Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Chính phủ Liban cho biết cuộc viếng thăm của Đức Thánh cha bị hoãn lại
Hôm mùng 09 tháng Năm vừa qua, Bộ trưởng du lịch của Liban, ông Walid Nassar, cho biết chuyến viếng thăm của Đức Thánh cha Phanxicô, dự kiến trong hai ngày 12 và 13 tháng Sáu tới đây, tại nước này bị hoãn lại vì tình trạng sức khỏe của Đức Thánh cha.
Ông Nassar cũng là trưởng ban cấp cao của quốc gia tổ chức cuộc viếng thăm của Đức Thánh cha.
Cho đến nay, Phòng Báo chí Tòa Thánh chưa hề chính thức loan báo ngày giờ cuộc viếng thăm của Đức Thánh cha và chính phủ Liban chờ đợi thông báo của Tòa Thánh. Điều chắc chắn là Tòa Thánh đã chính thức báo cho chính phủ LIban về việc dời ngày viếng thăm của Đức Thánh cha, như chính bộ trưởng Nassar tiết lộ.
Giới báo chí cũng đặt câu hỏi về cuộc tông du của Đức Thánh cha đã được chính thức loan báo: trước hết từ ngày 02 đến ngày 05 tháng Bảy tới đây, tại Cộng hòa dân chủ Congo, rồi sau đó từ ngày 05 đến ngày 07 tháng Bảy tại Nam Sudan.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Đức Phanxicô không muốn phụng vụ trở thành “chiến trường”
fr.aleteia.org, Anna Kurian, 2022-05-07
Đức Phanxicô trong buổi tiếp kiến các giáo sư và sinh viên của Đại học Giáo hoàng Thánh Anselmo nhân kỷ niệm 60 năm thành lập ngày thứ bảy 7 tháng 5 tại dinh tông tòa Vatican.
Đại học Thánh Anselmo chuyên về phụng vụ, hiện có khoảng gần 700 sinh viên đến từ 70 quốc gia thuộc 5 châu lục. Trong số 90 giáo sư và giảng viên, 40% là Đan sĩ dòng Biển Đức nam và nữ, và trong số các sinh viên, có 10% thuộc dòng Biển Đức giáo sư, sinh viên và cựu sinh viên của Học viện Phụng vụ Giáo hoàng Sant’Anselmo.
Nói chuyện với thành viên Học viện, Đức Phanxicô không nhắc đến tự sắc Traditionis custodes, ngài nhấn mạnh đến các phong trào “phủ nhận Công đồng Vatican II”. Ngài mong muốn đời sống phụng vụ sẽ dẫn đến “sự hiệp nhất trong Giáo hội lớn hơn, chứ không phải để chia rẽ”. Phát biểu ngoài bài diễn văn soạn sẵn, ngài thấy các chia rẽ phụng vụ có “mùi thối của ma quỷ”. Ngài cảnh báo: “Chúng ta không thể thờ phượng Chúa và đồng thời biến phụng vụ thành chiến trường cho những vấn đề không thiết yếu, hay nói đúng hơn là những vấn đề lỗi thời”.
Trước các nhà phụng vụ mừng 60 năm thành lập viện. Đức Phanxicô nhắm vào những người có “não trạng khép kín”, những người “muốn quay ngược lại thời gian một chút”, họ đặt lại vấn đề “Công đồng, thẩm quyền giám mục… để bảo tồn truyền thống”. Những người này “sử dụng các mô hình phụng vụ để bảo vệ quan điểm của họ”, ngài lấy làm tiếc cho “chủ nghĩa hình thức phụng vụ” của các phong trào này. Chủ nghĩa hình thức giảm việc cử hành phụng vụ xuống thành “tụng đi tụng lại, một việc không có sự sống, không có niềm vui”, ngài nhấn mạnh và nhắc lại phụng vụ không phải là “một nghề” cũng không phải là “một vấn đề về nghi thức”, nhưng là “mầu nhiệm của Chúa Kitô”.
Ngài nói: “Đúng là bất kỳ cuộc cải cách nào cũng tạo phản kháng”, ngài liệt kê những phản đối trong vài chục năm gần đây: “Tôi nhớ khi tôi còn trẻ, Đức Piô XII khởi xướng cuộc cải cách phụng vụ đầu tiên: được phép uống nước trước khi rước lễ, nhịn ăn trong một giờ… Và giáo dân chống đối mãnh liệt: ‘Nhưng điều đó đi ngược với sự linh thiêng của Bí tích Thánh Thể!’. Rồi đến cải cách Tam nhật Phục sinh: ‘Nhưng làm sao được, Chúa phải sống lại ngày thứ bảy, bây giờ chuyển qua ngày chúa nhật, từ tối thứ bảy đến ngày chúa nhật họ không rung chuông… Và điều gì sẽ xảy ra trong 12 lời tiên tri?”.
Trong buổi nói chuyện, Đức Phanxicô không nêu rõ tự sắc Traditionis tháng 7 năm 2021 của ngài. Nhưng việc xác nhận quan điểm của ngài liên quan đến nghi thức trước Công đồng được đưa ra vào ngày thứ tư 4 tháng 5 tuần trước khi các bà mẹ của các linh mục của hiệp hội Con đường La mã đã đi bộ từ Paris về Rôma mang hơn 2.000 bức thư của những người công giáo xin ngài dỡ bỏ các hạn chế với phụng vụ Tridentin. Ngày 11 tháng 2, ngài đã ký sắc lệnh miễn trừ các linh mục của Huynh đoàn Linh mục Thánh Phêrô (FSSP) khỏi các quy định của tự sắc. Một cho phép có thể mở rộng đến các viện theo chủ nghĩa truyền thống khác vẫn trung thành với la-mã – ít nhất đó là điều mà Con đường La mã hy vọng.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
Xung đột ở Ukraine: nguyên tắc “chiến tranh chính nghĩa” đụng với thực tế của địa bàn
Đức Phanxicô đã nhiều lần lên án học thuyết “chiến tranh chính nghĩa” của Giáo hội công giáo, với lý do mọi chiến tranh đều phải tránh. Linh mục François Daguet dòng Đa Minh phân tích khái niệm này dưới góc độ của cuộc xung đột ở Ukraine.
lavie.fr, Alice d’Oléon, 2022-05-06
Ngày 6 tháng 4 – 2022, Đức Phanxicô tố cáo vụ thảm sát ở thành phố Bucha và ngài trưng lá cờ được gởi từ Bucha, thị trấn bị tàn sát gần thủ đô Kyiv của Ukraine. VATICAN MEDIA (EV) / ABACA
Tính hợp pháp của bất kỳ cuộc xung đột vũ trang nào đều có thể đặt vấn đề nếu chúng ta nhìn hậu quả tàn bạo của cuộc chiến gây ra. Từ lâu, Giáo hội công giáo đã đưa ra lý thuyết về khái niệm “chiến tranh chính nghĩa” để phân biệt các khía cạnh có thể chấp nhận được của việc can thiệp quân sự.
Tuy nhiên Đức Phanxicô tránh đề cập đến vấn đề này, ngài chủ trương bãi bỏ mọi hình thức xung đột vũ trang. Một hành động cân bằng được linh mục François Daguet, chuyên gia về thần học chính trị Dòng Đa Minh giải thích.
Xin cha cho biết học thuyết “chiến tranh chính nghĩa” có từ khi nào?
Linh mục François Daguet: Đây là học thuyết vô cùng xưa, không phải chỉ có trong môi trường kitô giáo. Học thuyết này, dần dần được phát triển trong thế giới la-mã, đặc biệt là với Thánh Augutinô, người đã là một trong những nghệ nhân vĩ đại đưa khái niệm này vào học thuyết.
Sau đó, vào thế kỷ 13, học thuyết được Thánh Tôma Aquinô tu chỉnh một cách xuất sắc. Về cơ bản, đây là hằng số được đưa ra trong Giáo hội, thêm nữa học thuyết còn được nói đến trong Sách Giáo lý của Giáo hội công giáo trong ấn bản cuối cùng năm 1997 (§ 2309).
Điều gì làm cho một cuộc chiến tranh trở thành “chính nghĩa” dưới mắt Giáo hội?
Sách Giáo lý của Giáo hội công giáo liệt kê nhiều tiêu chuẩn cần thiết để cho một cuộc xung đột vũ trang là “hợp pháp”. Trước hết, xung đột không được tạo thành chiến tranh chinh phục, điều này không cần nói cũng biết. Lý do viện dẫn, chiến tranh này là để bảo vệ lãnh thổ, công ích quốc gia, sự toàn vẹn của đất nước.
Chiến tranh chỉ có thể hình dung được nếu các biện pháp hòa bình để giải quyết tranh chấp đã cạn kiệt (điều này cũng được thấy trong Hiến chương Liên hợp quốc). Những tệ nạn gây ra không được lớn hơn những gì tốt đẹp mong chờ từ cuộc chiến này, vì vậy những gì dùng để chiếm ưu thế không được trả bằng một giá qua đắt.
Cuối cùng, chiến tranh chỉ nên tiến hành nếu thấy có một cơ hội thành công hợp lý. Vì vậy, đây là điểm trở thành phức tạp. Chúng ta biết, khi bắt đầu cuộc xung đột, chúng ta không thể biết trước nó sẽ diễn ra như thế nào.
Như thế những tiêu chuẩn này không được quá lý thuyết?
Về mặt khái niệm, các tiêu chuẩn này được điều chỉnh rất chặt chẽ, rõ ràng chúng là thành quả của quá trình suy ngẫm lâu dài về các cuộc chiến tranh, đồng thời việc áp dụng chúng cũng đặt ra những thách thức nặng nề. Ai thực sự có thể khẳng định cuộc chiến có cơ hội thành công? Những xung đột gần đây cho thấy rõ điều này.
Ví dụ, sự can thiệp của Pháp vào Libya năm 2011 là để giới hạn và tập trung vào các mục tiêu nhất định, nhưng cuộc xung đột đã diễn ra dẫn đến cái chết của Đại tá Kadhafi và chúng ta đã thấy tình trạng hiện nay của Libya như thế nào rồi. Do đó, việc sử dụng tiêu chuẩn “chiến tranh chính nghĩa” là rất rủi ro.
Tuy nhiên, năm 2003, Đức Gioan-Phaolô II đã lên án đúng đắn cuộc xâm lược Iraq của Hoa Kỳ. Đây không phải là cuộc chiến “chính nghĩa” vì đây là một cuộc chiến để phòng ngừa. Vào thời điểm đó, không phải ai cũng biết việc nước Mỹ biện minh cho xung đột là do Irak có vũ khí hủy diệt hàng loạt, chính phủ Mỹ đã lừa dối, vì vậy cuộc chiến này là “phi nghĩa”.
Trong Thông điệp Tất cả anh em Fratelli Tutti, Đức Phanxicô có dứt khoát đoạn tuyệt với nguyên tắc “chiến tranh chính nghĩa” không? Đặc biệt ngài viết: “Do đó, chúng ta không còn có thể xem chiến tranh là một giải pháp nữa, vì rủi ro có thể sẽ luôn lớn hơn lợi ích giả định được quy cho nó. Đối diện với thực tế này, ngày nay rất khó bảo vệ các tiêu chuẩn, đã chín muồi vào các thời điểm khác, để nói về một ‘cuộc chiến tranh chính nghĩa’ có thể xảy ra. Không bao giờ chiến tranh nữa.”
Đặc biệt, trong thông điệp Fratelli tutti, Đức Phanxicô đã khởi xướng một bài diễn văn đặt vấn đề về học thuyết này với lý do bất kỳ cuộc chiến tranh nào cũng là phi nghĩa. Trên thực tế, phản ánh này là tiếp nối hợp lý quan điểm của các giáo hoàng tiền nhiệm về ý nghĩa chiến tranh. Đức Bênêđíctô XVI đã khẳng định rõ ràng, về cơ bản chỉ có hòa bình là có thật.
Điều nguy hiểm là xử lý các sự kiện một cách trừu tượng, và điều này có thể giải thích sự chậm chạp của Đức Phanxicô trong phản ứng của ngài với cuộc chiến ở Ukraine. Ba tuần trôi qua trước khi ngài đánh giá có kẻ xâm lược và kẻ bị tấn công, ngài nhắc lại mọi chiến tranh đều là đầu hàng. Đúng vậy, một cách trừu tượng, mọi chiến tranh đều đau buồn. Tuy nhiên trong bối cảnh cụ thể của cuộc chiến ở Ukraine, một thực tế rất đơn giản và hiển nhiên đối với chúng ta: có một kẻ xâm lược tìm cách chiếm lấy một lãnh thổ của người khác.
Trong trường hợp hiện nay, việc đánh giá công lý của cuộc chiến ít được đặt ra. Nói với người Ukraine rằng cuộc chiến của họ là không chính nghĩa… Rõ ràng đây là cuộc chiến để bảo vệ. Do đó, việc Đức Phanxicô đặt vấn đề về khái niệm “chiến tranh chính nghĩa” đụng với thực tế của cuộc chiến này và không ai dám tranh cãi tính hợp pháp của người Ukraine khi họ bảo vệ lãnh thổ của họ.
Nếu đức tin Công giáo và Kinh thánh lên án mọi bạo lực, thì có đúng hay không để tự vệ khi bị tấn công?
Tôi đã bị đánh động bởi lời chứng của linh mục Dòng Trắng François de Gaulle, cháu của đại tướng De Gaulle, cha đã tham gia chiến dịch Ý năm 1943. Khi được hỏi về điều này, trong Hồi ký của cha, cha viết cha không bao giờ nghi ngờ về tính đúng đắn của chiến tranh tiến hành chống lại các thế lực của cái ác, dù trong mọi lúc cha đều thấy hậu quả kinh hoàng của cuộc đối đầu với cái ác này.
Đối diện với cái ác, liệu một phản ứng tuyệt đối có phải là điều không thể?
Đức Phanxicô trong vai trò mục tử của Giáo hội hoàn vũ khi ngài nhắc, chiến tranh có liên hệ với tội ác và rằng, ngay cả khi động cơ chiến tranh là chính đáng, thì nó cũng sẽ sinh ra những hệ quả khủng khiếp. Đó là vai trò của ngài để nhắc những chuyện này. Ngài ở trong cương vị của ngài khi ngài nhắc, nhân danh đức ái, rằng chúng ta phải làm mọi thứ để tránh chiến tranh.
Tuy nhiên, bác ái không loại bỏ công lý, và công lý trong trường hợp này dành cho người Ukraine quyền tự vệ. Khi các xã hội phải đối diện với cái ác, xã hội luôn tìm cách chế ngự cái ác này, biết rằng nó tồn tại. Khoan dung cái ác ít hơn để tránh cái ác lớn hơn, học thuyết về cái ác ít hơn, là một triết lý rất lâu đời trong chính trị, và học thuyết chiến tranh chính nghĩa cũng phản ứng với cùng một lý luận.
Đức Bênêđíctô XVI thường nhắc lại, chúng ta chỉ có thể theo một thứ trật mà ngài gọi đó là thứ trật của đức ái. Ngài nói thêm, điều này cũng như đi ngược chiều: không có bác ái nếu công lý bị chà đạp.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
Ucraina: Sứ mạng của các tuyên úy quân đội giữa chiến tranh
Cha Andriy Zelinskyy, Dòng Tên, Phó trưởng phòng tuyên úy quân đội của Giáo hội Công giáo Đông phương Hy Lạp-Ucraina nhấn mạnh rằng kể từ khi cuộc xung đột bùng nổ, không còn một khu vực nào an toàn trên đất nước.
Với câu hỏi “nhiệm vụ của các tuyên úy đã thay đổi như thế nào so với lúc ban đầu?”, cha nói rằng “Không chỉ sứ mạng của các tuyên úy thay đổi mà cả nhận thức của người dân Ucraina về thực tế cũng thay đổi. Kể từ khi xung đột bùng nổ vào ngày 24 tháng 2, mối đe dọa đã hiện diện khắp mọi nơi trên đất nước. Ở mọi nơi đều có những cuộc ném bom và tên lửa đang phóng không trừ nơi nào. Sứ mạng của các tuyên uý vẫn là một. Nếu không thể ở đâu đó cùng với quân đội thì chúng tôi sát cánh với thường dân để cung cấp hỗ trợ nhân đạo.”
Cha Andriy cũng cho biết, Phòng Tuyên úy quân đội của Giáo hội Công giáo Hy Lạp-Ucraina đã xuất bản một tập sách có tên “Giáo lý của người lính Kitô hữu”. Đây là một cuốn sổ tay nhỏ với các bản văn được trích từ sách giáo lý của Giáo hội Công giáo hoặc từ sách giáo lý của Giáo hội Công giáo Đông phương Hy Lạp-Ucraina. Chúng là những bản văn đưa ra những lời dạy của Giáo hội về các vấn đề liên quan đến lợi ích chung và quyền tự vệ chính đáng. Sau đó là những câu hỏi về cái chết, về tội lỗi, về hòa bình. Đây là những câu hỏi quan trọng cho quân đội đang cố gắng gìn giữ những giá trị Kitô giáo trong bối cảnh chiến tranh.
Văn Yên, SJ - Vatican News
Phòng khám nhân ái ở Myanmar
Sơ Têrêsa xúc động nói: “Trong thảm cảnh chúng tôi đang trải qua, đức tin, niềm hy vọng và bác ái vẫn còn. Chúng tôi ở lại với cộng đoàn trong đó có sự hiện diện của Chúa. Thần Khí Chúa ban cho chúng tôi lòng can đảm, giúp chúng tôi có thể nâng đỡ nhau”.
Nằm ở thủ phủ của bang Kayah, phía đông Myanmar, đây là trung tâm Công giáo của giáo phận Loikaw. Khu vực rộng lớn này ngoài Nhà thờ Chính toà Chúa Kitô Vua được xây dựng vào năm 1939, còn có một trường học, một phòng khám, hai chủng viện, trung tâm mục vụ, một tu viện, nhà xứ và toà giám mục, ở đó còn có một nhà thờ cổ do các nhà truyền giáo xây dựng vào cuối thế kỷ XIX.
Cha Celso Ba Shwe, Giám quản Tông toà đang coi sóc mục vụ sau cái chết đột ngột của Đức cha Stephen Tjephe vào tháng 12/2020, đã mở cửa cho những người di tản phải rời bỏ nhà cửa ở Loikaw, do các cuộc đụng độ giữa người dân Myanmar và quân đội. Đa số là những người trẻ phản đối chính quyền quân đội nắm quyền trong cuộc đảo chính tháng 02/2021.
Trong hơn một năm, bạo lực và khủng bố đã làm cho đời sống của người dân vô cùng khó khăn, đầy bấp bênh, đau khổ và bệnh tật. Hiện số người di dời nội bộ là hơn 170 ngàn người. Y tá Clement nói: “Trong hoàn cảnh này, ánh sáng Phục sinh đã đến chiếu toả ngôi mộ của chúng tôi. Chúa Kitô ban lại cho chúng tôi niềm hy vọng. Hơn 200 tín hữu Công giáo đang ở trong khu phức hợp Chúa Kitô Vua. Họ tạo thành một cộng đoàn dân cư đặc biệt gồm các gia đình, phụ nữ, trẻ em, tất cả đang ở trong khu vực rộng lớn của Nhà thờ. Họ là những người cần được chăm sóc. Các linh mục và tu sĩ cộng tác với cha Celso, và nhờ sự giúp đỡ của các giáo xứ khác ở Myanmar, như ở Yangon, và từ các nhà tài trợ khác, chủ yếu các tín hữu Myanmar trong và ngoài nước, chúng tôi cung cấp cho họ quần áo, thực phẩm, thuốc men. Nhưng bên cạnh giúp đỡ vật chất, sự hỗ trợ về mặt tinh thần và đạo đức cũng không kém quan trọng. Lễ Phục sinh là tia sáng đã đến giữa chúng tôi. Chúng tôi đau khổ với Chúa Kitô, chúng tôi vác thập giá với Người và đặt thử thách trong tay Người. Thiên Chúa là Chúa của niềm ủi an và sức mạnh. Tin tưởng vào Chúa giúp chúng tôi tiến bước giữa đau khổ”.
Và như thế các tín hữu đã nói về những người phục vụ ở đây là “những bông hoa trong sa mạc của chúng tôi”. Tại đây, trong lễ Phục sinh vừa qua có hơn một trăm em đã được rước lễ lần đầu và bí tích Thêm sức. Đó là một khoảnh khắc cảm động cho toàn thể cộng đoàn của trung tâm mục vụ, nơi mọi người tụ họp để cử hành các lễ nghi Tuần Thánh. Trong hoàn cảnh bấp bênh, khó khăn, Hội giới trẻ Thánh Luigi do cha Philip Aung Nge hướng dẫn đã cố gắng đón tiếp và chuẩn bị cho các em một cách chu đáo. Clement, người đã phục vụ Phòng khám từ năm 2009 nói: “Lời cầu nguyện hàng ngày của chúng tôi là: Lạy Chúa xin thương xót chúng con, xin thương xót những người bị thương, bị sỉ nhục, đau đớn này”.
Cho đến tháng 11/2021, Phòng khám này đã đón tiếp và chăm sóc cho các bạn trẻ bị thương trong các cuộc đấu tranh. Một cuộc đột kích của quân đội vào Phòng khám đã bắt đi một số linh mục, tu sĩ, bác sĩ và nhân viên y tế, sau đó họ thả ra. Họ cố ý làm như vậy để ngăn chặn Giáo hội chăm sóc những người trẻ bị thương, vì vậy trong vài tháng Phòng khám phải đóng cửa. Hiện nay, “Phòng khám nhân ái” đã mở cửa phục vụ trở lại nhưng quân đội tiếp tục kiểm soát các lối vào của khu vực này. Một số bạn trẻ bị coi là “những kẻ nổi loạn” phải chạy trốn vào rừng. Trong số đó có các bạn trẻ Kitô. Và có hàng ngàn gia đình Kitô chạy trốn trong rừng. Giáo hội địa phương đã không quên họ và đã cử hành Tam Nhật Thánh với họ.
Tại bang Kayah, một bang nhỏ nhất trong số 14 bang và khu vực của Myanmar, phần lớn là Kitô hữu, cha Celso Ba Shwe, Tổng đại diện và Giám quản Tông toà Loikaw khẳng định, mặc dù chiến sự và nguy hiểm, từ khu phức hợp Chúa Kitô Vua, các linh mục, tu sĩ, giáo dân như Clement và nhiều người khác không bỏ chạy, họ vẫn ở đó để phục vụ dân chúng, do cuộc chiến đã phải trả một giá rất đắt.
Cha kết luận: “Các giáo xứ đã bị bỏ hoang và các tín hữu đã chuyển đến một nơi khác an toàn hơn, nhưng nhiều linh mục và tu sĩ luôn ở gần bên để chăm sóc họ. Chúng tôi cũng sẽ làm phần việc của mình. Chúng tôi ở lại đây, chúng tôi không bỏ ngôi thánh đường. Chúng tôi tin Thiên Chúa Quan Phòng sẽ giúp chúng tôi”.
Ngọc Yến - Vatican News
Caritas Hungary và bổn phận Kitô hữu giúp đỡ bất cứ ai chạy trốn chiến tranh
Kể từ khi cuộc xung đột bắt đầu, Caritas Hungary đã dấn thân cung cấp viện trợ và hỗ trợ cho những người phải di dời và người tị nạn, phân phối nhu yếu phẩm hàng ngày. Đức ông Tamás Tóth đại diện Hội đồng Giám mục Hungary tỏ lòng biết ơn về tình yêu và sự gần gũi của người Hungary.
Kể từ khi Đức Thánh Cha kêu gọi ăn chay vào Thứ Tư Lễ Tro vì hòa bình ở Ucraina, Giáo hội Hungary ngay lập tức đưa ra lời kêu gọi phản ứng với thảm kịch đang diễn ra, không chỉ về mặt thiêng liêng mà còn cả hỗ trợ về vật chất.
Bổn phận của Kitô hữu
Tại vùng Transcarpathia, phía tây Ucraina giáp biên giới Hungary, nơi có thiểu số người Hungary và những người tị nạn nội địa từ các vùng khác của Ucraina, Đức ông Tamás giải thích: Caritas Hungary “có mối quan hệ tích cực với Caritas Ucraina”, tại đây có hai xe tải viện trợ được gửi đến mỗi ngày. “Chúng tôi cố gắng trợ giúp ban đầu cho họ, sau đó những người đến Hungary sẽ được các tổ chức bác ái, bao gồm cả Caritas, chào đón”. Một sự chào đón vượt trên sự phân biệt quốc tịch, giới tính hay màu da, bởi vì “đó là bổn phận của Kitô hữu chúng tôi”. Do đó, Giáo hội đã lo về nhà ở cho những người ở lại lâu dài tại Hungary, cũng như đảm bảo cho trẻ em vào các trường Công giáo Hungary, với sự tham gia của các cơ sở giáo dục trung học và giáo xứ, giải quyết vấn đề ngôn ngữ nhờ nhiều tình nguyện viên”.
Biết ơn vì tình yêu và sự gần gũi
Thư ký của HĐGM Hungary giải thích rằng: việc hiểu nhau không phải là vấn đề, “bởi vì có một thứ hết sức quan trọng để giải quyết những bước đầu, đó là ngôn ngữ của tình yêu. Trong những hoàn cảnh này, bạn hiểu nhau gần như ngay lập tức bằng cách nhìn vào mắt người khác, đây là cách cuộc đối thoại bắt đầu, điều này rất quan trọng.” Tất cả người dân Hungary, ở thành thị cũng như thôn quê, chào đón những người chạy trốn, vì lý do này, Giáo hội Hungary rất biết ơn các tín hữu của mình, bởi vì cho đến nay, Đức ông Tamás kết luận, “chúng tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ về tài chính và cả nơi ăn chốn ở. Chúng tôi ngay lập tức nhìn thấy một tình liên đới rất bền chặt và chúng tôi rất biết ơn về dấu hiệu của tình yêu thương và sự gần gũi này”.
Văn Yên, SJ - Vatican News
Đức Thánh Cha: ĐGH Gioan Phaolô I có cái nhìn ngôn sứ về vết thương của thế giới
Mở đầu Đức Thánh Cha nhận xét rằng qua triều đại giáo hoàng ngắn ngủi của vị Giám mục Roma này, Chúa đã chỉ cho chúng ta thấy rằng kho tàng duy nhất là đức tin, đức tin đơn sơ của các Tông đồ, được Công đồng chung Vatican II tái đề xuất. Điều này cũng được tìm thấy trong tập sách, trong đó chứa đựng huấn quyền của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô I.
Thực vậy, chỉ trong thời gian ngắn ngủi kế vị Thánh Phêrô, nhưng Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô I đã tuyên xưng đức tin, đức cậy và đức mến, những nhân đức được Thiên Chúa trao ban. Và chính vì đức tin của dân Kitô mà ngài đã có cái nhìn ngôn sứ về những vết thương của thế giới, chỉ ra rằng đối với Giáo hội, hoà bình là một điều rất quan trọng. Điều này được thấy rõ trong các bài diễn cho các cuộc gặp gỡ quốc tế quan trọng, như ngày 04/9/1978, trước hơn một trăm đại diện tổ chức truyền giáo quốc tế, ngài nói: “Giáo hội, sứ giả khiêm tốn của Tin Mừng cho tất cả dân tộc trên mặt đất, có thể góp phần tạo ra một bầu khí công bằng, huynh đệ và liên đới và niềm hy vọng, nếu không có những điều này thế giới không thể sống được”.
Áp dụng thực tế, Đức Thánh Cha viết: “Như thế, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô I đã lặp lại rằng điều cấp bách nhất cho thời đại chúng ta, đó không phải là những gì đến tư tưởng và kế hoạch quảng đại của ngài, nhưng là bước đi đơn giản trong đức tin của các Tông đồ. Hồng ân đức tin mà ngài đã nhận được trong gia đình công nhân và di cư, phải làm việc vất vả hàng ngày”.
Trong lời tựa Đức Thánh Cha còn nhắc đến Đức Tổng Giám mục Óscar Arnulfo Romero của San Salvador, bị sát hại ngay tại bàn thờ và đã được phong thánh. Khi Đức Giáo Hoàng qua đời, vào ngày 03/10 năm đó, Thánh Óscar Arnulfo đã dâng Thánh lễ và cầu nguyện cho ngài và đã đưa ra những lời đáng suy gẫm. Theo thánh nhân, chỉ trong một thời gian ngắn với hai cái chết và hai cuộc bầu Giáo hoàng, thế giới tập trung nhìn vào vị trí cao nhất của phẩm trật Giáo hội Công giáo, một phẩm trật được đặt trên vai những người yếu đuối, nhưng qua đó, phẩm trật này được mời gọi trở thành kênh truyền để Giáo hội được hướng dẫn và điều hành và là dấu chỉ bí tích của ân sủng được ban cho nhân loại.
Đức Thánh Cha viết: “Trong Giáo hội, phẩm trật không phải là một thực thể tách biệt và tự lập, nhưng như thánh Romero nói, phẩm trật nằm trong một dân được Thiên Chúa quy tụ để phục vụ Nước Trời và toàn thế giới. Bởi vì Giáo hội không phải là mục đích cũng không phải là phẩm trật. Phẩm trật vì Giáo hội và Giáo hội vì thế giới”.
Đức Thánh Cha kết luận rằng vào lúc đó, với cái chết của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô I, mọi người dễ dàng nhận ra rằng Giáo hội không phải do Giáo hoàng hay các Giám mục thiết lập, mà là chính Chúa Kitô thiết lập. Và nếu cửa hoả ngục và sự chết không thắng được Giáo hội không phải do đôi vai yếu đuối của Giáo hoàng có thể, nhưng vì Giáo hoàng được nâng đỡ bởi chính Đấng là sự sống đời đời, Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Đây là mầu nhiệm cũng được chiếu sáng trong sự kiện và trong giáo huấn của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô I.
Ngọc Yến - Vatican News
Đức Thánh cha tiếp Đại học Macerata
Trong buổi tiếp kiến các giáo sư và sinh viên Đại học Macerata ở miền trung Ý, sáng ngày 09 tháng Năm năm 2022, Đức thánh cha Phanxicô cổ võ sự cởi mở về văn hóa và đặc biệt xây dựng nền văn hóa gặp gỡ.
Đại học Macerata được khởi sự từ năm 1290, là đại học cổ kính đứng hàng thứ năm tại Ý và thứ chín trên thế giới. Việc chính thức thành lập diễn ra vào ngày 01 tháng Bảy năm 1540 do Đức Giáo hoàng Phaolô III. Hiện nay, Đại học này có năm khoa chính, là Kinh tế và luật pháp, luật khoa, khoa học về huấn luyện, gia sản văn hóa và du lịch, chính trị học, truyền thông và quan hệ quốc tế, sau cùng là khoa nhân văn.
Macerata cũng là nơi xuất thân của cha Matteo Ricci, dòng Tên, nhà toán học, địa đồ học và chuyên gia về Trung Hoa. Cha được nhìn nhận là một trong những thừa sai lớn nhất tại nước này và tên của được người Hoa gọi là “Lợi Mã Đậu”. Cha hoạt động tại Trung Hoa, dưới thời nhà Minh, thế kỷ XVI và hiện nay cha đang được Bộ Phong thánh cứu xét án phong chân phước.
Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, sau khi nhắc đến vai trò quan trọng của đại học, Đức Thánh cha nhận định rằng: “Sự tăng trưởng của con người về nhân bản chắc chắn có một ảnh hưởng tích cực trên xã hội. Vì thế, đầu tư vào việc huấn luyện, về học đường, đại học, là sự đầu tư tốt nhất cho tương lai của một người. Chúng ta biết rõ điều đó nhưng không luôn luôn đưa ra những quyết định phù hợp với nguyên tắc đó”.
“Một khía cạnh khác tôi muốn nhận mạnh là sự gặp gỡ giữa các nền văn hóa khác nhau. Chúng ta biết rõ điều này không phải là điều đương nhiên. Đặt các giáo sư và sinh viên thuộc các xuất xứ khác nhau chung với nhau, đó vẫn chưa đủ, còn cần phải làm cho một nền văn hóa gặp gỡ được chín mùi. Và chắc chắn đại học là một nơi ưu tiên để thực hiện điều đó. Macerata là nơi sinh ra của một nhà vô địch về nền văn hóa gặp gỡ ấy, đó là cha Matteo Ricci. Tôi chúc mừng anh chị em, không những bảo tồn ký ức và thăng tiến việc nghiên cứu về cha, nhưng còn cố gắng thực hiện tấm gương của cha trong cuộc đối thoại liên văn hóa. Điều rất cần thiết ngày nay ở mọi cấp độ, đó là quyết tâm đi theo con đường này, con đường đối thoại”.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Đức Thánh cha tố giác tệ nạn nô lệ gia tăng trong thế giới ngày nay
Đức Thánh cha Phanxicô tố giác những hình thức nô lệ gia tăng trong thế giới ngày nay và mời gọi các tín hữu tìm phương thế đối phó, với ơn phù trợ của Chúa.
Đức Thánh cha đưa ra nhận định trên đây, trong buổi tiếp sáng ngày 07 tháng Năm vừa qua, dành cho các thành viên Tổng tu nghị Dòng Đức Bà Chuộc kẻ làm tôi, nhóm họp tại Roma, với chủ đề là lời Mẹ Maria nói với những người giúp việc tại tiệc cưới Cana: “Các anh hãy làm điều Người bảo các anh” (Ga 2,5).
Ngỏ lời trong buổi tiếp kiến, Đức Thánh cha nhắc đến tình trạng các tu sĩ, vất vả, cơ cực mà thành quả gặt hái chẳng thấy đâu, giống như các tông đồ xưa kia đánh lưới cả đêm mà không được gì. Ngài cũng ví tình trạng Giáo hội và xã hội hiện nay giống như tiệc cưới tại Cana, bị đe dọa vì không còn rượu.
Đức Thánh cha nói: “Tình trạng hiện nay có thể ví với tình trạng được trình bày trong Tin mừng về tiệc cưới Cana: “Họ không còn rượu”. Nhiều thực tại chúng ta thấy hiện nay trên thế giới, trong Giáo hội, trong dòng, nói với chúng ta về sự thiếu thốn ấy, thiếu hy vọng, thiếu động lực thúc đẩy, thiếu các giải pháp. Đứng trước thực tại đó, Đức Mẹ kêu gọi anh em: ‘Hãy đặt mình trong vị thế lắng nghe!’... Tôi nghĩ rằng ngày hôm nay Mẹ Maria nói với anh em, xin anh em hãy để Chúa Giêsu hỏi tâm hồn anh em một cách mới mẻ, đặc sắc, bất ngờ.”
Trong bối cảnh đó, Đức Thánh cha nhắc đến chủ đích nguyên thủy của Dòng Đức Mẹ Chuộc kẻ làm tôi, được thành lập hồi thế kỷ XIII, với mục đích cứu và chuộc những người bị bắt làm nô lệ, làm tù nhân, và nói rằng: “Ngày nay, cũng có những tù nhân như từ trước đến nay, thay đổi địa lý, thay đổi cách thức, màu da, nhưng nạn nô lệ vẫn còn là một thực tại ngày càng lan tràn, ngày càng gia tăng và có nhiều hình thái hơn. Có lẽ chúng ta có thể nói mà không sợ sai lầm, rằng ngày nay có nhiều nô lệ hơn so với thời kỳ dòng anh em được thành lập. Chắc chắn là thế! Tình trạng này phải là một thách đố đòi anh em đáp trả. Những hình thức nô lệ mới, được che đậy, ẩn nấp. Và có rất nhiều, tại những thành phố lớn như Roma, Luân Đôn, Paris, và các nơi khác, nạn nô lệ vẫn tồn tại. Anh em hãy tìm kiếm, và hỏi Chúa: con phải làm sao đây?”.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Cuộc cải tổ của Đức Thánh cha Phanxicô bước vào giai đoạn mới
Đức Hồng y Andrés Rodriguez Maradiaga, điều hợp viên Hội đồng Hồng y Cố vấn của Đức Thánh cha Phanxicô, nói rằng: triều đại Giáo hoàng của Đức Thánh cha Phanxicô đang bước vào một giai đoạn mới và công trình đại cải tổ được áp dụng với việc thay đổi nhân sự, bổ nhiệm tại các Bộ của Tòa Thánh, mặc dù có những “kháng cự”.
Đức Hồng y Maradiaga, dòng Don Bosco, là Tổng giám mục giáo phận Tegucigalpa, Honduras, sẽ tròn 80 tuổi vào cuối năm nay. Trong cuộc phỏng vấn dành cho hãng tin EFE của Tây Ban Nha, truyền đi hôm ngày 07 tháng Năm vừa qua, ngài cho biết như trên nhưng không đào sâu thêm “sự kháng cự” đó đến từ đâu, đồng thời cho biết Đức Thánh cha tiếp tục tiến bước theo chương trình, ngài còn rất sinh động. Đây không phải là giai đoạn “cuối cùng” trong triều đại của ngài, nhưng là một giai đoạn mới.
Đức Hồng y Maradiaga nhấn mạnh rằng điểm mới nhất trong cuộc giải tổ Giáo triều Roma do Đức Thánh cha Phanxicô đề xướng, đó là giáo triều này không phải chỉ là một cơ quan hành chánh, nhưng là một cơ quan phục vụ Đức Thánh cha và các Hội đồng Giám mục, và qua đó là để phục vụ Dân Chúa.
Để điều chỉnh lại hệ thống tổ chức mới của Giáo triều Roma cần tới chín năm làm việc cam go. Đức Hồng y nói: “Làm tốt mọi sự cần có thời gian và đây là một trong các đức tính của Đức Thánh cha. Ngài không vội vã, nhưng quan tâm làm sao cho tốt và tôi tin rằng ngài làm tốt, mặc dù sẽ gặp những khiếm khuyết”.
Đức Hồng y Maradiaga đã trả lời cuộc phỏng vấn của hãng tin EFE, sau khi giới thiệu cuốn sách viết chung với một ký giả về Tông hiến mới về Giáo triều Roma “Praedicate Evangelilcum”, Các con hãy loan báo Tin mừng. Văn kiện công bố ngày 19 tháng Ba năm nay và sẽ bắt đầu có hiệu lực từ ngày 06 tháng Sáu tới đây.
Đức Hồng y nhắc lại rằng trong Giáo triều Roma mới, bộ đứng đầu không còn là Bộ Giáo lý đức tin nhưng là Bộ loan báo Tin mừng và chính Đức Thánh cha làm đảm trách Bộ này. Điều này đã gặp sự “kháng cự”. Đức Hồng y kể: ‘Dĩ nhiên những người làm việc lâu năm ở giáo triều nghĩ rằng những người mới đến muốn thay đổi mọi sự. Một giám chức đáng kính nói với tôi rằng ‘quí vị là những người mới đến đây và nghĩ rằng mình biết mọi điều chúng tôi biết’.
Theo Đức Hồng y Maradiaga, “đã có và sẽ có những kháng cự, cũng như có những người không thích Tông hiến mới. Nhưng đã đến lúc Đức Giáo hoàng quyết định và ngài đã làm”. Ngoài cơ cấu mới, Tông hiến cho thấy rõ “tiêu chuẩn không phải là quyền bính nhưng là phục vụ, vì thế không cần các bộ phải được một hồng y hoặc một giám mục điều khiển, và có thể do một giáo dân nam, nữ hoặc một tu sĩ, và điều này không phải là mỵ dân. Cần xác định rằng ơn gọi của một hồng y là làm cố vấn cho Đức Thánh cha và bầu Giáo hoàng, chứ không phải là đứng đầu một bộ”.
Sau cùng, Đức Hồng y Maradiaga nói rằng “cuộc cải tổ lớn sẽ tới khi có sự thay đổi nhân sự. Đúng vậy, tôi tin rằng cuộc cải tổ này không thể áp dụng cho những người đã thi hành nhiệm vụ ở đây, vì đã tròn 5 năm ở giáo triều và phải từ nhiệm, tuy có thể gia hạn thêm 5 năm, nhưng tôi nghĩ rằng để áp dụng Tông hiến mới cần có những người mới”.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu