Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Milan: chủ đề và biểu trưng chuyến đi của Đức Phanxicô ngày 25 tháng 3-2017
“Vì Thầy có một dân đông đảo trong thành này”
fr.zenit.org, Marina Droujinina, 2016-12-09
Biểu trưng chuyến đi của Đức Phanxicô ở thành phố Milan, nước Ý.
“Vì Thầy có một dân đông đảo trong thành này” (Cv 18: 10), đó là chủ đề giáo phận Milan chọn cho chuyến đi của Đức Phanxicô đến Milan vào ngày 25 tháng 3-2017 này.
Trong một thông báo ra ngày thứ sáu 9 tháng 12-2016, giáo phận Milan đã giới thiệu biểu trưng và bích chương của chuyến đi này. Hồng y Angelo Scola, Tổng giáo phận Milan chọn một câu trong sách Công vụ Tông đồ (18,10): “Vì Thầy có một dân đông đảo trong thành này”. Biểu trưng do ông Adriano Attus, giám đốc năng lực sáng tạo của nhật báo Sole 24 Ore, và ông Luca Pitoni, giám đốc nghệ thuật của báo Donna moderna thực hiện, biểu trưng mang hình hai bàn tay hướng về Đức Giáo hoàng.
Các bàn tay cũng là đôi cánh thiên thần, đôi cánh của chim bồ câu, tượng trưng cho hòa bình, nền là Nhà thờ chính tòa giáo phận Milan. Một hình ảnh nhắc các dãy núi, đặc trưng của các vùng miền Bắc của giáo phận. Ở phần trên của biểu trưng là Đức Giáo hoàng ôm toàn thế giới. Ở giữa là hình thập giá.
Hai nhà sáng tạo giải thích: “Chúng tôi muốn nêu bật tính đơn giản mà Đức Giáo hoàng mong muốn nên chúng tôi bỏ mọi hình ảnh liên hệ đến hệ thống phụng vụ. Cả thành phố Milan, dù là tu sĩ hay người dân thường đều đưa bàn tay của mình ra hướng về Đức Giáo hoàng, người ôm tất cả, tươi cười và mang hy vọng, hòa bình đến cho tất cả”.
Giáo phận cũng đã gởi các bích chương chính thức đến các giáo xứ trong địa hạt của mình cũng như các giáo phận thuộc Lombardie. Các linh mục kêu gọi tín hữu chuẩn bị cho chuyến đi của Đức Giáo hoàng ngay từ bây giờ.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm chuyển dịch
Nguồn: phanxico.vn
Hãy làm hoà trước: chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô đến Colombia vào tháng Chín
WHĐ (12.03.2017) – Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ viếng thăm Colombia vào tháng Chín 2017: Thông báo chính thức này được đưa ra hôm thứ Sáu 10-03 tại một cuộc họp báo ở Bogota, thủ đô của Colombia. Theo Phòng Báo chí Toà Thánh, Đức Thánh Cha đã nhận lời mời của Tổng thống Santos và sẽ viếng thăm các thành phố Bogota, Villavicencio, Medellin và Cartagena từ ngày 6 đến 11 tháng Chín năm nay. Chương trình chi tiết sẽ được công bố sau.
Đất nước Colombia đang bước vào con đường hoà bình sau khi ký kết một thỏa thuận chấm dứt một trong những cuộc nội chiến lâu dài nhất trong lịch sử. Người dân Colombia trong năm mươi năm qua đã học cách sống chung với bạo lực; nay họ phải học cách sống trong hoà bình.
Vì thế chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha được trình bày như một thời điểm của ân sủng và niềm vui để ước mơ về khả năng đất nước sẽ chuyển biến. Đức Thánh Cha được xem như một nhà thừa sai của hoà giải sẽ giúp người dân Colombia đoàn kết với nhau và nhìn nhau bằng những cắp mắt của hy vọng và thương xót. Đối với các giám mục, chính người dân Colombia phải trở thành những sứ giả của hoà bình, nhờ sự trợ giúp của Giáo hội. Hoà bình được xây dựng từng ngày, từng bước.
“Chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha đến Colombia là lời mời gọi mọi người Colombia hãy nhìn nhau với niềm hy vọng, để có thể làm hoà trước, và nhận ra nỗi đau của người khác, tha thứ cho những ai đã gây đau thương cho mình, để lại gặp nhau như những người Colombia, hiểu được nỗi đau của những ai đang thống khổ, chữa lành trái tim của họ, khám phá đất nước ẩn sau những rặng núi, xây dựng đất nước mà mình hằng mơ ước”.
Nhân dịp này, logo chuyến tông du cũng được công bố. Logo trình bày hình ảnh Đức Thánh Cha đang bước đi. Đây là biểu tượng cho hành động dựng xây và mơ ước, bởi vì mọi thay đổi đều bắt đầu với sự hoán cải tâm hồn và phải dành thời gian để gặp gỡ. Đó cũng là một thời điểm trong lịch sử của Colombia, để tái khám phá hình ảnh của một đất nước từ thời tiền Christopher Colombus. Chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha sẽ là điểm xuất phát để khởi đầu một điều gì đó mới mẻ.
(Vatican Radio)
Minh Đức
Nguồn: WHĐ
Một giáo hoàng làm phiền có thể làm thay đổi Giáo hội không?
Trích phần kết luận sách “Giáo hoàng này, người làm phiền”. Ce pape qui dérange, Virginie Riva. Nxb De l’Atelier.
Không nghi ngờ gì, Đức Phanxicô cảm thấy khẩn cấp phải đưa Giáo hội vào một sự thay đổi không thể đảo ngược. Vì vậy, câu trả lời cho câu hỏi liệu Đức Giáo Hoàng có thể thay đổi Giáo Hội được không, chủ yếu phụ thuộc vào độ dài của triều giáo hoàng của ngài. Sự quyết tâm của ngài làm người ta nghi ngờ không biết ngài có từ chức không. Ngài có thể bị bệnh hay tuổi tác mang đi sớm, ngài là người không ngừng cầu nguyện, làm việc, tiếp kiến, không bao giờ nghỉ hè, ngay cả cũng không quay về đất nước Argentina của mình. Ngài đã cho người Argentina biết: ngài không về trước năm 2017. Và mặc cho họ nhớ ngài, mặc cho người em gái bị bệnh … Đức Phanxicô không muốn lãng phí thời gian.
Điều chắc chắn là ngài có nhiều dự án. Nhất là ngài đặc biệt quan tâm đến các cuộc đấu tranh ngoại giao. Ngài mong có thể đi Trung quốc. Ở Vatican, người ta hình dung ngài có thể chết tử đạo bên cạnh các tín hữu kitô ở Trung Đông, nơi ngài hết lòng mong muốn đến đó – hơn là chết trong nhà hưu dưỡng cho các tu sĩ hay trên giường của ngài ở Nhà Thánh Mácta…. Nhưng lòng tận tâm của ngài, nếu không muốn nói là lòng hy sinh của ngài có đủ để in dấu ấn của ngài không? Tinh thần của Đức Phanxicô có thể kéo dài quá triều giáo hoàng của ngài không?
Sức mạnh của Đức Phanxicô là ngài biết thể hiện sự thay đổi bằng các hành vi, các biểu tượng mạnh: một bài học thật sự cho các chính trị gia bị kẹt bởi sự mài mòn trong việc thực thi quyền lực ở các nước dân chủ tân tiến của chúng ta… Ngài, người chủ trương một Giáo hội nghèo cho người nghèo đã mời hơn 4000 người sống bên lề xã hội, đến từ khắp nơi ở Âu châu dự buổi tiếp kiến đặc biệt, rồi một thánh lễ cho họ ở Đền thờ Thánh Phêrô vào cuối Năm Thánh Lòng thương xót tháng 11-2016. Ngay cả những khó khăn của ngài cũng được tha. Ở Pháp, ngài chỉ trích sách giáo khoa mà theo ngài là cổ động cho thuyết về giống đã bị chỉ trích mạnh, nhưng cuộc tranh luận cuối cùng cũng được dập tắt nhanh. Tương tự như vậy, Đức Giáo hoàng đã thay đổi nội dung khi nói về người di dân, ngài nhấn mạnh nhiều đến hội nhập thay vì đón nhận. Tuy nhiên, tất cả mọi người đi theo ngài. Bởi vì ngài tiếp tục làm ngạc nhiên, làm phiền, thúc bách. Vì vậy, dù có nhiều mong chờ được gợi lên, nhưng ngài không làm thất vọng…
Vấn đề liên quan đến Đức Giáo hoàng bây giờ là như sau: làm thế nào để sự thay đổi này tiếp tục cả sau triều giáo hoàng của ngài? Sự thể hiện qua hành vi, qua các biểu tượng mạnh có đủ mạnh để thúc đẩy một thể chế vững chắc như Giáo hội không? Theo nhà giáo luật Carlo Fabtappiè cho biết thì thật khó: “Giống như bất kỳ một thể chế nào, Giáo hội cần sự hợp pháp hóa để thay đổi. Các quyết định của giáo hoàng phải được hợp pháp bởi sự đóng góp của truyền thống, và luôn luôn phải được chú thích lại…” Cho đến nay, ngài chưa được sự hợp pháp hóa này, ngài gọi đó là ước mong của ngài để củng cố Giáo hội. Dự định này, ngài đã bày tỏ rõ ràng sau chuyến đi Thụy Điển, khẳng định nếu con số người công giáo giảm, trách nhiệm không hẳn chỉ do sự thế tục hóa của xã hội, nhưng còn do Giáo hội yếu kém: “Khi đức tin trở nên nguội lạnh thì Giáo hội yếu đi.”
Do đó Đức Giáo hoàng muốn ngăn chận sự yếu đi này, nhưng không ngăn chận trong nghĩa phục hồi quyền lực của Giáo hội, đặt Giáo hội vào trọng tâm thế giới, bao trùm và chinh phục. Ngược lại, ước mong của ngài là biến đổi Giáo hội thành một Giáo hội cùng đi với giáo dân. Vì, ngược với các vị tiền nhiệm của mình, Đức Phanxicô không tố cáo sự hiện đại. Đó là lý do tại sao ngài được toàn thế giới lắng nghe và yêu mến. Thay vì tiếc cho một thế giới đã không còn tồn tại, ngài cố gắng tìm cách để Giáo hội có chỗ của mình trong thế giới… Nếu, vào cuối triều giáo hoàng của mình, Đức Phanxicô làm được thì, đúng, ngài đã hoàn thành chương trình hoạch định của mình.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm chuyển dịch
Nguồn: phanxicovn.org
“Để kiến tạo hòa bình, thế giới còn thiếu các lỗ tai”
Lắng nghe là cách thể hiện đơn giản nhất cho đức ái của tình huynh đệ
fr.zenit.org, Anne Kurian, 2017-03-11
“Lắng nghe là cách thể hiện đơn giản nhất cho đức ái của tình huynh đệ”, Đức Phanxicô tuyên bố như trên trước các thành viên của Hiệp hội “Điện thoại bằng hữu Ý” (Telefono Amico Italia). Ngày 11 tháng 3-2017, Đức Phanxicô đã tiếp 400 thành viên của Hiệp hội trong dịp họ kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Hội.
Hội được thành lập năm 1967, là một tổ chức thiện nguyện có 700 thiện nguyện viên phục vụ 365 ngày mỗi năm, mỗi ngày từ 10 giờ sáng đến 24 giờ đêm.
Chỉ những người biết im lặng mới biết lắng nghe
Trong buổi tiếp kiến, Đức Phanxicô khen ngợi: “Hoạt động của anh chị em là một công việc quan trọng, đặc biệt trong bối cảnh xã hội hiện nay, khi có đủ cảnh phiền toái và khó chịu, thường do sự cô lập và thiếu đối thoại gây ra. Các thành phố lớn, mặc dù đông dân, nhưng đời sống ở các thành phố này tiêu biểu cho lối sống ít tình người, dửng dưng lạnh lùng, liên lạc với nhau ngày càng ảo chứ không tiếp xúc trực tiếp, thiếu các giá trị vững chắc nâng đỡ cuộc sống chỉ chuộng loại văn hóa bề ngoài và sở hữu”.
Trong bối cảnh này, Đức Phanxicô đề cao tinh thần đối thoại. Điều kiện để đối thoại là khả năng lắng nghe, nhưng tiếc thay khả năng này không phải là khả năng chung. Ngài ghi nhận, có người nói: “Để kiến tạo hòa bình, thế giới còn thiếu các lỗ tai, thiếu những người biết lắng nghe, để từ đó mới biết đối thoại”.
Ngài cho biết: “Lắng nghe tha nhân đòi hỏi phải kiên nhẫn và chú ý. Chỉ người nào biết im lặng mới biết lắng nghe. Chúng ta không thể nào vừa nói vừa nghe. Lắng nghe là cách thể hiện đơn giản nhất đức ái đối với người anh em. Lắng nghe Chúa, lắng nghe người anh chị em đang cần được giúp đỡ, lắng nghe bạn hữu, người thân trong gia đình”.
Nếu không còn đối thoại đích thực…
Đức Phanxicô giải thích, “đối thoại là tỏ ra có tinh thần tôn trọng cao độ vì nó làm cho cả hai bên mở lòng ra. Đó cũng là một cách diễn tả đức ái vì khi nhận biết các khác biệt, đối thoại tìm cách giúp đỡ và chia sẻ các con đường để đi đến một lợi ích chung”.
Ngài nói tiếp: “Qua đối thoại, chúng ta học để thấy người khác là ơn của Chúa, chứ không phải là một đe dọa. Đối thoại là nhân bản hóa các quan hệ và vượt lên các chuyện không hiểu nhau. Nếu trong gia đình, nơi công sở, trên lãnh vực chính trị có nhiều đối thoại hơn, các cuộc đối thoại đích thực, thì chúng ta sẽ giải quyết được nhiều vấn đề một cách dễ dàng! Khi không có đối thoại thì các vấn đề, các ngộ nhận, các chia rẽ lớn lên!”.
Cuối buổi gặp, Đức Phanxicô phú dâng các thiện nguyện viên của Hội “Điện thoại Bằng hữu Ý” cho Mẹ Maria, “Người phụ nữ của thinh lặng và của lắng nghe”. Ngài khuyến khích các thành viên tiếp tục công việc của mình để “không còn một ai bị cô lập”.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm chuyển dịch
Nguoôn: phanxicovn.org
Marc Fromager: “Thật kinh ngạc cho đức tin của các tín hữu kitô bị bách hại”
famillechretienne.fr, Bénédicte Drouin-Jollès, 2017-03-02
Hình: Giáo dân sống ở Đức tố cáo các vụ bách hại mà nạn nhân là các tín hữu kitô, Berlin, nf 17 tháng 8 – 2014. ©REUTERS/Thomas Peter
Đối với ông Marc Fromager, Giám đốc cơ quan Giúp đỡ Giáo hội gặp Khó khăn (Aide à l’Église en détresse) tấm gương của các tín hữu kitô bị bách hại chỉ có thể đẩy người tín hữu trung thành hơn với Chúa Kitô. Sức mạnh của họ được rút tỉa từ đâu?
Các tín hữu kitô bị bách hại mà ông gặp, làm thế nào họ có được sức mạnh để cự lại?
Các tín hữu mà chúng tôi gặp, họ sống trong một tình trạng chịu đựng với thời gian, chẳng hạn, khi có cơn khủng hoảng chính trị, hoặc trong một bối cảnh khó khăn đã có từ lâu, đôi khi kéo dài từ nhiều thế hệ. Đặc biệt trường hợp của nước Ai Cập.
Mỗi người có một câu chuyện khác nhau, nhưng mỗi khi họ bám vào Chúa Kitô, vào lời cầu nguyện, vào Giáo hội thì họ có thể chịu đựng, có thể đi qua được thử thách và đe dọa. Về mặt nhân bản, họ không có một lợi ích gì để vẫn là tín hữu, nhưng họ vẫn giữ vững. Khi đồng bằng sông Ninivê bị thất thủ vào tháng 8 năm 2014, đa số các tín hữu kitô vẫn còn sống ở đó. Nhóm Nhà nước Hồi giáo tự xưng cho họ lựa chọn: hoặc họ cải qua đạo hồi và họ không còn phải lo, hoặc họ phải bỏ trốn và để lại của cải, hoặc họ ở lại và bị giết. Tất cả đều ra đi, thà mất tất cả chứ không chối Chúa, dù họ phải gặp bất trắc do sự tàn bạo của nhóm Nhà nước Hồi giáo tự xưng.
Đến một lúc, các tín hữu kitô này của nhiều nước khác nhau phải đối diện với cùng một chọn lựa tận căn: “Cái gì là điều quan trọng nhất của tôi? Cái gì là hàng đầu của đời tôi?” … Chúng tôi phải chú tâm đến câu hỏi này mỗi ngày. Nhưng vì các bối cảnh không làm cho chúng tôi phải trả lời một cách khẩn cấp, nên có khả năng đôi khi chúng tôi quên làm lại chọn lựa là Chúa Kitô. Dù vậy, Chúa Kitô là ơn gọi của những người đã được rửa tội. Qua Phúc Âm, Chúa Giêsu đã hỏi chúng ta: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” (Mt 16, 15).
Điều gì đánh động ông nhất nơi các tín hữu kitô cam chịu này?
Đức tin của họ thật lạ lùng. Tôi hay tự hỏi, nếu ở địa vị của họ tôi sẽ làm gì. Họ có thể nói với Chúa: “Thập giá của Chúa quá nặng, con vẫn âm thầm trung thành với Chúa trong lòng, nhưng bề ngoài, con chấp nhận là người hồi giáo để gia đình con được an toàn, để con giữ được của cải, giữ được công ăn việc làm”… Nhưng không! Dù họ biết, nếu họ chấp nhận thay đổi tôn giáo thì rất nhiều vấn đề sẽ được giải quyết. Đôi khi họ còn được thưởng: chẳng hạn cách đây vài năm ở Ai Cập, người hồi giáo đề nghị thưởng 1500 € cho ai trở lại; phải biết lương trung bình một giáo sư là 50 € mỗi tháng…
Tôi cũng có gặp một linh mục Trung quốc, cha ở 32 năm trong tù chỉ vì cha không muốn ở trong Giáo hội yêu nước do Đảng Cộng sản Trung quốc kiểm soát. Đức tin và chức thánh của cha thật sự không trực tiếp bị đe dọa bởi đề nghị vào Giáo hội chính thức; nhưng trong lương tâm, cha muốn trung thành với giáo hoàng. Mỗi ngày, cha có thể được trả tự do nếu cha ký vào tờ giấy; nhưng cha vẫn ở lại trong tù.
Các tín hữu kitô biến mất ở Trung Đông. Có thể nào đảo ngược lại tình thế ở các vùng này, vùng của cái nôi kitô giáo không?
Sự biến mất các cộng đoàn kitô giáo không bắt đầu với chiến tranh Syria. Từ nhiều thế kỷ nay các Giáo hội kitô giáo đã suy giảm. Nhưng cùng lúc, càng ngày càng có nhiều người hồi giáo trở lại kitô giáo, họ quá ê chề vì các hành động dã man của các tên khủng bố cực đoan. Vì sao Chúa lại để cho Giáo hội ở Trung Đông gần như biến mất? Tôi làm một so sánh giữa những gì Giáo hội chịu đựng với đoạn cuối cuộc đời của Chúa Kitô, bị đánh dấu bởi Sự Thương Khó và Sống Lại. Các cộng đoàn này phối hợp với sự hy sinh và sống trong thịt da của họ sự hy sinh này để chờ sự sống lại.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm chuyển dịch
Nguồn: phanxicovn.org
Đức Thánh Cha kết thúc Tuần tĩnh tâm Mùa Chay và trở về Vatican
WHĐ (11.03.2017) – Phòng Báo chí Toà Thánh thông báo Đức Thánh Cha Phanxicô đã trở lại Vatican sau khi kết thúc Tuần tĩnh tâm Mùa Chay 2017 tại “Nhà Thầy Chí thánh, Casa Divin Maestro”- Trung tâm Hội nghị và tĩnh tâm của các linh mục Dòng Thánh Phaolô ở Ariccia, ngoại ô Roma.
Sáng thứ Sáu 10-03, trước khi rời Nhà tĩnh tâm, Đức Thánh Cha đã cử hành Thánh lễ cầu nguyện cho Syria.
Đức Thánh Cha cũng đã gửi 100.000 euro cho người nghèo của Aleppo, nhờ sự đóng góp của Giáo triều Roma. Việc trao tặng khoản trợ giúp này sẽ do Văn phòng Bác ái của Giáo hoàng thực hiện.
Ngày kết thúc tĩnh tâm, Đức Thánh Cha đã nói lời cảm ơn của ngài và của Giáo triều Roma đối với vị hướng dẫn tĩnh tâm - cha Giulio Michelini, Dòng Phanxicô: “Tôi muốn cảm ơn cha vì những điều tốt đẹp cha đã làm cho chúng tôi. Đặc biệt, xin cảm ơn cha đã tỏ ra như mình vốn là, và rất tự nhiên chứ không “mang một bộ mặt nghiêm trọng”.
Đức Thánh Cha Phanxicô cũng cám ơn cha Michelini về việc chuẩn bị cho những bài suy niệm: “Điều này cho thấy một tinh thần trách nhiệm và làm việc nghiêm túc”.
“Có biết bao điều để suy tư, nhưng Thánh Inhaxiô nói rằng khi một người thấy một điều nào trong các bài Linh thao, mà điều ấy đem lại niềm an ủi hoặc nỗi bất an, thì người ấy phải dừng lại và không nên đi tiếp. Tôi chắc rằng tất cả chúng ta đều tìm được một hoặc hai điều trong tất cả các bài suy niệm này. Những gì còn lại không bị lãng phí; nhưng vẫn còn đó và sẽ giúp chúng ta vào một lúc khác”.
Tiếp đến, Đức Thánh Cha kể câu chuyện về một nhà giảng thuyết người Tây Ban Nha nổi danh để chỉ ra rằng “đôi khi một từ ngữ đơn sơ, một điều nhỏ bé” có thể dùng làm điểm để suy tư.
“Sau khi cha giảng một bài giảng hùng hồn, chuẩn bị chu đáo, thì một người đàn ông –một người tội lỗi công khai– đã đến gặp cha và khóc lóc xin xưng tội. Người ấy vừa xưng tội vừa khóc nức nở. Cha giải tội cảm thấy sốc vì ngài biết cuộc sống của người này nên hỏi ông: ‘Nhưng, ông hãy cho tôi biết lúc nào ông cảm nhận được Chúa chạm vào trái tim ông? Khi ông nghe những lời nào ...?’ Người ấy trả lời, khi cha nói: Chúng ta hãy chuyển sang một đề tài khác. Có khi những từ ngữ đơn sơ nhất sẽ giúp chúng ta, có khi lại là những từ phức tạp hơn: Với mỗi người Chúa sẽ ban cho một từ thích hợp”.
Cuối cùng, Đức Thánh Cha nói với cha Michelini: “Đặc biệt, tôi xin chúc cha trở nên một tu sĩ tốt lành”.
Trở về Vatican, Đức Thánh Cha đã đến Toà giám quản Roma ngay chiều thứ Sáu để gặp các hạt trưởng của giáo phận. Đây là cuộc gặp gỡ bình thường trong sinh hoạt của Giáo hội địa phương và có tính chất riêng tư.
(Theo Vatican Radio)
Minh Đức
Nguồn: WHĐ
SRI LANKA: hạn hán tồi tệ nhất trong vòng 40 năm - đã có 80.000 nạn nhân
Colombo (Agenzia Fides 09/03/2017) - Khoảng một triệu người đang cần thực phẩm khẩn trương và hàng chục ngàn người đang cần cứu trợ cách khẩn cấp vì nạn hạn hán nghiêm trọng ở Sri Lanka (Tích Lan).
Đó là tóm lược cuả những lời báo động từ các tuyên bố của chính phủ Sri Lanka và cuả Liên Hiệp Quốc.
Trong năm vừa qua, đất nước này đã phải đối mặt với một nạn hạn hán tồi tệ nhất trong nhiều thập kỷ.
Trong một báo cáo gần đây, Trung tâm quản lý thiên tai cho biết đã có tới một triệu 200 ngàn người bị ảnh hưởng bởi hạn hán. Khoảng 900,000 cần thực phẩm cấp bách, trong số này, khoảng 80.000 cần cứu trợ khẩn cấp.
Hạn hán ảnh hưởng đến tất cả 9 tỉnh, nói rõ hơn là ảnh hưởng đến 23 huyện trong tổng số 25 huyện cuả quốc gia.
Theo ước tính thì một phần ba dân số đang gặp phải khó khăn về nguồn nước. Chính phủ đã phải bắt đầu phân phối nước đến 180 ngàn gia đình kể từ ngày 2 tháng 3.
Người ta hy vọng sẽ có mưa vào cuối tháng này hoặc vào đầu tháng tư, tiếp theo sẽ là muà "Gió Mùa." Tuy nhiên, điều này không làm giảm bớt các vấn đề của nông dân là những người đã bị lỡ muà trồng cấy. Theo ước tính, chỉ có 10% nông dân đã có thể gieo giống cho mùa lúa tới.
Đài TBN, đài truyền hình kitô giáo đầu tiên trên thế giới
fr.aleteia.org Camille de Montgolfier, 2017-01-14
Ngày 14 tháng 1-2017
Vùng Los Angeles gần Hollywood. Hôm nay chúng tôi đền thăm các phòng quay phim của Đài Trinity Broadcasting Network (TBN), đài truyền hình kitô giáo đầu tiên trên thế giới, phòng thâu không thua gì phòng thâu của các phim trường Hollywood. Chúng tôi được anh John tiếp đón, anh cũng làm việc trong ngành điện ảnh.
Câu chuyện của một giấc mơ thành hiện thực
Chúng tôi được ông Bob Fopma đón tiếp, ông là người điều hành Đài TBN, ông kể cho chúng tôi nghe câu chuyện của đài. Trước hết đây là giấc mơ của một cặp vợ chồng: xây dựng một mạng lưới truyền hình phát đi trên khắp thế giới. Giấc mơ này bắt đầu thực hiện năm 1972: Paul và Jan Crouch bắt đầu phát các chương trình truyền hình kitô giáo trên các kênh của quốc gia. Sau một năm kinh nghiệm, thành công của các chương trình của họ dẫn họ thành lập đài riêng cho mình: Trinity Broadcasting Network có mục đích nới rộng sứ vụ rao giảng Phúc Âm qua mạng lưới truyền hình.
Bên ly cà phê ông Bob giải thích cho chúng tôi nghe: “Truyền hình có mặt trong tất cả mọi nhà, đây là một phương tiện tuyệt vời để nói về đức tin, để truyền tải các giá trị kitô giáo: khi xem truyền hình, khán giả có thể ngừng lại ở một trong các chương trình của chúng tôi”.
Đi một vòng giới thiệu các phòng quay phim, ông Bob cho chúng tôi biết, khó khăn đầu tiên của hai vợ chồng ông là làm sao phát sóng liên tục 24/24. Những năm đầu tiên là làm sao đảm bảo số giờ phát hơn là đảm bảo chất lượng, chính hai vợ chồng cũng xác nhận như vậy, nhưng sáng kiến của họ được nhiều người nồng nhiệt ủng hộ. Đài nhanh chóng đảm bảo được chất lượng và phát hình rộng rãi.
45 năm sau…
Bây giờ Đài Trinity Broadcasting Network được phát trên khắp thế giới với 12 thứ tiếng, sắp tới đây sẽ có đài tiếng Pháp. Đài có 350 nhân viên ở trụ sở chính và 800 nhân viên trên toàn nước Mỹ. Đài không muốn xen kẻ các chương trình của mình với quảng cáo, họ sống hoàn toàn nhờ ân nhân, họ có 300 000 nhà hảo tâm và các đóng góp tài chánh của các nhà thờ có phát bài giảng của các mục sư của họ.
Ngoài kênh chính, Đài còn có các kênh khác, nhắm đến các đối tượng đặc biệt như Hillsong Channel cho người trẻ, Juce cho trẻ vị thành niên, và Smile cho trẻ em. Chương trình của đài: thảo luận về đức tin, nhạc đạo, phim ảnh, phim tập chọn lựa dựa trên giá trị của phim, các bài giảng của các mục sư có ảnh hưởng nhất.
Chúng tôi kết thúc chuyến thăm ở phòng điện thoại của Đài TBN øphòng này mở 24/24 và do một mục sư điều hành. Mỗi ngày có 6 000 cuộc gọi đến, tất cả đều phong phú và đa dạng: đó là những lời cám ơn liên hệ đến chương trình này, chương trình kia, các chứng từ, các vấn đề về đức tin, hoặc đơn giản là các ý chỉ cầu nguyện của khán giả.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm chuyển dịch
Hơn 200 vị tử đạo Hàn Quốc sẽ được tuyên phong Chân Phước
Vị Giám mục đầu tiên của Bình Nhưỡng – một Giám mục sinh ra tại Hoa Kỳ, cùng với nhiều linh mục và giáo dân là những người nằm trong số 213 vị có thể được tuyên phong Chân Phước và được đề xướng đối với tiến trình tuyên phong Hiển Thánh qua một tiến trình được khởi sự tại Nam Triều Tiên.
Đức Cha Lazarus You Heung-sik – Giám mục Địa phận Daejeon dự đoán sẽ phải mất ít nhất 10 năm trước bất kì một tiến trình tuyên phong Chân Phước hay tuyên phong Hiển Thánh nào”, nhưng đối với người dân đất nước chúng ta, các vị đã nên Thánh rồi”.
Vị Giám Mục đứng đầu Hội Đồng Giám mục Hàn Quốc đang xem xét tiến trình tuyên phong Chân Phước. Ngài phát biểu với Asia News rằng những phần quan trọng của tiến trình dẫn tới việc tuyên phong Chân Phước chính là lời cầu nguyện của tất cả các tín hữu Công giáo cùng với “khát vọng bước theo tinh thần của các vị tử đạo”.
Một nhóm đang được xem xét đối với tiến trình tuyên phong Chân Phước bao gồm Tôi Tớ Chúa Giám mục Francis Borgia Hong Yong-ho và 80 bạn đồng hành của Ngài. Nhóm này bao gồm các vị tử đạo trong vụ thảm sát Jeju vào năm 1901, trong đó khoảng 300 tín hữu Công giáo đã bị giết hại, cho tới các nạn nhân của cuộc bách hại sau khi Hàn Quốc rút khỏi Thế chiến thứ hai.
Đức Cha Hong, sinh năm 1906, được thụ phong linh mục năm 1933 khi Nhật Bản chiếm đóng Hàn Quốc. Ngài được bổ nhiệm làm Giám mục bản xứ đầu tiên của Bình Nhưỡng vào năm 1944. Ngài là Giám Quản Tông Tòa tại một nơi được xem là vùng truyền giáo của Giáo Hội. Với sự nổi lên của chủ nghĩa cộng sản, Ngài bị cầm tù vào năm 1949. Số phận của Ngài hầu như không ai rõ, thế nhưng người ta tin rằng Ngài đã chết trong một trại tập trung tại Bắc Hàn.
Cho đến năm 2013, khi Ngài tròn 107 tuổi, Tòa Thánh cho rằng Ngài đã mất tích. Việc thừa nhận cái chết của Ngài đã mở ra con đường dẫn tới việc tuyên phong Chân Phước cho Ngài.
Đức Giám mục Patrick James Byrne, một người gốc Washington, D.C., cũng nằm trong nhóm này. Nhà truyền giáo Maryknoll ra đời vào năm 1888. Ngài thụ phong linh mục năm 1915, sau đó phục vụ tại Triều Tiên và Nhật Bản trước Thế chiến thứ hai. Tháng 4/1949, Ngài được bổ nhiệm làm Đại diện Tông Tòa đầu tiên tại Hàn Quốc, và được bổ nhiệm Giám mục cùng năm đó khi Ngài bước qua tuổi 60.
Tháng 7/1950, Ngài bị bọn cộng sản cầm tù và đưa ra xét xử. Ngài cùng với các linh mục khác đã bị bắt đi hành quân cấp tốc. Trong cuộc hành quân kéo dài suốt bốn tháng ròng, phải chịu đựng thời tiết xấu cũng như thiếu thức ăn và chỗ ở, Ngài qua đời ngày 25/11/1950.
Tổng cộng, cùng với Đức Cha Hong thì nhóm này bao gồm hai vị Giám mục, 48 linh mục, 3 chủng sinh, 7 nữ tu và 21 giáo dân.
Nhóm thứ hai, Tôi Tớ Chúa John Baptist Yi Byeok cũng với 132 bạn đồng hành, là tất cả những người giáo dân bị giết hại vì đức tin trong khoảng từ năm 1785 đến năm 1879. Tôi Tớ Chúa John Baptist Yi Byeok xuất thân từ một gia đình các quan chức tòa án dưới triều đại Joseon đã cải đạo sang Công giáo và giúp đỡ công cuộc Phúc Âm Hóa Hàn Quốc. Ngài chịu phúc tử đạo năm 33 tuổi.
Một trong số họ, Alexius Hwang Sa-yeong, đã chịu phúc tử đạo bằng một cái chết đau đớn tột bậc khi 2 tay 2 chân bị trói vào bốn con vật sau đó chúng sẽ chạy theo các hướng khác nhau xé rời thân xác người bị hành hình.
Một người khác trong nhóm này đã chết trên đường đi đày tha hương và cái chết của vị này cũng đã được xác minh là tử đạo.
Hội Đồng Giám mục Hàn Quốc đã thành lập một Ủy ban đặc biệt phục vụ tiến trình tuyên Thánh để cùng với Tòa Thánh tìm hiểu về các vị tử đạo thuộc các Giáo phận khác nhau.
Minh Tuệ chuyển ngữ
Nguồn: dcctvn.org
Đức Phanxicô trả lời cuộc phỏng vấn mới về nhiều vấn đề
Trong cuộc phỏng vấn mới đây của tạp chí Đức Die Zeit trước khi ngài tham dự tuần tĩnh tâm Mùa Chay, Đức Phanxicô đã trả lời nhiều câu hỏi khác nhau. Dưới đây là một số điều đáng lưu ý trong cuộc phỏng vấn này.
Đức Hồng Y Burke là một luật sư tuyệt vời
Trước nhất là về Đức Hồng Y Raymond Burke. Đức Giáo Hoàng xác nhận Đức Hồng Y Burke vẫn là người bảo hộ (patron) của Hội Hiệp Sĩ Malta, dù ngài thấy cần phải bổ nhiệm một vị giáo phẩm khác để giám sát việc canh tân thiêng liêng cho Hội này. Đức Giáo Hoàng nói rằng Đức Hồng Y Burke gặp một số vấn đề của Hội Hiệp Sĩ Malta mà Đức Hồng Y không giải quyết được.
Tuy nhiên, Đức Giáo Hoàng bác bỏ lời đồn cho rằng Đức Hồng Y Burke bị phái tới Guam như một hình phạt. Đức Giáo Hoàng cho hay việc ấy vốn có liên quan tới công việc chuyên môn của Đức Hồng Y. Đức Giáo Hoàng nói tiếp: “vì việc này, tôi rất biết ơn ngài; ngài là một luật sư tuyệt vời”.
Nhưng, cũng nhân dịp này, ngài có nói với tờ Die Zeit rằng ngài thấy có vấn đề với “những người Công Giáo cực đoan”. Ngài cho rằng việc quá tự tin của những người Công Giáo loại này khiến ngài nghĩ tới Thánh Phêrô khi vị thánh này tự hào mình sẽ không bao giờ chối Chúa Giêsu.
Được hỏi về các cuộc khủng hoảng đức tin, Đức Phanxicô nói rằng các cuộc khủng hoảng là điều cốt yếu để lớn mạnh, cả ở ngoài đời lẫn trong đức tin. Ngài nhắc lại đoạn Tin Mừng trong đó Thánh Phêrô chối Chúa ba lần, sau đó, mới quả quyết rằng ngài sẽ không bao giờ làm thế nữa. Đức Giáo Hoàng bảo: “khi Chúa Giêsu cảm nhận sự chắc chắn ấy của Thánh Phêrô, nó làm tôi nghĩ tới rất nhiều người Công Giáo cực đoan”. Ngài nhận định: Thánh Phêrô “chối Chúa Giêsu, trải qua một cuộc khủng hoảng ghê gớm, thế rồi được cử làm giáo hoàng!”
Nữ phó tế và tông du
Được nhà báo Giovanni di Lorenzo hỏi về ủy ban nghiên cứu vai trò phó tế nữ trong lịch sử, Đức Phanxicô kể lại rằng năm ngoái, trong cuộc gặp gỡ các bề trên dòng nữ tại Tòa Thánh, “tôi được hỏi tại sao chúng ta không thiết lập một ủy ban nghiên cứu để tìm hiểu xem các người đàn bà đó làm gì và có phải họ được thụ phong hay không. Tôi trả lời, đúng, tại sao không?”.
Nhưng ngài nói thêm: “đây là chuyện thăm dò chủ đề, chứ không phải mở một cánh cửa… Thời gian sẽ cho biết ủy ban tìm ra những gì. Họ giả thiết sẽ họp lại lần thứ ba vào tháng Ba này, và tôi sẽ tìm hiểu xem sự việc tiến triển tới đâu”.
Còn đối với câu hỏi về các chuyến tông du trong năm 2017, Đức Phanxicô cho biết: đang sắp xếp chuyến đi Ai Cập. Còn chuyến dự định đi Nam Sudan và hai nước Congo (Cộng Hòa Congo, và Cộng Hòa Dân Chủ Congo) đã bị loại bỏ.
Chuyến đi khác mà ngài rất muốn thực hiện là tới Nga mà không được “vì tôi phải tới cả Ukraine nữa”.
Tuy nhiên, ngài xác nhận chuyến tông du đã dự trù cho năm 2017 là Colombia, đáng lẽ đã có thể thực hiện ngay từ đầu triều giáo hoàng của ngài, và nay càng khả hữu hơn sau khi chính phủ nước này ký thỏa ước hòa bình với nhóm du kích lớn nhất trong nước là FARC, chấm dứt cuộc nội chiến lâu đời nhất trong lịch sử gần đây.
Ngài cũng xác nhận chuyến tông du Ấn Độ và Bangladesh, đã được sắp xếp từ lâu, nhưng chưa định ngày giờ nhất định. Nhưng chuyến đi Fatima thì chắc chắn diễn ra giữa tháng Năm.
Luôn bình an dù là một người có tội
Về các cuộc tấn công đích danh đối với ngài gần đây, Đức Phanxicô cho hay: “Từ lúc tôi được bầu làm giáo hoàng đến nay, tôi chưa bao giờ mất cảm thức bình an. Tôi hiểu một số người có thể không thích lối hành động của tôi, tôi còn biện minh cho nó nữa: có rất nhiều lối suy nghĩ; thậm chí còn được phép nữa, hợp nhân bản và ngay cả phong phú nữa”.
Về các bích chương phản đối ngài thiếu lòng thương xót và ấn bản giả của tờ L’Osservatore Romano mới đây, Đức Phanxicô cho biết: ngài thấy điều sau không phong phú chút nào, nhưng điều trước thì có. Ngài nói: “Tiếng địa phương Romanesco trong các bích chương ấy quả tuyệt diệu!”, chắc chắn do một người có học thức cao viết.
“Có phải một người từ Vatican không?” nhà báo hỏi thế, ngài vừa cười vừa trả lời: “Không, nhưng là một người có học thức cao!”
Nhân dịp này, ngài thổ lộ: ngày nào ngài cũng đọc kinh Ông Thánh Thomas More, xin được ơn biết hài hước. Ngài bảo: “Chúa chưa lấy mất sự bình an của tôi, và Người ban cho tôi đủ tính hài hước”.
Và cũng như trước đây, ngài thú nhận mình là người có tội và có những khoảnh khắc ngài nổi điên với Chúa Giêsu hoặc nói rằng ngài không hiểu tại sao một điều gì đó lại xẩy ra, kể cả những điều chính ngài làm, do “chính tội lỗi tôi: tôi là kẻ có tội, và tôi nổi điên… Bây giờ thì tôi quen rồi”.
Đức Phanxicô cũng cho hay: ngài không cảm thấy ngài là “một người đặc biệt” và các chờ mong người ta đặt lên ngài, có hơi cường điệu hóa, quả không công bằng đối với ngài.
Ngài bảo: “tôi không phải là người tồi, không, nhưng tôi là một người làm điều mình có thể làm, nhưng thông thường. Tôi cảm thấy mình như thế. Và khi ai đó nói với tôi: ‘Không, thưa Đức Thánh Cha, Đức Thánh Cha là…’ điều này chẳng ích lợi gì cho tôi”.
Được hỏi ngài có sợ làm ngã lòng các vị ở trong Giáo Triều với những lời lẽ như trên hay không, các vị này cần có một người cha hoàn hảo, Đức Phanxicô trả lời: không, không có chuyện người cha hoàn hảo, vì chỉ có một người cha hoàn hảo mà thôi, đó là Thiên Chúa.
Ngài bảo: “mọi người cha đều là người có tội, xin cám ơn Chúa, vì điều này sẽ khích lệ chúng ta ra đi và ban phát sự sống trong thời đại côi cút này, trong đó, người ta đang cần tình phụ tử”.
Ngài nói thêm: “tôi là người có tội và tôi dễ sai lầm, và ta không nên quên rằng lý tưởng hóa một con người cũng luôn là một thứ gây hấn hung hăng siêu phàm”.
"Viri probati" làm linh mục
Cũng trong cuộc phỏng vấn này, Đức Phanxicô tỏ ra cởi mở đối với việc phong chức linh mục cho một số người đàn ông đã có gia đình. Tuy nhiên, ngài ủng hộ việc duy trì luật độc thân khi nhấn mạnh rằng “độc thân nhiệm ý” không phải là một giải pháp đối với cuộc khủng hỏang ơn gọi trong Giáo Hội Công Giáo.
Thực vậy, theo Đức Phanxicô, việc thiếu linh mục trên thế giới hiện nay là một vấn nạn rất lớn cần được giải quyết, nhưng “độc thân nhiệm ý” không phải là một giải pháp.
Tuy nhiên, theo ngài, vấn đề viri probati, tức những người đàn ông đã lập gia đình nhưng vững mạnh trong đức tin và nhân đức có thể được chọn để thụ phong linh mục, là một “khả thể” mà “ta phải xem xét”.
Đức Giáo Hoàng nói: “ta cũng phải xác định xem họ có thể đảm nhiệm những trách vụ gì, thí dụ, tại các cộng đồng xa xôi”.
Nghi lễ La Tinh vốn đã cho một số giáo sĩ không phải là Công Giáo đã có gia đình, sau đó trở lại Công Giáo, được thụ phong linh mục, như các cựu giáo sĩ Anh Giáo chẳng hạn. Các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương cho phép phong chức các người đàn ông đã có vợ làm linh mục, nhưng cũng như các Giáo Hội Chính Thống và Công Giáo La Tinh, họ không cho phép các đám cưới giáo sĩ, nghĩa là không cho phép các linh mục cưới vợ một khi đã thụ phong.
Năm ngoái, Đức Giáo Hoàng Phanxicô bác bỏ việc hủy bỏ luật độc thân của các linh mục; ngài nói rằng: nên “duy trì như hiện tại”. Nhưng ngài có gợi ý tới khả thể phong chức cho những người đàn ông tỏ ra xứng đáng, tùy sự quyết định của các giám mục địa phương, căn cứ vào tình thế đặc thù. Ngài có nhắc đến một giáo phận tại Mễ Tây Cơ, nơi mỗi cộng đoàn có một phó tế nhưng không có linh mục.
Người ta cũng biết Đức Giáo Hoàng Phanxicô từng muốn Thượng Hội Đồng Giám Mục kế tiếp thảo luận về luật độc thân của linh mục, nhưng sáng kiến này đã bị Hội Đồng Thường Trực của Thượng Hội Đồng Giám Mục bỏ phiếu chống. Tổng thư ký của Thượng Hội Đồng, Đức Hồng Lorenzo Baldisseri, sau đó còn nói thêm rằng vấn đề này cũng sẽ không được bàn đến trong Thượng Hội Đồng Giám Mục năm 2018 về “Người Trẻ, Đức Tin và Việc Biện Phân Ơn Gọi”.
Trong lời tóm tắt cuộc phỏng vấn, tờ Die Zeit tường trình rằng Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh đến sự quan trọng của cầu nguyện, như phương thế vượt qua cuộc khủng hoảng ơn gọi. Ngài nói: “Điều còn thiếu là cầu nguyện”.
Theo tờ báo, nhiều tiếng nói tại Đức gần đây đã nghi vấn luật độc thân của linh mục, trong đó, có Đức Cha Dieter Geerlings, giám mục phụ tá của Münster, và Thomas Sternberg, đứng đầu Ủy Ban Trung Ương Các Người Công Giáo Đức, một cơ chế gồm nhiều tổ chức giáo dân Công Giáo ở Đức. Sternberg nói rằng luật độc thân bắt buộc đã “mất hết tính khả tín của nó”.
Trong những năm qua, một số các vị cố vấn và bạn bè của Đức Giáo Hoàng cũng xa gần cổ vũ các thay đổi đối với luật độc thân của linh mục. Trong đó, có các vị Hồng Y Pietro Parolin, nay là Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, và Claudio Hummes, một người bạn của Đức Phanxicô và trước đây đứng đầu Thánh Bộ Giáo Sĩ.
Các thay đổi như cho phép một hình thức linh mục có vợ nào đó, việc rước lễ liên phái và có thể cả phó tế phụ nữ là ba cuộc cải tổ mà một số quan sát viên của Giáo Hội cho là có thể xẩy ra trong mấy tháng sắp đến. Cũng như đối với việc cho phép những người ly dị tái hôn lãnh nhận các bí tích, những người này lo sợ rằng các luật trừ đối với mỗi việc cải tổ này, cuối cùng, sẽ kết thúc ở chỗ kết liễu các kỷ luật như luật độc thân của linh mục và một cách tổng quát sẽ phá hủy tín lý của Giáo Hội về chức linh mục và Phép Thánh Thể.
Nhưng, trong cuộc phỏng vấn, Đức Phanxicô lý luận rằng Giáo Hội không nên sợ hãi khi phải đối diện với thay đổi. Ngài nói: “sự thật có nghĩa đừng sợ hãi. Sợ hãi đóng cửa, tự do mở cửa. Và nếu tự do nhỏ nhoi, thì ít nhất nó cũng mở được chiếc cửa sổ nhỏ”.
Tấn công chủ nghĩa dân túy
Theo Catholic World News, Đức Phanxicô cho rằng thiếu linh mục, “Giáo Hội yếu đi, vì một Giáo Hội không có Thánh Thể thì không có sức mạnh: Giáo Hội làm ra Phép Thánh Thể, nhưng Phép Thánh Thể cũng làm ra Giáo Hội”.
Hãng này cũng tường thuật rằng Đức Phanxicô tấn công chủ nghĩa duy quốc gia và chủ nghĩa dân túy (populism). Ngài bảo: “chủ nghĩa dân túy là chủ nghĩa ghê tởm và sẽ kết liễu tồi tệ, như thế kỷ vừa qua đã chứng minh”. Ngài cho rằng chủ nghĩa này “luôn cần một vị thiên sai”, và nêu kinh nghiệm Đức và việc xuất hiện của Hitler làm điển hình.
Đài Phát Thanh Vatican tường thuật thêm rằng, Đức Phanxicô nói với người phỏng vấn: “tôi cũng có những khoảnh khắc trống rỗng”. Ngài nói đến “những khoảnh khắc đen tối thiêng liêng” trong đời ngài, những lúc ngài thưa với Thiên Chúa: “Lạy Chúa, con không hiểu điều này”. Theo ngài, “không ai lớn lên mà lại không gặp khủng hoảng: trong đời người, cùng một việc đó xẩy ra. Cả tăng trưởng sinh học cũng là một cuộc khủng hoảng, không phải sao? Cuộc khủng hoảng của một em nhỏ trở thành người lớn. Và đức tin cũng thế”.
Về đức tin, ngài bảo đó là một hồng ơn, ta không thể tự mình phục hồi được đức tin của mình mà phải cầu xin Thiên Chúa: “Tôi xin và Người đáp ứng. Chẳng chóng thì chầy, đúng không? Nhưng có lúc ông phải đợi thôi, trong cơn khủng hoảng”.
Đài Vatican cũng cho biết Đức Thánh Cha còn nói tới lòng sùng kính của ngài đối với Đức Mẹ, Đức Mẹ Tháo Nút cũng như điều ngài gọi là “Thế Chiến Thứ Ba” đang diễn ra từng mảng, như tại Châu Phi, Ukraine, Á Châu, Iraq…
Đức Phanxicô kết thúc cuộc phỏng vấn với một lời xin lỗi: “tôi xin lỗi nếu tôi không thỏa mãn mong ước của ông… Xin cầu cho tôi!”