Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tấm khăn liệm thành Torino sẽ được triển lãm vào năm 2020
Tấm khăn liệm thành Torino, mà nhiều người tin là tấm vải niệm xác Chúa Giêsu, sẽ được triển lãm công khai một lần nữa nhân dịp Cộng đoàn Taizé nhóm họp Đại hội thường niên tại thành phố Torino nước Ý vào tháng 12 năm 2020.
(Robin Gomes – Tin Vatican)
Thông báo về cuộc triễn lãm bất thường của tấm khăn liệm này được Đức Tổng Giám Mục Cesare Nosiglia của Tổng giáo phận Torino công bố tại Warsaw, nơi vừa diễn ra Đại hội thường niên của Cộng đồng Taizé tại Châu Âu, Đại hội với chủ đề “Cuộc hành hương tin yêu quanh hành tinh Trái đất của chúng ta”.
Cộng đồng Taizé đã chọn thành phố Torino ở miền bắc nước Ý làm nơi đang khai tổ chức Đại hội kế tiếp của giới trẻ Châu Âu, dự kiến sẽ diễn ra từ ngày 28 tháng 12 năm 2020 đến ngày 1 tháng 1 năm 2021.
Không có một công bố hay một tín điều chính thức nào về tính xác thực của Tấm khăn liệm được lưu giữ tại Nhà thờ Chính tòa của thành phố Torino. Tuy thế theo niềm tin bình dân thì đây là tấm khăn liệm xác Chúa năm xưa. Lần triển lãm vào năm tới là lần thứ năm tấm khăn liệm này được trưng bày công khai kể từ năm 2000.
Lần cuối nó được triển lãm là vào ngày 19 tháng 4 đến ngày 24 tháng 6 năm 2015, tại nhà thờ chính tòa của thành phố Torino. Đức Thánh Cha Phanxicô đã đến thăm thành phố vào ngày 21-22 tháng 6 năm qua và ngài đã đứng lặng cầu nguyện trong vài phút trước Tấm khăn liệm này nhưng ngài không có đưa ra một bình luận nào. Tuy nhiên, vào cuối Thánh lễ tại quảng trường sau đó, ngài đã nói Tấm khăn liệm này là một bằng chứng của tình yêu của Chúa Giêsu Kitô dành cho chúng ta.
ĐTC nói: Tấm khăn liệm đã cuốn hút mọi người vào khuôn mặt và thân xác bị đánh dầm bập của Chúa Giêsu, như đang mời gọi chúng ta hướng về những người đang chịu đau khổ và bị bắt bớ một cách bất công. Đây chính là món quà tình yêu của Chúa Giêsu tặng ban...
Các Đức Giáo Hoàng trước cũng đã đến thăm Tấm khăn liệm này tại miền bắc Ý này; như thánh Giáo hoàng John Paul II đã kính viếng vào năm 1998, và Ngài nói rằng mầu nhiệm xung quanh các vấn nạn về chất lượng của tấm khăn liệm và thiên niên kỷ của nó cần phải có niềm tin và khoa học để chứng minh sự xác thực đây có phải là tấm khăn liệm xác của Chúa Giêsu hay không. Và Ngài mời gọi khoa học hãy tiếp tục khảo cứu. Còn Đức nguyên Giáo hoàng Benedicto XVI đã mô tả tấm khăn liệm này là một biểu tượng được viết bằng máu của một người nam đã bị đóng đinh…
Đức Tổng Giám Mục Nosiglia lưu ý rằng Torino và Cộng đồng Taizé đại kết có một mối liên hệ qua nhiều thập kỷ qua. Vô số nhóm thanh niên đến từ Ý Vùng Piemonte - mà Torino là thủ đô - thường xuyên tham gia các cuộc hành hương qua chương trình "Hành hương tin yêu quanh hành tinh Trái đất chúng ta" do cộng đoàn Taizé tổ chức hàng năm. Nhiều cuộc họp mặt cầu nguyện Taizé cũng đã được tổ chức tại thành phố này.
Đức Tổng Giám Mục Nosiglia sẽ có một cuộc họp báo vào ngày 3 tháng 1 tới đây để trình bày các sáng kiến liên quan đến các cuộc hành hương trong năm 2020 này. Nhà thờ chính tòa Torino đang chuẩn bị chào đón hàng ngàn các bạn trẻ khắp nơi tụ về. Ngoài các hội thảo và trao đổi, sẽ có thời gian hỏi và suy niệm về Tấm khăn liệm này.
Cộng đồng Taizé tổ chức cuộc Hành hương niềm tin yêu quanh hành tinh Trái đất sẽ được tổ chức lần đầu tiên tại Torino. Tuy nhiên, các cuộc tụ họp tương tự đã được tổ chức sáu lần ở Ý - tại Rome vào những năm 1980, 1982, 1987 và 2012, và tại Milan vào năm 1998 và 2005.
Thanh Quảng sdb
Lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa: Các bài suy niệm & chú giải Lời Chúa
Các Bài Suy Niệm Lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa
Lời Chúa: Ds 6,22-27; Gl 4,4-7; Lc 2,16-21
MỤC LỤC
Mẹ Thiên Chúa – Gm. Arthur Tonne. 10
Tại sao lại ‘Mẹ Thiên Chúa’?. 12
Mẹ Thiên Chúa – Mẹ chúng ta – Anmai 19
Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con. 30
“Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời”. 34
Hãy cho trẻ em một tương lai hoà bình. 51
Nhân loại mới – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 55
Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt. 59
Nhân loại mới – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 62
“Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời”. 83
Thân Mẫu Của Vua Hòa Bình – Yvon Daigneault 86
Tuyệt vời – Lm. Đỗ Vân Lực. 89
Suy niệm của Lm. Munachi Ezeogu. 104
Mẹ tất cả mọi người – Lm. Mark Link. 108
Là mẹ và là khuôn mẫu – Mark Link. 113
Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng. 117
Suy Niệm của Lm. Nguyễn Hưng Lợi 120
Địa vị cao trọng – Lm. Thu Băng. 123
Mẹ mẫu gương – Lm Micae Vũ An Lộc. 125
Mùa xuân vĩnh cửu – Sr. Tố Nhung. 127
Mẹ Thiên Chúa – Lm. Cao Thế Bình. 138
Chú giải của Noel Quesson. 143
Người nữ chiêm niệm tuyệt vời. 149
Có thể nói, mùa Giáng Sinh cũng là mùa kính Đức Mẹ. Đặc biệt ngày đầu năm Dương lịch hôm nay, phụng vụ muốn tôn kính Đức Maria với tước hiệu là Mẹ Thiên Chúa. Và từ năm 1968 Đức Giáo Hoàng Phaolô VI lại dành ngày 1 tháng Giêng nầy để cầu nguyện cho hoà bình thế giới.
Đất nước chúng ta đã thoát khỏi những năm chiến tranh. Nhưng chúng ta vẫn còn có nhiệm vụ phải suy nghĩ về hoà bình. Bởi vì hoà bình không phải chỉ là chấm dứt chiến tranh. Hoà bình còn là xây dựng bình đẳng, ấm no, thịnh vượng, hạnh phúc nữa. Phần tích cực có thể nói gồm nhiều mặt hơn phần tiêu cực. Vả lại, hết chiến tranh cũng chưa phải là đã hết những hậu quả của chiến tranh là những thương tích, những đổ vỡ về vật chất và tinh thần. Chúng ta phải cải tạo cái cũ, xây dựng cái mới. Hoà bình hạnh phúc phải là hơi thở của mọi người trên thế giới. Vậy chúng ta đóng góp được gì?
Hãy suy nghĩ về hoà bình như Đức Maria hằng suy đi nghĩ lại trong lòng. Ngài suy nghĩ về danh “Giêsu”, có nghĩa là cứu thế. Danh đó phải được kêu cầu trên con cái loài người, để phúc lộc được đổ xuống trên các dân và phước lộc phong phú cụ thể là chính Thánh Thần mà Thiên Chúa muốn đổ xuống lòng mọi người, để khi chúng ta gọi Chúa là Cha thì chúng ta Thấy mình là anh em với nhau, để sống hòa thuận yêu thương nhau, sống vì hạnh phúc của anh em mình.
Yêu hòa bình thì phải xây dựng công bằng, bác ái, phải kiến tạo bình đẳng, ấm no, thịnh vượng, hạnh phúc. hòa bình đòi hỏi phải phấn đấu, phải đấu tranh, để tiêu diệt cái xấu và phát triển cái tốt. Rất nhiều công tác cụ thể đang ở tầm tay mỗi người chúng ta. Hết thảy chúng ta hãy tích cực, để không chỉ nói hoà bình, nhưng muốn xây dựng hoà bình. Trong ngày cấu nguyện cho Hoà Bình Thế Giới hôm nay và cũng là ngày lễ kính Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, chúng ta xin Đức Maria là Nữ Vương Hoà Bình ban cho bản thân chúng ta, cho gia đình chúng ta, cũng như cho cộng đoàn giáo xứ, nền hoà bình của Chúa Kitô – Hoà bình mà Đấng Cứu Thế, Con của Mẹ Maria đã đem xuống trần gian cho loài người trong đêm Giáng Sinh, để chúng ta biết sống hoà thuận yêu thương nhau, đoàn kết xây dựng hoà bình trên quê hương đất nước và trên toàn thế giới.
Tước hiệu Đức Maria Mẹ Thiên Chúa là một tước hiệu đã có từ lâu đời trong Giáo Hội. Đây là một tước hiệu xứng hợp ơn mọi tước hiệu khi nói về Đức Trinh Nữ Maria.
Vào thế kỷ V, Nestôriô đã nổi lên chống đối tước hiệu Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria. Theo Nestôriô, chỉ nên gọi Maria là Mẹ của Đức Giêsu Kitô, chứ không được gọi là Mẹ Thiên Chúa. Một cuộc xung đột lớn đã xảy ra trong Giáo Hội xoay quanh việc Ngôi Hai nhập thể. Thế nên, vào năm 431, Hội Thánh đã triệu tập Công đồng Ephêsô dưới sự chủ toạ của thánh Cyrillô, các nghị phụ trong công đồng này đã tuyên bố cất chức Nestôriô và đánh đổ lạc thuyết của ông ta. Công đồng Ephêsô đã định tín Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa vì thực sự Mẹ đã sinh ra Con-Thiên-Chúa-làm-người.
Bắt đầu từ công đồng Ephêsô tước hiệu Maria Mẹ Thiên Chúa đã trở thành tước hiệu chính thức của Đức Trinh Nữ Maria. Đây là tước hiệu trổi vượt trên mọi tước hiệu mà Giáo Hội đã ca tụng và tôn vinh Đức Trinh Nữ Maria. Thánh công đồng Vaticanô II trong Hiến chế Tín lý về Hội Thánh đã viết: “Từ những thời xa xưa, Đức Trinh Nữ đã được tôn kính dưới tước hiệu là Mẹ Thiên Chúa, và các tín hữu đã khẩn cầu cùng ẩn náu dưới sự che chở của Người trong mọi cơn gian nan khốn khố”. Đức Giáo Hoàng Piô XI đã viết khi lập thánh lễ kính trọng thể Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa ngày 11.10 nhân dịp kỷ niệm 1500 năm công đồng Ephêsô vào năm 1931: “Tín điều Mẹ Thiên Chúa là một mối nước mầu nhiệm vô tận, đã tuôn ra mọi đặc ân cho Đức Mẹ và nâng Người lên một địa vị cao sang tuyệt vời bên Thiên Chúa”.
Hôm nay, Giáo Hội dành ngày đầu năm dương lịch để cầu nguyện cho thế giới hoà bình trùng vào ngày kính trọng thể Đức Maria Mẹ Thiên Chúa như lời Đức Thánh Cha Phaolô VI đã viết trong tông huấn Marialis Cultus, khi người dời thánh lễ kính trọng thể Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa vào ngày 01.01 mỗi năm như sau: “Vì sự trùng hợp tốt đẹp giữa ngày 01 tháng Giêng với ngày thứ tám sau lễ Giáng Sinh mà chúng tôi đã đặt ngày đó là ngày thế giới hoà bình, mà thế giới mỗi ngày càng hưởng ứng thêm, và thành quả của hoà bình đã phát sinh trong lòng nhiều người”.
Lạy Vua Hoà Bình mới sinh, nhờ sự can thiệp của Nữ Vương Hoà Bình, xin ban cho nhân loại và mỗi người chúng con sự hoà bình đích thực và ơn an bình trong mỗi tâm hồn.
Giáo Hội Công giáo có một lòng sùng kính Mẹ Maria một cách đặc biệt. Mẹ đã được ca ngợi trong phụng vụ với nhiều tước hiệu khác nhau. Một trong những tước hiệu tuyệt vời nhất, đó là tước hiệu Mẹ Thiên Chúa. Tước hiệu này phát sinh từ niềm tin của Giáo Hội nơi Chúa Giêsu, người con sinh ra từ cung lòng Mẹ, là Con Thiên Chúa làm người. Ngài là người nhưng đồng thời cũng là Thiên Chúa.
Đoạn Tin mừng sáng hôm nay ghi lại quang cảnh các mục đồng đã được chứng kiến tại Bêlem trong đêm Chúa Giáng sinh. Một quang cảnh xem ra thật bình thường: Một hài nhi vấn tã đặt nằm trong máng cỏ bên cạnh Mẹ Maria và thánh Giuse. Nhưng đoạn Tin mừng cũng gợi lên một cái gì khác thường khiến cho Mẹ Maria đã phải ghi nhớ và suy niệm trong lòng.
Quả thật, Tin mừng đã nhiều lần nói đến mối quan hệ giữa Mẹ Maria và Chúa Giêsu, đồng thời nhấn mạnh cho thấy mối quan hệ ấy không phải chỉ là mối quan hệ theo huyết thống. Đức Maria là Mẹ của Chúa Giêsu không phải chỉ vì Mẹ đã sinh ra Chúa Giêsu tại hang đá Bêlem, đã bú mớm và nuôi dưỡng Ngài tại Nagiarét, mà hơn thế nữa vì Mẹ chính là người đã lắng nghe và thực hiện lời Chúa.
Trước những việc lạ lùng Chúa đã làm và nhất là trước giáo huấn của Ngài, một người phụ nữ đã ca tụng người mẹ đã cưu mang Ngài và đã cho Ngài bú. Nhưng Chúa Giêsu đã mời người phụ nữ ấy đi xa hơn điều bà đang nghĩ.
Đối với Chúa Giêsu, sợi dây thắt chặt Ngài với Đức Maria, đó chính là lòng tin, lòng mến được thể hiện một cách cụ thể qua việc lắng nghe và thực hiện lời Chúa.
Một lần khác, có người nhắc nhở với Chúa Giêsu là có Mẹ và anh em Ngài tới kiếm Ngài. Chúa Giêsu đã lợi dụng dịp này để cho người ta thấy mối quan hệ Ngài chờ đợi nơi mọi người đó chính là lòng tin, sự đồng tâm nhất trí với hành động và lời giảng dạy của Ngài. Đối với Chúa Giêsu không có sự biệt đãi theo huyết thống, theo nhãn hiệu, theo tước vị hay theo một tiêu chuẩn nào người ta có thể lãnh nhận một cách máy móc.
Đã hơn một lần người Do Thái được gọi vào cương vị là con cái Abraham, nhưng Ngài đã thẳng thắn trả lời với họ: Cương vị ấy không hơn gì một hòn đá. Người ta cũng đã nại vào tước vị là dân riêng của Chúa, của giao ước, nhưng Chúa Giêsu cũng đã cho thấy việc nại vào tước vị ấy quả là uổng công. Chẳng phải vì Ngài muốn đi ngược lại với những gì Cha Ngài đã giao ước, mà vì Ngài muốn đi vào cái cốt lõi của giao ước: Thực hiện thánh ý của Thiên Chúa.
Mối quan hệ chính yếu Chúa Giêsu muốn thiết lập, đó chính là mối quan hệ của việc thực thi lời Chúa, bất luận người đó là ai, dù là người Samaria mà dân Do Thái vốn coi rẻ, cho là hạng lai căng, lạc đạo, nhưng đã biết chăm sóc cho kẻ bị cướp đánh trọng thương, vứt bỏ bên lề đường, hay đã cho kẻ đói có cái ăn, kẻ khát có cái uống, kẻ trần truồng có cái mặc. Những việc làm nằm trong ý của Chúa thì người đó đã ở trong quan hệ cứu chuộc với Chúa.
Mừng lễ Mẹ Thiên Chúa, chúng ta cũng nhìn lại mối quan hệ của chúng ta đối với Đức Kitô. Bí tích Rửa tội và tất cả những bí tích chúng ta lãnh nhận một cách máy móc không đủ để đặt chúng ta vào trong quan hệ với Đức Kitô. Mang danh hiệu là người Kitô hữu, có tên trong sổ rửa tội mà thôi chưa đủ, bởi vì chúng ta chỉ thực sự gắn bó với Ngài khi lắng nghe và thực thi ý Chúa, bởi vì như lời Chúa đã khẳng định: Chỉ kẻ nào làm theo thánh ý Thiên Chúa, thì mới là mẹ, là anh chị em với Ngài mà thôi.
Mẹ Thiên Chúa – Gm. Arthur Tonne
Ngày 20 tháng giêng 1961 John Kennedy làm Tổng Thống thứ 35 của Hoa Kỳ. Một người Công Giáo đầu tiên giữ chức vụ chóp bu. Trong ngày nhậm chức, có mặt tất cả dòng họ Kennedy, cùng bà mẹ đứng một chỗ danh dự. Vào lúc John Kennedy thề nhậm chức và trở thành Tổng Thống thì Rose Kennedy trở thành Mẹ của Tổng Thống. Khi bà sinh John vào năm 1917, Bà đã cho đất nước Hoa kỳ một con người mà sau này làm Tổng Thống. Bà không sinh ra một con người Tổng Thống. Nhưng thật sự và đúng là mẹ của một Tổng Thống.
Một cách tương tự, nhưng không y hệt như thế, chúng ta xưng tụng Đức Nữ đồng trinh là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ đã sinh ra Chúa Giêsu Kitô đấng vừa là Thiên Chúa vừa là Người. Đức Maria không sinh ra Chúa là Chúa. Đức Maria cũng không phải là Chúa hay Bà Chúa. Mẹ là một con người có hạn, được vinh dự dâng hiến bản tính nhân loại cho Ngôi Con trong Ba Ngôi Thiên Chúa. Qua Mẹ, Đức Giêsu là một người thật và cũng là Thiên Chúa thật. Đó là chân lý chúng ta mừng lễ hôm nay. Ngày đầu năm dương lịch. Tại sao chúng ta công khai tung hô Maria là Mẹ Thiên Chúa ngay sát lễ giáng sinh? Lý do rất tự nhiên khi chúng ta thăm một em bé mới sinh, dễ nhiệm chúng ta muốn biết sức khoẻ của em, Em nặng mấy ký và em giống ai. Thế rồi bao giờ chúng ta cũng muốn biết về sức khoẻ của người Mẹ. Cả tuần nay chúng ta ngắm nhìn Chúa Hài Đồng trong Máng cỏ. Hôm nay chúng ta có lý do hướng về Mẹ của Ngài.
Một lý do khác nữa: trong ngày đầu năm, chúng ta cầu chúc cho nhau năm mới vui tươi, hạnh phúc. Nghĩa là chúng ta hy vọng và cầu xin cho bạn bè, những người thân yêu được một năm thánh thiện để họ biết Chúa Kitô nhiều hơn, yêu mến người nồng nàn hơn và phụng sự người trung thành hơn như Đức Mẹ đã làm. Để được như vậy không có gì giúp ta, hơn sự thúc đẩy và trợ giúp của Người Mẹ ấy, Chúa Giêsu và tôn kính mẹ, Người cũng muốn chúng ta yêu và Tôn kính Mẹ của Người.
Chúng ta có thể gợi một so sánh nữa; John Kennedy đã tham dự Thánh lễ vào buổi sáng ông nhậm chức. Ông làm thế để cám ơn Mẹ ông. Bà đã dự Thánh lễ mỗi ngày từ khi bà kết hôn. Mẹ Tổng Thống Kennedy đã chứng kiến cái chết rùng rợn của con bà, cũng thế Mẹ Thiên Chúa cũng chứng kiến cảnh tượng đóng đinh ghê sợ của Con Mẹ. Cái chết của Chúa Kitô được tái diễn trên bàn thờ này mọi ngày. Chúng ta hãy làm cho Thánh lễ thêm quan trọng hơn trong ngày đầu năm này và bạn sẽ Thánh và hạnh phúc trọn một năm. Hãy xin Thiên Chúa, nhờ Thánh lễ này cho bạn và những người thân yêu của bạn sự phù giúp bạn cần, để làm cho năm nay hạnh phúc.
Bạn đặc biệt để ý tới lời kinh nguyện Thánh Thể II “xin cho chúng con xứng đáng hưởng sự sống đời đời cùng với Đức Trinh nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa” sau Thánh lễ bạn hãy tìm tới máng cỏ và nhớ tới Mẹ Thiên Chúa. Mẹ sẽ thực hiện lời chúc mừng và cầu xin của tôi cho tất cả các bạn.
Năm mới hạnh phúc cho mọi người. Amen.
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Đặt ra cho mình câu hỏi này, tôi không có ý đi vào cuộc tranh luận thần học hay tín lý đâu, đơn giản là vì tôi luôn bị ám ảnh bởi câu khảng định của Đức Giêsu khi có người lên tiếng ca ngợi địa vị dành cho con người nào được diễm phúc làm người mẹ sinh hạ và dưỡng nuôi Ngài: “Đúng ra phải nói rằng: phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11:27-28). Và tôi vẫn thường tự hỏi: tại sao lắng nghe và tuân giữ Lời lại quan trọng hơn cả làm Mẹ Thiên Chúa? Hơn nữa có liên quan gì giữa hai điều này xem ra chẳng liên quan gì với nhau?
Lời Chúa trong bài Tin Mừng mời gọi tôi trở lại chiêm ngắm cảnh hang Bê-lem, một cảnh tượng quá đơn sơ nhưng có điều gì đó cần phải được khám phá. Trong suốt những ngày này, Maria đã chẳng chỉ suy đi nghĩ lại trong lòng các điều đó là gì? “Đến nơi, các mục đồng gặp bà Maria, ông Giu-se, cùng với Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ”. Tôi nhận ra cái diễm phúc lớn hơn hết của con người được cái đặc ân cưu mang trong lòng dạ chín tháng, sinh hạ, rồi ôm ẵm trên tay, cho bú mớm và nuôi dưỡng Hài Nhị nhỏ bé này chính là được trở thành nhân vật gần gũi, được chạm tới, được chiêm ngắm trực diện hơn ai hết một Thiên Chúa làm người để cứu độ, một Thiên Chúa đang tỏ hiện lòng từ bi thương xót của Ngài cách quá cụ thể và độc đáo. Không trách gì mà Maria đã “hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng”.
Phải chăng khi nói ‘nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa’, Đức Giêsu đã muốn ám chỉ điều này? Lời Thiên Chúa chắc hẳn không phải chỉ là một vài giáo điều luân lý hay một học thuyết cao siêu nào đó (như giới luật mến Chúa yêu người chẳng hạn), mà phải là điều mà, qua sự hiện diện trần thế trong hình hài một trẻ sơ sinh cũng như qua cái chết thập giá, Ngài đã và đang không ngừng nói lên: Thiên Chúa yêu thương con người! Rõ ràng là Maria đang ‘nghe’ điều này qua các diễn biến tuần tự xảy ra tại Bê-lem, và nghe cách chăm chú với tất cả cõi lòng của một phụ nữ làm mẹ, nghe với tất cả tâm trí của một nữ tì khiêm hạ, để khi có dịp sẽ cất lên thành bài ca: “Thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa , Đấng cứu độ tôi… Người đoái thương nhìn tới phận nữ tỳ hèn mọn…” (Lc 1:46-48)
Và Maria cũng đang ‘tuân giữ’, qua việc đón nhận cách trọn vẹn và tham gia cách tích cực, việc Thiên Chúa tỏ hiện lòng thương xót cứu độ của Ngài. Đón nhận nào sâu xa và trọn vẹn cho bằng với trọn cả tâm trì và cõi lòng: tâm trí Maria đã nhảy mừng và lòng dạ Maria đã cưu mang; và có tham gia nào thực tế cho bằng người mẹ đã cưu mang để đem tình thương cứu độ đó trao ban lại cho toàn thể nhân loại? Maria đã làm được điều đó và làm cách xuất sắc hơn hết thảy mọi người trong tư thế một người mẹ. Đức Giêsu có lẽ đã ám chỉ điều này khi Người lên tiếng: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?… Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi” (Mc 3:31-35). Được làm Mẹ Thiên Chúa sướng và hạnh phúc thật, nhưng với Giêsu và Maria, đó không phải là một địa vị, một đặc ân, nhưng là một tư thế trước Tin Mừng cứu độ. Và hình như Đức Giêsu cũng muốn mỗi người chúng ta tham gia vào cái ‘vinh dự’ đó thì phải, đơn giản là vì mỗi Kitô hữu đều phải có một tư thế của riêng của mình trước Tin Mừng cứu độ: mỗi người đều phải biết ‘nghe và tuân giữ’ Lời Cứu Độ của lòng thương xót theo cách thức của mình.
Tôi biết dòng Salêdiêng Don Bosco có tham vọng muốn các hội viên của mình phải trở thành ‘dấu chỉ và người mang tình thương của Chúa đến cho các thanh thiếu niên’. Rõ ràng Tu Hội muốn họ trở thành ‘mẹ’ của các trẻ bị bỏ rơi, đồng thời cũng trở thành mẹ của Thiên Chúa nữa (theo định nghĩa ‘mẹ’ của Đức Giêsu). Có lẽ vì vậy mà nhà dòng muốn họ cùng Mẹ Phù Hộ đồng hành trên con đường ơn gọi chăng; không phải chỉ vì những trợ giúp đỡ nâng bên ngoài, nhưng nhất là trong nội dung của chính ơn gọi họ: cứu vớt các thanh thiếu niên. Và nếu tôi không lầm thì theo nội dung đó, Đức Giêsu còn muốn mọi Kitô hữu chúng ta, trong đó chắc chắn có cả tôi và bạn nữa, cùng trở thành ‘mẹ’ của Người. Phải chăng đó là ‘ý đồ’ của Người, khi trên thập giá Người đã trao phó nhân loại, qua đại diện là Gio-an, cho Maria và muốn chúng ta nhận người làm mẹ mình không? “Thưa bà, đây là con của bà… Đây là mẹ của anh!” (Ga 19:26-27)
Lạy Mẹ Maria – Mẹ Thiên Chúa, xin hãy giúp con biết như Mẹ ‘nghe và tuân giữ’ Lời Cứu Độ đầy từ tâm. Xin cho con khi mừng kính Mẹ dưới danh hiệu cao đẹp này, cũng được tham gia vào nghĩa vụ trở thành ‘mẹ của Đức Kitô’ cho những ai chưa được biết tới tình yêu thương của Chúa. Và cũng xin cho con trung thành với ơn gọi Kitô hữu và Sa-lê-diêng của con trong tất cả chiều kích sâu sắc nhất của nó. Amen.
Có một cô gái, sau khi tham dự một khóa tĩnh tâm, đã kể lại về đời mình như sau: Ngay từ hồi còn bé, tôi đã lâm vào một tình trạng lo âu sợ hãi. Cố gắng lớn lao nhất của tôi hiện nay là vượt thắng nỗi lo âu sợ hãi ấy. Tất cả đều do người mẹ.
Phải, ngay từ những thánh năm ấu thơ, không hiểu vì lý do gì, bà luôn đối xử với tôi một cách nghiệt ngã. Hết đánh đập lại đe loi, khiến tôi bị mặc cảm. Và nỗi lo âu sợ hãi cùng với thời gian cứ tăng lên mãi. Cho đến hôm rồi, sau khi nghe một bài giảng, tôi tình cờ bước vào nhà thờ. Ở đó có bức tượng Mẹ Maria, và đó là lần đầu tiên tôi nhìn ngắm bức tượng Mẹ thật kỹ.
Thoạt tiên, tôi bực bội, giận dữ muốn bỏ ngay ra ngoài, nhưng rồi một cái gì đó đã lôi kéo tôi đến quỳ dưới chân Mẹ. Úp mặt vào lòng bàn tay và tôi đã khóc. Sau đó, tôi cảm thấy tâm hồn mình nhẹ nhõm và mong ước được làm một đứa trẻ, một người con bé bỏng, đầy tin tưởng và phó thác. Đồng thời tôi cũng cảm nhận được tình yêu mà Mẹ Maria đã dành cho tôi, khiến tôi muốn thực sự tha thứ cho người mẹ ruột của tôi những gì đã xảy ra trong dĩ vãng.
Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào tâm tình của ngày lễ kính Mẹ Thiên Chúa và chúng ta sẽ suy nghĩ về hai điểm.
Điểm thứ nhất: Đức Maria không phải chỉ là Mẹ Thiên Chúa mà ngài còn là mẹ thật của mỗi người chúng ta nữa. Từ trời cao, Mẹ luôn sẵn sàng giúp đỡ chúng ta trong mọi cảnh huống cuộc đời.
Điểm thứ hai: Đức Maria cũng chính là khuôn mẫu để chúng ta noi theo, nhất là về thái độ tín thác vào Chúa.
Thực vậy, khi sứ thần báo tin Mẹ sẽ sinh con bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, mặc dù biết rằng việc này có thể làm cho thánh Giuse buồn phiền và lo nghĩ, nhưng Mẹ vẫn vững tin và phó thác vào Chúa. Rồi khi nghe các mục đồng kể lại lời các thiên thần. Mặc dù không hiểu lắm, nhưng Mẹ vẫn tín thác vào Chúa. Khi nghe ông già Simeon nói tiên tri: Một lưỡi gươm sẽ đâm thâu trái tim Bà. Lần này Mẹ Maria cũng chẳng hiểu rõ ý nghĩa lời tiên tri, nhưng Mẹ vẫn phó thác vào Chúa. Rồi khi tìm thấy Chúa và nghe Chúa trả lời: Mẹ không biết con phải lo việc Cha con sao? Một lần nữa Mẹ Maria chẳng hiểu gì cả nhưng Mẹ vẫn tin tưởng nơi Chúa.
Và ngày nay, Mẹ luôn sẵn sàng giúp chúng ta sống tin tưởng và phó thác vào tình thương của Chúa. Chẳng hạn là những bậc cha mẹ, chúng ta đã cặn kẽ dạy bảo, ra sức làm gương sáng mà con cái vẫn khô khan nguội lạnh ngang bướng Và như vậy, chỉ còn một phương cách là tiếp tục cầu nguyện và phó thác. Chính Mẹ Maria sẽ giúp chúng ta làm điều này.
Là một thanh niên, chúng ta lo lắng về tương lai, không hiểu những dự tính của mình là gì và sẽ đi về đâu? Chúng ta đã bàn bạc, đã cầu nguyện mà sao vẫn còn mù mịt. Vậy thì hãy tiếp tục cầu nguyện và phó thác, chính Mẹ Maria sẽ giúp chúng ta trong việc này.
Là một người đang chao đảo về đức tin với bao nhiêu những thắc mắc, những khó hiểu. Mặc dù đã cầu nguyện nhưng chúng ta vẫn hoài nghi liệu có Chúa hay không? Vậy thì hãy cầu nguyện và phó thác Mẹ Maria sẽ giúp chúng ta thực hiện điều này.
Lạy Đức Maria, là Mẹ Thiên Chúa và Mẹ chúng con, xin hãy giúp con trong mọi cảnh huống của cuộc đời.
Mẹ Thiên Chúa – Mẹ chúng ta – Anmai
Mở lại những trang thư của Thánh Phaolô tông đồ gửi giáo đoàn Galát ta bắt gặp tâm tình hết sức dễ thương của Ngài.
Mở đầu thư, Thánh Phaolô khẳng định ngay: Tôi là Phaolô, Tông Đồ không phải do loài người, cũng không phải nhờ một người nào, nhưng bởi Đức Giêsu Kitô và Thiên Chúa là Cha, Đấng đã cho Người từ cõi chết trỗi dậy, tôi và mọi anh em đang ở với tôi, kính gửi các Hội Thánh miền Galát.
Cuộc đời, ơn gọi Tông Đồ của Phaolô rõ ràng như ta thấy đó, không phải tự loài người hay do loài người nhưng là bởi Đức Giêsu Kitô và Thiên Chúa là Cha.
Rõ ràng, sinh ra bởi phàm nhân, bởi cha bởi mẹ của Ngài nhưng thánh Phaolô quả quyết như thế bởi vì ngài tin như thế.
Và rồi, mở lại những trang Thánh Kinh Cựu Ước, ta không thể nào quên được hình ảnh của Ápraham – cha của những kẻ tin.
Ta biết Ápraham có hai người con. Hai người con, một người được sinh ra bởi người mẹ là người nô lệ còn người kia là người tự do. Con của người mẹ nô lệ thì sinh ra theo luật tự nhiên; còn con của người mẹ tự do thì sinh ra nhờ lời hứa. Câu chuyện đó ngụ ý rằng: hai người đàn bà là hai giao ước. Giao ước thứ nhất tại núi Sinai, thì sinh ra nô lệ: đó là Haga. Haga chỉ núi Sinai trong miền Ảrập, và tương đương với Giêrusalem, thành này cùng với các con đều là nô lệ. Còn Giêrusalem thượng giới thì tự do: đó là mẹ chúng ta.
Mẹ của lời hứa được Thiên Chúa tuyển chọn bởi tình thương của Ngài.
Con của lời hứa mà Thiên Chúa trong Cựu Ước là là con của Giao Ước cũ. Giao Ước mới là Đấng Cứu Độ trần gian được sinh ra trong cung lòng của một trinh nữ có tên là Maria.
Trong trình thuật tin mừng rất ngắn, Thánh Luca thuật lại cho ta rất chi tiết về người trinh nữ có tên là Maria đó: “Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ”. (Lc 2, 16)
Đích thị rằng Maria chính là Mẹ của Hài Nhi, Mẹ của Đấng Cứu Độ và cũng là Mẹ Thiên Chúa nhờ đặc ân mà Thiên Chúa trao ban cho Mẹ.
Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa vì Con của Mẹ là Thiên Chúa. Mẹ chỉ là Mẹ trong trật tự sản sinh nhân loại, nhưng Con mà Mẹ thụ thai và hạ sinh là Thiên Chúa, nên Mẹ phải được gọi là Mẹ Thiên Chúa.
Tín lý này đã được thánh Luca minh hoạ rõ ràng trong trang Tin Mừng chúng ta vừa nghe..
Từ thế kỷ II đã được các thánh Giáo phụ Inhaxiô Antiokia, Irênêô, Cyrillô Alexandria, Augustinô, Epiphanô diễn giải sâu rộng để đối phó với lạc thuyết của các bè rối Gnosticism, Docetism. Thánh Gioan Tông đồ loan báo chứng thực rõ ràng rằng ngài đã từng mắt thấy, tai nghe và đụng chạm tới Chúa Giêsu là Ngôi Lời hằng sống đã xuất hiện.
Trong khi đó các bè rối đó vẫn nói Chúa Giêsu chỉ là ảo tượng. Lạc thuyết này muốn phá đổ tự nền tảng công cuộc Cứu chuộc của Chúa Kitô. Vì thế, các Giáo phụ dựa trên tín lý phẩm chức Thiên mẫu của Mẹ Maria để phá tan lạc thuyết này rằng Đức Trinh Nữ không thể là Mẹ nếu không có Con. Và Người không có Con, nếu Chúa Giêsu chỉ là một bóng ma. Giáo phụ Tertulianô bác bỏ Marcion người lạc giáo: “Mục đích phủ nhận thân xác Chúa Kitô, ông chối bỏ việc Người sinh ra. Hay là để chối bỏ việc Người sinh ra, ông phủ nhận thân xác Chúa. Thân xác và sự đản sinh làm chứng lẫn nhau: Không có sự đản sinh thì cũng không có thân xác. Hoặc là không có thân xác thì không có sự đản sinh.
Thế kỷ III và thế kỷ IV, các thánh Giáo phụ đều đồng thanh cao rao chúc tụng Mẹ Thiên Chúa. Năm 325, Công đồng Nicêa I lên án lạc giáo Ariô, đồng thời định tín Ngôi Lời đồng bản thể với Đức Chúa Cha, và đặt kinh Tin kính (gọi là kinh Tin kính Nicêa đọc trong thánh lễ). Tín điều này chứng minh Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật, cùng với tín lý Mẹ Thiên Chúa của các thánh Giáo phụ sẽ mở đường cho tín điều Mẹ Thiên Chúa của Công đồng Ephêsô sau này.
Công đồng Vatican II (1962-1965) dạy: “Từ muôn đời, Đức Trinh Nữ đã được tiền định làm Mẹ Thiên Chúa cùng một lúc với việc Nhập Thể của Ngôi Lời Thiên Chúa … Đức Trinh Nữ nhờ ơn huệ và vai trò làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ được hợp nhất với Con Mẹ là Đấng Cứu Chuộc và hiệp nhất với Giáo Hội. Mẹ Thiên Chúa là mẫu mực của Giáo Hội trên bình diện đức tin, đức ái và hoàn toàn hiệp nhất với Chúa Kitô”.
Nhờ Giáo huấn của Giáo Hội và lời giảng dạy của các Thánh giáo phụ, các Thánh tiến sĩ và các nhà thần học, giáo dân trong khắp Giáo Hội mỗi ngày thêm vững tin tín điều Mẹ Thiên Chúa.
Mẹ Thiên Chúa là Mẹ của Lời Hứa, Mẹ của Giao Ước mới, Mẹ của Ơn Cứu Độ trần gian mà Thiên Chúa đã hứa, đã trao ban cho con người tự ngàn xưa qua miệng các ngôn sứ, cách riêng qua những khẳng định của các thánh, đặc biệt nơi các thánh tông đồ.
Thánh Phao lô đã khẳng định với ta về Giao Ước mới: Nhưng khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử.
Không chỉ ở đây, trong nhiều đoạn thư, thánh Phaolô cũng đã khẳng định về ơn nghĩa tử mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta:
“Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô”. (Ep 1, 4-5)
“Vì những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc”. (Rm 8, 29. 29)
Trước khi tạo thành vũ trụ, Cha đã tiền định cho chúng con làm “nghĩa tử”. Nhưng Cha không muốn chúng con chỉ hưởng quyền đồng thừa kế với Đức Giê-su (Rm 8, 17) mà còn muốn chúng con nên giống Cha (Ep 1, 4), nên đồng hình đồng dạng với Người Con Ruột của Cha (Rm 8, 29)
“Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử, nhờ Đức Giêsu Kitô. Để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu”. (Ep 1, 4-6)
Ta thấy Thánh Gioan tông đồ cũng đã khẳng định về ân huệ làm con mà Thiên Chúa dành cho chúng ta:
“Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa”. (Ga 1, 12.13)
“Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa – mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa. Sở dĩ thế gian không nhận biêt chúng ta, là vì thế gian đã không biêt Người. Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biêt rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy”. (1 Ga 3, 1-2).
Trước khi có trời đất này Cha đã chọn ta để ta trở nên tinh tuyền thánh thiện. Trước khi ta có mặt trên hành tinh này, Cha đã tiền định cho ta làm con Cha. Cho nên không phải vì ta có công trạng gì mà Cha thương ta. Cha yêu ta chỉ do lòng nhân ái của Cha, chỉ do tình thương nhưng không của Cha, bởi vì Cha là tình yêu. Cha thương ta bởi vì ta ở trong người Con Chí Ái là Đức Kitô. Vì Cha thương ta mà ta trở thành quý giá trước mặt Cha.
Ân huệ lớn nhất đời của ta phải chăng đó là được làm con của Mẹ Maria, là em của anh Hai Giêsu ?
Theo Gioan, chúng ta được làm con em Chúa Giêsu, là con của Mẹ Maria thì ta phải tin (Ga 1, 12) và phải yêu (1 Ga 4, 7).
Nhìn lại cuộc đời của Mẹ Maria ngày hôm nay mà ta tôn kính với đặc ân mà Thiên Chúa ban cho Mẹ – như Giáo Hội cũng như các môn đệ đã xác tín – chúng ta lại thấy rằng cả cuộc đời của Mẹ vẫn gói ghém trong niềm tin và tình yêu với Thiên Chúa. Mẹ tin yêu Chúa bằng cả cuộc đời, bằng cả tấm lòng, bằng cả con người, bằng cả tâm hồn của mẹ.
Trang Tin Mừng rất ngắn Thánh Luca điểm lại cho ta về Mẹ rất độc đáo, rất dễ thương và cũng rất đáng để ta suy nghĩ: còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng.
Và, cả cuộc đời, Mẹ sống trong lắng đọng để Mẹ suy đi nghĩ lại tình yêu, lòng thương xót mà Thiên Chúa trao ban cho Mẹ để Mẹ được ơn là Mẹ của Thiên Chúa, Mẹ của Đấng Cứu Độ.
Ngày hôm nay, Mừng Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, ta lại được mời gọi nhìn lại đời ta. Ta được Thiên Chúa trao ban ân huệ làm con của Lời Hứa, của Đấng Cứu Độ trần gian và là em của anh Trưởng Giêsu. Mẹ Maria dù được là Mẹ Thiên Chúa đó nhưng Mẹ
“Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Mẹ Maria khiêm hạ, lắng đọng để tin yêu và phó thác cuộc đời trong tay Chúa dù Mẹ là Mẹ của Thiên Chúa, Mẹ của Ơn Cứu Độ.
Chúng ta là nghĩa tử của anh Trưởng Giêsu, cũng là con của Mẹ Maria.
Người ta vẫn thường nói: “Mẹ nào con nấy !”. Mẹ Thiên Chúa, Mẹ của ta đó luôn suy niệm Lời Chúa, suy niệm tình thương mà Thiên Chúa tuôn đổ trên Mẹ. Dù ai nói ngả nói nghiêng và thậm chí chà đạp, phỉ báng Mẹ, chê cười nhưng Mẹ vẫn lặng lẽ để suy đi nghĩ lại tình thương và ân huệ của Chúa dành cho Mẹ. Ta có suy đi nghĩ lại trong lòng ân huệ, tình thương mà Thiên Chúa trao ban cho ta hay không ?
Khi ta ồn ào náo động, khi ta hơn thua tranh giành, khi ta bấu víu vào thế gian cũng là khi ta không nhận ra Ơn Cứu Độ, không nhận ra Thiên Chúa là Chúa và là Chủ của cuộc đời ta. Khi ấy, ta cũng chẳng là con của Mẹ.
Ta vẫn gọi Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, ta vẫn nói Mẹ là Mẹ của ta nhưng để lời gọi, lời nói, lời tuyên tín đó được trọn hảo, được thể hiện bằng cách ta sống tâm tình mà Mẹ đã sống đó là suy đi nghĩ lại ân huệ, tình thương mà Thiên Chúa trao ban cho ta.
Xin Mẹ thêm ơn cho ta để ta cũng biết sống giữa cuộc đời đầy bon chen, sóng gió này mà lòng vẫn bình tâm để lặng lẽ, để suy đi nghĩ lại ân huệ Chúa ban cho ta như Mẹ.
Giây phút long trọng nhất trong đời Đức Mẹ là giây phút Ngôi Hai xuống thai trong lòng Đức Mẹ. Từ giây phút ấy, Đức Mẹ trở nên Mẹ Thiên Chúa: Đây là tín điều Công đồng Êphêsô đã tuyên bố ngay thời kỳ Giáo Hội sơ khai.
– Ta phải hiểu chân lý này thế nào?
Đức Maria không phải là Mẹ sinh ra Thiên Chúa tự hữu hằng có đời đời, không phải là mẹ cá nhân kết hợp với Thiên Chúa, cũng không phải là mẹ bản tính loài người có hồn xác của Chúa Giêsu, mà chỉ là Mẹ thân xác Chúa Giêsu; cũng như các bà mẹ khác chỉ sinh con về phần xác không sinh ra linh hồn đứa con. Văn hóa Đông phương cũng xác nhận điều này: cha mẹ sinh con trời sinh tính. Tính không phải là tính nết thường, nhưng có ý sâu sắc hơn, đó là bản tính, tính mệnh “Thiên mệnh chi vị tính” – Tính trời phú cho đó là linh hồn.
Tuy các bà chỉ sinh thân xác đứa con, nhưng cũng thực là mẹ đứa con. Cũng vậy, Đức Mẹ, tuy chỉ sinh thân xác Chúa Giêsu, nhưng cũng thực là mẹ Chúa Giêsu, mà Chúa Giêsu là Thiên Chúa nên Đức Maria cũng là Mẹ Thiên Chúa. Năm 431 công đồng Ephesô đã long trọng tuyên bố: “Nếu ai chối Đức Giêsu là Thiên Chúa, và bởi đó chối Đức Thánh nữ Đồng trinh Maria là Mẹ Thiên Chúa vì người đã sinh ra thân xác Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, thì bị vạ tuyệt thông.” Thật là vinh phúc cao trọng nhất cho Đức Mẹ, không ai trong loài người sánh ví được. Chính vì thế Giáo Hội đã mừng lễ này vào ngày thứ nhất trong năm, đứng đầu các lễ các thánh.
– Hạnh phúc đó do đâu?
Hoàn toàn do Thiên Chúa ban “vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta”
Thiên Chúa không muốn dựng nên thân xác thần hiện nào khác, nhưng dùng chính thân xác từ trong loài người để cứu độ loài người. Ví như muốn cứu người ăn mày có hai cách: một là cho tiền, gạo để ăn chơi nhàn rỗi, hai là dạy cho họ có công ăn việc làm để họ dùng chính khả năng họ làm ăn. Cách thứ hai rất khó nhưng chắc chắn có giá trị lâu dài và giá trị tự do hưởng ứng của họ. Cũng thế, Thiên Chúa đã dùng chính khả năng con người trong Đức Mẹ hợp tác với Chúa để cứu loài người.
Tới đây, chúng ta hiểu được một chút sự lạ lùng của Thiên Chúa cứu độ loài người với sự tham gia của Đức Mẹ. Đức Mẹ đã trọn đời dâng hiến toàn thân cho Chúa, một thân xác đồng trinh, vô nhiễm nguyên tội để Ngôi Hai xuống thế làm người cứu chuộc chúng ta, một sự lạ lùng gấp bội phép lạ bánh hóa nhiều, và giống như Chúa đã dùng bánh và rượu để biến thành Mình và Máu Thánh Chúa.
Lạy Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa, xin cho cha mẹ chúng con hiểu biết thiên chức cao trọng làm cha mẹ, tuy chỉ sinh con phần xác ở đời này, nhưng lại được làm cha mẹ cả phần hồn, phần thiêng liêng đến muôn đời. Xin cho các ngài biết cố gắng giáo dục con cháu “ngày càng lớn lên, mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và được ân nghĩa cùng Thiên Chúa” như Chúa Giêsu con Mẹ. Xin Chúa cho chúng con biết noi gương Đức Mẹ dâng lòng mến, dâng sự hy sinh hàng ngày lên Chúa nhờ sự cầu bầu của Đức Mẹ biến đổi con người chúng con nên con thảo của Mẹ, xứng đáng được ơn phúc cứu độ muôn đời của Chúa Giêsu Con Mẹ.
Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Tám ngày sau lễ sinh nhật của Đức Giêsu Chúa chúng ta, Giáo hội mời gọi con cái mình cử hành lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa với tất cả lòng kính trọng và biết ơn, vì nhờ Mẹ, Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho chúng ta.
Đức Maria đã được các giáo phụ ca ngợi, đặc biệt là thánh Ambrôsiô thành Milan (thế kỷ IV) khi nói: “Đức Maria là Đền Thờ của Thiên Chúa chứ không phải Thiên Chúa của Đền Thờ”. Thánh Ignatiô thành Antiokia (+ 110) là người đầu tiên nên tên Đức Maria sau các sách Tin Mừng: “Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô đã được Đức Maria cưu mang trong lòng theo nhiệm cục cứu độ” và ” Đức Giêsu cũng được sinh ra bởi Đức Maria và bởi Thiên Chúa”.
Tại Đông phương, kể từ năm 350, người ta đã gán cho Đức Maria tước hiệu là “Mẹ Thiên Chúa”, tuyên dương Mẹ là ” Mẹ của Ngôi Lời Nhập Thể “. Như thánh Grégoire de Nazianze (330 – 390) đã viết: “Đức Kitô sinh bởi một Trinh Nữ, người nữ ấy là Mẹ Chúa Kitô”.
Khi giáo chủ Constantinople là Nettôriô công khai chối bỏ thiên chức Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, thì Công đồng Chung Êphêsô (431) đã đuợc triệu tập và tuyên bố tín điều “Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa”. Đó là danh xưng cao trọng nhất của Đức Maria, chính phẩm chức cao cả này là nền tảng mỗi đặc ân khác dành cho Mẹ. Công đồng Vaticanô II đã trình bày các đặc ân liên kết với phẩm chức Thiên Chúa như sau: “Không có gì lạ, nếu các giáo phụ đã thường xưng tụng Mẹ là Đấng toàn thánh, không vương nhiễm một tội nào, như một tạo vật mới do Chúa Thánh Thần uốn nắn và tác thành. Tràn đầy thánh thiện, có một không hai ngay từ lúc thụ thai, Đức Trinh Nữ thành Nazareth được Thiên thần vâng lệnh Chúa đến truyền tin và đã kính chào là “Đầy ơn phước” (Lc. 1,28). (GH.59).
Thánh Phaolô viết: “Khi đã đến lúc thời gian đầy đủ, Thiên Chúa đã sai Con Ngài sinh hạ bởi người phụ nữ, sinh dưới chế độ Luật, để cứu chuộc những người ở dưới chế độ Luật, hầu cho chúng ta được nhận làm dưỡng tử… mà nếu là con, tất bạn cũng là người thừa kế, nhờ ơn Thiên Chúa” (Gl 4, 4-7). Như thế, chúng ta dưỡng tử của Thiên Chúa và đồng thừa tự với Đức Kitô nhờ ơn Thiên Chúa. Lại nữa, Hội Thánh là Thân Thể của Chúa Kitô, Đức Maria đã là Mẹ Chúa Kitô, Đấng là Đầu của Thân Thể, thì Mẹ cũng là Mẹ của Thân Thể, Mẹ Hội Thánh, Hội Thánh được cấu thành bởi những con người chúng ta, nên Mẹ cũng là Mẹ của mỗi người chúng ta. Vì thế trong Giáo Hội, Đức Trinh Nữ Maria được kêu cầu qua các tước hiệu: trạng sư, vị bảo trợ, Đấng phù hộ và Đấng Trung gian” (GH.62)
Ngày 21/11/1964, Đức Phaolô VI long trọng tuyên bố Đức Maria Là Mẹ Hội Thánh: “Để vinh danh Đức Trinh Nữ và để chúng ta được an ủi, chúng tôi tuyên bố Rất Thánh Maria là Mẹ Hội Thánh, tức là Mẹ của toàn thể Dân Kitô Giáo, cả giáo dân lẫn mục tử, thành phần gọi Người là một Người Mẹ rất yêu dấu; và vì thế chúng tôi truyền cho toàn thể Dân Kitô Giáo hãy dâng lên Mẹ Thiên Chúa một niềm kính tôn hơn nữa và hãy nguyện cầu cùng Người bằng tên gọi rất ngọt ngào này”. Và việc Đức Phaolô VI đã “công bố” và “truyền” làm như thế không phải chỉ bằng một văn kiện, mà là bằng lời nói sống động ngay trước mặt toàn thể hàng giáo phẩm thế giới đang tham dự Công Đồng Chung bấy giờ, thành phần đại diện cho toàn thể Dân Chúa.
Đó là những lý do Giáo Hội thúc dục con cái mình cầu nguyện với Mẹ: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử”. Như vậy, long trọng mừng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, chúng ta hãy tỏ một niềm tin vững chắc vào vai trò của Mẹ trong chương trình cứu rỗi nhân loại. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa vì Ngài đã sinh ra cho chúng ta Thiên Chúa cứu chuộc.
Trong ngày đầu năm mới và cũng là Ngày Quốc Tế Hòa Bình, chúng ta vui mừng cử hành lễ Đức Maria rất thánh, Mẹ Thiên Chúa. Cả hai sự kiện này cùng diễn ra khi chúng ta đang cử hành Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, Vua Thái Bình (Is 9, 5) sinh hạ bởi Đức Trinh Nữ Maria, hòa bình đích thực của chúng ta! Chúng ta mượn lời sách Dân Số mà cầu chúc cho nhau: “Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh chị em” (x. Ds 6,26). Còn món quà nào cao quí hơn là chính Con Thiên Chúa, Đấng là Hoàng Tử Bình An được Chúa Cha ban tặng cho chúng ta. Vì tình yêu Thiên Chúa đã “ban Người Con duy nhất của Ngài” cho nhân loại (Ga 3,16). Thiên Chúa đã nhận lấy dung mạo của một con người và Thiên Chúa tỏ dung mạo của Ngài trong Người Con của Đức Trinh Nữ Maria.
Thiên Chúa từ trời cao đã giáng trần và cư ngụ trong lòng Mẹ và nhập thể trong Người Con mà Mẹ đang ẵm trên tay. Mẹ bồng Hài Nhi Giêsu, con nhìn mẹ và mẹ nhìn con âu yếm. Đức Maria trong thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa, và là Mẹ chúng ta, luôn đồng hành để dẫn chúng ta về với Thiên Chúa. Bước theo Mẹ trong cuộc sống của lòng tin bằng thái độ tín thác vào Chúa, hoàn toàn vâng phục thánh ý Ngài, chúng ta sẽ được Mẹ dìu đưa đến với Chúa, đến Nước Trời. Mẹ mời gọi chúng ta mở lòng đón nhận Chúa Giêsu, cưu mang Người bằng cách lắng nghe và sống theo Lời Người, để thực sự trở nên người có phúc, người thân của Chúa như Mẹ.
Mừng lễ Mẹ hôm nay, với trọn niềm tin tưởng, mến yêu, chúng ta hãy phó thác cho Mẹ thế giới này, đất nước ta, gia đình ta. Hãy để Mẹ hiện diện để yêu thương, chăm sóc và dẫn dắt chúng ta sống theo ý Chúa. Hãy hết lòng yêu Mẹ bằng tình con thảo hiếu!
Nhờ Mẹ cầu bầu, xin cho cuộc đời mỗi nguời chúng ta được đổ đầy bình an của Chúa trong năm mới này, để chúng ta cũng trở nên những người xây đắp an bình cho gia đình, cho mọi người bằng đời sống tin yêu phó thác vào Chúa và quên mình phục vụ tha nhân như Mẹ. Ước gì chúng ta không chỉ thành khẩn thưa lên với Mẹ bằng lời, mà bằng trọn cả con tim và cuộc sống chúng ta: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con, là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. Amen.”
“Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời”
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Mỗi khi đọc kinh kính mừng, chúng ta đều thưa lên cùng Mẹ: Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. Khi chúng ta thưa cùng Mẹ điều đó, là chúng ta ý thức thân phận yếu đuối, mỏng dòn của mình thường hay sa đi ngã lại trong những lầm lỗi tội lỗi. Đồng thời cũng nói lên sự phó thác cậy trông nơi Mẹ, là Mẹ của Thiên Chúa và cũng là Mẹ chúng ta.
Vâng, khi nhập thể làm người Chúa Giêsu cũng được sinh ra từ một người mẹ, và suốt cuộc sống của Chúa Giêsu dường như luôn có bóng dáng của mẹ hiện diện để khích lệ, an ủi, nhất là trong lúc chịu đau thương trên thập giá. Mẹ đã ở bên Chúa, cùng hiệp thông trong đau khổ với Chúa để cứu độ trần gian. Có lẽ vì muốn chúng ta được sống trong tình mẫu tử của Mẹ, Chúa Giêsu đã trao ban Đức Mẹ cho chúng ta, khi Chúa nói với Gioan: “Đây là Mẹ của con”, và thánh kinh đã ghi lại: “kể từ lúc đó, người môn đệ Chúa yêu đã đón Mẹ về nhà của mình”.
Thánh Gioan đã đại diện cho nhân loại để nhận Mẹ làm Mẹ của chúng sinh. Từ nay Mẹ sẽ tiếp tục nâng đỡ chúng ta. Mẹ sẽ tiếp tục yêu thương chúng ta. Mẹ sẽ tiếp tục hiện diện trong cuộc đời chúng ta để chăm sóc, lo lắng và chở che cuộc đời chúng ta. Chúng ta có thể cảm nghiệm về tình Mẹ Thiên quốc qua hình ảnh người mẹ trần thế. Mẹ trần thế yêu thương con đến nỗi dám đánh mất chính mình cho con được lớn lên thế nào, thì người mẹ thiên quốc cũng lo cái lo của con cái dưới thế, cũng đau vời đau đau của nhân loại, cũng sẵn sàng làm tất cả đế cứu vớt nhân loại lầm than. Có lẽ ai trong chúng ta cũng thuộc lòng bài ca dao “Con cò ăn đêm” mà các bà mẹ thường hay hát ru con:
“Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Ông ơi, ông vớt tôi vào
Tôi có lòng nào ông hãy xào măng
Có xào thì xào nước trong
Đừng xào nước đục đau lòng cò con”
Bài thơ thật ngắn gọn nhưng diễn tả về tình yêu của một người mẹ đơn côi, lặn lội nơi bến chợ, bất chấp tất cả khó khăn cực nhọc để kiếm tiền nuôi con, kể cả việc phải đi ăn đêm. Nếu số phận có đun rủi bà phải rơi xuống hố sâu lầm lỗi, bà sẵn sàng chịu mọi sự trừng phạt miễn là ông trời hãy thương lấy đàn con, gìn giữ nó được sống trong danh dự mà đoạn kết đã diễn tả: “Đừng xào nước đục đau lòng cò con”. Nghĩa là người mẹ sẵn sàng chịu mọi oan ức, mọi niềm đắng cay, nhưng miễn sao con của bà đừng bị người đời trừng phạt bởi lầm lỗi của bà, đừng bị người đời khinh chê vì những đoạn trường đắng cay của mẹ.
Tình yêu của người mẹ là thế! Bà sẵn sàng hy sinh tất cả miền là đoàn con được hạnh phúc. Trong đời sống thiêng liêng chúng ta cũng có một người mẹ là Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu đã được ban cho chúng ta qua thánh Gioan. Ước gì mỗi người chúng ta cũng biết đón Mẹ về nhà cuộc đời chúng ta, để chia sẻ những vui buồn trong gia đình chúng ta. Ước gì chúng ta biết trân trọng gìn giữ Mẹ như bảo ngọc châu báu mà Chúa đã ban cho chúng ta, đừng để mất Mẹ, vì mất Mẹ là mất cả bầu trời. Ước gì mỗi người chúng ta biết tin tưởng phó dâng cuộc sống gia đình của mình cho Mẹ và biết dành một vài giây phút trong ngày để thưa lên cùng Mẹ. Thánh Maria Đức Mẹ Chúa cầu cho chúng con hôm nay và trong giờ lâm tử. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Một chàng thanh niên nọ có tính khoe khoang. Ngày kia sắm được một chiếc áo mới, từ sáng sớm anh ta đã mặc chiếc áo đó và đứng ở ngã ba đường. Kẻ qua, người lại rất đông, thế nhưng chẳng có ai chú ý đến và khen anh lấy một tiếng. Cuối cùng, có một người đàn ông đến gần anh và bảo: “Anh có thấy con bò của tôi bị lạc chạy qua đây không?” Được dịp có người hỏi đến mình, anh trả lời: “Tôi mặc chiếc áo này từ sáng đến giờ, mà chẳng thấy con bò nào chạy qua đây cả.”
Thái độ trên đây của người thanh niên trái hẳn với thái độ của Đức Maria, như bài Tin mừng hôm nay thuật lại: “Người giữ kỹ mọi điều ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng.” Đức Maria đã thinh lặng không chỉ lúc này, nhưng trong suốt cuộc đời Người. Được làm Mẹ Thiên Chúa, nhưng chung quanh Người, chẳng có mấy ai biết đến tước hiệu này. Nếu vinh quang Thiên Chúa xuất hiện và các mục đồng không ngớt lời ngợi khen thì Người chỉ ghi nhớ và suy niệm trong lòng. Tại Cana, Người đã nhẹ nhàng báo cho Chúa Giêsu biết bữa tiệc không còn rượu nữa. Trong cuộc đời công khai của Chúa, Người đã âm thầm theo bước chân con. Và bên Thánh giá, trong nỗi đau đớn tột cùng, Người đã chứng kiến những giờ phút cuối cùng của con. Có thể nói Người đã sống tâm tình của một nữ tì khiêm tốn, Người chỉ muốn được phục vụ trong âm thầm, còn vinh quang danh dự thì Người xin dành cho người khác.
Trong một thế giới có quá nhiều tiếng động: tiếng động của bom đạn, của tranh chấp, của bạo lực, chúng ta hãy bắt chước thái độ thinh lặng và lắng nghe của Đức Maria, nhờ đó chúng ta sẽ tìm được bình an trong tâm hồn và tạo được hoà khí trong tương quan với tha nhân.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Hài đồng Giêsu, Chúa có một người Mẹ thật tuyệt vời. Một người Mẹ cho Chúa dòng sữa, cho Chúa tình thương. Một người Mẹ đã nói lời xin vâng bằng cả cuộc đời dấn thân cho chương trình Thiên Chúa Cha được nên trọn. Một người Mẹ hằng đẹp lòng Thiên Chúa Cha và được mọi ân huệ lớn lao đến nỗi là người có phúc hơn mọi người nữ.
Người Mẹ đó Chúa đã tặng ban cho nhân loại chúng con. Qua Môn đệ Gioan, Mẹ Maria đã nhận chúng con là con cái của mẹ. Mẹ đã đi vào trong từng cuộc đời chúng con. Mẹ vẫn đang đồng hành để chia sẻ buồn vui trong kiếp người chúng con. Chúng con xin cám ơn Chúa đã ban Mẹ Maria cho chúng con. Xin cho chúng con luôn chạy đến cùng Mẹ, luôn nương nhờ ơn phước của Mẹ, để nhờ Mẹ chúng con được đón nhận ơn lành của Chúa.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là người có phước hơn mọi người nữ vì mẹ luôn lắng nghe và thực thi Lời Chúa. Xin Mẹ dạy chúng con biết noi gương Mẹ để sống theo lời Chúa. Xin cho cuộc đời chúng con luôn được ướp mặn bằng những trang tin mừng, để chúng con hiểu được thánh ý Chúa trong từng biến cố cuộc đời. Xin cho các gia đình luôn biết siêng năng đọc lời Chúa và thực thi khởi đi từ chính gia đình chúng con. Xin Mẹ luôn viếng thăm gia đình chúng con để hàn gắn những đổ vỡ, bất hòa đang làm mất đi sự êm ấm của gia đình. Xin Mẹ luôn hiện diện để nâng đỡ gia đình chúng con khi gặp những bất hạnh, rủi ro. Xin vực dậy niềm tin nơi những ai đang thất vọng, giúp họ vượt qua những khó khăn trong niềm tin vào Chúa như Mẹ đã từng bước đi trong niềm tin tuyệt đối vào sự quan phòng Chúa.
Lạy Mẹ Maria, hôm nay khởi đầu năm mới, chúng con xin phó dâng gia đình chúng con cho Mẹ, để nhờ lời cầu bầu của Mẹ, xin Chúa nâng đỡ những gia đình đang đổ vỡ. Biết bao nhiêu niềm tin đang bị đánh mất từ những người thân trong gia đình. Cha mẹ thiếu tin tưởng nhau. Con cái đánh mất niềm tin nơi cha mẹ. Vợ chồng bất trung với nhau. Bạn bè bất tín với nhau. Biết bao sự dữ đang tung hoành khắp nơi, khiến nhiều người rơi vào thất vọng, tủi hổ và đắng cay. Xin nhờ Mẹ chuyển cầu để tình thương Chúa gìn giữ các gia đình. Xin nhờ ơn phước của Mẹ ngõ hầu chúng con được nhận lãnh ơn lành của Chúa. Amen.
Có một nhóm giáo dân trong một thành phố nhỏ quyết định làm một máng cỏ giáng sinh ở công trường. Họ đi xin những người hảo tâm giúp đỡ. Đứng đầu danh sách những người hảo tâm là ông chủ bút một tờ tuần báo địa phương. Ông ta ủng hộ việc này cho tới lúc cha sở phát biểu. Nhiều người, nhất là trẻ em sẽ phấn khởi nhìn thấy Chúa Hài Nhi, Đức Mẹ, thánh Giuse và cả những con vật nữa, ở đây ngay tại trung tâm thành phố. Thế nhưng, ông chủ bút liền kêu to:
– Không, phải bỏ Đức Mẹ đi, đừng có bày đặt lắm chuyện làm chi.
Cha sở nghe vậy bèn nói với ông ta:
– Ông bảo gì vậy? Ông thử nói cho tôi hay: Một người sinh ra mà lại không do người mẹ, thì tôi sẽ đồng ý bỏ Đức Mẹ. Đức Mẹ phải ở với Con mình trong công trường thành phố. Tại sao không?
Đúng thế, Mẹ đã ở với Chúa Giêsu ngay từ lúc Ngài được dựng thai cho tới khi Ngài lên trời và Mẹ còn liên kết với Ngài trong suốt dòng lịch sử. Vì thế, chúng ta không thể tưởng nghĩ tới Chúa Giêsu mà không tưởng nghĩ Mẹ Ngài. Cũng như chúng ta không thể tưởng nghĩ đến một em bé mà không tưởng nghĩ đến người mẹ của em.
Chúa Giêsu là người thật nhưng cũng là Thiên Chúa thật. Đức Maria là Mẹ của Thiên Chúa làm người, theo ý nghĩa là con trẻ Mẹ sinh ra có bản tính Thiên Chúa và bản tính con người.
Ngày đầu năm dương lịch, Giáo hội muốn chúng ta tôn vinh Mẹ Thiên Chúa. Bởi vì không ai xứng đáng được gọi là mẹ sự sống cho bằng Mẹ Thiên Chúa. Mẹ đã ban sự sống nhân loại cho Chúa Giêsu, Đấng đã nói: Tôi đến cho người ta được sống và sống dồi dào. Một đời sống thể lý tốt đẹp hơn, một đời sống tinh thần tốt đẹp hơn. Điều đó sẽ làm cho mọi người được hạnh phúc trong năm mới. Chúng ta phải chú trọng giá trị của sự sống. Những vụ tàn sát, những tai nạn xe cộ, những cuộc chiến và đói kém đã cướp đi hàng trăm ngàn cuộc sống. Sự sống đã trở thành rẻ mạt. Một cuộc nghiên cứu mới đây cho biết: trẻ em Hoa Kỳ ở vào tuổi 17 đã xem 18.000 vụ tàn sát qua truyền hình. Đồng thời trong năm mới này có biết bao nhiêu bà mẹ, thay vì cho con cái mình sự sống, thì đã giết chúng bằng những vụ phá thai. Vì thế, chúng ta cần đến một người mẹ cao siêu để chấm dứt sự tàn sát này. Bước sang năm mới, Mẹ Thiên Chúa làm người, sẵn sàng cứu giúp mọi bà mẹ để trao ban sự sống thay vì huỷ diệt nó đi. Mẹ cũng sẵn sàng xin được nơi người Con của mình một sự sống tinh thần mạnh mẽ hơn, một sự sống được tiếp tục ngay cả sau cái chết thể xác. Sự sống mà người Con của Mẹ đã ban cho chúng ta một cách dồi dào trong thánh lễ và trong các bí tích. Một sự sống ngập tràn hạnh phúc mà chúng ta sẽ cầu chúc cho nhau trong năm mới này.
Trong một bài giảng, vị linh mục đã nêu lên câu hỏi.
– Vậy Đức Maria là ai?
Mọi người đều thinh lặng không một ai đã trả lời. Ngài lại hỏi thêm một lần nữa:
– Vậy ai có thể nói cho tôi hay Đức Maria là ai?
Sau cùng một bà già đã trả lời:
– Thưa cha, Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa.
Vị linh mục nói:
– Đúng lắm, Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, nhưng tôi muốn biết ngài còn là ai nữa?
Tiếp theo là những câu trả lời khác nhau:
– Mẹ là Nữ vương thiên đàng, là nơi ẩn náu của kẻ tội lỗi…
Vị linh mục mỉm cười và bảo:
– Đúng lắm, tất cả đều đúng nhưng chưa đủ, bởi vì Đức Maria còn là Mẹ tôi nữa.
Vâng, Đức Maria là Mẹ chúng ta. Trên thế gian, chúng ta không một ai đã yêu thương chúng ta, không một ai đã sẵn sàng lắng nghe chúng ta kêu cầu, cảm thông và giúp đỡ chúng ta trong mọi hoàn cảnh như Mẹ.
Hôm nay, ngày đầu năm dương lịch, chúng ta mừng kính Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Chúng ta phó thác năm mới này cho Mẹ để xin Me nâng đỡ chở che.
Sở dĩ chúng ta biết Đức Maria là Me Thiên Chúa, bởi vì Đức Maria là Mẹ của Chúa Giêsu. Đồng thời chúng ta cũng tin rằng Chúa Giêsu vừa là người vừa là Thiên Chúa. Bởi đó, một khi đã là Mẹ của Chúa Giêsu, thì Đức Maria cũng là Mẹ của Thiên Chúa làm người. Không ai được nói rằng Đức Maria đã sinh ra thiên tính của Chúa Giêsu. Nhưng chúng ta chỉ đơn giản tuyên xưng rằng Đức Maria là Mẹ của Chúa Giêsu, Đấng vừa là người lại vừa là Thiên Chúa. Từ đó chúng ta có thể đi tới một kết luận quan trọng như sau:
Vì là Mẹ của Thiên Chúa làm người cho nên Đức Maria cũng là Mẹ thật của mỗi người chúng ta. Trong lòng Giáo hội, gia đình của Thiên Chúa thì Đức Kitô là anh cả còn chúng ta là những người em. Một khi Đức Maria đã là Mẹ của Chúa Giêsu thì ngài cũng là Mẹ của chúng ta nữa.
Vậy chúng ta phải làm gì để khởi đầu cho năm mới 2008 này? Nếu không có Mẹ Maria thì không có sự sống. Vì thế, ngay cả Chúa Giêsu cũng phải có Mẹ. Nếu cuộc sống con người khởi đầu từ người mẹ, thì mỗi chặng đường đời của chúng ta., chẳng hạn một năm mới, cũng khởi đầu với Đức Maria: Mẹ Thiên Chúa và Mẹ chúng ta.
Người mẹ đón nhận con mình mỗi buổi sáng, Đức Maria đón nhận chúng ta ngày đầu năm, Mẹ nghiêng mình trên chúng ta, nuôi dưỡng, bao bọc và chạy chữa chúng ta cùng với biết bao biểu lộ của yêu thương và trìu mến.
Người mẹ làm cho ngày mới của đứa con có một ý nghĩa, thì Đức Maria cũng làm cho năm mới của chúng ta có một ý nghĩa.
Để kết luận chúng ta hãy xin Mẹ Maria cầu bầu cho chúng ta hôm nay, ngày đầu năm mới và suốt cả những tháng ngày kế tiếp, để trong năm mới nay, chúng ta sẽ sống gắn bó với Chúa và Mẹ. Như thế, năm mới này sẽ là một năm bình an và hạnh phúc. Đó cũng là lời cầu chúc tôi xin gửi đến với anh chị em.
Hôm nay chúng ta mừng kính lễ Mẹ Thiên Chúa, chúng ta cầu nguyện cho nền hòa bình thế giới, và chúng ta chính thức bước vào năm mới 2012.
Khởi đầu thế kỷ 21, chúng ta đã được chứng giám việc khủng bố chiếm máy bay và đâm vào tòa tháp đôi tại Nữu Ước. Rồi từ đó, chiến tranh bùng nổ tại Afghanistan, tại Irak, khủng bố dường như có mặt ở khắp nơi. Và gần đây những cuộc thử hạt nhân ở Iran và Triều Tiên, đã làm cho thế giới nóng lên vì hận thù, vì chiến tranh.
Chính vì thế, trong tinh thần liên đới và ý thức rằng: Hòa bình là một hồng ân của Thiên Chúa, chúng ta hãy hiệp ý cầu nguyện cho yêu thương được ngự trị, cho oán thù được tiêu tan, cho mọi người biết tha thứ và yêu thương nhau như chính bản thân mình. Tất cả những ý nguyện ấy như một âm vang của lời kinh hòa bình: Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm.
Lời kinh này là của thánh Phanxicô Assie, một người được cả thế giới chọn làm biểu tượng của hòa bình, bởi vì ngài là một người nghèo khó đích thực của Thiên Chúa. Có lẽ ai trong chúng ta cũng còn nhớ cái giai thoại sau đây:
Vì đã đem hết gia tài phân phát cho kẻ nghèo đói, nên ngài đã bị người cha đem ra tòa, đòi phải từ bỏ mọi tài sản mà gia đình muốn để lại. Không một chút do dự, Phanxicô đã trút bỏ áo quần để trả lại cho người cha như một biểu tượng của tài sản cuối cùng mà ngài nhận được từ gia đình. Và cũng từ đó, Phanxicô đã trở thành người nghèo khó đích thực của Thiên Chúa.
Thế nhưng, ngài có tất cả mọi sự, bởi vì ngài có Thiên Chúa làm gia nghiệp. Một khi đã có Thiên Chúa thì ngài cũng có được niềm vui trọn vẹn. Cho nên, ngài không những có sự bình thản trong tâm hồn mà còn có sự hòa hợp với người khác và ngay cả với thiên nhiên. Hòa bình trong chính bản thân, hòa bình với tha nhân đó chính là cái lý tưởng mà ngài đã để lại cho thế giới.
Chúng ta cũng hãy chiêm ngưỡng Mẹ Maria, Nữ Vương Hòa Bình. Giáo hội có thói quen cử hành ngày hòa bình thế giới vào ngày đầu năm dương lịch kính Mẹ Thiên Chúa. Sở dĩ chúng ta gọi Mẹ là Nữ Vương Hòa Bình, bởi vì Mẹ là người nữ tì khiêm hạ và khó nghèo của Thiên Chúa. Mẹ đã trút bỏ mọi sự để trở thành trống rỗng và rồi được chính Thiên Chúa lấp đầy.
Như thế, người xây dựng hòa bình là người được Thiên Chúa lấp đầy tâm hồn mình. Cũng như Mẹ Maria và thánh Phanxicô, chúng ta cũng được mời gọi trút bỏ mọi sự. Tinh thần nghèo khó đích thực cũng chính là một thể hiện của tinh thần hòa bình. Bởi vì, khi con người không còn màng đến bất cứ một thứ riêng tư nào, khi con người không còn muốn chiếm hữu bất cứ một thứ của cải nào, thì lúc đó con người có thể bình thản đến với Chúa và với anh em.
Hòa bình là một cuộc ra đi không ngừng và ra đi là để đến với Thiên Chúa và đến với người khác, bằng tha thứ, bằng yêu thương, bằng giúp đỡ.
Bởi vì, Như lời thiên thần đã hát vang trong đêm Giáng sinh: Bình an dưới thế cho người thiện tâm.
Có một chàng thanh niên sống bê tha và tội lỗi. Anh cảm thấy chán nản và tuyệt vọng… Trong cơn khủng hoảng ấy, tình cờ anh đã bước vào một ngôi nhà thờ và đến ngồi trước tượng Đức Mẹ. Anh không thuộc một lời kinh nào để cầu nguyện và anh cũng chẳng biết Đức Mẹ là ai. Vì thế anh đã thốt lên:
– Nếu Ngài quả thực hiện diện nơi đây, thì xin hãy làm cho con được tin.
Bỗng dưng như có một làn gió mát thổi vào tâm hồn và anh cảm thấy được bình an và sau đó đã làm lại cuộc đời mình.
Từ câu chuyện trên chúng ta nhận thấy Mẹ Maria không phải chỉ là Mẹ Thiên Chúa, mà còn là mẹ của mỗi người chúng ta. Mẹ hằng yêu thương, chăm sóc và giúp đỡ chúng ta.
Khi sinh Đức Kitô, thì đồng thời, Mẹ cũng sinh ra một nhân loại mới, như lời thánh Phaolô đã xác quyết: Khi thời gian viên mãn, Thiên Chúa sai Con Ngài xuống thế, sinh làm con một người nữ và sống dưới chế độ luật Do Thái để cứu chuộc những người sống dưới luật đó, hầu chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa.
Và Công đồng Vat. II đã diễn tả: qua mầu nhiệm nhập thể, Con Thiên Chúa đã tự liên kết mình với mọi người. Ngài làm việc bằng đôi tay, suy nghĩ bằng khối óc, hành động bằng sự chọn lựa và yêu thương bằng trái tim loài người. Sinh ra từ lòng Đức Trinh Nữ Maria, Ngài thực sự trở thành một người trong chúng ta, hoàn toàn giống như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi.
Đức Maria là mẹ chúng ta, nên Mẹ luôn nâng đỡ bầu cử cho chúng ta trước mặt Chúa. Không biết đến Mẹ là không biết đến món quà quí giá mà Thiên Chúa đã ban tặng, đó chính là tình mẫu tử của Mẹ Maria đối với chúng ta.
Điều này khiến chúng ta nghĩ tới năm mới. Năm mới với niềm hy vọng mới, với cuộc đời mới, là cơ hội để chúng ta bắt đầu lại. Năm cũ đã qua rồi, năm mới như trang giấy mở rộng trước mắt chúng ta. Thật là thích hợp khi Giáo Hội chọn ngày đầu năm để mừng kính Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa. Sự kiện này nhắc chúng ta nhớ đến tình mẫu tử của Me, nhớ đó chúng ta có được niềm hy vọng mới và cuộc đời mới.
Nếu chúng ta đang tìm cho mình một hướng đi trong năm mới, thiết thưởng không một hướng đi nào vừa bảo đảm lại vừa tốt đẹp cho bằng hãy chạy đến với Đức Maria. Với chức vụ làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ có đủ khả năng để bầu cử và giúp đỡ chúng ta. Với địa vị làm mẹ chúng ta, ẹ có dư tình thương, để sẵn sàng thực hiện những điều chúng ta van xin, vì vậy chúng ta vốn thường đọc:
– Xưa nay chưa từng nghe nói có người nào chạy đến kêu xin cùng Mẹ mà Mẹ chẳng nhận lời.
Hay như thánh Bernado cũng đã bảo:
– Kêu xin Mẹ, chúng ta sẽ không bao giờ bị lầm được lạc lối.
Bởi đó trong giây phút linh thiêng này, chúng ta hãy đặt trót 365 ngày của năm mới này dưới sự che chở và nâng đỡ của Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và Mẹ chúng ta.
Hãy cho trẻ em một tương lai hoà bình.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Từ xưa, khi mừng lễ Giáng Sinh, Giáo Hội vẫn chú tâm đến Đức Maria và không ngừng chiêm ngắm khuôn mặt của Đức Mẹ bên cạnh máng cỏ Hài Nhi Giêsu.
Nhưng ngày đầu năm dương lịch hôm nay, Giáo Hội mừng kính đặc biệt Đức Maria với tước hiệu là Mẹ Thiên Chúa. Và từ năm 1968, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI lại dành ngày đầu năm dương lịch để cầu nguyện cho hoà bình thế giới.
Thưa anh chị em,
Nhìn vào hang đá, ai lại không nói rằng Đức Maria là Mẹ của Chúa Giêsu. Và sở dĩ chúng ta chú ý đến máng cỏ là vì Hài Nhi Giêsu nằm đó là chính Thiên Chúa Nhập Thể làm người, là con của Đức Maria. Thiên Chúa hằng hữu, tự mình mà có và không ai sinh ra Ngài. Nhưng nay Thiên Chúa đã sinh làm người, sinh bởi một người nữ, một người mẹ. Đức Maria đã sinh ra Chúa Giêsu, nên Đức Maria cũng là Mẹ Thiên Chúa. Giáo Hội luôn kêu cầu Mẹ: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời”.
Trong Tin Mừng hôm nay, Mẹ Maria hiện ra như là một từ mẫu ghi sâu tất cả những gì liên hệ đến Con của mình và suy đi nghĩ lại trong lòng. Quả thật, người mẹ nào không tự hỏi về tương lai của con mình? Bất cứ dấu hiệu nào cũng khiến người mẹ suy nghĩ. Đức Maria không suy đi nghĩ lại sao được khi thấy các mục đồng đến thăm và kể chuyện về các thiên thần hiện ra ban đêm báo tin cho họ? Và Mẹ có thể nào không suy nghĩ về danh “Giêsu” (Chúa Cứu) mà từ nay theo lệnh sứ thần, Mẹ sẽ dùng để gọi Con mình. Chính sứ thần đã giải thích trong buổi truyền tin: “Bà sẽ gọi Con Trẻ là Giêsu. Ngài sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối Cao. Chính Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai báu vua Đavít, cha Ngài, và Ngài sẽ cai trị trong nhà Giacob đến muôn đời”. Những lời đó không đơn giản dễ hiểu. Nội dung chắc chắn vô cùng phong phú. Maria dĩ nhiên phải suy đi nghĩ lại trong lòng.
Anh chị em thân mến,
Chính lúc một người mẹ trần gian gọi Thiên Chúa bằng con, thì trên trời các thiên thần ca hát: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, hoà bình dưới thế cho loài người Chúa thương”. Con Thiên Chúa gọi một người nữ bằng mẹ, để tất cả những ai sinh ra bởi người nữ, dù ở địa vị nào, giai cấp nào, đều được gọi Thiên Chúa là Cha và gọi nhau là anh em. Chúa Giêsu là Thiên Chúa làm người để làm “ôTrưởngam giữa một đoàn em đông đúc” (Rm 8,29) và “không còn phân biệt Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, nam hay nữ, vì tất cả chỉ là một trong Đức Kitô Giêsu” (Gl 3,28).
Trong lòng Trinh Nữ Maria, Thiên Chúa và con người đã gặp lại nhau, và con người đã gặp lại con người. Đó là vinh danh Thiên Chúa trên trời. Đó cũng là hoà bình dưới đất cho loài người. Vì thế, hôm nay được chọn làm ngày Thế Giới Cầu Nguyện Cho Hoà Bình. Chủ đề của sứ điệp Ngày Thế Giới Hoà Bình năm nay (1996) là: “Hãy cho trẻ em một tương lai hoà bình”. Thế giới chúng ta, kể cả thế giới của các tôn giáo, là thế giới của người lớn, của những kẻ thích làm lớn. Thế giới của chúng ta là thế giới mà trẻ thơ bị xua đuổi, bị loại trừ, nhiều khi ngay từ khi chúng mới chỉ là những bào thai, và nếu như không kịp bị huỷ hoại, thì cũng bị bỏ rơi khi mới chào đời. Còn những em nào lớn lên, thì sẽ bị khai thác bóc lột, kể cả khai thác trong cái “kỹ nghệ” tội ác, đó “du lịch tình dục”.
Đức Thánh Cha đã viết: “Những gì xảy ra cho Hài Nhi Giêsu ở Bêlem cũng đang xảy ra cho các trẻ em trên khắp thế giới. Có biết bao trẻ em đang là nạn nhân của đói khổ, của chiến tranh, đang bị cha mẹ bỏ rơi, đang sống cảnh màn trời chiếu đất, đang đau khổ vì biết bao hình thức bạo động và xung đột của người lớn”.
Để có một vài con số cụ thể, chúng ta chỉ cần lắng nghe báo cáo của tổ chức Nhi Đồng Quốc Tế (UNICEF) về tình trạng trẻ em trên thế giới năm 1995 như sau: “Trong những thập niên cuối của thế kỷ 20 đang có khoảng 2 triệu trẻ em chết vì chiến tranh, từ 4 đến 5 triệu tật nguyền, hơn 5 triệu sống trong các trại tỵ nạn, trên 12 triệu sống cảnh không nhà không cửa”. Bản báo cáo ước tính cần phải có ít nhất 34 tỷ Mỹ kim mới có thể đảm bảo các nhu cầu về dinh dưỡng, sức khoẻ, giáo dục cho các trẻ em trên khắp thế giới.
Đức Thánh Cha kêu gọi người lớn chúng ta “Hãy cho trẻ em một tương lai hoà bình”. Tương lai hoà bình của trẻ em phải là một vấn đề chiến lược của thế giới, vấn đề chính sách của quốc gia. Các nhà lãnh đạo thế giới và các nhà cầm quyền quốc gia phải chịu trách nhiệm trước nhân loại và dân tộc mình về thảm trạng của các trẻ em.
Tuy nhiên, chính những người Kitô hữu cũng cần phải ý thức rằng, với tư cách là cha mẹ, là anh chị em, là người thân trong gia đình, tất cả chúng ta đều là những người trước tiên có trách nhiệm đối với con em chúng ta. Sống cho con cái, nuôi dưỡng và giáo dục chúng nên người, đó là trách nhiệm hàng đầu của bậc cha mẹ để tạo cho trẻ em một tương lai hoà bình.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta hãy suy nghĩ về tương lai hoà bình của các trẻ em như Đức Maria hằng suy đi nghĩ lại trong lòng về những gì liên hệ đến Con của Mẹ. Mẹ suy nghĩ về Danh “Giêsu” có nghĩa là “Cứu Thế”. Danh đó phải được kêu cầu trên con cái loài người, để phúc lộc phong phú cụ thể là chính Thánh Thần mà Thiên Chúa muốn đổ xuống lòng mọi người trong năm mới, để khi chúng ta gọi Chúa là Cha thì chúng ta thấy mình là anh em với nhau (x. Bđ 2), để sống yêu thương nhau, cùng nhau xây dựng tương lai hoà bình và hạnh phúc cho mọi người anh em.
Nhân loại mới – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Tám ngày sau khi sinh, Chúa Giêsu được dâng vào đền thờ, chịu phép cắt bì và được đặt tên theo luật Do thái. Đối với người Do thái, tên là người. Vì thế việc đặt tên có ý nghĩa quan trọng. Giêsu có nghĩa là Thiên-Chúa-cứu. Chúa Giêsu là Thiên Chúa. Con người không thể sinh ra Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa tự nguyện làm con loài người. Nhờ đó Đức Mẹ trở thành Mẹ Thiên Chúa. Sinh ra Chúa Giêsu, Đức Mẹ sinh ra một nhân loại mới để cứu nhân loại cũ do bà Evà sinh ra, đã hư hỏng vì tội lỗi.
Đức Mẹ sinh ra nhân loại mới. Bà Evà sinh ra nhân loại cũ. Nhân loại cũ được sinh ra từ đất thấp. Thiên Chúa muốn nâng con người lên trời cao. Nhưng đất thấp lôi kéo con người chìm xuống. Vì thế con người đã từ địa vị con cái rơi xuống thân phận nô lệ. Trái lại, Đức Mẹ sinh ra một nhân loại mới. Nhân loại mới sinh xuống từ trời cao. Chúa Giêsu là Adam mới, từ trời hạ mình xuống để nâng con người lên. Giải thoát khỏi tình trạng nô lệ. Phục hồi địa vị làm con Thiên Chúa.
Đức Mẹ sinh ra Chúa Giêsu do lời chúc phúc. Bà Evà sinh con do lời chúc dữ. Sau khi hai ông bà nguyên tổ phạm tội, Thiên Chúa đã tuyên án cho bà Evà: “Ta sẽ làm cho ngươi phải cực nhọc thật nhiều khi thai nghén; ngươi sẽ phải cực nhọc lúc sinh con.” (St 3,16). Trái lại, Đức Mẹ sinh ra Chúa Giêsu do lời chúc phúc như lời Thiên sứ: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng.” Và bà thánh Êlizabeth nói: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc.” (Lc 1,42).
Đức Mẹ sinh con bởi phép Chúa Thánh Thần. Bà Evà sinh con do xác thịt. Như lời Thiên Chúa nói: “Ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi.” (St 1,16). Trái lại, Đức Mẹ sinh con bởi phép Chúa Thánh Thần. Như lời Thiên thần truyền: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà… vì thế Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.” (Lc 1,35). Nếu nhân loại cũ được sinh ra theo xác thịt thì nhân loại mới được sinh ra “không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa” (Ga 1,13).
Đức Mẹ quảng đại sinh ra người con quên mình. Bà Evà ích kỷ sinh ra Cain là đứa con ham hố. Vì muốn chiếm vị trí trung tâm, nó đã đẩy em là Abel ra vùng ngoại vi. Loại trừ em. Giết chết em. Trái lại, Đức Mẹ quảng đại sinh ra một người con quên mình. Chúa Giêsu là người anh cả, từ bỏ vị trí trung tâm, đi ra vùng ngoại biên nghèo khổ. Người tự hiến mạng sống, để đưa chúng ta là đàn em trở lại vị trí trung tâm, trong cung lòng Thiên Chúa.
Đức Mẹ mở lòng đón nhận sinh ra một thế giới huynh đệ. Bà Evà đóng kín vào bản thân, sinh ra những đứa con chia rẽ bất hoà. Tháp babel khiến cộng đồng nhân loại tan rã. Trái lại, Đức Mẹ mở lòng đón nhận, nên đã sinh ra Chúa Giêsu là nhân loại mới sống chan hòa tình huynh đệ. Đón tiếp mục đồng là những người nghèo khổ. Đón tiếp ba vua là những người xa lạ. Để tất cả trở thành anh em một nhà.
Đức Mẹ vâng phục sinh người con hiếu thảo. Bà Evà phản loạn sinh ra những đứa con bất hiếu, chối bỏ Thiên Chúa là Cha. Trái lại, Đức Mẹ vâng phục nên đã sinh Chúa Giêsu là người con hiếu thảo. Nhờ luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha, Chúa Giêsu qui tụ người muôn nước sống hài hoà dưới mái nhà Cha chung trên trời. Và nhờ đó ta được hưởng hạnh phúc với Chúa như lời thư Galát: “Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cùng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa.”
Ngày đầu năm ta mong ước những điều mới mẻ. Nhưng thế giới chỉ đổi mới khi có những con người mới. Điều quan trọng là bản thân ta đổi mới. Chính vì thế Giáo hội cầu bình an và đặt năm mới trong bàn tay Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa.
Như xưa Mẹ đã sinh ra Chúa Giêsu, khởi đầu nhân loại mới, nay xin Mẹ cũng sinh lại chúng ta. Để chúng ta trở nên con người mới. Vượt thoát những tầm thường ti tiện của đất thấp, để được sinh lại thanh thoát từ trời cao. Thoát khỏi lời chúc dữ để được sinh lại tràn đầy ân sủng do lời chúc phúc. Thoát khỏi ràng buộc của xác thịt nặng nề để được sinh lại trong Thần Khí tự do.
Con người mới theo khuôn mẫu Chúa Kitô sẽ biết quảng đại cho đi. Biết ra đi đến những miền ngoại biên, gặp gỡ những anh em bị loại trừ, đưa con người trở về vị trí trung tâm. Con người mới sẽ biết mở lòng đón nhận mọi anh em dù khác biệt. Xây dựng thế giới thành một gia đình thân thương, biến thế giới thành một mái nhà chung bình an hạnh phúc. Mọi người trở thành anh em con cùng một Cha trên trời.
Như thế nhân loại được đặt trong bàn tay Thiên Chúa. Và thế giới được chúc phúc như lời Chúa hứa trong sách Dân Số: “Chúc như thế là đặt con cái Israel dưới quyền bảo trợ của Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng.” Đó chính là nhân loại mới. Đó chính là trời mới đất mới. Đó chính là niềm bình an hạnh phúc ta mơ ước.
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, Chúa sinh xuống trần để mở ra kỷ nguyên mới. Xin cho con biết sinh lại thành con người mới. Để góp phần xây dựng thế giới an bình hạnh phúc trong tình huynh đệ chân thành. Amen.
Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
CƯU MANG VÀ SINH HẠ MỘT THẾ GIỚI MỚI.
Hôm nay các mục đồng vào hang đá và nhận thấy một Hài Nhi sơ sinh nằm trong máng cỏ. Hài Nhi Giêsu chào đời khai sinh một thế giới mới. Đức Mẹ đã sinh ra một con người mới.
Đức Mẹ sinh ra một thế giới mới để sửa chữa thế giới cũ do Evà sinh ra. Thế giới cũ của bà Evà là một thế giới đổ vỡ. Từ chỗ bất tuân lệnh Thiên Chúa, thế giới đã đi đến chỗ bất hoà với nhau: ông Adong đổ lỗi cho bà Evà, bà Evà đổ lỗi cho con rắn. Không những bất hoà với nhau mà còn bất hoà cả với súc vật, cỏ cây, ruộng đất. Và từ chỗ bất hoà đi đến bất hạnh: Anh em Cain và Aben giết lẫn nhau. Con người phân tán, chia rẽ. Thế giới đổ vỡ này phát sinh từ lòng kiêu ngạo và thói ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân mình.
Thế giới mà Đức Mẹ sinh ra là một thế giới vâng phục Thiên Chúa. Chúa Giêsu hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha nên đã sinh xuống thế làm người và từ bỏ ý riêng, sẵn sàng vâng phục thánh ý Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên thập giá. Đức Mẹ vâng phục thánh ý Thiên Chúa khi thưa “Xin vâng” với thiên thần. Thánh Giuse vâng phục Thiên Chúa nên trở về nhận Đức Mẹ làm bạn. Các mục đồng vâng theo lời thiên thần đến hang Bêlem tìm Chúa. Ba Vua vâng phục theo ánh sáng ngôi sao đến thờ lạy Chúa.
Thế giới mà Đức Mẹ sinh ra là một thế giới hài hoà. Sự hài hoà không phải chỉ có giữa Chúa Giêsu với Đức Mẹ và Thánh Giuse. Cảnh Chúa Giêsu nằm giữa thiên nhiên, trong hơi ấm của bầy chiên bò, với đoàn mục đồng và Ba Vua quây quần chung quanh nói lên một thế giới chung sống hoà bình. Chúa sống hoà hợp với trời đất, với con người và với thiên nhiên. Con người sống hoà hợp với Chúa và với nhau.
Thế giới mới mà Đức Mẹ sinh ra là một thế giới quên mình. Chúa Giêsu đã quên địa vị mình là Thiên Chúa để xuống ở với nhân loại. Chúa Giêsu đã quên mình là Đấng thánh thiện để đến với người tội lỗi. Chúa đã quên mình là Thầy, là Cha, nên quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, các con cái của mình. Và nhất là Chúa đã quên mình là vô tội đến nỗi sẵn lòng hiến thân chịu chết cho loài người tội lỗi. Thánh Giuse và Đức Mẹ quên mình để đi vào chương trình của Thiên Chúa. Mục đồng quên mình, giữa đêm khuya lạnh lẽo, bỏ giấc ngủ đến tìm Chúa. Ba Vua quên mình bỏ nhà cửa tiện nghi, lên đường, chịu vất vả khó nhọc đến thờ lạy Chúa. Sự quên mình, quan tâm lo lắng chăm sóc cho người khác đã khai sinh một thế giới mới chan chứa tình yêu thương và ấm áp sự hoà thuận. Đó chính là cảnh thái bình đáng mong ước.
Ngày đầu năm mới, Giáo Hội mừng kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, với mong muốn thế giới luôn được sinh lại, được đổi mới. Chỉ khi sinh lại trong Chúa và trong Đức Mẹ, thế giới mới thực sự có hoà bình.
Ngày đầu năm mới, Giáo Hội mừng kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, với mong muốn đặt thế giới vào tay Đức Mẹ để thế giới luôn được sinh lại, được đổi mới. Chỉ khi sinh lại trong Chúa và trong Đức Mẹ, thế giới mới thực sự có hoà bình.
Ngày đầu năm mới, Giáo Hội cầu nguyện cho hoà bình thế giới, mong ước con người hãy biết sống hài hoà với nhau trong vâng phục Thiên Chúa, trong quên mình vì người khác để có một nền hoà bình thực sự trường cửu. Vì hoà bình không chỉ là vắng bóng chiến tranh nhưng còn là con người sống hài hoà trong tình tương thân tương ái.
Ngày đầu năm mới, Giáo Hội cũng mời gọi tất cả mọi người chúng ta hãy cùng với Đức Mẹ cưu mang và góp phần sinh hạ một thế giới mới. Cưu mang chắc chắn phải nặng nhọc. Sinh hạ chắc chắn phải đớn đau. Nhưng nếu mỗi người đều noi gương Chúa Giêsu, Đức Mẹ, Thánh Giuse, Ba Vua, các mục đồng và cả súc vật trong hang đá Bêlem biết vâng phục Thiên Chúa, biết sống hài hoà và quên mình thì mới mong kiến tạo được một nền hoà bình viên mãn.
Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con trở nên con người mới, góp phần cưu mang và sinh hạ một thế giới mới như lòng Chúa mong ước. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
Bạn có mơ ước một thế giới mới không? Thế giới đó phải bắt đầu từ đâu trước? Từ chính bạn hay từ người khác?
Thế giới của Đức Mẹ có gì khác thế giới của bà Evà?
Đầu năm mới này, bạn dự tính làm gì để đổi mới thế giới chung quanh bạn?
Nhân loại mới – ĐTGM. Giuse Ngơ Quang Kiệt
Ngày đầu năm mới là một ngày thiêng liêng. Ai cũng mong ước năm mới mọi sự sẽ đổi mới. Sẽ có nhiều thuận lợi hơn trong cuộc sống. Nhất là được sống bình an. Các bài Sách Thánh đặc biệt bài Tin mừng hôm nay mời gọi ta hãy tìm đổi mới trong Chúa Giêsu. Chính Người sinh ra một nhân loại mới. Đó là nhân loại được chúc phúc, được cứu độ và sống trong an bình.
Đó là một nhân loại được chúc phúc. Khi Chúa Giêsu ra đời nhân loại được chúc phúc. Có nhiều dấu hiệu loan báo phúc lành của Chúa. Một làn ánh sáng từ trời soi sáng cánh đồng Bêlem. Xuất hiện muôn vàn thiên sứ hát mừng trên trời cao. Chúa Giêsu đem phúc lành của Thiên Chúa đến cho nhân loại. Chúa Giêsu chính là phúc lành tuyệt hảo của Thiên Chúa. Chúa Giêsu là món quà cao quí nhất Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại. Mang lấy bản tính nhân loại, Chúa Giêsu làm cho nhân loại được chúc phúc bằng những phúc lành phong phú nhất của Thiên Chúa.
Đó là một nhân loại được cứu độ. Con trẻ được đặt tên là Giêsu. Tên Giêsu có nghĩa là Thiên Chúa cứu. Chúa Giêsu đi vào tận những tù ngục giam hãm để giải cứu con người. Người sinh ra làm một trẻ thơ để nâng đỡ những con người bé nhỏ. Người sinh trong cảnh thiếu thốn để nâng lên những ai nghèo hèn. Người bị bạo vương Hêrôđê săn đuổi để đứng về phía những người bị áp bức. Người sinh ra trong chuồng súc vật tăm tối để trân trọng những ai bị loại trừ. Người là Con Thiên Chúa xuống thế làm người để nâng con người lên làm con Thiên Chúa. Thật là một cuộc đổi mới không ai có thể ngờ tới.
Đó là một nhân loại sống trong hòa bình. Đêm Chúa Giáng Sinh trời đất giao hòa. Trời Bêlem sáng lên. Thiên nhiên trở nên xinh đẹp. Các thiên thần làm đầy không gian bằng những bài ca tuyệt diệu của cõi thiên đàng. Các mục đồng vui tươi hớn hở loan truyền tin vui. Cả một bầu khí hòa bình tỏa ra chung quanh Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đến tái lập trật tự. Trật tự đó là con người và vạn vật vâng phục Thiên Chúa. Luật lệ phát xuất từ con người luôn gây ra tranh chấp. Vì con người chỉ nghĩ đến tư lợi hạn hẹp của riêng mình. Mọi luật lệ muốn công bằng và lâu bền phải qui về Thiên Chúa. Thiên Chúa ban hòa bình thực sự. Hòa bình trong công lý. Công lý là những người bé nhỏ, yếu ớt phải được tôn trọng. Chúa Giêsu tự nguyện làm trẻ nhỏ sơ sinh chính là một nền hòa bình trong vâng phục Thiên Chúa và là công lý kêu gọi kính trọng bảo vệ những kẻ yếu hèn.
Hòa bình như thế không phải là một trật tự im lìm. Trật tự im lìm chỉ có trong nghĩa địa hay nhà tù. Đó là trật tự chết chóc, tàn lụi. Trái lại hòa bình là một năng động, là một sức sống, là sự phấn đấu không ngừng.
Ta hãy chiêm ngắm tấm gương của các mục đồng. Các mục đồng đã biết lắng nghe sứ điệp hòa bình dù giữa đêm hôm mùa đông đang say ngủ. Nghe biết sứ điệp hòa bình rồi, các mục đồng vội vã đi tìm Chúa Giêsu là nguồn mạch hòa bình, dù phải bỏ giấc ngủ, dù phải đi ngoài trời lạnh giá. Sau khi gặp Chúa, các mục đồng ra đi loan truyền sứ địêp hòa bình cho mọi người. Đó chính là những phấn đấu không ngừng cho hòa bình.
Chúng ta đặt năm mới này vào tay Đức Mẹ. Xưa Đức Mẹ đã sinh ra Đấng Cứu Thế mở đầu một nhân loại mới, nay xin Đức Mẹ cũng cho năm mới này được chúc phúc, được cứu độ và được hòa bình. Chúng ta cũng cầu nguyện cho mọi người biết noi gương mục đồng, luôn lắng nghe sứ điệp hòa bình, luôn phấn đấu đi tìm đến nguồn mạch hòa bình và luôn phấn khởi loan tin mừng hòa bình.
Lạy Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, xin cầu cho chúng con. Amen.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một bà mẹ có người con trai bỏ mình trong chiến tranh. Bà không thể nào quên được người con đó. Nỗi sầu thương cứ mãi mãi vương vấn tâm hồn bà. Bà luôn cầu nguyện để được gặp lại con, dù chỉ trong năm phút.
Một hôm, Chúa sai thiên thần báo cho bà chuẩn bị gặp lại con. Những giọt lệ bỗng biến thành niềm vui, bà thúc giục thiên thần cho bà gặp lại con ngay. Nhưng thiên thần bảo bà:
– Bà hãy bình tĩnh. Con bà đã là một người trưởng thành. Con bà đã chết 30 năm nay, bà muốn gặp nó vào tuổi nào: như một người lính chiến ngoài mặt trận, hoặc như một đứa bé chạy nhảy trên sân trường, hay như một em bé nép mình trong lòng bà?
Không do dự, bà muốn được gặp lại con như một đứa trẻ nhỏ đến xin lỗi bà vì đã không ngoan, một đứa bé yếu đuối, nước mắt chảy ràn rụa chạy đến và ngả vào lòng bà. Đó là hình ảnh mà bà không thể nào quên được về đứa con của bà.
Anh chị em thân mến,
Trong mùa Giáng Sinh, chúng ta có dịp chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ. Chúng ta không thể nhìn thấy Chúa Giêsu mà quên Đức Maria bên cạnh Ngài. Chào đời như một hài nhi, có lẽ Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng Ngài cần có một người mẹ để được cưu mang, được sinh ra, được lớn lên như một con người. Có thể nói, mùa Giáng Sinh cũng là mùa lễ Đức Mẹ. Đặc biệt ngày đầu năm Dương lịch hôm nay, phụng vụ muốn tôn kính Đức Maria với tước hiệu là Mẹ Thiên Chúa. Và từ năm 1968 Đức Giáo Hoàng Phaolô VI lại dành ngày 1 tháng Giêng nầy để cầu nguyện cho hoà bình thế giới. Chủ đề của ngày Hoà Bình Thế Giới năm nay cũng đề cập đến vai trò của người phụ nữ, người mẹ: “Phụ nữ, nhà giáo dục hoà bình”.
Nhìn vào hang đá, ai lại không nói rằng Đức Maria là Mẹ của Chúa Giêsu. Và sở dĩ chúng ta chú ý đến máng cỏ là vì Hài Nhi Giêsu nằm đó là chính Thiên Chúa nhập thể làm người, là con của Đức Maria. Trong mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người, Đức Maria đã có một vai trò đặc biệt, vì Người được chọn làm Mẹ Đức Giêsu Kitô, là Thiên Chúa. Thiên Chúa hằng hữu, tự hữu, không ai sinh ra Thiên Chúa. Nhưng nay, Thiên Chúa đã sinh ra làm người. Đức Maria đã sinh ra Đức Giêsu là người thật và là Thiên Chúa thật, nên Đức Maria cũng là Mẹ của Thiên Chúa. Ở những thế Kỷ III-V, có những lạc giáo phủ nhận tước hiệu Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, khiến phụng vụ nhấn mạnh hơn đến tước hiệu nầy.
Chúng ta đừng sợ tước hiệu nầy xúc phạm đến Thiên Chúa cao cả. Ngài đã chấp nhận giáng trần để trở nên hoàn toàn như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Ngài đã chấp nhân mọi luật lệ sinh sống, đau khổ và tử nạn, thì sao ta lại sợ nói phạm đến Ngài khi bảo Ngài là con của một người mẹ? Ngài đã gọi chúng ta là anh em và muốn là bạn hữu của mọi người, và chúng ta lấy đó làm vinh dự, thì chúng ta càng không có lý khi không muốn tuyên xưng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Suy nghĩ kỹ, chúng ta chỉ có thể thấy đây là một vinh dự lớn lao cho một người trong loài người chúng ta: Mẹ Maria. Chúng ta phải hân hoan chúc tụng Mẹ là Đấng đầy ơn phúc: “Thánh Maria, Đức Mẹ chúa Trời”.
Trong Tin Mừng hôm nay, Mẹ Maria hiện ra như là một từ mẫu ghi sâu tất cả những điều về Con và suy đi nghĩ lại trong lòng. Quả thật, người mẹ nào nào không tự hỏi về tương lai của con mình? Bất cứ dấu hiệu nào cũng khiến người mẹ suy nghĩ. Đức Maria không suy đi nghĩ lại sao được khi thấy các mục đồng đến thăm và kể chuyện về việc các thiên thần hiện ra ban đêm báo tin cho họ? Và Mẹ có thể nào không suy nghĩ về danh “Giêsu” mà từ nay theo lệnh sứ thần, Mẹ sẽ dùng để gọi con mình. Chính sứ thần đã giải thích trong buổi truyền tin: “Bà sẽ gọi con trẻ là Giêsu. Ngài sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối Cao. Chính Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai báu Đavít, Cha Ngài và Ngài sẽ cai trị trong nhà Giacóp đến muôn đời”. Những lời đó không đơn giản, dễ hiểu. Nội dung chắc chắn vô cùng phong phú, Maria dĩ nhiên phải suy đi nghĩ lại trong lòng.
Hôm nay, các mục đồng lại kể thêm về các lời của thiên sứ. Hài Nhi trong máng cỏ là Đấng Cứu Thế, các thiên thần đã xướng ca: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”. Như vậy, Giêsu, Con của Đức Maria thực hiện lời tiên tri hứa cùng nhà Đavít. Ngài sẽ đem lại hoà bình cho Dân Chúa và vinh quang cho Thiên Chúa. Đức Maria hôm nay gẫm suy những điều ấy. Đấng Cứu Thế đem lại hoà bình, và Vua Hoà Bình. Nhưng tại sao trên thế giới hiện nay vẫn còn chiến tranh, tranh chấp, xung đột? Vì vậy, Đức Giáo Hoàng kêu gọi chúng ta hằng năm vào ngày đầu năm Dương lịch nầy hãy suy nghĩ và cầu nguyện cho hoà bình thế giới. “Phụ nữ, nhà giáo dục hoà bình”, đó là chủ đề được Đức Thánh Cha chọn cho ngày Hoà Bình Thế Giới năm 1995. Với chủ đề nầy, người ta muốn trước tiên công nhận vai trò không thể thiếu mà người phụ nữ có thể đóng góp cho hoà bình, như qua việc thường xuyên giáo dục giới trẻ, hay qua sự chống đối những hoàn cảnh bạo lực thường xảy ra. Qua chủ đề nầy, Đức Giáo Hoàng cũng ước ao vọng lên một lời mời cấp bách, thôi thúc các chị em phụ nữ này càng trở thành những người xây dựng không mệt mỏi trong khuôn khổ gia đình mình cũng như trong các tổ chức xã hội.
Thưa anh chị em,
Đất nước chúng ta đã thoát khỏi những năm chiến tranh. Nhưng chúng ta vẫn còn nhiệm vụ phải suy nghĩ về hoà bình. Bởi vì hoà bình không phải chỉ là chấm dứt chiến tranh. Hoà bình còn là xây dựng bình đẳng, ấm no, thịnh vượng, hạnh phúc nữa. Phần tích cực có thể nói còn gồm nhiều mặt hơn phần tiêu cực. Vả lại, hết chiến tranh cũng chưa phải là đã hết những hậu quả của chiến tranh là những thương tích, đổ vỡ vật chất và tinh thần. Chúng ta phải cải tạo cái cũ, xây dựng cái mới. Hoà bình hạnh phúc phải là khí thở của mọi người trên thế giới. Chúng ta đóng góp được gì? Hãy suy nghĩ về hoà bình như Đức Maria hằng suy đi nghĩ lại trong lòng. Người suy nghĩ về danh “Giêsu”, có nghĩa là cứu thế. Danh đó phải được kêu cầu trên con cái loài người, để phúc lộc được đổ xuống trên các dân (X.Bđ.1) và phước lộc phong phú cụ thể là chính Thánh Thần mà Thiên Chúa muốn đổ xuống lòng mọi người, để khi chúng ta gọi Chúa là Cha thì chúng ta Thấy mình là anh em với nhau (X. Bđ.2), để sống hoà thuận yêu thương nhau, sống vì hạnh phúc của anh em mình. Yêu hoà nình thì phải xây dựng công bằng, bác ái, phải kiến tạo bình đẳng, ấm no, thịnh vượng, hạnh phúc. Hoà bình đòi phải phấn đấu và đấu tranh, để tiêu diệt cái xấu và phát triển cái tốt. Rất nhiều công tác cụ thể đang ở tầm tay mỗi người chúng ta. Hết thảy chúng ta hãy tích cực, để không chỉ nói hoà bình nhưng muốn xây dựng hoà bình. Trong này Thế Giới Hoà Bình hôm nay và là ngày lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, chúng ta xin Đức Maria là Nữ Vương Hoà Bình ban cho chúng ta, cho các gia đình, cho cộng đoàn giáo xứ, nền hoà bình của Chúa Kitô – Hoà bình mà Đấng Cứu Thế, Con của Mẹ Maria đã đem xuống trần gian cho loài người trong đêm Giáng Sinh, để chúng ta biết sống hoà thuận yêu thương nhau, đoàn kết xây dựng hoà bình trên quê hương đất nước và trên toàn thế giới.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)
Đối với Giáo Hội Chính Thống, tước hiệu nổi bật nhất của Mẹ là “Mẹ Thiên Chúa”, trong khi đó đối với Giáo Hội Công Giáo, Mẹ Maria trước tiên là Mẹ của loài người.
Hai khía cạnh này của Mẹ Maria được làm nổi bật qua phụng vụ và nghệ thuật của hai Giáo Hội. Một bên những bức ảnh Icon của Giáo Hội Chính Thộng làm cho người ta nghĩ đến Đức Mẹ như một vị thần ngự trị trên Thiên Quốc hơn là người phàm. Đàng khác, trong Giáo Hội Công Giáo các bức tranh và tượng ảnh về Mẹ Maria xem ra nhấn mạnh đến khía cạnh nhân loại của Mẹ. Khía cạnh nhân loại này thường được chọn làm chân dung của Đức Mẹ. Như vậy, trong việc tôn kính chính thức của Giáo Hội cũng như trong tâm tình của người bình dân, tính siêu việt lẫn nhân trần của Mẹ Maria đều được nêu bật.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trân trọng cả hai truyền thống tôn kính này đối với Mẹ Maria. Ngài kêu gọi Âu Châu hãy thở bằng hai buồng phổi, một của Đông Phương, một của Tây Phương. Một sự dung hòa như thế mới có thể bảo tồn được sự tôn kính đúng đắn dành cho Mẹ Chúa Giêsu.
Trong Phúc Âm thánh Luca, thánh sử nói về các mục đồng như sau: “Họ liền hối hả ra đi, đến nơi họ gặp thấy bà Maria cùng với Giuse và Hài Nhi được bọc trong khăn, đặt trong máng cỏ” (Lc 2,16). Theo các nhà chú giải Kinh Thánh thì đây là một cuộc cách mạng thinh lặng. Thật thế, lần đầu tiên trong Kinh Thánh người ta thấy tên của người Mẹ đặt trước tên của người Cha. Đây không phải là một đoạn tuyệt với truyền thống “trọng nam khinh nữ” của người Do Thái, nhưng tác giả muốn sắp xếp như thế để nói lên tầm quan trọng của người phụ nữ là Mẹ Maria.
Trong Phúc Âm (Mc 10,14), thánh sử ghi lại thái độ của Chúa Giêsu đối với trẻ em, Chúa Giêsu nói như sau: “Hãy để trẻ em đến với Ta và đừng xua đuổi chúng, vì Nước Trời thuộc về những ai nên giống như chúng. Ta bảo các ngươi, ai không đón nhận Nước Trời như một trẻ em thì sẽ không được vào trong Nước ấy”.
Nhưng nên giống như trẻ em là gì nếu không phải là quay trở lại với Mẹ, tín thác nơi Mẹ. Một số nhà thần bí trong Giáo Hội xem đây như là một lời khuyến dụ kín đáo của Chúa Giêsu. Phải chăng Ngài chẳng muốn chúng ta tìm đến với Đấng vì là Mẹ của Con Người, cũng là Mẹ của tất cả mọi người. Dù sao một trong những nghịch lý lớn nhất mà Tin Mừng đề ra là tiến đến trong đời sống thiêng liêng không phải là luật tiến hóa mà là luật của cải hóa.
Các cuộc Đức Mẹ hiện ra của thời hiện đại đã bắt đầu vào năm 1830, tại một cộng đoàn của Dòng Bác Ái Vinh Sơn tại đường Du Bac ở Paris Pháp Quốc, Đức Mẹ đã hiện ra cho thánh nữ Catherine Labouré và ủy thác cho thánh nữ quảng bá việc tôn kính ảnh Đức Mẹ hay làm phép lạ. Lời kinh được truyền phải đọc trong việc tôn kính ảnh Đức Mẹ có nội dung như sau: “Lạy Đức Maria, là Đấng đã được cưu mang mà không vướng mắc tội lỗi, xin cầu cho chúng con là những kẻ có tội chạy đến cùng Mẹ”. Nhờ việc này mà giúp cho Giáo Hội định tín về Đức Mẹ Vô Nhiễm vào năm 1854. Thật ra, đây cũng chỉ là một tước hiệu mà Đức Mẹ đã tự xưng khi hiện ra cho Bernadetta ở hang đá Lộ Đức nước Pháp vào năm 1858.
Thật thế, nếu Mẹ Maria là tạo vật duy nhất trong nhân loại đã được cưu mang mà không mang tỳ vết của tội lỗi, bởi vì tội nguyên tổ là một thực tế chứ không phải là một huyền thoại. Vào thời ấy, cùng với những khám phá và tiến bộ trong lãnh vực khoa học, con người thời đại xác tín một cách kiêu hãnh rằng: khoa học, văn hóa và kỹ thuật rồi ra sẽ biến thế giới thành một thứ thiên đàng trần gian, như vậy nó sẽ khử trừ mọi ý niệm về tội Nguyên Tổ. Với khả năng vô tận của mình, rồi ra con người sẽ tự cứu lấy mình chứ không cần phải trông chờ có một đấng cứu thế nào cả.
Thế nhưng, lịch sử đã diễn ra không như con người của thời đại mơ tưởng, thứ nhân bản chủ nghĩa chối bỏ cái siêu việt của con người đều dẫn đến sự tự hủy cho con người. Hai trận thế chiến là sự hiện hữu hùng hồn nhất về sự hủy hoại con người.
Như vậy, sứ điệp mà Đức Mẹ muốn nhắn gởi cho con người thời đại qua các cuộc hiện ra kể từ năm 1830, trước hết là một sứ điệp về chính tội lỗi của con người. Vì thế, việc tôn kính Đức Mẹ có giá trị giải phóng con người. Dù vậy, Giáo Hội không bao giờ áp đặt việc tôn kính đối với Mẹ Thiên Chúa, nhưng để tùy cảm xúc và sáng kiến của mỗi người tín hữu. Dĩ nhiên, Đức Giáo Hoàng, hàng Giáo Phẩm, các tác giả về tu đức có thể khuyên nhủ các giáo hữu chạy đến với Mẹ Thiên Chúa bằng nhiều hình thức tôn kính khác nhau.
Dựa trên kinh nghiệm ngàn đời của mình, Giáo Hội khuyên các tín hữu tôn kính Mẹ Maria. Tuy nhiên, Giáo Hội không bao giờ buộc phải tôn kính Mẹ Maria, sẽ không bao giờ Giáo Hội buộc tôn kính các lần hiện ra của Đức Mẹ, cho dù Giáo Hội công nhận các việc hiện ra đó. Giáo Hội sẽ không bao giờ áp đặt các việc tôn kính như lần chuỗi, đi hành hương như là việc làm cần thiết cho ơn cứu rỗi. Giáo Hội sẽ không bao giờ xem là lạc đạo hay có tội khi một tín hữu không tham dự cuộc rước kiệu Đức Mẹ, hay một cuộc hành hương đến nơi Đức Mẹ hiện ra. Giáo Hội sẽ không bao giờ chối bỏ ơn cứu rỗi mà các Giáo Hội khác xây dựng trên niềm tin Kitô của họ, như trong các Giáo Hội Tin Lành.
Như vậy, việc tôn kính đối với Mẹ Maria không được nhìn theo phạm trù cần thiết mà là theo phạm trù tự do, không thuộc về lề luật mà thuộc về tình yêu. Chính tính cách tự do ấy lại càng làm nổi bật sự thu hút và những ân huệ đặc biệt của lòng tôn kính đối với Mẹ Thiên Chúa. Mẹ Thiên Chúa xem ra không muốn áp đặt lòng tôn kính dành cho Mẹ, bởi vì Mẹ vốn là người sống âm thầm, Mẹ cất giữ mọi sự và suy niệm trong lòng. Thánh Luca đã hai lần ghi lại như thế trong cùng một chương. Mẹ quả thật nói ít, hay đúng hơn Kinh Thánh nói rất ít về Mẹ, nhưng nhìn cho kỹ thì chính Mẹ lại là người gợi hứng cho Kinh Thánh.
Dĩ nhiên, với sự kín đáo và thinh lặng của Mẹ, các nhà chuyên môn Kinh Thánh đều đồng ý rằng: Các chương nói về đời tư Chúa Giêsu kể từ khi Chúa Giêsu sinh ra thì chính Mẹ là người duy nhất đã biết thời thơ ấu của Chúa Giêsu và kể lại cho cộng đồng tiên khởi. Nhưng vẫn thái độ kín đáo và thinh lặng cố hữu, Mẹ luôn đứng ở đàng sau, chỉ có những ai biết tìm đến và lắng nghe mới có thể nhận ra được sự hiện diện và tầm quan trọng của Mẹ trong Giáo Hội. Đó chính là ý nghĩa của việc tôn kính Mẹ Maria mà các tín hữu Kitô đã dành cho Mẹ ngay từ thời Giáo Hội sơ khai.
(Bài giảng của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI
Lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa, 01.01.2010)
Trong ngày đầu năm mới và cũng là Ngày Quốc Tế Hòa Bình, chúng ta vui mừng cử hành lễ Đức Maria rất thánh, Mẹ Thiên Chúa. Cả hai sự kiện này cùng diễn ra khi chúng ta đang cử hành Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, sinh hạ bởi Đức Trinh Nữ Maria, hòa bình đích thực của chúng ta! Hướng về tất cả anh chị em đang qui tụ nơi đây, đại diện cho mọi dân tộc trên thế giới, đại diện cho Giáo hội Rôma và Giáo hội hoàn vũ, đại diện cho các linh mục và tín hữu, cũng như tất cả mọi người đang hiệp thông với chúng ta qua các phương tiện truyền thanh, truyền hình, tôi muốn lặp lại lời cầu chúc của Cựu Ước: “Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh chị em (x. Ds 6,26). Dưới ánh sáng Lời Chúa, hôm nay, tôi muốn triển khai đề tài: dung mạo của Thiên Chúa và dung mạo của con người, đề tài này cống hiến cho chúng ta chìa khóa để giải thích những vấn nạn hòa bình trên thế giới.
Trong bài đọc I – trích từ sách Dân số và trong Thánh vịnh đáp ca, chúng ta đã nghe một vài cách diễn tả ẩn dụ về dung mạo của Thiên Chúa: “Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh chị em và dủ lòng thương anh chị em (Ds 6,25); “Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin tỏa ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài” (Tv 66/67,2-3). Dung mạo diễn tả rõ ràng nhất về con người, qua đó tình cảm, suy nghĩ và những ý định sâu kín trong tâm hồn được bày tỏ. Thiên Chúa vô hình, theo bản tính của Ngài, nhưng Kinh Thánh vẫn ‘gán’ cho Ngài một “dung mạo”. Trong Kinh Thánh, kiểu nói “tỏ dung nhan” diễn tả lòng nhân từ của Thiên Chúa, trong khi cách nói Thiên Chúa “ẩn mặt” ám chỉ Thiên Chúa nổi giận. Sách Xuất Hành nói: “Đức Chúa đàm đạo với ông Mô-sê, mặt giáp mặt, như hai người bạn với nhau” (Xh 33,11), Ngài hứa sẽ luôn luôn ở bên ông: “Dung nhan của Ta sẽ đi cùng ngươi, và Ta sẽ cho ngươi được nghỉ ngơi” (Xh 33,14). Các Thánh Vịnh diễn tả, các tín hữu là những người tìm kiếm dung nhan Thiên Chúa (x. Tv 26/27,8; 104/105,4). Trong cử hành phượng tự, các Thánh Vịnh diễn tả nỗi khát khao của con người được chiêm ngắm dung nhan Thiên Chúa (Tv 42,3), “người chính trực” sẽ được “chiêm ngắm dung nhan Thiên Chúa” (Tv 10/11,7).
Có thể đọc toàn bộ Thánh Kinh như là một quá trình tiệm tiến, qua đó Thiên Chúa tỏ dung mạo của Ngài ra cho con người và Ngài đã bày tỏ một cách trọn vẹn trong Chúa Giêsu Kitô. “Khi đến thời viên mãn – trong bài đọc II thánh Phaolô nhắn nhủ chúng ta – Thiên Chúa đã sai Con của Ngài (Gl 4,4) và ngay lập tức thánh Tông Đồ nói thêm “sinh bởi người phụ nữ và sinh dưới chế độ lề luật”. Thiên Chúa đã nhận lấy dung mạo của một con người và Thiên Chúa tỏ dung mạo của Ngài trong Người Con của Đức Trinh Nữ Maria. Vì lý do đó, chúng ta tôn kính Đức Maria với tước hiệu cao trọng nhất “Mẹ Thiên Chúa”. Đức Maria đã gìn giữ trong tâm hồn mầu nhiệm thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa và Mẹ là người đầu tiên được chiêm ngưỡng dung mạo Thiên Chúa, Đấng đã trở thành người phàm trong lòng Mẹ. Người mẹ có mối tương quan đặc biệt, duy nhất và đôi khi độc quyền với đứa trẻ mới được sinh ra. Dung mạo đầu tiên mà đứa trẻ nhìn thấy là người mẹ, cái nhìn này quyết định mối tương quan của đứa trẻ với cuộc sống, với chính nó, với người khác và với Thiên Chúa. Cái nhìn này cũng quyết định tại sao đứa trẻ có thể trở thành “người con của hòa bình” (Lc 10,6).
Trong truyền thống Bizantinô, giữa nhiều bức họa Đức Trinh Nữ Maria, có một bức họa được gọi là Đức Maria “ngọt ngào, êm dịu”, trong bức họa đó gương mặt của Hài Nhi Giêsu áp sát gương mặt Đức Maria. Hài Nhi Giêsu nhìn Mẹ Maria. Đối với chúng ta, bức họa này qui chiếu về Đức Maria, người đã cầu nguyện liên lỉ và hằng tuân giữ Lời Chúa, qui chiếu về sự “êm ái, ngọt ngào” của Thiên Chúa từ trời cao đã giáng trần và cư ngụ trong lòng Mẹ và nhập thể trong Người Con mà Mẹ đang ẵm trên tay. Trong bức họa này, chúng ta có thể chiêm ngắm một vài nét phác họa nào đó về chính Thiên Chúa: dấu chỉ tình yêu vô biên, vì tình yêu đó Thiên Chúa đã “ban Người Con duy nhất của Ngài” cho nhân loại (Ga 3,16). Nhưng bức họa này cũng cho chúng ta biết, trong Đức Maria, dung mạo của Giáo hội chiếu tỏa ánh sáng của Chúa Kitô cho chúng ta và cho toàn thế giới; qua Đức Maria, Giáo hội gửi đến mỗi người Tin Mừng: “Anh em không còn là nô lệ nữa, nhưng là con cái” (Gl 4,7) – như chúng ta nghe đọc trong thư của thánh Phaolô.
Anh em Giám mục, Linh mục, quí vị Đại sứ và các bạn thân mến! Suy tư về mầu nhiệm dung mạo của Thiên Chúa và dung mạo của con người là con đường ưu tiên dẫn đến hòa bình. Thật vậy, con đường này khởi đầu bằng cái nhìn tôn trọng con người, nhìn nhận phẩm giá của người khác dù người đó thuộc bất cứ mầu da, chủng tộc, ngôn ngữ hay tôn giáo nào. Nhưng ai, nếu không phải là Thiên Chúa có khả năng bảo đảm một cách “sâu xa nhất” dung mạo của con người? Thật ra, chỉ khi nào chúng ta có Thiên Chúa trong tâm hồn, chúng ta mới có thể đón nhận dung mạo của người anh em xứng hợp với phẩm giá của họ, nghĩa là không phải như phương tiện nhưng như là mục đích, không phải như đối thủ hay kẻ thù nhưng như một “cái tôi” khác của chính tôi, một khía cạnh không cùng của mầu nhiệm con người. Nhận thức của chúng ta về thế giới, đặc biệt về anh chị em đồng loại, căn bản phụ thuộc vào sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong chúng ta. Đây là một sự “cộng hưởng”: Ai có tâm hồn vô cảm, người ấy không thể nhận ra những giá trị cao cả nơi anh chị em của mình. Trái lại, nếu chúng ta cư ngụ trong Thiên Chúa, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra sự hiện diện của Ngài trong thiên nhiên, đặc biệt nơi anh chị em, mặc dù, đôi khi dung mạo của con người đã bị méo mó do sự dữ, do đời sống khó khăn, khiến chúng ta không thể nhận ra sự “hiển dung” của Thiên Chúa nơi dung mạo anh chị em của mình. Hơn nữa, để hiểu nhau và tôn trọng nhau như là anh chị em, chúng ta cần phải liên hệ đến dung mạo của Thiên Chúa, cha chung của tất cả chúng ta, Đấng đã yêu mến tất cả chúng ta ngay cả khi chúng ta còn nhiều sai lỗi và bất toàn.
Khi còn nhỏ tuổi, điều quan trọng đối với trẻ em là được giáo dục biết tôn trọng người khác, ngay cả sự khác biệt của họ. Trong các lớp học phổ thông qui tụ trẻ em đến từ nhiều quốc gia, ngay cả trong các lớp học mà các em cùng chung một quốc gia, dung mạo của các em như là một lời tiên báo về viễn ảnh một nhân loại mà chúng ta gọi là: gia đình của mọi gia đình, hay gia đình nhân loại. Những em nhỏ tuổi hơn trong số những em này lại là những em gợi lên trong chúng ta mối tình huynh đệ ngọt ngào, êm dịu nhất dù giữa các em có sự khác biệt, chúng khóc cười như nhau, chúng có nhu cầu như nhau, chúng liên kết với nhau một cách tự nhiên, chúng chơi chung với nhau… Dung mạo của trẻ thơ như là một phản ánh dự phóng của Thiên Chúa đối với thế giới. Tại sao chúng ta làm mất đi nụ cười của chúng? Tại sao chúng ta làm vẩn đục trái tim của chúng? Rất tiếc, bức họa Đức Maria “êm dịu” đang hiện diện giữa hình ảnh của biết bao nhiêu trẻ em cũng như mẹ của các em đang đau khổ vì chiến tranh và bạo lực. Họ bị biến thành những người lưu vong, tị nạn, bị bó buộc phải di cư. Dung mạo của họ bị hủy hoại vì đói khát và bệnh tật, bị biến dạng vì đau khổ và thất vọng. Dung mạo của các trẻ em vô tội là hồi chuông báo động không lời đối với trách nhiệm của chúng ta. Đối diện với hoàn cảnh của trẻ em vô phương tự vệ, tất cả những lý lẽ sai trái biện minh cho chiến tranh và bạo lực không có lý do đứng vững. Chúng ta phải xây dựng hòa bình bằng cách loại bỏ mọi loại vũ khí, cùng nhau xây dựng một thế giới xứng hợp hơn với nhân phẩm con người.
Trong sứ điệp của tôi nhân Ngày Hòa Bình Thế Giới lần thứ XLIII: “Nếu bạn muốn xây dựng hòa bình, bạn hãy bảo tồn thiên nhiên”, sứ điệp đặt trọng tâm trên phương diện dung mạo của Thiên Chúa và dung mạo của con người. Thật vậy, chúng ta có thể khẳng định, con người có khả năng tôn trọng thiên nhiên bằng cách thấu hiểu thiên nhiên, nếu không con người sẽ không tôn trọng chính mình và những sự vật chung quanh mình, không tôn trọng môi trường sống và không tôn trọng thiên nhiên. Ai biết nhận ra trong vũ trụ, những phản ánh dung mạo vô hình của Đấng Tạo Hóa, người đó sẽ yêu mến thiên nhiên và nhận ra được những giá trị biểu tượng của chúng. Đặc biệt, trong các Thánh Vịnh, chứa đựng những chứng từ rất phong phú về mối tương quan giữa con người với thiên nhiên: trời đất, biển khơi, núi đồi, sông ngòi, sinh vật….Tác giả thánh vịnh đã thốt lên: “Công trình Ngài, lạy Chúa, quả thiên hình vạn trạng! Chúa hoàn thành tất cả thật khôn ngoan, những loài Chúa dựng nên lan tràn mặt đất” (Tv 104/103,24).
Đặc biệt, phương diện “dung mạo” mời gọi chúng ta dừng lại trên đề tài mà trong sứ điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới, tôi đã gọi là “môi sinh của nhân loại”. Có một mối liên hệ mật thiết giữa việc tôn trọng con người và bảo tồn thiên nhiên. “Trách nhiệm đối với thiên nhiên bắt nguồn từ trách nhiệm đối với từng người và đối với toàn thể nhân loại” (số 12). Nếu con người không được tôn trọng, môi trường sống của con người cũng không được tôn trọng; nếu văn hóa hướng đến chủ nghĩa hư vô, nếu không đề ra những chương trình cụ hành động cụ thể, nếu như không thực hiện những chương trình đã đề ra, thiên nhiên sẽ bị hủy hoại. Thật vậy, có một mối liên hệ hỗ tương giữa dung mạo của Thiên Chúa và “dung mạo” của môi sinh: “Khi môi sinh của nhân loại được tôn trọng trong đời sống xã hội, môi trường sinh thái được bảo tồn” (nt; Bác Ái Trong Chân Lý, s. 51). Một lần nữa, tôi muốn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc giáo dục về môi sinh, cũng như thúc đẩy truyền thông một cách sâu rộng hơn về “trách nhiệm đối với môi sinh”, đặt nền tảng trên việc tôn trọng con người, quyền lợi và những nghĩa vụ căn bản của họ. Chỉ có như thế, nỗ lực đối với môi sinh mới có thể thực sự mang lại hòa bình và xây dựng hòa bình.
Anh chị em thân mến, trong mùa Giáng sinh, chúng ta nghe một thánh vịnh, giữa nhiều thánh vịnh khác, diễn tả việc Chúa đến đã biến đổi thiên nhiên và khai mở một lễ hội của vũ trụ. Thánh vịnh này khơi mào với lời mời gọi toàn thể vũ trụ hãy dâng lời ca ngợi Chúa: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu” (Tv 95/96,1). Nhưng có một điều chắc chắn, lời kêu gọi này hướng đến niềm vui của toàn thể nhân loại: “Trời vui lên, đất hãy nhảy mừng, biển gầm vang cùng muôn hải vật, ruộng đồng cùng hoa trái, nào hoan hỷ, hỡi cây cối rừng xanh (Tv 95/96,11-12). Ngày lễ của đức tin trở thành ngày lễ của con người và của thiên nhiên. Lễ giáng sinh diễn tả ý nghĩa đó, qua việc trang trí cây cối, đường xá, nhà cửa. Tất cả trở nên rực rỡ vì Thiên Chúa đã hiện diện giữa chúng ta. Đức Trinh Nữ Maria tỏ Hài Nhi Giêsu cho các mục đồng đang vui mừng, hân hoan ca tụng Thiên Chúa (x. Lc 2,20). Giáo hội tiếp tục giới thiệu mầu nhiệm đó cho con người mọi thời, bày tỏ cho họ dung mạo của Thiên Chúa, với ân phúc của Ngài, họ có thể tiến bước trên con đường hòa bình.
+ Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI
“Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời”
(Suy niệm của Lm. Tạ Duy Tuyền)
Mỗi khi đọc kinh kính mừng, chúng ta đều thưa lên cùng Mẹ: Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. Khi chúng ta thưa cùng Mẹ điều đó, là chúng ta ý thức thân phận yếu đuối, mỏng dòn của mình thường hay sa đi ngã lại trong những lầm lỗi tội lỗi. Đồng thời cũng nói lên sự phó thác cậy trông nơi Mẹ, là Mẹ của Thiên Chúa và cũng là Mẹ chúng ta.
Vâng, khi nhập thể làm người Chúa Giêsu cũng được sinh ra từ một người mẹ, và suốt cuộc sống của Chúa Giêsu dường như luôn có bóng dáng của mẹ hiện diện để khích lệ, an ủi, nhất là trong lúc chịu đau thương trên thập giá. Mẹ đã ở bên Chúa, cùng hiệp thông trong đau khổ với Chúa để cứu độ trần gian. Có lẽ vì muốn chúng ta được sống trong tình mẫu tử của Mẹ, Chúa Giêsu đã trao ban Đức Mẹ cho chúng ta, khi Chúa nói với Gioan: “Đây là Mẹ của con”, và thánh kinh đã ghi lại: “kể từ lúc đó, người môn đệ Chúa yêu đã đón Mẹ về nhà của mình”.
Thánh Gioan đã đại diện cho nhân loại để nhận Mẹ làm Mẹ của chúng sinh. Từ nay Mẹ sẽ tiếp tục nâng đỡ chúng ta. Mẹ sẽ tiếp tục yêu thương chúng ta. Mẹ sẽ tiếp tục hiện diện trong cuộc đời chúng ta để chăm sóc, lo lắng và chở che cuộc đời chúng ta. Chúng ta có thể cảm nghiệm về tình Mẹ Thiên quốc qua hình ảnh người mẹ trần thế. Mẹ trần thế yêu thương con đến nỗi dám đánh mất chính mình cho con được lớn lên thế nào, thì người mẹ thiên quốc cũng lo cái lo của con cái dưới thế, cũng đau vời đau đau của nhân loại, cũng sẵn sàng làm tất cả đế cứu vớt nhân loại lầm than. Có lẽ ai trong chúng ta cũng thuộc lòng bài ca dao “Con cò ăn đêm” mà các bà mẹ thường hay hát ru con:
“Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Ông ơi, ông vớt tôi vào
Tôi có lòng nào ông hãy xào măng
Có xào thì xào nước trong
Đừng xào nước đục đau lòng cò con”
Bài thơ thật ngắn gọn nhưng diễn tả về tình yêu của một người mẹ đơn côi, lặn lội nơi bến chợ, bất chấp tất cả khó khăn cực nhọc để kiếm tiền nuôi con, kể cả việc phải đi ăn đêm. Nếu số phận có đun rủi bà phải rơi xuống hố sâu lầm lỗi, bà sẵn sàng chịu mọi sự trừng phạt miễn là ông trời hãy thương lấy đàn con, gìn giữ nó được sống trong danh dự mà đoạn kết đã diễn tả: “Đừng xào nước đục đau lòng cò con”. Nghĩa là người mẹ sẵn sàng chịu mọi oan ức, mọi niềm đắng cay, nhưng miễn sao con của bà đừng bị người đời trừng phạt bởi lầm lỗi của bà, đừng bị người đời khinh chê vì những đoạn trường đắng cay của mẹ.
Tình yêu của người mẹ là thế! Bà sẵn sàng hy sinh tất cả miền là đoàn con được hạnh phúc. Trong đời sống thiêng liêng chúng ta cũng có một người mẹ là Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu đã được ban cho chúng ta qua thánh Gioan. Ước gì mỗi người chúng ta cũng biết đón Mẹ về nhà cuộc đời chúng ta, để chia sẻ những vui buồn trong gia đình chúng ta. Ước gì chúng ta biết trân trọng gìn giữ Mẹ như bảo ngọc châu báu mà Chúa đã ban cho chúng ta, đừng để mất Mẹ, vì mất Mẹ là mất cả bầu trời. Ước gì mỗi người chúng ta biết tin tưởng phó dâng cuộc sống gia đình của mình cho Mẹ và biết dành một vài giây phút trong ngày để thưa lên cùng Mẹ. Thánh Maria Đức Mẹ Chúa cầu cho chúng con hôm nay và trong giờ lâm tử. Amen
Thân Mẫu Của Vua Hòa Bình – Yvon Daigneault
Hình ảnh đẹp nhất về hòa bình là hình ảnh một phụ nữ âu yếm bồng con. Và hình ảnh hung bạo nhất của chiến tranh là hình ảnh một phụ nữ khóc than bên xác của con mình, nạn nhân của bất cứ loại vũ khí nào.
Khi Thiên Chúa muốn mặc khải cho chúng ta rằng Ngài đến mặc khải công trình cứu độ mà Ngài thực hiện để “làm cho chúng ta trở thành con cái Ngài”, thì Ngài đã hiến dâng chính mình như một trẻ thơ được bồng ẵm trong tay âu yếm của một phụ nữ, Đức Maria, thân mẫu Ngài.
Trong lễ này, ta hãy chiêm ngưỡng Đức Maria thân mẫu Chúa Giêsu, vua hòa bình, như Lời Chúa trình bày cho chúng ta.
Tình mẫu tử của Đức Maria.
Tin Mừng gợi lên một cách kín đáo nhưng đúng đắn thực tại tình mẫu tử của Đức Maria. Chỉ hai nét đã đủ, trong ấy mọi người phụ nữ làm mẹ sẽ nhận ra được mình: lo lắng cho hài nhi và liên lỉ chú ý đến những biến cố trong cuộc đời của con.
Việc Chúa Giêsu sinh ra đã không làm cho Đức Maria ngạc nhiên. Người đã giúp đỡ bà chị họ Êlisabet và có lẽ nhiều người phụ nữ khác trong làng nữa. Người biết phải săn sóc, âu yếm, an ủi trẻ sơ sinh như thế nào. Và, như tất cả những người mẹ chất chứa trong ký ức của lòng mình vô số kỷ niệm từ những đứa con bà đã cưu mang và đã sinh hạ, Đức Maria nhớ tất cả những gì đã xảy ra liên quan đến Chúa Giêsu. Người ta nhìn thấy Mẹ đầy hạnh phúc sâu xa, đầy vinh dự mà tất cả mọi người mẹ đều có.
Nhưng tình mẫu tử của Đức Maria khác biệt với tình mẫu tử của những người mẹ khác. Tin Mừng cho ta hiểu điều này qua một chi tiết khiến cho nhiều Kitô hữu đầu tiên và cả chúng ta nữa phải ngạc nhiên: Đức Maria và thánh Giuse đã không tự mình đặt tên cho con trẻ. Trẻ này, mặc dù sinh bởi Đức Maria nhưng là Con Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa khi đặt tên cho con trẻ sinh bởi Đức Maria, đã khẳng định mình là Cha. Đức Maria và thánh Giuse chấp nhận mầu nhiệm lớn lao này liên quan đến Con của mình. Hai đấng tôn trọng Ngài và muốn cho người ta tôn trọng Ngài khi đón tiếp các mục đồng tò mò và phấn khởi tìm đến trước một trẻ sơ sinh trong dòng họ vua Đavít.
Thời hòa bình.
Thánh Phaolô, người đầu tiên trong Thánh Kinh Tân Ước nói đến Đức Maria, đã khẳng định việc người làm mẹ, việc này chứng tỏ thực tại của ơn cứu độ.
Việc Đức Maria làm mẹ khai mạc thời đại mới, thời đại ân sủng. Người phụ nữ đầu tiên sinh con đã khai mạc lịch sử nhân loại. Vào những lúc khác, trong lịch sử Cựu Ước, mỗi giai đoạn mới lại được mở ra bằng một việc sinh con. Mẹ của Môsê sinh ra ông, bà Rút sinh ra tổ tiên của Đavít và của Chúa Giêsu. Bà Anna sinh Samuel, bà Êlisabet sinh Gioan Tẩy Giả. Việc Đức Maria sinh con, công trình của ân sủng chứ không phải của xác thịt, là biến cố mở đầu ơn cứu độ mà Thiên Chúa muốn ban cho loài người.
Việc làm mẹ này cũng mang một tính cách đặc biệt. Nó được loan báo bởi tiếng kêu: Hòa bình cho nhân loại! Nó bày tỏ công cuộc hòa bình, bởi vì hết thảy mọi người được mời gọi đến hòa giải với Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu sinh bởi Đức Maria. Cho đến tận thế tính cách làm Mẹ của Đức Maria vẫn là hình ảnh mà Thiên Chúa để lại hầu giúp chúng ta thực hiện công việc hòa bình giữa chúng ta.
Kết luận.
Khi kết thúc việc cử hành thánh lễ này chúng ta sẽ thưa với Chúa về niềm hãnh diện của chúng ta khi nghĩ đến Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Chúng ta cũng hiểu rằng chúng ta phải đi đến tận cùng niềm hãnh diện đó; là con cái, chúng ta thưa Lạy Cha với Thiên Chúa, vậy trong năm mới này chúng ta có thể sống bình an với nhau không?
Đón chào năm mới, chắc chắn có nhiều thái độ khác nhau. Người trẻ vui mừng vì càng thêm tuổi, càng thêm cao lớn. Người già có lẽ đón xuân với nhiều e ngại, dè dặt. E ngại không phải chỉ vì ngày tháng còn lại, nhưng còn vì thấy mái tóc và nét mặt ngày càng biến đổi mau lẹ. Bao nhiêu người đã muốn che dấu nỗi e ngại đó bằng những đợt nhuộm tóc hàng tháng. Người giàu có hơn lại đi căng da mặt mỗi năm. Ít nhất mỗi người đều cố gắng giữ mãi tuổi xuân hay làm cho mình trẻ lại bằng những mỹ phẩm. Ngày nay, thẩm mỹ viện không phải chỉ đón tiếp nữ giới. Cả phái mày râu cũng bước vô đó để sửa cằm, mắt, mũi và… đổi giống nữa.
Ai cũng muốn trẻ đẹp mãi. Nhưng vẻ đẹp đích thực là gì? Giá trị con người nằm ở chỗ nào? Nhìn lên Mẹ Maria, Thánh Mẫu Thiên Chúa, chúng ta mới thấy tất cả vẻ đẹp, giá trị và sự sống đích thực của con người.
Từ ngày còn ngồi trên gối mẹ, chúng ta đã đọc: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời…” Trí khôn chúng ta còn quá non nớt và khờ dại, làm sao hiểu được mầu nhiệm cao sâu đó? Cho tới bây giờ, chúng ta vẫn không thấu hiểu những gì chúng ta vẫn đọc hằng ngày. Vậy mà, Mẹ Maria vẫn ban ơn và cầu bầu cho chúng ta.
Mặc dù tội lỗi, chúng ta vẫn được Chúa thương ban cho chúng ta cầu khẩn Mẹ với danh hiệu cực thánh: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời…” Càng tội lỗi, chúng ta càng đáng được Mẹ đoái thương. Sở dĩ chấp nhận làm Thánh Mẫu Thiên Chúa, vì Mẹ đã sinh ra Con Thiên Chúa làm người để cứu chuộc chúng ta. Mẹ đã ban cho Chúa một thân xác để có thể sống và trở nên giống chúng ta hoàn toàn. Bởi thế, khi tuyên xưng Đức Mẹ Thiên Chúa, chúng ta tin chắc chắn về mầu nhiệm nhập thể của Ngôi Hai Thiên Chúa. Đàng khác, khi cầu nguyện với Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, chúng ta còn tin chắc sẽ được Thiên Chúa cứu độ.
Nhận tước hiệu Thánh Mẫu Thiên Chúa, Mẹ muốn chứng minh cho mọi người biết Con Thiên Chúa có một thân xác đích thực do Thánh Linh tạo dựng trong lòng Mẹ. Đàng khác, Mẹ muốn cứu tất cả nhân loại. Với chức vị Thánh Mẫu Thiên Chúa, Mẹ chỉ muốn nói thực tế Mẹ đã sinh ra Con Thiên Chúa như lời sứ thần truyền tin. Từ giờ phút đó, Mẹ nghiễm nhiên trở thành Đức Mẹ Thiên Chúa. Tín điều này đã được công đồng Êphêsô tuyên tín năm 431. Cả Giáo Hội Đông và Tây đều tôn kính và trân trọng tước vị cao cả đó của Mẹ.
Tin như thế, Giáo hội không mù quáng, như nhiều người lầm tưởng. Họ tưởng Đức Mẹ sinh ra bản tính và ngôi vị Thiên Chúa. Nếu thế, Thiên Chúa không còn là nguyên ủy của mọi nguyên ủy nữa. Chẳng lẽ Thiên Chúa còn phải lệ thuộc như vậy? Đúng ra, chức vị Thánh Mẫu Thiên Chúa chỉ liên hệ tới Ngôi Hai, chứ không bao trùm cả Ngôi Nhất và Ngôi Ba. Cả bản tính Thiên Chúa, Mẹ cũng không đụng chạm tới được. Nhưng vì sinh ra con người Đức Giêsu, gồm Ngôi Lời, Thiên tính và nhân tính, nên Mẹ xứng đáng được tôn phong làm Thánh Mẫu Thiên Chúa.
Tước hiệu đó cao trọng vô cùng, nhưng không đủ hấp dẫn Mẹ đến nỗi Mẹ quên tất cả mọi sự. Mẹ không muốn đổi danh dự của một trinh nữ lấy tước hiệu đó. Tới khi được thiên thần bảo đảm Thánh Thần sẽ hành động tất cả, Mẹ mới khiêm tốn thưa lời xin vâng. Cử chỉ đó đã khiến Mẹ được Thiên Chúa quý trọng và nâng cao Mẹ vượt trên các thiên thần và các thánh trên trời.
Mẹ quả là một con người biết tự trọng và có trách nhiệm về những việc xảy ra. Chính vì thế, nơi cung lòng Mẹ, đất trời đã gặp gỡ và tấu lên ca khúc bình an. Một cuộc hiệp thông lớn lao đã diễn ra ngay trong lòng Mẹ. Có một nhân vị vô cùng cao trọng đang giang tay nối người anh em nhân loại với Thiên Chúa là Cha. Nếu Mẹ không cương trực và khiêm cung chấp nhận sinh Con Thiên Chúa, làm sao có một nhân vị làm trung gian nối đất trời như vậy?
Từ ngày Chúa Nhập Thể, con người trở thành “trung tâm của hòa bình.” Bởi thế, “tôn trọng con người” là “thăng tiến hòa bình.” (Bênêđictô XVI) Đúng thế, trước khi Chúa làm người, không ai có thể nối kết đất trời và dẫn con người đi vào cuộc hiệp thông và hòa giải với Thiên Chúa và với con người. Trong công cuộc hòa giải lớn lao này, Mẹ Maria đã đóng một vai trò rất quan trọng. Nếu Mẹ không cưu mang và sinh hạ Con Thiên Chúa, chắc chắn Mẹ cũng không thể trở thành Thánh Mẫu Thiên Chúa. Nhưng ngay khi Mẹ chấp nhận làm Thánh Mẫu Thiên Chúa, Mẹ trở thành Nữ Vương Hòa Bình, vì cung lòng Mẹ đã cưu mang Thái Tử Hòa Bình là Con Thiên Chúa.
Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đã thương cho con nhận biết và tin thật Mẹ Maria là Thánh Mẫu Thiên Chúa và Nữ Vương Hòa Bình. Xin cho con trung thành và siêng năng kêu cầu “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời” suốt cuộc đời con để hòa bình luôn ngự trị trên khắp hoàn cầu. Amen.
Ngày đầu năm mới và cũng là ngày Quốc Tế Hòa Bình, Giáo Hội hân hoan cử hành lễ Đức Maria rất thánh, Mẹ Thiên Chúa. Cả hai sự kiện này cùng diễn ra khi Giáo Hội đang cử hành mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người, Ngài là Hoàng Tử Bình An, là hòa bình đích thực của nhân loại.
Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban chính Con của Ngài sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria. Đức Mariađã được nâng lên địa vị là Mẹ Thiên Chúa và Giáo Hội muốn đặt lễ hôm nay lên hàng đầu của năm tháng ngày giờ.
Ý nghĩa của Truyền Tin.
Tại sao một thiếu nữ nhỏ bé sống ở làng nghèo Nadaret lại trở thành Mẹ Thiên Chúa? Nhìn về mặt bề ngoài, Mẹ Maria không có gì nổi bật so với những người phụ nữ thời ấy. Tên Maria là một tên rất phổ biến, giống như tên Tuyết, Cúc, Đào…trong giới phụ nữ Việt Nam. Mẹ Maria người làng Nadaret (Lc 1,26), một làng rất tầm thường như sau này Nathanael nhận xét: “Từ Nadaret làm sao có cái gì hay được?” (Ga 1,46).
Để có câu trả lời, cần tìm về ý nghĩa của biến cố Truyền Tin. Thi sĩ Hàn Mặc Tử viết bài thơ ‘Ave Maria’ bất hủ từ câu chuyện này.
Hỡi Sứ thần Thiên Chúa, Gabriel.
Khi Người xuống truyền tin cho Thánh Nữ.
Người có nghe xôn xao muôn tinh tú.
Người có nghe náo động cả muôn trời.
Người có nghe thơ mầu nhiệm ra đời.
Để ca tụng bằng hương hoa sáng láng.
Bằng tràng hạt, bằng Sao Mai chiếu rạng.
Một đêm xuân là rất đỗi anh linh.
Cho tôi thắp hai hàng cây bạch lạp.
Khói nghiêm trang sẽ dâng lên tràn ngập.
Cả Hàn Giang, cả màu sắc thiên không.
Lút linh hồn và ám ảnh hương lòng.
Cho sốt sắng, cho đê mê nguyền ước.
Tấu lạy Bà, lạy Bà đầy ơn phước.
Cho tình tôi nguyên vẹn tựa trăng rằm…
Sứ thần Gabriel đến Nadaret chào thôn nữ Maria:“Mừng vui lên hỡi Đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng Bà”. Ba tiếng “Đầy-ân-sủng” gộp lại trở thành như là tên gọi riêng của Đức Maria. Mẹ được tràn đầy ân sủng. Mẹ luôn luôn có Thiên Chúa ở cùng. Không có giây phút nào mà Mẹ không có Thiên Chúa với mình. Không có giây phút nào mà Mẹ không trọn vẹn thuộc về Chúa. Không có bất cứ dấu vết tội lỗi chen vào giữa Mẹ và Thiên Chúa (Lm Nguyễn Hồng Giáo).
Tại sao Thiên thần nói với Maria: hãy vui lên?. Lời mời gọi này nhắc lại lời Ngôn sứ Xôphônia thế kỷ thứ VI báo tin ngày cứu độ cho Israel: “Reo vui lên hỡi thiếu nữ Sion, hò vang dậy đi nào, nhà Israel hỡi…Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi, Người là vị cứu tinh, là Đấng anh hùng” (Xp 3,14-17). Sứ thần Gabriel cũng mời gọi Đức Maria hãy vui lên vì giờ cứu độ của Thiên Chúa đã đến. Sứ thần trình bày: “Này Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu. Đức Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng Đavit tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacop đến muôn đời, và vương quyền của Người sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1,31-33).
Là một tâm hồn luôn luôn nghiền ngẫm Kinh thánh, chắc hẳn Đức Maria nhớ lại Lời Chúa đã dùng Ngôn sứ Nathan mà thề hứa với vua Đavit xưa. Nhưng điều mà Mẹ không bao giờ nghĩ tới là mình có thể có vai trò gì trong việc thực hiện lời tiên tri ấy. Chuyện “không thể” được đầu tiên là làm sao mình sinh con được vì đã quyết “không biết đến chuyện vợ chồng” để sống trọn vẹn cho một mình Thiên Chúa mà thôi. Sau khi được Sứ thần giải thích rằng “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”. Maria khiêm nhường thưa lại: ‘Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Và thế là Ngôi Hai Thiên Chúa đã nhập thể làm người trong lòng Đức Trinh Nữ. Và thế là Đức Maria khiêm nhường đã trở thành thánh mẫu của Thiên Chúa.
Mẹ được Thiên Chúa sủng ái, và được trở nên cao trọng, vì Mẹ khiêm nhường. Đức khiêm nhường dẫn Mẹ đến chỗ hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa.Trong bài Magnificat, chính Đức Mẹ đã nói về mình rằng:
Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa
Thần trí tôi hớn hở vui mừng
Vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn,
Chúa đoái thương nhìn tới.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường
Đức Mẹ thuộc truyền thống những người nghèo khó, hèn mọn được Thiên Chúa che chở cách riêng. CĐ Vaticanô II trong hiến chế tín lý về Giáo hội đã dạy: “Đức Maria đứng đầu trong hàng ngũ những người khiêm nhường và nghèo khó của Chúa vẫn mong đợi và lãnh nhận ơn cứu độ với lòng tin tưởng” (số 55).
Từ biến cố Truyền tin, qua lời đáp xin vâng của Mẹ, Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập thể trong lòng dạ Mẹ. Đức Maria trở thành Mẹ Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế. Giáo hội đã tuyên bố Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, Người có ngôi vị duy nhất trong hai bản tính. Đức Maria là Mẹ Chúa Giêsu, Mẹ Thiên Chúa làm người, nên là Mẹ của Thiên Chúa. Công đồng Êphêsô 431 đã minh định điều ấy khi tuyên tín Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa.
Đức Maria đã trở thành Mẹ của Chúa qua thái độ khiêm nhường và lời đáp xin vâng phát xuất từ lòng tin của Mẹ. Do đó, khi tuyên xưng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, chúng ta không chỉ hiểu chức làm mẹ đó chỉ thuộc về thân xác mà thôi, nhưng nhìn nhận Đức Maria là Mẹ do hành vi tin hoàn toàn tự do của Ngài, như bà Êlisabet đã thốt lên: “Phúc cho em vì đã tin những lời Chúa phán”. Chúa Giêsu có lần đã tuyên bố: “Mẹ và anh em Ta là những ai biết lắng nghe và thực hành Lời Thiên Chúa” (Lc 8,21).
Tín điều Mẹ Thiên Chúa
Mẹ Thiên Chúa trở thành một tín điều và là mầu nhiệm của đức tin Công Giáo. Tước hiệu này đã trở nên một phần vĩnh viễn trong những kinh tuyên xưng đức tin và trong phụng vụ của toàn thể Giáo Hội Công Giáo.
Tín điều Mẹ Thiên Chúa được xây dựng trên nền tảng Thánh Kinh.
Tiên tri Isaia loan báo: “một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh con trai và sẽ đặt tên con trẻ là Emmanuel” (Is 7,14). Đức Maria sinh ra Đấng Emmanuel, nên Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Lời tiên tri được thực hiện khi sứ thần Gabriel báo tin cho Mẹ Maria: “Bà sẽ thụ thai, sinh con trai và sẽ đặt tên con trẻ ấy là Giêsu… Vì thế Con Trẻ sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.” (Lc 1,31-35).
Thánh Phaolô viết: ‘Thiên Chúa đã sai con mình đến sinh bởi người nữ và sinh dưới chế độ luật” (Gal 4,14). Trong Tin mừng Gioan, Mẹ Maria được gọi là Mẹ Chúa Giêsu (2,1 ; 19,26), và trong Tin mừng Luca, Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa đến thăm bà Elidabet (1,43).
Các Kitô hữu thời sơ khai được các Tông Đồ hướng dẫn, luôn có một niềm tin vững chắc vào thiên chức Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria. Điều này được chứng tỏ bằng những việc tôn kính phổ quát như Kinh Tin Kính của các Tông Đồ.
Tước hiệu Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, đã được các giáo phụ như Thánh Cyrilô, Athanasiô, Ignatiô Antiochia, tin yêu và truyền dạy.
Công Đồng Êphêsô năm 431 tuyên tín Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa.
Công Đồng Constantinople III (680-681) xác quyết rằng: Chúa Giêsu Kitô được sinh ra bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, và Đức Trinh Nữ Maria chính thức và thật sự là Mẹ Thiên Chúa theo nhân tính của Chúa Kitô.
Đức Giáo Hoàng Piô XI, đã ra thông điệp “Mediator Dei” mừng kỷ niệm 1.500 năm Công Đồng Êphêsô và công bố lễ Mẹ Thiên Chúa, mừng trong toàn thể Giáo Hôi vào ngày 11 tháng 10.
Đức Piô XII, đã thiết lập Năm Thánh Mẫu vào năm 1954 và tuyên bố rằng chức Mẹ Thiên Chúa là nguồn gốc tất cả mọi ơn sủng và đặc sủng của Mẹ Maria.
Công Đồng Vaticanô II dành chương VIII trong Hiến Chế Lumen Gentium, nói về Mẹ Thiên Chúa. Và trong Hiến Chế về Phụng Vụ, các Nghị Phụ Công Đồng đã chuyển lễ Mẹ Thiên Chúa ngày 11 tháng 10 sang ngày 1 tháng 1 hàng năm.
Thánh Lễ thật phong phú với những lời cầu nguyện cùng Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Giáo Hội. Cả 4 kinh nguyện Thánh Thể đều nhắc tới Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa. Trong kinh nguyện Thánh Thể I, linh mục chủ tế đọc: Hiệp cùng Hội Thánh, chúng con kính nhớ Đức Maria vinh hiển trọn đời đồng trinh Mẹ Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Kinh nguyện Thánh Thể II, III và IV đọc: Cùng với Đưc Trinh Nữ Maria Mẹ Thiên Chúa…
“Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con…” là lời kinh được đọc lên hàng triệu triệu lần mỗi ngày. Danh hiệu Mẹ Chúa Trời được đọc trong phụng vụ của Giáo Hội, trong kinh nguyện riêng tư tại gia đình, trên xe, trên giường bệnh… Càng hiểu biết và yêu mến mầu nhiệm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, chúng ta càng hiểu biết và yêu mến cách trọn vẹn hơn mầu nhiệm Chúa Cứu Thế, Người Con rất yêu dấu của Đức Mẹ.
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Giáo Hội mừng lễ Mẹ Thiên Chúa vào ngày đầu năm Dương lịch, cũng là ngày cầu nguyện cho hòa bình thế giới như một nhắc nhớ việc chiêm ngưỡng Mẹ là một Tạo Vật mới tinh tuyền của Thiên Chúa, một Evà mới khởi đầu một thời đại mới, một tạo dựng mới. Kỷ nguyên cứu độ đã khởi sự qua việc Chúa Giêsu nhập thể trong cung lòng Đức Mẹ sau lời xin vâng. Mẹ được tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế để bắt đầu kỷ nguyên cứu độ. Nếu Evà cũ đã bất tuân để vùi lấp con người trong khổ đau và sự chết, thì Đức Mẹ với tâm tình xin vâng đã đưa Chúa Giêsu đến với nhân loại mang lại sự sống và tình yêu. Từ đây nhân loại sẽ bước đi trong ánh sáng cứu độ. Chúa Giêsu vị Vua Thái Bình, Hoàng Tử Bình An đã đi vào lòng thế giới, để thiết lập vương quốc Nước Trời qua Mẹ Maria. Đức Thánh Cha Phaolô VI đã viết: “Vì sự trùng hợp tốt đẹp giữa ngày 01 tháng giêng với ngày thứ tám giáp lễ Giáng Sinh mà chúng tôi đã đặt ngày đó là ngày Thế Giới Hòa Bình, mà thế giới mỗi ngày càng hưởng ứng thêm, và thành quả của hòa bình đã phát sinh trong lòng nhiều người.” (Marialis Cultus, số 5).Chúa Giêsu được xưng tụng là Hoàng Tử Hòa Bình, đến chuộc tội nhân loại, giao hòa con người với Chúa Cha. Mẹ Maria luôn gắn bó, hợp tác, hiệp công với Con của mình nên đã trở nên Nữ Vương Hòa Bình cho toàn thế giới. Mẹ đã đóng góp cả cuộc đời mình cùng với Chúa Giêsu mà giải phóng con người khỏi ách nô lệ tội lỗi.Chủ đề Sứ điệp Hòa Bình năm nay là “Không còn nô lệ nữa, nhưng chỉ còn tình huynh đệ với nhau”. ĐTC Phanxicô viết: “Việc quay trở về với Đức Kitô, bắt đầu một cuộc sống là người môn đệ trong Đức Kitô, làm nên một sự tái sinh (x. 2Cr 5,17; 1Pt 1,3) vốn tái tạo lại tình huynh đệ như là mối dây nền tảng của đời sống gia đình và đời sống xã hội” (Sứ điệp ngày Thế Giới Hòa Bình 2015).
Đức Mẹ khuyên mọi tín hữu siêng năng lần hạt và coi chuỗi kinh Mân Côi như là phương tiện hun đúc hòa bình. Ngày 13 tháng 10 năm 1917 tại Fatima, Đức Mẹ đã hiện ra để lại lời nhắn nhủ dưới hình thức của huấn lệnh là: cải thiện đời sống, siêng năng lần hạt, tôn sùng trái tim Mẹ. Đây chính là lộ trình nên Thánh bao gồm ba bước tiếp theo nhau và chuỗi Mân Côi được đặt như là một nhịp cầu giữa một bờ là tội lỗi nhân loại và bờ bên kia chính là ơn thánh hóa của Thiên Chúa. Cũng như việc lần hạt chuyên cần là một phương tiện hiệu quả giúp người ta đạt được hòa bình. Chính trong ý nghĩa này, kinh Mân Côi phải được gọi là Kinh của hòa bình. Ở đâu kinh Mân Côi được cổ võ thì ở đó cũng vang lên lời cầu nguyện tha thiết: “Nữ Vương ban sự bình an cầu cho chúng con”.
Lễ Mẹ Thiên Chúa kết thúc tuần Bát Nhật Giáng Sinh làm tỏa sáng vẻ đẹp kỳ diệu của tình yêu cứu độ. Ngôi Hai đã vâng phục nhập thể cứu độ nhân loại. Với tiếng xin vâng, Đức Maria làm Mẹ Ngôi Lời nhập thể và làm Mẹ hết thảy những ai được tháp nhập vào thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô.
Lạy Mẹ Maria Nữ Vương Hòa Bình, Mẹ đã chọn phần tuyệt hảo là lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa. Xin cho chúng con luôn biết noi gương Mẹ, gắn bó cùng Chúa trọn đời. Amen.
Suy niệm
Làm người ai cũng cần có mẹ.
Mẹ là người cưu mang, sinh ra và dưỡng nuôi con cho khôn lớn.
Khi Con Thiên Chúa làm người, mang lấy trọn phận người,
Ngài cũng cần một người mẹ, như bao người khác.
Mẹ Maria là thiếu nữ, là trinh nữ được Thiên Chúa tuyển chọn,
Để thụ thai và sinh hạ Con Một Thiên Chúa.
Khi Công Đồng Êphêsô (năm 431) gọi Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa,
Công Đồng không có ý dạy
Đức Mẹ sinh ra Chúa Cha hay Chúa Thánh Thần.
Đức Mẹ chỉ sinh ra Đức Giêsu,
Mà Đức Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể,
Nên Mẹ thực sự là Mẹ Thiên Chúa (Theotokos).
Chắc Mẹ Ma ria không thể hiểu hết và hiểu ngay
Màu nhiệm lớn lao mà Mẹ đang cưu mang trong dạ.
Khi các mục đồng kể lại những điều huy hoàng họ nghe thấy ở Belem,
Mẹ Maria ghi nhớ tất cả những điều ấy và suy đi nghĩ lại trong tim mình.
Để đi vào mầu nhiệm cách sâu xa, cần ơn soi sáng của Chúa,
Nhưng cũng cần thái độ chiêm niệm, nghiền ngẫm trong lặng thinh.
Chúng ta thường để ý đến biến cố Truyền Tin và biến cố Giáng Sinh,
biến cố Ngôi Lời bắt đầu hiện hữu trong lòng mẹ và biến cố chào đời.
Nhưng chúng ta không được quên chín tháng Mẹ cưu mang người Con.
Con Thiên Chúa đã lớn lên từ từ trong lòng Mẹ như các thai nhi khác.
Muốn sinh Đức Giêsu cho thế giới hôm nay,
Chúng ta cũng cần nhiều thời gian để cưu mang Ngài trong cuộc đời ta,
để Ngài trở nên đủ cứng cáp khi chào đời.
Chúng ta cũng phải chấp nhận cả sự đau đớn khi sinh hạ.
Bước qua một Năm Mới, mở trang đầu của cuốn lịch mới,
Chúng ta mong những điều mới mẻ tốt lành xảy đến cho mình
Và muốn tặng cho nhau một câu chúc đầy ý nghĩa:
“Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em!”(Ds 6, 26)
Suy niệm của Lm. Munachi Ezeogu
ĐỨC MARIA – MẸ THIÊN CHÚA
Trong Anh ngữ, tháng một (January) là đặt theo tên của một vị thần La-Mã, vị thần này có hai mặt, một mặt nhìn về quá khứ và một mặt hướng đến tương lai. Thật vậy, đây là thời điểm để cho chúng ta nhìn lại một năm đã qua và hướng về một năm mới trước mặt. Một năm đã qua đi, tôi đã làm được những gì, và gặt hái được những gì? Tôi đã tận dụng thời gian ấy để thăng tiến trong những ước nguyện và mục tiêu trong cuộc sống của mình như thế nào? Tôi có dùng những thời gian qua để nâng cao mục đích của sự hiện hữu của tôi không? Tôi có thể làm tốt hơn năm ngoái theo cách sử dụng thời giờ cho những đòi hỏi của việc làm, của gia đình, của bạn bè, của xã hội, và sự đòi hỏi của đời sống tâm linh của riêng tôi? Tôi đã gặt hái được gì và điều gì đã không thành tựu trong năm qua? Làm thế nào để tôi củng cố được những thành tựu trong năm qua đồng thời đảo ngược những thất bại và mất mát trong năm mới? Qua sự kiểm điểm chính mình bằng những câu hỏi nêu trên, chúng ta nhận ra rằng sự kiểm điểm ấy sẽ đưa chúng ta tìm được mục đích và những quyết tâm cải hóa trong năm mới.
Có người nói với chúng ta rằng: mình chẳng cần phải có quyết tâm cải đổi trong năm mới. Đừng tin họ! Chúng ta phải định mục tiêu cho chính chúng ta và đề ra những cải đổi cần thiết tóm gọn trong những điều chúng ta đã kiểm điểm. Chúng ta cần phải kiểm điểm đời sống của chúng ta hằng năm, vì như triết gia Socrates nói, cuộc đời không có kiểm điểm là cuộc đời không đáng sống.
Báo chí ngày nay đầy rẫy những quyết tâm cải cách cho cá nhân hoặc tập thể. Hầu hết những điều ấy thường chỉ là những mong ước hơn là quyết tâm. Sự khác biệt giữa mong ước và quyết tâm như thế nào? Mong ước là nhận ra được mục đích người ta muốn đạt được, quyết tâm cải cách là định rõ từng bước người ta phải tiến hành để đạt được mục đích. Sự mong ước: đây là điểm tôi muốn đạt, còn quyết tâm thì nói: đây là lề lối tôi sẽ áp dụng, đây là những điều tôi sẽ làm để đạt được thành qủa. Người hay mong ước thì nói rằng: “Tôi muốn thi đậu trong năm nay” và người có quyết tâm thì nói: “Tôi sẽ dành ra một tiếng đồng hồ mỗi ngày để học cho đậu cuộc thi này”. Người hay mong ước thì nói: “Năm nay, tôi sẽ có thêm sự an bình và thương yêu trong gia đình tôi” còn người có quyết tâm thì nói: “Tôi sẽ dành nhiều thì giờ hơn nữa cho gia đình, nơi bàn ăn hơn là vội vã để xem truyền hình, để chúng tôi có dịp tìm hiểu và thông cảm nhau hơn”. Người hay mong ước thì nói: “Năm nay, tôi sẽ sống một đời sống kết hợp với Chúa” còn người có quyết tâm thì nói: “Hằng ngày, tôi sẽ dành ra thời gian này để cầu nguyện và nghe lời Chúa”. Sự khác biệt giữa mong ước và quyết tâm là: Chúng ta có chuẩn bị để làm những gì có thể làm được để tạo ước mơ thành sự thật chưa? Chúng ta có chuẩn bị để trả giá cho những điều mình sắp làm chưa?
Đoạn phúc âm hôm nay cho chúng ta thấy Đức Maria là gương mẫu của cuộc sống mới trong Chúa Kitô, cuộc sống mà tất cả chúng ta mong ước cho mình trong năm mới. Chúng ta thấy rằng Đức Maria đã được chuẩn bị để làm những công việc cho mục đích tạo cuộc sống mới này. Đức Maria đã làm gì? Chúng ta đọc thấy rằng khi các mục đồng đến thờ lạy Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ, họ nói rằng các thiên thần đã báo tin cho họ biết. “Nhưng Đức Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Luca 2:19). Lại nữa, sau khi tìm được thiếu niên Giêsu trong đền thờ, chúng ta cũng được nghe rằng “Riêng Đức Mẹ thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Luca 2:51). Đức Maria là người đàn bà đã tôn kính lời Chúa, đã trân qúy lời Chúa và đã dành thời giờ để suy niệm Lời của Chúa. Thật ra, sự thánh thiện của Đức Maria đã thông phần với hồng ân của Thiên Chúa, nhưng chúng ta cũng không quên rằng: Đức Maria đã cần phải dành nhiều nỗ lực để được đồng cộng tác trong ân sủng của Thiên Chúa. Người đã suy niệm Lời Chúa để nhận biết những điều Chúa đã nói với mình trong từng giai đoạn của đời mình, cuộc đời được làm tôi tớ của Chúa.
Hai thí dụ kể trên về Đức Maria đã suy niệm, cân nhắc lời Chúa, như sau khi các mục đồng đến thờ lạy Chúa Hài Đồng và sau khi tìm được Chúa Giêsu trong đền thờ, cho thấy rằng Đức Maria đã tìm ra lời Chúa trong sự mặc khải thiêng liêng (lời của thiên thần báo cho mục đồng) và trong kinh nghiệm của chính Người (khi gặp lại Con trong đền thờ). Tương tự như vậy, ngày nay Chúa nói với chúng ta qua sự mặc khải thiêng liêng (kinh thánh, các bài giảng, những điều giảng dậy của Hội Thánh) ngay cả qua những kinh nghiệm cá nhân, nếu chúng ta dành thì giờ để suy gẫm như Đức Maria đã làm.
Cho dù chúng ta đang ở trong tình huống nào, một sự khốn khó, một điều bất như ý, trước một quyết định khó khăn – Chúa có phương thức giải quyết, Chúa có giải đáp đúng đắn cho chúng ta. Hãy kể những điều ấy cho Chúa nghe trong lời kinh nguyện, nhưng cũng lắng nghe những gì Chúa nói với chúng ta. Cầu nguyện là đối thoại với Chúa, nhưng đôi khi chúng ta chỉ muốn nhấc điện thoại đọc lên một chuỗi những khó khăn của mình cho Chúa nghe và cúp điện thoại để không nghe những gì Chúa muốn nói với chúng ta. Hôm nay, chúng ta hãy quyết tâm lắng nghe tiếng Chúa, trân qúy và suy niệm trong lòng. Từ đấy chúng ta sẽ có thể nhận biết những cải hóa cần thiết cho cuộc sống mới kết hợp với Chuá.
Mẹ tất cả mọi người – Lm. Mark Link
Chủ đề: “Đức Maria không phải chỉ là Mẹ Thiên Chúa mà còn là Mẹ của hết thảy chúng ta.”
Cách đây nhiều năm, Fulton Oursler là biên tập viên của một tạp chí nội địa được các độc giả hoan nghênh nhiệt liệt, câu chuyện đàng sau sự thành công của anh rất hấp dẫn. Nhưng câu chuyện anh tìm kiếm Thiên Chúa còn hấp dẫn hơn nữa.
Với tư cách một phóng viên cho tờ báo Baltimore American, đã dự những buổi họp của giáo phái Methodist, các hội nghị của gíao phái Baptist, và những buổi sinh hoạt ngoài trời. Anh cùng dự cả những buổi họp để chờ các vong hồn xuất hiện trong phòng tối. Anh nói: “vào tuổi 30, ngoài những chuyện ấy ra, tôi còn tự nhận mình là người theo thuyết bất khả tri (agnostic). Nhưng thay vì tìm được bình an, sự vô tín ngưỡng khiến anh cảm thấy tâm hồn mình hoàn toàn trống trải và bất hạnh. Sự trống trải bất hạnh ấy về sau lại biến thành một nỗi u uất gặm nhấm tâm hồn anh. Thế rồi một ngày kia, cơn khủng hoảng trầm trọng đó đã làm cho gia đình anh phải lo sợ. Anh cần được cứu giúp. Nhưng sự cứu giúp mà anh cần là một thứ cứu giúp mà bạn bè anh không thể làm được cho anh. Anh không biết cầu cứu ai, kể cả Thượng Đế, vì anh có tin vào Ngài đâu.
Tại New York, vào một ngày lộng gío, anh rảo bước trên đại lộ Thứ Năm. Tới nhà thờ chính toà, anh dừng lại, ngắm nhìn ngôi giáo đường và suy nghĩ. Anh đang tuyệt vọng. Mấy phút sau, anh định thần lại bước lên các bậc thang, vào bên trong nhà thờ và ngồi xuống, sau một vài phút tập trung tư tưởng, anh cúi đầu xuống và xin Thiên Chúa ban đức tin cho anh. Anh ngồi đó một lát rồi đứng dậy. Anh tới gian nhà nguyện của Đức Mẹ ở trong giáo đường. Anh bước vào trong, quì gối xuống, và cầu nguyện như sau:
“Mười phút nữa hay sớm hơn, tôi có thể thay đổi ý định, tôi có thể chế diễu tất cả những việc này và lại trở lại với sự sai lầm của tôi. Vì thế xin đừng chú ý đến tôi nữa. Vì trong giây phút ngắn ngủi này, tôi cảm thấy tâm hồn bình an. Đây là cố gắng lớn nhất của tôi, xin Ngài hãy khấng nhận và quên đi những gì khác. Và nếu Ngài thực sự có mặt tại đây xin hãy cứu giúp tôi”.
Vào giây phút đó, anh nói, bắt đầu có một sự biến đổi kỳ lạ trong cuộc đời anh. Cuối cùng, sự biến đổi đó đã khiến anh trở nên một Kitô hữu có một niềm tin tưởng sâu xa.
***
Việc Fulton Oursler tìm kiếm Thiên Chúa đã kết thúc tại một giáo đường. Đời sống tâm linh và cuộc sống mới của anh bắt đầu tại một nhà nguyện dâng kính Đức Maria Mẹ Thiên Chúa. Thật là một nơi thích hợp cho sự việc đó. Đức Mẹ không phải chỉ là Mẹ Thiên Chúa. Ngài còn là Mẹ của toàn nhân loại về mặt tâm linh. Vì khi Đức Mẹ sinh Chúa Giêsu, Ngài cũng sinh ra một nhân loại mới. Thánh Phaolô diễn tả mầu nhiệm đó trong bài đọc II như sau:
“Khi thời gian viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con Ngài xuống, sinh làm con một người nữ, và sống dưới chế độ luật Do Thái để cứu chuộc những người sống dưới chế độ lề luật đó, hầu chúng ta được trở thành con cái Thiên Chúa… và vì bạn là con của Thiên Chúa, nên Ngài sẽ cho bạn tất cả những gì Ngài dành cho con cái Ngài”.
Bàn luận về mầu nhiệm cao cả này, Hiến Chế về Giáo hội trong thế giới ngày nay của công đồng Vatican II nói:
“Qua mầu nhiệm nhập thể, một cách nào đó, Con Thiên Chúa đã tự liên kết mình với mọi người, Ngài làm việc bằng đôi tay, suy nghĩ bằng khối óc, hành động bằng sự chọn lựa, và yêu thương bằng trái tim loài người, sinh từ lòng Đức Maria Ngài thực sự trở thành một người trong chúng ta hoàn toàn giống như chúng ta ngoại trừ tội lỗi”.
Thật vậy, khi Đức Mẹ sinh ra Chúa Giêsu Ngài cũng sinh ra một nhân loại mới, vì thế Đức Mẹ không phải chỉ là Mẹ Thiên Chúa, mà ngài còn là Mẹ tất cả mọi người chúng ta nữa.
Vì Đức Mẹ là Mẹ chúng ta, nên ngài là một trạng sư bào chữa cho chúng ta rất hữu hiệu trên trời. Không biết Đức Maria là mẹ mình, chính là không biết đến món quà mà Thiên Chúa ban tặng chúng ta, tức tình mẫu tử của Đức Maria dành cho chúng ta.
Điều đó khiến chúng ta nghĩ tới năm mới. Năm mới với hy vọng mới. Năm mới với cuộc đời mới. Năm mới là cơ hội để chúng ta bắt đầu lại.
Năm ngoái là quá khứ, đã qua rồi. Năm nay vừa mới sinh ra và ở trước mặt ta. Đó là món quà Thiên Chúa tặng chúng ta. Những gì chúng ta làm được với món quà ấy, chính là món quà mà chúng ta sẽ dâng lên Thiên Chúa. Thật là thích hợp khi Giáo hội chọn ngày đầu năm để mừng kính lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa. Vì điều đó nhắc nhở chúng ta rằng tình mẫu tử của Đức Maria mà bạn và tôi được Thiên Chúa ban cho một đời sống hoàn toàn mới, một niềm hy vọng mới, thứ hy vọng mà chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể ban tặng. Nếu chúng ta đang tìm một quyết định cho năm mới này thì không có một quyết định nào tốt đẹp hơn là tạo cho Đức Maria một vai trò quan trọng hơn trong đời sống chúng ta. Và một trong những cách để thực hiện quyết định đó là thực hiện bằng cầu nguyện.
Chúng ta có thể xin Đức Maria bầu cử cho chúng ta như Ngài đã từng bầu cử cho biết bao những đứa con khác của Ngài trong lịch sử. Một cách đơn giản để thực hiện điều đó là cầu nguyện hằng ngày bằng bài kinh đặc biệt kính Đức Maria, tức kinh Kính Mừng. Một cách khác để làm điều đó là bắt chước cách cầu nguyện của chính Đức Maria. Trước hết, Ngài cầu nguyện bằng cách suy niệm về hoạt động của Thiên Chúa, không phải chỉ ở trong lịch sử loài người, mà ở ngay trong cuộc sống của Ngài nữa. Thánh Luca đã cho chúng ta một cái nhìn về cách cầu nguyện này vào cuối bài tường thuật của Ngài về việc Đức Giêsu sinh ra: “Maria ghi nhớ tất cả những chuyện ấy và suy niệm trong lòng” (Lc 2, 19). Một cách cầu nguyện khác nữa của Đức Maria là nói với Thiên Chúa cách hồn nhiên những gì xuất phát từ trái tim Ngài. Thánh Luca cho chúng ta một cái nhìn về cách cầu nguyện này khi mô tả Đức Maria cầu nguyện trong cuộc viếng thăm bà Isave. Chúng ta hãy dùng lời kinh ấy để kết thúc bài giảng hôm nay. Xin mời anh chị em im lặng cùng cầu nguyện với tôi:
“Linh hồn tôi tán dương Thiên Chúa,
Thần trí tôi hoan hỉ vui mừng trong Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi,
Ngài đã đoái thương đến tôi, là tôi tớ thấp hèn của Ngài
“Kể từ nay muôn đời sẽ khen tôi có phúc, vì Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những việc trọng đại.
“Ngài đã giơ cánh tay thần lực nâng những người hèn mọn lên …
“Ngài đã giữ lời đã phán hứa với các tổ phụ…
“Ngài đã nhớ tỏ lòng từ bi với Abrham và dòng dõi của ông tới muôn đời” (Lc 1: 46-55)
Là mẹ và là khuôn mẫu – Mark Link
Chủ đề: Đức Maria là Mẹ chúng ta, và cũng là khuôn mẫu dạy chúng ta phải tin tưởng vào Chúa như thế nào.
Có một linh mục được mời tới giảng phòng cho một khoá tĩnh tâm. Các cô gái nọ trao cho ngài một lá thư, ngài liền bỏ vào túi nhưng rồi quên béng đi. Sau khóa tĩnh tâm, ngài tìm thấy lá thư ấy. Ngài mở ra và đọc thấy những dòng sau đây; “Con bị bệnh tâm thần và được điều trị suốt 8 tháng nay. Sự kiện này con chỉ cho vài người thân biết thôi. Số là khi còn bé, con bị lâm vào một tâm trạng sợ hãi khủng khiếp vì bị người khác căm ghét, hành hạ, bạc đãi, nỗ lực lớn lao nhất của con hiện nay là thắng vượt và chuyển biến nỗi sợ hãi ấy. Con không cần nhắc đến từng chi tiết nhưng tựu trung nỗi sợ ấy là do nơi người mẹ của con… con có ác cảm với mọi khái niệm về người mẹ đến nỗi con quyết tâm khước từ tình yêu của Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu. Sau khi nghe bài giảng của cha trong tuần tĩnh tâm, con đi bộ ra ngoài, lòng cảm thấy cô đơn khủng khiếp. Con cầu xin Chúa ban ân sủng giúp con phá đi bức tường ngăn cách khiến con không thể tin tưởng phó thác được… con muốn khóc to lên, nhưng suốt mấy tháng trời vẫn không khóc được… chắc cha cũng biết căn nhà nhỏ bé, tròn tròn gần cạnh nghĩa trang chứ? Con đã đến đó vì tò mò và con mở cửa bước vào. Khi nhìn vào trong, lòng con cảm thấy sợ hãi. Ở đây có tượng Đức Mẹ Maria. Cảm giác đầu tiên của con là muốn giận dữ bỏ đi ngay, nhưng rồi có cái gì đó đã từ từ lôi kéo con đến quì dưới chân Ngài. Và con đã quì gối xuống vừa gục vào vạt áo dài của Ngài vừa khóc, sau đó, con cảm thấy tâm hồn nhẹ nhàng trong trắng, và mong ước, mình được là một đứa trẻ, một người con đầy tin tưởng và phó thác… hơn thế nữa, con còn cảm nhận được tình yêu của một người mẹ dành cho con khiến con nẩy sinh một ước muốn thực sự là tha thứ cho mẹ ruột của mình”.
Câu chuyện cảm động trên gợi lên những hình ảnh tuyệt hảo cho chúng ta trong ngày lễ Mẹ Thiên Chúa mà chúng ta mừng hôm nay. Lễ này nêu bật hai điểm về Đức Maria. Thứ nhất: Đức Maria là Mẹ chúng ta. Ngài không chỉ là mẹ Chúa Giêsu, Đấng sống cách đây hơn 2000 năm. Ngài còn là Mẹ chúng ta nữa. Từ trời cao, Ngài vẫn mong muốn giúp đỡ chúng ta như một người Mẹ. Thứ đến, Đức Maria cũng là khuôn mẫu của chúng ta. Chúng ta phải tôn sùng và bắt chước ngài. Ở đây, chúng ta chỉ cần nêu ra một nét đặc trưng nơi Đức Mẹ, đó là Mẹ tuyệt đối tín thác vào Thiên Chúa. Khi thiên sứ báo cho mẹ biết mẹ sẽ sinh con trai bởi phép Chúa Thánh Thần, thì Mẹ hiểu ngay rằng việc này có thể sẽ khiến Thánh Giuse cắt đứt quan hệ bạn đính hôn với Mẹ – và điều này chỉ chút xíu nữa là đã thực sự xảy ra – Thế nhưng Mẹ vẫn vững tin vào chúa. Khi nghe mục đồng kể lại lời các Thiên thần, Mẹ cũng không hiểu, nhưng lần nữa, Ngài vẫn tín thác vào Chúa, về sau, khi Mẹ và Thánh Giuse đem hài nhi Giêsu vào đền thờ, cụ già Simêon đã nói với Mẹ: “Sầu khổ sẽ như một mũi gươm nhọn đâm thâu qua trái tim bà” (Lc 3: 35). Lần này, Mẹ Maria cũng chẳng hiểu rõ ý nghĩa lời trên nhưng Mẹ vẫn tín thác vào Chúa. Rồi khi lên mười hai tuổi, Đức Giêsu ở lại trong đền thờ. Lúc gặp lại Đức Giêsu, Mẹ Maria hỏi Ngài lý do tại sao, Ngài đáp lại: “Mẹ không biết con phải lo việc cho Cha con sao? một lần nữa, Mẹ Maria chẳng hiểu gì cả nhưng Mẹ cẫn cứ tín thác vào Chúa.
Ngày nay Mẹ Maria có thể giúp chúng ta biết tín thác vào Chúa. Xin hãy nhớ lại câu chuyện cô gái trong khoá tĩnh tâm nọ. Cô ta đã phải trải qua một Kinh nghiệm thời thơ ấu đầy kinh hãi khiến cô mất hẳn niềm tin. Cô muốn tin tưởng trở lại nhưng không thể được. Thế rồi, một ngày nọ, hoàn toàn do tình cờ, cô đã quì xuống dưới chân Mẹ Maria và quyết định cầu nguyện với Ngài. Chúng ta hãy nhắc lại chính những lời của cô ta. “Con đã cầu xin Chúa ban ân sủng giúp con phá tan đi bức tường ngăn cách khiến con không thể tin tưởng và phó thác được”. Đức Maria đã nhận lời cô cầu xin và cô đã tìm được niềm tin.
Và Đức Maria cũng có thể giúp chúng ta tin tưởng phó thác giống như Ngài từng giúp cô gái nói trên. Chẳng hạn, chúng ta là bậc cha mẹ biết quan tâm đến con cái mình. Nhưng xảy ra là chúng chẳng còn chịu đi dâng lễ, hoặc chúng theo gương những bạn bè xấu cho dầu chúng ta đã cầu nguyện, đã làm gương sáng, đã giải thích cho chúng hiểu. Thế là chỉ còn một phương cách là tiếp tục cầu nguyện và phó thác. Chính Đức Maria sẽ gíup chúng ta làm điều này. Hoặc có thể chúng ta vẫn không chắc chắn về dự tính của mình và cũng có Chúa muốn chúng ta làm gì. Chúng ta đã bàn bạc với cha mẹ và những vị cố vấn, đã cầu xin ơn Chúa hướng dẫn, thế mà chúng ta vẫn còn tối tăm mờ mịt. Vậy thì chúng ta chỉ còn biết tiếp tục cầu nguyện và phó thác vào Chúa. Đức Maria sẽ giúp chúng ta trong việc này. Hoặc chúng ta là một người đang suy tư về đức tin của mình. Chúng ta lo âu vì biết rằng đức tin mình vẫn còn yếu kém, chúng ta đã cầu xin Chúa giúp nhưng xem ra Ngài vẫn chưa nhậm lời, để rồi chúng ta bị rơi vào thắc mắc chẳng hiểu Ngài có hay không nữa. Thế là chúng ta chả còn làm gì được ngoài việc tiếp tục cầu nguyện và phó thác cho Chúa. Mẹ Maria sẽ gíup chúng ta thực hiện điều này.
Lễ hôm nay nhắc chúng ta nhớ rằng Đức Maria là khuôn mẫu, đồng thời là mẹ của chúng ta, trong lúc nguy khốn, chúng ta cần hướng về Ngài để van xin Ngài trợ gíup. Ngài hằng ao ước cứu giúp chúng ta miễn là chúng ta biết kêu cầu Ngài. Nếu muốn tìm một giải pháp cho năm mới thì không gì tốt hơn là chúng ta hãy quyết định dành cho Đức Mẹ Maria một vai trò to tát hơn trong cuộc đời chúng ta.
Chúng ta hãy kết thúc với kinh nguyện hằng ngày mà thánh Bernard vẫn thường dâng cho Đức Maria.
“Lạy Trinh Nữ Maria là Mẹ rất nhân từ, xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ xin bầu chữa cứu gíup mà Mẹ chẳng nhậm lời…. Nhân vì niềm tin cậy ấy, chúng con hướng về Mẹ, ôi Mẹ đồng trinh trên hết các kẻ đồng trinh, chúng là những tội nhân khốn khổ xin đến trình diện trước Mẹ, Lạy Mẹ Ngôi Lời nhập thể xin đừng ngoảnh mặt đi mà hãy đoái thương lắng nghe và khấn nhậm lời chúng con. Amen.
Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng
MẸ GHI NHỚ VÀ SUY NIỆM TRONG LÒNG
Ngày lễ mừng vào một tuần sau Giáng Sinh trong quá khứ được gọi là Lễ Cắt Bì, khi mà Hài Nhi Giêsu được dâng hiến vào đền thờ theo nghi lễ tập truyền của Đạo Do Thái. Danh Thánh Giêsu được chính thức đặt cho Hài Nhi. Ở đất Do Thái thời bấy giờ mỗi cái tên thường mang theo một ý nghĩa. Cái tên thường nói lên cái bản tính và nhân vị của mỗi người. Và thánh danh Giêsu có nghĩa là Đấng Cứu Thế. Thánh Kinh hôm nay nhắc lại việc cắt bì của Hài Nhi Giêsu, nhưng cũng nhấn mạnh đến địa vị của Mẹ Maria trong việc sinh ra Đấng Cứu Thế.
Vì thế mà hôm nay Giáo Hội mừng lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa. Trong khi Mẹ Maria luôn được tôn kính trong ngày này vì địa vị của Mẹ trong việc sinh Chúa Cứu Thế cho nhân loại. Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay còn nhấn mạnh đến vai trò của Mẹ trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Làm sao Trinh Nữ Maria trở nên Mẹ Đấng Cứu Thế? Làm sao một thụ tạo lại có thể làm mẹ Đấng sáng tạo? Thánh Kinh thuật lại khi thời gian đã điểm, Thiên Chúa sai chính Con Một Người sinh ra bởi người Trinh Nữ, do quyền năng Chúa Thánh Thần để mang ơn cứu độ cho nhân loại. Đấng sáng tạo được sinh ra bởi người thụ tạo là một màu nhiệm. Tuy nhiên theo lời thiên sứ Gabriel: “không gì mà Thiên Chúa không làm được” (Luc 1,37). Giáo hội xác nhận Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa, vì nếu tin Chúa Giêsu là Thiên Chúa, thì đương nhiên cũng phải tin Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Tước hiệu Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa còn được ghi trong Thánh kinh theo lời Bà Isave: “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến thăm tôi” (Luc 1,43).
Câu hỏi thứ hai đến trong đầu óc ta là làm sao Đức Maria trở thành Mẹ của Giáo Hội, Mẹ của mọi người tín hữu? Thánh Kinh thuật lại: Trên Thánh giá, Chúa Giêsu trối Mẹ Người cho chúng ta qua Thánh Gioan “Đây là Mẹ Con” (Ga 19:27) Thánh Gioan lúc đó đại diện cho tất cả các tín hữu, và nhân danh các tín hữu nhận Đức Maria là Mẹ đưa về săn sóc. Sau khi Chúa Giêsu về Trời, Mẹ Maria đóng vai trò như Mẹ các tông đồ, an ủi các tông đồ, cầu nguyện với các tông đồ, để xin Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Phúc âm hôm nay ghi lại: “Mẹ ghi nhớ và suy niệm tất cả những sự việc đó trong lòng” (Luc 2,19). Mẹ ghi nhớ những gì?
Trước hết Mẹ phải ghi nhớ cảnh truyền tin, ghi nhớ lời sứ thần truyền “Kính chào Ba Maria đầy ơn phúc” (Luc 1,26). Mẹ phải ghi nhớ cảnh con mình sinh ra nghèo khó nơi hang bò lừa, không nhà, không quán trọ. Rồi Mẹ phải ghi nhớ lời tiên tri Simêon tiên báo về con mình: “Còn Bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà” (Luc 2,35). Trên Thánh giá, Chúa Giêsu trối Mẹ Người cho Thánh Gioan. Ở đây Mẹ cũng phải ghi nhớ những gì đã xẩy ra cho con mình vào những ngày cuối đời: chịu bách hại, chịu tra tấn, chịu đánh đòn, chịu đội mão gai, chịu chết trên thập giá.
Hôm nay thế giới bắt đầu đi vào Năm Mới Dương lịch, ta nên dùng ít thời giờ yên lặng, để suy niệm như Mẹ Maria, nhìn lại quá khứ, xét lại mới liên hệ của mỗi người với Chúa, cảm tạ đội ơn Chúa về tất cả những hồng ân Chúa đã ban, đánh giá trị việc ta có mở rộng tâm hồn đón nhận lời Chúa và ý Chúa như thế nào?
Trước thềm Năm Mới, xin Chúa tha thứ những lỗi lầm, những thiếu sót trong năm cũ. Ta cũng không quên cảm tạ đội ơn Chúa về những ân huệ mà ta nhận được trong năm cũ. Nếu ta chỉ phàn nàn kêu trách về những rủi ro, bất hạnh thì mắt ta sẽ bị che đậy, không còn nhìn thấy những điều may mắn, cái chiếu sáng của cuộc đời. Do đó ta có thể nảy ra cái thái độ tiêu cực bất mãn.
Mỗi người nên làm những quyết định sửa đổi trong năm mới, chẳng hạn quyết định chừa một nết xấu như bỏ rượu, bỏ thuốc, quyết định dành nhiều thời giờ hơn cho cha mẹ, vợ chồng, con cái. Có như vậy mỗi năm thêm tuổi mới, thêm được cái gì hữu ích cho bản thân về đời sống tinh thần và thiêng liêng. Ta cũng cần hướng về tương lai. Mặc dầu ta không biết chắc tương lai sẽ ra thế nào và đi về đâu. Tuy nhiên cũng như Mẹ Maria, ta có thể đặt tin tưởng và phó thác vào Chúa, vào chương trình quan phòng cứu độ của Chúa, để cũng như Mẹ Maria, ta có thể nói lên hai tiếng “Xin Vâng”.
Suy Niệm của Lm. Nguyễn Hưng Lợi
Maria, Mẹ Thiên Chúa – tước hiệu tuyệt vời
* Ngày thế giới hòa bình
Mỗi người đều có cha có mẹ. Đó là nguồn cội của con người. Chim có tổ. Nước có nguồn. Con người phải có tổ ấm, phải có gia đình. Chúa Giêsu khi tới trần gian này, cũng không muốn sống ngoài định luật của con người. Ngài cũng có mẹ, có cha. Đó là tính cách rất người của Chúa Giêsu. Chúa không muốn trở thành một vị tiên giáng trần hay một Phù Đổng Thiên vương vươn vai rồi lớn lên hay như một vị khác thường từ trời giáng thế. Chúa đã chọn con đường bình thường như mọi người là có một gia đình để sinh ra. Tuy nhiên, Mẹ Maria, thân mẫu của Chúa Giêsu đã được chọn lựa giữa muôn muôn người nữ. Mẹ đã khấn giữ mìh đồng trinh, nghĩa là không sinh con, nhưng điều gì con người không làm được đối với Thiên Chúa lại trái ngược. Mẹ Maria đã cưu mang Chúa Giêsu bởi phép Chúa Thánh Thần và như thế, ngay khi Mẹ được bà thánh Anna cưu mang, Mẹ đã được hiến thánh, dành riêng cho Thiên Chúa. Nên, Mẹ đã được Thiên Chúa ban cho nhiều đặc ân mà không người nào trên trần gian có thể có được. Mẹ đã được đặc ân vô nhiễm nguyên tội, được diễm phúc làm Mẹ Thiên Chúa.
MARIA, MẸ THIÊN CHÚA:
Với muôn vàn tước hiệu Giáo Hội và nhân loại tặng ban cho Đức Mẹ, chắc chắn danh hiệu Maria, Mẹ Thiên Chúa là một đặc ân vô cùng cao quí không một ai trên thế gian này được diễm phúc như Mẹ. Vâng, lời bà Élisabét nói với Mẹ là một xác nhận rõ ràng Maria thật có phúc:” Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa viếng thăm tôi”. Diễm phúc ấy quả là một ân thưởng lớn lao, quí giá Thiên tặng ban cho Mẹ Maria:” Phúc cho lòng dạ đã cưu mang Con Thiên Chúa”. Tước hiệu Mẹ Thiên Chúa vào thế kỷ thứ V đã gặp khó khăn khi giáo chủ Nestôriô chống đối, nhưng công đồng Êphêsô với quyền chủ toạ của thánh Cyrillô, tuyên bố cất chức giáo chủ Nestôriô và đánh đổ lạc thuyết của Ông. Công đồng Êphêsô đã tuyên xưng:” Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Thiên Chúa, bởi vì Người cũng đã thực sự sinh ra Đấng-Thiên-Chúa-làm người”. Maria được Thiên Chúa tuyển chọn cách hết sức đặc biệt, nên Mẹ được những ơn cao quí nhất mà nhân loại không ai có được. Mẹ xứng đáng mang tước hiệu Mẹ Thiên Chúa. Mẹ đã lắng nghe, chiêm ngưỡng Con Thiên Chúa trong biến cố giáng sinh và Mẹ đã suy đi nghĩ lại trong lòng. Mẹ đã hoàn toàn từ bỏ đễ chìm lắng tâm hồn trong sự cầu nguyện và trở nên hoàn toàn nghèo khó để chiêm ngưỡng Con Thiên Chúa trong sự tin tưởng và phó thác.
MARIA, NỮ VƯƠNG HÒA BÌNH:
Ngày hôm nay ngày đầu năm mới dương lịch, Đức Thánh Cha Phaolô VI đã chọn làm ngày hòa bình thế giới. Khi chọn lễ Mẹ Thiên Chúa làm ngày cầu hòa bình, Đức thánh Cha kêu gọi nhân loại hãy sống an bình, sự bình an của Chúa Hài Đồng ban tặng ngày Ngài đản sinh dưới thế mà các thiên thần loan báo:” Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”(Lc 2, 14 ) là điều cần thiết nhất cho mỗi người, cho thế giới. Hòa bình trong tâm hồn là điều kiện tiên quyết để lãnh nhận Hài Đồng Giêsu. Hòa bình là quà tặng quí giá nhất Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại:” Ta để lại bình an cho các con Ta ban bình an cho các con”. Hòa bình bắt đầu từ bên trong tâm hồn. Con Thiên Chúa đến để ban cho nhân loại sự an bình đích thực. Mẹ Maria là Nữ Vương hòa bình,nên hòa bình của con người, của tâm hồn mỗi người nằm trong tay Mẹ. Mẹ sẽ ban phát sự an bình ấy cho nhân loại nếu con người biết mở lòng ra, cải thiện và sám hối làm hòa với Thiên Chúa và với anh em. Như Mẹ Maria, nhân loại sẽ có sự an bình nếu họ biết noi gương bắt chước Ngài mà lắng nghe, suy niệm và đem Lời ra thực hành trong đời sống.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, xin cho nhân loại và mỗi người chúng con biết chạy đến với Mẹ xin Mẹ giúp hết thảy mọi người chuẩn bị tâm hồn quay về với Thiên Chúa, Đấng là nguồn Tình yêu, là nguồn Ân Sủng sung mãn để xứng đáng đón nhận hòa bình, đón nhận tình yêu mà Bí Tích Thánh Thể chứa đựng chính Chúa là Vua vũ trụ, Vua Hòa Bình.
Địa vị cao trọng – Lm. Thu Băng
Tổng Thống Ngô Đình Diệm vị tổng thống đầu tiên của nước Việt Nam Cộng Hòa, là vị tổng thống thứ nhất khai sáng lên nền Dân Chủ. Hiện diện trong buổi lễ nhận chức, có bà con họ hàng thân tộc cùng với cụ bà thân sinh ngồi trên hàng ghế danh dự. Khi giơ tay tuyên thệ nhận chức xong, cụ bà tức khắc trở thành mẹ Tổng Thống.
Khi sinh hạ bé Ngô đình Diệm cụ chỉ sinh ra cho dân tộc một hài nhi, một người con bụ bẫm, có tính khí hơn người. Bà không sinh Ngô đình Diệm như một Tổng Thống, nhưng thực sự bà là mẹ của một Tổng Thống.
Tương tự như vậy, chúng ta tuyên xưng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, là vì Đức Maria đã sinh hạ một người con là Đức Giêsu Kitô, Đấng vừa là Thiên Chúa vừa là nhân loại.
Khi sinh hạ Đức Kitô, Mẹ chỉ sinh hạ phần xác, sinh ra một con người thụ tạo, mà không sinh ra Thiên Chúa.
Nhưng Maria được vinh dự cung cấp bản tính nhân loại cho Ngôi Lời Nhập Thể, để nhờ Mẹ Maria, Đức Kitô được trở nên Thiên Chúa, với hai bản tính: Bản tính nhân loại và bản tính Thiên Chúa. Do đó, Mẹ Maria cũng trở nên Mẹ Thiên Chúa.
Đó cũng là tín điều mà chúng ta mừng kính hôm nay: Mừng kính chức Mẹ Thiên Chúa, một chức cao trọng nhất, tuyệt vời nhất, đặc biệt nhất, danh dự nhất, mà Thiên Chúa có thể ban cho một thụ tạo như Đức Mẹ.
Đức Mẹ là người duy nhất trong nhân loại, được Thiên Chúa tuyển chọn và cất nhắc lên địa vị cao trọng như thế.
Đó thực là một đặc ân, và đặc ân này kéo theo tất cả các đặc ân khác mà Đức Mẹ đã được:
Vì là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ được Thiên Chúa bảo toàn đức Khiết Trinh mà Mẹ đã khấn giữ.
Vì là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ được thông phần với Chúa Kitô để cứu chuộc nhân loại.
Vì là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ được Thiên Chúa rước Mẹ về trời cả hồn cả xác.
Vì là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ được Thiên Chúa ban thưởng chức Nữ Vương thiên đàng và muôn ơn khác nữa.
Theo thói quen, khi chúng ta đến chúc mừng em bé vừa hạ sinh, thì tiếp đến chúc mừng người mẹ. Chúng ta vừa chúc mừng Chúa Giêsu Giáng Sinh, thì nay chúng ta mừng Mẹ Người.
Ngày đầu năm mới, chúng ta chúc mừng nhau năm mới được đầy ơn Chúa, được hạnh phúc và bình an.
Đức Mẹ cũng là người luôn mong ước cho chúng ta được hạnh phúc như vậy. Mà hạnh phúc thật chỉ tìm thấy trong thái độ biết tuân theo mọi sự do Chúa an bài gửi đến trong cuộc sống, trong việc tận tình yêu mến Chúa và phục vụ đồng loại, như chính Đức Mẹ đã thực hiện trong cuộc sống của Người.
Lạy Mẹ Maria, Xin dạy chúng con biết cảm tạ Chúa, vì muôn ơn lành Chúa đã ban cho chúng con trong năm qua, và xin giúp chúng con biết yêu mến Chúa, và sốt sáng phụng sự Chúa như Mẹ, để chúng con được hạnh phúc trong năm mới và suốt cả cuộc đời chúng con. Amen.
Mẹ mẫu gương – Lm Micae Vũ An Lộc
Suy Niệm:
Thế giới đang sống có 7 kỳ quan thế giới. Mỗi kỳ quan đều toát lên vẻ đẹp, nét hùng vĩ và sự tuyệt tác của thiên nhiên. Ấy là những kỳ quan gắn liền với thế giới hữu hình. Người ta còn khám phá ra một kỳ quan trong thế giới vô hình, ấy là lòng mẹ: công đức trời bể, âm thầm, lặng lẽ, vất vả, lao nhọc nhưng toát lên một vai trò, vị trí vô cùng to lớn trong đời sống gia đình. Và người ta gọi đó là kỳ quan thứ 8 của thế giới này. Ngày hôm nay, khởi đầu của một năm mới, Giáo hội cho chúng ta chiêm ngắm vai trò và sứ vụ của “kỳ quan thứ 8” của mọi kỳ quan này. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Một mẫu gương về ân phúc và sự mẫu mực trong đời sống hàng ngày.
Phúc đức tại mẫu, văn hóa Việt nam chúng ta vẫn luôn đề cao vai trò của người mẹ trong gia đình. Tương lai của đứa con phụ thuộc rất nhiều vào sự giáo dưỡng của người mẹ. Sự chăm chỉ, thầm lặng, hy sinh vì gia đình của người phụ nữ trong đời sống hằng ngày, ấy là một ân phúc cho gia đình. Đức Maria hẳn phải là một ân phúc cho nhân loại chúng ta. Ân phúc vì Mẹ đã được diễm phúc, đặc ân cộng tác vào công trình cứu độ của Thiên Chúa. Ân phúc vì Mẹ đã khiêm nhường, suy đi, ngẫm lại trước hồng ân cao cả này mà trong nhiều “biến cố”, Mẹ muốn như dừng bước, chối từ, thế nhưng Mẹ đã một đời Xin vâng, để đem ân phúc đến cho nhân loại chúng ta. Mẹ đã sống đẹp trong những trắc trở, tận tụy, âm thầm để cộng tác với Thiên Chúa hầu đưa đến cho con người chúng ta ân phúc tuyệt vời cao cả nhất đó chính là Đức Giê-su Ki-tô, Thái Tử Bình An, Đấng Hòa Bình cho nhân thế.
Bên cạnh đó, Đức Maria còn là một mẫu gương trong sinh hoạt hàng ngày. Trong đời sống vật chất, gia đình Nagiaret vẫn được coi là biểu tượng của những gia đình nghèo. Thế nhưng, trong đời sống tinh thần, tổ ấm thánh gia vẫn được coi là biểu tượng của sự kính trên nhường dưới, đối nhân xử thế, khéo léo nhẹ nhàng với tương quan lối xóm. Trong những sinh hoạt đời thường đó, hẳn Mẹ Maria phải là một mẫu mực cho chồng cho con. Mẫu mực cho chồng vì Mẹ đã cũng phải gạt đi tự ái, quên đi “sự kiện” mà thánh Giuse muốn âm thầm bỏ đi. Mẫu mực cho con vì tình mẫu tử đã giúp mẹ vượt thắng những thử thách hằng ngày để cộng tác, xây dựng và làm cho Nước Chúa mau trị đến ngay cả “trước lúc khi sinh, trong khi sinh và thậm chí ngay cả sau khi sinh Ngôi Hai Thiên Chúa”. Vượt lên trên những trắc trở đó, Mẹ đã trở nên mẫu mực của sự tin tưởng, phó thác, một mực trung thành tuyệt đối với Thánh Ý Thiên Chúa.
Ngày hôm nay, khởi đầu ngày mới của một năm mới, mừng lễ Mẹ Thiên Chúa, chúng ta tin tưởng vào lời chuyển cầu của Mẹ cho thế giới chúng ta đang sống luôn được Bình An. Chúng ta cũng không quên từng người mẹ thân yêu của chúng ta. Có thể nói họ cũng là những Maria trong đời sống hàng ngày cho gia đình. Xin cho những người mẹ cũng biết “suy đi ngẫm lại” và “hằng ghi nhớ” mọi giáo huấn của Chúa và Hội thánh để mỗi người mẹ xứng đáng là “ân phúc và mẫu gương” trong và cho gia đình. Amen.
Mùa xuân vĩnh cửu – Sr. Tố Nhung
Giáo hội chọn ngày đầu năm mừng kính Mẹ Thiên Chúa là để tôn vinh Mẹ là Nữ Vương Thời Gian – một thời gian mới của ân sủng. Qua Mẹ, Chúa đã đến khai mạc thời cứu rỗi theo lời đã hứa sau khi nguyên tổ phạm tội: ”Ta sẽ đặt mối thù giữa ngươi (con rắn) và người đàn bà…” Và Mẹ đã cùng dân tộc Do thái của Mẹ ngày đêm cầu khẩn Đấng Cứu thế mau đến…
Một sáng mùa xuân, sứ thần Chúa mang lời dạm hỏi… Tin vui ùa ngập cả hồn, Mẹ ưng thuận. Và nhân loại bắt đầu một trang sử mới. Chúa nhập thể trong cung lòng Mẹ, Chúa tái lập giao ước với con người. Cây Hằng sống giữa vườn Địa đàng năm xưa lại bắt đầu trổ hoa trái Trường sinh. Lòng người lại đơm bông Hạnh phúc. Mùa xuân lại trở về trên vùng đất cũ…
Chúa lớn dần trong dạ Mẹ, giữa gia đình, dòng tộc, và quê hương Do thái. Nhưng trong thân xác và đời sống phàm trần của Giêsu lại chất chứa Thần tính của Thiên Chúa và mang trong mình sứ mạng cứu thế, do quyền năng của Chúa Thánh Thần.
Rồi Chúa bắt đầu đi rao giảng, làm phép lạ, chữa lành,… biểu lộ khuôn mặt nhân ái và quyền năng tha thứ của Thiên Chúa Cha. Cuối cùng Ngài chấp nhận cái chết trên thập giá vì tội loài người; và đã sống lại, ban Thần Khí, để ai tin và đón nhận thì được Thần Khí tái sinh, trở nên dưỡng tử của Cha Hằng Sống, được đồng thừa tự với Chúa Giêsu, được gọi Thiên Chúa bằng tiếng Cha thân mật. Con người không còn là nô lệ của lề luật, nhưng sống theo Thần Khí, để có thể bay về quê hương Hằng sống.
Chúa đã không đơn độc trong sứ mạng cứu thế. Bên cạnh Chúa luôn có Mẹ đồng hành. Bởi đức tin và tình mẫu tử, tình yêu của Mẹ là sự kết hợp giữa tình huyết nhục và vượt lên trên tình huyết nhục. Mẹ đã gắn bó đời Mẹ vào đời Chúa và vào sứ mạng của Ngài. Mẹ trở nên đấng Đồng Công Cứu Chuộc với Con của Mẹ.
Mẹ không những đã để Chúa lớn lên về thân xác trong dạ Mẹ, nhưng Mẹ còn để Lời Chúa, sự sống của Chúa lớn lên trong linh hồn Mẹ cho tới mức thành toàn, qua thái độ chiêm ngắm, ”suy đi nghĩ lại trong lòng” tất cả những gì liên quan đến Chúa. Khi lòng đã đầy Chúa, Mẹ mang Chúa đến cho người khác… để họ cũng được chiêm ngắm và cưu mang Chúa trong lòng. Mẹ trở thành cầu nối giữa Chúa và con người. Mẹ dâng lên Chúa những nhu cầu của con người (nơi tiệc cưới Cana), Mẹ dạy con người sống theo ý Chúa, ”Ngài bảo gì anh hãy làm theo”, để nhận được ơn cứu rỗi. Trên đồi Can-ve Mẹ đã dâng hiến lễ Tình yêu cho Cha và cho nhân loại qua việc hiến dâng Máu Thịt do chính lòng Mẹ sinh ra. Thập giá của con Mẹ cũng chính là thập giá của Mẹ. Và Chúa đã chính thức trao cho Mẹ sứ mạng làm Mẹ Giáo hội, chi thể của Chúa, dưới chân thập giá: ”Này là Con bà…” Sau đó Mẹ đã cùng Giáo hội non trẻ của Chúa ngày đêm cầu nguyện, trông đợi Chúa Thánh Thần ngự đến…
Mẹ đã chu toàn sứ mạng trần thế. Hồn xác Mẹ đã về Trời. Ngày nay trên Thiên quốc, Mẹ tiếp tục vai trò làm Mẹ chúng ta, phân phối ân huệ của Chúa Phục sinh cho tới khi ta được rỗi linh hồn. Nếu Chúa là suối, là mưa, thì Mẹ là mương, là máng, thông ơn cho ta. Nơi nào có Mẹ là có niềm vui, có ơn cứu rỗi, rượu ân sủng luôn tràn đầy.
Vấn đề là ta có nhận Mẹ làm Mẹ của chúng ta không? Có năng chạy đến với Mẹ trong mọi lúc của cuộc sống không? Ta có coi Mẹ là gương mẫu và là niềm hy vọng cho chúng ta không? Hãy để Mẹ cùng đi với ta trong cuộc đời, và dạy dỗ, giúp đỡ ta cưu mang Chúa trong lòng cho tới khi ta được diện kiến tôn Nhan Chúa, cùng Mẹ hoà nhịp vào tiếng nhạc thiên thần và tiếng hát của các thánh mà ca tụng lòng lân ái vô biên của Chúa trong một mùa xuân bất tận nơi vương quốc Tình Yêu. Hãy để mùa xuân mới Chúa đã khởi sự cách nay hơn hai ngàn năm đi vào sự hoàn tất vĩnh cữu… Ngày đầu năm mới, hãy đến hái lộc ân sủng của Chúa, từ tấm lòng từ mẫu của Mẹ Thiên Chúa… cho suốt cả năm và suốt cả đời…
Mẹ Thiên Chúa, đó là phẩm chức cao cả nhất của Đức Maria, chính phẩm chức cao cả này là nền tảng mỗi đặc ân khác dành cho Mẹ. Công đồng Vaticano II đã trình bày các đặc ân liên kết với phẩm chức Thiên Chúa như sau:
– “Không có gì lạ, nếu các giáo phụ đã thường xưng tụng Mẹ là Đấng toàn thánh, không vương nhiễm một tội nào, như một tạo vật mới do Chúa Thánh Thần uốn nắn và tác thành. Tràn đầy thánh thiện, có một không hai ngay từ lúc thụ thai, Đức Trinh Nữ thành Nazareth được Thiên thần vâng lệnh Chúa đến truyền tin và đã kính chào là “Đầy ơn phườc” (Lc. 1,28). (GH.59).
– “Được gìn giữ tinh sạch khỏi mọi vết tội nguyên tổ, và sau khi hoàn tất cuộc đời dưới thế, Đức Nữ Trinh Vô nhiễm đã được đưa lên hưởng vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác, và được Thiên Chúa tôn vinh làm nữ Vương vũ trụ, để nên giống Con Ngài cách trọn vẹn hơn” (GH.59).
– “Đức Maria luôn tiếp tục thiên chức làm Mẹ… Thật vậy, sau khi về trời, vai trò của Ngài trong việc cứu chuộc không chấm dứt, nhưng Ngài vẫn tiếp tục liên lỉ cầu bầu để đem lại cho chúng ta những ân huệ giúp chúng ta được phần rỗi đời đời… Vì thế trong Giáo hội, Đức Trinh Nữ Maria được kêu cầu qua các tước hiệu: trạng sư, vị bảo trợ, Đấng phù hộ và Đấng Trung gian” (GH.62)
Như vậy, long trọng mừng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, chúng ta hãy tỏ một niềm tin vững chắc vào vai trò của Mẹ trong chương trình cứu rỗi nhân loại. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa vì Ngài đã sinh ra cho chúng ta Thiên Chúa cứu chuộc. Trong buổi Truyền Tin, chính sứ thần Gabriel đã quả quyết: “Người sẽ thụ thai và sinh con… trẻ sẽ sắp sinh sẽ được gọi là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa” (Lc 1,31-35). Được Thánh Thần linh hứng, bà Elisabeth cũng đã lên tiếng: “Bởi đâu tôi được thế này, là mẹ Chúa tôi đến với tôi” (Lc1,43). Niềm tin vào chức phẩm cao quí là Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria đã có từ đầu Giáo hội. Chính thánh Phaolô đã viết: “Khi thời viên mãn đến, Thiên Chúa sai con của Người, sinh bởi người Nữ” (Gl 4,4).
Tiếp tục niềm tin đã có từ đầu, các tín hữu còn xác tín hơn nữa do biến cố dẫn tới những xác quyết chắc chắn của Công đồng chung Ephêsô (năm 413). Nestoriô khi ấy bác bỏ tước hiệu Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, ông chỉ chấp thuận Đức Maria là Mẹ Chúa Kitô, vì Ngài chỉ sinh ra xác thể Chúa Kitô thôi, chống lại lời rao giảng của Giám mục Nestoriô, khoảng hai trăm Giám mục đã họp tại Ephêsô ngày 22.6.431, dưới quyền chủ tọa của Thánh Cyrillô thành Alexandrioa. Công đồng này kết án Nestoriô và tuyên bố tín điều Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Toàn thể dân thành đã công khai bày tỏ niềm hân hoan trước thành quả này. Họ tổ chức rước đuốc để mừng các nghị phụ công đồng. Cũng từ công đồng này mà có phần sau của kinh Kính mừng: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử”.
Hợp với niềm hân hoan của dân Chúa dịp công đồng Êphêsô bế mạc, niềm tôn kính dâng lên Mẹ Thiên Chúa ngày một thêm sâu đậm. Vua Giuse Emmanuel nước Bồ Đáo Nha đã xin ông được đặc ân mừng lễ Mẹ Thiên Chúa. Thánh bộ nghi lễ đã ban bố sắc lệnh thiết lập ngày 22 tháng giêng năm 1751 và ấn định vào Chúa nhật đầu tháng năm. Từ đó nhiều nước cũng được hưởng đặc ân này. Năm 1931, dịp kỷ niệm 1500 năm, công đồng Ephêsô, Đ.G.H Piô XI đã lập lễ Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, kính trọng thể trong khắp Giáo hội vào ngày 11 tháng 10. Chính Đức giáo hoàng Piô XI đã viết:
– “Tín điều Mẹ Thiên Chúa là một mối nước mầu nhiệm vô tận, đã tuôn ra mọi đặc ân cho Đức Mẹ và nâng Người lên một địa vị cao sang tuyệt vời bên Thiên Chúa (Lux Veritatis 1931).
Năm 1962, Đức Giáo hoàng Gioan XXIII đã chọn lễ kính Mẹ Thiên Chúa làm ngày khai mạc công đồng Vaticanô II.
Đức giáo hoàng Phaolô VI dời ngày lễ vào đầu năm dương lịch, việc dời ngày kính này vào ngày thế giới Hòa Bình, nhấn mạnh thêm ý nghĩa lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa hôm nay. Đức giáo hoàng Phaolô VI viết:
– “Khi canh tân mùa Giáng sinh, mọi người phải chú ý đến việc tái lập lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa vào ngày 1 tháng giêng, đúng phụng vụ Roma từ xưa, nhằm tôn kính việc Đức Maria góp phần vào mầu nhiệm cứu rỗi và tôn vinh địa vị đặc biệt, khiến cho “Mẹ rất thánh, đáng tiếp nhận Nguồn sống cho chúng tôi”. Lễ này cũng là dịp rất tốt để chúng ta tôn thờ Vua Hòa Bình mới sinh, và nghe lại lời chúc hoà bình của các thiên sứ (Lc 2,14), để cầu Chúa, nhờ sự can thiệp của Nữ Vương Hòa Bình, ban cho ta ơn cao cả nhất là Hòa bình. Vì sự trùng hợp tốt đẹp giữa ngày 1 tháng giêng với ngày thứ tám giáp Lễ Giáng sinh mà chúng tôi đã đặt ngày đó là ngày thế giới hòa bình, mà thế giới mỗi ngày càng hưởng ứng thêm, và thành quả của hòa bình đã phát sinh trong lòng nhiều Người” (ĐGH Phaolô VI. Marialis Cultus, số 5b)
Đêm 22.06.443 tại thành Êphêsô có một cuộc rước đuốc vĩ đại, đoàn rước muôn người như một vừa đi diễu hành vừa tung hô vang trời: “Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, Maria là Mẹ Thiên Chúa”. Tại sao có cuộc rước đuốc này? Là vì Nettôriô, giám mục giáo chủ thành Côntăngtinốp chối Đức Maria không phải là Mẹ Thiên Chúa, vì Đức Maria không sinh ra thần tính của Chúa Giêsu mà chỉ sinh ra nhân tính là một dụng cụ của thần tính, nghĩa là Đức Kitô chỉ là một người được phúc tiền định mặc lấy thiên tính, trở nên đền thờ của Ngôi Lời. Như vậy, Nettôriô đã phân tách Ngôi Lời ra khỏi Đức Kitô, và phân chia Ngôi Hai nhập thể thành hai ngôi vị riêng biệt, được lồng vào nhau, rồi ông chủ trương: chỉ nên gọi Đức Maria là Mẹ Đức Kitô chứ không phải là Mẹ Thiên Chúa.
Trước chủ trương của Nettôriô, Công đồng chung được triệu tập tại Êphêsô để giải quyết vấn đề. 160 nghị phụ là các giám mục của Ai Cập, Palestine, Tiểu á và đại diện của Rôma là thánh Xirilô chủ toạ. Sau một ngày hội họp và tranh luận, công đồng đã cách chức Nettôriô và tuyên bố chủ trương của ông là sai lầm, là lạc thuyết, đồng thời Công đồng chấp nhận bản dự thảo của thánh Xirilô và tuyên bố: Đức Kitô tuy có hai bản tính nhưng chỉ là một ngôi, cho nên Đức Maria là Mẹ Đức Kitô thì cũng là Mẹ Thiên Chúa, Công đồng khẳng định dứt khoát: Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa.
Sau khi Công đồng đã xác định tước hiệu này, các tín hữu phấn khởi vui mừng kéo nhau ra các đường phố vang lời ngợi khen Đức Mẹ, tung hô các nghị phụ và cầm đuốc sáng dẫn đưa các ngài về nhà. Đồng thời, để mừng kính và đánh dấu thành quả của Công đồng, kinh “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội” đã được sáng tác vào dịp này và được Đức Giáo Hoàng Xêléttin chấp nhận.
Như vậy, Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, là một tín điều, một chân lý đức tin. Để Đức Maria thực sự được gọi là Mẹ Thiên Chúa thì những điều kiện ắt có và đủ là: ngài phải thực sự sinh một người con, và người con này từ giây phút đầu hiện hữu làm người đã là Con Thiên Chúa hoặc Ngôi Lời, mà thực vậy, Đức Maria thực sự có đủ những điều kiện đó. Nói khác đi, Chúa Giêsu là người thật và cũng là Thiên Chúa thật, bởi thế, nếu Đức Maria là Mẹ thật của Chúa Giêsu, thì ngài cũng là Mẹ thật của Thiên Chúa.
Như vậy, vì có mầu nhiệm Đức Kitô mà có mầu nhiệm Đức Mẹ Thiên Chúa. Mầu nhiệm này gắn liền với Con Thiên Chúa làm người. Trong lịch sử Giáo Hội, chỉ sau khi xác định chân tướng Chúa Giêsu Kitô, vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật, Giáo Hội mới xác định Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Nếu Chúa Kitô chỉ là Thiên Chúa thôi thì không làm gì có “Mẹ Thiên Chúa” như một “siêu Thiên Chúa”. Hay nếu Chúa Kitô chỉ là người thôi, cho dù là:siêu nhân” đi nữa, thì Đức Maria càng không thể là “Mẹ Thiên Chúa”. Cho nên, ngày nay chúng ta tuyên xưng đức tin mầu nhiệm Đức Mẹ Thiên Chúa là bởi vì mầu nhiệm ấy gắn liền với mầu nhiệm nhập thể, như trong kinh Tin kính: “Ngài là Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật… Ngài đã từ trời xuống thế bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Ngài đã nhập thể trong lòng Trinh nữ Maria và đã làm người”. Chúng ta tin nhận Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa chính là vì chúng ta tin Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật và là người thật: Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Đức Maria sinh ra Chúa Giêsu, nên Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa.
Mẹ Thiên Chúa là một tước hiệu cao cả, một đặc ân tuyệt vời mà không ai dám nghĩ tới, kể cả chính Đức Mẹ. Mọi tước hiệu và các đặc ân khác được ban cho Đức Mẹ như vô nhiễm nguyên tội, đồng trinh trọn đời, hồn xác lên trời chỉ là những đòi hỏi bắt buộc phải có, hay là những hiệu quả tất nhiên của chức vụ Mẹ Thiên Chúa độc đáo này. Thánh Bônaventura đã nói: “Chức Mẹ Thiên Chúa là một ơn vĩ đại phi thường nhất Thiên Chúa có thể ban cho loài thụ tạo. Ơn ấy Ngài đã ban cho Đức Maria”, “Thiên Chúa có thể mở rộng thêm bầu trời, có thể làm cho trái đất lớn thêm ra, có thể tạo dựng một thế giới vĩ đại hơn, nhưng Thiên Chúa không thể tạo dựng một người Mẹ Thiên Chúa cao sang hơn được nữa, vì muốn vậy phải có một Con Thiên Chúa cao trọng hơn nữa, điều đó không thể nào có được”. Thánh Tôma Tiến sĩ nói thêm: “Tước vị Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria cao trọng hầu như vô cùng, vì Thiên Chúa không thể cất nhắc ai lên bậc tốt lành và cao sang hơn nữa, chức mẹ Thiên Chúa hầu như đã tới biên giới vô cùng”.
Với tư cách là Mẹ Thiên Chúa, Đức Mẹ có uy quyền đáng kính nể, đó là điều thông thường và dễ hiểu, bởi vì một người mẹ nào có con làm lớn và nhiều quyền, thì người mẹ đó cũng có nhiều uy quyền và được mọi người kính nể. Đàng khác, trên đời này chúng ta chỉ trông cậy người nào có thế và có lòng, vì có hai yếu tố đó họ sẽ giúp chúng ta đạt được những điều chúng ta mong muốn. Đức Maria có cả hai yếu tố đó và có một cách tuyệt vời. Đức Mẹ có thế, vì là Mẹ Thiên Chúa, chẳng có sự gì Đức Mẹ cầu bầu cho chúng ta mà không được. Đức Mẹ lại có lòng, tấm lòng của một bà mẹ, hoàn hảo hơn hết người mẹ. Vì thế, chúng ta hãy đến với Đức Mẹ và năng cầu xin mẹ cứu giúp.
Hôm nay là ngày tân niên, ngày đầu của một năm mới, chúng ta hãy trao năm mới này, trao con người và cuộc đời chúng ta trong vòng tay từ mẫu của Mẹ, xin Mẹ ban bình an và cho chúng ta thêm tuổi thêm khôn ngoan, thêm nhân đức, thêm sự nghiệp đức tin trước mặt Thiên Chúa và mọi người.
Mẹ Thiên Chúa – Lm. Cao Thế Bình.
Kính thưa qúi ông bà anh chị em, mỗi một người hiện hữu trên trần gian này, ai lại là người không có mẹ – cha, có điều là người mẹ đó tuyệt vời hay còn có nhiều khuyết điểm. Và nếu được quyền chọn lựa thì ai lại không muốn chọn cho mình một người mẹ tuyệt hảo, nhưng đây là điều ngoài tầm tay của con người. Còn Thiên Chúa thì sao? NGài có quyền tuyển chọn một người người mẹ tuyệt trần nhất để làm Mẹ Chúa cứu thế.
Hôm nay ngày đầu năm, Giáo Hội đặt: lễ Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, sao Giáo Hội lại đặt lễ này vào ngày thứ nhất của năm mới để làm gì, nếu không phải là để mọi người và thế giới nhìn vào Đức Maria như là là sự bình an và niềm hy vọng; vì Mẹ đã đêm đến cho nhân loại ông Vua thái bình, mà chúng ta chiêm ngắm tuần trước trong đêm Giáng Sinh. Mẹ là kiểu mẫu của người sống đức tin. Vâng, Đức Maria là một tuyệt tác tuyệt diệu của Thiên Chúa; vì Thiên Chúa cần một người Mẹ như thế để làm Mẹ của Ngôi Hai Đấng cứu thế. Mẹ Maria mà chúng ta cùng với GH hôm nay mừng kính tước hiệu: Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, đó là phẩm chức cao cả nhất của Đức Maria, chính phẩm chức cao cả này là nền tảng mọi đặc ân khác Chúa đã dành cho Mẹ.
Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, đó là một tín điều được công bố ngày 22- 6- 431 bởi công đồng Êphêsô, dưới quyền chủ tọa của thánh Cyrillô thành Alexandria, cũng từ Công Đồng này mà ta có phần sau của kinh kính mừng: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử. Amen”.
Với tước hiệu Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, chắc không khỏi một số người thắc mắc: Thiên Chúa là Đấng quyền năng cao cả, tự hữu, không có ai cao cả hơn Thiên Chúa nữa, thế mà chúng ta lại nói: Đức Maria là mẹ Thiên Chúa, như vậy nghĩa là làm sao? Vâng, như tín lý dạy chúng ta rằng: Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Hai Thiên Chúa và cũng là Thiên Chúa, nhưng Chúa Giêsu, xét về bản tính nhân loại thì Ngài lại hiện hữu trong thời gian qua việc Ngài được Đức Mẹ sinh ra.
Đức Maria đã sinh ra Đức Giêsu là người thật và là Thiên Chúa thật, nên Đức Maria cũng được gọi là Mẹ Thiên Chúa. Chúng ta đừng sợ tước hiệu này xúc phạm đến Thiên Chúa cao cả, vì Ngài đã chấp nhận giáng trần sinh bởi một người nữ để trở nên hoàn toàn như chúng ta ngoại trừ tội lỗi, thì sao ta lại sợ xúc phạm đến Ngài khi bảo Ngài là con của Mẹ Maria? Ở đây ta có thể chưng ra một thí dụ na ná để chúng ta dễ hiểu: chẳng hạn, ta lấy hình ảnh tổng thống công giáo đầu tiên là ông Kennedy, tổng thống thứ 35 của Hoa Kỳ. Vào ngày 20-01- 1961, khi ông trở thành tổng thống thì trên phương diện điều hành đất nước, ông là người có chức quyền cao hơn tất cả mọi người dân Hoa Kỳ, kể cả cha mẹ, ông bà nội, ông bà ngoại nữa; thế mà trong mối tương quan máu mủ gia đình thì ông lại là con của ông bà Rose Kennedy.
Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa làm người, được sinh ra bởi người mẹ, việc sinh nở này do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Và Chúa Giêsu mặc lấy hai bản tính; bản tính Thiên Chúa và bản tính nhân loại, hai bản tính này kết hợp với nhau một cách chặt chẽ trong một con người là Đức Giêsu Kitô, mà Chúa Giêsu lại được chính Đức Maria sinh ra. Như vậy Đức Mẹ là mẹ đích thực của Chúa Giêsu, mà Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa và như thế Đức Mẹ cũng là Mẹ Thiên Chúa, như lời của Kinh Thánh ghi lại lời chào của sứ thần Gariel: “Kính chào bà đầy ơn phúc Thiên Chúa ở cùng bà”, rồi lại nữa: “Trẻ mà bà sinh ra được gọi là thánh, là con Thiên Chúa” (Lc 1, 31-35). Rồi trong thơ Galata thánh Phaolo viết: “Khi đến thời viên mãn, Thiên Chúa sai con của Người, sinh bởi người nữ”. ( Gl 4,4). Bài Tin Mừng của thánh Luca ghi lại: “Các mục đồng vội vã ra đi đến thành Bêlem, và gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Khi họ trở về miệng tung hô ca ngợi Thiên Chúa” ( Lc 2,16.21).
Mừng lễ Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa, Giáo Hội lấy ngày lễ này đặt vào ngày đầu năm, ý của Giáo Hội là mong muốn con cái mình đặt trót 365 ngày của năm mới này dưới sự che chở và nâng đỡ của Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng ta. Ngày đầu năm, Giáo Hội cầu nguyện cho hoà bình thế giới, truyền thống này đã được Đức Giáo Hoàng Phaolo VI muốn, khi mừng lễ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa vào ngày đầu năm thì cũng cầu mong thế giới được hòa bình. Đức Maria là Mẹ của Hoàng Tử bình an nên chi, Giáo Hội nhìn lên Mẹ để cầu xin Mẹ mang Vị Vua Hoà Bình đến cho thế giới, cho mỗi người; nhất là gia đình và thế giới ngày hôm nay có qúa nhiều sự đe doạ, sống trong lo âu, sợ hãi. Cho nên, hơn bao giờ hết, gia đình và thế giới hôm nay cần phải chạy đến với Mẹ, để xin Mẹ mang Chúa của sự bình an đến cho loài người.
Anh chị em thân mến, mỗi dịp Giáng Sinh về là dịp giúp chúng ta hơn nữa để chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ, đồng thời khi chúng ta chiêm ngắm Vị Vua Thái Hoà, thì bên cạnh Vị Vua đó là: Đức Maria, người mẹ nhân từ, hiền dịu, yêu thương. Như vậy, ngày đầu năm chúng ta đến đây để hợp tiếng ca mừng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, chúng ta hãy tỏ lòng tin vững chắc vào vai trò của Mẹ trong chương trình cứu rỗi nhân loại. Ước gì chúng ta chiêm ngưỡng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa và cũng là Mẹ của chúng ta, lòng chúng ta phải luôn hân hoan vui mừng vì Thiên Chúa đã ban đặc ân này cho Mẹ.
Mong sao, sau khi dâng thánh lễ, ra về, lòng mỗi người vui mừng phấn khởi như các mục đồng xưa, để loan báo tin mừng, tin vui nước trời đã thực hiện cho loài người nơi Thánh Tử Giêsu con yêu dấu của Mẹ Maria. Tin mừng, tin vui đó phải được thể hiện nơi mỗi người bằng sự niềm nở, vui tươi, tin tưởng, phó thác cuộc đời của mình theo chương trình nhiệm mầu của Thiên Chúa, như Đức Maria luôn tìm và vâng theo thánh ý Chúa, cho dẫu gặp những hoàn cảnh khó khăn, bi đác không thể hiểu được, nhưng Mẹ luôn tín thác vào Thiên Chúa và chương trình của Ngài, qua sự lắng nghe và xin vâng.
Xin Mẹ Maria giúp chúng con biết noi gương Mẹ, luôn suy gẫm lời Chúa như Mẹ, để lời của Chúa sinh hoa qủa dồi dào trong lòng mỗi người chúng con. Đặc biệt là ngày đầu năm này, chúng con cần phải có tâm tình như Mẹ, sống tin tưởng phó thác tất cả mọi sự cho chương trình của Thiên Chúa thực hiện qua cuộc sống của chúng con. Amen.
THÁNH MARIA, ĐỨC MẸ CHÚA TRỜI
Ngày 1 tháng 1, trong khi chúng ta chúc nhau “năm tốt lành”, Giáo Hội mừng lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa. Và chúng ta ước nguyện đi xa hơn vào huyền nhiệm Đức Kitô. Bởi vì mỗi lần Giáo Hội nói với chúng ta về Đức Maria, chính là để nói về Đức Giêsu. Chúng ta có khẳng định quá đán, khi chúng ta nói, trong kinh Kính Mừng Maria: Thánh Maria, Mẹ Thiên Chúa? phải chăng một tạo vật có thể là mẹ Thiên Chúa? Phải Chăng Thiên Chúa lại sinh ra từ một người đàn bà, như Thánh Phaolô nói trong bài đọc thứ hai hôm nay (Gl 4,4).
Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ.
Các mục đồng hết sức đơn thành, ở những vùng sườn đồi Bêlem, chạy vội đến để xác minh sứ điệp mà thiên thần truyền cho họ: “một Đấng Cứu độ được sinh ra cho các ngươi; Người là Đức Kitô và là Chúa”. Chính là Hài Nhi mang ba danh hiệu ấy mà họ tìm đến. Ba danh hiệu trang trọng, thuộc về Thiên Chúa: Đấng Cứu Độ, Đấng chịu Xức Dầu, Đức Chúa.
Như vậy, điều đáng chú ý nhiều hớn nữa là Luca dường như xem thường Hài nhi, khi trưng dẫn Người cuối cùng; và cũng đặt người đàn ông, ông Giuse, xuống thứ hai vào thời mà người đàn bà không có giá trị ngang bằng. “Họ khám phá ra Maria”. Trong cái viễn tượng đảo lộn này, có một cuộc cách mạng thần học và nhân bản nho nhỏ.
Maria! Danh hiệu của bà là Mẹ Thiên Chúa đã chỉ được xác định ở Công đồng Êphêsô năm 430. Nhưng từ rất lâu, lòng sùng kính bình dân đã dám gọi Đức Maria là “theotokos” “Mẹ Thiên Chúa”. Và vào thời đó khi các giám mục chính thức công nhận danh hiệu này, thì cả thành phố Êphêsô hoan hỉ và xuống phố lúc nữa đêm để rước đuốc mừng lễ. Cái mà các nhà thần học tìm kiếm, về mặt trí thức, từ bốn thế kỷ qua, thì về bản chất nó đã được sống nơi tất cả những người chỉ biết đơn sơ lắng nghe Tin Mừng. Các Công đồng chỉ có vai trò xác định bằng ngôn ngữ khoa học những điều đã gợi ra từ trong Tân ước. Ngoài ra còn phải đợi đến hai mươi năm nữa, thì Công đồng Can-xê-đoan sau cùng năm 451 mới xác định huyền nhiệm của Đức Giêsu và Đức Maria. Đây là văn bản tín điều, văn bản nổi tiếng nhất của lịch sử các Cồng đồng: “Tất cả, chúng tôi đồng lòng tuyên xưng, một Chúa Con độc nhất và luôn luôn là một. Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, hoàn toàn về thiên tính, hoàn toàn về nhân tính, Thiên Chúa thật và người thật, được cấu thành bới một linh hồn có lý trí và một thân xác, đồng bản tính với Chúa Cha do thiên tính, đồng bản tính với chúng ta bởi nhân tính, tất cả đều giống như chúng ta trừ tội lỗi (Dt 4,15), được sinh ra bởi Chúa Cha, trước các thế kỷ theo thiên tính, được sinh ra trong những ngày cuối cùng này vì chúng ta và để cứu độ chúng ta, bởi Đức Maria, Mẹ trinh nguyên của Thiên Chúa theo nhân tính: một và cùng một Chúa Ki tô duy nhất. Con độc nhất, mà chúng ta phải nhận biết trong hai bản tính không lẫn lộn, không thay đổi, không phân ly, không tách biệt”. Đấy là tấm giấy chứng minh kỳ diệu và rõ rệt về Đức Giêsu Nagiarét, và Mẹ Người Đức Maria.
Họ tìm ra Bà Maria và ông Giuse cùng với Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ.
Cần phải lặp lại những từ này sau khi đã nghe xác định trang trọng về Đức tin. Như thế chúng ta hiện đứng trước một trong hai phương diện của Đức Giêsu, nhân tính thực của Người. Các mục đồng trông chờ tìm thấy một Đấng Cứu độ Kitô Chúa (Lc 2.11), và chỉ tìm thấy có thế: một Hài nhi trong chuồng bò lừa, đặt trong máng cỏ dành cho súc vật, một Hài Nhi trên nệm rơm! Thiên Chúa lập tức tự mạc khải như một vị hoàn toàn khác: thoạt đầu, Người khác với cái mà ta tưởng tượng về Người. Người đã hiện ra như quá gần gũi, ngay từ đầu. Người mang tính người đến nỗi nhiều người không nhận ra Người, chính vì Người bị che khuất đối với người thân tín nhất của nhân loại chúng ta.
Vâng, Giao ước giữa Thiên Chúa và con người mà Cựu ước, Tân ước nói tới, ngay từ đầu, không huyênh hoang, đã nói với chúng ta là nó đi đến đâu: hợp nhất không thể xé bỏ được, không lẫn lộn, không phân ly, không tách biệt.
Tất cả thái độ tôn giáo được hâm chứa như mầm mống trong điều mạc khải này: người ta không thể miệt thị vật chất, thân xác, từ khi Thiên Chúa “nhập thể” trong cung lòng trinh nữ Maria. Không có cái gì là phàm tục. Tất cả đều trở nên linh thánh, nghĩa là đôi khi hoàn toàn “nhân bản” và hoàn toàn “thiên bản”: lớn lên chín tháng trong bụng mẹ, sinh ra, ngủ nghỉ, ăn uống, học đi và tập nói, chữa lành bệnh nhân, lên tiếng công khai, yêu mến bạn bè, thức dậy sớm ban sáng để cầu nguyện, chịu đau đớn, chết,… những thực tại nhân thiên bản những thực tại linh thánh. Và Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, thì giống như một bảo đảm cho sự kết hợp không thể phân ly của Thiên Chúa và con người trong bản vị độc nhất của Đức Giêsu.
Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này.
Điều họ đã được loan báo, chính là “một Đấng Cứu Độ, được sinh ra cho các anh, người là Chúa Kitô. Họ đơn sơ đến nói sứ điệp của họ, tức là những lời nói mà họ nghe thấy. Các họa sĩ thuộc mọi thời đại đã diễn dịch câu nói Tin Mừng này khi trưng bày một bức tranh “Sự thờ kính của các mục đồng”. Thực sự, đúng hơn các mục đồng đã giảng một bài cho Đức Maria, bằng cách nói Tin Mừng cho bà, tin lành mà họ nhận được. Bây giờ, trong câu này chúng ta thấy có phương diện thứ hai của Đức Giêsu, thiên tính đích thực của người: về Hài nhi này, các thiên thần đã nói với chúng ta rằng:
Người là Đức Kitô và là Chúa!”. Đó là một tuyên xưng đức tin và từ đó đến thờ kính thì không xa: các bức tranh của các họa sĩ không lầm lần.
Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên. Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng.
Ngôn từ Hy Lạp của Luca còn mạnh mẽ hơn nhiều mọi người ai cũng lấy làm lạ lùng. Thế nhưng, có cần phải thấy một đối lập mà Luca muốn trình bày giữa thái độ tổng quát và thái độ của Maria chăng? Quả thực đúng là ông chỉ nhấn mạnh đến cách hành sử của bà thôi: Bà không chỉ lạ lùng, mà suy niệm.. Dù không hiểu nhiều hơn các mục đồng về huyền nhiệm xảy đến cho mình, phải chàng người ta không thể nghĩ rằng từ đáy lòng mình Đức Maria nói lại tiếng xin vâng của đức tin trước sự mới lạ bất ngờ của Hài nhi này sao? Luca không ngừng tôn vinh giá trị của Maria.
Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ.
Chúng ta luôn luôn cố giản lược huyền nhiệm về Đức Giêsu, bằng các đến giản hóa đi, Hoặc là người ta nhân bản hóa Đức Giêsu khi chỉ nhìn thấy người là một người có thiên tài, hoặc người ta linh thiêng hóa người bằng cách chối từ những khuyết điểm trong nhân tính của Người. Chính các mục đồng, những con người đơn sơ, đã trông thấy và đã nghe thấy. Họ đã xem thấy một nhân tính hoàn toàn bình thường, và nghe thấy một sứ điệp rất phi thường. Và họ không chỉ muốn dừng lại ở những dáng vẻ bên ngoài: họ tôn vinh và ca tụng Thiên Chúa.
Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giêsu
Hài nhi Bêlem là một người thực bé mọn, gắn liền với một truyền thống, một văn hóa và hệ thống tập tục. Đó là một bé trai, nhời được ghi dấu vào xác thịt dành cho tất cả những người nam của dân tộc này. Vâng, một nhân tính thực sự mà trước nó người ta không thể không thấy được. Nhưng tên của trẻ thơ này mang những vấn đề mới về căn tính của cậu: tại sao di cư phải đặt cái tên Thiên Chúa Cứu Độ, Yeshoua, Giêsu? Tại sao?
Đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ.
Theo Luca, việc đặt tên này chỉ là nhột cơ hội bổ sung để làm nổi bật Maria: tác giả nhấn mạnh rằng Maria, Mẹ Người, đã nhận tên con mình “trước khi Người được thụ thai trong lòng”.
Công đồng Vatican II, tiếp theo một truyền thống lâu dài của Giáo Hội, đã trình bày Đức Maria như một gương mẫu của Giáo Hội, người đầu tiên trong các tín hữu. Và trong trang Tin Mừng này, chúng ta thực sự vừa mới nhận ra rằng bà là người đầu tiên đón nhận Lời Chúa và suy niệm trong lòng mình… và bà là người đầu tiên có lời tuyên xưng cơ bản về lòng tin của chúng ta: Thiên Chúa Cứu Độ!
Trong ngày đầu tiên của năm mới, tất cả sự mới mẻ của niềm tin Kitô giáo được Đức Maria nhắc lại cho chúng ta. Sự tân kỳ của Đức tin của các Kitô hữu, chính là không phải chỉ tin vào Thiên Chúa. Điều đó, phần đông mọi người vẫn thế, nhất là những người theo một trong những tôn giáo lớn trên thế giới: và chúng ta nghĩ đến Do Thái giáo, Hồi Giáo, và biết bao Tôn Giáo hữu linh. Đặc tính riêng biệt của người Kitô hữu, chính là tin vào sự nhập thể của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Sự tôn sùng Đức Maria chỉ làm cho chúng ta nhớ lại điều đó.
Người nữ chiêm niệm tuyệt vời.
(Suy niệm của Fr. Jude Siciliano)
Thưa quí vị. Hôm nay mùng một tháng giêng dương lịch, lễ Đức Maria Mẹ Chúa Trời. Chúng ta khởi sự năm dương lịch mới với một lễ trọng, kính nhớ ơn Thiên Chúa ban cho nhân loại, tức Đức Maria làm mẹ Thiên Chúa. Cứ theo như thần học thì ơn này là nguyên lý của mọi ơn khác nơi Đức Mẹ, cũng như ơn Ngôi hiệp nơi Chúa Giêsu vậy. Nhờ ơn Ngôi hiệp mà nhân loại được hưởng mọi ân huệ, mọi lời hứa của Đức Chúa Trời. Thì nhờ ơn làm mẹ Thiên Chúa mà Đức Maria được các ơn huệ khác, như Vô nhiễm nguyên tội, ơn Trọn đời đồng trinh, ơn Hồn xác lên Trời vv. Cho nên như vừa nói đầu năm là một ơn trọng đại. Còn chi vui thoả hơn cho linh hồn các tín hữu? Bài đọc 1 trích sách Dân số viết thế này: “Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em. Nguyện Đức Chúa Trời tươi mặt nhìn đến anh em, và dủ lòng thương anh em. Nguyện Đức Chúa ghé mặt nhìn và ban bình an cho anh em: Chúc như thế là đặt con cái Israel dưới quyền bảo trợ của danh Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng.” Nguyên văn ở thể thơ, và dĩ nhiên nhịp nhàng, xúc tích hơn văn dịch nhiều. Nó là kết tinh của hơn một nghìn năm lịch sử Do thái. Cuốn sách chứa đựng các luật lệ xã hội và tôn giáo, điều hành nếp sống của con cháu Abraham trong hết mọi bình diện. Phần trích hôm nay thuộc truyền thống cổ xưa nhất. Sau mỗi buổi Phụng vụ các tư tế thường dùng công thức này, tương tự như các linh mục, giáo sĩ ngày nay. Lời chúc phúc được viết bằng văn chương thơ phú để tăng thêm ý nghĩa tình cảm tròn đầy. Đó là thế mạnh của văn vần. Chúng ta dịch sang văn suôi, thì ý nghĩa giảm đi một nửa: “Đức Chúa chúc lành cho anh em, gương mặt Ngài chiếu toả trên anh em, Ngài đưa mắt hiền từ nhìn xem anh em.” Tương tự như các chủ tế ngày nay đọc: “Nguyện xin ơn sủng của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng anh chị em.” Chúng ta tin đó là lời chúc to lớn nhất trong Giáo hội. Thì cũng vậy lời chúc phúc của bài đọc 1 không chi thiết tha hơn cho dân Do thái. Mặc dù năm Phụng vụ mới bắt đầu từ mùa vọng. Nhưng năm dân sự khởi đầu từ hôm nay. Cho nên chúng ta, trong khi nhớ lại nguồn mạch của mọi ơn lành nơi Đức Maria thì cũng được nhắc nhớ Thiên Chúa là Đức Chúa Trời của mọi ơn lành cho các tín hữu.
Chúng ta có thể dùng công thức này hôm nay để cầu xin Chúa gột rửa khỏi não trạng mình những hình ảnh ghê sợ về Đức Chúa Trời mà lời giảng, các văn chương lệch lạc gieo rắc vào tâm hồn qua nhiều năm tháng. Chủ yếu Thiên Chúa phải là Thiên Chúa của tình yêu, lòng thương xót và chúc lành. Chúng ta càng ý thức về căn tính này của Đức Chúa, thì càng tiến bộ trong tình yêu mến, cảm tạ và tri ân. Chúng ta càng trở nên khiêm tốn khi lãnh nhận các ơn huệ của Đức Chúa Trời. Bởi lẽ mọi sự đều là hồng ân. Kiêu căng là phản bội, không thể chấp nhận được trong đời sống tín hữu. Chúng ta phải loại trừ nó tận gốc rễ, tức tận trong tư tưởng của mình. Thói xấu này rất khó bỏ, nó len lỏi vào cả các hành vi đạo đức và thể hiện dưới muôn vàn trạng thái, ý thức được cũng như không ý thức được. Muốn bỏ kiêu ngạo, chúng ta phải luôn cảm nhận khuôn mặt của Thiên Chúa chiếu sáng trên mình như bài đọc một chỉ rõ. Khi ấy chúng ta nhận ra thân phận mình và có lòng nhân từ với kể khác để tìm ra phương hướng đối xử tốt với đồng loại. Ở đây xin nhớ lời Chúa Giêsu dạy bảo trong Phúc âm Luca (6, 27): “Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình thì có gì là ân với nghĩa…Nếu anh em làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình, thì còn gì là ân với nghĩa. Ngay cả kẻ tội lỗi cũng làm như thế.” Vậy chúng ta nên tử tế với mọi người, mặc dù nhiều khi thiên hạ không xứng đáng hoặc họ chưa bao giờ nhận ra một nụ cười thân thiện. Xin lưu ý bài đọc 1 có liên quan trực tiếp tới bài Phúc âm, ở điểm Thiên Chúa của Cựu ước và Tân ước đều là nguồn mạnh phúc lành. Tuy nhiên phúc lành của Tân ước lớn và rõ ràng hơn trong Đức Giêsu Kitô. Phúc lành các mục đồng nhận được qua một tin mừng vĩ đại: “Anh em đừng sợ, này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là niềm vui cho toàn dân.” Mặc dù họ chỉ là những kẻ ngoài lề xã hội, hèn hạ và bất lương. Nhưng họ đã được nghe tin vui, chấp nhân nó, loan truyền cho kẻ khác và trở thành tín hữu nhiệt thành. Phúc âm kể: “Rồi những người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh, ca tụng Thiên Chúa vì mọi điều họ đã được tai nghe mắt thấy, theo như họ đã được loan báo.” Các mục đồng đã nhanh chóng hành động trong chiều kích của Tin mừng và phúc lành Thiên Chúa ban cho họ. Chúng ta nên noi gương họ hoan hỷ thi hành bổn phận mà Phúc âm trao cho mỗi người khi lãnh nhận các Bí tích, nhất là Bí tích thanh tẩy.
Điểm thứ hai chúng ta nên suy nghĩ là các mục đồng nhận được mặc khải và phúc lành ở đâu? Trong đền thánh hay trên cánh đồng, nơi chúng lao động? Câu trả lời thật rõ ràng, nhưng vẫn gây nhiều ngộ nhận. Chúng ta vẫn tưởng tượng đền thánh, nhà thờ là những nơi xứng hợp để xin và nhận các phúc lành. Phúc âm hôm nay không nói như vậy. Các mục đồng nhận được mặc khải Chúa Giáng sinh ở chính nơi họ làm việc, chăm sóc các đoàn chiên. Họ không lao động để nhận được phúc lành ấy, mà chỉ chu toàn bổn phận. Vậy chúng ta muốn được Thiên Chúa chúc lành cũng không thể đi ra ngoài thông lệ là thi hành tốt trách nhiệm của mình. Trách nhiệm mỗi người trong xã hội thì đã được Thiên Chúa an bài rõ ràng. Người cha, người mẹ, linh mục, thầy tu. Khi làm các phận sự này tốt đẹp là chúng ta góp phần xây dựng xã hội. Câu thành ngữ: “Việc nhà nhếch nhác, việc chú bác thì siêng năng” phải là câu châm ngôn để cảnh cáo mọi người về bổn phận, không nên pha trộn vào nhiệm vụ người khác, để khỏi gây rắc rối cho gia đình, xóm làng. Kkhi thi hành nhiệm vụ các mục đồng đã được “Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến và dủ lòng thương”. Vậy chúng ta còn thiếu chi trong bổn phận hằng ngày? Nên chăng coi xem cặn kẽ hơn để thấy được Thiên Chúa biểu lộ cho chúng ta những nội dung mà Ngài muốn chúng ta thực hiện. Nói cách khác điều chi phải làm và làm cách nào? Thí dụ thay đổi nếp sống, thói quen, yêu thương chăm sóc vợ con nhiều hơn, trung thành với nhiệm vụ nhiều hơn, từ bỏ tính mê nết xấu, giúp đỡ bạn bè, người hàng xóm nghèo khổ. Mặt khác, những tiếp súc nào, những gặp gỡ nào, những nhân vật nào giúp đỡ chúng ta nhận ra các sứ điệp “thiên thần”, có khả năng mở mắt, mở lòng chúng ta đón nhận tin vui của Thiên Chúa. Họ giống như các mục đồng đến viếng thăm Đức Mẹ và Chúa Hài Nhi, loan báo các sự việc phải giữ và suy đi nghĩ lại trong lòng. Họ sẽ nói sự thật về chính bản thân chúng ta. Bằng đời sống chứng ta và lời lẽ khôn ngoan họ sẽ giúp đỡ nhìn ra những người chúng ta phải chúc lành, khích lệ, giúp đỡ,an ủi. Dĩ nhiên, tiếng nói của họ không thánh thiêng như các thiên thần trong Phúc âm nhưng nhẹ nhàng và trần tục như bao linh hồn khác. Tuy nhiên đủ để lật đổ những thói quen suy nghĩ cũ của chúng ta vì công bình, bác ái, đạo đức, bảo thủ, cấp tiến. Xin lấy một thí dụ cụ thể cho dễ hiểu: Các giáo viên, giáo sư trong các cơ sở giáo dục. Những tư tưởng, kiến thức của họ giúp chúng ta nhìn xa trông rộng nhiều hơn là thế giới hằng ngày với các báo chí lá cải tầm thường. Các sứ giả thường nhật không ồn ào náo nhiệt như hội chợ, họ xuất hiện khiêm nhường, tế nhị, nhưng nếu lưu ý chúng ta sẽ thấy họ chỉ đường dẫn lối cho biết nơi Chúa Giêsu sinh ra một cách chắc chắn. Xin nhớ các mục đồng không có kiến thức triết học, thần học, nhưng điều họ loan báo rất chính xác từ kinh nghiệm của mình. Họ nói cho dân thành Belem về Tin mừng và phước lành nhận từ Thiên Chúa. Ngày nay chúng ta cũng vậy, xin đừng rao giảng học thức uyên bác của miình mà là kinh nghiệm ơn lành cứu độ của Thiên Chúa qua năm tháng cuộc đời. Đây mới là nội dung nên rao giảng và dẫn dắt thiên hạ đến cùng Thiên Chúa.
Ở điểm này chúng ta phải nhìn lên Đức Mẹ. Ngài là mẫu mực của các linh hồn chiêm niệm. Thánh Luca kể: “Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ những điều ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng.” Ngôn từ Hy lạp trong nguyên bản “ghi nhớ” có nghĩa “lưu trữ, giữ gìn” và từ “suy đi nghĩ lại” có nghĩa cân nhắc. Vậy thì chúng ta hiểu Đức Mẹ rất lúng túng, bối rối về sự việc. Ngài không hoàn toàn nắm bắt được ý nghĩa Thiên Chúa gởi gắm vào các biến cố. Vì vậy, ngài để tâm suy nghĩ và tìm ra những giải đáp có thể hiểu được. Đây cũng là kinh nghiệm cho mọi người chúng ta, cuộc đời có rất nhiều nhiệm màu, chúng ta đừng vội yên tâm với những giải thích hời hợt, mà phải đi sâu vào cốt lõi của từng vấn đề, nhất là trong lãnh vực thiêng liêng. Cho nên Giáo hội luôn kêu gọi suy gẫm và chiêm niệm. Điều kiện tối cần để thực hiện điều này là tấm lòng trong trắng: “Phúc cho ai có tâm hồn trong sạch, vì sẽ được nhìn xem Thiên Chúa.” Đức Mẹ là mẫu gương chiệm niệm bởi Ngài là bà chúa khiết trinh, thánh thiện và đạo đức. Chúng ta trông lên mẹ để được suy gẫm và chiêm niệm cho nên. An ở buông thả không thể đạt tới mục tiêu này, cả cuộc đời tu trì chỉ là một thất bại.
Đối với trí khôn loài người nói chung, sự sáng tỏ không đạt tới ngay lập tức mà cần thời gian suy nghĩ. Với Đức Maria cũng vậy. Sau này khi đi lễ đền thờ Giêrusalem, Đức Mẹ và thánh Giuse lạc mất con trẻ Giêsu. Ba ngày tìm kiếm nơi đền thờ và đã tìm thấy Ngài ngồi giữa các thày tiến sĩ luật, hỏi và trả lời một cách rất thông minh khiến mọi người kinh ngạc. Thấy vậy Đức Mẹ trách yêu con mình: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây phải cực lòng tìm con.” Trước câu nói này của Đức Mẹ, Chúa Giêsu trả lời: “Tại sao chúng ta mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là cón có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” Phúc âm kể tiếp: “Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói.” Tuy vậy Đức Mẹ lưu giữ mọi sự ở trong lòng. Liệu người môn đệ Chúa Giêsu có thể làm khác đi được không? Nhởn nhơ với các trò ma mãnh thế gian mà vẫn vỗ ngực tự phong môn đệ Chúa? chúng ta lãnh nhận Tin mừng Chúa tức ơn lành vĩ đại, lời chúc phúc vô biên thì phải cân nhắc ý nghĩa của nó và áp dụng vào đời sống. Thánh Luca mô tả tâm tình này của Đức Maria ở nhiều nơi (8, 15, 21; 11, 28). Mẹ và anh em tôi chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành…Nhưng Người đáp: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa.” Vậy xin đừng biến Đức Mẹ thành pho tượng thạch cao, cao sang nhưng vô tri vô giác. Phúc âm hôm nay không cho phép như vậy. Đức Mẹ vẫn là loài người, gần gũi với chúng ta trong việc đón nhận và tuân giữ lời Thiên Chúa. “Còn bà Maria hằng ghi nhớ những điều ấy và suy tưởng trong lòng.” Chúng ta hãy thắp sáng lên đôi hàng bạch lạp xin Mẹ giúp mình xử trí với Lời Chúa cho xứng đáng.
Thực tế Đức Mẹ lúc ấy chỉ là cô gái trẻ,15 hoặc 16 tuổi. Sinh nở trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, tồi tàn. Có lẽ không có bà mẹ trẻ nào phải chịu đựng nhiều gian khổ đến vậy khi sinh con. Chúng ta có thể đoán chắc khi Chúa sinh ra không có bà mụ đỡ đẻ, tắm rửa. Chỉ các bà mẹ mới đủ khả năng thông cảm với các phu nữ khi sinh con. Phần thánh Giuse cũng chịu đựng không ít lo lắng và sợ hãi: an toàn cho Đức Mẹ và Chúa Giêsu, tiện nghi tối thiểu, hới nóng tối thiểu. Nhiều con trẻ chết yểu ngay sau khi chào đời với những điều kiện còn tốt hơn nhiều. Việc sinh nở luôn luôn bất trắc và nguy hiểm. Có lẽ Phúc âm đã thi vị hoá quang cảnh Chúa ra đời. Thực chất thế nào thì sinh hoạt đời thường nơi miền quê thôn dã cho chúng ta những ý niệm cụ thể. Vậy mà Đức Mẹ và thánh Giuse đã chịu đựng tất cả. Đức Mẹ của Phúc âm không phải là pho tượng thạch cao, không cảm nghiệm đau đớn đắng cay, vô tình trước những sự kiện. Ngược lại tích trữ mọi biến cố và suy niệm trong lòng. Ngài co61 gắng tìm hiểu ý nghĩa những lời Ngài nghe, và những việc xẩy ra qua những xáo trộn của cuộc đời, giống như chúng ta giữa trường đời hôm nay. Sau này với những biến cố Chúa đi rao giảng, bị chống đối, ghen ghét, hành thích, giết chết, sống lại và lên trời, chắc hẳn Đức Mẹ còn phải tích trữ, suy nghĩ nhiều hơn nữa. Cho nên dù ươn ngạnh đến đâu, chúng ta cũng phải công nhận Ngài là người tín hữu xếp hàng đầu trong mọi tín hữu của Chúa Kitô. Nắm giữ mọi mầu nhiệm của Thiên Chúa trong lòng mình, là mẹ Chúa Trời, mẹ những kẻ tin kính, đấng an ủi kẻ không tin, người nữ chiêm niệm trong thế giới ồn ào, gương soi cho các linh hồn tận hiến. Liệu quí vị có đồng ý với tôi? Để chúng ta sốt sắng mừng lễ Mẹ Thiên Chúa. Amen.
Duyệt lại năm 2019 của Đức Giáo Hoàng Phanxicô
Chỉ còn 1 ngày nữa, chúng ta sẽ bước sang năm 2020, cũng là năm đầu của thập niên thứ ba trong thế kỷ 21. Nhân dịp này, Vatican News đã mời độc giả xem lại hoạt động của Đức Phanxicô trong năm qua.
Theo hãng tin này, Đức Giáo Hoàng Phanxicô luôn nhắc nhở chúng ta rằng nhiệm vụ quan trọng nhất là công bố Tin Mừng. Năm 2019 chứng kiến ngài làm y như thế, qua 41 cuộc yết kiến chung (suy niệm về Kinh Lạy Cha và Sách Tông đồ Công vụ), 56 bài nói lúc đọc kinh Truyền Tin và Lạy Nữ Vương Thiên Đàng, hơn 60 bài giảng lễ công cộng và 41 bài giảng lễ trong các thánh lễ hàng ngày tại Nhà Thánh Marta. Chưa kể các thông điệp, thư từ, văn kiện, cuộc phỏng vấn, và khoảng 260 bài diễn văn, đọc tại Rôma và trong các chuyến tông du ngoại quốc.
Chắc chắn, không hàm hồ
Suốt năm, Đức Giáo Hoàng nhắc nhở chúng ta một điều chắc chắn đầy an ủi: Thiên Chúa yêu thương chúng ta và trong Chúa Giêsu, Người ban sự sống của Người cho chúng ta. Đây là sứ điệp chính trong toan bộ sứ mệnh của Đức Phanxicô, như đã được phát biểu trong Evangelii gaudium. Ngài mời gọi chúng ta nhớ “đức tin đơn sơ và vững mạnh” của mẹ của bà chúng ta, một đức tin vốn đem lại và tiếp tục đem lại “sức mạnh và kiên trì để bước tới”. Một loại “đức tin làm tại nhà, chẳng được ai lưu ý, nhưng từ từ xây đắp Nước Thiên Chúa”. Một đức tin không lẫn lộn hồ đồ, vì nó dựa vào những điều thiết yếu của Tin Mừng.
Đức tin chứ không thờ ngẫu tượng
Trong một xã hội ngày càng ngoại giáo, Đức Giáo Hoàng Phanxicô không ngừng khuyến khích chúng ta trở lại với Thiên Chúa Duy Nhất Đích Thực: Ngài nói, “Thờ ngẫu tượng không phải chỉ là bước vào một đền thờ ngoại giáo và thờ phượng một bức tượng. Thờ ngẫu tượng là một thái độ của tâm hồn”. Các ngẫu tượng có thể thay đổi tên, nhưng ngày nay chúng hiện diện hơn bao giờ hết. Tiền bạc, thành công, nghề nghiệp, tự thể hiện mình, khoái lạc: tất cả các ngẫu tượng này đều hứa hẹn hạnh phúc, nhưng không đem đến được. Trái lại, chúng bắt ta làm nô lệ. Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhắc nhở chúng ta “các thần tượng hứa hẹn sự sống, nhưng lại lấy mất nó... trong khi Thiên Chúa đích thực không đòi sự sống, nhưng cho nó đi”.
Tự sửa không tự công chính hóa
Giống Chúa Giêsu, Đức Giáo Hoàng Phanxicô không sợ khuyên răn, nhất là những ai tự coi mình tốt hơn người khác. Ngài gọi đó là “tôn giáo của cái tôi”, của những người tự cho là Công Giáo, “nhưng quên khuấy mình là Kitô hữu và là con người nhân bản”. Họ quên khuấy điều này: việc thờ phượng Thiên Chúa “luôn đi qua tình yêu người lân cận”. Đức Giáo Hoàng Phanxicô cảnh cáo rằng “người Pharisêu” luôn sẵn sàng nổi dậy trong mọi người chúng ta, cao ngạo và tự công chính hóa mình. Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh, đức tin nghĩa là có đủ khiêm nhường để mình được sửa chữa.
Hiền lành chứ không cứng ngắc
Cũng giống như Chúa Giêsu, lời lẽ của Đức Giáo Hoàng Phanxicô có thể sản sinh hiệu quả kép: một số người nghe chúng rồi hoán cải, những người khác trở nên cứng lòng hơn trước. Trong chuyến bay từ Phi Châu trở về hồi tháng 9, Đức Giáo Hoàng nói ngài không sợ ly giáo: Ngài nói, “Ngày nay, chúng ta có nhiều trường dạy sự cứng ngắc ngay trong lòng Giáo Hội”. Chúng không phải là ly giáo “nhưng là các ly giáo giả có kết thúc không đẹp” vì phía sau sự cứng ngắc này, “không hề có sự thánh thiện của Tin Mừng”.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô yêu cầu chúng ta lấy thiện thắng ác, đồng hành “một cách hiền lành” với những ai sợ Giáo Hội không còn là Công Giáo nữa, cho rằng Đức Giáo Hoàng nói những điều ngài chưa bao giờ nói. Ngài nhắc nhở chúng ta, không có tín điều nào bị thay đổi, không lòng tôn sùng nào bị bãi bỏ. Đức Giáo Hoàng chỉ đơn thuần khuyến khích chúng ta tiến lên phía trước trong một tinh thần chào đón và thương xót, bước đi trong hợp nhất như một dân tộc, để việc khai triển tín lý luôn thống nhất với truyền thống đích thực.
Đặt Chúa Kitô vào trung tâm
Trong Thượng Hội Đồng Giám Mục về Vùng Amazon hồi Tháng 10, Đức Giáo Hoàng Phanxicô không ngừng nhắc đi nhắc lại chữ “hoán cải”, một ý niệm tìm được chỗ đứng của nó trong Tài Liệu Sau Cùng của Thượng Hội Đồng. Thực vậy, Thượng Hội Đồng yêu cầu cuộc hoán cải 4 mặt: đồng nghị, vì Giáo Hội phải tiến bước như một người, không chia rẽ hay một mình; văn hóa, vì chúng ta phải biết nói năng ra sao với các nền văn hóa khác nhau; sinh thái, vì khai thác môi trường cách vị kỷ sẽ dẫn tới việc hủy diệt các dân tộc; mục vụ, vì việc công bố Tin mừng là điều khẩn thiết.
Nền tảng 4 hoán cải trên là việc quay về với Tin mừng sống động, tức Chúa Giêsu. Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói rằng: Hoán cải đích thực là để mình qua một bên, đặt Chúa Kitô ở trung tâm và để Chúa Thánh Thần làm người chủ đạo đời ta.
Đấu tranh chống lạm dụng
Hội nghị thượng đỉnh “Bảo vệ Các Vị Thành niên trong Giáo Hội” hồi tháng 2 có tính lịch sử theo nhiều cách: nó tụ tập các nhà lãnh đạo Giáo Hội từ khắp các châu lục, và một cách can đảm và minh bạch, nó tập chú vào các phương cách nhắm đánh tan đại nạn lạm dụng trẻ em trong Giáo Hội. Trong nhận xét kết thúc, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhấn mạnh sự kiện này: lạm dụng là “một vấn đề phổ quát, hiện diện một cách đầy bi thảm gần như ở khắp nơi và ảnh hưởng tới mọi người”. Ngài trưng dẫn các dữ kiện cho thấy đa số các vụ lạm dụng do các thành viên gia đình và các nhà giáo dục vi phạm ở nhà, ở trường, trong thể thao và các phương tiện của Giáo Hội, chưa kể qua ngành du lịch tình dục và buôn người. Ngài nói, “sự tàn bạo của hiện tượng hoàn cầu này càng trở nên trầm trọng và tai tiếng hơn trong Giáo Hội, vì nó hoàn toàn bất tương xứng với thế giá luân lý và tính khả tín đạo đức của Giáo Hội”.
Bãi bỏ “bí mật Giáo Hoàng”
Với Tự sắc Vos estis lux mundi, Đức Giáo Hoàng thiết lập các thủ tục mới để báo cáo việc lạm dụng, sách nhiễu và bạo lực, và để bảo đảm rằng các Giám Mục và bề trên Dòng phải giải trình các hành động của các ngài. Văn kiện bao gồm nghĩa vụ của các giáo sĩ và tu sĩ phải báo cáo việc lạm dụng trong khi mọi giáo phận phải tự cung cấp cho mình một hệ thống để tiếp nhận các báo cáo này, một hệ thống phải dễ dàng để công chúng sử dụng. Năm nay, Đức Giáo Hoàng Phanxicô bãi bỏ “bí mật Giáo Hoàng” vốn dành cho những trường hợp này và thay đổi quy định liên quan tới văn hóa khiêu dâm trẻ em: sở hữu và phân phối các hình ảnh khiêu dâm liên quan tới các vị thành niên cho tới tuổi 14 vốn đã có trong “delicta graviora” — tức các tội nặng nhất; với các qui định mới, hạn tuổi này được nâng lên 18.
Cải tổ Giáo triều Rôma
Hội đồng Hồng Y tiếp tục công việc cải tổ Giáo triều Rôma của họ, với mục đích bảo đảm mọi cơ cấu của Giáo hội mang tính truyền giáo nhiều hơn. Một bản dự thảo Tông Hiến mới, với tiêu đề tạm thời là Praedicate evangelium, “Hãy Công Bố Tin mừng”, đang được duyệt xét. Vào cuối năm, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã chấp nhận đơn từ chức của Niên trưởng Hồng Y đoàn, Đức Hồng Y Angelo Sodano, người đã giữ chức vụ này từ năm 2005. Với một Tự sắc, Đức Giáo Hoàng đã giới hạn chức vụ này trong nhiệm kỳ 5 năm, có thể được gia hạn nếu cần thiết.
Cải cách nền kinh tế Vatican
Việc cải cách trong lĩnh vực tài chính cũng tiến triển trong năm 2019, về cả tính minh bạch lẫn ngăn chặn chi phí. Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã đổi mới các Điều lệ của Viện Công trình Tôn giáo Vatican (IOR) và thiết lập chức Kiểm toán viên Bên ngoài để kiểm toán các tài khoản, theo tiêu chuẩn quốc tế, trên cơ sở thường trực. Đức Giáo Hoàng đã bổ nhiệm Linh mục Dòng Tên Cha Juan Antonio Guerrero Alves đứng đầu Văn Phòng Kinh tế, và ủy quyền cho một cuộc điều tra tư pháp của Vatican đối với nhiều người khác nhau đang phục vụ Tòa Thánh, liên quan đến một số giao dịch tài chính. Nhắc đến qũy “Đồng Xu Thánh Phêrô”, Đức Giáo Hoàng nói rõ rằng “ quản trị tốt” là làm cho đồng tiền nhận được sinh lời, chứ không “đặt nó vào một ngăn kéo”. Tuy nhiên, mọi khoản đầu tư phải “hợp đạo đức”, để tiền bạc luôn phục vụ cho việc truyền giảng Tin mừng và người nghèo.
Chúa Nhật Lời Chúa
Với tông thư Aperuit illis, đề ngày 30 tháng 9, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã thiết lập Chúa Nhật Lời Chúa, một ngày đặc biệt để khuyến khích mọi tín hữu đọc và suy niệm Kinh thánh bởi vì, như thánh Giêrôm đã nói, “không biết Kinh thánh là không biết Chúa Kitô”. Ngày cử hành hàng năm sẽ diễn ra vào Chúa Nhật thứ ba Mùa Thường niên (Chúa Nhật đầu tiên là vào ngày 26 tháng 1 năm 2020).
Hang Giáng sinh
Vào ngày 1 tháng 12, tại thị trấn Greccio, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã ký một Tông Thư khác, Admirabile signum, trong đó ngài mời gọi chúng ta khám phá lại truyền thống đẹp đẽ của Hang Giáng sinh. Đức Giáo Hoàng viết “Việc mô tả việc sinh hạ Chúa Giêsu tự nó vốn là một lời công bố đơn giản và hân hoan mầu nhiệm Nhập thể của Con Thiên Chúa. Cảnh giáng sinh giống như một Tin mừng sống động phát xuất từ các trang Kinh thánh. Dù ở bất cứ nơi đâu, và dù dưới bất cứ hình thức nào, máng cỏ Giáng sinh cũng nói với chúng ta về tình yêu của Thiên Chúa, Đấng Thiên Chúa đã trở thành trẻ thơ để làm cho chúng ta biết Người gần gũi với mọi người nam, nữ và trẻ em như thế nào, bất kể điều kiện của họ".
Các Kitô hữu bị bách hại
Đức Giáo Hoàng Phanxicô không bao giờ mệt mỏi tố cáo cuộc bách hại các Kitô hữu; ngài nhắc nhở chúng ta rằng, ngày nay, có nhiều vị tử đạo hơn thời kỳ đầu của Kitô giáo. Vào tháng 1, Tòa án Tối cao Pakistan đã dứt khoát tha bổng Asia Bibi khỏi tội phỉ báng mà bà đã bị tố cáo một cách bất công vá bị kết án tử hình. Một bà mẹ Công Giáo có năm người con, Asia Bibi đã ở tù từ năm 2009. Cả Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI lẫn Đức Giáo Hoàng Phanxicô đều theo dõi vụ kiện rất cẩn trọng. Khi gặp một trong những cô con gái của bà, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói với cô rằng ngài thường nghĩ tới mẹ cô và cầu nguyện cho bà.
Vào ngày 21 tháng 4, một cuộc tấn công của những kẻ cực đoan Hồi giáo chống lại các nhà thờ Thiên chúa giáo ở Sri Lanka đã gây ra cái chết của hơn 250 người khi họ đang cử hành lễ Phục sinh. Đức Giáo Hoàng đã đưa ra lời kêu gọi cùng ngày ấy. Trong năm, ngài cũng tố cáo các cuộc tấn công chống các tôn giáo khác, như cuộc tấn công chống lại một nhà thờ Hồi giáo ở thành phố Christchurch, Tân Tây Lan, vào ngày 15 tháng 3, đã giết chết hơn 50 người.
Bảo vệ gia đình và sự sống
Vào ngày 25 tháng 3, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã đến thăm Loreto. Ở đó, ngài đã nhắc lại rằng, đặc biệt đối với thế giới ngày nay, “gia đình thành lập dựa trên hôn nhân giữa một người đàn ông và một người đàn bà mang một tầm quan trọng và một sứ mệnh thiết yếu”. Quan sát viên thường trực của Tòa thánh tại Liên Hợp Quốc, Đức Tổng Giám Mục Bernardito Auza, đã nhắc đến lời lẽ của Đức Giáo Hoàng về ý thức hệ phái tính, gọi nó là “một bước thụt lùi” đối với nhân loại.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô tiếp tục bảo vệ sự sống từ lúc thụ thai đến lúc kết thúc tự nhiên của nó. Năm 2019, ngài lên tiếng bảo vệ Vincent Lambert, 42 tuổi, bị để cho chết trong trạng thái ý thức tối thiểu. Đức Giáo Hoàng nói, “Chúng ta đừng xây dựng một nền văn minh loại bỏ những người mà cuộc sống bị chúng ta tin là không còn đáng sống nữa. Mỗi sự sống đều có giá trị, luôn luôn như thế”: dù đó là sự sống của một đứa trẻ chưa sinh ra, một người đau khổ vì đói, bạo lực hay bất công, cho dù đó là người bệnh, người già hay người di cư liều chết để tìm kiếm một tương lai tốt hơn . Công lý không lựa lọc. Nó không chỉ dành cho một số loại người. Công lý là phổ quát.
Khuyến khích giới trẻ
Năm 2019 chứng kiến việc Đức Thánh Cha công bố Tông huấn, Christus vivit, thành quả của Thượng hội đồng về giới trẻ, tổ chức tại Vatican vào tháng 10 năm 2018. Tài liệu mở đầu bằng dòng chữ: “Chúa Kitô đang sống! Người là niềm hy vọng của chúng ta, và một cách tuyệt vời, Người mang tuổi trẻ đến thế giới của chúng ta, và mọi thứ Người đụng tới đều trở nên trẻ trung, mới mẻ, tràn đầy sức sống. Như thế, những lời đầu tiên tôi muốn nói với mọi Kitô hữu trẻ là: Chúa Kitô đang sống và Người muốn các bạn sống!”
Đức Giáo Hoàng cầu xin Chúa “Giải thoát Giáo hội khỏi những người khiến Giáo Hội già đi, giam cầm Giáo Hội trong quá khứ, giữ chặt Giáo Hội hoặc giữ Giáo Hội lại hoặc bắt Giáo Hội đứng yên. Nhưng chúng ta cũng hãy xin Người giải thoát Giáo Hội khỏi một cơn cám dỗ khác: đó là nghĩ Giáo Hội trẻ vì Giáo Hội chấp nhận mọi thứ được thế giới cung ứng cho Giáo Hội, nghĩ rằng Giáo Hội được đổi mới vì Giáo Hội đặt thông điệp của mình sang một bên và hành động như mọi người khác. Không! Giáo hội trẻ khi Giáo Hội là chính mình”.
Trong văn kiện Hậu Thượng hội đồng, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đề nghị “các nẻo đường huynh đệ” để sống đức tin, tránh cơn cám dỗ “muốn rút vào các nhóm nhỏ”. Ngài mời gọi các người trẻ xây dựng “tình bạn xã hội, trong đó, mọi người làm việc vì lợi ích chung”. Ngài thách thức họ “phục vụ người nghèo, trở thành người chủ đạo của cuộc cách mạng bác ái và phục vụ, có khả năng chống lại các bệnh lý của chủ nghĩa tiêu dùng và chủ nghĩa cá nhân hời hợt”.
Các cuộc tông du
Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã thực hiện bảy cuộc tông du vào năm 2019. Ngài đã viếng thăm mười một quốc gia thuộc bốn lục địa, làm nó trở thành một năm kỷ lục về các chuyến viếng thăm ở bên ngoài nước Ý. Năm bắt đầu với Ngày Giới trẻ Thế giới ở Panama, và tiếp tục tại Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất nơi Đức Giáo Hoàng đã ký một Văn kiện lịch sử về tình huynh đệ của con người với Đại Imam của al Azhar. Ở Morocco, ngài nhắc lại tầm quan trọng của đối thoại liên tôn. Ở Bulgaria, Bắc Macedonia và Romania, ngài khuyến khích sự hợp nhất Kitô giáo. Ở Mozambique, Madagascar và Mauritius, ngài đã lên tiếng để bảo vệ người nghèo và Sáng thế. Ở Thái Lan, ngài kêu gọi cổ vũ quyền của phụ nữ và trẻ em. Ở Nhật Bản, thông điệp của ngài tập trung vào hòa bình, và ngài nhắc lại rằng cả việc sử dụng và sở hữu vũ khí hạt nhân đều là vô luân.
Các chuyến thăm của Đức Giáo Hoàng tại Ý bao gồm Camerino, nơi ngài ôm hôn các nạn nhân động đất ở Vùng Marches. Tại Loreto, ngài đã ký Tông huấn Hậu Thượng Hội Đồng về giới trẻ, và tại Greccio, thị trấn nơi Thánh Phanxicô dựng lên cảnh Chúa giáng sinh đầu tiên, Đức Giáo Hoàng đã ký bức thư của ngài liên quan đến hang đá Giáng sinh.
Các Thánh và Chân phúc
Năm 2019 được chứng kiến nhiều vụ phong thánh và phong chân phúc, bao gồm nhiều vị tử đạo từ mọi châu lục và hệ tư tưởng. Một số vị đã bị giết “vì lòng thù hận đức tin”, trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha. Họ đã chết khi tha thứ cho những kẻ sát hại họ. Những vị khác, như bảy giám mục của Giáo Hội Công Giáo Hy Lạp ở Lỗmani được Đức Giáo Hoàng Phanxicô phong chân phúc ở Blaj, là những vị tử đạo của chế độ cộng sản. Những vị khác, như Giám mục người Á Căn Đình Enrique Angelelli và bạn đồng hành của ngài, là nạn nhân của chế độ độc tài cánh hữu. Những người giáo dân cũng là những vị thánh được tuyên bố: như Margherita Bays của Thụy Sĩ, hay “các vị thánh hàng xóm”, những người sống theo ơn gọi của họ trong gia đình, giữa các thách thức hàng ngày. Danh sách này cũng bao gồm một Hồng Y: John Henry Newman, một người Anh giáo đã trở lại đức tin Công Giáo vào năm 1845.
Một linh mục trong năm mươi năm
Năm 2019 cũng là năm Đức Giáo Hoàng Phanxicô kỷ niệm 50 năm làm linh mục của ngài. Câu chuyện ơn gọi của ngài bắt đầu từ ngày 21 tháng 9 năm 1953, Lễ Thánh Mátthêu. Chính hôm đó, khi xưng tội, chàng trai trẻ Jorge Mario Bergoglio đã có một trải nghiệm sâu sắc về lòng thương xót của Chúa. Kể từ đó, trong tư cách Giáo hoàng, ngài đã mô tả các linh mục như những người sống giữa người ta bằng trái tim nhân hậu của Chúa Giêsu. Ngài nói, hôm nay là thời điểm của lòng thương xót. Giáo hội hiểu điều này ngày một hơn: Đức thánh Giáo hoàng Gioan XXIII đã thực hiện một bước quan trọng theo hướng này, một bước được tiếp nối bởi các vị kế nhiệm ngài. Được linh hứng bởi Thánh Faustina Kowalska, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã thiết lập Chúa Nhật lòng thương xót.
Vào ngày Chúa Nhật lòng thương xót năm 2019, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã xác nhận rằng “tất cả chúng ta đều cần lòng thương xót”. Ngài mời gọi chúng ta “đến gần Chúa Giêsu và đụng vào các vết thương của Người trong các vết thương của anh chị em đang đau khổ của chúng ta. Các vết thương của Chúa Giêsu là một kho báu: lòng thương xót phát xuất từ đó”.
Giáo hội Hoa Kỳ cử hành Tuần lễ di cư: vì một Giáo hội và một thế giới cho tất cả mọi người
Theo các vị lãnh đạo Giáo hội, đây là một cơ hội để “suy tư về các tình cảnh của người di cư, người tị nạn, trẻ em và nạn nhân của nạn buôn người”. Với mục đích này, trong gần nửa thế kỷ qua, Giáo hội Công giáo Hoa Kỳ đã tổ chức Tuần lễ Di cư Quốc gia.
Và như nội dung được đăng trên trang web của HĐGM, Giáo hội Hoa Kỳ muốn lôi cuốn sự chú ý đến thực tế rằng "mỗi gia đình của chúng ta có một lịch sử di cư, hoặc gần đây và hoặc quá khứ nào đó. Bất kể chúng ta ở đâu và đến từ đâu, chúng ta vẫn là một phần của gia đình nhân loại và chúng ta được mời gọi sống liên đới với nhau".
Chúng ta không xem người di cư là người xa lạ
HĐGM cũng lưy ý đến việc, ngày nay, chúng ta thường không có khả năng gặp gỡ người di cư và chúng ta xem họ như những người xa lạ, chúng ta vẫn còn xa tránh hoặc sợ người di cư. Như thế, Tuần lễ này là dịp để mời gọi đến gần và xử sự với người di cư như những người bạn. Để làm điều này, chúng ta sẽ xem xét cuộc sống của người nhập cư và người tị nạn không có người thân đi cùng. HĐGM còn nhấn mạnh đến việc các giáo xứ cần tổ chức để chào đón những người tị nạn từ Dịch vụ Người di cư và Người tị nạn của HĐGM, và "chúng ta sẽ xem xét các sáng kiến địa phương đang đóng góp quan trọng trong vấn đề này".
Các sáng kiến
Các Giám mục đề cập đến 4 động từ chính được ĐTC Phanxicô nói trong vấn đề nhập cư: đón tiếp, bảo vệ, thúc đẩy, hòa nhập. Người Công giáo được mời gọi sống cùng và xem những người di cư là anh chị em, và việc tiếp đón người di cư là một phần của Giáo huấn xã hội Công giáo và suy tư truyền thống Kinh Thánh về việc chào đón người nước ngoài.
Giáo hội Hoa Kỳ cũng đưa ra nhiều sáng kiến thu hút cộng đoàn địa phương trong Tuần lễ này: từ việc cử hành Thánh lễ trong tuần này đến những giây phút học hỏi, cũng như những người đã có sẵn để giúp đỡ trẻ em và người tị nạn nhập cư. (CSR_7846_2019)
Ngọc Yến - Vatican
Hãy nên giống Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse
Nhân ngày lễ Thánh gia Chúa Nhật 29/12 Đức Thánh Cha Phanxicô đã trình bày vai trò của từng người trong gia đình, nếu muống gia đình được hạnh phúc.
Nhìn vào Gia đình Thánh gia, Đức Thánh Cha Phanxicô phân tích từng vai trò trong gia đình Nazaret, Mẹ Maria, người nữ tỳ khiêm hạ và thánh Giuse luôn rộng mở tâm lòng cho tác động của Chúa Thánh Thần.
Mẹ Maria
Như những cô gái trẻ, Mẹ cũng có những chương trình cho tương lai, tuy nhiên khi Mẹ nhận được chương trình của Chúa mời gọi Mẹ cộng tác, Mẹ đã không ngần nhìn nhận mình là nữ tỳ của Chúa…
Thánh Giuse
KẾ đến là hình ảnh của thánh Giuse, Tin Mừng không ghi nhận một lời nào từ thánh nhân ngoại trừ vâng theo mệnh lệnh của Chúa bằng hành động. Đức Thánh Cha Phanxicô nói ngài định tâm từ bỏ Maria cách âm thầm kín đáo vì nàng đã có thai…
Chúa Giêsu
Cuối cùng, Đức Thánh Cha Phanxicô nhìn vào Chúa Giêsu, thành viên thứ ba của gia đình Thánh gia Nazaret. Ngài chính là người mà Chúa Cha đã hứa ban. Như thánh Phaolô đã viết khi thời gian sung mãnh Ngài đã xuất hiện trong thời gian và là Người nắm trong tay mọi quyền năng vinh hiển…
Một gia đình
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nêu lên gia đình thánh gia như một khuôn mẫu của mọi gia đình. Ba khuôn mặt trong gia đình thánh đó thể hiện thánh ý ngàn đời của Thiên Chúa.
Trong buồi triều yết Đức Thánh Cha Phanxicô cũng mời gọi mọ người hãy cầu nguyện cho các nạn nhân khủng bố tại Somalia và các nơi khác trên thế giới.
Thanh Quảng sdb
Sứ điệp Đức Thánh Cha gởi cho cộng đoàn Taizé nhân cuộc gặp gỡ tại Wrocław
Khoảng 20,000 bạn trẻ Âu Châu hiện đang tham dự cuộc gặp gỡ Âu Châu lần thứ 42 tại thành phố Wrocław của Ba Lan do cộng đoàn Taizé tổ chức. Cuộc họp diễn ra từ ngày 28 tháng 12, 2019 đến hết ngày 01 tháng Giêng năm 2020. Đây là lần thứ ba thành phố Wrocław đăng cai sự kiện này. Đó cũng là lần thứ năm cuộc gặp gỡ Taizé Âu Châu hàng năm được tổ chức tại Ba Lan.
Các cuộc họp mặt hàng năm tại Âu châu, theo trang web của Taizé, “là một phần trong cuộc hành hương niềm tin” được tổ chức trong hơn bốn mươi năm qua. Những người tham gia được trao cho cơ hội để “cầu nguyện với nhau, là một phần của một Giáo Hội địa phương, tăng cường sự hiểu biết giữa các dân tộc, khám phá các chủ đề như hòa bình, những vấn đề về đức tin và dấn thân xã hội.”
Chủ đề cụ thể cho cuộc gặp gỡ năm nay là “luôn luôn di chuyển, nhưng không bao giờ bị bật khỏi gốc rễ.”
Đồng hành trong lời cầu nguyện
Như mọi năm, Đức Thánh Cha đã gởi một sứ điệp tới những người tham dự. Sứ điệp này do Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh ký tên. Trong sứ điệp, Đức Hồng Y Parolin đặc biệt nhắc đến sự kiện là cuộc gặp gỡ năm nay diễn ra tại Ba Lan, quê hương của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, và nói thêm rằng “người kế nhiệm vị thánh Giáo Hoàng, là Đức Thánh Cha Phanxicô” đồng hành với họ trong lời cầu nguyện, và khuyến khích họ khám phá sâu hơn chủ đề được chọn cho sự kiện này.
“Ba Lan là một quốc gia có nguồn gốc từ đức tin”, Đức Hồng Y nói; và nhấn mạnh rằng chính đức tin đã cho phép người dân Ba Lan “có thể đứng vững trong thử thách lớn lao, khi hy vọng xem ra đã tan vỡ.” Những Kitô hữu ở quốc gia này, theo Đức Hồng Y, “dám tin vào một tương lai khác”.
Bắt nguồn từ đức tin, được mời gọi để vươn ra với thế giới
Đức Hồng Y Parolin khuyến khích các bạn trẻ học hỏi từ tấm gương của các Kitô hữu Ba Lan, “để khám phá cùng nhau đến mức độ là việc đâm rễ sâu nơi đức tin có thể mời gọi các bạn và chuẩn bị cho các bạn vươn đến với những người khác, đối diện với những thách thức mới của xã hội chúng ta, đặc biệt là những nguy hiểm đang đè nặng lên ngôi nhà chung của chúng ta”.
Ngài nói thêm rằng, như Abraham, những người trẻ “sẽ khám phá ra có nhiều niềm vui khi cất bước trên một cuộc hành trình, mà thỉnh thoảng chúng ta không thể biết trước điểm đến.” Ngài hô hào các bạn trẻ “Luôn luôn sẵn sàng cho những khởi hành mới, để làm chứng cho Tin Mừng, và có mặt đầy đủ bên cạnh những người xung quanh các bạn, đặc biệt là những người nghèo nhất và kém may mắn nhất”.
Đức Hồng Y Parolin bảo đảm với các bạn trẻ rằng Đức Thánh Cha Phanxicô gửi phép lành của ngài đến tất cả mọi người tham dự cuộc gặp gỡ, đến cộng đoàn Taizé và các gia đình và giáo xứ mà họ cư ngụ trong suốt thời gian của cuộc gặp gỡ này. Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh kết luận sứ điệp với hy vọng rằng “đức tin của Mẹ Maria, Đấng đã ‘vội vã’ lên đường [đến thăm bà Elizabeth; cf. Lc 1:39), sẽ duy trì động lực trong niềm tin của các bạn nơi Con Mẹ”.
Source:Vatican News
CHÚA NHẬT LỄ THÁNH GIA NĂM A (29/12/2019)
THIÊN CHÚA SỐNG TRONG GIA ĐÌNH NHƯ CHÚNG TA
"Ðược báo trong giấc mộng,
ông (Giu-se) lánh sang địa phận xứ Ga-li-lê-a,
và lập cư trong thành gọi là Na-da-rét,
để ứng nghiệm lời đã phán qua các tiên tri rằng:
"Người sẽ được gọi là Na-da-rê-ô"
- I. DẨN VÀO PHỤNG VỤ
Chân Phuớc Charles de Foucauld đã có một nhận định khiến mọi Ki-tô hữu chúng ta phải suy nghĩ khi tìm hiều hay chiêm ngắm Chúa Giê-su trong cuộc sống trần thế của Ngài. Đại ý nhận định ấy là Thiên Chúa Ngôỉ Lời làm người đã chọn một nếp sống mà không ai trong chúng ta muốn chọn. Nhận định ấy thật chính xác vì ngay từ khi sinh ra cho đến khi lớn lên, Chúa Giê-su đều khiến chúng ta phải bất ngờ. Ngài đã sinh ra trong nơi trú ngụ của chiên cừu bò lừa. Vừa chào đời Người đã là đối tượng bị lùng bắt khiến người phải chạy trốn và tỵ nạn. Đó là một khía cạnh không thể bị bỏ quên khi chúng ta mừng Lễ Thánh Gia Thất năm A này.
- II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MAT-THÊU 2, 13-15.19-23:
Khi các đạo sĩ đã đi rồi, thiên thần Chúa hiện ra với ông Giu-se trong lúc ngủ và bảo ông: "Hãy thức dậy, đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và ở đó cho tới khi tôi báo lại ông, vì Hê-rô-đê sắp sửa tìm kiếm Hài Nhi để sát hại Người". Ông thức dậy, đem Hài Nhi và mẹ Người lên đường trốn sang Ai-cập đang lúc ban đêm. Ông ở lại đó cho tới khi Hê-rô-đê băng hà, hầu làm cho trọn điều Chúa dùng miệng tiên tri mà phán rằng: "Ta gọi con Ta ra khỏi Ai-cập".
Bấy giờ Hê-rô-đê thấy mình bị các đạo sĩ đánh lừa, nên nổi cơn thịnh nộ và sai quân đi giết tất cả con trẻ ở Bê-lem và vùng phụ cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo thời gian vua đã cặn kẽ hỏi các đạo sĩ. Thế là ứng nghiệm lời tiên tri Giê-rê-mi-a đã nói: Tại Ra-ma, người ta nghe những tiếng khóc than nức nở, đó là tiếng bà Ra-khel than khóc con mình, bà không chịu cho người ta an ủi bà, vì các con bà không còn nữa.
Khi Hê-rô-đê băng hà, thì đây thiên thần Chúa hiện ra cùng Giu-se trong giấc mơ bên Ai-cập và bảo: "Hãy chỗi dậy, đem Con Trẻ và mẹ Người về đất Is-ra-el, vì những kẻ tìm hại mạng sống Người đã chết". Ông liền chỗi dậy, đem Con Trẻ và mẹ Người về đất Is-ra-el. Nhưng nghe rằng Ar-khê-la-o làm vua xứ Giu-đa thay cho Hê-rô-đê là cha mình, thì Giu-se sợ không dám về đó. Ðược báo trong giấc mộng, ông lánh sang địa phận xứ Ga-li-lê-a, và lập cư trong thành gọi là Na-da-rét, để ứng nghiệm lời đã phán qua các tiên tri rằng: "Người sẽ được gọi là Na-da-rê-ô".
III. TÌM HIỂU VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MAT-THÊU 2, 13-15.19-23:
3.1 Hài Nhi Giê-su bị lùng bắt: Dù chỉ là một trẻ thơ vô tội, Hài Nhi Giê-su đã bị quan quyền thời bấy giờ lùng bắt vì họ cho rằng Ngài là mối đe dọa cho quyền lực và ngai vàng của họ. Dù là Vua Hòa Bình đem bình an của Thiên Chúa cho mọi người, Hài Nhi Giê-su bị coi là đối thủ của Nhà Nước Do-thái thời đầu Công Nguyên.
3.2 Hài Nhi Giê-su và cha mẹ Ngài phải chạy trốn sang nước láng giềng, tỵ nạn tôn giáo và chính trị: Để bảo vệ mạng sống cho Hài Nhi Giê-su và Mẹ Ngài, Thánh Giu-se đã được lệnh đem hai người đi trồn, sang đất Ai-Cập lánh nạn: Thánh Gia Thầt trở thành dân tỵ nạn như bao gia đình tỵ nạn chính trọ thời nay.
3.3 Đức Giê-su sống trong gia đình tại Na-da-rét cùng với Đức Ma-ri-a và Thánh Giu-se như những người thôn quê đơn sơ, bình dị, nghèo nàn với nghề thợ mộc chuyên làm khung nhà (charpentier) và sửa chữa mọi vật dụng trong nhà.
- IV. THỰC THI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MAT-THÊU 2, 13-15.19-23:
4.1 Chúa Giê-su có tuổi thơ tệ hơn chúng ta: Thật lạ lùng và khó hiểu là Chúa Giê-su, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta đã chọn một tuổi thơ vất vả và khó khăn hơn chúng ta. Chúa chọn tuởi thơ ấy để chia sẻ và thể hiện tình liên đới với bao trẻ thơ không có tuổi thơ.
4.2 Gia đình của Chúa Giê-su cũng lao động vất vả như gia đình chúng ta: Thánh Kinh không nói là Thánh Gia là gia đình nghèo khó nhưng chỉ cho biết Thánh Giu-se và Chúa Giê-su đã là những người lao động để bảio đảm cuộc sống. Truyền thống công giáo cho là Thánh Giu-se là một ông thợ mộc. Trong tiếng Pháp nghề của Thánh Giu-se là charpentier (thợ làm khung nhà) chứ không phải là menuisier (thợ mộc). Dù gì thì cũng là một người thợ, một người lao động chân tay.
4.2 Chúa Giê-su sống trong gia đình, làng xóm giống như tất cả chúng-ta: Đó là điều hiển nhiên. Phúc âm làm nổi bật Ngài là người làng/thành Na-da-rét! Thánh Gia là một gia đình thuộc làng/thành Na-da-rét. Sự kiện đó khiến chúng ta phải biết trân trọng gia đình và làng xóm (hay thành phố) của mình. Hơn nữa là người Việt Nam chúng ta phải yêu mến và trân trọng quê hương tổ quốc Việt Nam của chúng ta (xem Thư Chung 1980 của HĐGMVN và bài ” Tôi có một Tổ Quốc, một Quê Hương” của Đức Hồng Y FX Nguyễn Văn Thuận]
- V. LỜI NGUYỆN GIÁO DÂN [VỚI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MAT-THÊU 2, 13-15.19-23:
KHAI MỞ: Lạy Thiên Chúa là Cha của Đức Giê-su Ki-tô và là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ Cha vì chúng con đã được cử hành Lễ Giáng Sinh của Con Cha là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-con. Hôm nay chúng con đón mừng việc Con Cha chọn sống trong gia đình như mọi người chúng con. Chúng con xin dâng lên Cha lời cầu xin tha thiết của chúng con.
Ý VÀ LỜI CẦU NGUYỆN:
1.- «Khi các đạo sĩ đã đi rồi, thiên thần Chúa hiện ra với ông Giu-se trong lúc ngủ và bảo ông: "Hãy thức dậy, đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và ở đó cho tới khi tôi báo lại ông, vì Hê-rô-đê sắp sửa tìm kiếm Hài Nhi để sát hại Người» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho mọi người sinh ra trên thế giới này đều được tôn trọng và yêu thương, vì tất cả mọi người đều là con cái Thiên Chúa có giá trị thiêng liêng vô cùng cao quý.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
2.-«Ông thức dậy, đem Hài Nhi và mẹ Người lên đường trốn sang Ai-cập đang lúc ban đêm. Ông ở lại đó cho tới khi Hê-rô-đê băng hà, hầu làm cho trọn điều Chúa dùng miệng tiên tri mà phán rằng: "Ta gọi con Ta ra khỏi Ai-cập» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và cho các Tu Sĩ Nam Nữ để các thành phần ấy của Dân Chúa biết bảo vệ những người bé nhỏ nghèo hèn trong các xã hội loài người.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
3.- «Bấy giờ Hê-rô-đê thấy mình bị các đạo sĩ đánh lừa, nên nổi cơn thịnh nộ và sai quân đi giết tất cả con trẻ ở Bê-lem và vùng phụ cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo thời gian vua đã cặn kẽ hỏi các đạo sĩ. Thế là ứng nghiệm lời tiên tri Giê-rê-mi-a đã nói: Tại Ra-ma, người ta nghe những tiếng khóc than nức nở, đó là tiếng bà Ra-khel than khóc con mình, bà không chịu cho người ta an ủi bà, vì các con bà không còn nữa» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các Ki-tô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta và trong các cộng đoàn giáo xứ khác để mọi người được sống an bình hạnh phúc giữa những người thân của mình.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
4.- «Khi Hê-rô-đê băng hà, thì đây thiên thần Chúa hiện ra cùng Giu-se trong giấc mơ bên Ai-cập và bảo: "Hãy chỗi dậy, đem Con Trẻ và mẹ Người về đất Is-ra-el, vì những kẻ tìm hại mạng sống Người đã chết". Ông liền chỗi dậy, đem Con Trẻ và mẹ Người về đất Is-ra-el.… Ðược báo trong giấc mộng, ông lánh sang địa phận xứ Ga-li-lê-a, và lập cư trong thành gọi là Na-da-rét, để ứng nghiệm lời đã phán qua các tiên tri rằng: "Người sẽ được gọi là Na-da-rê-ô» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho càng ngày càng có nhiều người hiểu đuợc giá trị thiêng liêng cao quý của gia đình mà yêu quý và bảo vệ nó.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
LỜI KẾT:
Lạy Thiên Chúa là Cha của Đức Giê-su và là Cha của chúng con, chúng con xin chúc tụng ngợi khen và cảm tạ Cha, vì Cha đã ban tặng cho chúng con chính Con Một Yêu Dấu của Cha và Thánh Gia của Ngài.
Chúng con xin hướng lòng trí về Thánh Gia mà chiêm ngắm và noi gương bắt chước. Chúng con muốn gia đình mình được nên giống như Thánh Gia. Xin Cha giúp đỡ chúng con trong đời sống hằng ngày. Chúng con cầu xin, nhờ công nghiệp Chúa Giê-su Ki-tô Con Cha, Chúa chúng con, Đấng đã chọn sống trong gia đình.
Sài-gòn ngày 28 tháng 12 năm 2019
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
LỄ ĐỨC MA-RI-A MẸ THIÊN CHÚA NĂM (01/01/2020)
NGÀY THẾ GIỚI HÒA BÌNH
(Ds 6,22-27; Gl 4, 4-7; Lc 2, 16-21)
- I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Hội Thánh mừng Lễ Đức Ma-ri-a, Mẹ Chúa Trời vào ngày đầu năm dương lịch, cũng là ngày Thế Giới Hòa Bình. Công Đồng Vatican II đã dành chương VIII của Hiến Chế tín lý về Giáo Hội là “Ánh Sáng Muốn Dân” (Lumen Gentium) để xác định và triển khai chân lý “Đức Ma-ri-a trong Mầu Nhiệm Chúa Ki-tô và Giáo Hội.” Công Đồng công bố:
“… Khi sứ thần truyền tin, Ðức Nữ Trinh Ma-ri-a đã đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa trong tâm hồn và thân xác, và đem sự sống đến cho thế gian. Ngài được công nhận và tôn kính là Mẹ thật của Thiên Chúa và của Ðấng Cứu Thế. Ðược cứu chuộc cách kỳ diệu hơn nhờ công nghiệp Con Ngài và hiệp nhất mật thiết và bền chặt với Con, Ðức Ma-ri-a đã lãnh nhận sứ mệnh và vinh dự cao cả là được làm Mẹ Con Thiên Chúa, do đó làm ái nữ của Chúa Cha và cung thánh của Chúa Thánh Thần. Nhờ lãnh nhận ân sủng vô cùng cao quí này, Ngài đã trổi vượt mọi tạo vật trên trời dưới đất. Nhưng đồng thời, vì thuộc dòng dõi A-đam, Ngài cũng liên kết với tất cả mọi người cần được cứu rỗi; hơn nữa, "Ngài thật là Mẹ các chi thể (của Chúa Ki-tô)... vì đã cộng tác trong đức ái để sinh ra các tín hữu trong Giáo Hội là những chi thể của Ðầu ấy". Vì thế, Ngài cũng được chào kính như chi thể của Giáo Hội tối cao và độc nhất vô nhị, cũng như mẫu mực và gương sáng phi thường của Giáo Hội trên phương diện đức tin và đức ái. Và Giáo Hội Công Giáo, được Chúa Thánh Thần chỉ dạy, dâng lên Ngài tình con thảo, như đối với một người Mẹ rất dấu yêu” (LG 53).
Hiệp thông cùng Hội Thánh khắp nơi nơi, chúng ta mừng Lễ Đức Ma-ri-a, Mẹ Thiên Chúa và cầu nguyện cho thế giới được hòa bình, thịnh vượng, yêu thương và hòa giải.
- II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong bài đọc 1 (Ds 6,22-27): "Họ sẽ kêu cầu danh Ta trên con cái Israel và Ta sẽ chúc lành cho chúng" Chúa phán cùng Mô-sê rằng: "Hãy nói với A-a-ron và con cái nó rằng: Các ngươi hãy chúc lành cho con cái Is-ra-el; hãy nói với chúng thế này: 'Xin Chúa chúc lành cho con, và gìn giữ con. Xin Chúa tỏ nhan thánh Chúa cho con, và thương xót con. Xin Chúa ghé mặt lại cùng con, và ban bằng yên cho con'. Họ sẽ kêu cầu danh Ta trên con cái Israel, và Ta sẽ chúc lành cho chúng".
2.2 Lắng nghe Lời Chúa trong bài đọc 2 (Gl 4,4-7): "Thiên Chúa đã sai Con Ngài sinh hạ bởi người phụ nữ" Anh em thân mến, khi đã tới lúc thời gian viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con Ngài sinh hạ bởi người phụ nữ, sinh dưới chế độ Luật, để cứu chuộc những người ở dưới chế độ Luật, hầu cho chúng ta được nhận làm dưỡng tử. Sở dĩ vì anh em được làm con, Thiên Chúa đã sai Thần Trí của Con Ngài vào tâm hồn chúng ta, kêu lên rằng: "Abba!", nghĩa là "Lạy Cha!" Thế nên, bạn không còn phải là tôi tớ, nhưng là con; mà nếu là con, tất bạn cũng là người thừa kế, nhờ ơn Thiên Chúa.
2.3 Lắng nghe Lời Chúa trong bài Tin Mừng (Lc 2,16-21): "Họ đã gặp thấy Ma-ri-a, Giu-se và hài nhi... và tám ngày sau người ta gọi tên Người là Giê-su"
Khi ấy, các mục tử ra đi vội vã đến thành Bê-lem, và gặp thấy Ma-ri-a, Giu-se và hài nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Khi thấy thế, họ hiểu ngay lời đã báo về hài nhi này. Và tất cả những người nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại cho họ.
Còn Ma-ri-a thì ghi nhớ tất cả những việc đó và suy niệm trong lòng. Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và đã xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ.
Khi đã đủ tám ngày, lúc phải cắt bì cho con trẻ, thì người ta gọi tên Người là Giê-su, tên mà thiên thần đã gọi trước khi con trẻ được đầu thai trong lòng mẹ.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Chúa là ai?)
Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa là:
- Đấng đã truyền cho Ông Mô-sê để Ông này nói lại với ông A-ha-ron và con cái ông này, những lời/công thức chúc lành đẹp lòng Thiên Chúa và vui lòng con cái Ít-ra-em.
- Đấng đã dùng lời nói và ngòi bút của Thánh Phao-lô mà giảng dậy cho các Ki-tô hữu và nhân loại biết tại sao Thiên Chua (Cha) sai Con Một Người xuống thế gian: để giúp loài người được trở thành con cái Thiên Chúa.
- Là Hài Nhi Giê-su (và Cha Mẹ Ngài là Thánh Giu-se và Mẹ Ma-ri-a) mà các người chăn chiên được phúc gặp tại Bê-lem. Hài Nhi Giê-su ấy đã được cắt bì theo Luật Mô-sê để trở thành con dân của Ít-ra-en.
3.2 Sứ điệp hay Giáo Huấn của Lời Chúa (Chúa dậy gì hay Chúa muốn chúng ta làm gì?)
Qua ba bài Sách Thánh hôm nay, giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa là cách hành động của Đức Ma-ri-a và các người chăn chiên:
* Ma-ri-a thì ghi nhớ tất cả những việc đó và suy niệm trong lòng.
* Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và đã xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ.
- IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa là Chúa Cha quyền năng và yêu thương trong kế hoạch quan phòng khôn ngoan của Người và trong cách giáo dục dân Ít-ra-en cách tinh tế và sâu sắc.
Sống với Thiên Chúa là Chúa Giê-su Hài Nhi sinh ra ở Bê-lem mang theo một sứ mạng cao cả là giúp loài người trở thành con Thiên Chúa. Hài Nhi ấy là con của Thánh Giu-se và Đức Ma-ri-a và đã gia nhập dân riêng Chúa qua việc cắt bì theo Luật Mô-sê.
4.2 Thực thi Ý Chúa hay Giáo Huấn của Chúa là hành động như Đức Ma-ri-a và các người chăn chiên:
* Ma-ri-a thì ghi nhớ tất cả những việc đó và suy niệm trong lòng.
* Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và đã xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ.
tức biết suy niệm về những kỳ công mà Thiên Chúa đã thực hiện
và biết kể về Hài Nhi Giê-su sinh ra ở Bê-lem cho những người chung quanh.
- V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
5.1 «Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh (em)! Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh (em) và dủ lòng thương anh (em)! Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh (em)!» Trong ngày đầu năm mới 2020, chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người, mọi quốc gia, dân tộc chân thành mong ước cho nhau được Thiên Chúa chúc lành và ban phước và được hòa bình, thịnh vượng trong cuộc sống!
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.2 «Nhưng khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử» Trong ngày đầu năm mới 2020, chúng ta hãy cầu xin Chúa cho Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế, Tu Sĩ Nam Nữ và Giáo Dân để mọi thành phần Dân Chúa cảm nghiệm cách sâu sắc ơn làm nghĩa tử của Thiên Chúa và chia sẻ ơn ấy cho người khác.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.3 «Bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng.»
Trong ngày đầu năm mới 2020, chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi giáo dân thuộc cộng đoàn giáo xứ chúng ta biết suy gẫm về những hồng ân mà Thiên Chúa đã ban cho cá nhân và gia đình mình.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.4 «Các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ.»
Trong ngày đầu năm mới 2020, chúng ta hãy cầu xin Chúa cho có nhiều người được nghe kể về Chúa Giê-su Hài Nhi sinh ra ở Bê-lem, để họ được ơn bình an của Trời!
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
Sàigòn ngày 28/12/2019
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
Chúa Nhật Lễ kính Thánh Gia, năm A: Các bài suy niệm & chú giải Lời Chú
CHÚA NHẬT LỄ KÍNH THÁNH GIA, NĂM A
Các bài suy niệm & chúa giải Lời Chúa
Lời Chúa: Hc 3,3-7.14-17a; Cl 3,12-21; Mt 2,13-15.19-23
MỤC LỤC
Sinh ra trong gia đình để cứu các gia đình
Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Suy niệm của Lm Giuse Phạm Thanh Minh
Bí quyết kiến tạo hạnh phúc gia đình
Phúc thay cho gia đình Thánh Gia
Thánh Gia Nagiarét, gương mẫu mọi gia đình
Thánh Giuse, người sống theo Lời Chúa
Từ gia đình Thánh Gia đến gia đình chúng ta
Gia đình thánh – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Mẫu gương thánh thiện – Lm Minh Vận, CRM
Suy niệm của Radio Veritas Asia
Cầu nguyện cho các bậc gia trưởng
Gia đình kitô hữu cũng là thánh gia thất
Cầu nguyện: Sống còn của gia đình – Lm. Minh Anh
Suy niệm Lễ Thánh Gia – Nguyễn Minh Triệu
Trường ca yêu thương – Trầm Thiên Thu
Cuộc phiêu lưu – Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu Duyên
Gia đình là cộng đoàn yêu thương
Một kiểu vâng lời luôn hợp thời
Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
“Hỡi gia đình, hãy sống niềm vui đức tin”
Chú giải của Lm. FX. Vũ Phan Long
Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
Chú giải của Fiches Dominicales
Xây dựng một gia đình hạnh phúc
- 1. Tỵ nạn ở Ai Cập – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Vũ Khắc Nghiêm)
Để bảo vệ Hài nhi Giêsu khỏi sa vào nanh vuốt Hêrôđê, Thánh Giuse và Đức Maria đã phải vượt con đường hiểm trở dài gần 500 cây số xuyên qua sa mạc El-Arish đến Ai cập, một sa mạc trải dài hơn 200 cây số toàn cát trắng như biển cả mênh mông, không một bóng cây, một cọng cỏ, một giếng nước. Đoàn lữ hành phải đeo đủ đồ ăn, nước uống để chịu đựng cả nửa tháng rất kham khổ. Năm mươi năm trước Chúa Giáng sinh, đoàn quân Roma phải vượt qua quãng đường này thấy khủng khiếp hơn đánh nhau với quân Ai cập. Năm 1967, đại quân Ai cập đã sa lầy trong sa mạc này khi chiến tranh với quân Do thái.
Sự khủng khiếp của những đoàn quân hùng mạnh làm ta cảm thấy sự khốn cực của Thánh Gia lúc đi tỵ nạn. Ngày ngày các ngài phải lê gót từng bước trên cát lầy sụp lở, vượt qua các đồi cát dưới ánh mặt trời thiêu đốt, giữa biển cát nóng hừng hực, vẫn phải tiết kiệm từng giọt nước và những cơn bão cát khủng khiếp như muốn chôn sống các Ngài.
Có một số sách hoang đường mô tả cuộc tỵ nạn của Thánh Gia như thiên đường: những dã thú hiền từ đến lậy dưới chân Chúa Hài Nhi, những cây chà là rợp bóng rũ trái để các ngài ngủ mát, ăn điểm tâm ; nước chảy lênh láng để các ngài giải khát, tắm rửa giữa sa mạc ! (Ricciotti, Vie de Jésus-Christ. p.268).
Ở trần gian, Thánh Gia không được hưởng cảnh thanh nhàn đó, Chúa muốn các ngài phải chịu trăm chiều đau khổ để nêu gương cho ta khi gặp gian nan, biết vui lòng hy sinh như các ngài, nhất là khi gặp thử thách để bảo vệ Hài nhi Giêsu, bảo vệ Hội thánh, bảo vệ đức tin, và các hài nhi con cháu mình. Phải bảo vệ hài nhi khỏi tay kẻ dữ, khỏi không khí hận thù, bất công, khỏi bạn bè gian ác trộm cắp, đồi trụy. Đó là nhiệm vụ của cha mẹ, của các vị tinh thần và mọi Kitô hữu.
Biết bao hài nhi bị hủy hoại trong bào thai, khi ra chào đời lại bị cha mẹ vô luân liệng bỏ, và bị bao nhiêu tệ nạn xấu xô đẩy. Thật khổ tâm !
Cách bảo vệ Hài nhi an toàn nhất là hãy tỉnh thức nghe tiếng Chúa trong lương tri, trong Tin mừng và giáo huấn của Hội Thánh, mới mong tránh khỏi tay những Hêrôđê tàn bạo. Nhất là hãy dắt con em của mình đến nương ẩn dưới cánh tay uy quyền và tình thương bao la của Chúa, Mẹ Maria và thánh cả Giuse.
Lạy Thánh Gia Thất, xin cho mọi gia đình chúng con biết chạy đến cùng các ngài trong mọi nơi mọi lúc, nhất là trong những lúc gian nan. [Mục Lục]
- 2. Sinh ra trong gia đình để cứu các gia đình
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Hôm nay chúng ta cùng nhau cử hành lễ kính Thánh Gia Thất. Thật đẹp biết bao khi nhìn vào hang đá chúng ta thấy Chúa Cứu Thế đến trần gian, đã chọn sinh ra trong một gia đình nhân loại, mà chính Người đã thành lập, để cứu các gia đình. Mừng Chúa Cứu Thế đến cũng là mừng Thánh Gia Thất, nơi Ngài sinh sống.
Các bài đọc hôm nay từ Cựu Ước đến Tân Ước thật là đẹp, đẹp về cách hành văn, đẹp về nội dung, nhất là đẹp tuyệt vời về cách sống trong gia đình. Nếu bài đọc I trích sách Đức Huấn Ca dạy con cái phải thảo cha kính mẹ: “Hỡi kẻ làm con, hãy gánh lấy tuổi già cha ngươi, chớ làm phiền lòng người khi người còn sống”, cùng với những phần phúc cho những người con biết tôn kinh mẹ cha là: “Ai yêu mến cha mình, thì đền bù tội lỗi; ai thảo kính mẹ mình, thì như người thu được một kho tàng”, nhất là được trường thọ: “Ai thảo kính cha mình, sẽ được sống lâu dài. ” Thì bài đọc II, Thánh Phaolô khuyên những người làm vợ làm chồng: “Hỡi các bà vợ, hãy phục tùng chồng trong Chúa cho phải phép. Hỡi những người chồng, hãy yêu thương vợ mình, đừng đay nghiến nó”. Ngài cũng khuyên cha mẹ phải tôn trọng, yêu mến con cái: “Hỡi những người cha, đừng nổi cơn phẫn nộ với con cái, kẻo chúng nên nhát đảm sợ sệt” (Cl 3, 21). Bài Tin Mừng nêu bật vai trò quan trọng của Thánh Giuse, mẫu gương cho bậc làm cha, làm chủ, làm chồng trong các gia đình.
Thảo kính cha mẹ
Để giữ cho gia đình hạnh phúc, Thiên Chúa đã ban cho Giới răn thứ Bốn trong Mười Điều răn: “Thứ Bốn thảo kính cha mẹ”.
Có nhiều kẻ làm con đã hỏi: Vậy, tước phẩm làm cha làm mẹ là thế nào để con cái phải tôn kính. Quyền bính cha mẹ tự đâu mà có?
Để có một cuộc sống đích thực, nhân loại phải có quyền bính, nếu không xã hội không thể có được, và phải đi tới nguyên tắc căn bản: không có Thiên Chúa, không có quyền bính. Vì thế, kẻ làm con, người làm bề dưới phải vâng lời cha mẹ, tùng phục người trên là vì thấy trong trật tự ổn định là quyền lực, là thế giá của Thiên Chúa. Đứa trẻ thấy quyền lực Thiên Chúa nơi cha mẹ, học trò ở nơi thầy cô, người dân thấy ở nhà cầm quyền. Phải, quyện lực của cha mẹ là do Thiên Chúa mà ra.
Chúa dạy: “Hãy tôn kính cha ngươi và mẹ ngươi “. Và Thánh Phaolô khuyên: “Hỡi những người con, hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự ” (Cl 3, 20). Giới răn không nói yêu mến nhưng là tôn kính. Người ta yêu anh chị em, yêu tha nhân, song đối với cha mẹ, phải tôn kính. Đó là điều mà phận làm con, kẻ bề dưới ngày nay không muốn biết nữa. Tôn kính có nghĩa là khi cha mẹ nói, dạy điều gì, con cái phải im lặng, lập tức thi hành, dù là ước muốn nhỏ nhất: “Vì đó là đẹp lòng Chúa” (Cl 3, 20). “Hãy tôn kính cha con và mẹ con” ; “Đứa con nào mà đánh đập cha mẹ mình thì phải chết”( Xh 20;21)
Phu phụ tương kính như tân
Thiên Chúa dựng nên con người có nam có nữ giống hình ảnh Chúa, và cho hai người kết hợp với nhau nên một bằng mối giây loài người không thể tháo cới, để mỗi người phát triển nảy nở trong hạnh phúc, và sinh con cái nối giòng dõi loài người và Hội Thánh.
Khi nói thế, người chồng có thể đòi người vợ phụng tùng chồng một cách mù quáng không? Không, người này phải phục tùng người kia cho phải đạo, cả hai đều phải phục tùng Đức Kitô như toàn thể Giáo hội.
Người nam có biết khi được làm đầu thì phải làm gì không? Thánh Phaolô kêu gọi: ” Hỡi những người chồng, hãy yêu thương vợ mình, đừng đay nghiến nó” (Cl 3, 20).
Người ta thường nói: chồng là đầu gia đình, vợ là trái tim gia đình. Nói đúng hơn: chồng là cả hai, vừa là đầu, vừa là trái tim. Người ta cũng ví người chồng giữ vai trò như người lái thuyền, phải đưa thuyền đi đúng hướng, là bảo vệ sự an toàn cho mọi người trong thuyền, phục vụ mọi người với tình yêu thương, như yêu thương chính mình, để cùng nhau hướng tới hạnh phúc.
Cha mẹ tôn trọng và yêu mến con cái
Giới răn thứ Bốn này có hai chiều: con cái và cha mẹ, cha mẹ và con cái. Nếu con cái phải tôn kính cha mẹ, thì cha mẹ cũng phải tôn trọng, yêu mến con cái: “Hỡi những người cha, đừng nổi cơn phẫn nộ với con cái”. Cha mẹ quí mến con cái, vì con cái trước hết không thuộc về các cha mẹ mà thuộc về Thiên Chúa. Con cái là kho tàng Thiên Chúa trao cho, một ngày kia Chúa sẽ đòi cha mẹ phải trả lẽ. Vậy, cha mẹ phải yêu quí, tôn trọng sự sống con cái, ngày từ khi còn trong lòng mẹ, chớ làm phương hại đến chúng. Tôn trọng con cái từ lúc còn thơ đến tuổi trưởng thành…
Chăm lo cho con cái về mặt tinh thần cũng như thể xác, nhất là linh hồn, vì trước hết chúng thuộc về Thiên Chúa. Cha mẹ không thể lên thiên đàng một mình, phải có con cái đi theo. Con cái không lên thiên đàng được, cha mẹ cũng không lên được. Chúng ta thấy Mẹ Maria, Thánh Giuse, và Chúa Giêsu, cả Ba Đấng đều lên Đền thờ dự lễ theo luật.
Khi có chuyện chẳng lành trong gia đình, lời thánh Phaolô sau đây như là khuôn vàng thước ngọc về lẽ sống và cách đối nhân xử thế của các thành viên trong gia đình: “Anh em thân mến, như những người được chọn của Thiên Chúa, những người thánh thiện và được yêu thương, anh em hãy mặc lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hoà, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau, và hãy tha thứ cho nhau nếu người này có chuyện phải oán trách người kia. Như Chúa đã tha thứ cho anh em, anh em cũng hãy tha thứ cho nhau. Và trên hết mọi sự, anh em hãy có đức yêu thương, đó là dây ràng buộc điều toàn thiện”.
Noi gương Mẹ Maria và Cha thánh Giuse, mỗi gia đình kitô giáo hãy đón rước Chúa Giêsu, lắng nghe Người, nói chuyện với Người, gìn giữ Người, che chở Người, lớn lên với Người, và như thế chúng ta mới phúc âm hóa gia đình, canh tân giáo xứ và cải tiến thế giới được. Hãy dành cho Chúa một chỗ trong trái tim và ngày sống của chúng ta. Chúng ta hãy phó thác gia đình nhân loại nói chung, và gia đình chúng ta nói riêng cho Thánh Gia Thất che chờ phù trì.
Lạy Ba Ngôi cực thánh ở trần gian là Chúa Giêsu, Đức Maria và thánh Giuse, xin cầu cho chúng con. Amen.[Mục Lục]
- 3. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Hằng năm, sau lễ Giáng Sinh, Giáo hội cho chúng ta mừng lễ kính Thánh Gia Thất. Khi mừng lễ kính Thánh Gia Thất, Giáo hội mời gọi chúng ta noi gương bắt chước Thánh Giuse, Đức Mẹ và Chúa Giêsu, từ đó các thành viên trong gia đình luôn cố gắng chu toàn bổn phận của mình để xây dựng hạnh phúc gia đình.
Gương của Thánh Giuse
Thánh Giuse được gọi là người công chính. Người công chính tức là người có đầy đủ mọi nhân đức. Ngài không nợ tố cáo Đức Maria khi Thai Nhi trong lòng Mẹ không phải là của mình. Khi được Thiên thần báo mộng, Ngài mau mắn chấp nhận thánh ý Chúa và đưa Mẹ về nhà mình. Từ đó, Thánh Nhân chu toàn bổn phận của một người chồng và người cha là chăm sóc và bảo vệ Đức Maria và Đức Giêsu một cách chu đáo.
Hình ảnh Thánh Giuse đi tìm quán trọ để cho Hài Nhi sinh ra; đưa Hài Nhi trốn sang Aicập để tránh sự lùng bắt của vua Hêrôđê; đưa Hài Nhi dâng trong Đền thờ; lo lắng đi tìm Con khi trẻ Giêsu bị lạc mất; chăm chỉ làm thợ mộc để nuôi sống gia đình…Tất cả những sự kiện đó nói lên sự quan tâm lo lắng của Thánh Nhân trong việc bảo vệ và chăm sóc Hài Nhi và Đức Maria.
Cuộc đời của Thánh Giuse là mẫu gương cho các người cha, người chồng noi theo. Để trở thành người cha, người chồng tốt cần phải luôn biết tuân theo thánh ý Chúa và yêu thương bảo vệ vợ con. Thánh Phaolô mời gọi: “Hỡi những người chồng, hãy yêu thương vợ mình, đừng đay nghiến nó” (x. Cl 3,19); “Hỡi những người cha, đừng nổi cơn phẫn nộ với con cái, kẻo chúng nên nhát đảm sợ sệt.”(x. Cl 3, 21).
Gương của Đức Maria
Từ khi thưa hai tiếng “xin vâng,” Đức Maria đã chu toàn xuất sắc bổn phận người vợ người mẹ trong gia đình. Thật vậy, khi vâng lệnh Thiên Chúa, Mẹ đã chấp nhận sự hiểu nhầm của Thánh Giuse; để Thánh Giuse đưa về nhà; cùng với Thánh Giuse dâng Hài Nhi trong đền thờ; cùng với Thánh Giuse về quê quán để kê khai hộ khẩu; sinh con trong hang đá; đưa Hài Nhi trốn sang Ai cập; đưa Hài Nhi lên đền thờ Giêrusalem để tham dự lễ Vượt qua…
Qua đó, cho chúng ta thấy, mặc dầu là Mẹ Thiên Chúa nhưng Đức Maria luôn vâng nghe theo lời Thánh Giuse. Đặc biệt trong những sự việc liên quan đến Hài Nhi Giêsu, Mẹ luôn cố gắng tìm mọi cách để bảo vệ Hài Nhi Giêsu. Hành động bọc Hài Nhi trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ và mau mắn cùng Thánh Giuse đưa Hài Nhi trốn sang Aicập cho chúng ta thấy điều đó. Những hình ảnh: Mẹ đang may vá, gánh nước, quét dọn…mà các họa sĩ đã cố gắng phác họa để diễn tả vai trò nội trợ của Mẹ Maria. Thế nhưng, những hình ảnh đó cũng không thể lột tả hết được sự tận tâm của Mẹ trong việc phục vụ gia đình Thánh.
Đức Maria là tấm gương cho các người vợ, người mẹ noi theo. Thật vậy, để trở thành người vợ tốt thì phải biết lắng nghe chồng trong những điều hợp lẽ. Thánh Phaolô dạy: “Hỡi các bà vợ, hãy phục tùng chồng trong Chúa cho phải phép.”(x. Cl 3,18). Để trở thành người mẹ tốt thì cần phải thương yêu con cái; chu toàn bổn phận giáo dục con cái nên người, nên con cái Thiên Chúa; sẵn sàng hy sinh vì con cái, bảo vệ chúng khỏi những nanh vuốt của Hêrôđê thời đại; cố gắng đi tìm khi con cái lạc mất, lạc mất về thể lý cũng như lạc mất về đức tin để đưa con cái về lại với gia đình và với Thiên Chúa. Hãy theo sát và nâng đỡ con cái như Mẹ Maria đã cùng đi với Chúa Giêsu trong mọi nẻo đường.
Gương của Đức Giêsu
Mặc dầu Đức Giêsu là Thiên Chúa nhưng Ngài đã chu toàn bổn phận làm con trong gia đình Nazareth. Qua điều răn thứ IV, Ngài đã dạy những người con phải có bổn phận yêu mến, vâng lời và giúp đỡ cha mẹ, thì lẽ nào Ngài lại không thực hiện điều đó. Tin mừng cho chúng ta biết: Ngài hằng vâng phục Thánh Giuse và Mẹ Maria; chính Ngài cũng làm nghề thợ mộc để cộng tác với Thánh Giuse để giúp đỡ gia đình. Chỉ từng đó cũng đủ để chúng ta khẳng định rằng, Ngài là một người con hiếu thảo. Vì lòng hiếu thảo nên Ngài mới chăm chỉ làm việc để giúp đỡ gia đình. Vì lòng hiếu thảo nên Ngài mới vâng lời cha mẹ mặc dù xét về mặt thiêng liêng Ngài cao trọng hơn cha mẹ của Ngài. Chăm chỉ làm việc và vâng lời cũng chứng tỏ Ngài luôn yêu mến cha mẹ.
Chính vì vậy, Đức Giêsu là tấm gương cho những người con trong gia đình noi theo. Là con cái, chúng ta cần phải yêu mến, vâng lời và giúp đỡ cha mẹ trong mọi sự. Bổn phận đó không chỉ thực thi khi cha mẹ chúng ta còn trẻ mà cả khi các ngài đã về già, đặc biệt khi các Ngài không còn minh mẫn nữa. Không bao giờ được phép khinh dễ các ngài vì bất cứ lý do gì. Sách Huấn Ca mời gọi: “Hỡi kẻ làm con, hãy gánh lấy tuổi già cha ngươi, chớ làm phiền lòng người khi người còn sống. Nếu tinh thần người sa sút, thì hãy rộng lượng, ngươi là kẻ trai tráng, chớ đành khinh dể người.”(x. Hc 3, 12-13)
Yêu mến, vâng lời và giúp đỡ cha mẹ không chỉ là bổn phận mà còn đem lại lợi ích cho kẻ làm con. Bởi vì: “Ai yêu mến cha mình, thì đền bù tội lỗi; ai thảo kính mẹ mình, thì như người thu được một kho tàng. Ai thảo kính cha mình, sẽ được vui mừng trong con cái, khi cầu xin, người ấy sẽ được nhậm lời. Ai thảo kính cha mình, sẽ được sống lâu dài. Ai vâng lời cha, sẽ làm vui lòng mẹ.”(x. Hc 3, 3-6); “Vì của dâng cho cha, sẽ không rơi vào quên lãng. Của biếu cho mẹ, sẽ đền bù tội lỗi, và xây dựng đức công chính của ngươi.” (x. Hc 3,14).
Ước mong rằng, những người làm con ghi nhớ những điều trên đây để áp dụng vào cuộc sống của mình không những để chu toàn bổn phận mà còn được Chúa ban cho nhiều ơn phúc.
Chuẩn bị cho người trẻ bước vào đời sống hôn nhân
Ngoài những điểm được đề cập trên đây, thiết tưởng các gia đình cần phải quan tâm những gợi ý trong thư mục vụ 2016 của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Các Ngài đề nghị chủ đề mục vụ gia đình cho ba năm (2016-2019) với những điểm nhấn cho từng năm. Điểm nhấn cho năm 2016-2017 là: “Chuẩn bị cho người trẻ bước vào đời sống hôn nhân.” Với điểm nhấn này HĐGMVN mời gọi các bạn trẻ cần phải chuẩn bị những yếu tố sau đây:
Thứ nhất, hiểu biết ý nghĩa của ơn gọi hôn nhân trong chương trình của Thiên Chúa và theo giáo huấn của Hội Thánh, khám phá phẩm giá và vẻ đẹp của hôn nhân, ý nghĩa sâu xa của tính dục, trách nhiệm xây dựng một gia đình mới.
Thứ hai, dẫn vào bí tích Hôn Phối, giúp đôi bạn đón nhận bí tích cách xứng đáng và có khởi đầu vững chắc cho đời sống gia đình. Bí tích Hôn Phối không chỉ là thời điểm cử hành hôn lễ nhưng là thực tại tác động toàn bộ đời sống hôn nhân. Vì thế, phải giúp họ cử hành Bí tích Hôn Phối như một kinh nghiệm đức tin sâu xa và trân trọng ý nghĩa của từng lời nói và dấu chỉ trong cử hành bí tích.
Thứ ba, tạo cơ hội cho đôi bạn thảo luận với nhau: họ mong chờ gì từ hôn nhân và từ người bạn đời; họ hiểu thế nào về tình yêu, về lời cam kết và trách nhiệm xây dựng một gia đình.
Thứ tư, giúp đôi bạn tìm hiểu trước những vấn đề và khó khăn có thể xảy ra trong đời sống hôn nhân và gia đình.
Như vậy, để có một gia đình hạnh phúc, ngoài việc noi gương bắt chước gia đình Thánh Gia, còn cần phải chuẩn bị tốt cho những người trẻ khi bước vào hôn nhân: sự hướng dẫn của các linh mục, các chuyên viên, chia sẻ kinh nghiệm của những người sống đời gia đình, “những người được chuẩn bị tốt nhất cho đời sống hôn nhân là những người đã học được từ chính cha mẹ của họ thế nào là hôn nhân Kitô giáo.” (x. Thư mục vụ 2016 của HĐGMVN, số 5).
Lạy Thánh Gia Thất, xin giúp mỗi thành viên trong gia đình chúng con biết chu toàn bổn phận của mình để gia đình chúng con nên giống gia đình Thánh Gia. Amen.[Mục Lục]
- 4. Mầu nhiệm Thánh Gia
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc)
Các gia đình và Thánh Gia
Trong bối cảnh hiện nay, có nhiều yếu tố làm lung lay mái ấm gia đình, vốn là nền tảng cho sự lớn lên của từng người, của Giáo Hội, trong đó có đời tu, và của cả xã hội. Khi chiêm ngắm Thánh Gia, chúng ta đặc biệt cầu nguyện cho tất cả các gia đình, nhất là gia đình của những thân yêu, và cho cả các mái ấm nữa, vốn là “gia đình” của các trẻ em mồ côi, khuyết tật, thiếu thốn, thiệt thòi, cùng khổ… Và chúng ta cũng xin Chúa chúc lành cho gia đình và cộng đoàn của chúng ta, để chúng ta được liên kết và hiệp nhất với nhau bằng Lời Chúa, giống như Thánh Gia, qua đó làm chứng cho tình yêu thương xót và cứu độ của Chúa.
Thật là ý nghĩa khi chúng ta chiêm ngắm Thánh Gia, ngay sau khi chiêm ngắm mầu nhiệm Giáng Sinh. Bởi vì hình ảnh Thánh Gia làm sáng tỏ một chiều kích đã có trong mầu Giáng Sinh, nhưng không được chú ý: đó là, dù Hài Nhi Giêsu là “Ngôi Lời từ trời xuống”, được hoài thai, được cưu mang và sinh ra lạ lùng như thế nào đi nữa, thì cũng phải được đón nhận vào trong một gia đình cụ thể, và qua một gia đình, một “gia thất” như cách nói của phụng vụ, một gia tộc, vào một dân tộc và vào gia đình nhân loại. Thánh Gia chính là con đường tất yếu để Ngôi Lời hội nhập vào một nền văn hóa cụ thể, để Ngôi Lời đến, ở lại và lớn lên trong Ngôi Nhà nhân loại của mình (x. Ga 1, 11). Ngày nay, Ngôi Lời đến với từng dân tộc bằng cùng một con đường là các gia đình, các mái ấm, các cộng đoàn.
Nói đến Thánh Gia, có lẽ chúng ta nghĩ đến những em bé sinh ra trong bất hạnh: sinh ra trong một gia đình đổ vỡ về tương quan; sinh ra thiếu cha, thiếu mẹ; sinh ra ngoài ý muốn hay vì bị cưỡng bức; những em bé được sinh ra trong lén lút và bị bỏ rơi… Mầu nhiệm Thánh Gia mà chúng ta mừng kính và chiêm ngắm muốn nhắn gởi cho loài người chúng ta một sứ điệp: các em bé sinh ra trong bất hạnh này cũng phải được đón nhận vào một “gia đình”. Các gia đình nhận con nuôi và các mái ấm thực hiện sứ mạng cao cả này; đối với các mái ấm, dù là Kitô giáo hay Phật giáo, hoặc thuộc bất cứ tôn giáo nào khác hay thậm chí phi tôn giáo, điều quan trọng là tình người, là bầu khí đón nhận và yêu thương. Vì ở đâu có tình thương ở đó có Thiên Chúa.
Nước Trời và Thánh Gia
Ngoài ra, xét cho cùng Thánh Gia là một “mái ấm” hơn là một gia đình thực sự! Vì tương quan của mọi người với nhau trong Thánh Gia không dựa trên huyết thống, nhưng dựa trên Lời Chúa: Đức Giê-su, với tư cách là Ngôi Lời, đã nhập thể theo ý định của Thiên Chúa Cha; Đức Maria đã thưa với sứ thần: “xin xẩy ra cho tôi, theo như lời sứ thần nói”; và với Thánh Giuse, ngài đã vượt qua tương quan máu mủ huyết thống để đón nhận Đức Maria và Hài Nhi Giêsu theo ý muốn của Thiên Chúa. Thế mà, tương quan thân thiết dựa trên việc vâng theo ý muốn của Thiên Chúa, chính là tương quan của Nước Trời. Thánh Giuse đã không nghe đuợc câu nói này của Đức Giêsu “ Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em, là mẹ tôi “ (Mc 3, 35), nhưng ngài đã sống trọn vẹn điều này trước đó thật lâu.
Có thể nói, sứ điệp mạnh mẽ nhất của Thánh Gia, chính là xây dựng tương quan Nước Trời bằng cách vượt qua tương quan huyết thống ngay trong gia đình ruột thịt của mình, và từ đó mở rộng ra bên ngoài. Và đặc biệt với ơn gọi sống đời dâng hiến, tuy chúng ta không lập gia đình, nhưng chúng ta thực sự sống sứ điệp rất căn bản của Thánh Gia: trở nên người thân của nhau, trở nên một mái ấm trên nền tảng lắng nghe và thực thi Lời Chúa. Theo nghĩa này, thánh Giuse không chỉ là “Thánh Cả”, nhưng còn là “Tu Sĩ Cả” của đời tu trong Giáo Hội.
Thánh Giuse và Thánh Gia
Bài Tin Mừng của Lễ Thánh Gia năm nay (Phụng Vụ Năm A) mời gọi chúng ta chiêm ngắm thánh Giuse đã đảm nhận sứ mạng bảo bọc Thánh Gia như thế nào: Thánh Giuse đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-Cập, và sau một thời gian ở Ai cập, thánh nhân đã đưa Thánh Gia về Đất Israen; trong thử thách lớn lao này và chắc chắn trong mọi thử thách khác của Thánh Gia, thánh Giuse đã không làm điều khác hơn là lắng nghe và thực thi Lời Chúa. Xin cho chúng ta cũng biết như thánh Giuse, gắn bó, yêu mến và ưng thuận trọn vẹn đối với Lời Thiên Chúa. Ngoài ra, chúng ta được mời gọi hiểu biến cố này ở tầm lịch sử cứu độ, vì có liên quan đến cách Đức Giê-su, Ngôi Lời nhập thể đảm nhận lịch sử các dân tộc, và lịch sử của mỗi người chúng ta.
Thực vậy, theo bản gia phả, Đức Giê-su thuộc về một dân tộc: “Đức Giê-su Ki-tô, con vua Đa-vít, con tổ phụ Abraham” (Mt 1, 1; đây là câu đầu tiên của Tin Mừng theo thánh Mát-thêu, nên có ý nghĩa thật sâu rộng) ; trong biến cố lánh sang Ai-Cập, Người “mang vào mình” lịch sử của dân tộc mà Người muốn thuộc về cách tự nguyện, và qua đó, Người mang vào mình lịch sử của mỗi người chúng ta.
Đặc biệt, lời Kinh Thánh “Ta gọi con Ta ra khỏi Ai-cập” nhắc nhớ biến cố Xuất Hành. Trong đêm Vượt Qua, theo lệnh của Đức Chúa, người Do Thái sát tế chiên con. Sự vô tội của con chiên tượng trưng cho sự vô tội của các con trai đầu lòng Ai Cập: “Ngài sát hại các con đầu lòng Ai Cập” (Tv 136, 10). Con chiên chính là món nợ của Israel. Khi nào Israel trả được nợ cho Ai Cập, và hai dân tộc được giao hòa ? Đó là lúc Đức Giê-su mang lấy chỗ của Con Chiên, Ngài sẽ làm cho Ai Cập (nghĩa là dân ngoại) và Israel (nghĩa là dân được tuyển chọn) trở thành một dân tộc duy nhất và thánh thiện bằng chính máu của Ngài ; và giữa chúng ta, nếu có mắc nợ hay hận thù gì, Ngài cũng hòa giải và làm cho chúng ta nên một, bằng chính máu của Ngài, được hiện tại hóa mỗi ngày nơi Bí Tích Thánh Thể.
* * *
Thánh Giuse hoàn toàn vắng mặt trong thời gian Đức Giêsu công bố mầu nhiệm Nước Trời, và chắc chắn ngài cũng không có mặt thật trọn vẹn trong thời gian Đức Giêsu sống ẩn dật. Tuy nhiên, những gì xẩy ra cho Đức Giêsu từ lúc sinh ra cho đến khi từ Ai Cập trở về (Mt 2, 1 – 23) như đã báo trước cả cuộc đời của Đức Giê-su rồi.
+ Người được nhìn nhận bởi các đạo sĩ đến từ phương xa, nhưng cũng có biết bao nguy hiểm rình rập gây ra bởi vua Hêrôđê, các thượng tế, các luật sĩ (Mt 2, 1-12). Như thế, những gì sẽ xẩy ra cho Đức Giê-su trong thời gian rao giảng Tin Mừng Nước Trời như đã được báo trước ở đây.
+ Lánh sang Ai Cập, nhưng những trẻ vô tội phải đổ máu (2, 16-18). Sau này chính Đấng Vô Tội sẽ đổ máu trên Thập Giá.
+ Trở về “Đất Hứa” bình an để làm nên “Tổ Ấm Thánh Gia” (2, 19-23). Chúng ta có thể nhận ra nơi biến cố trở về này hình ảnh của ơn Phục Sinh và Đại Gia Đình Nước Trời.
Thánh Giuse đã có mặt suốt cuộc hành trình này, hành trình họa lại lịch sử cứu độ và loan báo cuộc đời Đức Giêsu; ngài không chỉ có mặt thôi, nhưng còn gánh vác bằng cách liên tục vâng theo sự dẫn dắt của chính Thiên Chúa.
Đức Maria đã có mặt dưới chân Thập Giá, còn thánh Giuse có mặt trong biến cố loan báo Thập Giá, và cũng là biến cố làm tái hiện lại biến cố Ai Cập xưa của dân Thiên Chúa. Dưới chân Thập Giá, Đức Maria thinh lặng và đứng vững ; và trong suốt cuộc hành trình giữa Israel và Ai-Cập, thánh Giuse cũng “thinh lặng và đứng vững”.[Mục Lục]
- 5. Suy niệm của Lm Giuse Phạm Thanh Minh
“Thánh Gia Nguyên Mẫu cho Gia Đình Kitô Hữu” (Đức Giáo Hoàng Biển Đức 16)
Thánh Gia nền tảng đời sống gia đình
Từ Tân Phúc Âm hóa đời sống gia đình đến Tân Phúc Âm hoá đời sống giáo xứ và đời sống xã hội là định hướng mục vụ của Giáo Hội tại Việt Nam. Tại Á Châu có một truyền thống lâu đời về sự trân trọng đặc biệt đối với gia đình. Gia đình được coi là kho chứa di sản của nhân loại, và tương lai của nhân loại được định đoạt bởi gia đình. Cách riêng đối với Việt Nam, từ ngàn xưa, hạnh phúc gia đình là một khát vọng, là sự phấn đấu của mọi thế hệ. Lễ Thánh Gia Thất hôm nay mời gọi chúng ta trở về với định hướng nền tảng của Tân Phúc Âm hoá đời sống gia đình theo gương mẫu Thánh gia: Đức Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse.
Câu chuyện sau đây là hình mẫu của một gia đình Kitô hữu hạnh phúc.
Một linh mục nổi tiếng là thánh thiện và nhiệt thành có kể lại kinh nghiệm khi được mời dự tiệc tại một nhà giáo dân khá giả trong xứ như sau:
“Trong suốt bữa tiệc thịnh soạn hôm đó, giữa tiếng cười nói của thực khách, có một điều làm tôi thắc mắc, đó là tiếng nước róc rách chảy đâu đó trong nhà. Vì là lần đầu tiên được mời, tôi không dám lên tiếng, chỉ mong sao có người nhà nhận ra tiếng nước chảy đó. Sau cùng, không thể cầm lòng được, tôi hỏi một người giúp việc. Với nụ cười lịch sự, người này giải thích: cách đây khoảng 40 năm, khi người ta đào móng xây nhà và dựng nông trại, tình cờ họ đã khám phá ra mạch nước ngầm. Thế là họ xây dựng một căn phòng ngay bên mạch nước, kế đó họ xây những căn phòng khác ở chung quanh.
“Mạch nước ngay trong nhà mình”, tư tưởng đó xâm chiếm tâm trí tôi, suốt quảng đường về nhà xứ, và tôi đoán ra được đâu là bí quyết Hạnh Phúc của gia đình giáo dân ngoan đạo và tốt lành đó: Bí quyết hạnh phúc đó chính là mạch suối trong lành tươi mát ngay trong nhà của họ, mạch suối tình yêu tràn đầy thánh ân, mạch suối không bao giờ vơi cạn của Thiên Chúa, luôn tưới gội trên mái ấm của họ.
Hình ảnh gia đình hạnh phúc trên đây gợi cho chúng ta hình ảnh Thánh gia tại Nazareth, một gia đình thánh thiện và hạnh phúc, đã trở thành mẫu gương sống động cho mọi gia đình nhân loại, cho mọi nền văn hoá như Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã khẳng định: “Gia đình Thánh Gia thật sự là “nguyên mẫu” cho tất cả gia đình Kitô hữu được hiệp nhất trong Bí tích Hôn Nhân”. Chính vì thế mà gia đình Thánh gia được mọi gia đình Kitô hữu chiêm ngưỡng, cầu nguyện, dõi bước để tạo hạnh phúc trong gia đình. Từ đó, người ta thường chọn kết hợp hôn nhân vào dịp lễ Thánh gia tạo nên “mùa cưới” hằng năm.
Lời Chúa trong thánh lễ hôm nay hướng dẫn các gia đình Kitô hữu sống hạnh phúc
Các bài đọc lễ Thánh Gia đều hướng về một chủ đề chung là mô tả hoàn cảnh sống của một gia đình có Chúa hiện diện và liên kết mọi thành phần lại với nhau.
Trước hết bài đọc 1 trích sách Huấn Ca (Hc 3,3) nhắc lại bổn phận hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ, vì Thiên Chúa suy tôn người cha trong con cái, và củng cố quyền lợi của người mẹ trên người con. Vai trò trách nhiệm cha mẹ trên con cái là do ý muốn và dựa trên ý muốn của Thiên Chúa.
Bài đọc II trích từ Colôsê (Cl 3,12-21) ghi lại các lời khuyên của thánh Phaolô cho các thành phần trong gia đình: “Hãy nhủ bảo nhau, trong tâm tình từ bi, khiêm cung, nhẫn nại. hãy tha thứ cho nhau, hãy cảm tạ Thiên Chúa. Lời khuyên ở đây là ‘Hãy sửa chữa nhau trong yêu thương và tôn trọng nhau’ thay vì oán trách nhau trong ghen ghét và khinh khi”.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, chỉ một đoạn ngắn mà chúng ta đã thấy sứ thần Chúa “hối thúc” Giuse trỗi dậy đến 3 lần. Bước khởi đầu của Thánh Gia Thất luôn luôn là một cuộc lên đường, là đe doạ, là bất an. Những phong ba sóng gió, những bấp bênh, chao đảo đổ xuống gia đình Thánh Gia.
Phải nói rằng thánh gia là một gia đình gương mẫu và thánh thiện nhưng cũng không được miễn chuẩn cho khỏi đau khổ và thử thách. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng cho dù Thánh Gia có gặp bao cảnh ngặt nghèo quẫn bách thì mái ấm Nazareth vẫn đong đầy hạnh phúc.
– Bí quyết của hạnh phúc ấy chính là vì thánh gia luôn có Chúa hiện diện, mà nơi đâu có Chúa thì nơi ấy có hạnh phúc.
– Bí quyết của hạnh phúc ấy chính là vì các thành viên trong gia đình Thánh Gia luôn lắng nghe tiếng Chúa và mau mắn thi hành thánh ý Người.
– Bí quyết của hạnh phúc ấy chính là vì trong mọi nghịch cảnh, Thánh Gia luôn tin tưởng và phó thác cho chương trình của Thiên Chúa.
– Bí quyết của hạnh phúc ấy chính là vì các ngài luôn biết lắng nghe và đối thoại, cảm thông và chia sẻ, nhất là các ngài luôn hít thở không khí trong lành của vui tươi, hoà nhã và yêu thương.
III. Giáo Hội quan tâm đến gia đình và mời gọi các gia đình quan tâm đến việc Phúc Âm hóa
Ngày hôm nay, hơn lúc nào hết, gia đình đang bị đe dọa từ nhiều phía: Những trào lưu xã hội đề cao sự tuyệt đối cá nhân đe dọa hạnh phúc gia đình; Những khó khăn xuất phát từ nội tại khác biệt của mỗi thành viên làm cho gia đình thiếu hiệp nhất. Chính vì thế trong những năm gần đây, Giáo huấn của Giáo hội quan tâm đặc biệt đến đời sống gia đình. Tháng 10 năm 2014, một Thượng Hội Đồng Giám Mục ngoại thường về gia đình được triệu tập là một bằng chứng Giáo hội quan tâm đến gia đình trong bối cảnh Tân Phúc âm hóa.
Gia đình một định chế lâu đời nhất của nhân loại, và gia đình đã tồn tại đến ngày nay vì được xây dựng trên nền tảng tình yêu. Gia đình hạnh phúc không thể tự dưng mà đến. Tình yêu hoà điệu, tương kính lẫn nhau vốn là những yếu tố cơ bản của một gia đình hạnh phúc. Thánh Gia Thất quả là một cộng đoàn yêu thương nhau. Do đó, gia đình Kitô hữu phải coi đó như là nền tảng xây dựng gia đình hạnh phúc. Gia đình phải là cộng đoàn hợp nhất thủy chung xuất phát từ Thiên Chúa tình yêu. Mối tương quan vợ chồng, con cái, cũng như anh chị em với nhau phải là dấu chỉ sống động của Tình yêu Thiên Chúa. Vì thế, gia đình Công giáo phải loại bỏ mọi thứ bạo hành, “hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hậu, nhẫn nại, chịu đựng và tha thứ cho nhau.” (Cl 3,12-13).
Ngoài ra noi gương Đức Mẹ và Thánh Giuse nơi gia đình Kitô hữu, người con phải được học tập, được trao tặng và đón nhận tình yêu, như Chúa Giêsu đã sống 30 năm ở gia đình Nazareth, hấp thụ nền giáo dục đạo hạnh của cha mẹ Giuse-Maria như Tin Mừng Luca cho biết “người theo cha mẹ về Nazareth và hằng vâng phục các Ngài, còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh đầy khôn ngoan và ân sủng trước Thiên Chúa và người ta.” (Lc 2,51-52). Do đó, mọi người trong gia đình từ ông bà cha mẹ hãy góp phần để những người con được lớn lên trong ơn nghĩa, tình yêu như ĐGH Biển Đức XVI đã gợi ý cho mỗi gia đình trở nên gia đình Thánh Gia: “Ước mong con cái của chúng ta được cảm nghiệm cuộc sống hoà thuận và yêu thương giữa cha mẹ hơn là cảm nghiệm cuộc sống bất đồng và chia rẽ, vì tình yêu giữa cha và mẹ là nguồn gốc lớn lao cho cuộc sống an toàn của con cái và cũng dạy con cái về cái đẹp của tình yêu chung thủy và bền vững”.
Những lời khuyên này của Thánh Phaolô và của ĐGH Biển Đức XVI, có thể được xem là hiến chương xây dựng hạnh phúc gia đình, là những nguyên liệu người Kitô hữu có thể sử dụng để hình thành nên đời sống thánh thiện của gia đình mình.
Nhân dịp lễ Thánh Gia, chúng ta cầu xin sự chở che của Đức Trinh Nữ Maria diễm phúc và của Thánh Giuse luôn đồng hành với tất cả anh chị em và trợ giúp anh chị em hiệp nhất trong tình yêu và phục vụ lẫn nhau để anh chị em chu toàn được ơn gọi và sứ mạng của mình trong khung cảnh gia đình như gia đình Thánh Gia xưa. Amen.[Mục Lục]
- 6. Ba khuôn mặt
Mừng lễ Thánh Gia, chúng ta hãy nhìn vào thánh Giuse, Mẹ Maria và Chúa Giêsu để rồi từ đó rút ra những bài học cụ thể cho bản thân mình.
Trước hết là thánh Giuse.
Ngài là cột trụ của gia đình. Thánh Kinh đã mô tả Ngài như một người công chính, luôn sống theo lề luật và thực thi thánh ý Thiên Chúa. Còn gì đau khổ cho bằng một người chồng thấy vợ mang thai không do hành vi của mình. Nhưng một khi biết được là thánh ý Thiên Chúa, Ngài đã cúi đầu vâng theo. Ngài đã tuân hành chiếu chỉ của César Augustô lên đường xuống Bêlem đăng ký nhân hộ khẩu. Ngài đã tuân phục lệnh truyền của sứ thần đem Hài Nhi Giêsu trốn sang Ai CẬp với bao nhiêu vất vả và khó khăn nơi đất khách quê người. Ngài đã noi giữ mọi lề luật: dâng con vào đền thờ và hằng năm lên Giêrusalem dự những lễ lớn. Suốt những năm tháng tại Nadarét, Ngài đã cặm cụi lao động sản xuất để nuôi sống gia đình.
Ước chi những người cha biết noi gương Ngài: Bình tĩnh trước những biến cố để nhận ra thánh ý Thiên Chúa. Nhẫn nại làm việc để bảo đảm đời sống vật chất cho gia đình mình.
Tiếp đến là Đức Maria.
Mẹ đã chu toàn bổn phận của một người nội trợ, lo lắng chuyện bếp núc. Mẹ cũng đã chu toàn bổn phận một người vợ, luôn vâng phục thánh Giuse, và sau cùng Mẹ cũng đã chu toàn bổn phận của một người mẹ, luôn chăm sóc và lo lắng đến con mình là trẻ nhỏ Giêsu.
Ước chi những người mẹ biết noi gương Mẹ: Sẵn sàng tha thứ vì một sự nhịn là chín sự lành. Sẵn sàng lấy tình thương mà giáo dục con cái, vì con hư tại mẹ cháu hư tại bà. Sở dĩ như vậy vì người mẹ thường gần gũi với con cái hơn người cha, nên có một ảnh hưởng to lớn. Hãy giáo dục chúng trở thành những công dân tốt và những tín hữu trung kiên với Chúa.
Và sau cùng là Chúa Giêsu.
Mặc dù là Thiên Chúa, Ngài đã hạ mình xuống vâng phục và đón nhận những lời chỉ bảo của Mẹ Maria và thánh Giuse. Trong Thánh Gia có một sự đảo lộn đáng cho chúng ta suy nghĩ: Trước mặt người đời thì thánh Giuse là chủ, rồi đến Mẹ Maria và sau cùng là Chúa Giêsu. Nhưng trước mặt Thiên Chúa, thì trước hết là Chúa Giêsu, rồi đến Mẹ Maria, và sau cùng là thánh Giuse. Thế nhưng, Chúa Giêsu vẫn vui vẻ vâng lời hai đấng.
Ước chi những người con biết noi gương Chúa Giêsu, vâng theo những lời chỉ bảo của mẹ cha, vì cá không ăn muối cá ươn, con cưỡng cha mẹ trăm đường con hư. Sở dĩ như vậy, vì khi dạy bảo, cha mẹ luôn yêu thương chúng ta và mong muốn chúng ta nên người.
Trong thánh lễ ngày hôm nay, chúng ta hãy cầu xin cho mỗi người chúng ta biết chu toàn những bổn phận trong gia đình, để gia đình của chúng ta sẽ là một mái ấm ngập tràn yêu thương và hạnh phúc.[Mục Lục]
- 7. Bí quyết kiến tạo hạnh phúc gia đình
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Toanh)
Vì là một thụ tạo mang tính xã hội nên con người phải sống trong rất nhiều mối tương quan: tương quan thầy trò, bạn bè, đối tác làm ăn, chủ thợ và gia đình…. Trong những tương quan ấy, tương quan gia đình là quan trọng nhất vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến suy nghĩ, lời nói và hành động của chúng ta. Có thể nói rằng một người thành công hay thất bại, hạnh phúc hay khổ đau phụ thuộc chủ yếu vào gia đình. Nếu một người được sống trong gia đình hạnh phúc, thì người ấy sẽ hạnh phúc và ngược lại; nếu các công việc và những mối liên hệ khác gặp trục trặc thì họ vẫn có thể dễ dàng tìm ra cách thức tốt nhất để hóa giải. Tương quan gia đình vô cùng quan trọng, nhưng làm sao để chúng được hài hòa? Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho ta những câu trả lời rất tuyệt vời về việc xây dựng một gia đình thánh thiện và hạnh phúc.
– Một gia đình thánh thiện và hạnh phúc là một gia đình biết đặt ý Thiên Chúa lên trên mọi sự. Sau khi các nhà chiêm tinh ra về, được sứ thần báo mộng phải đem Chúa Giêsu và Mẹ Người trốn sang Ai Cập vì vua Hêrôđê tìm giết con trẻ, thánh Giuse đã không nghi ngờ, không chất vấn, không phàn nàn, không ngại vất vả, vội vã đem con trốn sang Ai cập. Sau khi vua Hêrôđê băng hà, tính mạng của con trẻ không còn bị đe dọa, được sứ thần báo mộng đưa con trở về Israel, Giuse một lần nữa không chất vấn, không nghi ngờ, vui vẻ nhanh chóng đưa con lên đường trở về.
Mẹ Maria suốt một đời cũng tìm kiếm và thực thi ý Chúa. Trước khi làm mẹ Đấng Cứu Thế, Mẹ đã tìm kiếm và thực thi ý Chúa qua việc dâng hiến trọn vẹn con người và cuộc đời cho Thiên Chúa. Vào ngày truyền tin, Mẹ đã cất tiếng xin vâng và cả đời sống cho lời xin vâng ấy cho dù cuộc đời của Mẹ trải qua rất nhiều thử thách tăm tối.
Chúa Giêsu còn hơn cả Mẹ Maria và thánh Giuse. Ngài tìm kiếm và vâng theo thánh ý Chúa Cha trong mọi sự. Vì thánh ý Chúa Cha nên Ngài nhập thể làm người, rao giảng Tin Mừng và chịu chết trên thập giá. Chẳng ai trong chúng ta có thể quên lời cầu nguyện tha thiết của Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha trong vườn cây Dầu “Lạy Cha xin cho con khỏi uống chén này, nhưng đừng theo ý con một xin vâng theo ý Cha”.
– Một gia đình thánh thiện và hạnh phúc là một gia đình mà trong đó các thành phần biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến của nhau và nhất là biết đối thoại với nhau để tìm ra giải pháp tốt nhất cho mọi vấn đề của gia đình. Thánh Giuse đã quyết định theo ý Chúa đem Hài Nhi trốn sang Ai cập và đem trở về, còn Mẹ Maria không chống lại, không vặn hỏi, không nghi ngờ và mau mắn lên đường. Mẹ Maria không nghi ngờ, không thắc mắc, nhưng mau mắn lên đường vì Mẹ tôn trọng quyết định của Giuse, tin Giuse và tin vào đường lối của Thiên Chúa. Thánh Luca cho ta biết Chúa Giêsu luôn vâng phục thánh Giuse và Mẹ Maria “trẻ Giêsu ra khỏi đền thờ, trở về nhà với ông bà và hằng vâng phục hai ông bà”.
– Một gia đình thánh thiện và hạnh phúc là một gia đình mà trong đó mỗi người vì hạnh phúc của nhau mà sống và hành động. Giuse không quyết định làm gì mà không vì hạnh phúc của Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Đang đêm phải vội vã đem con và Maria lên đường không vì mình nhưng vì sự an toàn cho con trẻ và hạnh phúc của Mẹ Maria. Làm sao một người chồng hết lòng yêu vợ, một người cha rất mực thương con lại chấp nhận để con bị giết hại và cảnh nước mắt của vợ không ngừng tuôn chảy? Điều này đã được sách Hc nhắc nhở rất rõ ràng: Người cha được vẻ vang trong con cái, người mẹ gia tăng uy quyền nơi các con, con cái thờ cha kính mẹ thì bù đắp được những lỗi lầm, tích trữ được kho báu, cầu nguyện được Thiên Chúa lắng nghe, được trường thọ, được bình an… Hiểu được điều đó, thánh Phaolô đã khuyên nhủ các tính hữu Côlôxê “Vợ hãy phục tùng chồng, chồng hãy yêu thương vợ, con cái hãy vâng lời cha mẹ, và cha mẹ hãy đừng làm cho con cái trở nên nhát đảm sợ sệt, bực tức và ngã lòng” (x. Cl 3,18-21).
– Một gia đình thánh và hạnh phúc là một gia đình biết đặt mọi hành động của mình trên chuẩn mực yêu thương. Chồng hãy vì thương vợ mà sống và làm việc, vợ hãy vì tình yêu chồng mà không quản ngại nắng mưa hôm sớm, con cái hãy vì niềm vui của cha mẹ mà chăm ngoan. Thánh Phaolo đã thật chí lý khi khuyên dạy các tín hữu hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại, chịu đựng, tha thứ cho nhau, và trên hết là có lòng bác ái vì đức bác ái chính là mối dây liên kết tuyệt hảo. Dây đức ái liên kết mọi thành phần trong gia đình lại với nhau, liên kết mọi khác biệt giữa người này với người kia. Nhờ mối dây liên kết này mà mọi thành phần trong gia đình thật sự tìm được niềm vui, bình an và hạnh phúc vì “Ước gì ơn bình an của Đức Kitô điều khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em được kêu gọi đến hưởng bình an đó.”
Mọi gia đình kitô hữu đều mong ước hạnh phúc đời này và đời sau. Thánh gia đã trở thành mẫu mực cho mọi gia đình hạnh phúc bằng cách đặt thánh ý Chúa lên trên mọi sự, lắng nghe, tôn trọng ý kiến của nhau và tìm ra giải pháp tốt nhất cho các vấn đề của gia đình, vì hạnh phúc của nhau mà sống và hành động, nhất là biết đặt mọi hành động của mình trên chuẩn mực yêu thương. Chúng ta thử nhìn lại đời sống của mình và thử hỏi “gia đình tôi có làm như thế để đạt được hạnh phúc thật sự ở đời này và đời sau chưa?” Nguyện xin Chúa cho các gia đình kitô hữu nói riêng và mọi gia đình trên thế giới nói chung tìm được nơi Thánh gia chuẩn mẫu tuyệt vời cho gia đình của mình. Amen.[Mục Lục]
- 8. Phúc thay cho gia đình Thánh Gia
Anh chị em thân mến!
Hiệp nhau trong Thánh Lễ này, chúng ta hãy cầu xin Chúa thương chúc lành cho tất cả các gia đình, đặc biệt gia đình của chúng ta, cho mọi thành phần trong gia đình và để chuẩn bị cử hành mầu nhiệm thánh, xin Chúa tha thứ những lầm lỗi của chúng ta và chúng ta hứa với Chúa trong Thiên Niên Kỷ Mới này sẽ canh tân đời sống của mình một cách tốt đẹp hơn.
Chúng ta mừng lễ Thánh Gia Thất: Chúa Giêsu, Đức Maria và Thánh Giuse trong Chúa Nhật hôm nay, mỗi người chúng ta có thể thầm nghĩ rằng: “Phúc thay cho gia đình Thánh Gia Nazareth, vì được Chúa Giêsu luôn luôn hiện diện bên cạnh”. Chúng ta thường nghĩ đến khía cạnh vinh quang của gia đình Nazareth, vì có Chúa Giêsu hiện diện giữa các Ngài mà chúng ta lại quên đi một khía cạnh khác, đó là khía cạnh Thập giá và đau thương.
Để hưởng được sự hiện diện của Chúa trong Gia Đình Thánh, đòi phải trả một giá rất đắt, đó là phải biết quên mình đi, quên cái tôi ích kỷ đóng kín trong chính mình để đón nhận hồng ân của Chúa và chấp nhận theo thánh ý Ngài. Đức Maria đã phải dứt khoát trả lời: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền”. Và Thánh Giuse cũng đã phải chống lại cám dỗ, chạy trốn bỏ rơi chương trình của Thiên Chúa và vâng lời sứ thần đứng lại đúng chỗ Thiên Chúa muốn cho Ngài bằng việc tiếp nhận Maria và Con Trẻ về nhà mình.
Tất cả những điều này cũng dư biết và cũng đã suy niệm nhiều trong thời gian qua, nhất là trong chính ngày lễ Giáng Sinh. Phúc thay cho gia đình Thánh Gia Nazareth vì được Chúa Giêsu hiện diện giữa các Ngài, đó là khía cạnh vinh quang của gia đình Nazareth. Sự hiện diện của Chúa trong gia đình không có nghĩa là gia đình sẽ không gặp phải thử thách, những khó khăn trong cuộc sống hằng ngày.
Đây là khía cạnh Thập giá mà Thánh Gia Nazareth phải trải qua, đó là mặc dù Chúa Giêsu hiện diện tại gia đình Nazareth, nhưng Ngài không làm phép lạ để cho Thánh Gia Thất được trở nên giàu có. Chúa Giêsu hiện diện tại đó, nhưng Ngài đã không làm phép lạ để Ngài khỏi phải sinh ra nơi hang súc vật ngoài đồng trống, trong cảnh nghèo hèn. Chúa Giêsu hiện diện tại đó, nhưng Ngài đã không ra tay uy quyền ngăn chặn mưu đồ của kẻ thù là Hêrôđê, mà Ngài lại để cho Thánh Giuse và Đức Mẹ chịu cảnh truy lùng trốn chạy sang Ai Cập.
Phúc Âm hôm nay thuật lại cho chúng ta cuộc bách hại của vua Hêrôđê đối với gia đình Nazareth, vì ông muốn tìm giết Con Trẻ Giêsu. Tất cả những gian truân khổ cực đã được Chúa cho xảy ra để làm sáng tỏ đức tin và lòng tin tưởng của Thánh Giuse và Mẹ Maria vào chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa.
Ngoài Thánh Gia Nazareth, nếu chúng ta suy niệm kỹ hơn, quan sát kỹ hơn thì bài Phúc Âm mà chúng ta vừa đọc giúp chúng ta có thể nhận ra một cảnh gia đình thứ hai không được tốt đẹp gì lắm, đó là gia đình của vua Hêrôđê độc ác. Các sử gia đã kể lại rằng, vì quá ham quyền hành, tiền bạc, danh vọng đến độ nghi ngờ tất cả mọi người xung quanh, nên vua Hêrôđê độc ác này đã giết cả người vợ thân yêu và hai đứa con ruột của mình, vì nghi ngờ người vợ và hai đứa con muốn chiếm quyền của ông.
Đây là một bài học cho tất cả các gia đình nói chung, nhưng cách riêng có thể nói là bài học cho những gia đình không có Thiên Chúa ngự trị, không có đạo đức ngự trị, nơi chỉ có tiền bạc và danh vọng, quyền hành cai trị mà thôi. Bởi vì tiền bạc, danh vọng, quyền hành… nó có thể trở thành kẻ thù giết hại lẫn nhau.
Lạy Chúa, trong ngày lễ kính gia đình Thánh Gia Nazareth hôm nay, xin Chúa ban cho tất cả mọi gia đình Công giáo được hiểu rằng, điều quan trọng không phải là cuộc sống gia đình không gặp thử thách, nhưng điều quan trọng là gia đình chúng con có được Chúa hiện diện luôn mãi hay không? Hay một lúc nào đó tiền bạc, quyền hành, danh vọng đã làm chủ và ngự trị trong tâm hồn chúng con. Vì thế, chúng con cần tích đức chứ không phải là tích chứa của cải vật chất, quyền hành và danh vọng. Xin cho chúng con biết luôn đặt Chúa làm trung tâm trong đời sống gia đình, để từ đó gia đình chúng con có thể vượt qua được những khó khăn, thử thách có thể xảy ra cách này hay cách khác cho mỗi gia đình chúng con.
Phúc thay cho Gia Đình Thánh Nazareth vì được Chúa hiện diện mãi trong đó. Ước gì gia đình chúng con cũng được nguồn hạnh phúc vô tận ấy là có Chúa luôn luôn hiện diện trong gia đình chúng con trong từng giây phút của cuộc sống gia đình.[Mục Lục]
- 9. Những Hêrôđê thời nay
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay kể lại câu chuyện thánh Giuse đem Chúa Giêsu trốn sang Ai Cập, để thoát khỏi sự bách hại của Hêrôđê và sau đó quay về Israel. Đặt bối cảnh câu chuyện trên trong Chúa nhật lễ Thánh Gia, chúng ta có thể hiểu đây là một lời nhắc nhở đến bổn phận của người làm cha làm mẹ đối với con cái.
Quả thực là ngày nay, không còn có những Hêrôđê dám công khai ra lệnh tru diệt hàng loạt trẻ nhỏ, những hình ảnh gần gũi nhất với Chúa. Nhưng nói thế không có nghĩa là không còn những Hêrôđê hiện đại tàn ác có khi còn hơn cả ngày xưa nữa. Không kể đến những Hêrôđê chuyên giết chết trẻ em ở Brasil, những Hêrôđê chuyên bắt cóc trẻ em để bán làm mãi dâm ở Bangkok… trong cuộc sống thường ngày, vẫn có thể có những Hêrôđê đang rình rập để phá hoại trẻ em: Một nền văn hoá không lành mạnh, với những phim ảnh, sách vở và báo chí khiêu dâm, một xã hội thiếu những giá trị đạo đức, luôn cổ võ cho bạo lực, khủng bố.
Ngay trong bầu khí gia đình, những Hêrôđê thời nay có thể là chính những người cha, những người mẹ đã tàn nhẫn giết chết con mình từ trong trứng nước bằng những hành động ngừa thai và phá thai mà mỗi ngày một gia tăng.
Những Hêrôđê thời nay có thể là những người cha, những người mẹ đã không biết nhường nhịn chịu đựng lẫn nhau, để rồi đã phá huỷ bầu khí gia đình bằng cách ly dị, đẩy con cái vào chốn bơ vơ lạc lõng.
Những Hêrôđê thời nay có thể là những người cha, những người mẹ không sống gương mẫu, dù chỉ là một hành vi nhỏ mọn, cũng có thể tác hại đến con cái của mình, ít nữa là về phương diện tinh thần. Không phải chỉ khi nào làm các em đau đớn về thể xác hay tinh thần, mà ngay cả khi nuông chiều một cách thái quá và vô lý… cũng đã là một cách đẩy các em vào chỗ chết. Và trong cuộc sống hiện nay không thiếu những trường hợp như thế, để cuối cùng các em trở thành những tội phạm.
Vì thế, thái độ tỉnh táo của thánh Giuse trước cuộc sống để bảo vệ Hài nhi Giêsu vẫn là tấm gương cho các bậc phụ huynh noi theo trong việc chăm sóc và giáo dục con cái mình.
Lập trường của Chúa Giêsu trong vấn đề này thật là quyết liệt như chúng ta đã từng thấy Ngài tuyên bố: Ai làm gương mù gương xấu cho một trong những trẻ này, thì thà cột cối đá vào cổ nó mà quăng xuống biển còn hơn.
Hãy cần xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết ý thức và chu toàn bổn phận giáo dục con cái, để gia đình chúng ta có được một bầu khí yêu thương và đạo đức như Thánh Gia ngày xưa.[Mục Lục]
- 10. Thánh Gia Nagiarét, gương mẫu mọi gia đình
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
“Ông liền trỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Ít-ra-en, và đến ở tại một thành kia gọi là Nagiarét” (Mt 2,21.23)
Sợi chỉ đỏ:
– Bài đọc I: Ai kính sợ Chúa thì thảo kính cha mẹ.
– Đáp ca: Kẻ kính sợ Chúa thì được hưởng hạnh phúc gia đình.
– Phúc Âm: Gương Thánh Giuse gia trưởng.
– Bài đọc II: Sống hòa thuận trong gia đình.
DẪN VÀO THÁNH LỄ
Lễ Thánh Gia hôm nay rất có ý nghĩa đối với người Việt Nam chúng ta vốn coi trọng gia đình và các giá trị gia đình.
Lời Chúa hôm nay tuy chưa liệt kê đầy đủ mọi đức tính phải có trong cuộc sống gia đình, nhưng những đức tính được đề cập tới đều rất quan trọng.
Trong Thánh lễ đặc biệt này, chúng ta hãy mở rộng tâm hồn để đón nhận giáo huấn của Lời Chúa, và tha thiết cầu xin Chúa ban ơn trợ giúp để chúng ta xây dựng gia đình mình theo gương mẫu Thánh gia Nadarét.
GỢI Ý SÁM HỐI
– Chúng ta đã thiếu sót rất nhiều trong bổn phận làm chồng, làm vợ, làm cha, làm mẹ, làm con, làm anh chị em trong gia đình.
– Chúng ta đã cố gắng rất nhiều để lo cho gia đình về phương diện vật chất, nhưng chưa cố gắng đủ để lo cho gia đình về phương diện tinh thần và đạo đức.
– Gia đình chúng ta chưa là một nắm men, một hạt muối, một ngọn đèn sáng trong khu xóm.
III. LỜI CHÚA
Bài đọc I (Hc 3,2-14):
Đoạn sách Huấn Ca này đặc biệt nhấn mạnh đến bổn phận con cái phải thảo kính cha mẹ.
Nền tảng của việc thảo kính cha mẹ là chính ý muốn của Thiên Chúa: “Thiên Chúa suy tôn người cha trong con cái, quyền lợi người mẹ Ngài củng cố trên đàn con”.
Thảo kính cha mẹ sinh ra rất nhiều ơn ích:
– đền bù tội lỗi, thu được một kho tàng, làm cho cha mẹ vui, sống lâu
– khi cầu xin sẽ được Thiên Chúa nhậm lời
– sau này đến lượt mình có con cái thì sẽ được chúng hiếu thảo
Đáp ca (Tv 127):
Tác giả Tv 127 coi việc kính sợ Chúa là nguồn mọi hạnh phúc gia đình:
– những lao công khó nhọc sẽ sinh kết quả
– được vợ hiền con ngoan
– hạnh phúc suốt đời
Phúc Âm (Mt 2,13-15.19-23):
Trong bức tranh vẽ cảnh gia đình Nadarét, có hai nét đáng lưu ý hơn cả:
a/ Vai trò nổi bật của người gia trưởng: vai người mẹ Maria và người con Giêsu đều mờ nhạt để làm nổi bật hẳn lên vai người gia trưởng Giuse. Người gia trưởng này tuy âm thầm nhưng rất tận tuỵ lo lắng chăm sóc mọi người trong gia đình. à Một gia đình hợp nhất quanh người gia trưởng.
b/ Nhưng bên trên vai trò người gia trưởng, còn một vai khác quan trọng hơn, đó là Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa dẫn dắt cuộc sống gia đình Nadarét qua đại diện của Ngài là gia trưởng Giuse. à Thiên Chúa là gia trưởng tối cao của gia đình.
Bài đọc II (Cl 3,12-21):
Thánh Phaolô liệt kê những đức tính phải có trong cuộc sống gia đình: từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hòa, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau và tha thứ cho nhau.
Trong các đức tính ấy, Thánh Phaolô đặc biệt lưu ý đến việc tha thứ cho nhau. Ngài kêu gọi các phần tử trong gia đình hãy tha thứ cho nhau theo gương và theo mức độ của chính Chúa Giêsu: “Như Chúa đã tha thứ cho anh em, anh em cũng hãy tha thứ cho nhau”.
Và để có thể thực hiện các đức tính ấy, phải có một nhân đức làm nền, đó là đức yêu thương.
GỢI Ý GIẢNG
Vai trò người cha
Đương nhiên người cha và người mẹ là hai vai trò quan trọng nhất trong gia đình. Còn nếu so sánh người cha với người mẹ thì có lẽ vai trò người cha quan trọng hơn:
– Gia đình nào có người mẹ tốt nhưng người cha xấu thì các con trong gia đình khó mà tốt hết được. Hình như tấm lòng của người mẹ không hữu hiệu bằng sự hướng dẫn của người cha.
– Gia đình nào có người cha tốt thì hầu như mọi người trong nhà đều dễ trở thành tốt, vì người cha là cột trụ cho cả nhà dựa vào, là vị chỉ huy điều khiển mọi người, là người cầm lái đưa cả gia đình theo một hướng.
Gia đình Nadarét có Thánh Giuse làm gia trưởng. Dù Đức Maria và Chúa Giêsu là những người cao quý hơn thánh Giuse, nhưng Thiên Chúa đã đặt hai vị dưới quyền Thánh Giuse; khi Thiên Chúa muốn nói gì với gia đình này thì Ngài nói với Thánh Giuse; và hai vị kia vâng lời Thánh Giuse như vâng lời Thiên Chúa.
Phần Thánh Giuse, có lẽ Ngài không thông minh và tài cán bao nhiêu, nhưng Ngài rất tận tuỵ trong bổn phận, nhất là Ngài điều hành việc gia đình theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa. Bài Phúc Âm hôm nay kể: trong hai tình huống nghiêm trọng nhất là trốn sang Ai cập và hồi hương về Nadarét, Thánh Giuse đều làm theo lời Chúa. Bản văn viết rõ: “Giuse liền thức dậy, đưa hài nhi và mẹ Người trốn sang Ai cập” (hoặc: “về đất Israel”). Dù đang ngủ nhưng mau mắn “thức dậy” và “liền” thi hành ngay lời Chúa dạy.
Đối chiếu với gương thánh Giuse, chúng ta hiểu được lý do khiến cho nhiều gia đình không được tốt:
– Lý do thứ nhất là vì người cha gia đình không tận tuỵ với bổn phận mình.
– Lý do thứ hai là vì người cha gia đình không điều hành gia đình theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa.
Lòng hiếu thảo không phải là bản năng
Cha mẹ thương con là do bản năng: dù đứa con xinh đẹp hay xấu xí, ngoan ngoãn hay ngỗ nghịch, cha mẹ vẫn luôn yêu thương và hy sinh tất cả cho nó. Người ta nói “Nước bao giờ cũng chảy xuôi xuống”.
Nhưng con cái thương cha mẹ không phải là bản năng (con cái bám lấy cha mẹ mới là bản năng): khi đứa con còn cần đến cha mẹ thì xem ra nó “thương” cha mẹ lắm. Đến khi nó không cần đến cha mẹ nữa, nhất là khi cha mẹ cần đến nó thì nhiều đứa thờ ơ, hất hủi, bất hiếu… “Cha mẹ nuôi con như biển hồ lai láng, con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày”.
Nếu là bản năng thì không cần được dạy. Vì không phải là bản năng nên cần được dạy mới biết.
– Người Việt Nam dạy con cái hiếu thảo cha mẹ cách tiêu cực bằng lời đe dọa: ai bất hiếu ngỗ nghịch với cha mẹ thì sẽ bị “trời đánh”.
– Sách Đức Huấn Ca dạy cách tích cực bằng Lời Chúa hứa ban cho kẻ thảo hiếu cha mẹ nhiều ơn lành (xem phần giải thích Bài đọc I phía trên)
Dù dạy cách tiêu cực bằng lời đe dọa, hay cách tích cực bằng lời hứa, cả hai lời dạy trên đều giống nhau ở điểm quy lòng hiếu thảo về nguồn gốc là Thiên Chúa (hay “Ông Trời”): chính Thiên Chúa muốn con cái hiếu thảo với cha mẹ, do đó Ngài thưởng kẻ hiếu thảo và phạt kẻ bất hiếu.
Vì thế những kẻ làm con phải ý thức rằng: Hiếu thảo với cha mẹ
– không chỉ là một tình cảm tự nhiên được thúc đẩy bởi bản năng,
– mà còn là một đạo lý nhân bản (đạo làm người: nhân-đạo)
– hơn nữa, đó còn là lệnh truyền của chính Thiên Chúa (thiên-đạo)
Bảo vệ con
Để bảo vệ Hài nhi Giêsu khỏi sa vào nanh vuốt Hêrôđê, Thánh Giuse và Đức Maria đã phải vượt qua con đường hiểm trở dài gần 500 cây số xuyên qua sa mạc El-Arish đến Ai Cập, một sa mạc trải dài hơn 200 cây số toàn cát trắng như biển cả mênh mông, không một bóng cây, một cọng cỏ, một giếng nước. Đoàn lữ hành phải đeo đủ đồ ăn, nước uống để chịu đựng cả nửa tháng rất kham khổ. Năm mươi năm trước Chúa Giáng sinh, đoàn quân Rôma phải vượt qua quãng đường này thấy khủng khiếp hơn đánh nhau với quân Ai cập. Năm 1967, đại quân Ai cập đã sa lầy trong sa mạc này khi chiến tranh với quân do thái.
Sự khủng khiếp của những đoàn quân hùng mạnh làm ta cảm thấy sự khốn cực của Thánh Gia lúc đi tị nạn. Ngày ngày các ngài phải lê gót từng bước chân trên cát lầy sụp lở, vượt qua các đồi cát dưới ánh nắng mặt trời thiêu đốt, giữa biển cát nóng hừng hực, vẫn phải tiết kiệm từng giọt nước và những cơn bão cát khủng khiếp như muốn chôn sống các ngài.
Có một số sách hoang đường mô tả cuộc tị nạn của Thánh Gia như thiên đường: những dã thú hiền từ đến lậy dưới chân Chúa Hài Nhi, những cây chà là rợp bóng rũ trái để các Ngài ngủ mát, ăn điểm tâm; nước chảy lênh láng để các Ngài giải khát, tắm rửa giữa sa mạc! (Ricciotti, Vie de Jésus-Christ, p. 268)
Ở trần gian, Thánh Gia không được hưởng cảnh thanh nhàn đó. Chúa muốn các Ngài phải chịu trăm chiều đau khổ để nêu gương cho ta khi gặp gian nan biết vui lòng hy sinh như các Ngài, nhất là khi gặp thử thách để bảo vệ Hài Nhi Giêsu, bảo vệ Hội Thánh, bảo vệ đức tin và các hài nhi con cháu mình. Phải bảo vệ hài nhi khỏi tay kẻ dữ, khỏi không bị hận thù bất công, khỏi bạn bè gian ác, trộm cắp, đồi truỵ. Đó là nhiệm vụ của cha mẹ, của các vị tinh thần và mọi kitô hữu.
Biết bao hài nhi đã bị huỷ hoại trong bào thai, khi chào đời lại bị cha mẹ vô luân liệng bỏ, và bị bao nhiêu tệ nạn xấu xô đẩy. Thật khổ tâm!
Cách bảo vệ hài nhi an toàn nhất là hãy tỉnh thức nghe tiếng Chúa trong lương tri, trong Phúc Âm và giáo huấn của Hội Thánh, mới mong tránh khỏi tay những Hêrôđê tàn bạo. Nhất là hãy dắt con em mình đến nương ẩn dưới cánh tay uy quyền và tình thương bao la của Chúa, Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse.
(Lm Vũ khắc Nghiêm, Xây nhà trên đá, năm A)
Những bài học của trẻ con
Nếu trẻ con sống với những lời phê phán, chúng học được thói hay lên án.
Nếu chúng sống với sự hận thù, chúng học được thói thích đánh nhau.
Nếu chúng sống với những lời chế nhạo, chúng học được thói nhút nhát.
Nếu chúng sống với sự chê bai, chúng học được mặc cảm tội lỗi
Nếu chúng sống với sự bao dung, chúng học được tính nhẫn nhục
Nếu chúng sống với sự khuyến khích, chúng học được lòng tự tin.
Nếu chúng sống với lời khen, chúng học được cách thưởng thức cái hay của người.
Nếu chúng sống với sự lương thiện, chúng học được tính công bình.
Nếu chúng sống với sự che chở an toàn, chúng học được lòng tin cậy.
Nếu chúng sống với sự chấp nhận, chúng học biết yêu thích chính mình.
Nếu chúng sống với tình thương, chúng học được cách tìm thấy Chúa trong cuộc đời. (Anon, “Children learn what they live”)
Bà mẹ thánh thiện và đảm đang thành Luân Đôn
Đầu thế kỷ XX này, tại Luân Đôn, có một gia đình công nhân vừa nghèo khó lại vừa đông con: cả thảy 13 đứa! Bố của chúng phải đi làm việc suốt ngày ở xí nghiệp. Bà mẹ ở nhà làm nghề phụ và lo việc nội trợ. Dù đầu tắt mặt tối, bận bịu suốt ngày suốt đêm, nhưng bà Vaughan vẫn vui vẻ thay mặt chồng dạy dỗ con cái học giáo lý, tập luyện chúng có tinh thần đạo đức, khuyên chúng chịu khó học tập, lao động, và đặc biệt trưa nào rửa chén bát xong bà Vaughan cũng đến nhà thờ chầu Chúa một giờ.
Láng giềng ai cũng lấy làm lạ và hỏi bà: “Một bầy con 13 đứa, bận rộn sáng tối, mà sao trưa nào chị cũng đi chầu Thánh Thể?” Bà tươi cười bảo: “Thấy một bầy con lúc nhúc, ăn bữa mai chạy gạo bữa hôm, tôi lo lắm. Hơn thế chúng còn đến trước trường học, theo bạn bè rủ rê đi chơi hoặc ra phố phường xa hoa, do đó nhiều nguy hiểm, tôi càng thao thức hơn. Thành thử mỗi ngày dầu bận việc đến đâu, tôi cũng bỏ ra một giờ để chầu Chúa, sốt sắng xin Người ban ơn cho vợ chồng tôi nuôi nấng các cháu hằng ngày dùng đủ và dạy dỗ chúng nên người đạo đức”.
Chúa đã nhận lời và ân thưởng cho lòng tin cùng sự hy sinh của bà Vaughan: trong 13 người con, một người làm Hồng Y Tổng Giám Mục giáo phận Luân Đôn, một người khác làm Tổng Giám Mục, hai người làm Linh mục, hai nam tu sĩ, hai nữ tu sĩ, còn 5 người ở thế gian lập gia đình lưu truyền nòi giống, sống cuộc đời đạo đức thánh thiện. (ĐHY NVT, Trên đường lữ hành)
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, Thánh Phaolô đặc biệt lưu ý con biết tha thứ cho nhau. Ngài kêu gọi các phần tử trong gia đình hãy tha thứ cho nhau theo gương và theo mức độ của chính Chúa Giêsu: “Như Chúa đã tha thứ cho anh em, anh em cũng hãy tha thứ cho nhau”. Để có thể thực hiện các đức tính ấy, phải có một nhân đức làm nền, đó là đức yêu thương. Lạy Chua, xin cho con biết yêu thương, xin cứu con khỏi mọi sự dữ, khỏi lối sống ganh ghét, đố kỵ, chia rẽ làm tổn hại tình yêu thương giữa các con cái Chúa trong cùng một gia đình. [Mục Lục]
- 11. Thánh Giuse, người sống theo Lời Chúa
(Suy niệm của Lm. GB. Vũ Quốc Đạt)
Đọc trong các sách Tin Mừng, chúng ta không thấy thánh Giuse nói một lời nào, chỉ thấy ghi lại những việc làm của thánh Giuse, như đón Đức Maria về nhà làm bạn mình (Mt 1,24), đưa Đức Maria về Bêlem đăng ký hộ khẩu và biến cố Giáng Sinh (Lc 2,1-20), đưa Thánh Gia trốn sang Ai Cập, rồi trở về định cư tại Nazareth (Mt 1,13-15.19-23), cùng với Đức Maria Con lên Đền thờ để tiến dâng cho Chúa và cuộc hành hương lên Giêrusalem khi Đức Giêsu được 12 tuổi (Lc 2,21-52). Qua tất cả những việc làm này cho chúng ta thấy có một điểm chung, đó là Thánh Giuse đều làm theo lời của Thiên Chúa truyền dạy.
Bài đọc 1 cho chúng ta thấy một đặc điểm của vua Đavít, mặc dù là một vị vua, nhưng vẫn luôn cố gắng sống theo Lời Chúa dạy. Lúc đó, sau khi đã bình ổn được đất nước, chấm dứt thù trong giặc ngoài, và đã xây dựng cho mình một dinh thự nguy nga, vua Đavít có ý muốn xây một Đền Thờ cho Thiên Chúa. Ông đã bàn bạc việc này với ngôn sứ Nathan. Nhưng thánh ý Thiên Chúa lại khác. Qua ngôn sứ Nathan, Thiên Chúa đã cho nhà vua biết rằng: không phải vua xây nhà cho Chúa, nhưng chính Chúa sẽ xây nhà cho vua, nghĩa là làm cho ngôi báu, cho triều đại của nhà vua được vững bền như lời Chúa phán: “Ta sẽ là Cha của ngươi, và ngươi sẽ là con Ta. Nhà của ngươi và triều đại ngươi sẽ vững chắc đến muôn đời trước mặt Ta, ngôi báu ngươi sẽ vững bền mãi mãi” (2Sm 7,14a.16).
Lời hứa này trước mắt là nói đến vua Salomon, con của Đavít, một vị vua nổi tiếng về sự khôn ngoan. Chính vua Salomon đã xây đền thờ Giêrusalem và xây dựng một triều đại huy hoàng. Nhưng theo truyền thống từ xa xưa, dân Chúa vẫn coi đây là lời hứa tiên báo về triều đại của Đấng Messia. Như thế, nhờ luôn lắng nghe và sống theo lời Chúa, vua Đavít đã nhận được lời hứa trở nên tổ phụ của Đấng Cứu Thế.
Lời hứa đó, hôm nay đã trở nên hiện thực với lời sứ thần của Thiên Chúa báo mộng cho thánh Giuse: “Hỡi Giuse, con vua Đavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình,… bà sẽ sinh hạ một con trai mà ông đặt tên là Giêsu” (Mt 1,20-21). Với việc giao cho thánh Giuse (một người thuộc dòng dõi vua Đavít) đặt tên cho Đức Giêsu, Thiên Chúa đã thực hiện trọn vẹn lời hứa của mình với vua Đavít.
Tin Mừng thuật tiếp: “Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền và đón vợ về nhà” (Mt 1,24). Thánh Giuse đã làm như lời thiên thần truyền mà không một lời thắc mắc hỏi han. Điều này cho thấy thánh Giuse có một đức tin vững chắc vào Thiên Chúa. Thánh nhân đã dám làm những điều mà theo suy nghĩ tự nhiên con người không thể làm được, đó là nhận lãnh sứ mạng làm cha của Con Thiên Chúa và cũng là Thiên Chúa của mình. Đây không phải là một đức tin mù quáng, nhưng là một đức tin của người tin rằng Thiên Chúa có thể làm những điều mà con người không thể. Và chỉ có đức tin đó mới có thể làm cho chúng ta trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa, như lời thánh Phaolô nói về tổ phụ Abraham trong bài đọc 2: “Mặc dầu tuyệt vọng, ông vẫn tin rằng mình sẽ trở thành cha nhiều dân tộc, như có lời đã phán với ông rằng: ‘Dòng dõi ngươi sẽ như thế’. Vì vậy, ông được kể như sự công chính’” (Rm 4,18.22).
Trong suốt cuộc sống của mình, thánh Giuse đã tin tưởng, lắng nghe và thực hành tất cả những điều Thiên Chúa dạy. Vì thế, thánh nhân được gọi là “Người Công Chính” và được giao một nhiệm vụ quan trọng là trở thành thầy dạy đầu tiên và là “người gìn giữ Đức Giêsu trong giai đoạn đầu của công trình cứu độ” (lời nguyện Nhập lễ Thánh Giuse Bạn Trăm Năm Đức Maria). Chính nhờ đức tin mà thánh Giuse có thể sống phó thác hoàn toàn cuộc đời của mình trong bàn tay Thiên Chúa, sẵn sàng làm mọi điều Chúa dạy. Phải chăng, đây là điều làm cho thánh nhân trở nên cao trọng.
Nhờ lời bầu cử của thánh cả Giuse, xin cho từng người trong các gia đình chúng ta luôn biết “lắng nghe và thực hành Lời Chúa” trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Nhất là khi gặp những điều trái ý cực lòng, chúng ta không vội vàng nóng nảy, nhưng bình tĩnh tìm hiểu và giải quyết những khó khăn theo thánh ý Chúa. Nhờ đó, các gia đình của chúng ta sẽ luôn sống trong ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa. Amen. [Mục Lục]
- 12. Gia đình cộng đoàn yêu thương
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Vào năm 1990, cậu bé siêu sao màn ảnh Macaulay Culkin nổi bật với bộ phim “Ở nhà một mình” (Home Alone). Bộ phim này với doanh thu hơn 500 triệu đô la. Bố mẹ cậu Macaulay Culkin từng đi làm kiếm sống. Ông Culkin là ông từ tại một nhà thờ ở NewYork; bà Patrica Bentrup là một nhân viên trực điện thoại. Với số tiền lớn do cậu con mang về, hai ông bà liền bỏ việc, ở nhà làm chủ những món tiền mà tài năng của cậu nhỏ còn hứa hẹn nhiều.
Nhưng kể từ khi hai ông bà ở nhà, mái ấm gia đình trở thành bất ổn. Bố mẹ Macaulay Culkin thường xuyên gây gổ với nhau tới mức bà Patrica tố cáo chồng “rượu chè be bét, xúc phạm tình dục quá đáng và bội tín”.
Bắt đầu đóng phim từ tuổi lên tám, năm nay Macaulay Culkin đã 15 tuổi. Buồn nản và cô độc trong gia đình, cậu thường tìm giải khuây trong những bữa tiệc vô độ và ở những hộp đêm. Hậu quả là sự nghiệp của ngôi sao đang lên này đã khựng lại. Ba bộ phim gần đây do cậu thủ vai chính hoàn toàn không đạt được thành công như những bộ phim ban đầu.
Anh chị em thân mến,
Gia đình là một tổ ấm khi vợ chồng biết quảng đại hy sinh cho nhau và cho con cái, mặc dù đời sống kinh tế có khi còn chật vật khó khăn. Nhưng một khi gia đình để cho tiền của chi phối, tổ ấm sẽ bị xáo trộn đưa đến ích kỷ, đổ vỡ và chia ly, điển hình là tổ ấm của gia đình của cậu Macaulay Culkin. Cho hay rằng, tiền của không làm nên hạnh phúc gia đình. Chính tình yêu quảng đại mới tạo nên hạnh phúc cho gia đình.
Trong một thời gian dài, ở Âu Mỹ, người ta đã lãng quên những giá trị gia đình. Người ta nói nhiều đến tự do cá nhân, đề cao việc nhập thể và cuộc giải phóng con người. Dựa vào tự do cá nhân, những luật lệ và quy định tự do của mình, Âu Mỹ đang tách ly tình dục khỏi tình yêu, tình yêu khỏi hôn nhân, hôn nhân khỏi việc sinh con, và việc sinh con khỏi trách nhiệm đối với Chúa. Hậu quả là ở Mỹ hiện nay con số những đứa con sinh ngoài hôn nhân lên tới 30%. Ở Anh cũng có đến 30% trẻ con sinh ngoài gia đình, hơn nữa, 20% trẻ em chỉ sống với cha hoặc mẹ và 40% cuộc hôn nhân kết thúc bằng ly dị. Và tình trạng trẻ em trong các gia đình đổ vỡ này thường có xu hướng chán đời, dễ bệnh hoạn, học kém, dễ bị lôi cuốn vào tội ác hơn, rồi cuối cùng chính chúng sẽ lập lại chu trình gia đình đổ vỡ mà chúng từng là nạn nhân. Thật không một xã hội nào có thể tồn tại nếu nó dành cho trẻ em quá ít sự an toàn, sự chăm sóc và tình yêu. Bức tranh ảm đạm này hiện đang lởn vởn đe doạ phần còn lại của thế giới đang phát triển, trong đó có đất nước chúng ta.
Thử hỏi bối cảnh không mấy tốt đẹp của gia đình ở nhiều nơi trên thế giới hiện nay. Lễ Kính Thánh Gia nói gì với các thành viên của gia đình về những giá trị mà Tin Mừng luôn đề cao?
Chúa Giêsu đã sinh ra trong một gia đình, mà lại là một gia đình nghèo ngài cũng có cha mẹ như bao trẻ em khác. Cha mẹ Ngài cũng là những người lao động phải sống bằng mồ hôi nước mắt như hầu hết các gia đình khác. Là Thiên Chúa, Ngài đã đến với loài người như một con trẻ bé bỏng, cần đến sự đùm bọc, che chở của những người thân. Cũng như bao trẻ em khác, Ngài cũng bị những biến cố lớn nhỏ của gia đình và xã hội chi phối, đưa đẩy, ảnh hưởng.
Rồi những năm thơ ấu, những thời kỳ niên thiếu và thanh niên, Chúa Giêsu đã sống bên cạnh Đức Maria, Mẹ Ngài, và Thánh Giuse, cha nuôi Ngài. Ngài cũng đã phải tập đi, tập nói, tập đọc, tập viết. Ngài cũng đã phải học Thánh Kinh, Lề Luật. Ngài cũng đã phải tập lao động với những dụng cụ như cưa, bào, đục… trên những khúc cây, tấm ván. Ba mươi năm tại Nazarét là một chuỗi ngày bình dị như hàng trăm gia đình cùng thôn cùng làng, như hàng triệu cuộc sống của con người qua các thời đại.
Trong phụng vụ Lời Chúa hôm nay, bài sách Huấn Ca nhấn mạnh đến lòng hiếu thảo của người con đối cha mẹ trong gia đình, khiến chúng ta dễ dàng hình dung ra cách sống của Con Thiên Chúa làm người dưới mái ấm gia đình Nazarét. Bài Tin Mừng nhắc đến vai trò đặc biệt của Thánh Giuse trong sứ mạng bảo vệ, che chở, dưỡng nuôi Chúa Cứu Thế, và Thánh Giuse đã chu toàn vai trò đó một cách khiêm tốn nhưng anh dũng, không quản ngại hy sinh gian khó. Ở đây, vai trò của Đức Maria xem ra rất khiêm tốn, đúng với cung cách khiêm nhu của người “Nữ tỳ của Chúa”. Còn bài đọc 2 là lời nhắn nhủ của Thánh Phaolô về mối quan hệ giữa những người được Chúa yêu thương, tuyển chọn sống thành gia đình của Thiên Chúa: đó là lòng từ bi, nhân hậu, là khiêm cung, ôn hòa, là nhẫn nại chịu đựng, chấp nhận nhau và tha thứ cho nhau. Gia đình của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse là một gia đình đã sống trọn vẹn hơn ai hết tinh thần ấy, vì các ngài đều là những “tôi tớ của Thiên Chúa” trong ý nghĩa là mỗi vị và cộng đoàn ba vị, đều lãnh nhận từ Thiên Chúa một sứ mạng đặc biệt. Gia đình Nazarét là gương mẫu, là lời mời gọi đến với mỗi người chúng ta trong các gia đình Công giáo ngày nay.
Thưa anh chị em, gia đình là cái nôi đầu tiên đón tiếp con người và cung cấp cho con người những điều kiện cần thiết của cuộc sống và hạnh phúc. Trong gia đình, một trẻ thơ khám phá dần dần mối tương quan với thế giới chung quanh, nhận lãnh sự giáo dục đầy trìu mến của cha mẹ và những người thân thương. Đối với Kitô hữu, gia đình còn là một cộng đoàn yêu thương phản ánh cộng đoàn của Thiên Chúa, theo gương mẫu Thánh Gia Nazarét. Sứ mạng thật cao cả, nên trách nhiệm thật lớn lao của các bậc làm cha làm mẹ. Chức năng nhiệm vụ vừa cao cả vừa nặng nề ấy gia đình chỉ có thể hoàn thành nếu biết sống theo tinh thần và tâm tình của Thiên Chúa: Đó là yêu thương và tha thứ. Đó là quy luật trọng yếu trong mối quan hệ giữa vợ chồng, giữa con cái và cha mẹ. Vì trong đời sống gia đình, con người có đầy đủ những dữ kiện để biến cuộc sống gia đình thành thiên đàng hoặc hỏa ngục trần gian.
Cuộc sống gia đình tạo cho chúng ta những cơ hội quý báu để thực hiện tinh thần yêu thương quên mình, mưu tìm hạnh phúc cho người khác. Cuộc sống gia đình luôn đòi chúng ta phải dẹp bỏ ý riêng mình, quan điểm riêng của mình, để tôn trọng và giúp đỡ người thân của mình phát triển về mọi mặt. Do tình hình khác nhau, giáo dục và truyền thống khác nhau, tuổi tác khác nhau, sở thích khác nhau, nên chuyện xung đột là đương nhiên không thể tránh được giữa vợ chồng, giữa cha mẹ con cái. Muốn vượt qua những xung đột, những căng thẳng ấy, mỗi người –dù vợ hay chồng, dù là con cái hay cha mẹ– đều phải thấm nhuần tinh thần phục vụ của Chúa Kitô: “Tôi đến để phục vụ, chứ không để được phục vụ”. “Ai muốn làm đầu, thì hãy làm tôi tớ phục vụ mọi người” (Lc 22,26).
Anh chị em thân mến, Con Thiên Chúa làm người đã sống trong một gia đình để nói lên sự cao trọng của cộng đoàn gia đình. Nhưng thực tế chúng ta còn chứng kiến cảnh những gia đình tan vỡ và cảnh những gia đình không hội đủ điều kiện về kinh tế, tài chánh, văn hóa để những người trong đó sống cho ra người, để con cái được giáo dục nên người hữu ích cho xã hội. Là môn đệ Chúa Kitô, chúng ta có trách nhiệm nặng nề trong việc xây dựng gia đình của chúng ta và giúp các gia đình khác có đủ điều kiện vật chất, tinh thần để sống phù hợp với chức năng của con người, xứng với phẩm giá con người là con cái của Thiên Chúa, là anh em trong đại gia đình của Cha trên trời. [Mục Lục]
- 13. Từ gia đình Thánh Gia đến gia đình chúng ta
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Tiếp theo sau lễ Giáng Sinh, Giáo Hội long trọng cử hành lễ kính Thánh Gia. Lễ Thánh Gia được thiết lập vào cuối thể kỷ XIX, dưới thời Đức Giáo Hoàng Lêô XIII nhằm củng cố nền tảng ơn gọi nên thánh trong đời sống gia đình cũng như đề cao sự hiệp nhất, thủy chung trước những trào lưu tục hóa của đời sống hôn nhân.
Khi quyết định thiết lập lễ này, Giáo Hội mời gọi con cái mình noi theo gương sáng của từng thành viên trong gia đình Thánh Gia, để qua đó, tiến bước trên con đường thánh thiện khi chu toàn bổn phận của mình.
Gia đình Thánh Gia
Tin Mừng hôm nay loan báo cho chúng ta biết: ngay từ khi mới sinh, gia đình Thánh Gia đã phải chịu vất vả do vua Hêrôđê gây nên. Ông vua này chỉ vì hoang mang dẫn đến ghen ghét mà tưởng rằng trong tương lai Hài Nhi Giêsu sẽ chiếm mất địa vị cũng như ngai vàng của mình, vì thế, ông đã tìm cách giết Đức Giêsu, khiến cha mẹ Ngài phải vất vả, lận đận dẫn Ngài đi lánh nạn bên Aicập.
Chạy trốn được ít lâu, thánh Giuse lại được tin báo là mang Hài Nhi và Mẹ Ngài trở về Nazareth, lập tức, thánh nhân đã thi hành cách mau mắn.
Như vậy, nhìn vào gia đình Thánh Gia, chúng ta thấy rõ nỗi vất vả dồn lên vai thánh Giuse, còn Mẹ Maria và Đức Giêsu thì luôn luôn làm theo sự hướng dẫn của vị Gia Trưởng tài đức, khôn ngoan này.
Nơi thánh Giuse, ngài luôn tín thác tuyệt đối và mau mắn thi hành thánh ý Thiên Chúa ngang qua sứ thần. Vì thế, ngài xứng đáng được gọi là Đấng Công Chính vì đã yêu mến đến độ rất nhạy bén trước thánh ý Thiên Chúa.
Nơi Mẹ Maria, Mẹ đã âm thầm hy sinh, luôn tin tưởng vào vai trò lãnh đạo của thánh Giuse. Mẹ là người vợ khiêm nhường, thủy chung, đồng thời cũng là người yêu mến đời sống thinh lặng. Với Mẹ, khi đã đón nhận hai tiếng “Xin Vâng”, thì cũng kể từ ngày đó, mọi biến cố vui buồn trong cuộc đời mà Mẹ đã từng sống hay chứng kiến, thì Mẹ luôn lưu giữ và suy niệm trong lòng, để qua đó, nhờ ơn Chúa, Mẹ biết thánh hóa và tìm ra thánh ý Chúa trong cuộc đời qua sự âm thầm, thinh lặng.
Nơi Đức Giêsu, Kinh Thánh diễn tả lối sống của Ngài suốt 30 năm sống ẩn dật tại làng Nazareth như sau: “Ngài hằng tùng phục hai ông bà […] Và cứ tấn tới thêm về khôn ngoan, vóc dáng và ân sủng trước mặt Thiên Chúa và trước mặt người ta”(Lc 2,51-52).
Kinh Thánh không nói nhiều về thời thơ ấu của Đức Giêsu, tuy nhiên, chỉ ngần ấy thôi cũng đủ để cho chúng ta hiểu được tinh thần của Ngài là thế nào! Thật vậy, dù là Con Thiên Chúa, nhưng Ngài vẫn học cho biết thế nào là sự vâng phục, đau khổ… Thế nên, Ngài luôn sống tình con thảo, sẵn sàng vâng phục Đức Mẹ và thánh Giuse trong gia đình Nazareth.
Như vậy, ngang qua gia đình Thánh Gia, chúng ta thấy có một sự thống nhất tuyệt đối từ trên xuống dưới: Thiên Chúa hướng dẫn thánh Giuse, thánh nhân lại truyền đạt và thi hành cùng với Mẹ Maria và Đức Giêsu.
Tại sao có được điều tốt lành đó? Thưa! Vì các ngài đã “Thuận Thiên”, nên được Thiên Chúa phù trợ, đỡ nâng để vượt qua mọi thử thách chông gai.
Gia đình chúng ta
Mừng lễ Thánh Gia, Giáo Hội mời gọi mọi thành viên trong các gia đình, biết noi theo gương sáng của Gia Đình Thánh Gia, vì các Ngài là khuôn mẫu tuyệt vời cho cho các bậc cha mẹ cũng như con cái noi gương.
Với các bậc làm cha mẹ, lời mời gọi sống tinh thần hỗ tương, hài hòa, sẻ chia, để cho gia đình được trong ấm ngoài êm. Vì thế:
Nếu người chồng là khiên che thuẫn đỡ gia đình, thì người vợ là mối dây thân ái để liên kết mọi thành viên gia đình lại thành một mối;
Nếu người chồng chịu trách nhiệm chính về kinh tế trong vai trò đứng mũi chịu sào, cứng rắn, nghiêm nghị, khuôn phép, rõ ràng… thì sự khéo léo, khôn ngoan, cởi mở, nhã nhặn, tế nhị và mền mỏng của người vợ sẽ góp phần làm cho cuộc sống gia đình quân bình, dung hòa và nề nếp hơn;
Nếu người chồng là thuyền trưởng chỉ huy, định hướng con thuyền gia đình, thì người vợ chính là bánh lái để mọi bánh răng được ăn nhập với nhau cách nhịp nhàng nhằm dẫn đưa con thuyền gia đình đi đúng hướng và đến đúng bến bình an.
Ngoài sự hỗ tương trên, cha mẹ còn phải có bổn phận giáo dục con cái cho nên người, bởi vì con cái chính là gia tài của cha mẹ. Tuy nhiên, việc giáo dục không chỉ bằng lời, mà còn bằng gương sáng, lòng đạo đức…, nếu không, các bậc cha mẹ dễ rơi vào tình trạng nói một đàng, làm một nẻo, vì thế, không lạ gì câu than phiền của những người con khi rơi vào hoàn cảnh bi đát: “Người trên ở chẳng chính ngôi, làm cho kẻ dưới chúng tôi hỗn hào!” (Ca dao).
Với con cái, Giáo Hội mời gọi thể hiện tình con thảo, yêu mến, kính trọng và tuân phục cha mẹ, vì cha mẹ là đại diện Thiên Chúa ở trần gian. Mặt khác, cha mẹ chính là người sinh thành ra mình, không ai tự lỗ nẻ chiu lên. Hơn nữa, hiếu thảo với cha mẹ vì các ngài đã để lại một gia tài công đức vô cùng quý báu: nào là công đức sinh thành dưỡng dục, hy sinh, dầm mưa dãi nắng để lo miếng cơm ngon, bát canh ngọt, manh áo ấm và tiền bạc cho con ăn học…. Quả đúng là: “Công cha như núi Thái sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra” (Ca dao).
Hiếu thảo và vâng phục cha mẹ còn là điều răn của Chúa dạy: “Thứ bốn thảo kính cha mẹ”. Vì thế, con cái phải: “Một lòng thờ mẹ kính cha, cho trọn chữ hiếu mới là Đạo Con” (Ca dao). Khi hiếu thảo với các bậc sinh thành, xét theo lẽ tự nhiên, cuộc đời của chính người con được ý nghĩa và giá trị hơn. Còn về khía cạnh siêu nhiên, hiếu thảo với cha mẹ, sẽ đền bù những lỗi lầm và được hạnh phúc (x. Đnl 5,16).
Sống tâm tình ngày lễ
Nhân ngày lễ Thánh Gia hôm nay, Giáo Hội mời gọi mỗi người hãy biết đón nhận thánh ý Chúa và mau mắn thi hành như thánh Giuse. Biết đón nhận mọi vui buồn, sướng khổ trong cuộc sống hằng ngày với tâm tình yêu mến như Mẹ Maria, vì: sự công bằng của Thiên Chúa đòi hỏi phải có tỷ lệ thuận giữa đau khổ và hạnh phúc, giữa nhục nhã và vinh quang, giữa tự hạ và được nâng lên.
Cuối cùng, hãy tập sống giây phút hiện tại cho thật tốt và phó thác nơi Thiên Chúa cách tuyệt đối, bởi vì: “Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ ban tặng” (x. Rm 8,18). Hơn nữa, cần hiểu rằng: mọi chuyện xảy đến với chúng ta đều phát xuất từ tình thương của Thiên Chúa và những sự sắp đặt đó của Người đều dẫn ta đến nguồn ơn cứu độ.
Lạy Thánh Gia Nazareth, xin các Ngài bầu cử và ban ơn cho các đôi vợ chồng, để họ biết sống trung thành với nhau. Cho cha mẹ biết ý thức trách nhiệm giáo dục con cái và cho con cái biết vâng phục, yêu mến cha mẹ.
Xin cho các gia đình thực sự trở nên ngôi trường đầu tiên để đào tạo những nhân đức, đời sống cầu nguyện và các đức tính nhân bản cho con cái. Amen. [Mục Lục]
- 14. Gia đình thánh – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một em bé hỏi mẹ: Mẹ ơi, gia đình thánh gia là gì hả mẹ?
– Là gia đình mà mỗi thành viên đều biết làm theo thánh ý Thiên Chúa.
– Vậy gia đình mình có được gọi là gia đình thánh không hả mẹ?
– Có, nếu ba, má và con đều sống và thực hành lời Chúa thì gia đình chúng ta cũng trở thành thánh.
Nên thánh, làm thánh là mơ ước của mọi người. Ai cũng muốn làm thánh. Ai cũng muốn được vào Nước Trời. Nhưng con đường nên thánh đòi hỏi chúng ta phải biết từ bó ý riêng để ý Chúa được thực hiện trong cuộc đời chúng ta. Con đường nên thánh đòi hỏi chúng ta phải vào cửa hẹp và tránh tìm sự dễ dãi bản thân. Vì đường thênh thang thì nuông chiều bản thân và tính xác thịt. Đường thênh thang chỉ dẫn tới diệt vong. Còn đường hy sinh, đường từ bỏ mới giúp cho chúng ta chiến thắng sự yếu duối bản thân để nên thánh từng ngày trong cuộc sống.
Nhìn vào gia đình Thánh Gia cho chúng ta thấy các ngài luôn đi vào con đường hẹp. Các ngài luôn sống công chính trước mặt Chúa. Sự công chính hệ tại ở việc để ý Chúa được nên trọn trong cuộc đời các ngài. Chúa Giê-su hằng luôn tìm kiếm ý Chúa Cha và thực thi. Thánh Giu-se đã đón nhận ý Chúa khi nhận Maria về nhà làm vợ. Mẹ Maria đã bỏ ý riêng để sống cho ý Chúa qua lời thưa xin vâng. Nếu Chúa Giê-su không đón nhận ý Chúa Cha thì chén đắng cứu độ sẽ không thể thực hiện. Nếu Mẹ Maria không từ bỏ ý riêng để sống cho ý Chúa thì mùa xuân của ơn cứu độ vẫn chưa thực hiện. Nếu thánh Giu-se không bằng lòng đón nhận Mẹ Maria vì ý Chúa thì sự nguy hiểm thật ghê sợ có thể xảy đến với Mẹ. Thế nhưng, ý Chúa các ngài đã thực thi. Chương trình của Chúa Cha đã hoàn tất nhờ sự vâng phục của các ngài. Cũng nhờ sự chung lòng chung ý mà gia đình thánh gia luôn gìn giữ được sự bình an và hạnh phúc trong cuộc sống hằng ngày.
Thực vậy, gia đình mà mỗi người một ý sẽ tan nát, sẽ chẳng ai nói ai nghe. Gia đình mà ai cũng đề cao ý riêng của mình sẽ là một hỏa ngục vì lúc nào cũng xảy ra tranh cãi tương tàn. Nhưng nếu mỗi người biết bỏ ý riêng để ý Chúa được thực hiện sẽ mang lại cho gia đình những giây phút bình an hạnh phúc. Chính khi biết từ bỏ ý riêng con người mới khiêm tốn đón nhận nhau, yêu thương nhau hầu tránh được những bất hòa đổ vỡ. Nhất là biết đón nhận nhau vì Chúa thì chắc chắn sẽ xây dựng được một gia đình thánh. Một thiên đường hạnh phúc ngay ở cuộc đời này.
Thực thi ý Chúa không phải là lời mời gọi mà là luật buộc chúng ta, vì không phải những ai kêu lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời đâu mà là những ai thực thi lời Chúa mới được vào Nước Trời.
Có một câu chuyện kể rằng: Một nông dân nghèo được vào thiên đàng, ông nhìn thấy người ta mang những vật rất kỳ lạ vào trong nhà bếp. Ông thắc mắc và lên tiếng hỏi: Cái gì thế? Có phải để nấu súp không?
Không phải. Đó là những cái tai của con người. Khi sống ở trần gian, tai giúp họ nghe những điều tốt lành, nhưng họ không làm điều tốt lành đó. Khi chết, chỉ có tai của họ được vào thiên đàng thôi, những phần khác của cơ thể thì không được vào.
Một lát sau, người nông dân lại nhìn thấy người ta mang vào nhà bếp những vật kỳ lạ khác. Ông cũng lên tiếng hỏi: Cái gì thế? Có phải để nấu súp không?
Không phải. Đó là những cái lưỡi của con người. Khi sống trên đời, lưỡi khuyên bảo người khác làm điều tốt và sống tốt, nhưng chính họ lại không sống; không làm những điều tốt lành đó. Khi chết, chỉ có lưỡi của họ được vào thiên đàng thôi, những phần khác của cơ thể thì không được vào.
Gia đình nào cũng muốn được hạnh phúc. Gia đình nào cũng muốn thuận vợ thuận chồng để gia đình thăng tiến. Điều tiên quyết là mỗi người hãy để cho ý Chúa dẫn dắt. Hãy trở thành một khí cụ để thực hiện chương trình của Chúa. Hãy là những người không dừng lại ở lời nói lạy Chúa, lạy Chúa mà là những người luôn lắng nghe và thực thi Lời Chúa.
Ước gì mỗi gia đình trong giáo xứ chúng ta đều là những gia đình thánh. Ước gì từng người luôn là thánh khi biết chết đi cái tôi của mình để sống cho gia đình và nhất là cho ý Chúa được thể hiện. Amen. [Mục Lục]
- 15. Sống vì nhau
Ngày 21.8.2007, không những người dân nước Pháp, mà cả thế giới xúc động trước sự ra đi của một người phụ nữ ở tuổi 33, có tên là Caroline Aigle. Caroline được miêu tả rất xinh đẹp: một phũ nữ tóc vàng, mắt xanh, tràn đầy sức sống. Đặc biệt, cô là người đầu tiên lái lái máy bay tiêm kích của không quân Pháp, và đạt rất nhiều những thành tích khác nữa. Điều đã làm cho Caroline đi vào huyền thoại không chỉ là tài năng, sắc đẹp của cô, mà là việc cô sẵn sàng hy sinh sự sống để cho đứa con trong bụng của cô mới được 5,5 tháng tuổi có cơ hội sống sót.
Carôline rất hạnh phúc khi biết mình được mang thai đứa con thứ 2. Nhưng rồi ít lâu sau, các bác sĩ phải nói sự thật cho cô biết là cô đã bị ung thư với một khối u ác tính. Các Bác sĩ cho biết, có thể chữa được căn bệnh nguy hiểm đó, nhưng phải điều trị theo liệu pháp “sốc”, và chắc chắn đứa con trong bụng không thể chịu nổi, phải hy sinh cháu bé. Các bác sĩ hỏi cô có bằng lòng không? Carôline đã có một quyết định rất anh hùng: không. Cuối cùng thì chuyện gì đến đã đến. Khi không còn chịu đựng nổi với cơn đau được nữa, các bác sĩ đã phải mổ lấy thai nhi ra lúc cháu bé chỉ được 5,5 tháng tuổi. Carôline đã sống được với con là Gabriel được 18 ngày; và cô đã từ giã cõi đời này trước sự thương tiếc và sự kính phục cả biết bao con người trên thế giới.
Gabriel đã bước vào cuộc đời này với những tiếng khóc thật non nớt của một chú bé chưa đủ tháng ngày để chào đời như bao nhiêu những đứa trẻ khác, rồi phải sống trong sự cô đơn vì thiếu vắng bàn tay của người mẹ dù có rất nhiều những bàn tay nhân ái khác đang giang rộng để giúp đỡ cho em. Nhưng chắc chắn, đối với Gabriel, sự mất mát tinh thần là khó có gì có thể bù đắp nổi.
Hôm nay, toàn thể Giáo hội Công giáo mừng lễ Thánh gia Chúa Giêsu, Đức Maria và Thánh Giuse, một cơ hội rất tốt để chúng ta suy niệm về tình thương và sự hy sinh cho nhau trong đời sống hôn nhân gia đình. Chúa Giêsu ra đời làm người và Ngài đã chấp nhận tất cả những gì trong kiếp sống của một con người. Ngài chịu sinh ra trong hoàn cảnh cùng khốn nhất trong số những con người cùng khốn để có thể yêu thương hết mọi người, đặc biệt là những người nghèo khổ khốn khó .
Có điểm nào giống nhau giữa trẻ Giêsu và trẻ Gabriel không? Điểm giống nhau rõ nét nhất là 2 trẻ này đều có một người mẹ tuyệt vời, sẵn sàng hy sinh tất cả những gì có thể để cho con mình có cơ hội được sống. Nếu như trẻ Gabriel thiếu vắng tình mẫu tử để chăm sóc em trong những ngày đầu đời non nớt, thì trẻ Giêsu thiếu sự đón tiếp của con người, thiếu sự an toàn cho sự sống của Ngài.
Nhưng xét ra thì trẻ Gabriel còn hạnh phúc hơn trẻ Giêsu nhiều lần. Nếu trẻ Gabriel được mọi người giang rộng bàn tay tiếp đón, thì trẻ Giêsu đang bị vua Hêrôđê tìm giết vì nghĩ rằng Ngài đang đe doạ vương quyền của ông. Nếu trẻ Gabriel được mọi người hướng về và săn sóc em với những phương tiện tốt nhất nếu có thể trong một quốc gia, thì trẻ Giêsu chỉ có chiên bò sưởi ấm, chỉ có những mục tử giữ chiên nghèo khổ đến chúc mừng . . . Vua trời đất sinh ra trong cảnh khốn cùng nhất của kiếp người. Quả là “Thiên Chúa từ trời bước xuống dương gian để con người dương gian được bước lên trời”. Và Ngài trở thành con đường, thành ánh sáng soi dẫn mọi người về thiên quốc.
Nền tảng của đời sống Thánh gia:
Gia đình thánh gia nếu nhìn theo phương diện con người thì quả là mong manh, thiếu thốn, nghèo khổ . . . mọi bề. Nhưng Thánh gia lại trở thành mẫu gương cho tất cả mọi gia đình dõi theo. Nền tảng chính yếu của Thánh gia là tình yêu và sự vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Thánh gia đã dựa trên 2 nền tảng căn bản ấy để làm nên mọi sự, và thực tế đã trở thành một mô hình tuyệt hảo cho mọi gia đình bước theo. Ước gì mọi gia đình công giáo hãy noi gương thánh gia của Chúa Giêsu, Đức Maria và thánh Giuse để xây dựng gia đình mình để có thể có một gia đình mẫu mực, hạnh phúc và thánh thiện.
Gương mẫu của đời sống Thánh gia:
Gương mẫu của đời sống thánh gia chính là sự hy sinh cho nhau và thực thi thánh ý Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh.
Thánh Giuse đã chu toàn trách nhiệm của một người trưởng trong gia đình, sẵn sàng gánh lấy mọi công việc nặng nề nhất cách vui lòng và mau mắn. Ngài quả thực là mẫu mực của những người chồng trong gia đình, và là mẫu mực của những con người thích làm hơn nói. Khi nói đến thánh Giuse, ta nhớ ngay đến câu nói của thánh Phalô: “Anh em hãy làm mọi việc mà đừng kêu ca hay phản kháng. Như thế, anh em sẽ trở nên trong sạch, không ai chê trách được điều gì, và sẽ trở nên những người con vẹn toàn của Thiên Chúa, giữa một thế hệ gian tà, sa đoạ. Giữa thế hệ đó, anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời” (Pl 2, 14-15) Thánh Giuse quả thực đã trở thành kiểu mẫu cho những con người vẹn toàn của Thiên Chúa trong phương diện này.
Đức Maria là người mẹ gương mẫu, hết lòng yêu thương và chăm sóc cho gia đình hết sức có thể. Nết đặc biệt nhất của Đức Maria chính là sự khiêm tốn nơi con người của Mẹ. Trước những biến cố xảy ra mà ngài chưa hiểu thấu, thì ngài ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng, chứ không bực bội hay kêu trách với ai, nhất là không hề kêu trách đối với Thiên Chúa. Mẹ đã theo bước Đức Giêsu cho đến cùng trong suốt cuộc hành trình dương thế của Đức Giêsu, cho đến khi Ngài trút hơi thở cuối cùng trên Thánh giá và mẹ đã giang tay ẩm lấy xác con trong đau đớn tột cùng.
Đặc biệt hơn cả là tấm gương của Đức Giêsu, Ngài dù là Con Thiên Chúa, nhưng đã trở nên con của loài người và hoàn toàn vâng phục Đức Maria và Thánh Giuse trong tư cách là người con trong gia đình để nêu gương cho mọi người trong tư cách làm con. Ngài đã chu toàn trách nhiệm không những là người con đối với Đức Maria và thánh Giuse mà còn là trong tư cách người Con của Cha trên trời. Ngài đã tự nguyện chấp nhận sự tự huỷ để hoàn thành chương trình cứu độ của Thiên Chúa Cha cho con người.
Mừng lễ Thánh gia hôm nay, mỗi người chúng ta hãy tự kiểm điểm lại đời sống của mình trong cương vị mà mình đang có: làm cha, làm mẹ và làm con cái trong gia đình của mình. Hãy chu toàn trách nhiệm trong sự hiền hoà, khiêm tốn và hy sinh cho nhau. Mỗi người hãy vì mọi người để gia đình thật sự trở thành tổ ấm cho mọi người và cho cả Chúa Giêsu vào ngụ ở đó. Chu toàn trách nhiệm là nên thánh! [Mục Lục]
- 16. Gia đình cộng đoàn yêu thương
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Vào năm 1990, cậu bé siêu sao màn ảnh Macaulay Culkin nổi bật với bộ phim “Ở nhà một mình” (Home Alone). Bộ phim này với doanh thu hơn 500 triệu đô la. Bố mẹ cậu Macaulay Culkin từng đi làm kiếm sống. Ông Culkin là ông từ tại một nhà thờ ở NewYork; bà Patrica Bentrup là một nhân viên trực điện thoại. Với số tiền lớn do cậu con mang về, hai ông bà liền bỏ việc, ở nhà làm chủ những món tiền mà tài năng của cậu nhỏ còn hứa hẹn nhiều.
Nhưng kể từ khi hai ông bà ở nhà, mái ấm gia đình trở thành bất ổn. Bố mẹ Macaulay Culkin thường xuyên gây gổ với nhau tới mức bà Patrica tố cáo chồng “rượu chè be bét, xúc phạm tình dục quá đáng và bội tín”.
Bắt đầu đóng phim từ tuổi lên tám, năm nay Macaulay Culkin đã 15 tuổi. Buồn nản và cô độc trong gia đình, cậu thường tìm giải khuây trong những bữa tiệc vô độ và ở những hộp đêm. Hậu quả là sự nghiệp của ngôi sao đang lên này đã khựng lại. Ba bộ phim gần đây do cậu thủ vai chính hoàn toàn không đạt được thành công như những bộ phim ban đầu.
Anh chị em thân mến,
Gia đình là một tổ ấm khi vợ chồng biết quảng đại hy sinh cho nhau và cho con cái, mặc dù đời sống kinh tế có khi còn chật vật khó khăn. Nhưng một khi gia đình để cho tiền của chi phối, tổ ấm sẽ bị xáo trộn đưa đến ích kỷ, đổ vỡ và chia ly, điển hình là tổ ấm của gia đình của cậu Macaulay Culkin. Cho hay rằng, tiền của không làm nên hạnh phúc gia đình. Chính tình yêu quảng đại mới tạo nên hạnh phúc cho gia đình.
Trong một thời gian dài, ở Âu Mỹ, người ta đã lãng quên những giá trị gia đình. Người ta nói nhiều đến tự do cá nhân, đề cao việc nhập thể và cuộc giải phóng con người. Dựa vào tự do cá nhân, những luật lệ và quy định tự do của mình, Âu Mỹ đang tách ly tình dục khỏi tình yêu, tình yêu khỏi hôn nhân, hôn nhân khỏi việc sinh con, và việc sinh con khỏi trách nhiệm đối với Chúa. Hậu quả là ở Mỹ hiện nay con số những đứa con sinh ngoài hôn nhân lên tới 30%. Ở Anh cũng có đến 30% trẻ con sinh ngoài gia đình, hơn nữa, 20% trẻ em chỉ sống với cha hoặc mẹ và 40% cuộc hôn nhân kết thúc bằng ly dị. Và tình trạng trẻ em trong các gia đình đổ vỡ này thường có xu hướng chán đời, dễ bệnh hoạn, học kém, dễ bị lôi cuốn vào tội ác hơn, rồi cuối cùng chính chúng sẽ lập lại chu trình gia đình đổ vỡ mà chúng từng là nạn nhân. Thật không một xã hội nào có thể tồn tại nếu nó dành cho trẻ em quá ít sự an toàn, sự chăm sóc và tình yêu. Bức tranh ảm đạm này hiện đang lởn vởn đe doạ phần còn lại của thế giới đang phát triển, trong đó có đất nước chúng ta.
Thử hỏi bối cảnh không mấy tốt đẹp của gia đình ở nhiều nơi trên thế giới hiện nay. Lễ Kính Thánh Gia nói gì với các thành viên của gia đình về những giá trị mà Tin Mừng luôn đề cao?
Chúa Giêsu đã sinh ra trong một gia đình, mà lại là một gia đình nghèo ngài cũng có cha mẹ như bao trẻ em khác. Cha mẹ Ngài cũng là những người lao động phải sống bằng mồ hôi nước mắt như hầu hết các gia đình khác. Là Thiên Chúa, Ngài đã đến với loài người như một con trẻ bé bỏng, cần đến sự đùm bọc, che chở của những người thân. Cũng như bao trẻ em khác, Ngài cũng bị những biến cố lớn nhỏ của gia đình và xã hội chi phối, đưa đẩy, ảnh hưởng.
Rồi những năm thơ ấu, những thời kỳ niên thiếu và thanh niên, Chúa Giêsu đã sống bên cạnh Đức Maria, Mẹ Ngài, và Thánh Giuse, cha nuôi Ngài. Ngài cũng đã phải tập đi, tập nói, tập đọc, tập viết. Ngài cũng đã phải học Thánh Kinh, Lề Luật. Ngài cũng đã phải tập lao động với những dụng cụ như cưa, bào, đục… trên những khúc cây, tấm ván. Ba mươi năm tại Nazarét là một chuỗi ngày bình dị như hàng trăm gia đình cùng thôn cùng làng, như hàng triệu cuộc sống của con người qua các thời đại.
Trong phụng vụ Lời Chúa hôm nay, bài sách Huấn Ca nhấn mạnh đến lòng hiếu thảo của người con đối cha mẹ trong gia đình, khiến chúng ta dễ dàng hình dung ra cách sống của Con Thiên Chúa làm người dưới mái ấm gia đình Nazarét. Bài Tin Mừng nhắc đến vai trò đặc biệt của Thánh Giuse trong sứ mạng bảo vệ, che chở, dưỡng nuôi Chúa Cứu Thế, và Thánh Giuse đã chu toàn vai trò đó một cách khiêm tốn nhưng anh dũng, không quản ngại hy sinh gian khó. Ở đây, vai trò của Đức Maria xem ra rất khiêm tốn, đúng với cung cách khiêm nhu của người “Nữ tỳ của Chúa”. Còn bài đọc 2 là lời nhắn nhủ của Thánh Phaolô về mối quan hệ giữa những người được Chúa yêu thương, tuyển chọn sống thành gia đình của Thiên Chúa: đó là lòng từ bi, nhân hậu, là khiêm cung, ôn hòa, là nhẫn nại chịu đựng, chấp nhận nhau và tha thứ cho nhau. Gia đình của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse là một gia đình đã sống trọn vẹn hơn ai hết tinh thần ấy, vì các ngài đều là những “tôi tớ của Thiên Chúa” trong ý nghĩa là mỗi vị và cộng đoàn ba vị, đều lãnh nhận từ Thiên Chúa một sứ mạng đặc biệt. Gia đình Nazarét là gương mẫu, là lời mời gọi đến với mỗi người chúng ta trong các gia đình Công giáo ngày nay.
Thưa anh chị em, gia đình là cái nôi đầu tiên đón tiếp con người và cung cấp cho con người những điều kiện cần thiết của cuộc sống và hạnh phúc. Trong gia đình, một trẻ thơ khám phá dần dần mối tương quan với thế giới chung quanh, nhận lãnh sự giáo dục đầy trìu mến của cha mẹ và những người thân thương. Đối với Kitô hữu, gia đình còn là một cộng đoàn yêu thương phản ánh cộng đoàn của Thiên Chúa, theo gương mẫu Thánh Gia Nazarét. Sứ mạng thật cao cả, nên trách nhiệm thật lớn lao của các bậc làm cha làm mẹ. Chức năng nhiệm vụ vừa cao cả vừa nặng nề ấy gia đình chỉ có thể hoàn thành nếu biết sống theo tinh thần và tâm tình của Thiên Chúa: Đó là yêu thương và tha thứ. Đó là quy luật trọng yếu trong mối quan hệ giữa vợ chồng, giữa con cái và cha mẹ. Vì trong đời sống gia đình, con người có đầy đủ những dữ kiện để biến cuộc sống gia đình thành thiên đàng hoặc hỏa ngục trần gian.
Cuộc sống gia đình tạo cho chúng ta những cơ hội quý báu để thực hiện tinh thần yêu thương quên mình, mưu tìm hạnh phúc cho người khác. Cuộc sống gia đình luôn đòi chúng ta phải dẹp bỏ ý riêng mình, quan điểm riêng của mình, để tôn trọng và giúp đỡ người thân của mình phát triển về mọi mặt. Do tình hình khác nhau, giáo dục và truyền thống khác nhau, tuổi tác khác nhau, sở thích khác nhau, nên chuyện xung đột là đương nhiên không thể tránh được giữa vợ chồng, giữa cha mẹ con cái. Muốn vượt qua những xung đột, những căng thẳng ấy, mỗi người –dù vợ hay chồng, dù là con cái hay cha mẹ– đều phải thấm nhuần tinh thần phục vụ của Chúa Kitô: “Tôi đến để phục vụ, chứ không để được phục vụ”. “Ai muốn làm đầu, thì hãy làm tôi tớ phục vụ mọi người” (Lc 22,26).
Anh chị em thân mến, Con Thiên Chúa làm người đã sống trong một gia đình để nói lên sự cao trọng của cộng đoàn gia đình. Nhưng thực tế chúng ta còn chứng kiến cảnh những gia đình tan vỡ và cảnh những gia đình không hội đủ điều kiện về kinh tế, tài chánh, văn hóa để những người trong đó sống cho ra người, để con cái được giáo dục nên người hữu ích cho xã hội. Là môn đệ Chúa Kitô, chúng ta có trách nhiệm nặng nề trong việc xây dựng gia đình của chúng ta và giúp các gia đình khác có đủ điều kiện vật chất, tinh thần để sống phù hợp với chức năng của con người, xứng với phẩm giá con người là con cái của Thiên Chúa, là anh em trong đại gia đình của Cha trên trời. [Mục Lục]
- 17. Chúa Nhật Lễ Thánh Gia
Mừng Lễ Thánh Gia Thất hôm nay, Hội Thánh mời gọi chúng ta hãy hướng nhìn lên gia đình Thánh Gia Nagiareth, nơi đó có Cha Giuse, có Mẹ Maria và Hài Nhi Giêsu mà chúng ta quen gọi là gia đình Thánh Gia Thất. Đây là một gia đình gương mẫu cho tất cả các gia đình noi theo. Đây là một gia đình hạnh phúc. Hạnh phúc vì gia đình đó sống yêu thương và quan tâm thi hành ý Chúa.
Thánh Giuse là một gia trưởng rất giàu tình thương, một gia trưởng biết hành động một cách cân nhắc trước những tình huống khó khăn, Ngài để tâm chu toàn thánh ý Thiên Chúa nên rất mau mắn đem Hài Nhi Giêsu và Mẹ Maria trốn qua Ai cập. Là một gia trưởng gương mẫu, Ngài dám bỏ những gì là riêng tư như tài sản, họ hàng, quê hương để sẵn sàng vâng theo ý Chúa. Thánh Giuse đúng là một mẫu gương tuyệt vời cho các gia trưởng noi theo.
Bên cạnh đó, ta cũng thấy Mẹ Maria, Ngài là một người vợ và là một người mẹ hết sức thánh thiện, bởi vì trước những biến cố rất lạ thường, trước những biến cố rất quan trọng có liên quan đến cả một cuộc đời, mà Mẹ Maria không nghi ngờ, không ngại khó để sẵn sàng vâng phục theo thánh ý Chúa . Có thể nói Mẹ chính là niềm vui cho trẻ Hài Nhi Giêsu, là sự hãnh diện cho Thánh Giuse, là niềm hạnh phúc cho các mục đồng, và là nguồn an ủi cho ba nhà đạo sĩ. Mẹ chính là một cái máy điều hòa không khí để cho hang đá Belem đang giá lạnh được trở nên ấm cúng một cách lạ thường. Mẹ Maria xứng đáng là một mẫu gương tuyệt vời cho các người vợ, người mẹ trong gia đình noi theo. Mẹ là hồng ân mà Thiên Chúa ban tặng cho chúng ta.
Người thứ ba trong gia đình Thánh Gia mà ta không thể không nhắc đến đó chính là Chúa Giêsu, Ngài là một con người nhỏ nhất, nhỏ nhưng lại quan trọng nhất. Quan trọng nhất, bởi vì Ngài là Vua cả trời đất, Ngài là Thiên Chúa tình yêu, Ngài là chỗ dựa duy nhất cho con người mà trong gia đình Thánh Gia, Ngài là trung tâm. Dù là Thiên Chúa, là con trong gia đình Thánh Gia Thất, Ngài luôn thực thi thánh ý Thiên Chúa, luôn vâng lời Thánh Giuse và Mẹ Maria, Ngài làm tròn bổn phận của đứa con ngoan trong gia đình. Ngài làm tròn bổn phận làm người trong cuộc đời trần thế. Do đó, Chúa Giêsu đúng là một mẫu người lý tưởng để mỗi người chúng ta nhìn vào đó mà suy gẫm và bắt chước.
Nếu chúng ta đem gia đình Thánh Gia vào gia đình của mình, chúng ta dễ dàng nhận thấy điểm chung là gia đình chúng ta có tình yêu thương của Thiên Chúa. Hay nói cách khác, nếu gia đình chúng ta có tình thương, và tổ ấm gia đình chỉ được xây dựng được khi nào có tình thương thì mọi người trong gia đình sẽ có quảng đại để lo cho nhau, và để đem lại niềm vui cho nhau. Hơn nữa, có Thiên Chúa ngự trong gia đình, chúng ta sẽ được bình an và hạnh phúc.
Lạy Thánh Gia Nagiareth, xin ngự trị trong gia đình chúng con và ban ơn cho chúng con biết yêu thương nhau, xây dựng tổ ấm gia đình trên tình yêu của Thiên Chúa, mỗi người trong đó biết quan tâm thực thi ý Chúa, thực thi giới răn yêu thương, quan tâm đến nhu cầu và lợi ích của người khác. Amen. [Mục Lục]
- 18. Mẫu gương thánh thiện – Lm Minh Vận, CRM
Trước đây phỏng gần ba năm, tôi hân hạnh được gặp và tâm sự với một vị lão thành chừng trên 70 tuổi từ bên Đức qua Mỹ thăm bà con thân quyến tại tiểu bang Texas. Trong tâm tình cởi mở và khiêm tốn, ông kể cho tôi nghe về các ơn phúc Chúa và Đức Mẹ đã thương ban cho gia đình ông. Ông nói: Bà xã con bị bán thân bất toại đã trên 30 năm nay, khi miền Nam Việt rơi vào tay cộng sản, gia đình quyết tâm ra đi theo làn sóng di cư để trốn thoát cộng sản như nhiều người hồi cuối tháng 4, 1975. Con phải vất vả lắm mới vác nhà con lên vai để cùng với các con vượt biên ra hải ngoại, hiện nay gia đình chúng con đang định cư tại Đức. Công việc chính của con trên 30 năm nay, khi còn ở Nam Việt cũng như hiện nay trên đất Đức là săn sóc nhà con từ việc ăn uống, giặt giũ, vệ sinh… Tóm lại, tất cả mọi sự lo cho nhà con như một người tôi tớ. Hồi mới sang, nhà con cảm thấy đau lòng vì hoàn cảnh này kéo dài mãi, nên bà đã tha thiết cầu xin Chúa cho bà được chết sớm để khỏi làm khổ, vất vả cho chồng cho con… Khi con biết được ý bà, con cùng với các cháu cố gắng tìm mọi cách cho bà được vui sống và luôn biết vâng theo thánh ý Chúa, khỏi phải lo lắng buồn phiền gì; vì con nghĩ rằng, Chúa đã định liệu tất cả và ban cho chúng con như thế, sao lại không hoàn toàn vâng phục thánh ý Người, Chúa đã liên kết vợ chồng nên một, cần phải giúp cho nhau được hạnh phúc. Khi vợ mình còn khỏe hầu hạ mình, sao khi bà đau yếu, mình không hầu hạ bà, để làm cho bà được vui sống hạnh phúc. Thú thực, Chúa và Đức Mẹ ban cho gia đình chúng con luôn được êm ấm thuận hòa, các cháu ngoan ngoãn, học hành thành công và đã làm nên sự nghiệp cả. Chúng con lại được một con dâu rất tốt, ngoan ngoãn hiếu thảo đến nỗi chúng con coi cháu như là con gái của mình, có cháu tận tụy hầu hạ mẹ thế con, mà nay con mới có hai tháng nghỉ hè, sang Hoa Kỳ thăm bà con thân quyến đã nhiều năm xa cách.
THÁNH GIA, MẪU GƯƠNG THÁNH THIỆN
Hôm nay cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta long trọng mừng Lễ Thánh Gia Thất, Chúa Giêsu, Đức Mẹ và Thánh Giuse. Đây là một Gia Đình Thánh, một mẫu gương thánh thiện nhất cho các gia đình con cái Chúa noi theo bắt chước.
Sứ Điệp Tin Mừng chúng ta vừa nghe cho chúng ta thấy: Thánh Giuse, một Vị Gia Trưởng đã hy hiến tất cả cuộc đời để lo tìm hạnh phúc cho Chúa Giêsu và Mẹ Thánh Người. Giữa đêm khuya, khi vừa được lệnh Sứ Thần Chúa truyền, ngài không hề nghi ngờ, đắn đo, ngại ngùng, tức tốc chỗi dậy đem Hài Nhi Giêsu và Mẹ Ngài lên đường trốn sang Ai Cập. Cuộc sống tại Ai Cập đang trôi qua, thì lại được lệnh Sứ Thần truyền đem Hài Nhi và Mẹ Ngài trở về Israel, Thánh Giuse cũng vội vã lên đường ra đi để bảo vệ Hài Nhi và Mẹ Ngài; nhưng trên đường trốn chạy, lại nghe nói Arkhela là kẻ tàn bạo độc ác hơn nữa, lên ngôi làm vua xứ Giuđa thế vị phụ vương Hêrôđê, đang lúc do dự tiến thoái lưỡng nan, thì lại được lệnh Sứ Thần Chúa, Thánh Giuse tuân theo đem Chúa Hài Nhi và Mẹ Ngài lánh sang xứ Galilea và lập cư ở Nazareth.
Thánh Giuse, tuy là Gia Trưởng của Thánh Gia, nhưng ngài đã sống như một tôi tớ khiêm nhu, cần mẫn và khôn ngoan, đầy lòng tin tưởng bằng một Đức Tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, dù bên ngoài Giêsu cũng chỉ là một Hài Nhi như bất cứ Hài Nhi nào, Mẹ Ngài cũng chỉ là một phụ nữ tầm thường như bất cứ phụ nữ nào. Ngài không hề thắc mắc: “Thiên Chúa quyền uy vô cùng sao lại trốn chạy một thụ tạo?” Đức Tin tuyệt đối vào Chúa Cứu Thế và Mẹ Thánh Ngài, đã là lẽ sống của Thánh Nhân, nên ngài sẵn sàng cùng chung tay với Bạn Thánh ngài phục vụ Chương Trình Cứu Độ của Chúa Cứu Thế. Ngài đã lao công vất vả trong nghề thợ mộc để nuôi sống gia đình, dùng tài khéo “Đào Vi Thượng Sách” để bảo vệ thanh danh cho Đức Mẹ.
Mẹ Maria, dù được Thiên Chúa tuyển chọn là Mẹ Đấng Thiên Sai, biết Thánh Giuse phải đau khổ, nhưng Mẹ vốn thầm lặng khiêm nhu, hoàn toàn tin tưởng mọi sự nơi sự quan phòng khôn ngoan vô cùng của Chúa, Mẹ không bao giờ hé môi bộc lộ Thiên Chức cao trọng của Mẹ. Mẹ luôn lụy phục Thánh Giuse như một người vợ, một bề dưới, hoàn toàn tuân theo chỉ thị của Thánh Nhân.
Chúa Giêsu, dù là Ngôi Hai Thiên Chúa cao cả và khôn ngoan vô cùng, Chúa cũng chỉ sống như một Hài Nhi bất lực hoàn toàn lệ thuộc vào cha mẹ, luôn vâng phục như một người con ngoan thảo để làm hài lòng cha mẹ, vì Chúa luôn tôn kính yêu mến cha mẹ như những Đấng là Đại Diện của Cha Trên Trời.
SỐNG THEO MẪU GƯƠNG THÁNH GIA
Sách Giáo Huấn khuyên dạy những người làm con phải thảo hiếu tôn kính cha mẹ xứng đáng với nghĩa vụ làm con, vì: “Ai yêu mến cha mình thì đền bù tội lỗi, ai thảo kính mẹ mình, thì như người thu được một kho tàng… Ai vâng lời cha thì làm đẹp lòng mẹ… Lễ vật dâng cho cha sẽ không rơi vào quên lãng, của biếu cho mẹ sẽ đền bù tội lỗi và xây dựng đức công chính” (xem Sir 3:3-7,14-17). Thánh Phaolô cũng khuyên nhủ chúng ta: “Hỡi những người làm con, hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là đẹp lòng Thiên Chúa” (Col 3:20).
Thánh Phaolô cũng khuyên dạy các bậc cha mẹ hòa thuận thương yêu và gây hạnh phúc cho nhau, để nên gương sáng cho con cái: “Hỡi các bà vợ, hãy phục tùng chồng mình trong Chúa cho phải phép; hỡi những người chồng hãy thương yêu vợ mình…” Ngài thêm: “Hỡi những người cha, đừng phẫn nộ với con cái để chúng khỏi nhát đảm sợ sệt!” (Cor 3:18-19;21). Vì: “Cha mẹ hiền lành để đức cho con!” Trái lại, nếu cha mẹ làm gương mù cho con bằng những tật say sưa, rượu chè, cờ bạc, hút xách; bất thuận cãi lẫy nhau, đánh đập nhau hay sống bê bối, sẽ khiến cho con cái bất phục, thiếu tôn kính, thiếu vâng phục hay có khi còn sinh lòng khinh chê nữa. Khi đã bị nhiễm lây các tội lỗi, các tật xấu, con cái sẽ trở thành ngang tàng, ngạo ngược, tác hại cho gia đình và xã hội. Ca dao Việt Nam chẳng đã có câu: “Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà!”
III. ẢNH HƯỞNG CỦA CHA MẸ TRÊN CON CÁI
Trong đời sống hằng ngày, chúng ta thấy nhan nhản những chuyện thương tâm xảy ra: Biết bao thanh thiếu niên phạm pháp, giết người, cướp của, xì ke, ma túy, cờ bạc, rượu chè… Chỉ vì chúng bị nhiễm lây tật xấu của cha mẹ, hay ít ra không được sự săn sóc giáo dục hoặc không được thấy gương sáng của cha mẹ… Nhưng đồng thời, chúng ta thấy nơi tiểu sử các vị Thánh, các ngài được trở nên các vị anh hùng, các nhà lãnh đạo, các vị ái quốc, suốt đời xả thân vì công ích, nhất là các vị Thánh làm thơm danh cho dân tộc, cho Giáo Hội, làm hiển vinh Thiên Chúa, cứu giúp muôn linh hồn, chỉ vì các ngài đã được hưởng nhờ sự săn sóc giáo dục, công đức và gương sáng, sự thánh thiện của cha mẹ.
Chớ gì mỗi người chúng ta, là những bậc làm cha mẹ, biết ý thức trách nhiệm quan trọng và sứ mạng cao cả của chúng ta là đại diện Thiên Chúa, cộng tác viên của Chúa trong việc cưu mang sinh thành dưỡng dục con cái Chúa trao, để chúng ta noi theo mẫu gương Thánh Gia Thất, chu toàn sứ mạng Chúa trao phó. Là những người con, chúng ta hãy noi theo gương Chúa Giêsu luôn trọng kính, hiếu thảo ngoan ngoãn vâng phục cha mẹ như những vị Đại Diện của Chúa.
Kết Luận
Như thi sĩ La Martine nói: “Phúc cho những ai mà Thượng Đế ban cho một bà mẹ thánh đức!” Chớ gì lời đó cũng rất đúng cho chúng ta là những bậc làm cha mẹ, để con cái chúng ta cũng hãnh diện quả quyết rằng: “Thật hạnh phúc biết bao vì Thiên Chúa đã ban cho chúng ta những bậc cha mẹ thánh thiện!” Để rồi chúng ta cũng được sung sướng thưa với Chúa như Thánh Augustinô nói về nẹ ngài: “Lạy Chúa, con được trở nên tôi tớ Chúa như ngày nay là nhờ công nghiệp của mẹ con, một nữ tỳ thánh thiện của Chúa, tất cả mọi sự con có đều nhờ bởi công đức và lời cầu nguyện của mẹ con!”. [Mục Lục]
- 19. Lễ Thánh Gia Thất
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)
Cổ tích vùng Rotal mạn Bắc nước Pháp có kể lại một câu chuyện sau đây:
Có một gia đình nọ gồm cha mẹ và một người con sống rất hiệp nhất yêu thương nhau. Nhưng một đêm kia, đang lúc mọi người ngủ say, một trận giông bão to lớn chưa từng thấy, chỉ trong mấy giờ đồng hồ cả vùng đều lụt lớn, nhà cửa sập cả, thây người và vật trôi bồng bềnh. Người cha của gia đình cõng vợ trên vai mình và bà vợ tay bế đứa con. Nước càng lúc càng dâng cao, chẳng bao lâu ngập đầu của hai vợ chồng. Dù ngộp thở và vô cùng mệt mỏi, bà mẹ cố giơ cao hai cánh tay nâng cao đứa con lên khỏi mặt nước để đứa bé khỏi chết ngộp. Hai vợ chồng sẵn sàng chờ chết, nhưng chỉ mong có ai cứu được đứa bé khỏi chết. Vừa lúc đó, có một thiên thần bay ngang qua, trông thấy cái đầu bé tí nhô khỏi mặt nước, vội cầm lấy kéo lên và dính chùm theo là cả cha mẹ đứa bé. Thế là nhờ yêu thương hiệp nhất mà cả gia đình được thoát nạn.
Có lẽ chưa bao giờ gia đình lại khủng hoảng trầm trọng trong thế giới như chúng ta đang sống hiện nay. Rất nhiều gia đình trong xã hội là những gia đình què quặt, tan nát, nạn ly thân, ly dị và phá thai, và những gia đình chia ly vì chiến tranh, bạo lực, áp bức của các chế độ vô nhân. Những gia đình bất hòa vì nạn thất nghiệp, vì nạn kinh tế khó khăn, eo hẹp hay vì nạn cờ bạc rượu chè, ma túy, thuốc sái và ham mê buông thả trong lạc thú. Vì thế, những người phải trả giá mắc mỏ nhất cho hậu quả của các cuộc khủng hoảng này là con cái, là trẻ em và giới trẻ.
Làm sao con người có thể hạnh phúc tươi vui khi phải sống trong các gia đình như thế? Làm sao thế giới có thể an bình thịnh vượng khi các tế bào nòng cốt của xã hội bị bệnh hoạn như vậy?
Qua ngày lễ Thánh Gia, Mẹ Giáo Hội kêu mời chúng ta suy tư nghiêm chỉnh trở lại ý nghĩa cuộc sống gia đình và đề nghị với chúng ta một mẫu gương, đó là mẫu gương của tổ ấm gia đình Nazareth xưa, gia đình của Chúa Giêsu, Ðức Mẹ và thánh Giuse.
Chương ba sách Ðức Huấn Ca là một bài quảng diễn điều răn thứ Tư của Mười Giới Luật, dạy con cái phải thảo hiếu cha mẹ. Ngoài những lý do luân lý tự nhiên như câu ca dao Việt Nam nêu lên:
“Công cha như núi thái sơn,
nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ kính mẹ cha,
cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
Tác giả sách Ðức Huấn Ca còn nhấn mạnh đến lý do tôn giáo nữa. Ðó là thái độ sống hiếu với cha mẹ, với những người đã dày công mang nặng đẻ đau, sinh thành, dưỡng dục chúng ta. Thiên Chúa sẽ nghe lời những người con hiếu thảo khi họ kêu khấn lên Ngài.
Suy tư trên đây là một thí dụ điển hình cho thấy người sống đạo, người đạo đức như tác giả sách Ðức Huấn Ca, biết nhìn ra ý nghĩa sâu thẳm siêu việt nằm trong chính cái nhân loại tầm thường của cuộc sống mỗi ngày. Thiên Chúa không xa vời đối với Chúa Giêsu nhưng Ngài luôn hiện diện ngay trong cái tầm thường nhất của mỗi ngày sống chúng ta. Bởi vì Ngài đã đến sống giữa con cái loài người, đồng hành với con người, chia sẻ mọi buồn vui, mọi âu lo khó nhọc của cuộc sống con người. Khi biết nhìn thực tại bằng đôi mắt của lòng tin thì mọi sự trong thế giới hữu hình này đều được biến đổi và nói lên được sứ điệp mà Thiên Chúa muốn nhắn gởi chúng ta: một gia đình trong đó mọi thành phần biết kính sợ Thiên Chúa, biết yêu thương tôn trọng lẫn nhau, hy sinh cho nhau, sống cho nhau và sống vì nhau thì sẽ là một gia đình được tràn đầy phúc lành và sức sống thiên linh của Thiên Chúa.
Sự thật này được nêu bật trong Thánh Vịnh 28. Ðây là bí quyết tạo hạnh phúc cho gia đình, nhưng rất tiếc cũng là điều rất thiếu sót trong các gia đình của xã hội chúng ta ngày nay. Làm sao gia đình có thể hài hòa hạnh phúc nếu mỗi người chỉ ích kỷ, sống và tìm hưởng thụ cho riêng mình mà không muốn yêu thương, không muốn chia sẻ, không muốn dâng hiến, trao ban và lo lắng cho những người khác. Tình yêu đích thực bao giờ cũng đơm hoa kết trái, và gia đình chỉ là gia đình khi cha mẹ, con cái xum vầy bên nhau.
Một tình yêu không sinh hoa trái là một thứ tình yêu cằn cỗi, què quặt, bất bình thường. Một gia đình không có con cái là một gia đình buồn tẻ và không trọn vẹn. Dĩ nhiên, vì những lý do ngoài ý muốn, gia đình có thể thiếu vắng thành phần này hay thành phần khác, nhưng tình yêu là nhân tố nòng cốt không thể thiếu được. Một cuộc hôn nhân không tình yêu là một cuộc hôn nhân lầm lẫn, bởi vì chỉ có tình yêu chân thành sâu đậm được chăm bón vun xới mỗi ngày mới khiến cho gia đình trở thành tổ ấm hạnh phúc. Còn lấy nhau vì tiền của, vì lợi lộc, lấy nhau vì chức tước và địa vị thì sẽ không bao giờ tạo hạnh phúc cho con người và hôn nhân sẽ đi đến chỗ đổ vỡ. Nhưng tình yêu không chân thành, không thôi thúc cũng chưa đủ để đảm bảo hạnh phúc cho gia đình mà cần phải có những nhân đức Kitô và nhân đức xã hội.
Trong chương III thư gởi tín hữu Côlôsê, thánh Phaolô khuyên các tín hữu chu toàn các đòi buộc của lòng tin trong cuộc sống thường ngày. Trước khi đề cập đến bổn phận của các thành phần khác trong gia đình, thánh nhân nhắc cho mọi người biết một số các bổn phận căn bản phát xuất tự lòng tin Kitô: Là những người được chọn làm con cái Thiên Chúa, là thành phần sống động của xã hội và là công dân Nước Trời, hơn ai hết người Kitô hữu phải noi gương Chúa Giêsu sống tình yêu thương bác ái trọn vẹn cao độ đến sẵn sàng hy sinh mạng sống vì người khác. Bởi vì, chính thái độ sống yêu thương là thái độ sống nền tảng cho người Kitô hữu, giúp họ thực sự trở nên giống Thiên Chúa, và là nền tảng của mọi nhân đức khác, đặc biệt là các nhân đức xã hội, nhân bản.
Do đó, thánh Phaolô thôi thúc chúng ta hằng ngày biết mặc lấy tâm tình của lòng thương xót, nhân từ, khiêm tốn, dịu hiền và kiên nhẫn. Tất cả các nhân đức này đều giúp chúng ta duy trì được bầu khí hài hòa trong nội tâm, trong gia đình và giữa cộng đoàn. Bởi vì khi có lòng thương xót và nhân từ, chúng ta sẽ cảm thông với những lỗi lầm thiếu sót và yếu đuối của nhau, và dễ tha thứ cho nhau hơn bắt đầu bằng các thành phần trong gia đình mình, vợ chồng, con cái, họ hàng, bạn bè. Khi khiêm tốn, chúng ta cũng biết nhận ra những tội lỗi, những khuyết điểm, những yếu hèn và thiếu sót của chúng ta chứ không luôn luôn cho mình là phải, là hay, là giỏi, là nhất, và hung hăng chỉ trích lên án và kết tội người khác.
Khi khiêm tốn, chúng ta dễ châm chước cho người khác, vì biết rằng mình cũng như họ thôi, hay đôi khi còn tệ hơn họ nhiều và chúng ta sẵn sàng xin lỗi, sẵn sàng làm hòa, sẵn sàng đền bù sửa chữa. Khi hiền dịu và khiêm tốn, chúng ta không nóng nảy gay gắt với người khác, mà biết chịu đựng mọi thiếu sót, sơ xuất của họ, đồng thời ý thức được rằng người khác cũng đang phải kiên nhẫn chịu đựng những thiếu sót và sai quấy của mình.
Lời Chúa mà chúng ta tâm niệm và cùng với ơn thánh Chúa ban cho mỗi ngày, chúng ta có thể tập được các nhân đức trọn lành này. Sau khi khuyến khích mọi người mỗi ngày hãy mặc lấy tâm tình và tìm sống các nhân đức trên đây, thánh Phaolô đem nguyên tắc xem ra đơn sơ, nhưng thực hiện được cho đúng quả thật không dễ. Ðó là mỗi thành phần trong gia đình hãy cố gắng sống bổn phận riêng trong cương vị của mình một cách phù hợp với ý Chúa muốn: “Vợ hãy phục tùng chồng và chồng hãy yêu thương vợ, đừng gắt gỏng với nàng. Còn con cái hãy thảo kính cha mẹ và vâng phục các ngài. Cha mẹ hãy biết khoa sư phạm và rành tâm lý theo kiểu cách dạy dỗ, cư xử với con cái, đừng quá khắt khe đòi hỏi kẻo chúng chán nản ngã lòng”.
Có người coi cái tôn ti trật tự của cuộc sống gia đình như thánh Phaolô trình bày là bất công, kỳ thị và lỗi thời. Vì trong xã hội nam nữ bình quyền, đặc biệt ngày nay trong liên hệ giữa vợ chồng với nhau họ được bình đẳng. Nhưng nếu chúng ta để ý đến nguyên tắc lấy tình yêu thương làm nền tảng cuộc sống thường ngày như thánh Phaolô đã nêu bật thì sẽ không có vấn đề nữa. Bởi vì trong yêu thương thì tất cả mọi người đều như nhau, không có phân chia ngôi vị. Nói như thế không có nghĩa là cuộc sống gia đình sẽ không bao giờ gặp khó khăn hay khủng hoảng, nhưng có nghĩa là cho dù có gặp những khủng hoảng, khó khăn trầm trọng đến thế nào đi nữa, nếu mỗi thành phần gia đình đều có tình yêu thương đích thật thì tất cả đều được san bằng trong yêu thương hợp nhất. và nếu sống tình yêu thương đó cách cụ thể thì sóng gió nào rồi cũng sẽ êm và con thuyền tổ ấm gia đình tiếp tục tiến tới. Sống yêu thương chân thành quảng đại vô vị lợi không phải là chuyện dễ, nhưng là điều có thể làm được và cần phải làm nếu chúng ta muốn tạo dựng hạnh phúc cho chính mình và cho người khác.
Sự thật này được minh chứng trong trình thuật Phúc Âm thánh Luca chương II: Sự thường mười hai tuổi vẫn là lứa tuổi thiên thần dễ thương và dễ mến nhất. Trong dịp cả gia đình đi hành hương ở Jérusalem hôm ấy, Chúa Giêsu đã khiến cho thánh Giuse và Mẹ Maria một lần phải rụng rời tay chân, khi Chúa Giêsu tự ý ở lại trong đền thờ mà không nói gì với hai người. Sau ba ngày hớt hải kiếm tìm và hỏi han khắp nơi, hai ông bà cảm thấy con đang đàm đạo đối chất với những tiến sĩ luật trong đền thờ.
Câu trách móc nhẹ nhàng của Mẹ Maria cho thấy tất cả tình yêu thương hiền dịu của Mẹ và của Thánh Giuse đối với Chúa Giêsu là một lời trách móc đầy yêu thương kính trọng. Sự im lặng của thánh Giuse thật vô cùng ý nghĩa: nó vừa tỏ nỗi lo âu một cách thầm kín, vừa cho thấy thái độ của thánh nhân tôn trọng tự do của Chúa Giêsu và biết chấp nhận sự kiện không thể giải thích được. Bởi vì thánh nhân biết chắc phải có lý do nào kín ẩn lắm mới khiến cho một người con ngoan ngoãn tuyệt diệu như Chúa Giêsu có thái độ hành xử này.
Câu trả lời lạ lùng của Chúa Giêsu giải thích cho hành động bất thường ấy đã minh chứng cho thấy tuy còn nhỏ tuổi, Chúa Giêsu đã ý thức được sứ mệnh và nguồn gốc của mình. Chúa Giêsu thuộc về một thế giới và có sứ mệnh phải chu toàn mà ít người có thể hiểu nổi, kể cả Mẹ Maria và thánh Giuse. Tuy không hiểu được câu trả lời của Con, Mẹ Maria ghi nhớ kỹ mọi sự và suy niệm trong lòng. Cuộc suy gẫm ấy sẽ lâu dài và đau đớn, và Mẹ chỉ hiểu được mầu nhiệm đó khi đứng dưới chân Thập Giá của Người Con trong ngày Chúa Giêsu tử nạn vì yêu thương.
Sau biến cố kể trên, Chúa Giêsu lại theo Cha Mẹ về Nazareth, lớn lên trong khôn ngoan, tràn đầy ơn thánh, yêu thương tuân phục các Ngài cho tới ngày công khai rao giảng Tin Mừng cứu độ. [Mục Lục]
- 20. Suy niệm của Radio Veritas Asia
(Trích từ ‘Sống Tin Mừng’)
GIA ĐÌNH CẦU NGUYỆN CHUNG VỚI NHAU
THÌ SỐNG HIỆP NHẤT VỚI NHAU
Chúa Giêsu Kitô Con Thiên Chúa đã giáng sinh trong một gia đình cụ thể, có cha có mẹ là thánh Giuse và Mẹ Maria. Vì thế, trong bầu khí vui tươi của lễ Giáng Sinh, chúng ta có thể cùng nhau chia sẻ về đời sống gia đình. Mầu nhiệm Giáng Sinh sẽ giúp chúng ta hiểu sâu xa hơn về thực tại gia đình. Mầu nhiệm Giáng Sinh làm cho gia đình Thánh Gia trở thành mẫu gương cho các gia đình trên thế giới. Các bài đọc lễ Thánh Gia đều hướng về một chủ đề chung là mô tả hoàn cảnh sống của một gia đình có Chúa hiện diện và liên kết mọi thành phần lại với nhau.
Trước hết, bài đọc I sách Huấn Ca, nhắc lại bổn phận thảo hiếu của con cái đối với cha mẹ, vì Thiên Chúa suy tôn người cha trong con cái và củng cố quyền lợi của người mẹ trên người con. Vai trò và trách nhiệm của cha mẹ trên con cái là do ý muốn của Thiên Chúa và dựa trên ý muốn của Ngài. Bài đọc II trích từ Côlôsê ghi lại các lời khuyên của thánh Phaolô cho các thành phần trong gia đình: “Hãy đối xử với nhau theo qui luật của đức bác ái”, vì tình yêu tự nhiên giữa các thành phần trong gia đình không đủ. Tình yêu tự nhiên đó được triển nở thành tình thương bác ái, một tình thương đã được tình yêu của Thiên Chúa thanh luyện cũng cố, và tình thương bác ái đó được thể hiện trong những hành động cụ thể chứ không dừng lại ở lời nói suông qua môi miệng. Những lời khuyên này có thể được ta xem như là một hiến chương xây dựng hạnh phúc gia đình. Nếu chúng ta thực hiện được những điều này thì quả thật gia đình chúng ta sẽ được hạnh phúc biết bao.
Tâm tình bác ái của gia đình là sự hiện diện của Chúa trong tâm hồn của mỗi thành phần trong gia đình, đó là sự liên kết mọi thành phần trong gia đình lại với nhau như là cầu chúc của thánh Phaolô trong thơ gửi tín hữu Côlôsê: “Nguyện cho bình an của Chúa làm chủ trong lòng anh em. Nguyện cho Lời Chúa cư ngụ dồi dào trong lòng anh em”. Để thực hiện điều này, chúng ta hãy đặc biệt lưu ý đến hai việc đạo đức sau đây:
1) Việc đọc kinh chung với nhau trong gia đình.
2) Việc gia đình đọc Lời Chúa chung với nhau.
Gia đình cầu nguyện chung với nhau thì sống hiệp nhất với nhau. Gia đình Thánh gia Nagiarét được diễm phúc hơn mọi gia đình khác, vì có chính Chúa Giêsu hiện diện giữa các ngài. Nhưng nếu xét cho cùng thì cũng không phải là chuyện dễ dàng hơn, vì Chúa hiện diện trong gia đình Thánh gia với một hình thức hạ mình sâu thẳm nhất, qua hình thức của một con trẻ yếu đuối như bao trẻ thơ khác để cho mẹ Maria và thánh Giuse chăm sóc. Cần phải có đức tin sâu xa và vững mạnh lắm thì Đức Maria và thánh Giuse mới có thể chu toàn trọn vẹn vai trò của mình.
Việc cụ thể thứ hai là việc đọc Lời Chúa trong gia đình. Chúng ta hãy lấy mẫu gương gia đình Thánh Gia Nagiarét như một khởi đầu cho một sinh hoạt mới trong gia đình, và kể từ nay về sau, mỗi gia đình hãy chăm chỉ thực hiện việc đọc Lời Chúa trong gia đình: “Nguyện cho Lời Chúa cư ngụ dồi dào trong anh em”. Mỗi gia đình Kitô cần có một quyển Kinh Thánh để có thể đọc Lời Chúa hằng ngày chung với nhau, và nếu không hằng ngày được thì ít ra là mỗi tuần một lần. Phải giữ mức độ thường xuyên đều đặn, không nên để tùy hứng.
Sau cùng một khía cạnh khác được nói lên trong bài Tin mừng hôm nay, đó là thử thách mà gia đình Nagiarét gặp phải, đó cũng là thử thách mà mọi gia đình kitô chúng ta ngày nay cũng có thể gặp phải. Sự hiện diện của Chúa không mang lại đặc quyền đặc lợi cho gia đình, mà ngược lại có thể làm cho Đức Maria và thánh Giuse bị phiền phức nữa là khác, vì cảnh sống nghèo nàn bị lãng quên vẫn như cũ, nhưng Đức Maria và thánh Giuse đã vượt qua được thử thách với đức tin vững vàng, khiêm tốn chấp nhận dù không hiểu việc Chúa làm. Đó là mẫu gương cho tất cả mọi gia đình Kitô giáo hôm nay.
Xin Chúa gìn giữ chúng ta trong niềm tin và phát triển đức tin của mỗi người chúng ta, ban cho gia đình chúng ta được ơn hiệp nhất với nhau, sống yêu thương nhau, nâng đỡ nhau để chu toàn ơn gọi của mình. [Mục Lục]
- 21. Cầu nguyện cho các bậc gia trưởng
(Trích từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Giuse Dương Hữu Tình)
Chúng ta đang sống trong bầu khí của mùa Giáng Sinh, mừng mầu nhiệm Nhập Thể – Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Với mầu nhiệm này, con người không chỉ dừng lại ở trí khôn để hiểu biết Thượng Đế, nhưng còn dùng tất cả các khả năng của giác quan để nhận biết Ngài. Thiên Chúa vô hình đã trở nên hữu hình. Thiên Chúa không chỉ hiện lên trong trí khôn mà nay đã và đang hiện diện trước mắt chúng ta. Lời Kinh Thánh trong Cựu Ước: “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta” nay được hiểu cụ thể rõ ràng ngay chính thân phận và hình dáng của con người.
Với lễ Thánh Gia, mầu nhiệm thứ hai lại được sáng tỏ hơn bao giờ hết, đó là mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Nếu con người là hình ảnh Thiên Chúa thì gia đình phải là hình ảnh rõ nhất về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Bởi thế, con người là một mầu nhiệm và gia đình cũng là một mầu nhiệm.
Trong kinh Tin Kính, chúng ta đọc: “Tôi tin kính một Thiên Chúa, là Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình”. Khuôn mặt và cương vị của Thiên Chúa Cha hiện lên một cách tỏ tường qua việc sáng tạo, làm chủ và hướng dẫn muôn loài. Còn bài Tin Mừng hôm nay kể về gia đình thánh gia, đó là gia đình của Chúa Giêsu, Đức Mẹ và Thánh Giuse. Trong gia đình ấy, Chúa Giêsu luôn là đỉnh cao viên mãn của sự thánh thiện và Mẹ Maria là Đấng rất thánh, dầu thế cũng không sao che khuất vai trò và cương vị đặc biệt của Thánh Giuse. Thánh Giuse luôn là chủ, là đầu và là người lãnh đạo. Mỗi khi nhắc đến thiên thần, bao giờ thánh Matthêu cũng ngầm ý nói tới Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa hướng dẫn Thánh Giuse chứ không phải một ai khác trong gia đình. Chỉ một đoạn Phúc Âm ngắn thôi mà thánh Matthêu ba lần nhắc tới việc thiên thần hiện ra với Thánh Giuse và chỉ dạy cho ngài cách bảo vệ gia đình. Chi tiết này như một lời nhắc bảo: người cha, người bố trong gia đình luôn là hình ảnh tuyệt vời về Thiên Chúa Cha. Chúa Cha liên lạc mật thiết với các bậc gia trưởng. Có một mối dây thông truyền liên tục giữa Cha vô hình trên trời với những người cha đang sống nơi trần thế. Và trần gian này sẽ trở thành thiên đàng khi tất cả các gia đình đều do những người cha tốt lành như thế coi sóc và hướng dẫn.
Mừng lễ Thánh gia là dịp cầu nguyện cho tất cả các gia đình, đặc biệt cầu nguyện cho các bậc gia trưởng. Xin cho sợi dây liên kết hiệp thông giữa Cha trên trời luôn gắn chặt với các người cha đang sống trên trái đất này. Xin cho trái đất này thực sự trở thành thiên đàng nhờ sự hướng dẫn khôn ngoan, thánh thiện của các bậc gia trưởng đạo đức. [Mục Lục]
- 22. Gia đình kitô hữu cũng là thánh gia thất
(Trích từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Một giảng viên giáo lý đặt câu hỏi với các học sinh: “Hôm nay, chúng ta mừng lễ thánh gia thất. Vậy Anh hỏi các em: trong Hội Thánh, có bao nhiêu thánh gia thất”.
Cả chục cánh tay giơ lên xin trả lời vì xem ra câu hỏi nầy dễ ợt. Khi giảng viên mời lần lượt từng em cho câu đáp, tất cả các em đều chung một ý kiến: chỉ có một thánh gia mà thôi, đó là thánh gia thất của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse.
Giảng viên giáo lý cho rằng như vậy chưa chính xác. Các em tỏ ra ngạc nhiên pha lẫn nghi ngờ.
Giảng viên mời bạn Hùng đứng lên và hỏi: – Gia đình em có bao nhiêu người?
– Thưa Anh có bốn, gồm ba, má, chị Hoa và em, Hùng đáp.
– Cám ơn em. Thế thì cả bốn người đã lãnh bí tích rửa tội chưa?
– Thưa Anh, tất cả đều đã lãnh bí tích rửa tội từ nhỏ.
Giảng viên tiếp tục giải thích: – Bí tích rửa tội làm cho chúng ta trở nên chi thể của Chúa Giêsu (giáo lý công giáo 1267.1Cr 6, 15; 12, 27), cho ta được thông phần bản tính Thiên Chúa (giáo lý công giáo 1265. 2Pr 1,4). Vậy thì bốn người trong gia đình bạn Hùng đều là chi thể Chúa Giêsu, đều được thông phần bản tính Thiên Chúa cả. Vậy cả bốn người đó có phải là thánh không?
Sau giây lát suy nghĩ vì câu hỏi có vẻ mới lạ, các em đáp: – Thưa phải.
– Đúng thế, được tháp nhập vào Thân Mình Chúa Giêsu, mọi kitô hữu đều là thánh vì được hiệp thông nên một với Chúa Giêsu chí thánh. Thế nên, qua các thư của mình, thánh Phaolô gọi các kitô hữu là thánh.
Giảng viên tiếp: – Các em biết không, trong hiến chế Tín Lý về Hội Thánh, Công Đồng Vatican II gọi gia đình là hội thánh thu nhỏ hay hội thánh tại gia (LG 11. glcg 1656). Như thế, huấn quyền của Hội Thánh chính thức công nhận gia đình là thánh gia.
Ngoài ra, chính Chúa Giêsu cũng đã thiết lập bí tích hôn phối để thánh hoá đời sống gia đình, nâng gia đình lên một tầm cao mới.
Nói cụ thể hơn, gia đình bạn Hùng có bốn thành viên đều là kitô hữu, đã được hiến thánh qua bí tích rửa tội, thế thì đó là một cộng đồng, một hội có bốn vị thánh cùng chung sống. Vậy thì gia đình nầy là một hội thánh nhỏ, một hội thánh tại gia hay nói khác đi là một thánh gia thất.
* * *
Để có thể xây dựng một công trình kiến trúc bảo đảm kỹ thuật, mỹ thuật và chất lượng, điều kiện đầu tiên phải có là một mô hình hay bản thiết kế. Người thợ xây chỉ việc nhìn vào bản thiết kế hay mô hình đó để thi công thì công việc xây dựng sẽ được tiến hành dễ dàng, suôn sẻ.
Trong việc xây dựng các hội thánh thu nhỏ hay các thánh gia cũng vậy, các kitô hữu cũng cần một mô hình, một bản thiết kế hoàn chỉnh. Chính Chúa Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế làm người và bỏ ra suốt ba mươi năm đằng đẳng nhằm kiến tạo nên mô hình tuyệt hảo là Thánh Gia Nadarét làm mẫu mực cho tất cả các thánh gia khác suốt dòng lịch sử dựa theo đó mà xây dựng thánh gia của mình.
Xây dựng gia đình theo mẫu nhà Nadarét là mọi người trong gia đình phải đối xử với nhau như ba Đấng trong thánh gia nầy, cụ thể là chồng phải yêu thương và phục vụ vợ con như thánh Giuse đã yêu mến và phục vụ Đức Mẹ và Chúa Giêsu; người vợ phải yêu thương và chăm sóc chồng như Mẹ Maria đã yêu mến và phục vụ Chúa Giêsu và thánh Giuse; cha mẹ phải yêu mến và chăm lo cho con cái như thánh Giuse và Mẹ Maria chăm lo phục vụ Chúa Giêsu hết tình; con cái trong gia đình phải hiếu kính và phụng dưỡng cha mẹ như Chúa Giêsu đã làm đối với Cha Mẹ Ngài.
Nguyện xin Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh cả Giuse hằng hiện diện trong gia đình chúng con và giúp chúng con xây dựng gia thất chúng con nên giống thánh gia của Ngài. [Mục Lục]
- 23. Cầu nguyện: Sống còn của gia đình – Lm. Minh Anh
Anh Chị em thân mến,
Khi các bài ca của thiên thần ngưng bặt,
Khi những chòm sao trên nền trời Bêlem lặng khuất,
Khi ba vua đã trở lại quê nhà,
Khi các mục đồng cùng đoàn vật đã rút lui,
Thì bấy giờ, công việc Giáng Sinh lại bắt đầu
để tìm kiếm những gì đã mất,
để hàn gắn những gì đổ gãy,
để các tâm hồn được chữa lành,
để các nước được dựng xây trên công lý và hoà bình…
và để nhân loại được sống trong một nền văn minh mới, văn minh tình thương Kitô.
Vậy mà tất cả ấy lại được bắt đầu từ một mái ấm, từ một gia đình, gia đình Nazareth mà chúng ta quen gọi là gia đình Thánh Gia.
Như bao gia đình khác, Thánh Gia cũng đã trải qua những ngày nắng ấm, những chiều giông bão; cả những khoảnh khắc an vui lẫn những phút giây bồi hồi; nhiều lúc rộn rã tiếng cười, bao lần sùi sụt tiếng khóc.
Thử nhìn lại cái thuở ban đầu lưu luyến ấy của đôi bạn trẻ Giuse – Maria. Từ phút truyền tin, từ buổi đón nhau về cho đến ngày sinh con giữa đồng không mông quạnh, hay khi phải ẵm con đỏ hỏn làm khách trọ quê người…, Thánh Gia phải đương đầu với bao thử thách. Thử thách bên ngoài do hoàn cảnh, thử thách bên trong như các trình thuật Tin Mừng cho thấy, “Ông Giuse liền chỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai Cập”; “Con ơi, sao con làm thế, này cha con và mẹ phải lo lắng tìm con?”; “Cha mẹ không biết rằng con phải lo việc nhà Cha con sao?”… Đó là cả một khủng hoảng, một thử thách. Ngước nhìn lên hang đá, bóng thánh giá đã thấp thoáng ở đó.
Ấy thế, kính thưa Anh Chị em,
Gia đình ấy vẫn là một gia đình hạnh phúc nhất trần gian, gia đình ấy vẫn trở nên thước ngọc khuôn vàng cho mọi gia đình trong nhân loại. Bởi lẽ, gia đình đó là một gia đình kính sợ Chúa, một gia đình cầu nguyện, một gia đình mà con cái là tất cả của cha mẹ và cha mẹ là tất cả của con cái. Ở đó, cha mẹ là cả một bầu trời cho con cái và con cái là cả một bầu trời của cha mẹ.
Ở đó, có một người cha chăm chỉ làm việc, một người mẹ ít nói nhưng cầu nguyện nhiều và cả hai cùng ra sức làm gương tốt để nuôi dạy và giáo dục trẻ Giêsu nên người, nên thánh. Ở đó, người con Giêsu hằng vâng lời tùng phục cha mẹ mình.
Trước bao khủng hoảng của cuộc sống hôm nay, nền đạo đức luân lý gia đình đang hấp hối, không ít gia đình đang đối diện bên bờ vực đổ vỡ. Đời sống vật chất của một xã hội tiêu thụ và hưởng thụ đang chực nuốt chửng các giá trị đạo đức truyền thống của gia đình. Cha mẹ ít có thời giờ cho nhau, chẳng có thời giờ để ở với con cái. Chưa bao giờ mà con cái vuột mất khỏi tầm tay cha mẹ như hôm nay. Cha mẹ mất con ngay khi con đang ở trong nhà. Gương lành gương tốt đang trở nên một cái gì xa xỉ và hiếm hoi. Đó là chưa nói đến gương mù gương xấu nhan nhản trên báo chí, trên phim ảnh, trên truyền hình…
Hỡi những người làm cha làm mẹ, cả những người làm con, hãy nhìn lên Thánh Gia. Hãy chiêm ngắm Giuse, Maria và trẻ Giêsu: những tấm gương ngời sáng của một người cha, một người mẹ và một người con hết lòng vì gia đình. Hãy làm sống lại truyền thống gia phong Á Đông của cha ông.
Chuyện kể về một người chuyên nuôi cá cảnh. Một hôm, trong kỳ hè, khi đang dạo chơi trước các quầy hàng dọc theo bờ biển, anh thấy một con cá ngũ sắc tuyệt đẹp trong một chậu thủy tinh ở quầy. Đó là một con cá nước mặn xinh xắn mà anh chưa từng thấy, anh quyết định mua về. Về đến nhà, anh ra sức chăm sóc nó và áp dụng những phương pháp tốt nhất của một nhà chuyên môn.
Trước hết, anh đặt cá vào chậu nước mặn, cá lội tung tăng trong môi trường quen thuộc. Thế nhưng, một tuần sau, với sáng kiến, anh thêm vào một ít nước ngọt, mỗi ngày một ít. Cứ thế, anh tăng dần nước ngọt cho đến khi chú cá quen hẳn với môi trường mới. Không dừng lại ở đó, anh tiếp tục luyện cá. Mỗi ngày, anh bắt đầu đổ vào chậu một ít bùn, và cứ thế, sau nhiều tuần, nhiều tháng, lượng bùn được tăng lên cho đến khi con cá quen hẳn với việc ngày ngày nằm trên mặt bùn đớp mồi như một loài bò sát. Chưa hết, anh tập cho cá ra khỏi chậu và lẽo đẽo theo anh như một con cún cưng. Anh đã thành công, vì mỗi lần anh đi đâu, con cá màu ngoan ngoãn theo sau. Cho đến một ngày kia, chuyện đã xảy ra khi anh có việc sang nhà một người bạn, có chú cá cùng đi. Lúc trở về, trời đổ mưa, anh phải chạy thật nhanh và quên mất chú cá. Sực nhớ, anh quay lại tìm, nhưng chẳng thấy đâu cho đến khi gặp một vũng nước trên đường, thì hỡi ôi, chú cá yêu quý của anh nằm chết trong đó vì nó không biết bơi.
Anh Chị em,
Câu chuyện khiến chúng ta rùng mình sởn ốc khi nhớ đến trách nhiệm và bổn phận của một người làm cha làm mẹ trong việc giáo dục và làm gương sáng cho con cái. Vì “nửa cuộc đời còn lại của một con người được hình thành từ những thói quen có được từ nửa cuộc đời trước đó”. Thói quen cầu nguyện, thói quen đạo đức, thói quen lễ phép, thói quen dùng thời giờ, thói quen học hành, thói quen dùng tiền…, nghĩa là giáo dục thế nào, kết quả thể ấy.
Muốn được như thế, gia đình chúng ta phải là một gia đình mà Thiên Chúa phải chiếm địa vị tối thượng tuyệt đối trong bậc thang các giá trị. “Không ai hơn Chúa, không chi bằng Chúa, Chúa trên hết, Chúa trước hết”. Bởi lẽ, gia đình được dựng xây và phát xuất từ gia đình yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi. Nếu Thiên Chúa không chiếm địa vị độc tôn tối thượng, mọi trật tự sẽ đảo lộn. Có Chúa, gia đình sẽ là một gia đình cầu nguyện. Nhưng để trở nên một gia đình cầu nguyện, để nuôi dưỡng đời sống đức tin, chúng ta phải lưu ý đến ba hình thức cầu nguyện:
Trước hết là hình thức cầu nguyện riêng tư, cá nhân. Mỗi người trong gia đình cầu nguyện riêng với Chúa. Đời sống đức tin phải được đặt nền tảng trên việc trải nghiệm cá nhân với Chúa. Một trong những món quà quý báu nhất mà cha mẹ có thể ban tặng cho con cái là tập tành dạy dỗ và làm cho chúng biết yêu thích cùng thưởng thức những giây phút cầu nguyện một mình. Không cách nào để thực hiện điều đó tốt hơn là dùng chính những gương sáng cầu nguyện của mình.
Hình thức thứ hai của việc cầu nguyện trong gia đình là cầu nguyện chung: kinh nguyện gia đình. Kinh nghiệm cho thấy, các gia đình bỏ kinh, bỏ cơm chung… là dấu hiệu cho thấy sự rạn nứt. Có hình ảnh nào dễ thương hơn khi mọi người được lắng nghe Lời Chúa trong những giây phút này. Hãy để Chúa Thánh Thần dạy dỗ mỗi khi đêm về nhiều hơn thay vì cả nhà ngồi chầu trước con quái vật một mắt để nghe con người dạy bảo.
Thống Tướng Douglas MacArthur, Tham Mưu Trưởng Lục Quân Hoa Kỳ Quân Đội Philippines thập niên 1930, người đã để lại một câu nói bất hủ: “In war, there is no substitute for victory”, “Trong chiến tranh, không có gì thay thế được chiến thắng”; vậy mà trong tiểu sử của ông còn có một câu nói bất hủ hơn: “Tôi là một quân nhân chuyên nghiệp, tôi hãnh diện về điều ấy. Nhưng tôi còn hãnh diện hơn, hãnh diện hơn rất nhiều vì được làm một người cha… và niềm hy vọng của tôi là: Khi tôi đã về bên kia thế giới, thì con tôi vẫn nhớ đến tôi không phải với những hình ảnh oanh liệt ở chiến trận mà là những hình ảnh ở nhà tôi, khi tôi cùng đọc với nó những lời kinh thường đọc hằng ngày: “Lạy Cha chúng con ở trên trời…”.
Cuối cùng, cầu nguyện với cộng đoàn, Nhà Thờ phải là ngôi nhà thứ hai của mỗi gia đình. Ở đó, cùng với cộng đoàn, mỗi người thờ phượng và tạ ơn Thiên Chúa, được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và các Bí Tích cùng những sinh hoạt không thể thiếu khác với cộng đoàn dân Chúa.
Lễ Thánh Gia hôm nay là dịp để chúng ta tự vấn về việc cầu nguyện trong gia đình của mình. Cầu nguyện có phải là một phần sống chết của gia đình tôi không? Cụ thể hơn là chúng ta – cha mẹ, con trai, con gái – đã góp phần và làm gương sáng vào đời sống cầu nguyện trong gia đình thế nào?
Để kết thúc, chúng ta cùng hiệp thông cầu nguyện với Nguyên Soái Douglas McArthur khi ông đang ở chiến trường Philippines trong những ngày mở đầu cuộc chiến Thái Bình Dương.
“Lạy Cha, xin ban cho đứa con của con đủ sức mạnh để biết được lúc nào nó yếu đuối, đủ dũng cảm để đối diện với chính mình khi nó cảm thấy sợ hãi… Xin đừng để cho đứa con của con chỉ biết ước muốn mà không dám hành động… Xin đừng để nó đi vào con đường dễ dãi tiện nghi, nhưng hãy hướng dẫn nó đi vào con đường bắt buộc nó phải cố gắng vượt qua những khó khăn thử thách.
Xin hãy tập cho nó đứng vững trong bão tố, nhưng lại biết thông cảm với những ai gục ngã.
Xin hãy ban cho đứa con của con có một trái tim trong sạch, có một mục đích cao cả, biết tự chủ lấy mình trước khi muốn làm chủ người khác, biết lo lắng cho tương lai mà không bao giờ quên lãng quá khứ.
Và khi Chúa đã ban cho nó tất cả những điều ấy, xin cũng hãy ban cho nó có đủ tính hài hước để có thể luôn nghiêm nghị nhưng không bao giờ nghiêm nghị một cách quá đáng.
Như vậy, là cha nó, con dám tự nhủ rằng, con đã không sống một cách vô ích”.
Mừng kính Thánh Gia hôm nay, chúng ta cầu nguyện cho các bậc làm cha mẹ luôn ý thức tầm quan trọng của việc hình thành những chiếc khuôn giáo dục nhân cách, đạo đức cho con cái. Xin cho mọi thành phần trong gia đình luôn biết làm gương sáng cho nhau, gương sáng cầu nguyện, gương sáng yêu thương quên mình. Ở đó, tình yêu, chứng tá hùng hồn nhất của Tin Mừng luôn được hâm nóng và toả sáng cho mọi người chung quanh. Nguyện xin Thánh Gia luôn che chở, cầu bầu và ban bình an cho gia đình Anh Chị em trong Mùa Giáng Sinh hồng ân và suốt cả Năm Mới này, Amen.
(Tham khảo thêm New Sunday & Holy Day Liturgies by Flor McCarthy) [Mục Lục]
- 24. Suy niệm Lễ Thánh Gia – Nguyễn Minh Triệu
Trong bầu khí Giáng Sinh, hôm nay chúng ta được mời gọi để chiêm ngắm một gia đình của Thiên Chúa ở giữa nhân loại. Ngài đã đến thế gian, đã sống như một con người, trong một gia đình để nêu gương cho chúng ta. Khi chiêm ngắm gia đình Nagiaret, chúng ta nhận ra rằng điều làm cho gia đình này trở nên linh thánh chính là sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa gia đình.
Trước hết, chiêm ngắm hình ảnh thánh Giuse, người cha trong gia đình, ta nhận ra Ngài quả là một người công chính đích thực, nghĩa là người chọn Chúa làm gia nghiệp của đời mình. Đáp lại tiếng gọi của Chúa, Thánh Giuse hiến trọn cuộc đời mình để thi hành thánh ý Thiên Chúa. Ngài mau mắn đáp lại ý muốn của Thiên Chúa mọi lúc mọi nơi. Trong cương vị là người cha, người cũng dạy cho Đức Giêsu biết vâng phục Thiên Chúa. Khi đến ngày như luật định, Chúa Giêsu chịu phép cắt bì. Mẹ Maria thì chu toàn nghi lễ thanh tẩy. Còn thánh Giuse thì nộp tiền chuộc theo như lề luật đã qui định. Và hơn thế nữa, thánh Giuse cùng với Mẹ Maria hàng năm vẫn dẫn Chúa Giêsu lên đền thờ. Đặc biệt là năm Chúa mười hai tuổi, lứa tuổi chưa bị lề luật đòi buộc. Như vậy, có lẽ những bài học quan trọng nhất mà Đức Giêsu học được chính là từ ngôi trường của Giuse, một người công chính.
Thứ đến, với tư cách là một người Mẹ, Đức Maria cũng dành trọn cuộc đời của mình để vuông tròn thánh ý Thiên Chúa. Cuộc sống của mẹ được dệt nên bởi những giai điệu của tiếng xin vâng. Mẹ xin vâng để đón nhận con Thiên Chúa vào lòng, Mẹ xin vâng để chấp nhận những đau khổ và khó khăn trong cuộc sống, và cuối cùng là tiếng xin vâng khó khăn và đau đớn bên thập giá. Với tư cách là một người mẹ và một người bạn, Mẹ cũng gặp nhiều khó khăn và thách đố trong đời sống gia đình. Nhưng niềm tin và sự phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa đã giúp Mẹ vượt qua tất cả. Như trong bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy rằng, dù mẹ không hiểu điều Chúa Giêsu nói, nhưng mẹ không giận dỗi và đòi một lời giải thích, trái lại, Mẹ thinh lặng và suy đi nghĩ lại trong lòng. Chính thái độ này giúp mẹ luôn nhận ra thánh ý Chúa và vuông tròn thánh ý Ngài.
Còn Đức Giêsu mời gọi ta đi vào một chiều kích mới mẻ hơn giữa Thiên Chúa và con người. Chịu ảnh hưởng bởi đời sống thiêng liêng của Đức Maria và Thánh Giuse, có lẽ, ngay từ tấm bé, Đức Giêsu đã được dạy dỗ để sống theo lề luật, tuân giữ những tập tục của người Do thái. Ngài cũng học để cầu nguyện, và trong đời sống cầu nguyện Đức Giêsu đã cảm nhận được sự hiện diện của một người Cha trên trời. Một người mà Ngài âu yếm gọi là Cha. Cũng như Mẹ Maria, Ngài hiểu rằng mình cũng có một sứ mạng, đó chính là chu toàn thánh ý Cha. Trong những lúc khó khăn và thách đố của kiếp người, Ngài cũng có một nơi nương tựa, đó là tình yêu trung tín của Cha.
Vâng, sự hiện diện của Chúa trong gia đình là yếu tố căn bản để liên kết mọi thành phần trong gia đình. Nhờ tình yêu Thiên Chúa, tình yêu phàm trần của con người được thánh hóa, và được thấm nhuần chiều kích thiêng liêng. Hơn nữa, sự hiện diện của Thiên Chúa trong gia đình đem lại một niềm hy vọng vững chắc cho mỗi thành viên. Trước những thách đố đầy dẫy nảy sinh trong đời sống gia đình, niềm hy vọng vào tình yêu Thiên Chúa chính là chỗ dựa vững chắc nhất để mọi thành viên trong gia đình cùng nhau đối diện và vượt qua.
Một thống kê cho thấy, tại Mỹ cũng như tại hầu hết các nước thế giới, gia đình Do thái là gia đình trong đó mức phạm pháp của vị thành niên được coi là thấp nhất. Nhưng đâu là chìa khoá giải thích sự kiện này? Thưa chính là niềm tin. Các trẻ em Do thái luôn nhìn vào người cha như một đại diện của Chúa, người cha chúc lành cho con cái.
Như vậy, thánh gia trở nên gương mẫu sống động cho các gia đình trong mọi thời đại vì sự hiện của Thiên Chúa trong gia đình này. Ngày nay người ta thường gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của họ và đó có lẽ là một trong những nguyên nhân chính gây ra cuộc khủng hoảng về đời sống gia đình. Chúng ta cùng cầu nguyện với gia đình Thánh Gia, xin các Ngài thương nâng đỡ các gia đình trong thời đại ngày hôm nay, để gia đình là mái ấm thực sự cho mọi thành viên. [Mục Lục]
- 25. Trường ca yêu thương – Trầm Thiên Thu
Gia đình là chiếc nôi yêu thương, là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, là nơi linh thiêng, là bản tổng phổ hòa âm hạnh phúc bằng những cung bậc yêu thương lồng trong giai điệu ngọt ngào, và vẫn được ngân vang vô tận…
Nói đến gia đình là nói đến yêu thương. Không yêu thương thì không là gia đình. Vì thế, gia đình mới được mệnh danh là Tổ Ấm. Gia đình là “tam giác cân” của mối liên kết Cha-Mẹ-Con. Trong đó có sự tổng hòa các mối quan hệ tình cảm nền tảng: Tình phu thê, tình mẫu tử, tình phụ tử, tình huynh đệ, tình tỷ muội. Thomas Fuller (1608-1661, tác giả nổi tiếng người Anh) nói: “Lòng nhân ái bắt đầu từ gia đình, nhưng không nên kết thúc ở đó” (Charity begins at home, but should not end there). Có thể nói rằng gia đình là vườn ươm các nhân đức.
Ca Nhập Lễ nói ngay đến khung cảnh một gia đình: “Các mục đồng hối hả tới nơi gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ” (Lc 2:16). Danh từ kép “gia đình” không được nói tới nhưng vẫn khả dĩ biết đó là một gia đình, đơn sơ, giản dị, nghèo nàn, nhưng tràn đầy hơi ấm yêu thương của mỗi thành viên.
Sách Huấn Ca xác định: “Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu. Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì con cái, khi cầu nguyện, họ sẽ được lắng nghe. Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ, ai vâng lệnh Đức Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng. Người đó phục vụ các bậc sinh thành như phục vụ chủ nhân” (Hc 3:3-7). Thờ cha, kính mẹ là giữ đạo hiếu đời thường, là “luật sống” của xã hội loài người, nhưng cũng chính là giới răn thứ tư trong Thập Giới mà Thiên Chúa đã truyền dạy qua ông Môsê.
Trong Phật giáo, kinh Tăng Nhất A Hàm dạy: “Cung kính và vâng lời cha mẹ, phụng dưỡng khi cha mẹ già yếu, giữ gìn thanh danh truyền thống gia đình, bảo vệ tài sản cha mẹ để lại, lo tang lễ chu đáo khi cha mẹ qua đời”; còn kinh Nhẫn Nhục so sánh: “Tột cùng thiện không gì bằng có hiếu, tột cùng ác không gì bằng bất hiếu”. Điều đó cho thấy đạo hiếu quan trọng với những người làm con – mà có ai lại không làm con chứ?
Trong Công giáo, sách Huấn ca nói chi tiết hơn: “Vì lòng hiếu nghĩa đối với cha sẽ không bị quên lãng, và sẽ đền bù tội lỗi cho con. Thiên Chúa sẽ nhớ đến con, ngày con gặp khốn khó, và các tội con sẽ biến tan như sương muối biến tan lúc đẹp trời” (Hc 3:14-15). Con cái thảo kính cha mẹ không chỉ là làm bổn phận, mà còn được Thiên Chúa tha thứ và chúc phúc. Nhất cử lưỡng tiện. Tuy nhiên, lại thật khốn nạn cho những nghịch tử: “Ai bỏ rơi cha mình thì khác nào kẻ lộng ngôn, ai chọc giận mẹ mình, sẽ bị Đức Chúa nguyền rủa” (Hc 3:16). Chúa Giêsu cũng noi gương ngoan ngoãn và hiếu thảo: Sau khi Đức Maria và Đức Thánh Giuse tìm thấy Chúa Giêsu đang ngồi giữa các thầy dạy trong Đền Thờ, “Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nadarét và hằng vâng phục các ngài” (Lc 2:51).
Sách Huấn Ca khuyên nhủ:“Con ơi, hãy hoàn thành việc của con một cách nhũn nhặn, thì con sẽ được mến yêu hơn người hào phóng” (Hc 3:17). Lời khuyên nhẹ nhàng và đơn giản nhưng rất thâm thúy.
Gia đình là sự đoàn kết chặt chẽ của “bộ ba”, như kiềng ba chân vững bền. “Bộ ba” đó là hình ảnh Tam Vị Nhất Thể (Chúa Ba Ngôi), lan tỏa yêu thương, chứng tỏ sự kính yêu Thiên Chúa. Thánh Vịnh mô tả: “Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của Người. Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may. Hiền thê bạn trong cửa trong nhà khác nào cây nho đầy hoa trái; và bầy con tựa những cây ô-liu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn. Đó chính là phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người” (Tv 128:1-4). Hình ảnh thật sống động và đẹp biết bao!
Gia đình hạnh phúc là nơi phải đầy ắp tiếng cười, sống thoải mái, tự nhiên, thì mới xứng đáng tận hưởng lời cầu chúc này: “Xin Chúa từ Sion xuống cho bạn muôn vàn ơn phúc. Ước chi trong suốt cả cuộc đời bạn được thấy Giêrusalem phồn thịnh, được sống lâu bên đàn con cháu” (Tv 128:5-6).
Thánh Phaolô nói: “Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3:12-14). Bất kỳ cái gì “được nhận” đều là ân huệ, dù là điều nhỏ nhoi, và tất nhiên người nhận phải có trách nhiệm và sống sao cho xứng đáng. Đó là lẽ công bằng minh nhiên thôi!
Thật vậy, Thánh Phaolô vừa cầu chúc vừa giải thích rạch ròi: “Ước gì ơn bình an của Đức Kitô điều khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em đã được kêu gọi đến hưởng ơn bình an đó. Bởi vậy, anh em hãy hết dạ tri ân. Ước chi lời Đức Kitô ngự giữa anh em thật dồi dào phong phú” (Cl 3:15-16a).
Biết được điều gì thì phải chia sẻ cho người khác cùng biết, đó là một dạng “dạy dỗ” hoặc “giáo dục”. Ai cũng có quyền này, đồng thời cũng là trách nhiệm: “Anh em hãy dạy dỗ khuyên bảo nhau với tất cả sự khôn ngoan. Để tỏ lòng biết ơn, anh em hãy đem cả tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca, do Thần Khí linh hứng. Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giêsu và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha” (Cl 3:16b-17). Vấn đề là thực hiện vì danh Chúa Giêsu, chứ không phải để mình được khen tặng, được nổi trội. Người giỏi là người có ơn gọi tiên tri (ngôn sứ), phải sinh lời “nén” đó, càng nhiều càng tốt, chứ không thấy vậy mà “chảnh”, vì Chúa sẽ “đòi” phần lời của người đó. Đừng tưởng bở!
Cuối cùng, Thánh Phaolô khuyên riêng từng thành viên trong gia đình: “Người làm vợ hãy phục tùng chồng, như thế mới xứng đáng là người thuộc về Chúa. Người làm chồng hãy yêu thương chứ đừng cay nghiệt với vợ. Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa. Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng” (Cl 3:18-21).
Có lẽ chẳng gia đình nào khốn khổ như Thánh Gia, gian nan trăm bề, “căng” đủ thứ, nạn này chưa qua thì tai khác lại tới. Khi các nhà chiêm tinh đã ra về, thì sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giuse rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hê-rô-đê sắp tìm giết Hài Nhi đấy!” (Mt 2:13). Mẹ tròn, con vuông là vui rồi, có nghèo cũng được. Thế nhưng sóng đời cứ vỗ, con thuyền gia đình tròng trành đủ kiểu. Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng.
Tưởng được yên ổn, ai ngờ… Số kiếp Đức Thánh Giuse lận đận hết sức, không phải hồng nhan mà bạc phận quá trời. Vừa nghe báo hung tin như vậy, biết sự nguy hiểm cận kề, Chú Giuse nhà ta liền trỗi dậy, và dù đang đêm tối đen như mực, Chú vẫn đưa Vợ và Con vội vã trốn sang Ai-cập. Và rồi Thánh Gia ở đó cho đến khi vua Hêrôđê băng hà, để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ: “Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai-cập” (Mt 2:18). Một chân lý vô thường: Gian nan và đau khổ cũng vẫn là hồng ân. Lạ thật!
Như một bộ phim dài, hết tập này thì đến tập khác. Thánh sử Mátthêu kể tiếp: Sau khi vua Hêrôđê băng hà, sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giuse bên Ai-cập, báo mộng cho ông rằng: “Này Giuse, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Israel, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi” (Mt 2:20). Lần báo tin này là hỉ tín. Tiếng thở phào nhẹ nhàng biết bao! Sau cơn mưa trời lại sáng. Chả mong gì hơn, Chú Giuse liền trỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Israel. Nhưng vì nghe biết Ác-khê-lao đã kế vị vua cha là Hê-rô-đê, cai trị miền Giuđê, nên Chú Giuse sợ không dám về đó, nên lui về miền Galilê, và đến định cư tại một thành kia gọi là Nadarét, để ứng nghiệm lời đã phán qua miệng các ngôn sứ rằng: “Người sẽ được gọi là người Nadarét” (Mt 2:23).
Ước gì mỗi thành viên gia đình đều sống đúng vai trò của mình để khả dĩ tạo nên một Tổ Ấm đích thực. Ước gì mỗi gia đình đều là bản Trường Ca Yêu Thương không ngừng hòa tấu vang dội hằng ngày, đó là một cách sống động để tích cực truyền giáo và làm chứng nhân của Chúa: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13:34-35). Điều này càng thích hợp hơn trong năm 2014: Phúc-Âm-hóa đời sống gia đình.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết sống đúng chức năng và bổn phận của mình theo đúng Thánh Ý Chúa trong từng hoàn cảnh thực tế hiện tại của cuộc đời, để tất cả đều làm vinh danh Chúa. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen. [Mục Lục]
- 26. Cuộc phiêu lưu – Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
Nhân loại đang choáng váng vì những cảnh gia đình đổ nát. Nhiều vấn đề lớn hôm nay sẽ được giải quyết nếu bắt đầu từ gia đình. Bởi vậy cần nhìn vào gia đình Nadarét để tìm một giải pháp tốt đẹp nhất cho những vấn nạn gia đình hôm nay.
LY HƯƠNG.
Đức Giêsu đã xuất hiện với những khó khăn chồng chất trong một gia đình. Khó khăn lớn nhất đe dọa tới chính mạng sống Hài Nhi Giêsu. Chính sứ thần đã báo mộng cho ông Giuse: “Vua Hêrôđê sắp tìm giết Hài Nhi đấy!” (Mt 2:13) Giữa cơn quẫn bách, con đường giải thoát đã mở ra trước mắt, khi “sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giuse rằng: ‘Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại.” (Mt 2:13) Thiên Chúa đã can thiệp để giải thoát chính Con Mình.
Nhưng trước tiên, Hài Nhi có thể thoát nạn và vui hưởng những ngày tự do nơi đất khách quê người không, nếu ông Giuse không vâng lời tuyệt đối lệnh truyền đó? Chính sự vâng lời đã dẫn đến cuộc sống an vui và tự do. Oâng vâng lời bồng bế gia đình lìa bỏ quê hương, vượt biên sang Ai cập. Sẽ có ngày trở về quê cha đất tổ. Nhưng ra đi hay trở về không quan trọng. Quan trọng là làm sao nhận ra và tuân hành Thánh Ý. Thực tế ông Giuse đã cùng gia đình ở lại Ai cập cho đến khi vua Hêrôđê băng hà.” (Mt 2:15) Sống nơi đất khách, bao giờ ông cũng ôm giấc mộng hồi hương. Chỉ có nơi quê hương, con người mới đích thực sống cuộc sống của mình. Ngoài quê hương chỉ là nô lệ, xa lạ, tăm tối.
Giữa cảnh tha hương, ông Giuse chỉ có một kim chỉ nam duy nhất là Thánh Ý Thiên Chúa. Bởi vậy, khi nhận được lệnh sứ thần, “ông liền trỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Ítraen,” (Mt 2:21) “để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ: Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai cập,” (Mt 2:15; Hs 11:1) thoát miền đất đầy bóng tối tử thần. Từ một kinh nghiệm cứu Ítraen Dân Chúa thoát ách nô lệ Ai cập, “thánh Mathêu muốn cho thấy Đức Giêsu là người khởi đầu tái thiết toàn thể dân tộc Ítraen như một cuộc xuất hành mới đầy lý tưởng (x. Mt 19:28; 21:43). Việc trốn chạy này là một cuộc xuất hành mới với một tân Môsê vĩ đại hơn.” (The New Jerome Biblical Commentary 1990:636) Tương lai đang mở ra cho nhân loại …
Khi về đến quê cha đất tổ, “vì nghe biết Aùckhêlao đã kế vị vua cha là Hêrôđê, cai trị miền Giuđê, nên ông sợ không dám về đó.” (Mt 2:22) Một quyết định sai lầm lúc này sẽ dẫn đến những hậu quả khốc hại cho Hài Nhi. Oâng Giuse đang đứng trước ngã ba đường. Giữa lúc ông hoang mang như thế, “được báo mộng, ông lui về miền Galilê.” (Mt 2:22) Trong hoàn cảnh nào, ông cũng quyết định dựa trên Thánh ý. Không phải ông không đủ trưởng thành. Dù có thâu thập đủ tin tức, ông cũng dựa vào Đấng khôn ngoan tuyệt đối để khỏi ân hận về sau. Cuối cùng theo hướng Thánh ý, ông đã đưa gia đình “đến ở tại một thành kia gọi là Nadarét.” (Mt 2:23) Trong đường lối Thiên Chúa quan phòng, thời ấy vua Herod Antipas đang xây thủ đô tại Sepphoris, một thành giáp ranh Nadarét. Theo khôn ngoan tự nhiên, ông Giuse đã chọn Nadarét làm nơi cư trú cho gia đình. Chắc chắn ở đó ông có thể thoải mái kiếm kế sinh nhai nuôi sống gia đình và bảo đảm cho tương lai cậu bé Giêsu (x.The New Jerome Biblical Commentary 1990:636)
Thánh ý đã hướng dẫn ông Giuse chọn Nadarét “để ứng nghiệm lời đã phán qua miệng các ngôn sứ rằng: Người sẽ được gọi là người Nadarét.” (Mt 2:23) Viết thế, thánh Mathêu “ám chỉ Đức Giêsu là ‘người được thánh hiến’ trong dòng tộc Samson và Samuel. Nếu vậy, có thể thánh Mathêu muốn nói Đức Giêsu đầy sức mạnh để cứu độ dân Người.” (The New Jerome Biblical Commentary 1990:636) Thánh Giuse quả thật đã được Thiên Chúa tuyển chọn đặc biệt để góp phần đặc biệt công trình cứu độ muôn dân.
GIA ĐÌNH TRONG SỨ MẠNG CỨU ĐỘ.
Cũng như thánh Giuse, chúng ta “là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương” (Cl 3:12) để hoàn thành sứ mạng lớn lao trong gia đình. Gia đình không phải là một nơi náu ẩn của những con người tầm thường với những việc không tên. Theo ý định Thiên Chúa quan phòng, gia đình là hình ảnh sống động nhất diễn tả tất cả khả năng sáng tạo và cứu độ của Thiên Chúa. “Tình cha và mẹ, theo ý muốn của Thiên Chúa, được đặt trong mối tương quan thông phần vào quyền sáng tạo của Thiên Chúa, và do đó, có một quan hệ hỗ tương nội tại.” (ĐGH Gioan Phaolô II: VietCatholic News, 23/9/2000) Không có gia đình, con người không thể hoàn thành sứ mạng sáng tạo đó.
Muốn hoàn thành sứ mạng cứu độ, con người phải “có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại, chịu đựng và tha thứ cho nhau.” (Cl 3:13) Nghĩa là trong môi trương nhỏ bé đó, con người cũng có thể tìm được đầy dẫy những cơ hội làm chứng cho Thiên Chúa. Nếu cứ luẩn quẩn với cái tôi, con người sẽ không tìm được lối thoát và không thể hoàn thành sứ mạng cứu độ. Nhưng nếu có cái nhìn của thánh Giuse, họ sẽ thấy “cái tôi là cái đáng ghét.” Đáng ghét vì trong ngữ học Việt Nam “TÔI” chỉ được ghép với ba dấu sắc, huyền và nặng: TỐI, TỒI, TỘI. Đóng khung trong cái tôi là chìm vào cõi u tối. Trong đó chỉ thấy những chuyện tồi bại và tội lỗi. Khi nào thoát được cái tôi, con người sẽ thật sự tìm được ánh sáng, sự thật và sự sống. Đúng thế “ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì thấy ánh sáng của thế gian này. Còn ai đi ban đêm, thì vấp ngã vì không có ánh sáng nơi mình!” (Ga 11:9) Aùnh sáng Đức Giêsu đem tới là tình yêu Thiên Chúa. Bởi đó, muốn sống hạnh phúc, “anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo,” (Cl 3:14) nguồn mạch sáng tạo và sức mạnh cứu độ của Thiên Chúa.
Mối dây bác ái đó không chỉ liên kết mọi phần tử gia đình, nhưng còn kết hiệp họ với Thiên Chúa. Thực vậy, “gia đình Kitô hữu được kêu gọi làm cho thiên hạ thấy mình là một nơi cầu nguyện chung, khi cầu nguyện như vậy, trong tự do của người con, người ta thưa chuyện với Thiên Chúa bằng cách gọi Người với cái tên trìu mến “Lạy Cha chúng con”. Chúa Thánh Thần giúp chúng ta khám phá gương mặt của Chúa Cha như kiểu mẫu trọn vẹn của tình Cha trong gia đình.” (ĐGH Gioan Phaolô II: VietCatholic News, 10/10/2000) Thánh Giuse đã họa lại trọn vẹn hình ảnh Chúa Cha để cho mọi người cha biết cách ứng xử trong những lúc gia đình gặp thử thách.
Hình ảnh người cha trong gia đình Nadarét chắc chắn đã in sâu vào tâm khảm Đức Giêsu trong suốt thời gian ẩn dật. Chính nhờ những năm tháng sống dưới sự che chở của Thánh Giuse, Đức Giêsu đã học được cách phục vụ mọi người. Thật vậy, “Chúa cứu chuộc từng sống ẩn dật tại Nazareth trong phần lớn đời Ngài, về mặt ‘con người’, Người đã ‘tuân phục’(Lc 2, 51), Đức Maria mẹ Ngài và Thánh Giuse người thợ mộc. Đức ‘tuân phục’ thảo hiền này lại chẳng là biểu lộ đầu tiên sự vâng phục Cha Người ‘cho đến chết’ (Ph 2, 8), nhờ đó Người đã cứu chuộc thế gian sao?” (ĐGH Gioan Phaolô II: VietCatholic News, 23/9/2000)
Chính trong môi trường tình yêu đó, Đức Giêsu đã học nơi thân phụ Giuse tất cả gương cương nghị trong khi thi hành Thánh Ý Thiên Chúa. Quả thực, từ khi chấp nhận cưới Đức Maria, thánh Giuse đã “liều nhắm mắt đưa chân.” Trong cuộc phiêu lưu đó, cùng với Đức Maria, thánh nhân chỉ biết sống cho Đức Giêsu, mở đường cho một dân mới, một dân nhiệt thành làm điều thiện và không ngừng tranh đấu chống lại mọi cảnh nô lệ, áp bức và tội lỗi. Chính Đức Giêsu, nhờ bàn tay Mẹ Maria và thánh Giuse, sẽ dẫn muôn dân về Đất Hứa chan hòa ánh sáng và sự sống. [Mục Lục]
- 27. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Thiên Chúa làm người là để “phục hồi phẩm giá con người cách kỳ diệu” (lời nguyện Thánh lễ Ban Ngày), để từ con người, cuộc phục hồi ấy phải tiến tới những lãnh vực khác như gia đình, cộng đồng và toàn thế giới. Chính vì thế, ta không lấy làm lạ khi thấy lễ Thánh Gia Thất được cử hành vào Chúa Nhật ngay sau lễ Giáng Sinh. Nếu Chúa Giêsu là con trưởng của một nhân loại mới, thì Thánh Gia Thất cũng phải là khuôn mẫu cho các gia đình trong nhân loại. Lời Chúa trong Thánh lễ hôm nay sẽ giúp ta hiểu thế nào là một gia đình trong đó có Thiên Chúa và con người sống chung với nhau.
Thiên Chúa tôn vinh bậc làm cha mẹ
(Bài đọc Cựu Ước – Hc 3:2-6,12-14)
Con Thiên Chúa xuống thế làm người và sống chức phận làm người con trong một gia đình. Mục đích là để đổi mới quan hệ giữa người con đối với bậc cha mẹ. Sự hiện diện của Chúa Giêsu, người con của gia đình Na-da-rét, nói lên lối sống gương mẫu của kẻ làm con cái. Đối với Thánh Gia Thất, những lời sách Huấn ca không chỉ là những lời khuyên nhủ, nhưng nói lên phẩm giá của cha mẹ Chúa Giêsu là Mẹ Ma-ri-a và thánh cả Giuse. “Đức Chúa làm cho người cha được vẻ vang vì con cái, cho người mẹ thêm uy quyền đối với các con”. Đời sống vâng lời và tôn kính của Chúa Giêsu đối với cha mẹ Người chính là cách Thiên Chúa dùng để nhắc nhở các người con có bổn phận phải làm sao cho cha mẹ mình “được vẻ vang và thêm uy quyền”. Thánh Giuse và Mẹ Ma-ri-a đã thực sự được vẻ vang và thêm uy quyền là vì “Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa” (Lc 2:40). Sau chuyến lên Giê-ru-sa-lem lúc Chúa Giêsu lên mười hai tuổi, “Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài… Còn Đức Giêsu, ngày càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến” (Lc 2:51-52). Tóm lại, qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa muốn phục hồi chỗ đứng của những bậc làm cha làm mẹ.
Đó chẳng phải là điều ta luôn mong mỏi, nhất là trong những gia đình của xã hội văn minh cấp tiến hôm nay hay sao? Con cái không còn là một lý do để người cha được ngẩng mặt lên với đời nữa. Trái lại, con cái nhiều khi là một nỗi tủi nhục cho cha mẹ, chẳng những chúng không đem lại niềm vui hay ủi an cho các ngài, mà trái lại chỉ gây phiền lụy và lo lắng cho các ngài. Là gương mẫu cho các người con, Chúa Giêsu đã sống vâng phục cha mẹ Người. Chắc chắn ta phải kết luận rằng sở dĩ Chúa Giêsu luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha là vì Người đã học vâng phục Mẹ Ma-ri-a và thánh Giuse trước. Sự vâng phục đã được rèn luyện dưới mái nhà Na-da-rét và đạt tới cao độ khi Chúa Giêsu tỏ ý vâng phục trong Vườn Ô-liu và trút hơi thở cuối cùng trên thập giá. “Cha ơi, xin đừng làm theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Lc 22:42), và “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23:46).
Trong gia đình ngày nay, nhiều khi sự vâng phục của con cái đã bị bóp méo. Người ta coi đó là cách hạn chế sự phát triển của con người. Sự bất vâng phục còn được luật pháp hỗ trợ, thí dụ như tại Hoa-kỳ. Nhiều đứa con chỉ dài cổ mong chóng đến 18 tuổi để được tự do, muốn làm gì thì làm, một thứ tự do ấu trĩ nhất. Thử hỏi có khi nào người ta dám đặt lại vấn đề vâng phục trong gia đình ở Hoa-kỳ không? Chắc là không và thật đáng buồn thay! Hãy nhìn về Thánh Gia Thất Na-da-rét mà dạy và học bài học vâng phục của Chúa Giêsu.
Đời sống mới của gia đình: sống theo tinh thần của Chúa
(Bài đọc Tân Ước – Cl 3:12-21)
Thánh Phaolô viết thư cho tín hữu Côlôxê. Ngài coi cộng đoàn Côlôxê như một gia đình và đưa ra những lời khuyên thực tế áp dụng cho đời sống cộng đoàn. Tuy nhiên, để thực hiện được một gia đình cộng đoàn gương mẫu, mỗi Ki-tô hữu cần phải thấm nhuần những nhân đức luân lý căn bản. Sau khi trình bày những nhân đức căn bản này, thánh Phaolô muốn họ đem những nhân đức ấy vào đời sống gia đình. Do đó, ngài đã chỉ thị cho mỗi phần tử trong gia đình, từ cha mẹ, vợ chồng, con cái cho tới kẻ ăn người ở trong nhà, phải sống sao để thể hiện được những đặc nét của một gia đình gồm “những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương”. Những đặc nét đó là lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại, tất cả đều được biểu lộ qua những hành vi chịu đựng, tha thứ và bác ái trong khi đối xử với nhau. Những nhân đức luân lý căn bản nói trên một khi đã được thực hành trong đời sống gia đình, thì cũng giúp ta sống quan hệ tốt đẹp hơn đối với Chúa. Một gia đình có được những nhân đức trên sẽ thăng tiến đến mức độ có thể giúp đỡ khuyên bảo nhau sống tốt lành và một lòng phụng sự Chúa.
Nếu thực sự sống những nhân đức gia đình thì việc người vợ phục tùng chồng không phải là cảnh chồng chúa vợ tôi mà là cách biểu lộ lòng yêu thương sâu xa, việc người chồng yêu thương vợ không phải là tỏ ra uy quyền mà là cách nhận biết phẩm giá và sự cao quý của vợ, việc con cái vâng lời cha mẹ không phải là sợ hãi cha mẹ mà là cách nói lên lòng tôn kính và yêu mến đấng sinh thành. Nói tóm lại, nếu đem những nhân đức luân lý căn bản vào đời sống gia đình, chúng sẽ thay đổi mọi quan hệ giữa những phần tử thuộc gia đình phản ánh những đường nét và tinh thần của Thiên Chúa.
Dù trong hoàn cảnh nào, gia đình luôn gắn bó với Chúa và với nhau
(Bài Tin Mừng – Mt 2:13-15.19-23)
Gia đình sống theo tinh thần của Chúa lúc nào cũng giữ được mối hài hòa gắn bó, khi vui cũng như lúc buồn. Bài Tin Mừng cho ta thấy Thánh Gia Thất đã ứng phó thế nào khi các ngài gặp hoạn nạn. Sau khi các nhà chiêm tinh phương Đông ra về, vua Hê-rô-đê nổi giận tìm cách giết Hài Nhi. Được sứ thần Chúa báo tin, thánh Giuse “liền trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập”. Trước một cuộc xuất hành xa xôi và không biết ngày về, ta thường chuẩn bị kỹ càng. Dầu vậy, Thánh Gia Thất làm gì có thời giờ để chuẩn bị. Điều cần thiết là phải làm sao bảo toàn tính mạng cho Hài Nhi và mẹ Người. Ta có thể tưởng tượng ra khung cảnh thánh Giuse chuẩn bị cấp tốc cho một chuyến đi sang tận Ai-cập. Chuẩn bị mấy đi nữa cũng chỉ có hạn. Phương tiện chuyên chở căn bản là con lừa. Đồ đạc phải là những đồ dùng cần thiết nhất. Tuy nhiên trang bị tối cần vẫn phải là lòng tin, hoàn toàn tín thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Đây là điều thánh Giuse hơn tất cả các gia trưởng của mọi gia đình trong nhân loại. Có tin tưởng Chúa, Người mới lập tức lên đường ngay giữa đêm khuya. Có tin tưởng Chúa, Người mới sẵn sàng làm một cuộc hành trình hoàn toàn ngoài dự tính của Người, đến nơi xứ lạ quê người và không rõ tương lai đi về đâu. Thánh Giuse là con người của đức tin, giống hệt như tổ phụ Người là Áp-ra-ham, lúc nào cũng tìm cách làm theo thánh ý Thiên Chúa.
Có thể lối diễn tả của thánh sử Mát-thêu làm cho ta có cảm nghĩ như thánh Giuse quá thụ động. Sứ thần Chúa bảo đi là Người đi, bảo về là Người về. Nhưng chắc chắn là thánh Giuse không thụ động như vậy đâu. Một đàng Người mau mắn làm theo ý Chúa, nhưng mặt khác Người cũng phải đối phó với những khó khăn, phải xoay sở tháo vát để chu toàn bổn phận gia trưởng của Người. Có lẽ chẳng ai dám “xúc phạm” đến lòng khiêm tốn và đức tin mạnh mẽ của Người nên không dám kể ra những công khó của Người trong đời sống của Thánh Gia Thất đấy thôi! Làm sao ta có thể kể hết công ơn của Đấng đã hiến thân phụng sự trong kế hoạch của Thiên Chúa, “để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ: Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai-cập… và Người sẽ được gọi là người Na-da-rét”.
Sống Lời Chúa
Gia đình là một đơn vị nòng cốt của nhân loại. Nhân loại được thăng tiến hay không hoàn toàn do gia đình. Nhân loại được tăng số “như sao trời, như cát biển” là nhờ gia đình. Nhân loại nên tốt hay xấu cũng là do gia đình. Kể từ khi tội lỗi xâm nhập vào nhân loại, nền tảng gia đình bị phá hoại, quan hệ gia đình bị tổn thương, nên gia đình cần phải được phục hồi những gì đã bị tội lỗi tước bỏ. Sự hiện diện của Thiên Chúa giữa gia đình qua việc Con Một Người xuống thế làm người con của gia đình Na-da-rét, Thiên Chúa thi hành kế hoạch phục hồi ấy. Chúa Giêsu giúp ta đặt lại vấn đề của bậc làm con cái. Thánh Giuse nói lên gương mẫu của bậc gia trưởng. Mẹ Ma-ri-a phản ánh những nhân đức đầy tinh thần của Chúa mà Mẹ đã dạy dỗ rèn luyện cho Chúa Giêsu từ khi tấm bé cho thành người “được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến”. Như vậy ta có thể ý thức được tầm mức quan trọng của Thánh Gia Thất như thế nào trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.
Suy nghĩ: Suy tư về sự hiệp nhất trong gia đình, thánh Phaolô viết: “Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái” (Cl 3:14). Vậy tôi hiểu tại sao lòng bác ái lại quan trọng như thế? Từ lâu, nói đến bác ái là tôi thường nghĩ đó là việc đối xử với người ngoài gia đình. Lời thánh Phaolô có giúp tôi phải đặt lại vấn đề bác ái không? Nếu có, tôi phải xét lại đời sống gia đình tôi như thế nào và phải làm gì để mọi người trong gia đình biết sống bác ái đối với nhau?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã muốn đề cao Thánh Gia như tấm gương xán lạn để mọi người bắt chước. Xin làm cho chúng con cũng biết noi gương để ăn ở đúng lễ nghĩa gia phong, sống đùm bọc lẫn nhau trong tình yêu mến, hầu được chung hưởng niềm an vui vĩnh cửu trong nhà Chúa trên trời. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện nhập lễ, lễ kính Thánh Gia Thất). [Mục Lục]
- 28. Gia Đình Thánh
Anh chị em thân mến.
Trong những ngày này, nếu có theo dõi tin tức thời sự, anh chị em thường nghe nói đền tình hình ở Trung Đông, đặc biệt là tình hình chiến sự tại Iraq. Đất nước Iraq giờ đây đang trong tình trạng chiến tranh hỗn loạn vì những người có trách nhiệm cai trị không hợp lòng dân, họ xem quyền lợi cá nhân là trên hết, chỉ biết có bản thân mình. Người trong nước lại đánh nhau, những người cùng tôn giáo tranh giành ảnh hưởng và tàn sát lẫn nhau, những người có thế lực, có trách nhiệm thì lại đàn áp và chà đạp người khác, tình trạng trở nên hỗn loạn, người người oán than. Tình hình như thế, tự họ không giải quyết cho đất nước mình được, nên những người bên ngoài đến và giải quyết cho họ. Tình trạng càng trở nên tệ hại hơn, cảnh tàn sát càng ác liệt hơn.
Nếu họ biết yêu thương nhau hơn, biết nghĩ về nhau nhiều hơn, biết lo cho nhau và lo cho đất nước, thì người bên ngoài không thể vào đất nước họ được. Cảnh yên bình chỉ trở lại khi mọi người nhìn thấy trách nhiệm và biết lo cho nhau.
Trong ngày lễ mừng kính Gia Đình Thánh, gương mẫu cho mọi gia đình, qua bài Phúc Âm chúng ta nhận ra: mỗi người trong Gia Đình Thánh đều sống đúng vai trò của mình, chu toàn trách nhiệm cách hết sức hoàn hảo.
Thánh Giuse người gia trưởng là chỗ dựa vững chắc cho mọi người trong gia đình. Khi được biết gia đình gặp nguy hiểm, Ngài không quảng ngại khó khăn cho bản thân, không phiền trách người khác, không coi mọi người là gánh nặng, nhưng ngay tức khắc Ngài lo bảo vệ cho gia đình được an toàn.
Còn Mẹ Maria nhìn thấy trong sự hiểu biết và thông cảm, cùng với lòng tin yêu, Mẹ chấp nhận trong sự vâng phục mà không lời phiền trách. Mẹ còn phụ giúp trong hành động để công việc được nhẹ nhàng và nhanh chóng hơn.
Ngôi Hai Thiên Chúa, trong giây phút này cũng thinh lặng, chấp nhận theo những toan tính của con người, để mọi người được chu toàn trách nhiệm của mình.
Nếu trong lúc đó, Mẹ Maria hay Thánh Giuse không bằng lòng với hiện tại, kêu la khóc lóc mà không hành động, hay hành động trái ngược lại, hoặc tệ hại hơn nữa là không chấp nhận nhau, thì mọi việc sẽ ra sao?
Gương sáng cho mọi gia đình đó là Thánh Gia. Nhiều người biết đến Thánh Gia, nhiều người biết đến gương tốt đẹp này, nhưng họ không thể nào sống theo được. Chúng ta nhìn thấy chiến tranh, khủng bố vẫn còn tái diễn hằng ngày, ở mọi nơi, vì con người không biết chấp nhận nhau.
Trong gia đình cũng thế; biết bao nhiêu cuộc ly tan, biết bao nhiêu cảnh hỗn độn trong gia đình, những điều mà tưởng chừng như không thể, lại diễn ra: vợ chồng nói xấu nhau đưa ra trước nơi công cộng để cho mọi người xét xử, con cái trong gia đình không chấp nhận cha mẹ, hay ngược lại và cũng đưa trước nơi công cộng để chờ sự phán quyết của những người không thuộc thành phần gia đình của họ. Trong gia đình Giáo hội mà chúng ta là thành phần, chúng ta cũng chỉ trích, không chấp nhận nhau, tìm cách loại trừ nhau và cũng chờ sự phán quyết của những người không thuộc gia đình Giáo Hội. Như thế không phải tại Irac mới có chiến tranh khủng bố, mà ngay tại mỗi người chúng ta chiến tranh và khủng bố cũng xảy ra hằng ngày.
Gương của Thánh Gia chúng ta biết rất rỏ. Nhưng cái biết và sống lại không đi đôi với nhau. Chúng ta nhìn vào đời sống chính mình, nếu nhận thấy rằng: chúng ta chu toàn trách nhiệm hằng ngày được trao phó một cách tốt đẹp, với một tâm tình phó thác và với nụ cười trên môi thì thật hạnh phúc cho chúng ta. Những lúc đó chúng ta đang noi gương theo Gia Đình Thánh, những lúc đó chúng ta biết chấp nhận nhau và cùng giúp nhau để tạo sự bình an cho nhau.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa ban ơn Giúp sức cho mỗi người chúng ta, biết chu toàn trách nhiệm của mình trong gia đình, trong cuộc sống cùng giúp nhau tiến bước theo Thánh Gia. [Mục Lục]
- 29. Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu Duyên
Cả ba bài đọc trong Thánh Lễ hôm nay tuy đề cập đến nhiều vấn đề khác nhau của đời sống hôn nhân và gia đình, nhưng đều nói tới một điểm quy chiếu duy nhất của đời sống ấy. Bài sách Huấn Ca mở đầu ngay với khẳng định “Đức Chúa làm cho người cha được vẻ vang vì con cái, cho người mẹ thêm uy quyền đối với các con”. Thánh Phaolô thì dạy “Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giêsu…” Còn Tin Mừng thánh Matthêu không ngần ngại cho thấy các biến cố của đời sống gia đình đều “để ứng nghiện lời Chúa đã phán xưa qua miệng ngôn sứ”.
Khi đọc Tin Mừng, chúng ta không thể phủ nhận sự thật này là “Lời Chúa, Ý muốn của Chúa” đó là yếu tố cấu thành nên Gia Đình Thánh Gia. Nếu chính Ý Chúa qua Lề Luật đã dẫn đến việc đính hôn của Giuse và Maria, thì cũng chính là Lời đã Nhập Thể, đã đầu thai trong lòng Trinh Nữ , và cũng chính là Lệnh Truyền đã đưa Giuse đến quyết định đưa Maria về chung sống. Và cũng từ ngày đó, Giuse đã chăm lo để Thánh Ý luôn luôn được thực hiện một cách hòan hảo nhất cho Gia Đình Thánh. Đó cũng chính là tâm nguyện tuyệt đối của Maria từ khi thưa với Sứ Thần “Này tôi là tôi tá Chúa, xin vâng như lời sứ thần truyền”, cho đến tận Núi Sọ khi Bà hiến dâng Con Yêu cho Thiên Chúa và cho nhân lọai. Và là trọn vẹn cuộc sống của Đức Giêsu, người con duy nhất của Gia đình, như chính Ngài khẳng định “Ta đến không để làm theo ý ta, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai ta.”
Đọc Tin Mừng, chúng ta càng không thể phủ nhận sự thật lớn lao trọng tâm của gia đình chính là “Hài Nhi”: đó là lý do, là mục đích cho mọi quyết định, mọi lựa chọn, mọi hành vi của gia đình như chúng ta thấy trong câu chuyện hôm nay, dù phải từ bỏ mọi quyền lợi chính đáng của bản thân mỗi thành viên. Và chính “Hài Nhi” khi được đón nhận với tình yêu thương quảng đại đã làm triển nở cách hài hòa và bền vững mái ấm gia đình.
Tuy nhiên sự thật về “Hài Nhi” trong Tin Mừng phải là sự thật của mỗi một hài nhi trong mỗi gia đình nhân lọai, đó là điều đã được công bố trong Gia Đình Thánh và phải được tiếp tục công bố trong mỗi gia đình Kitô hữu. Đó là “cuộc sống cá biệt này, một mặt thấy thật bình thường và đơn sơ, mặt khác lại rất lạ lùng và mầu nhiệm, đã đưa Nước Thiên Chúa vào lịch sử nhân lọai và “đem sức mạnh của Nước ấy vào mọi khía cạnh của đời sống con người và xã hội, vốn bị vây bọc bởi tội lỗi và sự chết”. Bằng lời nói và việc làm của mình, nhất là bằng đau khổ, cái chết và sự sống lại, Đức Giêsu đã thi hành ý muốn của Cha Ngài là hòa giải tòan thể nhân lọai với Chúa Cha, sau khi quan hệ giữa Đấng Tạo Hóa và thụ tạo bị tội nguyên tổ cắt đứt… Bằng cách này, ơn cứu độ đã được thực hiện một lần dứt khóat…vì lời nói và việc làm, nhất là sự phục sinh của Ngài từ cõi chết, đã mặc khải cho chúng ta thấy Ngài đúng là Con Thiên Chúa…” (THGHTAC 11). Tông huấn cũng nhận định “gia đình là nơi bình thường cho giới trẻ lớn lên, để đạt tới sự trưởng thành cá nhân và xã hội”, mặt khác “gia đình chiếm giữ một vị trí rất quan trọng trong các nền văn hóa Á Châu…” do đó Tông Huấn nhấn mạnh “Các gia đình Kitô hữu cũng như tòan thể Giáo Hội phải là nơi lấy chân lý Tin Mừng làm quy luật sống và làm qùa tặng mà mỗi thành viên của gia đình mang đến cho cộng đòan rộng lớn hơn.”
Qua các cử hành liên quan tới Mầu Nhiệm Nhập Thể và Giáng Sinh, cũng như sự hòan thành sứ mạng, vai trò và địa vị của mỗi thành viên trong Gia Đình Thánh, chúng ta cảm nghiệm và xác tín cùng với các Nghị Phụ THĐGMAC “Chúa Thánh Thần là tác nhân chủ yếu…” và “sứ mạng trần gian của Chúa Giêsu được hòan thành nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần…”, vì thế gia đình kitô hữu cũng như chính Giáo Hội phải luôn lắng nghe và đón nhận lời nhắc nhở của Chúa Thánh Thần rằng mình “không phải là cùng đích của chính mình”. Giáo Hội cũng như gia đình “được trao cho nhiệm vụ trở thành dấu chỉ và dụng cụ chân thực để Chúa Thánh Thần họat động…làm chứng cho Đức Giêsu Cứu Thế một cách mới mẻ và hiệu qủa trong tất cả các hòan cảnh khác nhau…”
Vì vậy, điều mà Thánh Phaolô khuyên các gia đình “anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại… chịu đựng và tha thứ… và trên hết mọi sự, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo.” , mối dây mà nơi khác Thánh Tông Đồ khẳng định chính là Thánh Thần. Những lời khuyên ấy thực sự, chúng ta đều đã gặp thấy được sống trọn hảo thế nào trong Gia Đình Thánh Gia, phải trở nên khuôn mẫu cho mọi gia đình.
Ước gì khi chúng ta sốt sáng cử hành tôn vinh Thánh Gia Thất, thì chúng ta cũng được chia sẻ cùng một Thánh Thần của Gia Đình Thánh để làm cho “Hài Nhi Giêsu” được lớn lên đạt tới mức viên mãn trong mỗi thành viên gia đình của chúng ta. [Mục Lục]
- 30. Gia đình là cộng đoàn yêu thương
Một trong những nỗi lo lắng của giới hữu trách đạo cũng như đời hiện nay là nền tảng gia đình ngày càng có xu hướng tuột dốc. Con số những gia đình đổ vỡ ngày càng trở nên báo động. Dĩ nhiên có rất nhiều nguyên nhân. Nhưng một trong những nguyên nhân đó là các gia đình thiếu yêu thương nhau thật sự.
Là người Công giáo chúng ta thật may mắn vì vào mỗi mùa Giáng sinh Chúa và Giáo hội cho chúng ta mừng lễ Thánh Gia. Thánh Gia gồm có Chúa Giêsu – Ðức Mẹ và Thánh Giuse. Gia đình là cộng đoàn yêu thương chính là điều rất quý giá mà chúng ta học được qua mẫu gương gia đình Thánh Gia.
Yêu thương nhau là điều kiện tiên quyết để gìn giữ hạnh phúc gia đình. Khi người thanh niên và cô thiếu nữ tự nguyện đến với nhau chắc chắn là vì yêu thương nhau. Dù vậy, chúng ta xem kỹ họ đã yêu thương nhau vì động lực nào và họ yêu thương nhau như thế nào. Ðộng lực để yêu thương nhau là vì muốn đền đáp lại tình yêu mà Thiên Chúa ban cho mình.Với người Công giáo chúng ta đã được Chúa Giêsu dạy: “Các con hãy yêu thương nhau như chính Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15, 12 ). Yêu như Thầy yêu là hy sinh, là quan tâm cho nhau.
Chỉ khi thật sự cảm nghiệm được tình yêu của Chúa dành cho mình bao la như thế nào thì chắc chắn chúng ta sẽ biết làm gì để yêu thương những người trong gia đình mình. Chính từng thành viên trong gia đình Thánh Gia cũng đã vì thế mà đã yêu thương nhau thật sự.
Kết quả của tình yêu vợ chồng sẽ sinh ra những đứa con. Như thế, những người làm cha mẹ cũng được kêu gọi hãy biết quý trọng con cái mình sinh ra. Chúng ta thấy, Ðức Mẹ và Thánh Giuse với cái nhìn bình thuờng thì Hài nhi Giêsu chẳng phải là máu mủ của mình nhưng các ngài đã bằng mọi cách mà bảo vệ. Trước khi sinh Chúa Giêsu thì họ đã bị đuổi và phải trốn chui trốn nhủi. Rồi khi sinh ra thì cũng chưa yên phải trốn sang Ai Cập để tránh cơn bạo hành của vua Hêrôđê.
Ngày nay chúng ta thấy có nhiều người làm cha mẹ chỉ vì ích kỷ nên sẵn sàng giết con của mình ngay từ trong bào thai. Họ viện đủ lý do để biện minh cho hành vi sai trái của mình. Con cái chính là quà tặng tình thương mà Thiên Chúa ban cho những ai sống trong bậc gia đình. Có cảm nhận được cực khổ của bổn phận làm cha mẹ thì mới biết thương cha mẹ của mình.
Chúa Giêsu đã chọn gia đình để được sinh ra và lớn lên thì chắc hẳn Chúa thấu hiểu được tất cả nỗi khổ cực của chúng ta. Chúng ta hãy chạy đến với Thánh Gia để xin các Ngài phù giúp chúng ta làm tròn bổn phận của mình trong gia đình. [Mục Lục]
- 31. Một kiểu vâng lời luôn hợp thời
Những việc nhỏ mọn xảy ra hằng ngày trong đời sống của một đứa bé đều quan trọng đối với bậc cha mẹ, nhưng những người chung quanh ít để ý và mau quên lãng. Tuổi thơ ấu của Chúa Giêsu được đánh dấu bởi một ít việc khác thường, nhưng khi thánh Mátthêu viết Phúc Âm (chắc chắn số người biết rõ tuổi thơ ấu của Chúa đang sống tản mác hoặc đã từ trần rồi), thánh nhân chỉ phác vẽ lại cách giản dị kỷ niệm về các sự việc ấy và tán dương chúng bằng cách chiếu rọi lên chúng ánh sáng của Thánh Kinh. Cũng nên nói thêm rằng trong trường hợp này, tác giả giải thích Thánh Kinh một cách rất tự do. Trong sách tiên tri Ôsê (11,1), đứa con được gọi từ Ai Cập về chính là Israel. Thật ra chiều sâu của thực tại thiêng liêng mà Mátthêu nêu lên, vượt xa trình độ của câu chuyện kể lại. Nhắc đến việc từ Ai Cập trở về, là nhắc đến biến cố Phục Sinh mang lại ơn cứu độ nhờ Đức Giêsu Kitô. Ngoài ra, ta nhận thấy thánh Mátthêu nói nhiều đến thánh Giuse trong các câu chuyện về thời niên thiếu của đức Kitô. Đối với người gia trưởng của Thánh Gia, tuổi thơ ấu của Đức Kitô không trôi qua trong bầu khí thơ mộng mà các nhà nghệ sĩ đã phổ vào tác phẩm của họ. Nó bi thiết lắm. Giuse là người di cư, là người đi tìm một nhà ở, là người thợ lo lắng tìm ra nghề để nuôi sống gia đình. Giuse xuất hiện với chúng ta như một con người sau khi đã chấp nhận dấn thân vào một định mệnh do Thiên Chúa đề nghị, vẫn trung thành với lời cam kết dù gặp khó khăn thử thách. Cái chìa khóa giúp ta hiểu thánh Giuse là lòng tuân phục Chúa. Ta nên lưu ý tới câu “Giuse chỗi dậy”. Câu này chỉ ba điều:
1) Sự tuân phục Thiên Chúa gây xáo trộn cho con người. Cứ tưởng tượng Giuse mới vất vả cất được căn nhà nhỏ ở Bêlem rồi ở Ai Cập. Thế rồi Chúa đến quấy rầy người. Hãy chỗi dậy! Câu chuyện này xảy ra trên bình diện đời sống gia đình đối với Giuse, vẫn thường xảy ra trên bình diện thiêng liêng cho mọi Kitô hữu có Đức Kitô trong cuộc sống mình. Đức Kitô thích phá tan những ‘tòa nhà’ ý tưởng, nhân đức tiện nghi tinh thần của ta. Phải sẵn sàng đứng dậy, nghĩa là để Chúa quấy rầy ta về trí thức cũng như luân lý.
2) Giuse chỗi dậy, nghĩa là vâng lời lập tức. Người vâng lời mau mắn vì Người yêu mến. Yêu mến Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Vì lợi ích của các Đấng, người không thể trì hoãn. Ta khó vâng lời vì ta thiếu mất một cái gì: thiếu tình yêu.
3) Giuse đặt tin tưởng nơi Thiên Chúa. Lòng tín thác là sự triển nở của đức tin chân chính. Chúa quấy rầy Giuse, đẩy người vào trong xa lạ. Người không bàn cãi, không hoảng hốt, người hành động.
Người có thể nêu ra bao nhiêu thứ câu hỏi về tương lai. Nhưng người hành động ngày này qua ngày khác, luôn luôn vâng lời Thiên Chúa. Ý nghĩ về ngày mai, người đặt vào trong đức tin nơi Thiên Chúa. Một lòng tín thác như thế vẫn phải trả giá rất đắt đối với mọi người cha gia đình ngày hôm nay, họ phải có đức tin mạnh để vượt qua những khó khăn lớn lao.
Ngày 08/12/1870, Đức Thánh Cha Piô IX đã chọn thánh Giuse làm bổn mạng Đại Gia Đình Giáo Hội. Ta hãy cầu nguyện như Đức Gioan XXIII: “Lạy thánh Giuse, xin lấy tinh thần bình an, lặng lẽ và hoạt động của Ngài phụng sự Hội Thánh, mà tăng cường sinh lực cho chúng con luôn mãi”. [Mục Lục]
- 32. Cộng đoàn nên thánh
Anh chị em thân mến,
Nhiều ca dao tục ngữ Á đông nói về gia đình và ảnh hưởng của gia đình: con không cha như nhà không nóc, con không mẹ như cột nhà xiêu – cha còn gót đỏ như son, đến khi cha mất gót con đen sì – gia đình chính là Hội Thánh thu nhỏ – gia đình là Hội thánh tại gia …
Thế giới ngày hôm nay, người ta đặc biệt quan tâm đến gia đình, vì nhiều nguy cơ làm đổ vỡ hạnh phúc gia đình, ngay cả gia đình công giáo. Ảnh hưởng văn minh vật chất của xã hội, ý thức tự do cao độ, do quá chú trọng giá trị bên ngoài… những yếu tố trên đã làm cho nhiều gia đình mất phương hướng, không biết sống làm sao, cư xử thế nào…. Thực ra, ngày hôm nay hơn bao giờ hết, con người cần có ánh sáng Lời Chúa để hướng dẫn, nhất là giúp cho các gia đình hiểu ý nghĩa và sứ mạng của mình. Đức Thánh Cha Bênêditô 16 nói: “Con cái có quyền có một gia đình như Thánh Gia thất. Gia đình là nơi lý tưởng để mọi người học biết cho đi và đón nhận tình yêu….”
a/. Gia đình thánh là mẫu gương các gia đình kitô hữu và cả nhân loại nữa; chính vì lẻ đó, mà Hội thánh mừng kính hôm nay. Bây giờ ta hãy đọc lại Thư thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Côlôssê (3, 12-21), xem thánh Phaolô dạy thế nào? Gia đình kitô hữu phải:
* Hãy sống hiền hòa, nhẫn nại, tha thứ cho nhau, như chính Chúa tha chứ cho anh em.
* lấy đức bác ái làm nền tảng; đó chính là mối dây liên kết giữa mọi con cái Chúa.
* Ước gì ơn bình an, và Lời Chúa Kitô cư ngụ dồi dào trong anh em. Trong tâm tình tạ ơn, khi ta làm gì nói gì, cũng đều nhân danh Chúa Giêsu Kitô…
* Vợ hãy phục tùng chồng; chồng hãy yêu thương vợ. Con cái hãy yêu thương cha mẹ. Cha mẹ đừng dùng uy quyền kẻo con cái nhác đãm.
Thánh Phaolô đã dạy rất xác đáng bổn phận của các thành viên trong gia đình: lấy đức yêu thương làm nền tảng trong việc đối xử với nhau – dùng tính nhẫn nại, tha thứ mà cử xử nhau – trong mọi sự, mọi người cư xử với nhau, nhân danh Chúa. Mọi người khi có sự bình an của Chúa ở cùng, sẽ dễ dàng tha thứ cho nhau; nhất là làm sao nở đối xử cứng cỏi với nhau?
b/. Phúc âm không nói nhiều về Gia đình Thánh; dù vậy Hội thánh vẫn coi Gia đình Thánh chính là gương mẫu của các gia đình công giáo, là mẫu gương tuyệt vời về việc thực hành lời dạy của thánh Phaolô. Gia đình Thánh cũng chính là mẫu gương cao cả về việc lấy đức ái làm nền tảng cho gia đình, nhất là dùng đức ái làm dây liên kết với nhau.
Mẹ Maria là một Tạo Vật hoàn hảo của Thiên Chúa. Hiểu rõ điều này, ta sẽ hiểu được chân lý tiếp theo: Mẹ là như thế đó, làm sao ta có thể hiểu được Mẹ, nếu Mẹ không sống đức ái? Nói cách khác, vì Mẹ sống trong tình yêu hiệp thông liên lỉ với Con Mẹ, nên khi ta nói Mẹ lấy đức ái làm nền tảng của gia đình, xem ra là thừa; vì tình yêu hiệp thông nơi Mẹ chính là hình bóng của tình yêu hiệp thông vĩnh cữu nơi TC.
Còn Thánh Giuse nữa, vị thánh đồng trinh và khiêm tốn hết mực, được gọi là tôi trung của Thiên Chúa, làm sao lại không sống trong tình yêu hiệp thông như Mẹ Maria; có chăng mức độ hiệp thông của Thánh Cả không sao so sánh được với Mẹ Maria thôi. Những điều nói trên không phải là những ý niệm tưởng tượng ; đó chính là sự thật thần linh trong Gia đình Thánh. Cũng chính vì lẻ đó mà ta gọi gia đình này là Gia đình Thánh…
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Gia đình thánh là như thế. Ta có muốn gia đình mình cũng là gia đình thánh không? Dù gia đình mình chưa phải là gia đình thánh, Mẹ Maria hằng ngày vẫn luôn cầu nguyện cho gia đình chúng ta nên thánh, ta có muốn cộng tác với Mẹ Maria, để biến gia đình ta nên thánh không? [Mục Lục]
- 33. Trốn sang Ai Cập
(Trích từ ‘Manna’ – Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy Niệm
Đoạn Tin Mừng trên đây kể lại một biến cố không vui. Con Thiên Chúa bị Hêrôđê đe dọa tính mạng. Được mộng báo, đang đêm Giuse phải đem gia đình đi trốn.
Đất Ai cập vẫn được coi là chỗ trú ẩn an toàn? Nhưng ngay cả khi vua Hêrôđê lìa đời, mối đe dọa vẫn còn tồn tại. Archelao kế nghiệp vua cha, là người tàn ác không kém, khiến Thánh gia chẳng dám về ở vùng Giuđê, mà phải trở về quê nhà ở Nadarét.
Như thế cuộc sống của Thánh gia chẳng phải là êm ả.
Đâu phải có Chúa là tránh được căng thẳng, long đong.
Chỉ có một điều Thánh gia đã không để mất, đó là niềm tín thác vững vàng vào Thiên Chúa, ngay giữa những hiểm nguy từ phía bạo quyền, đó là tình yêu thương gắn bó với nhau, giữa những lúc khó khăn chồng chất.
Rồi mọi sự sẽ qua, rồi bình an sẽ trở lại.
Nhìn lại cuộc sống Thánh gia, ta thấy có nhiều sóng gió. Có lúc tưởng như tan vỡ, khi thánh Giuse định rút lui? Có lúc bối rối khi ở Bêlem không tìm ra chỗ trọ. Có những ngày đôn đáo tìm con trong nước mắt. Có lúc họ hàng tưởng Đức Giêsu mất trí, nên đi bắt về. Và nhất là có lúc Mẹ phải đứng bên xác con? Thánh gia chẳng được hưởng một chút ưu đãi nào.
Một gia đình vô cùng thánh thiện và gương mẫu cũng phải chịu bao khổ đau và nghịch cảnh, nhờ đó mọi gia đình Kitô hữu khác có thể yên tâm đứng vững giữa những lúc mây mù.
Các gia đình hôm nay cũng bị đe dọa. Có những gia đình quá nghèo túng và nợ nần. Có những trẻ thơ bị thất học, bị bỏ rơi, bị lạm dụng.
Mối đe dọa lớn nhất là thiếu vắng tình yêu.
Có những xung đột giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái. Kết quả là nạn phá thai, ngoại tình, ly dị. Gia đình chẳng còn là dòng suối ngọt ngào, nơi mọi người lớn lên nhờ yêu và được yêu.
Nhờ kiên nhẫn lắng nghe, nhờ dịu dàng đối thoại, nhờ bầu khí cảm thông khiến người ta dám chấp nhận nhau.
Trong một cuộc phỏng vấn, mẹ Têrêsa phát biểu: “Tôi nghĩ rằng không phải ai cũng ý thức về tầm quan trọng của gia đình. Nếu chúng ta đưa tình yêu trở lại gia đình, thế giới này sẽ đổi khác.”
Thế giới băng hoại vì gia đình thiếu tình yêu. Giới trẻ nghiện ngập và hư hỏng vì bơ vơ, buồn chán.
Ước gì mỗi gia đình Kitô hữu đều là một mái ấm, đầy ắp tình yêu, đầy ắp Thiên Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, ngày nay điều gì đang đe dọa hạnh phúc gia đình, điều gì đang gây khó khăn cho việc giáo dục con cái?
Gia đình Kitô hữu là một Giáo hội nhỏ. Theo ý bạn đâu là những nét nổi bật của một gia đình Kitô hữu gương mẫu? Chúng ta có thể học được gì nơi Thánh gia?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, sau hơn 30 năm sống dưới mái nhà ở Nadarét, Chúa đã thành một người chín chắn và trưởng thành, sẵn sàng lãnh nhận sứ mạng Cha giao.
Bầu khí yêu thương đã góp phần không nhỏ trong việc hình thành nhân cách của Chúa.
Chúa đã học nơi thánh Giuse sự lao động miệt mài, sự mau mắn thi hành Thánh ý Thiên Chúa, sự âm thầm chu toàn trách nhiệm đối với gia đình.
Chúa đã học nơi mẹ Maria sự tế nhị và phục vụ, sự buông mình sống trong lòng tin phó thác và nhất là một đời sống cầu nguyện thâm trầm.
Xin nhìn đến gia đình chúng con, xin biến nó thành nơi sản sinh những con người tốt, biết yêu thương tha thứ, biết cầu nguyện và phục vụ.
Ước gì xã hội chúng con lành mạnh hơn, Giáo hội chúng con thánh thiện hơn, nhờ có những con người khỏe mạnh, khôn ngoan và tràn đầy ơn Chúa. [Mục Lục]
- 34. Lễ Thánh Gia
Nhân vật nữ được tuần báo Time chọn làm người của năm 1996 là công chúa Diana của Anh Quốc. Trong phỏng vấn dành cho đài BBC, công chúa đã không ngần ngại bộc bạch hết câu chuyện đổ vỡ của gia đình bà. Sự đổ vỡ của gia đình vương giả này khiến nhiều người phải tiếc xót. Bởi vì, nếu xét theo những tiêu chuẩn thông thường, thì quả thực cặp vợ chồng này có mọi sự để được hạnh phúc, như danh vọng, tiền tài, địa vị. Thế nhưng tại sao họ không tìm được hạnh phúc trong gia đình? Đâu là nguyên nhân dẫn đến sự đổ vỡ này? Có lẽ họ còn thiếu một cái gì đó mà sự giàu sang phú quý không thể mua được cũng như khiến họ không thể vượt qua được khó khăn thử thách.
Hôm nay Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm Thánh Gia thất để múc lấy bí quyết hạnh phúc gia đình. Cũng như bao gia đình khác. Thánh gia cũng đã trải qua nhiều sóng gió, thử thách. Chúng ta hãy nhìn lại cảnh bối rối mà có lẽ ít có đôi vợ chồng trẻ nào phải trải qua: vợ sắp sinh đi tìm một quán trọ để qua đêm nhưng không có, cuối cùng phải vào một chuồng súc vật và sinh con ở đó, và rồi sau đó đã phải vội vã đi lánh nạn trong một cuộc hành trình cam go và sống giữa những người xa lạ. Bí quyết đã giúp Đức Maria và thánh Giuse vượt qua khó khăn thử thách, đó là có Chúa Giêsu bên cạnh. Sự hiện diện của Chúa Giêsu chính là nền tảng của gia đình Nagiarét.
Cũng như Thánh gia thất, ngày nay các gia đình Việt Nam cũng đang trải qua bao khó khăn thử thách. Trước tiên là cái nghèo và rồi từ nghèo khổ sinh ra dốt nát, dốt nát kéo theo bao hệ lụy khác. Tuy nhiên, nhìn vào gương Thánh gia thất, chúng ta thấy rằng nghèo khổ không đương nhiên gây nên bất hạnh và đổ vỡ cho gia đình. Tỷ lệ những đổ vỡ của các gia đình tại các nước công nghiệp tiên tiến là bằng chứng cho thấy giầu có chưa hẳn đã là một bảo đảm cho hạnh phúc gia đình.
Không những trải qua cảnh nghèo. Thánh gia thất còn phải đương đầu với bạo chúa Hêrôđê nữa. Ngày nay, các gia đình cũng phải đương đầu với nhiều thứ bạo chúa, như các phương tiện truyền thông quảng bá lối sống đồi phong bại tục nhằm lung lạc và đầu độc giới trẻ, hoặc những luật pháp áp đặt những luật lệ nhằm phá đổ chính nền tảng thánh thiêng của gia đình, chẳng hạn luật cho phép phá thai, ly dị…
Thánh gia thất đã vượt qua được sóng gió nhờ niềm tin vững chắc vào sự hiện diện của Chúa trong gia đình. Đó cũng là bí quyết mà Giáo Hội đề ra cho chúng ta khi mời gọi chúng ta chiêm ngắm Thánh gia thất. Lấy sự hiện diện của Chúa Giêsu làm nền tảng vững chắc cho gia đình chính là mặc lấy tâm tình từ bi, nhân hậu, tha thứ cho nhau; lấy sự hiện diện của Chúa Giêsu làm nền tảng vững chắc cho gia đình chính là lấy sự cầu nguyện trong gia đình làm mối giây liên kết mọi người: một gia đình cầu nguyện chung với nhau là một gia đình đứng vững, và đó là điều chúng ta phải cầu xin cho nhau. [Mục Lục]
- 35. Thánh Gia
Có một câu chuyện kể lại rằng: Giữa đường chạy trốn sang Ai Cập, để tránh khỏi sự tàn sát của Hêrôđê, Thánh Gia đã gặp phải một bọn cướp và bị chúng bao vây. Vừa khi chúng định nhào tới trấn lội đôi vợ chồng trẻ, thì một tên trong bọn tên là Dismas, bỗng nhận ra đôi tay Mẹ Maria có ẵm một Hài Nhi.
Quá xúc động trước nét mặt vô tội củaHài Nhi, hắn đã khuyên can đồng bọn để cho Thánh Gia ra đi được an toàn. Trước khi rút lui, hắn đã nghiêng mình trên Hài Nhi Giêsu và nói:
– Xin hãy nhớ đến tôi và đừng bao giờ quên giây phút này.
Truyền thuyết kể tiếp: Về sau tên cướp ấy đã trở thành người trộm lành, bị đóng đinh cùng với Chúa Giêsu trên thập giá. Và chính Ngài đã nói với anh ta:
– Ngày hôm nay, con sẽ được ở cùng Ta trên thiên đàng.
Dĩ nhiên đây chỉ là một truyền thuyết, nhưng từ đó, chúng ta có thể tìm thấy được một kết luận quan trọng. Đó là khi trốn sang Ai Cập, Thánh Gia đã gặp phải rất nhiều hiểm nguy.
Thời xưa, hầu như mọi người đều đi thành từng đoàn, bởi vì nhiều quãng đường thường bị những bọn cướp kiểm soát, uy hiếp và trấn lột. Điên rồ lắm mới đi một mình, trừ khi vì khẩn cấp như trường hợp của Thánh Gia hôm nay.
Thánh Gia cũng là một gia đình bình thường như gia đình của chúng ta, nghĩa là cũng đã phải gánh chịu những khổ đau và cay đắng.
Đầu tiên đó là việc Mẹ mang thai bởi quyền phép Chúa Thánh Thần mà Giuse không hay biết, khiến ông đã tính từ bỏ Mẹ một cách kín đáo. Rồi cuộc hành trình từ Nagiarét xuống Bêlem để đăng ký nhân hộ khẩu giữa lúc Mẹ đang bụng mang dạ chửa. Không tìm được quán trọ, Mẹ đã phải sinh Chúa trong cảnh khó nghèo của máng cỏ Bêlem. Hài nhi Giêsu mở mắt chào đời chưa được bao lâu, hai ông bà đã phải vội vã đem con trốn sang Ai Cập. Làm sao kể cho hết những hiểm nguy trên đường chạy trốn, cũng như những khó khăn vất vưởng nơi đất khách quê người. Rồi những năm tháng âm thầm vất vả nơi xưởng thợ Nagiarét. Và nỗi khổ đau khi lạc mất Chúa vào dịp lên đền thờ dự lễ vượt qua.
Thế nhưng, có một điều chúng ta cần phải học hỏi nơi Thánh Gia đó là đứng trước mọi biến cố khổ đau và bất hạnh, thánh Giuse và Mẹ Maria đều coi đó như là thánh ý Chúa gửi đến trong đời, để rồi các ngài đã mau mắn chu toàn, mà không một lời ca thán, mà không một tính toán hơn thiệt. Vì thế, lúc nào mái ấm của các ngài cũng ngập tràn hạnh phúc và bình an.
Còn chúng ta thì sao? Phải nhận rằng gia đình nào cũng có những vấn đề. Gia đình nào cũng có những lo lắng những khổ đau của mình. Gia đình nào cũng đã từng gặp phải những tai ương hoạn nạn. Tuy nhiên điều quan trọng là thái độ của chúng ta khi đứng trước những khổ đau gặp phải.
Rất có thể chúng ta đã phẫn uất, đã bực bội và tức tối, để rồi khổ đau chúng ta vẫn phải chịu mà chẳng đem lại lợi ích gì, mà hơn thế nữa, còn trở nên là một thứ chất độc làm hại tâm hồn chúng ta.
Trái lại, nếu chúng ta coi đó như là một thập giá, như là thánh ý Chúa gửi đến và cố gắng chu toàn trong lòng cuộc đời, lúc bấy giờ những khổ đau dù bé nhỏ và tầm thường nhất, cũng có được một giá trị to lớn, chúng sẽ trở thành những sợi chỉ vàng dệt nên tấm vải cuộc đời chúng ta. [Mục Lục]
- 36. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
GƯƠNG GIA ĐÌNH HẠNH PHÚC
Ngày lễ Thánh Gia là ngày lễ của các gia đình. Để làm khuôn mẫu cho các gia đình, ta tưởng Giáo Hội sẽ đưa ra hình ảnh một gia đình đầm ấm, vợ chồng con cái sum họp quanh bàn ăn, quanh chiếc ti vi. Hoặc chí ít cũng là cảnh thánh Giuse làm thợ mộc với sự giúp đỡ của Chúa Giêsu. Bên cạnh là Đức Maria đang ngồi khâu vá hoặc nấu nướng. Nhưng không, Giáo Hội mời gọi ta chiêm ngắm cảnh Thánh Gia chạy trốn bạo vương Hêrôđê giữa đêm hôm khuya khoắt.
Thánh Gia đã biết đến những hiểm nguy đe dọa hạnh phúc gia đình. Nhưng các Ngài đã biết cách gìn giữ gia đình bình an qua cơn dông tố. Các bài sách thánh đặc biệt bài Tin Mừng hôm nay trình bày cho ta những bí quyết mà Thánh Gia sử dụng để giữ được hạnh phúc gia đình.
Bí quyết thứ nhất đó là vâng nghe Lời Chúa. Thánh Giuse vâng lệnh Chúa truyền một cách mau mắn và tuyệt đối. Dù lệnh truyền ban ra giữa đêm khuya, Ngài thức giấc thi hành tức khắc. Dù lệnh truyền rất khó khăn Ngài vẫn mau mắn vâng lời. Đức Maria và Chúa Giêsu cũng có một thái độ vâng phục tuyệt đối như thế. Thánh ý Thiên Chúa luôn luôn là mệnh lệnh tuyệt đối. Lời Chúa dạy luôn luôn là kim chỉ nam. Thiên Chúa chính là người điều khiển gia đình các Ngài. Vì thế, dù gặp nhiều gian nan thử thách, gia đình các Ngài vẫn giữ được hạnh phúc.
Bí quyết thứ hai đó là coi con cái là vốn quý nhất. Con cái là vốn quý nhất nên các Ngài đã đem hết sức lực ra bảo vệ. Khi có những nguy cơ đe dọa, các Ngài đem con cái chạy trốn tránh xa. Vì con cái là vốn quý nhất, nên các Ngài sẵn sàng hy sinh tất cả: thời giờ, nhà cửa, tài sản, nghề nghiệp và công việc làm ăn, mong đem con cái đến nơi an toàn. Vì con cái là vốn quý nhất, nên các Ngài không ngần ngại nâng niu phục vụ. Hình ảnh thánh Giuse đi bộ dắt lừa cho Chúa Giêsu và Đức Maria là hình ảnh của một người chủ gia đình hết lòng nâng niu phục vụ vợ con. Vì con cái là vốn quý nhất, nên các Đức Maria đã dõi theo con đến cùng, nhẫn nhục đứng bên thập giá chia sớt đau khổ với con.
Bí quyết thứ ba đó là con cái luôn hiếu thảo với cha mẹ. Chúa Giêsu là một người con hiếu thảo. Tin Mừng tóm tắt cuộc sống thơ ấu của Người bằng một câu ngắn gọn: “Sau đó Người đi xuống cùng với cha mẹ trở về Nadarét và hằng vâng phục các Ngài” (Lc 2,51). Sự hiếu thảo của Chúa Giêsu được thấy trong tiệc cưới Cana. Khi đám cưới thiếu rượu, Đức Maria xin Người giúp. Tuy chưa đến thời điểm, nhưng Chúa Giêsu vẫn làm phép lạ cho nước biến thành rượu để giúp đám cưới theo yêu cầu của Mẹ. Cảm động hơn hết là giây phút cuối đời, khi bị treo trên thập giá, Chúa Giêsu vẫn quan tâm đến Mẹ nên đã gửi gấm nhờ thánh Gioan, môn đệ yêu quý, chăm sóc Mẹ.
Ngày nay, nhiều gia đình đang trong tình trạng báo động. Từ thời mở cửa, gia đình Việt Nam đã biến chuyển mãnh liệt theo chiều hướng nguy hiểm. Số cặp vợ chồng ly dị tăng nhanh một cách đáng sợ. Con cái không còn vâng lời cha mẹ như xưa. Theo đà tiến triển kinh tế, nhiều gia đình trở nên giàu có hơn, nhưng con cái lại bỏ bê học hành, lao vào con đường ăn chơi, vướng vào tệ nạn xã hội, làm cho cha mẹ buồn lòng, gia đình tan nát.
Để bảo vệ gia đình trước làn sóng văn minh vật chất, hưởng thụ và cá nhân chủ nghĩa, ta hãy học hỏi mẫu gương Thánh Gia.
Trước hết, cha mẹ phải coi con cái là vốn quý nhất Chúa ban cho gia đình. Vốn này cần được quan tâm chăm sóc không phải chỉ bằng tiền bạc, phương tiện vật chất mà quan trọng hơn, bằng tình thương, sự săn sóc, dạy dỗ uốn nắn ngay từ khi còn thơ, sự hiểu biết, cảm thông khi đến tuổi trưởng thành. Dù thành công trong xã hội mà con cái hư hỏng thì vẫn là thất bại cả cuộc đời. Vì thế, phải bảo vệ con cái khỏi các bạo vương Hêrôđê thời đại. Đó là sách báo phim ảnh xấu. Đó là bạn bè xấu. Đó là tệ nạn xì ke ma túy. Nếu cần phải đem con cái trốn chạy khỏi nanh vuốt của bạo vương, tìm nơi an toàn để cho con cái sinh sống, ăn học và giữ được đạo đức.
Đáp lại, con cái phải có lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu thảo vừa là một đức tính của người có lương tri vừa là một thái độ khôn ngoan của người khiêm tốn. Có lương tri và có sự khôn ngoan, người trẻ mới tiến xa và trở nên hữu ích cho xã hội.
Sau cùng, cả gia đình phải sống theo Lời Chúa dạy. Lời Chúa là nền tảng của gia đình. Sống theo Lời Chúa là xây dựng gia đình trên nền đá vững chắc. Gia đình sống theo Lời Chúa sẽ vững vàng qua mọi bão lốc thời đại.
Gia đình Công Giáo sống theo Lời Chúa không những giữ được hạnh phúc cho gia đình mà còn đóng góp vào việc xây dựng xã hội trong hoàn cảnh đạo đức đang xuống cấp hiện nay.
Lạy Thánh Gia, xin giúp gia đình chúng con sống theo gương lành của các Ngài. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Đâu là những nguy cơ đang đe dọa hạnh phúc gia đình hiện nay?
2) Thế nào là một gia đình gương mẫu?
3) Gia đình bạn quyết tâm làm gì trong tuần này để noi gương Thánh Gia? [Mục Lục]
- 37. Lễ Thánh Gia
“Hãy đem con trẻ và mẹ Ngài”. Mục tiêu giờ đây lại vẫn là Giuse. Chúng ta đã thấy người bối rối, bây giờ chúng ta thấy người là con người quyết định nhanh chóng. Ngay khi hiểu sứ mạng của mình là làm người cha hợp pháp của Đức Giêsu, người biết rằng từ nay về sau cuộc đời của người có một mục đích rõ ràng đó là chăm sóc con trẻ và mẹ Ngài.
Đây là một công việc lý tưởng, Giuse không giàu. Vào dịp lễ thanh tẩy Đức Mẹ và dâng Con Trẻ trong Đền Thánh, người chỉ có chim gáy để làm của lễ chứ không có chiên. Sự nghèo khó này cùng với một tấm lòng nghèo khó thực sự mới làm cho người ta hết sức tự do trong việc dâng hiến chính mình.
Yên lặng cũng là đặc tính tốt khi phải lắng nghe ý Chúa. Phúc Âm hôm nay cho ta thấy người là người lắng nghe đến độ nào. Thiên Chúa (“Thiên Thần Chúa” chỉ Thiên Chúa) nói với người trong giấc mộng, Ngài thâm nhập tận thâm sâu Giuse, vào lúc mà Giuse thụ cảm nhất. Cho nên Chúa dùng mệnh lệnh ngắn gọn đủ để nói với một người hoàn toàn sẵn sàng và thông minh: “Hãy chỗi dậy… Trốn… Ở đó… Lên đường… Chọn Nadarét”.
Ngay khi nắm được ý định của Chúa, Giuse thi hành ý định đó với một sự nhanh chóng rất hiệu quả. Không nhiều lời. Sau đó, khi sứ mạng đã hoàn tất, người ta không nói đến người nữa. Chúng ta chỉ biết rằng người đã biết gợi ra cho con trẻ sự ngưỡng mộ những điều tốt đẹp. Người ta đoán ra điều này do cách mà Chúa Giêsu nói đến công việc.
Tóm lại, chỉ vỏn vẹn gần sáu mươi hàng nói về Giuse, nhưng những hàng này cho chúng ta thấy loại người mà Thiên Chúa có thể tin tưởng được. Người chồng trẻ Giuse phải có sự quân bình, sự tự chủ biết bao khi nghe người ta (yêu cầu) đòi hỏi: sống và yêu thương Maria mặc dù không quan hệ xác thịt. Có nhiều người hiện nay chống lại ý tưởng rằng đây là số phận của Giuse, nhưng các cặp vợ chồng vẫn xin Ngài giúp đỡ để sống tình yêu đầy khó khăn của mình. [Mục Lục]
- 38. “Hỡi gia đình, hãy sống niềm vui đức tin”
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Thư Chung của HĐGMVN ngày 10.10.2013, các Đức Giám mục kêu gọi Cộng đoàn Dân Chúa tại Việt Nam tích cực tham gia vào công cuộc Tân-Phúc-Âm-Hóa trong kế hoạch ba năm 2014-2016. Đặc biệt, “trong năm 2014 sắp tới, chúng ta hãy cùng nhau Phúc-Âm-hóa đời sống gia đình và thúc đẩy gia đình tham gia tích cực vào sứ vụ Loan báo Tin mừng. Hội Thánh được gọi là gia đình của Thiên Chúa và mỗi gia đình Kitô hữu được gọi là Hội Thánh tại gia. Việc canh tân Hội Thánh phải được bắt đầu từ mỗi gia đình, do đó, Hội Thánh đặc biệt quan tâm đến các gia đình” (số 5).
“Để thực hiện những mục tiêu trên, xin anh chị em hãy xây dựng gia đình mình thành một cộng đoàn cầu nguyện, sống tình yêu hợp nhất thủy chung, phục vụ sự sống và hăng say loan báo Tin mừng” (số 6). Như thế, các gia đình Kitô hữu, noi gương và bước theo Gia đình Thánh: Giêsu – Maria – Giuse luôn xin vâng theo chương trình cứu độ của Chúa Cha (số 1), nguyện để cho gia đình mình được Phúc Âm hóa, được thánh hóa nhờ làm cho Đấng Thánh – Con Thiên Chúa hiện diện sâu đậm hơn trong gia đình (số 2-7), nhờ đó gia đình tham gia vào sứ vụ Phúc Âm hóa của Hội Thánh trong Thánh Thần đổi mới (số 8-12).
Từ mẫu gương Thánh Gia, mỗi Gia Đình Công Giáo xây dựng gia đình mình thành ngôi nhà thờ phượng Chúa, trường dạy đức tin, mái ấm tình thương và sống niềm vui đức tin.
Mẫu gương Thánh Gia
Phúc Âm Lễ Thánh Gia kể chuyện: gia đình Thánh Giuse, Mẹ Maria và Chúa Giêsu đi hành hương về Giêrusalem. Hai ông bà là người sùng đạo, tuân giữ lề luật cách trung tín. Theo luật quy định, người Do thái phải hành hương về Đền Thánh “mỗi năm ba lần mọi người nam phải trình diện trước Đấng toàn Năng là Đức Chúa”. Họ đi bộ về Nhà Chúa phải mất một tuần lễ. Vừa đi vừa hát “thánh vịnh lên đền” : tôi vui sướng biết bao khi người ta nói với tôi rằng nào ta tiến về Nhà Chúa.
Chúa Giêsu lên 12 tuổi, cùng cha mẹ và đoàn hành hương tiến về Đền Thờ theo tập tục ngày lễ. Đối với người Do thái, 12 tuổi là tuổi trưởng thành. Chúa Giêsu bộc lộ sự khôn ngoan trước các bậc thông thái. Sau khi dự lễ vượt qua, Người ở lại Đền Thờ tranh luận với các tiến sĩ luật “mọi kẻ nghe Ngài đều sửng sốt về trí thông minh và các lời Ngài đối đáp”.
Sau đó cả gia đình trở về Nazareth. “Chúa Giêsu hằng vâng phục hai ông bà”. Con Thiên Chúa làm người và thuộc về một gia đình, một mái ấm có cha có mẹ. Con Thiên Chúa đã lớn lên trong bầu khí gia đình. Mái nhà là trường học đầu tiên. Cha mẹ là thầy cô căn bản. Đức Giêsu lớn dần về mọi mặt trong Thánh Gia đạo hạnh. 30 năm sống dưới mái nhà Nazareth, Đức Giêsu đã thành một người chín chắn và trưởng thành, sẵn sàng lãnh nhận sứ vụ Chúa Cha trao phó. Đức Giêsu đã học nơi Thánh Giuse tinh thần lao động miệt mài, tâm tình tín thác và luôn thi hành thánh ý Thiên Chúa, lòng nhiệt thành chu toàn trách nhiệm đối với gia đình. Đức Giêsu học nơi Đức Mẹ nét đẹp hiền lành đơn sơ tế nhị, tận tụy phục vụ, tin tưởng phó thác, cầu nguyện thâm trầm.Nếp sống đạo đức của cha mẹ đã ảnh hưởng sâu xa đến cuộc đời Đức Giêsu. Người thừa hưởng nơi cha mẹ lòng yêu mến lề luật, gắn bó với Đền Thờ, thói quen siêng năng nghe và đọc Lời Chúa. Người học nơi cha mẹ tâm tình vâng phục thánh ý Chúa, thái độ hiền lành khiêm nhường, tinh thần phục vụ quên mình, chuyên chăm làm việc, ân cần âu yếm đối với con cái. Gia sản quý báu từ Thánh Gia bàng bạc trong những lời Người giảng dạy, trong đời sống của Người.
Gia đình “ngôi nhà thờ phượng Chúa”
Công Đồng Vaticanô II đã ví “gia đình như một Hội Thánh nhỏ” ( Hiến chế Ánh sáng muôn dân số 11).Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã định nghĩa : “gia đình là Hội Thánh tại gia” ( Tông huấn đời sống gia đình số 11).
Gia đình là Hội Thánh tại gia, bởi lẽ:
Chúa Giêsu đã sinh ra và lớn lên trong gia đình Nazareth,có Thánh Giuse và Đức Mẹ.Thánh gia là mẫu mực cho mọi gia đình.
Gia đình Công giáo là trường học đức tin đầu tiên,là môi trường sống các bí tích và thực hành các nhân đức Kitô giáo. “Gia đình Công Giáo trở thành nơi gặp gỡ đặc biệt, có sức thánh hoá với tình yêu của Đức Kitô” (Tông Huấn Kitô Hữu Giáo Dân số 15).
Cha mẹ là những nhà giáo dục đầu tiên và chính yếu của con cái.
Gia đình là cộng đoàn thờ phượng Thiên Chúa. Qua đời sống cầu nguyện, lãnh nhận các bí tích,gia đình toả sáng sự bình an, trổ sinh nhiều hoa trái thánh thiện.
Để trở thành Hội Thánh tại gia, mỗi thành viên phải ý thức về căn tính cao cả và chức năng quan trọng của mình. Mỗi ngày, thể hiện rõ nét hơn những tính chất căn bản của Hội Thánh tại gia như hiệp thông, liên đới, yêu thương, thuận hoà, tôn ti trật tự, kinh nguyện sáng tối, sống phục vụ, làm chứng nhân Tin mừng.
Gia đình “trường dạy đức tin”
Gia đình là nơi trẻ em và thanh thiếu niên hấp thụ nền giáo lý chân chính từ cha mẹ.Công đồng Vaticanô II mong muốn các bậc cha mẹ là những người đầu tiên ”dùng gương lành và lời nói,truyền dạy đức tin cho con cái”. (Hiến chế tín lý về Giáo hội số 11).Gia đình chu toàn được sứ mệnh cao cả này nhờ yêu thương,cùng nhau học hỏi và cầu nguyện để hạt giống đức tin được triển nở.(Sắc lệnh tông đồ giáo dân số 11).
Cha mẹ chăm lo giáo dục nhân bản và giáo dục tâm linh cho con cái.
Với con cái, cha mẹ là những sứ giả đầu tiên của Chúa (GLTC # 2225). Hạt giống đức tin nơi trẻ em được gieo và chăm sóc trong môi trường gia đình sẽ phát triển thành cây đức tin.Gia đình là vườn ươm, là thửa đất tốt. Dạy giáo lý như cung cấp chất dinh dưỡng. Tuỳ theo mức độ hấp thụ, tuỳ theo thời điểm, cây đức tin nơi đứa trẻ sẽ phát triển và đơm bông kết trái. Dạy giáo lý tại gia đình, cha mẹ góp phần với Hội Thánh trong sứ vụ đào tạo đức tin cho con cái.
Dạy con từ thuở còn thơ: Phải giáo dục đức tin cho con cái từ những năm đầu của tuổi thơ nhi. Dạy dạy giáo lý trong gia đình luôn đi trước,đi kèm và phong phú hoá các hình thức giáo lý khác.Cha mẹ có sứ mạng dạy cho con cái biết cầu nguyện và khám phá ra ơn gọi làm con Thiên Chúa ( GLCG # 2226).Những kinh đọc vắn tắt mà trẻ nhỏ bập bẹ sẽ là khởi điểm cho một cuộc đối thoại đầy tình yêu mến với Thiên Chúa mà sau này nó sẽ bắt đầu nghe lời. (Tông huấn dạy giáo lý, số 36).
Dạy con cầu nguyện: Những giờ đọc kinh cầu nguyện là những giờ giáo lý sống động nhất vì bản chất và mục đích của việc dạy giáo lý là truyền đạt sức sống Tin Mừng và đưa đến đối thoại,gặp gỡ chính Đức Kitô;và như vậy đọc kinh cầu nguyện là thể hiện chiều kích hàng dọc này (GLCG # 2685).
Dạy con làm quen với Lời Chúa: Cha mẹ kể chuyện Thánh Kinh,chuyện về Đức Giêsu,chuyện các Thánh,chuyện người tốt việc tốt để chúng làm quen với Lời Chúa.Có thể lợi dụng nhiều cơ hội để kể chuyện Phúc Âm,giảng giải Lời Chúa một cách đơn sơ,ấm cúng và đầy ý vị.
Dạy con học giáo lý: Thiếu nhi học giáo lý ở các lớp học, chúng cũng cần được bồi dưỡng, nhắc nhở để những điều đã học được thông hiểu và ghi vào ký ức.Những dịp con cái được nhận lãnh bí tích (Xưng Tội,Rước Lễ,Thêm Sức), cha mẹ cần lưu tâm đến giáo lý nhiều hơn và tích cực giúp chúng nhận lãnh bí tích cách sốt sắng.Giáo lý tại gia không những nhắm đến con cái mà chính các bậc cha mẹ cũng phải học hỏi trau dồi giáo lý.Cha mẹ là người hướng dẫn chăm sóc cho con cái biết Chúa Kitô nhưng đồng thời cùng với con cái,cha mẹ cũng là những người cần được học hỏi để yêu mến Chúa Kitô hơn.
Gia đình “mái ấm tình thương”.
Gia đình là cộng đoàn hiệp thông và liên đới chặt chẽ giữa các thành viên với nhau, bình đẳng về phẩm giá, về ơn gọi trước mặt Chúa và trước mặt nhau. Nhờ đó gia đình trở nên mái ấm với cuộc sống an hoà, yêu thương đầm ấm, chia sẽ, giúp đỡ, hy sinh quên mình vì hạnh phúc của nhau.
Gia đình là cộng đoàn phục vụ yêu thương. Luật yêu thương thúc đẩy gia đình Công Giáo gắn bó chặt chẽ với Hội Thánh là dân Tư Tế, Ngôn Sứ và Vương Đế, để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân, cùng cộng tác với Hội Thánh trong sứ mạng truyền bá đức tin. Noi gương Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường, hiến thân phục vụ mọi người.
Từ “GIA ĐÌNH” bao gồm người cha, người mẹ và con cái. Trong Anh ngữ, gia đình là “FAMILY”, từ này có một ý nghĩa rất sâu đậm, được diễn đạt như sau: Family = (F)ather (A)nd (M)other, (I) (L)ove (Y)ou ! Nghĩa là: “Cha Và Mẹ Ơi, Con Yêu Thương Cha Mẹ.”
Hãy gìn giữ mái ấm gia đình. Hãy đặt ưu tiên cho niềm vui hạnh phúc gia đình.
Ngày nay, trong xã hội tiêu thụ, vì bận rộn với công việc kiếm tiền, một số cha mẹ không gần gũi, không dành thời giờ cho con cái. Vì thế, chúng cảm thấy bị bỏ rơi, thiếu tình thương. Theo mức độ, con cái sẽ lâm bệnh chán nãn, buồn phiền, không thích học nữa, lỳ lợm, xấc láo, ích kỷ, vô cảm, đua đòi thiếu suy nghĩ.Một số phụ huynh chỉ mong con mình học giỏi, thành đạt, kiếm được nhiều tiền. Họ ít quan tâm đến đời sống đạo đức của con, không lo giáo dục đức tin cho con. Có cha mẹ quan niệm, lo cho con được Xưng Tội, Rước Lễ, Thêm Sức là đủ rồi; vì thế có em sau khi Thêm Sức là bỏ nhà thờ. Sự đa dạng của vi tính và internet quá hấp dẫn lôi kéo con cái chúng ta ra khỏi thực tế rồi đi vào thế giới ảo. Lối sống hiện đại cũng dễ đánh mất bầu khí mái ấm. Mỗi người có một phòng riêng, một thế giới riêng nên mọi người ít quan tâm đến nhau, ít giúp đỡ nhau. Hãy nhớ gia đình là thiêng liêng cao quý, còn công việc chỉ là vật chất tầm thường. Mọi thành viên có thể hy sinh công ăn việc làm cho mái ấm gia đình.
Tình yêu từ mái ấm sẽ làm trổ sinh hoa trái cho đời sống gia đình.
Lòng bác ái: Trên mọi đức tính hãy có lòng bác ái, đó là mối giây liên kết tuyệt hảo (Col 3,14). Bác ái là tình yêu rộng lớn; là tình yêu mạnh hơn tội lỗi, sự dữ, khổ đau và cái chết. Tình yêu mãnh liệt như thế mới liên kết mọi sự và mọi người lại với nhau. Chính Thiên Chúa đã gieo vào lòng chúng ta lòng bác ái đó.Là tình yêu được tiếp sức bởi tình yêu của Thiên Chúa, lòng bác ái giúp mọi người gắn bó với nhau làm nên mái ấm gia đình. Lòng bác ái làm cho mọi người chấp nhận nhau, chịu đựng lẫn nhau, tha thứ hy sinh cho nhau, chia sẻ cho nhau, ban tặng cho nhau bản thân mình.(Col 3,12-13).
Niềm vui: Hạnh phúc là niềm vui của mỗi người và mọi người trong gia đình chung sống với nhau. Niềm vui của chồng vợ, con cái cháu chắt. Niềm vui đời thường, niềm vui nhỏ làm thành hạnh phúc.Niềm vui từ tình yêu làm cho gia đình thành mái ấm.
Bình an trong gia đình: Tâm hồn bình an là tâm hồn đạo đức. Chúng ta được bình an khi hòa giải với Chúa, tin và yêu Chúa. Chúng ta được bình an khi hòa giải với chính mình, khi hòa giải với những người sống chung quanh. Chúng ta được bình an khi tâm hồn không chất chưa tham vọng, không chất chứa oán hờn ganh ghét. Chúng ta được bình an khi tâm hồn không bị xáo trộn bởi đam mê bất chính. Chúng ta được bình an khi là con người tự do đích thực và tôn trọng người khác. Đó là bình an Chúa Kitô ban tặng cho chúng ta.
Gia đình sống niềm vui đức tin
Chiều thứ bảy ngày 26.10.2013, ĐTC Phanxicô đã gặp gỡ hàng trăm ngàn tín hữu tham gia cuộc hành hương của các gia đình tại Roma. Cuộc gặp gỡ do Hội đồng Tòa Thánh về giáo dân tổ chức với chủ đề “Hỡi gia đình, hãy sống niềm vui đức tin”.
Đức Thánh Cha mời gọi: Hỡi các gia đình thân mến. Chúa Giêsu nói: “Hãy đến cùng Thầy, hỡi tất cả những ai vất vả và bị đè nén”! Chúa biết những cơ cực của anh chị em, những gánh nặng trong cuộc sống chúng ta. Nhưng Ngài cũng biết ước muốn sâu xa của chúng ta mong tìm được niềm vui được bồi dưỡng! Anh chị em có nhớ chăng? Chúa Giêsu đã nói: ”Ước gì niềm vui của các con hôm nay được tràn đầy” (Ga 15,11). Ngài đã nói điều đó với các tông đồ và hôm nay, Ngài lập lại điều đó với chúng ta. Vì vậy đây là điều đầu tiên mà tôi muốn chia sẻ với anh chị em, và đó là một câu của Chúa Giêsu: ”Hãy đến cùng Thầy, hỡi các gia đình trên toàn thế giới, và Thầy sẽ bồi dưỡng cho các con, để niềm vui của các con được tràn đầy”.
Với các gia đình trẻ, Đức Thánh Cha khuyên: các đôi vợ chồng trẻ, đừng bao giờ để một ngày kết thúc mà chưa làm lành với nhau. Chính nhờ biết làm hoà với nhau sau mỗi lần cãi vã, hiểu lầm, ghen ngầm, và kể cả phạm tội nữa, mà làm mới lại bí tích hôn nhân. Biết làm hoà với nhau sẽ mang lại sự hiệp nhất trong gia đình. Phải nói điều đó cho các bạn trẻ, các đôi vợ chồng trẻ, dù biết không dễ thực hiện nhưng đó là một con đường đẹp, rất đẹp. Cần phải nói cho các bạn trẻ con đường tốt đẹp đó!
Đức Thánh Cha đặc biệt quan tâm đến trẻ thơ và người già. Ngài nói: Tôi vui mừng được biết Hội đồng Toà Thánh về Gia đình đã chọn bức icôn Dâng Chúa Giêsu vào Đền thờ làm biểu tượng mới về gia đình. Bức tranh thể hiện Đức Mẹ và Thánh Giuse bế Hài nhi lên Đền thờ để chu toàn bổn phận như Luật dạy, ngoài ra còn có hai cụ già Simêon và Anna, được Thánh Thần thúc đẩy, đã nhận Hài nhi làm Đấng Cứu thế. Tên của bức icôn mang ý nghĩa: “Lòng thương xót của Chúa từ đời nọ đến đời kia”. Một Giáo hội biết chăm sóc trẻ thơ và người già thì trở thành người Mẹ của mọi thế hệ tín hữu, đồng thời phục vụ xã hội nhân loại để tinh thần thương yêu, tinh thần của gia đình và sự liên đới giúp mọi người biết tái khám phá tình phụ tử và mẫu tử của Thiên Chúa.
Bí quyết giúp các gia đình sống niềm vui đức tin là có Chúa Giêsu hiện diện trong gia đình. Phúc – Âm -hóa được thể hiện nơi gia đình qua đời sống làm chứng dấn thân cụ thể. Người ta nhận ra các gia đình Kitô hữu đích thực qua sự trung tín, nhẫn nại, biết quảng đại đón nhận sự sống, kính trọng người già. Phúc -Âm -hóa giúp gia đình trở thành môi trường, là cái nôi cho con cái trưởng thành trong đức tin và lòng mến. Khi đã thấm nhuần tinh thần Tin Mừng, gia đình tham gia sứ mạng Phúc – Âm – hóa bằng cách kết nghĩa, làm bạn với anh chị em lương dân, yêu thương giúp đỡ họ và nói cho họ về Thiên Chúa yêu thương.
Nguyện xin cho các Gia Đình Công Giáo biết noi theo gương sáng của Thánh Gia Thất, chiếu tỏa ánh sáng đức tin, tích cực góp phần thi hành sứ mệnh truyền giáo, đem lại hoa quả dồi dào trên quê hương Việt Nam thân yêu. [Mục Lục]
- 39. Yêu thương – Vâng lời
Gia đình được xây dựng trên mối quan hệ căn bản là vợ chồng, cha mẹ và con cái. Cũng thế, Gia Đình Thánh: Chúa Giêsu, Đức Maria và thánh Giuse đã thật sự thành hình sau biến cố Hài Nhi Giêsu ra đời. Do đó, sau khi mừng lễ Giáng Sinh, Giáo Hội mời gọi chúng ta nhìn về Thánh Gia, một gia đình có những phẩm chất hoàn hảo đáng để mọi người noi gương. Mỗi người, tùy vị thế trong gia đình, có thể nhận được từ Thánh Gia một gương mẫu cho mình. Riêng các bạn trẻ, bài học dành cho bạn sẽ là gì?
Bài học đầu tiên có thể dễ dàng nhận thấy nơi Thánh Gia chính là sự tuân phục thánh ý Thiên Chúa. Đức Maria đã cất tiếng “xin vâng” trước lời mời gọi của Thiên Chúa (Lc 1,38) và đã đáp trả trọn vẹn tiếng xin vâng của mình cho đến trọn đời. Đức Giêsu thì đến trần gian với sứ mạng “thi hành thánh ý Cha”. Đặc biệt, trong bài Phúc Âm hôm nay, Thánh Giuse tỏ ra là người mau mắn thi hành thánh ý Thiên Chúa: mau mắn mang Hài Nhi và Mẹ Ngài trốn sang Ai Cập, rồi ngay lập tức đưa trở về quê hương khi được sứ thần báo mộng. Bài Phúc Âm phát họa lên bức tranh một gia đình đùm túm nhau bước đi trong đêm tối, phó thác đời mình cho thánh ý Thiên Chúa.
Mỗi người có một thánh ý Chúa dành cho mình. Đối với bạn trẻ, còn ở độ tuổi “ăn chưa no, lo chưa tới”, Chúa không buộc bạn phải làm gì to lớn, cao xa, Chúa chỉ cần bạn vâng phục những vị có trách nhiệm, đại diện hữu hình của Chúa ở trần gian dạy dỗ bạn. Tuy nhiên, ở trong một xã hội thay đổi mau chóng hiện nay, nhiều khi con cái lớn lên lại thấy cha mẹ là những người không hợp thời nữa. Do vậy mà không ít bạn đã tỏ ra không còn nghe lời dạy bảo của cha mẹ, những người có trách nhiệm nữa. Dẫu biết rằng bạn hiểu rõ vấn đề của riêng bạn hơn các vị ấy, có khi kiến thức của bạn trổi vượt hơn các ngài nữa. Nhưng nếu bạn nhận ra tiếng nói của cha mẹ, những người có trách nhiệm là tiếng nói của Thiên Chúa, Đấng biết rõ con đường bảo đảm hơn cả cho hạnh phúc của bạn, thì bạn sẽ mau mắn, vui vẻ mà đáp trả cách mau mắn.
Một bài học khác cũng toát lên rõ nét từ đời sống Thánh Gia là tình yêu trong mối tương quan gia đình. Thánh Cả đón nhận Chúa Giêsu và Mẹ Ngài để yêu thương và chăm sóc trong khi ngài có quyền từ chối. Đức Maria đón nhận Chúa Giêsu vì yêu thương cho dù biết mình sẽ phải chịu nhiều đau khổ. Đức Giêsu là niềm hãnh diện của cha mẹ khi tỏ ra “hằng vâng phục” và “càng thêm tuổi, càng thêm khôn ngoan và vững mạnh” (x. Lc 2,51-52). Chính tình yêu đã giúp Thánh Gia vượt qua mọi thử thách hiểm nguy.
Sinh ra nơi thế gian này, bạn đã được đặt trong các mối tương quan gia đình: gia tộc thân thích, gia đình xã hội và gia đình Giáo Hội. Bạn được mời gọi sống yêu thương để làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa giữa thế gian nầy. Ngày nay không thiếu những gia đình thiếu vắng tình yêu. Nguyên nhân dẫn đến thảm trạng nầy đến từ các bậc cha mẹ, từ các con hư hỏng. Nếu bạn sống trong một gia đình luôn ấm êm, thuận hòa thì thật là một hồng ân lớn lao. Nhưng nếu chẳng may gia đình bạn lúc nào cũng có tiếng cãi vã, ngột ngạt thì thật là đáng buồn. Tuy nhiên, là người con Chúa, dù gia đình bạn thế nào, dù bạn còn nhỏ tuổi, bạn cũng có thể trở nên niềm an ủi cho cha mẹ bằng sự vâng lời, ngoan ngoãn, dễ thương. Do vậy, bạn hãy quan tâm đóng góp cho đời sống gia đình được êm ấm. Bạn cũng đừng quên rằng, sự hư hỏng của con cái là nguyên nhân gây nên bao nỗi bi đát cho gia đình, xã hội và Giáo Hội.
Mừng lễ Thánh Gia Thất, rất nhiều bài học có thể được rút ra khi chiêm ngắm Ba Đấng. Nhưng thiết nghĩ, nếu bạn cố gắng làm thật tốt hai bài học gợi ra hôm nay cũng đủ để bạn góp phần đem lại sự hiệp nhất yêu thương cho gia đình, cho xã hội và cho Giáo hội. Xin Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse phù trợ cho gia đình bạn và giúp bạn cùng chung tay xây dựng thế giới nầy tốt đẹp hơn. [Mục Lục]
- 40. Vai trò của gia đình
Mừng lễ Thánh gia hôm nay, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về vai trò của gia đình trong đời sống cá nhân và xã hội.
Như chúng ta đã biết hệ thống tổ chức của xã hội loài người khởi đi từ cá nhân, rồi đến gia đình, làng xóm và sau cùng là quốc gia và cộng đồng quốc tế.
Tự bản tính, con người không thể nào sống cô độc lẻ loi như một hòn đảo hay như một pháo đài biệt lập. Trái lại, chúng ta sống là sống với người khác trong một cộng đoàn.
Những người trước nhất chúng ta sống với chính là những người thân yêu cùng cư ngụ dưới một mái nhà. Và như vậy, cộng đoàn đầu tiên chúng ta tiếp xúc chính là gia đình.
Vì thế, Công đồng Vaticanô II đã xác quyết:
– Gia đình là mái trường đầu tiên dạy cho chúng ta những bài học làm người.
Ai trong chúng ta cũng đều có những kỷ niệm êm đẹp về gia đình mình. Bình thường chúng ta chẳng mấy khi để ý tới, thế nhưng đến lúc phải rời xa, chúng ta mới nghiệm ra rằng:
– Gia đình chính là chiếc nôi cho chúng ta khôn lớn. Được sống trong gia đình là điều quí hóa.
Tôi không thể nào quên được những lần nghịch ngợm đã bị ba tôi sửa phạt, cũng như không thể nào quên được những lời khuyên thấm thía của ba tôi mỗi khi tôi phải lên đường, rời xa gia đình trong một khoảng thời gian nào đó.
Tôi không thể nào quên được những chăm sóc nhỏ nhoi nhưng thấm đượm yêu thương của mẹ tôi: từ củ khoai lang và những chiếc bánh mỗi khi đi chợ về đến ánh mắt lo âu khi tôi đau yếu.
Tất cả những yêu thương trìu mến ấy đã góp lại và tạo nên con người tôi hôm nay.
Đúng thế, gia đình chính là mái trường đầu tiên dạy cho chúng ta những bài học làm người cũng như chuẩn bị cho chúng ta những hành trang cần thiết để bước xuống cuộc đời.
Hơn thế nữa, gia đình còn là nền tảng của xã hội, còn là con tim của nhân loại. Gia đình có ổn định thì xã hội mới được phát triển. Gia đình có hòa thuận và yêu thương thì nhân loại mới được lành mạnh.
Tìm hiểu vể tệ trạng thanh thiếu niên đi bụi đời và phạm pháp, chúng ta thấy đa số đều đã gặp phải những bất ổn trong gia đình. Có thể vì cha mẹ họ thường xuyên cãi vã. Có thể vì mẹ họ không còn trung thành với nhau theo kiểu ông ăn chả bà ăn nem. Có thể cha mẹ họ vì quá mải miết chạy theo tiền bạc, không còn lưu tâm tới họ nữa…Họ không tìm thấy trong gia đình một tình thương chân thành, một nơi nương tựa vững chắc. Và từ đó, họ chán nản bỏ nhà ra đi, nhúng tay vào tội ác, làm cho xã hội phải điêu đứng.
Gia đình là nền tảng của xã hội. Nền tảng ấy đã lung lay, thì xã hội sẽ bị chao đảo, nếu không muốn nói là đi dần tới chỗ sụp đổ.
Chính vì thế, người xưa đã bảo:
– Phải tu thân và tề gia trước đã, rồi sau đó mới trị quốc và bình thiên hạ.
Muốn làm lớn ngoài xã hội, thì trước hết phải lo tu sửa bản thân và ổn định trong gia đình. Hay như ca dao cũng đã diễn tả:
– Tu đâu cho bằng tu nhà,
Thờ cha kính mẹ mới là chân tu.
-Thứ nhất thì tu tại gia,
Thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa.
Dưới ánh sáng của Kinh thánh, chúng ta cũng thấy được những ý nghĩ như vậy.
Đúng thế, ngày từ thuở đời đời, Thiên Chúa đã không sống cô độc lẻ loi, nhưng đã sống trong một hình thức gia đình, có Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Khi nhập thể, Ngài đã không một mình bước vào cuộc đời, nhưng đã sống trong một gia đình, có mẹ là Đức Maria, có cha nuôi là thánh Giuse.
Trong quãng đời công khai, Ngài không sống cô độc, nhưng đã sống trong một cộng đoàn, quây quần chung quanh Ngài có mười hai tông đồ và các môn đệ.
Trong Cựu ước, chúng ta thấy khi tạo dựng nên con người, Ngài không dựng nên họ cô đơn vò võ, nhưng đã dựng nên một người nam và một người nữ. Đó là mái ấm gia đình đầu tiên, đặt nền tảng cho xã hội loài người. Chính vì thế, Ngài đã phán:
– Người nam sẽ lìa bỏ cha mẹ để kết hiệp với vợ mình và cả hai sẽ trở nên một xương một thịt.
Trong Tân Ước, Chúa Giêsu đã nhắc lại lập trường kể trên khi Ngài nói về chuyện ly dị. Thánh Phaolô còn dùng hình ảnh hôn nhân để nói lên tình yêu và sự kết hiệp giữa Đức Kitô và Giáo hội.
Thánh nhân cũng đã nhiều lần đề cập đến những bổn phận trong lãnh vực gia đình:
– Hỡi những người vợ, hãy phục tùng chồng mình trong Chúa cho phải phép. Hỡi những người chồng, hãy yêu thương vợ mình như Đức Kitô yêu thương Giáo hội và đã nộp mình vì Giáo hội.
Xin Chúa luôn gìn giữ mái ấm của chúng ta trong yêu thương và hòa thuận, để tình yêu gia đình chúng ta sẽ là một phản ảnh sống động cho tình yêu Thiên Chúa. [Mục Lục]
- 41. Giáo dục
Khi con người luôn cảm thấy được Thiên Chúa yêu thương và săn sóc, họ sẽ đặt Ngài vào chỗ nhất trong cuộc sống của họ. Và dĩ nhiên khi đặt Thiên Chúa vào chỗ nhất trong cuộc sống, con người sẽ suy nghĩ, cư xử, hành động thêm một bậc thang trong đó có các giá trị tinh thần và đạo đức luôn đặt vào chỗ cao nhất, lúc đó thay vì hận thù con người sẽ chọn lựa yêu thương, thay vì nguyền rủa con người sẽ lựa chọn tha thứ, thay vì giam mình trong vỏ ốc ích kỷ con người sẽ tìm đến với người khác, thay vì thất vọng bỏ cuộc, con người sẽ tiếp tục tin tưởng và phấn đấu.
Chỉ có một chọn lựa như thế mới làm cho cuộc sống mỗi ngày có ý nghĩa, sống như thế nào để mỗi ngày sống thực sự mới mẻ, đó là điều mà cha mẹ cần nhắc nhở cho con cái bằng lời nói và nhất là hành động. Mỗi ngày cha mẹ có thể chứng tỏ cho chúng thấy rằng đánh động người khác bằng những cố gắng rất đơn giản như một nụ cười, một cái gật đầu, một lời nói tử tế, một lời cầu nguyện cho người khác… những cử chỉ tử tế ấy luôn mang lại hoan lạc cho tâm hồn. Để có một ngày sống có ý nghĩa người ta không cần phải làm những hy sinh hay thay đổi lớn lao trong cuộc sống, mỗi một ngày sống đều có vô số những cơ hội kỳ diệu để sống tử tế.
Chúng ta không thể hiểu được các bí ẩn và những vấn đề trong cuộc sống, nhưng chúng ta phải tin rằng cuộc sống của mỗi người đều có một mục đích và tất cả chúng ta là một thành phần của một chương trình rộng lớn được Thiên Chúa quy định. Chúng ta không thể giải quyết tất cả mọi vấn đề của thế giới, chúng ta cũng chẳng giúp đỡ được tất cả mọi người nhưng trong tầm tay của mỗi người, trong môi trường sống mỗi người đều có cơ hội để sống tử tế với người khác.
Chính những cử chỉ tử tế hằng ngày đó mang lại ý nghĩa cho cuộc đời. Một món quà nhỏ nhưng được trao tặng với tất cả tự do và yêu thương luôn mang lại ánh sáng cho một ngày tăm tối. Cha mẹ nên tập cho con cái có thói quen tặng quà cho người khác một cách nhưng không, không tính toán. Tặng quà cho một người thân quen mang lại cho chúng ta niềm vui thỏa đã đành, nhưng giúp đỡ cho một người vô danh, một kẻ lạ mặt mà không đợi một sự đáp trả nào lại càng mang lại một niềm vui lớn lao.
Hằng năm tại Hoa kỳ có nhiều ngày rất đặc biệt, một trong những ngày đặc biệt nhất hẳn phải là ngày 17.2 được Quốc hội Hoa kỳ tuyên bố là ngày của những hành động tử tế nhưng không. Trong ngày đó người dân Mỹ được kêu gọi hành động tử tế một cách vô danh và nhưng không, nghĩa là không cần được biết đến và cũng không mong được một sự đáp trả nào. Quả thật xã hội càng thừa mứa của cải vật chất, tình người càng khô cạn, nội tâm con người cũng càng trống rỗng, do đó chỉ có những cử chỉ nhỏ bé mà con người thực thi cho nhau với tất cả quảng đại quên mình, mới có thể làm cho nội tâm được phong phú và mang lại ý nghĩa cho cuộc sống mỗi ngày.
Để có thể khơi dậy và phát triển lòng quảng đại nơi con cái, cha mẹ không những phải tập cho chúng giúp đỡ những người túng thiếu trong môi trường sống của chúng, mà còn phải mở rộng tầm nhìn của chúng để có thể đến những vấn đề rộng lớn hơn và phục vụ thế giới. Hằng năm tại một số nước Tây phương, như Đức chẳng hạn, các em thiếu nhi tự động quyên góp để giúp đỡ cho các trẻ em tại các nước nghèo. Đây là một trong những chiến dịch giúp cho những trẻ em sống bác ái. Bác ái không chỉ là cho những đồng tiền dư thừa. Bác ái thiết yếu là giúp đỡ người khác vì yêu thương. Tự nhiên đứa trẻ nào cũng có tinh thần bác ái, cha mẹ còn nuôi dưỡng tinh thần ấy bằng cách qua những cử chỉ hàng ngày và tạo cơ hội cho chúng tham gia vào những chiến dịch rộng rãi hơn, những cuộc quyên góp giúp đỡ cho các thiên tai hay người nghèo chẳng hạn, là cơ hội tốt nhất để cha mẹ khơi dậy và nuôi dưỡng tinh thần bác ái đích thực nơi con cái.
Ngày nay truyền hình không phải là một phương tiện giải trí, mà còn cần cho cha mẹ xem như là một trường hợp thực tế nhất để khơi dậy tinh thần bác ái của con cái. Ngoài những chương trình có nội dung giáo dục nhân bản, truyền hình còn cho chúng ta tiếp cận với không biết bao nhiêu người khổ đau trên khắp thế giới, các nạn nhân của thiên tai, những người tị nạn của chiến tranh và bao nhiêu người khốn khổ khác trên khắp thế giới. Những hình ảnh mà truyền hình mang lại cho chúng ta mỗi ngày cần được cha mẹ xem như là những cơ hội để khơi dậy những đau khổ cảm thương, lòng quảng đại và tinh thần bác ái nơi con cái. Cùng với sự cảm thông và lòng quảng đại, một trong những thái độ cần thiết cho một đời sống nội tâm dồi dào và vững chắc mà cha mẹ cần vun trồng nơi con cái, đó là cái nhìn tích cực về người khác. Tất cả chúng ta, trẻ con cũng như người lớn đều dễ dàng rơi vào thói quen khiển trách, phê bình, chỉ trích, kết án người khác, thái độ tiêu cực này làm cho chúng ta bất mãn và làm cho nội tâm chúng ta trống rỗng.
Quả thật, những lời kết án thường làm cho các quan hệ của chúng ta với người khác trở thành vẩn đục đen tối, một cách cụ thể cha mẹ nên nhắc nhở con cái những khác biệt hay thiếu sót, nhất là sự tàn tật của người khác. Tựu trung, dạy cho con cái rằng cuộc sống đều có một mục đích và mỗi người đều có một giá trị thánh thiêng là tập cho chúng nhìn người khác bằng chính ánh sáng của Chúa. Nhìn trong ánh sáng của Thiên Chúa là chỉ nhìn thấy điều tích cực nơi người khác, nhìn trong ánh sáng của Thiên Chúa là xuyên qua những bất toàn của người khác, nhận ra mỗi người là đối tượng thể hiện tình yêu của mình. [Mục Lục]
- 42. Đạo đức
Tại miền bắc nước Pháp, người ta thường kể lại một câu chuyện cổ tích sau đây: có một gia đình nọ gồm cha mẹ và một đứa con sống rất hiệp nhất yêu thương nhau. Nhưng một đêm kia, đang lúc mọi người ngủ say, một trận giông bão chưa từng xảy ra bao giờ, chỉ trong mấy giờ đồng hồ cả vùng đều lụt lớn, nhà cửa sập cả, thây người và vật trôi bồng bềnh. Người cha của gia đình cõng vợ trên vai mình và bà vợ tay bế đứa con. Nước càng lúc càng dâng lên cao, chẳng bao lâu ngập đầu cả hai vợ chồng. Dù ngộp thở và vô cùng mệt mỏi, bà mẹ cố giơ cao hai cánh tay nâng cao đứa con lên khỏi mặt nước để đứa bé khỏi chết ngộp. Hai vợ chồng sẵn sàng chờ chết, nhưng chỉ mong có ai cứu được đứa bé khỏi chết. Vừa lúc đó, có một thiên thần bay ngang qua, trông thấy cái đầu bé tí nhô khỏi mặt nước, vội cầm lấy kéo lên và dính chùm theo là cả cha mẹ đứa bé. Thế là nhờ yêu thương hiệp nhất mà cả gia đình được thoát nạn.
Có lẽ chưa bao giờ gia đình lại khủng hoảng trầm trọng trong thế giới như chúng ta đang sống hiện nay. Rất nhiều gia đình trong xã hội là những gia đình què quặt, tan nát, nạn ly thân, ly dị và phá thai, và những gia đình chia ly vì chiến tranh, bạo lực, áp bức của các chế độ vô nhân. Những gia đình bất hòa vì nạn thất nghiệp, vì nạn kinh tế khó khăn, eo hẹp hay vì nạn cờ bạc rượu chè, ma túy, thuốc xái và ham mê buông thả trong lạc thú. Vì thế, những người phải trả giá mắc mỏ nhất cho hậu quả của các cuộc khủng hoảng này là con cái, là trẻ em và giới trẻ. Làm sao con người có thể hạnh phúc tươi vui khi phải sống trong gia đình như thế? Làm sao thế giới có thể an bình thịnh vượng khi các tế bào nòng cốt của xã hội bị bệnh hoạn như vậy? Qua ngày lễ Thánh Gia, Mẹ Giáo Hội kêu mời chúng ta suy tư nghiêm chỉnh trở lại ý nghĩa cuộc sống gia đình và đề nghị với chúng ta một mẫu gương, đó là mẫu gương của tổ ấm gia đình Naxareth xưa, gia đình của Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh Giuse. Chương ba sách Đức Huấn Ca là một bài quảng diễn điều răn thứ tư của mười giới luật, dạy con cái phải thảo hiếu cha mẹ. Ngoài những lý do luân lý tự nhiên như câu ca dao Việt Nam nêu lên:
“Công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
Tác giả sách Đức Huấn Ca còn nhấn mạnh đến lý do tôn giáo nữa. Đó là thái độ sống thảo hiếu với cha mẹ, với những người đã dày công mang nặng đẻ đau sinh thành, dưỡng dục chúng ta. Thiên Chúa sẽ nghe lời những người con hiếu thảo khi họ kêu khấn lên Ngài.
Suy tư trên đây là một thí dụ điển hình cho thấy người sống đạo, người đạo đức như tác giả sách Đức Huấn Ca, biết nhìn ra ý nghĩa sâu thẳm siêu việt nằm trong chính cái nhân loại tầm thường của cuộc sống mỗi ngày. Thiên Chúa không xa vời đối với Chúa Giêsu nhưng Ngài luôn hiện diện ngay trong cái tầm thường nhất của mỗi ngày sống chúng ta. Bởi vì Ngài đã đến sống giữa con cái loài người, đồng hành với con người, chia sẻ mọi buồn vui, mọi âu lo khó nhọc của cuộc sống con người. Khi biết nhìn thực tại bằng đôi mắt của lòng tin thì mọi sự trong thế giới hữủ hình này đều được biến đổi và nói lên được sứ điệp mà Thiên Chúa muốn nhắn gởi chúng ta: Một gia đình trong đó mọi thành phần biết kính sợ Thiên Chúa, biết yêu thương tôn trọng lẫn nhau, hy sinh cho nhau, sống cho nhau và sống vì nhau thì sẽ là một gia đình được tràn đầy phúc lành và sức sống thiên linh của Thiên Chúa. [Mục Lục]
- 43. Gia đình
Quả là điều thật đáng mừng khi đời sống con người mỗi ngày một văn minh hơn. Nhưng sự văn vinh là một con dao hai lưỡi, bởi nó có thể nâng cao đời sống con người lên, nhưng nó cũng có sức hủy diệt con người một cách kinh khủng, tùy theo con người tiếp nhận nền văn minh ấy như thế nào.
Thật vậy, trong thực tế nhiều người đã tiến bộ rất xa, đã phát triển rất mạnh cả về tinh thần lẫn vật chất nhờ vào nền văn minh mà con người đã xây dựng được. Bên cạnh đó, cũng có rất nhiều người đã bị chết chìm vì làn sóng văn minh này phủ lấp. Nhiều người chạy theo làn sóng văn minh một cách mù quáng mà không biết phân biệt điều hay điều dở. Một trong những điểm tiêu cực của nền văn minh thời đại hôm nay là não trạng hưởng thụ. Để hưởng thụ, nhiều người giàu có đã vung vãi tiền bạc ra ăn chơi xả láng, thỏa mãn mọi khát vọng. Họ hưởng thụ và ăn chơi bất tận không có điểm dừng, đến độ không còn nhớ mình là con người nữa. Để hưởng thụ, những người không có tiền đã tìm đủ mọi cách để kiếm tiền kể cả phải bán rẻ lương tâm, bán rẻ nhân phẩm của mình…
Nhưng ai còn tha thiết với vận mệnh của con người, với sự tồn vong của xã hội sẽ không thể không lo ngại trước sự xuống cấp càng ngày càng trầm trọng về mọi mặt của đời sống con người. Cứ nhìn vào cuộc sống xã hội hôm nay ta sẽ thấy điều đó: Cướp giật, đâm chém, lừa đảo, mại dâm, phá thai, nạo thai, ly dị, sì ke, ma túy, tham nhũng, hối lộ, bóc lột, bụi đời v.v… Hàng trăm ngàn thứ tệ đoan, hàng vạn vạn thứ tội ác đang diễn ra hằng ngày ởi khắp nơi.
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới những hiện tượng xã hội bi đát kể trên. Một trong những nguyên do quan trọng đó là sự xuống cấp cách đáng sợ nơi nhiều gia đình. Có lẽ chưa có thời đại nào người ta thấy có nhiều cha mẹ giết con, nhiều con cái giết cha mẹ như thời đại hôm nay. Có lẽ chưa có thời đại nào người ta thấy có nhiều đứa con bất hiếu bắt cha mẹ già lê lết đầu đường, xó chợ xin sự bố thí của người khác để kiếm tiền vể nộp cho con như thời đại hôm nay. Có lẽ chưa có thời đại nào có nhiều cha mẹ tàn nhẫn đến độ bán con đi làm gái mại dâm, bắt con đi ăn xin hoặc cho mướn con để người khác đao đi ăn xin trong khi cha mẹ nhởn nhơ ở nhà như thời đại hôm nay. Có lẽ chưa có thời đại nào mà các gia đình, những tổ ấm của các trẻ thơ lại biến thành những hang ổ để người lớn mua bán tình dục nhiều như thời đại hôm nay. Có lẽ chưa có thời đại nào đời sống hôn nhân bị coi rẻ, đời sống vợ chồng bị phản bội và đổ vỡ nhiều như thời đại hôm nay. Vợ chồng đánh đập nhau như hai con thú dữ, chửa rủa nhau bằng những ngôn từ hạ đẳng. Người ta lấy nhau đó rồi cũng bỏ nhau đó. Người ta ăn ở với nhau đó rồi cũng đá đít nhau đó. Người ta thề hứa chung thủy đó, nhưng cũng bất trung đó v.v…
Những điều nói trên tưởng không thể có, nhưng chúng đã và đang xảy ra. Vì chúng đã và đang xảy ra nên ta không thể nhắm mắt làm ngơ, cũng không thể né tránh không đề cập đến chúng. Làm nơ để cho sự dữ hoành hành cũng là một trọng tội. Do đó, cần can đảm đối diện với chúng và kiên quyết loại trừ chúng ra khỏi đời sống gia đình. Gia đình có lành mạnh thì xã hội mới lành mạnh. Chính trong môi trường lành mạnh của gia đình và xã hội, con người mới có thể phát triển một cách quân bình.
Thưa quý ông bà, quý anh chị đang được diễm phúc làm cha, làm mẹ. Quí vị có nghe thấy tiếng kêu gào nức nở trong tuyệt vọng của những thai nhi, của những trẻ thơ, con cái của vị không?
Cha ơi, mẹ ơi, cha mẹ đã tác tạo nên con, xin hãy cho con được sống. Xin đừng giết con đi khi con chưa kịp nhìn thấy ánh mặt trời. Cha mẹ ơi, xin cho con một mái ấm gia đình. Xin đừng biến nhà mình thành địa ngục. Xin đừng biến nơi nương náu của con thành một nơi nhầy nhụa tội lỗi. Cha mẹ ơi, xin cha mẹ đừng bỏ nhau. Hãy ở lại với nhau để con là người có cha, có mẹ, để con có thể gọi lên những tiếng thân thương: Cha ơi, mẹ ơi. Xin cha mẹ đừng bắt con phải một mình lang thang vất vưởng giữa chợ đời muôn ngàn cạm bẫy này. Cha mẹ ơi, hãy cho con học hành để con có thể ngửa mặt với đời khi con lớn khôn. Xin đừng bắt con cứ phải cúi gằm mặt xuống mà đi, đừng bắt con mai này phải đi làm tôi cho người khác hút máu mủ con. Cha mẹ ơi, xin hãy cho con sự giáo dục đứng đắn để con có thể lớn lên thành người. Xin đừng bỏ mặc con như một con thú hoang v.v…
Còn nữa, còn nữa và còn rất nhiều lời van xin thống thiết khác nữa. Các trẻ thơ hôm nay đang van xin những người lớn, van xin chúng ta, những người cha, người mẹ của chúng nhiều điều chính đáng lắm. Chúng ta có nghe thấy những tiếng kêu gào nức nở ấy không, thưa quý ông bà và anh chị em? [Mục Lục]
- 44. Suy niệm của JKN
Nghịch cảnh và đau khổ trong gia đình có thể là phương tiện thánh hóa của Thiên Chúa
Câu hỏi gợi ý:
Việc Đức Giêsu bị bách hại khiến Thánh Gia phải trốn sang Ai Cập là do lòng độc ác của vua Hêrôđê, nhưng có phải cũng nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa không? – Những hoạn nạn của ta do lòng độc ác của người khác có tương tự như thế không?
Thiên Chúa muốn Đức Giêsu và Thánh Gia Thất bị hoạn nạn đau khổ như thế để làm gì? do Ngài thương yêu hay ghét bỏ Thánh Gia Thất? Nếu do yêu thương, thì phải giải thích thế nào?
Khi gia đình ta gặp đau khổ thử thách, thì cách khôn ngoan nhất để gia đình vẫn có thể bình an và hạnh phúc là gì?
Suy tư gợi ý:
Đau khổ mà Thiên Chúa dành cho Đức Giêsu và Thánh Gia
Bài Tin Mừng cho thấy ngay khi vừa sinh ra, Đức Giêsu đã trở thành đối tượng bị bách hại, là nạn nhân thoát chết của sự độc ác nơi con người. Thật vậy, vừa sinh ra, Ngài đã bị vua Hêrôđê tìm giết, chỉ vì ông tưởng rằng trong tương lai Ngài sẽ chiếm mất ngai vàng của ông. Thánh Gia cũng gặp biết bao thử thách ngay khi vừa mới thành lập, do sự vô tình, hiểu lầm và vô lương tâm của con người. Thật vậy, khi Giuse và Maria vừa thành gia thất, hai người đã phải chịu búa rìu của dư luận về việc Maria mang thai khi chưa chính thức làm đám cưới; và việc Giuse chấp nhận lấy Maria làm vợ dù con trong bụng nàng không phải là của mình. Rồi vừa mang thai được mấy tháng thì phải về tận Bêlem để đăng ký hộ khẩu, và do nghèo mà không được ai giúp đỡ, Maria đã phải sinh con trong chuồng súc vật. Thật nhục nhã và đau lòng! Chưa hết, vừa sinh con ra, hai ông bà đã phải vượt biên trốn sang Ai Cập, chịu bao đắng cay và khổ nhục! Những khổ nhục ấy không chỉ do con người gây ra, mà còn do sự sắp đặt của chính Thiên Chúa trong kế hoạch của Ngài nữa. Phải nói rằng con người mà Thiên Chúa Cha yêu thương nhất chính là Đức Giêsu! Nhưng chính Ngài lại là con người bị Thiên Chúa đày đọa nhiều nhất: “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ” (Dt 5,8). Cũng vậy, gia đình mà Thiên Chúa lưu tâm nhất chính là Thánh Gia Nadarét. Nhưng đó cũng là gia đình mà Thiên Chúa thử thách và làm cho đau khổ nhiều nhất! Thật kỳ diệu, khó hiểu và đầy mâu thuẫn! Nhưng đó chính là thánh ý của Ngài! Thiên Chúa có điên chăng? Không, Ngài rất khôn ngoan, nếu chúng ta không hiểu được chính vì sự khôn ngoan ấy vượt quá khả năng suy nghĩ và hiểu biết của chúng ta!
Nhưng đau khổ lại là nguồn hạnh phúc và vinh quang
Nhìn lại kết quả của những thử thách ấy, ta thấy: Đức Giêsu và Thánh Gia hiện nay đang được tôn sùng nhất, cao sang nhất, vinh quang nhất không chỉ ở dưới đất mà còn cả trên trời nữa! Nhìn thế ta mới thấy rõ sự ưu ái mà Thiên Chúa dành cho Đức Giêsu và gia đình của Ngài. Một sự ưu ái đầy công bằng khiến cho không ai trên trần lẫn trên trời có thể ganh tị được! Sự công bằng của Thiên Chúa đòi hỏi phải có sự tỷ lệ thuận giữa đau khổ và hạnh phúc, giữa nhục nhã và vinh quang, giữa tự hạ và được nâng lên… Thiên Chúa luôn luôn dùng đau khổ để thánh hóa và tinh luyện tình yêu của con người, dùng nhục nhã để đưa con người đến vinh quang. Tuy nhiên, những đau khổ chịu ở đời này quả là quá nhỏ bé so với hạnh phúc và vinh quang mà Thiên Chúa ban thưởng vì những đau khổ ấy: “Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta” (Rm 8,18). Vấn đề quan trọng và tùy thuộc nơi con người là: con người có chấp nhận luật công bằng đó hay không, có chấp nhận để Thiên Chúa thánh hóa và tinh luyện tình yêu của mình không. Nghĩa là khi chịu đau khổ, con người có nhận ra đó là thánh ý Thiên Chúa để vui lòng chấp nhận không? Thiếu sự vui lòng chấp nhận này, thì hạnh phúc và vinh quang không thể thành tựu được. Thánh Phaolô viết: “Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ sống với Người; nếu ta cùng đau khổ với Người, ta sẽ thống trị với Người” (2Tm 2,11-12a), nhưng ngài cũng thêm: “Nếu ta chối bỏ Người, Người cũng sẽ chối bỏ ta” (2Tm 2,12b).
Hãy thực hiện thánh ý Chúa trong mọi tình huống của gia đình
Trong đời sống gia đình, ta cũng sẽ gặp thử thách và đau khổ do sự thiếu tình thương, vô tình, hiểu lầm, tính ích kỷ và độc ác của người khác, thậm chí của chính những người trong gia đình mình. Chính ta cũng gây ra những thử thách và đau khổ tương tự như thế cho tha nhân, và cho cả những người trong gia đình mình. Nhưng những thử thách đó đều nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa nhằm thánh hóa và tinh luyện tình yêu nơi bản thân ta cũng như những người thân trong gia đình ta. Điều quan trọng là ta phải nhận ra thánh ý Thiên Chúa trong những thử thách đó, và luôn luôn sẵn sàng làm theo thánh ý Ngài. Gia đình Nadarét xưa cũng gặp rất nhiều đau khổ, nghịch cảnh như gia đình chúng ta đã gặp. Có biết bao hoàn cảnh khiến người trong gia đình hiểu lầm nhau, tạo nên những xung đột, v.v… làm cho nhau đau khổ, và đòi buộc mọi người phải chịu đựng, tha thứ lẫn nhau. Chính trong thử thách và đau khổ, con người mới chứng tỏ được tình yêu của mình đối với Thiên Chúa và tha nhân, đặc biệt đối với những người trong gia đình mình.
Nếu Thiên Chúa đã để cho Đức Giêsu, cũng như Đức Maria và Thánh Giuse phải đau khổ để thánh hóa, tinh luyện tình yêu các Ngài hầu ân thưởng bội hậu các Ngài, thì Thiên Chúa cũng đang thực hiện như vậy đối với ta và gia đình ta. Nên nhớ rằng: “Vinh quang sẽ đến sau những đau khổ đó” (1Pr 1,11). Thiên Chúa muốn dành cho ta những hạnh phúc và vinh quang lớn lao. Nhưng sự công bằng của Ngài đòi hỏi ta phải ít nhiều xứng đáng với hạnh phúc và vinh quang ấy, nên Ngài phải thử thách ta chút ít để ta chứng tỏ được tình yêu của ta. Vì thế, hãy lấy làm vui mừng khi được Ngài thử thách: “Được chia sẻ những đau khổ của Đức Kitô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em cùng được vui mừng hoan hỷ” (1Pr 4,13).
Điều quan trọng là chúng ta phải có tình yêu đích thực đối với tất cả mọi người trong gia đình ta. Và biểu hiện của tình yêu đích thực – tức “hoa quả của Thần Khí” – là “bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (Gl 5,22-23). Nếu “yêu nhau không phải là nhìn nhau, mà là cùng nhau nhìn về một hướng” như Saint-Exupéry nói, thì trong gia đình, hướng chung đó phải là cùng nhau xây dựng hạnh phúc gia đình, hạnh phúc chung của mọi thành viên trong đó. Muốn thực hiện được hạnh phúc ấy thì điều cần thiết là mọi người đều phải đặt thánh ý Thiên Chúa là tối quan trọng, và luôn luôn thi hành thánh ý Ngài. Mà thánh ý Ngài chính là mọi người trong gia đình yêu thương và hy sinh cho nhau (x. (Ga 13,34)-35).
Hạnh phúc gia đình phải được xây dựng trên nền tảng là cùng nhau thực hiện thánh ý Thiên Chúa thì mới vững bền. Cổ nhân nói: “Thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong” (=thuận theo Trời thì còn, thì hạnh phúc, nghịch với Trời thì mất, thì đau khổ). Câu này đúng trong mọi trường hợp, đặc biệt trong mọi tình huống của gia đình. Nếu không quan tâm thực hiện thánh ý Ngài, con người càng tìm hạnh phúc thì càng gặp đau khổ. Nếu vì chính bản thân ta không hy sinh và nỗ lực tạo hạnh phúc cho gia đình mình nên gia đình ta không hạnh phúc, thì ta nên xét lại cách cầu nguyện và cách sống đạo của ta. Rất có thể ta đã cầu nguyện và sống đạo một cách sai lạc, không đẹp lòng Thiên Chúa. Cần sám hối và sửa sai. Đừng tưởng cứ cầu nguyện cho nhiều là làm đẹp lòng Thiên Chúa! Cần cầu nguyện cho có phẩm chất hơn là cầu nguyện cho nhiều. Cầu nguyện có phẩm chất đòi hỏi lòng chân thành và tình yêu thật sự, hay ít nhất là hướng đến việc gia tăng tình yêu trong lòng mình. Hiệu quả tất yếu của việc cầu nguyện đích thực là tình yêu trong lòng mình ngày càng gia tăng. Dựa vào đó, ta có thể biết mình có thật sự cầu nguyện hay cầu nguyện đẹp lòng Chúa hay không.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, đời sống gia đình có biết bao khó khăn, thử thách và đau khổ, chẳng những đến từ ngoại cảnh, từ xã hội, mà còn đến từ chính những người trong gia đình. Xin cho con nhận ra mọi đau khổ thử thách đều là những phương tiện Cha dùng để thánh hóa, tinh luyện tình yêu của bản thân con và gia đình con, để chúng con có được những cơ hội quý giá chiếm được những phần thưởng vô cùng lớn lao mà Cha muốn dành cho chúng con. Xin ban cho con mọi người trong gia đình con đủ tình yêu để gia đình con trở thành một tổ ấm hạnh phúc, thành một hình ảnh của thiên đàng mai sau. [Mục Lục]
- 45. Hãy chỗi dậy
(Suy niệm của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Đoạn 2:13-15.19-23 nằm trong văn mạch là sau khi các Đạo sĩ tìm đến thờ lạy Vua mới sinh (2:2), vua Hêrôđê ra lệnh tìm giết Vua mới sinh nầy, và đã giết các trẻ thơ vô tội (2:16-18); Vua mới sinh nầy phải trốn sang Ai cập trước khi lệnh của Hêrôđê được thi hành (2:13-15.19-23). Đoạn 2:13-15.19-23 gồm hai câu chuyện có kết cấu tương tự nhau là thiên sứ ra mệnh lệnh và Giuse thi hành mệnh lệnh. Đoạn 2:13-15 thuật việc Giuse đem Hài Nhi và mẹ của Người trốn đến Ai cập; trong khi đoạn 2:19-23 thuật việc họ trở về lại quê nhà. Cả hai đoạn, cũng như đoạn 2:16-18, đều kết thúc giống nhau là bằng một trích dẫn của CƯ (2:15.18.23). Ngay từ đầu Matthêô đã đặt những sự kiện bàn đến trong chương hai nầy trong bối cảnh lịch sử lúc ấy: “tại Bêthlêhem xứ Giuđa”, “trong những ngày của Hêrôđê làm vua” (2:1). Tiếp theo đó, Matthêô nói đến một vị “Vua của Giuđa mới sinh ra” (2:2), như là đối lập với vua Hêrôđê, mà các đạo sĩ tìm đến thờ lạy. Do đó, Hêrôđê tìm cách giết vị Vua mới nầy. Vào cuối chương 2, Hêrôđê chết, vị Vua mới nầy trở lại quê nhà, và tiếp theo đó Người bắt đầu sứ vụ rao giảng công khai của Người. Câu chuyện trốn sang Aicập cho thấy Thiên Chúa đã tìm cách bảo vệ Con của Người qua sự vâng lời thi hành của Giuse.
Đoạn 2:13-15: Trốn sang Ai cập. “Nhưng sau khi họ (các Đạo sĩ) đi rồi, thiên sứ hiện ra…” liên kết trình thuật nầy với đoạn trước. Đoạn nầy gồm: – Lời của thiên sứ (c. 13) và sự thi hành của Giuse (cc. 14-15). Cấu trúc câu 2:13 hoàn toàn giống như câu 2:19-20: “Nầy” – Thiên sứ xuất hiện với Giuse trong giấc mơ, nói với ông – “Hãy chỗi dậy” đem Hài Nhi và mẹ Người đi đến đất chỉ định – “vì” với lời giải thích. Thiên sứ ra lệnh Giuse đem con trẻ và mẹ của Người sang Ai cập, vì Hêrôđê tìm cách giết Người. Sự xuất hiện của thiên sứ cho thấy Thiên Chúa có một kế hoạch liên quan đến Con của Người (1:20.24; 2:13.19); ở đây Người cứu Hài Nhi khỏi bị giết bằng cách đưa sang Ai cập.
Giuse là người được giao phó thi hành kế hoạch ấy. Động từ paralambanō, “nhận về với mình” (1:20.24; 2:13.14.20.21) chỉ việc Giuse phải làm: trước đây là “nhận làm vợ”, “nhận về nhà” (1:20.24); bây giờ là “nhận đem đi” (2:1314.20.21). “Hài Nhi và mẹ Người” là một đơn vị không tách rời nhau (2:11.13.14.20.24). Cách dùng nầy muốn nói Hài Nhi không có cha trần gian. Giuse đứng ngoài qua hệ mẹ-con nầy, và như là người phục vụ Hài Nhi và mẹ Người. Hài Nhi được nêu lên trước, vì Người là trọng tâm chú ý của mọi biến cố và hành động xảy ra chung quanh Người. Ý muốn rõ ràng của Hêrôđê là “giết” Hài Nhi.
Giuse đã thi hành mệnh lệnh cách hoàn hảo, và có thế nói là đã theo từng chữ (2:14.21.23). Matthêô xem việc trốn sang Ai cập là để hoàn tất chương trình của Thiên Chúa; ông dùng công thức “để ứng nghiệm” (2:15.23). Lời của ngôn sứ Ôsê: “Từ Ai cập Ta sẽ gọi Con Ta về” (Ôs 11:1) ám chỉ việc Thiên Chúa hứa đưa dân do thái ra khỏi sự nô lệ ở Ai cập (x. Ds 23:22; 24:8). Lời nầy sẽ áp dụng cho Hài Nhi. Theo nghĩa đen đó là Giuse sẽ đưa Hài Nhi quay trở lại quê nhà khi Hêrôđê băng hà. Theo nghĩa cánh chung, Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, cũng là hiện thân của dân Israel. Người thâu tóm trong chính mình cả lịch sử của dân tộc nầy: sống ở Ai cập, làm cuộc xuất hành, sống trong sa mạc. Khi trải qua tất cả những điều ấy, Người đưa lịch sử dân Israel đến cao điểm của nó là được cứu chuộc trong Người.
Đoạn 2:19-23: Trở về lại quê nhà. Đoạn nầy được chia thành hai phần: – Thiên sứ báo và trở lại đất Israel (2:19-21); – Thiên Chúa cho biết và đi về Nazaréth (2:22-23). Hêrôđê làm vua từ năm 37 trước Chúa Kitô đến năm 4 sau Chúa Kitô. Cách nói về cái chết của ông (c. 19) tương tự như về cái chết của Pharaoh (x. Xh 4:19-20). “Những người tìm tính mạng của Hài Nhi” (c. 20) là những người tìm giết Người (2:13). “Trong đất Israel” (2:20.21) đối nghịch với “Ai cập”; đó là đất nơi Hài Nhi được sinh ra để làm thủ lãnh (2:6). Sau khi vua Hêrôđê băng hà, vương quốc của ông chia cho ba người con là Philip, Archelaus và Antipas. Archelaus nắm quyền xứ Giuđa, Samaria và Idumea. Ông có tiếng là ác độc hơn hai anh em kia. Triều đại ông ngắn ngủi. Năm 6 sau Chúa Kitô, ông bị đày sang xứ Gaul. Matthêô nhắc đến triều đại của ông để tiếp tục đề tài về sự đối lập của hai vương triều. Chúa Giêsu là vua thật. Và Người phải tiếp tục lẫn tránh vì sự tìm giết của Archelaus khi ông kế vị ngôi của vua cha.
Ý định của Thiên Chúa là Giuse đưa Hài Nhi và mẹ Người về Galilêa (2:22). Chú ý cách dùng chữ kéo sự tập trung nhỏ dần về địa lý: “trong đất Israel” (2:19.20); “trong xứ Galilêa” (92:22) và “trong thành Nazaréth” (2:23). “Galilêa” nêu lên ở đây để chuẩn bị cho ngày Chúa Giêsu đi từ đây đến sông Giorđan để chịu phép rửa (3:13). Cụm từ “Ngài sẽ được gọi là Nazarêô” (2:23) không tìm thấy trong bất cứ ngôn sứ nào. Cụm từ nầy muốn chỉ Chúa Giêsu xuất thân từ Nazaréth (26:71; Lc 18:37). “Nazarênô” nầy cũng có thể ám chỉ Is 11:1, trong đó nói đến một chồi (nezer) sẽ phát xuất từ gốc Jessê. Thần Khí sẽ ngự xuống trên Người (Is 11:2-4; Lc 4:18). Chính Người là chồi phát xuất từ dòng dõi Đavít (Giêr 23:5; 33;15) để làm vua và cai trị dân Người trong chính trực và công bình.
Dân Israel đuợc thu tóm trong bản thân Chúa Giêsu. Người được sinh ra và được kể thuộc dòng dõi Abraham, Đavít. Bằng kinh nghiệm bản thân Người trải qua những gì dân nầy đã làm. Các vương quyền trần thế qua đi. Vương quốc của Người tồn tại, và với tư cách là Vua, Người dẫn đưa dân Israel nầy vào một bước ngoặt mới trong lịch sử cứu độ. [Mục Lục]
- 46. Chú giải của Lm. FX. Vũ Phan Long
SỰ HƯỚNG DẪN VÀ CHE CHỞ CỦA THIÊN CHÚA
1.- Ngữ cảnh
Bản văn đưa chúng ta đi vào tấn bi kịch: Vừa chào đời, Hài Nhi Giêsu đã bị vua Hêrôđê tìm cách tiêu diệt. Toàn bản văn có hai nét tiêu biểu: (1) Cuộc sống của Hài Nhi bị đe dọa, và vì thế, công trình cứu thế cũng bị đe dọa; (2) Thiên Chúa che chở Hài Nhi. Bản văn không hề có chút gì là màu sắc lãng mạn: các biến cố được mô tả rất đơn giản, y như thể là bài tường thuật về một sự kiện thời sự.
2.- Bố cục
Có thể chia bản văn Mt 2,13-21 thành ba phần, cuối mỗi phần có một ghi nhận về sự hoàn tất các sấm ngôn:
1) Cuộc đi trốn sang Ai Cập (2,13-15);
2) Mối đe dọa thật trầm trọng (2,16-18);
3) Mối đe dọa chấm dứt – Trở về quê hương (2,19-21).
Bản văn phụng vụ không đọc phần thứ hai.
3.- Vài điểm chú giải
– trốn sang Ai Cập (13): Đây là miền đất những người Do Thái bị bách hại thường tìm đến mà ẩn náu (x. 1 V 11,40; 2 V 25,26), nhất là từ khi xảy ra các xáo trộn thời Macabê. Rất có thể Giuse đã đến Arít, phía nam Gada: đến được đó, thì đã coi như ngài đã ở trên đất Ai Cập; vùng này được Rôma trực tiếp kiểm soát từ năm 31 tCN. Dù thế nào, đi từ Bêlem xuống Ai Cập chỉ mất năm hay sáu ngày.
– Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai Cập (15): Mt trích sách ngôn sứ Hôsê Hípri với chi tiết “con Ta”, còn Bản LXX thì viết là “các con của nó”. Lời sấm Hs gợi đến cuộc Xuất hành của Israel, vì khi đó họ đã được gọi là “con Ta” ở Xh 4,22. Theo cách Mt đặt Israel và Đức Giêsu song đối với nhau, ta phải kết luận rằng Đức Kitô sáp nhập dân mới của Thiên Chúa, tức là Hội Thánh, vào bản thân Người và Người sẽ lôi kéo dân mới này đi theo trong cuộc Xuất hành cánh chung của Người.
– giết tất cả các con trẻ ở Bêlem và toàn vùng lân cận, từ hai tuổi trở xuống (16): Rất có thể con số các trẻ em bị giết không vượt quá hai mươi, do mật độ dân số thưa thớt và tỷ lệ sinh ít ỏi ở Bêlem thời đó (theo tính toán của D. Buzy).
– tính theo ngày tháng ông đã hỏi cặn kẽ các nhà chiêm tinh (16): Ta có cảm tưởng là điều này không thật, bởi vì vua Hêrôđê có thể dễ dàng cho người đến Bêlem mà tìm ra ngôi nhà đã được các hiền sĩ đến thăm. Câu trích Gr 31,15 và giọng văn rất giản dị khiến người ta nghĩ bản văn này là một bài giáo lý hơn là một tư liệu lịch sử. Tuy nhiên, chứng giận dữ điên cuồng mù quáng dại dột của nhà vua thì rất phù hợp với những gì chúng ta biết được về những năm cuối đời ông.
– Ở Rama, vẳng nghe tiếng khóc than rền rĩ: tiếng bà Rakhen khóc thương (18): Bản văn trích từ Gr 31,15 dường như là một bản dịch tóm bản văn Hípri. Vị ngôn sứ cho thấy bà Rakhen, mẹ của Giuse (các chi tộc Épraim và Mơnase) và Bengiamin, trỗi dậy từ ngôi mộ của bà gần Rama (khoảng 8 cs về phía bắc Giêrusalem) mà khóc trên nỗi bất hạnh của các cháu chắt bà, vì họ đang bị người Átsua đưa đi lưu đày (khoảng năm 722 tCN). Truyền thống Do Thái đã lầm khi xác định Éprát, nơi có mộ bà Rakhen, là Bêlem (St 35,19), nhưng giúp cho tác giả Mt có cơ sở mà liên kết bản văn Giêrêmia với hoàn cảnh hiện tại. Tuy nhiên, để hiểu ý hướng của Mt khi quy chiếu về chương này của Gr, cần thấy rằng các câu sau (Gr 31,16-17) giới thiệu một bầu khí khác, đưa tới lời Thiên Chúa hứa lập một giao ước mới với nhà Israel (Gr 31,31-33). Theo Mt, việc Đức Giêsu trở về từ Ai Cập đánh dấu bước đầu hoàn tất lời sấm ấy: “giao ước mới” được Gr tiên báo, này đang đi dần tới chỗ được thực hiện nơi bản thân Đức Giêsu.
– vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi (20): Câu này trích từ Xh 4,19 (“Đi đi, hãy trở về Ai Cập, bởi vì mọi kẻ tìm cách làm hại mạng sống ngươi đã chết cả rồi”).
– Áckhêlao (22): Ông cai trị miền Giuđê từ năm 4 tCN đến năm 6 CN. Mt không nói vì sao Giuse muốn rời bỏ miền đất do Áckhêlao cai trị. Lịch sử cho biết Áckhêlao cũng độc ác như vua cha, nhưng không thông minh và khôn khéo về chính trị như vua cha. Mt không nói lý do, có lẽ vì muốn để cho quyết định của Giuse hoàn toàn lệ thuộc sự hướng dẫn của Thiên Chúa.
– Người sẽ được gọi là người Nadarét (23): Qua sự kiện Đức Giêsu về ở tại Nadarét, Mt thấy nhiều bản văn ngôn sứ được ứng nghiệm. “Người Nadarét” là nazôraios trong tiếng Hy Lạp. Nhưng nazôraios cũng còn có thể có hai nghĩa sau:
(1) Nazôraios có quan hệ với naziraios (LXX) là từ ngữ dẫn xuất từ từ ngữ Hípri na-dia (nazýr). Na-dia là một người “biệt cư”, một vị “thánh”, như Samsôn (x. Tl 13,5-7: đoạn này thường được liên kết với Mt 1–2), phải tuân giữ những luật lệ nghiêm ngặt. Luca giới thiệu Gioan Tẩy Giả (Lc 1,15), và Đức Giêsu (1,35), như một na-dia, kế thừa các vị thánh Cựu Ước.
Thật ra, văn cảnh Mt 1–2 khó phù hợp với ý tưởng về truyền thống na-dia này.
(2) Nazôraios có quan hệ với từ Hípri nêser, “mầm mống, chồi lộc” (x. Is 11,1; Gr 23,5; 33,15; Dcr 3,8; 6,12). Đấng Mêsia được gọi bằng tên này để diễn tả thân phận thấp hèn, khiêm tốn.
Từ này yếu hơn từ trước về phương diện ngữ học, nhưng lại phù hợp với văn cảnh Mt ch. 2 hơn.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Trong bản văn chúng ta đọc hôm nay, tác giả Mt diễn tả rõ ràng hình ảnh Đấng Mêsia bị dân Người loại trừ và bách hại. Ông cũng theo sát quan niệm của các kinh sư về một cuộc Xuất hành mới vào thời cánh chung mà trình bày loạt các biến cố này như một cuộc Xuất hành mới, tiên báo cuộc Xuất hành cuối cùng của lịch sử nhân loại mà Đức Giêsu sẽ thực hiện qua sứ vụ của Người: ở đây cũng có một ông vua sát hại các trẻ em Do Thái; nhưng cũng như Môsê đã được mang đi giấu và được cứu, Đức Giêsu cũng thoát khỏi cái chết; Thiên Chúa đã gọi Israel ra khỏi Ai Cập, bây giờ chính là Đức Giêsu, Israel mới, ra khỏi Ai Cập.
* Cuộc đi trốn sang Ai Cập (13-15)
Giuse được Thiên Chúa giao cho nhiệm vụ che chở và bảo vệ Maria và Hài Nhi (1,20t) và ngài đã vâng lời chấp nhận nhiệm vụ (1,24t). Kể từ đó, ngài sống là để phục vụ mẹ con Hài Nhi. Điều ngài phải làm, đã được biểu lộ đặc biệt vào dịp Hài Nhi bị đe dọa. Ba mệnh lệnh ngài nhận được từ Thiên Chúa luôn luôn có nguyên do là hoàn cảnh hiểm nghèo này (2,13.20.22). Thật ra lệnh Thiên Chúa đã được hiểu ngầm trong hoàn cảnh, bởi vì hoàn cảnh diễn tả điều mà Giuse được yêu cầu làm để bảo vệ Hài Nhi. Hành động của Giuse được xác định như là cách ứng xử do hoàn cảnh bó buộc dưới sự hướng dẫn của Thiên Chúa. Tương ứng với mỗi lệnh là việc Giuse thi hành chính xác điều được yêu cầu (2,14.21.23). Giuse vâng lời Thiên Chúa theo sát mặt chữ và tức khắc (ngay trong đêm; không biết ngày về). Luật tối thượng của đời sống ngài là ý muốn của Thiên Chúa, Đấng đã giao phó Hài Nhi cho ngài.
Hài Nhi luôn luôn được nhắc đến cùng với mẹ Người (2,13.14.20.21). Tuy nhiên, tác giả không nêu tên bà. Maria không được nhắc đến vì chính mình, nhưng vì công việc phục vụ từ mẫu bà cống hiến cho Hài Nhi, và Hài Nhi phải nhờ đó mà sống. Cũng như Giuse được giao cho nhiệm vụ che chở Hài Nhi khỏi các nguy hiểm bên ngoài, Maria được giao cho bổn phận săn sóc Hài Nhi để Hài Nhi lớn lên. Giuse và Maria có những nhiệm vụ khác nhau, nhưng tại trung tâm đời sống các ngài, có công việc giống nhau là phục vụ Đức Giêsu.
Khi kết thúc bài tường thuật đầu tiên này, tác giả Mt đã vận dụng bản văn Hs (11,1) không phải để nói về cuộc trốn sang Ai Cập, nhưng là chuyến đi từ Ai Cập về đất Israel. Bằng cách này, ngài muốn đề cao ơn gọi thiên sai của Đức Giêsu (sẽ được công bố tại sông Giođan), như xưa kia, dân Do Thái, khi được gọi ra khỏi Ai Cập, đã trở thành dân “sở hữu” của Thiên Chúa (Xh 19,5).
* Mối đe dọa thật trầm trọng (16-18)
Lối xử sự của vua Hêrôđê hoàn toàn ngược lại với lối xử sự của Maria và Giuse. Hai đấng che chở và săn sóc Hài Nhi, còn vua Hêrôđê thì muốn loại trừ Người, khi ông cảm thấy vương quyền của ông bị ấu chúa dân Do Thái đe dọa (2,2). Ông đã coi vương quyền của ông như mục tiêu tự nó có giá trị; ông bị chiếm hữu bởi ý chí hùng cường. Do đó, ông chỉ có một mối bận tâm, là vận dụng mọi phương tiện để đảm bảo vương quyền, kể cả vi phạm bổn phận đầu tiên của một vị vua, là che chở thần dân mình: như mục tử chăm sóc đoàn chiên, một vị vua cũng phải săn sóc dân mình (x. 2,6). Hêrôđê đã xúc phạm đến sự sống của dân ông, khi cho sát hại các hài nhi. Vì muốn loại trừ Đấng mà ông đang tìm kiếm, ông muốn chắc chắn nên đã gây ra cuộc tàn sát các hài nhi Bêlem. Ở đây Hêrôđê là hình ảnh của Pharaô ngày xưa tái hiện, vì trước Xuất hành, Pharaô đã giết các trẻ nam Israel (x. Xh 1,15-22).
* Mối đe dọa chấm dứt – Trở về quê hương (2,19-21)
Cái chết của vua Hêrôđê đã loại trừ nguy hiểm, nên Thánh Gia có thể trở về quê. Tuy nhiên, vì sợ Hêrôđê Áckhêlao, Giuse đã quyết định đưa Hài Nhi về Nadarét. Tác giả nhận ra qua hành trình Hài Nhi theo để đi sang Ai Cập rồi trở về Nadarét là chương trình của Thiên Chúa được hoàn tất. Lời ngôn sứ Hôsê 11,1 (“Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai Cập”) lúc đầu nhắm tới việc dân Israel thoát ách nô lệ Ai Cập; nay vị trí của dân Thiên Chúa, Đức Giêsu, trong tư cách là Con Thiên Chúa theo cách tuyệt đối đặc biệt (x. 3,17), đã chiếm lấy. Công thức “Người sẽ được gọi là người Nadarét” không có trong bất cứ sách ngôn sứ nào; chính Mt cũng không quy chiếu về vị ngôn sứ nào, nhưng nói ở số phức “các ngôn sứ”. Câu văn ấy trước tiên cho thấy Đức Giêsu như là người đến từ Nadarét. Đây có thể là một gợi ý đến Is 11,1, vì trong câu ấy, có loan báo về mầm chồi (nêser) phát xuất từ gốc Giêsê như là Hoàng tử bình an, đầy Thần Khí và công chính; cũng có thể gợi đến cả Gr 23,5; 33,15, vì ở đó có cho biết là dân chúng đang trông mong một vị vua công chính và khôn ngoan như là một mầm chồi cho Đavít.
Chúng ta ghi nhận là trong đoạn tường thuật cuối cùng này, Mt so sánh Đức Giêsu với Môsê. Cũng như Môsê đã thoát chết cách huyền nhiệm (Xh 2,1-10) và đã trốn sang đất ngoại quốc để tránh Pharaô (Xh 2,11-15) trước khi đương đầu công khai với nhà vua theo lệnh Thiên Chúa, thì Đức Giêsu, sau khi đã được tấn phong làm ngôn sứ (Xh 3,1-12), cũng thoát khỏi cuộc tàn sát và trốn bạo chúa (cc. 13-15), rồi lui về Nadarét (c. 23) để tái xuất hiện và rao giảng công khai, sau khi được tấn phong làm Mêsia khi chịu phép rửa (ch. 3–4). Nét tương đồng với Môsê được khẳng định qua lời thiên sứ trích từ Xh 4,19. Đến cuối cuộc xuất hành này, Đức Giêsu sẽ tái xuất hiện trên sân khấu xã hội Do Thái dẫn đầu đoàn người đông đảo (4,25), và Người sẽ ban cho họ Luật mới (Bài Giảng trên núi, ch. 5–7), như Môsê sau Xuất hành, tại núi Sinai.
+ Kết luận
Ý muốn sát nhân của vua Hêrôđê đã bị sự che chở của Thiên Chúa triệt tiêu, mà lại không dùng bất cứ phương tiện phi thường nào. Do biết đi trốn và biết khôn ngoan nhận định tình hình, Giuse đã bảo vệ Con Trẻ được an toàn. Giuse đã là một dụng cụ Thiên Chúa dùng; ngài vâng lời Thiên Chúa và ra sức hành động để phục vụ sự sống của Hài Nhi. Do ý muốn của Thiên Chúa, Đức Giêsu đã đi sang Ai Cập rồi về Nadarét, và thế là chương trình của Thiên Chúa được ứng nghiệm (2,15.23). Những ai bị cuộc xuất hiện của Đức Giêsu “phá rối” thì vận dụng mọi phương tiện để chống lại Người. Nhưng Đức Giêsu ở dưới sự che chở của Thiên Chúa. Các dụng cụ Thiên Chúa dùng là các con người, được kêu gọi để phục vụ Hài Nhi. Trong câu truyện vừa đọc, ta thấy rõ ý nghĩa của sự hiện diện của Giuse và Maria đối với Hài Nhi Giêsu.
Đức Giêsu vừa là Môsê mới (Ai Cập) vừa là con cháu Đavít (Bêlem). Cuộc trốn sang Ai Cập không phải là một ngoặc đơn tình cờ trong định mệnh Đức Giêsu, nhưng là một sự kiện đầy ý nghĩa nối kết định mệnh này với toàn thể lịch sử Israel. Chương trình của Thiên Chúa đang điều hành trọn vẹn cuộc đời Đức Giêsu.
5.- Gợi ý suy niệm
Một em bé là một con người yếu ớt, mong manh, không quyền lực, bị đe dọa trong cuộc sống. Em không thể tự vệ, cũng không thể tự khẳng định. Chỉ nguyên chuyện tiếp tục sống, em cũng cần được săn sóc và giúp đỡ. Em lại càng cần được che chở cách hiệu quả và khôn ngoan để có thể thoát các nguy hiểm. Vô sô hài nhi đã trở thành nạn nhân của chính tình trạng thiếu khả năng tự vệ. Hài Nhi Giêsu cũng thông dự vào nguy cơ này. Làm sao khỏi cảm kích trước mầu nhiệm Nhập Thể đã đưa Con Thiên Chúa đến chỗ chia sẻ thân phận con người như thế?
Giuse biết rõ mình là ai và biết rõ mình phải làm gì và ngài sống đúng theo chiều hướng đó. Ta không hề thấy Giuse bận tâm đến chút quyền lợi riêng tư nào. Ngài chấp nhận mọi mệt nhọc, mọi mò mẫm; ngài chỉ có một mục tiêu là phục vụ sự sống của Hài Nhi. Thiên Chúa là Đấng hướng dẫn và Giuse là người thi hành. Cuộc sống Kitô hữu cũng có những mệt nhọc và những mò mẫm như đi trong đêm tối. Thiên Chúa kêu gọi, Thiên Chúa hướng dẫn, nhưng Ngài không chỉ rõ con đường phải theo. Ngài để cho con người suy nghĩ, vận dụng sáng kiến, mà cộng tác với Ngài.
Giuse và Maria có những nhiệm vụ khác nhau, nhưng đều nhằm phục vụ Hài Nhi Giêsu. Thật ra công việc phục vụ này không có gì đặc biệt, mà chỉ là công việc của một người cha và một người mẹ như bất cứ cha mẹ nào: săn sóc đứa con, bảo vệ che chở, làm cho nó lớn lên an toàn. Qua điểm này, chúng ta nhận ra sự hạ cố của Thiên Chúa: Người chấp nhận sự săn sóc của loài người, các thọ tạo của Người. Nhưng đấy cũng là một bài học cho chúng ta: cứ làm những việc bổn phận thuộc bậc sống, chúng ta lại có thể đang thực hiện những điểm trọng yếu trong lịch sử cứu độ.
Quyền bính của Giuse, chủ gia đình, là một quyền bính trung gian. Ngài nhận các mệnh lệnh từ Thiên Chúa và truyền đạt cho các thành viên trong gia đình. Như thế, quyền bính này là một việc phục vụ. Mục tiêu Giuse nhắm không phải là thỏa mãn chính mình, nhưng là phục vụ Con của mình bằng cách bảo vệ Con khỏi nguy hiểm. Đức Maria và Đức Giêsu vâng lời Giuse, vì nhận ra nơi lời ngài có Lời Thiên Chúa. Đây chính là sự hài hòa và bổ túc của các vai trò trong gia đình: mỗi người được mời gọi sống ơn gọi của mình trong tình yêu và sự kính trọng người khác.
Quyền lực được giao là để phục vụ hạnh phúc của nhân dân. Như thế, gương phải theo khi thi hành quyền lực là chính Thiên Chúa. Hêrôđê chỉ biết đến mục tiêu cá nhân, chứ không hề quan tâm đến những con người, dù là những con người yếu đuối, vô tội. Khi đó, mọi phương tiện đều tốt, kể cả sát hại hàng loạt những trẻ thơ vô tội. Dĩ nhiên không ai trong chúng ta lại không rùng mình khi nghĩ đến sự tàn ác của vua Hêrôđê, nhưng chúng ta có thể tự hỏi: Chúng ta có thật sự tôn trọng người khác, vì họ là con cái Thiên Chúa, và anh chị em của chúng ta chăng, hay là đôi khi chúng ta cũng nghĩ đến người khác chỉ như là phương thế để trục lợi, để giải quyết mọi khúc mắc của chúng ta, rồi sau đó mau mắn bỏ rơi và quên mất họ?
Đoạn văn nói đến diễn tả rõ ràng sự quan phòng của Thiên Chúa trên cuộc đời Đức Giêsu. Nhưng quan phòng không có nghĩa là làm cho cuộc đời của Đức Giêsu tiến đi trên thảm mịn, rải toàn hoa hồng. Đức Giêsu vẫn gặp đủ thứ thử thách. Nhưng Thiên Chúa quan phòng đưa lại một ý nghĩa cho các thử thách, tháp chúng vào trong một chương trình cứu độ (x. Rm 8,28). [Mục Lục]
- 47. Chú giải của Noel Quesson
Sau khi các nhà chiêm tinh đến thăm Bê-lem.
Nếu bạn có một sách Tin Mừng tại nhà bạn và nếu các bạn có chút hiếu kỳ thiêng liêng, hãy đọc lại những câu truyện này.
Trong gia phả, Đức Giêsu được gọi là Con Đa-vít, Con Abraham.
Trong tin báo cho Giuse, chính hài nhi này bắt đầu thực hiện những lời hứa trong Kinh Thánh, và được mạc khải như Thiên Chúa cứu độ, Thiên Chúa ở cùng chúng tôi
Rồi theo Mátthêu, tiếp ngay đến cuộc thăm viếng của các nhà chiêm tinh; không có những mục đồng Do Thái Giêrusalem, dẫu thế, được báo cho biết trước về chuyện đang xảy ra trong vùng ngoại ô kế cận (Bê-lem cách độ 8km!) vẫn không động tĩnh… trong khi những người nước ngoài từ Phương Đông đến từ xa, phục lạy trước hài nhi, được gọi khi ấy là “vị đứng ra sẽ chăn dắt Do Thái dân của tôi”.
Khi các nhà chiêm tinh đã ra về, thì sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giuse
Trong trang mà chúng ta sắp đọc, tên Giuse được kêu lên bốn lần. Đó là người duy nhất được gọi tên như thế. Giuse là vai trung tâm của câu truyện. Chủ gia đình, ông chịu trách nhiệm nhóm nhỏ, luôn luôn được giới thiệu vô danh cho hai nhân vật khác là Hài nhi vâ Mẹ của Hài nhi. Chúng ta cũng sẽ lưu ý rằng trên trang này, Giuse có tầm quan trọng lớn lao, ông không nói một lời. Chính ông lâ người ở phần trước sân khấu, là người nhận trực tiếp các sứ điệp trên trời, lại không nói… mà ông hành động.
Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập
Ôi, cái tiếng ‘dậy đi!’
Tất cả những người nghiên cứu tiếng Do Thái sẽ nhận ra kiểu nói rất hay gặp trong Kinh Thánh. “Khum! “Dậy đi”. Cái thể mệnh lệnh, cái động từ chỉ tất cả những lời kêu gọi. Ap-ra-ham (St 13.1), Elia (IV 19,5). Nàng yêu dấu của Diễm Ca (2.10), Giôna (Gn 1,2), Giêrusalem (Is 60,11), Đanien (10,11). Tiếng “Dậy đi!” đầy dẫy trong Tán ước: Mát-thêu 2,13; 2,20; 9,5; 17,7; 26,46; Mc 10,49; Lc 17,19; 22,46; Ga 5,8; Cv 3,6; 8,26; 9,34; 9,40; 12,7; 14,10…
Nếu tôi biết lắng nghe, tôi sẽ nghe thấy, cả tôi nữa.
Thiên Chúa lặp lại “Dậy đi!”.
Thiên Chúa muốn con người đứng dậy. Thiên Chúa đẩy những con người năng động.
Trong cuộc sống gia đinh mà chúng ta mừng lễ hôm nay, có biết bao nhiêu cơ hội có thể đưa chúng ta đến chỗ khước từ, đầu hàng, chạy trốn, từ nhiệm… Và đây là tiếng gọi của Chúa, trong đáy đêm tối của chúng ta, trong tình huống bức bách đè nặng trên vai chúng ta, nói lại với chúng ta: “Đứng lên! Dậy đi!”.
Có một thứ hình ảnh Thánh Gia hiền dịu, êm ả vả bị sai lạc. Máng cỏ bằng giấy đá, quá “hợp môi sinh”, những mục đồng xinh xắn và những con cừu nhí, những tràng hoa ánh sáng… có cái nguy làm cho chúng ta coi “chuồng bò lừa nới Thiên Chúa sinh ra (đó là một cái sườn mái!) là một nơi nóng nực và rất tiện nghi. Và với cái vẻ dịu hiền hay với thái độ chiếu cố, người ta tìm được cái chuyện thần tiên hợp với khẩu vị các trẻ em. Nhưng đấy không phải là Giáng sinh thật. Có thể tai hại nhiều nếu máng cỏ cổ truyền chỉ là một sự trung tín với quá khứ, trong khi nó là một sự kỳ vọng cho hiện tại và tướng lai. Gia đình mâ bạn nhin ngắm với sự hiền dịu trong cái hang hốc nhà quê, có lẽ bạn quên rằng nó đã bị liệng đi trên các nẻo đường lưu đầy chăng? Khi đó bạn đã dựng lên một “thánh gia” không có thực. Và bạn nói liều: “Thật quá đẹp… nhưng ở nhà chúng tôi không giống như thế, nơi mái ấm của chúng tôi, gia đinh của chúng tôi buộc phải sống giữa những âu lo: sức khỏe, tranh chấp, ngân sách, những khó khán định hướng, những cuộc đối thoại không thể có được…”.
Những mái ấm trẻ… hay những mái ấm nào khác…
Tồi dám chắc với các bạn, các bạn có thể nhìn xem gia đình của Giuse, có Hài nhi và Mẹ người. Và hãy tỉnh ngộ! Giống như mọi gia đinh, gia đinh ấy cũng biết đến những giằng xé, những khắc khoải, nó cũng bị cuốn trong những cơn lốc của lịch sử. Và chúng ta nhớ lại câu nói nổi tiếng của Charles Péguy “Những người cha và người mẹ này “‘ những kẻ phiêu lưu vĩ đại của thế giới hiện đại này!”
Cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hêrôđê sắp tìm giết Hài Nhi đấy!
Hình ảnh thực, như thế đấy. Một đôi lứa trẻ trung,đó là một cáp vợ chồng không bếp không nhà. Số phận thê thảm của những người tị nạn, những người bị xua đuổi trốn chạy về nới vô định, bị đuổi khỏi nhà họ vì chiến tranh, đói ăn, thất nghiệp, hay ý thức hệ đàn áp. Những trẻ em Việt Nam, Libăng Cambốt, Áp-ga-nít-tăng,… và nhiều nới khác. Những hình ảnh không cầm lòng được đang lảm xáo động sự yên ổn của chúng ta. A, không, máng cỏ năm nay không đẹp… Thế thi bạn hãy nghĩ, họ đã có ý tưởng, trong giáo xứ, chúng tôi làm máng cỏ bằng tre mục… hay bằng vải lưu cho những trại tị nạn… hay bằng gạch nén gợi ra những nơi trú ngụ đáng thương của những kẻ xấu số trong những vụ động đất… và họ đã để Hài nhi trên rơm, thứ rơm rác thật!
“Hê-rô-đê sắp tìm giết Hài nhi đấy…”
Họ muốn giết trẻ con… Than ôi, vâng, hiện nay…
Ông Giuse liền trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập
Để nhấn manh đến sự vâng phục của Giuse, sự thi hành ý muốn của Thiên Chúa được diễn tả chính xác trong những lời lẽ của sứ điệp nhận được từ trên cao.
Đi ngay ban đêm!
Đi trong đức tin: làm thế nào? Cần phải cứu Hài nhi cứu độ? Người đã được loan báo như Thiên Chúa Cứu Độ, Thiên Chúa ở cùng chúng ta? Và cần phải che chở Người ngay bây giờ? Nghịch lý của Thiên Chúa tự đặt mình vào trong tay chúng tôi? Thiên Chúa không tự bênh vực. Cần phải “cứu”! đức tin… ban đêm… Thiên Chúa được đặt lại trong tay những người tin.
Ông ở đó cho đến khi vua Hê-rô-đê băng hà, để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ: Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai-cập
Trong mùi tử khí tự trị, một sự cứu thoát bộc phát, Chúa nói: Con ta!
Trên cái nền bi thảm của các biến cố xảy đến trong gia đình này, có sự gì khác tác động: một ánh sáng chiếu soi tình hình… một dự tính của Thiên Chúa,… được bộc lộ trong những lời sấm của ngôn sứ.. một khuôn mật ẩn giấu, đầy hy vọng. Nghịch lý mới của Thiên Chúa: chính lúc mà người ta cảm thấy phải đi, thì đúng là lúc Tin Mừng trích dẫn một tiết Kinh Thánh ở đó vấn đề đặt ra là trở lại…
Người ta chỉ nói về sự lưu đày để nói về việc xuất hành. Người ta chỉ gợi ra cái chết để nói về sự sống… Còn bạn, trong cuộc sống của bạn, bạn được mời gọi nhìn thấy mặt bị che khuất của điều xảy đến với bạn.
Toàn thể gia đinh và chạm với những cái bất an. Việc chúng ta tìm kiếm những sự an toàn là điều bình thường. Giuse thậm chí còn nhận lệnh của Chúa thì sự tìm kiếm những của cải tạm thời, chẳng phải càng được chúng ta đặt bên dưới việc làm tròn lời Kinh Thánh sao? sống Tin Mừng, hoàn thành các ý muốn của Thiên Chúa, kiên trì trong cái mà Thiên Chúa đòi hỏi tôi. Mỗi Kitô hữu, mỗi gia đình… hoàn tất một phần của lịch sử thánh, một dự tính huyền nhiệm của Thiên Chúa. Và đó không phải là trong lúc đi ra khỏi các tình huống của chúng ta, thậm chí khó khăn, thậm chí mong manh, nhưng bằng cách khám phá ở đó các mặt bị che khuất mà đức tin bày tỏ ra cho chúng ta.
Sau khi vua Hê-rô-đê băng hà, sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giuse bên Ai-cập, báo mộng cho ông rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Israel, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi.” Ông liền trỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Israel
Những kẻ muốn tìm giết Hài nhi? Con số nhiều lạ lùng. Cho đến đây, người ta chỉ nói đến Hê-rô-đê… Nhưng Mátthêu nghĩ đến một trường hợp có trước trong Kinh Thánh và miệt mài đưa tất cả câu truyện của ông vào việc gợi ra số phận của Môsê, mà Pharaon tìm cách giết chết (St 2,15). phải trốn sang Ai Cập và trở về, bởi vì tất cả những người muốn tìm giết đều đã chết (Xh 4,19-20). Khoa chú giải Do Thái, trong các giáo đường, luôn luôn sử dụng phương cách, mà người ta gọi là “midrach”, nhằm làm sáng tỏ một đoạn Kinh Thánh bằng những biến cố của thời sự…để chứng minh rằng ý đồ của Thiên Chúa cứ tiếp tục. Đức Giêsu, trong bản thân của Người, tái hiện lịch sử dân tộc Israel: bạo vương muốn khử trừ cậu Môsê được Thiên Chúa sai đến để cứu dân Người… bạo vương tung ra cuộc tàn sát các trẻ nhỏ (St 1,10)… nhưng lại không thể làm gì được chống lại người mà Thiên Chúa che chở và trở nên Đấng Cứu độ dân Người… dẫn dắt dân này về Đất Hứa.
Ngày nay lịch sử này vẫn luôn luôn tiếp tục. Không gì mà Thiên Chúa không thể làm được. Người tiếp tục viết thật thẳng trên những đường cong của chúng ta. Ý đồ của Người vẫn tiến lên, bất chấp mọi sự.
Nhưng vì biết A-khê-lau đã kế vị người cha là Hê-rô-đê, cai trị miền Giuđê, nên ông sợ không dám về đó. Mãi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Galilê, và đến ở một thành kia gọi là Nadarét để ứng nghiệm lời, các ngôn sứ rằng: Người sẽ được gọi bằng Nadarét.
Bản văn này nói cho chúng ta biết rõ ràng là trước hết Giuse đã có ý định trở về Giuđê. Nhưng tất cả những kẻ muốn tìm giết Đức Giêsu, chưa biến mất hết. Mặt khác, một ngày kia, Đức Giêsu sẽ trở lại trong chính miền Giuđê này, và về đó để bị giết chết. Cuộc thụ nạn diễn ra ở cuối cuộc hành trình này. Cái chết luôn luôn ở đó. Tin Mừng ngày hôm nay đầy chết chốc. Chính vì cần thiết mà Đức Giêsu đến sống tại Galilê miền xa xôi, một nửa ngoại giáo, khá xa đất Thánh Giêrusalem. Đối với Mát-thêu, miền Galilê ngoại giáo này (Mt 4,12-16) là biểu tượng của thế giới phổ quát, nơi mà sứ vụ của Đức Giêsu được thực hiện, nơi mà Đấng đã sống lại hiện ra nhiều lần, và từ đó mà sứ vụ khởi phát. Và bạn nữa, phải chăng bạn không sống trong những miền Galilê loại mới ư? [Mục Lục]
- 48. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
TỪ BÊLEM ĐẾN NAGIARÉT
- 1. Giải thích từ ngữ.
* c.13 Ai Cập: Ai Cập là nơi lánh nạn xưa nay của những người do thái bị bắt bớ (x. 1V 11,40; 2V 25,26). Từ thế kỷ 6 trước công nguyên ở Ai Cập đã có một diaspora Do Thái đông đảo. Có lẽ Giuse đã đến tạm trú tại Aris. Như thế là an toàn bởi vì từ năm 31 trước công nguyên xứ Ai Cập nằm dưới quyền cai trị trực tiếp của đế quốc Rôma. Từ Bêlem sang Ai Cập chỉ tốn chừng 5-6 ngày đi bộ.
* Vì vua Hêrôđê sắp tìm giết Hài Nhi:
. Động từ “tìm giết” cũng là động từ được dùng trong Xh 2,15 khi nói về Môisen (Pharaon tìm giết Môisen).
. Động từ “chạy trốn” (anachôrein) cũng được dùng trong Xh 2,15 (Môisen chạy trốn).
. Chữ “Vì” có nhiều ý nghĩa: Đức Giêsu phải bỏ nơi này sang nơi khác chính vì người ta từ chối không tin Ngài. Mt hay dùng động từ anachôrein mỗi khi muốn nói ý tưởng Israel từ chối không tin Đức Giêsu (x. 4,12; 12,15; 14,13; 15,21).
* c.14 “Ngay giữa đêm khuya“: chi tiết này cho thấy sự vâng lời mau mắn của Giuse. Còn một chi tiết đầy ý nghĩa nữa là Thiên sứ không chỉ rõ là phải đi đến đâu và ở đấy cho tới ngày nào mà chỉ nói “cho tới ngày tôi lại báo tin”: dù mù mờ vậy nhưng Giuse cũng vẫn vưng lời mau mắn.
* c.15 “Ta đã gọi con Ta từ Ai cập về“: Mt trích dẫn Ôsê 11,1: “Từ Ai Cập Ta đã gọi con Ta”. Ôsê viết câu này với ngụ ý nói về cuộc Xuất Hành. Mt trích dẫn lại với ngụ ý xem Đức Giêsu là Israel mới làm một một cuộc xuất hành mới.
* c.20 “Những người tìm giết Hài Nhi đã chết rồi“: Những người là số nhiều, không tương ứng với vua Hêrôđê tìm giết Hài Nhi (số ít). Ở đây Mt trích dẫn cách mặc nhiên Xh 4,19 Lời Giavê nói với Môisen “Hãy trở về Ai cập vì những kẻ tìm hại mạng ngươi đã chết rồi“. Sự không tương ứng này cho thấy Mt không muốn nói tới Hêrôđê mà muốn ám chỉ đến Môisen: xưa kia những người tìm giết Môisen là Pharaon và dân Ai cập còn nay những người tìm giết Đức Giêsu là Hêrôđê và dân Israel.
* c.22 Archélaus: ông này cai trị miền Giuđê từ năm 4 trước công nguyên đến năm 6 sau công nguyên. Ông này tuy không xảo quyệt bằng Hêrôđê Cả là cha ông, nhưng cũng tàn bạo không kém. Do đó Giuse không về Giuđê mà đi định cư ở vùng Galilê thuộc phạm vi của Hêrôđê Antipas.
* c.23 “Thiên hạ sẽ gọi Ngài là người Nazaret“: Tất cả các nhà chuyên môn đều xem chi tiết này Mt ghi lại nhằm cho thấy Đức Giêsu làm ứng nghiệm lời các ngôn sứ. Nhưng lời ngôn sứ nào đây? Chữ Nazaret có gốc là nésèr nghĩa là “chồi non của một cây”. Cựu Ước có nhiều chỗ nói tới “chồi non” như Is 4,2 Gier 23,5 33,15 và nhất là Is 11,1 “Một chồi sẽ xuất từ gốc Ysai”.
- 2. Ý nghĩa thần học.
1) Những câu 2,13-23 gồm ba chuyện đều mang hình thức văn chương giống nhau: khởi sự là tường thuật rất ngắn gọn sự kiện đã xảy ra và kết thúc bằng một trích dẫn Cựu Ước. Điều này cho thấy chủ ý của Mt không phải là tường thuật cho bằng chứng minh rằng Đức Giêsu làm trọn lời tiên báo của các ngôn sứ. Qua ba câu chuyện này Mt cũng đưa ra luận đề chính sẽ được lặp lại nhiêu lần trong toàn tác phẩm, đó là: Kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa được thực hiện, không chỉ là bất chấp lòng dạ ác độc của loài người, mà còn bằng chính sự ác độc đó.
2) Với lối trích dẫn Cựu Ước khi thì minh nhiên khi thì mặc nhiên, Mt còn ngụ ý trình bày một cuôc xuất hành mới: cũng có một ông vua giết những hài nhi Do Thái, cũng có Môisen mới (Đức Giêsu) thoát khỏi tàn sát đó, và Môisen mới ấy cũng đã xuất hành khỏi xứ Ai Cập.
3) Câu chuyện thứ nhất (Trốn sang Ai cập 13,15): trọng điểm không phải là thuật lại cuôc chạy trốn mà là cuôc trở về từ Ai Cập. Điều này hiện rõ khi Mt trích Ôsê 11,1 “Từ Ai cập Ta gọi con Ta trở về“. Có như thế mới lộ rõ ý tưởng về cuộc Xuất Hành mới.
4) Câu chuyện thứ hai (Tàn sát hài nhi 16-18): trọng điểm là so sánh Hêrôđê với Pharaon ngày xưa đã giết trẻ em Do Thái. Nhưng có vài khó khăn về sử tính:
(a) Cần gì phải giết hết các hài nhi vì vua Hêrôđê thừa phương tiện để tìm ra đúng căn nhà mà các đạo sĩ đã đến thăm? Nhưng lịch sử cũng ghi nhận rằng Hêrôđê (Cả) hay có những cơn điên bất ngờ phi lý như vậy, nhất là vào những năm cuối đời của ông, mà câu chuyện này xảy ra đúng vào những năm ấy.
(b) Một sự kiện quan trọng như vậy mà sao các sử gia (chẳng hạn Flavius Joseph) không ghi lại? Thực ra sự kiện này cũng chẳng quan trọng gì, vì một đàng số trẻ em bị giết cũng không nhiều: theo ước tính của Busy dựa vào dân số của Bêlem thời đó thì số trẻ em từ 2 tuổi trở xuống của làng này chỉ vào khoảng 20, và đàng khác Hêrôđê trong những cơn điên cũng đã từng giết chóc như vậy nhiều lần. Sử gia chỉ ghi tính khí hung hãn bất thường của ông chứ không cần ghi lại hết những nạn nhân của ông.
– Chi tiết tiếng khóc Rachel là Mt trích dẫn Gier 31,15 trong bối cảnh vương quốc phía Bắc bị đế quốc Assyria tàn phá và dân bị bắt đi đày: Bà Rachel, mẹ của Giuse (hai chi tộc Ephraim và Manassê) và Benjamin khi ấy đang ở trong mồ (đã chết) mà cũng chỗi dậy để khóc thương cho cảnh khổ của con cái mình. Nhưng muốn hiểu hết ý của Mt thì phải đọc Gier cho tới các câu sau nữa (Gier 31,16-17): Giavê an ủi Rachel “Thôi im đi tiếng khóc và mắt hãy ráo lệ vì… chúng sẽ từ xứ quân thù trở về“, và tiếp đó nữa (Gier 31,31 tt) Giavê lại hứa sẽ ký với dân Ngài một giao ước mới. Như vậy ngụ ý của Mt qua câu trích dẫn này là Đức Giêsu từ Ai Cập về hoàn thành lời tiên tri này, Ngài sẽ thực hiện Giao Ước mới.
5) Câu chuyện thứ ba (Trở về Nazarét 19,23): trọng điểm là trình bày Đức Giêsu như một Môisen mới thực hiện một cuộc xuất hành mới. Vì nhắm ý tưởng so sánh này nên Mt mới trích dẫn cách mặc nhiên Xh 4,19 với thuật ngữ “những người tìm giết” ở số nhiều.
- 3. Kết luận
– Hãy nhìn lại bố cục chung của tác phẩm (trang 17): các chương 1-2 là phần tiền ngôn nhằm giới thiệu mầu nhiệm về nhân vật Giêsu.
– Phần tiền ngôn này gồm 4 tường thuật:
. Gia phả.
. Truyền tin cho Giuse.
. Chuyện các đạo sĩ.
. Từ Bêlem đến Nazarét (tường thuật chúng ta vừa phân tích trong bài này).
Qua bốn tường thuật Mt đã chứng minh Đức Giêsu chính là Đấng mà các ngôn sứ tiên báo, Ngài châm rễ vào lịch sử Israel và đưa lịch sử ấy hoàn tất mặc dù gặp bao chống đối của dân mình, nhưng chính Thiên Chúa đã dùng những chống đối ấy để hoàn tất chương trình cứu rỗi của mình.
– Cách riêng tường thuật cuối (Từ Bêlem đến Nazaret) một lần nữa, làm lộ rõ so sánh Đức Giêsu với Môisen mới (các chi tiết về Xuất Hành) và Con Đavít (chi tiết thành Bêlem). [Mục Lục]
- 49. Chú giải của Fiches Dominicales
CON ĐƯỜNG CỦA KITÔ HỮU THEO CHÂN ĐỨC GIÊSU
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
Một truyện kể tỉ mỉ về thời thơ ấu.
Việc báo tin cho Giuse mà ta đọc Chúa nhật trước vẫn còn rõ như in trong trí nhớ, nên ta dễ liên hệ đến bài Phúc âm Chúa nhật này: cũng thiên thần hiện ra trong giấc ngủ truyền cho Giuse một mệnh lệnh liên hệ đến Maria và trẻ thơ sắp sinh ra; cũng trích dẫn những lời tiên tri được thực hiện; cũng thái độ im lặng đón nhận và mau mắn thi hành của Giuse. Hơn nữa, bài Phúc âm hôm nay sử dụng 2 lần cùng một lược đồ: ta có thể xếp thành 2 cột song song như sau:
1. Bối cảnh: Sau khi các đạo sĩ đi rồi. 2. Thiên thần hiện ra với Giuse và truyền lệnh Giuse. 3. Giuse mau mắn thi hành. 4. Trích dẫn Kinh Thánh |
1. Bối cảnh: Sau khi Hêrôđê băng hà. 2.Thiên thần hiện ra với Giuse và truyền lệnh Giuse. 3. Giuse mau mắn thi hành 4. Trích dẫn Kinh Thánh |
“Thế là ứng nghiệm…”
Dưới hình thức ngây thơ, Phúc âm Thời thơ ấu theo thánh Matthêu thực ra đã được chuẩn bị rất trí thức và giàu ý nghĩa.
Đừng quên rằng Matthêu nói với các Kitô hữu gốc Do Thái, tâm hồn thấm đẫm Kinh Thánh và được nuôi dưỡng bằng những bài chủ giải Kinh Thánh trong các hội đường. Không lạ gì khi thấy thánh sử, vì muốn minh chứng rằng Đức Giêsu qui tụ tất cả niềm hy vọng của Israel và đã làm ưng nghiệm các lời Kinh Thánh, thường xuyên trích dẫn các bản văn Kinh Thánh và các lời chú giải. Về vấn đề này, ta có thể đọc những trang sách rất khúc chiết của Charles Perrot trong “Cahiers – Evangile số 18” trang 11 và kế tiếp. Không như Luca, Matthêu không tìm kích thích trí tưởng tượng hoặc thoả mãn óc tò mò của ta bằng một vài chi tiết lịch sử kỳ thú. Ông chỉ muốn cho ta hiệp thông với các Kitô hữu tiên khởi trong cuộc truy tìm, say sưa niềm tin vào “Đức Giêsu, Con Thiên Chúa”. Ánh sáng Phục Sinh soi rọi tới tận ngọn nguồn làm ta khám phá và cùng với cộng đoàn sơ khai tuyên xưng Con Thiên Chúa và Đấng Cứu độ gian trần trong con trẻ sinh bởi lòng đức Maria. Những biến cố thời thơ ấu đã cho thấy trước những điều mà cái chết và sự Phục Sinh khai mở về Đức Giêsu: vị tiên tri người “Galilê” (“người Nadarét”, “Giêsu” (Thiên Chúa cứu) là “Em-ma-nu-el” (Thiên Chúa ở cùng ta). Người là “Con”, con David sinh tại Bêlem và Con Thiên Chúa; Người là Môsê mới khai mạc cuộc Xuất hành mới.
Môsê mới xuất hành mới.
Nếu chú ý, ta sẽ thấy bản văn này song song một sách kỳ lạ với truyện về Môsê.
* Ngày xưa Pharaô đôi lúc đã truyền tiêu diệt trẻ nam sơ sinh của dân Do Thái. Chúa Giêsu vừa sinh ra thì Hêrôđê độc dữ cũng truyền “tàn sát mọi trẻ nam từ 2 tuổi trở xuống tại Bêlem và các vùng phụ cận”.
* Ngày xưa, Môsê đã được cứu thoát cách kỳ diệu và đã chạy trốn ra nước ngoài trước khi đương đầu công khai và sau khi được tấn phong làm tiên tri tại “bụi gai cháy đỏ” (Ex 3,l-12).
Đức Giêsu cũng đã trốn thoát khỏi tay bạo chúa, đã chạy trốn sang Ai Cập, trở lại quê nhà rao giảng Tin Mừng sau khi được tấn phong làm Messia lúc chịu phép rửa tại sông Giođan.
* Ngày xưa, Môsê quay trở lại Ai Cập khi cơn nguy hiểm đã qua “vì những kẻ muốn hại ông đều đã qua đời (Ex 4,19-20). Cái chết của Pharaô tạo cơ hội cho việc giải phóng dân Thiên Chúa. Chúa Giêsu cũng trở lại quê hương khi nguy hiểm đã hết, “vì Hêrôđê đã băng hà. Cái chết của Hêrôđê tạo cơ hội cho Chúa Giêsu trở về và công cuộc giải phóng dân mới bắt đầu.
* Ngày xưa, Môsê vâng lời Thiên Chúa: “Vậy, Môsê đem vợ con cỡi lừa (việc Chúa Giêsu cỡi lừa trốn sang Ai Cập phát xuất từ truyện Môsê) và trở lại Ai Cập (Ex 4,19-20).
Trong Phúc âm thời thơ ấu của Chúa Giêsu, Giuse lúc nào cũng nêu gương vâng lời. Sự im lặng mà Matthêu ghi nhận làm nổi bật đức tin trong hành động của Ngài “Giuse chỗi dậy, đem con trẻ và mẹ Ngài trốn sang Ai cập” “Giuse chỗi dậy, đem con trẻ và Mẹ Ngài trở lại Israel”.
Câu kết của phần I đoạn Phúc âm rất đậm đà ý nghĩa “Từ Ai Cập, Ta đã gọi con Ta về”. Câu này mượn trong Osê(11,1) để ca tụng tình thương Thiên Chúa Người đã đưa Israel “đứa con đầu lòng” (Ex 14,23) ra khỏi Ai Cập. Khi làm ứng nghiệm lời Kinh Thánh, Đức Giêsu tái tạo lịch sử dân người. Là Môsê mới, ngài đến khai mở một cuộc Xuất hành mới và vĩnh viễn cho một dân tộc mới.
“Ai Cập tượng trưng cho sự áp bức, Cl. Tassin chú giải. Đó là khởi điển của cuộc xuất hành, từ con đường giải phóng tiến về miền Đất Hứa. Qua đoạn tường thuật vốn tắt này, Đtíc Giêsu trở nên liên đới với dân người khi đảm nhận lịch sử đầy thử thách của dân, như lời dẫn tiên tri Osê đã chú thích… Tuy nhiên, phải làm quen với kiểu người Do Thái trích dẫn Kinh Thánh ở đây. Nếu có ai nói: “Lũ chuột nhảy múa”, ta sẽ tự nhiên nghĩ đến vế đối thứ 1: “Khi mèo ra đi”. Cũng vậy, các độc giả người Do Thái của Mattheu sẽ dùng trí thớ bổ túc đoạn văn của Osê: “Khi Israel còn thơ, Ta đã yêu quí nó và từ Ai Cập, Ta đã gọi con Ta về. Như thế ý nghĩa mới trọn vẹn: trẻ thơ Giêsu chính là trẻ thơ Israel: Ngài thâu tóm nơi bản thân ơn gọi và vận mệnh của dân nước tuyển chọn, trước khi đoạn Phúc Âm kế tiếp mạc khải Ngài là Con, hơn hẳn dân bị áp bức mà Thiên Chúa nói với Pharaô “Con đầu lòng của tôi, đó là Israel..”. Hãy để con ta ra đi!” (Ex 4,22-23) (Mt, Centusion, 1991, trang, 33-34).
Một dân tộc sẽ có tầm cỡ hoàn vũ.
Tuy vậy, cuộc xuất hành này không hướng về Giuđêa, nơi không bị đa thần giáo xâm phạm, trái lại hướng tới “Galilê, nơi giao lưu các dân ngoại” (Mt 4,15), xứ sở dân cư pha tạp, đất vãng lai, bị khinh miệt: Dân mới mà Đức Giêsu vừa thiết lập, là một dân liên kết các dân ngoại ngoan ngoãn lắng nghe Phúc âm vào với dân Do Thái.
Chính tại Galilê mà Đức Giêsu sẽ bắt đầu sứ vụ công khai (4,15-18) và cũng chính tại đây, Đấng phục Sinh đã hẹn gặp các tông đồ để trao phó cho họ sứ mệnh có tầm cỡ hoàn vũ: “hãy đi, hãy làm cho mọi dân tộc thành môn đệ Ta…” (28,18). Đối với Matthêu và các độc giả của Ngài, việc trở về Galilê đã tiên báo việc mở cửa Giáo Hội cho dân ngoại. Dân mới không còn bị giới hạn vào biên cương Israel, nhưng sẽ có tầm vóc hoàn vũ. (Vậy, Đức Giêsu đã chuẩn bị cho sứ mệnh hoàn vũ của mình” (Cl. Tassin p.36). [Mục Lục]
- 50. Xây dựng một gia đình hạnh phúc
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH: Xuất hành từ Ai Cập.
Tin Mừng hôm nay muốn nói lên tư tưởng Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế đã được Thiên Chúa bảo vệ khỏi bàn tay độc ác của bạo vương Hê-rô-đê. Người là Mô-sê Mới, dẫn đầu dân Ít-ra-en Mới, xuất hành ra khỏi Ai Cập trần gian để về miền Đất Hứa là thiên đàng đời sau.
CHÚ THÍCH:
– C 13-14: + Sứ thần Chúa hiện ra: Tin Mừng Mát-thêu ghi lại 4 lần sứ thần Chúa hiện ra với ông Giu-se (Mt 1,20; 2,13; 2,19; 2,22). + Báo mộng cho ông Giu-se: Sứ thần Chúa hiện đến cùng Giu-se trong giấc mộng và thay mặt Thiên Chúa ra lệnh cho Giu-se phải làm theo. + Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai Cập: Lệnh truyền này nói lên sự can thiệp của Thiên Chúa để bảo vệ Hài Nhi Cứu Thế. Ai Cập là một nước lớn nằm sát bên nước Do thái về phía Nam, và là nơi những người Do thái bị ruồng bắt thường tìm đến lánh nạn (x. 1V 11,40). Đi từ Bê-lem tới Ai Cập mất khoảng 5-6 ngày đường. + Vì Hê-rô-đê sắp tìm giết Hài Nhi đấy: Hài Nhi Giê-su được đem sang Ai Cập để trốn khỏi sự khủng bố của vua Hê-rô-đê độc ác, giống như Mô-sê ngày xưa cũng phải trốn khỏi sự ruồng bắt của Pha-ra-ô nước Ai-cập (x. Xh 2,15). + Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai Cập”: Câu này rút ra từ sách ngôn sứ Hô-sê (x. Hs 11,1), nói về cuộc Xuất hành của dân Ít-ra-en xưa. Khi đó dân Ít-ra-en đã được Đức Chúa gọi là “con Ta” (x. Xh 4,22).
– C 19-20: + Thánh gia trốn sang Ai-cập trong thời gian bao lâu: Khoảng từ vài tháng tới 3 năm. Giả sử thánh gia được triệu về ngay sau khi Ác-khê-la-ô lên kế vị (năm 750 tức khoảng năm thứ 4 đến thứ 6 sau Công Nguyên), thì thời gian ở bên Ai-cập của Thánh Gia không thể quá 3 hay 4 năm được. + Công Nguyên là gì: Công Nguyên hay Kỷ Nguyên Chung được tính bắt đầu từ năm Chúa Giáng Sinh. + Sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giu-se bên Ai-cập: Khi vua Hê-rô-đê Cả chết, ông Giu-se lại được sứ thần Chúa hiện đến trong giấc mơ ra lệnh cho ông mau đem Hài Nhi và mẹ Người trở về quê hương, vì mối nguy đã chấm dứt với cái chết của vua Hê-rô-đê. + Vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi: Câu này chính là lời Đức Chúa báo cho Mô-sê về cái chết của Pha-ra-ô Ai-cập (x. Xh 4,19). Đây là một bằng chứng cho thấy Mát-thêu muốn ám chỉ Hài Nhi chính là Mô-sê của thời Tân Ước.
– C 23: + Và đến ở tại một thành kia gọi là Na-da-rét: Thánh Gia về cư ngụ ở Na-da-rét là ứng nghiệm lời sấm đã phán qua miệng các ngôn sứ rằng: “Người sẽ được gọi là người Na-da-rét”. Ta có thể hiểu rằng Mát-thêu dùng danh xưng này để ám chỉ việc tự hạ của Đấng Cứu Thế. Nói Đấng Cứu Thế là người Na-da-rét cũng giống như nói Người đã bị người đời miệt thị khinh dể vậy.
CÂU HỎI:
1) Tại sao Giu-se phải đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-Cập? 2) Thánh Gia trốn sang Ai Cập đến khi nào về? 3) Tại sao Giu-se lại đem Hài Nhi đến ở thành Na-da-rét?
- 2. SỐNG LỜI CHÚA
LỜI CHÚA: Ông Giu-se liền trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập (14):
CÂU CHUYỆN:
1) Mẹ chuyển nhà để dạy con nên người.
Khi Mạnh Tử còn bé, tóc để hình trái đào, mặt mũi khôi ngô, tính ham học hỏi thắc mắc và bắt chước người khác. Mẹ của Mạnh Tử rất thương yêu con, mong cho con học hành giỏi giang, trở thành hiền tài, nên bà luôn tìm phương cách dạy dỗ con tốt nhất.
Bấy giờ, nhà Mạnh Tử ở gần một nghĩa địa. Ngày nào trong nghĩa địa cũng có các đám tang chôn cất người chết. Trong đám tang, Có người thì khóc thương thảm thiết, người khác đào huyệt rồi cùng nhau chôn quan tài xuống huyệt và lấp đất làm thành ngôi mộ. Bọn trẻ con gần đó rủ nhau đi xem đám ma, rồi bắt chước người lớn chơi trò đưa đám. Chúng chia nhau ra: Em đóng vai người chôn cất, em khác thì đội khăn tang theo sau quan tài khóc lóc thảm thiết. Một hôm, mẹ Mạnh Tử đang ngồi dệt vải, nghe thấy tiếng trẻ con gào khóc gần nhà và xen lẫn tiếng người hô hoán khác lạ. Bà liền rời khung cửi ra ngõ xem điều gì xảy ra và bà giật mình khi thấy bọn trẻ đang chới trò đám tang giả. Bà thấy Mạnh Tử nhà bà cũng đang bắt chước người lớn đào huyệt, chôn xác, rồi cũng có lúc giả bộ lăn lộn trên đất giống như người nhà trong các đám tang mà chúng vẫn xem. Bà mẹ lo lắng tự nhủ: “Con ta thơ dại mà lại chơi trò đào, chôn, lăn, khóc như thế này tâm trí ắt sẽ bị ảnh hưởng, còn tâm trí đâu mà học hành nữa”. Rồi bà liền quyết định dọn nhà sang ở nơi khác, để thay đổi môi trường sống cho con. Lần này Mạnh Tử ở gần khu chợ sầm uất. Hằng ngày Mạnh Tử bắt chước người lớn ăn nói chua ngoa tục tĩu và chơi trò mua bán gian xảo. Bà mẹ Mạnh Tử một lần nữa lại dời nhà đến ở gần trường học. Tại đây bà thấy con trai học theo các học trò chăm chỉ đến lớp nghe lời thầy giáo dạy dỗ. Bà liền quyết định ở hẳn lại nơi này để Mạnh Tử con bà có điều kiện học hành chăm chỉ. Về sau Mạnh Tử đã thi đỗ và trở thành người tài đức giúp ích cho đời.
2) Tầm quan trọng của giờ kinh tối gia đình:
Một cha xứ kia đi thăm các gia đình trong xứ để kiểm tra nhân danh. Gặp một đôi vợ chồng không đọc kinh tối gia đình, cha hỏi: “Gia đình ông bà có đọc kinh chung gia đình không?”. Họ trả lời vì không có thời giờ do con cái phải đi học thêm hay phải đi làm theo ca. Gia đình ông ta phải kiếm sống trước đã như câu “Có thực mới vực được đạo !” Bấy giờ cha xứ lại hỏi: “Nếu ông bà biết rõ là nhờ đọc kinh tối hàng ngày mà một đứa con sẽ tránh được một cơn bệnh hiểm nghèo, tránh được một tai nạn; Nhờ đọc kinh tối mà chúng mới có công ăn việc làm đều, chúng mới có đủ sáng suốt để làm được bài thi ở trường; Nhờ đọc kinh mà các linh hồn tiên nhân ông bà cha mẹ và những người thân đã chết sẽ sớm được về thiên đàng… thì ông bà có tổ chức đọc kinh gia đình hàng ngày không?” Họ trả lời rằng: “Có thể chúng con sẽ đọc”. Cha xứ lại hỏi: “Giả như gia đình làm ăn thất bại phải mang nợ tới 100 triệu đồng, khó lòng có thể trả được cả vốn lẫn lãi, mà nếu ngày nào có đọc kinh tối gia đình 15 phút, thì sẽ được chủ nợ trừ bớt số lời 100.000 đồng, thì ông bà có đọc kinh tối chung không?”. Bấy giờ ông kia hỏi lại: “Thưa cha, cha hỏi như vậy để làm gì?” Bấy giờ cha xứ mới ôn tồn trả lời: “Tôi nói như vậy để cho thấy nguyên nhân gia đình ông bà không đọc kinh tối, không phải vì không có thời giờ hay vì bận làm việc, mà lý do chính là vì nghĩ rằng đọc kinh tối gia đình là điều không cần thiết, chỉ cần đi lễ nhà thờ là đủ. Tôi hỏi vậy để cho thấy việc đọc kinh cũng quan trọng không kém gì việc giữ gìn sức khỏe và sự an toàn của các người thân trong gia đình, cũng có giá trị như một số tiền thiêng liêng, giúp bớt phần phạt cho người thân là tiên nhân ông bà đã qua đời, và giá trị của việc đọc kinh cũng có thể tương đương với số tiền cần chi dùng hàng ngày”.
SUY NIỆM:
1) Thánh Giuse – gương mẫu của gia trưởng:
– Mau mắn tuân giữ lời Chúa: Giu-se đã thi hành ba lệnh truyền của Chúa: Một là rước Ma-ri-a đang có thai về nhà làm vợ mình; Hai là tôn trọng lời khấn của Ma-ri-a dâng hiến toàn thân phụng sự Chúa bằng việc không ăn ở với bà. Ba là đặt tên cho con trẻ là Giê-su để nhận mình làm cha của Hài Nhi về luật pháp (x. Mt 1,24-25).
– Quyết tâm bảo vệ Hài Nhi: Khi vừa được mộng báo, Giu-se đã lập tức trỗi dậy mang Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai Cập ngay lúc đêm khuya và đến khi vua Hê-rô-đê băng hà, ông lại vâng lời sứ thần trỗi dậy mang Hài Nhi và mẹ Người về đất Ít-ra-en. Ông cũng khôn ngoan phòng tránh cho Hài Nhi khỏi bị nguy hiểm: Khi về tới Be-lem, nghe tin Ác-khê-lao đã lên kế vị vua Hê-rô-đê cai trị miền Giu-đê cũng độc ác nên ông đã lui về miền Ga-li-lê đến sống tại thành Na-da-rét.
– Tín thác vào Chúa quan phòng: Tín thác là dấu chỉ của một đức tin chân chính. Thánh Giuse luôn lắng nghe Lời Chúa và mau mắn vâng theo với sự tín thác hoàn toàn vào quyền năng và tình thương của Thiên Chúa quan phòng.
2) Điều kiện để xây dựng hạnh phúc gia đình:
– Sống đúng vai trò của mình: Một tờ báo ở Luân-đôn nước Anh đã mở một cuộc điều tra các ông chồng, yêu cầu họ thành thật trả lời câu hỏi: “Trong gia đình bạn, ai là người thực sự có quyền làm chủ?” Kết quả cho có 80% câu trả lời: “Vợ tôi làm chủ”, 20% trả lời “Mẹ vợ tôi làm chủ”. Chỉ có một số ít trả lời: “Chính tôi làm chủ, vì vợ tôi đã qua đời !” Như vậy, không lạ gì Anh quốc là nước số gia đình ly hôn chiếm tỷ lệ cao nhất: Mỗi năm cứ hai đám cưới thì có một đám ly hôn.
– Tránh thái độ gia trưởng độc đoán: Vợ chồng cần trao đổi để nên một lòng một ý trong cách ứng xử với tha nhân, nuôi dạy con cái, mua sắm đồ dùng, và trong công việc làm ăn sinh sống. Vì “Thuận vợ thuận chồng, tát bể Đông cũng cạn”, và “Phu phụ hòa, gia đạo thịnh”.
– Gia đình phải có Chúa hiện diện: Thực vậy, nếu gia đình thực sự có đức tin, có lòng đạo đức, thì sẽ thương yêu và nhường nhịn lẫn nhau. Chồng thương yêu vợ, vợ yêu thương chồng, con cái thảo kính cha mẹ và anh chị em trong nhà thương yêu nhường nhịn nhau. Trong đời sống vợ chồng, chắc chắn sẽ có lúc vui lúc buồn, khi thành công lúc thất bại, và nhiều khi còn phải vác thánh giá là bệnh tật và các thói hư của nhau và phải vác đến chết để đền tội.
– Vợ chồng hãy chịu đựng lẫn nhau và tha thứ cho nhau: Trong một buổi tĩnh tâm dành cho gia trưởng, nhưng cũng có nhiều bà vợ tham dự. Tới phần làm phép Thánh giá, cha giảng phòng nói: “Ai có cây Thánh giá xin đem lên gần gian cung thánh để được làm phép. Bấy giờ một ông lão thay vì mang cây Thánh giá thì lại cõng bà vợ bị tê liệt lên. Tới lúc cha đến trước từng người đang cầm cây thánh giá để rấy nước thánh. Thay vì giơ cây Thánh giá lên cho cha làm phép thì ông lại cố bồng bà cụ lên trước sự ngạc nhiên của mọi người. Ông nói: “Thưa cha, đây là cây thánh giá của con. Xin cha làm phép để con được vác thánh giá này cho đến cùng !” Qua lời nói của ông cụ, chúng ta hiểu người bạn đời chính là thánh giá sống động mà chúng ta phải mang từ khi lấy nhau cho đến hết. Vợ là thánh giá của chống và chồng là thánh giá của vợ. Ai cùng Chúa Giê-su trung thành vác thánh giá ấy cho đến cùng, thì sau này sẽ được sống lại với Chúa Giê-su và cùng được hưởng vinh quang Nước Trời với Người.
– Vợ chồng cùng nhau nhìn về một hướng là nuôi dạy con cái nên người: Cần ý thức con cái chính là tài sản quý giá nhất của cha mẹ, là tương lai của cha mẹ sau này, nên vợ chồng phải hy sinh mọi sự như thời giờ, tiền bạc, công việc… để lo cho con cái được sống trong bầu khí hạnh phúc và môi trường sống an toàn. Câu chuyện mẹ thày Mạnh Tử sẵn sàng dời nhà từ nghĩa trang đến gần trường học để tránh cho con khỏi bị lây nhiễm các thói hư và chăm chỉ học tập trở thành người tài đức giúp ích cho đời, là gương mẫu cho các cha mẹ hôm nay.
3) Cha mẹ cần làm gì để giáo dục con cái?
Từ thời mở cửa, gia đình Việt Nam đã có sự chuyển biến theo chiều hướng tiêu cực. Số cặp vợ chồng ly hôn ngày một gia tăng. Con cái không còn vâng lời cha mẹ như xưa. Nhiều gia đình tuy công việc làm ăn kinh tế có khá hơn, nhưng con cái lại bỏ bê việc học hành và sa đà vào các thói hư như: ăn chơi sa đọa, bị lôi cuốn vào các tệ nạn xã hội như sì-ke ma túy, cướp bóc, quậy phá… làm cho cha mẹ xấu hổ và gia đình tan nát ly tán. Để bảo vệ hạnh phúc gia đình, các bậc cha mẹ hãy học tập noi gương Thánh Gia là thánh cả Giu-se và Thánh Mẫu Ma-ri-a.
– Quan tâm chăm sóc dạy dỗ con cái: Cha mẹ không phải chỉ quan tâm đến con bằng việc cho chúng tiền bạc tiêu xài, mà quan trọng hơn là cho con tình thương, sự chăm sóc dạy dỗ ngay từ khi chúng còn nhỏ dại, và cảm thông động viên khi chúng trưởng thành. Nên nhớ rằng: Dù cha mẹ có thành công trong việc làm ăn kinh tế hay thăng quan tiến chức xã hội, mà để con cái mình sa đà vào thói hư như hút sách bài bạc… thì sự thành công kia trở thành thất bại gây cho cha mẹ nhiều nỗi ân hận đau khổ nhất. Vì thế, cha mẹ cần bảo vệ con cái mình khỏi tác hại của sách báo phim ảnh xấu trên các trang mạng internet, khỏi các bạn bè xấu… Nếu cần cha mẹ hãy đem con cách ly khỏi nanh vuốt của Hê-rô-đê gian ác của thời nay để đưa con yên tâm học tập và trở thành những người trưởng thành hữu dụng sau này.
– Phải dạy cho con cái hiếu thảo với cha mẹ và biết lễ độ với người trên: Muốn việc giáo dục thành công, chính cha mẹ phải được huấn luyện các đức tính nhân bản trước rồi mới biết đường dạy dỗ con cái. Cần dạy con bằng gương sáng của cha mẹ hơn là lời nói suông: Cần nói năng trung thực, khiêm tốn phục vụ và biết giữ chữ tín khi giao tiếp với tha nhân.
– Gia Đình cần học sống Lời Chúa: Cha mẹ cần tạo thói quen lắng nghe và thực hành Lời Chúa trong giờ kinh tối gia đình, bằng việc phân công cho con cái mở Kinh Thánh để đọc Lời Chúa, rồi cầu nguyện để quyết tâm sống theo Lời Chúa dạy hằng ngày.
THẢO LUẬN:
1) Các gia trưởng và hiền mẫu Công giáo cần học tập những gì nơi thánh Giu-se và Mẹ Ma-ri-a để gia đình được hạnh phúc? 2) Nguyên nhân làm cho các gia đình đổ vỡ ly hôn là gì? Khi xảy ra ly hôn thì trong hai vợ chồng ai là người có lỗi hơn? 3) Bạn có đồng ý với câu: “Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà” không? Tại sao?
NGUYỆN CẦU:
– Lạy Chúa Giêsu. Mỗi lần tham dự thánh lễ hôn phối, con thấy đôi tân hôn thật là hạnh phúc: Với nét mặt rạng rỡ và trong bộ y phục trắng đẹp mới tinh, họ đi bên nhau lên cử hành hôn lễ. Nhưng rồi năm tháng qua đi, con thấy gia đình họ lại biến thành hỏa ngục trần gian, khi “kẻ thì khóc lóc đau khổ, người lại nghiến răng giận hờn”. Lý do đổ vỡ hạnh phúc có rất nhiều: Tại tính xấu của người này hay tại thói hư của người kia? Theo con nghĩ thì “tại anh tại ả tại cả đôi đàng !”. Tại hai người đã không biết nuôi dưỡng tình yêu ban đầu. Tình yêu có đặc điểm là không đòi hỏi, nhưng là hy sinh cho nhau. Cây tình yêu của hai vợ chồng rất cần được hai người bắt đi những con sâu đục khoét hạnh phúc gia đình như: Sâu ích kỷ “chỉ nghĩ đến mình”, sâu độc đoán hẹp hòi, sâu vô trách nhiệm khi chỉ biết say sỉn cờ bạc hút sách, sâu tình cảm bất chính vụng trộm… Cây tình yêu cũng đòi phải được tưới bón bằng lời cầu nguyện cho nhau, bằng những lời khen tặng nhau thành thật, bằng những lời nói cử chỉ âu yếm dành cho nhau.
– Lạy Chúa, xin ban cho các gia đình tín hữu chúng con biết luôn “trên thuận dưới hòa”, “một lòng một ý”. Xin giúp các đôi vợ chồng trẻ biết cách duy trì được tình yêu ban đầu. Xin cho họ biết “cho nhiều hơn nhận”, biết “ân cần phục vụ” cho nhau, biết “quảng đại tha thứ và nín nhịn các sự yếu đuối lỗi lầm” của nhau. Biết “nói ít làm nhiều”, và “sẵn sàng vác thánh giá” là chịu đựng người bạn đời của mình”… Nhờ đó các gia đình chúng con hy vọng sẽ trở thành một thiên đàng trần gian, là dấu chỉ chúng con sẽ được hưởng hạnh phúc thiên đàng vĩnh cửu sau này.
- X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con. [Mục Lục]
Nước Thụy Sĩ, “mặt bằng” dịch Thánh Kinh
cath.ch, Raphael Zbinden, 2019-12-23
Các hiệp hội cố gắng đưa Thánh Kinh đến cho tất cả mọi người
Nhiều hiệp hội Kinh Thánh có trụ sở ở Thụy Sĩ có tham vọng đưa Sách Thánh có thể truy cập trong tất cả mọi ngôn ngữ, kể cả cho những người khiếm thính và khiếm thị.
Hơn 240 triệu người trên Trái đất không có một bản dịch Thánh Kinh nào. Nhật báo tiếng Pháp Le Temps trong số ra ngày thứ hai 23 tháng 9 cho biết, các hiệp hội có trụ sở ở Thụy Sĩ quản lý các dự án dịch trong các ngôn ngữ thiểu số. Nhu cầu này bao gồm hơn một nửa ngôn ngữ được thống kê trong thế giới, khoảng 3’700.
“Wycliffe” ở Bienne là một trong các cơ quan phi lợi nhuận liên quan đến các dự án dịch trong 300 ngôn ngữ. Cơ quan gởi các nhân viên của mình đi Phi châu và Á châu. Các nhân viên này không giữ nhiệm vụ dịch, nhưng cố vấn cho các dịch giả địa phương tại chỗ. Các bộ phận hỗ trợ về mặt vi tính, kỹ thuật và kiểm tra đã được hình thành.
Năm 2018, có 44 bản dịch Kinh Thánh mới, 22 bản soạn lại hay xem lại trong các ngôn ngữ được 440 triệu người dùng đã được lưu hành. Hàng trăm dự án khác đang tiến hành.
Ngoài ra còn có ngôn ngữ ký hiệu và chữ nổi
Các cơ quan Kinh Thánh cũng cố gắng đưa Sách Thánh đến với các người khiếm thính và khiếm thị. Các văn bản Kinh Thánh không có sẵn trong 10% trong số 400 ngôn ngữ ký hiệu được dùng trên thế giới và chỉ có 44 ngôn ngữ có Kinh Thánh chữ nổi. Với những người khiếm thính, có hơn 26 dự án đang được tiến hành và hàng chục dự án khác đang được chuẩn bị.
250 triệu người khiếm thị trên thế giới có được phần mềm do Liên minh Kinh Thánh Toàn cầu có trụ sở ở Anh triển khai, giúp đẩy nhanh tiến trình chuyển đổi ra chữ nổi và duy trì được chất lượng cao.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
Khi nước thánh từ trời rơi xuống
cath.ch, Maurice Page, 2019-12-25
Linh mục Matthew Barzare ban phép lành sau thánh lễ ở nhà thờ Thánh Anà, Cow Island, ngày thứ bảy 21 tháng 12 năm 2019
Ngày thứ bảy 21 tháng 12 năm 2019, Linh mục Matthew Barzare, đảo Cow Island, Bang Louisiana Nam Mỹ đã làm phép 380 lít nước. Số nước này được một phi cơ nhỏ rưới lên các cánh đồng và nhà cửa của cộng đồng nhân “Ngày Than Hồng” thứ bảy thứ tư Mùa Vọng.
Qua sáng kiến này, Linh mục Barzare đã thực hành cụ thể bài hát Mùa Vọng “Trời cao hãy đổ mưa xuống”, Rorate Coeli desuper. Truyền thống ban phép lành này là của người công giáo anglo-saxon. Tương tự như các lễ cầu an, Thánh Âugutinô Cantorbery thế kỷ 7 đã có sáng kiến này, gồm ba ngày ăn chay, ăn năn sám hối sau đó là ban phép lành đất trong mỗi bốn mùa của năm.
Nghi thức ban phép lành này được ban sau thánh lễ ở nhà thờ Thánh Anà, Cow Island, cách Lafayette 60 cây số về hưóng tây-nam. Thay vì đi các chuyến xe dài qua nhiều điểm dừng ở những nơi khác nhau trong giáo xứ rộng lớn của mình, Linh mục Matthew đã có sáng kiến ban phép lành từ trên không: “Hầu hết các giáo xứ đều có một vị trí trung tâm, nhưng vùng tôi phụ trách phải mất nửa giờ để đi từ nhà thờ này đến nhà thờ kia. Như thế, bằng máy bay, chúng tôi thấy đây có lẽ là cách dễ nhất để ban phép lành cho các cánh đồng của giáo dân”.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn