Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Hồng Y Koch: Chiến tranh ở Ucraina ảnh hưởng tiêu cực đến đối thoại đại kết
Theo Đức Hồng Y, việc Đức Thượng Phụ Kirill biện minh cho một cuộc chiến là “một điều bất ngờ”. Ngài nói: “Cho rằng Nga có sứ mệnh đặc biệt để bảo vệ các giá trị Kitô giáo chống lại phương Tây suy đồi không phải là điều mới mẻ đối với tôi, tôi luôn nghe được điều này. Nhưng đưa lý do này để biện minh cho một cuộc chiến là điều tôi không mong đợi”.
Ở điểm này, Tổng trưởng Bộ Đối thoại Liên tôn cho rằng điều quan trọng là phải tiếp tục đối thoại, vì đó là cách duy nhất để thảo luận những vấn đề khủng khiếp này.
Về tình hình đại kết giữa Giáo hội Công giáo và Chính thống Nga hiện nay, Đức Hồng Y cho biết từ khi chiến tranh bùng nổ, đối thoại đại kết với Chính thống Nga rất khó, vì các quan điểm rất khác nhau. Mặt khác, người đứng đầu Giáo hội Chính thống Nga không chỉ hợp pháp hóa, nhưng còn chúc lành cho cuộc chiến khủng khiếp này ở Ucraina, với động cơ siêu hình và tôn giáo. Đức Hồng Y Tổng trưởng hy vọng chiến tranh sẽ kết thúc, và sau đó Giáo hội Công giáo sẽ thảo luận chắc chắn về chủ đề này với Chính thống giáo Nga.
Về việc tuyên bố Đức Thượng Phụ Kirill là "dị giáo", Đức Hồng Y cho rằng chính việc hợp pháp hóa tôn giáo của chiến tranh phải được gọi là dị giáo, bởi vì nó mâu thuẫn với niềm tin cơ bản của chúng ta. Ngài nói: “Đối với chúng ta các Kitô hữu, hiển nhiên là chiến tranh không phải là giải pháp. Ngược lại, nó làm trầm trọng thêm các vấn đề đang có. Đây là lý do tại sao một cuộc chiến tranh xâm lược không thể được hợp pháp hóa. Chỉ những hành động tự vệ, trong những trường hợp nhất định, mới có thể là hợp pháp”.
Ngọc Yến - Vatican News
Đức Thánh Cha: Thể thao có thể tạo nhịp cầu văn hoá
Ngày 02/7, một số tham dự viên của Thế vận hội lần thứ 19 đã tham dự một Thánh lễ tại Đền thánh Đức Mẹ Santa Cruz, ở thành phố Oran của Algeria. Nhân dịp này, Đức Thánh Cha đã gửi lời chào mừng đến những người tham dự “Thánh lễ các quốc gia”, và mời gọi các vận động viên “hãy cống hiến hết mình”.
Đức Thánh Cha viết: “Thế vận hội Địa Trung Hải là một bằng chứng cụ thể về một loại hình thể thao có thể đóng vai trò như một cầu nối giữa các tôn giáo và các nền văn hóa khác nhau, ngày nay, hơn bao giờ hết, một cây cầu như thế rất cần thiết, vì Địa Trung Hải thường trở thành một nghĩa trang khổng lồ”. Ngài nói thêm rằng thể thao đích thực được xây dựng dựa trên sự trung thực và tôn trọng người khác. Và bằng cách khơi dậy các giá trị nhân văn, thể thao giúp chúng ta tránh được thảm kịch chiến tranh.
Đức Thánh Cha cũng cám ơn ban tổ chức Thế vận hội đã mời Hiệp hội vận động viên Vatican “Athletica Vaticana” tham gia sự kiện. Thực tế, một nhóm nhỏ của Vatican tham gia với vai trò như đại sứ của Đức Thánh Cha. Ngài viết: “Hiệp hội vận động viên Vatican là bằng chứng cụ thể cho tình liên đới, điều vốn có trong thể thao, qua sự chào đón dành cho những người trẻ di cư và người khuyết tật”.
Kết thúc sứ điệp, Đức Thánh Cha khuyến khích các vận động viên giúp thể thao trở thành “một trải nghiệm của sự hiệp nhất và tình huynh đệ”. Ngài viết: “Chính với tinh thần này, tôi mời các bạn cùng tham gia cuộc đua vĩ đại của cuộc sống dưới sự chăm sóc từ mẫu của Đức Mẹ Santa Cruz”.
Ngọc Yến - Vatican News
Đức Thánh cha trả lời phỏng vấn của hãng tin Reuters
Đức Thánh cha Phanxicô tái cải chính tin ngài sẽ từ chức, tin đồn nói rằng ngài bị ung thư, đồng thời ngài tuyên bố ủng hộ phán quyết của Tòa án Tối cao của Mỹ về vấn đề phá thai, và mạnh mẽ lên án việc phá thai.
Trên đây là nội dung cuộc phỏng vấn dài Đức Thánh cha dành cho hãng tin Reuters của Anh quốc. Trước đó, ngài cũng đã trả lời phỏng vấn của hãng tin Telam, Mỹ châu Latinh.
Về vấn đề đau đầu gối, Đức Thánh cha nói việc hoãn lại chuyến tông du tại Congo và Nam Sudan, làm cho ngài rất đau khổ vì ngài muốn thăng tiến hòa bình tại Congo cũng như tại Nam Sudan. Ngài cho biết thêm về bệnh đau đầu gối: đầu gối này có một rạn nứt nhỏ, khi ngài bước hụt trong khi gân bị viêm. Đức Thánh cha nói: “Tôi khoẻ mạnh và tình hình đang được cải tiến, vết rạn nứt đang lành từ từ, nhờ phương pháp trị liệu bằng Laser và điện từ.”
Đức Thánh cha bác bỏ tin đồn rằng ngài bị ung thư hồi năm ngoái, khi chịu phẫu thuật cắt bỏ một đoạn ruột già vì những viên nhỏ, một tình trạng thường xảy ra cho người già. Ngài cũng nói là không muốn phẫu thuật ở đầu gối vì sự gây mê toàn bộ cách đây một năm có những phản ứng phụ tiêu cực.
Cuộc phỏng vấn cũng đề cập đến những vấn đề quốc tế. Về tình trạng tại Ucraina, Đức Thánh cha cho biết đã có những tiếp xúc giữa Đức Hồng y Parolin Quốc vụ khanh với Ngoại trưởng Nga Sergei Lavrov về dự án có thể viếng thăm Mascơva. Những tín hiệu ban đầu không tốt. Cách đây vài tháng, người ta đã nói về cuộc viếng thăm này, nhưng Mascơva trả lời là đây không phải là lúc thuận tiện. Nhưng cũng ngụ ý cho biết sự việc có thể thay đổi.
Đức Thánh cha nói: “Tôi muốn đi Ucraina nhưng trước đó tôi muốn đi Mascơva. Chúng tôi đã trao đổi những sứ điệp về vấn đề này và tôi nghĩ rằng nếu Tổng thống Nga dành cho tôi một cánh cửa nhỏ để phục vụ chính nghĩa hòa bình. Giờ đây, đó là điều có thể, sau chuyển đi của tôi tại Canada, tôi sẽ đi Ucraina. Nhưng điều đầu tiên cần làm là đi Nga để tìm sự giúp đỡ một cách nào đó, tôi muốn đi tới cả hai thủ đô”.
Về vấn đề phá thai, Đức Thánh cha cho biết ngài đã mạnh mẽ lên án phá thai nhiều lần trong quá khứ và ví hành động này với việc thuê một người giết mướn. Tôi hỏi: phải chăng là điều hợp pháp khi loại bỏ sinh mạng của một người để giải quyết một vấn đề?”
Trả lời câu hỏi về việc tranh luận hiện nay tại Mỹ về việc một chính trị gia Công giáo, cá nhân họ chống phá thai nhưng ủng hộ quyền chọn lựa của những người khác, họ có thể rước lễ hay không. Ví dụ, bà Nancy Pelosi, Chủ tịch Hạ viện Mỹ, bị Đức Tổng giám mục bản quyền ở San Francisco cấm rước lễ, nhưng bà vẫn rước lễ đều đặn tại giáo xứ của bà ở thủ đô Washington và tuần trước, bà rước lễ trong thánh lễ tại Đền thờ thờ thánh Phêrô, thánh lễ do chính Đức Thánh cha chủ sự, ngài đáp: “Khi Giáo hội mất bản chất mục vụ của mình, khi một giám mục mất bản tính mục tử của mình, thì vấn đề này tạo nên một vấn đề chính trị. Đó là tất cả những gì tôi có thể nói”.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Đức Hồng y Quốc vụ khanh cử hành thánh lễ tại Congo
Sáng Chúa nhật, ngày 03 tháng Bảy vừa qua, Đức Hồng y Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, đã chủ sự thánh lễ tại thủ đô Congo, trước sự tham dự của hơn 100.000 tín hữu, để “cầu nguyện cho hòa bình và hòa giải tại Congo”. Ngài kêu gọi chấm dứt nạn bóc lột và xung đột tại miền đông nước này.
Đức Hồng y Parolin được Đức Thánh cha Phanxicô gửi đến Congo, rồi Nam Sudan vì ngài đã phải hoãn lại chuyến viếng thăm, dự kiến từ ngày 02 đến ngày 07 tháng Bảy vì đau đầu gối. Thánh lễ Đức Hồng y cử hành diễn ra đồng thời với thánh lễ Đức Thánh cha cử hành tại Đền thờ thánh Phêrô ở Roma, sáng Chúa nhật cùng ngày.
Đồng tế với Đức Hồng y Parolin, có đông đảo các giám mục địa phương và hàng trăm linh mục, tại Quảng trường trước trụ sở Quốc hội ở thủ đô Kinshasa. Cũng tại đây hồi năm 1980 và 1985, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã cử hành thánh lễ trong cuộc viếng thăm mục vụ nước này.
Trong bài giảng thánh lễ, Đức Hồng y Quốc vụ khanh Tòa Thánh nhắc đến tình trạng đất nước Congo đang chịu cảnh nhiều người dân thiếu công ăn việc làm, bị ô nhiễm và tại miền đông nước này từ lâu phải chịu nạn bạo lực khốc liệt do các nhóm dân quân võ trang, nạn bóc lột tài nguyên thiên nhiên, sự khao khát tiền bạc và quyền hành, khép kín các cánh cửa hòa bình. Đức Hồng y Parolin gọi đó là “một sự tấn công quyền sống cũng như sự thanh thản của con người”. Ngài cảnh giác rằng: “Cám dỗ hiện nay là sự đầu hàng trước thực tại, khép kín trong thái độ cam chịu định mệnh và vô tình trốn tránh trách nhiệm của mình, để rồi có thái độ coi mình là nạn nhân, để cho người khác ‘xắn tay áo’ và chịu cơ cực trong nỗ lực tái thiết”.
Đức Hồng y Parolin nhấn mạnh rằng: “Cần hoạt động và tiến hành với xác tín Thiên Chúa đang hoạt động. Đúng vậy, Thiên Chúa đang hoạt động. Cần gạt bỏ sự cô độc, buồn sầu, bất định và những ảo tưởng... Vì Thiên Chúa kêu gọi chúng ta hãy nhìn về tương lai: cùng nhau, liên kết với nhau, vượt thắng bất kỳ thái độ thiên vị, chia rẽ phe phái, bộ tộc. Với Chúa là Cha, là Mẹ, chúng ta có thể đương đầu với bất kỳ thử thách nào, vì Thiên Chúa không xa cách, nhưng đồng hành với chúng ta. Những bước chân của Chúa không gây tiếng ồn, nhưng mở ra những con đường. Thiên Chúa, mỗi ngày qua đi, không phải là sự thất vọng, nhưng là sự xích lại gần lời hứa hòa bình của Người”.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Công Giáo Đức giữa cuộc khủng hoảng
Những con số mới nhất
Hôm 27/6/2022, viện thống kê quốc gia Đức và Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Đức công bố thông cáo cho biết: trong năm 2021 số tín hữu Công Giáo làm đơn xin ra khỏi Giáo Hội đạt tới con số kỷ lục, gần 340 ngàn người (339.338), tức là tăng 26% so với năm 2020 trước đó (272.771). Nếu tính cả số người qua đời, thì trong năm 2021, Công Giáo Đức mất đi nửa triệu tín hữu.
Tổng cộng số tín hữu Công Giáo tại Đức hiện nay là hơn 21 triệu 600 ngàn người, tương đương với 26% dân số toàn quốc và là cộng đoàn Kitô đông nhất tại nước này. Cách đây 10 năm, 2011, số tín hữu Công Giáo tại Đức là 24 triệu 675 ngàn người.
Tình trạng Tin Lành tại Đức cũng không khá hơn. Theo thống kê công bố hồi tháng 3 năm nay, Tin Lành tại Đức trong năm 2021 có 19 triệu 720 ngàn tín hữu thuộc 20 Giáo Hội khác nhau, chiếm 23,7% dân số toàn quốc. Trong năm 2021, có 280 ngàn tín hữu Tin Lành làm đơn ra khỏi các Giáo Hội liên hệ, một con số kỷ lục từ trước đến nay.
Phản ứng
Đức Cha Georg Baetzing, Giám Mục giáo phận Limburg, Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Đức, bình luận rằng sự suy giảm trên đây là dấu hiệu một sự khủng hoảng sâu đậm của Giáo Hội Công Giáo tại Đức. Ngài nói: “Thật không phải là điều hay, đẹp khi nói về điều này… Tôi cảm thấy bị rúng động sâu đậm vì con số người ra khỏi Giáo Hội cực kỳ cao như vậy”.
Theo Đức Cha Baetzing, “Con đường Công nghị” của Công Giáo Đức là điều đúng, và Giáo Hội tại Đức tiếp tục tiến bước theo đường hướng con đường công nghị đã được đề ra. Qua “Con đường công nghị” này, Đức Cha Baetzing cùng với 2/3 các GM Đức, và Ủy ban trung ương giáo dân Công Giáo Đức cổ võ cải tổ Giáo Hội sau những vụ Giáo sĩ lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên trong những thập niên trước đây.
“Con đường công nghị” này muốn cải tổ trong 4 lãnh vực: thực thi quyền bính trong Giáo Hội, cụ thể là dân chủ hóa; vai trò của phụ nữ trong Giáo Hội, trong đó có việc cho phụ nữ chịu thánh chức, cải tổ luân lý tính dục của Giáo Hội cho hợp thời và sau cùng là thay đổi luật độc thân giáo sĩ. Khóa họp toàn thể của Công nghị có 230 đại biểu, đa số là giáo dân.
Theo Đức Cha Baetzing, phần lớn những người xin ra khỏi Giáo Hội là những người từ lâu không còn tiếp xúc hay liên hệ với giáo xứ của họ nữa và Đức Cha hy vọng nhờ con đường Công nghị, giáo dân sẽ xích lại gần hơn với các giáo xứ của họ.
Vấn đề đã có từ lâu
Thật ra vấn đề tín hữu Công Giáo và Tin Lành Đức làm đơn xin ra khỏi Giáo Hội liên hệ đã có từ lâu và các vị lãnh đạo Giáo Hội cũng đã tìm những phương thế để lật ngược trào lưu này.
Nhiều người đã đưa ra những giải thích về nguyên nhân. Ví dụ Giáo sư Ulrich Riegel, thuộc đại học Riegen, cho rằng 2 lý do chính khiến các tín hữu đi tới quyết định xin ra khỏi Giáo Hội vì họ cảm thấy xa lạ, thiếu liên hệ với Giáo Hội. Đàng sau cảm tưởng đó có sự kiện họ cảm thấy Giáo Hội là một tổ chức quan tâm đến quyền lực và tinh quái. Họ cho rằng Giáo Hội không đáng tin vì có sự cách biệt giữa điều Giáo Hội dạy và đường lối cư xử của một vài vị lãnh đạo hoặc đại diện Giáo Hội, những vụ xì căng đan giáo sĩ lạm dụng tính dục trẻ em. Nghĩa vụ phải đóng thuế cho Giáo Hội không phải là lý do chính, nhưng chỉ là một nhân tố đẩy mạnh trong một tiến trình gồm nhiều tác nhân khác nhau.
Nhưng theo một số nhà nghiên cứu khác, đối với nhiều tín hữu Tin Lành, nguyên nhân muốn tiết kiệm, xin ra khỏi Giáo Hội để khỏi phải trả tiền thuế cho Giáo Hội chiếm tới 71% các trường hợp rời Giáo Hội. Số tiền thuế này tương đương với 8 hoặc 9% thuế lợi tức đóng cho Nhà Nước. Khi không thuộc Giáo Hội hoặc tôn giáo nào thì đương sự không phải đóng thuế cho Giáo Hội hoặc tôn giáo của họ (Kathpress 10/3/2022)
Đức Cha Vorderholzer
Đứng trước lập trường của những người Công Giáo thuộc phe cấp tiến cho rằng để chặn đứng hoặc giảm bớt sự rời bỏ Giáo Hội, Giáo Hội cần phải tỏ ra cởi mở hơn, bãi bỏ luật độc thân giáo sĩ, cho phụ nữ đảm nhận tất cả các chức vụ trong Giáo Hội, như làm linh mục hoặc giám mục, cải tiến luân lý tính dục, chấp nhận hôn nhân đồng tính, cho những cặp ly dị tái hôn và lãnh nhận các bí tích, v.v. Đức Cha Rudolf Vorderholzer, giám mục giáo phận Regensburg ở miền nam Đức, cảnh giác các tín hữu đừng nuôi ảo tưởng như thế.
Cách đây 5 năm, trong bài giảng ngày 27/7/2017 tại Đền Thánh nữ Anna Schaeffer thuộc giáo phận Regensburg, Đức Cha kêu gọi các tín hữu đừng nghĩ rằng chỉ cần thay đổi một số cơ cấu và qui luật là giải quyết tình trạng sa sút của Giáo Hội Công Giáo tại đây.
Đức Cha nói: “như một phương dược để lật ngược những xu hướng giảm sút nói trên cũng như để bảo tồn tầm quan trọng của chúng ta, người ta liên tục khuyên chúng ta hãy ‘cởi mở và loại bỏ những tín điều bảo thủ cứng nhắc’. Trong trường hợp này, người ta khuyên chúng ta:
- hãy bãi bỏ luật độc thân của các linh mục;
- loại bỏ những trách vụ khác nhau và việc bổ nhiệm người nam và người nữ trong Giáo Hội, cũng như đón nhận phụ nữ vào trong sứ vụ tông đồ;
- chấp thuận yêu cầu bình đẳng hoàn toàn về luật pháp của những cặp đồng phái với hôn nhân;
- chấp nhận cho bất kỳ ai được rước lễ, v.v.
"Cũng như tôi, anh chị em biết rõ danh sách những đòi hỏi ấy.
"Anh chị em thân mến! Chúng ta sẽ thấy rõ bản chất của những lời khuyên ấy có vấn đề nếu chúng ta liếc qua thống kê về Giáo Hội Tin Lành Luther. Giả sử việc áp dụng những lời khuyên được kể trên đây thực sự là phương thế để cải tiến tình trạng Giáo Hội, thì nó phải được thấy rõ trong Giáo Hội Tin Lành Luther.
“Nhưng những con số thống kê về Giáo Hội Luther cho thấy gì? Nó cho thấy số người rời bỏ Giáo Hội Tin Lành đông hơn số tín hữu rời bỏ Công Giáo - và tiếp tục như thế từ nhiều năm rồi, ngoại trừ năm 2014, mặc dù trong Giáo Hội Tin Lành Luther tất cả những đòi hỏi nói trên đều được đáp ứng đầy đủ và tất cả những điều gọi là cản trở đối với Giáo Hội không còn nữa. Nhưng đại đa số quần chúng nói chung không biết đến điều đó, mặc dù những con số thống kê về hai Giáo Hội được công bố cùng một ngày. Phải chăng người ta cố tình không biết tới sự kiện ấy vì nó cho thấy sự yếu thế tỏ tường, sự vô lý và không có chất lượng của những lời 'khuyên bảo' gọi là tốt mà người ta muốn dành cho Giáo Hội Công Giáo?!
“Chúng ta phải nhìn rộng hơn trong toàn thể cuộc thảo luận. Các con số thống kê tỏ cho thấy có sự tục hóa đang lan rộng từ nhiều năm nay rồi, tín hữu không cảm thấy mình thuộc về Giáo Hội nữa, và sau cùng là suy yếu đức tin, không còn ý thức về Thiên Chúa. Đó là lý do tại sao chúng ta thiếu linh mục, nhưng đúng hơn, đó là một sự suy yếu cơ bản về đức tin. Tình trạng thiếu linh mục là một triệu chứng, giống như cơn sốt. Cơn sốt tự nó không phải là bệnh, nhưng nó cho thấy sự hiện diện của một tình trạng bị viêm. Tôi chắc chắn rằng cơn sốt thiếu linh mục cho thấy bệnh thiếu đức tin. Giáo Hội Tin Lành Luther từ lâu đã chịu tình trạng thiếu mục sư, có rất ít người trẻ học thần học và muốn dấn thân phục vụ Tin Mừng; mặc dù trong Giáo Hội này không có luật độc thân giáo sĩ, và các phụ nữ cũng có thể làm mục sư! Sự kiện này phải giúp chúng ta thấy rõ đâu là những lý do đích thực khiến cho Giáo Hội bị sa sút...”
Đức giám mục giáo phận Regensburg cũng nhắc nhở rằng: Chúng ta đừng quan tâm nhiều tới con số và thống kê. Điều phải làm cho chúng ta quan tâm là Tin Mừng có thể thắp sáng môi trường của chúng ta, qua đời sống đức tin của chúng ta. Hễ nơi nào chúng ta làm lu mờ Tin Mừng vì thiếu quan tâm, thiếu tình thương, vì sự cứng cỏi, thì chúng ta được kêu gọi hoán cải và dành nhiều chỗ hơn cho Chúa.
Thay vì liên tục thay đổi cơ cấu, đặc biệt các cơ cấu bí tích của Giáo Hội, thay vì làm tan loãng sứ điệp Tin Mừng và thay vì công bố một sứ điệp không còn yêu sách của Chúa Giêsu, công cuộc loan báo Tin Mừng được kêu gọi làm cho xã hội được tràn đầy Thánh Linh của Chúa Giêsu. Và bước tiến đầu tiên, quan trọng nhất trên con đường này là hằng ngày cố gắng nên thánh, hằng ngày lắng nghe Lời Chúa và sẵn sàng bắt đầu cuộc cải tổ Giáo Hội bằng chính bản thân. Cuộc cải tổ là: canh tân đức tin, tái lập hình ảnh Chúa Kitô được ghi vào lòng chúng ta trong bí tích Rửa tội và Thêm sức. Nơi nào điều này được bảo đảm cho chúng ta trong lòng thương xót của Thiên Chúa, nơi nào chúng ta thành công như vậy, thì chúng ta sẽ làm cho con người thời đại chúng ta tái tò mò về đức tin đang nâng đỡ chúng ta. Và khi ấy chúng ta cũng có thể giải thích về niềm hy vọng nơi chúng ta.”
Giuse Trần Đức Anh, O.P
Nguồn: Vatican News
ĐTC Phanxicô: Không có tình huynh đệ công cuộc loan báo Tin Mừng sẽ không tiến triển
Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, Đức Thánh Cha tập trung vào câu Lời Chúa “Chúa chỉ định bảy mươi hai môn đệ và và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến”, để nhấn mạnh rằng công cuộc loan báo Tin Mừng cần chứng tá tình yêu huynh đệ của các môn đệ.
Đức Thánh Cha bắt đầu bài huấn dụ như sau:
Các môn đệ được sai đi từng hai người một
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Trong Tin Mừng phụng vụ Chúa nhật này chúng ta đọc thấy rằng “Chúa Giêsu chỉ định bảy mươi hai môn đệ khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến” (Lc 10,1). Các môn đệ được sai đi từng hai người một, không đi một mình. Từ cái nhìn thực tế, đi loan báo Tin Mừng từng hai người một dường như có nhiều bất lợi hơn là thuận lợi. Có nguy cơ là hai người không thuận thảo với nhau, có những nhịp độ khác nhau, trên hành trình nếu một người mệt mỏi hoặc bị đau thì người kia cũng buộc phải dừng lại. Trái lại, khi người ta đi một mình, dường như cuộc hành trình trở nên nhanh chóng và suôn sẻ hơn. Nhưng Chúa Giêsu không nghĩ như thế: Người không sai các môn đệ đi lẻ loi, nhưng sai các ông đi từng hai người một. Chúng ta hãy tự hỏi: tại sao Chúa lại chọn như vậy?
Chính đời sống của các môn đệ đã là sự loan báo Tin Mừng
Nhiệm vụ của các môn đệ là đi đến các làng và chuẩn bị cho dân chúng đón tiếp Chúa Giêsu; và những chỉ dẫn mà Chúa trao cho các ông không phải là những gì các ông phải nói, nhưng là cách họ phải là. Nghĩa là Chúa quan tâm đến việc làm chứng của các môn đệ hơn là những lời các ông nói. Thực tế, Chúa gọi các ông là những người thợ, nghĩa là các môn đệ được kêu gọi để làm việc, loan báo Tin mừng qua hành vi của các ông. Và hành động cụ thể đầu tiên mà các môn đệ thực hiện trong sứ vụ là ra đi từng hai người một. Các môn đệ không phải là “những người đánh trống tự do”, những người rao giảng không biết nhường lời cho người khác. Trước hết, chính đời sống của các môn đệ đã là sự loan báo Tin Mừng: các ông biết ở với nhau, tôn trọng nhau, không muốn tỏ ra mình có khả năng hơn người khác, cùng nhau quy chiếu về một Vị Thầy duy nhất.
Không có tình huynh đệ công cuộc loan báo Tin Mừng sẽ không tiến triển
Chúng ta có thể soạn thảo những kế hoạch mục vụ hoàn hảo, thực hiện tốt các dự án, tổ chức các dự án này đến từng chi tiết nhỏ; chúng ta có thể thu hút được đám đông và có nhiều phương tiện; nhưng nếu chúng ta không có tình huynh đệ, thì công cuộc loan báo Tin Mừng không tiến triển được. Lần kia, một nhà truyền giáo thuật lại việc đi đến châu Phi với một người anh em cùng dòng. Sau một thời gian, nhà truyền giáo tách ra khỏi người anh em này, dừng lại trong một ngôi làng, và ở đó nhà truyền giáo thành công trong một loạt các hoạt động xây dựng vì lợi ích cộng đồng. Tất cả đều thành công. Nhưng một ngày, nhà truyền giáo giật mình, nhận ra rằng cuộc đời của mình giống như một doanh nhân tài giỏi, luôn ở giữa công trường và với giấy tờ kế toán! Sau đó, nhà truyền giáo để lại quyền điều hành cho những người khác và đến với người anh em. Nhà truyền giáo hiểu như thế vì Chúa đã sai các môn đệ “từng hai người một”: sứ vụ loan báo Tin Mừng không dựa trên hoạt động cá nhân, nghĩa là trên “việc làm”, nhưng dựa tên chứng tá tình yêu huynh đệ, và cả qua những khó khăn của đời sống chung.
Tới đây chúng ta có thể tự hỏi: làm thế nào chúng ta có thể đem Tin Mừng đến với người khác? Chúng ta làm điều này với tinh thần và phong cách huynh đệ, hay theo tinh thần thế gian, với sự đối kháng, cạnh tranh và hiệu quả? Chúng ta hãy tự hỏi bản thân xem chúng ta có khả năng cộng tác, biết cùng nhau đưa ra quyết định, tôn trọng cách chân thành những ai ở bên cạnh và quan điểm của họ không? Trong thực tế, bằng cách này cuộc sống của người môn đệ thực sự đã là sự loan báo Vị Thầy cho người khác.
Xin Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Giáo hội dạy chúng ta biết chuẩn bị con đường cho Chúa với việc làm chứng cho tình huynh đệ.
Ngọc Yến - Vatican News
Đức Thánh Cha chủ sự Thánh lễ với cộng đoàn các tín hữu Congo ở Roma
Vì Đức Thánh Cha bị đau đầu gối nên Đức Tổng Giám Mục Paul Richard Gallagher, Ngoại trưởng Toà Thánh, thay ngài cử hành Thánh lễ tại bàn thờ.
Bầu khí Phụng vụ Thánh lễ sinh động, mang màu sắc truyền thống của dân tộc Congo với những điệu múa và bài hát Congo.
Bài giảng của Đức Thánh Cha
Đức Thánh Cha bắt đầu bài giảng như sau:
Lời Chúa làm tràn ngập niềm vui
Niềm vui: Lời Chúa chúng ta vừa nghe làm cho chúng ta tràn đầy niềm vui. Tại sao, thưa anh chị em? Vì như Chúa nói trong Tin Mừng “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông” (Lc 10, 11). Đến gần: nghĩa là chưa đến, một phần còn bị ẩn khuất, nhưng gần với chúng ta. Và sự gần gũi của Thiên Chúa này ở trong Chúa Giêsu, là Chúa Giêsu, là suối nguồn niềm vui của chúng ta: chúng ta được yêu thương, và Chúa không bỏ mặc chúng ta. Tuy nhiên niềm vui đến từ sự gần gũi của Chúa, trong khi trao ban bình an lại không để chúng ta trong bình an. Niềm vui đặc biệt này tạo một sự thay đổi trong chúng ta: làm tràn ngập sự ngạc nhiên, thay đổi đời sống. Đây là điều xảy ra cho các môn đệ trong Tin Mừng: để loan báo về sự gần gũi của Thiên Chúa, các ông đi đến những nơi xa xôi, đi thi hành sứ vụ. Bởi vì ai đón tiếp Chúa Giêssu, cảm thấy mình phải bắt chước Người, làm như Người đã làm, nghĩa là đã bỏ trời cao để phục vụ chúng ta trên trái đất, và ra khỏi chính mình. Vì vậy, nếu chúng ta tự hỏi nhiệm vụ của chúng ta trên thế giới là gì, chúng ta phải làm gì với tư cách là một Giáo hội trong lịch sử, thì câu trả lời của Tin Mừng rất rõ ràng: sứ vụ.
Ba điều ngạc nhiên trong công cuộc loan báo Tin Mừng
Là Kitô hữu, chúng ta không thể hài lòng với lối sống tầm thường. Đây là một căn bệnh; nhiều Kitô hữu và cả chúng ta có nguy cơ sống tầm thường, chỉ bận tâm đến những cơ hội và thuận lợi của chúng ta, sống cho qua ngày. Không, chúng ta là những nhà truyền giáo của Chúa Giêsu. Nhưng anh chị em có thể nói: “Tôi không biết phải làm thế nào, tôi không có khả năng!”. Tin Mừng vẫn còn làm cho chúng ta ngạc nhiên, chỉ cho chúng ta thấy Chúa sai các môn đệ ra đi nhưng không đợi các ông đã sẵn sàng và được huấn luyện kỹ lưỡng: họ ở với Chúa chưa lâu, nhưng Người đã sai họ đi. Các ông chưa học thần học, nhưng Chúa vẫn sai các ông đi. Và cách Chúa sai các ông đi cũng làm cho chúng ta đầy ngạc nhiên. Như thế, chúng ta thấy được trong công cuộc loan báo Tin Mừng có ba điều ngạc nhiên mà Chúa Giêsu dành cho các môn đệ và cho mỗi người chúng ta.
Ngạc nhiên đầu tiên: Hành trang là người anh em
Để thực hiện một sứ vụ ở những nơi chưa biết, người ta cần phải mang theo một số thứ, chắc chắn là những thứ cần thiết. Trái lại, Chúa Giêsu không nói điều phải mang theo, nhưng Người nói những thứ không mang theo: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép” (câu 4). Như vậy thực tế là không mang theo gì: không hành lý, không có sự an toàn, không có sự trợ giúp. Chúng ta thường nghĩ rằng các sáng kiến của Giáo hội không hoạt động hiệu quả vì chúng ta thiếu cơ cấu, tiền bạc và phương tiện: điều này không đúng. Chính Chúa Giêsu phủ nhận điều này. Anh chị em thân mến, chúng ta đừng tin tưởng vào sự giàu sang và chúng ta không sợ sự nghèo khó vật chất và con người của chúng ta. Chúng ta càng tự do và đơn sơ, nhỏ bé và khiêm nhường, thì Chúa Thánh Thần càng hướng dẫn sứ vụ và làm cho chúng ta trở thành những người nắm giữ vai chính trong những điều kỳ diệu của Người.
Đối với Chúa Kitô, hành trang cơ bản là một điều khác: đó là người anh em. Tin Mừng nói: “Người sai các ông cứ từng hai người một đi trước” (câu 1). Các ông không đi một mình, nhưng luôn có người anh em bên cạnh. Luôn phải có người anh em bên cạnh, vì không có sứ vụ nào mà không có sự hiệp thông. Không có lời loan báo nào có kết quả mà không quan tâm đến người khác. Vì vậy, chúng ta có thể tự hỏi: là Kitô hữu, tôi suy nghĩ nhiều hơn về những gì tôi thiếu để có cuộc sống đầy đủ, hay tôi nghĩ về việc gần gũi hơn với anh chị em tôi, về việc quan tâm đến họ không?
Ngạc nhiên thứ hai: Sứ điệp bình an
Chúng ta đến với điều ngạc nhiên thứ hai của sứ vụ: sứ điệp. Thật hợp lý khi nghĩ rằng, để chuẩn bị cho việc loan báo, các môn đệ phải học những gì cần nói, nghiên cứu kỹ nội dung, chuẩn bị những bài phát biểu thuyết phục và rõ ràng. Thay vào đó, Chúa Giêsu chỉ đưa ra cho họ hai câu ngắn gọn. Câu đầu tiên dường như không cần thiết, đó là một lời chào: “Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: Bình an cho nhà này!” (câu 5). Điều này có nghĩa là ở bất cứ nơi nào, người môn đệ phải giới thiệu mình như những đại sứ hoà bình. Kitô hữu luôn mang đến sự bình an. Đây là dấu hiệu phân biệt: Kitô hữu là người mang sự bình an, bởi vì Chúa Kitô là sự bình an. Từ điều này, người ta sẽ nhận ra chúng ta là môn đệ của Chúa. Trái lại, nếu chúng ta loan truyền những lời đàm tiếu và ngờ vực, chúng ta tạo ra sự chia rẽ, chúng ta cản trở sự hiệp thông, chúng ta lệ thuộc nhiều thứ, thì chúng ta không hành động nhân danh Chúa Giêsu. Ai gây hận thù, kích động lòng căm thù, thì là những người không làm việc vì Chúa Giêsu, không mang lại sự bình an của Người. Anh chị em thân mến, hôm nay, chúng ta cầu nguyện cho hoà bình và hoà giải ở Congo, nơi có nhiều thương tích và bóc lột. Chúng ta hiệp nhất trong các Thánh lễ được cử hành trong đất nước theo ý chỉ này và chúng ta cùng cầu nguyện để các tín hữu trở thành những chứng tá hoà bình, có khả năng vượt qua mọi oán hận và trả thù, cám dỗ mà không thể hoà giải, vượt qua mọi sự gắn bó với nhóm của mình, điều không đưa đến điều tốt nhưng chỉ dẫn đến việc xem thường người khác.
Anh chị thân mến, hòa bình bắt đầu từ chúng ta; từ anh chị em và từ tôi, từ tâm hồn mỗi người. Nếu anh chị em sống trong bình an của Chúa Giêsu, Người sẽ đến và gia đình, xã hội của anh chị em sẽ thay đổi. Gia đình và xã hội thay đổi nếu trước tiên tâm hồn anh chị em không có chiến tranh, không được trang bị vũ khí oán hận và tức giận, không bị chia rẽ và giả dối. Đặt hòa bình và trật tự trong lòng, xoa dịu lòng tham, dập tắt hận thù và oán giận, thoát khỏi tham nhũng, gian dối và xảo quyệt: đây là nơi hòa bình bắt đầu. Chúng ta luôn muốn gặp những người hiền lành, tốt bụng, bắt đầu từ những người thân và hàng xóm của chúng ta. Nhưng Chúa Giêsu nói: “Các con hãy mang sự bình an cho ngôi nhà của các con, các con hãy bắt đầu tôn trọng người vợ của mình và yêu thương cô ấy bằng trái tim, tôn trọng và quan tâm trẻ em, người già và người lân cận. Hãy sống trong bình an, hãy khơi dậy hòa bình và hòa bình sẽ cư ngự trong nhà các con, trong Giáo hội, trong đất nước các con”.
Sau lời chào bình an, tất cả phần còn lại của sứ điệp được giao phó cho các môn đồ được rút gọn thành vài từ mà chúng ta đã bắt đầu và Chúa Giêsu lặp lại hai lần: “Triều đại Thiên Chúa đã đến gần! […] Triều đại Thiên Chúa đã đến gần” (câu 9 và 11). Loan báo sự gần gũi của Chúa, đó phong cách của Người; phong cách của Chúa là: sự gần gũi, lòng trắc ẩn và dịu dàng. Loan báo sự gần gũi của Chúa là một điều thiết yếu. Niềm hy vọng và sự hoán cải đến từ đây: từ việc tin rằng Thiên Chúa đang ở gần và trông chừng bảo vệ chúng ta: Người là Cha của tất cả mọi người, Đấng muốn tất cả chúng ta là anh chị em. Nếu chúng ta sống dưới ánh nhìn này của Thiên Chúa, thế giới sẽ không còn là chiến trường, nhưng là một khu vườn hòa bình; lịch sử sẽ không phải là một cuộc chạy đua về đích đầu tiên, nhưng là một cuộc hành hương chung. Tất cả những điều này - chúng ta hãy nhớ kỹ - không đòi hỏi những bài diễn văn tuyệt vời, nhưng cần những bài diễn văn ít lời và nhiều chứng tá. Vì vậy, chúng ta có thể tự hỏi: những người gặp tôi có thấy nơi tôi một chứng tá của hoà bình và sự gần gũi của Thiên Chúa không, hay là một người đang bị kích động, giận dữ, bất khoan dung, hiếu chiến không? Tôi có làm cho họ thấy Chúa Giêsu hay tôi che giấu Người bởi những thái độ hiếu chiến?
Ngạc nhiên thứ ba: Phong cách của người môn đệ
Trước hết là hành trang và tiếp đến là sứ điệp, điều ngạc nhiên thứ ba của sứ vụ liên quan đến phong cách của chúng ta. Chúa Giêsu yêu cầu các môn đệ của Người đi vào thế giới “như chiên con đi vào giữa bầy sói” (câu 3). Lý luận của thế gian nói ngược lại: bạn hãy tự khẳng định, hãy vượt lên trên người khác! Trái lại, Chúa Kitô muốn chúng ta trở nên những chiên con, chứ không phải những con sói. Điều này không có nghĩa là trở nên ngây thơ, nhưng là ghê tởm mọi bản năng của quyền lực và sự áp bức, lòng tham và sự chiếm hữu. Ai sống như một con chiên, không tấn công, không tham ăn: người đó ở trong đàn, với những người khác, và tìm thấy sự an toàn nơi Mục tử của họ, không tìm sự an toàn nơi sức mạnh hay kiêu ngạo, lòng tham tiền bạc và vật chất, những điều gây ra nhiều tổn hại cho Congo. Người môn đệ Chúa Giêsu từ chối bạo lực, không làm hại ai và yêu thương mọi người. Và nếu điều này đối với môn đệ dường như là điều thua thiệt, hãy nhìn vào Vị Mục Tử, Chúa Giêsu, Chiên Thiên Chúa, Đấng đã chiến thắng thế gian, trên Thánh giá. Và tôi - chúng ta hãy tự hỏi mình một lần nữa - sống như một chiên con, như Chúa Giêsu, hay như một con sói, như tinh thần của thế gian dạy, tinh thần gây chiến tranh?
Xin Chúa giúp chúng ta trở thành những nhà truyền giáo hôm nay, bước đi cùng với các anh chị em; có trên môi miệng sự bình an và gần gũi của Chúa; mang trong lòng sự hiền lành và nhân hậu của Chúa Giêsu, Chiên Con gánh tội trần gian.
Ngọc Yến - Vatican News
“Chúng ta không thoát ra khủng hoảng một mình: chúng ta phải chấp nhận rủi ro và nắm lấy nó trong tay”
Cuộc phỏng vấn của hãng tin Télam với Đức Phanxicô
vaticannews.va, Bernarda Llorente, 2022-07-01
Bên ngoài, cái nắng chói chang của Rôma dường như không làm nản lòng hàng ngàn du khách đang kiên nhẫn xếp hàng để vào Vatican. Chỉ cách đó vài bước, tại Nhà Thánh Marta lịch làm việc bận rộn của Đức Phanxicô vẫn tiến từng bước. Một vài tiếng động kỳ lạ như cho biết ngài sắp đến. Đức Phanxicô, Đức Thánh Cha, Đức Giáo Hoàng người Argentina, một trong những nhà lãnh đạo đặt chương trình chính trị và xã hội cho thế giới đi về phía tôi, nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt. Trông ngài đã hoàn toàn bình phục. Ý thức được tất cả những thay đổi đã diễn ra trong suốt 9 năm làm giáo hoàng và với một cái nhìn dài hạn về tương lai nhân loại, đức tin, và nhu cầu cho những đáp ứng mới. Khi chúng tôi cùng nhau đi vào hội trường, nơi sẽ quay cuộc phỏng vấn độc quyền với Télam (hãng thông tấn quốc gia của Argentina), trong một tiếng rưỡi, tôi biết ngày 20 tháng 6 này là ngày đặc biệt và duy nhất của tôi.
Télam: Cha đã là một trong những tiếng nói quan trọng nhất trong thời điểm cô đơn và sợ hãi tột độ của thế giới khi đại dịch. Cha đã định nghĩa đó là những hạn chế của một thế giới khủng hoảng kinh tế, xã hội và chính trị. Và sau đó cha nói: “Chúng ta không thoát ra khỏi khủng hoảng để giống như trước đây. Chúng ta thoát ra hoặc tốt hơn, hoặc xấu hơn.” Cha nghĩ chúng ta đang thoát ra khỏi khủng hoảng này theo cách nào? Chúng ta đang đi về đâu?
Đức Phanxicô: Tôi không hoàn toàn thích nó. Chúng ta đã phát triển ở một số khía cạnh, nhưng nói chung, tôi không thích vì nó đã trở nên chọn lọc.
Chúng ta nhìn vào thực tế, đúng là châu Phi đã không có nhiều hoặc chỉ có một số vắc-xin tối thiểu, tiện ích để thoát được căn bệnh này đã bị phân chia bởi các lợi ích khác. Thực tế là châu Phi đang cần vắc-xin cho thấy có điều gì đó đã không tiến hành tốt. Khi tôi nói chúng ta không bao giờ thoát khỏi khủng hoảng giống như trước đây, khủng hoảng nhất thiết phải thay đổi chúng ta.
Hơn nữa, khủng hoảng là những khoảnh khắc trong cuộc sống để chúng ta tiến thêm một bước. Có khủng hoảng tuổi vị thành niên, tuổi dậy thì, tuổi trung niên. Một khủng hoảng làm cho mình phải nhúc nhích. Chúng ta phải học cách chịu trách nhiệm, bởi vì nếu không, chúng sẽ trở thành xung đột. Và xung đột là một thứ khép kín, xung đột tìm kiếm câu trả lời bên trong chính nó, nó tự hủy hoại chính mình. Ngược lại, một khủng hoảng nhất thiết phải mở ra, nó làm cho chúng ta phát triển.
Một trong những điều nghiêm túc nhất cuộc đời là biết cách vượt lên khủng hoảng, không ở trong tâm trạng cay đắng. Vậy chúng ta đã trải qua cuộc khủng hoảng này như thế nào? Mỗi người đã làm những gì họ có thể. Đã có những anh hùng. Tôi có thể nói những gì gần nhất với tôi: bác sĩ, y tá, linh mục, nữ tu, giáo dân đã hy sinh mạng sống của mình. Một số đã chết. Tôi nghĩ có hơn 60 người trong số họ đã chết ở Ý. Một trong những điều chúng ta thấy trong cuộc khủng hoảng là mọi người đã hy sinh cuộc sống của họ. Nói chung, các linh mục đã làm rất tốt trong thời gian nhà thờ bị đóng cửa, họ hỏi thăm giáo dân qua điện thoại. Các linh mục trẻ hỏi người già cần gì họ sẽ đi mua giùm.
Tôi muốn nói. khủng hoảng làm chúng ta thực hiện tinh thần đoàn kết, vì mọi người đều trải qua khủng hoảng giống nhau. Và chúng ta phát triển từ đó.
Nhiều người nghĩ đại dịch đặt ra một số giới hạn: đến bất bình đẳng cực độ, coi thường khí hậu nóng lên toàn cầu, làm nặng thêm chủ nghĩa cá nhân, rối loạn các hệ thống đại diện và chính trị. Nhưng lại có một số ngành dứt khoát muốn tái tạo lại các điều kiện đã có trước khi xảy ra đại dịch…
Chúng ta không thể quay trở lại an toàn giả tạo của các cấu trúc kinh tế và chính trị mà chúng ta đã có trước đây. Như tôi đã nói, chúng ta không thoát ra khỏi khủng hoảng giống như trước đây, chúng ta đi ra khỏi khủng hoảng hoặc tốt hơn hoặc xấu hơn, tôi cũng nói, chúng ta không thể tự mình thoát ra khỏi khủng hoảng. Hoặc là tất cả, hoặc không có ai trong chúng ta.
Chỉ mong chờ có một nhóm thoát ra khỏi khủng hoảng, đó có thể là một ân phúc, nhưng chỉ ân phúc một phần, kinh tế, chính trị, cho một số lãnh vực quyền lực. Nhưng chúng ta không để khủng hoảng qua một bên. Chúng ta sẽ bị ảnh hưởng do chọn lựa quyền lực chúng ta đã thực hiện. Chẳng hạn, chúng ta biến thành một việc kinh doanh, hoặc phát triển mạnh hơn về mặt văn hóa sau khủng hoảng. Lợi dụng khủng hoảng cho lợi ích riêng của mình, đó là ra khỏi khủng hoảng một cách xấu xa và nhất là khi thoát ra một mình. Chúng ta không thể tự mình thoát ra khỏi khủng hoảng, chúng ta cần chấp nhận rủi ro và cùng nắm tay nhau. Nếu chúng ta không làm được, chúng ta không thể thoát ra khỏi khủng hoảng. Vì vậy, đó là khía cạnh xã hội của cuộc khủng hoảng. Đây là một cuộc khủng hoảng của văn minh.
Và thiên nhiên cũng bị khủng hoảng. Tôi nhớ cách đây vài năm, tôi tiếp một số Nguyên thủ quốc gia từ các nước ở Polynesia. Một trong số họ nói: “Đất nước chúng tôi đang định mua đất ở Samoa, vì có thể chúng tôi không còn tồn tại trong 25 năm nữa, mực nước biển đã dâng rất cao”.
Chúng ta có thể không biết, nhưng có một ngạn ngữ tiếng Tây Ban Nha có thể làm chúng ta suy nghĩ: Chúa luôn tha thứ. Chúng ta có thể yên tâm. Còn loài người chúng ta, thỉnh thoảng chúng ta tha thứ. Nhưng thiên nhiên không bao giờ tha thứ. Chúng ta phải trả giá. Nếu chúng ta sử dụng thiên nhiên vì lợi nhuận cho riêng mình, nó sẽ giáng xuống chúng ta. Một khí hậu toàn cầu ấm lên ngăn cản việc xây dựng một xã hội huynh đệ và công bằng.
Chúng ta bị khủng hoảng, bị đại dịch, bị Covid. Vào thời kỳ tôi còn là sinh viên, vi rút “corona” chỉ là vi-rút cảm. Nhưng sau đó chúng bắt đầu đột biến và chúng ta đã thấy những gì đã xảy ra. Thật là lạ lùng cho những đột biến vi-rút này, vì chúng ta đang đối diện với khủng hoảng vi-rút, một khủng hoảng của toàn thế giới. Một khủng hoảng thế giới về mối quan hệ của chúng ta với hành tinh. Chúng ta đang sống không hòa hợp với tạo vật, với vũ trụ. Chúng ta thường xuyên tát nó. Chúng ta sử dụng sức mạnh của mình một cách sai lầm. Một số người không thể tưởng tượng được mối nguy hiểm mà nhân loại đang phải đối diện ngay bây giờ với khí hậu nóng lên toàn cầu và sự lạm dụng thiên nhiên này.
Tôi xin đưa ra đây một kinh nghiệm cá nhân: năm 2007, tôi là thành viên của ủy ban soạn thảo Văn kiện Aparecida và người Brazil sẽ đưa ra các đề xuất liên quan đến việc bảo vệ thiên nhiên. Hồi đó tôi tự hỏi vì tôi không hiểu gì về vấn đề này: “Những người Brazil này đang nghĩ gì vậy?”. Nhưng từng chút một, tôi đã thức tỉnh và sau đó tôi cảm thấy mình phải viết một cái gì đó.
Nhiều năm sau, khi tôi đến Strasbourg, Tổng thống Pháp François Hollande đã cử Bộ trưởng Bộ Sinh thái và Phát triển Bền vững của ông là bà Ségolène Royale đến đón tôi. Bà nói với tôi: “Có đúng là cha đang viết một cái gì đó về môi trường phải không?” Tôi nói có, bà nói: “Xin cha công bố trước khi Hội nghị Khí hậu họp ở Paris”. Vì thế tôi gặp lại các nhà khoa học và họ đưa cho tôi bản thảo. Sau đó, tôi họp với các nhà thần học, họ đưa cho tôi một bản thảo khác. Và tôi viết Laudato si’. Đó là một nhu cầu để làm cho thế giới biết chúng ta đang tát vào thiên nhiên. Và thiên nhiên sẽ tát lại chúng ta…
Thông điệp Laudato si ‘cảnh báo, chúng ta thường nói đến sinh thái, nhưng lại tách nó ra khỏi các điều kiện phát triển và xã hội. Những quy tắc mới đó sẽ như thế nào, về mặt kinh tế, xã hội và chính trị, những gì cha định nghĩa là khủng hoảng văn minh và với một Trái đất, nhưng trên hết mọi thứ, lại nói “Tôi đã làm xong”?
Tất cả mọi thứ đều được kết nối, đó là hài hòa. Không thể nghĩ về con người mà không có thiên nhiên và không thể nghĩ về thiên nhiên mà không có con người. Giống như đoạn văn trong Sáng thế ký: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất”. Làm cho đầy mặt đất là hòa hợp với nó, làm cho nó phong phú. Chúng ta phải có ơn gọi này.
Những người bản địa rừng nhiệt đới Amazon có thành ngữ mà tôi rất thích: “Sống tốt”. Họ có một triết lý sống tốt, không giống gì với khái niệm “vui đùa” của người Argentina hay “đời sống nhẹ nhàng, dolce vita” của người Ý. Với họ, sống tốt là sống hài hòa với thiên nhiên. Chúng ta cần một cái nhìn bên trong cho con người và cho nơi chốn. Như một cuộc trò chuyện.
Khi mọi người nói với tôi rằng Laudato si’ là thông điệp tốt đẹp về môi trường, tôi trả lời: “Không, đó là thông điệp xã hội”. Chúng ta không thể tách rời khía cạnh xã hội và khía cạnh môi trường. Cuộc sống của con người là ở trong môi trường.
Tôi nghĩ đến một câu nói của người Tây Ban Nha, tôi hy vọng nó không quá thô tục: “Ai nhổ nước bọt lên trời là tự nhổ vào mặt mình”. Và đó là điều xảy ra khi chúng ta lạm dụng thiên nhiên. Thiên nhiên sẽ trả lại cho chúng ta.
Một lần nữa: thiên nhiên không bao giờ tha thứ, không phải vì thiên nhiên thù hận, nhưng vì trong những quá trình chuyển động thoái hóa, chúng ta không hài hòa với bản thể của mình.
Cách đây vài năm, tôi đã vô cùng sửng sốt khi lần đầu tiên nhìn thấy bức ảnh chụp một con tàu đi qua Bắc Cực. Một Bắc Cực có thể đi qua được! Điều đó có nghĩa là gì? Băng đang tan vì trái đất nóng lên. Khi nhìn thấy những điều này, có nghĩa là chúng ta phải dừng lại. Và những người trẻ cảm nhận chuyện này nhiều nhất. Người già chúng ta có những thói quen tệ hơn. Chúng ta nói “đó không phải là một vấn đề lớn”, hoặc đơn giản chúng ta không hiểu.
Giới trẻ, chính trị và lời lẽ kích động thù địch
Như cha đưa ra, những người trẻ dường như có nhận thức về sinh thái nhiều hơn, nhưng cũng có vẻ như họ bị phân khúc. Chúng ta thấy họ ít dấn thân chính trị hơn và tỷ lệ cử tri đi bầu rất thấp ở những người dưới 35 tuổi. Cha sẽ nói gì với những người trẻ này? Làm thế nào chúng ta có thể giúp họ xây dựng lại hy vọng?
Bà đưa ra một câu hỏi khó khăn: người trẻ thiếu dấn thân chính trị. Tại sao họ không tham gia vào chính trị? Tại sao họ không nắm cơ hội? Vì họ chán nản. Họ thấy – tất nhiên là tôi không muốn nói là tất cả – các thương vụ mafia, tham nhũng. Khi người trẻ thấy ngay tại quốc gia của họ, như câu nói, “ngay cả mẹ cũng bị bán” vì lợi ích kinh doanh, thì văn hóa chính trị bị suy thoái. Và đó là lý do vì sao họ không muốn dính líu đến chính trị.
Tuy nhiên, chúng ta cần họ vì họ là những người phải cứu nền chính trị phổ quát. Tại sao phải cứu? Vì nếu chúng ta không thay đổi cách đối xử với môi trường, chúng ta sẽ bị tiêu.
Tháng 12 năm ngoái, chúng tôi có cuộc gặp với các chuyên gia khoa học kỹ thuật và thần học về tình trạng môi trường. Tôi nhớ người đứng đầu Viện Hàn lâm Khoa học Ý đã nói, “Nếu điều này không thay đổi, cháu gái tôi vừa mới sinh hôm qua, sau 30 năm, cháu tôi sẽ sống trong một thế giới không thể sống được”. Đó là lý do vì sao tôi nói với những người trẻ, phản đối là chưa đủ. Họ cần tìm cách nhận trách nhiệm về các quy trình có thể giúp chúng ta tồn tại.
Cha có nghĩ sự thất vọng này ở người trẻ nguyên do một phần là họ bị chủ nghĩa cực đoan chính trị và lời lẽ kích động thù địch lôi cuốn không?
Quá trình của một quốc gia, quá trình phát triển xã hội, kinh tế và chính trị, cần được đánh giá lại và chạm trán liên tục với những quốc gia khác. Thế giới chính trị là sự xung đột của các ý tưởng và các quan điểm, thanh lọc và làm cho chúng ta cùng nhau tiến lên. Những người trẻ phải hiểu về khoa học chính trị, về chung sống và về cuộc đấu tranh chính trị giúp chúng ta thoát ra khỏi thói ích kỷ và đưa chúng ta tiến lên phía trước. Điều quan trọng là phải giúp những người trẻ để họ dấn thân vào xã hội và chính trị, và cũng để bảo vệ họ khỏi bị lừa.
Nhưng ngày nay, tôi nghĩ tuổi trẻ sắc sảo hơn. Vào thời chúng tôi, chúng tôi rất dễ bị lừa. Bây giờ họ ý thức hơn, họ xuất sắc hơn. Tôi rất tin tưởng người trẻ. Một linh mục có thể nói: “Dĩ nhiên, nhưng họ không đi lễ.” Tôi trả lời, chúng ta phải giúp họ phát triển và ở bên cạnh họ. Sau đó, Chúa sẽ nói chuyện với mỗi người. Nhưng chúng ta phải để họ lớn lên.
Nếu người trẻ không là nhân vật chính của Lịch sử, chúng ta sẽ bị tiêu. Vì người trẻ là hiện tại và tương lai.
Cách đây vài ngày, cha đã nói về tầm quan trọng của đối thoại giữa các thế hệ.
Về chủ đề này, tôi muốn nhấn mạnh một chuyện mà tôi luôn nói: chúng ta cần khôi phục lại đối thoại giữa người trẻ và người lớn tuổi. Người trẻ cần đối thoại với cội nguồn của họ và người già cần cảm thấy họ để lại một di sản đàng sau. Khi còn trẻ ở bên ông bà, họ nhận được nhựa sống, họ nhận được những thứ để hướng về phía trước. Và khi người già dành thì giờ cho cháu, họ sẽ có lại hy vọng.
Một trong các bài thơ của Bernárdez có câu, tôi quên trong bài nào: “Cây nở hoa được nuôi dưỡng bởi những gì được chôn vùi trong lòng đất”. Hoa không nở trong lòng đất, hoa nở trên cao. Nhưng cuộc đối thoại giữa họ, những gì chúng ta lấy từ cội nguồn của mình và tiến lên, đó là ý nghĩa thực sự của truyền thống.
Có một câu nói của nhà soạn nhạc Gustav Mahler đã tác động đến tôi: “Truyền thống là bảo đảm cho tương lai”. Đó không phải là một phòng trong viện bảo tàng. Nó mang lại cho chúng ta sự sống khi nó làm cho chúng ta lớn lên.
Đi lui đàng sau lại là một chuyện khác: đó là chủ nghĩa bảo thủ không lành mạnh. Họ nói: “Nó luôn được thực hiện theo cách này, vì vậy tôi sẽ không tiến thêm một bước nào.” Chủ đề này cần giải thích thêm, nhưng tôi bám vào điều cốt yếu: cuộc đối thoại giữa người trẻ và người già là ý nghĩa thực sự của truyền thống. Nó không phải là chủ nghĩa truyền thống. Chính truyền thống làm chúng ta lớn lên, là đảm bảo cho tương lai.
Những tệ nạn của thời đại chúng ta
Cha thường mô tả ba tệ nạn của thời đại chúng ta: thói tự mê, chán nản và bi quan. Làm thế nào để chống lại chúng?
Ba điều bà nêu ra – thói tự mê, chán nản và bi quan – nằm trong cái gọi là “tâm lý học chiếc gương”. Rõ ràng là Narcissus đang soi mình trong gương. Và cách nhìn đó không phải là hướng về phía trước, mà hướng về bản thân và tự băng bó vết thương cho mình. Trên thực tế, điều làm chúng ta phát triển là triết lý về sự khác biệt. Chúng ta không thể trưởng thành trong cuộc sống nếu không có đối đầu.
Ba điều mà bà nêu ra đều liên quan đến chiếc gương: Tôi soi gương để thấy mình và thấy tội nghiệp cho mình. Tôi nhớ một nữ tu luôn phàn nàn. Mọi người ở tu viện gọi sơ là “Sơ Phàn nàn”. Đúng, có một số người không ngừng phàn nàn về những tệ nạn của thời đại chúng ta.
Nhưng có một thứ thực sự giúp chống lại thói tự mê, chán nản và bi quan, đó là tính hài hước. Thật là nhân văn. Chúng ta biết có lời cầu nguyện tuyệt vời của Thánh Thomas More mà mỗi ngày tôi vẫn đọc từ hơn 40 năm nay: “Lạy Chúa, xin ban cho con tiêu hóa tốt và có cái gì để tiêu hóa. Xin cho con có khiếu hài hước và cho con ơn có chuyện hài hước để kể…” Một khiếu hài hước giúp đưa mọi thứ vào đúng chỗ và làm cho chúng ta được dễ chịu. Nó đi ngược lại với tinh thần bi quan, than van. Đó là Narcissus, phải không? Chúng ta trở lại với chiếc gương. Thói tự mê điển hình.
Năm 2014, cha đã khẳng định thế giới đang bước vào Thế chiến thứ ba. Hôm nay, thực tế dường như xác nhận dự đoán của cha. Việc thiếu đối thoại và lắng nghe có phải là một yếu tố làm trầm trọng thêm cho tình hình hiện nay?
Câu tôi nói hồi đó là “Chiến tranh thế giới từng mảnh”. Xung đột ở Ukraine là rất gần, vì vậy chúng ta lo lắng, nhưng chúng ta hãy nghĩ đến Rwanda cách đây 25 năm, Syria cách đây 10 năm qua, hoặc Lebanon với cuộc nội chiến, hoặc Myanmar lúc này. Những gì chúng ta đang thấy ngày nay thực sự đã xảy ra trong một thời gian dài. Thật không may, chiến tranh là sự tàn ác mỗi ngày. Chiến tranh không phải là khiêu vũ, nhưng là giết chóc. Và cả một hệ thống bán vũ khí hỗ trợ nó. Một người am tường thống kê từng nói với tôi, tôi không thể nhớ con số chính xác, nếu không sản xuất vũ khí trong một năm, chúng ta có thể chấm dứt nạn đói trên thế giới.
Tôi nghĩ đã đến lúc phải suy nghĩ lại về khái niệm “chiến tranh chính nghĩa”. Một cuộc chiến có thể chính nghĩa, họ có quyền tự vệ. Nhưng chúng ta cần suy nghĩ lại về cách mà khái niệm này được sử dụng ngày nay. Tôi đã nói việc sử dụng và giữ vũ khí hạt nhân là trái đạo đức. Giải quyết xung đột bằng chiến tranh, là không không đối thoại bằng lý lẽ, không xây dựng. Lý luận bằng lời nói là rất quan trọng. Bây giờ tôi nói đến hành vi hàng ngày của chúng ta. Khi mình nói chuyện với ai, họ ngắt lời trước khi mình nói xong. Chúng ta không biết lắng nghe nhau. Chúng ta không để người kia nói hết những gì họ đang nói. Chúng ta phải lắng nghe. Nhận những gì người kia nói. Chúng ta tuyên chiến trước, có nghĩa chúng ta ngừng đối thoại. Chiến tranh về bản chất là thiếu đối thoại.
Về chuyện này, tôi nhớ lại chuyến thăm nghĩa trang Redipuglia (Friuli-Venezia Giulia, miền bắc nước Ý) tháng 9 năm 2014 nhân kỷ niệm một trăm năm cuộc chiến năm 1914, tôi đã không cầm được nước mắt. Một cảm xúc tương tự cũng đã đến với tôi ở nghĩa trang Anzio, trong vùng Rôma: “Thật tàn nhẫn!” Nghĩ đến cuộc đổ bộ Normandy và 30.000 thanh niên bị Đức quốc xã giết trên bãi biển, tôi đặt câu hỏi: “Điều này có chính đáng không?”. Vì thế tôi xin mọi người đến thăm các nghĩa trang quân sự ở châu Âu để có một nhận thức cá nhân hơn về thảm kịch chiến tranh.
Cuộc khủng hoảng của các thể chế
Các tổ chức đa phương có thất bại trong các cuộc chiến tranh này không? Có thể đạt được hòa bình thông qua họ không? Tìm kiếm các giải pháp chung có khả thi không?
Sau Thế chiến thứ hai, mọi người tin vào Liên Hiệp Quốc. Tôi không có ý định xúc phạm ai, tôi biết có những người rất giỏi làm việc ở đó, nhưng vào thời điểm này, Liên Hiệp Quốc không có một quyền lực nào để khẳng định thẩm quyền của mình. Liên Hiệp Quốc thực sự giúp ngăn chặn chiến tranh và tôi nghĩ đến Sýp, nơi quân đội Argentina hợp tác. Nhưng để ngăn chặn một chiến tranh, để giải quyết xung đột như xung đột chúng ta đang thấy ở châu Âu hiện nay hoặc các xung đột khác trên thế giới, Liên Hiệp Quốc không có sức mạnh. Tôi không có ý xúc phạm. Chỉ là hiến pháp của Liên Hiệp Quốc không cho Liên Hiệp Quốc tổ chức loại quyền này.
Các cường quốc trên thế giới đã thay đổi chưa? Trọng lực của một số thể chế có được sửa đổi không?
Tôi không muốn phổ cập hóa. Tôi sẽ nói theo cách này: một số thể chế đặc biệt đang gặp khủng hoảng hoặc tệ hơn, họ đang xung đột. Những thể chế đang gặp khủng hoảng cho tôi hy vọng về một tiến bộ có thể. Nhưng những thể chế đang có xung đột, họ bận giải quyết các vấn đề nội bộ. Lúc này, chúng ta cần dũng cảm và sáng tạo. Nếu không có hai điều đó, chúng ta sẽ không có các tổ chức quốc tế có thể giúp khắc phục những xung đột rất nghiêm trọng, những tình huống chết chóc này.
Đã đến lúc tổng kết
Năm 2023 sẽ là năm kỷ niệm 10 năm cha được bầu làm giáo hoàng, một thời điểm lý tưởng để làm tổng kết. Cha có đạt được tất cả các mục tiêu của cha không? Những dự án nào của cha vẫn còn phải chờ?
Tất cả những gì tôi đã làm không phải là phát minh của tôi cũng không phải là giấc mơ mà tôi có được sau một đêm khó tiêu. Tôi thu thập tất cả những gì các hồng y chúng tôi họp trước mật nghị, những điều mà chúng tôi nghĩ rằng tân giáo hoàng nên làm. Sau đó, chúng tôi nói về những điều cần thay đổi, những vấn đề cần giải quyết. Và tôi thực hiện những điều đã được các hồng y yêu cầu. Tôi không nghĩ có bất cứ gì là của riêng tôi. Tôi thực hiện những gì tất cả hồng y chúng tôi yêu cầu.
Ví dụ, cuộc cải cách Giáo triều đã kết thúc với tông hiến Anh em hãy rao giảng Tin Mừng, Praedicate evangelium, sau tám năm rưỡi làm việc và tìm hiểu – gồm những gì các hồng y đã yêu cầu, những thay đổi đã có hiệu lực.
Ngày nay, đó là một kinh nghiệm kiểu truyền giáo. “Praedicate evangelium” nghĩa là “hãy trở thành nhà truyền giáo”. Hãy rao giảng lời Chúa. Có nghĩa là điều thiết yếu phải được đem ra ngoài.
Có một điểm rất hay: tại các cuộc họp đó, một trong các hồng y dẫn một câu trong sách Khải Huyền, Chúa Giêsu nói: “Ta đang ở ngoài cửa và gõ cửa; nếu có ai mở, Ta sẽ vào”. Và hồng y nói: “Chúa Giêsu đang gọi, nhưng lần này Ngài xin chúng ta mở cửa cho Ngài ra vì chúng ta đang giam Ngài”. Đó là những gì đã được xin tại các cuộc gặp với các hồng y.
Khi tôi được bầu chọn, tôi đặt mọi thứ vào chuyển động. Vài tháng sau, có các cuộc thăm dò và chúng tôi đã công bố bản Hiến pháp mới. Cùng lúc đó, cũng đã có những thay đổi đã làm. Ý tôi là, đây không phải là những ý tưởng của riêng tôi. Tôi muốn điều đó được rõ ràng. Đây là những ý tưởng phát sinh từ Hồng y đoàn.
Nhưng cha để lại dấu ấn của cha. Chúng ta có thể thấy con dấu của Giáo hội Châu Mỹ La-tinh…
Điều đó đúng.
Làm thế nào quan điểm này có thể thực hiện được những thay đổi mà chúng ta đang thấy?
Giáo hội Châu Mỹ La-tinh có lịch sử lâu đời và gần gũi với người dân. Nếu chúng ta xem qua các hội đồng giám mục – hội đồng giám mục đầu tiên ở Medellín, rồi đến Puebla, Santo Domingo, và Aparecida – họ luôn đối thoại với dân Chúa. Và thực tế này đã giúp. Đó là một Giáo hội bình dân, theo nghĩa đen của từ này. Là Giáo hội của Dân Chúa.
Điều đó đã thay đổi khi giáo dân không thể biểu hiệu và cuối cùng trở thành một Giáo hội của những người cầm đầu, với những thừa tác viên chỉ huy. Mọi người bắt đầu nói lên càng ngày càng nhiều về tôn giáo của mình và cuối cùng họ thành nhân vật chính trong câu chuyện của chính họ.
Rodolfo Kusch, một triết gia người Argentina, là người hiểu rõ nhất dân tộc là gì. Tôi khuyên nên đọc Kusch. Ông là một trong những bộ óc vĩ đại nhất của Argentina. Ông viết sách về triết lý của con người.
Theo một cách nào đó, đây là kinh nghiệm của Giáo hội Châu Mỹ La-tinh dù đã có những nỗ lực tư tưởng hóa, chẳng hạn như việc sử dụng các khái niệm của Mác trong phân tích thực tại của Thần học Giải phóng. Đó là một công cụ tư tưởng hóa, một con đường giải phóng của Giáo hội bình dân Mỹ Latinh. Nhưng dân tộc là một chuyện, chủ nghĩa dân túy là một chuyện khác.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
Chương trình tông du của Đức Phanxicô tại Canada
Ngày 23 tháng 6, Vatican công bố chương trình chuyến đi Canada của Đức Phanxicô từ ngày 24 đến 30 tháng 7-2022. Chuyến đi có tên “Bước đi cùng nhau” gồm nhiều cuộc gặp gỡ các đại diện Dân tộc Bản địa và giáo dân công giáo bản địa. Đây là bước đi trong tiến trình hòa giải, hàn gắn các dân tộc bản địa.
Chúa nhật 24 tháng 7 năm 2022
Rôma-Edmonton
09:00 Khởi hành từ sân bay quốc tế Roma/Fiumicino đi Edmonton
11:20 Đến sân bay quốc tế Edmonton
11:20 Chào đón chính thức tại Sân bay quốc tế Edmonton
Thứ hai 25 tháng 7
Edmonton – Maskwacis – Edmonton
10:00 Đức Phanxicô gặp các Dân tộc Bản địa Quốc gia thứ nhất, Métis và Inuit tại Maskwacis. Tại đây Đức Phanxicô đọc diễn văn.
16:45 Giữa các Dân tộc Bản địa và thành viên Cộng đoàn giáo xứ tại Nhà thờ Thánh Tâm ở Edmonton. Diễn văn của Đức Phanxicô
Thứ ba 26 tháng 7
Edmonton – Lac Ste Anne – Edmonton
10:15 Thánh lễ tại Sân vận động Commonwealth, Edmonton. Đức Phanxicô giảng lễ
17:00 Đức Phanxicô tham dự “Hành hương Lac Ste Anne” và phụng vũ Lời Chúa “Lac Ste Anne”. Bài giảng của Đức Phanxicô
Thứ tư 27 tháng 7
Edmonton – Québec
09:00 Khởi hành từ sân bay quốc tế Edmonton bay đến Québec
15:05 Đến sân bay quốc tế Québec
15:40 Nghi thức tiếp đón Dinh Thống đốc, “Citadelle de Québec”
16:00 Thăm hữu nghị Thống đốc tại “Citadelle de Québec”
16:20 Gặp Thủ tướng tại “Citadelle de Québec”
16:45 Gặp chính quyền dân sự Dân tộc Bản địa và Ngoại giao đoàn “Citadelle de Québec”. Diễn văn của Đức Phanxicô
Thứ năm 28 tháng 7 năm 2022
Québec
10:00 Thánh lễ tại Đền thánh Quốc gia thánh Anne de Beaupré Đức Phanxicô giảng lễ
17:15 Kinh chiều với các giám mục, linh mục, phó tế, tu sĩ, chủng sinh và các nhân viên phục vụ tại Nhà thờ Chính tòa Notre Dame ở Québec. Bài giảng của Đức Phanxicô
Thứ Sáu ngày 29 tháng 7 năm 2022
Québec – Iqaluit -Rôma
09:00 Gặp riêng các tu sĩ Dòng Tên tại Toà giám mục Québec
10:45 Gặp phái đoàn các Dân tộc bản địa ở Québec tại Toà giám mục Québec. Lời chào của Đức Phanxicô
12:45 Khởi hành từ sân bay Québec để bay đến Iqaluit
15:50 Đến sân bay Iqaluit
16:15 Gặp riêng một số cựu học sinh nội trú tại trường tiểu học ở Iqaluit
17:00 Gặp người trẻ và người lớn tuổi tại Sân trường tiểu học ở Iqaluit. Diễn văn của Đức Phanxicô
18:15 Nghi thức chào từ biệt tại sân bay Iqaluit
18:45 Khởi hành từ sân bay Iqaluit để bay về Roma
Thứ bảy 30 tháng 7 năm 2022
Rôma
07:50 Đến Sân bay Quốc tế Roma/Fiumicino
Nguồn: phanxico.vn
Cựu thị trưởng Denis Coderre sẽ quyên góp hàng triệu đô la cho chuyến đi Canada của giáo hoàng
Đức Phanxicô và ông Denis Coderre trong buổi tiếp kiến chung tại Hội trường Phaolô VI tháng 2 năm 2015
tvanouvelles.ca, Diane Tremblay, 2022-05-27
Phỏng vấn cựu thị trưởng thành phố Montréal, Denis Coderre về việc tổ chức chuyến thăm của Giáo hoàng
Theo báo Le Journal de Montréal, ông Denis Coderre, cựu thị trưởng thành phố Montréal sẽ giữ vai trò tích cực trong chuyến tông du của Đức Phanxicô đến Canada vào cuối tháng 7, ông dự tính chương trình gây quỹ sẽ thu được vài triệu đô la.
Ông Coderre đã được chọn làm đại sứ trong chuyến đi này, vì thế ông chịu trách nhiệm gây quỹ để trang trải chi phí trong thời gian ngài đến Québec.
Ba thành phố ngài dừng chân là Edmonton, Québec và Iqaluit. Ngoài cương vị này, ông Coderre còn đóng vai trò là người hỗ trợ với các nhóm Bản địa. Trong thời gian ông còn ở Nghị viện Ottawa, ông đã xử lý nhiều hồ sơ khác nhau liên quan đến các dân tộc thuộc các Quốc gia thứ nhất.
Lần này, ông được ban tổ chức ủy nhiệm việc chuẩn bị cho chuyến đi của Đức Phanxicô đến Québec.
Ông Coderre nhớ lại: “Quan trọng là mỗi người có thể làm phần việc của mình để đón giáo hoàng. Ngài là một nhân cách rất đại chúng. Tôi đã cố gắng đưa ngài đến Montréal năm 2017 khi thành phố kỷ niệm 375 thành lập. Tôi cũng đã gặp ngài ở Vatican với hồng y Lacroix và tổng giám mục Lépine, giáo phận Montréal.”
Công quỹ
“Chính phủ liên bang lo về mặt an ninh, nhưng tôi nghĩ, chúng ta cần nguồn tài trợ độc lập. Chúng tôi đang xem xét các nhu cầu.” Ông Coderre không muốn nói trước số tiền ông mong muốn quyên được lúc này (tháng 5-2022). Ông nói: “Tất nhiên chúng tôi hy vọng sẽ nhận được vài triệu.” Ông nhận trách nhiệm này cách tự nguyện, ông cho rằng việc chịu các chi phí cho chuyến đi này là “bình thường”. Chúng tôi biết cách tiếp nhận và chúng tôi sẽ làm việc tương ứng theo. Để biết các công ty có quảng đại đóng góp hay không, ông nhắc câu của cựu thủ tướng Jean Chrétien: “Như ông chủ cũ của tôi đã nói: ‘Mong chờ thấp, phân phối cao’. […] Tôi không nghi ngờ lòng quảng đại của mọi người. Chúng tôi có trách nhiệm trong việc chi tiêu số tiền này. Đó là tinh thần đồng đội.”
Nguồn tài chính đa dạng
Các giáo phận Canada, Hội đồng Giám mục công giáo Canada cũng như các cộng đồng tôn giáo cũng sẽ tham gia vào việc quyên thu tài chính.
Bà Valérie Roberge-Dion, đứng đầu ban truyền thông của Pôle Québec, góp phần giúp tổ chức chuyến đi cho biết: “Chúng tôi không có con số đặt ra bây giờ. Chúng tôi cố gắng nhiều nhất có thể, nhưng không quá mức. Đây là chuyến đi khiêm tốn hơn so với chuyến đi của Đức Gioan-Phaolô II năm 1984, khiêm tốn hơn, đơn giản hơn với các hoạt động hạn chế hơn.”
Hòa giải
Ông Coderre, người của đức tin, ông xem “quan trọng là giải pháp trong quá trình hòa giải này”.
Ông nói: “Đây là một cử chỉ cực kỳ quan trọng và là khởi đầu của một chương khác trong việc mang lại cho mọi người khả năng sống trọn vẹn và đảm bảo điều đó không xảy ra nữa”.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn