Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Phim mới nhất Holy Silence cố gắng đọc tâm tư Đức Piô XII
Đây là cuốn phim nói về sự im lặng của Đức Piô XII trước Nạn Diệt Chủng (Do Thái) của Đức Quốc Xã trong Thế Chiến II, một chủ đề gây tranh cãi rất nhiều từ những năm cuối thập niên 1950 cho tới nay, nhất là dịp xuất bản cuốn Hitler’s Pope (Giáo Hoàng của Hitler) của John Cornwell năm 1999. Bản thân chúng tôi có một số bài viết về chủ đề này (Xin xem Gia Tô Bí Lục Tân Thời, Vietcatholic 15-20/11/2008; Vatican và vấn đề Tài Liệu, Vietcatholic 21-24/01/2009; Vatican và vấn đề Diệt Chủng, Vietcatholic 25-26/01/2009). Phần lớn giới truyền thông thế tục, nhất là giới truyền thông chịu ảnh hưởng hoặc thân Do Thái, có cái nhìn tiêu cực về việc cho là Đức Piô XII im lặng hay không hành động đủ để ngăn chặn bàn tay sát máu của Quốc Xã đối với người Do Thái. Phản ứng tiêu cực này mạnh đến nỗi diễn trình phong thánh cho vị Giáo Hoàng rất thân yêu này thực tế đã phải khựng lại.
Nay, theo Clemente Lisi, một chủ bút kỳ cựu và là người thường xuyên viết cho Religion Unplugged, cựu trưởng ban tin tức của New York Daily News và hiện dạy môn báo chí tại The King’s College ở New York, với cuốn phim tài liệu “Holy Silence”, người ta bắt đầu có cái nhìn trung thực hơn đối với vị Giáo Hoàng vốn nổi tiếng chống Cộng này (xin xem https://religionunplugged.com/news/2020/1/25/holy-silence-new-documentary-aims-to-shed-light-on-pope-pius-xii-jews-and-world-war-ii)
Theo Lisi, cuốn phim này ra đời non hai tháng trước ngày Vatican dự định mở văn khố mật liên quan đến triều Giáo Hoàng của Đức Piô XII. Vị Giáo Hoàng này vốn trị vì Giáo Hội Công Giáo từ năm 1939 tới năm 1958, những năm tháng bao gồm Thế Chiến II. Văn khố này sẽ cung cấp 17 triệu trang tài liệu liên quan tới thời gian này và chắc chắn sẽ cung cấp nhiều bối cảnh lịch sử cho các hành động và tư duy của Đưc Piô XII.
Cuốn phim “Holy Silence”, theo Lisi, trên thực tế cũng cung cấp bối cảnh lịch sử cho giai đoạn này, một giai đoạn cũng chiếm nhiều không gian tin tức trong tuần này vì lễ kỷ niệm 75 năm ngày giải phóng trại tử thần Auschwitz.
Thành thử cuốn phim, theo Lisi, là khúc dạo đầu để đưa công chúng tới chỗ học hỏi thêm về bối cảnh lịch sử các biến cố của giai đoạn này bao gồm việc Đức Quốc Xã xâm chiếm phần lớn Âu Châu, Nạn Diệt Chủng Do Thái và Thế Chiến II, do đó, là vai trò của hai vị Giáo Hoàng có liên hệ là Đức Piô XI và Đức Piô XII.
Nhờ cuốn phim, người ta biết rằng Đức Piô XI, người vốn có bệnh tim, ngày càng được báo động về việc đối xử với người Do Thái ở Đức. Trong một cố gắng nhằm giải quyết tình huống, ngài thỉnh ý Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, lúc đó là Đức Hồng Y Eugenio Pacelli (tức Đức Piô XII sau này), và kêu gọi sự giúp đỡ của Cha John LaFarge, một linh mục Dòng Tên và là phụ tá chủ bút tạp chí America ở Hoa Kỳ, trong việc soạn thảo một thông điệp nhằm tuyên bố rằng Người Do Thái có đủ tư cách được hưởng các quyền lợi và che chở bình đẳng như mọi người khác.
Bản thảo thông điệp ấy của Cha LaFarge không bao giờ được công bố. Đức Piô XI qua đời năm 1939 và Đức Hồng Y Pacelli kế nhiệm, lấy danh hiệu là Piô XII. Căn cứ vào thái độ bài Do Thái của một số giáo phẩm Công Giáo cũng như một số thương lượng của Đức Hồng Y Pacelli với Mussolini và Hitler, nhiều người mong tân Giáo Hoàng Piô XII làm nhiều hơn nữa. Nhưng ngài đã quyết định giữ im lặng.
Tuy thế, phần lớn những gì đã được tiết lộ, liên quan đến các tài liệu đã được công bố và ký ức của các nhân chứng, phần lớn vẫn còn là một bí ẩn và các hành động vẫn được bỏ ngỏ cho nhiều giải thích khác nhau. Đức Piô XII thực sự là một vị thánh hay một tội nhân? Đây là một vấn đề không đơn giản.
Cuốn phim cuối cùng không cho ta câu trả lời dứt khoát. Điều nó làm, theo Lisi, là kể lại câu truyện như nó đã xẩy ra lúc đó, dành cho lý luận của cả hai bên một tường thuật đồng đều và để cho người xem tự quyết đoán liệu Đức Giáo Hoàng có nên làm hay nói hơn thế hay không. Cuốn phim tự hạn chế không dám gọi Đức Piô XII là Giáo Hoàng của Hitler như khá nhiều người làm trong quá khứ.
Thực thế, cuốn phim 72 phút này cho hay: bồi thẩm đoàn vẫn chưa quyết đoán liệu Đức Piô XII có cảnh cáo người Do Thái về việc trục xuất tới các trại tập trung hay không một khi Quốc Xã nắm quyền ở Ý năm 1943 và liệu ngài có ra lệnh cho các nhà thờ và các định chế Công Giáo khác cung cấp nơi ẩn trú cho người Do Thái hay không. Văn khố mật có thể sẽ rõi nhiều ánh sáng cho các tình huống này.
Tuy nhiên, cuốn phim cho rằng Đức Piô XII quyết định không đứng về phe nào, thay vào đó hy vọng không làm mất lòng Quốc Xã. Các sử gia được phỏng vấn trong phim cho rằng Đức Piô XII không tin chắc Đồng Minh sẽ thắng cuộc chiến, nên đã quyết định giữ im lặng bất chấp sự thúc giục của Hoa Kỳ và của Tổng Thống Franklin D. Roosevelt, muốn Đức Giáo Hoàng dùng thế giá tinh thần công khai kết án chủ nghĩa Phát Xít. Đức Piô XII sợ có việc bỏ bom Thị Quốc Vatican, một nơi, quả Đức đã dung tha khi xâm chiếm Ý năm 1943, và nhờ thế đã cứu được khá nhiều người Do Thái đến trú ẩn.
Ai cũng biết năm 1929, Vatican và Mussolini đã ký thỏa ước thiết lập Tòa Thánh như một thị quốc độc lập. Suốt thập niên 1930, Đức Hồng Y Pacelli, phái viên của Vatican tại Đức, đã trở thành người chống Cộng Sản quyết liệt, chống đến cái độ, coi nó như mối nguy duy nhất cần được nhân loại hợp nhất diệt trừ. Điều oái oăm là Đức Quốc Xã diệt trừ Cộng Sản không thua ai. Đây có thể là một tình tiết địa chính trị mà cuốn phim, với sự giúp đỡ của một số sử gia được phỏng vấn và một số bản sao các tin truyền hình và phúc trình truyền thanh lúc đó, muốn soi sáng các hành động tương lai của Vatican và của Đức Piô XII.
Cuốn phim cũng tiết lộ việc người Công Giáo ở Âu Châu và Hoa Kỳ chia rẽ nhau về việc có nên có thiện cảm hay không với Đệ Tam Reich. Phong trào phản Do Thái khá phổ biến nơi một số giới Công Giáo thời đó, một điều sẽ được Giáo Hội giải quyết cả hàng thập niên sau qua các cải tổ của Công Đồng Vatican II và triều Giáo Hoàng của Đức Gioan Phaolô II, người vốn xuất thân từ Ba Lan.
Việc dâng cao của tâm tư bài Do Thái trên thế giới trong những năm gần đây và việc mở văn khố mật của Vatican sắp tới khiến cho Holy Silence hợp thời một cách mà nhà sản xuất kiêm đạo diễn và người viết kịch bản Steven Pressman có lẽ chưa bao giờ mơ ước khi bắt tay vào dự án này. Thời khắc ra đời cuốn phim, việc nghiên cứu phi thường và thuật kể truyện truyệt vời của nó làm cho những ai yêu mến lịch sử buộc phải coi, cả người Do Thái lẫn người Công Giáo. Điều đặc biệt quan trọng là ta không nên quên để những gì xẩy ra trong quá khứ đừng xẩy ra thêm một lần nữa trong tương lai.
Chính sách của Đức Phanxicô: Bất chấp Ngày Chung Tận
Đó là tựa đề bài báo mới (https://www.laciviltacattolica.com/defy-the-apocalypse/) đăng ngày 20 tháng 1, 2020, của Chủ Nhiệm Tạp Chí nổi tiếng La Civiltà Cattolica, cha Sparado, Dòng Tên, người mặc nhiên được coi như thân tín của Đức Phanxicô ngay từ đầu triều đại của ngài. Đại cương bài báo nói đến lập trường lạc quan của Đức Phanxicô bất chấp mọi thách thức lớn lao hiện nay. Không rõ Đức Phanxicô chia sẻ đến mức nào bài viết của Cha Sparado, nhưng đọc Cha, có lúc người ta tưởng cha cũng mắc vào thứ bút chiến ý thức hệ khi cố gắng làm sáng tỏ đường lối của Đức Phanxicô trước nhiều tấn công hiện nay. Mời bạn đọc nhận định.
Bức tường Bálinh sụp đổ vào ngày 9 tháng 11 năm 1989. Từ ngày đó trở đi, người dân Bálinh bắt đầu tháo dỡ một biểu tượng đã giam giữ họ làm con tin trong gần 30 năm; đó là một khoảnh khắc biểu tượng trong hoàng hôn của chế độ toàn trị.
Nó đánh dấu sự khởi đầu của những gì hứa hẹn sẽ là một kỷ nguyên mới có đặc điểm ở việc tăng cường diễn trình hoàn cầu hóa. Tuy nhiên ngày nay, như Đức Giáo Hoàng Phanxicô thường nói với chúng ta, kỷ nguyên mới này đã được đánh dấu bằng sự thờ ơ và xung đột.
Trước bối cảnh của một bức tường được tháo dỡ, nhiều rào cản khác đã xuất hiện trên thế giới [1]. Đức Giáo Hoàng, lúc gặp gỡ một nhóm Tu sĩ Dòng Tên, đã thẳng thắn nói: “Có những bức tường thậm chí phân cách con cái với cha mẹ. Tôi nghĩ tới Hêrốt. Tuy nhiên, đối với ma túy, không có bức tường nào để ngăn chặn họ”[2].
Khi Đức Phanxicô nói về Giáo hội như một “bệnh viện dã chiến”, ngài không có ý định sử dụng một hình ảnh lôi cuốn, hùng biện, hữu hiệu. Trước mắt ngài là một “cuộc chiến tranh thế giới từng mảng”. Cuộc khủng hoảng hoàn cầu mang nhiều hình thức khác nhau và được phát biểu trong các tranh chấp, những tranh luận giao thương, các rào cản, các khủng hoảng di dân, các chế độ sụp đổ, các liên minh mới đầy thù địch, và những lộ giao thương tuy mở đường cho thịnh vượng nhưng cũng đe dọa sẽ có nhiều căng thẳng. Bạn có thể vẽ bản đồ, nhưng nó sẽ luôn không trọn vẹn” [3].
Kiềm chế đến cùng: Đế Quốc hay Giáo Hội?
Chúng ta đang sống trong thời điểm lịch sử nào? Vài năm trước, Massimo Cacciari đã đề nghị một con đường chúng ta phải xem xét trong tập La potere che frena (Sức mạnh kiềm chế) của ông. Ông đã suy tư về nền thần học chính trị dưới ánh sáng của Thư thứ hai gửi người Têsalônica (2: 6-7). Ông viết về nhân vật bí ẩn katechon, nghĩa là, một điều gì đó hoặc một người nào đó đã “giữ chân” hay “kiềm chế”, ngăn chặn hoặc đạp thắng chặn lại cuộc tấn công của Phản Kitô (Antichrist) [4]. Về mặt nào đó, chức năng của nó có thể so sánh với chức năng của anh trai Prometheus là Epimetheus: một khi giấc mơ tiến bộ mà Prometheus thực hiện được đã phai mờ, nó được giao lại cho anh trai mình để cai trị số phận của con người, ngăn chặn việc mở các bình chứa các điều ác xấu của thế giới.
Các Giáo phụ của Giáo Hội đã cố gắng xác định xem Thánh Phaolô đang nói về những ai và điều gì có thể ngăn chặn được ngày chung tận. Giải thích ưu thế cho katechon là Đế quốc La Mã, với quyền lực (potestas) hành chính của nó đã gắn kết xã hội với nhau. Nhưng chức năng này cũng đòi hỏi một thẩm quyền (auctoritas) tinh thần cho chính nó. Với sự sụp đổ của Đế quốc, Giáo hội đã kế thừa chức năng này.
Nhưng ngày nay chúng ta sống trong một chiều kích hoàn cầu mà Đế quốc La Mã chưa biết đến. Thành thử câu hỏi của chúng ta là: Nhiệm vụ của Giáo Hội trong khung cảnh phức tạp này là gì? Dường như không thể tránh một trong hai phương thức sau đây. Phương thức đầu tiên: công bố ngày tận thế sắp xảy ra và tìm cách đẩy nhanh tiến độ của nó. Phương thức thứ hai: trở thành một “bức tường ngăn”, một lực lượng thắng lại, phòng thủ cuối cùng chống lại một thảm họa áp đảo mà chúng ta đang bị lôi vào bởi các thế lực đang áp đặt hệ thống hoàn cầu hóa hoang dại, một hệ thống phát triển mạnh mẽ dựa trên việc hủy bỏ các tương quan, bảo đảm các miễn chước (immunity) và an toàn cho tiền bạc mà thôi, làm cho chiến tranh thành người quyết định. Chúng ta có chắc chắn không có lựa chọn thứ ba không? Đó là điều chúng ta sẽ tìm hiểu ở đây.
Nhiệm vụ của Giáo hội trước ngày chung tận
Giáo hội là một bệnh viện dã chiến theo nghĩa nó chữa lành các vết thương của một cuộc chiến đã mất, hay nó có ý định tái lên sinh lực cho những tứ chi yếu ớt của những người muốn tái chiến đấu? Có những người vận động cho nhu cầu phải nhấn máy gia tốc, họ có xu hướng xây dựng một khu biệt cư cho một số ít người “tinh trong” chống lại “những người khác”, tức là, đám đông vô kể những người làm điều xấu [5].
Còn Đức Phanxicô? Có phải nhiệm vụ của ngài trong tư cách Giám mục Rôma là phấn đấu cho điều không tưởng về một thế giới tốt đẹp hơn? Hay ngài nên cố gắng tránh bằng bất cứ giá nào thảm kịch phá hủy thế giới? Có phải trái đất đối với ngài là một quả bóng nổ để đá để cái ác có thể bị nghiền nát bằng cách chỉ ra “các trời mới và đất mới”? Hay đó là một chiếc bình bằng đất vỡ tan phải được phục hồi từng mảnh bằng bất cứ giá nào, kể cả việc chậm chạp ghép lại từng mảnh?
Đối với Đức Phanxicô, nhiệm vụ của Giáo hội không phải là thích nghi với các động lực của thế giới, của chính trị hay xã hội để đưa chúng lên và làm cho chúng sống thoát các điều tồi tệ nhất: điều này vốn bị ngài đánh giá là “thuộc thế gian”. Ngài cũng không có ý định đứng về phía chống thế giới, chính trị hay xã hội. Đức Giáo Hoàng không bác bỏ thực tại để nhắm một ngày chung cuộc hằng mong đợi, về một kết thúc sẽ vượt qua các khổ nạn trên thế giới bằng cách phá hủy thế giới.
Đức Phanxicô không đẩy cuộc khủng hoảng của thế giới đến các hậu quả cực đoan của nó bằng cách rao giảng sự kết thúc sắp xảy ra của nó, và cũng không giữ cho các mảnh của một thế giới đang sụp đổ bằng cách tìm kiếm các liên minh hoặc hợp tác thoải mái. Hơn nữa, ngài không cố gắng loại bỏ cái ác, bởi vì ngài biết điều đó là việc không thể làm: nó chỉ đơn giản di chuyển và tự xuất hiện ở nơi khác, dưới các hình thức khác. Thay vào đó, ngài có ý định trung lập hóa cái ác. Đó là chỗ biện chứng hành động của Bergogliô đứng. Và đó là mấu chốt để hiểu ý nghĩa của ngài. Đó là suy nghĩ liên tục của ngài.
Vai trò hoàn cầu của Đạo Công Giáo trong bối cảnh ngày nay
Đây là lý do tại sao, do quan điểm ngoại giao, Đức Phanxicô có một lập trường đầy rủi ro. Thận trọng ngoại giao truyền thống được kết hợp với tính bạo dạn (parrhesia), nghĩa là lên tiếng rõ ràng và thẳng thắn, thậm chí cả tố cáo nữa: những lập trường chống lại chủ nghĩa tư bản tài chính đầu cơ; liên tục nhắc đến thảm kịch của di dân, vốn là “nút thắt chính trị hoàn cầu”thực sự [6]; nhắc nhớ “cuộc diệt chủng” người Armenia; và việc chính thứa hóa hơn nữa các liên hệ với Palestine.
Những lời tố cáo của ngài - giống như “tiếng kêu trong sa mạc”, theo lời tiên tri Isaia trong Kinh thánh - vang lên trong những tiếng vọng không ngớt. Và trong Thánh lễ tại Santa Marta, “Vị Giáo hoàng của Lòng Thương xót” đã không ngần ngại thốt lên lời “kết án” cho những kẻ chuyên khích các cuộc chiến tranh và kiếm lợi từ chúng.
Đức Phanxicô đang phải đối đầu với vai trò hoàn cầu mới của Đạo Công Giáo trong bối cảnh ngày nay. Trong hoàn cảnh đó, ngài cố tình trở thành một viễn kiến, trong yếu tính, vốn có tính tâm linh và truyền giảng tin mừng về các mối liên hệ quốc tế. Ngay cả khi ngài nói về ngoại giao, như ngài đã làm trong một cuộc gặp gỡ riêng vào ngày 3 tháng 5 năm 2018, tại Học viện Giáo hội, ngài đã khẳng định “một chính sách ngoại giao trên đầu gối”, tức là, bắt nguồn và dựa trên việc cầu nguyện.
Tất cả mọi điều hệ ở phương thức được mô tả trên đây. Nếu Đức Phanxicô muốn ngăn chặn sự sụp đổ, ngài chỉ cần dựa vào luật pháp, quyền lực đã thiết lập, làm trung gian giữa các quốc gia và Giáo hội, các quy luật cho phép hệ thống tự duy trì chính nó, đến chỗ hợp tác. Mặt khác, nếu ngài muốn tăng tốc sự xuất hiện của trời mới và đất mới, ngài sẽ không có lựa chọn nào khác ngoài việc tấn công như bằng búa rìu, tố cáo, phê phán nặng nề những gì đang duy trì quyền lực, và do đó, thế giới như nó đang hiện hữu sẽ được cấu hình.
Từ đó, có xung đột về giải thích. Có những người tấn công Đức Phanxicô vì họ tố cáo ngài thỏa hiệp với thế giới. Tuy nhiên, ngài tấn công giới quyền lực (establishment) - cả trần thế lẫn trong giáo hội, tất cả đều như nhau - và ngài thậm chí còn phác thảo danh sách các khổ não nó phải chịu. Những người ca ngợi Đức Phanxicô làm như vậy vì họ cảm thấy ngài nhạy cảm một cách đầy thương xót đối với thực tại của thế giới, thậm chí đến chỗ đình chỉ mọi phán xét. Ấy thế nhưng, Đức Giáo Hoàng đã nói một cách kịch liệt, như ngài đã làm trong chuyến viếng thăm Napoli, rằng tham nhũng “hôi thối” và, trong các tố cáo của mình, ngài không bao giờ chỉ nửa vời cả.
Có một tiêu chuẩn hết sức tâm linh mà chúng ta không bao giờ nên làm ngơ. Đó là điều thúc đẩy Chúa Giêsu chào đón tội nhân và đuổi những người đổi tiền ra khỏi đền thờ. Tiêu chuẩn là chính Chúa Giêsu. Có những người, thấy hai cử chỉ này, coi chúng là mâu thuẫn bởi vì - do sự nghiêm khắc hoặc lỏng lẻo - họ đã không hiểu được Tin Mừng của Chúa Kitô.
Việc xử lý nền chính trị quốc tế của Đức Phanxicô có nghĩa là đắm mình vào một tầm nhìn tâm linh được nuôi dưỡng bằng một cảm thức sâu sắc về thảm họa có thể xảy ra và các lực lượng xấu xa đang hành động. Đồng thời, có một niềm tin độc đáo vào mầu nhiệm Thiên Chúa khiến người ta chấp nhận những bước tiến nhỏ, các diễn trình, thẩm quyền thế gian, các cuộc đàm phán, vai trò của thời gian, việc làm trung gian [7].
Phương thức này dựa trên ý thức cho rằng thế giới không bị phân chia giữa thiện và ác, giữa sai và đúng. Sự lựa chọn không phải là việc biện phân các lực lượng (phe phái, chính trị, quân sự...) để tự liên minh và hỗ trợ để điều thiện có thể chiến thắng. Phương thức đàm luận ngoại giao này dựa trên sự chắc chắn rằng đế quốc sự thiện không được trao vào tay thế giới này. Đó là lý do tại sao bạn phải nói chuyện với mọi người. Quyền lực thế gian chắc chắn đang bị tục hóa (desacralized). Tất nhiên, các chính trị gia đang được kêu gọi trở nên “thánh” chỉ vì là các chính trị gia và làm việc cho thiện ích chung. Nhưng ngay cả như thế, không một quyền lực chính trị nào là “thánh thiêng” cả.
Trong chiều hướng này, Đức Phanxicô tin tưởng hoàn toàn và duy nhất vào tương lai cánh chung; ngài tin vào một mình Chúa. Chính điều này đã thúc đẩy ngài nỗ lực hết sức có thể để tập trung vào việc “hoà nhập”, tập trung vào mọi điều - bỏ ra ngoài mọi ảo tưởng sai lầm về một “đế quốc thánh thiêng” – sẽ dẫn mọi người đi theo con đường sự thiện, dù giữa nhiều cám dỗ của thế giới này. Chính vì lý do này, không ai là “kẻ ác”, nghĩa là nhập thể chính ác quỷ. Và điều này gây tai tiếng vì nó để một cánh cửa mở (đôi khi là một cánh cửa rất hẹp, nhưng vẫn là cánh cửa mở) trong cả các tình huống có vấn đề về chính trị.
Chống lại cơn cám dỗ của thứ Công Giáo bộ lạc
Nghị lực khiến Đức Phanxicô làm việc để kiềm chế sự sụp đổ của thế giới xuống vực thẳm, do đó, không thúc đẩy ngài thỏa hiệp với các quyền lực hiện hữu. Đây là điểm tế nhị nhất trong lý luận của ngài, bởi vì đôi khi Giáo hội tin rằng cách duy nhất để kiềm chế sự suy đồi là liên minh với một đảng chính trị cho phép mình sống còn như một tác nhân của ý nghĩa. Điều này thường xảy ra ở Ý. Và nỗi tiếc nuối vẫn chưa chấm dứt. Nhưng Đức Bergoglio không tin vào sức mạnh của quyền lực này. Sự linh thiêng không bao giờ là chỗ dựa của quyền lực. Quyền lực không bao giờ là chỗ dựa cho thánh thiêng cả.
Ngôn từ cao qúy phù hợp với triều giáo hoàng, do đó, bao hàm các chủ đề về bình đẳng, sự cần thiết của “đất đai, nhà ở và việc làm”, cũng như những chủ đề liên quan đến tự do. “Chủ nghĩa duy tương đối” được tiết lộ rõ ràng hơn nữa trong các khía cạnh xã hội tàn phá của nó. Lời kêu gọi chống lại nền độc tài của chủ nghĩa duy tương đối đã đụng tới trái tim của nhân phẩm, là điều vốn không thể bảo vệ và bất lực nếu không có đất đai, nhà ở và việc làm. Và điều này không phải là vì Đức Phanxicô tưởng tượng ra một thiên đường trên trái đất: ngài không phải là một chủ nghĩa không tưởng trần tục. Điều này là bởi vì ngài có cái nhìn của đức tin, dựa trên Phán xét cuối cùng, như các Phúc âm của Tin mừng trình bày cho chúng ta.
Về phương diện này, một đại sứ nhận định rằng ngôn ngữ của Đức Bênêđíctô XVI là ngôn ngữ hiện đại phương Tây, một mặt công nhận tính đa nguyên của thế giới quan trong xã hội đương thời và mặt khác lên án 'nền độc tài của thuyết duy tương đối'. Ngôn ngữ của Đức Phanxicô, trong khi nhìn vào nhiều thách đố của nền văn hóa hiện đại, đồng thời cũng xem xét diễn trình phân cực kinh tế và xã hội đang chiếm ưu thế trên phạm vi hoàn cầu, với một tiến trình cấp bách và cường độ ngày càng gia tăng [8].
Đây là điểm thất bại trong sự tương phản giữa thế tục và Kitô giáo, một tương phản xuất hiện khi chúng được tri nhận như là phạm trù ý thức hệ, lãnh vực ngữ nghĩa và các tham chiếu trừu tượng. Thần Khí không thể bị giới hạn như vậy. Tư tưởng Kitô giáo tự nó chỉ đối lập với tư tưởng thế tục khi nó biến thành một ý thức hệ. Nhưng nếu tư tưởng Kitô giáo trở thành một ý thức hệ, thì nó không còn liên quan gì đến Chúa Kitô nữa.
Trong thực tế, Đức Giáo Hoàng nói ở Ai Cập, mọi đối lập bị bụi thời gian làm khô cứng sẽ sụp đổ. Sự khôn ngoan đích thực là bao giờ cũng “cởi mở và chuyển động”, vừa khiêm tốn vừa tìm hiểu[9]. Chỉ có một sự đối lập: hoặc là “lịch thiệp gặp gỡ” hai là “bất lịch thiệp đụng độ”. Thế còn các tôn giáo thì sao? “Ánh sáng muôn sắc của các tôn giáo tỏa sáng ở vùng đất này”. Đèn đuốc không tương phản màu sắc bằng cách đặt chúng trong phản đề, nhưng mặc lấy chúng trong một viễn kiến không đối đầu. Dù sao, đây là vấn đề lớn hiện nay: chúng ta trải nghiệm sự đa dạng trong các điều kiện mâu thuẫn.
Trong bài phát biểu của ngài nhân dịp phát hành số 4000 của La Civiltà Cattolica, Đức Phanxicô đã nói: “Hãy làm cho người ta biết ý nghĩa của ‘nền văn minh’ Công Giáo, nhưng cũng hãy làm cho người Công Giáo biết rằng Thiên Chúa làm việc cả ở bên ngoài ranh giới của Giáo hội, trong mọi nền 'văn minh' đích thực, bằng hơi thở của Thần Khí”. Và trước đó không xa, trong cùng một bài phát biểu, ngài đã nói rằng “nền văn hóa sống động luôn có xu hướng cởi mở, hòa nhập, nhân rộng, chia sẻ, đối thoại, cho đi và tiếp nhận bên trong một dân tộc và với những người khác mà với họ nó bước vào mối liên hệ”[10].
Đối với Đức Bergoglio, văn hóa có nhiều giá trị như một động từ hơn là một danh từ. Chỉ có các động từ mới diễn đạt nó tốt mà thôi. Nhất là các động từ: cởi mở, hòa nhập, nhân rộng, chia sẻ, đối thoại, cho đi và tiếp nhận. Bảy động từ linh hoạt đề cập đến quá khứ, hiện tại và tương lai. Bảy động từ có thể chỉ ra hoặc mời gọi hoặc diễn tả một mệnh lệnh thúc đẩy ta hành động [11]. Đầu tiên là cởi mở.
Ý tưởng về một chủ nghĩa dân túy Công Giáo hay - thậm chí tệ hơn - một chủ nghĩa sắc tộc Công Giáo rất xa lạ đối với Đức Giáo Hoàng, bởi vì Thiên Chúa mà ngài tìm kiếm ở khắp mọi nơi. Ý tưởng về một “chủ nghĩa duy bộ lạc” tự chiếm đoạt cho mình các sách Tin Mừng hoặc biểu tượng của thập tự giá là điều rất xa lạ. Các khái niệm cội nguồn và bản sắc đối với người Công Giáo và người có bản sắc ngoại giáo không có cùng một nội dung như nhau. Các nguồn gốc sắc tộc, hiếu thắng, kiêu ngạo và thù hận chỉ đơn giản là đối nghịch với Kitô giáo.
Thế chiến III không phải là một định mệnh cố định. Để tránh điều đó đòi có lòng thương xót, và điều này có nghĩa là bác bỏ các trình thuật duy cực đoan và chung tận vốn khoác áo hào hoa và mặt nạ tôn giáo. Đức Phanxicô thách đố ngày chung tận và lối suy nghĩ của các mạng lưới chính trị chuyên hỗ trợ quan điểm chung tận địa chính trị về một cuộc đụng độ cuối cùng, đầy chết chóc và không thể tránh được. Cộng đồng đức tin, không bao giờ là cộng đồng gây chiến (fight).
Cần phải thoát khỏi cơn cám dỗ đường ngang muốn phóng chiếu thiên tính lên một quyền lực chính trị chuyên sử dụng nó cho các mục đích riêng của mình. Do đó, cỗ máy trình thuật của chủ nghĩa thiên niên kỷ bè phái chuyên chuẩn bị cho ngày chung tận và “cuộc đụng độ cuối cùng” bị làm rỗng ngay từ bên trong. Việc nhấn mạnh đến lòng thương xót như một thuộc tính căn bản của Thiên Chúa nói lên nhu cầu triệt để này của Kitô giáo.
Vì lý do này, Đức Phanxicô đang truyền bá một phản trình thuật có hệ thống chống lại thứ trình thuật sợ hãi. Chúng ta phải chống lại sự thao túng của cái mùa lo lắng và bất an này. Cũng vì lý do này, một cách can đảm, Đức Giáo Hoàng không dành bất cứ tính hợp pháp thần học - chính trị nào cho những kẻ khủng bố; thí dụ, ngài tránh bất cứ sự giảm thiểu nào của Hồi giáo đối với chủ nghĩa khủng bố Hồi giáo. Ngài cũng không dành cho những người muốn đặt thành định đề hoặc mong muốn một “cuộc chiến tranh thần thánh”, hay những người xây dựng hàng rào kẽm gai với cái cớ ngăn chặn ngày chung tận và dựng lên một hàng phòng thủ thể lý và tượng trưng để khôi phục lại “trật tự”. Kẽm gai duy nhât đối với Kitô hữu là kẽm gai trên mão gai mà Chúa Kitô đội trên đầu.
Kỳ tới: Thánh Phanxicô trên ngai tòa thánh Phêrô
ĐGH Phanxicô cầu nguyện cho các nạn nhân nhiễm virus Corona
WGPSG / CNA -- Vào Chúa nhật 26-1-2020, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã đặc biệt cầu nguyện cho những người bị nhiễm virus Corona, là loại virus đã khiến 56 người chết ở Trung Quốc.
Đức Giáo hoàng đã cầu xin khi đọc Kinh Truyền Tin: “Xin Chúa đón nhận những bệnh nhân đã qua đời vào trong cõi an bình; xin an ủi gia đình họ và ban ơn giúp sức cho cộng đồng Trung Quốc đang hết sức nỗ lực chiến đấu với dịch bệnh.”
Bắt nguồn từ thành phố Vũ Hán của Trung Quốc, virus này đã lan ra 9 quốc gia với 1.975 trường hợp được xác nhận.
Báo cáo mới nhất của Tổ chức Y tế Thế giới vào ngày 25-1-2010 tuyên bố rằng, trong số các trường hợp được xác nhận, có tới 237 người được báo cáo là bị bệnh nặng.
Số người nhiễm virus Corona đã tăng thêm 655 trường hợp trong 24 giờ kể từ khi báo cáo này của WHO được phát hành - chính phủ Trung Quốc đã báo cáo như thế vào ngày 26-1-2020, một ngày sau Tết Nguyên đán. Đây là dịp lễ lớn nhất trong năm tại Trung Quốc với hàng trăm triệu người đi nghỉ Tết.
Vũ Hán, một thành phố có kích cỡ tương đương với Luân Đôn, đã bị phong tỏa từ ngày 23-1-2020 với những hạn chế trong việc di chuyển bằng xe lửa, máy bay, phà và ô tô. Đại sứ quán Hoa Kỳ đang làm việc để sơ tán tất cả công dân Mỹ ở Vũ Hán.
Một trường hợp thứ ba nhiễm virus Corona ở Hoa Kỳ đã được xác nhận tại California vào ngày 26-1-2020.
Bên ngoài Trung Quốc, các trường hợp nhiễm virus Corona đã được xác nhận tại Thái Lan, Nhật Bản, Singapore, Úc, Pháp, Hàn Quốc, Việt Nam, Nepal và Hoa Kỳ tại Chicago, Seattle và Orange Country. Hiện có những trường hợp đang bị nghi ngờ là nhiễm virus Corona trong số những du khách gần đây từ Trung Quốc đi đến Canada, Bồ Đào Nha và Bờ biển Ngà.
Trước khi đọc Kinh Truyền Tin, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã tạ ơn vì Chúa nhật Lời Chúa đầu tiên đã được cử hành trên khắp thế giới vào Chúa nhật thứ III Thường niên.
Đức Giáo hoàng nói: “Chính Tin Mừng là Lời của Chúa Giêsu đã làm thay đổi thế giới và tâm hồn chúng ta. Do đó, chúng ta được mời gọi tín thác vào Lời của Chúa Kitô, để mở tâm hồn đón nhận Lòng thương xót của Chúa Cha và để cho bản thân mình được biến đổi nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần.”
Đức Giáo hoàng cũng cầu nguyện cho những người bị bệnh phong cùi, và dành một chút thời gian trong im lặng để tưởng niệm nhân kỷ niệm 75 năm giải phóng trại tập trung Auschwitz-Birkenau. Ngài mời mọi người dành thời gian để cầu nguyện vào ngày kỷ niệm 27-1 này, và nhắc lại trong lòng: “Không bao giờ để xảy ra như thế nữa!”
Virus Corona lần đầu tiên được báo cáo cho Tổ chức Y tế Thế giới vào ngày 31-12-2019. Các giám mục ở Philippines đã kêu gọi cư dân cảnh giác và nhanh chóng kiểm tra tại bệnh viện nếu họ tin rằng họ đã bị nhiễm bệnh.
Đức cha Ruperto Santos ở Balanga đã phổ biến một lời cầu nguyện đặc biệt để cầu xin Thiên Chúa ngăn chặn sự bùng phát toàn cầu:
“Chúng con cầu xin Chúa ngăn chặn dịch bệnh virus Corona đang lan tràn trên toàn cầu. Chúng con khẩn khoản nài xin Chúa thể hiện sức mạnh mà chặn đứng sự lây lan nhanh chóng của loại virus chết người này. Xin cho những người đã bị nhiễm bệnh cảm nhận được sự hiện diện của Chúa. Xin ban cho họ niềm hy vọng và sự can đảm và xin Chúa ra tay kỳ diệu chữa lành họ.”
Courtney Mares (CNA) / Vi Hữu chuyển ngữ / Nguồn: WGPSG
Triển lãm giới thiệu Hang Sữa Bêlem
Đền thánh Hang Sữa cách Vương cung Thánh đường Chúa Giáng sinh vài mét, là một nơi chứa đầy lịch sử, được kể lại qua mười hai bảng giải thích. Tại đây, theo truyền thuyết, khách hành hương từ thế kỷ thứ mười hai đã thấy Thánh Gia đi qua chỉ sau khi Chúa sinh ra ít lâu. Tên của Nơi Thánh được liên kết với truyền thuyết kể về một giọt sữa rơi xuống khi Đức Mẹ đang cho Hài Nhi bú. Nơi đây trở thành nơi kính nhớ tình mẫu tử của Đức Maria. Có nhiều phụ nữ đến đây để xin ơn được thiên chức làm mẹ.
Một số khách hành hương cho biết bụi tro của hang có đặc tính kỳ diệu, chỉ cần uống một lượng nhỏ bột này thì hy vọng có được ơn ban như ý. Theo như lời chứng của các cha Dòng Phanxicô, trong mười hai năm qua đã có hơn bốn ngàn lá thư của các cha mẹ viết gửi tới đây, kể lại đã có con sau khi đến thăm nơi này.
Thầy Luis Enrique Segovia, người trông coi Vương cung thánh đường Chúa Giáng sinh cho biết: "Chúng tôi thực hiện cuộc triển lãm này với mục đích là giúp các tín hữu hành hương có thể đọc các nguồn lịch sử của hang. Các tài liện này do Dòng Phanxicô cung cấp, chúng tôi tin rằng với những thông tin này sẽ giúp ích rất nhiều cho các tín hữu hành hương". (Acistampa 22/01/2020)
Ngọc Yến - Vatican
Hội nghị quốc tế đầu tiên về chăm sóc mục vụ người cao niên
Đáp lại lời kêu gọi của Đức Giáo Hoàng Phanxicô về việc để những người cao niên trở thành những “nhân vật chính”, Bộ Giáo dân, Gia đình và Sự sống, đã tổ chức một Hội nghị Quốc tế về chăm sóc mục vụ cho người cao niên, có chủ đề “Sự phong phú của tuổi già”. Hội nghị sẽ tập trung vào cách thế đối phó với nền văn hóa loại bỏ người già, cũng như vai trò của họ trong gia đình và ơn gọi đặc biệt của họ trong Giáo hội.
Những kinh nghiệm của người cao niên
Trong một cuộc phỏng vấn, Đức Hồng y Kevin Farrell, Tổng trưởng Bộ Giáo dân, Gia đình và Sự sống, nói rằng văn hóa vất bỏ của thời đại chúng ta có xu hướng gạt mọi người sang một bên; và ngài thừa nhận rằng ngay cả trong Giáo hội, người già đôi khi bị lãng quên. Ngài nói: “Bất cứ người nào làm việc tại một giáo xứ, đặc biệt là ở các nước phát triển, đều biết rằng người già sống một cuộc sống rất cô đơn. Họ cần phải trở thành nhân vật chính, bởi vì những trải nghiệm tuyệt vời mà họ có được trong nhiều năm sống.”
Giáo hội cần phải chăm sóc người cao niên
Đức Hồng Y Farrell nói rằng để người già trở thành nhân vật chính đồng nghĩa với việc Giáo hội cần phải chăm sóc họ, Giáo hội cần phải tiếp cận với họ. Theo ngài, điều đó là một trong những lý do của hội nghị: “tiếp cận với thế giới và xem chính xác những gì đang xảy ra trong Giáo hội.”
Vai trò của người cao niên trong gia đình
Đức Hồng y nói rằng việc sử dụng những kinh nghiệm lâu năm mà người già có rất quan trọng đối với Giáo hội. Đặc biệt, Đức Hồng Y lưu ý rằng trong nhiều gia đình, ông bà đóng một vai trò rất lớn trong việc nuôi dạy và giáo dục thế hệ trẻ. Đồng thời, chúng ta phải quan tâm đến nhu cầu của họ. Chúng ta cần thúc đẩy điều này, chúng ta cần thúc đẩy mong muốn chăm sóc người già, trong số tất cả mọi người, và không bỏ rơi người già. Họ có rất nhiều thứ để trao cho chúng ta.
Hội nghị quốc tế đầu tiên về chăm sóc mục vụ cho người cao niên sẽ có sự tham dự của các đại diện các Hội đồng Giám mục, các dòng tu, các hiệp hội và phong trào giáo dân từ khắp nơi trên thế giới. (Vatican News 23/01/2020)
Hồng Thủy - Vatican
ĐTC Phanxicô: Chúng ta tin tưởng vào Lời Chúa Kitô, Lời biến đổi
Trưa Chúa Nhật 26/01, sau khi cử hành Thánh lễ nhân Chúa Nhật Lời Chúa lần thứ nhất, vào lúc 12 giờ trưa, từ cửa sổ Dinh Tông Tòa, Đức Thánh Cha đã chủ sự buổi đọc Kinh Truyền Tin trước sự hiện diện của hàng chục ngàn tín hữu tụ họp tại quảng trường. Đức Thánh Cha đã có bài huấn dụ ngắn trước khi đọc Kinh Truyền Tin. Đức Thánh Cha nói:
Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng tại vùng ngoại biên của Do Thái giáo
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Tin Mừng hôm nay (x. Mt 4,12-23) trình bày với chúng ta bước khởi đầu sứ vụ công khai của Chúa Giêsu. Nó xảy ra tại Galilê, một miền đất ngoại biên đối với Giêrusalem và bị nhìn với sự nghi ngại vì sự pha trộn với các dân ngoại. Từ vùng đất đó, người ta không mong có điều gì tốt lành và mới mẻ; nhưng ngược lại, chính ở đó Chúa Giêsu, Đấng đã lớn lên ở Nazaret của miền Galilê, bắt đầu việc rao giảng.
Thiên Chúa đến gần chúng ta dù chúng ta không xứng đáng
Người công bố trọng tâm giáo huấn của Người, được tổng hợp trong lời mời gọi: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến” (c.17). Lời loan báo này như một luồng ánh sáng mạnh mẽ, chiếu xuyên qua bóng tối và rào cản của sương mù và gợi lại lời ngôn sứ Isaia mà chúng ta đọc trong đêm Giáng sinh: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (9,1). Với việc Chúa Giêsu, ánh sáng của thế gian, đến trần gian, Chúa Cha đã tỏ cho nhân loại thấy sự gần gũi và tình bạn của Người. Đó là những quà tặng được ban nhưng không, không do công trạng của chúng ta.
Sự tin tưởng vào Lời Chúa có sức mạnh biến đổi
Lời Chúa Giêsu mời gọi tất cả mọi người thiện tâm sám hối được hiểu trọn vẹn dưới ánh sáng của sự tỏ mình của Chúa Con mà chúng ta đã chiêm ngắm trong những Chúa Nhật vừa qua. Nhiều lần, việc thay đổi đời sống, rời bỏ con đường ích kỷ, con đường của sự ác và tội lỗi là không thể bởi vì cam kết hoán cải chỉ tập trung vào bản thân và sức mạnh của bạn, chứ không phải vào Chúa Kitô và Thánh Thần của Người. Nhưng sự gắn bó của chúng ta với Chúa không thể giảm xuống thành một nỗ lực cá nhân; thay vào đó, nó phải được thể hiện qua sự cởi mở tin tưởng của trái tim và tâm trí để chào đón Tin mừng của Chúa Giêsu. Chính điều này đã thay đổi thế giới và con tim! Do đó, chúng ta được mời gọi tin cậy vào lời của Chúa Kitô, mở lòng đón nhận lòng thương xót của Chúa Cha và để mình được biến đổi nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần. Từ đây bắt đầu một hành trình hoán cải thật sự. Giống như đã xảy ra với các môn đệ đầu tiên: cuộc gặp gỡ với Thầy chí thánh, với cái nhìn của Người, với lời Người đã thúc đẩy họ bước theo Người, thay đổi cuộc sống bằng cách bắt đầu phục vụ cho Nước Chúa một cách cụ thể.
Cuộc gặp gỡ ngạc nhiên và quyết định với Chúa Giêsu là khởi đầu hành trình của các môn đệ, biến đổi họ thành những người loan báo và chứng nhân của tình yêu Thiên Chúa dành cho dân Người. Để bắt chước những sứ giả đầu tiên và những sứ giả của Lời Chúa, xin cho mỗi người chúng ta có thể bước đi theo chân Đấng Cứu Thế, để mang lại hy vọng cho những người đang khao khát.
Xin Đức Trinh Nữ Maria mà chúng ta khẩn cầu trong Kinh Truyền Tin nâng đỡ những dự định này và nâng đỡ chúng với lời khẩn cầu của người mẹ.
Hồng Thủy - Vatican
Đức Thánh Cha kết thúc Tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các Kitô hữu
Lúc 5 giờ 30 chiều hôm qua 25/01, Đức Thánh Cha đã chủ sự giờ Kinh Chiều kết thúc tuần lễ cầu nguyện cho sự hiệp nhất các Kitô hữu, được cử hành tại đền thờ thánh Phaolô ngoại thành.
Tham dự giờ Kinh Chiều có Đức tổng giám mục Gennadios, đại diện Đức Thượng phụ Chính Thống Constantinople; nữ mục sư Ian Ernest, đại diện Đức tổng giám mục Cantebury của Anh giáo, và các đại diện của các Giáo hội và cộng đoàn Giáo hội khác.
Bắt đầu bài giảng, Đức Thánh Cha đề cập đến ba nhóm người hiện diện trên cùng con tàu với thánh Phaolô như được thuật lại trong sách Công vụ tông đồ chương 27. Nhóm uy quyền nhất là quân lính dưới quyền của viên đại đội trưởng. Nhóm thủy thủ là nhóm mà những người trên thuyền cậy dựa vào họ trong suốt hành trình. Và nhóm cuối cùng là các tù nhân, những người ysu đuối và dễ tổn thương nhất. Thánh Phaolô, tuy thuộc nhóm tù nhân lại là người mang sứ điệp hy vọng cho tất cả mọi người, khi họ dường như đã hoàn toàn mất hy vọng khi con tàu của họ gặp bão tố. Và tất cả họ đã được người dân đảo Malta tiếp đón nồng hậu.
Chúa thích gửi các sứ điệp qua những người bé nhỏ, nghèo khổ
Câu chuyện của sách Công vụ Tông đồ cũng nói về hành trình đại kết của các Giáo hội, hướng đến sự hiệp nhất mà Thiên Chúa mong muốn. Trước hết là những người yếu đuối và dễ bị tổn thương, những người có rất ít để trao tặng, nhưng dựa vào Thiên Chúa, sự giàu sang đích thật, họ có thể đưa ra những sứ điệp có lợi cho tất cả. Ngay cả các cộng đồng Kitô giáo nhỏ nhất và ít liên quan nhất trong mắt thế giới, nếu họ sống kinh nghiệm của Chúa Thánh Thần, nếu họ sống tình yêu với Thiên Chúa và người lân cận, họ có một thông điệp để trao cho toàn thể gia đình Kitô hữu. Đức Thánh Cha nói: “Như trong câu chuyện về vụ đắm tàu của Phaolô, thường là người yếu nhất mang thông điệp cứu rỗi quan trọng nhất. Bởi vì Thiên Chúa thích cách này: Người cứu chúng ta không phải bằng sức mạnh của thế giới, nhưng bằng sự yếu đuối của thập giá (x. 1Cr 1,20-25). Đức Thánh Cha cảnh giác các Kitô đừng để bị thu hút bởi lý luận của thế gian nhưng cần lắng nghe những người nghèo khổ và bé nhỏ, bởi vì Chúa thích gửi các sứ điệp qua họ, những người giống với Con Thiên Chúa Nhập Thể nhất.
Ưu tiên của Thiên Chúa là cứu độ tất cả mọi người
Khía cạnh thứ hai của đoạn sách Công vụ Tông đồ là ưu tiên của Thiên Chúa là cứu độ tất cả, như thiên thần đã nói với thánh Phaolô: Thiên Chúa muốn cứu thánh nhân và tất cả những người đồng hành với ngài. Chính thánh Phaolô cũng đã viết: “Người muốn rằng mọi người được cứu độ” (1Tm, 2,49). Chúng ta được mời gọi không chỉ dành cho cộng đoàn của mình nhưng mở ra với thiện ích của tất cả, mở ra với cái nhìn phổ quát của Thiên Chúa, Đấng làm người để ôm lấy toàn thể con người và chết và sống lại để vì ơn cứu độ của tất cả. Với ơn Chúa, chúng ta có cùng cái nhìn với Người và có thể vượt qua sự chia rẽ. Mỗi cộng đoàn Kitô hữu đều có món quà để trao cho người khác. Khi chúng ta càng nhìn xa hơn lợi ích đảng phái và vượt qua những di sản của quá khứ với mong muốn tiến tới bến đỗ chung, chúng ta sẽ càng tự động nhận ra, chào đón và chia sẻ những món quà này.
Lòng hiếu khách
Và điểm cuối cùng Đức Thánh Cha chia sẻ, cũng là trọng tâm của Tuần Đại kết, chính là sự hiếu khách. Những người dân trên đảo Malta đã đón tiếp, quảng đại giúp đỡ thánh Phaolô và các bạn đồng hành của ngài với lòng hiếu khách. Đức Thánh Cha nói: “Từ tuần cầu nguyện này, chúng ta muốn học cách trở nên hiếu khách hơn, trước hết là giữa các Kitô hữu, ngay cả trong số các anh em thuộc các hệ phái khác nhau. Hiếu khách thuộc về truyền thống của các cộng đoàn và gia đình Kitô giáo. Các tiền bối của chúng ta đã dạy chúng ta bằng ví dụ rằng trên bàn của một gia đình Kitô giáo luôn có một đĩa súp cho người bạn lỡ đường hoặc người nghèo khổ đến gõ cửa. Và trong các đan viện, lòng hiếu khách rất được coi trọng. Chúng ta đừng đánh mất nó, nhưng trái lại, hãy làm sống lại những phong tục của Tin Mừng!” (REI 25/01/2020)
Hồng Thủy - Vatican
Đức Thánh Cha và Phó Tổng thống Hòa Kỳ bàn luận về phong trào ủng hộ sự sống
Chia sẻ với Mạng lưới truyền hình Lời vĩnh cửu sau cuộc gặp gỡ với Đức Thánh Cha, ông Pence nói: “Thật là một đặc ân tuyệt vời khi có thời gian với Đức Giáo hoàng Phanxicô và có thể làm như vậy vào một ngày mà hàng trăm ngàn người Mỹ, bao gồm nhiều người Mỹ Công giáo, đã tập trung tại National Mall ở thủ đô Washington để bảo vệ quyền sống, là một niềm vui đặc biệt đối với tôi.” Ông nói thêm: “Và nghe sự nhiệt thành của ngài đối với sự thánh thiêng của sự sống… Thật là một đặc ân lớn.”
Vai trò của Giáo hội phong trào ủng hộ sự sống
Ông Pence nhận định: “Tôi tin rằng Giáo hội tại Hoa Kỳ đã trở thành một thành phần trong phong trào quyền sống kể từ khi quyết định Roe v Wade lần đầu tiên được Tòa án tối cao của chúng ta thông qua vào năm 1973. Ở Mỹ, chúng ta thấy thêm nhiều người trẻ mỗi ngày chào đón lấy quyền sống. Con số ngày càng tăng và tôi biết rằng Giáo hội đang đóng một vai trò quan trọng trong đó và tôi biết sẽ tiếp tục cho đến ngày chúng ta khôi phục lại sự thánh thiêng của sự sống ở trung tâm của luật pháp Mỹ và sẽ mang thông điệp đó đi khắp thế giới.”
Sự dấn thân của Giáo hội Hoa Kỳ vì sự thánh thiêng của sự sống con người
Phó Tổng thống Hoa Kỳ nói rằng trong cuộc gặp gỡ, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói về sự cương quyết mạnh mẽ của các giám mục Hoa Kỳ để thấy Giáo hội tại Hoa Kỳ bảo vệ cho sự thánh thiêng của sự sống con người mà không phải hối tiếc.
Quan tâm về tình hình Trung Đông
Đức Giáo hoàng cũng chia sẻ với ông Pence về những quan tâm đặc biệt của ngài về các tín hữu bị bách hại ở Trung Đông, cụ thể là ở Iraq. Ông Pence cũng xin Đức Thánh Cha cho biết Hoa Kỳ có thể làm gì để cộng tác với Giáo hội để giúp người dân đang đau khổ ở Venezuela.
Sau cuộc hội kiến với Đức Thánh Cha, Phó Tổng thống Pence đã gặp Đức Hồng y Quốc vụ khanh Tòa Thánh Pietro Parolin. (CNA 24/01/2020)
Hồng Thủy - Vatican
ĐTC Phanxicô khuyến khích các Kitô hữu đọc Lời Chúa
Sáng Chúa Nhật 26/01/2020, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cử hành Thánh lễ tại đền thờ thánh Phêrô nhân ngày Chúa Nhật Lời Chúa lần thứ nhất. Trước khi bắt đầu Thánh lễ, Đức Thánh Cha đã tôn kính thi hài thánh Timôthê được đặt gần bàn thờ nhân dịp thánh tích được đưa về Roma trong Tuần lễ cầu cho sự hiệp nhất các Kitô hữu.
Trong bài giảng, Đức Thánh Cha tập trung vào sứ vụ rao giảng của Chúa Giêsu. Người là Lời của Thiên Chúa, đến trần gian để nói với chúng ta bằng lời và cuộc sống của Người. Đức Thánh Cha giải thích 3 điểm: cách thế, nơi chốn và đối tượng của lời rao giảng của Chúa Giêsu.
Sứ điệp đầu tiên, mới mẻ: Thiên Chúa đã bước xuống, đến gặp gỡ chúng ta
Cách thế của Chúa: Chúa Giêsu bắt đầu bằng một lời mời gọi đơn giản: “Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã gần đến” (c.17). Đây là điều căn bản trong các lời giáo huấn của Người. Nước Trời là Nước Thiên Chúa, Nước Trời đến gần nghĩa là Thiên Chúa đến gần. Đức Thánh Cha nhấn mạnh: “Đây là điều mới mẻ, sứ điệp đầu tiên: Thiên Chúa không ở xa, Đấng ở trên trời đã xuống trần gian, đã làm người. Người xóa bỏ các rào cản, các khoảng cách. Chúng ta không xứng đáng với điều đó. Người đã bước xuống, đến gặp gỡ chúng ta.”
Đức Thánh Cha nói tiếp: “Đây là sứ điệp vui mừng: Thiên Chúa đã đến viếng thăm con người bằng cách nhập thể làm người. Người không mang lấy thân phận con người vì trách nhiệm nhưng vì tình yêu... Người mong ước ở cùng chúng ta, ban cho chúng ta sự xinh đẹp của cuộc sống, bình an của tâm hồn, niềm vui được tha thứ và cảm thấy được yêu thương.”
Hoán cải: không còn sống cho mình nhưng sống cho Chúa và tha nhân
Như thế chúng ta hiểu được lời Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hoán cải và thay đổi đời sống. Thay đổi đời sống là bắt đầu cách sống mới: không còn sống cho chính mình nhưng là sống với Thiên Chúa và cho Thiên Chúa, với tha nhân và vì tha nhân, với tình yêu và vì tình yêu. Đức Thánh Cha giải thích: “Vì thế Chúa ban cho chúng ta Lời Người để chúng ta đón nhận như lá thư tình được viết cho chúng ta và giúp chúng ta cảm nhận Người ở bên cạnh chúng ta. Lời Chúa an ủi và khích lệ nhưng đồng thời cũng mời gọi hoán cải, giải thoát chúng ta khỏi bị tê liệt bởi tính ích kỷ cá nhân. Bởi vì Lời Chúa có sức mạnh thay đổi đời sống, giúp vượt qua miền u tối đến với ánh sáng.” Đây là sức mạnh của Lời Chúa.
Thiên Chúa không ngại khám phá tâm hồn chúng ta
Điểm thứ hai Đức Thánh Cha nhấn mạnh là Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng từ vùng u tối, từ vùng Galilê của dân ngoại, là nơi sinh sống của những người khác nhau và nó là một hỗn hợp thực sự của các dân tộc, ngôn ngữ và văn hóa. Đó là nơi các ngư phủ, thương gia và dân ngoại sinh sống, không phải là nơi thuần túy Do thái giáo. Nhưng Chúa Giêsu đã bắt đầu từ đó, không phải từ tiền đình đền thờ Giêrusalem nhưng là ở vùng dân ngoại, vùng ngoại biên của người Do Thái. Từ đó Đức Thánh Cha nhận định: “Lời cứu độ không tìm những nơi dành riêng, an toàn, nhưng đến với sự phức tạp và trong bóng tối của chúng ta. Như khi xưa, ngày nay Chúa mong muốn viếng thăm nơi mà chúng ta nghĩ Người không đến. Bao nhiêu lần chúng ta muốn đóng kín cửa, muốn che dấu các vấn đề, dấu nó trong lòng, rồi đi gặp Chúa bằng cầu nguyện, cố gắng để sự thật của Người không đánh động nội tâm của chúng ta. Và Đức Thánh Cha khẳng định, như trong Tin Mừng, Chúa đi khắp vùng Galilê thì Người cũng không ngại khám phá tâm hồn chúng ta, những nơi cay đắng và khó khăn nhất. Chúa biết chỉ có sự tha thứ của Người chữa lành chúng ta, chỉ có sự hiện diện của Người biến đổi chúng ta, chỉ có Lời Người canh tân chúng ta. Và Đức Thánh Cha mời gọi: hãy mở những con đường quanh co nhất của chúng ta để Lời Chúa đi vào.
Được tình yêu của Chúa hấp dẫn
Cuối cùng, Đức Thánh Cha lưu ý rằng, những người đầu tiên đón nhận lời Chúa Giêsu giảng dạy là những người đánh cá, những người không được chọn theo điều kiện khả năng hay đạo đức, nhưng là những người lao động. Người gọi họ từ cuộc sống của họ, nơi họ ở và như chính họ là, để tham gia vào sứ mạng của Người. Và họ ngay lập tức bỏ lưới theo Người, bởi vì họ bị thu hút bởi tình yêu. Đức Thánh Cha nói: “Để theo Chúa Giêsu, những việc làm tốt thôi chưa đủ, còn cần lắng nghe lời mời gọi của Người mỗi ngày. Chỉ có Người, Đấng biết và yêu chúng ta tận thẳm sâu, giúp chúng ta bước ra biển đời. Do đó chúng ta cần lắng nghe Lời Chúa giữa hàng ngàn tiếng nói mỗi ngày, chỉ có Lời Chúa không nói với chúng ta những sự kiện nhưng về sự sống.
Mỗi ngày hãy đọc cẩn thận vài câu Kinh Thánh
Đức Thánh Cha kết thúc bài giảng bằng lời mời gọi “hãy dành chỗ cho Lời Chúa! Mỗi ngày hãy đọc cẩn thận vài câu Kinh Thánh.” Và ngài khuyên chúng ta luôn có Kinh Thánh bên cạnh, trên ghế bành ở nhà, trong túi áo, trên điện thoại. Hãy để Lời Chúa linh hứng cho chúng ta. Chúng ta sẽ khám phá rằng Thiên Chúa ở gần chúng ta, chiếu sáng bóng đêm của chúng ta, dẫn dắt chúng ta bằng tình yêu.
Trao sách Kinh Thánh
Cuối Thánh lễ Đức Thánh Cha đã trao sách Kinh Thánh cho 40 người đại diện cho các hoàn cảnh sống khác nhau, từ các giám mục đến linh mục, từ các tín hữu Công giáo đến tín hữu các hệ phái Kitô giáo khác, từ giáo lý viên đến những người tình nguyện, từ hiến binh đến lính Thụy Sĩ, từ cảnh sát đến quân cảnh, từ bác sĩ đến y tá, người già, người khuyết tật, vv. Các tín hữu tham dự Thánh Lễ cũng được nhận mỗi người một cuốn Kinh Thánh.
Hồng Thủy - Vatican
Một Giáo xứ tại Rome mở cửa 24/24 cho người nghèo
ROME – Mặc dù thực tế là Rome có khoảng 900 nhà thờ Công giáo, nhưng việc tìm một nhà thờ mở cửa để cầu nguyện tại bất kỳ thời điểm nào cũng có thể khá khó khăn. Một số mở cửa theo giờ hành chính, nhưng hầu hết chỉ mở cửa trong khoảng thời gian Thánh Lễ.
Tuy nhiên, kể từ tháng 12 năm ngoái, có một nhà thờ luôn mở cửa 24/7 để mọi người có thể chầu Thánh Thể và một nhóm bao gồm 8 đến 10 tình nguyện viên, cùng với Linh mục Chính xứ, đảm bảo luôn có người túc trực sẵn sàng chào đón những người cần đôi bàn tay giúp đỡ.
“Dự án này không chỉ dành cho người nghèo”, theo Roberta, một tình nguyện viên tại Nhà thờ Thánh Phanxicô Năm Dấu, chia sẻ hôm thứ Hai trong một phòng ngủ tập thể mới khánh thành dành cho khoảng 30 người vô gia cư.
“Một lần nữa, nếu bạn đến đây vào ban đêm, bạn sẽ thấy rằng luôn có người ở đây cầu nguyện”, Roberta chia sẻ với Crux. Và họ không phải là những người vô gia cư. Đó thường là một người trẻ tuổi, hoặc một vài người trong số họ, những người đang tìm kiếm Thiên Chúa. Tôi luôn hy vọng rằng họ sẽ tìm thấy Ngài ở đây. Và nếu như không có gì khác, nếu họ cần, họ sẽ tìm thấy một khuôn mặt tươi cười và sự thoải mái nhẹ nhàng để biết rằng không chỉ có Thiên Chúa mới sẵn lòng lắng nghe họ”.
Ngoài việc mở cửa cả ngày và cung cấp chỗ ngủ tập thể, ở đây còn có phòng vệ sinh, phòng giặt ủi và bữa sáng hàng ngày cho khoảng 200 người. Khi sáng kiến được ra mắt vào cuối tháng 12, với sự hiện diện của Đức Hồng y Giám quản Rome, ĐHY Angelo de Donatis, và Đức Hồng y Carlos Osoro Địa phận Madrid.
Nằm ở trung tâm lịch sử Rome, chỉ cách Đền Pantheon và quảng trường Navona vài bước chân, dự án được điều hành bởi tổ chức phi chính phủ Công giáo Tây Ban Nha ‘Mensajeros de la Paz’ (Sứ giả Hòa bình). Được thành lập vào năm 1962 bởi Cha Ángel García, hiệp hội ngày nay có vài chục ngôi nhà dành cho những người già yếu lớn tuổi ở Tây Ban Nha, cũng như các điểm phát chẩn đồ ăn và một số trung tâm đào tạo.
Sáng hôm thứ Hai, trước khi khánh thành khu vực ngủ tập thể ở Rome, Cha García đã gặp gỡ ĐTC Phanxicô tại Casa Santa Marta, nơi ở của Đức Giáo hoàng trong khuôn viên Vatican và tham dự Thánh lễ ban sáng với Đức Thánh Cha.
“Trong cuộc gặp gỡ với ĐTC Phanxicô, đôi khi bạn bị chặn lại vì bạn biết Ngài là người đại diện ‘từ trên cao’”, Cha García chia sẻ với các phóng viên. “Nhưng bởi vì Ngài là một vị Giáo hoàng có nhiều sự lôi cuốn và sức thu hút của một vị lãnh tụ, thật dễ dàng để chia sẻ với Ngài dự án Nhà thờ mở 24/24, những gì chúng tôi làm ở đây và những người gõ cửa chúng tôi mỗi ngày”.
Mặc dù dự án hiện vẫn còn quá mới mẻ để có thể tiếp nhận đủ những dữ liệu và phản hồi hầu đánh giá sự thành công của nó ở Rome, Linh mục García còn điều hành một nhà thờ tương tự tại trung tâm thành phố Madrid và biết rằng những người tiếp cận một nhà thờ mở cửa 24/24 không chỉ để nhờ cậy sự giúp đỡ hoặc để nghỉ ngơi, nhưng còn để cầu nguyện.
“Mặc dù mọi người nghĩ rằng những nhà thờ này chỉ dành cho ‘những người nghèo về mặt vật chất’, thế nhưng, không phải như vậy”, Linh mục García nói, lặp lại những chia sẻ của Roberta. “Điều xảy ra đó là đôi khi, đây là những nơi duy nhất mà những người không có gì được phép vào mà không bị phán xét”.
“Các dự án như thế này là một dấu hiệu rõ ràng về xã hội không phải đang đi xuống, như chúng ta thường nghe thấy”, Linh mục García nói. “Trái lại, nó lành mạnh và đầy những giá trị. Dù bạn gõ cửa ở đâu, luôn có một người sẵn sàng giúp đỡ, để thể hiện lòng bác ái với người khác”.
Chỉ riêng ở Rome, có khoảng 5.000 đến 6.000 người vô gia cư, nhiều người trong số họ sống ở vùng lân cận Vatican – với một số lều bạt thường có thể nhìn thấy bên dưới dãy cột nổi tiếng của Bernini. Cuối năm ngoái, vị Quan Phát Chẩn của Tòa Thánh, Đức Hồng y Konrad Krajewski, đã khánh thành một nơi ở mới dành cho người vô gia cư ngay ngạch cửa vào Vatican, trong một tòa nhà có lịch sử lâu đời được gọi là Palazzo Migliori.
Bên ngoài Nhà thờ Thánh Phanxicô Năm Dấu, có một tấm biển mời mọi người bước vào, với một câu trích dẫn từ lời của Đức Thánh Cha Phanxicô rằng “các nhà thờ phải luôn mở cửa bởi vì đây chính là biểu tượng về: một Giáo hội luôn luôn rộng mở”.
Tấm áp phích thứ hai, với hình ảnh ĐTC Phanxicô trong tư thế cầu nguyện với nội dung: “Tôi xin lỗi vì tất cả những lần chúng ta, với tư cách là những người Kitô hữu, khi gặp một người nghèo hoặc một người trong hoàn cảnh nghèo khó lại ngoảnh mặt quay đi chỗ khác”.
Vào tháng 12, khi cánh cửa của Giáo xứ chính thức mở cửa 24/24, ĐTC Phanxicô đã gửi Linh mục García một lá thư cảm ơn ngài vì sáng kiến này “để cung cấp dịch vụ của Lời Chúa vốn có thể giúp đỡ những người xem ngôi nhà cầu nguyện này như một Ngôi nhà chung để cùng nhau xây dựng một nơi ẩn náu nơi mà tất cả mọi người đều được chào đón và từ đó họ có thể rời đi một lần nữa lên đường để đối mặt với cuộc phiêu lưu kỳ diệu trong ơn gọi Kitô giáo của họ”.
“Tôi mong ước rằng Ngôi Nhà của Thiên Chúa luôn luôn rộng mở những cánh cửa bởi vì nó cùng đồng hành giữa các dân tộc, trong lịch sử của con người , nam cũng như nữ”, ĐTC Phanxicô viết. “Nếu không, những nhà thờ mà lúc nào cũng cửa đóng then cài nên được gọi là bảo tàng”.
Cộng đồng giáo hội, ĐTC Phanxicô viết trong bức thư, là một “cái lều” có khả năng trở thành to lớn hơn “để tất cả mọi người có thể bước vào, tìm một ốc đảo hòa bình trong tình yêu Thiên Chúa, một nơi luôn chào đón, hòa giải và tha thứ”.
“Nó nói về lòng thương xót, lòng thương xót, lòng thương xót”, Linh mục García phát biểu với các phóng viên hôm thứ Hai. “Như ĐTC Phanxicô đã cho biết khi bắt đầu Triều đại Giáo hoàng của mình: Chúng ta cần một Giáo hội nghèo cho người nghèo, nhưng đừng bao giờ quên lòng thương xót mà chúng ta cần phải áp dụng không chỉ vào cách thức chúng ta đối xử với những anh chị em thân cận của mình, mà còn đối với chính chúng ta”.
Minh Tuệ (theo Crux)