cung cách cử hành, nhưng hiệu quả ơn thánh lại phong phú bội phần. Bằng những hình ảnh do Thánh Kinh gợi ý, người ta trở thành thành viên trong Dân Chúa Cha, chi thể trong Thân Mình Chúa Kitô và viên đá sống động kiến tạo Đền Thờ Chúa Thánh Thần. Con người mới chính là con cái Thiên Chúa và được thông phần vào sự sống của Thiên Chúa hằng sống.
Bí Tích Rửa Tội là nền tảng của toàn bộ đời sống Kitô hữu, là cửa ngõ dẫn vào đời sống thần linh và mọi bí tích khác. Nhờ bí tích này chúng ta được giải thoát khỏi tội lỗi và tái sinh làm con cái Thiên Chúa, thành chi thể của Đức Kitô, được gia nhập và tham dự sứ mạng của Hội Thánh (GLCG 1213).
Bí Tích Rửa Tội tha thứ nguyên tội, mọi tội cá nhân và các hình phạt do tội. Bí Tích Rửa tội cho tham dự vào đời sống của Thiên Chúa Ba Ngôi nhờ ơn thánh hoá, nhờ ơn công chính hoá giúp tháp nhập vào Đức Kitô và Hội Thánh. Bí tích này cho tham dự vào chức tư tế của Đức Kitô và tạo nền tảng cho sự hiệp thông với tất cả các Kitô hữu. Bí tích này trao ban các nhân đức đối thần và các hồng ân của Chúa Thánh Thần. Người lãnh nhận bí tích Rửa tội thuộc về Đức Kitô luôn mãi: họ được đóng ấn không thể xóa được của Đức Kitô (GLCG 263).
Như vậy, có hai hiệu quả chính yếu của Bí Tích Rửa Tội là thanh luyện tội lỗi và tái sinh trong Chúa Thánh Thần (x. Cv 2,38; Gl 3,5).
a. Được tha thứ tội lỗi
Nhờ Bí Tích Rửa Tội, mọi tội lỗi đều được tha: nguyên tội, mọi tội riêng cũng như mọi hình phạt do tội (x. DS 1316). Những người đã được tái sinh sẽ được vào Nước Thiên Chúa và không còn gì ngăn cản họ, dù là tội Ađam, tội riêng của họ, những hậu quả của tội, kể cả hậu quả trầm trọng nhất là xa lìa Thiên Chúa.
Tuy nhiên, người đã được rửa tội còn phải chịu một số hậu quả tạm thời của tội như: đau khổ, bệnh tật, chết chóc hay những bất toàn trong cuộc sống như tính tình yếu đuối... và một sự hướng chiều về tội mà Truyền Thống quen gọi là vật dục hay nói bóng bẩy là “cái nôi của tội”. “Thiên Chúa để vật dục lại cho chúng ta chiến đấu. Vật dục không có khả năng làm hại những ai không đồng tình mà còn can đảm chống lại nó nhờ ân sủng của Đức Kitô. Hơn nữa, “không đoạt giải nếu không thi đấu theo luật lệ” (2 Tm 2,5) (x. CĐ Trentô: DS 1515).
b. “Trở nên thụ tạo mới”
Bí Tích Rửa Tội không chỉ rửa sạch mọi tội lỗi, mà còn làm cho người tân tòng trở nên “một thụ tạo mới” (2 Cr 5,17), thành nghĩa tử của Thiên Chúa (x. Gl 4,5-7), “được thông phần bản tính Thiên Chúa” (2 Pr 1,4), thành chi thể Đức Kitô (x.1Cr 6,15; 12,27) và đồng thừa tự với Người (Rm 8,17), thành đền thờ Chúa Thánh Thần (x.1Cr 6,19).
Chúa Ba Ngôi Chí Thánh ban cho người được rửa tội ơn thánh hóa, ơn công chính hóa để người đó:
- Có khả năng tin tưởng, trông cậy và yêu mến Người nhờ các nhân đức đối thần.
- Có thể sống và hành động dưới tác động của Chúa Thánh Thần nhờ các hồng ân.
- Ngày càng hoàn thiện hơn nhờ các nhân đức luân lý.
Toàn bộ đời sống siêu nhiên của người Kitô hữu đều bắt nguồn từ Bí Tích Rửa Tội.
Bí Tích Rửa Tội làm cho chúng ta thành chi thể trong Thân Thể Chúa Kitô, “bởi thế, chúng ta là phần thân thể của nhau” (Ep 4,25). Bí Tích Rửa Tội tháp nhập chúng ta vào Hội Thánh. Dân Thiên Chúa của Giao Ước Mới phát sinh từ giếng rửa tội. Dân này vượt trên mọi ranh giới tự nhiên hay nhân trần, quốc gia, văn hóa, chủng tộc và giới tính. “Tất cả chúng ta đều đã chịu Phép Rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể” (1 Cr 12,13).
Những người đã được rửa tội trở nên “những viên đá sống động... để xây nên ngôi đền thờ của Thánh Thần, xây dựng hàng tư tế thánh” (1 Pr 2,5). Nhờ Bí Tích Rửa Tội ,họ tham dự vào chức tư tế của Đức Kitô, vào sứ mạng ngôn sứ và vương đế của Người: “Anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hoàng tộc chuyên lo tế tự, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công vĩ đại của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối vào nơi đầy ánh sáng dịu huyền” (2 Pr 2,9).
Bí Tích Rửa Tội cho các tín hữu tham dự vào chức tư tế cộng đồng của Dân Chúa.Người đã được rửa tội trở thành phần tử của Hội Thánh, họ “không còn thuộc về mình, nhưng thuộc về Đấng đã chết và sống lại vì chúng ta” (1Cr 6,19). Do đó, họ được mời gọi để phục tùng nhau (x.Ep 5,21;1Cr 16,15-16) và phục vụ nhau (x.Ga 13,12-15) trong tình hiệp thông của Hội Thánh. Họ được mời gọi vâng lời và phục tùng các vị lãnh đạo của Hội Thánh (x.Dt 13,17) với lòng kính trọng và quý mến (x.1Tx 5,12-13). Bí Tích Rửa Tội đã trao cho người lãnh nhận những trách nhiệm và bổn phận, đồng thời cũng cho họ được hưởng những quyền lợi trong lòng Hội Thánh:được lãnh nhận các bí tích, được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và được Hội Thánh nâng đỡ bằng các trợ giúp thiêng liêng. (x.LG 37).
3. Bí Tích Rửa Tội, hồng ân cao đẹp và kỳ diệu
Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và Gioan là lúc Tân - Cựu ước giao duyên, là lễ bàn giao giữa hai niên đại cũ và mới mà Chúa Giêsu và Gioan là đại biểu. Gioan, ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước gặp gỡ trao đổi bàn giao với Đức Kitô,vị ngôn sứ của thời kỳ mới.Nơi cuộc gặp gỡ lịch sử này,Thiên Chúa đã xuất hiện và chứng nhận. Lúc ấy các tầng trời mở ra, Thánh Thần đáp xuống như chim bồ câu và có tiếng Chúa Cha tuyên phán: Con là Con Ta yêu dấu. Ba Ngôi Thiên Chúa tỏ hiện vào chính lúc lịch sử của hai niên đại mới và cũ chuyển giao.Từ nay Chúa Giêsu sẽ lên đường vào sứ vụ mới với cuộc sống công khai, chính thức rao giảng Tin Mừng và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân chúng. Lời Người nói là Lời chân lý khai quang tâm hồn, dẫn người người về đường ngay nẻo chính Nước Trời, và việc Người làm là việc giải thoát đem lại ơn cứu rỗi, đưa toàn thể nhân loại vào trong tình nghĩa thiết ngàn đời với Thiên Chúa tình thương. Chúa Giêsu khai mở kỷ nguyên cứu rỗi.
Thánh Phaolô gọi Bí Tích Rửa Tội là tắm trong Chúa Thánh Thần, để được tái sinh và đổi mới (x. Tt 3,5). Được tái sinh làm con Thiên Chúa, những người đã được rửa tội có bổn phận tuyên xưng trước mặt mọi người đức tin mà họ nhận lãnh từ Thiên Chúa qua Hội Thánh (x.LG 10), tham dự vào hoạt động tông đồ và truyền giáo của Dân Thiên Chúa (x.LG 17; AG 7,23).
Thánh Giúttinô gọi Bí Tích Rửa Tội là ơn soi sáng, vì những người được đạo lý giáo huấn thì tâm trí được soi sáng. Người chịu phép rửa, vì đón nhận Ngôi Lời là “ánh sáng đích thực chiếu soi mọi người” (Ga 1,9), nên sau khi “đã được soi sáng” (Dt 10,32), họ trở thành “con cái sự sáng” (1 Tx 5,5) và là “ánh sáng” (Ep 5,8).
“Bí Tích Rửa Tội là hồng ân cao đẹp nhất và kỳ diệu nhất trong các hồng ân của Thiên Chúa...Chúng ta gọi là hồng ân, ân sủng, xức dầu, soi sáng, mặc lấy sự bất tử, tắm để tái sinh, ấn tín và tất cả những gì quý giá nhất. Là hồng ân, vì được ban cho những người trắng tay. Là ân sủng, vì được ban cho cả những người có lỗi. Dìm xuống,vì tội lỗi bị nhận chìm trong nước. Xức dầu, vì có tính cách linh thiêng và vương giả (như những người được xức dầu). Soi sáng, vì đó là ánh sáng chói lọi. Mặc, vì che đi nỗi tủi nhục của chúng ta. Tắm, vì làm cho chúng ta sạch. Ấn tín, vì gìn giữ chúng ta và là dấu chỉ về quyền tối cao của Thiên Chúa” (Thánh Grêriô Nadien, Bài giảng 40,3-4).
Nhờ Bí Tích Rửa Tội, trong tư cách là “Kitô hữu thuộc về Chúa Kitô”, chúng ta được nhắc nhớ về sứ mạng phải làm triển nở sự sống của Chúa Kitô nơi mình và nơi những người lân cận bằng lòng tin và bằng tình yêu chân thành và trung tín.
Trong tư cách “Kitô hữu hướng về Chúa Kitô”, chúng ta cũng được hun đúc để luôn biết sống bằng niềm hy vọng và bằng lời kinh phó thác, nhất là trong lúc gặp thử thách gian truân.
Trong tư cách “Kitô hữu tìm về Chúa Kitô”, chúng ta còn biết sẵn sàng thanh tẩy đời sống qua việc sám hối hòa giải để đón nhận lòng thương xót của Chúa một cách dồi dào hơn.
Trong phép lần hạt Năm Sự Sáng, gẫm thứ nhất, chúng ta vẫn đọc: “Thứ nhất thì ngắm, Đức Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan. Ta hãy xin cho được sống xứng đáng là con cái Chúa”. Theo gương Mẹ Maria, chúng ta xin được sống gắn bó với Chúa Giêsu mật thiết hơn, để xứng đáng là những người con yêu dấu của Thiên Chúa.
23.Chúa Giêsu chịu phép rửa: Thời đại ân sủng--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Chúa chịu Phép Rửa tại sông Giođan mở ra một thời đại ân sủng cho nhân loại.
1. Sông Giođan
Trong các dòng sông nổi tiếng khắp thế giới thì Giođan bé nhỏ là dòng sông quen thuộc nhất đối với người Kitô hữu. Dòng sông ấy gắn liền với những sự kiện quan trọng của Thánh Kinh.
Như một thân thể của xứ Palestine, sông Giođan góp phần quan trọng trong lịch sử Israel ngay từ những ngày đầu Thiên Chúa chọn dân Do thái. Từ Giođan chuyển từ tiếng Do thái là “hayyarden” có nghĩa “chảy xuôi dòng thời gian”. Bắt nguồn từ Syria, do ba phụ lưu hợp thành. Sông dài 300km, rất nhiều chỗ cạn, nhiều chỗ uốn khúc; chảy vào biển hồ Galilê, ở đây lòng hồ sâu 212m dưới mực nước biển; rồi tiếp tục chảy xuống miền Nam, đổ vào Biển Chết, ở đây độ sâu là 394m dưới mức nước biển, có thể nói đây là điểm thấp nhất của địa cầu. Lòng sông rất dốc, thượng lưu ở độ cao 45 mét, đến cửa sông là 390 mét so với mặt nước biển, lưu vực 93 mét khối/s. Mặc dù là con sông rộng nhất của Palestine, nhưng Giođan khác với những con sông của nhiều nước ở chỗ: khúc sông từ Biển Hồ Galilê đến Biển Chết có đến 27 ghềnh thác khó lưu thông, lắm chỗ nước chảy qua tạo thành những thung lũng như đầm lầy, nhiều nơi có thú dữ, cây cối hai bên dòng sông mọc tươi tốt, không có thành phố lớn nào được thành lập dọc theo dòng sông.
Kinh Thánh nói nhiều đến dòng sông này. Khởi đầu là việc liên hệ giữa Abraham và ông Lot ở sông Giođan (St 13,10). Giacob từ Kharan trở về đã vượt qua sông Giođan. Các chi tộc vượt sông Giođan cách kỳ diệu dưới sự hướng dân của Giosuê (Gs 3,14-17). Con sông là ranh giới vì dân du mục vượt qua sông vào Cannaan để cướp bóc. Người Israel tìm nơi nương náu bên kia tản ngạn sông Giođan (Tl 6,33; 2Sm 17,22) và được xem như sự che chở: “Trong bụi rậm sông Giođan...” (Gr 12,5; 49,19; 50,44). Tướng quân Naaman nước Aran nghe lời ngôn sứ Êlisa xuống sông tắm 7 lần nên được khỏi bệnh phong hủi (2V 5,1-19). Ngôn sứ Êdêkiel diễn tả sức sống sung túc của sông Giođan, nước sông chảy đến đâu thì trao ban sự sống đến đó (Ed 47).
2. Chúa Giêsu chịu Phép Rửa
Chính tại dòng sông Giođan bé nhỏ, Chúa Giêsu đã đến khai mạc sứ vụ công khai bằng cách đón nhận phép rửa bởi Gioan Tẩy Giả. Ngôi Lời Thiên Chúa từng bước xuống dòng nước ấy, chỗ thấp nhất không chỉ về địa lý không gian nhưng còn thấp cả chiều sâu tâm lý và chiều kích tương quan xã hội.
Nếu đem so sánh với sông Cửu Long mênh mang thuyền qua lại thì dòng nước Giođan nơi Gioan làm phép rửa cho Chúa Giêsu có thể gọi là con kênh nhỏ. Nếu đặt bên cạnh sông Hồng cuồn cuộn xiết chảy thì dòng Giođan chỉ là con lạch. Nếu đứng kề bên sông Hương thơ mộng lững lờ trôi thì Giođan chỉ là con suối nhỏ. Đứng bên bờ này sông Giođan ném hòn đá qua bờ kia, nó có thể đi xa hơn.
Thế mà Chúa Giêsu đã chọn dòng nước bé nhỏ này, không phải như Môisen hay Giôsua giơ tay cho dòng nước rẽ đôi, nhưng để dìm mình xuống dòng nước nhỏ cùng với đoàn người chịu phép rửa của Gioan Tẩy Giả.
Thiên Chúa, Đấng cho Cửu long giang tuôn chảy tưới mát đồng bằng miền Nam; Đấng cho sông Hồng tuôn nước lũ bồi đắp phù sa cho đồng bằng miền Bắc; Đấng cho Hương giang lững lờ lãng mạn gợi hồn thơ đã chọn dìm mình vào dòng nước Giođan bé nhỏ.
Thật lạ lùng, trong số những người đến “xưng thú tội lỗi” (Mc 1,5) và chịu “ phép rửa sám hối để đước ơn tha tội” (Mc 1,4) lại có Chúa Giêsu. Người là Đấng Thánh, là Thiên Chúa, siêu việt tuyệt đối, tại sao lại đến xin Gioan làm phép rửa sám hối? Người là Đấng mà Gioan “không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Ngài ” lại có thể đứng chung với đám đông người tội lỗi chờ đến lượt mình được chịu thanh tẩy?
Trong đêm Giáng sinh chúng ta đã chứng kiến một Thiên Chúa hạ mình xuống làm người, sinh ra nơi hang đá máng cỏ, làm một người nghèo hèn bé nhỏ, dường như chưa đủ đối với tình yêu thương vô biên của Thiên Chúa. Hôm nay, Người lại hạ mình xuống thêm một bậc nữa, xuống tận cùng xã hội nhân loại khi đến xin Gioan làm phép rửa cho mình như một người dân tầm thường và tội lỗi. Và đã xuống bậc tận cùng khi Chúa hạ mình thẳm sâu chấp nhận chết trên thập giá vì yêu thương nhân loại.
Biết nói gì về Người bây giờ nếu không phải là cúi đầu cảm phục và tôn thờ sự khiêm hạ thẳm sâu đó của Ngôi Hai làm người!
3. Thời đại ân sủng
Trước sự hạ mình thẳm sâu của Chúa Giêsu, Chúa Cha đã tôn vinh Người bằng lời tuyên bố: “Đây là con Ta yêu dấu” và sai phái Thánh Thần hiện xuống dười hình chim bồ câu.
Ba dấu hiệu mà Phúc Âm nêu lên không những tiên báo sự sống lại vinh hiển của Đức Kitô mà còn tiên báo thời đại ân sủng mà Người mang đến cho loài người.
a. Dấu hiệu 1: Trời mở ra.
Sách Sáng Thế viết: Ađam và Evà phạm tội, cửa thiên đàng đóng lại (St 3,23-24). Qua biết bao thế kỷ, Dân Chúa đã thiết tha cầu nguyện “Ôi ước chi Ngài xé rách các tầng trời và ngự xuống” (Is 64,1). Nhờ Chúa Kitô, từ nay trời mở ra, một kiểu nói của Thánh Kinh ngụ ý là, con người từ nay được sống thông hiệp với Thiên Chúa.
b. Dấu hiệu 2: Thánh Thần ngự xuống như chim bồ câu.
Sách Sáng Thế viết:Trước khi tạo dựng trời đất, thì “Thánh Thần Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” (St 1,2) như để thông truyền sức sống. Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, Chúa Thánh Thần ngự xuống dưới hình chim bồ câu với ngụ ý: Chúa Giêsu là con người mới và trong Người nhân loại sẽ được tạo dựng lại, sẽ được đổi mới. Chính Thánh Phaolô xác định: “ Điều quan trọng chẳng phải là việc cắt bì hay không cắt bì, nhưng là trở thành tạo vật mới” (Gal 6,15).
c. Dấu hiệu 3: Lời của Chúa Cha: “ Con là con yêu dấu của Ta…”.
Qua lời tuyên bố này, chúng ta nhận biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Trong lời giảng dạy, Chúa Giêsu cho biết: những ai tin vào Người và nhận phép rửa nhân danh Người thì cũng được thông phần vào địa vị làm con Thiên Chúa.
Khi Chúa Giêsu chịu Phép rửa, trong giờ phút cảm động ấy, cả Ba Ngôi Thiên Chúa cùng xuất hiện. Phép rửa của Chúa Giêsu là mặc khải đầu tiên về Ba Ngôi Thiên Chúa. Đây là lần đầu tiên trong Kinh Thánh Ba Ngôi Thiên Chúa đồng hiện diện. Các Giáo Hội Đông Phương cử hành phép rửa của Chúa Giêsu như một ngày Lễ Ba Ngôi; và chính dưới dấu chỉ Ba Ngôi mà phép rửa Kitô giáo được ban“Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.
Chúa Thánh Thần như chim bồ câu đáp xuống. Chúa Thánh Thần là tình yêu. Chúa Thánh Thần ngự xuống trên ai là dấu chỉ Thiên Chúa ưu ái người ấy. Chúa Cha công khai xác nhận sự ưu ái với Chúa Con: “Đây là Con Ta yêu dấu”. Ba Ngôi liên kết trong một tình yêu hiệp thông. Chúa Giêsu hoạt động dưới tác động của Chúa Thánh Thần để thi hành thánh ý Chúa Cha. Có thể nói cả Ba Ngôi đều hoạt động trong Chúa Giêsu Kitô. Cả Ba Ngôi đều tham gia vào công trình cứu độ con người.
Từ xưa trong Cựu ước, Chúa Thánh Thần ngự xuống là để trao ban một sứ mệnh. Hôm nay, Chúa Giêsu cũng nhận lãnh một sứ mệnh, đó là cứu độ nhân loại, là “mở mắt cho người mù”, là “đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ”, là “dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong bóng tối tăm”.
Chúa Giêsu không đến trong thái độ phô trương quyền lực, nhưng đến trong sự hiền lành khiêm nhường. Người đến không phải để lên án nhưng để tha thứ. Người đến không phải để giết chết nhưng để cứu sống như lời tiên tri Isaia: “Cây lau bị dập, Người không bẻ gãy. Tim đèn leo lét, Người chẳng nỡ tắt đi”.
Phép rửa trong nước mà Chúa Giêsu đón nhận bởi thánh Gioan Tẩy Giả trở nên phép rửa trong Chúa Thánh Thần, khuôn mẫu và nguyên mẫu phép rửa Kitô giáo.
Ngày chúng ta được lãnh nhận bí tích Rửa Tội, màn đêm tội lỗi vây phủ bị xé ra, Ba Ngôi Thiên Chúa đến với mỗi người, ban cho chúng ta cuộc sống thần linh, cho chúng ta được vinh dự làm con Thiên Chúa, được kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Ngày chúng ta được lãnh nhận bí tích Rửa tội, Chúa Thánh Thần cũng đã trao cho chúng ta một sứ mệnh, đó là sống xứng đáng một người con hiếu thảo của Thiên Chúa, là tiếp tục công việc của Chúa Giêsu trong công trình cứu độ.
Chúa Giêsu là gương mẫu một người con hiếu thảo. Người luôn sống thân mật với Chúa Cha, luôn kết hiệp với Chúa Cha trong kinh nguyện hằng ngày, luôn thi hành thánh ý Chúa Cha. Người đã vâng lời Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá.
Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta luôn kết hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi, luôn thi hành thánh ý Thiên Chúa, luôn sống một cuộc sống tốt đẹp, luôn tích cực góp phần xây dựng xã hội, tạo hạnh phúc cho tha nhân.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin dạy chúng con biết sống ơn Bí tích Rửa Tội để chúng con được xứng đáng được làm con yêu dấu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Amen.
24.Ta hài lòng về Con--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Cả ba Tin Mừng Nhất lãm đều kết thúc thuật trình Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan bằng lời tuyên phán của Chúa Cha: “Đây là Con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về Con” hoặc “Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” ( x.Mt 3,17; Mc 1,11; Lc 3,22 ). Chúa Cha hài lòng với Chúa Chúa Giêsu về chuyện gì đây ? Dĩ nhiên là về chuyện Chúa Giêsu tự nguyện xếp mình vào hàng đoàn người tội lỗi đang đến để cho Gioan Tẩy Giả làm phép rửa bày tỏ lòng sám hối ăn năn. Thế nhưng Chúa Giêsu vốn là Thiên Chúa dù đã mặc lấy xác phàm nhân loại như chúng ta mọi đàng nhưng chẳng hề vương bẩn tội nhơ ( x.Dt 4,15 ). Là Đấng Thánh của Thiên Chúa, Người hoàn toàn thanh sạch thế mà Người xếp hàng giữa đám người tội lỗi để làm gì ? Chắc chắn không phải là để nhờ Gioan làm phép thanh tẩy hầu được nên thanh sạch. Cũng chắc chắn rằng không phải Người cố tình làm gương cho chúng ta về việc hoán cải ăn năn như đã từng có nhiều nhà tu đức từng suy diễn. Không ai có thể làm gương một việc mà chính mình không thực làm. Như thế chìa khoá vấn đề phải nằm ở chỗ khác.
Mang lấy xác phàm, trở nên giống loài người ta mọi đàng, thì Chúa Giêsu vẫn phải cần có thời gian để hiểu biết ý Chúa Cha cũng như tự nhận thức về căn tính của mình. Các nhà Kitô học đồng thuận với nhau rằng khi còn nằm trong nôi, còn ôm lấy bầu sữa mẹ, thì trẻ Giêsu chưa thể nhận thức được căn tính Thiên Chúa của mình. Và một điều ít ai chối cải đó là năm lên mười hai tuổi, khi lưu lại Đền thờ Giêrusalem ba ngày nhân chuyến cùng cha mẹ hành hương, thì thiếu niên Giêsu đã ý thức về căn tính Thên Chúa của mình. Biết mình là Thiên Chúa, thế nhưng để biết sứ vụ của mình là cứu độ nhân loại và cứu độ nhân loại như thế nào thì Chúa Giêsu cũng cần phải có thời gian cần thiết để tìm hiểu thánh ý Chúa Cha.
Nhiều nhà Kitô học nhìn nhận rằng khi Chúa Giêsu đến chịu phép rửa tại bờ sông Giođan chính là lúc Người tìm ra con đường cứu độ. Nói đến sự ơn cứu độ, các nhà thần học lẫn tu đức thường dùng hình ảnh cứu vớt người đang chìm dưới sông nước. Không biết bơi mà rơi xuống hố nước sâu thì sự sống như không còn thuộc vào chính bản thân mình. Cần phải có một ai đó độ trì, cứu vớt, may ra mới được sống.
Để cứu độ nhân loại khỏi vùng lầy tội lỗi, Chúa Kitô không đứng bên trên mà kéo. Người đã tự nguyện đi xuống tận đáy sâu kiếp người khi vào trần gian. Đồng thân với con người trong kiếp phàm hèn chưa đủ, Chúa Kitô còn muốn đồng phận với loài người trong kiếp tội nhân, dù Người hoàn toàn vô tội. Tình yêu lên đến đỉnh cao khi người ta tự nguyện đồng thân, đồng phận với nhau. Đồng thân đồng phận với nhau là một trong những hình thức liên đới đến cùng. Là con chiên tinh tuyền, là người tôi tớ trung thành và nhân hậu, Chúa Kitô đã nhận lấy mọi hậu quả tội lỗi của loài người vào chính bản thân Người. Điều đã được Ngôn sứ Isaia loan báo xưa về “Người Tôi Trung” nay ứng nghiệm nơi chính Chúa Kitô ( x. Is 42,1-9; 49,1-7; 50,4-11 ).
Chọn con đường đi xuống để nâng loài người sa ngã lên, sự chọn lựa của Chúa Giêsu đã làm hài lòng Chúa Cha. Đây là một sự chọn lựa phát xuất bởi tình yêu sung mãn. Chúa Thánh Thần với hình chim bồ câu ngự xuống trên Người là một dấu chỉ. Và các tầng trời mở ra, nghĩa là con đường cứu độ nay đã khai mở cho con người. Việc Chúa Giêsu chọn con đường đi xuống giúp chúng ta xác tín những chân lý sau:
1. Không một ai là không có thể được cứu rỗi: Các cứu hộ viên đứng trên bờ sông mà đưa tay ra thì những người ở xa bờ hay đang chìm dưới nước quả là khó có cơ may được cứu. Trái lại khi các cứu hộ viên đã lặn sâu xuống đáy sông thì mọi người đều có thể được cứu sống. Chúa Giêsu đã cúi xuống dưới chân các tông đồ, Người đã cúi xuống dưới chân Giuđa, kẻ đã rắp tâm phản bội Người và Người sẵn sàng cúi xuống dưới chân hết mọi người, trong mọi hoàn cảnh. Chỉ cần chúng ta đồng thuận thì Người sẽ nâng chúng ta lên cùng Chúa Cha.
Mọi người đều có thể được cứu rỗi. Một chân lý của niềm tin và của niềm hy vọng. Bất cứ ai, dù trong hoàn cảnh tồi tệ nào đi nữa, thì vẫn luôn có Giêsu Kitô đứng dưới chân để sẵn sàng nâng lên. Chính vì thế mà thất vọng về chính mình là một sự tồi tệ thật đáng trách không kém gì khi ta thất vọng về tha nhân.
2.Trước tiên hãy trách mình, đừng trách tha nhân hay phàn nàn Chúa, nếu giả như chúng ta vẫn mãi mê trong tội. Một trong những thói xấu của người đắm chìm trong tội đó là tìm đủ lý do để bào chữa. Để làm giảm nhẹ trách nhiệm của mình, khi phạm tội, chúng ta thường hay đổ lỗi cho hoàn cảnh, cho tha nhân, cho ma quỷ và có khi cho cả Thiên Chúa. Phải tiên thiên loại trừ việc gán cho Thiên Chúa là tác nhân gây sự xấu vì Thiên Chúa không hề, đúng hơn là không thể cám dỗ một ai. Chúng ta cũng cần chân nhận rằng thần dữ, người xấu hay ngoại cảnh cũng có góp phần nào đó trong tội của chúng ta. Tuy nhiên, các tác nhân ấy chỉ có thể làm tăng giảm mức độ trách nhiệm của chúng ta trên tội của mình. Nhưng không ai khác, chính chúng ta phải là người trực tiếp chịu trách nhiệm mọi hành vi tội lỗi của mình.
Mừng mầu nhiệm Chúa Giêsu chịu phép rửa, mở đầu cuộc đời công khai rao giảng Tin Mừng, hãy cùng cảm tạ và ngợi khen Thiên Chúa vì đã yêu thương loài người đến cùng. Không có gì tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, trong Đức Giêsu Kitô, Đấng đã tự nguyện đồng hàng với chúng ta trong kiếp tội nhân. Cúi mình để cho Gioan làm phép rửa là điểm khởi đầu và điểm kết thúc là thân phận một tội nhân trên thập giá.
25.Để làm Cha trên trời hài lòng--Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế SJ.
Với biến cố Chúa Giê-su chịu phép rửa ở sông Gio-đan, mời bạn cùng tôi dừng bước để “chiêm niệm” lại chính phép rửa của mình và đời sống của người con cái Thiên Chúa.
“Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” (Mc 1,11). Lời từ trời cao vang dội xuống trần gian. Lời từ Cha Từ Ái gởi đến Người Con Duy Nhất đã vâng phục trong khiêm tốn, để thi hành thánh ý Cha ban. Thánh ý của tình yêu từ trời cao mang ơn cứu độ đến cho muôn người, trong đó có bạn và tôi nữa.
Với Chúa Giê-su và trong ân sủng của Thần Khí, một hồng ân cao quý được ban xuống cho chúng ta. Đó là mỗi người chúng ta, từ khi được Chúa nắn thành hình và làm nên, được Chúa trao ban hơi thở và đưa vào cuộc đời, được trở nên nghĩa tử, trở nên con cái của Cha trên trời. Hồng ân cao quý này luôn mang dấu ấn của tình yêu cao quý, và hồng ân này được hiển lộ rõ rệt hơn nữa qua chính bí tích Thánh Tẩy.
Dù bạn và tôi được đón nhận bí tích Thánh Tẩy khi còn là em bé khóc o oe chẳng biết gì, hay là một người trưởng thành đầy ý thức và tự do nói lời “xin vâng” với Thiên Chúa qua bí tích Thánh Tẩy, thì chúng ta đều được ghi một dấu ấn thật đẹp. Dấu ấn đó là:
“Mỗi người chúng ta đều là người con yêu dấu của Cha trên trời”.
“Là con yêu dấu của Cha”, nên trong đôi mắt Cha mỗi người chúng ta là viên ngọc thật quý giá, thật quan trọng đối với Cha, vì thế Cha luôn trân trọng và mến thương. Dù cuộc đời có đưa ra biết bao chuẩn mực thước đo, để đánh giá và thẩm định một con người, thì với Cha trên trời bạn và tôi luôn quý giá. Cái quý giá của tình yêu từ trời cao ban tặng vượt trên mọi khuôn mẫu của cuộc đời này. Bạn giàu và tôi nghèo, Cha đều yêu thương. Bạn giỏi giang và tôi đơn hèn, Cha đều trân quý. Bạn hạnh phúc đầy đủ và tôi vất vả lầm than, Cha đều ở bên để chia sẻ, để đỡ nâng và để bảo ban dạy dỗ.
Thật vậy, từ ngày được sinh vào đời, từ ngày được trở nên con cái của Cha, được mang căn tính là một Ki-tô hữu, nghĩa là người có Chúa Ki-tô, người thuộc về Chúa Ki-tô, chúng ta trở thành người được Cha yêu thương, một tình yêu không điều kiện, một tình yêu không dựa trên bất cứ chuẩn mực nào mà cuộc đời tự cho mình là thông minh và tự cho mình có quyền đưa ra.
“Là con yêu dấu của Cha” cũng là “em của Chúa Giê-su” nữa. Như vậy, “Anh Giê-su” đã sống thế nào để làm hài lòng Cha, thì chúng ta cũng bước đi trên nẻo đường đó.
Điều đầu tiên mà Anh Giê-su làm Cha hài lòng là gì vậy? Đó là vâng phục thánh ý tốt lành của Cha, là sẵn sàng đón nhận sứ mạng quan trọng. Sứ mạng làm cho người Con Yêu Dấu của Cha trở nên xác phàm, sống trong căn lều ngay giữa góc phố của nhân trần, và chia sẻ mọi điều vất vả lầm than, rồi còn gánh vác tất cả mọi khổ đau kể cả tội lội của nhân trần trên đôi vai của Ngài.
Vâng phục thánh ý, vâng phục Cha trên trời, vâng phục vì yêu thương, vâng phục để sống sứ mạng cứu rỗi những phận người đang sống trong tội lỗi, đang lần bước trong bóng đêm.
Ôi, vâng phục của tình yêu. Một sự vâng phục quá tuyệt vời! Sự vâng phục làm nên ý nghĩa của cuộc sống, sự vâng phục tạo nên giá trị của cuộc đời.
Nhìn Anh Giê-su với tinh thần vâng phục cao quý này, bạn và tôi đã “viết chữ vâng phục” trong đời mình như thế nào? Vẫn biết rằng ai cũng muốn khẳng định bản thân, vẫn biết rằng ai cũng có ý riêng, nhưng nếu cả đời chỉ ôm ấp “cái tôi” của mình, và mỗi hơi thở chỉ hướng về chính mình mà thôi, thì cuộc sống đó sẽ “chật chội” biết bao nhiêu.
Có khi nào chúng ta đã nắn nót viết chữ “vâng phục” thật đẹp trên một góc đường nào đó, chúng ta cảm thấy đời có đáng sống không? Tâm hồn có cảm nhận một niềm vui sâu lắng của người con đơn hèn vâng phục Cha và làm hài lòng Cha không?
Nhưng cũng có nhiều lúc, thật vậy không chỉ một lúc và nhiều lúc lắm, chúng ta đã “lắc đầu” với Cha, đã chẳng màng đến ý Cha và cũng chẳng thèm để ý đến Cha, và rồi hiên ngang kiêu hãnh tiến bước trên đường đời với tâm trạng “thật sảng khoái”, vì tự cho mình là trên hết, ý mình là tuyệt nhất, không có mình chẳng ai có thể làm gì được. Vì thế, không phải là ý Cha được thể hiện, mà là ý tôi cần được mọi người đón nhận và thực thi.
Ôi, cái đầu hiên ngang kiêu hãnh và cứng ngắc của một phận người thấp bé hèn kém có thể gục xuống bất cứ lúc nào!
Như hoa đồng cỏ nội, sáng nở chiều tàn, đời người có thể hôm nay khoẻ mạnh và lành lạnh, mai “được chú virus” nhỏ bé Covid viếng thăm, thì tự động đời phải khép lại, tự mà cách ly, tự mà sống quanh quẩn trong bốn bức tường, chưa kể đến những nỗi đau trên thân xác mà Covid gây ra, và rồi phận người kiêu hãnh đó có dám tự bảo đảm là mình chắc chắn vượt qua được thử thách thật khiếp đảm mà Covid đưa tới?
Sáng mai còn mở mắt là còn biết mình đang sống, là nhận ra sự sống mình là quà tặng. Kiêu hãnh làm gì, khi “tôi có gì mà không phải do Chúa ban”.
Vì thế, vâng phục thật là điều làm làm chúng ta “trở nên” con yêu dấu của Cha và làm hài lòng Cha. Đi với vâng phục chính là khiêm nhường. Anh Giê-su mặc trong mình bản chất khiêm nhường là nền tảng cho sứ mạng cứu rỗi.
“Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.
Lời mời gọi thật quen thuộc của Anh Giê-su luôn vang lên và tiếp tục vang lên để nhắc nhớ chúng ta.
Chính Cha là khiêm nhường, chính Anh Giê-su là khiêm nhường. Vì thương yêu, Cha đã trao ban Người Con Duy Nhất, vì thương yêu Anh Giê-su, phận là Thiên Chúa, đã hạ mình khiêm nhường. Khiêm nhường được mặc vào toàn bộ cuộc sống của Anh Giê-su, Chúa của khiêm nhường.
Nói một cách rõ hơn, khiêm nhường là ngôn ngữ của Cha trên trời, của Thánh Thần Chúa và của Ngôi Hai là chính Anh Giê-su.
Trong khi người dưới thế kiêu ngạo gào lên: “Tôi, tôi, tôi!”;
thì Thiên Chúa Ba Ngôi nhỏ nhẹ nói: “Con, con, con!”
“Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.
Lời mời gọi thật quen thuộc của Anh Giê-su luôn vang lên và tiếp tục vang lên để nhắc nhớ chúng ta: Đừng cứ cố gào lên “tôi, tôi và tôi, rồi lại tôi”, mà cùng trở về lại với phận người rất thật của mình là bụi tro, là bùn đất trước mặt Thiên Chúa.
“Anh em hãy hạ mình xuống trước mặt Chúa và Người sẽ cất nhắc anh em lên” (Gc 4,10). Tập cúi mình cuống, tập hạ mình xuống là bài học thật cấp thiết biết bao cho những phận người “bùn đất và tro bụi”. Đừng bao giờ tự cho mình lớn hơn Cha, cao hơn anh Giê-su, ngược lại cả đời chỉ mong chẳng còn gì để mà tự mãn, để mà tự cao tự đại, để nhờ đó “Chúa luôn lớn lên và tôi luôn nhỏ lại”.
“Lạy Chúa, xin dạy cho con biết: đời sống con chung cuộc thế nào, ngày tháng con đếm được mấy mươi, để hiểu rằng kiếp phù du là thế” (Tv 38, 5). Đời là kiếp phù du nghĩa là đời là một hành trình sẽ qua đi theo định luật sinh lão bệnh tử. Đôi khi tử còn đến nhanh hơn mình tưởng. Không ít lần, trước khi lão đến tử đã đến rồi. Ôi! “xin cho con đừng xao lãng và kiêu hãnh, ngược lại luôn khôn ngoan và thận trọng và chuẩn bị sẵn sàng, khi Chúa như kẻ trộm đến với nhà con”.
Vì thế, ai dám cao ngạo “xác định” mình sẽ sống đến trăm tuổi, mình sẽ khoẻ mãi và không có nếp nhăn, mình sẽ “make up” mỗi ngày để vẻ đẹp luôn nở tươi, thì người đó đang sống trong thế giới “ảo” của riêng mình. Đó là ảo tưởng của những “bùn đất” thích cao ngạo với “các chữ tôi” không bao giờ kết!
Tập đếm tháng ngày mình sống là biết sống mỗi ngày như là ngày cuối cùng của đời mình, để mà ý thức về phận hèn, để mà biết luôn hướng lòng về với Đấng sinh ra mình, Đấng cầm quyền sinh tử của mình.
Tập đếm tháng ngày mình sống, là biết “gạn đục khơi trong”, là dẹp đi mọi thứ “dư thừa” mà mình đã và đang gom góp, những thứ đối với mình là quan trọng lắm, nhưng những thứ đó lại không làm cho Cha trên trời hài lòng gì cả.
Kiếp người của tôi và của bạn đều phù du cả, không ai có thể quả quyết độ ngắn độ dài của đời mình đâu. Thật vậy, “đời người như thể phù du, sớm còn tối mất, công phu lỡ làng”, vì thế chúng ta cùng cố gắng mỗi ngày sống trong vâng phục, trong khiêm nhường như anh Giê-su để làm hài lòng Cha nhé.
Cuối cùng, với bí tích Thánh Tẩy và trong hồng ân là con cái Cha trên trời, cũng như mang căn tính Ki-tô hữu, Bạn và tôi cùng lên đường trong mỗi ngày sống với sứ mạng thật đẹp. Đó là yêu thương, là gieo và rải hạt giống Tin Mừng của Chúa trên mọi nẻo đường mình qua, là đến với từng Anh Chị Em và nói với họ rằng:
“Anh, Chị, Em và Bạn chính là
người con yêu dấu của Cha trên trời.
Nào chúng ta cùng nắm tay song bước trên đường,
cùng chung sống để làm hài lòng Cha,
Đấng là Nguồn và là Đích, Đấng cầm quyền sinh tử của mỗi chúng ta”.
26.Chúa Giêsu chịu phép rửa--Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
“Đức Giê-su… được ông Gio-an làm phép rửa dưới sông Gio-đan”
1. “Đức Giê-su từ Na-da-rét đến miền Ga-li-lê”
Đức Giê-su kết thúc thời gian ba mươi năm dài sống bình thường như mọi người chúng ta, thời gian mà chúng ta gọi là đời sống ẩn dật của Đức Giê-su, để bắt đầu giai đoạn mới, giai đoạn hoạt động công khai. Chúng ta hãy nhìn ngắm Đức Giêsu rời bỏ làng quê, gia đình, những người thân yêu để lên đường đến sông Gio-đan. Từ một nơi êm ấm, Ngài đến một dòng sông. Dòng sông gợi lên trong chúng ta điều gì? Không an toàn, bỏ ngỏ, nhiều người xa lạ, không ổn định… Đó là một cuộc ra đi sau ba mươi năm sống ẩn dật. Chúng hãy cảm nhận hết sức nặng của ba mươi năm dài này: nặng tình nặng nghĩa, nặng kỉ niệm, nặng kinh nghiệm sống, nặng dấu ấn của các lứa tuổi, tuổi thơ, tuổi thiếu niên…
Đây là một khởi đầu: không chỉ cho một giai đoạn mới trong cuộc đời của Ngài, nhưng còn là một khởi đầu mới trong hành trình Nhập Thể, trong tiến trình Thiên Chúa mặc khải chính mình cho con người nơi Đức Giêsu, trong sứ vụ loan báo Nước Trời và ơn cứu độ của Thiên Chúa, và qua sứ vụ này, Đức Giê-su mặc khải căn tính thần linh của Ngài, là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa. Vì thế, khởi đầu này đã loan báo mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giê-su rồi, giống như mầu nhiệm Giáng Sinh. Vì thế, đây là một khúc quanh trong cuộc đời của Đức Giê-su, một khúc quanh có tính quyết định. Chúng ta hãy dừng lại để khám phá ra tất cả ý nghĩa của tính quyết định liên quan đến biến cố này của cuộc đời Đức Giê-su.
Trong cuộc đời của chúng ta cũng có nhiều khúc quanh; chúng ta có thể nhớ lại. Trong những khúc quanh đó, đã có khúc quanh nào mang tính quyết định chưa? Nếu chưa, bây giờ là lúc, Chúa mời gọi chúng ta, cùng với Chúa, tạo ra một khúc quanh quyết định, nhất là qua kinh nghiệm thiêng liêng “lựa chọn” ơn gọi, hay làm mới lại cho suốt đời.
2. “Và được ông Gioan làm phép rửa”
Chúng ta hãy hình dung khung cảnh Đức Giê-su hòa nhập vào với dòng người nhận mình là tội nhân, đến với Gioan để xin chịu phép rửa (đọc Pl 2, 5-11). Đây là một khởi đầu mới của mầu nhiệm Nhập Thể lớn lao, nhưng Người lại thực hiện ngang qua lựa chọn rất nhỏ bé và khiêm tốn, đó là đến với ông Gioan để được chịu phép rửa. Tương tự như khi đến với loài người chúng ta trong mầu nhiệm Giáng Sinh, Chúa đã sinh ra như một em bé, và hơn nữa, trong một hoàn cảnh thật đơn sơ và khó nghèo. Trong khi đó, Người chính là Đấng mà ông Gioan được mời gọi tôn vinh: “Tôi đây không phải là Đấng Ki-tô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người… Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (Ga 3, 29-30; là bài Tin Mừng của Thánh Lễ hôm qua). Theo lời kể của Thánh Mát-thêu (x. Mt 3, 13-17), ông Gioan một mực can ngăn và nói rằng, chính loài người tội lỗi chúng ta mới cần được Ngài làm phép rửa.
Như thế, Đức Giê-su muốn đồng hóa mình với các tội nhân là chính chúng ta, như Ngài sẽ làm trong giai đoạn rao giảng Tin Mừng và một cách tận căn trên Thập Giá. Bởi lẽ, Đức Giê-su muốn sống và bày tỏ cho chúng ta một đức công chính khác với sự công chính theo luật mà loài người thường hiểu và sống; đó là đức công chính của chính Thiên Chúa, như ngôn sứ Isaia loan báo:
Người sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân.
Người sẽ không kêu to, không nói lớn,
không để ai nghe tiếng giữa phố phường.
Cây lau bị giập, Người không đành bẻ gẫy,
tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi. (Is 42, 1-3)
3. “Ba Ngôi mới”
Chúng ta được mời gọi nhìn ngắm Ba Ngôi để nhận ra đó là “Ba Ngôi Mới”: Chính khi Ngài hạ mình, trong mầu nhiệm phép rửa, và sau này trong mầu nhiệm Thập Giá, lại là lúc Ngài được tôn vinh. Thậy vậy, chính khi Ngài hòa nhập với các tội nhân, để xin chịu phép rửa, như sau này, Ngài sẽ bị bắt, bị lên án và bị đóng đinh như là tội nhân và ở giữa các tội nhân, và chính khi Ngài để mình bị dìm mình xuống dòng nước, như sau này, Ngài không xuống khỏi Thập Giá, nhưng để cho Tội của loài người chúng ta “dìm” đến cùng, vùi dập đến cùng, là giết chết Ngài trên Thập Giá, thì chính lúc đó, khi Ngài lên khỏi nước, và cũng như sau nay, khi Ngài bước ra khỏi cõi chết, Ngài được Chúa Cha và Chúa Thánh Thần nhìn nhận, tôn vinh và mặc khải căn tính đích thật của Ngài:
Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con. (c. 11)
Chúng ta hãy nhìn ngắm một lần nữa quang cảnh thật lớn lao, loan báo mầu nhiệm Vượt Qua, nghĩa là sự chết và phục sinh của Đức Ki-tô. Mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Ki-tô và cũng là hành trình của từng người chúng ta:
* Đức Giê-su ở dưới nước lên.
* Các tầng trời mở ra.
* Thần Khí Thiên Chúa như chim bồ câu ngự xuống trên Người; và có tiếng từ trời cao: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”.
Hình ảnh “từ dưới nước lên” diễn tả Đức Ki-tô bước ra khỏi sự chết; các tầng trời mở ra diễn tả sáng tạo mới; và trong sáng tạo mới có sự hiệp thông trọn vẹn của Ba Ngôi Thiên Chúa, nhưng là một “Ba Ngôi Thiên Chúa mới”, bởi vì Ngôi Lời Nhập Thể mang trong mình và mang theo mình một “đàn em đông đúc”, là loài người và từng người chúng ta.
Lời của Chúa Cha: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”, là lời nhìn nhận và tuyển chọn của Trời Cao đối với Đức Giê-su. Truyền thống của Giáo Hội hiểu lời này của Chúa Cha về Đức Giê-su như là một “biến cố sinh ra”. Và điều này rất phù hợp với kinh nghiệm sống của chúng ta. Vì khi bố mẹ sinh ra thân thể chúng ta thì vẫn chưa đủ để chúng ta là con của bố mẹ, sau này chúng ta còn cần được bố mẹ nói với chúng ta trước mặt mọi người là: “Đây là con của chúng tôi” và còn phải làm giấy chứng nhận nữa, đó là “giấy khai sinh”. Không có giấy khai sinh, trước mặt mọi người và trên bình diện xã hội, chúng ta không là con của ai hết! Giấy khai sinh, chính là Lời nhìn nhận và tuyển chọn vượt lên trên tương quan máu mủ. Để sống có ý nghĩa ở trên đời, ai trong chúng ta cũng cần được nghe đi nghe lại một lời như thế cách minh nhiên hoặc mặc nhiên từ bố mẹ hay những người thân yêu của chúng ta.
Thánh Giu-se không sinh ra Đức Giê-su, nhưng Ngài dâng hiến cả cuộc đời để “làm giấy khai sinh” cho Đức Giê-su, nhìn nhận Ngài là con của mình; và trong hành trình nhập thể, Đức Giê-su cần một lời “xin vâng” như thế.
* * *
Như Đức Giê-su, chúng ta cũng cần được Chúa Cha “sinh ra” như thế, nghĩa là cần được Chúa Cha công bố: “Trong Đức Giêsu Kitô, Thánh Tử Duy Nhất của Cha, con, con là con của Cha, Cha hài lòng về con”. Vì đó là lời tái sinh chúng ta, lời làm chúng ta lớn lên, lời làm nên căn tính Kitô hữu và ơn gọi riêng của chúng ta.
Nhưng chúng ta, cho dù bất xứng, đã nghe được một Lời như vậy từ Thiên Chúa Cha chưa? Bởi lẽ, Đức Giê-su làm tất cả những điều đó, là để diễn tả tình yêu đến cùng, để phục hồi và chia sẻ phẩm giá làm con Thiên Chúa của Ngài cho chúng ta. Và chính khi chúng ta đích thân nghe được lời này của Chúa Cha, chúng ta mới có thể, trong Chúa, nói với nhau: “Em là em yêu dấu của chị (anh), chị (anh) hài lòng về em.”
27.Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam
“Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về con”
Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan mà Giáo hội mừng kính hôm nay kết thúc mùa Giáng Sinh và hướng chúng ta về đời sống công khai của Chúa Giêsu. Phụng vụ Lời Chúa trình bày Đức Giêsu là con yêu dấu của Chúa Cha, được Chúa Thánh Thần tấn phong làm Đấng Messia, Đấng Cứu Thế, Ngài muốn chia sẻ thân phận con người và muốn liên đới với loài người tội lỗi, mặc dù Ngài là Con Thiên Chúa: “Con là Con yêu dấu của Cha”.
Biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa đã được Tin mừng Nhất lãm Mát thêu, Mác cô, Luca thuật lại. Điều này nói lên sự quan trọng của biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa sám hối của Gioan Tẩy Giả.
Đây là một cuộc thần hiện mạc khải rõ nét nhất về Mầu nhiệm một Thiên Chúa Ba Ngôi. Đức Giêsu chịu phép rửa xong, thì trời mở ra. Trời mở ra nói lên sự hiện diện uy nghi của Thiên Chúa. Từ trời có tiếng Chúa Cha tuyên phán: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng vì Con”, và Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu đậu trên vai Đức Giêsu.
Cuộc thần hiện này cũng xác nhận thiên tính của Đức Giêsu và mạc khải Ngài là Đấng Cứu Độ muôn dân: “Này là Con ta yêu dấu”.
Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là Mầu nhiệm quan trọng nhất trong đạo Công giáo và là nền tảng của niềm tin Kitô giáo. Mầu nhiệm này biểu lộ tình thương của Thiên Chúa: Chúa Cha tạo dựng nên vạn vật vũ trụ. Chúa Con giáng trần cứu độ nhân loại “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một của Ngài”. Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hóa và ban sức mạnh cho chúng ta.
Qua biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa, Giáo hội hướng người Kitô hữu về hồng ân làm con Chúa qua bí tích Rửa tội và kêu gọi con cái mình sống ơn làm con Chúa với tâm tình hiếu thảo đối với Thiên Chúa là Cha như người con đối với ông bà cha mẹ:
- Luôn theo Thánh ý Thiên Chúa Cha, tuân giữ các điều răn của Chúa: “Ai yêu mến Thầy thì tuân giữ lời Thầy”.
- Luôn nói có với Thiên Chúa và nói không với ma quỷ, tội lỗi, điều xấu…
- Tương quan tốt với Chúa và với mọi người để chúng ta trở nên những người con hiếu thảo, những người con yêu dấu của Thiên Chúa như Đức Giêsu: “Này là Con Ta yêu dấu đẹp lòng Ta mọi đàng”.
- Tham gia sứ mạng loan báo Tin mừng của Chúa giêsu và chu toàn bổn phận Chúa giao phó: Người Kitô hữu phải chu toàn bổn phận đối với Thiên Chúa và bổn phận của một người công dân đối với xã hội trần thế “Người Kitô hữu tốt phải là người công dân tốt” (ĐGH Bênêđictô XVI).
Trong cuốn “Người Lữ Hành” có một câu chuyện rất hay. Chuyện kể về một gia đình sống ở Luân Đôn thủ đô nước Anh. Một gia đình công nhân vừa nghèo lại vừa đông con với mười ba người con. Bố của chúng phải đi làm suốt ngày tại xí nghiệp. Bà mẹ ở nhà làm nghề phụ và là nội trợ. Dù bận bịu đầu tắt mặt tối suốt ngày đêm, nhưng bà Vaughan vẫn vui vẻ thay chồng dạy dỗ con cái và nhất là trưa nào bà cũng thay cho cả gia đình đến với Chúa Giêsu Thánh Thể trong Nhà Tạm. Láng giềng bà quen biết hỏi bà: “Một bầy con mười ba đứa, bận rộn từ sáng đến tối vậy mà làm sao trưa nào chị cũng đi chầu Thánh Thể như thế”. Bà tươi cười trả lời: “Thấy một bầy con lúc nhúc trưa ăn bữa mai đã phải nghĩ đến việc chạy gạo bữa hôm, tôi lo lắm. Hơn thế chúng nó còn phải đi học. Ở trường thiếu gì những bạn bè xấu rủ rê chúng đi chơi hoặc giữa đường giữa chợ thiếu gì cảnh nguy hiểm, tôi lại càng thao thức hơn. Chính vì thế mà mỗi ngày dù bận bịu đến đâu tôi cũng bỏ ra một giờ để chầu Mình Thánh Chúa, sốt sáng xin Người ban ơn cho vợ chồng tôi nuôi nấng các cháu hàng ngày dùng đủ và dạy dỗ chúng nên người đạo đức”.
Kết quả thật tốt đẹp. Chúa đã nhận lời và ân thưởng cho lòng tin cùng sự hy sinh của bà Vaughan. Trong mười ba người con, một người sau này làm Hồng Y tổng giáo phận Luân Đôn, một người khác làm Tổng Giám Mục, hai người làm Linh mục, hai nam tu sĩ, hai nữ tu sĩ, còn năm người nữa ở thế gian lập gia đình, nhưng tất cả đều sống một đời sống rất tốt lành, thánh thiện.
Người Kitô hữu được hai hồng ân vĩ đại là được ơn sự sống, được sinh ra và hiện hữu trên đời này qua trung gian cha mẹ. Được làm người là ân ban vĩ đại của Thiên Chúa. Hồng ân quan trọng và vĩ đại hơn là được làm con Chúa qua bí tích Rửa Tội, được sống sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi, sự sống thần linh. Người Kitô hữu thường quên và lãnh đạm trước ân ban cao quý này. Nên họ không sống đạo tốt, không sống hiếu thảo với Thiên Chúa là Cha, nghĩa là chưa sống ơn làm con Chúa qua bí tích Rửa Tội.
Chúng ta cầu nguyện với Chúa:
“Xin cho con biết luôn tín thác vào Chúa,
Luôn tìm và thi hành ý Chúa là điểm tứ của đời con.
Xin giúp con sống trọn tình con thảo với Chúa là Cha,
Sống vẹn nghĩa huynh đệ với nhau là anh em một nhà,
Mở rộng lòng bao dung đồng cảm với mọi người.
Chia sẻ mọi nỗi vui buồn, lo âu và hy vọng”.
(Kinh Năm Đức Tin)
28.Ba sứ vụ--Lm. Vũ Đình Tường
Đấng Cứu thế sinh xuống trần gian tạo nên mối liên kết đất trời. Bắt đầu bằng việc truyền tin cho Đức Trinh Nữ Maria và hai tiếng xin vâng. Mẹ là người đầu tiên đón nhận Đấng Cứu Thế sinh xuống làm người ở giữa chúng ta. Tiếp theo đó là Thánh Giuse bạn Đức Trinh Nữ. Thánh cả đón nhận hướng dẫn của thần linh qua các giấc chiêm bao, bảo vệ gia đình Thánh Gia qua các ngày đen tối của dã tâm con người tìm giết con trẻ. Kế đến là việc truyền tin cho các mục đồng chăn chiên và ánh sáng từ trời cao soi đường, dẫn lối cho ba vua từ Phương Đông đến đón chào, dâng tiến lễ vật. Sứ thần Thiên Chúa lại truyền tin cho cụ già Simêon và tiên tri Anna đến đón chào tại đền thờ và ngay sau khi Đức Kitô chịu phép rửa tại sông Jordan. Ngài bước lên khỏi bờ bầu trời mở ra có tiếng từ trời cao vang vọng:
“Đây là Con Ta yêu mến, hàng làm đẹp lòng Ta” (Mc 1,11)
Kèm theo tiếng nói còn có thêm Thánh Thần qua hình chim bồ câu đậu xuống trên Đức Kitô. Ngày lễ Đức Kitô chịu phép rửa chính thức chấm dứt mùa Giáng Sinh của Đấng Cứu Thế và nhường bước cho chương trình kế tiếp của Ngài. Chương trình đó chính là chương trình cứu độ nhân loại, giải thoát con người khỏi vòng tội lỗi với những mặc khải kế tiếp.
Những mặc khải từ trời cao về Đấng Cứu Thế đến đây tạm chấm dứt nhường bước cho những mặc khải khác đến từ Đức Kitô. Trước đây sứ thần Thiên Chúa và Chúa Cha nói về Đức Kitô; giờ đây đổi lại Đức Kitô nói về Thiên Chúa Cha. Đức Kitô mặc khải Chúa Cha và chương trình cứu độ nhân loại. Chương trình cứu độ Đức Kitô thực hiện do Chúa Cha hoạch định và Đức Kitô thừa hành, hoàn tất tốt đẹp chương trình đó.
Để mặc khải cho nhân loại về Chúa Cha và chương trình cứu độ của Thiên Chúa, Đức Kitô xuống thế làm người, sinh bởi Đức Trinh Nữ, mặc dù vô tội Đức Kitô xá tội trần gian bằng cách thay họ chịu khổ hình, bắt đầu bằng việc lãnh nhận phép Thanh Tẩy của Gioan. Nhờ việc Thánh Thần Chúa ngự xuống biến phép rửa chúng ta lãnh nhận trở thành phép rửa do Thánh Thần thánh hoá. Những ai nhận bí tích thanh tẩy và bước theo đường lối Chúa cũng được hưởng tiếng từ trời cao phán: Đây là con Ta yêu mến, hằng làm đẹp lòng ta. Qua bí tích thánh tẩy chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa và chia sẻ ba sứ vụ của Đức Kitô.
Sứ vụ thứ nhất, Đức Kitô là linh mục Tối Cao và chúng ta chia sẻ chức linh mục đó qua việc chuyên cần cầu nguyện. Điều đó sinh ích cho đời sống tâm linh ta. Là linh mục Tối Cao Kitô tự hiến thân mình làm lễ tế chuộc tội thiên hạ. Chúng ta không có khả năng làm điều đó và cũng không cần bởi một mình Đức Kitô hy sinh đủ cứu nhân loại, chúng ta chia sẻ chức linh mục qua việc chia sẻ tài năng và thời gian cũng như tài vật cho những anh em nghèo đói.
Sứ vụ thứ hai, Đức Kitô vua vũ trụ cho phép chúng ta chia sẻ chức vụ lãnh đạo của Ngài. Chúng ta chia sẻ bằng cách sống và cổ võ sống công bằng, thực thi bác ái, yêu thương và tha thứ. Sống như thế là cho thế giới biết Lời Chúa có sức mạnh, có sức thánh hoá và ban sự sống cho thân xác và tâm linh con người.
Sứ vụ thứ ba là chức vụ tiên tri. Đức Kitô dậy chúng ta biết về Thiên Chúa, tình thương Chúa và sự thật về Thiên Chúa. Chia sẻ đời sống tiên tri chúng ta nói cho tha nhân về ức Kitô, rao giảng điều Ngài rao giảng và làm chứng về Đức Kitô.
Thực hành ba chức vụ: Tư tế, tiên tri và vương đế là làm sống điều hứa khi lãnh nhận phép bí tích thanh tẩy. Khi đó linh mục xức dầu và tuyên bố ba sứ vụ cao cả trên.
29.Chúng ta là con trong Con Thiên Chúa--Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
Kính thưa...
Tước vị “con” được nhìn nhận hoặc do việc sinh thành (cha mẹ sinh con), hoặc do luật định (con theo luật, con nuôi...).
Ý niệm cha/con nói lên mối tương quan rất mật thiết giữa hai con người, đến nỗi niềm vui, hạnh phúc, nỗi buồn, của người này thì cũng là của người kia, và nếu cần phải hy sinh đến chết cho nhau, họ cũng sẵn sàng đón nhận, không hề so đo, tính toán. Đúng là:
“Đi khắp thế gian, không ai tốt bằng mẹ,
Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng cha”.
Bên cạnh mối tương quan cha/con dựa trên những yếu tố tự nhiên, phụng vụ hôm nay còn chỉ cho chúng ta mối tương quan cha/con giữa Thiên Chúa và con người, có được nhờ sự chết và phục sinh của Chúa Giê-su. Mối tương quan này không đặt nền tảng trên những tiêu chí nhân sinh, nhưng trên bình diện ân sủng, được ban tặng do tình yêu và lòng thương xót của Cha trên trời.
Phụng vụ lễ Chúa Giê-su chịu phép rửa cử hành hôm nay, diễn tả chiều kích ân sủng được ban tặng cho nhân loại cách vô ngần, vô lượng, cốt để nâng con người tới tận trời cao trong phẩm vị được làm con Thiên Chúa.
Bài đọc I, trích từ sách ngôn sứ Isaia, loan báo chân dung người “tôi trung” của Chúa, được ban tặng muôn vàn ân huệ, xứng với phẩm giá “Con Thiên Chúa”. Hồng ân Thánh Thần nâng người tôi trung lên hàng con cái, đồng thời trao ban sứ vụ để người con đó trở thành thừa sai lòng thương xót Chúa Cha: Ta đổ thần khí Ta trên nó, đã gọi tên, đã cầm tay dẫn nó theo đường lối của Ta (cf. Is 42, 1-7).
Thành ngữ: “đổ thần khí Ta trên người” diễn tả hai chiều kích của hoạt động thần linh:
1. Mối tương quan nội tại ba ngôi: nhờ Thánh Thần, Chúa Cha nhiệm sinh Chúa Con đồng bản tính với mình, biểu đạt trong Cha tình phụ tử và tỏ hiện nơi Con tình con thảo. Thánh Thần làm cho chúng ta nghe được tiếng êm ái ngọt ngào đến ngất ngây, kỳ diệu của Chúa Cha nói với Chúa Con: “Con là con của Cha, hôm nay, Cha đã sinh ra con” (Lc 3, 22).
2. Mối tương quan đối với nhân loại: Nhờ Thánh Thần, người tôi trung của Chúa trở nên ngoan hiền, khiêm tốn, dễ dậy, vâng phục trong mọi hoàn cảnh, nhất là kiên tâm, can đảm, làm chứng cho mọi người lòng thương xót Chúa Cha. Isaia viết về người: “cây lau bị giập, không nỡ bẻ, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi” (Is 42, 3), trót cả cuộc đời chỉ lo sao chu toàn ý Chúa và mưu cầu hạnh phúc cho mọi sinh linh.
Người tôi trung ấy là Giê-su, hôm nay bước xuống dòng chảy Jordan để làm một cử chỉ có tính biểu tượng, quen gọi “Chúa Giê-su chịu phép rửa”. Đâu là ý nghĩa đích thực của biến có này ? Giê-su chịu phép rửa không phải vì ngài là tội nhân, nhưng vì liên đới với con người tội lỗi. Người gánh lấy tội lỗi thế gian để đốt cháy nó trên bàn thờ thập giá.
Phép rửa của Chúa Giê-su tiên báo việc tự hiến, tự hủy đến cùng kiệt vì sự sống trần gian. Chịu phép rửa là để cam kết sống vâng phục thánh ý Cha trong mọi sự: của ăn của Ngài là làm theo ý Cha.
Giê-su hòa vào dòng người xuống sông Gio-đan để xin Gio-an làm phép rửa cốt để thần tính Người thánh hóa dòng nước, mà nước là nguồn sự sống, thánh hóa nước là thánh hóa sự sống trần gian. Nước của dòng sông Gio-đan sẽ chảy vào biển cả để tất cả đều được thánh hóa và đổi mới.
Bài Phúc Âm ghi nhận, khi Chúa Giê-su bước ra khỏi dòng nước thì “Trời” bỗng nhiên mở ra và có tiếng Chúa Cha tuyên phán: “Đây là Con Ta yêu dấu, Con đẹp lòng Ta mọi đàng, các ngươi hãy nghe lời Người” (Mc 1, 11).
Trời mở ra diễn tả sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa mà xưa kia vì cớ Adam cửa ấy đã bị đóng lại.
Đức cố giáo hoàng J-P. II giải thích mầu nhiệm hiệp thông được thực hiện trong Chúa Giê-su: Ngôi Lời một khi đã làm người, thì đời đời làm người, ngay cả khi ngự bên hữu Chúa Cha, Ngài cũng là một con người, nên hy vọng có chỗ cho chúng ta trong gia đình Ba Ngôi Thiên Chúa.
Như vậy, trong tư cách là Ngôi Lời nhập thể, Giê-su trở nên khuôn mẫu cho nhân loại trong việc chuyên chăm lắng nghe và thực thi Lời Chúa. Trở nên giống Giê-su trong mọi sự, người môn đệ cũng trở con yêu của Cha trên trời, vì trong Giê-su, chúng ta thực sự là con Thiên Chúa, xứng đáng thừa hưởng hạnh phúc Nước Trời.
Mừng lễ Chúa Giê-su chịu phép rửa hôm nay, chúng ta được mời gọi, sống hiệp thông với Chúa.
Dấu chỉ đảm bảo hiệp thông là nghe và tuân giữ giáo huấn của Giê-su: “Ai giữ lời Chúa Giê-su thì quả thật tình yêu của Thiên Chúa đã tuyệt hảo nơi người ấy” (Jn 14, 15).
Trong bài đọc II, thánh Gio-an coi tình yêu là yếu tố nền tảng của tình hiệp thông bền vững và phong nhiêu giữa Thiên Chúa và người môn đệ. Ai yêu mến thì sinh ra bởi Thiên Chúa và có thể sống trọn vẹn giới răn của Người.
Thánh Augustinô cũng đồng suy nghĩ như Gio-an khi căn dặn giáo đoàn: hãy có tình yêu, bạn muốn làm gì cũng được.
Tình yêu luôn được cụ thể trong bổn phận hàng ngày. Vậy, hãy chu toàn bổn phận trong vui tươi, hạnh phúc, chúng ta sẽ ở lại trong tình yêu của Chúa.
Đó cũng là cách nên thánh phù hợp thánh ý Chúa nhất.
Xin Chúa nâng đỡ và chúc lành cho mỗi người chúng ta trong ngày mừng lễ Chúa chịu phép rửa hôm nay. Amen.
30.Chúa Giêsu chịu phép rửa--Lm. Trầm Phúc
Gioan Tẩy Giả xuất hiện và giới thiệu: “Có Đấng quyền năng hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi dép cho Ngài”. Và Đấng ấy đã đến với Gioan ở sông Giođan. Sao lại là sông Giođan? Vì nơi đó Gioan đang giảng và kêu gọi dân ăn năn thống hối và chịu phép rửa. Phép rửa chứ không là phép rửa tội, đừng nhầm. Gioan cũng nói rõ : “Tôi thì đã làm phép rửa cho anh em bằng nước”. Phép rửa của người Do thái là một dấu hiệu chứng tỏ họ thuộc về con cháu Abraham. Những người ngoại theo đạo Do Thái phải được thanh tẩy để thuộc về dân thánh của Thiên Chúa. Muốn chịu phép rửa, phải xưng thú tội lỗi và quyết tâm sống theo Luật Chúa.
Chúa Giêsu đến sông Giođan mang một ý nghĩa quan trọng đối với người Do thái, là con sông lịch sử.
Sau một cuộc du hành dài bốn mươi năm, dưới sự lãnh đạo của ông Môsê và sau cùng dưới sự lãnh đạo của ông Giosuê, dân Do Thái băng qua sông Giođan để chiếm lại Đất Hứa. Đó là một biến cố vĩ đại. Biến cố đó đã ghi vào lịch sử của dân Do thái một kỷ niệm không phai. Vượt qua sông Giođan để vào Đất Hứa nhắc cho họ nhớ cuộc vượt qua Biển Đỏ năm xưa. Vượt qua Biển Đỏ là thoát ách nô lệ Ai Cập, vượt qua sông Giođan là chiếm được phần gia nghiệp, là bước vào lãnh vực của Thiên Chúa.
Gioan Tẩy giả xuất hiện bên bờ con sông lịch sử đó, kêu gọi mọi người chuẩn bị một cuộc vượt qua mới, trở về Đất Hứa mới. Chúa Giêsu cũng xuất hiện bên bờ con sông lịch sử đó, và chính Ngài lại chịu phép rửa của Gioan ở nơi đó. Làm như con sông Giođan là khởi điểm cho một cuộc sống mới. Chúa Giêsu bắt đầu cuộc sống công khai của Ngài bằng việc chịu phép rửa của Gioan. Ngài muốn chứng tỏ rằng Nước Trời phải đi qua ngưỡng cửa của sám hối: “Hãy ăn năn sám hối vì Nước Trời đã gần kề”.
Gioan công nhận ông chỉ rửa trong nước, nhưng khi Chúa Giêsu xuống dòng sông chịu phép rửa trong nước đó, thì Thánh Thần ngự xuống trên Ngài. Ngài bước xuống dòng sông không phải để được thanh tẩy mà để mời gọi mọi người bước xuống dòng sông và được thanh tẩy, để vượt qua sự chết mà vào cõi sống. Gioan giới thiệu Ngài như một Đấng quyền năng, cao cả đến nỗi ông không đáng cúi xuống cởi dép cho Ngài”. Nhưng lạ thay, Ngài lại đến với Gioan và chịu phép rửa.
Ngài chịu phép rửa trong nước, nhưng Ngài sẽ rửa chúng ta trong Thánh Thần. Ngài vừa lên khỏi nước thì trời xé ra và Thánh thần như chim bồ câu ngự xuống trên Ngài. Lại có tiếng từ trời phán: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”.
Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giêsu chứng thực rằng Chúa Giêsu là Thiên Chúa. Thánh Thần đến để tấn phong Chúa Giêsu làm Đấng cứu độ được sai đến để cứu vớt nhân loại đang nằm trong bóng tối sự chết. Từ khi Ađam phạm tội, mối liên hệ yêu thương giữa Thiên Chúa và nhân loại đã bị cắt đứt. Hôm nay được nối kết lại, trời xé ra và Thiên Chúa đối thoại với con người qua Người Con yêu dấu.
Có tiếng Chúa Cha từ trời phán: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. Ba Ngôi Thiên Chúa hiện diện nơi dòng sông thanh tẩy và Chúa Cha xác nhận Con Một mà Người ban cho trần gian, Chúa Thánh Thần tấn phong Chúa Giêsu làm Đấng cứu độ. Từ nay mọi quyền hành trên trời dưới đất đều được ban cho Ngài.Ngàiđầy ân sủng và sự thật. Nơi Ngài, chúng ta nhận được ơn nầy đến ơn khác từ sự sung mãn của Ngài. Nơi Ngài chúng ta sẽ được rửa trong Thánh Thần, được nhìn nhận: “Nầy là con Ta yêu dấu” và Thánh Thần sẽ giúp chúng ta gọi tiếng Abba, lạy Cha trong ân tình.
Người Con Một là nguồn mọi ơn lành. Trong Ngài chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi, được trở nên con yêu dấu của Chúa Cha. Nhưng muốn được như thế phải đi qua ngưỡng cửa của phép rửa trong Thánh Thần, phải làm như tiên tri Isaia đã nói: “Hãy tìm Đức Chúa khi Người còn cho gặp… Kẻ gian ác là chúng ta, hãy bỏ đường lối mình đang theo, người bất lương, hãy bỏ tư tưởng mình đang có mà trở về với Đức Chúa… vì Người sẽ rộng lòng thứ tha”.
Người Con Một được ban cho chúng ta, là hồng ân không bao giờ vơi cạn. Chúng ta thuộc về Ngài, là “đoàn chiên Chúa chăn nuôi”. Chiên thì nghe tiếng của chủ chăn. Chúng ta có nghe không ? Nghe nhưng không làm. Nếu chúng ta nghe tiếng Chúa, sống theo gương mẫu của Ngài thì nhiều người đã biết Chúa, Giáo Hội đã được phong phú hơn rồi. Nếu chúng ta thực sự yêu mến Chúa thì chúng ta đã chết cho tội lỗi và sống cho Thiên Chúa như Thánh Phaolô đã nói.
Hãy nhìn vào tâm hồn mình để thấy rõ hơn, chúng ta có sống cho Chúa thật không? Nhiều người chỉ giữ đạo ngoài da, nghĩa là giữ những nghi thức mà không có tâm hồn. Pharisêu là như thế đó. Chúng ta được rửa trong Thánh thần chứ không rửa trong nước. Thánh Thần là Tình Yêu. Ngài nhóm lên ngọn lửa tình yêu và giúp chúng ta sống trong tình yêu, sống làm một với Chúa Giêsu như Thánh Phaolô đã nói: “Tôi sống, nhưng không còn là tôi mà là Chúa Kitô sống trong tôi”. Chúng ta chịu phép rửa tội là đã được sáp nhập vào Chúa Kitô, làm một với Ngài, chết với Ngài và sống lại với Ngài. Đó không phải chỉ là một cách nói, mà phải được thực hiện trong cuộc sống hôm nay của mỗi Kitô hữu. Nếu chúng ta chưa đạt đến mức độ đó, chúng ta cần cố gắng hằng ngày để thực hiện.
Nhờ Chúa Giêsu, chúng ta được làm con của Chúa Cha, nhưng chúng ta có thực sự là con của Chúa không? Chúa Cha có thể nhìn chúng ta và nói: “Đây là con Ta yêu dấu Ta hài lòng về con không?”
Chúng ta có biết hạnh phúc được làm con Chúa không? Chúng ta đều biết nhưng sống làm con Chúa giữa trần gian nầy là một điều không mấy người đã sống. Những gì Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta đều vô ích sao? Chúng ta được yêu thương quá nhiều nhưng chúng ta đã bỏ quên hay không chú ý. Chúa không đòi hỏi chúng ta làm gì cho Chúa, Chúa chỉ muốn chúng ta hạnh phúc. Và hạnh phúc của chúng ta không chỉ là có được nhiều tiền của, nhiều danh vọng mà là sống trong tình thương của Ngài. Ngài đã làm tất cả, chúng ta chỉ cần một chút cố gắng. Chúng ta đã làm gì để đáp lại tình thương trời biển của Ngài?
Ngài luôn đến với chúng ta, luôn gần gũi thân cận, thân cận đến nỗi làm một với chúng ta nhờ một tấm bánh. Ngài chứng tỏ tình yêu của Ngài bằng một dấu hiệu hữu hình, một dấu hiệu đáng yêu. Ngài vẫn tiếp tục mời gọi chúng ta ăn lấy Ngài để thực hiện điều mà thánh Phaolô đã kinh nghiệm là tôi sống, nhưng không còn là tôi mà là Giêsu sống trong tôi. Có tình yêu nào trọn vẹn như thế không? Tại sao chúng ta không hạnh phúc, không nhảy mừng? Chỉ vì chúng ta kém tin. Xin cho niềm tin chúng ta đủ mạnh để nếm hưởng tình yêu của Ngài trọn vẹn hơn.
31.Cùng Chết và Phục Sinh với Đức Giêsu Kitô trong Phép Rửa--Lm. Phêrô Lê Văn Chính
Vào các ngày Chúa nhật, chúng ta vẫn có thói quen rảy nước thánh trong phần thống hối đầu lễ. Việc rảy nước thánh này nhắc nhở mỗi người bí tích rửa tội mà chúng ta đã lãnh nhận, lời cam kết của chúng ta muốn thuộc về Chúa, và việc chúng ta được trở nên con Thiên Chúa nhờ người Con một duy nhất của Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô. Hơn nữa, ở các nhà thờ người ta vẫn để ở nơi cửa nước thánh để mỗi khi ra vào, chúng ta đặt ngón tay vào đó và làm dấu thánh giá tuyên xưng mầu nhiệm Ba ngôi, để nhắc nhở chúng ta bí tích rửa tội mà chúng ta đã được dìm mình vào sự chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu. Ngay cả mỗi khi chúng ta tuyên xưng kinh tin kính trong thành lễ, đó cũng là lúc chúng ta tuyên xưng lại lời tuyên xưng trong bí tích rửa tội.
Phép rửa là một Bí tích khai tâm, bí tích này dẫn người tín hữu vào tương quan sự sống với Thiên Chúa và với Giáo hội. Phép rửa vừa là một cử hành tuyên xưng và cam kết long trọng, được cử hành với sự chứng kiến của những người thân yêu. Trong cử hành này, chúng ta tuyên xưng lời tuyên xưng nguyên thủy: Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa. Lời tuyên xưng nguyên thủy này càng lúc càng được khai triển thành lời tuyên xưng Ba ngôi, bởi vì Đức Giêsu Kitô là người Con một của Thiên Chúa, được Chúa Cha sai đến cùng với sức mạnh Thánh Thần luôn hoạt động nơi Đức Giêsu Kitô. Đồng thời phép rửa luôn được cử hành cùng với nước. Nước là một yếu tố trong thiên nhiên vũ trụ, nước có dồi dào trên địa cầu,và chúng ta dùng nước cho đời sống hằng ngày, để tắm rửa cho cơ thể sạch sẽ lành mạnh, để uống bồi dưỡng cơ thể chúng ta. Và nước cần thiết cho mọi sinh vật chung quanh chúng ta, nước để tưới cho đồng ruộng và cây cối, trong nước có biết bao nhiêu loài cá sinh sống là nguồn lương thực dồi dào cho con người. Nước cần thiết cho tàu thuyền đi lại, nối liền các bờ đại dương, cho con người có thể buôn bán và đi lại từ những lục địa xa xôi.
Vào thời Chúa Giêsu, nước đã được dùng trong những nghi thức của các tôn giáo, bởi vì nước được dùng làm nghi lễ thanh tẩy. Người ta tin rằng khi làm những nghi thức thanh tẩy bằng nước, người ta được sạch những ô uế mà họ có thể bị lây nhiễm do bởi những tiếp xúc hằng ngày với những người khác. Thánh Gioan đã rao giảng mời gọi mọi người thống hối vì Đấng cứu độ gần đến và ông làm phép rửa thống hối bằng nước để mời gọi mọi người chuẩn bị tâm hồn xứng đáng đón tiếp Đấng cứu độ. Chúa Giêsu cũng gia nhập vào dòng người để đến lãnh phép rửa của Gioan ở sông Giorđan. Khi cử hành phép rửa, Gioan cũng giải thích cho mọi người ý nghĩa và tầm vóc của phép rửa của mình và hướng mọi người đến Đấng quyền năng sẽ đến sau ông và sẽ ban phép rửa trong Thánh Thần. Như thế, khi cử hành phép rửa trong nước, Gioan đã ý thức phép rửa ông cử hành chỉ là hình bóng tạm để báo trước một thực tại toàn vẹn hơn là phép rửa trong Thánh Thần của Đức Giêsu mà mọi người cần phải hướng về để đón nhận.
Quả đúng như Gioan tẩy giả dự đoán, Đức Giêsu đã hòa vào dòng người đến xin lãnh phép rửa của Gioan.Tin mừng theo Mác-cô tường thuật rất vắn tắt việc Đức Giêsu lãnh phép rửa. Mác-cô không ghi lời đối thoại nào giữa Đức Giêsu và Gioan, chỉ vắn tắt nói rằng Đức Giêsu đã từ Nazarét xứ Galilê giữa nhiều người và đến xin lãnh phép rửa của Gioan ở sông Giorđan. Đức Giêsu muốn đón nhận những gì mà Gioan làm, như thế cũng là đón nhận truyền thống và nhịp sống của do thái giáo, bởi vì Gioan là hình ảnh của tiên tri Êlia của do thái giáo, những con người hoạt động mạnh mẽ bởi tác động của Thánh Thần. Và sự kiện trọng đại đã diễn ra, khi Đức Giêsu vừa bước lên khỏi nước, thì trời mở ra, Thánh Thần dưới hình chim bồ câu ngự xuống trên người, và có tiếng từ trời tuyên phán Con là Con Cha yêu dấu, con đẹp lòng Cha. Các Tin mừng rất nhấn mạnh đến phép rửa của Chúa Giêsu như là khởi đầu cho cuộc đời truyền giảng công khai của Chúa Giêsu. Người được Chúa Cha xác nhận và giới thiệu cho mọi người cũng như người Con rất yêu dấu, đầy tràn Thánh Thần, người là Đấng Kitô, được xức dầu để thực hiện công trình cứu thế cho nhân loại. Sự kiện Đức Giêsu chịu phép rửa ở sông Giorđan mạc khải căn tính thần linh của Đức Giêsu. Người là Con một yêu dấu của Chúa Cha mà Chúa Cha rất hài lòng. Việc người lãnh nhận phép rửa không hề thay đổi căn tính thần linh của người mà còn mạc khải rõ cho mọi người căn tính thần linh này mà Gioan tẩy giả đã báo trước là người sẽ làm một phép rửa hoàn toàn khác, chính là phép rửa trong Thánh Thần.
Truyền thống các tiên tri, đặc biệt tiên tri Isaia (chương 42) đã báo trước về một người tôi tớ đặc biệt của Thiên Chúa mà Thiên Chúa sẽ ban tặng cho nhân loại, ngay cả nói rõ người tôi tớ này là người con của Thiên Chúa, được đầy tràn Thánh Thần và làm đẹp lòng Thiên Chúa trong mọi sự, Người sẽ thi hành việc xét xử muôn dân và thực thi công trình cứu độ. Mặt khác, người con này rất “hiền lành và khiêm tốn, không bẻ gãy cây lau đã giập, không dập tắt tim đèn còn khói” nhưng mang lại “ơn cứu độ và giải thoát cho những người bị giam cầm vì bệnh tật và tù tội, đem lại công lý trên địa cầu”. Giờ đây, những hình ảnh đã báo trước trở nên hiện thực một cách rõ rệt nơi Đức Giêsu, người sẽ thực hiện giao ước cứu độ bằng chính cái chết của người trên thập giá.
Sau khi Chúa Giêsu Phục sinh, Thánh Phêrô, với những chứng từ trung thực và quan trong mà ông lãnh nhận, đã bắt đầu rao giảng cho những người do thái và cho mọi người những biến cố cứu độ mà Thiên Chúa đã thực hiện nơi Đức Giêsu. Đây là những cảm nghiệm chân thực và sống động muốn được chia sẻ và rao giảng cho hết mọi người thành tâm thiện chí để họ tin và đón nhận Đức Giêsu, người con một Thiên Chúa ban tặng. Thiên Chúa đã thực hiện ơn cứu độ, không chỉ dành riêng cho người do thái, không thiên tư tây vị cho riêng ai, nhưng là một tình yêu dành cho hết mọi người không phân biệt màu da chủng tộc. Hết mọi người sống đời ngay thẳng, thực hành sự công chính đều được Thiên Chúa đón nhận khi sai người Con một Thiên Chúa đến sống và rao giảng giữa mọi người. Đây cũng là điều mới mẽ mà thánh Phêrô cũng chia sẽ giống với thánh Phaolô qua cách nói của Phaolô, là mầu nhiệm được giữ kín từ muôn thuở, và giờ đây được mạc khải cho mọi người, tức là các dân ngoại được trở nên đồng thừa tự, được cùng chung phần vào một lời hứa. Phần thánh Phêrô, người làm chứng rằng Đức Giêsu, Đấng đã được xức dầu Thánh Thần tấn phong, đã đi qua mọi nơi mà làm những phép lạ ban bố mọi ơn lành cho mọi người.
Phép rửa là khởi đầu, khai mào đời sống nghĩa tử của người tín hữu chúng ta. Cùng với Chúa Giêsu, chúng ta được trở nên con Thiên Chúa. Phép rửa dẫn chúng ta vào tương quan nghĩa tử với Thiên Chúa làm cho cuộc đời chúng ta được tràn ngập những quà tặng của Thánh Thần nâng đỡ cuộc đời trần thế của mình. Cuộc đời của người tín hữu là một hành trình thực hiện ơn gọi cao cả này, đó là được kết hợp với Đức Giêsu để sống ngay từ bây giờ tương quan con thảo của Thiên Chúa. Đây là hành trình cao cả và cũng rất đòi hỏi bởi vì chúng ta được mời gọi kết hợp với mầu nhiệm thập giá để được cùng chết và cùng phục sinh với Chúa Giêsu. Chúng ta thường nghĩ rằng phép rửa chỉ là một nghi thức đã qua, một nghi thức thực hiện xong rồi không cần phải nhớ lại những cam kết này làm gì nữa. Thực ra, phép rửa xác định căn tính của người kitô hữu, và họ phải cố gắng thực hiện hằng ngày căn tính này. Phép rửa là một sự dìm mình liên tục và sự đổi mới liên tục để càng lúc chúng ta càng được trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu. Có thể nói rằng chúng ta dùng cả cuộc đời của mình để thực hành sống mầu nhiệm này cũng là căn tính của cuộc đời kitô hữu của chúng ta. Cả cuộc đời, chúng ta không ngừng được mời gọi sống trung tín với Thiên Chúa bằng việc không ngừng kết hợp với Chúa Giêsu nhờ sự thúc đẩy của Thánh Thần mà chúng ta đã lãnh nhận trong phép Rửa. Phẩm giá của mỗi người thực là cao cả và chúng ta được mời gọi khám phá và sống căn tính này của mình theo bước chân của Chúa Giêsu.
32.Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
Tin mừng Mc 1: 7-11 Ngày lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa nhắc nhở chúng ta về ngày chúng ta được lãnh nhận phép Rửa Tội. Ngày mà chúng ta được trở thành con cái của Thiên Chúa. Chúng ta phải cam kết sống trọn vẹn với ơn gọi của phép Rửa Tội mà chúng ta đã lãnh nhận.
Khi bước xuống để Gioan làm phép rửa, Chúa Giêsu đã hòa mình vào dòng người tội lỗi, để cứu những người tội lỗi, nhưng Chúa Giêsu không cho mình có quyền đứng trên kẻ tội lỗi. Người đã hạ mình xuống ngang hàng với họ, liên đới với họ và trở nên người anh em với họ. Rồi cũng từ nước đi lên, Người đã rửa chúng ta trong Thánh Thần, để chúng ta trở thành con cái của Thiên Chúa qua bí tích Rửa Tội.
Giờ đây chúng ta có dịp nhìn lại bí tích Rửa Tội chúng ta đã lãnh nhận. Chúng ta không khỏi ngạc nhiên khi nhìn vào thế giới Tây Phương vốn được mệnh danh là Kitô Giáo, hiện nay đã trở thành một vùng truyền giáo mới. Thật thế, trong những nước có con số người theo Kitô Giáo, Phép Rửa thường chỉ còn là một nghi thức xã hội không hơn không kém.
Người ta chỉ có lý khi nói rằng, suốt một đời nhiều người Tây Phương chỉ đến nhà thờ có ba lần,
- Lần đầu khi chịu Phép Rửa để gia nhập vào một xã hội vốn được mệnh danh là Kitô Giáo.
- Lần thứ hai để cử hành hôn phối cho long trọng.
- Lần thứ ba cũng là để cử hành tang lễ cho long trọng.[1]
Đức Hồng Y Suenens, trong cuốn sách “Thánh Thần, hơi thở sống động của Giáo Hội” cho biết: Một cuộc thăm dò những người công giáo Pháp cho thấy một sự kiện báo động:
- 95% muốn có nhà thờ, nhưng phần lớn lại chẳng hề bước chân tới.
- 88% đòi cho con họ chịu phép rửa,nhưng hơn một nửa không biết Đức Giêsu.
- 2/3 không tin Đức Giêsu đã phục sinh.
Những sự kiện này cho thấy cách sống sượng một tình trạng có thật. Vị Giám Mục Pháp cho ngài biết những dữ kiện trên, đã tiếp tục phân tích: “một ngày nào đó chúng ta sẽ quyết định rút ra những hệ quả hợp lý từ những nghiên cứu này; nếu không thì chúng ta sẽ lại tiếp tục ban bí tích cho những kẻ không có đức tin, và tiếp tục cử hành thánh lễ hôn phối hay an táng cho những người đến tham dự mà trong lòng bực bội hay chế diễu
“Sancta Sanctis” (điều thánh thiện phải dành cho những người thánh). Các sự việc của Thiên Chúa phải dành cho những ai có đức tin. Bí tích phải dành cho kẻ nào tin và thực sự lên đường.
Hôm nay kỷ niệm Chúa Giêsu chịu phép rửa, Giáo Hội muốn mời gọi các Kitô hữu hãy đào sâu và ý thức về những cam kết khi chịu phép Rửa Tội. Trái với lối sống đạo cả đời đến nhà thờ chỉ có ba lần của người Tây Phương, các tín hữu Kitô Việt Nam chúng ta lại tập trung đời sống đạo vào nhà thờ và các nhà thờ Việt Nam chúng ta hầu như lúc nào cũng đông nghẹt người.
- Tuy nhiên, biết đâu những đêm chật ních trong các nhà thờ ấy lại không là những con người có lối sống hoàn toàn xa lạ, hay ngược lại với giáo huấn của Giáo Hội và Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô.
- Biết đâu đám đông sốt sắng cầu kinh ra rả trong nhà thờ ấy lại chẳng là những con người không hề biết đến thế nào là công bình, là bác ái, là tình liên đới, là quảng đại, cảm thông và tha thứ.
Nói tắt một lời, nếu chúng ta chưa sống cho ra người Kitô hữu thì sự hiện diện đông đảo trong nhà thờ, những lời cầu kinh ra rả, hay những cuộc biểu dương long trọng chưa hẳn đã là thể hiện đích thực của lòng tin.
Nơi nhiều người, đức tin đã bị sói mòn tận căn. Họ cần phải tái khám phá lại ngay nơi trọng tâm của sứ điệp Kitô Giáo. Chúng ta đã quá chú trọng việc “cử hành bí tích”, mà không chú trọng đủ vấn đề “sống và loan truyền Tin Mừng”. Sự thiếu sót này bùng nổ ở tầm mức lục địa, khắp nơi ai cũng thấy người Kitô hữu không sống phù hợp với đức tin của họ.
Trước tình trạng khẩn cấp này, những tranh cãi nội bộ của chúng ta, dù thiên hữu hay thiên tả, không mang lại một cái gì sáng sủa hơn. Chúng ta cần phải tìm lại những đặc tính của người Kitô hữu. Sứ mạng của chúng ta không phải là phê phán cá nhân ai, mà là can trường bảo toàn lý tưởng Kitô giáo.
Chúng ta phải trình bày Tin Mừng đúng với bản chất của Tin Mừng, là cho thế gian biết Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần, cùng những gì Thiên Chúa đòi hỏi nơi những kẻ tự nhận mang danh Ngài trước mặt thiên hạ.
Chúng ta phải mời gọi các Kitô hữu ngày nay càng ý thức sống động hơn về đức tin của họ, gắn bó với Thiên Chúa ngày càng khắn khít hơn. Phải giúp một số Kitô hữu chuyển từ thứ Kitô giáo ít nhiều mang tính xã hội sang thứ Kitô giáo trọn nghĩa. Thứ Kitô giáo được cha mẹ truyền lại chủ yếu do sinh sản và giáo dục cũng phải trở thành thứ Kitô giáo chính mình lựa chọn, dựa trên quyết định của bản thân và việc nhận thức rõ ràng lý do chọn lựa như thế. Tertulianô đã nói lên điều ấy: “Fiunt, non nascuntur christiani”, nghĩa là không phải mình sinh ra là Kitô hữu, mà mình trở thành Kitô hữu.[2]
Sau khi lãnh bí tích Rửa Tội, chúng ta trở thành con cái của Thiên Chúa. Ơn gọi là người Kitô hữu tạo ra viễn tượng về một cuộc sống cao cả hơn và trong sạch hơn trước mặt chúng ta. Đồng thời, ơn gọi này còn thông truyền cho chúng ta sự hy sinh và phục vụ người khác. Ơn gọi này mở rộng những khả năng yêu thương và can đảm của con người.
Đó không phải là công việc chỉ dành cho cá nhân người Kitô hữu, mà còn dành cho toàn thể cộng đoàn Kitô hữu nữa.
Khi lãnh nhận phép Rửa Tội, chúng ta được đón nhận vào một cộng đoàn những kẻ tin.
Ngày lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa nhắc nhở chúng ta về ngày chúng ta được lãnh nhận phép Rửa Tội. Ngày mà chúng ta được trở thành con cái của Thiên Chúa. Chúng ta phải cam kết sống trọn vẹn với ơn gọi của phép Rửa Tội mà chúng ta đã lãnh nhận. Amen.
33.Suy niệm của Lm. Ernest Nguyễn Văn Hương
Từ khi xuất hiện trong hoang địa, Thánh Gioan Tẩy Giả đã gây được một phong trào sám hối trong xứ Do thái. Đời sống và lời giảng của ông có sức lôi cuốn người ta đến với sông Giođan để được ông làm phép rửa. Phép rửa của Gioan nhằm giúp con người bày tỏ lòng hoán cải, để chuẩn bị đón Đấng Mêsia sắp đến (x. Mt 3, 7-12).
Vấn đề là ở chỗ, trong số những người đến “xưng thú tội lỗi” (Mc 1,5) và chịu “phép rửa sám hối để được ơn tha tội” (Mc 1,4), lại có Đức Giêsu. Làm sao Đấng thánh thiện, Đấng quyền thế mà Gioan không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người, lại có thể đứng chung với đám đông người tội lỗi, chờ đến phiên mình được chịu thanh tẩy? Đó là một câu hỏi mà Gioan khó trả lời.
Khi suy niệm về mầu nhiệm Đức Giêsu chịu phép rửa của Gioan, các giáo phụ đã đưa ra một số lý do để soi sáng. Đức Giêsu đã lãnh nhận phép rửa trong nước vì:
- Người muốn kêu gọi những người khác noi theo gương Người mà đến chịu phép rửa do Người thiết lập sau này.
- Người muốn làm một hành vi khiêm tốn cho ta noi theo.
- Người muốn công nhận giá trị phép rửa của Gioan.
- Người muốn lần đầu tiên ra mắt trước công chúng, để chuẩn bị cho họ nghe Người và theo Người.
- Người muốn thánh hóa dòng nước sông Giođan và mọi dòng nước khác, để nhờ sự hiện diện và tác động của Người mà mọi dòng nước có thể trở nên nguồn cứu độ.
Chúa Giêsu chịu phép rửa thống hối cho thấy Người liên đới với tội nhân, với dân tộc mình, với cả nhân loại đang cần ơn cứu độ. Con Thiên Chúa không ngại che khuất cái cao sang, siêu việt và cả sự thánh thiện ngàn trùng của mình để nhờ thái độ tự hạ, tự hủy này mà Đấng Thánh của Thiên Chúa có thể đứng chung với người tội lỗi, dìm mình xuống cùng một dòng nước như họ. Điều đó có nghĩa là Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa khiêm hạ, vì Ngài muốn đi xuống tận đáy vực thẳm nơi chúng ta đang sống, để nâng chúng ta lên. Chỉ tình yêu mới làm chúng ta hiểu được hành động của Ngài. Thiên Chúa Nhập thể chính là để liên đới với từng người chúng ta trong mọi cảnh ngộ của cuộc sống.
Hành động của Chúa Giêsu hôm nay cho thấy hướng đi cả một cuộc đời của Đức Giêsu. Người bị mang tiếng là “tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi” (Lc 7, 34). Người đến với những người sống bên lề xã hội và tôn giáo để đưa họ trở về với thế giới của con người và thế giới của Thiên Chúa. “Tôi đến để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9, 13).
Thánh Phaolô đã viết một câu cho thấy Đức Giêsu đã thực sự đồng hóa với thân phận tội nhân đến mức nào: “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã làm cho Người thành tội vì chúng ta” (2C 5, 21). Đức Giêsu đã chết như một người phạm trọng tội, bị đóng đinh giữa hai tử tội. Người đã đem đến niềm hy vọng cho người trộm lành: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng” (Lc 23, 43). Khi gắn bó với những người không còn được yêu mến và kính trọng, Đức Giêsu đã đem đến cho họ một thế giới nồng nàn tình yêu. Trong thế giới này không còn có hàng rào ngăn cách nhưng chỉ có những tội nhân được Thiên Chúa yêu thương cứu độ bởi vì Chúa Giêsu là Đấng thánh, Chúa Giêsu không đội trời chung với tội lỗi, nhưng ngài lại cúi xuống trên tội nhân, và biến đổi họ.
Hành động của Chúa Giêsu cho thấy rằng nếu chúng ta sợ mình vấy bẩn vì tiếp xúc với người tội lỗi đó là bởi vì chúng ta chưa thánh thiện thực sự. Ánh sáng không sợ bóng tối làm mình ra u tối. Ngược lại ánh sáng len lỏi vào mọi ngõ tối của cuộc đời, để làm cho bóng tối được sáng ngời lên.
Một chi tiết nữa của bài Phúc âm cũng gợi cho chúng ta sự chú ý là sau khi Đức Giêsu dìm mình trong dòng nước, thì Người nhận được một thị kiến: các tầng trời xé ra, Thánh thần ngự xuống, và tiếng phán từ trời. Các tầng trời xé ra là dấu hiệu cho thấy Thiên Chúa muốn tiếp xúc với con người và thông truyền cho con người một mạc khải. Đức Giêsu cũng thấy trời mở ra và qua đó thần khí ngự xuống trên mình như chim bồ câu.
Đức Giêsu được đầy Thánh Thần. Thánh Thần chính là sự hiện diện của Thiên Chúa xâm nhập vào người được tuyển chọn, ban cho người ấy dồi dào mọi ơn cần thiết để có thể làm tròn sứ mạng quan trọng đặc biệt. Được ban Thánh Thần nghĩa là được sai đi. Khi Đức Giêsu cảm nghiệm được Thánh Thần nơi mình, thì cũng là lúc Người được sai đi để loan báo Tin Mừng và làm những dấu chỉ cứu độ. Tiếng nói từ trời phản ánh niềm tin của Hội Thánh nơi của Đức Giêsu. “Con là Con yêu dấu của Cha”. Với câu đó, Thiên Chúa Cha giới thiệu công khai Chúa Giêsu cho nhân loại và kết thúc luôn ba mươi năm âm thầm ở Nadarét.
Đức Giêsu chịu phép Rửa nhưng Người vẫn hướng đến một phép Rửa khác, đó là cuộc khổ nạn Ngài phải chịu: “Thầy còn một phép Rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất” (Lc 12, 50). Như thế mầu nhiệm Chúa Giêsu chịu Phép Rửa hôm nay nhắc cho chúng ta nhớ đến mầu nhiệm chết và phục sinh. Chúa Giêsu làm công việc nầy để tỏ lộ công việc cứu thế của Người, tỏ lộ cho nhân loại thấy bản chất cao cả của Người là con rất yêu dấu của Thiên Chúa, là Người con luôn sẳn sàng vâng lời thánh ý Thiên Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá.
Phép Rửa trên thập giá là nguồn sống cho mọi phép rửa của các Kitô hữu. Nhờ phép Rửa đó, chúng ta được trở nên con cái yêu dấu của Thiên Chúa và được tràn đầy Thánh Thần. Chúng ta nhớ rằng mình là người đã được xức dầu, được mang nến sáng, được mặc áo trắng, được dìm mình trong nước để rồi được sai ra đi làm chứng cho mọi người nghĩa sống thực sự như người con được Thiên Chúa yêu mến.
Xin cho chúng ta biết sống thực sự lý tưởng đó.
34.Sống đẹp lòng Chúa--Lm. Anphong Trần Đức Phương
Với lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, chúng ta chấm dứt Mùa Giáng Sinh và bắt đầu Mùa Thường Niên I, chu kỳ năm B, kéo dài đến Chúa Nhật VII, rồi bước vào Mùa Chay Thánh với Thứ Tư Lễ Tro.
Bài Đọc I trích trong Isaia (42, 1-4, 6-7; có thể chọn đoạn 55, 1-11), nói đến ‘Người được Thiên Chúa tuyển chọn và làm đẹp lòng Chúa trong mọi sự’. Bài Đọc II trích trong Sách Công Vụ Tông Đồ (10, 34-38; cũng có thể chọn 1Gioan 5, 1-9) nói đến việc Chúa Giêsu được Thiên Chúa xức Dầu Thánh, được đầy Chúa Thánh Thần và ra đi rao giảng. Bài Phúc Âm (Matcô 1, 7-11) ghi lại việc Chúa Giêsu đến để chịu Phép Rửa của Thánh Gioan, và khi Ngài chịu xong, Chúa Thánh Thần tràn ngập trên Ngài, có tiếng từ Trời cao nói: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con.”
Lúc đó là vào khoảng năm 30 (Lc 3, 23), Thánh Gioan Tẩy Giả đang ban Phép Rửa thống hối tại sông Giodan (Gioan 1,28) (chỗ gọi là Bêtania phía đông sông Giodan; nơi này khác với làng Bêtania là quê hương của ba chị em Matta, Maria va Ladarô). Thánh Gioan kêu gọi mọi người đến chịu Phép Rửa để tỏ dấu ăn năn tội lỗi và sửa lại cuộc sống, đón chờ Chúa Cứu Thế đến. Chúa Giêsu cũng đến nhận Phép Rửa của Thánh Gioan. Dịp này, Ngài được Đức Chúa Cha chính thức giới thiệu Ngài là Đấng ‘Thiên Sai’ và Chúa Thánh Thần xuống tràn ngập trên Ngài. Từ nay Chúa Giêsu từ bỏ cuộc sống 30 năm ẩn dật ở Nagiaret để bắt đầu cuộc sống công khai ra đi rao giảng.
Phép Rửa Thánh Gioan ban chỉ là một ‘phép rửa bằng nước’ để tỏ lòng sám hối tội lỗi. Còn Bí Tích Rửa tội là một trong bảy phép Bí Tích, là ‘phép Rửa Tội trong Chúa Thánh Thần và lửa!’ (Matthêu 3, 11). Khi chúng ta chịu Phép Rửa Tội là chúng ta được tha tội nguyên tổ (tội tổ tông truyền) và các tội riêng chúng ta đã phạm (khi chúng ta chịu vào tuổi đã khôn lớn). Lúc đó chúng ta được ‘chết đi với Chúa Kitô, từ bỏ đời sống tội lỗi và sống lại thật với Chúa Kitô, trở nên trong sạch xứng đáng là con Chúa, và chính thức gia nhập gia đình Giáo Hội Chúa, bắt đầu một cuộc sống mới trong Chúa Thánh Thần, trở nên một chi thể trong Thân Thể Mầu Nhiệm của Chúa Kitô và cùng góp phần vào việc làm tăng trưởng gia đình Giáo Hội qua cuộc sống làm chứng cho Chúa” (Theo Sách Giáo Lý). Vì thế, Bí Tích Rửa Tội khởi đầu cuộc sống Kitô hữu (Bí Tích khai tâm), chỉ sau khi chịu phép Rửa Tội, chúng ta mới được chịu các phép Bí Tích khác. Bí Tích Rửa Tội ghi dấu thiêng liêng vào linh hồn chúng ta, không bao giờ mất, nên chỉ được chịu một lần (cũng như Bí Tích Thêm Sức và Bí Tích Truyền Chức Thánh).
Mừng Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa là dịp để mọi người chúng ta nhớ lại phép Rửa tội chúng ta đã được lãnh nhận, để tạ ơn Chúa và cầu xin cho mọi người chúng ta luôn cố gắng sống xứng đáng con cái Chúa trong gia đình Giáo Hội và luôn sống làm chứng cho Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống hàng ngày.
Chúng ta nên nhớ: vào cuối nghi thức Rửa Tội, vị chủ sự trao cho người vừa được rửa tội Tấm Áo Trắng (tượng trưng tâm hồn trong sạch qua Bí Tích Rửa Tội) và Cây Nến cháy sáng đốt từ ngọn lửa của Cây Nến Phục Sinh (tượng trưng Ánh Sáng Chúa Kitô). Khi trao Tấm Áo Trắng, vị chủ sự nói: “Con đã trở nên một tạo vật mới và đã mặc lấy Chúa Kitô. Vậy con hãy lãnh nhận áo trắng này, con hãy mang lấy và gìn giữ nó tinh tuyền cho đến ngày ra trước tòa Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, để được sống muôn đời.” Khi trao Cây Nến Sáng, vị chủ sự nói với chúng ta: “Con đã trở nên ánh sáng Chúa Kitô, con hãy luôn luôn sống như con cái Sự Sáng, để được bền vững trong Đức Tin. Khi Chúa Kitô ngự đến, con sẽ xứng đáng ra nghênh đón Người cùng với toàn thể các Thánh trên trời.”
Trong nghi thức rửa tội trẻ em, vị chủ sự trao áo trắng và nói: “Con đã trở nên một tạo vật mới, và đã mặc lấy Chúa Kitô, chiếc áo này là dấu chỉ tước vị của con. Nhờ lời chỉ bảo và gương lành của thân nhân giúp đỡ, con hãy mang nó tinh tuyền mãi cho đến cõi trường sinh.” Và khi trao Nến Sáng (qua cha mẹ đỡ đầu), vị chủ sự nói: Anh chị em thân mến, là những bậc làm cha mẹ và cha mẹ đỡ đầu, ánh sáng này được trao phó cho anh chị em chăm sóc, tức là lo lắng cho những em được Chúa Ktô soi sáng, luôn sống như con cái sự sáng và bền vững trong Đức Tin. Nhờ đó, khi Chúa đến, các em sẽ được ra nghênh đón Người với toàn thể các Thánh trên trời.” Điều này nhắc nhở trọng trách của các bậc cha mẹ trong việc giáo dục đức tin cho con cái khi các em lớn lên; đồng thời cũng nhắc nhở trách nhiệm của các cha mẹ đỡ đầu. Thật là một vinh dự khi được mời làm cha mẹ đỡ đầu, nhưng đó cũng là một trọng trách mà cha mẹ đỡ đầu phải lo chu toàn trước mặt Chúa. Chúng ta phải ý thức bổn phận này khi chúng ta được mời để đỡ đầu cho các tân tòng hay các em nhỏ khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội.
Kết thúc Bí Tích rửa Tội, trước khi lãnh nhận phép lành, chúng ta cùng nhau đọc Kinh Lạy Cha, để nhắc nhở chúng ta, qua Bí Tích rửa Tội, chúng ta được vinh dự có Chúa là Cha, và chúng ta đều là anh em với nhau trong gia đình Giáo Hội. Xin cho chúng ta luôn hết lòng phụng sự Chúa và yêu thương lẫn nhau để cùng nhau loan truyền cho mọi người nhận biết Chúa là Cha, và chung tay xây dựng tình yêu thương trong gia đình nhân loại.
35.Chúa Giêsu chịu phép rửa--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Chúa chịu phép rửa, cả trần gian được thánh hóa
Tiếp theo lễ Chúa Hiển Linh, Phụng vụ của Giáo Hội mời gọi chúng ta cử hành lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, kết thúc mùa Giáng sinh. Lễ này đã được các Giáo phụ quan tâm đặc biệt ngay từ những thời kỳ đầu, vì tầm quan trọng đặc biệt có tính cổ thời của nó. Đây là lễ được mừng sớm nhất, chỉ sau lễ Phục sinh, vì nó bao hàm lời rao giảng của các Tông Đồ, là điểm khởi hành cho tất cả những việc mà các Tông Đồ phải làm chứng cho (x. Tđcv 1, 21-22; 10, 37-41). Thứ đến, đây là lần đầu tiên, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi được mạc khải một cách đầy đủ và rõ ràng. Lý do nữa là phép rửa của Chúa Giêsu nơi sông Giordan loan báo trước cho phép rửa bằng Máu của Chúa trên Thập Giá, và tượng trưng cho toàn bộ những hoạt động có tính cách bí tích của Đấng Cứu Thế. Để thực hiện ơn cứu rỗi nhân loại, Ngài đặt mình vào hàng ngũ các tội nhân, mặc dù Ngài là Đấng vô tội, nhưng Ngài đã mang trên mình tất cả tội lỗi của nhân loại. Hành động khiêm nhường và tự hủy này, đã được Chúa Cha chứng dám: “Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha” (Mc 1, 11). Cùng với Đức Giêsu, Chúa Thánh Thần xuất hiện dưới hình chim bồ câu đậu xuống trên Người, để chỉ cho chúng ta tín điều Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh mà chúng ta sẽ thấy diễn ra tương tự nơi biến cố Chúa Biến Hình.
Câu hỏi được đặt ra trước hết là tại sao Chúa Giêsu là Đấng vô tội sao lại đến xin Gioan làm phép rửa?
Thánh Ghê-gô-ri-ô, giám mục Na-di-en cho biết: “Có thể là Chúa muốn thánh hoá kẻ sắp làm phép rửa cho Chúa, nhưng chắc chắn để chôn vùi trọn vẹn con người A-đam cũ trong dòng nước. Thật vậy, trước khi thanh tẩy ta và để thanh tẩy ta, Chúa thánh hoá sông Gio-đan; vì Người vừa là thần khí vừa là xác phàm, nên Người cũng muốn nhờ Thần Khí và nước để đưa chúng ta vào đạo”. Nên dù Gioan làm phép rửa, ông cũng chỉ là đèn đối với Mặt Trời, tiếng nói với Lời, phù rể đối với Chàng Rể, người cao trọng nhất trong số những người sinh bởi đàn bà với Trưởng Tử mọi loài thọ sinh, người nhảy mừng trong dạ mẹ với Đấng được thờ lạy ngay khi còn trong lòng mẹ, người tiền hô hiện tại và tương lai với Đấng vừa xuất hiện và sẽ xuất hiện. Quả thật, Gioan biết rằng mình sẽ được thanh tẩy bằng cuộc tử đạo. (Trích bài giảng của thánh Grêgôriô, giám mục Na-di-en). Thánh Phêrô Kim Ngôn giải thích rằng, khi Gioan làm phép rửa cho Chúa Giêsu thì: “Tôi tớ đóng vai chủ, con người đóng vai Thiên Chúa, ông Gio-an đóng vai Đức Kitô; ông đóng vai đó để lãnh ơn thứ tha chứ không phải để ban phát“. Nên Gioan giảng: “Phần tôi, tôi đã rửa anh em trong nước, nhưng Người, Người sẽ rửa anh em trong Thánh Thần“ (Mc 1, 8). Đây là phép lạ vĩ đại đã xảy ra sau khi Đấng Cứu Thế chịu phép rửa; phép lạ này là khúc dạo đầu cho những gì sẽ xảy ra. Đây không phải là Thiên Đàng khi xưa đóng lại vì tội của Ađam nay mở ra, mà chính trời mở ra: “Khi vừa lên khỏi nước, Người liền thấy trời mở ra, thấy Thánh Thần như chim bồ câu ngự xuống trên mình” (Mc 1,10).
Tại sao khi Chúa Giêsu vừa lên khỏi nước, trời lại mở ra?
Chúa Giêsu vừa bước lên khỏi nước lúc ấy trời mở ra là Chúa Giêsu nâng thế gian lên cao với Ngài. Vì xưa kia, khi bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng và bị lưỡi gươm lửa cấm đoán, chính A-đam đã đóng cửa trời lại, không cho mình mà cũng không cho con cháu vào. Nay nhờ Chúa Giêsu mà cửa trời được mở ra.
Trời mở ra, còn mạc khải cho Gioan Tẩy Giả và những người Do Thái biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Theo thánh Gioan Kim Khẩu, điều này muốn dạy chúng ta rằng, một sự tương tự vô hình cũng xảy ra khi chúng ta chịu Phép Rửa Tội: Chúa Thánh Thần cũng ngự vào tâm hồn của chúng ta. Ngài không ngự đến một cách hữu hình, bởi vì chúng ta không cần: đức tin hiện nay là đủ… Thiên Chúa mở cửa trời để kêu gọi chúng ta hướng về trời, vì quê hương chúng ta là quê trời, và mách bảo chúng ta rằng, chúng ta không có gì ở dưới đất.
Tại sao Chúa Thánh Thần lại lấy hình một con chim bồ câu mà hiện xuống?
Lý do là vì chim bồ câu rất dịu dàng và trong sạch, và Chúa Thánh Thần là thần khí dịu êm và an bình. Chim bồ câu cũng nhắc cho chúng ta nhớ lại một sự kiện chúng ta đọc thấy trong Cựu Ước khi trái đất bị ngập do lũ lụt và toàn thể loài người trong nguy cơ hư mất, chim bồ câu ngậm cành ôlui xuất hiện để báo sự chấm dứt của cơn đại hồng thủy, tin vui hòa bình cho toàn thế giới. Giờ đây, tất cả những điều này cũng tiên báo về tương lai. Khi tất cả đã hư mất, nay được giải thoát và đổi mới, điều gì đã xảy ra khi nước lũ đến ngày hôm nay như là một lũ lụt của ân sủng và lòng thương xót Chúa… Chim bồ câu, thay vì ngậm một cành ô liu báo cho Noe là người duy nhất bước ra khỏi tầu để đặt chân lên mặt đất. Nay Chim bồ câu báo tin trận hồng thuỷ tràn ngập thế gian đã lui đi, thế gian không còn phải chìm ngập trong cảnh trầm luân muôn đời nữa, phẩm giá ơn gọi làm con Thiên Chúa của chúng ta được phục hồi, và lôi kéo hết thảy mọi người lên Thiên Đàng.
Lời ngôn sứ nói: “Tiếng Chúa vang rền trên nước… Tiếng Chúa uy linh tung sấm sét“ (Tv 28). Tiếng nào vậy? “Này là tôi tớ Ta mà Ta nâng đỡ, là người Ta chọn, Ta hài lòng về người. Ta ban Thần trí Ta trên người” (Is 42, 1). Đây là tiếng từ trời vọng xuống để làm chứng cho Đấng từ trời mà đến. Tiếng đó bày tỏ lòng tôn trọng thân xác dưới hình chim bồ câu, vì thân xác đã được thần hoá, khi Thiên Chúa tự tỏ mình ra trong thân xác: “Con là Con yêu dấu của Cha; Con đẹp lòng Cha” (Mc 1, 11).
Vậy, phép rửa của Chúa Giêsu và phép rửa của chúng ta có liên kết chặt chẽ với nhau. Phụng Vụ của ngày lễ này đã hát lên như sau: “Đức Kitô chịu phép rửa, cả trần gian được thánh hoá, chúng ta được tha thứ tội lỗi, được thanh tẩy nhờ nước và Thánh Thần” (Tiền xướng của Kinh Bênêdictus, của Giờ Kinh Sáng). Chúng ta hãy thanh tẩy mình cho thanh sạch, hãy tiếp tục thanh tẩy cho thanh sạch hoàn toàn và đem lòng tôn kính mà tưởng niệm ngày Đức Kitô chịu phép rửa, và hãy mừng lễ cách xứng đáng. Amen.
36.Dòng nước và dòng đời--Trầm Thiên Thu
Lãnh nhận Phép Rửa là “dấu chỉ bề ngoài” chứng tỏ chúng ta đã đón nhận Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ. Từ khi lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa, một hồng ân quá lớn!
Phép Rửa của Ông Gioan là Phép Rửa của sự sám hối (Mt 3:11), nhưng Chúa Giêsu vô tội nên không cần sám hối. Thánh Gioan nhân biết tội mình và biết mình chỉ là tội nhân, cần sám hối, không đáng xách dép cho Chúa Giêsu, nên ông ngại mà nói với Chúa Giêsu: “Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!” (Mt 3:14). Nhưng Đức Giêsu trả lời: “Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính” (Mt 3:15). Nghe nói vậy ông Gioan mới chiều theo ý Ngài. Chúa Giêsu đến với Thánh Gioan Tẩy Giả cho thấy Ngài chấp nhận Phép Rửa của ông. Lòng thương xót của Thiên Chúa được tỏ hiện qua việc Chúa Giêsu chịu Phép Rửa.
Nói cách khác, ngay từ lúc khởi đầu sứ vụ, Chúa Giêsu đã chứng tỏ Ngài là Đấng Mêsia và là “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1:29). Ông Gioan vừa làm Phép Rửa xong, Thiên Chúa liền tỏ ra dấu chỉ tỏ tường là “các tầng trời xé ra, và Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống”, sự thật minh nhiên đó đã được chính Chúa Cha xác nhận: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3:17; x. Mc 1:11).
Thật kỳ diệu, “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người” (2 Cr 5:21). Chúa Giêsu là Đấng công chính, không cần sám hối, nghĩa là không cần chịu Phép Rửa, nhưng Ngài chịu Phép Rửa để làm gương cho chúng ta, còn chúng ta thực sự cần Phép Rửa và cần sám hối, vì chúng ta là các tội nhân. Hãy mở lòng để đón nhận ơn tha thứ!
Phép Rửa là “cửa ngõ” để chúng ta bước vào miền cứu độ. Trong cuộc đối thoại với ông Ni-cô-đê-mô, một thủ lãnh của người Do-thái, Chúa Giêsu nói với ông: “Không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên; không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí” (Ga 3:3 và 5). Và Thánh Phaolô xác định: “Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa” (Ep 4:5).
Từ ngàn xưa, Đấng Kitô đã được đề cập với danh xưng Người-Tôi-Trung-Đau-Khổ: “Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn và quý mến hết lòng, Ta cho thần khí Ta ngự trên nó; nó sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân. Nó sẽ không kêu to, không nói lớn, không để ai nghe tiếng giữa phố phường. Cây lau bị giập, nó không đành bẻ gẫy, tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi. Nó sẽ trung thành làm sáng tỏ công lý. Nó không yếu hèn, không chịu phục, cho đến khi thiết lập công lý trên địa cầu. Dân các hải đảo xa xăm đều mong được nó chỉ bảo” (Is 42:1-4). Người-Tôi-Trung đó chấp nhận đau khổ nhưng không muốn người khác chịu đau khổ, luôn chạnh lòng thương người khác, nhất là đối với những người yếu đuối, hèn mọn.
Thiên Chúa xác nhận rạch ròi: “Ta là Đức Chúa, Ta đã gọi ngươi, vì muốn làm sáng tỏ đức công chính của Ta. Ta đã nắm tay ngươi, đã gìn giữ ngươi và đặt làm giao ước với dân, làm ánh sáng chiếu soi muôn nước, để mở mắt cho những ai mù loà, đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ, dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong chốn tối tăm” (Is 42:6-7). Mỗi chúng ta cũng được Thiên Chúa gọi đích danh và đặt vào một vị trí theo Thánh Ý Ngài, nhưng không phải để tự tôn hoặc ích kỷ giữ riêng cho mình, mà phải hành động tích cực, dùng những gì mình đã được Ngài trao ban để làm lợi cho tha nhân – đặc biệt là đối với những người bị áp bức, bị bóc lột, bị tước đoạt những quyền cơ bản của con người,...
Tất cả mọi sự chúng ta tận hưởng, cả tinh thần và vật chất, đều do Thiên Chúa ban, chúng ta chẳng có gì và chẳng đáng gì mà dám vênh vang tự đắc. Tác giả Thánh Vịnh đã nhận thức như vậy, và mời gọi chúng ta: “Hãy dâng Chúa, hỡi chư thần chư thánh, dâng Chúa quyền lực và vinh quang. Hãy dâng Chúa vinh quang xứng danh Người, và thờ lạy Chúa uy nghiêm thánh thiện” (Tv 29:1-2). Đó là bổn phận và trách nhiệm của mọi người. Chúng ta chúc tụng Ngài thì Ngài cũng chẳng thêm được gì, nhưng chính chúng ta lại hưởng lợi ích từ việc chúc tụng đó. Thiên Chúa luôn tìm mọi cách làm lợi cho chúng ta, thật là kỳ diệu quá!
Ngài là Đấng vô hình mà lại hữu hình, vì Ngài vẫn hiện diện trong mọi thứ: “Tiếng Chúa rền vang trên sóng nước, Thiên Chúa hiển vinh cho sấm nổ ầm ầm, Chúa ngự trên nước lũ mênh mông. Tiếng Chúa thật hùng mạnh! Tiếng Chúa thật uy nghiêm!” (Tv 29:3-4). Thiên Chúa toàn năng, và chỉ có Ngài là Thiên Chúa duy nhất. Thật vậy, chính Thiên Chúa đã truyền lệnh: “Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta” (Xh 20:3; Đnl 5:7).
Thiên Chúa xuất hiện trong mọi vật và mọi sự. Những gì chúng ta gọi là tự nhiên hoặc thiên nhiên thì chính là Thiên Chúa: “Tiếng Chúa lay động cả rặng sồi, tuốt trụi lá cây cao rừng rậm. Còn trong thánh điện Người, tất cả cùng hô: Vinh danh Chúa! Chúa ngự trị trên cơn hồng thủy, Chúa là Vua ngự trị muôn đời” (Tv 29:9-10). Bổn phận của chúng ta là phải tôn thờ, cảm tạ và chúc tụng Ngài, như Đức Giêsu Kitô đã nói: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6:33).
Tại nhà ông Co-nê-li-ô, ông Phêrô lên tiếng nói: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận” (Cv 10:34-35). Đức Giêsu nhập thể và nhập thế để “cứu cái gì đã hư mất” (Mt 18:11). Thánh Phêrô giải thích rạch ròi: “Người đã gửi đến cho con cái nhà Ít-ra-en lời loan báo Tin Mừng bình an, nhờ Đức Giêsu Kitô, là Chúa của mọi người. Quý vị biết rõ biến cố đã xảy ra trong toàn cõi Giu-đê, bắt đầu từ miền Galilê, sau phép rửa mà ông Gioan rao giảng. Quý vị biết rõ: Đức Giêsu xuất thân từ Nadarét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người” (Cv 10:36-38).
Trước khi Chúa Giêsu đến thế gian theo Kế hoạch Cứu độ của Thiên Chúa, ông Gioan đã được sai đến trước để dọn đường. Ông là người được Thiên Chúa sai đến, nhưng phong cách rất bình dân: Mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng. Có lần người ta hỏi ông là ai – Đấng Kitô, Ê-li-a hay ngôn sứ? Cả ba lần ông đều trả lời “không”, ông chỉ dám nhận mình là “tiếng người hô trong hoang địa” (Ga 1:20-23). Ông khiêm nhường bao nhiêu thì chúng ta cảm thấy xấu hổ bấy nhiêu, vì chúng ta chỉ là “số không” thật lớn mà lại mạo nhận mình là “cái rốn của vũ trụ”. Lạy Chúa tôi!
Ông rao giảng về Đức Kitô: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần” (Mc 1:7-8). Ông Gioan cho biết rằng ông cũng không biết Đức Giêsu là ai, nhưng khi ông làm Phép Rửa cho Ngài, rồi thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Ngài, nên ông nhận biết Ngài chính là “Đấng Thiên Chúa tuyển chọn” (Ga 1:32-34). Đặc biệt nhất là có tiếng từ trời xác nhận: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” (Mc 1:11).
Di tích sông Gio-đan, nơi Chúa Giêsu chịu phép rửa (Mc 1:6-11; Mt 3:13-17; Lc 3:21-22), cách trung tâm thành phố Ti-bê-ri-a khoảng 10 km về phía Nam trên sông Jordan, có một địa điểm thu hút khoảng nửa triệu người hằng năm. Theo khoa khảo cổ và kinh thánh, nơi thực sự Chúa Giêsu chịp phép rửa cách xa Yardenit cả trăm cây số, ở gần Biển Chết, thuộc về lãnh thổ Gio-đan: “Các việc đó đã xảy ra tại Bê-ta-ni-a, bên kia sông Gio-đan, nơi ông Gio-an làm phép rửa” (Ga 1:28).
Dòng sông Gio-đan bình thường, nhưng bỗng trở nên vô thường vì là nơi Chúa Giêsu chọn để ông Gioan làm Phép Rửa. Nước thật kỳ diệu. Nước rất mềm mà cũng rất mạnh, đặc biệt là không thể tách hoặc cắt được nước. Ở đâu có nước là có sự sống, người ta có thể nhịn đói chứ không thể nhịn khát, vì cơ thể chúng ta chứa tới 70% là nước, mỗi ngày cơ thể cần khoảng 2 lít nước. Có điều lạ là quốc gia cũng được chúng ta gọi là “nước” – nước Việt Nam. Phải chăng Việt ngữ muốn diễn tả nơi mình sống được ví như nước? Còn nước là còn nơi sống, mất nước là mất nơi sống!
Nước biểu hiện sự xuất hiện của Thiên Chúa, chứng tỏ quyền năng của Ngài: “Tiếng Chúa rền vang trên sóng nước, Thiên Chúa hiển vinh cho sấm nổ ầm ầm, Chúa ngự trên nước lũ mênh mông” (Tv 29:3). Với Thiên Chúa, nước cũng được Ngài coi là chất liệu quan trọng nên Ngài đã dùng nước để chứng tỏ chúng ta được tẩy sạch tội lỗi. Nước rất đặc biệt vì nước còn là chất liệu Chúa Giêsu dùng làm phép lạ đầu tiên tại tiệc cưới ở Cana (Ga 2:1-12), và cũng là chất liệu Ngài dùng để dạy “bài học phục vụ” khi Ngài rửa chân cho các môn đệ (Ga 13:1-20). Nước còn quan trọng hơn nữa vì nước là chất liệu biến chúng ta thành con cái Thiên Chúa: “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí” (Ga 3:5).
Chúa Giêsu được dìm mình trong dòng nước Gio-đan để khởi đầu sứ vụ, dòng nước đó trở nên Dòng Tình mà Chúa Giêsu muốn tuôn đổ Lòng Thương Xót cho chúng ta, đồng thời cũng giao trách nhiệm cho mỗi chúng ta phải đắm mình trong dòng đời để phục vụ mọi người, đó cũng là phục vụ chính Ngài vậy: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân” (Kinh Hòa Bình – Thánh Phanxicô Assisi).
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết đón nhậ Đức Kitô là Đấng cứu độ và hết lòng phụng sự Ngài qua việc phục vụ tha nhân, nhất là phục vụ những con người hèn mọn ở mọi ngõ ngách của cuộc đời này. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
37.Dòng sông định mệnh--Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
Có những dòng sông đã quyết định vận mạng cả dân tộc như Chương Dương, Bạch Đằng. Những dòng sông đã đưa cả vận nước tiến lên nhờ những phù sa màu mỡ chuyển mạch sống đến cho toàn dân như Hồng Hà, Cửu Long. Dòng sông đã nổi trôi theo vận nước như Bến hải, sông Gianh.
Nhưng một dòng sông chuyển đổi định mệnh cả nhân loại vì đã được diễm phúc ghi dấu hình ảnh Con Chúa và đón nhận những bước chân rộn rã của đoàn người hành hương tìm về nguồn ơn cứu độ. Dòng sông trở thành căn cứ xuất phát bước chân Đấng Cứu thế, khi thấy cảnh trời mở ra vang vọng tiếng Chúa Cha rung chuyển cả đất trời, át hẳn tiếng người đang thống hối ăn năn. Đó là dòng sông Giođan.
ĐIỂM HỘI TỤ
Ngày ấy mọi người tuốn đến lãnh nhận phép rửa, đã khuấy đục cả một khúc sông. Thấy từng đoàn dân chúng tuốn đến, chắc chắn Gioan Tẩy giả nức lòng phấn khởi. Còn gì vui hơn cho một nhà giảng thuyết! Tất cả đều sám hối, nhưng không hề buồn bã. Sám hối để đón chờ Đấng Messia thời cánh chung. Họ sống trong niềm hi vọng một cuộc giải thoát cho toàn dân.
“Hồi ấy, Đức Giêsu từ Nadarét miền Galilê đến, và được ông Gioan làm phép rửa dưới sông Giođan.” (Mc 1:9) Đức Giêsu đã nhập cuộc với đoàn lũ dân chúng. Người cũng xuống nước xin Gioan làm phép rửa, không phải để tỏ lòng sám hối, cũng không phải để sống niềm hi vọng Thiên sai. Vì chính Người là Vị Thiên sai vô tội đến hoàn thành lời hứa. Người nhập đoàn để đồng hóa với nhân loại tội lỗi. “Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta.” (2 Cr 5,21) Như vậy Người đã hoàn toàn sát nhập vào gia đình nhân loại.
Từ gia đình thiên giới, nơi Người sống mật thiết với Chúa Cha và Thánh Linh, Người đã giáng trần để thực hiện lời hứa xa xưa. Hôm nay xuống sông Giođan chịu phép rửa, Đức Giêsu đã cho thấy Người thuộc về hai gia đình. Cả hai đã hiệp nhất trong tình yêu, tình yêu Thiên Chúa nhập thể. Đó là sứ mệnh lớn lao của Người. Người là Chàng rể đến giới thiệu nàng dâu nhân loại cho Thiên Chúa. Khi lặn ngụp xuống giòng nước Giođan, Người đem trọn tình yêu của Ba ngôi dìm xuống dòng sông định mệnh của nhân loại. Nhưng “vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy Thần Khí tựa chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con.” (Mc 1:11) Chúa Cha đã xác nhận bản chất Đức Giêsu như “tình yêu Thiên Chúa đến với trần gian.” (KTTƯ 1995:183) Lời xác nhận đó vang lên như thuở mới tạo dựng đất trời, có chim bồ câu chứng kiến, một biểu tượng thật dễ thương, nhắc đến một cuộc tạo thành mới bắt đầu với Đức Giêsu (x.KTTƯ 1995:183).
Từ nay tương quan đất trời hoàn toàn thay đổi nhờ quyền lực Thánh Linh (x.Tt 3,5). Chính nhờ Thánh Linh, Đức Giêsu đã được xức dầu tấn phong làm Quân Vương cai trị muôn dân, (x. KTTƯ 1995:183) như Chúa đã hứa: “Ta cho thần khí Ta ngự trên Người.” (Is 42:1) Nhờ Thần khí, Người trở thành “Tôi Trung của Thiên Chúa có nhiệm vụ rao giảng, thực hiện công cuộc giải thoát và cứu độ”(KTTƯ 1995:183) cho muôn dân ngang qua cuộc tử nạn và phục sinh của Người. Bởi đấy khi bị dìm xuống nước, Người như đi vào cõi chết. Khi “vừa lên khỏi nước”, Người như đi vào cõi vĩnh hằng cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Nhưng Người không đi vào một mình. Nhờ Thánh Linh, ngang qua phép rửa là cái chết của Người, cả nhân loại sẽ cùng thừa hưởng gia nghiệp Nước Trời với Chúa. Như vậy, “tất cả lời hứa cứu độ trở thành hiện thực trong phép rửa” (Faley 1994:90).
Chính vì thế, “phép rửa của Đức Giêsu trong Thánh Thần chỉ toàn thể công trình cứu độ do Đức Giêsu khai mạc.” (KTTƯ 1995:182) Không có sức mạnh Thánh Linh, nhân loại cũng không thể gia nhập gia đình Thiên Chúa. Nhờ đó họ trở thành anh em với nhau. Đó là ơn gọi nguyên thủy của nhân loại.
ƠN GỌI NGUYÊN THỦY
Thế giới hôm nay thu nhỏ như một ngôi làng. Con người gần gũi nhau hơn bao giờ. Nhưng liệu những phương tiện truyền thông có đủ năng lực bảo đảm hòa bình cho nhân loại hay không? Thực ra, thế giới còn nhỏ hơn một ngôi làng. Tất cả nhân loại làm thành một gia đình, trong đó mọi người đều liên đới với nhau. Nền hòa bình thế giới sẽ tùy thuộc vào ý thức này. Thật vậy, “thế giới sẽ có hòa bình hay không tùy theo toàn thể nhân loại có biết tái khám phá ơn gọi nguyên thủy của mình là trở thành một gia đình duy nhất hay không, một gia đình trong đó phẩm giá và các quyền con người – bất luận là người thuộc giai tầng, chủng tộc hoặc tôn giáo nào – được xác quyết là những điều ưu tiên và trổi vượt hơn tất cả những khác biệt và những đặc tính khác của con người” (“Sứ Điệp Hòa Bình”; VietCatholic 1999:3).
Nếu thế, chiến tranh phát sinh từ lòng dạ hẹp hòi, ích kỷ của con người muốn tách mình ra khỏi gia đình duy nhất đó. Một khi chỉ biết tới quyền lợi riêng tư, người ta có thể chà đạp nhân phẩm kẻ khác. Thực tế, “những bất công, chênh lệch thái quá trong lãnh vực kinh tế hoặc xã hội, sự ghen tương, nghi kỵ và kiêu ngạo tác hại giữa con người và các quốc gia, không ngừng đe dọa hòa bình và gây ra chiến tranh.” (“Sứ Điệp Hòa Bình”; VietCatholic 1999:6) Đó là một thế giới không ai biết đến ai. Hòa bình chính là kết quả của tinh thần liên đới trách nhiệm và chia sẻ quyền lợi cho nhau. Ngày nay nhờ “tiến trình hoàn vũ hóa, người ta có được những cơ hội đặc biệt và đầy triển vọng để biến nhân loại thành một gia đình duy nhất thực sự, dựa trên những giá trị công bằng, ngay chính và liên đới” (“Sứ Điệp Hòa Bình”; VietCatholic 1999:3).
Nếu được xây dựng và mô phỏng trên tương quan giữa Ba Ngôi, tình liên đới đó chắc chắn sẽ tìm được sức sống mới. Vì nơi Ba Ngôi Thiên Chúa, tình yêu vô cùng phong phú và mãnh liệt. Người muốn chia sẻ đến tận cùng tình yêu đó cho nhân loại. Thật vậy, “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một,” (Ga 3:16) để con người có thể sống ơn gọi nguyên thủy bắt nguồn từ chính tình yêu Thiên Chúa. Nếu không sống tương quan với người khác như một gia đình, con người sẽ đánh mất vẻ tươi đẹp nhất, vì “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa.” (Stk 1,27) Không phải chỉ giống Thiên Chúa trong bản chất, nhưng cả trong tương quan nữa. Đó chính là nền tảng ơn gọi nguyên thủy của con người. Từ đó sứ mệnh con người được hoàn thành trong nỗ lực liên đới với anh em. Liên đới với anh em chính là đi vào tương quan với Thiên Chúa.
Tương quan thật sâu xa đó đã được thiết lập khi Đức Giêsu dìm mình trong dòng sông Giođan. Dòng sông định mệnh đó đã nối kết gia đình nhân loại với gia đình Thiên Chúa nhờ thần lực của Con Thiên Chúa làm người. Dòng nước thanh tẩy cũng đã trả lại cho chúng ta mối tương quan thâm sâu và vô cùng ý nghĩa đó. Nếu thực sự đang sống trong tương quan với anh em, chúng ta có sẵn sàng cộng tác với người khác để xây dựng cộng đoàn không? Chúng ta có tôn trọng nhân phẩm và tạo điều kiện cho người khác phát triển không? Thời cánh chung đã điểm khi Đức Giêsu xuất hiện trong dòng sông định mệnh Giođan. Bạn còn đợi tới bao giờ mới thiết lập tương quan với Thiên Chúa và anh em trong tiến trình đi lên hôm nay?
38.Chúa Giêsu chịu phép rửa --Lm. Giuse Lê Danh Tường
CON NGƯỜI ĐƯỢC NÂNG LÊN
TRONG CHÍNH THÂN PHẬN CỦA MÌNH
Cái ước mơ được “đổi đời” trong chốc lát luôn thường trực trong thân phận con người từ khởi thủy đến nay. Càng khốn cùng, cái ước mơ ấy càng mãnh liệt hơn. Người ta mong ước được giải phóng khỏi mọi kìm kẹp, khỏi mọi ràng buộc để được bung mình trong tự do.
Chúa Cả trời đất đã tạo dựng con người và cho nó có tự do. Nhưng con người đã sống tự do cách vô độ để rồi chính mình lại rơi vào sự kìm kẹp của băng hoại, của tội lỗi. Đấng Tạo Hóa đã không vì thế mà hủy bỏ con người để tạo dựng lại một con người mới. Nhưng Ngài đã nâng con người dậy, tái tạo nó và làm cho nó nên xinh đẹp từ chính thân phận dòn mỏng đã đổ vỡ của con người.
Tiên báo về ngày con người được giải phóng
Tiên tri Isaia đệ nhị sống vào thời dân Israel đang bị lưu đày tại Babylon vào thế kỷ thứ VI trước Công nguyên. Ngài đã tiên báo về ngày mà toàn dân được giải phóng bởi một “tôi tớ” của Thiên Chúa. Dù người ta chưa biết Đấng ấy là ai nhưng một điều chắc chắn là “Người không bẻ gẫy cây lau bị giập, không dập tắt tim đèn còn khói” (Is 42,3).
Thiên Chúa không xóa bỏ tất cả để tạo dựng lại từ đầu. Ngài sẽ vực họ dậy dù họ chỉ còn như là “cây lau bị giập” hay như “tim đèn chỉ còn khói”. Ngài sẽ “mở mắt cho người mù, đưa ra khỏi tù những người bị xiềng xích, đưa ra khỏi ngục những người ngồi trong tối tăm” (Is 42,7).
Cái khát vọng thoát khỏi ách lưu đày tại Babylon của dân Do Thái xưa sẽ được thỏa mãn bởi Hoàng đế Kyro của Ba Tư. Nhưng cái khát vọng sâu xa của con người mong được giải phóng khỏi cảnh lưu đày trong tội lỗi chỉ có thể được thỏa mãn bởi Đấng Mê-si-a.
Thiên Chúa xuống làm người để nâng con người lên
Những gì mà Thánh Mac-cô mô tả tại dòng sông Gio-đan cho ta thấy những lời tiên báo của Isaia trước đó không phải là là một lời hứa suông. Quả thực Thiên Chúa đã không ruồng bỏ con người, nhưng Ngài đã đi xuống đến tận cùng thân phận tội lỗi của con người để nâng con người lên, giải phóng con người và đưa nó vào quỹ đạo của Tình Yêu Trời Đất.
Đức Giêsu, Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Ngài đã đi vào giữa dòng người tội lỗi đang ngụp lặn tìm kiếm sự giải thoát. Ngài đã ngụp lặn xuống với họ, cùng họ bước vào sự tăm tối tột cùng của cảnh nô lệ tội lỗi. Ngài không bị nô lệ bởi tội lỗi, nhưng ngài đi vào trong sự tăm tối tột cùng của cảnh nô lệ tội lỗi mà con người đang chịu đựng.
Một cách hình ảnh, nơi mà Chúa Giêsu bước xuống với đoàn dân để lãnh nhận phép rửa của ông Gioan là nơi chẳng còn cách Biển Chết bao xa. Dòng sông Gio-đan chảy từ hồ Galile tới Biển Chết. Biển Chết là một hồ nước mặn sâu nhất thế giới. Nó được gọi là Biển Chết bởi chẳng có sinh vật nào sống được trong độ mặn chát của hồ nước. Hình ảnh này khiến ta liên tưởng đến sự tận cùng của con người. Họ tuốn đến và bước xuống dòng sông Giođan, và chẳng còn bao xa nữa họ sẽ đi đến Biển Chết. Thiên Chúa đã hiện diện tại khúc đường cùng ấy của con người. Chính vào thời điểm cận kề với điểm chết, vào lúc con người đi đến cuối con đường cụt thì Thiên Chúa đã can thiệp và kéo con người lên.
Quả thực, Thiên Chúa đã đến với con người trong chính thân phận của con người để nâng con người dậy. Ngài đi vào cuộc sống của từng người, vào trong chính tâm tư tình cảm và hoàn cảnh sống của mỗi người để nâng ta lên.
Con người được nâng lên trong chính thân phận của mình
Suốt hàng ngàn năm, dân Do Thái suy ngẫm về Ơn Cứu Độ. Đi từ chỗ hiểu rằng Ơn Cứu Độ chỉ dành cho Dân Riêng của Thiên Chúa là dân Do Thái, họ đã dần nhận thấy Ơn Cứu Độ còn dành cho mọi dân tộc. Nhưng dẫu sao thì họ vẫn coi Giê-ru-sa-lem là tâm điểm mà mọi dân tộc phải rời bỏ quê hương của mình để tiến về Giê-ru-sa-lem. Não trạng ấy vẫn ăn sâu trong tiềm thức của dân.
Trong sách Công vụ Tông đồ được trích trong bài đọc thứ hai của ngày lễ này viết lại lời khẳng định của Thánh Phê-rô Tông đồ: “Thiên Chúa không thiên tư tây vị, nhưng ở bất cứ xứ nào, ai kính sợ Người và thực hành sự công chính, đều được Người đón nhận” (Cv 10,34).
Lời khẳng định của Thánh Phêrô diễn ra trong bối cảnh ngài đến làm Phép Rửa cho gia đình một người dân ngoại tên là Cornelio (Cv 10,1-48). Thần Khí Chúa đã dẫn lối cho Phêrô đến gia đình này. Thánh Phêrô đã bỏ qua những tục lệ bắt buộc của người Do Thái để làm Phép Rửa cho gia đình ông Cornelio. Trước đó, chính Thánh Phêrô cũng đã không thể chấp nhận việc đem Ơn Cứu Độ ra ngoài Do Thái giáo. Nhưng với sự can thiệp của Thần Khí qua thị kiến thanh sạch hay nhơ bẩn mà Thánh Phêrô đã thay đổi lập trường (Cv 10,9-16).
Quả thực, không phải mọi dân phải rời bỏ quê hương của mình để đến với Giê-ru-sa-lem mà hưởng Ơn Cứu Độ. Nhưng là Ơn Cứu Độ đến với mọi dân ở trong chính quê hương của họ, trong chính hoàn cảnh sống của họ, trong chính thân phận thực tại của mỗi người, trong lịch sử cuộc đời của bạn, cuộc đời của tôi.
Thiên Chúa đã làm tất cả vì con người. Đấng Tạo Hóa đã muốn ở trong mỗi chúng ta để tái tạo mỗi chúng ta nên một con người xinh đẹp mỹ miều. Ngài muốn mỗi người là một công trình riêng biệt, mỗi người mang một vẻ đẹp rất riêng và mỗi người cũng có mối tình rất riêng tư với Ngài.
Tôi và bạn, mỗi người một vẻ, mỗi người một lịch sử, mỗi người một hoàn cảnh sống đã qua và đang sống. Tôi, một người Việt Nam, không thể vất bỏ lại sau lưng tất cả những gì tôi đã sống, bởi làm thế tôi không còn là tôi, và thực tế tôi cũng chẳng thể làm được. Thiên Chúa cũng không bắt tôi phải làm thế. Nhưng Ngài đến với tôi trong chính những khiếm khuyết và nhơ uế của tôi. Từ chính trong tôi, Ngài tái tạo và nâng tôi lên, cho tôi tiến bước trên con đường thong dong trong Ơn Nghĩa Chúa.
Lạy Chúa, con tin thật Chúa yêu con nhiều. Xin Chúa ở lại trong con dù đôi khi con lãng quên Ngài. Xin Chúa tái tạo con để con được trở nên tạo vật mĩ miều trong Vũ trụ xinh tươi.
39.Con yêu dấu--Lm Luy Nguyễn Quang Vinh
Chúng ta không còn ở trong những trang Tin Mừng nói được là “thơ mộng” của thời thơ ấu Chúa Giêsu, vì có những vì sao và tiếng hát các thiên thần. Chúa Giêsu đã chấm dứt 30 năm cuộc sống ẩn dật của Ngài tại Nagiarét. Hôm nay, chúng ta được thấy Ngài xuất hiện trước công chúng trong tư thế sẵn sàng khởi đầu sứ vụ Chúa Cha đã trao cho Ngài.
Cả ba bài đọc của Lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa hôm nay đều nhằm giới thiệu với cộng đoàn: Chúa Giêsu chính là Người Con được Chúa Cha quý mến. Bài đọc 1 trình bày Chúa Giêsu là người được Thiên Chúa nâng đỡ, tuyển chọn và quý mến. Trong bài đọc 2, Thánh Phêrô làm chứng Thiên Chúa luôn ở với Ngài và trong bài Tin Mừng, chúng ta được nghe tiếng từ trời phán về Ngài: “Con là con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”.
Những khẳng định trên đây về Chúa Giêsu lại càng làm cho chúng ta ngỡ ngàng trước việc Ngài để cho ông Gioan làm Phép Rửa cho Ngài tại sông Giođan. Chúa Giêsu chịu Phép Rửa như một người tội lỗi, trong khi Ngài là Người Con yêu dấu của Chúa Cha và chính Ngài cũng có lần tuyên bố: “Ai trong các ông bắt tội lỗi tôi được về tội gì?”… Nhưng Chúa Giêsu lại là Đấng chuộc tội thiên hạ. Gioan Tẩy Giả cũng có lần giới thiệu Ngài là “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian”. Ngài xóa tội trần gian bằng cách gánh lấy tội trần gian, một cử chỉ mở đầu sứ vụ công khai của Chúa Giêsu, đồng thời cũng là dấu báo hiệu những gì sẽ xảy ra. Có một lần, các con ông Giêbêđê bày tỏ ước vọng với Chúa Giêsu là một người ngồi bên tả, một người ngồi bên hữu của Ngài. Và Chúa Giêsu đã trả lời các ông: “Các ông không ý thức được điều các ông xin. Các ông có thể uống được chén tôi phải uống và chịu thanh tẩy, thứ thanh tẩy tôi phải chịu không?”. Như vậy là còn một cuộc thanh tẩy khác nữa đang chờ đợi Chúa Giêsu. Cuộc thanh tẩy ấy không chỉ còn là bằng nước của sông Giođan và từ tay ông Gioan Tẩy Giả mà là bằng Máu của chính Ngài, được sống lại trong Phục Sinh của Ngài và trở thành người con của Thiên Chúa.
Nếu Đức Kitô đến để thanh tẩy loài người bằng Thánh Thần, thì điều đó đã được thực hiện cho người Kitô hữu trong bí tích Thanh Tẩy. Khi được Rửa Tội, chúng ta cũng được Chúa Cha tấn phong và giới thiệu với thế gian rằng: “Đây là Con Ta rất yêu dấu”. Ơn gọi làm con Thiên Chúa không những không phủ nhận hay loại trừ ơn gọi làm người, nhưng còn giúp chúng ta đảm nhận ơn gọi ấy nữa. Được phúc làm con Thiên Chúa, chúng ta không được đưa ra khỏi thế gian hay được miễn khỏi mọi bổn phận trần thế. Ngược lại, chính trong thế giới và nhân loại này mà chúng ta phải thể hiện ơn gọi làm con Thiên Chúa, chính thế giới và nhân loại này mà chúng ta được tuyển chọn làm con Thiên Chúa.
Nhờ Thánh Thần được ban trong bí tích Thanh Tẩy, mỗi người chúng ta trở nên giống Chúa Kitô, nên một với Ngài và cùng mang trách nhiệm của Ngài. Sứ mạng của Ngài trở thành của chúng ta và công việc của Ngài phải là công việc của mọi Kitô hữu. Nếu Chúa Giêsu đã liên kết với con người tội lỗi, để giải thoát con người khỏi tội lỗi, thì chính người được Rửa Tội vẫn phải tiếp tục sống giữa anh em mình, và không được quên trách nhiệm đấu tranh chống lại tội lỗi và chiến thắng sự dữ. Bí tích Thanh Tẩy không thể chỉ là một nghi lễ lãnh một lần rồi thôi mà phải là chính cuộc sống từ bỏ và đẩy lui mọi tội lỗi. Bản thân người Kitô hữu phải chiến thắng tội lỗi để thực sự là một trong “những kẻ được sáng”, hầu có thể trở thành ánh sáng chiếu soi muôn dân.
Qua Bí tích Thanh Tẩy, chúng ta đã là Kitô hữu và là con Thiên Chúa. Thế nhưng chúng ta còn phải trở thành Kitô hữu, nghĩa là mỗi ngày trong cuộc đời còn phải nên giống Chúa Kitô hơn cho tới khi được đồng hình đồng dạng với Ngài.
Muốn trở thành Kitô hữu như thế, phải tin tưởng và gắn bó với Đức Kitô, luôn sống thân tình với Ngài, lắng nghe và tuân giữ lời Ngài như Chúa Cha đã long trọng và ân cần nhắn nhủ.
Thánh Thần, Đấng đã hiện diện nơi con người Đức Giêsu để biến Đức Giêsu thành Con Chí Ái của Chúa Cha, sẽ hoạt động nơi tâm hồn mỗi người để làm cho mỗi người nên giống Đức Kitô, dạy chúng ta biết thế nào để trở nên Con Thiên Chúa trong Đức Kitô. Nhờ Thánh Thần, lời cầu nguyện của người Kitô hữu trở thành lời kêu lên của người con đối với Cha mình và kết hợp sâu xa với lời cầu nguyện của Đức Giêsu. Nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, người tín hữu can đảm để tha thứ cho kẻ thù, thích thú khi sống đời yêu thương và phục vụ như Đức Giêsu đã sống.
Thánh Thần được ban cho chúng ta trong Bí tích Thánh Tẩy còn giúp chúng ta trung thành với Đức Kitô, nhất là trong trách nhiệm thiết lập công lý khắp nơi và trở thành ánh sáng muôn dân.
Chúng ta là con Thiên Chúa và muốn luôn làm con Thiên Chúa bằng việc chiến thắng tội lỗi và làm sáng tỏ công lý. Nhưng hoàn cảnh khắc nghiệt về vật chất cũng như tinh thần, có thể sẽ đè bẹp chúng ta, lôi cuốn chúng ta đồng lõa với sự bất công, hoặc có thể làm cho chúng ta nhụt chí, buông xuôi, đầu hàng sự ác.
Lúc đó, chúng ta hãy nhớ rằng, ngay giữa cuộc đời, Đức Giêsu vẫn hiện diện ở đó giống như xưa Ngài đã từng hòa lẫn với giòng người tội lỗi ở bờ sông Giođan. Đức Giêsu hiện diện ở đó để giữa tăm tối của cuộc sống, trời vẫn xé ra, hồng ân Thánh Thần vẫn đổ xuống, và Chúa Cha vẫn vui mừng nói với từng người trong chúng ta như đã nói với Chúa Giêsu rằng:
“Đây là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”.
40.Đi tìm tâm điểm--‘Lương Thực Hằng Ngày’
Những lời chú giải thông thái về đoạn Phúc âm này ám chỉ những giai đoạn trong Cựu Ước nói đến nước và Thần trí. Một trong những lời chú giải nhấn mạnh rằng nước biểu tượng cho khả năng tiếp thu của loài người đối với tác động của thần trí. Phép rửa bằng nước do Gioan Tẩy Giả tượng trưng cố gắng của con người tiến đến Thiên Chúa, nhưng cố gắng ấy không thể tự nó tới được đích Con người chỉ gặp được Thiên Chúa, nếu Thiên Chúa đến với con người. Đấy là ý nghĩa phép rửa trong Chúa Thánh Thần. Đức Giêsu muốn thực hiện trong nhân vị mình sự chuyển động con người đến với Thiên Chúa (Phép rửa do Gioan Tẩy Giả) và sự chuyển động Thiên Chúa đến với con người (Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Đức Giêsu) phép rửa bằng nước biểu tượng cho cố gắng con người dọn mình chịu phép Rửa trong Thần Trí, mà Thần Trí là sự Chúa đến. Thiên Chúa là nguồn gốc cảm hứng và sức hậu thuẫn cho sự trở lại của con người, và bởi ơn Chúa Thánh Thần linh ứng chỉ đạt tới đích nếu Thiên Chúa đến với con người và dẫn dắt con người từ bình diện nhân tính tiến lên bình diện thần tính. Ta có thể nói rằng trong nhân vị Đức Giêsu, con người hướng đến Thiên Chúa, và Thiên Chúa đến gặp con người. Đức Giêsu thực hiện điều ấy với một sức sống và một sự viên mãn vượt khỏi trí tưởng tượng của chúng ta. Tuy nhiên chúng ta có thể kết luận: Do sự tham gia sống động của ta vào mầu nhiệm Đức Giêsu mà ta hướng về Thiên Chúa và Thiên Chúa đến với ta. Đoạn Phúc âm hôm nay có thể gợi ý vài suy niệm về giá trị cố gắng trở lại và ý nghĩa hoạt động tông đồ của chúng ta.
1) Giá trị cuộc đời Kitô hữu là ở sự gặp gỡ của chúng ta với Thiên Chúa trong Đức Kitô. Một sự trở lại mang tính chất Kitô giáo mà tự hạn chế trong những việc lành phúc đức dù cao cả tới đâu cũng không đủ giúp người ta đạt tới phẩm giá làm con Thiên Chúa. Thế mà tất cả ý nghĩa sứ điệp Phúc âm là ở chỗ loan báo cho con người thiên chức làm con Thiên Chúa. Người Kitô hữu đích thật là người tìm kiếm sự gặp gỡ sống động với Đức Kitô, mà người Kitô hữu đến lượt mình trở nên con Thiên Chúa và gặp Thiên Chúa như thể gặp người cha vậy. Thực tế, biết tìm Đức Kitô ở đâu? Gặp Người nhiều nhất là trong Phúc âm, trong Giáo Hội, trong các bí tích, trong niềm thương yêu anh em. Đời sống luân lý mà vắng thiếu sự đi tìm tâm điểm để gặp Đức Kitô, thì không phát huy hết giá trị, lại có thể xuống giá nữa. Trong cố gắng tham dự đời sống Đức Giêsu, người Kitô hữu tìm được cho đời mình ý nghĩa và giá trị thật sự.
2) Hoạt động tông đồ có tham vọng giúp người ta chuẩn bị gặp gỡ Đức Kitô. Bất cứ người làm việc tông đồ nào cũng giống Gioan Tẩy Giả, đều đóng vai tiền hô. Nhiệm vụ người ấy là dọn dẹp, khai quang, soi sáng, hướng dẫn. Niềm xác tin cơ bản của người tông đồ phải là làm thế nào để kết quả chung cục rời khỏi tay mình, vì lẽ kết quả sau hết đó là sự Thiên Chúa ngự đến trong một con người. Điều đó tuỳ thuộc Thiên Chúa. Để biểu lộ thái độ khiêm nhường, bằng một sự nhận thức về thực tại, người tông đồ hoạt động, hy sinh, cầu nguyện, hiến dâng tất cả sức lực, tất cả thân mình cho một công việc của Thiên Chúa. Do đó người ta hiểu rằng chiến sĩ Kitô hữu không hoạt động cho Đấng thần hoá những gì thuộc về nhân thế. Điều này đem đến cho cố gắng tất cả ý nghĩa và đặt cố gắng lên trên cái điều xét bề ngoài có thể coi là thất bại hoặc thành công. Một điều chắc là việc tông đồ mà linh hồn và tâm điểm là Đức Giêsu Kitô – luôn luôn đem về cho người hoạt động tông đồ một thành công hiển nhiên hoặc giấu kín.
41.Ba Ngôi tỏ mình trong phép rửa--Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng
Có một người cho tôi mượn quyển truyện cười. Tôi đọc một câu chuyện như sau: một người mở tiệm bán cá. Anh ta căng bảng hiệu "Ở đây bán cá tươi". Một người hàng xóm phê bình: "Anh bán cá tươi chứ có bán cá khô đâu. Cần gì phải để chữ "tươi" trên bảng hiệu". Nghe có lý, anh chủ tiệm xóa chữ "tươi". Bảng hiệu chỉ còn "Ở đây bán cá". Một người khác lại chê: "Tiệm của ông bán cá, ai cũng biết, cần gì phải ghi hai chữ "ở đây". Anh chủ tiệm lại nghe có lý. Vậy là bảng hiệu chỉ còn hai chữ "Bán cá". Một người khác lại không đồng ý, nên đề nghị: "Tiệm của ông bán cá chứ có bán rau trái gì đâu mà phải tốn cả cái bảng hiệu". Vậy là ngay hôm đó, anh chủ tiệm tháo luôn tấm bảng hiệu của tiệm mình.
Bạn thử nghĩ xem, câu chuyện kể trên muốn nói điều gì? Nó phê phán những người có tính ba phải, bắt chước một cách rập khuôn theo người khác, mà không biết giữ lập trường của mình.
Tôi không có ý so sánh câu chuyện kể trên với bài Tin Mừng ngày lễ Chúa chịu phép rửa, chuyện vui đó không đáng so sánh với Thánh Kinh. Dù sao tôi cũng thắc mắc, bởi thái độ của Chúa Giêsu hết sức lạ lùng. Chúa được Gioan ca tụng một cách khác thường, trên mức bình thường, nào là "Có Đấng đến sau tôi, quyền lực hơn tôi", nào là "Tôi không đáng cởi dây giày cho Người", hay "Tôi rửa anh em trong nước, nhưng Người rửa anh em trong Thánh Thần", thì chính Người, nhân vật quan trọng đó, lại đến xin Gioan làm phép rửa cho mình, và đã cúi mình để Gioan rửa thật sự. Chúa Giêsu làm điều đó có ý gì? Hình như Người cũng chỉ là một kẻ ba phải, thấy người khác đến xin Gioan làm phép rửa thì cũng đến như mọi người?
Không đúng! Chúa Kitô không ba phải! Ở cuối bài Tin Mừng, thánh Marcô cung cấp cho ta một chân lý đức tin hết sức quan trọng: Chúa Giêsu đã làm điều mà Người cần phải làm: Qua phép rửa của Gioan, Thiên Chúa tỏ mình cho trần gian. Nếu lần tỏ mình trước trong lễ Hiển Linh cho biết Chúa Giêsu đã nhập thể trong trần gian, thì lần này đánh dấu một bước ngoặc mới, đó là Chúa chuẩn bị loan báo Tin Mừng và báo trước đời sống công khai của Chúa. Lần tỏ mình này diễn ra trong bầu khí uy nghi: Ba Ngôi cùng hiện diện: Chúa Thánh Thần ngự xuống nơi Chúa Con như hình chim bồ câu. Chúa Cha tuyên bố Chúa Con là con yêu dấu của Người, luôn làm đẹp lòng Người. Tất cả những điều đó nhằm minh chứng Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Người sắp thực hiện sứ mạng cứu độ trần gian.
Ngày xưa phép rửa của Gioan chỉ là phép rửa kêu gọi thống hối mà Thiên Chúa lại tỏ mình uy nghi, thì ngày nay trong phép rửa tội, là phép rửa tha tội thật sự, do Chúa Giêsu thiết lập, chắc chắn Thiên Chúa vẫn đang tỏ mình cho loài người. Bởi đó, khi linh mục hoặc bất cứ người nào trong trường hợp thiếu linh mục, rửa tội cho ai đó theo ý hướng của Giáo Hội, và đọc công thức: "Tôi rửa tội cho anh (chị, em...), nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con, và Chúa Thánh Thần", kèm theo việc đổ nước trên đầu, thì lập tức bí tích rửa tội thành sự.
Bạn thân mến, trong nghi thức bí tích rửa tội cho trẻ em, trước khi tuyên xưng đức tin, Giáo Hội mời gọi mọi người hiện diện hãy tích cực tham dự và nghi thức bí tích này bằng lời kêu mời: "...Anh chị em HÃY NHỚ LẠI phép rửa tội của mình mà từ bỏ tội lỗi và tuyên xưng đức tin...". Vậy mừng lễ Chúa chịu phép rửa hôm nay, bạn và tôi cũng hãy nhớ lại phép rửa tội của mình mà tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi, Đấng đã yêu thương tỏ mình trong cuộc đời của từng người, kể từ giây phút ta bắt đầu gia nhập cộng đoàn Giáo Hội.
Bí tích rửa tội là bí tích đầu tiên cho ta được quyền gọi Thiên Chúa là Cha, Chúa Kitô là người Anh Cả của mình, Chúa Thánh Thần được ban để ta sống đời sống một người con Chúa. Nếu trong nghi thức bí tích, Giáo Hội mời ta nhớ lại bí tích rửa tội để từ bỏ tội lỗi và tuyên xưng đức tin, thì hôm nay, trong lễ này, bạn và tôi cũng hãy thực thi lời mời gọi ấy bằng sự thành tâm trở về với Chúa, giữ cho lòng mình trong sạch và siêng năng rước lễ, cầu nguyện, lãnh bí tích giải tội, biết thực thi lòng bác ái bằng việc giúp đỡ anh chị em thiếu thốn xung quanh mình. Dù tỏ mình trong bí tích rửa tội, nhưng Danh Chúa thực cả sáng nhờ đời sống thánh thiện của bạn và tôi.
42.Chúa chịu phép rửa--ĐTC Phanxicô 2015--Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh chuyển dịch
"Những gì sữa làm cho thân xác thế nào thì Lời Chúa làm cho tinh thần như vậy, ở chỗ, Lời Chúa làm cho chúng ta lớn lên trong đức tin. Và nhờ đức tin chúng ta được tái sinh bởi Chúa. Và đó là những gì xẩy ra nơi Phép Rửa".
Chúng ta đã nghe thấy trong Bài Đọc Thứ Nhất là Chúa chăm sóc cho con cái của Ngài như cha mẹ: Ngài chăm chút cung cấp cho con cái của mình lương thực chân chính. Qua vị tiên tri Thiên Chúa đã nói rằng: "Tại sao các ngươi lại chi tiền của mình cho những gì không phải là bánh ăn, tiêu xài lương bổng của các ngươi cho những gì không làm thỏa mãn chứ?" (Isaia 55:2). Thiên Chúa, như một người cha thiện hảo và như một người mẹ tốt lành, muốn cống hiến cho con cái của mình những điều tốt lành thiện hảo. Thứ lương thực chân chính Thiên Chúa ban cho chúng ta đây là gì? Đó là chính Lời của Ngài: Lời của Ngài làm cho chúng ta lớn lên, làm cho chúng ta sinh hoa kết trái tốt đẹp trong đời sống, như mưa và tuyết làm cho đất trở nên phì nhiêu cùng sinh hoa trái vậy (xem Isaia 55:10-11).
Cũng thế, anh chị em là cha mẹ, và là cha mẹ đỡ đầu, là ông bà, là cô dì chú bác, cũng giúp cho những con trẻ này lớn lên một cách tốt đẹp nếu anh chị em cống hiến cho chúng Lời Chúa, cống hiến cho chúng Phúc Âm của Chúa Giêsu. Kèm theo Lời Chúa anh chị em đồng thời cũng cống hiến cả gương sống của anh chị em nữa! Hằng ngày anh chị em hãy có thói quen đọc một đoạn Phúc Âm, một đoạn ngắn thôi, và luôn mang theo một cuốn Phúc Âm nhỏ trong túi, trong xách tay của anh chị em để đọc. Đó sẽ là một tấm gương cho những con trẻ đây, khi chúng thấy người cha, người mẹ, bố mẹ đỡ đầu, ông bà, cô dì chú bác, đọc Lời Chúa.
Hỡi các người mẹ, hãy cho con của mình bú sữa - ngay cả lúc này đây, nếu chúng khóc vì đói, hãy cho chúng bú sữa, đừng lo. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa về tặng ân sữa này, và chúng ta cầu cho những người mẹ ấy - tiếc thay lại có rất nhiều - lại không thể cho con cái của mình của ăn. Chúng ta hãy cầu nguyện và cố gắng giúp cho những người mẹ này. Vậy những gì sữa làm cho thân xác thế nào thì Lời Chúa làm cho tinh thần như vậy, ở chỗ, Lời Chúa làm cho chúng ta lớn lên trong đức tin. Và nhờ đức tin chúng ta được tái sinh bởi Chúa. Và đó là những gì xẩy ra nơi Phép Rửa. Chúng ta đã nghe tông đồ Gioan viết: "Ai tin rằng Chúa Giêsu là Đức Kitô thì đều được Thiên Chúa hạ sinh" (1Gioan 5:1).
Bằng đức tin ấy, con cái của anh chị em đến để lãnh nhận phép rửa. Anh chị em phụ huynh, anh chị em đỡ đầu thân mến, đó là đức tin của anh chị em hôm nay đây. Đó là đức tin của Giáo Hội, nhờ đó mà những em bé này sẽ được lãnh nhận Phép Rửa. Thế nhưng ngày mai, nhờ ơn Chúa, đức tin này sẽ trở thành đức tin của chúng, trở thành tiếng "xin vâng" của bản thân chúng với Chúa Giêsu Kitô, Đấng cống hiến cho chúng ta tình yêu của Cha.
Tôi đang nói rằng chính đức tin của Giáo Hội. Điều này rất quan trọng. Phép Rửa tháp nhập chúng ta vào thân mình của Giáo Hội, vào dân thánh của Thiên Chúa. Và trong thân mình này, trong thành phần dân đang tiến bước này, đức tin được truyền đạt từ đời nọ đến đời kia: đó là đức tin của Giáo Hội. Và đức tin của Mẹ Maria, Mẹ của chúng ta, đức tin của Thánh Giuse, của Thánh Phêrô, của Thánh Anrê, của Thánh Gioan, đức tin của các vị Tông Đồ và các vị Tử Đạo, đã được truyền đạt cho chúng ta qua Phép Rửa: một chuỗi giây truyền đạt đức tin. Điều này thật là đẹp! Nó là một việc truyền đạt từ bàn tay này sang bàn tay kia cây nến sáng đức tin: chúng ta sẽ bày tỏ điều này trong ít phút nữa bằng cử chỉ thắp sáng cây nến phục sinh trọng đại. Cây nến phục sinh trọng đại này tiêu biểu cho Chúa Kitô Phục Sinh đang sống giữa chúng ta. Các gia đình lấy ánh sáng đức tin từ Người để truyền đạt cho con cái của mình. Anh chị em có thể lấy ánh sáng này trong Giáo Hội, trong thân mình của Chúa Kitô, trong dân Chúa là thành phần đang bước đi ở mọi thời đại và ở hết mọi nơi. Hãy dạy cho con cái của anh chị em rằng không có Kitô giáo ngoài Giáo Hội, anh chị em không thể nào theo Chúa Giêsu Kitô mà không có Giáo Hội, vì Giáo Hội là một người mẹ làm cho chúng ta lớn lên trong lòng yêu mến Chúa Giêsu Kitô.
Các Bài Đọc hôm nay còn mạnh mẽ cống hiến một khía cạnh cuối cùng nữa, đó là, nơi Phép Rửa chúng ta được Thánh Linh thánh hiến. Chữ "Kitô hữu" mang ý nghĩa ấy, có nghĩa là được thánh hiến như Chúa Giêsu, trong cùng một Thần Linh là Đấng Chúa Giêsu đã trầm ngập cả đời sống trần gian của Người trong Ngài. Người là "Đức Kitô", Đấng Được Xức dầu, Đấng Được Thánh Hiến, chúng ta lãnh nhận phép rửa là "Kitô Hữu", nên đã được thánh hiến, đã được xức dầu. Vậy giờ đây, anh chị em phụ huynh thân mến, anh chị em đỡ đầu thân mến, nếu anh chị em muốn cho con cái của anh chị em trở thành những Kitô hữu đích thực, thì hãy giúp cho chúng càng "được chìm ngập" trong Thánh Linh, tức là trong tình yêu nồng ấm của Thiên Chúa, trong ánh sáng của Lời Ngài. Vì thế, đừng quên thường xuyên cầu khẩn Thánh Linh, cầu nguyện hằng ngày. "Này cô, cô có cầu nguyện không?" - "Có" - "Tôi cầu nguyện với Thiên Chúa" - Thế nhưng nơi cách thức ấy "Thiên Chúa" lại không hiện hữu: "Thiên Chúa là một ngôi vị và Chúa Cha, Chúa Con và Thánh Linh hiện hữu như là một ngôi vị". Chúng ta thường cầu nguyện cùng Chúa Giêsu. Khi chúng ta cầu "Kinh Lạy Cha" là chúng ta cầu cùng Chúa Cha. Thế nhưng chúng ta rất thường không cầu cùng Thánh Linh. Việc cầu nguyện cùng Thánh Linh rất quan trọng, để Ngài dạy chúng ta làm cho gia đình tiến triển, dạy cho những đức con đây, nhờ đó những con trẻ này có thể lớn lên trong bầu khí Ba Ngôi. Chính Thần Linh sẽ dẫn chúng tiến bước. Do đó đừng quên cầu khẩn cùng Thánh Linh, cầu nguyện hằng ngày. Chẳng hạn anh chị em có thể làm điều này bằng lời nguyện đơn sơ như sau: "Xin Thánh Linh hãy đến tràn đầy lòng tín hữu Chúa và hãy thắp lên ngọn lửa tình yêu của Chúa trong lòng họ". Anh chị em có thể đọc kinh nguyện này với con cái của anh chị em, và dĩ nhiên cho chính bản thân của anh chị em!
Khi đọc kinh nguyện này, anh chị em cảm thấy sự hiện diện từ mẫu của Trinh Nữ Maria. Mẹ dạy chúng ta cầu nguyện cùng Thánh Linh, và sống theo Thần Linh như Chúa Giêsu. Lạy Đức Mẹ là Mẹ của chúng con, xin luôn đồng hành với con cái của Mẹ và các gia đình của Mẹ.
43.Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa--ĐTC Phanxicô--Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh chuyển dịch
"Ôi xin Ngài hãy xé các tầng trời ra mà xuống!" (63:19). Tiếng kêu này đã được đáp ứng nơi biến cố Chúa Giêsu lãnh nhận Phép Rửa. Như thế là thời gian 'các tầng trời khép kín' đã qua"
Anh chị em thân mến, Chào anh chị em buổi sáng!
Hôm nay chúng ta cử hành lễ Chúa Chịu Phép Rửa, một lễ kết thúc mùa Giáng Sinh. Phúc Âm đã diễn tả những gì xẩy ra ở bờ sông Dược Đăng (Jordan). Trong giây phút Thánh Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho Chúa Giêsu thì các tầng trời đã được mở toang ra. Thánh Marcô viết: "Khi lên khỏi nước, Người đã thấy các tầng trời mở ra" (1:10). Sự kiện này gợi nhớ đến lời cầu khẩn thảm thiết của tiên tri Isaia: "Ôi xin Ngài hãy xé các tầng trời ra mà xuống!" (63:19). Tiếng kêu này đã được đáp ứng nơi biến cố Chúa Giêsu lãnh nhận Phép Rửa. Như thế là thời gian "các tầng trời khép kín" đã qua, thời gian tách biệt Thiên Chúa với loài người do hậu quả của tội lỗi. Tội lỗi là những gì tách chúng ta khỏi Thiên Chúa và làm gián đoạn mối liên hệ giữa đất và trời, khiến chúng ta bị khốn khổ và bại hoại trong đời sống. Các tầng trời đã mở ra cho thấy rằng Thiên Chúa đã ban cho chúng ta ân sủng của Ngài để trái đất được sinh hoa kết trái (xem Sal 85,13). Vậy trái đất đã trở nên nơi cư ngụ của Thiên Chúa giữa loài người, và mỗi người chúng ta có cơ hội gặp gỡ Con Thiên Chúa, cảm nghiệm được tất cả tình yêu và tình thương vô cùng. Chúng ta có thể tìm thấy điều này thực sự hiện diện ở nơi các Bí Tích, nhất là Bí Tích Thánh Thể. Chúng ta có thể nhận thấy điều ấy nơi dung nhan của anh chị em chúng ta, nhất là nơi người nghèo, nơi bệnh nhân, nơi người bị tù ngục, nơi các người tị nạn: họ là xác thịt sống động của Chúa Kitô khổ nạn và là ảnh tượng hữu hình của vị Thiên Chúa vô hình.
Nhờ Chúa Giêsu lãnh nhận Phép Rửa mà chẳng những các tầng trời được mở toang ra Thiên Chúa còn làm cho tiếng của Ngài được vang vọng một lần nữa: "Con là Con yêu dấu của Cha: Cha hài lòng về Con" (Marcô 1:11). Tiếng nói này của Chúa Cha công bố mầu nhiệm được kín ẩn nơi Con Người lãnh nhận Phép Rửa bởi vị Tiền Hô.
Bấy giờ, Thánh Linh, qua hình thể một con chim bồ câu đã giúp cho Đức Kitô, Đấng Được Xức Dầu của Chúa, bắt đầu sứ vụ của Người đó là việc cứu độ chúng ta. Vị Thánh Linh này: Đấng Trọng Đại này đã bị chúng ta lãng quên nguyện cầu. Chúng ta thường cầu nguyện cùng Chúa Giêsu; chúng ta cầu nguyện cùng Chúa Cha, nhất là bằng "Kinh Lạy Cha"; thế nhưng không thường cầu nguyện cùng Thánh Linh, đúng không? Ngài là Đấng bị lãng quên. Và chúng ta cần xin ơn trợ giúp của Ngài, sức mạnh của Ngài, thần hứng của Ngài. Thánh Linh là Đấng hoàn toàn làm sinh động cuộc đời và thừa tác vụ của Chúa Giêsu, thì cũng Vị Thần Linh này ngày nay đang dẫn dắt đời sống của Kitô hữu, đời sống của con người nam nữ ngỏ ý muốn trở thành Kitô hữu. Việc đặt đời sống Kitô hữu của chúng ta và sứ vụ của chúng ta dưới tác động của Thánh Linh, Đấng tất cả chúng ta đã lãnh nhận nhờ Phép Rửa của chúng ta, là việc nhắm đến chỗ có được lòng can đảm tông đồ để thắng vượt những gì là dễ dãi thoải mái trần tục. Trái lại, người Kitô hữu nào hay cộng đồng nào "bị điếc" trước tiếng của Thánh Linh, Đấng thôi thúc chúng ta mang Phúc Âm đến tận cùng trái đất và xã hội, sẽ trở thành một Kitô hữu hay một cộng đồng "bị câm" không nói năng hay truyền bá phúc âm hóa. Thế nhưng xin hãy nhớ điều này, đó là hãy thường xuyên cầu nguyện cùng Thánh Linh để Ngài có thể trợ giúp chúng ta, ban cho chúng ta sức mạnh, ban cho chúng ta hứng khởi và dẫn chúng ta tiến bước.
Xin Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa và Mẹ Giáo Hội, đồng hành với chúng ta là những người đã lãnh nhận phép rửa. Xin Mẹ giúp chúng ta lớn lên trong tình yêu đối với Thiên Chúa và trong niềm vui phục vụ Phúc Âm, cống hiến cho chúng ta một đời sống trọn vẹn ý nghĩa.
44.Người phải được nâng lên--Lm. Thu Băng, CRM
Công Chúa Louise con vua Louis thứ 14, nước Pháp đã lơ là với cuộc sống đạo và tôn kính Chúa, khi bị các nữ tỳ phục vụ trách móc, không cầm được sự kiên nhẫn, đã trả lời:
- Các người không biết rằng tôi là con gái của Đức Vua, vua của các người sao?
Đám nữ tỳ đáp lại:
- Nhưng chúng tôi không phải là con cái của Thiên Chúa, của Đức Vua và của Công Chúa sao?
Công Chúa hiểu ngay là mình đã không tôn kính Thiên Chúa cho xứng đáng và sau này Công Chúa đã thành một nữ tu Dòng Kín. Công Chúa hay nghĩ tới câu trả lời đanh thép đó.
Trong một bữa tiệc thịnh soạn của Hoàng Hậu Elizabeth nước Pháp với đầy đủ bộ mặt quan quyền văn võ, mọi người nâng ly rượu lên uống rất vui vẻ. Bỗng có tiếng gõ vào bàn làm mọi người im lặng. Tiếng Hoàng Tử vọng lên:
- Các người quên Chúa rồi sao, chẳng có ai làm dấu để tuyên tôn Danh Chúa cả?
Hôm nay, nhân đọc bài Tin Mừng theo thánh Mátcô, chúng ta cũng gặp một người can đảm và hy sinh cuộc đời cho lý tưởng tôn vinh Thiên Chúa giữa muôn người, đó là Gioan Tiền Hô. Ngài vì Chúa Cứu Thế mà thực hiện cuộc sống ăn chay, cầu nguyện, la lớn tiếng để báo tin Đấng Cứu Thế đến. Ngài chịu xỉ nhục, chỉ trích trước mặt các Thầy Thông Giáo. Chịu tù đầy vì dám tố cáo vua lấy chị dâu của mình. Dám chịu chém đầu đặt trên đĩa đưa cho nàng Hêrôđia. Tiếng loan báo của Gioan làm mọi người tỉnh thức, nhận biết Chúa Giêsu và bước theo Người.
Chúng ta cũng được mời gọi như thế bằng việc làm: Thực tâm sống đạo, bằng lời nói: Tông vinh danh Chúa, loan tin cho người khác. Bằng hành động: Cung kính tôn vinh Thánh Thể, sốt sắng tham dự Thánh Lễ, các giờ Phụng Vụ, và thi hành các điều Chúa truyền dạy.
Tại Việt Nam, cuộc sống đau khổ đã đưa họ đến cuộc sống đức tin, sống đạo và tuân hành các giới luật cách nghiêm chỉnh, để Chúa được tôn vinh. Tại Hoa Kỳ, chúng ta có làm tôn vinh Chúa không? Có giúp Chúa đi vào trong các tâm hồn không? Có giúp Chúa đến với gia đình bạn không?
Ông chủ giầu có kia, có được một người con trai ruột thịt. Cậu đi du học ở nơi xa với chúng bạn. Ông chủ thương cả bọn, nên tháng tháng ông cung cấp cho họ mọi sự khiến các người đều tôn nhận ông là cha. Không may gặp cơn bạo bệnh, ông chết tốt, người con trai cùng các bạn hữu đều trở về đưa xác ông và thương khóc ông như thương khóc cha ruột vậy. Mấy người bạn muốn cướp gia tài của ông nên cứ nhận mình là con ruột. Quan Tòa cũng không biết biết xử cách nào và ai là con thừa kế. Họ quyết định một phen thử sức, nếu ai cầm súng bắn đúng tim cha mình thì đó là con thừa kế. Các con hăng hái chấp thuận. Lần lượt các con thi nhau bắn vào tim cha. Đến người cuối cùng cầm súng nhắm vào tim cha rồi anh buông súng xuống. Ba bốn lần nhằm bắn để đoạt gia tài nhưng cuối cùng chàng khóc, ném súng đi và tuyên bố:Thà rằng tôi không được gia tài còn hơn tôi ác tâm bắn cha mình. Quan tòa thẳng thắn công bố:Phiên tòa chấm dứt tại đây, vì đã tìm ra người thừa kế gia tài. Đó là chính người không chịu giết cha.
Nếu là người con đích thực của Chúa, chúng ta có bắn Chúa không? Nhưng nhiều khi muốn đoạt gia tài trần gian, chúng ta lại bắn Chúa. Nếu nói rõ ra thì chúng ta không bắn, nhưng trong u tối chúng ta lại sẵn sàng bắn.
Việc người Tin Lành cắm bảng quảng cáo I love Jesus ta cho là một việc quảng cáo kỳ cục, nhưng là một việc đáng suy nghĩ.
Việc người choai choai viết vào áo, gắn trên mũ, khắc xâm vào người ri rêu rao Hãy dành cho Chúa Giêsu một chỗ trong lòng bạn. Có đáng là điều cho ta suy nghĩ không?
Cuộc sống của ta là người Công Giáo không làm ra bề ngoài ấy, nhưng ta làm trong lòng, trong gia đình, trong xóm đạo. Hãy giúp Chúa Giêsu đến với chính mình, sống trong mình. Hãy giúp Chúa Giêsu được tôn vinh nơi gia đình, nơi xóm đạo mình. Hãy chứng tỏ mình là chứng nhân của Chúa bằng việc làm, bằng việc sống đạo. Chúa phải được nâng lên còn tôi phải hy sinh cho Người.
Xin Chúa soi sáng để chúng ta không theo ý riêng mình, không theo thú tính xác thịt. Hãy bắt chước Chúa Giêsu: Được dẫn vào rừng vắng để ăn chay cầu nguyện.
45.Ngày trọng đại nhất--Lm. Minh Vận, CRM
Bờ sông Jordan hôm đó nhộn nhịp khác thường, người ta lũ lượt từ các thành thị làng mạc tuốn đến; trong số đó, có cả các luật sĩ, các văn nhân, các thầy thông giáo, các quân nhân và đủ mọi thành phần trong xã hội. Họ đến đây để làm gì? Họ đến để nghe Gioan, vị Tiền Hô Chúa Cứu Thế rao giảng Phép Rửa Sám Hối, với những lời quả quyết vững mạnh và uy quyền: "Hãy sám hối, vì Nước Thiên Chúa đã gần đến!" (Mt 3:2) Mọi người đều tỏ lòng tin tưởng, ngưỡng mộ và khâm phục, sẵn sàng nghe theo lời giáo huấn của ngài và thật lòng sám hối cải thiện đời sống, bằng cách lãnh nhận Phép Rửa ngài ban tại sông Jorđan.
I. GIOAN VÀ PHÉP RỬA SÁM HỐI TỘI LỖI
Chúa Kitô cũng hòa mình trong đám quần chúng đến nghe Gioan rao giảng và cũng xin ông làm Phép Rửa cho Người. Gioan đã nhận ra Người và bỡ ngỡ kêu lên: "Chính tôi xin Thầy làm Phép Rửa cho tôi mới phải, sao Thầy lại đến xin tôi?" (Mt 3:14). Gioan phải sửng sốt, hổ thẹn vì ông đã nhận ra Người là Đấng Thiên Sai nhân loại đợi trông, Đấng là Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể, hóa thân làm người, mặc lốt phàm nhân tội lỗi, Đấng Tự Hữu, quyền năng và cao cả vô cùng, đã khiêm tốn tự hạ như một tội nhân đến xin ông làm Phép Rửa! Còn ông, mặc dầu được người ta tin tưởng và khâm phục coi ông như một vị tiên tri, hơn nữa, nhiều người còn tưởng ông là chính Đức Kitô, nhưng ông đã thẳng thắn tuyên bố trước mọi người: "Tôi không phải Elia, cũng chẳng phải là Đức Kitô!" Ngài xác quyết khi tự hạ: "Tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc, như Isaia đã tiên báo: Hãy dọn đường cho Chúa, san phẳng các nẻo Ngài" (Mt 3:3). Ngài còn minh xác thêm với mọi người: "Phần tôi, tôi rửa cho anh chị em bằng nước, nhưng Đấng quyền năng hơn tôi đang đến, và tôi không xứng đáng cởi giây giầy cho Người. Đó mới là Đấng sẽ rửa cho anh chị em trong Thánh Thần và bằng lửa" (Mt 3:11).
II. NGHI LỄ PHONG VƯƠNG VUA KITÔ
Để khởi đầu Sứ Mạng Cứu Thế, truyền bá Tin Mừng Cứu Độ, Chúa Kitô đã khiêm tốn đến lãnh Phép Rửa Sám Hối bởi Gioan là vị tôi tớ và tiền hô của Người. Sau khi chịu Gioan làm Phép Rửa và bước lên khỏi nước, các tầng trời liền mở ra và có tiếng Chúa Cha tuyên dương Con Một Người: "Đây là Con Chí Ái của Cha! Con làm vui thỏa lòng Cha!" (Mt 3:17) Ngài còn phái Thánh Linh, dưới hình Chim Bồ Câu ngự xuống đậu trên Người, để xức dầu phong vương cho Người, như lời Thánh Phêrô Tông Đồ đã rao giảng: "Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong cho Người. Người qua mọi nơi, ban bố ơn lành và chữa những kẻ bị quỉ ám, bởi vì Thiên Chúa ở với Người!" (Act 10:38)
Ngay từ xa xưa, qua tiên tri Isaia, Chúa đã phán về Con của Ngài: "Tôi Tớ mà Ta nâng đỡ, là Người Ta tuyển chọn, Ta hài lòng về Người. Ta ban thần trí Ta trên Người... Để Người nên Ánh Sáng của chư dân, mở mắt cho người mù, đưa ra khỏi tù những người bị xiềng xích, đưa ra khỏi ngục những người ngồi trong bóng tối!" (xem Is 42:1-4,6-7) Lời đó hôm nay đã hoàn toàn được ứng nghiệm.
III. NGHĨA VỤ CỦA CON CÁI THIÊN CHÚA
Theo giáo lý của Giáo Hội, Chúa dùng Phép Rửa Sám Hối Người đã lãnh nhận nơi sông Jordan, như hình bóng Nhiệm Tích Thánh Tẩy Chúa sẽ thiết lập, để tẩy rửa và giải phóng chúng ta khỏi ách nô lệ tội lỗi và quyền lực hỏa ngục, phục hồi cho chúng ta quyền làm con cái Thiên Chúa.
Qua Nhiệm Tích Thánh Tẩy, chúng ta được diễm phúc trở nên con cái Chúa, được thừa hưởng gia nghiệp Hạnh Phúc Vĩnh Cửu Nước Trời. Chúng ta cũng được Chúa Thánh Thần xức dầu, cho tham dự quyền Vương Đế của Chúa Kitô, gia nhập Hàng Tư Tế và Dân Thánh của Chúa. Đồng thời, cũng được Chúa ủy thác nghĩa vụ mở rộng Vương Quốc của Chúa, tiếp tục Sứ Mạng Cứu Thế của Chúa Kitô: "Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm Phép Rửa cho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con" (Mt 28:19).
Chúa Kitô đã chịu Phép Rửa và được Chúa Cha sai đi rao giảng Tin Mừng Cứu Độ. Nhờ Phép Rửa đã lãnh nhận, Chúa cũng sai chúng ta ra đi, để chinh phục cho Chúa các linh hồn, phụng sự Chúa và phục vụ đồng loại.
Cha Petro Arrupê, là một nhân vật quan trọng thuộc Dòng Tên, ảnh hưởng lớn lao của ngài khắp nơi đã khiến nhiều người phải ngạc nhiên thán phục. Từ thời niên thiếu, giấc mơ của ngài là sẽ trở thành một bác sĩ, nhưng những năm theo học tại đại học, ngài đã có cơ hội được tiếp xúc với giới nghèo nàn cùng khổ, ngài động lòng thương họ và từ đó ngài đã chuyển hướng cuộc đời như ngài viết: "Cảnh khốn cùng đã vén tấm màn ngu dốt nơi mắt tôi. Từ đó, tôi xác tín rằng: Ngoài tôi ra, trong thế giới còn biết bao công việc phải làm". Thế là, năm 20 tuổi ngài xin vào tập viện Dòng Tên (1927). Sau 18 năm, ngài làm Giám Đốc tập viện tại một tỉnh nhỏ gần thành phố Hirosina Nhật Bản. Quả bom nguyên tử ném xuống, ngài đã đưa tất cả mọi người bị nạn về tập viện, tập viện của ngài lúc đó đã trở thành một bệnh viện cấp cứu cho dân chúng. Cũng như Cha Petro Arrupê, các Thánh và những linh hồn thành tâm theo sát gương Chúa Kitô, các ngài đã ý thức sứ mạng cộng tác với Chúa trong Sứ Mạng Cứu Thế, nên các ngài quảng đại xả thân phục vụ các linh hồn, sẵn sàng liều cả mạng sống vì phần rỗi các linh hồn, xứng đáng với ơn Nhiệm Tích Thánh Tẩy các ngài đã lãnh nhận.
Ngày lãnh Nhiệm Tích Thánh Tẩy phải là ngày trọng đại nhất trong cuộc đời. Ngày Chúa trào đổ muôn hồng ân xuống trong tâm hồn, ban sức mạnh thiêng liêng cho chúng ta để rao giảng Mầu Nhiệm Nước Trời, mang Ơn Cứu Độ đến cho các linh hồn. Ngày đó phải được mừng long trọng như một kỷ niệm đáng ghi nhớ muôn đời.
Đức Thánh Cha Piô XI đã nếm hưởng những giây phút hạnh phúc của ngày thụ phong Linh Mục, ngài cũng đã trải qua những giờ phút rực rỡ của ngày tấn phong Giám Mục, đã hưởng cảnh uy nghi của ngày đăng quang Giáo Hoàng; nhưng ngài vẫn quí trọng và mừng kỷ niệm ngày ngài lãnh Nhiệm Tích Thánh Tẩy hơn hết. Ngày mồng 1.6.1930, dịp lễ giáp năm lãnh Nhiệm Tích Thánh Tẩy, ngài sung sướng nói với giới trẻ tại Rôma: "Ngày lãnh Nhiệm Tích Thánh Tẩy là ngày cao quí nhất đời Cha; cũng thế, ngày chúng con lãnh Nhiệm Tích Thánh Tẩy cũng phải là ngày cao quí nhất đời chúng con".
KẾT LUẬN
Hôm nay, chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta và cho mọi người được hiểu biết giá trị đích thực và cao quí của đặc ân Nhiệm Tích Thánh Tẩy chúng ta đã lãnh nhận; đồng thời, chúng ta cũng cầu xin cho chúng ta được ơn can đảm và quảng đại chu toàn sứ mạng Chúa ủy thác, làm tông đồ rao giảng Chúa cho mọi người, chinh phục họ về cho Chúa bằng chính cuộc sống chứng nhân thánh thiện của chúng ta.
Xin Mẹ Maria giúp chúng ta sống ơn gọi làm con cái Chúa, để Chúa cũng được sung sướng phán với chúng ta: "Đây là các con Cha yêu dấu, các con hằng làm vui lòng Cha!".
46.Nhận biết mình--Br. Thiện Mỹ, CRM
Nhận biết mình là người can đảm dễ thương đối với Thiên Chúa. Nhờ nhận biết mình chúng ta mới biết sự cao trọng của Đấng tạo dựng nên ta, đồng thời chúng ta sẽ vun trồng cho thân phận yếu hèn của mình.
Quả thực sự hiện hữu của ta thật nhỏ bé. Trước khi chào đời, chẳng ai bận tâm tới tôi. Sau khi tôi trở về bụi đất, thế giới vẫn nguyên hình tốt đẹp. Các nhà khoa học phân tích thân thể con người trong phòng thí nghiệm đã cho kết quả rằng thân xác ta chỉ là một số hợp chất hữu cơ và vô cơ. Chất sắt trong tôi chỉ làm được ba chiếc đinh năm phân. Chất vôi đủ để quét một bức tường của căn phòng nhỏ. Chất Potasse làm được một cục xà bông. Chất lưu huỳnh làm được một hộp quẹt.
Còn linh hồn tôi khi mới được dựng nên đã phải chịu án phạt bởi tội nguyên tổ cùng chịu gánh nặng đam mê đầy phức tạp. Dù tôi có cố gắng tránh né nhiều cạm bẫy của sa tan nhưng tôi vẫn luôn vương vấn tội lỗi.
Câu chuyện về người nước Áo có một truyền thống lạ lùng khi an táng các vị Hoàng Đế và Hoàng Hậu thuộc hoàng tộc Anturs. Các vị Vua Chúa của hoàng tộc này được an táng trong nhà thờ hầm do các cha dòng Capucine coi sóc, tại thủ đô Vienne.
Năm 1916 khi Hoàng Đế Francois Joseph của nước Áo qua đời, sau lễ cầu hồn tại nhà thờ chánh tòa Thánh Stêphanô ở Vienne, linh cửu của ông được chở đến hầm mộ nhà thờ trên một chiếc xe tang do tám con ngựa đen tuyền kéo. Đến nơi cửa hầm mộ vẫn còn đóng kín. Người đánh xe ngựa bước xuống và gõ cửa. Từ bên trong có tiếng của một cha dòng hỏi vọng ra: "Ai đó?". Người đánh xe ngựa trả lời:
- Đại Hoàng Đế Francois Joseph đang chờ ở ngoài đây, xin mở cửa mau!
- Tôi không biết người đó là ai. Tiếng nói bên trong đáp lại.
Một lát, người đánh xe lại gõ cửa và tiếng nói quen thuộc ở bên trong lại vọng ra hỏi: "Ai đó?". Người đánh xe trả lời:
- Đại Hoàng Đế nước Áo, Quốc Vương tông truyền của nước Hungari đang chờ ở ngoài. Xin mở cửa mau!
- Tôi không biết ông ta là ai.
Lần thứ III cũng màn gõ cửa và cũng câu hỏi đấy: "Ai đó?". Nhưng lần này người đánh xe dịu giọng lại, đáp:
- Đó là một người tội lỗi, một người anh em chúng ta là Francois Joseph.
Bấy giờ cửa hầm mộ mới được mở ra và linh cửu của Hoàng Đế nước Áo mới được đưa vào bên trong để an nghỉ bên cạnh các tiên vương.
Nhờ nhận biết mình mà cửa hầm mộ được mở ra, đó là vế thứ hai của câu chuyện. Còn trong lịch sử loài người, nguyên tổ dường như đi vào vế thứ nhất của sự việc: Do lòng ham muốn trái lẽ ước ao trở thành thần thánh nên nghe theo ma quỉ để rồi khởi sự dẫn loài người xuống dốc, mất ơn nghĩa Chúa và kèm theo hình phạt.
Nhưng hôm nay sự đối lập thánh thiện của Chúa Giêsu với công việc yếu đuối của nguyên tổ là: Chúa Giêsu tuy dù cao trọng vô cùng nhưng đã trở nên thân phận loài người, đến xin Thánh Gioan làm phép rửa. Sự khiêm nhượng thẳm sâu đã làm cho Đức Chúa Cha vui sướng. Lúc Người vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời mở ra và thấy Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống trên Người. Lại có tiếng từ trời phán:"Con là Con yêu dấu của Cha, ngày hôm nay Cha sinh thành ra Con".
Chúa Giêsu bắt đầu cuộc khởi nguyên mới, cao quí gấp bội so với cuộc khởi nguyên đầu tiên khi Thiên Chúa dựng lên trời đất muôn vật và loài người. Chúa tiếp tục sinh ra con người trong ơn nghĩa Chúa. Người tín hữu cũng được Chúa Thánh Thần xức dầu và biểu dương qua bí tích rửa tội và thêm sức để như Người chúng ta được trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa.
Cũng với sự nhận biết mình chúng ta luôn được tái sinh cách đẹp đẽ trong bí tích hòa giải. Nhờ công nghiệp Chúa Kitô tử giá, Ngài sẽ xóa sạch mọi tội lỗi và nâng đỡ những ai biết thống hối ăn năn cậy trông vào lòng thương xót của Người.
Ước gì trong cả cuộc đời và đặc biệt trong mùa Giáng Sinh này, chúng ta luôn nhận biết mình và tẩy rửa linh hồn trong Đức Kitô để xứng đáng trở nên con cái đích thực của Mẹ Maria ở đời này cũng như đời sau.
47.Suy niệm của Lm Augustine
Đức Giêsu chịu phép rửa
Gioan Tẩy Giả đã gây được một phong trào sám hối trong xứ Pa-lét-tin. Đời sống nhiệm nhặt và lời giảng quyết liệt của ông có sức lôi cuốn người ta đến với sông Giođan để được ông làm phép rửa. Phép rửa của Gioan nhằm giúp con người bày tỏ lòng hoán cải, để chuẩn bị đón Đấng Mêsia sắp đến trong cơn thịnh nộ kinh khủng (x. Mt3,7-12).
Lạ thay trong số những người đến "xưng thú tội lỗi" (Mc 1,5) và chịu "phép rửa sám hối để được ơn tha tội" (Mc 1,4), lại có Đức Giêsu. Bấy giờ Ngài hơn ba mươi tuổi, vẫn sinh sống tại Nagiarét. Làm sao Đấng thánh thiện, Đấng quyền thế mà Gioan không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Ngài, lại có thể đứng chung với đám đông người tội lỗi, chờ đến phiên mình được chịu thanh tẩy? Đây là một câu hỏi không dễ trả lời, và làm cho nhiều người phải lúng túng. Chỉ có hai sách Tin Mừng kể lại việc Gioan làm phép rửa cho Đức Giêsu (Mc 1,9-11; Mt 3,13-17). Còn Tin Mừng Luca và Gioan thì tránh không nói đến. Làm sao Đấng vô tội lại trở thành môn đệ của Gioan Tẩy Giả để được ơn… tha thứ? Chính Tin Mừng Matthêu cũng cố gắng trả lời câu hỏi này: "Bây giờ cứ thế đã. Chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính" (Mt 3,15), nghĩa là để làm trọn ý Thiên Chúa.
Như thế việc Đức Giêsu được Gioan ban phép rửa thật là một xì-căng-đan ngay trong Hội Thánh sơ khai. Đức Giêsu có tội không mà cần chịu phép rửa sám hối? Các môn đệ của Gioan về sau cũng dựa vào sự kiện này để khăng khăng cho rằng Thầy mình hơn hẳn Đức Giêsu.
Khi suy niệm về mầu nhiệm Đức Giêsu chịu phép rửa của Gioan, các Giáo Phụ đã đưa ra một số lý do để soi sáng. Dù vô tội và cao trọng hơn Gioan, nhưng Đức Giêsu đã lãnh nhận phép rửa trong nước vì:
- Ngài muốn kêu gọi những kẻ khác noi theo gương Ngài mà đến chịu phép rửa do Ngài thiết lập sau này.
- Ngài muốn làm một hành vi khiêm tốn cho ta noi theo.
- Ngài muốn công nhận giá trị phép rửa của Gioan.
- Ngài muốn lần đầu tiên ra mắt trước công chúng, để chuẩn bị cho họ nghe Ngài và theo Ngài.
- Ngài muốn thánh hoá dòng nước sông Giođan và mọi dòng nước khác, để nhờ sự hiện diện và tác động của Ngài mà mọi dòng nước có thể trở nên nguồn cứu độ.
Liên đới với tội nhân
Tin Mừng Mc 1,9-11 không chú trọng việc Đức Giêsu chịu phép rửa của Gioan, cũng không giải thích tại sao Ngài làm như vậy. Đức Giêsu đã bắt đầu cuộc đời công khai của mình một cách khiêm hạ lạ lùng. Ngài đã bỏ Nagiarét để đến Bêtania, bên kia sông Giođan, chỗ gần Biển Chết. Đấng mà Gioan nghĩ là một vị thẩm phán nghiêm khắc, Đấng ấy lại xếp hàng chung với những tội nhân chờ chịu thanh tẩy. Ai có thể nhận ra Ngài, vì Ngài quá đỗi bình thường? Đấng Cứu Độ lại cư xử như người đang cần được cứu độ.
Nhìn Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, đứng với tội nhân, chúng ta hiểu được thế nào là liên đới với người khác. Để liên đới với tội nhân, với dân tộc mình, với cả nhân loại đang cần ơn cứu độ, Con Thiên Chúa không ngại che khuất cái cao sang, siêu việt và cả sự thánh thiện ngàn trùng của mình nữa. Nhờ mang thái độ tự hạ, tự huỷ này, mà Đấng Thánh của Thiên Chúa có thể đứng chung với người tội lỗi, dìm mình xuống cùng một dòng nước như họ. Thiên Chúa chúng ta là một Thiên Chúa khiêm hạ, vì Ngài muốn đi xuống tận đáy vực thẳm nơi chúng ta đang sống, để nâng chúng ta lên. Chỉ tình yêu mới làm chúng ta hiểu được hành động của Ngài. Nhập thể chính là để liên đới với từng người chúng ta trong mọi cảnh ngộ của cuộc sống.
Liên đới bên dòng sông Giođan chỉ là khúc dạo đầu cho cả một cuộc đời liên đới của Đức Giêsu. Ngài bị mang tiếng là "tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi" (Lc 7,34). Liên đới với những người sống ngoài lề xã hội và tôn giáo chính là để đưa họ trở về với thế giới của con người và thế giới của Thiên Chúa. "Tôi đến để kêu gọi người tội lỗi" (Mt 9,13): Đó là hướng đi của đời Đức Giêsu. Tuy vô tội, nhưng vì mang tinh thần liên đới, Đức Giêsu cũng có thể cảm được thế nào là tâm tình ray rứt hay hối hận của một kẻ phạm tội. Thánh Phaolô đã viết một câu kinh khủng cho thấy Đức Giêsu đã thực sự đồng hoá với thân phận tội nhân đến mức nào: "Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã làm cho Ngài thành tội vì chúng ta" (2C 5,21). Đức Giêsu đã chết như một người phạm trọng tội, bị đóng đinh giữa hai tử tội. Ngài đã đem đến niềm hy vọng cho người trộm lành: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng" (Lc 23,43). Khi gắn bó với những người không còn được yêu mến và kính trọng, Đức Giêsu đã đem đến cho họ một thế giới nồng nàn tình yêu; trong thế giới này không có hàng rào ngăn cách người tội lỗi với người đạo đức, mà chỉ có những người tội lỗi được Thiên Chúa yêu thương và cứu độ.
Sự thánh thiện không đội trời chung với tội lỗi, nhưng sự thánh thiện đích thực lại cúi xuống trên tội nhân, và biến đổi họ. Chúng ta thường sợ mình bị vấy bẩn vì tiếp xúc với người tội lỗi. Thật ra chúng ta chỉ nên sợ là mình chưa thánh thiện thực sự. Ánh sáng chẳng sợ bóng tối làm mình tối. Nó len lách vào mọi ngõ tối của cuộc đời, và chính lúc người ta tưởng chiếc áo của nó bị vấy bẩn, thì nó lại xuất hiện với tất cả vẻ rực rỡ hơn xưa.
Trong gia đình, trường học, xí nghiệp, giáo xứ… chỗ nào cũng có những người bị xa lánh vì đã từng vấp váp trong đời. Tôi có dám đi chung với họ không, dù có tiếng xì xào của dư luận? Tôi có dám bênh vực một người cô thế không, dù rằng tôi có thể mất đi sự ủng hộ của nhiều người khác?
Đầy Thần Khí để được sai đi
Sau lúc Đức Giêsu tự hạ, dìm mình trong dòng nước, thì Ngài nhận được một thị kiến hết sức quan trọng. Thị kiến này được mô tả bằng lối nói của văn chương Khải huyền. Có ba yếu tố cần lưu ý: các tầng trời xé ra, Thần khí ngự xuống, và tiếng phán từ trời. Các tầng trời xé ra là dấu hiệu cho thấy Thiên Chúa muốn tiếp xúc với con người và thông truyền cho con người một mạc khải. Như Edêkien khoảng 6 thế kỷ trước đây (Ed 1,1); Đức Giêsu cũng thấy trời mở ra và qua đó Thần Khí ngự xuống trên mình như chim bồ câu.
Đức Giêsu được đầy Thần Khí, đó là một cảm nghiệm khôn tả của Ngài. Thần Khí chính là sự hiện diện của Thiên Chúa xâm nhập vào người được tuyển chọn, ban cho người ấy dồi dào mọi ơn cần thiết để có thể vuông tròn một sứ mạng quan trọng đặc biệt. Vị ngôn sứ được nhắc đến trong I-sai-a (61,1-3) là người có Thần Khí của Đức Chúa. Chính Đức Giêsu đã áp dụng đoạn sách này cho mình trong khi giảng ở hội đường Nagiarét (Lc 4,18-19). Được ban Thần Khí nghĩa là được sai đi. Khi Đức Giêsu cảm nghiệm được Thần Khí nơi mình, thì Ngài biết đã đến lúc Ngài được sai đi để loan báo Tin Mừng và làm những dấu chỉ cứu độ.
Tiếng nói từ trời không phải là những lời nguyên văn của Thiên Chúa được ghi lại, nhưng nó phản ảnh niềm tin của Hội Thánh vào căn tính của Đức Giêsu. "Con là con yêu dấu của Cha." Trong thánh vịnh 2,7, vị vua Mêsia cũng được Đức Chúa gọi là con vào đúng ngày phong vương: "Con là con của Ta, hôm nay Ta đã sinh ra con." Sau khi chịu phép rửa, Đức Giêsu cũng được Cha long trọng tấn phong làm Mêsia, Đấng mà Cha yêu quý và tuyển chọn.
Khi đọc những yếu tố mô tả có tính khải huyền trên đây, chúng ta không nên hiểu theo nghĩa đen như thể là bầu trời mở ra thật, hay Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống. Điều quan trọng là những ý nghĩa của mô tả đó. Sau khi chịu phép rửa bởi Gioan, Đức Giêsu xác tín đã đến lúc mình lên đường thi hành sứ vụ. Ngài đã nhận được sức mạnh từ Cha và được sai đi vào thế giới, kết thúc hơn ba mươi năm âm thầm ở Nagiarét. Cả đời Đức Giêsu sau này vẫn hướng về một phép rửa khác, đó là cuộc khổ nạn Ngài phải chịu ở Giêrusalem: "Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất" (Lc 12,50). Từ phép rửa đến thập giá phát sinh ra nguồn sống cho mọi phép rửa của các Kitô hữu. Phép rửa nào cũng đòi dìm mình xuống, chết cho mình qua phục vụ.
Nhờ phép rửa, tôi được trở nên con cái yêu dấu của Thiên Chúa và được tràn đầy Thánh Thần. Nhưng thực sự, việc dìm mình trong Ba Ngôi đã biến đổi tôi như thế nào? Đời sống của tôi có phải là một cuộc lên lại từ sông Giođan không? Ước gì tôi nhớ mãi mình đã được xức dầu, được mang nến sáng, được mặc áo trắng, được dìm mình trong nước để rồi được sai đi làm chứng cho mọi người.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Để sống liên đới với những người bị bỏ rơi, bị khinh miệt, bị kỳ thị, theo ý bạn, có phải trả giá không? Có khi nào bạn sống liên đới với một người bạn đang cô đơn tron cảnh khó khăn không?
2. Vì được rửa tội từ nhỏ, nên chúng ta ít thấy sự biến đổi lớn lao do bí tích này mang lại. Bạn có quen ai thực sự đổi đời sau khi được rửa tội không?
48.Suy niệm của Lm Trọng Hương
A. Hạt giống...
Theo cách trình bày của Thánh Matthêu, việc Chúa Giêsu chịu phép rửa là dịp Thiên Chúa giới thiệu cho người ta biết Ngài chính là Đấng Messia, tuy nhiên không phải là một Đấng Messia như người ta tưởng, mà là Đấng Messia Tôi Tớ:
- Đối với Gioan tẩy giả, ông vẫn tưởng Đấng Messia phải là một quan tòa. Ngài đến để trừng phạt kẻ ác và thưởng kẻ lành (x. đoạn Tin Mừng liền phía trước: Mt 3,12). Vì thế khi Chúa Giêsu khiêm tốn xin ông làm phép rửa cho mình như cho những tội nhân khác thì ban đầu ông từ chối. Sau đó Chúa Giêsu cho ông biết là ông và Ngài cần phải làm theo ý Thiên Chúa (“Chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính”) thì ông mới làm.
- Đối với dân chúng có mặt hôm ấy, họ đã nghe tiếng Thiên Chúa từ trời giới thiệu Chúa Giêsu bằng những lời mà Cựu Ước đã dùng khi nói về Người Tôi Tớ của Thiên Chúa: “Đây là con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người”
B.... nẩy mầm.
1. Cả Gioan tẩy giả và dân chúng do thái đều không hiểu nổi Đấng Messia lại là một Người Tôi tớ khiêm tốn hiến thân phục vụ nhân loại cho đến chết. Hai ngàn năm đã trôi qua, vậy mà ngày nay chúng ta cũng vẫn thế. Chúng ta giới thiệu Chúa Giêsu cho người ta như một Đấng quyền phép hay một quan tòa xét xử. Chúng ta bỏ sót một phương diện rất quan trọng của Ngài: Ngài trước hết là một Người Tôi Tớ hiến thân phục vụ. Đạo của Chúa Giêsu là một đạo hiến thân phục vụ, người môn đệ của Chúa Giêsu cũng phải là người hiến thân phục vụ.
2. Cả hai vai chính trong chuyện này đều khiêm tốn: Gioan khiêm tốn tự hạ mình để đề cao Chúa Giêsu; Chúa Giêsu khiêm tốn xin Gioan làm phép rửa cho mình. Người khiêm tốn là người chỉ nghĩ đến việc chu toàn nhiệm vụ chứ không quan tâm đến vinh dự cá nhân.
3. Một chiếc xe tải không thể qua cầu được vì nóc xe cao quá nên chạm vào mái che của chiếc cầu. Chẳng ai nghĩ ra được cách nào cả. Khi đó một cậu bé đưa ý kiến: hãy xì bớt hơi các bánh xe của nó. Người ta đã làm theo, và xe đã qua được cầu. (Quote).
4. Truyện thần thoại hy lạp có kể về hai cha con Idam, Ika và những cánh tay của họ. Idam là một kiến trúc sư kiêm điêu khắc. Ông đã xây (bát quái trận đồ để nhốt con quái vật đầu người mình thú. Về sau, chính vua Minos đã bắt giam hai cha con Idam và Ika vào đó. Nhưng họ đã chế được những chiếc cánh làm bằng lông và sáp giúp họ bay ra khỏi bát quái trận đồ. Thích thú với cuộc du hành vũ trụ bất ngờ, Ika cứ muốn bay mãi lên cao, mặc cho người cha ngăn cản. Ika càng lúc càng bay đến mặt trời cho nến sáp bắt đầu chảy. Cuối cùng, khi sáp không còn nữa, đôi cánh mềm lại, những chiếc lông rời ra, Ika rớt xuống biển sâu và thiệt mạng.
Huyền thoại trên đây thường được xử dụng để nói đến sự kiêu hãnh dẫn đến thảm trạng cho con người (Chờ đợi Chúa).
49.Con đường của Đức Giêsu--Lm Nguyễn Hữu Thy
Cách đây đã khá lâu, xuất hiện ở Pháp một cuốn sách: «Các thánh đi xuống hỏa ngục». Cuốn sách diễn tả các hoạt động của những Linh Mục thợ thuyền đã rời bỏ Giáo Hội để sống liên đới hoàn toàn với giới thợ thuyền, nghĩa là họ đã đi con đường mà Giáo Hội công khai phê bình và phủ nhận.
Con đường của những vị Linh Mục thợ thuyền này đi sâu vào tất cả các lãnh vực của cuộc sống con người, những kẻ được ghi dấu bởi sự đói nghèo, bởi sự khốn cùng và cả những đen tối khác.
Kinh nghiệm sống của những Linh Mục thợ thuyền cuối cùng đã bị Giáo quyền Pháp phủ nhận. Chắc chắn là đã có nhiều vị trong số các Linh Mục thợ thuyền đó đã lệch lạc trên con đường đi tới với người nghèo, nhưng đàng khác, người ta cũng phải công nhận là cộng đồng thợ thuyền người Pháp luôn biết ơn ghi nhớ con đường dẫn vào «hỏa ngục» của đời họ mà các Linh Mục thợ thuyền đã đi. Chính tôi đã hơn một lần nghe người ta phàn nàn: «Trước kia Giáo Hội đã đến với chúng tôi. Ngày nay chúng tôi đã bị xa tránh!»
Và trong bài Tin Mừng hôm nay chúng ta đã nghe Ðức Giêsu đã đi trên con đường nào! Người đã không hề xa tránh những người nghèo khổ và những người tội lỗi.
Phép Rửa của Ðức Giêsu ở sông Gio-đan đã cho chúng ta thấy rằng Con Thiên Chúa cao cả đã hoàn toàn dấn thân sống hòa mình và chìm đắm mình vào kiếp sống gian khổ hèn yếu của phàm nhân. Vâng, qua cuộc sống cụ thể của Người với từng lớp người thấp kém và hèn hạ nhất trong xã hội, Ðức Giêsu đã hiện thực đúng nghĩa của chữ «chìm đắm.» Nhưng khi chúng ta nghe nói đến chữ «chìm đắm», tự nhiên chúng ta sẽ có ngay một cảm giác tiêu cực nào đó. Vì ai để mình «chìm đắm», thì phải hiểu là người đó đã nhập bọn với những người chẳng những là thiếu đứng đắn, mà nhiều khi còn là những kẻ tội phạm, những kẻ tội lỗi và rồi cùng họ làm những điều phạm pháp.
Phúc Âm đã tường thuật là Ðức Giêsu đã vào nhà của những kẻ tội lỗi và cùng đồng bàn với họ (x. Lc 19,7). Thực vậy, Ðức Giêsu đã không ngại ngùng đi vào tận đáy tất cả những chiều sâu của cuộc sống con người. Người đã đi xa đến nỗi Người đã không còn phân biệt mình với những kẻ tội lỗi nữa. Quả thực Ðức Giêsu đã nhập bọn với những kẻ tội lỗi, với những tội phạm và với những kẻ bị khinh bỉ, nhưng không phải để cùng họ làm điều xằng bậy phạm pháp, nhưng để yêu thương, che chở và cứu vớt họ Và cái chết của Người trên thập giá như một tên tội phạm là điểm chấm tận của con đường Người đã đi đó!
Tuy nhiên, trên con đường của Người trong một thế giới vô đạo và bất luân, Ðức Giêsu đã không hề lẻ loi một mình. Từ khởi đầu, Ðức Chúa Cha luôn ở bên Người và đã cho Người hay là Người đang bước đi trên chính lộ, trên con đường tương ứng với thánh ý Thiên Chúa, mặc dù nhiều người khác lại phê bình, chỉ trích và kết án. «Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con». Nói cách khác: Cha rất hài lòng, là Con đã chọn đi con đường hoàn toàn liên đới với những kẻ đã hư mất, với những người đau khổ và bị coi khinh. Con hãy cứ tiếp tục bước đi trên con đường đó, cả khi nó sẽ bị chấm tận trong một thảm họa chóng qua. Con đừng sợ: Cha luôn ở bên Con với tất cả tình yêu thương của Cha!
Cả những lời Ðức Giêsu thốt lên trong khi hấp hối trên thánh giá: «Lạy Chúa, lạy Chúa, sao Chúa bỏ rơi con?», cũng không thể làm cho chúng ta hiểu sai về Cha trên Trời. Những lời đó là câu mở đầu của Thánh Vịnh Ai Ca (Tv 22), mà một trong những câu cuối Thánh Vịnh đã ca ngợi lòng nhân hậu của Thiên Chúa đối với những người công chính biết kính sợ Người: «Bởi vì Thiên Chúa chẳng coi thường, chẳng khinh miệt kẻ nghèo hèn khốn khổ, cũng không đành ngoảnh mặt làm ngơ, nhưng đã thương nghe lời cầu cứu» (Tv 22,25). Người ta có thể quả quyết được rằng Ðức Giêsu cũng đã nói lên cho mình những lời đó khi người còn thoi thóp trên Thánh giá.
Hình ảnh con chim câu đậu xuống trên Người sau khi chịu phép rửa cũng đã chứng minh rằng con đường Ðức Giêsu chọn đi về phía những người tội lỗi đã không hề bị Thần Khí bỏ rơi. Trái lại, Chúa Thánh Thần đã cho Người sức mạnh để có thể chữa lành tất cả những kẻ đang «bị giam cầm trong quyền lực của ma quỉ» (Cv 10,38).
Nếu Phép Rửa của Chúa là tượng trưng cho sự dấn thân của Người vào cuộc sống nhân loại chúng ta và ám chỉ đến cái chết và sự sống lại của Người, thì chúng ta cần phải xét lại con đường sống của chúng ta: Chúng ta đang đi trên con đường nào? Chúng ta có can đảm đi tới những người sống ngoài lề xã hội? Chúng ta cư xử thế nào với những người đã không thành công trong cuộc sống, với những kẻ phạm pháp tù đày, với những người nghiện ngập tứ độ tường, với những người lang thang đầu đường xó chợ? Chúng ta đối xử thế nào với những người ngã sa và sống trong vòng tội lỗi?
Vâng, chúng ta là những người đã được rửa tội nhân danh Thiên Chúa. Liệu chúng ta có thể sống hòa mình, sống chìm đắm theo kiểu cách của Ðức Giêsu không? Liệu chúng ta có can đảm tiếp cận với xã hội xấu để có thể mang lại cho nó một bộ mặt mới mẻ không? «Các thánh đi xuống hỏa ngục» muốn ám chỉ các Linh Mục thợ thuyền ở Pháp, những người muốn bắt chước Ðức Giêsu dấn thân sống cho những kẻ bị thua thiệt mất mát trong cuộc sống. Có phải chúng ta muốn có được Thiên đàng trên trái đất, còn thế gian chúng ta lại giao mặc cho ma quỉ?
Ước gì Thánh Lễ hôm nay có thể dẫn đưa chúng ta vào con đường của Ðức Giêsu, tức con đường dẫn tới mọi anh em đồng loại của chúng ta, cách riêng những người nghèo đói, những người đau khổ và những người bị khinh khi miệt thị.
Ðức Giêsu, Người Anh Cả của chúng ta, đã dấn thân trọn vẹn cho loài người tội lỗi đến nỗi phải hy sinh mạng sống mình. Tình yêu của Người thật quá bao la! Nhưng Người đã phục sinh để sống trong một cuộc sống đầy sung mãn.
Con đường Ðức Giêsu đi thật khó khăn, nhưng cuối đường là sự sống thật, là hạnh phúc viên mãn! Chúng ta cũng sẽ đi theo con đường đó?
50.Lễ Đức Giêsu chịu phép rửa--JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Câu nói của Gio-an Tẩy giả trong bài Tin Mừng cho thấy ông là người thế nào? Có thể rút ra bài học gì cho những người loan báo hay rao giảng Đức Giêsu? Nếu không sống tinh thần tự hủy, thì việc loan báo hay rao giảng cuối cùng nhằm ích lợi cho ai?
2. Muốn con người thánh ở trong ta lớn lên và làm chủ, thì con người phàm phải làm gì? Hai con người ấy có thể cùng lớn lên không?
Suy tư gợi ý:
1. Tinh thần tự hủy của người rao giảng Đức Giêsu
Trong bài Tin Mừng, ta thấy có hai nhân vật chính: Gio-an Tẩy giả và Đức Giêsu. Trong hai người, Gio-an Tẩy giả là người phàm, đến trước để loan báo; còn Đức Giêsu là Thiên Chúa, là con người thần linh, đến sau để giải phóng nhân loại. Như thế ta thấy: người phàm đến trước loan báo cho con người thần linh đến sau.
Để chu toàn nhiệm vụ loan báo, Gio-an Tẩy giả phải thực hiện tinh thần tự hủy hoàn toàn, nghĩa là hoàn toàn xóa mình đi, coi mình không là gì cả, có như thế vai trò của người mình loan báo mới được nổi bật lên: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người”; “Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Ga 3,30).
Người loan báo hay rao giảng được kêu gọi và lên tiếng không phải vì mình, nhưng vì Đấng mà mình loan báo hay rao giảng. Vì thế, muốn loan báo hay rao giảng thật sự đúng nghĩa, chúng ta cần phải sống tinh thần tự hủy, tự xóa mình khi thực hiện công việc này. Tuy nhiên, trong thực tế, chúng ta dễ bị cám dỗ coi việc loan báo hay rao giảng Tin Mừng như một phương tiện để làm cho mình nổi bật lên, được mọi người ca tụng là mình đạo đức, viết hay, giảng hay. Tới một lúc nào đó, chúng ta bắt đầu có khuynh hướng vì mình nhiều hơn vì Chúa. Lúc ấy, một cách nào đó, ta biến Chúa trở thành người loan báo cho ta, làm ta nổi bật lên.
Có thể ban đầu ta hoàn toàn vì Chúa, nhờ đó ta rao giảng về Ngài rất hay, mọi người ca tụng ta là người đạo đức, là “có lửa”. Từ khi có danh thơm tiếng tốt ấy, ta bắt đầu bị cám dỗ bảo vệ danh tiếng ấy, và làm cho danh tiếng ấy ngày càng mạnh lên. Danh tiếng ấy có thể giúp ta dễ “thăng quan tiến chức” trong Giáo Hội hay ngoài xã hội. Ta bắt đầu ngày càng trở nên “vì mình” hơn và bớt “vì Chúa” đi. Dần dần ta trở nên kẻ háo danh lúc nào không hay. Từ háo danh đến ham quyền, từ ham quyền đến cố vị chỉ là những bước rất ngắn. Một khi đã ham quyền cố vị rồi, ta dễ dàng bị cám dỗ làm những điều tán tận lương tâm. Vì quyền bính là một con dao hai lưỡi, tuy cần thiết để phục vụ đại chúng, nhưng lại có khả năng tha hóa rất mạnh. Vì thế, những người loan báo hay rao giảng Tin Mừng - nhất là những người đã thành công trong lãnh vực này và đang nắm những địa vị quan trọng trong Giáo Hội hay xã hội - rất cần tinh thần phản tỉnh để luôn luôn tỉnh táo đối với chính mình: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ, vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26,41; Mc 14,38). Thực tế cho thấy nhiều người khi chưa nắm quyền bính thì tinh thần phục vụ rất cao, nhưng khi đã nắm được quyền bính thì trở nên khác hẳn. Nhiều anh hùng dân tộc, nhiều chức sắc tôn giáo đã bị tha hóa vì quyền lực.
2. Phàm nhân và thánh nhân trong mỗi người
Bài Tin Mừng hôm nay còn có thể hiểu theo một chiều kích khác rất sâu xa: chiều kích tâm linh. Trong đó, Gio-an Tẩy giả và Đức Giêsu tượng trưng cho hai khía cạnh trong cùng một con người: Gio-an Tẩy giả tượng trưng cho con người phàm của ta, và Đức Giêsu tượng trưng cho con người thánh, con người thần linh, siêu phàm ở trong ta. Chính con người thần linh này trong mỗi người là yếu tố cốt yếu khiến con người là “hình ảnh của Thiên Chúa” (St 1,26-27; 9,6), “giống như Thiên Chúa” (St 1,26b). Đó là chính bản tính Thiên Chúa của Ngài được thông ban cho chúng ta: “Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quý báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa” (2Pr 1,4). Chính nhờ có bản tính thần linh thánh thiện này trong bản thân mà Đức Giêsu mới có thể mời gọi ta nên thánh: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48).
Giữa con người với con chó, khoảng cách hữu thể tuy không xa, vì cùng là tạo vật, nhưng con chó không bao giờ có thể trở thành người như con người dù có cố gắng luyện tập đến đâu, vì trong con chó không có bản tính con người. Còn giữa con người với Thiên Chúa tuy là một khoảng cách vô tận, nhưng con người có thể nên hoàn thiện, nên thánh như chính Thiên Chúa, vì trong con người đã có sẵn bản tính Thiên Chúa mà Ngài thông truyền cho. Nếu bản thân con người không có bản tính Thiên Chúa thì lời Đức Giêsu mời gọi con người nên hoàn thiện như Thiên Chúa là tuyệt đối bất khả thi, và câu nói đó trở thành vô nghĩa.
Tuy nhiên, sống hoàn thiện như Thiên Chúa không phải dễ, vì bên cạnh con người thánh ấy luôn luôn có một con người phàm. Một danh nhân nào đó nói: “Trong lòng mỗi người, vừa có một vị thánh vừa có một con thú”. Thật vậy, có những lúc ta suy nghĩ và hành động như một vị thánh, nhưng cũng có rất nhiều lúc ta lại hành động như một con thú. Và dường như vị thánh và con thú trong bản thân ta phải luôn luôn tranh đấu với nhau để dành thắng thế hầu làm chủ bản thân ta. Có người thì vị thánh thường thắng thế và làm chủ, còn lắm người thì bị con thú thường khống chế toàn bộ con người. Thánh Kinh có nói đến tình trạng trái ngược giữa hai con người này: “Tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt, đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn” (Gl 5,17); “Những ai sống theo tính xác thịt, thì hướng về những gì thuộc tính xác thịt; còn những ai sống theo Thần Khí, thì hướng về những gì thuộc Thần Khí” (Rm 8,5). Kết quả của hai cách sống đối nghịch ấy là: “Nếu anh em sống theo tính xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em, thì anh em sẽ được sống” (Rm 8,13)
a) Con người phàm thì sống theo xác thịt:
Bản chất của con người phàm là chỉ biết sống cho mình, sống ích kỷ, có khuynh hướng “phình to bản ngã”. Vì thế, chỉ quan tâm tới những tham vọng hay lợi lộc ích kỷ của mình, tự coi mình là cái rốn của vũ trụ, muốn mọi người phải phục vụ mình, luôn luôn coi ý riêng của mình là quan trọng, thích lèo lái mọi người theo ý riêng của mình… Kinh Thánh nói về tính cách của phàm nhân: “Những kẻ sống theo xác phàm thì hay mơ ước những gì xác phàm đòi hỏi” (Rm 8,5); “Họ khoe mình khôn sáng nhưng đã nên điên dại” (Rm 1,22); “Ý tưởng họ hóa ra tối tăm, vì họ lìa xa sự sống Chúa Trời” (Ep 4,18); “Lòng trí họ miên man theo điều phù phiếm, họ ngu muội đắm chìm trong bóng tối tăm” (Rm 1,21).
b) Con người thánh sống theo Thần Khí:
Con người thánh là con người sống vị tha, sống theo Thần Khí, theo sự hướng dẫn của lẽ phải, của chân lý, công lý và tình thương. Hành động không bị chi phối bởi những động lực vị kỷ, dục vọng, ý muốn riêng tư, mà bởi tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. Khi không còn sống cho bản thân mình nữa, con người thánh trở nên có nhiều sức mạnh tinh thần, luôn khôn ngoan, sáng suốt, can đảm, tâm hồn luôn bình an hạnh phúc, thứ bình an hạnh phúc nội tâm không ai ban được mà cũng không ai lấy mất được, ngoại cảnh không còn làm họ làm đảo điên, đau khổ nữa.
3. Phàm nhân có nhỏ lại thì thần nhân mới lớn lên được
Nơi mỗi con người, phàm nhân được khám phá và ý thức trước tiên. Dần dần con người khám phá ra một tiếng nói, một khuynh hướng, một lực lượng thầm kín - nhiều khi rất mạnh mẽ - lôi kéo mình lên khỏi những ích kỷ cá nhân của phàm ngã. Đó là thần ngã hay con người thánh. Vấn đề là làm sao để thần ngã này lớn lên? Bài Tin Mừng cho ta một bí quyết: Gio-an Tẩy giả - tượng trưng cho phàm ngã - để tự hạ, tự hủy để làm cho Đức Giêsu - tượng trưng cho thần ngã - nổi bật lên. Chỗ khác Gio-an nói: “Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Ga 3,30).
Phàm nhân lúc nào cũng muốn được nổi bật, được phình to lên, nhưng nếu ta chiều theo phàm ngã, thì phàm ngã sẽ lớn mạnh và lấn át thần ngã, làm thần ngã trở nên yếu ớt. Nhưng nếu ta sống tinh thần tự hủy, làm phàm ngã nhỏ lại, thì tự nhiên thần ngã sẽ lớn và mạnh lên. Hai lực lượng ấy luôn luôn tỷ lệ nghịch với nhau: lực này lớn thì lực kia nhỏ lại, lực này yếu thì lực kia mạnh lên. Vì thế, muốn thần ngã lớn lên, thì phải làm cho phàm ngã nhỏ đi. Không gì làm phàm ngã nhỏ đi bằng sống tinh thần tự hủy, tự xóa mình: coi mình chẳng là gì cả, như một người nhỏ bé không có gì là quan trọng, không cố ý làm gì để lôi kéo sự chú ý của người khác. Nhất là không bao giờ đòi hỏi ý riêng của mình phải được thực hiện, mà trái lại sẵn sàng thực hiện thánh ý Thiên Chúa.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin hãy biến cải con thành một con người mới, con người sống theo Thần Khí chứ không theo những đòi hỏi của phàm ngã. Nhờ đó bản tính thần linh mà Cha đã gieo mầm vào trong bản thân con nẩy mầm và phát triển. Và hy vọng một ngày kia Cha có thể nói với con như xưa Cha đã nói với Đức Giêsu: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. Xin giúp con đạt được điều ấy.
51.Đức Giêsu chịu phép rửa--Lm. FX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Có thể theo giáo sư G. Gnilka mà coi Mc 1,1-15 là lời tựa hoặc mở đầu của Tin Mừng Máccô: phần này đăt trọng tâm vào “Tin Mừng” (x. cấu trúc đóng khung với từ “Tin Mừng “ ở đầu và cuối đoạn). Bản văn 1,7-11 chúng ta đọc hôm nay liên kết lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả trong hoang địa với việc Đức Giêsu chịu phép rửa, khởi đầu sứ vụ loan báo Tin Mừng. Thật ra hai phần này biệt lập với nhau; chúng ta thấy được điều này qua chi tiết dẫn nhập “hồi ấy” và qua sự kiện tác giả mô tả thêm một lần nữa việc Gioan làm phép rửa trong sông Giođan. Tuy kể lại phép rửa Gioan, bản văn lại không tương ứng hoàn toàn với các từ ngữ và cách kết cấu của c. 5.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Lời loan báo của Gioan (1,7-8);
2) Phép rửa của Đức Giêsu (1,9-11):
a) Biến cố lịch sử: Đức Giêsu chịu phép rửa (9-10),
b) Thị kiến khải huyền: Cuộc thần hiển (10-11).
3.- Vài điểm chú giải
- Ông rao giảng (7): ekêryssen, do động từ Hy-lạp kêryssein, “công bố; loan báo”, ở thì vị hoàn (imperfect), để diễn tả đây là một hoạt động thường xuyên của Gioan. Chúng ta đến đỉnh cao của đoạn văn này, bởi vì chỉ đến đây, Gioan mới lên tiếng mà chỉ cho thấy Đấng ông làm Tiền Hô cho.
- Đấng quyền thế hơn tôi (7): Có lẽ danh xưng này ám chỉ đến Is 40,10 (“Kìa Đức Chúa quang lâm hùng dũng [= đến với sức mạnh], tay nắm trọn chủ quyền”). Sự tương phản giữa hai bên lớn đến nỗi Gioan “không đáng cởi quai dép cho Người”, mà đây là công việc thấp hèn đến nỗi một nô lệ Do-thái cũng không buộc phải làm cho chủ (sách Mishna) (x. Mt 3,11; Lc 3,16; Ga 1,15.27.30; 3,30; Cv 13,25).
- phép rửa (8): Cho dù Gioan có thuộc về phong trào Êxêni ở Qumrân hay không, phép rửa của ông tương tự phép rửa của người Êxêni, nhất là ở điểm cả hai phép rửa đều diễn tả một sự hoán cải nội tâm, sự hoán cải này vừa là hành vi của con người vừa là ân huệ của Thiên Chúa, cũng như chuẩn bị các tâm hồn đón tiếp Thiên Chúa sắp đến can thiệp vào thời cánh chung. Tuy nhiên, Gioan khác người Êxêni ở hai điểm: không nghĩ rằng tội lỗi gây nên một sự ô nhơ nơi thân xác; không buộc các hối nhân phải sống một năm thử thách; chỉ ban phép rửa một lần, vì đây là hành vi chuẩn bị cuối cùng để đón Đấng Mêsia ngự đến.
- trong Thánh Thần (8): Các bản văn Nhất Lãm song song (Mt 3,11; Lc 3,16) đọc là “trong Thánh Thần và lửa”. Có lẽ lúc đầu, câu này có hình thức là “gió và lửa” để mô tả biến cố Triều Đại cánh chung của Thiên Chúa ngự đến. Mc chỉ quan tâm đối lập nghi thức chuẩn bị của Gioan với việc thiết lập Nước Thiên Chúa nhờ hoạt động của Đức Kitô, mà không nói đến phán xét. Nhờ đó, Người đưa lại cho “phép rửa trong Thánh Thần” ý nghĩa tích cực là một cuộc tái sinh bên trong.
- Hồi ấy (9): dịch sát là “trong những ngày ấy”.
- tựa chim bồ câu (10): Cả ba TMNL đều nói đến điểm này, với hôs (“giống như”) để so sánh (riêng Mt dùng hôsei để nhấn mạnh). Lc còn xác định rằng Thần Khí đã ngự xuống “dưới một hình dáng” (sômatikê eidei, “in bodily form”; x. Lc 3,22).
Tại sao con bồ câu lại trở thành biểu tượng của Thần Khí? Chúng ta không có câu trả lời rõ ràng. Rất có thể hành động bay lượn của Thần Khí trên mặt nước nguyên thủy trong St 1,2 đã gợi ra hình ảnh một cánh chim bay lượn (tương tự trong Đnl 32,11), nhưng bản văn ấy không nói là một con bồ câu (trừ một bản văn thuộc truyền thống kinh sư). St 8,8 thì nói rằng Nôê đã thả một con bồ câu, nhưng lại không hề khẳng định rằng con bồ câu này là hình ảnh của Thần Khí. Cha X. Léon-Dufour cho rằng con bồ câu có thể gợi ra tình yêu của Thiên Chúa (x. Dc 2,14; 5,2) hoặc cuộc tạo dựng mnới (x. St 1,2).
Trong truyền thống Do-thái, con bồ câu có một ý nghĩa biểu tượng, liên hệ đến Israel, đặc biệt với Israel đang lưu đày (Hs 7,11; 11,11; Is 60,8; Tv 55,7-8; 68,13; 74,19; Dc 1,15; 2,14; 5,2; 6,8) và cũng được nền văn chương Ngụy thư hoặc kinh sư sử dụng. Từ đó cha A. Feuillet cho rằng con bồ câu đi xuống và ngự trên Đức Giêsu tượng trưng và tiên báo điều sẽ là hoa trái chính yếu của cuộc đổ tràn Thần Khí: đó là việc thành lập Israel mới, cộng đoàn hoàn hảo của thời đại ân phúc. Vậy, điều được diễn tả không phảu trự tiếp là Thần Khí, mà là hậu quả đối với Dân Thiên Chúa, khi Thần Khí hiện diện nơi Đức Giêsu. Cũng như vào ngày lễ Ngũ Tuần, các lưỡi lửa không trực tiếp tượng trưng Thần Khí, mà là các ngôn ngữ mà các tông đồ dưới ơn Thần Khí soi sáng, sẽ nói ra, và sâu xa hơn, tượng trưng công việc phúc âm hóa thế giới, thì cũng vậy, con bồ câu trong Phép Rửa diễn tả ý tưởng này là Dân thiên sai phải chọn điểm khởi hành nơi bản thần Đức Giêsu-Mêsia, là Vua và Tôi tớ của YHWH.
Giả thuyết này cũng hấp dẫn, nhưng thật khó áp dụng vào bản văn Mc. Hẳn là bản văn St 8,8 vẫn có thể giúp ích: con bồ câu được thả ra mà không có chỗ đậu, phải trở lại tàu Nôê, phải chăng muốn nói rằng trong một thời gian dài, Thần Khí không có chỗ đậu là một người nào, cho đến khi Đức Giêsu xuất hiện? Dù sao, ít ra chúng ta có thể nói rằng Thần Khí rất gần gũi với Đức Giêsu, trong tư cách là Đấng Mêsia đi rao giảng Nước Thiên Chúa, và điều này lại khiến chúng ta nhớ tới Is 42,1.
- ngự xuống trên Người (10): Mt, Lc va Ga đều nói rằng Thần Khí ngự xuống “trên” (epi; Mc: eis) Đức Giêsu. Các nhà chú giải thường nghĩ đến Is 11,1-2a: “Từ gốc tổ Giesê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non. Thần Khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị này”.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Lời loan báo của Gioan (7-8)
Tương hợp với câu trích Is nói về tiếng nói của người loan báo, hoạt động của Gioan được mô tả như là một việc “hô to [như anh mõ làng]”; “công bố”; “phổ biến” (kêryssein). Hành vi này đưa ông đến gần Đức Giêsu (1,14.38t), các môn đệ (3,14; 6,12), Tin Mừng (13,10; 14,9), các sứ giả đức tin (1,45; 5,20; 7,36). Cùng với sự đối lập giữa phép rửa của ông với phép rửa của Đấng Mêsia, ông loan báo “Đấng quyền thế hơn (= Đấng mạnh hơn [ông])” đang đến. Phép rửa của ông không phải là một nghi thức có sức tha tội (Bí tích Rửa tội), nhưng là phương thế giúp người ta bày tỏ lòng thống hối và quyết tâm thay đổi đời sống.
* Phép rửa của Đức Giêsu (9-11)
Phần này với phần trên biệt lập với nhau. Chúng ta thấy được điều này qua chi tiết dẫn nhập “hồi ấy” và qua sự kiện tác giả mô tả thêm một lần nữa việc Gioan làm phép rửa trong sông Giođan: tuy kể lại phép rửa Gioan, bản văn lại không tương ứng hoàn toàn với các từ ngữ và cách kết cấu của c. 5. Dường như tác giả Mc quan tâm đặc biệt đến miền Galilê; do đó, ngài đã nêu bật rằng Đức Giêsu đến từ một miền khác với miền xuất phát của các đám đông đến với vị Tẩy Giả.
Bản văn này liên kết một biến cố lịch sử với một thị kiến khải huyền. Biến cố lịch sử là phép rửa Đức Giêsu nhận bởi tay Gioan. Thị kiến khải huyền cho biết Đức Giêsu là ai. Người đến từ làng Nadarét. Đối với Mc, điều quan trọng là làng ấy thuộc về miền Galilê. Nhưng Nadarét lại được coi như địa điểm từ đó Đức Giêsu đến “trong những ngày ấy” (= “hồi ấy”, PVCGK). Chi tiết mông lung về thời gian này, tuy quy về quá khứ, lại đưa lại cho việc Đức Giêsu xuất hiện một đặc tính long trọng.
Tại sao Đức Giêsu lại đến chịu phép rửa bởi tay Gioan, khi mà Người không có tội lỗi gì? Chính sứ mạng của Người đưa Người đến chỗ sẵn sàng liên đới với các tội nhân, tự đồng hóa với họ. Tác giả Mc, cũng như hai tác giả Lc và Mt, không muốn tường thuật cho chúng ta chuỗi các biến cố đã xảy ra hôm ấy. Tác giả chỉ muốn dạy chúng ta biết Đức Giêsu là ai bằng cách vận dụng ba hình ảnh mà các độc giả thời ngài hiểu rất rõ:
1) Hình ảnh “trời xé ra”. Hình ảnh này nhắc đến Is 63,15-19: trong đoạn văn này, vị ngôn sứ xin Thiên Chúa “xé trời mà ngự xuống”, nghĩa là chấm dứt tình trạng thinh lặng của Ngài và đừng ở xa cách Dân Ngài nữa. Ông xin Thiên Chúa lại mở lòng ra và lại tỏ ra là bạn hữu của nhân loại. Khi dùng hình ảnh này, Mc muốn nói với chúng ta rằng cuộc sống công khai của Đức Giêsu đánh dấu khởi đầu cuộc hòa giải giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và chúng ta.
2) Hình ảnh “con bồ câu” đưa chúng ta trở lại với những gì đã xảy ra vào thời gian Lụt hồng thủy (St 8). Vào lúc đó, trời bị đóng lại và có sự thù nghịch giữa Thiên Chúa và loài người. Con bồ câu với cành ô-liu cho biết là sự sống đã tái sinh trên mặt đất, nghĩa là Thiên Chúa đang thôi giận loài người, hòa bình đã được phục hồi.
3) Tại sao Thần Khí lại được so sánh với một con bồ câu? Trong thời Cựu Ước, YHWH ban quyền lực của Ngài cho các ngôn sứ, làm cho các ngài nên can đảm và có khả năng hoàn tất các nhiệm vụ Ngài ký thác (x. Is ch. 6; Gr 1,6-10). Vào ngày nhận phép rửa, Đức Giêsu cũng đã được tấn phong và nhận quyền lực đó để chu toàn sứ mạng. Tại Israel, từ lâu rồi, đã vắng bóng những con người của Thiên Chúa. Vị ngôn sứ cuối cùng đã qua đời cách đây 300 năm. Trời đã đóng lại, y như thể Thiên Chúa không còn muốn nói với Dân Ngài nữa. Thần Khí Đức Chúa giống như một con bồ câu bay cùng khắp mà không tìm ra được một ai để có thể đậu lên. Khi cho Thần Khí của Ngài xuống trên Đức Giêsu, Thiên Chúa cho thấy rằng Ngài đã tìm ra con người theo ý Ngài, và nay một lần nữa, Ngài lại ngỏ lời với một con người.
Ngoài ra, có hai chi tiết cần để ý vì có ý nghĩa thần học sâu sắc:
- Nơi Đức Giêsu chịu phép rửa là bờ sông Giođan. Chúng ta đọc thấy trong Cựu Ước rằng Dân Israel được Giôsuê hướng dẫn, đã đi qua sông Giođan trước khi bước vào Đất Hứa. Ở đây Mc giới thiệu Đức Giêsu như Giôsuê mới dẫn dắt Dân mới của Thiên Chúa (trong tiếng Híp-ri, tên “Giêsu” cũng là tên “Giôsuê”).
- Thời điểm Đức Giêsu nhận Thần Khí (“khi Người vừa ra khỏi nước”, chứ không phải lúc Người còn đứng trong dòng sông, như nhiều bức họa diễn tả). Sau khi qua sông Giođan, Giôsuê được đầy thần khí của Thiên Chúa để ông có thể dẫn đưa Dân vào Đất Hứa. Với Đức Giêsu cũng thế: khi vừa ra khỏi nước, Người nhận Thần Khí cùng với quyền lực của Thiên Chúa để có thể hướng dẫn dân Thiên Chúa đi đến tự do. Con đường đó thế nào, tác giả Mc sẽ dần dần viết ra.
+ Kết luận
Rất có thể giai thoại này là một kỷ niệm về tình trạng căng thẳng giữa các môn đệ của Gioan Tẩy Giả và môn đệ của Đức Giêsu: họ tranh cãi để xem vị Thầy nào cao trọng hơn. Các môn đệ Gioan cho rằng vị Tẩy Giả cao trọng hơn vì đã ban phép rửa cho Đức Giêsu; còn các môn đệ của Đức Giêsu thì khẳng định rằng chính Đức Giêsu mới là Con Thiên Chúa và có Thần Khí chan hòa. Dù sao, ở đây còn có một bài học khác nữa. Các Kitô hữu tiên khởi khó mà chấp nhận được rằng Đức Giêsu lại chịu phép rửa. Phép rửa của Gioan là đễ diễn tả quyết tâm thống hối, và do đó người Pharisêu, vì nghĩ rằng họ công chính, chẳng bao giờ nghĩ rằng họ cần phải nhận phép rửa. Thế mà Đức Giêsu lại nhận phép rửa, khi mà Người là Con Thiên Chúa, Người hoàn toàn trong sạch! Đức Giêsu đã chịu phép rửa ngay lúc bắt đầu cuộc sống công khai, thật ra là để đứng vào hàng ngũ những kẻ tội lỗi, đồng hóa với họ. Đấy là một chọn lựa của Người, của chính Thiên Chúa.
Sau lễ Giáng Sinh, phụng vụ nói đến khởi đầu cuộc sống công khai của Đức Giêsu. Đức Giêsu chính là Người Tôi Trung cùa Chúa Cha; Người sẽ đưa lại một quan hệ được đổi mới giữa chúng ta với Thiên Chúa
5.- Gợi ý suy niệm
1. Người Kitô hữu cũng có một vai trò tiền hô đối với anh chị em mình. Muốn thế, cần xác định rõ ràng quan hệ của mình với “Đấng đang đến”, để khiêm tốn và trung thực giới thiệu về Người như là Đấng đã đang có mặt trong lịch sử loài người.
2. Đức Giêsu đã sẵn sàng đứng vào hàng các tội nhân, tự đồng hóa với họ, trở nên một người như họ, trong khi Người hoàn toàn trong sạch. Chúng ta, là những người có tội, phải chăng chúng ta lại xa cách anh em y như thể sợ rằng không ai biết cho sự lành thánh của chúng ta! Chúng ta có biết đồng cảm với những người có cuộc sống không thành công chăng? Một Kitô hữu có được phép lên án người khác chăng? Thầy chí thánh chúng ta đi theo không bao giờ trách mắng những kẻ tội lỗi, Người đồng cảm với họ, Người bảo vệ họ và ngay từ đầu, Người đứng vào hàng ngũ của họ. Đấy là những điểm khiến các môn đệ Đức Giêsu phải suy nghĩ.
3. Chúng ta thuộc về đoàn dân mới của Thiên Chúa, đoàn dân đang tiến bước, có Đức Giêsu là Vị thủ lãnh đầy Thần Khí. Thầy chí thánh đang dẫn chúng ta đi về đâu? Chúng ta phải bước theo Người với cung cách nào? Tác giả Mc sẽ trả lời các câu hỏi này cho chúng ta dọc theo năm phụng vụ với Tin Mừng của ngài, và mời gọi chúng ta can đảm bước theo Đức Giêsu, là “con đường” đưa chúng ta về với Thiên Chúa.
4. Chúng ta cũng đã nhận phép rửa tội, chúng ta cũng có Thánh Thần, chúng ta cũng có chức năng vương đế. Chính vì thế, chúng ta phải biết cộng tác với Đức Giêsu, Đấng hướng dẫn chúng ta, bằng cách chế ngự tính mê tật xấu của riêng mình, đồng thời giúp anh chị em chúng ta thắng vượt các trở ngại khiến họ không thong dong bước theo Đức Giêsu được.
5. Thánh giám mục Maximô thành Turinô (?-khoảng 420) đã giảng trong Lễ Hiển Linh như sau: “Hôm nay, Chúa Giêsu đã đến nhận phép rửa. Người đã muốn rửa mình trong dòng nước Giođan. Có lẽ có người sẽ nói: ‘Người là Đấng Thánh, tại sao Người lại muốn được ban phép rửa?’ Vậy xin nghe đây. Đức Kitô được ban phép rửa không phải để được nước thánh hóa, nhưng để chính Người thánh hóa nước và thanh tẩy bằng hành động cá nhân các dòng nứơc Người chạm tới. Vậy ở đây là việc thánh hiến nước hơn là thánh hiến Đức Kitô. Bởi vì, kể từ khi Đấng Cứu Thế được rửa, tất cả các dòng nước trở thành trong sạch nhằm phép rửa của chúng ta; nguồn được thanh tẩy là để cho ân sủng được ban cho các dân tộc sẽ đến sau đó. Vậy Đức Kitô là người đầu tiên bước đến phép rửa để cho các dân Kitô hữu không ngần ngại bước đi theo Người.
Và ở đây tôi hé thấy một mầu nhiệm. Cột lửa lại đã không đi trước qua Biển Đỏ để khuyến khích con cái Israel bước theo sau đó sao? Cột lửa ấy đã đi qua nước trước tiên để vạch ra con đường cho những người theo sau. Theo chứng từ của thánh tông đồ Phaolô, biến cố này đã là một biểu tượng của phép rửa tội (1 Cr 10,1t). Hầu chắc đây là một thứ phép rửa trong đó người ta được bao phủ bởi các đám mây và được nâng đỡ bởi các làn nước. Và tất cả những điều đó đã được hoàn tất bởi cũng một Đức Kitô, Chúa chúng ta, Đấng bây giờ đi trước các dân tộc Kitô hữu trong cái cột là thân thể Người, như Người đã đi trước con cái Isreal qua biển trong cột lửa. Cũng cái cột ấy, xưa kia đã ban ánh áng cho mắt những người bước đi, nay ban ánh sáng cho con tim các tín hữu. Khi xưa, cột ấy đã vạch ra trong các sóng nước một con đường vững chắc, bây giờ cột ấy đang củng cố các bước chân đức tin trong cuộc thanh tẩy này”.
52.Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux
CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA
Maccô đã nói tới Chúa Giêsu. Nhưng ở đây ông cho Ngài nhập cuộc: “Cũng trong ngày ấy, Chúa Giêsu từ thành Nadaret miến Galilê đến” (c.9). Maccô không hề nói gì thêm nữa về nơi chốn Chúa Giêsu đã sinh trưởng (Lc 4,16). Nhưng như thế là để nói ngay tới một biến cố lớn (c. 9b). Maccô không nêu rõ lý do khiến Chúa Giêsu nhận phép rửa của Gioan. Điều đó giả thiết rằng, ít ra trong một thời gian, Chúa Giêsu đã là môn đệ của Gioan Tẩy Giả (Ga 3,26). Các Kitô hữu ban đầu biết rất rõ về phép rửa của Gioan. Họ tự hỏi: Phép rửa mà Chúa Giêsu nhận có gì đặc biệt?
Maccô trở lại rất chính xác vấn nạn này. Ông không nói tới việc Chúa Giêsu được dìm xuống nước sông Giođan. Nhưng lưu ý độc giả về điều đã xảy ra ngay sau đó (c.10). Dầu cho có vẻ như thế nhưng cảnh tượng này không phải là một thiên phóng sự giàu hình ảnh. Đây là một cảnh mang màu sắc trí thức, với những hình ảnh Thánh Kinh để minh họa điều mà các tín hữu tiên khởi đã khám phá ra được là độc đáo trong phép rửa Chúa Giêsu lãnh nhận.
Trong sách Isaia ta thấy có lời khẩn khoản nài xin Thiên Chúa lại đến giải thoát dân Ngài như được kể trong sách Xuất hành. Maccô đã cảm hứng theo đoạn văn sau đây: “Đâu rồi Đấng (Thiên Chúa) làm cho mục tử (=Môsê) của đoàn chiên Ngài lên từ biển cả? Đâu rồi Đấng đặt nơi người mục tử ấy Thần Khí của Ngài?” (Is 63,11). Như vậy không phải vô tình mà Maccô nói khi từ nước đi lên Chúa Giêsu đã lãnh nhận Thánh Thần. Đối với Maccô, Chúa Giêsu là Môsê mới. Phép rửa Ngài chịu, một lần nữa là cuộc giải thoát khỏi Hồng Hải. Vị Mục Tử của một dân mới của Thiên Chúa giờ đây được Chúa trao đổ Thánh Thần cho, Đấng sẽ khiến Ngài dẫn đưa đoàn chiên của mình vào Đất Hứa. Trong mạch văn này, câu “Chúa Giêsu thấy các tầng trời mở tung ra” đặc biệt có ý nghĩa. Theo truyền thống Do Thái, các tầng trời đã đóng lại khi các ngôn sứ sau cùng (Agai, Dacaria, Malaki: thế kỷ VI và V trước Chúa Kitô) không còn nữa. Sự giao tiếp giữa Thiên Chúa và con người bị coi như chấm dứt. Trước khi Chúa Giêsu đến thì “Thần Khí đã tắt rồi”, Ngài không xuống để linh hứng những lời tiên tri mới nữa. Trong bầu khí “thiếu vắng” này, một lời cầu xin tha thiết được dâng lên Thiên Chúa: “A! Xin Ngài mở toang các tầng trời mà ngự xuống…” (Is 63,19b). Như vậy là với Chúa Giêsu mọi sự đều thay đổi. Mở toang các tầng trời có nghĩa là mở lại cuộc tương giao giữa Thiên Chúa và con người, chính Đấng Mêsia là người đón nhận biến cố này. Khi ấy Maccô có thể diễn tả “Thánh Thần ngự xuống trên Ngài như một chim bồ câu”. Việc Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giêsu khai mào kỷ nguyên mới của ơn Cứu độ. Với việc ban Thánh Thần, đấng “Mêsia” mang đến cho con người ơn tha thứ tội lỗi (Cv 2,37-38). Người ta đã từng hiểu ý nghĩa của hình ảnh chim bồ câu. Một số người thấy ở đó ám chỉ trực tiếp về con chim hòa bình mà Noê thả ra trên nước đại hồng thủy (St 8,8-11). Có những người khác nghĩ rằng điều đó nhắc nhớ đến cuộc Sáng tạo khi Thần Khí Thiên Chúa bay là trên vực thẳm (St 1,2). Trong thế giới Do Thái thời Chúa Giêsu người ta so sánh các ngôn sứ với những con chim gáy. Như vậy là ở đây, Chúa Giêsu được giới thiệu như “vị ngôn sứ” của thời đại mới.
Phần kết của đoạn văn là một sứ điệp thần linh phải được diễn giải thật đúng (c. 11). Trời đó là Thiên Chúa người mà Do Thái tránh nêu danh. Thiên Chúa lên tiếng. Lời tuyên bố của Ngài thật quan trọng. Lời sấm của Thiên Chúa gồm hai đoạn văn giàu ý nghĩa trong Cựu Ước. Một đàng, “Con là Con Cha” gợi lại Thánh vịnh mô tả ngày nhà vua đăng quang, theo nghĩa “Mêsia”: “Người phán bảo tôi: Con là Con Cha, hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Tv 2,7). Rõ ràng Chúa Giêsu được chỉ định như Đấng Mêsia thuộc dòng David. Phẩm tính “yêu dấu” gán cho Chúa Giêsu, nhắc lại điều Thiên Chúa đòi hỏi Abraham liên quan tới Isaac: “Hãy đưa con của ngươi, đứa con duy nhất mà ngươi yêu dấu…” (St 22,2).
Đàng khác, những lời nói với Chúa Giêsu, “Cha hài lòng về Con”, quy chiếu về một bài thơ nổi tiếng của người Tôi tớ Thiên Chúa trong ngôn sứ Isaia: “Này đây tôi tớ của Ta (Thiên Chúa nói) người Ta yêu quý. Ta đặt Thần Khí của Ta nơi Người. Người sẽ đem Lề Luật đến cho các dân” (Is 42,1-2). Ta thấy đây là một nghi thức tấn phong ngôn sứ. Cũng giống như người tôi tớ trên đây, Chúa Giêsu được sai đi thi hành sứ vụ Ngài. Phần tiếp theo của bài thơ thật là ý nghĩa: “Ta (Chúa nói tiếp), Ta gọi con trong công chính. Ta đã làm cho con nên Giao Ước của dân, nên ánh sáng cho mọi sắc tộc để con mở mắt người mù, giải thoát tù nhân, và đưa người trong tối tăm ra khỏi ngục thất” (Is 42,6-4).
Như vậy, chắc chắn đối với Maccô phép rửa Chúa Giêsu lãnh nhận không phải để tha tội, vì Chúa Giêsu không hề phạm tội. Đó là hiệu khởi hành, là lệnh sai đi thi hành sứ vụ mà Thiên Chúa ra cho đấng “Mêsia”, là “Con Thiên Chúa” (theo nghĩa tròn đầy sẽ được khám phá sau này trong niềm tin vào Chúa Phục Sinh).
Chúa Giêsu là Đặc Sứ của Thiên Chúa để thiết lập Vương Quốc Ngài. Bây giờ Ngài có thể lên đường thi hành sứ vụ đó.
53.Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
GIOAN LÀM PHÉP RỬA CHO CHÚA GIÊSU
A. Lời rao giảng của Gioan Tẩy giả.
Máccô đã tóm lược rất nhiều các chi tiết liên quan đến vị Tiền hô mà truyền thống đã mang lại; đặc biệt ông đã bỏ hẳn lời Gioan Tẩy giả loan báo về Cuộc phán xét cánh chung sắp đến. Cảnh quan trọng đầu tiên của Tin Mừng của ông là cảnh Chúa Giêsu chịu rửa. Những gì ông giữ lại có liên quan đến vị Tẩy giả đặc biệt chỉ muốn "chuẩn bị" (c.3) cho quang cảnh mặc khải này Nơi Máccô, tất cả lời rao giảng của Gioan giản lược thành hai câu chúng ta đang khảo cứu: loan báo Đấng-đang-đến đầy quyền năng và cao cả hơn vị Tẩy giả; loan báo chính phép rửa của Người, phép lửa đối nghịch với phép rửa của vị Tiền hô.
"Gioan rao giảng rằng: Sẽ đến sau tôi Đấng quyền thế hơn tôi; tôi không đáng cúi xuống mà cởi quai dép Người. Phần tôi, tôi đã thanh tẩy anh em bằng nước; còn Người, Người sẽ thanh tẩy anh em bằng Thánh Thần" (cc.6b-8).
Câu đầu cho ta cảm thấy Đấng Messia đã đến gần thật: "Người đến (sát) sau tôi", Người đi tiếp tôi liền. Hình ảnh tên nô lệ dưới chân chủ được tô điểm ở đây bằng một nét đặc biệt thuộc lối văn miêu tả của Máccô ("cúi xuống"), một nét tuy nhiên không thay đổi gì ý nghĩa.
Ngược lại, mệnh đề thứ hai, mệnh đề đưa ra lại (như người bằng cách rút vắn) sự tương phản cổ truyền giữa phép rửa bằng nước và phép rửa bằng Thần khí, thì rõ ràng thay đổi ý nghĩa bản văn. Nó loại bỏ chi tiết "lửa", y như văn mạch loại bỏ mọi ám chỉ về cuộc Phán xét cánh chung. Một việc loại bỏ triệt để như thế bắt buộc ta bây giờ phải hiểu sự tương phản giữa hai phép rửa chỉ trên cơ sở những gì mà thính giả của Gioan Tẩy Giả đã có thể hiểu trước, chứ không theo văn mạch nguyên khởi.
Thế mà những người này hẳn đã biết các sấm ngôn nói về Đấng Messi a mang Thần khí (Is 11, 1-3; 42,1; 61,1) cũng như những sấm ngôn hứa đổ tràn lan Thần khí như một sức mạnh từ trên xuống vào thời thiên sai để canh tân tôn giáo và luân lý của Dân Chúa (Is 32, l5t; 44,3t; 59.21; Ed 11,19; 31.25-29; 37; 39,29; Ge 3, 1tt v.v...). Tuy nhiên cho đến đây. Chưa có gì nói rằng việc tuôn tràn này sẽ là một ân huệ của chính Đấng Messia cả. Lời tuyên bố của vị liền hô thiết lập mối liên hệ này (mối liên hệ mà Tin Mừng thứ tư sẽ khai triển): chính Đấng Messia sắp đến sẽ đổ Thánh Thần tràn ngập.
Ngoài ra, trong các lời của vị Tẩy giả được tách ra khỏi văn mạch đầu tiên của chúng, hạn từ "rửa'' tự nhiên được hiểu theo cùng một nghĩa trong hai vế của lối đối ngẫu. Người ta đối chọi nghi thức với nghi thức: nghi thức xưa có tính cách chuẩn bị và mục đích thanh tẩy với nghi thức mới có tính cách chung quyết và mục đích thánh hóa. Thật ra, khi nói ở đây về phép rửa trong thần khí mà không xác định gì thêm, thánh sử nghĩ tới phép rửa Kitô giáo, nghi thức bí tích quen thuộc với độc giả mình. Thành ra cái ông cho vị Tiền hô hứa, chính là một hoạt động của Đấng Messia, hoạt động tuôn tràn Thần khí (trong phép rửa Kitô giáo), để thực hiện một cách rất cụ thể các lời tiên tt'i xưa về việc đổ Thần khí thánh thiện vào thời cánh chung.
Tóm lại, lời trao giảng của Gioan Tẩy giả, theo như Máccô trình bày, loan báo hai việc: *1) (như trong truyền thống chung): việc giá lâm gần kề của Đấng Messia, Đấng được mặc quyền năng Thiên Chúa và xứng đáng hơn Gioan Tẩy giả bội phần; *2) Việc tuôn đổ Thánh Thần vào thời cánh chung do Chúa Kitô (trong phép rửa Kitô giáo) (riêng của Máccô).
B. Phép rửa cho Chúa Giêsu.
Như chúng ta đã nói, trong trình thuật phép rửa, Máccô đi gần với truyền thống sơ khai nhất, về phương diện bản văn cũng như thần học.
"Và xảy ra là trong những ngày ấy, Chúa Giêsu bỏ Nagiarét xứ Galilê và đã được Gioan thanh tẩy cho trong sông Giođanô. Vừa lên khỏi nước, Người thấy trời xé ra và Thần khí, như chim bồ câu, đáp xuống trên Người. Và một tiếng phán ra từ trời: "Con là Con chí ái Ta, kẻ Ta đã sủng mộ" (cc 9-11).
1. Hành vi tự ý của Chúa Giêsu.
"Và xảy ra trong những ngày ấy": Đây là một ngữ điệu khác thường trong Mc. Kiểu nhập đề như đúc sẵn này, mà thánh sử đã chẳng sửa lại, cho thấy đây là khởi đầu của một đơn vị văn chương" mới có tính cách độc lập ngay từ sơ khai, cho thấy trình thuật này có một nguồn gốc khác với trình thuật trước là trình thuật minh nhiên đặc trưng nghi thức Gioan như một "phép rửa thống hối để được tha tội". Công thức ấy là công thức Cựu ước vẫn dùng để giới thiệu các biến cố xảy ra, theo các sấm ngôn tiên tri, do bởi thánh ý Thiên Chúa. "Chúa Giêsu bỏ Nagiarét xứ Galilê": Máccô cố ý xác định như vậy vì đây là lần đầu tiêu ông nói về Chúa Giêsu; chúng ta đang còn ở ngay đầu Tin mừng.
"Và đã được Gioan thanh tẩy cho trong sông Giođanô": Sự kiện được ghi chú một cách chính xác, nhưng với sự vắn gọn vô cùng; vì sẽ không có lơi chú giải nào khác về phép rửa của Chúa Giêsu ngoài trình thuật thần hiện. Câu văn có vẻ cố ý lấy lại các hạn từ của c.5 vai trò thanh tẩy của Gioan đạt đến đích điểm đích thực khi ông làm phép rửa cho Chúa Giêsu.
2. Thần hiện.
"Và vừa (lên khỏi nước)": Mặc dầu năng gặp nơi Máccô chữ ráp nối này ở đây hẳn đã có từ trước (nó cũng có nơi Matthêu, dầu có hơi vụng về: “và này"). Người ta hiển nhiên muốn nối kết lập tức việc Chúa Giêsu nhận phép rửa với cuộc thần hiện vốn mang lại ý nghĩa cho việc này.
"Và Người thấy": Đây là một chi tiết có từ nguyên khởi. Chính Chúa Giêsu là chứng nhân mục kích việc thần khí đến, cũng như chính Người sẽ được tiếng nói Chúa Cha ngỏ cho. Cuộc thần hiện xảy ra cho Người vậy.
Chúa Giêsu thấy trời "xé ra", "xẻ ra" (Matthêu và Luca nói đơn sơ: “mở ra"). Sở dĩ Máccô chọn tiếng này có lẽ là vì ưa lối văn gợi hình, đầy màu sắc. Dầu sao có thể hạn từ muốn ám chỉ Is 63,19 (bản Hy bá) là bản văn ghi lại một lời cầu nguyện tha thiết người ta dâng lên Thiên Chúa, Cha Israel (nhân danh tình phụ tử của Ngài) để xin Ngài phá tan một sự im lặng quá lâu và từ trời xuống với dân Ngài để cứu họ. Trong phép rửa của Chúa Giêsu là khởi nguyên Tin Mừng cũng vậy, Thiên Chúa chấm dứt một sự im lặng dài lâu, xé thủng màn trời, khai mở thời đại ân sủng chung quyết bằng việc sai Thần khí Ngài đến và bằng cách biểu lộ sự hài lòng của Ngài đối với Con chí ái đang hiện diện giũa dân Ngài.
“Và một tiếng phát ra": Trình thuật mang một giọng điệu thuật sự: các câu vắn gọn nhanh nhẹn nối tiếp nhau, nằm kề nhau cách đơn giản, không văn chương cầu kỳ. Thành thử càng gây được cảm kích.
"Con là Con Ta...": Câu nói được viết lại dưới hình thức có lẽ là sơ khai nhất của nó, như ta đã phân tích trên đây. Sự thâm tình của mối tử hệ thần linh này, thánh sử Máccô sẽ hé mở cho ta thấy qua cung giọng của lời cầu nguyện Chúa Kitô dâng lên Thiên Chúa: "Abba, Cha ơi" (14,36), một công thức đầy tình hiếu thảo và có vẻ như lời âu yếm của trẻ thơ.
Quang cảnh này là quang cảnh đầu tiên của đời Chúa Giêsu theo Mc. Một cảnh mặc khải. Một cảnh tấn phong làm Thiên sai (như chúng ta vừa mới chứng minh trên kìa: thánh hiến và sai đi thực-hiện công trình cứu rỗi bằng quyền lực của Thánh Thần và trong mối thâm tình phụ tử đặc biệt với Thiên Chúa). Đồng thời đây cũng là sự hé mở đầu tiên về mầu nhiệm con người Chúa Giêsu. Tóm lại, đây là sự minh giải đầu tiên và long trọng cái tiêu đề của Tin mừng Máccô: “Khởi nguyên của Tin Mừng Chúa Giêsu, Messia, Con Thiên Chúa" (1,1)
KẾT LUẬN
Ý nghĩa phép rửa Chúa Giêsu chịu được biểu lộ trong cuộc thần hiện tiếp theo sau. Đó chính là cái đã thu hút tất cả sự lưu tâm của truyền thống Tin Mừng và của các soạn giả linh ứng; đó cũng là điều chúng ta phải suy niệm trước tiên.
Hành động công khai đầu tiên của Chúa Giêsu, hành động nối kết Người với vị ngôn sứ cuối cùng và vĩ đại nhất, đã trở thành lễ tấn phong Người làm thiên sai một cách long trọng: Được mặc lấy quyền lực Thánh Thần, được vững chắc trong niềm ý thức đầy dủ về mối thâm tình, đặc biệt là về sự thông hiệp độc nhất giữa Người với Thiên Chúa Cha Người. Chúa Giêsu vĩnh viễn lãnh nhận sứ mạng thi hành ngay bây giờ công cuộc cứu rỗi, theo đường lối thiên ý đã được vạch ra trong Thánh Kinh. Nhưng bên kia công cuộc thiên sai, quang cảnh dẫn vào mầu nhiệm sâu xa hơn nữa, mầu nhiệm con người của Chúa Giêsu Mêssia - Con Thiên Chúa. Đó là ý nghĩa nền tảng mà ngay từ đầu người ta mặc cho biến cố, ý nghĩa đã được lồng vào trong một màng lưới đầy những hoài niệm Thánh Kinh, trong một khung cảnh có tính cách khải huyền (trời mở ra, Thần Khí đến cách hữu hình, tiếng nói từ trên cao: toàn là những yếu tố thích hợp nhất để cho ta biết điều mà ta chỉ có một mặc khải từ trên mới tỏ lộ: sứ mạng cứu rỗi của Chúa Giêsu, cái sứ mạng rốt cục đặt cơ sở trên tư cách Con Thiên Chúa của Người).
Được các thánh sử tường thuật lại ngay ở ngưỡng cửa sứ vụ Cứu Chúa, trình thuật cho thấy từ đây phải hiểu tất cả cuộc đời công khai của Chúa Kitô dưới ánh sáng vừa nói mà ánh sáng đi trước ánh sáng phục sinh. Và ngay trong lần tuôn đổ Thánh Thần đầu tiên này, ngay trong chính việc Con Thiên Chúa xuất hiện giữa nhân loại này, ta thấy thời đại cánh chung đã bắt dầu, nước Thiên Chúa đã khai mạc.
Sau cùng, nhiều chỗ nhuận sắc sửa chữa nhắc ta nhớ mối dây liên kết phép rửa Kitô giáo với phép rửa Chúa chịu. Thật vậy, chính do tương quan nội tại với phép rửa Chúa Giêsu chịu mà bí tích Kitô giáo làm ta thành con cái Thiên Chúa là được mang Thần khí Ngài.
(Bản Pháp ngữ của Edmond Jacquemin Assemhlées du Seigneur số 12.)
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Chúa Giêsu là ai? Người từ đâu đến? Đó là những câu hỏi lớn lao? Ai sẽ trả lời? Ai sẽ mặc khải lai lịch của Người ra? Ai, nếu không phải làThiên Chúa. Đấng đã sinh thành và sai Người đến? phép rửa của Chúa Giêsu chính là nói Thiên Chúa mặc khải cho ta lai lịch Người. Ngài cho ta biết Chúa Giêsu là người tôi tớ Giavê (bài đọc I), là Đấng cứu rổi mọi người (bài đọc 2), là Con Thiên Chúa (bài Tin Mừng). Lời rao giảng của Gioan Tẩy giả là để chuẩn bị lòng người đón nhận mặc khải hôm nay. Đối với các Kitô hữu, ngoài Chúa Giêsu Kitô ra, không còn có ơn cứu rỗi nào khác, cuộc giải phóng đích thực nào khác.
2) Hôm nay, Chúa Giêsu được tấn phong làm Đấng Thiên Sai. Người ra đi mang sứ mạng cứu rỗi với uy lực của Thánh Thần và với danh nghĩa Con Thiên Chúa. Nhưng người cứu rỗi nhân loại theo cách người Tôi tớ mà Isaia đã loan báo ngày xưa. Đường lối cứu rỗi của Người là truyền rao chân lý. Tôn trọng tự do, giáo dục lương tâm, kêu gọi cõi lòng. Phương thế của Người là nêu gương và dạy nhân loại hãy từ bỏ chính mình để sống cho Thiên Chúa, là ban ân để mỗi cá nhân tự giải phóng mình khỏi sự vong thân kinh khủng của tội lỗi. Tinh thần của Người là tinh thần Bát Phúc. Kitô hữu chân chính muốn giải phóng thế giới và con người không thể đi con đường nào khác hơn.
3) Sau khi chịu rửa và được công khai tấn phong làm thiên sai. Chúa Giêsu đã được đưa vào hoang địa, chịu đủ cơn cám dỗ để chứng tỏ mình xứng đáng với lòng tin tưởng, mến yêu của Thiên Chúa, đủ vâng phục để theo thánh ý và đường lối Ngài, đủ sức mạnh để thi hành sứ vụ đặc biệt. Và thực sự Người đã chiến thắng sa tan, chiến thắng chính mình. Chúng ta cũng vậy. Sau khi chịu rửa tội và được tấn phong làm con Thiên Chúa, chúng ta đã được đưa vào lòng đời đầy bao thử thách. Hãy cố gắng chứng tỏ mình là Kitô hữu chính danh, đích thực, luôn sống và hành động theo đường lối của Chúa Kitô, của Thiên Chúa, luôn sống xứng đáng với tước hiệu "con chí ái" của Ngài.
4) Phép rửa trong nước và Thánh Thần hướng ta về phép rửa quyết định nào? Lâu lắm sau khi chịu phép rửa của Gioan, Chúa Giêsu tuyên bố: "Có một phép rửa Ta cần phải nhận, và Ta khắc khoải chờ mong cho nó hoàn tất" (Lc 12,50). Người nói tới cái chết trên thập giá như là sự hoàn thành tột bậc đời sống vâng lòi mà Người đã chọn lựa. Chúng ta cũng vậy.Bí tích thanh tẩy chúng ta đã chịu hướng ta về phép rửa quyết định được thể hiện qua tiếng "xin vâng" đối với Chúa mỗi ngày, là qua tiếng "xin vâng" cuối cùng mà, vào thời giờ một mình (Chúa biết, sẽ niêm ấn lời ưng thuận bất di bất dịch của ta trước kế hoạch yêu thương do Chúa đề nghị với ta.
54.Sống đời Kitô hữu--Noel Quesson
“Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về con”.
Tại một xứ cùng quê nước Pháp, có một người đàn ông khoảng 50 tuổi tên là Alix. Ông bị bại liệt. Mỗi buổi sáng bà vợ đặt ông vào một ghế bành ngoài hiên nhà rồi đi làm. Ông bà không con, không cháu.
Ông Alix không phải là người công giáo, nhưng thỉnh thoảng cha sở vẫn tới thăm, cha còn khuyên giáo dân tới giúp đỡ ông. Các em nhỏ tới chơi quanh ông, đem sách cho ông đọc và giúp ông mở sách. Mỗi tuần có một bác sĩ tình nguyện tới chăm sóc ông.
Giáng sinh năm đó, ông Alix đột ngột thưa cha sở:
- Thưa cha, xin cha cho con rước lễ.
Cha sở ngạc nhiên vì ông chưa là tín hữu. Nhưng ông thưa:
- Trước đây con không tin gì vào Thiên Chúa, nhưng ít lâu nay cha và anh em giáo hữu quá tốt với con nên con thấy hạnh phúc như mình được gặp Chúa vậy. Chỉ có Chúa mới làm cho cha, bác sĩ và anh chị em bỏ công sức giúp đỡ một người xa lạ như thế này.
Có lẽ chúng ta cũng nhận ra cha sở và các anh chị em giáo hữu Pháp đó, không phải đã làm một việc truyền giáo vĩ đại, nhưng họ chỉ thi hành những bổn phận mà Chúa đòi buộc mọi môn đệ Chúa, khi đã tự nguyện sống theo giáo lý của Ngài. Ngược lại nếu không thi hành những nghĩa vụ nhỏ bé đó thì họ không thể là môn đệ Chúa được.
Tin Mừng hôm nay kể chuyện Chúa chịu phép rửa. Dĩ nhiên Chúa không cần chịu phép rửa vì Ngài hoàn toàn trong sạch. Nhưng Chúa chịu phép rửa để làm gương cho chúng ta. Để chúng ta thấy một khi chúng ta biết chuẩn bị tâm hồn và lãnh nhận bí tích Rửa Tội, bí tích Thêm Sức, thì các bí tích đó sẽ cho ta ân sủng đặc biệt, đặt ta vào địa vị môn đệ Chúa với những nghĩa vụ nặng nề.
Khi Chúa chịu phép rửa, bầu trời đã mở ra. Thánh Thần hiện xuống dưới hình chim câu, có tiếng từ trời: “Đây là Con Ta yêu dấu”. Cha đặt cả tình yêu nơi Con. Từ giờ phút đó Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đời công khai. Chúa xuôi ngược khắp nơi trên toàn cõi Israel, rao giảng Tin Mừng cứu độ, chữa lành bệnh nhân, tuyển chọn và huấn luyện các tông đồ, đặt nền tảng cho Giáo Hội tiếp nối sứ mệnh Chúa nơi trần gian, để bảo toàn và làm triển nở hạt giống Tin Mừng. Cuối cùng Chúa tạo dựng kho tàng Ơn Cứu Độ bằng cái chết vô cùng đau khổ như một bằng chứng tình yêu cao cả và nồng thắm của Thiên Chúa đối với người thế qua mọi thời đại.
Những hiện tượng lạ xảy ra khi Chúa chịu phép rửa ở sông Giođan, chúng ta không thấy nữa khi một tân tòng lãnh nhận phép rửa hay một Kitô hữu lãnh bí tích Thêm Sức, nhưng phép Rửa Tội và bí tích Thêm Sức chúng ta cử hành ngày nay là những bí tích đã được Đức Kitô thiết lập và củng cố, những bí tích đó phát sinh cùng một công hiệu như xưa, và cũng trao cho chúng ta sứ mệnh như xưa. Đó là Ơn Thánh Thần và sứ mệnh truyền giáo.
Văn sĩ Anrê Manrô (André Malraux) viết: “Thế kỷ 21 là thế kỷ Kitô giáo hoặc sẽ bị tiêu vong”. Sứ mệnh đó trao phó cho chúng ta, cho mỗi Kitô hữu. Chỉ khi nào chu toàn sứ mệnh đó chúng ta mới xứng đáng là môn đệ Đức Kitô.
Lạy Chúa, xin tràn đổ Thánh Thần trên chúng con, đổi mới chúng con, nhờ Ngài chúng con trở nên chứng nhân của Chúa.
55.Chú giải của Noel Quesson
CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA
Sau một cuộc đột nhập vào Tin Mừng của Luca và Matthêu, để khám phá những mầu nhiệm về Giáng sinh và Hiển Linh, vì chỉ có hai Tin Mừng đó mới nói cho chúng ta về thời thơ ấu của Đức Giêsu... giờ đây ta gặp lại Tin Mừng Máccô. Chính Máccô bắt đầu trình thuật của mình lúc khởi sự đời sống công khai của Đức Giêsu. Và như thế chúng ta được dẫn ngay vào giai đoạn trưởng thành của Đức Giêsu. Lúc đó Ngài khoảng ba mươi tuổi.
Gioan Tẩy Giả loan báo trong hoang địa rằng: “Có một Đấng quyền thế hơn tôi, đến sau tôi"
Trong các Tin Mừng của Matthêu và Luca, lời loan truyền của Gioan Tẩy Giả mang một nội dung mãnh liệt, nhằm báo động ngày chung thẩm sắp tới gần: "Loài người rắn độc kia... Hãy tỏ lòng ăn năn sám hối... cái rìu đã đặt sát gốc cây" (Mt 3,7-10; Lc 3,7-9) Máccô hoàn toàn bỏ qua kiểu giảng truyền trên, để chỉ ghi lại lời loan báo Phép rửa của Người... Gioan Tẩy Giả chỉ nhằm giới thiệu Đức Giêsu "Đây là Đấng đến sau tôi mà các ông đang ngóng đợi" Người đã đến nơi rồi. Các ông hãy sẵn sàng!
Tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dép cho Người.
Như thế, ngay từ đầu trình thuật, Máccô đã lưu ý ta: Đức Giêsu mà ông sắp nói đến mang một mầu nhiệm. Đấng chưa biết rõ này, trước khi công khai xuất hiện, đã được người ta mong chờ. Điều đó muốn làm nổi bất nhân cách phi thường của Người: Vậy ông ta là ai? Gioan Tẩy Giả còn không dám "cúi xuống trước Người"!
Tôi, thì tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần".
Trong chương đầu tiên này. Máccô đã đề cập đến Thánh Thần tới ba lần. (Mc 1,8.10.12). Sự nhấn mạnh của ông hẳn là không để ta cứ vô tâm được. Chính các thính giả của Gioan Tẩy Giả cũng không thể nhầm lẫn. Như chúng ta họ phải biết lời tiên báo liên hệ đến Đấng Mêsia vị mang Thần Khí. (Is 11, 1-3; 42,1; 61,1) và truyền thống dồi dào Thần Khí trên nhân loại vào thời cứu độ (Is 32,15; 44,3; 59,21; Dt 11,19; 36,25; 2.9,37; 39,29 Ge 3,l...) Do đó, lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả chính là nhằm loan báo Đấng Mêsia đã đến gần kề, Người sắp đổ tràn Thần khí, để làm phát sinh một nhân loại mới.
“Người làm phép rửa, nhận dìm anh em trong Thần khí” Chúng ta có ý thức rằng, phép rửa Kitô giáo của chúng ta: cũng như thế không? Nói chung, chúng ta còn chưa sống thực sự ý nghĩa thâm sâu của phép rửa mình lãnh nhận. Vì bị nhận chìm trong môi trường vô thần hiện nay, tất cả chúng ta thường dễ cho rằng, việc "cứu độ" nhân loại là do hậu quả những nỗ lực, những thái độ nhân bản đầy giá trị của ta. Quan điểm về khoa học kỹ thuật cũng tạo cho ta quen nghĩ rằng, việc cứu độ con người nằm ngay trong con người: chúng ta phải trở nên liên đới hơn, hãy làm chủ thiên nhiên hơn, hãy sống chia sẻ nhiều hơn. Điều đó không sai. Nhưng tất cả "Mạc khải Kinh Thánh" (và kinh nghiệm chính thức nhất của con người) cũng nói cho ta hay, ý nghĩa sự sống của con người không nằm trong con người: vũ trụ dù lớn lao cách mấy, cũng không tự mình có "cứu cánh” được con người chỉ có thể hoàn tất trọn vẹn, khi mơ tới một thực tại siêu việt: Đó là Thần khí của Thiên Chúa! Như thế, câu trả lời cuối cùng cho tất cả các vấn nạn lớn, không nằm trong con người. Có ích lợi gì khi lên vũ trụ và lên tới mặt trăng, mà vì thế mà lại tự sát? Chiều kích "siêu việt" càng ngày càng khẩn thiết. André Malraux viết: "Thế kỷ XXI sẽ là kỷ nguyên Kitô giáo, hay nó không là gì cả!"
Cũng trong những ngày ấy, Đức Giêsu từ thành Nagiarét miền Galilê đến, và được ông Gioan làm phép rửa cho tại sông Giođan.
Đây là lần xuất hiện đầu tiên của Đức Giêsu trong trình thuật Máccô.
Đấng "chưa được nhận biết" này đã âm thầm sống ba mươi năm trong bóng tối của một càng quê nhỏ bé, mà cả Kinh Thánh, các sách Talmud, lịch sử hay địa lý cũng chưa khi nào nhắc đến... trước khi con người Giêsu chưa làm cho nó nổi danh trên thế giới, Vào thời đó, theo những khai quật khảo cổ Nagiarét chỉ gồm 20 nóc gia, và như thế khoảng độ một trăm dân cư. Chính từ vẻ tối tăm lạ thường đó, lại phát sinh một trong những biến động lịch sử lớn lao nhất, làm thay đổi bộ mặt địa cầu. Vậy con người Giêsu đó là ai? Lúc này đây, Người vẫn giữ vẻ bề ngoài như một người bình thường: Người cũng đến nhận phép rửa sám hối.
Vừa lên khỏi nước, Đức Giêsu liền thấy các tầng trời mở ra.
Mô tả cảnh này, Luca và Matthêu dùng một từ êm dịu hơn: "Trời mở ra". Còn Máccô viết: Tầng trời "mở tung ra".
Vừa rồi, khi bàn đến Phép rửa, ta đã gợi lên một thế giới mà trong đó con người có khuynh hướng tự đóng khung mình vào. Giờ đây Đức Giêsu chọc thủng một lỗ hổng trong vũ trụ đã đóng kín đó. Kể từ giờ trở đi trong con người của Đức Giêsu, nhân loại sẽ có một "kẽ hở" để thông hiệp với thế giới Thần linh.
Qua cách dùng từ gợi hình trên, ta có thể nhận ra lối viết thực tế của Máccô. Nhưng ta cũng có thể coi đây là một ám chỉ tới Isaia; vào thời lưu đày đau khổ, trong khi mệt mỏi và âu lo vì Thiên Chúa vân lặng thinh, một vị ngôn sứ đã khẩn cầu Thiên Chúa hãy phá tan sự thinh lặng như thời kỳ giải phóng khỏi cảnh nô lệ Ai Cập, và lời cầu nguyện của ông đã trở thành tiếng kêu van: "A! ước gì Người xé trời mà xuống..." (Is 63,19).
Đức Giêsu liền thấy các tầng trời mở tung ra, và thấy Thần khí tựa như chim bồ câu ngự xuống trên mình.
Cảnh này là cảnh đầu tiên trong cuộc đời của Đức Giêsu, theo Máccô. Theo vị thánh sử này, thì tác động đầu tiên của Đức Giêsu là "một cái nhìn", chỉ mình Đức Giêsu đã chứng kiến trời "xẻ mở" như trên, nhờ đó, Thần khí mới đáp xuống. Như vậy, chúng ta đang đứng trước một biến cố siêu nhiên, mà những người mục kích khác không nhận ra. Đó là cái nhìn nội tâm, chắc chắn diễn tả cách đào sâu lương tâm mà Đức Giêsu có được là do tư thế làm con Thiên Chúa và do sứ vụ của Người. Chúng ta cũng cần nỗ lực để hình dung ra sinh hoạt tâm lý của Đức Giêsu: Người đã không "trở nên" con Thiên Chúa nhờ tiến hóa bởi vì Người luôn luôn là con... Nhưng, xét là một người đích thực, cần phải có một tình trạng tiến triển nào đó trong lương tâm Người, phù hợp theo độ tuổi và theo những kinh nghiệm của Người: Ngày nay, ta có thể nói đó là một thứ "trực giác" hơn là một cái nhìn. Nhưng ngôn từ cửa chúng ta còn quá yếu kém để diễn tả những thực tại của Thiên Chúa.
Cựu Ước thường minh chứng cho ta, cách Thần khí xâm chiếm một người để trao cho một sứ vụ rõ ràng (Is 11,2; Tt 6,34; 14,19; 15,14). Và thực sự ta có thể hình dung ra được, Đức Giêsu bị xâm chiếm bất ngờ trong toàn thân Người, để xác tín về "vai trò" phi thường Người sẽ đảm nhận.
Thần khí đã tự "tỏ hiện" dưới dáng vẻ nào? Ta thấy bản văn dùng từ “như”- “như một chim bồ câu”. Trong ngôn ngữ Khải huyền, hình ảnh đặc thù này được sử dụng có ý gợi lên điều gì không thấy được: “Ao người trắng như tuyết, tóc đầu người như len trắng" (Đnl 7,9).
Nếu ta được dịp hiện diện trong một cuộc "thần hiện", nghĩa là một cuộc "tỏ hiện của Thiên Chúa", ta sẽ thấy không thể dùng lý trí để đi sâu vào mầu nhiệm được: Thiên Chúa không bao giờ xuất hiện như một thứ "thách đố” đối với con người... từ mọi phía Người vượt qua mọi khả năng cảm nhận và tưởng tượng của ta. Cần phải chấp nhận sự "xé mở", và để mình chìm trong lỗ hở đó như rơi vào trong một vức thẳm.
Lại có tiếng từ trời phán rằng: “Con là con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về con".
Đây là kinh nghiệm độc nhất về tình âu yếm. Đức Giêsu biết mình được yêu. Hiển nhiên một ít người đã có dịp gần Đức Giêsu, khám phá ra nơi Người một kiểu tương quan hết sức đặc biệt với Thiên Chúa. Trong lúc cầu nguyện Người nói với Đấng vô hình trong một mối thâm tình mà trước Người không ai dám sống như vậy. Người thưa lên: “Abba!" có nghĩa như "Ba ơi!" (Mc 14,36).
Từ nhiều năm, trong thôn làng Nagiarét nhỏ bé và tăm tối của mình, Người vẫn âm thầm sống cách diệu kỳ mối tình con thảo đó. Và giờ đây mới có dịp vang lên như tiếng chuông ngân vui trong trái tim Người: "Con là tình yêu của Cha. Con là con độc nhất của Cha. Cha hài lòng về con". Chắc chắn, những lời đó đã được rút ra từ Kinh Thánh. Tốt hơn ta nên đọc lại những câu trên mà Đức Giêsu hẳn đã suy niệm, thưởng nếm nhiều năm trong khi cầu nguyện tại Hội đường, hay trong nếp sống hàng ngày tại căn nhà bé nhỏ, với Đức Maria, trong khi làm việc. Có lúc nào bạn cảm nghiệm như thế không? Bạn có cảm thấy mình được yêu chưa? Có đáp trả tình yêu đó? Tình yêu như một cái vừa mạnh mẽ, vừa dịu êm, đem lại cho mọi giây phút đời bạn tràn ngập bình an và hạnh phúc.
Ta sẽ là Cha nó, và nó sẽ là con Ta (2 Sm 7,14).
Đức Giêsu đã phán với tôi rằng: "Người là con Ta, chính hôm nay, Ta đã sinh ra người". (Tv 2,7)
"Này đây tôi tớ của Ta, kẻ Ta đã chọn và hồn Ta sủng mộ" (Is 42,1).
"Hỡi Giêrusalem, người ta sẽ gọi ngươi tên mới: Ngươi sẽ không còn bị người ta nói: "Đồ bỏ!”, thiên hạ sẽ gọi ngươi "Sủng ái của Ta" (Is 62,4)
56.Chú giải của Fiches Dominicales
ĐỨC GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA Ở SÔNG GIOĐAN
VÀ CUỘC TỎ HIỆN CỦA THIÊN CHÚA
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Đọc lại dưới ánh sáng Phục sinh
Dưới ánh sáng Phục sinh, tác giả Tin Mừng ngược dòng thời gian trở về tới biến cố Đức Giêsu chịu phép rửa. Cùng với sứ vụ của Vị Tiền Hô, biến cố này làm thành phần "Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa" (1,1).
Ở đây, tác giả cho chúng ta khám phá trong một lúc sự hoàn tất những lời đã hứa cho Israel, cuộc mạc khải về mầu nhiệm bản thân Đức Kitô, khởi đầu và lời loan báo về sứ vụ của Người.
D. Jacquemin viết: "Được các thánh sử Tin Mừng kể lại ngay trước khi Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ, bài tường thuật cho thấy từ nay phải hiểu toàn bộ cuộc đời công khai của Đức Kitô dưới ánh sáng đó (nó chiếu rọi trước hào quang của Phục sinh). Và rồi, trong lần hiển hiện đầu tiên của Thánh Thần này, trong cuộc xuất đầu lộ diện của Con Thiên Chúa đến hiện diện giữa loài người này, người ta được chứng kiến thời buổi cánh chung đă khởi đầu, “triều đại Nước Trời đã khai mở" (Assemblées du Seigneur, số 12, trang 66).
2. Một biến cố hoàn tất những lời hứa xưa
Bài đọc Tin Mừng của ngày lễ Chúa chịu phép rửa hôm nay, được bắt đầu bằng một màn "ra mắt" nhân vật Giêsu:
+ Hoạt động của Người được thuật lại bằng một công thức xem ra xa lạ nơi Máccô, được vay mượn từ Cựu Ước. Nó có thể lấy từ đoạn ra mắt của Môsê, ở đầu sách Xuất Hành: xảy ra là vào những ngày ấy, Môsê lớn rồi, thì..." (Xh 2, 11). Ngay từ đầu, Đức Giêsu đã được giới thiệu như là Môsê mới. Điều trớ trêu, Đức Giêsu đã không đến từ miền Giuđêa hay từ thành thánh Giêrusalem, nhưng lại từ Nagiaret, miền Galilê, một làng quê hẻo lánh thuộc một vùng vốn bị thiên hạ coi rẻ. Bởi đó mới có câu: “Từ Nagiaret, làm sao có cái gì hay được" (x. Ga 1,46). Và Người đến như bao kẻ khác, để chịu phép rửa của Gioan Tẩy Giả trên sông Giođan.
Máccô bỏ qua không nói đến cuộc trao đổi giữa Đức Giêsu và vị Tẩy Giả, cũng như chi tiết việc Chúa dìm mình xuống sông Giođan. Bù lại, nhờ khả năng vận dụng khéo léo và làm khơi lên phong phú những hình ảnh Kinh Thánh, ông đã minh hoạ được điều mà cộng đoàn Kitô hữu sau này, dưới ánh sáng Phục sinh, xem là đặc thù nơi biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa.
+ Cuộc tỏ hiện của Thiên Chúa xảy ra, tác giả Tin Mừng xác định rõ, "khi Đức Giêsu vừa lên khỏi nước”. Nhận xét này, một lần nữa, có ý trình bày Đức Giêsu như là Môsê mới.
Quả thực, theo J.Hervieux giải thích: người ta tìm thấy nơi sách ngôn sứ Isaia một lời cầu tha thiết xin Thiên Chúa tái diễn lại những hành động cứu thoát như thời Xuất Hành. Máccô được gợi hứng từ một đoạn trong sách đó có câu: "Đâu rồi Đấng (Thiên Chúa) đã từng làm cho bước lên khỏi nước biển vị mục tử (= Môsê) chăn dắt đàn chiên của Người?". Bởi đó chẳng phải ngẫu nhiên mà tác giả Tin Mừng nói rằng chính lúc ‘vừa lên khỏi nước, Đức Giêsu đã được nhận lấy Thánh Thần’. Đối với Máccô, Đức Giêsu chính là Môsê mới. Phép rửa Người chịu là một cuộc vượt qua mới khỏi Biển Đỏ" (L'evangiìe de Marc, Centurion, 1991, trang 20).
+ Khác với Tin Mừng Matthêu, cuộc tỏ hiện ở đây xảy ra nhằm chính Đức Giêsu. Nó gồm hiện tượng: các tầng trời xé ra, Thần Khí ngự xuống, và tiếng từ trời phán.
a) "Đức Giêsu liền thấy các tầng trời xé ra”. Theo truyền thống Do Thái, từ thời các ngôn sứ cuối cùng thì các tầng trời, nơi Thiên Chúa ngự, đã khép lại rồi. Ngôn sứ không còn nữa, nên mối liên lạc giữa Thiên Chúa và loài người cũng đã bị cắt đứt. Bởi thế đến hôm nay, khi Người đáp lại tiếng van nài của vị Ngôn sứ trong cảnh lưu đày khốn khổ: "Ước gì Ngài xé trời và ngự xuống”, thì đúng là một thời mới đã mở màn, mối liên lạc đã được tái lập giữa Thiên Chúa và loài người. Kiểu nói "xé ra" sau này chỉ trở lại dưới ngòi bút của Máccô vào giây phút Đức Giêsu tắt thở trên thánh giá: "Bức màn trương trong đền thờ bỗng xé ra làm hai từ trên xuống dưới (15,38). Điều đã được khai mở hôm nay trên dòng sông Giođan rồi đây sẽ được hoàn tất mỹ mãn trên đồi Canvê: Đức Giêsu đã mở ra một lối đi cho hết mọi người được tự do đến với Thiên Chúa.
b) "Và thấy Thần Khí tựa chim bồ câu ngự xuống trên mình”.
Trước khi Đức Giêsu đến, Thần Khí đã như bị dập tắt: Người không còn ngự xuống để tác động thêm những ngôn sứ mới. Ở đây, Đức Giêsu vừa lên khỏi nước sông Giođan liền thấy Thần Khí ngự xuống trên mình, chỉ định Người làm vị Ngôn sứ của thời đại mới.
c) “Lại có tiếng từ Trời phán rằng: Con là con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”.
Thiên Chúa (trong thế giới Do Thái, Trời là một cách để gọi Thiên Chúa mà tránh đụng đến Người) chứng thực cho sứ mạng của Đức Giêsu: Người không chỉ là một ngôn sứ như bao ngôn sứ khác, bởi ở đây Thiên Chúa đã nói với Người những lời mà ngoài Người ra chưa từng nói với ai. Những lời này có tầm mức vô cùng quan trọng, chúng hoạ lại và đồng thời làm sáng tỏ ý nghĩa hoàn tất của một số câu nói trong Cựu Ước:
- Họa lại một câu trong Thánh vịnh 2: "Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (c.7), mà truyền thống Do Thái vừa đọc lên như lời sấm về Đấng Mêsia. Ngay từ những trang đầu của Tin Mừng, Đức Giêsu đã được tuyên phong là Vua Cứu Thế thuộc dòng tộc Đavid, là Đấng Kitô của Thiên Chúa: Hoạ lại câu nói được nhắc đi nhắc lại đến 3 lần trong Sách Sáng Thế 22, lúc Abraham vì vâng lệnh truyền của Thiên Chúa, toan hạ tày sát tế Isaac, đứa con của lời hứa, "đứa con yêu dấu" của ông. Đức Giêsu được xem như một Isaac mới, khác chăng là Người đã không thoát khỏi cái chết. Sau cùng, hoạ lại nhiều từ trong Isaia 42,1; Đức Chúa phán bảo cùng Người Tôi Tớ: "Này đây Tôi Tớ của Ta, kẻ Ta nâng đỡ, Người Ta đã chọn và hồn Ta sùng mộ”. Giống như Người Tôi Tớ đó, Đức Giêsu, Đấng Thiên Chúa hằng một niềm dấu ái và Thần Khí ngự xuống dư đầy, nay được sai đi thi hành sứ mạng là trở nên ánh sáng các nước, "mở những mắt mù loà”, "đưa tù nhân ra khỏi nhà lao, khỏi ngục thất dân cư bóng tối" (Is 42,6-7). Và cũng cùng một thân phận với Người Tôi Tớ được vị ngôn sứ loan báo trên, Chúa sẽ phải thực hiện sứ mạng ấy qua con đường tự hạ, và khổ đau.
3. Và mở ra sứ mạng sẽ tới
Như vậy, ngay từ trang đầu tiên của Tin Mừng Máccô, tất cả đã cho thấy một tấn kịch đang được mở màn. Tuy nhiên, mọi sự chỉ mới ở mức độ nói xa nói gần, nói dè dặt, gần như còn cần phải giữ kín đáo để vạch ra một cái hướng cho những gì cần phải được khám phá trong suốt bản văn.
Jacques Hervieux kết luận: "điều hiển nhiên là, đối với Máccô, phép rửa Đức Giêsu chịu không phải nhằm tẩy sạch những tội lỗi mà Người chẳng hề phạm. Đó chính là tín hiệu khởi hành, là trái giao banh cho sứ mạng mà Thiên Chúa ký thác cho Đấng được gọi là "Mêsia”, và là "Con Thiên Chúa" (theo nghĩa mạnh của niềm tin Phục sinh).
Đức Giêsu quả là Sứ Giả đặc biệt của Thiên Chúa để thiết lập vương quốc của Người. Từ giây phút này, người đã có thể vào cuộc để thực hiện sứ mạng ấy.
BÀI ĐỌC THÊM
1. Đức Giêsu, người Con Chí Ái của Chúa Cha.
(Mgr. Daloz, trong "Qui don est-il?", Desclée de Brouwer, tr.11).
"Đức Giêsu, kẻ xuất thân từ làng Nagiarét ấy, là Con Thiên Chúa, đó không chỉ là một định nghĩa hay một danh xưng mà thôi đâu. Đó là một liên hệ tình yêu, một mối dây "gia đình”. Tiếng Chúa Cha đã vang lên trìu mến: "Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con. Đúng là một khẳng định của tình yêu Đức Giêsu vừa là con người xuất thân từ Nagiarét, vừa đồng thời là Đấng sống mật thiết với Chúa Cha trên trời: Các tầng trời xé ra, và Thần Khí tựa chim bồ câu ngự xuống trên Người. Đây mới thực là "mầu nhiệm của Đức Giêsu, mà người ta chẳng bao giờ khám phá cho cạn, suy cho thấu. Mầu nhiệm của một đời người hoàn toàn cho tình yêu, tràn đầy Thần Khí. Cuộc đời của Đức Giêsu ngay từ ban đầu đã được xác định qua tương quan với Chúa Cha và với Thần Khí. Đó chính là mấu chốt thâm sâu nhất của bản thân Người. Đức Giêsu được giới thiệu cho chúng ta qua lời xác nhận yêu thương của Chúa Cha. Đây là danh thiếp của Người: "Con Chí ái của Cha”.
2. “Hội Thánh và những anh chị em tân tòng hôm nay"
(Guy Cordonnier, trong "Pastorale sacramentelle. Points de repères", Cerf, trang 138-139).
"Kitô giáo, xét như là một hiện tượng xã hội học, ngày nay đang trên đường bị xoá sổ. Trào lưu ngoại giáo cổ lại như đang tìm cách trở lại với khoa chiêm tinh, các giáo phái, ma thuật, bói toán, các thầy gu-ru vv... không còn những khuôn mẫu, mọi cơ chế bị đặt lại vấn đề, nỗi thèm khát để có nhiều, biết nhiều, xu hướng ngày càng nghiêng về những cảm nghiệm tức thời và hời hợt... đó là những dấu đậm nét trên thời đại của chúng ta hôm nay, và người Kitô hữu đôi khi không biết làm sao để tìm thấy lại được chân tính của mình trước nền văn minh hiện đại. Giữa lòng một xã hội như thế, những tín hữu Kitô chúng ta có bổn phận phải làm chứng về các giá trị Tin Mừng. Họ được mời gọi đừng co cụm lại trong thế giới của mình, nhưng hãy tham gia vào số phận chung của nhân loại và khám phá những dấu chỉ của Nước Trời khắp nơi. Những dấu chỉ đó vượt xa biên giới hữu hình của Hội Thánh: Nước Thiên Chúa phải chăng hôm nay đang hiện diện ở bất cứ nơi nào có tình yêu bày tỏ, có công lý ngự trị, có sự quan tâm thương mến những người nghèo?
Thời buổi hiện đại hôm nay là một thời cơ tốt cho Hội Thánh, đang chịu thách đố để trả lời cho những vấn nạn và khát vọng mới. Những người trưởng thành mới chịu phép Rửa Tội, trong lúc gắn bó với môi trường sinh sống của mình, trở nên một thứ nhịp cầu nối liền môi trường ấy với Hội Thánh. Họ đã am hiểu những gì ở trong thế giới chưa-có-đức-tin, nên họ nói với chúng ta: "Xin quí vị đừng bỏ qua những người chưa được rửa tội, những người đã bỏ đạo, những người ở vị trí vòng ngoài của Hội Thánh. Làm sao để loan báo Tin Mừng cho họ bây giờ?”.
Những câu hỏi như thế phải giúp chúng ta trở về với điều được xem là hiển nhiên nơi các hiểu biết và thực hành của chúng ta trong Hội Thánh. Chúng hoà hợp những điều đó nơi các anh chị em mới trở lại, tức là những người quay về lại với Hội Thánh sau một thời gian đoạn tuyệt ít nhiều lâu dài, với nơi một số đông các Kitô hữu nhạy bén với thế giới hôm nay: làm sao để hội nhập đầy đủ vào trong Hội Thánh như hiện nay? Làm sao chất vấn, thậm chí thúc đẩy Hội Thánh đáp ứng được nhiều hơn sứ mạng của mình?
Những anh chị em tân tòng chỉ là số nhỏ, nhưng sự hiện diện của họ mang nặng ý nghĩa. Việc tiếp nhận họ có liên can đến mức độ phong phú thiêng liêng của Hội Thánh. Các giáo đoàn của chúng ta có ý thức đầy đủ điều đó? Sự kiện những người đã lớn ngoài Kitô giáo tìm đến với Đức Tin còn là một hiện tượng quá mới mẻ để chúng ta có được một mục vụ đặc biệt cho. Đây đó đã có vài sáng kiến trong một số giáo phận, nhưng người ta vẫn còn trong giai đoạn nghiên cứu và thử nghiệm".
57.Chú giải của William Barclay
Mc 1, 7-9
THÔNG ĐIỆP CỦA GIOAN
1) Thông điệp của ông sở dĩ hiệu nghiệm vì ông hoàn toàn khiêm hạ. Chính ông tự đánh giá là không xứng đáng với nhiệm vụ làm đầy tớ. Dép (bản Việt văn dịch là ‘giày’) chỉ là một miếng da có xoi lỗ, buộc vào bàn chân bằng mấy sợi dây. Đường đi rất gồ ghề, vào mùa khô, bụi tích tụ thành từng đống, mùa mưa thì đó là những con sông ngập bùn. Cởi dép là bổn phận và việc làm của kẻ tôi tớ. Gioan chẳng mong ước gì hơn là được làm bất cứ việc gì cho Chúa Cứu Thế mà ông đang loan báo. Ông quên mình, sẵn sàng phục tùng, sẵn sàng chịu lu mờ, hoàn toàn xóa bỏ mình trong thông điệp của ông đã thúc đẩy dân chúng nghe ông.
2) Thông điệp của Gioan có hiệu quả vì ông đã hướng dân chúng chú ý đến một điều, một nhân vật cao cả vượt trội. Ông bảo dân chúng rằng qua phép rửa, ông dìm họ xuống nước, nhưng Đấng đến sau ông sẽ dìm họ trong Thánh Thần. Trong khi nước tẩy sạch thân thể thì Thánh Thần thanh lọc cả đời sống, bản ngã và tấm lòng con người. Tiến sĩ G.J Jeffrey có dùng một ví dụ mà ông rất tâm đắc. Khi ông gọi điện thoại qua nhân viên tổng đài mà nếu có sự chậm trễ thì nhân viên tổng đài thường nói: “Tôi sẽ cố gắng bắt liên lạc cho ông”. Khi đã bắt được liên lạc, thì nhân viên tổng đài tự rút lui để đôi bên tiếp xúc với nhau. Mục đích duy nhất của Gioan là không chiếm lấy trung tâm liên lạc điện thoại mà cố gắng giúp người ta bắt liên lạc với Đấng trọng đại và quyền phép hơn ông, và người ta nghe ông vì ông không chỉ vào chính mình nhưng chỉ vào Đấng mà mọi người cần đến.
Mc 1, 9-11
NGÀY QUYẾT ĐỊNH
Với bất cứ ai biết suy nghĩ, thì phép rửa của Chúa Giêsu hẳn phải nêu lên một vấn đề. Phép rửa của Gioan là phép rửa kêu gọi hoán cải, dành cho những người hối tiếc về tội lỗi của mình và muốn bày tỏ quyết định từ bỏ chúng, dứt khoát với chúng. Nhưng một phép rửa như thế thì liên hệ gì đến Chúa Giêsu? Ngài lại không phải là Đấng vô tội, và một phép rửa như thế lại không phải là hoàn toàn không cần thiết, không thích hợp với Ngài hay sao? Với Chúa Giêsu thì phép rửa có bốn ý nghĩa sau đây.
1) Với Ngài đó là khoảnh khắc quyết định. Ba mươi năm qua Ngài ở tại Nagiarét, Ngài trung tín làm bổn phận hàng ngày trong nhà. Từ lâu Ngài đã ý thức rằng sẽ có lúc Ngài phải rời gia đình, chắc Ngài đang chờ một dấu hiệu. Với Ngài, sự xuất hiện của Gioan chính là dấu hiệu đó. Ngài thấy đó chính là khoảnh khắc Ngài phải dấn thân vào sứ vụ. Trong mỗi đời sống đều có những khoảnh khắc quyết định mà người ta có thể chấp nhận hay chối từ. Chấp nhận chúng là thành công, chối bỏ chúng là hụt mất, thất bại. Mỗi người đều có một khoảnh khắc để quyết định mà không bao giờ còn gặp lại. Một đời sống phí hoài, thất vọng, bất đắc chí và thường thường một đời sống đầy thảm kịch là một đời sống không biết quyết định. Một đời sống bỏ mặc, đánh liều nhắm mắt đưa chân chẳng bao giờ là một đời sống có hạnh phúc. Khi Chúa Giêsu biết Gioan xuất hiện là lúc Ngài phải quyết định. Làng Nagiarét vốn bình lặng, gia đình Ngài vốn yên lành, êm đềm, nhưng Ngài phải đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa.
2) Với Ngài, đó là khoảnh khắc để tự hòa mình với mọi người. Chúa Giêsu không cần phải hoán cải, nhưng đây là lúc mà dân chúng cần quay về với Thiên Chúa và với phong trào trở về đó, Ngài quyết định tự hòa mình vào. Có thể có người đang sống thoải mái dư giả, sung túc, nhưng nếu người ấy thấy dấy lên một phong trào có thể đem đến nhiều điều tốt đẹp hơn cho những người nghèo khổ bị chà đạp, phải cư trú trong những ngôi nhà lụp xụp tồi tàn, phải lao động quá sức nhưng lại nhận những đồng lương quá ít ỏi, không có lý do gì để người ấy không chịu đến để hòa mình vào đó. Sự hòa mình thật sự có ý nghĩa khi một người tự hòa mình vào một phong trào không phải vì chính mình nhưng vì kẻ khác. Trong giấc mơ của John Bunyan, Kitô hữu và nhà truyền giáo đến một cung điện được canh giữ cẩn mật, đòi hỏi phải có một chiến trận để tìm đường vào. Tại trước cửa có một người ngồi, tay cầm bút để ghi tên những người dám tấn công. Trong lúc mọi người đang chùn lại thì Kitô hữu thấy một người dung mạo cường tráng, tiến đến bên cạnh người đang cầm bút và nói “thưa ông xin hãy ghi tên tôi”. Khi thấy việc trọng đại trước mắt, Kitô hữu bị buộc phải nói “thưa ông xin hãy ghi tên tôi” vì đó chính là điều Chúa Giêsu đã làm khi Ngài đến xin chịu phép rửa.
3) Với Ngài đó là khoảnh khắc để được chấp thuận. Chẳng có ai lại nhẹ dạ bỏ nhà ra đi mà không biết mình đi đâu. Người ấy phải biết chắc chắn mình đã hành động đúng. Chúa Giêsu đã quyết định bắt đầu hành động và giờ đây, Ngài đang chờ đợi dấu ấn đồng ý tán thành từ Chúa Cha. Vào thời của Chúa Giêsu, dân Do Thái nói về điều họ gọi là Bath Qol có nghĩa là con gái của tiếng gọi. Bấy giờ, họ tin là có nhiều tầng trời, trên tầng cao nhất có Thiên Chúa ngự trong một vùng ánh sáng không một ai đến gần được. Thật là hiếm có những cơ hội mà các tầng trời mở ra và Chúa truyền phán. Theo họ Chúa ở xa đến nỗi người ta chỉ nghe được tiếng phán của Ngài vọng lại từ nơi thật xa mà thôi. Với Chúa Giêsu, tiếng phán của Chúa Cha hoàn toàn trực tiếp. Theo Maccô kể, đây là một kinh nghiệm riêng của Chúa Giêsu chớ không có ý bày tỏ cho quần chúng. Tiếng từ trời không nói “Này là Con yêu dấu của Ta” như Matthêu ghi lại, nhưng phán thẳng với chính Ngài rằng “Con là Con yêu dấu của Cha”. Lúc chịu phép rửa, Chúa Giêsu đã quyết định phục tùng Chúa Cha và rõ ràng quyết định ấy đã được chấp thuận, không có gì phải nghi ngờ cả.
4) Với Ngài, đó là khoảnh khắc để trang bị. Bấy giờ Thánh Thần ngự xuống trên Ngài. Ở đây có ý nghĩa biểu tượng, Thánh Thần đã ngự xuống như chim bồ câu. Hình ảnh dùng so sánh không phải là ngẫu nhiên. Chim bồ câu tượng trưng cho sự nhu mì. Cả Matthêu lẫn Luca đều kể lại cho chúng ta cách rao giảng của Gioan (Mt 3,12; Lc 3,7-13). Thông điệp của Gioan là thông điệp chiếc búa đang đặt gần gốc cây, về việc luyện lọc khủng khiếp, về ngọn lửa thiêu rụi. Đó là một thông điệp cấp báo sự tàn hại, hủy diệt, chứ không phải một thông điệp của những tin tốt lành. Nhưng ngay từ đầu, bức tranh về Thánh Thần được ví sánh với chim bồ câu là một bức tranh nhu mì, hiền dịu. Ngài sẽ chiến thắng nhưng chiến thắng ấy sẽ là chiến thắng của tình yêu.
58.Các biến cố cơ bản--Camille Gagnon
Nhân dịp một số biến cố, chúng ta đã khám phá được tình yêu Thiên Chúa. Với Chúa Giêsu chúng ta nhắc lại những biến cố này và tạ ơn Chúa.
Lịch sử cuộc đời chúng ta.
Khi người ta yêu cầu ai đó kể lịch sử đời họ trong một cuộc phỏng vấn hoặc để viết một tiểu sử, người ấy sẽ kể những giai đoạn nổi bật và nối kết những bước ngoặt quyết định với một số biến cố, một số gặp gỡ, một số nơi chốn.
Đôi khi chỉ cần một điệu nhạc ngắn đã đủ khơi dậy một niềm say mê đối với Beethoven hoặc Pink Floyd. Một quyển sách có thể làm cho ta ham thích địa lý hoặc lịch sử. Một cuộc gặp gỡ, một bài diễn thuyết có thể là khởi điểm của một sự nghiệp nghệ sĩ hoặc khoa học. Những biến cố này chúng ta có thể gọi là “biến cố cơ bản”.
Trong một cuộc đời, những biến cố như thế không nhiều lắm và trong số những biến cố ấy, một số sẽ tác động nhiều hơn, nhất là những biến cố đã quyết định những mối liên hệ của chúng ta: bước đầu của một tình bạn, việc lựa chọn người phối ngẫu. Những nơi chốn hoặc giờ giấc đã xảy ra những cuộc gặp gỡ đó ghi dấu sâu đậm nơi ký ức đến nỗi chúng trở thành những biểu tượng thiêng liêng của người yêu hoặc của tình yêu.
Tin Mừng mô tả một biến cố cơ bản như thế đối với Chúa Giêsu: việc Chúa chịu phép rửa trên bờ sông Giođan từ tay Gioan.
“Con là Con Ta yêu dấu”
Không gì có vẻ báo trước sẽ xảy ra một điều đặc biệt khi Chúa tiến đến để hoàn thành nghi lễ thanh tẩy. Bản văn Tin Mừng chỉ kể lại rằng “Vào thời ấy, Chúa Giêsu chịu phép rửa trong sông Giođan”. Không có dàn cảnh, người ta không trải thảm để Chúa Giêsu đi xuống nước. Gioan Tẩy Giả không có vẻ nhận ra Chúa ngay tức khắc. Mọi sự xảy ra nơi Chúa Giêsu là người muốn sống chân thành một kinh nghiệm tôn giáo, muốn thể hiện việc hoán cải theo lời mời gọi của Gioan. Chỉ lúc ra khỏi nước Chúa Giêsu mới ý thức về tầm quan trọng của cử chỉ này. Những gì Ngài vừa mới sống sẽ có một ảnh hưởng rất lớn trên cuộc đời của Ngài. Ngài khám phá rằng Ngài được Thiên Chúa yêu như một người con một, một người con ưu ái: “Cha đã đặt nơi con tất cả tình yêu của Cha”.
Để hiểu rõ hơn kinh nghiệm mà Chúa Giêsu đang sống đây, ta nên nghĩ đến một tiếng sét ái tình. Chính trong bối cảnh này mà ta có thể tưởng tượng Chúa Giêsu ra khỏi nước, trầm lặng, lòng sốt mến, rồi ngẩng đầu lên nhìn thấy một chim bồ câu đang bay. Lúc đó chim bồ câu trở thành biểu tượng thiêng liêng của kinh nghiệm nội tâm của Ngài, của điều Ngài vừa khám phá. Sứ vụ và sự dấn thân của Chúa Giêsu sẽ phát xuất từ khám phá này, từ tiếng sét này. Chim bồ câu sẽ là biểu tượng nhắc nhở Ngài về sứ vụ ấy.
Sống lại phép rửa của chúng ta.
Đi từ phép rửa của Chúa Giêsu, việc Bí tích thánh tẩy được coi như biến cố cơ bản của đời sống Kitô, nghĩa là của sự dấn thân của chúng ta đối với Thiên Chúa và sự cam kết của Thiên Chúa đối với chúng ta. Đó là khởi điểm cuộc mạo hiểm làm con cái Chúa của chúng ta. Nếu ý thức điều này cha mẹ chúng ta sẽ yêu thương chúng ta bằng một tình yêu hoàn hảo nhất khi giới thiệu với chúng ta một người “Cha” khác, một người Cha lớn hơn các ngài. Rủi thay chúng ta đã không biết gì về biến cố thánh tẩy của mình.
Chỉ dần dần, nhờ những biến cố khác, những sự việc ngẫu nhiên khác chúng ta mới có thể khám phá tình yêu của Thiên Chúa.
Hôm nay Tin Mừng cho chúng ta dịp ôn lại lịch sử tôn giáo của chúng ta và nhắc lại với chúng ta những xúc động mạnh, những lễ hội, những tang chế là những dịp đã mặc khải cho chúng ta tình yêu Chúa. Tôi chắc chắn rằng nhiều người trong anh chị em đang có trong ký ức của mình kỷ niệm về một dịp nào đó đã giúp mình “gặp gỡ” Thiên Chúa.
Kinh nguyện Thánh Thể trong đó lịch sử cứu độ thế giới được tóm tắt lại sẽ giúp chúng ta nhớ lại những biến cố cơ bản của cuộc đời chúng ta trong niềm tri ân.
59.Suy niệm của Lm Jos. Nguyễn Văn Tuyên
Bằng hành động bước xuống dòng nước, Đức Giêsu thực sự muốn đồng cảm với con người, để chia sẻ thân phận đói nghèo, khổ đau, bệnh hoạn của con người, để cảm nếm nỗi ray rứt khắc khoải của tội nhân, để thấu hiểu niềm khao khát đổi mới trong lòng người tội lỗi.
Trong truyện cổ dân gian cũng như trong những bộ tiểu thuyết, có biết bao nhiêu câu chuyện tình thật cảm động, khi hai người đến với nhau mà người bạn đời lại không “môn đăng hộ đối”. Thế nhưng, vì tình yêu, họ đã dám chấp nhận tận cả để có được nhau trong đời, như câu chuyện hoàng tử đi cưới một cô bé lọ lem chẳng hạn. Để ca tụng mối tình vượt không gian và thời gian đó, ca dao tục ngữ Việt Nam có câu: “Yêu nhau mấy núi cũng leo, mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua. Yêu nhau chẳng ngại đường xa. Đá vàng cũng quyết, phong ba cũng liều”.
Thế nhưng màu nhiệm Con Thiên Chúa làm người là một câu chuyện tình đẹp hơn thế bội phần. Bởi vì vị hôn phu ở đây không phải là một người phàm, nhưng là một vị Thiên Chúa. Ngài đã từ bỏ ngai vàng ở trên trời cao để đến với nhân loại. Như lời bài thánh ca Philipphê: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2,6-7).
Hôm nay, Tin Mừng Luca thuật lại việc Đức Giêsu cùng bước xuống dòng nước Giođan để chịu phép rửa bởi tay ông Gioan đã nói lên sự tự hủy đó. Có lẽ đây là biến cố chúng ta đã kỷ niệm nhiều lần, nên thành ra có cảm giác “quen quá hóa nhàm”, mà không thấy được sự cao vời của màu nhiệm tự hủy của Ngôi Hai Thiên Chúa.
Quả vậy, làm sao chúng ta có thể hiểu được việc Đức Giêsu - Con Thiên Chúa - Đấng hoàn toàn vô tội, lại có thể đứng chung với đoàn người tội lỗi, để rồi cùng bước xuống dòng sông như một tội nhân? Làm sao có thể hiểu được khi mà Đấng sẽ làm phép Rửa trong Thánh Thần, nay lại xin được chịu phép rửa sám hối trong nước.
Chính vì thế mà Tin Mừng Matthêu thuật lại rằng: khi thấy Đức Giêsu đến gần mình, thì Gioan tỏ ra bối rối. Ông đã một mực can Người và nói: "Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!" Nhưng Đức Giêsu trả lời: "Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính." (Mt 3,14-15)
Chiêm ngắm Đấng Cứu Thế cúi mình chịu phép rửa, chúng ta hiểu được thế nào là tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người: Một tình yêu đến quên bản thân mình, để cùng sống chết với người mình yêu. Một tình yêu sẵn sàng chia sẻ trọn vẹn, một tình yêu chấp nhận cúi xuống để nâng người mình yêu trỗi dậy.
Thánh Macximô Giám mục Tôrinô đã không ngần ngại gọi ngày hôm nay là một “lễ Giáng Sinh nữa”. Thánh nhân lập luận rằng: lễ Giáng Sinh trước, Đức Giêsu được sinh ra trong thân phận con người bởi cung lòng Đức Trinh Nữ Maria. Còn hôm nay, Người được sinh ra theo mầu nhiệm. Chúa Cha đã âu yếm nói với Người: “Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” (Lc 3,22). Xưa kia, Đức Mẹ nâng niu âu yếm trong lòng khi con sinh ra, còn hôm nay, Chúa Cha dùng lời chứng thân thương mà nâng đỡ; xưa kia, Đức Mẹ đưa Chúa Con cho các hiền sĩ bái thờ, còn hôm nay, Chúa Cha mạc khải Chúa Con cho muôn dân thờ kính. Xưa kia, Người được sinh ra để thánh hóa nhân loại, còn hôm nay, Người khởi đầu sứ vụ của mình bằng việc chịu phép rửa, không phải để được nước thánh hóa, nhưng là để chính Người thánh hóa nước, để từ nay ơn thanh tẩy được phân phát cho hậu thế.
Với sự kiện Chúa Giêsu chịu phép Rửa, Người đã khai mạc một giai đoạn mới trong cuộc đời cứu thế của Người. Người kết thúc cuộc sống ẩn dật và bước vào cuộc đời công khai loan báo Tin Mừng. Đồng thời Người mở ra một kỷ nguyên mới, “kỷ nguyên tân tạo” những gì Adong cũ đã làm hư hoại như lời thánh Phaolô xác quyết: “Như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết thế nào, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống như vậy” (1Cr 15,22).
***
Việc Chúa Giêsu chịu phép rửa hôm nay, dạy cho chúng ta bài học về sự đồng hành và liên đới.
Muốn đồng hành với người khác đòi chúng ta phải đi chậm lại, đòi chúng ta phải có chung một tâm tình, một lối suy nghĩ giống người khác. Sở dĩ ngày hôm nay, nhiều cặp vợ chồng chưa hiểu được nhau, chưa thể tìm được một tiếng nói chung trong gia đình, là vì họ chưa cùng một lối suy nghĩ. Nếu ai cũng khăng khăng bảo vệ lập trường của mình, thì làm sao mong tìm được một sự đồng thuận! Việc gia đình mà cứ “ông nói gà, bà nói vịt” thì làm sao có thể giải quyết được. Người xưa vẫn nói: “Thuận vợ thuận chồng, tát bể Đông cũng cạn” là vậy.
Trong việc dạy dỗ con cái, nhiều bậc phụ huynh thường giáo dục theo kiểu áp đặt. Theo các chuyên gia tâm lý, muốn giáo dục con cái, cha mẹ trước tiên phải vừa là người thầy để hướng dẫn, nhưng lại vừa là người bạn để có thể lắng nghe và thông cảm.
Để liên đới với người khác, đòi hỏi chúng ta phải nhỏ bé đi, phải khiêm hạ trong lối sống và cung cách cư xử. Hôm nay Đức Giêsu đánh dấu cuộc đời công khai của Ngài bằng một hành vi khiêm hạ, dìm mình, mất hút... Bên bờ sông Giođan, Ngài trở nên một kẻ vô danh bên cạnh một Gioan lúc bấy giờ tiếng tăm đã lẫy lừng. Ngài đã cúi xuống, dìm mình trong dòng sông, để nâng con người lên. Như lời một vị thánh giáo phụ đã từng nói: “Thiên Chúa làm người, để con người được làm con Thiên Chúa”.
Bằng hành động bước xuống dòng nước, Đức Giêsu thực sự muốn đồng cảm với con người, để chia sẻ thân phận đói nghèo, khổ đau, bệnh hoạn của con người, để cảm nếm nỗi ray rứt khắc khoải của tội nhân, để thấu hiểu niềm khao khát đổi mới trong lòng người tội lỗi.
Học nơi Đức Kitô, chúng ta hãy sống một đời sống khiêm hạ. Hãy để cho Chúa lớn lên trong cuộc đời chúng ta, để Ngài dìu dắt và hướng dẫn cuộc đời chúng ta.
Đức Giêsu đã khởi đầu sứ vụ loan báo Tin Mừng của mình bằng việc dìm mình trong dòng nước. Qua phép rửa của Đức Giêsu trong Thánh Thần, chúng ta cũng được mời gọi lên đường để phục vụ anh chị em quanh ta, nhất là những anh chị em đang cần một tình yêu chia sẻ, nâng đỡ và trao ban trọn vẹn. Amen.
60.Phép Rửa của Chúa Giêsu thanh luyện chúng ta--Lm. Joshepus Quang Nguyễn
Chúa nhật lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa hôm nay khép lại mùa Giáng sinh và cũng là một “sự hiển linh khác” của Đức Chúa. Hôm nay không phải cảnh lặng lẽ trong hang lừa với vài chàng mục đồng chứng kiến. Nhưng, Phép rửa được cử hành như một nghi lễ công cộng với nhiều người xung quanh. Những người này ý thức rằng cuộc đời họ tội lỗi hôm nay đến đón nhận phép rửa của ông Gio-an trong dòng sông Giođan để tỏ lòng sám hối.
Đức Giêsu hôm nay đến cũng bước vào dòng nước ấy, và nhận phép rửa bởi ông Gioan nhưng không phải là cho mình, mà là cho người khác, vì người khác. Vì chưng Chúa Giêsu đâu có tội làm chịu phép rửa của ông Gioan để tỏ lòng sám hối. Chúa Giêsu chịu phép rửa là có ý nói lên: từ nay, Người chung số phận với người tội lỗi. Ngài dìm xuống để vớt mọi người lên và đó là tất cả ý nghĩa đời Người. Cuộc đời của Chúa Giêsu hoàn tất với Phép Rửa cuối cùng, của sự chết (Lc 12,50) vì chết là cùng chung số phận của con người tội lỗi. Cho nên hôm nay Chúa Giêsu để cho Gioan dìm mình có ý loan báo cái chết và sự phục sinh của Người: dìm mình xuống nước là biểu hiệu cái chết, trồi lên khỏi nước là loan báo sự sống lại. Cho nên, bài đọc 2, Thánh Gioan đã khẳng định rằng: “Chính Đức Giê-su Ki-tô là Đấng đã đến, nhờ nước và máu; không phải chỉ trong nước mà thôi, nhưng trong nước và trong máu Chính Thần Khí là chứng nhân, và Thần Khí là sự thật”. Vì vậy, Giáo lý Hội Thánh dạy: “Trong cuộc Vượt Qua của mình, Ðức Ki-tô đã khai mở nguồn mạch của bí tích Rửa Tội cho tât cả mọi người. Qủa thật, Người đã nói về cuộc tử nạn sẽ phải chịu tại Giê-ru-sa-lem như "một Phép Rửa" mà Người phải lãnh nhận (x. Mc 10,38; Lc 12,50). Máu và nước chảy ra từ cạnh sườn bị bị đâm thâu của Chúa Giêsu chịu đóng đinh (Ga 19,34) là những điển hình của bí tích Rửa Tội và Thánh Thể, là những bí tích của đời sống mới (x.1Ga 5,6-8): từ lúc đó, người ta có thể được "sinh ra bởi nước vàThần khí " để được vào Nước Thiên Chúa (Ga 3,5)” (số 1225).
Khi chúng ta nhận lãnh bí tích Rửa tội, Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta tham dự vào sự chết và sống lại của Người. Chúng ta vào đời khi được sinh ra, và vào đạo Thiên Chúa khi được rửa tội. Trong phép rửa tội chúng ta được thanh tẩy mọi tội lỗi, tội tổ tông và tội riêng. Do đó, nó biến chúng ta thành “một tạo vật mới” (2Cr 5,17), một nghĩa tử của Thiên Chúa (Gl 4,5-7), được thông phần vào sự sống thần linh (2Pr 1,4), trở nên chi thể của Chúa Kitô (Rm 8,17) và được gọi là đền thờ của Chúa Thánh Thần (1Cr 6,15). Tóm lại, “toàn bộ cơ thể của sự sống siêu nhiên của người Kitô hữu bắt nguồn nơi bí tích Rửa tội (Giáo lý Công giáo, số 1266).
Như vậy, khi được Rửa Tội, chúng ta dĩ nhiên cũng được mời gọi tiếp nối sứ mạng liên đới của Chúa Giê-su trong hoàn cảnh của bạn nơi giáo xứ, gia đình, xóm phố, nơi học hành, nơi làm việc... Sứ mạng này không phải là việc tuỳ ý để mình thích làm hoặc không, mà là một bổn phận được lãnh nhận từ Thiên Chúa. Thiên Chúa chờ đợi bạn thi hành bổn phận này là làm cho Nước Chúa trị đến ý Chúa thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Đó là:
Trước hết, chúng ta hãy siêng năng tham gia tích cực các hoạt động trong việc phục vụ Giáo xứ của mình dù có cực nhọc hay khó khăn vì chính những dòng nước khó khăn và cực nhọc ấy sẽ thanh luyện chúng ta khỏi những gì biến nhác và vô dụng trong việc mở mang Nước Đức Chúa Trời. Thứ hai khiêm tốn, cảm thông và tha thứ là những dòng nước của Chúa Giêsu giúp thanh luyện đời sống gia đình mình vượt khổ trong hạnh phúc và bình an đồng thời xây dựng mọi thành viên trong gia đình lớn lên trong ân nghĩa với Chúa và đầy nhân đức trước mặt mọi người. Cho nên, trong bài giảng thuyết về Bí Tích Rửa Tội, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói rằng: “Nhờ Bí Tích Rửa Tội, chúng ta có khả năng tha thứ và yêu thương ngay cả những người xúc phạm đến mình và làm tổn thương mình, chúng ta có thể nhận ra trong những người rốt hết và những người nghèo khổ nhất khuôn mặt của Chúa là Đấng đến thăm và gần gũi chúng ta.” Thứ ba, thật thà, lương thiện và công bằng là những dòng nước rửa và thanh luyện ta đồng thời làm cho ta sống với anh chị em trong khu phố, trường học hay nơi làm việc như thế người ta mới nhận ra Nước Chúa đang hiện diện ở giữa họ. Cuối cùng, tình yêu và bình an là những dòng nước của Chúa Giêsu tới gội đời ta khiến ta cảm nghiệm được sự ấm áp và tươi sáng của cuộc đời dù cuộc đời ta có gian nan khốn khó.
Ước gì, Lời Chúa trong Bài đọc 1 sẽ là điều Chúa muốn chúng ta thực hiện hôm nay rằng: “Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó”. Allêluia.
61.Người con yêu quý
Vào thế kỷ thứ IV, Ario truyền bá một lạc thuyết vô cùng nguy hại. Ario chủ trương rằng Đức Kitô không thực sự là Con Thiên Chúa. Hoàng đế Theôđôsiô đỡ đầu cho lạc thuyết này. Cũng vào lúc ấy hoàng đế phong cho hoàng tử mới 16 tuổi của ông được cùng trị vì trên ngai vàng với ông. Trong những khách được mời đến dự buổi lễ phong vương, có Đức Giám mục Amphilôcô. Đức Giám mục chỉ nói vài lời chúc mừng rồi chuẩn bị ra về. Hoàng đế giận dữ hỏi: Ngài không quan tâm đến hoàng tử sao? Ngài không biết rằng ta phong cho hoàng tử cùng trị vì với ta hay sao? Vị Giám mục bình tĩnh trả lời: Tâu hoàng thượng, hoàng thượng phật ý trước sự giả bộ thờ ơ của tôi đối với hoàng tử, vì tôi đã tỏ ra không tôn kính hoàng tử như bệ hạ mong muốn. Vậy Thiên Chúa sẽ nghĩ sao về hoàng thượng, khi hoàng thượng giáng cấp Người Con ngang hàng và cùng hiện hữu với Ngài dưới danh hiệu Con Thiên Chúa.
Từ câu chuyện trên chúng ta thấy: Ngày nay có nhiều người, kể cả một số người mệnh danh là Kitô hữu, đã chối bỏ hoặc nghi ngờ thiên tính của Đức Kitô. Thiết tưởng những người ấy hãy lắng nghe lời Chúa Cha tuyên phong trong đoạn Tin Mừng sáng hôm nay: Con là Con yêu quý của Cha, Cha hài lòng về Con.
Việc Đức Kitô chịu phép Rửa bởi Gioan đánh dấu bước khởi đầu công cuộc cứu độ của Ngài. Công cuộc trọng đại này là hành động của cả Ba Ngôi, vì chúng ta thấy Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống, đồng thời Chúa Cha phán bảo. Biến cố này rất quan trọng, nên Giáo Hội muốn chúng ta mừng kính riêng trong Chúa nhật hôm nay, tựa như ngày đăng quang của Đức Giáo Hoàng hay ngày nhận chức của một tổng thống.
Đặc điểm chúng ta cần nhấn mạnh đó là Chúa Cha trên trời hài lòng về Người Con yêu quý của Ngài, là Đức Kitô. Có người cha nào lại không vui mừng khi người con của mình khởi sự một chức vụ quan trọng: người cha của một bác sĩ, người cha của một tân linh mục, người cha của chú rể trong ngày cưới. Niềm vui ấy càng lớn lao hơn khi người con ấy vâng phục và tôn kính cha mình.
Đức Kitô là một người con yêu mến và vâng phục Chúa Cha. Đồng thời Ngài luôn khoan dung và khiêm tốn như một kẻ tôi tớ, vì thế, Chúa Cha luôn hài lòng về Ngài. Còn chúng ta thì sao?
Với bí tích Rửa Tội đã lãnh nhận, chúng ta được mời gọi để nhận biết, yêu mến và phụng sự Cha trên trời, khi chúng ta cố gắng chu toàn thánh ý Ngài giữa lòng cuộc đời, khi chúng ta cố gắng sống mầu nhiệm của bí tích Rửa Tội, khi chúng ta cố gắng noi theo Người Con Chí Thánh trong sự khiêm tốn và vâng phục, thì chúng ta cũng làm hài lòng Cha trên trời, để rồi trong ngày cuối cùng, chúng ta cũng sẽ được Chúa Cha tuyên phong, như ngày xưa Ngài đã tuyên phong Đức Kitô bên bờ sông Giođan: Con là Con yêu quý của Cha, Cha hài lòng về Con.
62.Công dân Nước Trời
Ngày xưa người ta có một quan niệm rất ngộ nghĩnh về vũ trụ. Họ chia vũ trụ thành ba tầng chồng lên nhau. Tầng trên cùng là trời hay thiên đàng, nơi Thiên Chúa cư ngụ. Tầng giữa là đất, nơi loài người và muôn vật sinh sống. Tầng chót là âm phủ, nơi con người sẽ đến sau khi chết.
Từ khi Adong Eva phạm tội, thì tầng giữa, tức thế giới sinh vật ngày càng trở nên tồi tệ. Vì thế, các thánh luôn cầu xin Chúa từ trời ngự xuống để cứu giúp nhân trần. Chẳng hạn tiên tri Isaia đã nài van: Sao Ngài không xé bầu trời mà ngự xuống với chúng con.
Từ quan niệm trên, chúng ta đi vào đoạn Tin mừng sáng hôm nay, chúng ta sẽ dừng lại ở ba sự kiện:
Sự kiện thứ nhất, đó là bầu trời mở ra. Và như thế lời cầu xin của các vị thánh ngày xưa đã được chấp nhận. Thiên Chúa đã đến với nhân loại, khởi đầu cho một kỷ nguyên mới trong lịch sử.
Sự kiện thứ hai, đó là Thần khí Chúa dưới hình chim bồ câu ngự xuống trên Ngài. Sự kiện này nhắc cho chúng ta nhớ lại lúc bắt đầu công cuộc tạo dựng. Thần khí Chúa cũng đã bay lượn trên nước. Và như thế, cùng với Đức Kitô, Thiên Chúa thực hiện việc tái tạo, việc canh tân thế giới hay nói cách khác, Ngài thực hiện một công cuộc tạo dựng mới.
Và sau cùng, sự kiện thứ ba, đó là tiếng nói từ trời: Này là con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng. Sự kiện này muốn xác quyết rằng: Đức Kitô là Con Thiên Chúa, là Adong mới, là trưởng tử của công cuộc tạo dựng mới này, như lời thánh Phaolô đã viết: Người thứ nhất là Adong từ đất mà ra nên thuộc về đất. Còn người thứ hai là Đức Kitô từ trời mà đến. Chúng ta đã mang trong mình hình ảnh con người bởi đất, tức Adong cũ thế nào, thì chúng ta cũng phải mang lấy hình ảnh con người bởi trời, tức Adong mới như vậy.
Từ đó chúng ta đi tới kết luận: Chúng ta là công dân của hai thế giới, bởi vì chúng ta mang trong mình hình ảnh của Adong thứ nhất cũng như của Adong thứ hai. Chúng ta chia sẻ sự sống với cả hai vị này. Kinh nghiệm cho thấy: Chúng ta đã từng bị lôi cuốn về mặt xác thịt của Adong thứ nhất, nhưng đồng thời cũng được sự thôi thúc về tinh thần của Adong thứ hai. Chúng ta thường bị xâu xé giữa sự thiện và sự ác, để rồi sự thiện chúng ta muốn thì chúng ta lại không làm, còn điều ác chúng ta ghét thì chúng ta lại làm.
Ý thức được như vậy, chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta luôn bước đi trên đường nẻo của Ngài, thực thi những điều Ngài truyền dạy, để nhờ đó chúng ta cũng sẽ được Ngài tuyên phong vào ngày sau hết: Này là con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng.
63.Này Là Con Ta Yêu Dấu
Biến cố ngày hôm nay quả thực đã làm cho chúng ta ngỡ ngàng không ít. Thực vậy, Chúa Giêsu đã chịu phép rửa nơi một kẻ tội lỗi, trong khi Ngài là người con yêu dấu của Chúa Cha và chính Ngài cũng đã có lần tuyên bố: Ai trong các ngươi bắt lỗi Ta được về sự gì? Thế nhưng, Chúa Giêsu lại là Đấng chuộc tội thiên hạ như có lần Gioan đã giới thiệu: Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian. Ngài xoá tội trần gian bằng cách gánh lấy tội ấy.
Hành động chịu phép rửa phải chăng là một sự mở đầu cho sứ vụ của Ngài, đồng thời cũng là một dấu chỉ báo hiệu những gì sẽ xảy đến.
Có một lần, các con của Giêbêđê, bày tỏ ước vọng với Ngài là muốn được ngồi bên tả bên hữu Ngài. Và Chúa Giêsu đã trả lời các ông: Các con không ý thức được điều các con xin. Các con có thể uống được chén Ta phải uống và chịu thanh tẩy, thứ thanh tẩy mà Ta phải chịu hay không?
Như thế là còn một cuộc thanh tẩy khác nữa đang chờ đợi Chúa Giêsu. Cuộc thanh tẩy ấy chính là cuộc thống khổ, kết thúc bằng cái chết trên thập giá. Cuộc thanh tẩy ấy được thực hiện không phải chỉ bằng nước sông Giođan và từ tay của Gioan, mà là bằng máu của chính Ngài. Chúa Giêsu chịu thanh tẩy tại sông Giođan là hình ảnh của nhân loại được thanh tẩy trong cái chết của Ngài, được sống lại trong sự phục sinh của Ngài và trở thành những người con của Thiên Chua.
Nơi Đức Kitô, phép rửa hay phép thanh tẩy đã không còn là một nghi lễ, mà đã trở thành một cuộc sống. Tội lỗi đã bị đánh bại không phải bằng nước của phép rửa mà là bằng máu của sự sống. Bí tích thanh tẩy làm cho Kitô hữu trở thành con Thiên Chúa cũng không thể chỉ là một nghi lễ được lãnh một lần rồi thôi, mà phải là chính cuộc sống làm con Thiên Chúa, cuộc sống từ bỏ và đẩy lui mọi tội lỗi. Không phải chỉ là đẩy lui tội lỗi ra khỏi cuộc sống của cá nhân mình, mà còn là ra khỏi nhân loại.
Vì thế, thờ ơ trước những tội ác diễn ra chung quanh, trước những bất công xã hội, trước những vi phạm quyền con người, trước những gian dối và thù hận, người Kitô hữu không còn là người Kitô hữu đích thật nữa vì đã không chu toàn lời cam kết khi lãnh nhận bí tích Rửa tội. Chính qua cuộc sống dứt khoát với tội lỗi mà người Kitô hữu bày tỏ được ý thức của mình về địa vị cao cả mà bí tích Rửa tội đã đem lại, đồng thời làm chứng về tình thương của Thiên Chúa đối với con người. Người Kitô hữu có trách nhiệm phải làm sao để tiếng từ trời cũng được lặp lại với từng người trong nhân loại: Này là con Ta yêu dấu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng.
64.Đức Giêsu chịu phép rửa
Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Đức Giêsu chịu phép rửa. Thêm một lần nữa Kitô-hữu nhận ra Đức Giêsu sống trọn thân phận con người, khi Ngài nhận mình đồng hàng với con người cần lòng thương xót của Thiên Chúa. Mặt khác, chính khi Ngài yêu thương và đồng hóa mình với anh em, thì Thiên Chúa xác chuẩn Ngài là Con Yêu Dấu của Thiên Chúa. Ngài tỏ lộ chân tướng của Ngài qua hành vi và cung cách cư xử của Ngài.
1) Đức Giêsu chịu phép rửa
Đức Giêsu được sinh ra trong chuồng chiên cừu, lớn lên và làm việc tại Nazaret. Ngài ăn cùng thức ăn như họ, cùng hưởng bầu không khí như họ, hưởng một nền giáo dục như bao trẻ em làng Nazaret thời đó, đặc biệt nền giáo dục về tôn giáo. Đức Giêsu đã trưởng thành từ làng quê Nazaret, và là người Do Thái hoàn toàn. Khi nghe tin Gioan xuất hiện như một tiên tri, rao giảng mời gọi toàn dân nhận lãnh phép rửa diễn tả lòng sám hối để đón chờ Thiên Chúa can thiệp cứu dân Người, có lẽ Đức Giêsu đã xin phép mẹ Người, tới với Gioan xin ông thanh tẩy cho.
Đức Giêsu đã cùng với bao người Do Thái khác, lắng nghe Gioan giảng dạy, và lần lượt tới để được thanh tẩy trong dòng sông Giordan. Đức Giêsu đã sống như bao người trẻ khác ở Nazarét, và giây phút ở sông Giordan này, Đức Giêsu cho thấy Ngài chia sẻ thân phận con người hoàn toàn, Ngài là người giữa bao người, Ngài hành xử như tất cả mọi người.
Con người, với thể xác và linh hồn, là thực tại vô cùng cao quý. Con người được mời gọi vươn lên thành con người trọn vẹn, thành thánh, chia sẻ sự sống và hạnh phúc với Thiên Chúa. Con người hình thành chính mình qua cung cách cư xử và chọn lựa của mình. Qua hành vi “xin vâng,” Đức Maria trở nên con người tuyệt vời; qua cách hành xử “của ăn của Ta là làm theo Đấng đã sai Ta,” Đức Giêsu cho thấy Ngài là một với Thiên Chúa trong tất cả.
2) Ngài vượt trên tôi, sao Ngài lại đến với tôi?
Theo đức tin của Kitô-hữu, Đức Giêsu là Ngôi Lời nhập thể, là Con Thiên Chúa giáng trần, là Đấng vô tội, vậy tại sao Ngài lại chịu phép rửa? Nếu bảo rằng Ngài chịu phép rửa để làm gương cho con người khi Ngài không cần phải chịu phép rửa, phải chăng hàm chứa nói Ngài “giả hình”, “làm bộ.” Khiêm nhường là sự thật, giả hình hay làm bộ, chẳng làm gương sáng cho ai, mà chỉ là gương xấu.
Đức Giêsu chịu phép rửa thống hối, vì Ngài cần phải chịu phép rửa. Đức Giêsu không làm bộ hay giả hình. Ngài chịu phép rửa, vì Ngài đại diện con người, Ngài mang nơi mình tội của tất cả con người, nên Ngài thống hối nhân danh tất cả con người: “đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian.” Ngài chịu phép rửa thống hối không phải vì Ngài, nhưng vì Ngài “gánh tội trần gian,” Ngài đại diện con người xin Thiên Chúa tha thứ lỗi lầm của tất cả con người.
Gioan đã nói: “Sao Ngài lại đến với tôi? Tôi mới là người phải đến với Ngài chứ.” Gioan tiền hô đã nhận ra Đức Giêsu là con người đặc biệt, trổi vượt trên mình. Ngày nay, người ta nhận biết chân tính của Đức Giêsu nhờ ánh sáng biến cố phục sinh, nhưng ở thời điểm của Gioan tiền hô, người ta chưa biết điều này. Khi Gioan nhận ra mình “không đáng cởi dây giầy” cho Ngài, Gioan đang làm chứng cho thấy phần nào chân tướng của Đức Giêsu. Đức Giêsu là con người rất đặc biệt.
3) Này là Con Ta rất yêu dấu
Đa số người ta hiểu rằng, Đức Giêsu biết mình là Ngôi Lời Thiên Chúa, là Thiên Chúa nhập thể, nên Ngài biết hết mọi sự. Tuy nhiên có một số nhà thần học, và ngay cả một số tác giả tin mừng cho thấy Đức Giêsu chia sẻ trọn vẹn thân phận con người, nghĩa là, Ngài không biết trước mọi chuyện, có nhiều điều Ngài không biết. Những người này chủ trương, là người thì không ai biết tất cả tương lai mình, nếu Đức Giêsu biết trước hết mọi chuyện thì Đức Giêsu không chia sẻ trọn thân phận con người. Mà theo đức tin Kitô, Đức Giêsu là người trọn vẹn, nên có nhiều điều Đức Giêsu không biết khi Ngài đang sống tại trần gian.
Là người, là chấp nhận đi trong đêm tối của đức tin. Như Abraham ra đi trong niềm tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa, cho dù không biết tương lai mình như thế nào, chỉ tin vào Thiên Chúa và lời hứa của Ngài mà cất bước ra đi. Đức Maria thưa tiếng “xin vâng,” cũng không biết rõ tương lai đời mình, chỉ tin tưởng rằng những gì Thiên Chúa phán với mình sẽ được thành sự. Đức Giêsu cũng không biết rõ tương lai đời mình, nên cũng phải sống trong niềm tin tưởng phó thác như bất cứ con người nào khác. Khi Đức Giêsu chịu phép rửa, là Ngài hành xử theo tiếng gọi của tình yêu, Ngài yêu thương con người đến độ muốn mang vác tất cả tội lỗi cho con người. Đây là một hành vi yêu thương và đẹp tuyệt vời, yêu thương con người ngay khi người tội lỗi: bất toàn và gian ác.
Thiên Chúa đã chuẩn nhận hành vi của Đức Giêsu: “Con là Con Ta rất yêu dấu, Ta hài lòng vì Con.” Theo tin mừng Mác-cô, tiếng này nói cho chính Đức Giêsu. Là người, Đức Giêsu cũng cần một lời chuẩn nhận của Thiên Chúa như bao người khác cần Thiên Chúa chuẩn nhận khi họ được sai gởi thi hành ý định của Thiên Chúa. Hành vi của con người diễn tả chân tướng của họ. Qua hành vi “chịu phép rửa” này, Đức Giêsu biểu lộ chân tính của Ngài: Con Yêu Quý của Thiên Chúa. Đức Giêsu tiếp tục sống, và qua chính cung cách hành xử “yêu thương đến hiến dâng chính mạng sống mình,” Đức Giêsu cho thấy tình yêu của Ngài đối với con người, và cũng mặc khải tình yêu của Thiên Chúa đối với con người.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn nghĩ sao về quan điểm: con người hình thành chính mình qua cung cách hành xử và chọn lựa của mình?
2. Bạn có thể trở thành người tuyệt vời không? Bằng cách nào?
65.Phép rửa
Có hai anh bạn đi mua đồ phế thải. Sau khi xem xét một hồi, anh thứ nhất nói:
- Toàn là đồ “năm vố” không à.
Còn anh kia thì nhặt lên một cây thánh giá cũ kỹ đã han dỉ và nói:
- Thật là khó mà tin được, tôi đã tìm thấy một món đồ quý. Cây thánh giá này được làm bằng chất bạc ngày xưa.
Anh ta mang cây thánh giá về nhà, lau chùi, rồi đưa cho đứa con mới đi học giáo lý về. Nó kính cẩn cầm trong tay, ngắm nghía một hồi rồi bật khóc. Thấy vậy anh liền hỏi:
- Tại sao con khóc.
Nó trả lời:
- Con không thể cầm lòng được khi nhìn vào Chúa Giêsu bị treo trên thập giá.
Và như thế, cả ba người đều nhìn vào cây thập giá, thế mà người thứ nhất chỉ thấy đó là đồ ve chai mủ bể, người thứ hai thì thấy đó là một đồ vật có giá trị. Còn người thứ ba thì nhận ra Chúa Giêsu trên đó. Cách nhìn cây thập giá trên cũng tương tự như cách chúng ta nhìn Phúc âm.
Tất cả chúng ta đều nghe cùng một đoạn Phúc âm, thế nhưng mỗi người lại hiểu và phản ứng một cách khác nhau. Có thể chúng ta chỉ nghe như nghe một câu chuyện bình thường, chẳng có chi đặc sắc. Có thể chúng ta đã lắng nghe và tiến thêm một bước nữa, đó là tìm hiểu ý nghĩa của câu chuyện. Có thể ngoài việc học hỏi ý nghĩa, chúng ta còn cố gắng áp dụng vào cuộc sống. Đó là ba bước tiếp nhận Phúc âm: lắng nghe, học hỏi và áp dụng.
Đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay về sự việc Chúa Giêsu chịu phép rửa:
Bước thứ nhất, chúng ta lắng nghe câu chuyện và biết rằng: sau khi Gioan làm phép rửa cho Chúa Giêsu thì tầng trời mở ra, Chúa Thánh Thần ngự xuống và có tiếng từ trời phán ra. Và cũng chỉ có vậy mà thôi.
Bước thứ hai, chúng ta đi xa hơn một chút, bằng cách cố gắng tìm hiểu ý nghĩa của những sự kiện trên. Chẳng hạn hình ảnh trời mở ra cho ta thấy Thiên Chúa đã nghe lời cầu nguyện của dân Ngài và Ngài đang đến để cứu vớt họ. Hình ảnh Chúa Thánh Thần ngự xuống gợi lên cho chúng ta về một kỷ nguyên mới, vũ trụ này được tái tạo để trở nên tốt đẹp hơn, như ngày xưa, khi tạo dựng trời đất, Thánh Thần Chúa cũng đã bay lượn trên nước. Còn hình ảnh thứ ba, có tiếng nói từ trời phán ra:
- Đây là con Ta rất yêu dấu.
Những lời này cho thấy Đức Kitô là Con Thiên Chúa, là Adong mới của cuộc tạo dựng mới, như lời thánh Phaolô:
- Người thứ nhất tức Adong được tạo dựng là con người sống. Nhưng Adong cuối cùng là Đức Kitô, lại là thần khí ban sự sống. Adong thứ nhất bởi đất mà ra. Còn Adong thứ hai thì từ trời mà đến. Như chúng ta đã mang ảnh hưởng của con người bởi đất, tức Adong thứ nhất thế nào thì chúng ta cũng sẽ mang hình tượng con người bởi trời, tức Adong thứ hai là Đức Kitô như vậy.
Ngoài việc lắng nghe, tìm hiểu ý nghĩa, chúng ta còn phải áp dụng ý nghĩa câu chuyện ấy vào cuộc sống chúng ta.
Chẳng hạn, chúng ta có thể nhớ lại rằng: Cuộc sáng tạo mới bắt đầu với phép rửa của Chúa Giêsu và đã trở thành một thực tại gắn bó với mỗi người chúng ta. Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, thì một cách nào đó, bầu trời cũng mở ra, Chúa Thánh Thần ngự xuống trên chúng ta và chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa.
Và như thế chúng ta phải sống thế nào cho xứng đáng với tước vị cao cả ấy. Chính vì thế mà thánh Phaolô đã khuyên chúng ta:
- Anh em đã sống lại cùng Đức Kitô, vậy anh em hãy hướng tâm hồn vào những sự trên trời chứ đừng vào những sự vật của trần thế này.
66.Lên khỏi nước
Trong cuốn sách “Aqua Church”, Leonard Sweet đã đưa ra một thống kê như sau: “Không có nước thì bạn sẽ chết về cả thể lý lẫn tinh thần. Nếu bạn thiếu 1% số lượng nước trong cơ thể sẽ làm bạn khát nước. Nếu thiếu 5% sẽ gây nên sốt nhẹ. Nếu thiếu 8% sẽ làm cho các tuyến hạch ngưng sản xuất nước miếng và da trên cơ thể sẽ tái ngắt. Một người sẽ không thể bước đi nổi nếu thiếu 10% số lượng nước trong cơ thể, và nếu thiếu tới 12% sẽ chết. Mỗi ngày có khoảng 9500 trẻ em chết vì thiếu nước uống hay chết vì những bệnh gây ra do nước bị ô nhiễm”.
Nước mang lại sự sống đời này. Chúa Giêsu cũng dùng nước làm biểu tượng mang lại ơn “tái sinh và được đổi mới trong Chúa Thánh Thần”. Theo linh mục Eugene Laverdiere, trong Phúc âm của Luca và Matthêu, căn tính của Chúa Giêsu được mạc khải qua các biến cố Truyền Tin, Giáng Sinh và các nhà đạo sĩ đến thờ lạy. Thánh Gioan trình bày là Lời Hằng Sống mặc lấy xác thịt để mạc khải về Thiên Chúa Cha. Còn thánh Máccô đã dùng phép rửa của Gioan để nhận Chúa Giêsu là ai: “Khi vừa lên khỏi nước, Người liền thấy trời mở ra, thấy Thánh Thần như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Và có tiếng từ trời: Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha”.
Theo cha Laverdiere, Chúa Giêsu không phải là người tội lỗi, Ngài không cần phải chịu phép rửa của Gioan. Nhưng vì Ngài muốn kết hợp chính bản thân của mình với nhân loại tội lỗi để cứu rỗi họ. Phép rửa của Chúa Giêsu đã công bố Ngài, một con người trong sự liên kết với toàn thể loài người, và điều này đã chứng tỏ ý muốn của Ngài mang lấy gánh nặng của tội lỗi chúng ta trên đôi vai vô tội của Ngài. Trong ý nghĩa này, xin dùng hai hình ảnh cụ thể để minh hoạ cho phép rửa của Chúa Giêsu và phép rửa tội của chúng ta: cuộc chạy đua marathon và cây nến sáng.
1. Cuộc chạy đua Marathon:
Tháng 7 năm 1996, những cuộc tranh tài thể thao Olympic được tổ chức tại Atlanta, tiểu bang Georgia, Hoa Kỳ. Khi nghe tiếng súng khởi sự, 25 vận động viên chạy đua marathon bắt đầu khởi động cho cuộc chạy thi 10 ngàn mét. Mười ngàn mét là 10 cây số, tức 6 dặm. Trước khi nói về vận động viên Stefano Baldini, tôi xin nói về một chi tiết đáng lưu ý của cuộc thi này như sau. Trong số 25 vận động viên chạy thi lần này, có 7 người chưa bao giờ hoàn tất được cuộc thi, nghĩa là chưa bao giờ chạy về đến đích cho dù mất bao nhiêu thời gian. Họ bỏ cuộc vì chuột rút bắp vế, vì đau chân, kiệt sức… nên họ có tên là DNF – Did Not Finish – Đã Không Hoàn Tất.
Stefano Baldini trong cuộc thi này đã cố chạy về tới đích điểm, cho dù hết người này tới người khác vượt qua mặt anh. Họ vượt qua mặt anh không những một vòng chạy mà tới những hai vòng chạy! Một người Ethiopy đã về tới đích trước, đoạt hạng nhất. Rồi người khác về nhì, người về ba. Dần dần tất cả thứ hạng nhất nhì ba đã được công bố, họ đang nghỉ mệt, chúc mừng và sẵn sàng leo lên bệ đài lãnh huy chương. Nhưng anh Stefano Baldini vẫn còn đang chạy. Anh không bỏ cuộc, cứ tiếp tục chạy.
Khi anh về đến đích, xướng ngôn viên của ban tổ chức loan báo cho tất cả hội trường biết rằng anh chỉ về sau người hạng nhất có 2 phút, và tốc độ chạy ở dặm cuối cùng nhanh hơn thời gian anh chạy ở dặm thứ nhất. Khi anh về tới đích thì toàn thể hội trường đều đứng lên vỗ tay chúc mừng và hoan hô anh. Anh đã không chỉ hoàn tất cuộc chạy đua cách can trường mà còn kết thúc nó một cách xứng đáng.
Qua phép rửa của Gioan, Chúa Giêsu bắt đầu ba năm mục vụ để rao giảng tình yêu và ơn cứu độ cho tất cả mọi người. Ngài bắt đầu cuộc chạy đua marathon. Theo thánh Máccô, ngay sau phép rửa, Chúa Giêsu vào sa mạc ăn chay, cầu nguyện và bị ma quỷ cám dỗ. Cuộc hành trình của Ngài là cuộc hành trình gian khổ giống như mọi người. Ngài giảng dạy, chữa lành, kể dụ ngôn, ngay cả khi nhiều người không chịu nghe! Ngài không bao giờ bỏ cuộc. Đang khi chết trên thập giá, Ngài giống như là kẻ thua cuộc nhất trên thế gian này. Nhưng lại là lúc Ngài chiến thắng. Đó là phần tốt nhất của Ngài trong cuộc đua. Vì sự vinh quang của thập giá mà bây giờ các Kitô hữu đang vỗ tay hoan hô nhiệt liệt, chúc mừng Ngài là Đấng Cứu Độ Trần Gian.
Đời sống Kitô hữu cũng giống như một cuộc chạy đua marathon. Nó vừa dài, vừa khó khăn, lại vừa đòi hỏi. Phép rửa tội đưa chúng ta vào khởi động. Đang khi chạy, chúng ta dễ bị nản chí, bỏ cuộc, bởi yếu đuối, cám dỗ… mà quên rằng đích điểm của cuộc chạy đua là sự sống đời đời và sự liên hệ với Chúa Giêsu Kitô. Nhiều khi đích điểm đó đã trở nên mờ nhạt! Chúng ta muốn bỏ cuộc, muốn mang tên DNF – Did Not Finish – Đã Không Hoàn Tất.
Mẹ Têrêsa Calcutta, người đã ăn bánh mì chấm với nước lã, chưa bao giờ cân nặng hơn 100 pounds. Tuy nhiên, hãy nhìn vào cuộc chạy đua marathon Kitô hữu của Mẹ! Vào ngày Mẹ chết, mùng 5 tháng 9, 1997, toàn thể thế giới vỗ tay reo mừng. Xưa kia, một phóng viên đã hỏi Mẹ, “Thưa Mẹ, làm thế nào Mẹ có thể làm được như vậy? Làm thế nào Mẹ có sức mạnh để tiếp tục sống như vậy?” Mẹ đã trả lời: “Tôi nhìn vào khuôn mặt của người nghèo mà thấy mặt Chúa Giêsu”.
Trong Chúa Giêsu, Mẹ Têrêsa đã tìm thấy sức mạnh để tiếp tục cuộc chạy đua đường trường marathon. Tình yêu mến Chúa Giêsu là động lực để phục vụ tha nhân và sống bác ái.
2. Cây nến sáng.
Một hình ảnh khác cũng mang ý nghĩa sâu xa của đời sống Kitô hữu, đó là cây nến sáng. Ngày chúng ta chịu phép rửa tội, người đỡ đầu đã đại diện chúng ta đón nhận lấy ánh sáng của Chúa Kitô từ cây nến Phục Sinh. Cây nến Phục Sinh là biểu tượng của Chúa Kitô: “Ta là ánh sáng thế gian”. Chúng ta chấp nhận bước đi trong ánh sáng của Đức Kitô và làm chứng nhân cho Ngài nên được gọi là người Kitô hữu. Cây nến sáng là hình ảnh cuộc đời của người Kitô hữu.
Cây nến được làm nên bởi sáp ong. Sáp ong là kết quả công trình làm việc rất kiên nhẫn của những con ong thợ. Chúng bay từ bông hoa này sang bông hoa khác để hút lấy phần tinh túy của nhụy hoa, rồi tiết thành sáp ong. Sáp ong giúp cho ngọn lửa cháy sáng. Sáp ong cũng là hình ảnh của thân xác con người. Con người là tinh hoa của công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Một tạo vật hoàn hảo và đẹp đẽ nhất trong vũ trụ. Không có thân xác, con người không thể hiện hữu trên trần gian được.
Cây nến cháy sáng lên với ngọn lửa. Ngọn lửa tạo ra ánh sáng và hơi ấm. Anh sáng và hơi ấm làm cho phần sáp ong của cây nến có ý nghĩa và mục đích. Ngọn lửa là hình ảnh của đời sống tinh thần nơi thân xác, là đức tin của người Kitô hữu, là mục đích và ý nghĩa của cuộc đời. Chính đức tin vào Chúa Giêsu Kitô tạo nên ánh sáng hy vọng và hơi ấm tình người trong cuộc đời của người Kitô hữu.
Ngọn lửa luôn cháy thẳng đứng, bất kể cây nến sáp ong ở vào vị trí nào. Dù nghiêng sang bên trái, bên phải, hay ngã đổ xuống, ngọn lửa vẫn luôn cháy thẳng lên. Đức tin Kitô giáo luôn mang tính cách hướng thượng. Nó phản ảnh lòng khát khao sự sống vĩnh cửu, tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa Toàn Năng. Dù cuộc đời người Kitô hữu có nghiêng ngả, chao đảo, đôi khi đổ ngã, nhưng đức tin và đời sống ân sủng của Chúa Giêsu Kitô vẫn luôn hiện diện.
Ngọn lửa càng cháy sáng và hơi nóng càng ấm áp thì cây nến sáp ong càng bị mất mát, ngắn dần và bị tiêu thụ đi bấy nhiêu. Đời sống đức tin của người Kitô hữu đòi hỏi sự hy sinh, quên mình để làm chứng cho Đức Kitô.
John Ruskin, một văn sĩ người Anh sống vào thế kỷ thứ 18, đã kể lại câu chuyện sau đây. Khi về già, ông thường đến thăm nhà của một người bạn rất thân, và đứng ở cửa sổ phía trước nhà nhìn xuống mặt đường. Vào mỗi buổi chiều tối, người thắp đèn đường phải đi đốt đèn dọc theo hai bên đường. Từ cửa sổ của một ngôi nhà, một người chỉ có thể nhìn thấy những ánh đèn đã được đốt lên rồi, và ngọn lửa mà người thắp đèn đang mang đi đốt từ cột đèn này tới cột đèn khác. Chính người thắp đèn cũng không thể được ai nhìn thấy.
Nhà văn Ruskin đã lưu ý rằng người thắp đèn là một hình ảnh rất đúng của người Kitô hữu chân chính. Con đường của người Kitô hữu bước đi rực sáng ánh đèn mà chính người đó đã thắp lên với ngọn lửa đang cháy sáng trong tay để đốt lên các ngọn đèn khác, mặc dù chính người đó có thể không được ai biết đến hay được ai trông thấy.
Trong cuốn “Như Tiếng Chim Ca” của cha Anthony de Mello, SJ., kể câu chuyện “Thiền Sư Và Kitô Hữu” cũng nói lên lý tưởng của người Kitô hữu như sau:
Một Kitô hữu đến thăm một vị thiền sư và nói: “Xin thầy cho phép tôi đọc thầy nghe Bài Giảng Trên Núi”. Thiền sư đáp: “Tôi rất thích nghe”. Người Kitô hữu đọc một câu rồi ngước mắt lên nhìn. Thiền sư mỉm cười nói: “Đấng đã phán những lời đó chắc chắn phải là một vị Giác Ngộ”. Kitô hữu cảm thấy khoái trá. Ông tiếp tục đọc. Thiền sư ngưng lại rồi nói: “Những lời đó phải phát xuất từ Đấng Cứu Thế của nhân loại”. Người Kitô hữu cảm thấy thích thú. Ông tiếp tục đọc cho đến hết. Lúc bấy giờ thiền sư tuyên bố: “Người đã rao giảng như thế phải là Thiên Chúa”. Nỗi vui mừng của người Kitô hữu thật vô bờ bến. Ông ra về, cương quyết sẽ trở lại một ngày khác để thuyết phục thiền sư trở thành Kitô hữu.
Trên đường về nhà, ông gặp Chúa Giêsu đứng bên vệ đường. Ông đã thưa với Chúa một cách khoái trá: “Lạy Chúa, con đã làm cho người đó xưng ra Chúa là Thiên Chúa!” Chúa Giêsu mỉm cười và nói: “Con đã làm gì hay đâu, ngoại trừ việc con thổi phồng cái tôi Kitô hữu của con mà thôi?”
Đời sống đức tin của người Kitô hữu là một “chứng nhân không nhân chứng” cho Chúa Kitô, vì họ không phải là Chúa Kitô, nên cũng dễ bị phản chứng. Đời sống đức tin của người Kitô hữu là một cuộc chạy đua marathon, vì là cuộc chạy đua chưa về tới đích điểm, nên cũng dễ bị mang tên DNF – Did Not Finish – Đã Không Hoàn Tất.
Hôm nay chúng ta cử hành lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa, noi gương Mẹ Têrêsa, nếu chúng ta luôn giữ vững niềm tin nơi Chúa Giêsu, chúng ta sẽ hoàn tất cuộc đua. Chúng ta có thể sẽ bị người khác vượt qua. Có thể bị đau chân, chạy cà nhắc vài dặm. Nhưng với sự giúp đỡ của Chúa Giêsu Kitô, chúng ta sẽ hoàn tất và có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính”. Và các thiên thần cùng các thánh sẽ vỗ tay hoan hô ngày chúng ta hoàn tất cuộc đua marathon Kitô hữu về tới đích điểm là Nước Thiên đàng.
67.Con Yêu Dấu Của Cha
Lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa chấm dứt mùa Giáng Sinh, bước vào Mùa Thường Niên phần I. Mùa Thường Niên là thời kỳ kính mầu nhiệm Chúa Giêsu ở trần gian. Mùa Thường Niên gồm có 34 Chúa nhật, chia làm hai phần, phần I trước Mùa Chay và phần II sau Mùa Phục Sinh. Sau chu kỳ lễ Giáng Sinh, Chúa Giêsu công khai đi vào đời sống họat động rao giảng tin mừng. Để lời Người rao giảng được thiên hạ chấp nhận, Đức Giêsu được Chúa Cha giới thiệu về thân thế và sự nghiệp. Lời giới thiệu này đánh dấu khởi đầu Nước Trời đã khai mở. Khung cảnh ra mắt Đức Giêsu là sông Giođan. Chúng ta tìm hiểu về thân thế và sự nghiệp của Người.
Khung cảnh được chọn để giới thiệu Con Thiên Chúa là thiên nhiên hùng vỹ có núi đồi bao la có con sông duy nhất chảy từ Bắc xuống Nam. Hiện tượng xảy ra vắn gọn, sau cuộc trao đổi ngắn giữa Vị tiền hô và Đức Giêsu, Gioan Tẩy Giả thi hành sứ mệnh làm phép rửa cho Đức Giêsu nơi sông Giođan, và nầy điều kỳ diệu xảy ra: “Vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống trên Người. Lại có tiếng từ trời phán: ‘Con là Con yêu dấu của Cha. Cha hài lòng về Con’” (x. Bài Tin Mừng. Mc 1, 7-11). Những lời nói nầy rất cô đọng, súc tích, đượm suy tư thần học Cựu Ước. Các nhân vật chính trong buổi lễ ra mắt đó: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh thần, trước sự chứng kiến của đông đảo nhân chứng và Vị tiền hô, nơi thiên nhiên hoang vắng trời cao, sông dài, núi đồi hùng vỹ, tất cả cho thấy sự hoà điệu giữa thiên, địa, nhân hòa hợp. Chúng ta ta lưu ý đến cụm từ:
“Trời xé ra”, theo người Do thái thì trời là nơi Thiên Chúa ngự, đã khép lại vì tiên tri không còn nữa, không còn sự liên hệ giữa trời và đất nữa, nhịp cầu đã gãy giữa Thiên Chúa và lòai người. Nay thì trời mở ra, sự liên lạc giữa Thiên Chúa và con người được nối lại nơi bản thân của Đức Giêsu, việc này đáp lại lời cầu xin của Isaia trong thời lưu đày, ông cảm thấy Đức Chúa xa cách con người, nên ông lên tiếng nói: “Ước gì Đức Chúa xé trời và ngự xuống”. Chúng ta nhớ lại sự kiện khi Chúa chết: “Màn trong đền thờ xé ra làm hai từ trên xuống dưới” (Mc 15, 38). Một sự khai mở thông lưu giữa Thiên Chúa và nhân loại. Con Thiên Chúa đến với trần gian và chính Ngài mở một lối đi cho hết mọi người thành tâm đến với Thiên Chúa. Sự kiện này được tiên báo nơi sông Giođan: “Trời xé ra”, Thiên Chúa ngự xuống với con người. Nhịp cầu gãy vì tội nguyên tổ được nối lại. Đức Giêsu là trung gian duy nhất mang ý nghĩa tròn đầy.
“Thần khí như chim bồ câu ngự xuống trên người ”. Thần Khí ngự xuống trên ai thì người đó được chọn làm người của Thiên Chúa. Ngôn sứ sống dưới tác động của Thần Khí. Ở đây Đức Giêsu được chỉ định làm Ngôn Sứ cho thời đại mới mà truyền thống Do thái hằng mong đợi.
“Lại có tiếng từ trời phán: ‘Con là Con yêu dấu của Cha. Cha hài lòng về Con’”. Tiếng từ trời là tiếng của Thiên Chúa, nghĩa là Thiên Chúa chứng thực sứ mạng cứu độ của Đức Giêsu. Một câu nói tương tự trong Thánh vịnh 2, 7: “Con là Con của Cha, hôm nay Cha đã sinh ra Con”, câu này được được hiểu về Đấng Mêsia, tức là Đấng Cứu tinh. “Con yêu dấu” là cách gọi của ông Ápraham đối với con mình là Ixaác, khi ông định sát tế con để hiến dâng cho Thiên Chúa, Thiên Chúa đã tha mạng cho Ixaác. Danh xưng này được dùng cho Đức Giêsu, như là Ixaác Mới sẽ bị sát tế sau này trên thập giá.
Thân thế và sự nghiệp của Đức Giêsu được ám tàng nói đến trong lời giới thiệu ngày Chúa chịu phép rửa nơi sông Giođan, một tấn kịch đang được khai mở và dần dần sẽ được thực hiện trong năm phụng vụ. Về thân thế, Đức Giêsu là Con yêu dấu của Thiên Chúa, được Cha tuyển chọn dưới tác động của Thần Khí để trở thành Ixaác-Mới; và sự nghiệp của Người là cứu độ trần gian bằng chịu sát tế trên thập giá, làm lễ vật hy sinh dâng cho Thiên Chúa, nối lại nhịp cầu gãy đổ do tội lỗi của nhân lọai gây ra. Lời giới thiệu trân trọng này của Chúa Cha dưới sự chứng giám của Thánh Thần giúp chúng ta xác tín mạnh mẽ những lời Chúa nói và những việc Chúa làm, được Giáo Hội tuyên dương trong suốt Mùa Thường Niên.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã mặc lấy thân phận tội lỗi của nhân loại để cứu độ nhân lọai, chúng con tri ân cảm tạ Chúa. Xin cho con biết giới thiệu Chúa cho tha nhân qua cuộc sống của chúng con. Amen.
68.Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa
Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa hôm nay kết thúc mùa Giáng Sinh và dẫn chúng ta bước vào ngưỡng cửa của đời sống công khai của Ngài. Bài Tin Mừng hôm nay (Mc 1 , 6b - 11) trình bày Đức Giêsu là con yêu dấu của Chúa Cha, được Chúa Thánh Thần tấn phong làm Đấng Messia, Đấng Cứu Thế, với sứ mạng cứu độ loài người. Đây là dịp để chúng ta cùng chiêm ngắm về Đấng Thiên Sai và qua đó chúng ta noi gương bắt chước Người.
1. “Không có tình yêu nào cao quí hơn tình yêu của người dám chết vì người mình yêu”. Thiên Chúa đã yêu thương loài người, Ngài đã ban người con yêu quí nhất của Ngài cho loài người. Người Con yêu quí đó đã đến trần gian sống chung với loài người, chịu những cực nhọc đau khổ với loài người. Còn gì nữa? Cuối cùng đã hy sinh mạng sống vì loài người. Còn tình yêu nào cao quí hơn? Đến đỗi Thiên Chúa Cha không thể lặng thinh được nên Ngài phải tuyên bố công khai cho mọi người biết: “Con là Con Yêu Dấu Của Cha, Cha Hài Lòng Về Con”. Tình yêu thương vĩ đại đó đã cải hóa không biết bao nhiêu người. Hơn 2000 năm đã qua ,Tình yêu đó mỗi ngày một lớn mạnh hơn, cũng mở mắt được nhiều người hơn, làm cho nhiều người nhận thấy được Tình Yêu bao la tuyệt vời để quay trở về với Tình Yêu. Mỗi người trong chúng ta đều được hưởng trọn vẹn tình yêu đó. Thiên Chúa mời gọi, giúp đở, dẫn dắt và khuyên nhủ chúng ta trở về với Tình Yêu, và Ngài cũng đã dùng tất cả mọi phương cách có thể được, kể cả khổ nhục kế để mời gọi chúng ta thức tỉnh. Đó là qua những thành công và thất bại của cuộc sống, những lần chúng ta cầu xin mà không được như ý. Chúng ta ngở rằng Thiên Chúa không còn yêu thương mình nữa. Nhưng nếu chúng ta chịu mở mắt ra nhìn thì Thiên Chúa đã ban cho chúng ta điều tốt đẹp hơn cái mà chúng ta cầu xin. Bao nhiêu lần gặp thất bại, chúng ta có rút ra bài học gì không? Những lần chúng ta được thành công, được may mắn: chúng ta có biết tạ ơn Thiên Chúa, để nhìn thấy tình yêu thương bao la của Ngài trong những sự tốt đẹp đó. Nếu nhìn thấy được tình yêu, mỗi người nhìn lại xem đời sống của mình đã biến đổi như thế nào?
2. Chúa Giêsu từ Nagiareth đến và xin chịu phép rửa bởi ông Gioan tại sông Giorđan (Mc 1, 8). Qua Tin Mừng Marco, chúng ta nhận ra Đấng mà Gioan loan báo là kẻ có quyền hơn Ngài, và chính Gioan đã xác nhận: “Có Đấng đến sau tôi, nhưng quyền thế hơn tôi, tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Người” (Mc 1,7). Cử chỉ Chúa Giêsu cúi xuống để cho Gioan làm phép rửa, không chỉ cho thấy hình ảnh của một vị tôi tớ khiêm nhường nhưng còn muốn cho thấy rằng: Ngài tự hạ, Ngài dìm mọi tội lỗi mà chúng ta bị mang lấy trong Ađam cũ. Và cũng từ đó, trong sứ mạng của Đấng Thiên Sai, Ngài đưa lên khỏi nước một dân tộc mới, dân tộc hiến thánh cho Thiên Chúa. Đây là một cuộc tạo dựng mới thay thế cho cuộc tạo dựng cũ đã bị đánh mất nơi Ađam. Để trở thành Chiên Thiên Chúa, và nên Đấng gánh tội trần gian, Người đã chấp nhận để Gioan làm phép rửa cho mình, loan báo một phép rửa mà chính Người sẽ thực hiện trên Thập giá. Tất cả những gì Người làm đều xuất phát do tình yêu thương con người, sằn sàng vâng phục Thánh Ý Chúa Cha, nhằm mang lại Tình Yêu, Ân Phúc cho con người. Chúng ta thấy những cử chỉ đầy yêu thương của Chúa Giêsu, tâm hồn chúng ta có muốn được Chúa biến đổi nên tốt hơn không?
Trời đã mở ra để ta có thể nhìn ngắm Thiên Chúa. Nhưng làm sao chúng ta có thể thấy Thiên Chúa nếu tâm hồn chúng ta còn vướng mắc nhiều tội lỗi. Cho nên, chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, những mưu toan bất chính để ta có thể sáng sáng suốt nhận ra ý Chúa muốn và đồng thời mau mắn thực hiện Thánh ý Ngài.
Khi chịu Phép rửa tội, chúng ta thuộc về Đức Kitô, nên chúng ta hãy bắt chước Đức Kitô, chúng ta thấy được sứ mạng cao cả của Người Kitô hữu là trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu, trở nên tạo vật mới trong Đức Giêsu, mặc lấy tâm tình nhân hậu , sứ mạng yêu thương muốn lôi kéo nhiều người trở về nhận ra tình thương cứu độ của Thiên Chúa, sống đời khiêm tốn, phục vụ và làm theo thánh ý Chúa, làm cho người khác nhận biết và trở nên môn đệ của Đức Kitô, dù phải chấp nhận hy sinh và từ bỏ mình.
Xin Chúa cho chúng ta ý thức đến phép rửa mà mình đã lãnh nhận để mỗi ngày trong cuộc sống, ta biết lắng nghe Tiếng Chúa, và biết đáp lại Tình Yêu Chúa cho xứng đáng bằng cách sống tốt đẹp hơn là biết xa lánh, loại trừ tội lỗi, và can đảm bước theo Đưc Kitô, sống trong sạch, thánh thiện để xứng đáng vai trò là con thảo hiếu của Cha trên trời.
69.Con Thiên Chúa
Ngày kia, có một ông vua đi săn trong rừng, bỗng dưng ông nghe thấy tiếng khóc của trẻ thơ. Ông đi tới và thầm nghĩ:
- Chắc hẳn em nhỏ bất hạnh này bị cha mẹ bỏ rơi.
Ông ẵm đứa nhỏ lên, đem về hoàng cung, tắm rửa và mặc cho những bộ quần áo đẹp.
Khi em bé lớn lên, ông đã nói với em:
- Kể từ nay, ta sẽ gọi ngươi là con của ta và ngươi sẽ gọi ta là ba của con.
Có lẽ chúng ta ngạc nhiên về lòng thương xót của ông vua, nhưng nếu suy nghĩ về bí tích Rửa tội, chúng ta còn phải ngạc nhiên hơn nữa.
Thực vậy, em nhỏ mặc dù được gọi nhà vua là cha, nhưng trong huyết quản em vẫn không có lấy được một giọt máu của hoàng tộc. Thực tế em vẫn chỉ là con của một kẻ nghèo túng.
Nhưng đối với chúng ta thì khác, nhờ dòng nước rửa tội, chúng ta được tẩy sạch khỏi mọi vết nhơ tội lỗi đã đành, mà hơn thế nữa chúng ta còn được mặc lấy tấm áo ơn sủng. Thiên Chúa thông ban cho chúng ta sự sống của Ngài, để khi chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha, thì đó không còn là một danh từ trống rỗng và vô nghĩa, nhưng là một sự thật:
- Thiên Chúa là Cha chúng ta và chúng ta là con của Ngài.
Chúng ta hãy vui mừng và cảm tạ Thiên Chúa đã dành cho chúng ta một địa vị cao cả như thế, và nhất là hãy cố gắng sống cho xứng đáng với địa vị cao cả ấy.
Có một cậu bé hoàng tử chẳng may bị bọn cướp bắt cóc. Sau khi đã lấy hết những thứ quí giá trên mình, chúng trói câu vào một gốc cây. Nhưng may thay có một bác tiều phi đi ngang qua, đã cởi trói và đem cậu về nhà nuôi.
Nhiều năm sau, nhân một cuộc đi săn, vua cha đã dừng chân trước căn nhà nhỏ bé của bác tiều phu. Bác tiều vui rất lấy làm vinh dự được dẫn những đứa con của mình ra trình diện nhà vua. Khi đến cậu hoàng tử, bỗng nhà vua xúc động mạnh. Ông thầm nghỉ:
- Phải chăng đây chính là hoàng tử, con ta đã bị bắt cóc.
Ông hỏi bác tiều phu về gốc gác cậu bé và nói:
- Nếu ở bên vai phải có dấu ấn ta đã ghi, thì đúng là hoàng tử.
Với bàn tay run run, ông vạch chiếc áo và mừng rỡ kêu lên:
- Trời ơi, con ta.
Và cậu bé cũng kêu lên:
- Ba ơi.
Làm sao chúng ta có thể hiểu được sự đổi thay trong lòng cậu bé. Từ trước đến giờ, cậu cứ tưởng mình là con bác tiều phu nghèo nàn với quần áo rách rưới và nhà cửa xiêu vẹo. Bỗng chốc cậu nhận ra mình là hoàng tử, được sinh ra tại hoàng cung và thuộc hoàng tộc.
Kể từ nay, dù ở bất cứ nơi nào và làm bất cứ việc gì, cậu đều ý thức mình là một hoàng tử, là con của đức vua, nhờ đó cậu luôn có được những lời nói và những cử chỉ xứng hợp.
Với chúng ta cũng vậy. Nhờ bí tích Rửa tội, chúng ta trở nên con Thiên Chúa, thế nhưng chúng ta có ý thức được địa vị cao cả ấy không?
Người nào ý thức về địa vị cao cả ấy sẽ không bảo:
- Tôi đi nhà thờ.
Nhưng nói:
- Tôi đi gặp gỡ và tâm sự với Chúa, bởi vì cầu nguyện chính là lúc người con thố lộ tâm tình với cha mình.
Đây là một việc làm kỳ diệu và tuyệt vời,bởi vì một con người tầm thường và xấu xí như chúng ta mà lại được tiếp xúc, trò chuyện với Thiên Chúa.
Một người luôn ý thức về địa vị cao cả ấy, thì dù có làm việc gì cũng không baso giờ quên Thiên Chúa là cha của mình. Người ấy sẽ luôn thầm nhủ:
- Tôi sẽ làm vui lòng Cha tôi ở trên trời.
Khi chiêm ngắm những cảnh sắc hùng vĩ của thiên nhiên, người đó sẽ nghĩ ngay đến Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng nên tất cả.
Nhờ đời sống ơn sủng được chuyển thông qua bí tích Rửa tội, chúng ta trở nên con Thiên Chúa. Địa vị cao cả này đòi buộc chúng ta ở mọi nơi và trong mọi lúc phải có những lời nói và những việc làm thích hợp.
Bởi đó, phải sống làm sao cho xứng đáng với địa vị cao cả ấy, để rồi trong ngày sau hết, Thiên Chúa sẽ nói về chúng ta như ngày xưa Ngài đã nói về Đức Kitô bên bờ sông Giócđan:
- Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng.
70.Chúa chịu phép rửa
Một hiện tượng đáng lo ngại cho Giáo Hội tại Áo bên Âu châu, đó là sự kiện con số những người tuyên bố rút tên khỏi Giáo Hội Công giáo ngày càng gia tăng. Dĩ nhiên về nghĩa vụ, rút tên ra khỏi Giáo Hội có nghĩa là mỗi năm không còn phải đóng thuế tôn giáo nữa. Về quyền lợi, người tuyên bố rút tên ra khỏi Giáo Hội cũng sẽ tự rút phép thông công, nghĩa là chấm dứt mọi tham gia vào cac bí tích và đời sống của Giáo Hội. Nói cách khác, rút tên ra khỏi Giáo Hội cũng đồng nghỉa chối bỏ mọi cam kết khi chịu phép rửa tội.
Nói chung, thế giới phương tây vốn được mệnh danh là Kitô giáo, hiện nay đã trở thành một vùng truyền giáo mới. Thật thế,trong những nước có con số người theo Kitô giáo, phép rửa thường chỉ còn là một nghi thức xã hội không hơn không kém. Người ta chỉ có lý khi nói rằng, suốt một đời nhiều người tây phương chỉ đến nhà thờ có ba lần, lần đầu khi chịu phép rửa để gia nhập vào một xã hội vốn được mệnh danh là Kitô giáo. Lần thứ hai để cử hành hôn phối cho long trọng. Lần thứ ba cũng là để cử hành tang lễ cho long trọng.
Khi Giáo Hội chỉ được mời để có mặt ba lần như thế trong cả một đời người, thì quả thật người ta chỉ mang danh hiệu Kitô nhưng không sống trọn những cam kết của phép rửa. Hôm nay kỷ niệm Chúa Giêsu chịu phép rửa, Giáo Hội muốn mời gọi các Kitô hữu hãy đào sâu và ý thức về những cam kết khi chịu phép rửa tội. Trái với lối sống đạo cả đời đến nhà thờ chỉ có ba lần của người Tây phương, các tín hữu Kitô Việt Nam chúng ta lại tập trung đời sống đạo vào nhà thờ. Trái với những nhà thờ hầu như trống rỗng tại Tây phương, các nhà thờ Việt Nam chúng ta hầu như lúc nào cũng đông nghẹt người. Tuy nhiên, biết đâu những đêm đông chật ních trong các nhà thờ ấy lại không là những con người có lối sống hoàn toàn xa lạ, hay ngược lại với giáo huấn của Giáo Hội và Tin mừng của Chúa Giêsu Kitô. Biết đâu đám đông sốt sắng sống cầu kinh ra rả trong nhà thờ ấy lại chẳng là những con người không hề biết đến thế nào là công bình, là bác ái, là tình liên đới, là quảng đại, sợ chia sẻ lòng cảm thông và sợ tha thứ. Nói tắt một lời, nếu chúng ta chưa sống cho ra người thì sự hiện diện đông đảo trong nhà thờ, những lời cầu kinh ra rả, hay những cuộc biểu dương long trọng chưa hẳn đã là thể hiện đích thực của lòng tin.
Khi đến nhận phép rửa của Gioan tại sông Jordan, nghĩa là khi đến dìm mình trong dòng nước, Chúa Giêsu đã muốn thể hiện trọn vẹn ý nghĩa của mầu nhiệm Nhập thể, Ngài muốn sống trọn thân phận con người mà thành phần tất yếu là cái chết. Qua cử chỉ này, Chúa Giêsu muốn nói lên sự vâng phục trọn vẹn với Chúa Cha, Ngài đón nhận cái chết như thể hiện tận cùng của tình yêu.
Sống như một con người như Chúa Giêsu đã từng sống, chính là sống yêu thương và yêu thương đến độ sẵn sàng thí ban mạng sống mình. Đức Chúa Cha đã gọi Đức Chúa Giêsu là Người Con chí ái đẹp lòng Ngài mọi đàng, bởi vì Chúa Giêsu đã sống trọn ơn gọi làm người của Ngài. Đây chính là ý nghĩa của phép rửa mà Chúa Giêsu đã thiết lập và ủy thác cho Giáo Hội qua phép rửa ấy. Người tín hữu Kitô được mời gọi để sống trọn thân phận làm người như chính Chúa Giêsu đã từng sống. Thật thế, chỉ trong Chúa Giêsu, chúng ta mới thấy được thập giá và ơn gọi cao cả của con người. Chỉ trong Chúa Giêsu chúng ta mới thấy được thế nào là sống cho ra người. Chỉ trong Chúa Giêsu chúng ta mới hiểu thế nào là sống yêu thương.
Thập giá vừa là biểu hiện cái chết của Chúa Giêsu, vừa là dấu chứng tình yêu của Ngài. Với phép rửa chúng ta được ghi dấu thánh giá trên người, chúng ta làm dấu thánh giá mỗi ngày và biết bao nhiêu lần trong cuộc sống chúng ta. Chúng ta treo thánh giá khắp mọi nơi, chúng ta đeo thánh giá trên người, và ước gì thánh giá ấy không chỉ là thứ trang sức trên ngực, trên cổ hay trên tai của chúng ta, mà phải là một nhắc nhở về tình yêu của Đấng đã yêu thương chúng ta đến độ thí ban mạng sống của Ngài cho chúng ta. Ước gì thánh giá luôn là động lực thúc đẩy chúng ta ngày càng sống cho ra người hơn.
Nguyện xin các thánh Tử đạo Việt Nam, những người đã thà chết hơn là bước qua thánh giá để chối bỏ Chúa Giêsu, nay nguyện giúp cho chúng ta để chúng ta được luôn luôn trung thành với đức tin, thể hiện đức tin ấy bằng cuộc sống chứng tá, đó là giá trị của Tin mừng.
71.Chúa chịu phép rửa
Tôi thường nghe nhiều người nói với tôi rằng cuộc đời của họ không giống với những gì họ đã nghĩ tưởng hoặc dự định chút nào hết. Một người bạn giới thiệu với ta một công việc mà mà mình không được chuẩn bị để làm nhưng lại mở ra những viễn ảnh bất ngờ; một biến cố không quan trọng đưa chúng ta đi xa hơn những gì mình nghĩ; cuộc gặp gỡ tình cờ với một người mang lại cho chúng ta một khả năng thăng tiến, mở ra cho ta một cuộc sống có một ý nghĩa mới mẻ. Tất cả những tình huống này có thể giúp chúng ta khám phá ra những chiều kích mình chưa biết đến, những khả năng hầu như không bao giờ ta dám nghĩ tới, và đẩy chúng ta vào một cuộc mạo hiểm hoàn toàn bất ngờ, đầy hứa hẹn và thách đố.
Việc Chúa Giêsu đến với Gioan tẩy giả có giống kinh nghiệm của bản thân chúng ta không? Chúa Giêsu có cần nghe nói Ngài là ai và từ nay Ngài phải làm gì với cuộc sống của Ngài không? Ngài đến gặp vị ngôn sứ đang rao giảng việc hoán cải. Ngài muốn nghe tiếng nói của người hô lên trong sa mạc. Ngài quyết định chịu phép rửa như tất cả các bạn đồng hương. Có lẽ với tư cách là người, Chúa Giêsu đã muốn đến tìm nơi Gioan tẩy giả ánh sáng về sứ vụ tương lai của Ngài.
Vì Chúa Giêsu không biết trọn vẹn ý định của Thiên Chúa về Ngài, như biết một sơ đồ của kiến trúc sư. Ngài không có kế hoạch chi tiết về biến cố Tin mừng. Vậy nên Ngài chuẩn bị đón nhận những dấu chỉ mà Thiên Chúa gởi đến cho Ngài. Ngài chuẩn bị nội tâm thuận lợi để có thể đương đầu với một cuộc thách thức. Chính Ngài cũng muốn gặp gỡ Vương Quốc mà Gioan loan báo. Chính Ngài đang sống một cuộc sống sinh hoa kết quả.
Chúa Giêsu đã muốn trà trộn vào đám dân chúng tội lỗi, đồng hóa với họ, khi mà Ngài bước vào một bước ngoặt quan trọng trong đời Ngài. Đây có lẻ là sự phản kháng đầu tiên chống lại giấc mơ của người Do Thái về một Đấng Mêsia chiến thắng.
Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Gioan tẩy giả bắt đầu biểu lộ căn tính của Ngài. Dường như Gioan có ý thắc mắc về Chúa Giêsu, nhưng câu trả lời của Ngài có vẻ không soi sáng ho chúng ta nhiều hơn về căn tính của Ngài:
“Ta phải thực hiện mọi sự công chính”.
Trước hết là Chúa Thánh Thần đậu xuống trên Ngài như dấu chỉ cho thấy Thánh Thần ở nơi Ngài. Sau là Chúa Cha tuyên bố về tình yêu của Ngài đối với Con Một Ngài.
“Ta hoàn toàn vui thỏa về người Ta đã chọn”.
Chình lời này đã định nghĩa sứ vụ và định mệnh của Chúa Kitô: Sứ vụ làm chứng rằng Ngài được Thiên Chúa yêu thương, sứ vụ làm chứng rằng mọi con người trước và sau Ngài cũng là con cái yêu dấu của Chúa Cha.
Vậy chính từ một kẻ khác, mà Chúa Kitô đã được mặc khải cho chính mình và cho thế giới, và chính điều này đẩy Ngài vào cuộc mạo hiểm lớn lao của việc cứu độ. Cũng chính từ Chúa Kitô mà chúng ta được mặc khải cho chính mình, nhờ phép rửa:
Các con hãy xem chúng ta được thương yêu dường nào, vì chúng ta được gọi là con cái Thiên Chúa, và thực sự là như vậy”
Phép rửa tội của chúng ta ban cho chúng ta một sứ vụ.
Với tư cách là con cái Thiên Chúa chúng ta được mời gọi nhìn nhận thực tại này và họa lại cuộc sống của Chúa Giêsu trong đời của chúng ta. Chúng ta phải tỏ ra sẵn sàng “thực thi mọi sự công chính”. Và dấn thân theo gót Ngài để mặc khải tình yêu của Chúa Cha. Như Chúa Giêsu khi ra khỏi nước được tràn đầy Chúa Thánh Thần và được giao cho sứ vụ, cũng vậy phép rửa dìm chúng ta vào nước, để khi ra khỏi nước chúng ta sống một cuộc sống mới. Cuộc sống mới này thúc đẩy chúng ta biểu lộ tình thương xót của Thiên Chúa đối với anh chị em chúng ta, biểu lộ lòng ưu ái đối với những người nghèo nhất và những người bị xã hội bỏ rơi. Chúng ta có ý thức về trách nhiệm này không? Chúng ta có sẵn sàng làm chứng cho đức tin trước mặt những kẻ mà chúng ta gặp gỡ hàng ngày không? Chúng ta có sẵn sàng trở thành những chứng nhân của Lời và hành động của Chúa Kitô bằng cách cũng thực hiện những cử chỉ tha thứ, khiêm nhường, bác ái huynh đệ đó không? Chúng ta có ý thức rằng khi chúng ta đón nhận kẻ khác trong những giới hạn, những nỗi yếu hèn của họ, là chúng ta dấn thân theo gót Chúa Kitô không? Qua chúng ta tình yêu của Chúa Cha sẽ được mặc khải cho họ, một cuộc sống mới có thể bắt đầu đến với họ, và cuộc sống này sẽ đưa họ đi xa hơn những gì họ đã dự tính.
Những gì Chúa Cha đã nói về Chúa Kitô, Chúa Kitô cũng nói lại với chúng ta trong phép rửa tội của chúng ta. Chúng ta là những con chí ái của Chúa Cha. Ước gì chúng ta có thể tỏ ra xứng đáng với địa vị làm con Thiên Chúa. Ước gì hồng ân của phép thánh tẩy có thể sinh hoa kết quả để cho Tin Mừng luôn luôn tăng trưởng nơi chúng ta và trong cộng đoàn của chúng ta. Ước gì chúng ta có thể sinh dồi dào hoa trái tình thương, công lý, trung thành và bình an.
72.Tình liên đới yêu thương
Một trong những điều khó hiểu và gây ngạc nhiên không những cho thánh Gioan Tẩy giả khi xưa mà còn cho rất nhiều người qua mọi thời đại là tại sao Chúa Giêsu là Đấng vô tội lại xếp hàng chung với đám tội nhân và tìm đến với Gioan tẩy giả để lãnh nhận phép rửa xin ơn tha thứ? Thắc mắc ấy chỉ có thể trả lời ấy được theo logic của con tim mà thôi. Đức Giêsu, Đấng vô tội đã tự nguyện gia nhập vào hàng ngũ những tội nhân vì Ngài muốn liên đới với hết mọi người tội lỗi để giải cứu họ khỏi ách nô lệ của tội lỗi và ban tặng cho họ nguồn sống đích thực và vĩnh cửu.
Chuyện kể rằng: Ngày kia, một vị quan lớn mở tiệc và mời nhiều người đến dự tiệc. Tất cả những người được mời đến dự tiệc điều ăn mặc sang trọng và dùng những phương tiện tốt nhất để đi đến buổi tiệc hôm ấy. Trong số những khách mời hôm ấy, có một người cụ già. Rủi thay, vì già yếu nên cụ này khi xuống xe đã trượt chân té xuống bùn gần đó. Khách đến dự tiệc được một phen cười no bụng. Cụ già cảm thấy xấu hổ và cảm thấy mình không xứng đáng vào phòng tiệc, nên ông quyết định quay về. Gia nhân nài nỉ cách mấy ông cũng không chịu ở lại dự tiệc. Khi ấy, vị quan chủ tiệc bước ra sân, đi đến chỗ vũng bùn đó, rồi cố tình té ngã vào vũng nước. Thế là áo quần của ông cũng dơ như cụ già kia. Thấy sự việc như vậy, mọi người chung quanh không dám cười nhạo nữa. Sau đó, vị quan cầm tay ông cụ đưa vào phòng tiệc và ông cụ không còn lý do nào để chối từ.
Hành vi cố tình té vào vũng bùn của ông quan chủ tiệc xem ra rất khó hiểu. Nhưng nhờ hành động cố tình té ngã đó, ông quan mới có thể đưa ông cụ già vào phòng tiệc. Phải chăng đó cũng là cách ứng xử mà Chúa Giêsu đã từng thực hiện đối với mỗi người chúng ta. Khi sinh xuống làm người, Đức Giêsu đã xin ra trong cảnh cùng cực nhất của kiếp người để Ngài có thể chạm đến được với hết mọi người. Những ai từng bị bỏ rơi, bị khinh khi, bị xa lánh . . . thì nay họ lại được Con Thiên Chúa làm bạn hữu thân thiện nhất của mình. Thử hỏi còn gì danh dự hơn, còn gì an ủi hơn cho chúng ta chăng? Tất cả những gì Chúa Giêsu làm cho con người minh chứng cho chúng ta thấy chúng ta là người được Thiên Chúa yêu thương. Ngài tự nguyện trở nên một con người bình thường, mờ nhạt giữa những con người danh tiếng để chia sẻ kiếp người với chúng ta, để nâng loài người chúng ta lên. Ngài mặc lấy xác phàm để chia sẻ thân phận đói nghèo, đau khổ, bệnh hoạn của con người. Ngài hoá kiếp phàm nhân để nếm trải nỗi ray rứt khắc khoải của tội nhân. Ngài đang cùng nhịp đập con tim với mọi người để cảm thông và yêu thương tất cả, một sự liên đới của tình yêu.
Đức Giêsu khởi đầu sứ mạng rao giảng của mình bằng việc tìm đến với Gioan Tẩy giả để lãnh nhận Phép rửa của Gioan cho thấy Đức Giêsu là một Đấng Khiêm nhường, một Thiên Chúa khiêm nhườngï vô cùng. Ngài tự nguyện cúi mình sâu xuống tận bùn đen để nâng lên những con người đang chìm sâu trong bùn đen dơ nhớp ấy. Ngài khiêm hạ đến độ làm cho mình trở thành một kẻ vô danh bên cạnh một ông Gioan Tẩy giả đang được mọi người ngưỡng mộ và kính phục. Sự khiêm hạ của Đức Giêsu cho chúng ta thấy một tình yêu sâu đậm mà Thiên Chúa dành cho con người. Quả thật như lời của một thiền sư đã nói: “Thiên Chúa làm người để cho con người lên làm chúa”. Thiên Chúa là Đấng khiêm nhường. Ta hãnh diện và tin tưởng để nói lên điều đó. Chính trong sự khiêm nhường và tự hạ như thế, Đức Giêsu đã được Thiên Chúa Cha xác nhận “Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha”.
Tôi thích ngắm nhìn cảnh một người cha cúi mình xuống để nâng đứa con nhỏ của mình lên vai của ông và tung tăng vui đùa cùng đứa bé. Đứa bé khi đó tự hào và thích thú vô cùng vì thấy mình được cao hơn cha. Người cha đang xoá mình đi trước đứa con yêu. Ông chỉ muốn tìm đủ mọi cách để cho đứa con của mình được vui cười và thoả thích trong hạnh phúc đơn sơ ấy. Đó cũng là cách thức mà Thiên Chúa luôn hành động trong cuộc đời của con người chúng ta.
Thiên Chúa là Đấng cao sang, vô tội đã tự nguyện liên đới mình với mọi người để yêu thương và nâng đỡ mọi người. Chúng ta hạnh phúc chiêm ngắm tình yêu ấy để an vui mà tiến bước trong tình yêu. Nhưng khi cảm nghiệm hạnh phúc êm đềm ấy, chúng ta cũng phải có sứ mạng tiếp nối và làm cho tình yêu ấy được lớn lên trong cuộc đời này. Chúng ta cũng phải liên đới mình với anh em đang sống chung quanh mình. Cuộc sống bon chen ngày hôm nay rất dễ làm cho chúng ta có thái độ cạnh tranh nhau, chà đạp nhau để vươn lên. Chúng ta bị cám dỗ sống chủ nghĩa “Mackeno” nghĩa là “mặc kệ nó”. Chúng ta đừng nghĩ rằng ai sống chết ra sao mặc kệ họ, miễn sao gia đình tôi, bản thân êm ấm và no đủ là được rồi. Chúng ta nên sống tình lối xóm láng giềng “tối lửa tắt đèn” có nhau. Chúng ta cũng phải biết cảm thông và nâng đỡ những người nguội lạnh, thăm viếng, an ủi những gia đình đang gặp hoạn nạn, khổ đau. Cầu nguyện cho nhau vẫn là phương thế thực hiện tình liên đới cách hữu hiệu nhất. Đừng bao giờ bỏ qua những gì chúng ta có thể làm được cho người anh em của mình khi họ thật sự cần đến chúng ta. Chia sẻ thật tình với nhau trong những khi cần thiết là chúng ta đang thực hiện sự nối dài của Chúa Giêsu trong sứ mạng của Ngài, sứ mạng liên đới và cứu độ mọi người. Amen.
73.Cái nhìn – cách nhìn
Tin Mừng hôm nay tả lại một khung cảnh thật tuyệt vời khi Chúa Giêsu bước xuống dòng sông Giodan để cho ông Gioan làm phép rửa. Đây là cảnh của trời đất giao hoà, cảnh đất trời giao duyên, và đây cũng là cảnh trời đất được nối liền trong con người của Đức Giêsu Kitô, có sự xác nhận của Chúa Cha, và có sự hiện diện của Chúa Thánh Thần. Cũng là cách nhắc nhở chúng ta đặc biệt hơn sống đúng bổn phận của một người con Chúa, theo gương Đức Giêsu Kitô. Vậy, sống đúng bổn phận làm con Chúa là sống như thế nào?
Chuyện kể rằng: Tôi có quen với một gia đình kia làm nghề mua bán những vật liệu phế thải, (người bình dân gọi họ là những người mua bán ve chai lông vịt). Hằng ngày, vợ chồng họ phải gánh hai cái cần xé đi vào tận các làng quê xa xôi để tìm mua những vật liệu phế thải, rồi chiều gánh về đại lý để cân lại lấy tiền lời sinh sống qua ngày. Chiều hôm đó, cũng như mọi buổi chiều khác, vợ chồng họ gặp nhau ở đại lý, và người vợ cũng hỏi chồng một câu quen thuộc: Hôm nay khá không anh? Anh chồng vừa lắc đầu vừa nói: Cũng như mọi ngày, chả có cái gì quí. Thế rồi chị vợ đến đổ gánh đồ phế thải ra để lựa đồ chờ chủ đến cân, thì chị ta nhìn thấy có một cây thánh giá nhỏ thật xấu xí, đen thui nằm xen trong những mãnh sắt vụn, chị cầm lên và chị nghĩ trong lòng rằng: Đây là vật thiêng của Trời cho, để đem về làm kỷ niệm, vậy là chị bỏ cây thánh giá vào trong túi đem về nhà. Về đến nhà, chị đem cây thánh giá ra chùi rửa, thì thấy nó sáng lên một chút, rồi chị đi tìm đồ để đánh bóng cây thánh giá lên, thì chị thấy đây là một cây thánh giá bằng bạc, trông rất đẹp. Còn đứa con của chị, vừa đi học về, trông thấy cây thánh giá thì thích quá, nó xin mẹ nó cho nó cây thánh giá đó để nó đeo ở cổ của nó, để Chúa phù hộ cho nó.
Qua câu chuyện trên đây, chúng ta thấy có ba con người, và ba con người đó cùng nhìn về một cây thánh giá với ba cách nhìn khác nhau, người chồng nhìn thấy cây thánh giá đó như là một vật phế thải, chẳng có giá trị gì. Người vợ nhìn cây thánh giá đó như là một vật thiêng của trời ban cho. Còn đứa con thì nhìn cây thánh giá đó, nó thấy có Chúa hiện diện, để Chúa phù hộ cho nó. Như vậy, cách nhìn về cây thánh giá của gia đình trên đây cũng có phần tương tự như cách nhìn về Chúa Giêsu trong các bài Phúc âm, mà chúng ta đã được nghe đọc từ hôm lễ Chúa Giêsu giáng sinh cho đến nay. Những người Do thái nhìn vào Chúa Giêsu và họ không thể nào tin được Chúa Giêsu là Đấng cứu thế. Còn ông Gioan Tiền hô, như chúng ta đã thấy trong bài Phúc âm hôm nay, ông nhận ra Đức Giêsu chính là Đấng cứu thế, là Đấng cao trọng, là Đấng sẽ cứu muôn dân. Và cuối cùng là cách nhìn của Thiên Chúa, chính Thiên Chúa đã xác nhận về Chúa Giêsu rằng: Đây là Con Ta yêu dấu, Con đẹp lòng Ta. Từ ba cách nhìn trên đây, chúng ta thấy Đức Giêsu vừa là Đấng Cứu thế, vừa là Đấng cao trọng, và vừa là người Con tuyệt vời của Thiên Chúa nữa.
Riêng đối với chúng ta, nếu chúng ta áp dụng ba cách nhìn này vào cuộc sống của con người, thì chúng ta cũng thấy rằng: nếu chúng ta mang cách nhìn thứ nhất, thì chúng ta cũng chỉ thấy mình là một con người bình thường, bé nhỏ, yếu đuối, một con người giống như những người khác vậy thôi. Còn nếu chúng ta có được cách nhìn thứ hai, thì chúng ta sẽ thấy mình là một Kitô hữu, là một giáo dân thuộc giáo xứ… này. Còn nếu chúng ta có được cách nhìn thứ ba, chúng ta sẽ thấy chúng ta là một người con của Chúa, một người được dựng nên giống hình ảnh Chúa.
Nhìn lại bài Phúc âm hôm nay, nếu chúng ta thấy Chúa Cha xác nhận Chúa Giêsu là Con yêu quí của Ngài, thì chúng ta hôm nay là những người con của Chúa Giêsu, chúng ta cũng phải sống theo gương của Chúa Giêsu, để một ngày nào đó, Chúa Cha cũng xác nhận chúng ta là những đứa con yêu quí giống như Chúa Giêsu vậy, nếu tới lúc đó Chúa Cha nói: Con mất lòng Ta quá, Ta không biết đến con nữa đâu, thì lúc đó ta có hối hận cũng không còn kịp nữa.
Trong mỗi người chúng ta, ai cũng phải làm con, rồi mới làm cha làm mẹ. Vậy thì như con cái phải làm vui lòng cha mẹ thế nào, thì chúng ta cũng phải làm vui lòng Chúa như vậy. Rồi các bậc cha mẹ ai cũng ước mong cho con cái mình sống tốt thế nào, thì chính cha mẹ cũng phải sống tốt như vậy. Nghĩa là phải sống đạo thật tốt, trung thành với các bổn phận đạo đức, trung thành với bổn phận làm người, sống yêu thương, giúp đỡ, làm tốt các việc thiện, việc lành. Và như thế, là chúng ta được sống trong tình Cha con với Thiên Chúa, và Thiên Chúa sẽ nhận chúng ta là những đứa con yêu quí của Ngài.
Xin Thiên Chúa giúp tất cả chúng ta, để chúng ta trở nên những đứa con ngoan của Chúa. Amen.
74.Chúa chịu phép rửa
Tâm lý thường tình của con người là muốn mình được trọng vọng, được đề cao, được vượt trổi hơn người khác.
Khi nói chuyện với nhau, người ta thường thích nói về mình: Tôi thế này, tôi thế nọ. Khi ở giữa đám đông, người ta thích làm nổi, thích được chú ý, thích được khen ngợi. Ở trong một tập thể, người ta thích giữ những chức vụ lớn, thích điều khiển người khác, thích làm những công việc được nhiều người biết đến. Khi hội họp, người ta muốn ý kiến của mình được tôn trọng và chấp thuận dù nó không hay bằng ý kiến của người khác… Tất cả những điều đó phản ảnh khuynh hướng kiêu căng trong lòng mỗi người. Mà kiêu căng là mối tội thứ nhất trong bảy mối tội đầu. Gọi là mối tội đầu vì nó là căn nguyên đưa tới nhiều thứ tội lỗi khác. Thật vậy, sự kiêu căng chính là đầu mối dẫn tới rất nhiều điều tệ hại trong cuộc sống của con người: Chiến tranh bởi đâu nếu không phải bởi nước này muốn thống trị nước nọ? Ghen tương bởi đâu nếu không phải bởi người này muốn trổi vượt hơn người khác? Hận thù bởi đâu nếu không phải bởi người ta muốn đạp người khác xuống để chiến lấy vị trị của họ? Nói hành, nói xấu, vu khống, dèm pha bởi đâu nếu không phải bởi người ta muốn tự quảng cáo mình tốt hơn, giỏi hơn người khác?... Sự kiêu căng không đem lại điều gì tốt đẹp cho người kiêu căng cả. Luxiphe vì kiêu căng không muốn phục tùng Thiên Chúa đã tự loại mình ra khỏi hàng ngũ các Thiên Thần. Ông bà nguyên tổ loài người vì kiêu căng muốn bằng Thiên Chúa nên đã bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, và cửa trời đóng lại. Sự kiêu căng đã tạo nên hố ngăn cách giữa Thiên Chúa và con người. Sự kiêu căng đã dựng nên một hàng rào không cho con người đến với nhau…
Chiêm ngắm Chúa Giêsu trong máng cỏ hôi tanh, và chiêm ngắm Người trong biến cố Người chịu phép rửa, chúng ta sẽ thấy mình lố bịch biết bao khi để cho tính kiêu căng thống trị và hướng dẫn đời sống mình.
Thật vậy,
- Chúa Giêsu là Thiên Chúa cao cả vô cùng, nhưng Người đã mặc lấy những tâm tình và cung cách sống khiêm tốn thẳm sâu.
- Là Thiên Chúa cao cả vô cùng, nhưng Người đã không đòi phải được sinh ra trong một đất nước văn minh, trong một thành phố hoa lệ và trong cung ngọc điện ngà. Trái lại, Người đã chấp nhận sinh ra trong một hoàn cảnh bi đát nhất của thân phận làm người.
- Là Thiên Chúa cao cả vô cùng, nhưng Người đã không chọn cho mình một người cha, một người mẹ danh giá và giầu sang. Trái lại, Người chấp nhận làm con của một anh thợ mộc vô danh tiểu tốt và một cô thiếu nữ nhà quê khổ nghèo.
- Là Thiên Chúa thánh thiện tuyệt đối, nhưng Người lại hạ mình đến xin ông Gioan làm phép rửa cho mình như một người dân tầm thường và tội lỗi.
- Người là Thiên Chúa của muôn loài, nhưng lại hòa mình với đám đông không tên tuổi để trở thành một người vô danh như họ.
Biết nói gì về Người bây giờ nếu không phải là cúi đầu cảm phục và tôn thờ sự khiêm tốn thẳm sâu của con Thiên Chúa làm người? Ngày xưa, do sự kiêu căng của nguyên tổ loài người, cửa trời đã đóng lại. Ngày nay, do sự khiêm hạ của Con Thiên Chúa mà cửu trời lại được mở ra. Trời mở ra nghĩa là mọi ngăn cách giữa Thiên Chúa và con người đã bị xóa bỏ. Con người phản bội nay đã được tha thứ, được phục hồi tước vị làm con Thiên Chúa và được đồng thừa tự gia tài Nước Trời cùng với Chúa Giêsu. Trời được mở ra cho hết mọi người có thể đi vào. Nhưng nếu chúng ta tiếp tục bước vào vết chân kiêu căng của ông bà nguyên tổ, thì cách Cửu Trời ấy sẽ mãi mãi đóng lại trước mắt chúng ta.
75.Đấng công chính lãnh lấy phần phạt của những kẻ tội lỗi
Thông thường người ta bênh vực cho người công chính, không ai lại bênh vực cho những kẻ quấy. Ông bà nguyên tổ của chúng ta đã đánh mất ơn nghĩa Chúa khi chống lại Ngài và con cháu phải mang hậu quả, hay chống cưỡng ý Chúa và làm theo ý riêng của mình. Thiên Chúa quãng đại đã không chấp nhứt, không phạt đời đời nhưng mở ra một lối đi tìm về chân lý. Chúa hứa ban nhiều ân sủng, giúp con người sống cuộc đời làm con Chúa.
Trong bài đọc I, bài trích sách tiên tri Isaia, Thiên Chúa hứa với tuyển dân: sẽ cho xuất hiện một Đấng cứu tinh. Ngài là một người rất đẹp lòng Chúa. Chúa sẽ nâng đỡ và ban Thần Khí trên Người. Người sẽ xét xử chư dân, sẽ không thiên vị nhưng rất nhân từ. Người không bẻ gẫy cây lao bị giập, không dập tắt tim đèn còn khói. Người trung thành đem lại lẽ công bình, lo đặt công lý trên địa cầu, mọi nước mong đợi lề luật Người. Người lập giao ước mới và nên ánh sáng của muôn dân, người mở mắt cho người mù, đưa khỏi tù những người bị xiềng xích… Dân Israel mong đợi lời hứa đó, nhưng họ lại không đón tiếp vị Vua thuộc nhóm dân nghèo!
Lời sấm đã được thực hiện trong thời Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Bài Tin Mừng cho chúng ta biết: Đấng thiên Chúa hứa ban để giải thoát dân Israel đó chính là Đức Giêsu Kitô, Chúa của mọi dân tộc. Ngài đã bỏ trời xuống thế gian để gánh lấy những đau khổ và phần phạt loài người đáng ra phải chịu vì tội lỗi mình. Ngài đã rửa loài người trong Chúa Thánh Thần. Nhưng trước hết, chính Ngài đã hạ mình mang lấy tội lỗi nhân gian, nhận lấy phép rửa sám hối bởi tay người phàm vì Ngài là Chiên Con Gánh Tội trần gian. Hành động đó rất đẹp lòng Chúa Cha. Chính Chúa Cha đã làm chứng về Ngài trước mặt Gioan Tẩy Giả và đoàn người đến sám hối: Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha.
Chúa Giêsu chịu phép rửa dù Ngài vô tội. Vì chúng ta, Ngài mang lấy thân phận tôi đòi. Bao nhiêu tội lỗi nhân gian từ tạo thiên lập địa đến tận thế Ngài gánh lấy. Vì vậy, trong vườn dầu, Ngài đã phải đổ mồ hôi máu, và trong giờ sát tế chiên vượt qua, Ngài phải oằn mình đau đớn trên cây khổ giá dành cho tội nhân. Chỉ những ai hiểu được nỗi khổ đau và sự hy sinh của Chúa Giêsu mới thấy được lòng khoan dung của Chúa đối với tội lỗi nhân loại và nhận ra tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người. Chỉ những ai yêu mến Chúa mới thấy tội lỗi mình nặng nề , gớm ghiếc vì đã xúc phạm đến Thiên Chúa vô biên. Điều nghịch lý là chúng ta, những kẻ tội lỗi lại không dám tỏ lòng sám hối công khai, còn Chúa Giêsu vô tội lại phải xếp hàng trong đám tội nhân để nhận phép rửa sám hối thế cho nhân loại nơi Gioan Tẩy Giả.
Chúa thật nhân từ và đáng mến biết bao vậy mà nhiều khi chúng ta chỉ lo lắng những chuyện trần thế, bỏ quên thiên Chúa, không dành thời giờ cầu nguyện với Chúa, để cảm nhận được tình thương và sự ưu ái của Thiên Chúa đối với chúng ta. Chúng ta hãy xin lỗi Chúa và thành tâm đáp trả lại tình yêu ấy bằng sự hoán cải tận căn, năng lãnh nhận Bí tích Giải tội để Chúa Giêsu ban ơn cho chúng ta sống Tám Mối Phúc Thật, giữ đúng tinh thần Chúa dạy trong Tin Mừng.
Mỗi lần tham dự thánh lễ, chúng ta hãy chuẩn bị lòng mình thật kỹ, lắng nghe lời Chúa và rước Chúa cho thật sốt sắng để chúng ta cũng được Chúa gọi chúng ta bằng câu nói: đây là những người con yêu dấu của Cha, con đẹp lòng Cha trong Chúa Ngôi Hai, Con Ta.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã lãnh lấy phần phạt mà loài người đáng phải chịu vì tội lỗi mình. Chúa còn tiếp tục khoan dung nhân thứ cho chúng con những lúc cố tình lỗi phạm hoặc thờ ơ, thụ động trong việc giữ đạo. Xin Chúa ban thêm lòng mến cho chúng con để chúng con biết tin thờ Chúa cho phải đạo hầu ngày sau được về cùng Chúa trên Thiên Đàng.
76.Tất cả là hồng ân
Ngày lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa hôm nay Giáo hội nhắc nhở chúng ta ơn phép rửa mà mỗi người lãnh nhận là một hồng ân cao quý mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta một cách nhưng không, nó thật cao quý vô cùng không gì có thể sánh được. Chính nhờ phép rửa mà chúng ta được sinh trở lại làm con Chúa. Phép rửa mà chúng ta lãnh nhận không phải như phép rửa của Gioan, chỉ là phép rửa sám hối, nhưng phép rửa mà chúng ta được lãnh nhận “trong Thánh Thần”. Chính điều đó đã được Gioan xác nhận, và thứ hai nữa là một tinh thần tự hạ từ Con Thiên Chúa không chút vết nhơ tì ố lại cúi mình nhận phép rửa từ tay Gioan như một người tội lỗi .
1. Hồng ân nhưng không
Từ ban đầu Thiên Chúa đã dưng nên con người rất tinh tuyền với “sự công chính nguyên thuỷ” nhưng chúng ta đã tự mình đánh mất đặc ân cao cả đó, đang lúc ta là tội nhân, là những con người đáng chết, đáng bị huỷ diệt đời đời, Thiên Chúa không ghét bỏ mà người đã thương nâng chúng ta lên làm con yêu quý của Ngài. Cũng chính nhờ tình thương mà chúng ta được nhận hết ơn ban này đến ơn ban khác. Thiên Chúa ban cho ta rất nhiều hồng ân, nhưng có lãnh nhận hay không là tuỳ ở mỗi người. Trước tiên qua các tiên kêu gọi mọi người ăn năn sám hối, và đặc biệt là Gioan, người đã đi trước để dọn đường cho Chúa và cuối cùng Thiên Chúa đã ban chính con của người cho nhân loại chính nhờ con của người mà cả thế gian được cứu rỗi. Tuy thế, muốn lãnh nhận được những ơn Chúa ban đòi hỏi mỗi người phải có đức tin. Vì ơn Phép rửa trước hết là ơn đức tin. Nhờ đức tin mà chúng ta biết được Thiên Chúa là ai và mình là ai. Chúng ta biết được mình từ đâu đến và sẽ đi về đâu. Chúng ta biết được đời sống của chúng ta có ý nghĩa như thế nào. Đó là một hồng ân cao trọng và quý báu mà không phải ai cũng có được điều đó. Vì như thánh Augustinô đã khẳng định “Thiên Chúa dựng nên ta Ngài không hỏi ta, nhưng để cứu chuộc ta Ngài phải cần sự đồng ý của ta”. Chính vì cứng đầu mà nhiều người phải quờ quạng, dò dẫm… không biết đường biết hướng mà đi. Không tìm được lối thoát cho cuộc đời mình. Để rồi thất vọng, chán chường hoặc tìm bù đắp ở những nơi khác như tiền bạc, của cải, danh vọng, thú vui … rồi cuối cùng lại đi vào bóng đêm vĩnh viễn chỉ vì không chịu đón nhận hồng ân của Ánh Sáng.
2. Tinh thần tự hạ, khiêm nhường
Khi đó Gioan đã là một người rất nổi tiếng và có uy tín, đến nỗi có nhiều người còn tưởng ông là Êlia hay một tiên tri nào đó đã sống lại. Hơn nữa, còn có nhiều người lầm tưởng ông là đấng Messia. Vậy mà mà khi so sánh với Đấng mà chính tay ông làm phép rửa hôm nay “Ông không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người”. Có thể dân chúng thời Cựu Ước không thể hiểu được lời Gioan nói đó, và nhất là không thể nào hiểu được ý nghĩa xâu xa như chúng ta hiểu ngày nay. Vì Con Thiên Chúa lại hạ mình xuống như tội nhân thật là một mầu nhiệm vượt quá sức tưởng tượng của con người. Không ai có thể chấp nhận được Con Thiên Chúa là Đấng chí thánh, là Đấng vô tội lại bước vào hàng ngũ của những tội nhân để xin một người phàm làm phép rửa và Thiên Chúa đã xức dầu thánh hiến Ngài để Ngài trở thành ánh sáng chiếu soi muôn nước, để đi tới đâu Ngài thi ân giáng phúc tới đó.Cùng một phép rửa đó để rồi trên thập giá Ngài trở thành tên tử tội, nhưng Ngài vô tội, Ngài đã gánh lấy tội trần gian và cái chết đau đớn nhục nhã của Ngài là giá trị cứu chuộc chúng ta.
Lạy Chúa, chính nhờ Bí tích Rửa Tội mà chúng con được trở nên con cái Chúa. Xin cho chúng con biết nhận ra hồng ân cao quý đó mà luôn sống tốt làm người con Chúa cũng như làm tròn bổn phận mà Thiên Chúa trao phó. Amen.
77.Chúa chịu phép rửa
Trong ngày kỷ niệm Chúa chịu phép rửa nơi sông Giođan, phụng vụ trình bày cho chúng ta sự kiện chính Thiên Chúa Cha giới thiệu và tuyên bố Chúa Giêsu Kitô, Con của Ngài, là vị cứu tinh cho toàn thể nhân loại.
Bài Tin Mừng hôm nay có hai phần rõ rệt. Phần một diễn tả Gioan làm chứng về Chúa Cứu Thế, Đấng có quyền năng thanh tẩy nhân loại trong Thánh Thần, nghĩa là có sức mạnh chữa lành con người toàn diện, mở ra con đường giải thoát thiêng liêng, và nhóm lên trong lòng con người niềm hy vọng nơi quyền năng vô biên của Thiên Chúa. Phần hai trình bày sự kiện Chúa Giêsu chịu phép rửa và việc Chúa Cha chứng kiến và can thiệp.
Phép rửa mà Gioan thực hiện bằng nước chỉ là hình bóng, là hình thức minh chứng cho người đến chịu phép rửa ý muốn xưng thú tội lỗi, cải hóa nội tâm và trở về đường ngay nẻo chính. Gioan làm phép rửa trong vùng hoang địa dọc bờ sông Giođan. Từ hoang địa nhắc lại giai đoạn lịch sử khi dân Do Thái thoát khỏi ách nô lệ trở về Đất Hứa. Sông Giođan là trở ngại sau cùng mà dân Do Thái phải vượt qua để vào Đất hứa.
Khi xuống dòng sông để cho Gioan thanh tẩy, Chúa Giêsu đã làm một cử chỉ liên đới với nhân loại tội lỗi, một cử chỉ báo trước việc tự hạ đẫm máu của Người trên thập giá, để cho nhân loại được giao hòa với Thiên Chúa và được cứu thoát. Dòng nước chảy chỉ có năng lực thanh tẩy thực sự trong ngày Chúa Kitô xuống dòng sông để thánh hóa và ban thần lực cho nó.
Điểm chính yếu và mang nặng ý nghĩa trong biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa chính là lời tuyên bố của Thiên Chúa Cha, một lời tuyên bố vắn tắt, nhưng hàm xúc ý nghĩa sâu xa: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. “Là Con yêu dấu” đồng nghĩa với Con duy nhất, nhắc lại sự kiện Abraham đã hiến tế người con duy nhất là Isaac cho Thiên Chúa. “Cha hài lòng về Con” là lời tiên tri của Isaia trong bài ca về người tôi tớ đau khổ, mà Tân ước áp dụng cho Chúa Kitô Cứu thế: “Đây là người Tôi trung Ta nâng đỡ, là người ta tuyển chọn và quí mến hết lòng. Ta cho thần khí Ta ngự trên nó, nó sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân”. Lời tuyên bố này chứa đựng niềm tin của cộng đoàn dân ngoại đã khai sinh, ám chỉ sự nghiệp của Chúa Kitô, Đấng mà Môsê mớ sẽ đưa dân qua Biển Đỏ, là Giosuê mới sẽ lãnh đạo và đưa dân ra khỏi dòng sông Giođan, nghĩa là ra khỏi vòng nô lệ tội lỗi mà vào Đất Hứa, để hưởng niểm vui vì được giải hòa với Thiên Chúa và nhận Thiên Chúa là Cha.
Sau khi ra khỏi dòng sông Giođan, Chúa Giêsu được Thánh Thần đưa vào hoang địa bốn mươi ngày để chịu ma quả cám dỗ. Được Chúa Cha ủng hộ, từ nay Chúa Giêsu can trường chấp nhận mọi khó khăn thử thách, có đủ sức để chiến thắng ma quỷ. Người Kitô hữu tin theo Chúa mỗi khi lãnh nhận bí tích rửa tội, chẳng khác nào như được dìm mình trong dòng sông Giođan, họ sẽ trở nên con cái Thiên Chúa, được lãnh nhận Thánh Thần và được tràn đầy các ân sủng của Thiên Chúa, trung thành với sứ mệnh của mình và bảo toàn nguồn ân sủng thiêng liêng đã lãnh nhận, và họ đã được Thiên Chúa yêu thương sủng mộ.
Xin Chúa cho chúng ta luôn sống kết hiệp với Chúa, để cũng có thể được nghe lời này: “Con là Con của Ta, Ta hài lòng về Con”.
78.Người liền thấy trời mở ra
Chúa Giêsu sau khi chay tịnh trong sa mạc trở về, đã đến bờ sông Giodan để xin thánh Gioan Tẩy giả làm phép rửa cho mình. Bài Tin Mừng hôm nay chính là kể lại câu chuyện Chúa Giêsu chịu phép rửa của Gioan. Thánh Gioan chính là vị đại ngôn sứ được Thiên Chúa sai đi trước dọn đuờng cho Đấng Cứu Thế. Ông đã sẳn sàng lãnh nhận sứ mạng Tiền hô (đi trước để báo – để dọn đường), nên ông làm phép rửa kêu gọi dân chúng ăn năn sám hối. Phép rửa của Gioan không có giá trị thanh tẩy, nghĩa là không xóa được tội lỗi; nó chỉ nói lên tâm tình của người lãnh nhận, lòng chân thành hoán cải, muốn dứt bỏ tội lỗi. Chính vì lẽ đó, khi Gioan thấy Chúa đến xin chịu phép rửa, ông muốn từ chối: “chính tôi là người cần được Ngài rửa cho” (Mt 3, 14). Nhưng Chúa bảo Gioan cứ làm như thế để trọn lẽ công chính. Lúc đó Gioan mới vâng lời. Đang khi Chúa chịu phép rửa, tầng trời mở ra; Chúa Thánh Thần ngự xuống và cả tiếng Chúa Cha phán trong đám mây, như ta vừa nghe. Đây chính là đề tài mà ta cùng suy niệm trong chúa nhật hôm nay…
a/. Câu chuyện của bài Tin Mừng hôm nay có hai điều làm ta phải suy nghĩ:
* Chúa Giêsu vô tội, tại sao phải chịu phép rửa? Giáo lýcông giáo dạy: Chúa Giêsu có hai bản tính: vừa là TC vừa là con người nữa. Chúa sanh ra làm người y như ta, dù vô tội, Chúa vẫn muốn chịu phép rửa của Gioan để tự đồng hóa, để nên ngang hàng như tội nhân, vừa nêu gương khiêm nhường, vừa nhắc nhở ta khiêm tốn ăn năn vì tội lỗi của chính mình. Đây chính là một tấm gương cao cả, vì con người chúng ta tội lỗi ngập tràn, nhưng thường chúng ta lại không khiêm tốn ăn năn, trong khi Chúa Giêsu là Đấng vô tội lại hạ mình ngang hàng với tội nhân. Thánh Phaolô nói: “Chúa Giêsu dù là TC,..đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang TC, mà mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống hệt một người phàm.”(Phil 2, 7). Về điểm này, thực ra, chúng ta không làm sao hiểu nổi tình yêu của TC dành cho con người chúng ta.
* Đang khi Chúa chịu phép rửa, có Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống và có cả tiếng Chúa Cha phán từ trong áng mây:
Chúng ta nên nhớ, đây là lúc khởi đầu cuộc đời công khai rao giảng của Chúa; chính vì thế khi Người chịu phép rửa, Phúc âm ghi lại: có Chúa Cha chứng giám: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”, có cả Chúa Thánh Thần hiện diện nữa. Đây chính là lúc quan trọng. Chúng ta biết Chúa Giêsu không làm bất cứ điều gì mà không theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Người cũng không làm bất cứ điều gì, mà không theo ý Chúa Cha; nghĩa là Chúa luôn vâng phục Chúa Cha, trong sự hợp nhất với Chúa Thánh Thần. Việc Chúa khởi đầu ra đi rao giảng, vẫn luôn có Ba Ngôi hiện diện và chứng giám. Chính Chúa Cha chúc lành, và Chúa Thánh Thần ban sức sống. Đó chính là mầu nhiệm Ba Ngôi hiệp nhất. Thánh Phaolô đã nói: “Người đã vâng lời Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá.” (Phil 2, 8). Ta thấy trong đời Người, chỉ có một lần Chúa Giêsu nan nỉ Chúa Cha, đó là trong vườn Giếtsêmani: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin Cha cho Con khỏi uống chén này.” Nhưng rồi sau đó Chúa lại nói: “nhưng xin đừng theo ý Con, chỉ xin theo ý Cha mà thôi.” (Mc 14, 36).
b/. Câu chuyện: Thánh Giêrađô, là người Ý, tu sĩ của Dòng Chúa Cứu thế (1726-1755). Thánh nhân được coi là một tấm gương thánh thiện, vâng lời tuyệt hảo. Một hôm cha bề trên có việc sai thầy Giêrađô sang thành lân cận. Vì đường xa, nên cha bề trên bảo thầy: “nhớ dắt lừa theo mà đi”, có ý cho thầy đở mệt nhọc, lại vừa đi mau về mau nữa. Thầy đã ra đi, nhưng mấy hôm sau mới về tới nhà. Cha bề trên liền hỏi: “Bộ thầy không đi bằng lừa sao?” Giêrađô trả lời: “Dạ có.” “Thế sao thầy về trể vậy?” “Dạ vì cha bề trên bảo con dắt lừa theo, nên con dắt mà không có cỡi, nên đi hơi lâu.” Cha bề trên cười xòa, nhưng cũng hiểu ra thầy muốn làm một việc hãm mình, để dâng cho Chúa. (Lm Hồng Phúc, dcct)
Ngày nay, nếu có một tu sĩ nào mà cư xử như thế, ta sẽ cho là điên, là “mát”, có khi còn đuổi không cho ở trong nhà tu nữa; nhưng ta thử nhìn lại: coi chừng Chúa Giêsu có khi còn bị coi là khờ, là “mát” hơn cả thánh Giêrađô nữa. Ở đây, người ta vẫn thắc mắc: Chúa Giêsu đã vô tội, vậy mà “mắc mới” gì phải xin thánh Gioan rửa cho mình? Dưới cái nhìn kiêu căng, không khiêm tốn tự bản chất, người ta khó mà hiểu được việc làm của Chúa Giêsu.
c/. Gợi ý sống và chia sẻ:
Chúa Giêsu, dù vô tội vẫn đến xin thánh Gioan làm phép rửa cho mình, đây là một mẫu gương khiêm nhường cao cả. Phần chúng ta là con người, với muôn tội lỗi ngập tràn, thực ra ta có đủ khiêm tốn nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình, nhất là ta có đủ khiêm tốn đến tòa cáo giảng khi mình có tội không?
79.Chúa chịu phép rửa
Hôm nay Giáo hội tưởng niệm biến cố Chúa Giêsu đến sông Giođan để chịu phép rửa. Qua cử chỉ dìm xuống nước, Chúa Giêsu nuốn mặc lấy thân phận yếu đuối của con người, Ngài là Thiên Chúa gánh tội trần gian. Tưởng niệm biến cố này, Giáo hội cũng mời gọi chúng ta nhớ lại những cam kết của phép rửa mà chúng ta đã lãnh nhận. Qua phép rửa mà Chúa Giêsu đã thiết lập, Ngài cho chúng ta được dự vào cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa. Cùng với Ngài, chúng ta chiến đấu chống lại tội lỗi và sự dữ để được tham dự vào vinh quang phục sinh của Ngài. Cử hành cái chết và sự phục sinh của Ngài trong thánh lễ này, chúng ta hãy xin Ngài tẩy rửa tâm hồn chúng ta và ban sức mạnh để chúng ta tiếp tục chiến đấu chống lại tội lỗi và sự dữ trong cuộc sống của chúng ta.
Trong các dòng sông nổi tiếng trên khắp thế giới hẳng dòng sông Giođan phải là dòng sông quen thuộc nhất đối với người Kitô hữu chúng ta. Chính tại đây Chúa Giêsu đã đến khai mạc sứ vụ công khai bằng cáh đón nhận phép rửa bởi Gioan tẩy giả cử hành. Chính tại dòng sông này, khi dìm mình xuống nước, Chúa Giêsu đã tỏ bày sứ mệnh của Ngài, đó là “gánh lấy tất cả tội lỗi của nhân loại”
Là Đấng vô tội, Chúa Giêsu đã tự đồng hóa với người tội lỗi qua cử chỉ dìm mình trong dòng nước, đồng thời Chúa Giêsu loan báo chính cái chết mà Ngài sẽ trải qua. Phép rửa trong sông Giođan là hình bóng của phép rửa đích thực mà Chúa Giêsu sẽ thực hiện, đó là cái chết của Ngài. Từ cạnh sườn Người khi máu và nước chảy ra, Chúa Giêsu đã khai mở một dòng sông mới để từ đó tất cả những ai đến dìm mình vào đều nhận được sức sống mới.
Tưởng niệm việc Chúa Giêsu chịu phép rửa bên bờ sông Giođan, Giáo hội muốn mời gọi chúng ta nhớ lại phép rửa mà chúng ta được dìm mình vào trong chính cái chết của Chúa Giêsu. Dìm mình vào trong chính cái chết của Chúa Giêsu là gì nếu không phải là tiếp tục đi lại con đường tử nạn của Ngài. Phép rửa mà chúng ta lãnh nhận không phải là một nghi thức bùa chú. Người lãnh nhận bí tích rửa tội không đương nhiên trở thành một con người thánh thiện được miễn trừ khỏi những cám dỗ và yếu đuối trong cuộc sống. Có biết bao người lãnh nhận phép rửa để mang danh hiệu là người Kitô hữu, nhưng cuộc sống của họ không bao giờ là một tiếp tục cuộc tử nạn của Chúa Giêsu.
Thánh Phaolô đã nói với chúng ta rằng: “Người tín hữu Kitô cần phải tiếp tục những gì còn thiếu sót trong cuộc tử nạn của Chúa Giêsu”. Chịu phép rửa là khởi đầu một cái chết, là bước vào một cuộc chiến đấu, chiến đấu chống lại con người cũ của tội lỗi, chiến đấu chống lại không biết bao nhiêu cơn cám dỗ trong và ngoài con người của chúng ta. Chiến đấu chống lại không biết bao nhiêu sức mạnh của sự chết như ích kỷ, hận thù, chia rẽ, đố kỵ…
Tưởng niệm phép rửa mà Chúa Giêsu đã lãnh nhận bên bờ sông Giođan, Giáo hội muốn nhắc nhở chúng ta về chính những cam kết mà chúng ta đã đoan hứa trong ngày lãnh nhận bí tích rửa tội, đó là cùng chết với Đức Kitô để được sống lại với Ngài. Hằng ngày mỗi lần chúng ta giơ tay làm dấu Thánh giá là mỗi lần chúng ta được mời gọi để nhớ lại lời cam kết ấy.
Trên đường tiến về Jêrusalem, khi các môn đệ tranh luận về quyền bính, vương quốc tương lai của Ngài, thì Chúa Giêsu đã hỏi các ông: “Các con có sẵn sàng uống chén đắng mà Ta sắp lãnh nhận không?”. Ngày nay trong từng giâh phút của cuộc sống, Chúa Giêsu cũng hỏi từng người trong chúng ta như thế: “Các con có sẵn sàng chịu phép rửa mà Ta sắp lãnh nhận không?”. Chúng ta đang trải qua không biết bao nhiêu những khó khăn, thử thách và cạm bẫy trong cuộc sống. Sống một cách thiết thực phép rửa chính là sống từng giây phút trong cuộc sống bằng sự phấn đấu, bằng tinh thần từ bỏ và lòng tín thác của Chúa Giêsu. Và chúng ta tin rằng nhờ nguồn nước từ cạnh sườn mà Ngài đã ban tặng cho chúng ta, chúng ta cũng được trong bị để chiến đấu và nhờ đ1o chúng ta được tham dự vào sự phục sinh vinh hiển của Ngài.
80.Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa
Nói đến tình bạn tri kỷ thắm thiết, người Việt Nam chúng ta không bao giờ quên được đôi bạn tri kỷ Lưu Bình, Dương Lễ. Họ đã yêu thương nhau thật sự, không phải chỉ bằng lời nói, nhưng còn bằng những việc làm trong suốt cả cuộc đời.
Trong những ngày đầu mới gặp nhau; Lưu Bình là một công tử nhà giàu, phong lưu, tốt bụng. Nhưng vì của cải, tài sản quá nhiều, anh ta chỉ biết lo hưởng thụ mà không nghĩ đến tương lai. Còn Dương Lễ là một sĩ tử nghèo lại hiếu học. Đôi bạn tri kỷ gặp nhau, mặc dù tài sản bên ngoài chênh lệch, nhưng họ có được điểm chung đó là lòng nhân. Lưu Bình lo cho Dương Lễ thành tài, còn chính mình thì không biết lo cho bản thân. Dương Lễ rất đau xót nhưng đành chịu.
Thời cơ đã đến. Lưu Bình sa cơ thất thế, tài sản khánh kiệt, chạy tìm đến người bạn nghèo năm xưa mà mình đã giúp đỡ. Nhưng anh ta đã thất vọng và bị đuổi ra khỏi nhà. Cô đơn, chán nãn vì thế thái nhân tình. Anh gặp được một người con gái xa lạ giúp đỡ. Anh quyết lập nên công danh để trả thù người bạn bạt ơn đã đuổi anh ra khỏi nhà.
Có chí thì nên. Lưu Bình đã công thành danh toại. Anh trở về tạ ơn người đã giúp đỡ mình, nhưng tìm hoài chẳng thấy. Anh đến nhà người bạn để đòi lại sự công bằng. Nhưng anh không thể nào đòi được, vì anh nhận thấy tình thương quá lớn lao, so với khổ nhục kế mà người bạn đã xử dụng để biểu lộ tình thương đối với anh. Vì yêu thương mà người bạn đã hy sinh người vợ yêu quí của mình, cho đến để giúp đở, cứu vớt, bằng cách: cùng chịu gian khổ, chia sẻ những vất vả, và đem anh về con đường ngay chính. Tình yêu đã làm cho người bạn sáng mắt, và tình yêu đã làm cho tình yêu của họ càng thêm vững bền.
“Không có tình yêu nào cao quí hơn tình yêu của người dám chết vì người mình yêu”.
Thiên Chúa đã yêu thương loài người, Ngài đã ban người con yêu quí nhất của Ngài cho loài người. Người Con yêu quí đó đã đến trần gian sống chung với loài người, chịu những cực nhọc đau khổ với loài người. Còn gì nữa? Cuối cùng đã hy sinh mạng sống vì loài người. Còn tình yêu nào cao quí hơn, và có mối tình tri kỷ nào vượt xa hơn được? Đến đỗi Thiên Chúa Cha không thể lặng thinh được nên Ngài phải tuyên bố công khai cho mọi người biết: “Con là Con Yêu Dấu Của Cha, Cha Hài Lòng Về Con” .
Tình yêu thương vĩ đại đó đã cải hóa không biết bao nhiêu người. Trải qua 2000 năm lịch sử, Tình yêu đó mỗi ngày một lớn mạnh hơn, cũng mở mắt được nhiều người hơn, làm cho nhiều người nhận thấy được Tình Yêu bao la tuyệt vời để quay trở về với Tình Yêu.
Mỗi người trong chúng ta đều được hưởng trọn vẹn tình yêu đó. Thiên Chúa mời gọi, giúp đở, dẫn dắt và khuyên nhủ chúng ta trở về với Tình Yêu, và Ngài cũng đã dùng tất cả mọi phương cách có thể được, kể cả khổ nhục kế để mời gọi chúng ta thức tỉnh. Đó là qua những thành công và thất bại của cuộc sống, những lần chúng ta cầu xin mà không được như ý. Chúng ta ngở rằng Thiên Chúa không còn yêu thương mình nữa. Nhưng nếu chúng ta chịu mở mắt ra nhìn thì Thiên Chúa đã ban cho chúng ta điều tốt đẹp hơn cái mà chúng ta cầu xin. Bao nhiêu lần gặp thất bại, chúng ta có rút ra bài học gì không? Những lần chúng ta được thành công, được may mắn: chúng ta có biết tạ ơn Thiên Chúa, để nhìn thấy tình yêu thương bao la của Ngài trong những sự tốt đẹp đó. Nếu nhìn thấy được tình yêu, mỗi người nhìn lại xem đời sống của mình đã biến đỗi như thế nào? Tình yêu của Dương Lễ thể hiện qua người vợ yêu quí đã cảm hóa được chàng lãng tử Lưu Bình. Còn Tình Yêu bao la tuyệt vời của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, không ảnh hưởng gì đến chúng ta sao? Con Thiên Chúa đã sống kề cận với chúng ta, Ngài dùng tất cả mọi phương tiện đã ban cho, để mời gọi chúng ta quây trở về với con đường ngay chính. Chẵng lẽ trải qua bao nhiêu năm của cuộc đời, qua bao nhiêu năm mang danh nghĩa là người công giáo, chúng ta không thể động lòng trước tình yêu bao la tuyệt vời của Thiên Chúa. Mỗi người chúng ta nhìn lại xem: đời sống hiện tại như thế nào? Có tốt hơn trước hay tệ hơn? Chúng ta có tìm cách thay đỗi cuộc sống cho xứng đáng với tình yêu của Người Bạn Tri Kỷ đã hy sinh vì chúng ta chưa?
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết lắng nghe Tiếng Chúa, và biết đáp lại Tình Yêu Chúa cho xứng đáng bằng đời sống tốt đẹp hơn.
81.Cộng tác với Chúa
Bảy trăm năm về trước, tiên tri Isaia đã mô tả về đấng cứu thế, không phải với những đường nét của một vị đế vương hùng mạnh, nhưng với đường nét của một người tôi tớ đau khổ của Đức Giavê.
Và ngày hôm nay, những đường nét ấy bắt đầu được thực hiện nơi Đức Kitô. Ngài là một bậc thầy dịu hiền, kiên nhẫn và khoan dung, cố gắng làm cho muôn dân nước nhận biết khuôn mặt và giới luật của Thiên Chúa. Nhìn vào cuộc đời của Ngài, chúng ta sẽ nhận thấy đúng như tiên tri Isaia đã loan báo:
- Này là tôi tớ mà Ta đã lựa chọn. Ngài sẽ không bẻ gãy cây sậy đã bị dập nát, không thổi tắt tim đèn còn leo loét…
Ngài không đến để đè bẹp muôn dân, nhưng đến để thiết lập công bình và rao giảng chân lý. Ngài sẽ mở mắt cho người mù, dẫn khỏi tù những người bị xiềng xích, đưa khỏi ngục những người còn ngồi trong tăm tối.
Đúng thế, nhân loại như một kẻ bị đui mù bởi những đam mê dục vọng bất chính, thì ngày hôm nay Ngài đến để đem lại ánh sáng. Ngài không phải chỉ chữa lành những tật bệnh phần xác, mà còn thực sự giải phóng tâm hồn chúng ta khỏi những trói buộc của tội lỗi bằng tình thương và ơn tha thứ.
Và cũng ngày hôm nay, nơi dòng nước sông Giocđan, Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên Ngài và từ trời có tiếng phán:
- Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng.
Từ lời xác quyết của trời cao, chúng ta nhận biết Đức Kitô chính là người đầy tớ, người con yêu dấu của Thiên Chúa, đem lại cho tất cả chúng ta lời giao ước và ánh sáng, chân lý và tự do. Hay nói một cách khác, Ngài đến để cứu chuộc chúng ta. Tuy nhiên, Ngài muốn chúng ta, những người Kitô hữu trên khắp cùng bờ cõi trái đất, cộng tác với Ngài để cùng làm việc cho nước Ngài được trị đến.
Jacques Loew, trước kia là một người vô thần, sau đó đã quay về với Chúa và trở nên một linh mục thuộc dòng Đa minh. Ngài có một đam mê về Đức Kitô, ngài sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh gian khổ để đem Tin Mừng đến cho những anh em nghèo túng và bất hạnh. Ngày kia, ngài đi dạo tại thành phố Marseille, vừa đi vừa suy nghĩ, phải làm thế nào để thực hiện cái ước vọng tông đồ của mình?
Như được Chúa soi sáng và kêu mời, ngài bỗng dưng đi tới quyết định: Để chống lại sự đau khổ và nghèo túng, thì chỉ có một phương thế, đó là hãy sống đau khổ và nghèo túng.
Đây không còn là những giây phút để ngồi nghiên cứu sách vở, thế là đi xuống chợ ngài mua một cái mũ và một bộ quần áo lao động như mọi người, rồi sau đó đi làm việc cực nhọc và sống với những người nghèo túng.
Và cứ thế tiếp diễn hơn 20 năm cuộc đời của ngài, để rồi cuối cùng ngài đã tìm thấy ngôn ngữ và phương cách truyền bá Tin Mừng cho người nghèo, để họ cũng nhận ra rằng: Nước Thiên Chúa đã trị đến.
Nỗi đam mê của các vị tông đồ nhiệt thành là như thế. Còn chúng ta thì thế nào? Chẳng lẽ chúng ta đành bó tay hay sao?
82.Khúc dạo đầu
Cha Anthony de Mello có kể một câu chuyện sau đây: Cả cộng đoàn đều thắc mắc khi thấy vị kinh sư của mình tuần nào cũng biến đâu mất vào hôm trước ngày Sabat. Họ nghĩ rằng ông bí mật đi gặp Đấng Tối Cao. Vì thế, họ cử một người theo dõi ông.
Và đây là điều người ấy chứng kiến. Vị kinh sư hóa trang bằng cách ăn mặc như một dân quê, đến phục vụ một bà già thuộc dân ngoại trong căn lều tồi tàn của bà. Ông quét dọn và nấu ăn cho bà trong ngày Sabat.
Khi thám tử trở về, cộng đoàn hỏi:
- Kinh sư đi đâu? Ngài lên trời phải không?
Người kia đáp:
- Không, ngài còn lên cao hơn cả trời nữa.
Có ai ngờ vị kinh sư lại âm thầm đến với người đàn bà ngoại đạo, nghèo nàn để chăm sóc bà trong ngày Sabat? Có ai tin được Đức Giêsu, Đấng thánh thiện cao cả, lại xin Gioan làm phép rửa cho?
Khi chiêm ngắm Đức Giêsu xếp hàng chung với tội nhân, chúng ta hiểu được thế nào là tình yêu.
Chỉ có tình yêu mới giúp chúng ta hiểu được mầu nhiệm nơi dòng sông Giorđan.
Chỉ có tình yêu mới làm cho Con Thiên Chúa tự che khuất sự cao sang thánh thiện, để dìm mình trong phép rửa “thống hối”.
Chỉ có tình yêu mới làm cho Đấng Cứu Độ sống như người cần được cứu độ.
Phép rửa hôm nay chỉ là khúc dạo đầu của bản trường ca tình yêu. Để rồi vì yêu thương, từ đây Con Thiên Chúa sẽ bị người đời liệt vào: “Tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi”. Bị người nhà coi là “kẻ mất trí”. Bị xua đuổi ra khỏi thành. Bị lên án như một tội nhân. Và bị chết treo giữa những tên trộm cướp. Đến nỗi thánh Phaolô đã phải thốt lên: “Đấng chẳng hề biết tội là gì thì Thiên Chúa đã làm cho Người thành tội vì chúng ta”.
Đức Giêsu gọi cuộc thương khó của Người là một “phép rửa”. Người trầm mình trong đau khổ để mang lại ơn cứu độ cho mọi người: “Thầy còn một phép rửa phải chịu và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất”.
Qua Bí tích Rửa tội, chúng ta đã trở nên các Kitô hữu, “con cái yêu dấu” của Thiên Chúa. Chúng ta cũng được mời gọi đi loan báo tin vui cứu độ, rằng Thiên Chúa yêu thương con người. Chúng ta được mời gọi đặc biệt để mang tình yêu Chúa đến cho những người cùng khổ, những người bị bỏ rơi, bị khinh miệt, bị sa ngã trong tội. Martin Luther King có nói: “Hãy yêu thương mọi người đừng vì thiện cảm; cũng không vì cách sống của họ dễ mến, dễ thương. Nhưng vì chính Thiên Chúa ở trong họ”. Nếu chúng ta chờ cho họ trở nên đáng yêu rồi mới yêu họ, chúng ta sẽ phải chờ suốt đời. Chính khi được yêu mà họ sẽ trở nên đáng yêu.
Trong biển đời mênh mông này, mỗi người đều không ngừng thay đổi cả hướng tốt lẫn hướng xấu, chúng ta chớ cho rằng mình đã hiểu tới chân tơ kẽ tóc một ai đó. Cứ nghe theo trái tim mách bảo mà quảng đại trao ban.
Zundel viết: “Đừng để ai trong những người anh em của chúng ta có thể phàn nàn, rằng họ chẳng gặp được lòng nhân hậu của Thiên Chúa nơi chúng ta”.
83.Dòng sông sám hối
Có vị sư nọ gặp ở giữa đường một viên ngọc quí. Vì nghĩ rằng mình là người tu hành không cần chi thứ đó, nên ông đem giấu viên ngọc này ở một gốc cây.
Ngày nọ có người hành khất đến ăn xin. Ông không có gì cho anh. Bỗng nhớ lại viên ngọc, nhà sư chỉ cho anh chỗ giấu. Người ăn xin đến gốc cây và tìm thấy viên ngọc. Cầm ngọc quí trong tay, người ăn xin rất đỗi vui mừng, nhưng anh ta suy nghĩ: Tại sao vị sư lại chấp nhận sống nghèo khó trong khi có một viên ngọc quí giá thế này? Sau một thời gian suy nghĩ, anh cầm ngọc quí trả lại cho nhà sư và nói:
“Bạch thày, con thấy trong lòng thày có một sự giàu có to lớn, đến nỗi thày không thiết đến viên ngọc này. Vậy con chỉ xin thày cho con sự giàu có trong lòng thày mà thôi”.
Câu chuyện tới đây là kết thúc, nên chúng ta không biết nhà sư có chỉ cho người ăn xin “sự giàu có bên trong” của ông không, nhưng Tin Mừng hôm nay đã trả lời cho chúng ta câu hỏi ấy.
Giữa dòng người chen lấn nhau xuống sông Giorđan để xin Gioan làm phép rửa cho, tại sao chẳng một ai nhận ra Đức Giêsu, duy chỉ mình Gioan nói: “Chính tôi mới cần Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!”. Phải chăng Gioan đã nhận ra “sự giàu có bên trong” của một con người rất đỗi bình thường ấy? Và chúng ta đã không phải đợi chờ lâu. Khi Gioan từ chối làm phép rửa cho Đức Giêsu, thì Người đã trả lời: “Bây giờ cứ thế đã, vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính”. Giữ trọn đức công chính cũng có nghĩa là chu toàn thánh ý Chúa. Chính vì thế, khi Đức Giêsu vừa chịu phép rửa, Chúa Cha đã tuyên phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người”.
Như vậy, sự giàu có đích thực không phải là thu tích cho nhiều của cải châu báu, mà là luôn giữ trọn đức công chính, là tuân hành thánh ý Chúa, là trở nên con yêu dấu của Cha.
Chính để sống đẹp lòng cha, mà người Con đã từ trời xuống thế, mặc kiếp phàm nhân để cứu độ muôn người. Hôm nay, Người kết thúc giai đoạn ẩn dật ở Nagiarét, để khởi đầu sứ vụ công khai rao giảng. Người đi xuống Giorđan, để dìm mình trong dòng sông sám hối. Tiếng Giorđan trong ngôn ngữ Do thái có nghĩa là “người đi xuống”. Vì sông Giorđan quá thấp, thấp hơn mặt biển gần 400 mét. “người đi xuống” ấy không phải ai khác, chính là Con Chúa, Đức Giêsu Kitô. Người không chỉ xếp hàng chung với tội nhân, mà còn đồng hóa mình với tội nhân, để chết thay cho tội nhân. Chính nơi bờ sông, người ta mới có được sự yên tĩnh nghỉ ngơi, xa phố thị ồn ào. Nhìn dòng sông lững lờ trôi, lắng nghe dòng sông nhiều điều mách bảo.
Nếu Con Thiên Chúa đã chấp nhận hòa mình trong dòng người tội lỗi, có lẽ nào chúng ta lại dám nghĩ mình nhân đức thánh thiện hơn anh em.
Nếu Đấng Thánh vô cùng đã tự nguyện dìm mình xuống dòng sông sám hối, có lẽ nào chúng ta lại ngần ngại cúi mình lãnh nhận ơn tha thứ.
Lớp da cũ sau một lần tắm gội đã biến thành bùn đất. Con người cũ sau một lần đổi mới đã trở nên con người mới. Hãy ngẩng cao đầu đi giữa nhân sinh.
84.Người con Chúa
Chúa nhật cuối cùng của Mùa Giáng sinh thường được dành để kỷ niệm việc Chúa Giêsu chịu phép rửa của thánh Gioan Tiền hô tại sông Giorđan. Đây cũng là một cuộc hiển linh của Thiên Chúa nói chung và của Chúa Giêsu nói riêng, vì trong biến cố này Thiên Chúa muốn loan báo và mạc khải cho mọi người biết về Thiên Chúa và một số chân lý khác.
Trước hết, mạc khải mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Đây là một lần mạc khải công khai có cả Ba Ngôi cùng hiện diện: Ngôi Cha chỉ xuất hiện qua tiếng nói: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. Ngôi Con là Chúa Giêsu, Đấng nhận phép rửa, đang hiện diện cụ thể ở sông Giorđan. Ngôi Ba Thánh Thần, xuất hiện qua hình ảnh chim bồ câu.
Thứ hai, mạc khải Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa Cha đã xác nhận và giới thiệu điều này và kêu gọi mọi người hãy lắng nghe lời Chúa Giêsu, hãy đến với Ngài để đón nhận nguồn hồng phúc vô biên của Thiên Chúa.
Thứ ba, mạc khải ý nghĩa và giá trị phép rửa của Chúa Giêsu. Chính thánh Gioan đã khẳng định điều này: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi thì tôi đã làm phép rửa cho anh em bằng nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần”.
Xin chia sẻ một điều về ý nghĩa và giá trị cao quí của Bí tích Rửa tội. Chúng ta biết phép rửa của Gioan Tiền hô chỉ là một nghi thức tượng trưng, có mục đích nhắc nhở và thúc giục người ta ăn năn sám hối và cải thiện đời sống. Phép rửa này không có khả năng tẩy xóa tội lỗi, không có năng lực ban ơn thánh. Bởi vì phép rửa này không phải là một bí tích, đúng như thánh Gioan đã quả quyết, đồng thời Ngài cũng giới thiệu một phép rửa khác, phép rửa của Chúa Giêsu, là phép rửa bằng Thánh Thần, nghĩa là phép rửa của Chúa Giêsu là một bí tích thông ban Chúa Thánh Thần, mặc dầu cũng dùng tới nước, nhưng nước chỉ là điều kiện, là nghi thức bên ngoài, còn thực sự là được rửa bằng Thánh Thần, biến đổi con người tội lụy nên con Thiên Chúa, và được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu nước trời.
Khi chúng ta lãnh nhận phép rửa tội, Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta tham dự vào mầu nhiệm sự chết và sống lại của Ngài. Chúng ta vào đời khi được sinh và vào đạo của Thiên Chúa khi được rửa tội. Trong nghi thức rửa tội chúng ta được dìm trong nước hoặc đổ nước trên đầu để chỉ việc tẩy rửa khỏi tội tổ tông và mọi tội riêng, được sinh lại làm con cái của Chúa và gia nhập vào Giáo Hội. Vì thế, Giáo Hội coi bí tích tửa tội như một cuộc tái sinh, người được rửa tội trở thành một con người mới. Họ thấy đâu là ơn gọi và định mệnh của con người, đâu là ý nghĩa của cuộc đời.
Có một cụ già, mãi tới khi 80 tuổi mới lãnh nhận phép rửa tội. Bắt đầu từ đó cụ sống một đời rất gương mẫu. Hai năm sau, cụ hấp hối. Có người muốn biết cụ bao nhiêu tuổi. Cụ dõng dạc trả lời: “Tôi mới có hai tuổi. Tám mươi năm trước khi rửa tội là những năm chết. Tôi mới bắt đầu sống thật khi tôi chịu phép rửa tội”. Thật là chí lý.
Bí tích Rửa tội quí trọng vô cùng, là cửa đưa chúng ta vào đoàn chiên của Chúa là Giáo Hội, vào hàng ngũ con cái Chúa, đồng thời từ đây chúng ta được gọi là Kitô hữu. Kitô hữu là người có Chúa Kitô. Mỗi Kitô hữu là một Đức Kitô thứ hai. Mỗi Kitô hữu là một nối dài của chính Đức Kitô. Đó là tước hiệu cao quí của chúng ta. Tước hiệu ấy không mua bằng tiền bạc. Tước hiệu ấy không chỉ sáng ngời trong những dịp lễ lạc, hội hè, mà phải luôn chiếu tỏa trong từng giây phút của cuộc sống.
Nhưng phải chăng nhiều người trong chúng ta đã là Kitô hữu một cách miễn cưỡng? Đức tin chưa phải là niềm vui sống mà chỉ là một mớ những ràng buộc khiến chúng ta cảm thấy nặng nề, khó khăn? Ngoài những ràng buộc của luân lý Kitô giáo và gánh nặng của những sinh hoạt đạo giáo, biết đâu nhãn hiệu Kitô hữu lại không là đầu mối của biết bao kỳ thị, thiệt thòi trong cuộc sống của chúng ta? Chúa Kitô đã mang lại cho chúng ta cuộc sống mới của những người con Thiên Chúa, cho dầu cuộc sống ấy có thể tạo ra nhiều ràng buộc, có thể đòi hỏi nhiều hy sinh và chiến đấu, có thể gây nên những phiền toái, thua thiệt… nhưng đó là giá để chúng ta đạt được niềm vui đích thực trong cuộc đời làm con Chúa.
Đàng khác, chúng ta đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội và đã được trở thành con Thiên Chúa. Nhưng chúng ta đã sống ơn cao quí này như thế nào? Cha trên trời có hài lòng về chúng ta không? Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, Chúa Cha đã phán: “Con là Con yêu dấu của Cha. Cha hài lòng về Con”. Còn chúng ta thì sao? Nếu như bây giờ, nhận định về chúng ta, Chúa Cha sẽ nói thế nào? Chúa hài lòng hay Chúa phải buồn rầu, đau lòng và than phiền?
Chúng ta hãy nhớ: ơn cao trọng và cao quí nhất khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội là ơn được làm con Chúa. Vậy chúng ta phải luôn cố gắng sống xứng đáng là những người con mà Chúa hài lòng về chúng ta.
85.Công khai thi hành thánh ý Cha
Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa hằng năm đánh dấu một giai đoạn mới của năm Phụng vụ. Giai đoạn 1 của mùa Thường niên được bắt đầu với lễ này. Quan trọng hơn là với lễ này chúng ta được nhắc nhớ lại biến cố có một không hai trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã hạ mình xuống để cùng chịu phép rửa của Thánh Gioan Tẩy Giả như bao nhiêu người khác. Biến cố này đánh dấu một bước ngoặc mới trong cuộc đời của Người.
Sau ba mươi năm sống ẩn dật, hôm nay Chúa Giêsu chính thức công khai thi hành thánh ý Chúa Cha. Thánh ý Chúa Cha là Người đem ơn cứu độ đến cho toàn thể nhân loại. Vì vâng nghe theo thánh ý đó nên Chúa Giêsu đã được Chúa Cha long trọng tuyên bố: "Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con" (Mc 1, 11)
Trọn cả cuộc đời của Chúa Giêsu, Người luôn xem thánh ý Chúa Cha là ưu tiên một. Cho nên, Người luôn vâng theo tất cả những gì Chúa Cha muốn. Thực sự thánh ý Chúa Cha chỉ vì yêu thương con người đang sống trong lầm than khốn khổ vì tội lỗi và sự chết.
Có thể chúng ta sẽ cho rằng Chúa Cha sao độc ác với Chúa Cha Con Một của mình quá. Trong bài đọc 1 chúng ta sẽ thấy Chúa Cha qua tiên tri Isaia cho biết: “Trời cao hơn đất bao nhiêu thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55, 9). Do đó, theo cách hiểu của hạn hẹp của con người, chúng ta chỉ hiểu được tất cả chỉ vì yêu thương con người nên Chúa Cha mới đành lòng như thế.
Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Philipphê đã ca tụng Chúa Giêsu: “Ðức Giê-su Ki -tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự ”( Pl 2, 6 - 8)
Một trong những ơn của Bí tích Rửa tội là chúng ta được làm con Chúa Cha. Như thế, chúng ta cũng sẽ được Chúa Cha nói con là con yêu dấu của Cha nếu chúng ta biết sống như Chúa Giêsu đã sống. Thánh ý Chúa Cha năm nay đang được thể hiện qua thư mục vụ của Hội Ðồng Giám Mục. Ðó là những những bậc làm cha mẹ hãy cố gắng củng cố gia đình của mình bằng đời sống đức tin gương mẫu.
86.Quyết định
Nhiều người trải qua những giây phút mang tính cách quyết định trong cuộc đời. Họ tiến gần đến những ngã tư đường, mà tại đó, họ đối diện với những chọn lựa khác nhau về cơ bản, mà sau đó, cuộc đời họ sẽ không bao giờ trở lại giống như trước nữa.
Có thể có lúc tâm trí con người được soi sáng. Nếu con người biết đáp ứng lại ân sủng đó, thì họ được cất nhắc lên khỏi chính mình, và bắt đầu đi trên một con đường mới. Nếu không biết đáp ứng lại ân sủng đó, thì cơ hội đó có thể mất đi mãi mãi. Shakespeare nói một câu tương tự như sau:
“Trong những vấn đề của con người, có một ngọn sóng xuất phát từ triều cường, đưa đến vận may; do bị bỏ qua, nên tất cả hành trình của cuộc đời họ đều bị ràng buộc vào những chỗ nông cạn và đau khổ”.
Giây phút quyết định này có thể xô đẩy trên con người, tựa như một tiếng sét bất ngờ. Điều này xảy đến cho một người dân ở Dublin, tên là Matt Talbot. Anh rất đam mê uống rượu. Ngày kia, anh đang đứng bên ngoài quán rượu, van xin những người mà anh cho là bạn bè của anh, để được uống rượu. Nhưng họ bỏ đi. Đột nhiên, anh sáng mắt ra. Anh nhận thấy rằng anh đã tự hủy hoại cuộc đời mình, và anh quyết định bỏ uống rượu, và nhờ ơn Chúa giúp, anh còn nỗ lực nên thánh nữa.
Hoặc giây phút quyết định này có thể đến với con người một cách từ từ, như đã xẩy ra với mẹ Têrêsa. Mẹ đã từng làm việc từ thiện trong một trường dòng ở Calcutta. Nhưng trong thời gian đó, càng ngày mẹ càng cảm thấy áy náy trước sự kiện những người nghèo khổ không được ai quan tâm chăm sóc, nằm lăn lóc trên vệ đường ngay bên ngoài bức tường nhà dòng. Một ngày kia, mẹ rời khỏi nhà dòng, và đến làm việc giữa những người nghèo khổ. Tên của mẹ đã trở thành một tấm gương điển hình về lòng tận tụy đối với những người bị bỏ rơi.
Đức Giêsu cũng biết đến những giây phút đó trong cuộc đời của Người. Bài Tin Mừng hôm nay chỉ ra cho chúng ta một trong những giây phút quyết định đó – sự kiện Người được thánh Gioan tẩy giả làm phép rửa trên sông Giorđan. Đây là một điểm xoay chuyển trong cuộc đời của Người.
Trước khi diễn ra sự kiện này, Người đã sống một cuộc sống rất âm thầm và an toàn trong một ngôi làng thợ mộc ở Nagiarét. Nhưng trong suốt thời gian đó, Người đã được nghe thấy một tiếng gọi đến với một công việc nào đó quan trọng hơn. Thế rồi một người anh em họ của Đức Giêsu là Gioan bắt đầu công cuộc rao giảng và làm phép rửa cho mọi người. Đột nhiên, Đức Giêsu từ bỏ lối sống cũ của Người, và chọn lựa một lối sống mới – lối sống của một thày giảng dạy về mặt thiêng liêng, và chữa lành bệnh cho các anh chị em của Người.
Kể từ giây phút đó, cuộc đời của Người sẽ không bao giờ như trước nữa. Người đã tự phát hiện ra chính bản thân và ơn gọi thực sự của Người. Tất cả những phẩm chất còn ẩn giấu của Người về sự quan tâm chăm sóc và đầy yêu thương, được phát triển âm thầm tựa như hạt lúa mì trong một cánh đồng, thì nay đã tự tỏ hiện ra, và diễn tả đầy đủ.
Hầu hết chúng ta đều đã từng biết đến những giây phút chứng thực cho những thời điểm mang tính cách quyết định trong cuộc đời của chúng ta. Tuy nhiên, có thể chiều hướng của cuộc đời chúng ta không phải là kết quả của một số quyết định, nhưng là của hàng loạt những quyết định nhỏ bé. Thỉnh thoảng, chúng ta cần phải nhìn vào chiều hướng cuộc sống của mình. Nếu không hài lòng với các sự việc đang diễn tiến, thì chúng ta nên thử thay đổi. Có lẽ chúng ta đang đi vào lối sống xáo mòn. Trong trường hợp đó, chúng ta nên cố gắng thoát ra khỏi lối sống đó.
Trong lúc lãnh nhận phép rửa tội, chúng ta chỉ ra một hướng sống đặc biệt. Thiên Chúa muốn chúng ta được sống, và sống dồi dào (Bài đọc 1). Nơi phép rửa tội, chúng ta được chia sẻ sự sống của Thiên Chúa, chúng ta trở thành những môn đệ của Đức Giêsu. Chúng ta được kêu gọi chiến đấu chống lại sự dữ, và sống yêu thương nhau (Bài đọc 2).
Vấn đề cuối cùng đối với người Kitô hữu là: Liệu tôi có thực sự sống theo phương hướng mà tôi đã được chỉ cho thấy, trong ngày lãnh nhận phép rửa tội không?
87.Trưởng thành
Hầu như những bông hoa ở dãy núi Alpes luôn bừng nở ngay khi đụng chạm vào tia nắng mùa xuân. Chúng có khả năng đáp ứng rất nhanh chóng, bởi vì chúng vẫn đang âm thầm phát triển dưới lớp vỏ đầy tuyết của trái đất, và đang chờ đợi được mở cánh cửa để bung ra. Chúng chín mùi đối với tiếng gọi của mùa xuân, chín mùi để phát triển và bừng nở.
Đức Giêsu đã sống 30 năm tại Nagiarét. Tại sao Người chờ đợi quá lâu như vậy? Phải chăng Người chỉ lãng phí cuộc đời của mình một cách vô ích? Không gì có thể vượt qua sự thật được. Ơn gọi đòi hỏi một thời kỳ huấn luyện và đào tạo. Những sự việc sâu xa đã trải qua hình thành nên nhân cách của một người, đó là những sự kiện tạo nên tính cách của người đó. Con người phải sẵn sàng trải qua một thời gian học hỏi.
Trước hết, Đức Giêsu đã sống một cuộc sống thật sự và đích thực. Người bắt đầu bằng cách làm, trước khi Người khởi sự đi rao giảng cho người khác. Người phải đảm bảo sao cho khu vườn của riêng mình bừng nở, trước khi chỉ cho người khác cách thức chăm sóc khu vườn của họ.
Trong suốt 30 năm sống tại Nagiarét, Đức Giêsu đã âm thầm phát triển trong sự khôn ngoan và ân sủng. Người ta đã hình dung về Đức Giêsu như một người con trai tử tế, mang một nét gì đó khác biệt, và ngoài ra nơi Người, có một vẻ thường xuyên chăm chú. 30 năm là một thời gian dài. Tuy nhiên, nên có một thời gian chuẩn bị tương đối dài, thì tốt hơn là bắt đầu trước khi sẵn sàng. Trong suốt những năm tháng âm thầm đó, Đức Giêsu đã phát triển đến mức độ chín mùi.
Khi cuối cùng tiếng gọi đến, không có gì xa lạ đối với Người nữa. Tiếng gọi này luôn luôn ở trong Người, nhưng Người không thể vội vàng được. Người không thể thực hiện theo tiếng gọi đó sớm hơn. Tương lai phải đi vào trong con người chúng ta, trước khi điều đó xảy ra. “Khi vận mệnh đến với một người từ bên trong, từ nơi sâu thẳm nhất trong nội tâm người đó, thì vận mệnh này làm cho họ trở nên mạnh mẻ, biến họ thành thượng đế” (Hermann Hesse).
Đó là tiếng gọi phục vụ những anh chị em của Người. Đức Giêsu đã chín mùi đối với tiếng gọi này. Và thời điểm cũng chín mùi. Khi thánh Gioan bắt đầu một phong trào hoán cải, trở về với Thiên Chúa, thì một ngọn sóng đang tuôn trào.
Chúng ta cũng cần được làm cho chín mùi. Khi không chín mùi, thì người ta không có khả năng đáp ứng một cách đúng đắn được. Khi đưa đến cho ai điều gì, trước khi người đó được chuẩn bị để đón nhận điều này, thì chỉ là sự lãng phí. Chúng ta phải chờ đợi yếu tố tự nhiên.
Chúng ta học hỏi được sự kiên nhẫn từ nơi thiên nhiên. Thiên nhiên có thời điểm của nó. Chúng ta nhận thấy sự đâm chồi ở các loại củ diễn ra từ từ. Quả nào thiếu mất một giai đoạn trong quá trình phát triển của nó, thì không bao giờ đạt được sự phát triển.
Chúng ta cũng được mời gọi phát triển trong sự khôn ngoan và ân sủng. Đức Giêsu phải mất 30 năm mới tiến đến sự trưởng thành và đạt được sự khôn ngoan. Chúng ta sẽ mất suốt cả cuộc đời để phát triển, trưởng thành, và chín mùi trong tư cách là những con cái của Thiên Chúa.
Xin Thiên Chúa ban cho chúng ta sự kiên nhẫn và sức mạnh, để nuôi dưỡng những hạt mầm mà Người đã gieo nơi chúng ta trong ngày sinh nhật thiêng liêng của chúng ta – ngày lãnh nhận phép rửa tội – cho đến khi chín mùi.
88.Đồng hóa
Mahatma Gandhi không phải là một Kitô hữu, tuy nhiên, ông vẫn là một trong những người giống Đức Kitô nhất trong thế kỷ này. Albert Einstein đã nói về ông “Các thế hệ sắp tới sẽ nhận thấy thật khó tin rằng một con người giống như ông, mà lại đã từng sống trên trái đất này”.
Gandhi là một người đối lập đáng tin cậy của chế độ đẳng cấp trái với đạo lý ở An độ. Ông ám chỉ điều đó như là “một vết nhơ trong linh hồn của An độ”. Ông đặc biệt ghê tởm cách đối xử ban phát đối với những kẻ tiện dân – những người không thuộc về đẳng cấp nào cả. Họ bị ngăn cản không được vào các đền thờ. Trong các thành phố và tỉnh lỵ, họ bị giam hãm trong những khu nhà lụp sụp, và chỉ được phép làm những công việc lao động hèn mọn nhất. Họ bị cấm sử dụng những nguồn suối trên toàn đất nước.
Trong cuộc hành trình đi khắp đó đây, Gandhi được dân chúng đón tiếp nồng nhiệt. Khi ông đi vào một ngôi làng, vị tộc trưởng của ngôi làng đó sẽ mời ông ở lại đêm tại nhà ông ta, tại đó, chắc chắn ông được mời tắm rửa, ăn uống và có chỗ ngủ đêm tươm tất. Nhưng Gandhi lịch sự từ chối những thứ người ta dành riêng cho mình. Ông hỏi “Những kẻ tiện dân của các bạn đâu? Tôi sẽ ở lại với họ”. Và ông đã làm như vậy, mặc dù hành động của ông gây sốc cho những vị tộc trưởng của ngôi làng.
Gandhi ở giữa những kẻ tiện dân, trong các túp lều ở khu vực ngoại ô của ngôi làng. Và họ đã mở rộng vòng tay đón tiếp ông. Ông tiếp xúc với họ, ăn uống với họ, và chơi đùa với con cái của họ. Một lần kia, ông nói “Tôi không có ước mong được sinh lại lần nữa. Nhưng nếu điều đó xảy ra, thì tôi mong muốn lại được sinh ra giữa những kẻ tiện dân, để tôi có thể thành công trong việc giải thoát họ và bản thân tôi, khỏi tình trạng khốn khổ”.
Gandhi đã ra khỏi lối sống của mình, để hòa đồng với những kẻ tiện dân. Khi Đức Giêsu xếp hàng sau những người tội lỗi, trong khi chờ đợi được chịu phép rửa của thánh Gioan, đó là một hành động hòa đồng phi thường. Người đã hòa đồng với loại người mà Người đến để giải thoát, nghĩa là những kẻ tội lỗi. Không chỉ những kẻ tội lỗi, mà còn những người nghèo khổ, bị áp bức, mà vào thời đó, tạo thành đa số dân cư đang sống đầy rẫy ở Palestine. Thật vậy, Người nói với họ “Ta đứng về phía anh chị em”.
Điều mà Đức Giêsu làm trong ngày đó đã được coi như một mẫu thức cho sứ vụ công khai của Người. Người không tự giữ mình tách lìa khỏi những kẻ tội lỗi. Người không chờ đợi họ đến với mình. Người tìm kiếm họ, và trở nên bạn bè đối với họ.
Đức Giêsu không đứng sang một bên, hoặc tự đặt mình ở trên những kẻ tội lỗi mà Người đến để giải thoát. Người đã tự đứng giữa họ. Người đi cùng với họ đến nơi nào họ sống. Thậm chí Người còn bị tố cáo là một kẻ tội lỗi, và đã bị đối xử như một kẻ tội lỗi.
Động cơ thúc đẩy Người hành động chính là lòng thương xót. Người là một tôi tớ mà Thiên Chúa gửi đến để đem Tin Mừng cho kẻ nghèo khổ. Và Thiên Chúa rất hài lòng về Người, và về sứ vụ mà Người đang bận rộn tiến hành. Bằng cách thế của Người, Đức Giêsu chỉ ra cho chúng ta tình yêu của người đối với chúng ta.
Mặc dù hoàn toàn không phạm tội, nhưng Đức Giêsu đã mang trên thân mình Người tình trạng tội lỗi của chúng ta. Người không đứng cách biệt khỏi chúng ta, nhưng tự đặt mình bên cạnh chúng ta, với tư cách là một người anh cả. Người muốn dẫn đưa chúng ta ra khỏi tình trạng khốn khổ của tội lỗi và sự chết nơi chúng ta. Người mong muốn chúng ta có được sự sống ở đời này và đời sau.
89.Sống Bí Tích Thanh Tẩy--Huệ Minh
Hôm nay, mở trang Tin Mừng ra ta không chỉ thấy hình ảnh "lạ" mà còn "độc" theo ngôn ngữ của các bạn trẻ ngày nay.
Đúng vậy! Không chỉ "lạ" mà còn "độc" bởi lẽ nhân vật chính trong trang Tin mừng hôm nay không ai khác ngoài cái nhân vật "lạ" mang tên Giêsu xuất hiện. Trước đó, mọi người đều thấy Gioan xuất hiện và Gioan "to còi".
Ngày hôm ấy, tại cái bờ sông Giođan, có thêm "người ấy" xuất hiện nữa. Và, như thường ngày, người ta vẫn chú tâm đến Gioan bởi lẽ đã quá quen với hình ảnh Gioan và nghe tiếng của Gioan rồi. Nhưng, ngạc nhiên rằng hôm ấy Gioan lại cất tiếng nói: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi thì tôi đã làm phép rửa cho anh em bằng nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần.”
Hóa ra người quan trọng mà mọi người lầm tưởng không phải là Gioan mà là "người ấy", cái "người" mà xếp hàng đi theo đám người hôm nay nhận phép dìm của Gioan nơi dòng sông Giođan. Không còn gì để giấu diếm, Gioan đã nói rằng: "Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần.” Vấn đề là chỗ đó bởi lẽ Gioan chỉ làm phép rửa bằng nước thôi.
Người "lạ" mà "độc" hôm nay chính là người mà Thiên Chúa hứa từ ngàn xưa, từ ngày mà Ađam đã phản nghịch cùng Thiên Chúa.
Nhớ lại, ở vườn địa đàng, ngày hôm ấy Ađam cũ đã bước vào cuộc đời này và đã bước quá "mạnh" để rồi phạm tội. Tội của Ađam cũ là bất tuân thì Ađam mới đến để sửa lại cái cũ, sửa lại tội nguyên tô cho con người như sách Isaia nói:
Đức Chúa phán:
“Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ,
là người Ta tuyển chọn và hết lòng quý mến,
Ta cho thần khí Ta ngự trên người ;
người sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân.
Người sẽ không kêu to, không nói lớn,
không để ai nghe tiếng giữa phố phường.
Cây lau bị giập, người không đành bẻ gẫy,
tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi.
Người sẽ trung thành làm sáng tỏ công lý.
Người không yếu hèn, không chịu phục,
cho đến khi thiết lập công lý trên địa cầu.
Dân các hải đảo xa xăm đều mong được người chỉ bảo.
Ta là Đức Chúa, Ta đã gọi ngươi,
vì muốn làm sáng tỏ đức công chính của Ta.
Ta đã nắm tay ngươi,
đã gìn giữ ngươi và đặt làm giao ước với dân,
làm ánh sáng chiếu soi muôn nước,
để mở mắt cho những ai mù loà,
đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ,
dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong chốn tối tăm.”
Ađam mới là như thế! Chúa Giêsu - Đấng Cứu Độ trần gian là như thế! Ngài đã đến trong thế gian này trong thân phận làm người như mọi người chỉ trừ tội lỗi. Chúa Giêsu đã bước một bước rất đẹp vào cõi đời này nhưng không như Ađam là bước vào để dính vào tội lỗi nhưng bước vào và bước thêm bước nữa xuống dòng sông Giođan để cùng lãnh nhận phép rửa như con người để đồng hóa với con người trong thân phận con người để cứu con người.
Rất quen thuộc hình ảnh trong đời thường của chúng ta. Những ai vì lý do nào đó mà rơi xuống nước thì buộc lòng người khác muốn cứu phải nhảy xuống dòng nước để đưa con người kém may mắn đó lên.
Chúa Giêsu cũng đã "nhảy" xuống trần gian để cứu con người như vậy.
Ta thấy ân sủng mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta không như chúng ta nghĩa. Là con người tội lỗi nhưng rồi Chúa đã đưa con người tội lỗi lên được làm con Thiên Chúa và không những thế những ai lãnh phép rửa thì được tham dự vào chức vụ tư tế - vương đế - ngôn sứ của Thiên Chúa nữa.
Ân huệ, hồng ân của bí tích Thánh Tẩy là một hồng ân tuyệt vời và hồng ân cao cả nhất của đời chúng ta. Thánh Phaolô nói: "Anh em không biết rằng tất cả chúng ta là những người đã được lãnh nhận phép rửa trong Ðức Giêsu Kitô hay sao? Thế nên, chúng ta đã được chôn táng với Người trong sự chết bởi bí tích rửa tội, để như Chúa Kitô nhờ vinh quang của Chúa Cha mà sống lại từ trong kẻ chết thế nào, chúng ta cũng bước đi trong cuộc sống mới như vậy" (Rm 6, 3-4).
Vì phép rửa là một việc trầm mình vào mầu nhiệm vượt qua của Chúa Kitô mà phép rửa Kitô giáo đã có một giá trị cao cả hơn rất nhiều những lễ nghi làm phép rửa của Do Thái và của dân ngoại, những lễ nghi gột rửa tượng trưng cho việc thanh tẩy song không có khả năng xóa bỏ tội lỗi. Trong khi đó phép rửa Kitô giáo là một dấu hiệu thực sự thanh tẩy lương tâm và thứ tha tội lỗi. Phép rửa Kitô giáo còn phát sinh một tặng ân cao cả hơn nữa, đó là một sự sống mới của Chúa Kitô phục sinh, là tặng ân biến đổi tội nhân đến tận gốc rễ.
Thánh Maccô thì đã ghi lại lời sau hết Chúa Giêsu truyền dạy các môn đệ của Người cho thấy cả đức tin lẫn bí tích rửa tội là đường lối duy nhất dẫn đến ơn cứu độ: "Ai tin và lãnh nhận phép rửa sẽ được cứu độ; còn kẻ không tin sẽ bị luận phạt" (Mc 16, 16). Và để ghi lại lệnh truyền giáo Chúa Giêsu đã bảo các Tông Ðồ, thánh Mathêu nhấn mạnh đến sự liên hệ giữa phép rửa và việc rao giảng Phúc Âm: "Các con hãy đi tuyển mộ môn đồ khắp mọi dân nước, rửa tội cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần" (Mt 28, 19).
Thánh Phaolô đã cho thấy hiệu qủa chính yếu của bí tích rửa tội khi thánh nhân viết cho Kitô hữu giáo đoàn Galata: "Tất cả anh em đã lãnh nhận phép rửa trong Ðức Kitô thì anh em đã mặc lấy Người" (Gl 3, 27). Kitô hữu mang sâu xa nơi mình hình ảnh Chúa Kitô, ở tại tặng ân họ được trở thành những đứa con thừa nhận thần linh. Chính là vì đã "rửa trong Chúa Kitô" mà Kitô hữu là "những người con cái của Thiên Chúa" một cách đặc biệt. Bí tích rửa tội làm nên một cuộc "tái sinh" thực sự.
Chúa Giêsu đã gánh tội trần gian trên cuộc đời của mình như Chiên Thiên Chúa như Thánh Gioan đã nói. Ngài đã đi vào đời để nhận lãnh tất cả tội lỗi cho con người được cứu. Tình yêu của Chúa Giêsu là một tình yêu bao la, tình yêu vô bờ bến đề rồi Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: “Tình yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi, vì chúng tôi nghĩ rằng: nếu một người đã chết thay cho mọi người… Đức Kitô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống, không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình” (2Cr 5, 14tt).
Thật sự không phải dễ sống như lời Thánh Phaolô mời gọi. Nếu sống được như thế quả là điều tuyệt vời. Thế nhưng, con người của chúng ta vẫn mang trong mình vết tích của Ađam cũ là dễ quay lưng lại với Thiên Chúa và khước từ Thiên Chúa dẫu rằng chúng ta đã nhận phép rửa có khi là vài chục năm rồi.
Hôm nay, mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa nhắc nhớ chúng ta bí tích Thanh Tẩy mà chúng ta nhận bao nhiêu năm qua và chúng ta sống bí tích Thanh Tẩy như thế nào trong cuộc đời chúng ta. Chúng ta có can đảm dìm mình như Chúa Giêsu đã dìm mình trong Thánh Thần để chúng ta được tinh tuyền hay không?
Chúa Giêsu đã đến trong thế gian này và đã sống trọn cuộc đời vâng phục. Kim chỉ nam của đời sống là lời vâng phục. Chỉ có lời vâng phục mới làm cho ta sống tròn vẹn phép rửa. Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta để chúng ta luôn luôn biết sống vâng phục để ta được Thiên Chúa nói với chúng ta như nói với Chúa Giêsu xưa bên bờ sông Giođan: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con.”
07/01 Từ phương Ðông đến thờ lạy Ðức Vua
- Viết bởi Mt 2, 1-12
Từ phương Ðông đến thờ lạy Ðức Vua.
CHÚA NHẬT CHÚA HIỂN LINH năm B. Lễ trọng. Lễ HỌ. Cầu cho giáo dân.
"Chúng tôi từ phương Ðông đến thờ lạy Ðức Vua".
Lời Chúa: Mt 2, 1-12
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Ðông phương tìm đến Giêrusalem. Các ông nói: "Vua người Do-thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Ðông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người".
Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối rối, và tất cả Giêrusalem cùng với nhà vua. Vua đã triệu tập tất cả các đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Ðức Kitô sinh hạ.
Họ tâu nhà vua rằng: "Tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, vì đó là lời do Ðấng Tiên tri đã chép: Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta".
Bấy giờ Hêrôđê ngầm triệu tập mấy nhà đạo sĩ tới, cặn kẽ hỏi han họ về thời giờ ngôi sao đã hiện ra. Rồi vua đã phái họ đi Bêlem và dặn rằng: "Các khanh hãy đi điều tra cẩn thận về Hài Nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo tin lại cho Trẫm, để cả Trẫm cũng đến triều bái Người". Nghe nhà vua nói, họ lên đường.
Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Ðông phương, lại đi trước họ, mãi cho tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở. Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng. Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người. Rồi, mở kho tàng ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược.
Và khi nhận được lời mộng báo đừng trở lại với Hêrôđê, họ đã qua đường khác trở về xứ sở mình.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM LỄ HIỂN LINH – Năm B
Lời Chúa: Is 60,1-6; Ep 3,2-3a.5-6; Mt 2,1-12
MỤC LỤC
1. Ra đi--‘Manna’--Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu
2. Chúng tôi đã thấy ngôi sao--Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ
3. Ngôi sao dừng lại--‘Manna’--Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu
4. Ngôi sao dẫn đường--‘Manna’--Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ
5. Ngôi sao đi trước và dừng lại--Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
6. Ánh sao đạo đức--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
7. Chúa tỏ mình ra cho những tâm hồn thiện chí--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
8. Thành tâm thiện chí sẽ gặp Chúa--TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
9. Gọi tên ngày lễ--‘Với cả tâm tình’--GM Giuse Vũ Duy Thống
10. Niềm tin: một chuyến đi--‘Làm nụ hoa trắng’--GM Giuse Vũ Duy Thống
11. Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người--GM. Cosma Hoàng Văn Đạt
12. Đấng Cứu độ muôn dân--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên
13. Hành trình tìm Chúa--ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
14. Lễ vật lòng thành--ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
15. Lễ Hiển Linh--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
16. Lễ Hiển Linh--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.
17. Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
18. Thiên Chúa tỏ mình--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
19. Ánh sáng chiếu soi muôn dân--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
20. Thiên Chúa tỏ mình ra cho nhân loại--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
21. Quà tặng Con Thiên Chúa làm người--Lm JB. Lê Ngọc Dũng
22. Hãy là ánh sao nhỏ--Lm. Inhaxiô Hồ Thông
23. Thiên Chúa: Đấng biểu lộ tình thương – đi tìm con người--Lm. Xuân Hy Vọng
24. “Lầm Đường Lạc Lối”--Lm. Gioan Phan Tiến Dũng
25. Lễ Hiển Linh--Jaime L. Waters - Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển
26. Ánh sao lạ dẫn đường giúp lương dân gặp gỡ Chúa--Lm. Đan Vinh
27. Khát vọng tìm Chúa--Lm. Nguyễn Chánh
28. Chúa Hiển Linh--Lm. JB Nguyễn Minh Phương, CSsR
29. Đi tìm Chúa hôm nay--Lm. Damien OFM
30. Vinh quang đích thực của Thiên Chúa--Lm Gioan Nguyễn Văn Ty SDB
31. Hãy làm cho ánh sáng tỏa sáng ra--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
32. Lễ Hiển Linh, Lễ của Ánh Sáng--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
33. Lễ Hiển Linh--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
34. Hành trình Ba Vua--AM Trần Bình An
35. Chúa Hiển Linh--Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
36. Hành trình đức tin--Lm Vũ Đình Tường
37. Bày Mưu, Hoán Kế--Lm. Vũ Đình Tường
38. Hãy tỏa sáng--Lm. Ignatiô Trần Ngà
39. Tìm gặp Thiên Chúa giữa lòng đời--Lm. Ignatiô Trần Ngà
40. Ánh nến tỏa sáng trong gia đình--Lm. Ignatiô Trần Ngà
41. Lễ Hiển Linh--Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
42. Hướng lên--Lm. Giuse Trần Việt Hùng
43. Tỏa sáng--Lm. Giuse Trần Việt Hùng
44. Ánh Sáng trên đường đời--Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế SJ
45. Cuộc hành trình đức tin--Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng
46. Đến Bái Lạy Người--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
47. Lễ Hiển Linh--Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
48. Tầm nhìn Ba Vua--Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng
49. Ánh sao lạ--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
50. Lễ Hiển Linh--‘Tin Mừng Chúa Nhật’
51. Ngôi sao rạng ngời--Lm. Vinh Sơn
52. Ánh sao soi đường--Lm. Anmai, CSsR
53. Lễ vật dâng Chúa--Lm. Phạm Quốc Hưng, CSsR
54. Lễ Hiển Linh--Lm. Alfonso
55. Chúng tôi đến bái lạy Người--Lm. Trầm Phúc
56. Chúng tôi đến bái lạy Người--Lm. Trầm Phúc
57. Chúng tôi đến bái lạy Người--Lm. Trầm Phúc
58. Lễ Chúa Hiển Linh--Lm. Trầm Phúc
59. Ánh vinh quang--Trầm Thiên Thu
60. Ánh Sao Nhiệm Mầu--Lm An Phong, OP
61. Đi Tìm Gặp Chúa--Lm An Phong, OP
62. Ngôi sao sáng--Lm Anphong Trần Đức Phương
63. Thiên Chúa tỏ hiện cho những tấm lòng chân thành tìm kiếm Người--Lm An Phong, OP
64. Ánh sáng đức tin--‘Như Thầy Đã Yêu’--Thiên Phúc
65. Ánh sáng và bóng tối--Thiên Phúc
66. Gặp được Chúa Cứu Thế--‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’--Radio Veritas Asia
67. Hãy đứng lên, hãy tỏa sáng ra--“Sống Tin Mừng”--Radio Veritas Asia
68. Lễ Giáng Sinh của muôn dân--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
69. Thiên Chúa của các dân tộc--“Niềm vui chia sẻ”
70. Lý do Chúa làm người--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
71. Tỏa sáng bằng bác ái--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
72. Chúa Hài Nhi cần gì?--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
73. Đường đến với Chúa--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
74. Thắp đèn cho ai?--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
75. Mỗi người là một ánh sao cho nhau--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
76. Gặp Chúa--Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
77. Một vì sao xuất hiện--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
78. Truyền giáo--Lm Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
79. Chúa tỏ mình--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng
80. Ngôi sao sáng--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
81. Tìm Chúa - Ánh sao--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
82. Món quà trao tặng--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
83. Mỗi tín hữu là một ánh sao dẫn đường--Giuse Đỗ Văn Phi, OP
84. Hãy chiếu sáng như những vì sao--Pm. Cao Huy Hoàng
85. Địa chỉ của ông sao--Pm Cao Huy Hoàng
86. Hành trình của các đạo sĩ--Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
87. Chúa tỏ mình cho muôn dân--Lm. Stêphanô Bùi Thượng Lưu
88. Ngôi Sao phương đông--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
89. Khiêm nhường để nhận biết Chúa--Lm. Nguyễn Hữu An
90. Niềm tin của các đạo sĩ--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
91. Ngôi sao dẫn đường--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
92. Mục đồng và đạo sĩ--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
93. Lễ Chúa Hiển Linh--Lm. Phêrô Nguyễn Minh Mẫn
94. Lễ Hiển Linh--Marcellino D'Ambrosio - GB. Nguyễn Kim Ngân chuyển ngữ
95. Ngôi sao đức tin--Lm Giuse Vũ Thái Hòa
96. Những chặng đường lữ hành--Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP
97. Khát khao và nhạy bén sẽ được gặp Chúa--Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
98. Mỗi người là một vì sao của Hài Nhi Giêsu--Jos. Vinc. Ngọc Biển
99. Ơn cứu độ cho muôn dân--Jos. Vinc. Ngọc Biển
100. Tiếp nối những bước chân anh hùng--Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP
101. Cuộc Hiển Linh vẫn kéo dài--Lm Giuse Nguyễn Cao Luật, OP
102. Suy Niệm của JKN
103. Những ước mơ cao cả--Lm Bùi Quang Tuấn, CSsR
104. Ánh sáng Lời Chúa--Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
105. Suy niệm của JKN
106. Tôn trọng chân lý, lương tri sẽ dẫn ta gặp Đấng Cứu Thế--Lm. Đaminh Hương Quất
107. Tôi đi tìm Thiên Chúa--Lm. Minh Vận
108. Đấng cứu chuộc muôn dân--Lm. Nguyễn Hữu Thy
109. Thái độ của con người đối với Thiên Chúa--Lm. Nguyễn Hữu Thy
110. Ánh sao dẫn đường--Dã Quỳ
111. Mầu nhiệm ánh sáng--Lm. Jos Nguyễn Minh Chánh
112. Lễ Hiển Linh--Lm. Munachi Ezeogu
113. Chúa Nhật Lễ Chúa Hiển Linh--Lm. Nguyễn Văn Phan, CSsR
114. Món quà của các Đạo Sĩ--Lm. Mark Link
115. Món quà của Artaban--Lm. Mark Link,
116. Lễ Hiển Linh--Lm. FX Vũ Phan Long
117. Lễ Chúa Hiển Linh--Lm. John Trần Khả
118. Ánh sáng cho mọi dân tộc--Flor McCarthy
119. Nơi Vua ra đời (Mt 2, 1-2)--William Barclay
120. Lễ Hiển Linh--Claude Tassin
121. Chú giải của Noel Quesson
122. Một ngôi sao để đi theo--Jean-Yves Garneau
123. Hãy đứng lên, hãy toả sáng ra--"Sống Tin Mừng”--Radio Veritas Asia
124. Lương tâm là ngôi sao sáng--Lm. Joshepus Quang Nguyễn
125. Tìm gặp Thiên Chúa giữa lòng đời--Lm. Joshepus Quang Nguyễn
126. Ánh sao của Lòng Thương Xót--Lm. Joshepus Quang Nguyễn
127. Ánh sao của sẻ chia và đồng hành--Lm. Joshepus Quang Nguyễn
128. Lễ Hiển Linh--Lm. Anthony Trung Thành
129. Lễ Hiển Linh--Lm. Anthony Trung Thành
130. Một chút quà dâng tiến Hài Nhi--Lm Nguyễn Khoa Toàn
131. Chú giải của Fiches Dominicales
132. Lễ Hiển Linh--Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
133. Lễ Hiển Linh--Lm. Augustine, SJ
134. Thiên Chúa cho ai nhận biết Người?--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’
135. Lễ Hiển Linh
136. Đi theo ánh sao
137. Lễ vật của dân tộc
138. Gặp Chúa
139. Ngôi Sao Giáng Sinh
140. Gặp gỡ Chúa
141. Thiên Chúa tỏ mình
142. Lễ Hiển Linh--Chiếu tỏ đức tin và tình thương của Chúa
143. Lễ Hiển Linh--Vui mừng vì được ngôi sao lạ dẫn đường
144. Lễ Hiển Linh--Hãy là sao lạ dẫn đường giới thiệu Chúa
145. Tìm Chúa
146. Ánh sáng soi đời
147. Ánh sáng soi đường
148. Lễ Hiển Linh—Ai chuộng bóng tối hơn ánh sáng?
149. Câu chuyện về ngôi sao lạ
150. Thừa kế
151. Ánh sao chỉ đường
152. Lễ Hiển Linh
153. Tìm gặp Chúa Kitô
154. Tìm gặp Chúa
155. Tỏ mình
156. Thông điệp
157. Lễ Hiển Linh
158. Lễ Giáng Sinh của muôn dân
159. Ánh sao lạ
160. Tìm Đức Kitô
161. Ba vua
162. Thiên Chúa tỏ mình
163. Đi tìm Chúa nhờ ngôi sao lạ
164. Những con mắt hiển linh
165. Từ bỏ
166. Đến thờ lạy
167. Nên thánh
168. Nên thánh
169. Những đạo sĩ hôm nay
170. Giờ được sinh ra
171. Bền tâm tìm Chúa
172. Muốn gặp Chúa
173. Dâng tấm lòng con
174. Lễ Hiển Linh--Thiên Chúa tỏ mình cho nhân loại
175. Lễ vật
176. Tìm kiếm Chúa
177. Chúa Nhật Lễ Hiển Linh
178. Ngôi sao
179. Tiến dâng lễ vật
180. Lễ Hiển Linh--Ở phía sau mọi sự: Thiên Chúa
181. Tỏ mình
182. Ngôi sao hy vọng
183. Hành trình đức tin
184. Tìm kiếm
185. Đức Kitô ở đâu?
186. Sân khấu cuộc đời
187. Nhận biết và tin thờ Chúa như các nhà đạo sĩ--Huệ Minh
188. Hãy tỏa chiếu đời mình--Huệ Minh
189. Ngôi Lời đã ở giữa chúng ta--Huệ Minh
1.Ra đi--‘Manna’--Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu
Suy Niệm
Thiên Chúa không chỉ tỏ mình cho dân Israel.
Ngài còn tỏ mình cho các dân tộc khác,
vì Ngài muốn cứu độ mọi người chẳng trừ ai.
Các nhà chiêm tinh vùng Babylon là đại diện cho dân ngoại.
Đối với họ, bầu trời là một cuốn sách,
các vì sao nói về những biến cố trên địa cầu.
Có thể Thiên Chúa đã muốn dùng sự xuất hiện của một vì sao
để báo hiệu Con Ngài chào đời.
Thiên Chúa chấp nhận dùng thứ ngôn ngữ đầy khiếm khuyết đó
để mời họ lên đường đi gặp Đấng Cứu Độ.
Hôm nay, Ngài vẫn ngỏ lời với những ai chưa biết Ngài
bằng muôn vàn cách thức khác nhau, khiến họ hiểu được.
Thiên Chúa vẫn làm sáng lên muôn ánh sao, không ở trên trời cao,
nhưng ở trong lòng người.
Ánh sao có thể là một lý tưởng, một khát vọng mãnh liệt:
khát vọng sự thật, tự do, ấm no, hạnh phúc?
Ánh sao đưa con người lên đường tìm kiếm,
và Ngài không ngừng ban niềm vui trong suốt cuộc hành trình.
Các nhà chiêm tinh đã phải ra khỏi nhà,
ra khỏi mình, ra khỏi những định kiến, để đón tiếp cái bất ngờ.
Họ chỉ mong được bái lạy vị Vua mới sinh.
Nhưng vị Vua này chẳng ở Giêrusalem cao sang,
mà lại ở vùng Bêlem bé nhỏ.
Vị lãnh tụ dân Israel chỉ là một hài nhi bình thường,
sống trong một căn nhà bình thường.
Hêrôđê bối rối lo sợ khi nghe tin sinh hạ Vua Do thái.
Các thượng tế và kinh sư tuy biết rõ nơi Ngài sinh,
nhưng họ không muốn lên đường tìm kiếm.
Các nhà chiêm tinh chỉ có một cái biết mơ hồ,
nhưng họ đã can đảm ra đi, tích cực tìm kiếm,
tin tưởng sấp mình bái lạy và cung kính dâng lễ vật.
Vẫn có đám đông những người không phải là Kitô hữu
đang miệt mài nghiên cứu trong mọi lãnh vực,
khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật, tư tưởng...,
đang gắng công tu tập trong các tôn giáo,
hay đang tận tụy làm cho trái đất được tốt đẹp hơn.
Có ánh sáng nào soi chiếu nẻo đường họ đi.
Họ đã chấp nhận bao hy sinh từ bỏ,
để nhẹ nhàng, thanh tịnh mà tiến bước.
Các nhà chiêm tinh ngày xưa đã gặp được Đấng họ tìm.
Hôm nay, còn bao người vẫn trên đường dong ruổi.
Thiên Chúa đồng hành với họ mà họ chẳng hay.
Họ đã ở gần Chúa ngay khi chưa gặp Ngài.
Lễ Chúa Hiển Linh mời ta nhận ra
và trân trọng hoạt động của Thiên Chúa
nơi anh chị em ngoài Kitô giáo.
Có khi chúng ta giống các thượng tế và kinh sư
tự mãn với cái biết lý thuyết của mình về Thiên Chúa,
nên chẳng muốn lên đường gặp mặt Ngài.
Ước gì chúng ta không coi mình như người đã tìm thấy,
nhưng khiêm tốn học hỏi nơi những người đang tìm kiếm.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn có nhìn thấy Thiên Chúa đang hoạt động nơi những anh chị em ngoài Kitô giáo không? Bạn có quen ai làm bạn cảm phục không?
Thiên Chúa đến với bạn qua những đại lộ (là Thánh Lễ, các Bí Tích...) Nhưng Ngài cũng đến với bạn qua các ngõ hẻm (một biến cố, một bài báo, một câu nói bâng quơ...). Đâu là những ngõ hẻm Chúa thường đến với bạn?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi, khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu
để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
2.Chúng tôi đã thấy ngôi sao--Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm
Lễ Hiển Linh là lễ Thiên Chúa
giới thiệu Con Một của Ngài cho nhân loại.
Như thánh Mác-xi-mô, viện phụ, nhận xét:
“Người tỏ chính mình ra theo tầm mức lãnh hội của kẻ đón nhận…
Người thích ứng với khả năng tiếp nhận của họ.”
Khi muốn giới thiệu Con của Ngài cho các mục đồng,
Những người ít học, đơn sơ, hẹn mọn, vất vả cả đêm để canh giữ đàn vật,
Thiên Chúa đã cho một thiên sứ đến gặp họ, rực rỡ và sáng láng,
Để báo tin Đấng Kitô được sinh ra như trẻ thơ nằm trong máng cỏ (Lc 2,1-20).
Nhưng Thiên Chúa không chỉ tỏ mình rực rỡ cho các người chăn chiên nghèo,
Ngài còn muốn tỏ mình
cho những người giàu có, khôn ngoan, học thức, có địa vị.
Cả những người này cũng có chỗ trong trái tim của Thiên Chúa.
Trong lễ Hiển Linh hôm nay,
chúng ta thấy Thiên Chúa giới thiệu Con của Ngài
Cho những nhà chiêm tinh thuộc vùng Ả-rập, hay Ba-tư, hay Babylon.
Dựa theo lễ vật của họ, hẳn họ phải là người giàu có.
Dựa theo khả năng nhìn bầu trời,
họ phải là những người có kiến thức thiên văn.
Họ có thể là những tư tế hay cố vấn cho nhà vua, làm việc trong triều đình.
Đặc biệt hơn cả, họ không phải là người Do-thái; họ là dân ngoại.
Thiên Chúa muốn cả những người này cũng nhận biết Con của Ngài.
Nhưng Thiên Chúa tỏ mình bằng những cách khác nhau, cho những giới khác nhau.
Vì họ chuyên nghiên cứu các vì sao,
nên Ngài có thể dùng bầu trời mà trò chuyện với họ.
Ngài đã cho xuất hiện một vì sao,
không hẳn là sáng rực rỡ, ai cũng nhận ra,
Nhưng là vì sao rất lạ,
khiến họ bị thu hút mãnh liệt và lôi kéo họ lên đường.
Nhìn vì sao lạ, họ tin chắc có một vị Vua đã sinh ra,
vị Vua người Do-thái đang mong đợi, cũng là vị Vua cho cả thế giới.
Vì thế họ hướng về Giêrusalem,
chỉ mong được gặp và bái lạy vị Tân Vương.
Rất có thể họ đã đi cả ngàn cây số dọc theo sông Êuphrát, rồi mới xuống Ítraen.
Nhờ tin lời các ngôn sứ mà họ đi Bêlem,
quá vui khi gặp được Hài Nhi và Thân Mẫu.
Họ đã bày tỏ niềm kính tôn
qua cử chỉ cúi đầu chạm đất, và dâng lễ vật.
Thiên Chúa đã nói với họ qua một ngôi sao,
thì nay lại nói trong một giấc mơ.
Ngài nhắc họ đừng gặp Hêrôđê nữa nhưng đi đường khác mà về.
Thánh Mátthêu đã kể cho độc giả thời của ngài
một câu chuyện đẹp và ý nghĩa.
Những người Do-thái hiểu ngay
lời sấm của ông Bilơam đã được ứng nghiệm.
Nhà chiêm tinh ngoại giáo này đã thấy
“một vì sao xuất hiện từ Giacóp” (Ds 24,17).
Bây giờ vì sao ấy đã xuất hiện rồi,
một vị Đại Vương đã được sinh ra.
Đó là Đấng Mêsia, Đấng sẽ chăn dắt dân Ítraen
và sẽ là Vua cả hoàn vũ.
Cùng với các nhà chiêm tinh,
chúng ta hãy đến để bái lạy và thờ lạy Hài Nhi,
Vì chúng ta tin Hài Nhi Giêsu là Thiên Chúa làm người.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã khuyến khích chúng ta làm hang đá ở khắp nơi.
Ngài đã nhắc chúng ta đặt tượng “Ba Vua” nơi hang đá,
ở đó không thể nào thiếu sự hiện diện của một ngôi sao trên cao chỉ đường.
Chúng ta không được quên vai trò của ngôi sao nơi máng cỏ,
Bởi lẽ con người hôm nay vẫn cần ánh sao để gặp được Chúa.
Không phải ánh sao lạ xuất hiện trên bầu trời,
Nhưng là “sao mai mọc lên trong tâm hồn anh em” (2 Pr 1,19).
Đức Giêsu, Con Thiên Chúa,
đã tự nhận mình là Sao Mai sáng ngời (Kh 22,16).
Chính ngài sẽ ban cho chúng ta Sao Mai ấy (Kh 2,28).
Không thể mừng lễ Hiến Linh mà không nghĩ đến những vì sao,
Và ý thức mình chính là một trong những vì sao cần tỏa sáng (Pl 2,15).
Cầu Nguyện
Lạy Chúa là Ánh sáng thân thương,
Giữa những bủa vây của u sầu ảm đạm,
Xin Chúa dẫn con đi.
Đêm thì tối, đường còn xa,
Xin Chúa dẫn con đi,
Xin giữ bước chân con.
Con đâu dám xin thấy tương lai xa xôi,
Chỉ thấy một bước trước mặt cũng đủ rồi.
Chưa bao giờ con như bây giờ,
Cũng chưa bao giờ con xin Chúa dẫn dắt.
Con đã quen tự chọn và thấy con đường của mình.
Nhưng giờ đây, xin Chúa dẫn con đi.
Thánh John Henry Newman.
3.Ngôi sao dừng lại--‘Manna’--Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu
Suy Niệm
Người Do Thái đợi chờ Đấng Mêsia từ bao thế kỷ.
Đấng Mêsia được ví như một vì sao từ nhà Giacóp (x.Ds 24,17).
Nói một cách thi vị, chờ đợi Đấng Mêsia
là chờ đợi một vì sao xuất hiện.
Hình ảnh vì sao gợi lên trong lòng người Do Thái
niềm nôn nao đợi chờ Đấng Cứu Độ
cho dân tộc mình và cho cả thế giới (x. Ds 24,7).
Nhưng không phải chỉ người Do Thái mới biết đợi chờ.
Theo các sử gia đáng tin cậy ở thế kỷ đầu,
cả dân ngoại cũng tin rằng Đấng cai trị thế giới sẽ được sinh ra từ xứ Giuđê.
Phải chăng đó là lý do
khiến các nhà chiêm tinh từ vùng Ba tư, Ả rập xa xôi
đã lặn lội đến Giêrusalem để bái yết tân vương,
khi họ thấy trên bầu trời xuất hiện vì sao lạ?
Tuy nhiên, trong thực tế có nhiều phản ứng khác nhau
trước sự hạ sinh của Vua dân Do Thái.
Hêrôđê thì sợ hãi vì thấy ngai vàng bị lung lay.
Ông dò hỏi về nơi sinh và ngày sinh của vị Vua mới
để âm mưu loại trừ một đối thủ.
Các thượng tế và kinh sư ở Giêrusalem
lại có thái độ dửng dưng thụ động.
Họ rành rẽ Kinh Thánh và biết rõ nơi sinh của Vua Mêsia,
nhưng họ chẳng buồn cất bước tới Bêlem.
Còn các nhà chiêm tinh là đại diện cho dân ngoại,
đã hăm hở lên đường, lao vào cuộc phiêu lưu tìm kiếm.
Họ làm tất cả miễn sao gặp được Đấng quân vương.
Dù Đấng ấy chẳng uy nghi ngự trong lầu vàng điện ngọc,
nhưng họ vẫn vui mừng đón nhận với cả lòng thành.
Lễ Hiển Linh nhắc chúng ta về việc truyền giáo.
Các nhà chiêm tinh đã đến gặp Chúa nhờ ánh sao.
Con người hôm nay nhờ ánh sáng nào mà gặp được Chúa?
Mỗi môi trường cần một thứ ánh sáng riêng.
Mỗi con người nhạy cảm với một loại ánh sáng.
Chúng ta phải tìm hiểu xem
đâu là thứ ánh sáng thu hút được lòng con người.
Ánh sáng của sự chân thành, của phục vụ yêu thương;
Ánh sáng của niềm vui an bình, của can trường bất khuất.
Một nụ cười, một ánh mắt, một lời khích lệ
cũng bừng sáng rực rỡ chẳng kém một vì sao.
"Giữa một thế hệ sa đọa, anh em hãy tỏa sáng
như những vì sao trên vòm trời" (Pl 2,15).
Chúng ta chỉ là những vì sao sáng
khi chúng ta để mọc lên trong lòng chúng ta (x. 2Pr 1,19)
ngôi sao mai là chính Đức Kitô (x.Kh 2,28).
Ước gì mỗi Kitô hữu trở thành một ánh sao:
ánh sao nói được điều gì đó với người đang chờ đợi,
ánh sao đồng hành với nhân loại trên mọi nẻo đường
ánh sao ngừng lại trước nhà của Con Thiên Chúa
để Con Thiên Chúa và thế giới hôm nay gặp nhau.
Gợi Ý Chia Sẻ
Những người dân ngoại ở xa có thể gặp Chúa, còn những kinh sư thông thạo Kinh Thánh ở sát Bêlem lại không gặp được Ngài. Theo bạn, để gặp được Chúa, cần có thái độ nào, điều kiện nào?
Ở môi trường bạn đang sống và làm việc, người ta cần thứ ánh sáng nào? Bạn có thứ ánh sáng đó không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Tạ ơn Chúa đã cho chúng con ánh sáng mặt trời, mặt trăng,
và ánh sáng từ những nguồn năng lượng trên mặt đất.
Tạ ơn Chúa vì Chúa đã gọi chúng con là ánh sáng.
Đó là vinh dự và cũng là một trách nhiệm nặng nề.
Xin cho chúng con có khả năng
đẩy lui bóng tối của hận thù và bất công,
của buồn phiền và thất vọng.
Xin cho chúng con biết giữ gìn ngọn lửa
mà Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con,
và biết vâng theo những soi sáng của Chúa
qua từng phút giây của cuộc sống.
Lạy Chúa Giêsu,
cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối
vẫn còn tiếp diễn trên thế giới và trong lòng chúng con.
Ước gì chúng con đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối,
nhưng can đảm thắp lên những ngọn lửa,
để cả trái đất ngập tràn ánh sáng Chúa.
4.Ngôi sao dẫn đường--‘Manna’--Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm
Đoạn Tin Mừng trên nói về các nhà chiêm tinh dân ngoại
theo ánh sao mà tìm đến bái yết Hài Nhi
Một loạt câu hỏi thường được đặt ra hôm nay.
Làm sao một ngôi sao có thể dẫn đường cho họ đi?
Nếu đó là một ngôi sao sáng lạ lùng
thì tại sao thành Giêrusalem lại không nhận biết?
Bởi đâu ngôi sao lại không đi thẳng tới Bêlem?
Có tin được chuyện ngôi sao ngừng lại trước cửa nhà không?
Các câu hỏi trên đều xoay quanh ngôi sao lạ.
Một ngôi sao như thế có thật không
hay đây chỉ là một truyền thuyết?
Thánh Mátthêu đã viết đoạn Tin Mừng này
theo một thể văn đặc biệt của người Do Thái.
Chúng ta không nên hiểu mọi chi tiết theo nghĩa đen.
Điều quan trọng không phải là có một ngôi sao lạ,
một ngôi sao thông minh biết dẫn lối chỉ đường.
Điều quan trọng là điều Mátthêu muốn nói với ta:
Đức Giêsu không phải chỉ là Mêsia cho dân Do Thái,
Ngài còn là Đấng Cứu Độ cho cả nhân loại.
Các nhà chiêm tinh là dân ngoại.
Họ đại diện cho mọi dân tộc, cho chính chúng ta.
Họ khao khát tìm ơn cứu độ.
Qua những dấu chỉ kỳ diệu hay đơn sơ trong vũ trụ,
họ nghe thấy lời mời gọi lên đường.
Chấp nhận lên đường là chấp nhận bỏ lại tất cả
và bước đi trong đêm tối.
Các nhà chiêm tinh không dựa vào điều gì khác
ngoài ánh sao khi tỏ khi mờ.
Cần có đức tin cứng cáp
mới dám dựa vào một dấu chỉ mong manh như thế.
Cũng cần có đức tin mạnh mẽ mới dám tin rằng
vị vua mới sinh đang khiêm tốn sống trong một ngôi nhà ở Bêlem,
chứ không uy nghi ngự giữa hoàng cung lộng lẫy.
Cần có một đức tin khiêm tốn biết chừng nào
mới có thái độ sấp mình bái lạy trước Hài Nhi,
và tiến dâng lễ vật quý giá.
Thiên Chúa vẫn không ngừng lôi kéo cả nhân loại
đến với Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô.
Ngài vẫn không ngừng cho những ánh sao dẫn đường.
Không phải là ánh sao trên trời cao,
mà là ánh sáng Ngài gieo vào lòng người.
Mỗi người chúng ta phải trung thành với ánh sáng đó,
và bước vào cuộc hành trình đức tin đầy mạo hiểm,
như các nhà chiêm tinh ngày xưa.
Đôi khi chúng ta có nét giống Hêrôđê,
sợ hãi bối rối trước sự xuất hiện của Đấng Cứu Độ.
Hãy để Chúa làm lung lay ngai vàng của bạn,
đưa bạn vào sự bấp bênh, mong manh,
để rồi cuối cùng bạn gặp được sự vững vàng trong Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ
Sống đời Kitô hữu là bước vào một cuộc hành trình đức tin. Trong cuộc hành trình đầy cam go ấy, vẫn thường có những ánh sao. Có khi nào bạn gặp được một ánh sao lạ hướng dẫn bạn không?
Thiên Chúa đi tìm con người và con người đi tìm Thiên Chúa. Bạn có thấy đó là hai yếu tố quan trọng trong đời sống người Kitô hữu không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
tạ ơn Chúa đã cho chúng con ánh sáng mặt trời, mặt trăng,
và ánh sáng từ những nguồn năng lượng trên mặt đất.
Tạ ơn Chúa vì Chúa đã gọi chúng con là ánh sáng.
Đó là vinh dự và cũng là một trách nhiệm nặng nề.
Xin cho chúng con có khả năng
đẩy lui bóng tối của hận thù và bất công,
của buồn phiền và thất vọng.
Xin cho chúng con biết giữ gìn ngọn lửa
mà Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con,
và biết vâng theo những soi sáng của Chúa
qua từng phút giây của cuộc sống.
Lạy Chúa Giêsu,
cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối
vẫn còn tiếp diễn trên thế giới và trong lòng chúng con.
Ước gì chúng con đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối,
nhưng can đảm thắp lên những ngọn lửa,
để cả trái đất ngập tràn ánh sáng Chúa.
5.Ngôi sao đi trước và dừng lại--Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
Tâm sự của ngôi sao.
Người ta hay gọi tôi là ngôi sao lạ.
Chúa cho tôi xuất hiện trên bầu trời cách đây hai ngàn năm.
Chúa trao cho tôi một sứ mạng đặc biệt,
đó là dẫn đường cho các nhà chiêm tinh ở vùng Ba-tư,
để họ đến gặp Đấng Cứu độ của dân Do-thái ở Israel.
Sự xuất hiện của tôi đã lôi kéo sự chú ý của họ.
Một vì sao mới xuất hiện rạng ngời rực rỡ
Được coi là dấu hiệu cho sự chào đời của một bậc đại vương.
Tôi là ngôi sao lạ được Thiên Chúa sử dụng.
Xin đừng hỏi làm sao tôi có thể dẫn các nhà chiêm tinh
đi trên đoạn đường cả ngàn cây số để đến đất Israel.
Khi đến thánh đô Giêrusalem thì tôi dừng lại, biến mất.
Tôi muốn họ có thời giờ để hỏi thăm và báo cho nhà vua.
Và khi vua Hêrôđê sai các nhà chiêm tinh đi Bêlem,
thì tôi lại xuất hiện, tiếp tục đi trước họ, dẫn đường,
Và tôi chỉ dừng lại khi đến tận căn nhà của Hài Nhi.
Như thế là nhiệm vụ của tôi đã hoàn tất.
Con người hôm nay hay hỏi xem tôi là ngôi sao gì mà lạ thế!
Đúng tôi là ngôi sao sáng trên trời cao,
nhưng ánh sáng của tôi thật ra không ở trên, mà ở trong,
chiếu soi và hướng dẫn tâm trí con người gặp Chúa.
Ai trong các bạn cũng có một ánh sao như thế trong lòng!
Chỉ để ý một chút là thấy ngay.
Tâm sự của Hêrôđê Cả, vị vua đang ở tại Giêrusalem.
Vào những năm cuối đời, tôi có nhiều nỗi sợ và hoang tưởng.
Tôi sợ mình sẽ không được tiếp tục làm vua.
Tôi muốn giết tất cả những ai có thể đụng đến ngai vàng của tôi.
Và thực sự tôi đã giết bà vợ người Do-thái và ba đứa con trai.
Hôm nay tôi vừa bối rối, vừa nổi giận,
khi có những nhà chiêm tinh đến từ vùng Ba-tư xa xôi
để nói về sự chào đời của một vị vua Do-thái mới sinh nào đó.
Nguy quá, như thế là ngai vàng của tôi bị đe dọa rồi.
Tôi muốn biết rõ vị vua ấy sinh ra ở đâu.
Các thượng tế và kinh sư đã cho tôi biết: đó là Bêlem.
Tôi đã giả vờ sai họ đi trước đến Bêlem,
để nhờ thông tin của họ, tôi có thể giết ngay vị vua mới sinh này.
Nhưng kế hoạch của tôi có thành không?
Tâm sự của các nhà chiêm tinh dân ngoại.
Chúng tôi là những người có học thức cao, có chuyên môn.
Đối với chúng tôi, bầu trời như cuốn sách được mở ra.
Chúng tôi dễ dàng đọc thấy những điều thú vị trong đó.
Khi thấy ngôi sao lạ, chúng tôi quyết định lên đường, với lễ vật,
vì tin thế nào mình cũng gặp được một vị đại vương.
Bất chấp đường xa ngàn dặm, với bao hiểm nguy vất vả,
chúng tôi vẫn bị thôi thúc và háo hức tiến bước,
có ánh sao trên đầu dẫn lối, và ánh lửa trong tim chiếu soi.
Khi ngôi sao dừng ở Giêrusalem, chúng tôi tưởng đã đến nơi.
Nhưng cần có mặc khải của Kinh Thánh,
chúng tôi biết Bêlem mới là nơi mình phải đến.
Ngôi sao lại xuất hiện và dẫn đường khiến chúng tôi vui quá đỗi.
Thật ngỡ ngàng khi ngôi sao dừng lại ở một ngôi nhà đơn sơ,
không phải là hoàng cung cao sang với tiền hô hậu ủng.
Nơi đây có một người mẹ bên một Hài Nhi còn thơ dại.
Vì tin đây là Đấng mà ngôi sao đã dẫn đường chỉ cho,
chúng tôi sấp mình xuống, cung kính bái lạy, và dâng lễ vật.
Chúng tôi không chỉ tin đây là Đấng Cứu độ của người Do-thái,
mà còn tin đây là Đấng Cứu độ của cả thế giới.
Tâm sự của Thiên Chúa Cha.
Phải làm sao để mọi người nhận biết Con của mình được sai đến.
Cách đây hai ngàn năm, ngôi sao lạ đã mời gọi lôi cuốn dân Ba-tư.
Bây giờ phải tìm những dấu lạ mới, những ngôn ngữ mới, hấp dẫn,
để con người hôm nay đọc được, hiểu được, và tin vào Chúa Con.
Nhờ thông thạo khoa chiêm tinh mà người xưa gặp được Chúa Con,
ngày nay, mọi khoa học, mọi thứ hiểu biết,
phải là những con đường dẫn con người đến gặp Thiên Chúa.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu thương mến,
Xin ban cho chúng con
tỏa lan hương thơm của Chúa
đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con
bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.
Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con
để chúng con chiếu tỏa sức sống của Chúa.
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con,
để những người chúng con tiếp xúc
cảm nhận được Chúa
đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa,
không phải bằng lời nói suông,
nhưng bằng cuộc sống chứng tá,
và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa.
Thánh Tê rê sa Calcutta.
6.Ánh sao đạo đức--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Hôm nay, Ba Vua trên đường tìm đến thờ lạy Chúa Cứu Thế Giáng Sinh. Ba Vua là những người phương xa, không có đạo. Các Ngài tìm đến Chúa theo ánh sáng của ngôi sao lạ. Theo ngôi sao, các Ngài đến được Giêrusalem và được nghe giải nghĩa Thánh Kinh. Theo ngôi sao đưa đường dẫn lối các Ngài đã gặp được Chúa. Ánh sao đã chiếu sáng bầu trời đen tối, giúp các Ngài nhận định được hướng đi. Lời Thánh Kinh là một ánh sao chiếu soi tâm hồn giúp họ sáng lên niềm tin. Nhưng chính Đức Giêsu mới là ngôi sao mai dẫn họ đi vào một con đường mới, con đường chói ngời ngọn lửa đức mến.
Ngày nay có nhiều người đang tìm kiếm Chúa. Nhiều người muốn biết Chúa để theo Chúa. Nhưng họ không biết đường biết hướng. Cũng như Ba Vua, họ cần có những ánh sao soi đường dẫn lối.
Tìm đâu ra ngôi sao xưa đã soi đường cho Ba Vua? Ngày nay, Chúa không dùng ngôi sao xuất hiện trên trời, nhưng muốn mỗi người chúng ta trở thành một vì sao soi dẫn mọi người đến với Chúa.
Là ngôi sao có nghĩa là phải có ánh sáng. Ngôi sao chỉ chiếu sáng khi chính bản thân nó có ánh sáng. Người Kitô hữu chỉ chiếu sáng khi chính cuộc sống của họ mang ánh sáng, phản chiếu ánh sáng nhận tự nơi Thiên Chúa.
Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng hy vọng. Niềm hy vọng vào ơn cứu độ của Chúa giúp ta vừng bước trên đường lý tưởng. Niềm hy vọng vào một trời mới đất mới cho ta thêm sức mạnh góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp. Niềm hy vọng vào hạnh phúc thiên đàng giúp ta đánh gía đúng mức của cải vật chất đời này. Hy vọng là ánh sáng làm tươi đẹp con người và cuộc đời.
Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng tin yêu. Tin yêu Chúa và tin yêu người. Tin yêu để xây dựng một cuộc sống chan hoà tình người. Tin yêu đẻ tha thứ hoà giải. Tin yêu để vượt qua mọi bóng tối thù hận, chia rẽ, bất hoà. Tin yêu là làn ánh sáng ấm áp làm cho thế giới trở nên gần gũi, con người trở nên thân thiện, cuộc đời trở thành đáng yêu đáng mến.
Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng công bình, bác ái. Niềm hy vọng, niềm tin yêu được chứng minh bằng đời sống công bình, bác ái. Tin Chúa được biểu lộ qua sự công bình trong đời sống. Yêu Chúa được thể hiện qua tình bác ái với tha nhân.
Tất cả những làn ánh sáng nói trên góp lại thành ánh sáng đạo đức. Đắm chìm vào vật chất sẽ khiến con người rơi vào bóng tối tuyệt vọng, không lối thoát. Nghi ngờ con người sẽ khiến cuộc đời chìm vào bóng tối cô đơn. Thiếu công bình bác ái sẽ phủ lên thế giới mới một bóng tối phi nhân, tàn nhẫn. Chỉ có ánh sáng đạo đức mới đủ sức phá tan những bóng tối ấy. Chỉ có ánh sáng đạo đức mới làm cho thế giới thành vui tươi hạnh phúc.
Thế giới đang mong chờ ánh sao dẫn đường. Chúa đang mời gọi chúng ta trở thành một ngôi sao chiếu lên làn ánh sáng đạo đức. Chính qua làn ánh sáng ấy, mọi người sẽ nhận biết và yêu mến Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp con sống xứng đáng là người con của Chúa sự sáng. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Bạn nghĩ gì về cuộc tìm kiếm của Ba Vua? Bạn có kiên trì tìm Chúa như Ba Vua không?
2. Bạn nghĩ gì về bổn phận làm chứng cho Chúa? Bạn có mong ước trở thành ngôi sao dẫn đưa mọi người đến với Chúa không?
3. Đâu là những ánh sáng người Kitô hữu phải có để dẫn người khác tới Chúa? Trong năm mới này, bạn sẽ làm gì để làm chứng cho Chúa?
7.Chúa tỏ mình ra cho những tâm hồn thiện chí--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Bài Tin Mừng hôm nay đưa ra những chi tiết tương phản lạ thường.
Tương phản giữa Giêrusalem và Bêlem: Giêrusalem, thủ đô hoa lệ, trung tâm văn hoá chính trị của nước Do thái, nhưng đã khước từ, không đón tiếp Đấng Cứu thế. Trong khi đó, Bêlem, một thị trấn bé nhỏ, nghèo nàn lại là nơi đón tiếp Đấng Cứu thế hạ sinh.
Tương phản giữa những người có đạo và những người ngoại đạo: Các bậc chức sắc thông thạo Kinh thánh, nhưng chỉ ngồi im tại kinh thành, không chịu lên đường, nên không gặp được Đấng Cứu thế. Trái lại, ba nhà đạo sĩ mà ta quen gọi là Ba Vua, là những người ngoại đạo, không am tường Kinh thánh, nhưng đã biết tìm tòi học hỏi, dấn thân lên đường, nên đã gặp được Chúa.
Tương phản giữa Vua giả và Vua thật: Hêrôđê được gọi là Vua, nhưng lại cứ nơm nớp lo âu, sợ mất ngai vàng, nên tìm cách tiêu diệt người khác. Trong khi đó, Đức Giêsu Kitô, Vua Trời lại thản nhiên bình an trong cảnh khó nghèo, mở rộng vòng tay đón tiếp mọi người xa gần.
Tất cả những tương phản ấy đáng cho ta suy nghĩ. Đấng Cứu thế không đến theo cơ chế, nhưng rất bất ngờ. Người không đến trong những cung điện sang trọng nhưng đến trong một chuồng bò tăm tối, hôi tanh. Người không đến trong quyền lực nhưng trong sự yếu đuối, khiêm nhường.
Tất cả những tương phản ấy khiến ta phải lo sợ. Không phải cứ có đạo là gặp đựơc Chúa. Không phải cứ giỏi giáo lý là biết Chúa. Muốn gặp được Chúa phải có thiện chí đi tìm. Muốn biết Chúa, phải dấn thân lên đường.
Ba Vua là những người ngoại đạo đến từ rất xa, nhưng đã trở nên gương mẫu cho ta trong việc đi tìm và hiểu biết Chúa. Các Ngài là những tâm hồn thiện chí.
Là những tâm hồn thiện chí, luôn luôn khao khát điều lành, nên các Ngài luôn để tâm tìm kiếm. Đêm đêm ngước mắt lên trời cố dò tìm dấu vết thần linh. Chắc chắn không phải chỉ trong phút chốc mà các Ngài phát giác ra ngôi sao lạ, nhưng phải trải qua nhiều năm tháng kiên trì chiêm ngắm bầu trời, cặn kẽ theo dõi đường chuyển dịch của các vì tinh tú, các Ngài mới có thể nhận biết ngôi sao lạ khi nó xuất hiện.
Việc đi theo ngôi sao lạ cũng không giản đơn. Trước hết việc lên đường đòi phải ra khỏi nhà, giã từ những tiện nghi dễ chịu, từ bỏ những sinh hoạt quen thuộc, chấp nhận những thiếu thốn, những nguy hiểm, những bất tiện trên đường đi. Thiện chí của các Ngài rất cao, nên khi ngôi sao biến mất, các Ngài vẫn không nản lòng bỏ cuộc, nhưng tìm mọi cách vượt qua khó khăn, tìm mọi cách để đến gặp được Chúa. Chúa đã chúc lành cho thiện chí của các Ngài, nên đã cho các Ngài được gặp Chúa.
Đời sống chúng ta là một cuộc đi tìm Chúa. Trong cuộc đi tìm, ta phải có thiện chí như Ba Vua, biết dấn thân lên đường, biết phấn đấu chấp nhận hy sinh gian khổ, biết kiên trì không nản lòng bỏ cuộc khi gặp thử thách.
Ba Vua không thể đến với Chúa nếu không có ngôi sao dẫn đường. Hôm nay, Chúa muốn mỗi người chúng ta là một ngôi sao lạ, loan báo tình thương của Chúa, đưa dẫn những tâm hồn thiện chí đến với Chúa. Hãy là ngôi sao sáng trong đời sống công bình. Hãy chiếu sáng đức thương yêu của Chúa. Hãy toả ánh sáng ấm áp tình người. Qua những làn ánh sáng ấy, mọi người sẽ nhận biết và tìm về với Thiên chúa là ánh sáng chân thật.
Để kết thúc, tôi xin kể một câu chuyện có thật. Một buổi chiều, một người lái xe con đi trên con đường miền núi vắng vẻ. ở một khúc quanh, người ấy phát hiện một gia đình bị hỏng xe. Đường vắng, trời tối, họ lo âu sợ hãi vì đó là đoạn đường thường xảy ra cướp bóc. Biết sửa chữa xe, nên người ấy đỗ xe, xuống giúp sửa chữa. Xe hỏng nặng. Người ấy phải chui vào gầm xe, tháo ra từng bộ phận. Tối mịt xe mới nổ máy. Cả gia đình mừng rỡ, muốn trả công cho người ấy. Nhưng người ấy không lấy công. Cả gia đình cám ơn rối rít và xin địa chỉ hẹn ngày lên thăm. Khi lên thăm, gia đình mới biết đó là một vị giám mục. Gia đình đem lòng cảm phục và xin theo đạo cả nhà. Vị Giám mục ấy chính là một Đức Cha ở cao nguyên Trung phần vào những năm 60.
Nhân dịp đầu năm mới, tôi xin cầu chúc tất cả anh chị em có một đời sống đạo trong sáng như ngôi sao sáng để đưa dẫn nhiều tâm hồn về với Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Ba Vua thiện chí ở những điểm nào?
2. Bạn có gặp thử thách trong đời sống đạo không? Khi gặp thử thách, bạn đã ứng xử thế nào?
3. Theo bạn, cách nào hữu hiệu nhất để làm chứng cho Chúa: giảng giáo lý, tranh luận, sống bác ái?
4- Tuần này, bạn quyết tâm làm gì để thực hành Lời Chúa?
8.Thành tâm thiện chí sẽ gặp Chúa--TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Lễ Hiển Linh là lễ Chúa tỏ mình ra. Việc Chúa sinh ra được loan báo cho mọi người biết dưới nhiều hình thức khác nhau như: lời các ngôn sứ loan báo từ nhiều thế kỷ trước, đạo binh thiên thần ca hát, ngôi sao lạ xuất hiện… Tuy nhiên không phải ai cũng gặp được Chúa.
Có những người không gặp Chúa, dù biết rõ những chỉ dẫn về Người.
Đó là những kinh sư, biệt phái. Họ hiểu biết Thánh Kinh. Khi ba nhà đạo sĩ đến hỏi thăm, họ đã đọc vanh vách lời ngôn sứ loan báo Đấng Cứu Thế sinh ra tại Bêlem. Nhưng họ không gặp được Chúa, vì họ hiểu biết lý thuyết mà không thực hành. Ngồi một chỗ mà không chịu lên đường. Chỉ chú ý tới chữ nghĩa sách vở mà không chú ý tới cuộc sống con người. Chỉ tìm trong sách vở mà không tìm những dấu chỉ trong đời thường.
Đó là Hêrôđê. Bạo vương này muốn tìm Chúa nhưng không gặp Chúa, dù ông có binh hùng tướng mạnh trong tay. Ông không gặp Chúa vì ông tìm Chúa không phải vì Chúa mà vì quyền lợi của ông. Ông tìm Chúa không phải để thờ lạy nhưng để giết chết. Ông tìm Chúa không phải để tôn vinh Chúa nhưng để tôn vinh bản thân. Ông tìm Chúa không phải để làm theo ý Chúa nhưng để bắt Chúa phải theo ý ông. Vì thế Chúa đã vượt thoát khỏi tầm tay của ông. Vĩnh viễn ông không gặp được Chúa.
Những người xem ra gần gũi nhất, hiểu biết nhất, có phương tiện nhất đã không gặp được Chúa. Trái lại, những người có vẻ nghèo hèn, thiếu thốn phương tiện, xa xôi cách trở lại gặp được Chúa. Đó là các mục đồng và đặc biệt ba nhà đạo sĩ mà ta nhớ đến trong thánh lễ hôm nay.
Họ đã gặp Chúa vì họ đã lên đường. Dù không biết lời tiên tri loan báo, không biết lời hứa, không thuộc Thánh Kinh, nhưng khi thấy ngôi sao lạ, họ đã lên đường ngay tức khắc. Lên đường nói lên thái độ ngoan ngoãn tuân theo ơn Chúa soi sáng. Lên đường nói lên thái độ dấn thân. Lên đường nói lên lòng cương quyết đi tìm. Lên đường là chấp nhận gian khổ để đạt được điều mơ ước.
Họ lên đường và đã gặp Chúa vì lòng họ khao khát. Khao khát chân lý nên đêm đêm họ không ngừng quan sát bầu trời tìm kiếm ánh sao, vì thế cả một bầu trời bao la, chỉ một ánh sao lạ xuất hiện, họ đã nhận biết. Khao khát chân lý nên khi Chúa vừa tỏ mình qua dấu hiệu ngôi sao, họ đã vội vã theo sát dấu ánh sao đi tìm. Khao khát gặp Chúa nên khi ánh sao vụt biến mất, họ đã không nản lòng, quyết tâm dò hỏi cho ra.
Họ đã gặp Chúa vì tâm hồn họ đơn sơ thành thực. Đi tìm Chúa chứ không tìm bản thân. Đi tìm Chúa để thỏa lòng khao khát chân lý chứ không để thỏa mãn những tham vọng đen tối. Đi tìm Chúa để thờ lạy Chúa chứ không vì lợi lộc cá nhân. Với tâm hồn đơn sơ, họ đã nhận ra ý Chúa, dù ý Chúa chỉ nhẹ nhàng qua một ánh sao. Với tâm hồn đơn sơ, họ đã nhận ra chính Chúa, dù Chúa có ẩn thân dưới hình dáng một em bé yếu ớt nghèo nàn, trong khung cảnh rất tồi tàn của chuồng bò hôi hám.
Đời sống đạo của tôi cũng là một cuộc đi tìm Chúa. Tôi sẽ chỉ gặp được Chúa nếu tôi noi gương ba vua, có tâm hồn đơn sơ thành thực, có lòng khao khát Chúa vì chính Chúa, và dám dấn thân thực hành những điều Chúa truyền dạy, đặc biệt là giới răn bác ái, phục vụ Chúa trong những anh em nghèo khổ.
Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường lối của Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Tại sao những kinh sư, biệt phái và Hêrôđê không gặp được Chúa?
2) Có những người ngoại đạo thành tâm thiện chí như ba vua. Bạn đã gặp ai như thế chưa? Bạn nghĩ gì về họ?
3) Muốn gặp Chúa, bạn phải làm gì?
4) Ba vua nhờ ngôi sao dẫn đến gặp Chúa. Bạn phải làm gì để trở thành ngôi sao đưa người khác đến với Chúa?
9.Gọi tên ngày lễ--‘Với cả tâm tình’--GM Giuse Vũ Duy Thống
Trong dịp tĩnh tâm Mùa Vọng ở một giáo xứ, có người bạn trẻ đã nêu lên câu hỏi liên quan đến Thánh Lễ hôm nay: “Tại sao ngày nay Phụng Vụ không sử dụng tên gọi lễ Ba Vua nữa? Phải chăng rốt cuộc chẳng có ông vua nào đến viếng Hang đá cả?”.
Câu hỏi ấy trực tiếp về mặt kiến thức, không khó trả lời; nhưng gián tiếp về mặt tâm linh, lại hé mở cho thấy đức tin hôm nay xem ra đang có nhu cầu tìm hiểu. Đã đành, hiểu chưa phải là tin hay chưa hẳn đã tin, nhưng một phần nào cũng góp phần dẫn tới đức tin cho người chưa tin, đào sâu đức tin cho người đã biết, và cũng quan trọng không kém là củng cố sức mạnh cho những niềm tin đang ở trong tình trạng nhạt nhòa.
Niềm tin là một công trình còn phải dựng xây và là một hành trình còn phải tiếp tục. Trên cơ sở ấy, xin đi vào Thánh Lễ hôm nay.
1) Từ tên gọi “lễ Ba Vua”…
Đây là tên gọi quen dùng đối với tín hữu Việt Nam, để chỉ về việc các Đạo sĩ Đông Phương tìm đến Hang đá viếng Chúa Hài Đồng. Gọi là vua vì họ là những bậc quyền quý đến từ phương Đông theo nhãn giới của bài đọc thứ nhất; và xác định con số ba vì có ba sắc dân được nói đến trong Isaia 60, mà cũng vì lễ vật tiến dâng được liệt kê ba món rành rành là vàng, nhũ hương và mộc dược, như chuyện kể của Phúc Âm. Để rồi cứ thế theo truyền thống, Ba Vua đã trở nên tên gọi cho ngày lễ.
Nhưng điều quan trọng không phải là lo xác định họ là vua hay không phải là vua, họ có ba vị hay có thể có nhiều hơn nữa, mà chính là hãy nhìn họ như hình ảnh sống động của tất cả những ai trong đời đã có một lòng khát khao chân thành tìm kiếm Thiên Chúa khởi đi từ những thiện hảo tốt lành, để rồi với sự trợ giúp của ơn thánh, tới lúc Chúa muốn và bằng muôn ngàn cách thế linh động theo sáng kiến của Ngài, họ sẽ được dẫn tới gặp gỡ Đấng họ nỗ lực tìm kiếm.
Dưới cái tên gọi “lễ Ba Vua”, chính là một thiện chí tìm kiếm đức tin. Nhưng cũng dưới tên gọi ấy, trong bối cảnh của trang Tin Mừng, người ta lại còn thấy cả một đối chứng đau lòng. Trong khi dân ngoại từ xa, dẫu chẳng hề biết đến lời hứa để mà hy vọng, chẳng hề có được giao ước để mà tin tưởng, và cũng chẳng hề được dẫn đường bởi lề luật, nhưng lại chân thành tìm kiếm và sẵn sàng vượt qua những chặng đường gian khổ để mà tìm gặp; thì ngược lại, dân Do Thái ở gần, dẫu có tất cả thuận lợi của một truyền thống dài lâu chờ mong Đấng Cứu Thế, lại không mảy may kiếm tìm, và tệ hại hơn nữa, còn xôn xao về chính việc Chúa đến, không phải vì hối hận về việc mình không sẵn sàng, mà vì lo ngại rằng Chúa đến sẽ đặt dấu chấm hết cho cả một cơ chế họ đã bao đời gầy dựng. Không lạ gì nếu cơ chế ấy đã sản sinh ra những khuôn mặt như Hêrôđê!
Hóa ra, Ba Vua tìm Chúa với lễ vật lòng thành, khi về đã thấy mình là những kẻ tin; còn Hêrôđê tìm Chúa với ác tâm tận diệt, mãi mãi sẽ thấy mình chỉ là một bạo chúa.
2) … Đến tên gọi “lễ Hiển Linh”…
Mặc dù tên gọi “lễ Ba Vua” vẫn giữ nguyên giá trị cổ kính, nhưng ngày nay Phụng Vụ thích sử dụng tên gọi “lễ Hiển Linh” hơn, chẳng phải vì tên gọi đó nghe kêu hơn hoặc hiểm hóc hơn, cũng chẳng phải để tránh né những câu hỏi không cần thiết về những chi tiết nhiều khi chỉ làm cho ngày lễ thêm rườm rà; mà thật ra là để làm nổi bật lên ý định mầu nhiệm chung nhất của Thiên Chúa trong Mùa Giáng Sinh. Đó là: Ngài muốn tỏ mình ra cho tất cả mọi người, mọi thời, bất luận họ là ai và ở đâu, miễn là họ biết chân thành kiếm tìm Ngài.
Nếu “Ba Vua” là tên gọi nói lên thiện chí của con người, thì “Hiển Linh” là danh xưng khẳng định hồng ân của Thiên Chúa. Thiện chí thôi, dẫu rất lớn, vẫn chỉ là khởi điểm; nhưng chính hồng ân Hiển Linh mới là kết điểm mở ra những mùa gặp gỡ. Và tới phiên mình, mỗi lần gặp gỡ tại kết điểm hành trình, lại là một khởi điểm mới cho hành trình tìm kiếm mới, với những thiện chí mới nhằm vươn lên những đỉnh cao mới.
Và gặp gỡ như thế là một cuộc đổi đời. Vì thiện chí luôn tìm kiếm hồng ân, mà cũng vì hồng ân luôn đợi chờ một thiện chí biến đổi cuộc đời. Ba Vua gặp Chúa với cả tâm tình được thể hiện qua những lễ vật tiến dâng, họ đã được soi sáng để theo đường khác mà về nhà. Và ở đó sẽ là những cuộc Hiển Linh mới trong đời sống thường ngày.
Gặp ai thì cũng có thể gỡ ra được, nhưng thiện chí con người một khi đã gặp được Thiên Chúa vốn từ bao giờ đã sẵn tỏ mình ra, thì sẽ không thể gỡ ra được nữa. Người ta thành người nhà của Thiên Chúa, và trong mắt nhìn của Phaolô, người ta dẫu xa cũng hóa gần, dẫu lạ cũng nên quen, dẫu gốc gác thế nào đi nữa “cũng cùng được thừa hưởng gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (bài đọc thứ hai). Hiển Linh chính là tên gọi khác của mầu nhiệm Nhập Thể, của danh xưng Emmanuel và của bốn mùa gặp gỡ.
3) … Để dẫn tới sứ điệp đời sống.
“Lễ Ba Vua” hay “Lễ Hiển Linh”, mỗi tên gọi có những bước nhấn riêng, nhưng rốt cuộc cũng chỉ là một mầu nhiệm gặp gỡ mà Thiên Chúa từ bao thuở đã mở ra cho những kẻ biết kiếm tìm. Thế nên đây không chỉ là một biến cố của ngày đã qua, mà còn là một sứ điệp của ngày hôm nay và cho những ngày sẽ tới. Chúa vẫn tỏ mình, nhưng vấn đề là người ta có thiện chí đến gặp Ngài không.
Hôm qua đã có một nghịch lý là những kẻ đến gặp Chúa đều là những kẻ thành tâm như các mục đồng tại Bêlem, như cụ già Simêon tại Đền Thánh, như những Đạo sĩ hôm nay từ xa đến; còn toàn thể xã hội tôn giáo Do Thái lại hầu như vắng bóng, hay nếu có thì chỉ như một lực cản đáng buồn. Thế đấy! điều tưởng như thuận lợi lại là một cạm bẫy dẫn tới sự thảm bại, còn điều tưởng chừng như bất lợi lại trở nên lợi thế cho việc gặp Chúa. Liệu nghịch lý ấy hôm nay còn có mặt trong đời sống đức tin của cộng đoàn cũng như của mỗi cá nhân?
Trả lời câu hỏi ấy với quyết tâm khởi hành trên con đường mới, thiết tưởng sẽ là một điều tích cực trong Mùa Giáng Sinh. Nhưng điều tích cực hơn của ngày lễ hôm nay không chỉ là sứ điệp hoán cải, mà chính là lời mời gọi mở rộng tấm lòng, mà trân trọng tất cả những người không cùng chia sẻ một niềm tin với mình, bởi lẽ họ cũng có chỗ đứng trong tấm lòng hiển linh của Chúa. Ơn cứu độ là phổ quát. Và nếu nét đặc trưng của lễ Hiển Linh là ánh sao dẫn đường, thì trách nhiệm của những kẻ đã được gặp gỡ Thiên Chúa sẽ không chỉ thu hẹp trong đời sống cá nhân tu thân tích đức, mà còn hướng tới sứ vụ đối với những kẻ lân cận mình. Những chứng tá đức tin cậy mến, những gương sáng đời sống gia đình, những nỗ lực thực thi các giá trị Phúc Âm chính là những ánh sao cụ thể soi đường truyền giáo.
Nếu mỗi kẻ tin là ánh sao, con đường gặp gỡ biết bao sáng ngời, và lời tiên báo của tiên tri Isaia sẽ nên hiện thực hiển linh cho đời.
Tóm lại, khởi đi từ cách hiểu về tên gọi của ngày lễ để dẫn tới đời sống đức tin, đó là chủ đích của những điều chia sẻ trên đây. Nhưng từ hiểu biết đến đức tin, khoảng cách vẫn không nhỏ. Chính Phúc Âm hôm nay là một kinh nghiệm. Xin đừng để kinh nghiệm ấy mãi còn là một nghịch lý không thể vượt qua. Nhưng hãy để kinh nghiệm ấy biến thành những kinh nguyện quyết tâm mở sang cuộc sống mới. Và đó chính là cách gọi tên cụ thể một ngày lễ.
10.Niềm tin: một chuyến đi--‘Làm nụ hoa trắng’--GM Giuse Vũ Duy Thống
Phúc Âm hôm nay rất sống động. Cứ như cuốn phim mô tả cuộc hành trình đầy kịch tính của những khách lạ phương xa: từ ngạc nhiên khám phá ngôi sao lạ, qua xáo động tại Giêrusalem, tới Bêlem nghiêng mình thờ kính, rồi dắt díu nhau lặng lẽ tìm đường khác về nhà. Cứ như xô đẩy nhau xuất hiện trên màn ảnh những cuộc đối đầu càng lúc càng thêm căng thẳng: giữa chính diện và phản diện, giữa lo sợ của bên này và thanh thản của bên kia, giữa tìm gặp hướng tới và lạc mất nẻo đi. Cứ như í ới cơ man nào là tiếng nhỏ to bàn bạc chen lẫn tiếng ồn ào bàn tán của những kẻ bị xem là xa nhưng lại biết bàn vào và của những người được coi là gần nhưng chỉ biết bàn ra.
Nhưng giữa những chi tiết tưởng như bất ngờ trên hành trình rất dài và rất xa ấy, người ta thấy lấp lánh hình ảnh của niềm tin như một chuyến đi với những đặc tính tiêu biểu:
1) Niềm tin: một chuyến đi biết tiếp nhận hồng ân Thiên Chúa.
Những vai chính trong cuộc hành trình tìm tới Bêlem “triều bái Vua dân Do Thái mới sinh” được truyền thống giới thiệu bằng nhiều kiểu nói khác nhau, lúc thì gọi là Vua, lúc khác là Đạo sĩ hoặc Chiêm tinh gia. Gọi sao cũng được: Vua vì những của lễ tiến dâng, Đạo sĩ vì hành trình tìm kiếm, Chiêm tinh gia vì nhìn thấy ngôi sao và dựa vào ánh sao mà xác định lối đường. Chỉ biết họ là những người thiện chí kiếm tìm chân lý và vận dụng tốt những phương tiện đang có để tìm gặp chân lý bằng cách lên đường không mỏi mệt.
Khởi điểm cuộc hành trình là một ánh sao lạ xuất hiện phía trời Đông, tượng trưng cho ơn thánh dẫn khởi từ Thiên Chúa, để ai biết tiếp nhận, sẽ trở nên ánh sáng soi đường. Nhìn thấy ánh sao hằng hà sa số trên bầu trời đêm là một điều bình thường ai cũng có thể làm được, nhưng nhận thấy giữa muôn vàn lấp lánh ấy chỉ một ánh sao lạ thôi lại là chuyện chẳng bình thường chút nào, nếu không muốn nói là do tổng hợp giữa kiếm tìm và gặp gỡ, hay đúng ra giữa ơn Trời ban và lòng người biết mở ra tiếp nhận.
Tương tự, niềm tin trước hết là hồng ân đến từ tình thương Thiên Chúa dành cho hết mọi người, nhưng chỉ những ai biết tiếp nhận với tâm thành chí thiện, họ mới có thể có được niềm tin vào Chúa để sẵn sàng khăn gói lên đường khởi sự chuyến đi. Ra khỏi nếp nghĩ thường ngày để tiếp nhận ý Chúa, ra khỏi thói quen khô cứng lâu đời do cha ông truyền lại để mạo hiểm một phen bước theo ánh sáng trời cao, ra khỏi những tiện nghi đủ đầy dậm chân tại chỗ để cơm mắm cơm muối gieo bước lữ hành.
2) Niềm tin: một chuyến đi biết chấp nhận những thử thách
Là hồng ân Chúa ban, nhưng đức tin cũng còn là nỗ lực đóng góp không ngơi nghỉ của con người, để vượt qua những thử thách và kinh qua những thử luyện được xem là những thách đố trong chiều dài cuộc sống. Đây không chỉ là chuyện “thức lâu mới biết đêm dài” để con người chứng minh sức bền tin tưởng tháng năm, mà còn là chuyện “lửa thử vàng gian nan thử đức” trong những lúc Thiên Chúa xem ra ẩn mặt và hồng ân xem ra vắng bóng, như lúc “ba Vua toan mất hướng, ánh sao bỗng vụt lặn”. Đấy là chưa kể đến những lúc phải đối diện với âm mưu chủ ý của những người đồng đạo, cũng tin Chúa nhưng không thành tâm, thậm chí còn gài bẫy ngọt ngào giả nhân giả nghĩa như Hêrôđê; hay cũng biết cách quy chiếu Thánh Kinh nhưng không để tìm ra lối sống ngay chính, trái lại, chỉ lợi dụng để toa rập lừa gạt phỉnh phờ người khác như một số thượng tế và kinh sư trong dân.
Đêm Noel Chúa sinh ra đem xuống niềm vui, nhưng thành phố nào đó của Iran chẳng những không có niềm vui mà còn phải chịu động đất làm chết nửa thành phố. Chúa như vắng mặt. Thử thách. Đêm Noel thiên thần hát khúc bình an mà tại Bêlem chính nơi Chúa sinh ra hôm nay vẫn còn chiến tranh, chết chóc. Chúa như vắng mặt. Se lòng.
Thử thách đối với đức tin như gió đối với lửa: gió thổi tắt lửa yếu, nhưng làm bừng lên lửa sáng. Vấn đề là cần biết can đảm và bền chí. Những thử thách trong cuộc sống niềm tin không phải là dấu hiệu Thiên Chúa bỏ rơi con người, mà là những cơ hội để con người chứng minh phẩm chất niềm tin. Niềm tin không thử thách: niềm tin dễ dàng; niềm tin thất bại trước thử thách: niềm tin dễ dãi; niềm tin chấp nhận thử thách mới là niềm tin đích thực cho dẫu nhiều khi chẳng dễ chịu chút nào.
3) Niềm tin: chuyến đi biết đón nhận đồng hành
Không phải vô tình mà lễ Hiển Linh vẫn được truyền thống gọi là lễ Ba Vua, có nơi kể tên các vị đến hàng chục (theo kiểu đồng bằng sông Cửu Long thì còn có cả chục 12, chục 16 cơ đấy), nhưng chừng như hữu ý cho thấy niềm tin không phải là cuộc đơn hành mà là một chuyến đi biết đón nhận đồng hành, không chỉ vì lý do “càng đông càng vui” mà vì giới luật yêu thương là biểu hiện rõ nhất của đức tin cũng là cách cụ thể sống động nhất để diễn đạt đức tin. Con người thời nào cũng thế, không thích bị chinh phục bởi giáo điều nhưng lại tự nguyện buông mình chịu khuất phục vì gương sáng đức tin. Nhớ lại ở Thăng Long thuở hạt giống Tin Mừng mới được gieo vào thửa đất Việt Nam, tín hữu thương nhau quá trời đến nỗi người ngoài đời đã gọi tín hữu là những người theo “Đạo yêu nhau”, tức là những người cùng đi với nhau trên nẻo sáng yêu thương.
“Ngựa chạy có bầy, chim bay có bạn”, tín hữu đồng hành bên nhau còn để nâng đỡ nhau, nhất là trong cơn nguy biến như Ba Vua gặp Chúa tại Hang đá rồi, phải dìu nhau lên con đường khác để tránh âm mưu đen tối của Hêrôđê. Ngoài miệng thì bảo là đi triều bái, còn trong hành động lại làm điều trái, tàn sát thê lương, “giết tất cả các con trẻ ở Bêlem và vùng phụ cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo ngày tháng ông đã hỏi cặn kẽ các nhà chiêm tinh”. Con đường khác ấy sẽ mới hơn, lạ hơn và cũng có thể sẽ gặp rủi ro nhiều hơn, nhưng đã có bạn bè thân quen bên cạnh đồng hành, nên cứ an lòng nương tựa vào nhau mà dấn bước.
Giống như Kinh Tin Kính, dẫu tín hữu tuyên xưng mang tính bản thân cá nhân “Tôi tin”, nhưng không là đơn độc một mình giữa nhà thờ trống vắng mà là giữa cộng đoàn Phụng Vụ một ngày lễ trọng, nên bỗng lấp lánh như thể đồng thanh tuyên tín “Chúng tôi tin”. Tôi và chúng ta chỉ là những cách biểu lộ khác nhau của cùng một niềm tin đón nhận đồng hành.
Tóm lại, dựa vào hành trình của những vai chính ngày lễ Hiển Linh để phác vẽ niềm tin như một chuyến đi biết tiếp nhận hồng ân Thiên Chúa, biết chấp nhận thử thách và biết đón nhận đồng hành là cùng lúc tích cực hòa mình vào biến cố Chúa tỏ mình ra cho muôn dân. Nếu Chúa luôn có cách tỏ mình của Ngài thì tín hữu cũng cần lên đường đúng cách Chúa tỏ ra cho mình biết. Như thế niềm tin mới là chuyến đi đẹp lên ý nghĩa kiếm tìm và gặp gỡ. Và đó cũng là những hình ảnh sinh động mang tính hiển linh của kẻ tin trước mắt người đồng thời, giống như hình ảnh của những vai chính trong chuyến đi hôm nay: ở bước truy tìm họ được mệnh danh là Chiêm tinh gia, khi đã bước lên đường họ được gọi là Đạo sĩ và khi tới đích với lễ dâng thành kính họ được xưng tụng là Ba Vua.
11.Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người--GM. Cosma Hoàng Văn Đạt
Trên trời có muôn ngàn ngôi sao, thế mà các đạo sĩ nhận ra ngôi sao của Chúa Giêsu.
Có thể không ngôi sao nào trên trời dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu, nhưng nếu chúng ta đã đến được với Chúa Giêsu thì cũng nhờ một hay nhiều ngôi sao nào đó dẫn đường. Có thể là cha mẹ, một người bạn, một quyển sách, một biến cố... Điều quan trọng là chúng ta biết đọc những tín hiệu. Giữa trăm ngàn đĩa phim, nếu chúng ta có một đầu đĩa thì có thể xem được và phân biệt được phim về Chúa Giêsu với các phim khác. Giữa trăm ngàn đĩa ca nhạc, nếu chúng ta có một đầu đĩa thì có thể nghe được và phân biệt được đĩa thánh ca với các đĩa khác. Đầu đĩa ấy có thể là vũ trụ, có thể là Hội Thánh. Đặc biệt là Thánh Kinh. Nhưng điều cốt yếu vẫn là tôi phải xem, phải nghe. Thiên nhiên và lịch sử không bao giờ thiếu những ngôi sao tín hiệu để con người đến được với ánh sáng.
Chúa Giêsu là ánh sáng. Một khi đến được với Chúa Giêsu, chính chúng ta được soi sáng và trở thành những ngôi sao dẫn đường cho người khác. Trong lịch sử đã từng có những vì sao sáng rực: thánh Phêrô, thánh Gioan, thánh Phaolô, thánh Têphanô, thánh Inhaxiô Antiôkia, thánh Âutinh, thánh Gioan Kim Khẩu, thánh Phanxicô Assisi, thánh Phanxicô Xavier, thánh Têrêxa, thánh Anrê Dũng Lạc, thánh Philipphê Phan Văn Minh, thánh Matthêu Lê Văn Gẫm, thánh Anê Lê Thị Thành... Ngay trong thời đại chúng ta cũng không thiếu những vì sao: thánh Maximilianô Kolbe, chân phước Têrêxa Calcutta... Và ngôi sao sáng chói trong mọi thời đại: Mẹ Maria. Chung quanh chúng ta vẫn có những người đang đi tìm một ngôi sao dẫn đường. Chính chúng ta được Chúa Giêsu mời gọi nhận lấy ánh sáng của Chúa để trở thành một ngôi sao, cho bạn bè, cho con cái, cho hàng xóm láng giềng. Có thể chúng ta chỉ là một ngọn đèn dầu, nhưng vẫn hữu ích cho một ai đó đi tìm nguồn sáng trong một đêm tăm tối.
Lạy Chúa Giêsu, Ánh Sáng thần linh giữa trần gian, luôn ban cho chúng con cũng như mọi người những ngôi sao dẫn đường.
12.Đấng Cứu độ muôn dân--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên
Ngày lễ Hiển Linh trước đây được gọi là Lễ Ba Vua. Tên gọi lễ Ba Vua nhắc lại sự kiện ba nhà đạo sĩ từ phương Đông đến Belem để thờ lạy Hài Nhi Giêsu. Khi gọi là lễ Ba Vua, là chúng ta nhấn mạnh tới sự kiện. Còn khi nói Lễ Hiển Linh là chúng ta chú trọng tới ý nghĩa và nội dung của ngày lễ. Qua sự kiện ba nhà đạo sĩ đến thờ lạy Chúa Giêsu, Chúa tỏ mình ra cho muôn dân và khẳng định: Người là Đấng Cứu độ muôn loài. Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Belem, những người đầu tiên được đón tiếp Chúa là Đức Maria, Thánh Giuse và các mục đồng chăn chiên. Họ đều là những người Do Thái. Tuy thế, ơn Cứu độ mà Đức Giêsu mang đến cho nhân loại không chỉ dành cho người Do Thái, mà được dành cho mọi dân tộc trên thế giới. Cuộc viếng thăm của ba nhà đạo sĩ đến từ phương Đông đã nói lên điều đó. Vì lẽ đó mà Phụng vụ ngày nay gọi ngày lễ này là Lễ Hiển Linh, muốn nhấn mạnh tới ý nghĩa của sự kiện này. Cuộc lên đường đầy gian nan trắc trở của ba nhà đạo sĩ, vừa là thiện chí kiếm tìm Chân lý của các ông, vừa là lời mời gọi của Thiên Chúa gửi đến các ông để các ông đến tôn nhận vương quyền của Đấng Cứu thế. Ngôi sao lạ chính là biểu tượng của lời mời gọi đó.
Thiên Chúa là Cha chung của hết mọi dân tộc. Đức Giêsu là quà tặng của Chúa Cha cho nhân loại. Quà tặng ấy là bằng chứng hùng hồn về tình thương của Thiên Chúa. Thánh Gioan thánh sử đã viết: “Thiên Chúa yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16). Như thế, những ai đón nhận Chúa Giêsu là đón nhận quà tặng từ Thiên Chúa Cha. Đón nhận Chúa Giêsu không dừng lại ở những công thức hay ngôn từ, mà còn là thiện chí thực hiện giáo huấn của Người. Nhờ thực thi giáo huấn của Chúa Giêsu, biết bao người đã từ bỏ tội lỗi và nên hoàn thiện. Món quà vô giá này, Thiên Chúa không ban cho riêng một dân tộc hay một cá nhân nào, nhưng hết thảy mọi người đều được mời gọi đón nhận quà tặng của Thiên Chúa. Qua sự kiện ba nhà đạo sĩ đến thờ lạy Hài Nhi Giêsu, Thiên Chúa muốn giới thiệu quà tặng đó cho muôn dân. Các lễ vật của các nhà đạo sĩ là vàng, trầm hương và mộc dược hàm chứa lời tôn vinh Chúa Giêsu là Thiên Chúa (qua biểu tượng Trầm hương), là Vua (Vàng) và Đấng Cứu thế (Mộc dược).
Tính phổ quát của ơn Cứu độ còn được diễn tả một cách đặc biệt qua Lời Chúa trong Bài đọc thứ nhất trích sách Ngôn sứ Isaia. Giêrusalem được giới thiệu như trung tâm thế giới, và từ đó vinh quang của Thiên Chúa toả lan. Ngày ấy, người khắp nơi sẽ tuôn về Thánh Đô. Các dân tộc, các nền văn hóa đều quy hướng về Chúa, các loại sản phẩm tượng trưng cho sự phong phú đang dạng của các dân tộc đều được mang về Giêrusalem để dâng cho Chúa. Đến với Giêrusalem là đến với Nhà Đức Chúa để tôn vinh và cảm tạ Ngài. Đây là một viễn tượng tương lai, vừa diễn tả Thiên Chúa là Cha chung của gia đình nhân loại, vừa cho thấy sẽ có ngày vinh quang Ngài toả lan đến tận cùng thế giới.
Đức Giêsu là Ánh sáng muôn dân, như lời Ngôn sứ Isaia: “Này đây Ta đặt con làm ánh sáng muôn dân, để con đem ơn Cứu độ của Ta đến tận cùng trái đất” (Isaia 49,6). Cuộc viếng thăm của ba nhà đạo sĩ đã làm cho những gì Bài đọc I diễn tả và lời ngôn sứ Isaia vừa trích dẫn được ứng nghiệm. Với ánh sao chỉ đường, ba nhà đạo sĩ đã “nhìn thấy” nơi Hài Nhi này là Vua và là Đấng Cứu độ. Họ đã đến thờ lạy Hài Nhi. Họ đã vượt đường xa dặm thẳm để đến với Belem. Cuộc gặp gỡ với Hài Nhi Giêsu đã làm họ thỏa mãn và quên hết mệt mỏi của chặng đường dài.
Cuộc tìm kiếm của ba nhà đạo sĩ phần nào phác họa đời sống đức tin của người Kitô hữu chúng ta. Bởi lẽ tin là một cuộc tìm kiếm liên lỉ, là một chuỗi liên tục những khám phá và những bất ngờ. Những ai nỗ lực tìm kiếm Chúa sẽ gặp được Ngài. Đức tin trước hết đòi chúng ta phải biết chấp nhận những hy sinh. Các nhà đạo sĩ là những người trí thức uyên thâm. Họ đã chấp nhận rời bỏ quê hương lên đường vì nhận ra thông điệp của một ngôi sao. Họ cũng khôn ngoan cân nhắc trước mưu mô của Hêrôđê. Ông ta lấy danh nghĩa đi thờ lạy Hài Nhi nhưng thực ra muốn ngấm ngầm giết hại vị Vua mới sinh. Trong đời sống đức tin, muốn được gặp Chúa, chúng ta cũng phải chấp nhận từ bỏ lối sống không phù hợp với giá trị Tin Mừng. Khi các nhà đạo sĩ bị lạc đường, họ không nản lòng, nhưng kiên trì tìm hiểu để thấy hướng đi cho mình. Mục đích được gặp vị Vua mới sinh đã cho các ông quyết tâm vượt qua mọi khó khăn gian khổ. Các ông nêu gương cho chúng ta về sự kiên nhẫn và hy vọng. Quả thế, trong hành trình tìm kiếm Chúa, có những lúc chúng ta nản chí vì những thử thách gian nan. Sự kiên trì và cậy trông chắc chắn sẽ giúp ta tìm thấy Chúa và gặp gỡ Ngài.
Nếu ba nhà đạo sĩ đã cất công lên đường tìm cho bằng được Hài Nhi mới sinh, thì những nhà chuyên viên Kinh Thánh kiến thức uyên thâm lại dửng dưng với việc Đấng Cứu thế ra đời. Đây là một nghịch lý vẫn tồn tại ở mọi thời. Chi tiết này cho ta thấy tìm kiếm và tôn thờ Chúa không phải chỉ trong sách vở và lý thuyết suông, nhưng còn là nỗ lực để gặp được Chúa trong cuộc đời. Không chỉ dửng dưng với việc Đấng Cứu thế hạ sinh, Hêrôđê gian ác còn sợ vị Vua mới sinh cướp mất ngai vàng của mình, nên đã ra kế hoạch giết hại vị Vua ấy.
Nếu Đức Giêsu là Đấng Cứu độ muôn dân, thì không còn sự phân biệt dân Do Thái với dân ngoại, vì tất cả đều được quy hướng về Thiên Chúa. Mọi lời chúc tụng tôn vinh đều dâng về Ngài. Thánh Phaolô đã khẳng định với tín hữu Êphêsô: “Trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa”. Như vậy, ngày lễ Hiển Linh nhắc chúng ta vinh dự lớn lao Chúa ban. Bởi lẽ, chúng ta trước đây đều là “dân ngoại”, nhưng nhờ Bí tích Thanh tẩy, chúng ta được kết hợp với Đức Giêsu. Chúng ta được gọi là con Thiên Chúa. Nếu năm xưa ba nhà đạo sĩ đã nhờ ngôi sao chỉ đường để đến thờ lạy vị Vua mới sinh, thì hôm nay, mỗi Kitô hữu được mời gọi trở nên một ngôi sao toả sáng giữa cuộc sống đầy ồn ào náo nhiệt và bon chen tính toán. Bởi lẽ, nhờ Bí tích Thanh tẩy, chúng ta được trở nên ánh sáng trần gian, vì được kết hợp với Đức Kitô là Ánh Sáng ngàn đời từ Thiên Chúa Cha, Đấng là cội nguồn ánh sáng. Các Kitô hữu trở nên ngôi sao sáng khi cố gắng sống trung thực, với lương tâm ngay thẳng và với tâm hồn thánh thiện. Những đức tính này có sức thuyết phục mạnh mẽ đối với anh chị em không cùng niềm tin, và như thế, họ nhận ra Đức Giêsu và giáo huấn của Người.
Sau khi gặp gỡ và thờ lạy Chúa Giêsu, ba nhà đạo sĩ đã “đi lối khác mà về xứ mình”. “Đi lối khác” là kết quả của cuộc gặp gỡ với vị Vua mới sinh. “Đi lối khác” cũng là để tránh gặp Hêrôđê đang manh tâm tìm cách xuyên tạc và phủ nhận sự thật. Người tín hữu, sau khi mừng lễ Giáng Sinh cũng cần tìm ra một lối đi mới cho đời mình, nghĩa là đoạn tuyệt với lối sống cũ còn đầy khuyết điểm, gian tham và ích kỷ. Đó chính là hành trình gặp gỡ Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu độ trần gian.
Lạy Chúa Giêsu là Ánh Sáng trần gian, xin chiếu rọi những góc khuất trong cuộc đời chúng con, nhờ đó, chúng con có thể chiếu toả ánh sáng trong đời sống hằng ngày. Xin hãy giúp chúng con để mỗi Kitô hữu trở nên một ánh sao chỉ đường cho nhiều người biết Chúa là Đấng Cứu độ và là Vua vinh quang. Amen.
13.Hành trình tìm Chúa--ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Các đạo sĩ là ai? Chắc các ông thuộc hàng vương giả của các miền Tarsi, Saba và Sêba ở phương Đông (Tv. 72, 10), vì các ông dám vào cung điện hỏi thẳng vua Hêrôđê: “Vua người Do thái sinh ra ở đâu?”. Nhưng các ông không phải là thứ hôn quân như Hêrôđê, mà là các bậc anh quân yêu nước thương dân như các vua Nghiêu, vua Thuấn. Có thể các ông là các nhà bác học như Thales, Pythago, Hypocrate đã lập ra các trường tu, vừa tập luyện đạo đức vừa nghiên cứu khoa học, thiên văn, y học. Nhưng hơn hết, các nhà đạo sĩ này là những người dầy công đi tìm chân lý.
Khi các ông chiêm ngắm các hành tinh vĩ đại vận chuyển lạ lùng trong vũ trụ và nghiên cứu muôn vật sinh sống kỳ diệu, các ông nhận ra rằng: phải có Đấng toàn năng vô cùng tạo dựng nên vũ trụ vạn vật này.
Thêm vào đó các ông sưu tầm kinh điển cổ kim đông tây, các ông đã hiểu hết các thần tượng được tôn thờ ở Ba tư, Ả rập, Ai cập, La mã, Hy lạp, các ông nhận thấy thần nào cũng đầy tính mê nết xấu như loài người.
Nhưng tìm đến Kinh thánh của Do thái, các ông thấy đầy những sự lạ lùng tốt đẹp: từ Đấng toàn năng dựng nên trời đất muôn vật trong sách Sáng Thế, đến những việc Ngài tỏ cho lãnh tụ Môsê: Ta là Đấng Tự Hữu, Đấng Hằng sống đầy lòng thương xót đã giải phóng dân Do thái thoát ách thống khổ nô lệ Aicập. Các ông càng phấn khởi khi đọc sách tiên tri Isaia cho các ông biết Thiên Chúa sắp đến tỏ mình ra cho mọi xác phàm, các dân ngồi trong bóng tối sự chết sẽ nhìn thấy ánh sáng muôn thuở của Ngài “Ngài là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, là cố vấn kỳ diệu, vua muôn thuở, Cha đời đời và là Hoàng tử thái bình vô tận”. Ngài thật là Đấng muôn dân đang trông đợi (Is. 7, 14; 9, 1-6; 40, 5. 10).
Sau bao nhiêu năm tháng sưu tầm học hỏi hòa nhịp với tâm tư suy nghĩ và cầu nguyện trông cậy, đột nhiên các ông thấy trên không trung xuất hiện một ngôi sao lạ đang từ từ tiến đến các ông. Các ông reo lên: “Thôi đúng rồi, một ngôi sao lạ mọc lên từ nhà Gia cóp, một vương trượng xuất hiện từ Israel” (Ds. 24, 17). Thế là các ông sung sướng hối hả lên đường theo ánh sao hướng dẫn. Các ông bỏ nhà, bỏ nước, bỏ mọi tiện nghi sang trọng, dấn thân đến miền xa lạ. Dù đường xa chông gai núi non hiểm trở, vực thẳm cheo leo, rừng hoang sa mạc, dù nóng bức thiêu đốt, dù phong ba bão táp, dù sương tuyết lạnh lùng, dù nguy hiểm tính mạng, không làm cho các ông sờn lòng nản chí, ánh sao là hy vọng vô tận của các ông rồi. Suốt cuộc lữ hành tìm Chúa, các ông luôn luôn nhìn lên ánh sao cầu nguyện để được can đảm, mạnh sức thắng vượt mọi gian khổ.
Khi tới Giêrusalem, ánh sao biến mất, các ông tưởng đã gặp được Đấng Cứu thế. Nhưng chưa, các ông phải đi tìm Ngài mọi nơi, mọi người, từ dân quê mùa đến hàng trí thức, từ kẻ tốt lành đến kẻ gian ác như Hêrôđê. Làm thế, Thiên Chúa muốn dẫn dắt các ông bằng mọi phương tiện đều có thể giúp các ông đến với Chúa, miễn là các ông vững tin Ngài. Nhờ đó, Ngài càng gia tăng sự vui mừng cho các ông. Chính trong lúc các ông băn khoăn, bối rối nhất, Thiên Chúa đã cho các ông được ơn gặp Hài Nhi Giêsu, Đấng cứu độ các ông. Các ông phục xuống kính bái Ngài: Một Hài Nhi thanh tú tuyệt vời như thuở con người mới được tạo dựng. Các ông cảm thấy gần gũi Ngài quá, lòng các ông ấm áp, trí các ông sáng suốt, ánh sáng thánh thiêng của dung nhan Ngài đang truyền sang toàn thân các ông, lửa yêu mến của Ngài đang cháy lên trong con tim rạo rực của các ông. Các ông dâng lên Ngài trọn vẹn hồn xác và toàn thể dân tộc các ông. Các ông ra về lòng chan chứa hân hoan trong âm vang du dương của muôn tiếng hát thiên thần:
“Vinh Danh Thiên Chúa trên trời,
Bình An dưới thế cho người thiện tâm”
Những con người thiện tâm như Ba Vua đang đi khắp thế giới loan báo Tin mừng bình an cho muôn dân. Tin mừng bình an của Hài nhi Giáng Sinh đã đến với chúng ta. Tâm hồn chúng ta có trong sạch, có thiện tâm và sáng lên để đón mừng bình an của Chúa Cứu thế chưa?
Lạy Chúa, các đạo sĩ dù là dân ngoại, đã dầy công tìm Chúa và gặp được Chúa nơi hang đá và trong vinh quang muôn đời. Xin cho chúng con thành tâm thiện chí ra sức tìm Chúa trong cầu nguyện, trong lời Chúa, trong hy sinh và bác ái với mọi người, vì Chúa đã phán: “Hãy xin sẽ được, hãy tìm sẽ thấy, hãy gõ cửa sẽ mở cho”.
Xin mở cửa cho chúng con được gặp Chúa trong bình an và chan chứa tin yêu.
14.Lễ vật lòng thành--ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Các đạo sĩ là ai?
Các ông là người phương Đông. Người phương Đông không như người phương Tây. Phương Tây tìm Chúa để chiếm hữu Chúa như họ chiếm hữu vùng đất mới sau bao nhiêu cuộc mạo hiểm. Họ chiếm hữu để thỏa mãn lòng tham giàu có, danh vọng. Người Do thái cũng như người phương Tây. Họ cầu mong Đấng Cứu Thế đến để thỏa mãn nguyện vọng bá chủ thiên hạ, làm cho dân Israel chiến thắng vinh quang, cho “Giêrusalem bừng sáng lên, cho nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả, cho của cải muôn dân nước sẽ đến với ngươi, cho lạc đà từng đàn che rợp đất từ Madian, Êpha, Saba, hết thảy kéo đến mang theo vàng với trầm hương đổ vào nước ngươi” (Is. 60, 1-6).
Người phương Đông tìm Chúa, không để chiếm hữu Ngài, Ngài là Đấng tối cao, chí linh, chí thánh, vô biên. Họ kính Ngài ngự chốn rất cao xa. “Kính nhi viễn chi”. Họ biết mình thân phận thụ tạo hèn mọn, không dám gần Ngài. Dù là kẻ phàm trần được Ngài cho làm vua, mệnh danh là thiên tử. Họ cũng không dám ngẩng mặt nhìn dung nhan ông vua của họ. Huống chi là Thượng Đế chí tôn. Vậy họ tìm Chúa làm gì? Họ tìm Chúa, thực ra là để tìm thiên mệnh, là thánh ý Chúa. Qua tri thiên mệnh, qua các hiện tượng của trời đất, các tinh tú, thời tiết, qua các tâm hồn thánh nhân, qua cuộc sống của hiền nhân quân tử, và nhất là qua lương tâm trong sáng của lòng họ: “Tri tâm tắc tri thiên” (Mạnh Tử. Tận tâm. Thượng 1). Cho nên, không biết thiên mệnh không đáng làm quân tử: “Bất tri mạng, vô dĩ vi quân tử” (Luận Ngữ xx. 3). Không biết thánh ý Chúa, không thể làm con Chúa.
Biết thánh ý Chúa là điều quan trọng nhất của người phương Đông để biết phép tắc của trời và sống đúng theo ý trời:
“Thiên hữu hiển đạo, quyết loại duy chương” – Trời có đạo lý rõ ràng, các loài phải thấy rõ mà theo (Kinh Thư. Thái hệ hạ 2).
Khổng Tử sở dĩ trở thành “vạn thế sư biểu” và “Thánh chi thời” là nhờ ông lo tìm biết ý trời mãi tới năm mươi tuổi mới thấu được thiên mệnh, đến sáu mươi tuổi mới thuận theo được ý trời và tới bảy mươi tuổi tâm tưởng hoàn toàn không trái phép trời: “Ngũ thập nhi tri thiên mạng, lục thập nhi nhĩ thuận, thất thập nhi tùng tâm sở dục, bất du củ” (LN. II, 4).
Chính Hài Nhi Giêsu khi đến thế gian đã thưa với Chúa Cha rằng: “Này con xin đến để làm theo tôn ý Cha”. Lúc lên mười hai tuổi, Người cũng đã thưa với thân mẫu trần gian rằng: “Tại sao tìm con, con phải lo làm việc của Cha con đó” (Lc. 2, 49).
Tri thiên mệnh, làm theo ý Chúa Cha đó là lễ vật lòng thành hoàn hảo nhất mà ba vua đem đến dâng tiến Chúa Giáng Sinh qua ba lễ vật hữu hình: vàng, nhũ hương và mộc dược.
Vàng là kim loại óng ánh, rực rỡ, tinh ròng để trang sức cho trần gian, các ông dâng lên Ngài, làm ngai vàng cho Ngài ngự trị, tôn vinh Ngài làm vua trên hết các vua. Các vua còn muốn nó thay cho lòng mến nồng nhiệt, bền vững nhất gói ghém trọn vẹn cả tâm tư, trí khôn, ý chí, sức lực của chính các ông và muôn dân mà các ông là đại biểu cho họ hôm nay và mãi mãi.
Nhũ hương: một thứ nhựa cây tầm thường, không mùi vị, nhưng khi đốt vào lửa hồng, nó tỏa hương thơm ngào ngạt, bay lên những làn khói trắng nhẹ nhàng. Các ông muốn nó thay cho mọi của cải trần gian từ nay chỉ được dùng tiến dâng tế lễ Ngài, không bao giờ để nó làm tôi đòi cho các thần tượng bất chính. Mọi sự do Ngài dựng nên, trao ban cho loài người, thì phải dùng để tôn thờ Thiên Chúa. Các ông còn ước ao những làn hương thơm đó ôm ấp những lời nguyện hèn mọn của các ông và của hết mọi người ở khắp nơi, bay tỏa lên trước tôn nhan Thiên Chúa, xin Ngài làm cho bao nhiêu nỗi âu lo, buồn phiền cay đắng, nhọc nhằn, khốn cực của nhân loại được trở nên dịu dàng, thơm tho, ngọt ngào trong lửa kính mến Ngài.
Mộc dược là nước lấy từ thứ cây có vị đắng và thơm, để tắm gội, thanh tẩy và ướp xác khi khâm liệm. Ba vua dâng lễ vật này lên Hài Nhi đang nằm trong nơi hôi thối, để cảm tạ Ngài đã hy sinh giáng trần, thí mạng sống lấy máu thịt Ngài ướp lấy mạng sống của các ông và của cả nhân dân thế giới khỏi dòi bọ tội lỗi phá hủy, các ông dâng mộc dược còn tượng trưng sự hy sinh hãm mình của chính các ông đã ra sức thanh tẩy đầu óc mê tín dị đoan của các tà thần dân ngoại. Những cố gắng từ bỏ lối sống ham danh trục lợi, ăn chơi tội lỗi. Đặc biệt các ông dâng lên Ngài lòng biết ơn sâu xa của các ông mà Ngài đã ban cho các ông biết hy sinh lớn lao cho công cuộc nghiên cứu khoa học, tìm tới chân lý, nhất là Ngài đã dạy các ông biết thực thi bác ái, cứu giúp đồng bào.
Đã từ lâu, Chúa Hài Nhi hằng mong chờ lễ vật lòng thành của tôi. Tôi đã có một chút lòng mến óng ánh như vàng, một chút kinh nguyện nồng nàn thâm trầm như hương thơm ngọt ngào, một chút hy sinh cay đắng như mộc dược dâng lên Ngài chưa?
Lạy Chúa, Người là tình yêu, Người yêu con vô bờ, chẳng cần chi thiên phúc, sống thân phận bần cùng đồng hàng với con hèn, cho con được đồng phận thiên phúc của Người. Lạy Chúa, con đền ơn trời biển làm sao? Xin cho con biết hiến dâng cho Người: một con tim nồng ấm dạt dào thương mến như Người, một khối óc cởi mở đón nhận chân lý hằng sống của Người, một thân xác lành mạnh luôn luôn biết phụng sự các chi thể của Người.
15.Lễ Hiển Linh--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Lễ Hiển Linh ngày xưa thường được gọi là lễ Ba Vua. Tin Mừng hôm nay cho thấy các đạo sĩ đi tìm để dâng lễ vật lên vua người Do Thái. Các đạo sĩ là những người có học, họ đại diện cho những người luôn quan sát thiên nhiên và truy tìm chân lý. Họ đã không quản ngại đường xa để tìm đến với Sự Thật.
Nhận biết Thiên Chúa nhập thể là một ân sủng
Các mục đồng được Thiên Chúa cho biết về Đấng Cứu Thế, Đấng là qùa tặng của Thiên Chúa cho tất cả loài người, qua các thiên thần. Còn những người học thức, được Thiên Chúa cho biết về Đấng Vua đặc biệt của người Do Thái qua ánh sao, qua những dấu chỉ tự nhiên. Các mục đồng đơn sơ được gặp Đức Giêsu cách dễ dàng và giản dị, còn ba nhà đạo sĩ uyên thâm đã phải trải qua khoảng đường dài, những cuộc truy tìm qua những trung gian, chẳng hạn với vua Hêrôđê, mới có thể gặp được Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể.
Tất cả đều nhờ ân sủng của Thiên Chúa, nhờ sự can thiệp đặc biệt của Thiên Chúa để các vị đạo sĩ có thể tìm được và nhận ra vị Vua đặc biệt nhưng bình thường này. Vì làm sao chỉ với ánh sao, các vị đạo sĩ có thể biết đâu là em bé giữa bao nhiêu em bé ở Bêlem? Vua Hêrôđê không thể nhận ra đâu là vị vua đặc biệt này, nên đã giết tất cả các em bé, còn các vị đạo sĩ làm sao nhận ra được “chính là Ngài”? Dù là người đơn sơ hay người có học, nhận ra được Thiên Chúa, đều là ân sủng.
Đón nhận con người, là đón nhận Thiên Chúa
Người làng Bêlem không đón nhận Đức Mẹ, thánh Yuse, là không đón nhận Thiên Chúa. Vua Hêrođê không đón nhận hài nhi “vua người Do Thái”, là không đón nhận Thiên Chúa. Dân chúng và những người lãnh đạo dân tìm cách giết Đức Giêsu, là họ giết Thiên Chúa.
Dân Do Thái không biết Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể nên đã giết Ngài. Người Bêlem không biết hài nhi trong dạ người phụ nữ trẻ đói nghèo là Thiên Chúa nhập thể, nên đã từ khước cho các ngài một chỗ trú chân. Người làng Nazarét không biết em bé Giêsu là Thiên Chúa làm người, nên không nhận ra ân sủng mà họ đang được hưởng: sống gần bên Thiên Chúa nhập thể. Không biết, nên không đón nhận. Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ cho con người về điều này, ngay cả với những người giết Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng lầm chẳng biết” (Lc.23, 34).
Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho con người, nhưng những mục đồng thì nhận biết còn người giầu làng Bêlem thì không nhận biết, các đạo sĩ nhận biết nhưng Hêrôđê và những người thông luật ở Yêrusalem không nhận biết, ông già Simêon nhận biết nhưng tư tế dâng tiến Ngài cho Thiên Chúa thì không nhận biết Ngài. Xin cho chúng ta có tâm hồn đơn sơ khiêm tốn để nhận ra Thiên Chúa đang hiện diện với chúng ta trong từng giây phút của cuộc đời.
Mầu nhiệm dấu kín nay được tỏ lộ
Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người, mọi tầng lớp dù vô học hay trí thức. Ba nhà đạo sĩ là những người có học, quan sát thiên nhiên để truy tìm chân lý, và Thiên Chúa đã tỏ lộ cho họ qua thiên nhiên. Vì thế rất có lý để tin rằng những người nghiên cứu khoa học xã hội hay tự nhiên đều có thể gặp gỡ Thiên Chúa qua công việc của họ.
Thiên Chúa dùng mọi cách để đến với con người. Có thể là ánh sao, có thể là lời thỉnh vấn, có thể là dấu chỉ đơn sơ đối với người tin chất phác như “hài nhi vấn tã nằm trong máng cỏ” (Lc.2, 12). Trong mọi trường hợp, đều cần tấm lòng đơn sơ, dù là người chất phác vô học hay người trí thức. Một người ít học hay có học, nhưng không có lòng sẵn sàng đón nhận chân lý thì không thể gặp gỡ Thiên Chúa được, cụ thể như người làng Bêlem hay các luật sĩ ở Yêrusalem.
Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể. Đây là mầu nhiệm vô cùng lớn, được ẩn dấu từ muôn thuở nay tỏ lộ cho con người. Làm sao Thiên Chúa lại có thể thành người? Làm sao Đấng vô hạn lại có thể thành con người “hữu hạn”? Làm sao Thiên Chúa duy nhất lại có thể là ba? Người Hy-Lạp không thể chấp nhận điều này, vì không hợp lý. Người Do Thái không thể chấp nhận Đấng Thiên Sai có thể bị giết trên thập giá. Kitô-hữu là người “không logic” theo một nghĩa nào đó, vì đã chấp nhận Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể, đã tin Thiên Chúa duy nhất Ba Ngôi Vị.
Xin cho con người vâng phục Thánh Thần, để có thể đón nhận mặc khải của Thiên Chúa.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Theo bạn, người ít học và người học cao hiểu rộng, ai dễ tin Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể hơn? Tại sao?
2. Làm sao con người biết rằng Thiên Chúa yêu thương con người?
3. Thiên Chúa có yêu thương những người ngoại không? Tại sao?
16.Lễ Hiển Linh--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.
Qua lễ Hiển Linh, Hội Thánh cho các Kitô hữu thấy Thiên Chúa không chỉ yêu thương và tỏ mình cho những người đơn sơ như các mục đồng chăn chiên cừu ở Bêlem, nhưng Ngài còn yêu thương và tỏ mình cho cả những đạo sĩ- những người uyên bác thành tâm tìm kiếm Ngài qua những nghiên cứu hằng ngày của họ nữa.
1. Thiên Chúa yêu thương người nghèo
Thiên Chúa yêu thương người nghèo. Ngài luôn tỏ lộ và giúp đỡ những người khốn khổ bị áp bức kêu cầu Ngài. Điều này được thấy rõ qua lịch sử dân Israel: khi dân bị áp bức ở Aicập, họ kêu cầu Thiên Chúa, và họ đã được nhận lời. Ngài đã giải phóng họ qua Môsê. Khi dân Do Thái bị các dân tộc khác hà hiếp, họ kêu cầu Chúa, và Ngài đã dùng các thẩm phán để giải phóng họ. Khi dân khốn khổ trong cảnh lưu đày, họ kêu cầu Chúa, và Ngài đã dùng một vua dân ngoại là Cyrô để đưa dân Ngài trở về quê hương.
Thiên Chúa không chỉ để ý quan tâm đến tập thể to lớn, nhưng Ngài còn lưu tâm đến từng người. Không con, là một nỗi khổ của những người vợ ngày xưa. Thiên Chúa đã yêu thương và nhận lời cầu xin của mẹ Samuel, khi cho bà có con. Bà Isave vợ ông Dacaria cũng ở trong trường hợp tương tự. Anh trộm lành không còn thời cơ để lập công chuộc tội, chỉ cần một lời cầu xin, cũng được Đức Yêsu cho lên thiên đàng với Ngài ngay trong ngày anh ta chết. Thiên Chúa yêu thương người nghèo, những người chỉ trông cậy nơi một Thiên Chúa thôi.
Thiên Chúa ban cho những người ở Bêlem cơ hội để đón tiếp Thiên Chúa nhập thể, nhưng một số không nhận biết cơ hội “ngàn vàng” để đón tiếp Ngài, tuy vậy Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương và tỏ mình cho họ. Các mục đồng là những người nghèo, nghèo tiền bạc, nghèo kiến thức, nhưng họ vẫn được Thiên Chúa yêu thương và tỏ mình cho họ. Các mục đồng không lý luận, không đặt câu hỏi “tại sao”, chỉ đơn sơ đón nhận bằng tin, và họ đã được gặp Chúa trong đời của họ. Họ không chỉ gặp Chúa nơi máng cỏ hang lừa, nhưng họ còn gặp Chúa trong đời sống hằng ngày của họ, một cách rất đơn sơ như họ đã gặp Chúa nơi máng cỏ. Gặp Chúa rồi, họ lại tiếp tục công việc chăn chiên cừu trong niềm vui hân hoan suốt ngày sống. Ngày nay, những người nghèo vẫn được gặp Chúa trong cuộc sống thường ngày của họ. Họ gặp được Thiên Chúa qua trung gian con cái, vợ chồng, những người lắng nghe nỗi khổ của họ, những nhà hảo tâm.
2. Thiên Chúa yêu thương những người thành tâm tìm kiếm Ngài
Thiên Chúa không chỉ yêu thương những người nghèo tiền nghèo bạc, nghèo vật chất, nhưng Ngài cũng yêu thương cả những người giầu có về kiến thức, những người thiện chí luôn đi tìm kiếm chân lý, cả khi họ có vàng nhũ hương mộc dược.
Những nhà bác học miệt mài trong phòng thí nghiệm, tìm kiếm thuốc chủng ngừa những bệnh hiểm nghèo như bệnh chó dại, bệnh đậu mùa, bệnh sốt tê liệt nơi trẻ em, tìm kiếm thuốc chống bệnh phong cùi, bệnh ung thư, bệnh huỷ hoại khả năng miễn nhiễm (SIDA, AIDS), để cứu giúp con người, để làm cho cuộc đời bớt khổ. Những nhà khoa học này, không ai thấy họ trực tiếp giúp con người, nhưng thực sự họ đã phục vụ con người rất hữu hiệu trong âm thầm và khiêm tốn. Có thể có những người làm tiền trên những miệt mài và khám phá của họ, nhưng chính họ lại làm việc rất vô vị lợi. Với những người này, Thiên Chúa vẫn luôn hiện diện với họ, trong công việc thường ngày, và có lẽ chỉ Thiên Chúa mới biết và đo được công lao của họ trong việc yêu thương và phục vụ con người.
Các nhà đạo sĩ, có thể là người trổi trang nhất trong một lãnh vực nào đó, chẳng hạn như về khoa học hay triết học. Các ngài cũng có thể là những người đại diện của mỗi sắc dân, của các dân tộc. Bất cứ ai thành tâm thiện chí tìm kiếm Thiên Chúa, thì Ngài tỏ mình cho họ. Chính Ngài ban cho họ lòng khao khát chân lý, và chính Ngài là hạnh phúc của họ trong công việc hằng ngày.
3. Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người
Thiên Chúa không của riêng ai. Thiên Chúa không chỉ là Thiên Chúa của người Do Thái, không chỉ là Thiên Chúa của những người nghèo Do Thái, nhưng còn là Thiên Chúa của mọi sắc dân, của cả người nghèo lẫn người giầu, của cả người ít học lẫn người học vấn uyên bác.
Thiên Chúa không chỉ là Thiên Chúa của người Công Giáo, nhưng Ngài là Cha và là Thiên Chúa của tất cả những người tin vào Đức Yêsu Kitô. Ngài là Thiên Chúa của cả những anh em Tin Lành, Anh Giáo, Chính Thống Giáo. Ngài yêu thương tất cả những người này, vì họ là con của Ngài, và họ kêu cầu Ngài hằng ngày. Không chỉ vậy, Ngài là Thiên Chúa của cả những người chưa biết Ngài, của cả những người đang sống trong các tôn giáo khác. Ngài là Thiên Chúa của họ, và Ngài yêu thương họ không kém yêu thương chúng ta, cũng như Ngài yêu thương chúng ta không kém gì những người Do Thái.
Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người. Ngài luôn tìm đến với con người của mọi thời đại, của mọi dân tộc. Ngài yêu thương mọi dân tộc như nhau, vì tất cả đều là dân của Ngài, tất cả đều là con của Ngài. Vấn đề chính là con người có chấp nhận và đón nhận Ngài hay không. Điều này tuỳ thuộc lòng con người. Thiên Chúa là Đấng vô cùng yêu thương và thành tín. Ngài vẫn đến với con người, dù con người không tiếp nhận Ngài. Ngài vẫn chờ con người trở về với Ngài, như Ngài đã chờ anh trộm lành sám hối. Số phận và may mắn không chỉ dành cho anh trộm lành, nhưng cho cả những ai hiện tại đang cứng lòng trước tình yêu vô cùng của Ngài. Một khi biết như vậy, có nhiều người muốn có số phận của anh trộm lành, nhưng tôi lại thích được có số phận của Yoan hoặc Phêrô hơn. Tôi thích nhận ra tình yêu vô cùng của Chúa dành cho tôi lúc này, hơn là chỉ ở giây phút cuối đời.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Đâu là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa yêu thương người nghèo? Đâu là bằng chứng cho thấy Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người?
2. Nếu bạn ghét người giầu, bạn có thể sống hạnh phúc không?
Nếu bạn không tìm cách giúp đỡ người nghèo, bạn có thể sống hạnh phúc thật không?
3. Với bạn, trung gian nào giúp bạn nhận ra và gặp gỡ Thiên Chúa dễ dàng nhất?
17.Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Lễ Hiển Linh diễn tả mầu nhiệm Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại. Ngày xưa lễ này còn được gọi là lễ Ba Vua. Lễ Hiển Linh được cử hành rất long trọng ở Giáo Hội Công Giáo theo nghi lễ Đông Phương, tương tự như lễ Giáng Sinh bên Giáo Hội theo nghi lễ Latin (Tây Phương).
1. Thiên Chúa không chỉ là Thiên Chúa của dân tộc Do Thái
Dân Do Thái là dân riêng của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã gọi Abraham, đã hứa cho ông có con cháu được đông như sao trên trời như cát dưới biển. Thiên Chúa đã tuyển chọn dân Do Thái là dân riêng của Ngài qua giao ước trên núi Sinai. Qua lịch sử dân Do Thái, người ta nhận ra Thiên Chúa thương dân tộc này một cách đặc biệt, Ngài can thiệp vào lịch sử của dân này qua việc sai gởi các thẩm phán, các vị vua thiên sai, các tiên tri tới với dân để chăm sóc và dạy dỗ dân nhân danh Ngài.
Người Do Thái khi nhận biết họ là dân riêng của Thiên Chúa, thường gọi những dân tộc khác là dân ngoại. Khách quan mà nói, dân Do Thái đáng tự hào vì Thiên Chúa đã tuyển chọn họ, làm họ thành dân tư tế của Thiên Chúa, nghĩa là, dân tộc làm trung gian giữa Thiên Chúa và các dân tộc khác cũng như toàn thể nhân loại. Họ là dân tộc mà Đức Kitô thuộc về, và là dấu chỉ tình yêu của Thiên Chúa đối với tất cả con người.
Hôm nay, Lời Chúa trong sách tiên tri Isaya cho thấy một cái nhìn mới. Thiên Chúa xuất hiện như ánh sáng bùng lên trong bóng tối. Muôn dân tiến về Yêrusalem dâng tiến lễ vật lên Thiên Chúa. Muôn dân cũng được tôn thờ Thiên Chúa, và như vậy, được trở thành con dân Thiên Chúa. Đây là Tin Mừng đối với dân ngoại mà tiên tri Isaya đã loan báo thời Cựu Ước. Thánh Phaolô cũng lập lại điều này thời Tân Ước: “trong Đức Kitô Yêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa.” Nhờ Đức Kitô, các dân tộc khác cũng được ngang hàng với dân Do Thái.
2. Thiên Chúa tỏ mình qua những trung gian
Qua ngôi sao, Thiên Chúa tỏ mình cho các nhà đạo sĩ, những nhà thông thái bên Đông Phương, để họ nhận biết Thiên Chúa. Thiên Chúa dùng mọi phương tiện để tỏ mình cho con người, qua những công việc mà người ta đang làm. Những nhà chiêm tinh nhìn ngắm trăng sao, và qua đó họ gặp gỡ được Thiên Chúa. Các nhà đạo sĩ này là những người tốt. Họ đã làm như họ hiểu biết. Họ đã bỏ mọi công việc để đi tìm Đấng Thiên Chúa tỏ lộ cho họ. Thiên Chúa vẫn tiếp tục hướng dẫn họ qua ngôi sao, sau khi họ đã cố gắng làm hết sức đi tìm Đấng đó nơi những con người, cụ thể nơi Hêrôđê và dân tộc Do Thái. Thiên nhiên có thể là những dấu chỉ và trung gian giúp con người nhận biết Thiên Chúa.
Qua các nhà đạo sĩ, Thiên Chúa đã tỏ mình cho vua Hêrôđê và dân chúng ở Yêrusalem. Tuy nhiên, những người này không có thiện chí và không có ao ước như ba nhà đạo sĩ. Họ chỉ xôn xao, bàn tán, và mọi chuyện lại như thường. Riêng Hêrôđê, ông sợ em bé mới sinh sẽ chiếm đoạt ngai vàng, nên đã thu thập thông tin nơi các đạo sĩ, không phải để đến kính viếng như ông nói với các đạo sĩ, nhưng để có thể tru diệt em bé “trời định” này. Thiên Chúa đã tỏ mình, nhưng con người không đủ thiện tâm và quảng đại để đi tìm và đón nhận Ngài. Con người cũng thường là trung gian và dấu chỉ để Thiên Chúa nói với những người khác. Tuy nhiên, con người tự do đón nhận mặc khải của Thiên Chúa hay không.
Qua công việc bổn phận, Thiên Chúa vẫn đang tỏ mình cho tất cả mọi người. Ngài có thể tỏ mình cho họ ngay trong công việc mỗi người đang làm. Những công việc này có thể là những công trình khoa học nhằm giúp ích lợi cho con người, cũng có thể là những công việc tầm thường nhằm phục vụ ích lợi của tha nhân như công tác vệ sinh nơi công cộng. Chính Thiên Chúa đi tìm con người và tìm mọi cách để tỏ mình cho con người.
3. Bình an dưới thế cho người thiện tâm
Dân Do Thái là dân riêng của Thiên Chúa, là dân tư tế, là dân Thiên Chúa chọn để Thiên Chúa nói với toàn thể các dân tộc rằng, Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Một khi con người nhận ra rằng Thiên Chúa yêu thương dân Do Thái, và nhận biết Thiên Chúa yêu thương các dân tộc khác như dân Do Thái, thì họ nhận ra Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người vô cùng.
Những người Do Thái ở Yêrusalem chưa chắc đã tốt hơn ba nhà đạo sĩ, biểu trưng cho những người thuộc các dân tộc khác. Ba vị đạo sĩ này đã vượt đường xa ngàn dặm để đi tìm biết Đấng trời cao loan báo qua ngôi sao, trong khi những người Do Thái vẫn thờ ơ trước tin “mừng” các nhà đạo sĩ mang lại. Qua biến cố này, người ta nhận ra những người Do Thái không được coi thường các dân tộc khác, không được nghĩ rằng Thiên Chúa là của riêng họ và những dân tộc khác là dân ngoại. Cũng tương tự vậy, các Kitô-hữu không được coi thường những người không là Kitô-hữu, vì có thể những người này cũng được Thiên Chúa tỏ lộ cho họ ngang qua những “vì sao” khác với những gì Thiên Chúa đã tỏ lộ cho dân Do Thái và Kitô-hữu. Về khía cạnh cá nhân, có những người không là Kitô-hữu tốt hơn một số người mang danh Kitô-hữu; chẳng hạn, các nhà đạo sĩ đã mở lòng đón nhận Thiên Chúa hơn vua Hêrôđê và những cư dân tại Yerusalem.
Dân Do Thái xác tín họ là dân riêng của Thiên Chúa, là dân tộc tư tế. Kitô-hữu cũng xác tín mình là những người được Thiên Chúa yêu thương qua việc nhận biết Đức Yêsu là Đấng Thiên Sai và là Thiên Chúa nhập thể. Tuy vậy, không gì cấm cản Thiên Chúa tỏ mình cho những dân tộc khác và những người khác không phải là Do Thái và Kitô-hữu, như xưa Ngài đã tỏ mình cho ba vị đạo sĩ. Thuộc dân tộc Do Thái hoặc là Kitô-hữu chưa đủ để bảo đảm rằng một người là người tốt, hoặc tốt hơn những người không là Do Thái hoặc Kitô-hữu. Thiên Chúa không đứng về phe phái của bất cứ ai. Ngài là Thiên Chúa của tất cả mọi người. Mọi người đều là dân của Ngài, và Ngài yêu thương tất cả con dân Ngài.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, những người không là Kitô-hữu có được cứu độ không? Tại sao?
2. Đâu là điểm khác biệt chính yếu giữa Kitô giáo và các tôn giáo khác?
3. Theo bạn, Thiên Chúa có yêu thương một Kitô-hữu hơn một người không là Kitô-hữu không? Tại sao?
4. Dân tộc Việt Nam biết Đức Kitô từ khi nào? Tổ tiên cha ông chúng ta trước thời đó có được cứu độ không? Tại sao?
18.Thiên Chúa tỏ mình--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Ngày xưa người ta quen gọi lễ Hiển Linh là lễ Ba Vua, sở dĩ vậy vì trong Tin Mừng đọc trong Thánh Lễ hôm nay, ba nhà đạo sĩ tìm kiếm để bái yết hài nhi Giêsu. Ba nhà đạo sĩ là những người trổi trang về kiến thức uyên bác; họ có thể đọc dấu chỉ thiên nhiên để nhận ra sự xuất hiện của những người đặc biệt. Từ ngữ “vua” được dùng trong “ba vua” là để chỉ người trổi trang hơn người khác về phương diện nào đó.
Qua biến cố mục đồng tới viếng hài nhi, người ta nhận ra Thiên Chúa đã tỏ mình cho những người Do Thái nghèo nhưng có tâm hồn mở rộng sẵn sàng đón nhận Thiên Chúa. Với biến cố ba nhà đạo sĩ đi viếng hài nhi, Giáo Hội nhận ra Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại.
Người Do Thái cho rằng họ là dân được tuyển chọn, còn các dân tộc khác là dân ngoại. Với biến cố Đức Giêsu và việc các dân tộc khác đón nhận Tin Mừng, người ta nhận ra rằng tất cả mọi dân tộc đều thuộc về Thiên Chúa, tất cả các dân tộc đều được Thiên Chúa yêu thương như dân tộc Do Thái. Hôm nay với trình thuật các đạo sĩ tìm kiếm và bái lạy Đức Giêsu, Kitô hữu nhận ra Thiên Chúa cũng mặc khải cho dân ngoại. Thiên Chúa yêu thương dân ngoại như Ngài đã từng yêu thương dân tộc Do Thái. Mọi dân tộc đều bình đẳng trước Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương mọi dân tộc, mọi con người, chứ không phải chỉ riêng dân tộc Do Thái.
Kitô hữu phải là người cảm nghiệm sâu xa tình yêu Thiên Chúa dành cho con người, và đặc biệt cho chính mình. Kitô hữu cũng phải là người sống bình an và hạnh phúc, vì ý thức mình là tạo vật được Thiên Chúa yêu thương. Ngài tha thứ mọi lỗi lầm, và không chỉ vậy, còn mời gọi mọi người vào chia sẻ sự sống vĩnh cửu hạnh phúc với Thiên Chúa. Một khi phần nào cảm nghiệm tình yêu của Thiên Chúa và bình an hạnh phúc, Kitô hữu thấy mình phải chia sẻ niềm vui này, tin mừng này cho những người anh em của mình chưa biết Đức Giêsu, ngõ hầu họ cũng có niềm vui này. Bản chất Kitô hữu là rao giảng Tin Mừng, làm cho muôn dân được nghe, hiểu và sống đáp trả tình yêu Thiên Chúa.
Ngày nay nhiều người “dị ứng” với từ ngữ truyền giáo, vì từ ngữ này gợi lên nơi người ta ấn tượng rao giảng để kéo người khác bỏ đạo của họ để theo Kitô giáo. Nếu có ý hướng như vậy, người ta mang nặng tính phe phái và giành giựt nhiều hơn là chia sẻ tin mừng. Một Kitô hữu đúng nghĩa phải là người muốn chia sẻ tin mừng với người khác, vì mình nghĩ rằng biết Đức Giêsu là điều rất tốt và ích lợi cho mọi người. Tuy nhiên, Kitô hữu phải là người luôn tôn trọng người khác, tôn trọng tự do và tín ngưỡng của tha nhân; nếu ai đó đón nhận Tin Mừng, thì đó là vì chính họ thấy sự thật, họ cũng được bình an và hạnh phúc hơn khi trở thành Kitô hữu.
Khi một Kitô hữu muốn rao giảng tin mừng, họ phải tự vấn chính mình: “niềm tin vào Đức Giêsu mang gì lại cho tôi? Tin vào Đức Giêsu, có làm cho tôi sống bình an và hạnh phúc hơn không? Nếu tin vào Đức Giêsu Phục Sinh không giúp gì cho tôi, thì tại sao tôi lại muốn làm cho người khác trở thành Kitô hữu như tôi?” Lời mời gọi rao giảng tin mừng Đức Giêsu Phục Sinh đòi Kitô hữu phải xét lại niềm tin của mình, lối sống của mình. Nếu đời sống của tôi không là đời sống toát lên nét tươi vui của một người hạnh phúc, thì làm sao tôi có thể rao giảng tin mừng được! Nếu tôi sống u buồn thất vọng, tôi là phản chứng cho Tin Mừng Phục Sinh. Tôi phải sống sao, để đời sống của tôi không trở thành phản chứng.
Kitô hữu là người có Chúa Kitô nơi mình, là người bạn của Đức Giêsu Kitô, là người muốn trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài. Cách sống của Đức Giêsu Kitô phải là cách sống của mỗi Kitô hữu. Kitô hữu phải là người có cùng chọn lựa với Đức Giêsu Kitô, phải biết yêu thương con người hôm nay như chính Đức Giêsu đã yêu, phải là người yêu đến cùng anh em mình, người thân mình, những người mình gặp gỡ, và thậm chí cả những kẻ không ưa và ghét mình. Đức Giêsu đã cầu nguyện cho những kẻ giết Ngài, Kitô hữu cũng phải tha thứ cho những người làm hại họ.
Kitô hữu phải là người trung thành như Thiên Chúa là Đấng Thành Tín. Thiên Chúa không bao giờ phản bội, và Kitô hữu cũng không bao giờ được phản bội ai. Không làm hại ai. Chỉ muốn điều tốt cho tha nhân, chỉ tìm lợi ích cho người khác chứ không làm hại họ, đó phải là cách sống của Kitô hữu. Có được như vậy, nhiều người sẽ ngạc nhiên và sẽ tìm hiểu niềm tin của Kitô hữu; để rồi nếu họ muốn họ có thể chia sẻ niềm tin Kitô hữu, để họ cũng được bình an và hạnh phúc như những Kitô hữu. Kitô hữu phải là men trong bột, phải là ánh sáng cho thế gian. Kitô hữu tuy có cùng nỗi bận tâm và gian nan như bất cứ con người nào sống trên đời, nhưng ánh sáng đức tin đã soi sáng cho họ, giúp họ tuy sống giữa trần gian nhưng không thuộc về trần gian.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có muốn người khác có cùng niềm tin với bạn không? Tại sao?
2. Nếu không tin vào Đức Giêsu, bạn có được như hiện tại không? Tại sao?
3. Phải rao giảng thế nào để con người ngày nay dễ đón nhận Tin Mừng Đức Giêsu Kitô?
19.Ánh sáng chiếu soi muôn dân--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
I. Dẫn vào Thánh lễ
Đức Giêsu là ánh sáng. Trong dịp lễ Giáng sinh, Ngài đã chiếu sáng các nhà thờ và các gia đình tín hữu. Nhưng Ngài còn muốn là ánh sáng cho tất cả mọi người nữa.
Hôm nay chúng ta mừng lễ Hiển linh, kỷ niệm việc ngày xưa Đức Giêsu đã tỏ mình ra cho các đạo sĩ, đại diện cho lương dân. Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người ngoài Kitô giáo cũng nhận được ánh sáng Chúa; và cho chính chúng ta ý thức bổn phận mang ánh sáng Chúa đến cho mọi người.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta có tội vì quá thờ ơ với việc mang ánh sáng Tin Mừng đến cho lương dân.
Chúng ta có tội vì cộng đoàn xứ đạo chúng ta không nêu gương sáng trước mặt mọi người.
Chúng ta có tội vì không quan tâm tìm ý Chúa qua những đấu chỉ hằng ngày.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I: Is 60, 1-6
Mặc dù đang sống trong chốn lưu dày, ngôn sứ Isaia đã mơ tới ngày hồi hương. Khi đó Giêrusalem sẽ được tái thiết lại huy hoàng và là nơi thu hút muôn dân tuôn đến:
Trong khi cả trái đất ngập chìm trong tăm tối thì Giêrusalem lại bừng sáng, vì có Chúa là Ánh sáng đang ngự ở đó.
Bởi thế, muôn dân từ khắp nơi sẽ tuốn về ánh sáng của Giêrusalem.
Trên thực tế, dân Do Thái đã được hồi hương và Giêrusalem đã được tái thiết. Nhưng Giêrusalem đâu có được đúng như Isaia đã mơ. Như vậy, giấc mơ của Isaia chỉ được thực hiện trọn vẹn nơi Đức Giêsu. Ngài chính là Ánh sáng đến trần gian.
2. Đáp ca: Tv 71
Tv này cầu nguyện cho một vị vua lý tưởng mà trong triều đại ngài hòa bình và công lý ngự trị, mọi người đều hạnh phúc.
Vị vua lý tưởng ấy cũng chính là Đức Giêsu.
3. Tin Mừng: Mt 2, 1-12
Các "đạo sĩ" là những nhà trí thức ở vùng Babylon phía Đông xứ Palestine. Do niềm tin có phần mê tín rằng ngôi sao lạ là điềm báo một Đấng cứu tinh đã sinh ra, họ đã đi theo ánh sao và tìm đến với Hài nhi Giêsu.
Nhưng cuộc hành trình của các vị cũng không phải là trơn tru dễ dàng vì có lúc ánh sao biến mất. Nhưng nhờ các vị kiên trì, ánh sao đã xuất hiện lại và cuối cùng các vị đã tìm đến nơi.
Như thế, qua ánh sao lạ, Chúa Hài nhi đã tỏ mình ra cho đại diện lương dân, đang khi các nhà trí thức Do Thái ở Giêrusalem dù thông thạo Thánh Kinh nhưng đã không nhận ra Chúa.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Ý nghĩa thật của ngôi sao lạ
Nhiều người vẫn nghĩ rằng ngày xưa có một ngôi sao lạ xuất hiện trên vùng trời Phương Đông để dẫn đường các đạo sĩ. Sao đi trên trời, người đi dưới đất, và khi đến Bêlem thì ngôi sao dừng lại, chiếu một luồng ánh sáng xuống đúng nơi mà Chúa Hài Đồng đang ở. Thế là các đạo sĩ vào nhà, quỳ xuống thờ lạy Đức Giêsu và dâng lễ vật cho Ngài.
Những người biết khoa học chút ít đều coi đây là chuyện hoang đường: làm sao bước chân con người có thể theo kịp tốc độ di chuyển của tinh tú!?
Sự thật hay là hoang đường?
Xin thưa, đây là một cách viết, khai thác một hình ảnh để diễn đạt một chân lý. Theo cách viết của Thánh Matthêu, lý do thúc dục các đạo sĩ lên đường là vì "Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Ngài xuất hiện bên Phương Đông". Matthêu không hề viết là ngôi sao cùng sánh bước với các đạo sĩ trên khắp những đoạn đường từ Phương Đông đến Giêrusalem. Bởi đó họ phải đi tìm, và khi đến Giêrusalem họ phải hỏi người khác nữa. Câu trả lời giúp họ biết hướng để tiếp tục cuộc hành trình chính là một câu Sách Thánh. Mãi khi đến gần Bêlem thì Ngôi Sao mới xuất hiện lại để dẫn họ đến chỗ Hài Nhi đang ở.
Tóm lại, Ngôi Sao là một dấu chỉ thôi thúc lên đường. Nhưng cuộc hành trình đòi hỏi phải cố gắng, kiếm tìm, dò hỏi nhiều nơi, nhiều người, nhất là Sách Thánh. Và cuối cuộc hành trình, dấu chỉ lại rực sáng như để xác nhận rằng cuộc hành trình đã đạt đến điểm tới.
* 2. Hành trình đức tin
Hành trình của các đạo sĩ là hình ảnh minh họa cho hành trình của mọi kẻ tin:
Hành trình khởi đầu bằng một điều gì đó lạ lùng khiến người ta chú ý (Thí dụ ánh sao lạ đối với các đạo sĩ). Điều lạ lùng này mời gọi người ta từ bỏ nếp sống đã quen để dấn thân đi tìm một cái gì đó cao hơn, xa hơn, tốt đẹp hơn.
Tiếp theo là những bước thăng trầm trong cuộc hành trình: có khi con đường rất bằng phẳng êm ái, có khi lại quanh co gồ ghề, có lúc ánh sao sáng tỏ trên bầu trời, có lúc nó vụt biến mất.
Nhưng miễn là người ta không nản lòng mà cứ kiên trì dấn bước thì cuối cùng người ta sẽ gặp được Chúa.
Đó là cuộc hành trình của kẻ chưa có đức tin tìm đến với Chúa, mà cũng là cuộc hành trình của kẻ đã tin rồi nhưng muốn đến với Chúa một cách gần gũi thân tình hơn.
* 3. Lên đường
Có những người tìm kiếm như các đạo sĩ, lên đường như Abraham. Cũng có những người ngồi một chỗ như Hêrôđê. Muốn biết ư? Ông đã có các chuyên viên. Muốn tiêu diệt đối phương ư? Ông có cả ngàn quân lính dưới quyền. Thiên Chúa hướng dẫn những ai muốn tìm Người cách lạ lùng. Người trốn thoát khỏi những kẻ muốn tìm bắt. Người không hung hãn chống lại những kẻ muốn huỷ diệt Người. Người tự xóa mình đi và biến mất.
Người ở đâu, Đức Giêsu ẩn dấu của thời đại? Trong làng quê heo hút nào, trong gia đình nghèo khó nào có ánh sáng Thiên Chúa mời ta nhận ra Người? "Ta đói các ngươi đã cho Ta ăn... Thực, Ta bảo các ngươi: mỗi lần các ngươi làm cho một trong những kẻ bé nhỏ nhất là anh em Ta đây, là các ngươi làm cho chinh Ta" (Mt 25, 35-40). Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng có lời Kinh Thánh: Ta đã không bị cám dỗ dùng lời Kinh Thánh để át giọng kẻ quấy rày ư? Đức Giêsu đâu để cho ta đền bù. Nếu ta muốn nắm lấy Người để được an tâm, Người sẽ thoát khỏi tầm tay ta. Nếu ta chấp nhận lên được tìm kiếm Người, ta sẽ như các đạo sĩ, được đầy tràn niềm vui và tìm thấy Người (...) Đọc kỹ Kinh Thánh thôi chưa đủ, còn phải để Kinh Thánh gợi hứng cho đời ta, để ta đem ra thực hành, để ta đặt mình dưới sự điều khiển của Kinh Thánh. Các luật sĩ và các thầy thượng tế biết lời sấm lắm chứ. Nhưng họ chỉ biết trưng dẫn thôi... Hêrôđê thì dùng Kinh Thánh để tìm cách giết Hài nhi... Còn các đạo sĩ, bản thân chẳng biết Kinh Thánh, chỉ được Hêrôđê chỉ dẫn, đã lên được tìm kiếm Đức Giêsu và họ đã gặp Người... (Mgr Lucien Daloz, Le Règne des cieux s'est approché, Trích dịch bởi Fiches dominicales, trang 55-56).
* 4. Ánh sáng và bóng tối
Nhà đại thiên văn Kepler khám phá ra rằng vào năm Chúa Giáng sinh, có một hiện tượng bất bình thường xảy ra giữa các vì sao. Ông nói về hai ngôi sao Jupiter và Saturn rằng: Bình thường chúng vẫn quay cách đều nhau. Năm đó chúng sáp lại gần nhau đến độ ánh sáng của ngôi sao này cộng hưởng với ánh sáng của ngôi sao kia, tạo ra một luồng sáng khác thường và kéo dài đến cả mấy tháng.
Phải chăng đó chính là ngôi sao lạ đã dẫn đường cho Ba Vua tìm ra Chúa Hài Nhi?
"Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông" (Mt 2, 2). Người xưa cho rằng ngày ra đời của các vĩ nhân thường được báo hiệu bằng sự xuất hiện của các ngôi sao lớn. Các chiêm tinh gia thường nghiên cứu những chuyển động của các vì tinh tú để đoán biết định mệnh con người. Vì thế, khi nhìn thấy ngôi sao lạ, các đạo sĩ đã nhận ra sự sinh hạ của Đấng Cứu Thế, Vua dân Do thái.
Quả thật, người Do thái đã trông đợi Đấng Cứu Tinh từ bao thế kỷ, Đấng ấy được ví như một vì sao từ Giacóp, như có lời trong Kinh thánh: "Một vì sao xuất hiện từ Giacóp, một vương trượng chỗi dậy từ Ítraen " (Ds 24, 17). Tiên tri Mikha cũng đã tiên báo: "Hỡi Bêlem Épratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giuđa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Ítraen " (Mk 5, 1).
Nếu Thiên Chúa đã dùng cột mây cột lửa để hướng dẫn dân Do thái đi trong hoang địa về đất hứa, thì Người cũng có thể dùng ngôi sao dẫn đường cho các đạo sĩ đến Belem để gặp Đấng Cứu Tinh.
Nhưng có một sự thật vô cùng trớ trêu: là khi vị Cứu Tinh xuất hiện sau bao thế kỷ đợi chờ, dân Do thái lại thờ ơ lãnh đạm, các thượng tế và kinh sư thì dửng dưng thụ động, cho dù họ thông thạo Kinh thánh và biết rõ nơi sinh của Đấng Cứu Thế. Hêrôđê lại còn hoảng hốt vì sợ ngai vàng của mình bị lung lay. Chỉ có các đạo sĩ đại diện cho lương dân lại hăng hái lên đường. hăm hở tìm kiếm, cho dù cuộc kiếm tìm đầy phiêu lưu trắc trở. Và khi tìm được rồi, Đấng Cứu Thế cũng chẳng có vẻ gì là một vị quân vương, không uy nghi trong cung điện đền vàng, nhưng họ vẫn vui mừng đón nhận, xin được bái kiến và dâng lễ vật quí giá với tất cả tấm lòng thành.
Sau này, Đức Giêsu đã phải thốt lên: "Từ phương Đông phương Tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Ápraham, lsaac và Giacóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài " (Mt 8, 11-12).
Lễ Hiển Linh là lễ Chúa tỏ mình cho dân ngoại, nhắc chúng ta đến việc truyền giáo.
Nhờ ngôi sao lạ mà các đạo sĩ đã tìm ra Đấng Cứu Thế; chúng ta cũng hãy là những ánh sao sáng thu hút những tâm hồn đang khao khát tìm kiếm Chúa.
Nếu con người đang đi trong bóng tối của gian dối, hận thù; chúng ta hãy là những ánh sao của chân thành, phục vụ và yêu thương.
Nếu thế giới đang chìm đắm trong bóng tối của buồn phiền, thất vọng; chúng ta hãy là những ánh sao của niềm vui, an bình và hy vọng.
Nếu Chúa đã gọi: "Chúng con là ánh sáng thế gian" (Mt 5, 14), thì đó là một vinh dự vô cùng lớn lao, nhưng cũng là một trách nhiệm nặng nề.
Chúng ta đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối, nhưng hãy dấn thân thắp lên những ngọn nến sáng: Nến sáng của tin yêu và hy vọng, của bác ái và vị tha, để cả trái đất này tràn ngập ánh sáng tình yêu Chúa.
Chúng ta đừng chỉ lo gìn giữ ngọn nến của ngày chịu phép rửa tội, nhưng hãy can đảm thắp sáng những ngọn nến còn trong bóng tối lầm lạc và tội lỗi, để thế giới này luôn đi trong ánh sáng chân thật của Chúa.
Lạy Chúa Hài Đồng,
Cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối vẫn còn tiếp diễn trên thế giới này và trong lòng mỗi người chúng con.
Xin cho chúng con biết kín múc nơi Chúa là chính Nguồn Sáng, để chúng con có khả năng đẩy lui mọi bóng tối trong chúng con và trong lòng mọi người. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 5. Ánh sáng Đức tin
Arthur Jones gia nhập không lực Hoàng gia, anh được huấn luyện trong một trại lính cùng với 30 binh sĩ khác. Ngay đêm đầu tiên, anh đã phải cân nhắc về một quyết định: "Có nên quì gối đọc kinh như thói quen ở nhà không?" Ban đầu anh cảm thấy hơi ngượng, nhưng rồi anh tự nhủ: "Chẳng lẽ mình phải thay đổi cách sống vì sợ kẻ khác dòm ngó sao?"
Anh liền quyết định cứ quì gối đọc kinh như thói quen. Khi vừa làm dấu kết thúc buổi cầu nguyện, mọi người mới biết anh là người Công giáo. Hơn nữa, anh lại là người Công giáo duy nhất trong trại lính. Tuy nhiên, anh vẫn quì gối cầu nguyện hàng đêm, và sau đó thường dẫn đến những cuộc tranh cãi hàng giờ.
Cuối khóa huấn luyện có người đến nói với anh:
- Anh là người Kitô hữu tốt nhất mà tôi gặp.
Anh liền đáp lại:
- Cám ơn bạn, tôi không nghĩ mình là Kitô hữu tốt nhất đâu. Có thể tôi là người Công giáo dám công khai biểu lộ đức tin.
Ánh sáng đức tin của người lính đã tỏa sáng trong trại huấn luyện của không lực Hoàng gia. Đúng như lời Đức Giêsu đã nói: "Các con là ánh sáng thế gian" (x. Mt. 5, 14-16). Như ánh sao lạ đã mọc lên để dẫn đường cho các đạo sĩ, ngôi sao Tin mừng cũng đã xuất hiện để soi dọi vào tâm hồn tăm tối của chúng ta. Để từ đây, ánh sáng Đức tin luôn chiếu tỏa rạng ngời.
Nhưng Tin không phải là thấy. Tin là dựa vào Lời Chúa mà liều mình, mà dấn thân và nhiều khi phải vượt qua gia nan thử thách.
Các đạo sĩ khi nhìn thấy ánh sao lạ, họ đã tin tưởng vào một Đấng Cứu Tinh mà ngôi sao là dấu chỉ, họ vội vã lên đường mà không biết ngôi sao sẽ dẫn đi đâu. Khi ánh sao biến mất họ không thất vọng, không bỏ cuộc, nhưng dò hỏi kiếm tìm. Hành trình của họ là hành trình Đức tin, con đường của họ là con đường thánh giá.
Để giữ vững đức tin, nhiều khi chúng ta phải can trường lướt thắng bản thân, phải liên lỉ chiến đấu hy sinh, phải anh dũng biểu lộ niềm tin. Tổng giám mục Fulton Sheen khẳng định: "Để trắc nghiệm Đức tin của chúng ta, cần phải xem phản ứng lúc đau khổ và thử thách, chứ không phải lúc đời lên hương, thuận buồm xuôi gió".
Như các đạo sĩ tìm lại ánh sao khi lạc mất, người tín hữu Kitô luôn được mời gọi nhìn lên ánh sao của niềm hy vọng. Chính trong niềm hy vọng mà chúng ta can đảm dấn thân đi tới.
Trong cuộc sống đời thường, có rất nhiều dấu chỉ như ánh sao dẫn ta đến với Chúa. Có thể là:
Một câu Kinh Thánh đánh động lòng ta.
Một nghĩa cử yêu thương nồng ấm.
Một lời khuyên nhắc nhở chân tình.
Một gương sáng làm ta xúc động.
Nếu cuộc đời chúng ta đã từng có những ánh sao dẫn đường, thì đến lượt mình, hãy là những vì sao ngời sáng như kim cương trên bầu trời, là những ánh đèn đêm hoa đăng ngày đại hội. Eliot đã viết:
"Nếu bạn không thể là ngôi sao sáng
Thì hãy là ánh lửa non cao.
Nếu không thể là ánh lửa non cao.
Xin hãy làm ánh nến tỏa sáng trong gia đình"
*
Đức Gioan Phaolô II trong Giáo lý năm Thánh 2000 có viết: "Việc giáo dân tham dự và cùng có trách nhiệm trong cộng đồng Kitô hữu, cùng với nhiều hình thức tông đồ và phục vụ của họ trong xã hội, khiến chúng ta có lý mà hy vọng rằng, vào buổi bình minh của thiên niên kỷ thứ ba, sẽ có một cuộc "hiển linh" trọn vẹn và tốt đẹp nơi thành phần giáo dân.
*
Lạy Chúa, xin giúp chúng con nhận ra những ánh sao Chúa gởi đến trong cuộc đời chúng con.
Xin biến chúng con thành những ánh sao ngày càng rực sáng lan tỏa khắp thế giới. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
6. Ông vua thứ tư
Có một truyền thuyết cho rằng những người khách từ phương Đông tìm đến thờ lạy Chúa Hài Đồng là 3 vị vua, tên là Gaspar, Balthasar và Melchior. Có một truyền thuyết khác lại cho rằng ngoài 3 vị ấy, còn một vị vua thứ tư nữa, tên là Artaban. Sau đây là truyền thuyết về ông vua thứ tư ấy.
Cũng như 3 vị vua kia, Artaban cũng thấy ngôi sao lạ. Sau khi chuẩn bị lễ vật gồm một viên bích ngọc, một viên hồng ngọc và một viên ngọc trai, Ông lên đường tiến đến điểm hẹn với 3 vị vua kia. Tuy nhiên dọc đường ông gặp một người bị thương nặng đang nằm bên vệ đường, ông phải dừng lại đưa người đó đến một lữ quán nhờ chăm sóc. Vì thế khi đến điểm hẹn thì 3 vị kia đã đi mất rồi.
Cần có một con lạc đà để có thể đi băng qua sa mạc, ông bán viên bích ngọc đi để mua lạc đà. Nhưng khi tới Bêlem thì lại trễ, vì Thánh Giuse và Đức Maria đã đem Chúa Hài đồng lánh nạn sang Ai cập.
Artaban đành tìm một quán trọ để nghỉ đêm. Trong quán ông gặp một người đàn bà bế một đứa trẻ mới 1 tuổi đang sợ hãi trốn tránh cuộc lùng bắt của đám lính Hêrôđê. Dù vậy, cuối cùng đám lính cũng tìm tới. Artaban ra cửa gặp chúng và đưa viên hồng ngọc để chúng khỏi vào lữ quán. Ông rất buồn vì giờ đây lễ vật ông định dâng Chúa Hài Đồng chỉ còn có mỗi một viên ngọc trai.
Ông lại lên đường tìm Chúa Hài Đồng. Nhưng ông luôn bị trễ: nghe tin Đức Giêsu đang ở đâu ông đều tìm đến nhưng khi đến nơi thì Ngài đã đi nơi khác. Khoảng 30 năm sau, ông đến Giêrusalem. Ông hốt hoảng khi nghe tin người ta sắp đem Đức Giêsu đi đóng đinh trên đồi Golgotha. Ông vội vã tìm đến, hy vọng là với viên ngọc trai còn lại, ông có thể cứu sống Ngài. Tuy nhiên trên đường đến Golgotha, ông gặp một cô gái đang bị quân lính rượt bắt. Cha của cô thiếu nợ quá nhiều nên người ta định bắt cô để bán làm nô lệ trừ nợ. Artaban đưa viên ngọc trai ra, và quân lính để cô gái được tự do. Giờ đây Artaban chỉ còn đôi bàn tay trắng.
Chiều hôm ấy, khi mặt trời bắt đầu lặn, một cơn động đất khiến các nhà cửa đều rung rinh, ngói nhà bay tứ tung. Một viên ngói rơi trúng đầu ông. Thế là ông chết trước khi đến được ngọn đồi Golgotha. Artaban không gặp được Đức Vua mà bao nhiêu năm qua ông đã khổ cực tìm kiếm.
Tuy nhiên, nhìn theo một phương diện khác thì Artaban đã thực sự gặp được Đức Vua của lòng ông, bởi vì bao nhiêu năm nay Ngài đã ngự trị trong lòng ông. Ngài đã làm cho lòng ông thành quảng đại, dạy ông làm những việc bác ái và luôn duy trì niềm hy vọng trong suốt cuộc hành trình của ông.
Ai đang đi tìm Chúa với trọn niềm tin yêu hy vọng thì đã gặp được Chúa rồi.
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Chúa đã muốn cứu độ tất cả mọi người, và Người đã dùng ánh sao lạ để hướng dẫn muôn dân tìm đến Đức Giêsu, Đấng Cứu độ duy nhất. Chúng ta hãy sốt sắng dâng lên Chúa những lời nguyện sau đây:
1. Đức Giêsu đã thiết lập Hội thánh và sai đi đến với mọi người / Xin Chúa cho Hội thánh luôn trở thành ánh sáng hướng dẫn muôn dân tìm đến ơn cứu độ của Chúa.
2. Chúa đã ban quyền cho các nhà cầm quyền trong xã hội / Xin Chúa hướng dẫn họ thi hành quyền hành đối với mọi người theo lẽ công bằng, theo sự thật, và luôn tôn trọng nhân phẩm của mỗi người.
3. Chúa đã muốn cứu độ mọi người không trừ ai / Xin Chúa cho những người chưa biết Chúa, những người từ chối Chúa, và những người chống đối Chúa sớm nhận ra ánh sáng chân lý và tình thương của Chúa.
4. Mỗi Kitô hữu đều phải là ánh sáng cho đời / Xin Chúa cho anh chị em giáo hữu trong họ đạo chúng con / luôn sống đúng với Tin mừng của Chúa / để trở thành ánh sao dẫn đường cho người chung quanh trở về với Chúa.
Chủ tế: Lạy Chúa, lễ Hiển Linh hôm nay nhắc cho chúng con nhớ đến trách nhiệm của Kitô hữu là phải luôn tìm kiếm Chúa để gặp gỡ và sống hiệp thông với Chúa, đồng thời cũng phải giúp anh chị em chung quanh chúng con tìm kiếm và gặp gỡ Chúa. Xin Chúa giúp chúng con luôn ý thức và chu toàn trách nhiệm đó. Chúng con nguyện xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
VI. Trong Thánh lễ
- Nên đọc Kinh nguyện Thánh Thể 3, nhấn mạnh những chỗ sau đây:
. (Sau lời Truyền phép, đoạn 3): "Nguyện xin Chúa Thánh Thần biến đổi chúng con thành của lễ muôn đời dâng hiến Cha (như những lễ vật mà các đạo sĩ ngày xưa dâng cho Chúa Hài đồng)...
. (Đoạn cầu cho Hội Thánh): "... Xin cho Hội Thánh Cha trong cuộc lữ hành trần thế được đức tin vững vàng và lòng mến sắt son (Xin cho Hội Thánh nhiệt thành loan báo mầu nhiệm Tình thương bao la của Cha muốn cứu độ tất cả mọi người)...
. (Đoạn cầu cho những kẻ qua đời): "Xin Cha nhớ đến anh chị em tín hữu chúng con đã lìa cõi thế, và mọi người sống đẹp lòng Cha mà nay đã ly trần (cùng linh hồn những người thành tâm thiện chí dù không biết Cha nhưng lòng vẫn hướng về Cha)...
- Trước kinh Lạy Cha: Đức Giêsu đã tỏ mình ra cho lương dân vì Ngài muốn quy tụ tất cả mọi người trong Nước của Ngài. Chúng ta hãy cùng với Ngài thiết tha cầu xin cho Nước Chúa mau trị đến.
- Sau kinh Lạy Cha: "Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ. Xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an. Xin giúp chúng con thành những kẻ xây dựng bình an giữa mọi người không phân biệt tín ngưỡng, giai cấp, trình độ, hoàn cảnh...
VII. Giải tán
Ngày xưa Chúa đã dùng ánh sao lạ dẫn đường các đạo sĩ đến với Ngài. Ngày nay Ngài muốn dùng mỗi người chúng ta như một ánh sao lạ dẫn đường cho anh em lương dân đến với Ngài. Rồi nhà thờ trở về với cuộc sống, chúng ta hãy sống như một ánh sao trước mặt mọi người. Chúc anh chị em bình an.
20.Thiên Chúa tỏ mình ra cho nhân loại--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP
Lễ hôm nay là lễ “Hiển linh” mà ngày xưa gọi là Lễ Ba Vua. “Hiển linh” là biểu lộ thần tính. Điều mà Giáo hội kính nhớ và vui mừng cử hành là việc Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đã đến và tỏ mình ra cho nhân loại.
Trong bài đọc 1, tiên tri Isaia tiên báo là ánh sáng của Thiên Chúa sẽ xuất hiện trên Israel và các dân tộc sẽ hướng về ánh sáng ấy mà cất bước. Lời sấm ấy đã được ứng nghiệm, vì Con Thiên Chúa đã giáng thế, sinh ra tại Bêlem, các đạo sĩ đã đại diện cho các dân ngoại mà tìm đến và thờ lạy Ngài.
Bài Tin mừng kể lại cho chúng ta sự kiện các đạo sĩ Đông phương tới Bêlem để tìm kiếm và thờ lạy Chúa Cứu thế. Thánh Matthêu nêu ra cho chúng ta những thái độ khác nhau của từng hạng người trước việc Chúa Cứu thế tỏ mình ra: kẻ chấp nhận, người từ chối. Việc Chứa Cứu thế tỏ mình ra cho các đạo sĩ nói lên lòng thương yêu đặc biệt của Thiên Chúa đối với dân ngoại.
Chúng ta cũng là dân ngoại đã được Thiên Chúa tỏ mình ra, nhưng vẫn còn phải tiếp tục tìm gặp Ngài qua Thánh Kinh, qua Giáo hội và qua các biến cố trong đời sống thường ngày. Để đáp lại tình thương ấy, chúng ta phải cố gắng trở thành những vì sao chiếu sáng trên vòm trời (bài đọc 2) để soi dẫn cho những ai chưa biết Chúa tìm đến gặp Ngài, qua cuộc sống tràn đầy tình thương và phục vụ của chúng ta trong thế giới hôm nay.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Is 60, 1-6.
Mặc dầu phải sống cơ cực trong cảnh lưu đầy, bị kẻ thù áp bức, tương lai đen tối mù mịt, niềm hy vọng được giải thoát đã mờ nhạt dần, tiên tri Isaia lại có một giấc mộng rất lạc quan, theo đó, dân Chúa sẽ được trở về quê hương trong tiếng ca vui, mọi người nô nức góp sức trùng tu lại đền thờ Giêrusalem. Lúc đó đền thờ lại được rạng rỡ, sẽ trở thành ánh sáng thu hút muôn dân vì được ánh hào quang của Thiên Chúa chiếu tỏa trên đó, và mọi người sẽ qui tụ về thành ánh sáng ấy cùng với vàng bạc, đá quí, đồng thời loan truyền lời ca tụng Thiên Chúa.
Trong thực tế, dân Chúa đã được giải thoát, trở về quê hương, xây dựng lại đền thờ, nhưng giấc mơ của tiên tri Isaia chỉ được thực hiện trọn vẹn trong Đức Giêsu, là ánh sáng của trần gian. Giấc mơ của tiên tri Isaia còn hướng về thời cánh chung, khi mọi sự được hoàn tất. Và như thế, tác giả sách Khải huyền có lý khi mượn lại những lời tiên tri hôm nay để nói về Giêrusalem trên trời (x. Kh 21,9-27).
+ Bài đọc 2: Ep 3,2-3a.5-6.
Dân Do thái luôn hãnh diện là dân riêng của Thiên Chúa, dân riêng của Lời hứa. Họ tin rằng ơn cứu thoát chỉ được dành riêng cho họ, còn dân ngoại thì bị đẩy ra ngoài. Nhưng thánh Phaolô, cũng là người Do thái, không nghĩ nghư vậy ! Theo ngài, Thiên Chúa đã mạc khải cho ngài biết: Ý định của Thiên Chúa là muốn cứu độ mọi người, không dành riêng cho ai. Ngày nay Thiên Chúa đã dùng Thần Khí mà mạc khải cho các thánh Tông đồ và các tiên tri mầu nhiệm Đức Kitô, đó là: trong Đức Giêsu Kitô và nhờ Tin mừng, các dân ngoại cùng được thừa kế gia nghiệp với người Do thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ lời Thiên Chúa hứa.
+ Bài Tin mừng: Mt 2,1-12.
Các đạo sĩ Đông phương, là những nhà chiêm tinh, thấy một ngôi sao lạ xuất hiện và với sự soi sáng của ơn trên, các vị biết có Đấng Cứu thế đã ra đời, và các vị đã lên đường triều bái Chúa Hài nhi.
Có người cho rằng đây không phải là ngôi sao lạ mà chỉ là ngôi sao chổi tình cờ xuất hiện và có sự trùng hợp thôi. Nhưng nếu không lạ thì làm sao, trước khi Giáng sinh, tiên tri Mikea đã viết trong Cựu ước:”Hỡi Belem Eprata, ngươi nhỏ nhất trong Giuđa, song từ nơi ngươi sẽ sinh ra Đấng cai trị trong Israel”(Mk 5,1). Các thầy tư tế được vua Hêrôđê triệu tập đến sau khi các đạo sĩ tới, cũng xác nhận như thế (Mt 2,4-6) mà các đạo sĩ đã thấy NGÔI SAO của Chúa bên phương Đông, nên đến thờ lậy (Mt 2,2).
Nếu tiên tri Mikea không được Thiên Chúa mạc khải làm sao ông ấy biết và nói trước đúng thời gian và địa điểm? Nếu đó chỉ là “ngôi sao chổi” tự nhiên, thì tại sao nó lại hướng dẫn được các đạo sĩ từ phương Đông xa xăm đến tận nước Do thái. Tại sao khi nó hướng dẫn các đạo sĩ đến Giêrusalem thì nó lại “biến” mất? Tại sao nó lại tái xuất hiện và “đi trước mặt cho đến ngay chỗ con trẻ sinh ra mới dừng lại”? Nếu là sự trùng hợp thì tại sao sự trùng hợp ấy lại được các đạo sĩ phương Đông biết trước mà đi tìm Chúa Cứu thế? Vì vậy, phải gọi là “Aùnh sao Belem”.
Vì thế, qua ánh sao lạ, Chúa Hài nhi đã tỏ mình ra cho đại diện lương dân, đang khi các nhà trí thức Do thái ở Giêrusalem tuy thông thạo Thánh kinh nhưng đã không nhận ra Chúa.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Lễ của ánh sáng và quà tặng
I. HIỂN LINH VÀ NGÔI SAO LẠ.
1. Ý nghĩa ngôi sao lạ.
Theo quan niệm của người Đông phương. Sự xuất hiện của một vì sao trên trời có quan hệ đến một nhân vật dưới trần, nhất là các vị đế vương, người ta vẫn gọi đó là ngôi sao chiếu mạng. Các nhà chiêm tinh Đông phương đều tin như vậy, vì thế nảy sinh hẳn một môn chiêm tinh học với các khoa tử vi.
Hôm nay Giáo hội kể lại biến cố ba nhà thông thái đến triều bái Chúa Hài nhi. Magi có nghĩa là những nhà khoa học kinh nghiệm (Nature Scientist), họ là những chiêm tinh gia và những nhà thiên văn. Họ đến từ phương Đông, dĩ nhiên họ không phải là người Do thái. Và chỉ hỏi có hai câu: Đức Vua dân Do thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lậy Người.
Có nhiều người cho rằng có lẽ các khoa học gia này đã nhìn thấy sao chổi và đi theo. Nhưng năm 1603, nhà toán kiêm thiên văn Johannes Képler giải thích theo tài liệu cho thấy vào năm Chúa Giáng sinh có một hiện tượng bất bình thường xẩy ra giữa các vì sao. Ôâng nói về hai ngôi sao Jupiter và Saturn rằng: bình thường chúng vẫn quay cách đều nhau, năm đó chúng quay sáp lại gần nhau đến độ ánh sáng của ngôi sao này cộng hưởng với ánh sáng của ngôi sao kia, tạo ra một luồng sáng khác thường và kéo dài đến cả mấy tháng.
Phải chăng đó chính là ngôi sao lạ dẫn đường cho các đạo sĩ tìm ra Chúa Hài nhi? Nhưng điểm muốn nhấn mạnh ở đây, là tại sao các nhà thông thái biết chắc chắn là vua Do thái đã sinh ra. (Chúng ta biết rằng các nhà khoa học không bao giờ hấp tấp kết luận một cách hồ đồ). Phải chăng các ngài đã được Thiên Chúa mạc khải? Đúng thế ! Ngôi sao trên bầu trời Belem đã dẫn các đạo sĩ Đông phương trải qua một cuộc lữ hành xa lạ, đầy khó khăn nguy hiểm đã đem các ông đến nơi Con Trẻ mà các ông muốn tìm kiếm. Chính ngôi sao đã bảo tồn cho họ niềm hy vọng, ước nguyện, đức tin mà Thiên Chúa đã mạc khải cho. Cũng chính ngôi sao đã cho họ thấy Con Trẻ cũng là Vua của họ để họ chuẩn bị lễ vật triều kính Ngài.
2. Ý nghĩa ngày lễ.
Như vậy, lễ Hiển linh là một ngày lễ cách mạng. Đức Kitô được mạc khải như là Đấng Cứu độ, không phải là của một nhóm người được chọn, nhưng của tất cả mọi dân tộc. Đức Giêsu đã bẻ gẫy rào cản lớn tồn tại giữa dân Do thái và dân ngoại. Trên thực tế, sứ điệp của Đức Giêsu, người Anh Cả của toàn thể vũ trụ, đã vượt qua tất cả những rào cản của bộ tộc, họ hàng. Lễ Hiển linh là một ngày lễ đẹp, bởi vì ngày lễ này đưa mọi người lại với nhau.”Bấy giờ, tất cả mọi người đều được chia sẻ cũng một quyền thừa kế, họ trở nên một phần của cùng một thân thể”.
II. HIỂN LINH VÀ ÁNH SÁNG.
1. Đức Giêsu và ánh sáng.
Trong bài khởi đầu sách Tin mừng thứ tư, thánh Gioan đã giới thiệu Đức Giêsu là ánh sáng:”Ở nơi Người vẫn có sự sống và sự sống là sự sáng của nhân loại, sự sáng chiếu soi trong u tối và u tối đã không tiếp nhận sự sáng”(Ga 1,4). Và sau này chính Đức Giêsu cũng xác định điều đó. Cho nên, cần phải có sự hiện diện của Chúa ở trần gian để trần gian biết đường đi và khỏi bị vấp ngã.
Trong ấn bản trên mạng của tuần báo Newsweek vào ngày 5 tháng 12 năm 2004, sau một cuộc thăm dò các độc giả về niềm tin vào Chúa Giêsu. Khi được hỏi là liệu thế giới ngày nay sẽ trở nên tốt lành hay xấu xa hơn nếu như không hề có Chúa Giêsu, thì
- 61% trả lời rằng: thế giới hôm nay sẽ xấu xa và tan tác hơn nếu như không có Chúa Giêsu.
- 47% nói rằng: sẽ có nhiều cuộc chiến tương tàn hơn, nếu như Chúa Giêsu không tồn tại nơi thế giới này. (16 % thì nói ngược lại, và 26% thì cho rằng thế giới cũng giống như vậy nếu có hay không có Chúa Giêsu).
- 63% nói rằng sẽ có ít lòng nhân ái hơn, và 58% thì cho rằng sẽ có ít lòng khoan dung hơn nếu như không có Chúa Giêsu. 59% thì cho biết hạnh phúc cá nhân sẽ bị mất đi và 38% tin rằng sẽ có nhiều sự chia rẽ về tôn giáo nếu như thế giới này không có Chúa Giêsu.
(Báo Công giáo và dân tộc, số 1487-1488, tr 53).
2. Chúng ta và ánh sáng thế gian.
Những người theo Chúa thì được Chúa soi sáng, cho nên cũng phải là ánh sáng mặc dù chỉ là ánh sáng phản chiếu:”Chính anh em là ánh sáng cho trần gian”(Mt 5,14) Và nếu đã là ánh sáng thì phải tỏa ra như Chúa dạy:”Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn lên rồi lấy thùng úp lại, nhưng đặt trên đế, và nó soi sáng cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời”(Mt 5,1516).
Aùnh sáng của ngọn đèn chúng ta chỉ leo lét, yếu ớt, nhưng cũng làm nên một đốm sáng trong đêm tối và nếu như đốm sáng chiếu soi thì có thể làm cho bầu trời tối tăm trở nên sáng rực. Cuộc sống gương mẫu của chúng ta chỉ rất nhỏ, rất mờ nhạt trong cộng đoàn, nhưng nó cũng làm cho cộng đoàn trở nên chứng tá lớn cho xã hội chưa nhận biết Chúa.
Truyện: Ánh sáng ở vận động trường.
Một bữa nọ, ông John Keller, một diễn giả nổi tiếng được mời thuyết trình trước 100.000 người tại sân vận động Los Angeles bên Hoa kỳ. Đang diễn thuyết bỗng ông dừng lại và ønói:”Bây giờ xin các bạn đừng sợ ! Tôi sắp cho tắt tất cả đèn trong sân vận động này”.
Đèn tắt, sân vận động chìm sâu trong bóng tối dầy đặc. Ôâng John Keller nói tiếp:”Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm tôi đốt thì hãy kêu lớn lên: Đã thấy”. Một que diêm được bật lên, cả vận động trường vang lên: “Đã thấy”.
Sau khi đèn được bật sáng lên, ông John Keller giải thích:”Aùnh sáng của một hành động nhân ái dù bé nhỏ như một que diêm sẽ chiếu sáng trong đêm tối tăm của nhân loại y như vậy”.
Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại tắt. Một giọng nói vang lên ra lệnh:”Tất cả những ai ở đây có mang theo diêm quẹt, xin hãy đốt cháy lên”. Bỗng chốc cả vận động trường rực sáng.
Ông Keller kết luận:”Tất cả chúng ta hợp lực cùng nhau, có thể chiến thắng bóng tối, sự dữ và oán thù bằng những đốm sáng nhỏ của tình thương và lòng tốt của chúng ta”(Lẽ sống, 143)
Các đạo sĩ phương Đông đã nhờ ngôi sao lạ của “Vua dân Do thái sinh ra” tức Hài Nhi Giêsu, mà đến được Be lem và gặp được Hài nhi Giêsu cùng Mẹ Người là Bà Maria. Cũng thế, 86 triệu người Việât nam nói riêng và hàng trăm triệu người châu Á nói chung sẽ chỉ nhận ra Đức Giêsu là Cứu Chúa nếu mỗi người công giáo Việt nam là một SAO dẫn đường chỉ lối cho họ.
Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đã hơn một lần nhắc nhở chúng ta là con người thời nay trông chờ (và tin tưởng) các chứng nhân hơn là các thầy dạy, vì có nhiều thầy dạy lại dạy một đàng mà sống một nẻo, thậm chí sống ngược lại những điều họ giảng dạy, chẳng khác gì các Biệt phái và Pharisêu thời Chúa Giêsu. Trong cụ thể, chỉ khi người Kitô hữu sống tinh thần Bát phúc, sống yêu thương, trách nhiệm, công bình, thanh liêm, hy sinh, phục vụ tha nhân và ích chung thì mới thành SAO trên bầu trời và trong cộng đồng con người được.
3. Mỗi người là một ánh sao.
Thánh Gioan tông đồ nói:”Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. Aùnh sáng chiếu soi trong bóng tối nhưng bóng tối không chấp nhận ánh sáng”(Ga 1,4-5). Nếu thế gian không chấp nhận Chúa Giêsu là ánh sáng thì thế gian vẫn ở trong bóng tối. Chúng ta phải làm sao cho thế gian nhận được Chúa Giêsu thì chúng ta phải soi sáng cho họ. Vì thế, trong thư gửi cho tín hữu Philipphê, thánh Phaolô tông đồ đã khuyên:”Anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời”(Pl 2,15).
Tại sao chúng ta, các Kitô hữu là những ngôi sao? Thánh Phaolô tông đồ giải thích:”Thiên Chúa chưa ai thấy bao giờ. Nếu chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta”(1Ga 4,12). Nói cách khác, Thiên Chúa của chúng ta là một vị “Thiên Chúa ẩn mình”, nhưng Ngài muốn tỏ mình ra cho người ta thấy qua cách sống yêu thương của chúng ta. Nói cách khác hơn, khi chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở trong chúng ta bởi vì “Thiên Chúa là tình yêu”(1Ga 4,8). Cho nên cách sống yêu thương của chúng ta làm cho người khác nhìn thấy và nhận biết được Thiên Chúa tình yêu. Chính vì thế mà thánh Phaolô đã so sánh thế gian như vòm trời đêm tăm tối, và khuyến khích các Kitô hữu hãy sống yêu thương để có thể thành những vì sao chiếu sáng trên vòm trời ấy (Carolô).
Trong đời sống xã hội hôm nay có rất nhiều ngôi sao trên bầu trời nghệ thuật, đủ mọi lãnh vực, ví dụ ngôi sao nhạc rock, ngôi sao điện ảnh, ngôi sao bóng đá, thôi thì loạn cào cào với các vì sao ! Có những người chưa xứng đáng là “sao” mà cũng tự nhận mình là sao, thậm chí có những người vênh váo tự phong mình là “siêu sao” !
Trong phạm vi tôn giáo, ta thấy có những Kitô hữu âm thầm sống bác ái yêu thương, chiếu tỏa nhân đức cho những người chung quanh, nhưng chỉ dám nhận mình là tôi tớ vô dụng, chỉ làm theo nhiệm vụ của mình. Thời nay, chân phước Têrêsa Calcutta với tấm lòng yêu thương bao la cũng là vì sao chiếu sáng trên vòm trời thế kỷ 20.
Là Kitô hữu, chúng ta phải là những vì sao lấp lánh trên vòm trời. Chúng ta có thể trở thành SAO MAI được chăng? Sao mai chính là Kim tinh ở cách xa mặt trời 108 triệu cây số. Kim tinh tương đối gần mặt trời (nó xoay quanh mặt trời trong vòng 224,7 ngày) vì thế nó sáng hơn. Ta thấy nó mọc trước khi mặt trời mọc và lặn sau khi mặt trời lặn. Người xưa đã có thời lầm, cho đó là hai ngôi sao khác biệt: sao mai và sao hôm.
Aùnh sáng của SAO NAI (Kim tinh) thật là rực rỡ, làm cho người ta liên tưởng đến những gì đẹp đẽ mỹ miều nhất:”Đẹp như ánh sao mai”. Đó là câu chúng ta vẫn thường nói. Và đặc biệt, Kim tinh, Ngôi sao mai đã được dùng để chỉ Đức trinh nữ Maria: Stella matutina (Đức Bà như Ngôi Sao mai sáng vậy). Nhiều bài ca kính Đức Mẹ đã hoan hô Ngài bằng danh từ ấy: Bà là ai như hào quang Thiên Chúa, như mùa xuân không úa, như vì SAO MAI rạng, như chính cửa thiên đàng (Hoàng Diệp).
Sang thế kỷ 21 này, Thiên Chúa vẫn còn muốn Hiển linh, nghĩa là muốn tỏ mình ra cho nhân loại thế kỷ này. Chúa vẫn cần những ngôi sao lạ chiếu sáng trên vòm trời thế hệ này. Những ngôi sao ấy là chính chúng ta.
III. HIỂN LINH VÀ QUÀ TẶNG.
Những nỗ lực của các đạo sĩ không bị từ chối. Thánh Matthêu cho biết sau khi rời khỏi Giêrusalem thì bấy giờ “ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại”. Và sau khi đã gặp thấy Hài Nhi và thân mẫu là Maria, “họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến”(Mt 2,11).
Các Giáo phụ thường giải thích các lễ vật dâng Chúa Hài nhi theo nghĩa tượng trưng: Vàng chỉ Hài nhi là Vua; nhũ hương chỉ thần tính, và mộc dược chỉ nhân tính. Có người lại giải thích ý nghĩa ba lễ vật đó như sau: Vàng ám chỉ đức tin, thể hiện qua thái độ phục bái suy tôn, nhũ hương ám chỉ đức cậy, thể hiện qua tâm tình cầu nguyện sốt sắng; mộc dược ám chỉ đức mến, thể hiện qua những hy sinh khiêm nhường phục vụ tha nhân.
Truyện: Món quà của Artaban.
Henry van Dyke có thuật lại câu chuyện, nhan đề The Other Wise Man (còn một nhà đạo sĩ khác nữa), kề về nhân vật thứ tư là người đáng lẽ đã cùng ba nhà đạo sĩ kia đi tìm vị vua vừa sinh ra. Nhân vật này tên là Artaban. Trong lúc chuẩn bị lên đường, Artaban mang theo một túi đựng đá quí để dâng tặng Aáu Vương. Thế nhưng trên đường đến gặp ba vị thông thái kia để cùng đi, Artaban lại dừng chân để giúp một người nghèo khổ và thế là ông ta bỏ mất cơ hội theo kịp các vị kia. Tuy nhiên ông vẫn tiếp tục kiên trì dừng lại giúp đỡ những ai gặp khốn khó. Cuối cùng ông cho đi tất cả số đá quí của mình. Kết cuộc Artaban đã trở nên già nua và nghèo khổ. Và ông chẳng bao giờ thực hiện được giấc mơ gặp được vị vua các vua để đặt túi đá quí của ông dưới chân Ngài.
Câu chuyện The Other Wise Man có thể kết thúc ở đây, nhưng nếu chỉ có thế thì đây quả là một câu chuyện đáng buồn vì nó kể chuyện một người chưa thực hiện được giấc mộng lớn của đời mình. Nhưng may thay, câu chuyện đã không kết thúc ở đây. Một ngày kia Artaban đang ở trong thành Giêrusalem, cả thành phố đầy xôn xao, náo nhiệt vì nhà cầm quyền sắp sửa hành hình một tội nhân. Khi Artaban nhìn thấy tội nhân, trái tim ông đập lên thình thịch. Linh tính cho ông biết đây chính là Vua các vì vua mà ông đã suốt đời tìm kiếm. Nhìn cảnh tượng trước mắt , Artaban cảm thấy trái tim như tan vỡ ra, nhất là vì ông chẳng có thể làm được gì để giúp đỡ vị vua ấy. Thế nhưng thật kỳ diệu thay khi Artaban nghe tiếng vị vua ấy nói cùng ông:”Này Artaban, đừng buồn khổ nữa. Suốt đời ông đã từng giúp đỡ ta. Khi ta đói ông đã cho ta ăn, ta khát, ông đã cho ta uống, ta trần trụi ông đã mặc áo cho, ta là khách lạ, ông đã đón ta vào nhà” (M. Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm C, tr 50-51).
Như thế, lễ Hiển linh nhắc nhở chúng ta rằng tất cả chúng ta đều có một món quà để dâng tặng cho vị Vua trên các Vua. Và câu chuyện “Còn một nhà đạo sĩ khác nữa” nhắc chúng ta nhớ rằng món quà của chúng ta còn quí giá hơn những món quà của các đạo sĩ, bởi vì món quà của chúng ta dâng không phải chỉ là tặng phẩm trao dâng một lần như vàng, nhũ hương và mộc dược, mà chính là món quà liên lỉ của tình yêu và tinh thần phục vụ tha nhân. Nhiều người sẽ cho rằng chúng ta điên rồ khi tặng dâng những món quà này, nhưng chẳng qua là vì họ không biết được màn cuối của câu chuyện khi mà Chúa Giêsu sẽ nói với chúng ta như Ngài đã từng nói với Artaban:”Hãy đến đây, hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc, hãy vào hưởng vương quốc dành sẵn cho các con từ thuở khai thiên lập địa, vì xưa ta đói các ngươi đã cho ăn…(x. Mt 25,34-35).
Lễ Hiển linh thách thức tâm hồn chúng ta cởi mở tâm hồn của mình ra. Khi biết cởi mở tâm hồn, là bắt đầu biết sống. Đức Giêsu không cần đến những quà tặng của chúng ta, nhưng người khác có thể cần đến. Người mong muốn chúng ta chia sẻ chính bản thân chúng ta cho người khác. Và nếu nhờ được biết Đức Giêsu, mà chúng ta có khả năng mở kho tàng của tâm hồn mình ra, và chia sẻ cho người khác, thì chính chúng ta cũng sẽ cảm thấy mình được trở nên phong phú hơn.
IV. HIỂN LINH VÀ TÌM KIẾM.
Đối với các nhà bác học Đông phương, sự xuất hiện của một ngôi sao như thế là thực hiện một mong ước từ lâu, vì khi nghiên cứu tinh tú, họ nhận thức rằng ngôi sao là đại biểu cho “ý muốn vĩnh cửu”. Quan niệm của họ cũng tương hợp với lời tiên tri của Kinh thánh:”Một vì sao hiện ra từ Giacóp, một vương trượng trỗi dậy từ Israel”(Ds 24,17). Vì vậy, khi họ thấy ngôi sao xuất hiện, liền biết thời giờ đã đến, nên chẳng ngần ngại lặn lội đường xa rủ nhau đi tìm cho thấy “vì sao xuất hiện từ Giacóp” hầu tìm ra con đường sáng cho mình, cho thế giới u minh.
Ba nhà bác học đã đến từ quốc gia xa xôi, để thần phục Hài nhi Giêsu trong khi các đại giáo trưởng, các luật sĩ Do thái (Mt 2,4) họ có không phải chỉ một ngôi sao đêm lấp lánh trên nền trời, mà họ có cả một thư viện, đầy sách vở. Họ có Thánh kinh mà họ mang trên ngực, chít trên đầu. Họ am hiểu các tiên tri về Chúa Cứu thế. Họ biết nhưng họ không thấy, hay không muốn thấy. Chúa sinh ra cách đó có 8 cây số, các thiên thần ca hát trên không trung, các mục đồng lao nhao rủ nhau đi thờ lạy. Nói chung, cả dân tộc Do thái và nhân loại không nhìn thấy ngôi sao và cũng không để tâm nghiên cứu tìm hiểu.
Ngày nay cũng như cách nay hơn 2000 năm, mọi người phải cố gắng tìm ra Chúa. Phải cố gắng tìm gặp Chúa qua các biến cố của đời sống hôm nay. Hơn nữa, suốt đời sống đạo của chúng ta là một cuộc tìm kiếm Chúa không ngừng. Do đó, những ai tự mãn cho rằng mình đã gặp được Chúa qua cái nhãn hiệu công giáo bên ngoài, qua việc lãnh nhận các phép bí tích như một cái máy không hồn, qua việc học hỏi giáo lý sơ sài, để rồi không chịu khó nhờ vào các biến cố thực tế của đời sống để gặp Chúa, yêu Chúa qua anh em thì mãi mãi họ chẳng những không tìm thấy Ngài mà còn mất Ngài nữa.
Chúng ta vừa là người tìm kiếm vừa là ánh sao soi cho người khác đi tìm kiếm Chúa. Cuộc đời của chúng ta bên kẻ khác chỉ có nghĩa khi nào sự hiện diện của chúng ta là một lời mời gọi, dẫn đưa người khác cùng với chúng ta đi tìm Chúa. Chúng ta chỉ sống trọn vẹn ý nghĩa đời con Chúa khi cuộc sống của chúng ta là một ánh sao dẫn lối cho anh chị em chúng ta đến với Chúa.
Sách Tin mừng nói:”Ba nhà đạo sĩ sau khi thờ lạy Chúa, dâng lễ vật, họ nhận được mộâng báo đừng trở lại với Hêrođê, họ đi qua đường khác, trở về xứ sở mình”(Mt 2,12). Ba nhà đạo sĩ sau khi thờ lạy Chúa, đã được soi sáng, đã không trở về với Hêrôđê, tượng trưng cho dục vọng, tham ô, tội lỗi, mà đã qua đường khác, nghĩa là đã thay đổi nếp sống và trở về làm tông đồ. Làm chứng tá, rao giảng Tin mừng khắp nơi, không phải ở Đông phương mà ở cả Tây phương. Tục truyền rằng Ba vua đã qua giảng đạo tận Tây Đức và hiện nay có mộ ba vị ấy ở thành Cologne, trên bờ sông Rhin ở Tây Đức.
Đó cũng là bài học cho chúng ta. Chúng ta cũng là dân ngoại, nhưng được Chúa hiển linh, được ngôi sao của Chúa hướng dẫn thì nay chúng ta cũng phải trở nên ngôi sao hướng dẫn kẻ khác đến với Chúa, bằng lời nói, bằng việc làm, và cả cuộc sống chúng ta.
Trong công đồng Vatican II, có một vị Hồng y da đen Phi châu đã nói với các nghị phụ khi bàn đến lòng đạo đức sa sút ở các nước Tây phương rằng, một ngày nào đó, Chúa sẽ dùng chúng tôi để rao giảng Tin mừng lại cho các nước Tây phương. Đó không phải là sự kiêu hãnh, mà là một bổn phận sau khi đã được ơn hiển linh, như lời thánh Phaolô trong bài đọc 2:”Nhờ Tin mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một bản thể và đồng thông phần với lời hứa của Người trong Chúa Giêsu Kitô”(Ep 3,6) (Hồng Phúc).
Người ta nói: có người sinh ra dưới một ngôi sao xấu, có người sinh ra dưới một ngôi sao tốt. Không, không có ai là ngôi sao xấu. Tất cả đều là ngôi sao tốt. Trong chương trình quan phòng của Thiên Chúa, mỗi người đều có một chỗ đứng, một vai trò nào đó. Vì thế, không ai được tự ti mặc cảm, chán nản thất vọng. Cũng không ai được tự tôn tự phụ, huênh hoang…Chúng ta hãy sống thực sự là một con người, hơn nữa, thực sự là một người con Chúa.
Trong ngày lễ Hiển linh, chúng ta cảm đội ơn Chúa đã tỏ mình ra cho dân ngoại vì chúng ta một thời cũng là dân ngoại. Cái thái độ và mục đích của các đạo sĩ trong cuộc hành trình tìm kiếm Chúa khiến ta cần tìm hiểu và học hỏi. Họ chân thành tìm Chúa để thờ lạy Người chứ không giả hình như vua Hêrôđê. Hêrôđê khi nghe Đấng Cứu thế mới sinh thì bối rối sợ hãi vì sợ mất ngai vàng. Còn các nhà thông thái thì nhửng nhưng vì họ cậy họ có sẵn kho tàng Kinh thánh. Họ cho rằng nếu Chúa Cứu thế xuất hiện thì tự nhiên họ phải biết chứ không cần đi tìm kiếm. Cái thái độ tự mãn đó làm họ mù quáng không nhận ra ngôi sao lạ để đi tìm Chúa.
Ba Vua đã được hân hạnh đến triều bái Chúa Hài nhi, dâng lễ vật cho Ngài. Chúng ta cũng lưu ý rằng lúc Ba vua đang thờ lạy và dâng lễ vật thì có Mẹ Maria ở đó. Chắc Mẹ Maria đã nhận lấy những lễ vật ấy và nói vài lời cảm ơn các ông thay cho Chúa Giêsu. Chúng ta hãy dâng lên Mẹ những tâm tình của chúng ta trong ngày lễ hôm nay:
“Lạy Mẹ, cuộc đời của con cũng là cuộc hành trình đi tìm Chúa. Aùnh sáng Chúa vẫn luôn dẫn lối chỉ đường cho con. Đó chính là những lời của Chúa trong Thánh Kinh. Chúa đang dẫn con từng bước qua lời dạy của Giáo hội như một ánh sao đặc biệt. Các đạo sĩ đã nhận ra Chúa, vì họ đã nỗ lực tìm kiếm. Con cũng muốn noi gương các vị đạo sĩ, luôn quên mình bất chấp mọi khó khăn đến với Chúa trong Bí tích Thánh Thể. Con quyết tâm mỗi ngày nhận ra Chúa nơi anh em con, nhất là nơi những người nghèo khó bệnh tật. Đây không phải là chuyện dễ làm ! Xin Mẹ thương giúp con. Con sợ lòng kiêu căng và sự tự mãn làm con ra mù tối đến nỗi không gặp được Chúa như Hêrôđê và các luật sĩ xưa. Nhưng con chân thành chạy đến với Mẹ. Xin Mẹ thương giúp đỡ con” (Đan Vinh).
21.Quà tặng Con Thiên Chúa làm người--Lm JB. Lê Ngọc Dũng
Ba vị đạo sĩ đã sụp lạy Hài Nhi Giêsu dâng tiến cho Ngài: Vàng, nhũ hương và mộc dược. Để nhận ra sứ điệp Tin Mừng thiết nghĩ chúng ta nên tìm hiểu về ý nghĩa của ba lễ vật này.
Giá trị của một quà tặng không tùy thuộc nhiều ở giá trị vật chất của nó, mà do địa vị của người cho quà và tâm tình của người đó muốn diễn tả qua món quà.
Các cuộc gặp gỡ giữa các nhà lãnh đạo quốc gia thường đi kèm với nghi thức trao tặng quà cho nhau. Trong cuộc họp thượng đỉnh ở ngoài khơi đảo quốc Malta cuối năm 1989, tổng thống của Hoa Kỳ, ông Bush, đã tặng cho chủ tịch Gorbachov của Liên Xô một viên gạch lấy từ tường ô nhục Bá Linh. Dù chỉ là một viên gạch, nhưng đây là một món quà quý giá, bởi vì tổng thống đã muốn gói ghém trong đó thiện chí xây dựng hòa bình, phá bỏ sự chia rẽ ngăn cách của nhân dân Hoa Kỳ, cũng như tất cả những ai yêu chuộng hòa bình.
Chủ tịch Gorbachov cũng đã trao tặng và nhận quà trong cuộc gặp gỡ với Đức Thánh Cha. Nhà lãnh đạo của Liên Xô đã tặng cho Đức Thánh Cha một tập Kinh Thánh, Thánh Vịnh in vào thế kỷ 13 và 14. Món quà là cuốn Kinh Thánh có ý khẳng định rằng giá trị đạo đức và luân lý Kitô giáo là những nhân tố cần thiết để xây dựng xã hội tốt đẹp.
Đáp lại Đức Thanh Cha đã tặng cho nhà lãnh đạo Liên Xô một quyển Tân Ước có ghi hàng chữ: “Ta là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống”. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II và toàn thể Giáo Hội muốn trao tặng Đức Kitô cho một xã hội đã từ lâu quên lãng Thiên Chúa.
Riêng bà Raissa, phu nhân chủ tịch Gorbachov, Đức Thánh Cha đã tặng cho bà một cổ tràng hạt. Mẹ Maria là nữ vương hòa bình. Do đó, đây là món quà rất cao quý mà một vị giáo hoàng muốn tặng cho một vị phu nhân chủ tịch hay những ai đang mưu tìm hòa bình cho nhân loại.
Món quà ghói ghém tâm tình người ban tặng. Món quà của các nhà đạo sĩ cũng đầy ý nghĩa thâm sâu như thế. Chúng ta hãy suy nghĩ về ý nghĩa của những món quà ấy.
Chúng ta hãy bắt đầu bằng mộc dược. Thời xưa người ta dùng mộc dược để ướp xác người chết trước khi đem mai táng. Chẳng hạn, vào sáng sớm ngày đầu tuần, các phụ nữ đã đem mộc dược đến mộ Chúa Giêsu. Vì mộc dược có tương quan đến sự chết, nên nó tượng trưng cho sự yếu đuối, dễ bị tổn thương của con người.
Vì thế món quà mộc dược tượng trưng cho nhân tính Đức Giêsu. Nó nói với chúng ta rằng, Đức Giêsu cũng có những yếu đuối mỏng dòn, dễ bị thương tổn vì Ngài là con người như chúng ta.
Bây giờ chúng ta nói đến nhủ hương. Ngày xưa người ta dùng nhũ hương trong việc phụng tự tôn giáo. Hương thơm và làn khói bay lên trời cao, khiến họ liên tưởng đến các vị thần linh và thần tính của các ngài. Vì thế, món quà bằng nhủ hương tượng trưng cho thiên tính của Đức Giêsu. Ngài là Thiên Chúa.
Cuối cùng chúng ta nói đến vàng. Ngày xưa người ta coi vàng là vua mọi thứ kim loại. Vì thế, vàng tượng trưng cho vương quyền. Nhà vua là vị thủ lãnh bên trên tất cả. Ông vua lý tưởng là ông vua lãnh đạo bằng tình thương. Đức Giêsu chính là vị vua như thế.
Chúng ta căn cứ vào đâu để nêu ra những ý nghĩa đó? Hơn 16 thế kỷ trước, Thánh Gioan Kim Khẩu, một thánh phụ thời xưa đã nói về ngày lễ hôm nay như sau: Các đạo sĩ là những dân ngoại nhưng họ đã ngắm nhìn và đã tin, vì những tặng vật đầy tính tượng trưng của họ đã làm chứng điều đó. Nhũ hương để tặng Thiên Chúa, vàng để tặng Vua, và mộc dược để tặng một người sẽ phải chịu chết.
Như vậy lễ Hiển Linh hôm nay có ý mừng việc Chúa Giêsu tỏ mình ra cho nhân loại, cho muôn dân. Rằng ngài là một vị Thiên Chúa cao cả vô song, là Chúa tể muôn loài, là vua trên các vua. Nhưng đồng thời ngài lại hạ mình làm người với thân phận bé nhỏ yếu đuối như chúng ta. Ngài đã chịu bách hại và chịu chết vì chúng ta. Ngay từ mới sinh, quyền lực thế gian đã muốn bách hại ngài, cụ thể là vua Herode, với những thủ đoạn lừa gạt. Ngài đã phải trốn đi qua Ai Cập. Thiên Chúa đã cho sứ thần mách bảo cho thánh Giuse đem Hài Nhi trốn qua Ai Cập đang lúc ban đêm.
Thật là đau đớn, Thiên Chúa yêu thương thế gian đã ban Con Một Ngài, thế nhưng thế gian đã chối bỏ, đã bách hại ngài. Qua sự tham lam quyền lực, danh vọng, qua tội lỗi của con người chúng ta, mà biểu trưng là Herode, đã bách hại Con Thiên Chúa.
Hiểu rộng hơn, một cuộc sống gian tham ích kỷ, lại hại người khác luôn bách hại Giáo Hội, làm cho thân thể cuả Đức Kitô mang những thương tích. Chính chúng ta cũng cần chấm dứt bách hại con Thiên Chúa qua sự tham lam quyền lực, danh vọng, và tội lỗi của chúng ta.
Chúng ta cũng cần theo gương các đạo sĩ để dâng lên Chúa những món quà… Một sự cảm thông tha thứ cho tha nhân vì nghĩ rằng con người ai cũng yếu đuối lầm lỡ, đó là món quà mộc dược. Giữa những chọn lựa của cuộc sống, ta chọn những giá trị cao cả cho dù phải hy sinh, đó là lễ vật nhủ hương. Con người ích kỷ bon chen, ta rộng lượng ban phát, chia sẻ tài năng sức lực, đó là những thỏi vàng ta dâng lên Chúa. Món quà chúng ta dâng có thể rất bé nhỏ, nhưng rất hữu dụng để cho Hài Nhi Giêsu lớn lên trong trần thế, có thể đi vào và được trần thế đón nhận.
22.Hãy là ánh sao nhỏ--Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Lễ Hiển Linh mời gọi chúng ta suy niệm về Giáo Hội là Bí Tích hiệp nhất toàn thể gia đình nhân loại chung quanh Hài Nhi Giê-su, Đấng Cứu Thế của mình.
Is 60: 1-6
Ngôn sứ I-sai-a loan báo vinh quang của Thành Thánh Giê-ru-sa-lem mới, tiên trưng Giáo Hội: “Muôn dân muôn nước sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước”.
Ep 3: 2-6
Thánh Phao-lô có sứ mạng loan báo “mầu nhiệm giữ kín từ muôn thuở ở nơi Thiên Chúa” nay được tỏ lộ. Đó là muôn dân muôn nước trên khắp toàn cõi địa cầu đều được kêu mời họp thành một Giáo Hội duy nhất, trở nên một Thân Thể mầu nhiệm của Đức Giê-su Ki-tô.
Mt 2: 1-12
Được soi lối chỉ đường: từ một hiện tượng thiên nhiên: ánh sao lạ, đến Lời Chúa, các nhà chiêm tinh, tiên trưng Giáo Hội, đến thờ lạy Đấng Cứu Thế.
BÀI ĐỌC I (Is 60: 1-6)
Các ngôn sứ Cựu Ước đều đã công bố sứ mạng phổ quát của thành thánh Giê-ru-sa-lem. Họ mở rộng những viễn cảnh của dân Ít-ra-en ở bên kia chủ nghĩa dân tộc và nhấn mạnh ơn gọi của dân Ít-ra-en phải là ánh sáng cho muôn dân.
Bản văn được chọn để cử hành lễ Hiển Linh được trích từ tác phẩm của một trong các ngôn sứ này. Ông là vị ngôn sứ vô danh, môn đệ của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (Is 40-55), vì thế người ta gọi ông là I-sai-a đệ tam (Is 56-66). Ông thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình ở Giê-ru-sa-lem giữa những năm 537-520, nghĩa là sau cuộc hồi hương trở về từ cuộc lưu đày ở Ba-by-lon.
1. Vinh quang của Thành Đô Giê-ru-sa-lem mới (60: 1-2)
Ông loan báo một sứ điệp đầy tin tưởng và lạc quan để an ủi dân Ít-ra-en đang ngã lòng thất vọng. Trước đây, cuộc hồi hương trở về đã đem lại cho những người lưu đày một niềm phấn chấn vô bờ; nhưng khi đụng chạm đến thực tế, họ mới vỡ mộng. Thành Thánh Giê-ru-sa-lem bần cùng, dân cư thưa thớt, chẳng khác gì một làng quê. Cảnh Đền Thờ hoang phế trơ gan cùng tuế nguyệt trên bốn mươi năm. Đất đai bị những người ngoại kiều, nhất là dân Sa-ma-ri chiếm đoạt… Cuối cùng, những nổ lực tái thiết Đền Thánh phải dừng lại dang dở. Chính vào lúc ấy, một sứ điệp vang lên để an ủi những ai mất can đảm:
“Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi.
Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa trên ngươi” (60: 1).
Làm thế nào phải thất vọng được chứ khi Thiên Chúa đã tỏ mình ra bằng cách cho họ được trở về quê cha đất tổ. Những kẻ áp bức đã bị trừng phạt. Cuộc hồi hương này được ví như buổi bình minh, còn Thiên Chúa thì được sánh ví như vầng kim ô chói lọi:
“Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân;
còn trên ngươi, Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa,
vinh quang Người xuất hiện trên ngươi” (60: 2).
Những biến cố sau đó sẽ còn rực rỡ hơn nữa. Vì thế, vị ngôn sứ trình bày hai thị kiến chứa chan hy vọng: cuộc tụ họp vĩ đại tại Thành Đô và nguồn phú túc của chư dân sẽ đổ về Thành Đô.
2. Cuộc tụ họp vĩ đại tại Thành Đô (60: 3-4)
Trong thị kiến chứa chan hy vọng thứ nhất, vị ngôn sứ báo trước cuộc tụ họp vĩ đại của muôn dân muôn nước và con cái Ít-ra-en đang tản mác khắp nơi:
“Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi,
vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước” (60: 3).
Chư dân đến từ phương xa này là muôn dân muôn nước, họ sẽ chọn Giê-ru-sa-lem như Thành Đô của mình, vì uy danh Thiên Chúa của thành đã quyến rũ họ.
“Đưa mắt nhìn tứ phía mà xem,
tất cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi:
con trai ngươi từ phương xa tới,
con gái ngươi được ẵm bên hông” (60: 4).
Những con trai con gái này là những “cộng đồng Do thái hải ngoại”, họ không bao giờ vắng bóng trong tâm trí của ngôn sứ I-sai-a đệ tam. Thế nên, một truyền thống rất sinh động muốn rằng toàn thể dân Ít-ra-en lại được thống nhất, đó phải là công trình của Đấng Cứu Thế. Như vậy, sấm ngôn hàm chứa hậu cảnh Mê-si-a.
3. Nguồn phú túc của chư dân sẽ đổ về Thành Đô (60: 5-6)
Trong thị kiến chứa chan hy vọng thứ hai được nối kết với thị kiến thứ nhất, vị ngôn sứ báo trước việc chư dân sẽ tiến dâng nguồn phú túc của mình để phụng sự Thành Thánh:
“Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà của người Ma-đi-an và Ê-pha;
tất cả những người từ Sơ-va kéo đến,
đều mang theo vàng với trầm hương,
và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa” (60: 6)
Những người Ma-đi-an, Ê-pha và Sơ-va là những dân Á-rập. Tên Sơ-va gợi lên kỷ niệm của nữ hoàng xứ Sa-ba đến triều yết vua Sa-lô-mon và dâng cho vua nhiều quà tặng quý giá. Thành đô Giê-ru-sa-lem sẽ không còn sống trong cảnh lầm than, nhưng trong cảnh thịnh vượng. Thành Đô sẽ lại bừng lên ánh sáng huy hoàng từ những hoang tàn đổ nát, Đền Thánh sẽ được tái thiết để trở thành nơi xứng đáng cho muôn dân lũ lượt kéo nhau đến để tán dương chúc tụng Thiên Chúa. Bức tranh muôn màu rực rỡ của vị ngôn sứ xem ra báo trước dáng dấp của các nhà chiêm tinh tiên trưng muôn dân muôn nước đến tôn thờ Thiên Chúa Ít-ra-en.
Vị ngôn sứ thoáng thấy điều mà thánh Phao-lô sẽ gọi “mầu nhiệm giữ kín từ muôn thuở nơi Thiên Chúa”: muôn dân muôn nước được đồng thừa tự với người Do thái, dân của Lời Hứa (Bài Đọc II). Thị kiến hùng vĩ về một cuộc tụ họp bao la chung quanh Thiên Chúa đích thật chuẩn bị thị kiến của thánh Gioan trong sách Khải Huyền: thành thánh Giê-ru-sa-lem tương lai là Thành Đô thiên quốc, được phác thảo trên trần thế này là Giáo Hội.
BÀI ĐỌC II (Ep 3: 2-3, 5-6)
Thánh Phao-lô viết bức thư này có lẽ trong cảnh bị giam cầm ở Rô-ma vào những năm 61-63. Bức thư được gởi đến các tín hữu Ê-phê-xô, và qua cộng đoàn Ê-phê-xô này, được chuyền đến các cộng đoàn khác nữa ở miền Tiểu Á. Quả vậy, trong bức thư này, không có bất kỳ lời chào thăm hỏi nào của thánh nhân dành cho các tín hữu Ê-phê-xô. Ấy vậy, thánh Phao-lô đã trải qua ba năm trong thành này và đã để lại ở đây các môn đệ và những bạn hữu. Vì không có lời chào thăm hỏi đặc thù này, khiến người ta suy ra rằng thánh Phao-lô muốn bức thư này phải được phổ biến rộng rải.
Những cộng đoàn miền Tiểu Á đa số là những Ki-tô hữu gốc lương dân. Thánh Phao-lô nhắc họ nhớ ơn gọi tông đồ dân ngoại của ngài. Nhiệm vụ của ngài là loan báo cho họ biết rằng không còn một dân tộc được hưởng đặc quyền đặc lợi nữa, vì muôn dân đều được hưởng cùng một ơn cứu độ như con cái Ít-ra-en.
1. Mầu nhiệm Đức Ki-tô
Sứ điệp chính yếu của bức thư này là “mầu nhiệm Đức Ki-tô”. Qua từ “mầu nhiệm” này, thánh Phao-lô muốn nói đến ý định ẩn kín từ muôn thuở ở nơi Thiên Chúa mà người ta có thể biết được chỉ nhờ Mặc Khải mà thôi.
Theo thánh Phao-lô, dù có nghiên cứu Kinh Thánh một cách thành tâm thiện chí mấy đi nữa cũng không thể nào biết được ý định ẩn kín từ muôn thuở này, đó là vào kỷ nguyên Mê-si-a, dân Ít-ra-en không còn được hưởng những đặc quyền nữa, nhưng được trao ban cho hết muôn dân: muôn dân trở nên đồng thừa tự Lời Hứa. Thánh nhân đã hiểu được Thiên Ý nhiệm mầu này chỉ nhờ ánh sáng của Đức Giê-su soi lòng mở trí cho thánh nhân trên đường Đa-mát.
2. Dân thánh
Từ trong cảnh giam cầm ở Rô-ma, vào lúc cuộc đời xế bóng, thánh Phao-lô liên kết sứ vụ Tông Đồ dân ngoại của mình với tất cả các vị Tông Đồ và các nhà rao giảng khác (những người mà thánh nhân gọi “ngôn sứ”), họ là những người đã lãnh nhận Thần Khí và thi hành sứ vụ như ngài. Qua kiểu nói: “dân thánh”, thánh nhân không gợi lên sự thánh thiện nói riêng, nhưng chỉ chung tất cả mọi người Ki-tô hữu. Xuống vài hàng, thánh Phao-lô tự nhận mình là “kẻ rốt hết trong toàn thể dân thánh”.
3. Vị Tông Đồ của dân ngoại
Thánh nhân đã hiến dâng mọi sức lực của mình cho ơn gọi này. Sách Công Vụ tường thuật thánh nhân đã nhiệt thành thực hiện sứ mạng của mình biết là ngần nào: trèo non lặn suối, vượt núi băng đèo, không quản ngại gian nguy. Chương 13 của sách Công Vụ tường thuật một chi tiết điển hình: sau bài thuyết giáo của thánh nhân ở hội đường An-ti-ô-khi-a, người Do thái sinh lòng ghen tức… trong khi dân ngoại vui mừng tôn vinh lời Chúa. Đó cũng là hai thái độ khác nhau mà thánh Mát-thêu nêu bật trong chuyện tích “Các Nhà Chiêm Tinh đến triều yết Chúa Hài Nhi”.
TIN MỪNG (Mt 2: 1-12)
Thánh Mát-thêu là tác giả Tin Mừng duy nhất tường thuật chuyện tích “các nhà chiêm tinh đến yết kiến Chúa Hài Nhi”. Thánh nhân đã giữ lại chuyện tích này vì nó xác minh một trong những chủ đề sách Tin Mừng của ông. Chính quyền và Giáo quyền Giê-ru-sa-lem đã không nhận ra Đấng Cứu Độ; vì thế, Thiên Chúa đã mở rộng con đường cho lương dân dự phần vào Giao Ước, bởi vì sứ điệp Tin Mừng cũng được gởi đến họ. Thật lạ lùng trong khi lương dân đáp trả lời mời gọi dự phần vào Giao Ước, thì con cái của Lời Hứa quay lưng lại với Giao Ước.
Thánh Lu-ca tường thuật các mục đồng đến chiêm ngưỡng và thờ lạy Chúa Hài Nhi, họ đại diện những người đơn sơ, khiêm tốn, chân thành và nghèo khó, trong khi thánh Mát-thêu lại tường thuật các nhà chiêm tinh từ đường xa vạn dặm đến triều bái Chúa Hài Nhi, họ đại diện những người thông thái, giàu có. Các mục đồng là những thành viên của dân Chúa chọn, trong khi các nhà chiêm tinh đến từ thế giới ngoại giáo. Hai bức tranh tương phản nhưng bổ túc cho nhau.
1. Ảnh hưởng của phương pháp “midrash”
Chuyện tích của thánh Mát-thêu rất phức tạp. Hai loại yếu tố được đan quyện vào nhau ở đây: những yếu tố này thuộc những dữ kiện lịch sử, những yếu tố khác do cách thức trình bày những sự kiện. Thánh Mát-thêu được gợi hứng từ phương thức giải thích Kinh Thánh của các kinh sư Do thái được gọi là “midrash”. Đây là thể loại văn chương được thịnh hành trong những môi trường Do thái vào thời Chúa Ki tô và vào thời Ki-tô hữu gốc Do thái.
“Midrash” là phương thức kể chuyện cốt yếu là tập hợp những câu Kinh Thánh chung quanh một hạt nhân lịch sử, phóng đại vài chi tiết và hễ có dịp nêu bật khía cạnh kỳ diệu của chúng để nhấn mạnh ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa. Phương thức midrash đặc biệt được tôn vinh vào việc cử hành phụng vụ lễ Vượt Qua: với phương thức này, những gợi ý của quá khứ trở nên sống động hơn.
2. Hạt nhân lịch sử
Chắc hẳn phải có một “biến cố thực” ở nơi nền tảng của chuyện tích Tin Mừng này. Rõ ràng thánh Mát-thêu múc lấy những dữ kiện của mình ở nơi những kỷ niệm và truyền thống Bê-lem, trong khi thánh Lu-ca quy chiếu nhiều hơn đến những kỷ niệm và truyền thống Na-da-rét.
Mặt khác, những thủ bản Biển Chết đã giúp khẳng định chuyện tích Tin Mừng. Trong số những thủ bản được khám phá, người ta đã gặp thấy số tử vi của vị vua Mê-si-a được mong đợi. Như vậy, vào thời Đức Ki-tô chào đời, người ta bận lòng muốn biết Đấng Mê-si-a sinh ra dưới vị sao hộ mệnh nào, và trong vài môi trường Do thái, người ta tra cứu các tinh tú trên bầu trời để khám phá vị sao hộ mệnh này xuất hiện, vì Đấng Mê-si-a chào đời khi vị sao hộ mệnh của Ngài xuất hiện. Quả thật, các nhà chiêm tinh nói: “Chúng tôi đã thấy vị sao của Người xuất hiện”. Vào thời này, khoa chiêm tinh rất phổ biến.
3. Lên đường theo ánh sáng tự nhiên
Trong chuyện tích Tin Mừng Mát-thêu, ngôi sao được trình bày như một hiện tượng thiên nhiên. Nhưng xa hơn một chút, thánh ký làm cho ngôi sao lạ thành một dấu hiệu: ánh sáng của ngôi sao là lời kêu gọi mầu nhiệm soi lối dẫn đường cho các nhà chiêm tinh này. Thánh vịnh đã nói với chúng ta:
“Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa,
không trung loan báo việc tay Người làm.
Ngày qua mách bảo cho ngày tới,
đêm này kể lại với đêm kia.
Chẳng một lời một lẽ, chẳng nghe thấy âm thanh.
Mà tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu
và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển” (Tv 19: 2-5).
Nếu chỉ cần suy nghĩ cách sâu xa biết bao biến cố xảy ra trong đời thường là những ánh sao lạ thúc đẩy chúng ta lên đường đấy chứ.
4. Lai lịch của những nhà chiêm tinh đến từ Phương Đông
Những nhà thông thái và giàu có này là ai mà thánh Mát-thêu gọi họ là “các nhà chiêm tinh”? Theo nghĩa đầu tiên của thuật ngữ, từ “nhà chiêm tinh” chỉ các tư tế và các vị cố vấn của các vua Ba-tư. Về sau, tên gọi này bị dùng sai và được gán cho những người miệt mài nghiên cứu khoa thiên văn và thuật chiêm tinh. Thánh Mát-thêu xem ra hiểu theo ý nghĩa này. Họ đến từ Phương Đông. Thánh Mát-thêu không tìm cách xác định, điều mà thánh ký muốn nói: họ đến từ thế giới lương dân, điều cốt yếu là ở đó. Chắc chắn họ không phải là các vua.
Làm thế nào các nhà chiêm tinh này biết được số tử vi của “vua dân Do thái” mà nhận ra ngôi sao hộ mệnh của Ngài xuất hiện? Nhiều người khác nghĩ rằng văn chương Do thái về Đấng Mê-si-a đã được phổ biến một cách rộng rải trong các cộng đồng Do thái hải ngoại, đó lời giải thích đủ.
5. Dừng chân ở Giê-ru-sa-lem
Các nhà chiêm tinh đến Giê-ru-sa-lem bởi vì chính “vua dân Do thái” mà họ tìm kiếm. Thánh Mát-thêu chủ ý dùng tước hiệu này vì đó là tước hiệu được ghi ở nơi bản án kết tội của Đức Giê-su: “Người này là Giê-su, vua dân Do thái” (Mt 27: 37).
Sự xuất hiện của các nhà chiêm tinh ở Giê-ru-sa-lem khiến vua Hê-rô-đê và triều thần bối rối. Điều này xem ra cũng dễ hiểu vì vua cùng triều thần nghĩ đến một đối thủ bất ngờ xuất hiện. Nhưng cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao thì quả thật là lạ lùng. Tại sao dân thành Giê-ru-sa-lem không vui mừng nhỉ? Đây là lời ghi nhận mang đậm nét Tin Mừng Mát-thêu. Thánh Mát-thêu không thích Giê-ru-sa-lem, bởi vì dân thành này đã lỗi hẹn gặp gỡ Đấng Cứu Độ mà họ trông đợi qua những lời loan báo của các ngôn sứ. Qua việc cả dân thành Giê-ru-sa-lem xôn xao, thánh ký báo trước dân này sẽ từ chối Đức Giê-su trong tương lai. Mặt khác, vào thời điểm thánh Mát-thêu viết Tin Mừng của mình, những người Do thái chống đối cộng đoàn Ki tô hữu rất dữ dội. Sự căng thẳng này có thể được nhận ra ở nơi những lời nhận xét này: “Cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao”.
“Nhà vua triệu tập các thượng tế, các kinh sư lại, và hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải sinh ở đâu”. Các thượng tế là những lãnh tụ tối cao của Do thái giáo, còn các kinh sư là những chuyên viên Kinh Thánh; vì thế, họ có thể trả lời cho các nhà chiêm tinh biết chính xác Đấng Cứu Thế sinh ra ở đâu. Họ rất tự phụ về sự hiểu biết Kinh Thánh của mình, nhưng họ không muốn đi xa hơn. Sự hiểu biết Kinh Thánh của họ đã soi lối chỉ đường cho những người ngoại quốc xa lạ này đến với Chúa Hài Nhi, trong khi chính họ và toàn thể dân thành Giê-ru-sa-lem từ chối đến với Ngài. Như vậy sự quy tụ của những người ngoại quốc chung quanh vị vua Do thái vừa mới sinh này xem ra là hình ảnh tham dự trước cuộc quy tụ vĩ đại của Giáo Hội đến từ muôn dân.
Bản văn mà các kinh sư trích dẫn là lời sấm của ngôn sứ Mi-kha (thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên) được thánh Mát-thêu thay đổi một chút. Ngôn sứ Mi-kha viết: “Phần ngươi, hỡi Bê-lem Ép-ra-tha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giu-đa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Ít-ra-en …” (Mk 5: 1), trong khi bản văn trích dẫn của Mát-thêu: “Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời”. Rõ ràng trong bản văn của mình, thánh Mát-thêu không trích dẫn nguyên văn lời sấm của Mi-kha, nhưng sửa đổi và thêm vào bản văn của 2Sm 5: 2: “Chính ngươi sẽ chăn dắt Ít-ra-en, dân Ta…”.
“Bấy giờ Vua Hê-rô-đê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẻ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện” để xác định chính xác thời gian xuất hiện của Hài Nhi. Rõ ràng nhà vua đã hoạch định mưu đồ hãm hại Hài Nhi rồi, nhưng với thái độ giả nhân giả nghĩa, nhà vua nói với họ: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái yết Người”.
Vài nét chấm phá trên đây phác họa chân dung của nhân vật này rất gần với những gì các sử gia miêu tả về vị bạo chúa này: tâm địa ngờ vực, thù hằn, mê tín dị đoan và tàn bạo đến điên cuồng sát máu. Ông ra lệnh thảm sát vợ ông, bà Marianne, cùng nhiều người thân của bà, ba người anh em họ và ba người con riêng của bà. Chính ông đã ra lệnh hành hình nhiều người biệt phái trước công chúng. Cũng như ông truyền lệnh thiêu sống mười bốn trẻ em để trả thù cho việc dân chúng đã phá đổ con ó bằng vàng mà ông đã cho đặt trước Đền Thờ. Vì thế, đối với vị vua này, việc thảm sát các hài nhi Bê-lem không có gì là không thể. Vì danh vọng và quyền lực người ta có thể làm bất cứ điều gì dù vô nhân tính đi nữa.
Phải chăng việc các nhà chiêm tinh dừng chân ở Giê-ru-sa-lem được khai triển theo cách thức giải thích “Midrash”? Chắc chắn một phần nào đó. Chúng ta đọc thấy cách giải thích Midrash về cuộc chào đời của Mô-sê như sau: “Pha-ra-ô triệu tập tất cả các nhà thông thái và triều đình …Toàn dân kinh hãi…một hoàng tử triều yết vua và tấu trình lên vua…một hài nhi sắp chào đời cho con cái Ít-ra-en. Xin ra lệnh giết tất cả nam nhi…”. Đây là lời giải thích Midrash trên đoạn văn sách Xuất Hành 1: 9-22. Phải chăng thánh Mát-thêu được gợi hứng từ phương thức này? Hai hoàn cảnh tương tự như nhau thì rất rõ.
6. Lên đường theo ánh sáng Lời Chúa
Chắc chắn chúng ta cũng phải lưu ý đến cách thức tô điểm midrash ở nơi việc tái xuất hiện của vị sao lạ này. Việc ngôi sao lạ này lại xuất hiện có cần thiết không, bởi vì Kinh Thánh đã cho họ thông tin chính xác về nơi sinh hạ của Hài Nhi rồi. Ấy vậy, làng này rất gần với Giê-ru-sa-lem, cách khoảng 9 km. Vậy, ánh sao soi lối chỉ đường cho các nhà chiêm tinh đến Bê-lem phải được hiểu theo văn mạch là “ánh sáng Lời Chúa”. Quả thật, Thánh vịnh đã không nói với chúng ta: “Lời Chúa là ánh sáng soi lối dẫn đường cho bước chân con đi” sao?
7. Gặp gỡ Hài Nhi
Bấy giờ các nhà chiêm tinh gặp thấy Hài Nhi không còn trong “hang lừa máng cỏ” nữa, nhưng trong “nhà”. Một khoảng thời gian đã trôi qua giữa Hài Nhi chào đời và các nhà chiêm tinh đến yết kiến: “Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a…”. Như vậy, theo dấu chỉ của Lời Chúa, họ đến triều bái chính Đấng mà thánh Gioan tuyên xưng: “Ngôi Lời làm người và cư ngụ ở giữa chúng ta”. Chính ở nơi Ngài mà Cựu Ước đã tiên báo và cũng chính ở nơi Ngài mà Cựu Ước gặp thấy ý nghĩa tròn đầy của mình.
Chúng ta ghi nhận thánh Giu-se không được kể ra ở đây. Điều này thật lạ lùng, vì cho đến lúc này thánh Mát-thêu rất chú ý đến những sự việc xảy ra cho thánh Giu-se. Việc không nhắc đến thánh Giu-se ở đây có ẩn ý gì chứ? Phải chăng đây là dấu chỉ đầu tiên bày tỏ niềm tôn kính dành cho Đức Trinh Nữ ở nơi cách nói “Hài Nhi cùng với thân mẫu của Ngài” ?
Với tấm lòng tôn kính và quảng đại Đông Phương quen thuộc, họ dâng tiến các lễ vật lên Hài Nhi bé bỏng mà họ nhận ra ở nơi cái vẻ bên ngoài quá mức tầm thường này là một vị vua vừa mới chào đời. Các Giáo Phụ cố gắng giải mã ý nghĩa của những phẩm vật này: vàng là phẩm vật cao quý được dâng tặng cho vua, vì Hài Nhi này là vua; nhũ hương là hương liệu được đốt trên bàn thờ của các thần linh, tỏa hương trầm nghi ngút, vì Hài Nhi này là Thiên Chúa; mộc dược là một trong những dược liệu được dùng để ướp xác, vì Hài Nhi này sẽ thực hiện ơn cứu độ trần gian bằng con đường Tử Nạn. Như vậy, qua ba phẩm vật đầy ý nghĩa này, các nhà chiêm tinh tuyên xưng Hài Nhi Giê-su là vua, là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Thế. Các nhà chiêm tinh từ phương trời xa đến triều bái lạy Hài Nhi, như thế các sấm ngôn về Đấng Cứu Thế được ứng nghiệm ở nơi Hài Nhi Giê-su này (Tv 72: 10-15; Is 60: 5tt; 49: 23; Ds 24: 17).
Người ta có thể nêu lên vấn đề lịch sử tính của chuyện tích này, nhưng không ai có thể chối cãi đây là cuộc hành trình tâm linh của chính Giáo Hội vốn từ muôn dân mà đến khởi đi từ con đường mặc khải tự nhiên: một hiện tượng thiên nhiên, một biến cố, một hoàn cảnh sống… đến con đường mặc khải siêu nhiên: Lời Chúa, để rồi cuối cùng gặp gỡ chính Đấng là Ngôi Lời Thiên Chúa. Theo một cách nào đó, đây cũng là cuộc hành trình tâm linh của mỗi người chúng ta.
23.Thiên Chúa: Đấng biểu lộ tình thương – đi tìm con người--Lm. Xuân Hy Vọng
Kính thưa quý ông bà và anh chị em thân mến! Thiên Chúa là Đấng quyền năng, vượt trên hết mọi sự. Ngài dùng tất cả mọi phương thế hầu mạc khải ơn cứu độ cho muôn người thuộc mọi thời, mọi nơi. Hôm nay, cùng với Giáo Hội mừng kính lễ Chúa Hiển Linh, chúng ta theo chân các nhà đạo sĩ lên đường đến thờ lạy, dâng kính, tán tụng Chúa Hài Đồng.
Chúng ta thường hay gọi Ba Vua, nhưng thực ra họ là những người chiêm tinh, nhìn trăng sao, nghiên cứu những điềm thiêng dấu lạ, mà qua đó Thiên Chúa muốn mạc khải chương trình Cứu độ của Ngài. Họ là những người biết sử dụng tài năng, tài trí, các phương tiện, trí khôn, tinh hoa thời đó mà tiến bước theo tiếng gọi, lời mời của Thiên Chúa qua những sự kiện gần gũi với cuộc sống của họ. Từ phương Đông, các đất nước xa xôi, họ không ngại gian nan nguy khó, lên đường dù nghìn trùng trắc trở, theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa qua ngôi sao lạ, tiến đến Bê-lem để bái thờ, dâng kính Chúa Hài Nhi như tiên tri I-sa-ia loan báo “vinh quang của Ðức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi Ðức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi” (Isa 60, 1-2) Thiên Chúa không ẩn mình hay khép kín, hoặc xa lánh con người tội lỗi, nhưng Ngài thổ lộ, mạc khải kế hoạch yêu thương, chương trình cứu độ, và chỉ dẫn chúng ta biết nhận ra Ngài qua mầu nhiệm Nhập thể của Con Một Ngài. Đây không phải là một lời hứa suông, mà chính là ý định của Thiên Chúa được thực hiện qua Đức Ki-tô Giê-su. Hơn nữa, một cách cụ thể, Thánh Phao-lô đã xác tín và trình bày rõ ràng qua thư gửi cho Giáo đoàn Ê-phê-sô “tôi đã được thấu hiểu mầu nhiệm mà con cái loài người các thế hệ khác không được biết, nhưng nay đã mạc khải cho các thánh Tông đồ của Người, và cho các vị Tiên tri, nhờ Thánh Thần. Và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể và đồng thông phần với lời hứa của Người trong Chúa Giê-su Ki-tô” (Ep 3, 3. 5-6). Một Thiên Chúa gần gũi, luôn đi bước trước dìu dắt, yêu thương trọn hảo, chẳng chê bỏ con người yếu đuối, mỏng dòn, hay xa ngã như chúng ta.
Mặc khác, Thiên Chúa không chờ đợi chúng ta đi tìm Ngài, nhưng Ngài đi tìm chúng ta trước; và còn hướng dẫn, dạy dỗ, chỉ đường cho chúng ta đến với Ngài qua mọi phương tiện, sự kiện, cảm nghiệm, dấu chỉ, kể cả sự cố xảy trong đời chúng ta. Để rồi, nhờ ơn Chúa giúp và sự vâng phục đáp trả lời kêu mời của Ngài, chúng ta nhận biết Ngài, nhận ra chương trình của Ngài trong đời sống, trong mối tương quan, trong những lãnh vực khác nhau, v.v…Thiên Chúa đã dùng dấu chỉ ‘sao trời’, lĩnh vực mà ba nhà đạo sĩ am hiểu mà dẫn đường chỉ lối cho họ tiến đến Bê-lem gặp gỡ Con Thiên Chúa xuống thế làm người, cứu độ nhân loại. Ngược lại, Vua Hê-rô-đê và những người thông luật, am hiểu Kinh Thánh Cựu ước, biết ý định của Chúa qua lời các tiên tri ‘tại Bê-lem thuộc xứ Giu-đa, vì đó là lời do Ðấng Tiên tri đã chép: Cả ngươi nữa, hỡi Bê-lem, đất Giu-đa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giu-đa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta’ (Mt 2, 5-6), nhưng họ không dùng những phương tiện ấy để nhận ra Thiên Chúa - một vị Thiên Chúa hiện hữu, gần gũi và hằng đi tìm con người. Vì lòng đố kỵ, ‘cái tôi’ mà Vua Hê-rô-đê và các nhà thông luật, đại giáo trưởng đã phớt lờ tiếng gọi của Chúa thúc giục trong tâm hồn họ qua lời Kinh Thánh mà họ nằm lòng. Trong cuộc sống của mỗi người chúng ta, dù tất bật đến đâu, dù bận rộn và thăng trầm, vui buồn sướng khổ, dù ở bậc sống nào chăng nữa, Thiên Chúa cũng mời gọi chúng ta, đi tìm chúng ta, trông chờ chúng ta, biểu lộ chương trình Ngài cho chúng ta và hằng hướng dẫn chúng ta biết nhận ra Ngài; nhưng thật đáng buồn, dường như chúng ta lại trở nên giống Vua Hê-rô-đê, các kỳ lão hơn là ba nhà đạo sĩ vâng phục đáp trả lời mời của Chúa! Vì vậy, chúng ta xem ý định, chương trình, kế hoạch của bản thân, của cộng đoàn, của hội nhóm hơn những điều Chúa muốn, Chúa mong mỏi và biểu lộ hằng ngày qua đời sống cầu nguyện, đời sống phục vụ, tận hiến, truyền giáo cũng như các việc bác ái của chúng ta!
Và khi gặp gỡ Hài Nhi Giê-su cùng với Mẹ Ma-ri-a và thánh Giu-se, ba nhà đạo sĩ đã quỳ gối, bái lạy Ngài, và dâng lên những gì quý giá nhất của họ: vàng, nhũ hương và mộc dược, thể hiện niềm tín thác trọn hảo của họ, lòng cậy trông vô bờ bến cũng như tình yêu son sắt không phai tàn. Còn chúng ta, chúng ta dâng gì cho Chúa Hài Đồng khi được diện kiến Ngài? Lễ vật quý giá của chúng ta là gì? ‘Vàng’ của chúng ta là gì? Có phải lòng yêu Chúa không hề thay đổi và tình mến thương anh chị em vô vị lợi? ‘Nhũ hương’ của chúng ta là chi? Chẳng phải là niềm trông cậy thắm thiết vào chương trình đầy lòng thương xót của Thiên Chúa sao? Và ‘mộc dược’ của chúng ta là gì? Niềm thành tín sâu sắc, chẳng hề nhạt phai chăng?
Mau chân cất bước ra đi,
Ba nhà đạo sĩ ngại gì xa xôi.
Một lòng đáp trả lời mời,
Tiến về hang đá đầy vơi vui mừng.
Con đây mang đến lễ dâng,
‘Vàng’ thì chẳng có, bâng khuâng nỗi niềm.
Đời này vẹn mãi con tim,
Kiên trung, tín thác, kiếm tìm ý Cha.
‘Nhũ hương’ cậy mến bao la,
Trọn đời son sắt, lời ca hát mừng.
Lòng con vang mãi tưng bừng,
‘Mộc dược’ thành tín, hoà cùng muôn dân.
Cảm tạ Tình Chúa tri ân
Sống sao cho trọn, ân cần lòng Cha. Amen!
24.“Lầm Đường Lạc Lối”--Lm. Gioan Phan Tiến Dũng
Chắc hẳn ai trong chúng ta ít ra cũng đã có một lần bị “Lầm đường lạc lối” cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Đi lạc đường, sai đường, nhầm đường là chuyện đương nhiên khi chúng ta chưa có kinh nghiệm hay là lần đầu mình muốn tìm đến một nơi nào đó. Cũng có thể, vì lý do chủ quan hay khách quan, sau một thời gian dài, chúng ta mới nhận ra rằng, sự nghiệp, công việc mà mình đã-đang làm hay lý tưởng, ơn gọi mà mình đã-đang theo đuổi-dấn thân bấy lâu nay, hóa ra là mình đã bị lầm tưởng, sai lạc, “lầm đường lạc lối”. Khi phát hiện ra mình bị “lầm đường lạc lối” như vậy, chúng ta có thất vọng, chán nản, bỏ cuộc, hay nỗ lực, cố gắng để tìm ra hướng đi, con đường mới; những lúc như vậy, điều gì sẽ giúp để chúng ta có thể định hướng lại hầu vững tin, dấn thân và tiến bước?
Lễ Hiển Linh hôm nay, Thiên Chúa đang mạc khải và chiếu tỏa tình thương cứu độ cho tất cả chúng ta qua nhiều cách thế, với những ai thành tâm thiện chí, sẽ được Chúa ban ơn để họ được thỏa lòng mong đợi. Điều này được minh chứng qua các bài đọc Lời Chúa. Ánh sáng đã soi chiếu, lan tỏa cho chúng ta cùng toàn thể nhân loại, đó là “Ánh Sáng của Con Thiên Chúa”. Qua ánh sáng tình thương và ân sủng đích thực này, Thiên Chúa đang mời gọi chúng ta, một khi đã khám phá ra, tìm gặp được, hãy dấn thân, tin theo và tiến bước, để rồi chính chúng ta trong hành trình ơn gọi-sứ vụ của mình, cũng có thể trở nên gương sáng soi dẫn cho người khác đến tìm gặp Chúa và sống trọn vẹn cho Ngài.
Bài đọc một, Tiên tri Isaia đã mời gọi những ai cư ngụ và sống tại Giêrusalem hãy cảm nếm vì Thiên Chúa đã thương chiếu rọi ánh vinh quang của Ngài trên dân. Những ai nhận ra ánh sáng ân sủng này của Thiên Chúa, hãy vui mừng để loan báo và sống với ân ban đó; để từ đây tất cả mọi nước mọi dân cũng sẽ nhận ra ánh sáng của Thiên Chúa qua Giêrusalem. “Hãy đứng lên, hãy toả sáng ra, hỡi Giêrusalem! Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi.”
Trong bài đọc hai Thánh Phaolô đã chia sẻ kinh nghiệm quý báu của Ngài cho các tín hữu Ephêsô biết: ánh sáng ân sủng của Thiên Chúa được mạc khải cho Ngài đến từ Chúa Giêsu Kitô. Qua Đức Giêsu Kitô và những người mà Chúa ủy thác, dân ngoại cũng được thừa hưởng ân sủng và trở nên dân thánh Chúa trong nhiệm thể của Chúa Giêsu Kitô. Hơn ai khác, chính bản thân Phaolô, khi Ngài nhận được ánh sáng ân sủng, Ngài đã khiêm tốn, mở lòng để Chúa làm cho trở nên tông đồ của mọi dân mọi nước. Giờ đây, Phaolô cũng mời gọi chúng ta hãy noi gương Ngài luôn khiêm tốn, mở lòng trước ơn ban tình thương của Chúa, hãy để cho ánh sáng Chúa soi dẫn hầu qua sứ vụ-ơn gọi của chúng ta, ơn Chúa được lan tỏa đến với tha nhân.
Tin mừng theo Thánh Matthêu thuật lại cho chúng ta có ba cách thế được mạc khải để giúp con người nhận ra được tình thương, hồng ân của Thiên Chúa đến từ dấu chỉ ánh sáng của ngôi sao lạ; nhưng lại có ba cách đáp trả khác nhau. Trước hết, với ba nhà Đạo sĩ: “Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Ðông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người”. Mặc dầu họ là dân ngoại, không phải dân riêng Do Thái được tuyển chọn, nhưng khi nhận biết có dấu lạ đặc biệt từ ngôi sao, họ đã phân tích, suy xét và nhận định rằng đây chính là ngôi sao của một vị Vua người Do Thái mới sinh ra. Họ đã mau mắn thu xếp mọi sự để lên đường theo dấu chỉ của ánh sao. Trên hành trình tìm đến với vị Vua mới sinh này, chắc hẳn không biết bao nhiêu khó khăn mà họ đã gặp phải. Có lúc họ không còn biết phải chọn lối đi và hành trình nào, vì ánh sáng từ ngôi sao không còn nhìn thấy nữa. Nhưng không vì thế mà họ bỏ cuộc, họ đã quyết tâm để tìm hỏi, cuối cùng với những nỗ lực, họ cũng được đáp đền. “Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Ðông phương, lại đi trước họ, mãi cho tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở. Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng.” Thật vậy, với sự mạc khải qua ánh sao, ba nhà Đạo sĩ đã được diện kiến Chúa Hài Nhi Giêsu, họ đã hân hoan vui sướng, dâng tiến lễ vật với lòng tôn kính, cảm tạ và tri ân. Qua đây, chúng ta thấy điều mà bài đọc một tiên báo được ứng nghiệm: “Tất cả mọi người đang tụ họp, tìm đến…đem theo vàng và nhũ hương và họ sẽ tuyên rao lời ca ngợi Chúa.”
Thứ đến, với các Thượng tế và Kinh sư, khi được hỏi họ: “Vua Do Thái mới sinh ra ở đâu?”Họ đã trích dẫn Kinh Thánh và biết rõ theo lời tuyên báo thì Ngài sẽ được sinh ra tại Bêlem. Với những chuyên gia, họ đã nhận ra được mạc khải từ Kinh Thánh, họ biết đường, biết lối, nhưng chẳng ra đi tìm kiếm hay hành động gì cả; ánh sáng Lời Chúa không đem lại ý nghĩa, ơn thánh gì, nên trong họ không có sự thay đổi nào. Cuối cùng, với Hêrôđê, khi ông được các Đạo sĩ và các Thượng tế báo cho biết về vị Vua mới sinh. Mới nghe tin, ông đã hoang mang lo sợ; và để biện hộ cho chính mình, ông đã mưu toan, tìm kế để sát hại Hài Nhi Giêsu. Đây chính là thái độ, hành động chối từ, dập tắt ánh sáng đã được mạc khải. Hai cung cách đáp trả trên của các Kinh sư và Hêrôđê chính là sự “lầm đường lạc lối”. Còn với chúng ta hiện nay, con đường cuộc sống chúng ta đi đang như thế nào?
Thưa ACE, qua Lời Chúa và qua các Bí tích của ân sủng, chúng ta cũng được Chúa mạc khải và mời gọi: hãy đến để được Chúa ban ơn chúc phúc. Vậy, liệu chúng ta có khiêm tốn, mở lòng và mau mắn đáp trả, hay chúng ta vẫn cứ thờ ơ-dửng dưng, hoặc tệ hại hơn là chúng ta đã từ chối, khước từ trước ánh sáng chỉ đường, ơn ban hồng ân của Chúa khi chúng ta yếu đuối, phạm tội. Lạy Chúa, xin cho lòng trí và cuộc sống chúng con luôn khao khát tìm gặp được ánh sao sáng là Đức Giêsu Kitô, để cùng với ơn thánh của Ngài trao ban, chúng con có thể bước đi trong con đường ngay chính, thánh đức và đạt tới bến bờ an vui, hạnh phúc đích thực. Amen.
25.Lễ Hiển Linh--Jaime L. Waters - Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển
Hôm nay là lễ Hiển Linh, cử hành việc các đạo sĩ theo dấu một vì sao để tìm đến với Hài nhi Giêsu. Hành trình và hành động thờ lạy của các đạo sĩ là những ví dụ điển hình về cách thức chúng ta đi tìm và gặp được Đức Kitô trong cuộc sống. Lễ Hiên Linh thường được giải thích như là một lời mời gọi cả dân ngoại cùng với người Do Thái đến tôn thờ Chúa Giêsu là Đấng Mêsia, được nhấn mạnh trong bài đọc thứ nhất và bài đọc thứ hai. Trình thuật cũng đưa ra các ví dụ để nhận ra các nhà lãnh đạo hư hỏng trong dân Do Thái thời đó.
Trong bài Tin Mừng của thánh Matthêu, chúng ta bắt gặp sự lo lắng của vua Hêrôđê trước tin Chúa Giêsu là vua dân Do Thái, cho rằng sự ra đời của Hài nhi là hiểm họa tiềm ẩn đe dọa quyền lực của ông. Hêrôđê hỏi ý kiến các thượng tế và kinh sư để biết thêm thông tin về sự xuất hiện của Đấng Mêssia. Lời bàn bạc của các nhà lãnh đạo Do Thái với vua Hêrôđê diễn giải bản văn từ sách ngôn sứ Mikha và 2 Samuen: “Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa; vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời.” Những đoạn này nói về vua Đavit và giao ước hứa hẹn triều đại vững bền cho ông.
Thánh sử Matthêu giải thích những đoạn Kinh Thánh này theo cái nhìn về việc ra đời của Chúa Giêsu tại Bêlem, tạo nên mối liên hệ giữa Chúa Giêsu, vua Đavit và Kinh Thánh Do Thái. Các nhà lãnh đạo Do Thái không luồn cúi, không xoa dịu hay làm cho Hêrôđê thỏa mãn với những gì ông ta muốn nghe. Họ không phủ nhận mối đe dọa tiềm ẩn đối với quyền lực của Hêrôđê; đúng hơn, họ khẳng định tầm quan trọng của một Đấng Mêssia, người sẽ trổi lên như một nhà chăn dắt dân tộc từ Bêlem. Mặc dù ý định xấu xa của Hêrôđê đã rõ ràng nhưng họ vẫn chọn nói sự thật trước quyền lực nhà vua.
Rất quan tâm đến vấn đề nên vua Hêrôđê nhờ các nhà đạo sĩ làm gián điệp, cử họ đi khám phá tung tích của Hài nhi Giêsu. Thánh sử Matthêu mô tả các đạo sĩ dâng những quà tặng mà độc giả Do Thái xem là quan trọng: vàng, nhũ hương và một dược, những lễ vật liên quan đến vương quyền, chức tư tế và việc tẩn liệm.
Các đạo sĩ đã được báo mộng - một hình thức phổ biến trong Kinh Thánh để nói về việc giao tiếp thần linh - không quay trở lại với Hêrôđê, vì vậy họ tránh nhà vua và khôn ngoan đi lối khác mà về xứ sở. Có lẽ vua Hêrôđê muốn dồn họ tới chỗ Hài nhi Giêsu sinh ra và mưu toan giết hại Ngài như ông đã làm sau đó trong trình thuật về việc thảm sát các trẻ sơ sinh. Thay vì gây nguy hiểm cho Hài nhi Giêsu hoặc chính họ, các đạo sĩ đã tránh vua Hêrôđê như một biện pháp để phòng vệ.
Các nhà cầm quyền Do Thái và các đạo sĩ đấu tranh với ý định xấu xa của vua Hêrôđê và tìm ra những cách hữu ích để không hỗ trợ sự suy đồi của ông.
Những bài đọc này nhắc nhở chúng ta biết ơn những người đương đầu với những nhà lãnh đạo gây ra bất công và thức tỉnh chúng ta nhận ra cách thức Chúa tiếp tục kêu gọi chúng ta nói lên sự thật với những người lãnh đạo như thế. Trong ngày lễ Hiển Linh hôm nay, giống như các vị đạo sĩ, chúng ta phải tiến đến gần Chúa Kitô hơn, nỗ lực dấn thân trong thế giới và xa tránh sự suy đồi bằng mọi giá.
Nguồn: https://www.americamagazine.org/faith/2020/12/17/feast-epiphany-gospel-reflection-catholic-scripture-magi-239465
26.Ánh sao lạ dẫn đường giúp lương dân gặp gỡ Chúa--Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA:
Ý CHÍNH:
Qua ánh sao lạ, Thiên Chúa đã soi sáng cho các đạo sĩ tìm đến thờ lạy Con Chúa mới giáng sinh, đang khi vua chúa và các đầu mục dân Do thái lại tỏ thái độ thờ ơ, thậm chí còn thù ghét cố tình hãm hại Người.
CHÚ THÍCH:
- C 1-2: +Bê-lem: Một thị trấn nhỏ bé nằm cách thủ đô Giê-ru-sa-lem khoảng 7 cây số về phía Nam. Thị trấn này tuy nhỏ bé nhưng rất danh tiếng, vì là quê hương của vua Đa-vít. Bê-lem còn được Ngôn sứ Mi-kha tuyên sấm là nơi mà Đấng Cứu Thế sẽ ra đời (x. Mk 5,1). +Mấy nhà chiêm tinh: Là những đạo sĩ hay chiêm tinh gia đã từng đọc Thánh Kinh của Do thái giáo nên có sự hiểu biết về việc Đấng Thiên Sai sắp xuất hiện và muốn được gặp gỡ Người. Dựa vào lễ vật các ngài mang theo là những đặc sản của xứ Arabi, nên người ta đóan các ngài từ xứ Arabi mà đến. Đồng thời dựa vào số lễ vật, người ta cho rằng có 3 vị. Đến thế kỷ VIII, có người còn kể rõ tên của ba vị đạo sĩ ấy là: Men-ki-o (Melchior), Ban-thơ-da (Balthezar) và Gát-pa (Gaspar), đại diện cho ba châu lục thời bấy giờ là châu Âu (da trắng), châu Á (da vàng) và châu Phi (da đen).
- C 11-12: +Vàng, nhũ hương và mộc dược: Các giáo phụ đã giải thích: Vàng ám chỉ tước vị Vua; Nhũ hương chỉ chức vụ Thượng tế; Mộc dược chỉ con đường cứu thế của Đấng Thiên Sai chọn là sẽ bị giết chết trên thập giá và được mai táng trong mồ. Tuy nhiên, ngày nay có người lại giải thích về ý nghĩa của ba lễ vật được các đạo sĩ dâng lên Hài Nhi Cứu Thế như sau: Vàng tượng trưng đức Tin vào Thiên tính của Đấng Thiên Sai; Nhũ hương tượng trưng đức Cậy là lời cầu nguyện như hương trầm bay lên để tôn vinh Chúa; Mộc dược tượng trưng cho đức Mến là những hy sinh và quyết tâm từ bỏ ý riêng để vâng theo ý Chúa.
CÂU HỎI: 1-Bạn biết gì về thành Bê-lem? 2-Chiêm tinh gia là hạng người thế nào? 3-Các ngài từ đâu đến và gồm bao nhiêu vị? 4-Ba lễ vật là vàng, nhũ hương và mộc dược được dâng cho hài nhi Cứu Thế có ý nghĩa ra sao?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: Thánh Phao-lô dạy các tín hữu: “Giữa một thế hệ sa đọa, anh em hãy tỏa sáng như những vì sao trên vòm trời” (Pl 2,15b).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Món quà của Artaban.
HĂNG-RI VĂNG ĐAI-KƠ (Henry Van Dyke) có thuật lại câu chuyện nhan đề: “CÒN MỘT NHÀ ĐẠO SĨ KHÁC NỮA”, kể về nhân vật thứ tư là người lẽ ra đã cùng ba nhà đạo sĩ đi tìm Vua dân Do thái mới sinh. Nhân vật này tên là Ar-ta-ban. Trong lúc chuẩn bị lên đường, Ar-ta-ban có mang theo một túi đựng những viên kim cương để dâng tặng cho vị ấu vương. Thế nhưng trên đường đến điểm hẹn, Ar-ta-ban đã phải dừng chân để giúp đỡ một người nghèo đói nằm bên vệ đường. Do đó khi đến nơi thì ông không còn thấy ba vị kia đâu. Dù vậy, ông vẫn kiên trì tiếp tục cuộc hành trình đi tìm Vua Cứu Thế. Trên đường tìm kiến, mỗi lần gặp một người khốn khổ, ông lại bán đi một viên kim cương để giúp đỡ. Sau nhiều năm, Ar-ta-ban đã dần dần trở thành một lão già ốm yếu, thế mà ông vẫn chưa gặp được Vua Do thái như lòng hằng mong ước.
Rồi 33 năm sau, khi đang trọ trong thành Giê-ru-sa-lem, Ar-ta-ban thấy cả thành xôn xao náo động vì cái tin nhà cầm quyền đang đem một tội nhân đi hành hình thập giá. Ar-ta-ban tò mò hoà theo dòng người đi xem. Khi nhìn thấy tội nhân đang vác cây thập tự bị té ngã nhiều lần, linh tính cho biết đó chính là vị Vua Cứu Thế mà ông hằng tìm kiếm. Ong liền đi theo Người trên đường thương khó. Rồi khi tội nhân bị đóng đinh và bị treo trên thập giá, Ông muốn đến gần ôm lấy vị Vua kia, nhưng không thể được vì bị bọn lính canh ngăn cản. Bỗng chốc Ar-ta-ban thấy vị Vua mở mắt ra nhìn ông và ông nghe thấy có tiếng thì thầm bên tai rằng: “Này Ar-ta-ban, con đừng buồn nữa. Ta cám ơn con vì bao năm qua đã nhiều lần con tặng quà cho Ta. Nhiều lần Ta đói con đã cho bánh ăn, Ta khát con đã cho nước uống, Ta rách rưới con đã cho đồ mặc, Ta là khách lạ con đã đón ta vào nhà ở trọ…”.
Nghe những lời ấy, Ar-ta-ban cảm thấy lòng tràn ngập niềm vui. Ông hiểu rằng: Các món quà xưa nay ông đã chia sẻ cho người nghèo là ông đã dâng tặng cho chính Vua Giê-su Cứu Thế. Món quà đó không nhất thiết phải là tiền bạc vật chất, nhưng còn là tình người, là sự thông cảm với những ai đang bị đau khổ, là thái độ khiêm tốn sẵn sàng phục vụ tha nhân vô vụ lợi.
2) Thái độ khiêm tốn phục vụ là ánh sao lạ dẫn đường hôm nay:
Vào một buổi chiều mùa đông, một người ngoại quốc tuổi trung niên lái xe trên con đường đèo vắng vẻ ở miền Trung Việt Nam. Đến một khúc quanh, phát hiện thấy một chiếc xe hơi chết máy đang nằm trên đường, gần bên là bốn người gồm hai vợ chồng và 2 đứa con nết mặt lo âu, vì đây là đoạn đường thường hay xảy ra cướp bóc. Do biết sửa xe hơi, nên người đàn ông ngoại quốc đã dừng xe mau mắn đến bên đề nghị giúp đõ khiến mọi người đều an tâm vui vẻ. Chiếc xe bị hỏng nặng khiến ông phải vất vả tháo rời nhiều bộ phận trong máy, thậm chí có lúc phải chui cả xuống gầm xe. Hai giờ sau thì chiếc xe đã nổ máy khiến mọi người đều mừng rỡ. Hai vợ chồng muốn trả công nhưng ông kia không lấy công. Cuối cùng họ đã xin địa chỉ và một tuần sau, hai vợ chồng có dịp đến thăm thì mới hay người đàn ông ngoại quốc giúp họ sửa xe hôm trước chính là một giám mục Công Giáo. Sau đó do nể phục nên cả gia đình đều xin theo đạo. Chính thái độ khiêm tốn phục vụ vô vụ lợi của vị giám mục người ngoại quốc đã trở thành ánh sao dẫn đường giúp cả gia đình lương dân nhận biết tin thờ Chúa.
3) Hãy biết cảm thông chia sẻ cơm áo vật chất với người nghèo khổ:
Có một bé gái đi theo mẹ đi viếng hang đá tại nhà thờ. Bà mẹ giải thích cho em rằng ba nhà Đạo Sĩ dâng tiến của lễ cho Chúa Hài Nhi là vàng, nhũ hương và mộc dược. Cô bé nhìn Hài Nhi trong máng cỏ một cách cung kính rồi quay sang hỏi mẹ: Tại sao họ không mang đến cho Chúa Hài Nhi một cái giường nhỏ để Chúa phải nằm trong máng cỏ tội nghiệp Chúa quá phải không mẹ? Do có tấm lòng nhân ái và sự quan tâm thực sự đến hài nhi Giêsu, nên cô bé đã cảm nhận được nhu cầu của cuộc sống.
Sự kiện Chúa Giêsu sinh ra nơi hang lừa, máng cỏ đã khơi dậy được tâm tư và sự cảm thông của nhiều người. Chúa đến trong nghèo hèn để mời gọi chúng ta hãy biết mở lòng chia sẻ tâm tình vật chất với những người cùng khổ nghèo đói bất hạnh. Nhu cầu thực tế của cuộc sống là miếng cơm manh áo và một chỗ nương thân. Chúa kêu gọi chúng ta hãy mở lòng cảm thông với người nghèo gần bên: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy."(Mt 25, 40).
3. THẢO LUẬN: 1) Tại sao dân ngoại từ phương trời xa đã gặp được Hài Nhi Cứu Thế, đang khi các nhà kinh sư thông thạo Kinh Thánh ở gần Bê-lem lại không gặp được Người? 2) Trong môi trường sống và làm việc hiện tại, bạn cần phải làm gì để chiếu sáng giúp anh em lương dân nhận biết và tin theo Đức Giê-su?
4. SUY NIỆM:
Lễ Hiển Linh theo truyền thống, được cử hành vào ngày 6 tháng Giêng. Dịp Lễ này, các tín hữu Tây Phương tưởng nhớ ba nhà Đạo Sĩ thăm viếng Chúa Hài Nhi Giêsu và sự biểu lộ thần tính của Con Chúa cho Dân Ngoại. Các ngài là những đạo sĩ hay chiêm tinh gia đã từng đọc Thánh Kinh của Do thái giáo nên có sự hiểu biết về việc Đấng Thiên Sai sắp xuất hiện và muốn được gặp gỡ Người. Dựa vào lễ vật các ngài mang theo là những đặc sản của xứ Arabi, nên người ta đóan các ngài từ xứ Arabi mà đến. Đồng thời dựa vào số lễ vật, người ta cho rằng có 3 vị. Đến thế kỷ VIII, có người còn kể rõ tên của ba vị đạo sĩ ấy là: Men-ki-o (Melchior), Ban-thơ-da (Balthezar) và Gát-pa (Gaspar), đại diện cho ba châu lục thời bấy giờ là châu Âu (da trắng), châu Á (da vàng) và châu Phi (da đen).
1) Một số nét tương phản trong bài Tin Mừng hôm nay:
- Giữa thủ đô Giêrusalem và thị trấn Belem: Giêrusalem là thủ đô hoa lệ, là trung tâm về chính trị và văn hoá của nước Do thái, nhưng lại từ chối tiếp nhận Hài Nhi Cứu thế, đang khi Bêlem chỉ là một thị trấn nhỏ bé nghèo nàn lại đón tiếp Đấng Cứu thế giáng sinh.
- Giữa những người Do thái giáo và lương dân: Các Tư tế và Kinh sư thông thạo Kinh thánh, nhưng lại lười biếng không dám dấn thân lên đường, nên họ đã không gặp được Đấng Cứu thế. Trái lại, ba vị Đạo Sĩ là những dân ngoại không hiểu biết Kinh thánh, nhưng lại có thái độ cầu thị, luôn tìm tòi và sẵn sàng dấn thân lên đường, nên đã gặp được Đấng Cứu Thế.
- Giữa vua thế tục và Vua Thiên Sai: Hêrôđê được gọi là vua, nhưng lại lo âu vì sợ bị Đấng Cứu Thế đến sẽ cướp mất ngai vàng của mình, nên ông đã tìm cách bắt bớ tiêu diệt Người. Còn Đức Giêsu Vua Thiên Sai lại chấp nhận lối sống khó nghèo, luôn mở rộng vòng tay để đón tiếp hết mọi người. Người không thích đóng khung đạo của Người trong cơ chế luật lệ cứng nhắc như đạo Do thái, nhưng Người luôn tỏ ra mềm dẻo khi tuyên bố: “Ngày sa-bát được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày sa-bát” (Mc 2,27). Người không đến trong cung vàng điện ngọc sang trọng như một bậc vua chúa, nhưng chọn đến trong một chuồng bò tăm tối, hôi tanh. Người không đến như một ông vua trần thế cao sang, nhưng đến với hình hài của một hài nhi yếu đuối nghèo hèn: ”Bà lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ” (Lc 2,7).
2) Điều kiện để gặp được Chúa: Tất cả những tương phản ấy cho thấy: Không phải cứ mang danh người có đạo là đương nhiên chúng ta sẽ gặp đựơc Chúa; Không phải cứ có sự hiểu biết giáo lý Kinh thánh là đương nhiên chúng ta sẽ gặp được Chúa. Muốn gặp được Chúa, chúng ta phải thành tâm thiện chí đi tìm và hăng hái dấn thân lên đường như ba vị đạo sĩ hôm nay.
- Ba đạo sĩ là những người ngoại giáo ở rất xa, nhưng luôn để tâm tìm kiếm dấu lạ trên bầu trời, và đã sớm nhận ra sự xuất hiện của một ngôi sao lạ của Đấng Cứu Thế.
- Việc đi theo ngôi sao lạ cũng đòi các đạo sĩ phải quyết tâm cao: rời bỏ nhà, giã từ người thân với những tiện nghi, chấp nhận cảnh thiếu thốn trong cuộc hành trình dài. Khi ngôi sao biến mất, các Ngài không nản chí bỏ cuộc, nhưng tìm hỏi trong đền vua, và cuối cùng nhờ quyết tâm cao như vậy, các ngài đã gặp được Hài Nhi Cứu Thế tại thị trấn Belem.
- Ba Vua không thể đến với Chúa nếu không có ngôi sao dẫn đường. Ngày nay, Chúa muốn mỗi người chúng ta cũng phải là một ngôi sao lạ loan báo lòng Chúa thương xót, giúp dẫn đưa những người thiện chí tìm gặp Chúa. Mỗi người chúng ta phải là một ngôi sao sáng về sự công bình và bác ái. Hãy chiếu ánh sáng ấm áp của tình người đối với mọi hạng người trong xã hội. Qua đó, anh em lương dân sẽ nhận biết và tin yêu Chúa chính là nguồn sáng đích thật.
3) Lời Chúa là ánh sao chỉ đường cho chúng ta: Tác giả sách thánh vịnh đã khẳng định như sau: "Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi." (Tv 119, câu 105). Chúa Giêsu cũng đã đồng hóa với người nghèo hèn: "Tất cả những gì anh em làm cho một người trong những anh em hèn mọn nhất của Ta đây là làm cho chính Ta." (Mt 25, 40). Những lời Chúa phán chính là ánh sáng giúp chúng ta nhận ra Chúa đang hiện thân trong tha nhân, đặc biệt trong những người nghèo hèn, đau khổ… để khuyến khích chúng ta phục vụ họ. Lễ vật của chúng ta hôm nay dâng Chúa không phải là vàng, nhũ hương và mộc dược như các đạo sĩ xưa, nhưng là bộ quần áo, chén cơm, sách vở bút mực cho người nghèo, hay là sự ân cần săn sóc người bệnh tật già cả neo đơn chung quanh chúng ta.
4) Ánh sao lạ giữa đời thường: Mỗi Ki-tô hữu phải là một ánh sao lạ thể hiện qua cử chỉ, lời nói, việc làm: Chỉ cần một nụ cười vui vẻ, một ánh mắt thân thiện, một lời khen đúng lúc, một việc phục vụ khiêm hạ của chúng ta cũng có thể phát ra ánh sáng giống như ánh sao lạ trên bầu trời đêm cho các đạo sĩ xưa, như lời thánh Phao-lô: “Giữa một thế hệ sa đọa, anh em hãy tỏa sáng như những vì sao trên vòm trời” (Pl 2,15b). Tuy nhiên, chúng ta chỉ có thể là những vì sao sáng thực sự khi chúng ta biết làm cho mình lu mờ đi để Ngôi Sao Mai là Đức Ki-tô có thể tỏa sáng trong chúng ta và trong lòng mọi người (x. Kh 2,28).
5. NGUYỆN CẦU:
- Lạy Chúa Giêsu. Tạ ơn Chúa đã cho chúng con ánh sáng mặt trời mặt trăng, và các lọai ánh sáng phát xuất từ các nguồn năng lượng khác nhau trên mặt đất. Tạ ơn Chúa đã gọi chúng con là “Ánh sáng cho trần gian”. Đây là một niềm vinh dự nhưng đồng thời cũng là một trách nhiệm rất nặng nề của chúng con. Xin cho ánh sáng của chúng con có sức đẩy lui bóng tối của hận thù và bất công, của buồn phiền và thất vọng ra khỏi những người chung quanh. Xin cho chúng con luôn duy trì ngọn lửa tin yêu đã được Chúa thắp sáng trong lòng chúng con, và sẵn sàng làm theo Lời Chúa dạy qua từng phút giây của cuộc sống hằng ngày.
- Lạy Chúa. Cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối vẫn đang tiếp diễn trên thế gian và ngay trong lòng mỗi người chúng con. Ước chi chúng con đừng chỉ biết nguyền rủa bóng tối tội ác, mà còn biết làm cho ngọn đèn đức tin trong chúng con luôn cháy sáng đức ái, để cả trái đất này đều được ngập tràn ánh sáng tìn yêu của Chúa, nhờ đó sẽ giúp mọi người nhận biết tin yêu Chúa và được chia hạnh phúc Nước Trời với chúng con.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
27.Khát vọng tìm Chúa--Lm. Nguyễn Chánh
1/ Nếu thử hỏi: Khát vọng sâu xa nhất của con người là gì?
Trước câu trả lời này ta thấy có những thái độ chọn lựa khác nhau: Sẽ có nhiều người nghĩ rằng tiền của, vật chất, địa vị, danh vọng, quyền lực, có khi ngay cả lạc thú, những thứ này sẽ là nguyên nhân khơi lên lòng ước muốn nơi họ. Từ xác tín mơ hồ đó, sẽ phát sinh những cách sống chỉ biết tôn thờ vật chất, tôn thờ quyền lực, cùng với những thứ giả dối khác...
Ngược lại, cùng một câu hỏi, nhưng ta lại thấy những tương phản với sự lựa chon theo chiều hướng duy vật trên. Đó là vẫn còn rất nhiều người xác tín rằng: Chúa chính là Đấng luôn đáp ứng cho những khát vọng sâu xa nhất trong cõi lòng con người. Đây chính là xác tín đúng nhất và sâu xa nhất.
Từ xác tín khiêm tốn trên, thực tế ta thấy rất nhiều tâm hồn trong cuộc sống họ không ngừng khao khát tìm gặp Chúa, cho dẫu họ phải hứng chịu nhiều thử thách cam go trong cuộc hành trình tìm Chúa.
Như vậy, cùng một câu hỏi, nhưng câu trả lời thì không giống nhau, luôn có sự tương phản với nhau. Bởi vì có những thái độ chon lựa khác nhau. Sự tương phản này chúng ta cũng tìm thấy nơi thái độ của các nhân vật trong trang Tin mừng hôm nay, khi Chúa sinh hạ tại Bêlem.
2/ Thái độ của Vua Hêrôđê, các Thượng tế, Luật sĩ và Dân chúng:
Đây là thái độ thờ ơ, không cần bận tâm trước một sự kiên vĩ đại là Vua Israel hạ sinh. Mặc dù Đấng Cứu Thế giáng sinh cách Giêrusalem không xa, hay sau khi đã tra cứu Kinh thánh và biết rằng tại Bêlem, miền đất Giuđa, Vị lãnh tụ của Israel ra đời. Đây là những yếu tố khách quan để Hêrôđê và mọi thành phần trong dân Israel nhận biết Chúa, tìm kiếm Chúa. Nhưng cũng vì quá mải mê với cách sống giàu sang, quá ham muốn với cuộc sống danh vọng và địa vị, nên những người này cảm thấy Đấng Cứu Thế cũng không cần thiết mấy so với những quyền hành và bổng lộc mà họ đang nắm trong tay. Vì thế họ cố tình không dò xét và tìm hiểu Mầu Nhiệm Giáng Sinh của Vua Israel là Đấng Kitô.
3/ Thái độ của các nhà chiêm tinh:
Đó là thái độ ngược hẳn với Vua Hêrôđê, các Thượng tế, Luật sĩ và dân Israel. Các nhà chiêm tinh luôn kháo khát Đấng Cứu Thế. Vì qua sự thiện chí nghiên cứu thời giờ, tín hiệu, nhất là qua ánh sao lạ, họ đã biết Đấng Cứu Chuộc muôn dân đã hạ sinh. Vì thế, họ quyết tâm lên đường tìm Chúa cho bằng được.
Tuy nhiên, trong chặng hành trình kiếm tìm Đấng Cứu Thế, các nhà chiêm tinh cũng đã gặp không ít những khó khăn. Khó khăn về thời gian, đi mà không biết đến lúc nào mới gặp được Chúa. Khó khăn về địa lý, bởi vì đường xá xa xôi hiểm trở. Khó khăn về những dự định cho công việc tại quê nhà. Khó khăn về sức khoẻ, thời tiết. Và khó khăn lớn nhất đối vời các nhà chiêm tinh là ngôi sao lạ dẫn đường biến mất trong chặng hành trình họ đang tìm Chúa.
Cho dù có đối diện với rất nhiều khó khăn, hay có phải rơi vào những hiểm trở chông gai. Các nhà chiêm tinh vẫn cương quyết đi tìm Chúa cho đến cùng. Vì lúc này đối với các ông Chúa chính là tất cả. Và nơi Ngài sẽ đáp ứng cho tất cả những khắc khoải của con người.
Và rồi "kiên nhẫn đã thắng mọi sự". Các nhà chiêm tinh đã gặp được Chúa. Cử chỉ các ngài sụp xuống thờ lạy Chúa, dâng vàng, nhũ hương và mộc dược, tất cả đều thể hiện niềm xác tín: Chúa là tất cả. Chúa là Đấng duy nhất để con người theo đuổi. Chúa là đối tượng duy nhất để đem niềm vui cho con người. Chúa là đối tượng duy nhất để con người tôn thờ và kính bái. Đây chính là thái độ đức tin của các nhà chiêm tinh. Nhờ thái độ đức tin kỳ diệu ấy, chúng ta đã thấy có sự biến chuyển cách sống nơi họ.
4/ Sau khi đã gặp được Chúa và thờ lạy Chúa.
Các nhà chiêm tinh ra về mang theo tâm trạng của những con người đang dâng trào niềm vui mới và cách sống mới. Niềm vui mới đã đem đến cho họ một chon lựa mới. Đó là phải sống theo đường lối mà họ mới nhận ra nơi Chúa. Đường lối mới là họ phải xa tránh và không đi trên lối mòn của con đường cũ, nhưng phải bước đi trên những nẻo đường mới của con người mới. Đây là kết quả của những thiện chí, thể hiện qua sự hy sinh và khao khát kiếm tìm Chúa nơi các nhà chiêm tinh. Những thiên chí của các nhà chiêm tinh đã được Chúa bù đắp bằng sự biến đổi đột ngột nơi bản thân các ngài. Sự biến đổi bằng ơn thánh của Chúa đã đem đến cho các nhà chiêm tinh niềm hạnh phúc thật sự, cũng như những khát mong Thiên Chúa xuất phát từ cõi lòng khiêm tốn chân thành nơi các ngài, đã được lắp đầy bằng ơn thánh Chúa đã tặng ban. Chắc chắn từ giây phút bất ngờ sau khi đã được biến đổi, sẽ là mốc điểm để các nhà chiêm tinh khởi sự bằng đời sống mới liên tục trong Đấng Cứu Độ trần gian.
5/ Khi con người cứ mải mê kiếm tìm
Khi con người cứ mải mê kiếm tìm và sống trong sự hưởng thụ thoả mãn nơi vật chất, tiền của, địa vị, danh vọng, lạc thú. Chắc chắn lối sống ấy không bao giờ đem lại ích lợi gì cho con người. Đó là một cuộc sống vô nghĩa. Đôi khi nó sẽ hướng hành động của con người đi đến tính ích kỷ, bất công, tham lam, tham ô, gian dối... Vì con người có thể dùng mọi thủ đoạn để đạt tới cách sống giả dối, luôn lệ thuộc những thứ mau qua của trần gian.
Ngược lại, khi con người biết khiêm tốn kiếm tìm chính Chúa là nguồn hy vọng của con người. Chắc chắn cuộc kiếm tìm ấy sẽ mang đến cho con người một cuộc sống lý tưởng cao đẹp. Một cuộc sống đã được Chúa đổi mới bằng ơn thánh. Một cuộc đời luôn có " Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống" hiện diện trong mỗi hoàn cảnh. Một cuộc sống mà Chúa sẽ hướng dẫn mỗi người phải hành động như thế nào cho phù hợp với ý Chúa. Đó là một cách sống luôn tôn trọng sự thật, luôn quý trọng công bình, luôn tôn trọng quyền lợi của cá nhân và tập thể, luôn biết xây đắp bình an và gieo rắc công bình cho mọi người và mọi nơi đang cần sự công bình.
Lạy Mẹ Maria! Xin Mẹ giúp chúng con luôn tin tưởng rằng, Đức Giêsu Kitô Con Mẹ, là Đấng luôn đem lại lý tưởng cao đẹp cho con người, luôn bù đắp cho những khát vọng sâu xa nhất trong cõi lòng con người. Xin Mẹ hướng dẫn đời sống chúng con, luôn là cuộc lên đường để tìm Chúa không ngừng. Nhờ vậy đời sống chúng con sẽ được biến đổi thật sự, khi đã gặp được Đức Kitô Đấng muôn dân mong đợi, như các nhà chiêm tinh trong bài Tin mừng hôm nay. Amen.
28.Chúa Hiển Linh--Lm. JB Nguyễn Minh Phương, CSsR
Nơi mỗi người ít nhiều cũng có những tâm tình tôn giáo.
Tuy nhiên, không phải ai cũng đón nhận Thiên Chúa là Đấng tối cao trong lòng họ.
Phần mình, người tín hữu cảm nhận sự hiện diện của Thiên Chúa qua thiên nhiên diệu kỳ, qua dòng lịch sử nhân loại và tôn giáo, và nhất là qua mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể.
I. QUA THIÊN NHIÊN
Thánh Mátthêu đề cập đến ánh sáng của Thiên Chúa đã bừng lên qua hiện tượng ánh sao. "Chúng tôi thấy ngôi sao của Người xuất hiện" (Mt 2, 2).
Theo ánh sao chỉ dẫn, các nhà chiêm tinh đã lên đường tìm kiếm Đức Vua của dân Do Thái. Rất có thể, ba nhà chiêm tinh chưa hình dung ra ngôi vị Thiên Chúa nơi Hài Nhi Giê-su. Có chăng, họ mới mường tượng về một vị vua mới ra đời và họ phải đến triều bái theo nghi thức ngoại giao. Nhưng dù sao, sự hiện diện của ba nhà chiêm tinh bên máng cỏ Bê-lem cũng đủ nói lên phép ứng cử ngay lành và thiện chí khát khao kiếm tìm chân lý và sự thật nơi các ngài.
Thiên Chúa đã dùng hiện tượng thiên nhiên (ánh sao), đã dùng ngôn ngữ, cách sử thế của con người (vị vua) để từng bước tiệm tiến mạc khải về Người cho nhân loại.
Đời người được tiếp xúc với môi trường thiên nhiên: ánh bình tỏa rạng báo hiệu một ngày mới, mặt trời lên chiếu sáng và mang lại hơi ấm, ánh trăng soi tạo cảnh sắc cho đêm, ngọn gió mát thổi đến mang lại hơi thở cho sự sống làm thanh thỏa lòng người, hạt mưa rơi làm phát sinh mầm sống mới...Tất cả những hiện tượng thiên nhiên ấy như đang nhắc nhở cho con người ý thức về bàn tay quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa.
Tiếc rằng, đang hưởng thụ hồng ân Chúa qua thiên nhiên nhưng không ít người lại tỏ ra vô ơn phủ nhận Thiên Chúa. Xem ra, những gì hưởng thụ miễn phí thì người lại không biết trân trọng nguồn gốc.
Mong sao, mỗi hiện tượng thiên nhiên đều là một câu hỏi để người ta tìm về cội nguồn sự sống. Xa hơn nữa, họ tìm về Đấng Tạo Hóa. Về điều này, người tín hữu phải nêu gương trước tiên với những khắc khoải gặp gỡ Ngôi Lời Nhập Thể. Lịch sử là những ghi nhận diễn biến tôn giáo nơi con người.
II. LỊCH SỬ
Kể từ ngày thảm họa tội lỗi làm mất đi vẻ đẹp nguyên tuyền Thiên Chúa ban cho con người, dân Chúa rơi vào cảnh lầm than "bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân" (Is 60, 2).
Tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn dõi theo con người và không để họ rơi vào vô vọng. Khi tình thương đã đến đỉnh điểm, Thiên Chúa cho bừng lên ánh sáng, vinh quang của Người "như bình minh chiếu tỏa" (Is 60, 1) chiếu soi lòng người.
Ngày ấy, để gặp gỡ Thiên Chúa, dân Chúa đi về phía ánh sáng, vua chúa trần gian phải hướng về ánh bình minh (x Is 60, 3). Từ muôn nơi, con trai, con gái của Thiên Chúa quy tụ loan truyền lời ca tụng Thiên Chúa, cùng làm nên một cộng đoàn dân thánh: mặt mày rạng rỡ, lòng dạ hớn hở tưng bừng...
Ánh sáng bừng lên, bình mình đã ló dạng, Thiên Chúa đã đi vào lịch sử loài người nhưng trong thực tế rất nhiều người vẫn còn thơ ơ lãnh đạm, thậm chí khước từ Người. Ước mong sao, người tín hữu cảm nhận được ánh sáng chúa đang chiếu soi tâm hồn của họ, cảm nhận được ánh bình minh của Chúa đang là những tia sáng hy vọng hướng dẫn cuộc đời họ, trở nên dấu chứng niềm tin cho nhân loại.
III. NGÔI LỜI NHẬP THỂ
Lịch sử cứu độ là cả một lịch sử khát khao Đấng Cứu Thế. Vậy mà Cứu Thế đã đến nhà mình nhưng người nhà không đón nhận (x.Ga 1,10-14). Sao thế?
- Sự cực đoan nơi con người: Khi nghe các nhà chiêm tinh nói về vị vua dân Do Thái ra đời, vua Hê-rô-đê đã cho triệu tập các kinh sư và các thượng tế để trao đổi. Về lý thuyết, tất cả họ đều biết rất rõ Vị Lãnh Tụ chăn dắt It-ra-en sẽ ra đời tại Bê-lem. Trong lòng tin, thì Vị Lãnh Tụ này không khớp kinh nghiệm của họ nên họ khó chấp nhận một sự tương phản. Bê-lem nhỏ bé không thể sánh với Giê-ru-sa-lem. Bê-lem không thể là nơi sinh ra của một vị vua được.
Sự tự phụ nơi con người: Về kiến thức tôn giáo, những kinh sư và những thượng tế là những người thông thái, là những bậc thầy trong dân Do Thái, nhưng về lòng tin thì xem ra họ mới chỉ biết một mớ lý thuyết chứ chưa hề biết về Thiên Chúa nhập thể làm người. Thế mới hay, sự duy lý đã khóa chặt con người trước mạc khải của Thiên Chúa: người có đạo chưa chắc đã có Chúa; người có Chúa rồi sẽ có đạo..
- Lòng gian ác: Thông tin về một vị vua Do Thái ra đời đã làm cho vua Hê-rô-đê run sợ về sự an nguy ngai vàng của ông. Từ đó, mọi sự tiếp đón của ông đối với những nhà chiêm chiêm tinh chỉ là trò giả hình, gài bẫy, mưu đồ giết hại Hài Nhi Giê-su; bằng chứng là sau đó ông đã hạ lệnh giết sách các hài nhi từ hai tuổi trở xuống. Rõ ràng lòng dạ độc ác của con người đã ngăn lối họ đến với Thiên Chúa.
Chúa đã đi vào trần gian và mang tên Giê-su nhưng sự cực đoan, tự phụ và lòng gian ác đã khép kín tâm hồn người ta, ngăn bước họ đến với Chúa. Thánh Phao-lô kinh nghiệm Thiên Chúa đã dùng Thần Khí mà mạc khải mầu nhiệm: "Trong Đức Ki-tô và nhờ Tin Mừng các dân ngoại cùng được thừa kế gia nghiệp với người DoThái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Chúa hứa" (Ep 3, 5).
Như thế, nhờ Chúa Thánh Thần Thiên Chúa đã tỏ mình nơi Đức Kitô. Trong Đức Kitô, muôn dân được hiệp nhất. Ước mong người tìn hữu mở lòng đón nhận ơn Chúa Thánh Thần, xin Người dẫn đến Chúa Giê-su. Nơi Chúa Giê-su, tất cả mầu nhiệm Thiên Chúa được tỏ bày.
KẾT
Thiên Chúa đã đến trần gian và từng buớc tiệm tiến tỏ mình cho nhân loại qua lịch sử, qua thiên nhiên, nhất là qua Ngôi Lời Nhập Thể.
Tuy nhiên, Thiên Chúa cũng đã tôn trọng sự tự do nơi con người và con người đã sử dụng tự do để thuận theo hoặc khước từ Người.
Cách riêng người tín hữu sẽ chọn lựa đi về phía ánh sáng để thờ lạy Chúa là chân lý và sự thật. Tin vui cứu độ phải được loan báo cho toàn dân.
29.Đi tìm Chúa hôm nay--Lm. Damien OFM
Lễ Hiển Linh là lễ Chúa tỏ mình ra. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy: Đấng Messia không còn là của riêng người Do thái nữa, nhưng Ngài tỏ mình ra cho mọi dân tộc.
Ngôi sao dẫn đường.
Do thái thuộc đông phương; và theo văn hóa và khoa chiêm tinh của người đông phương thì mỗi vị vua sinh ra đêù có một ngôi sao chiếu mệnh. Ba nhà đạo sĩ có lẽ là những nhà chiêm tinh học, nên đã nhận ra ngôi sao chiếu mệnh của vua người Do thái mới sinh ra.
Ngôi sao chiếu mệnh nầy không như những ngôi sao chiếu mệnh của các vị vua khác, vì nó còn là ngôi sao đi trước ba nhà đạo sĩ, dẫn đường cho họ đến với Chúa. Thiên Chúa đã dùng các thiên thần để báo cho các mục đồng biết Chúa đã đến trong thế gian. Nay Thiên Chúa dùng một tinh thể làm dấu chỉ cho sự hiện diện của Chúa Giêsu và dẫn ba nhà đạo sĩ đến với Chúa. Xưa trong sa mạc, Thiên Chúa cũng đã dùng cột mây và cột lửa để nói với dân về sự hiện diện của người giữa dân. Thiên Chúa có thể dùng thiên thần, con người(các mục đồng) hay một vật(ngôi sao) để làm dấu chỉ của sự hiện diện của Chúa.
Ngày nay, ai là ngôi sao dẫn đường cho chúng ta đến với Chúa? Ngôi sao đó trước hết la Giáo Hội(“chúng con là ánh sáng thế gian”), là một vị thánh, là một linh mục, là một kitô hữu gương mẫu…Và ngôi sao soi sáng và dẫn đường cách đặc biệt là Phúc Âm.
Với lời dạy của Chúa Giêsu: “Chúng con là ánh sáng thế gian… ngọn đèn phải để trên đế, để soi sáng cho mọi người trong nhà”, mỗi người kitô hữu phải là một ngọn đèn, nghĩa là một ngôi sao dẫn đường cho kẻ khác. Cha mẹ là ngôi sao dẫn đường cho con cái, những người có trách nhiệm phải là ngôi sao dẫn đường cho những người mình chịu trách nhiệm; linh mục tu sĩ phải là ngôi sao dẫn đường cho dân Chúa; và mỗi người kitô hữu phải là ngôi sao dẫn đường cho những ai chưa biết Chúa.
Tính phổ quát của vì Vua mới.
Sự hiện diện của các mục đồng, của ngôi sao và của ba nhà đạo sĩ nói lên rằng: Đấng Messia mới sinh ra không còn là của riêng của những kẻ tử tế, Biệt Phái và Kinh sư nữa, nhưng trước hết Ngài là của những kẻ thấp hèn tội lỗi hay bị khinh chê, như các mục đồng, vì họ là những người đầu tiên được vinh dự đến với Chúa. Ngài không còn là của riêng của dân Do thái mà thôi, nhưng còn là vua của những kẻ ngoại giáo, xa xôi mà ba nhà đạo sĩ là ba đại diện; sự hiện diện của ngôi sao cũng nói lên rằng, Ngài còn là vua của cả vũ trụ nữa. Ngôi sao cũng phải phục vụ Chúa.
Vua Herôđê bối rối
“Nghe nói thế,vua Herôđê bối rối, và tất cả Giêru- salem cùng với nhà vua”: Chúa sinh ra, các thiên thần ca hát, các mục đồng vui mừng, ba nhà đạo sĩ từ phương đông xa xôi đến thờ lạy, còn vua Herôđê và cả Giêrusalem thì bối rối. Hêrôđê bối rối lo lắng vì sợ mất ngôi vua của mình. Các giáo trưởng và luật sĩ bối rối vì vị vua nầy đến mà không thông báo gì cho họ lại tỏ mình ra cho dân ngoại. Họ thấy chỗ đứng của mình bị lung lay. Thế là họ tìm cách tiêu diệt Ngài.
Họ không hiểu rằng vị vua nầy đâu có thèm gì ngôi báu một khi đã chấp nhận sinh ra trong chuồng bò. Họ không hiểu rằng vị vua nầy, đâu phải để cai trị nhưng để cứu vớt.
Ngày nay cũng thế, người kitô hữu phải hiểu rằng Thiên Chúa không phải là của riêng người công giáo mà là Thiên Chuá của mọi người, và Giáo Hội không chỉ là của riêng người có đạo mà là Giáo Hội của mọi dân tộc, của kẻ lành cũng như người bất lương. Vì Con Thiên Chúa đến để cứu vớt chứ không phải để lên án hay cai trị. Chúa sinh ra trong ngheo khó và sau nầy bị khinh chê và bắt bớ. Nên phải bỏ đi cái mơ ước hảo huyền một Giáo Hội giàu sang và quyền thế trước mặt người đời. Phải bỏ đi cái quan niệm một thứ đạo phô trương. Đừng lặp lại cái lỗi lầm của người Do thái, mơ ước một vị vua quyền thế và cao sang. Nếu không thì Chúa sẽ làm cho chúng ta thất vọng vì ngài không hề đáp ứng những mơ ước hảo huyền của ta. Và rồi chúng ta cũng sẽ bối rối như Herôđê, các Biệt Phái và kinh sư xưa trước sự hiện diện khiêm tốn của Chúa.
Đi tìm Chúa hôm nay.
Chúng ta đã thấy, một những ngôi sao dẫn đường cho chúng ta hôm nay đến với Chúa là Lời Chúa.Chính nhờ đọc và suy gẫm Lời Chúa mà chúng ta nhận ra Chúa trong cuộc sống. Phúc Âm sẽ vẽ lên cho chúng ta gương mặt đích thực của Chúa Kitô chứ không phải khuôn mặt theo những mơ ước trần tục của chúng ta. Phúc Am sẽ là ngôi sao dẫn đường cho chúng ta đến với Chúa Giêsu.
Vị vua thứ tư.
Chuyện kể rằng, khi Ba vua Gaspar, Melchior, Balthazar và đoàn tùy tùng vừa đi khỏi làng Bêlem, thì vị vua thứ tư hớt ha hớt hải chạy đến. Ông cũng đã thấy ngôi sao, ông dắt vào lưng ba viên ngọc quí, gia sản quí nhất của ông và vội vã lên đường cho kịp Nhưng ông đến trễ, ba vua kia đã về mất rồi!…Ông đến trễ và nhất là đến với hai bàn tay không… ông không còn các viên ngọc quí nào nữa…
Ông từ từ nhẹ tay mở cửa chuồng bò, nơi có Con Thiên Chúa, Mẹ người và người cha nuôi của Người. Trời tối, Giuse đang trở mớ rơm để qua đêm, bé Giêsu nằm trên tay Mẹ.
Rón rén, vị vua thứ tư tiến lại gần, phục mình dưới chân bé Giêsu và Mẹ Người và bắt đầu nói qua giòng nước mắt:
- Lạy Chúa, con đến để dâng lên ngài lễ vật như ba vị vừa rồi, dâng cho Chúa ba viên ngọc to như trứng bồ câu, ba viên ngọc thứ thiệt. Nhưng giờ đây không còn nữa…Con thấy ba vị kia đi trước con trên lưng lạc đà, con định tiến lên đi với họ. Nhưng rồi rượu ngọn, tiếng chim họa mi hót làm con say mê. Đêm đó con ở lại trong một quán trọ. Khi con bước vào, con thấy một cụ già lên cơn sốt rét, nằm co quắp bên lò sưởi. Không ai biết ông ta là ai. Túi tiền ông rổng tuếch. Ông không có tiền trả tiền thuốc và những thứ cần thiết. Ngày mai, ông sẽ bị đuổi ra ngoài. Lạy Chúa, đó là một cụ già, rất già, nước da sậm và có bộ râu trắng. Ông làm con nhớ đến cha con. Lạy Chúa, xin tha cho con, con lấy một viên ngọc trong túi và đưa cho chủ quán để ông lo tìm thầy chạy thuốc và nếu ông ấy chết, thì có một cỗ quan tài che xác ông.
Ngày hôm sau, con ra đi, dục con lừa của con chạy cho kịp ba vị kia vì lạc đà họ đi chậm. Con đường con đi qua vắng vẻ, có nhiều bụi rậm. Bổng con nghe tiếng kêu cứu từ một bụi rậm. Con nhảy xuống lừa và thấy mấy chú lính đang bắt nạt một thiếu phụ trẻ. Họ đông quá, con thấy mình không đủ sức đọ lại với họ. Hơn nữa con đã già rồi. Lạy Chúa, xin tha cho con lần nầy nữa. Con đưa tay vào túi lấy một viên ngọc thứ hai và chuộc lại người thiếu phụ. Cô ta hôn tay con rồi chạy như bay vào miền núi như một con sóc.
Giờ đây chỉ còn lại có một viên nữa thôi, nhưng con nghĩ, có còn hơn không. Lúc đó đã quá trưa, và con nghĩ mình có thể đến Bêlem trước lúc trời tối. Nhưng kìa lính Hêrôđê đang hung hăng đốt cháy một làng gần Bêlem. Con chạy tới và và hỏi thăm thì con biết lính tráng đang thi hành lênh của vua: giết tất cả các con trẻ từ hai tuổi trở xuống. Ngoài một căn nhà đốt cháy, một tên lính to khỏe, đang nắm trong tay một em bé trần truồng, đưa đi đưa lại. Đứa bé hết sức dãy dụa và khóc thét lên vì sợ. Người mẹ thì đang quì lạy và khóc ngất. Anh lính nói với mẹ nó ”Bây giờ tao sẽ cho nó vào lửa và nó sẽ cháy như một con heo sữa quay!” Mẹ nó la lên thảm thiết…
Lạy Chúa, xin tha cho con! Không chịu nổi, con lấy viên ngọc cuối cùng trao cho tên lính để nó trao em bé cho mẹ nó. Mẹ nó ôm chặt lấy con, áp cứng vào lòng, không một tiếng cám ơn, chạy trốn như một con chó tìm được miếng xương. Lạy Chúa thế là con đến đây với hai bàn tay không. Xin Chúa tha cho con, xin tha cho con…
Nói xong ông sấp mặt sát đất hồi lâu. Thinh lặng bao trùm chuồng bò. Rồi ông ngước đầu lên, thấy Giuse đã trở rơm xong, Chuá vẫn nằm trong tay Đức Mẹ. Từ từ, Chúa quay về phía ông, gương mặt Ngài rạng rỡ. Chúa chìa đôi tay tí hon cho đôi tay trống không của vị vua thứ tư, bé Giêsu và Mẹ đều mỉm cười…
30.Vinh quang đích thực của Thiên Chúa--Lm Gioan Nguyễn Văn Ty SDB
Tôn giáo nào thì cũng muốn cho vị thần linh mình tôn thờ được hiển trị. Đó là một tình cảm tôn giáo đáng quí nhưng cũng thật đáng sợ, vì chính nó đã từng là nguyên nhân của biết bao cuộc bắt bớ hay triệt hạ phe đối nghịch. Lịch sử đã ghi nhận không ít cuộc chiến tranh tôn giáo. Hiển Linh là Chúa được biểu dương, là biểu lộ quyền năng của Ngài ra bên ngoài, vì hình như hình hài một hài nhi bé bỏng không xứng với Ngài? Có một thời tôi đã từng nghĩ như thế: Có thế chứ... phải là những vị vua tới thờ lạy ngài, tới cống tiến ngài những lễ vật đắt giá mới xứng; phải có những ánh sao lạ để cả thiên hạ phải trầm trồ! Và tôi lấy làm hả dạ. Tôi có tinh thần tôn giáo sốt sáng chẳng?
Thật ra câu chuyện về các nhà chiêm tinh (thường được dân có đạo nâng lên hàng vua chúa cho nó oai) đến bái lậy Hài Nhi Giê-su chỉ được Phúc Âm Mát-thêu ghi lại với chủ đích, như ông vẫn quen làm nhiều lần, là để khảng định: "thế là ứng nghiệm" việc Hài nhi ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đê... việc ngài trở về từ Ai-cập... như những gì đã từng được các tiên tri loan báo. Dầu câu chuyện mang rất nhiều tính truyền thuyết, tôi nghĩ nó không chỉ đơn thuần là để nâng cao thứ tình cảm tôn giáo nói trên.
Hài Nhi mới sinh tại Bê-lem Hiển Linh, nhưng hiển linh điều gì? Đâu là vinh quang đích thực của ngài?
Ba nhà chiêm tinh (hay đạo sĩ) là những con người có hiểu biết và chuyên tìm tòi những qui luật của trời đất. Các ông biết về một vị nào đó rất quan trọng mới xuất hiện và các ông đi tìn ngài. Theo lô-gic, nhân vật này chắc chắn phải là một vị vua và phải tìm thấy trong chốn cung điện. Và thế là họ tìm tới Giê-ru-sa-lem là kinh thành của vương triều Da-vit; nhưng ở đó họ chỉ gặp được Hê-rô-đê, con người của quyền lực và mưu mẹo. Chỉ có 'ngôi sao' mới có thể dẫn họ tới một nơi không ngờ: làng quê Bê-lem hẻo lánh, và tìm thấy một hài nhi với thân mẫu trong sự đơn sơ và nghèo hèn. Chúng ta tất cả đều biết ngôi sao đó chính là biểu tượng của niềm tin vào Tin mừng. Chỉ có Tin Mừng của đức Giê-su Ki-tô mới chỉ cho chúng ta tới gặp được một Thiên Chúa, không phải trong vinh quang của quyền uy và đầy công thẳng, mà là trong một diện mạo thơ nhi quá gần gũi: Thiên Chúa của lòng từ nhân và hay thương xót... cứu độ chứ không phải một Thiên Chúa luận phạt. Nếu ba nhà chiêm tinh phải từ bỏ lô-gic thông thái của họ (điều này không dễ mấy đâu) để có thể sấp mình bái lậy một hài nhi nghèo hèn, thì mọi người, kể cả tôi và bạn, (nhất là khi càng cho mình là thông minh chính trực) còn cần phải làm một cuộc cách mạng trong niềm tin để có thể bái lạy vinh quang Thiên Chúa trong sự hiền lành, từ nhân và hay thương xót.
Câu truyện còn cho tôi thấy có sự đối kháng thâm sâu giữa một bên là uy quyền thống trị và trừng phạt (điển hình là vua Hê-rô-đê) với bên kia là sự yếu đuối ẩn dật của một Hài Nhi bé bỏng nép mình bên lòng mẹ. Sự công thẳng có sức mạnh của nó và xem ra không thể đội trời chung với lòng trắc ẩn nhân ái. Uy quyển của bạo vương Hê-rô-đê không thể được chia sẻ với Tân Vương cứu độ mới sinh ra. Ở đâu có sự công thẳng ở đó không thể có chỗ cho lòng trắc ẩn thương xót, và ngược lại. Sự công thẳng nổi cộm như một quyền lực thống trị trong khi lòng nhân ái lại luôn tỏ ra quá yếu đuối ẩn dật. Chính vì thế mà khi đề cao lòng trắc ẩn thương xót thì nhiều người lại tỏ ra e dè sợ sệt. Họ lo sợ sự hợp lý đầy uy quyền của 'lành thưởng dữ phạt' sẽ bị phá đổ, và thế là họ rắp tâm 'tiêu diệt' lòng thương xót, ít là trong hiểu biết và suy nghĩ của họ. Thiên Chúa giáng trần đã chọn hình hài của một thơ nhi yếu đuối ẩn dật để biểu lộ lòng xót thương cứu độ loài người quả là điều thích hợp... có điều Ngài phải chịu sự toan tính tiêu diệt của bạo vương quyền uy thì cũng là tự nhiên thôi.
Lạy Hài Nhi đang ngủ yên trong vòng tay âm yếm của Mẹ, xin cho con dặt cược toàn bộ cuộc sống con trên sự nhỏ bé, yếu đuối của lòng thương xót Chúa. Chính những lúc tâm hồn con lo sợ cuống quýt trước quyền lực ghê gớm của sự công thẳng Chúa, xin đưa con vào vòng tay hiền mẫu để con cũng có được giấc ngủ của an bình trong tin tưởng phó thác vào lòng thương xót. Xin che chở để con không bao giờ bị sự công thẳng Chúa nhấn chìm trong lo âu sợ hãi. Amen.
31.Hãy làm cho ánh sáng tỏa sáng ra--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Tiếp liền sau Đại lễ Giáng Sinh, Giáo hội cử hành lễ Chúa Hiển Linh hay còn gọi là lễ Chúa Tỏ Mình. Theo một truyền thống rất xa xưa từ thế kỷ thứ II, thánh Giustinô đã nói tới là Chúa Giêsu đã sinh ra trong một chuồng bò lừa tại Belem. 40 ngày sau, thánh Giuse và Đức Maria đem Hài Nhi lên Đền thờ Giêrusalem để dâng cho Thiên Chúa như luật dạy. Phúc Âm Thánh Matthêô cho biết: sau khi dâng Chúa trong Đền Thánh, Thánh Gia không trở về Nagiarét ngay. Trong khoảng thời gian này đã xảy ra nhiều việc liên quan với nhau. Từ Đền Thờ, Thánh Gia lại trở về Bêlem. Chính nơi đây, các đạo sĩ, do một ngôi sao dẫn đường từ phương Đông tới thờ lạy Chúa Giêsu và dâng cho Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. Hêrôđê thấy các đạo sĩ không trở lại Giêrusalem báo tin như lời mình dặn, sợ ngai vàng của mình bị đe dọa, ông ra lệnh truyền giết các trẻ em ở Bêlem và các miền phụ cận từ 2 tuổi trở xuống. Thánh Giuse được Thiên thần báo tin, đã đem Chúa Giêsu và Đức Mẹ sang Ai-Cập và ở đó cho tới khi Hêrôđê băng hà mới trở về Nagiarét (x. Mt 2).
Như thế, chúng ta thấy Lễ Chúa Hiển Linh trước hết có nghĩa là lễ Chúa tỏ mình ra cho các dân tộc, mà ba nhà đạo sĩ là những đại diện.
"Epiphaino" có nghĩa là Thiên Chúa tự mặc khải trong nhân tính của Đức Kitô, tự làm cho mình có thể trông thấy được. Cụ thể như dùng ánh sao đêm biểu lộ cho ba đạo sĩ biết, dẫn họ lên đường đến nơi Hài Nhi vừa mới sinh để nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế. Nếu lễ Giáng Sinh người ta nêu bật sự ẩn mình của Thiên Chúa trong sự khiêm hạ với điều kiện là người, nơi Trẻ Thơ Bêlem. Thì lễ Hiển Linh lại nêu bật việc Thiên Chúa tự tỏ mình, xuất hiện qua chính nhân tính.
Việc các đạo sĩ đến tôn thờ Chúa Hài Nhi đã sớm được nhìn nhận như là ứng nghiệm những lời tiên tri trong Kinh Thánh. Isaia có viết: "Các dân tộc sẽ bước đi theo ánh sáng của ngươi, và các vua chúa tiến bước theo nguồn sáng của ngươi đang mọc lên" (Is 60,3.6). Ánh sáng của Chúa Kitô, khi xưa như được chiếu tỏa trong hang Bêlem, nay tỏa sáng trên khắp địa cầu.
Trong lễ Chúa Tỏ Mình, Giáo Hội đề nghị một văn bản rất ý nghĩa của ngôn sứ Isaia: "Hãy đứng lên, hãy toả sáng ra, hỡi Giêrusalem! Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi. Kìa tối tăm đang bao bọc địa cầu, vì u minh phủ kín các dân, nhưng trên mình ngươi Chúa đang đứng dậy, vì vinh quang của Ngài xuất hiện trên mình ngươi. Chư dân sẽ lần bước tìm về sự sáng của ngươi, và các vua hướng về ánh bình minh của ngươi" (Is 66,1-3).
Đây là một lời mời hướng tới Giáo hội Chúa Kitô và hướng tới từng người trong chúng ta, mời gọi ta ý thức hơn về sứ mệnh và trách nhiệm của mình đối với thế giới trong việc làm chứng và đem ánh sáng mới của Tin Mừng đến khắp địa cầu. Trong số mở đầu Hiến chế về Giáo Hội có viết: "Ánh sáng muôn dân là chính Chúa Kitô, nên Thánh Công Đồng đang nhóm họp trong Chúa Thánh Thần hết lòng mong ước soi dẫn mọi người bằng ánh sáng của Chúa phản chiếu trên dung nhan Giáo Hội bằng việc rao truyền Phúc âm cho mọi tạo vật" (LG, 1). Tin Mừng là ánh sáng không được dấu đi, nhưng để trên giá. Giáo hội không phải là ánh sáng, nhưng nhận ánh sáng của Chúa Kitô, tiếp nhận nó để được soi chiếu, và phổ biến ánh sáng đó ra với tất cả sự rạng ngời. Và đây là điều cũng phải xảy ra trong cuộc sống cá nhân mỗi người chúng ta.
Các thượng tế tại Giêrusalem được Hêrôđê triệu tập để tư vấn cho ông về nơi Đấng Cứu Thế đã được sinh ra, cũng như cung cấp cho nhà vua các thông tin mà họ đã thu thập được trong truyền thống Kinh Thánh. Tuy nhiên, ý Chúa nhiệm mầu, vì ý định của Hêrôđê không trong sạch, ý định đó các nhà đạo sĩ là sứ giả cho những người tìm kiếm Thiên Chúa đã được mộng báo. Việc các nhà đạo sĩ đến kính viếng Chúa Hài Nhi cho ta thấy sứ mạng của Đức Giêsu không chỉ dành cho Dân được tuyển chọn, nhưng cho cả nhân loại. Việc ba nhà đạo sĩ đến Giêrusalem hỏi đường, cho thấy mối liên lạc giữa sự khôn ngoan ngoại giáo và mạc khải Kitô Giáo thể hiện nơi con người của Chúa Giêsu thành Nagiarét mà con người khát mong tìm kiếm. Sứ vụ phổ quát của Chúa Kitô được Thánh Phaolô gọi là sự mặc khải của mầu nhiệm: " Ấy vì dân ngoại, cùng (với Israel) là kẻ thừa tự, là Thân mình, và là đồng hưởng lời hứa trong Đức Yêsu Kitô, nhờ bởi Tin Mừng" (Ep 3, 2). Ơn cứu chuộc sẽ mở ra cho muôn người thuộc mọi quốc gia, và các dân ngoại đã trở thành người đồng thừa tự, cùng được chia sẻ lời hứa trong Chúa Giêsu Kitô (Ep 3, 6). Sự gặp gỡ giữa sự khôn ngoan của những người sống bên ngoài mạc khải ( là các đạo sĩ, dân ngoại), và những người hiển nhiên thừa hưởng lời hứa (Dân Do Thái) từ sự ra đời của Chúa Kitô chứng tỏ sứ mệnh của Chúa Giêsu trong sứ vụ công khai của mình, và bản chất của Giáo hội mà Chúa Giêsu sẽ xây dựng.
Tước hiệu "Vua Do Thái", mà ba nhà đạo sĩ ám chỉ Hà Nhì mới sinh sẽ xuất hiện trên miệng của Philatô vào lúc ông xét xử Chúa Giêsu và trên bảng ghi trên thập giá.
Trước câu hỏi của ba nhà đạo sĩ, "Vua người Do-thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? " khiến nhà vua, các đại giáo trưởng và luật sĩ thông thạo Thánh Kinh bối rối. Đó cũng là thái độ của các nhà lãnh đạo Do Thái trong đời sống cộng đoàn và Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu sau này.
Vì thế sự tỏ mình của Chúa Giêsu cho các đạo sĩ chính là khởi điểm của việc thể hiện tỏ tường sẽ được thực hiện trong sự chết và phục sinh của Đức Kitô, nhất là bừng sáng vào ngày Ngũ Tuần.
Giáo hội với sứ mạng phổ quát của mình, phải là nơi đáp ứng những khát vọng sâu xa của con người mọi nơi, mọi thời đại về Thiên Chúa. Giống như Chúa Kitô, Người đã chiếu tỏa vinh quang cho dân ngoại. Giáo hội cũng mời gọi chúng ta dõi theo ánh sao cùng ba nhà đạo sĩ đến chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu, Thiên Chúa làm người trong khiêm hạ và nghèo khó, nhất là đón nhận chính Hài Nhi ấy là Ánh Sáng và là Chúa Kitô vào trong chúng ta, để chúng ta có sống là sống chính sự sống của Người, và lấy các tâm tình, tư tưởng và hành động của Người làm tâm tình, tư tưởng và hành động của chúng ta. Như thế, mừng Giáng Sinh là biểu lộ niềm vui, sự mới mẻ, ánh sáng mà biến cố Giáng Sinh này đã đem lại trong toàn cuộc sống chúng ta, để chúng ta cũng là những người đem niềm vui, sự mới mẻ đích thật, và ánh sáng của Thiên Chúa đến cho mọi người. Amen.
32.Lễ Hiển Linh, Lễ của Ánh Sáng--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
“Họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người” (Mt 2,11)
Trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, Con Thiên Chúa không những chỉ xuống thế làm người trên mặt đất này, mà còn để cho con người nhìn thấy; Người không chỉ có sinh ra, nhưng còn để con người biết đến và thờ lạy. Đây là sự thật nhãn tiền được biểu lộ trong ngày lễ Hiển Linh, ngày Chúa tỏ mình ra cách rõ nhất mà hôm nay chúng ta mừng kính.
Hôm nay, các đạo sĩ từ phương Đông đến tìm, họ tìm ai? Tìm “sự lóe rạng mặt trời đức nghĩa” (Ml 3, 20) như Malaki đã loan báo, tìm Đấng mà chúng ta đọc thấy trong sách Dacaria: “Này có một người, hiệu là ‘Chồi lộc’” (Dc 6, 12). Ai tìm thì sẽ thấy. Họ mỏi công đi tìm theo sự hướng dẫn của ngôi sao lạ và họ đã thấy, họ đến thờ lạy Hài Nhi mới sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria. Do lòng nhân hậu, Chúa tự tỏ mình ra cho người ta thấy như thánh Phaolô viết: “Ðấng cứu thoát ta đã hiển linh… không phải do tự các việc ta làm trong đàng công chính, nhưng là chiếu theo lòng thương xót của Người” (Tt 3,4-5).
Xin hỏi các đạo sĩ: Các ngài đang làm gì, hỡi các đạo sĩ, các ngài làm chi vậy? Các ngài thờ lạy một Trẻ Thơ măng sữa, mới sinh nơi xóm nhỏ đơn nghèo ư? Các ngài tin rằng, Trẻ Thơ ấy là Thiên Chúa sao? Nhưng “Thiên Chúa ở trong thánh điện của Người, ngai của Người đặt ở trên cao” (Tv 10,4). Còn các ngài, các ngài tìm Chúa nơi hang bò lừa đang nằm trong vòng tay mẹ ẵm sao? Các ngài làm chi vậy? Tại sao các ngài lại dâng vàng? Trẻ Thơ này là vua ư? Nhưng đâu là cung điện cũng như ngai vàng của nhà vua, và đâu là quần thần của nhà vua? Chuồng bò là cung điện, máng cỏ là ngai vàng, Đức Maria và thánh Giuse là quần thần của vua sao? Làm sao những người thông thái không thờ lạy Hài Nhi, họ đã bị điên dồ hết rồi sao, phải chăng họ coi thường sự non nớt và cái nghèo của Trẻ Thơ?
Để nên người thông thái, các đạo sĩ đã trở nên điên dồ; Thánh Thần đã dạy bảo họ trước: “Vì chưng một khi thế gian, đứng trước sự khôn ngoan của Thiên Chúa, đã không lợi dụng khoa khôn ngoan mà nhìn biết Thiên Chúa, thì Thiên Chúa đã quyết ý dùng sự điên rồ của lời rao giảng để cứu những kẻ tin” (1Cr 1, 21). Vì vậy, họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Hài Nhi nghèo này, thờ kính như một vị vua, vị thần. Một ngôi sao hướng dẫn họ bên ngoài đã chiếu tỏa nơi họ ánh sáng huyền nhiệm của chính vì sao.
Chúa là Ánh Sáng
Lễ Hiển Linh là mầu nhiệm ánh sáng, ánh sáng được diễn tả qua biểu tượng ngôi sao hướng dẫn cuộc hành trình của các nhà đạo sĩ. Chúa Kitô chính là Nguồn Sáng thật, là “Mặt Trời mọc lên từ trên cao” (x. Lc 1,78) chiếu tỏa trần gian và lan ra theo những vòng tròn đồng tâm. Trước hết trên Ðức Maria và Thánh Giuse được chiếu sáng bởi sự hiện diện thần linh của Hài Nhi Giêsu, kế đến là các mục đồng tại Bêlem; khi được thiên sứ báo tin, các ngài mau mắn chạy đến hang đá và gặp thấy nơi đó “dấu chỉ” đã được báo trước cho họ: một con trẻ được bọc trong khăn và đặt nằm trong máng cỏ (x. Lc 2,12). Các mục đồng, cùng với Đức Maria và Thánh Giuse, đại diện cho “nhóm nhỏ còn lại của Dân Israel”, những người nghèo, những kẻ đã được loan báo Tin Mừng.
Ánh sáng của Chúa Kitô cuối cùng chiếu toả đến các vị đạo sĩ, quả đầu mùa từ các dân ngoại: “Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng… và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người” (Mt 2,11). Trong khí đó, “cả nhà vua cùng các đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân” (Mt 2,3) còn nằm trong bóng đêm, nơi mà tin tức về Ðấng Thiên Sai sinh ra, được thông báo một cách nghịch lý cho họ biết qua các vị đạo sĩ, và khơi dậy không phải niềm vui mừng, nhưng sự lo sợ và những phản ứng thù nghịch (x. Mt 2,3). Ý định của Thiên Chúa quả thật là nhiệm mầu: “Sự sáng đã đến trong thế gian, mà người ta đã yêu mến tối tăm hơn sự sáng, vì việc họ làm là điều xấu” (Ga 3,19).
Nhưng thử hỏi ánh sáng đó là gì đây? Nó chỉ là một biểu tượng gợi ý, hay có một thực tại thật được nói lên qua hình ảnh này? Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa là sự sáng, tối tăm không hề có nơi Người” (1Ga 1,5). Và thêm: “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Hai lời quả quyết trên giúp chúng ta hiểu rõ hơn rằng: Ánh sáng bừng lên trong đêm Giáng Sinh là Tình Yêu Thiên Chúa, được mạc khải nơi chính Lòng Thương Xót Nhập Thể.
Chúa Giêsu “là Ánh sáng đã chiếu soi lương dân và Vinh quang của Israel dân Chúa” (Lc 2,32); Ðược Thiên Chúa linh ứng, cụ Simêon đã thốt lên như thế. Ánh sáng chiếu soi mọi dân tộc, ánh sáng của lễ Hiển Linh phát xuất từ vinh quang của Israel dân Chúa, vinh quang của Ðấng Thiên Sai, mà theo Kinh Thánh, đã giáng sinh tại Bêlem, “thành của Vua Ðavít” (x. Lc 2, 10-11). Các đạo sĩ thờ lạy một Hài Nhi đơn sơ nằm trong đôi tay Mẹ Maria, bởi vì các ngài nhìn nhận nơi Con Trẻ này nguồn mạch của hai ánh sáng đã hướng dẫn các ngài: ánh sáng của ngôi sao và ánh sáng của Kinh Thánh. Các ngài nhìn nhận nơi Con Trẻ vị Vua của người Giuđêa, vinh quang của dân Israel, và cũng là Vua của tất cả mọi dân nước.
Giáo hội là ánh sáng
Trong khung cảnh phụng vụ của lễ Hiển Linh cũng được biểu lộ mầu nhiệm Giáo Hội và chiều kích truyền giáo của Giáo Hội. Giáo Hội được mời gọi chiếu sáng trong thế giới ánh sáng của Chúa Kitô, vừa phản chiếu ánh sáng đó nơi chính mình, như mặt trăng phản chiếu ánh sáng của mặt trời. Trong giáo hội đã được hoàn tất những lời tiên tri xưa nói cho thành thánh Giêrusalem: “Hãy chỗi dậy, hãy mặc lấy ánh sáng, bởi vì ánh sáng của ngươi ngự đến... Các dân tộc sẽ bước theo ánh sáng của ngươi, các Vua Chúa sẽ đi theo vinh quang của Nguồn Sáng ngươi” (Is 60, 1-3). Người kitô hữu sẽ phải thực hiện điều này: sau khi đã được Chúa huấn luyện sống theo các Mối Phúc, nhờ qua chứng tá của tình thương, phải lôi cuốn mọi nguời đến cùng Thiên Chúa. “Như thế phải chiếu toả ánh sáng của chúng con trước mọi người, ngõ hầu nhờ thấy những việc tốt chúng con làm mà họ tôn vinh Cha chúng con trên trời” (Mt 5,16).
33.Lễ Hiển Linh--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Theo một cổ truyền mà Thánh Giustinô thế kỷ thứ II đã nói tới là Chúa Giêsu đã sinh ra trong một chuồng bò lừa tại Belem. 40 ngày sau, Thánh Giuse và Mẹ Maria đem Chúa lên Giêrusalem dâng cho Thiên Chúa. Theo Phúc Âm Thánh Matthêô cho biết: Thánh Gia không trở về Nagiarét ngay sau khi dâng Chúa trong Đền Thánh. Trong khoảng thời gian đó đã xảy ra nhiều việc quan hệ. Từ Đền Thờ, Thánh Gia lại trở về Belem. Chính ở đây, các đạo sĩ, do một ngôi sao dẫn đường từ Phương Đông tới thờ lạy Chúa Giêsu và dâng cho Ngài lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. Hêrôđê thấy các đạo sĩ không trở lại Giêrusalem báo tin như lời mình dặn, sợ ngai vàng của mình bị đe dọa, ra lệnh truyền giết các trẻ em ở Belem và các miền phụ cận từ 2 tuổi trở xuống. Thánh Giuse được Thiên thần báo tin, đã đem Chúa Giêsu và Đức Mẹ sang Ai-Cập và ở đó cho tới khi Hêrôđê băng hà.
Như thế, chúng ta thấy Lễ Chúa Hiển Linh trước hết có nghĩa là lễ Chúa tỏ mình ra cho các dân tộc, mà Ba Nhà Đạo sĩ là những đại diện.
Việc các Đạo Sĩ đên tôn thờ Chúa Giêsu đã mau được nhìn nhận như là việc làm cho trọn những lời tiên tri trong Kinh Thánh. Trong sách Tiên Tri Isaia có viết như sau: "Các dân tộc sẽ bước đi theo ánh sáng của ngươi, và các vua chúa tiến bước theo nguồn sáng của ngươi đang mọc lên" (Is 60,3.6). Ánh sáng của Chúa Kitô, khi xưa như được chiếu tỏa trong hang Bêlem, nay tỏa sáng trên khắp địa cầu.
Các thượng tế tại Giê-ru-sa-lem được Hêrôđê triệu tập để tư vấn cho ông về nơi Đấng Cứu Thế đã được sinh ra, cũng như cung cấp cho nhà vua các thông tin mà họ đã thu thập được trong truyền thống Kinh Thánh. Tuy nhiên, ý Chúa nhiệm mầu, vì ý định của Hêrôđê không trong sạch, ý định đó các nhà đạo sĩ là sứ giả cho những người tìm kiếm Thiên Chúa đã được mộng báo. Việc các nhà đạo sĩ đến kính viếng Chúa Hài Nhi cho ta thấy, sứ mạng của Đức Giêsu không chỉ dành cho Dân được tuyển chọn, nhưng cho cả nhân loại. Việc Ba Nhà Đạo Sĩ đến Giêrusalem hỏi đường, cho thấy mối liên lạc giữa sự khôn ngoan ngoại giáo và mạc khải Kitô Giáo thể hiện nơi con người của Chúa Giêsu thành Nazareth mà con người khát mong tìm kiếm. Sứ vụ phổ quát của Chúa Kitô được Thánh Phaolô gọi là sự mặc khải của mầu nhiệm: " Ấy vì dân ngoại, cùng (với Israel) là kẻ thừa tự, là Thân mình, và là đồng hưởng lời hứa trong Đức Yêsu Kitô, nhờ bởi Tin Mừng" (Ep 3, 2). Ơn cứu chuộc sẽ mở ra cho muôn người thuộc mọi quốc gia, và các dân ngoại đã trở thành người đồng thừa tự, cùng được chia sẻ lời hứa trong Chúa Giêsu Kitô "(Ep 3, 6). Sự gặp gỡ giữa sự khôn ngoan của những người sống bên ngoài mạc khải ( là các đạo sĩ, dân ngoại), và những người hiển nhiên thừa hưởng lời hứa (Dân Do Thái) từ sự ra đời của Chúa Kitô sẽ cho thấy sứ mệnh của Chúa Giêsu trong sứ vụ công khai của mình, và bản chất của Giáo Hội mà Chúa Giêsu sẽ xây dựng.
Giáo Hội với sứ mạng phổ quát của mình, phải là nơi đáp ứng những khát vọng sâu xa của con người mọi nơi, mọi thời đại về Thiên Chúa. Giống như Chúa Kitô, Ngài đã chiếu tỏa vinh quang cho dân ngoại. Giáo Hội cũng phải được mở ra để tìm kiếm sự thật đôi khi do dự, dao động hoặc biến thái, mà vẫn còn là trung tâm của nhân loại, và phản ánh những mong muốn của cuộc sống về hạnh phúc mà Thiên Chúa ban cho.
Trong bối cảnh cử hành Năm Đức Tin, chúng ta không chỉ tưởng nhớ, và vui mừng kỷ niệm ngày sinh nhật của Con Thiên Chúa. Năm Đức Tin là cơ hội để chúng ta tự hỏi: chúng ta làm gì với những gì chúng ta đã nhận được, những điều chúng ta tin? Chúng ta đã, đang và sẽ làm điều gì trong Năm Đức Tin?
Là những người đã chịu Phép Rửa tội, chúng ta nhận được từ Thiên Chúa sứ mạng, và khả năng để làm chứng nhân cho đức tin trong mọi tình huống của cuộc sống, như trong gia đình, khi gặp gỡ bè bạn, nơi công xưởng, xí nghiệp, nơi học đường, tóm lại là ở bất cứ nơi nào người Kitô hữu có mặt. Chúa Giêsu đã mở cánh tay của mình ra chào đón dân ngoại. Là Kitô hữu, chúng ta tự hỏi: làm thế nào con người thời nay có thể tin vào Đức Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống? Làm thế nào để con người ngày hôm nay yên mến tha nhân, và sẵn sàng giúp giúp đỡ anh em? Đó là nhiệm vụ của chúng ta.
Giáo Hội của Chúa Kitô là kết quả của một câu chuyện tình yêu giữa Thiên Chúa và nhân loại. Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho chúng ta, Ngài là Giao Ước Mới. Nơi Giáo hội của Ngài, con người có thể đặt câu hỏi, tìm câu trả lời, và dần dần khám phá ra Hài Nhi năm trong máng cỏ, là dấu chỉ lòng thương xót của Chúa, là Thiên Chúa Cứu Độ.
Năm Đức Tin mời gọi chúng ta: "Hãy mở rộng tâm hồn đón nhận Thiên Chúa! Hãy để cho Chúa Kitô chạm đến chúng ta! Hãy mở ra những cánh cửa, để đón nhận tình thương nhân từ của Thiên Chúa! Hãy trình bày cho Chúa Kitô những niềm vui cũng như những nổi buồn của chúng ta! Hãy để cho ánh sáng của Chúa soi sáng trí khôn chúng ta bằng ánh sáng của Người, và chạm đến tâm hồn chúng ta bằng ân sũng của Chúa".
Trong tinh thần này, chúng ta hãy cầu nguyện sốt sắng cho muôn dân trên khắp địa cầu được ơn Đức tin, để họ tin nhận Đức Kitô là Thiên Chúa Cứu Độ duy nhất. Chúng ta cũng cầu cho sự hiệp nhất trọn vẹn của tất cả mọi người tin vào Đức Kitô, ngõ hầu chứng tá của họ trở nên chất men hiệp thông cho toàn thế giới. Xin Mẹ Maria Rất Thánh, Mẹ của Chúa Kitô và là Mẹ của Giáo Hội nguyện giúp cầu thay.
34.Hành trình Ba Vua--AM Trần Bình An
Sao chổi Halley, tên được đặt chính thức là 1P/Halley một sao chổi được đặt tên theo nhà vật lý thiên văn học người Anh Edmund Halley, là một sao chổi có thể nhìn thấy cứ mỗi 75 đến 76 năm. Nó là sao chổi nổi tiếng nhất trong các sao chổi theo chu kỳ. Dù trong mỗi thế kỷ đều có nhiều sao chổi có chu kỳ dài xuất hiện với độ sáng và ngoạn mục hơn nhưng sao chổi Halley là một ngôi sao chổi chu kỳ ngắn có thể thấy rõ bằng mắt thường và do đó, là sao chổi có thể nhìn thấy bằng mắt thường chắc chắn có thể trở lại trong một đời người. Sao chổi Halley xuất hiện lần cuối bên trong Hệ Mặt Trời vào ngày 9 tháng 2 năm 1986, và sẽ xuất hiện trở lại vào ngày 28 tháng 7 năm 2061.
Theo thuyết Newton, một số sao chổi quay chung quanh Mặt trời trên những quỹ đạo hình ellip. Nhà thiên văn học Edmund Halley, người Anh (thế kỷ thứ 17-18) áp dụng định luật Newton để tính quỹ đạo cho biết là các sao chổi hiện ra những năm 1531, 1607 và 1682, có quỹ đạo giống nhau và chỉ là một thiên thể. Cứ khoảng 74 - 76 năm thì sao chổi lại quay trở lại gần Mặt trời và được nhìn thấy từ Trái Đất. Ông tiên đoán là sao chổi này sẽ trở lại năm 1758.
Đúng hôm lễ Giáng sinh năm đó, sao chổi hiện lên bầu trời, nhưng tiếc thay ông đã mất trước và không được biết là tiên đoán của ông được xác minh. Sao chổi này được đặt tên là sao chổi Halley để ghi nhớ thành tích khoa học của ông. (Wikipedia)
Chưa có tài liệu nào xác nhận sao chổi Halley đã dẫn dắt ba nhà chiêm tinh từ phương Đông đến bái lạy Hài Nhi Giêsu. Nhưng điều quan trọng là các nhà chiêm tinh đã tìm được Đấng Cứu Thế, sau cuộc ra đi gian nan, đầy thách đố. Đó cũng là cuộc hành trình đức tin của từng Kitô hữu thiện tâm.
Tỉnh thức
Chẳng lẽ không có ai, ngoài ba nhà chiêm tinh dân ngoại, nhìn thấy một ngôi sao bỗng dưng rực sáng trên bầu trời? Hẳn nhiên có nhiều người Do Thái cùng nhìn thấy, nhưng chắc chắn chẳng thể nào hiểu được dấu chỉ Đấng Messia nhập thế. Như thế, để có thể giải mã được dấu chỉ của Thiên Chúa, tiên quyết cần thành tâm, ao ước, khao khát Đấng Cứu Thế với tinh thần nhạy bén, sẵn sàng và tỉnh thức. Đức Chúa Thánh Thần luôn rộng ban ơn Thông minh, ơn Hiểu biết cho những người thiện tâm. “Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.” (Mt 2, 2)
“Một hồi chuông, một ngọn tháp nhắc nhở con: Chúa đang ở trong Nhà Tạm gần con, lòng con nóng nảy, hướng đến thờ lạy, yêu mến Chúa.” (Đường Hy Vọng, số 233)
Dấn thân
Các vị chiêm tinh không phái người hầu, kẻ hạ đi tìm Đức Giêsu, mà đích thân họ cất bước ra đi. Chẳng hề quản ngại lời dèm, tiếng chê, hay do dự vì cách trở, xa xăm, hiểm nguy, khó nhọc, họ dám lấy chính mạng sống đánh cược, can đảm, xông pha lên đường, liều lĩnh viễn du tìm Đấng Thiên Sai.
“Đã ra đi phải bất chấp lưỡi thiên hạ đàm tiếu. Ba Đạo sĩ ra đi, hy vọng gặp Chúa Cứu Thế, họ đã gặp; Phanxicô Xaviê ra đi, hy vọng cứu các linh hồn, ông đã gặp; Goretti ra đi, thoát cơn cám dỗ, hy vọng gặp Chúa, Chị đã gặp.” (Đường Hy Vọng, số 7)
Thử thách
Rồi bỗng dưng ngôi sao lạ biến mất, biết đâu mà lần? Biết đâu mà đi? Thách đố đã không hề thiếu trên con đường thiên lý tìm Chúa. Cạm bẫy, cám dỗ, lạc lối, trộm cướp, đạo tặc, ma quỷ, không thiếu. Bệnh hoạn, đuối sức, đói khát chẳng thiếu trong suốt hành trình. Nếu không vững niềm Tin, Cậy, Mến, làm sao các nhà chiêm tinh vượt qua nổi?
“Mất để được, chết để sống, từ để gặp. Ba Đạo sĩ liều hiểm nguy, chế nhạo. Phanxicô liều xa cha mẹ, mất của cải, thú vui. Goretti liều mạng sống.” (Đường Hy Vọng, số 8)
Tín thác
Dù mất dấu vết ngôi sao lạ, ba nhà chiêm tinh vẫn không hề nao núng, lung lạc, ê chề thất vọng, bỏ cuộc, dang dở hành trình. Họ chủ động dò hỏi khắp nơi. Thậm chí vào cả hoàng cung, trực tiếp hỏi thẳng Vua Hêrôđê. Gián tiếp qua các thượng tế và kinh sĩ, họ tìm đến Kinh Thánh, Lời Hằng Sống, để được hướng dẫn đi đúng đường. Đây chính là chánh đạo để gặp được Đấng Cứu Thế. Họ đã hoàn toàn tín thác vào Lời Chúa. “Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại.” (Mt 2, 9)
“Thành tín trên con đường con đi, Phêrô không nộp Chúa, không cáo Chúa, nhưng Phêrô không được một lời bênh Chúa, “Tôi không biết người ấy,” Phêrô muốn yên thân, khỏi liên lụy: Phêrô bỏ Chúa dọc đường và tháo lui.” (Đường Hy Vọng, số 46)
Vâng phục
“Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng.” (Mt 2, 10) Hành động theo Lời Chúa đương nhiên gặp Chúa mọi nơi, mọi lúc. Khi các vị chiêm tinh nghe theo chỉ dẫn của Kinh Thánh qua lời các thượng tế và kinh sư, thì họ lại trông thấy ngay ngôi sao dẫn đường, thoát khỏi sự mù lòa, lầm lạc bi đát. Vâng phục luôn là đức tính quan trọng và cần thiết để tìm Chúa và theo Chúa.“Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.” (Mt 2, 12)Ba vị Chiêm tinh lần nữa tiếp tục vâng theo sứ thần, để được sống, thoát khỏi bàn tay nhuốm máu của vua Hêrôđê.
“Có người phục mà không vâng, có người vâng mà không phục, có người vâng và phục, vì thượng cấp”đúng điệu” với mình, có người vâng và phục vì Chúa.” (Đường Hy Vọng, số 397)
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, khấn xin Người ban cho chúng con Đức Chúa Thánh Thần, để lửa Tin, Cậy Mến bùng cháy trong lòng chúng con, để Tình Yêu Chúa chiếm hữu hoàn toàn tâm can chúng con. Hầu chúng con luôn cố gắng, quyết tâm ra đi tìm Chúa, gặp Chúa và theo Chúa, vượt qua bao gian nan, thử thách cam go, như ba vị chiêm tinh ngày xưa.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ đoái thương cứu giúp chúng con đang trầm luân trong thung lũng đầy nước mắt, đang lặn lội, mê muội, mù lòa, trong những cám dỗ phù phiếm thế gian. Mẹ là ngôi sao sáng giữa biển khơi mịt mù, xin dẫn dắt chúng con tìm đến Chúa Giêsu, cội nguồn ơn cứu rỗi. Amen.
35.Chúa Hiển Linh--Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
Trong những thập niên đầu tiên, Giáo Hội đã mừng lễ Chúa Hiển Linh thay vì Lễ Chúa Giáng Sinh. Ngày nay, Giáo Hội phương đông vẫn chọn ngày Lễ Chúa Hiển Linh là ngày lễ chính của Mùa Giáng Sinh. Việc coi trọng và mừng cách đặc biệt lễ Chúa Hiển Linh vẫn còn thấy ở nhiều nơi trong Giáo Hội của chúng ta. Chẳng hạn ở Tây Ban Nha, lễ Chúa Hiển Linh được mừng rất trọng thể với những cuộc rước lớn có hóa trang; và đặc biệt hôm nay người ta mới tặng quà Giáng Sinh cho nhau, bởi vì hôm nay, hài nhi Giêsu, sau khi sinh ra được 12 ngày, mới nhận được quà của người ta, nghĩa là của các đạo sĩ!
Lễ Chúa Hiển Linh phải là một lễ lớn, bởi vì biến cố Ngài sinh ra đã là một niềm vui, nhưng niềm vui này vẫn chưa trọn vẹn khi chưa được thật nhiều người biết đến. Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm này trong cuộc sống: dù mình có là ai, hay dù người kia có là ai, nếu chưa được người khác nhận biết, thì cũng như không! Và đó cũng chính là ý nghĩa của từ ngữ “hiển linh” (Épi-phanie, trong tiếng Hi-lạp), có nghĩa là xuất hiện, hiển hiện cho mọi người nhận biết.
Ngày lễ Hiển Linh, là ngày Chúa tỏ mình ra cho mọi dân tộc được nhận biết. Nhưng đây mới chỉ là biến cố khởi đầu; bởi vì, Chúa sẽ chỉ được thực sự được nhận biết bởi cả loài người bằng mầu nhiệm Vượt Qua, chết và phục sinh. Một trong ba quà tặng, là mộc dược loan báo mầu nhiệm Thương Khó của hài nhi Giêsu.
* * *
Thánh sử Mát-thêu, trong sách Tin Mừng của mình, nhấn mạnh cách đặc biệt đến vai trò của thánh Giuse trong Mầu Nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể (x. Mt 1, 1-25). Nhưng tại sao trong trình thuật Hiển Linh quan trọng này, từ đầu đến cuối, thánh sử lại không nhắc đến sự hiện diện của Thánh Cả?
Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến.
(c. 11)
Xem ra cũng thật là kì lạ! Khi có quà (vàng, nhũ hương và mộc dược), thì “người ta” không nhắc tới Thánh Giuse; nhưng khi có việc, Thánh Giuse của chúng ta lại được nhắc tới, và được nhắc tới lúc ngài đang ngủ ngon!
Này ông Giuse, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập!
(c. 13)
1. “Vì Sao của Người” (c. 1-2)
Có “mấy nhà chiêm tinh từ Phương Đông”, nghĩa là từ phía chúng ta, Đất Nước Việt Nam; vì thế hành trình của họ nói về chúng ta, mời gọi chúng ta và đại diện cho chúng ta. Họ còn được gọi là đạo sĩ, vì họ thường làm tư tế và cố vấn cho các vua. Vì thế, chúng ta được mời gọi nhìn ra mọi dân tộc ngang qua hình ảnh các đạo sĩ. Chúng ta hãy hình dung ra và chiêm ngắm hành trình của các ông: để đi tìm Chúa, họ cần đến nhau như thế nào, họ cần vượt qua những khó khăn, ngăn trở hay thử thách nào?
Thật vậy, hành trình đi tìm Chúa của các đạo sĩ vất vả biết bao, bởi vì các ông phải vượt qua rất nhiều trở ngại: phải lìa bỏ quê hương, đến nơi thật xa và lạ, đối diện với những khác biệt về ngôn ngữ văn hóa, ngôi sao dẫn đường lúc ẩn lúc hiện, bị lạc đường, phải hỏi thăm nhưng lại hỏi thăm lầm người, bị lừa dối…; và chúng ta còn có thể hình dung ra biết bao khó khăn khác nếu chúng ta đặt mình vào hành trình của các đạo sĩ. Như các đạo sĩ, chúng ta được mời gọi khao khát đi tìm gặp Chúa, nhất là trong hành trình đi theo Đức Ki-tô trong ơn gọi gia đình hay dâng hiến; và trong hành trình đi tìm Chúa, chúng ta cần đến nhau và cần đến Ngôi Sao dẫn đường biết bao, nghĩa là cần đến Ánh Sáng Lời Chúa, Ánh Sáng Tin Mừng, Ánh Sáng Ngôi Lời Sáng Tạo soi dẫn.
Và họ không thể hiệp nhất và cùng đi về một hướng nếu không có “Vì Sao”. Chúng ta hãy chiêm ngắm “Vì sao của Người” và xin Chúa soi sáng cho chúng ta hiểu được hết ý nghĩa, vì có tầm quan trọng đặc biệt giúp chúng ta hiểu Đức Ki-tô sâu hơn và rộng hơn:
* “Vì sao” xuất hiện trên trời cao và bên phương Đông, nghĩa là ở nơi các dân tộc xa xôi. Như thế, Biến cố sinh ra nhỏ bé và nghèo hèn, nhưng lại có liên quan đến sáng tạo và các dân tộc xa xôi, ngang qua sự hiện diện của “Vì Sao”.
* “Vì sao của Người”, không chỉ là hiện tượng thiên nhiên, nhưng còn là Logos, nghĩa là trật tự, hài hòa, vẻ đẹp, sinh động trong công trình sáng tạo, đã được bày tỏ cho các dân tộc ở rất xa rồi (x. Rm 1)
* “Vì Sao của Người” không chỉ hiện diện trong sáng tạo nhưng còn trong văn hóa, niềm tin và những gì tốt đẹp nơi con người, ngang qua những giá trị nhân bản và thiêng liêng.
Như thế, Ngôi Lời trong sáng tạo, trong các nền văn hóa và Đức Giê-su, Ngôi Lời nhập thể là một (x. Tv 19, 5 và Rm 10, 18). Nhận ra “vì sao của Người” hiểu như trên, sẽ dẫn người ta đến với Đức Giê-su Nazareth. Và đó chính là hành trình của các nhà chiêm tinh, của con người hôm nay và của chúng ta hôm nay.
Tuy nhiên, tước hiệu “Đấng Ki-tô” (c. 4) và nhất là tước hiệu “Vua dân Do Thái” (c. 2) đã loan báo mầu nhiệm Thương Khó rồi, nghĩa là cách thức Người trở nên và là Vua của Dân Do Thái và của cả loài người, cách thức Người bày tỏ căn tính thần linh của Người là Con Thiên Chúa, là Ngôi Lời Thiên Chúa. Thật vậy, người ta sẽ lên án tử Người, khi Người nhận mình là “Đấng Ki-tô Con Thiên Chúa” (x. Mt 26, 63); và tước hiệu “Vua dân Do Thái” (x. Ga 19, 19-22) sẽ gắn liền mãi mãi với Thập Giá Đức Ki-tô (INRI: Iesus Nazarenus Rex Iudaeorum, nghĩa là “Giê-su Nazareth Vua Người Do Thái”). Ngang qua biến cố sinh ra, lớn lên và chịu thương khó, chúng ta nhận ra cách Ngài làm Vua, đó không phải là cách thức của con người, cụ thể là cách thức của Vua Hê-rô-đê, nhưng là cách thức của Thiên Chúa.
2. Vua Hê-rô-đê và mầu nhiệm Thập Giá (c. 3-8)
Ngôi Lời Thiên Chúa đến với thế giới loài người cách âm thầm, khiêm tốn và đơn sơ đã làm cho người Do thái, mà các thượng tế và kinh sư là đại diện, dửng dưng, cho dù họ có cả lịch sử cứu độ được ghi chép thành Sách Thánh, loan báo Đấng Mêsia. Nhưng điều kì lạ là, những người ở phương xa thì tìm kiếm và đơn sơ nhận biết Chúa, khởi từ những dấu chỉ xa xôi và gián tiếp. Điều này có thể chất vấn chúng ta, là những người được Chúa ban cho rất nhiều ơn huệ và dấu chỉ để nhận biết, thờ lạy và ca tụng Chúa.
Nhưng điều kì dị nhất, đó là Đấng Cứu Thế đến hiện diện nhỏ bé, khiêm tốn và hiền lành, nhưng lại làm bật lên sự ghen ghét và ý muốn loại trừ bằng bạo lực. Vì trái với nhân tính, nên ghen ghét và bạo lực phải được che đậy bằng vẻ bề ngoài thiện ý: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người”. Vẻ bề ngoài giả dối và sẽ đạt tới tột đỉnh nơi cuộc Thương Khó của Đức Ki-tô.
Vua Hê-rô-đê đại diện cho quyền bính xã hội, các thượng tế và kinh sư cho quyền bính tôn giáo. Hai quyền bính sẽ có mặt và đi tới cùng ý định loại trừ Đức Giê-su trong cuộc Thương Khó. Đó là những điều kì lạ và kì dị. Nhưng điều kì lạ nhất là, một đàng, Chúa vẫn cứ để mọi sự đi tới cùng, đàng khác, mọi sự vẫn cứ ứng nghiệm lời Kinh Thánh, nghĩa là lịch sử cứu độ không thất bại, nhưng vẫn được hoàn tất. Trong trình thuật Hiển Linh, chúng ta nhận ra rằng, Chúa vẫn dẫn dắt lịch sử, vẫn hiện diện trong các biến cố ngang qua việc “báo mộng”, cho các nhà chiêm tinh và nhất là cho Thánh Giuse.
3. Vì Sao và Hài Nhi (c. 9-12)
Chúng ta hãy chiêm ngắm sự tương hợp giữa “Vì Sao”, với những ý nghĩa chúng ta đã nhận ra, và “Hài Nhi bọc tã nằm trong máng cỏ”. Và khi cầu nguyện với trình thuật Hiển Linh, chúng ta còn được mời gọi chiêm ngắm cách Chúa làm cho mình được nhận biết. Khi sinh ra, để cho muôn dân được nhận biết, Chúa không chọn một hoàng tộc đang trị vì, không chọn sinh ra ở thủ đô hay trong một thành phố lớn, không chọn sinh ra trong cung điện; Chúa không tự làm cho mình lớn lên như thổi như một em bé đầy quyền năng và uy thế. Vậy, chúng ta hãy trở lại với hang đá, để chiêm ngắm hài nhi Giêsu “được bọc tã, nằm trong máng cỏ” và đang thiếp ngủ, bên cạnh có Đức Mẹ và Thánh Giuse thật bình dị như bao người cha và người mẹ khác.
Các đạo sĩ từ xa vượt qua biết bao nhiêu khó khăn và cuối cùng tìm thấy một khung cảnh như thế đó. Như thế đó, nhưng các ông đã sấp mình thờ lạy và dâng tặng cho Chúa những gì cao quí nhất của chính mình và diễn tả tâm tình tôn thờ và chúc tụng. Chúng ta hãy hình dung ra các nhà chiêm tinh sấp mình thờ lạy Người, và dâng tiến vàng, nhũ hương và mộc dược. Các quà tặng đã nói lên con đường Ngài sẽ đi: Ngài được trao ban vương quyền vĩnh cửu (vàng), nhưng phải vượt qua đau khổ và sự chết (mộc dược) bằng lời nguyện xin tín thác (nhũ hương). Sự đơn sơ, khiêm tốn và hiền lành tột bực của Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ, loan báo sự đơn sơ, khiêm tốn và hiền lành tột bực của Đức Kitô chịu đóng đinh trên Thập Giá. Nhưng đó lại là cách Chúa chọn, Chúa yêu thích để bày tỏ sự khôn ngoan và sức mạnh của Thiên Chúa, để Hiển Linh cho loài người chúng ta.
Trong hành trình đức tin và nhất là trong đời sống thiêng liêng, chúng ta cũng được mời gọi nhận biết Chúa, là Ân Huệ lớn lao nhất và tuyệt vời nhất mà Thiên Chúa ban cho loài người chúng ta, giống như người phụ nữ Samari đã nhận biết Chúa trong trình thuật theo thánh Gioan (x. Ga 4). Khi cầu nguyện với trình thuật Hiển Linh, chúng ta hãy khao khát được nhận biết và hiểu biết Chúa nhiều hơn và xin Chúa bày tỏ cho chúng ta “Vì Sao” của Ngài, để cho chúng ta nhận biết và thờ lạy Ngài, như các nhà chiêm tinh.
* * *
Chúng ta hãy trở lại với câu hỏi đã được nêu ra về cách hiện diện của Thánh Giuse trong Mầu Nhiệm Hiển Linh: Thánh sử Mát-thêu, trong sách Tin Mừng của mình, nhấn mạnh cách đặc biệt đến vai trò của thánh Giuse trong Mầu Nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể; nhưng tại sao trong trình thuật Hiển Linh quan trọng này, từ đầu đến cuối, thánh sử lại không nhắc đến tên của Thánh Cả?
Đó là vì Thánh Giuse đã nhận ra Mầu Nhiệm quá lớn so với sự nhỏ bé và bất xứng của mình, Mầu Nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể. Vì thế, ngay từ đầu, ngài đã muốn « lui lại phía sau » và ngài đã luôn muốn « lui lại phía sau » khi có cơ hội. Và cơ hội là đây, khi Hài Nhi Giê-su, với tư cách là Ngôi Lời, thu hút và tỏ mình ra cho các dân tộc xa xôi, ngang qua sự hiện diện của các đạo sĩ. Thánh sử Mát-thêu như đã nhận ra và tôn trọng tâm tình “lui lại phía sau” của Thánh Giuse, khi không nhắc đến tên của Thánh Nhân, mặc dù ngài chắc chắn đã hiện diện, nhưng một cách kín đáo trong thinh lặng; và cả sau đó nữa, thánh sử kể lại: “Này ông Giuse, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập!”. “Hài Nhi và Mẹ Người”, thay vì “vợ con ông”! Có một khoảng cách thần linh giữa ngài và Con Thiên Chúa cùng với Mẹ Người. Thánh Giuse luôn tôn trọng khoảng cách này và ngài tôn trọng đến cùng.
Hơn thế nữa, chúng ta còn được mời gọi nhận ra, ở đây, nơi Mầu Nhiệm Chúa Hiển Linh, Thánh Giuse như đã sống trước ơn huệ được “lui lại phía sau” cách trọn vẹn, sau khi đã hoàn tất sứ mạng “cưu mang” Ngôi Lời Chúa và để cho Ngôi Lời trở thành Đấng Emmanuen, nghĩa là “Thiên Chúa Ở Cùng Chúng ta”, và nhất là để cho Mầu Nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể, và cả Mầu Nhiệm Mẹ Thiên Chúa nữa, thực sự “Hiển Linh” nơi mầu nhiệm Vượt Qua.
36.Hành trình đức tin--Lm Vũ Đình Tường
Có những chuyến đi mang tính lịch sử lâu dài, được trân trọng nhắc đến như chuyến lên mặt trăng đầu tiên vào thập niên sáu mươi của các phi hành gia Hoa Kì. Xa hơn nữa, lần ngược về quá khứ, là những cuộc hải hành của các nhà thám hiểm đi tìm đất mới. Những chuyến đi lừng danh đó nhiều khi được cả quốc tế biết đến nhưng bản chất của nó vẫn mang tính cách quốc gia. Mang tính cách quốc gia vì nó được chính quyền các quốc gia đó ủy thác trọng trách trong việc làm nên lịch sứ cho quốc gia họ. Hầu như lịch sử thế giới không phân biệt chuyến đi mang tính cách cá nhân, tự chi phí cho chuyến đi riêng của mình nhưng trân trọng ghi lại mọi chuyến đi làm lên lịch sử. Sau khi làm lên lịch sử, trang sử đó được gấp lại và chỉ mở ra khi cần tham khảo.
Tôn giáo hoàn toàn khác biệt với ghi nhận của lịch sử của nhân loại. Những chuyến đi xem ra tầm thường, hoàn toàn có tính cá nhân, riêng tư hay tình gia đình lại được để cập đến trong lịch sử ơn cứu độ. Đức trinh nữ Maria đi thăm người bà con thân thuộc là Elizabeth được ghi dấu trong lịch sử ơn cứu độ. Đây là chuyến đi hoàn toàn có tính cách cá nhân, gia đình lại trở thành mẫu mực cho việc thăm viếng, mang tin vui tới cho người mình thăm. Chuyến đi đền thờ cầu nguyện và con trẻ Jesu bị lạc mất ba ngày cũng ghi đậm nét trong lịch sử cứu độ và được công bố hàng năm trong lịch phụng vụ. Chuyến đi này hoàn toàn có tính cách gia đình, một gia đình thời đó vô danh, không mấy ai để í đến. Chuyến đi của ba vị từ Phương Đông cũng là chuyến đi có tính cách cá nhân, cá biệt cũng được nhắc đến đầy đủ chi tiết. Vì thế những chuyến đi mang tính cách đức tin có chiều dài lịch sử dài hơn, chiều sâu sâu hơn là những chuyến đi mang tính cách khám phá đất mới hay tìm hiểu về khoa học. Chuyến đi vì đức tin có thể không được quảng bá rầm rộ trên báo chí hoặc truyền thông trong đại chúng nhưng những chuyến đi đó thường mang tính cách quốc tế nhiều hơn là tính cách quốc gia vì ở đâu có người chung niềm tin, ở đó những chuyến đi đó được mừng kính hàng năm để ghi nhớ dấu ấn đức tin của con người tin vào Thiên Chúa.
Chuyến đi của ba vị từ Phương Đông còn mang một í nghĩa quan trọng hơn đó là một chuyến đi tìm kiếm sự thật. Lòng họ ao ước bỏ công việc riêng, ra đi tìm hiểu rõ sự thật. Sự thật đó là ngày sinh của Đấng Cứu Thế. Với đại chúng mừng Giáng Sinh là mừng ngày Chúa sinh ra. Với ba vị đạo sĩ Phương Đông mừng Giáng Sinh khởi đẩu từ lúc gặp Chúa trong máng cỏ. Nói rõ hơn mừng Giáng Sinh là mừng ngày nhận biết Chúa tỏ mình ra cho con người. Theo í nghĩa đó thời điểm mừng Giáng Sinh khác nhau và kéo dài nhiều ngày sau ngày Chúa Giáng trần. Chúa tỏ mình ra cho nhiều nhóm khác nhau, đầu tiên là các mục đồng, sau đó là đến các vị đạo sỉ rồi ngày Chúa nhật lễ Thánh Gia thất, lễ Đức Mẹ là mẹ Thiên Chúa, lễ Chúa tỏ mình ra trong đền thờ và chấm dứt vào ngày lễ Chúa nhận phép rửa. Vì sau ngày này không còn đọc kinh Tiền Tụng Giáng Sinh nữa. Với các nhà làm thương mại Giáng Sinh chấm dứt khi không còn người trao đổi hàng hoá, quà cáp Giáng Sinh ế ẩm. Với Giáo Hội Giáng Sinh kéo dài theo í nghĩa
Con Người xuống thế làm người và ở giữa chúng ta.
Bất cứ khi nào Chúa tỏ mình ra thì í nghĩa Chúa Giáng Sinh lại sống lại trong cá nhân đó. Đừng mừng giáng Sinh theo tinh thần xem bắn pháo bông. Cần nhiều tuần tổ chức cho ngày đó nhưng pháo bừng sáng rồi tắt lịm trong năm mười giây. Chúng ta nói là mùa Giáng Sinh vậy mùa thường kéo dài vài ba tuần mới đúng í nghĩa của mùa.
37.Bày Mưu, Hoán Kế--Lm. Vũ Đình Tường
Bày mưu, hoán kế là việc làm của đầu óc. Sống yêu thương và tha thứ là đường lối của con tim. Đôi khi ta có chung kế hoạch nhưng đạt mục đích của kế hoạch chung lại khác nhau, tùy người. Bày mưu hoán kế đến từ trong đầu; ước mong đến từ con tim. Có thể nói Thiên Chúa tạo dựng bộ óc giúp ta nuôi thân nơi trần gian và ban cho con tim để con tim giúp tìm cách vào nước trường sinh. Vì thế đầu óc thường tìm hết kế này, cách khác tìm lợi nhuận cho riêng mình; trong khi con tim giúp chia sẻ tình thương. Vì hai đường hướng khác biệt mà có chiến tranh nội tâm. Một đàng là cách thức của khối óc; đàng khác là đường lối của con tim. Khi hai con đường đi ngược chiều, nội chiến xảy ra. Hai con đường đi cùng chiều, tâm hồn bình an. Khi đường lối đen tối khối óc thắng đường lối trong sáng của con tim thì khối óc biến con tim yêu thương thành con tim sỏi đá; Khi đường lối yêu thương con tim thắng đường lối khối óc thì khối óc đi theo đường chân lí, ánh sáng Phúc Âm. Khi không bên nào nhường bên nào thì đường ai nấy đi; óc theo đường của óc và ctim quyết theo đường riêng mình. Lúc đó chiến tranh lạnh xảy ra, đêm đến nghe tiếng con tim khuyên bảo, kêu gọi trở về con đường yêu thương. Khi khối óc từ chối, lâu ngày con tim mệt mỏi, tạm yên, nhỏ nhẹ hơn. Nó tạm đình chiến trong một thời gian, rồi sẽ trở lại. Đường lối của con tim là thế, kiên trì cho đến khi khối óc phải chào thua, lúc đó nó mới chính thức yên nghỉ. Tiếng nói nhỏ nhẹ trong tâm hồn đó được nhiều người biết đến là tiếng nói của lương tâm.
Đại diện cho đường lối đen tối và con tim sỏi đá là vua Hêrôdê bởi mục đích tối hậu của vua là tìm lợi ích cho riêng vua mà không loại trừ bất cứ âm mưu tàn ác nào, miễm âm mưu đó có lợi cho cá nhân vua. Chính vì thế mà vua không quan tâm đến tiếng than khóc nức nở của những người mẹ có con bị vua ra lệnh giết chết. Cái ngai vàng của vua quan trọng hơn sinh linh trẻ thơ. Nhà vua sống trong lo sợ, sợ mất ngai vàng, sợ mất chức tước, quyền hành nên vua ra lệnh giết tất cả các trẻ trai hy vọng giệt được ấu Chúa. Vua sợ một cách vô lí nhưng vì quá sợ nên vua không quan tâm đế dân. Vua để cho nỗi sợ hoành hành, quyết định. Vua dối trá với các nhà đạo sĩ đến hỏi vua làm sao để tìm ấu Chúa mới sinh. Miệng vua nói sẽ đi thờ ấu Chúa, thực tế lòng vua lo sợ và nghĩ kế tìm cách giết ấu Chúa.
Đại diện cho đường lối trong sáng và con tim yêu thương là ba nhà đạo sĩ bởi mục đích tối hậu của họ là đi tìm ấu Chúa để thờ lậy. Họ không ngại từ bỏ ngai vàng, ra đi, dấn thân tìm ấu Chúa. Dù ra đi tìm kiếm nhưng tâm hồn họ thanh thản, thân xác có mệt mỏi vì đường xa, xứ lạ nhưng an tâm, ấm lòng, đầy hy vọng. Họ mang theo lễ vật dâng tiến ấu Chúa nhưng họ nhận nhiều hơn là cho đi. Nhờ sao lạ dẫn đường họ đã tìm gặp ấu Chúa, thờ lậy xong họ được báo trong giấc mộng hãy theo đường khác mà về. Con đường đó lại được sao lạ đi trước dẫn đường. Chúng ta không biết họ đến từ nước nào, vương quốc họ ở đâu. Họ đến từ nơi xa vì nhận được dấu lạ, sao sáng dẫn đường. Họ đại diện cho tâm hồn trong sáng, tìm kiếm ánh sáng chân lí và tìm được. Hêrôđê cũng tìm kiếm nhưng không gặp ấu Chúa bởi lòng ông chai đá, tâm hồn thiếu ngay thẳng và đầu óc đen tối vì thế không thể nhìn thấy ánh sáng. Vua sống trong thất vọng, triền miên lo sợ. Thiên Chúa bằng cách riêng của Ngài, nhẹ nhàng phá tan mọi âm mưu đen tối mong phá kế hoạch của Ngài. Họ thất bại nhưng mắt vẫn không nhận ra vì thế họ tiếp tục sống trong bóng tối.
38.Hãy tỏa sáng--Lm. Ignatiô Trần Ngà
Hôm ấy, đang khi vị linh mục giảng tĩnh tâm cho gần 500 tín hữu trong một hội trường rộng lớn về đề tài “Hãy làm gương sáng”, thì điện bị cúp trong toàn khu vực (cúp điện theo chiến thuật!). Cả hội trường chìm trong bóng tối.
Bấy giờ ngài bật lên một que diêm, giơ cao lên và cất tiếng hỏi: “Anh chị em có thấy ánh sáng từ que diêm nầy không?”
Mọi người trong hội trường đáp lại: “Thưa có”
Vị linh mục tiếp: “Dù bóng tối phủ dày nhưng chỉ cần ánh sáng của một que diêm thôi cũng đủ cho nhiều người chung quanh nhìn thấy. Như thế, ánh sáng của việc tốt, dù nhỏ bé thôi, cũng có thể tỏa ra trước mắt nhiều người trong một xã hội dẫy đầy bóng tối.”
Sau đó, ngài mời gọi những ai mang theo hộp quẹt trong túi, hãy bật cho lửa sáng lên. Nhiều người hưởng ứng. Thế là bóng tối bị đẩy lùi, cả hội trường sáng lên bởi rất nhiều ánh lửa nhỏ từ các hộp quẹt của những người hiện diện.
Bấy giờ vị linh mục tiếp: “Nếu mỗi người chúng ta cố gắng thực hiện một việc tốt mỗi ngày thì cuộc đời chúng ta sẽ tỏa sáng như những đốm lửa trên tay chúng ta đây. Nhờ đó bóng tối của thói hư tật xấu và của tệ nạn đang bao trùm thôn xóm sẽ dần dần bị đẩy lùi.” (Phỏng theo một cốt truyện trên internet)
* * *
Hôm xưa, nhờ ánh sáng của ngôi sao lạ rực sáng lên ở phương đông, các nhà chiêm tinh mới lần theo ánh sao, tìm đến thờ lạy Chúa Hài Nhi. Hôm nay, mỗi người tín hữu theo Chúa Kitô phải trở thành những ánh sao mới để dẫn lối cho bao người tìm về với Chúa.
Lời Chúa trong sách tiên tri Isaia được trích đọc vào thánh lễ hôm nay vang lên như một lời mời gọi tha thiết, thúc giục chúng ta hãy toả sáng.
“Hãy đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi.
Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi.
Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân;
còn trên ngươi, Đức Chúa như bình minh chiếu toả,
vinh quang Ngài xuất hiện trên ngươi.
Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi,
vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước.” (Isaia 60,1)
Ngoài ra, qua thư gửi tín hữu Phi-lip-phê, thánh Phao-lô nhân danh Thiên Chúa kêu gọi chúng ta tỏa sáng: “Giữa một thế hệ gian tà sa đoạ… anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời.” (Philip 2,15)
Phải tỏa sáng cách nào?
Trước hết là bằng cách phát huy nếp sống đẹp: đẹp trong lời ăn tiếng nói, đẹp trong cách cư xử giao tế với người chung quanh, nhưng đẹp nhất là có lòng bác ái, yêu thương, tôn trọng và sẵn sàng phục vụ những người chung quanh… Ai thực hiện được những điều đó, thì họ là những ánh sao dẫn đường về với Chúa, về với Chân Thiện Mỹ. Thế giới và xã hội rất cần những ngôi sao như thế để soi đường dẫn lối cho bao người.
Như giọt sương mai
Những giọt nước bẩn đọng lại đây đó trên những lá cây bên đường không thể tỏa ra chút ánh sáng nào; tuy nhiên những giọt sương mai còn đọng lại trên các ngọn cỏ lại trở nên long lanh tuyệt đẹp dưới ánh bình minh.
Vậy thì các tín hữu cần loại trừ khỏi cuộc sống mình những tệ nạn và thói hư tật xấu, bấy giờ tâm hồn họ sẽ trở nên trong sáng như những hạt sương mai.
Kế đó họ cần học hỏi và để cho Lời Chúa thấm đẫm tâm hồn. Một khi Tin Mừng Chúa Kitô được chiếu giọi tận đáy sâu tâm hồn thì Ánh Sáng Tin Mừng sẽ làm cho họ trở nên lấp lánh giữa cuộc đời, như ánh sáng mặt trời ngời sáng trên những giọt sương mai.
Lạy Chúa Giêsu,
Xin giúp chúng con tỏa sáng, dù không như ánh sao giữa bầu trời đêm thì ít nữa cũng như một cây nến sáng trong gia đình, để nhờ gương lành việc tốt của chúng con, gia đình, thôn xóm chúng con được bừng sáng, vì “gần mực thì đen, gần đèn ắt phải sáng”.
39.Tìm gặp Thiên Chúa giữa lòng đời--Lm. Ignatiô Trần Ngà
Theo ánh sáng của ngôi sao lạ, ba nhà chiêm tinh đã tìm đến cung điện của vua Hê-rô-đê để thờ lạy kính bái, vì nghĩ rằng nếu có vị vua mới sinh thì ắt vua đó phải sinh ra nơi cung vàng điện ngọc, nơi chốn cao sang. Nhưng thực ra không phải thế. Khi ba vị đến gặp vua Hê-rô-đê và hỏi: "Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Ngài xuất hiện bên phương đông, nên chúng tôi đến bái lạy Ngài" thì vua Hê-rô-đê hết sức ngạc nhiên và bối rối vì không hay biết gì về sự việc này (Mt 2, 2).
Bấy giờ "nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Ki-tô có thể sinh ra ở đâu. Họ trả lời: “Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: “Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời” (Mt 2, 4-6).
***
Thật bất ngờ, Chúa Cứu Thế không sinh ra trong cung vàng điện ngọc mà lại sinh ra nơi quê mùa heo hút, tại Bê-lem là phần đất nhỏ bé của miền Giu-đa.
Như thế, nhờ ánh sáng từ Kinh thánh soi chiếu mà vua Hê-rô-đê, cả triều thần của vua cũng như ba nhà chiêm tinh biết được nơi Chúa Cứu Thế giáng sinh. Cũng nhờ ánh sáng nầy, ba nhà chiêm tinh tiếp tục đến tận nơi để thờ lạy và dâng lễ vật cho Ngài, tại một nơi nghèo nàn tầm thường mà ba vị không ngờ trước được.
***
Hôm nay, không có ngôi sao lạ nào xuất hiện trên bầu trời để soi đường cho chúng ta đi tìm Chúa, nhưng chúng ta có một ánh sáng khác rực rỡ hơn giúp ta tìm gặp Ngài. Đó là ánh sáng của Lời Chúa, như lời Thánh Vịnh: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi.” (Thánh vịnh 119, câu 105).
***
Vậy ánh sáng Lời Chúa soi đường cho chúng ta tìm thấy Chúa nơi đâu?
Ở nơi mà không mấy ai ngờ: Ở ngay trong nhà, trong xóm chúng ta. Thật quá bất ngờ!
Ba nhà chiêm tinh ngày xưa ban đầu cứ ngỡ rằng vua mới ra đời ắt phải sinh ra trong cung điện Hê-rô-đê, không ngờ Lời Chúa lại chỉ cho họ tìm gặp Đấng Cứu Thế mới sinh tại một làng quê Bê-lêm hẻo lánh, trong hình hài một trẻ sơ sinh yếu ớt, tại một túp lều nghèo nàn đơn sơ.
Hôm nay cũng thế, ban đầu chúng ta cứ tưởng Chúa chỉ ngự trên chốn trời cao, Chúa chỉ hiện diện trong Bí tích Thánh Thể, chỉ ngự trong các thánh đường... nào ngờ Chúa cũng hiện diện trong chính gia đình chúng ta, trong thôn xóm nghèo nàn của chúng ta.
Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong tâm thư gửi các gia đình đã viết: “Thiên Chúa đồng hoá với con người, với những người trong gia đình. Thiên Chúa là một với người cha, người mẹ, người bạn trăm năm, người con trong gia đình.”
Qua dụ ngôn về ngày phán xét cuối cùng trong Tin mừng Mát-thêu, Chúa Giê-su tỏ cho thấy những ai cho những người đói khát đầu đường xó chợ một bát cơm thì Chúa nói là họ cho Chúa ăn. Những ai cho người rách rưới hoặc mình trần một tấm áo, thì Chúa nói là họ đã cho Ngài mặc. Những ai cho người sa cơ thất thế không nơi nương tựa được trú ngụ một thời gian thì Chúa nói là họ đã cho Chúa trọ nhà… Nói như thế, Chúa Giê-su tự đồng hoá mình với mọi người chung quanh. Nói khác đi, Chúa Giê-su khẳng định rằng Ngài là một với mỗi người chung quanh; Ta làm gì cho họ là làm cho chính Ngài. (xem Mt 25, 31-46)
Khi chưa nhận biết Đức Giê-su là Thiên Chúa, Sao-lô ra tay bách hại các môn đệ của Ngài dữ dội. Vì thế, ông đã bị quật ngã trên đường Đa-mát và có tiếng Chúa Giê-su vang lên giữa thinh không: “Sao-lô, tại sao ngươi bắt bớ Ta?” Phao-lô hết sức kinh hoàng: “Thưa Ngài, Ngài là ai?” Có tiếng từ trời đáp: “Ta là Giê-su mà ngươi đang bắt bớ” (Cv 22, 6-9). Chính từ hôm đó, Sao-lô (tức thánh Phao-lô tông đồ) mới giác ngộ rằng các tín hữu cũng chính là Chúa Giê-su, bắt bớ họ là bắt bớ chính Chúa.
Lạy Chúa Giê-su,
Chính những lời Chúa dạy trên đây là ánh sao sáng, còn sáng hơn sao Bê-lem năm xưa, soi sáng cho chúng con biết Chúa đang ở ngay trong gia đình, trong làng xóm của chúng con, để chúng con đến hầu hạ phục vụ và dâng lễ vật cho Chúa.
Lễ vật của chúng con không phải là vàng, nhũ hương và mộc dược nhưng là một tấm áo cho cha, một bát cơm cho mẹ, là sách vở bút mực cho con cái học hành, là sự ân cần săn sóc những người đau khổ chung quanh chúng con.
Chúng con hy vọng Chúa sẽ vui nhận những lễ này và chúc lành cho chúng con.
40.Ánh nến tỏa sáng trong gia đình--Lm. Ignatiô Trần Ngà
Giữa ban ngày, chỉ cần một tấm bảng nhỏ vẽ mũi tên chỉ đường cũng đủ để giúp bộ hành tìm được hướng đi, nhưng giữa đêm đen, dù có cả một rặng núi sừng sững được sử dụng như tín hiệu chỉ đường, cũng không ai nhận thấy. Trong khi đó, chỉ cần một ánh sáng le lói giữa màn đêm cũng đủ để cho khách bộ hành tìm thấy mục tiêu cần tiến đến. Trong đêm tối, một đốm sáng nhỏ có khả năng dẫn đường chỉ lối hơn cả một ngọn núi cao.
Chính vì thế, khi Chúa Giêsu sinh ra tại Bêlem, Thiên Chúa đã cho xuất hiện một ánh sao đặc biệt giữa bầu trời đêm để soi dẫn cho ba nhà chiêm tinh từ phương Đông đến gặp Chúa Cứu Thế. Nhờ ánh sáng của ngôi sao lạ nầy, ba nhà chiêm tinh mới có thể tìm gặp Hài Nhi Giêsu mới hạ sinh.
Đoạn Tin Mừng Matthêu (2, 1-12) trích đọc trong phụng vụ lễ hiển linh mời gọi chúng ta trở thành những ngôi sao nhỏ để dẫn đưa anh chị em lương dân đến với Chúa. Nói cách khác, Lời Chúa mời gọi chúng ta làm ánh sáng chỉ đường cho lương dân.
Từ ngàn xưa, Thiên Chúa đã dùng ngôn sứ I-sa-i-a mà phán dạy dân Người: "Ta đã đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi mang ơn cứu độ của Ta đến tận cùng trái đất." (Is 49,6)
Chúa Giêsu cũng trao sứ mạng nầy cho các môn đệ: "Chính anh em là ánh sáng cho trần gian... ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ..." (Mt 5, 14):
Và Thánh Phaolô tiếp tục kêu mời chúng ta: "Giữa một thế hệ gian tà sa đoạ, anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời." (Pl 2,15)
Ít ra, xin được là ánh nến toả sáng trong gia đình
Trở nên ánh sáng soi đường là một sứ mạng tuy cao trọng nhưng đầy khó khăn nên không ai muốn đảm nhận. Tuy vậy, là con cái Chúa, không ai được quyền thoái thác chối từ. Mấy câu thơ sau đây của thi sĩ Éliot sẽ khích lệ chúng ta:
"Nếu bạn không thể là ngôi sao sáng giữa trời,
Thì hãy là ánh lửa non cao.
Nếu bạn không thể là ánh lửa non cao,
Xin hãy làm ánh nến toả sáng trong gia đình."
Có lẽ chúng ta không dám làm ngôi sao sáng giữa trời, vì thấy mình yếu đuối và tội lỗi. Có thể chúng ta cũng chẳng dám mơ ước trở thành một ánh lửa non cao cho nhiều người từ phương xa nhìn tới. Vậy thì ít ra, xin cho mỗi người chúng ta cố sức trở thành một ánh nến toả sáng trong gia đình. Ánh nến nầy rất quan trọng vì 'gần mực thì đen và gần đèn ắt phải sáng.' Ánh sáng của cuộc đời mẫu mực nơi người cha, người mẹ toả chiếu trên con cái chắc chắn sẽ làm cho con cái được nên người. Và ngay cả ánh sáng của con cái cũng có thể làm cho cha mẹ nên sáng.
Sự kiện sau đây minh chứng điều nầy:
Ngày 12 tháng 12 năm 1999, tôi ban bí tích rửa tội cho hai em nhỏ. Người chị là Têrêxa Huỳnh thị Bích Hằng, mười lăm tuổi, còn người em là Maria Huỳnh thị Bích Nga, mười hai tuổi. Vì hai em mồ côi cha mẹ sớm, chẳng được học hành, nên được gia đình người cô ruột thương tình đem về nuôi.
Điều oái oăm là cô dượng của hai em tuy là người có đạo nhưng không mấy khi bước đến nhà thờ. Mỗi tối, gia đình nầy bán phở đến 12 giờ đêm. Hai người cháu cũng lo phục dịch đến giờ ấy.
Thế rồi từ ngày hai cháu được dẫn đến nhà thờ, được các nữ tu dạy cho biết Chúa và giáo lý, hai cháu bỗng nhiên yêu mến Chúa cách nhiệt tình và yêu thích học giáo lý cách đặc biệt. Cứ mỗi ngày chúa nhật, hai cháu cảm thấy mừng vui rộn rã trong lòng vì được đến với Chúa. Lòng nhiệt thành của hai cháu đã làm bừng lên nhúm đức tin như tro tàn nguội lạnh trong lòng cô dượng. Thế rồi cô dượng cũng sốt sắng đi thờ phượng Chúa trong các ngày chúa nhật, sau khi đã vắng bóng ở nhà thờ gần đến mười năm! Người cô nói với tôi: "Thấy hai cháu sốt sắng quá, thét rồi hai vợ chồng con cũng sốt sắng lây."
Hai cháu đúng là hai ánh nến nhỏ trong gia đình đã chiếu soi cho Cô Dượng.
Vậy giờ đây chúng ta cùng cầu nguyện với Chúa Giêsu bằng lời thơ của thi sĩ Éliot:
"Lạy Chúa, nếu con không thể là ngôi sao sáng giữa trời,
Thì xin hãy là ánh lửa non cao.
Và nếu con không thể là ánh lửa non cao,
Xin cho con được làm ánh nến toả sáng trong gia đình."
41.Lễ Hiển Linh--Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Lễ Chúa Hiển Linh là cao điểm của mùa Giáng Sinh. Ta đã có dịp suy niệm Lời Chúa về ý nghĩa của biến cố Ngôi Hai làm người sinh xuống và ở giữa nhân loại. Sự hiện diện của Chúa Giêsu trong thế giới luôn luôn là một dấu chỉ, một ngôn ngữ để Thiên Chúa nói với loài người. Vậy qua biến cố Giáng Sinh, Thiên Chúa muốn tỏ mình ra, muốn “lộ diện” với nhân loại, để nhân loại thấy được Thiên Chúa vô hình và kế hoạch ân sủng của Người (xem Ga 1,18).
1. Vinh quang của Thiên Chúa chiếu tỏa trên nhân loại (bài đọc Cựu Ước – Is 60,1-6)
Qua cái nhìn của ngôn sứ Isaia, Giêrusalem không còn là thủ đô của dân tộc nhỏ bé Ít-ra-en nữa, nhưng nó đã trở nên “đô thành của Thiên Chúa” và trung tâm cứu độ của toàn thể thế giới rồi. Từ bao lâu nay, thế giới nằm dưới ách thống trị của bóng tối và mây mù tội lỗi. Tình trạng của Giêrusalem cũng không hơn gì thế giới, vì cũng ở trong tối tăm và chẳng dân tộc nào nhận ra nó. Nhưng khi Giêrusalem được mặt trời công chính ngự đến thì chỗ đứng của nó hoàn toàn thay đổi. Giêrusalem đã được chọn làm nơi “vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa”. Vì thế ngôn sứ kêu gọi Giêrusalem hãy đứng cao lên để toàn thế giới nhận được ánh bình minh của Đức Chúa. Giêrusalem sẽ chứng kiến tầm quan trọng của nó vì nó trở nên nguồn sáng lôi cuốn và hướng dẫn toàn nhân loại đến một vương quốc mới.
Ngôn sứ Isaia sử dụng hình ảnh giàu có phong phú của một quốc gia trần thế để diễn tả một thực tại thiêng liêng là vương quốc ân sủng của Thiên Chúa. Theo quan niệm Do-thái, một quốc gia hùng mạnh là quốc gia đông dân cư và giàu sang, với của cải vàng bạc từ các nước thiên hạ đổ về qua đường biển, hoặc qua đường bộ và chở đầy trên lưng đàn lạc đà không sao đếm xuể. Hình ảnh ấy tượng trưng cho sự sung mãn ân sủng Thiên Chúa ban cho nhân loại khi Con Một xuống thế làm người tại Giêrusalem mới. Muôn dân nước “đều tập hợp, kéo đến” để nhìn nhận “vinh quang của Thiên Chúa”.
Nhưng vinh quang của Thiên Chúa phải chăng là quyền năng cao cả của Người? Đúng vậy. Tuy nhiên hơn thế nữa, quyền năng cao cả ấy được biểu hiện qua việc làm yêu thương của Thiên Chúa khi Người ban cho ta Con Một. “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống” (l Ga 4,9). Thiên Chúa có cả một kế hoạch để chiếu tỏa vinh quang của Người trên Giêrusalem mới, tức là kế hoạch ân sủng được thực hiện một cách lạ lùng qua Đức Giêsu Kitô và thánh Phaolô Tông đồ gọi đó là Mầu nhiệm Đức Kitô.
2. Mầu nhiệm Đức Kitô được mặc khải cho cả Ít-ra-en lẫn dân ngoại (bài đọc Tân Ước – Ep 3,2-3a.5-6)
Thần học gia Phaolô cho ta một cái nhìn thật rõ ràng về kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Kế hoạch cứu độ, những từ này nói lên công việc Thiên Chúa làm và sự rỗi của ta là đối tượng của công việc ấy. Những từ này nhấn mạnh về phía Thiên Chúa chủ động. Nhưng đối với thánh Phaolô, việc cứu rỗi không phải là việc làm của mình Thiên Chúa, mà còn phải có sự đáp trả của ta. Thiên Chúa ban ân sủng cứu độ, nhưng ta là kẻ được lãnh nhận cần phải cộng tác tích cực, sử dụng ân sủng đó để sống như con cái Thiên Chúa hầu đạt tới mức sung mãn trong Đức Kitô. Do đó, thánh Phaolô gọi kế hoạch đó là “kế hoạch ân sủng”, vì Đấng ban ân sủng cũng như những kẻ lãnh nhận ân sủng sẽ cùng cộng tác với nhau mà đến với nhau và làm cho quan hệ đôi bên được vững bền muôn đời. Ta không thể tưởng tượng nổi tại sao Thiên Chúa lại chọn cách thế như vậy để đến với nhân loại và cứu độ con người. Quả thực là một mầu nhiệm! Trong tiếng La-tinh, mầu nhiệm cứu độ thường được gọi là “kế hoạch cứu độ” (economia salutis). Mầu nhiệm này được Thiên Chúa tỏ ra và thực hiện qua Đức Kitô nên thánh Phaolô gọi là “Mầu nhiệm Đức Kitô”.
Thánh Phaolô cho ta một định nghĩa đầy đủ về mầu nhiệm này. “Mầu nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (Ep 3,6).
Vậy Thiên Chúa muốn tỏ cho ta biết những gì qua “Mầu nhiệm Đức Kitô”? Có ba điểm cốt yếu trong chân lý mầu nhiệm này. Trước hết Thiên Chúa muốn mọi người không trừ ai, Do-thái cũng như dân ngoại, đều được cùng hưởng phần phúc gia nghiệp của Người, tức là lời hứa được cứu độ. Mầu nhiệm Đức Kitô khẳng định tính cách phổ cập của ơn cứu độ. Dù thuộc bất cứ dân tộc nào, nền văn hóa nào, hoặc giai cấp nào trong xã hội mọi người đều được mời gọi đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa, vì đây là kế hoạch ân sủng dành cho tất cả nhân loại. Nhờ chia sẻ cùng một bản thể nhân loại với Đức Kitô nên ta được mời gọi lãnh ân sủng Thiên Chúa ban cho ta trong Đức Kitô.
Điểm thứ hai mầu nhiệm Đức Kitô cho ta thấy vai trò quan trọng của Đấng thực hiện kế hoạch ân sủng là Đức Kitô Giêsu. Thiên Chúa không đặt kho tàng ân sủng cứu độ ấy ở trên trời hay một địa điểm đặc biệt nào đó dưới thế gian, vì như thế làm sao con người có thể tìm kiếm được. Nhưng Người đặt nguồn ơn cứu độ ấy “trong Đức Kitô Giêsu”, Đấng được Chúa Cha sai đến “làm người để chuộc tội cho thiên hạ” (Rm 8,3). Đức Kitô vừa là Thiên Chúa vừa là người phàm, cho nên khi Đức Kitô thực hiện kế hoạch ân sủng cứu độ qua bản thể nhân loại và bản thể Thiên Chúa của Người, thì tất cả những lời giảng, việc làm, cái chết và sự phục sinh của Người đều có giá trị của Thiên Chúa và có khả năng cứu độ mọi người. Người chịu cuộc Thương Khó, chết và sống lại, để được Thiên Chúa tôn vinh và đặt làm anh cả của một đoàn em đông đúc, tức là nhân loại mới (Rm 8,29).
Điểm thứ ba nói lên phương thức giúp mọi người nhận biết và tin vào Đấng Cứu Độ. Đó là “nhờ Tin Mừng”. Tin Mừng cứu độ này “những người thuộc các thế hệ trước”, tức là các vị ngôn sứ thời Cựu Ước, không có diễm phúc biết tới. Chỉ có các thánh Tông đồ mới là những người được biết và được Thiên Chúa trao phó cho nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng ấy. Trong thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phaolô nói về sứ vụ rao giảng Tin Mừng như sau: “Thế nhưng làm sao người ta kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe nếu không có ai rao giảng? Làm sao mà rao giảng, nếu không được sai đi?... Nhưng không phải mọi người đều đã vâng theo Tin Mừng; chính ngôn sứ Isaia đã nói: Lạy Đức Chúa, ai đã tin khi nghe chúng con giảng? Ấy vậy, có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Kitô” (Rm 10,14-17).
3. “Từ phương Đông chúng tôi đến bái lạy Người” (bài Tin Mừng – Mt 2,1-12)
“Nhưng không phải mọi người đều đã vâng theo Tin Mừng”, thánh Phaolô đã phải cay đắng nói lên sự thật phũ phàng ấy. Thánh Gio-an Tông đồ cũng đồng quan điểm khi ngài khẳng định ngay trong lời tựa sách Tin Mừng: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11). Câu truyện các nhà chiêm tinh phương Đông đến bái lạy Hài Nhi Giêsu trong khi vua Hê-rô-đê bối rối và dân thành Giêrusalem xôn xao đã chứng thực điều các thánh Tông đồ khẳng định là một sự thật. Chúa Giêsu Kitô được sai đến để cứu độ mọi người và mọi người được mời gọi đón nhận Người, đó là một tin mừng. Nhưng người ta từ chối không tin nhận Người là Đấng Cứu Độ. Như thế Tin Mừng đã trở thành tin buồn đối với họ rồi.
Rõ ràng có hai lớp người khác nhau theo câu truyện trong bài Tin Mừng. Các nhà chiêm tinh đại diện cho những người tin vào Đức Kitô, còn vua Hê-rô-đê và dân Giêrusalem thay mặt cho những kẻ chối bỏ Đức Kitô. Gặp được Đức Kitô, các nhà chiêm tinh đã thay đổi cuộc đời mình. Hình ảnh các ông “đi lối khác mà về xứ mình” thật có ý nghĩa. “Lối khác” đây chính là con đường Đức Kitô dạy trong Tin Mừng của Người. Còn “xứ mình” không phải là phương Đông nữa, mà là quê hương đích thực của họ, tức nhà Cha trên trời.
Bài Tin Mừng là một kết luận của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, đặt ta trong tư thế phải trả lời dứt khoát: tin Đức Kitô và đón nhận ân sủng cứu độ, hay là chối bỏ Người và hư mất đời đời.
4. Sống Lời Chúa
Thiên Chúa yêu thương ta và muốn tỏ cho ta biết Người yêu thương ta đến ngần nào. Qua biến cố Giáng Sinh của Chúa Giêsu, Thiên Chúa cho ta biết Người là ai và muốn làm gì để ta được làm con cái Người và được cứu độ. Điều đáng mừng nhất, đó là ơn cứu độ đã được ban cho mọi người không trừ ai. Dĩ nhiên ta không phải là người Do-thái, nhưng cũng không bị loại bỏ, trái lại được quyền đến chia sẻ cùng một gia nghiệp của Thiên Chúa. Nhưng điều quan trọng là ta có thực lòng và hăng hái đón nhận Đức Kitô như các nhà chiêm tinh phương Đông hay không.
Suy nghĩ: Các nhà chiêm tinh “đã đi lối khác mà về xứ mình”. Các vị ấy đã từ bỏ lối sống cũ để đi theo lối sống của Đức Kitô. Vậy lối sống cũ của tôi là lối sống nào? Ngôi sao tức là Ánh Sáng Tin Mừng đã soi lối cho tôi bước đi. Vậy tôi có đi theo Ánh sao ấy không hay vẫn “đường xưa lối cũ” từ bao năm nay?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, hôm nay Chúa đã khiến ngôi sao chỉ đường mà mặc khải cho muôn dân nhận biết Con Một Chúa. Phần chúng con đã nhận biết Chúa nhờ đức tin dẫn lối đưa đường, xin dủ lòng thương đưa chúng con về chiêm ngưỡng Thánh Nhan vinh hiển. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen. (Lời Nguyện Nhập Lễ, Lễ Chúa Hiển Linh).
42.Hướng lên--Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Với niềm hy vọng phấn khởi, Tiên tri Isaia đã hân hoan loan báo với đoàn dân tin vui: Hãy đứng lên, hãy toả sáng ra, hỡi Giêrusalem! Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi (Is 60, 1). Tuy dù còn cả hơn nửa thiên niên kỷ nữa, Đấng Cứu Thế mới giáng trần, Isaia đã khơi dậy niềm hy vọng của ơn cứu độ. Thiên Chúa kiên trì dẫn dắt lịch sử của dân tộc Do-thái qua từng giai đoạn. Mọi biến cố xảy ra trong cuộc lữ hành đều in ghi dấu vết sự quan phòng của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã dùng hơn ba ngàn năm để chuẩn bị ban cho Dân Thánh một sự kiện trọng đại. Con Thiên Chúa sẽ giáng trần làm người. Đây là một hồng ân tuyệt vời cho cả dòng dõi nhân loại. Ngài sẽ đến giải thoát dân khỏi vòng nô lệ tội lỗi và dẫn lối vào ánh sáng chan hòa: Chư dân sẽ lần bước tìm về sự sáng của ngươi, và các vua hướng về ánh bình minh của ngươi (Is 60, 3).
Lữ hành cuộc sống, vinh quang hay thất bại (ups and downs) là lẽ thường. Người ta thường nói: Năm chìm, bảy nổi, chín cái lênh đênh. Dòng đời con người có lên, có xuống và có thăng trầm, thành bại. Nhưng cuộc đời hầu như ai cũng muốn vươn lên. Mỗi ngày sống là một mời gọi tiến tới. Bước tới trên con đường trọn lành sẽ không bao giờ tròn đủ. Cũng như khi chúng ta đã có, lại muốn có thêm trong tất cả mọi lãnh vực. Trong cuộc lữ hành trần thế, con người phát triển qua từng giai đoạn từ thơ ấu tới trưởng thành, từ ngây thơ tới sự hiểu biết, từ vô tri tới tri thức và từ yếu đuối tới sự mạnh mẽ. Lớn lên từ đơn côi tới tình yêu, từ sự an vui hoan lạc tới lòng tri ân cảm mến, từ đau thương tới lòng thương xót và từ sự sợ hãi tới niềm tin.
Hôm nay chúng ta cùng suy tư về sự hướng thiện qua bảy cửa ngõ (Seven-ups): Tỉnh dậy, tỉnh thức và thức dậy (Wake up), mỗi ngày khi mở mắt thức dậy, chúng ta đón chào một ngày hoàn toàn mới với nhiều ân lộc. Thiên Chúa đã an bài mọi sự trật tự lạ lùng trong vũ trụ để có ánh nắng mặt trời chiếu dọi sưởi ấm, có mưa tuôn hồng ân tưới gội đất đai mầu mỡ phì nhiêu, có tuyết rơi luyện lọc khí trong lành và có những làn gió thoảng đẩy xa bụi trần đời. Mỗi giây phút chúng ta sống là những phút giây hồng ân. Chúng ta không thể kéo dài và cũng không thể cắt bớt thời gian. Mỗi ngày khi thức dậy, chúng ta hãy chọn thái độ sống và quyết định cho mình một ngày sống vui vì: Hôm nay là ngày Chúa đã làm ra, chúng ta hãy vui mừng hoan hỉ (Tv 118, 24).
Lên đồ, mặc quần áo hay trang sức (Dress up), mỗi buổi sáng, chúng ta sống thêm một ngày với những sự cố hoàn toàn mới. Đứng trước gương soi, quần áo ăn mặc chỉnh tề, khuôn mặt rạng rỡ, đầu tóc gọn gàng và trang điểm dễ coi và mỉm nụ cười, chúng ta hài lòng với khuôn mặt dễ thương của mình. Tướng mạo sẵn sàng để đối diện với mọi người và với đời. Trước khi rời gương soi, chúng ta cũng nên để tâm nhìn lại khuôn mặt thật của mình, hồn của chúng ta có trong sáng, tâm có chân thành, ý hướng có ngay lành và có quyết tâm hành thiện không? Bắt đầu một ngày sống, hãy mặc cho mình một bộ hành trang tương xứng với thân, tâm hài hòa.
Nhìn lên, ngước mắt lên, ngẩng đầu lên (Look up), muốn thấy bầu trời và các tinh tú, chúng ta phải ngước nhìn lên. Các nhà Đạo Sĩ đã nhìn lên để đi tìm kiếm dấu chỉ của Đấng Thiên Sai. Dấu chỉ là ngôi sao lạ xuất hiện: Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng (Mt 2, 10). Thượng đế ban cho con người có đôi mắt để quan sát và nhìn xem. Đôi mắt có thể nhìn xuống để đi tìm của cải vật chất và đồ ăn thức uống. Cặp mắt cũng có thể nhìn sang ngang để nối tình thân hữu và tìm kiếm sự liên đới xã hội. Hơn thế nữa, đôi mắt có thể ngước nhìn lên bầu trời bao la để nhận biết Đấng Tạo Thành vũ trụ và nhận ra những dấu chỉ thời đại qua sự vận chuyển của tinh tú. Các nhà Đạo Sĩ đã biết ngước nhìn lên trời cao để tìm kiếm những dấu chỉ hướng dẫn. Các ngài đã được đáp lại theo ý sở nguyện. Họ đã tìm gặp được Hài Nhi Cứu Thế nơi làng Belem nhỏ bé: Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta (Mt 2, 6).
Đứng dậy hay đứng lên (Stand up), là một thái độ sẵn sàng để bước tới. Dấn thân như các vị Đạo Sĩ, bỏ nhà cửa quê hương và gia đình tìm theo tiếng thúc dục nội tâm. Các ngài không ngồi đó để chờ đợi, nhưng đã tiến bước trong sự tìm kiếm. Các Đạo Sĩ không giống như vua Herôđê ngồi ở nhà chờ đợi được báo tin. Các ngài đã tìm tòi hỏi han: Các ông nói: "Vua người Do-thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Đông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người" (Mt 2, 2). Với tâm hồn đơn sơ và chân thành, các Đạo Sĩ không ngần ngại vào nơi cung đình để hỏi han tìm đường. Họ muốn tìm đến Vua thật. Họ đã chuẩn bị qùa quí và lễ dâng để triều bái Vua người Do-thái: Nghe nhà vua nói, họ lên đường. Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Đông phương, lại đi trước họ, mãi cho tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở (Mt 2, 9).
Hướng tới hay vươn tới (Reach up), con người luôn mong tìm đạt tới những kỷ lục hơn nữa trong mọi ngành nghề. Tất cả mọi loài động vật đều sống theo bản năng đã được phú bẩm. Con ong, con kiến, con chim từ đời này qua đời khác vẫn một mẫu sống như nhau, rất ít thay đổi. Lịch sử cuộc sống con người phát triển không ngừng. Qua mọi thời, khả năng của con người được in ghi và lưu truyền. Từ cuộc sống đơn sơ đi đến xã hội văn minh hiện đại. Khả năng của con người vươn tới theo thời gian và không gian. Trong tất cả mọi sinh hoạt cả tâm linh lẫn thể chất đều có sự đổi mới và thăng tiến mỗi ngày. Đời sống xã hội con người có mục tiêu và cùng đích, không chỉ đời này mà cả đời sau. Con người không chỉ bao gồm xác thân hay hư nát nhưng có một linh hồn bất tử hướng tới cuộc sống viên mãn.
Nâng lên, ngẩng lên hay hướng lên (Lift up), nâng tâm hồn lên tới Chúa qua lời khấn nguyện. Thánh Phaolô trong thơ gởi cho tín hữu Philiphê khuyên rầng: Anh em đừng lo lắng gì cả, nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bầy trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện (Phil 4,6). Cầu nguyện là hướng lòng lên cùng Chúa để ngợi khen, cảm tạ và xin ơn tha thứ. Sự kết hợp với Chúa trong tâm trí và linh hồn đòi hỏi sự tập trung nối kết một cách mật thiết. Chúng ta không tôn thờ ngẫu tượng bằng gỗ đá vô hồn mà là Thiên Chúa, chủ thể hiện hữu sống động. Sự cầu nguyện của chúng ta phải luôn tập trung tâm ý và gắn bó với Chúa đừng để bị chia trí và xao lãng lo ra. Tâm tình cầu nguyện kết nối liên tục đừng để bị cắt đoạn, chia lìa hay rớt mạng.
Đóng, khép lại và im miệng (Shut up), Thiên Chúa tạo dựng con người có hai lỗ tai và một cái miệng. Hai tai để nghe cho rõ và một cái miệng để phát biểu. Hãy học lắng nghe và nói những điều chân thật. Trong bài hát 'Cao Cung Lên' của nhạc sĩ Hoài Đức và Nguyễn Khắc Xuyên, tiểu khúc một, có câu: "Thôi hỡi trần gian, im tiếng đi mà cung kính..." Chúng ta cúi mình thờ lậy và suy gẫm mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập thể. Không thể diễn tả bằng lời mà hãy nhìn xem và cung kính như các nhà Đạo Sĩ: Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người. Rồi, mở kho tàng ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược (Mt 2, 11). Các nhà Đạo Sĩ không đặt câu hỏi hay nghi ngờ vì cảnh vẻ qúa nghèo nàn của gia đình thánh. Khi nhận biết dấu chỉ của Đấng Thiên sai, các ông đã cúi bái, phục lạy, tôn thờ và hiến dâng lễ vật.
Các nhà Đạo Sĩ không phải là người Do-thái. Họ đại diện cho các dân ngoại đến tôn nhận Con Thiên Chúa giáng trần. Ơn cứu độ phổ quát được ban phát cho mọi dân tộc. Thánh Phaolô trình bày: Và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể và đồng thông phần với lời hứa của Người trong Chúa Giêsu Kitô (Eph 3, 6). Qua Bí Tích Rửa Tội và niềm tin, chúng ta cùng được thông phần ơn cứu rỗi của Đức Giêsu Kitô là Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người. Cùng với các nhà Đạo Sĩ, chúng ta hãy đến thờ lạy, cảm tạ và tôn vinh danh thánh Chúa.
Lạy Chúa, Chúa đã thương chọn gọi chúng con làm con dân của Chúa. Xin cho chúng con tiếp tục truyền rao chân lý phúc âm để nhiều người nhận biết Danh Thánh Chúa. Xin ánh sáng của Chúa tỏa chiếu trong tâm hồn chúng con và trên khắp cùng bờ cõi trái đất.
43.Tỏa sáng--Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Lễ Hiển Linh theo nguồn gốc văn tự Epiphaneia (Epiphany: manifestation or striking appearance). Tiếng Hy-lạp cổ dùng chữ Theophaneia (Theophany meaning ‘vision of God’). Theo truyền thống, Lễ này được cử hành vào ngày 6 tháng Giêng. Dịp Lễ này, các tín hữu Tây Phương tưởng nhớ ba nhà Đạo Sĩ thăm viếng Chúa Hài Nhi Giêsu và sự hiển linh của Con Chúa cho các Dân Ngoại. Trong khi các tín hữu Đông Phương tưởng nhớ việc Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan, được xem là sự hiển linh của Con Chúa cho toàn thế giới. Từ năm 1970, Giáo Hội Công Giáo Rôma, nghi thức Latinh đã cử hành Lễ Hiển Linh vào ngày 6 tháng 1 và là Lễ buộc. Các quốc gia khác có thể cử hành vào Chúa Nhật, sau ngày 1 tháng 1. Lễ Hiển Linh còn được gọi là Lễ Ba Vua.
Từ 700 năm trước Công Nguyên, tiên tri Isaia đã loan tin vui về sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế: Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi (Is 60, 1). Ánh sáng sẽ bừng lên trong đêm tối và con dân sẽ đón nhận vinh quang Thiên Chúa. Đấng Cứu Thế là ánh sáng đến trong thế gian để xua trừ bóng tối của tội lỗi và gian tà. Mọi dân sẽ hướng về nguồn ánh sáng để dõi tìm ơn cứu độ: Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước (Is 60. 3). Theo truyền thuyết, những nhà chiêm tinh, nhà khôn ngoan, còn gọi là các đạo sĩ hay ba vua, đã chiêm ngắm bầu trời và nhận ra vì sao lạ. Họ đã dõi theo ánh sáng của vì sao lạ để tìm đến bái thờ Đấng đã được sai đến.
Tiên tri Isaia đã tiên báo về việc các bậc quân vương tiến về để thờ lạy Chúa Hài Nhi. Các nhà Đạo Sĩ Phương Đông cùng đến dâng Chúa của lễ là vàng, nhũ hương và mộc dược. Isaia đã có thị kiến về đoàn người từ các phương xa tìm đến bái thờ: Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Mađian và Êpha: tất cả những người từ Sơva kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa (Is 60, 6). Các biến cố được ghi lại như một câu truyện xảy ra gọn gàng trong một thời gian ngắn ngủi. Thật ra lịch sử ơn cứu độ được mạc khải một cách tiệm tiến qua từng biến cố trong thời gian dài. Trong đêm hồng phúc, trước tiên Chúa tỏ hiện cho những mục đồng đơn sơ và nghèo nàn, tiếp đến là Chúa bày tỏ mình cho những người đại diện bên ngoại giáo đến từ xa và sau cùng Chúa đã tỏ mình cho toàn thể nhân loại trên thế giới.
Dựa vào Kinh Thánh và lịch sử của ơn cứu độ, chúng ta biết có nhiều tâm hồn khao khát đi tìm kiếm và mong chờ Chúa. Khi thời gian chuẩn bị đã mãn, dấu chỉ đã tỏ hiện, lòng con người thôi thúc khát mong và mùa hồng ân đã cận kề, các Đạo Sĩ tìm hỏi: "Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người."(Mt 2, 2). Các nhà Đạo Sĩ đã miệt mài kiếm tìm qua dấu chỉ mà không quản ngại gian khó. Các ngài đã được Thiên Chúa đáp trả như lòng mong ước. Chúa Giêsu đã dậy: Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra cho (Mt 7, 8). Hồng ân Chúa bao la tuyệt vời, đoàn người dân ngoại đã được chứng kiến tận mắt ơn Cứu Độ đã tỏa sáng: Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến (Mt 2, 11).
Truyện kể có một bé gái cùng với mẹ đi viếng hang đá. Bà mẹ giải thích cho em rằng ba nhà Đạo Sĩ dâng tiến của lễ cho Chúa Hài Nhi là vàng, nhũ hương và mộc dược. Cô bé nhìn Hài Nhi trong máng cỏ một cách cung kính rồi quay sang hỏi mẹ: Tại sao họ không mang đến cho Chúa Hài Nhi một cái giường nhỏ? Một tấm lòng và một sự quan tâm thực sự, cô bé cảm nhận được nhu cầu của cuộc sống thật. Sự kiện Chúa Giêsu sinh ra nơi hang lừa, máng cỏ đã khơi dậy được tâm tư và sự cảm thông của lòng người. Chúa đến trong nghèo nàn để mời gọi chúng ta cùng chia sẻ tâm tình với những người cùng khổ nghèo đói. Nhu cầu thực tế của cuộc sống là miếng cơm manh áo và nơi chỗ nương thân. Chúa Hài Nhi Giêsu đã chạm đến cái cùng cực của thân phận con người. Từ đó, Chúa mời gọi chúng ta: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy."(Mt 25, 40).
Hình ảnh Ba Vua hay các Đạo Sĩ bái quỳ dâng tiến lễ vật và thờ lạy Chúa Hài Nhi bày tỏ lòng tin kính và bái phục. Họ không nghĩ về thân phận hay địa vị của mình nhưng thần phục trước Đấng được sai đến. Vất vả đường xa lặn lộn kiếm tìm nguồn sự sáng, các nhà đạo sĩ đã thỏa tâm. Sau khi gặp được Chúa Hài Nhi, họ đã theo đường khác để trở về quê hương xứ sở. Chúng ta chắc rằng họ là những người khôn ngoan biết ngước nhìn lên để tìm hướng đi. Mỗi người chúng ta cũng có những ước vọng và khao khát những điều cao thượng. Sự cao siêu phải từ trên dọi chiếu. Chúng ta không thể cúi mặt chỉ đi tìm những của cải trần gian mau qua chóng hết. Cuộc đời của con người không chỉ tìm kiếm của ăn, áo mặc, danh vọng, địa vị và tìm thỏa mãn bản năng, nhưng có sứ mệnh và mục đích cao cả hơn bội phần. Chúng ta cần phải hướng tới, nhìn lên và khát mong niềm vui bất diệt của cuộc sống thật mà Thiên Chúa đã an bài: Hẳn anh em đã được nghe biết về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em (Eph 3, 2).
Lễ Hiển Linh, Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho Dân ngoại. Chúng ta thuộc về dòng dõi những người dân ngoại, nhưng lại được thừa hưởng ân sủng ơn cứu độ. Qua bí tích Rửa Tội, chúng ta được tháp nhập vào nhiệm thể của Chúa Kitô để cùng chia phần sự sống. Thánh Phaolô đã diễn tả mầu nhiệm cao siêu được truyền ban cho các thế hệ. Nay Chúa cũng đang tỏ mình ra cho toàn thể nhân loại qua đời sống của Giáo Hội: Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông Đồ và ngôn sứ của Người (Eph 3, 5). Tuy không phải là dân Do-thái, như những kẻ được chọn, nhưng chúng ta hãnh diện tuyên xưng niềm tin vào Chúa Kitô qua ân sủng của Ngài. Chúng ta trở thành dưỡng tử và được dự phần trong tiệc cưới Nước Trời.
Cùng đến máng cỏ Bêlem, ngắm nhìn Chúa Hài Nhi, các mục đồng và các đạo sĩ tiến dâng lễ vật, hôm nay chúng ta sẽ dâng gì cho Chúa Hài Nhi? Kể câu truyện của thánh Giêrôm. Chúa Giêsu hỏi: Giêrôm, con lấy gì mừng Ta nhân ngày Ta sinh ra? Thưa, con xin dâng lòng con. Được, nhưng còn gì nữa? Con xin dâng mọi kinh nguyện và tất cả tâm tình của con. Còn gì nữa? Con xin dâng tất cả những gì con có và tất cả con đây. Ta muốn nữa? Thưa Chúa Hài Nhi, con chẳng còn chi cả? Chúa muốn con dâng gì nữa đây? Hãy cho Ta các tội của con. Ủa, để làm gì? Hãy cho Ta các tội của con, để Ta có thể tha thứ cho con tất cả. Ôi Chúa Giêsu, Chúa làm con phát khóc lên được.
Lạy Chúa, con có nhiều quà lắm nhưng không biết dâng Chúa món gì. Món quà mà con thích thì Chúa lại không ưa. Những món qùa Chúa mong, con lại muốn giữ lại cho mình. Xin cho con biết rộng mở tâm hồn để biết cho đi mà không cần phải so đo tính toán. Con xin dâng Chúa khả năng, thời giờ, của cải và cả những điều con ưa thích. Con dâng cả tội lỗi yếu hèn và sự bất toàn của con, xin Chúa đừng chê tấm lòng tan nát khiêm cung.
44.Ánh Sáng trên đường đời--Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế SJ.
Trong chương đầu tiên của Tin Mừng thứ nhất, chúng ta đã tìm hiểu và suy niệm về gia phả của Chúa Giê-su, cũng như biến cố truyền tin của Thiên Thần dành cho thánh Giu-se. Qua đó chúng ta nhận ra được sự hoạt động của Thiên Chúa trong lịch sử Ít-ra-en và ơn cứu độ của Thiên Chúa dành cho dân tộc này, nhưng cũng vượt qua dân tộc này để ơn cứu độ đến với muôn dân. Chúng ta cũng nhận ra sự công chính của thánh Giu-se, dù ở trong hoàn cảnh éo le, nhưng thánh nhân đã kiên trung sống tinh thần công chính, bỏ đi những dự định và kế hoạch của mình, để đón nhận và thực thi sứ mạng cùng thánh ý Chúa cách trọn hảo.
Tiếp nối với hai trình thuật trên, thánh Mát-thêu kể tiếp cho chúng ta nghe về biến cố khác cũng rất thú vị. Đó là câu truyện các nhà chiêm tinh xa xôi tìm đến với Hài Nhi Giê-su được sinh ra ở làng Bê-lem nhỏ bé. Chúng ta cùng đọc lại trình thuật này: “1 Khi Đức Giê-su ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đê, thời vua Hê-rô-đê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giê-ru-sa-lem,2 và hỏi: ‘Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người’. 3 Nghe tin ấy, vua Hê-rô-đê bối rối, và cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao.4 Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu.5 Họ trả lời: ‘Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng:6 Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời’.
7 Bấy giờ vua Hê-rô-đê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện.8 Rồi vua phái các vị ấy đi Bê-lem và dặn rằng: ‘Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người’. 9 Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại.10 Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng.11 Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến.12 Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình” (Mt 2,1-12).
Khi đọc trình thuật trên, chúng ta thấy có một cái khung rõ rệt với nhân vật là các nhà chiêm tinh. Trong câu đầu tiên, thánh sử Mát-thêu viết: “Khi Đức Giê-su ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đê, thời vua Hê-rô-đê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giê-ru-sa-lem” (2,1), và câu cuối vời phần các nhà chiêm tinh đi khỏi: “Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình” (2,12).
Chúng ta cũng thấy các nhà chiêm tinh là nhân vật chính trong bài Tin Mừng. Họ đi tìm Hài Nhi mới sinh để bái lạy (thờ lạy) người. Động từ “bái lạy” được nhắc đến hai lần và gắn liền với các nhà chiêm tinh: “Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” (câu 02) và “họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người” (câu 11). Ngoài ra, động từ “bái lạy” này còn được nhắc đến một lần nữa ở câu 08 gắn liền với ý định giả tạo của vua Hê-rô-đê, một nhân vật khác được nhắc đến trong câu truyện: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người”. Trong trình thuật chúng ta cũng thấy Hê-rô-đê là một nhân vật lịch sử và địa danh Bê-lem là vị trí địa lý có thể kiểm chứng được. Giờ đây chúng ta cùng tìm hiểu và suy niệm trình thuật này.
“Khi Đức Giê-su ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đê, thời vua Hê-rô-đê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giê-ru-sa-lem, và hỏi: Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người”. Đoạn Tin Mừng bắt đầu với việc nhắc đến biến cố Giáng Sinh của Chúa Giê-su ở tại Bê-lem. Thánh sử Mát-thêu tiếp tục nhắc đến tên của Hài Nhi là Giê-su. Tên Giê-su (Jesus – Jeshua), như chúng ta biết, có nghĩa là: Thiên Chúa cứu độ. Điều này cũng được diễn tả trong biến cố truyền tin của thánh Giu-se vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ (Mt 1,21).
Như thế, chúng ta thấy ý nghĩa thần học được nêu lên ở đây, là chỉ có Thiên Chúa mới có thể tha thứ tội lỗi, mới có thể ban ơn cứu độ. Hài Nhi Giê-su có sự liên hệ trực tiếp với Thiên Chúa, liên kết trực tiếp với quyền năng thánh thiêng và cứu độ. Nếu chúng ta đọc và chiêm niệm những gì Chúa Giê-su làm trong hành trình sứ vụ, sẽ nhận ra được ý nghĩa của tên Giê-su. Ngài đã cứu chữa người bất toại nằm trên chõng do những người khiêng đưa xuống từ mái nhà. Ngài đã đưa mắt nhìn đến người phong hủi, khi anh ta xin Ngài: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch. Ngài đã trả lời: Tôi muốn, anh sạch đi!” (Mc 1,41). Với người phụ nữ bị bệnh băng huyết 12 năm, Ngài không giận dữ, khi bà ta lén đụng vào tua áo của Ngài với một niềm tin đơn sơ là sẽ được khỏi. Ngài đã gọi bà ra trước đám đông và nói với bà: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh” (Mc 5,34), và còn biết bao ơn chữa lành cứu rỗi mà Đức Giê-su ban phát. Thật vậy, đi đến đâu Ngài ban phát ơn lành đến đó.
Đức Giê-su sinh ra ở Bê-lem. Đó là địa danh của một làng nhỏ cách Giê-ru-sa-lem khoảng 7 Km về phía Nam. Nhưng Bê-lem có nghĩa là gì? Bê-lem có nghĩa là “nhà bánh”. Bê-lem cũng được nhắc đến trong Cựu Ước. Như trong sách 1Sm 16,1 có viết: “Đức Chúa phán với ông Sa-mu-en: Ngươi còn khóc thương Sa-un cho đến bao giờ, khi ta đã gạt bỏ nó, không cho làm vua cai trị Ít-ra-en nữa? Ngươi hãy lấy dầu đổ đầy sừng và lên đường. Ta sai ngươi đến gặp Gie-sê người Bê-lem, vì Ta đã thấy trong các con trai nó một người Ta muốn đặt làm vua”. Như thế, Bê-lem là quê của Gie-sê và cũng là quê hương của vua Đa-vít: “Anh Đa-vít đã nài nẵng xin phép con chạy về Bê-lem, thành của anh, vì ở đó có hy lễ hằng năm cho toàn thị tộc” (1Sm 20,6). Về điều này cũng được nhắc trong Tân Ước: “ông Giu-se từ thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê lên thành vua Đa-vít tức là Bê-lem, miền Giu-đê, vì ông thuộc gia đình dòng tộc vua Đa-vít” (Lc 2,4). “Nào Kinh Thánh đã chẳng nói: Đấng Ki-tô xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít và từ Bê-lem, làng của vua Đa-vít sao?” (Ga 7,42).
Ngoài ra, trong ý nghĩa thần học, Ratzinger giải thích rằng: “Bê-lem là nơi sinh của vua Đa-vít. Trong câu chuyện, ý nghĩa thần học của vị trí này sẽ được làm rõ qua câu trả lời của vua Hê-rô-đê cho câu hỏi của các nhà chiêm tinh, Đấng Mê-sia sẽ sinh ra ở đâu. Vị trí địa lý của Bê-lem được xác định thêm bằng phụ chú ‘tại Giu-đê’, có thể mang thêm một ý nghĩa. Trong lời chúc lành của Gia-cóp, vị tổ phụ này nói tiên tri với con mình là Giu-đa: ‘Vương trượng sẽ không rời khỏi Giu-đa, gậy chỉ huy sẽ không lìa đầu gối nó, cho tới khi người làm chủ vương trượng đến, người mà muôn dân phải vâng phục’ (St 49,10). Trong một trình thuật về Đa-vít đích thực đến, vị vua mới sinh của người Do Thái sẽ cứu độ tất cả mọi dân tộc, đều phải nhận lời tiên báo này như nền tảng”.[1]
Ngoài Bê-lem và Giu-đê là hai địa danh, Mát-thêu cũng nhắc đến một nhân vật lịch sử: Vua Hê-rô-đê cả. Về ông vua này, cha Vũ Phan Long giải thích như sau: “Vua này cai trị miền Giu-đê (năm 37-4 tcn). Bởi vì ông xuất thân từ miền I-đu-mê, ở về phía nam xứ Giu-đê, và ủng hộ nền văn hóa Hy Lạp, nên ông bị người Do Thái ghét bỏ, cho dù ông đã cho sửa lại Đền Thờ thật huy hoàng. Đến cuối đời, ông thường rơi vào trạng thái kinh hoàng, nên chỉ một chút nghi ngờ, là có thể hạ lệnh tàn sát, dù là tàn sát cả gia đình ông. Khi ông qua đời, nhiều tai ương đổ xuống trên xứ, đặc biệt là một cuộc suy sụp về kinh tế. Do đó, đất nước đầy những nhóm người bất mãn và nổi loạn”.[2]
Nhà thánh kinh học Pesch cũng suy tư về nhân vật Hê-rô-đê trong trình thuật này như sau: “Như trong Phúc Âm về Giáng Sinh (Lc 2,1-11) hoàng đế Au-gút-tô được gợi lên ngay khởi đầu, thì trình thuật của Mát-thêu trong chương 2 cũng khởi đầu bằng việc gợi lên danh tính Hê-rô-đê ‘vua dân Do Thái’. Nếu một bên là hoàng đế với đòi hỏi hoà bình cho thế giới như đối lập với Hài Nhi mới sinh, thì ở đây vị vua, được ân huệ của hoàng đế, cai trị đất Do Thái – điều này làm cho ông cũng đòi hỏi mọi người phải xem ông như Đấng Mê-sia, là đấng cứu độ cho toàn vương quốc Giu-đê”.[3]
Như thế, Chúa Giê-su sinh ra trong một địa danh và trong một lịch sử rõ rệt được ghi dấu qua nhân vật là vua Hê-rô-đê. Đến bây giờ chúng ta vẫn có thể kiểm chứng được địa danh và nhân vật này trong lịch sử. Vì vậy, câu truyện Giáng Sinh của Chúa Giê-su không phải là một huyền thoại nào cả. Chúa Giê-su sinh vào cuộc đời và Người muốn ghi chính tên mình vào cuốn sách lịch sử nhân loại, tại một vùng đất rõ rệt và trong một giai đoạn lịch sử của một dân tộc.
Câu truyện kể tiếp rằng: “có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giê-ru-sa-lem”. Trước khi đi tìm hiểu về nhân vật “các nhà chiêm tinh”, chúng ta cũng nên dừng bước để khám phá một điều: “Bê-lem trong miền Giu-đa” có ý nghĩa ám chỉ Hài Nhi mới sinh ra tại đó được đặt đối diện với vua Hê-rô-đê đang trị vì ở Giê-ru-sa-lem. Hơn nữa, đối với Mát-thêu, Giê-ru-sa-lem là thành phố mà Chúa Giê-su đã bị kết án và bị giết chết: “Máu hắn cứ đổ xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi!” (Mt 27,25). Nhưng cuối cùng ai mới là vị Vua thực sự của dân Ít-ra-en và của toàn thể nhân loại?
Giờ đây, chúng ta tìm hiểu các nhà chiêm tinh, họ còn được gọi là các đạo sĩ hay ba vua. Trong bản văn tiếng Hy Lạp là magos, diễn tả những người khôn ngoan, chuyên môn nghiên cứu tinh tú trên trời. Trong truyền thống Giáo Hội, câu truyện các nhà đạo sĩ được đọc với câu Thánh Vịnh:
“Từ Tác-sít và hải đảo xa xăm,
hàng vương giả sẽ về triều cống.
Cả những vua Ả-rập, Xơ-va,
cũng đều tới tiến dâng lễ vật” (Tv 72,10).
Cũng như với lời của tiên tri I-sai-a:
“Đức Chúa là Đấng Cứu Chuộc và là Đức Thánh của Ít-ra-en,
Người phán thế này:
Vua chúa sẽ thấy và đứng lên, chư hầu sẽ thấy và bái lạy
vì uy quyền của Đức Chúa là Đấng trung thành,
là Đức Thánh của Ít-ra-en, Đấng đã tuyển chọn ngươi” (Is 49,7).
Với Ratzinger, “theo hai đoạn Thánh Kinh trên các nhà đạo sĩ từ Phương Đông ‘trở thành’ các vị vua, và cùng với họ có cả lạc đà hai bướu, một bướu đều đến hang đá. Và nếu lời hứa của bản văn này đẩy xa điểm xuất phát của những vị này cho đến Phương Đông thật xa (Tarschisch = Tartessos bên Tây Ban Nha), thì lưu truyền đã triển khai về tính phổ quát đã được báo trước của vương quốc các vị vua này; các vị vua như đại diện cho ba lục địa đã được công nhận thời đó: Phi Châu, Á Châu và Âu Châu. Vị vua đen cũng thuộc về nhóm này: trong vương quốc của Chúa Giê-su không có sự phân biệt về dòng giống và xuất xứ. Nhân loại ở trong Người và được kết hiệp với nhau nhờ Người, mà không đánh mất sự phong phú của tính đa dạng. Sau này, người ta lại chia các vị vua tượng trưng cho số tuổi của con người – thiếu niên, trưởng thành và già lão. Đây cũng là một ý tưởng hay, cho thấy những hình dáng khác nhau của đời sống con người trong sự kết hiệp với Chúa Giê-su, mỗi thời đoạn mang một ý nghĩa và sự hiệp nhất nội tâm.
Tư tưởng căn bản vẫn là: những người khôn ngoan từ phương Đông là một khởi điểm, họ cho thấy sự lên đường của nhân loại hướng về Đức Ki-tô, khai mở một tiến trình, xuyên suốt cả lịch sử. Không phải chỉ có họ là những con người đã tìm được con đường đi đến Đức Ki-tô. Họ hiện diện như một sự mong chờ sâu lắng của tâm trí con người, sự chuyển động của tôn giáo và lý trí con người đến gặp Đức Ki-tô”.[4]
Ngoài ra, còn có truyền thống gọi ba vua với tên Caspar, Melchior và Balthasar (thế kỷ VIII). Sau đó, Caspar được coi là một người da đen. Về hình ảnh của ba vua, ở đây xin nhắc đến một truyền thống rất tốt đẹp ở bên Đức và Áo. Đó là truyền thống của nhóm Sternsinger (tạm dịch là Hát với ngôi sao): vào ngày lễ Hiển Linh, trong mùa đông lạnh giá, chúng ta thấy các em giúp lễ mặc quần áo theo kiểu của ba vua với một em cầm ngôi sao đi đầu. Các em đi hết nhà này đến nhà nọ trong giáo xứ. Trước mỗi nhà các em dừng lại, bấm chuông và khi chủ nhà đón tiếp, các em vào nhà hát cho chủ nhà nghe một vài câu hát nói lên sứ điệp Giáng Sinh của Chúa Giê-su. Cuối cùng các em dùng phấn để viết lên trên cửa nhà số của năm đó và hàng chữ viết tắt, vd.: 20-C+M+B-19. Nghĩa là Christus Mansionem Benedicat – Đức Ki-tô chúc lành cho nhà này trong suốt năm 2019. Tuy nhiên, hàng chữ C+M+B, trong nguyên thuỷ ám chỉ về tên của ba vua: Caspar, Melchior và Balthasar. Đặc biệt hơn nữa, công việc của các em Sternsinger trở thành một công việc bác ái giúp cho những nơi nghèo khổ. Mỗi năm, các em hướng về một chương trình giúp cho các nước nghèo đã được chọn nhận sự giúp đỡ.
Trở về với bài Tin Mừng, các nhà chiêm tinh khi đến Giê-ru-sa-lem đã hỏi: “Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người”. Ba nhà chiêm tinh là những người đi tìm, những người hỏi thăm và những người hy vọng sẽ tìm thấy được điều họ tìm kiếm. Câu hỏi của họ hướng về Hài Nhi chuẩn bị được sinh ra tại Bê-lem: “Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu?” theo Ratzinger, câu hỏi này rõ ràng không phải là cách diễn đạt của vùng Do Thái. Trong vùng Do Thái người ta không nói về vua của Ít-ra-en. Trong thực tế, thuật ngữ ngoại giáo về “vua dân Do Thái” sẽ trở lại một lần duy nhất trong cuộc xử án Đức Giê-su và trong bản ghi án trên thập giá, hai lần đều do người ngoại giáo Phi-la-tô sử dụng (x.Mc 15,9 và Ga 19,19-22). Ở đây, có thể nói, ngay lúc những người ngoại giáo đầu tiên hỏi về Đức Giê-su, mầu nhiệm thập giá đã xuất hiện cách ẩn kín, mầu nhiệm này liên kết chặt chẽ với vương quyền của Người”.[5]
Tiếp theo câu hỏi về nơi Hài Nhi sinh ra, ba nhà chiêm tinh đã nói rõ lý do họ đi tìm Vua dân Do Thái. Đó là họ đến để bái lạy Người. Khi nghe những lời của các đạo sĩ, vua Hê-rô-đê phản ứng thế nào? Thánh Mát-thêu thuật lại như sau: “Nghe tin ấy, vua Hê-rô-đê bối rối, và cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao.4 Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu.5 Họ trả lời: Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng:6 Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời”.
Trước hết, có một điểm thú vị ở đây, đó là các nhà chiêm tinh đến đền vua Hê-rô-đê và hỏi về nơi trú ngụ của “Đức Vua mới sinh”. Điều này càng làm cho câu chuyện thêm phần ly kỳ chăng? Mát-thêu diễn tả tiếp rằng, Hê-rô-đê đã bối rối. Không bối rối sao được, khi một quân vương lại nghe tin về một cuộc sinh hạ bí nhiệm sẽ xảy ra trong vùng đất của mình, và hơn nữa em bé sinh ra sẽ xứng đáng lên ngôi. Chúng ta cũng không nên quên bản chất độc ác và rất sợ hãi cũng như luôn nghi ngờ mọi người của Hê-rô-đê.
Nhưng không chỉ Hê-rô-đê bối rối. “Vua Hê-rô-đê bối rối, và cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao”. Hình ảnh “bối rối chung của Hê-rô-đê và của cả thành Giê-ru-sa-lem” là một điều không tưởng được, vì theo các nhà chú giải, vua Hê-rô-đê không được chú ý ở thành Giê-ru-sa-lem, cũng như người dân Giê-ru-sa-lem không thích vua Hê-rô-đê, một vị vua có gốc gác là người ngoại, người I-đu-mê, và ông rất gian ác. Theo Ratzinger, “điều này như hướng ý đến việc Đức Giê-su tiến vào thành Thánh cách vinh quang trước ngày Người chịu khổ hình, như thánh Mát-thêu tường thuật “cả thành đều bị đánh động” (Mt 21,10). Dù sao, cả hai cảnh cho thấy vương quyền của Đức Giê-su cùng liên kết với đề tài khổ nạn”.[6]
Ngoài ra, sự liên hệ giữa Hê-rô-đê và dân thành Giê-ru-sa-lem ở đây, vẫn nêu bật thật rõ ràng việc dân Do Thái loại trừ Đức Giê-su và dân ngoại đón tiếp Người. Đối với Mát-thêu, Giê-ru-sa-lem là thành sẽ xảy ra cuộc đóng đinh; dân Giê-ru-sa-lem là những người sẽ nói trong phần cuối của Tin Mừng: “Máu hắn cứ đổ xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi” (Mt 27,25). Sự bối rối của vua Hê-rô-đê và dân Giê-ru-sa-lem ở đây báo trước thái độ thù nghịch trong cuộc Thương Khó của Chúa Giê-su, Đấng Mê-sia.
Trước câu hỏi của các nhà chiêm tinh, dù bối rối đó, nhưng Hê-rô-đê làm gì để đi tìm được câu trả lời? “Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu”. Chính Hê-rô-đê, một vị vua gian ác ngoại quốc thuộc gốc dân I-đu-mê, trở thành trung gian cung cấp cho người ta những thông tin chính xác. Ông triệu tập các thượng tế và kinh sư lại để hỏi cho biết Đấng Ki-tô sinh ra ở đâu. Hai nhóm người này đã trả lời Hê-rô-đê như thế nào? Họ đã tra khảo Kinh Thánh để trả lời: “Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời”.
Câu trả lời này mang tính cách sấm ngôn và gồm lời của ngôn sứ Mi-kha cùng một lời rút từ sách Samuen quyển thứ hai: “Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ sẽ được sinh ra” (x.Mk 5,1), “vị mục tử chăn dắt dân Ít-ra-en (x.2Sm 5,2).
Về câu trả lời này được trích dẫn từ hai sách trên, Ratzinger đã giải thích, bằng cách nhắc đến bản văn bằng tiếng Hy Lạp: “Khi trích dẫn những lời này, thánh Mát-thêu ghi thêm hai sự khác biệt thật tế nhị. Trong khi phần lớn của bản văn lưu truyền, đặc biệt là bản văn dịch bằng tiếng Hy Lạp, nói: ‘Người là thành nhỏ nhất giữa các thành Giu-đa’, thánh Mát-thêu lại viết: ‘Người không phải là thành phố không có ý nghĩa gì so với các thành to lớn của Giu-đa’. Hai cách nói của bản văn giúp chúng ta hiểu – mỗi bản văn một cách – sự nghịch lý của hành động Thiên Chúa, xuyên suốt trong Cựu Ước. Điều vĩ đại sẽ đến từ điều xem ra nhỏ bé và vô nghĩa theo tiêu chuẩn của nhân loại; bấy giờ điều xem ra là lớn trước mắt thế giới sẽ vỡ tung và biến mất… Một lời của Đức Maria rút từ thánh thi Magnificat tóm tắt sự nghịch lý của hành động Thiên Chúa: ‘Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường’ (Lc 1,52). Bản văn Cựu Ước đánh giá Bê-lem bé nhỏ giữa các thành Giu-đa, cũng đưa ra cách thức hoạt động của Thiên Chúa. Ngược lại, khi thánh Mát-thêu viết: ‘ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa’, xem như ngài muốn loại bỏ nghịch lý này. Thành phố không có một ý nghĩa gì, bây giờ được công nhận trong sự vĩ đại của nó. Từ thành phố nhỏ này, vị mục tử đích thực của Ít-ra-en được sinh ra”.[7]
Như thế, vị mục tử đó chính là vị lãnh tụ được nhắc đến trong quyển hai Samuen (5,2). Đó là hình ảnh của vua Đa-vít mới được hiện thực ngay trong Chúa Giê-su với tinh thần yêu thương và giàu lòng thương xót. Ngài là vị mục tử và cũng là lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en. Khi nghe các kinh sư và thượng tế cho biết rõ ràng nơi chốn mà Hài Nhi Giê-su sẽ sinh ra, thì Hê-rô-đê có phản ứng nào tiếp theo?
Thánh sử Mát-thêu kể tiếp như sau: “7 Bấy giờ vua Hê-rô-đê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện.8 Rồi vua phái các vị ấy đi Bê-lem và dặn rằng: Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người”. Việc Hê-rô-đê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến và hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện nói lên sự bối rối của ông nhiều hơn nữa. Nếu đọc câu truyện đến đây, thì ai ai cũng có một linh cảm là sẽ có truyện chẳng lành có thể xảy ra. Sự chẳng lành này “được bọc” bởi sự nham hiểm của vua Hê-rô-đê, khi ông như thể rất tán thành điều mà các đạo sĩ làm: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người”. Hê-rô-đê cũng dùng động từ “proskynesis – bái lạy – thờ lạy”, nhưng có thực sự Hê-rô-đê và các đạo sĩ đang “ngồi chung một chiếc xuồng”? Gregory the great chia sẻ: “Hê-rô-đê hỏi cho biết nơi Hài Nhi sinh ra với ý hướng ông thờ lạy Hài Nhi, nhưng thực ra ông sẽ tiêu diệt Hài Nhi, nếu ông tìm thấy Hài Nhi. Nhưng có lợi gì, khi sự độc ác của con người chống lại kế hoạch của Thiên Chúa? Không có sự khôn ngoan nào, hiểu biết nào và kế hoạch nào có thể chống lại Thiên Chúa (x.Cn 21,30)”.[8]
Ngoài ra, chúng ta cũng thấy rằng, vua Hê-rô-đê cũng đang kéo các đạo sĩ theo bè theo phái của ông. Nguy hiểm biết bao, khi sự dữ “lên đường” để đi kiếm đồng minh, để kéo bè lập phái. Khốn thay cho những phận người lại đui mù nghe theo và trở thành đồng minh và rồi sau đó là đồng loã của sự dữ. May mắn thay, khôn ngoan của con người không thể bằng khôn ngoan của Thiên Chúa, Đấng quyền năng và nhân ái. Chính Ngài đã can thiệp và tiêu diệt mưu mô ác độc xấu xa của vị vua ác ôn kia.
Sau khi nghe nhà vua nói xong, ba nhà chiêm tinh liền ra đi. Điều thú vị của câu truyện là sự xuất hiện trở lại của ngôi sao mà họ đã thấy trước đó. “Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại.10 Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng.11 Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến”. Khi đọc những câu trên, chắc là chúng ta sẽ có những câu hỏi về ngôi sao ở Bê-lem như: Ngôi sao nào vậy? Có ngôi sao này hay không có? Và nếu có, thì ngôi sao có thực sự xuất hiện vào thời điểm đó không? Thiên văn học nói gì về điều này?
Trước những câu hỏi mang tính thiên văn này, một số giáo phụ và một số nhà chú giải cho rằng, không nhất thiết phải mày mò tìm hiểu để có câu trả lời dựa trên phương diện thiên văn học, vì hình ảnh ngôi sao ở đây được hiểu trong ý nghĩa thần học và không dính líu tới thiên văn học. Nhà thánh kinh học Pater Lagrange đã chú ý như sau: “Qua ngôi sao này Thánh Kinh chắc chắn dạy cho chúng ta nhiều điều hơn là qua các hành tinh của các nhà thiên văn học”.[9] Như thế, điều mà nhiều nhà chú giải hướng đến là ý nghĩa thần học của ngôi sao.
Tuy vậy, dù có hiểu theo nghĩa thần học, nhưng theo Ratzinger, cũng không nên bỏ qua câu hỏi mang tính cách thiên văn, vì vậy cũng nên hỏi xem có thể đây là một hiện tượng trên trời được xác định như hiện tượng thiên văn học hay không. Vì thế, với Ratzinger chúng ta cùng tìm hiểu về ý nghĩa theo thiên văn học. Sau đó, chúng ta sẽ cùng hướng đến ý nghĩa thần học của ngôi sao.
“Johannes Kepler (+1630) đã đưa ra một cách giải quyết dựa trên khoa thiên văn tân tiến. Kepler tính toán vào các năm 7-6 trước công nguyên (tcn), theo đó có một sự hội tụ các hành tinh Jupiter, Saturn và Mars. Vào năm 1604 cũng có một cuộc hội tụ tương tự như vậy, và có một supernova – một siêu tinh tú xuất hiện. Nó được xem như một ngôi sao yếu ớt và thật xa. Tiếp đến là một vụ nổ vĩ đại, đến độ suốt tháng, suốt tuần đã bung ra một sức sáng mạnh mẽ. Kepler cho supernova này là một ngôi sao mới. Theo ông, sự hội tụ ngày xưa liên kết với một supernova, đến độ hiện tượng ngôi sao sáng chói trên Bê-lem cũng có thể được giải thích theo thiên văn. Cũng gây cấn không kém, nhà trí thức vùng Goettingen Friedrich Wiesler tìm được trong bản thời biểu Trung Hoa, vào năm 4 tcn ‘một ngôi sao sáng chói xuất hiện và chiếu sáng suốt một thời gian dài’ (Gnilka t.44).
Nhà thiên văn học thành Vienne, Konradin Ferrari d’Occhieppo, cho thấy, trong thành Babylon – trung tâm thiên văn học vào thời xưa, nhưng đã sa sút vào thời Chúa Giê-su – ‘vẫn còn một nhóm nhà thiên văn hoạt động… Hiện tại còn có những bản bằng đất nung, có ghi những tính toán về thiên văn…đây là những bằng chứng không thể chối cãi được’. Sự hội tụ giữa những hành tinh Jupiter và Saturn theo chòm sao hình con cá, đã xuất hiện vào năm 7-6 tcn – ngày nay người ta cho rằng sao này thực sự xuất hiện vào thời Giáng Sinh của Chúa Giê-su – theo các nhà thiên văn Babylon tính toán và đưa đến kết luận, nơi đất Giuđa đã có ‘vị vua của dân Do-thái’ được sinh ra.
Nhà thiên Ferrari d’Occhieppo đưa ra lý thuyết về supernova ad acta. Theo ông, chỉ cần giải thích ngôi sao Bê-lem qua việc hội tụ các sao Jupiter và Saturn trong chòm sao Con Cá, mà ông tin rằng có thể xác định được ngày tháng. Về việc này, điều quan trọng là hành tinh Jupiter đại diện cho thần linh chính yếu của Babylon là thần Marduk. Ferrari tóm kết như sau: ‘Jupiter, ngôi sao của thần linh vĩ đại Babylon, xuất hiện với tất cả ánh quang vào lúc chiều tàn cạnh sao Saturn, tinh tú đại diện cho dân Do Thái’. Chúng ta nên bỏ qua các chi tiết. Qua việc hội tụ các hành tinh, các nhà chiêm tinh Babylon có thể đúc kết một biến cố quan trọng mang tính phổ quát, một vị Chúa mang ơn cứu độ được sinh trong xứ Giu-đa – theo như Ferrari”.[10]
Những điều trên có ý nghĩa gì? Ratzinger giải thích và đưa về ý nghĩa thần học của ngôi sao: “việc hội tụ lớn lao giữa Jupiter và Saturn theo dấu chòm sao con cá vào năm 7-6 tcn có thể là một sự kiện có thật có thể minh chứng. Hội tụ này gợi ý cho các nhà chiêm tinh trong vùng Babylon – Ba Tư hướng đến xứ Giu-đa, đến vị ‘vua của dân Do Thái’… Hình ảnh ngôi sao có thể là một động lực thúc đẩy, dấu chứng đầu tiên để lên đường bề ngoài và bề trong; nhưng ngôi sao đã không thể nói cho những con người này, nếu như họ đã không được đánh động từ bên trong nhờ niềm hy vọng vào ngôi sao xuất hiện trên nhà Gia-cóp:
‘Tôi thấy nó, nhưng bây giờ chưa phải lúc,
tôi nhìn, nhưng chưa thấy nó kề bên;
một vì sao xuất hiện từ Gia-cóp’ (Ds 24,17).
Trong câu chuyện này, có hai điểm nổi bật: trước tiên, ngôi sao dẫn các nhà đạo sĩ đến xứ Giu-đa. Đương nhiên, khi đi tìm vị vua mới sinh của người Do Thái, họ phải đến vương quốc Ít-ra-en và vào dinh nhà vua. Nơi đó, vị vua tương lai mới có thể sinh ra. Nhưng để tìm cách dứt khoát con đường đi đến người thừa kế đích thật của nhà Đa-vít, họ cần phải có những lời chỉ dẫn của Thánh Kinh Ít-ra-en, lời của Thiên Chúa hằng sống.
Các giáo phụ còn nhấn mạnh một phương diện khác. Gregor thành Nazianz nói, ngay giây phút các đạo sĩ quỳ phục trước Đức Giê-su, thời điểm chấm dứt của thiên văn học đã đến, từ bây giờ các ngôi sao sẽ đi theo con đường do chính Đức Ki-tô xác định”.[11]
Thật là thú vị khi Mát-thêu nói về ngôi sao của Chúa Giê-su, ngôi sao của Đấng Mê-sia. Trong sách Khải Huyền, thánh Gioan cũng đề cập đến Sao Mai là biểu tượng hướng về Chúa Giê-su: “Đó là quyền mà chính Ta đã được Cha Ta trao cho. Ta sẽ ban Sao Mai cho người ấy” (Kh 2,28) và “Ta là Giê-su, Ta đã sai thiên thần của Ta đến với các ngươi để làm chứng về những điều trên đây, liên quan đến các Hội Thánh. Chính Ta là Chồi Non và Dòng Dõi Đa-vít, là Sao Mai sáng ngời” (Kh 22,16). Theo Ravasi, có thể nói rằng, “Ngôi sao mà thánh Mát-thêu đề cập tới là dấu hiệu của việc mạc khải về Đấng Mê-sia của vũ trụ”.[12]
Như thế với sự dẫn đường của ngôi sao, các nhà chiêm tinh tìm đến được hang Bê-lem. Tiếp theo Mát-thêu diễn tả: “Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến”. Trong câu này, Mát-thêu nói về niềm vui lớn lao “vô cùng” của các nhà chiêm tinh, khi họ nhìn thấy ngôi sao dừng lại chỗ Hài Nhi Giê-su sinh ra. Thật vậy, khi Thiên Chúa chiếu toả ánh sáng của Ngài, thì phận hèn thấp kém của nhân trần sẽ tràn ngập niềm vui khôn tả. Niềm vui của các đạo sĩ còn “lớn lao” hơn nữa, vì kẻ đi tìm đã gặp được điều mình mong ước. Nếu chúng ta nhìn đến hậu cảnh của các đạo sĩ, thì niềm vui này còn mang một ý nghĩa sâu hơn, vì các đạo sĩ là những người đại diện cho những dân tộc ngoại giáo, giờ đây tìm thấy được ơn cứu độ, tìm và gặp được Vị Mục Tử nhân lành giàu lòng thương xót.
Chrysostom chia sẻ rằng: “Trên con đường này, hết điều kỳ diệu này đến điều kỳ diệu khác liên kết với nhau: các nhà chiêm tinh thờ lạy Hài Nhi, ngôi sao đi trước họ. Tất cả những điều này đủ để làm say mê cả trái tim bị chai đá… Hơn nữa, ngôi sao khi thì xuất hiện trên chỗ Hài Nhi nằm, khi thì tan biến đi đâu đó. Điều này tự nó đã chỉ ra một quyền năng lớn lao hơn bất cứ vì sao nào: đầu tiên thì tự ẩn náu, sau thì lại xuất hiện và rồi đứng yên tại chỗ và chiếu sáng. Từ tất cả những điều này, ai nhìn ngắm đều được thúc đẩy đi đến niềm tin. Đó là lý do tại sao mà các nhà chiêm tinh vui mừng. Họ đã tìm thấy điều mà họ tìm kiếm. Họ đã tỏ ra là những sứ giả của niềm tin. Cuộc hành trình dài của họ đã không hoài công. Sự ước ao tìm được Đấng được Xức Dầu đã trở thành hiện thực. Hài Nhi mới sinh là Đấng Thánh. Họ đã nhận ra điều này trong sự thờ lạy của họ”.[13]
Ngoài ra, khi nói về niềm vui, trong Tin Mừng cũng có nhiều niềm vui của cuộc hội ngộ giữa thiên và trần. Có thể nói đến niềm vui hiện diện trong biến cố Thiên Thần truyền tin cho Mẹ Maria, niềm vui của các phụ nữ trong buổi sáng ngày Chúa Phục Sinh (x.Mt 28,8).
Trở về với bài Tin Mừng, chúng ta thấy các nhà chiêm tinh bước vào trong chỗ Hài Nhi đang nằm, sau đó trước Hài Nhi, họ đã quỳ mọp xuống. Đó là cách thờ lạy phải thực hiện trước vị Thiên Chúa là Vua. Theo Pesch, “bái lạy” hay “sấp mình thờ lạy” là từ ngữ được Mát-thêu thích dùng cho nhiều nhân vật trong Tin Mừng. Như người phong hủi sụp lạy trước Chúa để xin cứu chữa (x.Mt 8,2); viên thủ lãnh đến gần và bái lạy Chúa để xin chữa cho cô con gái vừa mới chết (x.Mt 9,18); các môn đệ chứng kiến Chúa Giê-su đi trên mặt nước đến với các ông và trong khung cảnh Chúa làm cho biển lặng, các môn đệ bái lạy Người và nói: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa!” (Mt 14,33); người phụ nữ thành Ca-na-an đến bái lạy và nài van Chúa Giê-su chữa cho cô con gái bị quỷ ám (x.Mt 15,25); mẹ của các con ông Dê-bê-đê đến bái lạy Chúa Giê-su để xin cho hai người con mình: “một người ngồi bên hữu, một người bên tả Thầy trong Nước Thầy” (Mt 20,20); sau khi Chúa phục sinh, Chúa hiện ra và chào các phụ nữ và“Các bà tiến lại gần Người, ôm lấy chân, và bái lạy Người” (Mt 28,9). Mười một môn đệ được Chúa Phục Sinh hiện ra trên một ngọn núi ở miền Ga-li-lê cũng bái lạy Người (x.Mt 28,17).[14]
Nhưng hành vi bái lạy hay sấp mình thờ lạy này có ý nghĩa gì? Luz giải thích như sau: “Đây là hành vi sấp mình trên nền nhà để tôn thờ thần thánh hoặc những người có địa vị cao, chẳng hạn các vua. Tác giả Mát-thêu hầu như chỉ dùng động từ này để diễn tả lòng tôn kính đối với Đức Giê-su bởi những người khẩn cầu (8,2; 9,18; 15,25; 20,20) và bởi các môn đệ (14,33), liên kết với việc tuyên xưng niềm tin vào Con Thiên Chúa, đặc biệt dành cho Đấng Phục Sinh (28,9.17).[15]
Trở về với bài Tin Mừng, các nhà chiêm tinh là những người khôn ngoan đã phủ phục trước Hài Nhi và thờ lạy Người, một trẻ sơ sinh không hề tỏ ra có chút uy hùng hay quyền lực gì. Đó là dấu hiệu họ công nhận Hài Nhi và quyền năng của Người có trên họ. Với sự thờ lạy của các nhà chiêm tinh trước Hài Nhi, chúng ta được hướng dẫn đến với dung mạo của Chúa Giê-su, Người là “con cháu vua Đavít” (Mt 1,1), là “Con Thiên Chúa” (x. Mt 1,21; 2,15) và là Đấng “Em-ma-nu-en” (Mt 1,23). Hài Nhi Giê-su không nói gì với các vị ấy và cũng chẳng cho các vị ấy món gì cả. Các vị không thấy vẻ huy hoàng chúa tể của Người, cũng chẳng trải nghiệm về quyền lực của Người, nhưng các vị nhận biết Người nhờ lòng tin.
Về thái độ “thờ lạy” của ba nhà chiêm tinh, Walter Kasper suy niệm như sau: “Với sự thờ lạy Hài Nhi, ba nhà chiêm tinh đã diễn tả rõ ràng điều nền tảng và quan trọng, điều là chuẩn mực và tiêu chí cuối cùng, để có thể phân định và để có thể đi đến những quyết định. Đó chính Chúa Giê-su Ki-tô. Trong Chúa Giê-su, Thiên Chúa, Đấng ẩn mình và vô hình, đang hiện diện sống động. Trong Chúa Giê-su, Thiên Chúa đã trở nên hữu hình, Đấng bình thường ngự trong ánh sáng không thể vươn tới và đối với con người chúng ta luôn là một mầu nhiệm sâu thẳm không bao giờ đạt tới. Trong Chúa Giê-su Ki-tô, Thiên Chúa đã mặc lấy xác phàm và trở nên một người như chúng ta. Như thế, Chúa đã giúp cho chúng ta có được khả năng phân biệt Thiên Chúa thật và các thần thánh ngẫu tượng sai lạc. Ai hướng nhìn lên Hài Nhi Giê-su và lắng nghe Người, thì sẽ không bao giờ lạc đường cả. Chúa Giê-su Ki-tô đã tự nói cho chúng ta biết rằng, ai thấy Người, là thấy Chúa Cha. Chúa Giê-su là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống (Ga 14,8)… Hôm nay có nhiều người không biết về chính nguồn cội họ đến từ đâu và cùng đích họ sẽ đi về đâu, cũng như họ cũng không biết phải bắt đầu cuộc sống của họ ở điểm nào và với cái gì, họ cũng không tìm ra nơi có thể tin tưởng và cậy dựa vào. Còn với chúng ta là Ki-tô hữu thì khác. Điều lớn lao và tuyệt đẹp trong Ki-tô giáo là: Trong Chúa Giê-su Ki-tô chúng ta có được tiêu chí cụ thể, có được hướng đi rõ ràng. Người là Mục Tử nhân lành, là Người Đồng Hành với chúng ta trong cuộc sống. Chúng ta cần phải tin tưởng vào Người luôn mãi”.[16]
Đi cùng với thái độ thờ lạy, ba nhà chiêm tinh đã dâng lên Hài Nhi ba lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. Theo Ratzinger, “Trước Hài Nhi, các nhà đạo sĩ đã thực hiện việc proskyneô, có nghĩa là quỳ mọp trước Hài Nhi. Đó là cách thức thờ lạy phải thực hiện trước vị Thiên Chúa là Vua. Hành động này nói lên ý nghĩa của những lễ vật mà ba đạo sĩ dâng lên. Đây không phải là những quà tặng thông thường mà Thánh Gia có thể sử dụng ngay lúc này. Các lễ vật nói lên ý nghĩa của việc thờ lạy. Chúng công nhận tước hiệu là vua cao sang. Vàng và nhũ hương, như trong đoạn I-sai-a 60,6 nói, như lễ vật thờ phượng mà các dân tiến dâng Thiên Chúa của Ít-ra-en:
‘Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Ma-đi-an và Ê-pha:
tất cả những người từ Sơ-va kéo đến,
đều mang theo vàng với trầm hương,
và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa’ (Is 60,6)”.[17]
Ngoài ra, theo truyền thống của Giáo Hội, thì vàng hướng ý đến vương quyền của Đức Giê-su, nhũ hương về tính chất là Con Thiên Chúa và mộc dược nói lên mầu nhiệm khổ nạn. Thánh Phê-rô Kim Ngôn có nói: “Dâng hương để nhận Người là Chúa, dâng vàng để nhận Người là Vua, và dâng mộc dược để loan báo Người sẽ chết” (Bài giảng của thánh Phê-rô Kim Ngôn, Giờ Kinh sách, vọng Hiển Linh).
Kết thúc câu truyện, thánh sử Mát-thêu cho người đọc biết được hành trình tiếp theo của các nhà chiêm tinh: “Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình” (Mt 2,12). Lời kết thúc bài Tin Mừng đã diễn tả sự hoạt động quyền năng của Thiên Chúa. Ngài đã hướng dẫn các đạo sĩ về lại xứ sở của họ, và song song chính Thiên Chúa đã làm cho âm mưu quỷ quyệt của vua Hê-rô-đê đổ vỡ hoàn toàn, và vị vua trần gian này không có quyền hành và ảnh hưởng gì trên Hài Nhi Giê-su, vị Vua trên hết các vua.
Để cho bài Tin Mừng “vang vọng” lại trong tâm hồn, chúng ta cùng suy tư và cầu nguyện với những gợi ý sau:
Nhìn ba nhà chiêm tinh, chúng ta nhận ra rằng, chúng ta cũng thuộc về thành phần dân ngoại như họ, vì chúng ta không phải là người Do-thái.
Tuy vậy, Thiên Chúa và lòng thương xót của Ngài vẫn chiếu dãi ánh sáng đến với chúng ta, vì Hài Nhi sinh ra cho mọi người chứ không cho riêng ai. Thật vậy, lời Ngài hứa luôn là lời sống động: “Để bất cứ ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Hôm nay, bạn và tôi cùng đọc lại lời kinh tin kính một cách chậm rãi. Chúng ta đọc như là một tín hữu sống sự ý thức cao độ, chứ không như “chú vẹt” cất lên những lời kinh quá quen thuộc.
Khi đọc kinh Tin Kính chậm rãi và chú tâm, bạn và tôi coi xem câu nào trong lời kinh “lôi cuốn”, thì dừng lại để nghiền ngẫm, suy tư và cầu nguyện với câu đó.
Ba nhà chiêm tinh là những người đi tìm, những người hỏi thăm và những người hy vọng sẽ tìm thấy được điều họ tìm kiếm. Như ba nhà chiêm tinh, chúng ta cũng cần trở thành những người đi tìm, những người hỏi thăm và những người hy vọng. Chúng ta không nên là những người sống theo kiểu “dửng dưng mặc kệ”, nhất là trong xã hội văn minh Tây Phương, nơi người ta đang “dửng dưng và mặc kệ” Thiên Chúa. Với họ niềm tin vào tôn giáo không còn quan trọng nữa. Chúng ta không đi vào “vết chân” này, ngược lại chúng ta cần dõi theo ngôi sao, cần có lý tưởng là Chúa Giê-su Hài Đồng. Trên hành trình của niềm tin, chúng ta tiếp tục tìm nhiều hơn nữa, hỏi thăm nhiều hơn nữa. Chúng ta hỏi về chính Chúa, về Mầu Nhiệm Tình Yêu của Chúa, chúng ta tìm sự hiện diện gần gũi của Chúa, chúng ta tìm chính sự dịu ngọt của Chúa. “Quaerere Deum, tìm kiếm Chúa: Điều đó làm nên con người, điều đó làm cho con người lớn lên và làm cho phẩm giá của con người tỏ lộ. Nếu chúng ta không còn tìm Chúa nữa, thì chúng ta đang đi vào một ‘ngã rẽ’ làm cho chúng ta trở nên những con thú”.[18]
Ba nhà chiêm tinh đã được ngôi sao dẫn đến gặp Hài Nhi Giê-su. Trong đời bạn, ngôi sao nào đã dẫn đường bạn đến với Đức Tin, đến để gặp Chúa? Ngôi sao đó có thể là chính cha mẹ, bạn bè hay một người nào đó. Bạn hãy nhớ đến người đó và nhìn lại sự kiện bạn được dẫn đến gặp Chúa. Giờ đây, đến với Hài Nhi Giê-su đang nằm trong máng cỏ, với hết tấm lòng bạn hãy thờ lạy Người và hãy cảm tạ tri ân Thiên Chúa.
Ba nhà chiêm tinh thờ lạy Hài Nhi. Đó là hình ảnh thật đẹp! “Ai quỳ phục thờ lạy trước Chúa Giê-su, người đó không bị ‘nhỏ lại’, ngược lại người đó sẽ cảm nhận được sự lớn lao thật và lời mời gọi đích thật. Thái độ thờ lạy không làm cho chúng ta ‘nhỏ lại’, mà còn gìn giữ chúng ta trước tình trạng ‘thích làm lớn’. Thái độ thờ lạy Hài Nhi Giê-su nói cho chúng ta biết rằng: Có một người lớn hơn tất cả sức mạnh và quyền lực của thế giới này”.[19]
“Thờ lạy và kính sợ” là hành động rất căn bản cho đời sống của người Ki-tô hữu. “Kính sợ Chúa là đầu mối mọi sự khôn ngoan”. Điều răn đầu tiên trong 10 điều răn là “Thờ phượng và kính mến Đức Chúa Trời trên hết mọi sự”. Bạn đã và đang thờ phượng Thiên Chúa như thế nào? Bạn hãy xét lại cách thờ phượng của bạn với Chúa xem, bạn đã thờ phượng và kính sợ Chúa cách xứng hợp và đúng đắn chưa? Ngoài ra, cũng nên coi kỹ lại xem, gián tiếp hay trực tiếp, ý thức hay vô thức bạn đang thờ phượng một thần thánh khác, có thể là tiền bạc, là danh vọng, là “cái tôi to tướng”… Bạn nên làm gì để quay về với Thiên Chúa, Đấng duy nhất bạn phải thờ lạy? Với những câu hỏi này, bạn hãy đến với Hài Nhi Giê-su, thờ lạy Người và tâm tình với Người nhé!
Hê-rô-đê rất mưu mô xảo quyết và rất ác tâm. Ông ta chỉ muốn giữ vững chiếc ghế của mình, và manh tâm giết hại Hài Nhi Giê-su. Hơn nữa, ông ta còn muốn lôi kéo các đạo sĩ về phía ông. Bạn có trải nghiệm gì về việc bị sự dữ “cám dỗ” và lôi kéo bạn về phe phái của chúng? Bạn nên làm gì để tránh được sự lôi kéo đó, để không trở thành đồng minh của sự dữ?
Ba đạo sĩ tìm thấy được Hài Nhi, thì vui mừng và dâng lễ vật lên cho Hài Nhi. Bạn có muốn dâng lễ vật của bạn lên cho Hài Nhi không? Lễ vật đó là gì vậy?
Hình ảnh của ba nhà chiêm tinh với tâm tình thờ lạy Hài Nhi Giê-su đưa chúng ta đi vào trong cầu nguyện. Giờ đây chúng ta cùng dâng lên Chúa lời Thánh Thi trong Lễ Hiển Linh:
“Ba hiền sĩ thoạt nhìn Con Trẻ,
Vội cúi mình thi lễ tiến dâng:
Này đây phẩm vật đông phương,
Vàng ròng mộc dược nhũ hương kính chầu.
Như biểu tượng Vua cao Chúa cả,
Nắm uy quyền nhiệm lạ vô song,
Chúa Cha tiền định cho Con
Thể theo tiến vật mà tuân ý trời.
Vàng rực rỡ soi ngời ngôi vị,
Ngát hương trầm nhủ ý Thiên Vương,
Ra đời gieo vãi tình thương
Liệm thân mộc dược dọn đường mai sau.
Bê-lem hỡi, ta nào ngờ tới,
Ngươi trở nên vĩ đại đâu bằng!
Nơi Ngôi Thiên Tử cao sang,
Giáng trần cứu thế ngang hàng lê dân.
Ðoàn ngôn sứ bao lần tường thuật
Nhiều cớ bằng sự thật hiển nhiên,
Vua Trời kêu gọi chăm chuyên,
Ngõ hầu đạt tới cơ duyên Nước Người.
Nước Trời ấy trải dài muôn vật,
Phủ trăng sao biển đất thinh không,
Cả bình minh lẫn hoàng hôn,
Thiên nhai vời vợi âm cung mịt mù.
Muôn lạy Ðức Giê-su trìu mến,
Ðã dủ thương tỏ hiện rõ ràng,
Dâng Ngài hai chữ vinh quang,
Muôn đời hiển trị thiên đàng uy linh”.[20]
----------------------------------------------------
[1] Ratzinger J., Đức Giê-su thành Nazareth, phần III: Thời thơ ấu của Đức Giê-su. T.127-128.
[2] FX. Vũ Phan Long, Các bài Tin Mừng Mát-thêu dùng trong phụng vụ. T.33.
[3] Pesch R., Die Weihnachtsbotschaft. Bibelwerk Verlag, Stuttgart 2016. S.117-118.
[4] Ratzinger J., Đức Giê-su thành Nazareth, phần III: Thời thơ ấu của Đức Giê-su. T.135-136.
[5] Ratzinger J., Đức Giê-su thành Nazareth, phần III: Thời thơ ấu của Đức Giê-su. T.143.
[6] Ratzinger J., Đức Giê-su thành Nazareth, phần III: Thời thơ ấu của Đức Giê-su. T.144.
[7] Ratzinger J., Đức Giê-su thành Nazareth, phần III: Thời thơ ấu của Đức Giê-su. T.145-146.
[8] Manlio Simonetti (Edited). Ancient Christian commentary on Schripture, Matthew 1-13. Inter Varsity Press 2001. S.23.
[9] Trích bởi Ravasi G.F., Das Evangelium nach Matthaeus. Neue Stadt Verlag. München 1992. S.56.
[10] Ratzinger J., Đức Giê-su thành Nazareth, phần III: Thời thơ ấu của Đức Giê-su. T.138-139.
[11] Ratzinger J., Đức Giê-su thành Nazareth, phần III: Thời thơ ấu của Đức Giê-su. T.139-141.
[12] Ravasi G.F., Das Evangelium nach Matthaeus. Neue Stadt Verlag. München 1992. S.56.
[13] Manlio Simonetti (Edited). Ancient Christian commentary on Schripture, Matthew 1-13. S.26-27.
[14] Pesch R., Die Weihnachtsbotschaft. S.143-144.
[15] Luz U., Das Evangelium nach Matthaeus, 1. Teilband, Benziger Verlag, Zuerich 1985. S.120.
[16] Kasper W., Bedenke dein Geheimnis. Meditation zu Advent und Weihnachten. Kbw. Verlag. Stuttgart 2015. S.81-83.
[17] Ratzinger J., Đức Giê-su thành Nazareth, phần III: Thời thơ ấu của Đức Giê-su. T.149.
[18] Kasper W., Bedenke dein Geheimnis. Meditation zu Advent und Weihnachten. S.76.
[19] Kasper W., Bedenke dein Geheimnis. Meditation zu Advent und Weihnachten. S.83-84.
[20] Thánh thi giờ kinh Sách lễ Hiển Linh.
45.Cuộc hành trình đức tin--Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng
TỪ MỘT VÌ SAO LẠ…
Có ba thái độ khác nhau khi con người phát hiện ra một vì sao lạ:
Thái độ Thành Tâm Thiện Chí của các nhà chiêm tinh. (thường gọi Ba Vua)
Khi phát hiện ra một vì sao lạ, các nhà chiêm tinh từ phương Đông đã đến Giêrusalem để tìm “Đức Vua dân Do Thái”.
“Vào thời đó mọi người đều tin vào khoa chiêm tinh. Họ tin rằng, dựa vào vì sao họ có thể tiên đoán tương lai. Họ cũng tin rằng số mệnh một người được an bài bởi ngôi sao đã xuất hiện lúc người ấy sinh ra. Điều này cũng dễ hiểu, vì các ngôi sao đi theo một đường cố định, chúng tượng trưng cho trật tự vũ trụ. Nếu thình lình có một vì sao sáng xuất hiện, nếu trật tự của từng trời bị dao động bởi một hiện tượng đặc biệt, thì dường như Thiên Chúa đang can thiệp vào chính trật tự của Ngài để loan báo một sự việc nào đó.” (William Barclay).
Lịch sử cho thấy, vào thời điểm Chúa Giêsu giáng sinh, trong thế giới lúc ấy cũng có sự chờ mong một vị vua sẽ đến. Như ở Roma, sử gia Suetonius đã viết: “Khắp phương Đông có một niềm tin là vào thời đó, nhất định có người từ Giuđa đến cai trị thế giới”, (Suetonius, Đời sống Vespasian 4,5). Sử gia Tacitus cũng đã viết: “Có một xác tín rằng trong chính thời gian này, phương Đông trở nên hùng mạnh và những người cai trị đến từ Giuđê sẽ chiếm được đế quốc toàn cầu” (Tacitus, Biên niên sử 5,13). Người Do Thái cũng tin: “Vào khoảng thời gian đó, một người trong xứ họ sẽ trở thành vua của mọi dân trên mặt đất” (Josephus, Những cuộc chiến tranh của người Do Thái 6,5)…
“Khi Chúa Giêsu đến thì thế gian đang thiết tha trông đợi. Loài người thật đang trông chờ Thiên Chúa. Sự khao khát nung nấu lòng người. Họ đã nhận biết mình không thể tạo được thời đại hoàng kim nếu không có Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã ngự đến với một thế gian đang khắc khoải đợi mong và khi Ngài đến, con người từ những phương trời xa xôi nhất đã tề tựu quanh nôi Ngài. Đó là dấu hiệu và biểu tượng đầu tiên Chúa Giêsu chinh phục thế giới.” (William Barclay).
"Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người." (Mt.2,2).
Họ bái lạy với trọn vẹn lòng thành sau cuộc hành trình xa xôi vất vả. Niềm tin vào “Đức Vua dân Do Thái mới sinh ra” là hoàn toàn chân thật và họ đã dâng lên Hài Đồng Giêsu những lễ vật tượng trưng sự cao trọng và ý nghĩa nhất dành cho Đấng Cứu Thế.
“Vàng là để tặng vua, nhũ hương tặng thầy tế lễ, mộc dược dành cho Đấng phải chịu chết. Đấy là những lễ vật của các nhà chiêm tinh dâng ngay trước nôi của Chúa Giêsu. Những lễ vật đó có ý nghĩa Ngài là vua chân thật, thầy tế lễ trọn vẹn và sau hết, Ngài là Đấng Cứu Thế cao cả của loài người” (William Barclay).
Thái độ Ganh Ghét và Thù Địch của vua Hêrôđê.
“Con vua thì được làm vua. Con sãi ở Chùa thì quét lá đa”.
Vua nào cũng muốn bảo vệ ngai vàng của mình, và cho con cháu sau này. Nên khi nghe nói có một hài nhi sinh ra sẽ là vua thì tất nhiên vua nào cũng lo lắng. Nhưng, đối với con người của Hêrôdê, thì sự lo lắng càng dữ dội hơn nữa, vì cá tính đầy tham vọng của ông.
Lịch sử cho biết ông là một người đa nghi. Về điểm này, ông rất giống Tào Tháo. Sẵn sàng giết chết bất cứ ai mà ông nghi làm tổn hại đến quyền hành của ông. Ông đã giết vợ là Mariamne cùng mẹ nàng là Alexandra. Con cả là Antipater và hai con trai khác là Alexander, Aristobulus cũng bị ông sát hại. Hoàng đế Rôma là Augustus cay đắng nói rằng: “Làm con heo của Hêrôdê còn an toàn hơn làm con trai ông ta”.
Một con người đầy tham vọng như vậy làm sao có thể đón nhận được Thiên Chúa, Vua Tình Thương.
Vì thế, ông tìm cách loại trừ Hài Nhi Giêsu.
Thái độ Dửng Dưng như không hay biết gì của các thượng tế và kinh sư.
“Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời." (Mt. 2,4-6).
Các thượng tế và kinh sư quả thấm nhuần Kinh Thánh, nhưng rõ ràng thái độ của họ xem những gì nói đến trong Kinh Thánh như những chuyện huyền thoại xa xưa không dính líu gì với cuộc đời họ. Và rồi, có hay không có Giêsu cũng không thành vấn đề gì đối với họ.
Họ đang no đầy những lợi lộc và cả quyền lực. Họ không thể thay đổi con đường của họ đang đi. Họ bằng lòng với những gì đang có, cuộc sống của người khác mặc họ. Một Đấng Cứu Tinh không như ý họ thì cần gì phải quan tâm đến.
… ĐẾN VÌ SAO THÁNH GIÁ
Ở quê tôi, tôi quen biết một anh công giáo rất tốt. Anh thường xuyên đi lễ ngày thường, và giúp nhiều việc nhà thờ. Nhưng sau 1975, anh không đến nhà thờ nữa. Một ngày kia, sau khi nhận một chức vụ lớn ở xã, anh dẹp bàn thờ Chúa và Đức Mẹ mà anh đang để nơi trang trọng nhất giữa nhà. Bước vào nhà anh, không còn dấu vết gì là người Công Giáo. Sau ba bốn năm làm việc, rồi anh cũng đã quay về, dựng lại bàn thờ xưa. Đường công danh thấy cũng không đến đâu.
Ở quê tôi, có một anh cũng có một chức vụ quan trọng. Anh này không chỉ xoá dấu vết Công Giáo ở nhà, mà muốn khẳng định mình đã đoạn tuyệt với Đạo. Lúc ấy, tôi chưa biết anh, tôi nghe đồn là anh ta đã kích Đạo dữ lắm. Một hôm, tình cờ tôi đi dự tiệc giỗ cùng với một Cha và ngồi cùng bàn với anh ta, và được một người giới thiệu danh tánh và chức vụ của anh. Đang giữa tiệc, anh xé một miếng bánh mì và nói: “Này là mình ta…”, rồi anh cầm lấy ly rượu, nói tiếp: “Này là máu ta…”. Vị linh mục và tôi bước ra khỏi bàn …Sau này, anh mất chức. Nghe nói có một người có chức vụ lớn đã nói về anh ta: “Là một người Công Giáo được dạy dỗ từ nhỏ mà anh ta còn quay lại xúc phạm đến thế, thì có thể tin anh sẽ là người trung thành khi anh là một người mới gia nhập vào một tổ chức nào đó không?”.
Đã hơn hai ngàn năm qua, Thiên-Chúa-làm-người-và-ở-cùng-chúng-ta vẫn mời gọi con người đến với Ngài sau khi Ngài đi bước trước là “đã đến với nhân loại”. Tình yêu không thể đơn phương, tình yêu cần có sự đáp trả. Con người cần có thành tâm thiện chí để đến với Ngài.
Thành tâm thiện chí như các đạo sĩ phương đông. Không ngừng tìm hiểu dấu chỉ của Thiên Chúa (khám phá ra vì sao lạ). Hành trình Đức Tin (tìm đến với Thiên Chúa). Vượt qua mọi thử thách (khi vì sao lạ khuất bóng). Thờ lạy Chúa hết lòng (dâng lễ vật) và luôn biết khôn ngoan để bảo vệ niềm tin (đi con đường khác trở vể quê hương).
Xem đó, chúng ta thấy cần có một con tim yêu thương mãnh liệt để đáp lại tình yêu vô bờ bến mà Thiên Chúa đã dành cho con người.
Nếu không, tiền, tình, danh vọng; tham, sân, si, sẽ là những chướng ngại vật, những rào cản tách con người xa lìa Thiên Chúa, chống lại Thiên Chúa, hờ hững với Thiên Chúa.
Chúng ta có thể tìm thấy trong thế giới hôm nay hình ảnh những Hêrôđê, những thượng tế và biệt phái thời đại, và có khi, chúng ta cũng tìm thấy những hình ảnh ấy ở trong chính ta.
Tôi nhớ ngày xưa có lần tôi xem một câu truyện cổ tích.
Câu chuyện kể về một mối tình thật đẹp của một đôi nam nữ. Nhưng một bà phù thủy độc ác đã ganh tỵ muốn xé lẻ đôi uyên ương ấy, bà hô lên lời nguyền biến chàng trai thành một con dã nhân trông ghê rợn và chỉ trở lại kiếp người như xưa nếu có một ngày nào đó cô gái ấy dám nhìn thẳng vào đôi mắt của anh. Chính anh cũng không biết được chiếc chìa khóa ấy để giải lời nguyền của bà phú thủy độc ác. Nhận ra mình mang lốt loài thú hoang dã, không còn nói được tiếng người, anh đau buồn và âm thầm lánh xa cô gái. Cô gái không hay biết điều gì. Cô vô cùng đau khổ vì người yêu bổng dưng bỏ cô đi đâu biền biệt.
Một bà tiên hiền lành đã thương tình muốn cứu chàng trai và trả lại tình yêu trong sáng cho họ. Bà gặp cô gái và trao cho cô một “viên ngọc dẫn đường” để cô đi tìm người yêu. Cô đặt viên ngọc trước mặt, nó lăn đi qua muôn nẻo đường băng sông vượt núi. Cô gái đáng thương cứ bám theo viên ngọc. Có lúc cô gục ngã và đứng lên tiếp tục cuộc hành trình không có điểm hẹn, không có giới hạn thời gian. Có lúc tưởng như cô bỏ cuộc. Có lúc tưởng như cô không còn đủ sức đứng lên.
Cuối cùng, cô đến một bờ rừng. Cô gặp một dòng suối, cô cố gắng cúi xuống uống vài ngụm nước và mệt mỏi nằm bất động bên bờ suối. Tiếng muôn thú trong rừng về đêm nghe ghê rợn, nhưng cô gái tội nghiệp không hay biết gì. Cô đã chìm sâu trong giấc ngủ.
Cô tỉnh dậy, muôn tiếng chim đua hót líu lo hòa vang khúc nhạc ngày mới. Nắng ban mai xuyên qua cành lá như những sợi tơ vàng óng ánh quanh cô. Cô gái đẹp như tiên nữ dạo chơi trần thế, nhưng nỗi sầu trong lòng cô vẫn đang trĩu nặng. Viên ngọc dẫn đường nằm im lìm và cô không biết phải đi đâu nữa.
Chợt cô nghe tiếng vỡ gẫy của những nhành cây cỏ dại. Cô quay nhìn lại, phía sau cô, nép mình sau gốc cổ thụ, một bóng hình đen đúa như ma quái. Một con quái vật! Cô gái thét lên và bỏ chạy. Cô không còn sức nữa, cô ngã xuống và nằm im một lúc. Cô ngồi dậy, đứng lên định chạy nữa, rồi lại té xuống, cứ thế, đôi ba lần. Cô liết nhìn con quái vật, đầy sợ hãi. Con vật vẫn còn đó. Nó đứng im.
Cuối cùng, cô đứng dậy. Can đảm nhìn về con quái vật. Lúc này, cô thấy rõ đó là con dã nhân. Cô nhìn nó. Nó không có vẻ gì hung dữ. Nó không có vẻ gì đang muốn hãm hại cô.
Con dã nhân tiến lại gần cô. Những ngày tháng đi theo “viên ngọc dẫn đường”, cùng với những giây phút sự sợ hãi hôm nay đã làm cô kiệt sức. Cô đứng im lặng, thu hết can đảm để nhìn con dã nhân đang tiến lại mỗi lúc một gần cô hơn. Gần hơn... rất gần. Mắt cô nhìn thẳng và đôi mắt nó.
Trong khoảnh khắc tột cùng sợ hãi, cô ngỡ ngàng nhận ra một ánh mắt thật quen không thể nào hòa lẫn với ánh mắt nào khác. Cũng trong khoảnh khắc huyền diệu ấy, cô gái nhận ra người yêu cô đang đứng trước mặt.
Viên ngọc dẫn dường nằm ở đâu đó lóe sáng lên và biến mất.
Nếu Giáng Sinh đầu tiên có một vì sao lạ đã dẫn đưa ba nhà đạo sĩ tìm đến Hang Đá thờ lạy Đấng Cứu Thế, thì ngày nay, vì sao Thánh Giá dẫn đưa nhân loại về với Thiên Chúa để cùng chung tôn thờ Thiên Chúa và xây dựng một thế giới yêu thương huynh đệ.
Cuộc hành trình này còn đầy gian nan thử thách. Còn đòi hỏi nhiều hy sinh. Không có tình yêu thánh giá, con người không thể nào đi đến bến bờ đoàn tụ yêu thương.
Lạy Chúa,
Xin cho mọi người nhận ra một vì sao lạ:
-“Vì sao Thánh Giá”
tỏa sáng muôn nơi,
khắp mọi phương trời,
dẫn đưa con người,
về miền đất hứa:
-“Thế giới đệ huynh
anh em một nhà,
Thiên Chúa là Cha.” Amen.
46.Đến Bái Lạy Người--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
Đoạn 2,1-12 nằm trong trình thuật lớn về sự giáng sinh và thời thơ ấu của Chúa Giêsu (1,1-2,23). Trước đoạn nầy là câu chuyện giáng sinh (1,18-25) và sau đó là chuyện trốn chạy sang Ai cập (2,19-23). Đoạn 2,1-12 được đóng khung bởi sự kiện các nhà chiêm tinh tìm đến Giêrusalem (2,1) và các ông đi khỏi đó (2,12). Đoạn 2,1-12 có thể phân chia như sau: 1- Bối cảnh và câu hỏi nhập đề của các nhà chiêm tinh (2,1-2); 2- Gặp gỡ Hêrôđê tại Giêrusalem (2,3-9a); 3- Gặp gỡ Hài Nhi ở Bêthlehem (2,9b-12). Cách phân đoạn nầy dựa trên sự phân bố của chữ “sấp mình thờ lạy Người” (2,2.8.11).
Câu nhập đề về việc giáng sinh của Chúa Giêsu (2,1) liên kết đoạn nầy với đoạn trước, mặc dù Matthêô không mô tả chi tiết về việc ấy (x. 1,18-25; Lc 2,1-7). Sau khi giới thiệu tên “Giêsu”, Matthêô sẽ xác định ngay trong câu hỏi mở đầu của các nhà chiêm tinh là: “vua của người Do thái mới sinh”, để đối lại với “vua Hêrôđê” được nhắc qua như làm nền lịch sử cho sự xuất hiện của Người (2,1b). Matthêô còn ghi nhận cách đặc biệt là “Bêthlêhem trong miền Giuđa” (x. 2,1.5.6), để ám chỉ Hài Nhi mới sinh ra tại đó mới là vua thật của dân Israel, chứ không phải là Hêrôđê đang trị vì trên đó. Đối chọi với Bêthlêhem bé nhỏ (2,1.5.6.8) là Giêrusalem rộng lớn, nhưng đứng về phía Hêrôđê (2,1.3). Hành động bắt đầu với sự xuất hiện của ba nhà chiêm tinh và câu hỏi của các ông ấy (2,2b). “Magos” là những người khôn ngoan, chuyên nghiên cứu tinh tú, sự xuất hiện và vận động của các hành tinh để giải thích những chuyện ảnh hưởng trên thế giới con người. Ở đây, họ đã khám phá “vua dân Do thái mới sinh ra” nhờ nhận ra một vì sao đáng chú ý xuất hiện. Do đó, “magos” có thể dịch là nhà chiêm tinh, thay vì “ba vua” hay “đạo sĩ”.
Khung cảnh của đoạn 2,3-9a là tại Giêrusalem. Tất cả tập trung chú ý vào phản ứng và hành động của Hêrôđê khi ông đứng trước câu hỏi của các nhà chiêm tinh. Hành động của ông đi từ thái độ bối rối (2,3) đến âm mưu giết vị vua mới sinh (2,8), sẽ được trình bày trong đoạn kế tiếp (2,13-18). “Cả thành Giêrusalem” cùng đứng về phía ông mà sợ hãi và chống lại Hài Nhi. Điều nầy cho thấy sự trầm trọng của vấn đề. Giêrusalem là nơi Người sẽ gặp phải sự chống đối (15,1) và là nơi mà “vua dân Do thái” phải chết (x. 16,21; 20,17). “Họp lại” là động từ thường dùng cho giới lãnh đạo Do thái: thượng tế, kỳ lão, các Pharisêô, luật sĩ. Họ thường họp nhau lại để bàn tính chuyện chống lại Chúa Giêsu (x. 22,34.41; 26,3.57; 27,62; 28,12). Còn dân chúng ở Giêrusalem thì sẽ tuyên bố chịu trách nhiệm việc đổ máu Người trên họ và trên con cháu của họ (27,25). Như thế, Matthêô cho một dấu hiệu tiên báo cuộc tử nạn của Người. Câu trích dẫn của Matthêô có những thay đổi đáng kể theo ý định của ông (x. Mic 5,1 và 2 Sam 5,2): – dùng “miền đất Giuđa” để liên kết Hài Nhi với tổ phụ Giuđa, từ đó dòng tộc Đavít phát sinh (1,1-2); – dùng thể phủ định “ngươi chẳng nhỏ bé nhất giữa các lãnh tụ của Giuđa” để khẳng định sự trổi vượt của thủ lãnh phát xuất từ đó, thay vì sự so sánh về kích thước và dân số; – liên kết với câu trích dẫn 2 Sam 5,2 để chỉ vị thủ lãnh xuất phát từ Bêthlêhem cũng là người chăn dắt dân Israel. Hêrôđê tính tuổi của Hài Nhi bằng cách cặn kẽ hỏi các nhà chiêm tinh về thời gian ngôi sao xuất hiện (2,7.16). Bởi đó, ông đã quyết định cho hạ sát trẻ con từ hai tuổi trở xuống (2,16). Đến lúc nầy, chân dung của Chúa Giêsu đã được xác định khá rõ ràng. Từ “Giêsu” được nêu lên cách khách quan ngay từ đầu (2,1), được xác định thêm là “vua dân Do thái” (2,2), rồi “Đức Kitô”. Tiếp theo đó là “thủ lãnh”, rồi là “mục tử của dân Israel” (2,6). Và hơn hết, chính sự sấp mình bái lạy của các nhà chiêm tinh cho biết Người chính là Chúa của mọi dân (2,11). Vậy, nhờ tra cứu Sách Thánh các nhà chiêm tinh đã được sáng tỏ về Đấng các ông đang tìm kiếm; trong khi Hêrôđê sợ hãi về sự thật nầy và âm mưu tiêu diệt nó.
Ánh sao lại xuất hiện và dẫn đường các nhà chiêm tinh trong phần thứ hai của hành trình tìm Hài Nhi (2,9b-12). Điều đáng chú ý là điểm đến tương ứng với điểm khởi hành: cùng một “ánh sao bên phương đông” (2,2.9b) dẫn đi và dẫn đến dừng lại trên nhà của Hài Nhi; tuy nhiên, điểm đến gặp Hài Nhi mới là điểm khởi đầu của các nhà chiêm tinh. Niềm vui lớn lao vô cùng của các nhà chiêm tinh được diễn tả trong cách nói theo từng chữ là “Họ vui mừng trong niềm vui lớn lao quá chừng”. Niềm vui nầy được nhắc đến nhiều trong những trình thuật giáng sinh (x. Lc 1,14. 44. 46; 2,10.14. 20); đồng thời đó cũng là niềm vui của những người tìm được kho tàng ẩn dấu (13,44) và ơn cứu độ (5,12; 25,21.23). Các nhà chiêm tinh đã đạt đến đích. Ba hành vi diễn ra liên tục: họ thấy, bái mình và dâng lễ vật (2,11). Sấp mình bái lạy Hài Nhi và dâng Người lễ vật (x. Is 60,6) là bày tỏ sự lệ thuộc và nhận biết Người là Chúa của họ (4,10; 14,33), cũng là Đấng Kitô (1,1; 2,5). Kết thúc, lần nữa Thiên Chúa hướng dẫn hành trình của họ về xứ sở của họ và âm mưu của Hêrôđê bị đổ vỡ.
Con Thiên Chúa sinh ra cho mọi người. Có người thành tâm đi tìm kiếm Người, mà cũng có người chối bỏ và tìm cách tiêu diệt Người. Tuy nhiên, vì Người là Vua, nên mọi người đều phải sấp mình bái lạy Người.
47.Lễ Hiển Linh--Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
Chủ đề: Tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa là ánh sao dẫn đường
Kính thưa ...
Kinh Thánh là cuốn sách Thiên Chúa tự tỏ bày tình yêu và lòng thương xót đối với thế gian, nhằm lôi kéo thụ tạo liên kết với Ngài trong tình yêu và sự sống. Sự tỏ bày này được gọi bằng một tên riêng “hiển linh”, vừa mang chiều kích thiêng thánh, vừa diễn tả sự hiện diện cụ thể của Đức Chúa trong lịch sử.
Theo triết tự: “hiển linh”(hiểu như phép lạ) là sự xuất hiện của thần linh giải cứu những chiến binh, những thành trì, đang bị địch quân vây khốn, là xoay đổi tình thế từ đen tối sang sáng láng rạng ngời, từ yếu đuối sang mạnh mẽ, từ nô lệ, áp bức sang độc lập, tự do....
Isaia diễn tả cuộc hiển linh bằng cách đọc lại lịch sử dân tộc mình, cốt nhấn mạnh hiệu quả của biến cố thần hiển: “Dân tộc bước đi trong tối tăm, đã nhìn thấy ánh sáng rạng ngời, ánh sáng bừng lên chiếu soi người cư ngụ miền thâm u sự chết” (Is 9,1). Chúa đã rút lại án phạt, đã tặng ban ân sủng, đã hủy diệt chiến tranh bằng cách bẻ gẫy gông cùm, xiềng xích, đốt sạch những quân trang, quân dụng phục vụ chiến trường... Ngôn sứ đồng hóa hiển linh với con trẻ Belem: một hài nhi đã chào đời, một người con đã được ban tặng chúng ta, Ngài lãnh nhận quyền bính, chịu trách nhiệm dẫn dắt muôn dân trong công bình, chính trực, nghĩa là, trong tình yêu và lòng thương xót vô biên, từ bây giờ và cho đến muôn đời.
Sau khi đã liệt kê mọi hiệu quả biến cố hiển linh, Isaia công bố thành ngữ bản lề làm điểm tựa cắt nghĩa tính hợp lý của lịch sử cứu độ : “Lòng ghen yêu của Chúa thiên binh sẽ thực thi điều đó” (Is 9, 6). Cha Thuấn dịch: “ Lòng phẫn ghen”, nhóm các giờ kinh phụng vụ dịch: “Yêu thương nồng nhiệt”, bản TOB dịch: “Tình yêu cháy bỏng”.
Tôi tâm đắc bản dịch của UBGM về phụng vụ, xuất bản 1969: “Lòng ghen yêu”(amour jaloux). Lòng ghen yêu, tự thân, đòi sự chung thủy tuyệt đối, độc chiếm hoàn toàn, không chấp nhận bất cứ một mảy may phân chia ; lòng ghen yêu sẵn sàng hủy diệt kẻ thù đe dọa tình yêu ấy.
Khi áp dụng lòng ghen yêu cho Thiên Chúa, người ta không suy diễn theo kiểu cách loài người, nghĩa là, coi vật này, người kia là thù địch, là kẻ phá hoại. Thiên Chúa không có kẻ thù hiểu theo nghĩa siêu hình, mà chỉ có thù địch hiểu theo nghĩa luân lý, đạo đức. Kẻ thù của Chúa là tối tăm, tội lỗi, thù oán, ghen ghét, giận hờn, chia rẽ, lăng loàn, ganh tỵ và cả sự chết nữa. Nói TC ghen yêu, là muốn tuyên xưng quyền năng cứu độ tuyệt đối được hoàn thành trong sự chết và sự phục sinh của Chúa Giê-su, nhờ Người, chúng ta được cứu độ, được giải thoát, được thừa hưởng tình yêu và sự sống thần linh cách vô lường.
Bài đọc I diễn tả lòng ghen yêu của Chúa thiên binh trang điểm cho dân được tuyển chọn bằng những ân huệ thiên hình vạn trạng, khiến nó trổi vượt trên tất cả. Vẻ huy hoàng Chúa ban cho Israel khiến chư dân nao nức, cất bước tìm về chiêm ngắm, để soi mình vào đó và cũng ước mong được Chúa mặc cho hồng ân như thế.
Đại diện cho nhóm chư dân là ba vua đến từ Phương Đông.
Theo ánh sao dẫn đường, tất cả tìm đến Belem. Họ gặp hài nhi và mẹ người. Luca nhẹ nhàng nhắc rằng: “họ hết sức vui mừng, sấp mình thờ lạy” (Lc 2, 11) và tại đây quà tặng được trao đổi cho nhau: vàng, nhũ hương, mộc dược, được đổi lấy Giê-su, Quà tặng của lòng thương xót.
Dĩ nhiên, họ vui mừng vì đã đổi của hèn lấy của cực trọng là Nước Trời, là Giê-su, Chúa cả trời đất: sấp mình thờ lạy biểu đạt lòng tin, còn vui mừng là hiệu quả của đức tin ấy. Cuộc đời các vị vua này đã biến đổi hoàn toàn vì đã chọn đường khác trở về quê hương mình. Đường khác ở đây là đường đức tin, được củng cố bằng đức cậy, được nuôi dưỡng bằng đức mến.
Thưa anh chị em,
Ánh sao dẫn đường là kế hoạch Thiên Chúa dùng để bày tỏ tình yêu và lòng thương xót cho những ai thành tâm, thiện chí kiếm tìm Ngài. Đây là đường của yêu thương, của phục vụ trong lòng thương xót.
Do vậy, những ai muốn dấn bước trên nẻo đường này, đều phải đóng đinh thân xác mình cùng những đam mê vào thập giá và nhất quyết sống theo sự hướng dẫn của Thánh Thần.
Lễ hiển linh là lời mời gọi chúng ta bước theo ánh sao và trở nên ánh sao để Phúc Âm hóa bản thân và tân Phúc Âm hóa con người trong thế giới hôm nay.
Sứ mệnh thật lớn lao, đầy gian nan thử thách, nhưng nhiều niềm vui và ơn an ủi của Thánh Thần.
Bước theo ánh sao là triệt để sống hoán cải, loại bỏ nếp sống xưa kia, nếp sống của con người cũ, chiều theo những đam mê, lầm lạc và nhiều thứ tệ đoan.
Bước theo ánh sao là mặc lấy con người mới trong sự công chính, bình an, đạo đức, hiền lành, khiêm tốn, chu toàn mọi bổn phận thuộc đấng bậc mình.
Trở nên ánh sao là mang lấy tâm tư của Chúa Giê-su, là nối dài tình yêu và lòng thương xót của Giê-su trong chính cuộc đời mình.
Cụ thể: biết chấp nhận và tha thứ cho nhau, sẵn sàng chia sẻ tùy khả năng với những anh chị em nghèo khó, bất hạnh, bệnh tật, gắn bó với nếp sống văn hóa toàn thể, cùng nhau bồi đắp nền văn minh tình thương.
Phải luôn nhắc mình: Tôi phải nên giống Chúa, phải yêu như Chúa yêu!
Chắc chắn, cuộc đời chúng ta sẽ là ánh sao đích thực hướng dẫn con người hội nhập vào gia đình Ba Ngôi, cội nguồn của “tình yêu và sự sống” thật.
Xin Chúa chúc lành cho cộng đoàn mừng lễ Chúa hiển linh hôm nay. Amen.
48.Tầm nhìn Ba Vua--Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng
Với cái nhìn thầm lặng, không ồn ào, không khoa trương, không gợn chút mưu toan tính toán, nhưng sâu lắng, công chính, chân thật, đầy nội tâm, đầy thiện chí và là tầm nhìn của cả một tấm lòng, ba con người (quen gọi là ba vua, ba đạo sĩ, ba nhà chiêm tinh…) đã nhìn xuyên thấu ánh sao, đã nhận ra bên kia ánh sao là Chân Lý. Nhờ tầm nhìn xuyên thấu như thế, ba vua đã nhận ra Ơn Cứu Độ của mình: Hài Nhi Giêsu – Thiên Chúa làm người.
Còn Thiên Chúa, Đấng hằng yêu thương con người, không làm ba vua thất vọng. Người ban cho những kẻ có tấm lòng chân thật được gặp mình.
Bởi Thiên Chúa là Đấng chân thật. Ai để lòng mình trào dâng sự thật, người đó sẽ được Thiên Chúa nhìn nhận và cho sống trong tình yêu vô cùng của Thiên Chúa.
Tầm nhìn của ba vua tỏa chiếu sự đơn sơ, không kiêu sa, không cầu kỳ, nhưng tỏa chiếu hạnh phúc và dạt dào thánh ân. Tôi gọi tầm nhìn hiệu quả của ba vua là tầm nhìn xuyên thấu.
I. NHÌN XUYÊN THẤU.
Chỉ một mình tông đồ Matthêu tường thuật biến cố lạ thường: Ngay sau ngày Chúa Giêsu giáng sinh, bầu trời phương đông xuất hiện một vì sao lạ.
Chắc không thiếu những người nhìn thấy ngôi sao. Nhưng chỉ có ba vua nhìn xuyên thấu ánh sao để không dừng lại nơi ánh sao, không chỉ ngồi nhìn ánh sao, không bằng lòng với việc nghiêng cứu ánh sao, mà khám phá nơi cái lạ của một ánh sao vừa xuất hiện để thấy điềm trời, để nhận biết chân lý, để khám phá tình yêu của Đấng Tạo Thành.
Nhờ tầm nhìn xuyên thấu thụ tạo, để nhận ra Đấng Tạo Thành ấy, đã dẫn ba vua về gặp Chúa, gặp Đấng cứu độ mình.
Từ nay, cuộc đời của họ sẽ thay đổi. Bởi từ nay, họ đã mang Chúa nơi tâm tư. Hình ảnh Chúa Hài nhi chiếm ngự đầy ắp trong cõi lòng. Từ nay, họ sẽ ấp ủ hình ảnh của Chúa, và sống cho Chúa trọn đời. Từ nay, họ sống với Chúa và Chúa trong họ.
Biết bao nhiêu biến cố, biết bao nhiêu tai ương xảy ra trên thế giới, trong vũ trụ qua từng thời gian sống của nhân loại. Học nơi Ba Vua để chúng ta cũng có một tầm nhìn, nhìn xuyên thầu mà nhận ra sự quan phòng của Chúa, nhận ra bàn tay Chúa luôn hiện diện trên mọi hoàn cảnh, trên toàn thế giới tạo thành.
II. HỌC NƠI TẦM NHÌN BA VUA.
Có những giọt nước mắt làm cho cả thế giới phải giật mình. Giọt nước mắt rớt xuống trong yêu thương và trong tinh thần trách nhiệm của những nhà lãnh đạo cao cấp, càng làm rúng động thế giới.
Ngày lễ Hiển Linh, chiêm ngắm tầm nhìn xuyên thấu của ba vua, tôi muốn gọi những giọt nước mắt như thế là “Nước mắt Yeb Sano”.
Hãy soi chiếu những giọt nước mắt trong những cơn khốn cùng vào tầm nhìn ba vua, để rút ra bài học cho chính chúng ta.
1. Nước mắt Yeb Sano.
Tháng 11.2013, tại Hội nghị Công ước Khung của Liên Hiệp quốc (COP) về biến đổi khí hậu lần thứ 19, Ngoại trưởng Yeb Sano, trưởng đoàn đàm phán Philipines đã có bài phát biểu kêu gọi hành động khẩn cấp để ngăn chặn một cơn bão tàn khốc khác có thể ập tới, giống như siêu bão Haiyan ập vào Philipines chỉ một tuần trước khi diễn ra Hội nghị này.
Bài phát biểu của nhà Ngoại trưởng thật cảm động:
“…Đến thời khắc này, chúng tôi vẫn không thể chắc chắn về toàn bộ mức độ của sự tàn phá vì thông tin được cập nhật một cách nhỏ giọt tới khốn khổ bởi điện và viễn thông đã bị cắt đứt, có thể còn lâu mới được khôi phục. Đánh giá ban đầu cho thấy Haiyan đã để lại những tổn thất khủng khiếp chưa từng có trong tiền lệ, không thể hình dung nổi và vô cùng tàn khốc, ảnh hưởng tới 2/3 Philippines, khiến khoảng một nửa triệu người mất nhà, cảnh tượng gợi nhớ tới hậu quả của sóng thần đối với vùng đất lớn, lầy lội, đầy bùn, ngập mảnh vỡ vụn và xác người chết.
Theo ước tính từ vệ tinh, Cơ quan Khí tượng và Hải dương quốc gia Hoa Kỳ cũng ước tính rằng Haiyan đã có áp suất tối thiểu khoảng 860 mbar, còn Trung tâm Cảnh báo bão chung ước tính Haiyan có thể đã đạt tới sức gió 315 km/h và gió giật 378 km/h, khiến nó trở thành cơn bão mạnh nhất trong lịch sử hiện đại mà chúng ta từng biết.
Bất chấp những nỗ lực to lớn mà nước tôi đã chuẩn bị để đối đầu với sự tấn công dữ dội của cơn bão quái vật này thì bão cũng quá mạnh, và mặc dù Philippines một quốc gia quen thuộc với bão thì siêu bão Haiyan không giống với bất cứ thứ gì chúng tôi trải qua trước đây, hay có lẽ là không giống với điều gì mà bất cứ quốc gia nào từng trải qua.
Hình ảnh sau cơn bão cũng dần dần từng bước chậm chạp trở nên rõ ràng hơn. Sức tàn phá thật khủng khiếp. Và như thể điều đó còn chưa đủ, một cơn bão khác đang hình thành trong vùng nước ấm ở bờ tây Thái Dình Dương. Tôi rùng mình khi nghĩ tới một cơn bão khác sẽ tấn công chính những nơi mà người dân thậm chí còn chưa thể gượng sức để đứng dậy nổi…”.
Trong nước mắt, ông Sano bất ngờ tuyên bố (không được soạn trước), ông sẽ tuyệt thực trong quá trình diễn ra hội nghị cho đến khi đạt được những bước tiến có ý nghĩa. Ông nói:
“Để đoàn kết với đồng bào tôi, những người đang đấu tranh để tìm thức ăn ở nhà và với em trai tôi, người chưa ăn gì suốt ba ngày qua, với tất cả lòng kính trọng, thưa ông Chủ tịch, và tôi không hề có ý không tôn trọng sự hiếu khách tử tế của ông, bây giờ tôi sẽ bắt đầu tình nguyện tuyệt thực vì khí hậu. Điều đó có nghĩa là tôi sẽ tự nguyện không ăn trong COP này cho đến khi thấy được một kết quả có ý nghĩa.”.
Những lời đau xót và tha thiết của ông Yeb Sano đã làm các tham dự viên nói riêng, và cả thế giới chết lặn.
Nỗi đau về thiên tai chỉ là một phần trong vô vàn nỗi đau mà nhân loại phải gánh chịu. Nó có thể là cơn diệt chủng những dân tộc, những nhóm người yếu thế; có thể là sự lừa lọc trên diễn đàn bằng những tuyên bố, những lời hứa “có cánh” trong những cuộc chạy đua quyền lực; có thể là sự làm ngơ trước cái nghèo, cái khốn khổ của đồng loại, miễn mình an thân trong sự giàu có của mình của quốc gia mình; có thể là sự tìm triệt hạ kẻ yếu bằng sức mạnh của mình, của quốc gia mình; sử dụng một cách vô trách nhiệm đối với tài nguyên, khoán sản, miễn sao chính mình, phe nhóm của mình, quốc gia của mình vinh thân phì da…
2. Bài học của chúng ta.
Với tất cả những gì đang diễn ra trên thế giới và xung quanh, chúng ta cần có tầm nhìn xuyên thấu để tìm cho mình bài học.
- Đó là bài học mà Ba Vua đã dạy chúng ta: Nhận ra Chúa hiện diện nơi thụ tạo, để yêu con người hơn, yêu thiên nhiên hơn, yêu chính công trình hoàn vũ mà Chúa đã tạo dựng và ban tặng ta.
- Nhìn xuyên thấu những nỗi đau biết bao nhiêu người, biết bao nhiêu quốc gia, dân tộc phải rên siết, giúp chúng ta có trách nhiệm với nhau, quý trọng sự sống, quý trọng quyền được hạnh phúc của người khác, của quốc gia khác.
- Có nhiều lãnh vực không thuộc khả năng giải quyết của ta, như những gì vừa nhắc đến, bởi nó thuộc tầm vóc quốc tế. Nhưng từ những gì căn bản nhất, gần cận cuộc sống của ta nhất, đến những gì đặc biệt lớn lao, đều cần sự quan tâm, hơn thế, cần sự trăn trở và thao thức của từng cá nhân, để mỗi cá nhân ý thức, thì mới có ý thức của cả cộng đồng.
- Chúng ta là Kitô hữu, những thăng trầm của cuộc sống mình, của đồng loại quanh mình sẽ trở thành lời cầu nguyện, sẽ là hiến lễ dâng lên Chúa để kết hợp những rên siết của nhân loại với thánh giá Chúa Kitô, mong được Chúa thánh hóa và ban ơn tha tội cho mọi con người.
- Dù có nhiều hoàn cảnh không thể do cá nhân giải quyết, nhưng vẫn cần ta lưu ý nó, để khi có thể, ta phải lên tiếng, phải làm tất cả sao cho cuộc sống thêm hạnh phúc, con người bớt đớn đau.
- Dù có nhiều vấn đề không thuộc cá nhân ta, nhưng ta cần biết đến mọi đau khổ của con người, để trong trách nhiệm, trong giới hạn của mình, ta tránh bớt được bao nhiêu hay bấy nhiêu, những tổn thương mà cá nhân có thể gây ra trên cuộc sống của mình, của đồng loại và của mọi thụ tạo.
Tóm lại: Nơi toàn thể thụ tạo, dấu ấn của Thiên Chúa không bao giờ tàn phai. Hãy nhận ra Chúa, nhận ra tình yêu và bàn tay quan phòng của Chúa nơi thụ tạo để yêu mến Chúa hơn, yêu thụ tạo của Chúa hơn.
Thực tập thật nhiều tầm nhìn xuyên thấu, để luôn luôn nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa nơi thụ tạo. Hãy tôn trọng thụ tạo, vì đó là cách ta nâng niu sự sống của mình. Yêu thụ tạo, yêu sự sống cũng là một nghĩa vụ thờ phượng mà ta phải có đối với Thiên Chúa, Đấng tạo thành ta và tạo thành vũ trụ.
49.Ánh sao lạ--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
Tin mừng Mt 2:1-12: Các đạo sĩ lên đường và đã gặp Chúa vì lòng họ khao khát. Khao khát chân lý nên đêm đêm họ không ngừng quan sát bầu trời tìm kiếm ánh sao, vì thế cả một bầu trời bao la, chỉ một ánh sao lạ xuất hiện...
Một cuộc thăm dò trên tuần báo Newsweek ngày 5 tháng 12 năm 2004, với câu hỏi:
“Thế giới hôm nay sẽ trở nên tốt hay xấu hơn nếu không có Chúa Giêsu”
Và được kết quả như sau:
- 61% cho rằng thế giới hôm nay sẽ xấu xa và tan tác hơn nếu như không có Chúa Giêsu.
- 47% nói rằng sẽ có nhiều cuộc chiến tương tàn hơn, nếu như Chúa Giêsu không tồn tại trên thế giới này.
- 63% nói rằng sẽ có ít lòng nhân ái hơn.
- 58% cho rằng sẽ có ít lòng khoan dung hơn nếu như không có Chúa Giêsu.
- 59% cho biết hạnh phúc cá nhân sẽ bị mất đi
- 38% tin rằng sẽ có nhiều sự chia rẽ về tôn giáo nếu như thế giới này không có Chúa Giêsu.
- 26% cho rằng thế giới cũng giống như vậy nếu có hay không có Chúa Giêsu.[1]
Tại sao lại có những kết quả trái ngược như thế?
Trở lại lịch sử, chúng ta thấy: Ngay khi Chúa Giêsu mới giáng sinh thì đã có ba nhóm người tiêu biểu cho ba thái độ của nhân loại đối với Chúa Giêsu trong suốt dòng lịch sử. Ba thái độ đó là:
1. Con người và phản ứng của Hêrôđê
Hêrôđê có một cá tính kinh khủng, ông đa nghi một cách điên khùng, ông là người luôn luôn ngờ vực, càng về già ông càng đa nghi đến độ có kẻ đã gọi ông là “ông già sát nhân”. Ông nghi ai là đối thủ tranh chấp quyền hành thì người ấy liền bị loại trừ ngay. Ông đã giết vợ là Marianne cùng mẹ nàng là Alexandra. Con cả là Antipater và hai con trai khác là Alexander và Aristobulus cũng bị ông sát hại luôn. Hoàng đế Rôma là Augustus đã cay đắng nói rằng: “Làm con heo của Hêrôđê còn an toàn hơn làm con trai ông ta” (câu nói bằng tiếng Hy Lạp dí dỏm hơn, vì tiếng Hy Lạp hus là con heo và huios là con trai). Bản chất man rợ của Hêrôđê còn được thấy rõ hơn trong những việc chuẩn bị của ông trước khi qua đời. Khi được bảy mươi tuổi biết mình sắp chết, ông rút về thành Giêrikhô, thành xinh đẹp nhất của ông, rồi truyền lệnh bắt một số người nổi danh nhất trong thành Giêrusalem, vu khống rồi hạ ngục. Ông truyền lệnh phải giết hết những người ấy khi ông lâm chung, vì ông biết rằng khi ông chết chẳng ai thèm than khóc, nên nhất định phải làm sao cho có nước mắt đổ ra lúc ông chết.
Chính vì ganh ghét và thù địch, Hêrôđê sợ Hài Nhi sẽ can thiệp vào quyền thế và ảnh hưởng của mình, nên đã quyết tâm tiêu diệt Hài Nhi.
Ngày nay cũng vậy, vẫn còn nhiều người quyết tâm tiêu diệt Chúa Giêsu, vì họ chỉ thấy Ngài là người xen vào đời sống họ, không cho họ làm theo điều mình thích nên họ muốn giết Ngài. Người nào chỉ ước ao làm theo ý thích của riêng mình thì không bao giờ cần Chúa Giêsu và luôn tìm cách loại trừ Ngài.
2. Phản ứng của các tư tế và các Kinh Sư
Họ hoàn toàn dửng dưng, đối với họ chẳng có chuyện gì thay đổi. Họ chỉ quan tâm đến lễ nghi tế tự trong đền thờ và những thảo luận về luật lệ, đến nỗi họ hoàn toàn không để ý gì đến Chúa Giêsu. Ngài chẳng có nghĩa gì đối với họ. Ngày nay vẫn còn những người chỉ quan tâm đến việc riêng của mình đến nỗi Chúa Giêsu trở thành vô nghĩa, không đáng quan tâm.
3. Con người và phản ứng của các nhà đạo sĩ
Danh hiệu của những người này là Magi, một chữ rất khó dịch. Theo Herodotus (1,101,132), Magi nguyên là một chi phái Mêđi. Người Mêđi là một phần dân thuộc đế quốc Ba Tư. Họ cố gắng lật đổ người Ba Tư đem chính quyền về cho người Mêđi. Mưu toan thất bại, từ đó người Magi từ bỏ mọi tham vọng quyền hành và trở nên chi phái tư tế. Các Magi đối với dân Ba Tư cũng giống như các thầy Lêvi đối với dân Israel. Họ trở thành thầy dạy và giáo dục cho các vua Ba Tư. Tại Ba Tư không được dâng lễ vật nếu không có một Magi hiện diện, họ là người của sự thánh thiện và khôn ngoan. Những người Magi này rất giỏi về triết học, y khoa và khoa học tự nhiên.
Với thái độ thành tâm thờ phượng, họ ao ước được đặt nơi chân Chúa Giêsu những tặng phẩm cao quý nhất. Khi một người đã nhận ra tình yêu của Thiên Chúa trong Chúa Giêsu thì họ sẽ đắm chìm trong sự kinh ngạc, yêu mến và ca tụng Ngài.[2]
Quả thế, các đạo sĩ đã gặp Chúa vì họ đã lên đường. Dù không biết đến lời tiên, không biết đến lời hứa, không thuộc Thánh Kinh, nhưng khi thấy ngôi sao lạ, họ đã lên đường ngay tức khắc. Lên đường nói lên thái độ ngoan ngoãn tuân theo ơn Chúa soi sáng. Lên đường nói lên thái độ dấn thân. Lên đường nói lên lòng cương quyết đi tìm. Lên đường là chấp nhận gian khổ để đạt được điều mơ ước.
Các đạo sĩ lên đường và đã gặp Chúa vì lòng họ khao khát. Khao khát chân lý nên đêm đêm họ không ngừng quan sát bầu trời tìm kiếm ánh sao, vì thế cả một bầu trời bao la, chỉ một ánh sao lạ xuất hiện, họ đã nhận ra. Khao khát chân lý nên khi Chúa vừa tỏ mình qua dấu hiệu ngôi sao, họ đã vội vã theo sát dấu ánh sao đi tìm. Khao khát gặp Chúa nên khi ánh sao vụt biến mất, họ đã không nản lòng, quyết tâm dò hỏi cho được.
Các đạo sĩ đã gặp Chúa vì tâm hồn họ đơn sơ thành thực. Đi tìm Chúa chứ không tìm bản thân. Đi tìm Chúa để thỏa lòng khao khát chân lý chứ không để thỏa mãn những tham vọng đen tối. Đi tìm Chúa để thờ lạy Chúa chứ không vì lợi lộc cá nhân. Với tâm hồn đơn sơ, họ đã nhận ra ý Chúa, dù ý Chúa chỉ nhẹ nhàng qua một ánh sao. Với tâm hồn đơn sơ, họ đã nhận ra chính Chúa, dù Chúa có ẩn thân dưới hình dáng một em bé yếu ớt nghèo nàn, trong khung cảnh rất tồi tàn của chuồng bò hôi hám.[3]
Nhìn vào các đạo sĩ, nếu chúng ta khao khát và quyết tâm tìm Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ gặp được Chúa trong cuộc đời chúng ta. Amen.
----------------------
[1] Báo Công Giáo và dân tộc, số 1487-1488, trg. 53
[2] William Barclay
[3] TGM Giuse Ngô Quang Kiệt, Lễ Hiển Linh
50.Lễ Hiển Linh--‘Tin Mừng Chúa Nhật’
Khi ngôi sao chiếu sáng trên bầu trời Bêlem, là lúc tình trạng dân Israel như thầy tư tế già Dacaria phát biểu “ngồi trong nơi tối tăm và trong bóng tử thần” (Lc 1,79). Tuyển dân của Chúa mà còn như thế huống nữa là dân ngoại. Thánh Phaolô phác hoạ tình trạng thuộc linh của dân ngoại: “Thuở ấy anh em không có Đức Kitô, không được hưởng đặc quyền của Israel, xa lạ với các Giao Ước dựa trên lời hứa của Thiên Chúa, không có niềm hy vọng, không có Thiên Chúa ở trần gian này” (Ep 2,12). Tóm lại, lúc Đấng Kitô giáng thế là lúc thế gian suy đồi cùng cực, đang đứng trên bờ vực thẳm, thì ngay khi ấy ngôi sao xuất hiện ở Đông Phuơng đem theo lời hứa vĩ đại Tin Mừng.
1. Ngôi sao của hy vọng.
Trong quan niệm của người Đông Phương, sự xuất hiện của một vì sao trên trời có quan hệ tới một nhân vật dưới trần, nhất là các vị đế vương, người ta vẫn gọi đó là ngôi sao chiếu mạng. Các nhà chiêm tinh Đông Phương đều tin như vậy, vì thế nảy sinh hẳn một môn học chiêm tinh với các khoa tử vi. Lịch sử Trung quốc ghi lại truyện hoàng đế Quang Vũ đời Đông Hán rất kính trọng ông Nghiêm Tử Lăng, sai sứ đi nhiều lần mới mời được ông vào triều, nhà vua tiếp đón ông rất mực kính trọng và thân thiết, giữ ông lại trong cung đến đêm và nằm chung một giường. Nửa đêm, Tử Lăng gác một chân lên bụng nhà vua, nhà vua không nỡ làm ông thức giấc, cứ để yên cho ông làm như vậy. Sáng hôm sau liền có quan thái sử tâu lên vua rằng hồi hôm xem điềm trời, thấy sao của khách xâm phạm sao nhà vua rất gấp, xin hoàng thượng nên để ý. Vua Quang Vũ cả cười nói rằng: “Ta biết rồi, việc này xảy ra chỉ vì ta và Tử Lăng cùng nằm chung một giường, và chân của Tử Lăng gác lên bụng ta mà thôi, các khanh chớ lo!”. Đối với các nhà bác học Đông Phương, sự xuất hiện của một ngôi sao như thế là thực hiện một mong ước từ lâu, vì khi nghiên cứu các tinh tú, họ nhận thức rằng ngôi sao là đại biểu cho “ý muốn vĩnh cửu”. Quan niệm của họ cũng tương hợp với lời tiên tri của Kinh Thánh: “Một vì sao hiện ra từ Giacóp, một vương trượng trỗi dậy từ Israel” (Ds 24,17). Vì vậy khi họ thấy ngôi sao xuất hiện, liền biết thời giờ đã đến, nên chẳng ngần ngại lặn lội đường xa rủ nhau đi tìm cho thấy “vì sao xuất hiện từ Gia cóp” hầu tìm ra con đường sáng cho mình trong một thế giới u minh.
2. Ngôi sao thần bí
Khi nghe được tin này Hêrôđê hết hồn, với tầm óc hiểm độc và quỷ quyệt nhà vua coi đây là một điều rất dữ. Sự xuất hiện của ngôi sao cũng như sự xuất hiện những chữ viết trên bức tường của cung điện vua Benxatxa ngày xưa, dự báo sự diệt vong của nhà vua. Điều đó có nghĩa là sẽ có một vua Giuđa thay cho mình ngồi trên ngai vàng. Do đó nhà vua phải sử dụng đến mọi thủ đoạn ác độc để diệt trừ hậu hoạ khi còn trong trứng nước. Nhưng mưu độc của loài người làm sao phá hỏng được kế hoạch của Thiên Chúa. Con Trẻ mà Hêrôđê tìm giết lại là Con Trẻ thoát khỏi tai hoạ.
Một điều lạ kỳ ấy là ngôi sao một đàng là hy vọng, là niềm vui lớn cho mọi người thiện tâm, lại nên điềm dữ báo nguy cho hạng người tàn ác. Ý nghĩa cao đẹp của nó được những tấm lòng ích kỷ tham lam nhận ra. Sự xuất hiện của ngôi sao báo hiệu ngày tàn của họ đã tới!
3. Ngôi sao dẫn đường.
Ngôi sao trên bầu trời Bêlem đã dẫn các đạo sĩ Đông Phương trải qua cuộc lữ hành xa lạ, đầy khó khăn nguy hiểm đã đem các ông tới nơi Con Trẻ mà các ông muốn kiếm tìm. Chính ngôi sao đã bảo tồn cho họ niềm hy vọng, ước nguyện, đức tin mà Thiên Chúa đã mặc khải cho. Cũng chính ngôi sao đã cho họ thấy Con Trẻ cũng là vua của họ để họ chuẩn bị lễ vật triều kính Ngài.
Ngôi sao trên bầu trời Bêlem vẫn luôn là ngọn đuốc soi đường cho tất cả những ai cần tìm chân lý, muốn được cứu rỗi linh hồn, và mong nhận được lòng yêu thương vĩ đại của Thiên Chúa.
4. Ngôi sao của vui mừng.
“Khi thấy ngôi sao dừng lại chỗ Con Trẻ, các hiền sĩ hết sức vui mừng”. Vì đối tượng mà họ khổ công tìm kiếm nay đã thấy rồi, lòng khao khát chân lý với nếp sống quang minh chính trực nay đã được hoàn toàn thoả mãn. Niềm vui của họ là điềm báo ân phúc lớn lao sau này Chúa dành cho các môn đệ: “Thầy nói điều đó với anh em để niềm vui của Thầy ở cùng anh em và niềm vui của anh em nên trọn vẹn ” (Ga 15,11).
Trong những năm sau khi Chúa Giêsu giáng thế, sự vui mừng mà các hiền sĩ Đông Phương đã được hưởng, thì bao nhiêu người khác cũng được huởng nhờ ngôi sao chỉ đường dẫn lối. Lòng khao khát chân lý của họ cũng được đền đáp vì họ nhận được lòng yêu thương vĩ đại của Thiên Chúa dành cho mọi người thiện tâm.
Và nếu ngôi sao trên bầu trời Bêlem này như ngọn đuốc soi đường dẫn các hiền sĩ tới mục tiêu, thì cái thế giới mà chúng ta đang sống đây mới tìm ra được ý nghĩa mới, vui mừng và hy vọng mới thay vì tuyệt vọng và sầu thảm của những ngày cũ.
51.Ngôi sao rạng ngời--Lm. Vinh Sơn
Vào một đêm mưa bão tố, ngọn hải đăng tại một hòn đảo bị mất điện nên không thể chiếu sáng. Người phụ trách hải đăng vội vã đốt một cây nến nhỏ và cầm cây nến theo đường cầu thang leo lên sân thượng để đốt đèn lên. Bấy giờ có người đi xuống cầu thang lên tiếng liền hỏi anh rằng:
- Ông làm gì với cây đèn cầy nhỏ bé này?
Anh trả lời:
- Tôi mang cây đèn lên sân thượng để chiếu sáng giúp tầu bè từ ngoài khơi biết đường trở về và cập bến an tòan.
Người kia thắc mắc:
- Nhưng cây nến nhỏ bé thế này thì tầu bè ở tận ngoài khơi làm sao nhìn thấy ánh sáng được?
Người phụ trách trả lời:
- Bây giờ tôi chỉ cần nó đừng bị gió thổi tắt là được. Còn các chuyện khác thì đã có lo liệu tính toán.
Khi cả hai leo lên đến nơi, thì người phụ trách đã dùng cây nến châm lửa vào cái đèn lồng, trong giây lát ánh sáng từ cây đèn lồng rực lên chiếu tỏa ra chung quanh. Chiếc đèn lồng này đã được thiết kế để khi cần có thể xử dụng thay bóng đèn điện. Ánh sáng của nó có sức chiếu ra tận ngoài khơi, hầu giúp tầu bè dễ dàng định hướng di chuyển qua lại hay quay về cập bến an toàn.
Ánh sáng của một vì sao lạ đã tỏa sáng trên bầu Trời dẫn đưa ba nhà đạo sĩ từ phương Đông xa xôi đến bên Hài Nhi Giêsu để thờ lạy Ngài…
Theo Sách Dân số (x. Ds 24,17) sẽ có ngày “ngôi sao nhà Giacóp” sẽ mọc lên và tỏa sáng. Dân Do Thái ngay ở thế kỷ I đã áp dụng lời tiên tri này cho Đấng Mêsia – Đấng Cứu Thế đến cứu dân Chúa đã được tuyển chọn. Hình ảnh tượng trưng đó rất phù hợp với câu chuyện về các đạo sĩ dân ngoại từ phương Đông xa xăm đến thờ lạy Hài Nhi. Lời tiên báo về ngôi sao cho dân Israel không phải do một Ngôn sứ Israel nói ra mà bởi Balaam, một phù thủy dân ngoại, truyền thống vẫn coi ông ta như là kẻ giải mộng huyền bí, nghĩa là một “đạo sĩ”.
Chính Hài nhi là ngôi sao cứu tinh của nhân loại như chính tên Giêsu nghĩa là Đấng Cứu Chuộc. Hài nhi là Đấng Messia, là Chúa Kitô, Ngài là "ánh sáng chiếu soi muôn dân" mà Ngôn sứ Isaia loan báo:“người đi trong bóng tối đã trông thấy xuất hiện một ánh sáng lớn lao, bởi vì một Hài nhi đã sinh ra cho chúng ta” (Is 9,1-5). Ánh sáng đó dẫn đưa mọi dân nước quy tụ thờ phượng Thiên Chúa như Ngôn sứ Isaia tiên đoán các dân các nước sẽ đến để thờ phượng Thiên Chúa của Israel: "Lạc đà dần dần che rợp đất, lạc đà Mađian và Êpha; dân Sơ-Va hết thảy kéo lại, mang vàng với trầm hương, và cất cao lời ca tụng Đức Chúa" (Is 60,6).
Ba nhà đạo sĩ đã theo ánh sao đến Giêrusalem thì mất ánh sao, nên các nhà Hiền Triết phương Đông vào triều đình hỏi: “ Đức Vua dân Do Thái mới sinh đang ở đâu”, làm vua Hêrôđê bối rối lo sợ (x. Mt 2,3) khi triệu tập các tư tế cùng các kinh sư, những nhà thông thái đã nghiên cứu và giải thích Thánh Kinh,cho biết Đấng Cứu Thế sinh ra ở Bê-lem (x. Mt 2,4-6); dù biết rõ Chúa Kitô xuất hiện nhưng họ cũng hoàn toàn dửng dưng. Thái độ của họ coi như là không có Hài Nhi – Đấng Cứu Thế - được sinh ra. Riêng Vua Hêrôđê, sử sách làm chứng rằng vào những năm cuối đời, ông nghi ngờ mọi người có ý đồ lật đổ ông, vì thế mà ông không ngại ra tay tàn sát tất cả những ai mà ông nghi là sắp làm hại ông, kể cả những người trong gia đình. Dẫu biết rằng Hài Nhi đến từ Thiên Chúa, nhưng với tính cách đa nghi sẵn có ông vẫn sợ Hài Nhi mới sinh sẽ lật đổ vương quyền của ông. Cái sợ đó đã làm ông mất hết lương tri, gây nên tội ác vô cùng to lớn: quyết tâm tìm giết con trẻ Giêsu bằng cách “ Sai người đi giết tất cả các con trẻ ở Bê-lem và toàn vùng lân cận từ hai tuổi trở xuống ” (Mt 2,16) sau khi các Đạo sĩ quay về không trở lại với nha vua theo lời phủ dụ của ông..
Nhà Vua, các bậc thông thái và dân chúng Giêrusalem tượng trưng cho người Do Thái được Thiên Chúa tuyển chọn làm dân riêng nhưng lại khước từ ơn cứu độ Đức Kitô ban tặng, còn Lương dân được đại diện bởi các nhà chiêm tinh thì đón nhận và hết lòng tìm kiếm để biểu lộ sự tôn thờ cung kính. Dân ngoại khi tin vào Hài Nhi đã thay thế người Do Thái bỏ trống trong lòng sứ điệp của Thiên Chúa, khi họ không chịu tin vào Lời của Ngài: nghe và đón nhận Đấng Cứu Thế. Dân ngoại tin tập họp từ khắp nơi sẽ là dân Israel mới của thời đại cuối cùng, được kêu gọi chia sẻ hạnh phúc của cuộc sống tương lai, chính Chúa Giêsu đã nói"Người ta sẽ từ đông sang tây đến dự tiệc trong nước Chúa"(Lc 13, 29)
Rời khỏi triều đình, các nhà hiền triết phương Đông lại thấy ánh sao tỏa sáng dẫn đường đến tận Bêlem. Khi đến bên Hài nhi các nhà chiêm tinh sấp mình thờ lạy (= bái lạy: cc. 2.8.11): “Bái lạy” hay “sấp mình thờ lạy” (proskyneô) là hành vi sấp mình trên nền nhà để tôn thờ thần thánh hoặc những người có địa vị cao, chẳng hạn với các bậc quân vương. Tác giả Tin mừng Matthêu hầu như chỉ dùng động từ này để diễn tả lòng tôn kính đối với Đức Giêsu bởi những người khẩn cầu tín thác vào Ngài (x. Mt 8,2; 9,18; 15,25; x. 20,20) và bởi các môn đệ tôn kính Thầy (x. Mt 14,33: liên kết với việc tuyên xưng niềm tin vào Con Thiên Chúa), đặc biệt thái độ thờ lạy dành cho Đấng Phục Sinh (x. Mt 28,9.17), như thế hành động tôn kính bái lạy của các hiền triết Phương Đông loan báo về thân phận Đấng Cứu Thế sẽ chịu chết và Phục sinh trong Hài nhi để cho muôn dân tìm kiếm tôn thờ.
Các Đạo sĩ đã lấy vàng, nhũ hương, mộc dược dâng tiến Hài Nhi. Truyền thống cổ xưa cho thấy: sau khi bái lạy một vị vua, các vị khách thường có việc dâng lễ vật (x. St 43,26; 1 Sm 10,27; 1 V 10,2; Tv 72,10). Ba thứ lễ vật mà các đạo sĩ tiến dâng xứng đáng dành cho bậc quân vương như Kinh Thánh đã nói: vàng trong Thánh Vịnh (x. Tv 72,15); vàng và nhũ hương của ngôn sứ Isaia (x. Is 60,6 ); xức mộc dược cho vua (x. Tv 45,8), hay nhũ hương và mộc dược trong Diễm ca (x. Dc 3,6). Theo truyền thống của các Giáo Phụ nối tiếp truyền thống các tông đồ coi các lễ vật này là những biểu tượng về vương quyền (vàng), thần tính (nhũ hương) và việc mai táng (mộc dược) của Đức Giêsu.
Các nhà đạo sĩ tìm kiếm Thiên Chúa nhờ ánh sao tỏa trên bầu Trời, chúng ta được mời tỏa sáng đức tin và tình yêu để anh em lương dân nhận biết Thiên Chúa như Đức Giêsu nói:”Sự sáng của các con cũng hãy tỏa sáng trước mặt mọi người” và thánh Phaolô mời gọi: "Giữa một thế hệ sa đọa, anh em hãy tỏa sáng như những vì sao trên vòm trời" (Pl 2,15).
Tuy nhiên ánh sáng của ngọn đèn chúng ta chỉ leo lét, yếu ớt, Chúng ta chỉ là những vì sao sáng khi chúng ta để mọc lên trong lòng chúng ta (x. 2Pr 1,19) ngôi sao mai là chính Đức Kitô (x.Kh 2,28).
Thật thế như Ngôn sứ Isaia kêu mời:
"Hãy đứng lên, hãy tỏa sáng ra" (x. Is 60,1-6).
52.Ánh sao soi đường--Lm. Anmai, CSsR
Từ ngàn xưa, Do Thái đã được Thiên Chúa yêu thương, tuyển chọn làm dân riêng của Ngài. Do Thái như là trưởng tử trong gia đình của Thiên Chúa. Do Thái được yêu thương, được nâng niu, được chiều chuộng một cách hết sức đặc biệt. Trong ý định ngàn xưa, Thiên Chúa muốn Do Thái được vẻ vang, được vinh quang. Vinh quang dành cho dân riêng - dân được chọn ấy - hôm nay được nhắc nơi ngôn sứ Iasia:
Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi.
Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi.
Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân;
còn trên ngươi Đức Chúa như bình minh chiếu toả,
vinh quang Người xuất hiện trên ngươi.
Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi,
vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước.
Đưa mắt nhìn tứ phía mà xem,
tất cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi:
con trai ngươi từ phương xa tới,
con gái ngươi được ẵm bên hông.
Trước cảnh đó, mặt mày ngươi rạng rỡ,
lòng ngươi rạo rực, vui như mở cờ,
vì nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả,
của cải muôn dân nước sẽ tràn đến với ngươi.
Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Ma-đi-an và Ê-pha:
tất cả những người từ Sơ-va kéo đến,
đều mang theo vàng với trầm hương,
và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa. (Is 60, 1-60)
Thế nhưng, vì bội nghĩa vong ân, nhiều lần nhiều lúc Thiên Chúa đã oán phạt dân riêng mà Ngài đã chọn. Phạt thì phạt, giận thì giận nhưng Thiên Chúa không đành cắt đứt nghĩa tình của Ngài. Và rồi, bằng nhiều hình thức, nhiều cách, Thiên Chúa đã tỏ lộ tình yêu ấy.
Trong cuộc sống thường nhật, cái gì mà lộ ra trước mắt người ta mà người ta không mất công để tìm kiếm thì những thứ ấy dường như không có giá trị và người ta cũng không trân trọng. Với những gì mà người ta cất công tìm kiếm, khi có được thì thái độ, tâm tình của họ khác hẳn. Họ sẽ hết sức vui mừng, mất ăn mất ngủ với những gì mà họ có được sau những ngày dài vất vả.
Đơn giản nhất là sau khi miệt mài lao động, sau khi miệt mài vất vả thì người thợ lặn mới có thể tìm ra được viên ngọc quý. Ngọc quý nằm sâu tít dưới đáy biển chứ không nằm lộ thiên để người ta nhặt về làm của riêng cho mình.
Thiên Chúa cũng vậy, Thiên Chúa có đó, Thiên Chúa đã mạc khải về Ngài nhưng chỉ những ai thành tâm tìm kiếm mới được gặp Ngài.
Có những lúc Thiên Chúa xuất hiện chỗ này hoặc chỗ khác, có những lúc Thiên Chúa ẩn mình. Có những lúc Thiên Chúa nói trực tiếp, có những lúc Thiên Chúa nói gián tiếp. Có những lúc người ta cảm giác như Thiên Chúa đi đâu đâu rồi nhưng thực sự Thiên Chúa vẫn có đó trong thế gian này.
Việc Con Thiên Chúa cất tiếng khóc chào đời để cứu độ nhân loại cũng vậy, đâu phải một ngày một bữa mà Giêsu xuống thế gian. Một chặng đường dài của lịch sử, Con Một Thiên Chúa đã được tiên báo qua miệng của các ngôn sứ, qua những người trung gian của Thiên Chúa.
Trở về với cái bối cảnh Bêlem ngày nào, chúng ta sẽ thấy rõ chuyện này.
Đấng Mêsia được loan báo trong Cựu Ước. Sự xuất hiện của Đấng Mêsia đã làm đảo lộn cả thế giới và rồi mỗi người một cách nghĩ, mỗi người một cách kiếm tìm. Chỉ biết là Mêsia đến nhưng không biết đến ngày nào và đến ở nơi đâu. Các ngôn sứ hình như có nói về cái mảnh đất nhỏ bé Bêlem nhưng mấy người chịu tin vì Bêlem là cái chi chi để mà Mêsia đến.
Bêlem ngày nào đó cách đây hơn hai ngàn năm được cái vinh hạnh là đón Đấng Cứu Thế trần gian cất tiếng khóc chào đời. Phải nói rằng Bêlem chẳng là gì cả so với những vùng đất tên tuổi. Bêlem nhỏ bé đến độ chẳng ai thèm để ý đến, thèm ngó ngàng đến ấy vậy mà lần này Bêlem được nổi tiếng.
Cũng để thoả mãn trí tò mò, để an tâm hơn với cái lời đồn đại vua dân Do Thái sẽ xuất hiện thì vua dân Do Thái hỏi các thượng tế và kinh sư. Tưởng các thượng tế và kinh sư không biết chuyện này nhưng các thượng tế và kinh sư trả lời một cách mau mắn câu hỏi của nhà vua về chuyện Đấng Cứu Độ trần gian cất tiếng khóc chào đời: "Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: "Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời." Trả lời quá nhanh với câu hỏi hóc búa! Cũng đúng thôi vì những kinh sư và thượng tế là những người nghiên cứu rất kỹ về Đấng Mêsia và ngong ngóng Đấng Mêsia ngự đến.
Vốn dĩ kém lòng tin cộng với sự lo lắng về ngai vàng của mình Hêrôđê bí mật mời các nhà chiêm tinh đến hỏi cho ăn chắc. Ông không thể tin được Mêsia đến ngay cái thời của ông và sợ nhất là vua dân Do Thái chào đời ấy sẽ làm cho ông mất ngai thế là ông làm ra cái vẻ tốt bụng, ông đã mời các nhà chiêm tinh đến để hỏi và còn làm bộ làm tịch nếu như gặp "Người" thì chỉ cho vua biết để vua "bái lạy".
Sau khi rời khỏi dinh thự Hêrôđê thì ánh chỉ đường cho những nhà chiêm tinh lại xuất hiện để chỉ đường cho các ông. Nhờ ánh sao soi đường các ông đã đến được nơi cần đến. Các ông đã gặp Hài Nhi và thân mẫu của Hài Nhi. Kèm theo lời chào, lời thăm hỏi đó là lễ vật dâng lên Hài Nhi.
Một lần nữa, các nhà chiêm tinh được báo cho biết con đường để đi về sau khi gặp Hài Nhi. Các nhà chiêm tinh phải đi về bằng con đường khác chứ không được đi về bằng cái con đường cũ mà các ông đã đi.
Các nhà chiêm tinh, Thánh Kinh không nhắc đến là người nào, dân tộc nào nhưng có lẽ họ là dân ngoại. Họ không theo tôn giáo nhưng họ say mê nghiên cứu vũ trụ, họ nghiên cứu về cuộc đời. Căn cứ vào những gì được báo mộng, căn cứ vào những diễn tiến trong cuộc đời và họ đi tìm Đấng Cứu Độ trần gian. Khởi đầu chắc có lẽ cũng do tò mò, do muốn tìm hiểu sự thật xem có đúng với những gì được tiên báo không nhưng mọi việc diễn ra trước mắt của các ông không có gì có thể chối cãi được. Hài Nhi Giêsu và Mẹ Ngài sờ sờ bằng xương bằng thịt hẳn hoi. Thấy vậy và ắt hẳn các ông đã tin.
Mầu nhiệm Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa Các nay không còn ở trong sách vở, ở trong lý thuyết, ở trong những điều tiên báo nữa mà là sự thật. Sự thật về Ngôi Hai đã được mạc khải nhờ Tin Mừng. Sự thật ấy, việc mạc khải ấy đòi hỏi sự cộng tác, sự tìm tòi của con người. Phần Thiên Chúa, Thiên Chúa từ ngàn xưa đã có và hiện tại cũng đang có. Phần con người, con người phải mất công đi tìm để đáp lại tiếng của Ngài.
Thánh Phaolô trong thư của Ngài gửi cho giáo đoàn Êphêsô mới nhắc nhớ chúng ta điều ấy: "Anh em đã được nghe biết về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. Người đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Ki-tô như tôi vừa trình bày vắn tắt trên đây. Anh em đọc thì có thể thấy rõ tôi am hiểu mầu nhiệm Đức Ki-tô thế nào. Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông Đồ và ngôn sứ của Người. Mầu nhiệm đó là: trong Đức Ki-tô Giê-su và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa". Ep 3, 2-3a5.6
Qua mọi thời, Thiên Chúa vẫn dùng Thần Khí và các thánh Tông Đồ và các ngôn sứ để mạc khải về Ngài. Chúng ta được may mắn hơn dân Do Thái ngày xưa là ngày nay chúng ta được mạc khải quá rõ ràng về Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn hiện ra bằng cách này hay cách khác, bằng ánh sao này hay ánh sao khác trong cuộc đời chúng ta là những biến cố trong cuộc đời chúng ta. Chuyện quan trọng là chúng ta có nhận ra ánh sao soi đường ấy hay không mà thôi.
Giữa biết bao nhiêu con người thời của Hêrôđê, thời của các thượng tế và kinh sư, thời của các nhà chiêm tinh và của biết bao nhiêu người Do Thái thì chỉ có những nhà chiêm tinh đã được nhận thấy Thiên Chúa một cách nhãn tiền. Ơn phúc ấy đòi hỏi sự góp công, sự tìm tòi và nhờ ơn Chúa.
Chúng ta xin ơn Chúa cho chúng ta cũng biết bắt chước như các nhà chiêm tinh để chúng ta có một lòng say mê tìm kiếm Thiên Chúa như họ. Và, trong cái hành trình tìm kiếm Thiên Chúa ấy có những lúc khó khăn là bị mất dấu do mất ánh sao lạ hay là sự đe doạ của những Hêrôđê thời đại nhưng nếu vững tâm và vững tin thì sẽ được gặp.
Và khi gặp Ánh Sao Soi Đường, khi có Ánh Sao Soi Đường trong cuộc đời của ta, ta cũng nên chăng bắt chước những nhà chiêm tinh là chia sẻ Ánh Sao mà chúng ta bắt gặp trong cuộc đời của anh chị em đồng loại chung quanh ta. Thiên Chúa vẫn muốn, vẫn mời gọi mỗi người chúng ta hãy là một ánh sao nho nhỏ để cho người khác được xem thấy. Thiên Chúa vẫn muốn chúng ta chỉ cho mọi người thấy Ánh Sao Soi Đường đích thực chính là Ngài.
Nguyện xin Chúa Giêsu là Ánh Sao Soi Đường chỉ đường dẫn lối cho mỗi người chúng ta luôn đến và ở lại với mỗi người chúng ta để chúng ta không bao giờ phải lạc bước giữa cuộc đời đầy phong ba bão táp này và cũng nguyện xin Ánh Sao Soi Đường ban ơn cho chúng ta để chúng ta được chiêm ngắm vinh quang mà Thiên Chúa hứa cho những ai Ngài yêu thương, Ngài ân thưởng.
53.Lễ vật dâng Chúa--Lm. Phạm Quốc Hưng, CSsR
"Và vào nhà, họ thấy Hài Nhi cùng Maria mẹ Ngài, và họ phục mình xuống yết bái Ngài; đoạn mở tráp báu họ dâng Ngài lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược"
Một trong những câu tiếng Anh mà tôi thích hơn cả là "You can give without loving, but you can"t love without giving". Tạm dịch là "Bạn có thể cho mà không yêu, nhưng bạn không thể yêu mà không cho".
Mùa Giáng sinh là mùa chúng ta thấy rõ sự thật chứa đựng trong câu nói trên. Thật vậy, trong những ngày này người ta thường quan tâm đến việc mua sắm quà cáp tặng nhau. Các món quà tặng nhau có thể khác biệt từ những thứ đơn sơ như một lá thư, một cánh thiệp, một cú điện thoại chúc lễ, một phong bì với mấy tờ giấy bạc, một chiếc áo ấm, một chiếc quần tay hay đến những thứ mắc tiền như chiếc nhẫn kim cương, hoặc một chiếc xe mới. Giá trị vật chất của các món quà có thể khác nhau, nhưng mục đích của chúng thì giống nhau: chúng bày tỏ sự lưu tâm thương mến quý trọng của người cho dành cho người nhận.
Nếu việc trao tặng không phát xuất từ tình thương mà chỉ cốt để thỏa mãn các đòi hỏi của sự công bình, để cầu cạnh trục lợi hay dụ dỗ, thì người ta không gọi tặng phẩm là quà tặng nữa, nhưng là tiền công, là của hối lộ hay miếng mồi đặt bẩy.
Tương quan giữa Thiên Chúa và con người là tương quan yêu thương. Hơn nữa, Thiên Chúa chính là Tình Thương. Mọi việc Người làm cho nhân loại đều phát xuất từ tình thương vô biên của Người dành cho họ. Vì vậy, mọi sự con người đón nhận từ Thiên Chúa đều là những quà tặng tình thương và nhằm mục đích giúp chúng ta bước sâu hơn vào liên hệ yêu thương với Người.
Trong tất cả những quà tặng Thiên Chúa trao ban cho con người, Chúa Giêsu chính là món quà vượt trên tất cả. Ngài chính là món quà tự thân của Thiên Chúa dành cho nhân loại, nghĩa là Thiên Chúa đã trao ban chính mình Người cho nhân loại nơi Chúa Giêsu, Thiên Chúa làm người, như thánh Gioan viết: "Quả Thiên Chúa đã yêu thương thế gian như thế (đó) đến đỗi thí ban Người Con Một, ngõ hầu phàm ai tin vào Ngài thì khỏi phải hư đi, nhưng được có sự sống đời đời" (Jn 3:16).
Đó chính là một trong những ý nghĩa sâu xa nhất của lễ Giáng sinh.
Tình thương chỉ có thể đáp trả bằng tình thương. Nếu trong lễ Giáng sinh, chúng ta đã có dịp chiêm ngắm tình thương tuyệt vời của Thiên Chúa dành cho loài người nơi Chúa Hài Đồng, thì hôm nay - lễ Hiển linh - chúng ta có dịp học hỏi với ba nhà Đạo sĩ mà ta thường gọi là ba Vua về sự đáp trả của con người trước quà tặng tự thân của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu và những lễ vật mà Thiên Chúa muốn đón nhận từ con người chúng ta.
Theo Tin mừng thánh Matthêô, lễ vật ba Đạo sĩ dâng lên Chúa là vàng, nhũ hương và mộc dược. Vàng là quý kim và là biểu tượng của hàng vương giả; nhũ hương là loại hương dùng trong việc thờ phượng Thiên Chúa và các bậc thần linh; và mộc dược là thước dùng trong việc tẩm liệm người chết.
Qua việc dâng tặng Chúa Hài Nhi vàng, nhũ hương và mộc dược, các Đạo sĩ đã thay mặt Hội thánh để tuyên xưng Chúa Giêsu là Vua vũ trụ và là Vua Tình yêu, Đấng đáng được muôn loài suy phục và đáng được ngự trị trong tâm hồn từng người; Ngài chính là Thiên Chúa Chí Tôn đáng được mọi người thờ lạy với tình yêu tuyệt đối; và Ngài đã vì yêu thương chúng ta nên đã mắc lấy bản tính và thân phận con người của ta, nên giống chúng ta mọi sự chỉ trừ tội lỗi, và tột đỉnh của tình yêu hiệp nhất Thiên Chúa dành cho chúng ta nơi Chúa Giêsu chính là việc Ngài đã chia sẻ sự chết của ta.
Vàng, nhủ hương và mộc dược ở đây cho ta thấy địa vị siêu việt của Chúa Giêsu. Đồng thời, những lễ vật này cũng nhắc chúng ta nhớ đến phẩm giá cao trọng tuyệt vời của ơn gọi làm người Kitô hữu. Vì khi chịu phép Thánh tẩy, chúng ta đã được tháp nhập vào Chúa Kitô, được trở nên chi thể của Thân thể nhiệm mầu của Chúa là Hội thánh. Chúng ta được Chúa Kitô cho chia sẻ chính địa vị vương đế, tư tế và ngôn sứ của Người. Thánh Phêrô đã gọi chúng ta là "dòng giống được lựa chọn, hàng tư tế hoàng vương nước thánh thiện, dân được chọn là sở hữu" của Chúa để ca ngợi vinh quang Chúa (1 Pet 2:9).
Qua việc mạc khải cho chúng ta biết những lễ vật ba Đạo sĩ - những người đại diện đầu tiên của Hội thánh - đã dâng tiến Chúa Hài đồng, Chúa muốn chúng ta cũng phải dâng tiến Chúa những lễ vật mà vàng, nhũ hương và mộc dược đã được chọn làm biểu tượng. Chúa muốn chúng ta dâng tiến Người vàng ròng là lòng mến yêu tuyệt đối dành cho Người qua việc sống trọn vẹn giới luật mến Chúa yêu người. Chúa muốn chúng ta dâng tiến Người nhũ hương của một đời sống được thấm nhuần bầu khí nguyện cầu mà đỉnh cao là hy lễ Thánh thể, khi chúng ta được nên một với Chúa Giêsu để dâng lên Thiên Chúa một động tác yêu mến tôn thờ cao trọng nhất. Chúa muốn chúng ta dâng tiến Chúa mộc dược của một sự bỏ mình liên lỉ qua những hy sinh to nhỏ trong cuộc sống hàng ngày như một sự nối dài của cái chết hy sinh trên thập tự của Chúa Giêsu, để qua đó chúng ta được chia xẻ vinh quang phục sinh của Người.
Với tinh thần yêu thương hiệp nhất, cầu nguyện và hy sinh, cuộc sống của chúng ta sẽ trở nên giống cuộc sống của chính Chúa Kitô và làm thành một lễ vật sống động đẹp lòng Chúa. Đây chính là điều thánh Phaolô từng kêu gọi các tín hữu tiên khởi phải nỗ lực thực hiện: "Vậy hỡi anh em, nhân vì lòng thương xót của Thiên Chúa, tôi khuyên anh em: hãy hiến dâng thân mình anh em làm lễ tế sống, thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là sự thờ phượng thiêng liêng của anh em. Đừng rập theo đời này, trái lại hãy canh tân lương trí, mà biến hình đổi dạng, làm sao cho anh em thẩm định được ý định Thiên Chúa là gì, thật là tốt lành, thú vị, trọn hảo" (Rm 12:1-2).
Chúng ta còn phải học với ba Đạo sĩ cách thức dâng tiến lễ vật lên Chúa Giêsu. Tin mừng hôm nay thuật rằng "Và vào nhà, họ thấy Hài Nhi cùng MariaMẹ Ngài, và họ phục mình xuống yết bái Ngài; đoạn mở tráp báu họ dâng Ngài lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược" (Mt 2:11).
Khi ấy, Chúa Giêsu là một Hài Nhi mới sinh còn hoàn toàn tùy thuộc sự chăm sóc của Mẹ Maria. Chúa chưa thể tự mình đón nhận lễ của ba Đạo sĩ. Người muốn Mẹ Maria thay Người đón nhận lễ vật của các ông. Về phía ba Đạo sĩ, khi gặp Chúa Hài Nhi và phục bái Người thì các ông luôn gặp Chúa và phục bái Người bên cạnh Mẹ và có lẽ Chúa Hài Nhi đang ở trong vòng tay Mẹ. Chắc chắn lúc ấy các lễ vật của ba Đạo sĩ chỉ được Chúa đón nhận bằng một cách duy nhất: qua tay Mẹ Maria!
Đó là lý do tại sao các tín hữu đích thực của Chúa Kitô qua mọi thời đại luôn noi gương ba Đạo sĩ và làm theo ý Chúa khi biết nhờ Mẹ Maria để đến với Chúa, để yêu mến Chúa, và để tận hiến cho Chúa.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ day chúng con luôn biết sống đẹp lòng Chúa bằng tinh thần yêu thương bác ái, cầu nguyện và hy sinh, để xứng đáng với ơn gọi làm con Chúa, là Kitô hữu của mình. Xin Mẹ giúp chúng con luôn biết nhờ Mẹ để đến với Chúa, để yêu mến Chúa, và tận hiến cho Chúa, như gương ba Đạo sĩ năm xưa. Amen.
54.Lễ Hiển Linh--Lm. Alfonso
Tin mừng Mt 2: 1 - 12: Hôm nay, Lễ Chúa Hiển Linh có nghĩa là lễ Chúa tỏ mình ra cho các dân tộc, mà các nhà đạo sĩ hay được quen gọi là ba vua, đại diện cho những người lương dân đã nhận ra Ánh sao lạ sự sinh hạ diệu kỳ của Hài Nhi, họ đã tìm đến để thờ lạy Chúa Kitô.
Suy niệm:
Bạn đã bao giờ có kinh nghiệm trong đêm thanh vắng, bạn ngước lên và ngắm nhìn những vì sao lung linh trong bầu trời thiên thanh chưa? Ánh sao không phải chỉ để làm vật trang trí ban đêm cho bầu trời bớt tẻ nhạt. Những ánh sao là những hành tinh tự phát sáng trong dãy ngân hà mà chúng ta có thể tạ ơn Chúa vì Ngài đã tạo dựng nên vũ trụ thật đẹp này cho con người. Những người đi biển còn được truyền lại cho nhau tập nhìn lên bầu trời, xem ánh sao Bắc Đẩu, sao Hôm, sao Mai… để định hướng. Vâng, ánh sao là vật chỉ đường thật quan trọng biết bao trong một cuộc hành trình. Truyền thống Hội Thánh còn dùng ngôi sao sáu cánh là biểu tượng cho vua Đavid, ngôi sao tám cánh là biểu tượng của Đức Mẹ Maria.
Ánh sao được tiên tri Balaam loan báo trong Sách Dân Số rằng “một vì sao xuất hiện từ Giuđêa, một vương trượng trỗi dậy từ Israel” (Ds 24,17). Hôm nay, Lễ Chúa Hiển Linh có nghĩa là lễ Chúa tỏ mình ra cho các dân tộc, mà các nhà đạo sĩ hay được quen gọi là ba vua, đại diện cho những người lương dân đã nhận ra Ánh sao lạ sự sinh hạ diệu kỳ của Hài Nhi, họ đã tìm đến để thờ lạy Chúa Kitô. Như vậy, Chúa Giêsu giáng thế để cứu độ không chỉ cho riêng người tín hữu Do Thái mà còn cho cả lương dân, không chỉ cho những người am hiểu đạo thánh mà còn cho những người bé mọn thất học chăn cừu chăn dê. Chúa Giêsu là Đấng Cứu Chuộc muôn dân để không ai thấy mình bị loại trừ khỏi ơn cứu chuộc.
Muốn tìm đến Chúa, người tín hữu trước tiên cần phải quay về Kinh Thánh làm trung tâm, làm điểm tựa. Các thượng tế và luật sĩ tại kinh thành Giêrusalem được Hêrôđê triệu tập, để hỏi họ xem họ có biết trong truyền thống Kinh Thánh có cho biết nơi mà Đức Kitô sinh hạ không? Họ tâu nhà vua rằng: “Tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, vì đó là lời do Đấng Tiên tri đã chép: Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta”. Như vậy nhờ Kinh Thánh, lẽ ra họ đã có thể nhận ra Đấng Cứu Chuộc.
Ngoài Kinh Thánh ra, chúng ta cũng có thể tìm gặp Chúa nơi những dấu lạ xung quanh, mà ba nhà đạo sĩ đã tìm gặp qua ánh sao. Trong cuộc sống thường ngày chúng ta, nếu để ý, chúng ta sẽ nhận ra rất nhiều dấu lạ, có những dấu mà chúng ta quen đến nỗi vô tình không nhận ra, dấu lạ Chúa cho chúng ta có thể thức dậy sau một đêm ngủ bình an, dấu lạ Chúa ban cho chúng ta hết ơn lành này đến ơn lành khác dẫu chúng ta là con người mỏng giòn và yếu đuối còn nhiều bất xứng và tội lỗi.
Nhưng với một số bạn trẻ lại để đời mình chạy theo những “ngôi sao” là diễn viên, ca sĩ, hay cầu thủ… khiến họ trở nên những fans cuồn, ăn mặc như diễn viên, kiểu tóc như cầu thủ, sẵn sàng đợi ca sĩ hàng giờ đồng hồ ở sân bay, mất ăn mất ngủ chỉ để được gặp “ngôi sao của họ”. Nhưng họ có biết rằng bên cạnh đó cũng có những vì sao âm thầm như Anrê giúp đưa em mình là Phêrô đến với Chúa, Nathanael nhờ Philiphê mà anh trở nên môn đệ Chúa. Những vì sao ấy là những người lớn tuổi, là cha mẹ, là thầy cô, tu sĩ… đang nêu gương bằng đời sống, bằng lời chỉ bảo để chúng ta cũng có thể tìm gặp Chúa. Vậy đến lượt chúng ta cũng hãy trở nên vì sao ở giữa thế gian bằng một lối sống tốt lành, trở nên nhân chứng của Chúa giữa trần gian.
Một bức hoạ cổ có hình hài nhi Giêsu trong lòng mẹ và ba Vua từ phương Ðông đã mang tới vàng, nhũ hương và mộc dược đang quỳ đã bao lần được vẽ trên tranh, từ loại thô sơ cho đến những bức huy hoàng lộng lẫy trong các giáo đường. Vị vua đầu tiên là Gaspar, dâng vàng trong một cái khay. Quỳ sau ông là Melchior, mặc bộ đồ nghi lễ nghiêm trọng đang xông hương trước trẻ thơ Giêsu. Sau cùng là ông Balthazar người da đen xứ Ấn Ðộ hay Saba gì đó?
Nhưng có một giai thoại xưa kể rằng ba Vua từ xa tới Bethléem, vào hang đá để dâng của lễ trước Trẻ Thơ nhưng chưa làm Trẻ Thơ cười. Ba Vua đứng dậy cáo từ và trong lòng chưa được mãn nguyện. Khi bóng những con lạc đà của họ biến mất tận chân trời thì vị Vua thứ tư xuất hiện. Từ vùng Ba Tư, ông đã chỗi dậy và từ bỏ tất cả: kho rượu quí lâu đời, dòng nước mát bên nhà, người vợ hiền thân yêu, ông mang theo ba viên ngọc quí để dâng cho vị Vua mới sinh mà ông đã thấy vì sao một buổi tối nọ. Ông đã tìm ra nơi này nhưng quá trễ. Tới tay không, không còn những viên ngọc quí nữa, ông từ từ bước vào hang đá. Trời đã xế chiều, thánh Giuse xắp xếp cỏ khô cho ban tối, Mẹ Maria bế Trẻ Thơ Giêsu trong lòng. Mẹ khẽ hát ru con ngủ. Vị Vua xứ Ba Tư hơi do dự, rồi ông tiến đến và quì xuống trước hai mẹ con và bắt đầu kể:
Thưa Ngài! Tôi đến sau các vị Vua khác đã tới trước chúc tụng Ngài và dâng củu lễ. Tôi cũng có của lễ để dâng Ngài, đó là ba viên ngọc rất quí từ biển Ba Tư, nhưng bây giờ tôi không còn chúng nữa. Khi tôi dừng nghỉ chân ở một quán trọ, tôi thấy một ông già râu tóc đã bạc trắng đang lên cơn sốt nằm gần lò sưởi để tìm hơi nóng. Ông ta làm tôi nhớ đến cha tôi. Ông không có một đồng xu nào để nhờ thầy thuốc cứu chữa, vì thế tôi đã lấy ra một viên ngọc và đưa cho chủ quán để kêu thầy thuốc săn sóc cho ông già; nếu ông ta chết thì dùng viên ngọc để lo chôn cất chu đáo cho ông.
Ngày hôm sau, tôi tiếp tục lên đường. Tôi thúc con lừa đi hết cỡ để đuổi kịp ba vị vua đi trước. Trong một thung lũng vắng, bỗng nhiên tôi nghe những tiếng kêu từ một bụi cây, một đám người đang vây quanh một người đàn bà trẻ để cướp bóc. Tôi biết không thể nào chống lại họ nên tôi phải lấy ra một viên ngọc cho đám vô lại để họ tha cho người thiếu nữ. Tôi tiếp tục lên đường, trong thắt lưng chỉ còn một viên ngọc, tôi sẽ tới Bethléem chiều nay để chúc mừng Ngài. Nhưng khi đi đến một ngôi làng nhỏ, tôi thấy lửa cháy khắp làng, bọn lính theo lệnh vua Hérôđê đang tìm giết tất cả những bé trai chưa đầy hai tuổi. Rồi một người lính đang cầm chân một đứa bé giơ lên, hắn nói với bà mẹ đứa bé rằng sẽ thả đứa bé vào ngọn lửa. Thấy bà mẹ van xin thống thiết, tôi đã lấy viên ngọc cuối cùng cho tên lính để hắn trả đứa bé lại cho người mẹ. Bà mẹ cám ơn tôi, rồi ôm lấy đứa bé và chạy trốn ngay. Giờ tôi tới đây chỉ với hai bàn tay trắng. Xin ngài thứ lỗi cho tôi ". Hang đá chìm trong thinh lặng sau khi vị Vua kể hết chuyện của ông. Thánh Giuse đã dọn cỏ xong và đang trầm ngâm suy nghĩ. Mẹ Maria ngắm nhìn Trẻ Thơ. Chúa Hài Ðồng nhìn vị Vua Ba Tư với khuôn mặt rạng rỡ và mỉm cười.
Là thành phần trong Giáo Hội, xin cho chúng con ý thức với sứ mạng phổ quát của mình, được mời gọi đáp ứng những khát vọng sâu xa của con người mọi nơi, mọi thời khi họ tìm kiếm Thiên Chúa bằng việc tốt con thực thi, bằng gương lành con thể hiện, bằng lối sống của một người Kitô hữu chứng danh. Lạy Chúa, xin cho những ai tìm gặp Chúa nơi con đều không thất vọng bao giờ. Amen.
55.Chúng tôi đến bái lạy Người--Lm. Trầm Phúc
“Vua Do Thái mới sinh ra ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương đông…” (Mt 2,2)
Một dấu lạ, một ngôi sao lạ xuất hiện, và dưới cặp mắt của ba nhà đạo sĩ này, là một điềm lành, vì theo cách hiểu của người thời bấy giờ, một vị vua cao cả đã ra đời.
Một con người xuất hiện trên trần gian, thì trên trời xuất hiện một vì sao. Đó là ngôi sao hộ mạng cho người đó. Ngôi sao càng sáng, càng to thì người đó sẽ là một vĩ nhân hay một vị vua.
Qua dấu hiệu của vì sao lạ, ba đạo sĩ đã lên đường tìm kiếm người được ngôi sao đó hộ mạng, vì chưa từng thấy một ngôi sao nào sáng và to như thế.
Cuộc tìm kiếm không kém gay go. Các ông phải vào Giêrusalem để hỏi thăm vì đến gần thành Giêrusalem, ngôi sao bất thần biến mất. Các ông tưởng rằng đã đến nơi rồi, vì Giêrusalem là kinh thành của Đức Đại Vương. Kinh Thánh Do Thái mà các ông đã nghiên cứu cũng nói đến “ngôi sao của Ngài sẽ mọc lên”.
Phải tìm kiếm thôi.
Dân thành Giêrusalem tò mò đổ xô ra xem phái đoàn của các đạo sĩ. Hỏi thăm thì không ai biết có vị vua nào mới sinh mà chỉ có ông vua già là Hêrôđê. Các đạo sĩ đến đền vua và hỏi thăm. Nghe điều đó, vua Hêrôđê giật mình vì ông rất sợ mất ngôi. Vua nào mới sinh?
Ông là người Do Thái và cũng biết Kinh Thánh. Ông cho mời các tiến sĩ ở Đền thờ đến và hỏi Đấng Kitô sinh ra ở đâu. Họ cho biết là tại Bêlem vì có lời chép rằng: “Phần ngươi, hỡi Bêlem, ngươi không phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israen dân Ta sẽ ra đời” (Mt 2,6). Vua Hêrôđê cho quí đạo sĩ biết và căn dặn: “Các khanh hãy đi điều tra cẩn thận về hài nhi và khi đã tìm được, các khanh hãy cho trẫm hay vì chính tôi cũng muốn đến triều bái Ngài”.
Yên lòng, các đạo sĩ ra đi, nhưng lạ thay! Ngôi sao lạ lại xuất hiện. Vui mừng khôn tả, các vị đã đi theo ngôi sao mãi đến Bêlem… và họ đã tìm được người họ muốn tìm.
Thay vì tìm được một em bé trong một lâu đài sang trọng, các ông chỉ tìm thấy một trẻ em nghèo nàn trong một căn nhà nhỏ, không có gì là sang trọng.
Nhưng họ đã tin. Tại sao họ có thể tin được em bé nghèo nàn tả tơi đó là một vị vua cao cả. Do dáng vẻ thông minh lạ thường của em chăng? Cũng có thể, nhưng theo thông thường thì không ai dám nhìn nhận em bé nghèo nàn đó là một vị vua mới ra đời, chỉ vài tháng tuổi.
Chúng ta phải nhận rằng Thiên Chúa đủ quyền phép để cho người ta nhận ra vinh quang của Ngài trong những dáng vẻ hết sức nhỏ hèn.
Các mục đồng, nhờ lời báo của các thiên thần thấy một em bé mới sinh nằm trong máng cỏ. Các đạo sĩ chỉ có ánh sao, nhưng họ đã nhận ra em bé nghèo nàn kia là một vị vua cao cả, vì nhờ một ánh sáng bên trong mà chúng ta gọi là đức tin.
Vì thế Giáo hội gọi biến cố này là biến cố hiển linh. Thiên Chúa đã tỏ vinh quang của Ngài qua một em bé nghèo nàn, cho các dân ngoại.
Thánh Phaolô đã dạy trong thư gởi giáo đoàn Rôma: “Con người có thể nhận biết Thiên Chúa qua tạo vật…” huống chi ở đây, ánh sao lạ cũng là một yếu tố hướng dẫn con người đến với Chúa.
Các vị đạo sĩ đã tin và để diễn tả niềm tin đó, họ tặng cho em bé những món quà quí họ đã dự trù mang theo, đó là vàng, nhủ hương và mộc dược. Người ta đã tìm ý nghĩa của các tặng vật ấy, nhưng điều đó không quan trọng. Giáo hội đọc thấy ý nghĩa của biến cố này như một sự tỏ hiện vinh quang Chúa cho các dân ngoại.
Chúa Giêsu đến trong dân Do Thái, nhưng không đến chỉ cho riêng dân Do Thái mà cho tất cả nhân loại. Ngài đến để cứu vớt toàn thể nhân loại mà chúng ta là một phần. Ngài đến cho mọi người, nhưng mấy người đã nhận ra Ngài? Thánh Gioan đã nói: “Người đã đến nhà Người, nhưng người thân không chấp nhận Người”.
Vì không ai chấp nhận Ngài, nên Ngài đành phải chọn hang đá Bêlem. Cả thế giới mênh mông của Ngài chỉ dành cho Ngài một máng cỏ.
Thế giới hôm nay cũng như hôm qua đã không tiếp nhận Ngài và hơn nữa lại loại trừ Ngài, xem như một vật cản không cho họ sống theo ý muốn của họ. Thế giới hôm nay mang tâm trạng của Hêrôđê, chỉ mong tiêu diệt Thiên Chúa để tự do cho mình làm bá chủ hoàn cầu. Nhiều người đã nói rằng rồi đây khoa học sẽ giải quyết tất cả mọi vấn đề, sẽ đem lại hạnh phúc cho con người mà không cần Thiên Chúa.
Trong thực trạng của thế giới hôm nay, không có vấn đề gì được giải quyết, và hạnh phúc vẫn vắng mặt. Chúa đem đến tình thương, nhưng con người từ chối để đi vào hận thù, bạo lực. Chúa đem bình an, nhưng con người chỉ muốn chiến tranh. Chúa đem sự sống và hạnh phúc, nhưng con người tìm đủ cách để tiêu diệt lẫn nhau và đưa nhau vào hố sâu của tuyệt vọng.
Sống trong một thế giới hỗn loạn và bất an, chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì những hồng ân Chúa ban. Dù cuộc sống không tha thứ cho chúng ta, dù bao nhiêu khó khăn vây bọc chúng ta, nhưng chúng ta không bi quan mà càng tin tưởng mãnh liệt hơn: “Chúa là nơi con nương ẩn… Chúa là thành lũy bảo vệ con… Chúa là mục tử chăn dắt con…” (Thánh vịnh).
Chúng ta được yêu thương che chở như thế, hãy làm bất cứ cái gì, với bất cứ giá nào giúp anh em chúng ta, những người chưa biết được tình thương của Chúa, để họ cũng được hưởng nhờ hồng ân như chúng ta.
Mọi Kitô hữu Hãy trở thành những vì sao, dù nhỏ thôi, nhưng có thể thấy được, để hướng anh em chúng ta đến với nguồn tình yêu.
“Ta là ánh sáng thế gian… Anh em là ánh sáng thế gian…”
Chúa Giêsu muốn như thế. Đừng để cho lời ấy mất đi giá trị của nó.
Ánh sáng là yêu thương, là khiêm tốn phục vụ, là quên mình để nghĩ đến kẻ khác. Ánh sáng này phải luôn chiếu sáng trong cuộc sống chúng ta, để “mọi người nhìn thấy những việc lành chúng con làm mà ngợi khen Cha chúng con ở trên trời”.
Chúng ta có sẵn sàng dấn thân sống yêu thương và phục vụ không?
Chúa Giêsu ở Bêlem, nhỏ hèn đã mời gọi ba đạo sĩ đến với Ngài, phần chúng ta hãy tiếp tục mời gọi mọi người đến với Ngài, bằng nhiều cách khác nhau. Mỗi người một hoàn cảnh, mỗi người một môi trường nhưng chúng ta chỉ có chung một sứ mệnh: làm cho Chúa được yêu thương hơn.
Chúng ta chinh phục thế giới, không phải bằng vũ khí, bạo lực, mà bằng tình yêu. Khí giới của chúng ta, xem ra chẳng là gì nhưng rất hiệu năng. Nhưng chúng ta có sử dụng thứ vũ khí đó không? Chúng ta không cần những loa phóng thanh cực mạnh, cũng không cần những mánh lới tuyên truyền hay những phương tiện quảng cáo rầm rộ. Chúng ta cứ âm thầm yêu thương.
Sau 20 thế kỷ, Kitô giáo chỉ có một phần tám nhân loại tin Chúa. Chúng ta còn một vùng đất mênh mông chưa nhận ra tình thương của Chúa, chúng ta có cảm thấy buồn không?
Tình Yêu đang bị loại trừ. Tương lai của thế giới mịt mù và hiểm họa của một cuộc tận diệt càng ngày càng rõ nét hơn.
Con người hôm nay đang bị chóa mắt vì những thành công kỹ thuật của mình mà quên mất tình yêu của em bé Bêlem đang vẫy gọi.
Chúng ta hãy đến ăn lấy tình yêu đang kêu mời. Chúa đã trở nên bánh cho chúng ta. Ngài đang mong chờ chúng ta dám ăn lấy Ngài để cùng với Ngài cứu vớt anh em chúng ta. Chúng ta hãy đến và hãy biến cuộc sống chúng ta thành lời yêu thương như Ngài.
56.Chúng tôi đến bái lạy Người--Lm. Trầm Phúc
Lễ Hiển Linh có thể gọi là lễ của ánh sáng, ngày kính nhớ việc Chúa cho dân ngoại nhìn thấy ánh sáng vinh quang của Ngài, và kêu gọi họ hiệp thông với Ngài.
Thánh Mat-thêu viết sách Tin Mừng của ngài cho những giáo dân người Do Thái mới theo đạo, để chứng minh cho họ biết rằng, Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế mà họ đang đợi trông. Vì thế, ngài nhắc đến những biến cố lịch sử của Cựu Ước và các tiên tri. Chúng ta không thể nói đến tất cả những biến cố lịch sử đó, nhưng chỉ căn cứ vào trình thuật của Thánh Sử để suy nghĩ về biến cố trọng đại này, để hiểu những gì Chúa muốn nói với chúng ta.
Trình thuật cho thấy ba nhà đạo sĩ mà chúng ta quen gọi là Ba Vua, cũng là những nhà chiêm tinh, là những người xem đường vận chuyển của ngôi sao tinh tú để đoán vận mạng của thế giới. Chúng ta cũng không thể biết ba đạo sĩ này là những người nào, có phải là vua không hay chỉ là những nhà khoa học thời bấy giờ, điều đó không quan trọng. Họ thuộc những sắc tộc khác nhau, cùng nhìn thấy một ngôi sao lạ đặc biệt hơn những ngôi sao họ thường thấy, và theo quan niệm thời bấy giờ, họ cho rằng, ngôi sao ấy là điềm báo cho biết một vị vua thật vĩ đại vừa mới ra đời.
Họ đã lên đường tìm kiếm vị vua lạ thường ấy. Đây là một chuyến đi mạo hiểm, lâu dài và không kém gian khổ. Nhưng họ vẫn ra đi, bất chấp mọi trở ngại có thể xảy ra.
Đi từ ba phương trời khác nhau, họ đã gặp nhau và cùng đi với nhau. Nhưng khi đến Giê-ru-sa-lem, vì sao biến mất. Họ tưởng rằng đã đến nơi. Hỏi thăm, không ai biết. Có lẽ có ai gợi ý và chỉ dẫn họ đến với vua Hê-rô-đê.
Họ nói: “Đức vua dân Do thái mới sinh hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương đông nên chúng tôi đến bái lạy Người”. Nghe nói thế, Hê-rô-đê bối rối. Có lẽ ông đã tự hỏi: ông vua nào? Hê-rô-đê là người Do Thái, nên ông biết Thánh Kinh; ông sực nhớ rằng: đúng thế, Đấng Cứu Thế phải đến, và Ngài đến rồi chăng? Ông cho mời các thầy thông luật và các tiến sĩ đến và hỏi riêng họ xem Đấng Cứu Thế sinh ra tại đâu? Họ nói: “Đấng Cứu Thế sẽ sinh hạ tại Bê-lem như lời Kinh Thánh đã viết”.
Hê-rô-đê bối rối, lo âu. Dân Giê-ru-sa-lem xôn xao. Giờ đây họ mới nghe nói đến Đấng Cứu Thế mà họ và cha ông họ đã trông đợi từ lâu, hôm nay đã đến. Nghe một tin trọng đại như thế, họ xôn xao rồi thôi, không mấy người nghĩ đến. Hê-rô-đê, ngược lại, ông chú ý đặt biệt đến ông vua mới sinh này và cặn kẽ hỏi thăm các nhà đạo sĩ đến ngày tháng ngôi sao đã mọc lên và bảo họ đến Bê-lem, điều tra cẩn thận về Hài Nhi và khi về sẽ cho ông hay. Ông sẽ đến bái lạy Hài Nhi mới sinh…, nhưng với cây dao găm…
Thánh Mat-thêu muốn cho chúng ta thấy sự vô tình của dân thành Giê-ru-sa-lem và thiện chí của những đạo sĩ.
Hê-rô-đê run sợ vì nghĩ rằng ngai vàng của ông sẽ bị đe dọa. Lịch sử đã cho thấy, vào cuối đời ông, vì sợ mất ngôi nên ông đã dìm triều đình trong biển máu.Thế gian là như thế. Không vua nào mà không sợ mất ngôi, và họ không ngại giết tất cả những ai có thể đe dọa ngai vàng.
Vua Giêsu không như thế. Ngài là Vua Tình Yêu, Ngài dám bỏ tất cả vinh quang thần linh của Ngài để đến cứu vớt chúng ta.
Cha Karl Rahner nói: “Lễ Giáng Sinh là lễ Thiên Chúa đến tìm con người, lễ Hiển Linh là lễ con người đi tìm Thiên Chúa”.
Chúng ta có tìm Chúa không?
Chúng ta đã có Chúa rồi thì phải, chúng ta không cần phải tìm kiếm gì nữa. Làm như Thiên Chúa là một kho tàng, chúng ta đã nắm trong tay rồi, cất kỹ ở đâu đó và chúng ta không phải tìm kiếm gì thêm.
Chúng ta giống như dân Do Thái, tự mãn vì họ đã có Lề Luật, Giao Ước, và xem như được bảo đảm về mọi mặt (như thánh Phao-lô đã nói với giáo đoàn Rô-ma). Nhưng họ không giữ được hồng ân đã ban cho họ.
Những người ở xa, không được biết Chúa lại ra công tìm kiếm và họ đã tìm thấy.
Chúng ta đã lãnh nhận đức tin như một hồng ân nhưng không.
“Đừng để muối lạt đi”. Đừng để ánh sáng trong tâm hồn chúng ta lụi tắt. Hãy nuôi ngọn lửa đức tin bằng sự trung thành, bằng cố gắng tìm kiếm.
Đức tin không phải là một bảo vật chúng ta có sẵn mà là một sự sống cần được nuôi dưỡng để lớn lên và trưởng thành. Phải luôn tỉnh thức để vâng theo những thúc bách của Chúa Thánh Thần, vì con người xác thịt của chúng ta nặng nề, ngại cố gắng, chỉ mong sống nhàn hạ dễ dàng.
Các Thượng tế Do thái và Pha-ri-sêu, là những người nằm lòng Kinh Thánh, vẫn không hay biết “giờ Chúa đến viếng thăm họ”. Họ đinh ninh rằng, họ là “con cái Ab-ra-ham, là dân thánh” của Chúa, họ không cần phải cố gắng hơn.
Con đường tìm Chúa không dễ. Ba nhà đạo sĩ cũng trãi qua nhiều thử thách, mất phương hướng khi ngôi sao biến mất, nhưng họ không dừng lại hoặc bỏ cuộc; trái lại, họ vẫn tiếp tục nghe theo tiếng thúc bách trong lòng. Và vì vậy, họ đã được ân thưởng. Những đạo sĩ này chính là của đầu mùa của dân ngoại đã tìm được ánh sáng.
Phải, Chúa Giêsu chính là Ánh Sáng thật, không lụi tàn theo thời gian. Ngài là Ánh Sáng ban sự sống. Giáo Hội đã chọn hai bài đọc Cựu Ước trong sách tiên tri I-sa-i-a để đọc trong lễ Giáng Sinh và lễ Hiển Linh, cho chúng ta thấy rõ hồng ân Chúa ban cho chúng ta trong mùa Giáng Sinh, qua người Con Một.
Trong lễ Giáng Sinh, Giáo Hội nói lên niềm vui Chúa ban: “Chúa đã ban cho họ chứa chan niềm hoan hỉ, đã tăng thêm nỗi vui mừng”. Tiên tri cho thấy thời thiên sai sẽ có hòa bình và tự do: không còn ách nô lệ, không còn chiến tranh, vì “một trẻ thơ đã chào đời để cứu chúng ta, một người Con đã được ban tặng cho chúng ta”. Trong lễ Hiển Linh, lời tiên tri nói đến vẻ huy hoàng rực rỡ của Giê-ru-sa-lem: “Giê-ru-sa-lem rực sáng lên “vì vinh quang của Chúa như bình minh chiếu tỏa trên ngươi. Chư dân sẽ đi về ánh sáng của ngươi. Mọi nguồn giàu sang phú túc sẽ tuôn tràn đến ngươi. Vàng với trầm hương sẽ được đem đến cho ngươi, và muôn dân sẽ ca tụng Chúa”. Giê-ru-sa-lem trần gian không còn hòn đá nào trên hòn đá nào”, nhưng Giê-ru-sa-lem mới sẽ thành nơi quy tụ của muôn dân. Giáo Hội chính là Giê-ru-sa-lem mới đó.
Điều này chứng tỏ ý định cứu độ của Chúa, không dành riêng cho một dân tộc hay cho một số người nào, mà cho tất cả mọi người không trừ ai. Thiên Chúa mời gọi mọi người vào niềm vui cứu độ của Ngài. Chúa sử dụng tất cả mọi tạo vật để chuyển tải sứ điệp của Người.
Đối với các đạo sĩ, Chúa dùng ngôi sao. Còn chúng ta? Chúng ta có thấy trên nền trời tâm hồn một ngôi sao nào không? Chúng ta có tìm kiếm không? Chúng ta có chú ý đến vì sao đang chiếu sáng trên đỉnh núi kia không? Đó là ngôi sao của Tình Yêu giáng thế. Hay chúng ta chỉ chú ý đến những vì sao trần thế: ngôi sao bóng đá, ngôi sao màn bạc, ngôi sao nhạc rock?...
Cầu xin cho một ngày nào đó, chúng ta nhận thấy có một vì sao nhỏ, nhưng khiến chúng ta quên hết mọi sự, để lại mọi sự sau lưng và lên đường tìm kiếm đó là em bé Bê-lem. “Em bé này rồi sẽ ra sao, vì tay Chúa đã đặt trên em?” Ngài là Ánh sáng chiếu soi trong đêm tối của trần gian, Ngài là Tình Yêu.
Tình yêu ư?
Đúng thế, bản thể Ngài là Tình Yêu. Em bé này sẽ tan xương nát thịt thôi, vì tình yêu là như thế. Vận mạng của em là như thế, không thể khác được. Thiên Chúa Tình Yêu đã trở thành em bé Tình Yêu. Nhiều người sẽ yêu em, nhưng cũng có nhiều người sẽ giết em, vì họ không thể là tình yêu.
Em bé Bê-lem đang mời gọi chúng ta, không chỉ chúng ta mà hết mọi người. Đến lượt chúng ta, hãy trở nên những vì sao nhỏ, nhỏ thôi, nhưng là những vì sao hướng dẫn mọi người quanh ta về với Thiên Chúa Tình Yêu. Muốn thế, chúng ta hãy yêu thương. Ánh sáng của tình yêu mới đủ sức chinh phục con người. Chúng ta không thể được cứu rỗi linh hồn một mình, vì Chúa không chỉ cứu chúng ta mà thôi. Ngài muốn muôn dân phải được dự vào bữa tiệc yêu thương của Ngài, và chúng ta chính là những người có nhiệm vụ đem mọi người vào bàn tiệc Vua Trời.
Em bé Bê-lem vẫn có mặt nơi đây, nơi bàn thờ này. Ngài đến vì chúng ta và cho chúng ta. Ngài là của ăn để chúng ta lớn lên và trưởng thành trong niềm tin, nhờ đó chúng ta đủ năng lực trở nên những người mời gọi những anh em khác vào ca tụng Chúa với chúng ta.
57.Chúng tôi đến bái lạy Người--Lm. Trầm Phúc
Biến cố các nhà đạo sĩ từ phương đông đến tìm Chúa tại Bêlem xem như một chuyện thần thoại. Có ngôi sao lạ hiện ra dẫn đường cho ba đạo sĩ, có thiên thần hiện ra báo mộng cho các ông tìm đường khác ra về. Thiên thần gọi Giuse đem Maria và Hài nhi trốn sang Ai Cập.
Xem như chuyện thần thoại, nhưng lại chuyện có thật và đến hôm nay, chưa có một nhà sử học nào chứng minh là một chuyện thần thoại. Những dấu lạ chứng minh rằng chính Thiên Chúa can thiệp trực tiếp vào thế giới để giúp con người biết được ý định của Thiên Chúa là muốn cứu vớt mọi người không trừ ai.
Những việc truyền tin cho Đức Mẹ, thiên thần đã đến báo tin. Thiên thần cũng báo tin cho các mục đồng khi Chúa sinh ra. Tất cả những sự can thiệp đó không là thần thoại mà là những cách thế Chúa dùng để giúp con người, để mang cho con người những hồng ân của Ngài.
Thiên Chúa đã dùng một hiện tượng tự nhiên để mạc khải cho các đạo sĩ biết mầu nhiệm ơn cứu độ, mầu nhiệm giấu kín đã được mạc khải. Mầu nhiệm đó là: Trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa”.
Giáo Hội mừng mầu nhiệm đó trong lễ hôm nay. Giáo Hội xem đó như một hồng ân lớn lao cho nhân loại và cũng là một trách nhiệm nặng nề cho Giáo Hội. Giáo Hội lãnh nhận Tin Mừng Chúa và cảm thấy có trách nhiệm loan truyền tin vui đó cho mọi người.
Khi xưa, tiên tri Isaia nhìn thấy vinh quang của Giêrusalem chói ngời, là hình bóng của Giáo Hội hôm nay. Giáo Hội tỏa sáng và các dân tộc đổ về Giáo Hội. Ngôi sao hiện ra cho các đạo sĩ thì hôm nay, ngôi sao đó chính là Giáo Hội, dẫn các dân tộc về với Chúa. Mỗi người tín hữu phải là một ngôi sao cho những người anh em khác chưa biết Chúa, một ngôi sao đủ sáng để hướng dẫn người khác tìm về với Chúa: “Anh em là ánh sáng thế gian”. Anh em hãy làm việc lành để mọi người nhìn thấy những việc lành của anh em mà ngợi khen Cha trên trời”. Chúng ta không cần phô trương, không cần quảng cáo. Việc lành tự nó tỏa sáng.
Chúng ta có thành ngôi sao chưa? Chúng ta có làm việc lành gì khiến người ta nhìn thấy được? Chúa không đòi hỏi chúng ta làm những gì lạ lùng, Ngài chỉ muốn chúng ta sống tốt, thật tốt: “Chúng con hãy nên trọn lành như Cha chúng con là Đấng trọnlành”. Tư tưởng, lời nói, việc làm của chúng ta phải tốt và thật tốt.
Các đạo sĩ đã cực khổ đi tìm một vị vua mà họ chỉ mới thấy loan báo qua một vì sao, chúng ta đã được biết Chúa, chúng ta có cảm thấy cần tìm Chúa nữa không? Hay chúng ta hãnh diện đã biết Chúa rồi, không cần tìm nữa? Chúng ta biết Chúa thực sự không hay chỉ biết mập mờ? Hãy tìm kiếm công phu như các đạo sĩ mới mong tìm gặp Ngài. Chúng ta hãy lên đường, hãy đi vào những nẻo đường của Kinh Thánh, của bí tích, của việc siêng năng nghe lời Chúa, của chiêm ngắm cầu nguyện. Đừng sợ khó khăn, nhọc mệt, chúng ta sẽ không tiếc công khó, vì khi tìm được Chúa, chúng ta sẽ thấy cuộc đời chúng ta tươi sáng như thế nào. Các thánh đã tìm Chúa và đã gặp được Ngài, và hôm nay các ngài đã được hạnh phúc với Ngài.
Đức tin không là một kho tàng chúng ta có sẵn, đem cất giữ trong cái tủ nào đó, mà là một cuộc tìm kiếm không thôi. Vì chúng ta không bao giờ biết Chúa trọn vẹn. Niềm tin như sự sống, cần được lớn lên, triển nở. Tiên tri Isaia đã bảo chúng ta: “Hãy tìm Chúa khi còn tìm được”. Đây là thời gian ân huệ cho chúng ta vì chúng ta còn dịp để tìm kiếm: “Ai tìm thì sẽ gặp”. Chúa đã nói như thế. Nhưng trước khi chúng ta tìm Chúa thì Chúa đã đến tìm chúng ta. Ngài đã đến trong thân phận con người, đã sống giữa chúng ta. Ngài vẫn luôn đi phía trước và chúng ta mãi chạy theo Ngài. Chúng ta không thể nắm bắt Chúa trong vòng tay, Ngài vẫn vượt xa tầm tay chúng ta, Ngài luôn mời gọi. Ngài nhẫn nại chờ đợi chúng ta.
Ba đạo sĩ đã công phu tìm kiếm và được mãn nguyện. Các ông đã tin và thờ lạy Chúa qua hình ảnh của một em bé nghèo. Và cử chỉ tôn thờ của họ là hiến dâng của lễ. Họ đã nhìn nhận em bé nghèo kia là vua, là Chúa. Họ đã dâng những gì quí báu nhất của họ. Họ đã ra về mang trong tim hình ảnh của một Thiên Chúa nghèo nàn, nhưng dễ thương. Chúa đến với chúng ta cũng dưới hình ảnh của em bé nghèo nàn yếu ớt đó. Chúng ta có nhận ra Ngài không? Chúng ta có cảm thấy rằng chúng ta hạnh phúc hơn họ không? Chúng ta có Chúa gần kề. Ngài tỏ hiện cho chúng ta không chỉ bằng hình ảnh của một em bé mà thôi, Ngài tỏ hiện cho chúng ta bằng muôn vạn hình thức, chúng ta có thấy được không? Vạn vật chung quanh chúng ta là một dấu hiệu của Ngài, mọi biến cố trong đời sống là một sứ điệp. Chúa luôn hiện diện: “ Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”. Ngài đến với chúng ta qua khuôn mặt của một người nào đó, qua một cuộc gặp gỡ bình thường với ai đó. Đức tin cho chúng ta một cái nhìn mới. Đức tin cho chúng ta thấy vũ trụ nầy đầy tràn Thiên Chúa, là dấu hiệu của tình yêu Chúa. Chúng ta đang sống trong bàn tay yêu thương của Chúa. Hạnh phúc biết bao cho ai nhìn thấy Chúa qua mọi tạo vật!
Nhưng đức tin cũng đưa chúng ta vào thử thách, vào đau khổ. Ba đạo sĩ tìm Chúa để tôn thờ. Vua Hêrôđê tìm Chúa với ý định khác, để tiêu diệt. Thế gian cũng biết Chúa, nhưng để tiêu diệt. Vua Hêrôđê đã bảo vệ ngai vàng bằng cách biến Bêlem thành một biển máu hài nhi vô tội. Chúng ta thuộc về Chúa. Sống, đối với người tin Chúa, là chấp nhận mọi đau khổ vì Chúa. Ngay từ khi mới sinh, Chúa Giêsu đã bị bách hại. Cuộc bách hại của Hêrôđê báo trước cái chết trên thập giá.
Sống đức tin là chia sẻ thân phận với Đấng đã thương chúng ta và đã liều mạng cho chúng ta. Ngài đã chia sẻ thân phận của chúng ta khi xuống thế làm người, mang lấy tội lỗi của con người, thì chúng ta, cũng đồng số phận với Ngài. Chúng ta phải bị bách hại. Sau nầy Chúa Giêsu cũng cảnh báo các tông đồ: “ Thầy sai chúng con như chiên giữa sói”.
Cuộc sống đức tin không là một cuộc sống nhàn hạ sung sướng mà là một cuộc liều mạng cho Chúa. Trong hơn hai mươi thế kỷ, Giáo Hội luôn là đối tượng cho người ta chống đối, không lúc nào mà không có bách hại. Hiện nay trên thế giới, những cuộc bách hại tàn khốc đang xảy ra trong nhiều nước. Satan không bao giờ ngơi nghỉ tàn phá Giáo Hội, bách hại những người theo Chúa. Những cuộc bách hại đẫm máu tuy nhiên, không nguy hại bằng những cuộc bách hại không đẫm máu. Người ta bách hại bằng cách tàn phá tất cả những giá trị đạo đức, bằng lối sống vô luân, bằng những phương tiện pháp lý đi ngược với phẩm giá con người như hợp thức hóa việc ly dị, cho tự do giết hại thai nhi, và nhiều hình thức khác. Chúa Giêsu đã bảo chúng ta: “Đừng sợ những người chỉ giết chết thân xác mà không giết được linh hồn”, nhưng hôm nay người ta giết cả xác lẩn hồn.
Sống đức tin hôm nay đòi hỏi can đảm không thua gì thời Giáo Hội sơ khai. Chúng ta không vì thế mà nản chí, vì những thử thách càng làm cho chúng ta mạnh mẽ hơn, sáng suốt hơn. Đức tin chúng ta được truy luyện hơn. Chúng ta vững tin vì Chúa xem ra yếu ớt như một trẻ thơ, nhưng lại là Chúa của lịch sử. Con người dù có làm gì đi nữa, cũng chỉ là bọt bèo, như con thú vật một ngày kia phải chết. Chúa cũng đã nói : “Chúng con đừng sợ, Thầy đã thắng thế gian”. Trong lúc sắp chịu chết trên thập giá, Ngài đã nói như thế. Và Ngài đã toàn thắng sự chết và vẫn sống.
Tin chính là bám vào Đấng đã toàn thắng sự chết, là đầu và là cuối của mọi sự. Chúng ta chỉ sợ một điều là chúng ta có thể phản bội tình yêu của Chúa.
Chúng ta cần được củng cố trong niềm tin, cần được nâng đỡ trong những cơn bách hại, vì chúng ta cũng chỉ là ngọn lau phất phơ trước gió thôi. Chúa biết điều đó và Ngài đã nói: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Ngài ở cùng chúng ta bằng một tấm bánh mà chúng ta được phép nuốt vào trong chúng ta. Tấm bánh nhỏ đó là nguồn sinh lực vô giá vì nó là tình yêu nguyên vẹn của Chúa chúng ta. Ngài không để chúng ta chiến đấu một mình. Ngài luôn đến với chúng ta và vì thế, Ngài đã biến những con người yếu ớt thành những con người can đảm phi thường. Chúa chúng ta vẫn là Thiên Chúa. Người ta tưởng Ngài chỉ là một bóng mờ nhưng những kẻ bách hại nằm xuống, Ngài vẫn còn đó. Tin vào Chúa, chúng ta bước tới, loan báo tình yêu của Ngài cho mọi tạo vật.
58.Lễ Chúa Hiển Linh--Lm. Trầm Phúc
Một đoàn lạc đà không biết từ đâu đến Giêrusalem. Những người ngồi trên lạc đà xem rất sang trọng. Dân Giêrusalem túa đến xem ngạc nhiên. Họ nghe hỏi: “Vua Do Thái mới sinh ở đâu, chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện ở trời Đông và chúng tôi đến bái lạy Người”. Thánh Matthêu kể lại: “Vua Hêrôđê bối rối và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao”. Tại sao lại bối rối và xôn xao?
Vua Hêrôđê là người Do Thái, ông đã từng biết Kinh Thánh nói gì về Đấng Cứu Thế. Cũng như bao nhiêu người Do Thái khác, ông nghĩ rằng, Đấng Cứu Thế là một vị vua oai quyền đáng sợ. Như Gioan Tẩy Giả cũng đã loan báo, Nước Trời sắp đến rồi, phải ăn năn thống hối để đón lấy. Ngài sẽ là một Vị Thẩm Phán chí công, Ngài sẽ xét xử mọi người, Ngài sàn sân lúa của Ngài và những người gian ác sẽ phải bị trừng phạt. Cái rìu đã đặt nơi thân cây rồi, cây nào không sinh hoa trái sẽ bị đốn đi. Đó là hình ảnh về Đấng Thiên Sai của dân Do Thái thời bấy giờ. Vua Hêrôđê làm sao không bối rối khi nghe Vị Vua Công Chính ấy đã sinh ra. Ông là một vị vua rất độc ác và rất sợ mất ngai vàng của mình. Ông đã giết cả những người thân khi ông nghi họ có thể chiếm ngôi. Làm sao ông không sợ khi nghe tin một vị vua Do Thái mới ra đời?
Hêrôđê mời các thượng tế và kinh sư đến và hỏi cho biết Đấng Cứu Thế sinh ra tại đâu. Theo Kinh Thánh thì tại Bêlem, cách đó hơn mười cây số. Hêrôđê mời các nhà chiêm tinh đến và hỏi cặn kẽ về ngôi sao, xuất hiện lúc nào, ở đâu và bảo các ông sang Bêlem “dò hỏi tường tận về ông vua mới sinh đó, và khi tìm thấy hãy cho trẫm hay, trẫm cũng đến triều bái Ngài”. Sau này, khi Hêrôđê ra lệnh giết tất cả trẻ em tại Bêlem, chúng ta mới biết được ông muốn tìm Chúa để làm gì.
Các đạo sĩ ra đi về Bêlem như đã được biết, nhưng lạ thay, khi vừa ra khỏi Giêrusalem, họ thấy lại ngôi sao đã dẫn đường họ và vui mừng hướng theo ngôi sao đến “tận nơi Hài Nhi ở”. Và thánh Matthêu ghi rõ: “họ sấp mình thờ lạy Người”. Họ thờ lạy một em bé nghèo nàn không có vẻ gì là đáng chú ý. Tại sao thế?
Thánh Matthêu đã tóm gọn trong một câu tất cả những gì xảy ra lúc đó. Thực ra, những nhà đạo sĩ này không là những người ngây ngô, dễ tin. Họ cũng biết nhìn con người, biết phân biệt cân nhắc hơn thiệt. Họ là những nhà khoa học và có thể là những người biết xem diện mạo con người. Bước vào nhà chắc họ cũng phải hỏi thăm một vài điều và khi đã nhận ra đúng là ông vua mà họ đang tìm. Nhìn em bé nghèo đó, họ thấy nơi em một nét gì đó khiến họ tin. Sau đó họ dâng cho Ngài những lễ vật của họ, chứng tỏ lòng thần phục. Đó là những gì chúng ta biết về biến cố các đạo sĩ đến thờ lạy Chúa. Điều này có thể chỉ là một câu chuyện, nhưng nó mang một ý nghĩa mà thánh Matthêu không bỏ qua.
Thánh Matthêu đã nhìn biến cố này như một ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa. Ngài nhìn đó như một biến cố tiên tri. Ngài thấy thực hiện những gì tiên tri Isaia đã nhìn thấy trước cách đó gần bảy trăm năm: “Giêrusalem hỡi!... Trên ngươi, Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi. Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước… Lạc đà từng đàn che rợp đất… tất cả những người từ Sơva kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa”.
Tiên tri đã thấy như một hứa hẹn, mọi dân tộc sẽ bước theo ánh sáng của Ngôi Lời, từ cung lòng Chúa Cha xuất hiện. Thiên Chúa đã sai Con của Người đến trần gian, không phải để chôn giấu trong một làng bé nhỏ, nhưng để chiếu sáng trên toàn cõi địa cầu, để mọi người nhờ đó mà được cứu độ.
Chúng ta đang nằm trong ánh sáng kỳ diệu đó. Ánh sáng huyền diệu của Ngôi Lời đã chiếu trong tăm tối của tâm hồn chúng ta, và chúng ta đã nhận biết Ngài. Chúng ta đang hưởng thụ vinh quang của Ngài mà không hay. Tương lai chúng ta rực sáng một niềm hy vọng không phai. Chúng ta được trở thành con Thiên Chúa, con cái ánh sáng. Hãy tạ ơn Chúa vì hồng ân Ngài ban tặng qua Người Con Một. Chúng ta có biết tạ ơn vì hồng ân đức tin không? Chúng ta có thành con cái ánh sáng như Chúa mong ước không? Cuộc sống chúng ta có lan tỏa được ánh sáng của Ngài không? Sự hiển linh của Chúa phải được tiếp nối vì “ý Chúa là cứu vớt hết mọi người” chứ không chỉ một vài người. Tiếp nối bằng những hành động đơn thường nhưng đượm đầy ánh sáng bác ái. Ông Jean Giutton, một giáo dân trí thức đã nói: “Từ khi có Chúa Giêsu, cuộc đời của mỗi người Kitô hữu trở thành một quyển Tin Mừng thứ năm”. Và một văn sĩ khác người Pháp cũng nói: “Nếu ngày nào bạn không nồng nàn yêu mến Chúa, ngày đó có nhiều người sẽ chết lạnh” ( F. Mauriac). Chúng ta lan tỏa ánh sáng Chúa bằng lòng yêu mến. Đó là thứ ánh sáng vô hình nhưng vẫn thấy được. Đó là sự hiển linh được tiếp nối và đó cũng chính là nhiệm vụ của mọi Kitô hữu.
Chúng ta lãnh nhận ánh sáng đức tin để làm gì nếu không là để chiếu sáng mọi nơi, trong gia đình chúng ta, trong nơi ta làm việc, trong mọi lãnh vực của cuộc sống. Mầu nhiệm nhập thể và giáng sinh phải được tiếp nối bằng chính con người. Thiên Chúa làm người để mọi người trở thành một tạo vật mới. Ngài nhận lấy thân phận chúng ta không phải để biểu diễn một trò ngoạn mục nào đó, nhưng để biến đổi tất cả, thần hóa tất cả. Chúng ta đã được thần hóa mà không hay biết.
Hãy đến nhà của Em Bé Giêsu như các đạo sĩ, hãy tôn thờ Ngài và dâng cho Thiên Chúa nhỏ bé đó, của lễ cuộc đời chúng ta, dâng mà không lấy lại để mọi người trở nên dụng cụ của tình yêu: “xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người”… Như thế, “người ta sẽ nhận thấy những việc lành của anh em mà ngợi khen Cha trên trời”. Ý nghĩa của lễ Hiển Linh mới trọn vẹn.
Hôm nay, Chúa Giêsu đến nhập thể lại liên tục cho đến tận thế. Ngài trở thành Tấm Bánh Tình Yêu là để thực hiện ý muốn yêu thương của Ngài. Ăn lấy Ngài không phải để cất giấu Ngài trong xó nào đó mà hiển linh Ngài cho mọi người. Chúng ta dám làm không? Ngài đang chờ đợi chúng ta dấn thân lan tỏa Ngài. Ngài khao khát biết bao được mọi người chấp nhận để cứu vớt họ và Ngài nhờ chúng ta, những con người nhỏ bé, hèn mọn, miễn là chúng ta thành tâm sống cho Ngài.
59.Ánh vinh quang--Trầm Thiên Thu
Lễ Hiển Linh trước đây được gọi là lễ Ba Vua. Tuy nhiên, sự thật họ không phải là những ông Vua mà là các chiêm tinh gia, các đạo sĩ đến từ Đông phương, cũng không phải chỉ có ba ông mà nhiều ông. Với con mắt "nhà nghề", họ đã nhân biết đó là Ánh Sao Lạ, ngôi sao này kỳ lạ đến nỗi họ đã phải tức tốc lên đường đi tìm, nghĩa là họ đã được Ơn Chúa tác động, nhưng điều quan trọng là họ mau mắn làm theo linh hứng của Chúa Thánh Thần.
Hiển linh là Thiên Chúa tỏ cho nhân loại biết và nhân loại đã nhận biết Hài Nhi Giêsu là Thiên Tử, là Đấng Thiên Sai. Lời cầu nguyện "xin cho Danh Cha cả sáng" đã hiện thực.
Ngôn sứ Isaia nói: "Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi, Đức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi" (Is 60:1-2). Ánh Sáng đó là vinh quang Thiên Chúa, Ánh Sáng đó là Đức Kitô giáng sinh tại Belem, và từ nay, Ánh Sáng đó luôn chiếu tỏa khắp nơi, bóng tối phải lùi bước ở bất cứ nơi nào có Ánh Sáng.
Vì thế, "chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước. Đưa mắt nhìn tứ phía mà xem, tất cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi: con trai ngươi từ phương xa tới, con gái ngươi được ẵm bên hông" (Is 60:3-4). Trong số chư dân đó có chúng ta, những con dân nước Việt bé nhỏ, thế mà lại được làm con của Thiên Chúa, vì Ánh Sáng Đức Kitô đã và đang chiếu sáng dọc suốt đất nước hình chữ S thân yêu của dân Việt chúng ta. Thật kỳ diệu biết bao! Đúng như ngôn sứ Isaia đã tiên báo: "Trước cảnh đó, mặt mày ngươi rạng rỡ, lòng ngươi rạo rực, vui như mở cờ, vì nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả, của cải muôn dân nước sẽ tràn đến với ngươi. Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Ma-đi-an và Ê-pha: tất cả những người từ Sơ-va kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa" (Is 60:5-6).
Toàn thể nhân loại hân hoan qua lời cầu nguyện: "Tâu Thượng Đế, xin ban quyền bính Ngài cho vị Tân Vương, trao công lý Ngài vào tay Thái Tử, để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý, và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn" (Tv 72:1-2). Công lý rất cần, có công lý mới khả dĩ có hòa bình đích thực, có công lý thì người nghèo mới được tôn trọng nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền. Chính Chúa Giêsu đã đến thực hiện công lý. Vì thế, chắc chắn "triều đại Người đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn. Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ, từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất" (Tv 72:7-8). Đó là vương quốc hòa bình, mỗi công dân đều sống trong hạnh phúc.
Từ khắp nơi, không trừ nơi nào, ngay cả những vùng sâu vùng xa nhất, từ "các hải đảo xa xăm, hàng vương giả sẽ về triều cống Ngài, những vua chúa cũng đều tới tiến dâng lễ vật, mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng, muôn dân nước thảy đều phụng sự" (Tv 72:10-11). Đức Kitô là Vua Công Lý, "Ngài giải thoát bần dân kêu khổ và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương, chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo. Mạng sống dân nghèo, Người ra tay tế độ" (Tv 72:12-13). Đó là điều mà Giáo hội đang rất quan tâm, được trình bày qua Giáo huấn Xã hội Công giáo, nhất là từ Công đồng Vatican II.
Thánh Phaolô nói: "Hẳn anh em đã được nghe biết về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. Ngài đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Kitô như tôi vừa trình bày vắn tắt trên đây" (Ep 3:2-3). Tông truyền là một trong bốn đặc tính của Giáo hội Công giáo, và đó cũng là mối dây liên kết các chi thể trong Nhiệm Thể Đức Kitô, đồng thời cũng là tình liên đới với nhau – kể cả với người không cùng tôn giáo.
Thánh Phaolô giải thích rõ ràng: "Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Ngài đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông Đồ và ngôn sứ của Ngài. Mầu nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa" (Ep 3:5-6). Vì thế, chúng ta không có lý do gì để "chảnh" hoặc kỳ thị người khác, dù người đó là ai.
Thánh sử Mátthêu kể: Khi Đức Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giêrusalem, và hỏi: "Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người" (Mt 2:2). Nghe tin ấy, vua Hêrôđê mới tá hỏa tam tinh, như bị sét đánh ngang tai, vì tâm bất chính nên ông bối rối, và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ đều trả lời: "Tại Bêlem, miền Giuđê". Đúng như trong sách ngôn sứ có chép rõ ràng: "Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ítraen dân Ta sẽ ra đời" (Mt 2:6).
Bấy giờ vua Hêrôđê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện, rồi vua phái các vị ấy đi Bêlem và dặn: "Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Ngài" (Mt 2:7). Nghe chừng tử tế quá! Miệng nam mô mà bụng một bồ dao găm. Đây là loại "đểu thật" chứ không "đểu giả", lọc lừa và mánh khóe một cách tinh vi, người khác khó có thể nhận ra, khi biết bị lừa thì "chuyện đã rồi". Động thái của vua Hêrôđê cũng nhắc chúng ta xem lại lời ăn tiếng nói và hành động của mình có "lệch pha" hay không, vì ai cũng có thể nói hay về mình, muốn chứng tỏ mình "tốt lành" nhưng thực ra lại đang mưu mô thâm hiểm.
Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi, vì họ ngay lành nên cứ tưởng ông vua này cũng tốt lành. Thực ra vua Hêrôđê chẳng dễ dãi cho họ đi như vậy đâu, ông ta tính "đường dài" hơn, chơi "nước cờ" cao hơn thôi. Chứ nếu ông ta không tính xa thì ông ta đã bỏ tù họ hoặc lệnh cho họ bị "cẩu đầu trảm" rồi.
Ra khỏi hoàng cung, ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, rồi mới dừng lại. Lạ thật! Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. Vào trong hang đá, thấy Hài Nhi với thân mẫu là Cô Maria, họ liền sấp mình thờ lạy Hài Nhi.
Thấy một Em Bé ngọ nguậy, thế mà họ sụp lạy. Lạ thật! Đó là đức tin của họ. Nếu là chúng ta, liệu chúng ta có tin và sụp lạy Hài Nhi như họ? Có lẽ "hơi bị khó". Nhưng mấy chiêm tinh gia kia không đắn đo, không tính toán, không ngập ngừng, thấy và sụp lạy ngay. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến.
Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên họ đã đi lối khác mà về xứ mình. Họ lại nhận được ơn Chúa. Chắc lúc này họ mới nhận thấy mình thực sự may mắn vì thoát khỏi "nanh vuốt" của ông vua dã tâm Hêrôđê. Việc Chúa làm thật là kỳ diệu!
Lạy Thiên Chúa chí minh và chí thiện, xin giúp chúng con sống ngay lành, tâm địa tốt lành, biết nghĩ tốt cho người khác chứ không suy đoán theo thiên kiến. Tất cả vì sáng danh Chúa chứ không vì vinh danh chúng con hoặc tư lợi. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế. Amen.
60.Ánh Sao Nhiệm Mầu--Lm An Phong, OP
Các đạo sĩ ở phương Đông đã nhận ra một vì sao lạ; nhưng chính Hêrôđê và dân cư ở Giêrusalem lại không nhìn thấy. Các đạo sĩ nhìn thấy ánh sao và biết rằng "Vua dân Do Thái mới sinh"; còn dân của Chúa, bao năm mong chờ Đấng Cứu Tinh lại không nhận ra điều gì cả. Các đạo sĩ từ phương Đông đã "đến để triều bái Người"; còn Hêrôđê lại dò hỏi để tìm cách giết Người.
Cái nghịch lý của ánh sao là như thế. Ánh sao đó xuất hiện cho những người thành tâm thiện chí, soi đường cho những người khát khao muốn tìm sự thật; nhưng ánh sao đó lại biến mất trước những người chỉ mải mê với cuộc đời của mình, ánh sao đó làm bối rối và xôn xao đối với những người đang lo xây dựng "ngai vàng" cho cuộc đời mình.
Ánh sao nhiệm mầu đó không phải là ánh sao bình thường, nhưng là dấu chỉ của Thiên Chúa tỏ bày cho con người. Dấu chỉ đó không chỉ hạn hẹp cho những người "Do Thái", cũng như không phải chỉ những người "có đạo" mới nhìn thấy được. Thiên Chúa "Hiển Linh" là Thiên Chúa tỏ bày vinh quang của Ngài cho mọi người, cho những người chưa biết Chúa. Các đạo sĩ phương Đông là đại diện cho những người thành tâm thiện chí ở khắp nơi trên thế giới.
Người ta không thể chờ một ánh sao lù lù hiện ra trước mặt để chỉ cho biết Chúa đến. Nhưng chính thái độ mở lòng ra, tâm tình chờ đợi, lòng tin tưởng vào Chúa sẽ giúp người ta nhận ra những lời nhắn nhủ của Ngài, sự chỉ dẫn sáng suốt của Ngài, tình thương và hồng ân của Ngài.
Chúa đã đến và Ngài vẫn đang đến. Chúa đã tỏ bày ánh sao của Ngài cho các đạo sĩ và Ngài vẫn luôn tỏ bày ánh sáng nhiệm mầu của Ngài cho những ai chuẩn bị để đón nhận.
Lạy Chúa Giêsu!
Xin cho chúng con
biết phát hiện ra quyền năng của Chúa trong thế giới.
Xin cho chúng con biết nhận ra bàn tay của Chúa trong lịch sử.
Xin cho chúng con
sống với Chúa trong cuộc sống thường ngày.
Lạy Chúa Giêsu, nếu con có con mắt Đức Tin,
chắc hẳn con sẽ nhìn thấy Chúa không ở đâu xa.
Nếu con có đôi chân của lòng Trông Cậy,
con sẽ bước đi trong bàn tay nâng đỡ của Chúa. Và
Nếu con có trái tim của Đức Mến,
con sẽ có thể yêu Chúa nơi mọi người xung quanh con.
Lạy Chúa Giêsu, xin củng cố để con nhận ra
Chúa đang Hiển Linh trong chính cuộc sống của con.
61.Đi Tìm Gặp Chúa--Lm An Phong, OP
Hôm nay, chúa nhật lễ Hiển Linh (vẫn quen gọi là lễ Ba Vua), hay là lễ Chúa Giêsu tỏ mình ra cho dân ngoại mà đại diện là ba nhà Chiêm tinh đến từ phương đông, theo dấu ngôi sao lạ, để "sấp mình thờ lạy" Người, đồng thời "lấy vàng, nhũ hương, mộc dược mà dâng tiến" lên.
Cử hành lễ Hiển Linh là cử hành việc Thiên Chúa đến với dân ngoại. Thiên Chúa chỉ tỏ mình ra cho những ai biết tìm kiếm và đón nhận Người.
Đời sống chúng ta là một hành trình tiến về quê hương vĩnh cửu là Nước Thiên Chúa. Đã là hành trình thì chắc chắn sẽ có những khó khăn, vất vả, nhưng cũng có những lúc bình an, hạnh phúc. Trên hành trình này, Chúa sẽ là niềm vui, niềm hy vọng, vì vinh quang Chúa xóa tan mây mù, bóng tối và vinh quang Chúa sẽ xuất hiện, làm cho "mặt mày ngươi rạng rỡ, lòng dạ ngươi hớn hở tưng bừng" (Is 60,4). Trên hành trình này, Thiên Chúa đã dùng Thần Khí của Người để cho chúng ta được "thừa hưởng gia nghiệp, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa" (Ep 3,6). Như thế, hành trình này sẽ là hành trình của niềm vui và hy vọng.
Đời sống chúng ta là một hành trình tìm kiếm Thiên Chúa. Thiên Chúa vốn là Đấng "ẩn giấu", tức là Người chỉ tỏ hiện rõ ràng cho những ai thành tâm tìm kiếm Người. Các Kinh sư và cả thành Giêrusalem đã không nhận ra Vị Cứu tinh vừa xuất hiện tại Belem, vì họ có não trạng hẹp hòi, thiếu quảng đại. Còn ba nhà Chiêm tinh đã khám phá nơi hài nhi bé nhỏ chính là Đấng Thiên Chúa gởi đến, vì họ thành tâm tìm kiếm. Trong lịch sử Giáo hội, một Phanxicô đã nhận ra Chúa hiện diện nơi các tạo vật (Trường ca tạo vật), Mẹ Têrêsa Calcutta đã nhận ra Chúa nơi những mảnh đời rách nát "họ đã sống không ra người, cần cho họ chết cho ra người"... Tận điểm của hành trình tìm kiếm là gặp gỡ. Ba nhà Chiêm tinh đã đến Belem, đã gặp được ĐấngCứu thế, đã quì xuống thờ lạy Người. Đời sống kitô hữu là một hành trình gặp gỡ Thiên Chúa qua công việc mỗi ngày. Sống đức tin thực sự là sống đức ái thực sự. Đức ái thực sự là phục vụ vô vị lợi. Sự phục vụ vô vị lợi dẫn đến những cuộc gặp gỡ. Chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa nơi con người. Thiên Chúa hiện diện nơi từng biến cố, từng sự kiện, từng con người...
Như thế, đời sống kitô hữu là đời sống đi tìm kiếm Thiên Chúa và gặp gỡ Người trong hoàn cảnh, môi trường hiện tại. Đời sống đó là một hành trình tràn đầy niềm vui và hy vọng, vì có Thiên Chúa đồng hành.
Lạy Chúa,
Xin cho lòng con bình an đón nhận ngày vừa sáng lên.
Xin giúp con luôn tựa nương vào ý Ngài.
Xin hướng dẫn con tìm ra ý Ngài
trong mỗi giờ phút của ngày hôm nay.
Xin chúc lành cách đối nhân xử thế của con.
Xin dạy con đón nhận mọi cái bất ngờ trong ngày hôm nay
với một tâm hồn thanh thản.
Xin Chúa hướng dẫn tư tưởng và tâm tình của con
trong mọi lời nói và hành động.
Xin dạy con biết cương quyết và khôn ngoan khi hành động,
mà không khiêu khích người khác
hoặc làm cho họ buồn tủi.
Xin cho con sức mạnh
để chịu đựng những mệt nhọc của ngày hôm nay.
Xin Chúa định hướng ý chí con.
Xin dạy con cầu nguyện.
Xin Chúa cầu nguyện trong con. Amen.
62.Ngôi sao sáng--Lm Anphong Trần Đức Phương
Lễ Hiển Linh trước đây gọi là Lễ Ba Vua vì căn cứ vào ba của lễ qúy giá các 'Đạo Sĩ' dâng lên Chúa Hài Nhi: Vàng, Nhũ hương và Mộc dược (Matthêu 2,11). Ba lễ vật này thời đó rất qúy giá, chỉ có trong các hoàng tộc; nên lúc đầu, người ta tưởng phái đoàn đến thờ lạy Chúa Hài Nhi gồm có Ba Vua và gọi lễ này là Lễ Ba Vua. Sau này, khoa khảo cổ tiến bộ, người ta tìm hiểu kỹ hơn và nhận ra phái đoàn gồm có các nhà "Thông thái" hay "Đạo sĩ" hoặc "Chiêm tinh" dịch từ chữ 'Magi' (số nhiều của chữ 'magus') là danh từ của người Ba Tư thời đó để chỉ những người tài giỏi, thông thái được chọn vào hàng tư tế, hoặc cố vấn cho các triều vua (New American Bible dùng chữ 'Magi'; có những bản dịch khác dùng chữ 'Wise Men' (những Nhà Thông Thái).
Theo bài Phúc Âm hôm nay (Matthêu 2, 1-12), các 'đạo sĩ' đã được ơn soi sáng qua ngôi sao mới xuất hiện và nhận ra có một vị 'Cứu Tinh' mới sinh ra ở nước Do Thái, và họ lên đường theo ngôi sao sáng xuất hiện dẫn đường. Các vị này (Đại diện các dân tộc ngoài Do Thái) từ "Phương Đông" (tức là từ nước Ba Tư hay một nơi nào phía Đông nước Do Thái), tới nước Do Thái và tìm đến Belem để chiêm bái và tôn kính Chúa Hài Nhi mới sinh.
Hai Bài đọc trong Chúa Nhật này đều nói lên ý tưởng chính là việc Thiên Chúa tỏ mình ra cho các dân tộc ngoài Do Thái.
Bài Đọc I: Tiên Tri Isaia (60, 1- 6) đã báo trước việc 'Vinh quang Thiên Chúa sẽ xuất hiện trên các dân tộc và dẫn đưa mọi người tìm đến Ánh Sáng thật là Thiên Chúa chân thật, Đấng Cứu Độ trần gian.' Bài Đọc II trích trong thơ Ephêsô (3, 2-3; 5-6): Thánh Phaolô nói đến việc các dân tộc ngoài Do Thái cũng được mời gọi để chung phần cứu rỗi của Thiên Chúa Nhập Thể để cứu chuộc nhân loại.
Căn cứ vào các tư tưởng chính của Thánh Lễ hôm nay, các Nhà Phụng Vụ ngày nay gọi lễ này là Lễ Hiển Linh để chỉ việc Thiên Chúa tỏ hiện vinh quang của Ngài cho các dân tộc đến tận cùng trái đất. (Trong tiếng Anh, Lễ này gọi là 'The Epiphany' gốc từ chữ Hy Lạp 'Epiphaneia'có nghĩa là 'sự tỏ hiện').
Thánh lễ hôm nay hướng tâm trí chúng ta cùng với các 'đạo sĩ' đến để chiêm bái và thờ lạy Chúa Hài Nhi sinh ra trong hoàn cảnh khó nghèo; đồng thời cũng dậy chúng ta bài học dấn thân và chia sẻ.
Bài học dấn thân: cũng như các mục đồng đã bỏ giấc ngủ ngon ban đêm để đến thờ lạy Chúa Hài Nhi trong hang đá bò lừa, các 'đạo sĩ' cũng bỏ cuộc sống êm ấm trong gia đình để lên đường chịu bao mệt nhọc vất vả để tìm đến thờ lạy Đấng Cứu Tinh. Chúng ta cũng phải dám dấn thân chấp nhận mọi vất vả, khó nhọc hàng ngày để đến thờ lạy Chúa, để sống đức tin chân thật của chúng ta trong thế giới hôm nay.
Bài học chia sẻ: Xin Chúa cũng giúp chúng ta noi gương các 'đạo sĩ': biết sống khó nghèo để dành dụm những gì mình có để dâng lên Chúa, qua việc giúp đỡ những người nghèo khổ, bệnh hoạn ở các nơi đang cần sự giúp đỡ của chúng ta. Tránh may sắm, trưng diện quá, ăn uống tiêu xài hoang phí, để tiết kiệm giúp đỡ những người thiếu thốn. Nhất là khi chúng ta được sống trong hoàn cảnh có công ăn việc làm vững chắc, nhà ở rộng rãi, cuộc sống phong phú, đầy đủ.
Hơn nữa, mỗi người tín hữu của Chúa cũng phải là những Ngôi Sao Sáng chỉ đường cho mọi người nhận ra con đường Sự Thật và Sự Sống, con đường đi đến với Chúa, bằng đời sống lương thiện, công bằng, hoà hợp yêu thương. Tránh xa những thói xấu của xã hội hôm nay, như tự do luyến ái, phá thai, li dị, gian lận trợ cấp, kết hôn giả, cờ bạc, nghiện ngập..vv... Đó là những thói xấu thế gian, những thói xấu biến chúng ta thành những 'ngôi sao lạc' dẫn đưa vào nơi tăm tối lầm lỗi.
Chúng ta, tất cả đều chỉ là những con người mang nhiều tật xấu, tham lam, ham danh, ham lợi. Chúng ta hãy khiêm nhượng chiêm ngắm cảnh khó nghèo của Hang Đá Belem và cầu nguyện chung cho nhau, nâng đỡ lẫn nhau để chúng ta biết sống khó nghèo, khiêm tốn và ngay thẳng, xứng đáng con cái Chúa.
Xin Chúa 'thắp sáng lên trong chúng ta' ngọn lửa tình yêu để chúng ta nhận ra 'con đường ngay thẳng', 'con đường công chính' và dám dấn thân đến với Chúa và đem Chúa đến cho mọi người trong gia đình chúng ta, mọi người chúng ta gặp gỡ trong cuộc sống hàng ngày.
63.Thiên Chúa tỏ hiện cho những tấm lòng chân thành tìm kiếm Người--Lm An Phong, OP
Tin mừng hôm nay thuật lại câu chuyện Ba nhà khôn ngoan theo dấu sao lạ tìm đến Be Lem và nhận ra Hài nhi, vua dân Do Thái.
Hẳn là chúng ta có thể nhận ra mình nơi hình ảnh Ba nhà khôn ngoan đi tìm kiếm Thiên Chúa.
Hẳn là vị Thiên Chúa vốn "ẩn giấu" chỉ tự bộc lộ cho những ai chân thành tìm kiếm Người.
* Cuộc đời là một cuộc hành trình, là một cuộc lên đường tìm kiếm, tìm kiếm hạnh phúc, tìm kiếm an bình, tìm kiếm tất cả những gì làm cho cuộc sống tốt hơn. Với tiếng khóc oe oe chào đời, con người đã là kẻ lên đường; và tất yếu mọi bước đường đời cũng là những cuộc lên đường đi tới. Đã sống làm người là phải đi tới và đi tới mãi, không còn có thể quay đầu thoái lui nữa.
Như thế, hạnh phúc, chân lý, bình an, hy vọng… cũng chỉ đến với những ai sẵn sàng lên đường trong tâm trạng khắc khoải kiếm tìm quê hương đích thực "Lạy Chúa; tâm hồn con khắc khoải cho đến khi nghỉ an trong Chúa" (thánh Augustinô). Có lẽ mỗi người chúng ta đều mang trong mình hình ảnh Ba nhà khôn ngoan đi tìm kiếm Thiên Chúa. Bởi lẽ đức Tin chính là một cuộc gặp gỡ cá vị với Đức Giêsu, không phải là tin vào một số lý thuyết; và đức Tin chỉ là một quà tặng cho những ai sẵn sàng mở tâm hồn ra để đón nhận.
* Ý nghĩa căn bản của mầu nhiệm hiển linh cũng là ý nghĩa của mầu nhiệm nhập thể: mầu nhiệm Thiên Chúa tỏ mình ra. Nhưng ngay khi tỏ mình ra, Thiên Chúa vẫn là một Thiên Chúa ẩn giấu; Ngài ẩn mình nơi một con người, một trẻ bé bình thường; Ngài ẩn giấu trong một hình bánh rượu; Ngài hiện diện cách ẩn giấu nơi nào có hai ba người tụ họp nhân danh Ngài; Ngài ẩn giấu nơi những người nghèo…
Thiên Chúa vẫn luôn là như thế và Ngài vẫn còn đang ẩn giấu dưới thiên hình vạn trạng trong cuộc đời. Thiên Chúa chỉ "hiển linh" với những tâm hồn bé thơ, những người dám lên đường tìm kiếm, những người biết mở tâm hồn ra để đón nhận; và những người đó sẽ nhận ra Ngài đang ẩn giấu ngay trong những dáng vẻ bình thường của cuộc sống.
Ôi lạy Chúa,
Có phải Chúa đã cho người mù nhìn thấy
và kẻ câm nói được?
Con van nài Chúa thêm một lần nữa!
Xin hãy mở mắt con ra cho con thấy;
Xin hãy mở tai con cho con nghe rõ hơn;
vì con vẫn thường muốn giả điếc làm ngơ.
(Michel Quoist)
64.Ánh sáng đức tin--‘Như Thầy Đã Yêu’--Thiên Phúc
Arthur Jones gia nhập không lực Hoàng gia, anh được huấn luyện trong một trại lính cùng với 30 binh sĩ khác. Ngay đêm đầu tiên, anh đã phải cân nhắc về một quyết định: “Có nên quì gối đọc kinh như thói quen ở nhà không?”. Ban đầu anh cảm thấy hơi ngượng, nhưng rồi anh tự nhủ: “Chẳng lẽ mình phải thay đổi cách sống vì sợ kẻ khác dòm ngó sao?”
Anh liền quyết định cứ quì gối đọc kinh như thói quen. Khi vừa làm dấu kết thúc buổi cầu nguyện, mọi người mới biết anh là người Công giáo. Hơn nữa, anh lại là người Công giáo duy nhất trong trại lính. Tuy nhiên, anh vẫn quì gối cầu nguyện hàng đêm, và sau đó thường dẫn đến những cuộc tranh cãi hàng giờ.
Cuối khóa huấn luyện, có người đến nói với anh:
- Anh là người Kitô hữu tốt nhất mà tôi gặp.
Anh liền đáp lại:
- Cám ơn bạn, tôi không nghĩ mình là Kitô hữu tốt nhất đâu. Có thể tôi là người Công giáo dám công khai biểu lộ đức tin.
Ánh sáng Đức Tin của người lính đã tỏa sáng trong trại huấn luyện của không lực hoàn gia. Đúng như lời Đức Giêsu đã nói: “Các con là ánh sáng thế gian” (x. Mt 5,14-16). Như ánh sao lạ đã mọc lên để dẫn đường cho các đạo sĩ, ngôi sao Tin Mừng cũng đã xuất hiện để soi dọi vào tâm hồn tăm tối của chúng ta. Để từ đây, ánh sáng đức tin luôn tỏa rạng ngời.
Nhưng Tin không phải là thấy. Tin là dựa vào lời Chúa mà liều mình, mà dấn thân và nhiều khi phải vượt qua gian nan thử thách.
Các đạo sĩ khi nhìn thấy ánh sao lạ, họ đã tin tưởng vào một Đấng Cứu Tinh mà ngôi sao là dấu chỉ, họ vội vã lên dường mà không biết ngôi sao sẽ dẫn đi đâu. Khi ánh sao biến mất, họ không thất vọng, không bỏ cuộc, nhưng dò hỏi kiếm tìm. Hành trình của họ là hành trình Đức Tin, con đường của họ là con đường thánh giá.
Để giữ vững Đức Tin, nhiều khi chúng ta phải can trường lướt thắng bản thân, phải liên lỉ chiến đấu hy sinh, phải anh dũng biểu lộ niềm tin. Tổng Giám Mục Fulton Sheen khẳng định: “Để trắc nghiệm Đức Tin của chúng ta, cần phải xem phản ứng lúc đau khổ và thử thách, chứ không pải lúc đời lên hương, thuận buồn xuôi gió”.
Như các đạo sĩ tìm lại ánh sao sau khi lạc mất, người tín hữu Kitô được mời gọi nhìn lên ánh sao của niềm hy vọng. Chính trong niềm hy vọng mà chúng ta can đảm dấn thân đi tới.
Trong cuộc sống đời thường, có rất nhiều dấu chỉ như ánh sao dẫn ta đến với Chúa. Có thể là:
- Một câu kinh thánh đánh động lòng ta.
- Một nghĩa cử yêu thương nồng ấm.
- Một lời khuyên nhắc nhớ chân tình.
- Một gương sáng làm ta xúc động.
Nếu cuộc đời chúng ta đã từng có những ánh sao dẫn đường, thì đến lượt mình, hãy là những vì sao ngời sáng như kim cương trên bầu trời, là những ánh đèn đêm hoa đăng ngày đại hội. Eliot đã viết:
“Nếu bạn không thể là ngôi sao sáng,
Thì hãy là ánh lửa non cao.
Nếu không thể là ánh lửa non cao,
Xin hãy làm ánh nến tỏa sáng trong gia đình”.
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II trong Giáo lý Năm Thánh 2000 có viết: “Việc giáo dân tham dự và cùng có trách nhiệm trong cộng đồng Kitô hữu, cùng với nhiều hình thức tông đồ và phục vụ của họ trong xã hội, khiến chúng ta có lý mà hy vọng rằng, vào buổi bình minh của thiên niên kỷ thứ ba, sẽ có một cuộc “hiển linh” trọn vẹn và tốt đẹp nơi thành phần giáo dân”.
***
Lạy Chúa, xin giúp chúng con nhận ra những ánh sao Chúa gởi đến trong cuộc đời chúng con.
Xin biến chúng con thành những ánh sao ngày càng rực sáng và lan tỏa khắp thế giới. Amen.
65.Ánh sáng và bóng tối--Thiên Phúc
Nhà đại thiên văn Kepler khám phá ra rằng vào năm Chúa Giáng Sinh, có một hiện tượng bất bình thường xảy ra giữa các vì sao. Ông nói về hai ngôi sao Jupiter và Saturn rằng, bình thường chúng vẫn quay cách đều nhau, năm đó chúng sáp lại gần nhau đến độ ánh sáng của ngôi sao này cộng hưởng với ánh sáng của ngôi sao kia, tạo ra một luồng sáng khác thường và kéo dài đến cả mấy tháng.
Phải chăng đó chính là ngôi sao lạ đã dẫn đường cho Ba Vua tìm ra Chúa Hài Nhi?
“Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông” (Mt 2,2). Người xưa cho rằng ngày ra đời của các vĩ nhân thường được báo hiệu bằng sự xuất hiện của các ngôi sao lớn. Các chiêm tinh gia thường nghiên cứu chuyển động của các vì tinh tú để đoán biết định mệnh con người. Vì thế, khi nhìn thấy ngôi sao lạ, các đạo sĩ đã nhận ra sự sinh hạ của Đấng Cứu Thế, Vua dân Do thái.
Quả thật, người Do thái đã trông đợi Đấng Cứu Tinh từ bao thế kỷ, Đấng ấy được ví như một vì sao từ Giacóp, như có lời trong Kinh Thánh: “một vì sao xuất hiện từ Gia-cóp, một vương trượng trỗi dậy từ Ít-ra-en” (Ds 24,17). Tiên tri Mikha cũng đã tiên báo: “Hỡi Bêlem Épratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giuđa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Ítraen” (Mk 5,1)
Nếu Thiên Chúa đã dùng cột mây cột lửa để hướng dẫn dân Do thái đi trong hoang địa về đất hứa, thì Người cũng có thể dùng ngôi sao dẫn đường cho các đạo sĩ đến Bêlem để gặp Đấng Cứu Tinh.
Nhưng có một sự thật vô cùng trớ trêu: là khi vị Cứu Tinh xuất hiện sau bao thế kỷ đợi chờ, dân Do thái lại thờ ơ lãnh đạm, các thượng tế và kinh sư thì dửng dưng thụ động, cho dù họ thông thạo Kinh Thánh và biết rõ nơi sinh của Đấng Cứu Thế. Hêrôđê lại còn hoảng hốt vì sợ ngai vàng của mình bị lung lay. Chỉ có các đạo sĩ đại diện cho lương dân lại hăng hái lên đường, hăm hở tìm kiếm, cho dù cuộc kiếm tìm đầy phiêu lưu trắc trở. Và khi tìm được rồi, Đấng Cứu Thế cũng chẳng có vẻ gì là một vị quân vương, không uy nghi trong cung điện đền vàng, nhưng họ vẫn vui mừng đón nhận, xin được bái kiến và dâng lễ vật quý giá với tất cả tấm lòng thành.
Sau này, Chúa Giêsu đã phải thốt lên: “Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài” (Mt 8,11-12)
Lễ Hiển Linh là lễ Chúa tỏ mình cho dân ngoại, nhắc chúng ta đến việc truyền giáo.
Nhờ ngôi sao lạ mà các đạo sĩ đã tìm ra Đấng Cứu Thế; chúng ta cũng hãy là những ánh sao sáng thu hút những tâm hồn đang khao khát tìm kiếm Chúa.
Nếu con người đang đi trong bóng tối của gian dối, hận thù; chúng ta hãy là những ánh sao của chân thành, phục vụ và yêu thương.
Nếu thế giới đang chìm đắm trong bóng tối của buồn phiền, thất vọng; chúng ta hãy là những ánh sao của niềm vui, an bình và hy vọng.
Nếu Chúa đã gọi: “Chúng con là ánh sáng thế gian” (Mt 5,14), thì đó là một vinh dự vô cùng lớn lao, nhưng cũng là một trách nhiệm nặng nề.
Chúng ta đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối, nhưng hãy dấn thân thắp lên những ngọn nến sáng: Nến sáng của tin yêu và hy vọng, của bác ái và vị tha, để cả trái đất này tràn ngập ánh sáng tình yêu Chúa.
66.Gặp được Chúa Cứu Thế--‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’--Radio Veritas Asia
Hôm nay chúng ta mừng lễ ba Vua, tức lễ Hiển Linh. Dựa vào Thánh Kinh và Thánh Truyền kể lại việc tìm kiếm Chúa của Ba Vua từ Phương Đông miền đất Palestina, theo sự hướng dẫn của một vì sao lạ. Các ngài đã khám phá ra dấu lạ, rủ nhau lần mò dò dẫm tìm đến Bethlem, và cuối cùng sau cuộc lộ trình đường xa nhiều gian khổ và nguy nan, các ngài đã gặp được Chúa Cứu Thế.
Như ngày lễ Giáng Sinh, lễ Hiển Linh biểu lộ một niềm vui, đó là những hình ảnh, những gói quà, lạc đà, Ba Vua, ngôi sao, nhưng còn vui hơn vì ý nghĩa quan trọng chứa đựng trong ngày lễ này, đó là việc Chúa tỏ mình ra cho các dân, các nước. Ngài là Vua các vua và mọi dân tộc khắp bờ cõi trái đất đều phải tôn thờ Ngài.
Nơi bài đọc I, Giáo hội dùng bài ca trở về của dân Do Thái nơi sách tiên tri Isaia để diễn tả niềm vui của người được cứu thoát khi vinh quang của Chúa bừng dậy. Một số những người nô lệ ở Babylon thuộc dân Do Thái nghĩ mình đang sống trong đêm tối, họ mất hết niềm vui, không còn hứng thú gì để đàn ca xướng hát. Họ đặt những nhạc khí, họ treo những cây đàn nơi gốc cây, nơi cành cây dọc bên bờ sông Babylon, và nơi bờ sông họ ngồi khóc nhớ Sion, nhớ về Thành Thánh Jérusalem.
Nhưng vui mừng biết bao ngày cứu thoát đến, ngày trở về quê hương, ngày được gặp lại Jérusalem, được lên đền thờ dâng lễ tạ ơn Chúa. Và điều đặc biệt là ánh sáng bừng lên ở Jérusalem. Đây không phải là ánh sáng của trần gian mà là ánh sáng của chính Thiên Chúa. Thiên Chúa là ánh sáng và khi Chúa là ánh sáng thì Ngài không phải chỉ là ánh sáng của Israel mà thôi nhưng Ngài còn là ánh sáng của muôn dân, muôn nước. Từ đó những kho tàng bể khơi tuốn đến Jérusalem, nguồn phú túc của chư dân sẽ tới Jérusalem. Tất cả muôn người lũ lượt từ các nơi tuôn đến Jérusalem. miệng cao rao những lời ngợi khen Thiên Chúa.
Nếu bài đọc I trình bày một hình ảnh vui tươi của Jérusalem ngày đại lễ, ngày muôn dân tiến đến trong huy hoàng rực rỡ sang trọng, thì nơi bài đọc II thánh Phaolô đưa hình ảnh ấy lên hàng siêu nhiên. Nơi bài I sự giàu sang phú quí từ các nơi được đưa về để tung hô Chúa, thì nơi bài đọc II đáp lại ân sủng Chúa ban phát dư tràn cho mọi người qua các tông đồ, các tiên tri, nhờ Chúa Thánh Thần thánh hóa. Nhờ lòng thương xót bao la ấy của Thiên Chúa, tất cả dân tộc trên mặt đất đều trở nên người thừa tự, trở nên người cùng một thân thể và thông phần với lời hứa của Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô.
Nhìn chung cả hai bài đọc đều diễn tả tình yêu thương hài hòa giữa Thiên Chúa và con người với nhau. Con người một lòng một dạ nhìn nhận Thiên Chúa là Vua. Chúa ban ơn cho con người, nhất là ơn được làm nghĩa tử trong Đức Giêsu Kitô, không phân biệt ai cả.
Bài Phúc Âm diễn tả rõ ràng hơn, cụ thể hơn và sinh động hơn trước mắt ta cuộc tìm kiếm Chúa, rồi được Chúa giúp đỡ ban ơn hướng dẫn. Con người không ngại gian lao cực nhọc và cuối cùng gặp được Chúa. Con người quì gối sụp lạy và dâng lễ vật cho Ngài. Xong trở nên con người mới, đi con đường khác, trở nên với đời sống hằng ngày của mình.
Dựa vào đoạn Phúc Âm duy nhất của thánh Matthêu diễn tả cuộc viếng thăm kỳ diệu này, người ta hay trưng bày vao hang đá trong ngày lễ Hiển Linh ba vị vua. Thật ra, không có chỗ nào nói đó là các vị vua, cũng không có chỗ nào cho biết con số của họ là bao nhiêu. Nhưng truyền thống gọi là ba, vì dựa vào ba lễ vật thánh Matthêu kể ra: vàng, nhũ hương và mộc dược.
Về tên của ba vua là: Kalbar, Manthior và Bankasa, nhưng đến thế kỷ IX người ta mới đề cập đến. Thật ra, tất cả những chi tiết nhỏ này không có nền tảng trong Kinh Thánh và ngôi sao lạ hiện vẫn còn là đối tượng của những giải thích khác nhau. Dầu vậy những điểm chính đã dễ cho chúng ta suy niệm đó là những con người đến từ những xứ xa xôi để tìm vị Vua Do Thái mới sinh ra và khi gặp được Ngài, họ quì gối xuống sụp lạy Ngài.
Hình ảnh ấy cho chúng ta thấy mãi mãi bao lâu Phúc Âm còn rao giảng đều luôn luôn có những đạo sĩ, đó là những người tìm kiếm Chúa bằng cách này hay bằng cách khác. Và khi đã gặp được Chúa, thì thành tâm thực lòng thờ lạy Chúa, nhìn nhận Người là Vua, là Chúa của mình, của đời sống mình, của gia đình mình và cuối cùng là của toàn thể nhân loại.
Cùng với Ba Vua bên máng cỏ, chúng ta hãy tôn thờ uy quyền tối cao của Hài Nhi Giêsu và xin cho chúng ta luôn nhạy cảm đối với những cảm hứng khích lệ của quyền năng Chúa trong tâm hồn mình.
Để có việc làm cụ thể, trong tuần này tôi hình dung ra những tác động của Ba Vua trên con đường tìm Chúa. Đó là để tâm, để ý tìm hiểu sự kiện. Dám chấp nhận dấn thân quyết chí tìm gặp cho được Chúa. Khi gặp được Người thì phủ phục tôn thờ và dâng lễ vật. Rồi sau cùng, từ bỏ con đường cũ, đi theo con đường mới, con đường của tin yêu và hy vọng, con đường của sự sống bất diệt trên thiên quốc.
67.Hãy đứng lên, hãy tỏa sáng ra--“Sống Tin Mừng”--Radio Veritas Asia
Các bài đọc của lễ Hiển Linh đều hướng về một chủ đề chính: "Chúa Kitô là ánh sáng chiếu soi muôn dân". Nơi bài đọc I được trích từ sách tiên tri Isaia: "Hãy đứng lên, hãy tỏa sáng ra" (Is 60,1-6).
Đó là lời tiên tri Isaia loan báo về tương lai huy hoàng của Giêrusalem. Giêrusalem có được như vậy, được trở thành trung tâm của muôn dân đổ dồn về đó là vì nhờ Giêrusalem có Thiên Chúa hiện diện ở giữa. Không có Thiên Chúa hiện diện thì Giêrusalem vẫn chỉ như bao thành khác. Ánh sáng mà Giêrusalem nhận được từ Chúa đã chiếu soi muôn người, ánh sáng đó lôi kéo tất cả mọi người, không trừ một ai đến với Chúa. Giêrusalem ngày xưa là hình ảnh của Giáo Hội, vì Giáo Hội là nơi qui tụ tất cả mọi dân tộc.
Lời tiên tri Isaia loan báo về tương lai huy hoàng cho Giêrusalem được ứng nghiệm trong biến cố các vua từ Phương Đông tìm đến Vua dân Do Thái mới sinh đã được thánh sử Luca ghi lại (x.Lc 2,1-12).
Gặp được Chúa Giêsu và thờ lạy Ngài, đó là mục đích cuối cùng của đời người chúng ta, và đó cũng là trung tâm của bài Tin Mừng Lễ Hiển Linh hôm nay. Các mục tiêu cuối cùng trên, chúng ta thấy có những nhân vật nổi bật như vua Hêrôđê, các trưởng tế và luật sĩ tại Giêrusalem, các đạo sĩ từ Phương Đông. Mỗi một người trong hoàn cảnh riêng của họ đều được Chúa mạc khải cho, được Chúa mời gọi đến với Ngài bằng những con đường khác nhau. Các đạo sĩ nhờ ngôi sao sáng của thiên nhiên trong vũ trụ, một kỳ công sáng tạo của Thiên Chúa. Các trưởng tế và luật sĩ thì qua con đường mạc khải của Kinh Thánh, qua lời dạy của các tiên tri mà họ biết nằm lòng. Vua Hêrôđê thì qua chứng tá của những kẻ qua con đường gặp Chúa, qua chứng tá của các đạo sĩ và các trưởng tế, luật sĩ tại Giêrusalem. Nhưng rồi chỉ có các đạo sĩ là đi đến cùng con đường, là gặp được Chúa Giêsu và thờ lạy Ngài.
Chúa ban cho mỗi người, cho mọi người con đường để gặp Ngài, nhưng chỉ có những ai thành tâm thiện chí và can đảm đi đến cùng, đi trọn con đường thì mới thành công trong việc gặp gỡ được Chúa.
Trong ngày Lễ Ba Vua hay Lễ Hiển Linh hôm nay, chúng ta trước nhất vui mừng vì thấy rõ hành động Thiên Chúa không dành riêng ân sủng của Ngài cho một nhóm người nào, nhưng Ngài kêu gọi tất cả mọi người đến với Ngài, đồng thời chúng ta cần tự vấn chính mình về thái độ trước Chúa Kitô, chúng ta đã thực sự gặp Chúa và tôn thờ Ngài hay chúng ta cũng có thái độ giống như vua Hêrôđê xem Chúa như là kẻ thù, như là người cản trở sự thành đạt của mình, vì đó mà hành động ngấm ngầm chống lại Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con được bắt chước thái độ của các đạo sĩ ngày xưa muốn ra đi khỏi nơi an toàn tự nhiên của mình để gặp Chúa và tôn thờ Chúa tại nơi mà Chúa muốn dùng để mạc khải cho chúng con về Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con được gặp Chúa và tôn thờ Chúa là Đấng cứu rỗi duy nhất đời con. Amen.
68.Lễ Giáng Sinh của muôn dân--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Henry van Dyke có thuật lại câu chuyện nhan đề: “Còn một nhà đạo sĩ khác nữa” (The Other Wise Man), kể về một nhà đạo sĩ thứ tư là người đáng lẽ đã cùng ba nhà đạo sĩ kia đi tìm vị Vua vừa sinh ra ở Bêlem. Nhà đạo sĩ này tên là Artaban. Trong lúc chuẩn bị lên đường, Artaban đã chọn ba viên ngọc quý nhất trong kho tàng của ông để dâng tặng Hài Nhi Giêsu. Thế nhưng trên đường đến gặp ba nhà đạo sĩ kia để cùng đi, gặp bất cứ ai xin, ông cũng đem ra tặng hết. Người thứ nhất mà ông đã gặp được là một bà cụ già rét run vì lạnh. Động lòng trắc ẩn, ông đã tặng cho cụ già viên ngọc thứ nhất. Đi thêm một đoạn đường nữa, ông gặp một toán lính toan làm nhục cô gái. Ông đành đem viên ngọc thứ hai ra thương lượng với chúng để chuộc lại cô gái. Cuối cùng khi tiến vào địa hạt Bêlem, ông gặp một người lình do vua Hêrôđê sai đi để tàn sát các hài nhi trong một ngôi làng lân cận. Ông đành phải rút ra viên ngọc cuối cùng để tặng cho người lính và thuyết phục anh từ bỏ ý định gian ác.
Tìm được Hài Nhi Giêsu, nhà đạo sĩ thứ tư này chỉ còn lại hai bàn tay trắng. Ông bối rối và kể lại cuộc hành trình của mình. Nghe xong câu chuyện, Hài Nhi Giêsu mỉm cười đưa bàn tay bé nhỏ ra nhận quà của ông. Nó không phải là vàng bạc châu báu, nhưng là tấm lòng vàng được dệt bằng những nghĩa cử đối với tha nhân, nhất là những người túng thiếu, đói khổ, những người cần giúp đỡ. Chính nhờ những nghĩa cử này mà Thiên Chúa mới được tỏ mình ra cho mọi người.
Lễ Hiển Linh là lễ Thiên Chúa tỏ mình ra cho mọi người. Thiên Chúa không chỉ tỏ mình ra cho riêng Dân của Ngài mà còn cho muôn dân. Bởi đó, mọi người trong chúng ta phải cộng tác với Thiên Chúa để làm bừng sáng lên ánh sáng đã xuất hiện từ Phương Đông. Chúng ta phải là ánh sao dẫn đường cho mọi người đến với Chúa. Tiên tri Isaia trong bài đọc thứ nhất hôm nay đã mở ra cả một viễn tuợng lớn lao: đó là ngày và thời vinh quang của Thiên Chúa chiếu trên Dân Chúa và biến Dân Chúa thành điểm thu phục muôn dân. Mọi người từ mọi phương hướng sẽ cùng quy về một mối trong tiếng ngợi ca Thiên Chúa.
Nội dung của lòng tin tưởng này đã được Thánh Matthêu diễn tả một cách sống động qua câu chuyện về Ba Vua, đúng hơn là ba nhà đạo sĩ đi tìm gặp Chúa Giêsu mới sinh tại Bêlem. Xưa chúng ta quen gọi đây là Ba Vua, do đó Lễ Hiển Linh này cũng gọi là lễ Ba Vua. Nhưng điều mà đoạn Tin Mừng ở đây muốn nhấn mạnh đến là: các đạo sĩ, có thể là các nhà bác học hay thiên văn học, đã từ Phương Đông mà tới (Phương Đông vẫn thường được coi là phương trời của những dân ngoại), họ là những người ở ngoài Dân riêng của Chúa, không thuộc dân Do Thái nhưng họ đã tìm đến và được lãnh nhận ơn cứu độ. Có thể nói, đoạn Tin Mừng này đã diễn tả tất cả tấn bi kịch của công cuộc cứu chuộc đối với Dân riêng của Chúa và đồng thời cũng nói lên tấm lòng đại độ của Thiên Chúa: Hêrôđê tượng trưng cho quyền lực, một thứ quyền lực xảo quyệt chỉ biết khư khư giữ lấy ngai vàng của mình như một lẽ sống. Còn dân thành Giêrusalem đáng lý ra phải vui mừng khi hay tin “Vua người Do Thái mới sinh”, Đấng họ trông chờ như Vị Cứu Tinh, thì trái lại, họ đã hoảng hốt cùng với Hêrôđê người cai trị trên họ. Dường như họ ngại phải dấn mình vào một sự đổi thay, dù họ tin rằng sự đổi thay đó đem lại sự giải thoát cho họ. Còn những Tư Tế và những nhà thông luật, biết rõ nơi Vị Cứu Tinh ra đời, nhưng chẳng ai màng đến với Ngài. Để rồi cuối cùng, chỉ có những người bị liệt vào hàng “dân ngoại” lại hăm hở đến với “Vua người Do Thái”, cũng là Vị Cứu Tinh của nhân loại.
Thưa anh chị em,
Lễ Hiển Linh là lễ Thiên Chúa tỏ mình ra. Chúng ta biết được qua bài Tin Mừng, Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho muôn dân. Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa nào có ai thấy Ngài bao giờ, và làm sao thấy Ngài được? Nhưng người Con duy nhất của Ngài đã làm người, và cho ta thấy được Thiên Chúa mang bản tính con người, làm người như chúng ta và ở giữa chúng ta”. Từ khi Ngôi Lời nhập thể, ai tin nhận Đức Kitô là tin nhận Thiên Chúa, ai từ khước Đức Kitô là từ khước Thiên Chúa.
Vấn đề được nêu lên hôm nay, là ai làm cho người ta biết Đức Kitô, nếu không phải là mỗi người chúng ta? Tuy nhiên, hãy tự vấn rằng bản thân chúng ta đã biết Đức Kitô đến mức độ nào? Nhất định chúng ta chỉ biết Ngài với một mức độ thật giới hạn. Xét về việc giảng giải bằng lời nói, chúng ta có thể bập bẹ đưa ra một số chi tiết về con người của Đức Kitô, về giáo thuyết, về thân thế và sự nghiệp của Đức Kitô; những điều mà người thiện chí không thể không nhìn thấy. Còn nếu chứng minh bằng chính đời sống, để nói được với bất cứ ai, như Thánh Phaolô đã nói: “Xin ông bà, anh chị, hãy bắt chước tôi, như tôi đã sống noi gương Đức Kitô”, thì lắm kẻ không dám nói, và không được phép nói. Bởi vì cuộc sống hiện tại của họ, mọi người đều biết nó như thế nào rồi! Nói cách khác, bản thân tôi chưa gặp được Thiên Chúa, mặc dù miệng tôi luôn nói: Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, Thiên Chúa ở trong tôi, Thiên Chúa ở trong mọi người. Nhưng thực sự, tôi không thấy Thiên Chúa nơi ai cả, ít là trong những cử chỉ tôi đối với những người chung quanh đã nói lên rõ rệt như vậy. Và cũng thế, chưa ai thấy Thiên Chúa ở nơi tôi cả vì chình cuộc sống của tôi đã nói lên rõ ràng như vậy.
Thật vậy, còn có biết bao người đang sống trong tăm tối thiêng liêng; họ đang lầm lũi bước đi trong lầm lạc; họ đang khao khát chân lý; họ không ngớt đặt vấn nạn với chúng ta: “Đức Vua Dân Do Thái sinh ra ở đâu?” hoặc: “Đức Giêsu là ai vậy?. Vậy thì, hỡi các Kitô hữu, hãy trả lời cho họ đi: “Đức Kitô là ai?”. Nhưng xin đừng mở cuốn Kinh Thánh ra nói như một nhà thông thái. Chắc chắn họ không xin chúng ta một Đức Kitô đóng khung trong sách vở, nhưng là một Đức Kitô sống động qua con người của chúng ta. Không có con đường nào khác đưa người ta trở về hoặc khám phá ra Chúa Kitô ngoài con đường Tin Mừng đã vạch, đó là con đường yêu thương. Thật vậy, chính tình yêu là sức mạnh khiêm tốn nhất nhưng lại mãnh liệt nhất để đưa con người đến với nguồn chân lý.
Khi người Kitô hữu chỉ đóng khung đời sống đạo của mình trong nhà thờ, giữa những nghi lễ, mà không nhận ra những nhu cầu, những đòi hỏi của xã hội chung quanh; khi một cộng đoàn Kitô hữu quá bám víu vào những thứ gọi là quyền lợi tôn giáo của mình mà làm ngơ trước những đau khổ, bất hạnh của kẻ khác thì chính họ đang làm dập tắt những ánh sáng dẫn đường tới Chúa Kitô.
May mắn là vào thời đại chúng ta, có Mẹ Têrêsa Calcutta. Qua chính cuộc sống đầy hy sinh vì mọi người, Mẹ Têrêsa đã làm cho mọi người thấy Thiên Chúa. Thật kỳ diệu: ngay Cuba rồi Liên Xô cũng mời Mẹ Têrêsa đến thăm và cho phép lập Dòng các chị em Thừa Sai Bác Ái với quyền thu nhận tập sinh, đang khi các Dòng khác đã có mặt từ lâu, vẫn chưa được phép này. Tại sao? Cuộc đời hy sinh của Mẹ Têrêsa, từ khi là nữ tu trẻ, từ năm 1918, đã dám mạo hiểm, mạo hiểm trong khiêm tốn nhưng lòng đầy tình yêu Thiên Chúa và con người. Sống trong tập thể tu viện với đầy đủ tiện nghi của một Dòng chuyên dạy con gái nhà giàu, được bảo đảm hơn là cô đơn giữa xóm ổ chuột. Thế mà, trong thời gian dài, nữ tu Têrêsa là con người lang thang trên các nẻo đường ở Calcutta, vì Têrêsa thấy rõ Chúa Giêsu đang sống trong những người nghèo bên các vỉa hè của những người dư giả, giả vờ quên rằng có Lazarô đang nằm chết đói ngoài cửa nhà mình, đang chờ một phần ăn rất nhỏ, vất đi từ một bàn tiệc linh đình sang trọng. Tình yêu, yêu Thiên Chúa, yêu Chúa trong mọi người, đã biến đổi sự yếu hèn của nữ tu Têrêsa nên sức mạnh vô địch. Không bao lâu, căn nhà nhỏ của Mẹ Têrêsa phải nới rộng, nới rộng đến nhiều quốc gia trên thế giới, cả đến nước Liên Xô. Đoàn Thừa Sai Bác Ái chưa đầy 40 năm đã chóng lớn như phép lạ, và Mẹ Têrêsa được trao tặng cả vinh dự lớn nhất của người đời: “giải thưởng Nobel Hoà Bình”. Mẹ Têrêsa đã làm cho mọi người thấy thế nào là Thiên Chúa.
Thiên Chúa của những năm cuối thế kỷ 20 là như thế đó. Thiên Chúa trong viễn tưởng năm 2000 phải như thế đó. Thiên Chúa của những cá nhân ích kỷ, của những tập thể ích kỷ, Thiên Chúa của người “tôi” ích kỷ đã chết, và phải chết đi với cái người “tôi” ích kỷ. Như thế sẽ chiếu tỏ một Thiên Chúa, thực sự là Thiên Chúa tình thương, hy sinh Con Một cho nhân loại phản bội. Thiên Chúa là Đức Kitô dám chết cho kẻ mình yêu tuy chúng ta không đáng yêu.
May mắn là trong xã hội chúng ta, ngay giữa chúng ta, trong những giờ này, có những mẫu người hy sinh, quên mình, lo cho người đau khổ, nghèo đói, bệnh tật, trong các bệnh viện, đặc biệt ở những trại cùi. Những con người Kitô hữu đó được công khai bầu lên là người mẫu của tình yêu vị tha, những nhân chứng đích thực của Chúa Kitô.
Có những người, giờ này, đang âm thầm vào các bệnh viện, tìm thăm những bệnh nhân bại liệt tại giường, không gia đình thăm viếng, chăm sóc; anh chị em đó đã đến, hỏi thăm sức khoẻ, chạy dùm một số việc, giặt giũ, vệ sinh cá nhân… Xin Chúa ban cho có nhiều tông đồ, nhân chứng của tình yêu Chúa với những việc làm cụ thể như thế để tạo được sự Hiển Linh, làm cho đồng bào được thấy Thiên Chúa, và ước gì những chứng nhân ấy lại là chính chúng ta. Ước gì được như vậy!
69.Thiên Chúa của các dân tộc--“Niềm vui chia sẻ”
Một linh mục thừa sai Pháp tên là Henri, đi truyền giáo ở Gabon, Phi Châu. Nhân dịp lễ Giáng sinh, cha Henri về nghỉ ở nhà người chị ruột thuộc gia đình Delvart. Ngài đem theo một đứa bé da đen mồ côi được ngài nuôi từ nhỏ và rửa tội với tên thánh là Giacôbê. Trong gia đình chị của ngài cũng có đứa con trai tên là Giacôbê, đồng trang lứa với cậu bé Giacôbê da đen. Hai đứa trẻ quen nhau dễ dàng và người lớn chỉ còn phân biệt chúng qua hai màu da: Giacôbê đen và Giacôbê trắng. Đứng bên hang đá, Giacôbê trắng cố gắng giải thích cho bạn Giacôbê đen của mình hiểu được vẻ đẹp của mầu nhiệm Giáng sinh, từ Bêlem cho đến chuồng bò, máng cỏ chiên lừa, đến cả giấc mộng của Thánh Giuse, rồi kết thúc với hình ảnh Mẹ Maria, Mẹ của hết mọi người.
Giacôbê đen nghe Giacôbê trắng một cách chăm chỉ. Nhưng cậu bé da màu sầm mặt xuống, thoáng lộ vẻ buồn. Cậu hỏi như than thở với bạn:
- Bạn trắng ơi! Bạn thật may mắn.
- Sao vậy?
- Bạn có Chúa Giêsu da trắng, có một người mẹ ở nhà đây rồi lại có thêm một người mẹ ở trên Thiên đàng nữa.
- Nhưng ăn thua gì, bạn trắng đáp lại. Chúa Giêsu là Chúa của hết mọi người và Mẹ Maria cũng là Mẹ của hết mọi người kia mà. Nhất là Mẹ của những đứa con thơ ấu côi cút như bạn.
Nhưng Giacôbê đen không yên tâm. Cậu bé vừa đưa tay chỉ tượng Đức Mẹ vừa buồn rầu nói: Đức Mẹ trắng tinh, còn mình thì đen thui!
- Bạn trắng nói: Có hề gì, Đức Mẹ đâu có căn cứ vào màu da.
- Chứ còn gì nữa, bạn đen cãi lại. Người mẹ trắng thì làm sao có đứa con đen.
Thế rồi sáng ngày 24 tháng 12 người ta thấy Giacôbê trắng một mình từ dưới kho đi lên, tay cầm một cái lon nhỏ và một cây cọ, tiến về phía nhà thờ. Cậu bước ngay tới máng cỏ, tại đây với lon sơn đen, cậu biến tượng Chúa Hài Đồng da trắng thành một Chúa Hài Đồng da đen, y như màu da của bạn Giacôbê đen vậy.
Giáng Sinh năm ấy, cả họ đạo vừa ngạc nhiên thích thú, vừa vui vẻ sốt sắng đón mừng Chúa Giáng Sinh có sắc da màu. Còn Giacôbê đen không ngớt nở nụ cười để lộ hai hàm răng trắng toát. Em sung sướng nghĩ rằng: với Chúa Hài Đồng da màu, em cũng có được một bà mẹ da màu trên Thiên đàng.
Một câu chuyện giữa hai trẻ nhỏ nhưng lại mang một ý nghĩa cho người lớn chúng ta trong ngày lễ Hiển Linh hôm nay: Chúa Giêsu giáng trần không riêng cho một ai, một dân tộc nào, nhưng là cho hết mọi người, mọi dân tộc: da trắng, da đen, da đỏ, da vàng. Ngay trong ba đạo sĩ tìm đến hang đá Bêlem người ta cũng thấy có một vị da màu. Có thể nói, lễ Hiển Linh là Lễ Thiên Chúa đến với mọi người. Với biến cố Thiên Chúa Giáng Sinh làm người trong hang đá Bêlem, Thiên Chúa như phá đổ mọi hàng rào ngăn cách mà con người đã xây dựng nên: hàng rào kỳ thị, kỳ thị chủng tộc, màu da, tôn giáo, giai cấp… Bởi đó, mọi người trong chúng ta phải cộng tác với Thiên Chúa làm bừng sáng lên mầu nhiệm này. Chúng ta phải là ánh sao dẫn đường cho người ta đến với Chúa.
Thời đại chúng ta, Chúa không dùng lời ca của các thiên thần hoặc ánh sao của ngôi sao lạ để giới thiệu Chúa Giêsu cho thế giới. Chính mỗi người chúng ta được mời gọi đóng vai “nhà đạo sĩ” để chiêm ngắm khuôn mặt Chúa Giêsu rồi loan truyền về Ngài cho anh em khác. Phương thức tốt nhất để làm điều đó là nói và hành động như Đức Giêsu. Cha mẹ là “nhà đạo sĩ” thích hợp nhất để trình bày khuôn mặt Chúa Giêsu cho con cái mình. Các thầy, cô giáo là những người cộng tác với “các nhà đạo sĩ”. Các nhà truyền giáo: giáo dân, tu sĩ, linh mục, là những “nhà đạo sĩ” đi đây đó để giới thiệu Chúa Giêsu cho những người khác.
Mới đây, cuộc triển lãm mỹ thuật với chủ đề: “Đức Giêsu Kitô trong hội họa” tại Tòa Giám Mục thành phố Hồ Chí Minh từ đầu Mùa Vọng vừa bế mạc, quả là một cuộc giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người. Đã có hàng vạn lượt người đến xem, kể cả người ngoài Công Giáo và các tôn giáo bạn, đặc biệt là các bạn trẻ. Nhiều bạn đã ghi lại những dòng cảm tưởng chất chứa nhiều cảm xúc, chẳng hạn: “Tôi là một con chiên lạc của Chúa. Trong chiều nay sau một cơn mưa, tôi đã được tĩnh lặng để ngắm nhìn những tác phẩm hội họa về Đức Giêsu với những cảm xúc lắng đọng nhất. Tôi yêu con người Giêsu và Đức Chúa Giêsu” (Tường Tường, 5.12.96, trang 45). Một bạn sinh viên khác đã viết: “Con không biết gọi Người là gì, không biết Người là ai vì con không phải là đạo Thiên Chúa. Nhưng hôm nay con tin là có Người, có Người từng hiện hữu trong thế giới này, và có Người trong tâm hồn con ngày hôm nay và mãi về sau. Con xin cám ơn tất cả những điều con được biết ngày hôm nay, cám ơn tất cả, con cám ơn Người cho con lòng tin”. (Hồ Thị Phương Nga, SV năm 3 ĐH. kiến trúc TPHCM. 10.12.96 trang 87) v.v… Cuộc triển lãm đã đem lại nhiều kết quả thầm kín bất ngờ.
Một khi khám phá ra gương mặt đích thực của Đức Giêsu, chúng ta hãy đem Chúa ra giới thiệu cho mọi người. Còn có biết bao người đang sống trong tăm tối thiêng liêng, họ đang lầm lũi bước đi trong lầm lạc. Họ đang khao khát chân lý. Họ không ngớt đặt vấn nạn với chúng ta: “Đức Vua dân Do Thái sinh ra ở đâu?” Cũng chính là câu hỏi: “Đức Giêsu là ai?” vậy thì, hỡi các kitô hữu, hãy trả lời cho họ đi, Đức Giêsu Kitô là ai? Nhưng xin đừng mở sách Kinh Thánh ra nói như một nhà thông thái. Chắc chắn họ không xin chúng ta một Đức Kitô đóng khung trong sách vở, nhưng là một Đức Kitô sống động qua con người của chúng ta. Không có con đường nào khác đưa người ta trở về hoặc khám phá ra Đức Giêsu Kitô ngoài con đường Tin Mừng đã vạch: con đường yêu thương. Chính tình yêu là sức mạnh khiêm tốn nhất nhưng lại mãnh liệt nhất để đưa con người đến với nguồn chân lý, nguồn tình yêu và sự sống.
Như ánh sao dẫn đường ba đạo sĩ lên đường đến với Chúa Giáng Sinh, chúng ta hãy từ bỏ những lời nói trống rỗng, những công thức, những khuôn mẫu có sẵn và tìm Chúa trong mọi biến cố cuộc đời, để từ đó chúng ta giới thiệu Chúa cho anh em đồng bào bằng chính cuộc sống của chúng ta.
70.Lý do Chúa làm người--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có anh chàng trai chẳng hề tin hay nghĩ tưởng gì đến Chúa. Chàng cũng làm ngơ các thánh lễ hằng tuần. Vợ chàng trái lại rất sùng đạo. Nàng cố gắng nuôi dạy con cái thấm nhuần lòng tin vào Chúa, mặc kệ những lời xỏ xiên của người chồng cứng lòng.
Đêm vọng Giáng Sinh, khi nghe vợ con ngỏ ý mời mình đi dự lễ đêm, chàng càu nhàu: “Vô nghĩa! Việc gì Thiên Chúa lại phải hạ mình đến nỗi trở thành phàm nhân sống đời khổ sở như thế! Nghe như chuyện khôi hài!”
Vợ con đi rồi, chàng ở nhà một mình. Qua khung cửa sổ, chàng thấy những mảng tuyết đang đổ xuống theo từng đợt gió giật. Nhìn ra khoảnh sân, chàng thấy cả một bầy ngỗng trời ở đâu kéo tới. Chắc hẳn, trên đường xuôi nam, bọn ngỗng gặp bão thành ra lưu lạc chốn này. Chúng như mất hướng, bay lòng vòng quanh quẩn, chắc đang tìm thức ăn và chỗ nào đó kín khuất để tá túc. Chàng bỗng động lòng, nghĩ đến dãy trại sau nhà, nơi được coi là ấm cúng và yên ổn cho chúng tạm trú qua đêm chờ cơn bão tan. Nghĩ thế, chàng mò ra phía sau nhà, đến đầu dãy trại, mở toang cánh cửa lớn ra như để đón chào đàn ngỗng lưu lạc. Thế nhưng, dường như mắt chúng ra như mù loà, không hề nhìn thấy cánh cửa trại đã mở toang hoác, càng không hề biết đến hảo ý của chàng. Chúng cứ tiếp tục bay nhảy vô định, lại chạm vào khung kính, và đụng vào hàng giậu thưa. Càng cố làm cho chúng chú ý đến mình, thì chúng lại càng tỏ ra hoảng sợ chàng, và tản ra xa hơn. Càng cố lùa chúng hướng về phía cửa trại thì chúng lại càng đi sang hướng khác. Thì ra chúng vẫn sợ chàng, vẫn không dám theo chàng, bởi vì chàng đâu phải đồng loại của chúng đâu. Nghĩ thế rồi, chàng bước vào trại, ôm lấy một con ngỗng đang nuôi trong trại, mang ra nhử nhử rồi thả chung với đàn ngỗng trời. Con ngỗng của chàng đã quen thuộc với đường đi lối về, liền lăm lăm đi trở vào cổng trại để trốn giá lạnh mùa đông. Thế là từng con ngỗng trời nối đuôi theo nó, đi dần vào bên trong trại, ấm áp và an toàn.
Như chợt nhận ra điều gì đó, chàng suy nghĩ về lời mình đã càu nhàu với vợ: “Việc gì Thiên Chúa lại phải hạ mình đến nỗi trở thành phàm nhân sống đời khổ sở như thế!”. Rồi chàng bỗng thấy đây không còn là chuyện khôi hài nữa. Lần đầu tiên trong đời, chàng hiểu ý nghĩa của ngày Lễ Giáng Sinh.
Ngoài trời, bão tuyết đã ngừng, và gió đã lặng. Trong tâm tư chàng, cơn bão hoài nghi cũng biến tan. Có một chút yên lành len lỏi vào tâm hồn chàng. Bỗng dưng, chàng quỳ gối xuống, chắp đôi tay lại. Lời kinh từ thuở tấm bé mà chàng đã được học bỗng nhiên khe khẽ rung trên bờ môi: “Con cám ơn Đức Chúa Trời… đã cho Ngôi Hai xuống thế làm người, chịu nạn chịu chết vì con…”.
Thiên Chúa làm người để cho con người làm con Thiên Chúa. Chúa cúi xuống thân phận loài người để dẫn loài người về bến bờ bình yên là hạnh phúc Nước Trời. Đàn ngỗng cần lắm một con ngỗng quen thuộc đường đi lối về mới có thể dẫn cả đàn thoát giông bão hiểm nguy. Ngôi Hai Thiên Chúa đã từ trời xuống trần, thế nên, chỉ mình Ngài mới có thể dẫn con người về với trời cao. Cũng như chiếc phi cơ phải hạ cánh thì mới đưa hành khách bay bổng lên trời. Không có sự xuống thế của Ngôi Hai Thiên Chúa thì không có cuộc về trời của con người.
Nhưng đâu là dấu chỉ về Con Thiên Chúa làm người? Làm sao con người có thể nhận ra đâu là Thiên Chúa qua thân phận con người? Năm xưa, các mục đồng đã nhờ thiên thần loan báo mà biết Con Thiên Chúa hạ sinh. Ba vua từ phương đông đã nhờ ánh sao dẫn đường để tới bái kiến Vua Trời giáng sinh. Chúa Giêsu đã nhờ Gioan để dọn đường và giới thiệu khi người đến.
Thiên Chúa đã làm người và ở cùng chúng ta. Ngài đang cần chúng ta là những mục đồng loan tin Chúa cứu thế hạ sinh. Ngài đang cần niềm tin của chúng ta phải tỏa sáng như ánh sao dẫn lối tha nhân đến với Chúa. Ước mong niềm vui giáng sinh được lan tỏa đến mọi người và mọi nhà nhờ vào ánh sáng niềm tin của chúng ta. Một niềm tin được tỏa sáng qua đời sống thanh thoát khỏi những đam mê tội lỗi, những trào lưu tục hóa đang thống trị thế giới. Một niềm tin trung kiên để từ khước những bổng lộc trần gian để sống trung tín với giới luật của Chúa. Một niềm tin sắt son để luôn lắng nghe và thực thi lời Chúa trong cuộc sống.
Chính nhờ đức tin ấy, lối sống đạo ấy mà chúng ta trở thành ánh sao dẫn lối cho muôn dân tìm gặp và tôn thờ Chúa. Amen.
71.Tỏa sáng bằng bác ái--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một bài hát sinh hoạt đã diễn tả con người như là một ánh sao sáng cho nhau. “Đếm ánh sao đêm tôi gọi người. Hồng xanh xanh hồng xanh trắng xanh. Ngôi sao xanh kia chính là anh. Ngôi sao vàng chính là chị đây. Không có ngôi sao nào là ngôi sao đen”.
Thực vậy, sao thì phải tỏa sáng. Sao có nhiệm vụ phá tan bóng đêm thì đương nhiên sẽ không có ngôi sao đen. Cuộc đời con người là “nhân chi sơ tính bản thiện” thì cũng phải tỏa sáng bằng những việc tốt, việc thiện. Con người đi trong tối tăm của sự ác, của tội lỗi là con người đang đánh mất căn tính thiện của mình. Con người chỉ là người khi sống theo lẽ phải, theo luân thường đạo lý mà Thượng Đế đã an bài.
Là người ky-tô hữu, Chúa Giê-su còn mời gọi chúng ta phải tỏa sáng bằng hành động yêu thương: “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau”. Yêu thương không phải trên đầu môi chót lưỡi, nhưng yêu thương biến thành hành động phục vụ. Việc phục vụ bác ái như màu cờ sắc áo, như ngọn đèn chiếu tỏa để mọi người xung quanh nhận ra chúng ta là môn đệ của Chúa Giêsu.
Phục vụ theo tinh thần ky-tô giáo là phục vụ vô vị lợi, phục vụ quảng đại mà không cần đền đáp như trong lời Bài Ca Phục Vụ, tác giả Mi Trầm đã trình bày: “Phục vụ là cho không, phục vụ là quên mình, phục vụ không đòi đền đáp, phục vụ ơn nghĩa không chờ”. Phục vụ với tinh thần là cho không, là quên mình ấy quả thực là một ngọn đuốc thiêng chiếu sáng cho thế gian còn đầy bóng tối của ích kỷ, của chia rẽ, của hận thù.
Ba Vua năm xưa đã nhờ ánh sao để đến triều bái Chúa. Muôn dân hôm nay rất cần ánh sao yêu thương nơi người tín hữu tỏa sáng để dẫn dắt anh em đến với Chúa. Nhưng tiếc thay, cuộc sống của chúng ta vẫn chưa phản chiếu tình yêu của Chúa ra bên ngoài. Chúng ta đã sống thiếu tình yêu, thiếu lòng bác ái, bao dung với nhau. Chúng ta vẫn còn mang thù hận, ghen tương với nhau. Nhiều người vẫn chưa có thiện cảm với đạo Công giáo vì chúng ta chưa sống tin mừng qua việc xây dựng tình hiệp nhất, công lý và bình an. Chúng ta vẫn sống chia rẽ, lỗi công bình, gây mất bình an qua lời nói châm chọc, kết án, bỏ vạ cáo gian anh em mình.
Đời sống của chúng ta dù ít dù nhiều luôn có ảnh hưởng trên người khác. Nhất là các bậc cha mẹ, thầy cô luôn tác động mạnh trên lối sống của con trẻ. Có biết bao gương lành của người lớn đã làm nên những con người phi thường cho nhân thế. Nhưng cũng có biết bao gương xấu của cha mẹ hay các nhà giáo dục đã làm cho biết bao con người sa đoạ hay lạc lối.
Xã hội luôn cần gương sáng để đẩy lùi bóng tối. Xã hội luôn cần những ánh sao sáng cho bầu trời thêm trong xanh. Xin cho đời sống chúng ta luôn là ánh sao dẫn về chân thiện mỹ tình thương. Xin đừng để những lối sống tội lỗi của chúng ta trở thành gương mù cho anh em. Amen.
72.Chúa Hài Nhi cần gì?--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Con người chúng ta thích sĩ diện nhưng lại bỏ quên đồng loại. Thích lễ hội nhưng bỏ qua công bình bác ái. Thích tiếng khen nhưng lại bàng quan với cái khổ của anh em. Thế nên, người xưa có câu:
“Sống thì chẳng cho ăn
Khi chết làm văn tế ruồi”.
Có một lần đi thăm bệnh nhân ở một vùng sâu miền núi. Bệnh nhân đau đã lâu và thấy trong nhà không có gì đáng giá ngoài con heo trong chuồng.Tôi hỏi chủ nhà sao không bán con heo lấy tiền chữa bệnh cho bà, để con heo làm gì?
Chủ nhà bảo: để con heo ấy phòng khi bà nó chết thì có cái mà mổ để đãi khách?
Rồi ông nói tiếp: "Ở quê nhà nào cũng phải vậy cha ạ".
Rồi ông kể: khi trong nhà có người già yếu bệnh nặng khó qua khỏi, con cháu trong nhà phải chuẩn bị trước một con heo nuôi trong chuồng. Nếu không nuôi heo kịp, có thể vay mượn heo của bà con họ hàng trong xóm mổ thịt trước, sau đó nuôi con heo khác trả nợ cũng được. Đây là truyền thống mình không làm thì họ cười cho...!
Có lẽ người bệnh sẽ không vui khi người thân lo xa mà không lo gần. Bỏ hình mà bắt bóng nên chẳng có giá trị trên tình người.
Hôm nay nhân ngày lễ Ba Vua, tôi nhớ tới câu chuyện được kể rằng: có một bé gái cùng với mẹ đi viếng hang đá. Bà mẹ giải thích cho em rằng ba nhà Đạo Sĩ dâng tiến của lễ cho Chúa Hài Nhi là vàng, nhũ hương và mộc dược. Cô bé nhìn Hài Nhi trong máng cỏ một cách cung kính rồi quay sang hỏi mẹ: Tại sao họ không mang đến cho Chúa Hài Nhi một cái giường nhỏvới mùng mền?
Quả thực, sự kiện Chúa Giêsu sinh ra nơi hang lừa, máng cỏ đã khơi dậy lòng trắc ẩn của tình người.Chúa đến trong nghèo nàn để mời gọi chúng ta cùng chia sẻ tâm tình với những người cùng khổ nghèo đói. Nhu cầu thực tế của cuộc sống là miếng cơm manh áo và nơi chỗ nương thân. Chúa Hài Nhi Giêsu đã chạm đến cái cùng cực của thân phận con người. Từ đó, Chúa mời gọi chúng ta: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy."(Mt 25, 40).
Và hôm nay Hài Nhi Giê-su vẫn đang giáng sinh nơi những mái gia đình có hoàn cảnh khó khăn và khổ đau.
Nơi đó có những con người đang thiếu thốn cái ăn, cái mặc, Chúa Hài Nhi đang mời gọi chúng ta hãy làm điều thiết thực là mang cơm ăn áo mặc hơn là những nhà hát ngàn tỉ hay những trung tâm tráng lệ, đền đài nguy nga.
Nơi đó có những con người đang đau khổ bởi đau ốm bệnh tật triền miên mà tiền thì lại thiếu. Chúa hài nhi đang mời gọi chúng ta hãy cúi xuống những mảnh đời bất hạnh ấy để cùng chung tay giúp họ vượt qua những lúc nguy nan.
Nơi đó có những người đang cô đơn ngay chính trong gia đình của mình, vì vợ chồng thiếu đối thoại và cảm thông, Chúa hài nhi đang mời gọi chúng ta hãy vì Chúa mà quan tâm tới nhau để chia sẻ gánh nặng cuộc đời cho nhau.
Nơi đó có những người đang ở tạm bợ nơi những khu nhà ổ chuột hay chỉ là phòng trọ chật hẹp đầy thiếu thốn, Chúa hài nhi đang mờ gọi chúng ta hãy tạo tình liên đới để không ai mặc cảm về những thiếu thốn của mình.
Vâng, Chúa đang hiển linh một cách cụ thể nơi những mái tranh nghèo đầy thiếu thốn. Chúa Hài Nhi đang mời gọi chúng ta đến triều bái Người, cùng dâng cho Người những phương tiện cuộc sống hơn là những đền đài nguy nga ngay giữa dân nghèo. Hãy sống thiết thực khi cho cơm, cho áo người nghèo hơn là những khu nhà cao sang lạnh vắng tình người. Hãy viếng thăm dân nghèo nơi chính mái tranh nghèo khó của họ hơn là đánh trống phô trương trong các ngôi nhà hội nghị máy lạnh xa hoa...
Ước gì mỗi người chúng ta hãy là những đạo sĩ dám dấn thân bước tới với những gia đình khổ đau nơi những mái nhà đơn sơ, chật hẹp, thiếu thốn để niềm vui Chúa giáng sinh được mang đến cho mọi người. Amen.
73.Đường đến với Chúa--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Cuộc sống người ta vẫn gọi là chốn ba đào. Cuộc sống chẳng mấy khi bình yên. Con người luôn phải tất bật vì cơm áo gạo tiền, vì công danh sự nghiệp, vì bổn phận với gia đình và xã hội. Có nhiều người cảm thấy cuộc sống mệt mỏi quá! Cuộc sống sao cứ đưa đến cho ta biết bao khó khăn thử thách! Những lúc ấy chúng ta cảm thấy mình đơn độc. Chúng ta cảm thấy mọi người bỏ mình để lại khó khăn cho một mình ta. Chính lúc ấy ta cũng cảm thấy Chúa cũng bỏ rơi. Làm sao có thể đến với Chúa, tin vào Chúa khi cuộc đời cứ trăm bề khổ đau?
Vâng, có bao giờ bạn cảm thấy như Chúa bỏ rơi bạn không? Dường như Chúa đi đâu vắng trong lúc bạn rất cần đến Ngài. Giữa những lúc túng ngặt về kinh tế hay đau yếu bệnh tật, bạn kêu cầu: Lạy Chúa, xin đừng để chuyện này xảy đến cho con. Nhưng chuyện vẫn xảy ra. Dường như lúc nào bạn cũng đứng về phe thua bại. Bạn hãy nghe câu chuyện sau đây:
Một người nằm mộng thấy mỗi lần mình đồng hành với Chúa đều thấy để lại trên bãi cát dấu chân của Chúa và của mình song hành nhau. Nhưng mỗi lần gặp bão tố, thì thấy chỉ có một dấu chân mà thôi.
Người ấy hỏi Chúa rằng:
Thưa Chúa! Tại sao lúc cuộc đời của con bình yên, thoải mái, êm đềm, con thấy hằn lên trên bãi cát dấu chân của Chúa và của con song song với nhau. Nhưng trong những lúc đời con gặp khó khăn, sóng to gió lớn dập vùi, đau khổ tối tăm, thì con chỉ thấy có một dấu chân của con hằn lên bãi cát mà thôi? Phải chăng đó là những lúc Ngài bỏ rơi con, để con một mình giữa trần gian giông tố? Phải chăng đó là lúc Ngài không còn quan tâm đến con và phó mặc con cho số phận cuộc đời?
Nhưng Chúa nhẹ nhàng trả lời rằng:
- Con ơi! Những dấu chân độc hành con thấy trên bãi cát trắng đó không phải là của con đâu! Đó là dấu chân của ta, ta bước đi một mình, còn con thì ta đã bồng ẵm vào lòng của ta.
Niềm tin vào Chúa mời gọi chúng ta hãy vững tin vì Chúa Giêsu đã từng nói: "Ta chẳng lìa con, chẳng bỏ con bao giờ" (Dt 13,5).
Như vậy, chúng ta có thể nói rằng: "Chúa hằng hữu bênh vực tôi, tôi còn sợ loài người làm chi tôi nữa" (Tv 118,6).
Hôm nay lễ Ba Vua cho chúng ta nhìn lại hành trình đến với Chúa của Ba Vua. Đó là hành trình vượt ngàn gian khổ. Gian khổ về địa lý đồi núi, hiểm trở xa cách ngàn trùng. Gian khổ vì bế tắc đôi khi không biết mình đi đâu? Hỏi đường thì gặp các Vua Chúa quan quyền thâm độc nguy hiểm. Giữa những bơ vơ cuộc đời họ lại được ánh sáo dẫn dắt đưa đường. Dù là ánh sao lẻ loi nhưng cũng cho họ niềm tin và nghị lực.
Ánh sao đó định hướng cho Ba Vua tìm gặp vị quân vương mới sinh. Ánh sao đó cho Ba Vua niềm tin để bước đi. Khi có niềm tin và hy vọng gặp được Chúa thì mọi lo âu, ưu phiền hay gian khổ cũng sẽ qua. Vì cuối hành trình ta luôn gặp được Đấng mà ta tôn thờ.
Vâng thưa anh chị em, con đường đến với Chúa, tìm gặp Chúa luôn gặp khó khăn nhưng không có đường cùng nhất là còn có Chúa đồng hành. Chúa sẽ cho ta những ánh sao là những ân nhân, những phương tiện để giúp chúng ta vượt qua. Hãy tin tưởng và bước đi theo ánh sao là tiếng nói của con tim yêu mến Chúa trên hết mọi sự, của lương tâm ngay thẳng, của lòng trung kiên với Chúa.
Hành trình cuộc đời nào cũng có khó khăn. Con đường nào cũng có gian khổ. Hãy tin rằng cuối chân trời ta luôn có Chúa. Hãy tin tưởng vào sự dắt dắt của Chúa mà mạnh dạn bước đi. Hãy phó thác đường đời trong tay Chúa. Chính Ngài sẽ nâng đỡ và phù giúp đời ta.
Xin cho chúng ta luôn tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa mà bước đi theo thánh ý Thiên Chúa. Ước gì cuộc đời ta luôn có ánh sao dẫn dắt để ta đi theo con đường của Chúa, con đường của tin yêu và hy vọng. Amen.
74.Thắp đèn cho ai?--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một anh mù đến nhà cậu bạn chơi. Khi trời tối, anh muốn về nhà, người bạn liền thắp một chiếc đèn lồng, đưa cho anh rồi bảo: “Ngoài trời tối rồi, anh cầm cái đèn này đi cho sáng nhé”.
Anh mù nghe vậy tức giận nói: “Sao cậu lại nói vậy. Rõ ràng ai cũng biết tôi bị mù. Tôi cầm đèn lồng để soi đường không phải để người đời cười nhạo sao?”.
Người bạn nhẹ nhàng giải thích: “Anh hiểu lầm ý của tôi. Vì tôi nghĩ giờ này rất nhiều người cũng đi trên đường. Anh cầm đèn lồng, người khác có thể nhìn thấy anh, vì vậy sẽ không thể đụng vào anh được”.
Anh mù nghĩ một lát rồi nói: “Ừ, cậu nói có lý. Cảm ơn nhé! Tôi về đây”.
Hóa ra thắp đèn sáng không hẳn cho mình mà còn cho người khác. Ở đâu đó trong một góc khuất có ánh đèn sáng sẽ làm cho khách bộ hành an tâm. Ở đâu đó có ngọn hải đăng sẽ làm cho người đi biển biết hướng về bình an.
Nếu hiểu rằng mỗi người là một ánh sao thì cuộc đời chúng ta cũng cần được thắp lên để mang lại bình an hạnh phúc cho tha nhân. Ở tuổi thiếu niên chúng ta vẫn hát với nhau về một niềm mơ ước rằng:
"Đếm ánh sao đêm tôi gọi người,
Hồng xanh xanh hồng xanh xám xanh.
Ngôi sao xanh chính là anh đó,
Ngôi sao vàng đó của chị đây.
Không có ngôi sao nào là ngôi sao đen."
Chúng ta mơ ước mình là một ánh sao. Ánh sao thì có đủ màu. Ánh sao thì luôn tỏa sáng. Không bao giờ có ánh sao đen. Nếu ý thức mình là những vì sao trên trời, chúng ta phải sống cuộc sống của những vì sao: thoải mái trong một không gian mênh mông và chiếu tỏa ánh sáng ra chung quanh tùy theo sức sáng mình có. Đất đáthì sống cuộc đời chật hẹp, tăm tối, kèn cựa nhau, nhưng những vì sao thì sống thanh thoát, vừa thi đua tỏa sáng vừa tôn trọng sự sáng của nhau.
Hành trình Ba Vua đến gặp hài nhi Giê-su cũng cần một ánh sao dẫn lối. Tuy hành trình cũng có lúc bế tắc vì không có ánh sao nhưng với sự kiên nhẫn họ đã vượt qua. Họ từng lần mò trong thành phố nhưng chỉ gặp những người chỉ đường đầy toan tính, vụ lợi. Họ thất vọng vì giữa thủ đô lại thiếu một ánh sao thanh thoát tô thêm vẻ đẹp cho bầu trời. Nhưng họ không bỏ cuộc. Họ tiếp tục lần mò trong bóng đêm của thế giới đầy tội ác. Và rồi sự kiên trì đã được đền đáp. Ánh sao lại xuất hiện dẫn họ đến triều bái Hài Nhi mới giáng sinh nơi hang đá Belem.
Cuộc đời hôm nay vẫn có những người đang đi tìm chân lý, tìm lẽ sống. Có rất nhiều người đang mong mỏi có một ánh sao dẫn lối đưa đường cho họ. Họ cần nơi người tín hữu hãy sống thanh thoát như những vì sao không bon chen ngụp lặn trong bóng tối tham lam, ghen ghét, lừa đảo. Họ cần người tín hữu tỏa sáng giữa bầu trời ích kỷ này một ánh sáng bác ái vị tha.
Vâng giữa một thế giới mà bóng tối của thù hận, ghen ghét, tham lam, lừa đảo và hưởng thụ thì rất cần một ánh sao sáng giúp con người biết nhìn nhận nhau là anh em để rồi biết sống kính trọng và yêu thương nhau hơn. Giữa một thế giới đang khao khát gương sáng cũng đòi hỏi người ky-tô hữu hãy tỏa sáng phúc âm để mang tình yêu và hy vọng cho nhân gian.
Ước gì từng người chúng ta hãy trở thành ánh sao sáng để xóa tan bóng đêm của tội lỗi. Xin đừng vì ích kỷ và đam mê mà dập tắt ánh sáng tình thương nơi họa ảnh Thiên Chúa là con người chúng ta. Amen.
75.Mỗi người là một ánh sao cho nhau--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Người ta vẫn thường ví von mỗi người là một ánh sao. Mỗi một con người sẽ tương ứng với một ánh sao trên trời. Bài hát sinh hoạt thiếu nhi cũng ví von: con người là một ánh sao, có ánh sao xanh, có ánh sao hồng nhưng không có ngôi sao nào là ngôi sao đen. Bởi vì công dụng của sao là toả sáng, là soi dẫn, thế nên phải là ánh màu lung linh, không thể là ngôi sao đen giữa đêm tối nên sẽ chẳng có tác dụng gì với con người.
Hôm nay, ba vua cũng nhờ một ánh sao dẫn lối đưa đường đến triều bái Đấng cứu tinh nhân loại. Ánh sao đã dẫn họ đến hang Belem, nơi hài nhi, Con Vua Trời mới hạ sinh. Họ đã tin vào ánh sao để nhận ra thân phận vị cứu tinh nhân trần từ chính khung cảnh nghèo nàn của kiếp người. Họ đã tin vào ánh sao để có thể cúi mình thờ lạy một hài nhì yếu ớt con của một gia đình nghèo khó. Họ đã nhờ ánh sao để tìm thấy chân lý trong nghịch cảnh đời sống.
Vâng, Đấng cứu tinh mà họ mong gặp là một hài nhi được bọc trong khăn, đặt nằm trong máng cỏ. Đấng ấy đáng lẽ phải được toàn dân Giê-ru-sa-lem đón chào như vị cứu tinh duy nhất của họ, nhưng lạ lùng thay, họ không chỉ thờ ơ mà còn muốn loại trừ. Ngay cả những con người được coi là người quyền cao chức trọng vẫn không thể gặp được Ngài. Các luật sĩ chỉ thao thức về lề luật. Các thượng tế chỉ nhạy bén về đền thờ. Các kỳ lão chỉ lo về truyền thống. Hê-rô-đê thì tìm kiếm nhưng không phải để triều bái mà là để tìm cách huỷ diệt.
Chỉ có các mục đồng và các đạo sĩ đã tìm gặp được Đấng Cứu Thế. Họ là đại diện cho những con người thành tâm thiện chí đi tìm chân lý và khao khát an bình. Họ đã nhận ra thân phận hài nhi yếu đuối nằm trong máng cỏ lại là Vua Cả Trời Đất. Đấng phải đến trong thế gian để đem lại công lý và hoà bình cho trần gian.
Ánh sao từ trời cao hôm nay vẫn chiếu xuống nhân trần. Ánh sao hôm nay vẫn là ý Chúa mà con người phải thực hiện, vẫn là tiếng nói lương tâm mời gọi con người sống ngay lành, đừng làm điều dữ, đừng sống quanh co giả dối. Hãy từ bỏ lối sống đam mê lầm lạc của bóng tối tội lỗi để bước đi trong ánh sáng lề luật. Nhưng tiếc thay, nhiều người vẫn sống chai lỳ trong bóng tối tội lỗi. Biết bao bạn trẻ vẫn lao mình trong những đam mê lầm lạc của xì-ke ma tuý và thác loạn. Biết bao người vì danh lợi thú trần gian mà đánh mất lương tri con người. Biết bao người vì đam mê bất chính mà sống thiếu trách nhiệm với gia đình và bản thân. Biết bao người vẫn tìm kiếm thú vui trần thế mà bán rẻ nhân cách, nhân phẩm của chính mình.
Sứ điệp của ngày lễ hiển linh còn là tiếng mời gọi con người hãy là ánh sáng của nhau. Ánh sáng của con người ngay thẳng, không gian tham, xảo quyệt. Ánh sáng của bác ái yêu thương để đối xử khoan dung nhân ái với nhau. Thế giới hôm nay rất cần ánh sáng của niềm tin để xoá tan nghi kỵ, hiểu lầm. Ánh sáng của tình yêu để cảm thông nâng đỡ nhau. Ánh sáng của bao dung để xoá bỏ hận thù, chiến tranh. Ánh sáng ấy cần tỏ hiện trong từng gia đình. Nơi mà các thành viên cần phải là ánh sáng để dẫn dắt nhau. Nơi gia đình không thể thiếu ánh sáng niềm tin, tình yêu và tha thứ. Cần có ánh sáng của niềm tin để mọi người tin tưởng lẫn nhau. Không có niềm tin gia đình sẽ không có thuận hoà, chỉ có đố kỵ và ghen tương. Gia đình cần có ánh sáng tình yêu và tha thứ để mọi người biết cảm thông và nâng đỡ nhau, hầu giúp nhau sống đúng phẩm giá làm người và làm con Thiên Chúa.
Ước gì đời sống của người ky-tô hữu chúng ta luôn toả sáng những hành vi bác ái, yêu thương, những nghĩa cử nhân ái bao dung để nâng đỡ những ai đang cô đơn, thất vọng, đang sống trong cảnh lầm than tìm được niềm vui và hạnh phúc trong cuộc sống. Amen.
76.Gặp Chúa--Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Một cậu bé lần nọ quyết định sẽ đi gặp bằng được Thiên Chúa. Cậu biết rằng chuyến đi sẽ dài và vất vả lắm nên xếp vào túi xách bánh và thức uống.
Khi đã đi qua ba dãy phố, cậu bé gặp một bà lão. Bà ngồi trong công viên, đôi mắt dừng lại ở những chú chim bồ câu. Cậu bé đến ngồi cạnh bà và mở túi xách của mình. Hình như bà lão đang đói, cậu bé nhận ra điều này và mời bà một chiếc bánh. Bà lão cười với cậu. Nụ cười dịu dàng đến nỗi cậu bé muốn nhìn thấy nó hiện ra một lần nữa. Cậu lại mời bà thức uống. Nụ cười lại hiện ra trên khuôn mặt phúc hậu của bà làm cậu cảm nhận được sự ấm áp. Họ ngồi suốt buổi chiều ăn uống và không nói một lời.
Mãi đến khi trời sụp tối cậu bé mới rời chỗ. Rồi bất ngờ cậu quay lại, chạy đến chỗ bà lão và ôm lấy bà từ biệt. Món quà mà bà lão đã tặng cho cậu là nụ cười đẹp và rộng mở nhất của mình.
Khi cậu bé mở cửa vào nhà, người mẹ vô cùng ngạc nhiên vì nét rạng rỡ còn ngập tràn trong ánh mắt cậu: - Điều gì hôm nay đã làm con hạnh phúc vậy?
Cậu bé đáp:
- Con đã ăn trưa với Chúa. Mẹ biết không, Chúa có nụ cười tuyệt đẹp trên đời!.
Trong khi đó bà lão cũng bừng tỉnh với niềm vui và trở về nhà. Đứa con trai nhận ra vẻ thanh thản trên gương mặt mẹ và hỏi:
- Điều gì hôm nay đã làm mẹ hạnh phúc?
Bà lão đáp:
- Mẹ đã ăn bánh cùng với Chúa bên cạnh những chú chim bồ câu. Con biết không, Chúa trẻ trung hơn chúng ta ngỡ rất nhiều.
Khi làm người, Con Thiên Chúa đã sinh ra trong thân phận người nghèo. Ngài đã chọn chốn hang bò lừa làm nơi để sinh. Ngài đã chọn gia đình nghèo làm gia đình của mình. Ngài đã hoà mình như bao người lao động nghèo làng quê Nagiaret. Ngài đã sống một cuộc đời nghèo khó đến độ không có nơi gối đầu. Ngài còn tự đồng hoá mình với những mảnh đời bất hạnh lầm than. Ngài còn hứa ban hạnh phúc Nước Trời cho những ai đón nhận Ngài qua những người đói, rách, tù đầy...
Cậu bé trong câu chuyện đã tìm gặp Chúa nơi bà lão nghèo ngoài công viên. Và bà lão cũng tìm gặp được Chúa qua tình yêu của cậu bé dành cho bà. Có thể nói tình yêu đã nối kết họ nên một trong tình yêu Chúa. Tình yêu đã giúp họ nhận ra Chúa nơi người mình đang tiếp xúc. Ước mơ của cậu bé là mong được nhìn thấy Chúa đã thành hiện thực khi cậu trao ban miếng bánh thơm ngon cho bà lão. Cậu cũng đâu ngờ rằng tình yêu của cậu làm cho bà lão nhận ra Chúa đang hiện diện nơi tấm lòng nhân ái của cậu.
Năm xưa, ba nhà đạo sĩ đã tìm gặp Chúa không phải nơi cung điện nguy nga, nhưng lại là nơi đồng hoang mông quạnh. Họ đã gặp vị quân vương vừa mới hạ sinh nơi máng cỏ hôi tanh của đám bò lừa. Họ đã bái quỳ trước một hài nhi bé nhỏ con của một gia đình nghèo khó. Họ đã dâng cho hài nhi những lễ vật quý giá là vàng, nhũ hương và mộc dược, tượng trưng cho quyền bính của vị quân vương.
Hôm nay, Chúa vẫn đang hiện diện giữa chúng ta qua tha nhân là hình ảnh của Chúa. Chúa còn hiện diện cách đặc biệt qua những người nghèo khó, những người già neo đơn, những người đau yếu đang sống trong cô đơn tuyệt vọng. Chúa vẫn đang mời gọi chúng ta dâng cho Chúa tình yêu hiến thân phục vụ tha nhân một cách quảng đại. Chúa vẫn đang mời gọi chúng ta hãy nhận ra Chúa nơi anh em đang sống bên cạnh chúng ta. Chúa vẫn mời gọi chúng ta hãy dâng tặng cho Chúa món quà quý hoá nhất chính là tấm lòng biết yêu thương.
Ước gì mỗi người chúng ta biết dâng tặng cho Chúa món quà của yêu thương để mang lại niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân. Amen.
77.Một vì sao xuất hiện--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Tình cờ tôi được nghe hai cô gái nói chuyện
Cô A: Hình như bạn và anh ấy đã chia tay?
Cô B: Chúng mình không hợp nên chia tay rồi
Cô A: Thế cái thai trong bụng của bạn thì sao?
Cô B: Mình bỏ rồi...
“Mình bỏ rồi” sao nghe dễ dàng thế! Yêu nhau có thai - không cưới - rồi bỏ. Hóa ra thai nhi chỉ là một vật bên ngoài tình yêu. Còn yêu nhau thì giữ nếu chia tay thì bỏ. Hóa ra sự sống thai nhi chẳng có giá trị gì khi họ không còn yêu nhau. Xem thường giá trị sự sống người ta cũng lạnh lùng vứt bỏ nếu không thấy có lợi cho bản thân của họ. Cho dù thai nhi vô tội nhưng để trả thù người yêu, để che dấu người đời, để tránh nghèo đói... người ta vẫn đang tâm vứt bỏ các thai nhi.
Tại Bình Lâm có nghĩa trang Thai Nhi mà chúng tôi đặt tên là “Vườn Thánh Thai Nhi”. Vườn thánh được thành lập ngày 04.03.2011 tới nay đã chôn cất gần 3000 thai nhi. Đây là một làng quê rất yên bình gồm những con người nông dân hiền hòa chất phác sao bỗng dưng lại ác độc đến lạ thường. Mỗi ngày trung bình có 10 bà mẹ giết hại các thai nhi. Nhìn các thai nhi có khi chỉ là một giọt máu bọc trong khăn cũng khiến chúng ta đau lòng. Sao lại nhẫn tâm thế. Các thai nhi là giọt máu của họ cơ mà? Sao lại cạn tình đến vứt bỏ giọt máu đào của mình!
Có đôi lần tôi hỏi một vài bà mẹ: Tại sao lại bỏ con. Người thì bảo tại nhà đông con quá rồi. Người thì bảo tại nhà nghèo. Kẻ thì bảo tại chồng không thương. Hóa ra chỉ vì trẻ nhỏ này sinh ra không có lợi cho mình nên cam tâm dứt bỏ.
Chúa Giê-su cũng từng là tâm điểm để người ta chống đối, gạt bỏ. Họ là những Hê-rô-đê sợ mất ngai vàng. Họ là những biệt phái luật sĩ sợ bị phơi bày ra ánh sáng việc làm giả hình của họ. Họ là những người dân quê thiếu hiểu biết lại hùa theo đám đông để kết án Chúa.
Hoàn cảnh của Chúa Giê-su cũng giống như hoàn cảnh của các thai nhi hôm nay. Người đời có muôn ngàn lý do để gạt bỏ quyền sống của các thai nhi vô tội! Người đời cũng có muôn vàn cách để loại trừ một mầm sống thật thánh thiện trong sáng như các vì sao trên trời.
Thế nhưng, giữa một không gian đầy sự dữ ấy vẫn còn có những con người lặng lẽ đi tìm hài nhi Giê-su. Họ là các đạo sĩ từ phương đông. Họ nhìn thấy hài nhi không phải là một gánh nặng mà là một quân vương. Họ đến để triều bái hài nhi.
Ở Mỹ người ta nói: “Mỗi một trẻ nhỏ đều có thể là một tổng thống Hoa Kỳ”. Nếu ở đời người ta đều nhìn trẻ nhỏ với một tương lai tốt như thế có lẽ sẽ không còn những nghĩa trang thai nhi đông đảo như hôm nay. Nếu con người biết nhìn các thai nhi với cái nhìn tích cực thì sẽ bớt đi những tội ác giã man mà con người hôm nay đang hành động trên sự sống của các thai nhi.
Chúa hiển linh trong thân phận một hài nhi. Ngài muốn mời gọi con người hãy tôn trọng sự sống, hãy bảo vệ sự sống. Ngài muốn nhắc nhở rằng chính Ngài vẫn đang hiển linh nơi những hài nhi nhỏ bé đang hiện diện trước mặt chúng ta. Ước gì chúng ta biết nhìn các thai nhi như các vì sao trên trời luôn chiếu sáng, luôn mang lại lợi ích cho cuộc sống để nhờ đó chúng ta yêu quý sự sống, bảo vệ sự sống và đón nhận sự sống như món quá Chúa ban. Xin đừng nhìn các thai nhi là gánh nặng để rồi tẩy chay hay vứt bỏ. Amen.
78.Truyền giáo--Lm Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Trước đây chúng ta quen gọi lễ hôm nay là lễ Ba Vua. Các ông ấy có phải là vua không? Không phải, họ chỉ là những nhà quý phái thuộc về hoàng tộc, vì nếu họ là vua thì không lý gì mà vua Hê-rô-đê lại không biết đến xuất xứ của họ. Đàng khác, nếu họ là vua thì không thể ra đi âm thầm như vậy, mà phải có tiền hô hậu hét với nhiều người hộ tống và với lễ nghi ngoại giao đàng hoàng. Một lý do nữa chứng tỏ họ không phải là vua, đó là căn cứ vào nghề nghiệp của họ, là nghề thiên văn. Ở vào thời đó chỉ có các nhà quý tộc mới ưa thích và chuyên về thiên văn. Tóm lại, họ chỉ là các đạo sĩ, học rộng, hiểu biết nhiều về chiêm tinh, nên có thể gọi họ là những nhà chiêm tinh như thuật lại trong Tin Mừng.
Một điều nữa, có ba ông hay nhiều hơn? Tại Xy-ri và Ác-mê-ni, người ta nói có 12 ông, chúng ta thường kể có ba ông, hoặc là căn cứ vào ba sắc dân được nói đến trong sách ngôn sứ Isaia, hoặc là vì lễ vật tiến dâng có ba thứ là vàng, mộc dược và nhũ hương. Nhưng theo chuyện kể, họ đã gây ảnh hưởng xôn xao cho cả thành Giê-ru-sa-lem, thì có lẽ đông hơn số ba. Tin Mừng chỉ nói “có mấy nhà chiêm tinh”, tức là ở số nhiều, chứ không nói rõ bao nhiêu. Đến thế kỷ IX, người ta coi như quả quyết có ba ông và đặt tên cho một ông là Gát-pa, đại diện cho dân da vàng, một ông là Ban-tha-sa, đại diện cho dân da đen, một ông là Men-ki-o, đại diện cho dân da trắng. Nhưng điều quan trọng không phải là xác định họ là vua hay không phải là vua, có ba ông hay nhiều hơn, mà chính là hãy nhìn họ như hình ảnh sống động của tất cả những ai trong đời đã có một lòng khao khát chân thành tìm kiếm Thiên Chúa, khởi đi từ những thiện hảo tốt lành, nghĩa là họ là dân ngoại, từ xa xôi, không biết Kinh Thánh, nhưng lại chân thành và sẵn sàng vượt qua những chặng đường gian khổ để tìm gặp Chúa, trong khi đó dân Do Thái ở gần, hiểu biết Kinh Thánh, lại không mảy may kiếm tìm.
Mặc dầu cách gọi Ba Vua vẫn giữ nguyên giá trị cổ kính, nhưng ngày nay phụng vụ sử dụng tên gọi Hiển Linh để làm nổi bật ý định mầu nhiệm chung nhất của Thiên Chúa trong mùa Giáng Sinh, đó là Ngài muốn tỏ mình ra cho tất cả mọi người, mọi thời, bất luận họ là ai và ở đâu, miễn là họ biết chân thành kiếm tìm Ngài. Vì thế, đây không chỉ là một biến cố của ngày đã qua mà còn là một sứ điệp của ngày hôm nay và cho những ngày sẽ tới, Chúa vẫn tỏ mình, nhưng vấn đề là người ta có thiện chí đến gặp Ngài không.
Thực vậy, Hiển Linh có nghĩa là Thiên Chúa tỏ mình ra, cụ thể ở đây Chúa tỏ mình ra cho các dân tộc ngoài Do Thái. Đúng vậy, Thiên Chúa không chỉ tỏ mình cho dân Do Thái, Ngài còn tỏ mình cho các dân tộc khác, vì Ngài muốn cứu độ mọi người chẳng trừ ai. Đối với các nhà chiêm tinh phương Đông là đại diện cho dân ngoại, Ngài đã dùng một ngôi sao lạ để mời họ lên đường đi gặp Đấng Cứu Độ. Họ đã sẵn sàng mang theo lễ vật lên đường theo ánh sao để đi tìm Chúa, không quản gian nan vất vả, không ngại đường xa vô định, không sợ phải hy sinh công sức, thời giờ và tiền bạc, không nản chí thất vọng khi gặp trở ngại dọc đường. Chính vì đầy thiện chí như vậy nên cuối cùng họ đã gặp được Chúa.
Ngày nay, Thiên Chúa vẫn ngỏ lời với những ai chưa biết Ngài bằng nhiều cách khác nhau, Ngài vẫn làm sáng lên muôn ánh sao, không phải ở trên trời cao, nhưng ở trong lòng người. Ánh sao đó có thể là một lý tưởng, một khát vọng mãnh liệt, khát vọng sự thật, tự do, ấm no, hạnh phúc...Ánh sao đưa con người lên đường tìm kiếm, nếu có thiện chí họ sẽ gặp được Chúa.
Đối với chúng ta cũng vậy, dù chúng ta đã gặp Chúa, dù chúng ta đã được rửa tội, dù chúng ta đã gia nhập Giáo hội, chúng ta vẫn còn phải đi tìm Chúa, cuộc đời chúng ta luôn là một cuộc lên đường theo ánh sao, và Chúa vẫn luôn gửi tới chúng ta nhiều dấu chỉ như những ánh sao để chỉ dẫn cho chúng ta. Ánh sao đó có thể là những biến cố vui buồn của cuộc sống, có thể là những người sống quanh chúng ta, có thể là một lời dạy dỗ, nhủ khuyên, có thể là một gương sáng chúng ta được nghe, được thấy. Nhưng muốn nhìn những điều tốt đẹp đó như ánh sao của Chúa, chúng ta phải chuẩn bị tâm hồn như những thửa đất đã cày bừa dọn sạch gai góc, sỏi đá, sẵn sàng đón nhận hạt giống tốt. Phải biết tìm hiểu ý Chúa nơi mỗi biến cố trong cuộc sống và cố gắng thực hiện những gợi ý Chúa gửi tới.
Đàng khác, chúng ta vừa là người đi tìm kiếm vừa là ánh sao cho người khác đi tìm Chúa. Đúng vậy, mỗi Kitô hữu luôn phải là một ánh sao: lời nói, việc làm, cách xử thế của mỗi người phải nên gương mẫu cho bạn bè, cho người còn xa cách Chúa. Một nụ vười, một ánh mắt, một lời khích lệ, một sự cảm thông, chia sẻ, giúp đỡ… là những ánh sao đưa anh em về với Chúa. Như vậy, lễ Hiển Linh cũng nhắc nhở chúng ta về việc truyền giáo.
Xưa kia, Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho các nhà chiêm tinh bằng ánh sao lạ, chính nhờ ánh sao ấy các ông đã đi tìm và gặp thấy Chúa Giêsu giáng sinh để thờ lạy. Từ đó Thiên Chúa vẫn tiếp tục tỏ mình ra cho nhân loại để con người nhận biết sự thật và đón nhận sự sống. Cũng như ngày xưa, Thiên Chúa đã mời gọi các ngôn sứ cộng tác, cũng như Đức Kitô đã mời gọi các môn đệ cộng tác, ngày nay Ngài cũng mời gọi chúng ta cộng tác vào công cuộc cao cả ấy. Vẫn cần có những ánh sao để chỉ đường dẫn lối cho những người khác gặp thấy Chúa. Người Kitô hữu được mời gọi trở thành những ánh sao cho những người chung quanh ngay trong cuộc sống bình thường hằng ngày của mình, để trong sinh hoạt bình thường ấy, người ta có thể gặp được những tín hiệu dẫn đưa đến Thiên Chúa, đó là ánh sao của cho đi, của quên mình, của bác ái, của phục vụ… những ánh sao đó có sức tỏa sáng giúp ngưới ta nhận ra Thiên Chúa, nhận ra tình thương của Ngài.
79.Chúa tỏ mình--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng
Trước đây chúng ta gọi ngày lễ hôm nay là lễ Ba Vua, đây là cách gọi quen thuộc đối với giáo dân Việt Nam để nói về việc các nhà chiêm tinh phương Đông tìm đến Bê-lem viếng Chúa Hài Đồng. Gọi là vua vì họ mặc phẩm phục như các vị đế vương, và xác định là ba người, vì có ba sắc dân được nói đến trong sách ngôn sứ Isaia, mà cũng vì lễ vật tiến dâng có ba thứ rõ ràng là vàng, nhũ hương và mộc dược như Tin Mừng thuật lại. Cứ thế, theo truyền thống, Ba Vua trở nên tên gọi cho ngày lễ.
Nhưng điều quan trọng không phải là xác định họ là vua hay không phải là vua, họ có ba vị hay bao nhiêu vị, mà chính là hãy nhìn họ như hình ảnh sống động của tất cả những ai trong đời đã có một lòng khao khát chân thành tìm kiếm Thiên Chúa khởi đi từ những thiện hảo tốt lành, nghĩa là họ là dân ngoại từ xa, không biết Kinh Thánh, nhưng lại chân thành và sẵn sàng vượt qua những chặng đường gian khổ để tìm gặp Chúa, trong khi đó dân Do Thái ở gần, hiểu biết Kinh Thánh, lại không mảy may kiếm tìm.
Mặc dầu tên gọi Ba Vua vẫn giữ nguyên giá trị cổ kính, nhưng ngày nay Phụng vụ sử dụng tên gọi Hiển Linh để làm nổi bật ý định mầu nhiệm chung nhất của Thiên Chúa trong Mùa Giáng Sinh, đó là Ngài muốn tỏ mình ra cho tất cả mọi người, mọi thời, bất luận họ là ai và ở đâu, miễn là họ biết chân thành kiếm tìm Ngài. Vì thế, đây không chỉ là một biến cố của ngày đã qua mà còn là một sứ điệp của ngày hôm nay và cho những ngày sẽ tới, Chúa vẫn tỏ mình, nhưng vấn đề là người ta có thiện chí đến gặp Ngài không.
Trong một tập truyện ngụ ngôn xuất bản gần đây, một linh mục đã tưởng tượng ra một câu chuyện như sau: có một người đạo đức kia ước ao được xem thấy Chúa trước khi chết, ngày ngày bà ăn chay, cầu nguyện để ước nguyện này được Chúa nhận lời. Thế là một đêm nọ trong một giấc mơ, bà được Chúa cho biết sẽ đến thăm bà, suốt ngày hôm sau, bà quét dọn và trang hoàng nhà cửa để đón rước Chúa, thế nhưng bà chờ mãi mà không thấy Chúa đến.
Trong đêm kế tiếp, có tiếng Chúa hỏi: tại sao bà không tiếp đón Ngài? Người đàn bà trả lời bà đã chờ đợi Chúa ở cửa trước. Chúa cho bà biết Chúa đã chờ đợi ở cửa sau. Ngày hôm sau, người đàn bà lại chờ đợi Chúa ở cửa sau, nhưng bà vẫn không thấy bóng dáng Chúa. Đêm đến lại có tiếng Chúa hỏi tại sao bà không đón tiếp Chúa, bởi vì Ngài đến qua các cửa sổ. Suốt ngày hôm sau, người đàn bà hết ra cửa trước lại về cửa sau và nhìn qua các cửa sổ, nhưng bà cũng không hề thấy tăm hơi của Chúa. Đêm đến, bà lại nghe có tiếng nói của Chúa, và lần này Chúa bảo bà hãy tìm Ngài bên giếng sau nhà. Cũng thế, người đàn bà đã chạy ra bờ giếng, nhưng cũng không thấy Chúa đâu. Không còn đủ kiên nhẫn nữa, bà đã trách Chúa tại sao lại chơi trò cút bắt với bà. Bấy giờ Chúa mới nói: “Nếu con định đón rước Ta ở một nơi nào đó thì mãi mãi sẽ không bao giờ thấy Ta ở đâu cả, thay vì tìm kiếm khắp nơi, con hãy mở mắt tâm hồn và con sẽ thấy Ta”.
Đêm đó, người đàn bà không còn nghe thấy tiếng Chúa nữa, nhưng chung quanh mình, bà chỉ thấy bóng đêm dầy đặc, nhưng chính lúc đó, khi con mắt tâm hồn bà đã được mở rộng, bà đã nhìn thấy Chúa ở khắp mọi nơi. Đúng vậy, chúng ta chỉ có thể thấy Chúa bằng con mắt tâm hồn mà thôi, nếu tâm hồn chúng ta rộng mở, nếu tâm hồn chúng ta trong sạch, nghĩa là không bị ngăn chặn bởi bất cứ bức tường nào của dục vọng, của đam mê, ích kỷ, tiền bạc…thì chúng ta có thể thấy Chúa ngay cả trong mỗi người chúng ta gặp gỡ.
Xưa kia Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho ba nhà chiêm tinh bằng ánh sao lạ, chính nhờ ánh sao này, các ông đã đi tìm và đã gặp được Chúa Giêsu giáng sinh để thờ lạy. Từ đó Thiên Chúa vẫn tiếp tục tỏ mình ra cho nhân loại để con người nhận biết sự thật và đón nhận sự sống. Cũng như ngày xưa Thiên Chúa đã mời gọi các ngôn sứ cộng tác, cũng như Chúa Giêsu đã mời gọi các môn đệ cộng tác, ngày nay Ngài cũng mời gọi chúng ta cộng tác vào công cuộc cao cả ấy, vẫn cần có những ánh sao để chỉ đường dẫn lối cho những người khác gặp thấy Chúa. Người Kitô hữu được mời gọi trở thành ánh sao cho những người chung quanh ngay trong cuộc sống bình thường hằng ngày của mình, để trong sinh hoạt bình thường ấy, người ta có thể gặp được những tín hiệu dẫn đưa đến Thiên Chúa, đó là ánh sao của cho đi, của quên mình, của bác ái, của phục vụ…những ánh sao đó có sức tỏa sáng, giúp người ta nhận ra Thiên Chúa, nhận ra tình thương của Ngài.
80.Ngôi sao sáng--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Hiển Linh có nghĩa là Thiên Chúa tỏ mình ra. Cụ thể ở đây là Chúa tỏ mình ra cho các dân tộc ngoài Do Thái, qua các đạo sĩ phương Đông mà trước kia chúng ta quen gọi là ba vua. Khi Thiên Chúa tỏ mình ra cho loài người thì thường Chúa dùng những hình ảnh khả giác, tức là những hình ảnh mà giác quan con người có thể nhận biết được. Chẳng hạn: lửa trong bụi gai đối với ông Mô-sê; cột mây cột lửa đối với dân Do Thái...Có khi Chúa lấy hình người nam như trường hợp với ông Áp-ra-ham, hay chỉ có tiếng nói như trường hợp với Xa-mu-en v.v...
Ở đây Chúa tỏ mình ra cho các đạo sĩ phương Đông xa xôi chưa biết Chúa, Chúa dùng ngôi sao. Một hiện tương phù hợp với khuynh hướng và sự hiểu biết của họ. Người ta đã bàn tán quá nhiều về ngôi sao lạ mà các đạo sĩ phương Đông đã thấy và người ta tìm cách đồng hóa với ngôi sao nọ ngôi sao kia. Có người cho đó là một ngôi sao bình thường, tự nhiên xuất hiện, tạm biến đi, rồi lại xuất hiện, như sao chổi chẳng hạn, mấy chục năm xuất hiện một lần. Ông Kép-lơ, một nhà thiên văn nổi tiếng, sống ở thế kỷ VII, cho rằng: ngôi sao đó là hiện tượng do Mộc Tinh và Thổ Tinh giao nhau ở đường hoàng đạo, chòm Song Ngư. Hiện tượng này ông Kép-lơ tính đã xảy ra vào năm thứ sáu trước công nguyên, vào đúng thời kỳ Chúa Giêsu giáng sinh, và ông quả quyết đó chính là ngôi sao đã dẫn đường cho ba đạo sĩ. Có người lại cho rằng: đây là một loại sao Nô-va, nghĩa là sao bị vỡ ra và cháy sáng trong một khoảng thời gian. Các nhà thiên văn tính ra trên giải ngân hà, một năm có 30 ngôi sao băng như vây...Tất cả những ý kiến trên chỉ là giả thuyết mà thôi, vì không hợp với hoàn cảnh của ngôi sao trong Tin Mừng, bởi vì bất cứ ngôi sao nào trong thiên nhiên cũng không thể phù hợp với ngôi sao trong Tin Mừng. Chỉ có những người không biết Tin Mừng hay không biết thiên văn mới tìm cách giải thích như thế. Không một ngôi sao nào có thể làm được như ngôi sao lạ trong Tin Mừng: xuất hiện, đi trước dẫn đường, vụt biến mất, rồi lại xuất hiện dẫn đường cho các đạo sĩ, và sau cùng dừng lại ngay nơi có Chúa Giêsu trú ngụ.
Ngôi sao này là một dấu hiệu lạ lùng, bất ngờ Chúa dùng để tỏ mình ra cho các đạo sĩ, khiến họ phải lên đường phiêu lưu, tìm một "Đấng nào đó" mà họ đoán rằng phải quan trọng lắm. Với một dấu hiệu không rõ rệt, không chắc chắn, không đầy đủ là ngôi sao lạ, thế mà các đạo sĩ đã nhất định ra đi tìm "vua mới". Đúng là "trên vạn nẻo đường" biết bắt đầu đi về đâu? Thực là "đáy biển mò kim", và thực là một cuộc phiêu lưu nguy hiểm. Nhưng bất chấp tất cả mọi nguy hiểm, mọi khó khăn, các ông kiên quyết dõi theo ánh sao thực hiện lòng tin của mình. Sau cùng, các ông đã tìm đến nơi. Các ông không gặp thấy một cung điện nguy nga, không gặp thấy một trẻ sơ sinh nằm trong nhung lụa, mà chỉ thấy một hài nhi đơn sơ, bình thường như mọi hài nhi khác. Các ông đi tìm vua Do Thái mà lại chỉ gặp một hài nhi nghèo. Nhưng không vì thế mà các ông thất vọng. Ngược lại, các ông vẫn tin. Và lòng tin đó được biểu lộ cụ thể bằng việc phủ phục xuống một cách khiêm tốn để thờ lạy và dâng lễ vật.
Câu chuyện các đạo sĩ này vẫn luôn luôn hợp thời và có giá trị cho mọi người. Bởi vì cuộc đời của chúng ta ở trần gian luôn phải đi tìm kiếm Chúa và sống vai trò "ngôi sao dẫn lối" cho người khác. Mặc dầu đã được gia nhập cộng đồng Giáo Hội, chúng ta vẫn phải đi tìm kiếm Chúa, tìm kiếm suốt đời, vì chúng ta chưa hoàn toàn nhận được Chúa cho trọn, chúng ta vẫn còn có thể lạc mất và xa lìa Chúa. Chúng ta hãy theo tinh thần thiện chí của các đạo sĩ mà chịu khó tìm hiểu. Chúng ta có thể tìm hiểu Chúa trong tạo vật thiên nhiên, trong mọi biến cố vui buồn của cuộc đời, trong những người sống chung quanh, và ngay trong chính lòng mình. Tất cả đều là dấu chỉ của Chúa. Đời là cuốn Kinh Thánh ấy, mỗi ngày chúng ta viết lên một hàng chữ, mỗi tuần một trang, mỗi tháng một đoạn, mỗi năm một cuốn, và hết đời là chép xong toàn bộ.
Chúng ta vừa là người tìm kiếm vừa là ánh sao soi cho người khác đi tìm kiếm Chúa. Cuộc đời của chúng ta bên kẻ khác chỉ có ý nghĩa khi nào sự hiện diện của chúng ta là một lời mời gọi, dẫn đưa người khác cùng với chúng ta đi tìm Chúa. Chúng ta chỉ sống trọn vẹn ý nghĩa đời con Chúa khi cuộc đời chúng ta là một ánh sao dẫn lối cho anh chị em chúng ta đến với Chúa.
Người ta nói: có người sinh ra dưới một ngôi sao xấu, có người sinh ra dưới một ngôi sao tốt. Không, không có ai là ngôi sao xấu. Tất cả đều là ngôi sao tốt. Trong chương trình quan phòng của Thiên Chúa, mỗi người đều có một chỗ đứng, một vai trò nào đó. Vì thế, không ai được tự ty mặc cảm, chán nản thất vọng. Cũng không ai được tự tôn tự phụ, huênh hoang... Chúng ta hãy sống thực sự là một con người, hơn nữa, thực sự là một người con Chúa.
81.Tìm Chúa - Ánh sao--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Trước đây chúng ta gọi ngày lễ hôm nay là lễ Ba Vua, đây là tên gọi quen thuộc đối với giáo dân Việt Nam để nói về việc các nhà chiêm tinh phương Đông tìm đến hang đá Bê-lem kính viếng, thờ lạy Chúa Hài Đồng. Gọi là vua vì thấy họ mặc phẩm phục như các vị đế vương, và xác định là có ba vị, vì có ba sắc dân được nói đến trong sách ngôn sứ Isaia, mà cũng vì lễ vật tiến dâng có ba thứ là vàng, mộc dược, và nhũ hương.
Nhưng điều quan trọng không phải là xác định họ là vua hay không phải là vua, họ có ba người hay có thể có nhiều hơn nữa, mà chính là hãy nhìn họ như hình ảnh sống động của tất cả những ai trong đời đã có một lòng khao khát chân thành tìm kiếm Thiên Chúa, khởi đi từ những thiện hảo tốt lành. Vì thế, ngày nay phụng vụ sử dụng tên gọi “Hiển Linh” để làm nổi bật ý định mầu nhiệm chung nhất của Thiên Chúa trong mầu nhiệm Giáng Sinh, đó là Ngài muốn tỏ mình ra cho tất cả mọi người, mọi thời đại, bất luận họ là ai và ở đâu, miễn là họ biết chân thành kiếm tìm Ngài. Vì thế, đây không chỉ là một biến cố của ngày đã qua, mà còn là một sứ điệp của ngày hôm nay và cho những ngày sẽ tới, đó là Thiên Chúa vẫn tỏ mình ra, nhưng vấn đề là người ta có thiện chí đến gặp Ngài không.
Trở lại bài Tin Mừng, chúng ta thấy với một dấu hiệu không rõ rệt, không chắc chắn, không đầy đủ là ngôi sao lạ, thế mà các nhà chiêm tinh đã nhất định ra đi tìm “vua mới”, đúng là “trên vạn nẻo đường”, biết bắt đầu đi về đâu? Thực là “đáy biển mò kim”, và thực là một cuộc phiêu lưu nguy hiểm.
Nhưng bất chấp tất cả mọi nguy hiểm, mọi khó khăn, các ông kiên quyết dõi theo ánh sao thực hiện lòng tin của mình, cuối cùng các ông cũng tìm đến nơi, các ông không gặp thấy một trẻ sơ sinh nằm trong nhung lụa mà chỉ thấy một hài nhi nằm trong máng cỏ. Các ông đi tìm vua Do Thái mà lại chỉ gặp một hài nhi nghèo khó. Nhưng không vì thế mà các ông thất vọng, ngược lại, các ông vẫn tin, và lòng tin đó được biểu lộ một cách cụ thể bằng việc phủ phục xuống một cách khiêm tốn để thờ lạy và dâng lễ vật.
Câu chuyện các nhà chiêm tinh đi tìm kiếm Chúa vẫn luôn luôn hợp thời và có giá trị cho mọi người, bởi vì cuộc đời chúng ta ở trần gian luôn phải đi tìm kiếm Chúa và sống vai trò “ngôi sao dẫn lối” cho người khác. Đó là hai điều chúng ta cần ghi nhớ hôm nay. Qua đoạn Tin Mừng, có thể nói có ba hạng người đối với việc tìm Chúa: hạng thứ nhất, là các nhà chiêm tinh, là những người tuy chưa biết Chúa, nhưng khi vừa nhận được một tia sáng đã vội vã đi tìm. Hạng thứ hai là các tư tế, những người Pha-ri-sêu và kinh sư, họ là những người thông thạo Kinh Thánh, biết rất nhiều về Chúa, đến nỗi có thể chỉ đường chính xác cho kẻ khác tìm gặp Chúa ở Bê-lem, nhưng chính họ lại không đi tìm. Hạng thứ ba là vua Hê-rô-đê và những người thuộc hạ, khi được các nhà chiêm tinh cho biết Chúa sinh ra, họ không những không vui mừng mà còn bày mưu tính kế để sát hại Ngài, do lòng gian ác thúc đẩy. Ngày nay, trong xã hội, chúng ta thấy vẫn luôn có ba hạng người trên: có những người chân thành tìm kiếm để thờ phượng Chúa, những người khác lại dửng dưng với đức tin tôn giáo, và thậm chí có những người còn thù ghét và tìm cách tiêu diệt Chúa.
Riêng đối với chúng ta, dù chúng ta đã gặp Chúa, dù chúng ta đã được rửa tội, dù chúng ta đã gia nhập Giáo Hội, chúng ta vẫn còn phải đi tìm Chúa, chúng ta có thể tìm thấy Chúa ở đâu? Trong một tập truyện ngụ ngôn xuất bản gần đây, một linh mục đã tưởng tượng ra một câu chuyện như sau:
Có một người đàn bà đạo đức kia ước ao được xem thấy Chúa trước khi chết, ngày ngày bà ăn chay cầu nguyện để điều ước mong này được Chúa nhận lời. Thế là một đêm nọ trong một giấc mơ, bà được Chúa cho biết Chúa sẽ đến thăm bà. Suốt ngày hôm sau, bà quét dọn và trang hoàng nhà cửa để đón rước Chúa, nhưng bà chờ mãi mà không thấy Chúa đến.
Trong đêm kế tiếp, có tiếng Chúa nói: tại sao bà không tiếp đón Ngài? Người đàn bà thưa bà đã chờ đợi Chúa suốt đêm ngay ở cửa trước. Chúa cho bà biết Chúa đã chờ đợi ở cửa sau. Ngày hôm sau, người đàn bà lại chờ đợi Chúa ở cửa sau, nhưng bà vẫn không thấy bóng dáng Chúa. Đêm đến lại có tiếng Chúa nói tại sao bà không đón tiếp Chúa? bởi vì Ngài đến qua ngã cửa sổ. Suốt ngày hôm sau, người đàn bà hết ra cửa trước, lại về cửa sau và nhìn qua các cửa sổ, nhưng bà cũng chẳng thấy Chúa. Đêm đến, bà cũng lại nghe có tiếng Chúa nói, và lần này Chúa bảo bà hãy tìm kiếm Ngài ở bờ giếng sau nhà. Cũng thế, người đàn bà ngồi đợi Chúa ở bờ giếng suốt ngày, nhưng cũng không thấy Chúa đâu. không còn đủ kiên nhẫn nữa, bà trách Chúa tại sao lại chơi cút bắt với bà. Bấy giờ Chúa mới nói: “Nếu con định tìm kiếm và tiếp đón Ta ở một nơi nào đó, thì mãi mãi sẽ không bao giờ thấy Ta ở đâu cả. Thay vì tìm kiếm khắp nơi, con hãy mở mắt tâm hồn và con sẽ thấy Ta”.
Đêm đó, người đàn bà không còn nghe thấy tiếng Chúa nói gì nữa, chung quanh bà chỉ thấy bóng đêm dầy đặc, nhưng chính lúc đó, khi con mắt tâm hồn bà đã được mở rộng, bà đã nhận thấy Chúa ở khắp mọi nơi.
Đúng vậy, chúng ta chỉ có thể thấy Chúa bằng con mắt tâm hồn mà thôi. Nếu tâm hồn chúng ta rộng mở, nếu tâm hồn chúng ta trong sạch, nghĩa là không bị ngăn cản bởi bất cứ bức tường nào của dục vọng, của đam mê, ích kỷ, của tiền bạc, của lạc thú, thì chúng ta có thể thấy Chúa ngay cả trong mỗi người.
Xưa kia, Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho ba người chiêm tinh bằng ánh sao lạ, chính nhờ ánh sao này, các ông đã đi tìm và đã gặp thấy Chúa Giêsu giáng sinh để thờ lạy. Từ đó Thiên Chúa vẫn tiếp tục tỏ mình ra cho nhân loại để con người nhận biết sự thật và đón nhận sự sống. Cũng như ngày xưa, Thiên Chúa đã mời gọi các ngôn sứ cộng tác, cũng như Đức Kitô đã mời gọi các môn đệ cộng tác, ngày nay, Ngài cũng mời gọi chúng ta cộng tác vào công cuộc cao cả này, bởi vì vẫn cần có những ánh sao để chỉ đường dẫn lối cho những người khác gặp thấy Chúa. Mỗi người Kitô được mời gọi trở thành ánh sao cho những người chung quanh ngay trong cuộc sống bình thường hằng ngày, đó là ánh sao của cho đi, của quên mình, của bác ái, của phục vụ, hoặc một nụ cười, một ánh mắt, một lời hỏi thăm, một lời khích lệ, một sự cảm thông, chia sẻ, giúp đỡ… đó là những ánh sao đưa anh em về với Chúa, những ánh sao đó có sức tỏa sáng, giúp anh em nhận ra Chúa và nhận ra tình yêu thương của Ngài.
82.Món quà trao tặng--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Nhìn vào các hang đá, ngoài những nhân vật quen thuộc như Chúa Giêsu Hài đồng, Đức Maria, thánh Giuse, mấy mục đồng… Chúng ta còn thấy ba người mặc phẩm phục như những ông vua, tay mang lễ vật, đang khúm núm rất trịnh trọng trước hài nhi mới sinh. Họ là ai? Họ từ đâu đến? Họ thuộc nước nào? Tại sao họ có mặt ở đây?
Theo mẫu đối thoại thánh Matthêu kể lại trong Tin Mừng, người ta truyền tụng nhau và gọi họ là ba vua. Nhưng thực sự Tin Mừng không nói thế mà chỉ gọi họ là các nhà chiêm tinh, tức là các ông lớn, những nhà thông thái, chuyên nghiên cứu thiên văn, nghiên cứu các ngôi sao để cố vấn cho nhà vua trong vấn đề chính trị.
Có nhiều người lại đặt ra vấn đề: các ông này có thật không hay chỉ là một huyền thoại? Cho đến nay, ngoài phạm vi tôn giáo, chưa có một nguồn tài liệu nào khẳng định rõ ràng dứt khoát. Ở vùng Trung Đông có rất nhiều nước kể chuyện này và được coi như một chuyện cổ tích. Nhưng đối với chúng ta, dựa vào Tin Mừng, thì sự hiện diện của ba vị này ở hang đá Bêlem là chuyện có thực. Nhưng các ông từ đâu đến thì chúng ta không thể căn cứ vào đâu mà xác quyết. Có một điều chắc chắn là cũng chỉ ở trong vùng Trung Đông thôi. Tuy nhiên, những chi tiết đó không quan trọng, điều quan trọng nhất là bài học mà các vị này để lại cho chúng ta.
Trước hết, cuộc hành trình của các nhà chiêm tinh được xem là hình ảnh cuộc hành trình đức tin của chúng ta. Với một dấu hiệu không chắc chắn, không rõ rệt là một ngôi sao, các ông đã lên đường tìm kiếm sự thật. Với tấm lòng yêu chuộng sự thật, các ông đã miệt mài tìm kiếm cho đến khi biết được sự thật và gặp được Chúa Giêsu. Cuộc đời của chúng ta cũng phải luôn đi tìm Chúa. Dù chúng ta đã có đức tin, nhưng lòng tin của chúng ta có những lúc bị chao đảo, bị thử thách vì những khó khăn, đau khổ của cuộc sống. Nhưng dù hoàn cảnh thế nào, chúng ta vẫn kiên quyết giữ đức tin và sống đức tin.
Chúng ta phải sống bằng đức tin chứ không thể sống bằng tình cảm. Trong tình cảm có vui có buồn. Nhưng vui buồn lúc có lúc không. Nếu chúng ta chỉ dựa vào niềm vui và khi vui mới khiến chúng ta tin. Vậy khi hết niềm vui thì sao? Lòng tin của chúng ta sẽ bị suy giảm. Hay khi gặp những chuyện buồn thì sao? Chúng ta còn tin không? Vì thế, chúng ta phải sống bằng niềm tin vững chắc, không lệ thuộc vào ai, cũng không lệ thuộc vào hoàn cảnh.
Hơn nữa, đức tin của chúng ta phải được thể hiện bằng những việc làm cụ thể. Thánh Giacôbê đã nói: “Đức tin không có việc làm là một đức tin chết”. Chúng ta tin vào tình yêu Chúa Kitô. Niềm tin ấy không chỉ là một hạt giống gieo trong lòng chúng ta rồi nằm yên đấy. Một niềm tin như thế có lẽ chẳng ích lợi gì cho chính mình hay cho bất cứ ai. Đức tin của chúng ta cần phải trổ sinh hoa trái bằng việc làm để mọi người có thể hiểu được thế nào là tình yêu mà chúng ta tin và có thể nhận ra khuôn mặt của Đấng mà chúng ta suy phục, tôn thờ.
Thứ hai, các vị này đã dâng cho Chúa Hài đồng vàng, nhũ hương và mộc dược. Đó là ba loại lễ vật đặc biệt và quí giá nhất của Đông phương. Nhưng những lễ vật vô tri kia chỉ là dấu hiệu biểu lộ tâm hồn của họ, chứng tỏ lòng ngưỡng mộ, tôn kính và yêu mến của họ đối với Chúa Hài đồng.
Văn sĩ Dô-ơ-den-sen (Joergensen), người Đan Mạch đã nghĩ ra một câu chuyện minh họa cho chúng ta thấy rõ điều đó. Ông đã tưởng tượng ra một vị chiêm tinh thứ tư. Vị này đến gặp Chúa Giêsu hài đồng sau ba vị kia. Gặp Chúa, nhưng ông rất buồn vì không còn gì để dâng tặng cho Ngài. Trước khi lên đường, ông đem theo ba viên ngọc quí giá. Dọc đường, ông gặp một cụ già đói nghèo, ông tặng viên ngọc thứ nhất. Đi thêm một đoạn đường, ông gặp một toán lính đang làm nhục một cô gái. Ông lấy viên ngọc thứ hai thương lượng với chúng để chuộc cô gái. Cuối cùng, khi đến Bêlem, ông gặp một người lính do vua Hêrôđê sai đi để tàn sát các hài nhi, ông lấy viên ngọc thứ ba cho anh ta và thuyết phục anh ta từ bỏ hành động gian ác. Đến khi gặp được Chúa Hài đồng, ông chỉ còn hai bàn tay trắng. Ông bối rối kể lại cuộc hành trình của mình. Nhưng thật lạ lùng, Chúa Giêsu đưa hai tay ra và mỉm cười nói với ông: “Con đã dâng cho Ta món quà quí giá nhất. Nó không phải là vàng bạc châu báu, nhưng được dệt bằng những nghĩa cử đối với tha nhân”.
Chúa Giêsu đã nói: “Bất cứ điều gì các con làm cho người khác là làm cho chính Ta”. Chúng ta vẫn luôn gặp Chúa trong cuộc sống hằng ngày qua những anh chị em sống với chúng ta, và tất cả những gì chúng ta làm cho họ là chúng ta làm cho chính Chúa. Như vậy, lễ vật làm hài lòng Chúa nhất chính là những gì chúng ta trao tặng cho tha nhân.
83.Mỗi tín hữu là một ánh sao dẫn đường--Giuse Đỗ Văn Phi, OP
Trình thuật Tin Mừng theo thánh Mátthêu hôm nay cho chúng ta biết: Bê-lem là nơi Hài Nhi Giêsu đã cất tiếng khóc chào đời, thời vua Hêrôđê trị vì. Như thế, thánh Mátthêu đã gián tiếp khẳng định: Đức Giêsu là người của lịch sử, cách riêng Ngài là người của lịch sử dân tộc Do-thái – dân riêng của Thiên Chúa.
Chính Đức Giêsu là con người chiếu sáng cho cả quá khứ và đem lại ý nghĩa cho cả giòng lịch sử dân Chúa. Chính Ngài sẽ căn cứ vào lịch sử quá khứ dân tộc mình để từng bước nhận ra được ý nghĩa sứ mạng của mình và cách thức hoàn thành sứ mạng ấy.
Sau khi xác định nơi chôn nhau cắt rốn của Đấng Cứu Thế, thánh Mátthêu tiếp tục kể lại biến cố các đạo sĩ phương Đông tới bái lạy Hài Nhi Giêsu. Đó là những nhà chiêm tinh, có thể họ đã đọc được dấu lạ do thấy ánh sáng của hành tinh sao mộc và sao thổ lồng vào nhau. Hay nói một cách đơn giản: lời loan báo về ngôi sao phát xuất từ nhà Gia-cóp đã được ứng nghiệm với biến cố sinh ra của Đức Giêsu là vị cứu tinh. (x. Ds 24,17)
Nhưng điều được nhấn mạnh trong bài Tin Mừng hôm nay là dân ngoại mà các đạo sĩ là người đại diện, đã đến bái lạy Hài Nhi Giêsu. Trái ngược với sự hăng say nhiệt thành của các đạo sĩ phương Đông là sự bàng quan của các nhà lãnh tụ đạo và đời tại thành thánh Giêrusalem, họ không hề nhúc nhích. Riêng vua Hêrôđê có nói đến việc vua sẽ đến bái lạy Hài Nhi mới sinh, nhưng thực ra ông ta chỉ muốn đến để mưu sát Ngài mà thôi.
Các nhà chiêm tinh là dân ngoại. Họ đại diện cho mọi dân tộc, cho chính chúng ta. Họ khao khát tìm ơn cứu độ. Qua những dấu chỉ kỳ diệu hay đơn sơ trong vũ trụ, họ nghe thấy lời mời gọi lên đường. Chấp nhận lên đường là chấp nhận bỏ lại tất cả và sẵn sàng bước đi trong đêm tối. Các nhà chiêm tinh không dựa vào điều gì khác ngoài ánh sao khi tỏ khi mờ. Cần có đức tin cứng cáp mới dám dựa vào một dấu chỉ mong manh như thế. Cũng cần có đức tin mạnh mẽ lắm mới dám tin rằng vị vua mới sinh đang khiêm tốn sống trong một hang bò lừa ở Bêlem, chứ không uy nghi ngự giữa hoàng cung lộng lẫy. Cần có một đức tin khiêm tốn biết chừng nào mới có thái độ sấp mình bái lạy trước Hài Nhi, và tiến dâng lễ vật quý giá.
Thiên Chúa vẫn không ngừng lôi kéo cả nhân loại đến với Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Ngài vẫn không ngừng cho những ánh sao dẫn đường. Không phải là ánh sao trên trời cao, mà là ánh sáng Ngài gieo vào lòng người. Mỗi người chúng ta phải trung thành với ánh sáng đó, và bước vào cuộc hành trình đức tin đầy mạo hiểm, như các nhà chiêm tinh ngày xưa.
Đôi khi chúng ta có nét giống Hêrôđê, sợ hãi bối rối trước sự xuất hiện của Đấng Cứu Độ. Hãy để Chúa làm lung lay ngai vàng của chúng ta, đưa chúng ta vào sự bấp bênh, mong manh, để rồi cuối cùng chúng ta gặp được sự vững vàng trong Chúa.
*
Cuộc sống ngày hôm nay đặt con người trước nhiều thách đố phải chọn lựa. Thách đố phải sống cho sự công bằng trong một xã hội có quá nhiều bất công. Thách đố phải sống tình liên đới và yêu thương trong một xã hội có quá nhiều chiến tranh và hận thù. Chúa Kitô đã đến và chiếu tỏa ánh sáng của Ngài vào thế gian. Ngài mời gọi mỗi người chúng ta hãy bước theo ánh sáng của Ngài, ánh sáng của yêu thương, hoà bình và xây dựng.
‘Giáng Sinh’ gợi lại cho chúng ta một biến cố trọng đại: biến cố Ngôi Hai xuống thế làm người. Ngài đến với tất cả mọi người, thuộc mọi quốc gia và ngôn ngữ. Ngài đến để mang lại niềm vui và bình an, mạc khải cho con người một vương quốc vĩnh cửu, mời gọi chúng ta bước theo ánh sáng của Ngài, ánh sáng dẫn vào sự sống.
Trong giây phút thinh lặng này, chúng ta hãy để cho ánh sáng của Chúa chiếu tỏa tâm hồn chúng ta, hầu nhận ra Chúa đang hiển linh trong chính cuộc sống của mình.
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, Chúa đã đến thế gian để con người được sống và sống dồi dào. Xin cho mọi người luôn biết tôn trọng sự sống là ân huệ Chúa ban, để không còn cảnh các thai nhi bị từ chối quyền được sinh ra nhưng các em sẽ được sống xứng đáng với nhân phẩm của mình.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con đang sống giữa một thế giới mà nhiều người chưa nhận biết Chúa, nhiều người đang đánh mất niềm tin vào Chúa, sống như thể không có Thiên Chúa. Xin biến đổi cuộc đời chúng con thành ánh sao dẫn đưa những ai đang lầm đường lạc lối trở về với Chúa để họ được sống và sống dồi dào trong tình thương của Chúa. Amen.
84.Hãy chiếu sáng như những vì sao--Pm. Cao Huy Hoàng
"Vua Người Do Thái mới sinh ra ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện ở Đông phương và chúng tôi đến để triều bái Người"
Gọi là "ngôi sao của Người", bởi ấy là một ngôi sao lạ, không giống như những ngôi sao thường thấy. Ngôi sao lạ xuất hiện, theo các nhà thông thái ấy, là dấu chỉ một điềm lạ xảy đến: một con người vĩ đại xuất hiện trên dương trần. Ngôi sao lạ, lạ đến nỗi các chiêm tinh gia chỉ còn biết theo ánh sáng của ngôi sao ấy mà bước đi, vì xác tín rằng ấy là Ngôi Sao Cứu Thế, Ngôi sao của "Vua Người Do Thái mới sinh ra". Họ đã không đặt viễn vọng kính để nghiên cứu, cũng không theo ánh sáng của ngôi sao để tìm đến chính ngôi sao, mà chiêm ngưỡng, ca tụng, tôn vinh ngôi sao đẹp lạ lùng diễm lệ ấy; ngược lại họ theo ánh sáng của ngôi sao mà tìm đến thờ kính Con Thiên Chúa Giáng Trần. Họ đã không thể làm khác hơn, vì "ngôi sao ấy luôn đi trước họ, dẫn đường cho họ, và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở" (Mt. 2,9).
Và còn hơn thế nữa, cách nào đó, họ đã trình diện cõi riêng mình với Thiên Chúa khi dâng những lễ vật dành cho Vua Chúa với hết lòng thành kính. Vàng, nhủ hương, mộc dược những lễ phẩm tự nó đã quí giá, đối với các bậc quân vương, càng quí giá đối với hàng lê thứ, nhưng ở đây, cái quí giá hơn chính là lòng tin tưởng và phó thác vào một hài nhi khó nghèo dưới mức bình thường của nhân loại mà họ xác tín là Đấng Cứu Thế. Ánh sáng của vì sao nên huyền vi diệu kỳ, chắc chắn không phải là ánh sáng bình thường mà là ánh sáng của Thần Linh Thiên Chúa. Ngôi sao đã chấp nhận làm một công cụ để Thiên Chúa giới thiệu Con Một của mình cho muôn dân. Như vậy, công việc của một ngôi sao, đến đây có thể nói là hoàn tất sứ mệnh, một sứ mệnh thật cao cả: đưa dẫn con người đến gặp gỡ con Thiên Chúa, để tôn vinh, chúc tụng và dâng lên Thiên Chúa những lễ phẩm với lòng tín thác.
Nhưng không ai ca tụng ngôi sao, chỉ nghe thấy ngôi sao cùng muôn tinh tú xôn xao ca tụng Con Thiên Chúa. Cũng không thấy ngôi sao yêu cầu ai ca tụng mình, vì ngôi sao tự biết mình đã chứa chan hạnh phúc khi nhận được ánh sáng từ Thần Linh Thiên Chúa để phát sáng cho đời nhận ra vinh quang Con Thiên Chúa, đễ dẫn lối cho đời đến với Đấng Cứu Thế của họ.
Chúa Kitô: Ánh sáng mới
Chúa Giêsu bé thơ trong máng bò lừa rơm cỏ úa chính là ánh sáng mới chiếu soi gian trần như tiên tri Isaia đã tiên báo: " Ánh sáng mới đã bừng lên cho dân đang lầm lũi tối tăm trong đêm dài. Mặt trời công minh đã chiếu sáng khắp nơi " (Is 9,1). Đức Kitô không chỉ là một ngôi sao xuất hiện ở phương Đông không bao giờ tắt lặn, nhưng còn là ánh sáng muôn đời cho nhân loại.
Ánh sáng của tình yêu Thiên Chúa trong chương trình cứu rỗi nhân loại: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời" (Ga 3,16). Ánh sáng ban ngày soi chiếu vào cõi lầm lạc của con người đi trong bóng đêm, ánh sáng công minh chính trực soi chiếu vào hố thẳm bất công và gian tà, ánh sáng ban sự sống- sống chân chính đàng hoàng trong kiếp sống của con người được yêu thương cứu rỗi, được gọi Thiên Chúa là Cha; ánh sáng ấy, thánh Phao lô đã khuyên giáo đoàn Roma tiếp nhận: "Dừng chân ngay thôi con đường mê muội. Xóa bất công xây bình an trong lòng. Hãy mặc lấy khí giới ban sự sống. Sống công minh như giữa ban ngày" (x. Rm 13,11-14)
Ánh sáng của "Ngôi Lời Thiên Chúa đã thành xác phàm"- Ánh sáng của Lời Hứa Cứu Độ của Thiên Chúa Cha trong thượng uyển năm xửa năm xưa, từ thủa con người tự đánh mất ơn mất ơn làm nghĩa tử-Ánh sáng của Lời Thiên Chúa tạo dựng và cứu chuộc mà dân Thiên Chúa hằng mõi mong đợi chờ trong tin tưởng: "Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường cho con đi" (Tv 118,105). Ánh sáng mạc khải mầu nhiệm cứu chuộc muôn dân: "trong Đức Giêsu Kitô và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với Người Do thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa" ( Eph 3,6).
Đức Giêsu, chính là ánh sáng mới, là ngôi sao mới, chiếu soi con đường mới đưa dẫn nhân loại về với Thiên Chúa Cha. Ngài cũng như ngôi sao phương Đông năm nào không hề có tham vọng đưa nhân loại quy về mình, nhưng là về với Cha, đấng đã sai Con Một Người xuống thế. Tất cả vì danh Cha, tất cả cho Cha, tất cả để "nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện, danh Cha cả sáng". "Ánh sáng của anh em phải chiếu giải trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời". (Mt 5, 16)
Và vì Cha biết và tin tưởng Con mình tất cả cho Cha, nên Cha đã thông ban vinh quang của Cha cho con để mọi người khi quy hướng về Ánh sáng của Con, thì được xem thấy Cha của Con và Cha của chính mình.
Các con là ánh sáng thế gian
Mỗi tín hữu phải trở thành một chứng nhân Đức Kitô, một ngôi sao dẫn đường cho nhân loại tìm về với Thiên Chúa. Đời sống chứng nhân, ơn gọi tiên tri cho đời, trước tiên là một ơn nhưng không qua bí tích rửa tội. Đã có biết bao Kitô hữu đã trở nên ánh sáng cho muôn dân qua cách sống đạo của mình. Họ chiếu sáng tinh thần Phúc Âm, không chỉ bằng lời, mà bằng cả cuộc sống Đức Tin, Đức Cậy Trông, và Đức Ái Kitô giáo trong cuộc đời họ. Trong mọi hoàn cảnh, họ chấp nhận và kiên trì chu tất sứ mệnh làm ánh sáng Tin Mừng cho đời, cả khi họ giàu sang, hay nghèo khó, bình an mạnh khỏe hay bệnh hoạn tật nguyền....trên cánh đồng, nơi xưởng việc, trong bệnh viện, kể cả nơi lao tù... Tinh thần của Chúa Kitô ngời sáng và họ đã trở nên ngôi sao mang ánh sáng của Tin mừng cho nhân loại tìm về với Thiên Chúa, để tin nhận, ca tụng, và phó thác vào tình yêu Thiên Chúa.
Nhưng một thực tế đáng buồn: vẫn còn nhiều người đang bước đi trong bóng tối lầm lạc, bóng tối của gian tham, của bất công, của ngẫu tượng xác thịt đểhưởng thụ trần gian... Tại sao?
Tôi vẫn nghĩ chúng ta chưa hiểu thấu mầu nhiệm của ngôi sao dẫn đường cho các đạo sĩ, chưa thẩm thấu trọn vẹn được ý nghĩa ánh sáng Chúa Kitô, khi ta vẫn là "những ngôi sao chiếu sáng cho thiên hạ thấy đường tìm về mình, tìm về cái tôi của ngôi sao vô nghĩa". Biết bao việc làm tưởng là để vinh danh Chúa, để người ta tung hô ca tụng Chúa, thì lại tiềm ẩn một âm mưu tranh giành vinh quang của Thiên Chúa, để cho mình được vinh quang, được tung hô. Ngay đến việc nhỏ của một vai trò bé bé trong giáo xứ: Hội đồng, bà mẹ, Legio, ca đoàn... cũng đòi phải được tung hô thì còn gì cho vinh quang Thiên Chúa. Và nếu không được tung hô thì bất mãn đòi bỏ việc, thì còn gì là việc của Thiên Chúa. Bệnh "ngôi sao" trên sân cỏ, trên sân khấu, trên thương trường, trên chính trường, trên thông tin mạng, nếu không loại trừ ai, thì trên lĩnh vực công tác tông đồ cho Thiên Chúa cũng y hệt như vậy- không loại trừ đấng bậc nào trong giáo hội. Vì thế, bệnh "ngôi sao chứng nhân cho Chúa Kitô" trở thành con virus làm tê liệt hệ thống miễn nhiễm những trào lưu nhân loại, những chước cám dỗ của satan, của thế lực chống lại Thiên Chúa. Ai cũng có thể tìm cho mình một mối lợi hư ảo, và nhường lại phần thiệt hại cho Thiên Chúa, để người tìm đến Thiên Chúa thì lưa thưa ít ỏi mà tìm đến mình thì dồn dập xôn xao. Lời ca tụng và lễ phẩm dành cho Thiên Chúa thì không thấy mà lại thấy vô vàn ở các ngôi sao. Có lẽ phải nhắc nhở nhau rằng: Đi trong bóng tối âm u gian ác của cõi lòng mình mà vẫn giảng rao về ánh sáng Thiên Chúa là công việc của ma quỷ, là mưu chước hiện đại nhất của satan. Vì nơi satan, và các thế lực của nó, không có, không chấp nhận ánh sáng của Đức Kitô, của Thiên Chúa, nhưng chúng vẫn biết về ánh sáng ấy, và vẫn có thể tiếp thị cách hiện đại.
Lễ Hiển Linh, là cơ hội cho mỗi Kitô hữu, nhìn lại đời sống chứng nhân của mình. Hãy chiếu sáng như những vì sao ở giữa thế gian, nhưng chiếu sáng không phải để thế gian tìm về mình, nhưng là để thế gian tìm về Thiên Chúa, như Đức Kitô, ánh sáng mới cho nhân loại, soi cho nhân loại tìm được lối về với Cha thật trên trời. Tất cả vì "nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện, danh Cha cả sáng". Bạn và tôi, như ngôi sao kia, đang làm việc của mình phải làm là chiếu sáng, chứ không làm việc của mình thích làm là chiếu sáng cho vinh quang mình.
85.Địa chỉ của ông sao--Pm Cao Huy Hoàng
Hai cha con làm hang đá. Hữu xếp mấy bao xi-măng thành hình những khối đá. Cha xếp những khối đá vào…. Hữu ẵm Chúa Giêsu Hài Đồng đặt vào hang đá. “Con bò to to nầy, mầy nằm bên Chúa nhé, thở mạnh đi cho Chúa ấm. Trời lạnh lắm” Hữu nói. Mẹ nhìn cha con làm hang đá lấy làm vui. Mẹ nói: “Phải có sao lạ nữa chứ anh”. Hữu hỏi ngay: “Sao phải có vậy Mẹ? Sao gọi là Sao Lạ?”. Mẹ trả lời: “Phải có ngôi sao lạ, để dẫn đường người ta tới Belem mà thờ lạy Chúa, chứ con. Ai mà biết Chúa sinh ở chỗ tồi tàn đó”. Hữu: “À, thì ra!”.
Suy nghĩ và giải thích đơn sơ của người Mẹ, hẳn là không sai lạc giáo lý nếu cần dạy cho con. Vì quả thật, những đạo sĩ, theo Tin Mừng, hẳn cũng đã tìm đến Belem nhờ ánh sao lạ dẫn đường.
"Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Đông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người". (Mt 2, 2).
Hai cha con làm ngôi sao lạ. Thấy mẹ không nói gì về sao “lạ”, người cha trò chuyện với mẹ con: “Con có biết những ông sao ở đâu không?” - “ở trên trời, ban đêm mới thấy”.
“Ồ! đúng rồi. Địa chỉ của ông sao chắc chắn là ở “tít trên cao”. Bầu trời đêm đông càng dễ thấy có rất nhiều ông sao. Ông sao nào cũng ở “tít trên cao”. Ông sao nào cũng sáng. Nhưng sáng tít trên cao!
Vậy mà, hôm Chúa sinh ra đời ở cánh đồng Belem, có một ông sao bỗng nhã hứng bất thần chiếu rọi xuống rất thấp, xuống cả một vùng thôn dã nghèo xác xơ, rét cùng cực, tuyết trắng mênh mông. Ông sao ấy chiếu dọi vào hang đá Belem tồi tàn. Nơi hang đá ấy, không có điện đèn chớp nháy hay ánh sáng của kinh thành hoa lệ đằng xa kia chiếu tới đâu. Nhưng ánh sáng của ông sao lạ làm rực lên ánh hào quang của Hài Nhi, con Thiên Chúa ra đời. Vâng, từ thuở tạo thiên lập địa, nay mới thấy có một ông sao như thế, không chỉ sáng tít trên cao, mà sáng từ tít trên cao sáng xuống cùng dưới thấp.
Mẹ hỏi: “Vậy thì mấy ông sao cũng có cá tính sao?”. Không, thiết tưởng, ông sao nào cũng là loài thụ tạo vô tri vô giác, cá tính gì! Nhưng ông sao này đang được điều khiển bởi quyền năng của Thiên Chúa trên cao. Ông đang làm điều Thiên Chúa muốn. Thế mới gọi ông là ngôi sao lạ!
Lạ, là vì ông sao này khác những ông sao khác. Ông chưa có tên trong danh mục các ông sao đã qua viễn vọng kính của các nhà chiêm tinh. Và ông cũng không làm việc thường ngày như những ông sao kia. Lạ, là vì ông không làm điều ông thích làm, thường làm, nhưng ông đang làm việc của Thiên Chúa bảo ông phải làm! Điều đó, Chúa hiểu rõ ông hơn ai hết. Lạ, là vì ông không ở tít trên cao. Lạ, là vì ông xuống rất thấp. Lạ, là vì ông dẫn người ta đến với Chúa”.
Vâng, ông sao lạ nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa Cha, kế hoạch giới thiệu Chúa Con cho nhân loại, giới thiệu Đấng Cứu Thế ban ân sủng cho nhân loại.
Hài Nhi Giêsu trong kế hoạch của Thiên Chúa
Ông Sao Lạ kia xuất hiện, rồi biến đi, nhường chỗ cho hào quang Chúa Hài Nhi Giêsu đang hiển linh như nguồn ánh sáng mới cho nhân loại, Chúa Giêsu tỏ mình và tỏ tình Chúa Cha cho nhân loại.
Nếu ánh sáng đầu tiên cực kỳ huyền diệu của ngày sáng tạo vũ trụ đã bị bóng tối tội lỗi bao trùm, thì hôm nay ánh sáng mới đã đến, ánh sáng cứu độ. Ánh sáng từ trời cao xuất hiện từ Gia-cóp, vương quyền của Thiên Chúa đã đâm chồi từ Israel. Ánh sáng mới ấy là Hài Nhi Giêsu. Ánh sáng tít trên cao chấp nhận xuống cùng dưới thấp để xua tan bóng đêm tội lỗi. Thiết nghĩ, không thể đặt giả thuyết rằng nếu ông sao kia không chịu chiếu sáng xuống một miền Belem thấp kém, không tên tuổi, liệu có ai đã biết đến Tin Mừng cả thể cho nhân loại: Đấng Cứu Tinh đã ra đời. Vì rằng, ngay trong chương trình của Thiên Chúa, ánh sao kia cũng đã được nhắc đến cách long trọng, và nhắc đến cả sứ vụ được giao phó. “Một vì sao xuất hiện từ Gia-cóp, một vương trượng trỗi dậy từ Ít-ra-en”(Ds 24, 17). Ánh sao ấy chính là Con Thiên Chúa Giáng Sinh.
Mỗi tín hữu trong kế hoạch của Thiên Chúa
Chúa Giêsu nói: "Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời. (Mt 5, 14-16)
Thánh Phaolô nhận ra vai trò của chính mình và của mỗi tín hữu, trong kế hoạch của Thiên Chúa, khi đã tiếp nhận ánh sáng cứu rỗi của Thiên Chúa, cũng phải làm ông sao lạ dẫn đường thiên hạ đến với Chúa. Ngài nói: “Hẳn anh em đã được nghe biết về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. Người đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Ki-tô” (Eph 3,2-3). Hoặc, một nơi khác, ngài nói rõ hơn: “Anh em hãy làm mọi việc mà đừng kêu ca hay phản kháng. Như thế, anh em sẽ trở nên trong sạch, không ai chê trách được điều gì, và sẽ trở nên những người con vẹn toàn của Thiên Chúa, giữa một thế hệ gian tà, sa đoạ. Giữa thế hệ đó, anh em phải chiếu sáng như những vì sao” (Philip 2,14-15).
“Kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa ủy thác” cho mỗi người, hẳn là giới thiệu ơn cứu rỗi cho con người, dẫn đường cho con người đến với Chúa. Mỗi người là một ông sao lạ. Ông sao lạ không ở tít trên cao, nhưng ông sao lạ xuống cùng dưới thấp….
Theo dõi những bản tin Giáo Hội Việt Nam Mùa Giáng Sinh năm nay, chúng ta thật vui mừng, vì có những ông sao ở tít trên cao xuống đến tận vùng sâu vùng xa chiếu giãi ánh sáng Tin Mừng Giáng Sinh đến cho người bần cùng giá lạnh. Niềm vui vô biên của người H’mong, Tây Bắc được ông sao dung dăng dung dẻ với bầy trẻ sơn cước. Nỗi sung sướng của người Mường Cắt, Hòa Bình thấy Chúa đến gần hơn. Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Tây Nguyên, miệt vườn châu thổ… đâu đâu cũng có ánh sáng của những ông sao lạ không còn sáng tít trên cao, nhưng rất gần, sáng rất thấp. Vâng, có những ông sao xuống miền xuôi, cũng có ông sao lên mạn ngược, ông đến với biển, ông về với rừng, ông xuống với người kinh, ông lên người Dân Tộc…
Làm thân ông sao lạ lại là một niềm vui cho mình cho đời. Ấy vậy, cũng có những ông sao lạ không chỉ xuống thấp mà còn chạy lao xao khắp thành phố Sài Gòn. Có ông xoẹt qua nhà cô bé xa quê bán bắp nướng, khoai luộc, ông gửi một món quà, một nụ cười, một niềm vui, không quên lời chúc giáng sinh và niềm hy vọng an bình Chúa Giêsu mến tặng. Rồi tranh thủ xoẹt qua khu ổ chuột còn gần chục người nghèo đang đánh bài tiến lên ăn kẹo giết nỗi sầu đời cho đêm mau qua ngày mau tới. Có ông sao lạ đua xe cho kịp giờ để gửi một phần bánh giáng sinh nho nhỏ cho ông bà bán vé số dưới gầm cầu Sài gòn, sợ ông bà ngủ sớm, ngủ đói! … Nhờ những ông sao lạ, người mù bỗng thấy, người điếc bỗng nghe, người què quặt tật nguyền bỗng quên mình tật nguyền què quặt. Mùa Giáng Sinh đầy những ánh sao báo tin mừng của những ông sao lạ. Mùa Giáng Sinh rộn ràng yêu thương và niềm vui.
Đêm 19/12, tôi được Cha Hữu An mời tham dự đêm “Rộn ràng Noel” ở GX Kim Ngọc. Trên sân khấu, các ngôi sao ca nhạc Công Giáo đang rộn ràng những ca khúc Noel “hát cho vui đời và hát cho đời vui” của GM. Ns Thông Vi Vu. Ngồi ghế trước, ngoái lại đằng sau, người xem đông quá, tôi bỏ ghế, làm một vòng về phía khán giả. Đông đến tận ngoài đường quốc lộ. Già trẻ trai gái không thiếu. Nhưng đa số là lương dân. Họ đơn giản lắm. Tôi chào một cụ ông:
- “Chào cụ, có vui không”.
- “Vui lắm chú à. Lễ Noel hay thật. Tui không nghĩ là ông thượng tọa đạo Chúa có thể xuống hát chơi vui vẻ với mọi người như thế đâu. Chưa bao giờ tui thấy”.
- “Ông thích không?”
- “Có chứ. Tui thích nhất là ông thượng tọa Chúa hát với lũ nhỏ cái gì mà tít trên cao, tít trên cao”
- “À, tít trên cao, có ông sao sáng đẹp biết bao, ngọt ngào, ông loan báo mùa Noel nay đã về đây…”
- “Đúng rồi, đúng rồi, có gì mà đôi má, xinh quá nữa đó”
- “Dạ, Ôi xinh quá là xinh đôi má. Đỏ hây hây tựa cánh hoa đào. Ôi thương quá là thương hang đá. Chúa từ trời sinh ra”
- “Tự hồi cha sinh mẹ đẻ đến giờ, tôi cứ nghĩ là mấy ông thượng tọa Chúa ở xa lắm chứ. Dễ gì mà gặp được mấy ổng. Không dè, gần gũi quá”….
Gặp mấy anh chị thanh niên đang chăm chú vào màn chiếu trước nhà thờ: “Nhạc Chúa hay hơn nhạc đời rồi anh, êm đềm trữ tình lắm. Nhạc trẻ hay, dân ca hay, múa cũng hay. Nhưng khúc đồng dao ông Cha hát với đám con nít, hay ể! Chúa xuống gần hơn trước rồi”
…..
Địa chỉ của ông sao đã chuyển từ tít trên cao, xuống cùng dưới thấp.
Lễ Hiển Linh mời gọi chúng ta một lần nữa xác nhận Chúa Giêsu là ánh sáng mới, ánh sáng cứu độ, đã từ trời xuống; đồng thời cũng nhắc nhớ mỗi người làm một ông sao. Một ông sao lạ, không ở tít trên cao, nhưng xuống cùng mọi người để chia sẻ niềm vui cứu độ.
Lạy Chúa, con xin tạ ơn Chúa vì mùa Giáng Sinh Năm Thánh Hai Ngàn Mười của Giáo Hội Việt Nam, Chúa đã đến gần hơn với bao tâm hồn dân Việt. Xin giúp mỗi chúng con tiếp tục làm ánh sao chịu thương chịu khó sà thấp đời mình xuống, để đem ánh sáng Chúa cho mọi người, nhất là những người đau khổ bần hàn, bạn chí thiết của Hài Đồng Giêsu, Con Chúa. Amen.
86.Hành trình của các đạo sĩ--Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
Khi đọc tác phẩm Tây Du Ký của nhà văn Ngô Thừa Ân, nhiều người tỏ ra cảm phục trước ý chí vượt khó diệu kỳ của thầy trò Đường Tăng. Quả vậy, để đến được núi Tây Thi thỉnh Kinh Phật, họ đã phải trãi qua một cuộc hành trình dài với bao nhiêu chông gai thử thách. Đường xa vạn dặm, lại thêm vô vàn cạm bẫy của đủ thứ yêu ma quỉ quái khiến cho cả 4 thầy trò nhiều phen muốn bỏ cuộc. Hành trình đó thực sự là một cuộc thử thách của cả lý trí (biểu tượng qua nhân vật Tôn Ngộ Không) lẫn con tim (biểu tượng qua nhân vật Tam Tạng).
Đọc lại trình thuật Tin mừng Mathêu, chúng ta thấy hành trình của ba nhà đạo sĩ Phương Đông cũng không kém phần gian truân. Nhưng đó cũng là một hành trình rất đẹp. Để có thể triều yết Đấng mà họ gọi là Đại Vương, Vua Dân Dothái, họ đã phải vượt qua một chặng đường dài thăm thẳm. Dĩ nhiên đây là một cuộc hành trình có thật, chứ không phải do tác giả hư cấu như hành trình của thầy trò Đường Tăng. Ở đây chúng ta thấy hành trình của các đạo sĩ quả là một hành trình của lý trí, của con tim và của đức tin.
- Hành trình của các đạo sĩ, hành trình của lý trí khám phá:
Là những nhà Thiên văn, các ông đã biết dùng những kiến thức của mình để khám phá những dấu chỉ của điềm trời, đặt biệt là ánh sao chiếu mệnh. Họ đã biết sử dụng chất xám để nghiên cứu các hiện tượng lạ trong thiên nhiên, trong vũ trụ. Và chỉ có họ mới phát hiện ra ánh sao lạ, bởi lý trí của các ông đã được dùng đúng chổ, nhằm phục vụ cho chân lý, chứ không phải để phục vụ cho danh lợi thú đời này như Hêrôđê, như các Luật sĩ và Biệt phái. Đặc biệt là trong thời đại ngày hôm nay, rất nhiều người sử dụng lý trí của mình không đúng mục đích. Thậm chí còn sử dụng để phục vụ cho những ý đồ đen tối, thay vì để phục cho công lý, cho sự thật và đem lại lợi ích cho đồng loại. Các đạo tặc tìm kiếm những chiêu thức nhằm lường gạt và hãm hại người khác. Các gian thương tìm cách làm hàng nhái, hàng giả, hàng kém chất lượng; các tin tặc tạo ra các loại vi rút máy tính phá hoại các chương trình, các dữ liệu; các nhà khoa học vô lương tâm sáng chế ra các thứ vũ khí huỷ diệt hàng loạt....
Các nhà đạo sĩ luôn là một điểm son cho chúng ta noi theo trong việc sử dụng lý trí của mình.
- Hành trình của các đạo sĩ, hành trình của con tim khao khát:
Con tim khao khát tìm kiếm chân lý. Con tim thao thức dấn thân lên đường tìm gặp sự thật. Điều này không có nơi Hêrôđê và có rất ít nơi dân thành Giêrusalem và những người Biệt phái.
Vì khao khát tìm kiếm chân lý nên họ sẵn sàng bỏ lại tất cả: gia đình vợ con, quê hương xứ sở, nhà cửa sự nghiệp,... để lên đường theo ánh sao lạ. Vì khao khát kiếm tìm sự thật, nên họ bất chấp tất cả: đường xá hiểm nguy, núi rừng cách trở, thử thách đợi chờ. Thật đáng khâm phục. Họ ra đi mà không biết sẽ đi đến đâu. Họ ra đi mà không biết ngày nào trở lại, tựa như Abraham ngày xưa vậy. Chính tình yêu đối với vị "Chánh Vương" là động cơ thôi thúc họ thượng lộ khẩn trương. Đúng như lời quả quyết của thánh Phaolô sau này: "Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi".
- Hành trình của các đạo sĩ, hành trình của đức tin soi dẫn:
Khi thấy sao lạ xuất hiện, đức tin đã mách bảo cho các ông biết có Đại Vương, có Đấng Cứu Tinh xuất hiện. Khi ánh sao biến mất, đức tin đã chỉ lối cho các ông tìm đến với Giêrusalem - Kinh đô của Kinh Thánh để được tham vấn. Khi đối diện với một hài nhi nghèo hèn nằm trong máng cỏ, theo lý trí tự nhiên không ai dám mạnh dạn tuyên xưng đó là Con Thiên Chúa, nhưng đức tin đã soi sáng cho các ông nhận ra đó chính là Đấng Cứu Thế muôn dân đang trông đợi. Và cũng chính đức tin đã biến đổi cuộc đời họ. Họ đã trở thành những vị tông đồ đích thực của Đấng Thiên Sai Giêsu. Theo khẩu truyền, ba nhà đạo sĩ đã đi giảng đạo tới tận trời Tây, và hiện nay một ngôi mộ được coi là của ba nhà đạo sĩ ấy, vốn rất được nhiều người kính viếng ở thành Phố Cologne, bên bờ sông Rhin, nước Đức.
Như vậy, rõ ràng hành trình của các đạo sĩ không chỉ là hành trình của lý trí khám phá, của con tim khao khát, mà còn là hành trình của đức tin soi dẫn. Vì nếu không có đức tin soi dẫn thì có lẽ họ đã lạc lối, và bỏ cuộc khi gặp thử thách. Nếu không có đức tin mách bảo thì có lẽ họ đã không nhận ra một trẻ thơ nghèo hèn là một bậc Đế Vương, là một vị Cứu Chúa. Và nếu không có đức tin soi sáng, chắc chắn họ không dại gì phải sụp lạy trước một hài nhi bé bỏng yếu ớt, càng không dại gì phải uổng phí những lễ vật quí báu của mình, nếu họ không tin nhận đó là Vị Cứu Tinh của họ. Theo ngôn ngữ Thánh Kinh, từ ngữ "sụp lạy" ám chỉ một sự qui phục chỉ dành cho Thiên Chúa.
Phần tôi thì sao? Tôi đang sử dụng lý trí của mình, kiến thức của mình thế nào? Con tim của tôi đã đặt đúng chổ chưa? Tôi thường yêu mến, thường khao khát những gì? Có phải là "sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần"; hay chỉ là tiền tài, danh vọng, sắc dục và những thú vui hưởng thụ đời này? Trong hành trình dương thế của tôi, đức tin đóng vai trò nào? Tôi có coi trọng và biết cầu xin ơn đức tin mỗi ngày, nhất là trong những lúc gặp thử thách, gặp bế tắc trong cuộc sống hay không?
Ước gì gương của ba nhà đạo sĩ luôn được chúng ta soi nhìn. Để trong cuộc lữ hành trần thế, chúng ta luôn đi đúng đường, đúng hướng và đạt tới cùng đích mà chúng ta mong ước. Đó là Nước Chúa, nơi Đức Kitô đang đợi chờ chúng ta. Amen.
87.Chúa tỏ mình cho muôn dân--Lm. Stêphanô Bùi Thượng Lưu
Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lậy Người
Thánh sử Mát-thêu là người duy nhất đã viết về biến cố "Khi đức Giêsu ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đa, thời vua Hê-ro-đê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến, và hỏi: "Đức Vua dân Do Thái mới sinh ra, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lậy Người".
Nghe tin ấy, vua Hê-rô-đê bối rối, và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao. Không lạ gì mà Vua Hê-ro-đê "bối rối" khi được tin "vị vua dân Do Thái mới sinh ra". Ông đang ngồi chễm chệ trên ngai vàng. Vị vua mới sinh ra lại không thuộc dòng dõi của Ông. Làm sao mà Ông có thể ăn ngon ngủ yên được trước tin động trời này.
Không những triều đình "bối rối", mà cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao. Dân chúng xôn xao vì đây là tin mừng lớn lao. Đã từ lâu, dân tộc họ, đất nước họ nằm dưới ách thống trị của đế quốc Rôma. Nay tin "vị vua dân Do Thái mới sinh ra" đem đến cho cả thành một niềm hy vọng mới.
Trước biến cố "vị vua dân Do Thái mới sinh ra", thánh sử Mát-thêu đã phác họa lại ba thái độ và ba phản ứng khác nhau:
1. Thái độ và phản ứng của Vua Hê-ro-đê: Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: "Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ítraen dân ta sẽ ra đời".
Sau đó Hê-ro-đê tiếp tục bí mật điều tra các nhà chiêm tinh về "giờ ngôi sao xuất hiện" và dặn dò kỹ lưỡng: "Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lậy Người". Ai trong chúng ta cũng hiểu ý thâm độc của Vua. Vì sau khi các nhà chiêm tinh "được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-ro-đê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình". Bấy giờ vua Hê-ro-đê thấy mình bị các nhà chiêm tinh đánh lừa, thì đùng đùng nổi giận, nên sai người đi giết tất các con trẻ ở Bê-lem và toàn vùng lân cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo ngày tháng ông đã hỏi cặn kẽ các nhà chiêm tinh (Mt 2, 16-17).
2. Thái độ và phản ứng của dân thành Giêrusalem, tượng trưng cho thái độ của toàn dân Do Thái: Thoạt đầu, "cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao". Các thượng tế và kinh sư khi được nhà vua Hê-ro-đê triệu vời đến để hỏi về nơi sinh của "vị vua dân Do Thái mới sinh ra", họ đã lục lọi kinh thánh và đã trả lời nhà vua một cách dễ dàng, khi họ tham chiếu lời tiên báo của Ngôn sứ Mikêa 5,1. Nhưng sau đó không thấy có một thượng tế, một kinh sư nào, hoặc một người dân thành Giê-ru-sa-lem lên đường đi tìm "vị vua dân Do Thái mới sinh ra". Họ "chỉ đường" cho Hê-ro-đê tìm giết để loại trừ đối thủ của ngai vàng của ông. Họ "chỉ đường" cho các nhà chiêm tinh biết đường tìm đến "vua mới sinh". Còn họ đứng ngoài cuộc.
Như chúng ta đều biết: Thánh sử Mát-Thêu viết Tin Mừng Chúa Giêsu bằng tiếng A-ram (tiếng Do thái cổ) và nhắm vào các độc giả là những cộng đoàn Kitô giáo gốc Do Thái giáo trở lại đạo và đồng bào Do Thái nói chung, để họ nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Mêsia (Đấng Cứu Thế) mà dân tộc từng trông đợi. Như vậy chủ tâm viết đoạn Tin Mừng này, Thánh sử Mát-thêu muốn nêu bật tư tưởng chính yếu: Tin mừng cứu độ đã được loan báo cho dân Ítraen trước nhất, nhưng họ đã không tiếp nhận. Nay Tin mừng này được loan báo cho toàn thể lương dân. Dân Do Thái hằng mong đợi Đấng Cứu Thế đến, nhưng khi Ngai đến, họ không thèm đón nhận người. Họ thông thạo kinh thánh, họ biết nơi sinh của Đấng Cứu Thế, nhưng tất cả các thượng tế và kinh sư, những người đứng đầu lãnh đạo dân, và toàn thể Giê-ru-sa-lem, không ai bận tâm đến biến cố này...Sau một ít phút "xôn xao", họ lại tiếp tục với những mối bận tâm khác, với những đam mê và mong đợi khác. Hai ngàn năm sau, họ vẫn đến gục đầu bên bức tường than khóc và vẫn còn chờ mong một đấng Cứu Thế khác.
3. "Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lậy Người".
Ngược lại với hai thái độ trên, là thái độ của những nhà chiêm tinh:
- Họ tỉnh thức theo dõi các biến chuyển trong vũ trụ. Nhận ra dấu chỉ của Đấng Cứu Thế qua việc xuất hiện vì sao lạ.
- Họ lên đường theo sự hướng dẫn của "ánh sao" và quyết tâm tìm kiếm cho bằng được "Vị Vua mới sinh", dù bị thử thách, lạc mất ánh sao tại Giê-ru-sa-lem.
- Họ tin nhận "Vị Vua mới sinh" là Đấng Cứu Thế muôn dân trông đợi, mặc dù khung cảnh bên ngoài khác với lòng họ tưởng: "Vị Vua mới sinh" thật nghèo hèn, sinh ra không ở cung điện vua, Mẹ ngài là một người đàn bà nhà quê, nhưng "Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là Bà Maria, liền sấp mình thờ lậy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến".
Theo vết chân của mấy nhà chiêm tinh xưa, chúng ta hãy biết tỉnh thức để khám phá ra những dấu vết sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống, qua các biến cố thường ngày. Hãy kiên tâm theo sự hướng dẫn của "ánh sao" chỉ đường. Hãy tin nhận "sấp mình thờ lậy" Đấng Cứu Thế mới sinh ra.
Lễ Chúa Hiển Linh xưa vẫn được gọi là Lễ Ba Vua, hay Lễ Chúa tỏ mình cho muôn dân. Hôm nay, tất cả Giáo Hội Chính Thống mừng Lễ này như đại lễ Giáng Sinh. Tất cả chúng ta cùng hiệp thông trong niềm tin vào Chúa Cứu Thế với hàng mấy trăm triệu anh chị em tín hữu Chính Thống giáo và cùng nguyện cầu xin Chúa là ánh sáng muôn dân, là ngôi sao dẫn đường cho tất cả muôn dân tìm về nguồn cứu độ chân thật.
88.Ngôi Sao phương đông--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
“Khi Đức Giêsu ra đời tại Bêlem miền Giuđê thời Vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giêrusalem và hỏi: Đức Vua dân Do thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” (Mt 2,1-2).
Các nhà chiêm tinh Đông phương nhìn thấy ngôi sao xuất hiện và lên đường tìm kiếm. Họ đã tìm ra Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ hang lừa. Đó chính là vị Cứu tinh mà Israel từ lâu mong đợi. Vị Cứu tinh chào đời tại Bêlem như lời Ngôn sứ Mikha đã loan báo “Phần ngươi, hỡi Bêlem Epratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giuđa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị lãnh tụ chăn dắt dân Israel” (Mk 5,1). Các nhà chiêm tinh vui mừng tôn kính dâng lễ vật bái thờ Người.
Ngôi sao xuất hiện ở phương Đông được ông Bilơam tiên báo: “Một Vì Sao xuất hiện từ Giacóp, một vương trượng trỗi dậy từ Israel” (Ds 24,17). Các nhà chiêm tinh đến từ vùng đất phương Đông, quê hương của Bilơam. Ngôi sao họ nhìn thấy vốn là dấu hiệu chỉ vương quyền. Ngôi sao nhắc lại lời sấm chúc phúc của Bilơam thuở xưa nói về triều đại Đavít và về chính Đấng Mêsia.
Câu chuyện lời chúc phúc của Bilơam rất ly kỳ được kể trong Sách Dân Số chương 22-24.
Trên đường tiến về miền đất hứa, dân của Môsê đã giao tranh với nhiều lân bang. Đoàn dân nhỏ bé ấy lại có sức mạnh đánh đâu thắng đó. Các nước lân bang đều run sợ. Người Môáp khiếp sợ. Vua người Môáp sai sứ đến với Bilơam thuộc đất dân Ammon để xin ông này nguyền rủa dân Israel “may ra nhờ thế ta có thể đánh bại được nó và đuổi nó ra khỏi lãnh thổ của ta”. Các sứ giả lên đường tìm gặp Bilơam để trao cho ông lời sấm “chúc dữ” dân Israel. Bilơam mời các sứ giả nghỉ qua đêm để ông thỉnh ý Đức Chúa. Sáng hôm sau, Bilơam nói cùng các sứ giả rằng ông không thể làm theo yêu cầu của vua Môáp được. Nhưng đến lần thứ hai, dưới tác động của Thiên Chúa “cứ chỗi dậy, đi với chúng, nhưng chỉ được làm điều Ta bảo ngươi”, ông chấp nhận ra đi với các sứ giả vua Môáp. Bilơam đến miền đất dân Môáp để chúc dữ cho dân Israel trên lưng một con lừa cái và đi cùng với hai chú tiểu đồng. Trên đường đến với vua Môáp, con lừa của Bilơam thấy Thần sứ của Thiên Chúa đứng cản đường cùng với thanh gươm cầm sẵn trong tay. Thấy thế, con lừa cái bèn tránh đường đi xuống ruộng. Bilơam đánh đập con lừa và bắt nó phải đi trên đường. Khi đến con đường mòn hai bên đều xây tường, con lừa cái khi thấy Thần sứ liền ép sát vào tường làm cho chân của Bilơam bị cọ sát trầy xước. Tức giận ông lại đánh con lừa cách thậm tệ. Nhưng đến khi đến đoạn đường hẹp không thể nào đi được nữa vì Thần sứ chận đứng, con lừa đành phải nằm bẹp xuống chân ông Bilơam. Thấy vậy, Bilơam càng tức giận. Ông nổi nóng dùng gậy tới tấp đánh con lừa. Đến lúc này, con lừa lên tiếng: “Tôi đã làm gì ông mà ông đã đánh tôi đến ba lần”. Bilơam nhìn lên thì thấy Thần sứ Thiên Chúa thì run sợ. Theo hướng dẫn của Thần sứ Thiên Chúa, Bilơam đến với vua Môáp nhưng không phải để chúc dữ cho dân Israel mà là chúc phúc. Trong bài diễn văn chúc phúc đó, Bilơam đã tiên báo về Ngôi sao xuất hiện trong nhà Giuđa:”Một Vì Sao xuất hiện từ Giacóp, một vương trượng trỗi dậy từ Israel” (Ds 24, 17).
Một ngôi sao lạ ở phương Đông xuất hiện trên bầu trời đầy sao.Các nhà chiêm tinh nhận ra ngôi sao lạ. Họ tin rằng có một vị vua mới sinh ra ở đất Do thái. Họ lập tức khởi hành, lên đường tìm kiếm. Con đường đi của họ dẫn qua sa mạc, bụi bặm, nóng bức và giá lạnh. Đó là một con đường đầy chông gai khó khăn, vất vả và nguy hiểm. Họ luôn nhìn lên ngôi sao dẫn đường và tiến bước.
Khi đến thủ đô Giêrusalem, các nhà chiêm tinh dò hỏi tông tích của vị tân vuơng. Nghe tin ấy vua Hêrôđê bối rối liền triệu tập các thượng tế và kinh sư lại hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. Vua phái các vị ấy đi và dặn “xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi để tôi cùng đến bái lạy Người”. Họ ra đi “Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở mới dừng lại”. Họ mừng rỡ vô cùng. Họ gặp Hài Nhi, liền sấp mình bái lạy, với lòng thành họ dâng tiến lễ vật vàng, nhũ hương và mộc dược.
Câu chuyện Phúc âm tuyệt đẹp. Ba nhà chiêm tinh đi tìm Đấng Cứu Thế theo ánh sao lạ. Nếu Thiên Chúa đã dùng cột mây lửa để dẫn dân Do thái đi trong hoang địa về Đất hứa thì Người cũng có thể dùng ngôi sao lạ để dẫn đường cho các nhà chiêm tinh đến Bêlem để gặp Đấng Cứu Tinh.
Nhưng sự thật vô cùng trớ trêu là khi vị Cứu tinh xuất hiện sau bao thế kỷ chờ đợi thì Dân Do thái lại thờ ơ lãnh đạm. Các thượng tế, các kinh sư có thái độ dửng dưng thụ động. Họ rành rẽ Kinh Thánh và biết rõ nơi sinh của Đấng Cứu Thế nhưng họ chẳng cất bước đến Bêlem. Còn Hêrôđê thì hốt hoảng bối rối, sợ ngai vàng bị lung lay nên tìm cách loại trừ với mưu mô cạm bẫy.
Tấn bi kịch cuộc đời Hài Nhi bắt đầu, bị người đồng hương từ khước, bị tẩy chay, bị giết chết. Chỉ có các nhà chiêm tinh hăng hái lên đường lao vào cuộc phiêu lưu tìm kiếm. Họ đã làm tất cả miễn sao gặp được Đấng Cứu Tinh. Cho dù Đấng ấy chẳng uy nghi ngự trong lâu đài điện ngọc nhưng họ vẫn vui mừng đón nhận, xin được bái kiến và dâng lễ vật quý giá với cả tấm lòng thành.
Phụng vụ đọc câu chuyện tuyệt đẹp này trong ngày Lễ Hiển Linh “Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại”. Các nhà chiêm tinh là dân ngoại, họ đại diện cho mọi dân tộc, họ khao khát tìm kiếm ơn cứu độ. Sau này Chúa Giêsu đã xác định: từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng tổ phụ Abraham, Isaac, Giacop trong nước trời.
Các thượng tế và các kinh sư thông hiểu Thánh Kinh, họ giảng giải thật hay cho Hêrôđê, nhưng chỉ là lý thuyết. Họ tìm Đấng Cứu Thế trong sách vở nhưng không nhận ra Người trong thực tế vì Người không phù hợp với những quan điểm cố định của họ. Những người chuyên nghiên cứu sách vở đầy sự uyên bác thông thái, nếu không lên đường, không thao thức tìm kiếm thì chẳng bao giờ gặp được Thiên Chúa.Trái lại, những tâm hồn đơn sơ, khó nghèo như các mục đồng, hay cởi mở và khao khát chân lý như các nhà chiêm tinh lại được diễm phúc gặp gỡ Người vì họ đã dám mạo hiểm lên đường tìm kiếm, bước đi theo các dấu chỉ.
Thiên Chúa vẫn luôn tỏ mình ra cho nhân loại qua những dấu chỉ tự nhiên của trời đất, qua từng biến cố lịch sử, qua Lời Người trong Thánh Kinh, qua sự hiện diện của Dân Chúa là Giáo hội, qua các bí tích. Muốn gặp được Thiên Chúa, nhất thiết phải nổ lực tìm kiếm. Cho dầu có những thử thách, cam go, những hiểm nguy cạm bẫy, vẫn luôn kiên trì trong đức tin, bền đổ trong lòng mến.
Hôm nay, không có ngôi sao đông phương nào xuất hiện trên bầu trời để soi đường cho chúng ta đi tìm Chúa. Chúng ta có một ánh sáng khác rực rỡ hơn giúp tìm gặp Người. Đó là ánh sáng của Lời Chúa "Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi.". Bước đi trong ánh sáng Lời Chúa, chúng ta sẽ trở nên ngôi sao dẫn đường cho nhiều người tìm đến Thiên Chúa. Thánh Phaolô mời gọi: “Anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời”(Pl 2,15).
Tại sao các Kitô hữu được gọi là các vì sao? Thánh Gioan giải thích: “Thiên Chúa chưa ai thấy bao giờ. Nếu chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta”(1Ga 4,12). Nói cách khác, Thiên Chúa của chúng ta là một vị “Thiên Chúa ẩn mình”, nhưng Người muốn tỏ mình ra cho người ta thấy qua cách sống yêu thương của chúng ta. Nói cách khác nữa, khi chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở trong chúng ta, bởi vì “Thiên Chúa là tình yêu”(1Ga 4,18). Cho nên cách sống yêu thương của người Kitô hữu làm cho người ta nhìn thấy và nhận biết được Thiên Chúa tình yêu. Chính vì thế mà thánh Phaolô đã so sánh thế gian như vòm trời tăm tối, và khuyến khích các Kitô hữu hãy sống yêu thương để có thể thành những vì sao chiếu sáng trên vòm trời ấy.
Trong đời sống xã hội hôm nay, có rất nhiều ngôi sao trên bầu trời nghệ thuật, đủ mọi lãnh vực. Ngôi sao nhạc Rock, ngôi sao điện ảnh, ngôi sao bóng đá…thôi thì đủ các loại sao! Có những người chưa xứng đáng là “sao” mà cũng tự nhận mình là sao, thậm chí có những người vênh váo tự phong mình là “siêu sao”!
Trong phạm vi tôn giáo, ta thấy có những Kitô hữu âm thầm sống bác ái yêu thương, chiếu tỏa nhân đức cho những người chung quanh, nhưng chỉ dám nhận mình là tôi tớ vô dụng ( Lc 17,10). Thời nay, Mẹ Têrêxa Calcutta với tấm lòng yêu thương bao la cũng là một vì sao chiếu sáng trên vòm trời.
Ngôi sao đông phương dẫn các nhà chiêm tinh đến gặp Chúa Hài Nhi và tiến dâng lệ vật. Chúng ta nhờ ánh sáng Lời Chúa soi dẫn trên hành trình cuộc đời. Lời Chúa là ánh sao chiếu soi tâm hồn giúp chúng sáng lên niềm tin. Chính Chúa Giêsu là ngôi sao mai dẫn chúng ta đi vào một con đường mới, con đường chói ngời ngọn lửa đức mến. Người Kitô hữu tiếp nhận ánh sáng từ Chúa Giêsu để chiếu lên làn ánh sáng hy vọng, ánh sáng tin yêu, ánh sáng công bình bác ái. Những chứng tá đức tin cậy mến, những gương sáng đời sống gia đình, những nỗ lực thực thi các giá trị Phúc Âm chính là những ánh sao cụ thể soi đường truyền giáo.
89.Khiêm nhường để nhận biết Chúa--Lm. Nguyễn Hữu An
Chu kỳ Giáng Sinh gồm Mùa Vọng và Mùa Giáng Sinh. Phụng Vụ cử hành việc Thiên Chúa tỏ mình cho nhân loại. Hai biến cố quan trọng cũng là hai lễ lớn của chu kỳ là Lễ Giáng Sinh và Lễ Hiển Linh. Lễ Giáng Sinh, Thiên Chúa tỏ mình cho dân Do-thái. Lễ Hiển Linh, Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại.
Gaspar, Melchior và Balthasar là ba nhà Đạo Sĩ nổi tiếng ở Đông Phương được mệnh danh là con của các vì sao sáng, huyền phái của khoa học vũ trụ. Họ đã theo ngôi sao lạ đến Bê-lem, xứ Giu-đê để thờ lạy Đấng Cứu Thế. Họ đã dâng cho Hài Nhi vàng, nhũ hương và mộc dược.
Chúng ta cùng dừng lại nơi Hang đá Bê-lem có Hài Nhi Giêsu để suy niệm về sự lạ lùng của cuộc gặp gỡ kỳ diệu giữa các Mục Đồng, các Đạo Sĩ với Đấng Cứu Thế. Chỉ có các Mục Đồng, các Đạo Sĩ tìm gặp được Chúa. Có các Thiên thần, có một ngôi sao rực rỡ trong ánh sáng thần linh chiếu sáng cho họ. Đức Cha Fulton Sheen, nhà giảng thuyết lừng danh đã gọi họ những người đơn sơ và những người thông thái.
Khi các Mục Đồng canh giũ chiên ở ngọn đồi Bê-lem, họ bỡ ngỡ vì vẻ đẹp của Thiên Thần: Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng cứu độ đã sinh ra cho anh em trong thành của vua Đa-vít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa (Lc 2, 10-12). Còn các Đạo Sĩ ở bên kia xứ Ma-đi-an và Ba-tư nghiên cứu bầu trời đã thấy một ngôi sao chiếu sáng như chiếc đèn của nhà tạm vũ trụ, điện thờ của Thiên Chúa. Họ theo ánh sao tìm đến Hang đá tìm gặp Hài Nhi.
Như những cánh bướm bị thu hút bởi ngọn lửa, các Mục Đồng và các Đạo Sĩ tiến đến ngai vàng chỉ là một Hang đá, đến với Thiên Chúa chỉ là một Hài Nhi. Thiên Chúa Hài Nhi ngước nhìn từ Máng cỏ chỉ thấy hai hạng người tìm gặp Ngài và chỉ duy họ tìm gặp Ngài cho đến tận cùng thời gian. Đó là các Mục Đồng và các Đạo Sĩ, những người đơn sơ và những người thông thái.
Các Mục Đồng là những người đơn sơ. Họ chẳng biết gì tới chính trị, văn chương, nghệ thuật. Họ chỉ biết hai điều quan trong là Thiên Chúa ở trên họ và họ ở giữa đoàn chiên. Đêm hôm đó bầu trời rộng mở để loan báo Tin mừng. Thiên Thần cho biết Đấng họ nóng lòng chờ đợi vừa sinh ra trong Hang đá Bê-lem nhỏ bé. Họ đã tìm và gặp Đấng Chăn Chiên của họ
Các Đạo Sĩ tìm gặp Đấng Cứu Thế là những người thông thái. Họ không là những vua chúa. Họ không phải là những người nghiên cứu nông cạn mà là những bậc thầy hoàng vương, những nhà tinh thông về vũ trụ và họ đã khám phá ra một ngôi sao lạ. Đối với khoa học và tôn giáo họ được liệt vào hàng đầu trong nước của họ. Các vua chúa bàn hỏi với họ trước khi xuất chinh. Các nông dân hỏi ý kiến họ trước khi trồng tỉa. Hàng ngàn người đã thấy ngôi sao, nhưng sự uyên bác của ba Đạo Sĩ làm cho họ lên đường khám phá.
Chính nhà bác học Newton đã thốt lên khi quan sát vũ trụ: Tôi thấy Thiên Chúa đi qua kính viễn vọng của tôi. Đối với kẻ kiêu ngạo, tự phụ, ngôi sao chỉ là ngôi sao, nhưng đối với người thông thái đó là một dấu chỉ thời đại, một tác phẩm của Thiên Chúa. Thế nên các Đạo Sĩ đã đi theo ánh sáng ngôi sao với bao gian lao, đầy mạo hiểm. Đến nơi, mặc phẩm phục và quỳ trên nệm rơm, các Đạo Sĩ chiêm ngắm một trẻ sơ sinh chưa thể hỏi han hay đối đáp được điều gì. Họ tiến dâng Ngài tặng phẩm và tâm hồn để chứng tỏ sự thần phục của thế gian. Tặng phẩm là vàng, nhũ hương, mộc dược. Vàng, vì Hài Nhi sẽ là vua. Nhũ hương, vì Ngài sẽ là Tư Tế. Mộc dược, vì Ngài sẽ chết như mọi người. Các Đạo Sĩ đã tìm gặp được Đấng Khôn Ngoan.
Chỉ có các Mục Đồng và các Đạo Sĩ đã tìm gặp được Đấng Cứu Thế. Trong khi đó các người nổi nang trong đạo Do thái không gặp được Ngài. Bởi lẽ: Các Luật sĩ chỉ thao thức về lề luật. Các Thượng tế chỉ nhạy bén về đền thờ. Các Kỳ lão chỉ lo lắng về truyền thống. Hêrôđê cũng là con người tìm tòi, ông đã cặn kẽ điều tra nơi Hài Nhi ở, không phải để đến thờ lạy mà tìm cách hủy diệt. Loại người nào cũng tự mãn trong những cơ chế phức tạp cứng nhắc (Đức Cha Bùi Tuần).
Thời nay cũng thế, đầy dẫy những triết gia, những nhà khoa học, những người vô thần theo thuyết bất khả tri... nhưng không ai trong họ đã nhìn thấy một thiên thần hay ánh sáng một ngôi sao. Dòng dõi của những Hê-rô-đê kiêu ngạo cho tới thời nay đã không tìm thấy Thiên Chúa vì họ muốn dùng lý trí để nắm bắt siêu việt. Họ quá phức tạp nên không hiểu lời xác quyết đơn sơ của các Mục Đồng, quá đầy kiến thức khoa học để lãnh hội chân lý do các Đạo Sĩ đem đến. Dòng dõi này che đậy tính kiêu ngạo và đi tới chỗ coi Giáo Hội là một thể chế đã lỗi thời cần loại bỏ.
Điều kiện tiên quyết để gặp được Thiên Chúa, đó là lòng khiêm nhường, chung cho cả người đơn sơ lẫn người thông thái. Những tâm hồn đơn sơ như các Mục Đồng mới gặp được Thiên Chúa bởi họ ý thức mình không biết gì cả. Những người thông thái đích thực như các Đạo Sĩ gặp được Thiên Chúa bởi vì họ ý thức mình không biết gì cả.
Chúa Giêsu không sinh ra ở giữa trời, nơi người ta có thể đứng thẳng. Ngài đã Giáng sinh trong Hang đá, nơi người ta phải cúi mình để đi vào. Đó là một cử chỉ khiêm nhường. Các Mục Đồng và các Đạo Sĩ đủ đơn sơ để nghiêng mình xuống. Khi làm như vậy, họ thấy mình ở trong Hang đá. Tại đó, một người nữ diễm lệ, đầu đội mặt trời, chân đạp mặt trăng và đôi tay ẵm lấy Hài Nhi, Đấng dùng những ngón tay bé nhỏ của mình nâng đỡ trái đất. Khi các Mục Đồng và các Đạo Sĩ quỳ gối, có lẽ các Đạo Sĩ ghen với các Mục Đồng vì con đường của các Mục Đồng ngắn hơn, họ tìm thấy sự khôn ngoan là chính Thiên Chúa mau hơn.
Bước vào ngàn năm mới, Thiên Chúa vẫn không ngừng lôi kéo cả nhân loại đến với Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Ngài vẫn không ngừng cho những ánh sao dẫn đường. Không phải là ánh sao trên trời cao mà là ánh sáng Ngài gieo vào lòng người. Mỗi người cần phải trung thành với ánh sáng đó, dấn bước trên hành trình đức tin đầy mạo hiểm của mình.
Các Thượng Tế, các Kinh Sư thông hiểu Thánh Kinh, họ cắt nghĩa cho Hê-rô-đê rất hay nhưng họ vẫn ngồi yên tại chỗ. Họ tìm Đấng Thiên Sai trong Thánh Kinh, nhưng không nhận ra Người trong thực tế vì Người không phù hợp với những quan điểm cố định của họ. Những tâm hồn đơn sơ như các Mục Đồng, những tâm hồn cởi mở khao khát chân lý như các Đạo Sĩ lại được hạnh phúc nhận biết Người.
Thiên Chúa vẫn tiếp tục tỏ mình cho thế giới qua các dấu chỉ tự nhiên của trời đất, của lịch sử, qua Thánh Kinh, qua Giáo Hội, qua các Bí Tích, qua cuộc sống hàng ngày. Để gặp Ngài, chúng ta cần có lòng khiêm nhường. Nhờ sự gặp gỡ này, mỗi người sẽ trở nên ánh sao dẫn lối cho nhiều người nhận biết và yêu mến Chúa.
90.Niềm tin của các đạo sĩ--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Những khi ngắm cảnh chiều hoàng hôn nhẹ buông hay bình minh lên rực rỡ,ta cảm nhận vẻ đẹp huyền diệu của trời đất.Biết thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên, ta sẽ thấy sự huyền diệu của Đấng Tạo Hoá.
Những đêm đẹp trời, nhìn lên bầu trời đầy sao, ta thấy Sao Bắc Đẩu. Sao Bắc Đẩu nằm trong chòm sao Gấu Lớn (còn gọi là Đại hùng tinh) và nằm ở phương Bắc. Người đi biển không có la bàn hay người đi rừng thường nhìn sao Bắc đẩu để nhắm hướng Bắc, nhờ đó họ có thể đi biển an toàn, không sợ lạc trên biển cả mênh mông, trong rừng già hoang vắng. Sao Bắc Đẩu là sao định hướng.
Cách đây hơn 2000 năm, trên bầu trời đầy sao bổng xuất hiện một ngôi sao lạ ở phương Đông.Các nhà chiêm tinh nhận ra ngôi sao lạ vì họ chuyên nghiên cứu các vì sao.Ngày xưa người ta tin rằng những vĩ nhân chào đời thường được báo hiệu bằng những ngôi sao. Bởi đó khi thấy xuất hiện một ngôi sao lạ, họ đã nghiên cứu đối chiếu với lời tiên báo trong trong sách Dân số ” Một vì sao xuất hiện từ Giacop,một vương trượng chỗi dậy từ Israel”( 24,17), họ tin rằng có một vị vua mới sinh ra ở đất Do thái.Họ lập tức khởi hành, lên đường tìm kiếm.
Khi đến thủ đô Giêrusalem, các nhà chiêm tinh dò hỏi tông tích của vị tân vuơng.Nghe tin ấy vua Hêrôđê bối rối liền triệu tập các thượng tế và kinh sư lại.Khi biết rằng Đấng Kitô hạ sinh ở Bê lem theo lời tiên báo các ngôn sứ, Hêrôđê bày trò gian xảo nhằm tiêu diệt ấu vương.Con cáo già giở giọng ngọt ngào: xin quý Ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cùng đến bái lạy Người. Không gạt được các nhà chiêm tinh, vị bạo chúa ra lệnh giết hết con trẻ ở Bêlem và các vùng lân cận từ hai tuổi trở xuống tính theo ngày tháng ông đã hỏi cặn kẻ các nhà chiêm tinh.
Ngôi sao lạ lại xuất hiện dẫn đường, các nhà chiêm tinh mừng rỡ tìm đến Bêlem. Họ đã gặp Hài Nhi liền sấp mình bái lạy, với lòng thành họ dâng tiến lễ vật vàng, nhũ hương và mộc dược.
Câu chuyện tuyệt đẹp, ba nhà chiêm tinh đi tìm Đấng Cứu Thế theo ánh sao lạ. Nếu Thiên Chúa đã dùng cột mây lửa để dẫn dân Do thái đi trong hoang địa về Đất hứa thì Người cũng có thể dùng ngôi sao lạ để dẫn đường cho các Đạo sĩ đến Bêlem để gặp Đấng Cứu tinh.Nhưng sự thật vô cùng trớ trêu là khi vị cứu tinh xuất hiện sau bao thế kỷ chờ đợi thì Dân Do thái lại thờ ơ lãnh đạm. Các thượng tế, kinh sư có thái độ dửng dưng thụ động. Họ rành rẽ Kinh Thánh và biết rõ nơi sinh của Đấng Cứu Thế nhưng họ chẳng cất bước đến Bêlem. Còn Hêrôđê thì hốt hoảng bối rối, sợ ngai vàng bị lung lay nên tìm cách loại trừ với mưu mô cạm bẫy.
Tấn bi kịch cuộc đời Hài Nhi bắt đầu, bị người đồng hương từ khước, bị tẩy chay, bị giết chết. Chỉ có các đạo sĩ hăng hái lên đường lao vào cuộc phiêu lưu tìm kiếm. Họ đã làm tất cả miễn sao gặp được Đấng Cứu Tinh. Cho dù Đấng ấy chẳng uy nghi ngự trong lâu đài điện ngọc nhưng họ vẫn vui mừng đón nhận, xin được bái kiến và dâng lễ vật quý giá với cả tấm lòng thành.
Phụng vụ Giáo Hội đọc câu chuyện này trong ngày Lễ Hiển Linh,Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại. Các đạo sĩ là dân ngoại, họ đại diện cho mọi dân tộc, họ khao khát tìm kiếm ơn cứu độ. Sau này Chúa Giêsu đã xác định: từ phương đông phương tây nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng tổ phụ Abraham, Isaac, Giacop trong nước trời.
Các thượng tế và các kinh sư thông hiểu Thánh kinh, họ giảng giải thật hay cho Hêrôđê, nhưng chỉ là lý thuyết. Họ tìm Đấng Cứu Thế trong Thánh kinh nhưng không nhận ra Người trong thực tế vì Người không phù hợp với những quan điểm cố định của họ. Những người chuyên nghiên cứu sách vở đầy sự uyên bác thông thái, thế nhưng chỉ ngồi bàn giấy, không lên đường, không thao thức tìm kiếm thì chẳng bao giờ gặp được Thiên Chúa.Trái lại những tâm hồn đơn sơ, khó nghèo như các mục đồng, hay cởi mở và khao khát chân lý như các đạo sĩ lại được diễm phúc gặp gỡ Người vì họ đã dám mạo hiểm lên đường tìm kiếm, bước đi theo các dấu chỉ.
Thiên Chúa vẫn luôn tỏ mình ra cho nhân loại qua những dấu chỉ tự nhiên của trời đất, qua từng biến cố lịch sử, qua Lời Người trong Thánh kinh, qua sự hiện diện của Dân Chúa là Giáo hội, qua các bí tích. Muốn gặp được Người nhất thiết phải nổ lực tìm kiếm. Cho dầu có những thử thách, cam go, những hiểm nguy cạm bẫy vẫn luôn kiên trì trong đức tin, bền đổ trong lòng mến.
Niềm tin các đạo sĩ chính là hành trình đức tin của người Kitô hữu.Có những gian truân vất vả vẫn vững tin rằng tất cả sẽ kết thúc trong ánh sáng huy hoàng.
91.Ngôi sao dẫn đường--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Mt 2: 1-12 Ngôi sao xuất hiện ở phương Đông được ông Bilơam tiên báo: “Một Vì Sao xuất hiện từ Giacóp, một vương trượng trỗi dậy từ Israel” (Ds 24,17).
Cách đây hơn hai ngàn năm, Thiên Chúa tỏ mình cho muôn dân qua sự dẫn dắt của một ngôi sao lạ: “Khi Đức Giêsu ra đời tại Bêlem miền Giuđê thời Vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giêrusalem và hỏi: Đức Vua dân Do thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” (Mt 2,1-2). Các nhà chiêm tinh Đông phương nhìn thấy ngôi sao xuất hiện và lên đường tìm kiếm. Họ đã tìm ra Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ hang lừa. Đó chính là vị Cứu tinh mà Israel từ lâu mong đợi. Vị Cứu tinh chào đời tại Bêlem như lời Ngôn sứ Mikha đã loan báo “Phần ngươi, hỡi Bêlem Epratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giuđa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị lãnh tụ chăn dắt dân Israel” (Mk 5,1). Các nhà chiêm tinh vui mừng tôn kính dâng lễ vật bái thờ Người.
Ngôi sao xuất hiện ở phương Đông được ông Bilơam tiên báo: “Một Vì Sao xuất hiện từ Giacóp, một vương trượng trỗi dậy từ Israel” (Ds 24,17). Các nhà chiêm tinh đến từ vùng đất phương Đông, quê hương của Bilơam. Ngôi sao họ nhìn thấy vốn là dấu hiệu chỉ vương quyền. Ngôi sao nhắc lại lời sấm chúc phúc của Bilơam thuở xưa nói về triều đại Đavít và về chính Đấng Mêsia. Một ngôi sao lạ ở phương Đông xuất hiện trên bầu trời đầy sao.Các nhà chiêm tinh nhận ra ngôi sao lạ. Họ tin rằng có một vị vua mới sinh ra ở đất Do thái. Họ lập tức khởi hành, lên đường tìm kiếm. Con đường đi của họ dẫn qua sa mạc, bụi bặm, nóng bức và giá lạnh. Ðó là một con đường đầy chông gai khó khăn, vất vả và nguy hiểm. Họ luôn nhìn lên ngôi sao dẫn đường và tiến bước. Khi đến thủ đô Giêrusalem, các nhà chiêm tinh dò hỏi tông tích của vị tân vuơng.
Nghe tin ấy, vua Hêrôđê bối rối liền triệu tập các thượng tế và kinh sư lại hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. Chuyện đang công khai, Hêrôđê chuyển thành bí mật: “bí mật vời các nhà chiêm tinh, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện, rồi phái các vị ấy đi, căn dặn: xin đi dò hỏi tường tận… khi tìm thấy xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy người”. Tất cả những động từ trên đây cho thấy cáo già Hêrôđê đang tìm cách biến các nhà chiêm tinh thành gián điệp phục vụ cho âm mưu đen tối của ông.
Các đạo sĩ ra đi “Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở mới dừng lại”. Họ mừng rỡ vô cùng. Họ gặp Hài Nhi, liền sấp mình bái lạy, với lòng thành họ dâng tiến lễ vật vàng, nhũ hương và mộc dược.“Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên đã đi đường khác mà về xứ mình”.
Câu chuyện Phúc âm tuyệt đẹp. Ba nhà chiêm tinh đi tìm Đấng Cứu Thế theo ánh sao lạ. Nếu Thiên Chúa đã dùng cột mây lửa để dẫn dân Do thái đi trong hoang địa về Đất hứa thì Người cũng có thể dùng ngôi sao lạ để dẫn đường cho các nhà chiêm tinh đến Bêlem để gặp Đấng Cứu Tinh.
Nhưng sự thật vô cùng trớ trêu là khi vị Cứu tinh xuất hiện sau bao thế kỷ chờ đợi thì dân Do thái lại thờ ơ lãnh đạm. Các thượng tế, các kinh sư có thái độ dửng dưng thụ động. Họ rành rẽ Kinh Thánh và biết rõ nơi sinh của Đấng Cứu Thế nhưng họ chẳng cất bước đến Bêlem. Còn Hêrôđê thì hốt hoảng bối rối, sợ ngai vàng bị lung lay nên tìm cách loại trừ với mưu mô cạm bẫy.
Tấn bi kịch cuộc đời Hài Nhi bắt đầu, bị người đồng hương từ khước, bị tẩy chay, bị giết chết. Chỉ có các nhà chiêm tinh hăng hái lên đường lao vào cuộc phiêu lưu tìm kiếm. Họ đã làm tất cả miễn sao gặp được Đấng Cứu Tinh. Cho dù Đấng ấy chẳng uy nghi ngự trong lâu đài điện ngọc nhưng họ vẫn vui mừng đón nhận, xin được bái kiến và dâng lễ vật quý giá với cả tấm lòng thành.
Phụng vụ đọc câu chuyện tuyệt đẹp này trong ngày Lễ Hiển Linh “Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại”. Các nhà chiêm tinh là dân ngoại, họ đại diện cho mọi dân tộc, họ khao khát tìm kiếm ơn cứu độ. Sau này Chúa Giêsu đã xác định: “từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng tổ phụ Abraham, Isaac, Giacop trong nước trời” (Mt 8,11). Các thượng tế và các kinh sư thông hiểu Thánh Kinh, họ giảng giải thật hay cho Hêrôđê, nhưng chỉ là lý thuyết. Họ tìm Đấng Cứu Thế trong sách vở nhưng không nhận ra Người trong thực tế vì Người không phù hợp với những quan điểm cố định của họ. Những người chuyên nghiên cứu sách vở đầy sự uyên bác thông thái, nếu không lên đường, không thao thức tìm kiếm thì chẳng bao giờ gặp được Thiên Chúa.Trái lại, những tâm hồn đơn sơ, khó nghèo như các mục đồng, hay cởi mở và khao khát chân lý như các nhà chiêm tinh lại được diễm phúc gặp gỡ Người vì họ đã dám mạo hiểm lên đường tìm kiếm, bước đi theo các dấu chỉ.
Thiên Chúa vẫn luôn tỏ mình ra cho nhân loại qua những dấu chỉ tự nhiên của trời đất, qua từng biến cố lịch sử, qua Lời Người trong Thánh Kinh, qua sự hiện diện của Dân Chúa là Giáo Hội, qua các Bí tích. Muốn gặp được Thiên Chúa, nhất thiết phải nổ lực tìm kiếm. Cho dầu có những thử thách, cam go, những hiểm nguy cạm bẫy, vẫn luôn kiên trì trong đức tin, bền đổ trong lòng mến.
Hôm nay, không có ngôi sao Đông phương nào xuất hiện trên bầu trời để soi đường cho chúng ta đi tìm Chúa. Chúng ta có một ánh sáng khác rực rỡ hơn giúp tìm gặp Người. Đó là ánh sáng của Lời Chúa: "Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi.". Bước đi trong ánh sáng Lời Chúa, chúng ta sẽ trở nên ngôi sao dẫn đường cho nhiều người tìm đến Thiên Chúa. Thánh Phaolô mời gọi: “Anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời”(Pl 2,15).Tại sao các Kitô hữu được gọi là các vì sao? Thánh Gioan giải thích: “Thiên Chúa chưa ai thấy bao giờ. Nếu chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta”(1Ga 4,12). Nói cách khác, Thiên Chúa của chúng ta là một vị “Thiên Chúa ẩn mình”, nhưng Người muốn tỏ mình ra cho người ta thấy qua cách sống yêu thương của chúng ta. Nói cách khác nữa, khi chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở trong chúng ta, bởi vì “Thiên Chúa là tình yêu”(1Ga 4,18). Cho nên cách sống yêu thương của người Kitô hữu làm cho người ta nhìn thấy và nhận biết được Thiên Chúa tình yêu. Chính vì thế mà thánh Phaolô đã so sánh thế gian như vòm trời tăm tối, và khuyến khích các Kitô hữu hãy sống yêu thương để có thể thành những vì sao chiếu sáng trên vòm trời ấy. “Trên trời có muôn ngàn ngôi sao, thế mà các đạo sĩ nhận ra ngôi sao của Chúa Giêsu.Có thể không ngôi sao nào trên trời dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu, nhưng nếu chúng ta đã đến được với Chúa Giêsu thì cũng nhờ một hay nhiều ngôi sao nào đó dẫn đường. Có thể là cha mẹ, một người bạn, một quyển sách, một biến cố... Điều quan trọng là chúng ta biết đọc những tín hiệu. Giữa trăm ngàn đĩa phim, nếu chúng ta có một đầu đĩa thì có thể xem được và phân biệt được phim về Chúa Giêsu với các phim khác. Giữa trăm ngàn đĩa ca nhạc, nếu chúng ta có một đầu đĩa thì có thể nghe được và phân biệt được đĩa thánh ca với các đĩa khác. Đầu đĩa ấy có thể là vũ trụ, có thể là Hội Thánh. Đặc biệt là Thánh Kinh. Nhưng điều cốt yếu vẫn là tôi phải xem, phải nghe. Thiên nhiên và lịch sử không bao giờ thiếu những ngôi sao tín hiệu để con người đến được với ánh sáng.” (ĐGM. Cosma Hoàng Văn Đạt).
Thời nay, Mẹ thánh Têrêxa Calcutta với tấm lòng yêu thương bao lao là một vì sao chiếu sáng trên vòm trời. Chúa muốn chúng ta là ánh sáng chiếu tỏa cho mọi người chung quanh: “Các con là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,14). Kitô hữu trở nên ánh sao tình yêu, ánh sao tha thứ, ánh sao hy vọng, ánh sao công bình, ánh sao bác ái, ánh sao đạo đức, góp phần dẫn đường cho người khác đến với Chúa. Ngôi sao Đông phương dẫn các nhà chiêm tinh đến gặp Chúa Hài Nhi rồi tiến dâng lễ vật. Chúng ta nhờ ánh sáng Lời Chúa soi dẫn trên hành trình cuộc đời. Lời Chúa là ánh sao chiếu soi tâm hồn giúp chúng ta sáng lên niềm tin. “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa” (Lc,11,28), Chúa Giêsu chỉ cho thấy sự cao cả đích thực của Đức Maria, như thế mở ra cho mỗi người chúng ta khả năng sống mối phúc phát sinh từ Lời được lắng nghe và đem ra thực hành. (x.Verbum Domini, số 124).
Chính Chúa Giêsu là Ngôi Sao Mai dẫn chúng ta đi vào con đường chói ngời ngọn lửa đức mến. Bước theo ánh sáng Ngôi Sao Mai, người Kitô hữu chiếu tỏa các giá trị Phúc Âm giữa lòng trần thế. Loan báo Phúc Âm là loan báo tình yêu thương, là xây dựng “nền văn minh tình thương”. Những chứng tá đức tin cậy mến, những gương sáng đời sống gia đình, những nỗ lực thực thi các giá trị Phúc Âm chính là những ánh sao cụ thể soi đường truyền giáo trong thời đại hôm nay.
92.Mục đồng và đạo sĩ--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Chu kỳ Giáng Sinh gồm Mùa Vọng và Mùa Giáng Sinh. Phụng Vụ cử hành việc Thiên Chúa tỏ mình cho nhân loại. Hai biến cố quan trọng cũng là hai lễ lớn của chu kỳ là Lễ Giáng Sinh và Lễ Hiển Linh. Lễ Giáng Sinh, Thiên Chúa tỏ mình cho dân Do-thái. Lễ Hiển Linh, Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại.
Gaspar, Melchior và Balthasar là ba nhà Đạo Sĩ nổi tiếng ở Đông Phương được mệnh danh là con của các vì sao sáng, huyền phái của khoa học vũ trụ. Họ đã theo ngôi sao lạ đến Bêlem, xứ Giuđê để thờ lạy Đấng Cứu Thế. Họ đã dâng cho Hài Nhi vàng, nhũ hương và mộc dược.
Chúng ta cùng dừng lại nơi Hang đá Bêlem có Hài Nhi Giêsu để suy niệm về sự lạ lùng của cuộc gặp gỡ kỳ diệu giữa các Mục Đồng, các Đạo Sĩ với Đấng Cứu Thế. Chỉ có các Mục Đồng, các Đạo Sĩ tìm gặp được Chúa. Có các Thiên thần, có một ngôi sao rực rỡ trong ánh sáng thần linh chiếu sáng cho họ. Đức Cha Fulton Sheen, nhà giảng thuyết lừng danh đã gọi họ những người đơn sơ và những người thông thái.
Khi các Mục Đồng canh giữ đàn chiên ở ngọn đồi Bêlem, họ bỡ ngỡ vì vẻ đẹp của Thiên Thần: Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng cứu độ đã sinh ra cho anh em trong thành của vua Đavít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa ( Lc 2, 10 – 12 ). Còn các Đạo Sĩ ở bên kia xứ Mađian và Batư nghiên cứu bầu trời đã thấy một ngôi sao chiếu sáng như chiếc đèn của nhà tạm vũ trụ, điện thờ của Thiên Chúa. Họ theo ánh sao tìm đến Hang đá tìm gặp Hài Nhi.
Như những cánh bướm bị thu hút bởi ngọn lửa, các Mục Đồng và các Đạo Sĩ tiến đến ngai vàng chỉ là một Hang đá, đến với Thiên Chúa chỉ là một Hài Nhi. Thiên Chúa Hài Nhi ngước nhìn từ Máng cỏ chỉ thấy hai hạng người tìm gặp Ngài và chỉ duy họ tìm gặp Ngài cho đến tận cùng thời gian. Đó là các Mục Đồng và các Đạo Sĩ, những người đơn sơ và những người thông thái.
Các Mục Đồng là những người đơn sơ. Họ chẳng biết gì tới chính trị, văn chương, nghệ thuật. Họ chỉ biết hai điều quan trong là Thiên Chúa ở trên họ và họ ở giữa đoàn chiên. Đêm hôm đó bầu trời rộng mở để loan báo Tin mừng. Thiên Thần cho biết Đấng họ nóng lòng chờ đợi vừa sinh ra trong Hang đá Bêlem nhỏ bé. Họ đã tìm và gặp Đấng Chăn Chiên của họ
Các Đạo Sĩ tìm gặp Đấng Cứu Thế là những người thông thái. Họ không là những vua chúa. Họ không phải là những người nghiên cứu nông cạn mà là những bậc thầy hoàng vương, những nhà tinh thông về vũ trụ và họ đã khám phá ra một ngôi sao lạ. Đối với khoa học và tôn giáo họ được liệt vào hàng đầu trong nước của họ. Các vua chúa bàn hỏi với họ trước khi xuất chinh. Các nông dân hỏi ý kiến họ trước khi trồng tỉa. Hàng ngàn người đã thấy ngôi sao, nhưng sự uyên bác của ba Đạo Sĩ làm cho họ lên đường khám phá.
Chính nhà bác học Newton đã thốt lên khi quan sát vũ trụ: Tôi thấy Thiên Chúa đi qua kính viễn vọng của tôi. Đối với kẻ kiêu ngạo, tự phụ, ngôi sao chỉ là ngôi sao, nhưng đối với người thông thái đó là một dấu chỉ thời đại, một tác phẩm của Thiên Chúa. Thế nên các Đạo Sĩ đã đi theo ánh sáng ngôi sao với bao gian lao, đầy mạo hiểm. Đến nơi, mặc phẩm phục và quỳ trên nệm rơm, các Đạo Sĩ chiêm ngắm một trẻ sơ sinh chưa thể hỏi han hay đối đáp được điều gì. Họ tiến dâng Ngài tặng phẩm và tâm hồn để chứng tỏ sự thần phục của thế gian. Tặng phẩm là vàng, nhũ hương, mộc dược. Vàng, vì Hài Nhi sẽ là vua. Nhũ hương, vì Ngài sẽ là Tư Tế. Mộc dược, vì Ngài sẽ chết như mọi người. Các Đạo Sĩ đã tìm gặp được Đấng Khôn Ngoan.
Chỉ có các Mục Đồng và các Đạo Sĩ đã tìm gặp được Đấng Cứu Thế. Trong khi đó các người nổi nang trong đạo Do thái không gặp được Ngài. Bởi lẽ: Các Luật sĩ chỉ thao thức về lề luật. Các Thượng tế chỉ nhạy bén về đền thờ. Các Kỳ lão chỉ lo lắng về truyền thống. Hêrôđê cũng là con người tìm tòi, ông đã cặn kẽ điều tra nơi Hài Nhi ở, không phải để đến thờ lạy mà tìm cách hủy diệt. Loại người nào cũng tự mãn trong những cơ chế phức tạp cứng nhắc ( Đức Cha Bùi Tuần ).
Thời nay cũng thế, đầy dẫy những triết gia, những nhà khoa học, những người vô thần theo thuyết bất khả tri... nhưng không ai trong họ đã nhìn thấy một thiên thần hay ánh sáng một ngôi sao. Dòng dõi của những Hêrôđê kiêu ngạo cho tới thời nay đã không tìm thấy Thiên Chúa vì họ muốn dùng lý trí để nắm bắt siêu việt. Họ quá phức tạp nên không hiểu lời xác quyết đơn sơ của các Mục Đồng, quá đầy kiến thức khoa học để lãnh hội chân lý do các Đạo Sĩ đem đến. Dòng dõi này che đậy tính kiêu ngạo và đi tới chỗ coi Giáo Hội là một thể chế đã lỗi thời cần loại bỏ.
Điều kiện tiên quyết để gặp được Thiên Chúa, đó là lòng khiêm nhường, chung cho cả người đơn sơ lẫn người thông thái. Những tâm hồn đơn sơ như các Mục Đồng mới gặp được Thiên Chúa bởi họ ý thức mình không biết gì cả. Những người thông thái đích thực như các Đạo Sĩ gặp được Thiên Chúa bởi vì họ ý thức mình không biết gì cả.
Chúa Giêsu không sinh ra ở giữa trời, nơi người ta có thể đứng thẳng. Ngài đã Giáng sinh trong Hang đá, nơi người ta phải cúi mình để đi vào. Đó là một cử chỉ khiêm nhường. Các Mục Đồng và các Đạo Sĩ đủ đơn sơ để nghiêng mình xuống. Khi làm như vậy, họ thấy mình ở trong Hang đá. Tại đó, một người nữ diễm lệ, đầu đội mặt trời, chân đạp mặt trăng và đôi tay ẵm lấy Hài Nhi, Đấng dùng những ngón tay bé nhỏ của mình nâng đỡ trái đất. Khi các Mục Đồng và các Đạo Sĩ quỳ gối, có lẽ các Đạo Sĩ ghen với các Mục Đồng vì con đường của các Mục Đồng ngắn hơn, họ tìm thấy sự khôn ngoan là chính Thiên Chúa mau hơn.
Bước vào năm mới, Thiên Chúa vẫn không ngừng mời gọi cả nhân loại đến với Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Ngài vẫn không ngừng cho những ánh sao dẫn đường. Không phải là ánh sao trên trời cao mà là ánh sáng Ngài gieo vào lòng người. Mỗi người cần phải trung thành với ánh sáng đó, dấn bước trên hành trình đức tin đầy mạo hiểm của mình.
Các Thượng Tế, các Kinh Sư thông hiểu Thánh Kinh, họ cắt nghĩa cho Hêrôđê rất hay nhưng họ vẫn ngồi yên tại chỗ. Họ tìm Đấng Thiên Sai trong Thánh Kinh, nhưng không nhận ra Người trong thực tế vì Người không phù hợp với những quan điểm cố định của họ. Những tâm hồn đơn sơ như các Mục Đồng, những tâm hồn cởi mở khao khát chân lý như các Đạo Sĩ lại được hạnh phúc nhận biết Người.
Thiên Chúa vẫn tiếp tục tỏ mình cho thế giới qua các dấu chỉ tự nhiên của trời đất, của lịch sử, qua Thánh Kinh, qua Giáo Hội, qua các Bí Tích, qua cuộc sống hàng ngày. Để gặp Ngài, chúng ta cần có lòng khiêm nhường. Nhờ sự gặp gỡ này, mỗi người sẽ trở nên ánh sao dẫn lối cho nhiều người nhận biết và yêu mến Chúa.
93.Lễ Chúa Hiển Linh--Lm. Phêrô Nguyễn Minh Mẫn
Hiển linh là sự tỏ ra một cách linh thiêng. Lễ Hiển Linh nghĩa là lễ Chúa tỏ mình ra cho muôn dân. Chúa đã hiển linh khi giáng sinh, đê cho người ta thấy Người nơi máng cỏ;
Hiển linh là sự tỏ ra một cách linh thiêng. Lễ Hiển Linh nghĩa là lễ Chúa tỏ mình ra cho muôn dân. Chúa đã hiển linh khi giáng sinh, đê cho người ta thấy Người nơi máng cỏ; Người hiển linh cho ông Simêon và bà Anna nơi đền thờ; Người đã hiển linh sau khi chịu phép rửa ở sông Giođan và trong suốt cuộc sống dương thế Người cũng luôn tỏ mình ra cho mọi người. Nhưng phụng vụ hôm nay nhấn mạnh đến việc Người tỏ mình ra cho muôn dân. Và khi nói đến muôn dân, thì cũng gợi nên cho chúng ta hình ảnh những người dân ngoại và những người không thuộc dân ngoại. Chính vì thế, bài Tin Mừng hôm nay, không chỉ tập trung làm nổi bật lên thái độ của các nhà chiêm tinh được coi là dân ngoại, nhưng đồng thời cũng làm nổi bật lên thái độ của vua Hêrôđê và các thượng tế và kinh sư trong dân.
Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta về một cuộc hành trình của những người khao khát chân lý, khao khát Thiên Chúa. Các nhà chiêm tinh, họ là những người khao khát chân lý. Họ đã sử dụng hết khả năng của mình để đi tìm chân lý. Họ đã từ bỏ một đời sống an toàn và tiện nghi để dân thân vào một hành trình xa sôi với tất cả những thiêu thốn, hiểm nguy và đầy bất trắc. Mục đích duy nhất là để tìm kiếm vị Vua, tìm kiếm chân lý cho cuộc sống của mình.
Họ là những người tri thức, họ đã dùng sự hiểu biết của mình để đi tìm chân lý. Chính tri thức đã cho họ biết có một vị vua cao cả mới xuất hiện. Chính tri thức đã dẫn đưa họ đi tìm chân lý, đi tìm vị vua cao cả của cuộc sống của họ. Nhưng dù hiểu biết của họ có thâm sâu thề nào đi chăng nữa thì ngôi sao lạ cũng chỉ dẫn họ tới Belem. Vì khi tới Belem họ không còn nhìn thấy ngôi sao dẫn đường nữa.
Khi không còn thấy ngôi sao, hiểu biết của họ trở nên mất phương hướng. Lúc này họ phải cần nhờ đến Lời Chúa, nhờ đến Kinh Thánh để dẫn đường. Họ đến gặp vua Hêrôđê để rồi những thượng tế và kinh sư trong dân (những người hiểu biết về Kinh Thánh) cho họ biết: theo Kinh Thánh, nơi mà vị vua cao cả sẽ sinh ra là tại Belem, miền Giuđê. Và khi đã để mình được hướng dẫn bởi Lời Chúa, bởi Kinh Thánh thì tri thức, hiểu biết của họ lại càng làm cho họ xác tín hơn vào vị vua cao cả của cuộc đời của họ. Chính vì thế khi ra khỏi cung điện của Hêrôđê, thì ngôi sao lại xuất hiện và dẫn đưa họ đến tận nơi Hài Nhi mới dừng lại. Cũng chính vì thế mà, họ tin Hài Nhi mới sinh đang nằm trong máng cỏ, bé bỏng đơn sơ, không vinh quang, không uy quyền là vị vua của chân lý, là vị vua cao cả của cuộc đời họ. Và họ liền sấp mình thờ lạy Người, rồi mở bảo tráp lấy vàng, nhũ hương và mộc dược dâng tiến vị vua cao cả của cuộc đời họ. Hành trình của các nhà chiêm tinh cũng là hành trình đức tin của mỗi người chúng ta.
Kính thưa ÔBACE, tri thức, sự hiểu biết là cần thiết cho hành trình đức tin của chúng ta. Thế nhưng điều quan trọng là, chúng ta có dùng tri thức, dùng sự hiểu biết để hướng dẫn và củng cố đức tin của mình như là các nhà chiêm tinh; hay chúng ta dùng tri thức, hiểu biết của mình để củng cố quyền lợi ích kỷ cá nhân, để loại trừ người khác. Sau khi được các thượng tế và kinh sư cung cấp một số dữ kiện về Hài Nhi, Hêrôđê cũng có những hiểu biết về Hài Nhi, thế nhưng ông dùng hiểu biết đó, để lên kế hoạch cho việc bảo vệ quyền lợi ích kỷ cá nhân mà ông nghĩ sẽ bị đe dọa bởi Hài Nhi.
Kính thưa ÔBACE, nếu như ngày xưa, Hêrôđê dùng hiểu biết bảo vệ quyền lợi ích kỷ cá nhân và bách hại Hài Nhi Giêsu; thì ngày nay, việc dùng hiểu biết của mình để củng cố và bảo vệ quyền lợi ích kỷ cá nhân, cũng xẩy ra hằng ngày trong cuộc sống của chúng ta. Thật vậy, bất cứ khi nào chúng ta dùng kiến thức, dùng hiểu biết của mình để lừa lọc, gian dối, để đàn áp những người thấp cổ bé họng là chúng ta đang loại trừ các giá trị của Tin Mừng, là chúng ta đang loại trừ và bách hại Hài Nhi Giêsu. Đây là kinh nghiệm mà ít nhiều mỗi người chúng ta đều cảm nhận được.
Thật vậy, dù tri thức và sự hiểu biết của chúng ta có tới đâu đi chăng nữa, nhưng nếu không để mình được hướng dẫn bởi Lời Chúa, bởi Kinh Thánh, thì tri thức, sự hiểu biết đó cũng không thể nào dẫn ta đến gặp gỡ Thiên Chúa Hài là Chân lý tuyệt đối được.
Các thượng tế và kinh sư là những người hiểu biết Kinh Thánh. Họ là những chuyên gia về thần học thời bấy giờ. Họ có thể trích dẫn và giải thích đúng Kinh Thánh. Thế nhưng Kinh Thánh đối với họ chỉ như là một tài liệu cổ, một văn tự chết. Vì thế, họ có thể biết nơi Chúa Giáng sinh nhưng họ không cảm thấy mình đang được mời gọi lên đường. Theo thánh Âutinh thì họ là “những cột cây số” chỉ đúng đường, nhưng lại không di chuyển. Vì thế, hiểu biết của họ cũng chẳng đem lại lợi ích gì cho họ, có chăng chỉ là cung cấp thêm cho Hêrôđê những dữ kiện để thi hành tội ác bách hại các hài nhi.
Kính thưa ÔBACE, nếu không cẩn thận, chúng ta rất có thể sống như các thượng tế và kinh sư. Chúng ta thuộc giáo lý, hiểu biết Kinh Thánh, nhưng chúng ta chẳng bao giờ thực hành, chẳng muốn sống theo lời Chúa dạy. Và thậm chí sống ngược với Lời Chúa và giáo huấn của Hội thánh. Một đời sống như vậy không những làm cho đức tin của mình suy giảm, nhưng rất có thể nó biến thành công cụ để bách hại đức tin nơi người khác. Thực tế cho thấy, có nhiều người chống đối Giáo hội, mất niềm tin vào Hội Thánh chỉ vì chứng kiến những đời sống bê tha, ích kỷ và gian dối của người kitô hữu, những người được cho là đạo đức thánh thiện. Và đây cũng là kinh nghiệm mà mỗi người chúng ta ít nhiều cảm nhận được.
Kính thưa OBACE, Thiên Chúa luôn tỏ mình ra cho con người, để con người có thể đến và kín múc nơi Ngài sự sống mới. Thế nhưng việc nhận ra và đến với Ngài là cả một hành trình. Hành trình này đòi hỏi con người phải biết nỗ lức với hết khả năng của mình dưới sự hướng dẫn của Thiên Chúa.
Chính vì thế, thánh lễ Chúa Hiển Linh hôm nay, xin Chúa cho mỗi chúng ta biết can đảm và khiêm tốn nhìn lại hành trình đức tin của mình, để rồi thành thật nhận ra mình đang ở vị trí nào, đang mang khuôn mặt nào (Hêrôđê, ba nhà chiêm tinh, hay các thượng tế và kinh sư) trên hành trình đức tin. Khi đã nhận ra vị trí, nhận ra khuôn mặt thật của mình trên hành trình đức tin, thì xin Chúa cũng cho chúng ta biết can đảm theo bước chân của ba nhà chiêm tinh, biết tận dụng khả năng của mình dưới sự hướng dẫn của Lời Chúa, để rồi cũng như ba nhà chiêm tinh, chúng ta cũng nhận ra sự hiện diện âm thâm của Thiên Chúa Quyền năng và Tinh yêu nơi những con người bất hạnh đang cần ta giúp đỡ, nơi những con người bé bỏng đơn sơ, không vinh quang, không uy quyền. Amen.
94.Lễ Hiển Linh--Marcellino D'Ambrosio - GB. Nguyễn Kim Ngân chuyển ngữ
Lúc bấy giờ, tất cả cũng đều khá khiêm tốn, một xe lừa đến một thành phố bụi bặm phía nam Giêrusalem. Tất cả các phòng khách sạn đã được đặt trước. Sinh con trong một chuồng ngựa và đặt nằm trong một máng ăn gia súc thay vì một cái nôi ấm áp.
Trong cảnh nghèo nàn ít ai biết đến này đột nhiên xuất hiện một đoàn tùy tùng kỳ lạ từ một nơi xa xôi. Những kẻ sang trọng trong lễ phục tặng cho hài nhi mới sinh những món quà đắt giá mà dường như không có ở những nơi tầm thường này.
Biến cố này có ý nghĩa đến mức nó được nhìn nhận như một ngày lễ trong phụng vụ Rôma, được cử hành một cách truyền thống vào ngày 6 tháng Giêng ngay sau ngày thứ 12 từ lễ Giáng Sinh. Lễ trọng này được gọi là Lễ Hiển Linh [Epiphany], có nghĩa là “tỏ mình” hay "tỏ hiện".
Một em bé cất tiếng khóc chào đời trong một gia đình nghèo khổ, xem ra không hơn gì những đứa trẻ khác, nhưng "hóa ra" Ngài thật sự là Vua muôn vua, Chúa các chúa. Món quà Ngài nhận, được tiên báo trong sách Isaia 60,6 qua câu chuyện: vàng tương xứng với một vị vua, nhũ hương dành cho việc thờ phượng Thiên Chúa và mộc dược – cay đắng nhưng quý giá – dành cho vị anh hùng hi sinh mạng sống mình vì dân.
Có một vài điều quan trọng đáng chú ý về những vị khách danh giá này. Họ là những dân ngoại, không phải người Do Thái. Ngay từ lúc khởi đầu cuộc sống nhân loại, rõ ràng Chúa Giêsu không chỉ là Đấng Mêsia của người Do Thái, Đấng đến để giải thoát dân Israel khỏi ách ngoại bang. Không, Người còn là vua vũ trụ, Đấng thống trị tất cả, Đấng đã đến để phá hủy bức tường hận thù chia cắt giữa người Do Thái với dân ngoại, nước này với nước kia.
Nếu bạn đã từng tự hỏi “Công Giáo” có nghĩa là gì, thì đây là nghĩa của nó. Được bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp mang nghĩa “theo tất cả”, nó có nghĩa rằng Chúa Kitô không đến để thiết lập một giáo phái địa phương nào đó cho số ít người được tuyển chọn, một lối “thờ cúng” giữa nhiều lối khác nhau. Không, Ngài thành lập Giáo Hội là “Công Giáo” hay phổ quát, lan rộng khắp trần gian, đón nhận toàn thể nhân loại thành một nước, một gia đình, dưới một vị vua.
Vài điều nữa về những vị khách nổi tiếng này. Không phải là người Do Thái, họ là người ngoại giáo. Trên thực tế, thuật ngữ “Magi” rõ ràng liên quan đến “ma thuật”. Nó không có trong Kinh Thánh nơi mà bình thường họ tìm kiếm sự thông thái (nếu không thì họ đã biết đường thẳng tới Bêlem rồi). Nhưng, trong phần thưởng dành cho sự hăng hái của họ, dẫu cho có sai lạc trong việc tìm kiếm chân lý, dù sao đi nữa Thiên Chúa đã dẫn họ đến với Chúa Kitô bằng lòng thương xót bao la của Ngài.
Kể từ thời Balaam, Thiên Chúa đã tỏ cho chúng ta biết rằng dân ngoại có thể được đến gần Ngài một cách huyền nhiệm và được Ngài dùng, thậm chí qua những truyền thống khôn ngoan bất toàn của chính họ. Nếu bạn đến nhà nguyện Sistine và nghiên cứu tác phẩm của Michelangelo bạn có thể thấy bằng chứng về điều này. Hàng trên cùng của một bức tường của nhà nguyện là những bức tranh nổi tiếng về các ngôn sứ thời Cựu Ước. Đối diện với những bức tranh này không phải là hình các tông đồ thời Tân Ước như người ta mong đợi. Nhưng đúng hơn là, một dãy các bà đồng bà cốt, những nữ ngôn sứ thời xưa, mà trong những lời sấm của họ có nhiều lời ám chỉ không rõ ràng được khám phá về một vua cứu thế trong tương lai. Một trong các nữ ngôn sứ của Michelangelo miệng há hốc vì kinh ngạc, mắt nhìn chăm chăm vào bức họa Chúa Giêsu phục sinh nằm phía sau nhà nguyện. Quả thật, những khao khát sâu thẳm nhất của tất cả các dân tộc, những yếu tố của chân lý được tìm thấy trong tất cả các tôn giáo và triết lý của họ đều được thực hiện trong Chúa Kitô.
Có phải điều này có nghĩa là tất cả các tôn giáo đều như nhau và chúng ta không nên áp đặt ý tưởng của mình lên người khác không? Không phải tất cả. Thánh Giustinô nói rằng có “nhiều hạt giống Lời Chúa” nằm rải rác ở khắp thế giới. Nhưng những hạt giống đều được nhắm tới việc nảy mầm, phát triển và sinh hoa kết quả. Nghe Tin Mừng đầy đủ và dự phần vào tất cả những phương tiện của ân sủng nói chung thì cần thiết để làm cho điều đó xảy ra. Tất cả mọi dân tộc đều có quyền đến với sự tràn đầy Công Giáo này. Và đó là bổn phận của chúng ta để chia sẻ nó. Đức Thánh Cha Phaolô VI đã đúng khi nói rằng: “Những người khác có thể có khả năng được cứu độ mà không cần lắng nghe Tin Mừng, nhưng liệu chúng ta có thể được cứu độ nếu chúng ta sao lãng việc rao giảng Tin Mừng không?”.
95.Ngôi sao đức tin--Lm Giuse Vũ Thái Hòa
Khi đọc bài Tin mừng hôm nay theo thánh Matthêu về "lễ Ba Vua" (ba thánh sử khác không tường trình biến cố này), chúng ta không thấy nói về vị vua nào cả, cũng không phải ba vua, mà chỉ thấy nói về "các nhà chiêm tinh"! Ngày xưa ở Trung Đông, nhất là tại Ba-tư, các vị chiêm tinh, hoặc đạo sĩ, là những người trí thức, thường làm cố vấn cho các vua và chuyên nghiên cứu về khoa thiên văn. Vào thế kỷ thứ 4 và 5, truyền thống dân gian Tây phương tưởng tượng ra các nhà chiêm tinh là những vị vua. Đến thế kỷ thứ 7, tục truyền lại đặt tên cho họ: Melchior, Gaspard và Balthazar. Rồi đến thế kỷ thứ 15, để muốn nói rằng các vị chiêm tinh tượng trưng cho toàn nhân loại, dân gian còn xác định chủng tộc của họ: Melchior là người da trắng, Gaspard người da vàng, và Balthazar người da đen.
Các nhà chiêm tinh tin rằng mỗi ngôi sao là dấu hiệu của một vị thần hay dấu hiệu của một vị vua đã được thần hóa. Do đó, khi khám phá ra một vì sao lạ, và khi đối chiếu với lời tiên báo trong sách Dân Số: "Một vì sao xuất hiện từ Gia-cóp (nhà Đavít), một vương trượng (vua) trổi dậy từ Israel"(24:17), các ông tin rằng có một vị vua mới sinh ra ở đất Do thái. Họ lập tức khởi hành, bất chấp đường xa và nguy hiểm để đến thờ lạy người.
Khi đến Giê-ru-sa-lem là thủ đô Do-thái, các nhà chiêm tinh dò hỏi tông tích của tân vương. Nghe tin ấy, vua Hêrôđê bối rối, hỏi tất cả các thượng tế, các kinh sư trong dân, và được biết Đấng Kitô sinh ra ở Bêlem dựa theo lời tiên báo trong sách Mi-kha: "Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời" (5:1). Hài Nhi mới sinh ra chính là vị Cứu Tinh (Mê-si-a) mà Israel đã mong chờ từ lâu.
Khi tìm được Vua Hài Nhi, họ sấp mình bái lạy Người và dâng tiến Người vàng, nhũ hương và mộc dược. Đó là ba lễ vật tượng trưng: vàng nói rằng Người là vua, vì vàng là kim loại quý dùng để dâng cho vua; nhũ hương nói rằng Người là Thiên Chúa vì người ta xông hương để tôn kính các thần thánh; mộc dược, hương liệu được dùng để liệm người chết, nói lên nhân tính của Người. Các Kitô hữu nhìn nhận nơi Chúa Giêsu Đấng Thiên Sai được mong đợi (vàng), Con Thiên Chúa (nhũ hương), Đấng hiến dâng mạng sống trên thập giá (mộc dược).
Các vị chiêm tinh này đại diện cho các dân ngoại đã nhìn nhận vương quyền của Hài Nhi ngay từ lúc Người mới chào đời. Họ cũng đại diện cho những người thành tâm thiện chí tìm kiếm chân lý, tìm kiếm Thiên Chúa. Với những bước dọ dẫm và với sự kiên trì, cuối cùng họ đã gặp được Thiên Chúa và dâng cho Người những thứ quý giá nhất.
Trong ngày lễ hôm nay, chúng ta hãy dùng ít phút để suy niệm về mầu nhiệm nhập thể, vược xa trí tưởng tượng của con người. "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời" (Ga 3:16). Nhưng Con Thiên Chúa ở trong một máng cỏ nghèo nàn. Các nhà chiêm tinh nhận ra Người không phải qua bề ngoài nghèo hèn bằng con mắt nhân loại, nhưng bằng con mắt đức tin.
Cách đây hơn 2000 năm nay, Thiên Chúa tỏ mình cho muôn dân qua sự dẫn dắt của một ngôi sao lạ. Từ đó, Người muốn mỗi người chúng ta là ánh sáng chiếu tỏa cho mọi người chung quanh ("Các con là ánh sáng cho trần gian" -Mt 5:14) để dẩn dắt tha nhân đến với Thiên Chúa, như lời mời gọi của thánh Phaolô: "Anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời" (Pl 2:15)
Ước gì mỗi người chúng ta là một ngôi sao đức tin, được chiếu tỏa bởi tình thương và bác ái trong đời sống thường nhật của chúng ta.
96.Những chặng đường lữ hành--Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP
Những người hành hương
Từ hình ảnh ba nhà đạo sĩ lên đường tìm kiếm Đức Giêsu, người ta có thể rút ra một vài nhận định làm khuôn mẫu cho mọi người đang trên đường lữ hành.
Ba đạo sĩ là những người từ những phương trời khác nhau, từ những nơi xa xôi, nhưng đã cùng gặp nhau trong ước muốn gặp gỡ với Vị Vua mới giáng sinh. Đó là hình ảnh của tất cả những ai đã lên đường, do những ước vọng lớn lao thúc đẩy.
Ba vị đã tiến bước và trở thành những người tìm kiếm, những người khám phá.
Ba vị đã gặp được Đức Kitô, vì các vị đã từ bỏ tất cả những gì mình đang có, đã ra khỏi mình, ra khỏi nơi ở của mình. Các vị hòan tòan tự do.
Ba vị tràn đầy hân hoan vui mừng, hòan tòan trong sáng và sẵn sàng đón nhận hồng ân.
Như vậy, các nhà đạo sĩ là những người chẳng có mối liên hệ về họ hàng thân thuộc với Thiên Chúa của Itraen, nhưng đã cảm thấy mình có liên hệ. Các vị khao khát gặp gỡ Vị Vua mới giáng sinh, và các vị đã thành công. Cuộc mạo hiểm đầy gian truân vất vả của các vị đã thành công. Đây là một lời nhắc nhở cho mọi người về mối liên hệ của mỗi người với Thiên Chúa, và Thiên Chúa luôn sẵn sàng hướng dẫn mọi người đến gặp gỡ với Người, nếu họ chấp thuận lên đường, chấp nhận ra khỏi mình, ra khỏi những thói quen thường ngày để tìm gặp Người. Kho tàng phong phú của Thiên Chúa luôn mở ra cho bất cứ ai đón nhận lời mời gọi, bất kể người đó là ai.
Ngoài ra, trong cuộc hành trình, các đạo sĩ đã vào Giêrusalem, thành phố tượng trưng cho sự hiểu biết và quyền bính. Tại đây có vua, có các tư tế, các kí lục. Ngôi sao hướng dẫn các đạo sĩ đã biến mất khi các vị đến gần thành phố. Các vị đã vào thành, đã gặp gỡ, đã hỏi han, nhưng đức Giesu không có ở đó.
Ngôi sao ấy lại xuất hiện ở Bêlem: điều này cho thấy sự chuyể dịch về nơi chốn đích thực của quyền bính. Quyền vương đế, ngôn sứ và tư tế không còn ở trong thành phố có Đền Thờ, nhưng được bày tỏ trong hang đá, nơi Con Trẻ được sinh ra. Chính Đức Giêsu mới có quyền đích thực trên mọi loài. Và quyền bính ấy đã xuất hiện ở nơi con người không ngờ đến. Nơi chốn không làm nên quyền bính, nhưng là Con Trẻ, tức là Đức Giêsu.
Mở đầu một cuộc chiến
Biến cố đức Giêsu giáng sinh và việc các đạo sĩ tìm đến triều bái người đã mở ra một cuộc chiến.
Khi nghe các đạo sĩ đã theo hướng khác để trở về sứ sở của mình, vua Hêrôđê đã ra lệnh tàn sát các trẻ em trong vùng, từ 2 tuổi trở xuống. Đây mới chỉ là một màn đầu trong một cuộc lùng bắt còn kéo dài mãi tới sau này. Ngay từ khi mới chào đời, Đức Giêsu đã làm cho những người đang nắm giữ quyền bính phải sợ hãi. Họ không thể nào chấp nhận có một con người được gọi là vua đang gây nguy hiểm cho xã hội do họ tạo lập và điều hành. Cảm thấy vị trí của mình bị lung lay, nên họ quyết tâm tìm cách giết cho bằng được con người tự xưng mình là vua. Người ta có thể nhìn thấy vẻ đắc thắng của họ khi Đức Giêsu chịu chết trên thập giá với hàng chữ gắn phía trên đầu.
Đây thực là một cuộc chiến không cân sức: một bên là quyền bính trần gian với đủ mọi thứ phương tiện, một bên là Con Trẻ yếu ớt, ngay áo để che thân cũng không đủ, nói gì đến người bảo vệ. Thế nhưng, chính Con Trẻ, sau này là đấng chịu đóng đinh, lại là người chiến thắng, bởi vì Người la con Thiên Chúa. Thêm một lần nữa, Noel lại báo trước việc phục sinh.
Vì ích kỷ, những người nắm quyền bính trần gian đã không biết phục vụ người khác, nhưng chỉ lo tìm lợi ích cho riêng mình. Con Trẻ nằm trong máng cỏ lại là đối thủ của những kẻ đầy quyền lực, có quyền ra lệnh cho người khác. Con Trẻ và gia đình đã trốn đi, và những người này tưởng rằng mình đã chiến thắng. Và kế hoạch của Thiên Chúa được thực hiện cách tốt đẹp.
Nhìn lại chặng đường lữ hành
Trong cuộc mạo hiểm của ba nhà đạo sĩ, ta nhận ra bộ mặt của cuộc hành trình đức tin với nhiều chặng khác nhau:
Các đạo sĩ đã thấy một ngôi sao và biến cố này đã thúc đẩy các vị rời bỏ quê hương, rời bỏ chính mình để lên đường. Ngôi sao của chúng ta hôm nay có thể là một biến cố, một cuộc tiếp xúc, một niềm vui hay nỗi buồn, có khi cả cuộc xuất hiện của môt em nhỏ. Những sự kiện này được thắp lên trong cuộc đời chúng ta như một ánh sao, và chúng ta buộc phải ngẩng đầu lên, phải tìm kiếm xa hơn, phải rời bỏ những xác quyết của quá khứ. Chúng ta phải chuyển động. Có một sự việc hay một con người buộc chúng ta phải thay đổi: Anh sao tuy le lói, như một lời mời gọi mơ hồ, không rõ ràng, nhưng chúng ta phải lên đường. Đó là chặng thứ nhất.
Thế nhưng ánh sáng đã thúc đẩy chúng ta lên đường có lúc lại biến mất: chúng ta giống như người Do Thái lạc trong sa mạc và muốn quay trở lại đất Ai Cập. Các vị đạo sĩ cho chúng ta một giải pháp: các vị đã vào Giêrusalem và hỏi han các chuyên viên về lời Chuá. Các kí lục và thủ lãnh đã cho các vị câu trả lời: các vị phải đến Belem. Lời Thiên Chúa chỉ có ý nghĩa cho những ai đã từ bỏ mọi sự (như Apraham). Cuộc đời chúng ta cũng chỉ có ý nghĩa khi lời Chúa được chuyển lại cho ta qua Hội Thánh, và được đón nhận với tâm hồn rộng mở. Đó là chặng thứ hai.
Bóng tối và quyền lực sự dữ vây bọc chung quanh chúng ta. Nguy hiểm và cám rỗ vẫn rình chờ. Vua Hêrôđê, vị Pharaô mới, vẫ ở đó và đang mong ước buộc chúng ta làm nô lệ. Các vị đạo sĩ, khi được thúc đẩy, đã vượt qua mọi cạm bẫy, đã tìm ra được lối thoát mà không làm hại ai cả. Các vị đã đón nhận lời Chúa do người khác nói lại, đã đến nơi mình muốn đến, gặp đấng mình muốn gặp và sau đó ra đi bình an. Các vị đã vượt qua bóng tối. Đó là chặng thứ ba.
Ánh sáng lại xuất hiện. Niềm vui tràn ngập tâm hồn: các vị đạo sĩ đã đến Belem. Mỗi chúng ta cũng phải đến đó. Tại đây, Thiên Chúa hẹn gặp gỡ mọi người. Điều mà tâm hồn chúng ta ước mong hơn hết chính là đây. Đó là lúc để thờ lạy: tức là ở trong hơi thở của Thiên Chúa. Đó là chặng thứ tư.
Rồi chúng ta trình bày những món quà để dâng cho Thiên Chúa. Tất cả cuộc đời chúng ta được đem ra để dâng tiến Hài Nhi. Đó là vàng, nhũ hương, mộc dược … và hài nhi đón nhận tất cả những gì chúng ta dâng tiến! ước gì cuộc trao đổi này được kéo dài mãi mãi … Đó là chặng thứ năm.
Thế nhưng, lại phải lên đường. Thiên quốc còn xa lắm. Lịch sử của Chúa Giêsu ở với lòai người mới chỉ là bắt đầu. Sẽ còn rất nhiều ánh sao xuất hiện trong cuộc đời chúng ta. Lại phải lên đường. Thế nhưng đã có thay đổi. Không thể tiếp tục sống như trước đây, không thể đi lại những con đường cũ. Như các đạo sĩ, chúng ta phải “theo một con đường khác”. Đó là chặng thứ sáu, chặng cuối cùng trên hành trình đức tin, hành trình của mỗi ngày sống, hành trình của cả cuộc đời.
Những dấu chỉ
Lạy Chúa nếu không có ánh sáng,
Đêm cứ dài mãi và tối tăm sẽ bao phủ địa cầu.
Nếu không có những dấu chỉ minh chứng
Tuyệt vọng sẽ trào dâng, niềm cậy trông sẽ rời bỏ con người.
Xin cho con đọc được qua dòng lịch sử
những dấu chỉ: tình yêu không thể hao mòn,
những dấu chỉ: con người được kêu gọi vươn tới,
những dấu xác định Chúa luôn ở với loài người.
Để nhờ đó, lạy Chúa, ngày hôm nay,
con nhận ra những dấu chỉ của Ngài
rằng những người con của Ánh Sáng
phải vững niềm hy vọng và tỏa sáng tin yêu. (ĐTH)
97.Khát khao và nhạy bén sẽ được gặp Chúa--Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
Lễ Giáng Sinh đã đem lại cho chúng ta niềm vui mừng khôn xiết, bởi vì qua biến cố Đức Giêsu Nhập Thể và Giáng Sinh, Thiên Chúa đã tự hạ để cho con người được nâng lên, tức là Thiên Chúa đã làm người để con người được làm con Thiên Chúa. Vì thế, niềm vui của chúng ta chính là được giao hòa, liên đới và ngay cả đụng chạm tới Thiên Chúa qua Người Con Chí Ái của Người, điều mà trước đó không ai dám nghĩ tới.
Tuy nhiên, niềm vui ấy không chỉ dành riêng cho chúng ta, mà là cho hết mọi người, mọi nơi và mọi thời.
Mặc khải này được thể hiện rõ trong phụng vụ lễ Hiển Linh hôm nay.
1. Ơn cứu độ phổ quát
Khi nói đến lễ Hiển Linh, chúng ta hiểu ngay ý nghĩa thần học của nó, đó là lễ Chúa Tỏ Mình. Vì thế, phụng vụ ngày nay hướng chiều về tên gọi Hiển Linh hơn là Ba Vua như trước kia.
Khi Thiên Chúa mặc khải cho các Đạo Sĩ qua ánh sao lạ và dẫn đường đến kính viếng Hài Nhi Giêsu, Thiên Chúa muốn cho mọi người đi vào mối tương quan cứu độ, chứ không chỉ dành riêng cho một nhóm người hay một dân tộc nào, mà là cho muôn dân. Việc Thiên Chúa tỏ mình ra cho các Đạo Sĩ đã phá tan não trạng độc tôn đặc lợi của dân tộc Dothái. Biến cố này cũng loan báo cho mọi người thấy rằng: ơn cứu độ không bị giới hạn bởi chủng tộc, màu da, sắc áo, hay tiếng nói…. Không! Thiên Chúa đã vượt lên trên tất cả, để lòng thương xót và ơn cứu độ của Ngài đến với muôn người.
Khi hiểu Lễ Hiển Linh là Lễ Chúa Tỏ Mình ra cho dân ngoại, sẽ giúp cho chúng ta hiểu rằng: tất cả những ai khao khát và sẵn sàng mở rộng tâm hồn để đón nhận Tin Mừng cứu độ, thì họ cũng được nên đồng thừa tự, cùng một thân thể và cùng thông phần với lời hứa của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô (x. Ep 3,6).
Chính sự khao khát ơn cứu độ đến da riết, nên khi Ánh Sao của Thiên Chúa xuất hiện trên bầu trời, các nhà Đạo Sĩ ngày đêm miệt mài nghiên cứu và đã tìm ra chân lý, đó là sự xuất hiện của Vị Vua người Israel mới sinh. Khi đã xác quyết như vậy, các ngài đã để lại sau lưng danh vọng, quyền bính, giàu sang và đã lên đường với tinh thần hy sinh…, để mong cho được gặp Hài Nhi Giêsu.
Như vậy, ta có thể nhận định: Ánh Sao của Thiên Chúa đã có một chỗ đứng đặc biệt trong tâm hồn của các Đạo Sĩ. Nói cách khác, Ánh Sao của Chúa đã tương hợp được với tâm hồn của các ngài. Vì thế, các ngài đã không ngần ngại lên đường để diện kiến Đấng là nguồn Ánh Sáng, là Chúa các chúa, Vua các vua.
Sự lựa chọn này đã đi ngược hoàn toàn với lối sống và lựa chọn của vua Hêrôđê.
Lẽ ra vua Hêrôđê phải là người am hiểu và mau mắn đón nhận Tin Mừng cứu độ này trước hết, bởi vì một phần do trách nhiệm, một phần do khoảng cách địa lý quá gần gũi, hơn nữa, ông là người Dothái, nên những điều đã nói về Đức Giêsu được tiên báo trong Kinh Thánh, ông cũng nắm trong lòng bàn tay!
Tuy nhiên, khác với các Đạo Sĩ, Hêrôđê đã khước từ Ánh Sáng, chối bỏ Ánh Sáng và chuộng cho mình bóng tối của sự ích kỷ, kiêu ngạo, tự phụ…. Vì thế, thật đúng với lời nhận định của thánh Gioan trong Tin Mừng thứ 4, ngài viết: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11). Quả thật, từ vua Hêrôđê đến các vị lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ, không phải họ không biết Đức Giêsu hay không khao khát kiếm tìm Ngài. Tuy nhiên, động lực và mục đích của họ hoàn toàn khác nhau. Điều này đã thấy rõ trong Kinh Thánh!
Còn chúng ta ngày hôm nay đi tìm Chúa như thế nào?
2. Chúng ta đi tìm Chúa với mục đích gì?
Có lẽ trong cộng đoàn đang hiện diện nơi đây, không ai lại không một lần hay có khi rất rất nhều lần lên đường đi tìm Chúa! Tuy nhiên, cũng biết bao lần chúng ta đi tìm mà không gặp, gõ mà không thấy, nên chẳng lạ gì khi vẫn còn đó biết bao nhiêu người cứ “lơ lơ lửng lửng”; “chân không đạp đất, đầu không đội trời…!”.
Tại sao vậy? Thưa đơn giản, đó là chúng ta đi tìm Chúa theo kiểu gặp chăng hay chớ, gặp cũng được, không gặp cũng chẳng sao, tìm cho có, tìm theo phong trào hay hiệu ứng đám đông.
Hoặc đôi khi chúng ta đi tìm Chúa với một tâm hồn ngổn ngang, đủ mọi thứ, nào là: ghen ghét, ích kỷ, kiêu ngạo và thực dụng…. Vì thế, việc không gặp được Chúa là chuyện bình thường, bởi lẽ Người không ở những nơi đó.
Chúng ta cũng có thể đã đi tìm Chúa với một tâm hồn trống rỗng, hoang vu, không định hướng và cũng chẳng ý thức. Vì thế, những dấu chỉ và biến cố vẫn thường xảy ra, nhưng nó đến rồi lại đi mà chẳng hề đọng lại nơi tâm hồn chúng ta là mấy nếu không muốn nói như “nước đổ đầu vịt” hay “nước đổ lá khoai!”. Vì thế, chúng ta đã bỏ lỡ biết bao cơ hội yêu thương mà Thiên Chúa vẫn hằng ngày dành cho ta.
Như vậy, muốn gặp được Chúa, chúng ta phải có tâm tình như ba nhà Đạo Sĩ, đó là:
Trước tiên, nhạy bén với các dấu chỉ và cần có một đức tin mạnh mẽ khi đã khám phá ra ý định của Thiên Chúa và mau mắn thi hành.
Thứ đến: cần có một tâm hồn khao khát cháy bỏng để mong sao cho được gặp Chúa. Phải chấp nhận một cuộc lên đường và sẵn sàng để lại biết bao kế hoạch, dự phóng…, chấp nhận hy sinh và khó khăn.
Cuối cùng, đến với Thiên Chúa bằng một tâm hồn khiêm nhường như các Đạo Sĩ. Các ngài lên đường để đi tìm Hài Nhi mới sinh, gặp được rồi, họ đã phủ phục tôn thờ trong sự khiêm tốn cũng như thể hiện lòng mến qua việc dâng tiến Hài Nhi những báu vật.
Trên đây chính là những con đường tâm linh của các Đạo Sĩ được hòa quyện vào với con đường vật lý trên hành trình đi tìm Chúa. Thấy được sự khao khát và mong mỏi ơn cứu độ, nên Thiên Chúa đã ân thưởng các ngài và đã cho các ngài được toại nguyện.
3. Sứ điệp Lời Chúa
Bài học được rút ra từ sứ điệp Lời Chúa hôm nay rất phong phú. Tuy nhiên, hình ảnh ngôi sao lạ dẫn đường đóng vai trò rất quan trọng trong hành trình đi tìm Chúa của các Đạo Sĩ. Nhờ ánh sao dẫn lối soi đường mà các Đạo Sĩ đã gặp được Đức Giêsu là nguồn ơn cứu độ.
Vì thế, thiết nghĩ hơn bao giờ hết, mỗi người chúng ta cũng hãy trở thành ánh sao soi đường cho người khác đến gặp Thiên Chúa để họ cũng được cứu độ.
Thật vậy:
Nếu là vợ chồng, chúng ta được mời gọi trở nên ánh sáng của sự thủy chung, yêu thương, để đẩy lui bóng tối của sự thất tín và bội ước quên thề.
Nếu là cha mẹ, chúng ta được mời gọi trở thành ánh sao gương mẫu, trách nhiệm trong việc giáo dục nhân bản cũng như đời sống đạo đức, thiêng liêng, để đẩy lùi bóng đêm của sự vô trách nhiệm, và gương mù gương xấu.
Nếu là con cái, chúng ta được mời gọi trở nên ánh sao của sự vâng phục, chu toàn bổn phận với gia đình, bố mẹ và người trên…, để đẩy lùi bóng đêm của sự lêu lổng, ăn chơi, trác táng.
Với hàng xóm láng giềng, chúng ta được mời gọi trở thành ánh sao của sự liên đới, cảm thông, bác ái và yêu thương, để đẩy lui bóng đêm của sự dửng dưng, vô cảm.
Như vậy, một khi mọi người trong gia đình đều ý thức về đời sống chứng tá qua việc nêu gương sáng cho những người xung quanh, thì chắc chắn gia đình của chúng ta sẽ trở nên như một ánh sao lạ, qua đó, người khác sẽ nhận ra sự hiện diện đầy yêu thương của Thiên Chúa. Và một cách gián tiếp, chúng ta cũng sẽ trở thành ánh sao soi sáng và dẫn đưa nhiều người khác về với Chúa ngang qua đời sống đạo hạnh của mỗi người.
Lạy Chúa Giêsu, hôm nay, Chúa tỏ mình ra cho các Đạo Sĩ để mặc khải ơn cứu độ cho muôn dân. Xin Chúa ban cho chúng con biết noi gương các Đạo Sĩ, đó là luôn nhạy bén với ơn Chúa và sẵn sàng từ bỏ mọi sự để lên đường tìm gặp Chúa. Amen.
98.Mỗi người là một vì sao của Hài Nhi Giêsu--Jos. Vinc. Ngọc Biển
Lễ Chúa Giáng Sinh là một sự kiện rất quan trọng và vĩ đại trong lịch sử loài người. Vĩ đại bởi vì được khởi đi từ chính Thiên Chúa do lòng yêu thương vô hạn của Người. Quan trọng bởi vì Đức Giêsu chính là Ánh Sáng đến để soi vào trong bóng tối tội lỗi và giải thoát muôn dân khỏi ách tử thần. Hồng ân này không phải chỉ dành riêng cho một thành phần nào, hay cụ thể là độc quyền của dân Israel, mà là cho toàn nhân loại. Việc Chúa tỏ mình ra cho các nhà Đạo Sĩ qua ánh sao lạ dẫn đường và hành trình của các ngài tìm đến để bái lạy Hài Nhi là một dấu chứng về ơn cứu độ phổ quát được ban cho toàn thể nhân loại.
Vì vậy, hôm nay, chúng ta mừng lễ Hiển Linh, tức là lễ Chúa tỏ mình ra cho muôn dân. Có thể nói, lễ này được gọi là lễ Giáng Sinh cho dân ngoại.
1. Các Đạo Sĩ là ai?
Vào thời bấy giờ, thuộc vùng Lưỡng Hà gồm các nước: Iran, Irak và xa hơn một chút có các nước như Afganistan và Ấn Độ. Các vùng này phát triển những nền văn minh, khoa học kỹ thuật tương đối rực rỡ thời bấy giờ. Song song với những phát minh khoa học là những tôn giáo lớn và huyền bí. Trong bối cảnh đó, những nhà hiền triết xuất hiện trong triều đình, nơi đô thị và cả chốn rừng sâu. Họ là những người truy tầm chân lý, khám phá những giá trị tâm linh và chú tâm đến những văn hóa có tính nhân sinh quan trong thiên nhiên, cuộc sống và qua những biến cố.
Bản thân họ là những người công chính, hướng thiện và tôn trọng sự thật, mặc dù chưa biết Chúa là ai. Thật vậy, họ đã dùng khả năng Thiên phú để khám phá và đi sâu vào thế giới tâm linh. Họ thường quan sát bầu trời qua các tinh tú để hiểu được Thiên ý và Thiên mệnh của con người. Những người đó, người ta gọi họ là các nhà Đạo Sĩ hay Chiêm Tinh hoặc vua.
Khi Chúa Giêsu Giáng Sinh, Ngài đã tỏ mình ra cho các Đạo Sĩ qua dấu lạ ngôi sao. Ánh sao đó đã trở nên biển chỉ đường để dẫn các Đạo Sĩ đến gặp Hài Nhi Giêsu mới sinh tại Belem. Chúa đã dùng các ông như là những nhân chứng để loan báo cho muôn dân biết Ngài là Ánh Sáng thật, Ánh Sáng đã chiếu soi muôn dân.
Như vậy, nếu trước Công Nguyên, vào khoảng năm 750 đến năm 150, có các tiên tri như Isaia, Giêrêmia, Êzêkiel và Đaniel đã lần lượt loan báo về biến cố vĩ đại này rằng: "Kìa tối tăm đang bao bọc địa cầu, vì u minh phủ kín các dân, nhưng trên mình ngươi Chúa đang đứng dậy, vì vinh quang của Ngài xuất hiện trên mình ngươi. Chư dân sẽ lần bước tìm về sự sáng của ngươi, và các vua hướng về ánh bình minh của ngươi", thì sau khi Đức Giêsu Gáng Sinh, có 3 Đạo Sĩ Đông Phương là những người đã nhận ra Ánh Sáng kỳ diệu này và đã đến để bái thờ. Sự hiện diện của các ngài chính là một lời chứng cho mọi người rằng: Đức Giêsu là ánh sáng soi cho muôn dân; Là Chúa các chúa; là Vua các vua; là Thủ Lãnh của cả nhân loại.
Các ngài đến để thực hiện những gì đã được loan báo trước đó trong Cựu Ước. Thật vậy: "Muôn dân muôn nước sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước".
2. Hành trình tìm Chúa của các Đạo Sĩ
Khi đã lần theo dấu vết ngôi sao lạ dẫn đường, các nhà Đạo Sĩ đã gặp phải không ít khó khăn trên hành trình đó như ánh sao bỗng vụt lặn không còn dẫn đường chỉ lối nữa, họ phải hỏi thăm... nhưng thật không may cho các Đạo Sĩ, họ hỏi thăm ngay phải con cáo già Hêrôđê, vì thế, lập tức họ là những đối tượng truy sát đầu tiên trong tâm trí của vị vua tàn ác này dưới những lời tưởng chừng như ngọt ngào. Câu hỏi: "Vua người Dothái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Ðông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người". Đây cũng chính là khởi đầu của một hành trình gian khó và đầy nguy hiểm đến với các Đạo Sĩ.
Việc các Đạo Sĩ tìm đến với Hài Nhi Giêsu hôm nay đã ứng nghiệm lời tiên tri Isaia đã loan báo mà bài đọc I vừa nhắc lại: "Chư dân sẽ lần bước tìm về sự sáng của ngươi, và các vua hướng về ánh bình minh của ngươi[...]. Những con lạc đà tràn ngập vây phủ lấy ngươi, những lạc đà một bướu tự xứ Mađian và Epha; tất cả những ai từ Saba đi tới, đem theo vàng và nhũ hương, và họ sẽ tuyên rao lời ca ngợi Chúa". Sự kiện Chúa tỏ mình ra cho các Đạo Sĩ là dấu chứng rõ ràng rằng: "nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể và đồng thông phần với lời hứa của Người trong Chúa Giêsu Kitô".
Quả thật, hôm nay các Đạo Sĩ đã trở thành những chứng nhân của Chúa. Họ đã được Chúa thương mạc khải để ngôi sao dẫn đường. Họ cũng đã nhạy bén để tìm ra những dấu chỉ và tin tưởng đi tìm chân lý. Và, họ cũng đã gặp được Đấng là khởi đầu và cùng đích của con người cũng như thế giới, nên họ đã dâng những lễ phẩm thật ý nghĩa.
Trước tiên là vàng:
Vàng được xếp vào hàng kim loại vua của các loại kim loại. Vàng là loại quý hiếm, nên dâng về cho Vua các vua là điều hợp lý. Khi dâng vàng cho Chúa, ngầm hiểu rằng: Đức Giêsu là Đấng "sinh ra để làm vua". Tuy nhiên là một vị vua hiền từ, nhân hậu và chết vì yêu.
Sau đó là nhũ hương:
Nhũ hương thường được dùng trong những việc thờ phượng. Khi đốt lên, hương và khói bay cao được ví như lời kinh cầu nguyện bay lên trời. Trên trời là nơi được hiểu là chốn của các thần minh. Và, dần dần, người ta hiểu rằng nhũ hương chính là biểu tượng cho Thiên tính của Đức Giêsu.
Cuối cùng là mộc dược:
Khi nói đến mộc dược, người ta nghĩ ngay đến việc dùng để xông hay ướp xác lúc an táng. Khi cắt nghĩa về mộc dược, người ta thường ám chỉ về nhân tính của Đức Giêsu. Nếu nhũ hương ám chỉ Thiên Tính, thì mộc dược muốn nói về nhân tính của Đức Giêsu.
Như vậy, việc dâng cho Chúa vàng, nhũ hương và mộc dược, các đạo sĩ đã xác nhận và làm chứng rằng Đức Giêsu là Vua. Ngài là con Chúa Cha, và do lòng yêu thương Thiên Chúa đã trao ban chính Con Một của mình. Ngài là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh Sáng bởi Ánh Sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật. Đồng thời, Ngài cũng là con người như chúng ta, Ngài đến để yêu thương và cứu chuộc hết mọi người.
3. Sứ điệp Lời Chúa
Khi nói về lễ Hiển Linh, chúng ta nghĩ ngay lễ này là lễ ánh sáng. Còn hiểu theo nghĩa thần học thì đây là lễ Chúa tỏ mình ra cho các Đạo Sĩ, hay còn gọi là lễ Giáng Sinh cho dân ngoại.
Thật vậy, hôm nay, Chúa tỏ mình ra cho nhân loại, không trừ một ai. Ai cũng cần phải được cứu độ. Tuy nhiên, nhiều lúc, chúng ta nghĩ chỉ có chúng ta mới được cứu độ, còn những người không cùng niềm tin với chúng ta thì không được cứu độ. Đức Giêsu là độc quyền sở hữu của chúng ta, còn những người khác không được đụng hay nghĩ tới... Thực ra, nhiều người không phải là Công Giáo, nhưng họ cũng sống tốt, thậm chí còn hơn cả chúng ta nữa. Đôi khi chúng ta là đạo gốc nhưng lại bị loại ra ngoài hoặc cố tình không nhận ra Chúa như Hêrôđê. Thật vậy: "Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài" (Mt 8,11-12).
Tình trạng này thật đúng khi có dịp đi đến những trung tâm hành hương. Nếu quan sát, chúng ta thấy những người lương dân... họ sùng kính Đức Mẹ, các thánh hay các vị tử đạo còn hơn chúng ta. Ngược lại, người Công Giáo thì lại cho rằng, mình là con ruột của Chúa, nên thế nào cũng được ơn, vì vậy không cần phải biểu lộ ra bề ngoài, mà là đạo tại tâm. Nói vậy có thể đúng với quan điểm, cung cách và lựa chọn của một số cá nhân. Tuy nhiên, cũng cần phải xem lại, vì nếu không, đây chỉ là cách ngụy biện, là bình phong che lấp đi bản chất ươn lười của chúng ta.
Khi suy niệm đến đây, chúng ta nhớ lại lời Chúa nói: "Chính các con là ánh sáng cho trần gian" (Mt 5,14). Và nếu đã là ánh sáng thì phải chiếu tỏa ra như Chúa dạy: "Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn lên rồi lấy thùng úp lại, nhưng đặt trên đế, và nó soi sáng cho mọi người ở trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của các con phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp các con làm, mà tôn vinh Cha các con, Đấng ngự trên trời" (Mt 5,15-16).
Mỗi người chúng ta cũng chính là những vì sao soi đường dẫn lỗi cho người khác đến với Chúa: "Anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời"(Pl 2,15).
Sao của chúng ta hôm nay không phải là sao: "bóng đá"; "ca nhạc"; "đua xe"; "ăn chơi "; "hận thù"..., nhưng chúng ta phải là những "siêu sao", tức là vượt lên trên tất cả những thứ sao bình thường. Phải trở nên "siêu sao" thì mới tỏa sáng cho mọi sao khác, nếu không chúng ta chỉ có thể chiếu sáng cho những "fan" hâm mộ chúng ta mà thôi. Hãy là "siêu sao", của "tình yêu"; "tha thứ"; "hy vọng"; "công bình"; "bác ái" và cuối cùng chính là sao "đạo đức". Thật vậy, Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa ẩn mình. nhưng Ngài muốn tỏ mình ra cho người ta thấy qua cách sống yêu thương của chúng ta. Nói cách khác, khi chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở trong chúng ta, bởi vì "Thiên Chúa là tình yêu"(1Ga 4,18).
Trong cuộc sống thường ngày của mỗi chúng ta, từ lời nói, hành động và việc làm, chúng ta hãy biểu lộ ra cho mọi người thấy chỉ có một động lực là tình yêu, chỉ có một hành động là tình yêu, và cũng chỉ có một mục đích là tình yêu. Xác tín như thế, ấy là vì chúng ta đang thực hiện lời Chúa dạy: "Cứ dấu này mà mọi người sẽ nhận biết chúng ta là môn đệ của Chúa, đó là chúng ta yêu thương nhau". Tiếp nối lời giáo huấn của Đức Giêsu, thánh Phaolô cũng khuyên nhủ tín hữu ở Philípphê: "Giữa thế hệ sa đoạ này, anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời" (Pl 2, 15).
Lạy Chúa, Đông Phương vẫn được coi là huyền bí, là nơi có những suy niệm siêu hình và tinh tế. Xin Chúa hãy thánh hóa Đông Phương và đem những người thành tâm thiện chí về với Giáo Hội. Xin cũng cho chúng con biết ý thức ơn cứu độ mà Đức Giêsu đem lại là ơn cứu độ phổ quát, vì thế, mỗi người chúng con phải trở nên sao sáng dẫn đường cho người khác đến với Chúa. Amen.
99.Ơn cứu độ cho muôn dân--Jos. Vinc. Ngọc Biển
Tin mừng Mt 2: 1 - 12: Lễ Hiển Linh mang một ý nghĩa rất đặc biệt, đó là: Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đã nhập thể làm người, và tỏ mình ra cho nhân loại qua ba nhà Đạo Sĩ dưới một “ngôi sao lạ”.
Trong Tin Mừng, chúng ta thấy có nhiều lần Đức Giêsu nói về mạc khải. Tức là Thiên Chúa dùng nhiều thể nhiều cách để tỏ lộ cho con người biết về chính Ngài.
Nói cách khác, Thiên Chúa không tự mạc khải mình ra cho nhân loại, thì con người có cố gắng thế nào cũng không thể biết gì về Ngài được!
Hôm nay, Giáo Hội long trọng mừng lễ Hiển Linh, lễ này, trước kia gọi là lễ Ba Vua.
Lễ Hiển Linh mang một ý nghĩa rất đặc biệt, đó là: Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đã nhập thể làm người, và tỏ mình ra cho nhân loại qua ba nhà Đạo Sĩ dưới một “ngôi sao lạ”.
1. Ý nghĩa “ngôi sao lạ”
Với người Á Đông, theo quan niệm từ ngàn xưa, mỗi khi xuất hiện một ngôi sao lạ trên bầu trời, thì dưới trần, một nhân vật sẽ được chiếu mạng. Đây cũng là lý do khởi điểm của môn chiêm tinh học thời bấy giờ.
Ba nhà thông thái mà Tin Mừng hôm nay nhắc tới, các ngài là những nhà chiêm tinh và thiên văn học, vì thế, công việc chính yếu của các ngài là nghiên cứu về những dấu lạ trên bầu trời bằng kiến thức khoa học và kinh nghiệm.
Khi thấy điềm lạ xuất hiện trên không trung qua vì sao lạ, với khả năng chuyên môn và ơn trên soi sáng, các Đạo Sĩ biết rõ ngôi sao lạ ấy là dấu hiệu loan báo về Đấng Cứu Thế đã giáng trần, vì thế, Đấng mà muôn dân mong đợi cũng là Đấng mà các Đạo Sĩ đang khao khát đợi trông, nên các ngài đã lên đường để đi tìm.
Khi đến Belem, các ngài đã tiến vào triều đình nơi vua Hêrôđê trị vì và mang hai câu hỏi để đệ trình lên vị vua sở tại: "Vua người Dothái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Ðông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người" (Mt 2,2).
Khi hỏi vua Hêrôđê như vậy, các ngài đã chứng minh sự mạc khải của Thiên Chúa cho mình và thể hiện niềm xác tín mạnh mẽ vào Đấng Cứu Thế, nay đã đến và ở giữa nhân loại, quả đúng với lời tiên báo: “Một vì sao hiện ra từ Giacóp, một vương trượng trỗi dậy từ Israel” (Ds 24,17).
Chính sự mong mỏi, khao khát và niềm tin của các Đạo Sĩ đặt nơi Đức Giêsu là nguồn ơn cứu độ, thế nên, dù đường xa dặm thẳm, dù mệt nhọc khó khăn, phải băng rừng vượt biển, trèo đèo lội suối, dãi nắng dầm mưa, lặn lội đêm ngày, nhưng các ngài đã không quản ngại để cùng nhau đi tìm cho thấy “Đấng Mêsia xuất thân từ dòng dõi vua Đavít” để phủ phục tôn thờ và dâng tặng những kỷ vật quý giá gồm vàng, nhũ hương và mộc dược.
Qua việc Thiên Chúa tỏ mình ra cho các Đạo Sĩ hôm nay, chúng ta nhận thấy: lễ Hiển Linh mở ra cho dân ngoại một chân trời mới với biết bao hy vọng! Điều mà dân Dothái từ xưa đến nay luôn nghĩ chỉ có mình mới được cứu độ, thì với sự tỏ mình ra của Đức Giêsu cho các nhà chiêm tinh chứng minh cho nhân loại thấy ơn cứu độ không thể bị đóng khung cho một quốc gia, một dân tộc, hay một nhóm người nào, mà là cho hết mọi người, mọi nơi và mọi thời, để “... tất cả mọi người đều được chia sẻ cùng một quyền thừa kế, họ trở nên một phần của cùng một thân thể”.
2. Sứ điệp Lời Chúa
Mừng lễ Hiển Linh hôm nay, sứ điệp Lời Chúa gợi mở cho chúng ta thấy:
Nếu các đạo sĩ Đông Phương đã nhờ ngôi sao lạ dẫn đường để đến Belem và gặp được Hài Nhi Giêsu, thì mỗi người chúng ta khi đã lãnh nhận ánh sáng đến từ Thiên Chúa, qua Bí tích Rửa Tội, chúng ta cũng phải trở nên ánh sáng soi đường cho người khác đến với Chúa như lời dạy của Đức Giêsu: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,14); hay như lời nhắc nhở của thánh Phaolô: “Anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời” (Pl 2,15).
Chúa không bao giờ chấp nhận chúng ta ngồi ù lỳ trong bóng tối và nguyền rủa bóng đêm! Không! Bởi vì: “Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn lên rồi lấy thùng úp lại, nhưng đặt trên đế, và nó soi sáng cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,1516). Ánh sáng mà Đức Giêsu mời gọi chúng ta chiếu tỏa chính là đời sống bác ái, yêu thương và liên đới; sống công bình và làm chứng cho sự thật...
Ngày hôm nay, trong đời sống đạo, nhiều khi thay vì chiếu sáng, chúng ta lại ưa chuộng bóng đêm khi mang trong mình sự ích kỷ như Hêrôđê! Sợ mất quyền, mất chức, sợ mất miếng cơm manh áo, hay sợ liên lụy, phiền hà cách này, cách khác, mà không dám nhìn nhận sự thật hay làm chứng và sống cho chân lý!
Mặt khác, sự kiêu ngạo, hóng hách và tự tôn khi cho rằng mình mới xứng đáng được Chúa thương bởi vì mình xuất thân từ một gia đình đạo hạnh, nề nếp, lễ giáo gia phong... còn những kẻ đã vướng vào vòng lao lý của tội lỗi một thời, hay không cùng niềm tin với mình thì không bao giờ được Thiên Chúa đoái thương và cứu độ! Tuy nhiên, việc Thiên Chúa tỏ mình cho các Đạo Sĩ là những người dân ngoại hôm nay sẽ cật vấn lương tâm của chúng ta nếu đã có lần chúng ta an tâm tự tại để yên bề như những người Pharisêu, Luật Sĩ, Kinh Sư khi có thẻ kinh trên tay, quanh cổ, nơi gấu áo và tự cho mình được quyền đặc tuyển, thì hôm nay cần phải xem lại, bởi vì ơn cứu độ là một ơn nhưng không mà Thiên Chúa ban cho ai là tùy ý của Ngài. Mặt khác, những khái niệm đạo đức do chính mình đặt ra và mặc cho nó một tiêu chuẩn rồi uốn nắn, gán ghép Thiên Chúa phải theo thiển ý của mình... những thứ ấy không đủ để đảm bảo phần rỗi, vì nó không được xây dựng trên tình yêu và lòng mến.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con được nhạy bén và nhận biết Chúa qua các dấu chỉ, nhất là qua Lời Chúa. Xin ban cho chúng con có được lòng khiêm tốn và yêu mến Chúa như các Đạo Sĩ. Và, xin ban cho chúng con tránh xa thái độ ích kỷ, tàn ác của vua Hêrôđê khi xưa. Amen.
100.Tiếp nối những bước chân anh hùng--Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP
Chuyện xưa kể lại: ngày ấy, có một người tên là Ápram, cùng với vợ là Xarai và người cháu tên là Lot, sinh sống trong một nông trại ở một miền đất gọi là Kharan. Ông ao ước có một đứa con để nối dõi tông đường, nhưng chẳng được. Súc vật, đồng cỏ, mọi thứ có đầy đủ, thế mà ông Ápram vẫn cảm thấy thiếu thốn. Đời sống cứ thế qua đi, cho đến một hôm, ông Ápram nghe được một tiếng nói lạ lùng “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi mà đi tới miền đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi. Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng và ngươi sẽ là một mối phúc lành. Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi. Ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa. Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc” (St 12,1-3).
Bảy mươi lăm tuổi đầu rồi đâu còn trẻ gì nữa, làm sao có thể chịu đựng những nỗi vất vả, những hành trình; của cải cũng đầy đủ quá rồi, còn mong ước gì hơn nữa. Lại còn chuyện sẽ được cai quản một dân lớn, làm tổ phụ cả một đoàn dân đông đảo; ôi những chuyện xa vời quá, làm sao chấp nhận nổi?
Ápram phân vân, đắn đo suy nghĩ ông cảm thấy tiếng nói lạ lùng ấy đầy uy lực, thôi thúc ông phải thi hành. Và ông đã chấp nhận lên đường, bỏ lại quê cha, bỏ lại mồ mả tổ tiên, bỏ lại mảnh đất thân yêu, bỏ cả sự an toàn đang có ông chỉ mang theo những gì có thể, và dấn mình vào trong cuộc phiêu lưu liều lĩnh với muôn ngàn bất trắc, chưa xác định nơi nào sẽ định cư. Tất cả chỉ dựa trên một lời hứa, một lời hứa linh thiêng và bí nhiệm.
Apram đã không lầm. Những chi tiết của lời hứa đã được thực hiện. Ong đã được dẫn tới một miền đất phì nhiêu, ông đã có được nhiều của cải, chiên bò, gia súc, v.v… và có nhiều nhân viên giúp việc. Đời sống của ông bây giờ sung túc hơn xưa nhiều. Điều vui mừng hơn hết là Apram có được một cậu con trai, người con bấy lâu ông hằng mơ ước. Cuộc đời ông tưởng như không còn ước mong gì hơn nữa … (x. St 21,1-7).
Câu chuyện lại không chấm dứt ở chỗ này. Một lần nữa, tiếng nói lạ lùng năm xưa lại đến với ông, cũng đầy uy dũng và thúc bách: “Hãy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là Ixaác, hãy đi đến xứ Moria mà dâng nó làm lễ tòan thiêu” (x. St 22,1-2).
Sao? Lệnh truyền gì mà lạ lùng thế! Lần trước tiếng nói ấy đã cho ông biết: ông sẽ là tổ phụ của một dân lớn, con cháu ông sẽ đông như sao trên trời, như cát dưới biển. Thế mà giờ đây lại được lệnh đem sát tế, đem giết đi đứa con độc nhất, đứa con nối dõi.
Apraham đã được đổi tên – cảm thấy như có một sức mạnh linh diệu thôi thúc ông, đồng thời dựa trên những kết quả từ lời hứa lần trước, ông quyết định thi hành.
Kết cuộc câu chuyện ra sao, chúng ta đã biết rồi, vào lúc Apraham sửa soạn thi hành lệnh truyền, thì đứa con đã được cứu thóat do một sự can thiệp lạ lùng …
Với những hành động can đảm và liều lĩnh ấy, kèm theo một lòng tín trung phó thác mãnh liệt, Apraham trở thành cha của tất cả những ai có niềm tin, trở thành con người khai mở cả một chặng đường, một hành trình nhiều đột biến nhưng thật phấn khởi, trở thành gương mẫu điển hình cho lòng vâng phục, cho hy vọng …
Một câu chuyện khác.
Cách đây hơn 2000 năm, hay có khi trước đó nữa, đã có những nhà chiêm tinh, căn cứ vào những điềm xảy ra trong vũ trụ để nghiên cứu những biến cố. Đó là công việc của những nhà giàu có, sẵn tiền của và thời giờ. Ở vùng đất xa xôi nọ, theo truyền thuyết, có ba nhà đạo sĩ cùng làm công việc ấy. Ngày nọ, ba người thấy xuất hiện trên bầu trời một vì sao lạ, một vì sao chưa thấy xuất hiện lần nào. Ba ông ngạc nhiên và bàn tính với nhau: Hẳn đây là một điềm báo trước một biến cố trọng đại. Nghiên cứu tìm tòi, ba ông được biết vì sao ấy ám chỉ một ông vua mới sinh. Vì vua ấy chắc là cao sang lắm! Nên mới có ngôi sao lạ. Ba ông đều muốn lên đường đến chiêm bái vị vua mới sinh. Ba ông quyết định từ bỏ cả của cải, đem theo những báu vật để dâng cúng vị vua mới sinh.
Và ba ông đi mãi, đi mãi, dưới sự hướng dẫn của ba sao lạ … Và đến đây chúng ta đã biết được phần cuối của câu chuyện rồi. Đó là ba nhà đạo sĩ đến kính bái Chúa Giêsu mới giáng sinh ở Bêlem (Mt 2,1-12).
Apraham, ba nhà đạo sĩ đã đi trên một con đường: con đường của tìm kiếm, con đường của đức tin, con đường dẫn tới tương lai, dẫn tới sự sống. Các vị đã chọn đi trên con đường đó với bao quả cảm, với bao nỗ lực và phấn đấu. Con đường ấy dẫn đưa các vị đến những thành đạt kỳ ảo nhất và cũng dễ hiểu nhất. Con đường ấy là con đường duy nhất, vì kinh nghiệm cho chúng ta thấy rằng, chẳng còn con đường nào khác. Con đường ấy thật nhiều đột biến, thật nhiều thử thách và gian nan, đôi khi rất tăm tối, nhưng cũng đầy hứng thú và kỳ diệu …
Con đường đức tin hay hành trình chinh phục chân lý. Con đường dẫn con người đến những đỉnh cao, những thực tại siêu vời của cuộc sống …
Đó cũng là con đường của chúng ta, của mọi người. Mỗi người đều được mời gọi hướng về sự thật, hướng về vô biên. Con đường ấy cho cả hôm nay, hôm qua và ngày mai, không thể có một con đường nào khác. Chỉ có đức tin mới dẫn đến sự thật, chỉ có tín trung mới dẫn đến sự sống. Đó là chấp nhận phiêu lưu, chấp nhận mạo hiểm, như nhà leo núi chấp nhận những khó khăn để đạt được danh hiệu cao quý nhất của nhà chinh phục.
Chân lý – sự sống. Đó là nguyên lý cao nhất. “Phải sẵn sàng hy sinh những gì yêu quí nhất để theo đuổi cuộc tìm kiếm ấy, dù có phải hy sinh cả cuộc sống” (Gandhi).
Mãi mãi đi trên hành trình của Apraham, của ba nhà đạo sĩ, hành trình của lòng tin và hy vọng.
101.Cuộc Hiển Linh vẫn kéo dài--Lm Giuse Nguyễn Cao Luật, OP
Chỉ hiểu biết mà thôi, chưa đủ
Sau khi Đức Giêsu giáng sinh tại hang đá, các thiên thần đã vang tiếng hát tung hô, và các người chăn chiên đã kéo nhau đến thờ lạy Người. Hai sự kiện này có chung một mục đích là diễn tả việc Thiên Chúa tỏ mình ra cho nhân loại, nhất là cho người nghèo. Sau này, chính Đức Giêsu quả quyết với những người được ông Gio-an Tẩy Giả sai đến: ""người nghèo được nghe Tin Mừng" "(Mt 11,5). Đức Giêsu đến trần gian với sứ mệnh là bày tỏ cho người nghèo, cho họ biết rằng Thiên Chúa yêu thương và bênh vực họ.
Thế thì, tại sao trình thuật Tin Mừng về ba nhà đạo sĩ lại được sử dụng để mừng kính việc Đức Kitô tỏ mình ra lần thứ nhất? Hai sự kiện trên không đủ ư? Các đạo sĩ là những người trí thức, họ có mặt tại hang đá với mục đích gì? Họ đem những tặng phẩm quý giá như vàng, nhũ hương và mộc dược, những tặng phẩm vốn dành cho bậc vua chúa, đến hang đá để làm gì?
Thật ra, đây chính là một cuộc tỏ mình ra của Đức Kitô, một cuộc Hiển Linh. Kiến thức hiểu biết, sự giàu sang của các nhà đạo sĩ hoàn toàn tương phản với sự trần trụi, yếu ớt của vị vua mà họ đến thờ lạy.
Để đến được Bê-lem, các nhà đạo sĩ đã phải từ bỏ tất cả. Họ vốn là những bậc quyền thế, hiểu nhiều biết rộng và có nhiều của cải, nhưng họ đã từ bỏ mọi sự để lên đường. Họ là những người hiểu biết, nhưng lại lên đường theo một ánh sao, một ánh sáng từ bên trong, một lời mời gọi. Đây cũng là một cuộc Hiển Linh của Đức Kitô.
Sau cuộc gặp gỡ với vua Hê-rô-đê, người đang nắm quyền tại chỗ, và với những người thông thạo về Lề Luật, các nhà đạo sĩ đã ra đi, chẳng thỏa mãn, nếu không muốn nói là thất vọng. Họ đã tìm lại được bình an và niềm vui khi gặp lại ngôi sao, chứ không phải do những hiểu biết trong sách vở hay những lời dối trá của quyền bính. Từ đó, họ đã thay đổi cái nhìn, họ đã sám hối. Họ khám phá ra rằng quyền hành đích thực nằm trong tay con trẻ vừa mới giáng sinh tại hang đá Bê-lem: đây cũng là cuộc tỏ mình ra của Đức Kitô, một cuộc Hiển Linh.
Xưa nay, người ta vẫn muốn trình bày niềm tin vào Đức Giêsu Kitô tựa như lòng tin của người dân quê mùa, chất phác, ngược hẳn với niềm tin do hiểu biết, suy tư... Theo cách nhìn này, Tin Mừng dường như chỉ dành cho những người ngu dốt, đần độn.
Đúng ra, đây chỉ là một vấn đề giả. Cuộc gặp gỡ với Đức Kitô không phải là một hoạt động dựa trên chỉ số thông minh, nhưng do thái độ sẵn sàng đón tiếp của tâm hồn. Tin Mừng luôn được loan báo cho mọi người, không ai bị loại trừ, thế nhưng, chỉ những ai có tâm hồn rộng mở mới có thể hiểu được.
Những người nghe được Tin Mừng là những người khát khao tìm kiếm và sẵn sàng cất bước lên đường. Những người cứ nghỉ yên trong kiến thức của mình, trong quyền hành và sự giàu có của mình, đó là những người điếc.
Món quà đẹp nhất và quý giá nhất các đạo sĩ đem đến để tặng Đức Giêsu, chính là con đường họ đã đi, chính là niềm tin vào ngôi sao, chính là thái độ nhận ra mình thiếu sót và yếu đuối, mặc dù họ đang có rất nhiều thứ.
Khởi đầu từ những người nghèo
Đọc lại những trình thuật Tin Mừng về cuộc giáng sinh của Đức Kitô, người ta thấy được một chi tiết khá thú vị: những người nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế là những người chăn chiên, cụ già Si-mê-on, các đạo sĩ. Ngoại trừ ông cụ Si-mê-on, những người kia không phải là những người được chọn trước, và cũng không chuẩn bị gì. Ngược lại, những người không nhìn nhận Đức Giêsu lại là những nhà thông thái, những người được lựa chọn trước và được chuẩn bị rất kỹ để đón tiếp Đấng Cứu Thế: chính họ đã chỉ cho các đạo sĩ biết rõ về nơi Đấng Cứu Thế giáng sinh.
Tại sao thế?
Những nhà thông thái biết quá nhiều, nhưng chỉ biết thôi chứ không hiểu. Ngược lại, những người chăn chiên và các đạo sĩ tuy không biết nhiều nhưng họ có khả năng hiểu, vì họ sẵn sàng và khao khát kiếm tìm. Sau này Đức Giêsu sẽ nói: ""Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha vì điều Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết, thì Cha lại mặc khải cho những người bé mọn." "(Mt 11,25)
Có học thức, đó chưa phải là điều kiện cần thiết để hiểu biết những mầu nhiêm về Thiên Chúa, còn một điều khác cần hơn, đó là phải nhận rằng mình còn thiếu sót. Tính kiêu ngạo là một thứ màn tối dầy đặc che khuất ánh sáng, còn thái độ khiêm tốn là cửa ngõ để đón nhận ánh sáng.
Ngoài ra, khi thuật lại câu chuyện các đạo sĩ từ phương Đông tìm đến với Đức Giêsu, tác giả Mát-thêu muốn nói đến ơn gọi phỗ quát của Tin Mừng. Các nhà lãnh đạo tại Giê-ru-sa-lem đã từ khước, không nhìn nhận Đấng Cứu Thế, thì đây các dân ngoại lại đón tiếp Người. Ngay từ giai đoạn đầu trong cuộc sống của Đức Giêsu, sức mạnh truyền giáo của giao ước mới đã được bày tỏ, và sẽ lan mãi đến toàn thế giới. Đến cuối sách Tin Mừng, tác giả Mát-thêu ghi lại huấn lệnh cuối cùng của Đấng Phục Sinh: ""Anh em hãy đi đến với muôn dân... để muôn dân trở nên môn đệ của Thầy." "(Mt 29,19-20). Những dân ngoại ấy hiện đã có mặt tại hang đá, qua hình ảnh ba đạo sĩ từ phương Đông đến.
Như thế, Tin Mừng được trao tặng cho tất cả mọi người, bởi vì họ đều được Thiên Chúa yêu thương trong Đức Kitô. Mọi người đều được mời đến gặp Đức Giêsu tại hang đá, miễn là họ có được tâm hồn nghèo khó và thái độ sẵn sàng. Và từ hang đá, mỗi người cũng nhận được lệnh đem Tin Mừng đến mọi miền của thế giới, của tâm hồn con người.
Các đạo sĩ của hôm nay
Các đạo sĩ của ngày hôm nay là ai? Ngày nay, ai là những người từ xa đến để nhận ra Đức Giêsu ở giữa những người nghèo?
Các đạo sĩ của thế kỷ XXI có thể là những người chúng ta đã gặp đây đó. Họ là những người nam cũng như nữ, biết bỏ lại kho tàng của mình (văn minh, hiểu biết...) để phục vụ những người nghèo, nhất là những trẻ em. Họ là những người đã đi theo một ánh sao, đã nhận ra rằng người nghèo chính là hình ảnh của Đức Kitô. Họ là những người luôn có thái độ sẵn sàng đón tiếp người khác, và biết sử dụng những điều kiện mình đang có để đem lại niềm vui cho người khác. Họ là những người sung sướng khi được hưởng những tiện nghi trong đời sống; nhưng họ cảm thấy hạnh phúc hơn, sung sướng hơn khi từ bỏ những tiện nghi của riêng mình để làm cho người khác được sống xứng đáng hơn.
Những con người như thế, chúng ta gặp rất nhiều. Đời sống của họ là một cuộc Hiển Linh của Đức Kitô, hay nói cách khác, Đức Kitô dùng cuộc đời của họ để bày tỏ cho thế giới về chính Người.
Phần chúng ta, chúng ta sẽ đem gì đến trước hang đá của Đức Giêsu? Đời sống của chúng ta có phải là sự diễn tả về Đức Giêsu? Đời sống của chúng ta có phải là một cuộc Hiển Linh của Đức Kitô?
Những câu hỏi như thế được nêu lên không phải chỉ một lần. Mỗi năm, vào mùa Giáng Sinh, chúng ta lại được nhắc nhở về sứ điệp ấy. Mỗi năm chúng ta lại bắt đầu lên đường bởi vì nhận thấy rằng có nhiều lần chúng ta đã bỏ dở hành trình, đã từ chối yêu mến.
Hãy dành một phút thinh lặng để suy niệm và cầu nguyện trước hang đá. Hãy cùng với các nhà đạo sĩ lên đường tìm đến hang đá, và phục lạy. Hãy dâng cho Con Trẻ món quà quý giá nhất là chính đời sống của chúng ta.
102.Suy Niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Theo bài Tin Mừng, những kẻ gặp được Đức Giêsu là người có đạo hay ngoại đạo? Tại sao? Bạn có rút ra được kết luận gì không?
2. Có Kinh Thánh, giáo huấn của Chúa và Giáo Hội trong tay, điều đó đã đủ để ta gặp Chúa chưa? Còn thiếu điều gì nữa?
3. Trong thời đại này, ta có thể tìm gặp Chúa ở đâu? trong nhà thờ? trong phụng vụ? trong các bí tích? hay nơi những người anh em chung quanh ta? Theo tinh thần của Tin Mừng, thì Chúa muốn ta gặp Ngài ở đâu hơn?
Suy niệm
1. Người ngoại cũng được vào Nước Trời
Ngày xưa, những người theo đạo Do Thái quan niệm chỉ có những người theo đạo Do Thái, nghĩa là có chịu phép cắt bì mới được cứu rỗi. Sách Công Vụ Tông đồ cho thấy quan niệm ấy của họ: “Có những người từ miền Giuđê đến dạy anh em rằng: "Nếu anh em không chịu phép cắt bì theo tục lệ Mô-sê, thì anh em không thể được cứu độ"“ (Cv 15,1). Ngày nay, nhiều người Kitô hữu cũng có quan niệm tương tự như thế. Nhưng tinh thần của bài Tin Mừng hôm nay mạc khải một sự thật hoàn toàn ngược lại quan niệm ấy.
Qua bài Tin Mừng, ta thấy chính những người Do Thái – mặc dù biết Đấng Cứu Thế sinh ra tại đâu – lại không thèm tìm kiếm Đức Giêsu mới sinh ra. Những người tìm kiếm Ngài và đã thấy Ngài, thờ lạy Ngài và dâng tặng vật cho Ngài lại là dân ngoại từ tận đâu đâu đến. Kinh Thánh còn cho ta biết người Do Thái chẳng những không tìm kiếm Đức Giêsu, mà còn bách hại Ngài nữa. Vì thế, Nước Trời vốn ưu tiên cho người Do Thái, nhưng vì họ từ chối bằng thái độ lãnh đạm, thậm chí chống đối, nên đã được đem đến cho dân ngoại: “Phao-lô và Ba-na-ba mạnh dạn lên tiếng: "Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại” (Cv 13,46). Và lịch sử cho thấy dân ngoại vô số người đã vào Nước Trời – mà dấu chỉ là Giáo Hội – đang khi người Do Thái lại đứng ở ngoài. Thật đúng với câu Đức Giêsu nói: “Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng” (Mt 8,11-12). Đức Giêsu cũng đã dùng nhiều dụ ngôn để nói lên sự thật này: xem Mt 21,28-32 (Hai người con kẻ nói vâng người nói không), Mt 21,33-46 (Những thợ vườn nho sát nhân), Mt 22,1-14 (Tiệc cưới).
2. Bài học cho người Kitô hữu hôm nay
a) Có Kinh Thánh và giáo lý trong tay… không đủ!
Điều trớ trêu trong bài Tin Mừng hôm nay là người Do Thái – đặc biệt những tư tế và luật sĩ – có Kinh Thánh trong tay, nên họ biết Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra ở đâu, và lúc nào họ cũng tỏ ra mong chờ Đấng ấy đến. Thế nhưng những người gặp được đấng Cứu Thế – các đạo sĩ và mục đồng – lại là những kẻ chẳng biết gì về Kinh Thánh. Điều ấy chẳng làm cho chúng ta suy nghĩ sao?
Người Kitô hữu hôm nay có đủ mọi phương tiện để được cứu rỗi: Kinh Thánh (Cựu và Tân Ước), giáo lý, giáo huấn Giáo Hội (các văn kiện Tòa Thánh), các sách thần học, tu đức, luân lý, rồi các bí tích, các giờ phụng vụ… Nhưng hãy coi chừng kẻo lịch sử lại lập lại “y trang” như cách đây hơn 2000 năm. Vì bài Tin Mừng cho thấy: để gặp được Đấng Cứu Thế, có Kinh Thánh trong tay không đủ, mà còn phải nhạy bén để biết thời điềm, đồng thời thật sự lên đường tìm kiếm Ngài. Người Do Thái – cụ thể là các tư tế và luật sĩ – có nhiều điều kiện để gặp Ngài hơn các đạo sĩ (có Kinh Thánh, ở gần nơi Ngài sinh ra, được các đạo sĩ báo về ngôi sao của Ngài), nhưng đã không lên đường tìm kiếm Ngài. Họ muốn yên thân với những tập tục đạo đức của họ, với cách giữ đạo cổ truyền của họ, và họ nghĩ rằng Đấng Cứu Thế sẽ chủ động đến để gặp họ, đem sự giải phóng đến cho họ. Nhưng sự thật đã xảy ra không phải như vậy.
b) Điều cốt yếu là tình yêu đích thực đối với Thiên Chúa và tha nhân
Bài Tin Mừng hôm nay mời gọi người Kitô hữu xét lại xem: cách sống đạo của chúng ta có giúp chúng ta đến gặp Chúa hay không, nghĩa là có thể đem lại ơn cứu độ cho chúng ta hay không. Chúng ta đừng an tâm tưởng rằng cứ giữ những tập tục đạo đức truyền thống cho tốt là bảo đảm vào được Nước Trời. Như thế không đủ! Điều cốt yếu để vào được Nước Trời không chỉ là tin vào Đức Giêsu mà còn phải thể hiện niềm tin ấy bằng việc sống theo lời Ngài: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13: 34). Nghĩa là chúng ta phải chứng tỏ được tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa và tha nhân. Mà tình yêu đối với Thiên Chúa lại được thể hiện qua tình yêu đối với tha nhân: “Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4,20).
c) Tình yêu phải được thể hiện thành hành động thật sự
Giấy thông hành để vào Nước Trời chính là tình yêu, mà phải là tình yêu đích thực. Không ai thiếu tình yêu mà vào Nước Trời được, vì Nước Trời là Nước của Tình Yêu. Tình yêu đích thực tự bản chất là phải được thể hiện thành hành động. Nếu “đức tin không có hành động thì là đức tin chết” (Gc 2,17), thì cũng vậy, tình yêu không có hành động là tình yêu giả hiệu. Với tình yêu giả hiệu, chúng ta không thể vào Nước Trời được.
Nhưng làm sao ta dám nói là ta có tình yêu đích thực đối với anh em mình khi họ lâm nạn mà ta lại khoanh tay đứng nhìn? Làm sao tình yêu của ta là đích thực được khi ta thấy rõ ràng anh em mình đang chịu bất công mà ta lại không chịu lên tiếng hay can thiệp, nhất là khi tiếng nói của ta có thể rất hữu hiệu? Nếu ta thấy anh em mình chịu bất công tỏ tường mà vì muốn yên thân ta lại làm chứng với mọi người rằng đó không phải là bất công, thì tình yêu của ta là chân thực sao được? Nếu cách hành động của ta là như thế, thì dù ta có tuân thủ giữ những tập tục truyền thống trong tôn giáo một cách hoàn hảo, không chê vào đâu được, chúng ta vẫn luôn luôn ở ngoài Nước Trời.
d) Cần cảnh giác với thứ đạo đức hương nguyện, thiếu việc làm
Tệ hơn nữa, là khi chính chúng ta đã không chịu thể hiện tình yêu, mà lại cổ võ một thứ đạo đức không việc làm, luôn luôn đề cao việc đọc kinh cầu nguyện, dâng thánh lễ… mà không hề nhấn mạnh bổn phận phải dấn thân cho anh em, phải quan tâm mưu cầu hạnh phúc cho những người chung quanh, biến cải xã hội nên công bằng và tốt đẹp hơn, thì phải chăng chúng ta đang tiếp tay cho kẻ ác ru ngủ quần chúng, làm tê liệt sức đấu tranh cho công bằng xã hội của họ? Phải chăng chúng ta đang biến tôn giáo của chúng ta thành “thuốc phiện” thật sự? Chúng ta quên rằng “điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và lòng chân thành” (Mt 23,23). Và có thể chúng ta miệng thì nói về Nước Trời, nhưng thật sự ta lại dẫn quần chúng đến một nơi khác vì những giáo huấn của ta khác hẳn với tinh thần Tin Mừng? Đức Giêsu nói: “Các người rảo khắp biển cả đất liền để rủ cho được một người theo đạo; nhưng khi họ theo rồi, các người lại làm cho họ đáng xuống hoả ngục gấp đôi các người” (Mt 23,15), liệu câu này có đúng với ta chăng? Vì nhiều khi cứ để họ ngoại đạo, họ lại quan tâm đến việc thể hiện tình yêu với tha nhân hơn khi họ vào đạo? Đến khi vào đạo, họ lại nghe lời ta chỉ biết quan tâm tới những tập tục đạo đức cổ truyền?
Trái lại, những người không có Kinh Thánh trong tay, không có giáo lý hay giáo huấn của Giáo Hội, không có bí tích, nhưng họ lại có tình yêu đích thực, tức có giấy thông hành để vào Nước Trời. Rất có thể họ lại vào Nước Trời trước chúng ta, là đối tượng ưu tiên của Nước Trời, là những kẻ lúc nào cũng nói về Nước Trời mà không hành động cho Nước Trời! Thánh Phao-lô nói: “Người ta được Thiên Chúa coi là công chính, không phải vì nghe biết Lề Luật, nhưng là vì tuân giữ Lề Luật” (Rm 2,13), và “nếu người không được cắt bì mà giữ những điều Luật dạy, thì tuy họ không được cắt bì, Thiên Chúa chẳng coi họ như đã được cắt bì sao” (Rm 2,26). Bài Tin Mừng hôm nay và nhiều dụ ngôn của Đức Giêsu cho chúng ta thấy viễn cảnh ấy! Và đó cũng là một lời cảnh cáo chúng ta!
Cầu nguyện
Lạy Cha, nhiều khi chúng con làm chuyện hết sức khờ dại. Chúng con luôn luôn đề cao đạo của mình trước mặt mọi người, nhưng chính chúng con lại chẳng sống tinh thần đạo ấy. Đang khi có nhiều kẻ ngoại giáo lại thật sự sống được tinh thần ấy. Việc đề cao tôn giáo của chúng con, tự nó là một điều rất tốt, nhưng nhiều khi lại xuất phát từ một khuynh hướng kiêu ngạo tập thể chứ không phải là tình yêu. Vì nếu nó xuất phát từ tình yêu đích thực, thì chúng con đã phải thể hiện tình yêu ấy bằng sự dấn thân đích thực cho những anh em đang chịu khốn khổ của mình. Sự im lặng trước bất công, sự thụ động trước cảnh khốn cùng của đồng loại chứng tỏ chúng con chưa có tình yêu đích thực. Vì thế, việc đề cao tôn giáo của chúng con chỉ là một hình thức kiêu căng tập thể, là điều Cha rất ghét. Xin cho chúng con biết sống đích thực tinh thần đạo của mình trước khi đề cao nó, để sự đề cao ấy có giá trị đích thực làm sáng danh Cha. Amen.
103.Những ước mơ cao cả--Lm Bùi Quang Tuấn, CSsR
Sáng ngày 26 tháng 11 năm 1994, đông đảo giáo dân của địa phận Paterson thuộc tiểu bang New Jersey đã vui mừng sung sướng và bồi hồi chứng kiến biến cố có một không hai trong lịch sử Giáo hội: lễ truyền chức linh mục cho một thầy mù, Michael Joly.
Số là sau lần giải phẩu bướu não khẩn cấp lúc 5 tuổi, thần kinh thị giác của bé Michael đã bị hư hại nặng nề. Thế giới Michael dần dần bị một bức màn đen bao phủ. Cuối cùng, bé bị mù cả hai mắt.
Thế nhưng, từ trong bức màn đen tăm tối đó đã bừng lên một ước mơ. Michael mơ ước được trở thành linh mục để minh chứng cho tình yêu Thiên Chúa dành cho con người. Thế nhưng mơ ước là một chuyện, còn thực hiện ước mơ lại là chuyện khác.
Đối với người bình thường, quan sát một biến cố, phân tích một sự kiện, đoán định chính xác một vấn đề đã không phải dễ dàng chi, đàng này anh Michael lại là một con người mù loà. Thành ra mộng ước của anh quả là táo bạo và xa vời, nếu không nói là chẳng thực tế chút nào.
Thế nhưng với ý chí sắt đá cộng với ơn Chúa chan hoà, anh Michael đã đấu tranh để lướt thắng bao thử thách chông gai trên con đường thực hiện ước mộng làm linh mục kia. Michael tâm sự thế này: "Khó khăn lớn nhất của tôi là việc đọc các sách triết và thần học." Mù thì đọc sách sao được!
Nhưng rồi với sự kiên nhẫn tìm tòi, anh đã phát hiện rằng computer có khả năng ghi nhận tất cả các chữ trong một cuốn sách qua máy scanner, rồi cũng chính computer sẽ đọc chúng lớn tiếng qua bộ phận chuyển âm. Và thế là anh Michael đã không bỏ lỡ cơ hội để biến ước mơ thánh thiện của mình thành hiện thực. Kết quả, anh học xong chương trình triết học và thần học và được phong chức linh mục, phục vụ Giáo hội tại địa phận Paterson.
Lùi về quá khứ cách đây 2000 năm, trên thế gian cũng từng xuất hiện những con người ôm ấp bao mộng ước thánh thiện. Họ đã cất công vượt bao gian nan để đạt đến đích cùng. Đó là ba nhà đạo sĩ hay còn được gọi là ba vua.
Mơ ước của họ là được thấy Đức Kitô, "Vua dân Do thái." Ba vua được biết đến như ba chiêm tinh gia, những người chuyên nhìn ngắm sao trời để đoán biết những biến chuyển của thế giới và con người. Thế nên khi vừa phát hiện một ngôi sao lạ và biết ngôi sao ấy báo hiệu một Đấng Cứu Thế vừa mới sinh ra cho nhân loại, tức thì ba ông lên đường. Họ ra đi với mục đích và khát mong duy nhất: tìm gặp Đấng Cứu Thế mới hạ sinh.
Mơ ước là thế, nhưng đạt được ước mơ lại là chuyện khác. Họ phải băng qua nhiều đồi, vượt qua nhiều núi, lại còn phải tiến vào vùng sa mạc hoang dại Trung Đông với khí hậu khắc nghiệt: ngày nóng cháy da, đêm lạnh thấu xương.
Địa đã bất lợi mà thiên cũng chẳng thời. Dưới đất bao khó khăn trắc trở mà trên trời còn như muốn gây thêm gian nan để thử lòng người. Ấy là có một ngôi sao dẫn lối thì nay lại biến mất. Mất sao dẫn đường thì có khác chi người đang sáng bỗng dưng bị mù. Thế nhưng, dù gặp bao gian nan, dù thiên không thời địa không lợi, dù hoang mang trắc trở vì lạc mất sao, ba nhà đạo sĩ vẫn quyết tâm thực hiện ước mơ. Họ vẫn tìm kiếm hỏi han. Câu hỏi "Vua dân Do thái mới sinh ra hiện đang ở đâu?" đã bộc bạch trọn niềm khao khát được thấy Đức Kitô của họ.
Với những ai thành tâm tìm Chúa, Ngài chẳng để thất vọng bao giờ. Ba vua thiết tha tìm kiếm Đấng Cứu Thế và Ngài đã chẳng để họ về không. Ngài đã cho ánh sao tái hiện. Ngài làm cho họ "hết sức vui mừng." Ngài tỏ mình ra và họ quì gối bái phục.
Cuối cùng, họ đã đạt được ước mơ.
Thế ra, có những người biết dùng tài năng kiến thức để đi tìm Chúa như ba chiêm tinh gia; có người biết tận dụng khoa học kỹ thuật tân tiến làm ánh sao dẫn lối để đạt đến mộng ước cao cả của đời mình như Michael Joly. Không biết tôi có dùng kiến thức, tài năng, khoa học kỹ thuật trong cuộc sống để tìm gặp Đức Kitô chăng, hay tôi đã dùng bao thứ ấy để làm mù loà tâm hồn và méo mó hướng đi cuộc đời?
Phải chăng, thay vì dùng computer hay TV như những phương tiện học hỏi để biết Chúa hơn và phục vụ Ngài nhiệt thành hơn, tôi lại dùng chúng để tiêu tốn thời gian và tìm xem những điều không nên?
Phải chăng đang khi có những người biết dùng kiến thức và khoa học để truyền đạo, dẫn lối những người u mê đến với Tin mừng Đức Giêsu, tôi lại dùng những thứ đó để làm cho niềm tin và hình ảnh Thiên Chúa nhạt nhoà trong bao tâm hồn?
Có nhiều người đang trên đường tìm kiếm. Song mục tiêu kiếm tìm của họ không phải là Chúa mà là tiền bạc, của cải, danh vọng, xác thịt, đam mê... Phải chăng họ không nhận ra giá trị trường tồn và niềm vui tuyệt đối chính là Chúa; hay đời họ đang mù tối vì thiếu ánh sao soi đường?
Sau 2000 năm kể từ ngày ánh sao lạ xuất hiện, vẫn còn cần lắm những ánh sao đưa đường cho bao tâm hồn lạc lối niềm tin hôm nay. Bạn và tôi đang được mời gọi làm nên những ánh sao giữa thế giới vật chất và sa đoạ này.
Có không ít người vẫn đang thắc mắc: "Vua dân Do thái hiện đang ở đâu?"
104.Ánh sáng Lời Chúa--Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
Vào lúc 1 giờ kém 12 phút sáng ngày 1/9/85, nhà hải dương học nổi tiếng Robert Ballard chợt phát hiện trên màn sóng vị trí của chiếc tàu Titanic bị chôn vùi dưới làn nước xanh thẳm của Bắc Đại Tây Dương cách đây ¾ thế kỷ.
Khi xác tàu được tìm thấy thì cũng là lúc tất cả những con số thống kê liên quan đến chiếc Titanic đã được đưa ra ánh sáng. Sau đây là một vài số liệu được ghi nhận:
- Chiều dài của chiếc tàu là 269 mét
- Chi phí cho việc đóng tàu là 178 triệu đô la (tính theo thời giá hiện nay)
- Thời gian sử dụng là 5 ngày
- Từ lúc đụng băng trôi cho đến khi chìm hoàn toàn là 2 giờ 40 phút
- Tổng số hành khách và thuỷ thủ là 2223; số người sống sót: 706
Vé hạng nhất là 705 đô la
Tuy nhiên, điểm đáng lưu ý là số ống nhòm dành cho hai người trực tại vọng gác là zêrô. Chính con số zêrô này mà người ta không thấy được xa, không phát hiện sớm được tảng băng trôi để rồi tai hoạ đã ập tới.
Cuộc đời con người như một chiếc tàu ngoài khơi, đang hướng đến bến bờ của bình an và hạnh phúc. Nếu không thấy xa phía đàng trước, nếu không có những phương tiện giúp định vị thì rồi những giòng xoáy, bão lốc, hay băng trôi sẽ nhận chìm nó. Cần thiết biết bao những chiếc ống nhòm. Cần biết bao một tia sáng soi chiếu để thấy được hướng đi, đích tới, và trở ngại phải vượt qua.
Vấn đề là trong đời sống tâm linh đâu là ánh sáng soi chiếu đường đi? Cái gì có tác dụng như những chiếc ống nhòm giúp ta thấy xa trên hải trình ngàn dặm đây?
Tôi chợt nhớ đến bài hát Alleluia của Cha Thành Tâm với lời nhạc “Alleluia, Lời Chúa dẫn soi con đường đi,” và trong bài Lắng Nghe Tiếng Chúa của Nguyễn Duy mà lời nhạc sau đây đã mang lại cho tôi một chìa khoá: “Lời Ngài là sức sống của con. Lời Ngài là ánh sáng đời con. Lời Ngài làm chứa chan hy vọng, là đường để con hằng dõi bước…”
Thế ra trong cõi mù tối của tâm linh hay giữa sóng cả ba đào đang hoành hành dày xéo, Lời Chúa sẽ là phương thế dẫn đường soi lối giúp người ta đến với bến bờ. Đoạn Tin Mừng trong Chúa Nhật Lễ Hiển linh là một lời xác nhận cho chân lý đó.
Ba nhà đạo sĩ trong cuộc hành trình đi tìm ý nghĩa của cuộc đời, đương đầu với biết bao khó nhọc: băng qua đồi, leo qua núi, vượt qua cả vùng hoang dại của sa mạc Trung đông với khí hậu khắc nghiệt, ngày thì nóng cháy da, đêm lại lạnh thấu xương. Địa đã không lợi mà thiên cũng chẳng thời. Một ánh sáng sao dẫn lối thì nay lại biến mất. Lạc lối. Mù mờ. Không còn phương hướng. Chẳng biết mình phải đi về đâu.
Không thất vọng bỏ cuộc, các ông vẫn dò hỏi tìm tòi. Cuối cùng, may thay, người ta đã chỉ cho các ông nơi cần đến.
Điểm đáng chú ý là không phải những kinh sư, ký lục hay thượng tế đã trả lời cho sự tìm kiếm của ba nhà đạo sĩ, nhưng là Kinh Thánh. Chính Thánh Kinh đã chỉ cho giới lãnh đạo Do Thái, và qua họ, nói cho ba người từ phương đông biết chân lý và ý nghĩa cuộc đời nằm ở nơi đâu. Từ Kinh Thánh, các đạo sĩ biết được rằng “Nơi Bêlem, thuộc đất Giuđa sẽ xuất hiện vị cứu tinh, Đấng sẽ chăn dắt Israel.” Và họ đã tiếp tục lên đường, nhắm hướng Thánh kinh đã chỉ mà tiến bước, để rồi cuối cùng tìm ra lẽ sống, thấy được giá trị và ý nghĩa cuộc đời mình nơi một con người có tên Giêsu.
Đúng là “Lời Chúa sáng soi con đường đi,” “Lời Chúa đổi mới cho cuộc đời. Lời Ngài hạnh phúc cho trần ai.” Nhưng thử hỏi tôi đã biết lấy Lời Chúa làm kim chỉ nam cho đời mình chưa? Tôi có hay đọc Kinh Thánh để tìm hướng đi giữa những giong tố của cuộc sống? Nhưng, tôi đã có cuốn Kinh Thánh chưa đã chứ?
E rằng lắm khi bỏ ra năm chục, một trăm để mua đôi giày, chiếc áo sao dễ quá, nhưng để mua một cuốn Thánh Kinh hay những sách báo đạo đức giá 10 đồng sao không dễ chút nào. Nhiều lúc xem phim, nghe nhạc 2, 3 giờ liền mà chẳng thấy mệt mỏi gì, nhưng đọc các sách nhà đạo 5, 10 phút sao thấy ngại ngùng khó khăn quá.
Nếu ý thức và thái độ như thế, làm sao tâm hồn tôi có thể vượt qua được sóng ngàn, tránh khỏi các băng trôi để tiến đến bến bờ bình an được.
Không nhình vào Lời Chúa để rồi nhờ ánh sáng từ đó dẫn lối chắc chắn thuyền đời tôi sẽ lênh đênh bất định, nếu không muốn nói là dễ bị chìm đắm trước những phong ba của cuộc đời.
Nhưng nếu tôi quyết tâm từ nay sẽ lắng nghe tiếng Chúa hơn qua Thánh Kinh, sẽ tìm đọc lời Ngài qua các sách báo thiêng liêng đạo đức, và sẽ suy tư học hỏi ý Ngài qua mọi biến cố hằng ngày, thì chắc chắn tự đáy tâm hồn sẽ vang lên khúc hát hạnh phúc: “Lời Ngài là sức sống của con. Lời Ngài là ánh sáng đời con. Lời Ngài làm chứa chan hy vọng, là đường để con hằng dõi bước. Lời Ngài được chất ngất niềm vui, trọn vẹn ngàn tiếng hát đầy vơi. Lời Ngài đổi mới cho cuộc đời. Lời Ngài hạnh phúc cho trần ai.”
105.Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Các thượng tế và kinh sư Do Thái biết rõ Đấng Cứu Thế sinh ra ở đâu lại không đến gặp Ngài, còn các nhà chiêm tinh ở mãi tận đâu đâu, phải nhờ các thượng tế và kinh sư Do Thái chỉ cho, thì lại gặp được Ngài. Tại sao lại có chuyện mỉa mai và nghịch lý như vậy?
2. Rút kinh nghiệm từ bài Tin Mừng thì để gặp được Thiên Chúa, điều quan trọng nhất là gì? Cần phải có tôn giáo chân chính, hay phải có thiện chí và quyết tâm đi tìm Ngài? Cái nào là yếu tố quyết định để gặp được Ngài?
3. Động lực gì khiến vua Hêrôđê muốn giết hài nhi Giêsu, cho dù biết hài nhi ấy là người của Thiên Chúa? Tuy Kinh Thánh không đề cập đến, nhưng ta thử đoán xem các thượng tế và kinh sư Do Thái – với bản chất của họ như ta đã thấy trong các Tin Mừng – đã có thái độ nào trước tội ác của Hêrôđê: can đảm ngăn cản nhà vua hay mặc kệ Đấng Cứu Thế mà họ mong chờ ra sao thì ra? Suy tư gợi ý: Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy ba hạng người khác nhau với ba thái độ khác nhau đối với Đức Giêsu mới sinh ra. Trước hết là các nhà chiêm tinh đến từ phương Đông, sau là các thượng tế và kinh sư tại Giê-ru-sa-lem, và cuối cùng là vua Hêrôđê.
Suy Niệm
1. Thái độ của các nhà chiêm tinh đông phương
Các nhà chiêm tinh được nói đến như những người thuộc dân ngoại, không phải là người Do Thái giáo. Họ đại diện cho các dân tộc, các quốc gia trên thế giới đến thờ lạy Đức Giêsu, Đấng trong tương lai và vĩnh cửu sẽ là vua của toàn thể thế giới và vũ trụ. Thái độ của các nhà chiêm tinh là thái độ của những người tìm kiếm, khắc khoải đối với Thiên Chúa, với tha nhân, với chân lý, công lý và tình thương. Và chính vì họ quyết tâm lên đường và ra công tìm kiếm nên họ đã gặp, đúng như Đức Giêsu nói: “Ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra cho” (Mt 7,8). Khi ngôi sao biến mất, việc tìm kiếm bị thử thách, họ không nản chí bỏ cuộc, vẫn tiếp tục tìm kiếm, vì họ đã quyết tâm và hết lòng tìm kiếm: “Các ngươi tìm Ta thì các ngươi sẽ thấy, bởi vì các ngươi hết lòng tìm kiếm Ta” (Gr 29,13); “Kẻ yêu Ta sẽ được Ta yêu lại, người tìm Ta ắt sẽ gặp Ta” (Cn 8,17).
2. Thái độ của các thượng tế và kinh sư tại Giê-ru-sa-lem
Các thượng tế và kinh sư Do Thái là những bậc thông thái, hiểu biết Kinh Thánh, thông thạo các lẽ đạo của tôn giáo chân chính do chính Thiên Chúa thiết lập. Vì thế, họ đại diện cho những người có chính đạo. Họ là những người có Kinh Thánh trong tay, nắm vững những kiến thức thần học, họ rao giảng và bảo vệ chân lý của Thiên Chúa. Nhưng khi Đức Giêsu đến, những hiểu biết rộng rãi và sâu xa của họ chẳng giúp ích gì cho họ trong việc tìm gặp Ngài. Họ biết rất rõ Đấng Cứu Thế sinh ra tại Bêlem, vì Kinh Thánh cho biết như thế. Nhưng họ biết để mà biết, để mà dạy người khác, để mà tự hào rằng mình hiểu biết, chứ không phải biết để áp dụng vào đời sống, để đem ra thực hành. Vì thế, cái biết của họ trở nên vô ích cho họ.
Cũng vậy, rất nhiều Kitô hữu hiểu biết rất sâu xa về Thiên Chúa, về chân lý, nhưng họ biết chỉ để biết, để khoe, để dạy người khác, để rao giảng, chứ không phải để áp dụng sự hiểu biết ấy vào đời sống thực tế. Vì thế, sự hiểu biết ấy không đem lại sự cứu rỗi cho họ. Đức Giêsu nói: “Ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá… Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát” (Mt 7,24.26). “Mẹ tôi và anh em tôi chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8,21); “Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh em” (Ga 13,17); “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11,28). Dụ ngôn người gieo giống (Lc 8,11-15) cho thấy những người nhận được Lời Chúa mà không đem áp dụng vào đời sống thực tế cũng giống như những mảnh đất “vệ đường”, đầy “đá sỏi”, đầy “bụi gai”, khiến Lời Chúa không phát triển được. Còn những ai đem Lời Chúa ra thực hành, giống như mảnh đất mầu mỡ khiến Lời Chúa sinh hoa kết trái.
3. Bài học cho những ai đang theo chính đạo
Câu chuyện về hai mẫu người trên cho chúng ta bài học quí giá. Những người tưởng rằng mình đang nắm được Thiên Chúa cùng với chân lý, công lý và tình thương trong tay, đồng thời ngủ say và an tâm trong sự lầm tưởng ấy, họ sẽ chẳng bao giờ gặp được Ngài và thực thi được những giá trị kia. Vì Thiên Chúa, chân lý, công lý và tình thương là những thực tại sống động, không phải thứ đồ vật tĩnh lặng có thể nắm được trong tay, nên chỉ có thể tìm kiếm và gặp được trong từng thời điểm, chứ không thể nắm bắt một lần cho mãi mãi. Cho nên muốn gặp Thiên Chúa, muốn sống trong chân lý, công lý và tình thương, ta phải không ngừng lên đường tìm kiếm, ra sức thực hiện trong từng thời điểm. Ngừng tìm kiếm, ngừng nỗ lực, thì những thực tại cần thiết ấy sẽ vuột khỏi ta ngay, và sự ngừng nghỉ ấy sẽ tạo cho ta một ảo tưởng rằng mình đang nắm được Thiên Chúa, chân lý, công lý và tình thương ở trong tay. Trong khi ấy, thực tế là ta đang xa rời Thiên Chúa và thường hành động ngược lại với chân lý, công lý và tình thương. Thật vậy, những ai dù đang theo chính đạo, tự hào tự mãn về chính đạo của mình, tưởng mình đang nắm được chân lý trong tay, nhưng trong thực tế lại không sống đạo của mình, lại còn khinh chê người khác, họ sẽ trở thành những kẻ tự lừa dối chính mình: “Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình” (Gc 1,22). Những ai chỉ biết rao giảng Lời Chúa cho người khác, còn chính bản thân mình lại không thèm áp dụng, hãy lo ngại cho số phận mình như thánh Phao-lô: “Tôi phải bắt thân thể tôi chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại bỏ” (1Cr 9,27).
Chuyện các nhà chiêm tinh – mà truyền thống Giáo Hội coi là đại diện cho người ngoại và các dân tộc – cho thấy: dù là người ngoại giáo hay không có tôn giáo chân chính, nhưng nếu người ta thật sự nỗ lực tìm kiếm Thiên Chúa thì họ sẽ gặp được Ngài, nếu thật sự muốn thực thi chân lý, công lý và tình thương thì họ sẽ thực hiện được. Còn những người có tôn giáo chân chính, nhưng lại thờ ơ với việc tìm kiếm Thiên Chúa, với việc thực thi chân lý, công lý và tình thương, người ấy sẽ chẳng gặp được Ngài, và trong người ấy không có chân lý, công lý và tình thương. Tôn giáo chân chính được ví như một chiếc xe hơi tốt, có thể giúp ta đi đến nơi cần đến một cách an toàn, nhanh chóng và bảo đảm. Còn các tôn giáo khác như những loại xe kém hơn. Nhưng có đi đến nơi hay không, không tùy thuộc vào loại xe cho bằng ý chí quyết tâm muốn đi đến nơi. Người không có xe, phải đi bộ mà quyết tâm đi thì chắc chắn sẽ tới nơi, còn có xe tốt và bảo đảm đến đâu, nhưng chính bản thân lại không quyết tâm đi, thì không thể đến nơi cần đến được. Thiên Chúa vẫn luôn luôn tôn trọng đồng thời đòi hỏi sự tự do và quyết định của con người.
4. Thái độ của vua Hêrôđê, nhà cầm quyền
Nói tới Hêrôđê, ta thấy ông có một nỗi sợ hãi khi nghe các nhà chiêm tinh cho biết: “Đức Vua dân Do-thái mới sinh”. Ông sợ hài nhi mới sinh ấy sẽ lật đổ vương quyền của ông. Và dù biết hài nhi ấy đến từ Thiên Chúa, ông vẫn quyết tâm trừ khử. Như thế, tính tham quyền cố vị – ngoài xã hội cũng như trong Giáo Hội – có thể làm người ta mất hết lương tri, sẵn sàng gây nên tội ác, hay ít ra là im lặng để mặc sự ác phát triển. Hêrôđê quyết tâm tìm giết con trẻ Giêsu bằng cách “sai người đi giết tất cả các con trẻ ở Bêlem và toàn vùng lân cận từ hai tuổi trở xuống” (Mt 2,16). Tin Mừng không nói đến thái độ của các thượng tế và kinh sư trước tội ác của nhà cầm quyền. Như đã nói trên, sự hiểu biết của họ về việc sinh ra của Đấng Cứu Thế chỉ là thứ hiểu biết để mà hiểu biết, để mà rao giảng, chứ không hề làm cho họ trở nên lo lắng cho số phận của Đấng Cứu Thế hài nhi. Đối với họ, sinh mạng của Đấng Cứu Thế chẳng là gì cả, chuyện quan trọng đối với họ là sự an toàn bản thân và giữ cho vững những “chiếc ghế” của họ trong tôn giáo Do Thái. Theo họ, lên tiếng để làm gì cho liên lụy đến bản thân, cho mất quan hệ tốt đẹp với nhà cầm quyền? Im lặng cho mọi sự qua đi, bất chấp tốt xấu, đó không phải là thái độ của những ngôn sứ hay mục tử đích thật. Nếu họ sẵn sàng “bỏ chiên mà chạy khi thấy sói đến” (Ga 10,12) thì họ cũng sẵn sàng im lặng bỏ mặc Đấng Cứu Thế mà họ rao giảng ra sao thì ra, dẫu có nguy hiểm đến tính mạng.
Cầu nguyện
Lạy Cha, con tưởng cứ theo chính đạo do Cha sáng lập là bảo đảm được cứu rỗi. Nhưng bài Tin Mừng hôm nay cho thấy, kẻ ngoại giáo quyết tâm tìm kiếm Cha – là chân lý, công lý và tình thương – thì lại bảo đảm gặp được Cha hơn là người có chính đạo mà lãnh đạm với Cha. Xin Cha đừng để con say ngủ trong chính đạo mà thờ ơ với những gì là chân lý, công lý và tình thương. Amen.
106.Tôn trọng chân lý, lương tri sẽ dẫn ta gặp Đấng Cứu Thế--Lm. Đaminh Hương Quất
Hiển linh là màu nhiệm Thiên Chúa tỏ bản tính thần linh của Người ra cho mắt phàm tục của loài người được thấy. Từ rất xa xưa (khoảng 525- 520 TCN), ngôn sứ Isaia đã tiên báo (bài đọc 1); Thánh Mátthêu qua bài Tin Mừng đã đề cao dân ngoại nhờ lý trí tự nhiên đã nhận ra Chúa Giêsu chính là Đấng Cứu Thế. Thánh Phaolo tóm tắt: màu nhiệm chưa hề được tỏ lộ, thì nay được mạc khải cho Lương dân cũng là người cùng được thừa tự, đồng thừa hưởng Lời Hứa trong Đức Kitô nhờ Tin Mừng (bài đọc 2) [1]
Đấng Cứu thế đã Giáng sinh. Ánh sáng Cứu độ của Thiên Chúa đã chiếu tỏa trên trần gian. Đây là Tin vui chung cho cả loài người. Sau khi báo tin Chúa Giêsu Giáng cho các mục đồng, đại diện cho dân Do Thái, Thiên Chúa liền tỏ mình cho muôn dân qua ngôi sao lạ.
Thánh sử Mátthêu cho biết có ba nhà Đạo sĩ từ phương đông, nhờ dấu chỉ sao lạ trên bầu trời họ nhận ra Đấng Kitô, vua các vua mới chào đời. Họ đã tức tốc mang các tặng phẩm qúy giá đến tận nơi để bái thờ vua Hài nhi Giêsu.
Vâng, chỉ qua dấu hiệu sao lạ các nhà Đạo sĩ nhận ra Đấng cứu thế mới giáng trần và nhìn lễ vật tiến dâng Vương Nhi Giêsu (vàng, mộc dược, nhũ hương) cũng đủ cho thấy các vị đạo sĩ này là những người học cao, hiểu rộng, đặc biệt giỏi về khoa chiêm tinh (nay gọi khoa thiên văn học), có địa vị uy tín, thuộc hàng giầu sang trong xã hội.
Có tiền, có quyền, có trình độ hơn người nhưng các nhà đạo sĩ không hống hách, kiêu căng trái lại họ sống đạo đức, biết dùng tài trí của Chúa ban ấy để tìm sống điều thiện, có lòng khao khát đi tìm Đấng Chí Tôn để tôn thờ. Khoa học chân chính, không mâu thuẫn với tôn giáo. Nhà khoa học thành tâm, khiêm tốn sẽ dẫn đến Đấng Tạo Hóa. Quả thật, phần lớn những nhà khoa học làm nên nền văn minh nhân loại trong quá khứ và hiện đang đều có niềm tin tôn giáo.
Ba nhà Đạo sĩ đại diện cho Lương dân, những người thành tâm thiện chí nhưng chưa biết Đấng cứu thế.
Lương dân chưa có mạc khải của Thiên Chúa qua Kinh Thánh như Dân Chúa thời cũ (Do Thái), Dân Chúa mới (Kitô giáo), song với lý trí tự nhiên lòng thiện tâm (lương tri), kiên trì theo lẽ phải, tức biết tôn trọng chân lý khách quan trong thiên nhiên cũng như trong đời sống xã hội vẫn có thể nhận biết được Thiên Chúa, dẫu còn hạn chế. (x. Rm 1,19-20)[2].
Một Ngôi sao lạ xuất hiện, ai cũng nhìn thấy song không phải ai cũng nhận ra ‘dấu chỉ’ Đấng Cứu Thế Giáng sinh. Ba nhà đạo sĩ nhận ra ngoài kiến thức sâu rộng, họ có một Trái tim, khao khát truy tìm Chân - Thiện - Mỹ, biết tôn trọng và theo chân lý khách quan.
Nói về tôn trọng Sự thật, nhất là Chân lý tôn giáo do Thiên Chúa mạc khải mà chính Chúa Giêsu hiện thân, liên hệ với thực tại thật đáng báo động.
Ở thời hậu hiện đại mà chúng ta đang sống, một trong những căn bệnh nguy hiểm hay vấn nạn chết người, có thể làm băng hoại xã hội đó là lối sống vô cảm, thờ ơ, xem thường chân lý khách quan, phổ quát, nhất là chân lý siêu vượt trên cái tầm thường vật chất, trần thế.
Đấy là lối sống hời hợt, cảm tính, coi mình là vũ trụ là thước đo các giá trị. Cái đúng cái sai, tiêu chuẩn Chân- Thiện- Mỹ không còn theo giá trị khách quan mà hoàn toàn lệ thuộc vào cảm tính tương đối của cá nhân. Cái tôi thích, tôi yêu, cái tôi quan tâm thì là cái đúng- cái tốt- cái đẹp; ngay cả Chân lý tuyệt đối mà Thiên Chúa mạc khải cũng thế.
Chúa Giêsu là Đường- Sự thật- Sự sống, là tiêu chuẩn- thước đo; đồng thời là nền tảng xây dựng nên Hòa bình- Hạnh phúc đích thực đời này và đời sau. Trong lối sống vô cảm, theo cảm tính thì …quên đi nhé (!) Một bộ phim Hàn mình thích, dễ dàng bỏ cả Thánh lễ Chúa Nhật (bổn phận tối thiểu của Kitô hữu đạo đức); bê bối trong bổn phận gia đình…
Đứng trước vấn đề có lập trường rõ ràng, yêu ghét phân minh dù sao vẫn còn hy vọng. Ghét là mặt trái của yêu; Phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa- đời sau thực chất còn quan tâm đến Thiên Chúa, đời sau dù đứng ở mặt tương phản dưới góc độ nào đó vẫn còn hy vọng hơn thái độ không yêu không ghét; dửng dưng, vô cảm theo kiểu ““Tình yêu đến em không mong đợi gì, tình yêu đi em không hề hối tiếc” (ca từ bài hát một thời top ten).
Lùi lại lịch sử một chút…
Trong thế kỷ 19- 20, nhân loại chứng kiến tri thức con người phát triển như rầm rộ, đặt con người lag trung tâm vũ trụ, đề cao lý trí, đến độ duy trí, coi khoa học có thể giải quyết tất cả, cả vấn đề Thiên Chúa… Dẫu vậy con người vẫn còn tôn trọng quy luật khách quan trong tự nhiên với khả trí mình; tôn trọng quyền làm người, đề cao dân quyền, tự do. Về tư tưởng, dẫu có ‘triết gia’ tuyên bố ‘Thiên Chúa chết rồi!’, được nhiều người ủng hộ… dù sao vấn đề Thiên Chúa vẫn còn sự quan tâm.
Sang thế kỷ 20, các xu hướng thái quá trên có lẽ đưa đến hệ quả: xuất hiện chủ thuyết biện chứng Duy vật- Vô thần (loại bỏ tôn giáo, coi tôn giáo như thuốc phiệt làm người u mê) kết hợp với đấu tranh bạo lực đã lộng hành, đã lôi kéo rộng khắp trái đất, đã vi phạm nghiêm trọng đến quyền làm người, nếu không muốn nói gây ra nhiều tội ác, bất công… đến độ Nghị Viện Châu âu xếp vào tội ác chống nhân loại.
(Nói thêm: Mặc dù Duy vật- vô thần biện chứng, có người coi là Triết học, song tôi coi đây là một học thuyết lệch lạc, chứ không phải Triết học, bởi Triết học truy tìm sự khôn ngoan, suy tư về sự hiện hữu của thể nhân linh, hướng dẫn con người yêu quý hơn chân- thiện- mỹ, ít là trên bình diện nhân bản).
Như thế, đứng trước vấn đề còn lập trường rõ ràng, yêu ghét phân minh dù sao vẫn còn hy vọng. Ghét là mặt trái của yêu; Phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa- đời sau thực chất còn quan tâm đến Thiên Chúa, đời sau dù đứng ở mặt tương phản. Phủ nhận cũng là mặt trái của sự quan tâm.
Và như thế vẫn còn hy vọng về với chính lộ- chân lý dễ hơn loại vô cảm, dửng dưng, yêu ghét theo cảm tính cá nhân mau qua và hay thay đổi.
Vô thần lý thuyết không đáng ngại bằng vô thần thực tiễn. Không ít Kitô hữu, sống như không có Thiên Chúa.
Vì sống vô cảm, theo cảm tính cá nhân, nhất là thờ ơ với Tin Mừng, về đời sau, về đời sống tinh thần… nên xu hướng chọn lựa cho cuộc sống hiện tại xem ra cũng tầm thường, xoàng xoàng, thiếu lý tưởng cao quý, thiếu bên vững.
Thật đáng buồn, mới rồi Google, trang tìm kiếm nổi tiếng- phổ thông nhất hiện nay, thống kê 10 từ tìm kiếm nhất Việt Nam trong năm 2015 toàn liên quan đến giải trí, như bài hát gì, phim gì (đơn cử bài ‘đâu phải chuyện vừa’; phim ‘cô dấu 8 tuổi’…) trong khi các nước khác trên thế giới, nhất là các nước văn minh người ta chú ý tìm kiếm các đề tài thiết thực với nhân sinh, quyền lợi chính đáng: kinh tế, chính trị- tự do- nhân quyền- dân chủ…
(Nói thêm: cũng trang mạng này thống kê, năm 2009 VN đạt quán quân thế giới về tìm kiếm từ ‘sex’).
Cũng liên quan đến xu hướng sống xem ra ‘chưa chuẩn’ trong xã hội ta, gần ta hơn. Mùa Seagame vừa qua, đội tuyển VN thua trong trận bán kết, bị loại khỏi vòng chung kết. Thắng thua trong thể thao là chuyện bình thường, hết sức bình thường. Ta thấy gì nơi các fan hâm mộ: khóc lóc thảm thiết, nước mắt và nước mắt…
Khóc đội nhà thua cũng chuyện bình thường, chẳng có gì đáng trách nếu không cùng dịp này ngư trường ta bị ‘tàu lạ’ xâm chiếm, Ngư Dân ta bị chúng cướp, đánh đập dã man, thậm chí có cả án mạng (chuyện đã- đang và sẽ còn thường xuyên xảy ra). Đây là những vấn đề lớn đến chủ quyền dân tộc, đến quyền sống con người song lại ít thấy nước mắt quan tâm. Đến độ, một tờ báo chính thống phải thốt: ‘Nước mắt cho bóng đá, nước mắt nào cho ngư dân?”
Thống kê trên, hiện trạng trên cho thấy điều gì mà người VN, phần lớn là giới trẻ quan tâm, phản ánh rõ lối sống, lối suy nghĩ nào đang phổ biến phổ biến tại quê hương đất nước ta?
Phải chăng đó là hệ quá đáng báo động cho xu thế vô cảm, sống hời hợt dửng dưng, cảm tính, thiếu lý tưởng, thiếu chiều sâu, trong đo có cả con em chúng ta?
Xu thế sống thờ ơ, vô cảm, theo chủ nghĩa ‘makeno’ xem ra ngày càng thịnh phát, nhất là trong giới trẻ. Sống hời hợt, cảm tính, thiếu lý tưởng, thiếu chiều sâu, nhất là những vấn đề thiết yếu đời sống con người, trong đó đặc biệt những vấn đề liên quan đến phần Linh hồn… hệ quả tất yếu thế nào, câu trả xin nhường cho mỗi chúng ta, nhất là Bạn trẻ.
Đức Thánh Cha Phanxico trong Sứ điệp nhân Ngày Hòa Bình Thế Giới- 2016, có chủ đề trực diện vấn nạn thời đại: “Vượt Qua Vô Cảm Và Dành Hòa Bình”, nhất là trong Năm Thánh Lòng Chúa thương xót. Ngài nói “Vô cảm với Thiên Chúa dẫn đến vô cảm với Tha nhân, sau đó đến Môi trường”. Ngài nhấn mạnh: “Thương xót là tâm điểm nơi Thiên Chúa và do đó cũng là tâm điểm của tất cả con cái Ngài nhắm đến”; Ngài kêu gọi việc xây dựng - đóng góp cho Hòa bình thế giới khởi đi từ Gia đình.
Chúa Giêsu Hiển linh, lương dân nhận biết Chúa khởi đi từ Ánh sao lạ. Trong cuộc sống, trong môi trường làm việc, xin Chúa ban cho mỗi người trong chúng ta, cách riêng các Bạn trẻ là Ánh Sao của Chúa để người khác nhận ra Tin Mừng cứu độ là chính Chúa Giêsu.
Ngôi sao tỏa sáng được là nhờ đón nhận ánh mặt trời, Trong Giáo hội Hiệp thông và Sứ vụ, xin cho chúng con luôn biết nối nguồn Ánh sáng Chân - Thiện - Mỹ là chính.
Muốn được như thế, xin Chúa tiêu diệt nơi chúng con lối sống thờ ơ, vô cảm, ích kỷ nhất là đối với Tin Mừng Cứu độ. Amen.
‘Vinh danh Thiên Chúa trên trời/ Bình an dưới thế cho người thiện tâm’.
------------------
1) Lm. Phaolo Nguyễn Văn Đông, Tin Mừng Chúa Nhật Năm C, tr.54-55
2) x. Những con đường giúp Con người nhận biết Thiên Chúa, Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo (số 31-35)
107.Tôi đi tìm Thiên Chúa--Lm. Minh Vận
Một ngày kia, có một vị Hoàng Đế cùng với đoàn cận vệ vào rừng săn nai. Đang lúc hứng thú rượt theo con mồi, thì bỗng nhiên nghe tiếng hát từ đâu vọng lại, tiếng hát thật véo von thánh thót làm say mê đoàn người săn bắn, đến nỗi khiến họ quên cả con mồi, để rồi cùng nhau đi tìm gặp cho được vị danh ca nào đó đang náu ẩn đâu đây. Sau một hồi lâu kiếm tìm, họ đã gặp, nhưng không phải một danh ca như họ thường lầm tưởng, mà trái lại, một người thanh niên có thân mình tiều tụy xanh xao gầy còm, áo quần rách rưới nghèo nàn đang ngây ngất, sốt sắng như một Thiên Thần, dâng lời ca tiếng hát ngợi khen Thiên Chúa trong một túp lều tranh xiêu vẹo. Một điều làm cho đoàn người săn bắn phải sửng sốt, là thấy người thanh niên có thân xác đau thương đó, lại luôn tỏ ra lòng đầy hoan lạc hạnh phúc. Vì quá bỡ ngỡ, vị Hoàng Đế cất tiếng hỏi: "Ông tới đây làm gì?" Vị Ẩn Sĩ không trực tiếp trả lời, nhưng hỏi lại: "Vậy thưa ngài, ngài tới đây làm gì?" Vị Hoàng Đế đáp lại: "Trẫm tới đây để săn thú vật". Bấy giờ vị Ẩn Sĩ mới tỏ ra sung sướng đáp lời: "Thưa ngài, còn tôi, tôi đến đây tìm kiếm Thiên Chúa!"
Tại sao con người có thân xác đau thương ấy lại tỏ ra lòng đầy vui sướng, vang lên những lời ca tiếng hát khiến cho người nghe phải say mê khoái thú? Phải chăng vị Ẩn Sĩ đó đã cảm nghiệm được niềm hoan lạc, khi thấy chẳng bao lâu nữa, bức tường thân xác sụp xuống và Thầy sẽ gặp được Chúa, Đấng mà suốt đời Thầy hằng phụng sự và khao khát kiếm tìm, để được thỏa lòng yêu mến Ngài!
I. CHÚNG TÔI TÌM ĐẾN TRIỀU BÁI NGÀI
Hôm nay, chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội mừng Lễ Hiển Linh, là lễ Chúa tỏ mình ra cho các dân tộc mà đại diện là ba nhà bác học. Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, tường thuật lại việc các nhà bác học từ Đông Phương tìm đến Jerusalem thăm dò tin tức: "Vua người Do Thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Vì chúng tôi nhận thấy ngôi sao của Người ở Phương Đông, và chúng tôi tìm đến để triều bái Người" (Mt 2:2). Được tin đó, Vua Herođê và dân thành Jerusalem đều xôn xao náo động. Vua tỏ ra rất hoảng hối lo sợ, cấp tốc triệu tập các vị Đại Giáo Trưởng và các Luật Sĩ, những nhà thông Kinh Thánh, để điều tra cho biết nơi Đức Kitô sinh ra. Sau khi được nghe các nhà thông Kinh Thánh cho biết, Đức Kitô sinh hạ tại Belem theo như lời tiên tri đã báo trước. Vua liền ngầm triệu tập các nhà bác học lại, hỏi han cặn kẽ, rồi phái họ đi và căn dặn: "Các khanh hãy đi, điều tra cẩn thận về Hài Nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo lại cho trẫm, để cả trẫm cũng đến triều bái Ngài!" (Mt 2:8).
Nhưng với tấm lòng đơn thành sùng mộ, các nhà bác học đã tìm gặp được Chúa như lòng mong ước, họ tin kính Hài Nhi là Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, là Vị Cứu Tinh nhân loại hằng trông đợi, họ phủ phục tôn thờ và dâng lễ vật triều bái Ngài, họ được mãn nguyện vì đã gặp được Đấng là nguồn Ơn Cứu Độ, là sự sống, là an bình và hạnh phúc.
Trái lại, Hêrođê với tâm ý nham hiểm, ông muốn tìm kiếm Ngài, không vì tin yêu ngưỡng mộ, nhưng vì thù ghét muốn tiêu diệt Ngài, vì sợ ngai vàng của ông sắp sụp đỗ, nên ông đã không xứng đáng gặp được Ngài. Do đó, ông đã nổi cơn xung giận, phạm thêm một tội ác tầy trời, là truyền giết chết tất cả các nam hài nhi từ hai tuổi trở xuống trong thành Belem và các vùng phụ cận để hả cơn tức giận, với hy vọng tiêu diệt được cả Đức Vua mới sinh. Hêrođê đã phải tuyệt vọng, sống bất an và đã bị lịch sử muôn đời nguyền rủa.
II. MỤC ĐÍCH CUỘC SỐNG TRÊN TRẦN GIAN
Mục đích con người sống trên trần gian là để tìm gặp Thiên Chúa, Đấng làm thỏa mãn mọi khát vọng, Đấng là Chân Thiện Mỹ, là Hạnh Phúc vĩnh cửu, đáng mọi loài thụ tạo trên trời dưới thế khát mong tìm kiếm.
Nhưng nếu con người chỉ tới khu rừng trần gian này "Để Săn Thú Vật" là tình, tiền, tài, danh vọng, chức quyền thì chắc chắn không bao giờ họ được mãn nguyện! Biết bao người đã hao tốn bao công sức trong suốt cả cuộc đời, với bao nhiêu xảo kế quỉ quyệt lừa đảo, để hy vọng đạt được những tham vọng ngông cuồng thiên đàng dương thế... Nhưng sau cùng, họ khác nào như kẻ vồ bóng, càng vồ bóng càng thoát khỏi vòng tay họ, và họ đã phải tuyệt vọng, lại phải mang hận suốt đời. Cái hậu quả tai hại của những con người cuồng tín, tin theo thuyết vô thần cộng sản trên 70 năm qua tại Nga Sô, đã là một bằng chứng thật cụ thể và chua cay.
Trái lại, nếu con người sống trên trần gian như là đường đưa tới cùng đích, họ sử dụng của cải đời này như phương tiện để đi tìm gặp Thiên Chúa, chắc chắn họ sẽ được mãn nguyện. Chính Chúa đã truyền dạy và hứa ban: "Các con hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự Công Chính của Người trước, rồi mọi sự khác Người sẽ ban cho các con sau cách dư dật" (Mt 6:33).
III. CHÚNG TA ĐÃ GẶP ĐƯỌC CHÚA CHƯA
Là con cái Chúa, chúng ta đã "Tìm kiếm Nước Thiên Chúa và Sự Công Chính của Người trước", là đặt Chúa làm cùng đích tối thượng và tối hậu, là hạnh phúc vĩnh cửu, là gia nghiệp đời đời, là Đấng chúng ta hằng khao khát kiếm tìm; hay chúng ta còn đặt tiền, tình, tài, danh, lợi, thú hơn Thiên Chúa? Nếu chúng ta đã thực sự đặt Chúa trên hết, đã chu toàn thánh ý Người, đi đúng theo đường lối Chúa chỉ định, chắc chắn chúng ta sẽ gặp được Chúa, chúng ta sẽ được hạnh phúc và được thỏa mãn mọi ước nguyện trong Chúa, vì chính Chúa là Nguồn Hạnh Phúc của chúng ta.
Là những linh hồn đã tình nguyện làm tông đồ rao giảng sứ điệp Tin Mừng của Chúa cho mọi người, chinh phục tha nhân về với Chúa để họ cũng được hưởng Ơn Cứu Độ của Chúa, chúng ta đã thực sự tìm gặp được Chúa, cảm nghiệm được niềm an vui hạnh phúc nơi một mình Chúa, chỉ khát khao chu toàn thánh ý Chúa, muốn điều Chúa muốn, làm điều Chúa muốn và chỉ có một ước vọng duy nhất làm vui lòng Chúa?
Hay trái lại, chúng ta còn đặt chính mình làm cùng đích, hoặc đặt bất cứ tham vọng trần gian nào hơn Chúa, trái với sứ mạng tông đồ của chúng ta?
Kết Luận
Chúa Cha đã ban Con Một Người cho nhân loại qua tay Mẹ Maria. Do đó, không một ai trong nhân loại được nhận biết Chúa và được diễm phúc lãnh nhận Ngài ngoài Mẹ Maria. Các nhà bác học Đông Phương là những người thành tâm thiện chí, các mục tử Belem là những người chất phác quê mùa, đơn sơ khiêm tốn đã nhận ra Chúa, được diễm phúc lãnh nhận Ngài do tay Mẹ Maria trao ban.
Xin cho mỗi người chúng ta cũng được tâm hồn đơn thành khiêm tốn, để đáng được Mẹ Maria tỏ cho chúng ta thấy Chúa Giêsu Con Mẹ nơi tha nhân, nơi các công trình sáng tạo của Người, nơi mọi biến cố may rủi của cuộc sống, để chúng ta luôn được nếm hưởng hạnh phúc của những tâm hồn đơn thành khiêm tốn như các Thánh, những người con ngoan thảo của Chúa và Mẹ.
108.Đấng cứu chuộc muôn dân--Lm. Nguyễn Hữu Thy
Những người đã đọc trước tiên bài Tin Mừng chúng ta vưa nghe xong, là những Kitô hữu người Do-thái. Dù đã trở lại Kitô giáo, tâm tình và cách suy tư của họ vẫn còn bị ảnh hưởng nặng quan điểm của Do-thái giáo. Vì thế đối với những tín hữu này, là cả một điều vô cùng lạ lùng và bỡ ngỡ, khi nghe đọc: Các nhà Phù thủy (Magie) từ phương đông xa xôi đã đến để thờ lạy “vua Do-thái”. Ðối với họ, những người Phù thủy là những kẻ ngoại đạo, họ không được phép liên hệ, vì những người đó - cũng tương tự như những Chiêm tinh gia - thực hành những điều bị tôn giáo họ cấm đoán, như bói toán, bùa chú. Những Phù thủy là những người xa lạ, là những kẻ dạy những điều mê tin dị đoan nhảm nhí, vâng, là những kẻ thù nghịch với đức tin.
Thế nhưng bây giờ, chính những người đó đã đến Giê-ru-sa-lem và nói: “Một ngôi sao lạ đã dẫn đường chúng tôi đến đây! Vị tân vương của người Do-thái mới sinh ra ở đâu?” Họ đã làm đảo lộn và làm điên đầu những người bảo vệ đức tin và gìn giữ trật tự tôn giáo tại Do-thái. Nhưng chính những người này, dù thông thạo Kinh Thánh và theo lẽ thường là phải biết được cách rõ ràng biến cố đã xảy ra, cũng chỉ có thể nói được tên của nơi chốn có thể xảy ra biến cố, chứ nhiều hơn cũng đành bó tay. Còn bạo vương Hê-rô-đê thì chỉ nhìn thấy trước mắt một sự đe dọa nguy hiểm cho vương quyền của y. Vì thế, với mánh khóe xảo quyệt, y đã tìm cách lợi dụng sự hiểu biết của ba vị đạo sĩ ngoại giáo để thi hành thâm ý ích kỷ và độc ác của y. Qua đó, chúng ta thấy rằng, trong khi những người ngoại giáo - được hướng dẫn bởi một ngôi sao - đã tìm gặp được điều Kinh Thánh mặc khải, còn những người “tín hữu” lại không hề hay biết gì cả.
Ðúng vậy, về phương diện thần học, điều làm cho chúng ta phải ngạc nhiên trong đoạn văn này là: Những người ngoại giáo đã được kêu mời đến cùng Ðức Kitô. Và qua Hài Nhi nằm trong máng cỏ, họ đã nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa và đã quì gối tôn thờ. Còn những gì họ mang đến để kính dâng lên như lễ vật của mình, đã nói lên ý nghĩ và sự đánh giá của họ về Hài Nhi: Họ mang đến vàng. Vàng là một thứ kim loại quý hiếm. Nó sáng bóng như mặt trời. Ðó là một thứ kim loại dành để các vị vua khắc ấn hình ảnh của mình trên đó. Vậy, họ mang vàng đến như lễ vật dâng lên vị Ấu Chúa, Ðấng sẽ in đậm hình ảnh mình trên cả vũ trụ.
Món quà thứ hai là nhũ hương. Ðó là một loại hương liệu quý. Khi những hạt nhũ hương được đốt cháy, thì tỏa ra một làn khói trắng bốc thẳng lên cao với một mùi thơm dịu dàng. Mùi hương thơm bay tỏa ra và làm cho cả một vùng không khí thơm ngào ngạt. làn khói là tượng trưng cho sự hiện diện đầy huyền nhiệm của Thiên Chúa. Làn khói cuộn tròn, lan ra chung quanh và bốc lên cao, như muốn nối kết phía dưới thấp với phía trên cao, nối kết đất với trời.
Còn món quà thứ ba là mộc dược, một thứ rễ cây đắng, một vị thuốc chữa bệnh. Món quà muốn biểu hiệu cho sứ mệnh của Hài Nhi trong máng cỏ: Người sẽ hàn gắn và chữa lành mọi bệnh tật tâm linh và cả bệnh tật thể xác của con người, cũng như mang lại cho họ sự cứu rỗi!
Với những lễ vật đó, ba người ngoại giáo muốn bày tỏ lòng tôn kính và sự xác tín của họ: Ðức Kitô là Vua và là Ðấng Cứu Thế cho tất cả mọi người và mọi dân nước. Ðó là điều được đề cập tới ở đây, trong phần đầu của Tin Mừng theo thánh Má-thêu. Và tiếp đến trong phần cuối của bản Tin Mừng lại được thánh sử kết thúc bằng câu: “Các con hãy làm cho tất cả mọi người trở thành môn đệ của Thầy và hãy rửa tội cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần!”
Bởi vì, Thiên Chúa là Vua, một Ðức Vua đầy tình phụ tử; Còn Chúa Con thuộc về Thiên Chúa và là Thiên Chúa; Người tác động trong cuộc sống chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần. Ðó chính là sứ điệp của ngày lễ hôm nay. Hay nói cách khác, ngày lễ Hiển Linh phải là một sứ điệp vui mừng cho chúng ta, vì nó bày tỏ cho chúng ta một sự thật là tất cả chúng ta - không phân biệt màu da, chủng tộc, văn hóa hay tôn giáo - đều có thể trở thành môn đệ Ðức Kitô. Bởi vậy, chớ gì những người còn ở “ngoài cuộc”, chưa nhập vào đoàn môn đệ Ðức Kitô - dù do họ là người ngoại giáo hay do họ đi lạc đường - hãy biết nỗ lực tìm kiếm một cách nghiêm chỉnh con đường dẫn đến cùng Ðức Kitô, Ðấng duy nhất có thể ban cho con người sự cứu rỗi sau cùng. Và sự nỗ lực đó không chỉ họ, những người còn “đứng ngoài”, phải có, nhưng cả chúng ta nữa, những người vẫn nghĩ mình đã “ở trong cuộc” rồi, cũng phải luôn luôn cố gắng không ngừng.
Những điều chúng ta vừa nói trên có thể giúp chúng ta đi tới ba suy tư:
Chúng ta cần phải giữ cho tư tưởng của mình được khoan dung và cởi mở; không đoán xét những người lạ mặt hoặc coi khinh họ hoặc kết án những con đường họ đi là lệch lạc; bởi lẽ, rất có thể là họ đã được một ngôi sao lạ dẫn đường, còn chúng ta lại không nhìn thấy được ngôi sao đó hoặc nhìn thấy, nhưng lại không nhận ra được.
Chúng ta được cảnh tỉnh: Những người có quyền bính và trách nhiệm xưa kia đã bị sai lầm. Mặc dù họ đã biết chính xác được địa danh, nơi Vị Tân Vương được sinh ra, và chẳng những họ không muốn đi đến kính viếng và thờ lạy Người, nhưng họ còn bày tỏ thái độ thù nghịch chống lại Vị Tân Vương mới sinh ra nữa. Khi trong một cộng đoàn đức tin mà Ðức Kitô không còn được nghiêm chỉnh tìm kiếm, thì cộng đoàn đó sẽ trở thành trò hề cho thiên hạ và là một cản trở cho Tin Mừng. Chúng ta cần phải nghiêm chỉnh. Vì chỉ khi chúng ta nghiêm chỉnh tìm hiểu điều Thiên Chúa gửi đến cho chúng ta, bấy giờ chúng ta mới trở thành những vị đạo sĩ, những người “khôn ngoan”, biết tìm kiếm Ðức Kitô.
Và điều thức ba được nói cho chúng ta, đó là: Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải mang lễ vật đến dâng lên Người. Vì qua các lễ vật đó, chúng ta có thể nói lên Ðức Kitô có ý nghĩa gì đối với chúng ta, một cách rõ rệt hơn là bằng lời nói suông.
Nhưng chúng ta cần phải mang theo những lễ vật nào?
Theo thiển ý, tôi nghĩ rằng, có hai lễ vật chúng ta cần mang theo để dâng lên Ðức Kitô:
Lễ vật thứ nhất là: Thời giờ! Vâng, thời giờ là một lễ vật quan trọng nhất. Chúng ta hãy dùng thời giờ để đi tìm kiếm Ðức Chúa và để qui hướng cuộc sống mình theo gương sống của Người.
Lễ vật thứ hai đối với tôi cũng quan trọng tương tự, đó là: Chúng ta cần phải thật lòng quan tâm tới những người phải sống một cuộc sống tương tự như Ðức Giêsu, tức những người nghèo hèn, những người phải hằng ngày chân lấm tay bùn, những người bị coi là loại người “vô tích sự” trong con mắt người đời!
Ðó chính là bài học thực tế nhất chúng ta có thể rút tỉa ra được từ đại lễ Chúa Hiển Linh hôm nay! Amen.
109.Thái độ của con người đối với Thiên Chúa--Lm. Nguyễn Hữu Thy
Bài Phúc Âm tường thuật sự xuất hiện của các Đạo Sĩ đi tìm Đấng Thiên Sai là đề tài khiến các nhà thần học Kitô giáo qua mọi thời đại phải suy nghĩ. Các Giáo Phụ dạy là có ba vị Đạo Sĩ, tức ba vị đại diện cho ba lục địa trong thời cổ đại lúc bấy giờ: Âu Châu, Á Châu và Phi Châu. Còn Úc Châu và Mỹ Châu vào thời đó chưa được khám phá ra. Các ngài cho rằng qua ba vị Đạo Sĩ, lời Thánh Kinh “mọi dân nước trên mặt đất sẽ được nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” hoàn toàn được nên trọn.
- Các Đạo Sĩ là dẫn chứng cụ thể cho việc tất cả mọi người trên khắp trái đất đi tìm kiếm Đấng Cứu Thế.
- Các Luật Sĩ người Do-thái là biểu tượng cho tất cả những ai thông hiểu mọi giáo lý về đức tin, nhưng lại không muốn động tay động chân ra sức thực hành đức tin. Vậy họ là biểu tượng của sự thờ ơ lạnh lùng và cố chấp.
- Cuối cùng các Giáo Phụ coi Hê-rô-đê là hiện thân cho tất cả những ai ham hố chức quyền danh vọng, những kẻ chỉ vì quyền lợi và phẩm hàm của mình, đã sẵn sàng thực hiện bất cứ thủ đoạn nào, trước hết họ tìm mọi cách hạ bệ và tiêu diệt một cách dã man các đối thủ của mình, bất cứ là ai, dù cho đó chỉ là một đứa trẻ vừa mới được sinh ra từ dòng giống hoàng tộc, cũng không được tha.
Sự phân định con người làm ba loại như thế, tức: Những kẻ thành tâm tìm kiếm chân lý - những kẻ thờ ơ hững hờ - những kẻ ham hố quyền hành - vẫn luôn giữ nguyên giá trị của nó trong suốt dòng lịch sử qua mọi thời đại và mãi cho đến ngày nay.
Vâng, ngày nay giữa các dân tộc trên khắp thế giới vẫn luôn có cả hàng triệu “đạo sĩ” đã và đang can đảm bỏ lại “nhà cửa và quê hương vô đạo” của mình để đi theo ánh sáng của “ngôi sao đức tin” hướng dẫn, tìm về với Đức Kitô trong lòng Giáo Hội của Người. Trên khắp các lục địa, đặc biệt ở Á và Phi Châu, số tân tòng được lãnh nhận bí tích Rửa Tội mỗi ngày mỗi tăng. Ở Châu Mỹ La-tinh, các Kitô hữu mạnh mẽ tranh đấu cách ôn hòa cho sự canh tân xã hội, chính trị và tín ngưỡng. Trong khi đó ở các nước chủ trương vô thần hay thù địch với Kitô giáo, mặc dầu hằng ngày phải đối mặt với những bắt bớ, đàn áp và kỳ thị, số người trưởng thành nói chung và số thanh thiếu niên nói riêng coi việc đi tìm kiếm Thiên Chúa như một khát vọng to lớn của đời họ vẫn tăng triển.
Trong khi đó, ở mọi thời đại bao giờ cũng có những kẻ trí thức, thông hiểu luật lệ và giáo lý, những lý thuyết gia Kitô giáo hững hờ khô khan, những kẻ luôn có thể cắt nghĩa rành mạch từng câu từng chữ về giáo lý, về đức tin, nhưng lại không hề quan tâm tới việc rút tỉa cho cuộc sống của riêng mình những hệ luận và những quyết định thích ứng. Vâng, đã có bao nhiêu Kitô hữu đã trở nên mệt mỏi và ù lì trong đức tin. Đó là những Kitô hữu đi tìm cho mình những vũ trụ quan thoải mái và không muốn đi tìm kiếm Đức Kitô nữa, vì họ cho rằng họ đã tìm gặp Người rồi. Phải chăng cuộc sống đức tin hằng ngày của chúng ta cũng đã bao lần trở nên mệt mỏi như thế? Phải chăng chúng ta đã nói về Đạo rất nhiều, nhưng lại sống Đạo rất ít? Phải chăng các tổ chức và các hội đoàn trong các giáo xứ thì không thiếu, nhưng lại có rất ít người có được hứng khởi, lòng nhiệt thành và hăng hái thực thi đúng đắn tinh thần của các tổ chức và của các hội đoàn thánh thiện đó?
Sau cùng, xưa kia cũng như ngày nay bao giờ cũng có những cuộc chiến của những kẻ có thế quyền lực chống lại Kitô giáo và chống lại các Kitô hữu. Họ là những người có quyền thế và không bao giờ chấp nhận những kẻ khác còn có quyền thế hơn mình hay ngang hàng với mình. Đó là những nhà độc tài hay những tập đoàn, đảng phái chuyên chính ở khắp nơi trên thế giới, và để bảo vệ quyền hành, họ luôn nắm trọn các phương tiện truyền thông trong tay để độc quyền chi phối dư luận theo chiều hướng chủ quan và lệch lạc của họ. Điều làm cho họ lo sợ nhất, đó là quyền bính của một Trẻ Sơ Sinh vừa đến trong trần gian để làm chứng cho sự thật và cho tình yêu chân chính. Bởi vậy, những kẻ hay những tập đoàn độc tài chuyên chính đó đã làm đủ mọi cách để loại bỏ sức mạnh của tinh thần bằng những khủng bố thể lý hay bằng những cuộc áp đảo và đe dọa về mặt tâm lý.
Tất cả ba lớp người - những người thành tâm tìm kiếm chân lý - những người thờ ơ hững hờ - những người nắm quyền lực đầy tham vọng - vẫn luôn hiện diện và cùng đồng hành với chúng ta trong cuộc sống đức tin và trên đường tìm kiếm Đức Kitô. Đức Kitô vẫn luôn là mục đích tìm kiếm của ba nhà Đạo Sĩ từ Phương đông và của tất cả những ai muốn bước theo vết chân của các ngài. Nhưng đồng thời Đức Kitô cũng chính là Đấng bị các thầy thông luật và những kẻ nối tiếp họ qua mọi thời đại tẩy chay chối từ, họ là những kẻ thông hiểu hết mọi góc cạnh, mọi ý nghĩa của chân lý, nhưng lại không chịu chấp nhận chân lý và không sống theo chân lý, không quì gối tôn thờ Đấng là Chân Lý Tuyệt Đối. Sau cùng, Đức Kitô cũng là Đấng bị Hê-rô-đê và tất cả những kẻ nắm giữ quyền hành đầy tham vọng tìm mọi cách để bắt bớ và tiêu diệt. Đức Giêsu Kitô luôn hiện diện một cách vô hình giữa lòng lịch sử nhân loại. Người là mốc giới phân định giữa sự cứu rỗi và sự hư mất, giữa hạnh phúc và sự bất hạnh, giữa Thiên đàng và hỏa ngục. Trước ngai tòa Đức Giêsu, dù dưới bất cứ hình thức nào, chỉ có sự tôn thờ hay chối từ, chứ không hề có thái độ trung lập được.
Các Giáo Phụ xưa cũng hiểu rõ Kinh Thánh và các ngài đã biết rất rõ, không có gì có thể bảo đảm chắc chắn được rằng ba Đạo Sĩ là ba vị vua cả. Tuy vậy, trong các bức tranh người ta thường trình bày các nhà Đạo Sĩ với mũ triều thiên đội trên đầu và khoác y phục của các bậc vương giả. Nhưng đối với chúng ta dữ kiện ba nhà Đạo Sĩ có phải là ba vị vua hay không, chuyện đó không quan trọng. Thật ra không có gì xứng đáng với phẩm hàm vương giả của con người hơn là việc con người biết can đảm lên đường tìm kiếm chân lý, và rồi biết quì gối kính thờ tình yêu nhập thể của Thiên Chúa.
Hôm nay, tất cả chúng ta cũng như các nhà Đạo Sĩ xưa kia, sấp mình bái thờ Con Trẻ nằm trong máng cỏ để nhận diện được tình yêu trọng đại của Thiên Chúa đã hiện thân hữu hình giữa loài người chúng ta.
110.Ánh sao dẫn đường--Dã Quỳ
Cuộc sống của chúng ta bình thường hằng ngày, ít nhiều cũng có những cuộc hành trình. Có những lần ta lên đường để thực hiện một cuộc thăm viếng người thân, hay có những khi ta đi xa để lo một công việc... Nhưng cũng có những chuyến đi quan trọng để tìm kiếm chân lý hay tìm về với đời sống tâm linh... Hành trình nào cũng khiến chúng ta cần có sự chuẩn bị và đích đến rõ ràng. Nếu như chưa biết đường, ta rất cần tấm bản đồ hay sự hướng dẫn... Hôm nay, Tin Mừng thuật lại cho chúng ta hành trình của các nhà chiêm tinh, một hành trình dài, gian khó và có mục đích, đó là "Hành trình tìm đến thờ lạy Hài Nhi Giêsu- Đấng Kitô mới sinh".
Ba nhà chiêm tinh là những người ở phương Đông, rất xa, đã lên đường tìm kiếm Hài Nhi Giêsu. Nhờ ánh sao lạ dẫn lối, các ngài đã tìm đến được hang đá nơi Đức Maria, thánh Giuse và Hài Nhi Giêsu đang trú ngụ "Họ vào nhà, thấy Hài Nhi và thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình bái lạy Người."( Mt 2, 11) Họ phủ phục trước con trẻ mà trong Người, họ nhận ra là Vua dân Do Thái, là Con Thiên Chúa mới sinh. Họ dâng tiến Người những lễ vật xứng hợp với lễ vật dâng lên cho Vua là vàng, nhũ hương và mộc dược. Thiên Chúa đã yêu thương tỏ mình ra cho những tấm lòng chân thành và khao khát tìm Người.
Giờ đây, các nhà chiêm tinh phải trở về quê hương xứ sở của họ. Họ đã bàn tính, dự định quay trở lại báo cho Hêrôđê và cũng trở về bằng con đường cũ họ đã đi đến. Thế nhưng, trong giấc mơ họ được báo rằng sự sống của họ đã bị nguy hiểm từ khi gặp Hêrôđê-người mong họ trở lại. Và vì thế,"họ đã đi lối khác mà về xứ sở mình."(Mt 2,12)
Như vậy, phải chăng không có cùng một con đường cho tất cả mọi người để khám phá ra sự hiện hữu của Chúa Kitô, và quyết định bước đi theo Người một cách chắc chắn? Cũng là con đường ấy, ba nhà chiêm tinh đã tìm đến nơi, triều bái Đấng Kitô. Nhưng Hêrôđê và các thượng tế, các kinh sư dù am tường Kinh Thánh và biết rõ địa chỉ nơi Hài Nhi Giêsu sinh ra, thế mà họ đã không lên đường đến thờ lạy Người. Trái lại, vì lòng kiêu căng ích kỷ, họ tìm kiếm chỉ để sát hại Người. Ba nhà chiêm tinh khi đã gặp Hài Nhi Giêsu, họ thay đổi lối đi, rời bỏ những con đường quen thuộc để bước đi trên con đường mới và chắc hẳn là con đường không biết trước. Họ cần phải chú ý nhiều hơn, điều chỉnh lại phương cách của họ, suy nghĩ của họ, sự nhận định và cách xử thế của họ. Bây giờ họ khởi hành trong tâm tình mới, với trạng thái bình an vì có Ngôi Sao Sáng là chính Đức Kitô ở trong họ.
Con đường đưa tới hạnh phúc và dẫn đến Nước Trời được Chúa Giêsu loan báo không phải là con đường mà tất cả mọi người chọn đi theo một cách tự nhiên. Người đã công bố "Cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy."(Mt 7,14) Trên con đường này, chính Chúa là ánh sao chỉ đường dẫn lối và đồng hành cùng ta. Những người cùng đi bên cạnh ta là anh em, là con cùng một cha. Những người ấy cần được đón tiếp, không bị xét đoán, được giúp đỡ tận tình, được phục vụ và tha thứ. Những người ấy phải được yêu thương cho đến cùng vì dấu chỉ mà Chúa Giêsu nhắc nhớ ta là "Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau."(Ga13,35)
Mừng Lễ Chúa Hiển Linh, mỗi Kitô hữu chúng ta được mời gọi hăng hái bước theo ánh sao Lời Chúa, ánh sao trong các biến cố cuộc đời và nhất là ánh sao Chúa Giêsu Kitô, đến thờ lạy Người, dâng lên Người trọn vẹn tâm hồn và thân xác của ta. Đồng thời nhờ ánh sáng của Chúa hướng dẫn và đổi mới, ta được trở nên ánh sao nhỏ: Ánh sao của tình yêu thương, ánh sao của niềm hy vọng, ánh sao của lòng tin tưởng, của cảm thông và bác ái...sẽ là những ánh sao thiết thực nhất, chiếu sáng rõ để dẫn lối cho nhiều anh chị em xung quanh nhận ra sự hiện diện của Chúa và tôn thờ Người là Thiên Chúa thật. Đây cũng là sứ mệnh và trách nhiệm của chúng ta- trách nhiệm truyền giáo. Để một ngày, chúng ta sẽ thực sự hạnh phúc ca lên rằng "Lạy Chúa, muôn dân nước sẽ thờ lạy Người."
Lạy Chúa Kitô, xin chiếu dãi ánh sáng của Chúa vào tâm hồn chúng con, để chúng con đủ sức vững bước, vượt qua cõi đời tăm tối này và xin dẫn dắt tất cả nhân loại về với Chúa. Amen.
111.Mầu nhiệm ánh sáng--Lm. Jos Nguyễn Minh Chánh
1/ Lễ Hiển Linh là lễ Ánh Sáng. Mầu nhiệm Ánh Sáng của lễ Hiển Linh được tỏ hiện qua ngôi sao hướng dẫn các Đạo Sĩ từ Đông Phương đến thờ lạy Chúa Hài Nhi: "Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Đông Phương và chúng tôi đến để triều bái Người". (Mt 2.31)
Ngôi sao Đông Phương hướng dẫn các Đạo Sĩ đến thờ lạy Chúa, đó là biểu tượng nói lên Hài Nhi Giêsu chính là Anh Sáng đã đến thế gian, như lời Tiên tri Isaia trong bài đọc một đã tiên báo:"Hãy đứng lên, hãy toả sáng ra, hỡi Giêrusalem! Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi."(Is 60.1) Nhưng Chúa Giêsu còn là Anh Sáng soi chiếu cho hết mọi dân tộc như lời cụ Simêon đã nói về hài nhi Giêsu "là Anh Sáng soi đường cho dân ngoaị, là vinh quang của Israel dân Người ".(Lc 12.32)
2/ Nhưng thử hỏi: Chúa Giêsu là Ánh Sáng đã đến thế gian, vậy tất cả những người thời bấy giờ có tiếp nhận Ngài không? Ta chỉ thấy ngoài Mẹ Maria, Thánh Giuse, các Mục Đồng và các Đạo Sĩ là những người đại diện cho dân tộc Israel và cho các dân trên mọi nước tiếp nhận Đức Giêsu. Còn hầu hết thì còn chưa tiếp nhận Ngài hay không nhìn nhận Chúa Cứu Thế là Anh Sáng. Vì thế mà Chúa Giêsu đã nói:" Người đã đến nhà mình nhưng người nhà chẳng đón nhận",(Ga 1. 11) vì " người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc làm của họ xấu xa". (Ga3.19) Một khi con người khước từ Đức Giêsu thì con người sẽ chìm đắm trong đêm tối. Vì Chúa nói:"Ta là ánh sáng trần gian, để bất cứ ai tin vào Ta, thì không ở lại trong bóng tối."(Ga12.46)
3/ Khi con người đang sống trong một Thế giới đang vươn tới đỉnh cao của sự phát triển: phát triển trí tuệ; phát triển kinh tế; phát triển mối tương quan đại đồng giữa các quốc gia với nhau; phát triển những lối sống văn minh hiện đại..... Vậy nhìn vào thế giới hiện tại hôm nay, ai dám nghĩ rằng đó là một thế giới hoàn hảo? Chắc hẳn là không. Vì sau những vẻ hào nhoáng của Thế giới mau qua này, thì lại xuất hiện mảng bóng đêm tăm tối đang lan tràn vào thế giới như: sự thù hận và tìm cách hạ bệ lẫn nhau giữa người với người mỗi ngày thêm gia tăng; sự chia rẽ trong hôn nhân được báo động tới mức trầm trọng; nạn phá thai càng ngày càng nghiêm trọng và khủng khiếp; mại dâm ma tuý bị coi như đó là chuyện bình thường, tệ nạn này đang lan tràn đến những miền quê và nông thôn; đời sống công bằng và bác ái càng ngày càng mất dần trong cộng đoàn, xem đồng tiền, xem của cải hơn là phẩm giá của một con người. Nói chung, Thế giới hôm nay đang đạt tới tầm vóc của sự phát triển, thì đời sống tâm linh và nhân bản của rất nhiều người cũng bị rơi vào tình trạng đen tối và bị huỷ hoại. Một khi sự sống của con người đang bị chết dần bởi hành vi đen tối của họ, thì đó cũng là lúc vinh quang của Thiên Chúa đang bị mọi người chà đạp và loại trừ ra khỏi đời sống họ. Vì "Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống".(Irênê) Mà một khi đánh mất vinh quang của Thiên Chúa ra khỏi đời sống của mình, thì cuộc sống của con người sẽ là bộ xương khô, cuộc sống sẽ giả tạo. Sống giả tạo thì đời sống làm gì có ý nghiã, làm sao họ có thể đạt được mục đích cuối cùng của kiếp người.
4/ Vì thế, trong khung cảnh của ngày lễ Hiển Linh, lễ Anh Sáng, là người Công Giáo chúng ta hãy ý thức lại sứ mạng của mình. Sứ mạng của chúng ta là phải trở nên" Anh sánh cho trần gian",(Mt 5.14) và Anh Sáng của chúng ta phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những việc tốt đẹp của chúng ta làm, mà tôn vinh Cha của chúng ta, Đấng ngự trên trời.(x,Mt 5.16) Vậy việc làm tốt đẹp của chúng ta đó là việc gì? Trước hết, chúng ta "hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thịên".(Mt 5.48) Sống hoàn thiện như Thiên Chúa luôn đòi hỏi chúng ta phải trở nên sứ giả gieo rắc "nền văn minh tình thương", "nền văn minh sự sống" trong môi trường chúng ta đang sống. Đây là lời mời gọi mang tính tổng quát, nhưng khi chúng ta khám phá và sống một trong những điều tổng quát này, thì đời sống chúng ta sẽ trở thành ngọn đèn soi sáng cho những ai đang lần bước trong đêm tối.
Xin Mẹ Maria là Ngôi Sao Mai, giúp cho đời sống chúng con cũng trở thành ánh sao sáng trong việc sống đạo hôm nay. Amen.
112.Lễ Hiển Linh--Lm. Munachi Ezeogu
Trong một buổi sáng lạnh lẽo, ba người làm nghề hái dừa đang sưởi ấm quanh đống lửa. Khi ấy, hai người trong bọn họ tranh luận với nhau để so sánh xem đạo của ai là đạo thật. Okoro, người cao tuổi nhất trong bọn chỉ ngồi yên lặng nghe hai người kia tranh luận. Đột nhiên, hai người kia quay sang nói với Okoro rằng: “Quyết định dùm chúng tôi, Okoro. Tôn giáo nào đúng?” Okoro vuốt râu, ngẫm nghĩ và nói: “Các anh nên biết rằng, có ba lối để đi từ đây lên xưởng ép dầu. Anh có thể đi thẳng lên đồi, đấy là lối ngắn nhất nhưng phải leo dốc cao nhất. Anh có thể đi quanh bên phải của ngọn đồi, lối ấy không xa nhưng đường gập ghềnh và nhiều ổ gà lồi lõm. Hoặc là anh có thể đi quanh bên trái của ngọn đồi, đấy là đường xa nhất nhưng lại là lối đi dễ nhất”. Okoro nói thêm rằng: “Các anh nên biết rằng, khi các anh đến nơi, người chủ không hỏi các anh đến bằng cách nào. Ông ta chỉ hỏi hoa quả các anh mang đến có tươi tốt không?”
Trong những câu chuyện kể về Đức Giêsu sinh ra, có hai nhóm người đến kính viếng hài nhi mới sinh, đó là mục đồng và ba vua. Tại sao giáo hội không có lễ kính các mục đồng để tưởng nhớ việc họ đã kính viếng Chúa Hài Đồng, nhưng hôm nay giáo hội lại đặc biệt cử hành lễ Hiển Linh để kính nhớ ngày ba vua kính viếng Hài Nhi Giêsu? Bởi vì sự viếng thăm của ba vua là một bất ngờ. Các mục đồng biết được việc Chúa sinh ra là do các thiên thần trực tiếp hiện đến trong đêm vắng để báo tin. Đấy là sự bày tỏ tự nhiên và hầu hết mọi người trong chúng ta đều lãnh hội được. Về phần ba vua thì khác, họ biết tin Chúa sinh ra là do họ quan sát một ánh sao. Ngôi sao chẳng nói với họ điều gì. Họ đã phải tự tìm hiểu dấu hiệu tự nhiên của ánh sao để biết ý nghĩa và nơi mà ánh sao đã dẫn đưa họ đến. Nếu chúng ta nhớ rằng, ba vua là những người thờ lạy thiên nhiên, sùng bái tạo vật qua việc quan sát sự di chuyển của tinh tú và các thiên thể Chúa tạo dựng, thì chúng ta sẽ thấy rằng việc ba vua chiêm bái Hài Nhi Giêsu là một thách đố cho niềm tin của chúng ta.
Như những người hái dừa, người theo đạo thường tin rằng chỉ có truyền thống tôn giáo của mình mới đúng là đường đến với Chúa. Đây là điều chúng ta thường nghe khi đề cập đến lời của Đức Giêsu: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Gioan 14:6). Chúng ta vội vã kết luận rằng con đường của Chúa tương đương với truyền thống tôn giáo của mình. Nhưng sấm ngôn của Chúa cảnh cáo chúng ta về những diễn giải hạn hẹp ấy rằng: “Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta” (Isaia 55:8); đấy là lý do làm cho chúng ta ngỡ ngàng về việc ba vua kính viếng Chuá Hài Đồng, và là câu chuyện lạ thường để cho chúng ta biết rằng Chúa không giới hạn bất kỳ một truyền thống tôn giáo nào.
Nên để ý xem có bao nhiêu truyền thống tôn giáo khác nhau tìm biết Con Thiên Chúa giáng trần. Bọn mục đồng, bị xem là hạng người dơ bẩn không đáng được vào Đền Thờ cầu nguyện nếu không trải qua thời kỳ thanh tẩy; họ đã tìm biết Chúa qua các thiên thần trực tiếp hiện ra báo tin. Ba vua đã tìm biết Chúa bằng sự quan sát ánh sao. Và các kinh sư của vua Hêrôđê thì tìm biết Chúa qua sách ngôn sứ. Thị ứng, ánh sao, sách thánh... Nhiều cách khác nhau nhưng đã đưa đến một chân lý. Dĩ nhiên, điều này không có nghĩa là bất cứ truyền thống tôn giáo nào cũng tốt lành như nhau. Thánh Matthêu cho chúng ta biết rằng khi ánh sao dẫn lối đến Giêrusalem thì tắt, và ba vua đã phải nhờ các kinh sư chỉ lối đến Bê-Lem. Tuy rằng đã có ánh sáng tự nhiên của ánh sao, ba vua vẫn cần ánh sáng siêu nhiên của sách thánh, để cuối cùng tìm đến được với Chúa.
Vậy câu hỏi chính của câu chuyện là: “Ai đã thật sự tìm biết Chúa Giêsu?” Vua Hêrôđê và các kinh sư, người có ánh sáng siêu nhiên là kinh thánh nhưng lại không tìm thấy Chúa, nhưng ba vua là những người đi theo ánh sáng tự nhiên của ánh sao đã có thể tìm ra Chúa. Tại sao? Vì giới cầm quyền Do-Thái có được chân lý tỏ ra trong sách thánh nhưng họ đã không tin theo. Họ đã không bước đi trong ánh sáng của thánh kinh. Còn ba vua thì khác, họ chỉ biết ánh sao và bước theo ánh sao dẫn lối. Việc có được chân lý không quan trọng cho bằng làm thế nào để chuẩn bị bước đi trong ánh sáng của chân lý ấy mà chúng ta đang nhận biết. Thà rằng chúng ta có ánh sao mờ dẫn lối, còn hơn là có được ánh sáng siêu nhiên chói chan của thánh kinh mà chúng ta lại sao lãng, hững hờ.
Là Kitô hữu, chúng ta hằng tin rằng chính tôn giáo cho ta có con đường công chính. Nhưng điều ấy có đem lại bổ ích gì nếu chúng ta không bước đi theo con đường công chính ấy. Những người sùng bái thiên nhiên hoặc kẻ không biết Chúa, họ chỉ biết thành tâm quyết chí theo ánh sáng mờ ảo của thiên nhiên; họ có thể đến với Chúa Giêsu trước những Kitô hữu hằng tán tụng Thiên Chúa, nhưng không bước đi trong đức tin. Đấy thật là một thách đố mà chúng ta cần đối diện trong câu chuyện ba vua, những người đã tìm và đã gặp được Chúa.
113.Chúa Nhật Lễ Chúa Hiển Linh--Lm. Nguyễn Văn Phan, CSsR
Không mấy ngạc nhiên là trong thời đại khoa học và lý luận này, người ta đều quan tâm nhiều đến tinh tú, chiêm tinh, tướng số tử vi. Ai nấy đều hài lòng khi đọc thấy trước một điều gì ngoạn mục sắp xẩy đến. Hành trình của ba Đạo sĩ theo ánh sao trời đi qua bao đồi núi sa mạc đã làm xôn xao tâm hồn chúng ta. Chúng ta cảm thấy mình cũng có những vì sao riêng cho mình dõi theo, một con đường riêng mà chỉ một mình chúng ta được kêu gọi dấn bước.
Khi ba vị đạo sĩ tìm thấy Hài Nhi Giêsu, bằng đôi mắt đức tin, các ngài có thể nhận ra qua dáng vẻ bên ngoài của trẻ bé này Ánh Sáng Thiên Chúa đã đến trần gian. Từ đó về sau, các ngài không còn được sao trời dẫn đường nữa, mà là được soi đường dẫn lối bằng chính Ánh Sáng của Hài Nhi ấy, Đấng mà các ngài nhận ra là Đấng Cứu Chuộc Trần Thế. Chúng ta cũng được trao ban đôi mắt đức tin để giúp chúng ta tiếp tục hành trình trong khi chúng ta theo Chúa trên khắp nẻo đường đời, kể cả những khi băng qua những lối mòn hoang vắng của cô đơn, đau đớn thất bại và bệnh tật...
Có một cái gì đó tuyệt đẹp trong câu chuyện Ba Vua. Ba Đạo Sĩ năm xưa đại diện cho tất cả chúng ta trên con đường thiêng liêng kéo dài suốt cuộc đời. Chúng ta đây sẽ là ba đạo sĩ của thời nay, có nhiệm vụ làm cho cả và thế giới nhận biết Đức Chúa Giêsu là Đấng Cứu Chuộc nhân loại. Nhiệm vụ đặc biệt của chúng ta là làm cho mọi người sẵn sàng rộng mở tâm hồn đón tiếp Lời Chúa để có thể nhận ra Chúa Giêsu dọc theo mọi nẻo đường đời. Đức Giêsu cần chúng ta cộng tác để nối dài công trình của Người.
Ba vị đạo sĩ xưa kia đã không đến với Chúa với bàn tay trắng, nhưng mỗi người một món quà đặc tuyển để nói lên lý do mục đích tìm kiếm của các ông. Ngày nay chúng ta cũng không được phép đến với Chúa với bàn tay không. Tuy chúng ta không có vàng, nhũ hương, và mộc dược, nhưng chúng ta có thể dâng cho Người món quà của chính chúng ta là cả nhân loại tháp nhập với Đức Kitô. Dâng hiến bản thân là một món quà quí giá không bao giờ hao mòn.
Hôm nay Giáo Hội mong muốn tất cả chúng ta vui mừng, vì đây là ngày công bố cho cả thế giới rằng Đức Chúa Giêsu đến trần gian để cứu chuộc mọi người, và ảnh hưởng của ơn cứu chuộc ấy không giới hạn vào bất cứ nền văn hoá nào.
Lễ Giáng Sinh đã tạo ra hai cuộc hành trình: một hành trình tới Bêlem, và một hành trình trở về quê nhà bằng con đường khác. Tất cả chúng ta hiện đang trên đường trở về quê trời. Đã một lần tìm đến Bêlem trong đời, chúng ta hy vọng rằng vào cuối cuộc hành trình cuộc đời, chúng ta sẽ lại gặp nhau nhờ Đức Chúa Giêsu và Mẹ Maria.
114.Món quà của các Đạo Sĩ--Lm. Mark Link
Những tặng phẩm là nhũ hương, mộc dược và vàng ám chỉ thần tính, nhân tính và vương quyền của Đức Giêsu.
William Sydney Porter, một nhà văn Mỹ chuyên viết chuyện ngắn sống vào giữa thế kỷ này. Ông rất nổi tiếng qua bút hiệu O. Henry của ông. Ông được độc giả nhớ đặc biệt là do ông luôn luôn kết thúc các câu chuyện của ông bằng cách gây ngạc nhiên hứng thú. Một trong những câu chuyện nổi tiếng của ông lấy tựa đề từ ý nghĩa của đại lễ hôm nay. Câu chuyện đó nhan đề “Món quà của vị đạo sĩ”. Nói về một cặp vợ chồng trẻ tên Jim và Dela. Họ nghèo tiền của nhưng rất giàu tình thương đối với nhau.
Giáng sinh sắp tới, Dela tự hỏi phải làm quà Giáng Sinh cho Jim bằng món gì đây. Nàng muốn tặng chàng, nhưng nàng không có đủ tiền để mua. Vì thế nàng nẩy sinh một sáng kiến. Nàng có một bộ tóc dài rất đẹp. Nàng quyết định cắt ngắn bộ tóc của nàng và đem bán để mua cho Jim sợi giây đồng hồ. Hôm áp lễ giáng sinh, nàng từ phố về, trên tay mang một chiếc hộp rất đẹp, trong đó có sợi giây đeo đồng hồ làm bằng vàng, mà nàng vừa đổi bằng mái tóc của nàng. Bỗng nhiên, Dela chợt cảm thấy lo lắng nàng tự hỏi Jim rất yêu quí mái tóc dài của nàng, và nàng tự hỏi không hiểu chàng có buồn phiền vì nàng cắt và bán nó đi không. Chỉ có thời gian mới trả lời nàng thôi.
Dela leo nốt đợt cầu thang cuối cùng dẫn đến căn hộ nhỏ của hai đứa nàng. Nàng mở cửa và thấy Jim đang đợi nàng. Trong tay chàng có một cái hộp gói lại thật đẹp đựng món quà chàng mua cho nàng. Khi Jim nhìn thấy mái tóc ngắn của Dela, chàng bắt đầu rươm rướm nước mắt. Nhưng chàng không nói gì cả. Chàng cố cầm những giọt lệ của mình và tặng nàng chiếc hộp. Khi Dela mở hộp ra, nàng không thể tin vào mắt mình được. Trong hộp có một bộ lược rất đẹp để nàng chải mái tóc thướt tha của nàng. Và khi Jim mở món quà của mình ra, chàng cũng khó mà tin được đôi mắt của chàng. Trong hộp có một sợi giây đồng hồ rất đẹp dùng cho chiếc đồng hồ bằng vàng của chàng. Chỉ lúc đó Dela mới nhận ra rằng Jim đã bán chiếc đồng hồ bằng vàng để mua cho nàng những cái lược để nàng chải tóc.
Có những người nghĩ rằng kết thúc của câu chuyện tuy gây ngạc nhiên nhưng bi thảm quá. Còn đa số cho rằng kết thúc như thế rất đẹp. điều làm cho kết thúc đó đẹp không phải là những món quà mà là tình yêu được những món quà đó biểu tượng và nói lên.
***
Câu chuyện đó dẫn chúng ta trở về với việc mừng kính lễ Hiển Linh hôm nay, cũng gọi là Lễ Ba Vua (tức 3 nhà đạo sĩ). Tôi không hiểu rõ tại sao O. Henry lại đề tựa cho câu chuyện ấy là “Món quà của nhà Đạo Sĩ”. Có lẽ vì những món quà của các đạo sĩ cũng đầy những ý nghĩa thâm sâu như thế. Chúng ta hãy suy nghĩ về ý nghĩa của những món quà ấy.
Chúng ta hãy bắt đầu bằng mộc dược. Thời xưa, người ta dùng mộc dược để ướp xác người chết trước khi đem đi mai táng. Chẳng hạn, vào sáng sớm ngày đầu tuần, các phụ nữa đã đem mộc dược đến mộ Chúa Giêsu. Vì mộc dược có tương quan đến sự chết, nên nó tượng trưng sự yếu đuối, dễ bị thương tổn của con người.
Vì thế món quà bằng mộc dược tượng trưng cho nhân tính của Đức Giêsu. Nó nói với chúng ta rằng Đức Giêsu cũng có những yếu đuối, mỏng giòn, dễ bị thương tổn vì ngài là người. Cũng như chúng ta, Ngài cảm nghiệm được toàn bộ mọi thứ cảm xúc của con người, vui, buồn, sợ hãi, thất vọng, cô đơn.,…Ngài cũng không khác gì chúng ta, ngoại trừ tội lỗi mà thôi.
Bây giờ chúng ta nói về nhũ hương. Ngày xưa, người ta dùng nhũ hương trong việc phụng tự tôn giáo hương thơm và làn khói bay lên trời cao, khiến họ liên tưởng đến các vị thần linh và thần tính của các ngài. Vì thế, món quà bằng nhũ hương tượng trưng cho Thượng Đế tính của Đức Giêsu. Thánh Phaolô đã nói về Thượng Đế tính của Ngài trong thư gởi cho cộng đoàn giáo dân ở Philipphê: “Đức Giêsu vốn bản tính Thiên Chúa, nhưng Ngài…. Đã trở nên giống người phàm, và chấp nhận vâng phục mọi đàng cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài lên địa vị cao cả nhất trên trời” (Pl 2,6-9)
Cuối cùng chúng ta nói tới vàng. Ngày xưa, người ta coi vàng là vua của mọi thứ kim loại. Vì thế, vàng tượng trưng cho đức vua. Nhà vua là vị thủ lãnh ở bên trên tất cả. Ông vua lý tưởng thì lãnh đạo bằng tình thương. Đối với dân chúng, ông bảo đảm là mình có chính nghĩa. Ông làm cho người khác ủng hộ. cộng tác với ông nhờ chính nghĩa của mình. Đức Giêsu chính là một vị vua như thế. Ngài lãnh đạo bằng tình thương. Ngài bảo đảm có chính nghĩa khi thiết lập Nước Thiên Chúa ở trần gian. Và Ngài thôi thúc mọi người cộng tác với Ngài trong công việc ấy. Điều đó dẫn chúng ta đến với sứ điệp thực tiễn của ngày lễ Hiển Linh hôm nay.
Hiện nay trong nhiều quốc gia, lễ Hiển Linh được mừng long trọng hơn lễ Giáng sinh. Sở dĩ như thế là vì lễ này mừng việc Đức Giêsu tự tỏ mình ra với thế giới ngoại giáo. Cũng y như lễ Giáng Sinh mừng việc Đức Giêsu tự tỏ mình ra đặc biệt với những người Do Thái, thì lễ Hiển Linh mừng việc Đức Giêsu tự tỏ mình ra đặc biệt với dân ngoại. Vì thế, lễ này là “Lễ của Chư Dân”. Những gì được Đức Giêsu khởi sự trong thời của Ngài thì cũng phải được chúng ta tiếp tục trong thời của chúng ta. Nếu Đức Giêsu phải được rao giảng cho mọi dân mọi nước, thì việc rao giảng đó phải được thực hiện bằng chính những cố gắng của chúng ta. Chúng ta phải loan báo cho mọi dân tộc trên thế giới biết “Tin Mừng” này là Đức Giêsu Con Thiên Chúa, đã mặc lấy xác thịt và sống giữa chúng ta chúng ta phải nói cho họ biết rằng Đức Giêsu đã đi vào lịch sử không phải chỉ để cứu độ người Do Thái vào thời của Ngài, mà cứu độ tất cả mọi dân tộc, mọi quốc gia trong mọi thời đại nữa.
Đức Giêsu đến để lập Nước Trời tại trần gian, để lập nên một thế giới mới, thế giới mà trong đó không còn đau khổ, buồn phiền nữa, thế giới mà trong đó những người nghèo khổ sẽ tìm được những người bạn chân tình, yêu thương, nơi mà trước đó họ chỉ tìm thấy những người xa lạ lạnh nhạt. đó chính là “Tin Mừng” mà chúng ta phải loan báo cho thế giới. Đó là sứ điệp thực tiễn của lễ Hiển Linh hôm nay. Đó là một sứ điệp kêu gọi mỗi người chúng ta phải hành động.
Tôi xin kết thúc bài giảng hôm nay bằng bài thơ của một thi sĩ vô danh. Bài thơ này tóm tắt sứ điệp của lễ Hiển Linh hôm nay bằng một hình ảnh rất sống động.
“Khi bài ca của các thiên thần ngừng bặt,
khi ngôi sao trên bầu trời đã biến mất,
khi các vua chúa và hoàng tử đã ở nhà,
khi các mục đồng cùng đàn súc vật đã trở về,
thì công việc Giáng sinh mới bắt đầu
“Để tìm lại những gì đã mất,
để hàn gắn những gì đã gẫy đổ,
để người đói được ăn no,
để tù nhân được giải phóng,
để các nước xây dựng lại,
để đem lại hoà bình cho mọi người,
và để hoà nhạc bằng trái tim”.
115.Món quà của Artaban--Lm. Mark Link, SJ
Chủ đề: "Món quà to tát nhất dâng lên cho Vua các vua chính là cuộc sống đầy tình yêu thành tín và phụng sự tha nhân"
Henry van Dyke có thuật lại câu chuyện nhan đề The Other Wise Man (Một nhà đạo sĩ khác), kể về nhân vật thứ tư là người đáng lẽ đã cùng ba nhà đạo sĩ kia đi tìm vị vua vừa sinh ra. Nhân vật này tên là Artaban. Trong lúc chuẩn bị lên đường, Artaban mang theo một túi đựng đá quí để dâng tặng Ấu vương. Thế nhưng trên đường đến gặp 3 vị thông thái kia để cùng đi, Artaban lại dừng chân để giúp một người nghèo khổ và thế là ông ta bỏ mất cơ hội theo kịp các vị kia. Tuy nhiên ông vẫn tiếp tục kiên trì dừng lại giúp đỡ những ai gặp khốn khó. Cuối cùng, ông cho đi tất cả số đá quí của mình. Kết cuộc là Artaban đã trở nên già nua nghèo khổ. Và ông chẳng bao giờ thực hiện được giấc mơ gặp được vị vua các vua để đặt túi đá quí của ông dưới chân Ngài.
Câu chuyện The Other Wise Man có thể kết thúc ở đây, nhưng nếu chỉ có thế thì đây quả là một câu chuyện đáng buồn vì nó kể chuyện một người chưa thực hiện được giấc mộng lớn của đời mình. Nhưng may thay câu chuyện đã không kết thúc ở đây. Một ngày kia Artaban đang ở trong thành Giêrusalem, cả thành phố đầy xôn xao, náo nhiệt vì nhà cầm quyền sắp sửa hành hình một tội nhân. Khi Artaban nhìn thấy tội nhân, trái tim ông đập lên thình thịch. Linh tính báo cho ông biết đây chính là vua các vì vua mà ông đã suốt đời tìm kiếm. Nhìn cảnh tượng trước mắt Artanban cảm thấy trái tim như bị tan vỡ ra, nhất là vì ông chẳng có thể làm được gì để giúp đỡ vị vua ấy. Thế nhưng thật kỳ diệu thay khi Artanban nghe tiếng vị vua ấy nói cùng ông:
"Này Artanban, đừng buồn khổ nữa. Suốt đời ông đã từng giúp đỡ Ta. Khi Ta đói ông đã cho Ta ăn, Ta khát, ông đã cho ta uống, Ta trần trụi ông đã cho Ta mặc, Ta là khách lạ, ông đã đón ta vào nhà".
***
Câu chuyện về Artanban cũng là câu chuyện của nhiều người thời đại này. Giống như Artanban, khi bắt đầu vào đời, nhiều người cũng đã từng mơ ước làm được một điều gì cao cả. Nhưng thời gian trôi qua, những hoàn cảnh dồn dập xảy đến vượt quá khả năng kiếm soát của họ khiến họ không thực hiện được những giấc mơ của mình, để rồi cuối cùng những ước mơ ấy tan biến đi. Chẳng hạn như một thiếu nữ đã từng mơ ước đi theo nghề thương mại hoặc mỹ thuật, nhưng trước khi bắt đầu nghề nghiệp của mình thì cô lại gặp và lấy một người đàn ông nào đó. Chẳng bao lâu sau, họ bắt đầu cuộc sống gia đình, thế là mộng ước của thiếu phụ ấy dần dần nhạt mờ giống như trường hợp của Artanban. Thiếu phụ ấy cuối cùng chỉ còn biết dâng trọn thời giờ cho cái gia đình trẻ trung của mình.
Câu chuyện này có thể kết thúc ở đây, và nếu thế, đây là một câu chuyện đáng buồn, vì nó kể chuyện một phụ nữ chưa bao giờ thực hiện được hoài bão lớn lao của đời mình. Tuy nhiên, câu chuyện không kết thúc ở đây. Nó chỉ kết thúc vào một ngày trong tương lai, khi Chúa Giêsu nói với người phụ nữ điều Ngài đã nói với Artanban: "Suốt đời con đã giúp đỡ Ta; điều gì con làm cho gia đình con, chính là con làm cho Ta".
Hoặc chúng ta hãy xét đến trường hợp một thanh nhiên có tài. Chàng mơ ước leo lên được địa vị cao trong công ty của chàng. Vì thế chàng làm việc chăm chỉ và hy sinh mọi thứ. Thế nhưng đột nhiên xảy ra sự cố trục trặc gây cản trở bước tiến của chàng dù chàng chẳng hề lầm lỗi chi, đó chẳng qua là việc xui xẻo mà thôi. Tuy vậy, chàng thanh niên vẫn tiếp tục sống lương thiện, làm việc chăm chỉ và trung tín. Câu chuyện có thể kết thúc ở đây, nhưng nếu chỉ có thế thì đây là một chuyện buồn, vì nó đề cập đến một chàng trai không bao giờ thực hiện được giấc mộng to tát của đời mình. Thế nhưng câu chuyện không kết thúc ở đây. Nó sẽ chỉ kết thúc vào lúc Chúa Giêsu nói với chàng ta điều mà Ngài đã nói với Artanban: "Suốt đời con đã giúp đỡ Ta, vì điều gì con đã làm một cách lương thiện và trung tín, tức là con đã làm cho Ta".
Ngoài ra ta còn có thể nêu ra một câu chuyện có thực về một thanh niên tên là Tony. Chàng du lịch khắp thế giới và xuất hiện thường xuyên trên sân khấu lẫn truyền hình với tư cách là tay trống trong một nhóm ca nhạc nổi tiếng khắp thế giới. Rồi một ngày nọ, Tony cảm thấy được Chúa gọi làm linh mục. Khi chàng rời bỏ nhóm ca nhạc để vào chủng viện. Nhiều người cho rằng chàng là kẻ điên khùng. Câu chuyện có thể kết thúc ở đây, nhưng nếu như vậy thì đây là một câu chuyện buồn về một gã thanh niên để cho mộng ước vuột khỏi tầm tay mình. Tuy nhiên câu chuyện không kết thúc ở đây. Hiện Tony đang làm linh mục tại gíao phận Dallas. Chàng sống rất hạnh phúc. Một ngày kia, Chúa Giêsu cũng sẽ nói với chàng như đã từng nói với Artanban: "Hỡi Tony, suốt đời con đã giúp đỡ Ta, điều gì con làm cho giáo dân trong xứ, chính là con đã làm cho Ta".
Như thế, Lễ Ba Vua nhắc nhở chúng ta rằng tất cả chúng ta đều có một món quà để dâng tặng cho vị vua các Vua. Và câu chuyện "Một nhà đạo sĩ khác" (The Other wise Man) nhắc chúng ta nhớ rằng món quà của chúng ta còn quí giá hơn những món quà của Ba Vua, bởi vì món quà chúng ta dâng không phải chỉ là tặng phẩm trao dâng một lần như vàng, như nhũ hương, mộc dược, mà chính là món quà liên lỉ của tình yêu và tinh thần phục vụ tha nhân. Nhiều người sẽ cho rằng chúng ta điên rồ khi tặng dâng những món quà này, nhưng chẳng qua là vì họ không biết được màn cuối của câu chuyện khi mà Chúa Giêsu sẽ nói với chúng ta như Ngài đã từng nói với Artanban: "Hãy đến đây, hỡi những người được Cha Ta chúc phúc, hãy vào hưởng vương quốc dành sẵn cho các con từ thuở khai thiên lập địa, vì xưa Ta đói các ngươi cho Ta ăn, Ta khát các ngươi cho Ta uống, Ta là khách lạ các ngươi đã đón tiếp Ta. Vì bất cứ điều gì các ngươi làm cho một trong những kẻ bé mọn này…. của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta" (Mt 25: 34-35-40).
Chúng ta hãy kết thúc với lời "nguyện xin lòng quảng đại" của thánh Ignatio de Loyola:
Lạy Chúa, xin dạy con biết sống quảng đại, biết phục vụ Chúa cho xứng đáng, biết cho đi mà không hề tính toán, biết chiến đấu mà không sợ thương tích, biết làm việc mà không tìm an nghỉ, biết xả thân mà không tìm một phần thưởng nào khác ngoài việc biết mình đã thi hành Thánh Ý Chúa. Amen".
116.Lễ Hiển Linh--Lm. FX Vũ Phan Long
DÂN NGOẠI ĐỨNG TRƯỚC ĐỨC VUA CỦA NGƯỜI DO THÁI
Đọc bài Tin Mừng này, chúng ta nhận ra có sự đối đầu của hai vương quyền, vương quyền của Thiên Chúa và vương quyền của loài người. Bản văn cũng nêu bật hai nỗi lo lắng: nỗi lo của những con người đói khát ơn cứu độ, đang ra sức đi tìm; nỗi lo của con người sợ cuộc sống mình bị đặt thành vấn đề.
1.- Ngữ cảnh
Chương 2 của Tin Mừng Mátthêu là một bài tường thuật đầy đủ, hoàn toàn dễ hiểu dù không có chương 1. Chính điểm này cho thấy có nhiều tài liệu có trước Mt được ráp nối với nhau. Đề tài “sự hoàn tất các sấm ngôn” cũng được nhắc tới đều đặn (x. 2,6.15.18.23). Có bốn truyện kết cấu chặt chẽ với nhau tạo nên diễn tiến của chương này, nhưng dường như các biến cố ấy đã được chọn cho phù hợp với các bản văn ngôn sứ mà truyện được xây dựng xoay quanh. Các sấm ngôn này đều có một đăc điểm chung là nhấn mạnh trên một hoàn cảnh địa dư. Trong chương này, chúng ta lại có thể phân biệt ra hai khối, nhưng khối thứ nhất được liên kết với khối thứ hai bằng nhiều từ móc, và nếu không có khối thứ nhất, thì không thể hiểu được khối thứ hai:
- 2,1-12: Truyện kể nhiều chi tiết; những nhân vật chính là các nhà chiêm tinh; ngôi sao là phương tiện Thiên Chúa dùng để hướng dẫn các vị này.
- 2,13-23: Ít chi tiết kể truyện, và chỉ nhắm cho thấy các bản văn ngôn sứ được hoàn tất; nhân vật chính là Giuse (không hề được nhắc tới trong phân đoạn trước); Giuse được thiên thần Chúa ban lệnh trong mộng (y như trong 1,18-25).
Về phương diện truyện kể, vua Hêrôđê là sợi dây liên kết hai phân đoạn.
Chương 2 đưa vào một đề tài quan trọng của TM Mt: người Do Thái khước từ ơn cứu độ Đức Kitô ban tặng, còn Lương dân thì đón nhận. Vua Hêrôđê, hoàng tử Áckhêlao và dân chúng Giêrusalem tượng trưng cho người Do Thái; các nhà chiêm tinh tượng trưng cho Dân ngoại. Dân ngoại sẽ chiếm chỗ mà người Do Thái bỏ trống trong lòng dân Thiên Chúa, khi họ không chịu tin. Dân ngoại sẽ là dân Israel chân chính của thời đại cuối cùng, được kêu gọi chia sẻ hạnh phúc của cuộc sống tương lai. Hai chuyển động tương phản này chạy xuyên suốt cả chương 2 cũng như xuyên suốt cả Tin Mừng cho đến cuộc Khổ nạn (x. 27,39-44.54). Nhìn như thế, có thể nói truyện các nhà chiêm tinh tóm tắt toàn thể Tin Mừng Matthêu.
Về việc các nhà chiêm tinh đến Bêlem, chúng ta có thể đặt ra nhiều câu hỏi không dễ trả lời: Các ngài từ đâu đến? Các ngài đã thấy xuất hiện ngôi sao gì? Làm thế nào mà các ngài nhận ra đó là ngôi sao của Đấng Mêsia? Tại sao vua Hêrôđê không xử sự theo cách hợp lý hơn?
Cũng như trong nhiều đoạn khác của Tin ừng, thay vì đặt ra những câu hỏi về những chuyện không được nói tới, chúng ta nên để ý đến những gì đã được nói ra. Sau khi bảng gia phả đã cho thấy Đức Giêsu cắm rễ trong lịch sử dân Israel, và bản văn về nguồn gốc đích thực của Người đã chỉ nói đến những người có liên can trực tiếp, ở đây tác giả giúp chúng ta nhìn xem cách tiếp đón Đức Giêsu của những người mà vì họ Đức Giêsu đã đến. Tác giả không nêu ra một hành động nào của Hài Nhi, Đức Maria và Giuse. Những nhân vật hành động là Thiên Chúa và người ta, và đều nhắm tới Hài Nhi. Trong quan hệ với Hài Nhi, ta phân biệt ra ba nhóm người: các nhà chiêm tinh, các kinh sư và vua Hêrôđê. Hoạt động công khai của Đức Giêsu và lời loan báo hậu Phục Sinh về Đấng chịu đóng đinh và phục sinh cũng được vây quanh bởi những hạng người như thế. Nhận biết trong niềm vui, lãnh đạm không quan tâm và bách hại liên tục, ba yếu tố này đi theo mọi giai đoạn của cuộc đời Đức Giêsu.
2.- Bố cục
Bản văn này có thể được chia ra làm hai phần, với một đoạn Mở:
1) Mở (cc. 1-2): Giới thiệu các nhân vật và hoàn cảnh, với câu hỏi mở đầu của các nhà chiêm tinh.
2) Phần 1 (cc. 3-9a): Gặp gỡ Hêrôđê, vị vua “giả hiệu” của người Do Thái. Cốt lõi là sấm ngôn về Đấng Mêsia.
3) Phần 2 (cc. 9b-12): Gặp gỡ Ấu Vương “chân chính” tại Bêlem. Cốt lõi là hành vi tôn thờ Đấng Mêsia.
3.- Vài điểm chú giải
- Bêlem (Bêthlehem) miền Giuđê (1): Bêlem (Bêthlehem) có nghĩa là “nhà bánh mì”, hoặc cũng có thể là “nhà của thần Lah(a)mu” (thần của dân Akkad). Thành này cách Giêrusalem 7 cây số về phía nam, là quê hương của Bôát, của Isai (Giêsê), và nhất là của vua Đavít (x.1 Sm 16; 20,6). Xem Lc 2,4.11; Ga 7,42. Tác giả nói rằng Bêlem thuộc miền Giuđê không chỉ là vì trong Cựu Ước, có một Bêlem thuộc Dơvulun (x. Gs 19,15), nhưng là vì ngài còn lặp lại (c. 5; x. c. 6) nhằm nêu bật chủ đề của ngài: Đức Giêsu, vua người Do Thái, xuất thân từ miền Giuđê, và cũng tại Giuđê mà Người sẽ bị giết.
- Vua Hêrôđê (Cả): Vua này cai trị miền Giuđê (năm 37-4 tCN). Bởi vì ông xuất thân từ miền Iđumê, ở về phía nam xứ Giuđê, và ủng hộ nền văn hóa Hy Lạp, nên ông bị người Do Thái ghét bỏ, cho dù ông đã cho sửa lại Đền Thờ thật huy hoàng. Đến cuối đời, ông thường rơi vào trạng thái kinh hoàng, nên chỉ một chút nghi ngờ, là có thể hạ lệnh tàn sát, dù là tàn sát cả gia đình ông. Khi ông qua đời, nhiều tai ương đổ xuống trên xứ, đặc biệt là một cuộc suy sụp về kinh tế. Do đó, đất nước đầy những nhóm người bất mãn và nổi loạn.
- Đức Giêsu ra đời: Cộng đoàn tín hữu tiên khởi lúc đầu không có thứ lịch như ngày nay đang được sử dụng hầu như khắp nơi: chia thành hai phần trước và sau cuộc chào đời của Đức Giêsu. Thời ấy, người ta tính năm dựa theo các Đại hội thế vận Hy Lạp (Đại hội đầu tiên được tổ chức năm 776 tCN), hoặc dựa theo năm thành lập thành Rôma (ngày 21-4-753 tCN), hoặc dựa theo những hoàng đế cai trị ở Rôma. Sau một thời gian, các Kitô hữu có thói quen tính thời gian khởi đi từ hoàng đế Điôclêtianô (284-305 CN), ông này đã bách hại họ tàn khốc, và họ gọi thời này là kỷ nguyên các thánh tử đạo. Kiểu lịch chúng ta đang sử dụng hiện nay là do văn sĩ Denys le Petit xác định, ông này sống tại Rôma vào tiền bán thế kỷ vi (mất trước năm 555). Để cho những năm cứu độ không phải gọi bằng tên của bạo chúa bách hại, Denys thay thế kỷ nguyên các thánh tử đạo bằng kỷ nguyên Đức Kitô. Ông là người đầu tiên cho kỷ nguyên Kitô giáo khởi đầu với cuộc chào đời của Đức Kitô, mà theo các tính toán của ông, ngày ấy là ngày 25 tháng 12 năm 753 sau khi Rôma được thành lập. Theo TM Mt, “Đức Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì” (2,1), mà chúng ta biết rằng vua Hêrôđê qua đời vào năm 750 của thành Rôma. Như vậy, cuộc chào đời của Đức Giêsu phải được đẩy lùi lại 6 hoặc 7 năm: hẳn là Đức Giêsu đã ra đời vào thời gian giữa năm 8 và 6 tCN.
- mấy nhà chiêm tinh (HL. magos): Đây là những vị hiền giả Đông phương, thông thạo chiêm tinh. Rất có thể họ là những nhà chiêm tinh Babylon, đã được tiếp xúc với trào lưu chờ đợi Đấng Mêsia nơi dân Do Thái. Có thể họ sống bên kia bờ sông Giođan, nên có cơ hội tiếp xúc thường xuyên với thế giới Do Thái. Dưới ảnh hưởng của Tv 72,10; Is 49,7; 60,10, truyền thống sau này đã nghĩ rằng họ là những vị vua. Bởi vì có ba loại lễ vật, người ta cho rằng họ là ba vị (thế kỷ v), và còn gán cho các vị ấy tên Gaspar, Balthasar và Melchior (thế kỷ viii). Sang thế kỷ xiv, ông Gaspar được coi là một người da đen…
- chúng tôi đã thấy vì sao (2): Vào thời thượng cổ, người ta thường cho rằng cuọc chào đời của các nhân vật quan trọng được loan báo bởi các ngôi sao mới. Các nhà chiêm tinh cho rằng họ có thể đoán được vận mệnh của người ta nhờ quan sát chuyển động của các tinh tú. Do Thái giáo cũng nối kết niềm hy vọng thiên sai vào ngôi sao được nói tới ở sách Dân số (24,17). Có thể nói, vào thời Đức Giêsu và các Tin Mừng, ngôi sao là hình ảnh ưu tiên để tượng trưng Đấng Mêsia, đặc biệt Đấng Mêsia vương giả, xuất thân từ nhà Đavít.
- xuất hiện (2): Người ta đã tìm cách xác định ngôi sao ấy là một hiện tượng thiên văn hay là một ngôi sao chổi. Thật ra nỗ lực này cũng không đưa đến đâu, bởi vì hoặc tác giả Mtmuốn kể lại một hiện tượng lạ lùng duy nhất trong lịch sử, hoặc chi tiết này chỉ là một đặc điểm văn chương, được gợi hứng bởi Kinh Thánh, nhưng không có hiện tượng tương ứng thế giới vật lý, nên cố gắng tìm ra một giải thích tự nhiên đều là chuyện vô ích.
- Cả thành Giêrusalem (3): Đây là một kiểu nói phóng đại, như để báo trước việc toàn dân Do Thái loại trừ Đức Giêsu (x. 21,10). Một sự tương phản đáng kinh ngạc: những người ngoại giáo, được hướng dẫn bởi những kiến thức hời hợt, pha trộn mê tín dị đoan, đã đáp trả tiếng gọi của Thiên Chúa, thực hiện một hành trình và điều tra kỹ lưỡng, để có thể bái kiến vị tân vương; ngược lại, các nhà lãnh đạo Do Thái có ánh sáng Kinh Thánh, lại chỉ phản ứng bằng sự sợ hãi và vô tâm (cc. 4-6).
- Các thượng tế (archiereis, 4): Archiereis đây là các thành viên của các gia đình mà vào lúc quy định nào đó, vua Hêrôđê có thể chọn ra người mà bổ nhiệm làm thượng tế.
- kinh sư trong dân (4): dịch sát grammateis tou laou là “các kinh sư của dân chúng”: một kiểu nói phóng đại.
- Phần ngươi, ngươi đâu phải (6): Câu trích này là một tổng hợp Mk 5,1-3 với 2 Sm 5,2 theo cách rất độc đáo, không tương ứng với bản văn Cựu Ước Híp-ri lẫn Hy Lạp. Tác giả đã đưa những thay đổi đó vào với mục tiêu huấn giáo. Đặc biệt, với trạng từ oudamôs(Pháp: pas du tout; Anh: by no means) thêm vào bản văn Mikha, ngài cho thấy ngài chú tâm đọc Cựu Ước dưới ánh sáng của đức tin Kitô giáo của ngài: sau khi Đức Giêsu đã chào đời, Bêlem không còn có thể là một thành không đáng kể nữa. Nghịch lý lạ lùng: các kinh sư loan báo nơi Đấng Mêsia chào đời cho những người ngoại giáo (dù sao, họ cũng vẫn là những cái máng chính thức truyền đạt mạc khải mà!), thế mà họ lại không thể nhận ra được Người!
- mừng rỡ vô cùng (10): Niềm vui của các nhà chiêm tinh được nhấn mạnh (so với Lc 2,10). Trong TM Mt, đây là niềm vui của những quốc gia ngoại giáo đã khám phá ra nơi Đức Giêsu ơn cứu độ họ vẫn trông chờ cách mơ hồ. Đối lại với niềm vui này là sự bối rối hoang mang của vua Hêrôđê và thành Giêrusalem, cũng như sau đó là cơn giận dữ điên cuồng của nhà vua (c. 16). Cũng có thể so sánh niềm vui lớn lao của các phụ nữ vào sáng ngày Phục Sinh (28,8) với cơn kinh hoàng của đám lính canh khiến họ ra như chết (28,4).
- Họ vào nhà (11): Tác giả nối kết chặt chẽ niềm vui của những người ngoại giáo và việc họ đi vào “nhà”, là hình ảnh báo trước Giáo Hội, nơi người ta gặp được Đức Kitô và bái thờ Người.
- hài nhi và thân mẫu: Công thức này được nhắc lại ở các câu 13, 14, 20 và 21, là do tác giả cố tình chọn để nhắc lại cuộc sinh hạ do mẹ đồng trinh (1,18-25).
- sấp mình thờ lạy (= bái lạy: cc. 2.8.11): “Bái lạy” hay “sấp mình thờ lạy” (proskyneô) được tác giả Mt dùng động từ này 13 lần (toàn Tân Ước: 57 lần). Đây là hành vi sấp mình trên nền nhà để tôn thờ thần thánh hoặc những người có địa vị cao, chẳng hạn các vua. Tác giả Mt hầu như chỉ dùng động từ này để diễn tả lòng tôn kính đối với Đức Giêsu bởi những người khẩn cầu (8,2; 9,18; 15,25; x. 20,20) và bởi các môn đệ (14,33: liên kết với việc tuyên xưng niềm tin vào Con Thiên Chúa), đặc biệt dành cho Đấng Phục Sinh (28,9.17).
- lấy vàng, nhũ hương, mộc dược mà dâng tiến: Sau khi bái lạy một vị vua, thường có việc dâng lễ vật (x. St 43,26; 1 Sm 10,27; 1 V 10,2; Tv 72,10). Ba thứ lễ vật này đều xứng đáng với một vị vua: x. Tv 72,15 (vàng); Is 60,6 (vàng và nhũ hương); Tv 45,8 (xức mộc dược cho vua); Dc 3,6 (nhũ hương và mộc dược). Truyền thống các Giáo Phụ coi các lễ vật này là những biểu tượng về vương quyền (vàng), thần tính (nhũ hương) và việc mai táng (mộc dược) của Đức Giêsu.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Giới thiệu các nhân vật và hoàn cảnh, với câu hỏi mở đầu của các nhà chiêm tinh (1-2)
Chỉ trong một câu duy nhất, tác giả đã giới thiệu được khung cảnh địa lý, hoàn cảnh chính trị, và các nhân vật sẽ được đề cập đến trong bản văn. Chủ đề của chương 2, “vương quyền của Đấng Mêsia”, đã được gián tiếp gợi lên qua tước hiệu “vua” gán cho Hêrôđê, một danh từ liên tục được nhắc lại suốt bài này.
Chủ đề lại được nêu lên trong câu hỏi của các nhà chiêm tinh (c. 2). Các vị này là những nhà chiêm tinh văn, chứ không phải là “vua”. Đặc biệt trong môi trường Mêsôpôtamia, hai ngành thiên văn và chiêm tinh đã có từ lâu đời và rất được trọng dụng. Các biến cố xảy ra trên bầu trời và trong thế giới loài người được coi là có liên hệ chặt chẽ với nhau. Người ta xác tín rằng ai hiểu các hiện tượng của bầu trời thì cũng hiểu lịch sử loài người và có thể ban các lời khuyên và những định hướng về lịch sử này. Các nhà chiêm tinh này có khả năng giải thích các giấc mộng và thấy trước tương lai bằng cách nhìn xem các vì tinh tú và quan sát cánh chim bay. Các vị cũng có khả năng biện phân ra ý muốn của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, làm thế nào mà các nhà chiêm tinh vừa ngoại quốc vừa ngoại giáo lại có thể đi tìm vua dân Do Thái như thế, trên đất Paléttina? Vào thời cổ, có một niềm tin nói rằng cuộc chào đời của một nhân vật quan trọng sẽ được báo cho biết bởi một ngôi sao trên trời. Trong lãnh vực nghiên cứu của họ, các nhà chiêm tinh nhận được một thông tin cho biết Đấng Mêsia đã chào đời và họ được thúc đẩy lên đường. Các nhà chiêm tinh đã thấy ngôi sao được Kinh Thánh nhắc tới, chứ không phải là một ngôi sao chổi hay một ngôi sao nào trong bầu trời vật lý. Các vị biết rằng, một đàng, Ds 24,17 khẳng định về Đấng Mêsia xuất thân từ nhà Giacóp, đàng khác, có một truyền thống song song, dựa trên Ds 24,7 (bản dịch Hy Lạp LXX), khẳng định rằng Đấng Mêsia sẽ trị vì trên nhiều dân tộc. Các vị biết rằng dân Do Thái đang chờ đợi Đấng Mêsia. Từ thời Lưu đày Babylon, đã có nhiều người Do Thái sống trên đất Mêsôpôtamia; nhờ họ, người ta biết tôn giáo và các niềm chờ mong Do Thái.
Khi kể câu truyện Các nhà chiêm tinh, tác giả Mátthêu không quan tâm đến cuộc hành trình của các vị ấy; ngài chỉ chú ý đến cuộc đối đầu của các vị ấy với vua Hêrôđê. Ngài cũng muốn nói với chúng ta rằng cuối cùng Đấng giải phóng nhà Giacóp đã tới. Các nhà chiêm tinh nhận ra Người và thờ lạy Người. Đức Giêsu chính là ngôi sao ấy. Chúng ta đọc diễn tiến câu truyện.
Đến Giêrusalem, các vị ấy tưởng là đã đạt mục tiêu, nhưng lại được gửi đi đến một nơi khác. Nhưng bây giờ các vị ấy đã biết mục tiêu cách chính xác hơn. Các kinh sư là những chuyên viên Kinh Thánh (x. 23,2t), đã có thể suy ra là Đấng Mêsia chào đời tại Bêlem xứ Giuđê. Trong Mk 5,1-3, Đấng Mêsia được giới thiệu như là Thủ Lãnh và Mục tử của dânIsrael. Người sẽ chỉ cho dân Người biết con đường ngay thẳng và sẽ lo lắng chăm sóc họ, như một mục tử săn sóc các chiên mình. Chúng ta lưu ý là các nhà chiêm tinh hỏi nơi sinh của “vua dân Do Thái”, chứ không phải là “vua Israel”. Các kinh sư của dân (Mt 2,4) được Đấng Mêsia đến chiếu cố, đã ở lại Giêrusalem; trong khi đó, các nhà chiêm tinh, là những người ngoại giáo, đã kiên trì theo đuổi mục tiêu, họ tiếp tục cuộc hành trình.
Hai phần sau đây tương ứng với hai “chương trình xung đột” (cũng có trong cc. 13-23) tác giả muốn tường thuật: sự đối lập giữa hai nơi, Bêlem/Nadarét và Giêrusalem; một bên là chiến lược của vua Hêrôđê tại Giêrusalem, bên kia là chiến lược của Thiên Chúa; vua Hêrôđê không những đối lập với Đức Giêsu, mà cũng đối lập với các nhà chiêm tinh nữa. Sự đối lập giữa hai vị vua được nêu bật bởi ngôi sao: ngôi sao không được nhắc đến ở Giêrusalem, nhưng dẫn đường cho các nhà chiêm tinh sau khi họ rời Giêsusalem.
* Gặp gỡ Hêrôđê, vị vua “giả hiệu” của người Do Thái (3-9a)
Sự việc xảy ra ở đền vua Hêrôđê gián tiếp giới thiệu Đấng Mêsia vương giả bằng câu sấmMk 5,1-3 kết hợp với 2 Sm 5,2. Bây giờ vua Hêrôđê và “cả thành Giêrusalem” được đặt trong thế đối lập với các nhà chiêm tinh. Phản ứng bối rối dao động của họ là một bằng chứng cho thấy họ hiểu tính nghiêm trọng của hoàn cảnh. Vua Hêrôđê và toàn dân Giêrusalem thuộc nhóm loại trừ vị tân ấu vương.
Một vài điểm không thật (vua Hêrôđê và dân Giêrusalem không ưa gì nhau nên hẳn là dân chúng hẳn phải vui mừng khi biết Đấng Mêsia vừa chào đời thì mới hợp lý – Nhà vua phải hỏi về nơi Đấng Mêsia sinh ra, mà nơi này thì mọi người đều biết, vậy mà không một ai tò mò đi với các nhà chiêm tinh đến Bêlem cả – Vua Hêrôđê triệu tập toàn thể Thượng Hội Đồng Do Thái chỉ để xin một thông tin – Ngôi sao chỉ đúng nhà của Đức Giêsu – Dân cư Giêrusalem “xôn xao”…) khiến nhiều tác giả cho rằng đây chỉ là một sáng tác văn chương mà thôi. Nhưng dù được tưởng tượng hay không, câu chuyện này minh họa thật rõ việc dân Do Thái loại trừ Đức Giêsu và Dân ngoại đón tiếp Người. Đối với tác giả Mt, Giêrusalem là thành sẽ xảy ra cuộc đóng đinh; dân Giêrusalem là những người sẽ nói về cuối quyển Tin Mừng, “Máu hắn cứ đổ xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi” (27,25). Sự bối rối của vua Hêrôđê và dân Giêrusalem ở đây báo trước thái độ thù nghịch trong cuộc Thương Khó (x. 27,11.29.37.42). Ở đây, vua Hêrôđê, các thượng tế và kinh sư đã hiểu “Vua dân Do Thái” chính là “Đấng Kitô [Mêsia]”.
Câu trả lời về “Đức Vua dân Do Thái” là câu trích Mk 5,1, nhưng tác giả đặt trên môi các kinh sư, chứ không dùng công thức về hoàn tất Lời Chúa. Câu này cung cấp một nền móng Cựu Ước cho khởi đầu cuộc đời của Đức Giêsu về mặt lịch sử và tiểu sử. Nhưng đây không phải là điều ngài quan tâm đầu tiên. Điều ngài chú ý hơn, đó là dùng hai lần từ “Giuđa” và thêm 2 Sm 5,2 (x. 1 Sbn 11,2) vào với từ móc laos (“dân chúng”) để khẳng định quan điểm chống Do Thái của ngài: các kinh sư Do Thái nhìn nhận rằng đây là vấn đề về vị mục tử thiên sai vẫn từng mong đợi của dân Thiên Chúa là Israel, nhưng họ không rút ra các hệ luận; vì vậy họ gián tiếp trở thành đồng lõa của vua Hêrôđê.
Thế là vua Hêrôđê “hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện”. Câu 7 này đưa chúng ta đến với câu 16 được viết tương tự. Độc giả có linh cảm một chuyện chẳng lành sắp xảy ra, khi thấy nhà vua hỏi chi tiết về nơi Hài Nhi ở. Câu trả lời chính là sự tàn bạo bí hiểm của nhà vua được chứng tỏ sau đó. Câu 8 lại cho độc giả nhận ra nhà vua là một kẻ đạo đức giả. Đồng thời, nền tảng của c. 12 được cung cấp: vua Hêrôđê muốn kéo các nhà chiêm tinh vào trò chơi của ông; nhưng ý định xấu xa của ông sẽ bị Thiên Chúa can thiệp tiêu hủy.
* Gặp gỡ Ấu Vương “chân chính” tại Bêlem (9-12)
Các nhà chiêm tinh ra đi ngay ban đêm, không phải vì đó là thói tục của Đông phương, nhưng để tác giả lại có cơ hội nói về ngôi sao. Tại đây, độc giả lại nhận ra Thiên Chúa ra tay hướng dẫn toàn thể biến cố, và được mời gọi chia sẻ niềm vui chan hòa các nhà chiêm tinh đang trải nghiệm.
Chủ đề của bài Tin Mừng được trình bày rõ ràng qua việc các nhà chiêm tinh bái lạy Hài Nhi Giêsu và dâng các lễ vật (c. 11). Đây mới là vị vua chân chính mà muôn dân vẫn trông đợi, dù tước “vua” không hề được dùng mà gọi Người. Nhưng chủ đề “vị vua thật” chạy xuyên suốt bản văn do các từ ngữ (“Vua dân Do Thái”: c. 2; “vì sao của Người”: cc. 2.7.9.10; “vua Hêrôđê: c. 3; “Hêrôđê”: cc. 7.12; “bái lạy”: c. 8; “nhà vua”: c. 9) và các cụm từ (“vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời”: c. 6; “sấp mình thờ lạy”: c. 11; “lấy vàng, nhũ hương, mộc dược mà dâng tiến”: c. 11)[1] liên hệ.
Các nhà chiêm tinh, là những người khôn ngoan và giàu kinh nghiệm, đã phủ phục (proskyneô) trước Hài Nhi, một trẻ sơ sinh không hề tỏ ra có chút uy hùng hay quyền lực gì. Đây là cách người Đông phương nhìn nhận Đấng có quyền trên mình, mình lệ thuộc phần nào hay hoàn toàn vào đấng ấy (là vua chúa hay thần linh). Nhưng chúng ta nhớ Đức Giêsu đã được giới thiệu là “con cháu vua Đavít” (1,1), “Con Thiên Chúa” (x. 1,21; 2,15) và Emmanuel (1,23). Hài Nhi không nói gì với các vị ấy và cũng chẳng cho các vị ấy món gì cả. Các vị không thấy vẻ huy hoàng chúa tể của Người, cũng chẳng trải nghiệm về quyền lực của Người, nhưng các vị nhận biết Người nhờ lòng tin. Tác giả bỏ qua ông Giuse để nêu bật địa vị đặc biệt của bà Maria theo chiều hướng của Mt 1,18-25. Các lễ vật quý giá (vàng, nhũ hương và mộc dược) các vị dâng là một dấu chỉ khác chứng tỏ các vị nhìn nhận Hài Nhi là Chúa tể.
Chủ đề được khóa lại với tên “Hêrôđê”, vị vua đương trị, được nhắc lại lần nữa và với việc các nhà chiêm tinh từ biệt Hài Nhi. Vua Hêrôđê đã muốn nối kết các nhà chiêm tinh vào các kế hoạch của ông, và các kế hoạch này là thế nào thì cuộc sát hại các hài nhi Bêlem sẽ cho biết; và hẳn là các nhà chiêm tinh sẽ chịu cùng một số phận như các hài nhi. Tuy nhiên, Thiên Chúa đã can thiệp, để đưa các nhà chiêm tinh về quê theo đường khác.
+ Kết luận
Đọc bài Tin Mừng này, chúng ta nhận ra có sự đối đầu của hai vương quyền, vương quyền của Thiên Chúa và vương quyền của loài người. Bản văn cũng nêu bật hai nỗi lo lắng: nỗi lo của những con người đói khát ơn cứu độ, đang ra sức đi tìm; nỗi lo của con người sợ cuộc sống mình bị đặt thành vấn đề. Hai bên đều tiến đi, để rồi đến cuối con đường, một bên được hưởng niềm vui cứu độ, một bên co quắp lại trong thái độ thù nghịch. Chỉ khi vương quyền của con người biết nhìn nhận mình phát xuất từ vương quyền của Thiên Chúa, khi đó mới có sự “bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Truyện này gây ra hai ấn tượng. Một bên, chúng ta muốn coi toàn bộ như một huyền thoại: cuộc hành trình dài ngày của các nhà chiêm tinh, ngôi sao dẫn đường, nỗi bối rối của nhà vua và toàn thể dân thành Giêrusalem, mưu mô của vua Hêrôđê, cuối cùng lệnh của Thiên Chúa ban cho các nhà chiêm tinh trong mộng, tất cả những nét này khiến chúng ta có ấn tượng là truyện không thật. Nhưng ngược lại, nếu so sánh truyện này với những gì ta biết về vua Hêrôđê và xứ Paléttina thời ấy, chúng ta lại phải nhìn nhận truyện có màu sắc lịch sử: sự lưu tâm của các nhà chiêm tinh phương Đông về một vị vua cứu thế và những cơn điên khùng bệnh tật của vua Hêrôđê hoàn toàn phù hợp với truyện. Nhưng “đúng” không nhất thiết là “thật” về lịch sử. Cho dù các biến cố đã xảy ra thật, các truyện trong chương 2 Mt cũng không mang tính lịch sử theo nghĩa hẹp. Dường như tác giả đã sử dụng thể văn midrash haggada để giải thích các sự kiện có thật hầu rút ra một áp dụng Kinh Thánh, để đi tới việc ca tụng Thiên Chúa, khám phá ra một mạc khải về những chương trình của Thiên Chúa trong quá khứ và cho tương lai, nhằm xây dựng cọng đoàn.
2. Có những điểm “khôi hài” trong bài: Sự khôn ngoan của Dân ngoại mà người Do Thái vẫn loại trừ hoặc khinh bỉ cũng có thể đưa người ta đến với Đức Kitô. Đấy là khi các nhà chiêm tinh đến đền vua Hêrôđê và hỏi về nơi trú ngụ của “Đức Vua mới sinh”. Đàng khác, chính một vị vua gian ác ngoại quốc (vì Hêrôđê thuộc gốc dân Iđumê) cũng có thể trở thành trung gian cung cấp cho người ta những thông tin chính xác. Đấy là khi vua Hêrôđê triệu tập các thượng tế và kinh sư lại để hỏi cho biết Đấng Kitô sinh ra ở đâu.
3. Có hai chuyển động ngược chiều trong bài: Vua Hêrôđê càng ngày càng co quắp lại trong thái độ cứng tin và từ khước, và cùng với nhà vua là Thượng Hội Đồng Do Thái và dân Giêrusalem, còn các nhà chiêm tinh thì đã từ những bước mò mẫm mơ hồ đi đến chỗ bày tỏ tất cả lòng tin kính đối với Đấng Mêsia. Vì thế sau đó, các vị “đã đi lối khác mà về xứ mình” (c. 12). Cũng nên dừng lại suy nghĩ về lối ứng xử của các kinh sư: họ đã có thể trích và giải thích đúng Kinh Thánh, nhưng họ không hề lên đường. Thánh Âutinh bảo rằng họ là “những cột cây số”; họ chỉ đúng đường, nhưng họ không di chuyển!
4. Các nhà chiêm tinh đã nhận được sự thúc đẩy đầu tiên khi nghiên cứu thiên văn. Đến Giêrusalem, các vị lại nhận được một thông tin chính xác hơn rút từ Kinh Thánh. Các vị đã can đảm lấy quyết định lên đường và cứ dò dẫm từng bước, và Thiên Chúa đã dẫn dắt các vị đạt tới mục tiêu bằng “ngôi sao” dẫn đường. Bởi vì các vị không kháng cự lại và không quản ngại mệt nhọc, trái lại đã chấp nhận được hướng dẫn, các vị đã vui sướng đạt tới mục tiêu. Thiên Chúa luôn đáp ứng những ai tha thiết tìm ơn cứu độ, dù đôi khi người trong cuộc cảm thấy đường đi không rõ và mục tiêu mịt mù.
5. Các nhà chiêm tinh không thấy vinh quang hay uy quyền của Hài Nhi Giêsu, nhưng các vị đã bái lạy mà nhìn nhận Người là Chúa tể, là Đức Vua và vị Mục Tử của Dân ngoại, vì các vị tin. Đức tin cần thiết cho từng bước đi tới chỗ nhận biết Đức Chúa, ở đây được các nhà chiêm tinh diễn tả ra trong tình trạng tinh trong. Dựa vào ba lễ vật, qua các thời đại, người ta đã tưởng tượng là có ba nhà chiêm tinh, có tên rõ ràng, một vị trẻ tuổi, một vị đứng tuổi và một vị đã già; một vị là người châu Á, một vị là người châu Âu và một vị châu Phi. Cách làm này không tương ứng với chữ viết của bản văn nhưng phù hợp với tinh thần của Tin Mừng. Tất cả các lứa tuổi và con người của mọi châu lục đều đạt tới mục tiêu khi gặp Hài Nhi này, nhất là khi nhìn nhận Người là Đức Vua và Đức Chúa của họ. Người đã đến cho mọi người, cho người trẻ cũng như cho người già, cho người thông thái cũng như người chất phác ít học, cho mọi màu da và mọi lối sống, để giúp họ nhận biết Thiên Chúa là Cha và đưa vào cuộc đời họ một ánh sáng chói chan. Như các nhà chiêm tinh, loài người không được để mình đi trệch đường về với Đức Giêsu, mà phải để cho Thiên Chúa hướng dẫn, cho đến khi tới đích.
6. Phải chăng nên gỡ bỏ các ngôi sao tại các máng cỏ? Không cần! Chúng ta cứ việc ngắm nhìn ngôi sao ấy, cứ chỉ cho con em thấy, nhưng bảo các em rằng ngôi sao đích thật là Đức Giêsu. Người chính là ánh sáng soi chiếu mọi dân tộc. Cũng giải thích cho chúng biết rằng các nhà chiêm tinh là đại diện cho các dân tộc trên thế giới đang để cho sứ điệp hòa bình và tình yêu của Đức Giêsu hướng dẫn. Họ chính là hình ảnh của Hội Thánh, được tạo nên do các dân tộc thuộc mọi giống nòi và mọi ngôn ngữ. Trở nên một thành viên của Hội Thánh không có nghĩa là đánh mất hoặc bỏ đi chân tính của mình, không có nghĩa là phải quy phục một thứ “đồng nhất” giả tạo và bất công. Các dân tộc cần phải duy trì nền văn hóa của họ và làm giàu cho Hội Thánh bằng nền văn hóa riêng này.
117.Lễ Chúa Hiển Linh--Lm. John Trần Khả
Một người bị rơi xuống một thung lũng sâu tối tăm. Ông ta cố gắng tìm cách để trèo lên nhưng quá khó khăn không thể tự mình trèo lên để ra khỏi cái hang tối tăm đó. Khổng Tử đi ngang qua nhìn thấy người đó ở dưới thung lũng bèn nói, "Thật đáng tiếc, giá nó nghe lời giáo huấn khôn ngoan của ta thì nó đâu có phải rơi xuống cái thung lũng tối tăm đó!" Và rồi đức Khổng Tử tiếp tục lên đường.
Sau đó thì Đức Phật đi ngang qua và cũng trông thấy người đó dưới thung lũng bóng tối. Đức Phật liền nói, "Thật tội nghiệp giá hắn ta lên được trên này có thể ta sẽ giúp đỡ hắn." Và sau đó thì Đức Phật cũng tiếp tục lên đường.
Sau cùng thì Đức Giêsu đi ngang qua. Ngài nhìn thấy người đàn ông cố gắng trong vô vọng và bất lực dưới thung lũng tối tăm. Ngài thương cảm và liền nhẩy xuống để cứu ông ta lên. (Jack Mcardle "Incarnation", 150 More Stories for Preachers and Teachers # 98).
Ý Nghĩa Hiển Linh
Lễ Hiển Linh có nghĩa là ngày lễ kỷ niệm việc Thiên Chúa tỏ mình ra cho nhân loại qua việc Chúa Giêsu Kitô sinh xuống làm người ở giữa nhân loại. Tiên tri Isaiah trong bài đọc thứ nhất công bố rằng Thiên Chúa sẽ xuất hiện cách rõ ràng sáng tỏ. Vinh quang của Thiên Chúa sẽ xuất hiện và chư dân sẽ tìm về sự sáng. Tất cả sẽ tuyên rao lời ca ngợi Chúa. Bài trích thư gởi tín hữu Ephêsô trong bài đọc hai xác nhận rằng những lời tiên tri và mặc khải của Thiên Chúa đã được thực hiện nơi Đức Giêsu Kitô. Ngài là nguyên nhân cho sự đoàn kết hợp nhất của mọi dân tộc. Bài Phúc âm kể lại câu truyện ba nhà Đạo sỹ từ Đông phương nhận ra ngôi sao lạ, và họ đã tìm đến Giêrusalem hỏi thăm, "Vua người Do Thái mới sinh ra hiện đang ở đâu?" Họ đã tìm đến để thờ lạy tôn phục và dâng lên Người lễ vật của họ bởi vì họ đã lâu ngày dầy công tìm hiểu và họ nhận ra danh tánh của Hài Nhi Giêsu nơi Bethlehem là ai.
Thiên Chúa Hiện Diện
Văn hóa thời xưa nhận ra Thiên Chúa và quyền lực của Ngài qua thiên nhiên, nơi bão gió, sắm sét, mặt trời, mặt trăng và tinh tú sao trời, cây cối cổ thụ, sông núi biển khơi. Nhiều nơi tôn thờ thần núi, thần sông, thần cây, thần cá, thần đá... Những người Hy Lạp và La mã cổ xưa tìm Thiên Chúa qua những huyền bí và những giấc mơ thần tiên. Văn hóa Đông phương tìm Thiên Chúa qua năng lực của tâm lý linh thiêng nơi con người, và qua vận mệnh tướng số. Người Do Thái tôn thờ một Thiên Chúa qua lịch sử của dân tộc. Và từ Do Thái Giáo, Kitô giáo trở nên một tôn giáo có đặc tính riêng tin tưởng rằng Thiên Chúa đã bày tỏ chính Ngài qua việc Đức Giêsu Kitô sinh hạ làm người. Qua nhiều thời đại, con người đã suy nghĩ tìm hiểu lý do và ý nghĩa của việc Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Nhưng Mầu nhiệm Đức Giêsu Con Thiên Chúa xuống thế làm người chỉ có thể hiểu được qua lăng kính tình yêu. Đức Giêsu Kitô là dấu chứng của tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại. Ngài thương yêu nhân loại và Ngài xuống thế làm người để cứu nhân loại. Chúng ta có nhận ra Đấng Cứu Thế và tình yêu của Ngài dành cho chúng ta hay không?
Thấy Hài Nhi
Khi những nhà đạo sỹ đến Bethlehem và nhìn thấy Hài Nhi Giêsu, chắc hẳn họ đã không nhìn thấy một em bé có hào quang lộng lẫy và ánh sáng tỏa chiếu khác thường để nói cho họ biết đó là Vua trời đất và là Con Thiên Chúa. Trái lại bằng con mắt nhân loại, họ cũng chỉ nhìn thấy Chúa Giêsu Hài Đồng như một em bé đơn sơ yếu đuối, bọc trong khăn nằm trong máng cỏ. Họ chỉ nhận ra Hài nhi Giêsu là Con Thiên Chúa, là ánh sáng thế gian nhờ con mắt của đức tin.
Chúng ta thấy có một sự liên hệ gần gũi thật đẹp với những nhà Đạo Sỹ. Họ đại diện cho chúng ta là những người ở các thế hệ sau vẫn tiếp tục trong cuộc hành trình đức tin đi tìm gặp Đấng Cứu thế. Từ đâu đó lóe lên trong chúng ta một sự hiểu biết và một ước muốn đi tìm chân lý. Chúng ta cũng là những người đang nhìn và bước đi trong ánh sáng đức tin trong mọi nẻo đường của cuộc đời, khi vui cũng như khi buồn, khi cô đơn đau khổ cũng như lúc hạnh phúc vui tươi; khi thành công cũng như lúc thất bại; khi khỏe mạnh cũng như lúc yếu đau. Chúng ta đang là những nhà đạo sỹ, những người khôn ngoan của thời đại đi tìm gặp Đấng Cứu Thế và làm sáng tỏ sự hiện diện của Ngài trong thế giới. Chúng ta có vai trò phải đóng và nghĩa vụ phải chu toàn; đó là làm sáng tỏ sự hiện diện của Thiên Chúa trong mọi nẻo đường của cuộc sống bằng cách luôn biết tìm hiểu và đón nhận Ngôi Lời của Thiên Chúa. Thiên Chúa cần sự cộng tác của chúng ta để tiếp tục công việc của Ngài. Thêm vào đó, những nhà Đạo Sỹ khôn ngoan đã không đến gặp Chúa với đôi bàn tay trắng, nhưng họ đã đến với những lễ vật đặc biệt quý giá biểu tượng cho sự dấn thân và quy phục của họ đối với Con Thiên Chúa. Chúng ta cũng có thể dâng lên Thiên Chúa lễ vật bằng sự dấn thân hy sinh của chính chúng ta và những sản vật do tay chân và công sức của chúng ta để nói lên sự quy phục đối với Đức Kitô Đấng Cứu Thế của chúng ta.
Lời Mời Gọi của Lễ Hiển Linh
Do đó, Lễ Hiển Linh không phải là chỉ là lễ nói lên tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại mà thôi; trái lại lễ Hiển Linh cũng còn là một lời mời gọi chúng ta chiếu tỏa tình yêu của Thiên Chúa nơi cuộc sống của mỗi người. Là con cái của Thiên Chúa và là anh chị em của Đức Giêsu, chúng ta được kêu gọi trở nên chính sự bày tỏ của tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa là Tình yêu. Do đó bằng một cách nào đó, tất cả mọi tình yêu đều bày tỏ Thiên Chúa. Đây chính là lý do và ý nghĩa làm Kitô hữu: Bày tỏ sự hiện diện của Thiên Chúa qua việc chúng ta dấn thân quyết tâm sống yêu thương. Thiên Chúa vẫn luôn luôn vô hình cho tới khi được chúng ta bày tỏ Ngài qua những cử chỉ và lối sống yêu thương của chúng ta đối với nhau.
Bạn và tôi chúng ta có bằng lòng chấp nhận cái ách làm Kitô hữu như thế hay không? Chúng ta có bằng lòng làm cho sự hiện diện của Thiên Chúa được bày tỏ qua lối sống yêu thương hay không?
118.Ánh sáng cho mọi dân tộc--Flor McCarthy
Bài giảng 1: Họ mở các kho tàng ra
Một trong những dụ ngôn của Aesop như sau: Một bé gái đang ngồi bên cạnh bức tường, thì đột nhiên, có một con cóc ló ra từ một cái hang. Cô bé này liền trải chiếc khăn quàng lụa của mình ra trước mặt con cóc, đây là loại vải mà con cóc rất thích được bước lên đó. Ngay khi vừa nhìn thấy chiếc khăn quàng, con cóc liền quay trở vào hang, và trở ra ngay, mang theo một vương miện nhỏ bằng vàng đính trên chiếc khăn quàng, rồi lại quay trở về hang.
Ngay tức khắc, cô bé liền cầm lấy cái vương miện, và bỏ vào túi. Ít lâu sau, con cóc lại trở ra, nhưng khi không nhìn thấy vương miện trên chiếc khăn quàng, thì con cóc liền bò lên bức tường, nó cứ đập cái đầu nhỏ xíu của nó vào bức tường một cách đầy đau khổ, cho đến cuối cùng nó bị vỡ đầu và chết. Nếu cô bé cứ để cái vương miện ở nguyên tại chỗ, thì chắc chắn con cóc sẽ còn mang thêm những kho tàng của nó ra khỏi hang nữa.
Mục đích của câu chuyện ngắn này cho thấy rằng mỗi người đều có một kho tàng để chia sẻ. Vấn đề là: Làm thế nào để chia sẻ kho tàng đó ra. Điều này đòi hỏi nhiều sự kiên nhẫn. Bí quyết hệ tại ở việc chia sẻ một cách tự nguyện. Không có lý do nào để bắt buộc mọi người phải hy sinh. Nếu bạn lấy đi những thứ của người khác, thì chúng bị nghèo nàn đi. Nhưng nếu bạn trao tặng chúng, thì chúng lại được phong phú lên. Con người về căn bản đều tốt, nhưng nếu họ đi vào vương quốc của tình yêu, thì họ phải đánh thức và kêu gọi tấm lòng tốt này.
Ở đây, Lễ Giáng Sinh đến hỗ trợ chúng ta. Nếu Con Thiên Chúa đến trong sự giàu sang, thì Người càng làm cho chúng ta ý thức về sự nghèo hèn của mình. Từ đó, Người sẽ khơi gợi một cảm giác thèm thuồng nơi chúng ta, và làm huỷ hoại tâm hồn chúng ta. Nhưng Người đã đến trong sự yếu đuối, do đó, Người càng làm cho chúng ta ý thức về sự giàu có của mình. Sự nghèo khó của Người khơi gợi nơi chúng ta một cảm giác thương xót, từ đó, mang tâm hồn chúng ta đến với sự sống. Khi nhìn vào cảnh nghèo hèn của Hài Nhi Vua Vũ Trụ, giúp chúng ta biết cởi mở tâm hồn của mình ra.
Chính sự nghèo hèn của Đức Giêsu đã làm cho các đạo sĩ mở ra kho báu của họ, gồm có vàng, nhũ hương và mộc dược, đặt tất cả trước mặt Người. Thay vì bị nghèo nàn đi, các đạo sĩ lại được trở nên giàu có. Chính nhờ biết cho đi, mà chúng ta trở nên phong phú, bởi vì thông qua sự cho đi, chúng ta phát hiện được sự phong phú của bản thân mình.
Lễ Hiển Linh thách thức chúng ta cởi mở tâm hồn của mình ra. Khi biết cởi mở tâm hồn, là bắt đầu biết sống. Đức Giêsu không cần đến những quà tặng của chúng ta. Nhưng người khác có thể cần đến. Người mong muốn chúng ta chia sẻ chính bản thân chúng ta cho người khác. Và nếu nhờ được biết Chúa Giêsu, mà chúng ta có khả năng mở ra kho tàng của tâm hồn mình ra, và chia sẻ cho người khác, thì chính chúng ta cũng sẽ cảm thấy mình được trở nên phong phú.
Bài giảng 2: Tìm kiếm Chúa
Alan đang hồi phục trong bệnh viện, sau một tai nạn xe cộ. Lễ Giáng Sinh sắp đến. Một đêm kia, trong khi đang nằm trên giường, anh nhìn ra bên ngoài cửa sổ, và nhận thấy bầu trời đầy sao. Đột nhiên, anh bắt đầu suy nghĩ về các đạo sĩ, và cuộc hành trình đi Giêrusalem của họ, để tìm kiếm Đức Kitô.
Thế rồi anh lại bắt đầu suy nghĩ về bản thân mình, có một điều gì đó mà cho đến nay, chưa bao giờ anh thực sự làm. Và anh tự nhủ “Mình đã 22 tuổi rồi, mình đã làm được gì cho cuộc đời mình? Mình đã đi đến đâu?”. Câu trả lời là “Không đi đến đâu”. Anh vẫn còn sống theo những chuyện kích động và phấn khích. Anh đã lãng phí những năm tháng đẹp đẽ nhất của cuộc đời mình, những năm tháng mà một nhà thơ đã gọi là “những năm tháng rực rỡ”.
Sau đó, anh suy nghĩ về mối tương quan của anh đối với Thiên Chúa. Các đạo sĩ đã không có được Chúa ngay từ đầu. Nhưng họ đã tìm kiếm Người, và kiên trì tìm kiếm, cho đến khi phát hiện ra Người. Đối với anh, thì trái ngược lại. Anh không hề tìm kiếm Chúa. Anh đã có được Chúa ngay từ đầu. Anh được lãnh bí tích Thanh Tẩy và được huấn luyện thành người Công giáo. Anh đi lễ nhà thờ thường xuyên, cho đến năm 15 tuổi. Nhưng đến nay, anh đã bỏ tất cả. Anh đánh mất Chúa. Và thay vì tìm kiếm Người, thì anh lại cố tình quay lưng lại với Người. Anh đã hoàn toàn rời xa Người. Ngoài ra, anh còn chống lại Người nữa.
Đối với anh, đó là một điểm rất tối tăm, khi tất cả những điều này dồn dập đến trong tâm hồn anh. Nhưng khi bóng tối đạt đến độ dày đặc nhất, thì một điều tốt đẹp xảy ra. Dường như ngôi sao của Chúa mọc ngay trước mặt anh. Anh nhận ra rằng ánh sáng của Chúa không hề bị dập tắt, nhưng vẫn còn tiếp tục toả sáng trong tất cả những năm tháng của cuộc đời anh, ngoại trừ có khi ánh sáng đó bị những đám mây che khuất. Và một sự thật tuyệt vời đã ló dạng trên anh: Mặc dù anh đã từ bỏ Chúa, nhưng Người vẫn không hề bỏ anh. Trong tất cả những năm tháng này, Chúa vẫn đang tìm kiếm anh.
Tâm hồn anh tràn đầy niềm vui. Chưa bao giờ anh nghĩ rằng mình đáng giá đối với bất cứ ai, nhất là đối với Thiên Chúa. Và anh đã tự nhủ “Kể từ bây giờ, tôi có một ngôi sao sẽ không đánh lừa tôi, tôi có một chiếc la bàn sẽ không nói dối tôi”.
Khi các đạo sĩ tìm thấy Chúa, họ dâng lên Người những lễ vật tuyệt vời –vàng, nhũ hương, mộc dược. Bây giờ Alan đã gặp được Chúa, vậy anh có thể dâng lên Người cái gì đây? Có một thời gian, anh đã từng hoàn toàn bị lạc lối. Nhưng rồi anh nhận ra rằng có điều gì đó mà anh có thể dâng lên Chúa. Anh có thể dâng lên Chúa chính bản thân mình. Nhưng tất nhiên là trước hết, anh phải tìm thấy bản thân mình, trước khi anh có thể hiến tặng bản thân mình như một quà tặng cho bất cứ người nào khác. Tuy nhiên, ít nhất là anh có thể khởi sự, và anh xác định là phải làm điều đó ngay tức khắc.
Lễ Giáng Sinh đến, mà Alan vẫn còn trong bệnh viện. Nhưng mọi người đều ngạc nhiên khi nhận thấy sự thay đổi nơi anh. Cho đến nay, anh luôn mang đầy vẻ cay cú về cuộc sống nói chung, vụ tai nạn của anh nói riêng. Bây giờ, anh đã có nụ cười và lời nói vui vẻ với tất cả mọi người. Ai cũng bối rối không biết điều gì đã làm anh thay đổi. Nhưng chính Alan đã biết điều đó: Chính nhờ sự kiện anh đã gặp được Chúa. Không ai có thể thực sự tìm thấy Chúa, mà không thay đổi.
Những năm sau đó, anh nói “Đó là ngày Lễ Giáng Sinh đích thực đầu tiên trong cuộc đời tôi. Không, tôi không thể nghe được các thiên thần hát trên bầu trời. Nhưng tôi đã cảm nghiệm được một sự bình an, mà các thiên thần đã hát trong đêm Giáng Sinh đầu tiên đó”.
Mọi người đều cần có một ngôi sao để đi theo, giống như những con tàu cần đến ngọn hải đăng mang ánh sáng, để hướng dẫn chúng vào bến bờ một cách an toàn. Phúc cho chúng ta, nếu chúng ta đi theo ngôi sao của Chúa ở trước mặt chúng ta, và chúng ta càng được chúc phúc gấp bội, nếu chúng ta kiên vững đi theo ngôi sao đó trong toàn bộ cuộc sống của mình. Điều này có nghĩa là chúng ta gắn bó toa tàu của chúng ta vào ngôi sao đó, một ngôi sao của hy vọng, ngôi sao của Bêlem. Nhiều người trải qua cuộc sống của họ trong sự tìm kiếm những điều mà chúng ta có, mà vẫn không tìm thấy được.
Và chúng ta không được sợ hãi, nếu kết quả đưa đến là chúng ta nhận thấy cuộc sống của mình thay đổi –sự thay đổi sẽ tốt đẹp hơn. Điều này sẽ đem lại cho chúng ta niềm vui, mà thế gian không thể đem lại được.
CÂU CHUYỆN KHÁC: Bức màn được vén lên
Chữ Hiển linh có nghĩa là sự mặc khải. Sau đây là một ví dụ ngắn gọn và đơn giản: Đôi khi, trong một ngày u ám, lạnh lẽo của mùa đông, một tia sáng xuất hiện trong một lớp mây dày đặc, và qua đó, chúng ta thoáng bắt được ánh nắng lấp lánh của mặt trời. Tuy nhiên, chẳng bao lâu, tia sáng bị che khuất, và mặt trời lại biến mất. Nhưng sự thoáng hiện ngắn ngủi của một thế giới sáng sủa hơn, ấm áp hơn, vẫn có thể đem lại cho chúng ta những điều kỳ diệu. Chỉ cần nhớ lại điều này thôi, sự lạ lùng của nó vẫn có thể tác động trong tinh thần của chúng ta.
Cuộc sống hằng ngày đầy rẫy những sự mặc khải nhỏ bé, đối với những ai có đôi mắt để nhìn, và có tâm trí để suy gẫm. Chúng len lỏi xuyên qua những khe hở của cuộc sống bận rộn của chúng ta – một giây phút của sự bình an, hoặc của nét đẹp, hoặc của tấm lòng tốt.
Vào ngày này, ngày Lễ Hiển Linh, bức màn bí nhiệm được vén lên, giúp cho các đạo sĩ có thể thoáng bắt được tia sáng lấp lánh của Hài Nhi ở Bêlem. Một số người nhìn vào con trẻ Giêsu Kitô, và chỉ nhìn thấy giống như một đứa trẻ khác. Những người khác, chẳng hạn như Hêrôđê, đã nhìn vào Hài Nhi như một mối đe doạ. Nhưng các đạo sĩ đã nhận ra con trẻ Giêsu như là Đấng Cứu Độ. Tất cả những người đó đều cùng có đôi mắt như nhau, tuy nhiên, với những đôi mắt đó, họ không nhìn thấy cùng những sự việc như nhau. Chính lòng tin đã đem lại khả năng cho các đạo sĩ, để nhìn xuyên thấu qua bức màn, và “thấy” sự thật ở phía sau đó.
Tuy nhiên, ngay cả đối với họ, bức màn cũng khép lại, ngôi sao biến mất, và họ phải quay trở về nhà. Kinh nghiệm về cuộc gặp gỡ Chúa đã tạo ra được sự khác biệt gì cho họ? Xét về một khía cạnh, thì cuộc gặp gỡ này không hề tạo ra sự khác biệt nào cả: Họ vẫn phải trở về với cuộc sống cũ, công việc cũ của họ v.v… Tuy nhiên, xét về một khía cạnh khác, có thể nói rằng điều đó đã tạo ra cả một thế giới, thay đổi đối với họ. Bấy giờ, họ đã có được một tầm nhìn mới, một hy vọng mới.
Đối với họ, mặc khải này đã là những giây phút đưa dẫn họ đến với chân lý bằng con đường tắt. Đó là một ánh sáng loé lên, chiếu tỏ vào cuộc sống của họ, và đem lại cho từng giây phút của cuộc sống một ý nghĩa mới. Chắc hẳn họ đã dành ra thì giờ suy gẫm, để thấu hiểu được ý nghĩa của điều mà họ phát hiện được, vào cuối cuộc hành trình đi đến Bêlem. Nhưng trong những ngày bị mây che phủ, họ rút ra được lòng can đảm và niềm hy vọng, từ mặc khải mà họ đã được ban.
Giống như các đạo sĩ, trong ngày lễ này, chúng ta phải đến thờ lạy con trẻ Giêsu Kitô. Và lại cũng giống như các đạo sĩ, chúng ta phải trở về nhà mình, và tiếp tục cuộc sống bình thường của mình. Nhưng hy vọng rằng chúng ta sẽ nhận thấy cuộc sống khác biệt hẳn, bởi vì chúng ta tự nhận thấy bản thân mình cũng khác đi. Nơi Hài Nhi thần thánh, chúng ta nhận ra được thần tính của chính mình.
Đôi khi, người ta đi hành hương những quãng đường thật dài, để tìm kiếm nhưng kinh nghiệm thiêng liêng, mà họ vẫn có thể có được ngay tại chỗ ở của họ. Chúng ta không cần phải đi đến bất cứ nơi đâu. Ngôi sao của Chúa chiếu toả ngay trước mặt chúng ta ở nơi đây. Nhờ Đức Kitô ngự đến, chúng ta không cần phải sợ hãi bóng tối nữa. Một ánh sáng đã đến với thế giới, một ánh sáng chiếu toả trong bóng tối, một ánh sáng mà không ánh sáng nào khác có thể chế ngự được.
119.Nơi Vua ra đời (Mt 2, 1-2)--William Barclay
Đây là một thị trấn cách Giêrusalem mười cây số về phía nam. Thời xưa nó còn được gọi là Êprát hoặc Éprata. Tên “Bêlem” có nghĩa là “nhà bánh”. Bêlem nằm ở một vùng quê mầu mỡ nên tên đó rất xứng hợp, nó đứng trên ngọn đồi đá vôi cao hơn, có hai đỉnh hai bên, ở giữa lõm xuống như yên ngựa. Từ vị trí đó Bêlem trông như một thị trấn đặt giữa một đại hí trường do những núi đồi tạo dáng.
Bêlem có một lịch sử lâu đời, đó là nơi Giacóp chôn cất Rakhen, vợ ông, và dựng một bia tưởng niệm bên mộ (St 48,7; 35,20). Đó cũng là nơi Rút đã sống và gặp Bôô (R 1,22) và từ Bêlem, Rút có thể thấy vùng đất Môáp, quê hương mình, ở bên kia sông Giođan. Nhưng trên hết, Bêlem là nhà và thành của Đavít (1Sm 16,1; 17,12; 20,6), chính Đavít đã thèm khát được uống nước tại giếng của Bêlem khi ông còn lưu lạc trốn tránh trên các núi (2Sm 23,14.15)
Trong những ngày sau đó, ta đọc thấy Rơkhápam xây đắp thành lũy cho Bêlem (2Sb 11,6). Nhưng trong sử của Israel và trong tâm trí của dân chúng, Bêlem là thành của vua Đavít. Chính từ dòng dõi nhà Đavít mà Thiên Chúa ban Đấng Cứu Độ uy hùng đến với dân Ngài như tiên tri Mikha đã nói: “Hỡi Bêlem, Éprata, ngươi nhỏ nhất trong đất Giuđa, song từ nơi ngươi sẽ xuất hiện cho ta một Đấng cai trị trong Israel, gốc tích của Ngài là bởi từ đời xưa, từ trước vô cùng” (Mk 5,1).
Tại Bêlem, thành Đavít, người Do Thái đã trông đợi dòng dõi vua Đavít sinh ra và cũng tại đó họ trông đợi Đấng được xức dầu của Thiên Chúa đến trong thế gian, và thật, Đấng đó đã đến.
Bức tranh của chuồng bò và máng cỏ, nơi Chúa Giêsu hạ sinh là bức tranh được ghi khắc sâu đậm trong tâm trí chúng ta, dù có thể bức tranh không hoàn toàn chính xác. Justin Martyr, một trong các giáo phụ đầu tiên sống khoảng năm 150 SCN, xuất thân từ một vùng gần Bêlem cho chúng ta biết Chúa Giêsu đã sinh ra trong một hang đá gần làng Bêlem (Justin Martyr: Đối thoại với Trypho 78, 304) và điều này có thể đúng. Nhà cửa ở Bêlem được cất ở trên dốc núi đá vôi, họ cũng thường làm chuồng bò nơi hang đá đẽo lõm vào trong ở phía dưới căn nhà. Rất có thể Chúa Giêsu đã giáng sinh trong chuồng bò như vậy.
Ngày nay ở Bêlem vẫn còn một hang đá như thế và được xem là nơi Chúa Giêsu giáng sinh. Tại đó Giáo Hội đã xây “Thánh Đường Chúa Giáng Sinh”. Từ lâu hang đá đó được kể là nơi Chúa Giêsu giáng sinh, vì thế vào đời hoàng đế Rôma Hadrian trị vì, ông ta cố ý làm mất tính cách thiêng liêng của nơi đó bằng cách dựng nên một miếu thờ thần ngoại Adonis trên đó. Khi cả đế quốc Rôma tin theo Kitô giáo vào đầu thế kỷ thứ tư, hoàng đế Constantin đã xây cất một đền thờ. Bên dưới bàn thờ chính có một đền thờ lớn vẫn còn đến ngày nay. H. V. Morton tả lại chuyến đi thăm thánh đường Chúa Giáng Sinh tại Bêlem. Ông đến một bức tường lớn, ở đó có một cửa rất thấp, đến nỗi một người lùn cũng phải khom lưng mới vào được. Bên kia bức tường là đền thờ. Bên dưới bàn thờ chính có một hang đá. Khi khách hành hương viếng nơi thánh vào hang đá sẽ thấy một cái động nhỏ, tối, dài 14 thước và ngang 4 thước được thắp sáng bởi 53 ngọn đèn bằng bạc và trên nền có một ngôi sao, chung quanh ngôi sao có bảng đề bằng tiếng Latinh “Đây là nơi Chúa Giêsu sinh bởi trinh nữ Maria”. Khi Chúa vinh hiển nhập thế, Ngài sinh ra trong một hang đá, nơi người ta dùng làm nơi nghỉ cho đàn gia súc. Hang đá ấy nay được ở trong thánh đường Chúa Giáng Sinh tại Bêlem. Có thể đúng là hang đá đó, cũng có thể không, không ai biết chắc. Nhưng có một điều lý thú trong biểu tượng này là thánh đường xây trên hang đá có một cái cửa rất thấp đến nỗi ai muốn vào phải cúi khom người xuống. Bất cứ ai muốn đến cùng Hài Nhi Giêsu đều phải quỳ gối khiêm cung.
LÒNG TÔN SÙNG TỪ PHƯƠNG ĐÔNG
Khi Chúa Giêsu giáng sinh tại Bêlem, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông tìm đến tỏ lòng tôn kính Ngài. Danh hiệu của những người này là Magi, một chữ rất khó dịch. Theo Herodotus (1,101,132), Magi nguyên là một chi phái Mêđi. Người Mêđi là một phần dân thuộc đế quốc Ba Tư. Họ cố gắng lật đổ người Ba Tư đem chính quyền về cho người Mêđi. Mưu toan thất bại, từ đó người Magi từ bỏ mọi tham vọng về quyền hành hoặc uy tín và trở nên chi phái tư tế. Các Magi đối với dân Ba Tư cũng giống như người Lêvi đối với dân Israel vậy. Họ trở thành thầy dạy và giáo dục cho các vua Ba Tư. Tại Ba Tư không được dâng lễ vật nếu không có một Magi hiện diện, họ là người của sự thánh thiện và khôn ngoan. Những người Magi này rất giỏi về triết học, y khoa và khoa học tự nhiên. Họ cũng là những thầy bói và người giải mộng. Về sau, chữ Magi càng ngày càng mang nghĩa thấp kém hơn và trở thành chữ thầy bói, phù thủy và lang băm, như Êlyma, thuật sĩ (Cv 13,6.8), Simon người được mệnh danh là thuật sĩ (Cv 8,9-11). Nhưng các Magi không như vậy, họ là những bậc thánh, cũng là những nhà hiền triết đi tìm chân lý.
Vào thời đó mọi người đều tin vào khoa chiêm tinh. Họ tin rằng, dựa vào các vì sao họ có thể tiên đoán tương lai. Họ cũng tin rằng số mệnh một người được an bài bởi ngôi sao đã xuất hiện lúc người ấy sinh ra. Điều này cũng dễ hiểu, vì các ngôi sao đi theo một đường cố định, chúng tượng trưng cho trật tự vũ trụ. Nếu thình lình có một vì sao sáng xuất hiện, nếu trật tự của tầng trời dao động bởi một hiện tượng đặc biệt, thì dường như Thiên Chúa đang can thiệp vào chính trật tự của Ngài để loan báo một sự việc đặc biệt nào đó.
Chúng ta không biết các Magi này đã thấy ngôi sao sáng nào, có nhiều ý kiến về việc này. Chừng mười một năm trước Công nguyên, sao chổi Halley xuất hiện sáng rực trên các tầng trời. Đến khoảng năm 7 trước Công nguyên, Mộc Tinh và Thổ Tinh xáp lại tạo nên ánh sáng chói lọi. Năm 5 tới năm 2 trước Công nguyên, cũng có những hiện tượng thiên văn kỳ lạ. Trong những năm này vào ngày đầu tiên của tháng Mesori Ai Cập, ngôi sao Sirius gọi là Thiên Lang (sao chó) hiện ra, sáng chói rực rỡ lạ thường lúc mặt trời mọc. Ngày nay tên Mesori có nghĩa là “sự ra đời của một vương tử”. Đối với các nhà chiêm tinh xưa, một ngôi sao như thế chắc hàm ý sự ra đời của một đại vương. Chúng ta không biết các Magi đã thấy ngôi sao nào, nhưng họ chuyên xem sao nên ánh sáng lạ xuất hiện trên trời báo cho họ biết một vị vua đã đến thế gian.
Đối với chúng ta, dường như việc những người này từ phương Đông lên đường đi tìm vua là một việc khác thường. Nhưng thật lạ lùng ngay lúc Chúa Giêsu giáng sinh, trong thế giới bấy giờ cũng có sự ngưỡng vọng kỳ lạ về một vị vua sẽ đến. Ngay các sử gia Rôma cũng biết rõ điều này, sau đó không lâu, nhằm thời hoàng đế Vespasian, sử gia Suetonius đã viết: “Khắp phương Đông có một niềm tin là vào thời đó nhất định có người từ Giuđa đến cai trị thế giới” (Suetonius, Đời sống Vespasian 4,5). Sử gia Tacitus cũng nói đến niềm tin đó: “Có một xác tín rằng trong chính thời gian này phương Đông trở nên hùng mạnh và những người cai trị đến từ Giuđê sẽ chiếm được đế quốc toàn cầu” (Tacitus, Biên niên sử 5,13). Người Do Thái cũng tin: “Vào khoảng thời gian đó, một người trong xứ họ sẽ trở thành vua của mọi dân trên mặt đất” (Josephus, Những Cuộc Chiến Tranh của người Do Thái 6,5). Sau đó không lâu, chúng ta thấy Tiridates, vua xứ Ácmêni, đi thăm hoàng đế Nêrô tại Rôma có đem Magi theo (Suetonius, Đời sống Nêrô 13,1). Chúng ta thấy các Magi tại Athène dâng lễ vật cho nhà hiền triết Plato (Seneca, Các Thư Tín 58,31). Hầu như cùng lúc Chúa Giêsu giáng sinh, chúng ta thấy hoàng đế Augustus của đế quốc Rôma được chúc tụng như là vị cứu tinh của thế giới, và thi hào Virgil của Rôma, sáng tác Bài Hát Đối Thứ Tư, được mệnh danh là bài hát đối về Đấng Cứu Thế, ca tụng thời hoàng kim sắp đến. Chúng ta không nên nghĩ rằng câu chuyện các Magi tìm đến máng cỏ chỉ là một huyền thoại dễ thương, nhưng chính đó là một biến cố đã xảy ra trong thế giới cổ. Khi Chúa Giêsu đến thì thế gian đang tha thiết trông đợi. Loài người thật đang trông chờ Thiên Chúa. Sự khao khát nung nấu lòng người. Họ đã nhận biết mình không thể tạo được thời đại hoàng kim nếu không có Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã ngự đến với một thế gian đang khắc khoải đợi mong và khi Ngài đến, con người từ những phương trời xa xôi nhất đã tề tựu quanh nôi Ngài. Đó là dấu hiệu và biểu tượng đầu tiên Chúa Giêsu chinh phục thế giới.
NHÀ VUA XẢO QUYỆT (Mt 2, 3-9)
Vua Hêrôđê nghe tin các nhà chiêm tinh từ phương Đông đến và họ đang tìm kiếm một con trẻ mới sinh ra làm vua người Do Thái. Vua nào mà chẳng lo lắng khi nghe báo cáo có một hài nhi sinh ra để chiếm ngôi mình. Nhưng Hêrôđê lại còn lo lắng gấp bội.
Hêrôđê nửa là Do Thái, nửa là Êđôm, trong huyết quản của nhà vua có dòng máu Êđôm. Vua là một lợi khí đắc lực cho người Rôma trong những cuộc chiến tranh và nội chiến ở Palestin, được người Rôma tin dùng. Hêrôđê được chỉ định làm tổng đốc năm 47 TCN. Năm 40 TCN, Hêrôđê được phong làm vua và cai trị đến năm 4 TCN. Ông nắm quyền khá lâu và được gọi là Hêrôđê đại đế và rất xứng đáng với danh hiệu ấy. Ông là người duy nhất ở Palestin đã thành công trong việc trị an và đem lại trật tự cho một xứ hỗn loạn. Ông là nhà kiến trúc đại tài, chính ông đã xây đền thờ Giêrusalem. Có thể ông cũng là một người rộng lượng. Trong thời khó khăn, ông miễn thuế cho dân và trong cơn đói kém năm 25 TCN, ông đã cho nấu chảy cái đĩa vàng lớn của mình để mua ngũ cốc phát cho dân đói khổ. Nhưng Hêrôđê có một cá tính kinh khủng, ông đa nghi một cách điên khùng, ông là người luôn luôn ngờ vực, càng về già ông càng đa nghi đến độ có kẻ đã gọi ông là “già sát nhân”. Ông nghi ai là đối thủ tranh chấp quyền hành thì người ấy bị loại trừ ngay. Ông đã giết vợ là Mariamne cùng mẹ nàng là Alexandra. Con cả là Antipater và hai con trai khác là Alexander Aristobulus cũng bị ông sát hại. Hoàng đế Rôma là Augustus đã cay đắng nói rằng: “Làm con heo của Hêrôđê còn an toàn hơn làm con trai ông ta” (câu nói bằng tiếng Hy Lạp dí dỏm hơn, vì tiếng Hy Lạp hus là con heo và huios là con trai). Bản chất man rợ cay đắng và cong quẹo của Hêrôđê được thấy rõ hơn trong những chuẩn bị của ông trước khi qua đời. Khi được bảy mươi tuổi biết mình sắp chết, ông rút về thành Giêrikhô, thành xinh đẹp nhất của ông, rồi truyền lệnh bắt một số người nổi danh nhất trong thành Giêrusalem, bịa đặt tội trạng và hạ ngục. Ông truyền lệnh phải giết hết những người ấy khi ông lâm chung. Ông nói cách tàn nhẫn rằng vì ông biết khi ông chết chẳng ai thèm than khóc, nên nhất định phải làm sao cho có nước mắt đổ ra lúc ông chết. Rõ ràng một người như thế sẽ cảm thấy thế nào khi hay tin một hài nhi sinh ra để làm vua. Ông bối rối và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao dao động, vì Giêrusalem thừa biết những bước mà Hêrôđê sẽ thực hiện để chận đứng câu chuyện và loại trừ hài nhi ấy. Giêrusalem biết rõ Hêrôđê và Giêrusalem rùng mình chờ đợi phản ứng không tránh được của Hêrôđê.
Hêrôđê triệu tập các thầy cả thượng phẩm và các Kinh sư. Các Kinh sư là những người thông thạo về kinh điển và luật. Các thầy cả gồm hai hạng người. Một là những thầy cựu thượng phẩm. Chức thầy cả thượng phẩm được giới hạn trong một vài gia đình. Hai là dòng tư tế quý phái, thành viên của những gia đình tuyển lựa này được gọi là các thầy cả thượng phẩm. Hêrôđê triệu tập giới quý tộc tôn giáo cùng các học giả thời bấy giờ mà hỏi họ theo lời Kinh Thánh Đấng được xức dầu của Thiên Chúa phải sinh tại đâu. Họ trưng dẫn Mk 5,1 cho vua. Hêrôđê cho vời các nhà chiêm tinh đến, nhờ họ đi điều tra kỹ lưỡng về con trẻ mới sinh ra và nói rằng ông cũng muốn đến để tôn kính Hài Nhi, nhưng thật sự ước ao duy nhất của lòng ông là thủ tiêu ngay Hài Nhi đó.
Ngay khi Chúa Giêsu mới giáng sinh thì đã có ba nhóm người tiêu biểu cho ba thái độ chung cho cả nhân loại đối với Chúa Giêsu trong suốt lịch sử, ba thái độ đó là:
(1) Phản ứng của vua Hêrôđê: ganh ghét và thù địch. Hêrôđê sợ Hài Nhi sẽ can thiệp vào đời sống của kinh đô, vào quyền thế và ảnh hưởng của mình. Bởi vậy, thôi thúc đầu tiên trong ông là giết Ngài. Ngày nay cũng vậy vẫn còn nhiều người vui mừng tiêu diệt Chúa Giêsu, vì họ chỉ thấy Ngài là người xen vào đời sống họ, không cho họ làm theo điều mình thích nên họ muốn giết Ngài. Người nào chỉ ước ao làm theo ý thích của riêng mình thì không bao giờ cần Chúa Giêsu. Kitô hữu là người không làm theo ý mình nhưng phó dâng đời sống để làm điều Chúa Giêsu ưa thích.
(2) Phản ứng của các tư tế và các Kinh sư: hoàn toàn dửng dưng, đối với họ chẳng có chuyện gì thay đổi. Họ chỉ quan tâm đến lễ nghi tế tự trong đền thờ và những thảo luận về luật, đến nỗi họ hoàn toàn không để ý gì đến Chúa Giêsu. Ngài chẳng có nghĩa gì đối với họ. Ngày nay vẫn còn những người chỉ quan tâm đến việc riêng mình đến nỗi Chúa Giêsu trở thành vô nghĩa. Câu hỏi đau thương qua đấng ngôn sứ vẫn còn được nhắc lại “Hỡi mọi người đi qua, há chẳng lấy làm quan hệ sao?” (Ac 1,12)
(3) Phản ứng của các nhà chiêm tinh: Với thái độ thành tâm thờ phượng, họ ao ước được đặt nơi chân Chúa Giêsu những tặng vật cao quý nhất. Khi một người đã nhận ra tình yêu bao la của Thiên Chúa trong Chúa Giêsu thì chắc phải đắm chìm trong sự kinh ngạc, kính mến và ca ngợi Ngài.
LỄ VẬT DÂNG CHÚA GIÊSU (Mt 2, 10-12)
Theo ánh sao, các nhà chiêm tinh lại tìm được đường đến Bêlem.
Có một huyền thoại dễ thương kể lại khi ngôi sao ấy đã hoàn thành chức năng dẫn đường, thì rơi xuống một cái giếng tại Bêlem, ngôi sao vẫn còn đó và đôi khi những người có lòng trong sạch vẫn còn thấy nó.
Những huyền thoại về sau cũng thường rất bận tâm về các nhà chiêm tinh. Truyền thuyết phương Đông đầu tiên nói có 12 vị. Nhưng ngày nay hầu như ba vị là truyền thuyết phổ thông nhất. Tân Ước không nói rõ có ba vị, nhưng ý đó hẳn là do ba lễ vật của họ. Các huyền thoại về sau tôn họ là những vị vua, lại còn xưng danh họ là Gaspar, Melchior và Balthasar. Huyền thoại về sau nữa mô tả hình dạng cá nhân và phân biệt lễ vật của mỗi người dâng lên cho chính Chúa Giêsu. Melchior là ông già tóc hoa râm, có bộ râu dài là người đã dâng vàng. Gaspar còn trẻ không râu, mặt đỏ đã dâng nhũ hương. Balthasar da đen, mới để râu, là người đã dâng mộc dược. Ngay từ những ngày đầu người ta đã thấy mỗi lễ vật các nhà chiêm tinh dâng lên đều tương ứng với đặc điểm của Chúa Giêsu và công việc của Ngài.
(1) Vàng là lễ vật dâng cho vua. Seneca cho chúng ta biết chẳng ai được vào chầu vua mà không có lễ vật. Vàng, vua của mọi kim loại xứng hợp với lễ vật con người dâng cho vua. Cũng vậy, Chúa Giêsu là Đấng “Sinh ra để làm Vua”. Nhưng Ngài không cai trị bằng vũ lực, mà bằng tình yêu, và Ngài cai quản lòng người không từ ngai vàng mà từ thập giá.
Chúng ta phải nhớ rằng Chúa Giêsu là Vua. Chúng ta không thể gặp Ngài bằng vai ngang hàng, nhưng phải gặp Ngài với thái độ vâng phục trọn vẹn. Nelson, vị đô đốc lừng danh bao giờ cũng đãi ngộ kẻ thù chiến bại của mình cách nhân từ và lễ độ. Sau một trận thủy chiến đắc thắng, vị đô đốc bại trận được đưa lên soái hạm của Nelson, vào sàn lái của tàu Nelson. Biết Nelson nổi tiếng về phép lịch sự, suy nghĩ có thể lợi dụng điều đó, vị đô đốc bại trận tiến ngang qua sàn lái, bàn tay chìa ra như tiến lên bắt tay với người ngang hàng. Nhưng tay Nelson vẫn giữ ở bên mình. Ông bảo: “Ngài hãy nạp gươm trước, sau đó hãy đưa tay”. Trước khi kết thân với Chúa Giêsu, chúng ta phải quy phục Ngài.
(2) Nhũ hương là lễ vật cho thầy tế lễ. Trong việc thờ phượng nơi đền thờ và trong việc dâng lễ vật, người ta thường xông một hương liệu là nhũ hương có mùi thơm dịu. Chức vụ của thầy tế lễ là mở đường cho loài người đến với Thiên Chúa. Tiếng Latinh, chữ thầy tế lễ là ‘pontifex’ có nghĩa ‘người bắc cầu’. Thầy tế lễ là người bắc cầu giữa loài người và Thiên Chúa, đó là điều Chúa Giêsu làm, Ngài làm cho loài người có thể đến được với Thiên Chúa.
(3) Mộc dược là lễ vật cho người phải chết. Mộc dược là hương liệu để xông xác người chết. Holman Hunt có một bức tranh nổi tiếng về Chúa Giêsu. Bức tranh mô tả Chúa Giêsu tại trước cửa xưởng thợ mộc ở Nagiarét, Ngài vẫn còn thanh niên. Nắng chiều còn trên hiên cửa, thanh niên Giêsu đứng đó, duỗi tay và vươn vai vì tứ chi mệt mỏi sau một ngày lao động. Người đứng đó với cánh tay giơ ra, phía sau, mặt trời sắp lặn in bóng Ngài trên tường. Bóng đó là hình thập giá. Đằng sau, bà Maria đang đứng, đôi mắt hiện rõ nét lo âu về thảm kịch sẽ xảy đến cho con mình khi bà thấy bóng thập giá. Chúa Giêsu đã đến trong thế gian để sống cho loài người và cuối cùng để chết cho loài người. Ngài đến để ban cho loài người sự sống và sự chết của Ngài.
Vàng là để tặng vua, nhũ hương tặng thầy tế lễ, mộc dược dành cho Đấng phải chịu chết. Đấy là những lễ vật của các nhà chiêm tinh dâng ngay trước nôi của Chúa Giêsu. Những lễ vật đó có ý nghĩa Ngài là Vua chân thật, thầy tế lễ trọn vẹn và sau hết Ngài là Chúa Cứu Thế cao cả của loài người.
120.Lễ Hiển Linh--Claude Tassin
CÁC ĐẠO SĨ
Đoạn Tin Mừng đề cập đến các vị đạo sĩ gắn kết với đoạn trước bằng cái tên “Giêsu”. Ngoài ra, Mt 1,23 đã loan báo rằng trinh nữ “sẽ sinh hạ”; còn ở 2,2 các đạo sĩ vấn hỏi: vua dân Do Thái “đã sinh hạ” ở đâu. Tuy sự thể đã quá hiển nhiên như vậy rồi, truyền thống kể lại ở đoạn Mt 2,1-12 lại chắc chắn có trước thời Matthêu; ví dụ: như việc không đề cập gì đến sự hiện diện của Giuse (x. c.11) mặc dù ở Mt 1,18-25 lại nói nhiều đến Giuse.
Ý nghĩa phong phú của đoạn này nằm ở chỗ chứa đựng rất nhiều câu ám chỉ. Trước hết ta nên dựa vào bố cục của đoạn văn, căn cứ vai trò của ngôi sao lạ mà chia nó thành hai phần để phác họa rõ nét hơn sự đối kháng giữa thái độ của các đạo sĩ với thái độ của Hêrôđê.
Trong phần đầu (1-8) tấn tuồng được hình thành:
Câu 1-2: các đạo sĩ quan sát thấy một ngôi sao loan báo sự ra đời của vua dân Do Thái và họ phải đến kính viếng. Văn bản chỉ nói rằng ngôi sao đã chỉ đường cho họ, thế thôi. Họ đi đến Giêrusalem, trung tâm của thế giới Do Thái, và hỏi ra vị vua này ở đâu?
Câu 3-6: Ở Giêrusalem, Hêrôđê vua dân Do Thái và toàn thể công nghị (thượng tế và luật sĩ) tập thể đại diện cho dân Do Thái đặc trách việc chú giải Kinh Thánh, đã nghiên cứu những lời tiên báo về Đấng Mêsia. Hơn cả ngôi sao, Kinh Thánh mới là cuốn chỉ nam dẫn đường cho các đạo sĩ.
Câu 7-8: Giới chức Do Thái giải thích rất chính xác các lời tiên tri nhưng không hề ra tay hành động. Còn bản thân Hêrôđê lúc nào cũng e ngại một đối thủ xuất hiện nên đã ghi nhớ điều mặc khải này như đoạn sau sẽ cho thấy.
Phần hai (9-12) tấn tuồng được diễn:
Câu 9-11: Các đạo sĩ lại được ngôi sao hướng dẫn đến tận chỗ ở của Đấng Mêsia sau khi họ được Kinh Thánh soi rọi.
Câu 12: Mưu mô giết chóc của Hêrôđê bị thất bại bởi vì Thiên Chúa lại ra tay can thiệp một lần nữa “các đạo sĩ trở về xứ qua một lối khác”.
Ngoài ra bản văn còn cho ta những chìa khóa khác nếu ta nghiên cứu kỹ lưỡng các nhân vật (các đạo sĩ, Hêrôđê), dấu hiệu ngôi sao và câu trích dẫn (c.6)
1. Các đạo sĩ: Vừa là những bậc thông thái lại là những nhà thuật sĩ, các “đạo sĩ” Đông Phương hành nghề bói toán, y học, chiêm tinh và giải mộng. Trước đó, Môsê đã từng đụng độ họ ở cung điện vua Pharaon, sau này các tông đồ cũng đôi lần gặp phải các nhân vật nhóm này (x. Cv 8,9; 13,8). Kinh Thánh không yêu thích gì họ. Và chỉ có dân ngoại mới làm đạo sĩ bởi vì ở xứ Israel, “phù thủy” là nghề bị cấm chỉ.
Các vị đạo sĩ trong Mt 2 đến từ Đông Phương bởi vì các thuật sĩ Đông Phương nổi tiếng hơn, nhất là các người Chaldé xứ Babylone. Matthêu không nói rõ họ thuộc dân xứ nào. Những lễ vật họ mang theo gợi ta đoán là xứ Ả Rập. Cũng có thể là xứ Ba Tư. Theo hai tác giả La tinh, khoảng năm 66 có các đạo sĩ Ba Tư tuân theo các ngôi sao chỉ đường, đã đến Rôma để triều yết hoàng đế Neron, khi trở về họ chắc rồi cũng “đi theo lối khác”. Tuy nhiên, Matthêu không dẫn dắt các đạo sĩ đến với Neron mà là đến với Chúa Giêsu và cũng rất mỉa mai khi xảy ra sự thể là: đang khi giới hữu trách Do Thái hằng được Kinh Thánh soi sáng lại không biết cách làm thì các đạo sĩ ngoại giáo chỉ dựa vào hiểu biết khoa học chứ không phải do Kinh Thánh soi sáng hoặc do tuân giữ Kinh Thánh lại làm được: đó là bài học truyền giáo đầu tiên của tác giả Tin Mừng.
Giáo Hội Đông Phương cho rằng có ba vị đạo sĩ (dựa vào số món quà đem theo) và gọi họ là ba vua. Sự tôn vinh này khá phổ biến trong Cựu Ước. Thực vậy, theo Thánh Vịnh 72, 10-15 thì các kẻ cầm đầu các dân nước đến dâng hiến châu báu xứ sở lên cho Đấng Mêsia. Nhưng Matthêu không gọi họ là vua: họ là những dân ngoại khiêm hạ nhất đã đến với Đức Kitô.
2. Ngôi sao lạ: Chắc chắn tác giả Tin Mừng sẽ giật mình khi biết rằng hậu thế mình đã ra công cất sức truy tìm những giả thuyết để xác định cho được tinh vân nào hoặc sao chổi nào có lẽ đã xuất hiện vào thời Chúa Giêsu. Ngôi sao của Matthêu không phải là vì tinh tú mọc trên bầu trời, mà là ở trong Kinh Thánh (Theo Ds 24,17 thì sẽ có ngày “ngôi sao nhà Giacóp” sẽ mọc lên. Và dân Do Thái ở thế kỷ I đã áp dụng lời tiên tri này cho Đấng Mêsia. Hình ảnh tượng trưng đó rất phù hợp với câu chuyện về các đạo sĩ ở đây). Bởi vì lời tiên báo trong Ds 24 cho dân Israel không phải do một tiên tri Israel nói ra mà bởi Balaam, một kẻ ngoại mà truyền thống vẫn coi ông ta như là kẻ giải mộng, nghĩa là một “đạo sĩ”.
3. Hêrôđê: Khi Chúa Giêsu ra đời, triều đại Hêrôđê đại đế (năm 37-4 trước Công nguyên) đã chấm dứt. Ta biết rằng Denys bé nhỏ, một tu sĩ sống vào thế kỷ VII đã sai lầm khi xây dựng bộ lịch ngày nay. Đúng ra, Chúa Giêsu ra đời vào năm thứ bảy hoặc thứ sáu “trước khi Chúa Giêsu Kitô ra đời”. Bấy giờ, Hêrôđê rất sợ kẻ chiếm ngôi đến độ y đã ra lệnh xử giảo ngay cả một số con cái mình: các kẻ đương thời đã khôi hài với nhau rằng: thà rằng làm con heo (hus theo tiếng Hy Lạp) của Hêrôđê hơn là làm con đẻ (huios) của y. Tóm lại, những gì ở đây Matthêu gán cho nhân vật Hêrôđê đều cảm hứng từ thực tế. Nhưng một phần thì đoạn kể về các thuật sĩ mang tính biểu tượng và mặt khác lúc bấy giờ người ta lại không hề biết sự ra đời của Chúa Giêsu nhưng cuộc tàn sát ở Bêlem chắc chắn có để lại dấu ấn trong lịch sử Do Thái, đều là những sự kiện thực tế. Hình tượng nhân vật Hêrôđê được truyền thống Tin Mừng xét theo hai cách:
a) Đàng sau lời sứ thần báo tin cho Giuse đúng là một việc khả thi, giống như lời báo tin của Thiên Chúa cho người cha tương lai của Môsê vậy. Nhưng lại có truyền thuyết Do Thái cổ xưa khác, cũng thuật lại một giấc mộng làm Pharaon lo lắng và được các thuật sĩ cắt nghĩa như sau: một Hài Nhi sẽ sinh ra nơi dân Hy Bá Lai, nó sẽ triệt hạ xứ Ai Cập. Chính vì vậy mà Pharaon đã ra sắc chỉ tàn sát mọi con trai đầu lòng của người Hy Bá Lai (x. Xh 1,15). Chịu ảnh hưởng của truyền thống này, ở đây Chúa Giêsu xuất hiện như một Môsê mới và Hêrôđê đóng vai vị vua tàn ác nhưng chỉ chuốc lấy thất bại.
b) Mặt khác, trong đoạn tường thuật này, Hêrôđê được bao quanh bởi “toàn thể Giêrusalem” (c.3) và các quan chức Do Thái giáo (tư tế, luật sĩ: c.4). Như thế cuộc khổ nạn và những kẻ chịu trách nhiệm về cái chết của Chúa Giêsu đã được dựng lên ở đây rồi vậy.
4. Lời tiên tri của Mikha (c.6): Đáp lại câu hỏi ở c.2 “Vua dân Do Thái sinh hạ ở đâu?”. Dựa vào lời nói của các tư tế và luật sĩ (thực ra là của Matthêu), bằng cách trưng ra “bố trí” sẵn những câu trích dẫn Cựu Ước. Matthêu đã trích Mk 5,1-3 và phối kết với 2Sm 5,2 “Ngươi sẽ là mục tử chăn dắt Israel dân Ta” đó chính là lời hứa đối với Đavít. Ta cũng cần nói thêm rằng tiên tri Mikha nối kết với câu Is 7,14 đã được trích ra ở trên. Như thế, lời tiên báo được sắp xếp lại như vậy có ý nghĩa gì?
a) Trung thành với Mikha, và ít lạc quan về tương lai của Giêrusalem, Matthêu đã tôn vinh làng Bêlem đơn hèn, vì đó chính là ngôi làng của Đấng sẽ trở nên Mêsia cho những kẻ bé mọn (x. Mt 11,25-30).
b) Nhận chân giá trị của thành vua Đavít và lời hứa ban cho vị vua này (2Sm 5,2) nối kết tầm quan trọng của tổ phụ Đavít của Chúa Giêsu như đã nhấn mạnh trong Mt 1.
c) Nếu Chúa Giêsu phải là “mục tử dân Israel” (một tước hiệu gán cho chính Thiên Chúa x. Tv 80,2) và nếu Giêrusalem đã khước từ Đấng chăn dắt mình, vậy thì lời tiên tri làm sao nên trọn được? Đó chính là toàn bộ thảm kịch của sứ vụ Đức Kitô.
Toàn bộ nét biểu trưng đoạn đã biến Tin Mừng về ba vị đạo sĩ thành một Tin Mừng thu nhỏ lại: vua Đavít mới, Môsê mới ngày kia sẽ rao giảng trên núi, Người mục tử bị chê bỏ (cf. Mt 26,31) bởi những kẻ kêu gào phải giết Ngài đi, rồi chế nhạo “Vua dân Do Thái” trên đồi Calvariô (cf. Mt 27,37) để rồi đến một ngày vang dội lệnh truyền khẩn thiết này “hãy đi thâu nạp môn đồ khắp muôn dân”.
Câu hỏi cốt lõi của đoạn này là: Ở ĐÂU? Những chuỗi kế đến sẽ liệt kê (Mt 28,19) thêm Ai Cập, Rama, Galilê, Nagiarét trong số nhiều địa điểm có ý nghĩa của cuộc sống đời Đấng Mêsia.
121.Chú giải của Noel Quesson
Khi Đức Giêsu ra đời lại Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì.
Đó chỉ là những từ duy nhất, rất ngắn ngủi mà Matthêu dùng để nói về lễ Giáng sinh. Ít thật! Thực sự, Matthêu có vẻ chú ý quá ít đến biến cố đơn thuần, khác với Luca. Trái lại, một cách rõ rệt, Matthêu chủ ý trình bày với các độc giả của mình ý nghĩa của sự sinh ra. Và ông cho họ hiểu ý nghĩa trong câu truyện này về các nhà chiêm tinh... chính câu truyện được triển khai tối đa, và được trình bày, nếu chúng ta lưu ý, như một thứ dẫn nhập cho toàn bộ Tin Mừng theo Thánh Matthêu.
Thời vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ Phương Đông đến Giêrusalem, và hỏi: “Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu?”
Matthêu so sánh, như hai chất nổ, hai danh hiệu:Vua Hêrôđê... vua dân Do Thái. Câu hỏi này mà những người nước ngoài sắp nhắc lại trên các phố phường chật hẹp ở Giêrusalem, đã vang đến tai những người Do Thái như một sự mỉa mai cay độc. Người ta hiểu rằng nó cũng làm cho Hêrôđê vốn đa nghi phải giao động. Qua lịch sử, người ta biết rằng cả đời ông bị ám ảnh vì sợ mất quyền bính, và ông thấy chỗ nào cũng có âm mưu, nên chỉ luôn luôn sống trong các thành lũy, và cho giết chết ba người con trai, bà mẹ vợ và thậm chí chính người vợ riêng của mình.
Đấy là về chuyện lịch sử. Nhưng ý nghĩa mà Matthêu dành cho danh hiệu “Vua dân Do Thái" này lại sâu xa hơn nhiều; Nước Trời sẽ là một trong những đề tài ông ưa thích. Matthêu, ngay từ đầu loan báo về Đức Vua của Vương quốc này. Ngay trang đầu trong sách Tin Mừng của ông, có một vương miện đang tranh chấp: ai thực sự là "vua" dân Do Thái? Hêrôđê, một nhà vua chuyên chế, hiếu sát và tàn bạo? Hay là Giêsu, người bé nhỏ, yếu hèn, không có vũ khí sẽ chết như nạn nhân vô tội? Chính ở trang cuối cùng sách Tin Mừng của mình, theo một phương thức viết hàm ý quen dùng trong văn chương Sê-mít, mà Matthêu đã đặt lại cho Đức Giêsu "Vua dân Do Thái" này. Những binh lính sẽ nói "Ngự tâu, Vua dân Do Thái" (Mt 27,29). Philatô sẽ cho ghi "Này là Vua dân Do Thái" ở trên đầu Đức Giêsu chịu khổ hình thập giá, để chỉ rõ cái "lý do khiến người bị kết án" (Mt 27,37). Tất cả các kinh sư và đại giáo trưởng sẽ cười nhạo "Nếu y là Vua dân Do Thái, thì y cứ xuống khỏi thập giá đi" (Mt 27,37).
Từ khi sinh ra, Thánh Matthêu gợi ý, Đức Giêsu chỉ là một vua khiêm tốn, hình ảnh của "Người đầy tớ chịu đau khổ" của Isaia vị vua này sẽ chỉ cưỡi trên lưng lừa (Mt 21,5) trong cuộc khải hoàn chóng qua với những tàu lá, vị vua đến không Phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ (Mt 20,28), và sẽ yêu cầu các bạn hữu của mình "đừng thống trị, mà hãy làm cho mình trở thành những đầy tớ" (Mt 20,25-26). Vương quyền của vị vua này không thuộc về thế gian này, nó không hề giống vương quyền của Hêrôđê: nó chỉ được tiết lộ một cách nghịch lý trong ngày Người thụ nạn, chúng ta sẽ hàm ý gì dưới những từ lặp lại trong lời kinh của chúng ta: "Xin cho Nước Cha trị đến!"...Người trị đến với Chúa Cha và Chúa Thánh Linh đến muôn muôn thế kỷ".
Chúng tôi đã trông thấy vì sao của Người xuất hiện.
Ngày nay, Giáo Hội so sánh câu truyện Hiển Linh này với bản văn của Isaia được chọn lựa giữa vô số bản văn Kinh Thánh loan báo Đấng Mêsia đến như một ánh sáng. "Hãy đứng lên hỡi Giêrusalem, ánh sáng của người đã đến và vinh quang của Đức Chúa xuất hiện trên ngươi. Hãy nhìn xem: bóng tối lại bao trùm mặt đất, nhưng Đức Chúa xuất hiện trên ngươi, và vinh quang của Người chiếu tỏ trên ngươi. Các dân nước sẽ tiến về phía ánh sáng của ngươi, và các vua, về phía luống sáng bình minh ngươi (Is 60,1-6) Người ta nhớ lại ánh sáng của Đấng Cứu Độ được hát vào Mùa Vọng và trong lễ đêm Giáng sinh: Người đi trong bóng tối đã trông thấy xuất hiện một ánh sáng lớn lao, bởi vì một Hài Nhi đãsinh ra cho chúng ta" (Is 9,1-5).
Trong chủ đề về ngôi sao, có cả một ý nghĩa mà Thánh Phêrô chỉ rõ khi người nói về đức tin như “sao Mai xuất hiện trong lòng chúng ta” (2Pr 1,19). Ngôi sao tượng trưng cho ánh sáng của Chúa, ân sủng của Chúa, tác động của Chúa trong tâm trí của mọi người, và dẫn dắt mọi người hướng về Đức Kitô. Vâng, Thiên Chúa nhìn ngắm với tình yêu những nhà chiêm tinh ngoại giáo tiến về Đức Giêsu. Trong đời tôi, cũng có một ơn hướng dẫn tôi khám phá ra Đức Giêsu. Tôi có can đảm đi theo ơn đó cho đến nơi mà ơn huệ hướng dẫn tôi không? Xin hãy dẫn dắt con trong ánh sáng này một bước, một bước, chỉ một bước hướng tới Chúa!
Và chúng tôi đến bái lạy Người.
"Bái lạy". Động từ này được Matthêu sử dụng ba lần trên trang này chỉ thái độ sâu xa của các nhà chiêm tinh ngoại giáo này. Họ đến để thờ lạy. Còn tôi? Đôi khi tôi có bái lạy không? Trước cái gì? Trước ai? Tôi gán cho một ý nghĩa gì về việc bái lạy của tôi lúc dâng Thánh Thể trong thánh lễ không? Nhiều bạn trẻ ngày nay, tìm lại được cái cử chỉ bái lạy lớn lao, ở đó có người nhận biết sự bé mọn của mình, đã hoàn toàn phục dài trên mặt đất trong lòng tôn thờ của tất cả vạn vật.
Nghe tin ấy vua Hêrôđê bối rối, và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân Israel lại.
Giữa câu truyện Hiển Linh, Matthêu đưa ra hai thái độ mà cháng ta luôn luôn thấy lại trong sách Tin Mừng cha ông: "Một đàng là sự khước từ của các lãnh tụ chính trị và tôn giáo Do Thái. Đáng lẽ họ phải là những người đầu tiên nhận ra Đấng Mêsia Thế mà, họ làm gì? họ sợ hãi, họ lo âu. Họ không động tĩnh. Ngay từ đầu họ tìm giết Đức Giêsu. Người ta tưởng đã nghe thấy tiếng kêu buồn rầu to lớn Đức Giêsu thốt ra về Giêrusalem: "Khốn thay! Các kinh sư và các Pharisêu... Hỡi Giêrusalem! Giêrusalem! Ngạo giết chết những người ta sai đến với ngươi bao nhiêu lần ta đã muốn tập hợp các con cái ta! Và các người đã không muốn" (Mt 23,27-37).
Đàng khác, trái lại, sự "đón tiếp" của những nhà chiêm tinh ngoại giáo. Dù không được chuẩn bị bao nhiêu để nhận biết Đấng Mêsia, chính họ lại đi tìm kiếm Người, họ năng động, và không chút lo âu, họ cảm thấy "một nỗi vui mừng lớn lao Người ta tưởng chừng nghe thấy câu kết luận của sách Tin Mừng Matthêu: Các ông hãy đi và hãy làm cho tất cả các dân nước trở thành môn đệ (Mt 28,19).
Thực ra, trang Tin Mừng này, trong những thế kỷ đầu tiên, được dành để cố giải thích cho các Kitô hữu gốc Do Thái (Matthêu muốn nói trực tiếp cho chính họ) hiểu tại sao Giáo Hội gồm có đa số là những Kitô hữu gốc ngoại giáo khi mà Thiên Chúa lại gắn bó quá mạnh mẽ với Do Thái. Mátthêu, chứng minh, nơi Giêsu. một Đấng Cứu Độ được mong đợi. Người đến vì tất cả mọi người: và nước Do Thái mới gồm có những người Do Thái hay ngoại giáo, bái lạy trước Đức Giêsu. Điều đó được tất cả những lại phát ngôn "có tính chất phổ độ" loan báo trước: Giêrusalem phải trở nên kinh đô của tất cả các dân tộc. "Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Mađian và Êpha: tất cả những người từ Saba kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa" (Is 60,1-6). Người ta nhớ đến, bên Israel. nữ hoàng Saba, đến từ xa, bà đã lên Giêrusalem để gặp gỡ Salômôn. Thánh Vịnh 71, được hát ngày lễ Hiển Linh, lặp lại cùng một chủ đề của phần mở đầu: "Các vua xứ Tacsi và các hải đảo sẽ mang các tặng phẩm đến". Và cũng chính Matthêu sẽ nói lại trong sách Tin Mừng của ông rằng các dân tộc "sẽ đến từ Phương Đông và Phương Tây, an phần vào bữa tiệc với Abraham" (Mt 8,11). Một lần nũa, người ta thấy sách Tin Mừng này được cấu tạo như thế nào. Vâng, các "nhà chiêm tinh" tượng trưng cho tất cả những người ngoại giáo (và những người không tin) ở mọi thời đại Và trong những từ này, chúng ta không đưa vào đó một ý nghĩa xấu nào cả. trái lại!trong số các bạn bè của chúng ta, có đông người như thế, tất cả những người này hoàn toàn chân thành trong các xác tín của họ, họ có một cuộc sống ngay thẳng, có một ý thức về công lý, và về việc phục vụ tha nhân, họ có một đời sống gia đình gương mẫu, và làm trọn một cách hoàn hảo những nghĩa vụ nghề nghiệp của họ. Dẫu vậy, họ không biết Đức Giêsu Kitô theo nghĩa mạnh.
Lễ Hiển Linh là lễ của tất cả những người không biết Đức Giêsu, của tất cả những người có niềm tin khác với chúng ta. Và Thiên Chúa yêu mến họ, soi sáng cho họ, Thiên Chúa dùng ân điển vô hình để lôi kéo họ đến với Người. Nhưng, chúng ta, chúng ta phê phán họ như thế nào?
Và đây là điều ngôn sứ đã viết: "Phần ngươi, hỡi Bêlem. miến đất Giu-đa,... vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời".
Tại sao, hãy nói cho tôi hay, ngôi sao lại không trực tiếp dẫn lối những nhà chiêm tinh, nếu phải làm, đến Bêlem, gần Đức Giêsu? Tại sao có đường vòng qua Giêrusalem, qua các "kinh sư và thượng tế” Bởi vì Thiên Chúa trung thành với những lời Người hứa, và vì, nếu ơn cứu độ được đưa đến cho tất cả mọi người, thì ơn đó đến qua trung gian những người Do Thái (Rm 9, 10-11).
Họ mở bảo tráp, lấy tặng vật mà dâng tiến.. Họ đi lối khác mà về xứ mình...
Việc thờ phường là một trong những chức năng chính yếu của Giáo Hội: sự thờ phượng thật, chính là dâng tiến lên Thiên Chúa kết quả lao động của con người và của đất. Như vậy cuối cùng tất cả mọi giá trị mà nhờ đó các nền văn minh sinh tồn được. Cuộc gặp gỡ Đức Kitô biến đổi cuộc đời: một con đường mới mở ra... Tin Mừng vui biết bao, lạy Chúa!
122.Một ngôi sao để đi theo--Jean-Yves Garneau
Một ngày lễ đầy màu sắc.
Có lễ nào mang nhiều màu sắc hơn lễ Hiển linh? Có những nhân vật (người ta nói là ba nhưng Tin Mừng không khẳng định điều này) không biết chính xác đến từ đâu (thánh Matthêu viết rằng từ phương Đông; nhưng phương Đông lớn lắm!). Người ta không biết tên của họ (dù họ mang tên Mechior, Balthasar và Gaspar, theo một truyền thống rất cổ xưa mãi từ thế kỷ thứ 5, nhưng đó không phải là một điều chắc chắn mang tính khoa học). Và có ngôi sao! Ngôi sao mà người ta đã nói và viết nhiều về nó. Nó hướng dẫn các vị hiền sĩ của chúng ta (có lẽ là những nhà chiêm tinh và chúng ta đã gọi họ là vua) và nó đã dừng đúng chỗ, đúng lúc: Trên ngôi nhà có Đức Maria và Hài Nhi Giêsu! Lại có vàng, nhũ hương và mộc dược nữa…
Hai sứ điệp.
Lễ Hiển linh thật là hấp dẫn, tuy nhiên chúng ta đừng để mình quá bị chi phối bởi những chi tiết dù có quan trọng đi nữa. Ta hãy quan tâm tới điều chính yếu: hãy chú ý đến sứ điệp, sứ điệp này gồm hai điều:
Một là, lễ hiển linh nói với chúng ta rằng Chúa Giêsu không đến trong thế gian vì một số người mà thôi (những người thân cận với Ngài), rằng Ngài không nhập thế duy chỉ vì một dân tộc (dân tộc Do Thái), nhưng vì tất cả các dân tộc trên trần thế và vì tất cả mọi người sống trên quả đất này. Thậm chí quốc gia bé nhỏ nhất cũng không thể bị quên lãng. Không ai, thực sự không người nào bị loại trừ khỏi những bận tâm của Chúa Giêsu. Ngài sinh ra cho hết thảy mọi người. Tất cả mọi người, đàn ông đàn bà, lớn bé, giàu nghèo ở khắp mọi nơi chốn và mọi thời đại đều được mời gọi đến lãnh ơn cứu độ. Chúa Giêsu đến để soi sáng và cứu vớt toàn thể nhân loại. Những bản văn Thánh Kinh được công bố hôm nay khẳng định rõ ràng điều đó (x. Ep 3,6: “Mầu nhiệm này là những kẻ ngoại giáo được thông phần cùng một di sản, cùng một thân thể…” Is 60,3-4: “Chư dân sẽ bước đi hướng về ánh sáng của Ngài… hết thảy họ đều tụ họp lại…”).
Điều thứ hai của sứ điệp dạy chúng ta rằng Chúa Giêsu đã bị những kẻ thuộc về Ngài không biết đến, thậm chí còn ruồng bỏ, nhưng lại được những kẻ xa lạ, các hiền sĩ, tìm kiếm, khám phá, đón nhận và tôn thờ. Không có chỗ cho Ngài nơi những kẻ thuộc chủng tộc Ngài, nơi quán trọ, ngày Ngài chào đời! Không có những người trong làng tìm đến máng cỏ đến Giáng Sinh, chỉ có các mục đồng thôi! Còn Hêrôđê, ông vua thời đó, người ta biết rằng ông muốn giết Đấng đến để cứu ông!
Hai áp dụng cụ thể.
Ta có thể rút ra từ sứ điệp trên đây hai áp dụng cụ thể.
Trước hết, ta phải tự nhủ rằng bao giờ cũng có thể sống bên cạnh Chúa Kitô mà không quan tâm đến Ngài, và cũng có thể biết tên của Ngài mà không thực sự biết chính Ngài. Lúc đó ta có thể mang nhãn hiệu Kitô nhưng kỳ thực ta không phải là Kitô hữu. Về mặt lý thuyết, ta khẳng định Chúa Kitô hiện diện trên thế giới, nhưng ta không rút ra được từ đó một kết luận thực tiễn nào cả cho những ứng xử của cá nhân mình và cho cách điều khiển xã hội.
Sau đó ta phải tự nhủ –đây là áp dụng cụ thể thứ hai- rằng ta luôn luôn phải để cho một ngôi sao hướng dẫn mình, phải luôn luôn lên đường tìm kiếm Chúa Kitô, luôn luôn cố gắng hiểu rõ Ngài hơn… vì nơi chúng ta bao giờ cũng còn lại một cái gì ngoại giáo! Ở đây tôi nghĩ đến tất cả những ngẫu tượng mà ít nhiều chúng ta còn tôn thờ hoặc để cho mình bị chúng thôi miên mà không hay biết. Những ngẫu tượng này là; tham tiền bạc, cá nhân chủ nghĩa thúc đẩy chúng ta quên đi số phận của kẻ khác. Ta cũng có thể gọi là ngẫu tượng óc tiêu thụ quá đáng rất thường điều khiển chúng ta và nhất là cái nhìn hoàn toàn duy vật của chúng ta về cuộc sống.
Tìm ngôi sao dẫn đến nơi có Chúa Giêsu và Mẹ Ngài, từ bỏ xứ sở, đi đến một nơi xa lạ, dám sống một cuộc mạo hiểm thiêng liêng trong đó ta dấn thân hoàn toàn và vì đó ta cho đi cái tốt nhất nơi mình, đấy là những gì các hiền sĩ đã làm. Còn chúng ta, quá thường sống như người ngoại đạo trong một đất nước còn mang tên Kitô, chúng ta có can đảm lên đường tìm kiếm Chúa Kitô không? Chúng ta có biết đi theo ngôi sao của các hiền sĩ còn đang chiếu sáng cho những kẻ đói khát Thiên Chúa không?
123.Hãy đứng lên, hãy toả sáng ra--"Sống Tin Mừng”--Radio Veritas Asia
Các bài đọc của lể Hiển Linh đều hướng về một chủ đề chính: "Chúa Kitô là ánh sáng chiếu soi muôn dân". Nơi bài đọc I được trích từ sách tiên tri Isaia: "Hãy đứng lên, hãy tỏa sáng ra" (Is 60,1-6).
Anh chị em thân mến!
Đó là lời tiên tri Isaia loan báo về tương lai huy hoàng của Giêrusalem. Giêrusalem có được như vậy, được trở thành trung tâm của muôn dân đổ dồn về đó là vì nhờ Giêrusalem có Thiên Chúa hiện diện ở giữa. Không có Thiên Chúa hiện diện thì Giêrusalem vẫn chỉ như bao thành khác. Ánh sáng mà Giêrusalem nhận được từ Chúa đã chiếu soi muôn người, ánh sáng đó lôi kéo tất cả mọi người, không trừ một ai đến với Chúa. Giêrusalem ngày xưa là hình ảnh của Giáo Hội, vì Giáo Hội là nơi qui tụ tất cả mọi dân tộc.
Lời tiên tri Isaia loan báo về tương lai huy hoàng cho Giêrusalem được ứng nghiệm trong biến cố các vua từ Phương Đông tìm đến Vua dân Do Thái mới sinh đã được thánh sử Luca ghi lại (x.Lc 2,1-12).
Anh chị em thân mến!
Gặp được Chúa Giêsu và thờ lạy Ngài, đó là mục đích cuối cùng của đời người chúng ta, và đó cũng là trung tâm của bài Tin Mừng Lễ Hiển Linh hôm nay. Các mục tiêu cuối cùng trên, chúng ta thấy có những nhân vật nổi bật như vua Hêrôđê, các trưởng tế và luật sĩ tại Giêrusalem, các đạo sĩ từ Phương Đông. Mỗi một người trong hoàn cảnh riêng của họ đều được Chúa mạc khải cho, được Chúa mời gọi đến với Ngài bằng những con đường khác nhau. Các đạo sĩ nhờ ngôi sao sáng của thiên nhiên trong vũ trụ, một kỳ công sáng tạo của Thiên Chúa. Các trưởng tế và luật sĩ thì qua con đường mạc khải của Kinh Thánh, qua lời dạy của các tiên tri mà họ biết nằm lòng. Vua Hêrôđê thì qua chứng tá của những kẻ qua con đường gặp Chúa, qua chứng tá của các đạo sĩ và các trưởng tế, luật sĩ tại Giêrusalem. Nhưng rồi chỉ có các đạo sĩ là đi đến cùng con đường, là gặp được Chúa Giêsu và thờ lạy Ngài.
Chúa ban cho mỗi người, cho mọi người con đường để gặp Ngài, nhưng chỉ có những ai thành tâm thiện chí và can đảm đi đến cùng, đi trọn con đường thì mới thành công trong việc gặp gỡ được Chúa.
Trong ngày Lễ Ba Vua hay Lễ Hiển Linh hôm nay, chúng ta trước nhất vui mừng vì thấy rõ hành động Thiên Chúa không dành riêng ân sủng của Ngài cho một nhóm người nào, nhưng Ngài kêu gọi tất cả mọi người đến với Ngài, đồng thời chúng ta cần tự vấn chính mình về thái độ trước Chúa Kitô, chúng ta đã thực sự gặp Chúa và tôn thờ Ngài hay chúng ta cũng có thái độ giống như vua Hêrôđê xem Chúa như là kẻ thù, như là người cản trở sự thành đạt của mình, vì đó mà hành động ngấm ngầm chống lại Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con được bắt chước thái độ của các đạo sĩ ngày xưa muốn ra đi khỏi nơi an toàn tự nhiên của mình để gặp Chúa và tôn thờ Chúa tại nơi mà Chúa muốn dùng để mạc khải cho chúng con về Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con được gặp Chúa và tôn thờ Chúa là Đấng cứu rỗi duy nhất đời con. Amen.
124.Lương tâm là ngôi sao sáng--Lm. Joshepus Quang Nguyễn
Trong Sứ Điệp Hòa Bình thế giới đầu năm nay 2018, Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng: “Trên thế giới ngày nay đến hơn 250 triệu người di dân, trong đó 22,5 triệu người là những người tị nạn, họ là những người nam và người nữ, trẻ em, thanh thiếu niên và những người già cả đang tìm kiếm một nơi để sống trong hoà bình. Để tìm được nơi ấy, nhiều người trong số họ sẵn sàng liều mạng dấn thân vào một hành trình mà đa phần vừa lâu dài vừa đầy nguy hiểm; họ sẵn sàng chịu đựng nhọc nhằn gian khổ, đối mặt với những hàng rào kẽm gai và những bức tường được dựng lên để ngăn không cho họ đến”. Tại sao có tình trạng này xảy ra? Đức Giáo Hoàng trả lời vì con người này nay đánh mất lương tâm trong sáng mà ngay từ đầu Thiên Chúa đặt để nơi con người. Một trong những sự trong sáng đó là tình huynh đệ, tình người.
Hôm nay, Lễ Chúa Hiển Linh hay còn gọi là lễ Ba Vua. Ba vua cũng là các nhà chiêm tinh tìm đến bái thờ Chúa Giêsu mới sinh, Vua Trời xuống thế, nhờ thấy một vị sao sáng chiếu sáng trên bầu trời ở Phương Đông. Điều đáng chú ý ở đây là sự nhiệt tình, tích cực và kiên trì của Ba vua tìm cho được Chúa dù ánh sao lúc ẩn lúc hiện. Khi ánh sao sáng, họ đi theo ánh sao dẫn đường. Khi ngôi sao biến mất, họ buộc phải tự tìm đường nhưng họ vẫn hy vọng, không hồ nghi về tính xác thực của ông Vua đã được ngôi sao kia báo hiệu. Cho nên, khi không có ngôi sao, họ dùng tới những phương tiện thông thường là hỏi han, đến tận vua nước này hỏi. Vua Hêrôđê không biết, triệu tập các thượng tế và kinh sư hỏi họ cũng không biết nhưng mở Thánh Kinh họ trả lời: "Tại Bê-lem, miền Giu-đê". Thế là các đạo sĩ tìm thấy Chúa Giêsu.
Các nhà chiêm tinh đã đến gặp Chúa nhờ ánh sao. Con người hôm nay nhờ ánh sáng nào mà gặp được Chúa? Mỗi người Chúa dựng nên đều có lương tâm. Lương tâm giống như là tấm bản chỉ đường, là ánh sao trong đêm tối để con người phân biệt được ranh giới giữa thiện và ác. Lương tâm chính là đền thờ Chúa ngự và ở đó Chúa tỏ mình cho chúng ta để ta đi đến Thiên đàng bình an và hạnh phúc. Vâng, quả thế, con người ngay đầu đã có tâm thiện, “nhân chi sơ tính bản thiện”. Chính lương tâm thiện này được Thiên Chúa đặt để vào trong lòng con người khi Ngài dựng nên họ. Vì vậy, con người có giá trị cao hơn mọi loài thụ tạo khác, và hơn nữa giá trị đó được đánh đổi bằng cái chết của Chúa Giêsu – Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người (Ep 1,3-7). Cho nên, Chúa Giêsu hằng mong muốn chúng ta rằng: “Anh em phải có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì Thiên Chúa sẽ thứ tha, anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Quả thật, người tốt thì lấy ra cái tốt từ kho tàng tốt của lòng mình” (Lc 6,36-38.44), và “Hễ ‘có’ thì nói có; ‘không’ thì nói không. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (Mt 5,37).
Trong cuộc sống, lương tâm của chúng ta bị điều kiện hóa bởi xã hội, có nghĩa rằng vì cuộc sống cơm áo gạo tiền cho nên tôi phải mua gian bán lận, ở trường ai ai gian lận trong học tập thi cử nên tôi cũng làm được hay là vì xã hội cho phá thai, bạo lực gia đình nên tôi làm theo mà lương tâm không thấy cắn rứt, đáng nguyền rủa và không cảm thấy đau lòng và xót xa khi tôi đã đánh hay đã giết người, người đó đâu ai xa lạ chính vợ con của mình, máu mủ của mình. Vì lương tâm bị điều kiện hóa nên lương tâm của chúng ta không còn chỗ cho Chúa ngự, tiếng nói của Chúa không còn vang dội trong thâm tâm của mình nữa, tại sao? Vì lương tâm của chúng ta đầy ắp điều xấu, hay chai lì với tội lỗi, đến nỗi không biết rằng chúng ta đang sống phần “con” mà mất phần “người”, chẳng màng chi tới việc tốt, hay chẳng cần nghe tiếng nói lương tâm, nói của Chúa hãy làm lành lánh dữ. Chính lúc ấy, ánh sao trong lương tâm không sáng lên, bị chai lì đi bởi vì nó bị bóng đêm tội lỗi che phủ.
Khi ánh sao lịm tắt, các đạo sĩ nhờ Thánh Kinh tìm đến Chúa Giêsu. Cũng vậy, Khi lương tâm của chúng ta lịm tắt thì hãy mở Thánh kinh, mở Lời Chúa ra mà đọc và sống Lời Ngài để ánh sao lương tâm ta bừng sáng lên các nhân đức thánh thiện. Cho nên người Kitô hữu không chỉ có lương tâm thiện mà có giáo huấn Tin Mừng giúp ta sống đời người thiện hảo, trong sáng và chân thật nhờ Thiên Chúa là Đấng Chân Thiện Mỹ làm nên sự sống, tâm hồn và mọi sự tốt đẹp cho chúng ta.
Vì vậy, là cha mẹ, là những người lớn phải có trách nhiệm với con cái, phải huấn luyện lương tâm con cái theo tinh thần Kitô giáo: (1) đừng dùng phương tiện xấu để đạt mục đích tốt; (2) hãy làm cho người khác đều ta muốn người khác làm cho ta; (3) đừng xúc phạm đến thể xác và tinh thần người khác; (4) đừng làm gương mù gương xấu cho người khác. Như vậy, chỉ với lương tâm này, chúng ta mới sống đúng với phẩm giá con người và phẩm giá một người kitô hữu, xứng đáng là con cái Thiên Chúa, con cái của Sự Sáng. Cho nên, trong sứ điệp Hòa Bình thế giới năm nay 2015, Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng: “Vì tự bản chất, con người là hữu thể có tương quan, được an bài là phải đi tìm sự tròn đầy qua các tương quan liên vị, được gợi hứng bởi sự công bằng và tình yêu, nên việc nhân phẩm, tự do và tính tự trị được thừa nhận và tôn trọng, công bằng và tình yêu. Vì vậy, hãy để ánh sáng Lời Chúa vào lương tâm, chúng ta có thể xem tất cả mọi người “không còn là những nô lệ, di dân, kẻ thù… nhưng là anh chị em với nhau” (số 1).
Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, các đạo sĩ nhờ ánh sáng Lời Chúa soi dẫn đã bước vào hang đá và thấy Hài Nhi, Đức Mẹ và Thánh Giuse, họ liền sấp mình thờ lạy Ngài. Chúng ta cũng hãy bắt chước các đạo sĩ: siêng năng học hỏi Thánh Kinh và sống Lời Chúa dạy để lương tâm chúng ta thật sự bừng lên ánh sáng: Ánh sáng của sự chân thành, của phục vụ yêu thương; của niềm vui an bình, của can trường bất khuất hay của tha thứ sẻ chia... để “Trong Đức Ki-tô Giêsu và nhờ Tin Mừng của Ngài, anh chị em chưa biết CHÚA cùng thừa kế gia nghiệp với chúng ta, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (Ep 3,6) như trong bài đọc 1 rằng: “Mặt mày ngươi rạng rỡ, lòng ngươi rạo rực, vui như mở cờ, vì nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả, của cải muôn dân nước sẽ tràn đến với ngươi”. Alleluia!
125.Tìm gặp Thiên Chúa giữa lòng đời--Lm. Joshepus Quang Nguyễn
Trang Tin Mừng hôm nay kể: theo ánh sáng của ngôi sao lạ, ba nhà chiêm tinh đã tìm đến cung điện của vua Hêrôđê để thờ lạy kính bái vị vua mới sinh, vì nghĩ vị vua mới sinh đó phải sinh ra nơi cung vàng điện ngọc, nơi chốn cao sang. Nhưng khi ba vị đến cung điện vua Hêrôđê và hỏi: "Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người," thì vua Hêrôđê tỏ hết sức ngạc nhiên, không biết chuyện gì đã xảy ra ở cung điện này. Bấy giờ "nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Các Kinh sư cũng không biết, họ mở Thánh Kinh thì mới biết tại Bê-lem, miền Giu-đê. Thật bất ngờ, Chúa Cứu Thế, Con Thiên Chúa và Thiên Chúa làm người không sinh ra trong cung vàng điện ngọc mà lại sinh ra trong nơi quê mùa heo hút, nơi làng Bê-lem là phần đất nhỏ bé của miền Giu-đê. Điều đáng chú ý ở đây nhờ ánh sáng từ Thánh Kinh đã soi sáng mà vua Hêrôđê, cả triều thần của vua cũng như ba nhà chiêm tinh biết được nơi Chúa Cứu Thế giáng sinh. Cũng nhờ ánh sáng nầy, ba nhà chiêm tinh tiếp tục đến tận nơi để thờ lạy và dâng lễ vật cho Người, tại một nơi nghèo nàn tầm thường mà ba vị không ngờ trước được.
Hôm nay, không có ngôi sao lạ nào xuất hiện trên bầu trời để soi đường cho chúng ta đi tìm Chúa, nhưng chúng ta có một ánh sáng khác rực rỡ hơn giúp ta tìm gặp Chúa mỗi ngày. Đó là ánh sáng của Lời Chúa, như lời Thánh Vịnh: "Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi" (Tv 119,105). Vậy ánh sáng Lời Chúa soi đường cho chúng ta tìm thấy Chúa nơi đâu? - Ở nơi mà không mấy ai tin là có: là nơi những người ở ngay trong nhà mình, trong giáo xứ, trong xã hội và chính trong cuộc sống chúng ta. Thật quá bất ngờ phải không?
Ba nhà chiêm tinh ngày xưa ban đầu cứ ngỡ rằng vua mới ra đời ắt phải sinh ra trong cung điện, không ngờ Lời Chúa lại chỉ cho họ tìm gặp Đấng Cứu Thế mới sinh tại một làng quê Bê-lêm hẻo lánh, trong hình hài một trẻ sơ sinh yếu ớt, tại một túp lều nghèo nàn đơn sơ. Chúng ta cũng thế, ban đầu chúng ta cứ tưởng Chúa chỉ ngự trên chốn trời cao, Chúa chỉ hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể, chỉ ngự trong các Thánh đường, trong giờ kinh nguyện... Nào ngờ Chúa cũng hiện diện trong chính gia đình chúng ta, trong cuộc sống, trong tha nhân sống giữa dòng đời này. Cho nên, Thánh Gioan Phaolô II, trong tâm thư gửi các gia đình đã viết: "Thiên Chúa đồng hoá với con người, với những người trong gia đình. Thiên Chúa là một với người cha, người mẹ, người bạn trăm năm, người con cái trong gia đình". Rồi, qua dụ ngôn dụ ngôn về ngày phán xét cuối cùng trong Tin Mừng Mátthêu, Chúa Giêsu tỏ cho chúng ta thấy Ngài là những người đói khát, những người rách rưới hoặc mình trần, người sa cơ thất thế không nơi nương tựa được trú ngụ…. Nói khác đi, bất cứ ai cũng được Chúa Giêsu nhìn nhận là chính Người kể cả dân ngoại. Vì vậy, mà Thánh Phaolô trong bài đọc hai xác quyết rằng: "Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao?" (I Cr 6, 15), và “Trong Đức Ki-tô Giê-su và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (Ep 3,6).
Chính những Lời Chúa dạy trên đây là ánh sao sáng, còn sáng hơn sao Bê-lem năm xưa, soi sáng cho chúng ta biết Chúa đang ở ngay trong gia đình, trong cuộc đời và trong xã hội và trong cuộc đời của chúng ta để chúng ta đến hầu hạ phục vụ và dâng lễ vật cho Người.
Lễ vật của chúng ta không phải là vàng, nhũ hương và mộc dược nhưng là một tấm áo cho cha, một bát cơm cho mẹ, là sách vở bút mực cho con cái học hành, là sự ân cần săn sóc, sự giúp đỡ sẻ chia đồng hành với những người đau khổ chung quanh chúng ta, là sự trân quý thân xác linh hồn chúng ta khỏi sa vào vòng tội lỗi, là sự cam lòng, trung tín vác thập giá theo chân Chúa mỗi ngày dù cuộc sống có nhiều cam go thử thách khó khăn, là sự thưa xin vâng thực thi sống Lời Chúa để nên thánh mỗi ngày, là sự hy sinh tha thứ phục vụ nhau trong gia đình... Đó là những lễ vật quý báu mà Chúa Giêsu đang thiết tha chờ đợi chúng ta mau mắn và quảng đại hiến dâng cho Người hôm nay.
Cho nên, Cha nhạc sĩ Nguyễn Duy viết rằng: “Chúa chấp nhận cuộc sống của con, nên Ngài đã đến với con người, sống kiếp con người giữa nơi cuộc đời. Những bước đường, Ngài dắt dìu con, cho hạnh phúc không tan biến đâu, Chúa đã gọi mời giết chết đơn côi.
2. Chúa muốn chọn cuộc sống của con, để đời con dõi bước theo Ngài, sống chết cho Ngài hiến dâng trọn đời. Thánh giá Ngài, đường hướng đời con, những lần con đau thương đắng cay, thánh giá của Ngài thắp sáng tâm tư.
3. Mắt đoái nhìn cuộc sống trần gian, con nào hiểu những bước vội vàng, cấu xé tranh giành của bao con người. Nếu biết rằng, vì chính trần gian, Chúa nhập thế như bao chứng nhận, con sẽ hiểu được chính Chúa cao sang.
4. Đã đến ngày cải hóa đời con, con người cũ sống chỉ cho mình, đến lúc trở thành con người của Ngài. Để đến ngày đổi mới lòng con, chỉ tình yêu tung bay khắp nơi, con với mọi người chất ngất tin yêu.
[ĐK:] Chúa muốn nhận cuộc sống của con, nắm tay con Ngài dìu từng bước, Chúa luôn đợi chờ đổi trao thương mến. Phút cảm động lệ vỡ tràn mi, ôi thân con dịu huyền như thế, chính con không hiểu vì Ngài thương con.
Ôi thân chúng ta dịu huyền như thế, chính chúng ta không hiểu nhưng chỉ nhờ ánh sáng Lời Chúa chúng ta mới hiểu. Ước gì mỗi người chúng ta một khi đã hiểu thì cũng biết dâng tặng cho Chúa món quà của yêu thương để mang lại niềm vui và hạnh phúc cho mình, gia đình và cho tha nhân nhờ ánh sáng cuộc sống thánh và thiện của người Kitô chúng ta. Amen.
126.Ánh sao của Lòng Thương Xót--Lm. Joshepus Quang Nguyễn
Lúc 12g trưa 25-12 Đại lễ Mừng Chúa Giáng Sinh, Đức Thánh Cha Phanxicô đã công bố Sứ điệp Giáng sinh cùng với Phép lành Urbi et Orbi. Đức Thánh Cha nói rằng: “Chúng ta hãy mở lòng ra đón nhận ân sủng trong ngày hôm nay, là chính Đức Kitô. Chúa Giêsu là “ngày” rực rỡ xuất hiện nơi chân trời của nhân loại. Một ngày của lòng thương xót, ngày mà Thiên Chúa Cha chúng ta đã mặc khải lòng nhân từ vô biên của Ngài cho toàn thế giới. Một ngày của ánh sáng, xua tan bóng tối của sợ hãi và âu lo. Một ngày của hoà bình, ngày để gặp gỡ, đối thoại, và trên hết, để hoà giải. Một ngày của niềm vui: một “niềm vui lớn lao” cho người nghèo, người thấp hèn và cho tất cả mọi người”. Cho tất cả mọi người bất luận lương hay giáo.
Qủa thế, trong bài đọc 1 Tiên tri Isaia khẳng định với dân Do thái xưa và chúng ta hôm nay rằng: “Bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của ĐỨC CHÚA như bình minh chiếu toả trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi ĐỨC CHÚA như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi. Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước” (Is 60,1-3). Rồi hôm nay, ba Vua trên đường tìm đến thờ lạy Chúa Cứu Thế Giáng Sinh. Ba Vua là những người phương xa, không có Đạo. Các Ngài tìm đến Chúa theo ánh sáng của ngôi sao lạ, ánh sáng của Lòng Thương Xót Chúa. Theo ánh sao, các Ngài đến được Giêrusalem và ánh sáng của Lời Chúa các Ngài đã đến gặp được Chúa Giêsu, dung nhan của Lòng Thương Xót đang nằm trong máng cỏ. Vâng, chính Đức Giêsu là ngôi sao của Lòng Thương Xót Chúa dẫn tất cả chúng ta, mọi nước mọi dân đi vào một con đường mới, con đường chói ngời ngọn lửa đức mến là lòng thương xót. Qủa thế, trong bài đọc 2, Thánh Phaolô quả quyết: “Trong Đức Ki-tô Giê-su và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (Ep 3,6).
Ngày nay có rất nhiều người đang tìm đến Lòng Thương Xót Chúa. Nhiều người muốn biết Chúa Giêsu Kitô để theo Ngài. Nhưng họ không biết đường biết hướng. Cũng như ba Vua, họ cần có những ánh sao của Lòng Thương Xót soi đường dẫn lối. Nhưng ngày nay Chúa không còn dùng ngôi sao xuất hiện trên trời, nhưng muốn mỗi người chúng ta trở thành một vì sao soi của Lòng Thương Xót dẫn mọi người đến với Chúa. Để là ngôi sao của Lòng Thương Xót trước hết và trên hết chúng ta phải có ánh sáng Lòng Thương Xót mà chúng ta nhận tự nơi Thiên Chúa qua Chúa Giêsu, chính là Lời và hành động của Ngài, có nghĩa là trở nên đồng hình đồng tư tưởng, lời nói và việc làm với Ngài. Người Kitô hữu chỉ sống, làm chứng và loan báo Lòng Thương Xót khi chính cuộc sống của chúng ta có Lòng Thương Xót của Chúa tức là “Hãy thương xót như Chúa Cha”.
Trong Tông Sắc Dung Nhan Lòng Thương Xót, Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng: “Chúa Giê-su đã xác định rằng, Lòng Thương Xót không phải chỉ là một nét đặc trưng nơi hành động của Thiên Chúa. Nói cho đúng hơn, Lòng Thương Xót còn là tiêu chuẩn, mà nhờ đó người ta nhận ra những ai thực sự là con Thiên Chúa. Như vậy, chúng ta được kêu gọi để thực thi Lòng Thương Xót, bởi chính Lòng Thương Xót cũng đã được biểu lộ với chúng ta rồi. Để thực thi lòng thương xót, chúng ta hãy nghe Lời của Chúa Giê-su, Đấng đã làm cho Lòng Thương Xót trở thành một lý tưởng sống cũng như trở thành tiêu chuẩn cho sự chính xác nơi việc làm chứng của Đức Tin chúng ta: “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5,7)” (số 9§3). Xót thương người đó là cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, cho khách đỗ nhà, viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc, chôn xác kẻ chết, chuộc kẻ làm tôi, lấy lời lành mà khuyên người, dậy dỗ kẻ mu muội, yên ủi kẻ âu lo, răn bảo kẻ có tội, tha kẻ dể ta, nhịn kẻ mất lòng ta, cầu cho kẻ sống và kẻ chết. Những hành vi thương xót này chính là ánh sáng chiếu soi người ta nhận ra chúng ta là môn đệ và Đạo Chúa một cách nhanh nhất và hữu hiệu nhất, đó là phương thế Chúa Giêsu đã dạy: “cứ dấu này mà người ta nhận biết Chúa là anh em thương xót nhau”. Chân Phước Mẹ Têrêxa Calcutta không phải là nhà thần học lỗi lạc, không phải là giảng thuyết hùng hồn rao giảng về Đạo Chúa, Mẹ chỉ là một bà Nữ tu đơn sơ, khó nghèo, lận lội leo neo lang thang trên đường phố tìm kiếm những người nghèo, bệnh tật ốm đau, những người bị bỏ rơi, những người khuyết tật khốn khổ, những người thân tàn ma dại, những người sắp chết để chăm sóc, yêu thương, an ủi và phục vụ họ đến hơi thở cuối cùng. Những cử chỉ yêu thương của Mẹ đã chiếu tỏa ánh sáng tình yêu thương xót của Chúa một cách hùng hồn và nhanh nhất cho mọi người không chỉ trên đất nước Ấn độ mà cả thế giới.
Ước gì qua Lời Chúa, nhờ Mình và Máu Chúa mà chúng ta sắp rước lấy, xin Chúa cho chúng ta can đảm đẩy lui bóng tối của hận thù, ghen ghét, kỵ thị và bất công. Đồng thời biết giữ gìn ngọn lửa thương xót mà Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con để từng phút giây của cuộc sống biết thương xót nhau ngõ hầu khắp nơi trong gia đình, giáo xứ, Giáo phận, Giáo hội và xã hội ngập tràn ánh sáng tình yêu thương xót của Con Thiên Chúa giáng sinh. Amen.
127.Ánh sao của sẻ chia và đồng hành--Lm. Joshepus Quang Nguyễn
Trong Sứ điệp Giáng sinh năm nay, Đức Thánh Cha nói rằng như các mục tử, những người đầu tiên chạy đến hang đá, chúng ta cũng ngạc nhiên trước dấu chỉ mà Thiên Chúa đã ban. Hài Nhi được Đức Trinh Nữ Maria sinh ra cho chúng ta, đã nói gì với chúng ta? Đó là Thiên Chúa là Người Cha tốt lành luôn đồng hành và sẻ chia thân phận với chúng ta vì vậy tất cả chúng ta là anh em của nhau. Vì thế, chúng ta hãy mở lòng ra đón nhận ân sủng trong ngày hôm nay, là chính Đức Kitô. Chúa Giêsu là “ngày” rực rỡ xuất hiện nơi chân trời của nhân loại. Một ngày của tình yêu Thiên Chúa thể hiện, ngày mà Thiên Chúa Cha chúng ta đã mặc khải lòng nhân từ vô biên của Ngài cho toàn thế giới. Một ngày của ánh sáng, xua tan bóng tối của sợ hãi và âu lo. Một ngày của hoà bình, ngày để gặp gỡ, đối thoại, và trên hết, để hoà giải. Một ngày của niềm vui: một “niềm vui lớn lao” cho người nghèo, người thấp hèn và cho tất cả mọi người.
Qủa thế, Lời Chúa trong bài đọc 1, Tiên tri Isaia khẳng định với dân Do thái xưa và chúng ta hôm nay rằng: “Bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của ĐỨC CHÚA như bình minh chiếu toả trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi ĐỨC CHÚA như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi. Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước” (Is 60,1-3). Rồi hôm nay, ba vua trên đường tìm đến thờ lạy Chúa Cứu Thế Giáng Sinh. Ba vua là những người phương xa, không có Đạo, các Ngài tìm đến Chúa theo ánh sáng của ngôi sao lạ, đó là ánh sáng của tình yêu cứu độ của Thiên Chúa luôn đồng hành và sẻ chia. Vâng, chính Đức Giêsu là ngôi sao của tình yêu Thiên Chúa luôn sẻ chia và đồng hành dẫn tất cả chúng ta, mọi nước mọi dân đi vào một con đường mới, con đường chói ngời ngọn lửa đức mến và sẻ chia để rồi đến bến bờ bình an, hạnh phúc và sự sống đời đời. Như Lời Chúa trong bài đọc 2, Thánh Phaolô quả quyết: “Trong Đức Ki-tô Giê-su và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (Ep 3,6).
Cho nên, khi thấy được vì sao của Chúa Giêsu xuất hiện, các nhà Đạo sĩ chuẩn bị lễ vật và hăm hở đăng trình đến để sẻ chia với vị Vua mới ra đời. Các ông lên đường với một cuộc hành trình mang tính cách phiêu lưu, tiến tới một nơi vô định nhưng có ánh sao đồng hành dẫn lối cho các ông đi. Tin Mừng cho thấy cũng đã có lúc không còn ánh sao nữa và các ông đã phải hỏi thăm về nơi các ông phải tới với những người không quen, người ta không biết nhưng khi mở Thánh Kinh, tức Lời Chúa đồng hành dẫn lối các ông đến Belem gặp được Chúa Hài Nhi, các ông đã sấp mình thờ lạy, và dâng lễ vật với lòng hân hoan toại nguyện. Các nhà đạo sĩ chia sẻ với vua Giêsu bằng những lễ vật dâng tiến: vàng, nhũ hương và mộc dược. Vàng để chỉ Hài Nhi Giêsu là vua, nhũ hương để chỉ Hài Nhi Giêsu là Chúa và mộc dược để chỉ đến cái chết đau khổ của Hài Nhi Giêsu sau này.
Chúng ta hôm nay được Chúa thương cứu độ và đồng hành, vậy hãy mau mắn đến với Chúa Hài Nhi để chia sẻ với Ngài bằng việc dâng những lễ vật của chúng ta: Trước hết là vàng, đó là lòng yêu mến chân thật của chúng ta, một lòng yêu mến tinh ròng, cao cả và mãnh liệt như lời Ngài đã xác định: “Hãy kính mến Thiên Chúa hết tâm hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi”. Vàng đây cũng chính là đức tin trung kiên của chúng ta, không vì một lý do, một hoàn cảnh nào làm chao đảo hay lung lay để rồi đi đến chỗ phản bội, tội lỗi hay tuyệt vọng. Tiếp đến, chúng ta hãy dâng sẻ chia cho Chúa nhũ hương, đó chính là tâm tình thờ lạy của chúng ta đối với Thiên Chúa trong Đức Kitô. Thực vậy, trong những nghi thức phụng vụ, nhũ hương thường được dùng khi đọc Phúc âm, khi dâng Mình Thánh, khi chầu Thánh Thể. Qua hình ảnh nhũ hương chúng ta tìm thấy một niềm tin tưởng mãnh liệt vào bản tính Thiên Chúa của Đức Kitô. Đây không phải là một niềm tin tưởng có tính cách giáo điều hay lý thuyết mà là một niềm tin tưởng sống động và mãnh liệt, vì Đức Kitô là Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta và trở nên lương thực nuôi sống linh hồn chúng ta qua Bí tích Thánh Thể, cũng như đang giảng dạy chúng ta qua lời Ngài trong Phúc âm. Nhũ hương còn là những lời kinh cầu nguyện của chúng ta, như thánh vịnh đã viết: “Lạy Chúa, xin cho lời con nguyện cầu tựa hương thơm bay lên tôn nhan Chúa”. Sau cùng chúng ta hãy chia sẻ cho Chúa Hài Nhi là dâng mộc dược, đó là niềm tin tưởng vào Đức Kitô bị đóng đinh, mà bây giờ được tái diễn qua thánh lễ dâng trên bàn thờ, mộc dược còn là những hy sinh trong cuộc sống: hãy chấp nhận những khổ đau vì lòng yêu mến Chúa và bấy giờ những đau khổ của chúng ta sẽ góp phần vào những đau khổ của Đức Kitô để làm chứng cho Chúa.
Ba nhà đạo sĩ đã đồng hành với nhau đến thờ lạy Chúa dù có gặp khó khăn trăm bề nhưng vượt qua tất cả vì “một cây làm chẳng nên non, cây chụm lại nên hòn núi cao”. Trong đời sống đức tin chúng ta cũng vậy, là Kitô hữu chúng ta hãy đồng hành bên nhau còn để nâng đỡ, nương tựa và dìu nhau mà tiến bước, như Kinh Tin Kính, dẫu tín hữu tuyên xưng mang tính cá nhân “Tôi tin”, nhưng không là đơn độc một mình giữa nhà thờ trống vắng mà là giữa cộng đoàn Phụng Vụ một ngày lễ trọng, nên bỗng lấp lánh như thể đồng thanh tuyên tín “Chúng tôi tin”. Tôi và chúng ta chỉ là những cách biểu lộ khác nhau của cùng một niềm tin đón nhận đồng hành với nhau trong hành trình đức tin này.
Ước gì qua Lời Chúa của lễ Hiển Linh hôm nay, xin Chúa cho chúng ta nhận ra rằng hành trình đức tin của chúng ta luôn có Chúa tỏ mình qua việc sẻ chia và đồng hành với chúng ta, chúng ta hãy tiếp nhận hồng ân Thiên Chúa, biết chấp nhận thử thách và biết đón nhận đồng hành sẻ chia của Chúa để đời sống đức tin của chúng ta sống động, mạnh mẽ và chân thật. Vậy, khi chúng ta được Chúa tỏ mình như thế, chúng ta cũng cần lên đường chia sẻ, đồng hành và gặp gỡ những người chưa biết Chúa, nhất là những gia đình đang gặp khó khăn để giới thiệu Hài Nhi Giêsu cho họ để họ biết và đón nhận Hoàng Tử bình an vào trong cuộc của họ, Ngài sẽ làm cho họ bình an như chúng ta. Amen.
128.Lễ Hiển Linh--Lm. Anthony Trung Thành
Theo dòng lịch sử cứu độ, Thiên Chúa luôn tỏ mình ra cho con người. Ngài tỏ mình ra nhằm mục đích cho con người biết ý định của Ngài, là muốn cho con người được tham dự vào sự sống đời đời của Ngài.
Nhiều lần Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho con người bằng lời nói: Ngài nói với ông Mô-sê, nói với các tiên tri. Sau đó, Mô-sê và các tiên tri nói lại với dân chúng. Chẳng hạn, Ngài nói với Mô-sê về ý định của Ngài là muốn đưa dân Is-ra-en thoát khỏi ách nô lệ Ai-cập để về Đất Hứa. Mô-sê đi nói điều đó cho dân chúng biết (x. Xh 6,1-13).
Nhiều lần Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho con người bằng hành động: Chẳng hạn, Ngài cho nước Biển đỏ dựng đứng như bức tường thành để dân Is-ra-en đi qua (x. Xh 14, 15-31) hay cho mưa diêm sinh và lửa từ trời thiêu đốt thành Xơ-đôm và Gô-mô-ra vì tội lỗi của họ (x. St 19,1-29)…
Ngài còn tỏ mình ta theo từng giai đoạn khác nhau của lịch sử cứu độ: Vào năm 1850 (TCN), Ngài tỏ mình ra cho ông Áp-ra-ham và thử lòng trung thành của ông qua việc đòi ông hiến tế đứa con duy nhất là I-xa-ác. Ông Áp-ra-ham đã vâng nghe và làm đúng như lời Thiên Chúa, nhưng được Thiên thần can ngăn. Thấy được lòng trung thành của ông, nên Thiên Chúa hứa sẽ ban cho ông một dân tộc, một dòng dõi đông đúc như sao trên trời và như cát ngoài bãi biển (x. St 22,1-19); vào năm 1250 (TCN), Ngài tỏ mình ra cho ông Mô-sê qua bụi cây bốc cháy và cho ông biết Ngài là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, I-xa-ác, Gia-cóp, tổ phụ người Do Thái và ý định của Ngài là đưa dân Ít-ra-en ra khỏi ách thống trị nô lệ Ai-cập (x. Xh 3, 1-22); vào năm 1000 (TCN), qua Na-than, Thiên Chúa hứa với vua Đa-vít rằng Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra trong dòng dõi của ông (x. 2Sm 7,11-16); từ năm 721 (TCN), Thiên Chúa tiếp tục nói với dân chúng qua các tiên tri như I-sai-a, A-mốt, Hô-sê, Giê-rê-mi-a, Ê-dê-ki-en…; Cuối cùng, Thiên Chúa tỏ mình ra cách trọn vẹn nơi Đức Giêsu Ki-tô. Vì thế, ngày lễ Giáng sinh là ngày Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân Do Thái. Chính các Thiên thần báo tin cho các mục đồng rằng: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa.” (Lc 2,11). Còn ngày lễ Hiển linh mà chúng ta mừng kính hôm nay gọi là ngày lễ Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại qua ngôi sao dẫn đường. Rồi, ông Si-mê-on nhận ra trẻ Hài nhi là Đấng Cứu Thế nhờ Thánh Thần linh hứng (x. 2,22-28). Bà An-na cũng được ơn nói tiên tri về Hài Nhi cho mọi người (x. Lc 2,36-38).
Trong ba năm đời sống công khai, Đức Giêsu cũng tỏ mình ra cho các môn đệ và dân chúng bằng lời nói và các phép lạ Ngài làm. Ngài cho biết: Ngài là ai? Thiên Chúa là Đấng nào? Thiên Chúa có mấy ngôi? Nhiệm vụ của từng Ngôi như thế nào? Ngài còn mạc khải cho biết nhiều điều liên quan đến Thiên Chúa, đến thế giới thiêng liêng, đến số phận đời đời của con người và vũ trụ này. Sau ba năm đời sống công khai, Ngài đã chịu chết, sống lại và lên trời. Đến ngày tận cùng của thế giới, Ngài lại ngự đến để phán xét kẻ sống và kẻ chết.
Như vậy, nếu không có những lần Thiên Chúa tỏ mình ra, nếu không có Đức Giêsu mặc khải thì con người sẽ không biết Thiên Chúa là ai, ý định của Ngài như thế nào. Cũng vậy, các mục đồng sẽ không biết Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế nếu không được các Thiên thần loan báo. Các đạo sỹ cũng không biết Đức Giêsu nếu không có ngôi sao dẫn đường chỉ lối. Các tông đồ sẽ không biết về Thiên Chúa và các phẩm tính của Ngài nếu Đức Giêsu không mạc khải cho họ. Mỗi người kitô hữu chúng ta sẽ không biết Đức Giêsu Ki-tô nếu Giáo hội, cha mẹ, thầy cô giáo lý viên…không dạy dỗ chúng ta. Những người ngoại giáo sẽ không biết về Đức Giêsu Ki-tô nếu người kitô hữu không nói cho họ biết.
Vì thế, ngày hôm nay, Thiên Chúa vẫn muốn tiếp tục tỏ mình ra cho nhân loại qua trung gian các kitô hữu. Ngài tỏ mình ra qua lời nói và hành động của chúng ta. Chúng ta có thể giới thiệu về Chúa bằng lời nói như Thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê đã làm. Chúng ta có thể giới thiệu về Chúa bằng việc làm bác ái yêu thương như Mẹ Tê-rê-xa Cal-cut-ta đã làm. Trong bài đọc I hôm nay, ngôn sứ I-sai-a mời gọi chúng ta “Hãy tỏa sáng ra” (Is 60,1). Chúng ta hãy “tỏa sáng” giáo huấn của Đức Giêsu cho hết thảy mọi người: hãy tỏa sáng tình thương tới những nơi có oán ghét hận thù; hãy tỏa sáng sự thứ tha tới những nơi có khinh khi nhục mạ; hãy tỏa sáng sự hòa giải tới những nơi đang có mâu thuẫn bất đồng; hãy tỏa sáng chân lý tới những nơi có giả dối sai lầm; hãy tỏa sáng đức tin tới những nơi đang có hoàn nghi ngờ vực; hãy tỏa sáng niềm hy vọng tới những nơi đang có nản chí sờn lòng; hãy đem ánh sáng vào những nơi đang có bóng tối mây mù; hãy tỏa sáng niềm an vui vào những nơi đang có u sầu buồn bã.
Làm được như vậy, mọi người sẽ nhận biết Thiên Chúa là Đấng nào hay ít nữa là họ biết chúng ta là con cái của Ngài. Câu chuyện sau đây làm chứng cho chúng ta thấy điều đó: Một buổi tối lạnh lẽo trong kỳ nghỉ lễ, có một cậu bé độ sáu bảy tuổi đứng bên ngoài một tủ kính bầy hàng của một cửa hiệu. Cậu bé không có giầy, quần áo thì rách rưới bẩn thỉu.
Một phụ nữ đi ngang qua và chợt nhìn thấy cậu bé. Bà đọc thấy được một niềm mong ước trong đôi mắt xanh xao của em. Bà cầm tay em dắt vào cửa hiệu, rồi mua cho em một đôi giầy mới, một bộ đồ mới ấm áp.
Sau đó, cả hai đi ra khỏi cửa hiệu và người phụ nữ nói với cậu bé: “Bây giờ về nhà, chúc cháu hưởng một kỳ lễ vui vẻ.” Cậu bé ngước nhìn bà và hỏi: “Bà có phải là Thượng Đế không?” Người phụ nữ mỉm cười và trả lời: “Không phải đâu cháu, ta chỉ là một trong những người con của Ngài mà thôi.” Bấy giờ cậu bé mới reo lên: “Cháu biết là thế nào bà cũng phải có họ với Thượng Đế mà.” (Bài viết có sử dụng dữ liệu trên Internet).
Ước mong rằng lời nói và việc làm của chúng ta giúp người khác nhận ra Thiên Chúa. Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, vì yêu thương nhân loại chúng con nên Chúa đã tỏ mình ra cho chúng con nhận biết Chúa. Xin cho chúng con luôn tin yêu Chúa. Xin cho chúng con biết dùng lời nói và việc làm để giới thiệu về Chúa cho anh chị em mình. Amen.
129.Lễ Hiển Linh--Lm. Anthony Trung Thành
Hôm nay chúng ta cùng với Giáo hội mừng lễ Chúa Hiển Linh. Hiển linh có nghĩa là Thiên Chúa tỏ mình ra.
Đây là biến cố Thiên Chúa tỏ mình ra cho các nhà chiêm tinh. Qua bài Tin mừng Thánh Mathêu còn cho chúng ta biết, trên hành trình tìm Chúa của các nhà chiêm tinh còn có ánh sao lạ, vua Hêrôđê, các thượng tế, các kinh sư và những người Do Thái. Mỗi nhân vật đều phản ánh cuộc sống của con người qua mọi thời đại và có lẽ phảng phất hình ảnh của mỗi người chúng ta.
1. Hình ảnh các nhà chiêm tinh?
Các nhà chiêm tinh hay còn gọi là Ba Vua. Họ là thành phần thuộc dân ngoại. Chắc chắn cuộc sống của họ có đầy đủ mọi thứ vật chất, nhưng họ luôn cảm thấy trống vắng về đời sống tâm linh, họ khát khao chân lý. Khát khao của họ cũng là khát khao của con người qua mọi thời đại. Nhưng có điều đáng trân quý nơi các nhà chiêm tinh, đó là họ biết tìm kiếm chân lý, trong khi rất nhiều người khát khao chân lý nhưng không cố gắng đi tìm. Nhờ lòng khát khao và nhờ quyết tâm đi tìm kiếm chân lý nên các nhà chiêm tinh đã nhận ra “ánh sao lạ”. Theo họ, “ánh sao lạ” là dấu chỉ của vị vua mới sinh ra. Họ đã vội vã khăn gói lên đường. Sau cuộc hành trành dài đầy khó khăn vất vả, họ đã gặp được Đấng Cứu Thế. Họ thờ lạy và tiến dâng Ngài: Vàng, Nhũ Hương và Mộc Dược.
Sau khi gặp Hài Nhi Giêsu, họ không trở lại với Hêrôđê nhưng đi lối khác mà về xứ sở mình(x. Mt 2,12). Không trở lại với Hêrôđê tức là không trở lại con đường cũ, con đường qúa khứ tội lỗi. Đi lối khác có nghĩa là thay đổi nếp sống tốt hơn. Tương truyền cho rằng, sau này họ trở thành những vị tông đồ loan báo Tin mừng cho nhiều dân nước.
Qua ánh sao lạ, các nhà chiêm tinh đã nhận ra Chúa Hài Nhi. Qua Lời Chúa, qua các bí tích, qua những người nghèo khổ, những người già cả neo đơn, bệnh tật…chúng ta có nhận ra sự hiện diện của Chúa không? Sau khi gặp gỡ Chúa, các nhà chiêm tinh đã thay đổi đời sống tốt hơn. Bao nhiêu lần chúng ta gặp gỡ Chúa qua các bí tích nhất là bí tích Giao hòa và bí tích Thánh Thể, đời sống đạo của chúng ta hiện nay như thế nào, có tốt hơn không?
2. Hình ảnh Ngôi Sao?
Là vật vô tri vô giác nhưng ngôi sao lạ đã được nhân cách hóa và đóng một vai trò hết sức quan trọng trong hành trình tìm Chúa của các nhà chiêm tinh, đó là vai trò dẫn đường cho họ đến gặp Chúa Hài Nhi. Ngày hôm nay, vẫn còn đó rất nhiều người chưa biết Chúa, chưa biết Đức Kitô là ai? Đạo công giáo là gì? Thánh Phaolô mời gọi chúng ta: “Anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời”(Pl 2,15). Ngôi sao thì phải chiếu sáng. Chúng ta hãy là ngôi sao chiếu sáng để dẫn đường cho mọi người đến với Chúa. Bề trên là ánh sao dẫn đường cho bề dưới. Cha xứ là ánh sao dẫn đường cho giáo dân. Thầy cô giáo lý viên là ánh sáng dẫn đường cho học sinh. Cha mẹ là ánh sáng dẫn đường cho con cái. Vợ chồng là ánh sáng dẫn đường cho nhau. Người kitô hữu là ánh sáng dẫn đường cho lương dân. Chúng ta không chỉ chiếu sáng bằng những kiến thức học được từ các lớp Giáo lý mà cần phải chiếu sáng bằng chính đời sống đạo của chúng ta. Chiếu sáng về đời sống công bằng bác ái yêu thương. Chiếu sáng về đời sống đức tin, cậy, mến. Chiếu sáng về việc tôn trọng sự sống. Chiếu sáng về đời sống thuỷ chung. Chiếu sáng về niềm hy vọng vào sự sống đời sau. Chiếu sáng về lòng thương xót của Chúa cho mỗi người chúng ta gặp gỡ hằng ngày.
3. Hình ảnh Vua Hêrôđê?
Vua Hêrôđê là một bạo chúa, ông đã giết vợ là Mariamne và giết cả bốn đứa con trai của mình là: Anlexandra, Antipater, Alexander và Aristobulus. Với chủ trương “giết nhầm hơn bỏ sót”, cho nên hễ nghi ngờ ai có thể làm lung lay ngai vàng của ông thì ông quyết tâm giết cho bằng được. Chính vì lý do đó, cho nên khi các nhà chiêm tinh đến hỏi: "Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người," thì vua Hêrôđê tỏ hết sức ngạc nhiên(Mt 2, 2). Ông liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu (x. Mt 2, 4-6). Họ cho biết: “tại Bê-lem, miền Giuđê”. Ông bí mật phái các nhà chiêm tinh đi tìm và bảo họ khi tìm được phải báo lại cho nhà vua biết để vua cũng đến thờ lạy Người. Ông nói thế không phải để gặp và thờ lạy Người nhưng là để tìm cách giết Người. Bằng chứng là sau khi không thấy các nhà chiêm tinh quay lại, nhà vua đã ra lệnh giết tất cả các con trẻ từ hai tuổi trở xuống ở Bêlem và các vùng phụ cận.
Hình ảnh của vua Hêrôđê cũng là hình ảnh của rất nhiều người trong xã hội qua mọi thời đại. Đó là những người cha người mẹ vì ích kỷ mà tàn nhẫn giết chết những đứa con chưa mở mắt chào đời. Đó là những cá nhân, tập thể vì lợi ích của phe nhóm cho phép phá thai dưới nhiều hình thức khác nhau. Đó là nạn buôn bán, bạo hành, xâm hại tình dục và muôn vàn tội ác khác người lớn gây ra cho trẻ em, không cho chúng sống đúng với nhân phẩm, sống đúng với một con người.
4. Hình ảnh các thượng tế, các kinh sư và những người Do Thái
Họ thuộc dân riêng Chúa chọn. Họ thông hiểu Kinh Thánh. Họ biết vị vua mới sinh ra ở đâu. Nhưng họ không chịu tiếp nhận. Họ không chịu đi tìm. Đúng như Tin mừng theo Thánh Gioan: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận”(Ga 1,11).Ngày hôm nay vẫn có rất nhiều người am hiểu kiến thức Kinh Thánh, kiến thức giáo lý nhưng họ không gặp được Chúa, họ không tin Chúa. Đó là những những cán bộ cộng sản phụ trách về vấn đề tôn giáo. Đó là những người chỉ tìm hiểu Kinh thánh để làm luận án luận văn. Thực tế cho thấy có những người dự tòng học giáo lý rất giỏi, điểm thi rất cao nhưng họ chỉ học để lấy vợ lấy chồng chứ họ không sống đạo. Thậm chí, con em trong giáo xứ chúng ta tham gia học giáo lý rất đông, nhưng các giờ kinh lễ ở nhà thờ lại rất ít. Như vậy, có sự chênh lệch rất lớn giữa học và hành, giữa biết và mến. Người ta thường nói “Vô tri bất mộ”, không biết thì không mến đó là điều thiệt thòi lớn cho con người, nhưng nếu biết mà không mến thì lại là một điều tệ hại hơn.
Chúng ta vừa lướt qua các nhân vật mà Thánh Mathêu đề cập trong đoạn Tin Mừng hôm nay. Mỗi chúng ta thử kiểm điểm xem nhân vật nào có mặt trong đời sống của tôi: Các nhà chiêm tinh? Ánh sao dẫn đường? Vua Hêrôđê? Các thượng tế, các kinh sư và những người Do Thái? Nếu tôi giống Hêrôđê: hãy thống hối ăn năn tội ác đã gây ra, hãy loại bỏ tính tham quyền cố vị, sự độc ác nhẫn tâm ra khỏi con người của mình. Nếu tôi giống các thượng tế, các kinh sư và những người Do Thái: hãy đưa những kiến thức đã học được áp dụng vào đời sống đạo. Hãy luôn đi tìm Chúa và khát khao gặp Ngài như các nhà Chiêm tinh. Hãy là ánh sao dẫn đường cho mọi người đến với Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin tha thứ cho chúng con vì có những lúc chúng con vẫn là hiện thân của các thượng tế, các kinh sư và những người Do Thái, thậm chí là một Hêrôđê độc ác. Xin giúp chúng con luôn khát khao đi tìm Chúa như các nhà chiêm tinh. Xin giúp chúng con trở thành những ánh sao yêu thương, công bằng, tha thứ…để dẫn đường cho nhiều người trở về với Chúa. Amen.
130.Một chút quà dâng tiến Hài Nhi--Lm Nguyễn Khoa Toàn
Câu chuyện về ba đạo sĩ vượt đường xa vạn dặm dậng tiến Chúa Hài Nhi vàng, mộc dược và nhũ hương chỉ được ghi lại qua thánh Matthêo. Cả ba quà tặng qúy giá kia tượng trưng toàn bộ đời sống con nguời về vật chất và cả về tâm linh phải được nhìn qua lăng kính của những người khách lạ rất khôn ngoan đến từ phương Đông. Ngày xưa, và ngay cả ngày nay cũng thế, phương Đông tượng trưng cho những gì lạc hậu, chậm tiến và nhất là lạc giáo.
Lễ Ba Vua là dịp cảnh tỉnh những người nặng đầu óc cục bộ chủ quan chỉ môi miệng hào nhoáng thờ phượng Thiên Chúa nhưng lòng dạ lại dẫy đầy những tính toán vật chất thế trần. Đây cũng là cơ hội để chúng ta khiêm cung nhận chân tinh thần đạo đức và lòng bác ái vị tha nơi các tôn giáo khác cũng như truyền thống văn hoá từ những dân tộc, quốc gia trên khắp cùng thế giới.
Soren Kierkegaard, trong "Only a Rumor" viết rằng dẫu cho những đại giáo trưởng và luật sĩ đã có thể biết đích xác ngày giờ và nơi chốn Con Thiên Chúa giáng lâm, họ đã không buồn theo bước ba đạo sĩ phương Đông. Có thể chúng ta cũng thế! Lắm khi chúng ta thông suốt ngọn nguồn điều răn giáo lý, thuộc nằm lòng từng chữ từng kinh nhưng vẫn không buồn lê buớc có lẽ vì đôi chân đã chĩu nặng những phấn bụi đường đời!
Thật là một nghịch lý khôn cùng, Kierkegaard chua chát nhận xét. Ba Vua chỉ mới nghe đồn thôi mà họ đã vội vã ra đi, còn những nhà thông thái kia vẫn không một mảy may biến động. Và ai sẽ tìm đuợc chân lý? Những người khách lạ từ phuơng Đông xa xôi kia? Hay những người địa phương ung dung tự mãn với một chút kiến thức nhỏ nhoi hạn hẹp nơi mình? Và từ những hạn hẹp nhỏ nhoi kia đưa đến một cuộc thảm sát dã man thương tâm nhất trong lịch sử con người.
Ngay từ lúc mới mở mắt chào đời, Hài Nhi Giêsu đã hiểu đuợc rằng từ đây số phận Người đã gắn chặt cùng những kẻ khốn cùng nhất trong những kẻ khốn cùng. Những em bé thơ ngây trong trắng thành Bêlem đã là những thánh tử đạo tiên khởi của toàn nhân loại chỉ vì Thiên Chúa, ngay từ giây phút đầu tiên nhập thể, đã thách thức những quyền thần thế lực dương trần.
Hành động kinh khiếp kia của Hêrôđê nhắc nhở rằng suốt cuộc đời của Chúa Giêsu từ hang Bêlem âm u đến đồi Golgotha trống vắng, Người đã thở hơi đầu tiên với bò lừa và đã trút hơi thở cuối cùng bên hai tên tử tội. Và vì Hêrôđê, Người đã đồng hoá cùng những người phải lìa bỏ quê cha đất tổ vì bạo chúa bạo quyền. Người đã tha phuơng cầu thực nên những đau đớn họ đã tủi nhục kinh qua, Người đã sống, đã từng...
Joy Carroll Wallis đã viết là quyền uy và tình thương của Thiên Chúa đã biểu hiện thật tận cùng trong những kẻ đói nghèo nhưng rất khao khát tự do hoà bình công lý. Trong những kẻ đói nghèo kia, có hàng triệu triệu nguời tỵ nạn. Và những thuyền nhân mang hai chữ Việt Nam. Hãy đừng mặc cảm tự ti về thân phận và danh xưng tỵ nạn của mình, nhưng hãy hãnh diện với tước hiệu rơm rác kia, vì chính rơm rác cùng các mục đồng và ba đạo sĩ phương Đông đuợc gần Chúa Hài Nhi trước nhất. Và đó cũng là món quà hiếm quý nên dâng tiến lên Đấng Cứu Tinh.
131.Chú giải của Fiches Dominicales
BỊ DÂN NGƯỜI TỪ CHỐI KHI MỚI SINH RA,
ĐỨC GIÊSU ĐƯỢC DÂN NGOẠI TIN NHẬN
LÀ VUA KHẮP THIÊN HẠ
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Đọc lại dưới ánh sáng Phục sinh...
Luca đã thuật lại việc các mục đồng đến viếng thăm hang đá, bài tường thuật ấy ăn nhịp với quan điểm lựa chọn người nghèo của ông. Về phần Matthêu, ông này kể lại chuyến thăm viếng của các vị Đạo sĩ, bởi ngay từ những trang đầu của Tin Mừng, họ đại diện cho những vùng đất xa xôi mà Đấng Phục Sinh sẽ sai các môn đệ đến, trong lần gặp gỡ cuối cùng ở Galilê: "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành Môn đệ... " (Mt 28,19).
Bên dưới cái bề ngoài có vẻ ngây ngô trẻ con kia, đoạn Tin Mừng về các vị Đạo sĩ rất quen thuộc này thực ra đã được hình thành một cách tài tình, bằng một thứ nghệ thuật ngôn ngữ biểu tượng hoàn hảo, và chứa đầy những ẩn dụ của Cựu Ước mà nó hoàn tất: dưới ánh sáng của Phục sinh, tác giả Tin Mừng đã tìm về nguồn gốc lai lịch của Đức Giêsu, cho chúng ta khám phá thấy dưới dạng còn mới tiềm ẩn, những gì rồi đây sẽ hiện tỏ trọn vẹn trong cuộc đởi và biến cố vượt qua của Người.
A. Marchadour lưu ý chúng ta: "Tác giả Kinh Thánh, không cố bận tâm về tính xác thực lịch sử như chúng ta ngày nay, là những kẻ đầu óc mang nặng chủ nghĩa thực nghiệm. Nên nhớ tất cả những trình thuật về thời thơ ấu của Chúa đều được biên soạn từ các dữ kiện xảy ra về sau, được đưa vào muộn màng sau này. Phải đọc lại quá khứ dưới ánh sáng của hiện tại, tầm quan trọng của Kinh Thánh như là những "Lời tiên tri”, vẻ huy hoàng của biên cố vượt qua, tất cả đều tỏ cho thấy căn tính đích thực của Đức Giêsu. Tất cả cho phép chúng ta hiểu rằng các trình thuật thơ ấu đều đã được viết lại và tính xác thực lịch sử không phải là bận tâm hàng đầu của tác giả Kinh Thánh" (Les dossiers de la Bible, số 44, tr.5).
2. Một tường thuật sử dụng ý nghĩa biểu tượng của những đối lập:
Người đọc dễ dàng nhận ra được ngay hai phía đối lập nhau:
1. Phía thứ nhất có khung cảnh là đền thờ Giêrusalem, nơi triều đình của Hêrôđê.
Các Đạo sĩ có thể là những nhà chiêm tinh xứ Babylon, chuyên tìm đọc những bí ẩn của những vì sao - đã lên đường đi Giêrusalem, trái tim của thế giới Do Thái, để đến bái lạy "Đức Vua dân Do Thái”, bởi thấy sao của Người xuất hiện loan báo (c.1 và 2).
- Tuy nhiên, để gặp được Đấng họ tìm kiếm, ngôi sao lạ kia không đủ. Các ông cần đến sự trợ giúp của dân Do Thái và Kinh Thánh của họ.
Khi được các vị đạo sĩ đến hỏi, Hêrôđê và thành phần lãnh đạo tôn giáo ở Giêrusalem quay sang tra cứu các lời sấm liên can đến Đấng Mêsia (c.3 và 6).
Để trả lời cho các vị khách phương xa này, nhóm cầm quyền Do Thái đã chú giải một cách chính xác lời các Ngôn Sứ, nhưng vẫn ở lại trong thành Giêrusalem (c.7 và 8).
2. Phía thứ hai ở tại Bêlem, nơi Đức Vua Giêsu đang chờ đón các vị đạo sĩ.
- Được Kinh Thánh chỉ dẫn lại, các vị đạo sĩ tìm thấy lại ngôi sao lạ. Lần này, nó đưa các ông đến với Đấng Mêsia ở Bêlem (c.9 và 10).
- Đến nơi họ gặp được Chúa Giêsu và sấp mình bái lạy Người, rồi dâng tiến Người những bảo vật quý giá nhất của xứ sở mình, đó là "vàng, nhũ hương và mộc dược" (c.11).
Hêrôđê thì chỉ nuôi những ý đồ giết người, nhưng không thành do sự can thiệp của Thiên Chúa: "được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên các vị đạo sĩ đã đi lối khác mà về xứ mình" (c. 12).
Nếu phân tích kỹ hơn, người ta sẽ phát hiện thấy một bộ ba những cặp đối lập nhau - một lời báo trước về khổ nạn – làm thành cái khung của câu chuyện:
1. Giêrusalem, trung tâm chính trị và tôn giáo, đã khước từ Đấng đến để hoàn tất những lời hứa, đối chọi với Bêlem, nơi hạ sinh của Con Vua Đavid các ngôn sứ từng loan báo.
2. Các đầu mục dân lsrael (các thượng tế và kinh sư hợp thành thượng Hội Đồng, cơ quan thẩm quyền đại diện cho Do Thái giáo) là những kẻ tự cho mình là hiểu biết Kinh Thánh, nhưng lại tỏ ra bất lực không thể ra đi, rời bỏ khỏi nơi ở của mình là Giêrusalem, họ đối chọi với các vị đạo sĩ ngoại giáo đã biết tìm kiếm, lên đường và sau cùng đã tìm thấy. Trong lúc phía bên kia “bối rối, xôn xao" thì phía bên này "mừng rỡ vô cùng”.
3. Hêrôđê, kẻ được tác giả gọi là "vua”, và là kẻ chỉ nơm nớp cho ngai báu của mình, đối chọi với Hài Nhi Bêlem, Đấng thật sự là vua: - Nơi Người đã ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia 60 (bài đọc I), loan báo ngày mà dân ngoại lũ lượt tiến về Giêrusalem, mang theo vô vàn châu báu để triều cống. Nơi Người đã ứng nghiệm lời ngôn sứ Mica 5,1 nói đến Bêlem như là nơi sinh của Đấng Mêsia: "Phần ngươi, hỡi Bêlem, nhỏ bé nhất trong hàng các bộ tộc Giuđa. Chính tự nơi người sẽ xuất hiện cho Ta, Vị có mệnh thống lĩnh Israel”.
Nơi Người đã ứng nghiệm lời tiên tri của Balaam, một người ngoại giáo, trong sách Dân Số 24, báo trước sẽ có một ngày xuất hiện "một ngôi sao mọc lên từ Giacob”.
Như thế, qua nét tinh tế của bố cục và lối viết của mình, câu chuyện đã công bố cho thấy căn tính nhiệm mầu của Đức Giêsu, loan báo sứ mạng của Người, báo trước việc Người sẽ bị những đầu mục của dân Người chối từ, cũng như sự kiện dân ngoại sẽ tìm đến với Hội Thánh. Tắt một lời, nói theo kiểu của Claude Tassin, chúng ta đang có ở đây một thứ "Tin Mừng ở dạng thu nhỏ”.
Được đặt lại trong toàn bộ Tin Mừng của Matthêu, ý nghĩa của đoạn văn sẽ trở nên sáng tỏ. Francois Brossier tóm tắt như sau: "Những kẻ đáng ra phải đón nhận Đấng Mêsia do Thiên Chúa gởi đến, lại không nhận biết người, bởi đầu óc chúng đã ra cằn cỗi. Đang khi đó, chính những dân ngoại lại đón nhận và tôn thờ Người. Sự chối từ nơi phần lớn dân Israel và thái độ đón nhận nơi dân ngoại, một chủ đề sẽ bàng bạc trong khắp cả Tin Mừng, đó là điều đang được minh nhiên công bố ở đây" (Le Monde de La Bible, số 85, trang 18).
BÀI ĐỌC THÊM
1. “Chúng ta có để mình được Phúc Âm hoá bởi chính Tin Mừng mà chúng ta có bổn phận phải loan báo?”
(T.Sintas, trong "Parole de Dieu pour la méditation et l'homélie", Médiaspaul, tr.27).
"Nơi chúng ta, là Giáo Hội, hôm nay, được ký thác một ánh sáng có khả năng soi dẫn đường đi nước bước cho tất cả những ai đi tìm Đức Giêsu. Điều đó chẳng do bởi nhân đức thánh thiện của chúng ta, cũng chẳng do bởi đời sống tốt lành hay đức tin cá nhân của chúng ta. Tất cả chỉ vì đó là sứ mạng chúng ta đã nhận lãnh từ nơi Đức Kitô. Những gì chúng ta phải loan báo không có cơ sở chân lý từ chính bản thân chúng ta, nhưng duy nhất từ Đấng đã giao phó sứ mạng ấy cho chúng ta. Sức mạnh của việc Phúc âm hoá đến từ Thiên Chúa. Đừng chờ đến khi nào nên thánh rồi mới thi hành nhiệm vụ. Một cách đơn sơ, khiêm tốn, chúng ta hãy để mình được phúc âm hoá bởi chính Tin Mừng mà chúng ta có bổn phận phải loan báo".
2. Bạn có biết rõ câu chuyện về Balaam và con lừa của ông ta chưa?
(H.Denis, trong "100 mots pour dire la soi", Desclée de Brouwer, tr. 71-72).
"Không có hang đá nào mà lại không có ngôi sao. Chẳng có lễ Hiển Linh nào mà lại thiếu vắng vì sao lạ ấy... Nhưng sự thực mà nói, bạn có biết rõ hay không câu chuyện về Balaam? Người ta không biết đích xác nó xảy ra khi nào (sách Dân Số, ch. 22- 24), nếu không phải là vào khoảng giai đoạn cuối cuộc xâm nhập của Israel vào Đất Hứa, không xa thành Giêricô bao nhiêu. Những người dân xứ Moab kinh hoàng trước sức tiến của Israel. Họ tìm đến với một người tên Balaam nào đó, có lẽ là một thầy bói, để nhờ ông ta trù ẻo cho Israel (vào thời đó, người ta còn tin vào hiệu năng hầu như ma thuật của những lời trù ẻo).
Được Thiên Chúa can ngăn trong giấc mộng, lúc đầu Balaam từ chối, rồi sau đó lại quyết định lên đường và cưỡi con lừa cái của mình. Thiên Chúa liền nổi giận và hiện ra cho con lừa dưới dạng một Thần sứ với gươm tuốt trần cầm tay. Con lừa tránh sang một bên đường và phóng xuống ruộng. Balaam đánh đập và hành tội con vật. Nó lại chui vào một khúc đường trũng và hẹp, vô phương tới lui hay nhúc nhích bên này bên kia. Con lừa đáng thương quỵ xuống dưới làn roi tới tấp. Lúc ấy, Thiên Chúa cho nó mở miệng nói: nó trách móc Balaam đã đối xử với nó sao quá tàn nhẫn. Phút chốc, Balaam nhìn ra được vị thần sứ với lưỡi gươm trần, ông quì xuống sấp mặt bái lạy. Sau đó, ông được tiếp tục ra đi, nhưng với một điều kiện: chỉ được phép nói trước mặt các thù địch của Israel điều Thần sứ bảo nói! Thế là cái ông Balaam của chúng ta xổ ra một tràng những lời chúc phúc cho Israel: “Làm sao tôi sẽ trù ẻo kẻ Thiên Chúa không cho trù ẻo? Ai nào đếm được số đông của Giacob và Israel? Một ngôi sao mọc lên từ Giacob và một vương tướng xuất từ Israel sẽ đập tan Moab lẫn Eđom? Câu chuyện là như thế, trong đó có nói đến một con lừa biết nói, y như trong chuyện ngụ ngôn của La Fontaine.
Đó cũng còn là lời loan báo trong trời đất về ánh huy hoàng của Đấng Mêsia: "Một ngôi sao mọc lên từ Giacob”. Rồi đây chẳng bao lâu. các nhà đạo sĩ sẽ công bố cái âm hưởng vang vọng khắp địa cầu của cuộc giáng sinh của Chúa Giêsu. Từ nay, trong Người, toàn thể nhân loại, đã được chúc phúc.
Tôi muốn nghĩ rằng ngôi sao của Noel bắt đầu từ chuyện một con lừa cái bị kiệt sức và quỵ ngã, là kẻ đầu tiên nhận thức được tầm mức lớn lao của biến cố. Đúng thế, nhân loại vừa được sinh ra dưới một ngôi sao tốt, ngôi sao của Đức Giêsu.
132.Lễ Hiển Linh--Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
CÁC ĐẠO SĨ
I. Thật và không thật.
Câu chuyện này gây ra 2 cảm tưởng trái ngược nhau: (a) một đàng có những chi tiết khiến ta nghĩ rằng đây là một chuyện hoang đường, giả tạo, chẳng hạn: cuộc hành trình dài của các đạo sĩ, ngôi sao lạ di chuyển dẫn đường rồi cuối cùng chỉ đúng vào chỗ Thánh Gia đang ở, cả thành Giêrusalem khi hay tin có vua mới sinh ra lẽ ra phải vui mừng mà sao lại bối rối. Hêrôđê phải triệu tập tất cả các thầy thượng tế để hỏi một câu rất dễ, mọi người đều biết nơi Hài Nhi sinh ra trong khi Hêrôđê không biết, sao chẳng ai tò mò đi theo các đạo sĩ để xem Hài Nhi v.v. (b) nhưng đàng khác có nhiều chi tiết rất hợp với lịch sử, như quan tâm của các chiêm tinh gia phương đông về một vì vua cứu thế, những hồi nổi cơn bất ngờ của Hêrôđê...
Những nét không thật và những nét thật ấy khiến chúng ta nghĩ rằng tác giả không chủ ý viết một bài tường thuật đúng nghĩa, mà chỉ muốn viết một bản văn để diễn tả quan điểm thần học của mình. Trong mục đích đó, tác giả đã xử dụng văn thể Midrash (xem lại trang 19, số III,4): tường thuật một sự kiện có thật nhưng giải nghĩa thoáng rộng nhằm đưa ra một bài học cho độc giả.
II. Vấn đề đặt ra bài học của Matthêu
- Trong cộng đoàn của Matthêu mà đa số là Kitô hữu gốc Do Thái, người ta rất thắc mắc về sự kiện tại sao trong khi lương dân thì đón nhận Đức Giêsu Kitô, còn dân Chúa chọn lại từ chối Ngài.
- Matthêu viết chuyện này (theo văn thể Midrash) nhằm đưa ra câu trả lời: Tại vì lương dân ngoan ngoãn với Thiên Chúa hơn, chẳng hạn các đạo sĩ. Họ chỉ có hiểu biết rất đơn sơ tự nhiên (chiêm tinh), nhưng nhờ ngoan ngoãn theo sự hướng dẫn của Chúa (biểu tượng là ngôi sao lạ), nên đã được dẫn tới đức tin vào hài nhi Giêsu. Ngược lại, các thủ lãnh tôn giáo của người do thái cùng với Hêrôđê, mặc dù đã có Sách thánh trong tay (họ biết rõ là hài nhi sẽ sinh tại Bêlem) nhưng vẫn không tin. Sự kiện Đức Giêsu được lương dân tin thờ gợi nhớ đến lời của ngôn sứ Isaia (49,23 và 60,3-6), cũng như Tv 72,10-15.
- Matthêu vừa giải đáp thắc mắc của cộng đoàn, vừa xoáy sâu hơn vào luận đề chung của mình trong cả 2 chương nhập đề:
. Bảng gia phả chứng minh sự châm rễ của Đức Giêsu vào lịch sử dân biệt tuyển.
. Câu chuyện báo tin cho Giuse cho thấy tính siêu việt của Đức Giêsu.
. Câu chuyện các đạo sĩ này cho thấy tính vương giả của Ngài, đồng thời hé mở cái nghịch lý vẫn thấy xuất hiện tới lui nhiều lần trong tác phẩm: dân Chúa đã không chấp nhận Ngài.
III. Giải thích một số chi tiết
- Bêlem: ở 7km phía Nam Giêrusalem, là quê quán của Booz, Jessé và nhất là của Đavít (1S 16 20,6).
- Hêrôđê: Đây là Hêrôđê Cả, trấn nhậm miền Judée (37-4 trước công nguyên). Sử sách làm chứng rằng vào những năm cuối đời, ông nghi ngờ mọi người có ý đồ lật đổ ông, vì thế mà ông không ngại ra tay tàn sát tất cả những ai mà ông nghi là sắp làm hại ông, kể cả những người trong gia đình ông.
- Đạo sĩ: Có lẽ đây là những nhà chiêm tinh ngoại đạo nhưng có tiếp xúc với đạo Do Thái và cùng chia sẻ một số niềm tin của Do Thái, trong đó có niềm tin vào Đấng Messia sắp đến. Họ sống ở phía bờ bên kia sông Jordan. Từ thế kỷ V, người ta cho rằng họ là những vị vua số lượng là 3. Đến thế kỷ 8 người ta còn đặt cho các ông những tên là Gaspar, Balthasar và Melchior.
- Vua Do Thái mới sinh ở đâu? Matthêu nhấn mạnh đến tính vương giả của Đức Giêsu. Đồng thời Matthêu cũng cho thấy một nét mỉa mai: chính lương dân nhận ra tính vương giả này và nói cho dân Do Thái hay.
- Ngôi sao: Do Thái giáo dựa vào Dc 24,17: "Một ngôi sao sẽ xuất ra từ nhà Giacóp, một vương trướng sẽ chổi dậy từ nhà Israel" để tin rằng sự xuất hiện một ngôi sao lạ là dấu chỉ Đấng Messia đến.
- Chúng tôi đến thờ lạy Ngài: Động từ "thờ lạy" (preskunêô) được Cựu Ước thường dùng để chỉ việc lương dân đến tôn thờ Giavê trong Đền Thờ. Matthêu dùng động từ này có ngụ ý nói đến tính đại đồng của ơn cứu rỗi mà Đức Giêsu mang đến.
- Cả thành Giêrusalem bối rối: chi tiết này rõ ràng là phóng đại. Matthêu phóng đại như vậy để diễn tả ý tưởng cả một phần lớn dân Do Thái từ chối Đức Giêsu. Chi tiết này càng làm nổi bật cái nghịch lý mà ta đã nói ở trên.
- cc 4-5: không nhằm chúng minh sự ngu dốt của Hêrôđê, cũng không chứng minh sự thông thái của các ký lục và thượng tế, mà đơn giản Matthêu chỉ dùng mấy câu này để dẫn vào câu Sách Thánh mà Matthêu sắp trích dẫn sau đó.
- c 6: Matthêu trích dẫn phối hợp Mt 5,1-3 và 2S 5,2 để trình bày Đức Giêsu là một vua Đavít mới.
- c 10: Niềm vui của các đạo sĩ: "Các ông vui mừng hớn hở". So sánh với Lc 2,10 (Tin vui vĩ đại). Đó là niềm vui to lớn của lương dân khi thấy Đức Giêsu mang đến cho họ ơn cứu rỗi mà bấy lâu nay họ khao khát chờ mong.
- c 11: Cử chỉ của các đạo sĩ cho thấy vừa tính vương giả vừa tính thần linh của Đức Giêsu. Các lễ vật (vàng, hương và mộc dược) là những lễ vật được dâng cho bậc vương giả (xem Tv 72,15 vàng, Is 60,6 vàng và hương, Tv 45,8 mộc dược).
Kết luận
Nghịch lý đã khởi sự diễn ra; Hêrôđê và các thủ lãnh tôn giáo cùng với phần đông dân do thái đã khước từ Đức Giêsu, nhưng lương dân thì lại đến triều bái và tôn thờ Ngài, cũng giống như cộng đoàn Kitô đang tập hợp chung quanh Đức Giêsu phục sinh. Như thế thì lời của ngôn sứ Isaia đã được thực hiện (Is 60 và 62): đông đảo lương dân kéo đến Giêrusalem mới, một Giêrusalem sáng ngời vinh quang Thiên Chúa.
133.Lễ Hiển Linh--Lm. Augustine, SJ.
Một trong những trại tù binh lớn nhất mà người Nhật thiết lập cuối thế chiến thứ hai là trại tù bên bờ sông Quế (Kwei river) thuộc tỉnh Kanchanaburi của Thái Lan. Nơi đây đã có tới 12 ngàn tù binh bị chết vì bệnh tật và bị đối xử tàn bạo trong khi họ phải xây dựng một tuyến đường xe lửa.
Kẻ Thù Số Một
Đám tù nhân bị cưỡng bức lao động dưới cơn nóng có khi lên tới 490C. Đầu trần, chân đất họ vác từng thúng đất đá trên vai, để xây dựng cho xong toàn bộ tuyến đường sắt đã được chỉ định. Đúng là cảnh màn trời chiếu đất theo nghĩa đen, vì họ nằm ngủ trên đất không chăn chiếu. Nhưng kẻ thù số một không phải là cai tù hoặc bọn lính gác, cũng không phải là cuộc sống gian khổ, mà là chính bản thân họ. Theo lời kể lại của tác giả Ngô Văn Đông (Ernest Gordon) trong cuốn "Ngang qua thung lũng sông Quế" thì vì quá sợ, đám tù binh nói trên mắc chứng hoang tưởng. Họ cư xử với nhau theo luật rừng, lại còn trộm cắp của nhau, ngờ vực và chỉ điểm lẫn nhau. Họ trở nên trò cười đối với bọn lính gác. Bởi lẽ trước kia họ là binh hùng tướng mạnh mà nay trở nên hèn nhát và phá hoại nhau!
Điều Không Thể Xảy Ra Đã Xảy Ra
Thế rồi một điều xem ra không thể xảy ra đã xảy ra. Số là có hai người trong đám tù nhân đứng ra tổ chức cho các bạn tù thành những nhóm học hỏi Kinh Thánh. Điều lạ lùng là đám tù nhân qua đó khám phá ra Chúa Giêsu hiện đang sống động giữa họ. Người hiểu rõ hoàn cảnh của họ. Chính Người cùng chung số phận với họ để cứu họ khỏi cảnh lầm than. Người đã từng chịu đói khát, từng bị phản bội, từng nếm những lằn roi quất trên lưng và cuối cùng bị người ta giết chết. Chính vì Người luôn kết hợp với Cha trong kế hoạch cứu nhân độ thế nên Thiên Chúa đã siêu tôn và đặt Người làm Chúa của mọi người và mọi sự. Thế là tất cả những điều liên quan tới Chúa Giêsu, về con người của Người, về những gì Người nói, những việc Người làm đều tràn đầy ý nghĩa và trở nên sống động đối với chính họ. Đám tù nhân không còn cho rằng họ là nạn nhân của một tấn bi kịch độc ác nữa. Họ không còn chỉ điểm, không còn phá hoại lẫn nhau nữa. Họ biểu lộ việc hoán cải tự thâm sâu như thấy rõ qua những lời cầu nguyện tự phát. Họ bắt đầu cầu nguyện cho nhau nhiều hơn là cho chính mình. Họ chỉ ước mong để đỡ bị gò bó hầu tự do chia sẻ cho nhau nhiều hơn trong cuộc sống. Dần dà, cả trại được biến đổi đến nỗi không chỉ đám lính Nhật canh gác phải lấy làm lạ mà chính các tù binh cũng hết sức ngạc nhiên!
Khác Biệt Giữa Sự Chết Và Sự Sống
Một đêm nọ, sau cuộc họp với nhóm học hỏi Kinh Thánh, tác giả Ngô Văn Đông khập khiễng bước về căn trại của ông. Đang lúc lần mò trong bóng đêm, ông bỗng nghe có tiếng người ca hát. Ông nhận thấy có người đang dùng một mảnh gỗ gõ vào một chiếc lon thiếc để giữ nhịp. Tiếng mảnh gỗ gõ vào lon thiếc cùng với tiếng hát khiến cho bóng đêm tự nhiên trở nên có sự sống. Điều khác biệt giữa tiếng hát vui tươi lúc đó và cái lặng thinh chết chóc của những tháng trước đó giống hệt điều khác biệt giữa sự sống và sự chết, giữa một đám người chia rẽ phá hoại nhau và một lớp người có Chúa Giêsu Phục Sinh linh hoạt ở giữa họ.
Nhưng thử hỏi trong dịp lễ kính Chúa Hiển Linh sau No-en, mà đề cập tới Chúa Phục Sinh sợ có quá sớm chăng? Chúa Hiển Linh là gì? Người bày tỏ bản thân Người cho ta như thế nào ở giữa xã hội ta đang sống?
Một Mầu Nhiệm Duy Nhất
Thực ra, chỉ vào khoảng 375, hai lễ lớn là Sinh Nhật trong Giáo Hội Roma và Hiển Linh trong Giáo Hội Đông Phương mới xuất hiện trong nền phụng tự Kitô giáo. Trước đó, các Kitô hữu chỉ cử hành một mầu nhiệm duy nhất là sự chết và sự sống lại của Chúa Kitô, mỗi tuần vào ngày Chúa Nhật và mỗi năm vào mùa Phục Sinh. Nhưng điểm phát xuất của cả hai lễ Giáng Sinh và Hiển Linh cũng là việc nhìn nhận Chúa Giêsu là nguồn bất diệt của một mùa xuân phong phú. Roma cử hành lễ sinh nhật của Chúa vào ngày 25 tháng 12. Đó là ngày Xuân Phân của Tây Phương, nên được chọn để mừng biến cố sinh ra của Đấng là Ánh Sáng thế gian. Hôm đó dân ngoại thờ thần mặt trời mà họ tin là "Mặt trời bất diệt" vượt lên từ bóng tối của mùa Đông. Còn người Kitô chọn ngày đó để mừng Chúa giáng trần, nào chẳng phải là để nhìn nhận Người mới là Mặt Trời bất diệt duy nhất đó sao? (x Lc 1,78). Riêng ở Ai Cập, dân ngoại mừng lễ Xuân Phân vào ngày 6 tháng 1. Nhiều nghi lễ ngoại giáo được tổ chức vào ngày đó. Cho nên để tránh cho người Công Giáo khỏi vướng mắc vào dịp đó, Giáo Hội Đông Phương ở đây chọn ngày 6 tháng 1 làm lễ mừng Chúa Hiển Linh. Điều đặc biệt là người Ai Cập sống lệ thuộc nhiều vào sông Nil phì nhiêu, tựa như dân Việt ta lệ thuộc nhiều vào hai con sông Hồng Hà và Cửu Long. Cho nên điều dễ hiểu là người Công Giáo Ai Cập chọn mừng Chúa tỏ thần tính của Người bên bờ sông Giođan thay vì mừng Người sinh ra trong cảnh cơ hàn của Bêlem lạnh lẽo. Họ chọn cảnh "Đức Giêsu vừa ở dưới nước lên, thì kìa các tầng trời mở ra. Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. Và kìa có tiếng từ trời phán rằng: "Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người." (Mt 3,16-17). Lễ Hiển Linh mà người Ai Cập mừng đã mau chóng được tất cả Giáo Hội Đông Phương mừng theo.
Nhưng trang Tin Mừng Mátthêu 2,1-12, kể lại việc các đạo sĩ từ phương Đông xa xôi tới thờ lạy Hài Nhi Giêsu sinh ra tại Bêlem, không thể không lôi cuốn niềm ngưỡng mộ của người Kitô mà đa số có gốc dân ngoại. Các đạo sĩ này quả thực là tổ phụ của họ, đã trở nên hoa trái đầu mùa của dân ngoại khi Tin Mừng được loan báo. Các đạo sĩ ấy đại diện toàn thể dân ngoại trong việc tôn vinh Con bà Maria, cũng là Con của Thiên Chúa.
Sau này khi lễ Chúa Hiển Linh được cử hành rộng rãi ở xứ Galia của Pháp Quốc sau này, người ta còn mô tả việc Chúa Hiển Linh qua việc Người khiêm nhường chịu phép rửa của Gioan, và qua việc Người tỏ mình ra tại Cana với điều nhấn mạnh là "Chúa tỏ vinh quang của Người ra, và các môn đệ tin vào Người" (Ga 2,11)
Như vậy việc Thiên Chúa tỏ thần tính của Người ra nơi Đức Giêsu bao gồm biết bao là biến cố và mầu nhiệm trong đời Người. Các biến cố hay đúng hơn, các mầu nhiệm của đời Người, được mừng kính dọc theo năm phụng vụ thực ra chỉ là "những phương diện khác nhau của mầu nhiệm phục sinh duy nhất của Người" (Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo, số 1171).
Thánh Linh Thực Hiện Mầu Nhiệm Duy Nhất của Chúa Giêsu
"Phụng vụ Kitô giáo không chỉ nhắc nhở những biến cố cứu độ, nhưng còn hiện thực hoá những biến cố đó. Do đó mầu nhiệm vượt qua của Đức Kitô được cử hành nhưng không lặp lại, tuy chúng ta lặp lại nhiều lần cuộc cử hành. Mỗi lần cử hành phụng vụ, Thánh Linh lại đổ ơn chan hoà. Ngài hiện thực hoá mầu nhiệm duy nhất của Đức Kitô." (Ibid., sô 1104).
Câu chuyện nói trên của tác giả Ngô Văn Đông gợi ý cho ta thấy chút nào đó về việc Thiên Chúa tỏ thần tính của Người trong một hoàn cảnh hết sức bi đát. Đó là hoàn cảnh của những tù nhân vì quá sợ hãi nên mắc bệnh hoang tưởng. Họ chỉ điểm lẫn nhau và trở nên những kẻ thù của nhau! Chính trong hoàn cảnh cùng cực đó Lời Chúa được cử hành nơi những nhóm học hỏi Kinh thánh. Và điều lạ lùng là chính Chúa Giêsu với mầu nhiệm Phụx Sinh duy nhất của Người, hiện diện một cách vô hình, nhưng tác động một cách hữu hình qua việc Người biến đổi những con người cụ thể.
* Trước hết, Người ban cho các nhóm tù nhân học hỏi Kinh Thánh ánh sáng đức tin để trí hiểu của họ thấy được Người đang sống động ở giữa họ. Họ phần nào giống như các đạo sĩ được ban cho ơn "thấy vì sao của Đức Vua dân Do Thái xuất hiện bên phương Đông nên đến bái lạy Người" (c.2 và 9).
Chúa Giêsu Tự Hiến Để Cứu Họ
* Người ban cho họ chính bản thân Người tự hiến để cứu họ khỏi cảnh lầm than mà họ đang phải gánh chịu một cách vô vọng. Do đó đám tù nhân không còn cho rằng họ là nạn nhân của một tấn bi kịch độc ác nữa. Ở đây các tù nhân phần nào giống như các đạo sĩ được báo mộng (c.12) để khỏi trở về con đường cũ họ vẫn theo. Tức là các tù nhân không còn trở về với nếp sống ngờ vực và phá hoại lẫn nhau nữa.
Nhất là các tù nhân được ban cho ơn đáp lại tình yêu Chúa ban một cách quảng đại. Họ bắt đầu cầu nguyện cho nhau nhiều hơn là cho chính mình. Họ ước mong được tự do chia sẻ cho nhau nhiều hơn trong cuộc sống. Họ phần nào noi gương các đạo sĩ đã quảng đại dâng Hài Nhi Giêsu những lễ vật quý báu họ mang theo (c.11)
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn thấy qua việc học hỏi và chia sẻ Kinh Thánh, những nhóm tù nhân trong câu chuyện của tác giả Ngô Văn Đông, được thay đổi về phương diện nào mà bạn cho là đáng kể nhất?
2. Bạn nghĩ tại sao các tù nhân trong câu chuyện của tác giả Ngô Văn Đông, thấy Chúa Giêsu hiểu rõ hoàn cảnh của họ? Chính bạn có kinh nghiệm nào về việc Chúa Giêsu gần guĩ trong hoàn cảnh sống của bạn?
134.Thiên Chúa cho ai nhận biết Người?--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’
Như đã nói, thật là dại dột nếu muốn xem ký sự của thánh Matthêu như một phóng sự lịch sự tuyệt đối chính xác. Sự kiện đã xảy ra thật, được thánh chép sử- hoặc cựu truyền mà ông nhắc lại lồng trong một hình thái ký sự hoà hợp với văn hoá Cựu Ước và não trạng người đương thời. Những sự kiện rất thật lẫn lộn với những yếu tố được rút ra từ ký ức tôn giáo của dân tộc và cả từ Kinh Thánh nữa. Đối với chúng ta, điều chủ yếu là thu lượm ký sự này lời giáo huấn mà thánh sử muốn truyền đạt. Vả lại ông cũng không chú ý đến sự kiện lịch sử vì bản chất của nó, chỉ cốt soi sáng để làm nổi rõ tầm mức của sự kiện.
1) Sự kiện ba nhà Đạo sĩ đến thờ lạy ‘Vua của người Do Thái’ làm cho Hêrôđê động tính hiếu kỳ, rốt cục nổi giận, sự kiện đó cho thấy Đức Giêsu được thụ phong một vương quyền thời đó, thánh Matthêu đem đối chiếu thái độ các đạo sĩ nó tương phản với cách xử sự của Hêrôđê. Một bên là những người tìm kiếm Chúa – bên kia là một ông vua chuyên chế bị tư lợi và kiêu ngạo làm mờ mắt. Điều này mời chúng ta nhớ lại tính chất của Vương quyền Chúa. Chúa Kitô đã vâng lời cho đến chết, và vì thế Người được Chúa Cha tôn vinh, và đã vào trong Vinh Quang Nước Người. Mọi vật điều suy phục Người, cho đến khi Người cùng với mọi tạo vật suy phục Chúa Cha, để Thiên Chúa nên tất cả trong mọi người. Người cũng thông ban cho các môn đệ quyền bính đó để họ được hưởng sự tự do vương giả và chiến thắng ách thống trị của tội lỗi nơi họ, bằng một đời sống từ bỏ và thánh thiện, hơn nữa, để khi phụng sự Chúa Kitô nơi tha nhân, họ khiêm nhượng và kiên nhẫn dẫn đưa anh em mình đến cùng Đức Vua, Đấng mà những kẻ phụng sự cũng là những kẻ thống trị có quyền bính. Triều đại Chúa là một triều đại của Chân Lý và sự sống của ân sủng và thánh thiện, của công lý tình yêu và hoà bình’ (Ánh sáng muôn dân, 36). Sự phủ phục của các đạo sĩ dưới chân Hài Nhi Giêsu nhắc chúng ta nhớ lại điều này: muốn nhận biết Thiên Chúa thì phải ao ước thánh thiện, công lý, tình yêu và hoà bình. Ngược lại, hướng của Hêrôđê chứng minh rằng khi lòng bị sa lầy trong tham vọng, khắc nghiệt, bất công, thì trí sinh mù quáng.
2) Tại sao sau khi cho tin đúng, cấp lãnh đạo dân tộc và những ký lục không chịu khó đi tìm ‘Vua của người Do Thái’. Chắc là vì họ không cho rằng công phu tìm kiếm của các đạo sĩ là quan trọng. Có thể đây là hạng người thần cảm – họ nghĩ vậy – còn mình là cấp hữu trách, mình phải sáng suốt. Bất hạnh thay, lý trí họ đã biến thành chủ trương hệ thống hoá cứng rắn. Đa số trong bọn họ thành tâm muốn trung thành với Thiên Chúa, nhưng lại dựng lên giữa Thiên Chúa và họ một hệ thống chủ thuyết – lý luận, định kiến – hệ thống đó khiến cho trí tuệ họ không thể hấp thụ được cái chưa từng thấy, cái bất ngờ. Đó là tình trạng của bất cứ khoa học nào không quan tâm trước hết đến sự cởi mở do cầu nguyện đem lại. Càng thu thập về kiến thức vế trí tuệ, càng phải phát triển kiến thức về tâm hồn, là loại kiến thức giữ cho tâm khảm trong tư thế sẵn sàng nghênh tiếp những sự can thiệp của Thiên Chúa. Cấp lãnh đạo dân Do Thái đã không nhận ra Đức Giêsu vì họ muốn Đấng Cứu Thế hiển linh ở trình độ họ, trong uy thế của quyền bính, thông tuệ, hành động. Nhưng Đấng Cứu Thế đó lại xuất hiện với nét mặt một đứa trẻ, con nhà nghèo. Những kẻ khiêm nhượng và những kẻ nghèo hèn đã nhận ra Ngài. Chúng ta tự hỏi: chúng ta đi tìm kiếm Đức Giêsu ở đâu?
135.Lễ Hiển Linh
Chúng ta đang mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Hài Nhi GiêSu đã tỏ mình ra cho các mục đồng, đại diện cho dân Israel, dân riêng của Thiên Chúa. Người còn tỏ mình ra cho Các Đạo Sĩ Phương Đông, đại diện cho lương dân, qua ánh sao lạ. Các Đạo Sĩ này là những người thành tâm, thiện chí, họ khao khát đi tìm ý nghĩa của ánh sao lạ ấy.... Khi đã gặp được Hài Nhi, họ dâng lễ vật cho Ngài.
Trước đó bảy thế kỷ, Isaia đã hé mở cho dân Chúa thấy ý nghĩa lớn lao ngang qua sự xuất hiện vinh quang của Thiên Chúa “Hãy bừng lên, hãy tỏa sáng ra hỡi Giêrusalem. Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi. Kìa tối tăm bao bọc địa cầu, và u minh phủ kín các dân”. Điều Isaia loan báo, đã không chỉ làm nức lòng những trái tim héo úa, làm phấn khởi những ngón tay rã rời. Khơi lên niềm hy vọng lón lao cho dân, mở ra con đường trở về cho dân ngoại. Chính trong bối cảnh đó, Thiên Chúa đã nhìn đến con người, và Ngài đã sai Con của Ngài sinh bởi người nữ. Ngài đang tỏa sáng trên dân Ngài, nhưng không phải chỉ riêng cho người Do Thái mà là cho tất cả mọi người, mọi dân tộc.
Thật vậy, hôm nay bằng ánh sao lạ, Ngài đã chỉ cho các đạo Sĩ của Phương Đông, trông lên trời cao và tìm đến để thờ lạy vị Vua Cứu Tinh vừa mới giáng sinh. Vượt lên trên mọi tính toán, mọi khó khăn, mọi nguy hiểm, mọi vất vả, các đạo sĩ đã vội vã lên đường. Bằng tấm lòng chân thành khát khao tìm chân lý và ánh sáng, các đạo sĩ đã chấp nhận dấn thân vào cuộc phiêu lưu, mang trong mình hành trang là niềm tin để bước theo ánh sao lạ. Tuy nhiên, cũng không thiếu giây phút mà ngay cả một chút ánh sáng của niềm tin cũng vụt tắt để nhường lại cho những mò mẫm của đêm tối tăm. Cho dù găp phải hoàn cảnh bất lợi như thế, ba đạo sĩ không thất vọng, không chán nản bỏ cuộc, trái lại bằng tất cả sự nổ lực, các ngài đã tìm đấn với Vua Hêrôdê, để khơi thêm ánh sáng cho niềm tin đã sắp tắt lịm. Quả thật, Thiên Chúa không để cho những kẻ tìm kiếm Ngài phải hổ ngươi thất vọng. Đáp lại tấm lòng của họ, Thiên Chúa đã tỏ mình, hiển linh trước mặt họ trong thân phận của một Hài Nhi, hiền hòa trong trắng nằm trong máng cỏ. Sự kiên trì, chân thành tìm kiếm của họ nay đã được toại nguyện. Với tất cả sự thành kính, họ đã dâng lên Hài Nhi Giêsu: Vàng, Nhũ hương, Mộc Dược..tượng trưng cho lòng tin, cậy, mến yêu của mình. Đáp lại lòng thành kính và những lễ vật của họ, Ngài đã ban tặng họ niềm vui, sự an bình,..và mở ra cho họ con đường mới, một lối đi của tình thương và hạnh phúc, không còn âm mưu và nguy hiểm.
Còn Hêrôđê và Giêrusalem khi nghe biết về ánh sao lạ mà các nhà đạo sĩ cho biết thì đâm ra lo lắng, hoang mang, bối rối,...Họ chỉ lo cho cuộc sống trước mắt, cơm áo gạo tiền.Danh vọng và quyền uy đã chiếm hết trong cuộc sống của họ. Sự ảnh hưởng, quyền lợi ích kỷ...đã làm cho mắt họ không còn nhìn thấy ánh sao lạ, lòng họ không còn trong sáng đủ để khám phá ra tiếng Chúa đang hối thúc, và không còn sự khát khao đi tìm kiếm chân lý...Cuộc sống của họ đang “ngon cơm ngọt canh” mà bổng dưng Vị Vua mới lại xuất hiện...Có thể Ngài sẽ phá vỡ nồi cơm hay chăng? Và Ngài sẽ làm họ mất ảnh hưởng, cùng đi theo là mất luôn những quyền lợi trần thế...Do đó, họ phải hoảng sợ và lo lắng.
Khi đặt mình trước bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta cũng thấy mình đang được Chúa tỏ mình ra qua các dấu chỉ và các biến cố xảy đến hằng ngày. Vậy ta lấy mắt đức tin để nhìn ra các ánh sao mà Chúa đang gởi đến: Lời Chúa, Giáo Huấn của Giáo Hội, các Bí Tích, qua lương tâm, qua các biến cố trong cuộc sống, để giống như các đạo sĩ, ta quảng đại dấn thân, quên mình không ngại khó, kiên trì và nhẫn nại đáp lại lời mời gọi của Chúa.
Ngôi sao đã vụt tắt khi các đạo sĩ dừng chân tại Giêrusalem. Trong cuộc sống, tiền bạc, quyền lực khôn ngoan, … không phải là chỗ dựa vững chắc để ta tìm gặp Con Thiên Chúa. Kinh nghiệm ấy giúp ta dứt mình ra khỏi những níu kéo của tiển bạc vật chất, mà ngược lại ta phải bám chắc vào Lời Chúa để làm hành trang tìm kiếm Chúa cho cuộc đời mình.
Gặp được Chúa, Các đạo sĩ đã được đổi mới. Mỗi lần gặp Chúa, phải được đánh dấu bằng cuộc đổi mới. Nếu ta thành tâm thiện chí, khao khát muốn gặp Chúa, thì Chúa sẽ có cách tỏ mình ra, Ngài sẽ thánh hóa, thăng tiến và biến đổi con người chúng ta nên tốt hơn, thánh thiện hơn.
Xin cho chúng ta biết lấy đức tin để nhìn ra ánh sao Lời Chúa, dâng lên Chúa tấm lòng yêu mến chân thành, những nổ lực, hy sinh,...từ bỏ con đường cũ để theo ánh sáng Chúa, ta đến với Chúa để đón nhận niềm vui, bình an và hạnh phúc của Chúa.
136.Đi theo ánh sao
Rất nhiều người đã tới nhà thờ trong đêm Giáng sinh, nhưng thử hỏi có mấy ai đã thực sự gặp gỡ Chúa như ba nhà đạo sĩ phương đông?
Chúa Giêsu không phải là người khó tính, đến như các trẻ mục đồng, thuộc hàng khố rách áo ôm, cũng có được một chỗ đứng bên máng cỏ. Nhưng rõ ràng là qua đoạn Tin Mừng chúng ta thấy được rằng sự kiện Chúa ra đời đã thực sự khuấy động khá nhiều người từ vua Hêrôđê, các thượng tế và luật sĩ, đến quần chúng nhân danh thành Giêrusalem và cả những nhà đạo sĩ xa xôi.
Tuy nhiên những người đã để cho sự kiện Chúa ra đời khuấy động tới cùng lại chỉ có ba nhà đạo sĩ vốn bị liệt vào hạng những kẻ ngoại, những người ở ngoài. Hêrôđê quả có đi tìm Chúa, nhưng là để thủ tiêu Ngài chứ không phải để gặp Người. Các thượng tế và các luật sĩ thuộc giới đền thờ, là những người có đầy đủ các điều kiện tạm gọi là khách quan rát thuận lợi để gặp Chúa. Họ là những nhà thông hiểu thần học và Thánh Kinh. Kẻ khác còn phải nhờ đến họ để biết được Người sinh ra ở đâu. Nhưng theo Tin Mừng thì xem ra họ không rời đền thờ nổi. Trong khi đó Chúa lại sinh ra nơi máng cỏ Bêlem. Làm sao họ có thể gặp được Người? Còn những người dân khác của kinh thành Giêrusalem thì lại hoảng hốt, thay vì vui mừng trước cái tin Đấng mình mong đợi đã sinh ra.
Và cuối cùng chỉ còn lại ba nhà đạo sĩ đã đến được bên máng cỏ cùng với những trẻ mục đồng. Các nhà đạo sĩ tới được với Chúa là vì các ông đã nhận ra dấu lạ, hay cái mới trong lúc các ông làm công việc thường ngày của mình. Các ông đã tìm hiểu ý nghĩa của cái mới và chân thành theo dõi, cho dù phải thực hiện một cuộc hành trình ngàn dặm với bao nhiêu là vất vả.
Ai gõ thì sẽ mở cho, ai tìm thì sẽ gặp. Đến nhà thờ mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải có cả một cuộc hành trình tìm kiếm Chúa. Ngài mời gọi bằng những dấu chỉ của thời đại. Phải tỉnh thức để nhận ra những dấu chỉ ấy, hay đúng hơn, để biết được giữa muôn vàn sự kiện của cuộc sống thường ngày, giữa muôn vàn vì sao lấp lánh trên bầu trời, sự kiện nào có giá trị của một ánh sao lạ, dẫn chúng ta đến với ơn cứu rỗi.
Chúa đến cho tất cả mọi người, thế nhưng Tin Mừng cho chúng ta thấy không phải tất cả mọi người đều đã được gặp Ngài.
137.Lễ vật của dân tộc
Cách đây 20 thế kỷ, một nhóm chiêm tinh rời bỏ xứ sở để bước theo một ngôi sao lạ. Họ nhận ra ngôi sao ấy, có lẽ do họ được ơn soi sáng và được biết trước. Vì thế, khi ngôi sao xuất hiện, họ liền ra đi vì lòng họ đang mong mỏi trông chờ. Quả thực, từ rất xa xưa, con người vẫn trông đợi một Đấng cứu tinh. Tội lỗi và đau khổ của kiếp người khiến cho những ai biết suy nghĩ đều cảm thấy bâng khuâng, như luyến tiếc một thiên đàng đã mất. Chính vì mong mỏi Đấng Cứu Thế, khao khát một thứ ánh sáng siêu việt và một thứ ơn huệ từ trên ban xuống, mà nhiều khi con người đã tự tạo ra cho riêng mình những vị cứu tinh.
Lòng mong mỏi ấy càng trở nên tha thiết hơn nơi dân Do Thái, dân được tuyển chọn để bảo tồn lời giao ước. Thế nhưng, con người không thể trở về với Thiên Chúa mà không có hoà giải, mà không có phần đóng góp của mình.
Thực vậy, nếu hoà giải là một cuộc trở về của con người, sau những năm tháng bất hiếu và chìm đắm trong tội lỗi, thì cái phần hy sinh ở chính bản thân lại càng cần thiết hơn nữa, đó là dứt khoát từ bỏ con người cũ. Như ba nhà đạo sĩ đã lên đường theo ánh sáng của ngôi sao lạ thế nào, thì chúng ta cũng vậy, tâm tình sám hối ăn năn chính là bước chân đầu tiên của chúng ta trên con đường trở về tìm gặp Thiên Chúa.
Đọc lại Phúc Âm chúng ta còn thấy, sau khi gặp gỡ Hài Nhi Giêsu, ba nhà đạo sĩ đã dâng tiến những lễ vật, gồm có vàng, nhũ hương và mộc dược, là những sản phẩm đặc biệt của quê hương mình. Chúng ta cũng vậy, hãy dâng lên Chúa Hài Nhi của lễ cá nhân chúng ta, đó là những hy sinh gian khổ chúng ta gặp phải trong cuộc sống thường ngày. Đồng thời chúng ta cũng hãy dâng lên Chúa Hài Nhi của lễ đóng góp của dân tộc mình, để nhờ đó ơn cứu độ có thể đến cho mọi người trên quê hương đất nước. Vậy của lễ dân tộc là gì?
Trước hết đó là những lầm than của dân tộc từ xưa đến nay. Có khi dân tộc ta đã kiên nhẫn chịu đựng và đó là một hành vi tùng phục đối với Chúa, mở đường cho ta tìm thấy Chúa hôm nay. Có khi dân tộc ta chưa kiên nhẫn chịu đựng, chưa tham dự vào cùng khổ giá ấy, thì ta có thể thay mặt dân tộc để tùng phục Chúa, và để, ở cương vị con cái Chúa, dâng phần đóng góp thay cho dân tộc. Như thế, càng hoà mình trong những chuyển biến thăng trầm của dân tộc, ta lại càng có thể đồng công cứu chuộc dân tộc nhiều hơn. Càng hoà mình với những người nghèo túng và bị hất hủi, ta lại càng góp được phần nhiều hơn vào của lễ của dân tộc. Của lễ dân tộc còn là những tinh tuý, những giá trị văn hoá và luân lý, đó là những cố gắng trong tối tăm của cha ông từ hàng ngàn vạn năm đã vươn mình về phía Chúa. Của lễ ấy phần nào đang hiện diện nơi ta, bởi lẽ rằng, cũng như một người càng thông thái bao nhiêu, thì khi tòng giáo rồi, họ càng dễ sống đạo sâu xa bấy nhiêu.
Như thế, ta sẽ đưa những cố gắng của cha ông thuở trước tới đích nơi ta, để những cố gắng này trở thành một của lễ ba vua, của lễ đóng góp của dân tộc nhỏ bé chúng ta.
138.Gặp Chúa
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta cùng nhau dừng lại để tìm hiểu về thái độ của những nhân vật liên hệ.
Trước hết là các thượng tế và kinh sư. Khi được hỏi Đức Kitô sinh ra ở đâu, thì họ đã trả lời vanh vách: Tại Bêlem, miền đất Giuđa, vì trong sách tiên tri có chép rằng: Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời. Sự hiểu biết của họ thật chính xác, nhưng mới chỉ là một sự hiểu biết hoàn toàn theo sách vở, cho nên đã không đủ mạnh để thúc đẩy họ đi vào hành động. Không một ai trong hõ đã nghĩ tới chuyện đến Bêlem xem lời tiên tri ấy đã ứng nghiệm như thế nào?
Tiếp đến là thái độ của dân thành Giêrusalem. Trước nguồn tin một vị vua của họ mới chào đời, Đấng họ trông chờ và tin rằng sẽ đến để giải thoát họ, thay vì vui mững và chuẩn bị nhập cuộc, thì họ lại hoảng hốt như chính Hêrôđê, kẻ thống trị họ đã hoảng hốt. Họ đã quen với cuộc sống mà họ biết là sẽ phải chấm dứt, để bước sang một cuộc sống mới, nhưng khi thời cơ đến, họ lại e ngại, sợ hãi vì phải dấn thân vào một cuộc phiêu lưu, bởi vì con đường giải thoát thực sự là một cuộc dấn thân và chỉ dành cho những ai biết chỗi dậy và lên đường.
Cuối cùng, chính các nhà đạo sĩ từ một phương trời xa lạ, không phải chỉ xa lạ về mặt địa dư, mà còn xa lạ cả về mặt tôn giáo và tín ngưỡng, lại gặp được Chúa, mà họ gọi là Vua dân Do Thái mới sinh ra, không phải tại Belem mà thôi, mà còn cả trong một thứ lòng tin nào đó. Ba nhà đạo sĩ được ngôi sao dẫn đến nơi Hài Nhi Giêsu ở, họ đã quì lạy Ngài và tiến dâng Ngài lễ vật là vàng, nhũ hương và mộc dược.
Câu chuyện thánh Matthêu kể lại và chúng ta vừa nghe, đã không chấm dứt với ba nhà đạo sĩ, với các thượng tế và kinh sư, với Hêrôđê và dân thành Giêrusalem, mà còn được tiếp diễn cho tới ngày hôm nay. Bởi vì người hôm qua là đạo sĩ, nghĩa là người ngoại đạo, thì hôm nay rất có thể đã trở thành những thượng tế, những kinh sư, những người thành Giêrusalem, nghĩa là những người trong nhà. Đồng thời cũng rất có thể xảy ra trường hợp những người trong nhà đã đánh mất khả năng nhận ra Đấng Cứu Thế và tiếp nhận Ngài, cũng như đã đánh mất khả năng nhận ra những dấu chỉ về sự hiện diện của Ngài trong thế giời hôm nay.
Đúng thế, trong thế giới hôm nay cũng như hôm qua và mãi mãi về sau, không biết có bao nhiêu người bị xếp vào phía bên tả trong ngày phán xét, chỉ vì đã không cho kẻ đói được ăn, kẻ khát được uống, kẻ trần trụi được mặc, kẻ đau yếu và bị cầm tù được viếng thăm. Họ đã không nhận ra Thiên Chúa nơi những người anh em cùng khổ.
Còn chúng ta thì sao? Liệu chúng ta đã gặp được Chúa nơi những người anh em của chúng ta hay chưa? Và như ba nhà đạo sĩ, chúng ta có biết dâng lên Chúa lễ vật là những sự trợ giúp chúng ta dành cho những người anh em bất hạnh hay chưa?
139.Ngôi Sao Giáng Sinh
Quan đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, có một chi tiết làm cho tôi suy nghĩ đó là ngôi sao bỗng biến mất khi các nhà đạo sĩ tới Giêrusalem, và rồi lại hiện ra, khi họ rời bỏ thành thánh để đi Bêlem. Tại sao lại như thế?
Như chúng ta đã biết Giêrusalem được coi là thành thánh, bởi vì ở đó có di tích, nơi mà xưa kia tổ phụ Abraham đã đem con mình là Isaác để sát tế cho Thiên Chúa. Chính nơi đây, vua Salomon đã xây dựng một đền thờ nguy nga bằng gỗ quý từ Libăng đem về. Vào thời Đức Kitô, ngôi đền thờ ấy đã được xây dựng lại. Một công trình vĩ đại, phải mất 46 năm trời người ta mới hoàn tất. Vì là thành thánh và là nơi có đền thờ, nên không lạ gì khi các nhà đạo sĩ, đi tìm vua dân Do Thái mới sinh, lại không dừng chân, tưởng đó là chặng đường chót. Nhưng oái oăm thay, ngôi sao lạ đã biến mất, còn trong thành cũng chẳng thấy ai bàn tán xôn xao về tin tức một vị tân vương mới ra đời. Ba nhà đạo sĩ chỉ là những người khách lạ, nhưng đã đem đến một tin làm chấn động cả dân thành, khiến từ vua chúa quan quyền cho đến bậc thứ dân đều sửng sốt hoang mang.
Nhà vua liền triệu tập các học giả vốn được coi là những người đoán biết được mệnh trời. Các vị ấy liền tìm ra ngay nơi Chúa sinh ra, đó là Bêlem. Nhưng đáng ngạc nhiên thay, nhà vua cùng các bậc học giả uyên thâm đó, chẳng một ai nghĩ là chính mình cần phải đi tìm vị tân vương. Họ chỉ hướng cho ba nhà đạo sĩ đi Bêlem, nhưng rốt cuộc chính ngôi sao lạ đã hướng dẫn ba vị khách phương xa tìm ra Đức Kitô. Vậy tại sao ngôi sao lại biến mất trên nền trời thủ đô Giêrusalem?
Ở mọi nơi và trong mọi lúc, chúng ta đều nhận thấy: Tôn giáo nào cũng có những nơi được dành riêng cho việc thờ phượng, nào là nhà thờ, nào là chùa chiền, nào là thánh thất. Điều đó thật tốt, nhưng đối với chúng ta ngày hôm nay thì không đủ, bởi vì Thiên Chúa đã làm người và ở giữa chúng ta.
Tin Mừng đã khởi đầu từ trong căn nhà nhỏ bé ở Nadarét với biến cố truyền tin, rồi được công bố cho những kẻ chăn chiên trên cánh đồng Bêlem. Tin Mừng ấy đã được diễn tả cụ thể trong cuộc sống và hành động của Đức Kitô tại Nadarét và trên khắp các nẻo đường Palestine. Tin Mừng ấy đã được hoàn thành trong cái chết của Ngài ở ngoài đền thờ, ngoài thành thánh, và trong sự phục sinh của Ngài, để rồi từ đó được loan truyền đi khắp thế gian. Điều đó muốn nói lên rằng thờ phượng Thiên Chúa nơi thánh đường mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải nhập cuộc, còn phải hoà mình đối với mọi người, nhất là những kẻ đau yếu, bậnh tật khổ đau.
Ngày nay ngôi sao Giáng sinh hình như cũng đang biến dần và những người tìm Chúa lại phải ra khỏi thành thánh, hướng về những Bêlem mới, đó là những kẻ bất hạnh đang bị bóc lột, và khinh bỉ như các người chăn chiên thuở trước. Thế nhưng liệu chúng ta có dám tìm Chúa theo sự hướng dẫn của ngôi sao lạ như thế, hay là chúng ta lại ngại ngùng không dám bước theo, để rồi cuối cùng trong tay chỉ còn là một cánh sao bằng giấy.
140.Gặp gỡ Chúa
Những hạng người nào đã được diễm phúc gặp gỡ Hài Nhi Giêsu nơi máng cỏ Bêlem? Trước hết là các mục đồng, những người canh giữ đoàn vật. Họ là những người nghèo và hơn thế nữa, họ còn là những người bị khinh dể bị coi thường. Các luật sĩ và Biệt phái thường gọi họ là bọn dân đen. Cái đám người không biết đến lề luật, họ là những kẻ bị chúc dữ. Thế nhưng, chính đám người bị chúc dữ ấy, chính đám người không biết đến lề luật ấy lại là những người đầu tiên được đón nhận Hài Nhi Giêsu.
Tiếp đến là những nhà bác học xa lạ. Đường không quen, nẻo không thuộc. Họ từ xa mà đến, dám chấp nhận mọi hy sinh gian khổ. Cái nghèo của những người này chính là thái độ sẵn sàng của họ. Các Luật sĩ và Biệt phái coi họ là dân ngoại. Thế nhưng, cái đám dân ngoại này lại được diễm phúc gặp được Hài Nhi Giêsu.
Từ những sự kiện trên chúng ta rút ra được hai nhận định. Nhận định thứ nhất đó là sự gặp gỡ giữa người giàu và kẻ nghèo nơi Hài nhi Giêsu. Đúng thế, từ xưa cho đến nay vẫn có một hố ngăn cách giữa giàu và nghèo. Sự ngăn cách này được tạo nên bởi những nghi ngờ và thù oán. Mỗi bên đều có cái lý của mình. Tuy nhiên trong lịch sử đã có một khoảnh khắc trong đó giàu và nghèo không còn đố kỵ nhau, đó là khoảng khắc Chúa Giêsu sinh ra. Bởi vì có những người giàu, giàu về tiền bạc cũng như giàu về kiến thức đã đến viếng thăm một Hài nhi nghèo nàn, sinh ra không cửa không nhà.Thế nhưng, cái nghèo của Hài Nhi Giêsu mà ba nhà đạo sĩ khám phá ra đã không đẩy lùi họ, trái lại còn hấp dẫn họ, không làm cho họ hổ thẹn, trái lại còn làm họ cảm thấy được tôn vinh. Vì vậy, không ngỡ ngàng, không nghi vấn, họ tự dâng của lễ cho một Hài Nhi của người nghèo, như triều cống cho một hoàng tử của đế vương.
Nhận định thứ hai đó là các mục đồng và dân ngoại là những người ít được chuẩn bị nhất lại nhận ra Chúa. Trong khi đó các Luật sĩ, Biệt phái và tư tế, là những người đã được chuẩn bị nhiều nhất, đã được thông tin hoàn toàn nhất, bởi vì chính họ đã cho các đạo sĩ biết rõ nơi gặp gỡ đích thực của vị Vua mới sinh ra, thế nhưng cuối cùng họ đã không nhận ra Ngài. Họ có dư khả năng để biết nhưng lại không có khả năng để hiểu. Đúng thế, họ biết được bằng trí tuệ, bằng những phương tiện thông tin đầy đủ có trong tầm tay, nhưng muốn hiểu thì còn cần đến tấm lòng, cần đến con tim nữa.
Các mục đồng là những kẻ thiếu học, còn các nhà đạo sĩ là những người thiếu thông tin. Họ không có khả năng để biết, nhưng lại có khả năng để hiểu. Không phải chỉ sáng trí, có học là đủ để đi vào những mầu nhiệm của Thiên Chúa. Trái lại, cần phải có thiện chí, cần phải có tấm lòng, dám chấp nhận những hy sinh, dám từ bỏ cái tự cao tự đại của mình, thì mới có thể đến gần và gặp gỡ Chúa.
Bởi đó, là những người có đức tin, thế nhưng chúng ta đã gặp gỡ Chúa như các mục đồng và như ba nhà đạo sĩ phương đông hay chưa?
141.Thiên Chúa tỏ mình
Ngày hôm nay Thiên Chúa tỏ mình ra cho ba nhà đạo sĩ đến từ phương Đông, nghĩa là những người ở ngoài dân Chúa và bị người Do Thái xếp vào hàng dân ngoại. Chính vì thế lễ Hiển Linh có thể được coi như là lễ Giáng sinh của người ngoại. Tuy nhiên, qua phụng vụ chúng ta thấy được tính cách bi đát của chương trình cứu độ như thánh Gioan đã diễn tả: Ngài đã đến nơi nhà Ngài mà các người thân đã không tiếp nhận Ngài.
Thực vậy, Isaia đã đưa ra những lời tiên đoán đầy phấn khởi về Giêrusalem vào ngày Đấng cứu thế xuất hiện. Ngày ấy, Giêrusalem sẽ trở thành trung tâm ánh sáng và mọi người từ bốn phương trời sẽ tiến về đó với muôn vàn lễ vật. Nhưng trớ trêu thay, vào ngày Con Thiên Chúa giáng sinh làm người, theo như lời tiên tri Isaia loan báo, ánh sáng đã chiếu trên Giêrusalem, nhưng lại chỉ có những người ở ngoài mới nhận ra ánh sáng ấy, còn dân trong thành thì vẫn tiếp tục sống trong u tối. Giêrusalem đã có thể chỉ rõ nơi vua dân Do Thái mới sinh ra, nhưng lại chỉ có những người ở ngoài mới tới thờ lạy Ngài.
Một ngôi sao xuất hiện trên bầu trời thì có chi đáng quan tâm. Nhưng tất cả cuộc hành trình kỳ diệu lại khởi đầu từ đó. Đêm hôm ấy, hẳn cũng đã có nhiều người nhìn lên trời, ngắm những vì sao nhưng lại không thấy được vì sao của Ngài. Cũng thế, những biến cố, những sự kiện diễn ra hằng ngày trên đường phố, trong xã hội. Chúng ta cũng có thể đọc được những sự kiện, những biến cố ấy trên cùng một trang báo, qua cùng một chương trình thời sự, nhưng có mấy khi chúng ta thấy được trong một biến cố, trong một sự kiện dấu chỉ về một đòi hỏi của Chúa?
Tuy nhiên, các nhà đạo sĩ đã không chỉ bằng lòng với việc thấy được vì sao của Ngài. Các ông còn chuẩn bị lễ vật và hăm hở lên đường với một cuộc hành trình mang tính cách phiêu lưu, tiến tới một nơi vô định mặc dầu có ánh sao dẫn lối. Tin Mừng cho thấy là cũng đã có lúc không còn ánh sao nữa và các ông đã phải hỏi thăm về nơi các ông phải tới với những người không quen biết. Và không phải là không có những cạm bẫy. Hêrôđê có đó với tấm lòng nham hiểm đằng sau những lời nói đầy vẻ ân cần. Vượt không biết bao nhiêu dặm đường để rồi cuối cùng đứng trước một hài nhi yếu ớt, nhưng các ông cũng đã sấp mình thờ lạy, và dâng lễ vật với lòng hân hoan toại nguyện. Phải chăng đó chính là thái độ của một lòng tin đích thật. Các thượng tế và luật sĩ, mặc dù thông hiểu Kinh Thánh, nhưng vẫn ngồi yên tại chỗ. Sự hiểu biết của họ như đã không đủ sức để lay chuyển họ. Là những người ở trong, họ đã tự đặt mình thành những kẻ ở ngoài. Trong khi đó, những người vẫn bị xếp vào hạng ở ngoài, vì đã đi theo tiếng gọi của Chúa, mà đã trở thành những người ở trong. Những điều chúng ta thấy và hiểu biết về Tin Mừng, về Đức Kitô, về Nước Trời, về ơn cứu độ, có đủ sức lay chuyển chúng ta đi theo tiếng gọi của Chúa hay không?
142.Lễ Hiển Linh--Chiếu tỏ đức tin và tình thương của Chúa
Biến cố Chúa Giáng sinh là biến cố trọng đại cho vũ trụ, cho muôn dân muôn nước. Thiên Chúa đã cho các mục đồng chứng kiến biến cố này. Đồng thời Ngài cũng cho lương dân mà đại diện là ba nhà đạo sĩ như những tâm hồn chân thành tìm kiếm Thiên Chúa được chứng kiến tận mắt biến cố lớn lao này.
Lễ Hiển Linh được gọi là lễ Thiên Chúa tỏ mình ra cho nhân loại. Thiên Chúa không chỉ tỏ mình ra cho riêng dân tộc Do Thái mà còn cho muôn dân khác nữa. Bởi đó, mọi người trong chúng ta phải cộng tác với Thiên Chúa để làm bừng sáng lên ánh sáng đã xuất hiện từ Phương Đông. Chúng ta phải là ánh sao dẫn đường cho mọi người đến với Chúa. Trong bài đọc thứ nhất hôm nay, tiên tri Isaia đã mở ra cả một viễn tượng lớn lao: đó là ngày và thời vinh quang của Thiên Chúa chiếu trên Dân Chúa và biến Dân Chúa thành điểm thu phục muôn dân. Mọi người từ mọi phương hướng sẽ cùng qui về một mối trong tiếng ngợi ca Thiên Chúa. (x Is 60, 1 - 6)
Nội dung của lòng tin tưởng này đã được Thánh Matthêu diễn tả một cách sống động qua câu chuyện về ba nhà đạo sĩ đi tìm gặp Đức Giêsu mới sinh tại Bêlem. Xưa chúng ta quen gọi đây là ba vua, do đó lễ Hiển Linh này cũng gọi là lễ Ba Vua. Nhưng điều mà đoạn Tin Mừng ở đây muốn nhấn mạnh đến là các đạo sĩ. Họ là những người ở ngoài Dân riêng của Chúa, không thuộc dân Do Thái nhưng họ đã tìm đến và được lãnh nhận ơn cứu độ. Có thể nói, đoạn Tin Mừng này đã diễn tả tất cả tấn bi kịch của công cuộc cứu chuộc đới với Dân riêng của Chúa và đồng thời cũng nói lên tấm lòng đại đội của Thiên Chúa: Hêrôđê tượng trưng cho quyền lực, một thứ quyền lực xảo quyệt chỉ biết khư khư giữ lấy ngai vàng của mình như một lẽ sống. Còn dân thành Giêrusalem đáng lý ra phải vui mừng khi hay tin "Vua người Do Thái mới sinh", Đấng họ trông chờ như Vị Cứu Tinh, thì trái lại, họ đã hoảng hốt cùng với Hêrôđê người cai trị trên họ. Dường như họ ngại phải dấn mình vào một sự đổi thay, dù họ tin rằng sự đổi thay đó đem lại sự giải thoát cho họ. Còn những Tư Tế và những nhà thông luật, biết rõ nơi Vị Cứu Tinh ra đời, nhưng chẳng ai màng đến với Ngài. Để rồi cuối cùng, chỉ có những người bị liệt vào hàng "dân ngoại" lại hăm hở đến với "Vua người Do Thái", cũng là Vị Cứu Tinh của nhân loại.
Lễ Hiễn Linh là lễ Thiên Chúa tỏ mình ra. Chúng ta biết được qua bài Tin mừng, Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho muôn dân. Thánh Gioan viết: "Thiên Chúa nào có ai thấy Ngài bao giờ, và làm sao thấy Ngài được? Nhưng người Con duy nhất của Ngài đã làm người, và cho ta thấy được Thiên Chúa mang bản tính con người, làm người như chúng ta và ở giữa chúng ta" (Ga 1, 18; 6, 46). Từ khi Ngôi Lời nhập thể, ai tin nhận Đức Kitô là tin nhận Thiên Chúa, ai từ khước Đức Kitô là từ khước Thiên Chúa.
Vấn đề được nêu lên hôm nay, là ai làm cho người ta biết Đức Kitô, nếu không phải là mỗi người chúng ta? Tuy nhiên, chúng ta đã biết Đức Kitô đến mức độ nào? Nhất định là chúng ta chỉ biết Ngài với một mức độ thật giới hạn. Còn nếu chứng minh bằng chính đời sống, để nói được với bất cứ ai, như Thánh Phaolô đã nói: "Xin ông bà, anh chị, hãy bắt chước tôi, như tôi đã sống noi gương Đức Kitô", thì lắm kẻ không dám nói, và không được phép nói. Bởi vì cuộc sống hiện tại của họ, mọi người đều biết nó như thế nào rồi! Nói cách khác, bản thân tôi chưa gặp được Thiên Chúa, mặc dù miệng tôi luôn nói: Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, Thiên Chúa ở trong tôi, Thiên Chúa ở trong mọi người. Nhưng thực sự, tôi không thấy Thiên Chúa nơi ai cả, ít là trong những cử chỉ tôi đối với những người chung quanh đã nói lên rõ rệt như vậy. Và cũng thế, chưa ai thấy Thiên Chúa ở nơi tôi cả vì chính cuộc sống của tôi đã nói lên rõ ràng như vậy.
Thật vậy, còn có biết bao người đang sống trong tăm tối thiêng liêng; họ đang bước đi trong lầm lạc; họ đang khao khát chân lý; họ không ngừng đặt vấn nạn với chúng ta: "Đức Vua Dân Do Thái sinh ra ở đâu?". Thế nên, chúng ta có trách nhiệm trả lời cho họ. Trả lời một Đức Kitô sống động qua con người của chúng ta, qua cách sống của mình. Không có con đường nào khác đưa người ta trở về hoặc khám phá ra Chúa Kitô ngoài cách sống đức tin của mình, lòng quảng đại, sự tha thứ, tinh thần quan tâm, chia sẻ trong tình yêu thương của Chúa Kitô. Chính tình yêu là sức mạnh khiêm tốn nhất nhưng lại mãnh liệt nhất để đưa con người đến với nguồn chân lý.
Khi người Kitô hữu chỉ đóng khung đời sống đạo của mình trong nhà thờ, giữa những nghi lễ, mà không nhận ra những nhu cầu, những đòi hỏi của xã hội chung quanh; khi một cộng đoàn Kitô hữu quá bám víu vào những thứ gọi là quyền lợi tôn giáo của mình mà làm ngơ trước những đau khổ, bất hạnh của kẻ khác thì chính họ đang làm dập tắt những ánh sáng dẫn đường tới Chúa Kitô.
Thiên Chúa là Thiên Chúa tình thương, hy sinh Con một cho nhân loại phản bội. Thiên Chúa là Đức Kitô dám chết cho kẻ mình yêu tuy chúng ta không đáng yêu. Trong xã hội chúng ta, ngay giữa chúng ta, có nhiều mẫu người hy sinh, quên mình, lo cho người đau khổ, nghèo đói, bệnh tật, trong các bệnh viện, đặc biệt ở những trại cùi. Có nhiều người đang âm thầm vào các bệnh viện, tìm thăm những bệnh nhân không gia đình thăm viếng, chăm sóc. Những con người đó đang sống đức tin của mình cách công khai, họ chính là những nhân chứng đích thực của Chúa Kitô.
Xin Chúa ban cho có nhiều tông đồ, nhân chứng của tình yêu Chúa với những việc làm cụ thể như thế để tạo được sự Hiển Linh, làm cho mọi người được thấy Thiên Chúa tình thương.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con dám sống quảng đại, vị tha, quan tâm giúp đỡ đến nhu cầu của tha nhân. Xin cho chúng con trở nên những ánh sao chiếu toả đức tin, tình thương, lòng nhân hậu của Chúa cho mọi người. Amen.
143.Lễ Hiển Linh--Vui mừng vì được ngôi sao lạ dẫn đường
Thông thường khi muốn đến một nơi nào chưa biết, người ta sẽ bằng nhiều cách: tìm xem qua bản đồ, nhờ người biết trước chỉ hay dẫn đường. Nếu không người ta sẽ rất dễ bị lạc đường. Càng đến nơi quan trọng bao nhiêu thì người ta lại càng phải tìm hiểu kỷ bấy nhiêu.
Hôm nay, cùng với Giáo hội chúng ta mừng lễ Chúa Hiển linh hay còn gọi là lễ Ba vua. Nói đúng hơn đây là Ba vị hiền sĩ từ Phương Ðông. Họ được báo tin có Vua dân Do thái mới sinh ở Bêlem. Vì thế, họ cùng nhau lên đường theo sự hướng của Ngôi sao lạ đến Bêlem. Trên đường đi, chẳng may Ngôi sao lạ biến mất nên họ vào hỏi thăm vua Hêrôđê.
Không ngờ chính vua Hêrôđê cũng chẳng hay biết gì. Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Ðấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu (Mt 2, 4). Họ trả lời: "Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời." (Mt 2, 5 - 6). Sau khi chỉ đường cho các nhà đạo sĩ vau Hêrôđê căn dặn kỷ lưỡng:: "Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người." (Mt 2, 8b). sau đó, họ đã tiếp tục lên đường. May mắn thay, Ngôi sao lạ đã tiếp tục xuất hiện và dẫn đường cho họ. "Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng." (Mt 2, 10)
Các Hiền sĩ là những người rất thành tâm thiện chí. Họ đã nhờ Ngôi sao lạ dẫn đường đến thờ lạy Hài nhi Giêsu. Mặc dù, khi Ngôi sao biến mất thì họ vẫn không nản lòng. Họ đã tìm cách hỏi thăm cho bằng được. Nhưng rồi họ lại hết sức vui mừng khi Ngôi sao lạ lại xuất hiện để tiếp tục dẫn đường cho họ.
Ngôi sao lạ ấy chính là thánh ý quan phòng của Thiên Chúa. Có thể lúc Ngôi sao biến mất là lúc Thiên Chúa muốn thử thách sự kiên trì của họ. Với sự kiên trì và tấm lòng yêu mến sự thật họ đã tìm được nơi và người họ muốn tìm.
Trong đời sống đức tin của chúng ta, chính lời Chúa và những chỉ dẫn của Giáo hội là Ngôi sao dẫn đường cho ta đến Thiên đàng. Những lúc cảm thấy như Ngôi sao biến mất là những lúc Chúa muốn thử thách lòng tin của chúng ta. Xin cho chúng ta luôn biết kiên trì và thật lòng như các Vị Hiền sĩ để mỗi ngày theo sự hướng dẫn của Chúa và Giáo hội đi về Thiên đàng.
144.Lễ Hiển Linh--Hãy là sao lạ dẫn đường giới thiệu Chúa
Epiphany: manifestation or striking appearance có nghĩa là Lễ Hiển Linh.
Tiếng Hy-lạp cổ dùng chữ Theophaneia (Theophany meaning ‘vision of God’).
Lễ này được cử hành vào ngày 6 tháng Giêng theo truyền thống xa xưa. Vào Lễ này, các tín hữu Tây Phương tưởng nhớ ba nhà Đạo Sĩ thăm viếng Chúa Hài Nhi Giêsu và sự hiển linh của Con Chúa cho các Dân Ngoại.
Từ năm 1970, Giáo Hội Công Giáo Rôma, nghi thức Latinh đã cử hành Lễ Hiển Linh vào ngày 6 tháng 1 và là Lễ buộc. Các quốc gia khác có thể cử hành vào Chúa Nhật, sau ngày 1 tháng 1.
Lễ Hiển Linh còn được gọi là Lễ Ba Vua. Trong khi các tín hữu Đông Phương tưởng nhớ việc Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan, được xem là sự hiển linh của Con Chúa cho toàn thế giới.
Lễ Hiển Linh là lễ Thiên Chúa tỏ mình ra cho mọi người. Thiên Chúa không chỉ tỏ mình ra cho riêng Dân của Ngài mà còn cho muôn dân. Bởi đó, mọi người trong chúng ta phải cộng tác với Thiên Chúa để làm bừng sáng lên ánh sáng đã xuất hiện từ Phương Đông. Chúng ta phải là ánh sao dẫn đường cho mọi người đến với Chúa. Tiên tri Isaia trong bài đọc thứ nhất hôm nay đã mở ra cả một viễn tuợng lớn lao: đó là ngày và thời vinh quang của Thiên Chúa chiếu trên Dân Chúa và biến Dân Chúa thành điểm thu phục muôn dân. Mọi người từ mọi phương hướng sẽ cùng quy về một mối trong tiếng ngợi ca Thiên Chúa.
Lời ngôn sứ Isaia đã vang vọng từ 700 năm trước Công Nguyên về sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế: Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi (Is 60, 1).
Ánh sáng sẽ bừng lên trong đêm tối và con dân sẽ đón nhận vinh quang Thiên Chúa. Đấng Cứu Thế là ánh sáng đến trong thế gian để xua trừ bóng tối của tội lỗi và gian tà. Mọi dân sẽ hướng về nguồn ánh sáng để dõi tìm ơn cứu độ: Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước (Is 60, 3).
Theo truyền thuyết, những nhà chiêm tinh, nhà khôn ngoan, còn gọi là các đạo sĩ hay ba vua, đã chiêm ngắm bầu trời và nhận ra vì sao lạ. Họ đã dõi theo ánh sáng của vì sao lạ để tìm đến bái thờ Đấng đã được sai đến.
Ngôn sứ Isaia đã tiên báo về việc các bậc quân vương tiến về để thờ lạy Chúa Hài Nhi. Các nhà Đạo Sĩ Phương Đông cùng đến dâng Chúa của lễ là vàng, nhũ hương và mộc dược. Isaia đã có thị kiến về đoàn người từ các phương xa tìm đến bái thờ: Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Mađian và Êpha: tất cả những người từ Sơva kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa (Is 60, 6).
Các nhà Đạo Sĩ đã miệt mài kiếm tìm qua dấu chỉ mà không quản ngại gian khó. Các ngài đã được Thiên Chúa đáp trả như lòng mong ước.
Chúa Giêsu đã dạy: Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra cho (Mt 7, 8). Hồng ân Chúa bao la tuyệt vời, đoàn người dân ngoại đã được chứng kiến tận mắt ơn Cứu Độ đã tỏa sáng: Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến (Mt 2, 11).
Vàng được mệnh danh là vua của mọi kim loại. Vàng thường được coi là của lễ xứng hợp nhất để dâng tiến vua. Chúa Giêsu sinh ra để làm vua. Vị vua này không cai trị bằng vũ lực nhưng bằng tình yêu. Ngài cai quản lòng người không từ ngai vàng mà từ thập tự giá.
Sự có mặt của Ngài đã biến đổi thế giới loài người, mang lại hạnh phúc cho nhân loại. Bệnh tật được chữa lành (Mt 8, 16-17), tang tóc được hân hoan (Lc 7, 11-17), tội lỗi được tha thứ (Mt 2,5), ngay cả sự chết đối với Ngài chỉ là giấc ngủ bình an (Mc 5, 39). Vì vua này xuất hiện luôn ban cho con người một niềm vui, một niềm hy vọng "Phúc cho anh em, là những người nghèo, vì triều đại Thiên Chúa là của anh em. Phúc cho anh em là những người đói khát vì anh em sẽ được no nê. Phúc cho anh em là những người đang khóc vì anh em sẽ được vui cười" (Lc 6, 20-21).
Nhũ hương dâng cho Hài nhi là thứ hương liệu có mùi thơm dịu mà thầy tư tế thường dùng trong các nghi thức thờ phượng. Thầy tư tế chính là trung gian giữa Thiên Chúa và con người. Vị tư tế cũng chính là người mở đường dẫn lối để con người đến được với Thiên Chúa.
Ánh sao soi đường đến nơi thì đã tắt, bởi lẽ Chúa Giêsu chính là ánh sáng thật để soi rọi con người tìm ra chân lý. Chân lý con người tìm kiếm là tình yêu và gia nghiệp của Ngài. Chính chúa Giêsu sẽ dẫn đưa con người về với Chúa Cha.Thư gửi Ephêsô, thánh Phaolô đã khẳng định: "Trong Đức Giêsu Kitô và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại cũng được thừa kế gia nghiệp với người do thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa ban" (Eph 3,6).
Mộc dược là lễ vật dành cho người chết, là hương liệu để xông xác người. Chúa Giêsu đến thế gian để sống cho con người và cuối cùng chết cho con người. Cái chết của Ngài biểu lộ sự trung thành đối với loài người mà Ngài đã yêu thương đến tận cùng (Ep 13, 1). Chúa Giêsu không nghĩ tới mình, vì lẽ đó Ngài có thể đón tiếp mọi người và lắng nghe mọi người đến với Ngài. Cuộc sống Chúa Giêsu là một cuộc tự hiến cho con người để cứu độ con người.
Qua Kinh Thánh và lịch sử của ơn cứu độ, ta biết có nhiều tâm hồn khao khát đi tìm kiếm và mong chờ Chúa. Khi thời gian chuẩn bị đã mãn, dấu chỉ đã tỏ hiện, lòng con người thôi thúc khát mong và mùa hồng ân đã cận kề, các Đạo Sĩ tìm hỏi: "Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người."(Mt 2, 2).
Thiên Chúa tỏ mình ra. Chúng ta biết được qua trang Tin Mừng, Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho muôn dân. Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa nào có ai thấy Ngài bao giờ, và làm sao thấy Ngài được? Nhưng người Con duy nhất của Ngài đã làm người, và cho ta thấy được Thiên Chúa mang bản tính con người, làm người như chúng ta và ở giữa chúng ta”. Từ khi Ngôi Lời nhập thể, ai tin nhận Đức Kitô là tin nhận Thiên Chúa, ai từ khước Đức Kitô là từ khước Thiên Chúa.
Việc đi theo ngôi sao lạ để đến bái thờ và dâng Chúa những của lễ thật sự chẳng phải là việc giản đơn và cũng không phải ai cũng làm được như 3 nhà đạo sĩ.
Muốn như vậy, trước hết việc lên đường đòi phải ra khỏi nhà, giã từ những tiện nghi dễ chịu, từ bỏ những sinh hoạt quen thuộc, chấp nhận những thiếu thốn, những nguy hiểm, những bất tiện đường đi. Thiện chí của các Ngài rất cao, nên khi ngôi sao biến mất, các Ngài vẫn không nản lòng bỏ cuộc, nhưng tìm mọi cách vượt qua khó khăn, tìm mọi cách để đến gặp được Chúa. Chúa đã chúc lành cho thiện chí của các Ngài, nên đã cho các Ngài được gặp Chúa.
Khi người Kitô hữu chỉ đóng khung đời sống đạo của mình trong nhà thờ, giữa những nghi lễ, mà không nhận ra những nhu cầu, những đòi hỏi của xã hội chung quanh; khi một cộng đoàn Kitô hữu quá bám víu vào những thứ gọi là quyền lợi tôn giáo của mình mà làm ngơ trước những đau khổ, bất hạnh của kẻ khác thì chính họ đang làm dập tắt những ánh sáng dẫn đường tới Chúa Kitô.
Đời sống chúng ta là một cuộc đi tìm Chúa. Trong cuộc đi tìm, ta phải có thiện chí như Ba Vua, biết dấn thân lên đường, biết phấn đấu chấp nhận hy sinh gian khổ, biết kiên trì không nản lòng bỏ cuộc khi gặp thử thách.
Ba Vua không thể đến với Chúa nếu không có ngôi sao dẫn đường.
Hôm nay, Chúa muốn mỗi người chúng ta là một ngôi sao lạ. Chúa mời gọi ta loan báo tình thương của Chúa, đưa dẫn những tâm hồn thiện chí đến với Chúa. Và như vậy, ta hãy là ngôi sao sáng trong đời sống công bình. Hãy chiếu sáng đức thương yêu của Chúa. Hãy toả ánh sáng ấm áp tình người. Qua những luồng sáng tự nhiên phát ra từ ta ấy, chắc chắn mọi người sẽ nhận biết và tìm về với Thiên chúa là ánh sáng chân thật.
145.Tìm Chúa
Vào thời Trung Cổ người ta hay diễn tuồng ba vua ở trong nhà thờ hoặc nơi cửa ra vào. Để làm thõa mãn trí tưởng tượng của khán giả, người ta thường đem đến những vật kỳ lạ, và cho là lễ vật của ba vua tiến Chúa như: khỉ, vẹt, lạc đà... Lễ ba vua còn có một thủ tục khác nữa là chơi trò bắt thăm làm vua. Người ta cho một hạt đâu hay một tượng nhỏ vào trong chiếc bánh ngọt, và chia ra thành từng phần cho những người trong nhà, ai được miếng bánh có hạt đâu hay tượng nhỏ đó sẽ được làm vua, được đội triều thiên trong bữa ăn. Thủ tục này bắt chước thủ tục của dân ngoại ở Rôma, Đức... còn trong tu viện nếu được làm vua sẽ được làm chủ tọa cộng đoàn khi dự nghi lễ phụng vụ và chủ tiệc ngày hôm ấy. Từ thời Trung Cổ người dân ngoại và cả người Công Giáo đều ao ước được giống như ba vua, để được dâng lễ vật tiến Chúa, được chủ tọa nghi lễ phụng vụ... Đó chỉ là những hình thức bên ngoài của thời Trung Cổ, nhưng ít nhiều cũng cho thấy tâm tình bên trong; họ ao ước giống ba vua cả trong đức tin, hành động và cả lòng can đảm.:
1. Trong đức tin
Ba vua chính là những người dân ngoại đầu tiên nhận biết Chúa. Và chính nhờ đức tin qua ngôi sao lạ đã hướng dẫn đường đi, nước bước cho các ông. Thật vậy đức tin chính là ơn ban cao trọng nhất, vì không có đức tin chúng ta không thể sống đẹp lòng Chúa được. Hơn nữa không có đức tin thì sẽ như người mù lòa không biết đường biết hướng về đâu. Nhưng phài luôn nhớ rằng đức tin luôn là ơn ban nhưng cho tất cả mọi người, đặc biệt là dân ngoại. Đức tin đến với ba vua không như một phép lạ để họ nhận biết Người. Họ được ngôi sao lạ dẫn đường, ngôi sao này có thật hay không chúng ta không cần biết. Điều quan trọng là qua ngôi sao lạ ba vua nhận biết đó là điềm Thiên Chúa gởi đến soi sáng và đưa họ đến Bêlem để thờ lạy Chúa.
Ngày xưa ba vua nhờ đức tin soi sáng dẫn đường đã được thõa lòng hạnh phúc. Ngày nay Thiên Chúa cũng soi sáng chúng ta bằng nhiều cách qua các biến cố. Nhưng điều quan trọng nhất là chúng ta đã biết lấy đức tin để đón nhận chưa?
2. Hành động
Thánh Giacôbê nói: "Đức tin không có hành động là đức tin chết". Nếu ba vua nhìn thấy ngôi sao mà không lên đường, thì việc trông thấy ngôi sao nào có ích gì? Đối với chúng ta cũng vậy, nếu có đức tin mà không sống theo đức tin thì có ích gì. Ba vua vừa nhìn thấy ngôi sao lạ thì nhận biết ngay đó chính là quyền phép Thiên Chúa thì các ông không cần tìm hiểu nguyên do, mà mau mắn bước theo. Thật là một niềm tin mãnh liệt là một tấm gương cho mỗi người chúng ta. Dứng trước chân lý đức tin đòi hỏi ta cũng phải có thái độ tùng phục như vậy. Do đó chúng ta hãy mau mắn làm theo ba vua, khi thấy "ngôi sao đức tin" phải vội vã lên đường, nếu ta còn lưỡng lự chậm chạp rất có thể ngôi sao đó sẽ tắt lim và không còn ánh sáng nào soi đường cho ta đi về quê thật là nước thiêng đàng nữa.
3. Can đảm
Ba vua đã từ giã gia đình thân yêu, không ngại thân già sức yếu, đường sá nguy nan, chấp nhận tất cả những khó khăn chỉ mong làm tròn thánh ý Chúa đã tỏ ra với mình. Chúng ta những người đang lữ hành, con đường mình đi chắc chắn cũng có rất nhiều chông gai hiểm trở. Chúng ta phải chiến đấu không ngừng với bản thân mình, với những xu hướng xấu từ ngay trong chính bản thân... Như ba vua đã đạt được đích đến là Thiên Chúa, thì chúng ta tin rằng với con đường đức tin mình cũng sẽ đạt được hạnh phúc đời đời. Vì thế mà mỗi người hãy can đảm vượt mọi trở ngại đời này, để sống xứng đáng với đức tin mà Thiên Chúa đã ban cho ta.
Không, phải con đường đức tin lúc nào cũng trơn tru, lắm lúc cũng bị mây mù che khuất như ba vua hôm nay, nhưng với sự quyết tâm và lòng thành các ông đã vượt qua bằng cách hỏi thăm đường. Chúng ta cũng vậy lắm lúc con mắt đức tin mình cũng bị che mù làm ta không còn nhận ra đường đi nữa, không còn biết phải đi con đường nào và xử sự ra sao. Lúc đá cũng hãy biết chạy đến những người khôn ngoan, hướng dẫn đức tin như: cha sở, cha linh hướng hoặc những người khôn ngoan, chắc chắn chúng ta sẽ không bị lầm lạc và cũng tìm được Chúa như ba vua xưa đã thấy.
Trong ngày lễ hiển linh hôm nay, chúng ta hãy dâng lên Chúa Hài đồng tâm tình thờ lạy. Ta chẳng có vàng, nhũ hương và mộc dược, nhưng chúng ta có tấm lòng, có con tim. Vậy chúng ta hãy dâng lên Chúa với tất cả lòng chân thành và con tim yêu mến đó.
Lạy Chúa, chỉ tin không thì chưa đủ, mà còn đòi hỏi con phải mau mắn thi hành những điều đức tin dạy, như thế mới là sống theo ý Chúa. Amen.
146.Ánh sáng soi đời
Hôm nay, chúng ta mừng lễ Chúa Hiển Linh. Qua dấu chỉ ánh sao lạ xuất hiện trên bầu trời, Thiên Chúa tỏ mình ra cho nhân loại, đặc biệt là cho những ai thành tâm tìm kiếm Chúa.
Ngày xưa, người ta thường cho rằng, việc giáng sinh của các vĩ nhân thường được báo hiệu bằng việc xuất hiện những ngôi sao lớn. Các chiêm tinh gia thường nghiên cứu chuyển động của các vì tinh tú để đoán định mệnh của con người. Ba nhà đạo sĩ mà Tin mừng vừa tường thuật cho chúng ta nghe là những người rất thành thạo về khoa chiêm tinh, nhìn thấy ngôi sao lạ, họ đã nhận ra sự sinh hạ của Đấng Cứu thế, Vua dân Do thái nên họ đã quyết lòng đi tìm gặp Đấng Quân vương mà họ khao khát mong chờ.
Tin mừng hôm nay cũng cho chúng ta thấy một khía cạnh rất tế nhị nhưng cũng rất thời sự trong cuộc sống của con người. Đó là sự tồn tại của hai hạng người đối nghịch nhau trong cách sống. Hạng người thứ nhất là hạng người xem ra rất trí thức, thông biết nhiều điều, nhưng biết chỉ để cho biết chứ không dẫn đến hành động. Đó là trường hợp của những đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân Do thái. Những người này biết rõ nơi Đức Giêsu sẽ sinh ra, nhưng họ không tha thiết gì trong việc tìm gặp Đấng cứu thế, Đấng thủ lãnh chăn nuôi dân Israel dù sau khi họ nghe những nhà đạo sĩ từ Phương Đông đến nói cho họ biết điềm lạ ấy. Hạng người thứ hai là những người khao khát chân lý, say sưa kiếm tìm và quyết tâm đạt đến chân lý. Đó là trường hợp của ba nhà đạo sĩ mà chúng ta được nghe nói đến trong đoạn Tin mừng hôm nay. Các ông hăng hái lên đường khi đã thấy điềm lạ là ánh sao lớn xuất hiện. Với ánh sao này, các đạo sĩ nhận ra có một vĩ nhân, một Quân vương mới vừa ra đời. Thái độ tích cực tìm kiếm sự khôn ngoan và chân lý của ba nhà đạo sĩ hoàn toàn đối lập với thái độ của các đại giáo trưởng và những luật sĩ trong dân Israel.
Nếu biết chỉ để cho biết, chỉ để tỏ ra cho người ta thấy mình uyên bác mà thôi thì quả thật đáng chê trách và đáng tội nghiệp cho họ. “Cái biết” thật sự phải dẫn đến cách sống và lối sống phù hợp với sự thật thì mới làm trổ sinh hoa trái được. Chúa Giêsu đã nhiều lần cảnh báo rằng: “Ai nghe những lời Ta nói đây mà không đem ra thực hành thì ví như người ngu xây nhà mình trên cát, gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành" (Mt 7, 26-27). Trong cuộc sống chúng ta cũng thấy có nhiều người rất uyên thông nhiều vấn đề, đặc biệt là đối với tôn giáo, nhưng họ lại là những người vô thần hoặc trở thành những người đả kích các tôn giáo. Cái biết của những con người kiêu căng, muốn dạy đời cho thiên hạ nhưng không biết dùng cái biết đó để kiếm tìm chân lý và sự thật. Rốt cuộc, họ chỉ là những con người kiêu căng đáng thương.
Chuyện kể rằng, có một sinh viên đang theo học tại một trường Đại học nổi tiếng bên Pháp. Một hôm, anh bước lên chiếc xe buýt và bắt gặp một ông cụ già đang ngồi lần chuỗi ở một dãy ghế dưới cùng của chiếc xe. Anh bước tới và làm quen với ông cụ ấy. Anh ta khuyên ông cụ thôi đừng làm những trò nhảm nhí ấy nữa. Sống trong thời đại văn minh rồi mà còn tin dị đoan như thế thì lạc hậu vô cùng. Anh ta lần lượt giới thiệu hết tác phẩm nổi tiếng này đến các sách bách khoa khác cho ông lão để ông mở mang trí thức và mở rộng tầm nhìn của mình ra thế giới. Gần đến tạm xe, anh ta xin địa chỉ của ông lão để có dịp anh ta sẽ gửi sách cho ông hoặc giới thiệu những quyển sách hay cho ông lão tìm mua. Ông lão khiêm tốn lấy tấm danh thiếp của mình ra trao cho chàng sinh viên, anh ta vô cùng hốt hoảng và xấu hổ bước đi, vì tấm danh thiếp ấy ghi “Pasteur, Viện trưởng viện nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp”. Như thế, đức tin, sự khiêm tốn, cách sống cao thượng... không là kết quả của những hiểu biết trên sách vở hay qua những phương tiện truyền thông.
Ngày nay, Thiên Chúa vẫn luôn tỏ mình ra cho chúng ta trong cuộc sống qua nhiều dấu chỉ khác nhau: qua những biến cố lớn nhỏ trong cuộc sống, qua những thay đổi của đất trời, qua những biến chuyển của thời gian và lịch sử... nhưng chúng ta đã có thái độ nào trước những dấu chỉ ấy? Chúng ta chỉ nhìn ngắm những dấu chỉ ấy để bàn luận và đùa cợt hay để suy gẫm và thay đổi cách sống? Hoa trái của đời sống đức tin tuỳ thuộc vào việc tích cực sống theo thánh ý của Thiên Chúa được biểu lộ qua những biến cố lớn nhỏ trong cuộc đời chúng ta.
Đọc Tin mừng, chúng ta thấy được sự thật này: những chân lý mà Thiên Chúa mặc khải cho con người thường được những người bị coi là thấp cổ bé miệng và nghèo khổ đón nhận hơn là những người giàu có và trí thức trong xã hội. Quả thật, những ai tự phụ, kiêu căng thì không thể đến gần Thiên Chúa và tiếp cận với Thiên Chúa được. Họ không còn sự khát khao Thiên Chúa nữa những lòng họ đã đầy ắp những dự định, tính toán tham lam trong lòng mình rối. Thời đại nào cũng có những con người như thế. Vì thế, Chúa Giêsu đã có lần cất tiếng chúc tụng Thiên Chúa vì đã mặc khải những mầu nhiệm Nước trời cho những người bé mọn nhưng lại giấu không cho những người thông thái và khôn ngoan được biết. Hay nói đúng hơn là những người tự hào mình là khôn ngoan đã không đón nhận những mầu nhiệm Nước trời mà Đức Giêsu đã mặc khải cho họ. Họ chỉ tìm cách chống lại và đả phá những gì Đức Giêsu rao giảng. Chân thành và khiêm hạ trước Thiên Chúa luôn là thái độ cần thiết và khôn ngoan đối với con người. Những ai tự hạ mình trước Thiên Chúa sẽ được Ngài nâng dậy và được Ngài cho hiểu biết sự thật và được Sự thật giải thoát cho khỏi những mê lầm trong cuộc sống thế trần này.
Mừng lễ Chúa Hiển Linh, chúng ta hãy noi gương các nhà Đạo sĩ biết hăng hái lên đường tìm kiếm chân lý, tìm kiếm Thiên Chúa để được Thiên Chúa cho gặp Ngài và được Ngài đong đầy tâm hồn chúng ta tình yêu Chúa để chúng ta được sống hạnh phúc với Chúa mãi mãi trong vinh quang Nước trời mai sau.
147.Ánh sáng soi đường
Nhờ Ánh Sao dẫn đường, ba nhà đạo sĩ từ Phương đông đã đến thờ lạy Chúa Hài Nhi. Có thể nói, họ là những con người khao khát chân lý và qui phục sự thật. Theo quan niệm vẫn có nơi nhiều nền văn hoá trên thế giới, mỗi khi có vị quân vương ra đời thì trên bầu trời xuất hiện một ánh sao lạ. Và người ta cũng thường nghĩ rằng, cuộc đời của một con người gắn liền với một vì sao nào đó!
Khi Chúa Giêsu giáng sinh, Ngài đã tỏ mình ra nhiều người, bằng nhiều cách thế khác nhau. Trước hết, Ngài tỏ mình ra cho những con người đơn sơ, nghèo khó như các mục đồng chăn chiên ngoài đồng; cho những con người thánh thiện và tốt lành như cụ già Simêon và nữ tiên tri Anna. Hôm nay, với việc các nhà đạo sĩ từ Phương Đông tìm đến với Chúa Giêsu, chúng ta có thể nói được rằng: Chúa đã tỏ mình ra với muôn dân, ngay cả với Dân ngoại. Nói cách khác, Chúa đã tỏ mình ra nơi mọi tâm hồn thành tâm thiện chí đi tìm Ngài bất luận họ là ai, thuộc dân tộc nào!
Câu chuyện trong Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy rõ điều này là: với việc Giáng sinh làm người của Chúa Giêsu, thì Ánh Sáng đã đến trần gian. Ánh sáng này đã xoá tan ranh giới phân biệt Do thái và Hy Lạp, tuyển dân và Dân ngoại. Nhưng cũng từ đây, một "ranh giới" mới xuất hiện, không phải Thiên Chúa muốn nhưng do con người tạo ra, đó là cuộc đối đầu giữa Ánh sáng và Bóng tối. Theo thánh Gioan tông đồ, vẫn có Ánh sáng thật và cũng có Bóng tối thật! Chúa Giêsu là Ánh sáng - Ánh sáng ban sự sống, xuất phát từ Chúa Cha và những ai tìm đến với Ngài với tâm hồn ngay chính cũng được Ánh sáng soi dẫn và sống trong Ánh sáng. Nhưng khi Ánh sáng xuất hiện thì Bóng tối cũng lộ diện rõ ràng, mà Hêrôđê chính là đại diện cho những con người sống trong Bóng tối. Bóng tối trong cuộc đời này xem ra rất mạnh thế. Bóng tối cũng vô cùng tinh xảo và khôn ngoan theo kiểu thế gian. Vua Hêrôđê căn dặn những nhà đạo sĩ rằng: "Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người". Đó là những lời nghe có vẻ rất đạo đức và thánh thiện của vị bạo Chúa Hêrôđê, nhưng tận đáy lòng của vị vua này là muốn tiêu diệt Hài Nhi Giêsu vì ông lo sợ rằng: với việc ra đời của Chúa Hài Nhi thì ngai vàng của ông bị lung lay. Ông sợ Vua Giêsu sẽ cướp mất quyền làm vua của ông. Thật là một suy tính tiểu nhân và trẻ con vô cùng! Ông đâu biết rằng: "mọi quyền hành ở trần gian này đều do Chúa ban và thiết định". Ông cũng đâu hiểu rằng: Chúa Giáng trần cũng là để cứu chuộc mọi người trong đó có ông nữa. Thật tội nghiệp cho ông, một vị vua sống trong bóng tối vì bị đam mê dục vọng lôi cuốn.
Trong con người chúng ta, hình như cũng có bóng dáng của ba nhà đạo sỹ mà cũng có bóng dáng của Hêrôđê ẩn hiện đâu đó. Có những lúc tâm hồn chúng ta bay bổng, tha thiết muốn đi tìm Chúa, muốn sống chết với Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Những lúc đó, chúng ta muốn sẵn sàng hiến dâng cho Chúa tất cả: "Đây tâm tư con, thân xác con, nguyện hiến dâng Ngài từ đây đến trót cuộc đời...!" Đó cũng là những khi chúng ta thấy Chúa luôn hiện diện bên cạnh mình, thấy mình được mọi người thương mến và quí trọng... Đời thật đáng sống làm sao! Yêu Chúa và yêu người dễ dàng làm sao!
Nhưng rồi có những lúc, chúng ta gặp phải những thất bại, những chống đối, những hiểu lầm; những lúc cuộc đời của ta không thuận buồm xuôi gió, thiếu trước hụt sau... Chúng ta cầu xin Chúa hoài mà Chúa vẫm im lặng, thì tự nhiên chúng ta cũng muốn buông xuôi tất cả. Những lúc đó, chúng ta dễ hành xử như những người không có niềm tin và hy vọng. Chúng ta rất dễ có những hành động như Hêrôđê là muốn phá đổ, muốn huỷ diệt tất cả vì mình không thấy hạnh phúc và mất bình an. Những lúc đó, ta dễ dàng nghĩ rằng: "Tha nhân là hoả ngục đối với tôi". Tôi không còn muốn tin ai ngay cả Thiên Chúa! Thật nguy hiểm biết bao! Khi trong chúng ta, hình bóng của Hêrôđê làm chủ rồi thì Chúa phải ra đi! Bóng tối không muốn tiếp nhận Ánh sáng nữa. Nhưng người con cái của Chúa đích thực thì không nên sống như thế. Chúng ta phải kiên quyết xua trừ Bóng tối ra khỏi con người của chúng ta để Ánh Sáng là chính Chúa vào làm chủ trong ta. Bất cứ lúc nào, chúng ta biết nói lời yêu thương, tha thứ, nâng đỡ nhau thì khi đó trong ta Ánh sáng đã chiến thắng Bóng tối.
Có chuyện kể rằng: Đứng trước hung tin: Jacques, cậu con trai yêu quí vừa từ trần, nữ bá tước Littry vô cùng đau khổ và cảm thấy tiêu tan hết nghị lực; tuy nhiên, bà vẫn cố gắng lao mình vào công việc phục vụ các bệnh nhân trong bệnh viện do bà sáng lập năm 1870, ở thung lũng Marne, xứ Eperny. Ngày nọ, một thương binh người Đức được cho đến bệnh viện. Dù y thuộc thành phần quân đội thù nghịch đã giết chết con trai bà bá tước, nhưng bà vẫn tiếp nhận một cách vui vẻ. Đến khi lúc soạn đồ đạc, áo xống của người thương binh, bà bắt gặp chiếc ví và cái đồng hồ của cậu Jacques trong túi áo của tên lính Đức ấy. Vừa bàng hoàng, vừa tức giận, nữ bá tước Littry chỉ biết thốt lên: "Đúng đây là tên lính đã giết con trai mình!". Nhưng kìa, một mảnh giấy trong chiếc ví của Jacques rơi xuống. Bà Littry vội cúi xuống nhặt lên đọc, một hàng chữ đập mạnh vào mắt bà: "...Mẹ yêu quý! con luôn nhớ đến mẹ và cầu nguyện cho mẹ. Nếu chẳng may con tử trận, xin mẹ đừng quá bi lụy, nhưng hãy can đảm, quảng đại chịu đau khổ để cầu nguyện cho con..." Sau một hồi xúc động, bà Littry cúi xuống tiếp tục săn sóc tên lính Đức cách tận tình. Trên mặt y, một giọt nước mắt của bà rơi xuống, nóng hổi, lóng lánh như hạt sương mai...!.
Nữ bá tước Littry đã để cho Ánh sáng xoá tan Bóng tối trong tâm hồn bà, để bà được tiến bước trong cuộc đời tràn ngập Ánh sáng của tình yêu.
Các nhà đạo sỹ ngày xưa đã để cho Ánh sao lạ soi dẫn đường mình đi và họ đã đến được với Chúa nhờ lòng nhiệt huyết và đầy tin tưởng của họ. Ngày nay, chúng ta cũng có những Ánh sao soi đường để chúng ta đến được với Chúa. Ánh sao đó chính là Lời của Ngài. Nhưng thử hỏi, chúng ta có sẵn sàng để cho Lời Chúa dẫn đường mình đi không? Câu hỏi ấy đang chờ từng người chúng ta trả trời trước Chúa Giêsu Hài đồng trong Mùa Giáng Sinh này cũng như trong suốt cuộc đời chúng ta.
148.Lễ Hiển Linh—Ai chuộng bóng tối hơn ánh sáng?
Giữa biển trần gian mịt mù sóng gió, những người có thiện chí vẫn khát mong tìm về bến bình an. Thật ra, bến đỗ cuộc đời toạ lạc nơi đâu? Có phải là nơi cái chết do bệnh tật và tuổi già? Những người không biết Chúa, không tin có đời sau vẫn nghĩ như vậy và họ cảm thấy cuộc đời là vô vị, là tuyệt vọng. Nếu chỉ có đời này thì người ta lao vào tìm kiếm những gì? Phải chăng là tiền bạc, địa vị và lạc thú chóng qua, để rồi khi chết thì ai cũng như ai!
Xem ra, không có mấy người phủ nhận hoàn toàn đời sau, chỉ là không muốn để thời giờ tìm hiểu cho cặn kẽ thôi. Nhiều người chủ trương sống tự tiện, buông thả theo thói đời và lấy sự hơn thua vật chất làm tiêu chuẩn cho cuộc đời mình.
Nói như vậy thì những người không biết Chúa có phải là lỗi của họ chăng? Có thể nhưng không hẳn là như vậy. Một phần do hoàn cảnh, một phần do thành kiến. Có người lý luận theo vòng lẩn quẩn: cha mẹ tôi theo Hồi giáo, tôi tuy thấy đạo Kitô giáo hay hay nhưng vì cha mẹ tôi không giữ đạo này nên tôi cũng vậy. Họ không có sự bứt phá, không muốn tìm hiểu thêm.
Thế nhưng, giới trẻ ngày nay rất thích khẳng định mình, muốn vượt qua ranh giới thuần phong mỹ tục. Họ cho rằng cha mẹ không hợp thời, họ không chấp nhận kiểu: cha mẹ đặt đâu con ngồi đó như ngày xưa, họ thích sống tự do với bạn bè, thích nhạc rap, nhạc hip- hop, thích sống thử... Những điều này làm các phụ huynh phải đau đầu, thấy mình bất lực khi con cái mình trở thành những con thiêu thân đi vào chỗ chết, đánh mất lễ nghĩa gia phong, đạo đức của cha ông.
Giới trẻ và loài người ngày nay muốn tìm cái mới lạ và tự do theo ý mình. Họ muốn tìm một cuộc sống riêng tư, theo ý riêng và họ nghĩ như vậy mới là hạnh phúc, sung sướng. Nhưng nhiều nhà đạo đức thấy rằng: nhiều người trong thế hệ này lầm lạc. Nếu như giới trẻ muốn tự do vì cần tìm hiểu nghiên cứu để phát minh những cái hay cái tốt thì đáng hoan nghênh. Nhưng vẫn có rất nhiều người chạy theo trào lưu phóng túng chỉ vì để cho giống bạn mình! Họ không biết tại sao. Họ cũng không cần biết đến mục đích và ý nghĩa cuộc đời. Họ chỉ theo phong trào ai làm sao tôi làm vậy, không có lập trường của riêng mình, không có định hướng riêng.
Thật ra, giữa thế gian nhiều hỗn độn này, bao nhiêu bóng tối bủa vây, bóng tối của hận thù, chiến tranh xuất phát từ sự ích kỷ của con người, bong tối của đam mê tiền bạc hay dục vọng ươn hèn. Giữa thế gian đầy bong tối đó, người Kitô hữu hãy trở nên ánh sáng soi lối cho tha nhân. Tuy chúng ta không toả ánh sáng như mặt trời nhưng có thể là ngọn nến trong gia đình và làng xóm của mình, chúng ta hãy phản chiếu ánh sáng của Thiên Chúa qua những hành động yêu thương, vị tha, hy sinh, giúp cho đời bớt khổ, cho những ai thành tâm tìm Chúa được gặp thấy Ngài nhờ ánh sáng đức tin của chúng ta.
Ước chi thế nhân hôm nay năng biết hướng lòng lên cao để nhận ra ánh sao Chúa ban và tìm đến thờ lạy Con Thiên Chúa.
Ước chi đừng ai giống Hêrôđê chỉ biết đến bản thân mình, chỉ biết thu vén cho mình. Ông ở gần Bêlem mà không tìm hiểu về Chúa, chỉ muốn hiểu Kinh Thánh theo kiểu trần gian nên đã tàn sát các con trẻ ở Bêlem.
Ước chi chúng ta biết bắt chước Ba Vua lên đường, ra khỏi sự ích kỷ và thành kiến của mình để nhận ra Chúa đang hiện diện trong Hội Thánh Công giáo, trong những người nghèo hèn bé mọn đang cần sự giúp đỡ. Ước chi toàn thể nhân loại trên thế giới này biết có đời sau, nhận ra sự chóng qua và bất toàn của đời này. Phải chi loài người thức tỉnh, nhận biết giới hạn của đời mình và tìm đến hạnh phúc chân thật mà Chúa đã hứa ban cho nhân loại.
SỰ SÁNG là Chúa Giêsu Kitô đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng(x. Ga 3, 19). Xin Chúa cho chúng con đừng chạy theo thế gian nhưng biết chọn Chúa là nguồn hạnh phúc cho đời mình.
149.Câu chuyện về ngôi sao lạ
Ý của tác giả là gì? Trước là Ba Vua, nay là Hiển Linh? Bản văn rất khó hiểu vì là thể văn "thần hiện" có nhiều chi tiết hoang đường khó giải thích.
Các bản văn về thời thơ ấu có muộn nhất trong các bản văn Phúc Âm Khi Đức Giêsu được tin chắc chắn và phổ biến là Đức Chúa và là Đấng Cuứ Thế "Messia" (Lc 2,36). Thì các lời Kinh Thánh đã được thực hiện. Mọi sự phải xảy ra theo như các lời Kinh Thánh đã tiên báo. Lấy những lời Kinh Thánh đã tiên báo mà viết lại về thời thơ ấu dệt thành những câu chuyện tường thuật theo cách riêng của mỗi tác giả như chúng ta thấy Luca khác Matthêu khác cộng với óc thần thoại và các chi tiết hoang đường để diển tả tính cách thần thánh của các sự việc. Gọi là thể văn "thần hiện". Thánh Âu Tinh cho là không nói sai mà là nhằm chuyển tải một ý tưởng thần học. Ý tưởng thần học thì rất thật. Cha Gomez: Phúc Âm là thần học. Đơn giản nhưng táo bạo vì là lần đầu tiên được nói lên. Trước kia vì bảo thủ và tôn sùng Kinh Thánh là của Chúa từ chấm từ phết nên cứ tin không nghi ngờ gì hết. Ngày nay Giáo Hội "để cho nói" và nhiều người dám nói và thử nói sau những nghiên cứu công phu của nhiều người và suốt thời gian chừng năm mươi năm.. Phải làm sao đi đến được ý của tác giả. Các vật liệu làm thành câu chuyện là miếng trầu làm đầu (giàu) câu chuyện. Cũng gọi là thể văn bình giải: giải thích Cựu Ước bằng Phúc Âm. Đúng hơn là để Đức Giêsu giải thích Cựu Ước.
Người ta đã phí nhiều công sức để tìm giải thích ngôi sao lạ là một sao chổi lệch quỹ đạo, vua hay đạo sĩ..v..v. Ngày nay: Đừng mất công vô ích. Đó chỉ là những chi tiết hoang đường (thần thoại) mà thể văn thần hiện thường dùng làm chất liệu.
Ba nhân vật chính làm thành bức tranh, đến từ phương đông mang lễ vật "vàng nhủ hương mộc dược" để cống bái là thực hiện Is.60,5: kho tàng bể khơi, nguồn phú túc của chư dân, những con lạc đà......họ sẽ loan truyền lời ca ngợi Chúa:
- Ba là con số của Thiên Chúa
- Phương đông: Văn hóa Á đông dùng chỉ người hiền "hiền triết".
- Ngôi sao lạ thực hiện Ds.24,17b: Một ngôi sao gốc từ Giacob mọc lên dẫn đầu, (cũng gọi là ngôi sao Giacob). Một vương trượng gốc từ Israel đứng lên: Vương trượng là vua. Vua chư hầu đến triều bái và triều cống Thiên Tử. Hài Nhi mới sinh là Thiên Tử, là vua Israel. Do thái gọi là Messia-Vua. Không biết ba vị ấy là nhân vật thế nào nhưng có lẽ ý của Matthêu muốn nói vua chư hầu đến triều cống Thiên Tử. Nên gọi là lễ Ba Vua.
- Bêlem vì Mk 5,1-3 đã tiên báo: Hởi Bêlem, đất Giuda... nơi ngươi vị lãnh tụ chăn dắt Israel sẽ sinh ra.
- Đức Giêsu là Đức Kitô thì mọi lời Kinh Thánh tiên bào về Messia đã được thực hiện nơi Đức Giêsu hay Đức Giêsu đã thực hiện những lời tiên báo ấy nơi bản thân Người. Phải hiểu và giải thích theo cách mà Đức Giêsu thực hiện. Nên nói Đức Giêsu làm cho Cựu Ước trở thành Tin Mừng.
- Ba Vua: Vua chỉ vương trượng gốc từ Israel (Ds.24,17b).
- Lễ vật "vàng nhủ hương môc dược": quí nhất tượng trưng cho Is,60,5. Ý của Matthêu là Triều cống Thiên Tử, tuyên xưng Đức Giêsu là Messia- Vua người do thái mong đợi như đã tiên báo.
Ba Vua, sao lạ, lễ vật là ba chi tiết quan trọng nhất làm thành ngày lễ và có lý mà gọi là lễ Ba Vua. Các chi tiết khác là hoa lá râu ria trang điểm cho bài viết hấp dẫn.
Không giải thích cách nầy thì hoàn toàn bế tắc về những khác biệt giữa Mt và Lc và những sai lệch về lịch sử nếu cứ nói Kinh Thánh là Thiên Chúa mạc khải cứ tin không được nghị luận.. dù là chấm phết.
Phải nói là Phúc Âm không viết lịch sử. Chi tiết lịch sử được mượn tạm làm chất liệu nên không được quan tâm lắm tới tính chính xác. "Lịch sữ" có nghĩa là có xảy ra còn thời giờ và địa điểm thì lơ mơ thôi.
Quan tâm chủ yếu là thần học, là câu chuyện cứu độ. Phải đến càng gần ý của tác giả thì tốt.
Truớc Giáng Sinh Đức Maria và Giuse ở Nazarét hay Bêlem?
Lc: Nazaret để nói người là Nazareus (người của Nazaret). Không quan tâm tới dòng tộc Đavít. Sau bốn mươi ngày, dâng Đức Giêsu vào đền thánh và thanh tẩy cho Đức Maria rồi thì trở về Nazaret. Không có trốn sang Ai cập. Luca bỏ qua nhiều chi tiết "do thái".
Mt: ở Bêlem. Trốn sang Ai Cập vì có lời Kinh Thánh "ta sẽ gọi con ta ra khỏi Ai Cập" (Để trốn sang Ai Cập thì phải bị đuổi giết). Sau khi ở Ai cập về vì sợ Archelao độc dữ mới về Nazaret. Bêlem: dòng tộc Đavít. Nazaret để người cũng được gọi là Nazareus. Matthêu kỹ lưỡng không bỏ sót chi tiết nào về do thái.
Những sai lệch về lịch sử thì giải thích thế nào? Luca sau bốn mươi ngày thì về Nazaret. Còn Matthêu thì khi đi Ai Cập Đức Giêsu đã hai tuổi. Hêrôdê chết năm 4 sau CN. Ít là bốn năm sau mới về Nazaret. Định về Bêlem nhưng sợ Archêlao mới lánh về Nazaret.
Kiểm tra dân số là vào năm thứ sáu sau Đức Giêsu thời Quirinô là thủ hiến Syria.
Lc chỉ muốn nói: Đức Giêsu là người Nazaret, ở Nazaret. Nhưng để có họ Davit thì có kiểm tra dân số dể lên Bêlem, sinh ra tại đó vì Giuse là dòng tộc Davít. Bêlem là thành của Đavít.
Còn Matthêu thì Đức Giêsu là Messia con vua Đavít (ở Bêlem), Ta gọi con ta ra khỏi Ai Cập (phải sang Ai cập rội trở về). Để là Nazareus thì về ở Nazarét.
Hêrôdê là tiểu vương của Galilê, miền bắc. Giêrusalem ở Giuda miền nam. Cho Hêrôdê ở Giêrusalem và tàn sát các anh hài vô tội là để thực hiện lòi Kinh Thánh: Gr 21,15: ở Rama...bà Rachel than khóc...vì con bà không còn nữa.(lịch sử đời không có ghi cuộc tàn sát nầy).
Hai bản gia phả cũng không giống nhau.
Luca thay vì Ba vua thì có thiên thần bảo mục đồng và các chi tiết kèm theo là cách chứng minh riêng Đức Giêsu giáng sinh là "Đấng Cứu thế đã giáng sinh", là Đức Kitô, là Đức Chúa ví có các dạo binh thiên quốc hợp với các thiên thần ca tụng Thiên Chúa.
Rồi Simêon nói tiên tri, bà Anna nói tiên tri.
Tất cả nhằm chứng minh "Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa". Luca không quan tâm Đức Kitô do thái, con Davít. Matthêu thì phải làm sao cho Đức Kitô là con Đavít do thái.
Đơn giản là mượn tạm những chi tiết lịch sử để phục vụ những muc đích thần học về cứu độ, mỗi vị theo cách của mình.
KẾT
Bài tường thuật là nhằm chứng minh Đức Giêsu là Đức Kitô. Nhưng Matthêu thì là Đức Kitô-Vua do thái. Luca thì là Đức Kitô của muôn dân. Đức Kitô đã được tiên báo nay thực hiện, Mathêu thì đầy đủ mọi lời đã tiên báo còn Luca thì một ít.
Nghĩa 'áp dụng' của bài tường thuật là loan báo Đức Kitô cho muôn dân như ánh sáng muôn dân. Ngôi sao trên nền trời chung ai cũng thấy được. Nhưng thấy mà cất công tìm găp thờ lạy "tin" và dâng lễ vật quí nhất là suy phuc bằng tất cả cuộc đời chỉ có ba vị. Đó là "hành trình của đức tin" gian nan, phải vượt khó, đến nơi, gặp được Chúa mới được vui mừng. Có những tín hữu không được vui mừng vì chưa vượt khó, chưa gặp Chúa. Tín hữu mà chưa tin nên chưa có gì. Chúa ban nhiều trợ lực trên hành trình nhưng mỗi người phải cất công lên đường, quyết tâm vượt khó đi tìm Chúa, phải tới nơi, gặp được, tin mới có vui mừng.
Chúa Giêsu là ánh sáng muôn dân, ánh sáng mời gọi mọi người và chờ đợi đón tiếp niềm nở để trao cho niềm vui ơn cứu độ Người đã sắm sẳn qua sự Phục Sinh vinh quang, đang sống, dang hiện diện và đang hoạt động cứu dộ mọi người.
Thấy ngôi sao họ mừng rở vô cùng (c.10). Ngôi sao là cứu tinh, là DG. Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Hiển Linh mà có thấy, có gặp và có vui mừng để rồi tiếp tục được vui mừng trong cuộc sống hằng ngày không.
150.Thừa kế
"Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên Phương Đông, nên chúng tôi đến bái lại Người".
Thừa kế là thừa hưởng một điều gì đó, chẳng hạn là gia sản. Thông thường, giữa người để lại gia sản và người được thừa kế gia sản đều có quan hệ thân tộc hoặc một mối ràng buộc nào đó. Tuy nhiên, đôi khi có quan hệ nhưng chẳng được nhận một thứ gì. Điều này không bất thường so với như việc chẳng quen chẳng biết, chẳng có dây mơ rể má gì mà lại được nhận thừa kế mới là chuyện đáng nói. Ấy vậy, chuyện ngược đời đó lại trên lại đúng cho trường hợp của chúng ta. Chúng ta được thừa hưởng một gia sản tuyệt vời từ những người không hề quen biết. Đó là đức tin từ các tông đồ. Thực sự phải nói là từ Đức Kitô.
Chúng ta được thừa kế không do công trạng của mình mà do tình yêu của Thiên Chúa. Nhờ việc thừa kế đó mà chúng ta trở nên có quan hệ huyết thống với các tông đồ và với cả Thiên Chúa nữa. "Trong Đức Kitô và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được thừa kế gia nghiệp với người Do thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa" (Eph 3, 6). Đây thật là một mầu nhịêm.
Trở lại lịch sử, Do thái là dân riêng của Chúa, là dân được Chúa tuyển chọn và lập giao ước. Có thể nói, mọi vinh quang danh dự Thiên Chúa đã dành hết cho dân tộc này. Nhưng trớ trêu thay, khi con Thiên Chúa làm người thì người Do thái là dân đầu tiên từ chối Thiên Chúa. Nên giờ đây, ơn cứu độ không còn chỉ cho dân Do thái nữa. Chúng ta thừa kế là như thế đó.
Khi ba đạo sĩ đến gặp Hêrôđê để hỏi thăm về nơi hạ sinh của Vua dân Do thái thì từ vua đến dân đều xôn xao, bối rối, cả thành Giêrusalem náo loạn lên. Hêrôđê bối rối không phải vì chợt tỉnh ra, thấy mình sao vô tâm để rồi tìm cách để đến bài thờ Vua cả trời đất. Một người độc ác như Hêrôđê nếu có bối rối thì tại vì hắn sợ ngai vàng của mình bị lung lai. Hắn sợ, bởi nếu đây là sự thật thì thời cuộc sẽ thay đổi, điều này đồng nghĩa hắn mất vương quyền. Còn chuyện dân chúng xôn xao thì cũng đáng để luận bàn lắm. Vì thật ra điều này đã được tiên tri Malakhia nói rồi: "Và người, Bêlem, đất thuộc Giuđa, hẳn ngươi không nhỏ bé trong hàng tướng lãnh Giuđa, vì bởi nơi ngươi sẽ xuất hiện vị thủ lãnh, Đấng chăn dắt Israel dân ta" (Mk 5,1-3). Nhưng tiếc thay khi điều đó xảy ra thì không có ai tỏ vẻ mừng vui. Cũng chẳng ai tha thiết đi tìm, đi kiếm mà thờ lạy chúc tụng vị thủ lãnh Israel đó. Ngoại trừ những mục đồng nghèo nàn, khốn khó.
Thế nên, cũng sẽ chẳng có dấu chỉ nào cho dân Israel mà điều này đựơc tỏ ra cho người ngoại giáo mãi bên Phương Đông. Căn cứ theo các lễ phẩm dâng Chúa Hài Đồng thì ba đạo sĩ này đến từ Babilon. Họ được gọi là những Magi - nhà hiền triết thông thạo thiên văn và nhiều sự khôn ngoan khác. Họ là dân ngoại nhưng với sự khao khát tìm chân lý, với lòng thành kính trước sự ra đời của một vị vương tử, Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho họ.
Chúa Nhật Chúa Hiển Linh giúp ta tra vấn lại lòng tin của mình với Thiên Chúa. Chúng ta là dân thánh của Chúa nhờ phép rửa. Chúng ta giờ đây không là dân ngoại, nô lệ mà chúng ta con Cha trên trời, là "bạn hữu" của Đức Kitô. Thêm một lần mừng sinh nhật của Đức Giêsu là thêm một lần để ta vui mừng và hy vọng. Chúa giáng sinh không là lý do để chúng ta lo sợ. Đó là tâm trạng của người nô lệ. Họ sợ thời cuộc thay đổi sẽ ảnh hưởng đến sự bình yên của cuộc sống, họ sợ bị bấp bên, sợ liên luỵ trong cuộc đời.
Hãy lên đường theo sự hướng dẫn của Ánh Sao.
151.Ánh sao chỉ đường
Ngày xưa, lúc chưa có la bàn, các thủy thủ hay ngắm sao trời để định hướng đi. Vào thời CG, người ta cũng hay dựa vào việc chuyển động của các ngôi sao để dự đoán về chuyện đất trời liên quan đến sự sống của nhân loại. Các nhà chiêm tinh mà chúng ta quen gọi là Ba Vua hôm nay cũng dựa vào điềm sao để tìm đến với Hài Nhi Giêsu.
Thực sự ra, ngôi sao chỉ đường cho Ba Vua đến yết kiến Ấu Chúa Giêsu ra sao? Một nhà khoa học nói rằng: vào khoảng năm Chúa Giáng Sinh, có một hiện tượng lạ thường xảy ra trên bầu trời. Đó là hai ngôi sao Jupiter và Saturn năm đó sáp lại gần nhau tạo ra sự cộng hưởng ánh sáng, khiến cho vầng trời đông có một luồng sáng khác thường và kéo dài suốt mấy tháng. Chúng ta không sống vào thời điểm đó nên không biết có phải đó là ngôi sao lạ đã dẫn đường cho Ba Vua tìm ra Chúa Hài Nhi hay không. Nhưng có một điều chắc chắn là Chúa Giêsu đã đến trần gian. Ngài là ánh sáng Sự Thật chiếu soi cho nhân loại đang sống trong u tối. Ngài đến để cứu nhân loại khỏi vòng nô lệ của tội lỗi và sự chết.
Và hôm nay, chúng ta mừng lễ Chúa Hiển Linh, tỏ mình ra cho Ba Vua đại diện cho muôn dân đến thờ lạy và dâng lễ vật quý giá lên Hài nhi Giêsu. Tuy nhiên, có một điều đáng tiếc là vua Hêrôđê đang coi sóc miền Giuđêa, trong đó có làng Bêlem lẽ ra phải thông báo cho dân chúng về việc Đấng Cứu Thế ra đời để mọi người cùng tháp tùng với Ba Vua đến chiêm bái Chúa. Đàng này, vua âm thầm giữ lấy tin tức này một mình và hơn nữa lại nuôi ý đồ mưu sát Đấng cứu thế.
So sánh việc làm của Hêrôđê và Ba vua cho thấy loài người có hai thái độ khác nhau trước ơn cứu độ. Nhiều người vui mừng vì Chúa đã đến dạy cho mình điều hay lẽ phải để con người sống thanh cao, thánh thiện, xứng đáng trở nên con cái Chúa. Một số khá đông khác lại muốn khước từ chân lý, muốn sống trong bóng tối của sự giả trá, mê lầm. Họ muốn tạo lập một thế giới riêng, và bỏ qua tiếng nói của lương tâm, họ chỉ sống theo sở thích, chiều theo những dục vọng đam mê của bản năng.
Ánh sáng thật đã đến trần gian nhưng người đời chuộng tối tăm hơn sự sáng. Trong thời đại hôm nay, người ta cổ võ cho nền văn minh của bóng tối và họ cho đó là tự do: tự do làm điều xấu mà không ai dèm pha, rầy rà, người ta nhân danh quyền lợi của cha mẹ để tiêu diệt con cái mình từ trong trứng nước, sẵn sàng giết con ruột của mình lúc chưa kịp chào đời; người ta nhân danh tự do để quan hệ ngoài giá thú, trước hôn nhân... Và để lương tâm không cắn rứt khi làm những việc xấu đó họ đã lạm dụng các phương tiện thông tin đại chúng nhất là phim ảnh để làm lương tâm giảm nhạy bén về những tội này và tất cả mọi người cùng lầm lạc như họ. Có những người đang cố ý gieo rắc và cổ võ điều xấu, trong khi đa số loài người thì thờ ơ và không kiên quyết chống lại sự ác nên cũng gián tiếp làm cho sự ác lan tràn cách mau chóng.
Hêrôđê ngày xưa và thế gian ngày nay có xu hướng dập tắt ánh sáng chân lý để mọi người tiếp tục sống trong mù tối và đi vào con đường của sự chết. Đứng trước nền văn minh của bóng tối đó, Kitô hữu chúng ta hãy là những ngôi sao dẫn đường cho những ai thành tâm tìm chân lý được nhận biết Chúa và sống theo lời người để được ơn cứu độ. Mỗi người chúng ta hãy là những ánh sao ở tại nơi mình sống. Mỗi người hãy tỏ lòng kính mến Chúa và yêu thương mọi người, từ thân nhân trong gia đình mình đến những người xung quanh đang cần chúng ta giúp đỡ. Nếu chúng ta biết chân thành yêu thương, hiền hòa, bác ái, thì chúng ta thật sự là những ánh sao dẫn đưa mọi người tìm đến với Chúa để được ơn cứu độ.
152.Lễ Hiển Linh
Có một câu truyện về một ông vua trẻ mới lên ngôi kế vị cha. Nhà vua trẻ này rất yêu thương và cảm thông với thần dân trong vương quốc. Thế nhưng, xem ra dân chúng không màng chi đến sự quan tâm săn sóc của nhà vua khiến nhà vua rất buồn lòng. Sau khi lắng nghe ý kiến của các quan cận thần, nhà vua cải trang thành một thường dân, rời bỏ cung điện và đến sống giữa những người dân của mình. Ngoài những giờ làm việc, ông đi thăm những người nghèo chung quanh, giúp đỡ những người đau yếu, khuyên nhủ những ai gặp khó khăn, cứ như thế chẳng mấy chốc ông đã chiếm được cảm tình của mọi người. Thế rồi một hôm ông bỗng biến mất, và sau đó xuất hiện trở lại như một vị vua. Lúc đó dân chúng mới nhận ra người nghèo lạ lùng này chính là vua của họ, kể từ đó dân chúng yêu thương hiệp nhất với nhau và quan tâm đến những dự án mà nhà vua thực hiện để nâng cao mức sống của họ.
Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Hiển Linh, nghĩa là lễ Thiên Chúa tỏ mình ra cho con người. Nếu lễ Giáng Sinh nhấn mạnh đến khía cạnh nhập thể từ trên cao xuống, thì lễ Hiển Linh cho thấy chiều kích hiển linh của mầu nhiệm nhập thể và nhắc nhớ con người rằng Hài Nhi Giêsu là Con Thiên Chúa, là Vua vũ trụ.
Tin mừng hôm nay nêu bật hai thái độ khác nhau của con người đối với Con Thiên Chúa nhập thể, đó là chấp nhận hoặc chối từ. Hêrôđê đã xem Chúa như kẻ thù, như một người sẽ chiếm lấy địa vị và quyền lực của ông. Ông đã không biết theo ơn Chúa soi sáng để nhìn thấy dấu chỉ Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử và thiên nhiên để đi tìm và nhìn nhận Chúa. Còn các đạo sĩ phương Đông đã dám ra khỏi cảnh sống thường ngày của mình, từ bỏ tiện nghi mình đang hưởng, để đi theo sự soi sáng của ân sủng Chúa, để nhận ra lời mời gọi của Chúa qua ánh sao dẫn đường. Họ thành tâm đi tìm và đã gặp; và khi gặp được, họ không thắc mắc tại sao, nhưng khiêm tốn tôn thờ Vua vũ trụ nơi dung mạo một Hài Nhi yếu đuối, nghèo hèn, cũng như dân chúng trong câu truyện trên đã nhận ra vua của họ qua dung mạo một người nghèo sống giữa họ.
Thiên Chúa vẫn luôn mạc khải chính mình cho chúng ta qua dung mạo người anh em, qua các bí tích, qua những dấu chỉ tầm thường đơn sơ của đời sống mỗi ngày, nhưng liệu chúng ta có đủ khiêm tốn để nhìn thấy, lắng nghe và chấp nhận Chúa hay không? Xin Chúa giúp chúng ta thành tâm đi tìm Chúa để được gặp Chúa.
153.Tìm gặp Chúa Kitô
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc các đạo sĩ Đông Phương đã theo ánh sao tìm đến triều bái Hài Nhi Giêsu mới giáng sinh tại Bêlem. Lời tiên tri Isaia từ 600 năm trước đã được thực hiện: ‘Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước… Lạc đà đàn đàn che rợp đất, lạc đà Mađian và Epha, dân Saba hết thảy kéo lại, tải đến vàng với trầm hương và chúng cao rao lời khen ngợi Giavê’.
Chúng ta hãy theo sau các nhà đạo sĩ trung thành với ánh sáng đã nhận được: ‘Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Ngài bên trời Đông, và chúng tôi đến bái yết Ngài’. Đối với chúng ta, ngôi sao đó chính là ý muốn của Thiên Chúa, là đức tin vào Chúa Kitô, hay đúng hơn là chính Chúa Kitô – ánh sáng soi cho mọi dân tộc. Ánh sáng đó vẫn luôn chiếu sáng, nhưng sở dĩ chúng ta không nhận ra là vì chúng ta còn yêu tối tăm hơn ánh sáng, và vì con mắt tâm hồn chúng ta còn bị cái đà của ích kỷ che khuất. Để tìm gặp Chúa Kitô, chúng ta cũng phải liều mạng như các đạo sĩ để ra khỏi xu hướng thích dễ dãi, hưởng thụ, ngại gian khổ.
Cũng như các đạo sĩ đã gặp thấy Hài Nhi cùng Đức Maria, Mẹ Ngài, chúng ta cũng không thể tìm Chúa Kitô riêng rẽ tách biệt khỏi Mẹ Ngài được, bởi lẽ sau khi thụ thai và sinh hạ Ngài, Đức Maria còn có sứ mạng trao tặng Ngài cho chúng ta. Do đó tình yêu của chúng ta đối với Chúa Kitô không thể tách khỏi tình yêu đối với Đức Trinh Nữ Maria.
Các đạo sĩ đã dâng tiến Hài Nhi Giêsu lễ vật: vàng, nhũ hương, mộc dược, chúng ta cũng hãy dâng tiến Ngài tấm lòng vàng, hương thơm lời cầu nguyện, và mộc dược hy sinh hằng ngày để mưu cầu ơn thánh cho các linh hồn. Ý thức hiến dâng càng sinh động và liên tục, hiệu quả lời cầu nguyện càng được bảo đảm.
Sau cùng chúng ta đừng quên cầu nguyện cho các nhà truyền giáo, bởi vì nhờ các ngài mà đức tin đã đến với chúng ta. Nhờ các ngài mà chúng ta được niềm vui hiển linh, đó là Chúa Kitô tỏ mình ra cho chúng ta hôm qua, hôm nay và mãi mãi.
154.Tìm gặp Chúa
Với lễ Giáng sinh, chúng ta nhận thấy Thiên Chúa đã làm người và ở giữa chúng ta để chúng ta có thể gặp gỡ Ngài. Gặp gỡ Ngài không phải chỉ ở trong đền thờ nguy nga, mà còn gặp gỡ Ngài nơi những con người bình thường. Ngài đó, một Hài nhi bé nhỏ, nằm trong máng cỏ ngoài đồng vắng Bêlem. Đồng thời, không phải chỉ có một hạng người nào đó mới có quyền được gặp gỡ Ngài, mà ngay cả những kẻ tầm thường như những trẻ mục đồng cũng có thể gặp gỡ Ngài.
Để niềm vui của Chúa Giêsu được trọn vẹn, lễ Hiển Linh hôm nay đã gợi lên cho chúng ta một xác tín mới: Thiên Chúa không phải chỉ đến với dân Do Thái, mà còn đến với cả những người từ phương Đông, nghĩa là những người không thuộc về dân riêng của Chúa, những người vẫn bị liệt vào hàng dân ngoại.
Xác tín này đã được thánh Phaolô diễn tả một cách rõ ràng trong bức thư gởi tín hữu Ephêsô: Nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, cùng một thân thể và cùng thông phần với lời hứa của Ngài trong Đức Giêsu Kitô.
Với lễ Hiển Liên, Thiên Chúa đã đến với tất cả mọi người, Ngài phá đổ những hàng rào tạo nên sự kỳ thị: Kỳ thị tôn giáo, kỳ thị giai cấp, kỳ thị màu da, kỳ thị tiếng nói. Thực sự thì đó chỉ là những hàng rào do chính con người dựng lên để bảo vệ những quyền lợi cho riêng mình.
Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa của tất cả, và điều Ngài ước mơ vẫn là tập hợp muôn dân nước dưới ánh sáng của Ngài. Ngài đã đến với chúng ta, nhưng điều quan trọng đó là chúng ta có tiến tới để gặp gỡ Ngài hay không? Bàn tay Ngài đã giơ ra, nhưng điều quan trọng đó là chúng ta có nắm lấy để được cứu vớt hay không, bởi vì như lời thánh Augustinô đã nói:
- Khi tạo dựng nên chúng ta Chúa không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu độ chúng ta Ngài đòi chúng ta phải ưng thuận và cộng tác với Ngài.
Sự thực đã cho chúng ta thấy: Ánh sáng đã chiếu trong u tối, nhưng u tối lại không tiếp nhận ánh sáng. Ngài đã đến nhà Ngài, nhưng những người thân thuộc đã không tiếp nhận Ngài.
Thực vậy, Ngài đã đến nhưng không phải tất cả mọi người đều tới gặp gỡ Ngài. Một Hêrôđê cũng đã ngỏ ý muốn đến triều bái Ngài nhưng với một âm mưu thâm độc, ông muốn giết hại Ngài để được ngồi mãi mãi trên chiếc ngai vàng của ông. Các luật sĩ và tư tế thì lại thoả mãn với những hiểu biết của mình, để rồi chẳng biết lên đường tìm gặp Ngài? Còn dân thành Giêrusalem thì lại ngại đổi thay và chuyển biến.
Để đến với Chúa, chúng ta cần phải lên đường như ba nhà đạo sĩ phương Đông, không phải trong tối tăm mò mẫm, bởi vì chúng ta luôn có ánh sao lạ, đó là Tin Mừng, thập giá và sự phục sinh của Ngài soi đường dẫn lối.
Lễ Giáng sinh và lễ Hiển Linh chính là một cuộc gặp gỡ. Thiên Chúa đến với con người và con người nhận biết Ngài nơi hài nhi Giêsu.
Như các nhà đạo sĩ phương Đông, mỗi người chúng ta cũng được mời gọi lên đường đến với hài nhi Giêsu. Lên đường ở đây có nghĩa là từ bỏ những bảo đảm để tiến tới phía trước. Ngài đến trong những cái bất ngờ của những sự kiện diễn ra trong cuộc sống thường ngày. Tuy nhiên chúng ta có sẵn sàng lên đường, đi theo ánh sao là Tin Mừng của Chúa hay không?
155.Tỏ mình
Các bài đọc trong thánh lễ hôm nay đều qui về một điểm chính là: “Thiên Chúa mạc khải chính Ngài cho tất cả mọi người”, không phân biệt ai, cho dù người Do thái hay kẻ ở ngoài Kitô giáo, như các đạo sĩ từ Phương đông đến. Nhưng đáp lại, không phải tất cả mọi người đều đáp lại ơn Chúa mà chấp nhận từ bỏ cuộc sống của mình, từ bỏ cuộc sống theo tính hư nết xấu của mình để đến gặp và sấp mình khiêm tốn thờ lạy Chúa. Thiên Chúa mạc khải cho con người, cho tất cả mọi người bằng nhiều cách khác nhau.
Các bài đọc trong thánh lễ hôm nay, nhất là bài Phúc âm trình bày cho chúng ta thấy hai con đường, hai thái độ đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa. Con đường thứ nhất là con đường mạc khải chính thức trong lịch sử cứu độ do Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử của dân Chúa. Con đường thứ hai có thể nói là con đường tự nhiên qua các biến cố xảy ra trong thiên nhiên, trong vũ trụ, trong sinh hoạt hàng ngày của con người. Và chúng ta cũng nhìn thấy hai thái độ chấp nhận của các đạo sĩ từ phương xa và thái độ từ chối lơ là không màng chi đến việc đón nhận Chúa như vua Hêrôđê và các thầy thượng tế tại Giêrusalem.
Kinh Thánh đã chỉ cho họ biết, và họ thuộc lòng Kinh Thánh để biết rằng: Con Thiên Chúa sẽ Giáng sinh tại Belem, nhưng họ lơ là hoặc quá say mê hưởng thụ những lợi lộc vật chất mà không chấp nhận từ bỏ, không chấp nhận ra đi đến nơi Thiên Chúa chờ sẵn để gặp họ, để gặp Con Người. Tệ hơn nữa, vua Hêrôđê lại sợ rằng Chúa đến để chiếm lấy quyền của ông, làm cho ông mất danh vọng, mất quyền hành, mất địa vị. Chính vì thế mà ông đã ngấm ngầm muốn hại Chúa, nên ông đã cho triệu tập riêng các đạo sĩ lại để hỏi cặn kẽ về ngày giờ, để rồi như chúng ta đã biết là sau đó, khi vua Hêrôđê đã thấy các đạo sĩ không trở lại với mình nữa, thì nhà vua đã tức giận và ra lệnh giết tất cả các hài nhi trong vùng, trong khoảng từ hai tuổi trở xuống. Ông hy vọng rằng trong số các hài nhi bị giết chết đó có Con Thiên Chúa, có Đấng mà người ta gọi là Đấng Thiên sai, Đấng đến để hướng dẫn dân tộc Do thái, để cứu rỗi nhân loại.
Mừng lễ ba vua hôm nay hay nói được là lễ Hiển linh, lễ Chúa tỏ mình ra cho các dân tộc, cho tất cả mọi người. Lễ này chúng ta có thể nói là bổ túc cho lễ Giáng sinh mà chúng ta đã mừng trước đây.
Lễ Giáng sinh nhìn trên một phương diện nào đó chúng ta có thể nói đó là lễ Chúa mạc khải chính mình Chúa, Chúa đến với dân tộc của Ngài là dân tộc Do thái, và lễ Hiển Linh là Chúa đến với dân tộc ngoài Do thái, với tất cả mọi người và cách thức Chúa đến với họ khác với điều họ mong ước. Chúa đến với họ bằng một đứa trẻ mới sinh nghèo hèn, không ai chấp nhận. Chúa đến với họ trong nghèo hèn, trong khiêm tốn, trong âm thầm ngoài tưởng tượng của những người đáng lẽ ra phải nhận biết Chúa như vua Hêrôđê, các đạo trưởng, luật sĩ trong dân Do thái thời đó.
Thiên Chúa dùng mọi phương thế, mọi con đường, để đến với mọi người ở trong cũng như ở ngoài Giáo Hội Chúa. Con đường của mạc khải Lời Chúa qua lời giảng dạy của Giáo Hội cũng như con đường của các biến cố trong thiên nhiên, trong cuộc sống hằng ngày để nhắc chúng ta rằng, Ngài đang đợi ở nơi đó, Ngài đã hẹn trước với chúng ta để mong gặp chúng ta. Nhưng chúng ta có đáp lại lời mời gọi của Chúa hay không? Ta có đủ can đảm như các nhà đạo sĩ thực hiện một cuộc phiêu lưu từ bỏ nếp sống hưởng thụ vật chất, từ bỏ ngôi nhà vinh quang để đi gặp Chúa hay không?
Trở về cách đây hơn 2000 năm thì chúng ta thấy rằng, phương tiện di chuyển thời đó đường xa và không có nơi cư ngụ tiện nghi như ngày nay. Và để đi đường xa như vậy, từ một vùng đất xa lạ đến một xa lạ khác, và đi tìm một con người mà không ai trong ba nhà đạo sĩ này có thể biết trước là ở đâu, thì các vị đạo sĩ này hẳn đã phải cố gắng thật nhiều, và có lòng can đảm khác thường để liều lĩnh chấp nhận những cuộc hành trình và đích điểm còn mơ hồ chưa xác định được. Các ngài đã chứng tỏ cho chúng ta thấy là ơn Chúa đã chiến thắng nơi các ngài. Để lên đường đi tìm Chúa, các ngài đã can đảm chấp nhận những hy sinh, những liều lĩnh, cốt sao là tìm được trẻ thơ như trong giấc chiêm bao.
Nhìn về mỗi người chúng ta, chúng ta cũng có thể nói: mỗi người chúng ta đã được Thiên Chúa dựng nên để hướng về Ngài, tâm hồn luôn khao khát hướng về Thiên Chúa và khi Thiên Chúa cho ta biết Ngài đến gặp gỡ chúng ta, muốn gặp ta qua những biến cố trong cuộc sống hàng ngày, thì liệu chúng ta có đủ can đảm chấp nhận hy sinh như các nhà đạo sĩ để ra đi để gặp gỡ Chúa hay không? Chúa đến với chúng ta, Chúa tìm chúng ta trước với những ơn lành của Ngài, những ơn soi sáng trực tiếp cũng như dấu chỉ mời gọi xảy ra trong cuộc sống, trong lịch sử của chính chúng ta cũng như lịch sử của dân tộc, của quốc gia và cả trong những biến cố lịch sử thế giới.
Thiên Chúa đi tìm con người để đưa con người trở về với Ngài. Nhưng mỗi người chúng ta có thành tâm thiện chí, có can đảm đủ để nhìn ra những dấu chỉ, những lời mời gọi của Chúa hay không? Hay chúng ta nuôi dưỡng những thiện chí đó trong suốt cuộc hành trình giữa những khó khăn mà chúng ta gặp phải hoặc chúng ta bỏ dở nửa chừng vì những khó khăn đủ loại cản bước chúng ta tìm Chúa. Hay chúng ta sợ Chúa đến tách mất khỏi chúng ta những lợi lộc vật chất, những vinh quang, những uy quyền mà chúng ta đang hưởng như vua Hêrôđê.
156.Thông điệp
Thông thường mỗi sự kiện quan trọng trong đời sống đều nói đến một thông điệp nào đó. Chẳng hạn, như lụt lội hoành hành là sự trả thù của thiên nhiên đối với sự phá phách môi trường của con người. Tình trạng bạo hành hiện nay trên thế giới là kết quả của một lối sống buông thả, chọn tự do và quá đề cao bản ngã cá nhân. Vấn đề quan trọng là phải đọc được nội dung của thông điệp đó. Nội dung này đôi khi ẩn dấu rất khó khám phá, nhưng không vì thế mà không có những dấu chỉ để khi xem thì người ta thấy chứ không phải xem để mà xem.
Do đó, xem một sự kiện và thấy ý nghĩa của nó chính là một yêu cầu của mỗi người chúng ta khi nhìn xem những dấu chỉ thời đại. Những điều này cũng đã xảy ra cách đây hơn 2000 năm trên đất nước Palestin vào thời Đức Giêsu sinh ra và các đạo sĩ đã thấy được nội dung thông điệp khi nhìn xem ngôi sao lạ tại phương đông.
Các đạo sĩ đã xem thấy ánh sáng.
Các đạo sĩ đông phương những bậc thông thái về bói toán, y học, chiêm tinh và giải mộng. Họ không phải là người Do thái nhưng là dân ngoại. Họ đã lên đường tìm đến Giêrusalem để “bái lạy Người”. Họ đã thấy gì? Họ đã thấy “vì sao của Người xuất hiện bên phương đông”. Điều mà họ thấy là Hài Nhi mới sinh chính là Vị Cứu Tinh (Đấng Mêssia) mà dân Do thái từ lâu mong đợi. Hơn nữa, họ cũng thấy một vương quyền toàn cầu từ nơi Hài Nhi này. Tức là điều mà họ thấy là Thiên Chúa cứu độ đã tỏ mình ra, đã hiển linh cho thế giới, Người là Đấng đến cứu người tội lỗi, Người là ánh sáng huy hoàng bừng lên cho đoàn người đi trong đêm tối. Người là Đấng Mêssia được xức dầu để loan báo Tin Mừng. Những điều này có lẽ Hêrôđê và dân thành Giêrusalem không biết.
Ánh sáng Chúa Kitô không làm cho người ta ngạc nhiên, nhưng để người ta thấy sứ mệnh của Ngài: Ánh sáng đó là để chiếu soi muôn dân.
Ánh sáng chiếu soi muôn dân.
Chính Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe nói lên cho chúng ta rằng có một sự biểu lộ đồng thời về sự phổ quát của ơn cứu độ và sự tập hợp mọi người trong ánh sáng Chúa Kitô, vì không ai bị loại bỏ khỏi Vương quốc của Người.
Chúa Giêsu không phải của dân Do thái. Người cũng không phải của riêng ai. Chúa Giêsu là của mọi người. Người là ánh sáng chiếu soi muôn dân. Vì thế, cụ già Simêon đã chào mừng Đức Giêsu như “Ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israen dân Ngài”. Người chính là Lời của Thiên Chúa, là sự sống và là ánh sáng cho con người, là ánh sáng đích thực chiếu soi mọi người khi Người đến trong thế gian. Ánh sáng đã đến thế gian và đẩy lùi bóng đêm của sự dữ và tội lỗi. Các đạo sĩ đã nhận ra ánh sáng chỉ Đấng Cứu Tinh, họ đã theo ánh sáng và đã gặp được Đức Giêsu. Ánh sáng này còn biểu trưng cho ân sủng, tác động của Thiên Chúa trong tâm trí mọi người, và hướng dẫn mọi người đến với Đức Kitô. Vâng, Thiên Chúa đã âu yếm nhìn các nhà đạo sĩ ngoại giáo đang tiến về Đức Giêsu. Trong cuộc đời của mỗi người chúng ta, cũng có ân sủng đang hướng dẫn chúng ta tìm kiếm Đức Giêsu. Mỗi người chúng ta có can đảm đi theo ân sủng đó hay không?
Hãy bước theo ánh sáng.
Vậy đâu là dấu chỉ ngày nay để chúng ta nhận ra ánh sáng, ân sủng, và sự can thiệp của Chúa trong cuộc đời? Điều gì cho phép chúng ta và cũng làm cho chúng ta bắt đầu một cuộc mạo hiểm thiêng liêng như các đạo sĩ năm xưa?
Quả thật, đây là vấn đề ám ảnh mọi người lo âu tìm kiếm chân lý. Các đạo sĩ đã được ngôi sao hướng dẫn đến Giêrusalem, như những đại diện của các quốc gia được thu hút bởi ánh sáng vinh quang của Đấng Toàn năng mà ngôn sứ Isaia đã nhắc tới. Một cách tương tự, 2000 năm sau, những dấu chỉ mà chúng ta cảm nhận hướng dẫn chúng ta đến với Lời Chúa được gìn giữ bởi Giáo Hội và được mạc khải bởi sự chăm sóc mọi thời.
Các đạo sĩ đã biểu lộ sự khao khát tìm kiếm chân lý với thái độ đầy ý nghĩa. Nhìn thấy ngôi sao, họ biết được dấu chỉ chất chứa nội dung thông điệp. Họ sẵn sàng bỏ lại quá khứ và lên đường tìm kiếm. Nhờ vào Lời Chúa với những cố gắng vượt qua những thử thách, họ đã tiếp cận với chân lý tại Bêlem. Nếu các bạn dám mạo hiểm, liều mình theo Lời Chúa, thì các bạn sẽ gặp được niềm vui như các đạo sĩ năm xưa. Sau khi vượt qua dấu chỉ đầu tiên đến sứ điệp phổ quát, một hòa điệu sẽ được khám phá giữa thông điệp ánh sáng của Chúa và kinh nghiệm của đời sống thường nhật. Có như thế, chúng ta mới có thể nhận biết Đấng hiện diện ngay trong chính đời sống của chúng ta.
Như thế, qua việc đọc Lời Chúa chúng ta sẽ thấy, sẽ khám phá, sẽ hiểu được dấu chỉ. Dấu chỉ đó có thể là một hài nhi đang nằm trong máng cỏ hay là một con người bị thất bại đau thương trên thập giá; đó cũng có thể là một người lang thang không nhà ở, đang gặp đau khổ cần sự giúp đỡ. Nhưng đó chính là chân lý, là nguồn hạnh phúc của chúng ta, vì đó là dấu chỉ sự hiện diện và thông điệp của ánh sáng.
Ánh sáng dịu êm! Xin hướng dẫn chúng con từng bước, từng bước một thôi để đến với Ngài. Và một khi đến và gặp gỡ Ngài xin cho cuộc đời chúng con cũng được biến đổi và trở thành ánh sáng để soi dẫn người khác đến với Ngài – Đấng là đường, là sự thật và là sự sống.
157.Lễ Hiển Linh
Khi ngôi sao chiếu sáng trên bầu trời Bêlem, là lúc tình trạng dân Israel như thầy tư tế già Dacaria phát biểu “ngồi trong nơi tối tăm và trong bóng tử thần” (Lc 1,79). Tuyển dân của Chúa mà còn như thế huống nữa là dân ngoại. Thánh Phaolô phác hoạ tình trạng thuộc linh của dân ngoại: “Thuở ấy anh em không có Đức Kitô, không được hưởng đặc quyền của Israel, xa lạ với các Giao Ước dựa trên lời hứa của Thiên Chúa, không có niềm hy vọng, không có Thiên Chúa ở trần gian này” (Ep 2,12). Tóm lại, lúc Đấng Kitô giáng thế là lúc thế gian suy đồi cùng cực, đang đứng trên bờ vực thẳm, thì ngay khi ấy ngôi sao xuất hiện ở Đông Phuơng đem theo lời hứa vĩ đại Tin Mừng.
1. Ngôi sao của hy vọng.
Trong quan niệm của người Đông Phương, sự xuất hiện của một vì sao trên trời có quan hệ tới một nhân vật dưới trần, nhất là các vị đế vương, người ta vẫn gọi đó là ngôi sao chiếu mạng. Các nhà chiêm tinh Đông Phương đều tin như vậy, vì thế nảy sinh hẳn một môn học chiêm tinh với các khoa tử vi. Lịch sử Trung quốc ghi lại truyện hoàng đế Quang Vũ đời Đông Hán rất kính trọng ông Nghiêm Tử Lăng, sai sứ đi nhiều lần mới mời được ông vào triều, nhà vua tiếp đón ông rất mực kính trọng và thân thiết, giữ ông lại trong cung đến đêm và nằm chung một giường. Nửa đêm, Tử Lăng gác một chân lên bụng nhà vua, nhà vua không nỡ làm ông thức giấc, cứ để yên cho ông làm như vậy. Sáng hôm sau liền có quan thái sử tâu lên vua rằng hồi hôm xem điềm trời, thấy sao của khách xâm phạm sao nhà vua rất gấp, xin hoàng thượng nên để ý. Vua Quang Vũ cả cười nói rằng: “Ta biết rồi, việc này xảy ra chỉ vì ta và Tử Lăng cùng nằm chung một giường, và chân của Tử Lăng gác lên bụng ta mà thôi, các khanh chớ lo!”. Đối với các nhà bác học Đông Phương, sự xuất hiện của một ngôi sao như thế là thực hiện một mong ước từ lâu, vì khi nghiên cứu các tinh tú, họ nhận thức rằng ngôi sao là đại biểu cho “ý muốn vĩnh cửu”. Quan niệm của họ cũng tương hợp với lời tiên tri của Kinh Thánh: “Một vì sao hiện ra từ Giacóp, một vương trượng trỗi dậy từ Israel” (Ds 24,17). Vì vậy khi họ thấy ngôi sao xuất hiện, liền biết thời giờ đã đến, nên chẳng ngần ngại lặn lội đường xa rủ nhau đi tìm cho thấy “vì sao xuất hiện từ Gia cóp” hầu tìm ra con đường sáng cho mình trong một thế giới u minh.
2. Ngôi sao thần bí
Khi nghe được tin này Hêrôđê hết hồn, với tầm óc hiểm độc và quỷ quyệt nhà vua coi đây là một điều rất dữ. Sự xuất hiện của ngôi sao cũng như sự xuất hiện những chữ viết trên bức tường của cung điện vua Benxatxa ngày xưa, dự báo sự diệt vong của nhà vua. Điều đó có nghĩa là sẽ có một vua Giuđa thay cho mình ngồi trên ngai vàng. Do đó nhà vua phải sử dụng đến mọi thủ đoạn ác độc để diệt trừ hậu hoạ khi còn trong trứng nước. Nhưng mưu độc của loài người làm sao phá hỏng được kế hoạch của Thiên Chúa. Con Trẻ mà Hêrôđê tìm giết lại là Con Trẻ thoát khỏi tai hoạ.
Một điều lạ kỳ ấy là ngôi sao một đàng là hy vọng, là niềm vui lớn cho mọi người thiện tâm, lại nên điềm dữ báo nguy cho hạng người tàn ác. Ý nghĩa cao đẹp của nó được những tấm lòng ích kỷ tham lam nhận ra. Sự xuất hiện của ngôi sao báo hiệu ngày tàn của họ đã tới!
3. Ngôi sao dẫn đường.
Ngôi sao trên bầu trời Bêlem đã dẫn các đạo sĩ Đông Phương trải qua cuộc lữ hành xa lạ, đầy khó khăn nguy hiểm đã đem các ông tới nơi Con Trẻ mà các ông muốn kiếm tìm. Chính ngôi sao đã bảo tồn cho họ niềm hy vọng, ước nguyện, đức tin mà Thiên Chúa đã mặc khải cho. Cũng chính ngôi sao đã cho họ thấy Con Trẻ cũng là vua của họ để họ chuẩn bị lễ vật triều kính Ngài.
Ngôi sao trên bầu trời Bêlem vẫn luôn là ngọn đuốc soi đường cho tất cả những ai cần tìm chân lý, muốn được cứu rỗi linh hồn, và mong nhận được lòng yêu thương vĩ đại của Thiên Chúa.
4. Ngôi sao của vui mừng.
“Khi thấy ngôi sao dừng lại chỗ Con Trẻ, các hiền sĩ hết sức vui mừng”. Vì đối tượng mà họ khổ công tìm kiếm nay đã thấy rồi, lòng khao khát chân lý với nếp sống quang minh chính trực nay đã được hoàn toàn thoả mãn. Niềm vui của họ là điềm báo ân phúc lớn lao sau này Chúa dành cho các môn đệ: “Thầy nói điều đó với anh em để niềm vui của Thầy ở cùng anh em và niềm vui của anh em nên trọn vẹn” (Ga 15,11).
Trong những năm sau khi Chúa Giêsu giáng thế, sự vui mừng mà các hiền sĩ Đông Phương đã được hưởng, thì bao nhiêu người khác cũng được huởng nhờ ngôi sao chỉ đường dẫn lối. Lòng khao khát chân lý của họ cũng được đền đáp vì họ nhận được lòng yêu thương vĩ đại của Thiên Chúa dành cho mọi người thiện tâm.
Và nếu ngôi sao trên bầu trời Bêlem này như ngọn đuốc soi đường dẫn các hiền sĩ tới mục tiêu, thì cái thế giới mà chúng ta đang sống đây mới tìm ra được ý nghĩa mới, vui mừng và hy vọng mới thay vì tuyệt vọng và sầu thảm của những ngày cũ.
158.Lễ Giáng Sinh của muôn dân
Henry van Dyke có thuật lại câu chuyện nhan đề: “Còn một nhà đạo sĩ khác nữa” (The Other Wise Man), kể về một nhà đạo sĩ thứ tư là người đáng lẽ đã cùng ba nhà đạo sĩ kia đi tìm vị Vua vừa sinh ra ở Bêlem. Nhà đạo sĩ này tên là Artaban. Trong lúc chuẩn bị lên đường, Artaban đã chọn ba viên ngọc quý nhất trong kho tàng của ông để dâng tặng Hài Nhi Giêsu. Thế nhưng trên đường đến gặp ba nhà đạo sĩ kia để cùng đi, gặp bất cứ ai xin, ông cũng đem ra tặng hết. Người thứ nhất mà ông đã gặp được là một bà cụ già rét run vì lạnh. Động lòng trắc ẩn, ông đã tặng cho cụ già viên ngọc thứ nhất. Đi thêm một đoạn đường nữa, ông gặp một toán lính toan làm nhục cô gái. Ông đành đem viên ngọc thứ hai ra thương lượng với chúng để chuộc lại cô gái. Cuối cùng khi tiến vào địa hạt Bêlem, ông gặp một người lình do vua Hêrôđê sai đi để tàn sát các hài nhi trong một ngôi làng lân cận. Ông đành phải rút ra viên ngọc cuối cùng để tặng cho người lính và thuyết phục anh từ bỏ ý định gian ác.
Tìm được Hài Nhi Giêsu, nhà đạo sĩ thứ tư này chỉ còn lại hai bàn tay trắng. Ông bối rối và kể lại cuộc hành trình của mình. Nghe xong câu chuyện, Hài Nhi Giêsu mỉm cười đưa bàn tay bé nhỏ ra nhận quà của ông. Nó không phải là vàng bạc châu báu, nhưng là tấm lòng vàng được dệt bằng những nghĩa cử đối với tha nhân, nhất là những người túng thiếu, đói khổ, những người cần giúp đỡ. Chính nhờ những nghĩa cử này mà Thiên Chúa mới được tỏ mình ra cho mọi người.
Lễ Hiển Linh là lễ Thiên Chúa tỏ mình ra cho mọi người. Thiên Chúa không chỉ tỏ mình ra cho riêng Dân của Ngài mà còn cho muôn dân. Bởi đó, mọi người trong chúng ta phải cộng tác với Thiên Chúa để làm bừng sáng lên ánh sáng đã xuất hiện từ Phương Đông. Chúng ta phải là ánh sao dẫn đường cho mọi người đến với Chúa. Tiên tri Isaia trong bài đọc thứ nhất hôm nay đã mở ra cả một viễn tuợng lớn lao: đó là ngày và thời vinh quang của Thiên Chúa chiếu trên Dân Chúa và biến Dân Chúa thành điểm thu phục muôn dân. Mọi người từ mọi phương hướng sẽ cùng quy về một mối trong tiếng ngợi ca Thiên Chúa.
Nội dung của lòng tin tưởng này đã được Thánh Matthêu diễn tả một cách sống động qua câu chuyện về Ba Vua, đúng hơn là ba nhà đạo sĩ đi tìm gặp Chúa Giêsu mới sinh tại Bêlem. Xưa chúng ta quen gọi đây là Ba Vua, do đó Lễ Hiển Linh này cũng gọi là lễ Ba Vua. Nhưng điều mà đoạn Tin Mừng ở đây muốn nhấn mạnh đến là: các đạo sĩ, có thể là các nhà bác học hay thiên văn học, đã từ Phương Đông mà tới (Phương Đông vẫn thường được coi là phương trời của những dân ngoại), họ là những người ở ngoài Dân riêng của Chúa, không thuộc dân Do Thái nhưng họ đã tìm đến và được lãnh nhận ơn cứu độ. Có thể nói, đoạn Tin Mừng này đã diễn tả tất cả tấn bi kịch của công cuộc cứu chuộc đối với Dân riêng của Chúa và đồng thời cũng nói lên tấm lòng đại độ của Thiên Chúa: Hêrôđê tượng trưng cho quyền lực, một thứ quyền lực xảo quyệt chỉ biết khư khư giữ lấy ngai vàng của mình như một lẽ sống. Còn dân thành Giêrusalem đáng lý ra phải vui mừng khi hay tin “Vua người Do Thái mới sinh”, Đấng họ trông chờ như Vị Cứu Tinh, thì trái lại, họ đã hoảng hốt cùng với Hêrôđê người cai trị trên họ. Dường như họ ngại phải dấn mình vào một sự đổi thay, dù họ tin rằng sự đổi thay đó đem lại sự giải thoát cho họ. Còn những Tư Tế và những nhà thông luật, biết rõ nơi Vị Cứu Tinh ra đời, nhưng chẳng ai màng đến với Ngài. Để rồi cuối cùng, chỉ có những người bị liệt vào hàng “dân ngoại” lại hăm hở đến với “Vua người Do Thái”, cũng là Vị Cứu Tinh của nhân loại.
Thưa anh chị em,
Lễ Hiển Linh là lễ Thiên Chúa tỏ mình ra. Chúng ta biết được qua bài Tin Mừng, Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho muôn dân. Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa nào có ai thấy Ngài bao giờ, và làm sao thấy Ngài được? Nhưng người Con duy nhất của Ngài đã làm người, và cho ta thấy được Thiên Chúa mang bản tính con người, làm người như chúng ta và ở giữa chúng ta”. Từ khi Ngôi Lời nhập thể, ai tin nhận Đức Kitô là tin nhận Thiên Chúa, ai từ khước Đức Kitô là từ khước Thiên Chúa.
Vấn đề được nêu lên hôm nay, là ai làm cho người ta biết Đức Kitô, nếu không phải là mỗi người chúng ta? Tuy nhiên, hãy tự vấn rằng bản thân chúng ta đã biết Đức Kitô đến mức độ nào? Nhất định chúng ta chỉ biết Ngài với một mức độ thật giới hạn. Xét về việc giảng giải bằng lời nói, chúng ta có thể bập bẹ đưa ra một số chi tiết về con người của Đức Kitô, về giáo thuyết, về thân thế và sự nghiệp của Đức Kitô; những điều mà người thiện chí không thể không nhìn thấy. Còn nếu chứng minh bằng chính đời sống, để nói được với bất cứ ai, như Thánh Phaolô đã nói: “Xin ông bà, anh chị, hãy bắt chước tôi, như tôi đã sống noi gương Đức Kitô”, thì lắm kẻ không dám nói, và không được phép nói. Bởi vì cuộc sống hiện tại của họ, mọi người đều biết nó như thế nào rồi! Nói cách khác, bản thân tôi chưa gặp được Thiên Chúa, mặc dù miệng tôi luôn nói: Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, Thiên Chúa ở trong tôi, Thiên Chúa ở trong mọi người. Nhưng thực sự, tôi không thấy Thiên Chúa nơi ai cả, ít là trong những cử chỉ tôi đối với những người chung quanh đã nói lên rõ rệt như vậy. Và cũng thế, chưa ai thấy Thiên Chúa ở nơi tôi cả vì chình cuộc sống của tôi đã nói lên rõ ràng như vậy.
Thật vậy, còn có biết bao người đang sống trong tăm tối thiêng liêng; họ đang lầm lũi bước đi trong lầm lạc; họ đang khao khát chân lý; họ không ngớt đặt vấn nạn với chúng ta: “Đức Vua Dân Do Thái sinh ra ở đâu?” hoặc: “Đức Giêsu là ai vậy?. Vậy thì, hỡi các Kitô hữu, hãy trả lời cho họ đi: “Đức Kitô là ai?”. Nhưng xin đừng mở cuốn Kinh Thánh ra nói như một nhà thông thái. Chắc chắn họ không xin chúng ta một Đức Kitô đóng khung trong sách vở, nhưng là một Đức Kitô sống động qua con người của chúng ta. Không có con đường nào khác đưa người ta trở về hoặc khám phá ra Chúa Kitô ngoài con đường Tin Mừng đã vạch, đó là con đường yêu thương. Thật vậy, chính tình yêu là sức mạnh khiêm tốn nhất nhưng lại mãnh liệt nhất để đưa con người đến với nguồn chân lý.
Khi người Kitô hữu chỉ đóng khung đời sống đạo của mình trong nhà thờ, giữa những nghi lễ, mà không nhận ra những nhu cầu, những đòi hỏi của xã hội chung quanh; khi một cộng đoàn Kitô hữu quá bám víu vào những thứ gọi là quyền lợi tôn giáo của mình mà làm ngơ trước những đau khổ, bất hạnh của kẻ khác thì chính họ đang làm dập tắt những ánh sáng dẫn đường tới Chúa Kitô.
May mắn là vào thời đại chúng ta, có Mẹ Têrêsa Calcutta. Qua chính cuộc sống đầy hy sinh vì mọi người, Mẹ Têrêsa đã làm cho mọi người thấy Thiên Chúa. Thật kỳ diệu: ngay Cuba rồi Liên Xô cũng mời Mẹ Têrêsa đến thăm và cho phép lập Dòng các chị em Thừa Sai Bác Ái với quyền thu nhận tập sinh, đang khi các Dòng khác đã có mặt từ lâu, vẫn chưa được phép này. Tại sao? Cuộc đời hy sinh của Mẹ Têrêsa, từ khi là nữ tu trẻ, từ năm 1918, đã dám mạo hiểm, mạo hiểm trong khiêm tốn nhưng lòng đầy tình yêu Thiên Chúa và con người. Sống trong tập thể tu viện với đầy đủ tiện nghi của một Dòng chuyên dạy con gái nhà giàu, được bảo đảm hơn là cô đơn giữa xóm ổ chuột. Thế mà, trong thời gian dài, nữ tu Têrêsa là con người lang thang trên các nẻo đường ở Calcutta, vì Têrêsa thấy rõ Chúa Giêsu đang sống trong những người nghèo bên các vỉa hè của những người dư giả, giả vờ quên rằng có Lazarô đang nằm chết đói ngoài cửa nhà mình, đang chờ một phần ăn rất nhỏ, vất đi từ một bàn tiệc linh đình sang trọng. Tình yêu, yêu Thiên Chúa, yêu Chúa trong mọi người, đã biến đổi sự yếu hèn của nữ tu Têrêsa nên sức mạnh vô địch. Không bao lâu, căn nhà nhỏ của Mẹ Têrêsa phải nới rộng, nới rộng đến nhiều quốc gia trên thế giới, cả đến nước Liên Xô. Đoàn Thừa Sai Bác Ái chưa đầy 40 năm đã chóng lớn như phép lạ, và Mẹ Têrêsa được trao tặng cả vinh dự lớn nhất của người đời: “giải thưởng Nobel Hoà Bình”. Mẹ Têrêsa đã làm cho mọi người thấy thế nào là Thiên Chúa.
Thiên Chúa của những năm cuối thế kỷ 20 là như thế đó. Thiên Chúa trong viễn tưởng năm 2000 phải như thế đó. Thiên Chúa của những cá nhân ích kỷ, của những tập thể ích kỷ, Thiên Chúa của người “tôi” ích kỷ đã chết, và phải chết đi với cái người “tôi” ích kỷ. Như thế sẽ chiếu tỏ một Thiên Chúa, thực sự là Thiên Chúa tình thương, hy sinh Con Một cho nhân loại phản bội. Thiên Chúa là Đức Kitô dám chết cho kẻ mình yêu tuy chúng ta không đáng yêu.
May mắn là trong xã hội chúng ta, ngay giữa chúng ta, trong những giờ này, có những mẫu người hy sinh, quên mình, lo cho người đau khổ, nghèo đói, bệnh tật, trong các bệnh viện, đặc biệt ở những trại cùi. Những con người Kitô hữu đó được công khai bầu lên là người mẫu của tình yêu vị tha, những nhân chứng đích thực của Chúa Kitô.
Có những người, giờ này, đang âm thầm vào các bệnh viện, tìm thăm những bệnh nhân bại liệt tại giường, không gia đình thăm viếng, chăm sóc; anh chị em đó đã đến, hỏi thăm sức khoẻ, chạy dùm một số việc, giặt giũ, vệ sinh cá nhân… Xin Chúa ban cho có nhiều tông đồ, nhân chứng của tình yêu Chúa với những việc làm cụ thể như thế để tạo được sự Hiển Linh, làm cho đồng bào được thấy Thiên Chúa, và ước gì những chứng nhân ấy lại là chính chúng ta. Ước gì được như vậy!
159.Ánh sao lạ
Hôm nay chúng ta mừng lễ Hiển Linh, ngày Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại. Câu chuyện đã xảy ra như sau:
Bấy giờ một ngôi sao lạ xuất hiện trên bầu trời và ba nhà đạo sĩ phương Đông, là những người nghiên cứu về những hiện tượng thiên nhiên, đã hiểu được ý nghĩa của ngôi sao lạ.Họ đã lên đường, bước đi dưới sự soi dẫn của ánh sao và cuối cùng đã gặp được Hài Nhi Giêsu nơi máng cỏ Bêlem, mà họ tin rằng Ngài chính là vua dân Do Thái. Trước khi trở về quê cũ, họ đã thờ lạy và dâng lên Hài Nhi lễ vật của địa phương mình, đó là vàng, nhũ hương và mộc dược.
Từ câu chuyện trên, tôi muốn rút ra một kết luận: Ngoài ánh sao lạ đã soi đường cho ba nhà đạo sĩ tới máng cỏ Bêlem, thì mỗi người chúng ta cũng phải trở nên một ánh sao, dẫn lối cho những người chung quanh, nhất là những người thân yêu cùng sống trong một mái ấm gia đình tìm gặp được Thiên Chúa.
Thực vậy, như chúng ta thường xác quyết:
- Gia đình là mái trường đầu tiên dạy cho chúng ta những bài học làm người.
Dưới mái nhà thân yêu này, trước hết chính cha mẹ phải là một ánh sao dẫn đưa con cái đến cùng Chúa, bởi vì tại đây, ngoài cái nền giáo dục nhân bản, tức là đào luyện cho con cái trở nên những người biết sống tự lập và biết sống với người khác, hầu đem lại lợi ích cho quốc gia, cho xã hội, là người tín hữu, chúng ta còn phải cho con cái một nền giáo dục Kitô giáo, tức là uốn nắn chúng để chúng trở nên những người con cái Chúa.
Vì thế, ngay từ hồi còn tấm bé, cha mẹ đã dạy cho chúng qua đôi tay vụng dại lên làm dấu thánh giá, còn môi chúng bập bẹ những lời kinh đơn sơ.
Hơn thế nữa, đời sống gương mẫu của cha mẹ sẽ có được một sức lôi cuốn hấp dẫn con cái đến cùng Chúa, vì lời nói như gió lung lay, còn việc làm thì như tay lôi kéo.
Augustinô là một chàng trai chơi bời trác táng, thế nhưng nhờ lời cầu nguyện và gương sáng của bà mẹ là thánh nữ Monica, cuối cùng Augustinô đã trở lại cùng Chúa và trở nên một vị giám mục thánh thiện và khôn ngoan,
Tiếp đến vợ chồng cũng phải trở nên một thứ ánh sao cho nhau, có nghĩa là vợ chồng phải biết giúp nhau tìm đến cùng Chúa bằng lời nói và việc làm của mình. Tôi xin đưa ra một thí dụ: Người chồng là một tân tòng, nếu không được gương sáng của người vợ thúc đẩy, thì đức tin vừa mới nảy mầm, chẳng bao lâu cũng sẽ bị thui chột.
Có một ông bố rượu chè cờ bạc, thường bỏ nhà để đàn đúm ăn nhậu với bè bạn. Ngày kia, khi ông trở về thì trời đã khuya, nhìn vào nhà ông thấy vẫn còn ánh đèn, lại có cả những tiếng thì thầm. Tiếng thì thầm ấy chính là tiếng người vợ đang dạy cho đứa con cầu nguyện cho ông. Như được một luồng ánh sáng chiếu soi, ông bừng tỉnh, từ bỏ con đường tội lỗi để trở về cùng Chúa.
Một khi mọi người trong mái ấm thân yêu có được một đời sống gương mẫu, thì chắc chắn gia đình của chúng ta sẽ trở nên như một ánh sao lạ, qua đó người khác sẽ nhận ra sự hiện diện đầy yêu thương của Thiên Chúa.
160.Tìm Đức Kitô
Ba vua tìm Chúa Giêsu. Có phải họ đã bị đánh động bởi ý tưởng của người Do Thái về một thời đại vàng son do Đấng Cứu Thế mang lại, và niềm tin ấy có thể đã lan tràn ra hàng trăm cây số về phía đông xứ Palestine chăng? Có người đã nêu ra giả thuyết rằng có những cuốn lịch trong các miền nói trên ghi rằng trong thời gian ấy Vị Chúa Tể của thời đại cuối cùng sẽ sinh ra ở Palestine. Dù sao, chúng ta thấy một số người lên đường đi tìm Chúa Giêsu. Về đề tài này, ta có thể nêu lên vài suy nghĩ sau đây:
1) Tìm Chúa Kitô đòi hỏi trước hết phải có một thái độ tinh thần căn bản
Người ta sống trong tình trạng báo động để nhận ra dấu hiệu có thể đưa tới Chúa. Cứ chấp nhận rằng ba nhà đạo sĩ sống trong một bầu không khí mong chờ một ông vua Cứu Thế, dường như một lúc nào đó họ đã nhận thấy một ngôi sao, một dấu hiệu, tâm hồn họ tỉnh thức. Chúng ta có thuộc về hạng người biết nhận ra, giữa trăm ngàn yếu tố tạo nên đời sống mình, cái dấu hiệu dẫn đưa ta đến Đức Kitô không? Dấu hiệu ấy có thể là một khó khăn, mà đột nhiên ta cảm thấy cần phải phó thác cho Chúa, vì chỉ mình Người có sức soi sáng và giải quyết. Có thể là một niềm vui lớn lao, từ đó ta thấy hiển nhiên là cần phải cảm tạ Chúa. Dấu hiệu ấy cũng có thể là một chi tiết đời sống ta, trong đó, nếu biết nhìn, ta sẽ nhận ra sự hiện diện kín đáo của Chúa. Trong các trường hợp như thế, ta cần phải để ý tới những dấu hiệu dẫn ta tới Đức Kitô.
2) Ba đạo sĩ đã lên đường
Muốn tìm Đức Kitô, ta buộc phải ra khỏi tình trạng ‘yên chuyện’ và ‘an tọa’ của mình. Có người ‘an tọa’ trong những hệ thống tư tưởng; kẻ khác, trong một địa vị ‘ngon lành’; một số thì ngồi yên trong một tiện nghi lương thiện v.v… Bằng cách này hay cách khác, dấu hiệu của Đức Kitô mời gọi ta đừng tự đóng kín trong tình cảnh ‘yên thân’, nhưng phải bước ra khỏi đó để khám phá ra một cái gì lạ lùng, chưa hề thấy, một cái gì mà ta cảm thấy là đáp lại được sự mong chờ của ta, với điều kiện là ta chờ đợi Đức Kitô.
3) Ba đạo sĩ tìm kiếm một cách tích cực
Bao lâu ánh sao còn le lói trước mặt, họ để cho ánh sao dẫn đường. Nhưng kìa, ngôi sao biến mất, họ buộc phải tự tìm đường. Vẫn hy vọng. Không hồ nghi về tính xác thực của ông Vua đã được ngôi sao kia báo hiệu. Thiếu vật chỉ đạo lạ lùng, tức ngôi sao, họ dùng tới những phương tiện thông thường là hỏi han. Họ đi đến những nhà hữu trách tôn giáo. Những người này không muốn bị phiền hà về vụ ông Vua mới sinh ra, nhưng họ cho ba người khách những lời chỉ dẫn đúng. Thế là các đạo sĩ được ‘thưởng công’: họ tìm thấy Chúa Giêsu. Trong đời ta có thể đã có những dấu này, dấu nọ báo tin Chúa Giêsu, rồi tan biến đi. Bổn phận ta bây giờ là tiếp tục nỗ lực tìm kiếm với những phương tiện thông thường sẵn có. Lúc ấy Đức Kitô sẽ không lẩn tránh đâu.
161.Ba vua
Lễ Hiển Linh, đó là ngày Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại, mà đại diện là ba nhà đạo sĩ phương đông, để thực hiện lời tiên tri Isaia đã loan báo:
- Dân ngồi trong tăm tối sẽ được nhìn thấy ánh sáng chói lòa.
Đồng thời đây cũng là ngày trọng đại cho mỗi người chúng ta, vì ơn cứu độ đã được thực hiện cho muôn dân.
Chúng ta hãy nhìn vào cung cách của ba nhà đạo sĩ để rồi từ đó cùng nhau tự vấn lương tâm và kiểm thảo đời sống của mình.
Điểm thứ nhất, đó là ba nhà đạo sĩ đã nhìn thấy ánh sao lạ và trong thinh lặng các ngài đã suy nghĩ để tìm ra sứ điệp mà Chúa muốn gửi đến. Trong khi đó những người khác cũng đã nhìn mà chẳng thấy và chẳng hiểu.
Có lẽ chúng ta cũng vậy, chúng ta đã đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ trước lời mời gọi của Chúa. Chúng ta để cho tâm trí bận rộn và quay cuồng trước đam mê dục vọng, tiền bạc và lạc thú. Rồi từ đó, ánh sao cuộc đời và tiếng nói của Chúa cứ mờ dần, cứ tắt dần trong cõi lòng chúng ta.
Điểm thứ hai, đó là sau khi nhận ra sứ điệp của Chúa, các ngài đã lên đường mặc cho những khó khăn chờ đón. Các ngài có thể đưa ra 1001 lý do để ở lại nhà, từ chối dấn thân vào một cuộc phiêu lưu mạo hiểm bấp bênh. Tuy nhiên, các ngài đã dứt khoát lên đường, không chần chừ do dự, và đã trung thành với quyết định của mình cho đến cùng. Mặc cho người đời cười chê, các ngài vẫn chỉ nuôi một ước vọng: Tìm gặp và thờ lạy vua dân Do Thái.
Thái độ của các ngài hoàn toàn khác xa với thái độ của dân Do Thái, đã được thánh Augustinô diễn tả như sau:
“Các ngài đến chiêm ngắm Đấng Cứu thế trên quê hương của dân Do Thái, nhưng còn họ, họ lại không biết đến. Các ngài đã tìm thấy Chúa Giêsu dưới hình dáng một hài nhi nằm yên trong máng cỏ. Còn họ, họ đã chối bỏ Chúa Giêsu ngay cả khi Ngài rao giảng công khai, ngay cả khi Ngài làm các phép lạ. Các ngài từ xa mà đến, và đã gặp được Chúa. Còn họ, họ ở rất gần mà cũng chẳng thấy”.
Có lẽ chúng ta cũng không hơn gì những người Do Thái. Chúng ta ở cách nhà thờ đôi ba trăm thước mà chúng ta cũng rất ít khi đến tìm gặp Ngài. Chúa còn hiện diện nơi những kẻ cùng khốn bên cạnh chúng ta, thế nhưng chúng ta cũng rất ít khi nhận ra và giúp đỡ.
Điểm thứ ba, đó là sau khi đã khám phá ra và thờ lạy Hài nhi Giêsu, các ngài đã dâng cho Chúa lễ vật, đó là vàng, nhũ hương và mộc dược, tượng trưng cho tấm lòng quảng đại của mình.
Còn chúng ta, chúng ta sẽ dâng gì cho Chúa trong Mùa Giáng sinh này, cũng như ở chặng cuối cùng của cuộc đời chúng ta? Hay là chúng ta đến gặp Chúa với đôi bàn tay trống trơn, không một chút công nghiệp, và với một tâm hồn nhàu nát vì tội lỗi.
Sau cùng, các ngài định trở lại Giêrusalem để tường trình cho Hêrôđê, nhưng được thiên thần báo mộng, các ngài đã tuân theo, đi một con đường khác mà trở về quê hương xứ sở của mình.
Qua đó chúng ta thấy, mặc dù là những người có thế giá, các ngài vẫn luôn luôn tuân phục lệnh truyền của Chúa một cách tuyệt đối, không bàn cãi.
Còn chúng ta thì sao? Phải chăng cuộc đời của chúng ta là một thảm trạng, trong đó, chúng ta luôn luôn chống lại lệnh truyền của Chúa, bằng những vấp ngã, bằng những phản bội.
Hãy noi gương ba nhà đạo sĩ phương đông, hãy lên đường tìm kiếm và thờ lạy Chúa. Hãy bảo toàn đức tin của mình, dù có phải hy sinh, dù có bị thiệt thòi.
162.Thiên Chúa tỏ mình
Không biết từ lúc nào câu chuyện ba nhà đạo sĩ đã gắn liền với biến cố Thiên Chúa giáng sinh làm người. Chúa đến làm người không dành riêng cho người Do Thái nhưng là cho tất cả mọi người thuộc mọi dân tộc. Danh từ Hiển Linh trong Kinh Thánh mang ý nghĩa Thiên chúa tỏ mình ra cho loài người. Theo phụng vụ Giáo hội Đông phương, lễ Hiển linh là lễ Chúa mở đầu việc rao giảng công khai. Nhưng theo phụng vụ Giáo hội La mã, lễ Hiển Linh là lễ Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại, khi ba nhà đạo sĩ tìm đến thờ lạy Hài Nhi Giêsu.
Hình ảnh ba nhà đạo sĩ trở nên rất quen thuộc. Họ là đại diện cho những tâm hồn thiện chí đi tìm sự thật, với một tinh thần khát khao cháy bỏng. Họ luôn nhạy cảm trước một dấu hiệu lạ kỳ, báo hiệu một vì vua đã sinh ra. Các đạo sĩ Đông phương thời ấy rất giỏi về triết học, y học và khoa học tự nhiên. Nhiều người còn gọi họ là những bậc thánh nhân.
Vào thời đó, mọi người tin tưởng ở khoa chiêm tinh. Họ tin rằng dựa vào các vì sao họ có thể tiên đoán tương lai vận mệnh của con người. Số mệnh một người được an bài bởi một ngôi sao đã xuất hiện lúc người ấy sinh ra. Điều này cũng dễ hiểu, thông thường các ngôi sao xuất hiện theo một vị trí cố định. Chúng tượng trưng cho trật tự của vũ trụ. Nếu thình lình có một vì sao sáng xuất hiện thì dường như Thiên Chúa đã can thiệp trực tiếp vào chính trật tự của Ngài để loan báo một sự kiện đặc biệt sắp xảy ra.
Hài nhi Giêsu chính là vì vua tình yêu, là ánh vinh quang mà Thiên Chúa ban cho nhân loại đang khao khát mong chờ Đấng cứu độ. Họ khắc khoải trong sự đợi chờ thì Chúa Giêsu đã đến. Con người từ khắp nơi, từ những phương trời xa xôi nhất đã về tề tựu quanh Ngài. Đó là dấu hiệu và biểu tượng đầu tiên chinh phục thế giới của Hài Nhi Giêsu.
Chúa Giêsu là điểm đến sau cùng cho mọi nỗ lực tìm kiếm của nhân loại. Nhìn vào những lễ vật dâng lên vàng, nhũ hương, mộc dược, người ta nhận thấy mỗi lễ vật đều tương ứng với đặc điểm và sứ mệnh của Ngài. Ngài là vị vua thật, là thầy lế lễ vẹn toàn và là Đấng cứu độ cao cả mà loài người đợi trông.
Chúa Giêsu chính là vua thật
Vàng được mệnh danh là vua của mọi kim loại. Vàng thường được coi là của lễ xứng hợp nhất để dâng tiến vua. Chúa Giêsu sinh ra để làm vua. Vị vua này không cai trị bằng vũ lực nhưng bằng tình yêu. Ngài cai quản lòng người không từ ngai vàng mà từ thập tự giá. Sự có mặt của Ngài đã biến đổi thế giới loài người, mang lại hạnh phúc cho nhân loại. Bệnh tật được chữa lành (Mt 8, 16-17), tang tóc được hân hoan (Lc 7, 11-17), tội lỗi được tha thứ (Mt 2,5), ngay cả sự chết đối với Ngài chỉ là giấc ngủ bình an (Mc 5, 39). Vì vua này xuất hiện luôn ban cho con người một niềm vui, một niềm hy vọng "Phúc cho anh em, là những người nghèo, vì triều đại Thiên Chúa là của anh em. Phúc cho anh em là những người đói khát vì anh em sẽ được no nê. Phúc cho anh em là những người đang khóc vì anh em sẽ được vui cười" (Lc 6, 20-21).
Chúa Giêsu là tư tế.
Nhũ hương dâng cho Hài nhi là thứ hương liệu có mùi thơm dịu mà thầy tư tế thường dùng trong các nghi thức thờ phượng. Thầy tư tế chính là trung gian giữa Thiên Chúa và con người. Vị tư tế cũng chính là người mở đường dẫn lối để con người đến được với Thiên Chúa. Anh sao soi đường đến nơi thì đã tắt, bởi lẽ Chúa Giêsu chính là ánh sáng thật để soi rọi con người tìm ra chân lý. Chân lý con người tìm kiếm là tình yêu và gia nghiệp của Ngài. Chính chúa Giêsu sẽ dẫn đưa con người về với Chúa Cha.Thư gửi Ephêsô, thánh Phaolô đã khẳng định: "Trong Đức Giêsu Kitô và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại cũng được thừa kế gia nghiệp với người do thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa ban" (Eph 3,6).
Chúa Giêsu là hy tế
Mộc dược là lễ vật dành cho người chết, là hương liệu để xông xác người. Chúa Giêsu đến thế gian để sống cho con người và cuối cùng chết cho con người. Cái chết của Ngài biểu lộ sự trung thành đối với loài người mà Ngài đã yêu thương đến tận cùng (Eph13,1). Chúa Giêsu không nghĩ tới mình, vì lẽ đó Ngài có thể đón tiếp mọi người và lắng nghe mọi người đến với Ngài. Cuộc sống Chúa Giêsu là một cuộc tự hiến cho con người để cứu độ con người.
Chúa Giêsu là vì vua chân thật, là thầy tế lễ vẹn toàn, là đấng cứu độ cao cả thế mà Ngài luôn bị con người chối từ thậm chí tỏ ra chống đối. Các Thượng tế, Kinh sư là những người tự cho mình là hiểu biết Kinh Thánh nhưng lại tỏ ra hững hờ, bất lực không muốn ra đi. Trong khi đó các đạo sĩ là những người ngoại giáo lại dám lên đường và họ đã gặp Đấng cứu độ. Vua Hêrôđê cũng chẳng khá hơn gì. Một vì vua đang nắm quyền nhưng lại nơm nớp lo sợ trước một Hài nhi Bêlem vừa mới sinh. Trình thuật Tin Mừng cho ta chứng kiến những hình ảnh đối lập nhau. Một bên là những người đói khát ơn cứu rỗi, họ đang hết tâm vận dụng toàn lực để tìm kiếm Thiên Chúa. Một bên thì đau đớn nghĩ rằng việc vua mới sinh sẽ làm đảo lộn cuộc đời của họ nên đem lòng thù nghịch Đấng Messia.
Vị Vua tình yêu đã giáng sinh, đã cho con người lần tìm ra chân lý. Biết bao lương dân giờ đã nhận biết Ngài, biết bao người tội lỗi đã trở về Thiên Chúa. Chúng ta thật hạnh phúc vì là thần dân của vị Vua đầy tình yêu này. Một vị vua không hề biết nói đến sự tiêu diệt. Một vị vua không ngồi trên ngai để cai trị nhưng luôn hiện diện trên thập giá để sẵn sàng chịu chết thay cho dân Ngài. Đó chính là Vua Giêsu, là hiện thân tình yêu của Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ nhân trần. Tình yêu của Ngài giờ đây trải rộng đến khắp muôn dân.
Hiện nay còn biết bao người đang sống trong tăm tối thiêng liêng, họ đang lầm lủi bước đi trong lầm lạc. Họ đang khao khát chân lý. Họ không ngớt đặt vấn nạn với chúng ta: "Đức Giêsu là ai?". Hãy trả lời cho họ đi. Đức Giêsu chính là tình yêu của Thiên Chúa. Ngài đến phá đỗ mọi hàng rào ngăn cách mà con người đã dựng nên, nhất là những hàng rào kỳ thị: kỳ thị chủng tộc, màu da, tôn giáo, giai cấp, giàu nghèo....
Chúng ta hãy cộng tác với Thiên Chúa để làm bừng sáng mầu nhiệm tình yêu giữa lòng nhân loại. Mỗi người hãy là ánh sao dẫn đường để soi dẫn cho nhiều người biết khám phá gương mặt đích thực của Đức Giêsu trong đời sống thường ngày.
163.Đi tìm Chúa nhờ ngôi sao lạ
Hằng năm cứ gần đến lễ Giáng sinh, đi ngang các Nhà thờ Công giáo hay vào các xóm đạo chúng ta sẽ thấy người ta nô nức cùng nhau làm ngôi sao. Dường như thiếu ngôi sao thì lễ Giáng sinh không thành được. Cho nên bằng mọi cách người ta phải cố gắng làm theo khả năng của mình. Nơi nào khá thì làm ngôi sao đẹp và đắc tiền hơn. Hình ảnh ngôi sao trong mùa Giáng sinh phải chăng là nhắc tới ngôi sao lạ đã dẫn đường cho ba vua đến thờ lạy Hài nhi Giêsu.
Ba vua này được gọi là những nhà chiêm tinh. Họ đã nghiên cứu và thấy được có một ngôi sao lạ xuất hiện bên phương đông. Từ đó họ đã quyết định lên đường tìm Hài nhi Giêsu để thờ lạy cùng mang theo những lễ vật quý giá là vàng, nhũ hương và mộc dược để dâng tiến Người.
Điều đáng nói ba vị vua này lại là lương dân từ xa đến. Đang khi đó vua Hêrôđê là vua Do thái ở kế bên đó thì lại chẳng hay biết. Tại sao ba vua này lại được thấy ngôi sao lạ còn vua Hêrôđê thì không. Chúng ta nhớ có lần Chúa Giêsu đã thưa cùng Chúa Cha: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn" (Mt 11, 25). Thật ra Chúa chẳng muốn giấu ai. Người luôn muốn cho tất cả mọi người đều được chiêm ngưỡng Con Mình. Tuy nhiên ở đây còn tùy vào sự đón nhận của con người. Ngôi sao thì có sẵn trên bầu trời nên chỉ có những ai thành tâm thiện chí và thật lòng khao khát thì mới được gặp Người.
Vua Hêrôđê chỉ vì tham quyền cố vị và tưởng rằng mình là nhất trên đời nên chẳng muốn đón nhận gì thêm. Hơn nữa, khi nghe biết có Hài nhi Giêsu sinh ra thì ông lại sợ mất quyền ảnh hưởng nên cũng căn dặn ba vua: "Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người." (Mt 2, 8). Đó chỉ là lời lẽ che đậy âm mưu bên trong. Bằng chứng sau đó ông đã ra lệnh: "giết tất cả các con trẻ ở Bê-lem và toàn vùng lân cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo ngày tháng ông đã hỏi cặn kẽ các nhà chiêm tinh". (Mt 2, 16b)
Hằng ngày Thiên Chúa đã gởi đến cho chúng ta rất nhiều ngôi sao lạ. Đó là tiếng nói của Chúa trong lương tâm.Tiếng nói lương tâm thúc đẩy ta làm lành lánh dữ. Đó là những lời nhắc nhở của người thân. Đặc biệt là lời Chúa và những chỉ dẫn của Giáo hội.
Mừng lễ Hiển linh năm nay, chúng ta hãy thành tâm xét mình trước Chúa về cách đón nhận những ngôi sao lạ mà Chúa đã gởi đến cho mình. Hãy xin Hài nhi Giêsu cho chúng ta thêm lòng tin và quảng đại đón nhận những ngôi sao lạ đó để chúng ta ngày càng được đến gần Chúa hơn.
164.Những con mắt hiển linh
Trong bài Phúc Âm của lễ Hiển Linh có một từ đáng cho chúng ta suy niệm: thấy. Có mắt để phát hiện những điều bí ẩn, những con mắt hiển linh như các nhà đạo sĩ: “Họ thấy Con Trẻ và Mẹ Ngài và họ liền sấp mình thờ lạy Ngài”.
Họ thấy gì? Họ tưởng tượng điều gì? Từ bậc quyền cao chức trọng nào họ phải xuống để thích ứng ngay với thực tế rất khiêm hạ này: một cặp vợ chồng và đứa con của họ? Các đạo sĩ đã “thấy”.
Lời mời gọi đầu tiên của lễ Hiển Linh là: thấy Con Trẻ. Thấy tất cả những gì có nơi Đấng Tuyệt Đối duy nhất này, thầm bảo rằng qua Ngài chúng ta có thể thấy Thiên Chúa, như phụng vụ Acmêni diễn tả rất hay: Hôm nay, Đấng vô hình hiển linh. Đấng mà con người không thấy nay tỏ hiện để chúng ta được thấy.
Làm sao không nghĩ đến câu nói nổi tiếng của thánh Irênê mà luôn luôn phải trích dẫn nguyên vẹn: “Vinh quang của Thiên Chúa chính là sự sống của con người, và sống đối với con người chính là thấy Thiên Chúa”.
Thấy Chúa. Thánh Gioan nói trong đoạn mở đầu Phúc Âm của mình: “Không ai thấy Thiên Chúa; chính Con duy nhất ngự trong lòng Chúa Cha mới tỏ bày Ngài cho chúng ta”.
Ước gì chúng ta có mắt để thấy những điều này! Con mắt đức tin, con mắt xưa kia, ở Palestine, biết mở ra để nhìn vào mầu nhiệm của Chúa Giêsu, và cái nhìn nội tâm giờ đây làm chúng ta phải sấp mình trước mặt Ngài. Thánh nữ Têrêsa thành Avila đã viết: “Cái gì ngăn cản chúng ta dùng con mắt của tâm hồn để nhìn về Chúa? Ngài chỉ chờ đợi cái nhìn của chúng ta mà thôi”.
Cái nhìn nội tâm này, sức mạnh của con mắt đức tin này không được đóng kín chúng ta trong một tháp ngà nhỏ: “Anh và tôi!” hoặc trong một tháp ngà lớn hơn: “Chúng ta, những người theo Kitô giáo”. Đây là lời kêu gọi thứ hai của lễ Hiển Linh: nhận rõ ràng Con Trẻ xuất hiện vì tất cả chúng ta. Đàng sau các đạo sĩ, ta thấy được những đám đông mà các vị là biểu tượng, những đám đông mà Isaia phát hiện bằng con mắt hiển linh: “Hãy nhìn xem, hỡi Giêrusalem! Bóng tối bao trùm muôn dân nhưng Chúa sẽ xuất hiện trên ngươi, các dân tộc hướng về ánh sáng của ngươi. Hãy nhìn xem! Họ đang quy tụ lại”.
Người ta nói rằng định mệnh hạn chế cái nhìn của chúng ta. Chúng ta được tạo dựng cho những gì là to lớn của một thế giới đang chờ đợi Chúa và chúng ta cúi xuống nhìn vào cuộc sống của chúng ta và nhìn vào giáo xứ của chúng ta. Thỉnh thoảng, những đám đông hoan hô Đức Thánh Cha làm cho chúng ta cảm nhận làn sóng Công Giáo, nhìn thấy muôn dân họp lại đời đời. Nhưng chúng ta nhanh chóng trở về với chúng ta, những nhóm nhỏ đang hành đạo.
Chúng ta có quá dễ dàng chấp nhận làn sóng những người không tin đang gia tăng hay không? Quen sống trong những khu vực theo Kitô giáo, ở giữa những môi trường mà hai tiếng Thiên Chúa không còn ý nghĩa gì nữa có phải là điều bình thường hay không?
Lạy Chúa, xin khơi dậy nơi chúng con lòng nhiệt thành của những người theo Kitô giáo đầu tiên mà đối với họ lời của Chúa Giêsu vẫn còn sống động: “Các con hãy đi dạy dỗ muôn dân” (Mt 28,19). Ước chi Giáo Hội của Ngài, Giáo Hội vào thời đại có nhiều người không tin này, không ngừng chọn lựa làm những người thừa sai, ước chi trong số mười linh mục người ta không chọn chín vị để nâng niu chiều chuộng các tín hữu và một vị để xông pha những chỗ mà Chúa không còn ở đó nữa.
Trong khi cầu nguyện như thế con cảm thấy con cũng thiếu tinh thần truyền giáo. Hay có lẽ con sợ hãi. Con sống ở giữa những anh chị em không thấy Chúa và con làm như thể con cũng là một người không thấy Chúa. Nhưng làm sao để nói với những người ở ngoài đường, ở trong các cửa hàng và trong nhà máy về Chúa? Và thậm chí đơn giản hơn là nói với anh A chị B mà con thường gặp từ bao nhiêu năm nay nhưng không nói gì với họ về Chúa? Tôn trọng ý kiến, lương tâm của họ chăng? Phải tôn trọng rồi. Con coi thường khi người ta nói về những chứng nhân của Giêhôva nhưng con, con làm gì để truyền giáo?
Con làm chứng nhân như thế nào đây? Thật đơn giản khi nhắc lại rằng người ta làm chứng bằng cuộc sống của mình, con biết rõ rằng đôi khi việc loan báo Tin Mừng cần đến lời nói, thế mà con im lặng. Thậm chí sau cùng thì con không còn thấy những người có lẽ đang chờ đợi chứng tá của con nữa. Xin Chúa cho con có những cặp mắt của người tông đồ, những con mắt hiển linh.
165.Từ bỏ
Hôm nay, chúng ta mừng lễ Hiển linh, ngày Thiên Chúa tỏ mình cho muôn dân, mà đại diện là ba nhà đạo sĩ, ba nhà bác học phương đông.
Câu hỏi thứ nhất: các ngài là ai?
Phúc âm đã dùng danh từ “magi” để nói về các ngài. Magi có nghĩa là các vị tư tế, ngoài việc tôn giáo, họ còn chuyên môn về khoa học, nhất là thiên văn, vì thế họ thường được triều đình tôn làm cố vấn. Ngoài ra, magi còn có nghĩa là các nhà đạo sĩ, dùng phép thuật của mình như một kế sinh nhai. Phúc âm không xác định rõ các ngài thuộc vào hạng người nào.
Tuy nhiên, chúng ta có thể tin chắc chắn các ngài là những người học rộng biết nhiều và thông thạo về thiên văn. Bởi đó, gọi các ngài là những nhà bác học, thiết tưởng cũng không sai cho lắm.
Ngoài ra, dựa vào những lễ vật dâng tiến, cũng như dựa vào thánh vịnh 71:
- Từ Tác-sít và hải đảo xa xăm,
Hàng vương giả sẽ về triều cống.
Cả những vua Ả-rập, Xơ-va,
Cũng đều tới tiến dâng lễ vật.
Mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng,
Muôn dân nước thảy đều phụng sự.
Tertulianô đi tới kết luận: các người là những bậc vương đế. Vì thế, từ xa xưa người ta thường gọi lễ này là lê Ba Vua. Tuy nhiên, lập luân trên không được xác thực cho lắm.
Câu hỏi thứ hai: các ngài có bao nhiêu người?
Những bức bích họa dưới các hoang toại đạo vào những thế kỷ đầu, có bức vẽ hai vị, có bức vẽ ba vị, có bức vẽ bốn vị, thậm chí có bức vẽ tới…mười hai vị. Ngày nay, chúng ta thường nói tới ba vị, vì dựa vào ba thứ lễ vật các ngài dâng tiến.
Câu hỏi thứ ba: các ngài từ đâu mà tới?
Magi là hạng người xuất hiện đầu tiên tại Ba Tư. Các họa sĩ cổ xưa thường vẽ các ngài với y phục Ba Tư, nên nhiều người đã xác quyết các ngài từ Ba Tư mà đến. Tuy nhiên, lý luận này cũng không được ổn cho lắm. Phúc âm chỉ nói các ngài từ phương đông mà tời. Và phương đông là tên người Do Thái thường dùng để gọi xứ Ả Rập. Hơn nữa, những lễ vật như vàng, nhủ hương và mộc dược, là thổ sản của xứ này. Như vậy, các ngài từ Ả Rập mà đến thì có lẽ đúng hơn.
Sau cùng, câu hỏi thứ bốn: đâu là bài học chúng ta cần ghi nhận?
Bài học chúng ta ghi nhận hôm nay, đó là sự tử bỏ. Thực vậy, các ngài là những người giàu sang, có một địa vị lớn trong xã hội thời bấy giờ, thế nhưng một khi đã nhận biết ý Chúa qua ánh sao lạ, các ngài đã can đảm, dám liều, dám từ bỏ tất cả để lên đường tìm đến với vị vua mới sinh ra.
Đúng thế, các ngài đã để lại sau lưng nào vợ đẹp con khôn, nào tiền bạc giàu sang, nào địa vị chức auyền, để dấn thân vào một cuộc phiêu lưu vô định, dưới sự soi dẫn của một ánh sao. Các ngài đã phải vượt qua biết bao nhiêu khó khăn, đã phải chấp nhận biết bao nhiêu nguy hiểm: nào là những nụ cười mỉa mai của bà con bè bạn, nào là những vất vả cực nhọc suốt khoảng đường dài…Thế nhưng, các ngài vẫn cất bước tiến lên với một lòng tin tưởng vững chắc.
Nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy bất kỳ ơn gọi nào cũng đều đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ, phải hy sinh, như lời Chúa đã phán:
- Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta.
Tôi xin đưa ra hai trường hợp tiêu biểu. Trước hết, đó là trường hợp của Abraham. Ông đang sống yên ổn với gia đình trong cảnh giàu sang, thế nhưng Thiên Chúa đã hiện ra bảo ông phải lên đường tới một vùng đất nào đó mà Ngài sẽ trao ban làm sản nghiệp. Abraham liền cúi đầu vâng nghe. Rồi khi tới tuổi già và có được một mụn con trai để nối dõi tông đường, thế mà Thiên Chúa lại truyền phải sát tế mà dâng kính Ngài. Abraham cũng đã cúi đầu vâng nghe.
Tiếp đến, đó là là trường hợp của các tông đồ. Các ông đang sống yên ổn bằng nghề chài lưới, thế rồi một hôm Chúa Giêsu đi ngang qua và lên tiếng gọi:
- Hãy theo ta.
Lập tức các ông từ bỏ ghe thuyền, chài lưới và những người thân yêu để bước theo Chúa.
Với Mathêu cũng vậy, đang làm giàu với nghề thu thế, nhưng sau khi nghe tiếng gọi của Chúa, ông cũng đã từ bỏ tất cả để đi theo Ngài.
Từ mẫu gương của ba nhà ba nhà bác học phương đông, của Abraham và của các tông đồ, chúng ta đi tới một kết luận: Muốn theo Chúa, muốn chu toàn thánh ý của Ngài, chúng ta cũng phải dám liều, dám từ bỏ mọi sự, dám hy sinh tất cả, dám dấn thân vào một cuộc phiêu lưu đầy bấp bênh. Thế nhưng liệu chúng ta có đủ quảng đại để đáp trả tiếng gọi của Chúa và có đủ can đảm để thực hiện những điều ấy không?
166.Đến thờ lạy.
Xưa kia có một tu sĩ thánh thiện sống ở Ai Cập. Một ngày nọ có chàng thanh niên đến thăm và muốn xin ngài dạy bảo. Anh thỉnh cầu với tu sĩ: “Thầy là người thánh thiện, xin thầy chỉ cho con biết làm thế nào tìm thấy Thiên Chúa”. Tu sĩ là người khỏe mạnh và lực lưỡng. Ngài hỏi chàng thanh niên: “Anh có thực sự muốn đi tìm Thiên Chúa không?” Chàng thanh niên trả lời: “Đúng vậy, thưa ngài, con thực sự ước ao muốn tìm kiếm Thiên Chúa”.
Sau đó tu sĩ dẫn chàng thanh niên xuống bờ sông. Thình lình, ngài túm lấy cổ anh rồi nhấn đầu xuống nước. Thoạt tiên chàng thanh niên nghĩ rằng tu sĩ ban cho anh nghi thức thanh tẩy đặc biệt giống như Phép Rửa tội của thánh Gioan Tẩy giả ở bờ sông Giođan. Nhưng sau gần hai phút tu sĩ vẫn không buông ra, anh bắt đầu vùng vẫy. Dù vậy tu sĩ vẫn dìm anh dưới nước. Bị ngộp thở, chàng thanh niên đã phải vùng vẫy mãnh liệt hơn nữa. Sau vài phút, tu sĩ lôi cổ anh lên khỏi mặt nước và nói: “Khi nào anh ước muốn tìm Thiên Chúa mạnh mẽ như anh ước ao có không khí để thở, lúc ấy anh sẽ tìm thấy Thiên Chúa”.
Hôm nay thánh Matthêu nói với chúng ta về những người có một ước muốn mãnh liệt đi tìm kiếm Đấng Cứu Chuộc nhân loại. Đó là các nhà đạo sĩ.
Một số người Kitô hữu gốc Do Thái trong cộng đoàn của Matthêu thắc mắc rằng theo Đức Giêsu có phản bội lại đức tin của tổ tiên không. Họ hỏi: “Thưa ngài Matthêu tại sao nhiều người không phải là Do Thái đang đi theo Chúa Giêsu, trong khi đa số những người đồng hương Do Thái lại từ chối Ngài?” Matthêu đã trả lời rằng vì những người không phải Do Thái, những người ngoại trở lại đã có một lòng ước muốn mãnh liệt tìm kiếm Đấng Cứu Thế. Trái lại, những vị lãnh đạo Do Thái nghĩ rằng họ đã có Thiên Chúa rồi, họ nhận thấy không có lý do gì phải đi tìm kiếm Đấng họ đã có. Đối với họ, có Đấng Cứu Thế thì cũng tốt, nhưng không phải là vấn đề cấp thiết như sự sống và sự chết. Do đó, họ đã không có một lòng ước ao mãnh liệt để tìm kiếm Ngài.
Các nhà đạo sĩ chính là những nhà thiên văn đã kiên trì nghiên cứu trong Thánh Kinh, sách của người Do Thái, nói về những dấu hiệu xuất hiện trên trời, những dấu hiệu của Đấng Cứu Thế đang đến. Họ theo dõi hằng đêm, cho đến khi khám phá thấy một vì sao. Vì lòng ao ước tìm kiếm chân lý mãnh liệt họ đã từ bỏ xứ sở của mình và lên đường. Đây là cuộc hành trình rất vất vả, khổ cực và đầy nguy hiểm trong sa mạc với đoạn đường dài 800 dặm, khoảng 1280 km, từ Babylon tới Giêrusalem. Còn chúng ta, chúng ta có khao khát muốn tìm gặp Chúa hay không?
167.Nên thánh
G.K. Chesterton, tác giả nổi tiếng người Anh, đã viết một câu chuyện thú vị về ba nhà thông thái hiện đại. Họ đã nghe biết rằng có một thành phố hòa bình, một thành phố mà chưa bao giờ có chiến tranh, loạn lạc, giặc giã và khổ đau. Họ cũng nghe biết rằng, phải mang theo những lễ vật đến để chứng tỏ họ là những con người của hòa bình, và đóng góp vào việc duy trì hòa bình trong thành phố này. Do đấy họ lên đường đi tới thành Bêlem mới này với những lễ vật họ tin chắc rằng sẽ bảo đảm giữ được hòa bình và cho phép họ ở lại trong thành phố đó.
Khi đến cổng thành họ gặp thánh Giuse đứng kiểm soát những lễ vật của họ. Nhà thông thái hiện đại thứ nhất mang vàng đến. Ông giải thích rằng vàng có thể mua được mọi thứ khoái lạc trên trần gian. Hưởng khoái lạc rồi người ta không còn muốn chiến tranh nữa. Nhà thông thái hiện đại thứ hai đã không mang nhũ hương, mà mang hóa chất đến. Ông mang khoa học hiện đại vào thành phố. Với khoa học kỹ thuật ông có thể làm cho tâm trí con người ngủ mê trong hạnh phúc trần gian. Ông có thể chế ra những hạt giống nhân tạo phát sinh hoa trái và kiểm soát dân số trên mặt đất. Lúc đó dân chúng có thể thỏa mãn được tất cả nhu cầu cần thiết, và như vậy họ không phải đánh nhau nữa. Nhà thông thái hiện đại thứ ba mang một phân tử hạch nhân đến để chế bom nguyên tử, một thứ mộc dược mới, một biểu tượng mới của sự chết. Ông lập luận cứng rắn rằng bất cứ ai chống đối lại con đường hòa bình sẽ phải chết.
Sau khi khám xét lễ vật, thánh Giuse đã khước từ không cho bất cứ người nào vào cả. Họ lao nhao lên phản đối rằng: “Chúng tôi đã mang theo tất cả những phương tiện để cung cấp sự giàu có, kiểm soát thiên nhiên, và tiêu diệt kẻ thù. Chúng tôi còn phải mang thêm cái gì đến nữa để chứng tỏ rằng chúng tôi là những con người của hòa bình?” Thánh Giuse bèn kề vào tai mỗi người rồi thì thầm một lúc. Sau đó họ lặng lẽ bỏ ra đi trong buồn bã. Bạn có biết thánh Giuse nói gì với họ không? Ngài nói rằng họ đã quên mất chính Hài Nhi Giêsu!
Đó cũng là lời khuyên của Công đồng Vatican II cho thế giới văn minh khoa học ngày nay: “Chính Chúa Con Nhập Thể là thái tử của hòa bình, đã dùng thập giá của Người để hòa giải mọi người với Thiên Chúa. Người đã tái lập sự hiệp nhất mọi người thành một dân tộc và một thân thể”.
Ngày nay với chủ trương duy khoa học kỹ thuật, với sự giàu có và quyền lực, con người nghĩ rằng họ là những nhà thông thái hiện đại. Họ có thể xây dựng hòa bình mà không cần hài Nhi Giêsu. Thế nhưng họ đã lầm! Hòa bình và hạnh phúc không thể có nếu thiếu Hài Nhi Giêsu. Ngài là “Thái Tử của Hòa Bình”. Tách rời ra khỏi Thiên Chúa, con người không thể tự tạo ra hòa bình được.
Trong tông huấn Tertio Millennio Adveniente, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng cho rằng càng phát triển về văn minh vật chất, con người càng trở nên nghèo nàn về tinh thần và tạo nên cơn khủng hoảng văn minh hiện nay. Ngài nói: “Đứng trước cơn khủng hoảng văn minh đó, cần phải đáp lại bằng văn minh của tình yêu – đặt nền tảng trên các giá trị phổ quát là hòa bình, liên đới, công lý và tự do, là những giá trị gặp thấy nơi Đức Kitô sự kiện toàn đầy đủ của chúng ta”. “Chúng tôi đến để thờ lạy Người”. Tìm kiếm và thờ lạy Thiên Chúa là ước vọng thâm sâu nhất của con người như thánh Augustinô đã nói: “Chính Ngài đã thúc đẩy con người làm như thế bằng cách làm cho con người thấy khoái trá khi ca tụng Ngài, vì Ngài đã tạo thành chúng con cho Ngài, và tâm hồn chúng con sẽ không an vui bao lâu chưa được an nghỉ nơi Ngài”.
Sách Giáo lý Công giáo cũng dạy rằng: “Sự ước ao Thiên Chúa đã được ghi sâu trong tâm hồn con người, bởi vì con người đã được sáng tạo bởi Thiên Chúa và cho Thiên Chúa”.
Tìm kiếm Thiên Chúa để trở nên giống như Ngài, vì con người đã được dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa, với phẩm giá của mình, với ơn gọi là con cái Thiên Chúa được chia sẻ hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài. Bởi thế, con người phải trở nên hoàn thiện như Ngài. Đó là ơn gọi làm thánh (sainthood). Mỗi người được mời gọi để trở nên thánh thiện như Thiên Chúa Cha là Đấng thánh.
168.Nên thánh
Thánh Phaolô đã nhắc nhở các Kitô hữu thời Giáo Hội sơ khai như sau: “Kính gửi tất cả anh chị em ở Rôma, những người được Thiên Chúa yêu thương, được gọi là thánh, xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giêsu Kitô ban cho anh em ân sủng và bình an”. “Kính gửi Hội thánh của Thiên Chúa ở Côrintô, những người đã được hiến thánh trong Đức Kitô Giêsu, được gọi là thánh…”
Các Kitô hữu đã được thánh Phaolô gọi là thánh, vì đã có lòng ước ao tìm kiếm Thiên Chúa mãnh liệt, đã ăn năn sám hối và canh tân đời sống mỗi ngày để trở nên thánh.
Một vị thánh sẽ không bao giờ dám tự coi là mình đã chiếm hữu được chân lý, đã có Thiên Chúa, hay đã biết tất cả mọi điều về Thiên Chúa! Đối với các ngài, luôn luôn có những khám phá mới mẻ về Thiên Chúa, bởi lòng ước ao tìm kiếm và yêu mến Thiên Chúa sẽ không bao giờ vui thỏa. Nói như thánh Augustinô, các ngài chỉ vui thỏa khi nào nghỉ yên trong Chúa.
Câu chuyện Thánh Kinh về ba nhà đạo sĩ Đông phương nói với chúng ta rằng đời sống tinh thần sẽ chỉ bắt đầu khi một người có một lòng ước muốn mãnh liệt đi tìm kiếm Thiên Chúa. Khi một người cảm nghiệm được sự thúc bách nội tâm, một lòng khát khao muốn có một sự liên hệ cá nhân sâu xa với Chúa Giêsu, cuộc hành trình tinh thần của người đó mới bắt đầu khởi sự.
Trước đệ nhị thế chiến, có một cô gái người Pháp, trẻ đẹp, hát hay và khiêu vũ rất giỏi. Nhờ thế cô rất nổi tiếng dưới ánh đèn sân khấu trong các vũ trường ở thủ đô Paris. Đúng lúc đó thế chiến thứ hai bùng nổ, nước Pháp lâm nguy nên mọi người ra sức bảo vệ tổ quốc. Cô gái tài sắc đó đã trở thành y tá cứu thương trên chiến trường. Chẳng may cô bị thương và rủi hơn nữa chính vết thương này đã khiến cô không còn khả năng sinh sản. Với lòng ước ao mạnh mẽ để được làm mẹ và trước những đau khổ mất mát của tha nhân, cô đã không buông xuôi thất vọng, trái lại cô còn có một quyết tâm khác thường.
Thay vì làm mẹ ruột, cô làm mẹ nuôi của các trẻ mồ côi bị bỏ rơi. Để có điều kiện thực hiện ý định đó, cô trở lại làm nghề vũ nữ và ra sức lao động cật lực. Cùng lúc cô đi tìm kiếm các trẻ mồ côi đủ mọi quốc tịch, màu da để nuôi nấng yêu thương. Đứa bé cuối cùng cô nhặt được trong một thùng rác ở thủ đô Paris vào đêm Noel 1983 là một em bé người Pháp. Bây giờ cô trở thành người mẹ nuôi của 12 em, 12 quốc tịch và màu da khác nhau. Với 12 miệng ăn cô không đủ tiền chi phí nên phải bán đồ đạc trong nhà để sống thêm được một thời gian. Sau đó, mẹ con dắt nhau đi lang thang ăn xin. Biết được tình cảnh đáng thương đó, công chúa Monaco đã cho mẹ con cô tá túc trong lâu đài của mình. Hai năm sau cô qua đời và báo chí đã đặt tên cho gia đình cô là một “gia đình Liên Hiệp Quốc”.
Lễ Hiển Linh nhắc nhở chúng ta rằng Ngôi Hai Thiên Chúa đến viếng thăm tất cả mọi người có lòng ao ước tìm kiếm và đến thờ lạy Ngài. Không một ai bị loại trừ ra khỏi tình yêu Thiên Chúa. Thật “Vui mừng cho những tâm hồn tìm kiếm Thiên Chúa” (Tv 105, 3).
169.Những đạo sĩ hôm nay
Suy nghĩ về lễ Hiển Linh, ngày Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại, tôi có một nhận xét nho nhỏ, xin được chia sẻ. Nhận xét ấy như thế này:
Các nhà đạo sĩ phương đông là những người ít được chuẩn bị, ít được hiểu biết về Kinh Thánh, nhưng lại có một tấm lòng quảng đại, sẵn sàng đáp trả tiếng gọi của Thiên Chúa. Các ông đã lên đường, dấn thân vào một cuộc phiêu lưu hoàn toàn bấp bênh, để rồi cuối cùng các ông đã có được diễm phúc gặp gỡ Chúa nơi máng cỏ Bêlem dưới vóc dáng của một hài nhi nhỏ bé, nghèo túng và tầm thường.
Các ông là những người tuy xa mà lại gần.
Trong khi đó, các luật sĩ, tư tế và biệt phái sống tại Giêrusalem. Họ là những người đã được chuẩn bị rất kỹ lưỡng. Họ thông thuộc Kinh thánh. Bằng cớ là họ đã trả lời vanh vách nơi Đức Kitô sinh ra, thế nhưng họ đã không dám lên đường tìm gặp Ngài. Và hơn thế nữa, họ còn tiếp tay với Hêrôđê để sát hại Ngài.
Sở dĩ như vậy vì họ muốn Đấng Cứu Thế của họ phải được sinh ra trong lầu đài cung điện, để rồi một mai khi lớn lên, Đấng ấy sẽ là một ông vua hùng mạnh như Đavít, khôn ngoan như Salomon, sẽ giải thoát họ khỏi ách thống trị của đế quốc La Mã và dẫn đưa dân tộc họ tới một thời đại hoàng kim, khiến cho mọi dân nước phải quy phục và triều cống. Họ không muốn chấp nhận Ngài dưới vócdáng của một hài nhi nhỏ bé, nghèo túng và tầm thường. Và họ đã không lên đường tìm gặp Ngài.
Họ là những người tuy gần mà lại xa.
Cũng trong chiều hướng ấy, tôi nghĩ rằng những người dám hy sinh, dám dấn thân, dám lên đường tìm gặp Chúa nơi những kẻ nghèo túng và bất hạnh, để yêu thương và giúp đỡ, họ chính là những nhà đạo sĩ của thời buổi hôm nay.
Đúng thế, ngày hôm nay vẫn có những nhà đạo sĩ tìm gặp Chúa nơi những người anh em khổ đau và cùng khốn.
Có những người như Mẹ Têrêxa thành Calcutta, vừa mới được phong lên hàng chân phước, hằng ngày không ngần ngại đi lượm từng hình hài sắp chết, từng con trẻ bị bỏ rơi… rồi mang về chăm sóc.
Có những người như Cha Prado bên Pháp, đã sang tận Ấn độ để đem lại sức sống mới cho một cộng đoàn nghèo, hết lẽ sống và cũng hết muốn sống.
Có những người như những tu sĩ đã biến nhà mình thành nơi cư trú cho những trẻ em bị bại liệt, hay những thanh thiếu niên bụi đời, lang thang nơi đầu đường xó chợ.
Có những người như Đức Cha Casaldaliga, đã lập tòa giám mục của mình trên một chiếc thuyền độc mộc để ngày ngày, tay chèo tay chống, đi đấu tranh với các công ti tư bản cũng như với quân độ Brasil, vì quyền lợi của đám dân da đỏ mà Chúa đã trao ban như là những con chiên của Ngài.
Gần chúng ta và bên cạnh chúng ta, cũng không thiếu gì những mẫu gương sống động như thế.
Họ là những nữ tu trong bệnh viện. Họ là những thày cô công giáo trong các trường học. Họ là những công nhân có đạo trong các xưởng thợ. Họ là những y tá, những bác sĩ kitô hữu đã dành thời giờ mình được quyền nghỉ ngơi cho những người phong cùi, cũng như cho những bệnh nhân ở những vùng xa xôi hẻo lánh, thiếu thốn những tiện nghi vật chất.
Họ không phải chỉ làm những công việc này vì lòng đạo đức và tình bác ái, mà hơn thế nữa, vì họ đã nhận ra nơi những kẻ nghèo túng va bất hạnh mà họ đang phục vụ khuôn mặt đích thực của Đức Kitô.
Đúng như lời Đức Giám mục Bossuet đã nói:
- Người nghèo ở đâu thì Nước Trời ở đó. Người nghèo chính là một bí tích, một dấu chỉ của Đức Kitô.
Thế nhưng, liệu chúng ta có dám lên đường tìm gặp Chúa nơi những người anh em bất hạnh và khổ đau hay không?
170.Giờ được sinh ra
Trong khi chúng ta tiến vào năm mới, thật là an ủi khi biết rằng các tinh tú sao trời đang chiếu cố chúng ta. Đây là thời của Chòm Sao Bảo Bình (Aquarius).
Khi ánh trăng mọc trên nóc nhà thứ bảy
Và khi Mộc Tinh thẳng hàng với Hỏa Tinh
Thì an bình sẽ dẫn dắt các hành tinh
Và tình yêu sẽ xâm nhập các tinh tú
Đấy chính là những gì các nhà thiên văn đang nói cho chúng ta, và nó không có khó khăn nhấn mạnh về sự kiện rằng khoảng chừng 50 triệu người Bắc Mỹ tham khảo "Tử Vi" trên những tờ nhật báo, và rằng những sách về thiên văn được tiêu thụ hàng trăm ngàn cuốn mỗi năm. Giữa các người trẻ, thiên văn chính là môn thích thú của họ -- bất hạnh thay, trong nhiều trường hợp, nó là loại thay thế cho tôn giáo mà họ đang chối bỏ. Với nhiều hình thức dự đoán, thiên văn có thể thật là phiền hà bởi vì nó thường hay mập mờ và rất khó chú giải. Một người nói với một người bạn của anh rằng một nhà thiên văn đã nói với anh, "Người chồng thứ hai của vợ anh thật là giàu có, thông thái và đẹp trai." Và người bạn hỏi, "Anh chẳng tức tối khi nghe thấy lời dự đoán đấy sao?" "Đúng, nó làm tôi thật tức giận," người đàn ông trả lời. "Tôi không biết vợ tôi đã xuất giá trước kia hay không." Dĩ nhiên, đối với một số người những dấu chỉ tinh tú có thể mang ý nghĩa những gì mà họ muốn chúng mang ý nghĩa. Thế nhưng cũng thật là hứng thú khi để ý rằng người ta chú giải những dấu chỉ tinh tú để mang ý nghĩa mà chúng ta đang tiến đến một kỷ nguyên mới của tình huynh đệ, an bình và yêu thương. Đây phải là điểm quan trọng nhất với chúng ta những người Kitô hữu bởi vì nguồn đáng tin cậy nhất của chúng ta về tin tức liên quan đến vận số của thế giới -- Tân Ước -- cũng nói cùng một sự thể. Và, thật là không ngờ, nó khởi đầu kể cho chúng ta câu chuyện hạ sinh của một hài nhi.
Việc hạ sinh một hài nhi luôn luôn là một biến cố vô cùng đặc biệt. Tất cả chúng ta ai cũng có những hồi ước đặc biệt trong tâm khảm của chúng ta về sự diệu kỳ của việc hạ sinh hài nhi. Tuy nhiên, cái mà làm cho chúng ta thật sự bỡ ngỡ chính là sự kiện cuộc hạ sinh lần đầu vẫn chưa đủ. Sứ điệp của Tân Ước chính là sự trọn vẹn hòa hảo của chúng ta lệ thuộc và cuộc hạ sinh khác, cuộc hạ sinh thứ hai. Chúng ta phải trở nên giống như con trẻ bé nhỏ một lần nữa. Khác với lần hạ sinh lần thứ nhất, cuộc hạ sinh lần thứ hai là tự nguyện. Sự chọn lựa thuộc về chúng ta: noi theo giáo huấn của Chúa Giêsu để trở nên những con trẻ bé nhỏ hay là chối bỏ nó.
Phúc Âm Thánh Gioan, ông Nicôđêmô người Pharisiêu đến với Chúa Giêsu và hỏi, "Làm sao một người lại sinh ra lần nữa khi họ đã già rồi? Người ấy phải nhập vào lòng mẹ và tái sinh ư?" (Jn 3:4). Giống như Nicôđêmô, chúng ta muốn biết thực sự điều ấy có nghĩa gì. Chúng ta không thông suốt. Chúng ta cố tìm một phương thế có thể để thoát ly khỏi nó. Một số chúng ta bắt chước Nicôđêmô cố khởi đầu bằng những lý lẽ thần học với Chúa Giêsu về vấn đề này. Trong trường hợp nào, việc "tái sinh" theo nghĩa Thánh Kinh mang ý nghĩa gì?
Chữ Hy Lạp mà chúng ta chuyển dịch thành "tái sinh" hay "sinh ra" thật sự mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Thế nhưng khi chúng ta ghép chúng lại hầu cố đưa ra một ý nghĩa đơn giản và rõ ràng nhất, điều mà nó truyền đạt cho chúng ta chính là sự biến đổi tận gốc thì cần thiết trong đời sống các bạn cũng như của chính tôi: một sự thay đổi hoàn toàn, một khởi đầu mới.
Thiên Chúa yêu thương chúng ta quá sức khi Ngài kêu mời chúng ta vào trong sự sống, vào trong lòng tốt lành vĩ đại của Ngài. Ngài ban cho chúng ta hai lần sinh ra: Lần sinh ra thứ nhất là mang chúng ta vào trong thế gian này và rồi lần sinh ra thứ hai là mang chúng ta vào trong sự sống.
"Chúng tôi đã thấy ngôi sao Ngài mọc tại Phương Đông và đã đến để triều bái Ngài." Trong ngày Chúa Nhật đầu tiên của Năm Mới, nếu chúng ta khám phá ra sự hiện diện của Thiên Chúa thẳm sâu trong chính trung tâm nội tại của ta thì chúng ta sẽ không bỏ lỡ ngôi sao của Chúa Giêsu mọc tại Phương Đông, và chúng ta sẽ biết phải triều bái Ngài như thế nào. Giống như các nhà chiêm tinh thời xưa, chúng ta sẽ là những Người Mang Lễ Vật tới Thiên Chúa tại trung tâm điểm của đời sống chúng ta; chúng ta sẽ triều bái Con Trẻ mới sinh qua những lễ vật của lòng trắc ẩn, kiên nhẫn và quan tâm đến tha nhân. Lễ vật vĩ đại nhất của chúng ta cho thế giới trong Năm Mới này chính là món quà của bản thân. Đây chính là lễ triều bái chúng ta dâng lên Ngài: yêu thương tha nhân như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta.
171.Bền tâm tìm Chúa
Mt 1, 18 - 24: Thiên Chúa là Đấng trung tín, Người đang thực hiện lời đã hứa....
Anh chị em thân mến,
Đọc qua bài Phúc âm ngày lễ hôm nay, có một văn sĩ cảm hứng, nên đã thêu dệt câu chuyện về việc sinh ra của Đấng Cứu thế như sau: tôi xin nói lại, câu chuyện sau đây chỉ là sự thêu dệt và là ý tưởng của văn sĩ nọ thôi... Câu chuyện kể: Chúa Hài Nhi sinh ra trong máng cỏ bò lừa, rất hôi tanh và lạnh giá vì không có lò sưởi. Chúa Nhi biết rõ như thế, nhất là biết cha mẹ của mình đã quá vất vả mới có được chỗ ở này, vì họ nghèo quá! Chúa Nhi thông cảm cho họ lắm. Các mục đồng lại đến viếng thăm làm cho cha mẹ và cả Chúa Nhi rất vui... Mấy hôm sau lại có ba đạo sĩ đến thăm, dâng lên Chúa Nhi, vàng, nhũ hương và mộc dược. Chúa Nhi hiểu rõ lòng của họ, nên đã mĩm cười với họ khi họ tiến dâng lễ vật. Sau đó họ lui xuống để bò lừa dâng lên hơi ấm; trong lúc đó ba đạo sĩ nói nhỏ với nhau, nhưng Chúa Nhi nghe rõ lời họ nói: vua Hêrôđê dặn họ khi tìm thấy Vua mới sinh, phải trở về cho ông hay để ông cũng đến triều bái người. Chúa Nhi nhìn thấu ruột gan của Hêrôđê, biết ông đang tìm cách giết mình. Hơi tức giận, Chúa Nhi dùng quyền năng mình, biến nên một tấm lưới vô hình trong suốt, bao bọc xung máng cỏ nhà đang ở, để người ngoài nhìn vào không thấy gì, cũng không thấy ai....Sau khi ba nhà đạo sĩ đi rồi, Chúa Nhi dùng quyền năng của mình, làm cho nơi mình đang ở bay đi sang qua Ai cập; dù bay, nhưng mọi người vẫn thấy căn nhà như đứng yên tại chổ...Chỉ trong nháy mắt, đã tới bên Ai Cập...
a/. Câu chuyện trên đây chỉ là tưởng tượng, không có thật, và cũng đi ngược lại ý nghĩa mầu nhiệm giáng sinh. Thực ra văn sĩ không đồng ý với Chúa Hài Nhi, vì đã để cho vua Hêrôđê rượt đuổi, tìm giết mình. Nhưng điều này lại là cốt lỏi của mầu nhiệm giáng sinh, của bài học của khiêm hạ tột cùng của Đấng cứu thế. Vì yêu thương nhân loại, Chúa Nhi sẵn sàng sinh ra trong cảnh nghèo nàn, vất vả, bị rượt đuổi như thế vì vâng lời Chúa Cha, nhất là để làm trọn chương trình cứu rỗi... Đó là phần Chúa Hài Nhi. Bên dưới đây chúng ta hãy bàn về các nhà đạo sĩ đông phương:
b/. Các đạo sĩ đông phương:
Họ phấn đấu đi tìm chân lý và sự khôn ngoan: Các ông đã nhiều năm nghiên cứu, tìm kiếm ánh sao lạ xuất hiện trên bầu trời, từ đó tìm ra ý nghĩa của biến cố. Thái độ của họ là cởi mở, sẵn sàng đi tìm chân lý, nên khi thấy ngôi sao lạ, các ông đã cảm nhận ra đó là dấu lạ từ Thiên Chúa.
Họ đã lên đường tìm kiếm Chúa Hài nhi, trong đức tin: với niềm xác tín riêng tư, họ bạo dạng lên đường tìm Chúa. Chính đức tin đã thúc đẩy họ lên đường; họ tự mình dấn thân vào cuộc hành trình vất vả tìm kiếm và mong gặp chân lý. Có khi thiên hạ cho là điên khùng, nhưng họ bất chấp; họ bỏ ngoài tai...
Họ đã hỏi thăm sự giúp đở của dân chúng: trên đường đi, có khi ánh sao biến mất, họ vẫn phải nhờ sự giúp đỡ của mọi người xung quanh... nhất là những người khôn ngoan như hỏi các kinh sư trong bài Phúc âm hôm nay...
Họ chấp nhận điều Thiên Chúa dẫn họ tới, và tin vào đó: Họ đi tìm vị vua, vất vả biết bao nhiêu, vậy mà khi bước vào nhà, họ chỉ thấy một Hài nhi nhỏ bé với ông thợ mộc và Mẹ Nguời trong cảnh nghèo nàn. Chẳng có gì quý giá, chẳng có gì là dòng dỏi vua chúa cả! Làm sao tin? Thế mà các đạo sĩ đã tin; họ tin vào sự hướng dẫn của Thiên Chúa qua những dấu hiệu rất tầm thường.
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: đời sống của mỗi người kitô hữu cũng là một cuộc hành trình tìm kiếm Thiên Chúa, dù không vất vả như ba đạo sĩ, nhưng phần ta, ta có bền tâm đi tìm Chúa như họ không? Ta có để đức tin hướng dẫn ta trong hành trình tìm Chúa không?
172.Muốn gặp Chúa.
Hôm nay Giáo hội mừng kính việc Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại (Mt 2, 1-12). Ngay từ giây phút đầu tiên hạ sinh tin vui Thiên Chúa hạ sinh đã được loan báo cho các mục đồng và họ đã đến chiêm bái Người. Hôm nay thì đến lượt ba nhà đạo sĩ từ phương đông xa xôi đến kính thờ. Dấu chỉ ánh sao mà ba nhà đạo sĩ dõi theo để tìm ra Ấu Chúa có khó tìm lắm không? Nếu không thì tại sao lại chỉ có ba đạo sĩ nơi xa xôi này?
Tin Mừng theo Thánh Mathêu ghi lại việc ba đạo sĩ nhìn thấy ánh sao của vua Do Thái xuất hiện bên phương Đông và các ông đã theo ánh sao đất Do Thái, đến hoàng cung để hỏi về dấu chỉ ánh sao. Nghe tin ấy vua Hêrôđê và dân Giêrusalem đều xôn xao và họ cũng tìm ra được lời giải đáp là ở Bêlem. Nhưng không vì thế mà họ đi tìm Chúa. Chỉ có ba đạo sĩ ra đi và họ đã được toại nguyện là nhận ra Ấu Chúa (x Mt 2, 1-12). Qua đoạn Tin Mừng này cho tôi hai suy nghĩ về việc muốn gặp được Chúa.
Muốn gặp được Chúa phải có tâm hồn đơn sơ, khiêm tốn. Chúa Giêsu Ngôi Hai Thiên Chúa làm người không chọn cho mình nơi hoàng cung, lầu các....mà chọn cho mình một người Mẹ là một thôn nữ bình thường ở làng Nagiareth, chọn cho mình một người cha cũng bình thường, chọn cho mình sống trong một gia đình bình thường.... tới lúc hạ sinh Người không tỏ lộ mình ra cho những bậc vua chúa, quan quyền nhưng Người chọn các mục đồng để tỏ lộ Người đã giáng sinh, và hôm nay là các đạo sĩ. Tại sao Chúa lại chọn thế? Theo tôi vì các mục đồng là những người đơn sơ khi nghe Thiên Thần loan tin thì đã mau mắn đến bái thờ, các đạo sĩ khi thấy ánh sao lạ thì đã dõi theo ánh sao mà đến chiêm bái Hài Nhi. Đời sống người Kitô hữu chúng ta tuy mang danh là Kitô hữu nhưng có nhiều lúc ta lạc mất Chúa do những ham muốn, những tự phụ, những tính toán, những cách đặt vấn đề của chúng ta. Chúa thì luôn hiện diện nhưng những thứ đó đã làm mờ hình ảnh Thiên Chúa khiến ta khó nhận ra. Chúa Giêsu đã từng nói "ai không nên như trẻ nhỏ thì chẳng được vào Nước Trời". Thế nên muốn được gặp Chúa trước hết phải có tâm hồn đơn sơ khiêm tốn. Có thấy mình thiếu thốn, có thấy mình cần Chúa thì Chúa mới có thể lấp đầy.
Muốn gặp Chúa phải kiên nhẫn đi tìm. Các đạo sĩ đã rất gian nan để tìm đến nước Do Thái, có những lúc lạc mất ánh sao nhưng không vì thế mà họ nản lòng. Họ dùng đủ mọi cách để tìm cho được Hài Nhi. Và Chúa đã không phụ lòng họ. Có lẽ ánh sao không chỉ là dấu chỉ cho ba nhà đạo sĩ mà thôi nhưng chỉ có ba đạo sĩ tìm ra Chúa. Bằng chứng là vua Hêrôđê và cả thành Giêrusalem xôn xao nhưng không ai đi tìm như ba đạo sĩ. Chúa Giêsu nói:"Ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ thì sẽ mở cho". Ơn gọi của chúng ta là ơn gọi nên thánh, nên thánh là được ở bên Chúa, nên giống Chúa. Theo Chúa không phải một ngày một lúc nhưng đòi hỏi ta luôn nép mình luôn trong tình thương Chúa cho dù có lúc ta như lạc lối nhưng với sự kiên trì chắc chắn ta sẽ gặp được Ngài như ba đạo sĩ.
Hôm nay Chúa tỏ mình ra cho ba đạo sĩ phương Đông, cho lương dân cho thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa không là độc quyền của dân tộc hay quốc gia nào nhưng là phổ quát cho mọi dân tộc, mọi người. Vì thế, ta có nhiệm vụ là làm sáng lên trong ta ơn cứu độ của Thiên Chúa cho anh chị em chưa nhận biết Chúa (Ba đạo sĩ dù được ánh sao chỉ đường nhưng phải nhờ đến dân Do Thái và Thánh Kinh mới tìm ra được Vì Cứu Tinh). Các đạo sĩ đã dâng vàng, nhũ hương và mộc dược cho Chúa Hài Đồng tượng trưng cho Vương Quyền, Thiên Tính và Khổ Nạn của Chúa Giêsu, nay chúng ta đến với Chúa ta có gì dâng Chúa, Chúa muốn đón nhận tất cả những ai đến với Chúa với tâm lòng thành thật khiêm tốn, cho dù có những vết thâm tím của những lần lưu lạc nhưng tin chắc rằng Chúa sẽ đón nhận, chữa lành và thêm sức cho ta vững bước về cùng Chúa.
173.Dâng tấm lòng con
Ngày nào đó bước lên chuyến xe khách thử hỏi hai người cùng đi tơí một địa điểm chắc chắn ta sẽ nghe được hai mục đích khác nhau. Cũng vậy, Lời Chúa trong Chúa nhật hôm nay sẽ cho thấy hai thái độ khác nhau của việc tìm kiếm Chúa Giêsu Hài Đồng.
Với các Hiền sĩ từ phương Đông, họ đi tìm trong thái độ thật lòng và khiêm tốn. Họ đã lặn lội từ phương xa theo ánh sao lạ dẫn đường. Vàng, nhũ hương và mộc dược là những lễ vật họ mang theo để dâng tiến Chúa Hài đồng. Vàng là thứ dành riêng cho vua. Nhũ hương chỉ đặc biệt một mình vị thượng tế sử dụng. Còn mộc dược là thứ để dành cho việc ướp xác. Những lễ vật này chứng tỏ các vị ấy phần nào đã công nhận thân thế và sự nghiệp thật của Hài nhi Giêsu. Hài nhi Giêsu chính là vị Vua Messia mà muôn dân đang trông đợi. Cũng chính Người sau này sẽ dùng cái chết của mình làm hy tế dâng lên Chúa Cha đền thay tội lỗi muôn dân.
Ngược với các Hiền sĩ là thái độ tò mò và ghen ghét của vua Hêrôđê. Vì sợ mất quyền ảnh hưởng nên vừa nghe các Hiền sĩ hỏi thăm, ông hết sức bối rối đến nỗi làm cho cả thành Giêrusalem xôn xao. Câu nói: "Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người" thật sự chỉ là ác ý. Trong tâm trí ông luôn bị ám ảnh đến sự mất ngôi. Vì thế, ông sẵn sàng làm mọi cách để tiêu diệt những ai có ảnh hưởng đến vị thế ấy. Bằng chứng rỏ ràng, sau đó ông đã ra lệnh giết tất cả trẻ em Do thái từ hai tuổi trở xuống ở Bêlem và các vùng lân cận. (Mt 2, 16)
Thật vậy, ông bà ta thường nói: "Dò sông dò biển dể dò. Nào ai lấy thước mà đo lòng người." Cùng một biến cố Hài nhi Giêsu nhưng trước mắt ta đã thấy hai thái độ hoàn toàn trái ngược nhau. Từ đó đã đưa đến hai kết quả cũng khác nhau. Các Hiền sĩ đã được ngôi sao dẫn đường đi đến chiêm ngắm Hài nhi Giêsu. Còn Vua Hêrôđê không được ai chỉ đường đến Bêlem thì làm sao chiêm ngắm.
Biến cố Ngôi Hai nhập thể là sự thật. Đây cũng chính là một trong ba mầu nhiệm chính trong đạo Công giáo. Chỉ những ai biết để cho mình bé mọn trước Chúa thì sẽ được biết nhữnng điều cao cả (Mt 11, 25). Chỉ cần ta hết lòng dâng cho Người thì sẽ được Người ban thêm cho (Mt 25, 29). Hãy tha thiết nài xin Hài nhi Giêsu cho ta biết khao khát và thật lòng đi tìm chân lý trong cuộc sống.
174.Lễ Hiển Linh--Thiên Chúa tỏ mình cho nhân loại
"Các đạo sĩ bước vào nhà, thấy Hài nhi và thân mẫu là Bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người, rồi mở tráp lấy vàng nhử hương và mộc dược mà dâng lên..." (Mt 2, 11)
Câu chuyện Phúc âm của ngày lễ Hiển linh hôm nay thật lạ lùng, lạ lùng không phải vì chỉ có thánh Matthêu ghi lại, nhưng chính là vì nội dung của câu chuyện này. Ba nhà chiêm tinh từ đâu xa lắc bên xứ Á rập, Ba Tư, nơi người ta rất quan tâm về khoa chiêm tinh, đã nhận thấy sao lạ hiện ra; họ đã bỏ mọi sự để đi tìm vị vua của ánh sao lạ đó. Cuối cùng họ đã tìm gặp và họ đã thờ lạy, bỏ công bao lâu nay đi tìm kiếm... Câu chuyện lạ lùng y như câu chuyện thần tiên; vậy mà chính Kinh thánh ghi lại cho chúng ta cách chi tiết như vậy. Kính mời anh chị em cùng suy niệm.
a. Truyền thuyết cho ta biết ba nhà đạo sĩ có tên gọi là: Gaspar, Balthasar và Melchior. Nhờ ánh sao dẫn đường, ba đạo sĩ đã gặp Chúa và đã quỳ xuống thờ lạy Người. Sự việc này được coi như cuộc Hiển linh (tỏ mình ra) cho bất luận là ai, không phải chỉ một mình dân tộc Do thái.
Khi ba đạo sĩ vừa đến Giêrusalem, ngôi sao dẫn đường biến mất; họ đành phải đi hỏi thăm các thày thư ký, các thông luật, các thượng tế và cả Hêrôđê nữa. Lúc đó Phúc âm ghi, cả thành đều xôn xao. Vua Hêrôđê bối rối. Thái độ bối rối của ông vua này không phải vì không biết Vua dân do thái sinh ra ở đâu, nhưng đó chỉ là vì sợ chiếc ngai vàng của ông bị lung lay khi hay tin Vua dân do thái chào đời.... Khi các đạo sĩ được cho biết rồi, họ ra đi và đã gặp Vua mới sinh. Họ đã sụp lạy và dâng lên Người: vàng - nhủ hương và mộc dược... Ba món lễ vật này, chính là để tỏ lòng tôn kính. Vàng chỉ vương quyền của đức Kitô; nhủ hương chỉ thiên tính; mộc dược chỉ cuộc tử nạn sau này.
b. Câu chuyện Tin Mừng hôm nay cho ta hai ý suy niệm:
* Hình ảnh cuộc hành trình đi tìm Chúa Hài nhi của ba nhà đạo sĩ, cũng chính là hành trình cuộc đời mỗi người chúng ta, hôm nay. Thật vậy, việc tìm kiếm hạnh phúc, tìm kiếm Thiên Chúa của con người ở mọi thời đại đều giống nhau. Khi xưa, ba nhà đạo sĩ đã không ngại bỏ nhà cữa, gia đình, nệm ấm chăn êm, lao đao vất vả, để đi đến chân trời vô định mà tìm kiếm Vua mới sinh. Công việc xem ra không chút hi vọng gì! Vậy mà cuối cùng họ đạt được ý nguyện. Hành trình đức tin chúng ta cũng tương tợ như thế. Trên đường đi, gặp khó khăn cản trở, đó là điều tất nhiên. Ba nhà đạo sĩ đầy quả cãm, kiên trung; chính vì thế họ đạt được thành công trọn vẹn, là gặp Đấng Cứu thế. Cuộc hành trình đức tin, cũng dài và cũng không êm ả như vậy. Vì thế nó đòi hỏi ta phải can đãm, kiên trì sống theo Lời Chúa, hiệp nhất với Ngài ngay trong cuộc sống ở đời này. Có như vậy mới đạt tới đích là gặp gở Đấng Cứu thế như ba nhà đạo sĩ.....
* danh từ: Hiển linh có nghĩa: Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại, đại diện chính là ba nhà đạo sĩ. Lẻ ra người được Thiên Chúa tỏ mình ra trước tiên phải là dân tộc Do Thái, vì từ Cựu Ước, họ đã lãnh nhận lời hứa trở thành dân thánh của Chúa, và Thiên Chúa đã hứa ban Đấng Cứu Tinh sinh ra từ dân tộc này. Điều này muốn nói lên: ơn cứu rổi là dành cho tất cả mọi người, không riêng dân tộc Do thái. Chính vì thế, Con Thiên Chúa giáng sinh hôm nay, là cho mọi người, không phân biệt ai cả. Tại sao các kinh sư, thượng tế lại không được đón nhận hồng ân này...
c/. Gợi ý suy niệm:
* Lễ Hiển Linh chính là để nói lên Thiên Chúa yêu thương hết mọi người, không phải chỉ dân tộc Do thái. Mừng lễ Hiển linh, ta có suy nghỉ nào đây? Ta có muốn TC tỏ mình ra cho chính ta không?
* Các nhà chiêm tinh đã lặn lội vất vã ngày đêm, để tìm đến và thờ lạy Chúa Hài nhi. Khi nhận ra dấu chỉ Chúa mạc khải, họ sẵn sàng bỏ tất cả, gia đình, vợ con, quê hương để đi tìm Vua mới sinh. Còn ta thì sao? Ta có sẵn lòng bỏ tất cả để theo Vua Giêsu không?
175.Lễ vật
Các nhà bác học đã dâng tiến cho Chúa Hài Nhi vàng, nhũ hương và mộc dược. Vàng để chỉ Hài Nhi Giêsu là vua, nhũ hương để chỉ Hài Nhi Giêsu là Chúa và mộc dược để chỉ đến cái chết đau khổ của Hài Nhi Giêsu sau này… Thế nhưng những lễ vật này có ý nghĩa gì đối với chúng ta.
Trước hết là vàng. Vàng nói lên lòng yêu mến của chúng ta, một lòng yêu mến tinh ròng, cao cả và mãnh liệt như lời Ngài đã xác định:
- Hãy kính mến Thiên Chúa hết tâm hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi.
Đồng thời thánh Phaolô còn nhấn mạnh:
- Ai có thể phân rẽ tôi ra khỏi lòng yêu mến đối với Đức Kitô, dù bắt bớ, dù tù đày, dù đòn vọt, dù đói khát cũng không thể nào được.
Vàng còn làm lên sự trung kiên của chúng ta, không vì một lý do, một hoàn cảnh nào mà bị chao đảo, mà bị lung lay để rồi đi đến chỗ phản bội. Hãy trung thành với Chúa cho đến chết, vì không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Sau hết, vàng còn nói nói lên sự chân thật của chúng ta. Thực vậy, chúng ta có thể lừa dối kẽ khác chứ chẳng thể nào lừa dối được Thiên Chúa. Con người thời nay thường thích hóa trang, thường thích đeo mặt nạ. Nhưng người Kitô hữu phải luôn biểu lộ con người và bộ mặt thật của mình. Phải là một thứ vàng ròng chứ không phải là một thứ vàng dổm.
Tiếp đến là nhũ hương. Nhũ hương nói lên tâm tình thờ lạy của chúng ta đối với Đức Kitô. Thực vậy, trong những nghi thức phụng vụ, nhũ hương thường được dùng khi đọc Phúc âm, khi dâng Mình Thánh, khi chầu Thánh Thể.
Qua hình ảnh nhũ hương chúng ta tìm thấy một niềm tin tưởng mãnh liệt vào bản tính Thiên Chúa của Đức Kitô. Đây không phải là một niềm tin tưởng có tính cách giáo điều hay lý thuyết mà là một niềm tin tưởng sống động và mãnh liệt, vì Đức Kitô là Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta và trở nên lương thực nuôi sống linh hồn chúng ta qua Bí tích Thánh Thể, cũng như đang giảng dạy chúng ta qua lời Ngài trong Phúc âm.
Nhũ hương còn là tượng trưng cho tâm tình kinh nguyện, như thánh vịnh đã viết:
- Lạy Chúa, xin cho lời con nguyện cầu tựa hương thơm bay lên tôn nhan Chúa.
Sự cầu nguyện là một việc làm riêng tư, một sự kết hợp giữa tâm hồn chúng ta với Thiên Chúa, nó xuất phát tự cõi lòng, tự con tim chúng ta. Đồng thời sự cầu nguyện còn mang tính cách cộng đồng vì lời nguyện đẹp lòng Chúa hơn cả là lời nguyện của Giáo Hội và với Giáo Hội, vì qua lời nguyện của Giáo Hội chúng ta tìm thấy lời nguyện của Đức Kitô, là đầu của nhiệm thể.
Sau cùng là mộc dược. Mộc dược là niềm tin tưởng vào Đức Kitô bị đóng đinh, mà bây giờ được tái diễn qua lễ dâng trên bàn thờ:
- Mỗi khi anh em ăn bánh này, anh em loan truyền việc Chúa chịu chết cho tới khi Ngài trở lại.
Chính vì thế, thánh Phaolô khuyên nhủ chúng ta:
- Anh em hãy mang lấy dấu tích của Đức Kitô nơi thân xác anh em.
Vì thế, mộc dược có ý nói tới việc hy sinh hãm mình, như lời Chúa đã phán:
- Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.
Tiếp đến, mộc dược còn nói lên những hy sinh trong cuộc sống. Hãy chấp nhận những khổ đau vì lòng yêu mến Chúa và hãy dâng tiến Chúa như một lễ vật nhỏ mọn, bấy giờ những đau khổ của chúng ta sẽ trở nên là một góp phần vào những đau khổ của Đức Kitô, là những giọt máu tử đạo chúng ta có thể đổ ra từng giây từng phút để làm chứng cho Chúa.
Mỗi người chúng ta hãy suy nghĩ và tự hỏi: Chúng ta đã dâng gì để làm lễ vật cho Chúa Hài Nhi hay chưa?
176.Tìm kiếm Chúa
Các nhà chiêm tinh từ phương Đông phát hiện ngôi sao lạ và các ông nhận ra là có một vị Vua mới sinh ra nên các ông vội vả mang lễ vật lên đường tìm kiếm để thờ lạy vị Vua mới sinh ấy. Hành trình của các nhà chiêm tinh thật vất vả, các ông phải lặn lội đường xa theo dấu ngôi sao lạ mà đi. Đến Giêrusalem thì ngôi sao lạ biến mất, các ông phải tìm hỏi khắp nơi làm xáo trộn cả thành Giêrusalem, làm cho Vua Hêrôđê vô cùng bối rối: "Nhà Vua liền triệu tập tất cả các Thượng tế và Kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu". Họ trả lời: "Tại Bêlem, miền Giuđa, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: Phần ngươi, hỡi Belem, miền Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-el dân Ta sẽ ra đời". Các nhà chiêm tinh lại tiếp tục lên đường theo hướng Bêlem, miền Giuđa. Đến nơi, "họ vào nhà, thấy Hài Nhi với Mẹ Người là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến".
Trong sách Giáo Lý Công giáo số 27 và 35 dạy: "Tận đáy lòng, con người khao khát tìm kiếm Thiên Chúa vì con người được tạo dựng do Thiên Chúa,... vànhờ những năng lực của mình, con người có thể nhận biết sự hiện hữu của một Thiên Chúa...và chỉ nơi Thiên Chúa, con người mới tìm gặp chân lý và hạnh phúc...". Và trong Thánh Phaolô, trong thư gửi tín hữu Rôma dạy "Những gì người ta có thể biết về Thiên Chúa thì thật là hiển nhiên trước mắt họ...". Các nhà chiêm tinh nhờ vào sự hiểu biết của mình mà nhận ra Vị Vua mới sinh và mau mắn lên đường tìm gặp Ngài. Các nhà chiêm tinh đã dùng khả năng Chúa ban để đi tìm kiếm Ngài. Ngược lại, các Thượng tế và Kinh sư nhờ đọc sách Thánh mà biết được vị Vua sẽ sinh ra tại làng Bêlem nhưng không tìm kiếm Ngài, những điều các Thượng tế và Kinh sư biết được trong sách Thánh chẳng đem lại ích lợi gì cho các ông, vì các ông không tìm Chúa.
Thật trớ trêu thay, các nhà chiêm tinh không hiểu biết kinh thánh nhưng nhờ vào sự hiểu biết thiên văn mà nhận ra vị Vua xuất hiện, rồi đến với Ngài. Còn các Thượng tế và Kinh sư thì không. Đúng là "kẻ trước hết sẽ nên sau hết, kẻ sau hết sẽ trở nên trước hết".
Mỗi Kitô hữu chúng ta hãy xét mình lại, dù chúng ta đã đã được rửa tội, dù chúng ta đã lãnh nhận các Bí tích, nhưng chúng ta có chân thành tìm kiếm Chúa mỗi ngày trong cuộc sống không? Chúng ta có có dùng khả năng Chúa ban để tìm Chúa như các nhà chiêm tinh không hay chúng ta lại an tâm vì mình đã được rửa tội, đã được nghe Lời Chúa và lãnh các bí tích rồi không cần tìm kiếm Chúa nữa như thế chúng ta giống các Thượng tế và Kinh sư xưa.
Các nhà chiêm tinh đã không quản ngại đường xa vất vả, không ngại tốn thời gian, không ngại tốn của cải, gặp khó khăn trở ngại họ không hề chùng bước thối lui, họ cố gắng vượt qua tất cả để gặp được Chúa hài nhi.
Chúng ta có được thái độ như thế không? Đường xá xa xôi có làm chúng ta ngại đến nhà thờ tham dự thánh lễ không? thời gian đọc kinh, cầu nguyện, dự lễ có làm cho chúng ta ngán ngại không? Những khó khăn, buồn phiền, thất mùa, thiên tai có làm cho chúng ta chậm bước chân đến với Chúa không? Một chút thử thách đó có làm cho chúng ta "thay lòng đổi dạ" với Chúa không? Chúng ta có tin vào quy luật "sau cơn mưa trời lại sáng" để luôn vững niềm tin vào Chúa không?
Lạy Chúa, xin cho con luôn biết hết lòng tìm Chúa trong mọi sự như lời Chúa dạy: "tiên vàn hãy tìm những sự trên trời còn mọi việc khác Chúa sẽ ban cho".
177.Chúa Nhật Lễ Hiển Linh
Trước đây chúng ta gọi ngày lễ Hiển Linh hôm nay là lễ Ba Vua, đây là cách gọi quen thuộc đối với giáo dân Việt Nam, để nói về việc các nhà chiêm tinh phương Đông tìm đến Bêlem viếng Chúa Hài Đồng. Gọi là vua vì họ mặc phẩm phục như các vị đế vương, và xác định là ba người, vì có ba sắc dân được nói đến trong sách ngôn sứ Isaia, mà cũng vì lễ vật tiến dâng có ba thứ rõ ràng là vàng, nhũ hương và mộc dược như Tin Mừng thuật lại. Cứ thế, theo truyền thống, Ba Vua trở nên tên gọi cho ngày lễ.
Nhưng điều quan trọng không phải là xác định họ là vua hay không phải là vua, họ có ba vị hay bao nhiêu vị, mà chính là hãy nhìn họ như hình ảnh sống động của tất cả những ai trong đời đã có một lòng khao khát chân thành tìm kiếm Thiên Chúa khởi đi từ những thiện hảo tốt lành, nghĩa là họ là dân ngoại từ xa, không biết Kinh Thánh, nhưng lại chân thành và sẵn sàng vượt qua những chặng đường gian khổ để tìm gặp Chúa, trong khi đó dân Do Thái ở gần, hiểu biết Kinh Thánh, lại không mảy may kiếm tìm.
Mặc dầu tên gọi Ba Vua vẫn giữ nguyên giá trị cổ kính, nhưng ngày nay Phụng Vụ sử dụng tên gọi Hiển Linh để làm nổi bật ý định mầu nhiệm chung nhất của Thiên Chúa trong Mùa Giáng Sinh, đó là Ngài muốn tỏ mình ra cho tất cả mọi người, mọi thời, bất luận họ là ai và ở đâu, miễn là họ biết chân thành kiếm tìm Ngài. Vì thế, đây không chỉ là một biến cố của ngày đã qua mà còn là một sứ điệp của ngày hôm nay và cho những ngày sẽ tới, Chúa vẫn tỏ mình, nhưng vấn đề là người ta có thiện chí đến gặp Ngài không.
Theo truyền thống chúng ta vẫn gọi là lễ Ba Vua. Truyền thống nói rằng họ là những vị vua dựa trên ba của lễ đã dâng tiến cho Chúa Hài Nhi là vàng, nhũ hương và mộc dược. Vàng để chỉ Hài Nhi Giêsu là vua, nhũ hương để chỉ Hài Nhi Giêsu là Chúa và mộâc dược để chỉ đến cái chết đau khổ của Hài Nhi Giêsu sau này... Thế nhưng những lễ vật này có ý nghĩa gì đối với chúng ta.
Trước hết là vàng. Vàng nói lên lòng yêu mến của chúng ta, một lòng yêu mến tinh ròng, cao cả và mãnh liệt như lời Ngài đã xác định: "Hãy kính mến Thiên Chúa hết tâm hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi".
Vàng còn làm lên sự trung kiên của chúng ta, không vì một lý do, một hoàn cảnh nào mà bị chao đảo, mà bị lung lay để rồi đi đến chỗ phản bội. Hãy trung thành với Chúa cho đến chết, vì không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Sau hết, vàng còn nói nói lên sự chân thật của chúng ta. Thực vậy, chúng ta có thể lừa dối kẽ khác chứ chẳng thể nào lừa dối được Thiên Chúa. Con người thời nay thường thích hóa trang, thường thích đeo mặt nạ. Nhưng người Kitô hữu phải luôn biểu lộ con người và bộ mặt thật của mình. Phải là một thứ vàng ròng chứ không phải là một thứ vàng dổm.
Tiếp đến là nhũ hương. Nhũ hương nói lên tâm tình thờ lạy của chúng ta đối với Đức Kitô. Thực vậy, trong những nghi thức phụng vụ, nhũ hương thường được dùng khi đọc Phúc âm, khi dâng Mình Thánh, khi chầu Thánh Thể.
Qua hình ảnh nhũ hương chúng ta tìm thấy một niềm tin tưởng mãnh liệt vào bản tính Thiên Chúa của Đức Kitô. Đây không phải là một niềm tin tưởng có tính cách giáo điều hay lý thuyết mà là một niềm tin tưởng sống động và mãnh liệt, vì Đức Kitô là Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta và trở nên lương thực nuôi sống linh hồn chúng ta qua Bí tích Thánh Thể, cũng như đang giảng dạy chúng ta qua lời Ngài trong Phúc âm.
Nhũ hương còn là tượng trưng cho tâm tình kinh nguyện, như thánh vịnh đã viết: "Lạy Chúa, xin cho lời con nguyện cầu tựa hương thơm bay lên tôn nhan Chúa".
Sự cầu nguyện là một việc làm riêng tư, một sự kết hợp giữa tâm hồn chúng ta với Thiên Chúa, nó xuất phát tự cõi lòng, tự con tim chúng ta. Đồng thời sự cầu nguyện còn mang tính cách cộng đồng vì lời nguyện đẹp lòng Chúa hơn cả là lời nguyện của Giáo Hội và với Giáo Hội, vì qua lời nguyện của Giáo Hội chúng ta tìm thấy lời nguyện của Đức Kitô, là đầu của nhiệm thể.
Sau cùng là môc dược. Mộc dược là niềm tin tưởng vào Đức Kitô bị đóng đinh, mà bây giờ được tái diễn qua lễ dâng trên bàn thờ: " Mỗi khi anh em ăn bánh này, anh em loan truyền việc Chúa chịu chết cho tới khi Ngài trở lại".
Vì thế, mộc dược có ý nói tới việc hy sinh hãm mình, như lời Chúa đã phán: " Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta".
Tiếp đến, mộc dược còn nói lên những hy sinh trong cuộc sống. Hãy chấp nhận những khổ đau vì lòng yêu mến Chúa và hãy dâng tiến Chúa như một lễ vật nhỏ mọn, bấy giờ những đau khổ của chúng ta sẽ trở nên là một góp phần vào những đau khổ của Đức Kitô, là những giọt máu tử đạo chúng ta có thể đổ ra từng giây từng phút để làm chứng cho Chúa.
Mỗi người chúng ta hãy suy nghĩ và tự hỏi: Chúng ta đã dâng gì để làm lễ vật cho Chúa Hài Nhi hay chưa?
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết mở lòng ra để đón nhận Chúa, đón nhận Chúa với lòng yêu mến chân thành và cũng biết dâng tiến Chúa những lễ vật của chúng con nói lên lòng yêu mến Chúa của mình.
178.Ngôi sao
Dựa vào câu chuyện các nhà hiền sĩ bước theo ngôi sao lạ để tìm đến Bé Giêsu, người Việt công giáo chúng ta thường treo lồng đèn ngôi sao mỗi độ Giáng Sinh về. Người công giáo Mỹ thì không làm lồng đèn, nhưng lại đính ngôi sao lên chóp cây Noel, như ánh sáng trên chóp đỉnh cây sự sống. Lồng đèn Việt, hay ngôi sao trên chóp cây thông Mỹ nhắc chúng ta nhớ đến Bé Giêsu là ánh sáng muôn dân: Chư dân sẽ lần bước tìm về ánh sáng của Ngươi. Và các vua hướng về ánh bình minh rạng ngời trên Ngươi.
Là Nhiệm Thể của Đức Kitô, Giáo Hội trở nên ánh sáng của muôn dân. Nhờ phép Rửa, chúng ta đã được tháp nhập vào Nhiệm Thể Đức Kitô, không phải chúng ta sống nữa, nhưng là chính Chúa Giêsu sống trong ta (Gl 2,20). Chúng ta có bổn phận phải trở nên ánh sáng cho con em, học trò, bạn bè của chúng ta. Chúng ta không thể sung sướng, thỏa mãn, an vui ôm lấy ngôi sao, chỉ đính lên chóp cây thông trong nhà mình, chỉ nhà mình hưởng, nhưng phải là lồng đèn chiếu sáng, đem treo ngoài ngõ, cho người khác chung hưởng nguồn vui của ơn cứu sống Thiên Chúa đã ban qua Con của Người: Chính anh chị em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che dấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn lên rồi lấy thùng ụp lại, nhưng đặt trên đế, và nó soi sáng cho mọi người. Cũng vậy, ánh sáng của anh chị em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh chị em làm, mà tôn vinh Cha của anh chị em, Đấng ngự trên trời (Mt 5,14-16). Chúng ta đã trở nên ngôi sao, và chúng ta phải sống cho xứng là ngôi sao lạ dẫn lối cho lương dân đến cùng Bé Giêsu: Con em, học sinh, bạn bè sẽ lần bước tìm về ánh sáng của Chúa Kitô. Và họ sẽ hướng về ánh bình minh rạng ngời trên chúng ta.
Cũng như ngôi sao lạ trong chuyện ba vua, lắm khi ngôi sao của chúng ta cũng biến mất, tịt luôn. Là thân phận con người, ai mà không quên sót, phạm tội, hay ngã lòng. Nhưng Thiên Chúa vẫn hằng tin nhờ con người yêu đuối chúng ta. Chúng ta chỉ cần trông cậy vào ơn thánh, rồi gắng xuất đầu lộ diện trở lại, như ngôi sao lạ đã hiện ra lại cho các nhà hiền sĩ trong Tin Mừng: Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại. Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình bái lạy Người, rồi mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến. Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.
Nếu bạn đã tạm ngưng làm tông đồ, làm giáo lý viên... thì nay xin mời bạn tái xuất giang hồ nhe. Hãy dấn thân trở lại. Hãy là ngôi sao lạ cho người chung quanh. Trông thấy bạn trở lại, họ sẽ mừng rỡ vô cùng. Bạn và tôi, chúng ta được mời gọi làm ngôi sao lạ, không phải để cho con em, học trò, bạn bè chiêm ngắm mình, rồi trầm trồ ca ngợi, nhưng là để dẫn con em, học sinh, bạn bè đến NHÀ HÀI NHI. Và một khi các nhà hiền sĩ đã vào NHÀ BÉ GIÊSU đã gặp Ngài, gặp Mẹ Ma-ri-a và thánh cả Giu-se, thì không còn ai nhắc đến ngôi sao nữa. Đời tông đồ của chúng ta cũng thế: phải quy về Kitô, và chỉ quy về Kitô. Ơn giáo dục của chúng ta chỉ là sứ mạng dẫn trẻ đến cùng Chúa Giêsu. Nếu chúng ta cứ đứng chình ình ra đó, thu hút trẻ đến với mình, thì cũng có thể chúng ta thành công trong một thời gian ngắn. Nhưng chúng ta sẽ như những sao xẹt. Trái lại, nếu chúng ta biết lui vào quên lãng sau khi dẫn trẻ vào Nhà của Chúa Giêsu, thì chúng ta sẽ được Ngài biến thành sao lạ, cho sáng chói giữa muôn vì sao: Những ai giảng dạy đường công chính cho nhiều người sẽ muôn đời sáng chói như tinh sao. Lạy Chúa Giêsu, chỉ có Chúa là cùng đích, chỉ có Chúa là nguồn gốc mọi ơn tông đồ.
179.Tiến dâng lễ vật
Anh chị em thân mến.
Trong khung cảnh của ngày lễ khánh thành nhà thờ, nhiều người cùng tiến bước lên đường, hướng về cùng một nơi, đó là nơi mà ngôi nhà thờ mới được hoàn thành. Những người này đã được báo tin qua những cánh thiệp mời, qua những lời tha thiết. Những người tới đây cùng hoà chung niềm vui của biết bao người, cùng tận hưởng niềm vui chung với sự chuẩn bị thật chu đáo, bằng công sức, của cải vật chất mà họ gọi là lễ vật. Còn những người không có mặt thì sao? Có phải không được biết gì hết không?
Có người không hay biết gì hết về ngày lễ hôm nay, nên họ không thể đến được. Có người biết rất rỏ ngày giờ và lý do của ngày lễ, nhưng họ không được mời trực tiếp, nên họ không thể hoà niềm vui chung. Nhưng cũng có những người biết rỏ và được báo tin, được mời gọi tha thiết, vậy mà giờ này họ cũng không có mặt để hoà cùng niềm vui với mọi người. Sự vắng mặt với đầy đủ lý do, có khi chính đáng, cũng có khi không chính đáng. Có những người cũng lên đường nhưng lại không đến nơi được. Có những người không cảm thấy vui cùng niềm vui với mọi người nên họ cũng không đến.
Những nhà đạo sĩ từ phương xa họ nhận được lời mời, họ vui mừng chuẩn bị hành trang lên đường, họ vui mừng vì lễ vật của họ đã được trao một nơi thật xứng đáng, họ càng vui mừng hơn khi họ đã hoà được niềm vui của mọi người và Thiên Chúa.
Những người Do Thái, những người kinh thành và cả Hêrôđê đã nhận được lời mời trước tiên. Họ lại tính toán hơn thiệt, họ không dám lên đường, vì họ sợ. Trước tiên họ sợ cực khổ cho bản thân; họ không muốn vất vã để đến với người khác, vì họ quen ở yên một chỗ để người khác đến với họ và cung phụng cho họ. Tiếp đến họ sợ mất đi danh vọng mà họ cố công để tìm kiếm được, nên giờ đây họ không muốn từ bỏ nó. Họ cũng sợ mất đi những của cải vật chất mà họ rất trân trọng, vì họ sợ phải tiến dâng lễ vật, họ không muốn từ bỏ. Họ còn sợ mất đi bản thân mình vì họ quá coi trọng bản thân và yêu quý nó. Nên họ tìm cách phá đi sự việc mà họ lo sợ. Nhưng họ đâu biết rằng: những gì là của Thiên Chúa thì con người không thể làm gì được. Chính vì thế họ luôn sống trong lo sợ, họ không thể có được niềm vui.
Niềm vui chỉ đến được với những tâm hồn thư thái, biết từ bỏ và cho đi, còn với những tâm hồn luôn tính toán và so đo thì khó mà tìm được niềm vui.
Trong cuộc sống đời người, chúng ta cũng mãi miết đi tìm, nhưng chúng ta có tìm được gì không? Giờ đây, mỗi người để một ít phút suy tư, nhìn lại quãng đời đã qua.... Chúng ta đã từng được mời gọi đến với Chúa, trở về với Chúa, mời gọi sống trong niềm vui của Ngài. Chúng ta càng biết rất rõ mình phải làm gì và chuẩn bị những gì.
Có nhiều lúc trong cuộc sống, chúng cũng cảm thấy hối hận về những việc mình làm cho người khác, hối hận về những bất công, về sự ích kỷ chỉ biết lo cho mình mà quên đi những lời kêu than của người chung quanh, không nhìn thấy nỗi đau xé lòng mà mình gây nên cho họ. Nhưng nỗi lo sợ lại nỗi lên: sợ mất danh dự, mất uy tín, mất thời giờ, tiền bạc.... nên đến giờ nầy, chúng ta vẫn không tìm được niềm vui trong Chúa. Con người của bao nhiêu năm vẫn không khá hơn mà trái lại, có khi giờ nầy, mình còn nham hiểm độc hại hơn trước. Đó có phải là chúng ta lập lại công việc mà ngày xưa vua Hêrôđê và những người kinh thành Jerusalem đã đối xử với Chúa Giêsu và các nhà đạo sĩ phương xa sao?
Nếu có lần trong cuộc sống, chúng ta biết nới rộng vòng tay yêu thương để ban phát cho những người kêu cầu đến. Đó là lúc chúng ta nhận ra được lời mời gọi và cất bước lên đường với những lễ vật trong tay. Nếu chúng ta nhận thấy được những lỗi lầm thiếu sót của mình mà sẵn sàng sữa đỗi cho tốt hơn, nếu chúng ta biết sống quảng đại, để biết thông cảm và tha thứ thì thật hạnh phúc cho chúng ta, vì khi đó chúng ta tìm găp được Chúa và dâng lên Ngài lễ vật mà chính bản thân đã chuẩn bị bằng cả cuộc đời.
Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta được sáng suốt để biết lắng nghe lời mời gọi và đáp lại cho xứng đáng.
180.Lễ Hiển Linh--Ở phía sau mọi sự: Thiên Chúa
Hầu như tất cả những người lính khi đến Trung Đông để chiến đấu đều cảm nghiệm được vẻ tuyệt mỹ về ban đêm khi nhìn lên bầu trời trong đêm. Chân trời được trải rộng từ đông sang tây, từ bắc xuống nam, và đượm đầy những ngôi sao kim cương lóng lánh mà không bị một chút ảnh hưởng nào của đèn đuốc.
Hôm nay mừng Lễ Hiển Linh hoặc còn gọi là Lễ Chúa tỏ mình cho dân ngoại được đại diện bằng ba nhà chiêm tinh. Có lẽ thời đó, ba nhà chiêm tinh cũng đã nhìn lên bầu trời đen tuyền rực rỡ đầy sao để học hỏi về thiên văn. Tuy họ không biết gì về khoa học thiên văn như chúng ta thời nay một cách rõ rệt, nhưng một điều mà họ đã bắt gặp là sự xuất hiện của một ngôi sao lạ.
Khi chúng ta đọc Sách Sáng Thế Ký, chúng ta thấy Thiên Chúa tạo dựng nên trời đất một cách lạ lùng. Ngón tay của Ngài đã tạo dựng nên bầu trời và sắp đặt trong đó những vì sao lấp lánh xoay vần theo định luật của chúng. Chúng ta có thể suy ra rằng tác giả sách Sáng Thế Ký đã nhìn lên bầu trời và nhận ra cảnh đẹp lộng lẫy của nó, và từ từ suy ra sự hiện diện của Thiên Chúa và uy quyền của Ngài.
Chúng ta ngày nay cũng nhận ra vẻ uy linh đó trong tất cả mọi sự hiện hữu trong vũ trụ này. Chúng ta biết rằng tất cả mọi sự trong vũ trụ đều được Thiên Chúa quan phòng từ sự di chuyển các hành tinh cho đến sự mọc lên một ngọn cỏ nhỏ bé.
Phía sau ổ bánh mì là bột lúa mạch,
Phía sau bột lúa mạch là cái máy xay bột,
Phía sau cái máy xay bột là lúa mạch và mưa gió,
Phía sau nữa là mặt trời... Thiên Chúa
Các nhà chiêm tinh từ Phương Đông đến Giêrusalem và hỏi Vua Hêrôđê: Vua mới sinh ở đâu... Chúng tôi đã nhìn thấy ngôi sao của Ngài ở Phương Đông (Mt 1:2). Cũng thế, phía sau của ngôi sao là sự quan phòng của Thiên Chúa.
Khi ba nhà chiêm tinh lúng túng không biết đi đâu để tìm kiếm Vua mới sinh ở Giêrusalem thì ngôi sao lạ lại xuất hiện và dẫn họ đến nơi ở của Vua mới sinh... Cũng thế, phía sau Chúa Hài Đồng, Đức Mẹ, và Thánh Giuse là Thánh ý của Chúa Cha.
Cuộc Giáng Sinh của Chúa Kitô nói cho chúng ta rằng ở giữa tâm điểm của vũ trụ có một Đấng Toàn Năng đang hiện hữu một cách thật sự.
Sự hiện hữu của Thiên Chúa nói cho chúng ta rằng trong giây phút hiện tại không chỉ bao gồm bằng những sự việc và những gì gọi là "đẹp đẽ" nhưng còn có những sự việc "xấu xa" đang xảy ra khắp nơi. Cho dù thế nào đi nữa, chúng ta biết rằng ở đằng sau mọi sự đều có sự hiện diện quan phòng của Thiên Chúa Toàn Năng.
Các nhà chiêm tinh đã hớn hở vui mừng đến gặp Chúa Hài Đồng và họ quì xuống sụp lạy Ngài. Hôm nay, chúng ta tụ tập trong Thánh Đường này và chúng ta cũng làm như các nhà chiêm tinh, chúng ta tìm đến gặp Chúa Hài Đồng và thờ lạy Ngài. Tuy nhiên, chúng ta không thể cứ ở lại nơi Thánh Đường để thờ lạy Ngài, nhưng chúng ta còn phải ra đi để đem Tin Mừng ơn cứu độ đến cho những người khác để họ cũng biết đến để thờ lạy Chúa Hài Đồng. Chúng ta hãy nói cho thế giới biết rằng ở đằng sau tất cả mọi sự là ngón tay quan phòng của Đấng Toàn Năng.
181.Tỏ mình
Trước đây chúng ta gọi ngày lễ hôm nay là lễ Ba Vua, đây là cách gọi quen thuộc đối với giáo dân Việt Nam, để nói về việc các nhà chiêm tinh phương Đông tìm đến Bêlem viếng Chúa Hài Đồng. Gọi là vua vì họ mặc phẩm phục như các vị đế vương, và xác định là ba người, vì có ba sắc dân được nói đến trong sách ngôn sứ Isaia, mà cũng vì lễ vật tiến dâng có ba thứ rõ ràng là vàng, nhũ hương và mộc dược như Tin Mừng thuật lại. Cứ thế, theo truyền thống, Ba Vua trở nên tên gọi cho ngày lễ.
Nhưng điều quan trọng không phải là xác định họ là vua hay không phải là vua, họ có ba vị hay bao nhiêu vị, mà chính là hãy nhìn họ như hình ảnh sống động của tất cả những ai trong đời đã có một lòng khao khát chân thành tìm kiếm Thiên Chúa khởi đi từ những thiện hảo tốt lành, nghĩa là họ là dân ngoại từ xa, không biết Kinh Thánh, nhưng lại chân thành và sẵn sàng vượt qua những chặng đường gian khổ để tìm gặp Chúa, trong khi đó dân Do Thái ở gần, hiểu biết Kinh Thánh, lại không mảy may kiếm tìm.
Mặc dầu tên gọi ba vua vẫn giữ nguyên giá trị cổ kính, nhưng ngày nay Phụng Vụ sử dụng tên gọi Hiển Linh để làm nổi bật ý định mầu nhiệm chung nhất của Thiên Chúa trong Mùa Giáng Sinh, đó là Ngài muốn tỏ mình ra cho tất cả mọi người, mọi thời, bất luận họ là ai và ở đâu, miễn là họ biết chân thành kiếm tìm Ngài. Vì thế, đây không chỉ là một biến cố của ngày đã qua mà còn là một sứ điệp của ngày hôm nay và cho những ngày sẽ tới, Chúa vẫn tỏ mình, nhưng vấn đề là người ta có thiện chí đến gặp Ngài không.
Trong một tập truyện ngụ ngôn xuất bản gần đây, một linh mục đã tưởng tượng ra một câu chuyện như sau: Có một người đạo đức kia ước ao được xem thấy Chúa trước khi chết, ngày ngày bà ăn chay, cầu nguyện để ước nguyện này được Chúa nhận lời. Thế là một đêm nọ trong một giấc mơ, bà được Chúa cho biết sẽ đến thăm bà, suốt ngày hôm sau, bà quét dọn và trang hoàng nhà cửa để đón rước Chúa, thế nhưng bà chờ mãi mà không thấy Chúa đến.
Trong đêm kế tiếp, có tiếng Chúa hỏi: Tại sao bà không tiếp đón Ngài? Người đàn bà trả lời bà đã chờ đợi Chúa ở trước cửa. Chúa cho bà biết Chúa đã chờ đợi ở cửa sau. Ngày hôm sau, người đàn bà lại chờ đợi Chúa ở cửa sau, nhưng bà vẫn không thấy bóng dáng Chúa. Đêm đến lại có tiếng Chúa hỏi tại sao bà không đón tiếp Chúa, bởi vì Ngài đến qua các cửa sổ. Suốt ngày hôm sau, người đàn bà hết ra cửa trước lại về cửa sau và nhìn qua các cửa sổ, nhưng bà cũng không hề thấy tăm hơi của Chúa. Đêm đến, bà lại nghe có tiếng nói của Chúa, và lần này Chúa bảo bà hãy tìm Ngài bên giếng sau nhà. Cũng thế, người đàn bà đã chạy ra bờ giếng, nhưng cũng không thấy Chúa đâu. Không còn đủ kiên nhẫn nữa, bà đã trách Chúa tại sao lại chơi trò cút bắt với bà. Bấy giờ Chúa mới nói: “Nếu con định đón rước Ta ở một nơi nào đó thì mãi mãi sẽ không bao giờ thấy Ta ở đâu cả, thay vì tìm kiếm khắp nơi, con hãy mở mắt tâm hồn và con sẽ thấy Ta”.
Đêm đó, người đàn bà không còn nghe thấy tiếng Chúa nữa, nhưng chung quanh mình, bà chỉ thấy bóng đêm dầy đặc, nhưng chính lúc đó, khi con mắt tâm hồn bà đã được mở rộng, bà đã nhìn thấy Chúa ở khắp mọi nơi. Đúng vậy, chúng ta chỉ có thể thấy Chúa bằng con mắt tâm hồn mà thôi, nếu tâm hồn chúng ta rộng mở, nếu tâm hồn chúng ta trong sạch, nghĩa là không bị ngăn chặn bởi bất cứ bức tường nào của dục vọng, của đam mê, ích kỷ, tiền bạc… thì chúng ta có thể thấy Chúa ngay cả trong mỗi người chúng ta gặp gỡ.
Xưa kia Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho ba nhà chiêm tinh bằng ánh sao lạ, chính nhờ ánh sao này, các ông đã đi tìm và đã gặp được Chúa Giêsu giáng sinh để thờ lạy. Từ đó Thiên Chúa vẫn tiếp tục tỏ mình ra cho nhân loại để con người nhận biết sự thật và đón nhận sự sống. Cũng như ngày xưa Thiên Chúa đã mời gọi các ngôn sứ cộng tác, ngày nay Ngài cũng mời gọi chúng ta cộng tác vào công cuộc cao cả ấy, vẫn cần có những ánh sao để chỉ đường dẫn lối cho những người khác gặp thấy Chúa. Người Kitô hữu được mời gọi trở thành ánh sao cho những người chung quanh ngay trong cuộc sống bình thường hằng ngày của mình, để trong sinh hoạt bình thường ấy, người ta có thể gặp được những tín hiệu dẫn đưa đến Thiên Chúa, đó là ánh sao của cho đi, của quên mình, của bác ái, của phục vụ… những ánh sao đó có sức tỏa sáng, giúp người ta nhận ra Thiên Chúa, nhận ra tình thương của Ngài.
182.Ngôi sao hy vọng
Tại nước Camơrun ở Phi Châu, có một vùng đất tên là Fontem, dân số khoảng 20 ngàn người, là một bộ lạc bị đe dọa tuyệt chủng vì nhiều thứ bệnh, nhất là bệnh ngủ và bệnh giun chỉ.
Tộc trưởng của bộ lạc Fontem đã đi cầu cứu nhiều nước và nhiều tôn giáo nhưng không kết quả. Cuối cùng, ông đã đến với Đức cha Peters thuộc giáo phận Buca ở Camơrun, đặt vào tay ngài một số tiền và nói: “Bộ lạc chúng tôi chẳng tốt lành gì để đáng được Chúa thương nhận lời, vậy chúng tôi xin Đức cha và các tín hữu của ngài cầu cùng Chúa cho chúng tôi. Hy vọng Chúa sẽ nhận lời”.
Đức Cha Peeters và giáo dân của người không chỉ cầu nguyện mà còn hành động. Họ chung tay góp sức làm cho bộ lạc Fontem ngày càng tốt đẹp hơn. Khởi đầu là 2 bác sĩ, 1 bác sĩ thú y, cùng với 3 phụ nữ thuộc phong trào Giáo dân Hoạt động cho thế giới được Hiệp nhất trong Yêu thương.
Ngày nay, bộ lạc Fontem đã hoàn toàn đổi mới. Xưa kia là rừng thiêng nước độc thì nay là phố xá đô hội. Điều bất ngờ là chính thành phố này lại là chiếc nôi của một phong trào Giáo dân Thiện nguyện tới phục vụ ở rất nhiều nước tại Phi Châu. Số người xin học đạo và gia nhập Giáo hội nhiều vô kể.
“Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện”. Các nhà đạo sĩ đã nhìn thấy ánh sao lạ, và đã mau mắn lên đường trong niềm hy vọng tràn đầy. Vâng, chính trong niềm hy vọng tràn đầy mà tộc trưởng Fontem đã hăng hái đến với Đức cha Peeters như ánh sao hy vọng. Ong hy vọng bộ lạc của ông sẽ thoát cảnh bệnh tật và nghèo đói, ông hy vọng dân tộc mình sẽ bước theo kịp văn minh tiến bộ của nhân loại. Cuối cùng, hoa hy vọng đã khai mùa mở cánh. Bộ lạc của ông đã được ngôi sao hy vọng tỏa sáng để họ không chỉ đến với nền văn minh khoa học mà còn tiến bước vào nền văn minh tình thương.
Ngôn sứ Isaia đã nói: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi”.
Ánh sáng bừng lên chiếu rọi, chính là Đức Giêsu Kitô, Ngôi Sao Hy Vọng của muôn dân. Kể từ khi nguyên tổ phạm tội, ánh hào quang của địa đàng vụt tắt, nhân loại mò mẫm trong bóng đêm tội lỗi, mỏi mòn chờ mong ánh sáng cứu độ chiếu rọi nhân gian.
Ngôi Sao Hy Vọng đã xuất hiện ở trời Đông, và sẽ không bao giờ lặn đi.
Lễ Hiển Linh là lễ Chúa tỏ mình cho dân ngoại, mà đại diện là ba nhà đạo sĩ, trong đó có tất cả chúng ta.
Nếu Chúa là Ngôi Sao Hy Vọng, đã chiếu rọi vào cuộc đời tăm tối của chúng ta, thì Người cũng muốn chúng ta sẽ là những ánh sao, luôn chiếu tỏa niềm tin yêu và hy vọng nơi con người.
Nếu Chúa là Ngôi Sao Hy Vọng, đã không bao giờ thất vọng về con người, cho dù con người thất trung phản bội, thì chúng ta cũng đừng bao giờ thất vọng về chính mình.
Nếu Chúa là Ngôi Sao Hy Vọng, đã không hề để ai phải thất vọng khi trông cậy nơi Người, thì chúng ta cũng đừng bao giờ để một nỗi thất vọng nào chạm được đến anh em.
Tuy Ngôi Sao Hy Vọng xuất hiện ở Phương Đông đã 2000 năm qua, nhưng tại Á Châu này tỷ lệ những người được Ngôi Sao chiếu rọi mới chỉ có 10,4o/o. Đó là nỗi thao thức của Giáo hội và cũng là trách nhiệm của mỗi người chúng ta. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II bày tỏ trong Tông Huấn “Giáo hội tại Á Châu” như sau: “Những kẻ tin vào Chúa Kitô vẫn là một thiểu số bé nhỏ trong lục địa mênh mông và đông dân nhất này. Nhưng không phải là một thiểu số nhút nhát, họ sống đức tin cách sống động đầy hy vọng và ban sức sống, mà chỉ có duy nhất tình yêu, mới có thể mang lại”.
“Tham vọng duy nhất của Giáo hội là tiếp tục sứ mạng phục vụ và yêu thương của mình, để tất cả dân Á Châu “có sự sống và sống dồi dào”.
183.Hành trình đức tin
Truyện kể trong một khu rừng kia có con cáo mù bị lạc đường. Đamg lúc lo âu sốt ruột, đột nhiên nghe tiếng bước xa xa đến gần, con cáo vội vàng hỏi trong vui sướng:
- Chào anh bạn, xin hỏi đường về nhà tôi đi bằng cách nào?
- Anh không thấy đường sao?
- Thấy thì còn hỏi anh làm gì.
Đối phương lần chần một chút rồi trả lời:
- Được rồi, anh đi với tôi. Con cáo đi sau lưng anh bạn ấy, bảo sao nghe vậy. Đi không bao lâu, hai đứa tập tễnh tiến vào ngõ cụt, đi mãi mà không ra khỏi đó, cuối cùng con cáo chịu không nổi phải thốt lên.
- Anh dẫn đường nhưng rốt cuộc anh dẫn như thế nào đấy chứ?
Hồi lâu, chỉ nghe đối phương biết lỗi nói: Xin lỗi bởi vì tôi cũng mù như anh vậy. (Hàn Lâm Tử)
Câu chuyện trên cho ta thấy con cáo mù rất muốn tìm đường về nhà, chắc chắn là nó rất lo lắng bối rối và sợ lắm. Khi gặp được người bạn dẫn đường thì cáo mừng lắm, nhưng cuối cùng thì cả hai đều bị đi vào ngõ cụt vì không có ai thấy ánh sáng thấy đường để mà đi. Trong cuốc sống rất có thể chúng ta đang là một con cáo mù, vì không biết mở mắt ra để đón lấy ánh sáng. Chúng ta không khác gì dân thành Giêrusalem xưa, trong cùng một cảnh ngộ mà các nhà đạo sĩ từ phương xa lại nhìn thấy ánh sáng để đi tìm Đấng Cứu Thế. Còn họ thì lo mãi mê yêu đời, sống cuộc sống hưởng thụ, vui chơi với tất cả tiện nghi, một cuộc sống không thiếu thốn sự gì. Ngày nay với nên khoa học tiên tiến, đưa con người đến ánh sáng hiện đại nhưng lại đẩy họ vào ánh sáng tội lỗi; biết những nơi ăn chơi thác loạn mà không bao giờ tìm tới nhà thờ, ham thích nhảy múa ca hát mà không bao giờ biết dùng lời kinh cầu nguyện dâng lên Chúa. Các đại gia dám bỏ ra hàng triệu dollar để ăn chơi trác táng, mà không dám bỏ ra 500 đồng để làm việc bác ái... rất nhiều, còn rất nhiều việc làm của chúng ta đang ở trong bóng tối, ngôi sao sáng của Chúa vẫn đang sẵn sàng chiếu tỏa ánh sáng, chỉ cần chúng ta đừng vô tình, đừng dửng dưng nữa mà hãy quyết tâm bằng cả thiện chí đứng lên và bước ra khỏi đời sống tầm thường đó, cùng đi với các đạo sĩ theo ánh sao lạ dẫn đường tìm Đấng Cứu Thế.
Con cáo mù không về nhà được vì người bạn dẫn đường cũng bị mù. Nhiệm vụ truyền giáo là công việc của tất cả những người Kitô hữu, đó là dẫn mọi người "bị mù" tìm gặp ánh sáng Chúa Kitô. Con đường truyền giáo hoàn toàn không dễ như ta tưởng, nếu không khéo ta cũng giống như người bạn của con cáo mù, không những đưa bạn về không được mà cả mình cũng không thể về. Điều cần thiết là mỗi người chúng ta phải là ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và trong tâm hồn những người thiện chí vì như Chúa Giêsu đã nói: "Các con là ánh sáng trần gian" ( Mt 5, 14). Khi nghe câu nói đó, tôi nhận ra ngay một điều là Thiên Chúa muốn gởi đến cho chúng ta một thông điệp truyền giáo và ngay lúc này chúng ta phải là muối là ánh sáng.
Ánh sáng Tin Mừng đã được rao giảng hơn 2000 năm, nhưng cánh đồng truyền giáo vẫn còn bao la bát ngát. Đặc biệt là trong cánh đồng truyền giáo ở Việt Nam, còn rất nhiều người đang mò mẫm tìm đường đi. Do đó, chúng ta phải là ngôi sao dẫn đường cho anh chị em lương dân, ở giữa họ với một con tim cởi mở và yêu thương. Nhất là qua đời sống hàng ngày họ sẽ tìm gặp được Hài Nhi trong hành động của chúng ta.
Chúng ta cũng rất dễ rơi vào thái độ dửng dưng với lời kêu gọi của Giáo hội, cứ nghĩ nếu ta không làm thì vẫn còn người khác làm. Nếu ai cũng nghĩ như ta thì làm gì có các nhà truyền giáo, làm gì có hạt giống Tin Mừng nào được gieo ở Việt Nam và chúng ta vẫn là con cáo mù vẫn chưa tìm được đường về nhà. Nhưng ngược lại, nếu tất cả các tín hữu Việt Nam nghe theo lời mời gọi truyền giáo, và mau mắn đáp trả thì Hội Thánh Chúa đã có những bước tiến rất xa. Vậy ta hãy ý thức mình vẫn là một hạt cát quan trọng trong sa mạc truyền giáo của Chúa.
Lạy Chúa, Xin giúp con trở thành một ánh sao soi đường, dẫn lối cho những người xung quanh trên bước đường tìm gặp Chúa.
184.Tìm kiếm
Có một giai thoại nói rằng không chỉ có ba nhà đạo sĩ, mà đến bốn vị. Tên của vị thứ tư là Artaban. Ông cũng nhìn thấy ngôi sao và đã quyết định dõi theo ngôi sao, ông mang đi một viên hồng ngọc, một viên ngọc bích và một viên kim cương làm quà biếu vị Vua mới. Ba người đồng hành là Caspar, Melchior, và Balthasar đang chờ đợi ông tại một điểm hẹn. Tuy nhiên, trên đường đến đó, ông gặp một người bị thương nằm bên vệ đường. Ông đưa vào quán trọ, và săn sóc người đó.
Cuối cùng, khi đến điểm hẹn, ông phát hiện rằng những người bạn đồng hành của ông đã bỏ đi rồi. Vì cần có một con lạc đà và những đồ dự trữ để vượt qua sa mạc, nên ông đã bán đi một viên ngọc bích để mua những thứ đó. Khi gần đến Bêlem, một lần nữa, ông lại đến quá trễ, Đức Maria và thánh Giuse đã đưa con trẻ trốn sang Ai cập, để lẩn tránh những tên giết người của vua Hêrôđê.
Trong ngôi nhà mà ông đang tá túc, có một đứa bé trai lên 1 tuổi. Bà mẹ rất lo sợ cho mạng sống của con trai bà. Vào một buổi tối, quân lính đến gõ cửa, Artaban đi ra gặp họ. Ông lấy viên hồng ngọc hối lộ cho quân lính không vào nhà, và đã cứu thoát được đứa trẻ. Bà mẹ rất đỗi vui mừng. Tuy nhiên, Artaban lại buồn rầu bởi vì lúc bấy giờ, ông chỉ còn lại một viên kim cương duy nhất để làm quà biếu vị Vua mà thôi.
Trong suốt những năm sau đó, ông đã đi nhiều nơi để tìm kiếm vị Vua. Nhưng dường như ông luôn luôn đến trễ. Khoảng 30 năm sau, ông đến Giêrusalem. Bấy giờ, ông đã già yếu kiệt sức, và mất nhuệ khí. Ngay hôm ông đến đó, thì có một số người bị đóng đinh. Ông kinh hãi khi nghe tin rằng Đức Giêsu ở trong số những người đi xử tử. Ông vội vàng đến ngọn đồi nơi diễn ra cuộc hành quyết. Có lẽ với viên kim cương, ông có thể cứu thoát được mạng sống của Đức Giêsu.
Tuy nhiên, trên đường đến đồi Can-va-riô, ông gặp một cô gái đang chạy trốn một toán lính. Cha của cô gái đó đã bị mắc lừa những khoản nợ lớn, và cô gái bị bán đi làm nô lệ. Artaban lấy viên kim cương của ông ra, đưa cho quân lính, và cô gái đó đã được thả cho đi. Nhưng bây giờ, ông phải đến gặp vị Vua với hai bàn tay trắng.
Ngay sau đó, bầu trời bắt đầu tối tăm u ám. Một trận động đất rung chuyển mặt đất. Các nhà cửa bắt đầu bị lay động. Những viên ngói trên mái nhà bắt đầu bay vèo vèo. Một trong những viên ngói đó rơi trúng vào đầu của Artaban. Ông gắng sức vật lộn với vết thương chết người đó. Nhưng ông đã chết trước khi đến gần được ngọn đồi nơi diễn ra cuộc hành quyết. Ông không bao giờ gặp gỡ được vị Vua.
Tuy nhiên, về mặt ý nghĩa, Artaban luôn luôn có vị Vua của ông. Trong suốt những năm tháng đó, ông đã mang vị Vua này trong tâm trí và cõi lòng của ông. Vị Vua này đã truyền lại cho ông những hành động đầy yêu thương, quảng đại, và đã soi sáng cho cuộc hành trình của ông đầy ý nghĩa và hy vọng.
Artaban đã tìm thấy vị Vua của mình, bởi vì người nào, thực sự tìm kiếm Thiên Chúa, thì đã tìm thấy Người rồi. Artaban là một gương mẫu của lòng tin. Những ai tin tưởng và yêu mến Đức Giêsu thì đều được thay đổi: họ hành động và sống một cách khác hẳn.
185.Đức Kitô ở đâu?
Mùa Giáng sinh nào tôi cũng rảo qua các Nhà thờ để xem hang đá. Thôi thì đủ loại, đủ cỡ, đủ hình dạng, màu sắc. Có cái rất hoành tráng, trang trí cầu kỳ, từ những vật dụng đắt tiền; nhưng cũng có cái làm từ phế liệu. Đặc biệt nhất là bộ tượng. Ngoài những bộ tượng theo truyền thống Do thái, còn có cả những bộ tượng người Tàu, người Mông Cổ, Ả rập, Châu Âu và cũng không thiếu những bộ tượng người Việt với trang phục khăn đóng - áo dài hay khăn rằn - áo bà ba rặt nam bộ. Nói chung, Tin Mừng đi đến dân tộc nào thì hang đá và các nhân vật trong hang đá mang hình ảnh dân tộc đó. Người thiết kế muốn diễn tả hình ảnh Thiên Chúa thật giống với người bản địa. Điều nầy chắc không làm Thiên Chúa phiền lòng bởi từ trời cao Ngài đã xuống trần chẳng phải là để cho gần con người sao?
Nhưng đáng buồn thay. Trong khi Thiên Chúa đang cố gắng rút ngắn khoảng cách cách giữa Ngài và con người, thì con người lại hững hờ không muốn đón nhận thiện ý đó. Dân tộc mà lẽ ra phải mở tiệc tưng bừng để đón Sinh Nhật Vua Trời thì lại lạnh lùng từ chối. Vua Hêrôđê tỏ ra quan tâm, ân cần với các nhà hiền sĩ Đông phương: "Xin quý ngài đi dò hỏi tường tần về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bài lại Người" (Mt 2,8). Hoàn toàn không phải vì ý tốt mà là muốn giết Chúa Giêsu để níu giữ ngai vàng sắp đổ của mình.
Vào lễ Hiển Linh năm nào ta cũng nghe câu chuyện ba nhà Đạo Sĩ đi theo ngôi sao tìm Chúa. Rồi sau đó dâng lễ vật lên Chúa Hài Đồng. Cảnh tượng thật xúc động! Càng xúc động hơn khi biết rằng cả ba nhà Đạo Sĩ đều là dân ngoại - một dân tộc không biết gì về Thiên Chúa lại được Thiên Chúa tỏ mình ra. Còn dân Do thái đã không hề biết chuyện gì đang xảy ra. "Nay mầu nhiệm được mạc khải là các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp" (Ep 3,6).
Nói vậy, chẳng phải là Thiên Chúa thiên lệch, cho người nầy không cho người khác, nhưng bởi dân Do Thái thiếu lòng tin đó thôi. Hơn thế, chẳng đời nào Ngài lại bỏ đứa con mà Ngài đã từng cưu mang.
Ba nhà đạo sĩ vất vả lên đường tìm Chúa. Họ đã phải luôn miệng hỏi: "Đức Giêsu - Vua dân Do thái mới giáng sinh ở đâu?". Ngày nay, ta không còn vất vả nữa, vì Chúa đã được các nhà truyền giáo đem đến tận tay chúng ta rồi. Chúng ta chẳng còn phải nghi ngờ Đức Giêsu là ai, sinh ra ở đâu nữa. Nhưng liệu chúng ta có giống dân Do Thái xưa không? Thấy đó, nhưng không thể nào tin được? Ngày Rửa Tội ta được xếp vào hàng con cái Chúa. Ngày chịu phép Thêm Sức ta được mời gọi lên đường làm chứng, rao giảng Nước Chúa. Nhưng chính bản thân chúng ta cũng chưa một lần thể hiện được lòng tin của mình thì làm sao chúng ta có thể giới thiệu được một Đức Giêsu bé nhỏ, trần trụi, nghèo nàn đó cho trần gian? Hãy mạnh mẽ đi theo hướng khác mà trở về nhà mình, đừng ù lì trong những lề thói ấu trĩ, ích kỷ của chính mình nữa. Hãy đứng dậy lên đường giới thiệu Đức Kitô bằng đời sống yêu thương của mình.
Hơn 2000 năm qua, Đức Giêsu vẫn giáng sinh mỗi ngày trong trần gian. Ngài không chỉ giáng sinh nơi hang đá Bêlem thuộc xứ Palestine, trong dòng tộc Đavit nữa; mà Ngài hiện diện trong từng con người cụ thể trên khắp hành tinh nầy, trong tất cả mọi sắc tộc, trong mọi nền văn hóa. Ngài ở giữa chúng ta qua Bí tích Thánh thể. Ngài còn ở trong chính ngôi nhà tồi tàn, rách nát của một vùng quê nào đó. Ngài đang bị cầm tù, đang cô đơn trong những nhà dưỡng lão, những trại mồ côi, bệnh viện, trại tập trung. Ngài là em bé bị lạm dụng sức lao động, đang ngày đêm giơ tay cầu cứu sự giúp đỡ. Ngài là những công nhân cần có những đồng lương xứng hợp. Ngài là những nạn nhân của những cuộc xung đột, chạy đua vũ trang, hay của những chế độ độc tài, bất công, nghèo đói... Bạn không cần phải đi qua tận thánh địa xa xôi để mong gặp Chúa, mà bạn hãy đi ra khỏi lòng mình. Ra khỏi những ích kỷ, tư lợi, đam mê thấp hèn của chính bạn. Rồi bạn sẽ gặp Đức Kitô ngay thôi. Ngài đang hiện diện ngay trước mặt bạn đấy!
186.Sân khấu cuộc đời
Chúng ta vừa mừng sinh nhật lần thứ 2021 của Đức Giêsu. Nói đến lần thứ 2021, thì có nghĩa là phải có lần thứ nhất. Như vậy, chúng ta lấy mốc thời gian nào để tính là năm thứ nhất. Câu trả lời là dựa vào năm Đức Giêsu sinh ra. Như vậy, biến cố Đức Giêsu ra đời là khởi đầu của một kỷ nguyên mới trong lịch sử nhân loại. Dù ngày hôm nay, các chuyên viên có tính lại là năm Chúa Giêsu sinh ra không phải là năm thứ 1, nhưng Ngài được sinh ra vào khoảng năm thứ 6 trước Công nguyên. Đấy là vì ông Denise thuộc thời Trung cổ tính sai. Dẫu vậy, nhưng trong tâm trí của ông Denise và cũng như của tất cả nhân loại đều lấy ngày Chúa Giêsu giáng sinh là trung tâm của lịch sử. Ngài đã bước vào lịch sử của nhân loại và làm xoay chiều lịch sử ấy. Ngài mặc cho lịch sử trần tục của con người một ý nghĩa mới, lịch sử cứu độ. Từ đây, Thiên Chúa đã làm người và ở với con người. Thiên Chúa đã từ trời cao xuống trần gian để cho con người trần gian được bước lên trời. Đất với trời đã giao duyên!
Hôm nay, chúng ta mừng lễ Chúa Hiển Linh, nghĩa là chúng ta mừng kính việc Đức Giêsu bày tỏ vinh quang của Ngài cho 3 nhà đạo sĩ Đông phương và cũng là cho tất cả chúng ta. Nhưng biến cố ấy thay vì trở thành niềm vui cho hết nhân loại thì lại trở thành tin buồn và thảm hoạ cho một số người. Tại làm sao lại có chuyện ấy xảy ra? Có phải vinh quang của Thiên Chúa không có sức mang lại hạnh phúc cho con người không? Có phải Thiên Chúa đã chịu thua sự nhẫn tâm của con người rồi chăng? Ngày Chúa Giêsu sinh ra, các Thiên thần đồng thanh tung hô rằng: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương", nhưng xem ra việc Chúa Giáng trần chỉ mang lại tai hoạ cho con người mà thôi!
Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của tình yêu. Ngài yêu thương hết thảy con người cho dẫu rằng con người có nhận ra điều đó hay không? Chúa không muốn biến con người thành những cổ máy Robot, nên đã trao cho họ tự do. Và vì lạm dụng tự do, nên con người đã chống lại Thiên Chúa; coi Thiên Chúa như đối thủ của mình, như người tranh giành hạnh phúc của mình. Thật là một điều đáng buồn cho con người.
Chúa Giêsu vẫn sinh ra cho con người dẫu rằng con người có đón tiếp Ngài hay không? Và quả thực, con người đã chối từ Ngài ngay từ giây phút đầu tiên của cuộc đời dương thế của Ngài. Nhưng Ngài chấp nhận tất cả và chịu sinh ra trong cảnh nghèo nàn nhất của kiếp người. Nhà bảo sanh là chuồng bò, chiếc nôi là máng cỏ, thời tiết là giữa mùa Đông giá rét run người. Người ta không muốn đón tiếp Chúa vì Chúa đến trong thân phận của người nghèo khổ và quá âm thầm.
Hơn nữa, ngày mà Chúa tỏ vinh quang cho nhân loại thì lại trở thành ngày buồn thảm: Hêrôđê bối rối vì sợ bị chiếm ngôi, các gia đình có con trẻ từ 2 tuổi trở xuống ở vùng Giuđêa và các vùng lân cận phải một trận khóc than thảm thiết vì con trẻ của họ bị giết! Lý do là vì sự độc ác của con người, cụ thể là vua Hêrôđê. Vua Hêrôđê là đại diện cho tất cả những con người ham hố quyền lực trên thế giới. Họ sẵn sàng gây ra bao nhiêu đau khổ, chết chóc cho nhân loại để bảo vệ uy quyền cho mình. Ngày nào trên thế giới còn có những con người ham hố quyền lực thì ngày đó nhân loại còn phải chịu đau khổ và chết chóc.
Sân khấu lịch sử cuộc đời còn có vai của những con người trong vai các kinh sư và luật sĩ. Họ thông thạo Thánh kinh, biết rõ nhiều vấn đề nhưng họ sợ cực khổ, sợ mất mát, ngại hy sinh nên đem những hiểu biết của mình chôn vùi trong tủ kính. Vì thế, những hiểu biết của họ không giúp ích gì cho ai và cũng chẳng mang lại lợi ích gì cho bản thân họ. Họ là hạt giống có lớp vỏ vàng óng. Họ cố bảo vệ lớp vỏ của mình cho thật đẹp và không chịu làm trở thành thân phận của hạt giống, phải chịu thối đi để sinh ra trăm nghìn bông hạt mới. Vì thế, mãi mãi họ là hạt lúa cô đơn, hạt lúa vàng vô ích và sẽ có ngày sẽ hư mất.
Nhưng cũng may là thế giới này cũng còn có những con người khát khao tìm kiếm chân lý như 3 nhà Đạo sĩ Phương Đông. Nếu không, thì cuộc đời này sẽ biến thành nghĩa trang lạnh lùng, đầy dẫy những xác chết, và trái tim con người sẽ hoá đá! Hình ảnh 3 nhà Đạo sĩ Phương Đông trở thành mẫu mực cho những ai khao khát sự thật và sự sống. Khi nhận ra được ánh sáng chân lý rồi, thì họ không ngần ngại hy sinh, sẵn sàng chịu cực khổ, mất mát và nguy hiểm để lên đường tìm kiếm. Và những cố gắng của họ đã được đền bù xứng đáng. Họ đã được Thiên Chúa đong đầy sự khao khát của họ. Vì "Phúc cho ai biết khao khát nên trọn lành và tìm kiếm chân lý, vì họ sẽ được Thiên Chúa ban cho được đầy no".
Mừng lễ Chúa Hiển Linh hôm nay, chúng ta hãy tự kiểm lại chính mình xem chúng ta đang có trong mình hình ảnh của ai? Của Hêrôđê, của những Kinh sư hay của ba nhà Đạo sĩ Phương Đông? Chúng ta có phải là những người đang ham hố quyền lực để sẵn sàng tiêu diệt, loại trừ người khác để bảo vệ uy thế và chỗ đứng cho mình không? Hay chúng ta lại là những người Kinh sư, thông thạo Thánh kinh, biết rất nhiều về Lời Chúa nhưng lại không làm theo và không màng gì đến những Lời ấy? Hay chúng ta là những Nhà Đạo sĩ đang khao khát và kiếm tìm chân lý, để khi nhận ra được chân lý đang soi dẫn cuộc đời của mình thì sẵn sàng chấp nhận mọi gian nan, hy sinh mọi sự để lên đường tìm kiếm chân lý? Phúc cho chúng ta nếu chúng ta đang mang trong mình hình ảnh của những nhà Đạo sĩ Phương Đông ngày xưa!
187.Nhận biết và tin thờ Chúa như các nhà đạo sĩ--Huệ Minh
Tin mừng Mt 2:1-12: Hôm nay, ở Bêlem xuất hiện những nhân vật lạ. Họ từ xa đến và đang phủ phục bái thờ một Hài Nhi đơn sơ nhỏ bé và nghèo nàn; rồi họ lấy lễ vật để dâng lên Ngài như dâng lên một vị vua uy quyền đáng tôn kính. Họ là ai? Họ đã thấy gì?...
Hôm nay, ở Bêlem xuất hiện những nhân vật lạ. Họ từ xa đến và đang phủ phục bái thờ một Hài Nhi đơn sơ nhỏ bé và nghèo nàn; rồi họ lấy lễ vật để dâng lên Ngài như dâng lên một vị vua uy quyền đáng tôn kính. Họ là ai? Họ đã thấy gì?
Thánh sử Mátthêu giới thiệu cho chúng ta biết đây là những nhà chiêm tinh từ phương Đông tới. Họ là những người có khả năng quan sát các vì sao và đọc ra từ đó các dấu chỉ thời đại. Hôm nay, họ theo ánh sao lạ đến Giêrusalem và làm rung động cả thành cùng với nhà vua vì thông tin này: “Vua người Do Thái mới sinh hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện ở Phương Đông và chúng tôi đến để triều bái Người.”
“Chúng tôi đã thấy ngôi sao…” Ngôi sao chỉ xuất hiện trên bầu trời đêm. Màn đêm làm cho cảnh vật ra tăm tối, tĩnh lặng và gây sợ hãi cho nhiều người. Tuy nhiên, bầu trời đêm lại chứa ẩn nơi nó những dấu chỉ về thời tiết, về sự thay đổi của thời cuộc và của con người. Những nhà chiêm tinh đã ngắm nhìn trời đêm và nhận ra một ngôi sao lạ chỉ cho biết: một Ấu Vương vĩ đại mới chào đời!
Các Nhà Chiêm Tinh đã nhận được sự thúc đẩy đầu tiên khi nghiên cứu thiên văn. Đến Giêrusalem, các vị lại nhận được một thông tin chính xác hơn rút từ Kinh Thánh. Các vị đã can đảm lấy quyết định lên đường và cứ dò dẫm từng bước, và Thiên Chúa đã dẫn dắt các vị đạt tới mục tiêu bằng “ngôi sao” dẫn đường. Bởi vì các vị không kháng cự lại và không quản ngại mệt nhọc, trái lại đã chấp nhận được hướng dẫn, các vị đã vui sướng đạt tới mục tiêu. Thiên Chúa luôn đáp ứng những ai tha thiết tìm ơn cứu độ, dù đôi khi người trong cuộc cảm thấy đường đi không rõ và mục tiêu mịt mù.
Giống như các người chăn chiên ngoài đồng, khi các nhà chiêm tinh “vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình thờ lạy Người”, họ không chỉ bái lạy một Thiên Chúa giáng trần, mà vì ‘thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng’ vì biết rằng ơn cứu độ của mình và của toàn nhân loại đang được thực hiện cách trọn vẹn và dứt khoát, trong hình hài của Hài Nhi nhỏ bé.
Các Nhà Chiêm Tinh không thấy vinh quang hay uy quyền của Hài Nhi Giêsu, nhưng các vị đã bái lạy mà nhìn nhận Người là Chúa tể, là Đức Vua và vị Mục Tử của Dân ngoại, vì các vị tin. Đức tin cần thiết cho từng bước đi tới chỗ nhận biết Đức Chúa, ở đây được các Nhà Chiêm Tinh diễn tả ra trong tình trạng tinh trong. Dựa vào ba lễ vật, qua các thời đại, người ta đã tưởng tượng là có ba Nhà Chiêm Tinh, có tên rõ ràng, một vị trẻ tuổi, một vị đứng tuổi và một vị đã già; một vị là người châu Á, một vị là người châu Âu và một vị châu Phi. Cách làm này không tương ứng với chữ viết của bản văn nhưng phù hợp với tinh thần của Tin Mừng.
Có thể có nhiều nhà chiêm tinh đã nhận ra vì sao lạ và đọc được ý nghĩa của nó, nhưng chỉ một số ít trong họ đã lên đường tìm kiếm Hài Nhi; và trong số họ, chỉ còn lại vài người kiên trì đến cùng để gặp được Ngài. Hành trình tìm kiếm vị Ấu Chúa mới chào đời là một hành trình đầy thử thách và tăm tối. Với lòng khao khát được bái kiến Người, các ông đã dò dẫm theo ánh sao chỉ đường. Nếu vào ban ngày thì làm gì có ánh sao? Muốn thấy ánh sao, các ông phải đợi khi trời tối. Nếu gặp đêm đông giông bão, trời đất cũng mịt mờ, làm sao mà nhận ra ánh sao chỉ đường? Tuy vậy, khi ánh sao biến mất, các ông đã dò la để có bằng được câu trả lời: vị Ấu Chúa chào đời ở Belem, đất Giuđa, theo lời các ngôn sứ đã loan báo.
“Các ông vào nhà và thấy hài nhi và Mẹ Người…” Có gì bảo đảm hài nhi này là Ấu Vương các ông đang tìm kiếm? Đây chỉ là một hài nhi nghèo khó, đơn sơ, bên cạnh bà mẹ trẻ giản dị không trang sức, không vương quyền… Nhờ ánh sao đức tin soi dẫn, các ông đã nhận ra Hài Nhi chính là vị vua các ông đang tìm kiến, nên đã vui mừng thờ lạy, rồi mở tráp lấy lễ vật dâng tiến Người như dâng tiến một vị vua uy quyền.
Các đạo sĩ cũng được gọi là ba vua, xưa đã đi tìm kiếm Đấng Cứu Thế, cũng chính là hình ảnh của nhân loại ngày nay thao thức đi tìm kiếm Chúa. Các vị đạo sĩ mới chỉ biết Chúa cách mơ hồ nhờ sự nghiên cứu các sự thay đổi tinh tú trên bầu trời rồi đối chiếu với Sách Thánh của dân Do thái, các ngài đã nhận biết Đấng Cứu Thế đã ra đời, và đã khăn gói lên đường đi tìm kiếm Chúa.
Sứ điệp thật rõ ràng: Con Thiên Chúa đã đến trong thế gian cho tất cả mọi người, kể cả những người ở ngòai đức tín ki tô hữu. Từ “Hiển linh” có nghĩa là tỏ hiện. Do đó, lễ nầy loan báo cho chúng ta rằng Thiên Chúa tỏ hiện cho tất cả mọi người. Đêm giáng sinh, tin mừng được loan báo cho các mục tử, và ngang qua họ, cho tất cả những người nghèo. Hôm nay, đến lượt những người ở ngoài được hưởng diễm phúc ấy. Không một chướng ngại nào, dù là màu da, văn hóa hoặc cả nguồn gốc tôn giáo có thể làm thất bại chương trình của Thiên Chúa. Người tỏ hiện cho tất cả mọi người và từng người miễn là họ tìm kiếm Người.
Tất cả các lứa tuổi và con người của mọi châu lục đều đạt tới mục tiêu khi gặp Hài Nhi này, nhất là khi nhìn nhận Người là Đức Vua và Đức Chúa của họ. Người đã đến cho mọi người, cho người trẻ cũng như cho người già, cho người thông thái cũng như người chất phác ít học, cho mọi màu da và mọi lối sống, để giúp họ nhận biết Thiên Chúa là Cha và đưa vào cuộc đời họ một ánh sáng chói chan. Như các Nhà Chiêm Tinh, loài người không được để mình đi trệch đường về với Đức Giêsu, mà phải để cho Thiên Chúa hướng dẫn, cho đến khi tới đích.
Với mỗi người chúng ta hôm nay: Mục đích cuối cùng của cuộc đời mỗi người chúng ta là nhận biết tin thờ biết ơn Thiên Chúa là Đấng tạo thành trời đất muôn vật, và tin vào Đấng Thiên Chúa sai đến là Đức Giê-su Ki-tô, để nhận được ơn giao hòa với Thiên Chúa, được sống trong Nước Trời do Chúa Giê-su thiết lập là Hội Thánh hôm nay, hầu sau này sẽ được hưởng hạnh phúc đời đời với Thiên Chúa trên Nước Trời vĩnh hằng, như lời Chúa Giê-su đã cầu nguyên với Thiên Chúa: “Sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Đức Giêsu Kitô” (Ga 17,3).
188.Hãy tỏa chiếu đời mình--Huệ Minh
Tin mừng Mt 2:1-12 Với ý nghĩa Thánh Lễ hôm nay, ta thấy khởi điểm cho cuộc hành trình tìm kiếm là một ánh sao lạ xuất hiện phía trời Đông, tượng trưng cho ơn thánh dẫn khởi từ Thiên Chúa, để ai biết tiếp nhận, sẽ trở nên ánh sáng soi đường.
Lễ Hiển Linh theo truyền thống, được cử hành vào ngày 6 tháng Giêng. Dịp Lễ này, các tín hữu Tây Phương tưởng nhớ ba nhà Đạo Sĩ thăm viếng Chúa Hài Nhi Giêsu và sự biểu lộ thần tính của Con Chúa cho Dân Ngoại. Các ngài là những đạo sĩ hay chiêm tinh gia đã từng đọc Thánh Kinh của Do thái giáo nên có sự hiểu biết về việc Đấng Thiên Sai sắp xuất hiện và muốn được gặp gỡ Người.
Và ta cũng như những nhà khảo cổ, nghiên cứu có thể dựa vào lễ vật các ngài mang theo là những đặc sản của xứ Arabi để đoán rằng các ngài từ xứ Arabi mà đến. Đồng thời dựa vào số lễ vật, người ta cho rằng có 3 vị. Đến thế kỷ VIII, có người còn kể rõ tên của ba vị đạo sĩ ấy là: Men-ki-o (Melchior), Ban-thơ-da (Balthezar) và Gát-pa (Gaspar), đại diện cho ba châu lục thời bấy giờ là châu Âu (da trắng), châu Á (da vàng) và châu Phi (da đen).
Với ý nghĩa Thánh Lễ hôm nay, ta thấy khởi điểm cho cuộc hành trình tìm kiếm là một ánh sao lạ xuất hiện phía trời Đông, tượng trưng cho ơn thánh dẫn khởi từ Thiên Chúa, để ai biết tiếp nhận, sẽ trở nên ánh sáng soi đường. Nhìn thấy ánh sao hằng hà sa số trên bầu trời đêm là một điều bình thường ai cũng có thể làm được, nhưng nhận thấy giữa muôn vàn lấp lánh ấy chỉ một ánh sao lạ thôi lại là chuyện chẳng bình thường chút nào, nếu không muốn nói là do tổng hợp giữa kiếm tìm và gặp gỡ, hay đúng ra giữa ơn Trời ban và lòng người biết mở ra tiếp nhận.
Hành trình của các đạo sĩ là một hành trình đi tìm ánh sáng đức tin. Để có thể gặp được Thiên Chúa, họ phải chấp nhận ra khỏi sự êm ấm của bản thân, từ bỏ những ràng buộc của công việc, gia đình để lên đường. Các ông đã phải trải qua hành trình rất xa và gian nan, có những lúc ánh sao như vụt tắt, nhưng các vị không chán nản thất vọng, trái lại, các ông đã tìm đến cung điện của Hêrôđê để hỏi về vị vua mới sinh hiện ở đâu.
Khi được chỉ cho biết tại Belem, đất Giuđa, các đạo sĩ lại tiếp tục lên đường, ngôi sao lại xuất hiện như để khuyến khích các ông. Các ông đã tìm đến nơi. Họ vào nhà, thấy Hài Nhi và thân mẫu là bà Maria, họ liền sấp mình thờ lậy người. Các đạo sĩ bước vào nhà, là ngôi nhà nơi Thánh Gia đang sống, nhưng ngôi nhà ấy còn là hình ảnh ngôi nhà Giáo hội, là nơi Thiên Chúa đang hiện diện. Các đạo sĩ là những người dân ngoại đã tìm được Chúa Giêsu, họ được mời gọi bước vào nhà của Chúa để ở nơi đây, họ cùng với mọi người tôn thờ Thiên Chúa, được chung hưởng tình yêu và hạnh phúc với Thiên Chúa.
Ba đạo sĩ từ Đông phương lên đường tìm kiếm dấu lạ, không phải vì mưu cầu vật chất, không có ý củng cố sức mạnh tinh thần, nhưng họ vẫn phải đối diện với nguy hiểm, lung lạc mục đích khám phá dấu lạ. Các vị Đạo sĩ nhờ được trang bị số kiến thức cần thiết để biết nhìn trời, nhìn sao, nhất là đủ khôn ngoan, để không bỏ lỡ cơ hội xem bằng mắt, bắt bằng tay dấu lạ Hài Nhi. Các mục đồng, các đạo sĩ, không thể tự biết tìm đến Belem, nếu không có dấu lạ chỉ đường, cả triều thần Hêrôđê và chúng ta hôm nay, đều cần đến sự tác động của dấu lạ mang tên Giêsu.
Chúa Giêsu là ánh sáng. Một khi đến được với Chúa Giêsu, chính chúng ta được soi sáng và trở thành những ngôi sao dẫn đường cho người khác. Trong lịch sử đã từng có những vì sao sáng rực: thánh Phêrô, thánh Gioan, thánh Phaolô, thánh Têphanô, thánh Inhaxiô Antiôkia, thánh Âutinh, thánh Gioan Kim Khẩu, thánh Phanxicô Assisi, thánh Phanxicô Xavier, thánh Têrêxa, thánh Anrê Dũng Lạc, thánh Philipphê Phan Văn Minh, thánh Matthêu Lê Văn Gẫm, thánh Anê Lê Thị Thành… Ngay trong thời đại chúng ta cũng không thiếu những vì sao: thánh Maximilianô Kolbe, chân phước Têrêxa Calcutta…
Và rồi ta cũng không quên ngôi sao sáng chói trong mọi thời đại: Mẹ Maria. Chung quanh chúng ta vẫn có những người đang đi tìm một ngôi sao dẫn đường. Chính chúng ta được Chúa Giêsu mời gọi nhận lấy ánh sáng của Chúa để trở thành một ngôi sao, cho bạn bè, cho con cái, cho hàng xóm láng giềng. Có thể chúng ta chỉ là một ngọn đèn dầu, nhưng vẫn hữu ích cho một ai đó đi tìm nguồn sáng trong một đêm tăm tối.
Thiên Chúa vẫn đang ngỏ lời với chúng ta trong Kinh Thánh. Nội dung Kinh Thánh là một câu chuyện tình giữa Thiên Chúa và con người. Muốn tìm kiếm Chúa, ta phải chuyên tâm học hỏi và suy niệm Lời Chúa được ghi lại trong Kinh Thánh. Khi các nhà đạo sĩ cảm thấy đứng trước ngõ cụt của hành trình tìm kiếm vị Vua mới sinh, các ông đã vào Giêrusalem. Ở đây, các chuyên gia đã khảo cứu Kinh Thánh và tìm được lời giải đáp. Nhờ hướng dẫn trong lời ngôn sứ Mika (Mk 5, 1), các ông tiếp tục lên đường và cuối cùng đạt được điều nguyện ước của mình. Lời Chúa là ánh sáng chỉ đường cho chúng ta trên bước đường đời. Chuyên tâm suy niệm và sống Lời Chúa sẽ giúp ta sống thánh thiện trọn lành.
Ngày hôm nay, việc gặp gỡ thờ lạy Giêsu không cần phải có kiến thức “thiên văn”, không cần phải hàng đêm nhìn lên bầu trời trông chờ “sao lạ”. Đúng hơn, “dấu lạ Giêsu” đang biến mọi đối tượng trở nên tình yêu của Ngài. Các mục đồng, các đạo sĩ phát hiện dấu lạ từ trời, họ đều nhanh chóng lên đường, và rồi họ thật vui mừng hạnh phúc khi gặp Hài Nhi. Mỗi chúng ta hôm nay, khi phát hiện Đức Giêsu là tình yêu bởi trời, nhất định phải khẩn trưởng gặp gỡ Ngài, nếu không niềm vui ơn cứu độ rồi cũng chỉ là chuyện tưởng tượng, chóng qua mà thôi.
Ngày hôm nay, người Kitô hữu được soi dẫn làm việc bổn phận đối với Chúa và Hội Thánh, nhưng nếu thiếu đi sự quyết tâm, chúng ta cũng chỉ là những luật sĩ biệt phái sống trong chờ đợi theo ý mình, lý thuyết mơ hồ. Gặp được niềm vui, thấy được con đường dẫn tới hạnh phúc là mừng, nhưng nếu không dấn thân để có Chúa để được biến đổi, để đức tin trở thành hành động, thì hoàn toàn vô ích, thất bại.
Muốn gặp Hài Nhi Giêsu, các đạo sĩ không thể ngồi nhà ung dung chờ đợi, các ngài đã lên đường, đã hành động bằng lý trí của người trưởng thành. Hành trình của các đạo sĩ có lúc sao ẩn, sao hiện, nhưng dấu lạ của tình thương không thay đổi, dù chặng đường gặp Hài Nhi của chúng ta hôm xưa và hôm nay có gian truân khác nhau. Thiên Chúa yêu thương loài người, các đạo sĩ đến Belem họ có vàng, mộc dược nhũ hương, các mục đồng đến Belem chỉ có tấm lòng, do đó bất cứ thành phần nào, đến gặp Chúa đều vui mừng hạnh phúc với tình yêu cứu độ.
Và rồi ta thấy chính Chúa Giêsu là Ngôi Sao Mai dẫn chúng ta đi vào con đường chói ngời ngọn lửa đức mến. Bước theo ánh sáng Ngôi Sao Mai, người Kitô hữu chiếu tỏa các giá trị Tin Mừng giữa lòng trần thế. Loan báo Tin Mừng là loan báo tình yêu thương, là xây dựng “nền văn minh tình thương”. Những chứng tá đức tin cậy mến, những gương sáng đời sống gia đình, những nỗ lực thực thi các giá trị Tin Mừng chính là những ánh sao cụ thể soi đường truyền giáo trong thời đại hôm nay.
Ngày hôm nay, trong đời sống đạo, nhiều khi thay vì chiếu sáng, chúng ta lại ưa chuộng bóng đêm khi mang trong mình sự ích kỷ như Hêrôđê! Sợ mất quyền, mất chức, sợ mất miếng cơm manh áo, hay sợ liên lụy, phiền hà cách này, cách khác, mà không dám nhìn nhận sự thật hay làm chứng và sống cho chân lý!
Thiên Chúa vẫn luôn tỏ mình ra cho nhân loại qua những dấu chỉ tự nhiên của trời đất, qua từng biến cố lịch sử, qua Lời Người trong Thánh Kinh, qua sự hiện diện của Dân Chúa là Giáo Hội, qua các Bí tích. Muốn gặp được Thiên Chúa, nhất thiết phải nổ lực tìm kiếm. Cho dầu có những thử thách, cam go, những hiểm nguy cạm bẫy, vẫn luôn kiên trì trong đức tin, bền đổ trong lòng mến.
Thiên Chúa yêu thương, Ngài muốn cho mọi dân tộc trên thế giới tin và đón nhận tình yêu của Ngài. Ngài dùng nhiều cách thế để đưa họ đến với Ngài và đưa tình yêu của Ngài đến với họ. Tuy nhiên, Ngài vẫn muốn dùng mỗi chúng ta là những người được hưởng tình yêu thương của Chúa, phải tiếp tục đem tình yêu ấy đến cho những anh em khác chưa nhận biết Chúa.
189.Ngôi Lời đã ở giữa chúng ta--Huệ Minh
Lễ Hiển Linh là lễ Chúa tỏ mình ra. Việc Chúa sinh ra được loan báo cho mọi người biết dưới nhiều hình thức khác nhau như: lời các ngôn sứ loan báo từ nhiều thế kỷ trước, đạo binh thiên thần ca hát, ngôi sao lạ xuất hiện... Tuy nhiên không phải ai cũng gặp được Chúa.
Ngày hôm nay Thiên Chúa tỏ mình ra cho ba nhà đạo sĩ đến từ phương Đông, nghĩa là những người ở ngoài dân Chúa và bị người Do Thái xếp vào hàng dân ngoại. Chính vì thế lễ Hiển Linh có thể được coi như là lễ Giáng sinh của người ngoại. Tuy nhiên, qua phụng vụ ta thấy được tính cách bi đát của chương trình cứu độ như thánh Gioan đã diễn tả: Ngài đã đến nơi nhà Ngài mà các người thân đã không tiếp nhận Ngài.
Từ xưa, người Do thái đã trông đợi Đấng Cứu Tinh từ nhiều thế kỷ, Đấng ấy được ví như một vì sao từ Giacóp, như có lời trong Kinh thánh: "Một vì sao xuất hiện từ Giacóp, một vương trượng chỗi dậy từ Israel" (Ds 24, 17). Ngôn sứ Mikha cũng đã tiên báo: "Hỡi Bêlem Épratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giuđa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Israel" (Mk 5, 1).
Thiên Chúa đã dùng cột mây cột lửa để hướng dẫn dân Do thái đi trong hoang địa về đất hứa, thì Người cũng có thể dùng ngôi sao dẫn đường cho các đạo sĩ đến Belem để gặp Đấng Cứu Tinh. Thế nhưng, thật trớ trêu là: vị Cứu Tinh xuất hiện sau bao thế kỷ đợi chờ, dân Do thái lại thờ ơ lãnh đạm, các thượng tế và kinh sư thì dửng dưng thụ động, cho dù họ hiểu Kinh thánh và biết rõ nơi sinh của Đấng Cứu Thế. Hêrôđê lại còn hoảng hốt vì sợ ngai vàng của mình bị lung lay.
Isaia đã đưa ra những lời tiên đoán đầy phấn khởi về Giêrusalem vào ngày Đấng cứu thế xuất hiện. Ngày ấy, Giêrusalem sẽ trở thành trung tâm ánh sáng và mọi người từ bốn phương trời sẽ tiến về đó với muôn vàn lễ vật. Nhưng trớ trêu thay, vào ngày Con Thiên Chúa giáng sinh làm người, theo như lời tiên tri Isaia loan báo, ánh sáng đã chiếu trên Giêrusalem, nhưng lại chỉ có những người ở ngoài mới nhận ra ánh sáng ấy, còn dân trong thành thì vẫn tiếp tục sống trong u tối. Giêrusalem đã có thể chỉ rõ nơi vua dân Do Thái mới sinh ra, nhưng lại chỉ có những người ở ngoài mới tới thờ lạy Ngài.
Người xưa cho rằng ngày ra đời của các vĩ nhân thường được báo hiệu bằng sự xuất hiện của các ngôi sao lớn. Các chiêm tinh thường nghiên cứu những chuyển động của các vì tinh tú để đoán biết định mệnh con người. Vì thế, khi nhìn thấy ngôi sao lạ, các đạo sĩ đã nhận ra sự sinh hạ của Đấng Cứu Thế, Vua dân Do thái.
Một ngôi sao xuất hiện trên bầu trời thì có chi đáng quan tâm. Nhưng tất cả cuộc hành trình kỳ diệu lại khởi đầu từ đó. Đêm hôm ấy, hẳn cũng đã có nhiều người nhìn lên trời, ngắm những vì sao nhưng lại không thấy được vì sao của Ngài.
Cũng thế, những biến cố, những sự kiện diễn ra hằng ngày trên đường phố, trong xã hội. Chúng ta cũng có thể đọc được những sự kiện, những biến cố ấy trên cùng một trang báo, qua cùng một chương trình thời sự, nhưng có mấy khi chúng ta thấy được trong một biến cố, trong một sự kiện dấu chỉ về một đòi hỏi của Chúa?
Đại diện cho lương dân, là đạo sĩ hăng hái lên đường tìm kiếm. Nên sau này, Đức Giêsu đã phải thốt lên: "Từ phương Đông phương Tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Ápraham, lsaac và Giacóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài" (Mt 8,11-12).
Các nhà đạo sĩ đã không chỉ bằng lòng với việc thấy được vì sao của Ngài. Các ông còn chuẩn bị lễ vật và hăm hở lên đường với một cuộc hành trình mang tính cách phiêu lưu, tiến tới một nơi vô định mặc dầu có ánh sao dẫn lối.
Các đạo sĩ khi nhìn thấy ánh sao lạ, họ đã tin tưởng vào một Đấng Cứu Tinh mà ngôi sao là dấu chỉ, họ vội vã lên đường mà không biết ngôi sao sẽ dẫn đi đâu. Khi ánh sao biến mất họ không thất vọng, không bỏ cuộc, nhưng dò hỏi kiếm tìm. Hành trình của họ là hành trình Đức tin, con đường của họ là con đường thánh giá. Để trắc nghiệm đức tin, cần phải xem phản ứng lúc đau khổ và thử thách, chứ không phải lúc đời lên hương, thuận buồm xuôi gió.
Theo ánh sáng của ngôi sao lạ, ba đạo sĩ đã tìm đến cung điện của vua Hêrôđê để thờ lạy kính bái, vì nghĩ rằng nếu có vị vua mới sinh thì ắt vua đó phải sinh ra nơi cung vàng điện ngọc, nơi chốn cao sang. Nhưng thực ra không phải thế. Khi ba vị đến ngay cung điện vua Hêrôđê và hỏi: "Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người," thì vua Hêrôđê tỏ hết sức ngạc nhiên. (Mt 2, 2)
Tin Mừng cho thấy là cũng đã có lúc không còn ánh sao nữa và các ông đã phải hỏi thăm về nơi các ông phải tới với những người không quen biết. Và không phải là không có những cạm bẫy. Hêrôđê có đó với tấm lòng nham hiểm đằng sau những lời nói đầy vẻ ân cần. Vượt không biết bao nhiêu dặm đường để rồi cuối cùng đứng trước một hài nhi yếu ớt, nhưng các ông cũng đã sấp mình thờ lạy, và dâng lễ vật với lòng hân hoan toại nguyện. Phải chăng đó chính là thái độ của một lòng tin đích thật. Các thượng tế và luật sĩ, mặc dù thông hiểu Kinh Thánh, nhưng vẫn ngồi yên tại chỗ.
Sự hiểu biết của họ như đã không đủ sức để lay chuyển họ. Là những người ở trong, họ đã tự đặt mình thành những kẻ ở ngoài. Trong khi đó, những người vẫn bị xếp vào hạng ở ngoài, vì đã đi theo tiếng gọi của Chúa, mà đã trở thành những người ở trong.
Thiên Chúa yêu thương ta và muốn tỏ cho ta biết Người yêu thương ta đến ngần nào. Qua biến cố Giáng Sinh của Chúa Giêsu, Thiên Chúa cho ta biết Người là ai và muốn làm gì để ta được làm con cái Người và được cứu độ. Điều đáng mừng nhất, đó là ơn cứu độ đã được ban cho mọi người không trừ ai. Dĩ nhiên ta không phải là người Do-thái, nhưng cũng không bị loại bỏ, trái lại được quyền đến chia sẻ cùng một gia nghiệp của Thiên Chúa. Nhưng điều quan trọng là ta có thực lòng và hăng hái đón nhận Đức Kitô như các nhà chiêm tinh phương Đông hay không.
Chính những Lời Chúa dạy trên đây là ánh sao sáng, còn sáng hơn sao Bê-lem năm xưa, soi sáng cho chúng ta biết Chúa đang ở ngay trong gia đình, trong làng xóm của chúng ta, để chúng ta đến hầu hạ phục vụ và dâng lễ vật cho Người.
Gặp được Chúa Giêsu và thờ lạy Ngài, đó là mục đích cuối cùng của đời người chúng ta, và đó cũng là trung tâm của bài Tin Mừng Lễ Hiển Linh hôm nay. Các mục tiêu cuối cùng trên, chúng ta thấy có những nhân vật nổi bật như vua Hêrôđê, các trưởng tế và luật sĩ tại Giêrusalem, các đạo sĩ từ Phương Đông. Mỗi một người trong hoàn cảnh riêng của họ đều được Chúa mạc khải cho, được Chúa mời gọi đến với Ngài bằng những con đường khác nhau. Các đạo sĩ nhờ ngôi sao sáng của thiên nhiên trong vũ trụ, một kỳ công sáng tạo của Thiên Chúa. Các trưởng tế và luật sĩ thì qua con đường mạc khải của Kinh Thánh, qua lời dạy của các tiên tri mà họ biết nằm lòng.
Hôm nay, Chúa vẫn đang hiện diện giữa chúng ta qua tha nhân là hình ảnh của Chúa. Chúa còn hiện diện cách đặc biệt qua những người nghèo khó, những người già neo đơn, những người đau yếu đang sống trong cô đơn tuyệt vọng. Chúa vẫn đang mời gọi chúng ta dâng cho Chúa tình yêu hiến thân phục vụ tha nhân một cách quảng đại. Chúa vẫn đang mời gọi chúng ta hãy nhận ra Chúa nơi anh em đang sống bên cạnh chúng ta. Chúa vẫn mời gọi chúng ta hãy dâng tặng cho Chúa món quà quý hoá nhất chính là tấm lòng biết yêu thương.
06/01 Con là con yêu quý của Cha
- Viết bởi Mc 1, 6b-11
Thứ Bảy đầu tháng, trước lễ Hiển Linh.
"Con là con yêu quý của Cha, con đẹp lòng Cha mọi đàng".
LỜI CHÚA: Mc 1, 6b-11
Khi ấy Gioan rao giảng rằng: "Có Ðấng đến sau tôi, nhưng quyền lực hơn tôi, tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Người. Phần tôi, tôi đã rửa anh em trong nước, nhưng Người, Người sẽ rửa anh em trong Thánh Thần.
Và đã xảy ra là trong những ngày đó, Chúa Giêsu từ Nazarét xứ Galilêa đến và chịu phép rửa bởi Gioan ở sông Giođan.
Khi vừa lên khỏi nước, Người liền thấy trời mở ra, thấy Thánh Thần như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Và có tiếng từ trời: Con là con yêu quí của Cha, con đẹp lòng Cha mọi đàng.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Trời mở ra
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Suy niệm :
Trước khi mừng Lễ Chúa Hiển Linh cho các đạo sĩ dân ngoại,
chúng ta mừng Đức Giêsu được hiển linh trên sông Giođan,
dù theo Tin Mừng Máccô, cuộc hiển linh này chỉ mình Ngài biết.
Nghe lời kêu gọi của Gioan từ hoang địa,
bao người từ khắp nơi kéo đến thú tội và chịu phép rửa của ông.
Phép rửa này nhằm bày tỏ lòng sám hối để được tha các tội (Mc 1, 4-5).
Trong số những người xếp hàng chờ đến lượt mình,
có Đức Giêsu, một ông thợ mộc từ vùng Nadarét.
Đức Giêsu có thú tội với Gioan, và sám hối để được tha thứ không?
Đức Giêsu có biết mình là Đấng cao trọng mà Gioan loan báo không?
Chúng ta cần chiêm ngắm mầu nhiệm lạ lùng này thật lâu.
Hành vi công khai đầu tiên của Đức Giêsu
là đứng chung với đồng bào, với tội nhân,
là khiêm hạ để mình bị dìm xuống nước, hầu được thanh tẩy.
Nhưng vào chính giây phút Ngài lên khỏi nước (c. 10)
bất ngờ Ngài thấy trời cao mở ra:
Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống trên Ngài,
bất ngờ Ngài nghe tiếng Thiên Chúa nói riêng với mình :
“Con là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Con” (c. 11).
Đối với Đức Giêsu, đây thật là một mặc khải quan trọng.
Thiên Chúa vén mở mối tương quan Cha-Con thân thiết,
đồng thời ban Thần Khí để Thần Khí ở lại mãi với Đức Giêsu.
Nơi dòng sông Giođan hôm đó, có sự hiển linh của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Đức Giêsu là Đấng vô tội, vì luôn làm đẹp lòng Cha,
nhưng vẫn đến với Gioan để xin chịu phép rửa sám hối.
Đức Giêsu là Đấng gần gũi với Thiên Chúa như Con với Cha,
nhưng cũng gần gũi với anh em của mình.
Những gì đã xảy ra ở sông Giođan, sẽ xảy ra mãi cho Đức Giêsu.
Mỗi lần Ngài khiêm hạ dìm mình, xóa mình, hủy mình,
là mỗi lần Ngài được nghe, được thấy Thiên Chúa mặc khải.
Sau khi chấp nhận đi con đường thập giá (Mc 8, 31),
Đức Giêsu được biến hình và được Cha tỏ mình trên núi (Mc 9, 2).
Sau khi chấp nhận dìm mình trong cái chết nhục nhằn,
Đức Giêsu đã được Cha phục sinh và nâng dậy.
Có thể câu đầu tiên Chúa Cha nói với Ngài là: “Cha hài lòng về Con”.
Cuộc sống người Kitô hữu cũng là liên tục dìm mình.
Thánh Phaolô nói: khi được dìm vào nước lúc chịu phép thánh tẩy,
chúng ta được dìm vào trong cái chết của Đức Giêsu (Rm 6,3).
Chỉ ai chấp nhận bị dìm như thế, người ấy mới được sống đời sống mới.
Đức Giêsu chịu phép rửa là mầu nhiệm đầu tiên của Năm Sự Sáng.
Ánh sáng của Thiên Chúa chỉ bừng tỏa trên con người khiêm nhu.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa,
xin cất khỏi con mọi lo lắng bề ngoài.
Xin tha thứ cho con
vì đã quá bận tâm
đến những điều mình nói,
đến ảnh hưởng của mình,
đến những điều người ta nói và nghĩ về con.
Xin tha thứ cho con
vì muốn nên giống kẻ khác
mà quên mất chính mình,
vì khao khát có được những đức tính của họ,
mà quên phát triển bản thân.
Xin tha thứ cho con
vì đã mất nhiều thời gian
cho việc phô trương
hơn là cho việc xây dựng bản thân.
Xin cho con biết cởi mở với anh em;
nhờ đó, Chúa có thể đến với con
như đến với một người bạn.
Và Chúa sẽ làm cho con trở nên “người”
mà Chúa mong muốn trong tình yêu của Ngài
vì con là con của Chúa
và là anh em của mọi người.
(Michel Quoist)
Suy Niệm 2: Thánh Thần, nước và máu
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một cho ta. Đó là Chúa Giê-su Ki-tô. Đó là sự sống cho nhân loại. Có ba nhân chứng: Thánh Thần, Nước và Máu. Chứng từ được công bố trong ngày Chúa Giê-su chịu phép rửa tại sông Gio-đan.
Thánh Thần ngự xuống dưới hình chim bồ câu. Đó là dấu hiệu Chúa Giê-su được Chúa Cha sai đến trần gian cứu độ nhân loại. Được xức dầu Thánh Thần. Được sai đi loan báo Tin mừng cho người nghèo. Tin mừng sự sống. Tin mừng giải thoát. Tin mừng ân sủng. Như xưa Thánh Thần bay là là trên mặt nước ban sự sống cho vũ trụ hỗn mang.
“Nước đã thấy Ngài, ôi lạy Chúa. Thấy Ngài nước rùng mình khiếp sợ”. Nước sông Gio-đan nhờ tiếp xúc với Đấng Chí Thánh, đã trở thành nước ban sự sống. Rửa sạch tội lỗi. Ban nguồn sự sống. Nhưng nước có thể phục sinh kẻ chết là nhờ Chúa Giê-su đã tự nguyện chịu chết cho nhân loại.
Đó chính là lời chứng của Máu. Việc gìm mình xuống dòng nước báo trước cái chết. Người sẽ chịu đổ máu. Sẽ bị mai táng trong mồ. Xuống âm phủ để phá tan sào huyệt thần chết. Chịu chết để tiêu diệt nọc độc của thần chết. Đem nhân loại vào sự sống.
Tất cả đều nói lên lòng vâng phục hiếu thảo của Chúa Giê-su. Hoàn toàn vâng lời Chúa Cha trong mọi sự. Cho đến nỗi bằng lòng chịu chết. Nhờ đó phục hồi được nhân loại. Nối lại mối thân tình cha – con giữa nhân loại với Thiên Chúa. Người đã trở thành Trưởng Tử hiếu thảo. Khai sinh một thế hệ hiếu thảo. Dẫn đầu một đàn em đông đúc. Được Chúa Cha chấp nhận. Vì thế Chúa Cha công khai tuyên dương Người: “Con là Con yêu dấu của Cha. Cha hài lòng về Con”.
Có Thánh Thần, Nước và Máu làm chứng. Đó là chứng chắc chắn. Vì được chính Chúa Cha công nhận.
Xin cho chúng con, những người đã chịu phép rửa tội, được noi gương Người. Đi vào con đường Người đã đi. Sống theo ơn Thánh Thần hướng dẫn. Chết cho con người tội lỗi. Sống hiếu thảo. Vâng phục Chúa Cha trong mọi sự. Để xứng đáng là những người em của Chúa. Là con yêu dấu của Chúa Cha.
Suy Niệm 3: Con Thiên Chúa
Ngày kia, có một ông vua đi săn trong rừng, bỗng dưng ông nghe thấy tiếng khóc của trẻ thơ. Ông đi tới và thầm nghĩ: - Chắc hẳn em nhỏ bất hạnh này bị cha mẹ bỏ rơi.
Ông ẵm đứa nhỏ lên, đem về hoàng cung, tắm rửa và mặc cho những bộ quần áo đẹp.
Khi em bé lớn lên, ông đã nói với em: - Kể từ nay, ta sẽ gọi ngươi là con của ta và ngươi sẽ gọi ta là ba của con.
Có lẽ chúng ta ngạc nhiên về lòng thương xót của ông vua, nhưng nếu suy nghĩ về bí tích Rửa tội, chúng ta còn phải ngạc nhiên hơn nữa.
Thực vậy, em nhỏ mặc dù được gọi nhà vua là cha, nhưng trong huyết quản em vẫn không có lấy được một giọt máu của hoàng tộc. Thực tế em vẫn chỉ là con của một kẻ nghèo túng.
Nhưng đối với chúng ta thì khác, nhờ dòng nước rửa tội, chúng ta được tẩy sạch khỏi mọi vết nhơ tội lỗi đã đành, mà hơn thế nữa chúng ta còn được mặc lấy tấm áo ơn sủng. Thiên Chúa thông ban cho chúng ta sự sống của Ngài, để khi chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha, thì đó không còn là một danh từ trống rỗng và vô nghĩa, nhưng là một sự thật: - Thiên Chúa là Cha chúng ta và chúng ta là con của Ngài.
Chúng ta hãy vui mừng và cảm tạ Thiên Chúa đã dành cho chúng ta một địa vị cao cả như thế, và nhất là hãy cố gắng sống cho xứng đáng với địa vị cao cả ấy.
Có một cậu bé hoàng tử chẳng may bị bọn cướp bắt cóc. Sau khi đã lấy hết những thứ quí giá trên mình, chúng trói câu vào một gốc cây. Nhưng may thay có một bác tiều phi đi ngang qua, đã cởi trói và đem cậu về nhà nuôi.
Nhiều năm sau, nhân một cuộc đi săn, vua cha đã dừng chân trước căn nhà nhỏ bé của bác tiều phu. Bác tiều vui rất lấy làm vinh dự được dẫn những đứa con của mình ra trình diện nhà vua. Khi đến cậu hoàng tử, bỗng nhà vua xúc động mạnh. Ông thầm nghỉ:
- Phải chăng đây chính là hoàng tử, con ta đã bị bắt cóc.
Ông hỏi bác tiều phu về gốc gác cậu bé và nói: - Nếu ở bên vai phải có dấu ấn ta đã ghi, thì đúng là hoàng tử.
Với bàn tay run run, ông vạch chiếc áo và mừng rỡ kêu lên: - Trời ơi, con ta.
Và cậu bé cũng kêu lên: - Ba ơi.
Làm sao chúng ta có thể hiểu được sự đổi thay trong lòng cậu bé. Từ trước đến giờ, cậu cứ tưởng mình là con bác tiều phu nghèo nàn với quần áo rách rưới và nhà cửa xiêu vẹo. Bỗng chốc cậu nhận ra mình là hoàng tử, được sinh ra tại hoàng cung và thuộc hoàng tộc.
Kể từ nay, dù ở bất cứ nơi nào và làm bất cứ việc gì, cậu đều ý thức mình là một hoàng tử, là con của đức vua, nhờ đó cậu luôn có được những lời nói và những cử chỉ xứng hợp.
Với chúng ta cũng vậy. Nhờ bí tích Rửa tội, chúng ta trở nên con Thiên Chúa, thế nhưng chúng ta có ý thức được địa vị cao cả ấy không?
Người nào ý thức về địa vị cao cả ấy sẽ không bảo: - Tôi đi nhà thờ.
Nhưng nói: - Tôi đi gặp gỡ và tâm sự với Chúa, bởi vì cầu nguyện chính là lúc người con thố lộ tâm tình với cha mình.
Đây là một việc làm kỳ diệu và tuyệt vời,bởi vì một con người tầm thường và xấu xí như chúng ta mà lại được tiếp xúc, trò chuyện với Thiên Chúa.
Một người luôn ý thức về địa vị cao cả ấy, thì dù có làm việc gì cũng không baso giờ quên Thiên Chúa là cha của mình. Người ấy sẽ luôn thầm nhủ: - Tôi sẽ làm vui lòng Cha tôi ở trên trời.
Khi chiêm ngắm những cảnh sắc hùng vĩ của thiên nhiên, người đó sẽ nghĩ ngay đến Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng nên tất cả.
Nhờ đời sống ơn sủng được chuyển thông qua bí tích Rửa tội, chúng ta trở nên con Thiên Chúa. Địa vị cao cả này đòi buộc chúng ta ở mọi nơi và trong mọi lúc phải có những lời nói và những việc làm thích hợp.
Bởi đó, phải sống làm sao cho xứng đáng với địa vị cao cả ấy, để rồi trong ngày sau hết, Thiên Chúa sẽ nói về chúng ta như ngày xưa Ngài đã nói về Đức Kitô bên bờ sông Giócđan:
- Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng.
Suy Niệm 4: Người con yêu quý
Vào thế kỷ thứ IV, Ario truyền bá một lạc thuyết vô cùng nguy hại. Ario chủ trương rằng Đức Kitô không thực sự là Con Thiên Chúa. Hoàng đế Theôđôsiô đỡ đầu cho lạc thuyết này.
Cũng vào lúc ấy hoàng đế phong cho hoàng tử mới 16 tuổi của ông được cùng trị vì trên ngai vàng với ông. Trong những khách được mời đến dự buổi lễ phong vương, có Đức Giám mục Amphilôcô. Đức Giám mục chỉ nói vài lời chúc mừng rồi chuẩn bị ra về.
Hoàng đế giận dữ hỏi: Ngài không quan tâm đến hoàng tử sao? Ngài không biết rằng ta phong cho hoàng tử cùng trị vì với ta hay sao?
Vị Giám mục bình tĩnh trả lời: Tâu hoàng thượng, hoàng thượng phật ý trước sự giả bộ thờ ơ của tôi đối với hoàng tử, vì tôi đã tỏ ra không tôn kính hoàng tử như bệ hạ mong muốn. Vậy Thiên Chúa sẽ nghĩ sao về hoàng thượng, khi hoàng thượng giáng cấp Người Con ngang hàng và cùng hiện hữu với Ngài dưới danh hiệu Con Thiên Chúa.
Từ câu chuyện trên chúng ta thấy: Ngày nay có nhiều người, kể cả một số người mệnh danh là Kitô hữu, đã chối bỏ hoặc nghi ngờ thiên tính của Đức Kitô. Thiết tưởng những người ấy hãy lắng nghe lời Chúa Cha tuyên phong trong đoạn Tin Mừng sáng hôm nay: Con là Con yêu quý của Cha, Cha hài lòng về Con.
Việc Đức Kitô chịu phép Rửa bởi Gioan đánh dấu bước khởi đầu công cuộc cứu độ của Ngài. Công cuộc trọng đại này là hành động của cả Ba Ngôi, vì chúng ta thấy Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống, đồng thời Chúa Cha phán bảo. Biến cố này rất quan trọng, nên Giáo Hội muốn chúng ta mừng kính riêng trong Chúa nhật hôm nay, tựa như ngày đăng quang của Đức Giáo Hoàng hay ngày nhận chức của một tổng thống.
Đặc điểm chúng ta cần nhấn mạnh đó là Chúa Cha trên trời hài lòng về Người Con yêu quý của Ngài, là Đức Kitô. Có người cha nào lại không vui mừng khi người con của mình khởi sự một chức vụ quan trọng: người cha của một bác sĩ, người cha của một tân linh mục, người cha của chú rể trong ngày cưới. Niềm vui ấy càng lớn lao hơn khi người con ấy vâng phục và tôn kính cha mình.
Đức Kitô là một người con yêu mến và vâng phục Chúa Cha. Đồng thời Ngài luôn khoan dung và khiêm tốn như một kẻ tôi tớ, vì thế, Chúa Cha luôn hài lòng về Ngài. Còn chúng ta thì sao?
Với bí tích Rửa Tội đã lãnh nhận, chúng ta được mời gọi để nhận biết, yêu mến và phụng sự Cha trên trời, khi chúng ta cố gắng chu toàn thánh ý Ngài giữa lòng cuộc đời, khi chúng ta cố gắng sống mầu nhiệm của bí tích Rửa Tội, khi chúng ta cố gắng noi theo Người Con Chí Thánh trong sự khiêm tốn và vâng phục, thì chúng ta cũng làm hài lòng Cha trên trời, để rồi trong ngày cuối cùng, chúng ta cũng sẽ được Chúa Cha tuyên phong, như ngày xưa Ngài đã tuyên phong Đức Kitô bên bờ sông Giođan: Con là Con yêu quý của Cha, Cha hài lòng về Con.
Suy Niệm 5: Phép rửa
Có hai anh bạn đi mua đồ phế thải. Sau khi xem xét một hồi, anh thứ nhất nói: - Toàn là đồ “năm vố” không à.
Còn anh kia thì nhặt lên một cây thánh giá cũ kỹ đã han dỉ và nói: - Thật là khó mà tin được, tôi đã tìm thấy một món đồ quý. Cây thánh giá này được làm bằng chất bạc ngày xưa.
Anh ta mang cây thánh giá về nhà, lau chùi, rồi đưa cho đứa con mới đi học giáo lý về. Nó kính cẩn cầm trong tay, ngắm nghía một hồi rồi bật khóc. Thấy vậy anh liền hỏi: - Tại sao con khóc.
Nó trả lời: - Con không thể cầm lòng được khi nhìn vào Chúa Giêsu bị treo trên thập giá.
Và như thế, cả ba người đều nhìn vào cây thập giá, thế mà người thứ nhất chỉ thấy đó là đồ ve chai mủ bể, người thứ hai thì thấy đó là một đồ vật có giá trị. Còn người thứ ba thì nhận ra Chúa Giêsu trên đó. Cách nhìn cây thập giá trên cũng tương tự như cách chúng ta nhìn Phúc âm.
Tất cả chúng ta đều nghe cùng một đoạn Phúc âm, thế nhưng mỗi người lại hiểu và phản ứng một cách khác nhau. Có thể chúng ta chỉ nghe như nghe một câu chuyện bình thường, chẳng có chi đặc sắc. Có thể chúng ta đã lắng nghe và tiến thêm một bước nữa, đó là tìm hiểu ý nghĩa của câu chuyện. Có thể ngoài việc học hỏi ý nghĩa, chúng ta còn cố gắng áp dụng vào cuộc sống. Đó là ba bước tiếp nhận Phúc âm: lắng nghe, học hỏi và áp dụng.
Đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay về sự việc Chúa Giêsu chịu phép rửa:
Bước thứ nhất, chúng ta lắng nghe câu chuyện và biết rằng: sau khi Gioan làm phép rửa cho Chúa Giêsu thì tầng trời mở ra, Chúa Thánh Thần ngự xuống và có tiếng từ trời phán ra. Và cũng chỉ có vậy mà thôi.
Bước thứ hai, chúng ta đi xa hơn một chút, bằng cách cố gắng tìm hiểu ý nghĩa của những sự kiện trên. Chẳng hạn hình ảnh trời mở ra cho ta thấy Thiên Chúa đã nghe lời cầu nguyện của dân Ngài và Ngài đang đến để cứu vớt họ. Hình ảnh Chúa Thánh Thần ngự xuống gợi lên cho chúng ta về một kỷ nguyên mới, vũ trụ này được tái tạo để trở nên tốt đẹp hơn, như ngày xưa, khi tạo dựng trời đất, Thánh Thần Chúa cũng đã bay lượn trên nước. Còn hình ảnh thứ ba, có tiếng nói từ trời phán ra: - Đây là con Ta rất yêu dấu.
Những lời này cho thấy Đức Kitô là Con Thiên Chúa, là Adong mới của cuộc tạo dựng mới, như lời thánh Phaolô: - Người thứ nhất tức Adong được tạo dựng là con người sống. Nhưng Adong cuối cùng là Đức Kitô, lại là thần khí ban sự sống. Adong thứ nhất bởi đất mà ra. Còn Adong thứ hai thì từ trời mà đến. Như chúng ta đã mang ảnh hưởng của con người bởi đất, tức Adong thứ nhất thế nào thì chúng ta cũng sẽ mang hình tượng con người bởi trời, tức Adong thứ hai là Đức Kitô như vậy.
Ngoài việc lắng nghe, tìm hiểu ý nghĩa, chúng ta còn phải áp dụng ý nghĩa câu chuyện ấy vào cuộc sống chúng ta.
Chẳng hạn, chúng ta có thể nhớ lại rằng: Cuộc sáng tạo mới bắt đầu với phép rửa của Chúa Giêsu và đã trở thành một thực tại gắn bó với mỗi người chúng ta. Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, thì một cách nào đó, bầu trời cũng mở ra, Chúa Thánh Thần ngự xuống trên chúng ta và chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa.
Và như thế chúng ta phải sống thế nào cho xứng đáng với tước vị cao cả ấy. Chính vì thế mà thánh Phaolô đã khuyên chúng ta: - Anh em đã sống lại cùng Đức Kitô, vậy anh em hãy hướng tâm hồn vào những sự trên trời chứ đừng vào những sự vật của trần thế này.
Suy Niệm 6: Khiêm nhường để được cứu độ
Xem lại Chúa Nhật Chúa Giêsu chịu phép rửa năm A, B
Trong cuộc sống, các cụ ta hay nói: người có tài mà không có đức thì sẽ làm hỏng chuyện.
Nói cách khác: người có tài mà không biết khiêm tốn thì sẽ sinh ra tự kiêu và tự mãn rồi phá hoại.
Với Thiên Chúa cũng vậy, Ngài quý chuộng cái đức hơn cái tài gấp bội lần! Vì thế, những người được Thiên Chúa mời gọi tham dự vào trong kế hoạch cứu độ của Ngài cách đặc biệt, thì yếu tố quan trọng không thể không có, đó là khiêm nhường.
Hôm nay, Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu cùng với đoàn người đông đảo đến để xin Gioan làm phép rửa cho mình. Khi chấp nhận đứng xếp hàng cùng với những người tội lỗi để đón nhận ơn sám hối từ Gioan là người cũng cần sự sám hối, Đức Giêsu đã khiêm nhường tuyệt đối.
Qua hành vi này, Chúa Giêsu đã tự hạ để chấp nhận mang trong mình tội lỗi của mọi người, mặc dù nơi Ngài không tỳ tích của sự tội. Ngài làm như thế để nâng con người lên làm con Chúa và nhất là cứu chuộc con người. Qua hành vi này, Đức Giêsu muốn dạy chúng ta bài học về sự khiêm nhường và liên đới.
Tuy nhiên, ngày nay, người ta ưa ”chơi trội”, tức là luôn luôn muốn mình phải được trở thành người nổi tiếng, vì thế, họ tìm mọi cách và thường hay cậy nhờ những ”ông bầu” lăng xê để mong sao tìm được những ”fan” riêng cho mình.
Ngay trong nhà đạo chúng ta, vẫn có đây đó những chuyện tiêu cực xảy ra khi nhiều người mong muốn mình được người khác để ý, quan tâm và khen ngợi. Đạt được những điều đó, họ mới hứng thú để tham gia việc phục vụ thờ phượng Chúa.
Tuy nhiên, những thứ đó khó có thể đem lại cho chúng ta được bình an, hạnh phúc, bởi nó chỉ là những thứ háo danh hão huyền, trên đầu môi chóp lưỡi mà thôi.
Muốn có được hạnh phúc đích thực, chúng ta noi gương Đức Giêsu hôm nay, đó là sống khiêm nhường để liên đới với anh chị em đau khổ nhằm cứu chuộc họ. Mặt khác, khiêm nhường mới đi vào mối tương quan với Thiên Chúa và mới được cứu chuộc.
Mong sao, ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta được mời gọi trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu để loan truyền về Ngài cách trung thực cho anh chị em mình.
Xin Chúa ban cho nhân đức khiêm nhường của Chúa thâm nhập vào tận con tim, khối óc của chúng ta, để trong đời sống, chúng ta sẽ làm toát lên vẻ đẹp của sự khiêm nhường qua lời nói, hành động và việc làm. Ước gì lời của Thiên Chúa Cha giới thiệu Đức Giêsu cho mọi người: ”Đây là con ta yêu dấu, đẹp lòng ta mọi đàng” cũng sẽ là lời ân thưởng cho mỗi người chúng ta. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Chúa Giêsu là khuôn mẫu cuộc đời ta
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu chịu phép Rửa để tỏ cho ta ý nghĩa của Bí tích Rửa tội. Nhờ Bí tích Rửa tội, chúng ta được đổ tràn Thánh Thần, được Chúa Cha xác nhận là con yêu dấu, được trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu. Vì thế, chính Chúa Giêsu là khuôn mẫu cuộc đời chúng ta.
Cầu nguyện: Lạy Chúa là Cha của con, nhờ Bí tích Rửa tội, Cha đổ tràn Chúa Thánh Thần trên con và biến đổi con thành một tạo vật mới và là con của Cha. Con hết lòng cảm tạ Cha vì Cha đã cho con được thông hiệp vào sự sống của Cha, được sống trong tình yêu của Cha. Con tin nhận rằng Cha yêu thương con, mọi ý định của Cha đã thực hiện nơi con đều là để cho con được hạnh phúc. Xin Cha giúp con biết trung thành tìm kiếm và thực thi Ý Cha trong mọi hoàn cảnh sống.
Lạy Chúa Giêsu, con hết lòng cảm tạ Chúa, vì nhờ Chúa và trong Chúa, con được trở nên con yêu dấu của Chúa Cha. Chúa là người con hiếu thảo yêu dấu của Chúa Cha, đã trung thành thực hiện Ý Chúa Cha và làm đẹp lòng Chúa Cha. Xin Chúa giúp con trung thành bước theo đường lối của Chúa để xứng đáng là người con yêu dấu của Chúa Cha.
Lạy Chúa Thánh Thần, con dâng lời cảm tạ Chúa vì Chúa luôn ngự trong con và tuôn đổ tình yêu cho con. Xin Chúa giúp con hết lòng yêu mến Chúa Cha và yêu mến anh chị em. Xin Chúa giúp con biết cầu nguyện, xin Chúa hiện diện trong con, nâng đỡ sự yếu hèn của con, và xin Chúa dẫn dắt con trong đời sống đức tin.
Lạy Chúa Ba Ngôi cực thánh, con yêu mến Chúa. Xin Chúa giúp con sống thánh thiện để xứng đáng với hồng ân của Bí tích Rửa tội. Amen.
Ghi nhớ: “Con là con yêu quý của Cha, con đẹp lòng Cha mọi đàng”.
Suy Niệm 8: Con người và sứ mạng của Chúa Giêsu
(Lm Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Trong đoạn này, tuy Thánh Marcô viết về việc Chúa Giêsu chịu phép rửa, nhưng ngài không nhằm tường thuật việc đó (bởi đó, Mc chỉ dùng động từ “làm phép rửa” nhưng không mô tả chút gì về việc đó). Điều Mc nhắm tới là dùng dịp Chúa Giêsu chịu phép rửa để giới thiệu con người và sứ mạng của Chúa Giêsu:
- Chúa Giêsu cao trọng hơn Gioan: Ngài quyền thế hơn Gioan (câu 7), Ngài sẽ làm một phép rửa trọn vẹn hơn trong Thánh Thần (câu 8).
- Ngài là Messia Con Thiên Chúa (câu 11: tiếng từ trời).
B.... nẩy mầm.
1. Cả hai vai chính trong chuyện này đều khiêm tốn: Gioan khiêm tốn tự hạ mình để đề cao Chúa Giêsu; Chúa Giêsu khiêm tốn xin Gioan làm phép rửa cho mình. Người khiêm tốn là người chỉ nghĩ đến việc chu toàn nhiệm vụ chứ không quan tâm đến vinh dự cá nhân.
2. Đoạn Tin Mừng này nằm trong chương đầu của Tin Mừng Mc. Nét đầu tiên thánh Mc giới thiệu về Chúa Giêsu là khiêm tốn. Chính vì Chúa Giêsu khiêm tốn nên Ngài được Chúa Cha hài lòng (“Cha hài lòng về con”) và được Chúa Cha tôn vinh (“Con là Con yêu dấu của Cha”).
3. Một chiếc xe tải không thể qua cầu được vì nóc xe cao quá nên chạm vào mái che của chiếc cầu. Chẳng ai nghĩ ra được cách nào cả. Khi đó một cậu bé đưa ý kiến: hãy xì bớt hơi các bánh xe của nó. Người ta đã làm theo, và xe đã qua được cầu. (Quote).
5. “Con là Con yêu dấu của Cha. Cha hài lòng về con” (Mc 1,11)
Tôi vừa đưa tiễn một người bạn thân đến nơi an nghỉ cuối cùng. Trên đường về, tôi luôn tự hỏi: Tôi là ai? Tôi từ đâu tới và sẽ đi về đâu? Tôi sống để làm gì? Và tại sao lại phải chết?
Chắc có lần bạn cũng đã hỏi như tôi, vì một khi không biết sống để làm gì thì làm sao sống một cuộc đời trọn vẹn ý nghĩa được. Hôm nay Chúa Cha long trọng giới thiệu Con yêu dấu của Người cho chúng ta để nhờ Người Con ấy chúng ta nên nghĩa tử của Người, được gọi Thiên Chúa là Cha và được tham dự vào gia đình của những người con Thiên Chúa. Đó là phẩm giá của con người trên khắp thế giới.
Cảm tạ Cha đã ban Con yêu dấu của Người cho chúng con. Và cùng với Ngài chúng con kêu lên Abba, Cha ơi! (Epphata).
Suy Niệm 9: Con người và sứ mạng của Chúa Giêsu
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Thánh Marcô trong bài Tin Mừng hôm nay, đã dùng dịp Chúa Giêsu chịu phép rửa để giới thiệu về con người và sứ mạng của Chúa Giêsu.
- Chúa Giêsu cao trọng hơn Gioan: Ngài quyền thế hơn và Ngài sẽ làm một phép rửa trọn vẹn hơn trong Thánh Thần (câu 8).
- Ngài là Messia Con Thiên Chúa (câu 11: tiếng từ trời).
2. Như vậy, cả hai vai chính trong chuyện này đều là những nhân vật khiêm tốn: Gioan khiêm tốn tự hạ mình để đề cao Chúa Giêsu; Chúa Giêsu khiêm tốn xin Gioan làm phép rửa cho mình.
Người khiêm tốn là người chỉ nghĩ đến việc chu toàn nhiệm vụ chứ không quan tâm đến vinh dự cá nhân.
Lúc còn trẻ, Franklin là một người rất cao ngạo, đi ra ngoài lúc nào cũng nghênh ngang. Có một lần, anh ta đến thăm một vị giáo sư, không ngờ cửa nhà ông ấy có một thanh chắn ngang rất thấp.
Do bất cẩn Franklin đụng đầu phải, cậu ta trừng mắt tức giận.
Lúc này vị giáo sư đi ra đón, nhìn thấy vậy thì cười và nói:
- Chàng trai, có đau lắm không? Nếu cậu hiểu cuộc sống thì cậu nên cúi thấp đầu, có như thế thì hôm nay cậu đã không phải nhận hậu quả như vậy.
Tiếp đó, vị giáo sư lại nói một câu hàm ý: “Sự cao ngạo được thấy rất nhiều ở những người trẻ tuổi, vì họ đánh giá mình quá cao, nhưng đến lúc nào đó đụng vào ngạch cửa rồi thì mới bắt đầu suy nghĩ về việc mình phải nỗ lực khom lưng để đi qua”.
Khi Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm thêm 22 Hồng Y mới thuộc 14 quốc gia vào Hồng Y đoàn trong đó có: 8 vị Ý, 2 vị Mỹ, 12 thuộc 12 nước khác thì một trong hai vị của Hoa Kỳ là tân Hồng Y Roger Mahony Tổng Giám mục Los Angeles cho biết: “Chúng ta cần nhớ rằng, việc bổ nhiệm Hồng Y không phải là một phần thưởng vì những thành tích quá khứ, nhưng là một lời mời gọi gia tăng hoạt động mục vụ trong tương lai”. Đức Hồng Y nhắc lại thân thế khiêm hạ của Ngài: “Hồi nhỏ tôi phải đi chăn gà vịt và quét dọn chuồng gà, chứ không phải xuất thân từ một gia đình sang trọng”. Đức Hồng y tiếp: “Trong Tin Mừng, Chúa đã chọn những người tầm thường để thực hiện công việc của Ngài”.
Chúa Giêsu là Đấng khiêm tốn. Chính vì Chúa Giêsu khiêm tốn nên Ngài được Chúa Cha hài lòng và tôn vinh: “Con là Con yêu dấu của Cha. Cha hài lòng về con” (Mc 1, 11).
Muốn làm hài lòng Thiên Chúa tưởng không có gì hơn là sống khiêm tốn giống như Chúa.
Chuyện kể rằng: Khi Đức Maria và thánh Giuse đang trên đường đến Bêlem, thiên thần hiện ra với đàn súc vật để chọn lấy một con có thể giúp đỡ thánh gia. Sư tử tình nguyện trước. Nó nói: “Chỉ có tôi là chúa sơn lâm đáng phục vụ người cai trị thế giới. Tôi sẽ xé xác kẻ nào đến gần Hài nhi”.
Thiên thần nói: “Bạn hùng hổ quá”.
Cáo tinh khôn theo dõi và với vẻ mặt vô hại, nó nói:
‘‘Tôi sẽ hết sức cung phụng trẻ Giêsu, mỗi sáng tôi sẽ bắt một con gà cho Mẹ Ngài”.
Thiên thần nói với cáo: “Bạn xảo quyệt quá”.
Rồi con công đến khoe màu sắc tuyệt vời của cái đuôi. Nó nói: “Tôi sẽ trang hoàng ngôi nhà nhỏ bé này đẹp hơn cả Đền thờ Salômon”.
Thiên thần nói: “Bạn hão huyền quá”.
Nhiều con khác đến và cũng muốn giúp đỡ nhưng không con nào được chọn. Sau cùng thiên thần rảo mắt nhìn quanh và thấy một con lừa và một con bò đang làm việc với một bác nông dân. Thiên thần gọi chúng lại và hỏi: Các bạn có gì giúp đỡ Thánh Gia không?
Lừa cụp tai xuống trả lời: “Không có gì. Chúng tôi chả được học hành, càng cố học càng dốt, nhưng chúng tôi khiêm tốn và kiên nhẫn”. Còn bò ngượng ngùng tiếp lời: “Vâng, có lẽ chúng tôi chỉ có thể làm được một vài việc nhỏ như lấy đuôi đuổi ruồi thôi”.
Thiên thần nói: “Được lắm, tôi cần hai bạn.”
Những ai muốn làm môn đệ của Chúa cũng phải sống tinh thần khiêm tốn. Họ phải tuyệt đối tránh sự tự kiêu, tự đại vì thành công của mình và cũng như để khỏi thất vọng mỗi khi thất bại, không thành công.
Ingres là một họa sĩ lừng danh vào đầu thế kỷ 19, những bức họa của ông có giá trị nghệ thuật mà không một họa sĩ nào đương thời có thể sánh bằng. Thế mà đến năm 85 tuổi, người họa sĩ kỳ tài ấy lại bắt đầu sao chép lại những bức họa của các họa sĩ khác.
Các bạn bè khi thấy ông làm điều ấy thì hết sức ngạc nhiên nên đã hỏi tại sao ông lại làm như thế? Ông điềm nhiên trả lời:
- Tôi làm thế để học?
Một con người vĩ đại với những tác phẩm nghệ thuật lừng danh ngay khi còn trẻ, vậy mà lại nhận rằng mình chưa hiểu đủ, thấy đủ và nhất là chưa học đủ, quả là một con người hiếu học và khiêm nhường.
Khiêm nhường là con đường cao cả nhất, vì “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (Ga 4, 6).
05/01 Gặp Chúa-say mê-giới thiệu
- Viết bởi Ga 1, 43-51
Gặp Chúa-say mê-giới thiệu.
Thứ Sáu đầu tháng, trước lễ Hiển Linh.
"Thầy là Con Thiên Chúa, là Vua Israel"
LỜI CHÚA: Ga 1, 43-51
Khi ấy, Chúa Giêsu định đi Galilêa. Người gặp Philipphê và nói với ông: "Hãy theo Ta".
Philipphê là người thành Bétsaiđa, quê quán của Anrê và Phêrô. Philipphê gặp Nathanaen và nói với ông: "Ðấng đã được Moisen ghi trong Luật và các tiên tri nói đến, chúng tôi đã gặp rồi: đó là Giêsu con ông Giuse, người thành Nazarét".
Nathanaen đáp: "Bởi Nazarét nào có cái chi hay?". Philipphê nói: "Hãy đến mà xem".
Chúa Giêsu thấy Nathanaen đi tới mình, thì nói về ông: "Ðây thật là người Israel, nơi ông không có gì gian dối". Nathanaen đáp: "Sao Ngài biết tôi?"
Chúa Giêsu trả lời rằng: "Trước khi Philipphê gọi ngươi, lúc ngươi còn ở dưới cây vả, thì Ta đã thấy ngươi". Nathanaen thưa lại rằng: "Lạy Thầy, Thầy là Con Thiên Chúa, là Vua Israel". Chúa Giêsu trả lời: "Vì Ta đã nói với ngươi rằng: ta đã thấy ngươi dưới gốc cây vả, nên ngươi tin, ngươi sẽ thấy việc cao trọng hơn thế nữa".
Và Người nói với ông: "Quả thật, quả thật, Ta nói với các ngươi, các ngươi sẽ thấy trời mở ra, và các Thiên Thần Chúa lên xuống trên Con Người".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Các thiên thần của Thiên Chúa
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Suy niệm:
Trong kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa,
Đấng dựng nên muôn vật hữu hình cùng vô hình.
Các thụ tạo vô hình ở đây chính là chư vị thiên thần.
Chư vị này sống gần bên Thiên Chúa để phục vụ Ngài và nhân loại.
Hơn nữa, các thiên thần là những người đã phục vụ Đức Giêsu Kitô,
từ khi Ngài chào đời đến khi Ngài quang lâm.
Sứ thần Gabrien được Thiên Chúa sai đến với trinh nữ Maria
để loan báo về sự hạ sinh của Đấng Cứu Độ (Lc 1, 26).
Ta nghe tiếng ngợi khen của muôn vàn thiên binh cùng với sứ thần
trong đêm Con Thiên Chúa giáng sinh trên trái đất (Lc 2, 13).
Ta cũng thấy các thiên thần hiện ra để phục vụ Đức Giêsu (Mt 4, 11),
sau khi Ngài chiến thắng những cám dỗ của quỷ dữ nơi hoang địa.
Khi Đức Giêsu bị xao xuyến trước cái chết sắp đến,
một thiên thần từ trời đã đến tăng sức cho Ngài (Lc 22, 43).
Ngài đã không tránh né cái chết
bằng cách xin Cha cấp cho mình mười hai đạo binh thiên thần (Mt 26, 53).
Tin Vui Phục sinh được loan báo bởi các thiên thần từ mộ trống (Lc 24, 6).
Vào ngày tận thế, các thiên thần của Đức Giêsu sẽ đi theo Ngài
khi Ngài trở lại trong vinh quang để phán xét cả thế giới (Mt 16, 27).
Đức Giêsu nay ngự bên hữu Thiên Chúa trên trời,
trổi vượt trên các thiên thần và được các thiên thần thờ lạy (Dt 1, 4. 6).
Câu cuối của bài Tin Mừng hôm nay
cũng nói đến tương quan giữa Đức Giêsu và các thiên thần.
Trong lần gặp gỡ với Nathanaen và các bạn của ông
Đức Giêsu đã long trọng hứa là họ sẽ thấy trời rộng mở,
và “các thiên thần lên lên xuống xuống trên Con Người” (c. 51).
Trong một giấc mộng, Giacóp đã chiêm bao thấy
“một chiếc thang dựng dưới đất, đầu thang chạm tới trời,
trên đó có các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống” (St 28, 12).
Đức Giêsu nhận mình chính là chiếc thang đó, là Đấng Trung Gian
nối đất với trời, nối Thiên Chúa với nhân loại.
Các thiên thần cũng phải qua Ngài mà đến phục vụ con người.
Các thiên thần cũng là những đấng trung gian được sai đi,
nhưng họ phải qua Đấng Trung Gian duy nhất và đích thực,
vì Đấng đó vừa trọn vẹn là người, vừa trọn vẹn là Thiên Chúa.
Lên lên xuống xuống trên thang Giêsu là việc của các thiên thần.
Lên với Thiên Chúa để dâng cho Ngài nỗi thống khổ của nhân loại.
Xuống với nhân loại để mang cho họ ân lộc và sứ điệp từ trời.
Thiên thần vừa gần với con người, vừa gần với Thiên Chúa,
vừa tựa trên đất, vừa đụng tới trời, nên kéo trời xuống đất và đưa đất lên trời.
Xin được quyền năng của Sứ thần Micae: Ai bằng Thiên Chúa.
Xin được sức mạnh của Sứ thần Gabrien: Thiên Chúa hùng dũng.
Xin được ơn lành mạnh của Sứ thần Raphaen: Thiên Chúa chữa lành.
Kitô hữu là người hạnh phúc vì biết mình được nâng đỡ chở che.
Cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi là Đấng con tôn thờ,
xin giúp con quên mình hoàn toàn
để ở lại trong Chúa.
lặng lẽ và an bình
như thể hồn con đã sống trong vĩnh cửu.
Lạy Đấng thường hằng bất biến,
mong sao không gì có thể khuấy động
sự bình an của con,
hay làm cho con ra khỏi Chúa;
nhưng ước chi mỗi phút lại đưa con
tiến xa hơn vào chiều sâu của mầu nhiệm Chúa !
Xin làm cho hồn con bình an thanh thản,
xin biến hồn con thành chốn trời cao,
thành nơi cư ngụ dấu yêu của Chúa,
nơi Chúa nghỉ ngơi.
Ước chi
con không bao giờ để Chúa ở đó một mình
nhưng con luôn có mặt, với trọn cả con người,
với thái độ nhạy bén trong đức tin,
cung kính tôn thờ
và phó mình cho Chúa sáng tạo.
(Lời nguyện của chân phước Elisabeth de Trinité)
Suy Niệm 2: Ánh sáng tình yêu
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Nhân loại chìm trong bóng tối. Chúa Giê-su đến chiếu lên ánh sáng. Ánh sáng bừng lên làm những thôn xóm nghèo hèn tăm tối sáng lên rạng rỡ. Ai có ngờ ngôi sao lạ tắt đi ở Giê-ru-sa-lem. Để sáng lên ở Bê-lem. Thiên thần không ca hát trên những cung điện xa hoa ở thủ đô. Nhưng ca hát bên mái tranh nghèo Bê-lem. Làng quê Na-da-rét bé nhỏ nghèo hèn: “Từ Na-da-rét, làm sao có cái gì hay được”. Nay sáng lên rực rỡ.
Ánh sáng bừng lên trong tâm hồn u mê tăm tối. Một câu nói thôi. Đã xuyên thấu tâm can Na-tha-na-en. Bừng sáng tâm trí. Để ông thốt lên lời tuyên xưng sớm nhất trong Tân Ước: “Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính Thầy là Vua Ít-ra-en”.
Ánh sáng bừng lên báo hiệu thiên đàng hạnh phúc: “Thật, tôi bảo thật các anh, các anh sẽ thấy trời rộng mở, và các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người”.Đó chính là ánh sáng ban sự sống. Sự sống đời đời.
Thánh Gio-an nhận biết đó là ánh sáng tình yêu. Ma quỉ phủ lên thế giới màn tối hận thù chết chóc. Ngay từ đầu Ca-in đã giết A-ben. “Chúng ta đừng bắt chước Ca-in: nó là người của ác thần, nên đã giết em mình…Kẻ không yêu thương, thì ở lại trong sự chết”.
Chúa Giê-su đến chiếu lên ánh sáng tình yêu ban sự sống đời đời. Tình yêu hệ tại sự quên mình. “Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì: đó là Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta”. Chúa xuống trần chịu chết vì yêu thương ta. Để ta được sống.
Để sống trong ánh sáng và có sự sống, ta cũng phải đi vào ánh sáng tình yêu của Chúa. Chính vì thế thư Gio-an dạy ta: “Chúng ta hãy yêu thương nhau…Chúng ta từ cõi chết bước vào cõi sống, vì chúng ta yêu thương anh em”. Yêu thương là phải cho đi. Là phải hi sinh quên mình như Chúa Giê-su: “Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em. Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lầm cảnh túng thiếu mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu thiên Chúa ở lại trong người ấy được”?
Xin Chúa chiếu ánh sáng tình yêu vào tâm hồn con. Để bước đi trong tình yêu. Và đạt đến sự sống đời đời.
Suy Niệm 3: Giới thiệu Chúa
(http://dcvxuanloc.net)
“Đấng mà sách luật Môsê và các ngôn sứ nói tới, chúng tôi đã gặp” (Ga 1,45).
Để chuẩn bị cho sứ mạng loan báo Nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu sống ẩn dật tại Nadaret suốt 30 năm. Khi bắt đầu sứ vụ cứu thế, Chúa Giêsu đã chọn gọi các môn đệ đầu tiên. Bài Tin mừng hôm nay thuật lại việc Chúa chọn Philipphê đi theo Người và qua ông, Chúa gọi thêm Nathanaen nữa. Ơn gọi theo Chúa là một hành trình, các môn đệ được đến và ở lại với Ngài, với thời gian họ sẽ khám phá ra Chúa Giêsu là vị tôn sư tốt lành để dấn bước theo Ngài. Cũng như các môn đệ khác, Philipphê đã cảm nghiệm về Chúa, từ đó ông dấn bước theo Chúa và giới thiệu Chúa cho Nathanaen. Nathanaen cảm thấy bất ngờ, bởi «Từ Nadaret, làm sao có cái gì hay được?». Có thể lời giới thiệu của Philipphê chưa đủ sức mạnh lôi cuốn, nên ông phải nại đến ơn Chúa «Cứ đến mà xem». Khi gặp được Chúa cũng như được đối thoại với Chúa, Nathanaen đã thay đổi cách nhìn và tuyên xưng niềm tin của mình vào Chúa «chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính Thầy là vua Israel». Từ cái nhìn đức tin này, Nathanaen đã dấn thân trọn vẹn và trở thành khí cụ để Chúa sử dụng cho sứ mạng của Ngài.
Bản chất của Giáo hội là truyền giáo. Là Kitô hữu chúng ta cũng mang trong mình sứ mạng này. Thế nhưng ta không thể giới thiệu Chúa cho người khác nếu trong ta không có Chúa, bởi «không ai có thể cho cái mà họ không có». Các môn đệ có Chúa khi đến và ở lại với Ngài. Qua việc cử hành Phụng vụ, các Bí tích và nhất là Thánh lễ chúng ta được đến và ở lại với Chúa. Thế nhưng ta đã ý thức và trân trọng những giây phút ấy chưa? Chúa Giêsu là nơi Thiên Chúa và con người gặp nhau. Vì thế, lời giới thiệu của ta phải quy hướng về Chúa chứ không phải chính mình. Lời giới thiệu sẽ có sức thuyết phục khi lời nói phải đi đôi với hành động. Đồng thời, ta không nên ỷ lại vào sức riêng của mình, nhưng phải nại đến ơn Chúa như Philipphê đã giới thiệu Nathanaen với Chúa năm xưa.
Hằng ngày, chúng ta gặp Chúa qua việc cử hành phụng vụ và nơi những người chung quanh. Xin cho mỗi người chúng ta nhận ra sự hiện diện đầy tình yêu thương này và được biến đổi thực sự. Từ đó, chúng ta biết giới thiệu Chúa cho tha nhân bằng chính cuộc sống của mình.
Suy Niệm 4: Vượt qua thành kiến để tin theo Chúa
Có một bạn trẻ Công Giáo rủ một người bạn bên đạo Phật đi lễ của người Công Giáo. Bạn bên đạo Phật nói rằng: “Mình có theo đạo Công Giáo đâu mà đi lễ?”; bạn bên Công Giáo trả lời: “Thì đi với tớ một hôm cho vui!”, nể quá nên bạn trẻ bên đạo Phật đã đi lễ cùng.
Đến nơi, thánh lễ chuẩn bị bắt đầu, hai bạn đi vào nhà thờ cách cung kính, nghiêm trang. Trong phần giảng lễ hôm đó, vị linh mục đã quảng diễn về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa cách hùng hồn và đầy hấp dẫn qua dụ ngôn: “Người Cha nhân hậu”! Không ngờ, bài giảng ấy đã đánh động mạnh nơi lương tâm người bạn kia, bởi bạn đó thấy được một Đức Giêsu dễ thương, gần gũi và nhất là không hề chấp nhất tội lỗi của con người. Ngài luôn tìm mọi dịp thuận tiện để tha thứ. Sau đó, bạn đó đã tình nguyện xin đi học giáo lý và gia nhập đạo Công Giáo.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng thuật lại việc sau khi Đức Giêsu gọi ông Philiphê, ông đã giới thiệu ông Nathanaen đến với Ngài. Tuy nhiên, Nathanaen đã hồ nghi và thốt lên: “Từ Nadarét làm sao có cái gì hay được?”. Nhưng khi ông đến và gặp Đức Giêsu, Ngài đã nói về ông như sau: “Đây đích thực là một người Ítraen, lòng dạ không có gì gian dối”. Ngay sau đó, Ngài đã cho ông biết về đời sống của ông cách nhiệm mầu, vì thế, ông đã sẵn sàng từ bỏ mọi sự để đi theo Đức Giêsu.
Nathanaen đã thoát được thành kiến cá nhân và sẵn sàng đi theo Đức Giêsu, phải chăng một phần lớn là do bởi cách giới thiệu đầy khéo léo của Philiphê!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta noi gương Philiphê, hãy trở nên trung gian để giới thiệu Chúa cho anh chị em mình, sẵn sàng khiêm tốn để cho Chúa được lớn lên trong anh chị em chúng ta. Đồng thời cũng mời gọi chúng ta không nên có những thành kiến cá nhân để rồi nhìn nhận vấn đề cách lệch lạc và đánh đồng tất cả.
Tuy nhiên, sự thay đổi của Nathanaen khi ông đã gặp được Đức Giêsu và đi theo Ngài cũng là một lời mời gọi cho mỗi chúng ta, đó là: khi đã hiểu được vấn đề, thì những thành kiến trước đó sẽ không còn ngự trị trong con người và lối suy nghĩ của chúng ta trong hiện tại.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết giới thiệu Chúa cho anh chị em mình như Philiphê và sẵn sàng bỏ qua thành kiến để sống hài hòa với anh chị em mình như Nathanaen khi xưa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 5: Ðến mà xem
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
“Từ Nazareth làm sao có cái gì hay được”. Nathanael lặp lại một thành kiến không tốt về Nazareth, về quê hương của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nhận định về ông như một người Israel đích thực: “Lòng dạ không có gì gian dối”. Nhân vô thập toàn, không ai là hoàn toàn tốt và cũng không ai là hoàn toàn xấu. Nathanael là con người tốt, nhưng cũng có khuyết điểm sống theo dư luận không có quan niệm tốt về Nazareth: “Từ Nazareth làm sao có cái gì hay được”.
Chứng tá đầy xác tín của Philipphê đã giúp đưa Nathanael ra khỏi sự mù quáng tinh thần: “Cứ đến mà xem, Ðấng mà sách Luật Môsê và các ngôn sứ đã nói tới, chúng tôi đã gặp, đó là ông Giêsu, con ông Giuse, người Nazareth”. Chỉ kinh nghiệm sống trực tiếp với Chúa Giêsu mới có thể giúp các tông đồ, những kẻ đầu tiên được gọi theo Chúa Giêsu, vượt qua được những giới hạn trần tục, che kín mầu nhiệm Con Thiên Chúa nhập thể.
Tác giả Phúc Âm theo thánh Gioan đã mô tả ơn gọi sống như Chúa Giêsu như là một cuộc gặp gỡ trực tiếp giữa Chúa và người được gọi. Và khi đã được gặp gỡ trực tiếp với Chúa Giêsu rồi, người được gọi mới vượt qua được những thành kiến tự nhiên đối với Chúa, và cảm thấy được thôi thúc chia sẻ kinh nghiệm gặp Chúa cho anh chị em chung quanh.
Kinh nghiệm sống của Philipphê được chia sẻ cho Nathanael: “Ðấng mà sách Luật Môsê và các ngôn sứ đã nói đến, chúng tôi đã gặp, đó là ông Giêsu, con ông Giuse, người Nazareth”.
Có thể nói đây là kiểu mẫu cho điều chúng ta gọi là việc tông đồ, là thông truyền và chia sẻ kinh nghiệm sống của chính bản thân về Chúa Giêsu cho anh chị em chung quanh, đây cũng là phương thế duy nhất giúp anh chị em vượt qua được những thành kiến không tốt về Thiên Chúa, để cùng chúng ta tôn thờ và yêu mến Ngài.
Chỉ nhờ đã gặp được Chúa trước rồi chúng ta mới có thể trở nên phương tiện để giúp anh chị em đến gặp Chúa: “Cứ đến mà xem”.
Ước chi đời sống chúng ta là một lời mời gọi liên lỉ anh chị em đến với Chúa.
Suy Niệm 6: Chúa mời gọi
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa mời gọi ta theo Chúa. Đến với Chúa, ta sẽ được Chúa tỏ cho thấy những điều kỳ diệu, và ta sẽ nhận ra Chúa là lẽ sống của đời mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, đã nhiều lần Chúa mời gọi con theo Chúa. Đã nhiều lần Chúa nhờ các sứ giả của Giáo hội giới thiệu Chúa cho con. Nhưng cho tới nay, dường như con vẫn còn hững hờ trước lời mời gọi ấy. Như Thánh Na-tha-na-en, có lúc con nghĩ rằng Chúa có gì hay đâu, có gì hấp dẫn đâu. Cuộc đời con vẫn còn vất vả cơ cực, gia đình con vẫn còn khổ đau bất hạnh, thế giới này vẫn chiến tranh, bất công, hận thù, nhiều người vẫn sống cuộc đời không xứng với phẩm giá con người. Thực tế cuộc đời trở nên như một thách đố. Tin Mừng của Chúa dường như chẳng giải quyết được gì. Chương trình cứu độ của Chúa dường như chưa thành công. Và lạy Chúa, con rơi vào tâm trạng hoài nghi, hững hờ, chẳng còn phấn khởi hăng say bước theo Chúa.
Lạy Chúa, xin Chúa tha thứ cho con. Xin Chúa giúp con lấy lại niềm tin và hy vọng. Chúa chẳng cho con tiền bạc, Chúa cũng chẳng làm phép lạ cách bừa bãi, Chúa chẳng tạo ra sự hấp dẫn lôi cuốn bề ngoài. Tin Mừng của Chúa, chẳng có sẵn những giải pháp kinh tế xã hội. Nhưng con tin Chúa là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống của con. Dù con chưa thấy những thành quả tức thời, nhưng con tin chỉ có Chúa là Đấng cứu độ và đem lại hạnh phúc cho con người. Bỏ Chúa, con biết đi với ai? Chỉ có Chúa mới có lời hằng sống. Thánh Phi-líp-phê mời con “cứ đến mà xem”. Con đến với Chúa, xin cho con được khám phá những điều kỳ diệu lớn lao nơi Chúa và nơi công trình cứu độ của Chúa. Amen.
Ghi nhớ: ”Thầy là Con Thiên Chúa, là Vua Israel”
Suy Niệm 7: Ðến mà xem
(Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc)
1. Nghe nói và đích thân gặp gỡ
Trình thuật Tin Mừng theo thánh Gioan, chúng ta vừa được nghe công bố, kể lại hành trình ơn gọi của ông Nathanael, mà truyền thống Giáo Hội gọi là tông đồ Barthôlômêô. Hành trình này diễn ra theo hai bước:
Bước thứ nhất, ông được người bạn là Philiphê nói cho nghe về Đức Giê-su.
Bước thứ hai, ông đích thân đến gặp Đức Giê-su.
Nghe nói về Đức Giêsu và sau đó đích thân gặp gỡ Ngài, đó chính là hai yếu tố làm nên kinh nghiệm thiêng liêng căn bản trong đời sống ơn gọi Ki-tô hữu và nhất là ơn gọi dâng hiến. Ở những bước đầu của hành trình đức tin và của ơn gọi, ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm “hai bước” này, dĩ nhiên với những đặc điểm riêng của từng người. Cách riêng trong ơn gọi thánh hiến, chúng ta đã thực hiện, hay đúng hơn đã được ban cho kinh nghiệm “hai bước” này ở Nhà Tập, một cách sâu đậm nhất và nền tảng nhất.
Tuy nhiên kinh nghiệm căn bản này phải được duy trì, được bắt đầu lại, được làm mới lạ hầu như hàng ngày, hay ít nhất là hàng năm trong tuần tĩnh tâm. Nếu chúng ta để ý, kinh nghiệm hai bước này xẩy ra ít nhất hai lần một ngày trong các tuần tĩnh tâm: đó là khi chúng ta nghe gợi ý cầu nguyện và sau đó đi cầu nguyện. Và kinh nghiệm gặp gỡ Đức Kitô trong cầu nguyện phải được kéo dài suốt ngày hoặc ít nhất là phải tác động lên ngày sống của chúng ta. Ít nhất hai lần, vì trong thực tế có thể nhiều hơn: những lời chia sẻ của anh em hay chị em, hay một cách kín đáo hơn, cách sống, cách phục vụ, cách cầu nguyện, cách hiện diện của anh hay chị em cũng có thể là những lời “giới thiệu Đức Kitô” rất đánh động đối với chúng ta.
2. “Hãy đến và anh sẽ thấy”
Chúng ta hãy trở lại cuộc đối thoại giữa Philiphê và Nathanaen. Ông Philipphê đi tìm gặp ông Nathanaen và nói: “Đấng mà sách Luật Mô-sê và các ngôn sứ nói tới, chúng tôi đã gặp: đó là ông Giê-su, con ông Giu-se, người Na-da-rét. ». Nhưng Nathanaen không được đánh động và cũng chẳng bị thuyết phục , ông trả lời: “Từ Na-da-rét, làm sao có cái gì hay được? »
Qua hai lời đối đáp rất ngắn này, chúng ta có rút ra những kết luận rất thực tế và cũng rất quan trọng:
Chứng nhân thì chắc chắn về điều mình nói ; đó là điều kiện thiết yếu của lời chứng.
Nhưng lời chứng của chứng nhân lại không đủ mạnh để thuyết phục nguời khác!
Đó là bởi vì kinh nghiệm của chứng nhân luôn luôn mạnh hơn và lớn hơn những dẫn chứng mà người này đưa ra. Chẳng hạn, lời chứng về việc ăn soài không thể nào diễn tả hết được chính kinh nghiệm ăn soài. Chính vì thế, Philipphê nói với Nathanaen: “Hãy đến và xem ». Lời chứng chỉ hiệu quả khi nó thúc đẩy người nghe, không phải cúi mình trước những dẫn chứng, nhưng là đến lượt mình, đích thân thực hiện một kinh nghiệm. Bởi vì, chân lí, nhất là chân lí nhân linh và thần linh (khác với chân lí vật lí) không có bằng chứng nào khác, ngoài chính mình.
Điều này làm chúng ta bình an hơn trong sứ mạng làm chứng cho Đức Kitô ngang qua những công việc nhỏ bé của chúng ta. Đích thân từng người được mời đến gặp gỡ Đức Kitô và đích thân Đức Kitô đến gặp gỡ từng người như Ngài đã làm đối với Nathanaen. Chúng ta chỉ có thể làm chứng và mời gọi, bằng chính cuộc đời dâng hiến của chúng ta cho Đức Kitô và cho sứ mạng của Ngài.
3. “Thầy là Con Thiên Chúa»
Khi đi đến, gặp gỡ và đối thoại với Đức Giê-su, “con ông Giu-se », tông đồ Nathanaen đã tuyên xưng: “Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa» ! Điều gì đã dẫn tông đồ Nathanaen đến lời tuyên xưng đức tin?
a. “Tôi đã thấy anh… »
Bởi vì, khi Nathanaen đến gặp Đức Giê-su, ông nhận ra rằng, Người đã «biết» và đã «thấy» anh trước khi anh đến gặp Người. Sau khi đã gặp gỡ và trao ban lòng tin, người phụ nữ Samari cũng có cùng một kinh nghiệm: “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm» (Ga 4, 29). Tác giả Thánh Vịnh cũng nói về cùng một kinh nghiệm được Thiên Chúa thấu suốt:
Lạy CHÚA, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ,
biết cả khi con đứng con ngồi.
Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa,
đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét,
mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả.
Miệng lưỡi con chưa thốt nên lời,
thì lạy CHÚA, Ngài đã am tường hết. (Tv 139, 1-4)
Người “thấu suốt” anh, và Người cũng thấu suốt từng Người chúng ta, bởi vì mỗi người chúng ta được tạo dựng theo hình ảnh của Người, được tạo dựng bởi Người và cho Người: “Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành” (Ga 1, 3). Người thấu suốt chúng ta không phải để lên án, nhưng để bao bọc, chữa lành và tái sinh chúng ta cho sự sống của Thiên Chúa, như lời Thánh Vịnh diễn tả:
Ngài bao bọc con cả sau lẫn trước,
bàn tay của Ngài, Ngài đặt lên con. (Tv 139, 5)
b. “Đấng mà sách Luật Mô-sê và các ngôn sứ nói tới…”
Tuy nhiên, Nathanaen cũng như tất cả chúng ta còn được mời gọi hiểu biết ngôi vị Đức Giê-su ở tầm mức lịch sử cứu độ, và ngang qua lịch sử độ, tầm mức của lịch sử loài người và của toàn thể tạo vật, như lời của Đức Giê-su gợi ra cho Nathanaen: “Anh sẽ còn được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa. ” Bởi lẽ, Đấng mà sách Luật Mô-sê và các ngôn sứ nói tới.
Thật vậy, sau này, chính Đức Ki-tô phục sinh sẽ giải thích cho hai môn đệ Emmau về sự tương hợp giữa mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài và Sách Thánh, nghĩa là Luật và các ngôn sứ (x. Lc 24, 11-35). Sự tương hợp này không chỉ đem lại cho hai môn đệ một sự hiểu biết, nhưng, qua đó, còn tạo ra nơi tâm hồn các ông một kinh nghiệm, kinh nghiệm “con tim bừng cháy”. Như thế, việc hiểu Sách Thánh được hoàn tất nơi Đức Giêsu đã phải đi ngang qua chốn sâu thẳm của tâm hồn, và làm cho sinh động mọi gốc rễ của tâm hồn, để có thể làm cho “con tim bừng cháy”. Vậy thì tại sao người nghe, là hai môn đệ và hôm nay đến lượt chúng ta, lại thấy mình có liên quan, thấy mình được đánh động bởi sự kiện Đức Ki-tô hoàn tất Sách Thánh cổ xưa?
Gương vâng phục của Đức Giêsu đối với Cha của Ngài có lẽ chưa đủ, vì chúng ta vẫn còn ở bên ngoài. Chúng ta thấy mình có liên quan, bởi vì sự vâng phục của Đức Giêsu đối với Chúa Cha được bày tỏ ra cho Ngài ngang qua con người. Kế hoạch của Chúa Cha được ghi khắc ở đâu, nếu không phải là trên con người, trên toàn thể một dân tộc có trước Ngài? Hẳn là kế hoạch này được viết trong một cuốn sách; nhưng nếu các trang sách biết nói, đó là bởi vì chúng qui về những cuộc đời cụ thể, giống như cuộc đời cụ thể của chúng ta, và Thiên Chúa đã dùng những cuộc đời cụ thể này để ghi khắc trên đó kế hoạch Ngài thiết lập cho Đức Kitô của Ngài.
* * *
Và, vì lịch sử dân tộc này giống như lịch sử cuộc đời chúng ta, đầy thăng trầm, tội lỗi và bị chi phối nặng nề bởi sự dữ, con tim chúng ta có thể “bừng cháy” khi chúng ta nhận ra nơi con người và cuộc đời của mình hành trình Vượt Qua của Đức Ki-tô.
Suy Niệm 8: Ơn gọi của Philíp và Nathanael
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Bài tường thuật ơn gọi của Philíp và Nathanael:
- Philíp là người môn đệ thứ tư (3 ông trước là Gioan, Anrê và Phêrô). Ông “là người Bétsaiđa, cùng quê với Anrê và Phêrô”. Đức Giêsu gọi ông trực tiếp.
- Sau khi được Chúa gọi, Philíp đã đến gặp Nathanael với giới thiệu Chúa cho ông này. Nathanael là người thường “ngồi dưới gốc cây vả”. Kiểu nói “ngồi dưới gốc cây vả” có nghĩa là người thích tìm hiểu Thánh Kinh. Nathanael tìm hiểu Thánh Kinh, nhưng bị giam hãm trong những thành kiến cũ nên không tin rằng từ Nadarét có thể xuất hiện một thứ gì hay được. Nhưng rất may là Đức Giêsu đã trực tiếp đến với ông, tỏ cho ông thấy Ngài đúng là một ngôn sứ, nên cuối cùng Nathanael cũng đi theo làm môn đệ Ngài.
B.... nẩy mầm.
1. “Ông Philíp đến gặp ông Nathanael và nói: Đấng mà sách Luật và các ngôn sứ nói ới, chúng tôi đã gặp”: Tường thuật của Gioan về ơn gọi những môn đệ đầu tiên cho thấy Chúa thường gọi qua trung gian: Gioan và Anrê được gọi qua trung gian của Gioan Tẩy giả, Phêrô được gọi qua trung gian Anrê, và Nathanael qua trung gian của Philíp. Trung gian mà Chúa dùng có thể là một người mà cũng có thể là một sự việc, một biến cố nào đó.
Tôi đã được Chúa gọi. Vậy tôi cũng hãy làm trung gian giới thiệu người khác đến với Chúa.
2. “Ông Nathanael bảo: Từ Nadarét làm sao có cái gì hay được?”: Mặc dù đã từng “ngồi dưới gốc cây vả” mà nghiền ngẫm sách thánh nhưng Nathanael không tìm gặp được Đấng Cứu Thế, bởi ông mang nặng thành kiến, thành kiến về địa danh Nadarét tầm thường nhỏ bé.
Không thể dùng thành kiến mà đánh giá con người hay vấn đề được, bởi vì thành kiến chỉ là một nhận định cục bộ từ một vài trường hợp cá biệt. Không phải vì đã có một vài trường hợp đã xảy ra như thế rồi kết luận rằng tất cả mọi trường hợp đều sẽ phải xảy ra như thế.
Thế nhưng con người lại rất dễ nhiễm thành kiến và thường xét đoán theo thành kiến. Chắc hẳn tôi cũng thế.
Xin Chúa giúp con đừng xét đoán theo thành kiến, kẻo con phạm tội bất công với anh chị em con.
3. Thành kiến: Có một gánh xiếc nọ bị hoả hoạn, ông chủ gánh xiếc sai anh hề chạy đi kêu dân chúng trong làng đến tiếp tay chữa cháy, chẳng vậy lửa bốc to có thể lan sang khu vực họ đang ở. Anh hề vội vàng chạy đi. Nhưng anh càng gào thét, múa máy bao nhiêu, dân chúng lại càng cười lớn bấy nhiêu vì họ nghĩ rằng anh hề đang diễn một màn hài hước. Thấy không ai tin mình, anh hề giật râu, giật tóc và bậc khóc khiến khuôn mặt đầy phấn sáp của anh càng lọ lem hơn và càng làm cho dân chúng cười lớn hơn. Gào thét hết cả hơi sức, nhưng chẳng có ai tin anh. Cuối cùng ngọn lửa cháy lớn lan tới thiêu huỷ cả làng ấy ra tro. ("Mỗi ngày một tin vui")
4. “Nathanael bảo: “Từ Nadarét làm sao có cái gì hay được?” Ông Philíp trả lời: “Cứ đến mà xem” (Ga 1,46)
Đa số các bạn học của tôi đều theo đạo “thờ Ông Bà”. Có lần chúng bảo tôi:
- Theo đạo thì được cái gì?
- Đi nhà thờ chỉ được cái mất thì giờ thôi!
Tôi trả lời không thỏa đáng, nên chúng bạn cười chê. Thế là mỗi đứa đi một ngã, chẳng thèm nhìn mặt nhau nữa.
Khi Nathanael khiêu khích, Philíp chỉ trả lời “Cứ đến mà xem”. Tại sao tôi cứ mãi đôi co mà không dịu dàng mời gọi các bạn ấy như Philíp “Cứ đến mà xem”. Vâng, cứ đến mà xem, rồi các bạn sẽ thấy Chúa tuyệt vời thế nào!
Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa nhiều hơn và nói về Chúa cách hiền hòa cùng với sự kính trọng tha nhân. (Epphata)
5. “Ông Nathanael hỏi Người: “Làm sao Ngài lại biết tôi?”. Đức Giêsu trả lời: “Trước khi Philíp gọi anh, lúc anh còn đang ở dưới cây vả, tôi đã thấy anh rồi”.
Chúa đã thấy tôi và biết tôi từ lâu, từ hồi tôi còn bé, và ngay cả từ hồi tôi còn trong bụng mẹ. Chúa hiểu tôi rất rõ, hiểu hết những yếu đuối và khuyết điểm của tôi. Vẫy mà Ngài vẫn gọi và chọn tôi. Vì thế, tôi phải cám ơn Ngài, tôi phải vất bỏ ất cả những tự ti mặc cảm về những yếu đuối của mình, tôi phải phó thác trọn vẹn tương lai cho Ngài, bởi vì kể từ khi được Ngài gọi, tôi đã là một con người mới.
Suy Niệm 9: Ơn gọi của Philipphê và Nathanael
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Bài tường thuật ơn gọi của Philipphê và Nathanael:
- Philipphê là người môn đệ thứ tư (3 ông trước là Gioan, Andrê và Phêrô). Ông “là người Bethsaiđa, cùng quê với Andrê và Phêrô”. Đức Giêsu trực tiếp gọi ông.
- Sau khi được Chúa gọi, Philipphê đã đến gặp Nathanael và giới thiệu Chúa cho ông này. Nathanael là người thường “ngồi dưới gốc cây vả”. Kiểu nói “ngồi dưới gốc cây vả” có nghĩa là người thích tìm hiểu Thánh Kinh. Nathanael tìm hiểu Thánh Kinh, nhưng bị giam hãm trong những thành kiến cũ nên không tin rằng, từ Nazareth có thể xuất hiện một thứ gì hay được. Nhưng rất may là Đức Giêsu đã trực tiếp đến với ông, tỏ cho ông thấy Ngài đúng là một ngôn sứ, nên cuối cùng, Nathanael cũng đi theo làm môn đệ Ngài.
2. “Ông Philipphê đến gặp ông Nathanael và nói: Đấng mà sách Luật và các ngôn sứ nói tới, chúng tôi đã gặp”: Tường thuật của Gioan về ơn gọi những môn đệ đầu tiên cho thấy Chúa thường gọi qua trung gian: Gioan và Andrê được gọi qua trung gian của Gioan Tẩy Giả, Phêrô được gọi qua trung gian Andrê, và Nathanael qua trung gian của Philipphê. Trung gian mà Chúa dùng có thể là một người mà cũng có thể là một sự việc, một biến cố nào đó.
Tôi đã được Chúa gọi. Vậy tôi cũng hãy làm trung gian giới thiệu người khác đến với Chúa.
3. “Ông Nathanael bảo: Từ Nazareth làm sao có cái gì hay được?”: Mặc dù đã từng “ngồi dưới gốc cây vả” mà nghiền ngẫm sách thánh nhưng Nathanael đã không gặp được Đấng Cứu Thế, bởi ông mang nặng thành kiến, thành kiến về địa danh Nazareth tầm thường nhỏ bé.
Vâng! Thành kiến nhiều khi trở thành một rào cản không cho chúng ta nhìn thấy hết sự thật.
Một hôm cậu bé Tagore làm thơ và đưa lên cho cha cậu xem. Ông thân chinh chê lời:
- Dở lắm!
Hôm sau, cậu bé lại đem cho cha một sáng tác mới. Ông thân sinh cũng bĩu môi:
-Thơ này là thơ thẩn!
Tagore mới nghĩ ra một mưu. Cậu đem bài thơ của mình mới làm, chép lại thật kỹ và ghi xuất xứ là trích sao trong một cuốn thơ cổ. Cậu ta lại không quên đề tên cuốn thơ cổ ấy cẩn thận. Lần này ông thân sinh đọc xong, mắt sáng rực lên, vỗ đùi khen: Tuyệt! Tuyệt! - rồi đem khoe tíu tít với con trai lớn của ông hiện đang làm chủ nhiệm một tờ báo văn học: “Ba đã đọc rất nhiều thơ cổ, nhưng chưa thấy bài nào hay như bài này!”
Ông con trai chủ nhiệm đọc xong, cũng hết mình đồng ý, xoa tay khen ngợi là hay đáo để và muốn trích đăng lên mặt tờ báo của ông... Bấy giờ ông anh cũng như ông thân sinh đòi Tagore phải đem cuốn thơ cổ kia đối chiếu chứng minh và cũng dễ bề ghi xuất xứ khi đăng.
Đến đây câu chuyện mới vỡ lẽ ra: Có ai ngờ trên đây là một cuộc dàn cảnh bịa đặt của thằng bé Tagore. Ông thân sinh giận sôi máu lên. Nhưng rồi cũng phải nhìn con với cặp mắt thán phục và hối hận cho thái độ mâu thuẫn của mình xưa kia!
Không thể dùng thành kiến mà đánh giá con người hay vấn đề được, bởi vì thành kiến chỉ là một nhận định cục bộ từ một vài trường hợp cá biệt. Không phải vì đã có một vài trường hợp đã xảy ra như thế rồi kết luận rằng, tất cả mọi trường hợp đều sẽ phải xảy ra như thế.
Thế nhưng, con người lại rất dễ nhiễm thành kiến và thường xét đoán theo thành kiến. Chắc hẳn tôi cũng thế.
Chúng ta dễ có khuynh hướng nhìn người qua những lăng kính của những thành kiến có sẵn. Cái nhìn ấy khiến chúng ta suy ra xã hội thành nhiều hạng người và từ đó chúng ta đánh giá người khác theo những nhãn hiệu có sẵn. Chúa Giêsu không nhìn con người bằng cái nhìn ấy. Ngài nhìn xuyên suốt tâm hồn con người. Với Ngài, nơi mỗi người, tâm hồn đều có hình ảnh cao quí của Thiên Chúa. Ngài đã nhìn thấy cái hình ảnh cao quí ấy nơi những kẻ hèn mọn nhất trong xã hội.
Ông Nathanael hỏi Người: ”Làm sao Ngài lại biết tôi?”. Đức Giêsu trả lời: ”Trước khi Philipphê gọi anh, lúc anh còn đang ở dưới cây vả, tôi đã thấy anh rồi” (Ga 1, 48).
Chúa đánh giá Nathanael không theo cái nhìn của ông về Chúa mà là theo cái nhìn của Chúa về ông. Chúa nhìn thấy trong người đầy thành kiến này có những giá trị đặc biệt. Đó là thiện chí của ông. Ông đầy thành kiến nhưng không cố chấp. “Lạy Ngài sao Ngài biết tôi?” Câu trả lời của Chúa đã làm cho Nathanael xoay hẳn 180 độ, ông đã trở thành môn đệ của Chúa.
Vâng! Chỉ trong và với cái nhìn của Chúa Giêsu, chúng ta mới có thể nhận ra nơi người anh em là hình ảnh cao quí của Thiên Chúa để có thể yêu thương, cảm thông, tha thứ, chịu đựng.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con mặc lấy tâm tình và cái nhìn của Chúa, để chúng con luôn nhận ra hình ảnh cao quí của Chúa nơi người anh em của chúng con.
Xin tẩy xóa nơi chúng con cái nhìn ích kỷ, nhỏ nhen ganh tị, để chúng con luôn nhìn về người anh em với ánh mắt cảm thông, tha thứ, yêu thương. Amen.
04/01 Gặp Ðấng Cứu Thế
- Viết bởi Ga 1,35-42
Gặp Ðấng Cứu Thế.
Thứ Năm đầu tháng, trước lễ Hiển Linh.
"Chúng tôi đã gặp Ðấng Cứu Thế".
LỜI CHÚA: Ga 1,35-42
Khi ấy, Gioan đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông nhìn theo Chúa Giêsu đang đi mà nói: Ðây là Chiên Thiên Chúa.
Hai môn đệ nghe ông nói liền đi theo Chúa Giêsu, Chúa Giêsu ngoảnh mặt lại, thấy họ đi theo mình, thì nói với họ: "Các ngươi tìm gì?"
Họ thưa với Người: "Rabbi, nghĩa là thưa Thầy, Thầy ở đâu?"
Người đáp: "Hãy đến mà xem".
Họ đã đến và xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy, lúc đó độ chừng giờ thứ mười.
Anrê, em ông Simon Phêrô, một trong hai người đã nghe Gioan nói và đã đi theo Chúa Giêsu. Ông gặp Simon anh mình trước hết và nói với anh: "Chúng tôi đã gặp Ðấng Messia, nghĩa là Ðấng Kitô". Và ông dẫn anh mình tới Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu nhìn Simon và nói: "Ngươi là Simon, con ông Gioan, ngươi sẽ được gọi là Kêpha, nghĩa là Ðá".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Hãy đến mà xem
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Suy niệm:
“Đây là Chiên Thiên Chúa” (c. 35).
Gioan Tẩy giả nói với hai anh môn đệ đang đứng với mình như thế
khi ông thấy Đức Giêsu tình cờ đi ngang qua.
Gioan đã gặp Ngài, đã thấy Thần Khí ngự xuống trên Ngài (Ga 1,32).
Ông biết Ngài là Đấng đến sau ông, nhưng lại có trước ông (1,15. 30).
Trong một cử chỉ khiêm hạ làm cho mình nhỏ lại,
ông đã giới thiệu cho các môn đệ mình một vị Thầy cao trọng hơn.
Ông để cho họ đi theo vị Thầy mới, còn ông đứng lại đó một mình.
“Các anh tìm gì thế?”: Đức Giêsu là người mở lời với hai bạn trẻ
đang đi theo mình, lúng túng vì chưa biết cách làm quen.
Câu hỏi này chờ một câu trả lời nói lên điều mình thao thức.
“Thưa Rabbi, Thầy đang ở lại đâu?”
Họ muốn biết nhà của Thầy, cũng là biết chính bản thân Thầy.
“Hãy đến và các anh sẽ thấy”.
Thầy Giêsu mời các bạn ấy đến thăm nhà mình.
Căn nhà ở Galilê xưa thường chỉ có một, hai phòng nhỏ.
Ngài mời họ đi vào thế giới riêng tư của mình.
Và họ đã mau mắn đáp lời, đã đến, và đã thấy nơi Ngài đang ở lại.
Lúc đó đã bốn giờ chiều rồi.
Thầy Giêsu hẳn đã giữ họ lại, vì sợ họ về trời tối đường xa.
Ngày hôm ấy họ đã ở lại với vị Thầy mới quen.
Qua cuộc chuyện trò suốt đường đi, nhất là khi về nhà,
họ đã có kinh nghiệm cá nhân về con người Thầy Giêsu,
kinh nghiệm đầu tiên, chưa thật sâu, nhưng không sao quên được.
Họ đã ở lại nhà Thầy, đã bị lôi cuốn bởi nhân cách của Thầy,
và thấy Thầy chính là Đấng mà họ đang tìm kiếm.
“Chúng tôi đã tìm thấy Đấng Mêsia” nghĩa là Đấng Kitô.
Anrê vui sướng reo lên như vậy khi ông gặp Simon trước tiên.
Anrê là một trong hai người đã đi theo và ở lại nhà Đức Giêsu.
Bây giờ ông coi Thầy Giêsu là Đấng Mêsia, chứ không chỉ là một rabbi,
nên ông nóng lòng muốn đưa Simon đến tiếp xúc với Ngài.
Thầy Giêsu đặt cho Simon một tên mới, tên này người Do Thái ít dùng.
Anh sẽ được gọi là Kêpha, nghĩa là Đá, là Thạch (c. 42).
Không thấy Simon nói gì hay dẫn ai đến gặp ngay Đức Giêsu.
Phải đợi sau này ta mới nghe ông đại diện anh em tuyên xưng:
Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa (6,69).
Chúng ta sắp mừng Lễ Hiển Linh, Lễ Chúa tỏ mình cho con người.
Chúa đã tỏ mình cho Gioan, Anrê và Simon qua gặp gỡ trực tiếp,
nhưng Chúa cũng tỏ mình cho họ qua người khác giới thiệu.
Chúng ta cần những người có kinh nghiệm sâu lắng với Đức Giêsu,
để giúp Ngài được hiển linh trong thế giới hôm nay.
Cầu nguyện:
Lạy Thầy Giêsu,
Thầy là vị Tôn Sư tuyệt vời.
Thầy gọi các môn đệ theo Thầy
đi trên những nẻo đường quanh co của xứ Pa-lét-tin.
Thầy không mở trường, không viết sách.
Thầy giúp môn đệ học bài học của Thầy,
bài học của trái tim, hiền lành và khiêm tốn.
Thầy dạy học trên đường.
Thầy tập cho môn đệ nhìn những biến cố mỗi ngày
với cái nhìn của Thiên Chúa.
Thầy giúp họ thấy giá trị nơi đồng xu nhỏ của bà góa nghèo,
thấy vẻ đẹp của hoa huệ, và sự vô tư của chim trời.
thấy nét cao quý của trẻ thơ, và phẩm giá của người phụ nữ.
Thầy tập cho họ trưởng thành,
tập đương đầu ban đêm một mình với sóng gió,
tập tin vào Thiên Chúa khi phải nuôi ăn đám đông,
tập can trường đối diện với cái chết nhục nhã và đau đớn.
Thầy kéo họ ra khỏi cái tôi háo danh
khi họ cãi nhau trên đường xem ai là người lớn nhất,
Thầy đòi họ bỏ mọi sự mà theo Thầy,
và đặt Thầy lên trên cả mạng sống và tình ruột thịt.
Lạy Thầy Giêsu,
Khoa sư phạm của Thầy là huấn luyện môn đệ bằng tình yêu.
Một tình yêu kiên nhẫn khi họ yếu đuối và cứng lòng.
Một tình yêu bênh vực và bảo vệ lúc họ bị tấn công.
Một tình yêu chia sẻ khi cho họ cộng tác trong sứ vụ.
Thầy đã diễn tả tình yêu đến cùng của Thầy
khi cúi xuống rửa chân cho họ.
Xin cho chúng con suốt đời học với Thầy,
nhận Thầy mãi mãi là vị Tôn Sư của chúng con.
Và cùng với Thầy, chúng con đi khắp thế gian,
để làm cho muôn dân thành môn đệ.
Suy Niệm 2: Đấng công chính
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Công chính là trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa. Ma quỉ muốn chiếm đoạt quyền Thiên Chúa. Luôn cám dỗ loài người đi theo chúng. Bà E-và là điển hình. Đó là tội lỗi. Chúa Giê-su là Đấng Công Chính. Đến để tái lập sự công chính. Để “phá huỷ công việc của ma quỉ”. Chúa Giê-su công chính vì được Thiên Chúa sinh ra. “Mầm sống của Thiên Chúa ở lại trong người ấy, và người ấy không thể phạm tội, vì đã được Thiên Chúa sinh ra”. Từ đây thế giới phân định rạch ròi. Ai theo Chúa Giê-su thì sống công chính và trở thành con Thiên Chúa. “Căn cứ vào điều này mà người ta phân biệt con cái Thiên Chúa với con cái ma quỷ: phàm ai không sống công chính thì không thuộc về Thiên Chúa”.
Không chỉ sinh ra bởi Thiên Chúa, Chúa Giê-su còn sống công chính trọn đời. Vì luôn làm theo ý Chúa Cha. Vâng phục Chúa Cha trong mọi sự. Cho đến nỗi chết trên thánh giá. Nhận tất cả từ Chúa Cha. Dâng hiến tất cả cho Chúa Cha. Chúa Giê-su thật là Đấng Công Chính.
Vì vâng phục Chúa Cha mà Chúa Giê-su trở thành “Chiên Thiên Chúa” như lời thánh Gio-an Tẩy giả giới thiệu. Là Chiên Thiên Chúa để tự hiến thân mình làm của lễ dâng lên Chúa Cha. Là Chiên Thiên Chúa để gánh lấy tội nhân loại. Làm cho nhân loại nên công chính. Làm cho nhân loại trở nên con Thiên Chúa. Sinh lại nhân loại trong đức công chính.
Thánh Gio-an Tẩy giả sống công chính. Vì giới thiệu Chúa Giê-su cho các môn đệ của mình. Trả các môn đệ mình cho Chúa. Vì tất cả là của Chúa.
An-rê và Gio-an sống công chính. Vì bỏ tất cả mà theo Chúa. Bỏ cả người thầy yêu quí. Vì Chúa Giê-su mới là đường thật. Mới thật là Thầy. Dạy chân lý. Dẫn đến sự công chính đích thực. Đến sự sống đời đời. An-rê sống công chính nên đã dâng cho Chúa cả người em của mình. Vì Si-mon cũng thuộc về Thiên Chúa. Si-mon sống công chính. Vì từ bỏ tất cả. Từ bỏ cả con người cũ. Cả tên họ. Tên là người. Chúa đặt tên mới. Vì ông là con người mới. Thuộc về Chúa. Tên mới của Si-mon là Phê-rô. Là đá tảng xây toà nhà mới. Là đầu trong dân mới. Dân được Chúa sinh ra để sống công chính. Để dâng hiến cho Chúa tất cả cuộc đời.
Xin cho con được sinh lại. Được đặt tên mới. Được trở thành con Chúa. Được dâng hiến mọi sự cho Chúa. Để thuộc về dân mới. Sống công chính thánh thiện.
Suy Niệm 3: Chúng Tôi Ðã Gặp Ðấng Cứu Thế
(‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)
Nhìn nhận khả năng của người khác đó là một điều mà ít ai trong chúng ta cũng muốn. Việt Nam chúng ta thường nói: "Mỗi người có một ông quan trong bụng". Ai cũng muốn mình hơn kẻ khác, nổi hơn và trội hơn kẻ khác nhiều, ít ai chịu lép vế, chịu thua kẻ khác. Tự cao tự đại, ưa chỉ tay năm ngón, đó là thói thường của con người.
Kiêu ngạo là tội đứng đầu trong bảy mối tội đầu. Có lẽ người ta thấy tội kiêu ngạo là đầu dây mối nhợ sinh ra mọi tội lỗi khác. Tự đưa mình lên cao, không xem ai ra gì và theo như câu nói dân gian của người Việt Nam: "Coi trời bằng vung" hay "coi trời bằng ngọn rau má" là thế. Tâm trạng đó làm cho con người khó chấp nhận nhau về khả năng, về tài khiếu hơn thua.
Bài Tin Mừng hôm nay nói việc thánh Gioan Tẩy Giả cũng có những môn đệ tìm theo học hỏi và muốn tôn ông làm thầy, ít ra là phải hai hoặc ba người, vì sách ghi rằng: "Gioan đang đứng và nói chuyện với hai trong nhóm môn đệ của ông", chứng tỏ là Gioan cũng có nhiều môn đệ khác nữa ngoài hai người đó.
Và tâm trạng chung khi một người có nhiều môn đệ đi theo thì không muốn một môn đệ nào của mình bỏ mình đi mà theo một người khác. Lý do đó có thể là mình kém tài giỏi, đạo đức hơn người kia chăng? Sự việc đó phải chăng đã làm mất sĩ diện cho mình? Vậy mà chúng ta thấy Gioan không nghĩ đến điều đó, ông vẫn chỉ cho các môn đệ của mình về Chúa Giêsu: "Ðây là Chiên Thiên Chúa". Hai môn đệ của Gioan nghe nói liền đi theo Chúa Giêsu nhưng Gioan cũng không ngăn cản hai môn đệ mình, vì ông đã thấy sự thật nơi Chúa Giêsu là Con Thên Chúa, là Ðấng ông loan báo, Ðấng cứu chuộc tội lỗi nhân loại. Ông không mê hoặc người khác để cho họ nhắm mắt theo ông nhưng ông chỉ cho người khác thấy sự thật, thấy chân lý, thấy Ðấng Cứu Thế.
Mỗi người trong chúng ta đôi lúc cũng có thái độ ngược hẳn lại: theo Chúa, tuân giữ luật Chúa, đôi lúc chúng ta muốn người khác nhìn vào và khen chúng ta là ngưòi đàng hoàng, tốt lành, đạo đức và chúng ta hãnh diện vì điều đó. Như thế chúng ta đã che mất hình ảnh của Thiên Chúa trong chúng ta, người khác tìm đến chúng ta chứ không phải họ tìm đến với Thiên Chúa qua sự tốt lành đạo đức đó. Mọi lời khen thưởng, ca ngợi thay vì dành riêng cho Thiên Chúa, người ta lại dành hết cho chính mình. Bài học của Gioan Tẩy Giả hôm nay là một bài học thực tế cho mỗi người trong chúng ta.
Khi hai môn đệ Gioan đi theo Chúa Giêsu. Anrê sau khi đã biết Chúa Giêsu là Ðấng Kitô, là Ðấng Messia thì ông giới thiệu với anh mình là Simon Phêrô đến gặp Chúa Giêsu. Anrê nói với anh mình: "Chúng tôi đã gặp Ðấng Messia, nghĩa là Ðấng Kitô" và rồi ông đã dẫn Simon Phêrô đến với Chúa Giêsu.
Mỗi người trong chúng ta khi biết được Thiên Chúa, biết được ơn cứu rỗi của Ðức Kitô, chúng ta có can đảm mạnh dạn giới thiệu Ngài với mọi người chăng? Chúa không đòi hết thảy trong mọi người chúng ta phải từ bỏ cha mẹ, anh em và mọi sự để theo Ngài. Nhưng Ngài đòi mỗi người trong chúng ta tùy khả năng, tùy môi trường nơi chúng ta đang sống mà giới thiệu Chúa cho mọi người biết. Chúa không đòi hỏi chúng ta phải rao giảng, phải nói về Chúa thật hay như các nhà hùng biện để lôi cuốn người khác. Nhưng Ngài chỉ mong ước trong cách sống đạo của mỗi người chúng ta, như là lời mời gọi tha thiết mọi người tìm đến Thiên Chúa tình thương. Mỗi cử chỉ, mỗi lời nói, mỗi hành động của chúng ta đều thể hiện lời Chúa trong Phúc Âm như thánh Phaolô đã thúc nhắc chúng ta: "Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi".
Có khi nào chúng ta làm một việc gì mà chúng ta suy nghĩ và thành thực hỏi Chúa: Chúa muốn con làm gì bây giờ đây? Hay ý Chúa muốn con thực hiện như thế nào? Có lẽ chưa hoặc ít khi chúng ta hỏi Chúa Giêsu như vậy. Nếu chúng ta thực sự yêu Chúa, Chúa luôn hiện diện trong chúng ta và chúng ta luôn luôn muốn làm đẹp lòng Chúa, như một người muốn làm đẹp lòng người yêu của mình thì khi nào họ cũng tìm hiểu xem người yêu của họ thích gì rồi mua một món quà tặng đúng như ý người yêu mong ước.
Chúng ta yêu Chúa, chúng ta cũng phải tìm xem Chúa yêu thích nhất điều gì và chúng ta phải cố gắng lo làm đẹp lòng Ngài theo như điều Ngài mong muốn. Thật vậy, món quà đó không gì khác hơn là món quà của đức "Mến Chúa và Yêu Người".
Lạy Chúa, xin cho mỗi người trong chúng con biết sống khiêm nhượng như Gioan Tẩy Giả. Xin Chúa cho mỗi người trong chúng con biết giới thiệu Chúa cho mọi người qua lời ăn, tiếng nói và nhất là cách sống đạo của mỗi người chúng con trong cuộc sống hằng ngày.
Suy Niệm 4: Hãy đến mà xem.
Tin Mừng thứ tư không ghi lại một cuộc đối thoại nào giữa Chúa Giêsu và Gioan Tẩy giả. Gioan thấy Chúa Giêsu, ông chỉ cho thấy Ngài, ông nói về Ngài. Ông là chứng nhân, là người bạn, là tiếng kêu. Những gì ông phải nói, ông đã học được từ Đấng đã sai phái ông. Ông không phải là môn đệ Chúa Giêsu, nhưng là vị tiền hô. Sau ông, với Chúa Giêsu là một thời đại mới đang bắt đầu, sau phép rửa trong nước là phép rửa trong Thánh Thần. Gioan vừa là người chiêm ngưỡng sự mới mẻ ấy, vừa là người chỉ cho thấy sự mới mẻ ấy. Thấy Chúa Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên của Thiên Chúa”. Hai môn đệ đã nghe lời ông nói và đi theo Chúa Giêsu. Gioan phải có khả năng lột bỏ bản thân lắm mới có thể làm điều đó. Không những dọn đường cho Chúa, ông còn chuẩn bị để có những người nhận biết và đi theo Ngài. Chính khi đón nhận các môn đệ của Gioan mà Chúa Giêsu khởi sự sứ mạng của Ngài.
Cuộc đối thoại thật ngắn gọn, dứt khoát: “Các ngươi tìm gì? Thưa Thày, Thày ở đâu? Hãy đến mà xem. Họ đi với Ngài và đã ở lại với Ngài ngày hôm ấy”.
Như thế, bước đầu tiên của những người sẽ là Tông đồ và chứng nhân của Chúa Giêsu chính là biết Ngài, đi theo Ngài, ở lại với Ngài, chỉ sau đó chúng ta mới là chứng nhân của Ngài. Nếu chúng ta nghĩ rằng chính chúng ta sẽ đi cứu độ thế giới, thì chúng ta lạc đường rồi. Chỉ có một Đấng Cứu thế là Chúa Giêsu, chẳng ai là chứng nhân nếu trước đó không là môn đệ.
Ở đây, cuộc gặp gỡ đầu tiên mau chóng đưa tới việc làm chứng đầu tiên. Anrê đi gặp anh mình trước hết và nói: “chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia, tức là Đức Kitô”, và ông đưa anh mình đến với Chúa Giêsu.
Ba môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu đã được một người khác dẫn đến với Ngài như thế. Đó không là những điều vẫn xảy ra cho chúng ta sao? Có biết bao người trên đường chúng ta đi đã giúp chúng ta đi đã giúp chúng ta biết được Ngài.
Suy niệm bài Tin Mừng hôm nay, xin cho chúng ta cũng biết tìm Chúa, sống thân mật với Chúa và đem Chúa đến cho mọi người.
Suy Niệm 5: Truyền giáo bằng đời sống
Có một hôm, cha bề trên của một hội dòng muốn cho các đệ tử của mình sống đức khó nghèo! Tuy nhiên, thao thức của ngài, ngài không chỉ nói, mà hôm ấy, ngài đã dẫn một nhóm đi đến thăm một cha xứ tại một họ đạo ngay tại trung tâm thành phố.
Khi đến nơi, nhóm đệ tử không khỏi ngạc nhiên về lối sống giản dị, nghèo khó của cha xứ ấy! Phòng của ngài chỉ vỏn vẹn có khoảng 6 mét vuông, trong đó, sách vở và những vật dụng cần thiết khác đã chiếm hết chỗ ngủ của ngài. Trong phòng chỉ còn có một lối đi nhỏ bé chừng 40cm. Đêm về, ngài thường thu gọn sách vở lại và ngủ ngay trên lối đi.
Sau cuộc gặp gỡ đó, khi trở về, các đệ tử đã không dám đòi hỏi điều gì nữa, ngược lại, sẵn sàng vui vẻ sống khó nghèo, bởi vì những gì đang có thì đã hơn hẳn cha xứ của một họ đạo rồi!
Tin Mừng hôm nay thuật lại: sau khi nghe Gioan giới thiệu Đức Giêsu là “Chiên Thiên Chúa, là Đấng xóa bỏ tội trần gian”, ngay lập tức đã có hai môn đệ đến gặp Đức Giêsu, khi thấy họ, Ngài đã hỏi họ đi đâu và tìm ai? Họ đã thưa với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?”; Đức Giêsu đã mời họ đến và xem chỗ của Ngài, họ đã đi và ở lại ngày hôm ấy, sau đó một trong hai người là Anrê đã đi theo Đức Giêsu.
“Hãy đến mà xem”, ấy là lời mời gọi của Đức Giêsu dành cho hai môn đệ của ông Gioan. Khi nói: “Hãy đến mà xem”, Ngài muốn các ông phải có kinh nghiệm thực sự về Ngài, chứ không phải chỉ có nghe Gioan nói rồi đi theo... Vì khi đến và xem, các ông sẽ thấy tận mắt đời sống và việc làm của Đức Giêsu. Như thế, lựa chọn đi theo Chúa hay không là tùy thuộc vào quyết định của các ông sau khi đã cảm nghiệm.
“Hãy đến mà xem”, Đức Giêsu không muốn họ chỉ tin rằng “có” Ngài, mà khi đến và xem, Đức Giêsu muốn các ông tin “vào” Ngài. Bởi tin “vào” Đức Giêsu không có nghĩa thuần túy là chấp nhận một giáo điều nào đó, mà là chấp nhận chính Ngài cũng như sứ vụ của Ngài.
Nói khác đi, tin “vào” Đức Giêsu chính là có một kinh nghiệm sống động, gần gũi đến riêng tư về Ngài. Khi tin “vào” Ngài như thế, Đức Giêsu muốn các môn đệ đặt Ngài làm trung tâm cuộc đời và sứ vụ của họ. Nếu không có một kinh nghiệm thì trong khi thi hành sứ vụ, các ông sẽ tìm cách làm theo ý riêng và quy chiếu mọi sự về phía các ông thay về Chúa.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: “Hãy đến mà xem” để có kinh nghiệm thực sự về Thiên Chúa. Bởi nếu có đến tận nơi và xem cho kỹ thì mới có những lời chứng hùng hồn về Thiên Chúa trong cuộc đời và sứ vụ của mình được! Nếu không, lời chứng của chúng ta có khi chỉ dừng lại trên giấy tờ, những khái niệm trừu tượng, không ăn nhập gì với con người và cuộc sống hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho tinh thần của hai môn đệ Gioan khi xưa được trở nên lựa chọn của chính chúng con ngày hôm nay khi chúng con sẵn sàng “đến và xem” rồi ở lại với Chúa để được hạnh phúc đời đời. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Giới thiệu Chúa Giêsu cho …
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Nghe giới thiệu về Chúa Giêsu, hai môn đệ của Thánh Gioan Tiền Hô đã đi theo Chúa, đã đến chỗ Chúa ở, và còn lưu lại với Chúa nữa. Trong cuộc đời, đã bao giờ chúng ta khao khát và nỗ lực đi gặp Chúa chưa?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, từ tấm bé đến khi khôn lớn, con được lãnh nhận từ bí tích này đến bí tích khác, sáng tối đọc kinh, hằng ngày tham dự thánh lễ, được nghe Lời Chúa. Nhưng xét mình lại, con nhận thấy chẳng mấy khi con thực sự gặp Chúa, chẳng mấy khi con lưu lại với Chúa, chẳng mấy khi con khao khát đi tìm Chúa.
Nhiều lần con đọc kinh như cái máy, lời kinh con dâng Chúa chỉ là những lời vô hồn. Nhiều lần con rước Chúa, nhưng chỉ làm theo thói quen hoặc vì áp lực tâm lý. Nhiều lần ngồi nghe Lời Chúa nhưng tâm hồn con xa cách Chúa.
Việc sống đạo của con nhiều lúc như một thứ nghề gia truyền, cha truyền con nối. Cha có đạo thì con cũng có đạo. Rồi con có đạo thì cháu cũng có đạo. Thế thôi. Con tưởng rằng không cần học hỏi thêm, không cần tìm tòi khám phá thêm. Con không có được một cảm nghiệm gì về Chúa, chẳng có một xác tín bản thân nào. Việc có đạo của con chỉ là danh nghĩa, là hình thức, chỉ có cái vỏ bên ngoài thôi, lạy Chúa.
Xin cho con và gia đình con biết sống đạo cách xác tín hơn. Xin cho con biết khao khát Chúa, biết nỗ lực đi tìm Chúa. Và xin cho con biết ở lại trong tình yêu Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Chúng tôi đã gặp Ðấng Cứu Thế”.
Suy Niệm 7: Ở lại với Chúa
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Cha Anthony De Mello mở đầu tập sách “Một phút khôn ngoan” có kể một câu chuyện dẫn nhập:
Môn sinh hỏi thầy:
- Có thể nào có sự khôn ngoan chỉ trong một phút?
- Chắc chắn có chứ, vị thầy trả lời.
- Nhưng chỉ một phút, có quá ngắn không?
- Năm mươi chín giây đủ rồi đó.
Về sau, vị thầy nói với các đồ đệ:
- Cần bao nhiêu thời giờ để thoáng thấy mặt trăng? Và vì sao phải cần bao nhiêu năm tháng dài để học sống đời sống thiêng liêng.
Có thể mất tất cả để mở mắt. Hay chỉ cần một tích tắc.
Vâng, chỉ cần một tích tắc với lòng khao khát khám phá sẽ gặp được sự khôn ngoan cho cả cuộc sống…
Suy niệm
Hai môn đệ theo lời giới thiệu của Gioan đi tìm sự khôn ngoan của đời sống, tìm Đấng Cứu Độ - Chiên Thiên Chúa như lời vị Tẩy giả giới thiệu, chỉ một tích tắc của khao khát: “Thầy ở đâu”, và lời mời gọi đáp trả: “Đến mà xem”. Lời mời không chỉ là đến tham quan cho biết chỗ Ngài ở, mà là đi vào một cuộc gặp gỡ thân thiết với Ngài, là biết Người một cách thâm sâu hơn, là “kiểm nghiệm bằng mắt thấy tai nghe, bằng con người xương thịt, cái thực tại lịch sử sẽ làm nền tảng cho đức tin” (x. P.E Jacquemin, ”Assemblées du Seigneur”, số 33, tr.57)
Đáp lại lời mời gọi của Thầy “Đến mà xem”, các ông chỉ có một giây cho sự quyết định: Đến hay không? Một quyết định của cả cuộc đời của hai ông, chỉ một giây thôi khi quyết định “đến”, các ông đã gặp được Đấng Mêssia, Nước Hằng Sống - Nguồn Suối Thiêng (x. Ga 4, 10-14) và giới thiệu đến với người anh em mình.
Một giây phút quyết định đến xem thầy và “Họ đã lưu lại với Người”. Lưu lại bên Thầy, gắn bó say mê, các ông đã sống những giây phút triển nở trong sự hiệp thông sâu xa nhất: lưu lại trao đổi và thân thiết bên Thầy, như Thầy kêu mời: “Hãy lưu lại trong tình yêu của Thầy” (Ga 15, 9). Lưu lại trong Thầy như cành nho sống được nhờ liên kết với cây, và cành nho không thể tự sinh trái nếu không lưu lại trong thân nho (x. Ga 15, 4) vì dòng nhựa sống lan tỏa toàn thân, đã nuôi sống và làm nho kết trái.
Sự gặp gỡ huyền bí giữa Thầy - trò này ảnh hưởng các ông và cả cho mọi thế hệ ở mọi thời đại: “Cuộc gặp gỡ được bao trùm trong một bức màn kín đáo, đem đến cho bài tường thuật một chiều kích vừa mầu nhiệm vừa sáng tỏ: từng người tín hữu chúng ta, đều được mời gọi thực hiện cùng một bước đi ấy” (A. Marchadour, L’evangile de Gioan, Centurion, trang 48).
Trở về sau cuộc gặp gỡ huyền nhiệm với Thầy, môn đệ Anrê đã kể lại với Phêrô - người anh em: “Chúng tôi đã gặp Đức Mêssia”. “Gặp” (heuriskein), là sự gặp gỡ và khám phá Đấng Mêssia khiến cho những ai đã gặp được, tôn Ngài làm tôn sư và muốn làm cho những kẻ mình gặp sau đó cũng khám phá ra Ngài như Gioan đã chia sẻ: “Điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng và tay chúng tôi đã chạm đến... Chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa, để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi” (1 Ga 1, 1-3). Sự hiệp thông như: “Ngọn lửa loan tin được chuyền đi, từ người này sang người khác” (X. Léon-Dufour).Dọc theo các ngả đường của cuộc sống hằng ngày, tôi và bạn có nhiều cơ hội gặp Chúa. Chúng ta nhớ về các môn đệ bên bờ sông Giođan được Gioan Tẩy giả chỉ cho biết Ðấng Thiên Sai - Chiên Thiên Chúa. Chúng ta bước theo, khám phá và gặp gỡ Ngài, mang tâm tình mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II khuyến khích: “Chúng con đừng sợ đến gần Ngài, đừng sợ bước qua ngưỡng cửa nhà Ngài, đừng sợ nói chuyện với Ngài diện đối diện, như chúng ta nói chuyện với người bạn thân” (x. Et 33, 11).Như các môn đệ, tôi và bạn: Hãy đến mà xem…
Ý lực sống:
“Họ xem chỗ Người ở, và ở lại với Người” (Ga 1, 39).
Suy Niệm 8: Giới thiệu Chúa cho người khác
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Qua lời giới thiệu của Gioan, hai môn đệ của ông đã đi theo Đức Giêsu. Anrê, một trong hai vị tiên khởi, sau khi đã gặp được Đức Giêsu rồi lại giới thiệu cho em mình là Simon Phêrô. Philipphê cũng giới thiệu cho Nathanaen sau khi ông đã đi theo Chúa. Động lực thúc đẩy người môn đệ đi làm chứng là tình yêu Đức Giêsu, sau khi đã gặp được Ngài.
2. Lại một lần nữa chúng ta gặp ông Gioan. Phải nói ông là người luôn ý thức được sứ mạng của mình là người luôn “đi trước mở đường cho Chúa”, chính vì thế mà hôm nay ông đã khuyên các môn đệ của mình hãy lìa bỏ ông để đi theo vị Thầy mới là Chúa Giêsu. Gioan là người rất quảng đại, không ganh tị. Rõ ràng ông là người đến để đưa người khác đến với Chúa Giêsu chứ không phải với chính ông. Khi Chúa Giêsu đã xuất hiện trên sân khấu thì Gioan hiểu rằng vai trò của ông cần phải dần dần chấm dứt để cho Chúa được nổi bật lên.
Chúng ta cũng thế, mỗi người đều nhận một sứ vụ và một giai đoạn trong chương trình của Thiên Chúa. Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy ý thức chỗ đứng của mình và biết mình là một giai đoạn trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Cũng như thánh Gioan, chúng ta biết giới thiệu Chúa cho những ai chúng ta gặp gỡ (Mỗi ngày một tin vui).
3. Hôm nay Anrê lại giới thiệu Phêrô em mình cho Chúa Giêsu: “Chúng tôi đã gặp Đức Messia (Ga 1,41). Rồi dẫn em mình đến gặp Chúa Giêsu. Anrê là người luôn đứng ra giới thiệu người khác cho Chúa Giêsu. Trong Tin mừng, ba lần nhắc đến Anrê đến với Chúa, thứ đến ông dẫn em bé có 5 chiếc bánh và 2 con cá nhỏ, cuối cùng ông đưa những người Hy Lạp thắc mắc đến với Chúa. Anrê rất vui đưa được người khác đến với Chúa. Ông nổi bật như là một người chỉ có mong muốn là chia sẻ vinh quang, ông là người có tâm tình truyền giáo. Sau khi chính mình đã được ở gần Chúa, ông dành trọn đời mình để dẫn đưa người khác bước vào tình yêu thương đó.
Khi Anrê đưa Phêrô đến với Chúa Giêsu, Ngài nhìn ông, đó là một cái nhìn tập trung chăm chú, chẳng những thấy mặt bên ngoài mà còn đọc được cả tâm trí bên trong nữa. Khi nhìn Simon, tên của ông lúc bấy giờ, Ngài bảo: “Ngươi là Simon, ngươi sẽ được gọi là Kê-pha” (nghĩa là đá). Khi một người có mối liên hệ mới đối với Chúa, cuộc đời người ấy như được bắt đầu lại, trở thành một người mới, nên cần một tên mới...
4. Bài Tin mừng hôm nay mời gọi chúng ta xem xét kỹ lại lý do tại sao chúng ta còn miễn cưỡng không muốn chia sẻ đức tin của mình với kẻ khác? Nếu chúng ta gọi Phúc âm là Tin Mừng và nếu chúng ta tin Đức Giêsu là kho báu to lớn nhất mà con người có thể chiếm hữu, thì tại sao chúng ta lại miễn cưỡng không muốn chia sẻ đức tin của mình với con cái chúng ta, với bạn bè chúng ta và với những người mà chúng ta biết đang tìm kiếm một niềm tin.
Chúng ta có nhiều cách giới thiệu Chúa cho người khác, tùy theo sáng kiến mà Chúa soi sáng cho mỗi người. Nhưng giới thiệu Chúa Giêsu cho người khác tốt nhất, cụ thể nhất, hữu hiệu nhất là bằng chính đời sống gương mẫu, đời sống tốt đẹp của chúng ta. Thực tế đã chứng minh: nhiều người trở lại tin Chúa vì thấy đời sống gương mẫu, bác ái của các tín hữu. Chính nếp sống đạo đức, thánh thiện, ngay thẳng, chân thành của chúng ta là một tấm gương trước mặt mọi người. Một đời sống tốt đẹp có sức lôi cuốn hơn nhiều bài giảng hùng hồn.
Người ta thường nói: “Trăm nghe không bằng một thấy”, chính cái hình ảnh tốt đẹp in sâu vào tâm hồn người ta, khiến họ phải suy nghĩ và có một sứ lôi kéo mãnh liệt khiến họ không thể chống lại được. Vì thế người ta thường nói:
Lời nói như gió lung lay,
Gương bày như tay lôi kéo.
5. Truyện: Chúa tin tưởng nơi con người.
Có một câu truyện ngụ ngôn rất hay về vấn đề giới thiệu Chúa cho người khác.
Chuyện kể rằng: sau khi chịu nạn chịu chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã phục sinh trở về Thiên đàng trong uy nghi hiển vinh. Dầu đã được vinh quang nhưng tay chân Ngài vẫn còn mang thương tích. Các thiên sứ hân hoan đón chào Chúa. Quang cảnh đang nhộn nhịp vui tươi bỗng có một thiên sứ đặt vấn đề:
- Chắc là Chúa đã phải chịu thống khổ vô cùng vì loài người dưới đó?
Chúa đáp:
- Đúng vậy.
Thiên sứ hỏi tiếp:
- Có phải tất cả mọi người đều đã biết những gì Chúa làm cho họ không?
Chúa Giêsu trả lời:
- Chưa, chỉ mới có một số ít người biết mà thôi.
Thiên sứ hỏi tiếp:
- Thế thì Chúa làm gì để giúp cho mọi người được biết?
Chúa Giêsu đáp:
- Ta đã trao cho Phêrô, Giacôbê, Gioan và các đồ đệ của Ta trách nhiệm đi nói với những người khác, rồi những người khác lại nói cho những người khác nữa, rồi cho những người này lại nói cho những người kia, cho đến lúc những người ở nơi xa xôi nhất trên địa cầu cũng đều được nghe.
Thiên sứ nhìn Chúa với vẻ nghi ngờ. Vị này đã quá hiểu rõ lòng dạ con người như thế nào nên nói tiếp:
- Vâng, nhưng nếu như Phêrô, Giacôbê, Gioan và các môn đệ của Chúa quên đi thì sao? Hoặc nếu họ mệt mỏi không còn tha thiết gì đến việc loan báo nữa thì sao? Hay như những người ở thế kỷ 21 này không chịu thực hiện trọng trách việc thuật lại câu chuyện tình yêu của Chúa cho những người khác nữa thì sao? Liệu Ngài có lập một chương trình nào khác không
Chúa Giêsu trả lời:
- Không! Ta không sắp đặt một chương trình nào khác. Ta đặt tin tưởng nơi họ.
Chúa vẫn tin tưởng những ai tin Chúa.
Suy Niệm 9: Ơn gọi như một cuộc hành trình
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Tin Mừng thứ tư trình bày ơn gọi như một cuộc hành trình qua nhiều giai đoạn:
1- Trước hết được giới thiệu cho biết Chúa (câu 36)
2- Tiếp đó là “đi theo” Chúa (câu 37)
3- Tìm đến tận “địa chỉ” của Chúa (câu 38)
4- “Lưu lại” với Chúa (câu 39)
5- Rồi tới phiên mình, giới thiệu cho người khác nữa được biết Chúa (các câu 40-42)
B.... nẩy mầm.
1. Hình như cuộc hành trình của chúng ta chỉ mới đi được 2 giai đoạn đầu.
2. Để thuyết phục các môn đệ, Chúa Giêsu không nói nhiều, Ngài mời họ “Đến mà xem”. Phải đến tận nơi Chúa ở, phải xem thật rõ con người của Ngài thì mới có thể trung thành đi theo Ngài.
3. “Hai ông lưu lại với Ngài ngày hôm ấy”: Có những việc diễn ra một lần nhưng ảnh hưởng đến suốt đời, chẳng hạn như một cuộc tĩnh tâm sốt sắng, một cuộc linh thao nghiêm túc, hoặc một giờ cầu nguyện thực sự kết hợp với Chúa.
4. “Đức Giêsu quay lại thấy hai môn đệ của Gioan đi theo mình thì hỏi: “Các anh tìm gì thế?” Họ đáp: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?” Người bảo họ: “Đến mà xem” (Ga 1,38-39)
Sáng thứ hai vừa qua, một đoàn tiếp thị đã đến xưởng tôi làm việc để quảng cáo cho dầu gội đầu Pantene, với những kiểu cách hết sức sinh động hấp dẫn. Đặc biệt, còn tặng cho mỗi người một món quà lưu niệm. Nhờ quảng cáo, to được biết nhiều cái mới, cái hay, cái lạ. Nhưng quảng cáo cũng chi phối khi tôi phải lựa chọn.
Chúa Giêsu của tôi thì khác. Ngài mời gọi tôi theo Ngài, nhưng chỉ bảo “Đến mà xem”. Ngài không quảng cáo ồn ào, cũng không phô trương để mê hoặc tôi, vì Ngài muốn tôi theo Ngài với chọn lựa tự do.
Lạy Chúa, xin ban cho con, như hai người môn đệ hôm nào, biết “đến và ở lại với Ngài”, vì chỉ nơi Chúa con mới tìm được hạnh phúc đích thực. (Epphata).
Suy Niệm 10: Tìm và gặp Chúa
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
A. Vâng! vấn đề hôm nay thật phong phú. Nhưng chúng ta sẽ chỉ dừng lại ở một vài khía cạnh quan trọng.
1. Lại một lần nữa chúng ta gặp ông Gioan. Phải nói ông là người luôn ý thức được sứ mạng của mình - là người luôn “đi trước mở đường cho Chúa”, chính vì thế mà hôm nay ông đã khuyên các môn đệ của mình hãy lìa bỏ ông để đi theo vị thầy mới là Chúa Giêsu. Gioan là người rất quảng đại, không ganh tị. Rõ ràng ông là người đến để đưa người khác đến với Chúa Giêsu chứ không phải với chính ông. Khi Chúa Giêsu đã xuất hiện trên sân khấu thì Gioan hiểu rằng vai trò của ông cần phải dần dần chấm dứt để cho Chúa được nổi bật lên: “Tôi cần phải nhỏ đi để Người được lớn lên” (Ga 3, 30).
2. Hai môn đệ của Gioan bỏ thầy mình để đi theo Chúa Giêsu. Họ không dám đến thẳng với Chúa mà chỉ kính cẩn đi theo sau với một khoảng cách xa xa. Lúc ấy, Chúa Giêsu đã làm một việc rất đặc biệt, Ngài quay lại bắt chuyện với họ, nghĩa là Ngài cũng mở đường trước khiến mọi sự trở nên dễ dàng. Ngài mở rộng cửa để họ có thể bước vào.
Chúa mở đầu bằng cách đặt một câu hỏi. Khi đặt câu hỏi này Chúa muốn họ trở về với một vấn đề cơ bản nhất trong đời sống của cuộc sống làm người: “Các anh tìm gì thế?” (Ga 1, 38)
3. Thật là tốt, nếu mỗi người chúng ta cũng tự đặt câu hỏi cho chính mình: “Tôi đang tìm gì đây? Tôi đang thật sự ra sức tìm kiếm thứ gì trên cõi đời này? Mục tiêu và chủ đích của đời tôi là gì?
* Trong trần gian, có người đang tìm sự an toàn: họ thích được một chỗ đứng nào đó có thể bảo đảm cho họ có đủ tiền bạc cho những nhu cầu của đời sống, dư thừa chút ít để hòng lúc về già. Đây không phải là mục tiêu sai lầm, nhưng phải nói là một mục tiêu còn rất thấp, không đáng để chúng ta đầu tư cả đời sống vào đó và xét cho cùng thì không có gì là an toàn chắc chắn trong cuộc đời luôn biến động và đầy rủi ro này!
* Có người đi tìm cho mình một sự nghiệp, một danh vọng, một địa vị phù hợp với tài ba và khả năng mà họ tưởng là mình có, với một cơ hội để thực hiện công việc mà họ tưởng mình có thể làm. Nếu mục tiêu này do những động cơ đầy tham vọng cá nhân hướng dẫn thì nó sẽ là mục tiêu xấu; nhưng nếu được hướng dẫn bởi những động cơ phục vụ đồng bào, đồng loại, thì nó có thể là mục tiêu cao đẹp, nhưng như thế cũng vẫn chưa đủ vì tầm cỡ của nó còn bị giới hạn bởi không gian và thời gian.
* Có người đang đi tìm sự bình an, một cái gì đó sẽ giúp họ sống an hòa với chính mình, an hòa với Thiên Chúa và an hòa với người khác. Đó là sự tìm kiếm Thiên Chúa. Mục tiêu này chỉ một mình Chúa Giêsu mới cung cấp và thỏa mãn được thôi.
B. Câu trả lời của hai người trẻ là họ muốn biết chỗ Chúa Giêsu. Họ hỏi lại Chúa: “Thưa Ráp-bi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đâu?” (Ga 1, 38)
Họ gọi Ngài bằng danh hiệu tôn kính mà học trò gọi tôn sư. Họ thưa rằng, không phải họ chỉ muốn trò chuyện với Ngài như khách qua đường, mà họ còn muốn ở lại với Ngài để nói với Ngài những thắc mắc bận tâm của họ. Và câu trả lời của Chúa là: “Hãy đến mà xem” (Ga 1, 39). Khi trả lời như thế, Chúa không chỉ mời họ đến để trò chuyện mà đến để thấy những gì mà chỉ một mình Ngài mới có thể giải tỏa cho họ. Gioan ghi lại một chi tiết đáng lưu ý: “Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười” (bốn giờ chiều) (Ga 1, 39). Sở dĩ ông viết thế vì ông là một người trong cuộc. Lúc bốn giờ chiều của một ngày đầu xuân tại Galilê, cuộc đời của Gioan đã được đổi mới hoàn toàn. Vâng! Khi một người đã thật sự gặp được Chúa thì chẳng bao giờ họ có thể quên được giờ ấy, ngày ấy, cũng như khi đã làm người thì chẳng ai quên được ngày sinh của mình. Thật là tốt đẹp biết bao cho những người được ở với Chúa! Hạnh phúc thay ai được trò chuyện với Ngài!
Xin được kết thúc bằng lời cầu nguyện của Graham Kings:
‘‘Lạy Chúa, khi đến với Chúa,
con phải tháo bỏ đôi giày: những tham vọng của con;
con phải cởi bỏ đồng hồ: thời khoá biểu của con;
con phải đóng lại bút viết: các quan điểm của con;
con phải bỏ xuống chìa khóa: sự an toàn của con,
để được ở với Chúa, lạy Thiên Chúa duy nhất và chân thật.
Sau khi được ở với Ngài,
con sẽ xỏ giày vào để đi theo đường của Chúa;
con sẽ đeo đồng hồ để sống trong thời gian của Chúa;
con sẽ đeo kính vào để nhìn thế giới của Chúa;
con sẽ mở bút ra để viết những tư tưởng của Chúa;
con sẽ cầm chìa khóa lên để mở những cánh cửa của Chúa.
03/01 Ðấng xóa tội trần gian.
- Viết bởi Nguyen Minh Thang
Ðấng xóa tội trần gian.
Thứ Tư trước lễ Hiển Linh.
"Ðây Chiên Thiên Chúa"
LỜI CHÚA: Ga 1,29-34
Ngày hôm sau, Gioan thấy Chúa Giêsu đến với mình thì nói: Ðây Chiên Thiên Chúa, đây Ðấng xóa tội trần gian. Ðây chính là Ðấng mà tôi đã nói rằng: Có người đến sau tôi, nhưng cao trọng hơn tôi, vì Người vốn có trước tôi. Phần tôi, trước tôi không biết Người, nhưng tôi đã đến làm phép rửa bằng nước, để Người được tỏ mình ra trong Israel.
Và Gioan đã làm chứng rằng: Tôi đã thấy Thánh Thần như con chim bồ câu từ trời xuống ngự trên Người. Và trước tôi không biết Người, nhưng Ðấng đã sai tôi làm phép rửa trong nước bảo tôi: Ngươi thấy Thánh Thần ngự xuống trên ai, thì chính người đó là Ðấng làm phép rửa trong Thánh Thần. Tôi đã thấy và làm chứng rằng: Người là Con Thiên Chúa.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Tôi đã thấy
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Suy niệm:
Biết một người là đi vào một mầu nhiệm.
Chúng ta quen nhiều người, nhưng biết thì ít hơn.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, hai lần Gioan khẳng định:
“Tôi đã không biết Người” (cc 31-33).
Cho đến khi làm phép rửa cho Ðức Giêsu,
Gioan thú nhận mình vẫn chưa biết Ngài là Mêsia.
Dù Ðức Giêsu là bà con họ hàng của ông (x. Lc 1,36),
dù hẳn ông đã có một số thông tin về Ngài.
và dù ông biết Ngài cao trọng hơn mình (x. Mt 3,14),
nhưng cái biết ấy, ông vẫn chưa coi là biết thật sự.
Ðược Thiên Chúa mách bảo, ông kiên nhẫn đợi chờ.
Làm phép rửa trong nước là cách giúp ông khám phá
Ðấng sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần.
Ai được Thần Khí ngự xuống và ở lại, Người ấy là Mêsia.
Gioan đã thấy Thần Khí ở lại trên Ðức Giêsu
lúc Ngài được ông ban phép rửa.
Bây giờ có thể nói ông đã biết Ðức Giêsu.
Ông đã biết sau khi ông đã thấy.
Từ cái biết nhờ thấy, do ơn Thiên Chúa ban,
Gioan đã trở nên người làm chứng trung tín.
Ông vui lòng giới thiệu Ðức Giêsu cho môn đệ mình.
Ông mừng khi thấy dân chúng tuốn đến với Ngài (Ga 3,26).
Ông vui khi trở nên lu mờ đi để Ngài được nổi bật (Ga 3,30).
Làm chứng cho Ðức Giêsu khiến ông trở nên tay trắng.
Gioan đã thấy, đã biết, đã làm chứng cho Ðức Giêsu.
Nếu biết là đi vào một mầu nhiệm,
thì mầu nhiệm ấy cứ vẫy gọi người ta tiến sâu hơn.
Càng tiến sâu, cái biết càng được thanh lọc.
Hành trình của Gioan cũng là của tôi: thấy, biết, làm chứng.
Biết một người là chuyện khó.
Biết Ðức Giêsu Kitô còn khó hơn nhiều.
Tôi chẳng thể nào múc cạn được con người độc đáo này,
nơi giao nhau giữa trời và đất, giữa Tạo Hóa và thụ tạo.
Ðể biết Ðức Giêsu, tôi cần thấy Ngài tỏ mình.
Không hẳn tôi sẽ thấy một thị kiến huy hoàng long trọng.
Không hẳn Ngài sẽ xuất hiện trong sức mạnh quyền năng.
Ngài vẫn tỏ mình xuyên qua những chuyện đời thường,
qua những con người đơn sơ tôi vẫn gặp.
Tôi cần tập thấy Ngài ẩn sau lớp vỏ xù xì của thực tế.
Cần thường xuyên làm mới lại cái biết về Ðức Kitô.
để có tương quan thâm trầm hơn, thân mật hơn với Ngài.
Nếu biết là thấy, là có kinh nghiệm riêng tư,
là hiệp thông, gặp gỡ, chia sẻ chính cuộc đời Ngài,
là để mình sống trong Ngài và Ngài sống trong mình,
thì biết là nỗ lực của cả một đời Kitô hữu.
Gioan đã làm chứng cho dân về Ðấng họ đang đợi.
Con người hôm nay đang đợi ai?
Ðức Giêsu do chúng ta trình bày và sống
có đáp ứng những khát vọng sâu thẳm của họ không?
Tôi cần thấy và biết Ngài hơn, để làm chứng tốt hơn.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con thấy Chúa thật lớn lao,
để đối với con, mọi sự khác trở thành bé nhỏ.
Xin cho con thấy Chúa thật bao la,
để cả mặt đất cũng chưa vừa cho con sống.
Xin cho con thấy Chúa thật thẳm sâu,
để con dễ đón nhận nỗi khổ đau sâu thẳm nhất.
Lạy Chúa Giêsu,
xin làm cho con thật mạnh mẽ,
để không nỗi thất vọng nào
còn chạm được tới con.
Xin làm cho con thật đầy ắp,
để ngay cả một ước muốn nhỏ
cũng không còn có chỗ trong con.
Xin làm cho con thật lặng lẽ,
để con chỉ còn loan báo Chúa mà thôi.
Xin Chúa ngự trong con thật sống động,
để không phải là con,
mà là chính Ngài đang sống. Amen
Suy Niệm 2: Nhìn thấy Thiên Chúa
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
“Phúc cho ai có lòng trong sạch vì họ sẽ nhìn thấy Thiên Chúa”. Thánh Gioan Tẩy giả có tâm hồn trong sạch nên Ngài đã nhìn thấy Thiên Chúa. Ngài trong sạch vì không vướng mắc tội lỗi. Được khỏi tội từ khi còn trong lòng mẹ. Và từ khi sinh ra cho tới khi qua đời, Ngài luôn giữ tâm hồn trong sạch. Trong sạch trong đời sống khổ hạnh. Sống trong sa mạc, ăn châu chấu và mật ong, mặc áo da thú. Sự phấn đấu trong đời sống khổ hạnh làm chứng một tâm hồn mạnh mẽ. Một tâm hồn mạnh mẽ như thế không để tội lỗi len lỏi vào được. Trong sạch không để tâm hồn ô nhiễm thói đời. Khiêm nhường dù lúc đã nổi danh và được nhiều người mến mộ. Không nhận những gì không phải của mình. Nói sự thật để người khác đừng gán cho mình những danh hiệu và những vinh dự không phải thuộc về mình.
Vì thế nên Ngài đã nhìn thấy Thiên Chúa. Nhìn Thấy Thiên Chúa kể cả khi Thiên Chúa ẩn thân trong xác phàm, ẩn mình trong đám đông, ẩn mình xếp hàng giữa những người tội lỗi đến xin chịu phép rửa. Ngài nhìn thấy Thiên Chúa theo lời Chúa Cha đã hứa: “Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: ‘Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần’. Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”. Vì thế khi Đức Ki-tô đến, ngài có thể giới thiệu một cách chính xác: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian”.
Thánh Gio-an Tẩy giả sống công chính vì được Thiên Chúa sinh ra. Như thư Gio-an dạy: “Phàm ai sống công chính thì đã được Thiên Chúa sinh ra”. Đức Ki-tô xuất hiện và ngài nhận biết. Vì ngài thanh sạch. Như thư Gio-an dạy: “Phàm ai đặt hi vọng như thế vào Đức Ki-tô thì làm cho mình nên thanh sạch như Người là Đấng thanh sạch”. Thánh Gio-an nhận biết Chúa vì luôn ở trong Chúa và thanh sạch. “Phàm ai ở lại trong Người thì không phạm tội. Còn ai phạm tội thì đã không thấy Người, và cũng chẳng biết Người”.
Hãy sống trong sạch, ta sẽ được nhìn thấy Chúa. Sẽ được biết Chúa. Sẽ được ở trong Chúa. Đó là điều quan trọng nhất đời ta.
Suy Niệm 3: Ðây Chiên Thiên Chúa
(‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)
Vào một buổi tối năm 1741, người ta thấy người nhạc sĩ giả Hallmen lang thang trong một phố nghèo lênh đênh bên Anh Quốc. Người nhạc sĩ già như đang nuốt từng nỗi đắng cay mà triều đình đã dành cho ông. Từ hơn 40 năm qua, ông đã đem tất cả tài năng và sự hăng say của mình để phục vụ triều đình. Thế nhưng, giờ đây ông cảm thấy mình giống như một trái chanh đã vắt hết nước.
Bốn năm trước đó, ông đã bị chứng xuất huyết não làm cho ông bị bại hẳn một bên, khiến ông không còn đi đứng bình thường và sáng tác được. Nhưng dần dần nhờ ý chí sắt đá, ông đã thu hồi được khả năng đi lại và bắt đầu sáng tác lại. Nhưng giờ đây với cái tuổi 60 và với khí trời lạnh như cắt của nước Anh, ông cảm thấy mệt mỏi và chán nản. Tình cờ, khi đi qua một ngôi Thánh Ðường, ông bỗng nghe vọng lên trong tâm hồn ông chính tiếng kêu của Chúa Giêsu: Lạy Chúa con, lạy Chúa trời con. Sao Chúa bỏ con".
Như có một sự thôi thúc lạ lùng, người nhạc sĩ quay về nhà, trong đám giấy vứt ngổn ngang trên bàn làm việc, ông đọc được câu Kinh Thánh như sau: "Người đã bị khinh bỉ và bị mọi người phế bỏ". Nguồn cảm hứng tưởng đã cạn nay lại trải cuộn trên từng trang giấy, hết trang này đến trang khác, những nốt nhạc cứ thế mà tuôn trào. Sau hai mươi bốn ngày làm việc liên lỉ, nhạc sĩ Hallmen đã hoàn thành tác phẩm để đời tựa đề là: "Ðấng Cứu Thế". Từ đó, cứ mỗi dạo Giáng Sinh và Phục Sinh người ta lại có dịp nghe được tác phẩm tuyệt trác để đời.
Anh chị em thân mến!
Người ta thường ví sự chào đời của một tác phẩm với sự cưu mang, cũng như một người mẹ mang nặng đẻ đau thì nhà nhạc sĩ cũng cưu mang ý tưởng để rồi với không biết bao nhiêu nhọc công và cố gắng, tác phẩm mới được chào đời. Hơn bất cứ ai trong trường hợp nào, tiếng khóc Ðấng Cứu Thế đã được nhạc sĩ Hallmen cưu mang để rồi sinh ra với muôn nghìn đớn đau của ông. Hơn ai hết, chính khi cảm nghiệm được thế nào là sự bỏ rơi để có thể diễn tả được tâm tình ấy, đúng hơn ông đã để cho chính sự bỏ rơi của Chúa Giêsu được nhập thể trong tâm hồn ông, nên một với nỗi lòng của ông.
Tin Mừng hôm nay có lẽ cũng mời gọi chúng ta hãy cưu mang những tâm tình ấy. Thánh Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu với chúng ta hai tước hiệu tóm gọn với tước hiệu Nhập Thể: "Chúa Giêsu vừa là Chiên Thiên Chúa gánh tội trần gian vừa là Con Thiên Chúa". Chúa Giêsu, Người là Ðấng Cứu Thế bởi vì Ngài vừa là Con Người, vừa là Thiên Chúa. Ðó là mầu nhiệm trọng đại mà chúng ta được mời gọi để chiêm ngắm trong suốt Mùa Giáng Sinh này. Thiên Chúa đã trở thành một con người, Thiên Chúa đã sống trọn vẹn kiếp sống của con người, Thiên Chúa đã từng cảm nghiệm được những niềm vui nỗi khổ của con người và cuối cùng Ngài đã chết như một con người.
Ðó là tất cả những gì chúng ta có thể nói khi suy niệm về mầu nhiệm Nhập Thể. Mầu nhiệm Nhập Thể một cách nào đó cũng được hiểu qua cuộc sống của người tín hữu. Thánh Phaolô đã diễn tả tuyệt hảo chân lý đó khi Ngài nói: "Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi".
Ðể cho Chúa Giêsu sống trong chúng ta, có nghĩa là kết hiệp với Ngài qua các Bí Tích, nhất là Bí Tích Thánh Thể. Ðể cho Ngài sống trong chúng ta có nghĩa là trong từng tâm hồn, từ những suy nghĩ và hành động, chúng ta luôn mặc lấy chính tâm tình của Ngài. Một cách cụ thể trong mỗi một phút giây, người tín hữu nên một với Ðức Kitô đến độ luôn tự hỏi: Nếu Ðức Kitô là tôi thì trong giây phút này đây Ngài sẽ làm gì, suy nghĩ gì và hành động như thế nào?
Nguyện cho Ðấng đã sinh ra cách đây 2,000 năm cũng sinh lại trong tâm hồn chúng ta để chúng ta cùng được lớn lên với Ngài và đạt được tầm mức viên mãn của Ngài. Amen.
Suy Niệm 4: Đây Chiên Thiên Chúa.
Emilio, một điêu khắc gia nổi tiếng của Hoa kỳ là người thích tạc vẽ ảnh tượng đạo đức và khuôn mặt được ông tạc tượng nhiều nhất là Chúa Giêsu. Trong vòng 10 năm, từ 1960 đến 1970, ông đã hoàn thành khoảng 700 tượng Chúa với những hình dạng khác nhau và ông cho biết: “Điều tôi mong ước nhất, đó là giới thiệu Chúa Giêsu cho người khác”.
Giới thiệu Chúa Giêsu cho người khác, đó cũng là sứ mệnh của Gioan Tẩy giả và của người môn đệ Chúa. Thật vậy, Gioan là người chuẩn bị đường nẻo cho Chúa đến. Ông đã chu toàn sứ mệnh này bằng đời sống đạo đức, khắc khổ, và đã rao giảng thanh tẩy thống hối để được tha thứ tội khiên. Ông còn thâu nhận môn đệ để rồi trao họ lại cho Chúa Giêsu. Tin Mừng hôm nay thuật lại khi Gioan thấy Chúa Giêsu đến với mình, ông đã giới thiệu Ngài với các môn đệ và dân chúng: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây đấng xóa tội trần gian”.
Trong Cựu Ước, con chiên đã trở thành hy lễ đền tội, hy lễ cứu thoát, nhất là từ khi Thiên Chúa qua miệng Môsê truyền cho người Do Thái: trong đêm Vượt Qua, mỗi gia đình phải giết một con chiên, lấy máu chiên bôi lên cửa nhà như dấu cứu thoát trước khi rời khỏi Ai cập.
Khi gọi Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa, với tư cách là tiên tri, Gioan muốn nói rằng Chúa Giêsu là hy lễ đã được Thiên Chúa chọn và chấp nhận, hy lễ đời đời mà những con chiên bị sát tế cho đến lúc đó chỉ là hình bóng. Những lời của Gioan đã được Giáo Hội lặp lại trong thánh lễ để giới thiệu với chúng ta hy lễ cứu độ trần gian. Chúa Giêsu là Con Chiên của kỷ nguyên mới, Ngài đã tự hiến mình làm lễ đền tội thế gian, chỉ một lần là đủ.
Chúa Cứu thế đã sinh ra cho chúng ta, Ngài đã đến để cứu thế gian, tẩy sạch tôi lỗi nhân loại. Ước gì chúng ta biết noi gương thánh Gioan Tẩy giả sống đời chứng nhân cho Chúa, tức là nói lên cho mgn bằng cách sống của mình: “Tôi đã thấy và tôi làm chứng rằng Ngài là Chiên của Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian”.
Suy Niệm 5: Tất cả để vinh danh Chúa hơn
Có một câu chuyện kể về bản di chúc của một người sắp quá cố, trong đó có đoạn viết: “Khi tôi chết, xin đừng ghi tên tuổi, chức nghiệp của tôi qua tấm bia nơi phần mộ, nhưng hãy ghi rằng: ‘Những gì tôi đang có, xin trả lại cho đời. Những gì thuộc về tôi nay không còn nữa. Những gì tôi cho đi, từ nay thuộc về tôi’”. Thật tuyệt vời khi không nghĩ gì cho mình, mà chỉ còn nghĩ đến người khác, ngay cả lúc chết!
Hôm nay, thánh Gioan Tẩy Giả sau khi đã trả lời cho các Tư tế và thầy Lêvi về thân thế, vai trò của mình, ông đã lợi dụng cơ hội này để giới thiệu cho họ biết về Đấng Kitô mà muôn dân đang mong đợi.
Thật vậy, Gioan Tẩy Giả đã không ham hố quyền lợi, uy tín, công danh, vì thế, khi ông thấy Đức Giêsu tiến về phía mình thì đã hô lên và chỉ cho mọi người biết về con người và sứ vụ của Đức Giêsu, ông nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây là Đấng xóa bỏ tội trần gian”.
Khi nói như thế, Gioan đã thực sự khiêm nhường khi nhận mình chỉ là người dọn đường cho Đấng Cứu Thế, nay Đấng ấy đến, ông không ngần ngại reo lên để mọi người biết và tin theo Ngài! Đồng thời ông cũng trao lại cho Đức Giêsu tất cả mọi sự từ uy tín, đến sứ vụ ...
Chính sự khiêm tốn đó, Gioan đã để lại cho muôn thế hệ tấm gương sáng ngời về sự khiêm tốn.
Noi gương thánh Gioan, mỗi người chúng ta hãy sống chân thành, khiêm tốn, không quá coi trọng những lời khen ngợi, không nên tự mãn lúc thành công khi được người đời ca tụng, lại càng loại trừ thói kiêu ngạo, tính bề trên kẻ cả ra khỏi đời sống đạo của mình.
Mặt khác, hãy biết trả lại cho anh chị em chúng ta những nét đẹp mà họ đang có, tránh sự hiềm khích mà trù dập uy tín, danh dự của họ.
Nhưng có lẽ, điều quan trọng nhất chính là quy chiếu về Thiên Chúa mọi sự thành công của chúng ta và không ngừng tri ân, cảm tạ Ngài.
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, sự khiêm nhường, đơn sơ của Chúa mời gọi chúng con thay đổi nếp sống cũ là nếp sống kiêu ngạo, khoe khoang, để thay vào đó là một nếp sống Tin Mừng mà chính thánh Gioan là người đã sống và loan báo.
Ước gì Lời Chúa hôm nay đem lại cho chúng con hạnh phúc khi mỗi người luôn tìm vinh danh Chúa trong mọi sự. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Chiên Thiên Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu được Thánh Gioan Tiền Hô giới thiệu như con chiên gánh tội lỗi trần gian. Con Chiên được sát tế trong lễ vượt qua để xóa bỏ tội nhân loại.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, trong kinh Vinh Danh, con vẫn đọc “chỉ có Chúa là Đấng Thánh”. Vâng, Chúa là con chiên vô tì tích, thế mà Chúa đã gánh lấy tội nhân loại để đền thay cho tất cả nhân loại. Là con chiên vô tội, Chúa đã dùng máu mình để cứu rỗi loài người khỏi ách tội lỗi. Hôm nay, con hiểu được nỗi oan khiên vô tội của Chúa. Tội lỗi của từng con người, tội lỗi của mọi thế hệ, đã được Chúa gánh chịu thay.
Con hiểu được phần nào gánh nặng tội lỗi ấy khi chiêm ngắm Chúa sinh hạ trong máng cỏ nghèo hèn. Con hiểu được phần nào gánh nặng tội lỗi ấy khi chiêm ngắm cảnh tượng Chúa toát mồ hôi máu trong vườn cây dầu. Con hiểu được phần nào gánh nặng tội lỗi ấy khi nghe Chúa thốt lên trên thập giá: “Lạy Cha, sao Cha bỏ con!”. Con hiểu được phần nào gánh nặng tội lỗi ấy khi chiêm ngắm thập giá Chúa. Vì lạy Chúa, nếu tội lỗi của nhân loại không quá nặng nề thì Chúa đã không phải chết cách khủng khiếp đến thế.
Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa đã yêu thương loài người mà gánh lấy tội lỗi chúng con. Con phủ phục trước tấm lòng của Chúa đã hy sinh để chúng con khỏi hư mất. Xin cho nhân loại hôm nay đừng chất thêm vào gánh nặng tội lỗi ấy. Xin cho con một cảm thức nhậy bén với tội lỗi để con dứt khoát tránh xa tội lỗi. Xin cho con biết nhận ra tội lỗi của mình. Xin cho con biết sống bác ái nhiều hơn để góp phần làm vơi đi gánh nặng tội lỗi nhân loại. Amen.
Ghi nhớ: “Ðây Chiên Thiên Chúa”
Suy Niệm 7: Con chiên cứu mạng
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Trên mái một nhà thờ ở Werden - Đức Quốc, người ta có thể nhìn thấy một tảng đá chạm trổ một con chiên (cừu non). Đây là câu chuyện về tảng đá đó:
Một công nhân đang làm trên mái nhà thờ này thì dây thừng an toàn bị đứt, anh công nhân bị rớt xuống sân nhà thờ, mà sân thì xếp đầy những đống đá lớn. Thế nhưng anh công nhân không bị thương nặng. Có một con chiên đang gặm cỏ giữa hai khối đá lớn. Anh công nhân rớt xuống trên con chiên và đè nó chết, làm tiêu tan điều được coi là cú rơi định mệnh…
Để nhớ ơn, anh công nhân đã chạm trổ một con chiên bằng đá và đặt trên mái nhà thờ. Đó là một cách tốt đẹp bày tỏ lòng biết ơn của anh ta đối với một con vật đần độn, đã cứu mạng anh mà nó không biết (Arthur Tonne).
Suy niệm
“Ðây là Chiên Thiên Chúa, đây Ðấng xóa bỏ tội trần gian”. “Tội trần gian” theo truyền thống thường hiểu là tội gốc, là tội nguyên tổ và những hậu quả di căn cho con người là tất cả những lỗi lầm, tội lỗi cá nhân.Không chỉ thế, “tội trần gian” được nhắc đến trong Tin Mừng là ý niệm về một quyền lực “bóng tối” (x. Ga 8, 12), chi phối và đè bẹp con người mất tự do. Thánh Gioan và thánh Giacôbê đã nhấn mạnh sự liên hệ giữa tội lỗi và thế gian (x. Ga 16, 8.17, 14; 1 Ga 2, 1; 2, 15-17; 4, 1.4.5; 5, 19; Gc 1, 27; 3, 15; 4, 4), chính thế lực tạo nên sự chống đối lại sự sáng - thánh ý của Thiên Chúa trong cuộc sống. Trong đó, “tội trần gian” là sự thống trị của vật chất được hình tượng hóa bằng bò vàng mà dân Do Thái tôn thờ (x. Xh 32, 1-6). Hành vi tôn thờ bò vàng muốn nói lên là họ không cần đến Thiên Chúa, cắt mình ra khỏi sự gắn bó với Thiên Chúa, tự sức mình làm chủ cuộc đời và muốn thế giới theo ý mình. Chúng ta thấy rõ việc tôn thờ “bò vàng” qua cách sống thực dụng duy vật chất của người đời hôm nay. “Tội trần gian” còn là di căn của tội như đau khổ và phải chết do tội nguyên tổ, những hậu quả đi vào đời sống hàng ngày là những lo lắng ưu tư, những khốn khó, bệnh tật mà con người đang bị đè nặng từ khi bóng tối làm chủ thế gian…”Đây Chiên Thiên Chúa, đây Ðấng xóa bỏ tội trần gian”, Thánh Gioan Chrysostome và thánh Augustinô đã nhấn mạnh: “Chiên là biểu tượng của sự vô tội và của công chính. Người vô tội chết cho người có tội, người công chính chết cho nhân loại vốn mất ân sủng do tội, được trở nên công chính hóa”. Vì thế, Giáo hội tuyên tín từ xa xưa: “Khi Người tự hiến tế làm Chiên Vượt Qua của chúng con, Người hủy diệt tội lỗi xưa để đổi mới muôn loài sa ngã, và hoàn lại sự sống nguyên tuyền cho chúng con” (Kinh Tiền Tụng Phục Sinh IV).
Ðức Kitô - Chiên Thiên Chúa đã dùng giá máu mình để cứu chuộc nhân loại (x. 1Pr 1, 18; Kh 5, 9; Dt 9, 12-15) được loan báo trước bằng hình ảnh máu của con chiên cứu dân Do Thái. Gioan, người môn đệ đã thấy hình ảnh Chiên Thiên Chúa hiến tế đã nhấn mạnh: Ngài đã cứu họ khỏi “bụi trần” (Kh 14, 3); Phêrô xác tín thêm: Ngài đã cứu nhân loại khỏi cái thế giới buông theo gian tà phát sinh do đạo thờ ngẫu tượng (x. 1Pr 1, 14.18; 4, 2tt), nhờ đó từ nay họ có thể tránh tội (x. 1Pr 1, 15tt; Ga 1, 29; 1Ga 3, 5-9), hình thành nên vương quốc tư tế mới, nên dân tộc được thánh hiến cho Thiên Chúa (x. 1Pr 2, 9; Kh 5, 9tt; Xh 19, 6). Chính dân tộc thánh này sẽ dâng lên Thiên Chúa cuộc thờ phượng thiêng liêng bằng một đời sống không có gì chê trách được (x. 1Pr 2, 5; Dt 9, 14). Chính vì lẽ đó, Tông đồ Phaolô khuyên người tín hữu hãy sống “tinh tuyền và chân thật” như bánh không men vì “Ðức Kitô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta” (1Cr 5, 7).
Ước chi tôi và bạn đặt tất cả niềm tin và cuộc sống nơi Chiên Vượt Qua - Đức Kitô, trong Ngài chúng ta được chữa lành mọi vết thương, được giải phóng mọi tình trạng nô lệ ở đời này.
Ý lực sống
Chiên Vượt Qua là Kitô Đức Chúa
Đổ máu đào vô tội cứu sinh linh
Này bánh không men nuôi dưỡng lòng thành
Hồn trinh trắng khỏi sa vòng tục lụy… (Thánh Thi Phục Sinh)
Suy Niệm 8: Đây Đấng xóa tội trần gian
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1 Sau khi Gioan làm chứng về Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế trước mặt phái đoàn Do thái đến chất vấn, ông lại làm chứng về Đức Giêsu trước mặt đám đông dân chúng đến với ông.
Khi thánh Gioan thấy Chúa Giêsu, thì giới thiệu cho mọi người biết: đây là chiên Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, là Đấng xóa tội trần gian , Đấng mà tôi loan báo sẽ đến sau tôi, nhưng cao trọng hơn tôi, vì Người là Con Thiên Chúa. Tôi đã thấy Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên Người nên tôi nhận biết Người là Con Thiên Chúa. Tôi chỉ làm phép rửa bằng nước để dọn lòng anh em đón tiếp Người. Còn Người đã được đầy tràn Thánh Thần thì sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần.
2. Gioan Tẩy Giả giới thiệu về Chúa Giêsu cho mọi người. Tin Mừng thuật lạ: Khi ông Gioan thấy Chúa Giêsu tiến về phía mình, liền nói: “Đây là Con Chiên Thiên Chúa. Đây Đáng xóa tội trần gian. Chính người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi. Tôi đã không biết Người, nhưng để Người được tỏ ra cho dân Israel, tôi đến làm phép rửa trong nước”.
Ông Gian còn làm chứng: “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần. Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn” (Ga 129-34).
Có lẽ khắp toàn văn Thánh Kinh, đây là câu nói rõ nhất về sứ mệnh và cách thức cứu chuộc của Chúa Giêsu. Ơn cứu độ không chỉ xóa bỏ Tội Nguyên tổ, mà còn xóa bỏ Tội Trần Gian. Lại nữa, cách thức cứu chuộc không phải theo cách thức binh hùng tướng mạnh mà là như là con chiên chịu sát tế, làm của ăn và dấu hiệu cứu dân trong Đêm Vượt Qua.
3 ”Đây Chiên Thiên Chúa” (Ga 1,29).
Mỗi ngày trong Thánh Lễ, Linh mục nâng Mình Thánh lên và lặp lại lời của thánh Gioan Tiền Hô nói trong bài Tin Mừng hôm nay: Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian...” Lời này gợi lại cho chúng ta hình ảnh con chiên bị sát tế trong đêm vượt qua xưa, khi Chúa cứu Israel khỏi cảnh nô lệ Ai Cập và vượt qua Biển Đỏ, thịt chiên làm của ăn lễ vượt qua, máu chiên bôi lên khung cửa để thoát thần tru diệt hại dân. Hôm nay, Chúa Giêsu được ví như Con Chiên chịu sát tế để giải phóng nhân loại khỏi cảnh nô lệ tội lỗi, vượt qua biển trần gian từ cõi chết vào cõi sống. Đặc biệt, Thịt Máu Chúa Giêsu nên lương thực nuôi sống linh hồn chúng ta và rửa sạch chúng ta hết mọi tội khiên.
4.” Đây Đấng xóa tội trần gian (Ga 1,29).
Tội trần gian theo thần học Gioan (x. Ga.1,29), được hiểu như là sự lạm dụng tự do Nguyên Tổ đã vi phạm lệnh truyền của Thiên Chúa, rồi một khi tội lỗi bắt đầu xuất hiện thì đà xuống dốc không thể dừng lại được và kéo theo môi trường hay một tình trạng hư hoại. Trải qua thế hệ này đến thế hệ khác, tội lỗi cứ thêm chồng chất và mọi người đều đóng góp vào “tội trần gian” ấy. Đó là tình trạng khi một người sinh ra đã ở trong môi trường tội lỗi và rồi lệ thuộc tình trạng sẵn có này. Với khả năng nhỏ bé con người không thể lướt thắng mãnh lực tội lỗi nên cần đến Ơn Cứu Rỗi.
5. Trong đạo Do Thái người ta cần có những con chiên gánh tội. Khi người ta có tội, người ta đem một con chiên đến Đền thờ, đặt tay trên đầu nó, tỏ ý trút hết tội của mình xuống nó, rồi giết chết nó hoặc đuổi nó vào sa mạc. Kể như nó đã mang hết tội người ta và chịu phạt tội thay cho người ta. Chúa Giêsu đã tình nguyện làm con chiên gánh tội trần gian. Ngài cũng muốn các Kitô hữu làm con chiên gánh tội cho những người của thời đại mình.
6. Truyện: Con chiên chết thay.
Trên mái một nhà thờ ở Werden, nước Đức, ai đi qua cũng có thể nhìn thấy tảng đá chạm trổ hình con chiên. Người dân ở đây đã kể lại câu chuyện về tảng đá đó như sau:
Có một công nhân đang làm việc trên mái nhà thờ cao chót vót này thì dây thừng an toàn của anh bị đứt, anh công nhân bị rơi xuống sân nhà thờ. Ai cũng tưởng anh đã chết. Nhưng may là anh rơi xuống trên một con chiên đang gặm cỏ ở sân. Con chiên chết nhưng anh được sống.
Để nhớ ơn, anh công nhân đã chạn trổ một con chiên bằng đá và đặt trên mái nhà thờ. Đó là một cách tốt nhất của anh để bầy tỏ lòng biết ơn đối với con chiên hiền lành, vô tội, đã cứu mạng anh mà nó không biết.
Suy Niệm 9: Gioan làm chứng về Đức Giêsu
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Trong đoạn Tin Mừng hôm qua, Gioan tẩy giả đã làm chứng về bản thân mình (3 không 2 phải). Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Gioan làm chứng về Đức Giêsu. Ta cũng có thể tóm tắt lời chứng của Gioan về Đức Giêsu thành 2 điểm:
1. Đức Giêsu là Con Chiên của Thiên Chúa: Kiểu nói “Chiên của Thiên Chúa” có thể mang 3 nghĩa quy chiếu về 3 nơi trong Cựu Ước:
. Con chiên trong Is 53,7 (“như con chiên bị lôi đến lò sát sinh”): Đức Giêsu chính là Người Tôi Tớ mà Is tiên báo bằng hình ảnh con chiên hiền lành chịu chết vì tội muôn dân.
. Con chiên trong Khải huyền 5,6 14,10 17,14 đã từng bị sát tế và được nâng lên: Đức Giêsu đã chịu chết nhưng đã sống lại và chiến thắng tội lỗi.
. Con chiên vượt qua trong Ga 19,14 (Đức Giêsu bị giết vào đúng lúc người ta giết chiên để ăn tiệc vượt qua): Đức Giêsu chính là Con chiên vượt qua dùng cái chết của mình để thực hiện cuộc giải phóng nhân loại.
2. Đức Giêsu là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn: Kiểu nói “Đấng mà Thiên Chúa đã tuyển chọn” cũng mang âm hưởng Is 42,1 nói về Người Tôi Tớ.
B.... nẩy mầm.
1. Có người so sánh một cách thi vị rằng Linh mục và tu sĩ là những chiếc đò đưa khách sang sông. Con thuyền phải đưa khách sang sông chứ không giữ khách lại mãi trong thuyền, vì nếu thế thì nó không phải là chiếc đò nữa.
2. Trong đạo do thái người ta cần có những con chiên gánh tội. Khi người ta có tội, người ta đem một con chiên đến Đền thờ, đặt tay trên đầu nó, tỏ ý trút hết tội của mình xuống nó, rồi giết chết nó hoặc đuổi nó vào sa mạc. Kể như nó đã mang hết tội của người ta và chịu phạt tội thay cho người ta. Chúa Giêsu đã tình nguyện làm con chiên gánh tội trần gian. Ngài cũng muốn các kitô hữu làm con chiên gánh tội thay cho những người của thời đại mình.
3. Chúa Giêsu là Đấng cứu độ. Để gánh tội tôi, Người đã bước lên cây thập giá đẫm máu. Cuộc chiến chống tội lỗi luôn cam go. - Cuộc chiến đấu chống tội lỗi trong con người tôi hẳn cũng phải theo con đường của Chúa: nhiều lần vác thập giá, nhiều lần chịu đổ mồ hôi sôi nước mắt, chịu chết lên chết xuống với con người cũ… Lạy Chúa xin cho con được cộng tác với Chúa trong chương trình cứu độ ngay bản thân con.
4. “Gioan làm chứng về Đức Giêsu: Tôi đã thấy nên xin chứng thực Ngài là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn” (Ga 1,34)
Nhiều người hỏi tôi: “Chúa có thật không? Nếu có thì Người ở đâu? Có gì minh chứng cho sự hiện hữu ấy?” Tôi chẳng thuyết phục được ai, nhưng luôn tin rằng có Thiên Chúa. Quả thực tôi chưa hề thấy Chúa bằng con mắt xác thịt, nhưng được Người cho thấy bằng con mắt đức tin. Gioan đã được nhìn tận mắt, nhưng để khám phá Đức Giêsu là Đấng phải đến và để làm chứng cho Người, ông phải được Thánh Thần soi dẫn. Cũng thế, to chẳng bao giờ có thể thấy và làm chứng cho Chúa nếu như Người không trợ giúp.
Lạy Chúa, xin mở mắt cho con được thấy xa hơn những dòng chữ viết về Ngài trong Thánh Kinh, để con gặp được một Thiên Chúa sống động. Xin mở mắt cho con được thấy những hành vi âm thầm nhưng kỳ diệu của Chúa trên đời con, để con biết rằng có một Thiên Chúa hiện hữu. (Epphata)
Suy Niệm 10: Gioan Tẩy Giả giới thiệu Chúa
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Gioan Tẩy Giả giới thiệu Chúa.
Thánh Gioan Tẩy Giả giới thiệu Chúa là Con chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian. Và ngài còn nói rõ: Đấng đã sai tôi làm phép rửa, bào tôi rằng: người thấy Thần Khí xuống trên ai chính đó là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần. Tôi đã thấy nên tôi làm chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn. (Ga 1, 34)
Ông Gioan thấy Chúa Giêsu tiến về phía mình, liền nói: Đây là con Chiên Thiên Chúa. Gioan đã thấy Chúa Giêsu nên mới giới thiệu. Ngày nay người Kitô hữu muốn giới thiệu Chúa cho kẻ khác thì điều kiện tiên quyết cũng phải là thấy Chúa. Nhưng cách sống đạo đã giúp chúng ta thấy Chúa chưa, hay đạo của chúng ta mới chỉ là một mớ kiến thức về Chúa mà thôi? Thấy Chúa bằng đức tin là một điều tối quan trọng trong đời sống người Kitô hữu.
Chuyện kể rằng một nhà bác học vô thần kia gặp một người nông dân đi đến nhà thờ, liền hỏi:
- Ông đi đâu đó?
Người nông dân đáp:
- Tôi đến nhà thờ để gặp Chúa.
Người vô thần cười cách hóm hỉnh, hỏi lại:
- Chúa ông có to không?
Người nông dân cũng cười và trả lời:
- To lắm chứ, to đến nỗi cả trời đất không chứa hết, và cũng rất nhỏ, nhỏ đến nỗi ngài có thể ở trong trái tim tôi.
Người nông dân đã giới thiệu Chúa bằng đức tin đơn sơ nhưng vững chắc của mình. Sau này nhà bác học vô thần kia đã phải thú nhận rằng, câu trả lời của người nông dân kia đã làm ông phải suy nghĩ nhiều hơn là những pho sách của các nhà bác học.
Câu chuyện trên đây cho phép chúng ta kết luận rằng, người ta có thể thấy Chúa bằng đức tin và giới thiệu Chúa bằng đức ái, bằng trái tim của mình trong đó có Chúa ngự.
2. Chúng Ta Cũng Phải Giới Thiệu Đức Kitô.
Sau Gioan, mỗi người Kitô hữu cũng phải là người giới thiệu Đức Kitô cho người khác. Cách thức giới thiệu có thể khác nhau: người thì dùng lời nói, kẻ khác bằng hành động bác ái, xã hội, hoặc đời sống nhân chứng theo đúng nghĩa Kitô giáo.
Xin đan cử một thí dụ: Vào thời Giáo Hội mới được khai sinh, các tín hữu đã có một đời sống rất gương mẫu làm cho dân ngọai phải ngạc nhiên. Sách Công vụ Tông đồ ghi lại: “Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến đền thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ” (Cv 2, 44-47).
Phải nói đây là cách giới thiệu Chúa hay nhất: Giới thiệu bằng cuộc sống. “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5, 16).
Muốn chiếu giãi ánh sáng Chúa Kitô cho người khác, chúng ta phải chiêm ngắm Chúa Kitô bằng cách học hỏi Lời Chúa, áp dụng vào đời sống hằng ngày để chúng ta có thể nói được như thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 19). Nếu Đức Kitô sống trong ta, Ngài sẽ hoán đổi dần con người của ta để trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài, nhờ đó ta sẽ chiếu giãi Chúa Kitô cho người khác được.
Một ngày Chủ nhật nọ, có một người đàn ông đã từng sống một đời sống vô cùng lạnh nhạt, khô khan về việc đạo. Tình cờ ông đi ngang qua nhà thờ giáo xứ Churning, ông gặp một cô bé đang vào nhà thờ với các em nhỏ khác. Ông dừng lại quan sát thái độ tử tế khác lạ của cô và ông đã theo cô vào nhà thờ lúc nào không hay. Trong nhà nguyện chật chội và nghèo nàn đó, ông thấy cô ngoan ngoãn quì xuống đất, chắp tay ngước mắt nhìn Chúa Giêsu trong Nhà Tạm với tất cả lòng tin yêu cung kính như khi ta đến trước mặt người có chức tước đáng quí trọng. Tới lúc vị linh mục dâng thánh lễ, ông cũng quì gối để dễ bề quan sát thái độ của cô. Ông cảm động khi thấy gương mặt của cô tươi đẹp như người xuất thần với đức tin mạnh mẽ vào sự hiện diện của Chúa trong phép Thánh Thể. Cảm động, ông trở về nhà và từ đó ông ăn năn trở lại sống đời giáo hữu thật sốt sắng.
Cô bé đó chính là Laura Diconia, có lẽ cô không nhận ra hiệu lực của lòng sốt sắng nơi mình, nhưng chính hành vi và lẽ sống của cô đã là một chứng tá cho đức tin và tình yêu Chúa. Thái độ bên ngoài của cô tuy rất tầm thường và đơn sơ nhưng chính sự trịnh trong của tâm hồn và tình yêu sâu đậm của con tim đã mặc cho những cử chỉ bên ngoài đó một vẻ sâu xa khác thường khiến cho người ta cảm thấy ngay sự hiện diện của Chúa.
Lạy Chúa, xin biến mỗi người chúng con thành chứng nhân cho Chúa. Amen.