Tin nổi bật
Vụ Panama Papers: Nhiều nhà lãnh đạo thế giới sẽ phải ngồi tù, nhiều chính quyền sẽ sụp đổ hàng loạt trong thời gian tới
Một nguồn tin ẩn danh đã cung cấp cho tờ Süddeutsche Zeitung vào tháng 8 năm 2015 và sau đó cho Tổ Hợp Các Ký Giả Điều Tra Quốc Tế (International Consortium of Investigative Journalists -ICIJ) có trụ sở đặt tại Hoa Kỳ 11.5 triệu tài liệu mật của công ty luật Mossack Fonseca lên đến 2,6 terabyte dữ liệu.
Những tài liệu này cho thấy các hoạt động tài chính bí mật và bất hợp pháp của các nhà lãnh đạo đương chức của năm quốc gia là Á Căn Đình, Iceland, Saudi Arabia, Ukraine và United Arab Emirates - cũng như các quan chức chính phủ, những người thân và cộng sự viên gần gũi của những người đứng đầu các chính quyền khác nhau của hơn 40 quốc gia khác, bao gồm Brazil, Trung Quốc, Pháp, Ấn Độ, Malaysia, Mexico, Pakistan, Nga, Nam Phi, Tây Ban Nha, Syria và Vương quốc Anh.
Các tập tin bị rò rỉ cũng giúp xác định sự tham gia vào các hoạt động tài chính bất hợp pháp của 61 thành viên gia đình và cộng sự viên của các Thủ tướng, các Chủ tịch và các vị vua, trong đó có người anh rể của lãnh đạo tối cao Tập Cận Bình của Trung Quốc, cha của Thủ tướng Anh David Cameron, con trai của Thủ tướng Malaysia Najib Razak, các con của Thủ tướng Pakistan Nawaz Sharif, và "nhà thầu ưa thích" của Tổng thống Mễ Tây Cơ Enrique Peña Nieto.
Vụ "siêu leak", được gọi là "Panama Papers", này đang làm nổ ra nhiều cuộc biểu tình tại nhiều nước trên thế giới. Những người biểu tình giận dữ kêu gọi các nhà lãnh đạo có liên quan phải từ chức và các cuộc điều tra phải được tiến hành để truy tố những kẻ phạm pháp.
Mossack Fonseca là một công ty luật và là một tổ hợp dịch vụ của Panama được thành lập vào năm 1977 bởi Jürgen Mossack và Ramon Fonseca. Các dịch vụ của Mossack Fonseca bao gồm giúp thành lập, chia nhỏ, nhập lại các công ty ở hải ngoại, quản lý các công ty ở nước ngoài và cung cấp dịch vụ quản lý tài sản. Công ty có hơn 500 nhân viên tại hơn 40 văn phòng trên toàn thế giới. Mossack Fonseca là đại diện pháp luật của hơn 300,000 công ty.
Tờ The Guardian mô tả Mossack Fonseca là công ty luật lớn thứ tư trên thế giới. Nó làm việc với các tổ chức tài chính lớn nhất thế giới, chẳng hạn như Deutsche Bank, HSBC, Societe Generale, Credit Suisse, UBS, ngân hàng Commerzbank và Nordea.
Trước khi xảy ra vụ rò rỉ "Panama Papers", Mossack Fonseca đã được mô tả bởi các nhà kinh tế như một công ty "kín tiếng" nhất trong ngành công nghiệp tài chính.
Một bài viết trên trang web của Australian Broadcasting Corporation (ABC) giải thích phương thức hoạt động của Mossack Fonseca như sau:
"Sử dụng các vỏ bọc phức tạp của các cấu trúc công ty và tín dụng, Mossack Fonseca giúp khách hàng của mình có thể hoạt động đằng sau một bức tường bí mật gần như bất khả xâm phạm. Thành công của Mossack Fonseca dựa trên một mạng lưới toàn cầu các mạng lưới kế toán và các ngân hàng có uy tín đang thuê công ty luật này quản lý tài chính cho những khách hàng giàu có của họ. Ngân hàng là kẻ giật dây lớn đằng sau việc tạo ra các công ty hoàn toàn không để lại dấu vết gì trong lãnh vực thuế má.
Phần lớn công việc của công ty này có vẻ hoàn toàn hợp pháp và lành mạnh. Nhưng các tài liệu đầu tiên bị rò rỉ cho chúng ta một cái nhìn chi tiết hoạt động bên trong của nó, cho thấy có quá nhiều thứ có thể gian trá".
Theo tờ The Guardian, tên của tổng thống Nga Vladimir Putin "không xuất hiện trong bất kỳ hồ sơ nào", nhưng tờ báo xuất bản một danh sách dài "những người bạn thời thơ ấu của ông Putin và những đồng đội cũ", bao gồm cả tỷ phú xây dựng Arkady và Boris Rotenberg, nhạc sĩ chuyên nghiệp Sergei Roldugin, và tài phiệt Alisher Usmanov.
Đặng Tự Do
Đức Thánh Cha lên án vụ khủng bố tại Lahore, Pakistan
VATICAN. Trưa thứ hai, 28-3-2016, ĐTC đã chủ sự kinh Lạy Nữ Vương thiên đàng với hàng ngàn tín hữu tại Quảng Trường Thánh Phêrô. Ngài tái lên án vụ khủng bố tại Pakistan.
Thứ hai sau phục sinh là ngày lễ nghỉ tại Italia. Trong bài huấn dụ ngắn, ĐTC mời gọi các tín hữu tái xác tín và tín thác nơi sự sống lại của Chúa Kitô, niềm hy vọng của chúng ta. Ngài nói:
”Hôm nay, chúng ta dừng lại trước ngôi mộ trống của Chúa Giêsu và trong niềm kinh ngạc và biết ơn, chúng ta suy niệm mầu nhiệm cao cả Chúa sống lại. Sự sống đã chiến thắng sự chết. Lòng thương xót và tình thương đã chiến thắng tội lỗi! Cần có niềm tin và hy vọng để cởi mở đối với chân trời mới mẻ và tuyệt vời này. Chúng ta hãy để cho mình được cảm xúc tràn ngập, cảm xúc được biểu lộ qua bài ca tiếp liên trong lễ phục sinh: ”Đúng vậy, chúng tôi chắc chắn Chúa Kitô đã sống lại thực”.
ĐTC nhận xét rằng chân lý này đã ghi đậm một cách không thể xóa nhòa đời sống của các Tông Đồ: sau khi Chúa sống lại, các vị tái cảm thấy cần phải theo Thầy, và sau khi lãnh nhận Thánh Linh, các vị ra đi không chút sợ hãi, loan báo cho mọi người những gì các vị đã thấy tận mắt và đích thân cảm nghiệm”.
ĐTC nói thêm rằng: ”Trong Năm Thánh này, chúng ta được kêu gọi tái khám phá và đón nhận nồng nhiệt lời loan báo đầy an vui về sự phục sinh: ”Chúa Kitô, niềm hy vọng của tôi, đã sống lại!”. Nếu Chúa Kitô đã sống lại, chúng ta có thể nhìn với đôi mắt và tâm hồn mới mẻ mỗi biến cố trong đời sống chúng ta, kể cả những biến cố tiêu cực. Những lúc tăm tối, thất vọng và tội lỗi có thể biến đổi và loan báo một con đường mới. Khi chúng ta đã động chạm đến tận cùng sự lầm than và yếu đuối của chúng ta, Chúa Kitô phục sinh mang lại cho chúng ta sức mạnh để trỗi dậy. Nếu chúng ta tín thác nơi Chúa, thì ơn thánh của Ngài cứu vớt chúng ta!
Lên án vụ khủng bố
Sau khi đọc kinh và ban phép lành cho các tín hữu, ĐTC nhắc đến vụ khủng bố xảy ra tại công viên giải trí Gulshan-e-Iqbal ở thành phố Lahore, thủ phủ bang Punjab, Pakistan, do nhóm Jamatul Ahrar nguyên là đồng minh với nhóm Taleban: khoảng 7 giờ tối chúa nhật phục sinh 27-3 vừa qua: tên khủng bố tự sát đã cho nổ tung bom mang quanh mình, làm cho ít nhất 72 người chết và 340 người bị thương, đa số là tín hữu Kitô. Trong số những người thiệt mạng có 30 trẻ em theo tin tức sơ khởi. Chính quyền bang Punjab đã bắt giữ 50 người có liên hệ tới vụ khủng bố này.
ĐTC nói: ”Hôm qua, tại miền trung Pakistan, Lễ Phục Sinh đã bị đẫm máu vì một vụ khủng bố kinh tởm, sát hại bao nhiêu người vô tội, trong đó phần lớn là các gia đình thuộc cộng đoàn Kitô thiểu số, nhất là các phụ nữ và trẻ em, họ họp nhau tại một công viên để mừng lễ phục sinh. Tôi muốn bày tỏ sự gần gũi với những ngừơi bị thương tổn vì tội ác hèn nhát và điên rồ này, và tôi mời gọi cầu nguyện cho đông đảo các nạn nhân và những người thân yêu của họ. Tôi kêu gọi chính quyền dân sự và mọi thành phần xã hội ở Pakistan, hãy thi hành mọi nỗ lực để trả lại an ninh và sự thanh thản cho dân chúng, và đặc biệt là cho các nhóm tôn giáo thiểu số, dễ bị tổn thương nhất. Một lần nữa tôi lập lại rằng bạo lực và oán ghét sát nhân chỉ dẫn đến đau khổ và tàn phá; sự tôn trọng và tình huynh đệ là con đường duy nhất dẫn đến hòa bình. Ước gì Lễ Chúa Sống lại khơi dậy nơi chúng ta, một cách mạnh mẽ hơn nữa, lời khẩn nguyện dâng lên Thiên Chúa để chặn đứng những bàn tay của các kẻ bạo lực, đang gieo rắc kinh hoàng và chết chóc, và ước gì trên thế giới, tình thương, công lý và hòa giải được hiển trị”.
Cha Lombardi
Trước đó, tối chúa nhật phục sinh 27-3-2016, sau vụ khủng bố, Cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, đã ra thông cáo nói rằng:
”Vụ tàn sát kinh khủng hàng chục người vô tội ở công viên tại thành Lahore tạo nên một bóng đen buồn thảm và lo âu trên ngày lễ Phục Sinh. Một lần nữa oán ghét sát nhân lại làm thương tổn một cách hèn nhát cho những người vô phương thế tự vệ nhất. ĐTC đã được thông báo về vụ này. Cùng với ngài, chúng ta cầu nguyện cho các nạn nhân, gần gũi những người bị thương và các gia đình bị thương tổn, với nỗi đau khổ vô biên của họ, với các thành phần của các tín hữu Kitô thiểu số, một lần nữa lại là nạn nhân của bạo lực cuồng tín, và với toàn dân Pakistan bị tổn thương. Như ĐTC đã khẳng định sáng chúa nhật phục sinh hôm nay, mặc dù những biểu hiện đáng kinh tởm của oán ghét, Chúa chịu đóng đanh vì chúng ta và đã phục sinh tiếp tục ban cho chúng ta ơn can đảm và hy vọng cần thiết để xây dựng những con đường cảm thông, liên đới với những người đau khổ, đối thoại và công lý, hòa giải và an bình”. (SD 28-3-2016)
G. Trần Đức Anh OP
Đức Thánh Cha công bố sứ điệp Phục Sinh và phép lành toàn xá
VATICAN. Trong sứ điệp Phục Sinh công bố trưa chúa nhật 27-3-2016, ĐTC Phanxicô mời gọi các tín hữu tín thác nơi Lòng Thương Xót vô biên của Thiên Chúa.
Ngài xác quyết chỉ có lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa mới có thể lại ơn cứu độ cho nhân loại đang ở trong vực thẳm lầm than, mang lại hy vọng và giải thoát cho bao nhiêu người đang ở trong sầu khổ, nô lệ và áp bức. Ngài cũng nhắc đến những quốc gia đang gặp thử thách nặng nề trong cộng đồng thế giới.
Buổi công bố sứ điệp Phục Sinh diễn ra sau thánh lễ ĐTC cử hành lúc 10 giờ sáng tại Quảng Trường Thánh Phêrô.
Theo một truyền thống từ 30 năm nay, khu vực trước thềm Đền thờ Thánh Phêrô và quanh bàn thờ được các nhà trồng hoa ở Hòa Lan trang điểm với hơn 35 ngàn hoa và cây hoa, biến nơi này giống như một mảnh vườn với hoa muôn sắc, được hàng triệu khán thính giả truyền hình trên thế giới chiêm ngưỡng. Năm nay, việc chọn lựa và bố trí các bông hoa và cây được thực hiện theo tinh thần sứ điệp Năm Thánh Lòng Thương Xót. Một toán 25 nhà trồng hoa được gửi tới Roma để trưng bày các hoa đã được chuẩn bị trước từ tháng 2.
Lúc đúng ngọ, ĐTC đã xuất hiện trên bao lơn chính của đền thờ thánh Phêrô, có hai vị hồng y phó tế tháp tùng là ĐHY Renato Martino, nguyên Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa Bình, và ĐHY Franc Rodé, nguyên tổng trưởng Bộ Các Dòng Tu. Quảng trường thánh Phêrô lúc này đầy người tham dự, tràn ra tới đường Hòa Giải.
Sau khi hai ban quân nhạc đã trổi quốc thiều Vatican và Italia, ĐTC đã đọc sứ điệp.
Sứ điệp Phục Sinh
"Hãy chúc tụng Chúa vì Chúa nhân từ,
Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương" (Tv 135,1)
Anh chị em thân mến, chúc mừng lễ Phục Sinh!
Chúa Giêsu Kitô, hiện thân lòng thương xót của Thiên Chúa, vì tình thương, đã chết trên thập giá và vì yêu thương đã sống lại. Vì thế, ngày hôm nay, chúng ta hãy tuyên xưng: Đức Giêsu là Chúa!
Cuộc phục sinh của Ngài thể hiện trọn vẹn lời tiên tri của Thánh Vịnh: lòng thương xót của Thiên Chúa là vĩnh cửu, tình thương của Ngài mãi mãi trường tồn, không bao giờ dứt. Chúng ta có thể hoàn toàn tín thác nơi Chúa và chúng ta cảm tạ Chúa vì đã đi xuống tận cùng hố sâu vì chúng ta.
Đứng trước những vực thẳm tinh thần và luân lý của nhân loại, đứng trước những trống rỗng trong các tâm hồn và chúng khơi lên oán thù và chết chóc, chỉ có lòng thương xót vô biên mới có thể mang lại cho chúng ta ơn cứu độ. Chỉ Thiên Chúa mới có thể lấp đầy những trống rỗng ấy bằng tình thương của Ngài, lấp đầy những vực thẳm ấy, và làm cho chúng ta không bị lún sâu, nhưng tiếp tục cùng nhau tiến bước hướng về miền Đất tự do và sự sống.
Lời loan báo hân hoan của lễ Phục Sinh: Chúa Giêsu, Đấng đã bị đóng đanh, không còn ở đây, Ngài đã sống lại (Xc Mt 28,5-6) mang lại cho chúng ta niềm xác tín đầy an ủi rằng vực thẳm của sự chết đã bị vượt qua, và cùng với nó, tang tóc, khóc than và vất vả nhọc nhằn cũng bị đánh bại (Xc Kh 21,4). Chúa đã chịu đựng sự bỏ rơi của các môn đệ, gánh nặng của bản án bất công và tủi nhục của một cái chết nhục nhã, giờ đây Ngài cho chúng ta được tham dự cuộc sống bất tử của Ngài và ban cho chúng ta cái nhìn dịu hiền và cảm thương đối với những người đói khát, người ngoại kiều và các tù nhân, những người bị gạt ra ngoài lề và bị loại bỏ, các nạn nhân của cường quyền và bạo lực. Thế giới đầy những người đau khổ trong thân xác và tinh thần, trong khi thời sự hằng ngày đầy những tin về các tội ác ghê tởm, nhiều khi xảy ra ngay trong bốn bức tường gia đình, và về những cuộc xung đột võ trang đại qui mô tạo nên những thử thách khôn tả cho toàn bộ nhiều dân tộc.
Chúa Kitô phục sinh chỉ đường hy vọng cho nước Siria yêu quí, quốc gia bị xâu xé vì một cuộc xung đột dài dẵng, với một loạt đau thương những cuộc tàn phá, chết chóc, coi rẻ công pháp nhân đạo, và làm băng hoại cuộc sống giữa những người dân với nhau. Chúng ta hãy phó thác cho quyền năng của Chúa các cuộc thương thảo hiện nay, để nhờ thiện chí và sự cộng tác của tất cả mọi người, những thành quả hòa bình có thể đạt được và khởi sự công trình kiến tạo một xã hội huynh đệ, tôn trọng phẩm giá và các quyền của mỗi công dân. Ước gì sứ điệp sự sống vang dội qua miệng của Sứ Thần cạnh tảng đã bị lật sang một bên ở cửa mộ, đánh bại sự chai cứng của các tâm hồn và thăng tiến một cuộc gặp gỡ phong phú giữa các dân tộc và các nền văn hóa ở những vùng khác thuộc lưu vực Địa Trung Hải và miền Trung Đông, đặc biệt là tại Irak, Yemen và Libia.
Ước gì hình ảnh con người mới, rạng ngời trên khuôn mặt của Chúa Kitô, tạo điều diện thuận lợi tại Thánh Địa cho sự sống chung giữa người Israel và Palestine, cũng như sự sẵn sàng kiên nhẫn và sự dấn thân hằng ngày hoạt động để xây dựng những nền tảng cho một nền hòa bình công chính và lâu dài nhờ một cuộc thương thuyết trực tiếp và chân thành. Xin Chúa tể của sự sống cũng tháp tùng những nỗ lực nhắm đạt tới một giải pháp chung cục cho chiến tranh ở Ucraina, soi sáng và nâng đỡ các những sáng kiến cứu trợ nhân đạo, trong đó có việc trả tự do cho những người bị cầm tù.
Chúa Giêsu, là an bình của chúng ta (Ep 2,14), khi sống lại Ngài đã chiến thắng sự chết và tội lỗi, trong dịp lễ Phục Sinh này, xin Chúa kích thích sự gần gủi của chúng ta với các nạn nhân bị khủng bố, hình thức mù quáng và tàn bạo của bạo lực không ngừng gây đổ máu người vô tội tại nhiều nơi trên thế giới, như đã xảy ra trong các vụ khủng bố mới đây tại Nigeria, Ciad, Camerun, Côte d'Ivoire; xin Chúa cho những men hy vọng và những viễn tượng hòa bình tại Phi châu đạt tới thành quả tốt đẹp; tôi đặc biệt nghĩ đến Burundi, Mozambique, Cộng hòa dân chủ Congo, và Nam Sudan, đang phải chịu những căng thẳng về chính trị và xã hội.
Với những khí giới tình thương, Thiên Chúa đã đánh bại lòng ích kỷ và sự chết; Đức Giêsu Con của Ngài là cánh cửa lòng thương xót được mở rộng cho mọi người. Ước gì Sứ điệp Phục Sinh của Người càng chiếu dọi trên nhân dân Venezuela trong những hoàn cảnh khó khăn họ đang phải chịu và trên những người nắm giữ vận mạng đất nước, để họ có thể làm việc mưu cầu công ích, tìm những môi trường đối thoại và cộng tác với tất cả mọi người. Ước gì ở mọi nơi, người ta đều hoạt động để cổ võ nền văn hóa gặp gỡ, công lý và tôn trọng nhau, là những điều duy nhất có thể bảo đảm an sinh tinh thần và vật chất cho mọi người dân.
Chúa Kitô Phục Sinh, là lời loan báo sự sống cho toàn thể nhân loại vang dội qua các thế kỷ và mời gọi chúng ta đừng quên những người nam nữ đang tiến bước, tìm kiếm một tương lai tốt đẹp hơn, đoàn ngũ những người ấy ngày càng đông đảo với những người di dân và tị nạn - trong đó có nhiều trẻ em - trốn chạy chiến tranh, đói nghèo, và bất công xã hội. Những người anh chị em ấy của chúng ta, trên đường đi thường gặp chết chóc hoặc ít là phải chịu sự từ khước của những người có thể tiếp đón và giúp đỡ họ. Ước gì cuộc hẹn Hội nghị Thượng Đỉnh thế giới sắp tới về nhân đạo không quên đặt nơi trung tâm con người với phẩm giá của họ và đề ra những chính sách có thể giúp đỡ và bảo vệ các nạn nhân các cuộc xung đột và những tình trạng cấp thiết khác, đặc biệt những người dễ bị tổn thương nhất và những người bị bách hại vì lý do bộ tộc và tôn giáo.
Trong ngày vinh hiển này, "trái đất tràn ngập ánh quang lớn lao dường ấy hãy vui lên" (Xc Bài công bố Phục Sinh), nhưng trái đất này bị ngược đãi và coi rẻ vì bị bóc lột do lòng tham lam lợi lộc, khiến cho sự quân bình của thiên nhiên bị lệch lạc. Tôi đặc biệt nghĩ đến những vùng bị những hậu quả của nạn thay đổi khí hậu, nhiều khi gây ra nạn hạn hán hoặc những vụ lụt lội dữ dội, với cuộc khủng hoảng lương thực tiếp đó tại nhiều miền trên trái đất.
Với những anh chị em chúng ta đang bị bách hại vì đức tin và vì lòng trung thành của họ với danh Chúa Kitô và đứng trước sự ác dường như lướt thắng trong cuộc sống của bao nhiêu người, chúng ta hãy nghe lại lời an ủi của Chúa: "Các con đừng sợ! Thầy đã chiến thắng thế gian!" (Ga 16,33). Hôm nay là ngày rạng ngời của chiến thắng ấy, vì Chúa Kitô đã đè bẹp sự chết và với sự phục sinh của Ngài, Ngài là làm cho sự sống và bất tử chiếu tỏa rạng ngời (Xc 2 Tm 1,10). "Ngài đã đưa chúng ta đi từ nô lệ tới tự do, từ sầu muộn đến vui mừng, từ tang tóc đến đại lễ hân hoan, từ tăm tối đến ánh sáng, từ nô lệ đến ơn cứu chuộc. Vì thế chúng ta hãy reo lên trước Ngài: Alleluia!" (Melitone di Sardi, Bài giảng lễ Phục Sinh).
Với những người trong xã hội chúng ta đã mất mọi hy vọng và niềm vui sống, với những người già quá cơ cực, trong cô đơn họ cảm thấy kiệt lực, với những người trẻ cảm thấy thiếu tương lai, với tất cả mọi người, tôi lập lại một lần nữa những lời của Đấng Phục Sinh: "Này đây, Ta đổi mới mọi sự... Ta sẽ cho người khát được uống nước nhưng không từ nguồn mạch sự sống" (Kh 21,5-6). Ước gì sứ điệp trấn an này của Chúa Giêsu giúp mỗi người chúng ta tái khởi hành với lòng can đảm mạnh mẽ hơn để kiến tạo những con đường hòa giải với Thiên Chúa và với anh chị em mình.
Phép lành với ơn toàn xá cho Roma và thế giới
Phần cuối của buổi đọc sứ điệp giáng sinh trưa hôm qua là nghi thức ban phép lành kèm theo ơn toàn xá cho Roma và toàn thế giới. Phép lành này được ban cho các tín hữu mỗi năm hai lần vào dịp lễ giáng sinh và phục sinh. ĐHY Renato Martino, trưởng đẳng Phó Tế, nhắc nhở rằng: Tất cả mọi tín hữu đều có thể được lãnh nhận, kể cả những người theo dõi qua các đài phát thanh, truyền hình và các phương tiện truyền thông khác, miễn là giữa các điều kiện thường lệ là: xưng tội, rước lễ và cầu nguyện theo ý ĐTC.
Tiếp đến ĐTC đã đọc lời nguyện với kinh xá giải: Xin các thánh tông đồ Phêrô và Phaolô là những vị mà chúng tôi dựa vào quyền bính và uy thế, cầu khẩn cho chúng ta trước Thiên Chúa. Amen. Nhờ lời cầu nguyện và công nghiệp của Đức Trinh nữ Maria, của tổng lãnh thiên thần Micae, của thánh Gioan Baotixita, của các thánh tông đồ Phêrô Phaolô cùng toàn thể các thánh, xin Thiên Chúa toàn năng thương xót anh chị em và xin Chúa Kitô tha tội cho anh chị em cùng dẫn đưa anh chị em về cõi trường sinh. Amen. Xin Thiên Chúa toàn năng lân tuất ban ân xá, tha thứ tất cả tội lỗi của anh chị em, cho anh chị em được hưởng thời gian để làm việc đền tội thành tâm và có công hiệu, một tấm lòng thống hối và hoán cải đời sống, được ơn thánh và sự an ủi của Chúa thánh thần, cùng được sự kiên trì làm việc thiện cho đến cùng. Amen. Và tiếp theo là phép lành của ĐTC.
G. Trần Đức Anh OP
https://www.youtube.com/watch?v=YQXQf_brK6g
Ngày thứ ba.
Trong kinh Tin Kính chúng ta tuyên xưng: „Ngày thứ ba Người ( Chúa Giêsu Kitô) sống lại như lời Thánh Kinh“
Ngày thứ ba không phải là ngày thứ ba trong tuần, nhưng là ba ngày sau khi Chúa chết trên thập gía.
Sau khi Chúa Giêsu chết, ngài được an táng trong huyệt mộ dưới lòng đất. Thân xác Chúa Giêsu nằm trong lòng đất hai ngày đêm, trong u tối lạnh lẽo. Nhưng đến ngày thứ ba bóng tối lạnh lẽo bị đẩy sang một bên nhường chỗ cho ánh sáng, cho sức sống mới bung nở bừng lên.
Đó là tin mừng Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết u tối. Tin mừng sự sống mới xảy ra vào ngày thứ ba sau khi ngài chết.
Bản tường thuật công trình sáng tạo vũ trụ trong Kinh thánh nơi sách Sáng thế nói đến sự sống mới được tạo dựng bừng lên vào ngày thứ ba.. Ngày thứ nhất ánh sáng được tạo dựng. Ngày thứ hai nước được tạo dựng. Và ngày thứ ba sự sống cây cỏ trồi mọc lên trên mặt đất. (St 1, 1-12).
Dân Do Thái trong sa mạc từ Ai Cập trở về quê hương đất Chúa hứa cũng đã có kinh nghiệm với ngày thứ ba. Họ ra đi từ Ai Cập ba ngày không tìm thấy nước uống. Nhưng vào ngày thứ ba họ tìm đến được một nguồn dòng nước. Nơi đây họ có đủ nước uống cần dùng.
Trong ngày thứ ba ở giữa sa mạc dân Do Thái đang khát nước được chứng kiến, Ngôn sứ thủ lãnh Mose qua sự phù trợ quan phòng của Thiên Chúa, đã biến hóa nước đau khổ đắng cay thành nước ngọt tươi mát đem lại sức sống phấn khởi vươn lên. Ngày thứ ba đem lại sự giải thoát và sự sống dồi dào trọn vẹn. ( Xh 15,22-24).
Khi dân Do Thái đến núi Sinai, họ và Ngôn sứ Mose phải chờ đợi dưới chân núi hai ngày ròng rã, đến ngày thứ ba Thiên Chúa Giavê xuất hiện từ trên núi. ( Xh 19,11…)
Ngôn sứ trẻ tuổi Giona có kinh nghiệm hơn ai hết về ba ngày sống trong bóng tối. Ông bị ném xuống biển, cá nuốt ông vào bụng nó. Sau ba ngày trong bụng cá ông được cá phun ra ngoài. Ông sống sót trở lại. Một sự sống mới hồi sinh đến với Ông. Thiên Chúa đã để Ngôn sứ Giona hai ngày dài sống trong bóng tối. Ngày thứ ba cho Ông sự sống mới trở lại.
Chính Chúa Giêsu đã nói trước về sực hết và sống lại của mìnt, khi ngài nói đến hình ảnh Ngôn sứ Giona nằm trong bụng cá ba ngày rồi được sống trở lại ra khỏi bụng cá. Với ngài cũng vậy, sau ba ngày nằm trong lòng đất sẽ chỗi dậy sống lại. ( Mt 12,40).
Như thế, ngày thứ ba giới hạn sự đau khổ hoạn nạn. Ngày thứ ba đặt ranh giới cho bóng tối. Ngày thứ ba kéo rào chắn ngăn cản sự đau khổ, sự chết chóc.
Tin mừng Chúa Giêsu sống lại vào ngày thứ ba sau khi tử chết vẽ ra lằn ranh đường giới hạn sự thống khổ hoạn nạn, mang đến niềm hy vọng được giải thoát cứu độ cho con người.
Chúc mừng lễ Chúa Giêsu phục sinh
Daminh Nguyễn ngọc Long
Brussels: Cuộc tấn công vào Trung Tâm Âu Châu
Hàng chục người chết và hơn một trăm người bị thương trong cuộc khủng bố tự sát tại phi trường và tàu điện ngầm
Châu Âu lại bị đặt vào tình trạng khiếp đảm, lo sợ. Các cuộc tấn công lần này nhắm vào thành phố Brussels, biểu tượng của Âu Châu và là trung tâm huyết mạch của quá trình hội nhập từ sáu mươi năm nay. Do đó, đây là cuộc khủng bố có mục tiêu, chỉ bốn tháng sau cuộc tàn sát đẩm máu tại Paris.
Sáng nay vào khoảng 8:00 giờ, hai vụ nổ đã xảy ra tại phi trường quốc tế Zaventem, Brussels, trong đó có ít nhất 11 người thiệt mạng và khoảng 30 người khác bị thương. Các vụ nổ xảy ra gần quầy check-in của hảng hàng không Mỹ American Airlines. Vài khẩu hiệu bằng tiếng Á Rập, nghe được ngay trước thảm kịch, đã loại bỏ tất các nghi ngờ: Đây là cuộc tấn công tự sát.
Trong lúc cảnh sát Bỉ đang lo sợ, có thể tất cả quân khủng bố chưa rời khỏi phi trường, thì một trái bom nổ từ một kiện hàng khả nghi. Các cơ quan truyền thông Bỉ cho biết đó là trái nổ từ chiếc áo gi-lê của tên khủng bố thứ ba trước đó chưa nổ.
Cuộc khủng bố này không phải là cuộc tấn công đầu tiên tại phi trường Zaventem. Vào ngày thứ hai Phục Sinh năm 1979, ba tên khủng bố Palestine, từ lối đi, đã ném một quả lựu đạn vào đám hành khách của chuyến bay hảng hàng không Do Thái El Al, đi từ Tel Aviv vừa hạ cánh, làm 12 người bị thương.
Khoảng sau 9:00 giờ một quả bom phát nổ trong chiếc xe điện ngầm gần ga Maalbeek, nằm trong khu phố Âu Châu, gần Berlaymont, tòa nhà biểu tượng, nơi làm việc của Ủy Ban Âu Châu. Theo bản tổng kết tạm thời có ít nhất là 15 người tử vong.
Vụ thảm sát đã diễn ra sau hơn 48 tiếng, từ khi bắt giữ Salah Abdeslam, một trong những người chịu trách nhiệm về thảm họa tại Paris vào ngày 13 tháng 11 năm vừa qua. Tên nầy đã bị thương và bị bắt trong khu phố Molenbeek sau khi bị truy nã từ 4 tháng qua. Trong văn bản đòi hỏi được công bố, nhà nước Hồi Giáo (IS) đã cho biết, hành động này nhằm trả đũa việc bắt giữ người đàn ông nói trên.
Trong bài thông cáo báo chí, các Giám Mục Bỉ đã tỏ lòng đau buồn, chia sẻ sự sợ hãi với hàng ngàn hành khách và gia đình của họ, với các chuyên viên hàng không, với dân chúng và các đoàn cứu cấp. Các vị Hồng Y đã dâng lời cầu nguyện cho tất cả nạn nhân và mọi người trong tình huống nguy kịch nầy và nhắc nhở rằng, các Tuyên úy phi trường sẵn sàng giúp đỡ , hỗ trợ những điều tinh thần cần thiết. Các ngài bày tỏ lòng mong muốn, toàn đất nước có thể trải qua ngày này với ý thức cộng đồng mạnh mẽ.
Những thông điệp chia buồn, cảm thông đến từ khắp nơi trên thế giới, bao gồm cả Đức Giáo Hoàng Phanxicô và Đức Hồng Y Reinhard Marx, chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Đức.
BP chuyển dich
Brüssel: Ein Angriff auf das Herz Europas
Dutzende von Todesopfern und mehr als hundert Verletzte infolge eines Selbstmordanschlags am Flughafen und in der U-Bahn
22. März 2016RedaktionKrieg und Terrorismus
Wikimedia Commons - Brussels Airport, CC BY-SA 2.0
Europa wird erneut in Angst und Schrecken versetzt. Diesmal richtet sich der Angriff gegen die Stadt Brüssel, das Wahrzeichen des Kontinents und neuralgisches Zentrum eines sechzigjährigen Integrationsprozesses. Es handelt sich somit um einen gezielten Terrorakt, der nur vier Monate nach dem Blutbad von Paris verübt wurde.
Heute Morgen gegen 8.00 Uhr ereigneten sich am internationalen Flughafen von Brüssel, in Zaventem, zwei Explosionen, bei denen mindestens 11 Menschen ums Leben kamen und etwa 30 verletzt wurden. Die Explosionen ereigneten sich nahe der Abfertigungsschalter der Fluggesellschaft American Airlines. Einige kurz vor der Tragödie vernommene Ausrufe in arabischer Sprache beseitigten jeglichen Zweifel: Es handelte sich um einen Selbstmordanschlag.
Während die belgische Polizei die Befürchtung hegte, dass nicht alle Terroristen den Flughafen verlassen hatten, lösten die Bomber noch die Explosion eines verdächtigen Paketes aus. Den belgischen Medien zufolge handelte es sich um eine nicht detonierte Weste eines dritten Terroristen.
Dieses Attentat war nicht das erste am Flughafen von Zaventem. Am Ostermontag des Jahres 1979 schleuderten drei palästinensische Terroristen von einem Laufgang Granaten auf von einem Flug der israelischen Fluggesellschaft El Al aus Tel Aviv angelandete Passagiere, wobei 12 Menschen verletzt wurden.
Kurz nach 9 Uhr explodierte dann ein Sprengkörper in einem U-Bahn-Waggon nahe der Station Maalbeek im europäischen Viertel unweit von Berlaymont, des Symbol-Gebäudes, in dem die Europäische Kommission untergebracht ist. Die noch provisorische Bilanz liegt bei mindestens 15 Todesopfern.
Das Blutbad ereignete sich etwas mehr als 48 Stunden nach der Verhaftung von Salah Abdeslam, einer der Verantwortlichen der Katastrophe von Paris am vergangenen 13. November. Der Mann wurde nach einer 4-monatigen Suche in der Brüsseler Gemeinde Molenbeek verletzt und festgenommen. Im Rahmen einer Forderung bezeichnet der Islamische Staat die Handlung als Antwort auf die Verhaftung des Mannes.
„Bestürzt“ erweisen die Bischöfe Belgiens in einer Pressemitteilung ihr Mitgefühl und teilen „die Angst von Tausenden Reisenden und deren Familien, von Fachleuten der Luftfahrt, von Bürgern und Rettungsteams“. Die Kardinäle vertrauen die Opfer „den Gebeten aller in dieser neuen dramatischen Situation“ an und erinnern daran, dass die Flughafenkapläne „im Dienst aller stehen und die notwendige geistliche Unterstützung bereitstellen“. Sie bekunden den Wunsch, „dass das gesamte Land diese Tag mit einem ausgeprägten Gemeinsinn verbringen möge“.
Botschaften des Mitgefühls kamen aus aller Welt, unter anderem von Papst Franziskus und Kardinal Reinhard Marx, dem Präsidenten der deutschen Bischofskonferenz.
Đức Thánh Cha Phanxicô lên án « bạo lực mù quáng »
Các giám mục Bỉ kêu gọi chung vai gánh vác trọng trách công dân
Trong một điện tín chia buồn ký tên Đức Hồng Y Pietro Parolin Quốc vụ khanh Tòa Thánh gửi tới Đức Cha Jozef De Kesel, Tổng Giám Mục giáo phận Malines-Bruxelles, ĐTC Phanxicô đã lên án « bạo lực mù quáng » đã xẩy ra ở thủ đô Bỉ và phi trường quốc tế Zaventem (Bỉ) vào sáng thứ ba 22.03.2016.
Điện tín viết như sau : « Nhận được tin những vụ tấn kích khủng bố xẩy ra tại Bruxelles, gây chết chóc cho nhiều người, ĐTC Phanxicô xin phú thác những nạn nhân bị tử thương cho lòng từ ái của Thiên Chúa và Ngài xin được hiệp thông với những đau buồn của các thân nhân và cầu nguyện cho họ. ĐTC bầy tỏ lòng cảm thương với những người bị thương và với gia đình của họ, cũng như với tất cả những ai đang ra tay cứu giúp, nài xin Thiên Chúa nâng đỡ và an ủi họ trong cơn thử thách. ĐTC lại một lần nữa lên án bạo lực mù quáng đã gây ra bao tang tóc khổ đau, nài xin Thiên Chúa ơn bình an và xin phúc lành của Thiên Chúa tuôn đổ trên các gia đình đang gặp thử thách và cho dân chúng Bỉ ».
Về phần mình, các Đức Giám Mục Bỉ cũng kêu gọi dân chúng cùng chung vai gánh vác trọng trách công dân sau các cuộc tấn công ở thủ đô Bỉ và phi trường Zaventem vào sáng thứ ba 22.03.2016, khiến 34 người bị thiệt mạng và 135 người bị thương, theo tin sơ khởi.
ĐHY Peter Erdö, chủ tịch HĐGM Âu Châu (CCEE) và là TGM giáo phận Estergom-Budapest cũng đã bầy tỏ lời phân ưu và tình liên đới.
Trong một thông cáo chính thức của HĐGM Bỉ đã viết : « Các Giám Mục Bỉ kinh hoàng nhận tin cuộc tấn công ở phi trường Zaventem và ở trung tâm thủ đô Bỉ. Các Giám Mục xin chia sẻ những lo âu của hàng ngàn du khách và gia đình của họ, của các chuyên viên hàng không, của các công dân và các toán cấp cứu đang phải vất vả đôn đáo cứu thương và các ngài phó thác các nạn nhân trong lời cầu nguyện của tất cả mọi người trong hoàn cảnh tang thương này »
« Xin các linh mục tuyên úy tại phi trường sẵn sàng phục vụ mọi người và đem đến cho họ những nâng đỡ tinh thần cần thiết. Chớ gì toàn thể đất nước cùng chung vai gánh vác trọng trách công dân trong những ngày này »
ĐHY Erdö đã bầy tỏ những lời phân ưu như sau : « Sáng nay khi nhận tin về các cuộc tấn công khủng bố xẩy ra tại phi trường Bruxelles và trong đường hầm xe điện của thành phố Bỉ, đứng trước hành động vô nhân đạo mới xẩy ra, tôi xin cầu nguyện cho các nạn nhân và bầy tỏ tình liên đới của tôi với các gia đình của họ. Trong thời điểm giao động này, tôi kêu gọi mọi người đừng để cho mình bị gục ngã trong sợ hãi và xin mọi người cầu nguyện cho hòa bình ở Âu Châu cũng như ở Trung Đông.»
Phi trường quốc tế Zaventem đã bị hai vụ nổ khủng bố vào lúc 8g sáng, và một vụ nổ khác đã xẩy ra trong đường hầm xe điện thủ đô Bruxelles, trạm Maelbeek, vào khoảng 9g15. Tin sơ khởi cho biết có 20 nạn nhân bị thiệt mạng và 55 bị thương trong đường hầm xe điện ; 14 người thiệt mạng với 81 người bị thương ở phi trường.
Các vụ tấn công khủng bố sáng nay xẩy ra sau vụ ruồng bắt tên khủng bố Salah Abdeslam trong khu phố Molenbeek vào ngày thứ sáu 18.03 vừa qua. Tên khủng bố này bị tình nghi là một trong các kẻ chủ mưu vụ khủng bố xẩy ra tại thủ đô Paris Pháp vào ngày 13.11.2015 vừa qua. Cuộc chạm súng đầu tiên đã xẩy ra trong khu phố Forest, khiến một tên khủng bố bị giết và hàng trăm người khác đang bị câu lưu vào ngày 15.03.2016 vừa qua.
Nam Điền chuyển dịch bản tin của hãng Zenit
Thư tố cáo của Ls Lê Thị Công Nhân
Vợ chồng luật sư Lê Thị Công Nhân - Ngô Duy Quyền
- Cơ quan chuyên trách về Nhân quyền của Hội đồng Châu Âu;
- Chính phủ các nước quan tâm tới vấn đề Nhân quyền của Việt Nam;
- Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ;
- Các tổ chức Nhân quyền quốc tế;
- Quốc hội Việt Nam;
- Các cơ quan truyền thông;
- Các tổ chức và cá nhân quan tâm
Hoàng - Trường Sa về đâu?
Hoàng - Trường Sa về đâu?
Một câu hỏi tự dưng làm đau buốt tim lòng người dân Việt Nam. Đau, không phải vì không biết câu trả lời. Nhưng đau vì không dám trả lời! Tại sao? Tại vì nó là máu thịt, là phần hơi thở, là cuộc sống chung của tổ quốc. Chẳng một ai muốn chấp nhận một thực tế là nó đã buộc phải lìa xa đất mẹ. Đau hơn, nó lìa xa quê, không phải vì bỏ ra đi, nhưng vì có kẻ đã bán nó đi. Bán nó đi để lấy súng đạn, đem hoả pháo, xe tăng, tàu bay về giết đồng bào Việt Nam ta bằng từ "giải phóng"! Chuyện lạ!
Không lạ đâu. Câu chuyện này đã có từ ngày 14-9-1958, nhưng mãi đến khoảng 10 năm sau 30-4-1975 người ta mới được biết đến. Biết đến từ cái lệnh cấm nổ súng của Lê đức Anh, (1988). Y cấm người lính Việt Nam bắn vào tập đoàn Cộng Sản Tàu khi chúng kéo quân vào chiếm Trường Sa giữa ban ngày. Từ đó, nỗi đau mỗi lúc một dầy thêm rồi ngấm dần vào chi thể Việt Nam. Đau là, từ đó, nó không thể trở mình. Sự thật như thế ư?
Hỏi lại đi, có một em bé, một học sinh nào ở miền Nam mà không biết đến Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam? Hơn thế, đã có nhiều em, chiều chiều nước mắt chan cơm khi ánh mắt vươn ra biển lớn. Em mơ nhìn ra đó, trên một hòn đảo nhỏ mà cha em, và bằng hữu của ông, những người lính Việt Nam Cộng Hòa đang ở đó, tay ghìm cây súng nhỏ giữ gìn phần đất của quê hương. Khi đó, nào có phải chỉ là mồ hôi, nhưng còn là nước mắt và máu để bảo vệ phần lãnh thổ của quê hương Việt Nam nữa. Rồi theo từng nhịp trống giữa canh khuya, bao nhiêu nước mắt của người vợ lính, của người góa phụ hay mẹ già nhớ con đã thấm đẫm trên đôi gối lạnh? Tất cả những hy sinh, khổ đau ấy là vì Hoàng Sa, Trường Sa, vì sự vẹn toàn lãnh thổ, vì sự Tự Do và Độc Lập của tổ quốc Việt Nam.
Chuyện là thế, nhưng trên mắt môi những khổ đau ấy là những ánh luôn ngời sáng, chờ đợi một niềm vui. Một niềm vui sẽ đến cho cả một dân tộc. Trong cuộc chờ đợi, tin vui chưa thấy. Bỗng đời đổi khác, sự chờ đợi vỡ tan. Biển vươn lên những cột khói đen như những đợt sóng dài, vô tận. Nó vươn lên không phải chỉ phủ lấp những cỏ cây trên đảo xa, nhưng là chính thân xác những con dân Việt vì Tổ Quốc. Nó vươn lên theo cái bản công hàm giao đất của Phạm văn Đồng ký từ ngày 14/9/1958 cho Trung cộng.
1. Vị trí của Hoàng Sa Trường Sa trên bản đồ.
a. Quần đảo Hoàng Sa. Paracel Islands (tiếng Anh), chữ Hán: 黄沙, (có nghĩa là Cát vàng hay bãi cát vàng), là một nhóm khoảng 30 đảo, bãi san hô và mỏm đá ngầm nhỏ ở Biển Đông. Quần đảo nằm cách cách đảo Lý Sơn của Việt Nam khoảng 200 hải lý và cách đảo Hải Nam của Trung cộng khoảng 230 hải lý. Hoàng Sa có nghĩa là "cát vàng", là tên Người Việt đặt cho quần đảo này.
b. Quần đảo Trường Sa. Spratly Islands; (tiếng Anh). Tiếng Hoa: Trung văn giản thể. Từ Hán Việt: Nam Sa quần đảo (wikipedia )
II. Quyền chủ Quyền:
Ai cũng biết, Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa là vì dựa trên các luận cứ về hành động chiếm hữu thực tế, quản lý liên tục trong hoà bình. Hơn thế, các sử liệu của Việt Nam như sách Phủ Biên Tâp Lục (1776) của Lê qúy Đôn xác định Bãi Cát Vàng thuộc về địa phận tỉnh Quảng Ngãi. Kế đến, trong hòa ước Giáp Thân (1884) giữa Pháp và Việt Nam, Pháp đã đại diện cho Việt Nam về mặt ngoại giao và thi hành chủ quyền trên cả hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
Kế đến, xét tính thừa kế, hoàn toàn không có bất cứ một tranh chấp, một gián đoạn nào về chủ quyền của Hoàng Sa, Trường Sa từ trước kia cho đến sau Đệ Nhị thế chiến. Đó là lý do Hội nghị Sans Francisco vào tháng 7- 1951 đã không bác bỏ lời phát biểu của Thủ tướng Trần văn Hữu trưởng phái đoàn chính phủ Quốc Gia Việt Nam. Đó có thể được coi là một sự công khai và khẳng định với thế giới về chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Lời khẳng định này được coi là thành sự vì không có một thành viên nào trong hội nghị phản bác. Nói cách khác, chính Hội Nghị này đã chung quyết về diện địa thuộc các quốc gia vùng Nam Á và chung quyết số phận của Nhật Bản tại đây.
III. Xác định Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam.
a. Hội Nghị Cairo 27/11/1943
Năm 1943, thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, cuộc chiến tranh đã bước vào giai đoạn khốc liệt. Tuy nhiên, việc xem xét biên giới của các lãnh thổ sau chiến tranh cũng trở thành một vấn đề rất quan trọng. Lúc ấy, ba nước Anh, Mỹ và Trung Quốc (Cộng hòa Trung Hoa, do Tưởng giới Thạch lãnh đạo) được coi là các cường quốc đã nhóm họp tại Cairo ngày 27/11/1943, đã đưa ra Tuyên bố chung, trong đó viết: "Nhật Bản phải bị loại ra khỏi tất cả các đảo ở Thái Bình Dương mà Nhật đã cướp hoặc chiếm đóng từ khi bắt đầu cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất năm 1914, và tất cả những lãnh thổ Nhật đã chiếm của Trung Quốc như Mãn Châu Lý, Đài Loan và Bành Hồ sẽ được trả lại cho Cộng Hòa Trung Hoa." Như vậy, lãnh thổ của Cộng Hòa Trung Hoa do Tưởng giới Thạch lãnh đạo, người đồng thời là đồng chủ tịch trong Hội nghị, đã được phân định rõ ràng, không hề có liên quan gì đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
b. Hội nghị Sans Francisco 7/9-1951
Theo lời mời của Chính phủ Hoa Kỳ, và với tư cách là thành viên của khối Liên hiệp Pháp, Thủ tướng kiêm Bộ trưởng ngoại giao của Việt Nam đã tham dự Hội nghị này. Ngày 7-9-1951, Thủ tướng Trần Văn Hữu nêu rõ: "Chúng tôi sẽ trình bày ngay đây những quan điểm mà chúng tôi yêu cầu Hội Nghị chứng nhận. Về vấn đề chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam khẳng định: "Vì nhu cầu cần phải xác minh tất cả mọi sự kiện liên hệ, ngõ hầu dập tắt những mầm mống các cuộc tranh chấp sau này. Chúng tôi xác nhận chủ quyền đã có từ lâu đời của Việt Nam trên quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa". Rõ ràng lời xác nhận công khai chủ quyền đó của phái đoàn Việt Nam là một thực thể giá trị. Hơn thế, lời công bố trong Hội Nghị không hề gây ra một phản ứng ngỡ ngàng, chống đối hoặc yêu sách nào của 51 quốc gia tham dự Hội Nghị, kể cả Nhật và Liên Sô. Theo đó, Lời công bố này phải được coi là một thành sự, hay là một sự kiện hiển nhiên không cần bàn luận nữa.
Đây là sự kiện đã thành sự. Trước đó, Andrei A. Gromyko, Ngoại trưởng Liên Xô đã đưa ra đề nghị gồm 13 khoản tu chính để định hướng cho việc ký kết hòa ước với Nhật Bản. Trong đó có khoản tu chính liên quan đến việc "Nhật nhìn nhận chủ quyền của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đối với đảo Hoàng Sa và những đảo xa hơn nữa dưới phía Nam". Lời yêu cầu này được đáp ứng trong Hội Nghị bằng cách bỏ phiếu. Kết qủa, với 48 phiếu chống và 3 phiếu thuận, Hội nghị đã bác bỏ hoàn toàn yêu cầu của phái đoàn Liên Xô.
Tưởng cũng nên nhắc lại, nội dung của Hiệp ước tại San Francisco ngày 8-9-1951 đã quy định là: "Nhật Bản phải rút lui khỏi những nơi mà nước này đã dùng vũ lực để chiếm đóng trong cuộc chiến". Riêng Điều 2 khoản (f) của Hiệp ước viết: "Nhật Bản phải từ bỏ tất cả quyền, danh nghĩa và đòi hỏi với quần đảo Trường Sa (Spratly Islands) và quần đảo Hoàng Sa (Paracel Islands)". Điều này, một lần nữa xác định đề nghị của Nhật Bản đã nêu ra ở trên là hoàn toàn vô giá trị. Nói cách khác, cái gọi là danh nghĩa chủ quyền của Trung Hoa đối với các quần đảo ngoài khơi biển Đông đã bị cộng đồng quốc tế bác bỏ rõ ràng trong khuôn khổ của một hội nghị quốc tế.
Có một điều cũng cần phải minh bạch ngay là vào thời kỳ mở hội nghị, chẳng có một quốc gia nào trong số những Brunei, Đài Loan, Malaysia, philìines, lên tiếng nhận Trường Sa là của mình. Riêng Đài Loan, lúc đó còn gọi là Trung Hoa Quốc Gia do Tưởng giới Thạch làm đại diện, dù là một trong những thành viên trong hội nghị San Francisco cũng đã phải chấp hành cuộc bỏ phiếu trong hội nghị do Liên Sô bảo trợ với số phiếu như đã nhắc ở trên.
Rồi ai cũng biết, từ trước và sau Hội nghị San Francisco, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vẫn do lực lượng trú phòng của Chính quyền Quốc gia Việt Nam quản lý. Đến năm 1954, đất nước Việt Nam bị chia cắt thành hai miền Nam - Bắc, hai quần đảo này theo hiệp định Genève đặt dưới sự quản lý hành chính của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Câu chuyện đến đây là rõ, nếu như không muốn nói là kết thúc.
Tuy nhiên, chỉ mấy năm sau, cục diện trong vùng đổi khác, có nhiều phức tạp hơn. Trước hết, vào khoảng tháng 5-1950 Trung cộng chiếm được Hoa Lục từ tay Tưởng giới Thạch. Trước đó, vào tháng 9-1945 Việt cộng cướp chính quyền tại Hà Nội, nhưng năm sau tập đoàn HCM phải tháo chạy khỏi thành phố. Rồi nhờ cuộc chiến thắng của Mao Trạch Đông ỏ Hoa Lục, Việt cộng đã được hồi sinh và kéo vào Hà Nội sau chiến dịch Điện Biên (1954).
Tuy thế, việc được trở lại Hà Nội, Việt cộng đã phải trả bằng cái gía không hề nhỏ. Ngoài những nhân mạng cả Tàu lẫn Việt là bản Công Hàm mà Phạm văn Đồng phải ký vào ngày 14-9-1958 về Hoàng Sa và Trường Sa. Ở đó, có một câu chuyện được mô tả bằng ngôn từ, giọng văn không mấy hoa mỹ là: Một đám ăn cướp nhỏ phải nhờ đám ăn cướp lớn chống lưng, nên đành phải hy sinh cái thứ mà mình đang muốn cướp cho băng đảng lớn hơn.
IV. Kẻ bán nước là ai?
Sau khi vào được Hà Nội, Hồ chí Minh chỉ đạo: "Mấy cái đảo hoang ngoài khơi đó của ai thì tôi không rõ lắm, nhưng cũng chỉ là mấy cồn đá hoang toàn phân chim ỉa. Nếu các đồng chí Trung Quốc muốn thì cứ cho họ đi. (Hồ Chí Minh, trong HCM toàn tập).
Một chủ tịch nước mà mở mồm ra nói loạn ngôn như thế thì còn ra thể thống gì? Hẳn nhiên, ai cũng biết là đất nước ta đã mất từ đây. Và ai là kẻ bán nước, mọi người cũng đã nhìn rõ mặt. Bởi vì, sau lời tuyên bố ấy, Trung cộng vẽ ra một Tuyên Bố, làm nền cho cái Công Hàm của Phạm văn Đồng như sau:
"Tuyên bố của chính phủ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa về lãnh hải, lãnh thổ vào ngày 4-9-1958.
1. Bề rộng lãnh hải của nước CHNDTQ là 12 hải lý... bao gồm phần đất TC trên đất liền và các đảo phụ cận, bao gồm quần đảo Penghu, quần đảo Đông Sa, Quần Đảo Tây Sa (Hoàng Sa), Quần đảo Nam Sa (Hoàng Sa) ....
4. Điều (2), (3) bên trên cũng áp dụng cho Đài Loan và các đảo phục cận, quần đảo Penghu. Đông Sa, Tây Sa, Trung Sa Nam Sa và các đảo khác của TQ."
Đài Loan chẳng thèm nhắc chi đến cái thông cáo này. Nhưng CS bắc Việt, kẻ đang phải nương tựa áo cơm và sự trợ giúp của Trung cộng trong cuộc chiến, nên Phạm văn Đồng đã thay mặt nhà nước CSVN đền ơn Trung cộng bằng việc dâng chủ quyền của Việt Nam trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, mà theo hiệp định Genève thì thuộc quyền quản trị của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, vì nằm ở dưới vĩ Tuyến 17, cho Trung cộng. Chính Phạm văn Đồng đã nhân danh Thủ tướng của nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa viết giấy bán đất nhà người cho Trung cộng với lời lẽ như sau:
"Thưa Đồng chí Tổng lý,
Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, quyết định về hải phận 12 hải lý của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trên mặt biển. Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng.
Hà Nội ngày 14 tháng 9 năm 1958, thủ tướng Phạm Văn Đồng."
Ai dám bảo cái Công Hàm này có tính cách tư và không có gía trị, xin giơ tay? Trước khi ai đó giơ tay lên, tôi xin nhắc rằng, Phạm văn Đồng còn làm Thủ tướng gồm cả hai miền Bắc Nam từ 1975 cho đến năm 1985. Mãi đến 29-4-2000 Đồng mới bắt chuồn chuồn theo HCM. Tuy nhiên, trong từng đó năm từ 1974 cho đến khi Y về với giun dế, Phạm văn Đồng không một lần lên tiếng về chuyện này. Đã thế, chính Y còn đưa hai đệ tử là Đỗ Mười và Nguyễn văn Linh sang Trung cộng dự Hội nghị Thành Đô (1990) để xin cho VN được làm, một phiên trấn của Trung cộng vào năm 2020? Trong chuyến đi này, Y là cố vấn hay chính là kẻ thực hiện kế hoạch và đã lệnh cho Mười và Linh phải ký Hiệp Ước Thành Đô?
V. Những lý do để TC xua quân chiếm Hoàng Sa, Trường Sa.
Dù trong tay đã nắm chắc cái Công Hàm do PVĐ ký, nhưng khi Mỹ còn ở trên biển đông, có cho thêm tiền TC cũng không dám đến. Trái lại, TC chỉ quyết định chiếm lấy đảo sau khi đã biết rõ, hơn thế, được chính HK xác nhận ngày sẽ bỏ đi. Nói rõ hơn, TC chỉ quyết định đánh úp Hoàng Sa sau ngày Kissinger rồi Nixon sang Trung cộng, thông báo cho TC biết việc Mỹ rút khỏi chiến trường Việt Nam và Biển Đông. Khi TC biết rõ ràng ý định của chuyến đi ấy là cuộc tháo chạy khỏi VN, nên đã nhân cơ hội chiếm lấy cái đảo mà PVĐ đã "đánh tiếng" trong công hàm 1958. Vào lúc ấy, Việt cộng đã không một lời xác nhận TS, HS là của Việt Nam. Trái lại, còn hồ hởi mở rượu chúc mừng chiến thắng ké, vì biết Biển Đông đã thuộc về "phe ta" rồi!
Sự việc diễn tiến như thế. Tuy nhiên, nếu mở lại hồ sơ, không phải chỉ có một công hàm của PVD xác nhận Hoàng Sa, Trường Sa là của TC. Nhưng trước đó đã có ít nhất hai lần VC xác định điều này:
Lần thứ 1. Theo tờ Far Eastern Economic Review ngày 2/10/1979, dưới tiêu đề Paracels Islands Dispute, tác giả Frank Ching cho biết tháng 6 năm 1956, Bộ Trưởng Ngoại Giao nhà nước Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam (tức Bắc Việt) Ung Văn Khiêm đến gặp ông Li Zhimin, đặc sứ của Trung Quốc tại Hà Nội, xin Trung Quốc ủng hộ vũ khí và nhân sự để Việt cộng mở chiến tranh với Nam Việt Nam. Trong cuộc gặp gỡ này, Ung Văn Khiêm đã nói: "Theo các dữ kiện lịch sử Việt Nam, hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa thuộc lãnh thổ Trung Quốc".
Lần thứ 2. Dường như TC không dễ gì tin lời sảo trá của Ung văn Khiêm. Theo đó mấy ngày sau, Phạm Văn Đồng, với tư cách là Thủ tướng, xác nhận những lời của Ung Văn Khiêm: "Căn cứ trên sử quan, những hòn đảo này nằm trong lãnh thổ của Trung Cộng." (Bejing Review, March 30, 1979 trang 20). Từ đó câu chuyện đổi khác.
Điều đó cho thấy, TC và Việt cộng đã có những cuộc thảo luận ở giới chức cao cấp, và sau khi hai bên đã thỏa thuận xong, ngày 4-9-1958, Chu Ân Lai mới công bố lãnh thổ Trung Quốc nới rộng thêm 12 hải lý gồm có cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Đáp trả, ngày 14-9-1958, Bộ Chính Trị ĐCSVN quyết định cử Phạm Văn Đồng gởi điện quốc thư cho Chu Ân Lai vừa chúc mừng, vừa tán đồng quyết định chủ quyền của Trung Cộng trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Cũng cần phải nói thêm là vào thời điểm 1958, có lẽ tập đoàn CS cũng chỉ nghĩ rằng viết để mà viết, mà lừa nhau vậy thôi, không ai có khả năng nhìn ra cái họa về lâu về dài. Lý do, TC không bao giờ dám đánh chiếm lấy Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam trước mũi "thằng" Mỹ. Kế đến, cả hai đều biết, tại hội nghị San Francisco, Thủ tướng của Việt Nam lúc bấy giờ là Trần văn Hữu đã công khai xác định chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo này. Cũng từ Hội Nghị này đã quyết định bác yêu cầu của ngoại trưởng Liên Sô là Gromico, và của Nhật muốn bảo quản phần đất này là của Trung Hoa quốc gia (khi đó Trung Hoa đã rơi vào tay cộng sản). Kế đến, theo hiệp định Geneve 1954, hai quần đảo này thuộc về VNCH. Nay VNCH được Hoa Kỳ và đồng minh bảo trợ, Trung quốc khả năng đâu ra đó mà tranh chiến? Tóm lại, Minh, Đồng và tập thể BCT/ CS bắc Việt khi ấy chỉ muốn dùng kế Bán Đất Nhà Người lừa TC để nhận viện trợ mà thôi.
VI. Tại Sao TC không đánh Hoàng Sa sớm hơn?
Có hai lý do:
1. TC không dám mở cuộc chiến từ sớm để chiếm cứ Hoàng Sa, Trường Sa là vì sự hiện diện của Hoa Kỳ tại đây. Họ không muốn cùng xa lầy hay trực diện với Hoa Kỳ trong cuộc chiến. Nay tình hình chiến sự làm Mỹ xa lầy, Nixon muốn thắng cử, họ buộc phải rút chân ra. Ây là thời cơ thuận lợi cho họ ra tay.
2. Kế đến, đầu thập niên 1970, dầu hỏa được khám phá ở Biển Động. Công ty khai thác dầu hỏa Mobil cho biết là Bạch Hổ có một lượng dữ trữ dầu hỏa rất lớn. Đã thế, họ còn phỏng đoán trữ lượng dầu hỏa có thể có ở hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa là rất lớn. Bản tin này và cái bản Công Hàm của PVD trở thành lý do thúc Trung Cộng đưa Hải Quân xuống phương nam, mở cuộc chiến và chiếm đóng Hoàng Sa rồi Trường Sa để chiếm tiên cơ. Mọi thủ tục tính sau.
Chuyện Trường Sa, Hoàng Sa rõ ràng giữa ban ngày như thế, ai dám bảo là vùng đất đang tranh chấp đây?
VII. Để kết.
Thực ra tôi không muốn viết, đặt vấn đề với bất cứ ai. Tuy nhiên, vì Dân Tộc vì bản Dư Đồ của Tổ Quốc, dù còn hay mất (trong tương lai), tôi không thể im tiếng trước những điều mà người ta tự đặt ra, xé toạc quê hương tôi ra và bảo đó là của người khác. Hoặc gỉa, bảo là chiếm từ tay người khác (MN) để chạy tội bán nước cho tập đoàn cộng sản. Nghĩa là, gì thì gì, tất cả đúng hay sai phải cho công minh, chính trực, cho mình cũng như cho người.
Ở đây, chuyện Hoàng Sa và Trường Sa là chuyện giữa ban ngày, mọi người đều thấy rõ, không ai có thể lừa được ai. Thứ nhất, Hoàng Sa, Trường Sa bị mất vào tay Trung cộng là do chính Cộng sản bắc Việt dưới sự lãnh đạo của Hồ Quang (Hồ chí Minh) dâng hiến cho kẻ thù truyền đời của Dân Tộc từ 1958. Đây là một trọng tội phản quốc và bán nước. Một tội ác mà từ xưa Lê chiêu Thống, Trần ích Tắc... muốn thực hiện để cầu danh, cầu lợi, nhưng bất thành. Nay Hồ chí Minh và tập đoàn CSBV đã toại nguyện.
Thứ hai, sự hy sinh của Thiếu Tá Ngụy văn Thà và các chiến sỹ bảo vệ quê hương sẽ lưu danh vạn đời trong lịch sử Việt với Hoàng Sa, Trường Sa.
Như thế việc còn lại hôm nay là gì? Liệu con cháu của những Trưng, Triệu, của những Ngô Quyền, Quang Trung, Hưng Đạo, Lê Lợi...có cách nào lấy lại Hoàng Sa, Trường Sa, khôi phục lại cơ nghiệp của tiền nhân hay không?
Tôi cho rằng, câu chuyện của Việt Nam Tự Do, của Hoàng Sa, Trường Sa sẽ tùy thuộc vào hai trường hợp sau:
1. Nếu còn Cộng sản, cả Trung cộng và Việt cộng, chúng ta không có một phương cách nào lấy lại Hoàng Sa, Trường Sa. Bởi lẽ, tấm giấy xác nhận giao đất của chế độ CS cho Trung cộng vẫn còn đó. Nó là bức mành bất khả phá. Như thế, kèn loa của Hoa Kỳ chỉ có cơ may giúp Hoa Kỳ hưởng ké những lợi nhuận trên trường kinh tế cho riêng họ.
2. Đối diện với thế đứng trên. Người dân Việt phải quật cường hơn, theo gương của Đức Quang Trung, tạo nên một chiến thắng Ngọc Hồi, Đống Đa mới, để giải phóng đất nước. Khi ấy, tờ giấy bán nước ô nhục của Phạm văn Đồng đã bị xé bỏ, Trường Sa, Hoàng Sa có cơ khăn áo trở về với quê mẹ. Và cái thế đồng minh với Hoa Kỳ sẽ giúp chúng ta giữ yên bờ cõi, dù Trung cộng còn hay mất.
Bảo Giang
29-2-2016
„Tiếng nói của chúng tôi cho các blogger bị bách hại“
27/02/2015 (DĐVN21) - LGT: Lần đầu tiên, tổ chức nhân quyền Phóng viên Không Biên giới và tổ chức Thiên chúa giáo misso đã làm việc chung với nhau và đưa ra chiến dịch Thỉnh nguyện thư #freeLy yêu cầu trả tự do cho blogger, nhà báo công dân và linh mục đang bị quản thúc Nguyễn Văn Lý. Hai tổ chức này muốn nhấn mạnh rằng quyền tự do thông tin và tự do tôn giáo không thể tách rời nhau. Mở đầu chiến dịch này là buổi Thảo luận bàn tròn ngày 26 tháng 1 vừa qua tại Berlin (DĐVN21 đã đưa tin).
Xin ký tên ủng hộ thỉnh nguyện thư (song ngữ Đức và Anh) của missio và Phóng viên Không biên giới, ký tên tại đây
https://www.openpetition.de/petition/online/freiheit-fuer-nguyen-van-ly-freely.
Tổ chức missio đã phỏng vấn TS Dương Hồng Ân, điều hợp viên của Diễn Đàn Việt Nam 21 và đăng trên trang mạng missio. Sau đây là bản dịch của Nguyễn Quang.
https://sites.google.com/site/forumvietnam21/tiengviet/nq/nq-ordner/bnq20160227-mission-dha
„Tiếng nói của chúng tôi cho các blogger bị bách hại“
Marta Wajer (missio) Bản dịch: Nguyễn Quang (Diễn Đàn Việt Nam 21)
* * *
Tự do thông tin và tự do tôn giáo không thể tách rời. Chính vì vậy tổ chức misso và tổ chức Phóng viên Không Biên giới đang cùng kêu gọi trả tự do cho blogger, nhà báo công dân và linh mục đang bị giam giữ Nguyễn Văn Lý. Đó là lý do tại sao họ đã khởi xướng một bản kiến nghị Petition vào ngày 26 tháng Giêng. Trong loạt bài của missio "Tiếng nói của chúng tôi cho các blogger bị bách hại" các blogger khác diễn tả tại sao họ hỗ trợ chương trình hành động này. Hôm nay tiến sĩ Dương Hồng-Ân, điều hợp viên của blog "Diễn Đàn Việt Nam 21", lên tiếng.
Ông cảm nhận gì khi nghe tin về tình trạng nhân quyền ở Việt Nam ?
Đầu tiên tôi nghĩ ngay đến nhiều người can đảm ở Việt Nam dù ở hoàn cảnh khó khăn và nguy hiểm cho chính bản thân mà vẫn tranh đấu cho dân quyền và nhân quyền. Tôi xin tỏ lòng kính trọng và chân thành biết ơn những mẫu người cương trực này.Ai cũng rõ, các chế độ độc đoán thường không tuân thủ những thỏa ước và nghĩa vụ quốc tế mà họ đã ký kết. Ngay chính quyền Việt Nam mặc dù là thành viên trong Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc cũng công khai xem thường các quyền tự do báo chí, tư tưởng và tôn giáo ngay tại đất nước mình. Các nhà hoạt động nhân quyền và các nhà báo Blogger phê bình nhà nước bị đối xử ngược đãi một cách có hệ thống.Để bịt miêng những người đối lập, đồng thời để lừa bịp dư luận thế giới, người cầm quyền ở Hà Nội đã áp dụng những phương pháp xảo quyệt. Nhiều nhà hoạt động cho nhân quyền bị đưa ra tòa với các cáo buộc ngụy tạo như trốn thuế hay phạm tội hình sự. Mới đây các Blogger còn bị côn đồ tấn công và hành hung dã man.Dù chế độ đàn áp thô bạo những người khác chính kiến, vẫn có những triển vọng tốt trong cuộc đấu tranh cho nhân quyền. Số người trong nước muốn thực thi quyền tự do tư tưởng, tự do ý kiến càng ngày càng phát triển, khiến chế độ rơi vào „vòng lẩn quẩn“. Càng nhiều người bị bắt giữ thì càng có thêm nhiều tiếng nói phản đối sự cai trị độc đoán của chế độ độc tài Hà Nội. Đây chỉ là vấn đề thời gian, liệu đảng cộng sản Việt Nam còn chịu được áp lực này bao lâu nữa.
Chúng tôi ở phương Tây có thể làm gì cho các Blogger ở Việt Nam ?
Những nhà hoạt động nhân quyền Việt Nam đau lòng nhận thấy không có tình đoàn kết quốc tế và thiếu sự quan tâm của báo chí thế giới. Cuộc phản kháng thầm lặng chống lại nhóm quyền lực ở Việt Nam rất tiếc đã không tạo ra được các tựa đề lớn trên báo chí. Thay vào đó người ta thường đọc được các bài phóng sự du lịch thông tin về danh lam thắng cảnh và giá biểu thuận lợi ở những nơi nghỉ mát.Chính vì khiếm khuyết, thiếu xót này mà sự hỗ trợ của phương Tây cho phong trào nhân quyền ở Việt Nam mang một ý nghĩa trọng đại. Công luận, chính giới, các nhà hoạt động nhân quyền và các tổ chức nhân quyền Đức nên tranh đấu công khai cho các Blogger Việt Nam. Thưc tế đã minh chứng, áp lực quốc tế không hẳn không hiệu quả. Ít nhất trong ba trường hợp, các Blogger được nhiều người biết đến đã được trả tự do nhờ sự can thiệp của quốc tế. Những cuộc gặp gỡ giữa các chính trị gia Đức với blogger Việt Nam trong khuôn khổ công du Việt Nam của họ cũng rất hữu ích. Tôi xin nhắc đến các cuộc đàm luận của Trưởng khối nghị sĩ Liên Minh Dân Chủ Thiên Chúa Giáo (CDU) ở Quốc Hội liên bang, ông Volker Kauder, của Bộ trưởng Kinh tế liên bang, ông Sigmar Gabriel, của thứ trưởng tư pháp liên bang, ông Christian Lange v.v... với với một số nhà hoạt động Việt Nam. Đặc biệt dư luận chú ý đến chuyến viếng thăm Việt Nam của Đức Hồng Y Reinhard Marx hồi tháng giêng 2016. Đức Hồng Y Marx đã tiếp chuyện với các tín hữu, những nhà bất đồng chính kiến và cả đại diện chính quyền. Trong các cuộc tiếp xúc Đức Hồng Y ông đã tỏ ý rất hỗ trợ cho tự do tôn giáo ở Việt Nam.Tại Đức những người Việt bất đồng chính kiến, các Blogger người Việt và các nhóm người Việt hoạt động cho nhân quyền đã tự đảm nhận nhiệm vụ yểm trợ các Blogger ở quê nhà bằng nhiều cách. Họ thông tin cho công luận Đức về những vụ vi phạm nhân quyền ở Việt Nam, vì hầu như báo chí Đức hiếm tường thuật về các sự bách hại chính trị ở Việt Nam. Họ chuyển dịch các tin tức do các Blogger soạn bằng Việt ngữ qua Đức ngữ và phổ biến rông rải cho công luận qua điện thư hay trên các trang báo mạng. Qua những hình thức này họ trở thành người phát ngôn ở các nước phương Tây cho các Blogger trong nước. Trong chương trình hoạt động của người Việt lưu vong còn có các cuộc biểu tình thầm lặng tại chỗ và hội thảo có sự đóng góp của người Đức. Họ cũng rất mong muốn được sự hợp tác của các tổ chức, các nhóm hoạt động cho nhân quyền và giới blogger Đức.
Theo ý ông tại sao tự do thông tin và tự do tôn giáo không thể tách rời ?
Không có tự do thông tin, ngôn luận và tư tưởng thì không thể có tự do tôn giáo. Không thể chấp nhận được tình trạng nhà nước có thể chọn lựa và chỉ định ai („một công dân bình thường“) được phép tham dự thánh lễ và ai („một công dân phê bình chế độ“ ) không được phép. Đây là điều mà „Ban tôn giáo chính phủ“ muốn đạt được. Ban này kiểm soát mọi hoạt động của từng tôn giáo và kiềm chế sự trao đổi thông tin giữa các tín hữu. Hai nhà lãnh đạo tôn giáo, Linh Mục Nguyễn Văn Lý và Hòa Thượng Thích Quảng Độ không được hành sử quyền tự do tư tưởng, tự do ý kiến. Cụ thể là cả hai vị đều bị giam giữ nhiều năm trong tù cũng như quản thúc tại gia.
Bản tiếng Đức: “Unsere Stimme für verfolgte Blogger”, 25. Februar 2016 / Marta Wajer, missio
Nữ nghị sĩ Đức đỡ đầu cho Người bảo vệ nhân quyền Nguyễn Văn Đài
Thục Quyên
23/02/2016 (DĐVN21) - Trong tinh thần nghị quyết "Tăng cường việc bảo vệ cho Người Bảo Vệ Nhân Quyền trên toàn thế giới" đã được Quốc hội Liên Bang Đức biểu quyết thông qua ngày 3/12/2015, nghị sĩ Marie-Luise Dött đã chính thức nhận bảo trợ quốc tế cho Luật sư Nguyễn văn Đài, nhà bảo vệ nhân quyền bất bạo động bị giam giữ từ ngày 16/12/2015 với cáo buộc "tuyên truyền chống nhà nước CHXHCN Việt Nam".
Nghị sĩ Marie-Luise Dött
Trong thông cáo báo chí (1) ngày 22/02/2016 bà nghị sĩ Dött cho biết:
"Hôm nay tôi đảm nhận việc quốc hội(liên bang Đức) bảo trợ dành cho nhà hoạt động dân quyền Việt Nam Nguyễn Văn Đài, bị bắt giữ tại Hà Nội ngày 16 tháng 12 năm 2015. Đối với tôi, việc đáp ứng lời yêu cầu bảo trợ ông Đài của Mạng Lưới Người Bảo vệ Nhân quyền VETO! là một điều đương nhiên.Mới tháng Tám năm ngoái, tôi đã gặp ông Nguyễn Văn Đài tại Hà Nội trong chương trình viếng thăm của phái đoàn của Khối Nghị sĩ Liên minh Dân chủ/Xã hội Thiên chúa giáo Đức (CDU/CSU). Chúng tôi chủ yếu thảo luận với nhau về tình trạng nhân quyền. Ông Nguyễn Văn Đài là một người dấn thân từ nhiều năm nay cho quyền tự do quan điểm cũng như những quyền dân sự và chính trị tại đất nước ông. Những quyền này của LS Đài được bảo đảm bởi Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị mà Việt Nam là một quốc gia thành viên. Là thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, Việt Nam còn có bổn phận bảo vệ nhân quyền theo các tiêu chuẩn cao nhất.
Tôi đặc biệt xúc động khi nhận được tin ông Nguyễn Văn Đài bị bắt và tôi yêu cầu Việt Nam phải trả tự do ngay lập tức cho ông. Tôi cũng yêu cầu Việt Nam phải chấm dứt tức thì việc biệt giam LS Đài từ suốt hai tháng nay để cho luật sư và vợ của ông có thể vào thăm ông."
Bà Marie-Luise Dött trong phái đoàn nghị sĩ Đức CDU/CSU cùng ba nhà bảo vệ nhân quyền Việt Nam
tại khách sạn Metropole Hà Nội 8/2015
Bà Marie-Luise Dött là Phát ngôn viên về Chính sách Môi sinh và Xây dựng của Khối Nghị sĩ Liên minh Dân chủ/Xã hội Thiên chúa giáo Đức (CDU/CSU) trong Quốc hội Liên bang Đức. Trưởng khối này, Nghị sĩ Volker Kauder, cũng đã từng lên tiếng bảo vệ cho LS Đài và cô Thu Hà vào ngày 18/12/2015 (2).Cần ghi nhận thêm là vào ngày 19/02/2016 Mạng Lưới Người Bảo vệ Nhân quyền VETO! đã cùng 6 tổ chức phi chính phủ quốc tế ký tên phản đối việc biệt giam LS Nguyễn Văn Đài và cô Lê Thu Hà (3). Đó là các tổ chức Amnesty International, Boat People SOS, Christian Solidarity Worldwide, Civil Rights Defenders, International Commission of Jurists, VETO! Human Rights Defenders’ Network, Vietnamese Women for Human Rights.Biệt giam là một bộ phận được gắn chặt vào hệ thống hăm dọa, sách nhiễu và trừng phạt những nhà hoạt động ôn hòa của Việt Nam. Sau khi bị bắt, họ thường bị giam giữ mà không cho tiếp xúc với thế giới bên ngoài trong nhiều tháng, thậm chí nhiều năm. Trong suốt thời gian này, các nhà hoạt động thường là đối tượng của những vi phạm bao gồm tra tấn, dùng nhục hình, khủng bố tinh thần, đe dọa.
(1) Marie-Luise Dött - Pressemitteilung: Freiheit für vietnamesischen Bürgerrechtler Nguyen Van Dai
(2) Viet Nam must immediately release prisoners of conscience Nguyễn Văn Đài and Lê Thu Hà
Nguồn: https://sites.google.com/site/forumvietnam21/tiengviet/nq/nq-ordner/nq20160223-mldoett
- Thắp nến cầu nguyện cho công lý và hòa bình ở Nghệ An
- ĐTC gặp các Giám Mục Mêhicô và dâng thánh lễ tại Đền thánh Đức Bà Guadalupe
- Đức Thánh Cha đi Cuba gặp gỡ Đức Thượng Phụ Chính Thống Nga
- Giữ Chay thế nào cho đẹp lòng Chúa
- Virus Zika hiện đang lan truyền dịch ở Trung Nam Mỹ
- Thông cáo báo chí của Hội Đồng Giám Mục Đức-Quốc
- Thư gửi Đức Giáo Hoàng nhân ngày sinh nhật!
- Luật sư Nguyễn Văn Đài bị bắt
- Linh Mục Alexandre De Rhodes (Cha Đắc-Lộ) Khai Sinh Chữ Quốc Ngữ!
- Cho đi 99% tài sản để làm từ thiện