Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Thánh cha chủ sự kinh Truyền tin nhân Đại lễ Hiển Linh
Lúc 12 giờ trưa, thứ Sáu, ngày 06 tháng Giêng năm 2023, sau khi chủ sự thánh lễ Chúa Hiển Linh, tại Đền thờ thánh Phêrô, Đức Thánh cha Phanxicô xuất hiện tại cửa sổ phòng làm việc, ở lầu 3 dinh Giáo hoàng để chủ sự buổi đọc kinh Truyền tin với khoảng 30.000 tín hữu.
Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, Đức Thánh cha quảng diễn ý nghĩa ba lễ vật mà các Đạo sĩ dâng tặng Chúa Hài Đồng Giêsu, khi tìm được Ngài ở Bethlehem, là vàng, nhũ hương và mộc dược (Xc 2, 11). Đức Thánh cha nói: “Khi nghĩ đến chuyện các Đạo sĩ, chúng ta có thể nói rằng, trước tiên chính họ đã nhận được ba món quà, ba hồng ân quý giá, có liên hệ đến cả chúng ta:
Ơn gọi
Trước tiên là ơn kêu gọi. Các Đạo sĩ không nhận thấy ơn gọi vì đã đọc Kinh thánh hoặc được một thị kiến của các thiên thần, nhưng là trong khi họ nghiên cứu các vì sao. Sự kiện này nói với chúng ta một điều quan trọng: đó là Thiên Chúa kêu gọi chúng ta qua những khát vọng và ước muốn lớn nhất của chúng ta. Các Đạo sĩ để cho mình ngạc nhiên và khó chịu vì sự mới mẻ của ngôi sao và đã lên đường tìm đến những gì họ không biết... Họ được kêu gọi đi xa hơn. Điều này cũng quan trọng đối với chúng ta: chúng ta được mời gọi đừng hài lòng, nhưng tìm kiếm Chúa bằng cách ra khỏi những tiện nghi thoải mái của chúng ta, hành trình tiến về Chúa cùng với những người khác, dấn mình trong thực tại. Vì Thiên Chúa kêu gọi chúng ta mỗi ngày, ở đây và hôm nay, trong thế giới của chúng ta”.
Ơn phân định
Các Đạo sĩ nói với chúng ta một ơn thứ hai: đó là sự phân định. Họ đi tìm kiếm một vị vua, vua người Do thái. Họ đến Jerusalem và nói điều đó với vua Hêrôđê. Ông này là một người tham quyền và muốn lợi dụng các Đạo sĩ này để loại bỏ Đức Messia Hài Nhi. Nhưng các Đạo sĩ không để cho mình bị Hêrôđê lường gạt. Họ biết phân định giữa mục tiêu hành trình và những cám dỗ họ gặp trên đường. Họ rời dinh Hêrôđê, và chú ý đến những tín hiệu của Thiên Chúa. Họ không trở lại hoàng cung, nhưng đi theo con đường khác để trở về (Xc v.12).
Đức Thánh cha nói: “Thật là quan trọng dường nào khi biết phân định mục đích của cuộc sống với những cám dỗ trên đường! Biết từ bỏ những gì quyến rũ đưa đến con đường xấu, để hiểu và chọn những con đường của Thiên Chúa! Sự phân định là một hồng ân lớn và không bao giờ được mệt mỏi cầu xin ơn này.”
Ơn ngạc nhiên
Sau cùng, các Đạo sĩ nói với chúng ta về món quà thứ ba, đó là sự ngạc nhiên. Sau một hành trình dài, họ thấy gì? Thưa, họ thấy một hài nhi với bà mẹ (Xc v.11): một cảnh tượng tuy dịu dàng, nhưng không gây ngạc nhiên! Họ không thấy các thiên thần cũng như các mục đồng, nhưng gặp Chúa trong cảnh nghèo hèn. Có lẽ họ đã chờ mong một Đấng Messia quyền năng và phi thường, nhưng rồi họ găp một hài nhi. Tuy nhiên, họ không nghĩ mình sai lầm, trái lại họ biết nhận ra Ngài. Họ đón nhận ngạc nhiên của Chúa và sống trong kinh ngạc cuộc gặp gỡ với Chúa, thờ lạy Ngài: qua sự bé nhỏ, họ nhận ra tôn nhan của Thiên Chúa.
Đức Thánh cha mời gọi các tín hữu xin ơn biết tìm thấy sự cao cả trong những sự bé nhỏ mà Thiên Chúa rất yêu thương. Vì ta gặp Chúa như thế: trong sự khiêm tốn, trong thinh lặng, trong sự thờ lạy, nơi những người bé nhỏ và nghèo túng.
Và Đức Thánh cha kết luận rằng: “Anh chị em thân mến, tất cả chúng ta đều được Chúa Giêsu kêu gọi, tất cả chúng ta đều có thể phân định sự hiện diện của Ngài, tất cả chúng ta có thể cảm nghiệm những ngạc nhiên về Ngài. Ngày hôm nay, thật là đẹp khi nhớ đến các hồng ân ấy, mà chúng ta đã nhận lãnh: nghĩ lại khi chúng ta cảm thấy một tiếng gọi của Chúa trong cuộc sống, hoặc khi, sau bao nhiêu vất vả, chúng ta nhận được tiếng Chúa, hoặc hơn nữa khi thấy một điều ngạc nhiên không thể quên được mà Chúa dành cho chúng ta. Xin Đức Mẹ giúp chúng ta nhớ đến và gìn giữ những hồng ân đã nhận lãnh được.”
Chào thăm
Sau khi đọc kinh và ban phép lành, Đức Thánh cha đã gửi lời chúc mừng các tín hữu Đông phương, Công giáo cũng như Chính thống mừng lễ Giáng sinh vào ngày 06 và 07 tháng Giêng này, theo niên lịch Giuliano. Đức Thánh cha cũng nhắc đến Hội Thánh Nhi, hay Nhi Đồng Truyền giáo, trong những ngày này đang thực hiện nhiều sáng kiến để góp phần vào công cuộc truyền giáo, bằng lời cầu nguyện và những hy sinh, đóng góp của các em.
Đức Thánh cha chào thăm các đoàn rước với các Đạo sĩ, diễu hành từ trưa lễ Hiển Linh tại các thành thị ở Ba Lan.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Đức Thánh cha chủ sự thánh lễ Chúa Hiển Linh
Lúc 10 giờ sáng, thứ Sáu, ngày 06 tháng Giêng năm 2023, Lễ Chúa Hiển Linh, Đức Thánh cha Phanxicô đã cử hành thánh lễ trọng thể tại Đền thờ thánh Phêrô. Và trong bài giảng, ngài mời gọi các tín hữu hãy noi gương các Đạo sĩ băn khoăn thao thức tìm kiếm Chúa, lên đường chấp nhận những rủi ro, và thờ lạy Chúa.
Đồng tế với Đức Thánh cha, có hơn 20 Hồng y, Giám mục và trên 120 linh mục. Đức Hồng y Luis Antonio Tagle, người Philippines, thuộc Bộ Loan báo Tin mừng, phụ giúp Đức Thánh cha cử hành thánh lễ với nghi thức tại bàn thờ, trong khi ngài ở ghế chủ tọa. Và trong số hơn gần 7.000 người hiện diện, có một số các đại chủng sinh truyền truyền giáo. Một số thầy cũng đảm nhận việc giúp lễ.
Bài giảng của Đức Thánh cha
Trong bài giảng thánh lễ, Đức Thánh cha phân tích tâm tình và hoạt động của các Đạo sĩ như tấm gương giúp chúng ta tìm kiếm và gặp gỡ Chúa. Đức Thánh cha nói: “Như một ngôi sao mọc lên (Xc Ds 24,17), Chúa Giêsu đến soi chiếu mọi dân tộc và chiếu sáng đêm đen của nhân loại. Cùng với các Đạo sĩ, ngước mắt lên trời, cả chúng ta ngày hôm nay cũng tự hỏi: “Đấng đã sinh ra ở đâu?” (Mt 2,2). Nghĩa là đâu là nơi chúng ta có thể tìm và gặp thấy Chúa chúng ta?”.
Băn khoăn thao thức tìm kiếm Chúa
Đức Thánh cha nói: Từ kinh nghiệm của các Đạo sĩ, chúng ta hiểu rằng “nơi” đầu tiên Chúa muốn được tìm kiếm chính là sự băn khoăn, với những thắc mắc. Cuộc phiêu lưu kỳ thú của các nhà hiền triết Đông phương này dạy chúng ta rằng đức tin không nảy sinh từ những công trạng hoặc từ những lý luận lý thuyết của chúng ta, nhưng là một hồng ân của Thiên Chúa. Ơn Chúa giúp chúng ta thức tỉnh từ tình trạng lãnh đạm và nhường chỗ cho những vấn nạn quan trọng về cuộc sống, những thắc mắc làm cho chúng ta ra khỏi sự tự phụ mình ổn định và cởi mở đối với những gì vượt lên trên chúng ta. (...)
“Anh chị em, hành trình đức tin khởi sự khi, nhờ ơn Chúa, chúng ta dành chỗ cho băn khoăn giúp chúng ta tỉnh thức; khi chúng ta để cho mình bị gọi hỏi, khi chúng ta không hài lòng với sự yên hành qua những tập quán, nhưng nhập cuộc trong những thách đố hằng ngày; khi chúng ta ngưng bảo tồn bản thân trong một không gian trung lập và quyết định ở trong những hoàn cảnh không thoải mái trong cuộc sống, với những tương quan với tha nhân, ngạc nhiên, bất ngờ, những dự phóng cần tiến hành, những mơ ước cần thực hiện, những sợ hãi cần đương đầu, những đau khổ trên thân xác. Những lúc đó trổi lên trong tâm hồn chúng ta những câu hỏi không thể đè nén, khiến chúng ta cởi mở tìm kiếm Thiên Chúa: đâu là hạnh phúc đối với tôi? Đâu là cuộc sống sung mãn mà tôi khao khát?
Trong bối cảnh này, Đức Thánh cha mời gọi các tín hữu vượt thắng những cám dỗ của một cuộc sống duy tiêu thụ, những quyến rũ của lạc thú, quan niệm chủ trương “Đừng quá suy nghĩ, hãy bỏ qua và hưởng thụ cuộc sống!” Nhiều khi chúng ta tìm cách đặt tâm hồn trong két sắt của tiện nghi, nhưng giả sử các Đạo sĩ đã làm như thế thì không bao giờ họ gặp được Chúa. Trái lại, Thiên Chúa ở trong những băn khoăn thắc mắc của chúng ta; trong đó chúng ta tìm kiếm Ngài như đêm đen tìm kiếm rạng đông...”.
Lên đường hành trình
Nơi thứ hai chúng ta có thể gặp Chúa là “rủi ro trong hành trình. Những vấn nạn, kể cả những vấn nạn tinh thần, có thể khiến chúng ta bất mãn và buồn sầu nếu chúng ta không lên đường, không hướng chuyển động nội tâm của chúng ta hướng về tôn nhan Chúa và vẻ đẹp của Lời Ngài... Các Đạo sĩ không dừng lại nhìn trời và ngắm ánh sáng của vì sao, nhưng dấn thân trong một hành trình rủi ro, không báo trước những con đường an ninh và lộ trình được xác định. Họ muốn khám phá ai là Vua người Do thái, Người sinh ra ở đâu, và có thể tìm được Người ở nơi nào.
“Cũng vậy, đối với đức tin của chúng ta: nếu không tiến bước liên tục và đối thoại liên lỉ với Chúa, không lắng nghe Lời Ngài, không kiên trì, thì không thể tăng trưởng.”
Kinh ngạc thờ lạy
Đức Thánh cha nói tiếp trong bài giảng: “Sau khi băn khoăn thắc mắc và lên đường tìm kiếm, nơi thứ ba chúng ta gặp Chúa, là sự kinh ngạc thờ lạy. Cuối hành trình dài và vất vả tìm kiếm, các Đạo sĩ vào trong nhà, “thấy Hài Nhi cùng với Đức Maria, Mẹ Ngài. Họ phủ phục và thờ lạy Ngài” (v.11). Đây là điểm quyết định: những băn khoăn thắc mắc của chúng ta, những hành trình thiêng liêng và thực hành đức tin phải quy tụ vào việc thờ lạy Chúa. Tại đó, chúng ta tìm được trung tâm nguồn mạch, vì tất cả nảy sinh từ đó, vì chính Chúa khơi lên trong chúng ta tâm tình, hành động và thực hiện. Tất cả phát sinh và đạt tới tột đỉnh ở đó, vì mục đích của mọi sự không phải là để đạt được một mục tiêu cá nhân, và nhận lãnh vinh quang cho mình, nhưng là gặp gỡ Chúa và để cho mình được tình thương của Chúa ấp ủ, mang lại nền tảng cho niềm hy vọng của chúng ta, giải thoát chúng ta khỏi sự ác, cởi mở chúng ta yêu thương tha nhân, làm cho chúng ta có khả năng xây dựng một thế giới công bằng và huynh đệ hơn”.
Trong phần dâng lễ vật, một gia đình người Ấn Độ, cùng với một gia đình Hàn Quốc và bốn đạo sĩ đã mang bánh rượu lên trước Đức Thánh cha, trước khi đưa tới bàn thờ. Thánh lễ kết thúc lúc gần 11 giờ 30.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Tổ chức nhân quyền quốc tế tố giác nhà nước Belarus vi phạm tự do tôn giáo
Ngày 04 tháng Giêng vừa qua, Tổ chức quốc tế về nhân quyền (IGFM), có trụ sở tại thành phố Frankfurt bên Đức, tố giác rằng tại Belarus, các tín hữu Kitô ngày càng bị áp bức. Dưới chế độ của Tổng thống Alexander Lukashenko, quyền tự do tôn giáo và tự do lương tâm bị vi phạm, đặc biệt đối với các tù nhân chính trị.
Cụ thể, các tù nhân này được gặp các vị tuyên úy để được săn sóc về tinh thần. “Ban giám đốc nhà tù tịch thu các Kinh thánh và các sách báo tôn giáo khác được gửi đến cho họ”.
Từ mùa hè năm vừa qua, con số các linh mục và giáo dân Belarus bị bắt gia tăng. Phong trào dân quyền Nash Dom ở Belarus cho biết nhà nước cũng trưng thu nhiều thánh đường và nơi thờ phượng. Đại diện các Giáo hội Kitô, nếu không tỏ ra sẵn sàng thỏa hiệp với nhà nước thì bị đàn áp mạnh mẽ. Các tổ chức phi chính phủ bị nhà nước nhìn đôi mắt ngờ vực và thậm chí còn bị xếp vào hạng thù nghịch. Các tín hữu nói chung cũng bị nghi ngờ.
Tính đến cuối tháng Mười Hai năm 2022 vừa qua, Tổ chức Quốc tế về nhân quyền ở Đức cho biết có 1.437 người vô tội bị giam giữ tại Belarus vì những lý do chính trị.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Trung Quốc chia buồn về sự qua đời của Đức nguyên Giáo hoàng Biển Đức XVI
Trung Quốc chia buồn về sự qua đời của Đức Biển Đức XVI.
Trong cuộc họp báo thường nhật, sáng ngày 06 tháng Giêng vừa qua, đáp câu hỏi của giới báo chí, bà Mao Ninh, Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói rằng:
“Trung Quốc đã chia buồn về sự qua đời của Đức nguyên Giáo hoàng Biển Đức XVI. Chủ tịch Hội Công giáo Yêu nước và Hội đồng Giám mục đã gửi một sứ điệp đến Đức Giáo hoàng Phanxicô để chia buồn, nhân danh hơn sáu triệu giáo sĩ và giáo dân của Giáo hội Công giáo Trung Quốc”.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Đức Hồng y Trần Nhật Quân: Đức Biển Đức XVI là một vị Đại Giáo hoàng
Đức Hồng y Giuse Trần Nhật Quân, nguyên Giám mục Hong Kong, xác tín rằng Đức Biển Đức XVI là một vị Đại Giáo hoàng.
Đức Hồng y Giuse Quân, 90 tuổi, nguyên Giám mục Hong Kong, đã được phép của tòa án địa phương cho phép đến Roma để dự lễ an táng Đức nguyên Giáo hoàng Biển Đức XVI.
Hộ chiếu của Đức Hồng y cho đến nay đang bị nhà cầm quyền tịch thu, chiếu theo luật an ninh quốc gia. Ngài bị cáo về tội không đăng ký một quỹ từ thiện trợ giúp những người bị nhà nước bắt giam vì các hoạt động phò dân chủ, mặc dù ngài là thành viên Hội đồng quản trị quỹ này. Tòa đã phạt Đức Hồng y số tiền tương đương hơn 500 Mỹ kim. Hôm mùng 03 tháng Giêng, quan tòa Peter Law quyết định rằng Đức Hồng y Trần Nhật Quân có thể rời Hong Kong trong 5 ngày và hộ chiếu được tạm thời trả lại cho ngài.
Đức Hồng y đã cũng với gần 130 Hồng y khác tham dự lễ an táng Đức nguyên Giáo hoàng, sáng ngày 05 tháng Giêng vừa qua.
Trước khi đến Roma, Đức Hồng y Giuse Quân đã nhắc lại về lá thư của Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI gửi Giáo hội Công giáo tại Trung Quốc hồi năm 2007 và gọi lá thư này “là một văn kiện tuyệt vời, nổi bật về quân bình giữa Giáo hội học Công giáo và về chính quyền dân sự”. Đức Hồng y Quân xác tín rằng tất cả những cố gắng nhắm cải tiến tình trạng Giáo hội tại Trung Quốc cần được tiến hành phù hợp với lá thư vừa nói của Đức Biển Đức XVI.
Đức Hồng y Giuse Quân cũng nhắc đến việc Đức Biển Đức đã thiết lập một Ủy ban về cộng đoàn tín hữu Công giáo tại Trung Quốc. Mặc dù những cố gắng to lớn, Đức Biển Đức vẫn không cải tiến được tình trạng Giáo hội tại đại quốc này, vì ngài không thể chấp nhận thỏa hiệp nào. Theo Đức Hồng y, Đức nguyên Giáo hoàng thường bị hiểu lầm, tuy nhiên chính trong những trường hợp có vẻ là thất bại, người ta thấy sự can đảm cao cả và quảng đại của người trước những khó khăn ấy. Và Đức Hồng y kết luận với lời khẳng định rằng: “bây giờ Giáo hội Công giáo tại Trung Quốc có một vị chuyển cầu thế giá trên trời. Qua lời chuyển cầu của người, chúng tôi cầu nguyện cho mỗi người, cho Giáo hội tại Roma, Giáo hội tại Trung Quốc, cho chính quyền nước này, được ơn Chúa đánh động để mang lại an bình đích thực cho Giáo hội và tổ quốc chúng tôi”.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Lịch sử của Giáo hội sẽ không như ngày hôm nay nếu không có mẫu đăng tìm bạn này
fr.aleteia.org, Pia Bou Acar, 2023-01-03
Nếu không có tờ báo Đức Altoettinger Liebfrauenbote và sự kiên trì người cha Joseph Ratzinger thì giáo hoàng Bênêđictô XVI sẽ không bao giờ nhìn thấy mặt trời.
Lịch sử của Giáo hội sẽ như thế nào nếu không có mẫu báo đăng tìm bạn trên báo công giáo Bavarian Altoettinger Liebfrauenbote ngày 7 tháng 3 năm 1920?
“Công chức cấp thấp độc thân, công giáo, 43 tuổi có quyền về hưu, tìm một phụ nữ, người công giáo đạo hạnh, biết nấu ăn, may vá được, có của hồi môn và tài chính tốt để kết hôn càng sớm càng tốt. Thư ưu tiên kèm ảnh xin gởi đến số 734”.
Mẫu báo © tư liệu cá nhân
Thông báo này được một người lấy tên Joseph Ratzinger viết. Độc thân, 43 tuổi, ông tìm một phụ nữ để cùng ông đi hết phần đời còn lại. Cố gắng đầu tiên không may bị thất bại. Không nản lòng, bốn tháng sau ông viết lại. Ngày 11-7-1920, ông đăng từ công chức cấp thấp thành “công chức hạng trung” và viết thêm, ông có “quá khứ không tì vết và yêu nông thôn”. Ông cũng tiết chế những mong chờ của mình: của hồi môn và gia sản không còn cần thiết.
Lần này, ông có câu trả lời của cô Maria Peintner, 36 tuổi, con gái ngoài giá thú của người thợ làm bánh và đầu bếp xuất sắc, cô gởi thư đến số 734. Cuối cùng, tình yêu dành cho Joseph Ratzinger. Bốn tháng sau họ kết hôn. Với những cái tên như vậy, Joseph và Maria, họ chỉ có thể sinh ra một đứa con trai có định mệnh đặc biệt. Và thành quả của họ: ngày 16 tháng 4 năm 1927, một ngày thứ bảy Tuần Thánh, Maria hạ sinh người con trai thứ hai, Joseph Aloisius Ratzinger, giáo hoàng Bênêđictô XVI tương lai.
Marta An Nguyễn dịch
Nguồn: phanxico.vn
Đức Bênêđictô XVI: một tang lễ thanh đạm và đầy xúc động
Nếu Vatican tổ chức tang lễ được đánh dấu bằng trang nghiêm long trọng cho Đức Bênêđictô, thì với sự hiện diện của 50.000 người hành hương, chúng ta thấy được lòng kính trọng của họ với ngài.
lavie.fr, Marie-Lucile Kubacki, Rôma, 2023-01-05
Từ sáng tinh mơ ngày thứ năm 5 tháng 1, giáo dân đã chờ để dự tang lễ cố giáo hoàng danh dự Bênêđictô XVI tại Quảng trường Thánh Phêrô. MICHAEL KAPPELER/ZUMA PRESS/ZUMA
Ông Matteo Bruni, giám đốc Văn phòng Báo chí Tòa Thánh tuyên bố: “Đây là tang lễ long trọng nhưng thanh đạm.” Tang lễ đã diễn ra theo đúng chương trình, nghiêm túc và được đánh dấu qua nét buông bỏ đến trần trụi. Thử thách mang tính biểu tượng vừa nhằm tôn vinh cố giáo hoàng danh dự, vừa cho thấy đây không phải là tang lễ của giáo hoàng tại vị.
Như thế, ở nước nhỏ nhất thế giới, ngày thứ năm 5 tháng 1 tuy không chính thức là ngày quốc tang, nhưng các siêu thị đóng cửa trong thời gian tang lễ cử hành. Và các nhân viên được nghỉ làm để đến dự tang lễ, với điều kiện tính liên tục của dịch vụ được đảm bảo.
50.000 giáo dân hành hương tỏ lòng thành kính với “người ông” của Vatican
Nghi thức trong việc chính thức mời các nguyên thủ quốc gia đã giảm đến mức cần thiết, vì chỉ có nước Đức và Ý được mời, đại diện là thủ tướng Đức Frank-Walter Steinmeier và tổng thống Ý Sergio Mattarella. Vì thế các phái đoàn và nhân vật khác có mặt là “với tư cách cá nhân”. Các nhân vật chính trị khác như thủ tướng Ý Giorgia Meloni, vua Philippe và hoàng hậu Mathilde của Bỉ, nữ hoàng Sofia của Tây Ban Nha, hay tổng thống Ba Lan Andrzej Duda đều đến dự.
Sự giản dị – hơi quá triệt để với một số người ở Vatican và trong quần chúng – đã không ngăn được khoảng 50.000 giáo dân thức dậy từ bình minh và chờ trong giá lạnh dưới màn sương mù để bày tỏ lòng tôn kính cuối cùng với người mà Đức Phanxicô gọi là “người ông” của Vatican. Một con số khiêm tốn, khác xa với ba triệu giáo dân đã về Thành phố Vĩnh cửu để dự tang lễ Đức Gioan Phaolô II. Nhưng trên hết, có lẽ là con số 3700 linh mục đến đồng tế đã làm nhiều người xúc động, bảo đảm cho sự mến chuộng Đức Bênêđictô XVI của hàng giáo sĩ, họ xúc động mạnh trong buổi lễ. Một trong các linh mục nói với chúng tôi: “Chính nhờ Ngài mà tôi đã vững vàng trong ơn gọi. Tại một thời điểm, tôi trải qua một cuộc khủng hoảng cá nhân. Tôi kiệt sức, tôi tức giận và buồn bã. Nhờ ngài, nhờ sự kiên định trong Sự thật của ngài, tôi đã có thể tìm lời, tìm hành động giúp tôi đứng vững trở lại và cho tôi sức mạnh để tiếp tục.”
“Một người trấn an và đặt chúng tôi trở lại con đường”, đó cũng là hình ảnh đọng lại của một nhân viên Vatican không thể đến dự tang lễ vì phải đi làm, họ gởi cho chúng tôi lời chứng qua e-mail: “Bằng cách nào đó tôi được trấn an nhờ sự hiện diện của ngài ở Vatican, dù sự hiện diện này bị lu mờ. Khi tôi đến gần đan viện nơi ngài ở để làm các thủ tục hành chính, tôi không thể không bùi ngùi liếc nhìn về đó. Đức Phanxicô nói về ngài như một người ông, một người ông minh triết, và đó là sự thật. Chúng tôi có thể dựa vào ngài, vào giá trị suy nghĩ của ngài. Ngài cũng giúp tôi sống đức tin. Khi tôi cầu nguyện với Chúa Kitô, tôi biết tôi hiệp thông với giáo hoàng danh dự, người đã cống hiến một công trình lịch sử cho Chúa Giêsu.”
“Tảng đá trong cơn bão”
Những người hành hương khi nào cũng là những nhóm với đủ mọi ngôn ngữ, văn hóa, họ đi từng nhóm, từng gia đình từ khắp nơi trên thế giới, nhưng đặc biệt là từ Đức, Ý, Ba Lan, Pháp, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha.
Bà Suzanna người Ý, người gắn bó với Giáo hội thú nhận: “Tôi không hào hứng lắm với Đức Bênêđictô, mà theo tôi, ngài không may đã đến sau Đức Gioan Phaolô II với năng lực mặt trời có thể đốt cháy đám đông. Rõ ràng ngài không có sức thu hút này. Chúng tôi hỏi vì sao bà đến đây, bà giải thích: “Tôi đã học thần học, tôi ấn tượng với sự tinh tế trong suy nghĩ của ngài. Với tôi, ngài đã để lại một tác phẩm tuyệt vời Chúa Giêsu thành Nadarét, vì đó là thần học không khó hiểu như thường lệ, quần chúng có thể đọc được.”
Bà Pilar, từ Tây Ban Nha đến cùng hai con, bà nói về “đức tin lan truyền” của Đức Bênêđictô XVI. Bà đặc biệt nhớ Ngày Thế Giới Trẻ ở Madrid vì tại đây bà đã gặp chồng mình, bà vừa nói vừa cười to: “Đúng là tôi đặc biệt mắc nợ ngài.”
Những Ngày Thế Giới Trẻ trẻ năm đó là thời điểm xây dựng của nhiều người khi giáo hoàng và tín hữu ở bên nhau bất chấp cơn bão. Bà nói: “Tôi đặc biệt nhớ cơn bão này, chúng tôi nghĩ ngài sẽ về, cơn bão thật lớn. Nhưng ngài giữ vững, tôi thấy ngài đứng dưới cơn mưa tầm tã, mặc áo mưa che kín người. Tôi nghĩ hình ảnh này mô tả rất rõ về ngài: một tảng đá trong cơn bão.”
Hoặc như trong truyện ngụ ngôn, cây sậy uốn cong nhưng không gãy. Đó là xác tín của sơ Clara người Brazil sống lâu năm ở Amazon: “Với tôi, đóng góp của Đức Bênêđictô luôn mời gọi mọi người hướng về Chúa Giêsu, bằng công việc thần học cũng như qua thái độ của ngài. Trong thời điểm thế giới có nhiều khủng hoảng, Chúa Kitô là tảng đá duy nhất để bám vào.”
Theo sơ, điểm nổi bật nhất triều giáo hoàng của ngài vẫn là việc ngài từ nhiệm: “Ở thời buổi của tự quy và tự mê, ngài chấp nhận xóa mình, khi ngài là người ở vị trí đầu tiên trong thứ bậc Giáo hội công giáo. Sau đó, mỗi lần khi người khác chống đối Đức Phanxicô, ngài im lặng và nói Đức Phanxicô là giáo hoàng duy nhất: ngài chú tâm đến việc hiệp thông. Sự quên mình này là minh chứng quan trọng cho thời đại chúng ta khi mọi người chăm chăm lo cho hình ảnh cá nhân mình. Khi ngài mờ nhạt nhất là khi ngài cao cả nhất.” Chứng từ của sơ bị gián đoạn vì tiếng vỗ tay của đám đông khi quan tài bằng gỗ tùng bách của Đức Bênêđictô vừa đặt xuống bên dưới bàn thờ, lúc đó là 8:50 sáng.
Bài Tin Mừng Người Trộm Lành, một chọn lựa mạnh và độc đáo của ban nghi lễ phụng vụ, có thể được Đức Phanxicô đồng ý trước hoặc do chính ngài chọn, cũng đã làm mọi người xúc động. Phúc âm Thánh Luca kể cuộc đối thoại giữa hai người kẻ trộm bên cạnh Thánh giá Chúa Giêsu, và người trộm lành sau khi bênh vực Chúa Kitô khỏi những lời chế nhạo của tên trộm dữ, ông ăn năn và nhận ra thiên tính của Chúa Kitô, vì thế ông là người đầu tiên vào Nước Trời.
Trong bài giảng, cũng rất giản dị, với nét mặt rất nghiêm trọng, Đức Phanxicô bắt đầu suy niệm về bàn tay của những người bị đóng đinh, “những bàn tay bầm dập đưa ra để gặp gỡ, để tận hiến, để chúng ta biết được tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta, để chúng ta tin vào Ngài”. Sau đó, ngài đưa ra các phẩm chất của người mục tử: “Tận tâm phục vụ Chúa và dân của Ngài, hết lòng cầu nguyện, hình thành và tôi luyện cách âm thầm giữa ngã tư đường, giữa những mâu thuẫn mà người mục tử phải đối diện, một tận hiến được Chúa Thánh Thần nâng đỡ an ủi, Đấng luôn đi trước trong sứ mệnh.”
Sau đó ngài trích dẫn một suy tư về tình bạn thiêng liêng của Thánh Grêgôriô Cả: “Giữa những giông bão của cuộc đời, tôi tự an ủi với niềm tin tưởng bạn sẽ giữ vững tôi trong cầu nguyện, và nếu gánh nặng lỗi lầm của tôi làm tôi gục ngã và sỉ nhục tôi, bạn sẽ cho tôi mượn nhân đức của bạn để nâng tôi lên.” Có thể ám chỉ đến sự hỗ trợ thông qua lời cầu nguyện mà cố giáo hoàng danh dự đã đảm bảo với Đức Phanxicô trong suốt những năm ngài về hưu chọn cuộc sống cầu nguyện để phục vụ Giáo hội ở đan viện Mẹ Giáo hội, nhưng có lẽ còn hơn thế nữa cho những người đồng hành với các mục tử của họ bằng lời cầu nguyện. Đức Phanxicô giải thích: “Đó là ý thức của người mục tử biết mình không thể gánh vác một mình, trong thực tế, ngài không bao giờ có thể gánh vác một mình và vì thế ngài biết xóa mình để cầu nguyện và chăm sóc những người được giao phó”.
“Bênêđictô, người bạn trung thành của Phu quân”
Chính trong phần kết bài giảng, lần đầu tiên Đức Phanxicô trực tiếp đề cập đến vị tiền nhiệm của ngài: “Chính những người trung tín của Chúa, đã quy tụ lại với nhau, đồng hành và phó thác cuộc đời cho vị mục tử của họ. Giống như người phụ nữ trong Phúc âm ở ngôi mộ, chúng ta ở đây với hương thơm của lòng biết ơn và dầu thơm của hy vọng để một lần nữa chứng tỏ cho thấy tình yêu không bao giờ mất đi.” Đức Phanxicô vinh danh “sự khôn ngoan, tinh tế, sự cống hiến mà ngài đã làm trong những năm qua”. Trong một hơi thở, Đức Phanxicô kết thúc bài giảng của ngài: “Bênêđictô, người bạn trung thành của Phu quân, ước gì niềm vui của bạn được trọn vẹn khi nghe giọng nói của Phu quân, thật sự và mãi mãi!”
Thành ngữ “người bạn trung thành của Phu quân” là theo truyền thống được liên kết với Thánh Gioan Tẩy Giả, người loan báo Chúa Kitô trong Tin Mừng. Một cách để giáo hoàng chỉ định Đức Bênêđictô là người loan báo Chúa Kitô. Sự đề cập này được giáo dân hành hương đánh giá cao mà với một số người, họ đã muốn tôn vinh Đức Bênêđictô XVI là “tiến sĩ của Giáo hội”. Ông Pierre người Pháp nói: “Không thể nghĩ một di sản trí tuệ như vậy trong thời đại khủng hoảng như thời đại chúng ta lại không được ghi dấu ấn bằng con dấu của thể chế có thẩm quyền. Joseph Ratzinger là nhà thần học có đức tin sâu sắc và suy nghĩ chắc chắn, điều này đặc trưng cho một tiến sĩ Giáo hội.”
Sau santo subito năm 2005 được giáo dân xin trong tang lễ của Đức Gioan Phaolô II, một biểu ngữ cũng viết câu này được giăng vào cuối thánh lễ. Ngoài ra có một băng rôn mang hàng chữ “Bênêđictô XVI, tiến sĩ Giáo hội” được người làm ra đăng trên mạng xã hội, dường như lặp lại thông điệp được chia sẻ nhiều nhất. Một số bài báo đã nói về chủ đề này. Hồng y Bagnasco, tổng giám mục danh dự của Genoa đã nói về việc này trong một phỏng vấn trên truyền hình, cũng như hồng y Koch, bộ trưởng bộ Cổ Vũ Hiệp Nhất Kitô Giáo, trong một cuộc phỏng vấn dành cho La Nuova Bussola. Khi được hỏi về khả năng phong thánh cho Đức Bênêđictô XVI một cách nhanh chóng, ngài trả lời: “Thứ nhất, Chúa là người phán xét ai là thánh, nên tôi phải để ngài phán xét. Thứ hai, giáo hoàng quyết định. Tôi nghĩ Bênêđictô XVI là người thầy vĩ đại, là tiến sĩ Giáo hội với thần học và huấn quyền của ngài, đó là điều quan trọng nhất với tôi. Nhưng tất cả chúng ta đều được kêu gọi để nên thánh.” Việc này tạo tranh luận, một số người khó chịu trước khuynh hướng phải phong thánh bằng mọi giá cho các giáo hoàng, một người mỉa mai, “giống như một loại trá hình của phong thánh ngay, santo subito.”
Thánh lễ kết thúc, quan tài được đưa đến Hầm mộ của các giáo hoàng, bên dưới vương cung thánh đường Thánh Phêrô. Trước khi di quan, Đức Phanxicô đến cúi đầu, đặt tay lên hòm gỗ đông cứng vì giá lạnh mùa đông. Trong đám đông, nhiều người khóc. Ban nhạc Bavaria quê hương cố giáo hoàng diễn hành qua quảng trường. Một người đàn ông đến từ Bavaria bật khóc và nghẹn ngào nói trong hơi thở: “Ngài đã để lại một khoảng trống lớn.” Sau lưng ông, một nữ tu cũng khóc, sơ nói: “Nhưng lịch sử là vậy. Các giáo hoàng đã nối tiếp nhau trong 2000 năm, Giáo hội vẫn tiếp tục.”
Marta An Nguyễn dịch
Nguồn: phanxico.vn
Thánh lễ an táng Đức nguyên Giáo hoàng Biển Đức XVI
Lúc 9 giờ 30 sáng ngày 05 tháng Giêng năm 2023, Đức Thánh cha Phanxicô đã chủ sự thánh lễ an táng Đức nguyên Giáo hoàng Biển Đức XVI, qua đời sáng ngày 31 tháng Mười Hai năm 2022, hưởng thọ 95 tuổi.
Trong ba ngày trước đó, khoảng 200.000 tín hữu đã đến kính viếng thi hài Đức Biển Đức XVI được quàn tại Đền thờ thánh Phêrô. Tối thứ Tư, ngày 04 tháng Giêng, nghi thức nhập quan đã được cử hành tại Đền thờ, và lúc 8 giờ 45 sáng ngày 05 tháng Giêng, linh cữu của ngài được rước ra thềm Đền thờ thánh Phêrô, trong lúc các tín hữu đọc kinh Mân côi.
Khu vực hai bên bàn thờ được dành cho 130 Hồng y và 400 Giám mục từ nhiều nơi trên thế giới, và các vị lãnh đạo chính quyền. Ngoài hai phái đoàn chính thức là Ý và Đức, do các vị Tổng thống liên hệ hướng dẫn, còn có các vị nguyên thủ, và lãnh đạo trong chính quyền và đại sứ của nhiều nước, tham dự với tư cách riêng.
Thêm vào đó, có phái đoàn của các Giáo hội Kitô khác, đứng đầu là hai Tổng giám mục Đại diện của Đức Thượng phụ Chính thống Constantinople, Đức Tổng giám mục Chủ tịch Hội đồng Ngoại vụ Tòa Thượng phụ Chính thống Mascơva, nhiều giám mục thuộc các Giáo hội Chính thống Âu châu, và Đức giám mục Heinrich Bedford-Strohm thuộc Tin lành Đức, tham dự với tư cách là vị điều hợp của Hội đồng Đại kết các Giáo hội Kitô.
Trước thềm Đền thờ, có khu vực riêng dành cho 3.700 linh mục đồng tế, trước sự hiện diện của khoảng 80.000 tín hữu.
Thánh lễ được hơn 1.000 ký giả từ hơn 30 quốc gia theo dõi và tường thuật.
Lúc 8 giờ 45, linh cữu Đức Biển Đức XVI được 12 người rước từ bên trong Đền thờ tiến ra thềm Đền thờ thánh Phêrô, rồi các tín hữu đọc kinh Mân côi chuẩn bị.
Lúc 9 giờ 20, các Hồng y đồng tế bắt đầu đi rước từ bên trong Đền thờ ra nơi cử hành thánh lễ. Sau cùng là Đức Hồng y Giovanni Battista Re, Niên trưởng Hồng y đoàn, Đại diện Đức Thánh cha cử hành những nghi lễ tại bàn thờ.
Bài giảng của Đức Thánh cha
Trong bài giảng thánh lễ, Đức Thánh cha nói: “Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46). Đó là những lời cuối cùng Chúa thốt lên trên thánh giá; chúng ta có thể nói hơi thở cuối cùng của Chúa có khả năng xác nhận đặc điểm trọn cuộc sống của Chúa: một sự liên tục phó thác trong tay Chúa Cha. Đôi bàn tay tha thứ và cảm thương, chữa lành và thương xót, đôi bàn tay xức dầu và chúc lành thúc đẩy Ngài hiến thân cả trong tay của các anh em Ngài. Chúa Giêsu, cởi mở đối với những chuyện đời Ngài gặp trong đời, để mình được thánh ý Thiên Chúa đẽo gọt, gánh lấy tất cả những hậu quả và khó khăn của Tin mừng cho đến độ thấy đôi bàn tay của Ngài bị thương tích vì yêu thương. Chúa nói với Tôma: “Hãy nhìn bàn tay Thầy đây” (Ga 20,27), và Chúa cũng nói điều đó với mỗi người chúng ta. Những bàn tay bị thương tích gặp gỡ và không ngừng hiến thân để chúng ta biết tình thương của Thiên Chúa đối với mỗi người chúng ta và chúng ta tin nơi tình thương ấy (Xc 1 Ga 4,16).
Đức Thánh cha nói tiếp: “Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha”, đó là lời mời gọi và là chương trình sống nhắc nhở và muốn nhào nặn như một cái bình gốm tâm hồn người mục tử, đến độ tim cùng đập một nhịp với những tâm tình của Chúa Giêsu Kitô (Xc Pl 2,5).
Tận tụy phục vụ trong tâm tình biết ơn đối với Chúa và dân của Ngài nảy sinh từ sự đón nhận một hồng ân hoàn toàn nhưng không của Chúa: Chúa nói: “Con thuộc về Ta... con thuộc về họ”; “con ở dưới sự bảo vệ của bàn tay Cha, dưới sự bảo vệ của tâm hồn cha. Hãy ở lại trong lòng bàn tay Cha và hãy trao bàn tay của con cho cha” (Bài giảng lễ làm phép dầu, 13-4-2006).
Tận tụy cầu nguyện, được nhào nặn và âm thầm được kiện toàn giữa những ngã tư và đối nghịch mà vị mục tử phải đương đầu (Xc 1 Pr 1,6-7) và lời mời gọi chăn dắt đoàn chiên trong tinh thần tín thác (Xc Ga 21,17). Như Thầy Chí Thánh, người vác trên vai sự mệt mỏi của sự chuyển cầu và hao mòn do sự xức dầu vì đoàn chiên, đặc biệt tại những nơi mà lòng nhân từ phải chiến đấu và những anh chị em thấy phẩm giá của mình bị đe dọa (Xc Dt 5,7-9). Trong cuộc gặp gỡ chuyển cầu này, Chúa tạo nên sự dịu dàng có khả năng hiểu biết, đón nhận, hy vọng và dấn thân đi xa hơn những hiểu lầm có thể khơi lên. Sự phong phú vô hình và khó nắm bắt, phát sinh từ ý thức phải đặt lòng tín thác trong tay nào (Xc 2 Tm 1,12).
Và Đức Thánh cha trích dẫn lời Đức nguyên Giáo hoàng trong lễ khai mạc sứ vụ: “Chăn dắt có nghĩa là yêu thương, và yêu thương cũng có nghĩa là sẵn sàng chịu đau khổ. Yêu thương có nghĩa là: mang lại cho đoàn chiên điều thực sự tốt lành, lương thực chân lý của Thiên Chúa, Lời Chúa, lương thực sự hiện diện của Chúa” (24.4.2005).
Lòng tận tụy được nâng đỡ nhờ ơn an ủi của Chúa Thánh Linh, Đấng luôn đi trước người trong sứ mạng: trong sự hăng say cố gắng thông truyền vẻ đẹp và niềm vui Phúc âm (Gaudete et exsultate, 57), trong việc làm chứng tá phong phú của những người. như Mẹ Maria, ở lại bằng nhiều cách dưới chân thánh giá, trong niềm an bình đau thương nhưng vững chắc, không tấn công cũng chẳng thống trị; trong niềm hy vọng kiên quyết nhưng kiên nhẫn Chúa sẽ thực hiện lời Ngài đã hứa với các cha ông và dòng dõi cho đến muôn đời (Xc Lc 1,54-55).
Sứ vụ của cộng đoàn Giáo hội
Đức Thánh cha nói thêm rằng: “Cả chúng ta, gắn bó vững chắc với những lời cuối cùng của Chúa và chứng tá cuộc sống của Ngài, trong tư cách là cộng đoàn Giáo hội, chúng ta muốn theo vết của Chúa và phó thác người anh em chúng ta trong tay Chúa Cha: Ước gì đôi bàn tay thương xót thấy đèn của người anh em cháy sáng với dầu Tin mừng, mà người đã gieo vãi và làm chứng trong cuộc sống của người (Xc Mt 25,6-7).
Đức Thánh cha kết luận rằng: “Chính dân trung thành của Thiên Chúa, đang tụ họp, để tháp tùng và phó thác sự sống của người đã là chủ chăn của mình. Như những phụ nữ trong Tin mừng đến nơi mộ Chúa, chúng ta họp nhau đây, với hương thơm lòng biết ơn và hy vọng, để tái bày tỏ với người rằng tình thương không mất đi; chúng ta muốn làm điều đó với cùng một sự xức dầu, khôn ngoan, tế nhị, tận tụy mà người đã rộng rãi chứng tỏ qua dòng thời gian. Chúng ta muốn cùng nhau thưa: “Lạy Cha, chúng con phó thác linh hồn người trong tay Cha”.
“Hỡi Đức Biển Đức, người bạn trung tín của vị Hôn Phu, ước gì niềm vui của ngài được trọn vẹn, được thành toàn chung cục khi nghe tiếng vị Hôn Phu!
Lời nguyện
Trong phần lời nguyện phổ quát, mọi người đã cầu cho Đức nguyên Giáo hoàng Biển Đức, xin Chúa là Mục Tử đời đời đón nhận Người vào Vương quốc ánh sáng và bình an; cầu cho Đức Thánh cha Phanxicô và các mục tử của Giáo hội can đảm loan báo bằng lời nói và việc làm sự chiến thắng của Chúa Kitô trên sự ác và sự chết; cầu cho các vị lãnh đạo các quốc gia và các tổ chức quốc tế hoạt động bênh vực công lý và hòa bình, cầu cho các anh chị em đang chịu cảnh nghèo khổ, xin lòng bác ái của Thiên Chúa giúp chúng ta cởi mở và đón nhận những người rốt cùng và nghèo túng; sau cùng là cầu cho mọi người hiện diện được trở thành men hy vọng, trong khi chờ đợi Nước Chúa đến.
Thánh lễ kéo dài một giờ 20 phút và kết thúc với nghi thức tiễn biệt do Đức Thánh cha cử hành và thánh ca “Xin các thiên thần Chúa dẫn đưa bạn vào thiên đàng, các vị tử đạo đón chào bạn và dẫn bạn vào thành thánh, Giêrusalem mới vĩnh cửu.
An táng
Linh cữu của Đức nguyên Giáo hoàng được rước vào bên trong Đền thờ. Đức Thánh cha Phanxicô đứng chào, làm phép, chạm tay vào quan tài và cúi mình thinh lặng chào lần cuối cùng. Cộng đoàn chung quanh thì vỗ tay chào từ biệt Đức Biển Đức.
Khi linh cữu được rước vào Đền thờ, phần này không được truyền hình trình chiếu vì được coi là phần riêng tư. Linh cữu bằng gỗ bách hay gỗ trắc bá có huy hiệu của Đức nguyên Giáo hoàng, được quấn một giải vải chung quanh với triện của Kinh Sĩ đoàn Đền thờ thánh Phêrô, của Phủ Giáo hoàng và Ban Nghi lễ phụng vụ của Đức Thánh cha, rồi lần lượt được đặt trong hai quan tài bằng thiếc và sau cùng bằng gỗ, trước khi táng trong huyệt mộ trước đây là nơi an nghỉ của thánh Gioan Phaolô II, trước khi các vị được phong chân phước, và quan tài được đưa lên Đền thờ thánh Phêrô.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Đức Sứ thần tại Đức: Đức Biển Đức quan tâm đến Giáo hội Công giáo tại Đức đến cùng
Đức Tổng giám mục Nikola Eterovic, người Croát, Sứ thần Tòa Thánh tại Đức, cho biết cho đến cùng, Đức nguyên Giáo hoàng Biển Đức XVI rất quan tâm đến Giáo hội Công giáo tại quê hương Đức của ngài.
Đức Tổng giám mục Eterovic nguyên là Tổng thư ký Thượng Hội đồng Giám mục trong 8 năm trời dưới thời Đức nguyên Giáo hoàng.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho tuần báo “Glas koncila”, Tiếng nói Công đồng, số ra ngày 04 tháng Giêng vừa qua, Đức Tổng giám mục cho biết hàng năm vẫn gặp Đức Biển Đức XVI, lần chót là ngày 10 tháng Chín năm nay và cuộc gặp gỡ kéo dài một tiếng đồng hồ. Đức Biển Đức đặc biệt quan tâm đến “Con đường Công nghị” của Công giáo Đức. Đức Tổng giám mục Eterovic nói: Tiến trình cải tổ Giáo hội này chứng tỏ sức sinh động của Giáo hội địa phương, nhưng cũng mang lại nhiều căng thẳng trong các cộng đoàn Giáo hội.
Đức Sứ thần nhận xét rằng với thời gian, Đức Biển Đức ngày càng suy yếu về thể xác, nhưng tinh thần vẫn luôn minh mẫn và cởi mở đối với những vấn đề của xã hội và Giáo hội: “Cuộc gặp gỡ của tôi với Đức nguyên Giáo hoàng vẫn luôn “đơn sơ, thân thiện và chào đón”. Ngài cũng có tinh thần hài hước.
Đức Tổng giám mục Eterovic gọi Đức Biển Đức XVI là “một trong những nhà thần học lớn nhất trong thời đại chúng ta. Người vẫn luôn xác tín rằng ‘Kitô giáo không phải là một cuộc gặp gỡ với một ý tưởng, nhưng với một nhân vị, tức là Chúa Giêsu Kitô’.
Trong tư cách là Tổng thư ký Thượng Hội đồng Giám mục, Đức Tổng giám mục Eterovic đã góp phần hoạch định, tiến hành và làm việc hậu Thượng Hội đồng Giám mục đối với 5 Công nghị dưới triều Đức Biển Đức XVI: Đó là Thượng Hội đồng Giám mục về Thánh Thể, năm 2005, Thượng Hội đồng Giám mục Lời Chúa, năm 2010, rồi về vấn đề Tái rao giảng Tin mừng, năm 2012, cũng như hai Thượng Hội đồng Giám mục về Phi châu năm 2009 và Trung Đông năm 2012.
Vào đầu triều đại Giáo hoàng, Đức Biển đã phổ biến những đề nghị để phát triển thêm Công nghị các giám mục, và đã được tiến hành thành công. Đối với ngài, điều quan trọng là dành nhiều thời giờ hơn cho việc thảo luận giữa các nghị phụ trong những ngày nhóm họp. Theo Đức Tổng giám mục Eterovic, sự kiện này chứng tỏ rõ ràng Đức nguyên Giáo hoàng thăng tiến đối thoại trong Giáo hội”.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Lần hạt Mân côi và Thánh Lễ an táng cho Đức cố Giáo hoàng Biển Đức XVI
Quảng trường thánh Phêrô, Lần hạt Mân côi và Thánh Lễ an táng cho Đức cố Giáo hoàng Biển Đức XVI được ĐTC Phanxicô chủ sự