Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Thánh Cha kêu gọi bỏ thành kiến giữa Công Giáo - Tin Lành
VATICAN. ĐTC chào mừng Hội nghị về đề tài ”Luther 500 năm sau” và gọi đây là một sự kiện không thể có được cách đây ít lâu.
Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 31-3-2017, dành cho 150 học giả quốc tế tham dự Hội nghị do Ủy ban Tòa Thánh về khoa sử học tổ chức từ ngày 29-3-2017 về đề tài ”Luther 500 năm sau. Đọc lại cuộc cải cách của Luther trong bối cảnh lịch sử Giáo Hội”.
Lên tiếng trong dịp này, ĐTC nói: "Các tín hữu Tin Lành và Công Giáo cùng nói về Luther do sáng kiến của một cơ quan Tòa Thánh, một Hội nghị như vậy là điều không thể tưởng tượng được cách đây ít lâu: ở đây chúng ta động chạm một cách cụ thể những thành quả hoạt động của Chúa Thánh Linh, Đấng vượt lên trên mọi biên giới và biến những xung đột thành cơ hội để tăng trưởng trong tình hiệp thông”.
ĐTC vui mừng vì Hội nghị kỷ niệm này mang lại cơ hội cho các học giả đến từ nhiều tổ chức cùng nhìn các biến cố lịch sử, đào sâu về con người của Luther và sự phê bình của ông chống lại Giáo Hội thời ấy, cũng như chức vụ Giáo Hoàng, những điều ấy chắc chắn sẽ góp phần vượt thắng bầu không khí nghi kỵ và cạnh tranh nhau, đã kéo dài quá lâu trong tương quan giữa hai bên. Theo ĐTC, ”sự nghiên cứu kỹ lưỡng và nghiêm túc, không vướng thành kiến và bút chiến ý thức hệ, giúp các Giáo Hội đang đối thoại ngày nay, phân định và đón nhận những gì là tích cực và hợp pháp trong cuộc cải tổ, và xa tránh những sai lầm, phóng đại, thất bại, nhìn nhận những tội lỗi đã đưa tới chia rẽ”.
Và ĐTC cũng khẳng định rằng ”Tất cả chúng ta đều biết là không thể thay đổi quá khứ, nhưng 50 năm sau cuộc đối thoại đại kết giữa Công Giáo và Tin lành, chúng ta có thể thực hiện một sự thanh tẩy ký ức, để có thể ”kể lại lịch sự một cách khác”, không mang vết tích oán hận vì những vết thương đã phải chịu, làm cho sự nhận xét về nhau bị lệch lạc”.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho đài Vatican, Cha Bernard Ardura, Chủ tịch Ủy ban Tòa Thánh về khoa sử học, cho biết điều quan trọng nhất của Hội nghị này là xem xét coi khi đọc lại cuộc cải cách người ta có thể khám phá những điều hiểu lầm hay không. Ví dụ đạo lý về ơn công chính hóa mà Công Giáo và Tin Lành Luther đã đạt tới một sự đồng thuận, qua đó người ta hiểu rằng tuy có những ngôn từ khác, chúng ta có cùng một sự hiệp thông trong đức tin. Ngoài ra có những khía cạnh khác như sự cấu thành chính Giáo Hội, vai trò của thừa tác vụ trong Giáo Hội, sự kế truyền tông đồ, chỗ đứng của các bí tích. Đó là những vấn đề còn bỏ ngỏ. (SD 31-3-2017)
ĐTC Phanxicô: Bạn có muốn được chữa lành không?
Tin vào Chúa Giêsu, là đón nhận cuộc sống, là tiến bước trong niềm vui một cách không trễ nải, và không bị tê liệt bởi những tội lỗi và tật xấu. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay, 28.03.2017, tại nhà nguyện Marta.
Dễ than phiền
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chữa lành cho người bị đau liệt đã 38 năm bên bờ hồ Betdatha. Nhìn thấy anh và biết anh đã đau từ lâu, Chúa liền hỏi: “Anh có muốn được lành bệnh không?”.
Thật là đẹp! Chúa Giêsu luôn hỏi mỗi người chúng ta câu hỏi ấy: “Con có muốn lành bệnh không? Con có muốn vui tươi hạnh phúc không? Con có muốn cải thiện đời sống không? Con có muốn tràn đầy Chúa Thánh Thần không?... Đó là những lời mà Chúa muốn nói. Có lẽ tất cả những người ốm đau, mù lòa, què quặt ở bên bờ hồ sẽ nói: “Vâng, lạy Thầy, chúng con muốn!” Thế nhưng, ở đây, anh bại liệt trả lời một cách lạ lùng. Anh than vãn với Chúa Giêsu: “Thưa Ngài, chẳng có ai đưa tôi xuống hồ khi nước khuấy động”. Có lẽ anh muốn than phiền rằng: “Thầy coi, thật là xấu xa, thật là bất công quá, vì người ta có thể đi lại được và được chữa lành, còn tôi đây đã 38 năm, và nay tôi vẫn cố gắng nhưng…
Dễ đổ lỗi
Anh ta tựa như cây trồng bên bờ suối theo như lời Thánh Vịnh. Cây trồng bên suối nhưng rễ lại chết khô vì rễ không chạm được tới nước, vì rễ không thể bắt tới nước.
Thái độ của anh không chỉ là than phiền, mà còn cố gắng đổ lỗi cho người khác. Anh nói: “Khi tôi lết tới, thì đã có những người khác xuống trước tôi, và thế là tôi ở đây suốt 38 năm…” Việc đổ lỗi như thế, là một tật xấu, một sự lười biếng. Anh bị đau liệt, nhưng tệ hại hơn, chính trái tim anh cũng bị tê liệt, vì không còn muốn tiến về phía trước, không còn muốn làm điều gì đó cho cuộc sống, không còn tìm thấy niềm vui. Anh không còn biết đến niềm vui. Điều ấy thật trầm trọng. Điều anh nói, tựa như: “Coi người ta sung sướng kìa, còn tôi thì thế này đây… Cuộc sống chẳng công bằng với tôi chút nào.” Khi ấy, chỉ còn thấy sự oán giận và cay đắng trong tâm hồn.
Hãy đứng dậy!
Chúa Giêsu không trách mắng anh, nhưng nói: “Hãy đứng dậy, vác chõng của anh mà đi”. Người bại liệt đứng dậy và được chữa lành. Nhưng hôm đó lại là ngày sabat, các luật sĩ cho rằng, ngày sa bát không được phép vác chõng, và họ còn cho rằng: những ai đi ngược với khoản luật này, thì không phải là người của Thiên Chúa. Người bị bại liệt được chữa lành, nhưng không thấy anh nói lời cám ơn Thầy Giêsu, thậm chí anh cũng không hỏi tên Thầy. Thế đó, người ta dễ sống theo kiểu cái gì cũng miễn phí, và người ta quên đi tầm quan trọng của khí thở. Người ta dễ sống chỉ chú tâm rằng người khác hạnh phúc hơn tôi và rồi buồn tủi. Sống như thế, là quên đi niềm vui, sống như thế, là đánh mất niềm vui. Và thật là xấu hổ khi chúng ta sống trong tê liệt như thế. Tất cả chúng ta đều phạm tội, đều là những tội nhân, nhưng ngay cả ngày nay nữa, Chúa vẫn tiếp tục nhìn mỗi người chúng ta mà nói: Hãy trỗi dậy!
Hôm nay, Chúa nói với từng người rằng: Hãy trỗi dậy! Hãy đứng lên, hãy sống một cuộc sống cho dù nó tươi đẹp hoặc u tối, và hãy tiến bước. Đừng sợ, vác chõng của bạn đi. Có thể đó là cái chõng xấu xa, nhưng hãy cứ vững bước. Và đây là cuộc sống của bạn, là niềm vui của bạn. Bạn có muốn được chữa lành không? Đó là câu đầu tiên Chúa hỏi hôm nay. Ước chi chúng ta đáp lại: Vâng, lạy Chúa, con muốn được lành. Xin giúp con thức tỉnh, giúp con đứng lên, giúp con biết thế nào là niềm vui ơn Ngài cứu độ.
(Vatican 28/03/2017)
Tứ Quyết SJ
Sứ thần Toà Thánh tại Damascus, Syria: “Chỉ cần đến Syria, thì sẽ biết Địa ngục như thế nào”
ROMA (Zenit, 28.03.2017) – Không thể diễn tả được nỗi thống khổ của người dân Syria bằng lời lẽ của con người. Lời mô tả xác đáng nhất về quốc gia này là: “Ai không tin có Địa ngục, người ấy chỉ cần đến Syria, thì sẽ biết Địa ngục như thế nào”, Đức hồng y Mario Zenari, Sứ thần Toà Thánh tại Damascus, đã nói như trên, khi cử hành Thánh lễ nhận nhà thờ tước hiệu của ngài ở Roma (nhà thờ Santa Maria delle Grazie alle Fornaci) hôm thứ Bảy 25-03 vừa qua.
Trong bài giảng Thánh lễ, Đức hồng y Zenari đã liệt kê những con số bi thảm ở Syria: 400.000 người chết; 2 triệu người bị thương, trong số đó nhiều người bị chặt chân tay; khoảng 5 triệu người tị nạn ở nước ngoài; hơn 6 triệu người phải di tản ở trong nước; hơn 600.000 người bị cô lập mà không nhận được viện trợ nhân đạo. Hàng ngàn trẻ em chết vì các cuộc đánh bom: bị thương, bị chặt chân tay, thân xác và tinh thần tơi tả – đó thực sự là một cuộc tàn sát người vô tội.
Đức hồng y Zenari nhấn mạnh rằng: “Đức Thánh Cha Phanxicô thường xuyên được biết những gì đang xảy ra ở Syria, và ngài muốn đến thăm đất nước này, nhưng có quá nhiều nguy hiểm. Đức Thánh Cha đã sẵn sàng đến đây, nhưng vấn đề là ngài không thể thực hiện được điều đó nếu không có bảo đảm an ninh tối thiểu, cho ngài và nhất là cho người dân; bởi vì nếu Đức Thánh Cha đến Syria, ngài không thể ở trong Toà Sứ thần mà phải đi gặp dân chúng, phải gặp mọi người”.
“Tôi không biết mô tả sự khốc liệt này như thế nào”, Đức hồng y nói tiếp. Nên ngài tóm tắt: “Ai không tin có Địa ngục, người ấy chỉ cần đến Syria, thì sẽ biết Địa ngục như thế nào”.
Vì thế, Đức hồng y kêu gọi: “Công luận phải gây áp lực đối với nhiều chính phủ, bởi vì có một mối nguy cơ lớn là dần dần những thảm kịch này sẽ bị lãng quên”.
(WHĐ, 29.03.2017)
Minh Đức
Trung Quốc chưa dám công khai bản án đã xử liên quan đến một linh mục
Tòa án nhân dân Gaizhou đã từ chối công bố bản án xử Cha Fei Jisheng – một linh mục thuộc Giáo phận Thẩm Dương. Những người Công giáo địa phương cho hay: “Các thẩm phán đã thừa nhận sự vô tội của vị linh mục này, nhưng chính quyền lại muốn kết tội ngài”. Cha Fei Jisheng bị bắt ngày 18/10 năm ngoái với cáo buộc “ăn cắp” một khoản tiền của chính ngài. Lý do thực sự là vì các nhà chức trách muốn ngăn chặn công việc truyền giáo của ngài.
Ngày 21/3, Cha Fei Jisheng – một linh mục của Giáo phận Thẩm Dương – đã bị tòa án Nhân dân Gaizhou – một quận của thành phố cảng Yingkou, thuộc tỉnh Liêu Ninh, xử kín với cáo buộc “ăn cắp”. Cảnh sát đã được triển khai bên ngoài tòa án để ngăn chặn việc quần chúng tiếp cận phiên tòa, và chỉ có luật sư của Cha Fei cùng với bốn nhân chứng được phép vào phòng xử án, trong khi hàng chục người Công giáo tụ tập bên ngoài tòa nhà để cầu nguyện và hát thánh ca. Một nguồn tin giấu tên của Giáo hội tại Liêu Ninh nói với UCA News: “Chúng tôi đã được thông báo rằng bản án được quyết vào ngày 23/3, nhưng tòa án sẽ hoãn công bố bản án đó trong thời hạn hai tuần, mà không có bất cứ lời giải thích nào”.
Các thẩm phán đã thừa nhận Cha Fei vô tội
Theo những người Công giáo địa phương, sự chậm trễ trong việc đưa ra phán quyết và công bố bản án đó đã cho thấy sự bối rối của chính quyền địa phương đối với trường hợp của Cha Fei. “Tôi nghĩ các thẩm phán biết rằng cha Fei vô tội, nhưng chính quyền muốn lên án ngài. Vì các tín hữu Công giáo khắp Trung Quốc đang theo dõi sát vụ án này, nên các nhà chức trách đã tỏ ra rất lúng túng khi phải công khai bản án” – nguồn tin giải thích.
Cha Fei Jisheng, 40 tuổi, là một trong những linh mục trẻ tuổi của Giáo hội Trung Quốc quan tâm đến việc loan báo Tin Mừng cho xã hội Trung Quốc hôm nay. Cha Fei đã được phong chức linh mục trong Giáo hội “chính thức” vào năm 2000, phục vụ tại Giáo phận Thẩm Dương. Sau đó các nhà chức trách đã sát nhập các Giáo phận gần đó thành “Giáo phận Liêu Ninh”. Được đánh động bởi sự năng động của các mục sư Tin Lành và các sáng kiến của phong trào đặc sủng của các tín hữu Công giáo Trung Quốc, vị linh mục người Mãn này đã sáng tạo ra một cách thức mới trong việc khám phá đức tin Kitô giáo. Cha tổ chức các khóa học với tên gọi “Các lớp học Tông đồ”, khởi xướng vào năm 2007 và đã gặt hái được nhiều thành công, cả nơi những người dân tại vùng đông bắc Trung Quốc vốn bị loại trừ khỏi sự tăng trưởng kinh tế, cũng như nơi những người dân đã thích nghi thành công với các điều kiện kinh tế mới và với một xã hội luôn thay đổi. “Các lớp học Tông đồ” trải dài trên khắp các tỉnh láng giềng Liêu Ninh, Cát Lâm và Hắc Long Giang cũng như các khu vực khác của đất nước.
Một linh mục “rơi vào tầm ngắm” của chính quyền
Sự thành công này đã không thoát khỏi tầm ngắm của chính quyền. An ninh theo dõi chặt chẽ các hoạt động của Cha Fei. Vào tháng 11/2015, Cha Fei bị nhà cầm quyền tạm giam. Tháng 6/2016, ngài và bốn người lân cận đã bị cảnh sát “giam giữ bí mật” trong vòng một tháng. Các nhà chức trách cáo buộc Cha tội “thi hành sứ vụ linh mục bên ngoài ranh giới của Giáo phận mà không được phép”. Vào ngày 18/10/2016, cha Fei tới Phủ Thuận – một thành phố gần Thẩm Dương, viếng thăm một cộng đoàn các nữ tu, và một lần nữa, ngài bị cảnh sát bắt giữ.
Giáo phận Thẩm Dương đã nhờ một luật sư biện hộ cho ngài. “Vị này cho chúng tôi biết rằng Cha Fei đã bị truy tố vì tội ăn cắp một khoản tiền từ một viện an dưỡng”, Cha Dong Hongchang – Linh mục Tổng đại diện của Giáo phận Thẩm Dương, kể lại. Cha Dong Hongchang nói thêm rằng, lý do thực sự của việc bắt giữ Cha Fei là sự thành công của “Các lớp học Tông đồ” – một sáng kiến làm cho chính quyền lo sợ. Chính quyền vu khống rằng đó là hoạt động của “các tổ chức bất hợp pháp”.
Tháng 6/2016, các thành viên của “Các lớp học Tông Đồ” chuyển một két sắt của Cha Fei từ một viện dưỡng lão đến Giáo phận Thẩm Dương, và đã sử dụng một khoản tiền là 10.000 nhân dân tệ (khoảng 1.300 euro) để điều chỉnh các khoản chi phí liên quan đến việc truyền giáo của Giáo phận. Cảnh sát liền cáo buộc Cha Fei ăn cắp số tiền đó, nhưng điều này hoàn toàn trái ngược với thực tế rằng két sắt và những thứ bên trong đó thực sự thuộc về Cha Fei, và ngài không thể bị buộc tội ăn cắp tiền của chính ngài.
Theo một số người Công giáo địa phương, rất có thể các nhà chức trách Trung Quốc đang cố gắng đàn áp phong trào “Các lớp học Tông Đồ”. Chính quyền sợ hãi sự năng động trong các hoạt động truyền giáo của họ.
Vũ Cao
Bảo vệ sự sống ngay từ lúc thụ thai, chính là để ngăn ngừa sự bạo hành
Tweet của Đức Thánh Cha Phanxicô
27 tháng 3, 2017
Một lần nữa Đức Thánh Cha lại mời gọi chúng ta bảo vệ sự sống: ngài nói sẽ giúp cho nền hòa bình trên thế giới.
Một điện tín tweet mới của Đức Thánh Cha được gửi đi ngày 27 tháng Ba, 2017 trên chương mục @Pontifex bằng chín ngôn ngữ. Đức Thánh Cha viết: “Bảo vệ kho tàng chí thánh của tất cả mọi đời sống con người, từ lúc thụ thai đến lúc qua đời là đường lối tốt nhất để ngăn ngừa mọi hình thức bạo hành.”
Trong Evangelii Gaudium, Radio Vatican nhắc lại, Đức Thánh Cha khẳng định mạnh mẽ là Giáo Hội luôn luôn ở kế bên những người yếu đuối nhất, “trong đó cũng có những thai nhi, là những kẻ không tự bảo vệ mình và vô tội nhất, mà ngày nay người ta lấy mất đi nhân phẩm để có thể làm bất cứ điều gì họ muốn, bằng cách lấy đi sự sống và bằng cách cổ võ các đạo luật khiến cho không có ai có thể ngăn cản họ làm như vậy” (213).
Đức Thánh Cha viết thêm: “Chúng ta không thể nào mong đợi Giáo Hội sẽ thay đổi lập trường về vấn đề này. Tôi muốn hết sức thành thật về điều này. Đây không phải là một vấn đề để thảo luận về những phương thức cải cách hay ‘hiện đại hóa” giả dụ. Không thể được coi là cấp tiến khi lấy đi một mạng sống con người.
Nhưng sự thật là đìều chúng ta cũng có thể đồng hành đầy đủ bên các phụ nữ ở trong những trường hợp hết sức khó khăn, khi việc phá thai được họ coi là một giải pháp nhanh chóng cho những lo âu khủng khiếp của họ.” (214).
Bùi Hữu Thư
Đức Thánh Cha kêu gọi từ bỏ võ khí hạt nhân
VATICAN. ĐTC kêu gọi cộng đồng thế giới từ bỏ võ khí hạt nhân, xây dựng hòa bình trên công lý, phát triển nhân bản toàn diện và trên sự tôn trọng các quyền căn bản của con người.
Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong Sứ điệp các nước tham dự Hội nghị của LHQ đang tiến hành tại New York từ ngày 27 đến 31-3-2017, nhắm thương lượng về một văn kiện pháp lý, có tính chất bó buộc, về sự cấm các võ khí hạt nhân, để đi tới sự hoàn toàn loại trừ thứ võ khí này.
Sứ điệp của ĐTC đã được Đức Ông Antoine Camilleri, người Malta, Thứ trưởng ngoại giao, Trưởng đoàn Tòa Thánh tại Hội nghị tuyên đọc, trong đó ĐTC khẳng định rằng ”một thứ luân lý và luật pháp dựa trên sự đe dọa phá hủy lẫn nhau, và có thể hủy diệt toàn thể nhân loại, là điều tương phản với chính tinh thần của LHQ. Vì thế, chúng ta phải dấn thân cho một thế giới không còn võ khí hạt nhân và hoàn toàn áp dụng Hiệp ước về sự không lan tràn thứ võ khí này”.
ĐTC cũng nhận xét rằng chủ trương trang bị võ khí hạt nhân để đối phương nể sợ mà không dám tấn công, đó là điều không thích hợp, vì nó không đáp ứng hữu hiệu những thách đố và những đe dọa chính đối với nền hòa bình và an ninh của thế giới trong thế kỷ 21 này như nạn khủng bố, các cuộc xung đột không đối xứng (conflitti asimetrici), an ninh tin học, các vấn đề môi trường, nghèo đói. Ngoài ra, việc sử dụng võ khí hạt nhân còn gây nên những hậu quả thê thảm về nhân mạng và môi trường, với những hậu quả tàn phá bừa bãi trong thời gian và không gian. Thêm vào đó, việc trang bị võ khí hạt nhân còn đưa tới sự phí phạm tài nguyên, lẽ ra được sử dụng cho những ưu tiên quan trọng hơn, như thăng tiến hòa bình và phát triển nhân bản toàn diện, chiến đấu chống nghèo đói và thực hiện chương trình hành động 2030 do LHQ đề ra để phát triển dài hạn”.
Cũng trong sứ điệp, ĐTC nhấn mạnh rằng: ”Hòa bình và sự ổn định quốc tế không thể dựa trên một cảm thức giả tạo về an ninh, trên sự đe dọa phá hủy nhau hoặc hoàn toàn tiêu diệt nhau, trên sự duy trì quân bình thế lực. Trái lại hòa bình phải được xây dựng trên công lý, phát triển nhân bản toàn diện, trên sự tôn trọng các quyền căn bản của con người, trên việc bảo tồn thiên nhiên, sự tham gia của tất cả mọi người vào đời sống công cộng, trên sự tín nhiệm giữa các dân tộc, thăng tiến các tổ chức hòa bình, trên sự được hưởng giáo dục và sức khỏe, đối thoại và liên đới.
Theo ĐTC, ”trong viễn tượng này, cộng đồng quốc tế được kêu gọi đi xa hơn chủ trương trang bị võ khí để làm cho đối phương nể sợ: cần chấp nhận những chiến lượng nhìn xa trông rộng để thăng tiến đối tượng hòa bình và sự ổn định, và tránh những đường lối tiếp cận thiển cận về những vấn đề an ninh quốc gia và quốc tế” (SD 28-3-2017)
Sẽ là “người Công Giáo vô thần” nếu trái tim ta chai đá
VATICAN - Ước chi hôm nay nghe Tiếng Chúa, các bạn đừng cứng lòng nữa. Khi rời xa Thiên Chúa, khi giả điếc làm ngơ trước Lời của Chúa, chúng ta trở nên vô tín hoặc thậm chí chúng ta là người Công Giáo nhưng là “người Công Giáo vô thần”. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta.
Nếu không nghe Lời Chúa, thì cuối cùng chúng ta sẽ nghe các ngẫu tượng của thế gian
Nếu ngừng nghe Lời Chúa, thì thực tế là chúng ta đang chạy trốn và rời xa Thiên Chúa. Và nếu chúng ta không nghe tiếng Chúa, chúng ta sẽ nghe những tiếng khác. Thực tế cay đắng là, khi ngoảnh mặt làm ngơ, chúng ta trở nên điếc lác, điếc Lời Chúa.
Tất cả chúng ta, hôm nay dừng lại và nhìn vào cõi lòng mình, để thấy biết bao lần, biết bao lần chúng ta đóng cửa đôi tai và trở nên điếc. Ngay cả một dân tộc, một cộng đồng, ngay cả một cộng đoàn Kitô hữu, một giáo xứ, một giáo phận, đã ngoảnh tai làm ngơ, đã trở nên điếc trước Lời Chúa, để rồi tìm kiếm những tiếng nói khác, những chúa khác, và kết cục là tìm các ngẫu tượng của thế gian này. Khi đó chúng ta rời xa Thiên Chúa hằng sống.
Nếu có trái tim chai đá, thì chúng ta trở thành “người tín hữu ngoại đạo” thậm chí là “người Công Giáo vô thần”
Khi rời xa Thiên Chúa, trái tim chúng ta trở nên khô cứng. Khi không còn lắng nghe, trái tim trở nên khô cứng hơn, khép kín hơn vào chính mình và không thể đón nhận thêm gì nữa. Khi ấy trái tim không chỉ là khép kín mà còn là chai đá.
Khi không còn lắng nghe Lời Chúa, trái tim trở nên chai đá và khép kín, chúng ta đang đánh mất đi sự trung tín, mất đi cảm thức của sự trung thành. Trong bài đọc một trích sách Ngôn sứ Gieremia, Chúa nói: “Sự tín trung đã bị đánh mất”. Và khi ấy, chúng ta là người Công Giáo mà không sống đạo, chúng ta là người Công Giáo ngoại đạo, thậm chí tệ hơn nữa, chúng ta có thể là người Công Giáo vô thần, bởi vì chúng ta không quy chiếu vào tình yêu của Thiên Chúa hằng sống. Không nghe và ngoảnh mặt, điều ấy làm cho con tim của ta ra chai đá, điều ấy dẫn chúng ta đi trên con đường bất trung.
Sự bất trung ấy chứa đầy những lầm lẫn xáo trộn. Đó là con đường gây ra những nhầm lẫn, rằng không biết Thiên Chúa ở đâu, rằng không biết có Chúa hay không, rằng nhận biết sai lầm và nhầm lẫn giữa Thiên Chúa và ma quỷ. Trong bài Tin Mừng hôm nay, khi Chúa Giêsu làm phép lạ để cho thấy quyền năng cứu độ của Thiên Chúa, người dân thì vui mừng ca khen, còn có những kẻ lại nói: “Ông ta làm điều ấy nhờ quyền năng của Tướng Quỷ”.
Tự hỏi lòng mình: Tôi có thực sự lắng nghe Lời Chúa không?
Khi không nghe, khi cứng lòng, bạn sẽ rơi vào nhiều lầm lạc, bạn sẽ không còn tín trung, và kết cục là tội phạm thượng. Và thực tế, nhiều người quên đi sự tuyệt vời của cuộc gặp gỡ đầu tiên với Thầy Giêsu.
Mỗi người trong chúng ta hôm nay tự hỏi lòng mình: Tôi có biết dừng lại lắng nghe Lời Chúa không? Trái tim tôi có đang chai đá không? Tôi có đang xa lánh Chúa không? Tôi có đánh mất sự tín trung với Thiên Chúa hằng sống không? Tôi có chung sống với các thần tượng hằng ngày đem lại sự nhàm chán không? Tôi có đánh mất niềm vui tuyệt vời của cuộc gặp gỡ đầu tiên với Chúa Giêsu không? Hôm nay là ngày để lắng nghe: “Hôm nay, anh em hãy nghe Lời của Chúa”. Chúng ta hãy cầu nguyện: “Xin cho con đừng cứng lòng nữa”. Chúng ta hãy nài xin ơn ấy, ơn để biết lắng nghe vì trái tim chúng ta hãy còn chai đá.
Đức Thánh Cha gặp gỡ hàng ngàn linh mục, tu sĩ nam nữ Milano
VATICAN. Trong cuộc gặp gỡ hàng ngàn LM, phó tế, tu sĩ nam nữ của Tổng giáo phận Milano, ĐTC kêu gọi các vị đừng sợ thách đố và tình trạng thiểu số của mình.
Hiện nay, ngoài 1900 LM giáo phận, Tổng giáo phận Milano còn có 790 linh mục dòng, 143 phó tế vĩnh viễn hơn 1 ngàn tu huynh và 6.210 nữ tu.
Cuộc gặp gỡ diễn ra lúc quá 10 giờ sáng ngày 25-3-2017 tại Nhà thờ chính tòa. Thánh đường hùng vĩ này được khởi công xây cách đây 630 năm theo kiểu tân gôtích và hoàn tất như hiện nay vào năm 1932.
Đến nơi, ĐTC đã được hàng chục vị kinh sĩ Nhà Thờ Chính Tòa và các GM phụ tá tiếp đón, ngài bắt tay chào thăm từng vị trước khi tiến vào thánh đường trước sự đón tiếp nồng nhiệt của hàng ngàn LM, tu sĩ nam nữ tại đây. Ngài thinh lặng ngồi cầu nguyện trước Mình Thánh Chúa đặt trên bàn thờ và viếng mộ của thánh Carlo Borromeo, GM giáo phận Milano. ĐTC cũng chào thăm các LM và nữ tu già yếu ngồi trên xe lăn, trước khi lên bục cao trước bàn thờ.
Trong lời chào mừng ĐTC, ĐHY Angelo Scola, TGM giáo phận sở tại, cho biết thánh đường không đủ chỗ, nên nhiều LM tham dự cuộc gặp gỡ này từ bên ngoài, trên thềm nhà thờ, hoặc tại tư gia của các vị.
Tiếp lời ĐHY, 3 đại diện gồm 1 LM, một phó tế vĩnh viễn và một nữ tu đã xin ĐTC giải đáp một vài thắc mắc:
1. Cha Gabriele Gioia nhận xét rằng nhiều nghị lực và thời gian của các LM được dành cho các hình thức mục vụ truyền thống, trong khi đó sự tục hóa đang lan tràn trong xã hội ở Milano này, một thành phố ngày càng có tính chất đa nguyên, đa chủng tộc, tôn giáo và văn hóa. Vậy đâu là những thanh tẩy và những ưu tiên các LM cần thực hiện để không đánh mất niềm vui Phúc Âm, niềm vui được làm dân của Chúa Ba Ngôi?
- Trả lời cha Gioia, ĐTC nhắc lại rằng đời sống Giáo Hội luôn gặp những thách đố, vì thế chúng ta không được sợ các thách đố vì chúng là dấu chỉ một đức tin, một cộng đoàn sinh động, tìm kiếm Chúa với đôi mắt và con tim rộng mở. Những thách đố giúp làm cho đức tin chúng ta không trở thành ý thức hệ, tránh được tư tưởng khép kín.
Về xã hội đa văn hóa, đa tôn giáo và chủng tộc, ĐTC cũng nhận xét rằng đó cũng là tình trạng của Giáo Hội qua dòng lịch sử. Hiệp nhất trong sự đa diện. Tin Mừng là một nhưng có 4 hình thức khác nhau.. Trong bối cảnh đó, ĐTC kêu gọi phân định những thái quá của sự đồng nhất và thái độ duy tương đối, hai xu hướng này tìm cách xóa bỏ sự hiệp nhất giữa những khác biệt và lệ thuộc hỗ tương. Và ngài cũng nhấn mạnh rằng ”đức tin để thực sự có đặc tính Kitô và không gây ảo tưởng cần phải được điều chỉnh trong những tiến trình của con người nhưng không bị thu hẹp vào các tiến trình đó.
Sau cùng, ĐTC nhấn mạnh đến sự cần thiết phải phân định, nhất là dạy cho người trẻ ngày nay biết phân định trong nền văn hóa dồi dào các khả thể, để nhận ra đâu là điều thực sự tốt đẹp và có giá trị.
2. Thày Roberto Crespi hỏi ĐTC xem xây là đóng góp mà các phó tế vĩnh viễn được kêu gọi cống hiến để biểu lộ khuôn mặt Giáo Hội hạnh phúc, vô vị lợi và khiêm tốn.
- Trả lời câu hỏi của thày phó tế vĩnh viễn, ĐTC cảnh giác các tín hữu chú ý đừng coi các phó tế như những người ”nửa linh mục nửa giáo dân”, và rốt cuộc các vị không đứng về phía nào. Coi các phó tế như thế thì sẽ gây hại cho các thầy và tước bỏ sức mạnh đoàn sủng của phó tế.
Phó tế là một ơn gọi đặc thù, một ơn gọi gia đình nhắc nhớ rằng việc phục vụ như là một trong những hồng ân tiêu biểu của dân Chúa. Có thể nói phó tế là người giữ gìn việc phục vụ trong Giáo Hội. Phục vụ Lời Chúa, phục vụ Bàn Thánh. Sứ mạng, sức mạnh và sự đóng góp của phó tề hệ tài điều này là nhắc nhở cho tất cả chúng ta rằng đức tin, qua nhiều biểu hiện khác nhau, phụng vụ cộng đoàn, kinh nguyện cá nhân, những hình thức bác ái khác nhau, qua các bậc sống, có một chiều kích phục vụ. Phục vụ Thiên Chúa và anh chị em. Tóm lại, không có việc phục vụ bàn thờ, không có phụng vụ nếu không có sự cởi mở đối với việc phục vụ người nghèo. Nếu có việc phục vụ người nghèo nếu không dẫn đến phụng vụ.
3. Sau cùng Mẹ Paola Paganoni, Bề trên tổng quyền dòng các nữ tu Ursuline thánh Carlo, Chủ tịch Liên hiệp các nữ Bề trên thượng cấp vùng Lombardi hỏi ĐTC xem đâu là những khu vực ngoại ô của cuộc sống và đâu là những lãnh vực như tình trạng bị gạt ra ngoài lề, người nhập cư, giáo dục và văn hóa cần chọn lựa, đứng trước tình trạng các nữ tu ngày càng ít ỏi, hơn?
- Trước câu hỏi này, ĐTC mời gọi các nữ tu đừng có thái độ cam chịu vì con số giảm sút. Ngài nói: dù ít ỏi, dù là thiểu số, dù cao tuổi, nhưng không có thái độ cam chịu. Khi có thái độ này chúng ta sống trong sự tưởng tượng một quá khứ vinh hiển, thái độ đó không thức tỉnh đoàn sủng ban đầu, nhưng cuốn chúng ta vào trong một cái vòng cuộc sống nặng nề, khó nâng dậy. Vì thế nhớ lại nguyên thủy là điều tốt, cứu chúng ta khỏi sự tượng tượng vinh quang không thực tế của quá khứ.
ĐTC nhận xét rằng các vị sáng lập dòng chúng ta không bao giờ nghĩ đến số đông hay một đa số. Các vị cảm thấy được Thánh Linh thúc đẩy trong một thời điểm cụ thể của lịch sử, để trợ thành sự hiện diện vui tươi của Tin Mừng cho anh chị em mình; canh tân và xây dựng Giáo Hội như men trong đấu bột, như muối và ánh sáng thế gian.
ĐTC nói: ”Tôi nghĩ các dòng chúng ta không được sinh ra để trở thành đám đông, nhưng trở thành muối và men, góp phần làm cho tập thể dậy lên, để dân Chúa được những gia vị họ đang cần.. Thực tại ngày nay cũng gọi hỏi và kêu mời chúng ta tái trở thành men, thành muối đất. Anh chị em có thể nghĩ đến món pasta có nhiều muối không? hoặc hoàn toàn trở thành men? Nếu như vậy thì chẳng ai ăn được. Ngày nay thực tại kêu gọi chúng ta hãy khởi sự những tiến trình thay vì chiếm chỗ, cố gắng chiến đấu cho sự hiệp nhất thay vì bám víu vào những xung đột quá khứ, cần lắng nghe thực tại, cởi mở đối với tập thể, với dân thánh của Thiên Chúa, và toàn thể Giáo Hội. Đó là một thiểu số được chúc phúc, được mời gọi dây men, hòa hợp với điều mà Thánh Linh đã soi sáng cho tâm hồn cho các vị sáng lập và cho chính tâm hồn anh chị em.”
Sau bài huấn dụ, và phép lành, ĐTC đã tặng cho tổng giáo phận Milano một chén lễ quí giá và ĐHY Scola cho biết giáo phận tặng ĐTC 55 căn hộ để ngài giúp đỡ các gia đình nghèo.
Lúc 11 giờ 40 ĐTC tiến ra thềm Nhà Thờ chính tòa Milano để chào thăm đông đảo dân chúng tụ tập tại đây, đọc kinh truyền tin và ban phép lành cho họ.
Tiếp tục chương trình, ĐTC đến viếng viếng thăm nhà tù thánh Vittore cũng ở trung tâm thành phố Milano.
Ánh sáng mới - Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha, CN IV Mùa Chay
VATICAN - Trong buổi đọc Kinh Truyền Tin với các tín hữu và du khách hành hương trưa Chúa Nhật thứ tư Mùa Chay 26.03.2017 tại quảng trường thánh Phêrô, Đức Thánh Cha quảng diễn ý nghĩa câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành anh mù từ thủa mới sinh. Anh mù không chỉ được sáng mắt mà còn nhận được ánh sáng mới là ánh sáng đức tin. Đức Thánh Cha cũng cám ơn mọi người thuộc Tổng Giáo Phận Milano vì đã tiếp đón Ngài trong ngày thứ bảy với tất cả tấm lòng.
Bài huấn dụ của Đức Thánh Cha trước khi đọc kinh Truyền Tin
Anh chị em thân mến!
Trung tâm của Tin Mừng Chúa Nhật thứ tư Mùa Chay hôm nay là Chúa Giêsu và anh mù từ thủa mới sinh (Ga 9:1-41). Chúa Kitô đã chữa lành và phục hồi đôi mắt cho anh. Chúa thực hiện phép lạ này với cách thức mang đầy tính biểu tượng: trước hết Chúa trộn nước miếng cùng với đất rồi xoa vào mắt anh, sau đó Chúa bảo anh đến hồ Silôê mà rửa. Anh đã đi, rửa, và được sáng mắt. Anh ấy là người mù từ bẩm sinh. Với phép lạ này, Chúa Giêsu tỏ cho chúng ta thấy, Ngài là ánh sáng thế gian, và mỗi người chúng ta cũng mù từ khi mới sinh, vì cho dù chúng ta được dựng nên để nhận biết Thiên Chúa, nhưng vì tội lỗi nên chúng ta cũng mù lòa, và chúng ta cần một thứ ánh sáng mới, đó là ánh đức tin, là ánh sáng mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta. Thực tế, câu chuyện về người mù trong Tin Mừng, còn mở ra mầu nhiệm Chúa Kitô. Chúa Giêsu hỏi: “Anh có tin vào Con Người không?” Anh ta đáp lại: “Thưa Thầy, nhưng Người là ai để tôi có thể tin vào Người?”. Chúa Giêsu nói tiếp: “Anh đã thấy Người và Người đang nói với anh.” Anh thưa lại: “Lạy Ngài, con tin” và anh sấp mình thờ lạy Chúa Giêsu.
Những điều ấy làm cho chúng ta phải suy nghĩ về đức tin của chúng ta, đức tin của chúng ta nơi Chúa Kitô, nơi Con Thiên Chúa. Và đây cũng là lúc thích hợp để nói về bí tích rửa tội, bí tích đầu tiên của đức tin, bí tích đem lại cho chúng ta ánh sáng nhờ nước và Chúa Thánh Thần. Điều ấy cũng đã xảy ra với anh mù. Anh được mở mắt sau khi anh đi rửa ở hồ Silôê. Anh mù được chữa lành khi anh nhận ra rằng Chúa Giêsu là ánh sáng, ánh sáng thế gian. Người là ánh sáng khi chúng ta dò dẫm trong bóng tối để kiếm tìm. Chúng ta cũng đã được Chúa Kitô soi sáng nhờ bí tích rửa tội, và chúng ta được gọi mời hành xử như con cái của sự sáng. Để sống như con các của sự sáng, chúng ta cần thay đổi cách nghĩ, cần có khả năng nhận định về con người và sự vật theo một thang giá trị khác, một thang giá trị đến từ Thiên Chúa. Thực vậy, bí tích rửa tội đòi hỏi phải lựa chọn sống như con cái ánh sáng và bước đi trong ánh sáng. Bây giờ các bạn có thể hỏi rằng: “Bạn có tin rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa không? Bạn có tin rằng chỉ có Ngài mới có thể thay đổi tâm hồn bạn? Bạn có nghĩ là có thể nhìn nhận thực tại giống như Chúa nhìn không, hay là chúng ta lại không thấy? Bạn có tin rằng Chúa là ánh sáng và Ngài sẽ ban cho chúng ta ánh sáng chân thực không? Bạn sẽ trả lời gì đây?” Trong lòng mỗi người hãy tự trả lời.
Thế nhưng, ánh sáng chân thực nghĩa là gì? Và bước đi trong ánh sáng nghĩa là gì? Trước hết, điều ấy có nghĩa là hãy bỏ đi những ánh sáng giả dối: thứ ánh sáng lạnh lùng gây tổn thương cho người khác, bởi những thành kiến bóp méo thực tế, bởi những hận thù xét đoán người khác cách không thương xót, bởi những kết án không căn cứ. Nó giống như thức ăn hàng ngày! Khi nói về người khác như thế, bạn đã không bước đi trong ánh sáng, mà chỉ bước đi trong những bóng mờ. Có thứ ánh sáng giả dối khác, nó quyến rũ và mơ hồ, nó dựa vào lợi ích cá nhân. Nếu chúng ta đánh giá sự vật và con người theo tiêu chí lợi nhuận của cá nhân chúng ta, theo sở thích của chúng ta, theo uy tín của chúng ta, thì chúng ta không sống theo sự thật trong các mối tương quan và các bối cảnh cụ thể. Nếu chúng ta đi theo con đường chỉ biết tìm lợi ích cá nhân, thì chúng ta đang đi trong bóng tối.
Lạy Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ là người đầu tiên đón nhận Chúa Giêsu, ánh sáng trần gian, xin nhậm lời chúng con cầu nguyện, để chúng con nhận được ơn sủng, là đón Mùa Chay này với ánh sáng của đức tin, và tìm lại được món quà vô giá của bí tích rửa rội mà chúng con đã lãnh nhận. Xin cho ánh sáng mới này, biến đổi thái độ và hành vi của chúng con, khởi đi từ những gì nghèo hèn bé nhỏ của chúng con, để chúng con có thể mang lấy những tia sáng của Chúa Kitô.
Đức Thánh Cha đọc kinh Truyền Tin và ban Phép Lành Toà Thánh cho mọi người.
Sau kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha chào thăm mọi người
Anh chị em thân mến!
Hôm qua tại Almería (Tây Ban Nha) đã có lễ phong chân phước José Álvarez-Benavides y de la Torre và 114 vị tử đạo. Các ngài là những linh mục, tu sĩ và giáo dân, đã anh hùng làm chứng cho Chúa Kitô, làm chứng về sứ mạng hòa bình và hòa giải huynh đệ. Nhờ lời chuyển cầu của các ngài, xin cho Giáo Hội luôn hiệp nhất trong việc xây dựng nền văn minh tình thương.
Cha chào tất cả anh chị em đến từ Roma, Italia và các quốc gia khác, đặc biệt là anh chị em hành hương từ Córdoba (Tây Ban Nha), các bạn trẻ đến từ trường Saint-Jean de Passy di Parigi, các tín hữu từ Loreto, từ Quartu Sant’Elena, Rende, Maiori, Poggiomarino, và các thanh thiếu niên đến từ “Romana-Vittoria” ở Milano.
Về Milano, cha muốn nói lời cám ơn với Đức Hồng Y Tổng Giám Mục Milano và tất cả mọi người đã đón tiếp cha cách nồng nhiệt ngày hôm qua. Thực sự, cha cảm thấy là như đang ở nhà mình, khi ở giữa mọi người, dù là tín hữu hay chưa là tín hữu. Cám ơn các bạn rất nhiều, xin chào những con người Milano yêu mến, và cha sẽ nói điều này, rằng cha đã biết được câu người ta nói là đúng sự thật, đó là: Người Milano tiếp đón với tất cả tấm lòng!
Chúc anh chị em ngày Chúa Nhật tốt lành! Xin đừng quên cầu nguyện cho cha!
Diễn từ của Đức Thánh Cha với các nguyên thủ quốc gia và các nhà lãnh đạo chính trị Châu Âu ngày 24/03/2017
Các nhà lãnh đạo Liên Hiệp Âu Châu đã có cuộc họp thượng đỉnh ở Rôma trong các ngày từ 24 đến 25 tháng Ba. Cuộc gặp gỡ này được tổ chức nhân kỷ niệm lần thứ 60 Hiệp ước Rôma, thành lập Cộng đồng Kinh tế châu Âu. Tổ chức này sau đó đã phát triển thành Liên Hiệp Âu Châu.
Từ 6 quốc gia sáng lập ban đầu là Bỉ, Pháp, Tây Đức, Ý, Lục Xâm Bảo và Hà Lan, Liên Hiệp Âu Châu ngày nay gồm có 28 quốc gia thành viên, trải dài trên một diện tích rộng 4,475,757 cây số vuông với một dân số lên đến 510 triệu dân.
Nghị trình trong cuộc họp tại Rôma của các nhà lãnh đạo Âu Châu sẽ bao gồm việc thảo luận về tương lai của Liên minh trong 10 năm tới, sự rút lui của Anh, những chấn thương tài chính lặp đi lặp lại, làn sóng di cư và chủ nghĩa mị dân đang gia tăng nhanh chóng.
Lúc 6h chiều, tại phòng họp Sala Regia trong dinh Tông Tòa của Vatican, Đức Thánh Cha Phanxicô đã gặp gỡ các nhà lãnh đạo Âu Châu và đọc một diễn từ quan trọng nói lên quan điểm của Tòa Thánh về tương lai của đại lục này.
Sau diễn từ chào mừng Đức Thánh Cha của ông Paolo Gentiloni, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Cộng hòa Italia, và ông Antonio Tajani, Chủ tịch Quốc hội Châu Âu, Đức Thánh Cha nói:
Kính thưa quý vị,
Tôi cảm ơn quý vị đã có mặt tại đây vào tối nay, trước khi kỷ niệm 60 năm ngày ký Hiệp định thành lập Cộng đồng Kinh tế châu Âu và Cộng đồng Năng lượng nguyên tử Châu Âu. Tôi xin chuyển đến mỗi người trong quý vị tình yêu của Tòa Thánh đối với các quốc gia và cho toàn thể Châu Âu. Tương lai của Tòa Thánh, theo sự quan phòng của Chúa được liên kết không thể tách rời đối với lục địa này. Tôi đặc biệt biết ơn ông Paolo Gentiloni, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Cộng hòa Italia, vì những lời chào mừng danh dự nhân danh quý vị, và vì những nỗ lực mà Italia đã thực hiện để chuẩn bị cho cuộc họp này. Tôi cũng cảm ơn Ngài Antonio Tajani, Chủ tịch Quốc hội Châu Âu, là người đã bày tỏ khát vọng của người dân trong Liên Hiệp Âu Châu vào dịp kỷ niệm này.
Quay lại Kinh Thành Rôma, sáu mươi năm sau, không thể chỉ đơn thuần là một sự tưởng nhớ những điều trong quá khứ nhưng còn là một biểu hiện cho mong muốn làm sống lại lại sự kiện đó ngõ hầu đánh giá cao tầm quan trọng của nó đối với hiện tại. Chúng ta cần phải đắm mình trong những thách thức của thời điểm lúc bấy giờ, để có thể đối mặt với những thách thức của ngày hôm nay và ngày mai. Kinh thánh, với những câu chuyện lịch sử phong phú, có thể dạy cho chúng ta một bài học cơ bản. Chúng ta không thể hiểu được thời đại của chúng ta một cách tách biệt với quá khứ, coi quá khứ chỉ là một tập hợp các sự kiện xa xôi, vì thực ra quá khứ là bạch huyết cầu cho cuộc sống hiện tại. Không nhận thức như thế, thực tế mất đi sự thống nhất của nó, lịch sử mất đi luận lý xuyên suốt của nó, và nhân loại mất đi cảm thức về hoạt động và tiến bộ của nó hướng về tương lai.
Ngày 25 tháng 3 năm 1957 là một ngày đầy những hy vọng, mong đợi, nhiệt tình và háo hức. Chỉ những sự kiện nào có ý nghĩa ngoại thường và đem đến những hệ quả lịch sử mới có thể trở nên độc đáo trong lịch sử loài người. Ký ức của ngày hôm đó liên quan đến những hy vọng ngày hôm nay và sự mong đợi của người dân Châu Âu, là những người đang kêu gọi một sự biện phân trong hiện tại, để cuộc hành trình đã được bắt đầu có thể tiếp tục với một nhiệt tình và một sự tự tin mới.
Điều này là rất rõ ràng đối với những người khai sáng và các nhà lãnh đạo, là những người đã ký kết hai Hiệp ước hình thành nên thực tại chính trị, kinh tế, văn hoá và nhân bản mà ngày nay chúng ta gọi là Liên minh châu Âu. Như P.H. Spaak, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bỉ đã nói, “đúng là, chúng ta nhắm đến một sự thịnh vượng vật chất của người dân, mở rộng nền kinh tế, các tiến bộ xã hội và các khả năng thương mại và công nghiệp hoàn toàn mới, nhưng trên hết là chúng ta hướng đến việc hoài thai một cuộc sống nhân bản, huynh đệ và công bình.[1]
Sau những năm đen tối và đổ máu của Thế chiến thứ hai, các nhà lãnh đạo thời đó đã tin tưởng vào khả năng có được một tương lai tốt đẹp hơn. “Họ không thiếu sự dũng cảm, cũng không hành động quá muộn. Ký ức về những bi kịch và thất bại vào thời điểm đó dường như đã truyền cảm hứng cho họ và mang đến cho họ một sự can đảm cần thiết để bỏ lại đằng sau những tranh chấp cũ giữa họ với nhau để có thể tư duy và hành động theo một phương thế hoàn toàn mới mẻ, hầu có thể mang lại sự chuyển đổi lớn nhất.. . của Châu Âu.”[2]
Những người khai sáng nhắc nhở chúng ta rằng châu Âu không phải là tập hợp các quy tắc phải tuân theo, hoặc một cuốn kim chỉ nam hướng dẫn về các quy trình và thủ tục phải được thực hiện. Đó là một lối sống, một cách để hiểu con người dựa trên phẩm giá siêu việt và bất khả nhượng của họ, như một cái gì đó không chỉ đơn giản là một tổng hợp các quyền cần phải được bảo vệ hoặc những đòi hỏi cần phải được thăng tiến. Nơi căn cội của ý tưởng về châu Âu, chúng ta thấy “bản chất và trách nhiệm của con người, với sự lên men của tình huynh đệ được đề cập trong Kinh Thánh..., cùng với ước vọng về chân lý và công lý, được tôi luyện trong những kinh nghiệm hàng ngàn năm”[3] Rôma, với ơn gọi của nó về tính phổ quát, [4] tượng trưng cho kinh nghiệm đó và do đó đã được chọn làm nơi ký kết Hiệp ước. - Như Bộ trưởng Ngoại giao Hà Lan, J. Luns, đã nhận xét - Rôma “đã đặt nền tảng chính trị, pháp lý và xã hội cho nền văn minh của chúng ta”.[5]
Rõ ràng, ngay từ đầu, trái tim của dự án chính trị châu Âu chính là con người. Rõ ràng rằng các Hiệp Ước có thể vẫn chỉ là những văn bản chết nếu chúng không có sinh khí. Yếu tố đầu tiên của sức sống châu Âu chính là tình đoàn kết. Như Thủ tướng Lục Xâm Bảo, J. Bech nói, “cộng đồng kinh tế châu Âu sẽ chỉ có thể tồn tại lâu dài và thành công nếu nó liên tục trung thành với tinh thần đoàn kết châu Âu đã tạo ra nó, và nếu ý chí chung của châu Âu được chứng minh là mạnh mẽ hơn ý chí của từng quốc gia”. [6] Tinh thần đó vẫn còn cần thiết ngày nay, khi chúng ta đối diện với các xung động ly tâm và sự cám dỗ để hạ giảm các lý tưởng sáng lập ra Liên minh vào các nhu cầu về sản xuất, kinh tế và tài chính mà thôi.
Đoàn kết tạo ra sự cởi mở đối với người khác. Thủ tướng Đức K. Adenauer nói: “Kế hoạch của chúng tôi không phải vì lợi ích cá nhân”[7]. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Pháp, C. Pineau, đã lặp lại quan điểm này: “Chắc chắn các nước thống nhất.. . không có ý định cô lập mình khỏi phần còn lại của thế giới và vây quanh mình bằng những rào cản không thể vượt qua được”[8]. Trong một thế giới đã quá quen thuộc với bi kịch của các bức tường và những chia rẽ, điều quan trọng là phải hoạt động cho một Âu Châu thống nhất và mở rộng, và phải loại bỏ những hàng rào không tự nhiên chia cách châu lục này từ biển Baltic đến Adriatic. Những nỗ lực đã được thực hiện để phá bỏ bức tường đó! Tuy nhiên, ngày hôm nay ký ức về những nỗ lực đó đã bị lãng quên. Bi kịch của các gia đình bị chia cắt, của nghèo đói và lầm than phát sinh từ sự chia rẽ đó cũng bị quên lãng. Ở những nơi mà các thế hệ đang mong muốn được thấy sự sụp đổ của những dấu chỉ thù hằn, thì ngày này chúng ta lại tranh luận làm thế nào để tránh né “những nguy hiểm” của thời đại: bắt đầu với những hồ sơ dài các phụ nữ, những người đàn ông và các trẻ em đang chạy trốn chiến tranh và đói nghèo, là những người chỉ mong tìm kiếm được một tương lai cho bản thân và người thân của họ.
Trong thời đại đánh mất ký ức hôm nay, chúng ta thường quên đi một thành tựu to lớn khác của tình đoàn kết đã được phê chuẩn ngày 25 tháng 3 năm 1957: đó là thời kỳ hòa bình dài nhất trải qua nhiều thế kỷ. “Những người theo thời gian thường thấy mình trong các phe đối lập, chiến đấu chống lại nhau.. . bây giờ thấy mình thống nhất và được làm giàu bằng các đặc tính quốc gia đặc thù của họ”.[9] Hòa bình luôn là kết quả của sự đóng góp tự do và ý thức của tất cả mọi người. Tuy nhiên, “đối với nhiều người ngày nay, hòa bình xuất hiện như là một phước lành xem ra là đương nhiên”, [10] đến mức nhiều người xem thường nó. Nhưng thực ra, hòa bình là một điều tốt đẹp, quý giá và cần thiết, nếu không có hòa bình, chúng ta không thể xây dựng một tương lai cho bất cứ ai, và chúng ta sẽ lâm vào tình cảnh “sống ngày nào biết ngày ấy thôi”.
Dù là lần đầu tiên được thai nghén ra, Liên Hiệp Âu Châu đã được sinh ra từ một dự án rõ ràng, được xác định cẩn thận và được cân nhắc kỹ lưỡng. Mỗi dự án có giá trị đều hướng đến tương lai, và tương lai là của những người trẻ, là những người được kêu gọi thực hiện những hy vọng và hứa hẹn của mình.[11] Những người khai sáng đã có một cảm thức rõ ràng là các nỗ lực chung không phải chỉ vượt qua biên giới các quốc gia mà thôi, nhưng còn phải vượt qua cả biên giới thời gian, để gắn kết các thế hệ với nhau, tất cả đều chia sẻ trong việc xây dựng ngôi nhà chung.
Kính thưa quý vị,
Tôi đã dành phần đầu trong bài nói chuyện để nói về những người đã khai sáng ra Châu Âu, để chúng ta có thể bị thách thức bởi những lời nói của họ, về tính kịp thời trong tư duy của họ, lòng khao khát theo đuổi công ích của họ, lòng xác tín của họ trong việc chia sẻ một công cuộc vượt quá mỗi người trong chính họ, và chiều kích của những lý tưởng đã truyền cảm hứng cho họ. Mẫu số chung của họ là tinh thần phục vụ, kết hiệp với niềm đam mê chính trị và ý thức rằng “nguồn gốc của nền văn minh châu Âu có tính Kitô giáo”, [12] nếu không có tính chất này thì những giá trị về phẩm giá, tự do và công lý của phương Tây sẽ là những điều không thể hiểu nổi. Như thánh Gioan Phaolô II đã khẳng định: “Cả ngày nay, linh hồn của Âu Châu vẫn thống nhất, bởi vì, ngoài nguồn gốc chung của nó, những giá trị Kitô và nhân bản giống nhau vẫn sống động. Sự tôn trọng phẩm giá con người, ý thức sâu xa về công lý, tự do, siêng năng, tinh thần sáng kiến, tình yêu gia đình, tôn trọng cuộc sống, khoan dung, mong muốn hợp tác và hoà bình: tất cả đều là những dấu chỉ đặc thù của nó” [13] Trong thế giới đa văn hóa của chúng ta, những giá trị này sẽ tiếp tục có vị trí chính đáng của chúng nếu chúng tiếp tục duy trì mối quan hệ sống còn với nguồn gốc sâu xa của mình. Kết quả của sự kết nối này sẽ giúp xây dựng các xã hội “thế tục” thực sự, không có những mâu thuẫn ý thức hệ, với không gian bình đẳng cho người bản xứ và người nhập cư, cho những tín hữu và những người không tin.
Thế giới đã thay đổi rất nhiều trong sáu mươi năm qua. Nếu những người khai sáng ra Cộng Đồng Âu Châu, sau khi sống sót qua một cuộc xung đột tàn hại, đã được truyền cảm hứng bởi niềm hy vọng về một tương lai tốt đẹp hơn và quyết tâm theo đuổi nó bằng cách tránh những xung đột mới, thì thời đại của chúng ta lại đang bị chi phối bởi khái niệm khủng hoảng. Chúng ta có cuộc khủng hoảng kinh tế ghi đậm dấu vết trong thập kỷ qua; cùng với cuộc khủng hoảng gia đình và các mô hình xã hội; chúng ta cũng có “một cuộc khủng hoảng các định chế” ngày lan rộng và cuộc khủng hoảng người di cư. Nhiều cuộc khủng hoảng gây ra lo sợ và hoang mang sâu sắc trong con người thời nay, là những người đang hoài mong một tầm nhìn tương lai mới. Tuy nhiên thuật ngữ “khủng hoảng” không nhất thiết là tiêu cực. Nó không chỉ đơn giản chỉ ra một khoảnh khắc đau đớn phải chịu đựng. Từ “khủng hoảng” có nguồn gốc từ động từ Hy Lạp kríno, nghĩa là biện phân, cân nhắc, và đánh giá. Thời đại của chúng ta hiện nay là khoảng thời gian của biện phân, một khoảng thời gian trong đó chúng ta được mời gọi xác định điều gì là thiết yếu để xây dựng trên đó. Đó là thời gian của thách đố và cơ hội.
Như thế, chìa khóa giải nghĩa cho việc đọc những khó khăn của hiện tại và tìm kiếm câu trả lời cho tương lai là gì? Trở lại với tư duy của các vị khai sáng sẽ không mang lại kết quả nào trừ phi nó có thể giúp chỉ ra một con đường và tạo ra động lực để đối diện với tương lai và đem lại một nguồn hy vọng. Khi một cơ thể mất đi cảm giác định hướng và không còn có thể nhìn về phía trước, nó sẽ trải qua một sự hồi quy và, về lâu dài, có nguy cơ chết dần mòn. Vậy thì cái gì là di sản của những người khai sáng? Đâu là những tiềm năng các vị đã chỉ ra để chúng ta có thể vượt qua những thách thức phía trước? Họ hy vọng gì cho châu Âu của ngày hôm nay và ngày mai?
Câu trả lời của họ được tìm thấy chính xác trong các trụ cột mà họ quyết tâm xây dựng cộng đồng kinh tế châu Âu. Tôi đã đề cập đến những điều này: đó là vị trí trung tâm của con người, sự liên đới hiệu quả, sự cởi mở với thế giới, theo đuổi hoà bình và phát triển, cởi mở với tương lai. Những người cai trị có trách nhiệm tìm hiểu những con đường hy vọng, xác định những cách thức cụ thể để bảo đảm rằng các bước đi quan trọng được thực hiện; những nỗ lực đó đến nay vẫn chưa hề bị lãng phí, nhưng chúng là những cam kết cho một cuộc hành trình dài và hiệu quả.
Châu Âu tìm thấy niềm hy vọng mới khi con người là trung tâm và trái tim các định chế của nó. Tôi tin rằng điều này đòi hỏi một sự sẵn sàng lắng nghe chu đáo và tin tưởng những mong đợi mà các cá nhân, xã hội và các dân tộc hình thành nên Liên Hiệp Âu Châu đã và đang lên tiếng. Đáng buồn thay, người ta thường có cảm giác rằng “sự chia rẽ” đang gia tăng giữa các công dân và các cơ quan của châu Âu, thường được coi là cách biệt với dân chúng và không chú ý đến những cảm giác khác nhau hiện diện trong Liên minh. Xác nhận tính trung tâm của con người cũng có nghĩa là khôi phục lại tinh thần gia đình, theo đó mỗi người đều tự do chia sẻ với gia đình theo khả năng và tài năng của mình. Điều này giúp ghi nhớ rằng châu Âu là một gia đình các dân tộc [14] và - như trong mỗi gia đình tốt - có những mức độ nhạy cảm khác nhau, nhưng tất cả đều có thể phát triển trong một sự hiệp nhất. Liên minh châu Âu được sinh ra như một sự thống nhất các khác biệt và một sự thống nhất trong sự khác biệt. Sự khác biệt không nên là một lý do gây ra sợ hãi, cũng không nên nghĩ rằng sự thống nhất được duy trì bởi tính đồng nhất. Sự thống nhất là một sự hòa hợp trong một cộng đồng. Các vị khai sáng đã chọn thuật ngữ đó làm dấu ấn cho các cơ quan phát sinh ra từ các Hiệp Ước và họ nhấn mạnh rằng các nguồn lực và tài năng của mỗi người hiện đang được tập hợp lại. Ngày nay, Liên minh Châu Âu cần khôi phục ý thức chủ yếu như là “cộng đồng” của con người và các dân tộc, để nhận ra rằng “toàn thể lớn hơn một phần, nhưng nó cũng lớn hơn tổng các phần của nó” [15] và do đó “chúng ta phải liên tục mở rộng tầm nhìn của mình để nhìn thấy những lợi ích lớn hơn sẽ đem lại lợi ích cho tất cả chúng ta” [16]. Những người khai sáng đã tìm kiếm sự hài hòa trong đó toàn thể có mặt trong mỗi bộ phận, và các bộ phận - theo cách riêng của nó - đều có trong toàn bộ.
Châu Âu tìm thấy hy vọng mới trong tình đoàn kết, đây cũng là loại thuốc giải độc hiệu quả nhất cho các hình thái mỵ dân hiện đại. Đoàn kết đòi hỏi phải nhận thức được mình là thành viên của một cơ thể duy nhất, trong khi đồng thời có khả năng chia sẻ thông tin với mọi người và với toàn thể. Khi một người đau khổ, tất cả đều khổ đau (xem 1 Cor 12:26). Hôm nay, cùng với Vương quốc Anh, chúng ta thương tiếc các nạn nhân của cuộc tấn công khủng bố diễn ra ở Luân Đôn hai ngày trước. Vì tình liên đới không chỉ là lý tưởng; Nó thể hiện trong các hành động cụ thể và các bước đưa chúng ta đến gần hơn với các nước láng giềng của chúng ta, bất kể họ gặp phải tình huống nào. Các hình thức của chủ nghĩa mỵ dân thay vào đó là kết quả của một chủ nghĩa ích kỷ giam hãm con người và ngăn ngừa họ vượt qua và “nhìn xa hơn” tầm nhìn hẹp hòi của họ. Cần phải bắt đầu suy nghĩ lại một lần nữa trong tư cách là người châu Âu, để tránh những nguy hiểm của sự đồng nhất đáng sợ hoặc thái độ vênh vang của chủ nghĩa đặc thù. Chính trị cần loại lãnh đạo này, là những người biết tránh xa việc vuốt ve các cảm xúc của quần chúng để mưu toan dành được sự đồng tình ủng hộ của họ, nhưng thay vào đó, trong tinh thần liên đới và tương nhượng, thảo ra các chính sách có thể làm cho toàn bộ Liên minh phát triển hài hòa. Kết quả là, những người chạy nhanh hơn có thể chìa ra một bàn tay cho những người chậm hơn, và những người gặp khó khăn hơn sẽ có thể bắt kịp những người dẫn đầu.
Châu Âu tìm thấy hy vọng mới khi nó từ chối khuất phục sự sợ hãi hoặc tự đóng kín mình dưới những hình thức an ninh giả tạo. Ngược lại, lịch sử của Châu Âu đã được xác định rất nhiều bởi các cuộc gặp gỡ với các dân tộc khác và các nền văn hóa khác; bản sắc của Châu Âu “là, và luôn luôn là một bản sắc năng động và đa văn hóa”. [17] Thế giới trông đợi dự án của châu Âu với một sự quan tâm lớn như trong ngày đầu tiên, khi đám đông tụ tập tại quảng trường Capitol của Rome với những thông điệp chúc mừng bùng nổ từ các quốc gia khác. Ngày nay, thậm chí còn đúng hơn nữa, nếu chúng ta nghĩ đến những quốc gia đã yêu cầu trở thành một phần của Liên hiệp và những quốc gia nhận được viện trợ rất hào phóng để chống lại các ảnh hưởng của đói nghèo, bệnh tật và chiến tranh. Sự mở cửa với thế giới bao hàm khả năng “đối thoại như là một hình thức gặp gỡ” [18] ở tất cả các cấp, bắt đầu với cuộc đối thoại giữa các quốc gia thành viên, giữa các tổ chức và công dân, và với rất nhiều những người nhập cư đang đổ xô vào bờ của Liên minh. Đối phó với cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về nhập cư trong những năm gần đây như thể đó chỉ là vấn đề về số lượng hoặc kinh tế, hoặc vấn đề về an ninh thôi thì chưa đủ. Vấn đề nhập cư đặt ra một câu hỏi sâu sắc hơn, đó là vấn đề chủ yếu về văn hoá. Châu Âu hiện nay đề xuất loại hình văn hoá nào? Sự sợ hãi, ngày càng trở nên rõ ràng hơn, có căn nguyên bắt nguồn từ việc đánh mất đi những lý tưởng của mình. Nếu không có cách đối phó được lấy cảm hứng từ những lý tưởng đó, chúng ta sẽ bị thống trị bởi nỗi sợ hãi rằng những người khác sẽ làm mất đi những thói quen thông thường của chúng ta, sẽ tước đoạt những tiện nghi quen thuộc, và bằng cách nào đó họ sẽ đặt vấn đề về lối sống của chúng ta, một lối sống mà thường chỉ co cụm trong sự giàu có về vật chất. Tuy nhiên, sự phong phú của châu Âu luôn luôn là sự cởi mở về tinh thần và khả năng dám đặt ra các câu hỏi cơ bản về ý nghĩa của cuộc sống. Sự cởi mở với cảm thức về sự vĩnh cửu cũng song hành với sự cởi mở tích cực với thế giới, dù đôi khi cũng có những căng thẳng và sai lầm. Tuy nhiên sự thịnh vượng ngày nay dường như đã cắt bớt đôi cánh của lục địa này và hạ thấp tầm nhìn của nó. Châu Âu có một di sản những lý tưởng và các giá trị tinh thần độc đáo trên thế giới, xứng đáng được đề xuất một lần nữa với sự nhiệt thành và sức sống mới, vì đây là thuốc giải độc tốt nhất chống lại khoảng trống các giá trị trong thời đại chúng ta, đang tạo ra một địa hình phì nhiêu cho các hình thái cực đoan. Đây là những lý tưởng hình thành nên châu Âu, một “bán đảo châu Á” trải dài từ rặng Urals đến Đại Tây Dương.
Châu Âu tìm thấy hy vọng mới khi đầu tư vào phát triển và hòa bình. Sự phát triển không phải là kết quả của việc kết hợp các hệ thống sản xuất khác nhau. Nó liên quan đến toàn bộ con người: phẩm giá lao động, điều kiện sống tốt đẹp, được tiếp cận với giáo dục và chăm sóc y tế cần thiết. “Sự phát triển là tên mới của hòa bình”, [19] Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục nói, vì không có hòa bình thật sự bất cứ khi nào con người bị bỏ quên hoặc bị buộc phải sống trong cảnh nghèo khó. Không có hòa bình nếu không có công ăn việc làm và những triển vọng kiếm được một mức lương xứng đáng. Không có hòa bình ở các vùng ngoại vi các thành phố của chúng ta, nếu tiếp tục còn sự lạm dụng ma túy và bạo lực.
Châu Âu tìm thấy hy vọng mới khi mở rộng cửa cho tương lai, khi mở cửa cho giới trẻ, đem lại cho họ những triển vọng nghiêm túc về giáo dục và những khả năng thực sự để bước vào lực lượng lao động, khi đầu tư vào gia đình, là tế bào đầu tiên và cơ bản của xã hội, khi tôn trọng lương tâm và lý tưởng của các công dân khi cho các bà mẹ có thể có con mà không sợ không thể hỗ trợ cho họ, khi bảo vệ cuộc sống trong tất cả sự thiêng liêng của nó.
Kính thưa quý vị,
Ngày nay, với sự gia tăng chung về tuổi thọ của mọi người, sáu mươi được xem là tuổi trưởng thành hoàn toàn, một thời điểm quan trọng khi chúng ta lại được kêu gọi tự vấn. Ngày hôm nay đây, Liên minh châu Âu cũng được mời gọi để tự vấn chính mình trong việc chăm sóc cho người yếu đau với những bệnh tật không thể tránh khỏi trong tuổi già, và trong việc tìm ra các phương thế mới xoay chuyển xu thế này. Tuy nhiên, không giống như con người, Liên minh châu Âu không phải đối mặt với một tuổi già không thể tránh khỏi, nhưng đối diện với khả năng của một sự trẻ trung mới. Thành công của nó sẽ phụ thuộc vào sự sẵn sàng để làm việc cùng nhau một lần nữa, và sự sẵn sàng của mình dám đánh cược với tương lai. Là những nhà lãnh đạo, quý vị được kêu gọi làm bừng sáng lên con đường của một “chủ nghĩa nhân bản mới của châu Âu” [20] được hình thành từ các lý tưởng và hành động cụ thể. Điều này có nghĩa là không sợ đưa ra các quyết định thiết thực có khả năng đáp ứng các vấn đề thực sự của con người, và có thể đứng vững với những thách đố của thời gian.
Về phần tôi, tôi sẵn sàng bảo đảm với quý vị về sự gần gũi của Tòa Thánh và Giáo Hội với Châu Âu như một tổng thể, với sự tăng trưởng mà Châu Âu đã, đang và sẽ luôn luôn tiếp tục đóng góp. Xin Chúa ban muôn ơn lành cho Âu Châu, và xin Ngài bảo vệ và ban cho Châu Âu ơn bình an và tiến bộ. Tôi xin mượn nơi đây những lời Joseph Bech đã tuyên bố trên Đồi Capitol của Rôma: Ceterum censeo Europam esse aedificandam - hơn nữa, tôi tin rằng châu Âu phải được dựng xây.
Cảm ơn quý vị.
[1] P.H. SPAAK, Diễn văn trong lễ ký Hiệp ước Rôma, ngày 25 tháng 3 năm 1957.
[2] thượng dẫn
[3] A. DE GASPERI. La nostra patria Europa. Diễn văn tại Nghị viện Châu Âu, 21 tháng 4 năm 1954, Alcide De Gasperi e la politica internazionale, Cinque Lune, Rome, 1990, vol. III, 437-440.
[4] x. P.H. SPAAK, loc. Cit.
[5] J. LUNS, Diễn văn trong lễ ký Hiệp ước Rôma, ngày 25 tháng 3 năm 1957.
[6] J. BECH, Diễn văn trong lễ ký Hiệp ước Rôma, ngày 25 tháng 3 năm 1957.
[7] K. ADENAUER, Diễn văn trong lễ ký Hiệp ước Rôma, ngày 25 tháng 3 năm 1957.
[8] C. PINEAU, Diễn văn trong lễ ký Hiệp ước Rôma, ngày 25 tháng 3 năm 1957.
[9] P.H. SPAAK, loc. Cit.
[10] Diễn từ trước Ngoại giao đoàn cạnh Tòa thánh, ngày 9 tháng 1 năm 2017.
[11] x. P.H. SPAAK, loc. Cit.
[12] A. DE GASPERI, loc. Cit.
[13] JOHN PAUL II, Diễn văn tại Santiago de Compostela, 9 tháng 11 năm 1982: AAS 75/1 (1983), 329.
[14] x. Diễn từ trước Quốc hội Châu Âu, Strasbourg, 25 tháng 11 năm 2014: AAS 106 (2014), 1000.
[15] Tông huấn Niềm Vui Phúc Âm, 235.
[16] thượng dẫn.
[17] Diễn văn tại Lễ trao Giải thưởng Charlemagne, 6 tháng 5 năm 2016: L'Osservatore Romano, 6-7 tháng 5 năm 2016, tr. 4.
[18] Tông huấn Niềm Vui Phúc Âm, 239.
[19] PAUL VI, Thông điệp Phát Triển Các Dân Tộc (Populorum Progressio), 26 Tháng ba 1967, 87: AAS 59 (1967), 299.
[20] Diễn văn tại Lễ trao Giải thưởng Charlemagne, loc. Cit., P. 5.