Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Liên Hội đồng Giám mục Mỹ Latinh nhóm khóa họp đặc biệt
Liên Hội đồng Giám mục Mỹ châu Latinh, gọi tắt là Celam, sẽ nhóm khóa họp đặc biệt, từ ngày 12 đến ngày 14 tháng Bảy tới đây.
Mục đích là để lượng định, đi sâu vào và bàn về hành trình mục vụ của Giáo hội tại Mỹ châu Latinh và quần đảo Caraibí, dưới ánh sáng Đại hội của Giáo hội tại đại lục này hồi năm ngoái.
Theo thông tin do vị Chủ tịch của tổ chức Celam là Đức Tổng giám mục Cabrejos Vidarte, thuộc Tổng giáo phận San Juan de Cuyo, Peru, và Đức cha Tổng Thư ký. Tham dự khóa đặc biệt này sẽ có các vị chủ tịch cùng với đại biểu của 22 Hội đồng Giám mục Mỹ Latinh. Khóa họp cũng bắt đầu chuẩn bị cho biến cố kỷ niệm 500 năm Đức Mẹ hiện ra với thổ dân Juan Diego ở Guadalupe bên Mêhicô, sẽ mừng vào năm 2031, và Đại Năm thánh Cứu độ 2033. Ngoài ra, cuộc gặp gỡ này cũng là cơ hội để thẩm định về hành trình chuẩn bị Thượng Hội đồng Giám mục năm 2023 do Đức Thánh cha đề xướng.
Khóa họp sẽ diễn ra tại trụ sở mới của tổ chức Celam ở phía bắc thủ đô Bogotà của Colombia. Các tham dự viên sẽ dự nghi lễ làm phép khánh thành trụ sở này.
Khóa họp toàn thể lần cuối trước đây của tổ chức Celam đã diễn ra từ ngày 18 đến ngày 21 tháng Năm năm ngoái, dưới dạng trực tuyến vì đại dịch và chỉ có các vị thuộc đoàn chủ tịch cùng với vị Tổng thư ký họp trực diện tại thành phố Trujillo, bên Peru.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Hội đồng Giám mục Công giáo Latinh các miền Arập chào mừng Đức cha Martinelli
Hội đồng Giám mục Công giáo Latinh các miền Arập, gọi tắt là Celra, chào mừng việc Đức Thánh cha Phanxicô bổ nhiệm Đức cha Paolo Martinelli là tân Giám quản Tông Tòa Nam Arabia.
Đức cha Martinelli, 63 tuổi, dòng Capuchino, cho đến nay là Giám mục Phụ tá Tổng giáo phận Milano, bắc Ý. Ngài từng làm giáo sư thần học linh đạo tại Giáo hoàng Đại học Antonianum của dòng Phanxicô ở Roma, cho đến năm 2014 thì được Đức Thánh cha bổ nhiệm làm Giám mục Phụ tá Milano, là giáo phận lớn nhất ở Ý, với hơn bốn triệu rưỡi tín hữu Công giáo. Hôm ngày 01 tháng Năm vừa qua, Đức cha Martinelli được Đức Thánh cha cử thay thế Đức cha Paul Hinder, dòng Capuchino, người Thụy Sĩ, 80 tuổi, về hưu sau 17 năm làm chủ chăn Công giáo tại bán đảo Arập.
Trong thông cáo, Đức Thượng phụ Pierbattista Pizzaballa tại Jerusalem, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Công giáo Latinh miền Arập, nhận định rằng việc bổ nhiệm Đức cha Martinelli không có nghĩa là tách rời ngài khỏi giáo phận Milano, nhưng “đúng hơn là một lời kêu gọi cởi mở đối với một thế giới mới và một cộng đoàn Kitô đa văn hóa, được hội nhập vào một môi trường Hồi giáo nhiều sáng kiến”.
Đức Thượng phụ nhận xét rằng địa phận đại diện Tông Tòa Nam Arabia bao gồm ba nước là Oman, Emirate liên minh các tiểu vương quốc Arập, và sau cùng là Yemen. Đó là một vùng rộng 930 cây số vuông với 17 trung tâm mục vụ, được khoảng 65 linh mục phục vụ. Theo Đức Thượng phụ, kinh nghiệm mới trong cuộc sống chắc chắn sẽ đầy cơ hội, nhưng cũng có những thách đố, trong đó thuộc hàng lớn nhất là trở thành một Giáo hội có tinh thần tự do, muốn ra ngoài để gặp những người lạ trên đường”.
Sau cùng, thông cáo của Đức Thượng phụ chủ tịch bày tỏ vui mừng của các thành viên trong Hội đồng Giám mục này và chờ đợi Đức cha Martinelli trong khóa họp toàn thể tới đây, từ ngày 29 đến ngày 31 tháng Tám tại Roma.
Hội đồng Giám mục Công giáo Latinh các miền Arập bao gồm 15 nước, trong đó có Ai Cập, Syria, Liban, Irak, Giordani, Palestine, Israel, Síp, cả Gibuti, Somalia, và các quốc gia tại Bán đảo Arập.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Đức Tổng Giám mục Gollnish: “Người Ukraine dựa vào đức tin để đối diện với thực tế”
fr.aleteia.org, Bérengère Dommaigné, 2022-05-03
Giám mục Gollnish với các thành viên của Đại học công giáo Lviv, Ukraine. Cơ quan Từ thiện Đông phương
Tổng giám mục Pascal Gollnisch, tổng giám đốc cơ quan Từ thiện Đông phương đến Ukraine từ ngày 27 đến 30 tháng 4, ngài nói về lòng dũng cảm và đức tin của người Ukraine trên trang Aleteia. Trong hành trang của ngài, ngài mang theo bức tượng Đức Mẹ Rue du Bac, Paris để tặng cho cộng đoàn của trường Đại học công giáo Lviv, một thành phố nằm ở phía tây Ukraine.
Ngài cho biết: “Người Ukraine không phải là một dân tộc bị đè bẹp, hoàn toàn ngược lại. Đây là một dân tộc đứng lên, đối diện, giúp đỡ những người đau đớn nhất.” Trong chuyến đi Ukraine từ ngày 27 đến ngày 30 tháng 4, Đức Tổng giám mục Pascal Gollnisch đã đến thăm cộng đồng công giáo hy lạp Ukraine và các trung tâm tị nạn và bệnh viện, ngài muốn gần người dân nhất có thể.
Cha ở Ukraine ba ngày, vì sao cha có chuyến đi này?
Giám mục Gollnish: Cơ quan Từ thiện Đông phương do tôi đại diện đã làm việc với Ukraine từ năm 1920! Như thế là quý vị biết chúng tôi có mối quan hệ bền chặt với người Ukraine như thế nào và chúng tôi luôn đồng hành cùng họ, dù trong thời bình hay trong thời chiến như lúc này. Sự hiện diện của chúng tôi tại chỗ giúp chúng tôi hỗ trợ người dân và biết họ cần gì.
Đó đúng là một cuộc chiến tranh hủy diệt, với sự man rợ và tàn khốc không thể tưởng tượng, tôi quá chấn động.
Cha đã có thể nhìn thấy gì ở đó?
Chúng tôi đến Lviv, ở phía tây đất nước, một thành phố tương đối xa, dù vậy vẫn có những vụ dội bom và còi báo động vang liên hồi. Chúng tôi đến những nơi khác nhau: trung tâm tị nạn, bệnh viện và nhà của người dân. Người Ukraine đã được huy động rất nhiều để đón nhận những người sơ tán, đặc biệt có nhiều phụ nữ và trẻ em đến từ miền Đông. Tôi đau lòng khi nhìn số lượng thương binh, những vết thương của họ rất nặng. Một số bị biến dạng, què quặt, trông giống như thời Thế chiến thứ hai, thật khủng khiếp.
Cha cảm thấy như thế nào về những người Ukraine mà cha gặp?
Họ hoàn toàn không phải là một dân tộc bị đè bẹp, hoàn toàn ngược lại. Đó là một dân tộc đứng lên, đối diện, giúp đỡ những người đau đớn nhất. Họ là một dân tộc phải gánh chịu nỗi oan bi thảm này. Đây đúng là cuộc chiến hủy diệt, với sự man rợ và tàn khốc không thể tưởng tượng, tôi thật chấn động. Cuộc chiến man rợ này hình như ở một thời khác. Nhưng người Ukraine dựa vào đức tin của họ để dũng cảm đối diện, họ sống một cách thiêng liêng với những đau khổ họ phải chịu đựng.
Trong hành lý của cha có mang tượng Đức Mẹ của Rue du Bac. Vì sao ?
Trước hết vì chúng tôi rất gần với các Nữ tu Bác ái ở Paris: văn phòng của Quỹ Đông phương gần Rue du Bac. Và chúng tôi cũng làm nhiều việc với các nữ tu ở Đông phương. Vì thế tôi mang bức tượng ở các sơ và đem qua biên giới. Sáng thứ sáu 29 tháng 4, sau thánh lễ tại Đại học công giáo Lviv, tôi đã trao tượng cho cộng đoàn ở đó và kể cho họ nghe câu chuyện ở Rue du Bac.
Họ có biết tượng không?
Không, họ biết rất ít, nhưng họ rất xúc động vì Đức Trinh Nữ có một vị trí lớn trong trái tim họ. Ở Ukraine, tháng 5 là tháng Đức Mẹ, với nhiều cuộc hành hương, đặc biệt là đến thánh địa Zarvanytsya. Thêm nữa, ở cơ quan Từ thiện Đông phương, chúng tôi tình cờ phát hiện tại các thánh địa Thánh Têrêxa Lisieux và Lộ Đức ở Pháp có những bàn thờ dành riêng cho Ukraine, chắc chắn để nhớ và cầu nguyện cho người công giáo hy lạp giữ đạo chui trong những năm họ bị áp bức. Vì thế Đức Mẹ luôn hiện diện trong trái tim người dân Ukraine.
Marta An Nguyễn dịch
Nguồn: phanxico.vn
Những bức thư từ Kyiv: Linh mục Jaroslav Krawiec dòng Đa Minh kể về cuộc chiến Ukraine #20
cath.ch, Bernard Hallet, 2022-05-05
Linh mục Jaroslav Krawiec dòng Đa Minh, bề trên tu viện Mẹ Thiên Chúa ở trung tâm thành phố Kyiv. Kể từ ngày 26 tháng 2, linh mục gởi về trang Công giáo Thụy Sĩ “sổ tay từ Ukraine”. Hôm nay là sổ tay thứ 20, ngày thứ 71 của chiến ở Ukraine.
Thứ năm, ngày 5 tháng 5, giao tranh tiếp tục diễn ra. Theo Kyiv, Nga đang “cố gắng tiêu diệt” những người bảo vệ cuối cùng ở đây. Quân đội Ukraine “tiếp tục cuộc tấn công với máy bay hỗ trợ để kiểm soát nhà máy.” Ủy ban châu Âu đề xuất lệnh cấm vận các sản phẩm dầu mỏ của Nga.
Anh chị em thân mến,
“Thưa cha, báo động không kích đã báo hơn hai giờ. Cha có đang ở trong hầm trú ẩn không?” Khi tôi bắt đầu viết, tôi nhận tin nhắn này từ Vera, tu viện Thánh Martinô ở Fastiv.
Đêm nay, cũng như ngày hôm qua, còi báo động không kích bao phủ gần như cả nước; bản tin cho biết có nhiều vụ tấn công bằng tên lửa ở các thành phố khác nhau ở Ukraine. Mặc dù các cuộc tấn công chủ yếu nhằm vào các tuyến đường sắt và các địa điểm chiến lược, nhưng chúng tôi biết, không phải lúc nào các tên lửa này cũng nhắm trúng đích. Một ngày trước khi tôi trở lại Kyiv, một trong những tên lửa đã phá hủy một tòa nhà chung cư mới xây xong gần tu viện chúng tôi.
Cha Peter, lúc đó đang làm việc trong vườn đã nghe rõ tiếng tên lửa, sau đó là những tiếng nổ lớn. Cùng lúc đó, có một cuộc tấn công vào Fastiv. May mắn thay, các tên lửa tấn công xa hơn tu viện một chút. Cha Misha nói: “Nếu vụ nổ mạnh hơn một chút, tất cả kính màu của cửa sổ nhà thờ chắc chắn đã bị phá hủy.”
Nhiều thành phố bị đổ nát
Bảy mươi ngày chiến tranh trôi qua. Cuộc chiến này đã biến nhiều thành phố Ukraine thành đống đổ nát, làm cho hàng triệu người mất nhà cửa, cướp đi sinh mạng và sức khỏe của hàng ngàn người. Cho đến gần đây, tôi chưa bao giờ nghĩ tôi sẽ đi theo thế hệ ông bà tôi, những người đã chia thời gian của họ thành “trước chiến tranh” và “trong chiến tranh”. Còn chúng tôi, chúng tôi muốn viết “sau chiến tranh”.
Thời gian dài tạm ngưng
Tôi bắt đầu viết thư từ Ukraine trở lại sau một thời gian dài nghỉ ngơi. Tôi do dự, tôi không biết có cần thiết hay không hay tất cả chúng tôi đã quá mệt mỏi với những gì đang xảy ra ở đây. Tuy nhiên, nhiều người khuyến khích tôi không nên bỏ việc viết lách.
Mặc dù tình hình đã rất khác so với một tháng trước, cuộc chiến vẫn tiếp diễn và luôn làm chúng ta ngạc nhiên, suy nghĩ, cầu nguyện, giúp đỡ, hoặc ngay cả cần sự hiện diện của nhau.
Tôi về lại Ukraine ngày thứ sáu. Không mất nhiều thời gian khi qua biên giới. Giao thông ở cả hai chiều đều nhẹ hơn nhiều so với trước chiến tranh, dĩ nhiên cho những người tận dụng cơ hội quy luật nhập khẩu vào Ukraine nhẹ hơn để đưa xe từ Tây Âu vào. Họ đã đợi ở phía Ba Lan tới hai ngày. Những chiếc lều được các tình nguyện viên dùng rất gần đây để phân phát thức ăn cho người tị nạn đã trống rỗng.
“Cuộc chiến vẫn tiếp diễn và luôn làm chúng ta ngạc nhiên, làm chúng ta suy nghĩ, cầu nguyện, giúp đỡ, hoặc ngay cả cần sự hiện diện của nhau”.
Hành trình giữa biên giới Ba Lan và Fastiv mất cả ngày vì phải đi gần 600 cây số. Các trạm kiểm soát không còn, nơi mà cho đến nay giao thông ở miền Tây Ukraine bị chậm lại nghiêm trọng. Nếu không có những chiếc xe quân sự thỉnh thoảng đi qua, chúng ta có thể quên đất nước này đang có chiến tranh. Vấn đề nghiêm trọng nhất đối với việc di chuyển là thiếu nhiên liệu. Do thiệt hại vì chiến tranh và việc giao hàng từ Nga và Belarus bị cắt, đổ xăng bây giờ là cả một kỳ công. Hầu hết các trạm xăng đều đóng cửa. Một số chỉ cung cấp một loại nhiên liệu. Và nếu bạn xoay sở để tìm được trạm có nhiên liệu mình cần, bạn phải xếp hàng dài để có thể mua được 20 hoặc đôi khi chỉ 10 lít xăng.
Mìn cá nhân, một xui xẻo thực sự
Trong đoạn cuối hành trình, tôi đã đi qua các khu vực gần đây bị quân đội Nga chiếm đóng hoặc nhắm mục tiêu. Trời tối, và mọi thứ dường như trống rỗng. Đôi khi tôi có cảm giác kỳ lạ, rất buồn, nhất là khi lái xe qua rừng. Họ nói có những nhân vật đáng ngờ vẫn còn đi lang thang. Tôi may mắn là tôi không phải dừng lại và xuống xe, vì khi tôi đi cùng tuyến đường ngày hôm qua, tôi đi qua một nhóm kỹ sư quân đội đang kiểm tra bên đường. Mìn cá nhân là một xui xẻo thực sự cho người dân ở các ngôi làng và thị trấn xung quanh Kyiv. Những “di tích” người Nga để lại đã cướp sinh mạng của hàng chục người.
Tôi đến Fastiv sau giờ giới nghiêm. Cũng may những người bảo vệ lối vào thành phố rất biết điều, họ nói cho tôi biết, tôi không nên ở đây lúc này: “Thưa cha, cha nên tiếp tục đi, đây không phải là chỗ cha chờ cho đến sáng.”
Ngày thứ bảy, sau khi cầu nguyện và ăn sáng, chúng tôi có cuộc họp giao ban buổi sáng, cha Misha giao nhiệm vụ cho các tình nguyện viên, chúng tôi mang đồ cứu trợ đến các ngôi làng phía bắc Fastiv. Một số trong số đó đã bị quân đội Nga bắn cháy, một số khác đã bị chiếm đóng. Mặc dù đã một tháng kể từ khi kẻ tấn công rời đi, những nơi này vẫn còn kinh khủng. Chúng tôi đã đến thăm những ngôi làng, nơi hơn 70-80% các tòa nhà đã bị phá hủy.
Cha Misha và các tình nguyện viên phát hàng cứu trợ nhân đạo cho người dân các ngôi làng nhỏ phía bắc Fastiv | © Jaroslav Kraviec
Một số người dân sơ tán đang trở về nhà. Dĩ nhiên còn một cái gì đó có thể ở được. Những người khác không bao giờ trở lại. Chúng tôi dừng lại ở Andriivka, một ngôi làng trên đường từ Makariv đến Borodyanka. Cha Misha và các tình nguyện viên của tu viện Thánh Martinô đã đến đó vài lần trước đây. Chúng tôi đã nói chuyện với Vitaly, người điều hành cửa hàng phân phối hàng cứu trợ. Anh nói với chúng tôi những gì đã xảy ra ở đó hai tuần trước. Anh chỉ vào khu ø trường học: “Hàng chục phụ nữ và con cái của họ ở đó. Người Nga đã đưa họ đi đâu đó. Chúng tôi không biết chuyện gì đã xảy ra với họ và hiện giờ họ đang ở đâu.”
Anh kể khi lính vào làng, họ lục soát từng nhà, tìm người đức quốc xã và người Banderit (những người của một tổ chức cánh hữu của những năm 1940). Những người khác sống sót sau cuộc chiếm đóng cũng nói chuyện này. Trong số này có cô Natalia cùng với cha mẹ già bị bệnh của cô hiện đang sống trong tu viện của chúng tôi ở Kyiv. Trước khi đến sống với chúng tôi, cô đã ở hai tuần trong một ngôi làng nhỏ gần Bucha, nơi thuộc quyền kiểm soát của Nga. Cô kể: “Đầu tiên họ đi tìm những người đức quốc xã, sau đó những kẻ tiếp theo đến, họ lấy trộm đồ đạc của chúng tôi. Họ lấy thức ăn và bất cứ thứ gì họ muốn. Họ lấy xe của tôi đậu trước nhà. Họ lái xe đi.” Suốt thời gian này, tôi cố gắng để hiểu, làm thế nào những người lính Nga này lại có thể tin họ được đưa đến Ukraine để giải phóng người Ukraine khỏi chủ nghĩa quốc xã? Hoặc có thể họ chỉ biện minh cho hành động của họ? Tôi không biết.
Chúng tôi đã đến một ngôi làng khác. Làng Novyi Korohod dường như không bị hư hại nghiêm trọng, nhưng đã bị người Nga chiếm đóng. Cha Misha phân phát cứu trợ nhiều hơn. Ngôi làng này được thành lập năm 1986 dành cho những người phải tái định cư sau vụ nổ nhà máy điện hạt nhân ở Chernobyl. Bà thị trưởng thành phố nồng nhiệt chào đón chúng tôi.
“Khi chúng tôi hỏi bà cần gì, bà đơn giản trả lời: Hòa bình và cuộc sống.”
Bà nói với chúng tôi về con trai của bà, khi chiến tranh xảy ra, con bà muốn ra trận. Bà nói: “Nhưng tôi cần nó ở đây.” Bà kể: “Khi người Nga ở đây, con tôi đã giúp rất nhiều người; nó đi từ nhà này qua nhà khác, xem phải làm gì hoặc xem có ai đó cần điều gì đó”. Bà đúng; chiến đấu bằng súng không phải là cách duy nhất để chiến đấu trong chiến tranh. Khi chúng tôi hỏi bà cần gì, bà đơn giản trả lời: “Chúng tôi chỉ cần hòa bình và cuộc sống.”
Khi đến gần Borodyanka, chúng tôi thấy sự tàn phá nhiều hơn. Ở ngôi làng tiếp theo, những chiếc xe tăng Nga sừng sững giữa các ngôi nhà. Chúng tôi mang thức ăn đến cho các nhà này. Một cặp vợ chồng già sống ở đây. Bà cụ đi vắng. Chồng bà bị mù và bị cụt hai chân. Ông nhận ra cha Misha và các tình nguyện viên qua giọng nói. Trong phòng khách, ông nuôi mấy con gà con trong cái giỏ nhỏ.
Ở một ngôi làng lân cận Borodyanka, cha Misha đến thăm một người dân mù bị cụt cả hai chân | © Jarosalv Kraviec
Đó là lứa gà mới vì người Nga đã trộm và ăn thịt những con gà mà hai vợ chồng nuôi trước đó. Ông rất vui với chiếc đài các tình nguyện viên tặng ông trong chuyến thăm trước. Ông vặn đài cả ngày. Khi chúng tôi rời đi, khi nào chúng tôi cũng hỏi họ cần gì không. Ông già ốm yếu trả lời rất nghiêm túc: “Tôi không xin gì lớn chuyện, tôi chỉ xin một ít thuốc lá.” Thật xúc động, chúng tôi tặng ông thuốc lá ngay.
Chúng tôi đến Borodyanka. Thị trấn này gần Hostomel, Bucha, Irpin và gần như bị phá hủy hoàn toàn. Cả thế giới có thể nhìn thấy hình ảnh những khu chung cư bị bom phá hủy. Trước mặt một trong các chung cư này là tượng đài của Taras Shevchenko, một trong những nhà thơ lớn của Ukraine. Các lực lượng tấn công đã không thể phá hủy tượng đài, dù chúng ta có thể nhìn thấy các lỗ đạn trong đó. Một tấm biển được để lại được lại tại chỗ với vài dòng từ bài thơ viết trong tù:
Đài tưởng niệm nhà thơ Taras Shevchenko mà lính Nga không thể phá hủy | © Jaroslav Kraviec
Yêu Ukraine của bạn.
Giống như…
Trong thời kỳ khốc liệt,
trong những phút cuối cùng khó khăn,
cầu nguyện xin Chúa
cho Ukraine!
(bản dịch của Yuri Zoria)
Thứ bảy tuần sau anh Igor Selishchev sẽ được thụ phong linh mục tại Fastiv. Igor người đến từ Donetsk. Anh vừa hoàn thành chương trình giáo dục và đào tạo ở Krakow và đến Fastiv khi chiến tranh bắt đầu. Chúng ta cùng cầu nguyện cho anh. Ơn linh mục anh sẽ nhận được vào thời điểm khó khăn mang lại cho Ukraine và cho toàn thế giới dấu hiệu thực sự của hy vọng.
Tôi xin chào các bạn lời chào nồng nhiệt nhất và xin các bạn cầu nguyện cho chúng tôi.
Jarosaw Krawiec OP,
Kyiv, thứ năm 5 tháng 5, 12:30 chiều
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
Marvin: “Tôi đến để phục vụ giáo hoàng, vị giáo hoàng đặc biệt này”
cath.ch, I.Media, 2022-05-06
Cận vệ Marvin tuyên thệ trung thành với giáo hoàng | © I.Media
Marvin là cận vệ Thụy Sĩ từ 8 tháng nay, anh giải thích: “Chúng tôi thề trước Chúa, chúng tôi sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ Đức Thánh Cha.” Ngày thứ sáu 6 tháng 5, ở sân Thánh Đamasô, Vatican anh và 36 tân cận vệ đã tuyên thệ trung thành với Đức Phanxicô, tất cả chính thức gia nhập đội quân nhỏ bé nổi tiếng này.
Ngày 6 tháng 5 năm 1527, trước các cuộc tấn công của binh lính Charles Quint, các quân nhân Thụy Sĩ, được Đức Julius II kêu gọi lần đầu tiên vào năm 1505, đã bảo vệ mộ của Thánh Phêrô với cái giá phải trả là 147 cận vệ đã bị thiệt mạng, giáo hoàng Clement VII phải đến Castel Sant’Angelo. Để tưởng niệm hành động hy sinh anh hùng này của các “cận vệ giáo hoàng”, hàng năm các tân cận vệ tuyên thệ vào ngày lịch sử 6 tháng 5.
Mặc áo giáp và sử dụng cây kích
Anh Marvin, 24 tuổi là người Thụy sĩ vùng nói tiếng Pháp, tỉnh Lausanne, anh cho biết: “Thật tuyệt vời, chúng tôi đã tập luyện rất gay go để có ngày hôm nay”. Với tất cả các cận vệ, giây phút tuyên thệ là giây phút rất quan trọng. Cha mẹ của Marvin từ Thụy Sĩ đến Rôma tham dự sự kiện quan trọng này của con trai mình. Anh nói: “Tôi phải nói tôi mong lễ mau kết thúc để có thể đi ăn tối với cha mẹ ở nhà hàng.” Vì việc chuẩn bị cho buổi lễ tuyên thệ rất mệt mỏi, anh kê một loạt các việc phải làm hôm nay: “Phải mặc áo giáp, cầm kích, đi một vòng sân với tất cả các dụng cụ này trên lưng, tất cả cọng thêm các việc phục vụ….”
Đến Vatican 8 tháng trước với nhiều lo lắng, kể cả phải bỏ lại gia đình đằng sau, Marvin thích nghi rất nhanh với đời sống mới và học cách yêu nhiệm vụ của mình trong tư cách là người bảo vệ giáo hoàng. “Đó là một cách rất tốt để đào sâu đức tin của tôi”, anh tâm sự và nhấn mạnh mỗi ngày anh đều học được những điều mới, đặc biệt nhờ cha tuyên úy của Đội, một người “thực sự phi thường”.
Hàng ngày, tiếp xúc với mọi người và nhất là tiếp xúc với “khách hành hương đến thăm Đền thờ Thánh Phêrô” là những việc làm cho anh Marvin rất thích. Anh cho biết, khía cạnh quân sự của nghĩa vụ cũng như cuộc sống ở Rôma là những yếu tố bổ sung cho động lực anh vào Đội cận vệ Thụy Sĩ.
Marvin nói với ánh mắt tự tin: “Tôi đến để phục vụ giáo hoàng, vị giáo hoàng đặc biệt này, vì ngài là người rất tốt.” Marvin nhận thức, anh phục vụ người đứng đầu Giáo hội công giáo và anh rất vui được ở sát ngài. Anh giải thích: “Chúng tôi gặp ngài mọi lúc, nhưng thực sự phải có một dịch vụ cụ thể nào mới có thể bắt tay và trò chuyện với ngài.”
“Đức Phanxicô, người ông của chúng tôi”
Anh tâm sự: “Cách đây không lâu, tôi phải trực đêm trước phòng ngài. Vào buổi sáng khi ngài đi ra, ngài hỏi tôi đã ăn gì chưa và tôi nói chưa. Ngài nói, nếu buổi tối không ăn gì thì giáo hoàng cũng lo, ngài giống như người ông của chúng tôi.”
Vượt ngoài bức tường Vatican, sứ mệnh của Marvin rất được ngưỡng mộ, anh ý thức điều này và không quên cội nguồn của mình: “Thụy Sĩ rất tự hào về chúng tôi, chúng tôi là những quân nhân phục vụ ở nước ngoài duy nhất còn tồn tại đến ngày nay, chúng tôi phải ý thức điều này.” Ngoài ra, bầu khí của Đội gần như là bầu khí gia đình, anh nói: “Bạn không thể tìm thấy bầu khí này ở bất cứ đâu khác”. Vì thế gần như anh đã quyết định xong, anh sẽ tiếp tục phục vụ năm thứ ba trong Đội cận vệ Thụy Sĩ phục vụ giáo hoàng và Giáo hội, bình thường khi vào Đội là phải hứa phục vụ hai năm.
Đức Phanxicô: “Tòa thánh trông cậy vào các bạn!”
Như mọi năm, Đức Phanxicô tiếp 36 tân binh của đội cận vệ Thụy Sĩ. Ngài cho biết, Vatican rất tự hào khi có đội quân nhỏ bé này trong một sứ mệnh “tuyệt vời”, đòi hỏi người lính trẻ làm nhân chứng đức tin ngay cả trong giờ rảnh rỗi của họ. Ngài ngồi xe lăn khi phát biểu ở dinh tông tòa, ngài cám ơn sự cộng tác hàng ngày quý giá và lịch sử của họ.
Trong buổi tiếp kiến với các tân binh và gia đình, Đức Phanxicô cho biết ngài rất đau buồn về cái chết vì tai nạn gần đây của cựu cận vệ Silvan Wolf, người đã phục vụ tại Vatican cho đến cuối năm 2021. Ngài nhớ lại: “Đây là một thanh niên dũng cảm, vui vẻ”, ngài xin mọi người giữ một phút im lặng để tưởng niệm nạn nhân trẻ 25 tuổi này, bị chết trong một tai nạn bắn súng trong bữa tiệc Grisons.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
Những người chỉ trích bình luận về NATO của Đức Phanxicô vì họ không hiểu chính sách ngoại giao của Vatican
americamagazine.org, Victor Gaetan, 2022-05-06
Đức Phanxicô tiếp tổng thống Nga Vladimir Putin trong buổi tiếp kiến riêng tại Vatican ngày 4 tháng 7 năm 2019. (Ảnh CNS / Paul Haring)
Làm thế nào để hiểu Bão tố và Căng thẳng (Sturm und Drang) của những lời Đức Phanxicô thẳng thắn bình luận trên nhật báo Ý Corriere della Sera tuần này? Ngài nói ngài sẵn sàng đi Mátxcơva để gặp tổng thống Nga Vladimir Putin – người mà năm ngoái đã gọi mừng sinh nhật ngài. Họ biết nhau. Họ đã gặp nhau ba lần.
Giám mục giáo phận Rôma tận dụng mối quan hệ này để thuyết phục Putin ra khỏi mỏm đá điên cuồng mà ông đang ở đó.
Trong cuộc phỏng vấn, Đức Phanxicô đề cập đến “sự tàn bạo” của chiến tranh ở Ukraine. Không ai có thể nghi ngờ sự phẫn nộ của ngài trước cuộc xâm lược vô luân này. Nhưng việc ngài không gọi đích danh ông Putin đã chọc tức các nhà bình luận, những người không muốn nhận ra một điều rằng: Các giáo hoàng không lên án.
Tại sao họ không làm? Một phần, một kẻ phạm tội có thể thấy ánh sáng, như ông Sau-lơ đã thấy trên đường đi Đa-ma.
Tuy nhiên, theo ban biên tập của The Wall Street Journal, hành vi tấn công lớn nhất của Đức Phanxicô là suy đoán NATO có thể chia sẻ một số trách nhiệm trong việc kích động xâm lược, như giáo hoàng đã nói, “sủa trước cổng nước Nga”. (Đây không phải là một quan điểm bất thường: Ông Jack Matlock, cựu đại sứ Mỹ tại Liên xô – trong số các nhà ngoại giao, chuyên gia học thuật và nhà báo độc lập khác – đã đưa ra vai trò của phương Tây trong việc kích hoạt sự xâm lược của Nga, kể cả chiến lược chết người nhằm đẩy mạnh NATO đến biên giới Nga. Năm 1997, nhà ngoại giao Hoa Kỳ quá cố George Kennan đã cảnh báo việc mở rộng NATO sẽ là một “sai lầm định mệnh.”)
Điều mà các nhà phê bình nhầm tưởng Đức Phanxicô là nhà lãnh đạo chính trị nhưng ngài là nhà lãnh đạo thế giới kitô giáo.
Điều mà các nhà phê bình nhầm tưởng Đức Phanxicô là nhà lãnh đạo chính trị nhưng ngài là nhà lãnh đạo thế giới kitô giáo, tận lòng đi theo Chúa Kitô, Đấng nói chúng ta phải yêu kẻ thù của mình. Và chính sách ngoại giao của Vatican phải phù hợp với sứ mệnh của Giáo hội.
Là tôn giáo duy nhất có vị thế chủ quyền, Giáo hội công giáo có chức năng duy nhất trong hệ thống liên quốc gia: gởi các nhà ngoại giao của mình ra nước ngoài, tiếp các đại sứ tại Tòa thánh, tham dự vào Liên Hiệp Quốc trong tư cách là quan sát viên thường trực, thậm chí còn ký kết các hiệp ước với các quốc gia khác. Tuy nhiên, không có lãnh thổ (ngoài vùng đất được gọi là Thành phố Vatican), không có quân đội (ngoài Cận vệ Thụy Sĩ theo nghi thức) và hầu như không có nền kinh tế nào (các hàng hóa trong các cửa hàng quà tặng có thể là mặt hàng xuất khẩu lớn nhất), Vatican thiếu những lợi ích vật chất thường là động lực thúc đẩy hành vi của nhà nước. Điều này cho phép ngoại giao của giáo hoàng tập trung vào các mục tiêu phi vật chất như hòa bình, phẩm giá con người và lợi ích chung.
Theo quan điểm của Đức Phanxicô, gốc rễ của xung đột chính trị luôn là xung đột về lợi ích liên quan đến quyền lực. Quan điểm thiêng liêng là mọi phía ngang nhau, điều này mở ra cánh cửa cho ngoại giao mang tính xây dựng và quảng đại.
Và đã giúp cho Đức Phanxicô được thông tin đầy đủ và khách quan nhất có thể về mặt con người. Ngài không chỉ nhận thức được những gì đang xảy ra trên đất Ukraine và ở các nước láng giềng; ngài và bộ máy ngoại giao của ngài – cụ thể là Phủ Quốc vụ khanh do hồng y Pietro Parolin đứng đầu – lo ngại về ảnh hưởng của chiến tranh với các quốc gia không có bom đạn như Ai Cập, Ba Lan và Đài Loan. Mỗi bên đều bị đe dọa bởi các lệnh trừng phạt, dòng người tị nạn và các tính toán địa chính trị mới xuất hiện từ cuộc xung đột.
Vị thế thiêng liêng là mọi phía ngang nhau, điều này mở ra cánh cửa cho ngoại giao mang tính xây dựng và quảng đại.
Đức Phanxicô rất nhất quán. Ngay từ ngày đầu làm giáo hoàng, ngài đã cảnh báo về tình trạng phổ biến của vũ khí và nói các quốc gia đang dự vào chiến tranh thế giới thứ ba “từng phần”. Ngài hướng sự chỉ trích này vào các quốc gia trong danh sách những nước bán vũ khí lớn của Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm, trong đó Hoa Kỳ luôn dẫn đầu.
Điều mà Giáo hội công giáo tin, và Vatican biết, buộc giáo hoàng phải hành động nhân danh hòa bình và hòa giải, ngay cả khi đó là những mục tiêu không được lòng dân.
Sứ vụ cho một thế giới tan vỡ
Trong vòng vài tháng sau khi Nhật tấn công Trân Châu Cảng tháng 12 năm 1941, Đức Piô XII đã đưa ra một quyết định làm cho các chính trị gia Mỹ và Anh phải giật mình: Tòa thánh và Tokyo thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức, đưa Nhật Bản trở thành quốc gia châu Á đầu tiên công nhận chủ quyền của Vatican.
Tổng thống Franklin D. Roosevelt mô tả quyết định này là “không thể tin được” và Bộ Ngoại giao Mỹ đã phản ứng trong kinh hoàng. Nhưng quan điểm của Tòa thánh về ngoại giao là diễn đàn để làm sứ vụ trong một thế giới tan vỡ thường không được các nhà bình luận thế tục và tôn giáo tán thành, những người cho rằng Giáo hội không nên làm tổn hại đến các giá trị tinh thần của mình khi giao du với những kẻ vô đạo đức.
Về Nhật Bản, theo quan điểm của Đức Piô XII (như các vị giáo hoàng trước đây và từ đó đã đúc kết), cách duy nhất để tác động đến một chế độ độc ác là làm cho họ dấn thân trực tiếp. Ý chí này nhằm gây ảnh hưởng kitô giáo trong các cuộc tranh giành địa bàn thường làm nền tảng cho chính sách ngoại giao của Vatican, một động lực thường được hiểu ngầm hơn là được tuyên bố rõ ràng. Như giáo hoàng tiền nhiệm, Đức Piô XI, đã tuyên bố, “Khi, đó là vấn đề cứu rỗi linh hồn, hoặc ngăn ngừa những tổn hại lớn hơn cho linh hồn, chúng tôi cảm thấy có can đảm để đối xử với ma quỷ nơi con người.”
Như giáo hoàng tiền nhiệm, Đức Piô XI, đã tuyên bố, “Khi, đó là vấn đề cứu rỗi linh hồn, hoặc ngăn ngừa những tổn hại lớn hơn cho linh hồn, chúng tôi cảm thấy có can đảm để đối xử với ma quỷ nơi con người.”
Ý tưởng cho rằng chính sách ngoại giao tối ưu đòi hỏi các cuộc đàm phán liên tục là nguyên tắc được nhà ngoại giao huyền thoại thế kỷ 17, hồng y Richelieu cổ động, ngài từng là sứ thần của giáo hoàng trước khi trở thành cố vấn chính cho các vị vua Pháp. Chính sách này đã được Thánh Phanxicô Assisi thực hành, người cùng tên với Đức Phanxicô, ngài đã vượt qua chiến tuyến của kẻ thù trong cuộc Thập tự chinh lần thứ năm vào năm 1219 để gặp quân vương hồi giáo Sultan al-Malik al-Kamil. Tổng giám mục Christophe Pierre, sứ thần đương nhiệm tại Mỹ nhận xét trong một hội nghị kỷ niệm 800 năm sự kiện này: “Cuộc gặp gỡ đó không làm chiến tranh kết thúc nhưng mô phỏng phong cách ngoại giao của Chúa Kitô: Thánh Phanxicô đến không phải với tư cách là một nhà tư tưởng, nhưng với tư cách là nhà truyền giáo với sứ điệp hòa bình.”
Trong suốt triều giáo hoàng của mình, Đức Phanxicô cho rằng đối thoại và gặp gỡ cá nhân là trọng tâm của tất cả các loại giải quyết vấn đề, kể cả nghệ thuật cai trị. Ngài thúc đẩy một ngoại giao gặp gỡ xây dựng trên sự tin tưởng có thể phát triển giữa mọi người theo thời gian nếu họ ngừng phán xét và cố gắng tôn trọng nhau.
Một ví dụ thành công về việc Giáo hội đóng vai trò người đại diện cho sự hòa giải thông qua gặp gỡ cá nhân là vào năm 2014, khi Cuba và Hoa Kỳ quay sang Vatican sau khi bị bế tắc trong các cuộc đàm phán để bình thường hóa quan hệ. Các nhà ngoại giao của hai nước đã đến Rôma để gặp riêng, sau đó cùng gặp hồng y ngoại trưởng Parolin, ngài đã tạo điều kiện cho các cuộc đàm phán cuối cùng, bằng cách dùng các kỹ thuật mục vụ trong một hành động trung gian cổ điển của giáo hoàng.
Có cái gì đó khá mạnh trong sự việc, dù đó là trong lãnh vực tôn giáo, vì chúng được chúc phúc cho quá trình này theo nghĩa đen cũng như theo nghĩa thiêng liêng. Chúng ta đã có một loạt các cuộc thảo luận mệt mỏi và tẻ nhạt này trong một năm rưỡi, sau đó bạn có những người có một tầm vóc thiêng liêng nói bằng những từ rất cao về ý nghĩa của điều này đối với mọi người trên thế giới, và làm thế nào để đây là hy vọng trong bóng tối.
Thần học công giáo nhìn thấy Chúa hoạt động xuyên suốt lịch sử. Đấng tối cao đã không tạo dựng mọi thứ rồi bỏ đi như Thần của thuyết hữu thần. Người tín hữu kitô có lý do giải thoát để chấp nhận rủi ro: Chúa có thể bước vào không gian do bạn tạo ra bằng cách khởi sự một thứ mới.
Đức Phanxicô khám phá ý tưởng này trong Tông huấn Niềm vui Tin mừng “Evangelii Gaudium.” Nhưng chúng ta hình dung một con đường thứ ba: Đối diện với vấn đề trực diện và bắt đầu một tiến trình mới. Như giáo hoàng trấn an chúng ta: “Anh chị em hãy tin tưởng những gì Chúa làm qua chúng ta”.
Đã nhiều năm nghiên cứu cách thực hành ngoại giao của Đức Phanxicô, tôi chân thành tin tưởng những gì Chúa đang làm qua ngài – có lẽ sẽ sớm đến với Matxcơva.
Victor Gaetan
Ông Victor Gaetan là phóng viên quốc tế cấp cao của National Catholic Register và đóng góp cho tạp chí Foreign Affairs. Ông là tác giả quyển Các nhà ngoại giao của Chúa: Đức Phanxicô, Ngoại giao Vatican và Tận thế nước Mỹ (God’s Diplomats: Pope Francis, Vatican Diplomacy và American Armageddon).
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
Đức Thánh cha: Phụng vụ phải đưa tới sự hiệp nhất Giáo hội
Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 07 tháng Năm năm 2022 dành cho Giáo hoàng Học viện thánh Anselmo của dòng Biển Đức, chuyên về phụng vụ, Đức Thánh cha Phanxicô kêu gọi đừng biến phụng vụ thành “bãi chiến trường”.
Buổi tiếp kiến diễn ra nhân dịp kỷ niệm 60 năm thành lập Học viện chuyên về phụng vụ này. Hiện diện tại buổi tiếp kiến, có Viện phụ Tổng quyền dòng Biển Đức, ban lãnh đạo, các giáo sư và sinh viên của Học viện. Đức Thánh cha nhắc đến ba khía cạnh của phụng vụ mà Học viện thánh Anselmo theo đuổi, đó là: sự tham gia tích cực và phong phú vào phụng vụ, tiến đến sự hiệp thông Giáo hội, được linh hoạt nhờ việc cử hành thánh lễ và các bí tích của Giáo hội; thứ ba là động lực thúc đẩy loan báo Tin mừng, đi từ đời sống phụng vụ mà mọi tín hữu đã chịu phép rửa được mời gọi tham gia.
Ám chỉ tới những tranh luận mạnh mẽ hiện nay trong Giáo hội Công giáo, sau khi Đức Thánh cha ban hành tự sắc giới hạn việc cử hành thánh lễ theo nghi lễ cũ, tiền Công đồng chung Vatican II, hoặc những chia rẽ sâu đậm hiện nay trong Giáo hội Công giáo Syro Malabar ở Ấn Độ vì vấn đề làm lễ linh mục “quay lên hay quay xuống”, Đức Thánh cha đặc biệt nhấn mạnh rằng: “Đời sống phụng vụ và việc học hỏi phụng vụ phải dẫn tới một sự hiệp nhất mạnh mẽ hơn trong Giáo hội. Không thể phụng tự Thiên Chúa và đồng thời lại biến phụng vụ thành một bãi chiến tranh vì những vấn đề không thiết yếu. Tin mừng và Truyền thống của Giáo hội kêu gọi chúng ta hãy kiên vững hiệp nhất về những điều cốt yếu và cùng chia sẻ những khác biệt hợp pháp, trong sự hòa hợp của Thánh Linh. Vì thế, Công đồng đã muốn chuẩn bị bàn tiệc dồi dào Lời Chúa và Thánh Thể, để Thiên Chúa có thể hiện diện giữa Dân của Người. Như thế Giáo hội, nhờ kinh nguyện phụng vụ, kéo dài hoạt động của Chúa Kitô giữa con người nam nữ ngày nay, và cả giữa thiên nhiên, khi ban phát hồng ân sự hiện diện của Chúa qua bí tích. Phụng vụ phải được học hỏi trong niềm trung thành với mầu nhiệm ấy”.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Đức Thánh cha tiếp Tổng thống Thụy Sĩ
Hôm ngày 06 tháng Năm vừa qua, Đức Thánh cha Phanxicô tiếp kiến Tổng thống Liên bang Thụy Sĩ, ông Ignazio Cassis, và bày tỏ sự hài lòng vì sự xích lại gần hơn giữa Thụy Sĩ và Tòa Thánh.
Sau khi hội kiến với Đức Thánh cha, Tổng thống Cassis đã gặp Đức Tổng giám mục Paul Gallagher, Ngoại trưởng Tòa Thánh, vì Đức Hồng y Pietro Parolin, Quốc vụ khanh, đang viếng thăm nước Côte d’Ivoire bên Phi châu.
Thông cáo của Phòng Báo chí Tòa Thánh cho biết trong các cuộc trao đổi thân mật giữa hai bên, có nhắc đến việc phục vụ quảng đại của Vệ binh Thụy Sĩ tại Tòa Thánh, trong ngày 36 tân vệ binh tuyên thệ. Các vị cũng bàn tới những quan hệ song phương tốt đẹp, đồng thời bày tỏ hài lòng vì việc thuyên chuyển đại sứ quán Thụy Sĩ cạnh Tòa Thánh về Roma, như một dấu chỉ của Thụy Sĩ muốn tăng cường các liên hệ hỗ tương để tạo điều kiện cho sự cộng tác trong những lãnh vực chung, đồng thời thăng tiên công lý và hòa bình.
Cũng trong các cuộc kiến, có nhắc đến chiến tranh tại Ucraina và ảnh hưởng của nó tại Âu châu, đặc biệt là tình trạng những người tị nạn Ucraina đang cần được trợ giúp về nhân đạo.
Tương quan ngoại giao giữa Thụy Sĩ và Tòa Thánh đã có từ năm thế kỷ, nhưng trải qua nhiều thăng trầm và có giai đoạn mối quan hệ này bị cắt đứt, trước khi được tái lập cách đây hơn 100 năm. Trong những thập niên trước đây, Thụy Sĩ có đại sứ cạnh Tòa Thánh, nhưng vị này không thường trú ở Roma. Đại Sứ quán mới của Thụy Sĩ cạnh Tòa Thánh sẽ được khánh thành vào năm tới, 2023, và tọa lạc ở đường Crescenzio, chỉ cạnh Vatican khoảng 500 mét. Trước khi được Đức Thánh cha tiếp kiến, Tổng thống Cassis đã khánh thành đại sứ quán này và cùng với Đức Tổng giám mục Gallagher, Ngoại trưởng Tòa Thánh, tiến vào căn nhà này.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Tổng giáo phận Hán Thành tiếp tục gửi linh mục thừa sai ra nước ngoài
Tổng giáo phận Hán Thành, thủ đô Hàn Quốc, tiếp tục gửi các linh mục thừa sai đi phục vụ tại nước ngoài. Cho đến nay đã có 21 linh mục từ đây được gửi đi loan báo Tin mừng tại mười một nước, phục vụ Giáo hội địa phương.
Hôm ngày 04 tháng Năm vừa qua, Đức cha Phêrô Trịnh Thuần Trạch (Chung Soon-taick), dòng Cát Minh nhặt phép, Tổng giám mục thủ đô, đã chủ sự thánh lễ trọng thể tại nhà thờ chính tòa địa phương để chính thức sai hai linh mục đi truyền giáo, một tại Tổng giáo phận Monterrey, bên Mêhicô và một tại giáo phận Tân Trúc (Hsinchu), Đài Loan.
Thánh lễ do Ban truyền giáo hải ngoại của Tổng giáo phận Hán Thành tổ chức, với 32 linh mục đồng tế trước sự tham dự của 400 giáo dân, trong đó có thân nhân của hai thừa sai.
Trong bài giảng, Đức Tổng giám mục Trịnh Thuần Trạch nhấn mạnh vai trò ý nghĩa mà Tổng giáo phận đang thi hành trong việc đóng góp vào việc gửi các linh mục, tu sĩ và giáo dân đi phục vụ tại nước ngoài. Ngài nhắn nhủ các thừa sai hãy luôn cầu nguyện, nhất là trong những lúc khó khăn, tìm ơn thánh và sự an ủi trước sự hiện diện của Chúa. Đức Tổng giám mục cũng nhắc nhở các thừa sai hãy tôn trọng các nền văn hóa và những người mình sẽ gặp trong iệc phục vụ, tìm cách gặp gỡ Chúa sống trong họ. Ngài nói thêm rằng: “Khi trở về Hàn Quốc, anh em sẽ được mời gọi chia sẻ tình trạng mà anh em nhận được từ kinh nghiệm thừa sai quí giá này”.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Kinh Lạy Nữ Vương Thiên đàng với Đức Thánh cha: Hãy lắng nghe và bước theo Chúa, Vị Mục Tử Nhân Lành
Trưa Chúa nhật, ngày 08 tháng Năm năm 2022, Đức Thánh cha Phanxicô đã chủ sự buổi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên đàng với gần 15.000 tín hữu, tại Quảng trường thánh Phêrô.
Huấn dụ của Đức Thánh cha
Trước khi đọc kinh, Đức Thánh cha diễn giải ý nghĩa bài Tin mừng Chúa nhật thứ IV Mùa Phục sinh, trong đó Chúa Giêsu nói về tương quan giữa Ngài và các tín hữu như Mục tử với đoàn chiên.
Đức Thánh cha nói: Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Tin mừng phụng vụ hôm nay nói với chúng ta về mối liên hệ giữa Chúa và mỗi người chúng ta (Xc Ga 10,27-30). Để trình bày như vậy, Chúa Giêsu dùng một hình ảnh dịu dàng và đẹp đẽ, hình ảnh người mục tử ở giữa đoàn chiên. Và Chúa giải thích bằng ba động từ. Ngài nói: “Tôi biết các chiên của tôi, chúng nghe tiếng tôi và tôi biết chúng và chúng theo tôi” (v.27). Lắng nghe, nhận biết và đi theo. Chúng ta hãy xét ba động từ này.
Lắng nghe
Trước tiên, các con chiên lắng nghe tiếng của mục tử. Sáng kiến luôn đến từ Chúa; tất cả khởi hành từ ơn thánh của Chúa: chính Chúa gọi chúng ta hiệp thông với Ngài. Nhưng sự hiệp thông này chỉ nảy sinh nếu chúng ta cởi mở lắng nghe. Lắng nghe có nghĩa là sẵn sàng, ngoan ngoãn, là thời gian dành cho đối thoại. Ngày nay, chúng ta bị đảo lộn vì những lời nói và sự vội vã phải luôn luôn nói và làm cái gì đó. Thật là vất vả dường nào để lắng nghe nhau! Trong gia đình, tại trường học, nơi làm việc, thậm chí trong Giáo hội! Nhưng đối với Chúa, trước tiên cần lắng nghe. Chính Chúa là Lời của Thiên Chúa Cha và Kitô hữu là người con lắng nghe, được kêu gọi sống bằng Lời Chúa trong tầm tay của mình. Chúng ta hãy tự hỏi xem chúng ta là những người con lắng nghe hay không? Chúng ta có tìm được thời giờ cho Lời Chúa, có dành không gian và quan tâm cho anh chị em hay không? Ai lắng nghe người khác thì cũng lắng nghe Chúa, và ngược lại. Và họ cảm nghiệm được một điều rất đẹp, nghĩa là chính Chúa lắng nghe: Chúa lắng nghe chúng ta khi chúng ta cầu nguyện, khi chúng ta thổ lộ tín thác với Chúa, khi chúng ta cầu khẩn Chúa.
Như thế, lắng nghe Chúa Giêsu trở thành con đường để khám phá rằng Chúa biết chúng ta.
Nhận biết
Động từ thứ hai liên quan đến người mục tử nhân lành là nhận biết. Ngài biết các chiên của mình. Nhưng điều này không phải chỉ có nghĩa là Chúa biết nhiều điều về chúng ta: biết theo nghĩa Kinh thánh có nghĩa là yêu thương. Có nghĩa là Chúa, trong khi đọc được trong tâm hồn chúng ta, Ngài rất thương yêu chúng ta. Nếu chúng ta lắng nghe Ngài, chúng ta khám phá thấy điều này, là Chúa thương chúng ta. Vì thế, tương quan với Chúa không còn lạnh lùng hay chỉ có bề mặt. Chúa Giêsu tìm kiếm một tình bạn nồng nhiệt, một sự tri kỷ, thân mật. Chúa muốn ban cho chúng ta biết một điều mới mẻ và tuyệt vời: đó là biết mình được Chúa yêu thương và vì thế, không bao giờ chúng ta bị bỏ mặc một mình. Khi ở với mục tử nhân lành, chúng ta sống kinh nghiệm mà thánh vịnh nói đến: “Dù con tiến qua thung lũng tối đen, con cũng chẳng sợ gì, vì có Chúa ở cùng con” (Tv 23,4). Nhất là trong đau khổ, cơ cực, khủng hoảng: chính Chúa nâng đỡ chúng ta, đồng hành với chúng ta qua tình trạng đó. Và thế là chính trong những hoàn cảnh khó khăn, chúng ta có thể khám phá thấy mình được Chúa biết đến và yêu thương.
Chúng ta hãy tự hỏi: Tôi có để cho Chúa biết hay không? Tôi có dành chỗ cho Chúa trong cuộc sống của tôi, và trình bày cho Chúa điều tôi đang sống hay không? Và sau bao nhiêu lần, trong đó tôi đã cảm nghiệm sự gần gũi của Chúa, lòng cảm thương, sự dịu dàng của Chúa, tôi nghĩ gì về Ngài? Tôi có còn nghĩ Ngài như một Thiên Chúa xa cách, dửng dưng đối với những tình cảnh của tôi hay không, hay là tôi biết Chúa như vị mục tử nhân lành, biết và yêu thương tôi?
Đi theo
Sau cùng, động từ thứ ba: các con chiên lắng nghe và khám thấy mình được yêu thương thì đi theo mục tử của chúng. Ai theo Chúa Kitô thì họ làm gì? Họ đi theo Chúa, trên cùng một con đường, cùng một hướng đi. Chúa đi tìm những gì bị hư mất (xc Lc 15,14), chú ý đến người ở xa, quan tâm đến tình trạng của người đang đau khổ, biết khóc với người khóc, giơ tay giúp đỡ kẻ khác, vác đỡ gánh nặng của họ. Còn tôi thì sao? Phải chăng tôi chỉ để cho mình được Chúa Giêsu yêu thương hoặc tôi đi từ chỗ yêu mến đến bắt chước Ngài?
Và Đức Thánh cha kết luận với lời nguyện ước: “Xin Đức thánh Trinh Nữ giúp chúng ta lắng nghe Chúa Kitô, luôn nhận biết Chúa Ngài càng sâu đậm hơn và theo Chúa trên con đường phục vụ”.
Chào thăm và kêu gọi
Sau khi đọc kinh và ban phép lành Tòa Thánh, Đức Thánh cha nhắc đến lễ phong chân phước, sáng thứ Bảy, mùng 07 tháng Năm vừa qua, tại San Ramón, bên Perù, nữ tu Maria Agusta de Jesus, quen gọi là Aguchita, thuộc dòng Đức Bà Bác Ái Chúa Chiên Lành, bị giết ngày 27 tháng Mười Một năm 1990, do các phiến quân “Con đường sáng”, vì họ oán ghét đức tin. Nữ tu biết những nguy hiểm đang chờ đợi mình, nhưng vẫn tiếp tục ở lại phục vụ, giúp đỡ các bà mẹ nghèo.
Tiếp đến, Đức Thánh cha nhắc đến Ngày Thế giới cầu cho ơn gọi. Ngài chào thăm các tân linh mục được truyền chức trong ngày này tại Vương cung thánh đường Laterano ở Roma, đồng thời buổi cầu nguyện tại Đền thánh Đức Mẹ Pompei và hiệp với các tín hữu tại đây cầu nguyện cho hòa bình tại các nơi đang bị chiến tranh tàn phá. Đức Thánh cha đặc biệt nhắc đến chiến tranh tàn ác tại Ucraina, đồng thời xin các tín hữu cầu nguyện cách riêng cho nhân dân Ucraina.
Đức Thánh cha cũng chia buồn và xin cầu nguyện cho các nạn nhân vụ nổ tại khách sạn La Habana, thủ đô Cuba làm cho gần 30 người thiệt mạng, những người bị thương và thân nhân của họ.
Trong phần chào thăm các tín hữu hành hương, Đức Thánh cha cũng nhắc đến những người Ucraina hiện diện tại Quảng trường.
Sau cùng, Đức Thánh cha nói rằng hôm nay là lễ các bà mẹ tại nhiều nước trên thế giới, và mời gọi mọi người nghĩ đến và biết ơn người mẹ của mỗi người, những vị còn sống hoặc đã qua đời.
Đức Thánh cha cầu chúc mọi người một Chúa nhật an lành, đồng thời xin họ đừng quên cầu nguyện cho ngài.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu