Tin Giáo Hội Việt Nam
Giáo hội Miền Bắc dưới thời cộng sản từ 1954 đến nay (kỳ VI)
3. Bước ra khỏi vùng tối
a. Điểm sáng Thái Hà – Tòa Khâm sứ
b. Từ Thái Hà tới bản góp ý sửa đổi Hiến pháp
Sau sự kiện Thái Hà – Tòa Khâm sứ, nhất là sau khi Đức Tổng Giuse Ngô Quang Kiệt “bị buộc phải về hưu non”, cùng với những bạch hóa của truyền thông về một số nội tình trong Giáo hội, đã làm cho một bộ phận không nhỏ giáo dân hoang mang, dao động. Tại Hà Nội, một số giáo dân, thay vì phản đối chính quyền, đã phản ứng lại cách sắp đặt nhân sự của giáo quyền, bằng cách căng băng rôn để phản đối Giáo hội, tạo nên một bầu khí nghi kỵ lẫn nhau. Tình trạng ấy kéo dài cho tới tận gần đây, khi nhà cầm quyền Hà Nội tổ chức cái gọi là “người dân cùng nhau góp ý kiến sửa đổi Hiến pháp”.
Ngày 1 tháng 3 năm 2013, nhân danh Hội đồng Giám mục Việt Nam, Ban Thường vụ Hội đồng Giám mục Việt Nam đã gửi đến nhà cầm quyền Việt Nam “Bản Nhận định và góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992”. Bản nhận định này đã gây một tiếng vang trong công luận và được đánh giá là một trong những bản kiến nghị sâu sắc nhất. Nội dung của bản kiến nghị xoay quanh những quyền cơ bản của con người cần được xác định rõ trong bản Hiến pháp, nhất là cần loại bỏ việc áp đặt tư tưởng vào một hệ ý thức duy nhất đã kìm hãm tư duy sáng tạo của người dân Việt Nam trong suốt nhiều thập kỷ qua.
Sở dĩ Bản Nhận định thu hút sự chú ý của công luận là do trải qua một giai đoạn đấu tranh, thanh lọc, nhiều nhóm xã hội dân sự, cách riêng các nhà trí thức tiến bộ nhận ra rằng, Giáo hội Công giáo có đủ nhân lực, tài lực và là tổ chức đủ sức cạnh tranh với nhà cầm quyền cộng sản. Chứng kiến sự phản kháng mạnh mẽ của Giáo hội từ vụ Thái Hà, Tam Tòa, Cồn Dầu, Loan Lý, Đồng Chiêm, Mỹ Lộc, Con Cuông, Mỹ Yên, những buổi thắp nến cầu nguyện có cả ngàn người tham dự, những người yêu chuộng công lý và hòa bình tại Việt Nam luôn hy vọng Giáo hội sẽ là tổ chức tiên phong dấn thân cứu quốc khỏi tình trạng vong nô. Sự xuất hiện của Bản Nhận định và Góp ý khiến cho sự chờ đợi bấy lâu bùng vỡ. Người ta đã tin rằng Giáo hội Công giáo không còn đứng ngoài cuộc trong các sự kiện lớn của đất nước. Bên cạnh đó, như nhiều trí thức đã bình luận, Bản Nhận định và Góp ý sửa đổi Hiến pháp của Hội đồng Giám mục Việt Nam là bản góp ý chất lượng nhất, hơn hẳn tất cả các bản kiến nghị khác kể cả bản kiến nghị của các nhân sĩ trí thức công bố trước đó.
Đối với Giáo hội Công giáo, phải nói rằng, đây là Bản Nhận định được phổ biến rộng rãi nhất từ trước đến nay. Nhiều nhà thờ không chỉ công bố công khai bản văn trên các bảng thông tin của giáo xứ, đọc trong các thánh lễ mà nhiều nơi, các linh mục còn in ấn, trao tận tay từng giáo dân, làm cho các tín hữu bớt đi những hoang mang trước đó. Dù còn đó những ngờ vực, những bất đồng ngay trong nội bộ Hội đồng Giám mục về nội dung của “Bản Nhận định và góp ý”, vẫn có thể thấy rằng Bản Nhận định đã góp phần gia tăng niềm tin cho giáo dân vào các vị lãnh đạo của Hội Thánh.
Đối với nhà cầm quyền cộng sản, Bản Nhận định đã làm họ bất ngờ, bối rối, làm lộ rõ bản chất dối trá lừa bịp của nhà cầm quyền muốn dùng sự kiện “góp ý sửa đổi Hiến pháp” để mị dân. Ngay sau khi Bản Nhận định được công bố, một mặt, chính quyền cộng sản phái người đến các Tòa Giám mục để yêu cầu các vị lãnh đạo Giáo hội không nên phổ biến bản văn này; mặt khác, họ dùng truyền thông, dựng lên cả những “linh mục giả” nhằm tuyên truyền sự đúng đắn trong đường lối chính sách của đảng, nhất là, nhắm bảo vệ điều 4 của Hiến pháp mà Bản Góp ý của Hội đồng Giám mục Việt Nam đã dứt khoát đề nghị loại bỏ.
Điều cần ghi nhận là, như các thư ngỏ, các kiến nghị trước đây, Bản Nhận định và Góp ý lần này của Hội đồng Giám mục cũng đã nhanh chóng rơi vào quên lãng, một phần do sự phân hóa tư tưởng trong nội bộ Hội đồng Giám mục, mặt khác, do tính phong trào của tất cả các phong trào đấu tranh trong nước hiện nay. Dù sao, qua lần góp ý sửa đổi Hiến pháp này, nhiều người đã nhận ra, đối với nhà cầm quyền cộng sản, đối thoại là cái gì rất hoang tưởng.
Thái Hà, ngày 5 tháng 7 năm 2016
Lm. Gioan Nguyễn Ngọc Nam Phong, C.Ss.R
(còn tiếp)
Giáo hội Miền Bắc dưới thời cộng sản từ 1954 đến nay (kỳ V)
3. Bước ra khỏi vùng tối
a. Điểm sáng Thái Hà – Tòa Khâm sứ
Những năm đầu của Thiên niên kỷ thứ hai, những lứa chủng sinh đầu tiên của Đại Chủng viện Hà Nội bắt đầu đơm bông kết trái. Những chủng sinh trước đó được các giáo phận gửi vào tu học trong Nam cũng đã trở về. Giáo hội Miền Bắc như thể đón nhận một mùa xuân mới, với hy vọng tràn trề những lớp người trẻ này sẽ tiếp bước cha anh xây dựng một Giáo hội Chúa Kitô vững mạnh.
Tại Hà Nội, trung tâm đầu não kinh tế chính trị của cả nước, chính sách phát triển kinh tế thị trường dựa trên thứ hàng hóa duy nhất là bất động sản, với những quyết định thu hồi vô tội vạ của nhà cầm quyền, đã tạo nên nơi xã hội một tầng lớp “dân oan”. Những khu đất béo bở mà nhà cầm quyền tịch thu của Giáo hội trước đây bỗng chốc trở nên miếng mồi thèm khát của các nhóm lợi ích. Hàng loạt các cơ sở vật chất của Giáo hội như Tòa Khâm sứ, đất đai của Thái Hà bị nhà cầm quyền chiếm đoạt bất hợp pháp trước đây, trong chốc lát, bị biến đổi mục đích sử dụng và được bán lại cho các nhà đầu tư. Hàng loạt các dự án xây dựng trái phép trên các khu đất của Giáo hội được gấp rút tiến hành.
Trong hoàn cảnh đó, trước nguy cơ các cơ sở tôn giáo sẽ bị vĩnh viễn xóa sổ, vào năm 2003, Đức Hồng y Phạm Đình Tụng, cùng với linh mục đoàn Tổng Giáo phận đã ký chung một văn thư phản đối và yêu cầu trả lại Tòa Khâm sứ cho Giáo phận. Trước sự đồng lòng và kiên quyết của toàn thể Giáo phận, chính quyền Hà Nội đã phải nhượng bộ, rút toàn bộ các cọc móng đã đóng và di chuyển hết vật liệu xây dựng ra khỏi khuôn viên Tòa Khâm sứ.
Cũng vào thời điểm này, trước cửa Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội, hàng trăm giáo dân giáo xứ Thái Hà, đã thường xuyên tụ họp phản đối, yêu cầu chính quyền Hà Nội trao trả đất đai tài sản cho giáo xứ. Sự việc tiếp tục âm ỉ kéo dài, cho tới cuối năm 2007.
Ngày 12 tháng 12 năm 2007, chính quyền Hà Nội một lần nữa đưa các thiết bị xây dựng tới khu vực Tòa Khâm sứ, đơn phương tiến hành dỡ mái tòa nhà mà không có bất cứ thỏa thuận nào trước đó với Tòa Giám mục.
Nhận thấy chính quyền Hà Nội sẽ quyết tâm tới cùng thực hiện dự án xây dựng trên đất của Giáo hội, ngày 15 tháng 12 năm 2007, Đức Tổng Giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt đã gửi tới toàn thể cộng đoàn dân Chúa Tổng Giáo phận lá thư kêu gọi cầu nguyện cho tài sản của Giáo hội đang bị nhà cầm quyền cưỡng chiếm phi pháp. Có thể nói, đây là lần đầu tiên kể từ 1954, một vị lãnh đạo cao cấp của Giáo hội, công khai kêu gọi dân Chúa, hiệp thông cầu nguyện cho sự an nguy của Giáo hội, tạo thành phong trào thắp nến cầu nguyện nay đã lan tỏa rộng khắp nước.
Ngay khi lá thư được công bố tại tất cả các nhà thờ trong Giáo phận, hàng ngàn giáo dân đã tiến về Tòa Giám mục cùng thắp nến cầu nguyện cho Giáo hội. Sự việc bị đẩy lên cao, khi một giáo dân người Mường bị đánh trọng thương vào ngày 25/1/2008, lúc chị này vào Tòa Khâm sứ dâng hoa cho Đức Mẹ Sầu Bi nhân ngày lễ thánh Phaolô Tông đồ trở lại. Bất bình trước hành động dã man của những người thi hành pháp luật, hàng ngàn giáo dân đã kéo tới, phá đổ các bức tường và rước tượng thánh giá vào khu đất. Cuộc đấu tranh trên bình diện pháp lý, bỗng chốc trở thành cuộc đối đầu trực diện. Hàng loạt các căn lều được giáo dân Hà Nội dựng lên ngay tại khu đất. Các buổi cầu nguyện cả ngày lẫn đêm thu hút hàng ngàn giáo dân từ khắp nơi đổ về.
Ngày 26/1/2008, Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội đã ra văn thư số 673, trong đó nói rõ sẽ xử lý các giáo dân tới cầu nguyện tại Tòa Khâm sứ, với hạn chót là vào lúc 17g00 ngày 27/1/2008. Văn thư 673 không những không làm cho giáo dân Hà Nội sợ hãi, trái lại, văn thư đã kích thích các giáo dân kéo tới đông hơn. May mắn thay, giờ “G” (từ gọi của giáo dân lúc đó) đã không xảy ra như dự tính của nhà cầm quyền Hà Nội.
Ngày 30 tháng 1 năm 2008, từ Roma, Hồng y Bertone, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh đã gửi văn thư tới Đức Tổng Giuse Ngô Quang Kiệt yêu cầu Tòa Giám mục vãn hồi trật tự để “tránh những hành vi gây rối trật tự công cộng”, nhờ đó, có thể tiếp tục “đối thoại với chính quyền”. Ngày 31 tháng 1 năm 2008, vâng lời Tòa Thánh, Tòa Giám mục Hà Nội đã rước Thánh giá về khuôn viên Tòa Giám mục, trong sự ngậm ngùi tiếc nuối của những giáo dân có mặt.
Tại Thái Hà, suốt bảy tháng sau đó, vừa kiên trì đối thoại với chính quyền trên bình diện pháp lý, mỗi ngày hai lần, giáo dân Thái Hà trung thành cầu nguyện cho sự công bằng của giáo xứ ngay tại hàng rào bên ngoài khu đất. Ngày 15 tháng 8 năm 2008, sự việc bắt đầu trở nên căng thẳng khi giáo dân Thái Hà chủ động phá hàng rào, rước tượng Đức Mẹ vào đặt giữa khu đất của giáo xứ, đồng thời, các linh mục Dòng Chúa Cứu Thế kêu gọi giáo dân cùng hiệp thông. Hàng ngàn giáo dân từ khắp các giáo xứ trong thành phố đổ về đêm ngày cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ ngay tại khu đất.
Ngày 26 tháng 8 năm 2008, nhằm đe dọa giáo dân tới hiệp thông, chính quyền Hà Nội đã khởi tố vụ án “gây rối trật tự công cộng và phá hoại tài sản nhà nước”. Một số giáo dân bị bắt giữ. Ngày 28 tháng 8 năm 2008, hàng trăm giáo dân giáo xứ Thái Hà đã rước Thánh giá, đi bộ từ nhà thờ Thái Hà tới Công an quận Đống Đa để đòi người. Chính quyền Hà Nội đã ra tay đàn áp đoàn biểu tình, khiến nhiều giáo dân bị trọng thương. Mặc dù bị đàn áp, những ngày sau đó, hàng ngàn giáo dân các nơi tiếp tục kéo đến hiệp thông và cầu nguyện cho giáo xứ, đẩy chính quyền Hà Nội rơi vào một tình thế hoàn toàn khó xử. Vụ công an giả danh dân thường xịt hơi cay vào các em nhỏ trong lúc các giáo dân đang cầu nguyện tại khu đất, ngày 31 tháng 8 năm 2008, khiến giáo dân ngày càng bất bình.
Trong suốt thời gian này, mỗi ngày, có khoảng 10.000 giáo dân từ khắp mọi nơi kéo về hiệp thông với Nhà Dòng và giáo xứ. Sở dĩ, các giáo dân Miền Bắc kéo tới Thái Hà ngày càng đông, một phần, do có nhiều giáo dân cảm nhận được một ơn ban đặc biệt nào đó của Đức Mẹ khi tới Thái Hà, một phần quan trọng là vì giáo xứ có được sự hậu thuẫn công khai của Đức Tổng Giuse Ngô Quang Kiệt, cũng như của các vị giám mục thuộc Giáo tỉnh Hà Nội. Ngoài những thư hiệp thông, các giám mục còn đích thân đến Thái Hà, tham gia các buổi cầu nguyện, dâng thánh lễ, chia sẻ Lời Chúa với cộng đoàn tín hữu. Chính sự hiệp thông chặt chẽ ấy đã làm nên biến cố Thái Hà chấn động xã hội.
Câu chuyện Thái Hà bất ngờ hướng sang một lối khác, khi ngày lễ Đức Mẹ Sầu bi (15/9/2008), được Tòa Giám mục dời vào ngày Chúa Nhật, ngày 19 tháng 9 năm đó. Không biết từ đâu, thông tin Tòa Giám mục Hà Nội sẽ phá tường rào Tòa Khâm sứ được loan đi không thể kiểm soát. Ngay lập tức, chính quyền Hà Nội đã ra tay. Ngày 18 tháng 9 năm 2009, hàng ngàn công an, dân phòng, công nhân, được chính quyền huy động tới cấp tập thi công công viên cây xanh trên phần đất Tòa Khâm sứ. Ngày 20 tháng 9 năm 2009, chính quyền Hà Nội đã tổ chức một cuộc họp với Tòa Giám mục, sau đó dùng truyền thông cắt xén lời Đức Tổng, tạo nên một làn sóng chống đối Giáo hội rộng khắp.
Những ngày sau đó, tính hình hết sức căng thẳng, khi chính quyền Hà Nội đưa các trại viên trong các trại cai nghiện, các sinh viên trường an ninh, các cán bộ hưu trí, với danh nghĩa “quần chúng tự phát” tới đe dọa tính mạng Đức Tổng Ngô Quang Kiệt, các linh mục, tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà. Những người này đã bao vây Tòa Giám mục và nhà thờ Thái Hà, dọa giết các linh mục tu sĩ. Ngày 25 tháng 9 năm 2008, ngay trong đêm, lợi dụng lúc có ít giáo dân hiện diện, chính quyền Hà Nội đã đưa các lực lượng tới bao vây khu đất và tiến hành xây dựng công viên 1/6. Công viên được khánh thành một tuần sau đó.
Chính quyền Hà Nội nghĩ rằng việc xây dựng hai công viên cây xanh sẽ làm giảm lòng nhiệt thành của các giáo hữu. Thực tế, sự kiện Thái Hà – Tòa Khâm sứ đã không dừng lại. Đối với giáo dân Hà Nội, như Đức Tổng Giuse Ngô Quang Kiệt đã từng nhiều lần lên tiếng, Giáo hội không đòi đất, nhưng là đòi công lý. Câu nói của ngài tại Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội ngày 20/9/2008: “Tôn giáo là quyền chứ không phải ơn huệ xin cho”, chính là kim chỉ nam cho các dấn thân của giáo dân Hà Nội nói chung và giáo dân Giáo xứ Thái Hà sau này. Hai phiên tòa xử tám giáo dân Thái Hà, với hàng ngàn người tham dự, công khai diễu hành trên các đường phố với nhành thiên tuế trên tay, vào các ngày 8/12/2008 và 27/3/2009, cho thấy cuộc đấu tranh vì chính nghĩa cho Giáo hội và dân tộc đã bước thêm một bước mới, báo hiệu một thời kỳ đổi thay đang đến.
Có lẽ, còn quá sớm để đưa ra những nhận định khách quan về biến cố Thái Hà – Tòa Khâm sứ. Tuy nhiên, phải công tâm nhìn nhận, đóng góp của sự kiện Thái Hà – Tòa Khâm sứ cho Giáo hội và xã hội không hề nhỏ.
Có thể nói được rằng sự kiện Thái Hà – Tòa Khâm sứ đã làm thức tỉnh một bộ phận không nhỏ người dân Việt Nam, cách đặc biệt, giáo dân công giáo Miền Bắc. Từ chỗ chống đối Giáo hội vì nghe những thông tin sai lệch, bóp méo sự thật của nhà cầm quyền, nhất là khi biết rằng câu nói của Đức Tổng Giuse Ngô Quang Kiệt đã bị cắt xén, nhiều người đã bày tỏ sự cảm thông với vị cha chung của Giáo hội và bắt đầu tìm đến Giáo hội để tìm hiểu về đời sống đạo của các Kitô hữu. Nhiều nhân sĩ trí thức, từ chỗ luôn giữ khoảng cách với nhà thờ, nay cũng tìm đến nhà thờ, vì họ tin rằng, chỉ ở nhà thờ, họ mới được nghe biết sự thật.
Có một thực tế không ai có thể phủ nhận: những cuộc xuống đường của giáo dân Thái Hà đã là khởi đầu cho sự hình thành của các tổ chức xã hội dân sự sau đó, với những phong trào thu hút sự chú ý của công luận, như: phong trào ký thỉnh nguyện thư của nhóm Bauxite, phong trào xuống đường biểu tình giữ gìn biển đảo… Bên cạnh đó, biến cố Thái Hà – Tòa Khâm sứ còn cho thấy, lần đầu tiên, “truyền thông nhân dân” được những người Công giáo sử dụng một cách hiệu quả. Chính các trang tin tức Công giáo đã góp phần tích cực đưa sự kiện Thái Hà tới với mọi người và làm nên một sự kiện Thái Hà rúng động bốn phương.
Đối với Giáo hội Công giáo Việt Nam, sự kiện Thái Hà – Tòa Khâm sứ đã nối kết được các thành phần dân Chúa Tổng giáo phận Hà Nội. Tuy sự nối kết này còn có phần lỏng lẻo, vì tất cả sự kiện xảy ra làm nên biến cố Thái Hà hoàn toàn chỉ là sự tự phát, nhưng cũng đủ làm cho người giáo dân Hà Nội một lần can đảm bước ra khỏi sự sợ hãi cố hữu, xua tan những mặc cảm trước đó, để hiên ngang làm chứng cho đức tin.
Bên cạnh đó, biến cố Thái Hà – Tòa Khâm sứ cũng đã cho thấy, có một sự phân hóa nào đó trong chính nội bộ Giáo hội, sự bất đồng quan điểm giữa các vị lãnh đạo Giáo hội Việt Nam, cho dù ngày 25 tháng 9 năm 2008, Hội đồng Giám mục Việt Nam có gửi tới nhà cầm quyền Việt Nam bản “Quan điểm của Hội đồng Giám mục Việt Nam về các vấn đề hiện nay”. Sự phân hóa ấy thể hiện rõ nét trong các kiểu nói ẩn dụ nơi một số các đấng bậc trong Giáo hội, như: “Đồng cảm chứ không đồng thuận”, “Mục vụ đòi đất” hay “Lên tiếng hay không lên tiếng”, cách đặc biệt qua biến cố Thánh giá Đồng Chiêm bị đập vỡ (8/1/2010) và sự kiện Đức Tổng Giuse Ngô Quang Kiệt phải về hưu ngày 13 tháng 5 năm 2010.
Dù thế nào, sự kiện Thái Hà – Tòa Khâm sứ sẽ mãi là một điểm sáng mà lịch sử dân tộc, cách riêng lịch sử Giáo hội Việt Nam phải nhớ tới như một biến cố làm thay đổi cục diện chính trị xã hội, thay đổi cái nhìn của những người không Công giáo đối với đạo Công giáo và nhất là làm thay đổi mối tương quan giữa nhà nước và Giáo hội, đòi chính quyền Hà Nội phải lưu tâm hơn tới các tôn giáo, cách riêng Công giáo.
Thái Hà, ngày 5 tháng 7 năm 2016
Lm. Gioan Nguyễn Ngọc Nam Phong, C.Ss.R
(còn tiếp)
Giáo Phận Xuân Lộc - Thánh lễ Thêm Sức tại Giáo xứ Kẻ Sặt
HỐ NAI - Đức Cha Giuse Đinh Đức Đạo, Giám mục Giáo phận Xuân Lộc đã chủ tế Thánh lễ Tạ ơn và ban Bí tích Thêm sức cho 210 em Thiếu nhi Giáo xứ Kẻ Sặt, vào lúc 8g30 sáng thứ Tư ngày 13/07/2016 tại Nhà thờ giáo xứ.
Xem Hình
Bầu khí giáo xứ Kẻ Sặt sáng nay thật tưng bừng và rộn rã bởi tiếng trống, tiếng kèn, cùng tiếng cười nói vô cùng hân hoan. Rõ ràng hơn, đó chính là tâm tình biểu lộ hoà lẫn với niềm vui ra chào đón người cha chung kính yêu của giáo phận, về thăm mục vụ và trao ban Bí tích Thêm Sức cho 209 em Thiếu nhi của giáo xứ.
Sau nhiều năm tháng trau dồi học giáo lý và củng cố đức tin, hôm nay, các em Thiếu nhi cấp Thêm Sức 2013-2016 của giáo xứ đã được hân hoan lãnh nhận ấn tín Chúa Thánh Thần. Đây không chỉ là niềm vui của riêng của các em, của gia đình, mà còn là niềm vui chung cho toàn giáo xứ trong ngày hồng phúc này.
Trong sự quan tâm của một người mục tử, Đức Cha đã sớm hiện diện để chào thăm cũng như trò chuyện với quý chức các Ban ngành đoàn thể tại Hội trường Nhà Xứ. Trong vai trò chủ chăn, Ngài đã lắng nghe những báo cáo mục vụ của Ban chánh trương và có những huấn từ hữu ích giúp giáo xứ nâng cao đời sống hiệp nhất, bác ái và yêu thương.
Sau những giây phút gặp gỡ vui vẻ và thân tình với cộng đoàn tín hữu xứ nhà, Đức Cha Giuse đã chủ sự thánh lễ ban Bí tích Thêm Sức. Cùng đồng tế có Cha quản hạt Hố Nai Đaminh Bùi Văn Án, quý Cha chính phó xứ Kẻ Sặt và một số quý Cha trong giáo hạt.
Mở đầu thánh lễ, Đức Cha mời gọi cộng đoàn tham dự hãy một lòng một trí dâng tâm tình hân hoan chúc tụng Thiên Chúa, cách riêng là hiệp ý cầu nguyện cho các em hôm nay lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần. Cùng với đó không quên cầu nguyện cho những người đang đau khổ cả hồn lẫn xác, những người già yếu và đau bệnh.
Với những gợi ý, hướng dẫn đoàn chiên của mình được tái khám phá nguồn tình yêu sung mãn đích thực là Chúa Giêsu Kitô, trong bài giảng, Đức Cha Giuse yêu cầu mỗi người phải chiến đấu liên lỉ, muốn tìm được niềm vui thật thì phải cậy dựa vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần để chiến thắng những thú vui đam mê và vật chất lôi kéo. Thêm nữa phải chấp nhận thiệt thòi, luôn sống hy sinh vì Chúa Giêsu thì lẽ tự nhiên hạnh phúc sẽ đến. Nói cách khác, khi đã cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa rồi thì dù cho cuộc đời có khổ đau hay bất hạnh thì tâm hồn vẫn được ủi an vì có Chúa ở cùng.
Tiếp tục, Đức Cha nhắc nhở các em thiếu nhi "Các con hôm nay được lãnh nhận Chúa Thánh Thần thì các con phải sống như Chúa Giêsu, dám hy sinh và chịu thiệt thòi vì Ngài để không những tìm được nguồn hạnh phúc nơi Ngài mà còn trở nên chứng nhân cho Ngài giữa bè bạn và tất cả những người chúng con gặp gỡ".
Trong phần Nghi thức ban Bí tích Thêm Sức, Cha phó Martino Nguyễn Đình Hoàng đã giới thiệu với Đức Giám Mục giáo phận 210 em thiếu nhi đủ điều kiện lãnh nhận Bí tích Thêm Sức, trong đó có một em thuộc Giáo xứ Lộ Đức, và hai em thuộc Giáo xứ Xuân Hoà. Sau đó, toàn bộ các em đã lặp lại lời tuyên xưng đức tin của ngày lãnh nhận Bí tích Thanh Tẩy và đã được Đức Giám Mục đặt tay, xức dầu thánh, và chúc bình an.
Trước khi kết thúc thánh lễ, ông trưởng Ban hành giáo đã thay mặt cộng đoàn dân Chúa xứ nhà, cách riêng là 210 em, tỏ bày tâm tình tri ân sâu sắc đến Đức Cha, quý Cha đồng tế, quý Dì, và các phụ huynh vì đã dày công quan tâm và giáo dục đời sống đức tin cho các em, để hôm nay các em được trưởng thành trong đức tin, đức cậy và đức mến. Để tỏ lòng biết ơn, quý phụ huynh đã dâng lên Đức Cha lẵng hoa tươi thắm diễn tả lòng yêu mến không cạn lời.
Là một chủ chăn, cuối lễ, Đức Cha Giuse cám ơn cộng đoàn giáo xứ Kẻ Sặt đã hiệp nhất tạo nên một bầu khí đạo đức, thánh thiện và yêu thương trong gia đình giáo xứ. Ngài cũng không quên tri ân tất cả những ai đã sống tình đệ huynh hăng say, bác ái và dấn thân vì công cuộc truyền giáo của Giáo Hội. Nhân dịp này, Ngài nhắn gửi nhiều tâm tình với ao ước cộng đoàn Xứ đạo hãy để ý đến những người đau khổ, cảm thông chia sẻ và trợ giúp có thể để họ cảm nhận được tình thương yêu an ủi. Với các em đã lãnh nhận Bí tích Thêm Sức, Đức Cha giáo phận kỳ vọng các em sẽ đem tình yêu và Lòng thương xót của Chúa áp dụng vào môi trường gia đình, giáo xứ hoặc trường học hoặc vào cuộc đời. Sau cùng, như một món quà của Chúa, Đức Cha đã tặng mỗi em Thêm Sức và các anh chị Giáo lý viên một cỗ tràng hạt có ảnh trái tim cực sạch Đức Mẹ để làm kỷ niệm.
Thánh lễ ban Bí tích Thêm Sức khép lại trong niềm vui mừng cùng với những tấm hình lưu niệm đẹp của các em với Đức Cha Giuse kính yêu. Qua đó đánh dấu một mốc quan trọng trong cuộc đời Kitô hữu trưởng thành các em, trở thành chứng tá đức tin cho Chúa giữa đời.
Tin, ảnh: BTT Hạt Hố Nai & Ephata
Đức Thánh Cha Phanxicô bổ nhiệm Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm vào Quốc vụ viện Truyền thông
Trong số các thành viên mới, có Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm, Giám mục giáo phận Mỹ Tho;
Các thành viên khác:
– Đức hồng y Bechara Boutros Rai (Thượng phụ Công giáo Antiokia, Liban - nghi lễ Maronite);
– Đức hồng y John Njue, Tổng giám mục Nairobi, Kenya;
– Đức hồng y Chibly Langlios, Giám mục Les Cayes, Haiti;
– Đức hồng y Charles Maung Bo, Tổng giám mục Yangon, Myanmar;
– Đức hồng y Leonardo Sandri, Bộ trưởng Bộ các Giáo hội Đông phương;
– Đức hồng y Beniamino Stella, Bộ trưởng Bộ Giáo sĩ;
– Đức Tổng giám mục Diarmuid Martin, Tổng giám mục Dublin, Ireland;
– Đức Tổng giám mục Gintaras Grušas, Tổng giám mục Vilnius, Lithuania;
– Đức giám mục Marcello Semeraro, Giám mục Albano, Italia;
– Đức giám mục Stanislas Lalanne, Giám mục Pontoise, Pháp;
– Đức giám mục Gines Ramón García Gines Beltrán, Giám mục Guadix, Tây Ban Nha;
– Đức giám mục Nuno Brás da Silva Martins, Giám mục phụ tá giáo phận Lisbon, Bồ Đào Nha;
Và ba giáo dân:
– Tiến sĩ Markus Schachter, giáo sư môn đạo đức truyền thông và xã hội thuộc phân khoa triết học của Dòng Tên tại München, Đức;
– Tiến sĩ Leticia Soberón Mainero, nhà tâm lý học và chuyên gia về truyền thông, trước đây là cố vấn của Hội đồng Toà thánh về Truyền thông Xã hội (Mexico và Tây Ban Nha).
Linh Muc Phanxicô Việt Nam đầu tiên làm viện trưởng Viện Thần Học Giáo Hội Công Giáo La Mã
Theo heraldmalaysia.com, có 3 sự kiện lớn vừa diễn ra tại Rome trong thời gian qua.
Thứ nhất là sự xuất hiện của Đức Giáo Hoàng người châu Mỹ La tinh đầu tiên.
Sự kiện thứ hai là lần đầu tiên trong lịch sử của Giáo Hội Công Giáo La Mã có một phụ nữ được chỉ định làm viện trưởng trường Giáo hoàng Đai học Pontifical University Antonianum, nữ giáo sư Mary Melone của dòng Franciscan Sisters Angeline.
Sự kiện thứ ba là cha Đinh Anh Nhuệ Nguyễn, người Việt Nam đầu tiên được chỉ định làm viện trưởng Viện Thần Học Giáo hoàng St. Bonaventure – Seraphicum tại Rome.
Vị linh mục 46 tuổi này thuộc dòng Phanxico Viện tu, OFMConv., và từng là kỹ sư điện.
Ông cũng từng là giáo sư của trường đại học Thần Học tại Melbourne, Australia, và hiện nay là giáo sư của trường đại học Pontifical Urbaniana University.
Cha Đinh Anh Nhuệ Nguyễn đã nhận được nhiều giải thưởng, và năm 2014 đã được vinh danh và trao giải Martini International Award, nhờ cuộc nghiên cứu về chủ đề “Thánh Kinh Và Nền Văn Hoá”.
Tác phẩm giúp ông đoạt giải mang tên Thánh Kinh và các nền Văn Hoá Á Châu: Đọc Lời Chúa trong bối cảnh văn hoá của nó và ngữ cảnh Việt nam (The Bible and Asian cultures. Reading the Word of God in Its cultural background and in the Vietnamese context).
Công trình này khảo sát những câu châm ngôn Kinh Thánh trong tiếng Việt; hình ảnh Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa trong Tân Ước và trong truyền thống Việt nam; và ngôn ngữ tình yêutrong Diễm Tình Ca cũng giống chữ tình trong văn chương tiếng Việt.
Cha Đinh Anh Nhuệ Nguyễn đã vượt qua chặng đường dài từ Nga, đến Ba Lan, và rồi đến Italy để hoàn tất cuộc nghiên cứu về thần học. Theo ông, Thiên Chúa luôn luôn kêu gọi và chuẩn bị cho tất cả mọi người đến với con đường phụng sự Giáo Hội ở mọi thời đại, mọi nơi chốn và mọi quốc gia.
Song Châu / SBTN
https://zenit.org/articles/interview-a
Giáo hội Miền Bắc dưới thời cộng sản từ 1954 đến nay (kỳ IV)
2. Dấu ấn của một thời
a. Những ký ức buồn thảm
b. Một thời kiên trung trong đức tin
c. Loay hoay những chọn lựa
Suốt một thời gian dài trong khoảng thời gian hơn 20 năm kể từ biến cố 1954, trong bối cảnh bị chính quyền cộng sản kềm tỏa, mọi thông tin liên lạc ra bên ngoài bị cắt đứt, các chủng viện bị đóng cửa, các trường giáo lý không hoạt động, các linh mục “chui” hầu như bị quản chế và bị bắt giam, các linh mục còn lại phần đông già yếu… Giáo hội Miền Bắc bị đẩy vào một tình thế đầy khó khăn, buộc phải thích nghi với hoàn cảnh mới.
Trong suốt thời gian này, câu nói “tồn tại là phát triển” trở thành lời động viên cho cả Giáo hội Miền Bắc.
Tại hầu hết các giáo phận, vì thiếu linh mục, để duy trì đời sống đạo, các việc đạo đức bình dân trở thành thức ăn tinh thần duy nhất nuôi dưỡng đức tin người Công giáo. Những đe dọa, cấm đoán, bắt bớ của nhà cầm quyền làm cho một bộ phận không nhỏ những tín hữu Công giáo sợ hãi, hầu hết, sống co cụm trong thế phòng thủ. Các học sinh do phải chịu quá nhiều áp lực vì bị kỳ thị, nên hiện tượng bỏ học khá phổ biến. Cha mẹ không muốn con cái đến trường vì sợ mất đức tin. Bên cạnh đó, chính sách chia để trị của nhà cầm quyền, bằng cách sử dụng các linh mục trong cái gọi là “Ủy ban Liên lạc những người Công giáo” và cài cắm người tiếp ứng phá rối từ bên trong khiến Giáo hội ít nhiều bị phân hóa.
Tất cả những điều này đã trở thành những thách đố không nhỏ cho quá trình hội nhập và phát triển của Giáo hội Miền Bắc sau này.
Ngày nay, theo nhận định của nhiều người, năm 1980 được coi là năm bản lề mở ra một giai đoạn mới cho Giáo hội Công giáo Việt Nam nói chung và Giáo hội Công giáo Miền Bắc nói riêng. Đây là năm đánh dấu lần đầu tiên kể từ năm 1954, các giám mục hai miền Nam – Bắc, quy tụ nhau tại Hà Nội, họp Hội nghị Thường niên và cùng nhau soạn thảo một Thư chung, ký ngày 1/5/1980, bày tỏ lập trường và đưa ra đường hướng mục vụ của Giáo hội trong hoàn cảnh mới, trong đó có hai nhiệm vụ cụ thể: Tích cực góp phần cùng đồng bào cả nước bảo vệ và xây dựng tổ quốc và xây dựng trong Hội Thánh một nếp sống và một lối diễn tả Đức Tin phù hợp hơn với truyền thống dân tộc. Câu nói: “Sống Phúc âm trong lòng Dân tộc” trở thành “hiến chương” của Giáo hội Việt Nam trong hoàn cảnh này.
Ảnh hưởng của Thư Chung 1980 trên đời sống của Giáo hội Việt Nam nói chung và Giáo hội Miền bắc nói riêng như thế nào, có lẽ cần phải có thêm thời gian nghiên cứu để có những đánh giá khách quan hơn. Trong thực tế, tại các giáo phận thuộc Giáo tỉnh Miền Bắc, do thiếu vắng chủ chăn, nên nội dung của Thư chung 1980 rất ít giáo dân được biết tới. Nội dung của Thư chung chỉ đến được với giáo dân, sau khi đã bị nhào nặn bởi truyền thông nhà nước và đặc biệt là tờ Công giáo và Dân tộc. Những câu nói: “Trước khi là người Công giáo, tôi đã là người Việt Nam” hay cụm từ “Đồng hành cùng Dân tộc” được họ vẽ ra và tận dụng tuyên truyền tối đa, vô tình một lần nữa đặt Giáo hội Công giáo ra bên lề xã hội, nhất là họ đã cố tình đánh tráo khái niệm “nhà nước cộng sản” với “dân tộc” để tiếp tục đặt Giáo hội trong một thứ cơ chế xin – cho mà sau đó Đức Tổng Giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt đã vạch trần trong cuộc gặp với UBND thành phố Hà Nội ngày 20/9/2008.
Đối với giáo dân Giáo tỉnh Hà Nội, với những kinh nghiệm đau thương trước đó, cùng với những ngón nghề truyền thông chuyên lừa mị, bóp méo, có tính định hướng của nhà cầm quyền và của tờ Công giáo và Dân tộc – tờ báo duy nhất mang danh Công giáo, việc phải “đồng hành với Dân tộc” tiếp tục khoét sâu vào nỗi mặc cảm triền miên về niềm tin tôn giáo của họ. Nhiều giáo dân và ngay cả một số các linh mục, tu sĩ đã tin rằng nhóm các linh mục thuộc Ủy ban Đoàn Kết mới là những người tiên phong, đi đúng hướng mà Giáo hội vừa đề ra. Giáo hội, vì không có những kênh thông tin và vì đã không có một kế hoạch lâu dài, đành để nhà cầm quyền lèo lái Thư Chung theo mục đích của họ. Thực tế, cho tới tận hôm nay, cụm từ “đồng hành cùng Dân tộc” vẫn được nhà cầm quyền sử dụng một cách có hiệu quả theo mục tiêu của họ.
Dù sao, phải công tâm nhìn nhận, Thư chung 1980 đã tạo ra cho Giáo hội một vị thế mới có thể “đối thoại” với nhà cầm quyền cộng sản trong một mức độ nào đó. Thực ra, chọn lựa đường hướng “đối thoại” là một chọn lựa đúng, hợp với tinh thần của Công đồng Vatican II và hợp với xu thế của thời đại. Tuy nhiên, đối thoại thế nào với chính quyền cộng sản lại là một bài toán nan giải, bởi trong chế độ cộng sản, “đối thoại” và ‘thỏa hiệp” đôi khi trùng khít nhau.
Trong xu thế chung của thời cuộc, vào năm 1986, để tránh sụp đổ, chính quyền cộng sản phải chấp nhận mở cửa kinh tế, thay thế nền kinh tế tập trung bao cấp bằng một nền kinh tế thị trường kéo theo cái đuôi “định hướng xã hội chủ nghĩa”. Dù sao, việc mở cửa kinh tế đã có những tác động ít nhiều trên bình diện chính trị xã hội của đất nước.
Giáo hội Miền Bắc bắt đầu được cởi trói phần nào. Các giám mục được phép ra khỏi Tòa Giám mục để ban Bí tích Thêm sức tại một vài xứ đạo. Một số đại chủng viện được mở cửa trở lại. Các linh mục được tự do đi lại hơn, ít bị ngăn chặn hơn trước. Trong bối cảnh đó, biến cố phong thánh cho 117 Thánh tử đạo Việt Nam ngày 19 tháng 6 năm 1988, trở thành thước đo cho chính sách tôn giáo của nhà nước Việt Nam, cách riêng đối với đạo Công giáo. Có thể nói rằng, sự cởi mở về tôn giáo của nhà cầm quyền Hà Nội là do xu thế tất yếu không thể đảo ngược của thời cuộc tạo nên. Trong thực chất, chính sách thù nghịch với Công giáo của nhà cầm quyền cộng sản vẫn trước sau như một. Thực tế, cả một khoảng thời gian dài trước và sau khi lễ tuyên thánh diễn ra, chính quyền Hà Nội đã huy động toàn bộ hệ thống chính trị tham gia tuyên truyền, nhằm bôi nhọ Giáo hội Công giáo, cách riêng các Thánh tử đạo. Vai trò xung kích của Ủy ban Đoàn kết Công giáo được chính quyền cộng sản khai thác triệt để trong vụ việc phong thánh này. Trong bầu khí hồ hởi, phấn khởi chung của toàn Giáo hội vì có thêm 117 vị Thánh tử đạo, những ai quan tâm tới tình hình xã hội, đều nhận thấy có một sự phân hóa nào đó trong chính nội bộ của Giáo hội. Sự phân hóa này cho thấy Giáo hội Việt Nam chưa đủ lực để có thể đối thoại một cách “thẳng thắn và chân thành” với nhà cầm quyền cộng sản; đồng thời, cũng cho thấy, vết thương của một thời gian khổ vẫn chưa thể liền sẹo.
Sự sụp đổ chế độ cộng sản tại Đông Âu những năm sau đó, một lần nữa đặt Giáo hội Công giáo vào một tình thế mới với nhiều thuận lợi hơn, trong đó, điều dễ nhận thấy là ngoài các thư chung gửi cộng đồng dân Chúa, các vị lãnh đạo Giáo hội cũng không ngần ngại gửi tới các lãnh đạo cộng sản những lá thư với lời lẽ ôn hòa nhưng không kém phần kiên quyết.
Ngày 20 tháng 10 năm 1993, Đức cha Phaolô Maria Nguyễn Minh Nhật, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam, đã gửi một bản góp ý của Hội đồng Giám mục Việt Nam tới Chính phủ Việt Nam, góp ý về việc xây dựng đất nước và những yêu cầu bức thiết của tôn giáo, trong đó nói rõ: “Trong các quyền của con người thì quyền tự do tôn giáo là đặc biệt rất quan trọng nên phải được tôn trọng như một quyền lợi chứ không phải như một đặc ân.” (số II, 3) (x. HĐGMVN 1980 – 2000, tr. 434).
Những năm tiếp sau đó, hàng loạt các thư ngỏ, các văn bản kiến nghị của Hội đồng Giám mục Việt Nam đã được các vị lãnh đạo Giáo hội gửi tới các cấp chính quyền, trong đó nổi bật nhất là lá thư ngỏ gửi Quốc hội, Chính phủ Việt Nam, ủy ban nhân dân các tỉnh thành, do đức cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa – Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam ấn ký tháng 10 năm 2002, nêu rõ sự bất hợp pháp của cái gọi là cơ chế xin – cho đã làm lũng đoạn đất nước và vi phạm các quyền con người cách trầm trọng. Văn thư viết: “Cơ chế xin-cho biến những quyền tự do của công dân thành những thứ quyền mà Nhà nước nắm trong tay và ban bố lại cho người dân dưới dạng những cái phép, đồng thời biến Nhà nước từ một tổ chức có chức năng phục vụ công ích trở thành một chủ nhân ông nắm các quyền tự do của người dân và ban phát các phép tự do lại cho họ thường theo sự tùy tiện chủ quan hơn là theo những tiêu chuẩn khách quan. Như thế cơ chế xin-cho vừa đi ngược lại công ích và xóa đi các quyền tự do của người dân, vừa bôi đen hình ảnh của một Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Đó là điều làm tha hóa con người.”
Nhìn một cách tổng thể, với lời lẽ đĩnh đạc thể hiện trong các bản kiến nghị hay trong các thư ngỏ gửi tới các lãnh đạo cộng sản, có vẻ như Giáo hội Công giáo Việt Nam đang dần khẳng định vị thế ngang tầm trong công cuộc đối thoại có tính xây dựng với nhà cầm quyền cộng sản. Tuy nhiên, trong thực tế, những kiến nghị hay thư ngỏ đã không được hồi đáp. Đơn giản là vì đối với nhà cầm quyền cộng sản, họ chỉ chấp nhận đối thoại dựa trên quyền lợi của họ, chứ không dựa trên quyền lợi của các tổ chức khác. Thỏa thuận giữa chính quyền Việt Nam và Tòa Thánh về việc bổ nhiệm các Giám mục Việt Nam phải được sự đồng ý của nhà nước không chỉ ngược với Điều 377, khoản 1 của Bộ Giáo luật 1983, mà còn tạo kẽ hở cho nhà cầm quyền can thiệp sâu vào trong nội bộ gây nhiều bất lợi cho Giáo hội, là một bài học xương máu cho Giáo hội Việt Nam. Dù sao, qua các văn bản kiến nghị này, Giáo hội Việt Nam ít nhiều đã có thể khẳng định đâu là sứ mạng “Sống Phúc âm giữa lòng Dân tộc” đích thực mà Giáo hội Việt Nam nhắm tới.
Có thể nói rằng, trong khoảng thời gian hai thập kỷ cuối cùng của thiên niên kỷ trước, Giáo hội Việt Nam nói chung và Giáo hội Miền Bắc nói riêng, đã cố gắng khẳng định mình và cố gắng tìm một chỗ đứng như đã từng có giữa lòng Dân tộc. Tuy nhiên, những tồn tại của một quá khứ đau thương, sự sợ hãi cố hữu đã ăn vào máu mọi người dân đất Việt trong đó có người Công giáo, làm cho Giáo hội Công giáo chưa đủ lực đòi buộc nhà cầm quyền Hà Nội một cuộc đối thoại sòng phẳng bảo đảm quyền lợi của đôi bên. Bên cạnh đó, đối với Giáo hội Miền Bắc, việc thiếu vắng nhân sự, thiếu thốn cơ sở vật chất, nhất là thiếu vắng những giáo dân có một đức tin trưởng thành, làm cho Giáo hội cứ loay hoay với những chọn lựa thiếu tính chiến lược lâu dài.
Thái Hà, ngày 5 tháng 7 năm 2016
Lm. Gioan Nguyễn Ngọc Nam Phong, C.Ss.R
(còn tiếp)
Nguồn: chuacuuthe.com
Phái đoàn TGM Hưng Hóa thăm giáo dân bị bắt và bị hành hung tại Mường Khương
Một Nghĩa Cử Yêu Thương Trong Năm Thánh Lòng Thương Xót
Chuyến thăm diễn ra trong khung cảnh đơn giản nhưng ấm áp tình Chúa tình người tại gia đình của các nạn nhân. Chúng tôi an ủi anh chị em, lắng nghe tường thuật những gì đã xảy ra với họ và với bà con cộng đoàn Mường Khương.
//www.flickr.com/photos/137123395@N05/sets/72157670738972396/">Xem Hình
WGPHH – Trong khoảng thời gian ba tháng qua, tại thị trấn Mường Khương đã xảy ra vụ việc nghiêm trọng: chính quyền đã nhiều lần ngăn cản bà con giáo dân tụ họp tham dự thánh lễ, dẫn đến cao điểm là hành hung, đánh đập và bắt 5 giáo dân giải đi vào Chúa Nhật 12/6/2016 và Chúa Nhật 19/6/2016. Sự việc đã gây xôn xao dư luận trong và ngoài nước, mặc dù cho đến nay tòa giám mục vẫn chưa lên tiếng. Dù có đầy đủ thông tin và băng hình ghi lại diễn tiến sự việc, nhưng tòa giám mục vẫn nhẫn nại chờ chính quyền giải quyết, trước khi thông tin chính thức trên trang mạng của giáo phận.
Để góp phần giải quyết sự việc đáng tiếc và đáng buồn này, ngày 07/7/2016, phái đoàn tòa giám mục Hưng Hóa gồm Đức Cha phụ tá Anphong Nguyễn Hữu Long, cha Giuse Nguyễn Văn Thành quản xứ Lào Cai, cha Phêrô Phạm Thanh Bình quản xứ Sapa, cha Phêrô Nguyễn Đình Thái phó xứ Lào Cai đã đến gặp và trao đổi với Công an PA88 tỉnh và Ban Tôn Giáo tỉnh Lào Cai. Nội vụ được các vị lãnh đạo lắng nghe và hứa giải quyết trong thời gian ngắn sắp tới. Đoàn cũng đăng ký lịch làm việc với chính quyền Huyện và Thị Trấn Mường Khương vào ngày 8/7/2016, nhưng vì bận công vụ, chính quyền Huyện xin dời lại sau. Mặc dù chưa được chính quyền huyện tiếp, đoàn vẫn quyết định đi Mường Khương để thăm viếng, an ủi và cầu nguyện với 5 anh chị em đã bị bắt bớ và hành hung.
Chuyến thăm diễn ra trong khung cảnh đơn giản nhưng ấm áp tình Chúa tình người tại gia đình của các nạn nhân. Chúng tôi an ủi anh chị em, lắng nghe tường thuật những gì đã xảy ra với họ và với bà con cộng đoàn Mường Khương. Hiện tại, bà con vẫn còn chịu nhiều áp lực từ phía những người giữ vai trò chính quyền đại diện dân, qua việc triệu tập họ đến để hăm dọa, yêu cầu ngưng sinh hoạt tôn giáo, nếu không sẽ bị thiệt hại đến nghề nghiệp mưu sinh và cuộc sống.
Đức Cha phụ tá đã chuyển đến bà con lời thăm hỏi ân cần và lòng thương yêu của Đức Cha chính giáo phận, khuyên bà con can đảm chịu đựng, tin tưởng vào Chúa là Cha quyền năng và nhân từ, đặc biệt trong Năm Thánh Lòng Thương Xót, đồng thời bảo đảm với bà con rằng hai Đức Cha, các cha, giáo dân toàn giáo phận hiệp thông với bà con trong lời cầu nguyện, và cam kết bảo vệ quyền lợi chính đáng của người Công Giáo tại đây.
Một bó hoa tươi được trao gửi đến từng người gói ghém cả một trời thương yêu hơn ngàn lời nói, khích lệ niềm tín thác vào Chúa, kèm theo kinh nguyện và phép lành cuối buổi thăm thật sự đã làm cho các anh chị em này cảm thấy an ủi rất nhiều, vui vẻ hẳn lên, tiếp thêm nghị lực. Có người cảm động rưng rưng nước mắt nói: “Khi được cha xứ cho biết Đức Cha sẽ tới thăm chúng con hôm nay, thì cả đêm qua con không ngủ được và chỉ chờ trời sáng để đón Đức Cha”.
Trên đường trở về, đoàn ghé thăm bà con Công Giáo tại xã Bản Lầu, huyện Mường Khương. Một số bà con ở đây cũng bị liên lụy trong vụ này. Khi biết tổng số giáo dân tại xã Bản Lầu là 73 người, Đức Cha đã ví von cộng đoàn này là cộng đoàn 72 môn đệ với Chúa Giêsu ngày xưa. Chúa đã nói với các môn đệ: “Giữa thế gian, các con sẽ phải chịu gian nan khốn khó, nhưng hãy vững lòng, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33). Những lời ấy, hôm nay và tại đây, Chúa đang nói lại với anh chị em, và Ngài mong anh chị em thực thi lời Ngài.
Kết thúc cuộc thăm viếng ngắn ngủi nhưng đầy tình thương yêu của chủ chiên với đoàn chiên nơi xa xôi hẻo lánh Bản Lầu này, tất cả mọi người đã dâng lên Mẹ nhân lành lời ca “Xin Vâng, Mẹ dạy con hai tiếng Xin Vâng, hôm qua, hôm nay, ngày mai và suốt đời”. Sau đó, khi thăm cụ già là thân phụ của gia chủ bị liệt giường từ hai năm qua ở phòng trong, thật cảm động khi cụ lặp lại ý nguyện “Xin Vâng” theo thánh ý Chúa. Cụ cũng thều thào nói lên ước nguyện được nhìn thấy giáo họ Bản Lầu và những giáo họ khác nữa tại huyện Mường Khương được thành lập trước khi cụ nhắm mắt lìa đời !
TB. Sau khi đọc mẩu tin này, xin bạn đọc dâng một kinh Lạy Cha để cầu nguyện cho cộng đoàn Công Giáo tại Mường Khương. Chân thành cám ơn.
Giáo hội Miền Bắc dưới thời cộng sản từ 1954 đến nay (kỳ III)
2. Dấu ấn của một thời
b. Một thời kiên trung trong đức tin
Trước những khó khăn của thời cuộc, trong bối cảnh hỗn loạn của biến cố di cư và cả sau này nữa, khi Giáo hội Miền Bắc chỉ còn là “số sót” giữa gọng kìm siết chặt bằng những chính sách triệt tiêu Giáo hội một cách có hệ thống của nhà cầm quyền Hà Nội, hình ảnh những mục tử kiên trung, những tín hữu nhiệt thành sống chết vì đạo đã tô điểm cho Giáo hội Công giáo tại Việt Nam những trang sử hào hùng bi tráng.
Có thể nói, Giáo hội Công giáo Miền Bắc, ngay trong thời điểm khó khăn nhất sau năm 1954, vẫn còn đó những vị mục tử trung kiên, dám đương đầu với những thách đố của thời cuộc. Họ đã chọn ở lại để được đồng hành trong đau khổ với những tín hữu vì hoàn cảnh không thể ra đi. Hình ảnh Đức Hồng y Trịnh Như Khuê, vì bị chính quyền cản trở, hằng đêm, một mình bước đi trên tầng thượng của Tòa Giám mục để cầu nguyện, đến nỗi bước chân ngài tạo nên một lối mòn trên nền gạch, đã trở thành một câu chuyện điển hình về một thời gian khó của Giáo hội Miền Bắc.
Trong hồi ký của mình, Đức Cha Phaolô Lê Đắc Trọng đã miêu tả vị bề trên khả kính của mình – Đức Hồng y Trịnh Như Khuê, như một mục tử đầy khôn ngoan, nhưng cũng không kém phần quyết liệt, dứt khoát trong chọn lựa đức tin để bảo vệ Giáo hội.
Trước hết, đối với hàng linh mục, ngài công khai cấm các linh mục không được đi Nam. Những ai rời nhiệm sở phải có phép của ngài và ngài “chỉ cho phép vì một lý do chính đáng nào đó không thể an toàn ở lại miền Bắc. Những ai bỏ đi mà không có phép thì bị treo chén”. Đối với các tín hữu, ngài chăm lo đời sống đức tin của họ. Những lúc có thể, ngài rời Tòa Giám mục để tới với các con chiên. (x. Đức cha Phaolô Lê Đắc Trọng, Những Câu chuyện về Một thời, tr. 307).
Đối với nhà cầm quyền Cộng sản, ngài tỏ rõ thái độ dứt khoát, trước sau như một: “bất hợp tác”. Thái độ “bất hợp tác” này được thể hiện ngay từ trong lá Thư chung ngày 9 tháng 11 năm 1951, ngài ký chung với Đức Khâm sứ Tòa Thánh John Dooley và một số giám mục Việt Nam khác, trong đó có đoạn viết: “Giáo hội Công giáo và chủ nghĩa Cộng sản là hoàn toàn đối nghịch nhau đến nỗi vị Giáo hoàng – Đức Thánh Cha của chúng ta, đã tuyên bố rằng tuyệt đối không thể cùng một lúc vừa là Cộng sản vừa là Công giáo và tất cả những người Công giáo gia nhập Đảng Cộng sản thì tức khắc (ipso facto) bị tách ly khỏi Giáo hội. Không những bạn bị cấm gia nhập đảng Cộng sản mà bạn còn không thể cộng tác với đảng ấy và làm bất cứ điều gì giúp đưa đảng ấy nắm quyền”. Ngài đã triệt để thực hiện nội dung lá thư chung này.
Theo nhiều nhân chứng kể lại, ngài chấp nhận bị cấm đoán, sách nhiễu chỉ để không phải đi bỏ phiếu bầu cử trong các cuộc bầu cử dân chủ giả hiệu mà chính quyền cộng sản bày ra.
Riêng đối với cái gọi là “Ủy ban Liên lạc những người Công giáo yêu Tổ quốc, yêu Hòa bình”, một ngày sau khi ủy ban này được thành lập, trong một lá thư đề ngày 12/3/1955, ký chung với các Giám mục khác, ngài đã lên tiếng cảnh giác các Kitô hữu về mối nguy hại mà ủy ban này sẽ gây ra: “Phong trào Những người Công giáo Kính Chúa Yêu Tổ Quốc Và Hòa Bình, được một số linh mục hoàn toàn bên ngoài hàng giáo phẩm phát động tại Hà Nội, là một mối nguy hiểm cho sự thống nhất của Giáo hội tại Việt Nam. Hàng giáo phẩm không nhìn nhận phong trào này có liên quan đến các linh mục và tín hữu”(Vietnamese Studies số 53, tr. 200). Trong thực tế, ngài đã nhiều lần lên tiếng ngăn cấm các linh mục tham gia ủy ban này bằng việc rút phép thông công những linh mục theo Ủy ban Liên lạc Công giáo. Có lẽ vì thế mà cho tới tận hôm nay, giáo phận Hà Nội luôn tự hào là giáo phận không có bất cứ linh mục hay tu sĩ nào tham gia Ủy ban Đoàn kết Công giáo, một tổ chức ngoại vi của Đảng Cộng sản.
Trong “Những câu chuyện về một thời”, viết về các giáo phận thuộc Giáo tỉnh Hà Nội sau năm 1954, Đức Giám mục Phaolô Lê Đắc Trọng còn kể lại nhiều tấm gương đức tin sáng chói, những cách ứng xử khôn khéo của các vị giám mục, linh mục trước những đòi hỏi nhiều khi thật vô lý của chính quyền Hà Nội.
Tại Giáo phận Thái Bình, Đức cha Đaminh Đinh Đức Trụ được kể là một “con người ly kỳ và mọi việc trong thời ngài cũng ly kỳ”. Sau khi được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Giám mục Thái Bình, ngài đã cải trang làm người “lái lợn”, bằng xích lô, bí mật lên Hà Nội để được tấn phong Giám mục. Ngài đã được Đức Hồng y Trịnh Như Khuê tấn phong Giám mục tại nhà nguyện Tòa Giám mục ngay bên phòng ngủ của ngài. Sau đó, ngài trở về Tòa Giám mục Thái Bình, một mình ở trong ngôi nhà ba tầng cũ kỹ, không thư ký văn phòng, không người giúp việc, ăn mặc như một nông dân thực thụ, lãnh đạo giáo phận vượt qua biết bao sóng gió. Ngày nay, về Thái Bình, đâu đâu người giáo dân cũng nhắc đến ngài với lòng biết ơn chân thành. Người ta kể cho nhau những câu chuyện về cách ứng xử khôn ngoan, nhưng cũng rất hài hước của ngài với các cấp chính quyền. Trên tòa giảng, ngài nói thẳng thắn, không kiêng nể sự gì, kể cả các cấp chính quyền. Ngài phong chức “chui” cho rất nhiều linh mục để họ làm công việc “đóng mở cửa nhà thờ” như ngài đã trả lời các cán bộ khi bị họ thẩm vấn. “Trong những dịp lễ hội của nhà nước, nhà nào, cơ quan nào cũng thế, ít nhất phải treo cờ. Ngài không treo cờ bao giờ. Nhưng có một lần, ngài cho treo cờ một cách đặc biệt. Ngài dựng một cột cờ rất cao, khoảng 20m, theo kiểu mẫu mà các xứ đạo ở Thái Bình hay Bùi Chu quen dựng vào các ngày lễ lớn. Cột cờ được dựng với hàng chục cây luồng. Trên ngọn, ngài cho cắm một lá cờ bằng hai bàn tay. Ngửa mặt lên phải nhìn kỹ mới thấy. Cán bộ nói: “Thật là quá bôi bác!” (x. Đức cha Phaolo Lê Đắc Trọng, Những câu chuyện về một thời”, tr. 311-317).
Tại hai giáo phận Bùi Chu và Phát Diệm, những giáo phận chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ biến cố di cư và bị chính quyền cộng sản “ưu ái cách đặc biệt”, nhưng cả hai Đức Giám mục Giuse Phạm Năng Tĩnh và Phaolo Bùi Chu Tạo đã luôn chứng tỏ các ngài là những mục tử hết lòng hy sinh vì đoàn chiên và là chỗ dựa vững chắc cho các tín hữu bền chí trung kiên trong việc đạo.
Giáo hội Miền Bắc thật sự may mắn khi có những vị mục tử mạnh mẽ, can trường như vậy. Bên cạnh các ngài, còn có rất nhiều các linh mục, tu sĩ đã chọn lựa lập trường “cứng rắn với chế độ” mà các đấng chủ chiên đã làm gương đi bước trước. Đó là các linh mục như cố Chính Vinh, cha Thông, cha Oánh, Đức cố Hồng y Trịnh Văn Căn, Đức cha Phaolô Lê Đắc Trọng, cha Nhân Giáo phận Hà Nội, cha Hân Giáo phận Bùi Chu, cha Hy Giáo phận Thái Bình, cha Giuse Vũ Ngọc Bích, thầy Marcel Nguyễn Tấn Văn Dòng Chúa Cứu Thế… Nhiều người trong số họ đã chấp nhận tù đày và nhiều người đã phải chết rũ tù, mất xác nơi rừng thiêng nước độc.
Bên cạnh những vị mục tử can trường vì sự đạo này, sẽ thật thiếu sót nếu không kể đến hàng trăm, hàng ngàn các ông trùm, ông câu, ông biện, các giáo dân nhiệt thành đã bị nhà cầm quyền cộng sản bắt giữ, tù tội vì muốn trung thành với đức tin và vì lòng yêu mến Giáo hội. Họ là người tù không án, tự nhận mình là “thanh ngang của cây thập giá Chúa” mà Tuân Nguyễn đã kể lại cho Phùng Quán với tất cả sự kính trọng và lòng ngưỡng mộ (x. Phùng Quán, Ba phút Sự thật, tr. 175-184). Họ là gần 100 tù nhân được Kiều Duy Vĩnh cung kính gọi là “các anh hùng tử đạo” khi bị giam chung tại trại giam Cổng trời Cán Tỷ. Họ cũng có thể là Thầy Cân, là Hóa, những anh em Công giáo được nhà văn Bùi Ngọc Tấn miêu tả trong cuốn tiểu thuyết Chuyện kể năm 2000 với tình cảm quý mến dạt dào, vì tất cả “đã sống kiên cường đúng mực, tốt với bạn tù” (x. Bùi Ngọc Tấn, Chuyện kể năm 2000, tr.60).
Ngày nay, thật khó có thể hình dung được tại sao trong cảnh tù tội, những tín hữu Công giáo vẫn có thể kiên trung giữ đức tin, gây được nhiều thiện cảm với những anh chị em không Công giáo. Trong đức tin, họ là những hạt giống mà Chúa đã gieo vào lòng đất, chấp nhận chết đi để mang lại một mùa gặt bội thu những gánh lúa vàng.
Có thể nói, Giáo hội Công giáo Miền Bắc không bị “cộng sản hóa”, không trở thành “giáo hội của nhà nước” như dự định ban đầu của nhà cầm quyền cộng sản muốn biến Giáo hội thành công cụ phục vụ cho chế độ, phần lớn là do, vào những thời điểm gian khó nhất, Giáo hội Miền Bắc đã được Chúa ban cho những vị mục tử nhân lành, những tín hữu nhiệt thành dám liều mình vì đức tin.
Chính sự kiên trung của họ đã bảo vệ Giáo hội, đã tạo một nền móng kiên cố mà không thế lực nào có thể phá đổ được. Chính họ chứ không ai khác, qua cuộc sống và những kinh nghiệm khổ đau của mình, đã tiếp thêm sức mạnh, giúp các giáo hữu Miền Bắc tìm ra cách chung sống với những người cộng sản, ít bị vẩn đục, tàn phai.
Thái Hà, ngày 5 tháng 7 năm 2016
Lm. Gioan Nguyễn Ngọc Nam Phong, C.Ss.R
(còn tiếp)
Nguồn: chuacuuthe.com
Giáo xứ Thanh Dạ cầu nguyện cho công lý và hòa bình trong ngày cung nghinh thánh giá luân lưu
GPVO – Cùng khởi hành vào lúc 5h sáng ngày 05.7.2016, dưới bầu trời quang đãng, dưới tiếng loa đài vọng lên những bài hát về tình Chúa, tình người, hơn 10.000 giáo dân xứ Thanh Dạ (Quỳnh Thanh – Quỳnh Lưu – Nghệ An) đã tham dự vào cuộc cung nghinh thánh giá được xuất phát từ giáo xứ Thanh Xuân. Với sức hút mãnh liệt của niềm tin và hiệp nhất, khung cảnh miền quê vốn thanh bình êm ả của mảnh đất bao đời thuần nông đã được thay thế bằng một bầu khí vui tươi nhộn nhịp, diễn tả niềm vui và liên đới một cách sống động của hàng ngàn con tim đang thao thức về vận mệnh của đất nước, đang trăn trở về việc thực thi công lý và hòa bình trong xã hội hôm nay.
Đoàn cung nghinh Thánh Giá nối đuôi nhau di chuyển qua một số xã thuộc huyện Quỳnh Lưu và trở về nhà thờ giáo xứ. Đây là cuộc gặp gỡ ý nghĩa mang đậm dấu ấn của niềm tin và hy vọng, là thời khắc mà thế hệ trẻ giáo xứ Thanh Dạ hát vang vọng hành khúc lên đường. Lên đường để trang bị cho mình những kiến thức cần thiết; lên đường để thể hiện sức trẻ, nhiệt huyết của mình và lên đường để gieo mầm tin yêu vào giữa lòng xã hội với nhiều trào lưu thời thượng của ngày hôm nay. Quả thế, giới trẻ ngày nay đang phải trải qua một cuộc khủng hoảng về giá trị, đó cũng là cuộc khủng hoảng chung của toàn xã hội ngày nay. Phải nhìn nhận rằng một số người trẻ Công Giáo đang phải trải qua những căng thẳng, xung đột giữa tâm linh và thế tục, giữu cơ cấu đạo và đời. Nhiều tập tục, lễ giáo, truyền thống và một số mức thang giá trị ngàn đời đang đi vào quên lãng, nhưng những giá trị mới vẫn chưa ló dạng hay chưa đi vào tâm thức.
Từ lối sống đó mà giới trẻ ngày càng mất đi định hướng, mất đi lý tưởng sống cho đời, mất đi những chuẩn mực đạo đức, mất đi những lý tưởng tâm linh và xã hội, từ đó bị choáng ngợp trước vẻ quyến rũ của xã hội tiêu thụ, sống phó thác cho cho sức quyến rũ đó. Bởi vậy, cung nghinh Thánh Giá trong dịp Đại Hội giới trẻ lần này với thời gian 05 ngày chính là cơ hội quý báu để thôi thúc mỗi bạn trẻ Thanh Dạ dấn thân quả cảm cho sự sống và tình yêu của Đức Kitô được trở nên dũng khí linh nhiệm nhằm cảm hóa và biến đổi thế giới này.
Cũng trong thời khắc đón nhận Thánh Giá về giáo xứ, đặc biệt trong Thánh Lễ trọng thể, một điều dễ nhận thấy là tinh thần khát khao hòa bình, tự do, hạnh phúc và cầu cho sự thật được ngự trị giữa lòng xã hội mà sự giả dối và bạo lực đang lên ngôi. Mọi người không chỉ bày tỏ sự sẻ chia chân thành, sâu xa với nỗi đau của các nạn nhân của thảm họa môi trường tại miền Trung, mà còn cầu nguyện cho chính những người đã và đang sa lầy vào sự bất công, sai trái, như nhận định của Đức Thánh Cha Phanxicô: “Trái Đất của chúng ta đang bị bóc lột và tàn phá là một trong những người nghèo bị bỏ rơi và bị đối xử tàn tệ nhất, nó đang ‘rên siết và quằn quại’ (Rm 8, 22)” (Đức Thánh Cha Phanxicô, 'Thông điệp Laudato Si', Số 2).
Những lời nguyện tha thiết kèm theo những biểu ngữ bày tỏ khát vọng con người ngày nay, đặc biệt các nhà lãnh đạo đất nước Việt Nam, các tổ chức kinh tế trong nước cũng như nước ngoài, biết bảo vệ môi trường, bảo vệ sự thật và sự sống; khát vọng quyền được sống trong một môi trường lành mạnh, hài hòa và bền vững. Giấc mơ hòa bình thật giản dị, là một khát vọng chính đáng nhưng vẫn còn đó những giọt máu và nước mắt đang chảy trên những người dân vô tội, vẫn còn đó bao muộn phiền, âu lo cho những tháng ngày dài phía trước với nhiều dự cảm chẳng lành, vẫn còn đó sự xuyên tạc và bóp méo sự thật của các cấp chính quyền đối với Bề Trên Giáo phận nhà.
Bên cạnh đó, cộng đoàn giáo xứ Thanh Dạ cũng cầu nguyện đặc biệt cho nhu cầu sử dụng nước sinh hoạt và nước nông nghiệp nơi đây được đảm bảo. Theo đó, trong thời gian qua, nguồn nước sinh hoạt bị ô nhiễm nghiêm trọng do nhà máy nước không được quan trắc chất lượng định kỳ. Kèm theo những khúc mắc về nguồn nước nông nghiệp của người dân vẫn chưa được giải quyết thỏa đáng từ phía các cấp chính quyền gây nên những hậu quả về kinh tế không nhỏ cho nhiều hộ gia đình. Bên cạnh đó, một số thông tin liên quan đến nhà máy và nguồn nước được đưa lên các trang mạng chính thức của nhà nước không đúng sự thật gây nên những bức xúc cho bà con nơi đây và yêu cầu phải đính chính.
Trước ngày Đại Hội Giới Trẻ giáo hạt Thuận Nghĩa (sẽ được diễn ra vào ngày 9-10.7.2016 sắp tới), lễ cung nghinh Thánh Giá hôm nay đã để lại nhiều dấu ấn đặc biệt trong tâm hồn mỗi người giáo dân Thanh Dạ. Cộng đoàn giáo xứ nơi đây muốn bày tỏ sợi dây liên đới, đồng hành cùng vị chủ chăn giáo phận và những người anh chị em đang phải gánh chịu hậu quả nặng nề của thảm họa môi trường biển. Hơn 10.000 con tim nơi đây sẽ cùng hiệp ý cầu nguyện ngõ hầu sự bình an, công lý được ngự trị đích thực giữa những thời khắc biến động và thử thách này. Xin Chúa cũng cho các nhà lãnh đạo quốc gia khôn ngoan tìm ra những giải pháp giải quyết các thảm họa và luôn ý thức về vai trò, vị trí của mình, ngõ hầu mang lại cho quê hương Việt Nam sự thái hòa, thịnh vượng.
Nguồn: http://giaophanvinh.org/
Tỉnh dòng SPC Đà Nẵng: 108 nữ tu từ 57 cộng đoàn về tham dự Thường huấn
Tuần qua, 108 nữ tu thuộc Tỉnh dòng Thánh Phaolô Đà Nẵng đã về tham dự Khoá Thường huấn Hè 2016 để bồi dưỡng Kỹ năng Phục vụ Hiệu quả. Các sœurs về tham dự thường huấn năm nay đến từ 57 cộng đoàn và 11 giáo điểm trải dài trên 23 tỉnh thành Việt Nam (như Ban Mê Thuột, Đà Nẵng, Huế, Nha Trang, Pleiku, Qui Nhơn, Vinh, Bình Định, Bình Phước, Đăk Lăk, Đăk Nông, Gia Lai, Hà Tĩnh, Khánh Hoà, Kontum, Nghệ An, Ninh Thuận, Phú Yên, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Trị, Thừa Thiên).
Kỹ năng Phục vụ Hiệu quả
Chủ đề thường huấn năm nay là “Kỹ năng Phục vụ Hiệu quả” - dựa theo tinh thần và nội dung của các tác phẩm sau đây:
- 7 thói quen thành đạt (theo Stephen Covey)
- 9 phong cách lãnh đạo/phục vụ không chức danh (theo Robin Sharma)
- 9 thành công bằng sự tử tế (theo Inamori Kazuo)
- 17 nguyên tắc làm việc theo nhóm (theo John Maxwell)
- 25 phương cách phục vụ đắc nhân tâm (theo John Maxwell)
Sau phần diễn giải, phân tích và tóm kết của thầy phụ trách thường huấn, các tham dự viên đã được chia thành 9 tổ để làm việc theo nhóm, học tập theo nhóm, và thuyết trình theo nhóm về các đề tài: (1) Tiên phong Chủ động; (2) Xác định Mục tiêu; (3) Thứ tự Ưu tiên; (4) Tư duy Cùng thắng; (5) Lắng nghe Thấu hiểu; (6) Đồng tâm Hiệp lực; (7) Cải tiến Bản thân; (8) Làm việc theo Nhóm; và (9) Thuật Đắc nhân tâm. Vì thời gian thường huấn có giới hạn nên hai tác phẩm của Robin Sharma và Inamori Kazuo sẽ được học hỏi vào một dịp khác.
5 phẩm chất cốt lõi để một cộng đoàn hoạt động kết quả
Lồng trong chương trình thường huấn, thầy phụ trách cũng tìm dịp giúp quý tham dự viên ôn lại những bài học đã được chia sẻ trong các khóa thường huấn trước như 5 phẩm chất cốt lõi của nhóm sau đây:
1. TÍN NHIỆM nhau
Khi các thành viên trong nhóm thực sự minh bạch và trung thực với nhau, họ có thể xây dựng lòng tin trên sở đoản của nhau.
2. Giải tỏa các mâu thuẫn chung quanh ý tưởng để tiến tới ĐỒNG THUẬN
Khi có sự tin tưởng, thành viên trong nhóm có thể tham gia vào những cuộc tranh luận không cần sàng lọc trước và mang tính cách xây dự cho các ý tưởng.
3. CAM KẾT thi hành các quyết định
Khi các thành viên có thể phát biểu ý kiến và tranh luận về các ý tưởng ở trong nhóm, họ sẽ có nhiều khả năng hơn để thi hành các quyết định.
4. Chịu TRÁCH NHIỆM chung với nhau
Khi tất cả mọi người cam kết thực hiện một kế hoạch hành động rõ ràng, họ sẽ sẵn sàng chịu trách nhiệm chung với nhau.
5. Tập trung để đạt được KẾT QUẢ tập thể
Mục đích tối hậu của việc xây dựng niềm tin lớn hơn thì đồng thuận, cam kết, và trách nhiệm là một: đạt được kết quả.
5 điều Hướng Sinh của Thầy Giuse (1963)
Tinh thần của 5 điều Hướng Sinh bao gồm những giá trị cốt lõi từ văn minh tình yêu của Đức Kitô mà thầy phụ trách luôn tìm dịp ôn luyện và khuyến khích thực hành trong các khóa thường huấn. Theo thầy, “điều kiện ắt có và đủ” để trở thành một Kitô hữu đích thực là “có đạo” và “sống đạo” (Kitô hữu = Có đạo + Sống đạo). Và thực thi 5 điều Hướng Sinh sau đây là sống đạo:
1. Khi bị chỉ trích hoặc làm tổn thương,
=>Tôi sẵn sàng tha thứ.
2. Khi được người khác cho biết khuyết điểm,
=>Tôi vui vẻ kiểm điểm bản thân để cải thiện.
3. Khi muốn chỉ trích hay làm tổn thương kẻ khác,
=>Tôi nhận diện mình để cảm thông với người.
4. Khi thấy ai có lỗi,
=>Tôi nói riêng với người đó và không cho người khác biết.
5. Khi bị thiếu thốn về tinh thần hay thể chất,
=>Tôi cầu nguyện và tận dụng khả năng của mình.
Tóm lại, hãy bắt đầu bằng những gì mà mình và người đã có những điểm giống nhau. Nếu có bất đồng, hãy đặt mình vào hoàn cảnh của người để cảm thông và thấu hiểu. Thiết lập sự hoà hợp tâm hồn giữa mình với người. Tích cực trong việc hoà giải yêu thương. Và cuối cùng, kiên nhẫn cầu nguyện và ra sức khắc phục để trở nên người đồng hành đích thực.
7 Thói quen Thành đạt của Thầy Covey (1973)
Để phục vụ hiệu quả, chúng ta cần học hiểu và thực hành 7 thói quen thành đạt mà Thầy Covey đã soạn thảo và xuất bản năm 1973. Trên 25 triệu người đã đọc tác phẩm của thầy – được chuyển dịch từ Anh ngữ sang 54 ngôn ngữ khác nhau trên thế giới. Hãy lắng nghe lời thầy hướng dẫn trong một phút:
1. Tự mình đưa ra những cam kết nhỏ và thực hiện chúng.
2. Hãy là người hướng dẫn chứ không phải là người phán xét kẻ khác.
3. Làm gương sáng chứ không chỉ trích các cộng sự.
4. Đưa ra giải pháp chứ không làm vấn đề nghiêm trọng hơn.
5. Tập trung vào ưu điểm của người khác để khích lệ và giúp họ thăng tiến.
6. Nhìn khuyết điểm của người khác bằng cảm thông chứ không lên án.
7. Không bàn cãi khuyết điểm của người khác trong các buổi họp; nếu cần thì gặp riêng và trao đổi theo nguyên tắc tín cẩn (confidentiality).
9 Thực tập của Đời sống Thánh hiến
Mỗi bài ca được thầy hướng dẫn mời cả lớp cùng vui hát trong khóa thường đều được dùng để chuyển tải những thông điệp về tinh hoa của Văn minh Tình yêu của Đức Kitô và những giá trị cốt lõi của đời sống thánh hiến, như:
1. Chấp nhận mình (bản thân) như quà tặng cho tha nhân.
2. Chào đón người (tha nhân) như ân ban của Thiên Chúa gửi đến cho mình.
3. Chu toàn trách nhiệm một cách trưởng thành - không tìm cớ hay tìm người để đổ lỗi.
4. Chấp nhận thử thách trong sáng tạo - khi không thay đổi được hướng gió thì thay đổi cánh buồm.
5. Quân bình trong đời sống đa diện là tâm linh, trí tuệ, thể xác.
6. Biết phát hiện cái tốt nơi mình và cái tốt nơi người để lũy thừa hoá những ưu điểm được trao ban.
7. Phục vụ trong yêu thương để sở hữu hoá tình yêu đón nhận và cho đi.
8. Vượt qua khung xếp của bản thân để sáng tạo - sử dụng tối đa tiềm năng của mình.
9. Duy dưỡng niềm vui thành toàn - vì mỗi ngày sống là một tiến trình tăng trưởng trình tự và tốt tươi.
Dòng Thánh Phaolô thành Chartres Việt Nam
Các khóa thường huấn SPC đã được tổ chức hằng năm nhằm thỏa đáp nhu cầu bồi dưỡng kỹ năng sống theo Tin Mừng và nghệ thuật phục vụ dân Chúa khắp nơi. Saint Paul de Chartres (SPC) - là tên Dòng Thánh Phaolô thành Chartres - đã được thành lập tại Việt Nam cách nay trên 150 năm. Hội dòng đã và đang có những đóng góp lớn lao trong công tác giáo dục, xã hội, y tế, và đặc biệt là thực hiện sứ vụ truyền giáo trong 4 Tỉnh dòng: Sài Gòn, Cần Thơ, Đà Nẵng và Hà Nội. Dòng Thánh Phaolô thành Chartres tại Việt Nam hiện có trên 1.000 nữ tu, chiếm ¼ tổng số nữ tu của Hội dòng Thánh Phaolô trên toàn thế giới.
Hiện nay Tỉnh dòng Thánh Phaolô Đà Nẵng có trên 500 soeurs vĩnh khấn và khấn sinh, phục vụ tại 57 Cộng đoàn và 11 Giáo điểm - trải dài trên 7 Giáo phận và 23 tỉnh thành Việt Nam. Soeur Xuân Lan là Bề trên Giám tỉnh đương nhiệm của Tỉnh dòng SPC Đà Nẵng. Tiến sĩ Nguyễn Trung Hiếu, Giáo sư Đại Chủng viện St. Francis Xavier, đã được Tỉnh dòng Thánh Phaolô Đà Nẵng mời về hướng dẫn khoá thường huấn năm 2014, 2015 và 2016.
(Nguồn: nghiasinh.org)