Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
12/08 Yêu thương và tha thứ.
- Viết bởi Mt 18,21 - 19,1
Yêu thương và tha thứ.
Thứ Năm tuần 19 thường niên.
"Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy".
Lời Chúa: Mt 18,21 - 19,1
Khi ấy, Phêrô đến thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần? Có phải đến bảy lần không?" Chúa Giêsu đáp: "Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy.
"Về vấn đề này, thì Nước Trời cũng giống như ông vua kia muốn tính sổ với các đầy tớ. Trước hết người ta dẫn đến vua một người mắc nợ mười ngàn nén bạc. Người này không có gì trả, nên chủ ra lệnh bán y, vợ con và tất cả tài sản của y để trả hết nợ. Người đầy tớ liền sấp mình dưới chân chủ và van lơn rằng: "Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, và tôi sẽ trả lại cho ngài tất cả". Người chủ động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y.
"Khi ra về, tên đầy tớ gặp một người bạn mắc nợ y một trăm bạc: Y tóm lấy, bóp cổ mà nói rằng: "Hãy trả nợ cho ta". Bấy giờ người bạn sấp mình dưới chân và van lơn rằng: "Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, tôi sẽ trả hết nợ cho anh". Y không nghe, bắt người bạn tống giam vào ngục, cho đến khi trả nợ xong. Các bạn y chứng kiến cảnh tượng đó, rất khổ tâm, họ liền đi thuật với chủ tất cả câu truyện. Bấy giờ chủ đòi y đến và bảo rằng: "Tên đầy tớ ác độc kia, ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta; còn ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn ngươi như ta đã thương ngươi?" Chủ nổi giận, trao y cho lý hình hành hạ, cho đến khi trả hết nợ. "Vậy, Cha Thầy trên trời cũng xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình".
Khi Chúa Giêsu nói những lời đó xong, thì Người bỏ xứ Galilêa mà đến Giuđêa, bên kia sông Giođan.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Bảy mươi lần bảy
Suy niệm :
Có khoảng cách rất lớn giữa mười ngàn yến vàng với một trăm quan tiền.
Mười ngàn yến vàng bằng một trăm triệu quan tiền.
Vậy mà người vừa được tha món tiền cực lớn ấy,
lại không tha được cho bạn của mình một món tiền tương đối nhỏ.
Thái độ độc ác này khiến tôi nhìn lại mình và tự hỏi tại sao.
Tại sao tôi không tha cho anh em tôi những điều nhỏ mọn hàng ngày,
trong khi Chúa vẫn tha cho tôi những món nợ rất lớn?
Dù một trăm quan tiền là hơn ba tháng lương của người lao động,
nhưng nó chẳng là gì so với món tiền lớn tôi mắc nợ Chủ tôi.
Tôi mắc nợ Ngài sự hiện hữu của tôi trên đời và tất cả những gì tôi có.
Tôi mắc nợ Ngài vì tình yêu bao la Ngài dành cho tôi.
Món nợ lớn vô cùng, vì tôi là thụ tạo, còn Ngài là Tạo Hóa.
“Thưa Ngài, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả hết” (cc. 26. 29).
Cả hai người đầy tớ đều sấp mình van xin như thế
khi cả hai đều không thể nào trả ngay được món nợ.
Nhưng hai câu trả lời nhận được lại khác nhau.
Chỉ vị vua mới biết chạnh lòng thương xót và tha toàn bộ số nợ (c. 27).
Còn người đầy tớ vừa được tha món nợ lớn, lại không có lòng thương xót này.
Anh ta thích dùng sức mạnh và quyền lực để giải quyết.
Túm lấy, bóp cổ, tống bạn mình vào ngục cho đến khi trả xong.
Lẽ ra anh ta phải cư xử với bạn mình như ông chủ đã cư xử với anh.
Đó chính là nội dung lời buộc tội của ông chủ giận dữ:
“Ngươi không phải thương xót đồng bạn,
như chính ta đã thương xót ngươi sao ?” (c. 33).
Lòng thương xót anh nhận được đã không trở thành dòng suối mát
chảy đến với người bạn đang cần chút xót thương.
Chính vì thế sự tha thứ mà anh nhận được từ chủ
phút chốc bị rút lại, bị xóa sạch.
Anh lại bị trở về tình trạng trước đây,
bị quân lính hành hạ, bị tù đầy cho đến khi trả hết (c. 34).
Sự tha thứ và lòng thương xót của Thiên Chúa đối với chúng ta
chỉ ở lại với điều kiện là nó được chuyển đi, chứ không giữ lại.
Giữ lại đồng nghĩa với bị rút lại.
Món quà tôi nhận được từ Cha phải trở thành món quà tôi trao cho anh em.
Trong cuộc sống, chúng ta là con nợ của nhau, người này nợ người kia.
Trước những xúc phạm của người anh em trong cộng đoàn,
Phêrô nghĩ phải chăng nên tha đến bảy lần.
Đức Giêsu mời ta tha đến bảy mươi lần bảy, nghĩa là tha đến vô cùng.
Ngài mời ta đi vào chỗ sâu nhất trong trái tim Thiên Chúa.
Sự tha thứ bắt nguồn từ tấm lòng, từ trái tim (c. 35).
Một trái tim tàn nhẫn chỉ biết đến một sự công bằng cứng cỏi.
Thế giới hôm nay cần một trái tim tha thứ hơn bao giờ.
Những nước nghèo mong chờ được tha những món nợ lớn.
Có những mối thù cần được tha giữa các sắc tộc, quốc gia, tôn giáo…
Người Kitô hữu chúng ta giúp gì cho sự tha thứ trong thế giới hôm nay?
Cầu nguyện :
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận,
xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,
xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ,
xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,
xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi,
Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng,
xin cho các Kitô hữu chúng con
trở thành tình yêu
cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài,
biết sống nhờ và sống cho tha nhân,
biết quảng đại cho đi
và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh,
xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa
ở sâu thẳm lòng chúng con,
và trong lòng từng con người bé nhỏ.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy niệm 2: Tha thứ
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Tha thứ một điều cần thiết nhưng lại khó khăn biết bao. Cần thiết vì nếu không tha thứ ta không thể sống với ai được. Con người là bất toàn. Luôn sai lỗi. Nếu ta không tha thứ thì cuối cùng chỉ còn mình ta với ta. Và ta cũng bất toàn. Nếu người khác không tha thứ thì ta cũng không sống nổi. Nhưng trên hết ta phải tha thứ để được Chúa thứ tha. Vì Chúa là Đấng hay tha thứ.
Chúa là Đấng từ bì thương xót. Luôn tha thứ lỗi lầm của con người. Lịch sử của con người là lịch sử của tình thương. Thiên Chúa yêu thương con người. Tạo dựng nên con người. Cứu chuộc con người. Sau Mô-sê đến lượt Gio-suê hướng dẫn dân Chúa ra khỏi Ai cập tiến vào Đất Hứa. Ra khỏi nô lệ khổ cực tiến vào tự do yêu thương. Ra khỏi đất ăn nhờ ở tạm vào đất sở hữu vĩnh viễn. Chúa yêu thương cho dân vượt qua Biển Đỏ. Hôm nay lại cho dân vượt qua sông Gio-đan khô chân. Qua sông qua biển. Đó là tình yêu thương của Chúa (năm lẻ).
Biết bao tình yêu thương Chúa bày tỏ với dân Ít-ra-en. Nhưng họ luôn cứng đầu cứng cổ. Phản loạn. Tội lỗi. Chúa phải sai các tiên tri đến cảnh tỉnh họ. Sửa chữa họ. Trừng phạt họ. Để họ tỉnh ngộ. Ê-dê-kiên trở nên dấu chỉ báo trước hình phạt Chúa giáng xuống ông hoàng và dân cư Giê-ru-sa-lem. “Tôi là điềm báo cho các ông. … Họ sẽ phải đi tù, đi đày. Ông hoàng đang ở giữa họ sẽ vác hành lý lên vao lúc trời tối và sẽ ra đi; họ sẽ khoét một lỗ trên tường cho ông chui qua. Ông sẽ che mặt để chính mắt khỏi nhìn thấy xứ sở” (năm chẵn). Chúa cảnh báo để họ sám hổi, để được tha thứ.
Nhưng rồi Chúa lại tha thứ tất cả. Để tha thứ Chúa gửi Con Một xuống trần gian. Chịu mọi đau khổ để đền tội cho con người. Để đưa con người vượt qua biển trần gian. Để con người được vào không phải đất hứa ở trần gian, nhưng vào đất hứa trên thiên đàng. Để tha thứ cho ta Chúa phải chịu khổ nhục thiệt thòi như vậy. Chúa dạy ta phải tha thứ cho anh em. Tha như Chúa. Tha mãi mãi. Tha không giới hạn. Đó là điều kiện để ta được Chúa tha thứ. Đó là cách thế để cứu thế giới. Thế giới tràn đầy tội lỗi. Không thể tồn tại nếu thiếu lòng tha thứ. Hơn nữa ta phải tha thứ để làm chứng cho Chúa. Làm sáng lên lòng nhân từ tha thứ của Chúa. Để nhân loại nhận biết Chúa. Đây là thời đại cuối cùng. Đây là lúc biểu lộ tình thương. Đây là thời kỳ của ân sủng. Ơn tha thứ. Lòng thương xót cho con người. Ta hãy cũng Chúa đem ơn tha thứ cho thế giới bằng chính sự khoan dung tha thứ của ta.
Suy Niệm 3: Tha Thứ
Một đôi vợ chồng nọ đưa nhau ra tòa xin ly dị. Vị luật sư biện hộ cho quan tòa biết: đôi vợ chồng này sống hoàn toàn yên lặng với nhau trong suốt 12 năm liên tiếp. Họ cũng không muốn gặp nhau nữa, nếu cần cho nhau biết điều gì, thì họ chỉ cần viết vào một mảnh giấy để sẵn trên bàn cho người kia đọc. Ðôi vợ chồng này trước đây đã sống hạnh phúc với nhau trong vòng 18 năm, đã nuôi nấng con cái khôn lớn, nhưng rồi không rõ vì lý do gì, hai người đã không thèm nói chuyện với nhau, và giờ đây họ không nhớ đã giận nhau vì lý do gì.
Những hờn giận, phiền muộn xẩy ra trong sinh hoạt hằng ngày, nếu không được nghiêm chỉnh giải quyết, vượt qua, thì sẽ dễ dàng chồng chất làm thành những bức tường ngăn cách giữa cha mẹ với nhau, hay giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em trong gia đình, hoặc giữa bạn bè thân thích. Những tâm tình phiền muộn tiêu cực mỗi ngày một ít cũng đủ ảnh hưởng đến cả cuộc sống, làm chúng ta không còn vui sống và bình an nữa.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta phải tha thứ và tha thứ luôn luôn. Nhưng tại sao phải tha thứ? Vì tha thứ là một điều cần thiết trong đời sống xã hội, trong gia đình, trong các đoàn thể; vì tha thứ là đặc điểm của tình yêu: trong tình yêu Chúa, chúng ta tha thứ cho nhau như Ngài đã tha thứ cho chúng ta. Tha thứ như thế không phải là yếu nhược, mà là sức mạnh của tình yêu, là khí cụ của hòa bình. Cuộc đời là một cuộc hành trình, nếu chúng ta cứ để mình mang nặng gánh ưu tư, phiền muộn thì làm sao có đủ sức để đạt tới đích được. Do đó chúng ta hãy luôn sống tha thứ để tâm hồn chúng ta được nhẹ nhàng thanh thoát trên đường đời với niềm hy vọng và an vui.
Một nhà tâm lý người Mỹ đã đưa ra nhận định như sau: Trên bình diện nhân bản, nếu suy nghĩ cho cùng, thì tha thứ là giải pháp tốt nhất cho người tha thứ và kẻ được tha thứ: sự tha thứ khai mở năng lực tinh thần con người và có tác dụng làm cho con người sống lành mạnh vui tươi hơn. Trên bình diện thiêng liêng, sự tha thứ có giá trị tích cực, chứng tỏ tình thương làm phát sinh nguồn an ủi trong tâm hồn; nếu chúng ta không thật lòng tha thứ cho nhau, thì Cha trên trời cũng không tha thứ cho chúng ta.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết tha thứ cho những ai xúc phạm đến chúng ta, và như vậy chúng ta trở thành khí cụ đem niềm vui đến cho mọi người.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Bản Sắc Của Người Kitô Hữu
Cuộc xung đột đẫm máu giữa người Do Thái và Palestin tại Trung Ðông cũng như những người công giáo và tin lành tại Bắc Ailen, hay giữa những chủng tộc khác nhau tại nhiều nơi khác trên thế giới cho chúng ta thấy rằng oán thù luôn sinh ra oán thù, bạo động luôn kéo theo bạo động, thế giới sẽ chẳng bao giờ có được hòa bình đích thực khi con người chưa biết tha thứ cho nhau.
Tin Mừng hôm nay một lần nữa mời gọi chúng ta đi vào cốt lõi của Tin Mừng là sự tha thứ, đây là tuyệt đỉnh của giáo huấn của Chúa Giêsu. Ngài sẽ chỉ là một kẻ lừa bịp và tòa giáo huấn của Ngài sẽ sụp đổ nếu trong giây phút cuối đời, từ trên thập giá, Ngài đã không tha thứ cho những kẻ đang hành hạ mình. Lời cầu xin tha thứ của Chúa Giêsu là bảo chứng của những lời Ngài rao giảng. Suy niệm về sự tha thứ, trước hết chúng ta phải hướng về tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Ðấng giàu lòng thương xót, chậm giận và hay tha thứ. Toàn bộ Kinh Thánh là lịch sử của những cử chỉ tha thứ của Thiên Chúa và sự bắt đầu lại của con người. Mỗi một lần con người vấp ngã là mỗi lần Thiên Chúa thực thi lòng thương xót. Ngay từ trang đầu tiên của Kinh Thánh, chúng ta đã thấy được sự tha thứ của Thiên Chúa. Sau khi ông bà nguyên tổ phạm tội, Thiên Chúa đã không bỏ mặc hay trừng phạt, mà trái lại còn hứa ban ơn cứu rỗi. Xuyên suốt Kinh Thánh Cựu Ước, Thiên Chúa trải dài tình yêu nhẫn nhục tha thứ cho dân riêng của Ngài. Qua Chúa Giêsu, lòng tha thứ của Chúa Cha đã bộc bạch một cách trọn vẹn. Những trang cảm động nhất trong Tân Ước hẳn phải là những trang về lòng tha thứ của Thiên Chúa được thể hiện qua lời nói, cử chỉ của Chúa Giêsu.
Còn bức tranh nào đẹp và cảm động cho bằng phiên tòa xử người đàn bà phạm tội ngoại tình bị bắt quả tang. Từ buổi sáng tinh mơ, trong khi đám đông do các luật sĩ và biệt phái động viên đang hậm hực sẵn sàng ném đá người đàn bà khốn khổ, Chúa Giêsu đã giữ thinh lặng, và cuối cùng, khi đám đông đã rút lui, Ngài chỉ ôn tồn nói với chị: "Chị hãy về đi, Ta không kết án chị".
Còn áng văn nào đẹp cho bằng dụ ngôn về người con hoang đàng được ghi lại trong Tin Mừng theo thánh Luca. Còn lời nào dịu ngọt hơn lời tha thứ của Chúa Giêsu dành cho người được mệnh danh là kẻ trộm lành chịu đóng đinh bên hữu Ngài, và dĩ nhiên còn cử chỉ nào hào hùng và cao thượng hơn lời cầu xin tha thứ cho những kẻ lý hình trước khi trút hơi thở cuối cùng.
Thiên Chúa giàu lòng thương xót, chậm giận và hay tha thứ. Ðó là tuyệt đỉnh của mạc khải Kitô giáo. Thiên Chúa mà Chúa Giêsu tỏ bày cho chúng ta qua lời giảng dạy và cách cư xử của Ngài là Thiên Chúa hay thương xót và tha thứ. Lòng thương xót và tha thứ thiết yếu là của Thiên Chúa, con người không thể tự mình tha thứ. Trên thập giá, Chúa Giêsu đã không tự mình tha thứ, Ngài cầu xin Chúa Cha tha thứ. Thiên Chúa thực thi lòng tha thứ qua con cái Ngài. Tự mình tha thứ không phải là điều tự nhiên đối với bản tính con người. Chính vì thế mà Chúa Giêsu dạy chúng ta phải kêu cầu ơn tha thứ của Thiên Chúa. Chỉ khi nào chúng ta cảm nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa, chúng ta mới có thể tha thứ cho người khác: "Xin Cha tha cho chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con".
Cảm nhận được ơn tha thứ của Chúa và sẵn sàng tha thứ cho người khác, đó là cuộc chiến đấu của cả một đời người nhưng đó cũng là cuộc chiến làm nên bản sắc của người tín hữu Kitô. Người tín hữu Kitô chỉ thực sự là tín hữu Kitô khi họ biết tha thứ mà thôi.
Suy Niệm 5: Sáng và tối.
Bấy giờ ông Phê-rô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?” Đức Giêsu đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy.” (Mt. 18, 21-22)
Ý nghĩa hai dụ ngôn này đã rõ ràng. Chúng ta không thể khước từ tha thư cho người khác vì Thiên Chúa cũng tha thứ cho mỗi người chúng ta hơn thế nhiều. Chúng ta cũng không thể không biết rằng thái độ của chúng ta đối vời anh em lân cận. Thì không có lý gì chúng ta sẽ tránh khỏi Thiên Chúa không xử với chúng ta như vậy. Chúng ta là nạn nhân của chính lối cư xử và hành động chúng ta.
Tối.
Thường những dụ ngôn của thánh Mát-thêu cũng như câu chuyện nhỏ này mang nặng bi quan. Nó phác họa những con người, những cách đối xử với nhau đáng buồn và kết thúc bằng kết án đầy tớ độc ác kèm theo sự đe dọa của hình phạt đối với kẻ không biết tha thứ. Chắc là bi quan rồi, nhưng như thế có sai lầm không? Chúng ta có cư xử cách khác đối với anh em ta không? Người ta nói: “Người là chó sói đối với người”
Ở đây nói về các môn đệ Chúa Giêsu, nói về mỗi người chúng ta, chúng ta có cư xử với nhau như thế không? có độc ác như thế không? có dã man không? dụ ngôn này Đức Giêsu không chỉ nói với các môn đệ hình như đã sống không có tình yêu huynh đệ, nó còn nói với chúng ta hiện nay nữa.
Sáng
Xuyên qua câu truyện dụ gôn này có thấy sáng lên hình bóng của nhà vua. Lòng thương xót của nhà vua biểu lộ qua những cách cư xử ban đầu làm cho dụ ngôn này một vẻ tươi sáng, nhưng rồi lại tuôn đi. Lối cư xử của đầy tớ ban đầu có vẻ lành mạnh: Nó lăn xả vào tay Chúa. Chúa không bắt buộc nó nữa. Người Cha của đầy tớ van xin này là người cha của đứa con phung phá. “Một người phủ đầy tội lỗi luôn được quan tâm ưu ái, đó là cái đích cho lòng thương xót nhắm bắn” Lê-on Bloy nói thế.
Nơi pháp trường người tội lỗi như món nợ vô phương đền trả, được trông thấy một người tiến lại cứu giúp. Gảii thoát nó hoàn toàn! Lòng tha thứ đưa đến một chân trơì mới, đến đời sống mới và gắn bó lòng thương xót tha thứ lẫn nhau.
J.M
Suy niệm 6: THA THỨ VÀ YÊU THƯƠNG KHÔNG GIỚI HẠN (Mt 18, 21; 19, 1)
Xem lại CN 24 TN A, Thứ Ba Tuần 3 MC.
Toàn bộ Tin Mừng được gói trọn trong hai điều răn là: “Mến Chúa và yêu người”; nói cách khác: “Mến Chúa và yêu người là hai mặt của một thực tại”, nó như hai mặt trên cùng một bàn tay. Thật vậy, nếu nói mến Chúa mà không yêu người thì là người nói dối vì sự thật không ở trong người đó. Vì thế, luật Tin Mừng đòi hỏi mến Chúa và yêu người phải luôn đi đôi với nhau như hình với bóng.
Hôm nay, Đức Giêsu dạy cho Phêrô một bài học về sự tha thứ khi ông đến hỏi: "Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?". Đức Giêsu liền nói: "Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy". Điều đó cho thấy rằng: tha thứ triền miên, tha thứ không giới hạn…
Nhưng muốn tha thứ trong tự do và đem lại hạnh phúc, thì điều quan trọng là nhận ra mình không là gì cả, nhưng vẫn được Chúa yêu thương. Mình đáng phải chết mà Chúa đã cứu sống và tha thứ. Vì thế, mình phải có trách nhiệm cứu giúp và yêu thương anh chị em đồng loại như Chúa đã thương mình. Dụ ngôn “tên mắc nợ không biết thương xót” là điều mà con người hay mắc phải. Tức là chỉ cầu cứu Thiên Chúa tha thứ cho mình, còn người khác khi có lỗi với mình, mình tìm mọi cách triệt tiêu và đóng đinh họ cho bằng được.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sống trong tình yêu của Chúa. Biết yêu thương như Chúa đã yêu thương chúng con. Đồng thời sẵn sàng tha thứ cho những thiếu xót, bất toàn của anh chị em chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Tha thứ vô điều kiện
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúng ta phải tha thứ cho nhau vô điều kiện, bởi vì Thiên Chúa nhân lành luôn thương xót và tha thứ mọi lỗi lầm cho ta trước.
Cầu nguyện: Lạy Cha, con chúc tụng tình thương độ lượng hải hà mà Cha đã thực hiện nơi nhân loại và nơi bản thân yếu đuối của con. Chúa không nhìn đến lòng phản trắc đáng phải chết khi nguyên tổ chúng con sa ngã phạm tội, Cha đã tha thứ và gọi tên A-đam, E-và, để loan báo chương trình cứu thoát. Từ lời hứa ấy, Cha đã từng bước thực hiện ơn cứu độ và hoàn thành trong Đức Giêsu Tử Nạn và Phục Sinh. Cha còn tiếp tục ban lại cho con sự sống của Cha cách dồi dào hơn nữa trong Ngôi Thánh Linh. Vâng, nhân loại đáng chết đã được hưởng lòng thương xót thứ tha của Cha. Con sẽ mãi ca tụng Cha nhân từ trọn đời sống con.
Lạy Cha là Đấng luôn tha thứ và hay thương xót, xin cho con biết học bài học rộng lượng, khoan dung để con đối xử như thế với mọi người anh em. Xin cho con biết vì Cha mà tha thứ tất cả cho mọi người có điều xích mích, bất hòa với con, không giới hạn, không điều kiện. Con ý thức được rằng con tha thứ cho anh em không phải vì con cao thượng hay vì con nhân đức, cũng không phải vì người anh em nhận ra lỗi và hạ mình van xin. Nhưng lạy Cha, chỉ vì một lý do là Cha muốn con tha thứ, như Cha đã tha thứ cho con trước. Xin cho mỗi lần con cố gắng tập tha thứ, là con trở nên giống Cha và giống Đức Giêsu đã tha thứ cho kẻ giết hại mình.
Con cầu xin cho mọi anh chị em con cùng sống theo lời Chúa Giêsu chỉ dạy: hãy tha thứ để được thứ tha. Amen.
Ghi nhớ: “Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy”.
Suy Niệm 8: Trả thù: cách của người công giáo
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Có hai người thổ dân Nam Phi rất ghét nhau. Ngày kia một trong hai người gặp đứa con gái nhỏ của kẻ thù mình trong rừng. Tên ấy liền bắt cô bé, lấy dao chặt hai ngón tay rồi thả ra. Cô bé vừa chạy về vừa khóc, bàn tay máu chảy ròng ròng. Còn tên hung thủ vừa đi vừa la lớn: “Trả được thù rồi”.
Ngày qua tháng lại, thấm thoắt mười mấy năm, cô gái đã có chồng con. Một hôm, có một tên ăn mày tới xin ăn. Người đàn bà nhận ra đó là kẻ chặt ngón tay mình, vội vàng trở vào nhà bảo đầy tớ đem sữa bánh ra cho ăn. Khi kẻ kia ăn no rồi, người đàn bà đưa bàn tay cụt hai ngón ra cho hắn xem và nói: “Tôi cũng đã trả được thù rồi”. Tên ăn mày xúc động khóc ngất. Riêng bà kia vì đã trở lại đạo nên hiểu rằng: “Nếu kẻ thù mình đói, hãy cho nó ăn, khát hãy cho nó uống...” (Rm 12,20) .
Hai cách trả thù: Cách của người ngoại giáo và cách của người công giáo (Trích “Phúc”).
Suy niệm
Trong nỗ lực đưa nhân loại đến với đức ái trọn hảo, Chúa Giêsu đã dạy con người phải biết tha thứ không ngừng cho nhau qua con số tha thứ bảy mươi lần bảy tức là luôn tha thứ. Chính Ngài là tấm gương sống động khi cất lời xin Cha tha thứ cho những kẻ thi hành án tử với Ngài (x. Lc 23,34). Tấm gương tha thứ ngay lúc họ gây cho Ngài đau khổ nhất, phản chiếu khuôn mặt nhân từ như Ngài kêu gọi: “Phải có lòng nhân từ” (Lc 6:36).
Hơn nữa, tha thứ là điều kiện để chính mình được thứ tha như Ngài dạy trong kinh Lạy Cha: “Xin tha nợ chúng con nhưng chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” (Mt 6,12). Sách Huấn Ca nhấn mạnh kẻ thù hận là người không có lòng yêu thương và không đáng được tha tội: “Nó chẳng biết thương người đồng loại, mà lại dám xin tha tội cho mình! Nó chỉ là người phàm mà để tâm thù hận, thì ai sẽ xin tha tội cho nó ?” (Hc 28,4-5). Cho nên, sách Huấn Ca đã dạy trước: “Hãy bỏ qua điều sai trái cho kẻ khác, thì khi bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được tha” (Hc 28,2).
Chính vì lẽ đó Chúa Giêsu kêu mời mọi người: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ... Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha” (Lc 6:36-37).
Tha thứ, khuyến khích người được thứ tha trở về với con đường chính lộ và nảy sinh tình yêu khi sống trong vòng tay nhân ái, đó là động lực để họ dấn thân trong yêu thương: Ai được tha nhiều sẽ mến nhiều, ai được tha ít sẽ mến ít (x. Lc 7,47b). Sống tha thứ là giải thoát chính chúng ta khỏi những xiềng xích của cảm xúc giận hờn đè nặng, làm cho cuộc sống được thư thái tự do, sức khỏe thăng tiến. Tha thứ làm thêm cho cuộc sống tâm linh: tiến tới đức ái trọn hảo theo gương Chúa Kitô, cũng làm cho cuộc sống thêm nhân văn: Sức khỏe được bảo vệ.
Tuy nhiên, con đường dẫn đến thứ tha cũng đầy gian nan dù chỉ nói một lời tha thứ. Mỗi chúng ta có cảm nghiệm: Để đến và hòa giải được quả thật không đơn giản, nhất là những ai gây tổn thất nặng về tinh thần và thể xác. Tha thứ luôn đòi hỏi vừa có sự nỗ lực cố gắng nơi con người, vừa cần trợ giúp ân sủng đến từ Thiên Chúa, Đấng tỏa sáng gương mặt bao dung, yêu thương, chậm giận và giàu lòng xót thương.
Con sẽ cố gắng tha thứ, xin cho con được ân sủng thứ tha của Thiên Chúa ở trong con, để con có thể can đảm tha thứ cho anh em.
Ý lực sống:
“Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” (Mt 6,12).
Suy Niệm 9: Hãy tha thứ cho nhau
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Cuộc sống cộng đoàn cũng thường có nhiều va chạm nên Chúa Giêsu dạy thêm bài học về tha thứ: phải tha thứ luôn như Chúa đã tha thứ cho chúng ta. Những gì chúng ta tha thứ cho nhau, thì không là gì cả so với sự tha thứ của Thiên Chúa với chúng ta. Thật thế, “Thiên Chúa là Tình yêu”, bản chất của Thiên Chúa chính là tình yêu. Tình yêu của Người không bờ bến, nên Người cũng muốn chúng ta trao cho nhau tình yêu vô điều kiện, không giới hạn.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta phải tha thứ và tha thứ luôn. Nhưng tại sao phải tha thứ? Vì tha thứ là một điều cần thiết trong đời sống xã hội, trong gia đình, trong các đoàn thể; vì tha thứ là đặc điểm của tình yêu: trong tình yêu Chúa, chúng ta tha thứ cho nhau như Ngài đã tha thứ cho chúng ta. Tha thứ như thế không phải là yếu nhược, mà là sức mạnh của tình yêu, là khí cụ của hoà bình. Cuộc đời là một cuộc hành trình, nếu chúng ta cứ để mình mang nặng gánh ưu tư, phiền muộn thì làm sao có đủ sức để đạt tới đích được. Do đó, chúng ta hãy luôn sống tha thứ, để tâm hồn chúng ta được nhẹ nhàng thanh thoát trên đường đời với niềm hy vọng và an vui (Mỗi ngày một tin vui).
Người Do thái cũng được dạy cho biết phải tha thứ cho nhau, nhưng các tôn sư không đồng ý với nhau là phải tha đến lần thứ mấy mới thôi. Có ý kiến cho rằng chỉ có thể tha thứ tối đa là bốn lần, người Việt Nam chúng ta thì nói “sự bất quá tam” hay “quá tam ba bận” là cùng, bước sang lần thứ tư là coi như đã vượt chỉ tiêu. Do đó, ông Phêrô đã thắc mắc và hỏi Chúa Giêsu. Chúa cho biết phải tha thứ luôn, phải tha thứ mãi, không giới hạn số lần. Và để làm sáng tỏ vấn đề, Chúa dùng một dụ ngôn. Dụ ngôn này có nghĩa là chúng ta mắc nợ với Chúa thì nhiều lắm: tội lỗi chúng ta xúc phạm đến Chúa vừa nhiều vừa rất nặng nề, dường như không thể tha thứ được, nhưng Chúa đã tha thứ cho chúng ta. Trong khi đó những lỗi phạm của anh em với ta, dù thế nào chăng nữa, cũng không đáng gì so với tội lỗi chúng ta đã phạm đến Chúa, thế mà chúng ta chấp nhất, ti tiện, không tha thứ. Nếu vậy, chúng ta đừng hòng mong Chúa tha thứ cho chúng ta. Phải thực hiện lời Chúa dạy: “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” (kinh Lạy Cha).
Chân phước Maurice Tornay nói: “Chúng ta phải tha thứ cho nhau vô điều kiện, bởi vì Thiên Chúa nhân lành, luôn thương xót và tha thứ mọi lỗi lầm của chúng ta trước”.
Hôm nay Chúa Giêsu dạy ông Phêrô phải tha thứ cho người khác bảy mươi lần bảy. Ở đây, Chúa Giêsu không có ý nói ông Phêrô hãy đếm số lần tha thứ: một lần, hai lần... nhưng điều Chúa Giêsu muốn nói là ông phải tha thứ mãi mãi, tha thứ không tính toán, tha thứ tất cả. Tại sao vậy? Bởi vì trong văn hóa Israel con số 7 tượng trưng cho sự hoàn hảo, thành toàn, nên kiểu nói 70 lần 7 ở đây hàm nghĩa sự viên mãn tròn đầy. Vì vậy, khi Chúa Giêsu nói tha thứ 70 lần 7 nghĩa là tha thứ mãi mãi, tha thứ tất cả.
Để diễn tả tình yêu thương của Chúa hầu khích lệ chúng ta tha thứ cho nhau đã trình bày về dụ ngôn người đầy tớ mắc nợ không biết thương xót.
- Mỗi nén vàng thời xưa là sáu ngàn quan tiền, tương đương với sáu ngàn ngày công, và mười ngàn nén bạc, trị giá khoảng một trăm ngàn lượng vàng.
- Qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu có ý làm nổi bật sự khác biệt giữa hai món nợ và hai thái độ, để cho thấy lòng nhân từ quảng đại của Thiên Chúa và sự vô lý của lòng dạ con người, khi không sẵn sàng tha thứ cho kẻ khác.
- Điều cần lưu ý là trong dụ ngôn này, lý do thúc đẩy ta tha thứ cho anh em chính là tình thương hải hà của Thiên Chúa đối với chúng ta, chứ không phải vì anh em biết điều mà xin lỗi, cũng chẳng phải vì chúng ta cao thượng hay nhân đức không chấp lỗi lầm (Lm. Trần Hữu Thành).
Chúa Giêsu dạy chúng ta phải kêu cầu ơn tha thứ của Thiên Chúa. Chỉ khi nào chúng ta cảm nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa, chúng ta mới có thể tha thứ cho người khác: “Xin Cha tha cho chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.
Cảm nhận được ơn tha thứ của Chúa và sẵn sàng tha thứ cho người khác, đó là cuộc chiến đấu của cả một đời người, nhưng đó cũng là cuộc chiến đấu làm nên bản sắc của người tín hữu Kitô. Người tín hữu Kitô chỉ thực sự là tín hữu Kitô khi họ biết tha thứ mà thôi.
Truyện: Tha thứ cho kẻ thù
Một hiệp sĩ dũng cảm tên là Hildebrand bị một bạn đồng nghiệp tên là Bruno nhục mạ nặng nề. Hildebrand thề sẽ trả thù đích đáng. Ông suy nghĩ và chuẩn bị kỹ lưỡng chương trình hành động. Cuối cùng ông chọn địa điểm và thời gian thuận lợi.
Ông thức dậy nửa đêm, một mình võ trang đầy đủ đi đến nơi thanh vắng mà ông biết là Brunô sẽ đi ngang qua. Trên đường đi ông gặp thấy một nhà nguyện nhỏ mở cửa. Ông vào đó để chờ sáng, và trong khi chờ đợi, ông tiêu khiển bằng cách nhìn các bức tranh trong nhà nguyện.
Bức thứ nhất vẽ Đấng Cứu Thế mặc áo choàng đỏ, đầu đội mão gai, phía dưới có ghi bằng tiếng La tinh câu này: “Bị lăng nhục, Ngài không đáp trả lại lăng nhục”. Bức thứ hai nhắc lại cảnh đau buồn khi bị đánh đòn, với hàng chữ: “Khi chịu những khổ đau như thế, Ngài không hề đe doạ”. Và cuối cùng bức thứ ba trình bày Chúa Giêsu trên Thập giá, hàng chữ là: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm”.
Nhìn liên tiếp ba bức tranh như thế, tâm hồn Hildebrand bị xúc động mạnh. Ông quì gối xuống và bắt đầu cầu nguyện. Dần dần cơn hận thù giảm đi, rồi biến mất. Ông còn ngồi lại đó chờ kẻ thù của ông đến, nhưng chờ gặp để tha thứ và để làm hoà với nhau (Góp nhặt).
11/08 Yêu thương trong cầu nguyện và sửa lỗi nhau
- Viết bởi Mt 18, 15-20
Yêu thương trong cầu nguyện và sửa lỗi nhau.
Thứ Tư tuần 19 thường niên. – Thánh Cơlara, trinh nữ. Lễ nhớ.
"Nếu nó nghe ngươi, thì ngươi đã lợi được người anh em".
* Thánh nữ sinh năm 1193 tại Átxidi. Năm 18 tuổi, chị xin thánh Phanxicô cho được theo nếp sống khó nghèo. Thánh Phanxicô đã cho chị ở trong một căn nhà tồi tàn, gần nhà thờ thánh Đamianô ở cửa ngõ thành Átxidi. Em của thánh nữ tên là Anê và một số thiếu nữ khác gia nhập nếp sống của chị: sống thanh bần triệt để. Đó là những nữ tu Phanxicô tiên khởi. Chị qua đời năm 1253.
Lời Chúa: Mt 18, 15-20
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu anh em con lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng con và nó thôi. Nếu nó nghe con, thì con đã lợi được người anh em. Nếu nó không nghe lời con, hãy đem theo một hoặc hai người nữa, để mọi việc được giải quyết nhờ lời hai hoặc ba nhân chứng. Nếu nó không nghe họ, hãy trình với cộng đoàn. Và nếu nó cũng không nghe cộng đoàn, con hãy kể nó như người ngoại giáo và như người thu thuế.
"Thầy bảo thật các con, những gì các con cầm buộc dưới đất thì trên trời cũng cầm buộc, và những gì các con tháo gỡ dưới đất thì trên trời cũng tháo gỡ.
"Thầy cũng bảo thật các con, nếu hai người trong các con, ở dưới đất, mà hiệp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời, sẽ ban cho họ điều đó. Vì ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Sửa lỗi người anh em
Suy niệm:
Trong Giáo hội ngay từ thuở ban đầu, đã có những người sai lỗi.
Nếu đó chỉ là những sai lỗi nhỏ giữa các cá nhân trong cộng đoàn
thì cần tha thứ cho nhau (Lc 17, 3-4).
Nhưng nếu đó là những sai lỗi nghiêm trọng đụng chạm đến cộng đoàn,
vô tình hay cố ý sống ngược với giáo huấn căn bản của Đức Giêsu,
thì cộng đoàn không thể nhắm mắt làm ngơ
mà không sửa sai cho người anh em phạm lỗi.
Bài Tin Mừng hôm nay phản ánh cách sửa lỗi trong cộng đoàn thánh Mátthêu.
Người phạm lỗi nặng ở đây vẫn được gọi là người anh em (c. 15).
Tiến trình sửa sai huynh đệ này diễn ra từ từ, từng bước một.
Bước này thất bại mới chuyển qua bước kế tiếp.
Bước một là cuộc gặp gỡ kín đáo giữa người sửa lỗi và người phạm lỗi.
Mục đích là để giúp người phạm lỗi biết lắng nghe lời góp ý chân tình,
nhận ra lỗi của mình và thay đổi cuộc sống cho phù hợp.
Bước hai diễn ra khi bước một thất bại, khi người phạm lỗi không chịu nghe.
Người sửa lỗi sẽ đem theo hai, ba người nữa để tăng sức thuyết phục.
Nếu người phạm lỗi vẫn khăng khăng không nghe,
thì bước kế tiếp là phải đưa chuyện này ra trước Giáo hội địa phương (c. 17).
Bước cuối cùng chỉ xảy ra khi người anh em ấy vẫn ngoan cố,
không muốn nghe tiếng nói của cộng đoàn Giáo hội,
nghĩa là tự đặt mình ra ngoài sự hiệp thông với cộng đoàn tín hữu,
thì Giáo hội đành lòng không nhận anh ấy như phần tử của Giáo hội nữa.
Có thể ngày nay Giáo hội có những cách sửa lỗi khác,
nhưng những nét dưới đây vẫn giữ nguyên giá trị:
coi người phạm lỗi như anh em và không muốn mất người ấy,
kiên trì đối thoại, cố gắng để người anh em ấy nghe ra và nhận lỗi,
kín đáo giữ thanh danh cho người ấy, đi từng bước trước khi quyết định.
Ngay cả khi Giáo hội đã đưa ra quyết định cuối cùng,
thì việc trở lại với cộng đoàn vẫn luôn mở ngỏ, nếu người ấy muốn làm hòa.
Đức Giêsu phục sinh đã cho Giáo hội dưới quyền thánh Phêrô
được quyền tháo cởi và ràng buộc (Mt 16, 19b; Ga 20, 23)
khi phải đưa ra các quyết định về những phần tử của mình (c. 18).
Sự hiện diện của những nhóm nhỏ trong cộng đoàn là điều có từ xưa.
Tuy nhóm chỉ có hai người, nhưng nếu họ đồng lòng xin một ơn nào đó,
thì Cha trên trời sẽ ban cho (c. 19).
Có nhóm hai hay ba người hội họp với nhau nhân danh Đức Giêsu,
thì Ngài có mặt ở trong cuộc gặp gỡ đó, và Ngài ở giữa họ (c. 20).
Đức Giêsu là Đấng Emmanuen, là Thiên Chúa ở cùng chúng ta (Mt 1, 23).
Đức Giêsu phục sinh cũng hứa ở với các môn đệ cho đến tận thế (Mt 28, 20).
Chính vì thế Ngài hiện diện một cách kín đáo, thầm lặng
Thiên Chúa đã đi với dân Ngài trong hoang địa.
Hôm nay Chúa Giêsu vẫn đồng hành với chúng ta khi ta để cho Ngài quy tụ.
Ngài vẫn hiện diện ở nơi nhóm bạn có chung một niềm tin và tình yêu.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
Cuộc đời chúng con
Diễn ra quanh những chiếc bàn,
Làm bằng những chất liệu khác nhau,
Kiểu dáng khác nhau, đặt ở những chỗ khác nhau.
Nơi bàn học,
Ngài mở trí tuệ chúng con
Trước những chân trời mới,
Và dạy chúng con học đạo làm người.
Nơi bàn ăn,
Ngài nuôi dưỡng thân xác chúng con
Để chúng con có sức phục vụ tha nhân
Nơi bàn làm việc,
Ngài cho chúng con được cộng tác với Ngài
Trong việc xây dựng thế giới đại đồng huynh đệ.
Nơi bàn thờ,
Ngài cho chúng con được hiệp thông với Ngài,
Và hiệp nhất với nhau qua một tấm bánh thánh.
Lạy Chúa
Giờ đây chúng con ngồi quanh chiếc bàn này,
Để gặp gỡ, chia sẽ, để bàn bạc, thảo luận,
Để cùng nhau tìm ý Chúa và đem ra thực hành.
Xin thánh hóa những chiếc bàn chúng con sử dụng
Để tất cả trở nên con đường
Đưa chúng con đến hưởng bàn tiệc thiên quốc. Amen
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Suy niệm 2: Sửa lỗi
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thiên Chúa thánh thiện không thể chịu được tội lỗi. Tội lỗi phải bị khai trừ. Tuy nhiên cách khai trừ có khác biệt từ Cựu Ước sang Tân Ước. Thời Cựu Ước cách khai trừ tội lỗi khắc nghiệt. Công lý nhiều hơn tình thương.
Ê-dê-kiên cho thấy cuộc thanh tẩy Giê-ru-sa-lem đầy máu. Thiên Chúa tiêu diệt thành phố tội lỗi: “Vinh quang Đức Chúa bay lên khỏi thềm Đền Thờ và dừng lại trên các thần hộ giá. Các thần hộ giá dang cánh và cất mình lên khỏi mặt đất…các bánh xe cũng chuyển theo”. Và một cuộc trừng phạt tàn sát không xót thương diễn ra: “Hãy đi theo người ấy vào thành mà chém giết. Đừng nhìn mà thương hại, đừng xót thương. Người già, thanh niên, thiếu nữ, cũng như đàn bà con trẻ, các ngươi hãy giết cho sạch”. Thật là nghiệt ngã (năm chẵn).
Ngay cả Mô-sê, một người tôi tớ trung tín suốt đời tận tuỵ phục vụ Chúa, người đã làm biết bao điềm kỳ phép lạ, người giải phóng Ít-ra-en khỏi ách nô lệ Ai cập, người thiết lập một dân mới, người ban bố lề luật, thế mà cũng bị phạt khắc nghiệt. Thực ra tội của Mô-sê chính là tội của dân. Vì thương dân và chiều theo dân nên bỏ lời Chúa. Thế mà ông bị trừng phạt nặng nề. Không được vào đất hứa. Chết nơi xứ lạ quê người. Không chôn cất mồ mả. “Ông Mô-sê, tôi trung của Đức Chúa, qua đời tại đó, trong đất Mô-áp, theo lệnh Đức Chúa…Cho đến ngày hôm nay, không ai biết mộ ông ở đâu” (năm lẻ).
Đến thời Tân Ước, tình yêu thương được đề cao hơn công lý. Chúa truyền cho các cộng đoàn phải sửa lỗi anh em trước khi trừng phạt. Khi sửa lỗi cũng phải tế nhị. Trước hết phải kín đáo riêng tư. Khi không thể thuyết phục riêng tư mới dùng đến ảnh hưởng cộng đoàn. Phải cứu sống hơn giết chết. Phải tha thứ hơn kết án. Phải đón nhận hơn loại trừ. Phải sửa chữa hơn vất bỏ. Phải xây dựng hơn phá huỷ. “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã chinh phục được người anh em”. Sự hợp nhất phải xây dựng từ những đớn đau của thương tích, của tha thứ, của chữa lành. Bấy giờ tình yêu thương đoàn kết sẽ vô cùng quí giá và sâu xa. Đó chính là nền tảng để dâng lời cầu nguyện và được Chúa nhận lời: “Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ”. Họp lại sau những xung khắc lỗi lầm mới thực sự sâu xa bền chặt.
Suy niệm 3: Cầu nguyện.
“Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã được món lợi là anh em mình. Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem theo một hoặc hai người nữa, để mọi công việc được giải quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng nhân. Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa với Hội Thánh. Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thi hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế.” (Mt. 18, 15-17)
Thật dễ dàng tố cáo Giáo Hội nghiêm khắc với các tín hữu, dựa vào luât khắt khe để phạt vạ tuyệt thông họ. Nhưng ta hãy nghĩ lại xem không phải Giáo Hội đoạn tuyệt, mà tại người đó từ chối vâng theo lời Thiên Chúa và Giáo Hội, họ làm tôi cho thần thế gian.
Trong Giáo Hội, ai từ chối vâng lời, kẻ ấy tự lìa bỏ Giáo Hội. Ai từ chối vâng lời Giáo hội là hội có quyền gải thích về Thiên Chúa thì kẻ ấy lìa bỏ Thiên Chúa.
Sự bất đồng.
Thật rõ ràng kẻ tội lỗi từ chối vâng theo luật Chúa. Luật Chúa không phải là cái ách, nhưhg là phương thế tình yêu giúp sống trung thành với Thiên Chúa. Vì tội lỗi, tôi từ bỏ Thiên Chúa, chứ không phải Thiên Chúa vứt bỏ tôi, đoạn tuyệt với tôi. Tình yêu của Ngài luôn luôn theo tôi. Sao tôi không gắn bó vời Thiên Chúa, sao tôi chối bỏ Ngài, khinh chê Ngài?
Giáo Hội có thể nhiều lần cảnh giác, khi dùng đe dọa phạt vạ tuyệt thông là để nhắc nhở ta đừng đi vào lầm lạc, làm xa lìa Thiên Chúa. Giáo Hội biết rõ sự nguy khốn. Giáo Hội cảnh giác, giữ gìn, đề phòng cho ta.
Nếu tôi phạm luật đi đường, không phải lỗi của nhà lập luật, phải nhắc nhở ta giữ trật tự, hơn nữa muốn ta gắn bó với hợp đồng chung. Tôi phải chịu trách nhiệm công dân.
Đồng tâm.
Hai câu sau của đoạn Tin Mừng hôm nay, nhắc nhở một sự thực mà người ta thường quên. Không chỉ cùng nhau cầu nguyện mà hơn nữa phải hợp nhất cùng nhau, phải đồng tâm cầu nguyện hướng về một đối tượng. Điều đó rất khó vì ngay trong một gia đình, giữa bạn hữu cũng khó có sự đồng tâm cầu xin về điều này điều kia, ngay cả trong Giáo Hội đôi khi phải ngạc nhiên chẳng nhận được điều chúng ta cầu xin! hãy đồng tâm nhất trí! Một lệnh truyền tốt đẹp…
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
J.M
Suy niệm 4: SỬA LỖI CHO ANH EM THEO TINH THẦN CỦA CHÚA ( Mt 18, 15-20)
Xem lại CN 23 TN A.
Nhận ra lỗi của mình và sửa lỗi cho anh chị em thật là khó. Khó là vì không ai muốn nhận lỗi về mình, và nếu có nhận ra lỗi của mình thì cũng khó chấp nhận sửa sai vì cái “tôi” quá lớn.
Nguyên nhân chính là sự bảo thủ nên dễ nhận thấy lỗi của người khác hơn là lỗi của mình, còn người khác thì dễ nhận ra lỗi của mình hơn là lỗi của họ.
Như vậy, nói về vấn đề sửa lỗi là chuyện rất khó! Tuy nhiên, bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu lại bảo các môn đệ hãy đi sửa lỗi cho anh em!
Tâm tình mà Đức Giêsu muốn các môn đệ phải có trong khi sửa lỗi cho người khác là: yêu thương chân tình, tôn trọng, tế nhị, kiên trì và cầu nguyện. Làm được như thế thì mới thành công.
* Sửa lỗi nhau trong yêu thương chân tình: khi muốn sửa lỗi cho người khác, chúng ta phải luôn tâm niệm rằng: lỗi của người anh em đôi khi cũng là lỗi của chính mình. Và có lúc lỗi của mình còn nặng hơn của họ. Có thế, chúng ta mới dễ thông cảm, nhẹ nhàng và bao dung.
* Sửa lỗi trong tâm sự nhẹ nhàng, kín đáo: hãy đến với anh em bằng những lời nói nhẹ nhàng, đầy tình nghĩa trong sự yêu thương: "Một mình anh với nó mà thôi".
* Sửa lỗi trong tôn trọng: khi sửa lỗi cho nhau mà thiếu đi sự tôn trọng thì chỉ còn những lời chỉ trích, nguyền rủa. Có được sự tôn trọng, chúng ta sẽ nhẹ nhàng, khiêm tốn khi sửa lỗi.
* Sửa lỗi trong sự tế nhị: thường những người phạm tội luôn mang hai trạng thái, một là tự ái, hai là mặc cảm, xấu hổ. Vì thế, nếu không tế nhị thì sẽ dễ dẫn đến thất bại và đào thêm hố ngăn cách cho anh chị em, làm cho sự việc trở nên trầm trọng hơn. Vì thế, cần phải tế nhị và kín đáo.
* Sửa lỗi trong kiên trì: thi hành việc sửa lỗi là cả một quá trình. Chuyện liên quan đến toàn thể con người, nó đụng đến tận gốc rễ của cái “tôi”, vì thế, không phải là chuyện làm một lần là xong. Hãy nhớ lại sự kiên trì của thánh nữ Mônica với thánh Âutinh con của ngài!
* Sửa lỗi trong cầu nguyện: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên”. Mọi chuyện sẽ trở thành “công dã tràng” nếu không biết cậy dựa vào ơn Chúa. Đời sống cầu nguyện, kết hợp với hy sinh là điều quan trọng để quyết định thành công hay thất bại. Chúng ta nên nhớ rằng: sửa lỗi là việc của chúng ta, nhưng kết quả là việc của Chúa. Tự thân, chúng ta không có khả năng để thay đổi người khác.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết ý thức mình cũng là con người bất toàn nên cần đến ơn Chúa trợ giúp. Đồng thời, xin cũng cho chúng con ý thức rằng: Chúa luôn muốn chúng con cộng tác với Chúa trong việc thánh hóa anh chị em bằng việc sửa lỗi cho nhau trong tình thương. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 5: SỨ VỤ HÒA GIẢI
(http://giaoducconggiaohdgm.org)
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta trở nên những sứ giả hòa giải. Người dạy cho chúng cách thức hòa giải để có thể “đến với người khác” và “đón nhận người khác”. Việc hòa giải này rất khó khăn vì đòi hỏi sự khai mở từ hai phía: chủ thể hòa giải và đối tượng được hòa giải. Trách nhiệm tình huynh đệ chân chính đòi hỏi chúng ta không được phép bỏ mặc một người anh em đi vào cuộc phiêu lưu nguy hiểm nhưng phải hết sức cố gắng đưa họ trở lại với đường ngay nẻo chính. Sứ vụ này đòi hỏi thái độ sám hối và hòa giải đến cả từ hai phía. Bởi vì một sự thật mà chúng ta phải nhìn nhận rằng đã là người ai chẳng có lầm lỗi. Trong thâm tâm người Kitô hữu, ai cũng ước muốn được Thiên Chúa tha thứ, mà sự thật thì chính Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta trước, ngay khi chúng ta còn là tội nhân (x.Rm 5, 10-11), vậy lẽ nào chúng ta lại không thể tha thứ cho anh em mình? Lời Chúa soi sáng cho chúng ta thấy rõ Thiên Chúa mới là chủ thể hòa giải đích thực, và chúng ta được mời gọi tham dự vào sứ mạng hòa giải này. Quyền cầm buộc và tháo gỡ được Chúa Giêsu thiết lập và trao ban không nhằm thể hiện quyền bính nhưng được thực hiện dưới ánh sáng của tình yêu. Bởi vì chính nhờ tình yêu mà chúng ta được cứu độ. Do đó, sứ mạng hòa giải phải được đặt trong tương quan hiệp thông. Chính trong sự hiệp thông này mà Chúa Giêsu trở nên chủ thể hòa giải: “Thầy ở giữa những người ấy” (x.Mt 15, 20).
Trong thế giới ngày nay, nhiều quốc gia đang nỗ lực kiến tạo nền hòa bình và hợp tác giữa các dân tộc. Chiến tranh, hận thù, chia rẽ là điều ai cũng sợ vì chúng chỉ mang lại chết chóc, bất an và mất mát. Tuy nhiên, chúng vẫn hiện diện đâu đó trong xã hội loài người, cộng đoàn tín hữu và các gia đình, nhất là tiềm ẩn trong lòng mỗi người. Là người Kitô hữu, chúng ta mang trong mình sứ vụ hòa giải. Vì vậy, trước hết người Kitô hữu được mời gọi hãy làm một cuộc xuất hành để ra khỏi chính con người mình để đến những nơi, những con người Chúa muốn. Đó là một thế giới đón nhận sự hiện diện của Thiên Chúa và nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi tha nhân. Khi làm như vậy là chúng ta đang góp phần xây dựng một thế giới mới mang màu sắc của nền văn minh tình thương, một thế giới thấm nhầm tình huynh đệ.
Lạy Chúa Giêsu, cái chết của Chúa trên thập giá là lời mời gọi chúng con sống sứ mạng hòa giải. Sứ mạng này cho chúng con thấy sự liên đới mật thiết giữa hai chiều kích hòa giải với nhau và hòa giải với Chúa. Xin cho chúng con biết nhận ra thân phận tội lỗi để biết thay đổi chính mình và ý thức sống tinh thần hòa giải trong tương quan với Chúa và anh em. Nhờ đó chúng con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người, vì chính lúc cho đi là khi lãnh nhận, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân, vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời. Amen.
Suy niệm 6: SỬA LỖI CHO ANH EM
(GKGĐ Giáo Phận Phú Cường)
Trong tương giao xã hội, ai trong chúng ta cũng thích sự tế nhị nơi người khác và cũng mong muốn thủ đắc sự tế nhị để thành công trong cuộc sống. Vì "điều gì mình không muốn người khác làm cho mình thì mình đừng làm cho người" được xem là tiêu chuẩn để làm thước đo tính tế nhị. Tế nhị là sự khéo léo sử dụng những cử chỉ ngôn ngữ trong giao tiếp, ứng xử, thể hiện là con người có hiểu biết, có văn hóa; đồng thời, cũng thể thể hiện sự tôn trọng người khác.
Thánh sử Mátthêu thuật lại lời hướng dẫn của Chúa Giêsu cho các môn đệ khi xưa, cũng là cho chúng ta hôm nay về sự tế nhị góp ý, giúp nhau xây dựng đời sống hoàn thiện “như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (x. Mt 5, 48): “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi” (Mt 18, 15).
Có thái độ tôn trọng và tế nhị khi sửa lỗi người khác là cần thiết trong cộng đoàn, gia đình và Giáo Hội. Vì tính tế nhị đi liền với sự chân thành và lòng tôn trọng người khác. Người biết cách cư xử tế nhị sẽ mang lại sự hòa thuận vui vẻ với mọi người ở chung quanh. Trong khi theo tính khí và khuynh hướng tự đề cao mình, chúng ta thường có thói quen chỉ trích, chê bai công khai, nói xấu hay quyết liệt gièm pha, phản ứng gay gắt khi đối diện với những điều trái ý, phật lòng, khi bắt gặp những sai phạm hay khuyết điểm của người khác. Thiên Chúa mời gọi người Kitô hữu trong tình bác ái huynh đệ, những lúc như thế, chúng ta hãy gặp riêng người anh chị em, chỉ một mình ta với họ mà thôi. Việc gặp gỡ riêng tư giúp hai người đối thoại cởi mở hơn, bộc bạch với nhau và hiểu nhau hơn. Hơn nữa, gặp gỡ riêng tư trong giúp nhau hoàn thiện nên tốt hơn còn giúp chúng ta giữ gìn thanh danh và uy tín của nhau, kể cả người được góp ý và người góp ý. Bởi lẽ, người tế nhị cũng là người khiêm tốn. Không kín đáo đến mức khó hiểu, biết im lặng khi cần thiết. Không xúc phạm đến lòng tự trọng của người khác, cũng không tò mò thọc mách, không chế giễu người khác trước mặt cũng như sau lưng. Ngược lại, tế nhị cũng không phải bày tỏ lòng quan tâm quá mức cần thiết. Và con người tế nhị bao giờ cũng mang vẻ đẹp của lòng nhân hậu, tinh thần cao thượng và sự hiểu biết giàu có trong đời sống.
Mong thay, nhờ ơn Chúa giúp, mỗi chúng ta luôn nỗ lực sống tôn trọng và tế nhị với mọi người. Bởi lẽ, mọi người dù xấu hay tốt đều là con cái của Chúa.
Suy Niệm 7: Sửa bảo dựa trên bác ái
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Trong Giáo Hội, việc sửa bảo lẫn nhau phải dựa trên tinh thần bác ái. Các sinh hoạt trong Giáo Hội sẽ có giá trị tích cực khi nhân danh Chúa Giêsu.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trong cuộc sống hằng ngày, trước lỗi lầm của kẻ khác, con dễ dàng đưa ra lời kết án, buộc tội. Nên Chúa muốn con có một thái độ khác: đó là nhắc bảo giúp nhau sửa lỗi.
Việc kết án buộc tội làm con tách lìa khỏi kẻ khác, vì khi đó con xem họ là kẻ có lỗi, còn con là người không có lỗi, là người tốt. Chúa muốn con đến với những người yếu đuối, lỡ lầm, để thông cảm với họ và nhắc bảo họ về hành vi sai trái, với mục đích tách họ ra khỏi lầm lỗi, để họ có thể hội nhập vào cộng đoàn giáo xứ, giáo họ.
Lạy Chúa, con biết rằng để có thể giúp kẻ khác trở về, con cần phải yêu thương họ và đối xử với họ như anh chị em. Khi con chưa thật lòng thương yêu kẻ khác, con chưa thể giúp đỡ, nhắc bảo họ được. Xin Chúa giúp con yêu thương kẻ khác bằng chính tình yêu của Chúa, một tình yêu đầy lòng tha thứ và có sức mạnh cải thiện con người.
Chúa đã tha thứ cho người đàn bà ngoại tình, Chúa đã tha thứ cho thánh Phêrô… Chúa cũng đã tha thứ cho con biết bao lần. Chúa cũng muốn con thực hiện sự tha thứ ấy trong cuộc sống của con. Xin Chúa cho con cảm nghiệm được tình yêu Chúa dành cho con, để con sống tình yêu Chúa đối với kẻ khác.
Lạy Chúa, xin thương sửa dạy con. Amen.
Ghi nhớ: “Nếu nó nghe ngươi, thì ngươi đã lợi được người anh em”.
Suy Niệm 8: Sửa lỗi và cần được sửa lỗi
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Nhân gian có câu: “Nhân vô thập toàn”, nghĩa là con người không có ai hoàn hảo. Trong kiếp nhân sinh, ai cũng có những thiếu sót và lầm lỗi, mà tôi và bạn đã có những kinh nghiệm từ chính bản thân mình trong cuộc sống. Nhưng mỗi người theo thánh ý của Chúa Giêsu, được mời gọi vượt lên trên, chữa lành những khiếm khuyết, bất toàn, lầm lỗi để trở “nên hoàn thiện, như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48). Vì thế, mỗi người phải luôn sửa lỗi và cần được sửa lỗi.
Suy niệm
Chúa Giêsu trong Tin Mừng (Mt 18:15-17) dạy cho chúng ta bài học sửa trị trong tình huynh đệ xuất phát từ đức ái tuyệt hảo mà Đức Chúa Giêsu đã dạy: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mc 12,31).
Việc sửa lỗi cho nhau dựa trên tình yêu và lời của Chúa: “Anh em phải tha thứ cho nhau đến bảy mươi lần bảy”, nghĩa là cảm thông mãi mãi và tha thứ không ngừng…
Chúa Giêsu đã đưa ra tiến trình sư phạm tiệm tiến:
Một mình với người anh em có lỗi: “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi”. Tế nhị kín đáo, gìn giữ danh dự cho anh em là bổn phận của đức ái Kitô.
Nhưng nếu sự tế nhị của ta dành cho anh em bị khinh thường, chúng ta dùng biện pháp mạnh hơn bằng việc nhờ sự đóng góp, sửa chữa nơi những anh em khác có uy tín như Chúa Giêsu đã nhấn mạnh: “Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem theo một hay hai người nữa, để mọi công việc được giải quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng nhân”. Nếu lòng nhân ái của chúng ta một lần nữa bị chà đạp, thì chúng ta nại đến Giáo hội can thiệp: “Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội Thánh”.
Nhưng nếu tất cả biện pháp đều thất bại thì: “Không nên lấy của thánh mà đem cho chó” hoặc “đem ngọc ném cho heo giẫm lên” (Mt 7,6), do sự cố chấp không muốn trở về chính lộ của người lỗi lầm. Đức Giêsu dứt khoát khép lại lộ trình sửa chữa: “Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thì hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế”, vì họ tự cắt đứt nguồn tình yêu bao dung đến từ Thiên Chúa qua anh em, tự tách mình ra khỏi cộng đoàn yêu thương, cộng đoàn tiến về sự hoàn thiện như Cha trên trời.
Tiến trình sửa sai huynh đệ mang tinh thần bao dung thương xót của tình yêu, nhưng công minh, thẳng thắn với kẻ cố chấp từ chối lòng nhân ái, bao dung của anh em. Trước bài học sửa sai huynh đệ mà Chúa dạy, chúng ta cùng rút tỉa cho cuộc sống mình:
Trong tư cách là người phạm lỗi: “Đừng nói: Tôi tự nhiên như vậy. Sửa sao được”, đó là những khuyết điểm con phải “nên người”, “nên con Chúa”. Những tính ấy bất xứng với con” (ĐHY FX. Nguyễn Văn Thuận, Đường Hy Vọng). Chân thành đón nhận và sửa chữa theo những chỉ bảo của anh em, của các vị trách nhiệm cộng đoàn để sự khiếm khuyết của mình được lấp đầy bằng tình yêu của Thiên Chúa qua anh em. Nếu không đón nhận sự chân thành sửa chữa từ anh em, chúng ta sẽ đối diện với cái họa: Họa vì chối bỏ tình thương của Thiên Chúa, họa do mình tự tách biệt, cách đứt nguồn suối ân sủng trong Giáo hội.
Trong bổn phận trách nhiệm giúp anh em sửa lỗi, tôi và bạn luôn mang tình yêu, mặc lấy lòng bao dung, đó là tiếng nói cảnh tỉnh giúp người anh em nhận ra lầm lỗi để sửa chữa, đó là nâng đỡ tình bác ái: “cuộc sống huynh đệ thử thách và nâng đỡ tình bác ái, cây trên rừng che đỡ nhau lúc gió bão” (Đường Hy Vọng).
Lạy Chúa, xin cho con luôn biết mở lòng trước những lời chỉ dạy của anh em… Xin cho con được lòng đầy bao dung yêu thương, cất tiếng nói chân lý để bổ khuyết những thiếu sót, sửa chữa những lầm lỗi trong tha nhân.
Ý lực sống
“Anh em hãy mặc lấy áo của sự thành thật, thông cảm, nhân hậu... khiêm nhượng, hiền lành, kiên nhẫn. Chịu đựng lẫn nhau, tha thứ cho nhau... Trên hết mọi sự, anh em hãy mặc lấy tình yêu” (Cl 3,12-14).
Suy Niệm 9: Sửa lỗi cho anh em
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Tiếp tục nói về nếp sống cộng đoàn, Đức Giêsu dạy chúng ta cách thế sửa lỗi cho anh em. Người nhấn mạnh việc sửa lỗi phải dựa trên lòng bác ái, tình yêu thương, kiên nhẫn và xây dựng. Cách sửa lỗi của chúng ta nhằm giúp đương sự hồi tâm hoán cải. Khi có người trong cộng đoàn lỗi phạm, hãy sửa dạy cách kiên nhẫn qua nhiều giai đoạn: gặp riêng, nhờ một ít người nữa cùng mình đi thuyết phục, trình kẻ có thẩm quyền. Khi tất cả mọi cố gắng đều vô ích, thì mới kể người đó không là thành phần của cộng đoàn nữa.
Qua dụ ngôn về con chiên lạc, Chúa Giêsu đã cho biết: Thiên Chúa không muốn cho một tội nhân nào phải hư đi, nên qua bài Tin mừng hôm nay, Người buộc chúng ta phải làm hết sức mình để sửa lỗi cho nhau. Điều này đòi hỏi mỗi phần tử sống trong cộng đoàn phải lưu tâm vấn đề không được để một ai hư mất, nghĩa là phải tích cực đóng góp phần mình vào công việc giúp đỡ lẫn nhau sống hoàn thiện. Cần tránh những thái độ lãnh đạm, thờ ơ, khinh khi, xét đoán và kết án tha nhân, nhất là những người cần phải được giúp đỡ để nên hoàn thiện hơn.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng nhắc cho chúng ta về thái độ phải có đối với những người tội lỗi trong cộng đoàn. Tội lỗi, nết xấu, đó là một thực tại không thể tránh được, dù đó là cộng đoàn do chính Chúa Giêsu qui tụ. Cộng đoàn có Chúa hiện diện, nhưng đồng thời là cộng đoàn bao gồm những người yếu đuối, có thể lỗi phạm. Lời Chúa dạy về việc sửa lỗi huynh đệ cần được chúng ta lưu tâm: Kẻ phạm lỗi kia là người anh em chúng ta, chứ không phải là kẻ thù. Lời khuyên, giúp đỡ, sửa lỗi riêng tư phải là bước đầu tiên; kế đến là việc sửa lỗi chung nhờ sự hỗ trợ của cộng đoàn; cuối cùng là phán quyết của vị đại diện đã được Chúa trao cho tác vụ bảo vệ sự hiệp nhất và hiệp thông cũng như chữa trị những gì làm hại đến cộng đoàn (Mỗi ngày một tin vui).
Phải hết sức tế nhị trong việc sửa lỗi, đừng ăn nói một cách thẳng thừng. Sự việc đã xảy ra: Khi chứng kiến đội tuyển bóng đá nước nhà thắng chật vật đội Đài Loan với tỉ số 2-1, một vị quan chức nọ đã nói: “Ông Miura (huấn luyện viên của đội tuyển Việt Nam) là huấn luyện viên dở nhất trong lịch sử”.
Khi gặp điều không ưng ý, hay khi đứng trước những lỗi lầm, sai phạm, khuyết điểm của người khác, chúng ta thường có thói quen chỉ trích, chê bai họ cách công khai, quyết liệt, nhằm làm mất uy tín của họ, để rồi qua đó, ta kín đáo đề cao chính mình.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy có thái độ tôn trọng và tế nhị khi sửa lỗi người khác. Khi ấy, chúng ta hãy gặp riêng họ, chỉ một mình ta với họ mà thôi. Việc gặp gỡ riêng tư này giúp hai bên nói chuyện với nhau cách cởi mở hơn, cũng như hiểu biết nhau nhiều hơn. Không những vậy, việc này còn giúp chúng ta giữ gìn thanh danh và uy tín của họ.
Nói chung, tinh thần sửa lỗi cho nhau phải hoàn toàn đặt trên “nền tảng đức ái”, nhằm cứu vãn và xây dựng hơn là áp dụng kỷ luật. Vì đối với Chúa, mọi phương thức phải được sử dụng để đưa người tội lỗi trở về trước khi vấn đề được đặt ra trước cộng đoàn. Và nếu cộng đoàn phải dùng quyền, để loại trừ một phần tử bất khả kháng, thì điều này cũng chỉ vì bác ái mà thôi, bác ái đối với đương sự trước tiên, để đương sự biết hồi tâm hoán cải, sau đó bác ái với các phần tử khác trong cộng đoàn, kẻo có ai theo gương xấu mà phạm tội.
Sửa lỗi cho nhau là một nghệ thuật rất khó đạt được sự hoàn chỉnh. Do đó điều quan trọng trước tiên là phải tập cảm nghiệm được sự hiện diện của Đức Kitô ở giữa chúng ta. Nhờ cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Kitô và nhờ sức mạnh của Ngài, chúng ta có thể dễ dàng giúp nhau sửa lỗi trong tinh thần xây dựng. Nếu những bệnh nhân cần đến sự săn sóc chữa trị của bác sĩ, thì những người lỗi lầm cũng cần đến tình thương và cảm thông của người khác để được nâng đỡ và khích lệ trên con đường hoán cải.
Truyện: Cách sửa lỗi đầy tình thương
Trong sách ẩn tu có câu chuyện sau: Ngày kia, vị Giám mục Amolas đến thăm mục vụ tại một làng nọ. Dân chúng bày tỏ sự bất mãn của họ đối với vị ẩn tu trên núi, vì ông hiện đang chung sống với một người phụ nữ.
Sau khi nghe những lời kết án, Giám mục Amolas quyết định cùng dân làng leo lên núi. Ngài đi đầu, dân làng lũ lượt nối gót theo sau. Vị ẩn tu thấy đám đông, ông hoảng sợ và cấp tốc bảo người phụ nữ trốn vào trong chiếc thùng rỗng.
Đức Giám mục là người đầu tiên đến và cũng là người đầu tiên bước vào túp lều. Ngài đưa mắt nhìn chung quanh và hiểu ngay tình hình. Ung dung, ngài đi thẳng đến ngồi trên chiếc thùng gỗ để nghỉ chân. Rồi bình thản vẫy tay gọi dân làng vào và bảo: “Vào đây, các người hãy vào đây và lục soát kỹ xem trong túp lều có người phụ nữ nào không”.
Họ tìm khắp nơi nhưng không thấy gì. Thấy tình thế đã dịu, Đức Giám mục mới nói: “Bây giờ các người phải quỳ xuống xin lỗi Thiên Chúa, vì đã nói xấu vị ẩn tu này vô cớ”.
Và sau đó, khi mọi người đã lục tục kéo nhau xuống núi, Đức Giám mục Amolas mới tiến gần vị ẩn tu, nắm chặt hai bàn tay của ông, đưa mắt nhân từ nhưng cương nghị nhìn sâu vào đôi mắt của ông và chậm rãi nói: “Hỡi người anh em, hãy cẩn thận giữ mình kẻo mất linh hồn đấy”.
10/08 Hạt lúa thối đi, sinh nhiều bông hạt.
- Viết bởi Ga 12, 24-26
Hạt lúa thối đi, sinh nhiều bông hạt.
Thứ Ba tuần 19 thường niên – THÁNH LÔRENXÔ, PHÓ TẾ, TỬ ĐẠO. Lễ kính.
"Ai phụng sự Ta thì Cha Ta sẽ tôn vinh nó".
* Phó tế Lôrenxô chịu tử đạo tại Rôma ngày 10 tháng 8 năm 258, sau đức Xít-tô II bốn ngày. Chuyện kể rằng người phải chịu cực hình lửa thiêu trên một chiếc giường sắt sau khi người đã phân phát cho người nghèo tài sản của cộng đoàn. Ngay từ thế kỷ IV, lòng tôn kính người đã phổ biến trong Hội Thánh.
Lời Chúa: Ga 12, 24-26
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thật, Ta nói thật với các con: Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời. Ai phụng sự Ta, hãy theo Ta, và Ta ở đâu, thì kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó. Ai phụng sự Ta, Cha Ta sẽ tôn vinh nó".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Mang nhiều hoa trái
Suy niệm:
Khi nghĩ đến cái chết sắp đến của mình,
Đức Giêsu lại nghĩ đến thân phận hạt lúa mì.
Ngài nói một điều mà ai cũng biết như một định luật tự nhiên,
một điều chẳng làm ai ngỡ ngàng kinh ngạc.
Nếu một hạt lúa rơi xuống đất và không chết đi, nó trơ trọi một mình;
nhưng nếu nó chết đi, nó mới mang nhiều hoa trái” (c. 24).
Đức Giêsu ví mình như hạt lúa đem gieo.
Điều kiện để đời Ngài đơm bông kết trái, đó là cái chết.
Không chấp nhận chết đi, hạt lúa vẫn chỉ là hạt lúa trơ trọi.
Đức Giêsu không muốn mình là thứ hạt lúa ấy,
được bao bọc vững chắc bởi lớp vỏ, cố giữ cho mình được nguyên vẹn,
vì thế cũng chẳng chịu vươn ra khỏi mình,
chẳng dám đánh mất chính mình để nảy mầm sinh hạt.
Đức Giêsu đã đón lấy cái chết như con đường để sự sống sinh sôi.
Cái chết của Ngài trên thập giá có khả năng kéo được mọi người lên (Ga 12, 32),
và thu hút cả vũ trụ về với Thiên Chúa.
Có một hạt lúa mang tên Giêsu.
Hạt lúa ấy đã chấp nhận chịu mục nát,
để cả thế giới trở thành đồng lúa thơm trĩu hạt.
Mỗi Kitô hữu cũng là một hạt lúa, được mời gọi để sống như hạt lúa Giêsu.
“Ai yêu mạng sống của mình, thì sẽ mất nó;
còn ai ghét mạng sống của mình ở trần gian này,
thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời” (c. 25).
Vấn đề là yêu hay ghét cuộc sống ở đời này.
Kitô hữu không phải là những kẻ chán đời hay khinh rẻ cuộc đời tại thế.
Ghét mạng sống ở đây chỉ có nghĩa là không đặt nó lên chỗ cao nhất,
không để nó chiếm chỗ của Thiên Chúa.
Chính khi nhận ra giá trị tương đối của cuộc đời trần thế này,
chúng ta mới có hy vọng giữ được nó mãi mãi.
Ngược lại, thái độ bám chặt vào đời này, gắn bó với nó một cách lệch lạc,
lại dẫn đến việc đánh mất hạnh phúc, cả đời này lẫn đời sau.
Thánh Laurensô đã bị thiêu sống ở Rôma trên một chiếc giường sắt,
sau khi ngài đã phân phát tài sản của cộng đoàn cho người nghèo.
Thầy phó tế Laurensô đã sống như người phục vụ cho Đức Kitô (c. 26)
bằng cuộc sống và cái chết tử đạo năm 258.
Được ở bên Thầy Giêsu mãi mãi và được Cha Thầy quý trọng,
đó là điều Laurensô được hưởng và cũng là hy vọng của chúng ta.
Cầu nguyện:
Chỉ mong tôi chẳng còn gì, nhờ thế Người là tất cả của tôi.
Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi, đến với Người trong mọi sự,
và dâng Người tình yêu trong mọi lúc.
Chỉ mong tôi chẳng còn gì, nhờ thế tôi không bao giờ muốn tránh gặp Người.
Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng còn gì,
nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn của Người,
và thực hiện ý Người trong suốt đời tôi. (R. Tagore)
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
SUY NIỆM 2: Tham dự sự sống của Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Nhờ cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu đã phục sinh và đem lại ơn cứu độ cho nhân loại. Để được sống đời đời, người theo Chúa chỉ có một chọn lựa: chết đi cho tội lỗi và sống cho Thiên Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con đường Chúa đã đi là con đường khổ giá và kết thúc bằng sự sống lại vinh hiển. Từ đó Chúa đã làm phát sinh sự sống Thiên Chúa cho con người. Con hiểu được rằng: Chúa đã chịu chết vì con như hạt lúa gieo vào lòng đất và chịu mục nát đi.
Rồi Chúa đã sống lại như hạt nảy mầm, phát sinh hoa trái, mùa màng là sự sống Thiên Chúa trong con. Và Chúa kêu mời con đến tham dự sự sống của Chúa. Nhưng để được như thế, con phải chọn đúng con đường Chúa đã đi. Con đường hẹp dẫn tới sự sống là con đường từ bỏ, hy sinh, vác thập giá hằng ngày qua các bổn phận đời thường và qua các đòi buộc của luật Chúa và luật Giáo Hội.
Nhưng lạy Chúa, bản tính con người của con lại yếu đuối quá. Con sợ phải cố gắng, phải hy sinh, phải từ bỏ và phải thiệt thòi. Con dễ ngã theo lời mời của đam mê, tìm hưởng thụ, sống phóng túng. Con thích đi vào con đường rộng dẫn đến cõi chết.
Lạy Chúa, nhờ lời cầu thay nguyện giúp của Thánh Lô-ren-xô, xin giúp con mạnh dạn đi theo con đường khổ giá. Xin giúp con từ bỏ chính bản thân mình để phục vụ anh em, phụng sự Chúa. Chính lúc chết đi cho tội lỗi và ích kỷ, là lúc con được vui sống với Chúa muôn đời. Amen.
Ghi nhớ: “Ai phụng sự Ta thì Cha Ta sẽ tôn vinh nó”.
SUY NIỆM 3: Mục nát đi và sinh bông hạt
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Tôi nhớ về tuổi ấu thơ bên ruộng lúa, rau muống ở Biên Hoà. Bên bờ ruộng, người ta có trồng chuối nên tôi đã được nhìn cây chuối mang một buồng quả chín. Lá của cây chuối mẹ héo rũ và xác xơ, và thân của nó oằn xuống như sắp gãy vì nó phải mang trên mình một buồng chuối nặng trĩu quả. Khi buồng chuối chín hoàn toàn, cây chuối mẹ sẽ gục hẳn xuống. Cây chuối mẹ đã hy sinh những phần tinh túy nhất của mình, chất dinh dưỡng trong gốc, thân và lá, cho những quả chuối được chín, để dâng cho đời những trái chuối ngon ngọt… Cây chuối tượng trưng cho một hình ảnh tuyệt đẹp về sự hy sinh.
Dưới gốc cây chuối mẹ sắp chết đi, xuất hiện nhiều chồi non của những cây chuối mới. Người trồng chuối chỉ chọn một mầm, để có một cây chuối mới cho năng suất cao. Một cuộc sống mới, một sự hy sinh mới lại bắt đầu...
Sinh trái, đơm hoa, cây chuối mẹ héo tàn và chết, từ gốc cây lại nảy ra mầm chồi non cho một sức sống mới…
Suy niệm
Chúa Kitô tự ví mình là hạt lúa gieo vào lòng đất, định mệnh của hạt giống chịu chôn vùi, chịu mục nát trong đất bùn. Mục nát không phải mất đi nhưng là để đâm chồi nảy lộc: “Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà… thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt” (Ga 12,23-24). Hạt giống mục nát trong đất nhưng tạo sự sống nảy mầm sống mới sinh nhiều bông hạt khác. “Hạt giống Giêsu” chết đi tạo vinh quang phục sinh, sức sống mới cho nhân loại.
Sự phục sinh khải hoàn, khơi nguồn sự sống cho cả nhân loại bắt đầu bằng việc đi vào cuộc thương khó, lãnh nhận cái chết của Đức Giêsu. Các môn đệ là những người theo Chúa Kitô cũng đều đi qua cuộc thương khó, sự cố gắng không ngừng nghỉ rao giảng Tin Mừng và đi vào cái chết như là những hạt lúa giống gieo vào lòng đất để cho mùa lúa niềm tin mới phát triển. Ngài cũng mời gọi chúng ta những môn sinh tin vào Ngài, theo Ngài cùng tháp vào Ngài mang thân phận của lúa mì gieo vào lòng đất như yêu cầu: “Ai phụng sự Ta, hãy theo Ta, và Ta ở đâu, thì kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó” (Ga 12,26). Theo Ngài làm thân phận hạt lúa giống gieo vào lòng đất để tạo sức sống mới chung cho toàn nhân loại.
Theo chân Chúa, là được mời gọi cùng bước vào một hành trình đi vào lòng đất của hạt giống. Một hành trình mạo hiểm, chấp nhận sự hy sinh, cố gắng không ngừng: bóc trần, mục nát, hòa tan trước thánh ý của Thiên Chúa, như Đức Kitô đã bước vào. Sự mạo hiểm này đã có lần Phêrô đã chối từ bước vào, khi không cam đảm nhận mình là môn sinh của Thầy (x. Mt 26,57-58.69-75; Mc 14,53-54.66-72; Lc 22,54-62 ; Ga 18,15-27), cũng như trước đó ông cũng đã từng ngăn cản Thầy tiến bước đường khổ giá (x. Mt 16:21-23; Mc 8,21-33). Hình ảnh đó phác họa sự ngập ngừng, sợ hãi của người Kitô hữu trước những bước đi vào mầu nhiệm thương khó cuộc đời - mầu nhiệm hạt giống gieo vào lòng đất để chết đi.
Suy nghĩ đến thân phận của hạt giống và chiêm ngưỡng những bước đi vào sự chết của Chúa Giêsu, chúng ta có một niềm xác tín hơn vào chính mình gắn bó với Thầy với thân phận hạt giống như Thầy và hân hoan: “Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 125,6).
Ý lực sống:
“Bài học quan trọng nhất, con người có thể học được trong cuộc sống:
Không phải là sự đau khổ hiện hữu trong thế giới, lệ thuộc nơi chúng ta biết rút từ bài học,
biết chuyển đổi đau khổ, nỗi buồn thành niềm vui” (R.Tagore).
SUY NIỆM 4: Tài sản của Giáo Hội
Hôm nay, Giáo Hội kính nhớ một vị thánh được tôn kính rất nhiều trong những thế kỷ đầu tiên của Kitô giáo: đó là thánh Lôrenxô.
Thật ra, người ta biết rất ít về vị thánh này...
Theo tương truyền, thì Lôrenxô là một vị phó tế người Roma phục vụ Giáo Hội dưới thời Ðức Giáo Hoàng Sixtô II, và có lẽ cũng đã chịu tử đạo trong thời kỳ bách hại của Hoàng đế Velerianô vào thế kỷ thứ 3.
Chuyện kể lại rằng, cũng như các phó tế trong giai đoạn tiên khởi của Giáo Hội, Lôrenxô được giao phó trách nhiệm quản lý tài sản của Giáo Hội và trợ giúp người nghèo. Ngày nay chúng ta gọi là hoạt động xã hội của Giáo Hội.
Sau khi Ðức Sixtô II bị bắt giữ, phó tế Lôrenxô cũng đã nghĩ ngay đến số phận chờ đợi mình mà Giáo Hội phải trải qua. Ngài tập trung lại tất cả những người nghèo, các bà góa và các em cô nhi tại Roma. Tất cả tài sản của Giáo Hội, ngài phân phát cho họ. Ðể cung cấp đủ cho số người túng thiếu quá đông, ngài đã cho bán cả các chén thánh dùng trong phụng tự...
Hoạt động bác ái quá rầm rộ này không mấy chốc đến tai viên thị trưởng Roma. Ông cho rằng, Giáo Hội phải có rất nhiều kho tàng. Thế là Lôrenxô đã bị điệu đến để cung khai về tất cả tài sản của Giáo Hội. Vị phó tế khôn ngoan này đã xin hoãn lại một thời gian để xếp đặt mọi sự và lập danh sách của cải của Giáo Hội. Trong suốt ba ngày, ngài cho triệu tập những người tàn tật, đui mù, góa bụa, cô nhi... và cho họ xếp hàng đứng trước dinh viên thị trưởng. Rồi ngài dõng dạc tuyên bố: "Ðây là tất cả tài sản của Giáo Hội".
Viên thị trưởng đã cho lời tuyên bố này là một thách thức ngạo mạn. Ông truyền lệnh cho thiêu sống Lôrenxô trên một chiếc giường sắt được nung đỏ. Các lý hình thay phiên nhau để quay trở thân xác của thánh nhân như một con thú...
Câu chuyện trên đây có thể chỉ là sản phẩm của một lòng tôn kính cao độ mà các tín hữu thời sơ khai dành cho một vị thánh. Nhưng, dù không biết nhiều về vị thánh này, chúng ta vẫn có thể xác quyết một điều: ngài đã chết vì Ðức Kitô. Sự thánh thiện ở thời đại nào cũng được định nghĩa như một sự đáp trả hoàn toàn đối với lời mời gọi bước theo Ðức Kitô.
Sống và chết cho Ðức Kitô: đó là ơn gọi từng ngày của người Kitô. Có nhiều hình thức bắt đạo khác nhau: từ những sắc lệnh cấm đạo công khai cho đến những hạn chế tự do tín ngưỡng một cách tinh vi.
Có nhiều hình thức tử đạo khác nhau: từ cảnh đầu rơi, máu đổ cho đến những cái chết dần mòn trong nơi lao tù, cũng như những khước từ hy sinh từng ngày mà mỗi người Kitô đang phải trải qua.
Sống trọn vẹn ơn gọi của người Kitô cũng là một hình thức tử đạo từng ngày. Quyết trí trung thành lắng nghe tiếng nói của lương tâm để không chạy theo những cám dỗ của quyền lực, của tiền bạc, của gian dối, của lường gạt: đó cũng là một cuộc tử đạo dai dẳng.
Quyết trí trung thành với Giáo Hội dù phải chịu những phân biệt đối xử, dù phải bị tước đoạt quyền lợi: đó cũng là một cuộc tử đạo dai dẳng.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 5: Hy Sinh Và Phục Vụ
Văn sĩ Robert Jordan Mayer đã viết tập sách có tựa đề Tạ Ơn Chúa. Trong đó ông chia ra ba loại cho đi: cho đi vì tức, cho đi vì bổn phận và cho đi vì lòng biết ơn.
- Kẻ cho đi vì tức thường nói: “Tôi không thích cho đi, vì kẹt quá nên đành phải làm như vậy”. Cho đi vì tức thì cho đi rất ít, vì món quà mà không có người cho thì không giá trị.
- Người cho đi vì bổn phận thì nói: “Tôi phải cho đi”. Cho đi vì bổn phận thì cho đi nhiều hơn là cho đi vì tức, nhưng món quà không hấp dẫn, không màu sắc.
- Người cho đi vì lòng biết ơn thì nói: “Tôi muốn cho đi”. Cho đi vì lòng biết ơn thì cho đi mọi sự và làm cho thế gian nhìn thấy hình ảnh Thiên Chúa.
Chúng ta hãy xét xem mình thuộc loại người nào trong ba mẫu người vừa nêu trên: cho đi vì tức, cho vì bổn phận và cho đi vì lòng biết ơn.
Bài Phúc Âm hôm nay dùng hình ảnh hạt giống phải chết đi mới trổ sinh nhiều hoa trái để nhắc cho môn đệ Chúa Giêsu phải biết sống hình ảnh cao cả nhất của việc cho đi là biết chấp nhận chết đi nơi bản thân, biết hy sinh chính mạng sống mình như thánh Laurensô vì tình yêu Chúa.
Ðịnh luật chết đi để trổ sinh hoa trái đã được Chúa Giêsu Kitô, Thầy chúng ta, thi hành nêu gương trước. “Không ai có tình yêu lớn hơn kẻ hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu”, nếu không có mẫu gương đi kèm theo lời dạy đầy cương quyết của Chúa thì có lẽ chúng ta không màng chi đến việc phải chết đi, phải hy sinh chính mạng sống mình để phục vụ điều thiện hảo của anh chị em. Không hy sinh thì sẽ không có phục vụ đích thực và không phục vụ đích thực thì ta chưa phải là đồ đệ đích thực của Chúa.
Lạy Chúa,
Xin hãy khắc ghi thật sâu vào tâm trí con Lời Chúa dạy về hy sinh và phục vụ. Vì công nghiệp của thánh Laurentio tử đạo, xin ban cho con ơn can đảm và trung thành với Chúa trong mọi hoàn cảnh và ngay cả khi phải hy sinh mạng sống vì Chúa và vì anh em.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 6: Thánh Laurensô
Ca nhập lễ, lễ thánh Laurensô viết rằng: “Đây là thánh Laurensô, Người đã hiến thân phục vụ Hội Thánh: vì thế Người được phúc tử đạo, để hân hoan tiến lên gặp Chúa Kitô”.
Thánh Laurensô đã kiên cường phục vụ Giáo Hội, phục vụ dân Chúa bất chấp những gian nan, thử thách khó nguy, Ngài đã xứng đáng lãnh nhận triều thiên nước trời.
CON NGƯỜI KIÊN CƯỜNG:
Thánh Laurensô sinh ra trong một gia đình đạo đức: cha mẹ của Ngài là những người rất mực đạo hạnh. Ngài được cha mẹ hạ sinh tại miền Huescô, nước Tây Ban Nha. Vì cha mẹ Ngài rất sùng đạo, luôn ở trung tín với Thiên Chúa, với Hội Thánh và yêu thương mọi người, thánh nhân đã sớm được cha mẹ cho đi du học bên Roma và Ngài sống suốt cuộc đời tại đây. Thánh nhân học giỏi, chuyên cần và siêng năng đạo đức, trau dồi kiến thức, nên chẳng bao lâu tiếng tăm của Ngài đã vang dội khắp nơi. Đức Giáo Hoàng Sixtô liền triệu vời Ngài và đặt Ngài làm phó tế giúp việc cho tòa thánh. Thời GiáoHội sơ khai, chức phó tế không quá 7 người và chỉ có chức đó mới được chọn làm Giáo Hoàng. Cuộc bách đạo lúc đó nổi lên, Giáo Hội gặp sóng gió lớn, các kẻ thù tìm cách bắt vị thủ lãnh Giáo Hội để làm cho đàn chiên tan tác. Thánh Laurensô luôn kiên cường đi thăm viếng các tín hữu nơi các hang toại đạo, giảng dậy và ban các bí tích. Thánh nhân có tấm lòng yêu thương các người nghèo nàn, nhất là những người ốm đau, bệnh tật. Thánh nhân bị bắt, bị tra tấn dã man, nhưng Ngài vẫn một mực trung thành với Thiên Chúa, với Giáo Hội, Ngài cảm nghiệm sâu xa lời Chúa “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó”(Ga 12,26)
THÁNH NHÂN LÃNH PHÚC THIÊN ĐÀNG:
Nhà vua đã tìm mọi cách để dụ dỗ thánh nhân bỏ đạo, nhưng thánh Laurensô đã một mực trung thành với Chúa và nhất quyết không bao giờ bỏ đạo. Vua căm phẫn vì không thuyết phục nổi thánh nhân, nên đã hạ lệnh cho lý hình nung đỏ giường sắt và đặt ngài trên đó. Thánh nhân đã vui cười chịu đựng và sau cùng đã ra đi về với Chúa trong bình an ngày 8 tháng 8 năm 258.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, chính vì được tình yêu Chúa nung nấu, thánh phó tế Laurensô đã trung thành phục vụ và đạt tới phúc tử đạo vinh quang. Xin cho dân Chúa biết thực hành những điều Người dậy và noi gương Người mà yêu mến Chúa và anh em (Lời nguyện Nhập lễ, Lễ thánh Laurensô, phó tế, tử đạo).
Lm. Nguyễn Hưng Lợi
SUY NIỆM 7: Thánh Laurensô (+258)
Thánh Laurensô là vị thánh tử đạo Roma được biết đến nhiều nhất. Từ thế kỷ thứ IV, một mình Ngài ngoài các thánh tông đồ, được kính nhớ với thánh lễ vọng. Sách nghi thức Đức giáo hoàng Lêô thế kỷ VI có không dưới 14 lễ kính Ngài. Trời Trung Cổ đã có ít là 34 thánh đường ở Roma dâng kính thánh nhân. Ngài là vị thánh bổn mạng thứ ba của thành Roma.
Tại sao thánh Laurensô được tôn kính cách đặc biệt như vậy? Thật khó mà trả lời được. Nếu bản tường thuật về cuộc tử đạo của Ngài là đúng sự thật, câu trả lời ấy sẽ rõ rệt.
Sau đây là tóm lược bản tường thuật ấy:
Là tổng phó tế của thánh Xystô, Laurensô gặp Đức giáo hoàng đang bị bắt giữ và trách Ngài đã không cho mình được chia sẻ triều thiên tử đạo với Ngài. Đức giáo hoàng hứa rằng trong vài ngày nữa, Laurensô sẽ được lãnh phúc tử đạo, đau đớn hơn nhiều. Ngài còn truyền cho vị tổng phó tế của mình hãy phân phát tài sản Giáo hội cho người nghèo. Khi những lời này tới tai hoàng đế Đêciô, ông truyền bắt giam Laurensô. Thánh nhân cải hóa được viên gác ngục Hippolytô. Bị điệu tới trước viên tổng trấn Valrianô, Ngài được lệnh phải nhượng lại các tài sản của Giáo hội. Được dành cho ba ngày để thâu thập của cải, Ngài đã mang tất cả tài sản phân phát cho kẻ nghèo. Hết hạn Ngài dẫn họ tới trình với tổng trấn Valêrianô, như là tài sản của Giáo hội. Viên tổng trấn nổi giận, buộc thánh nhân phải dâng lễ tiến các thần minh.
Từ khước, thánh nhân phải chịu mọi cực hình, bị nướng trên sắt nung đỏ. Trên giường chết lạ lùng này, Ngài còn chế nhạo Dêciô, người đích thân ngồi ghế chánh án rằng: - Một bên đã chín rồi hãy chiên bên kia nữa mà ăn.
Bản tường thuật khó tin nổi. Tác giả đã lẫn lộn hai vị hoàng đế Dêciô và Valêrianô khi coi ông này là tổng trấn dưới quyền ông kia. Hơn nữa, Đức Xystô không bị xử mà bị chặt đầu khi bị giam.
Một cách tổng quát, người ta công nhận rằng: thánh Laurensô là một trong bảy vị phó tế của Đức Xystô và chịu tử đạo vào năm 158. Nhưng nếu Ngài chỉ bị chặt đầu như các bạn thì chắc không đủ lý do để được tôn kính đặc biệt như vậy.
(Lm. Phaolô Phạm Quốc Tuý – Theo Vết Chân Người)
SUY NIỆM 8: Thánh LAURENSÔ
(Enzo Lodi)
Thánh nhân phải chịu mọi cực hình, bị nướng trên sắt nung đỏ. Trên giường chết lạ lùng này, Ngài còn chế nhạo Đêciô, người đích thân ngồi ghế chánh án rằng : - Một bên đã chín rồi hãy chiên bên kia nữa mà ăn.
1. Lịch sử - phụng vụ
Theo Depositio Martyrum trong lịch thánh Jérôme, thánh Lôrensô đã tử đạo tại Rôma, trên đường Tiburtina ngày 10 tháng 8 năm 258, bốn ngày sau các phó tế khác bị xử tử cùng với Đức giáo hoàng Sixte II, lễ kính ngày 7 tháng 8 (xem Cyprien, Ep 80). Từ thế kỷ thứ IV, người ta đã mừng lễ kính Ngài với một đêm canh thức trọng thể và từ Roma, việc tôn kính Ngài đã lan khắp Giáo hội rất sớm. Các thánh Ambroise ở Milan, Augustin ở Châu Phi và Maxime ở Turin đều có lưu lại những bài giảng về lễ kính thánh nhân. Và sau thánh Ambroise, thánh Prudence cũng kể lại cuộc tử đạo của thánh nhân (công vụ của Polychrone và các bạn, khoảng năm 550). Mặc dầu nhiều chi tiết trong cuộc khổ nạn đó mang tính huyền thoại, nhưng lại là nguồn gốc cho các điệp ca trong thần vụ. Thánh Ambroise khi kể lại cuộc tử nạn đó một thế kỷ sau nói rằng thánh Laurent bị thiêu trên một giàn sắt. Xác Ngài được an táng trên đường Tiburtina, nửa thế kỷ sau, hoàng đế Constantin cho xây một thánh đưòng trên mộ Ngài: Đây chính là đại giáo đường thánh Laurent ngoại thành, một trong bảy nhà thờ lớn ở Roma, và là nhà thờ chính trong tám nhà thờ của thành phố Rôma dâng kính thánh nhân.
2. Thông điệp và tính thời sự
Các lời nguyện thánh lễ cũng như các bản văn khác trong phụng vụ Giờ kinh tô điểm hình ảnh phó tế Lôrensô, vị tử đạo nổi tiếng nhất của Giáo hội Rôma.
Lời nguyện trong ngày nhắc lại lòng bác ái nồng nhiệt của vị thánh phó tế luôn trung thành với việc phục vụ đến nổi được vinh quang tử đạo, như lời thánh Augustin đã mô tả rất xác đáng: “Anh em biết đấy, trong Giáo hội ở Rôma, Ngài thi hành chức năng phó tế. Chính tại đây Ngài trình bày về Máu thánh Đức Kitô, và chính tại đây Ngài đổ Máu mình vì thánh danh Đức Kitô” (phụng vụ bài đọc: bài giảng của thánh Augustin)
Chuyện về các hành vi trong cuộc khổ nạn của thánh Laurent kể rằng thánh nhân bị bắt vì không tuân luật thuế quan buộc nộp các tài sản Giáo hội cho chính quyền hoàng đế. Sau khi xin khất lại, Ngài tập hợp những người nghèo khó, ốm đau lại và hai ngày sau, Ngài đưa họ đến trước mặt quan quyền và thưa: “Đây là tài sản của Giáo hội!”. Thánh nhân liền bị bắt và tra khảo nhiều lần. Ngài đã trả lời các lý hình: “Tôi tôn thờ Thiên Chúa của tôi, tôi chỉ phụng sự một mình Chúa, nên tôi đâu sợ cái tra khảo của các ông”. Bị đặt trên một vỉ sắt dưới để than cháy, Ngài còn quay lại phía lý hình, đùa: “Anh trở tôi được rồi đấy, bên này chín rồi”. Đức giáo hoàng Damase cho khắc trên mộ ngài: “đòn roi, lý hình, lửa thiêu, hình khổ, xích xiềng, tất cả điều thua đức tin của Lôrensô”.
Niềm tin và lòng bác ái của thánh Laurent cũng như đức can đảm anh hùng của Ngài qua nhiều thế kỷ là nguồn cảm hứng cho lời cầu nguyện của Giáo hội, lòng đạo đức của giáo dân, rất nhiều tranh ảnh, thậm chí cả kiến trúc ... Quả thế, Philippe II, để thực hiện lời hứa với thánh Lôrensô, đã xây Escorial trong tỉnh Madrid, theo dạng thiết kế một giàn sắt nhắc nhớ dụng cụ tra tấn thánh phó tế Lôrensô xưa. Còn thánh Bênado thế kỷ XII thì dâng tu viện Thoronet vùng Var để kính thánh nhân. Thánh Lôrensô được nhắc tới trong lời nguyện Thánh Thể và có tên trong kinh cầu các thánh.
SUY NIỆM 9: Thánh LAURENSÔ Phó Tế Tử Đạo
(Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
“Nếu hạt lúc mì rơi xuống đất không thối đi thì nó không sinh hoa kết quả”. Ðây là hình ảnh nói về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu: chết mới nói lên lời, chết mới được tôn vinh. "Khi nào Ta bị treo lên, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta" "Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu" (Ga 15, 13). Ðức Giêsu đã khải hoàn đi vào Giêrusalem như một vị vua hiền lành và khiêm tốn, cỡi trên mình lừa. Cuộc khải hoàn vinh thăng đưa Chúa Giêsu vào bữa tiệc ly và Ngài loan báo về cuộc tôn vinh sắp tới của Ngài (Ga 12,20-36). Chính lúc chết đi, Chúa Giêsu được Cha của Ngài tôn vinh. Giờ khổ nạn và cái chết thập giá của Chúa Giêsu là giờ Ngài được tôn vinh (Ga 12, 23).
Ðiều này rất phù hợp với cuộc đời của thánh Lô-ren-xô phó tế, vì rằng Ngài được sinh ra ở nước Tây Ban Nha, miền Huescô trong một gia đình đạo đức, thánh thiện. Ngài sống quãng đời niên thiếu với sự ấp ủ yêu thương của cha mẹ. Ngài được cha mẹ uấn nắn, giáo dục trong sự kính sợ Chúa, tuân theo ý Chúa. Thánh nhân sớm rời bỏ gia đình, nước Tây Ban Nha để du học bên Roma và sống trọn quãng đường trần thế ở Roma.
Thánh nhân luôn chứng tỏ là người ham học, tìm tòi và trau dồi tài đức. Ngài có cuộc sống trí thức và đạo đức trổi vượt. Danh tiếng Ngài lan tỏa khắp nơi, vì thế chẳng bao lâu Ðức Thánh Cha biết và cất nhắc Ngài. Ðức Giáo Hoàng Sixtô triệu Ngài và đặt Ngài làm phó tế giúp việc Tòa Thánh. Vào thời thánh nhân, chức phó tế thuộc giáo triều không được quá 7 người và chỉ có những vị này mới có cơ may lên ngôi Giáo Hoàng.
Thánh Lô-ren-xô luôn nêu gương đời sống thánh thiện cho nhiều người. Ngài sống sự sống của Chúa như lời thánh Phaolô nói: "Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Ðức Kitô sống trong tôi". Thánh nhân đã hoàn toàn lột bỏ con người cũ và mặc lấy chính Ðức Kitô. Cuộc sống của Ngài hoàn toàn thuộc về Chúa. Thánh nhân hăng say làm việc tông đồ. Ðiều Ngài lãnh nhận nơi Chúa: "Các con đã lãnh nhận nhưng không, phải cho nhưng không", thánh Lô-ren-xô đã trao ban lại tình yêu cho nhiều người khác, nhất nhất để tôn vinh Ðức Kitô. Ngài ý thức mãnh liệt: "Tình yêu Chúa Kitô thúc bách tôi", nên trước những thử thách, trước phong ba bão táp của cuộc đời, thánh nhân vẫn luôn đặt tin tưởng vào Chúa: "Ta sẽ ở cùng các con mọi ngày cho tới tận thế". Thánh Lô-ren-xô cảm nghiệm sâu xa lời của Chúa Giêsu: "Thầy đây đừng sợ".
Thánh nhân luôn kiên cường trước cơn bách đạo khốc liệt thời Valerius. Ðánh chủ chiên, chiên sẽ tan nát. Ðó là chủ trương của những kẻ cấm đạo. Thánh nhân đã miệt mài, siêng năng thăm viếng các kitô hữu đang trú ẩn trong các hang toại đạo, khuyến khích, động viên họ kiên cường giữ đạo, giảng dậy cho họ và ban bí tích cho họ. Thánh nhân có tấm lòng yêu thương những người nghèo, những người cùng khổ, những người bệnh hoạn tật nguyền. Hăng say với sứ mạng loan truyền ơn cứu độ và giới thiệu Ðức Kitô cho người khác, miệt mài, cần cù với công việc, Ngài không sợ hiểm nguy vì Ngài xác tín Chúa luôn hiện diện và Thánh Thần luôn hướng dẫn chỉ bảo. Ngài cứ xông xáo với công việc cứu thế. Ðể cho vinh danh Chúa được chiếu tỏa mãnh liệt, Chúa đã gửi thánh giá cho Ngài. Ngài bị bắt, bị tra tấn dã man và vì không lay chuyển được lòng tin của thánh Lô-ren-xô bỏ đạo, nhà vua đã căm tức cho nung đỏ giường sắt và đặt Ngài nằm trên giường đã được nung đỏ. Ngài quyết một lòng trung thành với Ðức Kitô. Thánh nhân tuy đau đớn thân xác tột độ, nhưng Ngài vẫn tươi cười chịu đựng những cực hình không sao diễn tả nổi. Thánh nhân đã an nghỉ trong Chúa ngày 10/8/258 trong tình yêu vô biên của Thiên Chúa.
Thánh nhân được đặt làm bổn mạng của những người nghèo và là quan thầy của những quản thủ thư viện, quan thầy của phòng cháy chữa cháy và những nghề nghiệp có liên quan tới lửa.
Mừng lễ thánh Lô-ren-xô phó tế, ta hãy xin Người cầu thay nguyện giúp ta để ta luôn cảm nghiệm sâu xa lời Chúa: "giả như hạt lúa gieo xuống đất không chết đi, thì nó trơ trọi một mình".
Xin Chúa ban cho chúng ta luôn biết noi gương bắt chước thánh nhân yêu thương người nghèo và nhiệt tình với sứ mạng mỗi người đã được Giáo Hội trao phó.
Xin thánh Lô-ren-xô thắp lên trong lòng chúng con ngọn lửa yêu mến Chúa.
SUY NIỆM 10: CHẾT VÌ TIN MỪNG MỚI SỐNG THỰC
(Linh mục Giuse Đinh Quang Thịnh)
Phó tế Laurensô Tử Đạo vào ngày 10 tháng 8 năm 258, vào đầu thế kỉ IV các tín hữu rất sùng kính Ngài. Ngay tại Roma, có tới 35 nhà thờ mang tên Laurensô. Suốt năm phụng vụ có 25 lễ kính, trong đó có thánh lễ kính thánh Laurensô và có Kinh Chiều I. Ngài là một trong bảy Phó tế sống bên cạnh Đức Giáo hoàng. Thời ấy, Phó tế được bầu làm Giáo hoàng, nhiệm vụ của Phó tế là giữ tài sản của Giáo Hội do giáo dân dâng cúng để chia sẻ vào việc từ thiện. Đêxyô, vua Rôma đã ra lệnh chặt đầu Đức Giáo Hoàng Sistus II và các phó tế đang dâng lễ với Đức Giáo Hoàng trong hang toại đạo. Riêng có phó tế Laurensô được tha mạng nhằm bắt ông phải hiến tất cả tài sản của Giáo Hội cho vua, vì Laurensô hứa với vua là 3 ngày sau sẽ dâng tất cả. Trở về nhà, Laurensô lấy tất cả tài sản đang quản lý chia cho mọi người nghèo, rồi ông dẫn những người nghèo ấy đến trước mặt vua, thưa: “Đây là tài sản của Hội Thánh, tôi dâng hết cho ngài”. Vua căm phẫn trước cử chỉ ngạo ngược ấy của Laurensô, nên sai nung lửa tấm sắt đỏ rực, rồi trói Laurensô quăng trên đó, nằm trên tấm sắt Laurensô còn khôi hài nói với vua: “Thưa ngài, phía này chín rồi, ngài có thể ăn được!”
Như vậy, Laurensô đã thực thi Lời Kinh Thánh: “Mỗi người hãy cho tùy theo ý định của lòng mình, không buồn phiền, không miễn cưỡng, vì ai vui vẻ dâng hiến, thì được Thiên Chúa yêu thương” (2 Cr 9,7: Bài đọc). Laurensô không chỉ rộng tay chia sẻ của cải do giáo dân đóng góp, mà đặc biệt ông đã chia chính mạng sống mình vì Tin Mừng, để làm cho Lời Đức Giêsu nói về những kẻ theo Ngài được ứng nghiệm: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8,35).
Đó là định luật tất yếu phải xảy ra cho những ai theo Đức Giêsu để sinh nhiều hoa trái việc lành, như Ngài nói: “Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa mì gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24: Tin Mừng). Hạt giống vật chất nếu chết đi là thối luôn, không thể mọc lên được. Do đó, ta phải hiểu Lời Đức Giê-su nói “hạt lúa mì chết đi” là ám chỉ chính Ngài sẽ bị giết và được ông Nicôđêmô lãnh xác Ngài an táng trong lòng đất, chưa trọn ba ngày, thì “hạt giống” này đã mọc lên (Chúa Giêsu Phục Sinh), để rồi Ngài sai các Tông Đồ đi khắp thế giới tập họp môn đệ cho Ngài bằng hai việc: ban Thánh Tẩy cho họ, và dạy họ mọi điều Đức Giê-su đã truyền cho các ông (x Mt 28,19-20), và cứ như thế cho tới ngày cánh chung, thì từ “hạt lúa mì” ấy đã chết sinh ra biết bao hạt khác, mà thánh Gioan được Chúa cho nhìn thấy trước: “Con Chiên đứng trên núi Sion và với 144 ngàn người, mang danh của Ngài và danh của Cha Ngài viết trên trán họ. Ngoài 144 ngàn người ấy, những người đã được mua chuộc từ cõi đất, họ là những kẻ không bị dây dớm với phụ nữ vì họ trinh khiết; họ được tháp tùng theo Chiên Con bất cứ Ngài đi đâu; họ đã được mua chuộc giữa loài người, làm tiên thường hiến dâng Thiên Chúa và Con Chiên” (Kh 14,1.3b-4).
Những người được Chúa cứu độ đã diễn tả người tôi trung Thiên Chúa mà ngôn sứ Isaia đã nói : “Đức Chúa đã muốn người phải bị nghiền nát vì đau khổ. Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn, và nhờ người, ý muốn của Đức Chúa sẽ thành tựu. Nhờ nỗi thống khổ của mình, người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện. Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ. Vì thế, Ta sẽ ban cho nó muôn người làm gia sản, và cùng với những bậc anh hùng hào kiệt, nó sẽ được chia chiến lợi phẩm, bởi vì nó đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân; nhưng thực ra, nó đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi” (Is 53, 10-12).
Người tôi trung gương mẫu nhất của Thiên Chúa chính là Đức Giêsu, Ngài muốn chúng ta giữ được mạng sống mình, thì phải đi trên con đường Ngài đã đi (x 1 Ga 2,6). Chính vì vậy mà Đức Giêsu kêu gọi: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy,Cha của Thầy sẽ quí trọng người ấy”( Ga.12,26 Tin Mừng).
“Đức Giêsu ở đâu, người phục vụ Ngài cũng ở đó” nghĩa là muốn hưởng vinh quang trong Nước Thiên Chúa, thì trước đó phải phục vụ giống Đức Giêsu ở đồi Sọ. Tuy nhiên chưa phải chết khổ nhục như Ngài, thì ít ra lúc ở với Chúa Giêsu trong Thánh Lễ, phải quảng đại dâng nhiều thời giờ để nghe, tìm hiểu và suy gẫm Lời Chúa, dù có ngăn trở công ăn việc làm, có tổn thương đến cơ thể làm mỏi mệt, nhưng vì yêu lại thích sự khó nhọc đó. Kìa cô cậu yêu nhau cả ngày làm việc vất vả mỏi mệt, thế mà tối hẹn nhau nơi vắng trò chuyện tới khuya, nói nói, nghe nghe, quên hết cả thời gian. Tại sao người Công Giáo biết rằng vì yêu Chúa mà dự Lễ mới được Chúa ban nhiều ơn, thế mà không muốn nghe giảng nhiều điều, chỉ thích càng vắn càng tốt, 10 phút là dài. Nếu chủ chăn và giáo dân ai cũng nghĩ như thế, thì hỏi rằng có còn yêu Chúa hay là bất hòa, vì cô cậu lúc bất hòa thì chẳng nghe nhau nữa, cực chẳng đã nói mấy điều cho xong việc!
Vậy chỉ những người vì tin yêu Chúa Giêsu mà đến dự Lễ, thì mới được Ngài hứa: “Thầy sẽ đi dọn chỗ cho anh em và khi Thầy trở lại, Thầy sẽ đem anh em đi với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng được ở đó” (Ga.14,3), như Ngài đã xin với Chúa Cha: “Lạy Cha, Con muốn rằng Con ở đâu chúng cũng được ở đó với Con, để chúng được chiêm ngưỡng vinh quang của Con mà Cha đã ban cho Con” (Ga 17,20). Đó là “phúc lộc Chúa dành cho người biết thương xót và cho vay mượn” (Tv 112/111, 5a: Đáp ca). Vì vậy Đức Giêsu quả quyết: “Ai theo Tôi, sẽ không đi trong bóng tối nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga.8,12bc Tung hô Tin Mừng)
THUỘC LÒNG
-Hc. 29,12-13: Rộng tay chia sẻ là con chất đầy kho lẫm, và con sẽ thoát mọi nỗi gian nguy. Của chia sẻ sẽ nên vũ khí giúp con chống địch thù, lợi hại hơn cả khiên dầy giáo nhọn.
-Tb. 4,10-11: Việc chia sẻ cứu cho khỏi chết và không để rơi vào cõi âm ty. Vì trước nhan Đấng Tối Cao, của chia sẻ là một lễ vật quý giá.
-2Cor. 9,6-8: Ai gieo ít thì gặt ít, ai gieo nhiều thì gặt nhiều. Mỗi người hãy cho tuỳ theo quyết định của lòng mình, không buồn phiền, cũng không miễn cưỡng, vì ai vui vẻ dâng hiến, thì được Thiên Chúa yêu thương. Vả lại, Thiên Chúa có đủ quyền tuôn đổ xuống trên anh em mọi thứ ân huệ, để anh em vừa được luôn đầy đủ mọi mặt, vừa được dư thừa mà làm mọi việc thiện.
-2Cor .9,9: Người rộng tay ban phát cho kẻ túng nghèo, đức công chính của họ tồn tại muôn đời.
-1Ga .3,17: Đừng ai yêu bằng đầu lưỡi, nhưng yêu bằng việc làm thật sự.
-Cv. 20,35: Cho thì có phúc hơn là lấy.
-Giáo sư Alfred Adler nói: Kẻ nào không quan tâm đến người khác, chẳng những nó gặp nhiều khó khăn trên đời, mà còn là kẻ gây tác hại cho xã hội.
-Linh mục Carlyle nói: Muốn biết lòng nhân ái của ai, chỉ cần xem cách người đó đối xử với các tôi tớ.
-Nhà tâm lý học Ive nói: Phần lớn nỗi thống khổ của người nghèo là họ nhìn thấy cách dùng tiền của phung phí, vô ý thức của người giàu.
SUY NIỆM 11: Thánh LAURENSÔ Phó Tế Tử Đạo
(Nt. M. Anh Thư OP)
Sự sống con người vốn đáng quý, bởi nó bắt nguồn từ chính Thiên Chúa. Trong sự vâng phục Chúa Cha, Chúa Giêsu đã được sai đến để yêu thương cứu chuộc con người khỏi mọi tội lỗi, và cho con người sự sống vĩnh cửu. Noi gương Chúa Giêsu, có những người đã dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu bất diệt vượt trên mọi đau khổ và cả cái chết. Đó chính là thánh Laurensô tử đạo mà hôm nay Giáo hội mừng kính.
Thánh Laurensô sinh tại một thị trấn ở Aragon, nước Tây Ban Nha. Ngay từ khi còn trẻ, Laurensô đã được gửi đi du học ở Rôma. Tại đó, ngài đã được Đức Giáo hoàng Xíttô II trao chức phó tế để phục vụ trong nhà thờ và giúp đỡ những người nghèo như “tài sản của Giáo hội”.
Vào tháng 8 năm 258, Hoàng đế Valerianô ra lệnh cấm đạo, Đức Giáo hoàng Xíttô II bị kết án tử hình cùng với sáu phó tế, trong đó có Laurensô. Khi bị bắt, viên tổng trấn Roma yêu cầu Laurensô giao tất cả tài sản của Giáo hội cho đế chế. Tuy nhiên, theo lời chỉ dạy của Đức Giáo Hoàng, trước khi ra pháp trường, Laurensô đã phân phát hết tiền của, tài sản của Giáo hội cho người nghèo, ngài còn bán cả các phẩm phục quý giá để có thêm tiền phân phát.
Khi tổng trấn chất vấn về số tài sản ấy thì Laurensô đã khẳng định những người nghèo, những người khuyết tật, người mù lòa và đau khổ mới là những thực sự là ‘tài sản của Giáo hội’. Viên tổng trấn nổi giận, buộc Laurensô phải dâng lễ tiến các thần minh. Vị phó tế Laurensô đã từ khước dù phải chịu mọi cực hình, bị nướng trên giàn sắt nung đỏ và đã lãnh phúc tử đạo vào ngày 10 tháng 8 năm 258 tại Rôma. Trước khi chết, ngài đã cầu xin cho mọi tín hữu trong thành phố Rôma được ơn trở lại với Ðức Kitô, và cho Ðức Tin Công Giáo được lan tràn khắp thế giới.
Thánh Laurensô là vị thánh tử đạo được các tín hữu ở Rôma yêu mến một cách đặc biệt. Thời Trung Cổ, đã có ít là 34 thánh đường ở Rôma được dâng kính thánh nhân. Ngài cũng là vị thánh bổn mạng thứ ba của thành Roma.
Thánh Laurensô đã sống triệt để Lời Chúa dạy, như hạt lúa mì chịu chôn vùi dưới đất, thánh nhân đã chịu mục nát trong thân phận con người để trỗi dậy mạnh mẽ trong sức sống mới của Thiên Chúa. “Người được lãnh nhận Đấng trao ban chính mình tại bàn tiệc thánh thế nào, thì người cũng trao hiến chính mình làm của ăn cho người khác như vậy. Khi sống người yêu mến Đức Kitô, thì lúc chết người cũng bắt chước Đức Kitô. Các thánh tử đạo đã đi theo Đức Kitô đến nỗi chịu đổ máu, chịu đau khổ như Người. Các thánh tử đạo đã đi theo Đức Kitô, nhưng không phải chỉ có các ngài thôi. Quả thế, các ngài đi qua, cầu vẫn chưa sập; các ngài uống nước, suối vẫn chưa khô. Thưa anh em, vườn của Chúa có đủ các loại hoa: không phải chỉ có hoa hồng tử đạo, mà còn có hoa huệ khiết trinh, có dây trường xuân hôn nhân, có hoa tím góa bụa”. [1]
Mỗi người chúng ta dù ở bậc sống nào cũng được mời gọi góp hương sắc cho vườn hoa của Giáo hội. Chúng ta đừng bao giờ thất vọng về chính mình khi gặp những đau khổ thử thách, đó chính là trường đào luyện để chúng ta nên giống Đức Kitô “Người vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2, 6-8). Chúng ta dễ dàng theo Chúa khi được những điều may lành, nhưng cũng dễ dàng bỏ Chúa khi gặp khó khăn thử thách. Vì thế chúng ta phải tha thiết xin Chúa ban ơn để chúng ta đủ sức đón nhận những nghịch cảnh trong niềm tín thác. Các thánh cũng là những con người yếu đuối như chúng ta, nhưng các ngài biết dựa vào sức mạnh của Chúa và quy hướng mọi sự về Chúa.
Cuộc sống xã hội hôm nay luôn cần những con người biết yêu mến và bảo vệ Giáo hội, nhất là những người nghèo khổ. Trong Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cảm nhận rằng “Khi đời sống nội tâm tự khép kín trên những hứng thú riêng tư, thì sẽ không còn chỗ cho kẻ khác, người nghèo không tìm được lối vào; người ta không còn nghe được tiếng của Thiên Chúa; không còn hưởng được niềm vui êm ái tình yêu của Người, không còn hứng thú làm việc thiện” (EG 2). Vì thế, Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta hãy canh tân việc gặp gỡ cá nhân với Chúa Giêsu Kitô để có được sức bật mới mẻ tràn đầy niềm vui, biết ra đi trao tặng yêu thương, sự quan tâm chia sẻ với những người nghèo khổ và những ai đang đói khát tình thương cứu độ.
Ngày hôm nay, chúng ta không còn phải tử đạo qua gươm giáo hay lửa nung thiêu đốt, nhưng chúng ta có thể làm chứng cho Tin Mừng bằng thái độ sống công bằng bác ái, bằng lòng thương cảm đối với những người nghèo khổ, người bị gạt ra bên lề xã hội, những con người bị tước mất quyền sống và quyền được hưởng tự do là con cái Chúa. Noi gương thánh Laurensô, chúng ta hãy cùng nắm lấy tay nhau tạo nên một vòng tròn yêu thương, lan tỏa và tiếp thêm sức mạnh của Chúa cho thế giới đang từng ngày nghèo đi và thiếu vắng tình thương.
Lạy Chúa Giêsu là Đấng đã đến thế gian để yêu thương và cứu chuộc nhân loại nghèo khổ, xin cho chúng con biết đón nhận những điều trái ý trong cuộc sống, biết thánh hóa những đau khổ trở thành ân phúc thiêng liêng mang lại cho chúng con niềm hạnh phúc đích thực.
Thánh Laurensô đã một lòng vì Chúa, vì Giáo hội và những người nghèo, xin cho chúng con cũng có được tâm tình và lòng quảng đại như thánh nhân, trung kiên làm chứng cho Chúa dù phải chịu đau khổ bách hại. Amen.
09/08 Chúa Giêsu, mẫu gương vâng phục
- Viết bởi Mt 17, 21-26
Chúa Giêsu, mẫu gương vâng phục.
Thứ Hai tuần 19 thường niên.
"Họ sẽ giết Người, nhưng Người sẽ sống lại. Con cái thì được miễn thuế".
Lời Chúa: Mt 17, 21-26
Khi ấy, các môn đệ và Chúa Giêsu còn đang ở Galilêa, thì Chúa Giêsu bảo các ông rằng: "Con Người sắp bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết người, nhưng ngày thứ ba, Người sẽ sống lại". Các môn đệ rất đỗi buồn phiền.
Khi các ngài đến Capharnaum, thì những người thu thế đền thờ đến gặp Phêrô và hỏi rằng: "Thầy các ông không nộp thuế "đền thờ' sao?" Ông nói: "Có chớ".
Khi ông về đến nhà, Chúa Giêsu hỏi đón trước rằng: "Simon, con nghĩ sao? Vua chúa trần gian thu thuế má hạng người nào? Đòi con cái mình hay người ngoài?" Ông thưa rằng: "Đòi người ngoài". Chúa Giêsu bảo ông rằng: "Vậy thì con cái được miễn. Nhưng để chúng ta không làm cho họ vấp phạm, con hãy ra biển thả câu: con cá nào câu lên trước hết thì bắt lấy, mở miệng nó ra, sẽ thấy một đồng tiền, con hãy lấy tiền đó mà nộp cho họ, trả phần Thầy và phần con".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Để khỏi làm cớ sa ngã
Suy niệm:
Đọc bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta không khỏi mỉm cười,
khi nghĩ đến việc anh Phêrô đi ra hồ Galilê để thả câu bắt cá,
một chuyện bắt cá rất bất thường, vì một mục đích cũng bất thường.
Thầy Giêsu dặn anh hãy túm lấy con cá đầu tiên câu được,
bắt lấy, mở miệng nó ra, thấy ngay một đồng tiền trị giá bốn quan,
vừa vặn để nộp thuế Đền Thờ cho cả Thầy lẫn trò.
Đây là thứ thuế mà hàng năm, theo sách Xuất hành (30, 14)
những người đàn ông Do Thái trên hai mươi tuổi phải nộp
để lo việc tu bổ Đền Thờ và việc tế tự trong đó.
Ta không thấy kể chuyện anh Phêrô đã vâng lời Thầy ra sao,
và phép lạ đã xẩy ra như thế nào.
Chỉ biết chẳng khi nào trong Tân Ước
Thầy Giêsu lại có ý làm một phép lạ vì lợi ích cho mình như vậy.
Nhưng chuyện bắt cá để lấy tiền nộp thuế
lại không phải là chuyện quan trọng của đoạn Tin Mừng này.
Điểm chính yếu nằm ở những câu nói của Thầy Giêsu.
Ai cũng biết con cái của vua chúa trần gian thì được miễn thuế,
vì các vua chỉ đánh thuế người ngoài thôi (c. 26).
Đức Giêsu chính là Người Con tuyệt hảo của Vị Vua thiên quốc.
Và những Kitô hữu cũng là con cái của Đức Vua tối cao.
Họ là những người đã mở lòng đón nhận Nước Trời (Mt 13, 38),
và đã gọi Thiên Chúa là Cha trên trời của chúng con (Mt 6, 9).
Như thế Thầy Giêsu và các môn đệ của mình đều được miễn thuế.
Thầy trò không phải nộp thuế Đền Thờ như những người Do Thái khác.
Tuy Thầy trò có quyền không nộp thuế,
nhưng Thầy Giêsu lại không muốn làm cớ cho người khác vấp phạm.
Khi về đến nhà của anh Phêrô ở Caphácnaum,
Thầy Giêsu bày tỏ ý muốn nộp thuế Đền Thờ cho cả Thầy lẫn trò.
Thầy chấp nhận giữ luật mà các người đàn ông Do Thái đều giữ.
Thầy biết mình có tự do,
nhưng Thầy cũng dám hy sinh tự do ấy vì lợi ích cho người khác.
Thánh Phaolô cũng sẽ nói về nguyên tắc này khi bàn về việc ăn đồ cúng.
“Đành rằng mọi thức ăn đều thanh sạch,
nhưng ăn mà gây cớ vấp ngã, thì là điều xấu” (Rm 14, 20).
Chúng ta cần lưu tâm đến những người “yếu” trong cộng đoàn.
Chính tình yêu đối với họ khiến tôi cân nhắc điều mình được phép làm.
Tự giới hạn tự do của mình là một cách để biểu lộ tình yêu.
Thế giới hôm nay ca ngợi tự do, nên cũng đầy cớ gây vấp phạm.
Bao sa ngã của giới trẻ là do sự phóng túng của người lớn.
Con người hôm nay quá gần nhau bởi các phương tiện truyền thông,
nên ảnh hưởng xấu lan đi vừa nhanh lại vừa rộng.
Nếu chúng ta tự ý làm hay tránh làm một điều gì đó
chỉ vì tôn trọng lương tâm mong manh của người khác,
thì Thiên Chúa cũng sẽ giúp ta bằng những phép lạ thật ngỡ ngàng.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin dạy con luôn tươi tắn và dịu dàng
trước mọi biến cố của cuộc sống,
khi con gặp thất vọng, gặp người hờ hững vô tâm,
hay gặp sự bất trung, bất tín
nơi những người con tin tưởng cậy dựa.
Xin giúp con gạt mình sang một bên
để nghĩ đến hạnh phúc người khác,
giấu đi những nỗi phiền muộn của mình
để tránh cho người khác phải đau khổ.
Xin dạy con biết tận dụng đau khổ con gặp trên đời,
để đau khổ làm con thêm mềm mại,
chứ không cứng cỏi hay cay đắng,
làm con nhẫn nại chứ không bực bội,
làm con rộng lòng tha thứ,
chứ không hẹp hòi hay độc đoán, cao kỳ.
Ước gì không ai sút kém đi
vì chịu ảnh hưởng của con,
không ai giảm bớt lòng thanh khiết, chân thật,
lòng cao thượng, tử tế,
chỉ vì đã là bạn đồng hành của con
trong cuộc hành trình về quê hương vĩnh cửu.
Khi con loay hoay với bao nỗi lo âu bối rối,
xin cho con có lúc
thì thầm với Chúa một lời yêu thương.
Ước chi đời con là cuộc đời siêu nhiên,
tràn trề sức mạnh để làm việc thiện,
và kiên quyết nhắm tới lý tưởng nên thánh.
Amen. (dịch theo Learning Christ)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy niệm 2: Đức tin chiếu sáng cuộc đời
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Đức tin vững mạnh nhờ qui chiếu quá khứ. Mô-sê nhắc nhở cho dân Do thái điều đó. Khi vào Ai cập họ chỉ có 70 người. Ai cập là đế quốc hùng mạnh nhất thời đó. Vậy mà Chúa đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai cập bằng những chiến thắng lẫy lừng, những điềm kỳ phép lạ. Rõ ràng Chúa là “Thần của các thần, là Chúa của các chúa, là Thiên Chúa vĩ đại, dũng mãnh, khả úy”. Và hiện nay họ đã là một dân đông đúc, hùng mạnh. Vì thế hãy vững tin nơi Chúa (năm lẻ).
Đức tin vững mạnh nhờ hướng tới tương lai. Ê-dê-kiên trong thời lưu đầy khổ nhục. Nhưng bên bờ sông Kê-ba, ông đã nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa. Thiên Chúa hiện đến oai hùng như một đạo quân với “tiếng ồn ào trong doanh trại”. Dũng mãnh như “một cơn gió bão từ phương Bắc thổi đến”. Linh thiêng ngự giữa đám mây, “có lửa lóe ra và ánh sáng chiếu tỏa chung quanh”. Quyền uy ngự trên ngai cao. “Và trên ngai có kim loại lấp lánh, có đám lửa bao quanh…Có cầu vồng xuất hiện trên mây..” Nhưng Thiên Chúa lại rất gần gũi vì “tay Đức Chúa đặt trên ông” Ê-dê-kiên. Ê-dê-kiên được tràn đầy niềm an ủi, tràn đầy niềm tin, tràn đầy hi vọng sẽ đến ngày Dân Chúa được phục hồi. Và trong niềm tin tưởng hi vọng vào một tương lai huy hoàng, Ê-dê-kiên sẽ an ủi khích lệ dân chúng hãy vững tin (năm chẵn).
Đức tin biểu lộ cụ thể trong đời sống hiện tại. Vì thế Mô-sê khuyên nhủ dân chúng hãy sống tốt trong hiện tại. Vững vàng tin tưởng, thờ phượng Chúa, “yêu mến phung thờ Người hết lòng hết dạ, giữ các mệnh lệnh của Đức Chúa và các thánh chỉ của Người” (năm lẻ).
Chúa Giê-su chính là gương mẫu cho ta trong đời sống đức tin. Người tin tưởng vào tình thương và quyền năng của Chúa Cha. Người biết Chúa Cha sẽ giải thoát Người khỏi cái chết, cho Người được phục sinh, trả lại cho Người vinh quang Người đã có trước kia bên Chúa Cha. Nên trong phút giây hiện tại Người lo chu toàn thánh ý Chúa Cha, sống như một người thường, chu toàn những bổn phận của người dân thường như đóng thuế, đọc kinh, đi lễ Đền Thờ. Còn hơn nữa, Người sẵn sàng chịu mọi đau đớn khổ nhục “bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người”.
Xin cho chúng ta được noi gương Chúa Giê-su luôn sống tâm tình người con hiếu thảo. Chiếu lên ánh sáng rực rỡ của đức tin trong cuộc đời hiện tại bằng cặn kẽ tuân hành thánh ý Thiên Chúa, yêu thương anh em đồng loại, chu toàn mọi bổn phận nơi trần thế. Chắc chắn chúng ta sẽ cùng Chúa Giê-su hưởng vinh quang bên Chúa Cha.
Suy niệm 3: Nộp Thuế Cho Ðền Thờ
Vào thời Chúa Giêsu, người Do thái không những phải đóng thuế cho nhà nước tức là thuế dân sự, mà còn phải đóng thuế cho Ðền thờ nữa: ngoại trừ đàn bà, các thiếu niên và các nô lệ, tất cả những ai từ 20 tuổi trở lên đều phải nộp thuế để bảo trì và tu sửa Ðền thờ Giêrusalem.
Câu chuyện trong Tin Mừng hôm nay xẩy ra vào khoảng tháng 10, năm thứ hai cuộc đời rao giảng của Chúa Giêsu, tức là ít lâu sau biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi Thabor. Chúa Giêsu và các môn đệ trở lại Capharnaum, và ở đó, những người thu thuế đến yêu cầu Phêrô nộp thuế. Dĩ nhiên là Phêrô sẵn sàng nộp thuế.
Khi Phêrô về tới nhà, Chúa Giêsu hỏi đón ông: "Simon, con nghĩ sao? Vua chúa trần gian lấy thuế của ai? Con cái mình hay người ngoài? Phêrô đáp: "Thưa, người ngoài. Chúa Giêsu liền bảo thế thì con cái được miễn". Ðây cũng là một mạc khải, bởi vì qua câu: "Thế thì con cái được miễn", Chúa Giêsu muốn nói rằng xét về bản tính Thiên Chúa, Ngài không phải nộp thuế; nhưng xét về bản tính loài người, Ngài cũng tuân giữ việc nộp thuế cho Ðền thờ như bất cứ ai. Tuy nhiên, Ngài nộp thuế bằng một phép lạ: Chúa Giêsu bảo Phêrô đi câu cá, bắt được con cá đầu tiên, trong miệng có một đồng bạc, đủ để nộp thuế cho Ngài và cho Phêrô. Chúa không bảo Giuđa xuất quĩ mà nộp, cũng không bảo các phụ nữ đạo đức dâng cúng, nhưng Ngài đã làm phép lạ để các môn đệ tin vào quyền năng của Ngài.
Nếu ngày xưa, người Do thái có bổn phận nộp thuế cho Ðền thờ để lo việc phụng sự Nhà Chúa, thì ngày nay trong Giáo Hội cũng có những cách đóng góp hay dâng cúng, đó cũng là một việc thờ phượng và là một sự chia sẻ cho những anh chị em nghèo khó. Chúng ta hãy nhận ra nét đặc biệt trong nhân cách của Chúa, khi hòa nhập vào nếp sống cụ thể của những người đồng thời với Ngài. Mầu nhiệm nhập thể đòi buộc Chúa phải chia sẻ trọn vẹn đời sống con người. Ước gì chúng ta cũng biết noi gương Chúa, chấp nhận như hạt lúa mì rơi xuống đất và chết đi để trổ sinh nhiều hoa trái tốt đẹp.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Quy Luật Của Cuộc Sống (Mt 17,22-27)
Bác sĩ Ý Antinori đã tạo ra một chấn động mạnh trong lương tâm nhân loại khi ông tuyên bố việc tạo sinh con người theo phương pháp vô tính. Phương pháp tạo sinh vô tính đã được áp dụng thành công vào việc sản sinh ra con cừu có tên là Doli tại Anh Quốc cách đây vài năm và đã được áp dụng vào những loài vật khác nhau từ chuột đến bò, heo. Vấn đề cần đặt ra không phải là chuyện phương pháp kỹ thuật tạo sinh vô tính có hoàn hảo không. Tất nhiên, đem thí nghiệm tạo ra một con người mà không biết chắc sẽ sinh ra một con người bình thường hay một quái thai, quả là một hành động liều lĩnh, vô trách nhiệm. Nhưng ngay cả khi phương pháp tạo sinh vô tính đã được nghiên cứu tới mức hoàn hảo đi nữa thì câu hỏi vẫn là con người có quyền sản sinh vô tính con người không? Không riêng gì những con người có niềm tin tôn giáo mà ngay cả với những ai không thuộc tôn giáo nào đi nữa, đã là con người có lương tri, người ta không thể trốn tránh một câu hỏi như thế.
Tựu trung, đạo đức vẫn luôn luôn là chiều kích bao trùm toàn bộ mọi khía cạnh của cuộc sống con người. Trong bất cứ sinh hoạt nào, con người cũng luôn luôn phải tự hỏi: Tôi có được phép làm điều này không? Tôi phải cư xử như thế nào cho xứng với phẩm giá con người? Ðã làm người là phải chấp nhận những giới hạn. Không ai được hỏi ý kiến khi sinh ra. Không ai chọn lựa cha mẹ, quê hương để sinh ra. Con người đến trong cõi đời không do chọn lựa của mình. Ðiều ấy cho thấy tính giới hạn là tất yếu đối với con người. Cái chết lại càng là một khẳng định về những giới hạn ấy, mà đã có giới hạn, cho nên con người không thể sống mà không tuân theo những qui luật của cuộc sống. Bên cạnh những qui luật của thiên nhiên, quan trọng hơn cả là những qui luật đạo đức. Chỉ khi nào tuân hành những qui luật đạo đức ấy, con người mới có thể triển nở trong nhân cách và thành toàn.
Là người tín hữu Kitô chúng ta được mời gọi để suy nghĩ về thân phận con người dưới ánh sáng mầu nhiệm nhập thể. Chỉ trong Ngôi Lời nhập thể làm người, chân lý về con người mới được sáng tỏ. Chúng ta biết về mình và chúng ta biết phải sống như thế nào cho ra người khi nhìn vào con người và cuộc sống của Chúa Giêsu. Trong thư gởi cho giáo đoàn Philipphê, thánh Phaolô đã tuyên xưng mầu nhiệm nhập thể như sau: "Chúa Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì sự ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập tự".
Quả thật, Chúa Giêsu là mẫu gương của vâng phục. Suốt ba mươi năm ẩn dật tại Nazareth, Ngài đã vâng phục cha mẹ, tuân thủ các Lề Luật của Môsê. Tin Mừng hôm nay ghi lại việc Ngài đóng thuế cho đền thờ, đây là một điển hình của rất nhiều cử chỉ vâng phục mà Chúa Giêsu đã thể hiện trong suốt cuộc đời trần thế của Ngài.
Vâng phục là nói lên tính cách bất toàn và giới hạn của thân phận con người. Ðã làm người, Chúa Giêsu đã không đi ra ngoài những qui luật ấy của thân phận con người, nhưng chính vì vâng phục mà Ngài đã chọn kiếp sống con người. Ngài là một mẫu người hoàn hảo. Hoàn hảo không phải vì không có giới hạn trong kiếp người mà chính là vì đã vâng phục. Thánh Phaolô đã khẳng định rằng: "Chính vì Ngài đã vâng phục mà Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và tặng ban cho Ngài danh hiệu, vượt lên trên muôn ngàn danh hiệu".
Vâng phục để được suy tôn, tự hạ để được nâng lên. Sống những giới hạn của kiếp người với tinh thần trách nhiệm để được là người hơn. Ðó là qui luật của cuộc sống mà Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 5: Tình yêu của con người? … của Thiên Chúa.
Khi thầy trò tụ họp ở miền Galilê, Đức Giêsu nói với các ông: “Con người sắp bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ngày thứ ba Người sẽ chỗi dậy.” Các môn đệ buồn phiền lắm. (Mt. 17, 22-23)
Lần thứ nhất Đức Giêsu loan báo Người sẽ phải chịu chết, Phê-rô, nhân danh mình và các bạn tông đồ ra mặt phản đối. Tại sao? Thưa, Người đã không làm điều gì dữ. Người phải xa lánh Giê-ru-sa-lem vì thảm họa sẽ xảy ra ở đó. Chớ gì người ta chẳng cho phép bảo vệ Người. Những kẻ muốn mưu hại tính mạng thường đến đó. Thầy không muốn nghe về những chuyện đó. Phê-rô và các tông đồ nhớ rõ Thầy đã khiển trách các ông như thế rồi. Không có chuyện tái can Thầy nữa. “Các ông buồn!” Người ta nổi khùng khi đứng trước một người thân yêu lâm bệnh nguy tử, đành khoanh tay ngồi nhìn trước cảnh tượng vô phương đó, chúng ta cũng buồn. Người thân yêu của chúng ta sắp ra đi. Còn yêu gì được nữa.
Trống rỗng và nặng nề.
Con tim trống rỗng làm chúng ta cảm thấy bị đè nặng.
Các tông đồ buồn sầu. Còn nói gì được nữa? các ông biết chắc sẽ xẩy ra như thế vì Chúa đã nói rồi. Làm sao không tin được? Mọi sự Người đã nói, đã loan báo, thì đã thực hiện. Những công việc của Thiên Chúa mà Thầy hoàn tất chứng tỏ Thầy biết rõ ý định của Chúa Cha.
Phép lạ!
Nhân dịp kẻ thu thuế đòi đóng thuế, Đức Giêsu làm một phép lạ rất giản dị và dịu êm.
Thấy một con cá nuốt một vật, chẳng phải lạ, dù là một đồng tiền hay vật khác. Nhưng lạ lùng là chính Phê-rô đã bắt được con cá này để lấy đồng tiền ra nộp thuế đền thờ.
Đức Giêsu cho biết: Con không phải nộp thuế cho Cha. Cuộc thương khó và cái chết của Thầy nói cho biết Thầy là Con Chúa Cha. Để chứng tỏ Con luôn luôn vâng lời hết mọi sự.
J.M
Suy niệm 6: CON ĐƯỜNG CỨU ĐỘ CỦA ĐỨC GIÊSU (Mt 17, 21-26)
Trong cuộc sống, có lẽ không ai muốn mình phải nghe, hay đụng chạm đến những tin không vui. Vì thế, với não trạng của con người, chúng ta thường thích nghe tin mừng, tin thành công và tin chiến thắng.
Tuy nhiên, hôm nay, bài Tin Mừng lại tường thuật việc Đức Giêsu loan báo một tin buồn và nghịch lý với lối hiểu của con người, Ngài nói: "Con Người sắp bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ngày thứ ba Người sẽ chỗi dậy".
Khi nghe thấy tin đó, các môn đệ buồn phiền và thất vọng. Với các ông và cả những người Dothái cùng thời, Đức Giêsu phải là người mang lại tự do, thoát khỏi cảnh áp bức, bóc lột của đế quốc, Ngài phải là người đánh đông dẹp bắc và thống lãnh bằng quyền lực... Tuy nhiên, điều này hoàn toàn ngược lại với sứ vụ của Đức Giêsu, vì thế Ngài đã không làm. Con đường cứu độ và giải thoát của Ngài là con đường vâng phục thánh ý Chúa Cha, mà ý Chúa Cha là muốn Đức Giêsu phải chịu chết để cứu chuộc nhân loại. Vì thế, Ngài đã vâng lời đến cùng để thánh ý của Cha được nên trọn.
Nhưng vì biết các môn đệ luôn mang trong mình tâm tưởng phàm tục, nên Đức Giêsu đã loan báo trước cuộc khổ nạn, để các ông dần dần hiểu ra sứ vụ và tiếp tục tiến bước trên con đường mà chính Ngài đã đi.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy hướng lòng lên trời để tìm vinh danh Chúa và ích lợi cho phần rỗi của mình. Đồng thời, sẵn sàng khước từ những điều không phù hợp với thánh ý Thiên Chúa.
Mặt khác, cần phải xác định thật rõ con đường chân phúc để được hưởng niềm vui, hạnh phúc và bình an trong Nước Trời, con đường đó là: “Phải qua đau khổ rồi mới đến vinh quang". Tinh thần này cũng được Đức Cố Hồng Y Fx. Thuận nói đến trong sách Đường Hy Vọng, Ngài nói: “Tránh gian khổ con đừng trông làm thánh”(x. ĐHV., số 702), thánh mà không vượt qua đau khổ là thánh giả, vì khi: “Phong ba dồn dập, nước sơn sẽ phai nhạt và tượng thánh sẽ hiện hình quỷ” (ÐHV., số 44).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con khám phá ra ý nghĩa của sự đau khổ và luôn biết kết hợp với ơn Chúa, sẵn sàng đón nhận tất cả vì Chúa và vì Nước Trời. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Việc đóng thuế cho Đền thờ
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Chúa Giêsu báo cho các môn đệ biết: Ngài sẽ bị nộp, bị giết nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại. Các ông nghe Chúa nói vậy thì buồn lắm, nhưng không dám nói gì, vì sợ Chúa quở như đã quở ông Phêrô. Còn việc nộp thuế cho Đền thờ, Chúa Giêsu chính là Con Thiên Chúa, Người có quyền không nộp thuế cho Đền thờ. Nhưng việc Chúa Giêsu nộp thuế chứng tỏ Người chu toàn lề luật, sống khiêm nhường như những người Do thái bình thường. Chúa đã để lại cho chúng ta một mẫu gương khiêm tốn và chu toàn lề luật.
2. “Nhập gia tùy tục, đáo giang tùy khúc”. Thích nghi với đời sống xã hội là một trong những đòi hỏi cơ bản nhất của đời sống.
Khi nhập thể làm người, Thiên Chúa như phải làm một cuộc hội nhập văn hóa. Ngài không phải là con người trừu tượng, nhưng là người Do thái với tất cả quá khứ của một dân tộc. Ngài nên giống con người trong mọi sự, ngoại trừ tội lỗi. Làm người Do thái dưới thời đế quốc Rôma bảo hộ, Ngài cũng đăng ký trong một cuộc tổng kiểm tra dân số trên toàn lãnh thổ đế quốc. Là người Do thái sống dưới sự cai trị của người Rôma, Ngài đóng thuế cho đế quốc. Nhưng dĩ nhiên, Ngài cũng tuân thủ tất cả lề luật của Do thái giáo: chịu cắt bì, được dâng trong Đền thờ, đến Hội đường, giữ ngày hưu lễ, nộp thuế tôn giáo.
3. Vấn đề nộp thuế cho Đền thờ.
Vào thời Chúa Giêsu, người Do thái không những phải đóng thuế cho nhà nước tức là thuế dân sự, mà còn phải đóng thuế cho Đền thờ nữa. Theo đó, mọi đàn ông Do thái, kể cả những người sống ngoài lãnh thổ Palestina, đều phải nộp thuế cho Đền thờ hằng năm một món tiền thuế là hai đồng drachme, tương đương với giá hai ngày công. Số tiền này dùng để trang trải các chi phí của Đền thờ. Người ta bắt đầu thu thuế vào quãng 15 ngày trước Lễ Vượt qua. Vấn đề được nêu ra là Chúa Giêsu có phải nộp thứ thuế này không.
4. Chúa Giêsu giải quyết thế nào về việc nộp thuế cho Đền thờ?
Theo bài Tin Mừng, khi Phêrô về tới nhà, Chúa Giêsu hỏi đón ông: “Simon, con nghĩ sao? Vua chúa trần gian lấy thuế của ai? Con cái mình hay người ngoài? Phêrô đáp: “Thưa, người ngoài”. Chúa Giêsu liền bảo : “Thế thì con cái được miễn”.
Đây cũng là một mạc khải, bởi vì qua câu: “Thế thì con cái được miễn”, Chúa Giêsu muốn nói rằng xét về bản tính Thiên Chúa, Ngài không phải nộp thuế, bởi vì câu: “Thế thì con cái được miễn”. Chúa Giêsu muốn nói rằng xét về bản tính Thiên Chúa, Ngài không phải nộp thuế, nhưng xét về bản tính loài người, Ngài cũng tuân giữ việc nộp thuế cho Đền thờ như bất cứ ai. Tuy nhiên, Ngài nộp thuế bằng một phép lạ: Chúa Giêsu bảo Phêrô đi câu cá, bắt được con cá đầu tiên, trong miệng có một đồng bạc, đủ để nộp thuế cho Ngài và cho Phêrô. Chúa không bảo Giuđa xuất quỹ mà nộp, cũng không bảo các phụ nữ đạo đức dâng cúng, nhưng Ngài làm phép lạ để các môn đệ tin vào quyền năng của Ngài (Mỗi ngày một tin vui).
5. Chúa Giêsu là gương mẫu của vâng phục. Suốt 30 năm ẩn dật tại Nazareth Ngài đả vâng phục cha mẹ, tuân theo các lề luật của Maisen. Tin mừng hôm nay ghi lại việc Ngài đóng thuế cho Đền thờ, đây là một điển hình của rất nhiều cử chỉ vâng phục mà Chúa Giêsu đã thể hiện trong suốt cuộc đời trần thế của Ngài.
Vâng phục là nói lên tính cách bất toàn và giới hạn của thân phận con người. Đã làm người, Chúa Giêsu đã không đi ra ngoài những qui luật ấy của thân phận con người, nhưng chính vì vâng phục mà Ngài đã trọn kiếp con người. Ngài là một mẫu người hoàn hảo. Hoàn hảo không phải vì không có giới hạn trong kiếp người mà chính là vì đã vâng phục. Thánh Phalô đã khẳng định rằng: “Chính vì Ngài đã vâng phục mà Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và tặng ban cho Ngài danh hiệu, vượt trên muôn ngàn danh hiệu”.
6. Thánh Matthêu viết Tin Mừng trong giai đoạn Do thái giáo đã khai trừ các Kitô hữu. Cho nên lẽ ra họ không còn bổn phận đóng góp cho Đền thờ Giêrusalem nữa. Thế mà, “để khỏi làm cớ vấp phạm” (làm dịp cho người Do thái kết án là tại Kitô hữu bỏ bổn phận trước), họ vẫn chu toàn bổn phận nộp thuế cho Đền thờ. Có những việc tôi không bị buộc làm, nhưng “để khỏi gây cớ vấp phạm” và vì bác ái, tôi vẫn nên làm.
7. Truyện: Phải tránh gương xấu.
Một cha sở kia ở miền núi, mỗi ngày trước khi lên giường ngủ, ngài thường quỳ xuống quay mặt về hướng nghĩa địa gần nhà cầu nguyện cho những người ở đó. Ngài cầu nguyện thật sốt sắng. Một đêm kia, ngài nghe thấy có tiếng chân người và tiếng đá rơi. Ngài nhìn kỹ thì thấy bóng một người đang trèo lên thành nghĩa địa và đi giữa những nấm mồ. Một kẻ trộm chăng? Một tên điên chăng? Qua đêm thứ tư, ngài núp sau một gốc cây, ngài thấy rõ có một người lạ mặt đến quì trước ngôi mộ và khóc than thảm thiết: “Cha ơi, cha có tha cho con không? Cha nói đi! Cha nói đi”.
Cha nhìn kỹ và nhận ra đó là một người bổn đạo trong họ. Người này đã ngỗ nghịch làm cho người cha phiền muộn quá đến nỗi chết đi. Ngài rón rén đến gần, đặt tay lên vai người đó và nói:
- Ô con, con còn bị cắn rứt không thể nào ngủ được sao?
Người bổn đạo khiếp sợ quá, nhưng khi nhận ra tiếng cha sở thì định thần lại nói:
- Thưa cha, con không được bằng an chút nào cả. Hình ảnh cha con đang tức giận luôn theo dõi con.
- Con biết con đã xử tệ với cha con, con cái của con cũng xử tệ với con như vậy. Ngày mai, con hãy đem con cái đến đây và xin chúng đừng bắt chước gương xấu của con đã làm nữa.
10 năm sau, người bổn đạo đó chết và được chôn cất trong nghĩa địa ấy. Trong khi cha sở đang làm phép mộ, con cái ông ta lên tiếng nhạo báng và chửi rủa.
Cha sở buồn rầu thốt lên một lời:
- Ôi các bạn trẻ, đừng bao giờ quên chuyện này (Trích “Phúc)”.
08/08 Bánh ban sự sống.
- Viết bởi Ga 6, 41-51
Bánh ban sự sống.
CHÚA NHẬT 19 THƯỜNG NIÊN năm B.
"Ta là bánh hằng sống bởi trời mà xuống".
Lời Chúa: Ga 6, 41-51
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, những người Do-thái kêu trách Chúa Giêsu, vì Người đã phán rằng: "Ta là bánh hằng sống bởi trời mà xuống". Họ nói: "Chớ thì ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse sao? Chúng ta đều biết rõ cha mẹ của ông. Vậy làm sao ông lại nói: 'Ta bởi trời mà xuống'".
Chúa Giêsu trả lời cùng họ rằng: "Các ngươi chớ thì thầm với nhau. Không ai đến được với Ta nếu Cha, là Đấng sai Ta, không lôi kéo kẻ ấy, và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Trong sách các tiên tri có chép rằng: 'Mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy bảo'. Ai nghe lời giáo hoá của Cha, thì đến với Ta. Không một ai đã xem thấy Cha, trừ Đấng bởi Thiên Chúa mà ra, Đấng ấy đã thấy Cha. Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời.
"Ta là bánh ban sự sống. Cha ông các ngươi đã ăn manna trong sa mạc và đã chết. Đây là bánh bởi trời xuống, để ai ăn bánh này thì khỏi chết. Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 19 THƯỜNG NIÊN – B
Lời Chúa: 1V. 19, 4-8; Ep. 4, 30-5,2; Ga. 6, 41-51
1. Bánh trường sinh
(Trích trong ‘Manna’)
Một ngôn sứ dũng cảm như Êlia trên núi Các-men
cũng có lúc chán nản, thất vọng, chỉ muốn xin được chết.
Giữa sa mạc, Êlia nằm ngủ dưới gốc cây.
Ông không còn đủ sức tiếp tục cuộc hành trình.
Một thiên thần đã đem đến cho ông bánh và nước,
nhờ đó ông có sức đi đến núi của Thiên Chúa.
Người Kitô hữu cũng phải đi ngang qua sa mạc cuộc đời,
với bao thách đố, ngờ vực, hiểm nguy...
Chúng ta cần được dưỡng nuôi, nâng đỡ,
để có sức đi hết cuộc hành trình về quê thật.
Có thiên thần nào hiện ra đem bánh cho ta không?
Có thứ manna nào từ trời rơi xuống?
Thiên Chúa Cha muốn ban cho ta tấm bánh từ trời,
đó là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa (Ga 6,32-33).
Đức Giêsu là Tấm Bánh Cha ban cho nhân loại,
và chính Ngài cũng muốn tặng bản thân mình cho ta:
"Tôi là Bánh trường sinh" (c.48).
"Tôi là Bánh hằng sống từ trời xuống" (c.51).
Khi nói đến Bánh hằng sống, Bánh trường sinh,
chúng ta thường nghĩ ngay đến bí tích Thánh Thể
và ít khi nghĩ đến Tấm Bánh Lời Chúa.
Mỗi thánh lễ là một bữa tiệc.
Chúng ta được mời đến dự bàn tiệc Lời Chúa
trước khi dự bàn tiệc Thánh Thể.
Cả hai đều là lương thực cần thiết cho tín hữu.
Công đồng Vaticanô (PV 7) khẳng định rằng
khi chúng ta nghe đọc Lời Chúa trong Phụng Vụ
thì Chúa Giêsu "hiện diện trong Lời của Người,
vì chính Người nói khi ta đọc Kinh Thánh trong Giáo Hội".
Như thế Chúa Giêsu vẫn loan báo Tin Mừng trong từng thánh lễ (PV 33).
Ngài vẫn trao cho ta Tấm Bánh là Lời của Ngài.
Con người sống đâu chỉ nhờ cơm bánh vật chất,
mà còn nhờ mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.
Đức Giêsu là Lời viết hoa của Thiên Chúa.
"Thầy có những lời ban sự sống đời đời" (Ga 6,68).
Lời Chúa là thức ăn khó nuốt.
Cuốn Tân Ước tôi cầm trên tay là một bản văn cổ,
thuộc nền văn hóa xứ Pa-lét-tin cách đây hơn 2000 năm.
Phải học hỏi, đào sâu mới hiểu đúng và hiểu đủ.
Lời Chúa cũng là thức ăn khó nuốt,
vì là một lời mời gọi tôi ra khỏi mình,
bỏ lại những tính toán khôn ngoan và hợp lý.
Tiếng Chúa đụng đến con người tôi, ở đây, bây giờ,
và mời tôi dấn thân vào một cuộc mạo hiểm.
Nhưng Lời Chúa sẽ là tấm bánh thơm ngon
nếu tôi biết lắng nghe và đem ra thực hành.
Càng sống Lời Chúa, tôi càng gặp được ánh sáng và sức mạnh,
nhất là được hiệp thông với con người Đức Giêsu.
Hãy hưởng dùng Tấm Bánh Chúa trao cho bạn,
và hãy chia sẻ cho nhau kho tàng Lời Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có câu Lời Chúa nào đã soi sáng cho bạn khi bạn đứng trước một chọn lựa? Có câu Lời Chúa nào đã ảnh hưởng trên đời sống của bạn?
Theo ý bạn, để hiểu các bài Sách Thánh trong Thánh Lễ có dễ không? Thế nào là một bài giảng Lời Chúa "đạt yêu cầu", theo ước mơ của bạn?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con nhìn thấy sự hiện diện của Chúa
dưới muôn ngàn dáng vẻ.
Chúa hiện diện lặng lẽ như tấm bánh nơi nhà Tạm,
nhưng Chúa cũng ở nơi những ai nghèo khổ,
những người sống không ra người.
Chúa hiện diện sống động nơi vị linh mục,
nhưng Chúa cũng có mặt ở nơi hai, ba người gặp gỡ nhau
để chia sẻ Lời Chúa.
Chúa hiện diện nơi Giáo Hội
gồm những con người yếu đuối, bất toàn,
và Chúa cũng ở rất sâu trong lòng từng Kitô hữu.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con thấy Chúa đang tạo dựng cả vũ trụ
và đang đưa dòng lịch sử này về với Chúa.
Xin cho con gặp Chúa nơi bất cứ ai là người
vì họ có cùng khuôn mặt với Chúa.
Xin cho con khám phá ra Chúa đang hẹn gặp con
nơi mọi biến cố buồn vui của đời thường.
Ước gì con thấy Chúa ở khắp nơi,
thấy đâu đâu cũng là nhà của Chúa.
Và ước gì con đừng bỏ lỡ bao cơ hội gặp Chúa
trên bước đường đời của con. Amen.
2. Thánh Thể
Ta là bánh từ trời xuống ai ăn bánh này thì sẽ được sống đời đời. Đức Kitô là bánh bởi trời, nhưng không phải đã rớt xuống như manna trong sa mạc. Trái lại cũng như tấm bánh được hình thành qua nhiều giai đoạn. Trước hết phải có hạt giống, phải có người gieo trồng, phải có người làm cỏ và bón phân. Rồi phải có mưa có nắng, phải có người gặt, phải có người xay bột và sau cùng phải có người làm bánh và khi ăn chúng ta phải bẻ, phải cắt ra từng miếng.
Đức Kitô tấm bánh chúng ta bẻ ra hôm nay trong bàn tiệc Thánh Thể cũng đã phải trải qua nhiều giai đoạn hình thành như thế. Có thể nói ngài là hạt lúa miến tinh tuyền đã được gieo cấy trong trần gian. Ngài đã lớn lên dưới ánh nắng mặt trời của xứ Nadarét, đã vươn lên trên nhân loại tội lỗi này, tựa như cây lúa vươn lên giữa khoảng bùn lầy. Rồi Ngài đã bị gặt hái, nghĩa là bị bắt, bị đánh đập, bị nghiền nát. Cuối cùng Ngài bị nướng trong lò nghĩa là đóng đinh, bị bẻ ra nghĩa là bị đâm thấu tận trái tim. Do đó trong tấm bánh bẻ ra hôm nay chúng ta phải thấy được Đức Kitô chịu chết như lời thánh Phaolô: Mỗi lần ăn và uống chén này là anh em loan truyền việc Chúa chịu chết. Đức Kitô không thể trở thành bánh nuôi chúng ta nếu Ngài không chấp nhận cái chết trên thập giá bởi vì Ngài có chết thì mới làm cho chúng ta được sống.
Đồng thời như chúng ta thường thấy: Bữa cơm quy tụ mọi người trong gia đình thế nào thì bàn tiệc Thánh Thể cũng quy tụ những người con cái Chúa như vậy. Ngay từ những ngày đầu tiên Giáo Hội đã ý thức rằng Thánh Thể là bí tích, là dấu chỉ sự sự hiệp nhất: Chúng ta tuy nhiều, nhưng cùng chia sẻ một tấm bánh và làm nên một thân thể. Bởi đó nếu chúng ta đến nhà thờ mà không có sự chia sẻ hiệp thông thì bàn tiệc Thánh Thể chẳng còn ý nghĩa gì mấy. Chúng ta rước lấy Chúa vào lòng cũng giống như kẻ ngồi vào bàn ăn, nếu chỉ biết có mình với chén cơm, thì bữa ăn cũng chẳng còn ý nghĩa sâu xa tốt đẹp.
Do đó, phải luôn ý thức rằng Thánh Thể là dấu chỉ của sự hiệp nhất và chúng ta chỉ thực sự có quyền đón nhận Thánh Thể khi yêu thương hiệp nhất với anh em. Đưa tay đón nhận Thánh Thể Chúa cũng chính là mở rộng bày tay đón nhận tất cả mọi anh em là chỉ thể của Ngài. Mở rộng lòng đón rước Chúa là mở rộng trái tim đón nhận mọi anh em. Chúng ta đã thực sự sống tình bác ái yêu thương và hiệp nhất mà bí tích Thánh Thể đòi hỏi hay chưa?
3. Trường sinh
Tần Thuỷ Hoàng là người đã xây Vạn Lý Trường Thành, dài hơn 2000 dặm. Đây là một kiến trúc duy nhất mà các phi hành gia có thể nhận ra từ phía ngoài không gian. Ông rất sợ chết. Ngày kia, các chiêm tinh gia kể cho ông nghe về một hòn đảo thần tiên ở biển Đông. Dân cư ở đó đã khám phá ra bí quyết trường sinh. Thế là ông bèn phái một số tàu thuyền chất đầy châu báu, lên đường tiến tới hòn đảo ấy với hy vọng có thể dùng những báu vật để trao đổi lấy bí quyết trường sinh. Tuy nhiên dân cư ở đây lại nhất định không chịu đổi.
Từ ngàn xưa và cho đến ngày hôm nay, con người đã từng ước mơ được sống mãi và chẳng bao giờ phải chết. Nào là những viên thuốc trường sinh của bà Tây Vương Mẫu, nào là những trái đào bất tử. Ngày nay, ngành y dược đã biến bộ, người ta tìm thấy những phương thuốc để kéo dài tuổi thọ. Nhưng rồi cuối cùng con người vẫn cứ phải chết.
Vì thế, chẳng lạ gì khi Chúa Giêsu bắt đầu nói về cuộc sống vĩnh cửu, thì dân chúng bèn kéo đến để nghe. Dân Do Thái vốn tin rằng có một thế giới của người chết, nhưng họ chẳng có khái niệm gì về thế giới ấy. Bởi đó họ sẵn sàng đón nhận bất cứ tia sáng nào dọi soi vào mầu nhiệm này.
Thế nhưng, họ đã lắc đầu khi nghe Chúa Giêsu xác quyết: Ta là bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban cho chính là thịt Ta. Dân chúng bắt đầu lẩm bẩm: Người này chẳng phải là anh chàng Giêsu, con trai ông Giuse đó sao? Thế mà anh ta lại dám mạo nhận là bánh từ trời xuống.
Còn chúng ta thì sao? Cũng chính vì chấp nhận mầu nhiệm này mà chúng ta đã tụ tập với nhau để nghe Chúa nói về cuộc sống vĩnh cửu, cũng như để được nuôi dưỡng bằng Mình Máu Thánh Chúa Giêsu, bánh ban sự sống. Cái bí quyết được trường sinh, cái viên thuốc bất tử hiện đang ở giữa chúng ta... ngay trong ngôi thánh đường này. Đó là Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, nguồn mạch trường sinh.
Ngài ở với chúng ta bằng thần trí như Ngài đã nói: Bất cứ ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Ta, Ta sẽ ở đó với họ.
Ngài còn ở với chúng ta bằng lời của Ngài. Điều Ngài đã nói cách đây 2000 năm với dân chúng cũng là điều Ngài vừa nói với chúng ta quan đoạn Tin Mừng vừa nghe.
Cuối cùng Chúa Giêsu hiện diện với chta trong bí tích ban sự sống như lời Ngài đã xác quyết: Ai ăn bánh này thì sẽ được sống đời đời. Đứng trước mầu nhiệm tuyệt vời ấy chúng ta hãy bắt chước các môn đệ mà kêu cầu Chúa: Lạy Chúa, xin gia tăng niềm tin nhỏ bé của chúng con.
4. Bánh Hằng Sống
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin Mừng Ga 6: 41-51: Khi nói về bí tích Thánh Thể, trước hết chúng ta phải hiểu cho đúng các từ “ăn” và “uống”, “thịt” và “máu” theo nghĩa tâm linh.
1. Bánh Hằng Sống
Từ xa xưa, con người đã mơ ước được sống trường sinh bất tử. Mỗi lần thấy một người thân chết, thì niềm mơ ước bất tử này càng ám ảnh con người dữ dội hơn. Vì thế chẳng lạ gì khi Chúa Giêsu xuất hiện ở Palestine và bắt đầu nói về cuộc sống vĩnh cửu thì dân chúng liền ùa đến nghe Ngài nói.
Đám đông dân chúng Do Thái rất chú tâm đến vấn đề này vì kể từ thời Abraham và Moisen họ triền miên sống trong mù mịt, chẳng hiểu chút gì về những điều xảy đến cho những người đã chết. Họ tin rằng có một "thế giới của người chết", nhưng họ chẳng có một khái niệm gì về thế giới ấy, vì thế, họ sẵn sàng đón nhận bất cứ tia sáng nào Chúa Giêsu soi dọi vào sự bí nhiệm này. Khi nói: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống… Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời. Bánh của Ta ban chính là Thịt Ta để cho thế gian được sống", Chúa Giêsu mặc khải cho chúng ta biết cuộc sống nơi trần gian này không phải là cuộc sống duy nhất và chết không phải là chấm hết. Nhưng còn có một cuộc sống mai hậu không bao giờ chấm dứt, đó là cuộc sống vĩnh cửu, cuộc sống trường sinh.
2. Bánh Hằng Sống chính là bí tích Thánh Thể
Khi nói về bí tích Thánh Thể, trước hết chúng ta phải hiểu cho đúng các từ «ăn» và «uống», «thịt» và «máu» theo nghĩa tâm linh. Ăn và uống vật gì là được nuôi dưỡng, được trở nên mạnh mẽ bởi chính vật ấy. Thịt và máu một người nói lên chính bản thân hay bản chất người ấy. Ăn thịt và uống máu Đức Giêsu hiểu theo nghĩa tâm linh là được bổ dưỡng, được trở nên mạnh mẽ bởi chính bản chất Đức Giêsu.
Bản chất của Đức Giêsu là điều cốt yếu và hết sức quan trọng để có thể «ăn» và «uống» Mình Máu Ngài. Trước tiên, Ngài chính là Thiên Chúa, là một vị thần linh. «Ăn» và «uống» Ngài chính là làm cho bản chất của Ngài thấm nhập vào bản chất của ta, làm cho ta càng ngày càng trở nên như Ngài, nói cụ thể hơn là giống như Ngài, trở nên một với Ngài.
Nghĩa là ta cũng trở nên thần linh, trở nên nguồn sự sống, nguồn tình yêu, nguồn sức mạnh, nguồn trí tuệ, nguồn của tất cả mọi sự thiện hảo. Để rồi cuối cùng trở nên đúng như Ngài đã nói: Ai uống nước tôi cho, «nước» ở đây chính là bản thân Ngài, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên đem lại sự sống đời đời» (Ga 4,14). Lúc đó ta sẽ không còn khao khát một thứ gì nữa, nghĩa là được thỏa mãn mọi bề, được tràn đầy hạnh phúc, vì Ngài đã là tất cả rồi. Và mọi người sẽ thấy ở nơi ta một nguồn mạch tràn đầy sức sống, tình thương, khôn ngoan, can đảm, nghị lực… luôn luôn «vọt lên». Nhờ đó, chẳng những chính bản thân ta tràn đầy hạnh phúc, mà ta còn làm cho tất cả những người chung quanh ta hạnh phúc bằng sự dấn thân phục vụ không mệt mỏi của ta nữa.
3. Bánh Hằng Sống chính là Thịt Ta để cho thế gian được sống
"Ta là bánh hằng sống từ trời xuống… Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời. Bánh Ta ban là chính Thịt Ta để cho thế gian được sống". Có lẽ chúng ta vẫn chưa xác tín vào lời của Chúa. Chúng ta vẫn chưa tin đủ mỗi khi chúng ta rước lễ, chính là lúc chúng ta rước Mình và Máu Chúa. Thì đây là một bằng chứng cụ thể để củng cố đức tin của chúng ta nơi bí tích Thánh Thể.
Năm 700, tại tu viện thánh Longino ở Lanciano, nước Ý. Cha Basiliô, đã dâng Thánh Lễ nhưng lại hoài nghi về mầu nhiệm Chúa biến bánh rượu nên Mình Máu Thánh Chúa, thì Chúa đã làm một phép lạ như một bằng chứng cụ thể về phép Thánh Thể, được gọi là phép lạ Lanciano. Sau khi cha Basiliô truyền phép, Bánh đã trở nên Thịt và Rượu đã trở nên Máu, còn được cô đọng đến ngày nay. Một cuộc khảo sát khoa học được thực hiện vào năm 1971 cho biết, thịt đây là một thớ thịt từ trái tim, máu là máu của một người thuộc nhóm máu AB (vết máu trên chiếc khăn liệm Turin cũng thuộc nhóm máu AB).
Ngày nay, Thịt và Máu Chúa được lưu giữ trong hào quang qúi giá gọi là Hào Quang phép lạ Thánh Thể Lanciano, có từ năm 1713 và thánh đường thánh Phanxicô, nơi lưu giữ, trở nên một trung tâm hành hương về sự hiện diện của Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin ban đức tin cho chúng con. Amen.
5. Bánh Hằng Sống.
Cách đây không lâu, dân chúng tại thủ đô Paris đã bàn tán xôn xao vì một mẩu tin khủng khiếp: Một sinh viên gốc Nhật, đã giết một cô gái, chặt ra từng khúc, rồi bỏ vào tủ lạnh định ăn dần cho đến hết. Khi bị bắt, anh ta đã khai như sau: Cô gái ấy là người yêu của tôi. Tôi yêu cô đến độ muốn biến cô ấy thành máu thịt của tôi, cho nên đã giết đi và ăn thịt cô ấy. Chỉ tiếc rằng mới ăn được có vài ngày thì đã bị phát giác.
Mẩu chuyện trên khiến cho chúng ta cảm thông được thái độ của người Do Thái khi nghe Chúa Giêsu xác quyết: Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì sẽ được sống đời đời. Vấn đề không gây ra một ngộ nhận nào, Ngài đã lặp đi lặp lại lời xác quyết ấy.
Cô gái nói trên hẳn không bao giờ có được cái ý tưởng điên khùng là trở nên của ăn cho người mình yêu, hầu hai người trở nên một. Thế nhưng cái sáng kiến điên khùng ấy đã được Thiên Chúa thực hiện qua Đức Kitô. Ngài đã để cho mình bị giết và trở nên lương thực cho những người mình yêu quý. Trước một cái gì quá sức tưởng tượng, con người bỗng trở nên dửng dưng vì vậy hiện nay có biết bao nhiêu người chịu Mình Thánh Chúa mà không hề cảm thấy được hiệp nhất trong tình yêu. Máu thịt Đức Kitô không chỉ là Mình Thánh trong bí tích Thánh Thể, mà còn là lời Chúa bởi vì “Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta”. Ngày hôm nay Chúa phán: Ai ăn bánh này thì sẽ được sống muôn đời. Đây không phải là một lời hứa nhưng là một lời xác quyết, một lời khẳng định.
Thế nhưng, rất nhiều người đã từng nghe lời Chúa, đã từng rước lễ mà sao đời sống nội tâm vẫn cứ èo uột. Có thể vì họ không gắn bó với Chúa. Có thể họ chưa bao giờ đọc Lời Chúa với tâm trạng của một người yêu đọc bức thư tình. Có thể họ chưa đủ tin như người Do Thái ngày xưa.
Phúc Âm cho chúng ta thấy: Người đàn bà mắc chứng bệnh băng huyết, đã chạm đến gấu áo Ngài với niềm tin mãnh liệt và rồi bà đã được chữa khỏi, bởi vì sức mạnh từ Ngài được chuyển thông cho bà.
Với chúng ta cũng vậy, đến với Thánh Thể mà thiếu đi niềm tin yêu, thì e rằng miếng bánh ấy không bổ dưỡng bằng thức ăn vật chất. Đến với Thánh Thể mà thiếu đi niềm tin yêu, thì sợ rằng nó không hấp dẫn và hữu hiệu bằng một đoạn sách tầm thường. Ngôi Lời đã làm người. Và con người ấy đã trở nên lương thực nuôi sống tâm hồn chúng ta.
Nếu ngày hôm nay, bản thân chúng ta chưa tìm được sự bình an, và cuộc đời chúng ta vẫn còn nặng nề và mệt nhọc. Nếu cõi lòng chúng ta vẫn dửng dưng trước tiếng gọi của anh em, thì lỗi chắc chắn không phải là do Chúa. Ai ăn bánh này thì sẽ được sống đời đời. Phải chăng tôi quá ốm yếu để không dùng nổi thứ lương thực trường sinh này?
6. Bánh bởi trời – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Thân xác con người cần được nuôi sống bằng những thực phẩm thông thường như bánh, cơm, thịt, cá...
Tuy nhiên, có những thứ khác tuy không là thực phẩm như cơm bánh nhưng cũng cần cho sự phát triển trí tuệ con người nên cũng được xem là lương thực - thường được gọi là lương thực tinh thần- như sách, báo và nhiều loại văn hoá phẩm khác.
Lại còn có những thứ "bánh" khác cao cấp hơn, tuy không phải là thực phẩm thông thường như cơm cháo, không phải là lương thực tinh thần như sách báo, nhưng rất cần cho con người được sống và tăng trưởng. Điển hình cho thứ "bánh" nầy là... người mẹ!
Nhà thơ Kiên Giang viết về người mẹ như một thứ 'cơm bánh' tối cần giúp ông lớn lên thành người:
"Ngày xửa ngày xưa thời trẻ dại
Con đau rên siết mẹ sầu lo.
Bán đôi bông cưới mua thang thuốc
Mua bánh tai heo giấy học trò.
Đêm nao con khóc đòi ru ngủ
Mẹ thức mõi mòn nhịp võng đưa,
Thân lạnh nằm khoanh lòng mẹ ấm
Mẹ ơi! Con lớn giữa niềm ru..." (Trích: Khói trắng của Kiên Giang)
Mẹ là "bánh" cho con, một thứ bánh rất cần thiết cho con được sống còn; vì nhờ dạ mẹ mà con được tượng hình và được sinh ra; nhờ dòng sữa mẹ mà con tăng trưởng từng ngày; nhờ lời mẹ ru mà con được yên giấc; nhờ sự ấp yêu vỗ về của mẹ mà con được hạnh phúc; nhờ mẹ lo liệu thuốc men mà con thoát khỏi những cơn bệnh ngặt nghèo; nhờ mẹ kiên trì dạy dỗ mà con được khôn ngoan; nhờ mẹ thương yêu mà con được trở thành người nhân ái...
Mẹ là thứ "bánh" tuyệt vời mà đời con không thể thiếu. Mẹ là lương thực quý báu giúp con lớn thành người.
Tuy nhiên, dù được xem là tấm "bánh" rất cần thiết nuôi con lớn thành người, nhưng người mẹ cũng chỉ là "bánh" thuộc trần gian nên không thể đem lại sự sống lâu dài cho con cái. Vì thế, nhân loại cần có một thứ "bánh" cao cấp hơn có thể mang lại cho họ sự sống đời đời. Đó chính là Chúa Giêsu, Người là "Bánh trường sinh, là Bánh hằng sống từ trời xuống" như lời Người phán:
"Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh nầy là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh nầy, sẽ được sống muôn đời" (Ga 6, 48-51).
Nhờ "Tấm Bánh Giêsu" từ trời xuống mà một nhân loại mới được khai sinh, muôn người được cứu độ; con người được nhận ra nhau là anh em con cùng một Cha trên trời.
Nhờ "Tấm Bánh Giêsu" và luật yêu thương của Người mà nhân loại dần dần xóa bỏ những cuộc chiến huynh đệ tương tàn, biết quên mình phục vụ tha nhân và yêu thương người khác như chính bản thân.
Nhờ "Tấm Bánh Giêsu" được bẻ ra và trao ban mà các tín hữu được nên đồng huyết nhục với Chúa và nhận được sự sống đời đời do Người ban tặng.
Chúa Giêsu chính là "Bánh" từ trời xuống đem đến cho nhân loại cuộc sống hạnh phúc trên dương thế và cuộc sống vĩnh hằng trên thiên quốc.
Khi tự giới thiệu mình là "Bánh" cho trần gian, Chúa Giêsu tỏ cho thấy Người là Đấng tuyệt đối cần thiết cho sự sống và hạnh phúc của loài người, không có Người, nhân loại không thể tồn tại và có được bộ mặt nhân ái như hôm nay.
Muốn hấp thụ cơm bánh hằng ngày, người ta cho nó vào miệng rồi nhai và nuốt; còn muốn hấp thụ "Bánh bởi trời", người ta phải đón nhận và tin vào Chúa Giêsu.
"Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ." (Ga 6, 35)
"Tôi bảo các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi là bánh trường sinh." (Ga 6, 48)
Tin vào Chúa Giêsu có nghĩa là đón nhận giáo lý của Người, noi gương bắt chước Người và sống như Người đã sống.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúng con đã không tiếc thời gian và công sức để kiếm cơm bánh nuôi sống thân xác mau hư nát nầy thì xin cho chúng con cũng đừng tiếc đầu tư thời gian và năng lực để đến với Chúa là "lương thực" thường tồn mang lại sự sống đời đời cho linh hồn chúng con. Amen.
7. Bánh Hằng Sống
(Suy niệm của Lm. Alfonso)
Tin Mừng Ga 6: 41-51: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống.” Chúa Giêsu khẳng khái cho biết chính Người là Bánh mà Thiên Chúa Cha ban tặng.
Suy niệm:
Con người lao động cực nhọc cốt để có được lương thực nuôi sống bản thân. Nhưng loại lương thực mà con người thường khao khát tìm kiếm chỉ là tạm bợ, cũng như không thể dưỡng nuôi con người luôn mãi. Vậy rất cần nguồn lương thực có thể đem lại cho con người sự sống dài lâu.
Trên hành trình vào đất hứa, khi dân than đói khát, Môisen đã xin Thiên Chúa ban lương thực nuôi sống dân. Và Chúa đã dùng manna nuôi dân bốn mươi năm trường trong sa mạc. Cũng như trong Bài đọc I, chúng ta thấy hình ảnh tiên tri Elia trên đường lên núi Hôrép, khi lương thực cạn kiệt, ông đã cảm thấy mệt nhọc và muốn buông xuôi. Thế rồi Thiên Chúa đã sai thiên thần đem lương thực đến giúp ông lại sức và bước tiếp: “Hãy chỗi dậy mà ăn vì đường ngươi phải đi còn xa”. Ông đã ăn bánh để có đủ sức khoẻ đi đến núi của Chúa.
Chính Thiên Chúa đã nuôi dân Chúa vượt qua cơn đói khát. Nhưng manna Chúa ban cho Môisen hay lương thực mà Chúa cho tiên tri Elia chỉ là của ăn tạm bợ, trong khoảng thời gian bốn mươi ngày hay cùng lắm là bốn mươi năm. Và Chúa Giêsu muốn họ chấp nhận sự thật là “Cha ông các ngươi đã ăn manna trong sa mạc và đã chết”. Lương thực ấy chỉ là hình bóng cho loại lương thực khác mà Thiên Chúa muốn ban cho con người, đó là “Bánh trường sinh”. Bánh trường sinh là lương thực duy nhất có khả năng làm cho lòng người được no thỏa. Nhưng tìm kiếm Bánh trường sinh ở đâu?
“Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống.” Chúa Giêsu khẳng khái cho biết chính Người là Bánh mà Thiên Chúa Cha ban tặng; chính Mình và Máu Người sẽ trở nên lương thực nuôi sống dân Thiên Chúa cách vĩnh viễn.
Chúng ta là loài thụ tạo được Thiên Chúa yêu thương, được tạo dựng nên mang hình ảnh của Thiên Chúa. Và như người ta thường nói vui “ăn gì bổ nấy”, thì chúng ta cũng rất cần được dưỡng nuôi bằng chính Mình và Máu Thánh Chúa thường xuyên để Bánh trường sinh ấy nuôi sống linh hồn chúng ta. Nhờ đó mà niềm mong ước sự sống trường sinh nơi chúng ta được hiện thực hóa khi được Thiên Chúa biến đổi chúng ta nên thánh thiện vì Thiên Chúa là Đấng Thánh.
Kitô giáo là một tôn giáo thật hấp dẫn bởi được chính Đấng Thần thiêng nhập thể làm người, đồng hành với con người. Hơn thế nữa, chính Đấng Sáng lập đã dùng chính Mình và Máu của Ngài nuôi các tín hữu: “Bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống”, điều mà chưa có bất kỳ tôn giáo nào có giáo lý đó. Vâng, Chúa Giêsu Nhập Thể chính là câu trả lời cho mọi nhu cầu của con người. Cho người đói, Chúa chính là của ăn; cho người khát, Chúa chính là mạch nước Hằng sống; cho người mù, Chúa chính là ánh sáng soi đường; cho người lạc lối, Chúa chính là Con Đường; cho người kiếm tìm chân lý, Chúa chính là Sự Thật; cho người chết, Chúa chính là sự Phục sinh, cho các tội nhân, Chúa chính là Đấng Nhân lành.
Vậy lạy Chúa, để có Chúa là nguồn Lương thực Trường sinh, xin cho chúng con biết sống như lời thánh Phaolô khuyên bảo các tín hữu Êphêsô: Hãy loại ra khỏi mình mọi thứ gay gắt, tức giận, nóng nảy, dức lác, chửi rủa, cùng mọi thứ độc ác; ăn ở hiền hậu, thương xót và tha thứ cho nhau; bắt chước Thiên Chúa, sống trong tình thương, như Ðức Kitô đã yêu thương và phó Mình làm của dâng và lễ tế thơm tho ngọt ngào dâng lên Thiên Chúa vì chúng con. Amen.
8. Ta là bánh ban sự sống"
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Mỗi ngày Việt nam đang phải đối đầu với bao cái ác hoành hành. Những cái chết của phi nhân bất nghĩa, của tình người băng giá, của đạo đức suy đồi, của tham lam bất chính. Đây phải là lúc chúng ta nhìn lại nhân sinh quan cuộc sống, tại sao giữa nền văn minh nhân loại lại đổ vỡ tình người, lại tan nát tất cả những luân thường đạo lý mà bốn ngàn năm văn hiến của cha ông đã gầy dựng? Chúng ta thử nhìn lại thống kê của trang điện tử www.tin247.com/ mỗi ngày Việt Nam có:
Phá thai hơn 500.000 ca phá thai một năm, trung bình mỗi ngày có hơn 1.300 thai nhi bị giết hại.
Mỗi tháng có gần 1.100 người chết vì tai nạn giao thông, trung bình mỗi ngày hơn 35 người chết vì tai nạn giao thông.
Trung bình mỗi ngày lại có thêm 50 - 100 người nhiễm AIDS.
Mỗi một ngày tứ Bắc chí Nam có hàng ngàn cô gái đem thân xác đổi lấy những đồng tiền dơ bẩn.
Mỗi ngày những vụ án hình sự lại nhiều trò man rợ kinh hoàng hơn.
Đạo lý làm người nay ở đâu? Con người có còn là “nhân chi sơ tính bản thiện” hay đã bị thoái hóa mất tính người? Con người biết thiện và ác, có khả năng tự chủ bản thân hơn loài vật, sao lại dễ dàng làm điều xấu, điều hại người hơn là làm điều tốt, điều cứu sống anh em?
Là người ky-tô hữu, ai trong chúng ta cũng tự hào vì mình là hình ảnh Thiên Chúa. Ai trong chúng ta cũng tự hào mình vượt lên trên muôn loài muôn vật vì “nhân linh ư vạn vật”. Ai trong chúng ta cũng hiểu rằng con người có tương giao với Thiên Chúa, với thần linh. Con người đến từ Thiên Chúa. Con người thuộc về Thiên Chúa, vì con người bởi Thiên Chúa mà ra. Nhưng liệu rằng, khi nhìn vào cuộc sống của chúng ta người ta có nhận ra chúng ta là con cái Thiên Chúa hay người ta sẽ ngán ngẩm bảo rằng: cuộc sống của anh, suy nghĩ độc ác, ích kỷ, những ước muốn tầm thường, những lời nói giết người không dao của anh làm tan nát tâm hồn bao người, …tất cả chúng tôi nào có lạ gì, sao anh bảo anh đến từ Thiên Chúa tình thương và nhân lành? “Người ta cứ dấu này, mà nhận biết các con là môn đệ Thầy: là các con yêu thương nhau”. Liệu rằng dấu hiệu ấy có được tỏ hiện qua lời nói việc làm của chúng ta hay không?
Cuộc đời dương thế của Chúa Giêsu đã chứng minh Ngài từ Thiên Chúa mà đến. Ngài đến để giới thiệu một Thiên Chúa yêu thương. Ngài đi gieo vãi yêu thương. Ngài đi nối kết tình người. Ngài đi xoa dịu đau thương. Ngài sống một cuộc đời thanh thoát không lệ thuộc của cải danh vọng trần gian. Ngài không bẻ gãy cây lau bị dập. Ngài không kết án ai. Ngài luôn bao dung tha thứ. Ngài đã từng tha thứ cho cả kẻ gây nên nhục hình cho Ngài. Đỉnh cao của dấu hiệu yêu thương ấy là chết cho người mình thương.
Cuộc đời Ngài ví tựa tấm bánh bẻ ra cho muôn người. Tấm bánh mang lại hạnh phúc cho nhiều người. Tấm bánh làm vui lòng trẻ thơ cũng như người già. Tấm bánh hòa tan cho muôn người. Kẻ thấp hèn cũng như người giầu sang. Tấm bánh thêm sức mạnh cho mọi người. Kẻ no đầy cũng như người khát. Tấm bánh nối kết tình mọi người. Vì “bánh ngọt bẻ đôi” sẽ là nhịp cầu thân ái cho người với người gần nhau hơn. Tấm bánh đời Ngài ban cho thế gian để cho thế gian được sống và sống dồi dào. “Và ai ăn bánh này sẽ không phải chết bao giờ”. Đó là tấm bánh phục sinh. Bánh cải từ hoàn sinh. Bánh trao ban sự sống đời này và cả đời sau.
Phải chăng Ngài cũng mời gọi chúng ta đón nhận tấm bánh đời Ngài để sức sống, ân sủng, tình thương của Ngài thẩm thấu trong cuộc đời chúng ta, để chính chúng ta cũng trở thành tấm bánh trao ban bình an và hạnh phúc cho tha nhân?
Phải chăng Ngài cũng đang mời gọi chúng ta, không chỉ nhận ra mình mang nguồn gốc từ trời, mà phải sống và hành động như con cái của Chúa. Sống hoàn thiện mình mỗi ngày như cha chúng ta ở trên trời là Đấng hoàn thiện. Mỗi ngày chúng ta phải thanh tẩy mình khỏi mọi điều gian ác, khỏi những ước muốn tầm thường và mặc lấy tâm tình từ bi nhân hậu như Đức Ky-tô để dung nhan Thiên Chúa được tỏ hiện trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
Ước gì trong mỗi lời nói hành động đầy yêu thương bác ái của chúng ta mà các anh chị em chung quanh sẽ ngợi ca Cha chúng ta là Đấng ngự trên trời. Ứơc gì khi chúng ta nhận ra tình thương của Chúa dành cho mình, thì mỗi người hãy biết sống tâm tình tạ ơn Chúa, đồng thời biết noi gương Chúa sống yêu thương anh em đồng loại của mình.
Nguyện xin Chúa Giêsu Thánh Thể là tấm bánh bẻ ra cho muôn người nâng đỡ và giúp chúng ta biết sống cao thượng, sống đúng với phẩm giá làm người và làm con Thiên Chúa. Amen.
9. Đừng xem thường nhau
(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
Có một câu chuyện kể rằng: Vào những lúc con người mới phát minh ra động cơ, con người vui mừng vì sự tiến bộ vượt trên tưởng tượng của mình. Chính vì thế có nhiều người không thể tin được. Có một cụ già nọ, nghe các sinh viên kể lại về chiếc tàu hỏa chạy mà không cần phải nhờ đến trâu, bò, hay ngựa kéo, nhưng nhờ động cơ máy mà nó hoạt động và chạy rất nhanh. Cụ già không tin. Các thanh niên tìm cách đưa cụ già đến một nhà ga xe lửa để cụ nhìn xem tận mắt.
Khi đoàn tàu từ từ tiến đến và dừng lại, các thanh niên đến bên cụ, với vẻ mặt vui mừng, định hỏi xem cụ tin chưa. Bổng nhiên từ toa chở hàng, người ta mở cửa và dẫn một đàn bò từ trên toa xuống. Cụ già nhìn thấy đàn bò, nở một nụ cười tự mãn và chỉ vào đám thanh niên, cụ nói: "chúng bây đã bị mắc lừa". Cụ quay lưng bỏ đi không chịu nghe các thanh niên giải thích là toa này chở bò mà thôi!
Cụ già quá tự mãn về sự hiểu biết của mình, và cụ đã đóng khung nó lại. Thế giới đối với cụ chỉ có đối với những gì cụ hiểu biết. Ngoài những điều đó ra, tất cả đều không tồn tại. Nên cụ không thể nghe những gì người khác nói, cho dù đó là sự thật đang xảy ra trong thế giới hiện đại.
Những người Do Thái ngày xưa cũng không thể tin được Chúa Giê-su lại là bánh bởi trời. Càng khó tin hơn khi nghe Chúa nói ăn chính Chúa sẽ không chết bao giờ! Họ không thể chấp nhận. Bởi họ đã quen thuộc Chúa Giê-su. Quen quá đến nỗi không thể tin vào những việc lạ Chuá đã làm là do bởi Thiên Chúa. Vi đầu óc thành kiến nên họ không tìm hiểu, không lắng nghe. Phải chăng điều này cũng là lối suy nghĩ nông cạn của chúng ta?
Cuộc sống con người, ai cũng có một chút tự hào về chính mình: tự hào về nghề nghiệp, tự hào về sự hiểu biết, tự hào về địa vị bản thân, tự hào về con người của mình. Nhưng nếu quá cố chấp mà chỉ sống trong sự tự hào đó, thì chúng ta chỉ làm trò cười cho bao nhiêu người chung quanh. Còn biết bao nhiêu điều chúng ta chưa biết, và cũng còn rất nhiều điều chúng ta không thể biết và không thể hiểu được!
Nhất là trong đời sống đức tin chúng ta càng cần khiêm tốn để xin Chúa dạy chúng ta qua từng biến cố thời đại, và qua sự văn minh nhân loại cho ta khám phá ra biết bao điều vĩ đại, xin Chúa giúp chúng ta nhận ra quyền năng Chúa trên vũ trụ và con người luôn nhỏ bé trước quyền năng Thiên Chúa.
Và trong cuộc sống hôn nhân gia đình muốn hạnh phúc bền lâu cũng đòi hỏi mỗi người biết khiêm tốn nhìn nhận điều tốt, điều hay nơi nhau, đừng vì thành kiến mà đánh giá thấp về nhau, nhưng hãy biết tôn trọng và khích lệ nhau. Nếu cứ đánh giá thấp về nhau chúng ta sẽ làm tổn thương nhau.
Có một người hàng xóm hỏi cô vợ:
– Ai đánh vỡ kính ở cửa sổ lớn nhà chị vậy?
– Tay chồng hèn nhát của tôi đấy!
– Anh ta hiền như đất cơ mà?
– Nhưng hắn đứng đó và tránh được cái chậu hoa tôi quăng vào mặt hắn! Cũng may cho hắn mà xui cho chậu hoa!
Theo các chuyên gia tâm lý, coi thường bạn đời là một trong những nguyên nhân chính dẫn tới đổ vỡ hạnh phúc gia đình. Vì khi trong lòng bạn đã chất đầy sự coi thường bạn đời, bạn sẽ có những lời nói khó nghe dành cho nhau, đôi khi cả những hành động miệt thị nhau. Chắc chắn khi đã xem thường nhau thì họ cũng mong sớm được giải thoát hơn là vun đắp cho cuộc sống hôn nhân hiện tại.
Trong hôn nhân, việc đánh giá thấp về nhau là điều không thể chấp nhận được. Vì con người vốn có nhu cầu cố hữu là được cảm thấy mình có ích, có giá trị với xã hội và những nỗ lực của mình được thừa nhận. Khi giá trị của mình không được thừa nhận ngay trong gia đình sẽ mang tới cảm giác thất vọng và không còn muốn vun đắp hạnh phúc chung.
Những người Do Thái đồng hương của Chúa Giê-su đã không có cơ hội nhận ơn lành của Chúa vì họ xem thường Chúa. Và có lẽ, vợ chồng nếu xem thường nhau cũng thiệt thòi vì không bao giờ nhận được sự trợ giúp nhiệt tình của người bạn đời. Đôi khi vì sự xem thường mà đánh mất đi hạnh phúc lứa đôi.
Ước gì các đôi hôn phối biết sống khiêm tốn trong cách ứng xử để kính trọng bạn đời. Ước gì mỗi người chúng ta cũng biết giúp nhau thăng tiến thay vì chì triết, xem thường nhau. Và xin cho chúng ta luôn biết tìm kiếm Chúa là nguồn sống đời đời để nhờ đó chúng ta thêm sức mạnh để sống tốt hơn trong cuộc sống hiện tại hôm nay. Amen.
10. Việt Nam ăn gì cũng chết
(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
Thông thường ăn là để sống, chứ đâu phải ăn để chết, thế nhưng trước thời buổi làm ăn chộp giật, chỉ cần có lợi là việc gì cũng làm như hiện nay thì nhiều khi ăn lại là để chết.
Có lẽ chưa bao giờ mà cả xã hội lại lo ngại, thậm chí hoang mang về chất lượng thực phẩm như hiện nay. Ăn gì, uống gì và dùng gì cũng sợ. Gạo nhựa, trứng giả, mực cao su, rau quả ngâm thuốc kích thích, bún, bánh phở có chứa formol… thôi thì đủ cả! Đến giấy lau miệng và chén đũa cũng mang độc hại chết người!
Hàng năm, Việt Nam có từ 100.000 - 150.000 người mắc ung thư và khoảng 70.000 người tử vong do căn bệnh này. Theo bác sĩ Đặng Huy Quốc Thịnh, phó giám đốc Bệnh viện Ung bướu TP.HCM, có nhiều lý do khiến số người mắc bệnh ung thư gia tăng trong những năm gần đây như số người hút thuốc, uống rượu bia tại nước ta còn cao, tình trạng ô nhiễm môi trường… Song, còn có một nguyên nhân khác nữa chính là vấn đệ ngộ độc thực phẩm không chỉ gây bệnh ung thư mà nhiều bệnh lý khác.
Nhìn những gì đang diễn ra tại Việt Nam khiến tôi nhớ tới câu chuyện ngụ ngôn về con Sư tử, con Gấu và con Hươu. Chuyện kể rằng: Con Hươu non bị chết tươi vì ăn phải bã độc.
Sư tử và Gấu nhìn thấy xác Hươu liền tranh nhau miếng mồi. Hai con mãi đánh nhau nên không thấy Cáo cũng mò đến. Lợi dụng lúc Sư tử và Gấu không chú ý tới mình, Cáo tha Hươu vào bụi ăn một bữa no rồi ngấm độc ngã lăn ra chết.
Vật nhau một hồi, Sư tử và Gấu không thấy Hươu đâu nữa liền buông nhau đi tìm mới thấy Cáo chết vì thịt Hươu nhiễm độc. Sư tử và Gấu lúc đó mới bảo nhau rằng:
- Đáng đời cho con Cáo láu lỉnh và tham lam kia, nhờ nó mà hai ta khỏi chết.
Xem ra ăn gì cũng chết. Nên dường như ai bây giờ cũng nhắm mắt ăn đại, ăn cho xong vì đàng nào cũng mang mầm bệnh tật vào thân. Xem ra chẳng còn ai nghĩ ăn để sống nữa, vì mọi cái có thể ăn được đều đã bị đầu độc!
Hôm nay Chúa Giê-su giới thiệu cho chúng ta một của ăn không độc hại, không dẫn đến tiêu vong. Chúa giới thiệu cho chúng ta một của ăn để được sống đời đời chính là bánh Thánh Thể, là bánh trường sinh thỏa mãn niềm khao khát sống đời đời của nhân loại. Chúa bảo tổ tiên đã ăn Manna từ trời xuống rồi cũng chết, còn ai ăn bánh này thì sẽ sống muôn đời.
Thật hạnh phúc khi ở đời còn có của ăn không chết. Đây là của ăn thuần khiết vì là bánh thần linh. Đây là bánh thanh sạch vì được làm nên từ chính Máu Thịt Chúa. Đây là bánh không bao giờ hư nát vì là chính Thánh Thể phục sinh của Chúa. Thế nên, ai rước bánh này sẽ sống đời đời. Ai ăn bánh này sẽ được trường sinh.
Vâng, mỗi lần chúng ta rước Chúa là được đón nhận chính sự sống và tình yêu của Chúa. Ước gì tình yêu Chúa tuôn chảy trong con tim của chúng ta để chúng ta dám hiến dâng chính mình vì sự sống của tha nhân. Ước gì mỗi người biết hy sinh cho nhau, và biết kiến tạo hạnh phúc cho nhau, chắc chắn cuộc sống này sẽ đẹp hơn. Ước gì mỗi người chúng ta biết noi gương Chúa Giêsu trở thành quà tặng mang lại cho anh em niềm vui và hạnh phúc. Xin cho chúng ta luôn cảm nghiệm rằng “chính lúc cho đi là khi được nhận lãnh, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”. Amen.
11. Bánh từ trời – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm.
Cơm bánh giúp con người có sức khỏe thể xác, giúp con người sống và phát triển. Đức Giêsu là bánh hằng sống từ trời. Ngài là sức sống cho con người. Ngài giúp con người triển nở toàn diện vươn tới tầm mức Thiên Chúa muốn.
I. Thiên Chúa ban lương thực vật chất và tinh thần
Hoàng hậu Ideven đã sai sứ giả nói với tiên tri Elia rằng bà sẽ lấy mạng của Elia vào cùng giờ ngày hôm sau, giờ Elia đã hô hào dân chúng tru diệt các tiên tri thờ thần Baan. Elia đã bỏ xứ để trốn lên “núi Chúa”. Mệt lả vì đường dài và đói khát, Elia muốn chết và xin Chúa cất mình về, vì “con cũng không hơn gì cha ông con”. Thiên Chúa đã cho thiên thần mang lương thực nuôi tiên tri, để tiên tri có sức khỏe thể xác và tinh thần, hầu tiếp tục lên đường tới núi Khôrếp.
Con người không chỉ có nhu cầu thể lý nhưng còn có nhu cầu thiêng liêng. Con người cần lương thực vật chất nuôi sống thể xác, và cũng cần lương thực thiêng liêng cho tinh thần con người, làm con người thấy ý nghĩa cuộc đời. Thiên Chúa cung cấp lương thực vật chất nuôi sống con người, và Ngài cũng cung cấp thức ăn thiêng liêng cho con người.
Thiên Chúa luôn quan tâm săn sóc con người. Ngài là Cha của tất cả mọi loài, của vạn sự vạn vật. Thiên Chúa hiện diện với Elia khi ông kêu cầu Người, khi Ngài cho lửa thiêu đốt lễ vật trên tế đàn. Thiên Chúa săn sóc Elia cho ông thức ăn nước uống, cho ông có sức và nghị lực đi đến “núi Chúa”. Thiên Chúa cũng tỏ mình cho ông một cách đặc biệt khi ông ở trên núi thánh của Ngài: Ngài không ở trong cơn động đất, không ở trong gió bão nhưng ở trong gió hiu hiu thổi. Thiên Chúa là Đấng rộng lòng thương xót, yêu thương bao la.
II. Đức Giêsu là bánh từ trời
Đức Giêsu đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân. Ngài không chỉ hóa bánh ra nhiều, nhưng chính Ngài là bánh để nuôi con người. Người Do Thái không hiểu ý nghĩa điều Ngài muốn nói, nên đã phản bác: “Ông ta không phải là con bác thợ mộc Giuse sao? Chúng ta đều biết cha mẹ ông ta, vậy sao ông ta có thể nói ông ta từ trời xuống”. Họ không hiểu Đức Giêsu, nên họ không thể chấp nhận được điều Đức Giêsu mặc khải cho họ. Họ cho rằng Đức Giêsu nói ngoa!
Đức Giêsu cầm lấy bánh, bẻ ra, trao cho các môn đệ mà nói: “Các con hãy cầm lấy mà ăn, này là mình ta, sẽ bị nộp vì các con”. Tấm bánh được bẻ ra, là của ăn nuôi sống con người. Đức Giêsu là người hơn ai hết thấy được giá trị của tấm bánh. Ngài nhận ra Thiên Chúa ban bánh nuôi sống con người. Ngài cũng là tấm bánh, được bẻ ra cho con người ăn. Ngài là quà tặng Thiên Chúa ban cho con người. Ngài là sức sống những ai biết và tin vào Ngài. Với những ai tin Ngài là bánh từ trời xuống, là quà tặng Thiên Chúa ban cho con người, người đó tìm được sức sống và sẽ không chết về thiêng liêng.
Không phải ai cũng hiểu được rằng Đức Giêsu là bánh từ trời xuống. Đa số những người Do Thái thời đó không hiểu. Khi bị phản đối, Đức Giêsu cũng nhận ra rằng: “không ai đến được với ta nếu không được Cha ta lôi kéo”. Điều Đức Giêsu nói với họ, không dễ để mà hiểu, phải có ơn đặc biệt để hiểu điều này. Phải tin vào Đức Giêsu để hiểu điều Ngài nói, để hiểu rằng Ngài là bánh ban sự sống. Đức Giêsu và cách sống của Ngài, là khuôn mẫu để con người noi theo, hầu con người sống hạnh phúc.
III. Hành xử như những người con đích thực của Thiên Chúa
Niềm tin vào Đức Giêsu sẽ giúp người ta sống như con cái Thiên Chúa. Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể. Ngài tự hủy làm người, mang thân phận của con người như bất cứ ai khác. Khi con một vị vua sinh ra, người con đó sẽ sống trong hoàng cung và được mọi người kính trọng. Ngôi Lời nhập thể làm người, không ai biết vì không ai có thể nghĩ rằng Thiên Chúa lại làm người. Thế nên, cách người ta đối xử với Đức Giêsu là cách người ta đối xử với những người nghèo hèn nhất. Đức Giêsu mang thân phận người, giống như bất kỳ người thấp cổ bé miệng nào trên thế giới này.
Đức Giêsu sống như thế nào, cách hành xử của Ngài ra sao, trở thành mẫu gương cho những người tin vào Ngài sống. Ngài là sức sống cho con người. Ngài là bánh nuôi sống những người tin vào Ngài. Nét đặc biệt của Ngài là tự hủy. Nhờ Ngài tự hủy mà con người tìm được lẽ sống, tìm được hạnh phúc trong việc cho đi và phục vụ. Yêu thương là phục vụ và cho đi. Phục vụ như người tôi tớ, theo nhu cầu của người mình phục vụ. Yêu thương là cho đi, cho đi chính mình, như tấm bánh được bẻ ra, bị tiêu hao cho con người được sống.
Ngày nay, Thánh Thần Thiên Chúa vẫn đang ở với con người, vẫn đang hoạt động nơi mỗi người, giúp con người đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa qua chọn lựa sống vươn lên và yêu thương phục vụ anh chị em mình. Những ai tin vào Đức Giêsu được mời gọi để mở lòng lắng nghe và vâng phục Thánh Thần. “Đừng dập tắt Thần Khí” (1Tx. 5, 19), “Chớ làm phiền Thánh Thần” (Eph.4, 30). Thánh Thần Thiên Chúa đang làm mới thế giới này, đang làm mới lòng con người, và làm con người thuộc về Thiên Chúa. Sống theo Thần Khí là trở thành bánh cho con người theo gương mẫu Đức Giêsu Kitô.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo kinh nghiệm sống của bạn, điều gì làm bạn tăng sức sống và phấn khởi?
2. Có bao giờ Đức Giêsu làm bạn phấn khởi và ao ước làm lại cuộc đời không? Nếu có xin bạn chia sẻ.
12. Bánh Hằng Sống từ trời xuống
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP
Đời là một cuộc hành trình đi về quê trời. Con đường về trời vừa xa lại vừa khó khăn. Lương thực cho cuộc hành trình phải được đầy đủ. Nhưng lương thực chúng ta phải có là gì? Lấy đâu ra thứ lương thực đó? Hôm nay, Đức Giêsu đã chỉ bảo cho chúng ta thứ lương thực mà Ngài sẽ ban cho. Đó là bánh hằng sống từ trời xuống.
Đức Giêsu đã hé mở cho dân Do thái biết: Ngài sẽ ban cho họ thứ bánh đó: ”Ta là Bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời”. Lời tuyên bố này gây sốc cho người nghe, làm cho người ta sững sờ và khó chịu, nhất là khi Ngài nói thêm: ”Và bánh ta sẽ ban tặng, chính là thịt Ta đây”(Ga 6,51). Họ không thể nào chấp nhận được lời tuyên bố ấy khi bản thân Đức Giêsu chỉ là một người Nazareth, gia cảnh rất tầm thường.
Còn đối với chúng ta, nếu không có đức tin soi dẫn, chúng ta không thể nào chấp nhận được mầu nhiệm Thánh Thể, vì Thánh Thể là mầu nhiệm đức tin. Ngày nay chúng ta đã được Chúa soi sáng, chúng ta tin nhận Đức Giêsu là bánh hằng sống từ trời xuống va øBánh ấy là thịt máu Ngài. Thánh Thể chính là lương thực nuôi sống linh hồn chúng ta trên đường về quê trời và ban cho chúng ta sự sống đời đời.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: 1V 19,4-8.
Tiên tri Êlia đứng lên chống đối viêc thờ kính ngẫu thần do bà Jézabel, vợ ngoại giáo của vua Achab, đưa vào đất Israel. Sau lần tiên tri Êlia giết chết 400 sư sãi Baal, ông bị hoàng hậu Jézabel truy nã gắt gao, ông phải trốn chạy vào hoang địa. Bị đói khát và thất vọng, ông chỉ còn chờ chết. Nhưng Chúa sai thiên thần mang đến cho ông một chiếc bánh và một vò nước. Được bánh và nước bồi dưỡng, ông lấy lại sức và tiếp tục lên đường, đi một mạch suốt 40 ngày tới núi Horeb diện kiến Thiên Chúa.
+ Bài đọc 2: Ep 4,30-32 - 5,2.
Khi viết thư này, phải chăng đang có một sự căng thẳng trầm trọng đã nảy sinh trong cộng đoàn tín hữu ở Êphêsô, đến độ người ta đã la lối và thoá mạ nhau? Thánh Phaolô nhắc nhở mọi người hãy nhớ mình là Kitô hữu, nhờ phép rửa tội đã trở nên con Thiên Chúa, là môn đệ và là anh em với Đức Kitô.
Vì thế, địa vị ấy đòi hỏi chúng ta phải biết thương yêu, biết tha thứ cho nhau bằng cách phải giũ bỏ khỏi đời sống tất cả những gì làm thương tổn đức bác ái như giận hờn, thù oán, ích kỷ. Thánh Phaolô xác định rằng việc tha thứ cho nhau ấy là kết quả hợp lý của việc được Thiên Chúa thứ tha “Như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô”(Ep 5,2).
+ Bài Tin mừng: Ga 6,41-51.
Đức Giêsu đã tuyên bố: ”Ta là bánh từ trời xuống”. Đứng trước những thính giả hoài nghi và còn thù nghịch nữa, Đức Giêsu cứ khẳng định như thế. Ngài còn cho biết thêm: ai muốn được sống vĩnh hằng, cần phải lãnh nhận bánh ấy.
Người Do thái không thể nào chấp nhận được lời tuyên bố ấy bởi vì làm sao người ta có thể hiểu được mầu nhiệm Nhập thể. Người ta chỉ có thể lý luận theo lẽ tự nhiên rằng: làm sao ông này có thể là bánh hằng sống từ trời xuống được? Bởi vì ông ta chỉ là người Nazareth như họ, ông ta chỉ là người thợ mộc, con ông Giuse và bà Maria, anh chị em ông đang ở với mình, thân thế sự nghiệp chả có gì đáng lưu ý, gia cảnh của ông ta thật là tăm tối. Vậy tại sao ông ta dám tuyện bố như thế?
Đức Giêsu muốn trả lời cho họ rằng muốn tin mầu nhiệm này, hiển nhiên là phải có đức tin. Đức tin chỉ Thiên Chúa mới có thể ban cho. Đức tin giúp những người lãnh nhận nó được kết hợp với Chúa và sống bởi Chúa và nhờ Chúa. Như vậy, chúng ta hưởng nhờ đức tin vào Chúa Kitô, chúng ta hãy tỏ ra ngoan ngoãn với những giáo huấn của Ngài, trung thành yêu mến Ngài, nhiệt tâm với Thánh Thể Ngài. Do đó, Ngài sẽ là bánh hằng sống từ trời xuống, là nguồn mạch sự sống vĩnh hằng cho chúng ta.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Muốn được trường sinh bất tử
Đây là bài giảng dài, Đức Giêsu nói về Bánh Hằng Sống. Bài Tin mừng hôm nay tiếp theo đoạn Tin mừng tuần trước được rút ra trong bài giảng về Bánh hằng sống trong thánh Gioan. Bài giảng này có thể chia thành 3 phần:
1. Chúa nhật tuần trước đã nói đến sự khác biệt giữa của ăn vật chất mau hư nát và của ăn bất hủ mà Con người đem đến trong thế gian.
2. Chúa nhật này nói đến việc Đức Giêsu ban mình làm bánh hằng sống và kêu gọi mọi người ăn bánh đó.
3. Chúa nhật tuần sau sẽ nói đến việc Đức Giêsu ban bánh đó trong phép Thánh Thẻ.
I. TA LÀ BÁNH TỪ TRỜI XUỐNG.
Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy Đức Giêsu đưa dần đến mầu nhiệm “Bánh ban sự sống”. Nhưng dân chúng không mở tai ra để nghe, để hiểu. Họ chỉ khư khư xoay quanh những đòi hỏi vật chất. Khi nghe Đức Giêsu nói: ”Ta là bánh từ trời xuống”, người ta kêu ca phản đối: ”Ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: Ta từ trời xuống”? Họ phản đối Đức Giêsu vì họ thấy theo con mắt xác thịt, theo suy nghĩ của loài người hạ giới. Họ giống như Gagarin, anh hùng vũ trụ đầu tiên, bay lên không gian ngày 12 tháng 4 năm 1961. Khi trở về trái đất, ông tuyên bố: ”Tôi không thấy thiên đàng đâu cả”. Lối nhìn này gọi là quan sát thực nghiệm, cân đo, đụng chạm được bằng mắt, tai, tay, chân, mũi. Ngoài ra không thấy gì khác nữa.
Họ phản ứng trước lời tự xưng của Đức Giêsu, nêu lên sự kiện Ngài là con bác thợ mộc, họ biết Ngài sinh sống tại Nazareth. Làm sao họ hiểu một người thợ mộc tầm thường nghèo nàn lại có thể trở thành sứ giả đặc biệt của Thiên Chúa được. Họ chối bỏ Đức Giêsu vì trắc nghiệm Ngài bằng các giá trị của loài người, của xã hội và bằng tiêu chuẩn thế gian.
Truyện: Bé cái lầm
Lawrencee là bạn thân của thi sĩ Thomas Hardy. Thời gian ông phục vụ trong Không lực hoàng gia Anh với tư cách thợ máy, ông vẫn thường mặc quân phục thợ máy đến thăm vợ chồng Hardy. Một lần tại nhà thi sĩ, ông gặp bà thị trưởng Dorchester. Không biết anh thợ máy cùng có mặt hôm đó là ai, bà tỏ ra khó chịu quay sang hỏi bà Hardy, nói bằng tiếng Pháp, bà than phiền “từ thuở cha sinh mẹ đẻ đến nay, tôi chưa bao giờ ngồi uống trà với một tên lính quèn như thế này”. Không ai nói năng gì. Một lúc sau, Lawrencee nói với bà bằng tiếng Pháp thật hoàn hảo rằng “Xin lỗi bà, tôi có thể làm thông dịch viên cho bà, vì bà Hardy không biết nói tiếng Pháp”.
Một mệnh phụ phu nhân rởm đời và bất nhã đã lầm lẫn tai hại chỉ vì xét người theo bề ngoài, theo tiêu chuẩn xã hội. Đó cũng là lầm lẫn của người Do thái đối với Đức Giêsu. Họ không thấy được Đức Giêsu từ trời xuống vì lòng họ ra chai đá, không còn cảm động theo ân huệ lôi kéo của Đức Chúa Cha, không còn nghe lời Cha dạy dỗ dù hết mọi người được Thiên Chúa dạy dỗ như sách tiên tri đã chép. Thiên Chúa lôi kéo. Thiên Chúa dạy dỗ. Thiên Chúa đề nghị, nhưng rồi ta không nghe, không đáp lại, không hiệp thông. Người ta có tự do, có quyền từ chối, tự do của họ đã chiều theo các tình tư dục của họ.
II. TA LÀ BÁNH BAN SỰ SỐNG.
Sau khi đã trẽ câu chuyện vì sự lẩm bẩm của người Do thái, Đức Giêsu lạiï trở lại vấn đề Ngài là Bánh. Trên kia Ngài quả quyết Ngài là bánh từ trời xuống. Đây Ngài quả quyết thêm một điều nữa: ”Ngài là bánh ban sự sống”, khác với manna. So sánh manna được ban cho dân Do thái làm lương thực đi đường trong sa mạc với Bánh Hằng Sống được Đức Giêsu ban cho các tín hữu trong bí tích Thánh Thể, chúng ta thấy manna là lương thực được Đức Chúa ban cho dân Do thái trong thời xuất hành, là thứ đồ ăn mau bị hư nát (x.Xh 16,19-21). Dù dân Do thái đã ăn manna, nhưng họ vẫn bị giết chết do tội họ đã phạm (x.Tv 78, 29-31) và vẫn không sống đời đời (x.Ga 6,58). Còn Đức Giêsu mới là Bánh Hằng Sống đích thực, để ăn thịt và uống máu Ngài thì sẽ không phải chết (x.Ga 6,50) nhưng được sống đời đời(Ga 6,51.54), được ở trong Ngài (Ga 6,56), được sống nhờ Chúa Cha (x.Ga 6,57), được sống và được sống dồi dào(x.Ga 10,10).
Đức Giêsu lại nói tiếp: ”Bánh Ta sẽ ban tặng chính là thịt Ta đây, để cho thế gian được sống”. Với câu này, Đức Giêsu đã đưa vào một ý tưởng mới. Bánh này Đức Giêsu hứa sẽ ban, nhưng chưa ban. Đã rõ, đây Đức Giêsu muốn nói về Thánh Thể Ngài sẽ thành lập sau này. Từ lương thực nuôi sống thể xác, được Ngài biến thành Bánh Hằng sống (x.Ga 6,48), thành thân mình sẽ bị khổ nạn và phục sinh của Ngài (x.Ga 6,51), thành của ăn thần thiêng nuôi dưỡng đức tin, giúp các tín hữu đủ sức tiến về Đất Hứa là quê trời đời sau và sẽ được sống muôn đời.
Truyện: Phép lạ ở Lanciano.
Năm 700, tại tu viện thánh Longino ở Lanciano (Ý) có một linh mục Basiliô, đã dâng Thánh lễ nhưng lại hoài nghi về mầu nhiệm Chúa biến bánh rượu nên Mình Máu Thánh Chúa ,thì Chúa đã làm một phép lạ cả thể còn được lưu niệm đến ngày nay như một tang chứng vĩ đại về phép Thánh Thể, được gọi là phép lạ Lanciano. Sau khi vị Linh mục ấy truyền phép, Bánh đã trở nên Thịt và Rượu đã trở nên máu, còn được cô đọng đến ngày nay. Theo một cuộc phân tích, thịt là một thớ thịt từ trái tim, máu là máu một người với công thức AB (vết máu trên chiếc khăn liệm Turin cũng là công thức AB). Ngày nay, Thịt và Máu Chúa được lưu giữ trong hào quang qúi giá gọi là Hào Quang phép lạ Thánh Thể Lanciano, có từ năm 1713. Cuộc khảo sát khoa học chứng minh, được thực hiện năm1971. Thánh đường thánh Phanxicô, nơi lưu giữ, trở nên một trung tâm hành hương lớn của thế giới (Đọc Eucharistic Miracles của Carroll Cruz).
III. BÁNH BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI.
Người đời ai cũng muốn sống lâu, sống trường sinh bất tử, cho nên mỗi độ xuân về người ta nhộn nhịp chúc tuổi nhau như thi sĩ Trần tế Xương đã diễn tả:
Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu.
Người ta ai cũng sợ chết. Tham sinh úy tử là lẽ tất nhiên. Người ta nhận xét rằng không bao giờ người đời cảm thấy mình sống lâu cả. Dầu đã tóc bạc da mồi, đi không vững, đứng không ngay, cũng còn thấy như mới bước chân vào đời ngày hôm qua vậy. Cụ Tam nguyên Yên Đổ đã diễn tả tâm trạng ấy như sau:
Nhớ từ năm trước vẫn thơ ngây
Thoát chốc mà già đã tới ngay.
Đến ngay Đức Hồng y Mercier, trước khi kết thúc cuộc đời 74 tuổi, đã buồn rầu khóc lên khi thấy thần chết đến gõ cửa: ”Ôi đau đớn thay, Phải mang theo vào lòng đất bao nhiêu dự định”.
Càng sống lâu, người ta càng muốn sống, càng thích sống, thèm sống, khát sống... Cụ già tám chín mươi tuổi thấy còn ham sống , như trang thanh niên mười chín đôi mươi vậy. Người ta có sống lâu đến ngàn năm như ông Mathusalem đi nữa, chắc tâm trạng cũng không thay đổi được.
Vì vậy, người ta mới tìm ra đủ cách, đủ mọi phương pháp để được cải lão hoàn đồng, được sống lâu, nhất là được trường sinh bất tử.
Truyện: Thuốc bất tử hay thuốc tử?
Thời Chiến quốc, có người đem dâng vua nước Sở một vị thuốc bất tử. Người ấy bưng vị thuốc vào, có viên canh cửa hỏi rằng:
- Vị thuốc này có ăn được không?
Người ấy đáp:
- Ăn được.
Tức thì, viên quan giật lấy vị thuốc mà ăn.
Chuyện nói đến tai vua. Vua phán bắt viên quan đem giết.
Viên quan kêu rằng:
- Thần đã hỏi người đem dâng thuốc. Người ấy nói rằng: ”Ăn được” nên thần mới ăn. Thế là thần vô tội mà lỗi người dâng thuốc – Vả chăng, người đem dâng thuốc nói là “bất tử”, nghĩa là ăn vào thì không chết nữa. Thế mà thần mới ăn, đã sắp phải chết, vậy là thuốc tử, chớ sao gọi là bất tử được? Nhà vua giết thần, thực là bắt tội một người vô tội mà tỏ rằng thiên hạ dối được nhà vua mà nhà vua vẫn tin.
Vua nghe nói có lý, bèn tha cho viên quan ấy, không giết nữa.
(Nguyễn Văn Ngọc, Cổ học tinh hoa, tập 1, tr 170)
Người ta hoàn toàn bất lực trước cái chết. Bao nhiêu phương pháp làm cho con người trường sinh bất tử đều thất bại. Người ta chỉ còn có cách quay về với Chúa thôi. Một trong những câu nói quan trọng nhất của Đức Giêsu về đời sống vĩnh cửu là những gì Ngài nói trong bài Tin mừng hôm nay: ”Ta là Bánh từ trời xuống... Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời. Bánh của Ta sẽ ban cho ấy là Thịt Ta, Ta ban Thịt Ta để thế gian được sống”. Đức Giêsu mạc khải cho biết cuộc sống nơi trần gian này không phải là cuộc sống duy nhất và chết không phải là chấm hết. Còn có cuộc sống trong tương lai không bao giờ chấm dứt, đó là cuộc sống vĩnh cửu.
IV. THÁI ĐỘ CỦA TA.
1. Tin hay không tin.
Khi Đức Giêsu nói: ”Ta là Bánh từ trời xuống”, dân Do thái xầm xì phản đối là phải, vì Ngài mạc khải về mình cho họ, Ngài mời họ tin vào Ngài và ăn bánh trường sinh là Ngài, để không bị đói khát nữa mà được sống đời đời. Làm sao họ tin Ngài là sứ giả của Thiên Chúa, là Đấng ở nơi Thiên Chúa, là Đấng sống mật thiết với Thiên Chúa, là chính Ngôi Lời Thiên Chúa, tiếng nói của Ngài là tiếng nói của Thiên Chúa. Ngài là bánh hằng sống từ trời xuống ư?
Ngày nay tâm thức của con người cũng chẳng khác với người Do thái xưa. Không phải chỉ có ngày nay con người mới khước từ mầu nhiệm trung tâm của đức tin. Sự khước từ hiện nay của nhiều người trẻ cũng như người trưởng thành không phải là chuyện mới mẻ: việc này đã bắt đầu từ thời Đức Giêsu, khi chính Ngài đã giảng giải và dạy giáo lý! Trước hết chúng ta hãy khiêm tốn nhận biết lời xác quyết của Đức Giêsu thật to lớn. Chúng ta nên nhìn nhận rằng người không tin không phải là một kẻ bất bình thường. Họ sống theo “lý trí” của con người một cách hoàn toàn tự nhiên. Điều này càng nhấn mạnh đến tính cách đặc biệt của đức tin: đức tin không chỉ giới hạn vào những quan điểm hợp lý mà thôi. “Ta là Bánh hằng sống từ trời xuống”. Đây là cao vọng chưa từng thấy của một người thợ mộc thấp hèn ở làng bên cạnh, mà người ta biết rõ cha mẹ. Đức Giêsu đã phản ứng thế nào, hôm đó (và hôm nay) trước sự khước từ “Bánh bởi trời”( Noel Quesson)?
2. Muốn được đến với Chúa.
Đức Giêsu phán tiếp: ”Các ông đừng có xầm xì với nhau, chẳng ai đến với Ta được, nếu Chúa Cha, là Đấng đã sai Ta, không lôi kéo kẻ ấy”. Ngay từ đầu, Đức Giêsu đã đứng trên một bình diện khác với lý trí của con người. Đó là điều mà chúng ta thường gọi là “Ân sủng”, hay nói cách khác, đó là sáng kiến của Thiên Chúa. Đức Giêsu nói cần phải có sự soi sáng ở bên trong của Thiên Chúa là Đức tin, để thấu hiểu được những việc của Thiên Chúa, để “đến với Đức Giêsu”. Chỉ có Chúa mới có thể nói về Chúa. Đấng siêu việt không phải là một thực tại nhỏ bé nằm trong tầm hiểu biết của bộ óc con người hay của máy móc khoa học: Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn khác, vượt cao hơn tất cả. Hãy để cho Chúa dạy bảo chúng ta. Phải đón nhận “Lời Chúa”, lời từ một nơi khác đến với chúng ta.
Truyện: Hồng y Newman.
Hồng y Newman trước kia đã từng giữ chức vụ cao trong Anh giáo và bổng lộc hằng năm là một số tiền khá lớn. Dù thuộc tầng lớp qúi tộc và hàng chức sắc cao cấp như vậy, nhưng ngài vẫn luôn có sự áy náy lương tâm về một số vấn đề liên quan đến đức tin tôn giáo khó lòng lý giải được. Thế rồi một ngày kia, sau khi đã dành nhiều thời giờ suy nghĩ tìm hiểu và so sánh giữa Anh giáo và đạo Công giáo, cuối cùng ngài quyết định từ bỏ mọi chức vụ và các đặc quyền đặc lợi để xin cải giáo theo Công giáo. Biết được ý định của Newman, nhiều người thân là bà con và bạn bè đã đến thăm và đề nghị ngài suy nghĩ lại. Có người còn nêu cụ thể vấn đề bổng lộc như sau: ”Trước khi quyết định, xin ngài hãy cân nhắc cẩn thận. Vì nếu ngài cải giáo thì không những bị mất tất cả các chức danh và địa vị tinh thần, mà ngay cả lương bổng vật chất hàng năm không còn được hưởng nữa”. Nhưng Newman đã thẳng thắn trả lời họ rằng: ”Tiếc thì tôi cũng có tiếc thật. Nhưng tôi đã suy nghĩ kỹ rồi. Chức vụ, quyền hành và bổng lộc vật chất tuy đáng qúi, nhưng có đáng là gì nếu đem so sánh với những cái tôi nhận được khi tôi trở nên thành viên của Hội thánh Công giáo và tông truyền. Tôi sẽ được lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần qua việc lãnh các bí tích, nhất là được ăn bữa tiệc Thánh Thể. Đó mới thực là bánh đem lại phúc trường sinh”.
Sở dĩ Newman có được suy nghĩ sáng suốt và quyết tâm cao như vậy, là do Ngài được Chúa Thánh Thần soi dẫn và đã thuận theo sự hướng dẫn ấy. Thực vậy, nếu không có ơn Thánh Thần, thì người ta chẳng những sẽ không hiểu nổi các chân lý nói trên, mà sẽ còn tỏ ra khó chấp nhận những lời giảng dạy về mầu nhiệm Thánh Thể, như đám đông dân Do thái tại thành Capharnaum mà Tin mừng hôm nay đã thuật lại.
3. Thánh Thể, nguồn sinh lực dồi dào.
Để có thể tin vào mầu nhiệm Thánh Thể, người ta phải mở rộng tâm hồn trước những mạc khải và quyền lực siêu nhiên. Văn sĩ Charles Péguy đã nói: ”Bí tích Thánh Thể, Bánh Hằng sống, không phải là những chuyện tầm thường ngang tầm tay chúng ta. Phải tìm kiếm vượt trên những gì hữu hình. Không ai đã thấy bao giờ! Vậy để thấy rõ hơn, có lẽ chúng ta sẽ nhắm hẳn mắt lại, tránh mọi sự chia trí trong thế giới hữu hình, để tập trung vào cái “vô hình”.
Người Kitô hữu cũng phải đi ngang qua sa mạc cuộc đời với bao gian nan trở ngại. Chúng ta cũng cần được Chúa nuôi dưỡng để đủ sức đi trọn cuộc hành trình về quê trời đời sau. Vậy chúng ta cần phải ăn thứ lương thực nào? Chúa Cha đã ban cho ta bánh bởi trời là Đức Giêsu (x.Ga 6, 32-33). Đó là Bánh Thánh Thể, được ban để đem lại sự sống đời đời như Ngài đã nói: ”Ta là Bánh hằng sống từ trời xuống. Bánh Ta sẽ ban chính là thịt Ta để cho thế gian được sống (x.Ga 6, 48.51).
Bánh ban Sự Sống còn là Lời Chúa như Đức Giêsu đã nói khi đương đầu với ma qủi cám dỗ: ”Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra”(Đnl 8,3; Mt 4,4). Ngài chính là Ngôi Lời hay lời nói của Thiên Chúa đã nhập thể làm người (Ga1,14) và chỉ mình Ngài mới có những lời mang lại sự sống đời đời (x.Ga 6,68).
Tóm lại, Mình Máu Chúa là của ăn không những nuôi dưỡng linh hồn mà còn tăng thêm niềm tin, lòng yêu mến và hy vọng, giúp chúng ta sống hào hùng, sống tốt đẹp ở đời này và bảo đảm cho chúng ta hạnh phúc trường cửu đời sau. Vậy chúng ta hãy qúy mến phép Thánh Thể và siêng năng rước lễ để lãnh nhận những ơn ích và những hiệu quả cao quý ấy.
13. Những lời thầm thì
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Con đường Hiroshi Igarashi đến với Giáo hội bắt đầu từ trong tù, nơi anh được giới thiệu về Kitô giáo – và nhất là Mẹ Têrêsa thành Calcutta. Anh có lòng sùng kính sâu sắc nữ thánh nhân này kể từ đó, và trong những ngày này anh dọn chỗ trên vách tường căn hộ nhỏ ở Tokyo để treo những bức ảnh của thánh nhân. Một số ảnh trước đây được anh treo trong phòng giam. Thường thì phạm nhân không được phép treo ảnh, nhưng Igarashi nài xin ban quản giáo và cuối cùng được phép. Có tiền án hình sự ba lần và gần 20 năm ngồi tù, Igarashi biết rõ thực trạng và tất cả các vấn đề trong tù.“Nhiều tù nhân bị cô lập và thiếu thốn tình thương. Điều mà những người này cần là có người hỗ trợ họ về mặt tình cảm, nhưng không có ai làm điều đó cả. Vì thế họ cảm thấy tuyệt vọng. Thời gian ở tù chỉ làm họ tổn thương thêm và khiến họ tồi tệ hơn.”
Igarashi nói ra những điều này từ kinh nghiệm của mình vì anh cũng đã từng cảm thấy tuyệt vọng. Khi anh bị bắt giam lần thứ ba, gia đình anh cắt đứt mọi liên hệ với anh. Anh đã nghĩ đến chuyện tự vẫn, nhưng ngay lúc đó có một người Brazil gốc Nhật vui tính bị cảnh sát bắt giam. Người này thường xuyên cầu nguyện và nói về Kinh Thánh cho Igarashi nghe.
Đó là lần đầu tiên Igarashi bắt đầu đọc Kinh Thánh. Anh ấn tượng nhất là câu: “Saolô, Saolô sao ngươi lại bắt bớ ta?“ (Cv 9, 4) Đối với Igarashi, câu này nghe như thể Đức Kitô đang hỏi chính anh: “Sao con phạm tội chống Ta?” Đó là lúc anh trở lại đạo. Anh cầu nguyện hết lòng, lớn tiếng nói: “Con xin lỗi Chúa!”
Anh nhận ra khi Chúa Giêsu chết trên thập giá, Ngài chết thay cho anh trên đó và anh khóc nức nở. Một quản giáo nghĩ anh muốn tự tử, nên đã làm mọi việc có thể để an ủi con người tuyệt vọng này. Igarashi biết Mẹ Têrêsa cũng trong nhà tù, qua một quyển sách anh tình cờ đọc được. Anh lập tức tin rằng “con người này có thật” và muốn đi học hỏi nơi thánh nhân, mãi sau này anh mới biết ngài đã qua đời. May mắn thay, anh có cơ hội gặp được một số tu sĩ dòng Thừa sai Bác ái do ngài sáng lập.
Anh gặp nhiều người khác trong Giáo hội trước khi mãn hạn tù, trong đó có các giám mục, linh mục và nữ tu. Đức cố Hồng y Seiichi S. Hirayanagi mở khóa học giáo lý tân tòng giới thiệu đức tin Công giáo cho anh. Một luật sư Tin Lành đã đứng ra bảo lãnh anh. Khi ra tù, Igarashi bắt đầu biến đức tin thành hành động thực tế bằng cách thành lập Nhà Mẹ. Đức Tổng giám mục Takeo Okada đích thân gửi thư chúc mừng. Trong những ngày này điện thoại bắt đầu reo từ sáng sớm đến suốt ngày, người ta gọi đến hỏi thông tin về Nhà Mẹ. Anh làm việc hết mình, phấn đấu noi theo con đường tình yêu của Mẹ Têrêsa. (Ucanews.com, Câu chuyện của một tù nhân Nhật và Chân phước Têrêsa)
Lời thầm thì của Chúa qua Tin Mừng đã tái sinh anh Hiroshi Igarashi ngay trong ngục tù. Cộng thêm gương chứng nhân của Mẹ Têrêsa đã tiếp sức cho anh cải tà quy chánh, làm lại cuộc đời mới. Câu chuyện của anh minh họa sống động Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, khi Đức Giêsu tuyên bố: “Phàm ai nghe và dón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi.” Nhưng dân Do Thái thời ấy lại thì thầm bất tín, bất bình Lời Chúa. Chỉ vì họ đố kỵ ganh ghét, chỉ vì theo tà tâm, mong đợi Đấng Messia theo khuôn mẫu, thần tượng, một anh hùng giải thoát dân tộc khỏi ách thống trị La Mã, một đại ân nhân hào phóng cho họ thỏa thuê xôi thịt. Không được như ý, họ liền thì thầm ngấm ngầm chống báng Đức Giêsu.
Thầm thì đố kỵ
"Chớ thì ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse sao? Chúng ta đều biết rõ cha mẹ của ông. Vậy làm sao ông lại nói: 'Ta bởi trời mà xuống.” Dân Do Thái tỏ ra phản đối, chống lại Người, không phải không thấy những phép lạ nhãn tiền, hay không phải không được nghe những lời giảng dạy cao quý của Đức Giêsu, mà họ chỉ nại đến một lý do đơn giản đến bất ngờ: lý lịch của Người. Tầm thường, nghèo khó, xuất thân chẳng quyền cao, chức trọng, không danh tiếng, cũng chẳng xuất chúng. Cộng với tánh đố kỵ, ganh ghét, nhỏ mọn, làm sao họ chấp nhận Người trổi vượt họ cả trăm ngàn lần? Sao dám chấp nhận Người là Đấng Messia ngàn đời mơ ước?
Tuy nhiên, họ chỉ dám thầm thì vì danh bất chính ngôn bất thuận. Không dám nói to lên để tranh luận thẳng thắn, vì biết sẽ thua lý, thua tình. Vì ngay các luật sĩ, các tư tế, các thầy Biệt phái Pharisiêu cũng từng bị đuối lý, thua trắng tay, khi công khai tranh luận với Người về luật lệ, giáo lý, và nhất là về Kinh Thánh.
Đức Giêsu trả lời cùng họ rằng: "Các ngươi chớ thì thầm với nhau. Không ai đến được với Ta nếu Cha, là Đấng sai Ta, không lôi kéo kẻ ấy, và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Thiên Chúa đặt vào lòng người từ khi sơ sinh, lương tâm cùng với tình cảm và trí khôn, để phân biệt đâu là sự lành, sự dữ, điều tốt, cái xấu, việc đúng, lỗi sai. Nhân chi sơ tánh bản thiện. Thiên Chúa giao cho mỗi người những vốn liếng cao quý đó, để có thể tự điều chỉnh, như lời ngôn sứ Isaia: “Mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy bảo.”(Is 54, 13)
Theo thời gian, lương tâm có thể thay đổi, biến dạng, lệch lạc vì chịu ảnh hưởng môi trường gia đình, giáo dục và xã hội, nhưng vẫn còn trí khôn có thể phán đoán, nhận biết lý lẽ, sự thật và vẫn còn con tim biết yêu chuộng, thích thú điều tốt lành, lánh xa điều dữ. Nên con người không thể dễ dàng tha hóa, nếu không cố tình sa đọa, cố ý gian tham, bất nhân, độc ác. Vậy chỉ vì sống vị kỷ, kiêu căng, tự phụ, nuông chiều theo ý riêng xác thịt, người ta mới bưng tai, bịt mắt, từ chối lý lẽ, sự thật, đường công chính, mà lìa xa Thiên Chúa, cội nguồn sự sống, tình yêu và lòng thương xót.
Thầm thì tà tâm
Sống trong không gian ba chiều, con người thường bị giam hãm, bị đóng khung trong tầm nhìn hữu hạn, thường hâm mộ những cái hữu hình to lớn, kỳ quan kiến trúc, công trình xây dựng quy mô, đồ sộ, phô trương, choáng ngợp, mà hầu như quên đi những gì bé nhỏ, tầm thường, tự nhiên và gần gũi, thân thiện, như sông biển, núi non, rừng thẳm, thiên nhiên hùng vĩ. Hay không muốn quan tâm, hướng đến những điều quan trọng hơn, cao siêu hơn, linh thiêng và bất biến, như Đấng Tạo Hóa. Vì coi thường, nên người ta không tiếc thương bạc đãi, khai thác, gây ô nhiễm, phá hoại môi trường, để rồi chịu những cơn nổi giận của Mẹ Trái Đất bị xúc phạm, như mưa lũ, lụt lội, sạt lở, hạn hán, sóng thần,…
Con người tham lam khai thác đất đai đến kiệt quệ và sa mạc hóa. Không đoái hoài cho đất đai nghỉ ngơi, tái tạo độ phì nhiêu màu mỡ, như Luật dạy phải tuân thủ Năm Sabbat. (Lv 25, 1-7) Hiện nay, hàng vạn mẫu đất chuyên trồng cây bông bên Trung Quốc bị sa mạc hóa vì quá tận canh, tận thu, phá vỡ cân bằng sinh thái. Vì tà tâm, rủ nhau suy tôn, thờ lạy con bò vàng, thiên hạ bất tuân Lề Luật Thiên Chúa, mới thầm thì bất bình, bác bỏ, lìa xa Lời Chúa.
Ai nghe lời giáo hoá của Cha, thì đến với Ta. Thiên hạ đâu chịu nghe lời răn dạy của Thiên Chúa, nên dĩ nhiên xoay lưng lại Lời Đức Giêsu rao giảng, để bây giờ phải lãnh những hậu quả nhãn tiền.
Thầm thì chống đối
Người ta thầm thì chống báng, cũng chỉ vì cái tôi quá lớn, kiêu căng cao ngất trời xanh, che khuất cả vầng sáng mặt trời rực rỡ, nên tự hóa ra tối tăm, hẹp hòi, hoang tưởng, u mê như ếch ngồi đáy giếng. Chỉ nhìn thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình, thì lại không để ý tới (Lc 6, 41)
Vẫn biết cơ cấu tổ chức nào cũng đều bất cập, bất toàn, kể cả Tòa Thánh Vatican, vẫn biết cá nhân các đấng bậc, từ Giám Mục, Linh mục, Tu sĩ, đến Giáo dân nam nữ, trẻ già, đều là con người, không thể vẹn toàn đức hạnh, thánh thiện, nhưng thiên hạ vẫn nại cớ vào đó để bài bác Nước Chúa. Không những không tin, hay nhẹ tin, hoặc nghi kỵ, bất tuân phục giáo lý Chúa, mà còn báng bổ, đả kích và xúc phạm thô bạo, vì những thiếu sót, những bất cập trong Giáo hội Công Giáo. Ngụy biện, suy diễn, quy nạp những tiểu tiết, chuyện nhỏ, mà vô tình hay hữu ý bác bỏ những điều vĩ đại vô song của đạo Chúa, như Tình Yêu Cứu Chuộc, Lòng Thương Xót bao dung và quảng đại của Thiên Chúa, thì còn gì đáng chê trách hơn?
Chẳng hề chấp nhất những lời thì thầm của thiên hạ bất bình, bất kính, lẫn bất mãn, vụng trộm kích động, phản đối, xúi giục, xúc phạm, Đức Giêsu vẫn điềm đạm dạy bảo toàn dân: “Không một ai đã xem thấy Cha, trừ Đấng bởi Thiên Chúa mà ra, Đấng ấy đã thấy Cha. Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời.
Chớ thì thầm với nhau
Đức Giêsu ôn tồn khuyên, đừng thì thầm đố kỵ, tà tâm hay chống đối, mà hãy hoàn toàn tin cậy và phó thác vào Người, để được ban sự sống. Hơn nữa Người còn tự hiến thân, hy sinh trở nên tấm bánh dưỡng nuôi và che chở con người lữ hành trên đường hy vọng. “Ta là bánh ban sự sống. Cha ông các ngươi đã ăn manna trong sa mạc và đã chết. Đây là bánh bởi trời xuống, để ai ăn bánh này thì khỏi chết.” Lời Chúa và Mỉnh Máu Chúa đã trở nên lương thực trường sinh, bất tử cho những ai đói khát sự công chính, sự thật và sức sống viên mãn.
“Muốn tin, phải nuôi mình bằng Thánh Thể, vì Thánh Thể chứa đựng “mầu nhiệm Đức Tin,” và ban sức mạnh đức tin cho con.” (Đường Hy Vọng, số 373)
Lạy Chúa Giêsu, chúng con đang sống trong một xã hội bát nháo, cơ hội, duy vật, thực dụng, ráo riết chối bỏ và chống báng Thiên Chúa, trong môi trường chỉ biết cúc cung bái thờ lạy cái bụng mà thôi. Kính xin Lời Chúa đến thức tỉnh, cảnh giác, giải thoát chúng con khỏi những tiếng thì thầm êm ái, ngọt ngào quyến rũ đến chết người. Xin ban Thánh Thể đến cải hóa, đổi mới và tăng sức mạnh cho chúng con can đảm dấn thân đi theo Chúa trọn đời.
Lạy Mẹ Maria Thánh Thể, kính xin Mẹ cầu bầu cùng Đức Chúa Thánh Thần soi sáng, chỉ đường dẫn lối chúng con trung kiên đi theo Chúa, thoát khỏi những cạm bẫy của thân xác, thế gian và ma quỷ, đố kỵ, tà tâm, bất mãn giăng lên khắp ngả đường. Amen.
14. Thực phẩm trường sinh
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Khái niệm thực phẩm chức năng (Functional foods *) được người Nhật sử dụng đầu tiên trong những năm 1980, để chỉ những thực phẩm chế biến có chứa những thành phần tuy không có giá trị dinh dưỡng, nhưng giúp nâng cao sức khoẻ cho người sử dụng. Theo Viện Khoa học và Đời sống Quốc tế (International Life Science Institute - ILSI) thì thực phẩm chức năng là những thực phẩm, hay thành phần của chế độ ăn có thể đem lại lợi ích cho sức khoẻ nhiều hơn giá trị dinh dưỡng cơ bản. Thực phẩm chức năng có thể là sản phẩm có nguồn gốc tự nhiên, hoặc là thực phẩm trong quá trình chế biến được bổ sung thêm các chất "chức năng".
Hiện nay các nước phát triển có xu hướng ưa chuộng dùng các TPCN hơn dùng thuốc. Chính vì vậy, đa số các tập đoàn sản xuất thuốc đang chuyển sang sản xuất TPCN và tìm được đối tượng tiêu thụ lớn hơn. Theo dự báo của chuyên gia, thì “thức ăn của con người trong thế kỷ 21 là TPCN”. Thức ăn không chỉ đảm bảo đủ calo, ăn ngon ăn sạch, mà còn phải được bổ sung các hoạt chất sinh học nguồn gốc tự nhiên cần cho sức khỏe và sắc đẹp, không chỉ có tác dụng phòng một số bệnh, mà còn tạo ra cho con người khả năng miễn dịch chống sự lão hóa và điều khiển được chức năng của từng hệ cơ quan trong cơ thể. (Wikipedia)
Dẫu thế, thực phẩm chức năng cũng chỉ có thể giúp con người chậm trễ đến cái chết, chứ không thể giúp vượt qua cái chết. Trong khi Chúa Giêsu lại giới thiệu một thực phẩm đặc biệt, không có gì sánh nổi, để nuôi dưỡng con người chiến thắng sự chết.
1- Bánh Thiên Sai
Trong sách Các Vua, quyển thứ nhất, hình ảnh Tiên tri Elia buông xuôi, chờ chết, được cứu sống bởi bánh từ trời, dẫn tín hữu đến gần với Bánh Từ Trời chánh thức giá trị vô song, đó chính là Đức Chúa Giêsu nhập thế. Người công khai mặc khải: “Tôi là Bánh Hằng Sống. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh nầy là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết.” (Ga 6, 48 – 49)
Với tình yêu vô biên, lòng thương xót hải hà, Chúa Giêsu lấy chính thân mình, tự dâng hiến trở thành lương thực cứu rỗi con người khỏi cái chết mục nát. Hơn nữa, còn ban cho đời sống vĩnh cửu.
2- Bánh Lời Chúa
Lời Chúa cũng được coi là Bánh Hằng Sống như ngôn sứ Amos đã cảnh báo dân Chúa: Ta sẽ gieo nạn đói trên xứ này, không phải đói bánh ăn, cũng không phải khát nước uống, mà là đói khát được nghe lời Đức Chúa. (Am 8, 11)
Bởi vì “Lời Chúa là là ngọn đèn soi cho con bước là ánh sáng đường con đi" (TV 118,115).
Hơn nữa Chính Đấng Thiên Sai còn xác nhận công khai: “Người ta sống không nguyên bởi bánh. Nhưng còn bởi mọi Lời do miệng Thiên Chúa phán ra.” (Mt 4,4)
Những lời khẳng định trên đều cho thấy, Lời Chúa là tấm Bánh không thể nào thiếu trong cuộc đời sống đạo ngày hôm nay, để giao hòa và kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, hầu được cứu rỗi khỏi cạm bẫy thế gian.
3- Bánh Thánh Thể
Trước phong ba sự dữ dồn dập tấn công hiện nay, nhân đức Tin, Cậy, Mến cũng dễ bị chao đảo, sa sút hay khủng hoảng, nếu không có siêu lương thực Mình Máu Chúa dưỡng nuôi, cứu giúp và tăng lực. Bởi chưng chính Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế, đã chính thức công khai tiết lộ cho con người sự hào phóng vô biên: “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.”(Ga 6, 51)
Thánh Thể mặc khải cho trí hiểu biết Mầu Nhiệm nước trời sẽ đến sau này và sát nhập dân Chúa vào Mầu Nhiệm nước trời. Đức Tin không thể tồn tại nơi người Công Giáo sống ngoài Thánh Thể. (ĐHV, 379)
Lạy Chúa Giê su, con xin cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng, vì đã ban cho con Bánh Trường Sinh, để con được sống viên mãn.
Lạy Mẹ Maria, con xin hiệp ý cùng Mẹ trong kinh Magnificat, để tán dương, tri ân Thiên Chúa đã ban cho con lương thực Trường Sinh, hầu vững bước về Quê Trời. Amen.
(*) Functional foods, Food suplement, Alicaments, Nutraceutics.
15. Tin Chúa sẽ được sống muôn đời
Anh chị em thân mến!
Chúng ta không phủ nhận sự kiện có nhiều người muốn chối bỏ Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa mà họ đang nắm giữ chưa phải là Thiên Chúa thật, đó mới chỉ là một phác họa của trí tưởng tượng, một phản ứng của những ước muốn nơi con người. Không chiều theo sở thích của họ thì họ sẽ sẵn sàng chối bỏ. Muốn khám phá ra một Thiên Chúa thật, con người phải tìm về cội nguồn là Đức Kitô, như lời dạy của Ngài qua tường thuật của thánh Gioan trong đoạn Tin Mừng hôm nay.
Thật thế, có nhiều cách nghe và nhiều cách phản ứng trước điều đã nghe. Có người nghe để rồi phê bình chỉ trích, có người nghe rồi chán nản bực mình, nghe để khiếp sợ xa lánh hoặc nghe chỉ vì không có cơ hội để nói. Tất cả các cách nghe này đều không phải là cách nghe mà Chúa Giêsu muốn nhắn nhủ: "Ai nghe và học nơi Cha thì đến với Ta".
Nghe và học là đáp trả đối với tình yêu Thiên Chúa. Vì Lời của Thiên Chúa như mưa tuyết từ trời sa xuống, nó sẽ không trở lên trời lại nếu đã không thấm nhuần đất đai, nếu không làm cho đất đai sinh sản nẩy mầm và cho người gieo có giống cùng cơm bánh cho người ta ăn.
Lời Chúa là lời phát sinh hiệu quả. Hiệu quả ấy không phải là sản phẩm của trí tưởng tượng hoặc kết tinh của ước muốn. Nếu chỉ gặt hái được những kết quả như thế khi tiếp xúc với Thiên Chúa, sớm muộn gì con người cũng sẽ chối bỏ Ngài.
Muốn gặp được Thiên Chúa thật, con người phải đến với Đức Giêsu: "Không ai xem thấy Cha trừ ra Đấng bởi từ Thiên Chúa Cha mà ra. Đấng ấy đã thấy Cha và Đấng ấy cũng là Thiên Chúa".
Tìm đến với Ngài là tìm gặp được Thiên Chúa. Nghe và học ở nơi Ngài không chỉ là việc tiếp nhận từ Ngài các kiến thức khô khan, như các công thức toán học, vật lý hoặc văn chương triết học. Nghe và học ở Ngài là đón nhận cả con người của Ngài. Thân thể Ngài trở nên của ăn, Máu Ngài trở nên của uống nuôi sống trần gian: "Ai đến với Ngài sẽ không hề đói. Ai tin vào Ngài sẽ không hề khát bao giờ".
Con người vẫn còn than trách hoặc chối từ Thiên Chúa, vì họ còn giữ mãi cho mình hình ảnh của một Thiên Chúa do họ nắn tạo ra. Cần phải phá bỏ hình ảnh đó đi, họ mới có cơ may gặp được Thiên Chúa thật. Người Do Thái đã không từ chối hình ảnh của Đấng Cứu Thế theo những gì họ nghĩ tưởng. Thế nên, đứng trước một Đấng Cứu Thế thật, họ cũng chẳng bao giờ gặp được Ngài.
Biệt phái nghe để phê bình, luật sĩ nhìn để bắt bẻ, thì làm sao có thể nghe và nhìn để học hỏi nơi Đức Giêsu. Người tín hữu hôm nay cũng thế, nếu không biết nghe và học, họ sẽ không gặp được Thiên Chúa. Nghe và học đòi buộc họ phải đến với Chúa Giêsu, đến với Ngài đòi buộc họ phải đón nhận Ngài. Vì hiểu biết Thiên Chúa không phải chỉ là mớ kiến thức, nhưng hiểu biết về Ngài là một cảm nghiệm, một đối thoại trao đổi không ngừng.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta vượt qua hình ảnh về Thiên Chúa mà bấy lâu nay mỗi người trong chúng ta đã đúc sẵn cho mình. Có thể đó là một Thiên Chúa nhớ đến lúc nguy nan hoặc như nhãn hiệu gắn bên ngoài để che mắt người đời. Có như thế, chúng ta mới gặp được Thiên Chúa thật, Đấng hằng mong chờ chúng ta đến để sống với Ngài, để hưởng sự sống đời đời bên Ngài. Amen.
16. Bí quyết trường sinh – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’ – Thiên Phúc)
Tần Thủy Hoàng là vị vua Trung Quốc, sống trước Chúa Giáng Sinh khoảng 200 năm. Ông là người đã truyền xây Vạn Lý Trường Thành dài hơn 2.000 dặm. Đó là kiến trúc duy nhất trên trái đất, mà các phi hành gia có thể nhìn thấy từ ngoài không gian. Theo tạp chí National Geographic, Tần Thủy Hoàng rất sợ chết, ông muốn được trường sinh bất tử, nên tìm đủ mọi cách để được cải lão hoàn đồng. Một ngày kia, các chiêm tinh gia kể cho ông nghe về một hòn đảo thần tiên ở biển Đông, dân cư ở đấy đã khám phá ra bí quyết trường sinh.
Tần Thủy Hoàng liền phái một số tàu thuyền chất đầy châu báu lên đường, hy vọng đổi được bí quyết trường sinh. Nhưng dân chúng không đổi cho ông bí quyết trường sinh của họ.
Thế rồi ông lo xây nhà mồ như cung điện nguy nga rộng lớn, lấy châu ngọc làm tinh tú, lấy thủy tinh làm sông Ngân Hà, lấy vàng bạc lát tường và chôn sống hàng trăm cung nữ trong đó, để kiếp sau được sống như thần tiên. Nhưng kẻ tàn bạo ham sống ấy chỉ làm vua được hơn chục năm và sống trên năm mươi tuổi thì chết đi.
***
Trường sinh bất tử là ước mơ ngàn đời của con người. Cứ mỗi lần một người thân giã từ cõi thế, thì ước mơ được sống mãi lại càng dày vò con người dữ dội hơn. Nên không lạ gì khi Đức Giêsu nói về cuộc sống trường sinh thì mọi người tuôn đến như đi tìm kho báu.
Nhưng mầu nhiệm về "Sự sống đời đời" lại rất xa tầm trí mọn của đám dân chúng. Đức Giêsu không giúp họ thoát khỏi cái chết của thân xác, vì chính Người cũng vui lòng chết như mọi người. Nhưng Người cứu họ thoát khỏi cái chết của linh hồn: cái chết vĩnh viễn xa lìa Thiên Chúa và hoàn toàn ly biệt với tha nhân, cái chết đi vào trầm luân muôn kiếp, cái chết dẫn đến cõi tiêu diệt muôn đời.
Cuộc sống vĩnh cửu ấy, hôm nay Đức Giêsu đã mạc khải: "Ta là Bánh ban Sự Sống... Ai ăn Bánh này sẽ được sống muôn đời" (Ga.6,47). Vậy bí quyết trường sinh mà Tần Thủy Hoàng khó nhọc đi tìm kiếm tận các đảo thần tiên, lúc nào cũng hiện diện trước mặt chúng ta, trong mọi thánh đường Công giáo. Chính là Đức Giêsu nguồn mạch trường sinh.
Người đang hiện diện với chúng ta bằng thần trí Người: "Ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Ta, Ta sẽ ở đó với họ" (Mt.18,20).
Người còn hiện diện với chúng ta qua Lời Chúa. Lời mà Người nói cách đây 2000 năm cũng chính là Lời Người đang nói với chúng ta trong tin mừng.
Người hiện diện với chúng ta qua các linh mục trong lúc giảng dạy và trong khi cử hành các Bí tích: "Ai nghe các con là nghe Ta" (Lc.10,16).
Đặc biệt Người hiện diện thực sự với chúng ta trong Bí tích Thánh Thể: "Ta là bánh hằng sống... Ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời" (Ga.6,52).
Như vậy, "Sự sống đời đời" không phải là chuyện viễn vông xa vời, nhưng là một thực tại đang triển nở trong đời sống người tín hữu. Mỗi thánh lễ là một bàn tiệc nuôi dưỡng linh hồn đưa ta về chốn trường sinh.
***
Lạy Đức Giêsu, như Tấm Bánh Thánh xin cho tâm hồn chúng con nên trong trắng, cố xa tránh những ô uế cho dù nhỏ mọn để luôn xứng đáng với Chúa.
Xin cho tâm hồn chúng con nên khiêm hạ nhỏ bé, nhưng luôn bày tỏ một tình yêu lớn lao.
Và cho tâm hồn chúng con luôn kết hợp với Chúa, để được Chúa dẫn vào cuộc sống muôn đời. Amen.
17. Tấm bánh bẻ ra.
Ta là bánh ban sự sống. Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã ban phát và nuôi sống dân chúng ngay khi Ngài còn ở giữa họ, không phải từ những tấm bánh cho bao nhiêu ngàn người ăn để rồi họ cũng chết như tổ tiên họ. Nhưng Ngài đã ban chính mình Ngài cho dân chúng, qua tất cả những phép lạ như một quà tặng cho nhân loại.
Ngài ban chính mình Ngài qua tình thương mà con người thấy được ở lời nói và hành động của Ngài. Ngài đã ban chính mình Ngài qua cái chết trên thập giá như một dấu chứng cho tình yêu, cho chân lý và cho chương trình cứu độ của Ngài. Ngài đã ban tất cả những gì cao quí nhất, cả đến mạng sống cho mọi người, như thế Ngài đã trở nên bánh ban sự sống cho chúng ta. Tình thương, lời Chúa và cuộc sống của Ngài vẫn luôn luôn là nguồn sống cho chúng ta, là động lực cho muôn người nối gót Ngài đi cải tạo thế giới bằng tình thương. Chính vì thế mà những ai sống trong Ngài, tin vào Ngài thì đã có sự sống đời đời. Lẽ tất nhiên, Chúa còn hứa ban chính mình Ngài trong Bí tích Thánh Thể.
Nhưng ở đây chúng ta muốn nói đến Ngài như tấm bánh đem lại sự sống. Ngài là Đấng bị ăn. Thực vậy, trong bữa tiệc ly Ngài đã phán: Các con hãy cầm lấy mà ăn, vì này là mình Ta. Thế nhưng, chúng ta không phải được kết hiệp với Ngài qua Bí tích Thánh Thể, mà còn một cách khác Ngài đã muốn chúng ta dùng để được kết hiệp thực sự với Ngài: Ai yêu mến Ta thì hãy giữ lời Ta. Lời Chúa là bánh ban sự sống cũng có giá trị ngang hàng với bàn tiệc Thánh Thể. Chúa là tấm bánh được ban để cho chúng ta ăn. Và khi chúng ta ăn, chúng ta cũng phải trở thành bánh thịt ngon, để anh em chúng ta có thể ăn. Chúng ta sống bằng tình thương, bằng lời Chúa và bằng chính cuộc sống của Ngài thế nào, thì mọi người chung quanh chúng ta cũng được sống bằng tình thương, bằng lời nói và bằng chính cuộc sống tín hữu của chúng ta như vậy.
Nếu tất cả cuộc đời, lời nói và hành động của chúng ta đều xuất phát một cách chân thành từ tình thương, thì chúng ta sẽ là những tấm bánh thơm ngon cho ngưới anh em. Còn nếu cuộc đời chúng ta chỉ toàn gương xấu, tính ích kỷ, chỉ biết lo đến phần rỗi của riêng cá nhân mình: ai chết mặc ai, miễn là ta lên thiên đàng, thì không ai gọi chúng ta là những tấm bánh được, mà chỉ là một thứ rác rưởi, một thứ cặn bã cần tống đi mà thôi. Chúa là tấm bánh cho ta, thì ta cũng phải là tấm bánh bẻ ra cho những người anh em.
18. Tôi là Bánh từ trời xuống – ViKiNi
(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Chúa nhật trước, Đức Giêsu kêu gọi dân chúng: “Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực hư nát, nhưng để có lương thực trường sinh”. Chúa nhật hôm nay, Đức Giêsu nhấn mạnh đến thứ lương thực đó là bánh từ trời xuống “Tôi là bánh từ trời xuống”.
Rất nhiều dân tộc trên thế giới chủ trương tổ tiên của họ là người từ trời xuống. Đoạn văn về Sáng Thế trong kinh Digha Nykaya của Phật giáo viết như sau: Có ít dân trời hết nghiệp tốt, phải bỏ trời xuống mặt đất. Họ vẫn sáng láng thanh tịnh. Nhưng xảy ra có mấy người tò mò lấy ngón tay động vào vỏ đất rồi đưa lên lưỡi nếm thấy mùi mật ong. Lòng tham thúc đẩy họ bắt đầu ăn vỏ đất. Những người khác thấy vậy cũng ăn vào, nên thân xác trở nên dầy đặc và nặng nề.
Platon, ông tổ triết học Tây phương, cũng cho con người từ trên lý giới sa đọa xuống hạ giới này.
Con người luôn mơ ước được về trời vì họ tưởng tổ tiên họ đã từ trời xuống. Nhưng khi nghe Đức Giêsu nói: “Tôi là bánh từ trời xuống”, người ta lại kêu ca phản đối: “Ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống”. Họ phản đối Đức Giêsu vì họ thấy theo con mắt xác thịt, theo suy nghĩ của loài người hạ giới. Họ giống như Gagarin, anh hùng vũ trụ đầu tiên, bay lên không gian ngày 12 tháng 04 năm 1961. Khi trở về trái đất, ông tuyên bố: “Tôi không thấy thiên đàng đâu cả”. Cũng như bác sĩ giải phẫu bệnh nhân, chỉ thấy ruột, tim, gan, phổi mà không thấy tâm tình, ý chí, trí khôn, lương tri, trí thức và nhất là linh hồn đâu cả.
Lối nhìn này gọi là quan sát thực nghiệm, nghĩa là chỉ thấy cái nhìn thí nghiệm, cân đo, đụng chạm được bằng mắt, tai, tay, chân, mũi. Ngoài ra, không thấy gì khác nữa, nên cho là không có.
Người Do thái cũng biết Đức Giêsu theo lối nhìn xác thịt. Họ chỉ thấy Người là con ông Giuse và bà Maria, sống ở thôn ấp nhỏ bé. Nếu họ thấy hơn chút nữa, thì họ cũng chỉ ngạc nhiên thấy Người làm cho kẻ què được đi, kẻ mù thấy được, kẻ câm nói được, kẻ điếc nghe được, kẻ chết sống lại và chính họ là kẻ đói được ăn no nê. Có thế thôi. Họ không thể thấy gì thiêng liêng, cao siêu qua những việc lạ lùng đó. Cùng lắm, họ coi Người là một tiên tri như Êlia được thiên thần đưa bánh cho ăn, hay là kẻ chết sống lại mới làm được những sự lạ ấy.
Họ không thể thấy Người từ trời xuống, thấy Người được Chúa Cha sai đến, thấy Người là Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể trong lòng Đức Maria bởi phép Chúa Thánh Thần, thấy các thiên thần hát mừng Người lúc sinh ra trong hang lừa, thấy được tiếng Đức Chúa Cha phán: Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng, khi Đức Giêsu chịu phép rửa của ông Gioan tẩy giả.
Họ không thấy được Đức Giêsu từ trời xuống vì lòng họ ra chai đá, không còn cảm động theo ân huệ lôi kéo của Đức Chúa Cha, không còn nghe lời Chúa Cha dạy dỗ dù hết mọi người được Thiên Chúa dạy dỗ như sách các Ngôn sứ đã chép. Thiên Chúa lôi kéo, Thiên Chúa dạy dỗ, Thiên Chúa đề nghị, nhưng rồi ta không nghe, không đáp lại, không hiệp thông. Người ta có tự do, có quyền từ chối, tự do của họ đã chiều theo cái bụng, cái mắt, cái tai, cái dục. Chừng nào họ diệt được tham, sân, si thì lòng mới trong sạch, mắt mới sáng lên, tai mới thính ra, lúc đó, họ mới sống đức tin, mới thấy được bánh từ trời xuống, họ mới rước được bánh trường sinh và được sống đời đời.
Mỗi Thánh lễ đều nói với chúng ta: “Tôi là bánh từ trời xuống” “Này là Mình Thầy, này là chén Máu Thầy”. Thánh lễ chẳng có gì hấp dẫn những con mắt no nê phim ảnh, những cái bụng say sưa ăn nhậu. Thánh lễ chẳng có gì làm hồi hộp rung động những con tim mê đắm xác thịt, những lòng trí miệt mài tiền của, danh vọng.
Thánh lễ chỉ cảm hóa những con người chân thành, những tấm lòng khao khát lương thực trường sinh. Thánh lễ chỉ hấp dẫn những ý chí quyết tin theo lời Thiên Chúa, những tình yêu sốt sắng hy sinh lấy thịt mình cho người khác ăn.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con đôi mắt sáng để nhìn thấy bánh từ trời xuống. Xin cho con đôi tai tinh tường để lắng nghe lời hằng sống. Xin cho con một ý chí mạnh mẽ để ra sức làm việc của Thiên Chúa và một trái tim nhạy cảm trước tình thương lấy thịt mình nuôi sống chúng con đời đời.
19. Bánh bởi trời – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
Cuộc đời tiên tri Êlia là một cuộc chiến đấu anh dũng và kiên cường. Một mình người phải chiến đấu chống lại cả một dân tộc bỏ đạo do hoàng hậu Dêdaben cầm đầu. Người khiển trách dân chúng vì họ đã nghe theo hoàng hậu mà bỏ Chúa. Người thách thức 400 sư sãi của thần Baan trong một cuộc dâng của lễ cầu mưa. Người đã chiến thắng. Nhưng chính vì chiến thắng. Người bị hoàng hậu săn đuổi, phải chạy trốn vào sa mạc. Hôm nay, đói khát đến lả người, vị tiên tri dũng mãnh rồi cũng cảm thấy mệt mỏi rã rời. Người mất hết sức lực thể chất lẫn tinh thần. Chẳng thiết sống, người xin Chúa cất người ra khỏi thế gian phiền nhiễu đầy bất trắc. Người mất hết sức phấn đấu. Người chỉ muốn an nghỉ trong Chúa. Nhưng Chúa sai thiên thần đem bánh cho người. Ăn được bánh bởi trời, tiên tri mới đủ sức vượt qua sa mạc, sau cùng đi tới núi của Thiên Chúa.
Tương tự như thế, đời sống ta cũng là một chuyến đi về nhà Thiên Chúa. Để đến với Thiên Chúa, ta phải vượt qua sa mạc cuộc đời đầy chông gai cạm bẫy. Đường đi rất xa và rất khó khăn. Những chiến đấu có thể sẽ khiến ta mệt mỏi rã rời. Ta sẽ chẳng đủ sức đi trọn con đường nếu không được nâng đỡ, an ủi. Để giúp ta đủ sức chiến đấu và đi trọn con đường khó khăn thử thách tiến về nhà Cha. Thiên Chúa đầy tình yêu thương đã ban cho ta tấm bánh bởi trời. Tấm bánh bởi trời mà Chúa Cha ban cho ta chính là Đức Giêsu Kitô, người Con duy nhất của Người. Món quà của Chúa Cha ban được thực hiện dưới hai hình thức: Lời Chúa và Phép Thánh Thể.
Đức Giêsu Kitô là Lời Ban Sự Sống của Thiên Chúa. Lời Thiên Chúa là Lời Ban Sự Sống. Chính Đức Giêsu đã khẳng định điều này khi Người trả lời ma quỉ cám dỗ: “Người ta sống không nguyên bởi bánh. Nhưng còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra”. Thật vậy, chính Lời Chúa làm cho sự sống xuất hiện. Nhờ Lời quyền năng của Thiên Chúa, vũ trụ được tạo thành. Lời Chúa là lẽ sống của Đức Giêsu, nên trọn đời Người luôn đi tìm thực hiện thánh ý Chúa Cha: “Lương thực của Thầy là làm theo ý Đấng sai Thầy”. Xưa kia, Thiên Chúa nói qua trung gian các tổ phụ và các tiên tri. Nay, Đức Giêsu là Lời của Thiên Chúa trực tiếp nói với nhân loại. Lời Người ban sự sống cho Ladarô, cho con trai bà góa thành Naim. Lời Người tha thứ tội lỗi cho Mađalêna, cho người phụ nữ ngoại tình, cho Giakêu. Lời Người hoán cải người phụ nữ xứ Samaria. Người đưa tất cả những người tội lỗi trở về con đường sự sống. Lời Người đã giúp cho bao thế hệ tìm thấy lẽ sống. Lời Người ban cho họ một sự sống mới, tươi trẻ, phong phú, dồi dào hơn. Chính vì thế, thánh Phêrô đã lên tiếng tuyên xưng: “Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết đi theo ai. Chỉ Thầy mới có những Lời ban sự sống đời đời”.
Ban Lời hằng sống chưa đủ với tình yêu thương của Người, Đức Giêsu còn ban cho ta chính bản thân Người trong bí tích Thánh Thể. Thật là một tình yêu sâu xa tha thiết. Khi nuôi dưỡng ta bằng chính thịt máu Người, Đức Giêsu không những muốn kết hiệp mật thiết với ta trong từng thớ thịt, từng dòng máu, mà Người còn muốn ban cho ta sự sống đời đời. Bí tích Thánh Thể là lương thực thần linh. Lương thực thần linh ban sự sống thần linh. Qua bí tích Thánh thể, sự sống thần linh dần dần thấm nhập bản thân ta. Đây là một tiến trình thần hóa chầm chậm. Ta trở nên một thân thể với Đức Giêsu. Ta sống cùng sự sống của Người, sự sống đời đời trong hạnh phúc của Thiên Chúa.
Thánh lễ chính là bữa tiệc trong đó Thiên Chúa dọn ra hai bàn tiệc. Bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể. Cả hai bàn tiệc cũng đều là chính Đức Giêsu. Trong thánh lễ, ta nghe lời Chúa dạy dỗ ta. Lời Chúa chỉ cho ta con đường ngay thẳng, con đường hạnh phúc, con đường đưa ta về với Chúa. Thánh Thể Chúa ban sức mạnh giúp ta đủ sức đương đầu với những khó khăn thử thách của cuộc đời. Bởi thế, khi tham dự thánh lễ, ta cần lưu ý lắng nghe Lời Chúa. Chúa muốn nói riêng với từng người. Hãy lắng nghe để tìm ra điều Chúa muốn nhắn gửi. Hãy lắng nghe để tìm ra lẽ sống. Hãy lắng nghe để biết con đường phải đi. Lời Chúa là con đường đưa tới sự thật và sự sống.
Hãy rước lễ một cách kính cẩn sốt sắng. Phép Thánh Thể chính là một quà tặng của tình yêu Thiên Chúa. Hãy hưởng nếm sự ngọt ngào được kề cận Thiên Chúa. Hãy múc lấy nơi Thánh thể nguồn sức mạnh để thắng vượt những thử thách trong cuộc đời. Hãy để Thánh Thể uốn nắn, biến đổi ta để ta ngày càng nên giống Người hơn. Hãy nếm cảm hương vị thiên đàng ngay khi còn tại thế.
Lạy Chúa là Cha vô cùng yêu thương, con cảm tạ Cha đã ban cho con chính Con Một yêu quý của Cha làm bánh trường sinh nuôi dưỡng và đưa chúng con vào sự sống đời đời.
20. Lời và Thánh Thể giúp ta sống giống Chúa
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Phim Hàn Quốc ‘Cuộc Đời Lớn’ kể rằng trong một đất nước văn minh giàu có, có 2 gia đình ông Chô-bin-son trí thức giàu có, gia đình Quan-ti-súp cũng giàu có, trí thức. Ấy thế chẳng hạnh phúc gì, cha con thù hằn, đòi giết nhau chẳng còn tính người. Có người nói rằng phim ảnh chỉ là hư cấu mà thôi không có ở ngoài đời. Không! Có tích mới dịch ra tuồng chứ! Cụ thể, theo thống kê của trang điện tử www.tin24.com cho biết mỗi ngày Việt Nam có trung bình mỗi ngày có hơn 1.300 thai nhi bị giết hại, mỗi ngày hơn 35 người chết vì tai nạn giao thông, mỗi ngày có thêm 50 - 100 người nhiễm AIDS, và mỗi ngày những vụ án hình sự lại nhiều trò man rợ kinh hoàng hơn…Như vậy, con người có còn là "nhân chi sơ tính bản thiện" hay đã bị thoái hóa mất tính người? Tại sao hằng ngày con người đang phải đối đầu với bao cái ác hoành hành làm mất đi luân thường đạo lý, tại sao lại dễ dàng làm điều xấu, hại người hơn là làm điều tốt? Tại sao con người văn minh như thế đáng lý ra phải cứu sống thay vì giết chết?
Con người là hình ảnh Thiên Chúa. Con người vượt lên trên muôn loài muôn vật vì "Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy, ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo,đặt muôn loài muôn sự dưới chân” (Tv 8,6-7). Như vậy, con người có tương giao với Thiên Chúa, và với nhau. Con người bởi Thiên Chúa mà ra, mà Thiên Chúa là toàn chân, toàn thiện và toàn mỹ. Cho nên, chúng ta phải giống Chúa về thiện và mỹ. Nhưng cuộc đời đầy khó khăn và gian khổ, con người luôn bị cám dỗ bởi dục vọng, dục tính. Vì con người chẳng thua kém thần linh là mấy cho nên chúng ta phải chiến đấu để cuộc sống này bình an và lành thánh và mai sau được hạnh phúc sống đời đời với Chúa. Vậy, để giúp ta đủ sức chiến đấu và đi trọn con đường khó khăn thử thách này, Thiên Chúa đã ban cho dân Ít- ra-en khi xưa và chúng hôm nay chính là Tấm Bánh bởi trời, đó chính là Đức Giêsu Kitô, cụ thể hơn là Lời Chúa và Thánh Thể.
Đức Giêsu Kitô là Lời Ban Sự Sống của Thiên Chúa. Chính Đức Giêsu đã khẳng định điều này khi trả lời ma quỉ cám dỗ Ngài: “Người ta sống không nguyên bởi bánh. Nhưng còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4). Thật vậy, chính Lời Chúa làm cho sự sống xuất hiện. Lời Chúa tạo thành vũ trụ. Lời Chúa đem lại sự sống cho Ladarô, cho con trai bà góa thành Naim. Lời Chúa tha thứ tội lỗi cho Mađalêna, cho người phụ nữ ngoại tình, cho Giakêu. Lời Chúa hoán cải người phụ nữ xứ Samaria. Lời Chúa đưa tất cả những người chết trong tội lỗi trở về sống trong thánh thiện. Lời Chúa giúp cho bao thế hệ tìm thấy lẽ sống cho đời mình. Và Lời Chúa ban ban lại cho con người có một sức sống mới, tươi trẻ, phong phú, dồi dào hơn. Chính vì thế, Chúa Giêsu hôm nay mời gọi rằng: “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi” (Ga 6,44-45).
Ban Lời hằng sống chưa đủ với tình yêu thương của Người, Đức Giêsu còn ban cho ta chính bản thân Người trong bí tích Thánh Thể. Khi nuôi dưỡng ta bằng chính thịt máu Người, Đức Giêsu không những muốn kết hiệp mật thiết với ta trong từng thớ thịt, từng dòng máu, mà Người còn muốn ban cho ta sự sống đời đời. Bí tích Thánh Thể là lương thực thần linh. Lương thực thần linh ban sự sống thần linh. Qua bí tích Thánh thể, sự sống thần linh dần dần thấm nhập bản thân ta và ta trở nên một thân thể với Đức Giêsu. Từ đây, ta sống cùng sự sống của Người đồng thời có cùng tư tưởng, lời nói và hành động như Chúa. Cho nên, Thánh Phaolô trong bài đọc 2 dạy rằng: “Anh em chớ làm phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa, vì chính Người là dấu ấn ghi trên anh em, để chờ ngày cứu chuộc. Đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thoá mạ, và hãy loại trừ mọi hành vi gian ác. Trái lại, phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Ki-tô” (Ep 4,30).
Mỗi Thánh lễ, Chúa ban cho ta Lời Chúa và Thánh Thể Ngài. Lời Chúa chỉ cho ta con đường đưa đến hạnh phúc, bình an, yêu thương và sự sống. Khi rước Thánh Thể Chúa vào lòng, ta được kết hiệp mất thiết với Ngài, xóa bỏ tội nhẹ và giúp ta xa tránh tội trọng. Thế nhưng, chúng ta đời sống chúng ta phải luôn kết hiệp với Chúa thật sự không chỉ qua Bí tích Thánh Thể, mà còn ở Lời Chúa. Lời Chúa là bánh ban sự sống cũng có giá trị ngang hàng với bàn tiệc Thánh Thể. Chúa là tấm bánh được ban để cho chúng ta ăn. Và khi chúng ta ăn, chúng ta cũng phải trở thành bánh thịt ngon, để anh em chúng ta có thể ăn. Chúng ta sống bằng tình thương, bằng lời Chúa và bằng chính cuộc sống của Ngài thế nào, thì mọi người chung quanh chúng ta cũng được sống bằng tình thương, bằng lời nói và bằng chính cuộc sống tín hữu của chúng ta như vậy.
Nếu tất cả cuộc đời, lời nói và hành động của chúng ta đều xuất phát một cách chân thành từ tình thương, thì chúng ta sẽ là những tấm bánh thơm ngon cho ngưới anh em. Còn nếu cuộc đời chúng ta chỉ toàn gương xấu, tính ích kỷ, chỉ biết lo đến phần rỗi của riêng cá nhân mình: ai chết mặc ai, miễn là ta lên thiên đàng, thì không ai gọi chúng ta là những tấm bánh được, mà chỉ là một thứ rác rưởi, một thứ cặn bã cần tống đi mà thôi. Vì vậy, Lời Chúa trong bài đọc 2 Thánh Phaolô dạy chúng ta rằng: “Hãy bắt chước Thiên Chúa, vì anh em là con cái được Người yêu thương, và hãy sống trong tình bác ái, như Đức Ki-tô đã yêu thương chúng ta, và vì chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt. Chuyện gian dâm, mọi thứ ô uế hay tham lam, thì dù nói đến, anh em cũng phải tránh, như thế mới xứng đáng là những người trong dân thánh. Đừng nói lời thô tục, nhảm nhí, cợt nhả: đó là những điều không nên; trái lại, phải tạ ơn Thiên Chúa thì hơn” (Ep 5,1-4).
Lạy Chúa là Cha vô cùng yêu thương, con cảm tạ Cha đã ban cho con chính Con Một yêu quý của Cha làm bánh trường sinh nuôi dưỡng và đưa chúng con vào sự sống với Chúa ngay ở đời này và đời sau nữa. Amen.
21. Không dừng lại, không chấm dứt – Achille Degeest.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’).
Diễn từ của Chúa Giêsu về bánh ban sự sống hấp dẫn chúng ta vì sức mạnh của những lời quả quyết và đồng thời cũng làm cho chúng ta phân vân về sự cô đơn mà Chúa Giêsu đã tạo ra chung quanh Người vì những lời quả quyết đó. Người ta tự hỏi tính chất cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và các người Do thái thực ra như thế nào?. Một điều hiển nhiên là những người Do thái không thể vươn lên tới trình độ của Chúa Giêsu hiện hữu và từ đó Người nói. Chúa Giêsu đã làm phép lạ cho bánh hoá nhiều. Ngay lúc ấy, người Do thái chú ý đến Chúa, nhưng không phải là để đi theo vị sứ giả của Thiên Chúa, họ chỉ muốn trưng dụng Chúa vào mục đích tư lợi là thoả mãn các ước vọng thế tục của họ. Dụng tâm sâu sắc của họ ngược hẳn lại với dụng ý của Chúa Giêsu. Họ, họ muốn kéo Chúa về với họ trong địa hạt trần thế, còn Chúa Giêsu, Người lại muốn đưa họ lên cao đến trình độ Thiên Chúa. Trong công việc này, Chúa không áp dụng chính sách ngoại giao. Người quả quyết Người là ai, dầu cho dân Do thái chỉ muốn nhìn nhận nơi Người là người mà họ biết cha và mẹ, theo lời họ nói.
Để suy gẫm, chúng ta có thể từ bối-cảnh đó rút tỉa ra hai điều đặc biệt sau đây:
1) ‘Không ai đến được với Ta, nếu Cha là Đấng đã sai Ta, không lôi cuốn nó’.
Cần phải hiểu rõ lời ấy của Chúa Giêsu. Nó không có nghĩa là trong xã hội loài người, Thiên Chúa lôi kéo một số người này, gạt bỏ một số người khác. Thiên Chúa muốn cho hết thảy được cứu rỗi. Ngay từ lúc khởi sự, Thiên Chúa không tiên thiên chọn phần này của nhân loại và bỏ rơi phần kia. Người đã đặt vào thâm tâm mỗi người, bản năng nội tại, luôn hướng họ về với số mệnh mà con người tạo dựng. Bản năng thiêng liêng ấy mang nhiều hình thức, và chỉ có Thiên Chúa biết lúc nào trong cuộc đời con người, nó sẽ chỗi dậy trong lương tâm mỗi cá nhân. Chúng ta chỉ cần nhớ rằng hết thảy mọi chúng sinh-dầu cho có kẻ sống trên trần gian chỉ vỏn vẹn một giây phút-cũng đều được kêu gọi trở nên con Chúa. Ơn gọi ấy luôn diễn ra bên trong 1 cuộc gặp gỡ với Đức Kitô. Lời Chúa Giêsu phán ở trên có nghĩa là loài người tự mình bất lực để tiến đến cùng Chúa Giêsu, hết thảy không trừ một ai, phải nhờ Chúa Cha dẫn dắt mới đến được cùng Chúa Giêsu. Không ai đến cùng Đức Kitô do sáng kiến nhân-loại, nhưng mọi người chỉ có thể đến với Đức Kitô nhờ Chúa Cha. Mầu nhiệm của cuộc gặp gỡ giữa Đức Kitô với mỗi người, nói riêng không thể nào hiểu thấu được. Đối với chúng ta là những kẻ tin vào Chúa Giêsu Kitô, vấn đề được đặt ra là phải lo đi sâu vào đức tin. Nhưng bằng cách nào?
2) ‘Ai nghe và học lấy giáo huấn của Cha, thì đến cùng Ta’.
Chúng ta cần lưu ý, Chúa Giêsu phán các lời đóở thì hiện tại, chớ không phải ở thì đã qua. Vấn đề không phải là đã được nghe, đã được giác ngộ và đã đến được với Đức Kitô, sau đó mục tiêu được đạt tới. Đây là một thực- tế hiện hữu mà chúng ta phải bành trướng không ngừng. Điều quan trọng là hằng ngày chúng ta phải ở trong tình trạng nghe giáo huấn của Chúa Cha, học hỏi Lời Người và tiến đến cùng Chúa Giêsu.
Việc Chúa Giêsu đến với chúng ta trong đời sống là một thời sự nội tâm luôn luôn hành động, không hề dừng lại, không chấm dứt. Cũng vậy, hành động của chúng ta tiến tới Chúa Giêsu, cuộc ‘gặp gỡ với Chúa Giêsu’, đức tin, sự kết hiệp của chúng ta với Người, là một sự tiến bộ sống động luôn luôn vươn tới sự gia tăng về đức tin, về sự kết hiệp với Chúa. Vậy tìm đâu ra sinh lực nội tại để nuôi dưỡng sự tiến bộ tới cùng Chúa Giêsu?. Xin thưa, phải tìm nơi Bánh hằng sống, tức Thánh Thể.
22. Hãy đến với Chúa Giêsu, Bánh Hằng Sống
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Khởi đi từ phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng, phụng vụ Lời Chúa các tuần tiếp theo giúp chúng ta đọc lại hầu như toàn bộ chương 6 Tin Mừng theo thánh Gioan. Đây là cơ hội để khám phá con người Chúa Giêsu, Bánh Hằng Sống, sức mạnh của Lời Chúa, ý nghĩa của Mầu Nhiệm Thánh Thể. Mỗi Chúa nhật một khía cạnh khác nhau. Từ Bánh Bởi Trời là Chúa Giêsu đến Bánh Ban Sự Sống, Tấm Bánh Thánh Thể và Bánh Lời Chúa.
Tin Mừng hôm nay tiếp tục quảng diễn cho chúng ta bầu không khí tại quê nhà của Chúa Giêsu và thái độ của những người đồng hương đến nghe Chúa giảng. Sau khi đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, kèm theo lời giải thích cho dân chúng về ý nghĩa của "dấu chỉ" ấy xong, Chúa Giêsu tuyên bố: “Ta là hằng sống bởi trời mà xuống” (Ga 6,51). Câu này khiến cho những cùng quê với Chúa Giêsu sửng sốt. Họ đâu có đón nhận Lời này. Họ coi đó là gương mù gương xấu. Họ lẩm bẩm với nhau, bới lông tìm vết: "Chớ thì ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse sao? Chúng ta đều biết rõ cha mẹ của ông. Vậy làm sao ông lại nói: 'Ta bởi trời mà xuống" (Ga 6,42). Cuộc sống của Chúa Giêsu rất đỗi bình thường giữa người làng xóm, thường đến nỗi khiến người ta vấp phạm vì lời Người. Thấy họ lẩm bẩm, Chúa Giêsu nói: "Các người chớ thì thầm với nhau. Không ai đến được với Ta nếu Cha, là Đấng sai Ta, không lôi kéo kẻ ấy", và Người thêm: "Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời" (Ga 6, 44.47).
Người Cha mà Chúa Giêsu nói với họ không ai nhìn thấy bao giờ là người cha nào? Bánh từ trời xuống là bánh gì mà người ta ăn vào sẽ sống đời đời? Trong khi đó, manna của ăn trong sa mạc, cha ông họ đã ăn và đã chết thì Chúa phủ nhận, nay tuyên bố: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời" (Ga 6, 51). Thịt của Chúa có thể là thức ăn cho con người được không? Sự chống đối mà Chúa Giêsu đã gieo vào giữa những người Do Thái cũng có thể áp dụng cho chúng ta ngày hôm nay nếu chúng ta không trả lời được câu hỏi căn bản "Chúa Giêsu là ai?" trong đời sống kitô giáo của mình.
Trước chúng ta, nhiều người nam cũng như nữ đã tự đặt ra cho mình câu hỏi này, và cá nhân họ đã có câu trả lời, họ đã đến với Chúa, đi theo Chúa và tận hưởng một cuộc sống vô tận tràn đầy tình yêu như Chúa hứa: "Và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết" (x. Ga 6, 44). Juan Casiano đã nói với các môn đệ mình rằng, "Hãy đến gần Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ đến gần anh em vì 'không ai đến được với Ta nếu Cha, là Đấng đã sai Ta không lôi kéo kẻ ấy'". Lời mời gọi của Chúa trong Tin Mừng vẫn thúc bách chúng ta hôm nay, "Hãy đến với Ta, tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồ dưỡng" (Mt 11,28).
Những lời này không chỉ dành cho một số người, không, Chúa nói những lời ấy là dành cho tất cả mọi người, những ai đang mệt mỏi với gánh nặng, những ai cảm thấy mình bị loại ra khỏi lời mời gọi của Chúa. Chúa thấu hiểu cuộc sống này nặng tới mức độ nào và Chúa còn thấy bao điều mệt mỏi trong tâm hồn chúng ta như: thất vọng, vết thương trong quá khứ, lầm lỗi trong hiện tại, những bất định và lo âu về tương lai. Chúa mời gọi chúng ta: "Hãy đến! ".
Đón nhận Lời Chúa, chúng ta hãy năng đến với Chúa Giêsu mỗi ngày và đi vào trong sự hiệp thông thân tình với Chúa, ăn thịt Chúa, vì như Orgene nói: "Của ăn đích thực là mình Chúa Kitô, Đấng là Ngôi Lời, nhập thể làm người giữa chúng ta". Hãy đến với Chúa Giêsu, vì chính Người là Đấng được Chúa Cha đã sai vào thế gian làm Lương thực trường tồn, và vì điều này mà Chúa Giêsu đã hiến tế mạng sống mình, hiến trao thịt và máu Người làm của ăn cho chúng ta.
Vì thế, trong Bí Tích Thánh Thể, Chúa Giêsu luôn đồng hành với chúng ta, những người đang lữ hành trên bước đường dương thế để nuôi dưỡng đức tin, niềm hy vọng và lòng bác ái nơi mình, như xưa Người đã đồng hành với các môn đệ trên đường Emmaus. Hơn nữa, Chúa Giêsu Thánh Thể sẽ an ủi chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, nâng đỡ và hướng dẫn chúng ta đạt tới chân lý và bình an. Mỗi khi chúng ta đón nhận Chúa Giêsu trong Bí Tích Thánh Thể, chúng ta được nuôi dưỡng trong đức tin, đức cậy và đức mến; an ủi chúng ta giữa những thử thách của cuộc đời.
Được Chúa Giêsu Thánh Thể nuôi dưỡng, cũng có nghĩa chúng ta phải từ bỏ chính mình, để đặt niềm tin nơi Chúa và để cho Chúa hướng dẫn. Bằng cách ấy, tình yêu nhưng không mà chúng ta nhận nơi Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể với tác động của Chúa Thánh Thần, sẽ nuôi dưỡng lòng mến Chúa và tình yêu thương mà chúng ta dành cho từng anh chị em mà chúng ta gặp gỡ trên mọi bước đường đời. Được nuôi dưỡng bởi Thân Mình Chúa Kitô, chúng ta ngày càng trở nên thân thiết hơn và cụ thể hơn với Thân Thể nhiệm màu của Chúa Kitô là chính Hội Thánh.
Lạy Đức Nữ Trinh Maria, Mẹ luôn hiệp thông mật thiết với Đấng là Bánh Hằng Sống, xin giúp chúng con tái khám phá vẻ đẹp của Bí tích Thánh Thể, là bí tích nuôi dưỡng đời sống đức tin, để chúng con biết sống mật thiết với Chúa và với anh chị em đồng loại. Amen.
23. Sẽ trường sinh nếu ăn Bánh Giêsu
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Ngoài sống vui, sống khỏe, sống hạnh phúc, con người ở mọi nơi mọi thời vẫn hằng khao khát sống sống trường sinh bất lão. Vì khát khao vậy, nên người ta ra công tìm mọi cách để kéo dài sự sống bao nhiêu có thể. Hôm nay, Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta một thứ lương thực trường tồn là chính Chúa: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời” (Ga 6, 51).
Bánh trong sa mạc
Trên hành trình về Đất Hứa, qua sa mạc Sin, giữa Êlim và Sinai, dân Israel nổi loạn kêu trách Môsê đã dẫn họ ra khỏi Ai Cập để vào đây phải chết đói (x. Xh 16,3). Môsê đã xinThiên Chúa ban cho Manna từ trời xuống làm của ăn dòng dã 40 năm trường (x. Xh 16, 1- 36).
Đến lượt Êlia, người Tisbê, ở Galaad, sứ ngôn của Thiên Chúa, trong thời kỳ hạn hán không có mưa, có sương, Thiên Chúa đã dùng quạ ở thung lũng Cơrít và bà góa thành Xarépta nuôi ông (x. 1V 17, 1-15). Và trong cuộc hành trình đến núi Horeb của Thiên Chúa, ngài đã dùng chính Thiên Thần mang bánh đến cho ông ăn, nhờ “sức của nuôi ấy, ông đi bốn mươi ngày bốn mươi đêm mới tới Horeb, núi của Thiên Chúa” (1V 19, 8).
Cho dù là Manna từ trời xuống nuôi dân Israel trong sa mạc, hay bánh Thiên Thần mang đến cho Êlia nuôi sống người ta 40 ngày cùng lắm là 40 năm đi nữa, thì những thứ bánh đó cũng chỉ nuôi sống con người cách rất tạm bợ, kẻ ăn những thứ bánh ấy vẫn đói, vẫn khát và vẫn phải chết. Hôm nay, Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta bánh bởi trời xuống là chính Chúa, Người đến làm no thỏa cái đói tinh thần con người, ai ăn chính Người sẽ khỏi đói muôn đời, và nhất là khỏi chết đời đời.
Bánh Giêsu
Thật không phải dễ để giúp những người Do thái thời Chúa Giêsu đón nhận Chúa là Bánh Hằng Sống, thứ bánh họ cần thiết phải kiếm tìm, và ăn không phải nhằm thỏa mãn thể lý trong một thời gian, nhưng còn để sống vĩnh viễn. Chính vì thế, từ phép lạ hóa bánh ra nhiều làm thỏa mãn cái đói thể xác của họ một cách lạ lùng, Người chuẩn bị họ đón nhận lời loan báo, Người chính là bánh từ trời xuống (x. Ga 6, 41) làm thỏa mãn một cách vĩnh viễn:“Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời” (Ga 6, 51).
Trong hành trình dài nơi sa mạc, toàn dân Do thái đã sống kinh nghiệm Manna, bánh từ trời xuống dưỡng nuôi họ cho tới khi vào đất hứa. Thật đáng ngưỡng mộ Thiên Chúa đã làm mưa Manna từ trời xuống mỗi ngày cho cha ông chúng họ ăn no thỏa thích. Đó là lý do tại sao người ta nói: “Bánh Thiên Thần phàm nhân được hưởng” (Tv 77, 25). Tuy nhiên, những người ăn bánh này trong sa mạc đều đã chết. Nay, Chúa Giêsu là bánh đích thực do Thiên Chúa Cha ban xuống từ trời, ai ăn sẽ khỏi phải chết muôn đời, bánh đó chính là thân mình Chúa Giêsu, Người quả quyết: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời”(Ga 6, 51). Chúa Giêsu là bánh từ trời xuống, là hồng ân bởi trời, là chính Chúa ngự trên các tầng trời, có khả năng duy trì sự sống không phải chỉ trong một lúc hay một đoạn đường, mà luôn mãi. Người là lương thực ban sự sống vĩnh cửu, bởi vì Người là Con Một Thiên Chúa, ở cung lòng Thiên Chúa Cha, đến để trao ban cho con người sự sống tràn đầy, dẫn con người vào trong chính sự sống của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã thất bại, gặp phải điều cấm kỵ trong dân Israel khi tuyên bố:“Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống” (Ga 6, 51). Người dẫn chứng: “Cha ông các ngươi đã ăn Manna trong sa mạc và đã chết”, khiến họ kêu trách: “Chớ thì ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse sao? Chúng ta đều biết rõ cha mẹ của ông. Vậy làm sao ông lại nói: ‘Ta bởi trời mà xuống”(Ga 6, 42). Họ không vượt qua được các nguồn gốc trần gian, và vì thế họ khước từ tiếp nhận Chúa Giêsu như Lời nhập thể của Thiên Chúa. Và như một hệ quả, họ đã mang án tử để đi vào cõi chết vì không tin. Họ còn quá xa bánh bởi trời và không cảm thấy đói bánh ấy.
Phần chúng ta giờ này đây phải tự hỏi xem chúng ta có thật sự tin Chúa là bánh hằng sống, có cảm thấy đói Lời Chúa, đói bánh Giêsu không? Nếu chúng ta cảm thấy đói thực sự, chúng ta hay tin vào Chúa và để Thiên Chúa lôi kéo. Vì chỉ có ai được Thiên Chúa Cha lôi kéo, chỉ có ai lắng nghe Người và để cho Người dậy dỗ, mới có thể tin nơi Chúa Giêsu, găp gỡ Người và nuôi dưỡng mình bởi Người, và như thế tìm ra sự sống thật, tìm ra con đường sự sống, công lý, sự thật và tình yêu. Vì thật ra, ai ăn bánh hằng sống thì tin nơi Chúa, và ai tin thì ăn và trong một cách vô hình họ được no thỏa.
Ngày hôm nay, qua bàn tiệc Thánh Thể, Chúa Giêsu cũng mời gọi mỗi chúng ta hãy đến để đón nhận bánh ban sự sống, bánh bởi Trời đích thực là chính thân mình Người: “Đây là Mình Thầy”; “Đây là Máu Thầy”; “Ai tin và đón nhận sẽ được sống muôn đời”.
Xin cho mỗi người chúng ta có lòng tin yêu Chúa hiện diện nơi Bí Tích Thánh Thể, để qua việc lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa, chúng ta được sống trường sinh. Amen.
24. Thần lương độ đường
(Suy niệm của Lm. GB. Văn Hào SDB)
Trong cuộc sống đời thường, ai trong chúng ta cũng có lúc thành công, cũng có khi thất bại. Thành công mang lại cho chúng ta niềm phấn khích, nhưng thất bại dễ nhấn chìm chúng ta trong tuyệt vọng và chán chường. Hình ảnh của ngôn sứ Êlia được sách Các Vua phác vẽ trong bài đọc thứ nhất của phụng vụ hôm nay lột tả các trạng luống nhân sinh của đời sống con người. Ông đã chiến thắng ngoạn mục trên núi Car-mê-lô trước 450 tiên tri của thần Baal. Lời cầu khấn của ông đã được Chúa chấp nhận và cho lửa từ trời xuống đốt cháy lễ vật. Trong khi đó, môt đội quân đông đảo các tiên tri của Baal dài cổ kêu gào cả ngày mà không một thần linh nào đoái hoài tới. Sự thành công đó đã chứng minh Đấng mà ông tôn thờ là Thiên Chúa thật. Nhưng liền sau đó, gian nan ập đến. Hoàng hậu Idêven săn lùng và tìm cách giết ông, bởi vì bà ta bảo vệ cho tôn giáo thờ Baal. Thế là vị ngôn sứ phải lẩn trốn để lánh nạn. Ông lên đường ra đi trong tất tưởi và cay đắng. Ông hoàn toàn tuyệt vọng và muốn chết quách cho xong. Giữa sa mạc hoang vu, ông nằm vật xuống, đi sâu vào giấc ngủ và xin Chúa cất lấy linh hồn ông. Trong cơn thất vọng ê chề, vị ngôn sứ đã được Chúa sai thiên thần đến đem bánh và nước để ông tiếp tục cuộc hành trình tới núi Khô-rep.
Hình ảnh của Êlia là biểu trưng thân phận lữ hành của tất cả mọi người chúng ta. Biết bao lần chúng ta cũng bị bầm dập và tan nát giữa những bi thương của cuộc sống, tưởng chừng như bế tắc và sụp đổ hoàn toàn. Nhưng Thiên Chúa đã trao tặng một thứ lương thực kỳ diệu như đã ban cho Êlia năm xưa để giúp chúng ta độ thân trên con đường lữ thứ. Đó chính là Bánh ban sự sống, Bánh trường sinh, là thần lương cao quý nhất trong kiếp sống lữ hành trần thế hôm nay.
Một lần nữa trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu mặc khải cho chúng ta về lương thực kỳ diệu này. Ngài khẳng định: “Tôi là Bánh từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ không phải chết.... Và bánh tôi ban tặng chính là thịt tôi đây để cho thế gian được sống” (Ga 6,50-51)
Bánh thần thiêng
Cha thánh Gioan Maria Vianney đã miêu tả trong một bài giảng. Thuở ban đầu khi tạo thành vũ trụ, Thiên Chúa định liệu cho mọi sinh linh có đủ lương thực để tồn tại. Mọi thứ rau cỏ, thịt cá... được dọn ra ê hề như một mâm cỗ đầy ắp và mỗi loài có thể tự chọn những lương thực thích hợp để bảo tồn sự sống cho mình. Cuối cùng đến lượt con người, Thiên Chúa khựng lại và tự hỏi “ Ta sẽ ban cho họ lương thực gì đây? Bởi vì con người được dựng nên giống hình ảnh Ta, không chỉ có thân xác mà còn có cả linh hồn”. Thân xác thì đã có của ăn vật chất còn linh hồn thì sao? Cuối cùng, để tương xứng với vẻ đẹp của linh hồn con người vốn là họa ảnh của chính Thiên Chúa, Ngài đã quyết định trao hiến thịt và máu Người Con yêu quý để nuôi sống chúng ta, cho dù Ngài biết con người đầy tội lỗi và bất xứng.
Thiên Chúa đã phân thây xẻ thịt người con duy nhất để biểu tỏ tình yêu điên rồ của Ngài. Chính Đức Giêsu khải thị điều này trong câu chuyện nói với Nicôđêmô: “ Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban chính con một yêu dấu” (Ga 3,16). Tình yêu này quả rất điên rồ mà chúng ta không thể lý giải được. Đức Giêsu đã nói: “ Không có tình yêu nào cao cả hơn mối tình của người hiến thân vì bạn hữu”. Đức Giêsu không phải là một lý thuyết gia, không phải là một nhà mô phạm chỉ nói bằng sáo ngữ trên đầu môi cửa miệng. Ngài đã hiện thực lời tuyên bố ấy qua chính cái chết trên thập giá. Thập giá Đức Kitô là câu định nghĩa tròn đầy nhất và sâu tận nhất về tình yêu mà Thiên Chúa muốn diễn bày. Đức Giêsu chính là tấm bánh được ban tặng, tấm bánh được nướng chín trong cuộc khổ nạn, tấm bánh đã được bẻ nát và được phân hủy để thông truyền sự sống cho chúng ta. “Bánh tôi sẽ ban chính là thịt tôi đây để cho thế gian được sống” (Ga 6,51).
Hình tượng Thịt và Máu
Cách đây hơn 80 năm, có một đoàn di dân từ Âu châu đến Úc châu. Trong đám người du cư lang thang lếch thếch đó, người ta bỗng nghe tiếng khóc xé lòng của một đứa bé bên vệ đường. Lại gần, mọi người thấy một em bé còn đỏ hỏn đang giãy dụa nằm khóc thét bên cạnh mẹ nó. Người phụ nữ xấu số đã chết vì mệt nhọc và đói khát. Khuôn mặt hốc hác và tím tái của chị trông bất động và thật lạnh lẽo. Bầu vú của người đàn bà hầu như đã cạn kiệt. Nhưng kỳ diệu thay, đứa bé vẫn còn sống. Nó vẫn mân mê mút đầu ngón tay của mẹ nó, và những giọt máu hiếm hoi của người mẹ đã cứu sống đứa trẻ. Chính người mẹ với tình mẫu tử bất tận đã truyền những giọt máu cuối cùng của mình cho đứa con để nó được cứu sống. Bà đã chết, nhưng tình yêu cao cả khiến bà vẫn sống. Bà vẫn sống và sống mãi trong tâm hồn đứa bé thơ. Năm mươi năm sau, đứa bé đó lớn lên trở thành chủ tịch quốc hội nước Úc. Chính ông ta đã kể lại câu chuyện cảm động này, làm sống lại hình ảnh người mẹ đã hy sinh tính mạng để cho con bà được sống.
Ngày hôm nay Giáo hội cũng kể lại cho chúng ta nghe một câu chuyện tương tự giống như vậy. Câu chuyện hôm nay được kể còn hay hơn và thâm thúy hơn rất nhiều. Chính xác hơn, chính Đức Giêsu đang kể cho chúng ta câu chuyên này. “Bánh tôi ban tặng chính là thịt tôi đây để cho thế gian được sống”. Qua bài Tin mừng, Chúa Giêsu dẫn mời chúng ta dần dần đi sâu vào câu chuyện tình rất linh thánh mà chính Ngài thủ vai chính.
Câu chuyện Đức Giêsu kể hôm nay không phải là một câu chuyện hoang đường hay mang tính thần thoại. Nhân vật chính trong câu chuyện là chính Ngài, đấng là Thiên Chúa –Người, đã đến trần gian để viết nên một câu chuyện tình hay đẹp nhất và sâu xa nhất. Cảm nghiệm điều này, thánh giáo phụ Irênê đã viết: “Vì yêu thương, Thiên Chúa đã trở nên con người để khi chúng ta đi vào quỹ đạo tình yêu cùng với Ngài, con người chúng ta được trở nên Thiên Chúa.”
Canh bạc điên rồ
Một viên phi công từng chở công nhân Trung quốc sang Miến điện làm việc hồi thế chiến thứ 2 đã kể lại một giai thoại. Hồi đó những chuyến bay như thế thường rất dài và hành khách tỏ ra khá mệt mỏi. Các công nhân trên máy bay có nhiều thời gian rảnh rỗi và không biết làm gì nên rủ nhau đánh bạc. Đi vào vận đỏ đen, có kẻ thắng người thua. Người được tiền, kẻ trắng túi. Khi không còn tiền bạc mà máu đen đỏ vẫn còn, họ vẫn ham mê và đánh bạc bằng chính mạng sống của mình. Ai thua phải nhảy ra khỏi máy bay mà không có dù. Họ đã liều lĩnh và nhiều người đã lao vào canh bạc một cách hết sức điên rồ.
Nhưng có lẽ điên rồ hơn cả là canh bạc mà chính Thiên Chúa đang liều mạng dấn bước vào. Ngài dùng chính mạng sống Con Một yêu dấu để đánh bạc với chúng ta. Ngài phân thây xẻ thịt chính Đức Giêsu một cách điên rồ để cá cược với mọi người. Qủa là một sự liều lĩnh và táo bạo. Trong canh bạc này, Thiên Chúa thắng hay thua là do chúng ta quyết định. Bàn tiệc đã dọn sẵn và chúng ta là những thực khách được mời. Chúng ta có đến hay không đến, Thiên chúa vẫn để cho chúng ta tự do lựa chọn.
Kết luận
Chúa Giêsu nói trong bài Tin mừng hôm nay: “Ai tin thì có sự sống đời đời” (Ga 6,47). Tin là chấp nhận lao vào canh bạc của tình yêu và để cho Thiên Chúa thắng. Thánh Augustinô cũng nói: “ Tin là chúng ta ký sẵn một bản hợp đồng với Thiên Chúa trên một tờ giấy trắng. Chúa muốn viết gì trên trang giấy đó tùy ý Ngài.” Mỗi lần chúng ta tham dự thánh lễ, Giáo hội công bố: “ Đây là mầu nhiệm đức tin”. Chúng ta xin Chúa ban cho chúng ta ơn đức tin để chúng ta luôn biết trải lòng mình ra lãnh nhận hồng ân ban tặng. Hồng ân được hiển thị rất cụ thể qua bữa tiệc linh thánh nhất mà chúng ta được mời tới tham dự. “Ai ăn thịt tôi sẽ được trường sinh” và “Ai tin sẽ được sự sống đời đời”. Đó là hai vế của một định đề duy nhất, diễn bày tình yêu sâu tận của Thiên Chúa. Đứng trước lời gọi mời này, thái độ của bạn, thái độ của tôi, thái độ của chúng ta phải như thế nào?
25. Từ trời xuống
(Suy niệm của JM. Lam Thy ĐVD.)
Mở đầu bài Tin Mừng Chúa nhật XIX/TN-B (Ga 6, 41-51), thánh sử Gio-an trinh thuật sự kiện “Người Do-thái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giê-su đã nói: "Tôi là bánh từ trời xuống." Họ nói: "Ông này chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: "Tôi từ trời xuống?” Sở dĩ đám người Do-thái thắc mắc rồi xầm xì phản đối, bởi họ thấy Đức Giê-su là một con người rất bình thường, vì Người xuất thân từ một gia đình nghèo khó tại một miền quê hẻo lánh. Đối với họ, thật khó mà chấp nhận Người là một ngôn sứ, nói gì đến chuyện công nhận Người là Con Thiên Chúa từ trời xuống. Lý do khiến họ không chấp nhận là bởi họ nhìn vấn đề theo nhãn quan trần thế. Họ đã hiểu Thánh Kinh hoàn toàn theo nghĩa đen: Một người từ trời xuống có nghĩa là một người phải thật sự bay “từ trời xuống” như kiểu “mưa man-na” trong Cựu Ước, chớ không phải là một người sinh ra từ trong bụng một người mẹ ở trần gian như bao người khác. Từ cách hiểu trần tục đó, họ không chấp nhận được con người từ trời xuống lại chẳng có vẻ “từ trời xuống” một chút nào.
Người Do-thái tin vào lời các ngôn sứ lưu truyền về hiện tượng Đức Chúa “khiến man-na tựa hồ mưa đổ xuống, và ban bánh bởi trời nuôi dưỡng họ.” (Tv 78, 24); “Trong sa mạc, Người đã cho anh em ăn man-na, thức ăn mà cha ông anh em chưa từng biết, để bắt anh em phải cùng cực và thử thách anh em, hầu làm cho anh em được hạnh phúc trong tương lai.” (Đnl 8, 15-16). Man-na thực sự là vật chất (“Man-na như hạt ngò và trông nó như nhựa hương” – Ds 11, 7; ”Nó giống như hạt ngò, màu trắng và mùi vị tựa bánh tráng tẩm mật ong.” – Xh 16, 31), nên đã đổ từ trời xuống như mưa. Nhưng khi Đức Ki-tô nói “Tôi là bánh từ trời xuống” (Ga 6, 41) thì họ không thể tin nổi vì Đức Ki-tô là một con người bình thường như bao người khác, không phải và không thể là vật chất như man-na, đồng thời Người do bà Maria sinh ra chớ đâu có rơi từ trời xuống như man-na.
Với con người thì lúc nào cũng đòi được “thực mục sở thị” mới tin, nhưng đến khi được nghe thấy, trông thấy nhãn tiền thì lại chỉ hiểu theo những thành kiến, định kiến của loài người. Cũng vì sự non kém, bất toàn đó, nên Thiên Chúa phải mạc khải cho con người hiểu được những công trình kỳ diệu của Người. Mà muốn hiểu được những mạc khải, thì điều tiên quyết là phải có đức tin. Đám nguời Do-thái ngày xưa cũng như không ít con người ngày nay vì cứng lòng không tin, nên chỉ hiểu Lời Chúa theo nghĩa đen và nghe Lời Chúa bằng đôi tai nghễnh ngãng. Chính vì thế nên không lạ khi thấy họ cho rằng chỉ có đồ điên mới đại ngôn: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.” (Ga 6, 51).
Nhưng nếu họ hiểu rằng Lời Chúa phải lắng nghe bằng tâm linh, chớ không thể nghe bằng hai lỗ tai của cái vỏ bằng đất là xác thịt nặng nề (“cái vỏ bằng đất này làm tinh thần trĩu xuống” – Kn 9, 15). Với Lời Đức Ki-tô Thiên Chúa, lại càng cần phải lắng nghe bằng nội tâm kết hợp với lời cầu nguyện xin ơn soi sáng, thì mới hy vọng hiểu được, vì Người luôn dùng dụ ngôn với “ý tại ngôn ngoại” (ý ở ngoài lời), thậm chí có nhiều lúc Người còn dùng sự tương phản trong cách nói ẩn dụ để nhấn mạnh ý chủ đạo (Vd: "Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo. Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa con trai với cha, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. Kẻ thù của mình chính là người nhà.” – Mt 10, 34-35; "Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ" – Lc 9, 60; “Ai tìm cách giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình, thì sẽ bảo tồn được mạng sống.” – Lc 17, 33).
Trở lại bài Tin Mừng hôm nay, với đám người Do-thái thì quả là phi lý khi một con người bằng xương bằng thịt bình thường lại dám nói mình là bánh hằng sống từ trời xuống, rồi còn khẳng định “ai ăn thịt tôi và uống máu tôi sẽ được sống đời đời”; bởi đây là lần đầu họ nghe nói và cũng vì những sự kiện minh hoạ cho lời nói đó chưa xảy ra. Họ không tin cũng không có gì lạ. Tuy nhiên, khi minh chứng hùng hồn đã thực sự xảy ra là chính Người nói câu nói kỳ dị ấy đích thị là Thiên Chúa từ trời xuống thế, chịu khổ hình thập giá và sống lại hiển vinh, đem lại sự sống vĩnh cửu cho những kẻ tin; thì sau đó cả hàng ngàn năm cũng vẫn còn nhan nhản những kẻ cứng lòng, vẫn cho Lời nói ấy là chướng tai, là phi lý. Ấy cũng chỉ vì họ cũng không hơn gì đám người Do-thái, chỉ hiểu Lời Chúa bằng nghĩa đen, nghĩa vật chất, không chịu loại suy để tìm đến chiều kích vũ trụ của Lời (“Truyền thống tư duy Ki-tô Giáo vốn khai triển yếu tố chủ chốt trong bản hòa tấu lời này. Như Thánh Bonaventura, chẳng hạn, người vốn theo truyền thống các Giáo Phụ Hy Lạp mà nhìn ra mọi khả thể sáng thế trong Logos, đã nói rằng “mọi tạo vật đều là lời Chúa, vì nó công bố Người”. Hiến Chế Tín Lý “Lời Chúa” đã tổng hợp các dữ kiện ấy khi cho rằng “Thiên Chúa, Đấng tạo dựng và duy trì mọi vật bằng chính lời của Người (Ga 1:3), đã cho ta chứng cớ mãi mãi về chính Người ngay trong các thực tại tạo dựng.” – Tông huấn Lời Chúa “Verbum Domini”, số 7).
Tấm màn đã được vén lên (mạc khải), mọi sự đã rõ ràng: Để hiểu được Lời Chúa thì điều kiện tiên quyết là phải có đức tin (“Đức tin đến từ điều nghe được, và điều nghe được đến từ lời Chúa Ki-tô” – Rm 10, 17). Lời Chúa Ki-tô đích thị là Đức Giê-su, Ngôi Lời nhập thể (“Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống, là Ngôi Lời.” – 1Ga 1, 1-3; “Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời chính là Thiên Chúa… Và Ngôi Lời trở nên xác phàm.” – Ga 1, 1-14). Rõ ràng Ngôi Lời đã từ trời xuống mặc lấy xác phàm để cứu độ nhân loại bằng chính thân thể Người bị bầm giập vì đòn roi, chết treo trên thập giá còn bị lưỡi đòng của sự dữ đâm thâu trái tim khiến máu chảy ra đến giọt cuốí cùng. Thân xác ấy, dòng máu ấy há chẳng phải là nguồn ơn cứu độ đem lại sự sống vĩnh hằng cho những kẻ tin đó sao? Và như vậy, Lời dạy “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.” (Ga 6, 51) đã là hiện thực 100%.
Liên tục 2 Chúa nhật XVIII và XIX, bài Tin Mừng đều được trích trong “Bài giảng tai hội đường Ca-phac-na-um” (Ga 6, 21-66) trình thuật về Bánh Hằng Sống. Đó cũng chính là phép Thánh Thể được Ngôi Lời thiết lập vào bữa Tiệc Ly trước ngày khổ nạn, và cũng chính vì thế mới gọi là Bí tích Thánh Thể (dấu tích bí nhiệm ẩn tàng Lời Chúa). Bí tích nhiệm mầu này được tái hiện hàng ngày hàng giờ trên bàn thánh ở khắp năm châu bốn biển để nuôi dưỡng đời sống tâm linh của mọi tín hữu. Muốn được Lời Chúa dưỡng nuôi trên hành trình đức tin tiến về quê trời, không gì bằng chạy đến với MẸ CỦA LỜI, “vì Đức Maria hoàn toàn thấm nhuần Lời Chúa, nên ngài có khả năng trở thành Mẹ của Lời Nhập Thể … Khi chiêm ngưỡng nơi Mẹ Thiên Chúa một cuộc đời hoàn toàn do Lời lên khuôn, ta hiểu được rằng cả ta nữa cũng được mời gọi bước vào mầu nhiệm đức tin, nhờ đó, Chúa Ki-tô tới cư ngụ trong đời ta. Thánh Am-brô-si-ô nhắc nhở ta rằng xét theo một phương diện nào đó, mọi tín hữu Ki-tô đều tượng thai và sinh hạ Lời Thiên Chúa: mặc dù chỉ có Mẹ Thiên Chúa là tượng thai bằng xương bằng thịt, còn chúng ta, Chúa Ki-tô là con cái của mọi người chúng ta trong đức tin. Như thế, điều xẩy ra cho Đức Maria cũng hàng ngày xẩy ra nơi mỗi người chúng ta, trong việc nghe lời Chúa và trong việc cử hành các bí tích.” (Tông huấn Lời Chúa “Verbum Domini”,, số 20).
Ôi! Lạy Chúa Giê-su, xin ban Thánh Thần gia tăng lòng tin cho chúng con để chúng con luôn tin vào Chúa, tin vào sự hiện diện của Chúa trong Bí tích Thánh Thể và để mỗi lần chúng con tham dự thánh lễ, mỗi lần chúng con rước Chúa vào lòng, là chúng con được nhận lãnh bánh trường sinh ban sự sống đời đời. Lạy Mẹ Maria, Mẹ là Mẹ của Lời Hằng Sống, Mẹ Đức Tin, xin Mẹ cho chúng con được ở trong cung lòng của Mẹ, để chúng con được “nhờ Mẹ, đến với Chúa” và tin vào sự hiện diện của Chúa Ki-tô trong Bí tích Thánh Thể, bây giờ và mãi mãi. Amen.
26. Hình ảnh tự hiến trọn vẹn
(Suy niệm của P. Trần Đình Phan Tiến)
Vâng, thưa quý vị, các bạn, không một thứ lương thực nào tồn tại vĩnh cửu ngoài “Thần lương“ từ Thiên Chúa. Nhưng, thứ “Thần Lương“ ấy là bánh từ trời “manna”, cũng không tồn tại. Vì con người trần gian phải ra công làm việc để có cái ăn nuôi thân xác. Vì thân xác con người được Thiên Chúa tạo dựng vốn vĩnh hằng cùng với linh hồn siêu nhiên. Nhưng, từ khi con người nghe theo quỷ chống lại Thiên Chúa, mang sự phản nghịch, bất trung. Vì thế, thân xác con người phải chịu nô lệ cho sự “phản nghịch “ ấy.
Vì vậy, tuy manna là lương thực từ trời, nhưng cũng chỉ là thứ lương thực nuôi sống “tạm thời“ thân xác của con người trong thời hữu hạn. Không phải là “thần lương“ nuôi lấy sự sống tạm bợ nơi thân xác đã chịu sự nô lệ của tội phản nghich, bất trung.
Vì thế, khi con người chứng kiến Con Thiên Chúa từ Trời đến, con người vốn dửng dưng không thể thấu hiểu “ân ban“ ơn cứu độ trọng đại là “Lương Thực“ nuôi linh hồn. Vâng, một “Thần Lương“ đích thực, một nhu cầu cao cả, mục đích tái tạo lại sự sống vĩnh hằng nơi loài thọ tạo bất trung.
Như vậy, khi Chúa Giêsu nói: “Chính Tôi là Bánh Trường Sinh“ (Ga 6, 35). Người ta thật sự ngỡ ngàng, khó hiểu, đầy sự nghi ngờ, bán tín, bán nghi. Vì sự khác biệt giữa thân xác và linh hồn, cũng như lương thực của thân xác và Thần Lương nuôi linh hồn, con người thật không thể hiểu một cách đơn thuần được.
Từ đó, chúng ta thấy, Chúa Giêsu không bác bỏ sự sống nơi thân xác, nhưng Người kiện toàn ý nghĩa siêu nhiên nơi thân xác con người. Vâng, đây đích thị là ân sũng ”Thần Lương“, là Lời của Ngôi lời Thiên Chúa, cũng là một thứ “Thần Lương“ đích thực nơi Đấng Tạo Thành ban cho loài thụ tạo. Vì, Thiên Chúa chính là nguồn của sự sống, ngoài Thiên Chúa không có sự sống đích thực nào khác. Vì vậy, lương thực nuôi thân xác hằng ngày, mà người ta gọi là đồ ăn, cái ăn, miếng ăn nhằm chỉ để nuôi sự tạm bợ. Nên chi, Chúa Giêsu nói: việc làm lụng hằng ngày để kiếm cái ăn nuôi thân xác. Nhưng, cái ăn nuôi thân xác ấy để hướng đến sự sống viên mãn, chứ không phải dừng lại cái ăn nuôi thân xác.
Vâng, tai sao vậy, thưa quý vị? Thưa, bởi vì, nếu chỉ có cái ăn nơi thân xác mà thôi, thì mãi maĩ không có sự sống, hay nói cách khác, sự sống nơi thân xác không tồn tại. Vì, nguyên lý của sự sống không dừng lại nơi miếng ăn. Chỉ có chân lý và tình yêu mới là nguồn của sự sống, sự sống viên mãn, đích thực. Vì, chân lý đó, Thiên Chúa luôn ân ban sự sống cho con người. Sự sống đích thực, đó là sự “trao ban“ trọn vẹn sự sống từ Thiên Chúa qua Đức Giêsu – Kitô, Đấng Cứu Độ con người. Bởi vì, sự sống đích thực chính là ”Lương Thực Thần Linh”, mà chỉ có từ nơi Thiên Chúa mà thôi.
Khi chúng ta nghiền ngẫm Lời Chúa hằng ngày chính là khi linh hồn chúng ta được no thỏa nhu cầu công chính là sự sống đích thực.
Để dễ chấp nhận chân lý trên, chúng ta cùng nhau đưa ra một dẫn chứng cụ thể vể lương thực cho thân xác và lương thực cho linh hồn.
Người ta thường tin rằng lương thực cho thân xác là nhu cầu của sự sống, nhưng, khi chúng ta ăn uống no say từ ngày này qua ngày khác, thì sự sống của chúng ta không còn là sự sống đích thực nữa, mà là “sự chết”. Bởi vì, không ai sống trên đời mà cứ nằm rồi ăn, ăn rồi nằm. Nếu thực sự sự sống chỉ có thế thì không còn là sự sống, đó chính là sự chết, một sự chết đích thực.
Thứ đến, nếu sự sống chỉ có vậy, thì không mang một ý nghĩa siêu nhiên, tháp nhập vào Thiên Chúa được. Vì vậy, Chúa Giêsu đã hướng con người đến một một đích tối thượng đó là được tháp nhập vào sự sống vĩnh cửu nơi nguồn sống Thiên Chúa. Đó là của ăn, lương thực bất tử, sự sống siêu phàm từ Đấng vô biên.
Như vậy, lương thực là thức ăn cho sự sống nơi con người không phải duy nhất là cơm bánh, mà chính là Chúa Giêsu, vì khi con người không có Thiên Chúa, thì không bao giờ họ có được sự sống đích thực. Vì, khi con người chỉ có của ăn nuôi thân xác mà thôi, thì sự chết sẽ tiêu diệt họ. Cứ kẻ mạnh giết kẻ yếu và cuối cùng sự chết ngự trị, vì kẻ mạnh cuối cùng cũng phải chết.
Theo đó sự sống nuôi sống đích thực là chính Thiên Chúa, từ đó cho thấy sự giáo huấn của Chúa Giêsu chính là lương thực cho sự sống vĩnh hằng. một sự sống mà nơi đó Người đã tự hiến trọn vẹn cho con người.
Qua ba tuần lễ liên tiếp, chủ đề lời Chúa Chúa Nhật hôm nay minh họa cho chúng ta một sự tự hiến trọn vẹn của Chúa Giêsu, Đấng đã đến vì con người, trao ban trọn vẹn Thiên Tính và Nhân tính và chỉ có Người mới thực sự là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống từ Thiên Chúa được trao ban cho con người mà thôi.
Chúa Giêsu không hứa hẹn trao ban của cải vật chất cho những kẻ đi theo Người, vì của cải của thế gian vốn có sẵn, nhưng không mang lại sự sống đích thực là chính Thiên Chúa. Theo đó, Thiên Chúa muốn ban cho con người chính Ngài, vì vậy, Người đã từ trời xuống thế…
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến thế gian để chỉ cho nhân loại một con Đường của sự Sống, một Con Đường Hằng Sống, đó là Lương Thực trường sinh, thứ Thần Lương vĩnh cửu là chính Người. Xin thương ban cho nhân loại nhận ra tình Chúa yêu thương, và trọn vẹn dâng hiến, hầu bước theo và được nhận lãnh./. Amen.
27. Niềm vui được Chúa viếng thăm
(Suy niệm của Lm. Thu Băng, CRM)
Tại giáo xứ Bùi Phát, cha xứ luôn luôn thấy một ông già râu tóc bạc phơ, ngày nào cũng vào khoảng 12 giờ trưa, ông vào nhà thờ cầu nguyện, rồi vài phút sau ông ra về. Thấy ông ra vào rất nhanh, cha thắc mắc hỏi ông thì ông trả lời:
"Con không thể cầu nguyện lâu giờ được, nhưng mỗi ngày vaò lúc nghỉ trưa, con vào nhà thờ đề thưa với Chúa: "Lạy Chúa Giêsu, Con đây!", xong tôi nán lại đôi ba phút, rồi ra về".
Bẵng đi một thời gian không thấy ông già đâu, vì ông bị tai nạn nên được đưa vào bệnh viện. Vì không thân nhân, không họ hàng đưa về, nên phải chạy chữa ngay ở trong nhà thương, và ở đây ngày nào cũng vậy ông được Chúa đến thăm. Ông cũng chỉ nói những lời giống như ông thường đến thăm Chúa trong nhà thờ: "Lay Chúa Giêsu, con đây!"
Các nữ tu coi sóc bệnh nhân, thấy từ ngày ông già vào đây thì hoàn cảnh vật đều đổi thay, vì ông thường đi thăm hỏi và nói chuyện tếu táo với mọi người, khiến các soeurs cũng cảm thấy thay đổi. Các soeurs hỏi ông thì ông thưa lại:"Có người đến thăm con hàng ngày, sao con lại không vui được?". Hỏi mãi ông mới gạn trả lời:"Chúa Giêsu đến thăm con." Bởi thấy Chúa là nguồn vui dến thăm, khiến ông đã không quàn ngại chia sớt cái niềm vui ông được cho các bệnh nhân đang cùng điều trị chung phòng với ông.
Câu chuyện "Niềm vui đuợc Chúa viếng thăm" là niềm vui mà ông già đã lãnh nhận, ông đã chia sẻ với mọi người. Niềm vui được Chúa đến với mình lúc tham dự thánh lễ, và nhất là khi rước lễ, cũng phải là niềm vui thúc đẩy chúng ta thực hiện tất cả những gì Đức Giêsu đã làm! Thánh Công Đồng Vaticanô II đã nói:"Chúa Giêsu vẫn hằng hiện diện trong Giáo Hội, nhất là trong việc cử hành phụng vụ. Ngài hiện diện trong Thánh Lễ, trong con người Linh Mục...Nhất là trong Phép Thánh Thể, trong các Bí Tích Thánh. Ngài còn hiện diện qua Phúc Âm, qua Lời Chúa...." (Constitutin on the Sacred Liturgy). Điều này được giải thích cách rõ ràng trong bài Phúc Âm:"Ta là bánh hằng sống.... Bánh từ trởi xuống. Ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời. Bánh Ta ban chính là Thịt Ta, để cho thế gian được sống". Như thế, chính là Chúa phục sinh ngự đến với ông già.
Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con, để chúng con có thể nhận ra Chúa hiện diện nơi người anh em chúng con.
28. “Bí Quyết Trường Sinh”
(Suy niệm của Lm. Gioan Vượng, CRM)
Tần Thủy Hoàng là một ông vua giầu có, nắm trong tay quyền uy muốn làm gì cũng được, nhưng ông lại rất sợ chết. Ông tìm mọi cách để cho mình được sống trường sinh bất tử. Ngày kia các nhà chiêm tinh và thầy pháp thưa ông rằng ở Biển đông có một hòn đảo địa đàng, dân cư ở đấy đã khám phá ra được bí thuật trường sinh. Nghe thế Tần Thủy Hoàng truyền lấy mấy chiếc tầu chở trân châu ngọc qúi và cho người đi tìm hòn đảo đó để đổi lấy cái bí thuật sống trường sinh bất tử. Truyện kể rằng đoàn tầu thám hiểm đó đã tìm thấy hòn đảo, nhưng dân cư ở đấy nhất định không chịu đổi bí thuật trường sinh bất tử bằng những món đồ qúi gía, nhưng dưới mắt họ lại chỉ là tầm thường rẻ mạt so với cuộc sống đời đời. Thực ra hòn đảo địa đàng kia làm gì có. Chẳng qua là do trí tưởng tượng, hoặc mưu kế của các nhà chiêm tinh và thầy pháp bày ra để trấn an sự sợ chết, để làm dịu bớt cái khát vọng sống bất tử của Tần Thuỷ Hoàng.
Nhưng cái bí thuật trường sinh bất tử mà dân cư trên hòn đảo trong câu chuyện không muốn đổi cho Tần Thủy Hoàng thì Chúa Giêsu lại ban tặng cho ta nhưng không (free gift). Chính Ngài giới thiệu và mời gọi ta đến lãnh nhận sự sống đời đời. Ngài tuyên bố thật rõ ràng: “Ta là bánh từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban chính là thịt Ta để cho thế gian được sống” (Ga 6: 51). Như vậy, để đạt được sự sống đời đời thì phải tin Ngài là bánh ban sự sống bởi trời xuống. Phải lấy lòng tin mà ăn thịt và uống máu Ngài. Điều này không phải là dễ đối với những người Dothái thời Chúa Giêsu vì thế có một số người xầm xì: “Lời nói đó chói tai quá! Ai mà nghe được?” (Ga 6: 60), nên họ đã rút lui không theo Ngài nữa. Họ bảo Chúa Giêsu chỉ là con bác phó mộc Giuse, mẹ Ngài là Maria và anh em Ngài đang sống giữa họ. Cũng vậy, ngày nay có nhiều người cũng sống hoàn toàn theo lý trí tự nhiên. Họ nhìn Thánh Thể chỉ là một tấm bánh thường, làm bằng chút bột miến có thế thôi. Và số đó có cả một số người Công giáo nữa mới đáng buồn!
Vì thế Chúa Giêsu nói rõ ai được Chúa Cha ban cho thì mới có thể đến với Ngài: “Không ai đến được với Ta, nếu Cha là Đấng sai Ta không lôi kéo kẻ ấy” (Ga 6: 44). Cần phải được Chúa ban ơn cho, ta mới có thể nhận ra Chúa Giêsu là người thật và là Thiên Chúa thật. Cần phải có đức tin mới có thể nhận ra dưới hình bánh nhỏ mọn có thật Chúa Giêsu hiện diện, một Chúa Giêsu với trót cả bản tính Thiên Chúa và nhân loại.
Nếu rước lễ nên ta được kết hợp mật thiết với Chúa Kitô. Chúa đã phán: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, kẻ ấy ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy” (Ga 6: 56). Như giọt nước hòa tan với rượu nho trong chén thánh, ta cũng được tan hòa với Chúa Kitô như vậy. Rước lễ còn chuẩn bị thân xác ta sẵn sàng đón nhận cuộc phục sinh vinh hiển: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta sẽ được sống đời đời và Ta sẽ làm cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết” (Ga 6: 55). Khi kết hiệp với ta trong lúc rước lễ, Chúa Giêsu đặt trong ta mầm sự sống vinh quang, như mầm sống trong hạt giống nằm sẵn đó chờ ngày đâm chồi phát triển thành cây xanh tươi mang đầy hoa trái.
Vậy, để đáng Chúa ban ơn trường sinh bất tử, ta hãy dọn mình xứng đáng và kính cẩn đến rước Chúa với lòng tin yêu mạnh mẽ. Sau khi rước lễ, ta hãy cầm trí cám ơn Chúa tử tế. Nhưng rất tiếc, nhiều lần ta đã rước Chúa một cách máy móc, và vừa mới rước Chúa ngự vào lòng đã chia trí lo ra, chẳng nói với Chúa được một lời, chẳng biết bày tỏ với Người những nhu cầu, những ước vọng, chẳng biết thưa với Người những nỗi băn khoăn lo lắng trong cuộc sống xin Người hướng dẫn để ta biết sống đẹp ý Chúa.
Nói tóm lại, để việc rước Chúa sinh công hiệu tốt, ta phải gắng cất những ngăn trở: những tội lỗi, những dịp tội, những hành vi, cử chỉ, lời nói bất xứng. Trong khi rước lễ, ta lại phải giục lòng tin cậy, t ô n t hờ, yêu mến Chúa cách mạnh mẽ. Nhưng tự sức ta, ta khó có thể làm được cách hẳn hoi. Vậy ta hãy cậy nhờ Mẹ Maria và thánh Giuse đón tiếp Chúa và cám ơn Chúa với ta và thay cho ta.
29. "Đây Là Màu Nhiệm Đức Tin"
(Suy niệm của Lm. Bùi Mạnh)
Giáo lý của Chúa Kitô, nói chung, được nhiều người chấp nhận vì tính cách "hợp tình hợp lý" của nó. Nhưng khi mặc khải về nguồn gốc thần linh của mình và về bí tích Thánh Thể, Ngài đã gặp những phản ứng hoàn toàn bất lợi. Thánh Gioan ghi lại rằng khi Ngài nói: "Ta là bánh bởi trời", thính giả đã xì xèo: "Ông này không phải là Giêsu con ông Giuse sao? Chúng ta biết rõ cha mẹ của ông. Vậy tại sao ông ta lại nói: Ta là bánh bởi trời xuống?"
Trước những phản ứng tiêu cực đó, Chúa Giêu đã không rút lại lời tuyên bố, trái lại, tiếp tục giải thích: "Tôi là bánh từ trời. Cha ông anh em đã ăn manna trong sa mạc và đã chết. Chính tôi đây mới là bánh từ trời để ai ăn thì không phải chết. Bánh đó chính là thịt tôi để nhân loại ăn mà được sống." Những lời giải thích đã không đủ sức thuyết phục người nghe, trái lại còn gây thêm rắc rối, đến mức độ họ phải kêu lên: "Lời gì mà nghe thật chói tai. Làm sao ông ta có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn đươc?" Và họ bỏ đi. (Xem Gioan 6:60,66)...
Quả thực, bí tích Thánh Thể là một điều khó tin, khó chấp nhận, vì đây là một việc vượt xa lý luận và khả năng con người. Nói cách khác, đây là một phép lạ, một sự việc hoàn toàn nằm trong lãnh vực đức tin. Chính vì thế, mỗi khi đọc xong lời truyền phép, linh mục chủ tế lớn tiếng tuyên bố với chúng ta: "Đây là màu nhiệm đức tin". Cũng vậy, trước mỗi lần lãnh phép lành Mình Thánh Chúa, chúng ta nói với nhau "Ta hãy lấy đức tin bù lại, nếu giác quan không cảm thấy gì" (Ca khúc Pange lingua, đoạn cuối).
Đúng thế, bí tích Thánh Thể là một mầu nhiệm đức tin, nên con người không thể dùng lý trí để suy luận, cũng không thể dùng giác quan mà cảm nhận. Vậy câu hỏi được đặt ra là, tại sao chúng ta chấp nhận bí tích Thánh Thể? Chúng ta tin rằng Đức Kitô chính là Thiên Chúa tòan năng và chân thật. Là Thiên Chúa toàn năng, Ngài có thể làm bất cứ điếu gì Ngài muốn. Là Thiên Chúa chân thật, Ngài không bao giờ dối trá và sai lầm. Lời Ngài là chân lý; Ngài nói là phải có, phải đúng. Căn cứ vào hai ưu điểm này của Ngài, chúng ta xác tín rằng:
- Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích Thánh Thể.
- Bánh hằng sống từ trời ban xuống chính là thịt Ngài.
- Muốn có sự sống đời đời, con người phải ăn thịt Ngài.
Chính qua niềm tin đó,và tuân theo lệnh truyền của Chúa "Hãy làm việc này mà nhớ đến Thày", Giáo Hội Công Giáo luôn cử hành Thánh Thể, đồng thời khuyến khích chúng ta rước lễ và chầu Mính Thánh Chúa khi có thể. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II năm ngoái đã gởi đến chúng ta một thông điệp về bí tích Thánh Thể, mang tên "Ecclesia de Eucharistica" (Giáo Hội từ Thánh Thể Chúa) và đặt năm 2005 là Năm Thánh Thể. Với thông điệp này và năm Thánh Thể, Đức Thánh Cha cống hiến cho chúng ta một cơ hội thuận tiện để đào sâu ý nghĩa của bí tích Thánh Thể, đồng thời khơi lên tâm tình yêu mến Thánh Thể nơi tâm hồn chúng ta. Năm Thánh Thể đã chấm dứt, nhưng niềm tin và tâm tình đối với Thánh Thể cần phải được tiếp tục trong suốt cuộc sống của mỗi người.
Vững tin vào lời quả quyết của Chúa Giêsu và sự khích lệ của Giáo Hội, ước gì chúng ta luôn đặt Chúa Giêsu Thánh Thể làm trung tâm cuộc sống của mình, bằng cách lợi dụng mọi cơ hội, đặc biệt ngày Chúa Nhật, để đến với Thánh thể, nhờ đó, chúng ta được nuôi dưỡng và thêm sức mạnh.
30. Còn hơn manna nữa – Jean Yves Garneau.
Thật dễ quên đi những điều đẹp đẽ nhất, phong phú nhất, sâu sắc nhất… và làm cho chúng trở nên tầm thường! Tình yêu được sống ngày này qua ngày nọ, không ồn ào. Người ta ít nhận ra nó, người ta không quý trọng nó đúng mức. Sức khỏe của chúng ta được xem như một điều quá bình thường… Vậy nói về nó làm gì? Những gì tuyệt vời trong thiên nhiên, người ta không còn nhìn thấy nữa. Có nhiều món trên bàn ăn, ba lần mỗi ngày, có gì tự nhiên hơn đâu? Tại sao phải tạ ơn vì những món ăn đó?
Người ta cũng quen với những thực tại thiêng liêng, thần thiêng và chẳng thiếu gì những lúc người ta còn xem những thực tại ấy là tầm thường nữa. Ta hãy nêu một ví dụ, đó là việc rước lễ. Một Chúa Nhật, hay có lẽ nhiều hơn nữa, chúng ta được đón tiếp tại bàn tiệc của Thiên Chúa. Bánh Thánh được trao cho chúng ta, chúng ta rước Mình Thánh Chúa. Sự sống của Con Một Thiên Chúa tràn vào tâm hồn chúng ta, thật không tầm thường chút nào!
Nhưng chúng ta rước lễ ra sao? Chúng ta quý trọng Thánh Thể như thế nào? Thánh Thể dùng để làm gì cho chúng ta? Thực sự, nguy cơ trở nên quen thuộc với Bánh Thánh thật là lớn, cũng như người ta quen thuộc với bánh người ta đặt trên bàn ăn gia đình mỗi ngày. Vậy phải phản ứng: Phải mở mắt ra. Hôm nay là dịp tốt để làm điều này, vì Tin Mừng nói với chúng ta về Bánh Thánh, cũng như hôm Chúa Nhật vừa rồi.
Bánh trong sa mạc: Tiền vị của Thánh Thể.
Để cho người ta hiểu giá trị của nó, Chúa Giêsu nhắc đến manna được ban cho dân Chúa trong sa mạc, Ngài nói: Bánh Thánh Thể vượt xa hơn manna nữa. Nó còn phong phú vô cùng hơn nữa.
Tuy nhiên manna đã là một cái gì lạ lùng rồi. Mỗi ngày khi thức dậy, người ta có thể đi nhặt bánh đó đầy giỏ. Vui thích biết bao được nuôi dưỡng bằng thứ bánh ấy! Không có nó không thể nào tiếp tục bước đi giữa sa mạc, ngày này qua ngày nọ, tiến về đất hứa được. Chính manna đã cứu dân Chúa trong sa mạc. Manna đã là một thứ bánh làm cho sống, một thứ bánh giải phóng.
Manna đối với người Do Thái như thế nào, thì bánh Thánh Thể đối với chúng ta cũng thế ấy. Và còn hơn nữa! Như Manna, Thánh Thể sẵn có cho chúng ta mỗi ngày. Được ban nhưng không. Được ban dư dật. Tuy có điều này đặc biệt: Sự sống mà bánh Thánh Thể ban không chỉ là thể lý, sẽ chấm dứt bởi cái chết, nhưng là sự sống vĩnh cửu. “Trong sa mạc, cha ông anh em đã ăn manna, và họ đã chết, nhưng bánh này từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ không chết… Họ sẽ sống đời đời”.
Lời khẳng định tuyệt vời. Chúng ta có sẵn một lương thực cho phép chúng ta sống mãi. Khi chúng ta tự nuôi dưỡng mình bằng Thánh Thể, chính là lúc chúng ta tháp mầm sống vĩnh cửu vào xác thịt của chúng ta.
Lý do được diễn tả cách rõ ràng. Bánh Thánh Thể không phải là một thứ bánh của trần thế. Đó là bánh từ trời xuống. Chứa đựng Đấng phát xuất từ thế giới của Thiên Chúa. Chúa Giêsu nói: Ta là bánh hằng sống từ trời xuống.
Qua trung gian bánh Thánh Thể, Chúa Kitô hiển thắng và Phục Sinh được ban cho chúng ta. Mình và Máu Ngài, được Chúa Thánh Thần biến đổi, đã được ban cho chúng ta. Những gì của Thiên Chúa đi vào lòng chúng ta, sự sống của Thiên Chúa được thông truyền cho chúng ta. Vậy nên nhờ bánh này, chúng ta đạt được khả năng sống đời đời.
Sự giàu sang lạ lùng! Sự phong phú lạ lùng của bánh Thánh Thể! Chúng ta phải coi chừng, đừng tầm thường hóa thứ bánh cao cả dường ấy.
31. Bánh Hằng Sống
(Suy niệm của An Phong, OP)
Người Do thái đã phản đối Chúa Giêsu khi Người nói mình là Bánh Hằng Sống bởi trời, vì họ chỉ nhìn thấy nơi Đức Giêsu là con ông Giuse, một con người như biết bao nhiêu người khác. Đức Giêsu hiểu được sự cứng lòng ấy; Người khẳng định người ta cần phải được Thiên Chúa giáo huấn, dạy dỗ để có thể đón nhận "Đấng Chúa Cha sai đến" vì "không ai đến được với Tôi nếu Cha là Đấng sai Tôi không lôi kéo họ"; và ai được lãnh nhận Bánh Chúa Giêsu ban là chính Thịt của Người thì mới có thể được sống muôn đời.
Đức Giêsu Đấng Thiên Sai từ trời xuống để trở nên Ơn Cứu độ cho con người. Người là Lời Thiên Chúa gửi đến để giáo huấn nhân loại; "phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha thì sẽ đến với Tôi" và Người là Bánh để nuôi dưỡng sự sống của Thiên Chúa trong nhân loại, "Bánh Tôi ban chính là Thịt Tôi để cho thế gian được sống".
Khi tham dự thánh lễ, chúng ta được mời gọi tham dự bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể Chúa.
Đối với những người tin, tức là những người gắn bó với Đức Giêsu, thì Lời của Người hướng dẫn họ trong cuộc sống trần gian, giúp họ đạt đến ơn cứu độ của Thiên Chúa. Cuộc sống trần gian có biết bao điều mờ tối, lừa gạt, cám dỗ; nên Thiên Chúa muốn ban Lời của Người để "hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ". Khi mở lòng ra lắng nghe Lời Chúa, để cho Lời Chúa chỉ dẫn những khi rối rắm. Gắn bó cuộc đời với Đức Giêsu, thì chúng ta bước theo đường lối của Thiên Chúa và tìm thấy bình an, hạnh phúc.
Đối với những người đón nhận Thánh Thể, Bánh mang lại sự sống đời đời, thì chính Đức Giêsu đến và biến đổi họ. Thánh Thể là nguồn nghị lực để chiến thắng cám dỗ của ích kỷ, là nguồn tình yêu để vuợt qua những gian nan trên hành trình sa mạc cuộc đời.
Dường như chúng ta vẫn chưa cởi mở và sẵn sàng đủ để lắng nghe Lời giáo huấn của Thiên Chúa? Dường như chúng ta chưa đón nhận Thánh Thể như một quà tặng của Tình yêu Thiên Chúa?
Lạy Chúa,
Trên con đường trần gian,
biết bao lần chúng con bị lầm lạc
vì chạy theo những loại "bánh hay hư nát".
Trên con đường trần gian;
biết bao lần chúng con cảm thấy mệt mỏi và chán nản
vì những trò đời.
Lạy Chúa,
xin cho chúng con biết tìm đến Chúa,
là Lời Giáo huấn khôn ngoan
và là Bánh Hằng Sống đời đời.
32. Bánh Trường Sinh
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Con người hay lầm lẫn giữa điều đã biết và điều chưa biết. Có những điều không biết mà nghĩ là biết. Trái lại có những điều biết mà nghĩ là không biết. Chính những ’nghĩ là’ tạo nên nhiều trăn trở trong cuộc sống. Nguy hiểm hơn cả khi trăn trở đó liên quan đến vấn đề tâm linh, đức tin.
Nguy hiểm vì niềm tin tôn giáo định hướng cuộc đời. Định hướng liên quan đến tương lai, liên quan đến cách xử thế trong xã hội, liên quan đến việc cá nhân thực thi đức ái và lối sống đạo.
Từ chối nhận
Đám đông theo Đức Kitô, nghe Ngài nói về bánh trường sinh, họ vui mừng đón nhận và xin thêm bánh đó. Đức Kitô dẫn họ tiến thêm một bước nữa Ngài nói,
‘Tôi là bánh từ trời xuống’
Đám đông đặt vấn đề, viện lí lẽ từ chối. Làm sao ông này có thể làm được điều đó. Định kiến ngăn cản họ mở rộng tầm mắt.
Định kiến thứ nhất phát sinh do tư tưởng. Theo họ Thiên Chúa ở tận trời cao, mây thẳm, con người không thể vươn tới.
Thứ hai Chúa là Thần Linh. Thần linh không thể trông giống và sống chung với người phàm. Định kiến này chối bỏ Chúa Giáng Sinh nơi hang đá Belem. Đồng thời phản bác hình ảnh Chúa đồng hành với dân Người trong vườn địa đàng trước khi tội vào thế gian. Định kiến thứ hai ảnh hưởng bởi tội lỗi, ngăn cản con người nhận biết Chúa.
Đám đông nhận biết Đức Kitô làm bánh hoá ra nhiều nhưng không công nhận Ngài là Thiên Chúa giáng trần. Dùng sức mạnh tập thể thế quyền lấn át thần quyền. Ngày nay nó xuất hiện dưới hình thức không công nhận linh mục này, phản đối linh mục nọ. Dù nhận hay không thiên chức vẫn là thiên chức. Thiên chức không do con người ban mà do ơn thánh, ơn thiên triệu. Từ chối ơn thánh là chấp nhận sống như kẻ vô thần.
Kiến thức, hiểu biết xóm làng là định kiến thứ ba dẫn đến phán đoán sai lầm về Thiên Chúa. Đám đông đơn thuần lập luận biết rõ gia đình, thân thích. Làm sao có thể nói ông là Thiên Chúa.
Căn bệnh tự mãn
Chúa Kitô gặp rắc rối không phải với những người xa lạ. Ngài gặp rắc rối với những người tự nhận là biết Ngài, rõ gia đình dòng tộc, xuất xứ, gốc gác con cái nhà ai, sanh tại đâu. Cha mẹ làm nghề gì. Chính những hiểu biết trần thế này làm mờ con mắt đức tin, ngăn cảm việc nhận ra Đấng ban bánh trường sinh. Sai lầm do tự mãn gây ra. Bởi tin điều đã biết là chính xác, không tìm hiểu thêm, không chấp nhận thay đổi. Tự mãn trở thành định kiến như đã phân tích trên.
Dùng hiểu biết, kiến thức trần thế để giải thích sự kiện trên trời là một cạm bẫy kẻ sĩ thường mắc phải. Kiến thức sâu rộng trần thế không bảo đảm người đó có kiến thức, hiểu biết nước trời. Kiến thức nước trời không thể đo bằng hiểu biết trần thế.
Nhìn bằng con mắt đức tin sẽ giúp nhìn rõ hơn. Để có con mắt đức tin thì cần phải có lòng tin, dù là rất nhỏ. Thiếu lòng tin, không thể bắt đầu việc tìm hiểu lẽ đạo. Có nghe Chúa giảng cũng không hiểu. Ăn bánh phép lạ xong vẫn còn đói. Đọc Phúc Âm mong có thêm kiến thức hơn là giúp ích cho lòng tin. Đức tin là bước đầu tiên, quan trọng, nền tảng chính trong việc nhận biết thế giới thần thiêng.
Cửa tâm hồn
Kiến thức được ví như cánh cửa sổ của tâm hồn, giúp nhìn vào khung trời bao la. Điều trớ trêu là nếu không biết mở sẽ xảy ra tình trạng mở khung trời này, cùng lúc lại đóng, che lấp khung trời khác.
Cả cánh cửa lẫn mắt nhìn đều có giới hạn riêng, tầm nhìn thu hẹp của người nhìn. Ngăn trở lớn là cùng xem nhưng kết luận khác nhau. Cùng nhìn vào khung trời có kẻ nhìn sót, kẻ nhìn không rõ. Kẻ chú trọng điều này, người quan tâm đến vật nọ. Kết quả cùng nhìn một bức tranh, đọc chung sự kiện mà nhiều ý khác nhau. Tương tự như bức tranh thiên nhiên. Cùng nhìn vào thiên nhiên vũ trụ mà có kẻ chối bỏ Thiên Chúa, kẻ tin thờ Thiên Chúa.
Cường điệu
Hoàn toàn chối bỏ Thiên Chúa hay xác định biết rõ Thiên Chúa. Cả hai cách nói đều cường điệu. Thực tế cho thấy kiến thức hạn hẹp; trí khôn nông cạn; nhìn sự việc phiếm diện, ngăn cản, hoàn toàn chối bỏ hay biết rõ về Thiên Chúa. Chưa biết rõ chính ta sao có thể biết rõ Đấng tạo dựng nên ta. Không hiểu ta và bạn thân sao có thể hiểu rõ Đấng dựng nên ta. Vì thế mọi khẳng định biết rõ hay hoàn toàn chối bỏ Chúa đều giả dối, cường điệu. Chối bỏ Thiên Chúa chính là chối bỏ tình yêu. Không có tình yêu, không có sự sống. Khi tạo dựng con người, Chúa đặt vào tâm luật biết lành dữ. Tội làm cho việc phán đoán này ra lu mờ.
Tin vào Chúa được Lời Ngài hướng dẫn, dẫn đưa ta tiến trên con đường lành, đường nhân đức, đường dẫn đến sự sống trường sinh.
Chối bỏ Chúa ta tự chọn đi con đường ác, dẫn đến diệt vong. Chối bỏ Chúa vừa là mây mù ngăn cản nhận ra Chúa, là chướng ngại ngăn cản người khác đến cùng Chúa, vừa cản trở việc Chúa muốn thực hiện.
Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi….. Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi là bánh trường sinh (c.43).
33. Tâm điểm đức tin
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Phúc âm tuần này là phần hai của cuộc tranh luận giữa Đức Kitô và đại diện đám đông những người chống đối giáo huấn của Đức Kitô khi Ngài nói Ngài là bánh hằng sống từ trời xuống. Tuần trước chúng ta không biết đám đông là ai nhưng tuần này Phúc Âm ghi rõ đám đông là người Do Thái. Dân Do Thái thời đó là nhóm mãnh liệt chống đối Đức Kitô bằng cả tranh luận lẫn cố tình gài bẫy mong Đức Kitô một lúc nào đó vô tình không chuẩn bị sẽ sập bẫy họ gài ra.
Tuần trước Phúc âm nhấn mạnh đến vai trò của Đức Kitô là món quà Chúa Cha trao tặng nhân loại để ai đón nhận Ngài sẽ nhận được sự sống trường sinh. Phúc Âm tuần này cho biết thêm Đức Kitô chính là trung tâm điểm của niềm tin Kitô hữu. Qua giáo huấn của Đức Kitô con người nhận biết Đức Kitô là Con Thiên Chúa. Hai chủ đề trên là hai chủ đề riêng biệt nhưng chúng liên kết mật thiết với nhau. Sau khi nghe Đức Kitô tuyên bố Ngài đến từ trời nhóm chống đối Đức Kitô kịch liệt phản đối. Người Do Thái xì xầm phản đối, bởi vì Đức Kitô nói
'Tôi là bánh từ trời xuống'. c. 42
Họ chống đối Đức Kitô viện cớ họ biết rõ gia phả Ngài. Họ coi Ngài là một người bình thường như những người khác trong xóm bởi họ biết Đức Kitô là con ông Giuse và bà Maria và thân thuộc của Ngài họ đều rõ nên họ không chấp nhận Ngài từ trời xuống. Mâu thuẫn lớn ở điểm người Do Thái nhận biết con người Giêsu trần thế bằng hiểu biết trần gian; trong khi Đức Kitô lại nói về khôn ngoan của niềm tin khi nhận biết con người Giêsu là Con Thiên Chúa. Đối với người Do Thái một khi đã sinh ra trong trần gian thì thuộc về trần gian và không thể nào khác hơn được. Đức Kitô nói rõ cho họ biết Đức tin Ngài ban tặng không thể dùng sự hiểu biết trần gian để nhận biết mà cần đến đặc sủng Chúa ban. Thực ra không phải hiểu biết trần gian ngăn cản họ nhận ra Con Thiên Chúa mà chính là lòng họ ra chai đá, không chấp nhận bất cứ thay đổi nào. Họ đòi hỏi đức Kitô làm thêm phép lạ. Đối với họ phép lạ chữa bệnh cho bao người và phép lạ hoá bánh ra nhiều chưa đủ để cho họ tin, họ muốn có thêm nữa. Vấn đề khác xảy ra là do so sánh. Họ so sánh manna tổ tiên họ đã ăn trong samạc với bánh hằng sống Đức Kitô hứa ban. Khi có so sánh thế nào cũng có chọn thứ này, lựa thứ nọ và bỏ thứ khác. Nếu chọn theo Đức Kitô người Do Thái phải bỏ truyền thống tổ tiên và đó là việc làm đòi hy sinh rất lớn. Vì thế họ chọn theo truyền thống tổ tiên và loại bỏ giáo huấn của Đức Kitô. Để giúp họ nhìn thấy cái sai lầm của họ Đức Kitô mặc khải thêm cho họ biết
Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. c.44
Loại bỏ giáo huấn của Đức Kitô không chỉ đơn thuần chối bỏ Ngài mà chính là chối bỏ Chúa Cha Đấng sai Ngài đến trong thế gian. Những ai đón nhận giáo huấn của Đức Kitô được hưởng hai thành quả của niềm tin. Thứ nhất người đó trở thành thành viên của đại gia đình Chúa nơi trần gian, nhận được của ăn ban sự sống trường sinh là chính Mình và Máu Thánh Đức Kitô. Thành quả thứ hai người đó nhận được khi hoàn thành cuộc lữ hành trần thế, họ sẽ không chết cô đơn một mình. Họ chết trong Đức Kitô. Những ai chết trong Đức Kitô sẽ được Ngài cho sống lại, hưởng vinh quang Phục Sinh của chính Đức Kitô. Được chính Đức Kitô hướng dẫn và đón nhận vào Thiên Quốc chung hưởng sự sống trường sinh Thiên Chúa dành riêng cho họ.
Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. c.44
Bánh trường sinh Đức Kitô ban chính là Mình và Máu Thánh Chúa. Ngày nay chúng ta hiểu giá bánh trường sinh Đức Kitô cao trọng ngoài dự đoán của con người. Giá đó là chính sự sống đời Ngài ban cho nhân loại bằng cách tự nguyện, vâng lời Chúa Cha, chết trên thập giá trở thành bánh nuôi sống tâm hồn. Hiến tế đó ngày nay được lập lại trên bàn thờ mỗi khi linh mục đọc kinh truyền phép trong thánh lễ hàng ngày. Chúng ta hãy cúi đầu cảm tạ và kính cẩn thờ lậy.
34. Nói thẳng về một sự thật sống động.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng” - Charles E. Miller).
Đôi khi chúng ta cần nghe nói thẳng về một chân lý quan trọng, ví dụ như Thiên Chúa nhân lành; tội lỗi thì xấu xa, đơn giản là nhưng câu nói trực tiếp những gì thật sự là quan trọng trong đời sống làm cho chúng ta dừng lại hoặc làm chúng ta chú ý.
Trong hội đường Caphanaum Chúa Giêsu đã quyết định nói thẳng về bản chất của một sự thật cốt yếu. Ngài đã muốn cho những thích giả của Ngài chú ý. Ngài muốn cho chúng ta dừng lại để suy nghĩ về chân lý nơi những lời của Ngài.
Ngày hôm trước, Chúa Giêsu đã nuôi dưỡng đám đông dân chúng với năm chiếc bánh, Ngài đã trông đợi họ nhìn thấy phép lạ này như một dấu hiệu để Ngài trao ban cho họ một điều gì đó hơn nữa, một điều gì đó lớn hơn là bánh cho toàn thể thế giới. Ngài sẽ hiến tặng chính mình Ngài để làm của ăn thiêng liêng.
Những người lãnh đạo trong dân đã không hề chú ý tới những gì Chúa Giêsu đã hứa. Họ chỉ thấy Ngài là một người quá bình thường mặc dầu những dấu hiệu Ngài đã ban cho họ trong việc hoá bánh ra nhiều. Họ vẫn giữ ý kiến: “Ông này không phải là Giêsu con ông Giuse sao? Không phải chúng ta đã biết cha và mẹ của ông ấy sao?”
Chúa Giêsu đã nghe những lời bàn tán đồn thổi nhưng không hề giận về điều ấy và Ngài từ chối cúi mình, coi thường sự làm ngơ của họ. Ngài nhấn mạnh: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Hễ ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời.” Tiếp đó với lời lẽ đơn giản trực tiếp, một tuyên bố chứa đựng một chân lý cốt yếu cho đức tin Công Giáo của chúng ta, một lời loan báo được thúc đẩy bằng một sự quan tâm đáng yêu của một Thiên Chúa nhân lành. Một lời tuyên xưng của giáo lý mà nhưng người nam và những người nữ qua muôn thế hệ đã hiến dâng mạng sống mình để tử đạo, để bảo vệ một lời hứa đã tiết lộ tình yêu tuyệt vời nơi trái tim của Đức Kitô. Chúa Giêsu nói: “Bánh mà Ta sẽ ban chính là thịt Ta để cho thế gian được sống”.
Không có lời nào thẳng thắn hơn. Không có điều gì diễn tả một cách rõ ràng hơn. Tất cả đã không phải là một sự hùng biện. Chúa Giêsu không nói bánh thì giống như là Thịt của Ngài, điều đó sẽ gợi lên nhắc nhở đến thịt của Ngài. Ngài nói một cách rất rõ ràng: “Bánh mà Ta sẽ ban chính là thịt Ta để cho thế gian được sống”.
Chúa Giêsu đã làm viên mãn lời hứa của Ngài vào đêm trước khi Ngài chịu nạn. Vì các môn đồ của Ngài và các môn đồ kế tiếp đã đi theo Ngài, đang theo Ngài và sẽ theo Ngài đến tận cùng thế giới, Ngài đã thiết lập hy tế Thánh nhân, mọi người của mọi chủng tộc, mọi nền văn hoá, đã được kêu gọi tới bàn của Chúa chúng ta. Hạnh phúc biết bao cho những người được mời đến, và phúc cho những ai đã đáp trả lời mời gọi đó trong đức tin. Bánh và rượu với những hình thức bên ngoài của Thánh Thể, có vẻ quá bình thường, đơn giản trong đôi mắt của nhiều người nhưng đối với những người có đức tin, họ nhìn thấy đây là một đặc ân rất lớn lao vĩ đại từ Thiên Chúa qua Con của Người.
Chúng ta cầu nguyện xin lương thực này, chúng ta không phải chỉ xin thực phẩm duy trì sự sống của chúng ta trên mặt đất này nhưng còn là của ăn trên trời, thức ăn mà sẽ dẫn chúng ta tới sự sống đời đời. Chúng ta không làm điều gì lầm lạc, chúng ta tiếp tục trung thành với đức tin Công Giáo của chúng ta, bánh mà Đức Kitô đã ban chính là Thịt và Máu của Người để cho thế gian được sống.
35. Có ai thấy Chúa Cha đâu?
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
KHÔNG PHẢI LÀ ĐÃ CÓ AI THẤY CHÚA CHA ĐÂU
Câu chuyện bánh ăn vẫn chưa tới hồi kết nhưng lại ngày càng trở nên gay cấn hơn. Các người Do Thái bắt đầu cảm thấy bực bội khó chịu; họ xầm xì – phản đối (xem Xh 15:24; 16:12; 17:3), nhưng lần này không còn xoay quanh vấn đề bánh đó là thức ăn gì, hay người nào cho ăn, mà tập trung vào vấn nạn, người cho ăn bánh đó từ đâu mà đến; “tại sao bây giờ ông ta lại nói: “tôi từ trời xuống?’ Qua cuộc tranh luận về ăn bánh này, Đức Giêsu đã đưa nhóm thính giả Do Thái, vốn có rất ít thiện cảm với Người, đi tới một kết luận hết sức bất ngờ: “Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha. Thật tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời”.
Câu khảng định gây ngạc nhiên trên cho các thính giả Do Thái khi cho biết một điều chưa từng được nghe ai nói tới bao giờ, đó là bất cứ ai thấy được Chúa Cha thì người đó sẽ có sự sống đời đời. Điều này trước hết hoàn toàn trái ngược với quan niệm phổ thông của người Do Thái đương thời; họ cho rằng, Đức Chúa, Chúa các đạo binh là đấng quyền uy cao cả vô song tới nỗi không ai có thể nhìn thẳng mặt Ngài được, nếu không muốn chết (xem Xh 19:21). Ngay cả các thiên thần, trong quan điểm của họ, cũng phải hãi sợ lấy cánh che mặt mỗi lần ra trước Thánh Nhan (xem Is 6:1-3). Đến cả Mô-sê từ đỉnh núi Si-nai đi xuống, sau khi đã nhận lãnh các bia đá giới luật, mặt ông còn phản chiếu vinh quang Đức Chúa chói lọi tới độ dân chúng không dám nhìn trực diện, buộc ông phải lấy mảnh vải thưa che mặt mình lại (xem Xh 34:29-34). Thế đấy, làm sao một Đức Chúa đáng khiếp sợ như thế lại có thể trở thành nguồn cứu rỗi, và nhân vật đã nhìn thấy Đức Chúa, rồi từ Ngài mà đến, lại có thể ban sự sống chứ không phải là cái chết cho con người? Chính vì suy nghĩ như thế mà sau này, khi Phi-líp-phê đại diện cho các tông đồ và những kẻ tin khao khát được nhìn thấy Cha và lên tiếng: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện!” (Ga 14:8) thì đó đã là cả một lời tuyên xưng đức tin rất can trường và hiếm có. Nếu đối với các người môn đệ - những kẻ tin đã là như thế, thì đối với những ai không tin, đương nhiên việc ao ước được nhìn thấy Đức Chúa uy hùng để rồi phải chết là điều không thể. Do đó câu khảng định tiếp theo của Đức Giêsu lại càng chói tai, càng khó chấp nhận hơn đối với nhóm cử tọa đa nghi: “Tôi là bánh trường sinh, bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết.”
Khi đồng hóa việc ‘nhìn thấy Cha’ - là điều không ai dám làm, với việc ăn bánh và tin vào Người Con, Đức Giêsu đã làm một mời gọi vô cùng táo bạo, vượt quá hết mọi giới hạn chấp nhận của người đương thời. Nó đòi dân chúng nói chung, đặc biệt đám thính giả Do Thái nói riêng, phải có khả năng chuyển dịch từ quan niệm về một Thiên Chúa quyền uy cao cả, xa cách và đáng khiếp sợ, để chấp nhận diện mạo đối nghịch về một Thiên Chúa gần gũi, thấp hèn và từ nhân. Điều này cũng giống như đòi các tín đồ Do Thái nhiệt thành phải bỏ hẳn lối hiểu biết về (hay niềm tin vào) Đức Chúa oai hùng của Mô-sê và các tổ phụ, để đặt trọn niềm tin vào một Thiên Chúa Nhập Thể biểu hiện nơi con người ông Giêsu quá tầm thường này, “Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông chúng ta đều biết cả” (câu 42). Đơn giản họ không bao giờ có thể chấp nhận nổi điều này!
Đối với Kitô hữu chúng ta ngày nay, chính vì Mầu Nhiệm Thiên Chúa Nhập Thể đã dần trở thành một ‘công thức’ quen thuộc, cho nên việc chấp nhận lời mời gọi ‘ăn bánh trường sinh’ cũng không còn là điều gì quá chói tai. Tuy nhiên cũng như mãi mãi Thiên Chúa Nhập Thể vẫn là một mầu nhiệm khó nuốt trôi, thì việc ‘ăn bánh hằng sống’ với tất cả niềm tin sâu sắc cũng chẳng dễ dàng gì. Bao lâu ta còn đặt nặng việc tôn thờ một Thiên Chúa quyền uy cao cả, bấy lâu ta còn chưa thể khai thác được tất cả sự phong phú của Mầu Nhiệm Nhập Thể; bao lâu ta chưa thể thuyết phục được mình, rằng yếu tính quan trọng nhất của Thiên Chúa chính là sự từ bi nhân ái và hay xót thương, bao lâu ta còn chưa chịu chấp nhận “ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14:9) khi ngước nhìn lên Thập Giá, bấy lâu ta vẫn chưa thể bị thuyết phục rằng: “Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Thế đó, Thánh Thể luôn là biểu hiện của một niềm tin sâu sắc nhất (mầu nhiệm đức tin) chính là ở điểm này!
Niềm tin của tôi vào Thánh Thể hệ tại ở điều gì?
Lạy Chúa, bao lâu con còn chu chu chắm chắm tôn thờ sự hiện diện uy nghi cao cả của Chúa sau mỗi lần rước lễ, bấy lâu con chưa thể chân nhận Chúa chính là ‘bánh bởi trời’ nuôi sống con. Con phải tôn thờ Chúa, nhưng là tôn thờ một Thiên Chúa thật gần gũi, khiêm hạ và tự hiến, sẵn sàng hiến thân mình làm của ăn nuôi con. Xin cho con biết chuyển dịch cách hữu hiệu niềm tin của con từ việc quá quan tâm tới sự toàn năng cao cả của Chúa qua việc nhấn mạnh trên lòng nhân từ xót thương của Người, đặc biệt trong những lần con được diễm phúc tiến lên rước Chúa. Amen.
36. Bánh trường sinh
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Chúng ta là những khách lữ hành trên dương thế. Điểm tới của chúng ta là quê trời. Nhưng cuộc hành trình vừa dài lâu vừa vất vả. Chúa biết thế nên Ngài thương ban cho chúng ta thứ lương thực bồi dưỡng sức lực là chính Mình Ngài trong Bí Tích Thánh Thể.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy đến với Chúa, hãy sốt sắng rước Ngài vào lòng, để có sức tiếp tục cuộc hành trình của chúng ta.
II. Gợi ý sám hối
Xin Chúa thứ tha cho những lần chúng con ngã lòng, chua chát và phiền trách Chúa.
Xin Chúa tha thứ vì những lần mệt mỏi chán chường chúng con đã không chạy đến tìm sức mạnh nơi Chúa.
Xin Chúa tha thứ vì những lần chúng con rước lễ mà không đủ đức tin.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (1 V 19,4-8)
Sau lần ngôn sứ Êlia giết các sư sãi baal, ông bị hoàng hậu Giêsabel truy nã gắt gao. Ông phải chạy trốn lên núi Horép. Nhưng dọc đường vì quá mệt ông đã nằm ỳ xuống đất. Chúa sai thiên thần mang đến cho ông một chiếc bánh và một vò nước. Sau khi ăn uống xong, Êlia lấy lại sức và đi một mạch lên đến núi Horép diện kiến Chúa.
2. Đáp ca (Tv 33)
Thánh vịnh này của một tác giả đã từng gặp hoạn nạn, đã kêu xin Chúa và đã được Ngài cứu thoát. Một câu trong Thánh vịnh rất đúng với hoàn cảnh của ngôn sứ Êlia: "Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhận lời, cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn".
3. Tin Mừng (Ga 6,41-51)
Hai ý tưởng then chốt của bài Tin Mừng này là "đến với" và "tin vào" Chúa:
Việc "tin vào" Đức Giêsu, thể hiện bằng việc "đến với" Ngài là kết quả của sự hợp tác của hai phía:
- Phía Thiên Chúa: Thiên Chúa ban ơn "lôi kéo" con người tin vào Đức Giêsu và đến với Ngài: "Không ai đến được với Ta nếu Cha Ta là Đấng sai Ta không lôi kéo kẻ ấy" (câu 44). Thực ra, Thiên Chúa luôn muốn "lôi kéo" con người đến với Đức Giêsu để con người được sống. Nhưng con người ít ra phải ngoan ngoãn để cho Thiên Chúa lôi kéo. Nhiều người Do Thái đã không ngoan ngoãn như vậy nên đã không đến được với Đức Giêsu.
- Phía con người: phải "nghe lời giáo huấn" của Thiên Chúa.: "Ai nghe lời giáo huấn của Cha thì đến với Ta" (câu 45). Mà Thiên Chúa thì luôn giáo huấn con người: "Trong sách các ngôn sứ có chép rằng mọi người sẽ được Thiên Chúa giáo huấn" (câu 45). Câu nói này ngầm trích dẫn Is 54,13. Mà đại ý chương 54 sách Isaia là kinh nghiệm của dân Israel vào cuối thời lưu đày: họ đã thấy rằng Thiên Chúa luôn quyến luyến con người như một người chồng quyến luyến vợ. Đó chính là giáo huấn mà Thiên Chúa đã ban cho Israel qua dòng lịch sử. Như thế, "nghe lời giáo huấn của Thiên Chúa" nghĩa là ý thức rằng Thiên Chúa luôn yêu thương mình.
Tóm lại, việc "tin vào" Đức Giêsu và "đến với" Ngài là điều Thiên Chúa yêu thương luôn tạo điều kiện để con người thực hiện được dễ dàng. Chỉ cần ngoan ngoãn phó thác vào tình thương Thiên Chúa thì con người có thể làm được.
4. Bài đọc II (Êp 4,30-32--5,2) (Chủ đề phụ)
Sau khi khuyên dạy các tín hữu phải cởi bỏ nếp sống cũ hồi còn là dân ngoại để mặc lấy nếp sống mới giống Đức Kitô (Chúa nhật 18), Thánh Phaolô giải thích rõ hơn về nếp sống mới: tha thứ cho những điều xấu người khác gây cho mình, và sống bác ái yêu thương. Có như thế kitô hữu mới trở thành hy lễ tựa hương thơm ngọt ngào dâng lên Thiên Chúa.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Bánh hằng sống
Bài đọc thứ I của Thánh Lễ hôm nay được trích từ sách Các Vua và kể về cuộc hành trình gian khổ của Tiên tri Êlia: Vì ông đã tiêu diệt thứ đạo đầy mê tín dị đoan mà bà Hoàng Hậu Jésabel đem vào nước nên ông bị Bà này thù ghét tìm giết. Do đó ông phải chạy trốn và định trốn lên tận đỉnh núi Horep. Nhưng đường quá dài và nhiều gian nan nên ông mệt mỏi, chán nản bi quan nằm đại xuống đường phó mặc cho số mạng tới đâu thì tới. Lúc ấy Chúa sai Thiên Thần đem đến cho ông một chiếc bánh và một bình nước. Ăn uống xong, ông cảm thấy khoẻ khoắn và lạc quan trở lại, đi một mạch suốt 40 ngày đêm lên tận đỉnh núi Horép.
Thứ bánh thần diệu đã bổ sức cho tiên tri Êlia chỉ là hình bóng của Thứ Bánh mà Đức Giêsu sẽ ban cho loài người, tức là Mình Thánh Chúa. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu tuyên bố "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời". Thực vậy, mỗi lần chúng ta rước lễ là ta được ăn chính Mình Thánh Chúa, và của ăn đó đem lại cho người rước lễ biết bao ơn quý giá.
Nhiều người đã từng ở tù sau khi về nhà đã thuật lại rằng cuộc sống trong đó thật là cực khổ, tinh thần xuống dốc, đâm ra bi quan, chán đời. Nhưng đối với những người công giáo, nếu thỉnh thoảng được Rước Mình Thánh Chúa thì họ cảm thấy được an ủi rất nhiều, dù sức chịu đựng những sự cực khổ, tinh thần vững vàng và còn lạc quan vui vẻ giúp đỡ những anh em khác nữa. Trong hoàn cảnh khốn đốn như thế, người ta mới thấy rõ Mình Thánh Chúa thực là của ăn cần thiết cho tâm hồn mình.
Còn chúng ta, hoàn cảnh của chúng ta dễ dãi, có lẽ chúng ta không thấy được sự cần thiết của Mình Thánh Chúa. Cũng giống như người ăn nhiều quá nên không còn biết ngon nữa, chúng ta cũng thế: chúng ta có thể rước Mình Thánh Chúa hằng tuần, hằng ngày nếu quá quen và quên để ý đến những giá trị vô cùng cao quý của Mình Thánh Chúa.
Mình Thánh Chúa là biểu hiệu của một sự gần gũi rất thân thiết và rất sẵn sàng: nghĩa là trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta vẫn có thể rước lễ và được Chúa ở gần cạnh ta để an ủi, nâng đỡ, khích lệ ta. Trong cuộc đời chúng ta, có thể có những lúc chúng ta cảm thấy rất cô đơn, mọi người đều xa cách ta, kể cả những người thân thiết nhất cũng bỏ ta. Chỉ có Chúa là không xa ta, không bỏ ta,. Ta rước lễ là được Mình Thánh Chúa đến ở trong lòng ta, gần thật gần, thân thật thân, và Chúa sẽ an ủi nâng đỡ khích lệ ta.
Mình Thánh Chúa còn là biểu hiệu của một sự trao hiến trọn vẹn đầy yêu thương: Yêu thương là cho đi. Rước Lễ là một cuộc gặp gỡ giữa hai người yêu nhau trao quà tặng cho nhau. Đức Giêsu trao tặng chúng ta cái quý giá nhất là chính thân xác của Ngài. Còn chúng ta cũng trao cho Chúa những cái quý nhất của chúng ta: Những việc bác ái chúng ta đã làm được, những hy sinh chúng ta đã chịu và cả những tâm sự buồn phiền ray rứt đang dằn xé tâm can ta.
Mình Thánh Chúa còn là biểu hiệu của một sự hiện diện đầy quyền năng của một vị lãnh tụ của chúng ta. Đó là khám phá của một nhà trí thức Ấn Độ, ông Chidambaram. Là một người trí thức luôn đi tìm chân lý hoàn hảo nhất, ông khởi sự đi tìm trong nghề là báo, nhưng sau đó ông thấy rằng nghề báo cũng dầy dẫy những sự gian dối. Ông theo đạo Bàlamôn và là một tín đồ nhiệt thành, nhưng ông cũng không thoả mãn,. Ông sang Ấn giáo vì cho rằng Ấn giáo là thứ đạo Bàlamôn được cải tiến tốt đẹp hơn. Dù vậy ông cũng thất vọng. Cuối cùng ông gia nhập đạo Công giáo, ông thấy thoả mãn và trung thành với Đức tin công giáo cho đến hơi thở cuối cùng. Vậy cái gì trong Công giáo đã làm thoả mãn khát vong của ông? Thưa chính là Phép Thánh Thể. Ông đã nhận thấy rằng việc Đức Giêsu hiện diện thật sự trong Mình Thánh Chúa, và khi rước lễ chính Đức Giêsu đến ở thật sự trong lòng các tín hữu là một điều quý giá vô cùng mà không một tôn giáo nào trên khắp thế giới có được. Thần thánh của các tôn giáo kính vị viễn chi (nghĩa là kính nhưng mà phải ở xa xa). Còn trong đạo Công giáo, nhờ có bí tích Mình Thánh Chúa, Đức Giêsu ở thật gần với tín hữu của mình, thấu hiểu hết mọi tâm tư nguyện vọng của mình, thông cảm với mọi nỗi khó khăn của mình, và nâng đỡ thêm sức hướng dẫn mình trong từng chi tiết từng biến cố trong đời sống mình. Mình Thánh Chúa quả là một sáng kiến vô cùng thông minh của quyền phép Thiên Chúa và cũng là một ơn vô cùng cao quý cho con người.
Nếu mỗi lần chúng ta rước lễ mà chúng ta hiểu được, cảm được và sống được những tâm tình như vậy thì chắc chắn Mình Thánh Chúa sẽ trở thành một thứ lương thực bổ dưỡng cho linh hồn chúng ta, đúng như Lời Chúa phán trong bài Tin mừng hôm nay: Ta là bánh hằng sống bởi trời xuống, ai ăn bánh này thì sẽ được sống đời đời.
* 2. Bánh hằng sống
Trong kho tàng văn hóa Việt Nam có chuyện "Thoại Khanh Châu Tuấn". Đó là tên của hai vợ chồng trẻ. Nhà họ nghèo, lại phải nuôi một người mẹ già yếu. Nhưng người vợ trẻ hy sinh chịu cực khổ làm lụng để cho chồng học hành đi thi, rồi đến ngày người chồng từ giã mẹ và vợ lên đường về kinh đô ứng thí. Rủi là trong lúc đó gia đình lâm cảnh đói rách rất thê thảm, người mẹ già đói quá sắp chết. Người vợ trẻ đã cam đảm lấy dao lóc thịt mình để nuôi mẹ chồng. Nhờ đó mà người mẹ già mù loà có thể sống được cho tới ngày con trai đổ đạt vinh quy về nhà.
Câu chuyện cổ tích tưởng tượng trên cũng cảm động như câu chuyện thực sự diễn ra hàng tuần, hàng ngày trong Thánh Lễ: Đức Giêsu lấy chính Thịt Máu Mình để nuôi sống linh hồn chúng ta: "Ta là bánh hằng sống".
Nhưng phải thú nhận ngay rằng: Khi nghe câu chuyện Thoại Khanh Châu Tuấn ta thấy cảm động, còn khi nghe câu "Ta là bánh hằng sống" chúng ta thấy vẫn trơ trơ. Tại vì tai ta đã nghe câu đó quá thường rồi. Thực ra, đây không phải là một câu nói bóng bảy văn chương, mà là một sự thật: Mình Thánh Chúa thực là một thứ của ăn có sức bổ dưỡng thần diệu:
1/ Ngày xưa tiên tri Êlia bị bà hoàng hậu Giêzabel gian tà hung ác săn đuổi. Ông quá mệt mỏi đói khát, nằm vật xuống đất chỉ chờ chết đi. Nhưng Thiên Chúa sai một Thiên Thần đem lại cho ông một chiếc bánh nhỏ,. Ông ngồi dậy ăn vào và có sức đi suốt 40 ngày tới đỉnh núi Carmel hội kiến với Thiên Chúa. Đó chỉ là một hình bóng của Cựu Ước thôi, huống chi thực tại Rước Lễ của Tân Ước còn có sức bồi dưỡng đến mức nào!
2/ Tin Mừng cũng kể rằng có lần dân chúng tấp nập đón Đức Giêsu đi ngang qua những người bệnh tật cố sức chạm tới mình Ngài, rờ tới gấu áo Ngài, hay ít ra được bóng Ngài che phủ lên mình thì lập tức bao bệnh hoạn liền biến mất. Huống chi ngày nay chúng ta được Rước chính Mình Thánh Chúa vào kết hợp mật thiết với thịt máu ta, hoà tan trong thịt máu ta.
3/ Tục ngữ VN chúng ta có câu "Trời đánh tránh bữa ăn": khi cùng dùng cơm chung với nhau một bàn, người ta phải dẹp bỏ mọi xích mích để cố hòa hợp đoàn kết với nhau. Bữa ăn thường còn thế, huống chi bữa ăn thánh của những người cùng là con cái Chúa và anh em với nhau.
Những so sánh nho nhỏ trên cho ta thấy rằng Mình Thánh Chúa thật là một thứ bánh hằng sống có thể thêm sức cho chúng ta trên con đường dương thế, có thể tẩy xoá mọi yếu đuối bệnh tật trong linh hồn chúng ta và có thể giúp chúng ta đoàn kết yêu thương nhau.
Nhưng thực tế là chúng ta đã rước lễ biết bao nhiêu lần mà vẫn chẳng thấy ích lợi bao nhiêu. Chính các tông đồ cũng vậy: Thánh Lễ đầu tiên do chính Đức Giêsu cử hành trong nhà Tiệc ly, tất cả 12 tông đồ đều rước lễ, nhưng sau đó đâu phải tất cả 12 đều được thánh hóa: Giuđa vội ra đi tính việc bán Chúa, Phêrô sau đó đã chối Chúa 3 lần, chỉ có Gioan là vẫn theo sát bên Chúa trên đường tử nạn.
Thực ra cũng chẳng có gì là khó hiểu: như một dĩa thức ăn thật bổ dưỡng, nhưng nếu người ta mà không tiêu hóa thì cũng vô ích thôi, có khi còn sinh ra trúng thực hay bội thực nữa. Nếu chúng ta rước lễ thường xuyên mà chẳng được ích lợi thì không phải tại Mình Thánh Chúa mà tại chính chúng ta. Vì thế cũng cần xét lại cách chúng ta rước lễ như thế nào. Xin đưa ra một vài mẫu gương để chúng ta cùng chiêm ngắm:
1/ Các tín hữu sơ khai gọi Thánh Lễ là tiệc bẻ bánh: Khi tới nhà thờ, mọi người đều cố gắng đem phần bánh của mình đến. Người nghèo đem ít, người giàu đem nhiều, kẻ túng thiếu có khi không mang gì hết. Chủ tế thu nhận tất cả rồi truyền phép biến bánh thành Mình Thánh Chúa. Sau đó mọi người chia đều nhau, ai có phần nấy, lại có một số phần để dành đem chia cho những người giả cả yếu đau không thể tới dự nghi lễ bẻ bánh. Người ta đã đến dự lễ với tấm lòng quảng đại, với trái tim yêu thương đùm bọc nhau. Kết quả là họ đạo trở thành một tổ ấm khiến lương dân phải trầm trồ khen ngợi "Kìa xem họ thương yêu nhau đến mức nào".
2/ Tới thời Rôma bị bắt đạo, các tín hữu phải ẩn trốn trong các đường hầm ở ngoại ô gọi là những hang toại đạo. Họ cử hành Thánh Lễ trên mồ chôn các thánh tử đạo. Họ dâng lễ bằng chính những hy sinh gian khổ của họ đang chịu vì Chúa, và họ rước lễ như rước lấy nghị lực của Đấng cũng đã từng chịu nạn chịu chết như họ. Và kết quả là họ đã có một đức tin kiên vững, gian lao không sờn, chết chóc không nản, hận thù không giết chết trái tim yêu thương của họ. Ngày nay trong các hang toại đạo, du khách vẫn còn thấy vẽ những hình về Bí tích Thánh Thể như những đĩa bánh, những chùm nho, những con cá... và những câu tràn đầy yêu thương tha thứ tin tưởng như sau: "Bình an", amor "tình yêu thương", Christus vincit "Đức Kitô chiến thắng"...
Đường đời chúng ta như một cuộc lữ hành gian nan nhọc mệt.
Cuộc đời chúng ta như một cuộc chiến đấu cực khổ đau thương.
Cuộc sống chúng ta với người khác nhiều khi bực bội như hoả ngục.
Đức Giêsu muốn giúp chúng ta, nên Ngài đã hiến thân làm bánh hằng sống để ban nghị lực cho chúng ta có thể đi trọn đường dài, ban ơn nâng đỡ cho chúng ta chịu đựng những khổ đau, ban thêm tình thương để chúng ta sưởi ấm lòng mình và sưởi ấm lòng những kẻ sống với mình.
Nhưng chúng ta cũng phải cố gắng giúp chính chúng ta nữa bằng cách tham dự Thánh Lễ và rước lấy thứ Bánh Hằng Sống đó một cách sốt sắng. Rước Lễ sốt sắng là có dọn mình trước khi dự lễ, kết hợp sâu xa với Ngài đã ngự vào lòng ta, và sau đó cùng đồng hành với Ngài bước vào cuộc sống với tâm tình lạc quan, yêu thương, quảng đại.
* 3. Bí quyết trường sinh (Ga 6,41-51)
Tần Thủy Hoàng là vị vua Trung Quốc, sống trước Chúa Giáng Sinh khoảng 200 năm. Ông là người đã truyền xây Vạn Lý Trường Thành dài hơn 2.000 dặm. Đó là kiến trúc duy nhất trên trái đất, mà các phi hành gia có thể nhìn thấy từ ngoài không gian. Theo tạp chí National Geographic, Tần Thủy Hoàng rất sợ chết, ông muốn được trường sinh bất tử, nên tìm đủ mọi cách để được cải lão hoàn đồng. Một ngày kia, các chiêm tinh gia kể cho ông nghe về một hòn đảo thần tiên ở biển Đông, dân cư ở đấy đã khám phá ra bí quyết trường sinh.
Tần Thủy Hoàng liền phái một số tàu thuyền chất đầy châu báu lên đường, hy vọng đổi được bí quyết trường sinh. Nhưng dân chúng không đổi cho ông bí quyết trường sinh của họ.
Thế rồi ông lo xây nhà mồ như cung điện nguy nga rộng lớn, lấy châu ngọc làm tinh tú, lấy thủy tinh làm sông Ngân Hà, lấy vàng bạc lát tường và chôn sống hàng trăm cung nữ trong đó, để kiếp sau được sống như thần tiên. Nhưng kẻ tàn bạo ham sống ấy chỉ làm vua được hơn chục năm và sống trên năm mươi tuổi thì chết đi.
***
Trường sinh bất tử là ước mơ ngàn đời của con người. Cứ mỗi lần một người thân giã từ cõi thế, thì ước mơ được sống mãi lại càng dày vò con người dữ dội hơn. Nên không lạ gì khi Đức Giêsu nói về cuộc sống trường sinh thì mọi người tuôn đến như đi tìm kho báu.
Nhưng mầu nhiệm về "Sự sống đời đời" lại rất xa tầm trí mọn của đám dân chúng. Đức Giêsu không giúp họ thoát khỏi cái chết của thân xác, vì chính Người cũng vui lòng chết như mọi người. Nhưng Người cứu họ thoát khỏi cái chết của linh hồn: cái chết vĩnh viễn xa lìa Thiên Chúa và hoàn toàn ly biệt với tha nhân, cái chết đi vào trầm luân muôn kiếp, cái chết dẫn đến cõi tiêu diệt muôn đời.
Cuộc sống vĩnh cửu ấy, hôm nay Đức Giêsu đã mạc khải: "Ta là Bánh ban Sự Sống... Ai ăn Bánh này sẽ được sống muôn đời" (Ga.6,47). Vậy bí quyết trường sinh mà Tần Thủy Hoàng khó nhọc đi tìm kiếm tận các đảo thần tiên, lúc nào cũng hiện diện trước mặt chúng ta, trong mọi thánh đường Công giáo. Chính là Đức Giêsu nguồn mạch trường sinh.
Người đang hiện diện với chúng ta bằng thần trí Người: "Ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Ta, Ta sẽ ở đó với họ" (Mt.18,20).
Người còn hiện diện với chúng ta qua Lời Chúa. Lời mà Người nói cách đây 2000 năm cũng chính là Lời Người đang nói với chúng ta trong tin mừng.
Người hiện diện với chúng ta qua các linh mục trong lúc giảng dạy và trong khi cử hành các Bí tích: "Ai nghe các con là nghe Ta" (Lc.10,16).
Đặc biệt Người hiện diện thực sự với chúng ta trong Bí tích Thánh Thể: "Ta là bánh hằng sống... Ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời" (Ga.6,52).
Như vậy, "Sự sống đời đời" không phải là chuyện viễn vông xa vời, nhưng là một thực tại đang triển nở trong đời sống người tín hữu. Mỗi thánh lễ là một bàn tiệc nuôi dưỡng linh hồn đưa ta về chốn trường sinh.
***
Lạy Đức Giêsu, như Tấm Bánh Thánh xin cho tâm hồn chúng con nên trong trắng, cố xa tránh những ô uế cho dù nhỏ mọn để luôn xứng đáng với Chúa.
Xin cho tâm hồn chúng con nên khiêm hạ nhỏ bé, nhưng luôn bày tỏ một tình yêu lớn lao.
Và cho tâm hồn chúng con luôn kết hợp với Chúa, để được Chúa dẫn vào cuộc sống muôn đời. Amen.
(Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 4. Mất tinh thần
Bài đọc I kể chuyện ngôn sứ Êlia. Ông đã từng can đảm dám một mình chống lại hoàng hậu Giêsabel và giết hết tất cả các sư sãi của bà này. Nhưng sau đó, bị bà này truy bắt, ông phải chạy vào sa mạc. Cuộc trốn chạy quá vất vả khiến ông chán nản không muốn tiếp tục nữa. Ông ngồi bẹp dưới gốc một cây kim tước. Ông còn xin Chúa cho ông chết đi cho rồi: "Lạy Chúa, đủ rồi. Bây giờ xin Chúa lấy mạng con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông con".
Tâm trạng Êlia lúc đó là mất tinh thần. Khi ta mất tinh thần thì ta mất nguồn sức mạnh lớn nhất, bởi vì tinh thần đối với con người cũng giống như đôi cánh đối với loài chim, và như bộ rễ đối với loài cây vậy.
Ngay cả những nhân vật anh hùng cũng có lúc cảm thấy mệt mõi, yếu đuối và thất vọng. Nhưng không phải vì thế mà họ không còn là anh hùng. Đúng hơn, những lúc đó cho thấy họ thực sự là người. Chính Đức Giêsu cũng từng trải qua những giây phút như thế trong vườn Cây Dầu.
Nhiều người không thể chấp nhận những giới hạn do thân phận làm người của mình. Họ muốn tỏ ra lúc nào cũng mạnh. Họ cho rằng họ sẽ bị mất mặt nếu để cho người ta thấy được sự yếu đuối và sợ hãi của mình. Nhưng sự thực không phải thế. Người ta sẽ cảm động và sẵn sàng giúp ta khi thấy ta cũng là người giống như họ. Như lời Picasso nói: "Lòng bạn sẽ tràn ngập cảm thông khi bạn nhận ra rằng trong mỗi người có cả một nguồn nước mắt".
Có người còn cho rằng cảm giác yếu đuối đó không xứng với người có đức tin. Nhưng thực ra, yếu đuối đâu có gì ngược với đức tin. Vả lại làm sao ta có thể được giúp đỡ nếu ta không thấy mình cần được giúp đỡ?
Chúa sai một thiên thần mang đến cho Êlia bánh và nước. Nhờ thứ lương thực này, Êlia được bổ sức và đi một mạch đến núi Horép, núi của Chúa. Thực ra, tình trạng yếu đưối trước đây của Êlia không phải chỉ do thiếu lương thực mà do mất tinh thần. Bây giờ cũng thế, ông được hồi sức không phải chỉ vì có lương thực, mà còn do lấy lại được tinh thần: Ông được bảo đảm rằng Chúa luôn ở cùng ông. Chính sự bảo đảm này đã đem lại cho Êlia một nguồn sống mới và giục giã ông lên đường.
Chúng ta cũng đang hành trình lên núi Chúa, tức là sự sống đời đời. Nhiều lúc chúng ta cũng cảm thấy yếu đuối mệt mỏi. Cho nên chúng ta cũng cần được giúp đỡ; những sự giúp đỡ của anh chị em tín hữu trong cộng đoàn, và nhất là sự giúp đỡ của Chúa. Sự giúp đỡ của Chúa chính là ý thức có Chúa ở với ta và hằng yêu thương ta. Như Êlia, chúng ta cũng cần bánh. Bánh ban sức mạnh chính là Mình Thánh Chúa trong bí tích Thánh Thể. Bánh Thánh thể được gọi là Viaticum, "lương thực đi đường". (Viết theo Flor McCarthy).
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã nhắc đi nhắc lại rằng: "Tôi là bánh từ trời xuống... không ai thấy Chúa Cha, chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha". Chúng ta hãy tin tưởng cầu xin với Người:
1. Xin cho mọi người trong Hội thánh luôn tin tưởng và tuyên xưng rằng / Đức Giêsu Kitô là Đấng từ trời đến / là Con Chúa Cha ở trên trời, và là Thiên Chúa làm người / Đấng cứu độ duy nhất ở trần gian.
2. Xin cho mọi nhà cầm quyền và mọi người theo các tôn giáo khác / được nhận biết Đức Giêsu Kitô là Đấng cứu độ mà Chúa Cha sai đến / để giải thoát và cứu độ tất cả mọi người.
3. Xin cho mọi người chưa nhận biết ơn cứu độ của Đức Giêsu Kitô / được Chúa Cha lôi kéo đến với Người / để Người ban cho họ lương thực nuôi cả xác hồn.
4. Xin cho anh chị giáo hữu trong xứ đạo chúng ta luôn siêng năng dự lễ và rước lễ / để lãnh nhận lương thực bởi trời / mà chu toàn bổn phận mình trong cuộc hành trình về Nước Chúa.
Chủ tế: Lạy Chúa chúng con cảm tạ Chúa là Cha yêu thương đã ban cho chúng con bánh từ trời xuống là Đức Giêsu Kitô. Xin cho chúng con luôn được nuôi dưỡng bằng Bánh bởi trời, để chúng con luôn có sự sống muôn đời. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô.
VI. Trong Thánh lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Khi chúng ta đọc "Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày", chúng ta đừng chỉ xin cơm bánh vật chất, nhưng hãy xin Chúa ban cho chúng ta chính bản thân Ngài, để Ngài đồng hành với chúng ta luôn mãi trong cuộc đời.
- Trước lúc rước lễ: Ngày xưa ngôn sứ Êlia đã được ăn bánh Chúa ban, nhờ đó có sức lên núi Horép gặp Chúa. Chút nữa đây chúng ta sẽ được rước chính Mình Thánh Chúa. Xin cho thứ lương thực thần thiêng này bồi dưỡng sức khoẻ tinh thần cho chúng ta trong cuộc lữ hành dương thế.
VII. Giải tán
Chúng ta đã có Chúa trong lòng. Hãy lạc quan trở về cuộc sống và cùng sống với Chúa trong từng phút giây.
37. Lời hứa về Sự Sống
(Suy niệm của Giuse Nguyễn Cao Luật, OP)
Có một thứ bánh khác
Tiếp tục diễn từ về Bánh trường sinh, vị Hoàng Tử sự sống mặc khải một mầu nhiệm thật khó tin: "Tôi là Bánh ban sự sống, bánh tiêu diệt sự chết."
Lời loan báo này dựa trên một biến cố huy hoàng: năm chiếc bánh được hoá nên nhiều, làm cho cả đám đông được ăn no. Các thính giả coi biến cố này là một cử chỉ của một vị ngôn sứ, của một ông vua. Họ nghĩ rằng, cuối cùng, Đức Giêsu là vị thủ lãnh, chỉ nhờ quyền năng của lời, đã có thể nuôi đám đông đang bị đói, đồng thời hiệp nhất cả đám đông. Phải tôn Người làm vua, không chờ đợi gì cả. Nhưng Đức Giêsu đã từ chối, Người trốn đi một mình.
Sau đấy, Người đã tuyên bố chính Người là bánh trường sinh, và cố gắng giải thích điều lạ lùng này cho dân chúng.
Quả thật, Đức Giêsu là bánh hằng sống từ trời xuống, quy tụ những kẻ theo Người thành một dân. Bánh này không chỉ là man-na Đức Chúa ban cho dân đang ở trong hoang địa thuộc giao ước cũ. Bánh này chính là Thiên Chúa tự hiến thành của ăn, của ăn đàng, tức là lương thực cho người đang hành trình. Thiên Chúa trở thành bánh cho con người: một mặc khải tuyệt vời, hoàn toàn vượt quá óc tưởng tượng của các thính giả.
"Tôi là bánh trường sinh."
Lời tuyên bố không thể chấp nhận nổi.
Để hiểu trọn vẹn ý nghĩa sâu xa của mặc khải này, người ta không thể tách rời diễn từ về bánh trường sinh với những điều Đức Giêsu thực hiện trong bữa tiệc Vượt Qua cuối cùng. Trong cả hai trình thuật này, có ba thực tại luôn đan kết với nhau như là những yếu tố của một mầu nhiệm duy nhất: bánh, đức tin và sự sống - Ăn, tin và chiến thắng sự chết.
Với cuộc phục sinh, Đức Ki-tô sẽ thực hiện việc hoá bánh ra nhiều đích thực: không chỉ là bánh ăn thông thường, nhưng là bánh ban sự sống. Từ nay, qua các buổi cử hành lễ tạ ơn, dấu chỉ này về cuộc phục sinh - tức là bánh ban sự sống luôn có tính hữu hiệu và có chiều kích phỗ quát. Nó không còn bị giới hạn trong không gian và thời gian. Hai mươi thế kỷ sau, một Charles de Foucauld trong sa mạc Tamanrasset, hay bất cứ một vị linh mục nào, cũng đều thực hiện cử chỉ kỳ diệu này, cử chỉ đem lại sự sống, bắt đầu từ lời và hành động Đức Giêsu đã thực hiện.
Quả thế, mổi thánh lễ vẫn là một lời khẳng định dứt khoát rằng quyền lực tử thần không thể là tiếng nói cuối cùng. Lời khẳng định này được nói lên khi các Ki-tô hữu đang cùng nhau chia sẻ tấm bánh và chén rượu là Mình và Máu Đức Ki-tô, mặc dù họ vẫn đang bị cầm giữ trong thân xác, vẫn đang bị cơn đói hành hạ và vẫn đang bị cái chết đe doạ. Từ giữa những bóng tối của cuộc đời, họ cử hành mầu nhiệm về bánh ban sự sống và nhờ đó họ có thể dần dần thoát ra khỏi quyền lực của sự chết.
Có lẽ các Ki-tô hữu cần suy gẫm câu nói của Bernanos: "Ki-tô giáo của chúng ta đặt nền tảng trên tình yêu... Chúng ta yêu quý sự sống, chúng ta tin vào sự sống. Chúng ta biết rằng sự sống ấy không lừa dối chúng ta, và các lời hứa về sự sống sẽ không phai tàn."
Phải tin mới hiểu được
Đức Giêsu vừa tuyên bố Người là bánh ban sự sống và các địch thủ từ chối bước theo Người vào trong lãnh vực Người muốn đưa họ vào. Theo họ, Đức Giêsu chỉ là một người khoa trương: "Chúng tôi biết rõ ông ấy." Tóm lại, họ muốn lôi Người vào trong những sắp xếp của họ. Theo họ, Đức Giêsu chỉ là con ông Giu-se. Thế thôi... chấm hết.
Thế nhưng, Đức Giêsu vẫn tiếp tục nhấn mạnh tính cách nghịch thường của những khẳng định Người đã nêu ra, đồng thời tố cáo quan niệm của các đối thủ. Quan niệm này chỉ là những suy nghĩ bình thường của con người, chứ không phải là quan điểm của Thiên Chúa.
Đức Giêsu đề nghị họ phải thay đổi nhãn quan, thay đổi cách nhìn - có thể nói như thế - và đó là đức tin.
Biết bao lần người ta giản lược đức tin thành một chuổi những khẳng định cần được lặp lại mà không cần hiểu. Người ta tưởng rằng như thế là đủ và tự nhận mình thuộc về một nhóm ưu tuyển và do đó có quyền được thưởng. Người ta đâu biết rằng khi quan niệm như thế, họ đã biến đức tin thành một hành động mà không có sự tham dự của lý trí.
Theo Đức Ki-tô, đức tin là sức mạnh đem lại sự sống và mở ra những nhãn quan diệu kỳ. Đức tin không đề ra những câu trả lời trực tiếp cho những vấn đề của con người, nhưng làm thay đổi quan niệm, cách nhìn vấn đề của họ. Đức tin cho họ thoáng thấy một thứ ánh sáng mà họ sẽ không ngừng tiếp cận. Nhờ ánh sáng này, người tín hữu bước đi, khám phá và sống.
Như vậy, đức tin là ân huệ Thiên Chúa ban. Nó không đến do lý luận hay do nôỵ lực của ý muốn con người. Chỉ có thể hiểu được đức tin khi chấp nhận đó là kết quả của ân ban. Dĩ nhiên, nỗ lực và thiện chí của con người sẽ giúp phần nào tiến trình này, nhưng cuối cùng, đó là chấp nhận mở ra trước ánh sáng được bày tỏ cho mình.
Chỉ có đức tin như thế mới giúp hiểu Đức Giêsu là bánh ban sự sống đích thực. Đức tin ấy đưa con người tham dự cách trọn vẹn vào mầu nhiệm hiệp thông, vào cuộc trao đổi. Ai hiểu được điều này, người ấy đạt được sự sống vĩnh cửu, bởi vì họ hiểu được thực tại sâu xa của tình yêu, một tình yêu mà ngay cả đến sự chết cũng không tiêu diệt được. Nói thế, vì tình yêu chính là nền tảng của thực tại.
Để cho Thiên Chúa lôi kéo
Giữa Đức Giêsu và các thính giả, có một khoảng cách khá xa, hay nói đúng hơn, một sự hiểu lầm.
Trước khi tự nhận là bánh trường sinh, Đức Giêsu đã muốn chia sẻ hương vị bánh của con người: ba mươi năm chuẩn bị với những bữa ăn hằng ngày, những bữa ăn trong ngày tang chế cũng như trong những ngày vui; ba mươi năm để cố gắng giúp con người hiểu được đâu là cơn đói thực sự, đổng thời làm cho họ nhận ra của ăn chính yếu Người trao tặng cho họ. Ba mươi năm để rổi nghe được một nhận xét đầy mỉa mai: "Ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giu-se đó sao? Sao bây giờ ông ta lại nói: "Tôi từ trời xuống.""
Tâm hồn của người không tin, có lẽ cũng là của chúng ta, đó là chỉ nhận ra Đức Giêsu là người chia sẻ bánh của con người chứ không muốn đón nhận Người là Đấng qua tấm bánh, muốn chia sẻ cuộc sống của chính họ. Dường như chúng ta chỉ muốn lãnh nhận bánh từ tay Đức Giêsu, chứ không muốn đón nhận chính Người.
Đàng khác, chúng ta thường có thói quen giản lược hành trình tôn giáo vào những cố gắng của riêng mình. Chúng ta nghĩ rằng mình là người đưa ra sáng kiến, và chúng ta chỉ quan tâm đến việc chiếm lấy Thiên Chúa. Thực ra, chính Thiên Chúa lôi kéo chúng ta đến với Người qua Đức Giêsu. Thiên Chúa đến với chúng ta qua Con của Người. Đức Giêsu là Lời và là bánh từ trời xuống để chia sẻ cuộc sống với chúng ta trước khi chúng ta có sáng kiến về chuyện này. Qua Đức Giêsu, Đấng đã ăn bánh của con người trong ba mươi năm, Thiên Chúa dạy chúng ta biết rằng: có một thứ bánh để nuôi sống trong cuộc đời này, và có một thứ bánh ban sự sống vĩnh cửu. Một bên là bánh của người phàm, một bên là bánh của Thiên Chúa. Hai thứ bánh này khác nhau.
Qua sự nhập thể của Đức Giêsu và qua bí tích Thánh Thể, chúng ta có biết để Thiên Chúa lôi kéo và hướng dẫn? Chúng ta có tin Đức Giêsu là bánh từ trời xuống? Chúng ta có dám tin vào lời hứa ban sự sống của Đức Giêsu?
Lạy Chúa,
mặc dù Chúa rất xa chúng con,
nhưng nhờ tình yêu, chúng con vẫn gần với Chúa.
Không hề có phân ly
giữa chi thể với vị thủ lãnh nhiệm mầu!
Chúa cho mọi người được dự tiệc
khi cử hành lễ tạ ơn.
Chính Chúa đã nói rằng
con có thể ăn thịt là Mình Chúa.
Điều ấy đã được viết lại,
không phải tự ý con nghĩ ra.
Thế mà có lúc tại sao con nghi ngờ
trong khi Lời Chúa quá rõ ràng như thế?
Paul Claudel.
38. Bánh Trường Sinh.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Vào thế kỷ 16 có một nhà thám hiểm người Tây Ban Nha tên là Ponce de Léon. Sau khi Kha Luân Bố (Christophe Colomb) khám phá Mỹ Châu ít lâu, người ta đồn rằng ở Tân Thế Giới có một ngọn suối trường sinh, thế là Ponce de León liền sắm thuyền vượt biển sang Nam Mỹ đi tìm con suối huyền thoại đó.
Giống như Ponce de Léon, các bô lão trong phim Cocoon đã được cải lão hoàn đồng khi họ xuống tắm ở một hồ bơi đã được những người xa lạ từ một hành tinh khác bí mật sử dụng. Chính kinh nghiệm kỳ thú này khiến các cụ sẵn sàng nhận lời mời của các vị khách lạ đi theo họ về chốn hành tinh khác. Vì theo lời các vị khách này, một khi đến được hành tinh xa lạ kia, các bô lão sẽ mãi mãi được trường sinh.
Cũng thế, Tần Thuỷ Hoàng, một vị hoàng đế Trung Quốc thời xưa, người đã truyền xây Vạn Lý Trường Thành ở Trung Quốc. Với chiều dài hơn 2000 dặm (=3218 km), Vạn Lý Trường Thành này là kiến trúc nhân tạo duy nhất trên trái đất mà các phi hành gia có thể nhận ra từ phía ngoài không gian. Theo tờ tạp chí Địa Lý Quốc Gia (National Geographic), Tần Thuỷ Hoàng rất sợ chết. Một ngày nọ các chiêm tinh kể cho ông nghe về một hòn đảo thần tiên ở Biển Đông, dân cư ở đây đã khám phá ra bí quyết trường sinh. Thế là Tần Thuỷ Hoàng liền phái một tàu thuyền chất đầy châu báu lên đường đi tìm các dân cư của hòn đảo ấy, hy vọng có thể dùng những báu vật để trao đổi lấy bí quyết trường sinh của họ. Theo lời người ta kể, các tàu thuyền này đã tìm ra đảo thần tiên nhưng cư dân ở đây chẳng thèm đổi bí quyết trường sinh của họ để lấy những “tặng vật tầm thường” ấy của Hoàng Đế.
Thưa anh chị em,
Ba câu chuyện trên cho chúng ta thấy rằng: từ xa xưa, con người đã mơ ước được sống chẳng bao giờ chết, được trường sinh bất tử. Mỗi lần thấy một người thân chết đi thì niềm ước mơ bất tử này càng ám ảnh con người dữ dội hơn. Vì thế, chẳng lạ gì khi Chúa Giêsu xuất hiện ở Palestine và bắt đầu nói về cuộc sống trường sinh bất tử thì dân chúng liền đổ xô đến nghe Ngài nói. Đám dân Do Thái này rất chú tâm đến vấn đề này, vì kể từ thời Abraham và Môsê họ triền miên sống trong mờ mịt, chẳng hiểu tí gì về những điều xẩy đến cho những người chết. Họ tin rằng có một “thế giới của người chết” (Shéol), nhưng họ chẳng có khái niệm gì về thế giới ấy. Vì thế, họ sẵn sàng đón nhận bất cứ tia sáng nào Chúa Giêsu soi dọi vào mầu nhiệm này.
Trong Tin Mừng hôm nay, một trong những câu nói quan trong nhất của Chúa Giêsu về đời sống vĩnh cửu là: “Tôi là bánh trường sinh từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống đời đời. Và bánh Tôi ban tặng, chính là thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống”. Chúa Giêsu mạc khải cho biết cuộc sống nơi trần gian này không phải là cuộc sống duy nhất và chết không phải là chấm hết. Còn các một cuộc sống trong tương lại không bao giờ chấm dứt, đó là cuộc sống vĩnh cửu, trường sinh.
Thế nên có lạ gì khi nhiều người Do Thái lắc đầu, bỉu môi, liếc xéo Chúa Giêsu khi nghe Ngài nói: “Tôi là bánh trường sinh từ trời xuống!” Có lạ gì khi họ xầm xì với nhau: “Anh này chẳng phải là anh chàng Giêsu, con trai ông Giuse đó sao? Bộ chúng ta không biết bố mẹ anh ta sao mà anh ta lại dám mạo nhận là từ trời xuống?” Và nếu chúng ta tiếp tục đọc hết chương 6 của Thánh sử Gioan, chúng ta sẽ thấy ngay cả các môn đệ của Chúa Giêsu cũng xầm xì với nhau: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (6,60) “Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Chúa Giêsu nữa” (6,60). Chỉ mãi đến khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, nhiều người trong đám dân Do Thái này mới bắt đầu biết trân trọng những câu nói trên của Chúa Giêsu.
Và cũng chính vì tin nhận mầu nhiệm này mà chúng ta đã cùng nhau tập họp trong thánh đường ngày hôm nay. Chúng ta tập họp nhau để nghe Chúa Giêsu nói về cuộc sống vĩnh cửu, để được dưỡng nuôi bằng bánh trờng sinh, Mình Thánh Chúa Giêsu. Ngọn suối trường sinh mà Ponce de Léon đã khổ công lên đường đi Châu Mỹ để tìm kiếm, cuộc sống bất tử mà các bô lão trong phim Cocoon sẵn sàng ra đi để tìm kiếm ở một hành tinh khác, và bí quyết trường sinh mà Tần Thuỷ Hoàng đi đến tận các đảo thần tiên để truy lùng, hiện đang ở giữa chúng ta, ngay trong thánh đường này. Chúa Giêsu hiện diện với chúng ta trong bí tích ban phúc trường sinh khi Ngài nói: “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời”. Nếu đã thấu hiểu toàn bộ mầu nhiệm này, chúng ta sẽ không còn ngạc nhiên hay xầm xì với nhau khi nghe Chúa Giêsu ngỏ lời với chúng ta hôm nay.
Anh chị em thân mến,
Vào thời ông Môsê, dân Do Thái ăn chán bánh manna từ trời rơi xuống, họ lẩm bẩm kêu trách Chúa. Rồi họ đòi ăn thịt, Chúa cho từng đàn chim cút bay sà xuống để họ bắt làm thịt ăn. Ăn chán rồi họ lại kêu trách Chúa và ông Môsê. Đến thời Chúa Giêsu, họ lại xầm xì với nhau vì không thể tin được Chúa Giêsu là Đấng từ trời xuống, như thứ bánh manna mới, đem lại sự sống đời đời. Ngày nay, lễ xong ra về, nhiều người Kitô hữu cũng lẩm bẩm, xầm xì với nhau: “Thánh lễ buồn tẻ! Hát dở ẹt! giảng chán phèo! Người ngồi bên cạnh khó chịu! Rồi lại xin tiền!”… Họ lại xầm xì với nhau. Chúng ta thường như thế đó. Trước Chúa Giêsu Thánh Thể, Đấng tự hiến cho chúng ta, chúng ta còn tìm đủ lý do từ chối cái chính yếu là chính Mình Ngài, chính tình yêu của Ngài, để chạy theo những chi tiết phụ thuộc mà đả kích, phê bình. Phải chăng chúng ta đã nghe chán rồi? Nên Lời Chúa chẳng còn đánh động lòng ta nữa? Phải chăng chúng ta đã ăn chán rồi, nên Bánh Thánh Thể được dọn ra trong Tiệc Thánh chẳng còn đem lại cho chúng ta niềm vui nội tâm nào nữa? Phải chăng chúng ta tôn thờ cá nhân cha này, thầy nọ, đến nỗi cộng đoàn anh em Kitô hữu chăng còn sức thúc đẩy ta dấn thân phục vụ linh động hơn nữa? Phải chăng chúng ta không nhìn ra chung quanh chúng ta biết bao anh em đang chờ chúng ta giúp đỡ, thay vì ngồi đó mà lẩm bẩm với nhau về những chuyện thứ yếu, không đâu?
Thiết tưởng chúng ta nên nghe lại lời Chúa bảo: “Anh em đừng xầm xì với nhau nữa!” Thiết tưởng mỗi Chúa Nhật, chúng ta nên suy niệm bài Tin Mừng, rồi đem Lời Chúa ra thực hành trong đời sống cụ thể, điều mà không một ai được chuẩn chước từ nhà thờ bước vào lòng đời. Bánh Trường Sinh phải được đem đến các môi trường sinh sống của Chúng ta, nơi chúng ta lao động, đấu tranh, nơi chúng ta cười, chúng ta khóc với người khác. Một khi lễ xong, anh chị em ra về, cửa nhà thờ đóng lại thì phải chăng là cả thế giới mênh mông với trăm ngàn khuôn mặt hợp thành gia đình của Chúa là điểm hẹn của anh chị em. Đời ta là thánh lễ nối dài. Chúng ta đã làm gì ở đó nhân danh đức tin của chúng ta?
Bao nhiêu câu hỏi được đặt ra cho chúng ta chung quanh Bánh Hằng Sống của Chúa Giêsu. Nhưng đó cũng là những lời mời gọi chúng ta sống trọn vẹn các chiều kích của Bánh Trường Sinh mà chúng ta lãnh nhận từ Bàn Tiệc của Chúa mỗi ngày Chuá Nhật.
39. Sắp hàng lãnh bánh của Chúa – Gm. Arthur Tone.
Trong những cơn khủng hoảng kinh tế của thập niên 1930, hàng triệu người Mỹ thất nghiệp, và hàng triệu người bị đói. Ở một số thành phố, những nhóm tu sĩ tổ chức phát chẩn cho những người bị đói, một trong những nhóm đó là tu viện Thánh Phanxicô ở số 1615 Vine street (Phố Cây Nho) tỉnh Cincinnati, tiểu bang Chio.
Mỗi ngày bánh mì kẹp thịt được phân phát cho hàng trăm người đói, đàn ông, đàn bà đứng xếp hàng đợi đến 5 giờ chiều để được phát bánh. Cả ngày, hai thầy dòng Phanxicô và năm, bảy người giáo dân trợ giúp, làm bánh mì kẹp thịt và gói lại. Nhìn những người sa cơ lỡ thế ấy nhận bữa ăn tạm, tôi thấy: nhiều người nhận gói bánh mỉm cười và cám ơn, có người mắc cở, giật lấy gói bánh rồi lẩn mất, có người mở gói bánh ngay, ăn liền và vội vàng ra đi, có người cầm gói bánh đi vào một ngõ hẻm. Ít, rất ít người mở gói bánh ra, rồi liệng đi tất cả. Một vài người ăn thịt còn bánh liệng đi. Hầu hết ăn trọn một tấm bánh, một vài người ăn thịt còn bánh liệng đi. Hầu hết ăn trọn tấm bánh, một vài người ăn một phần, bỏ đi một phần, có người gói lại và để dành một phần. Nhiều người gọn gàng bỏ giấy gói vào thùng rác. Những người khác thì xả rác bừa bãi trên đường. Thỉnh thoảng một vài người làm dấu thánh giá.
Cách thức những người bất hạnh đến xin ăn, phần nào giống như cách thức những người nghe đón nhận lời Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay: “Tôi là bánh sinh sự sống từ trời đến, ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời. Và bánh Tôi sẽ ban là Thịt Tôi vì sự sống của thế gian”.
Trong thời đại Chúa Giêsu và trong thời đại chúng ta có người lẩm bẩm: “Không thể được, ông ấy chẳng có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn, và máu mình cho chúng ta uống”. Họ quên rằng Đức Giêsu là Thiên Chúa. Người khác đón nhận bánh của Người nhưng đức tin yếu ớt. Có người còn nói họ tin nhưng đức tin của họ yếu ớt. Có người nói họ tin nhưng việc làm của họ là từ chối. Họ không đón nhận thường hơn như họ có thể. Bạn có thể tưởng tượng một người đó ở Cincinnati lại lười biếng không đến nhận bánh Sandwich được cho không?
Có người Công giáo rước lễ với lòng biết ơn, có người nghĩ là họ làm ơn cho Đức Kitô, cho vị linh mục.
Một số lãnh nhận được rất ít sự bổ dưỡng thiêng liêng trong việc rước lễ. Vì họ đến bàn thánh thiếu chú ý và chuẩn bị cẩn thận. Cám ơn Chúa. Hầu hết những người Công giáo ý thức rằng của ăn thánh chúng ta đón nhận nơi đây, tại bàn thờ này sẽ giữ gìn chúng ta sống động và lành mạnh thiêng liêng.
Tất cả nhân loại đang đói khát Đức Kitô, có khi họ còn chưa được nghe nói về Người. Nhiều người thực sự đang khao khát Đức Kitô, nhưng họ không biết cái gì, hoặc ai sẽ thỏa mãn cơn đói của họ.
Đức Kitô đã chuẩn bị phát chẩn, phát chẩn Thánh Thể để cho chúng ta, vâng, cho mỗi người chúng ta của ăn là chính Ngài, để thêm sức mạnh và giúp chúng ta sống mãi mãi.
Xin Chúa chúc lành bạn.
40. Ai được Cha giáo hóa thì đến với Ta.
(Suy niệm của Noel Quesson)
Hồng y Niu-mân trước kia theo Anh giáo. Người là một chức sắc cao cấp, được trợ cấp hàng năm một ngân khoản rất lớn. Thế mà sau một thời gian lâu dài suy nghĩ, cuối cùng người đã quyết định xin trở lại Công giáo. Một bạn thân của Niu-mân khuyên:
- Bạn phải suy nghĩ cẩn thận, nếu cải giáo, bạn sẽ mất hết số lương bổng hàng năm.
Niu-mân hiên ngang trả lời:
- Ngân khoản trợ cấp và bổng lộc là gì, so với một lần tôi được rước lễ?
Có được tâm tình đó, hẳn Niu-mân phải được ơn Chúa soi sáng hướng dẫn. Thực vậy, thiếu ơn Chúa, chẳng những người ta không hiểu nổi mầu nhiệm Chúa Giêsu mà còn thấy khó chịu khi nghe Chúa nói. Bởi lẽ chỉ có Thiên Chúa mới hiểu được Thiên Chúa và có khả năng giúp con người hiểu biết Thiên Chúa mà thôi.
Chính Chúa Giêsu đã đem lại cho chúng ta những mạc khải sâu xa nhất về Thiên Chúa mà Cựu Ước chỉ nói tới rất mơ hồ. Chúa Giêsu giáng trần đã đem lại sự sống vĩnh cửu cho nhân loại, nhưng nếu không có Thiên Chúa trực tiếp soi sáng và dạy bảo, làm sao chúng ta hiểu nổi điều đó? Từ ngàn xưa, Thiên Chúa đã dùng các ngôn sứ và các biến cố lịch sử mà chuẩn bị tâm hồn con người đón nhận Chúa. Nhưng người Do Thái không thành tâm thiện chí tiếp thu lời Chúa dạy qua Kinh Thánh, nên khi nghe Chúa Giêsu nói về Người là “Bánh từ trời xuống”, họ liền tức bực nói: “Lẽ nào ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn sao?”.
Những ai là người đã được Thiên Chúa giáo hóa? Đó là những mục tử vùng Bêlem, các đạo sĩ Đông phương, Simêon, Anna, Gioan Tẩy giả… Chúa Giêsu đã xếp những người này vào loại được Thiên Chúa giáo hóa, và cho họ biết Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế từ trời xuống, là Con Thiên Chúa thật. Người là Ngôi Lời, là lương thực nuôi sống linh hồn chúng ta, như cơm bánh nuôi thân xác ta vậy: “Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa nói ra” (Mt 4,4).
Ai đón nhận và thực thi lời Chúa, sẽ được sống vĩnh viễn. Còn ai không đón nhận sẽ chết muôn đời. Tin Mừng trong lễ hôm nay, Chúa nói về Thánh Thể, đồng thời cũng nhấn mạnh về Lời Chúa, cốt cho chúng ta dứt khoát lập trường, đón nhận Chúa hoặc từ chối Chúa, tin hoặc không tin Lời Chúa dạy. Chúa khẳng định Chúa là “Bánh hằng sống” không phải là hình ảnh hay ẩn dụ nhưng là bánh thật cho cuộc sống tâm linh của mọi tín hưũ.
Lạy Chúa, xin cho chúng con yêu mến đón nhận Lời Chúa hằng ngày để được Chúa giáo hóa. Lời Chúa là sự sống tâm hồn chúng con, là ánh sáng dẫn đưa chúng con đến cuộc sống muôn đời.
41. Chân lý và những hệ lụy
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Hằng năm cứ vào những Chúa Nhật cuối tháng 7 và đầu tháng 8, nhiều linh mục thấy oải vì Hội thánh dọn bàn tiệc Lời Chúa cứ xoáy mãi vào đề tài Thánh Thể. Dĩ nhiên, mầu nhiệm Thánh Thể là khôn dò và thật khó tát cạn, nhưng đó là trong đức tin, còn với sự hạn chế của con người thì khi nói mãi một vấn đề hẳn sẽ gây nhàm chán không chỉ cho thính giả mà cho cả người trình bày. Dẫu vậy, dựa trên những bài đọc Lời Chúa của Chúa Nhật XIX TN B, xin cùng xem xét đôi điều về chân lý và những hệ luỵ của nó.
1. Là chân lý thì không thể chấp nhận tình trạng thoả hiệp hay nước đôi: “Phải tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất, ngoài Người ra không được có thần nào khác” (x.Dnl 6,4-7). Đây chính là lệnh truyền của Giavê cho dân được tuyển chọn, một lệnh truyền được lặp đi lặp lại nhiều lần nói lên tầm quan trọng của nó. Vào thời Vua Akhap cai trị đất nước, vua đã cưới nhiều bà vợ ngoại bang và hệ quả là vua quan, dân chúng đã bỏ Giavê để tôn thờ thần Baal, vị thần hoàng hậu Giêgiaben tôn thờ. Ngôn sứ Êlia đã khẳng khái lên án tình trạng này. Và Ngài đã dám thách thức 450 sư sãi Baal làm một cuộc đọ sức trên núi Cácmêlô để xem Giavê hay là Baal, ai là Thiên Chúa thật. Câu chuyện làm thịt bò rồi xin thần cho lữa từ trời xuống thiêu đốt của lễ thì chúng ta ít nhiều đã nghe. Dĩ nhiên Êlia đã thắng, vì chỉ có Giavê là Thiên Chúa thật mới cho lữa từ trời xuống thiêu huỷ lễ vật. Tuy nhiên ở đây chúng ta muốn nhắc với nhau lời cảnh tỉnh của Êlia với dân Chúa xưa khi họ vì theo hoàng hậu nên bỏ Giavê mà tôn thờ thần Baal: “Các ngươi đi hàng hai cho tới bao giờ? Nếu Đức Chúa là Thiên Chúa thì hãy theo Người; còn là Baal thì cứ theo nó!” (1V 18,21). Phải rõ ràng, không được lập lờ kiểu nước đôi khi phải đối diện với chân lý. Dân Do thái thời bấy giờ không bỏ Giavê nhưng lại tôn thờ thần Baal.
Sau khi đã cho dân chúng no nê bánh và cá, Chúa Giêsu cũng đã rõ ràng với đoàn dân theo Ngài: “Các người tìm ta chỉ vì cái bụng của các ngươi. Hãy ra sức làm việc vì của ăn đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,27). Để sống thì cần phải có lương thực cơm bánh, nhưng hơn các loài vật, con người không nguyên chỉ sống bằng cơm canh cá thịt. Đây là một chân lý mà lắm khi chúng ta tránh né cách này hay cách khác. Cuộc đời con người không chấm dứt với cái chết thể lý, thế mà lắm khi chúng ta không dám đối diện với sự thật này. Tin thì vẫn cứ tin nhưng ta vẫn cứ hàng hai trong cách sống. Tin Chúa thì vẫn tin, bỏ đạo thì không không dám bỏ nhưng ta lại cứ sống như người không biết Chúa, không tin Chúa. Ta vẫn cứ bon chen cách tinh quái, hơn thua cách xảo quyệt như người đời. Một kiểu đi hàng hai như dân Do Thái thưở nào.
2. Công bố chân lý nhiều khi phải chấp nhận sự lẻ loi: Nói lên sự thật về căn bệnh giả dối trong giáo dục nước nhà ta, nhà giáo Đỗ Việt Khoa đã từng cảm nghiệm sự cô đơn, lẻ loi. Elia mặc dù chiến thắng các sư sãi Baal cách oanh liệt trên núi Cácmêlô thế mà vẫn phải chịu cảnh đơn chiếc một mình. Trước sự truy diệt của hoàng hậu Giêgiaben, Ngài đã phải trốn chạy vào trong hoang địa. Vị ngôn sứ đã như thất vọng và thầm xin: “Lạy Chúa, đủ rồi! Xin cho con chết quách đi, vì con chẳng hơn gì cha ông của con”. Số phận của những người làm chứng cho chân lý rất lắm khi như vô vọng vì thấy công sức của mình thật như muối bỏ biển. Chúng ta đừng quên, nhà giáo Đỗ Việt Khoa khi mạnh dạn nói lên sự thật về chuyện gian dối trong thi cử ở Hà Tây cũng từng có tâm trạng này.
Khi trình bày sự thật về đám dân theo Ngài và về căn tính của chính mình, chắc hẳn Chúa Giêsu đã từng cảm nghiệm sự lẻ loi, cô đơn cách nào đó. Tin Mừng tường thuật khi nghe Chúa Giêsu giới thiệu Ngài chính là bánh ban sự sống, thịt Ngài thật là của ăn, máu Ngài là của uống đem lại sự sống trường sinh thì dân chúng đã bỏ Ngài mà đi, kể cả nhóm môn đệ, chỉ còn lại nhóm Mười Hai. Chúa Giêsu đã hỏi họ: “Còn chúng con, chúng con có bỏ Thầy mà đi không?” Đằng sau câu hỏi nay hẳn nhiên bàng bạc một nổi buồn cô đơn. Ôi, số phận của người rao truyền chân lý! Sợ phải một mình, sợ phải cô đơn, chắc chắn sẽ khó mạnh dạn nói lên sự thật, sẽ khó can đảm làm chứng cho chân lý.
3. Bảo vệ chân lý thì không bao giờ đơn độc, vì chân lý là tuyệt đối nên luôn có người tiếp nối để bảo vệ, để rao truyền: Mây đen không thể che mãi được mặt trời, sự giả dối hay tội lỗi không thể nào phủ lấp được chân lý. Êlia những tưởng mình đơn độc trong cuộc chiến vì chân lý nhưng ông có ngờ đâu, vẫn còn đó 7000 người không hề bái lạy thần Baal. Nỗ lực bảo vệ chân lý của ngài ngôn sứ không hoài công vì sẽ có đó sứ ngôn Êlisêu tiếp bước Ngài, sẽ có đó Giêhu, con của Nimsi thay thế Akhap. Điều này thì Chúa Giêsu biết rõ hơn Êlia. Bánh sự sống, bánh ban sự sống đời đời mà Chúa Giêsu ban tặng sẽ mãi mãi ở với nhân loại qua nhóm Muời Hai và những người kế vị cũng như những người cộng tác. “Các con hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22,19). Chính lời này nhắc nhở chúng ta rằng luôn có đó, luôn còn đó người rao truyền chân lý, ngưòi bảo vệ chân lý, vì chân lý thì bất diệt, chân lý thì không thể bị dập tắt.
Chỉ có chân lý mới giải thoát chúng ta (x.Ga 8,32). Chỉ có chân lý mới dẫn đưa ta đến sự sống đời đời. Cuộc đời con người không chỉ có ở đời này. Giêsu là Chân Lý. Lời Ngài là Chân lý và là sự sống. Thịt Máu Ngài là lương thực trường sinh. Đã tin thì xin đừng có đi nước đôi, xin đừng “bắt cá hai tay”, lập lững, nửa vời. Cũng xin hãy cầu nguyện cho những ai rao truyền chân lý, bảo vệ chân lý được kiên vững trong gian truân, bền chí trong khi gặp thất bại, nhất là nhẫn nại khi thấy mình lẻ loi.
Rao truyền chân lý, bảo vệ chân lý là một bổn phận của Kitô hữu. Thánh tông đồ dân ngoại đã thốt lên: “Vô phúc cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1 Cor 9,16). Trước Thượng Hội Đồng Do Thái năm nào, Phêrô và Gioan đã khẳng khái rằng phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta vì các ngài không thể không nói lên sự thật mắt thấy, tai nghe (x.Cvtđ 4,18-20). Xin đừng viện cớ sự “khôn ngoan” để che giấu lối sống nửa với hay nước đôi.
42. Nguồn trợ lực đời ta
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Một hiện thực của cuộc đời: Không ai được ở mãi trên các tầng mây. Sau phút giây vinh quang, thành công, sốt sắng là một chuỗi ngày vất vả, truân chuyên lẫn nhàm chán của đời thường, và chưa kể đến biết bao trở ngại phải đương đầu và cả những thất bại phải chuốc lấy cách này cách khác. Thời kỳ sốt mến sau ngày chịu chức linh mục, giai đoạn thánh thiện sau ngày tuyên khấn trong Hội dòng, tháng ngày mặn nồng sau lễ hôn ước, khoảng thời gian sau khi nhận một nhiệm sở, một chức vụ…sao mà chẳng thể được lâu. Thế rồi ta phải hạ cánh với các cảnh ngộ cuộc đời dù chẳng mong và thường không như ý.
Cảnh ngộ của Ngôn sứ Êlia qua bài đọc thứ nhất của Chúa Nhật XIX TN B là một minh chứng. Trước mặt vua Akhap, một mình thách đấu với 450 ngôn sứ thần Baal trên núi Carmel, ngài Êlia thật can trường và đáng khâm phục. Êlia đã chiến thắng, khi cầu khẩn Thiên Chúa và được Người nhậm lời cho lửa từ trời xuống thiêu hủy lễ vật. Chỉ có một Thiên Chúa duy nhất chúng ta phải tôn thờ, ngoài Người ra, tất thảy đều là “sản phẩm do tay loài người làm nên”. Êlia hãnh diện về niềm tin của mình. Ngài phấn khởi về chiến công của mình.
Thế nhưng Êlia đã phải lập tức rời bỏ vinh quang của chiến thắng lẫy lừng ấy để chạy trốn khỏi sự truy diệt của hoàng hậu Giêgiaben. Chỉ mỗi một tiểu đồng cùng chung cảnh ngộ với ngài. Nhưng khi vào sa mạc, thì ngôn sứ Êlia chỉ còn một thân một mình. Một mình một thân trong cảnh tình của kẻ chiến bại giữa hoang mạc khô cằn. Êlia buồn bã, thất vọng, Ngài xin Chúa cất mạng sống mình đi: “Lạy Đức Chúa, đủ rồi! bây giờ, xin Chúa lấy mạng sống con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông của con.” Thành công thì chốc lát, nhưng khó khăn, cảnh gập ghềnh thì ít thoảng qua. Cuộc đời làm con Chúa, cuộc đời người tông đồ không ít lần rơi vào cảnh “đêm tối của đức tin”. Tha nhân vẫn có đó mà ta như bước đi một mình. Như Êlia, đã đôi lần ta muốn thiếp ngủ đi.
Chúa lại đến đánh thức ta. “Chổi dậy mau, vì đường vẫn còn xa!”(x. 1V 19,7) Thiên Chúa không để một ai chịu thử thách quá sức mình. “Ơn Ta đủ cho con” (x.2 Cor 12,9). Nguồn trợ lực không phải ở dưới trần này mà là từ trên cao. Khi trao cho vị ngôn sứ bánh và nước, sứ thần muốn khẳng định với Êlia và với chúng ta rằng Chúa chính là nguồn sống đích thực đời ta, là năng lực giúp ta tiến bước trên cõi lữ thứ này.
Nguồn sống từ trời cao không còn là thứ bánh vật chất thưở nào cho dân đi trong hoang mạc 40 năm về đất hứa hay cho Êlia đủ sức tiếp bước trong 40 ngày để đến núi Horeb gặp Chúa. Nguồn sống ấy nay đã được tỏ bày cách minh nhiên là chính Đấng từ trời xuống, Giêsu Kitô. “ Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6, 50-51). Chúa Kitô không ngại ngần tỏ bày một sự thật cho dù nó đi ngược với quan niệm thời bấy giờ. Người Do Thái vẫn hằng quan niệm ăn thịt ai, là xem người đó như kẻ thù (x.Tv 27,2; Dcr 11,9), và uống máu là một trọng tội đáng bị tru diệt (x.St 9,4; Lv 3,17; Dnl 12,23). Chắc chắn Chúa Giêsu biết rõ điều này, thế mà Người vẫn minh nhiên công bố thì ta đủ thấy tầm quan trọng của chân lý được tuyên.
Khi tuyên bố mình chính là bánh hằng sống, Chúa Giêsu khẳng định Người chính là nguồn sống của chúng ta. Ai muốn được sống, sống đời đời thì phải đón nhận Người, vì không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Người. (x.Ga 14,6). Người là lẽ sống, là nguồn sống của đời chúng ta. Người là nguồn trợ lực giúp chúng ta vững trước trước gian nan, khốn khó. “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28).
Thực tế đã có đó nhiều người vững vàng trong cảnh lao tù, khốn khó, nhờ sức mạnh của Thánh Thể Chúa. Đã có đó nhiều vị tông đồ lấy lại được sức mạnh mà kiên trì với sứ mệnh nhờ những phút giây hiện diện trước Thánh Thể. Cành nho chỉ có thể sinh trái, đơm hoa nhờ kết liền với thân nho. Không có Người thì chúng ta chẳng thể làm được sự gì tốt đẹp (x. Ga 15,1-8). Kitô hữu chúng ta ít nhiều đều xác tín và cảm nghiệm chân lý này ngay trong cuộc đời của mình.
Sau khi Chúa Kitô truyền hãy cầm lấy bánh mà ăn, hãy cầm lấy chén mà uống, thì Người đã truyền rằng hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy (x. 1Cor 11,23-25). Đón nhận Chúa Kitô là bánh hằng sống, là lương thực trường sinh, là nguồn trợ lực trong những cơn gian nan, khốn khó, cô đơn, thất vọng, để có thể tiếp tục hành trình dương thế, thì chính chúng ta cũng phải trở nên tấm bánh trao ban sự sống, nguồn trợ lực cho tha nhân. Thiết tưởng cũng thật cần thiết kiểm điểm xem sự hiện diện của chúng ta có đem lại sự bình an, sức sống, nguồn trợ lực cho những người mà chúng ta gặp gỡ hay đang chung sống với chúng ta như thế nào?
43. Sắp hàng lãnh bánh.
Trong nạn đói năm Ất Dậu 1945, hằng triệu người miền Bắc lâm vào cảnh túng thiếu, đến nỗi củ chuối trong vườn cũng chẳng còn để mà ăn, khiến cho họ phải bỏ nhà cửa, làng mạc lên đường kiếm chút của ăn nuôi thân.
Tại một số giáo xứ may mắn, không bị nạn đói hoành hành, người ta tổ chức phát chẩn cho những kẻ bị đói. Mỗi ngày nhà chung thổi những nồi cơm lớn, rồi nắm thành những nắm nhỏ, được gọi là nắm cơm chim phân phát cho hằng trăm người đói lả. Đàn ông, đàn bà và trẻ nít đứng xếp hàng để chờ được nhận nắm cơm chim của mình.
Nhìn những kẻ sa cơ nhận phần ăn ít ỏi, chúng ta thấy có người thì cám ơn, có kẻ thì mắc cỡ giật lấy nắm cơm rồi lẩn mất. Có người ăn vội ăn vàng rồi ra đi, có kẻ cầm nắm cơm tới một bụi tre hay một khóm trúc rồi mới ăn. Có người chỉ ăn một nửa, còn một nửa thì gói lại để dành. Có người làm dấu trước khi ăn, nhưng cũng có kẻ không làm vì chắc hẳn họ là người ngoại…
Cách thức những người bất hạnh đến xin ăn phần nào giống như cách thức những người nghe và đón nhận lời Chúa trong đoạn Tin Mừng sáng hôm nay:
- Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này thì sẽ được sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban chính là thịt Ta vì sự sống của thế gian.
Trong thời đại Chúa Giêsu cũng như trong thời đại chúng ta, có người đã lẩm bẩm:
- Không thể được, ông ấy chẳng có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn và máu mình cho chúng ta uống.
Họ quên rằng Đức Kitô là Thiên Chúa.
Có kẻ đón nhận bánh của Ngài, nhưng đức tin thì lại yếu ớt. Có người tuy nói rằng mình tin nhưng rồi việc làm của họ lại là một sự từ chối, cả dăm bảy năm họ không rước Chúa lấy được một lần, dù miệng lưỡi họ vẫn tự hào rằng tôi tin. Liệu chúng ta có thể tưởng tượng, một người đang đói lả mà lại đi từ chối nắm cơm, cho dù chỉ là một nắm cơm nhỏ bé, nắm cơm chim của nhà chung?
Có người đã rước lễ với lòng biết ơn vì tình thương mà Đức Kitô đã dành cho họ. Nhưng cũng có những kẻ chẳng đón nhận được bao nhiêu lợi ích khi họ tiến đến bàn tiệc Thánh Thể bởi vì họ thiếu chuẩn bị, thiếu ý thức, thiếu tình yêu.
Phần lớn nhân loại đang đói khát Đức Kitô, nhưng họ không biết cái gì hoặc ai sẽ làm cho họ thỏa mãn cơn đói khát ấy. Đức Kitô đã chuẩn bị phát chẩn. Đúng thế, phát chẩn chính thịt máu Ngài qua bí tích Thánh Thể làm của ăn đem lại sức mạnh và sự sống thiêng liêng cho mỗi người chúng ta.
Thế nhưng, chúng ta đã đón nhận của ăn cao cả ấy như thế nào?
44. Bánh hằng sống.
“Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống”. Đó là tư tưởng then chốt của Tin Mừng Chúa nhật hôm nay và cũng là đề tài tranh luận giữa người Do Thái và Chúa Giêsu.
Chúng ta biết, ngoài câu chuyện manna là bánh mà Thiên Chúa đã ban cho dân Do Thái làm lương thực nuôi họ 40 năm trong sa mạc trên đường về Đất Hứa, Kinh Thánh Cựu ước còn kể lại hai phép lạ về bánh: một phép lạ đã xảy ra với ngôn sứ Êlisa trong bài đọc một của ngày Chúa nhật cách đây hai tuần: có người đem đến dâng cho ngôn sứ Êlisa 20 chiếc bánh làm bằng lúa mạch và cốm đầu mùa. Ngôn sứ bảo dọn cho mọi người ăn, và 20 chiếc bánh đã cho 100 người ăn no mà còn dư. Phép lạ thứ hai kể lại trong bài đọc hôm nay: trên đường vào sa mạc tiến đến đỉnh núi Khôrếp để trốn bạo chúa A-cáp và hoàng hậu Dêdaben, ngôn sứ Êlia cảm thấy mệt mỏi, chán chường, thất vọng, chỉ cầu mong được chết đi cho xong, nhưng Thiên Chúa đã sai sứ thần đến ban bánh nướng cho ngôn sứ ăn hai lần, và theo Kinh Thánh, “nhờ sức của lương thực ấy, ông đã đi một hơi 40 đêm ngày tới núi của Thiên Chúa”.
Phép lạ trên đây thường được các giáo phụ coi như hình ảnh bánh hằng sống của Chúa Kitô, là thịt máu Đức Kitô ban để cho mọi người được sống. Đây chính là điều Chúa Giêsu giảng dạy người Do Thái trong bài Tin Mừng và cũng là tư tưởng then chốt của lời Chúa hôm nay: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống”. “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Qua những lời này, chúng ta thấy rõ ràng Chúa Giêsu muốn mạc khải về phép Thánh Thể.
Trước hết, chúng ta thấy khi Chúa tuyên bố “Tôi sẽ ban bánh hằng sống” thì người Do Thái lý luận; ông ta không thể làm được điều đó, vì ông ta không thể hơn cha ông tổ tiên họ, các ngài đã ăn manna từ trời mà còn chết hết, thì làm sao bánh mà ông ta ban có thể làm cho họ sống bất diệt được? Lại nữa, ông ta nói xạo, ông ta không thể từ trời mà xuống được, vì họ đều biết nguồn gốc cha mẹ, anh chị em của Ngài, nhất là ông ta không thể lấy thịt mình cho họ ăn được.
Nhưng chúng ta thấy Chúa Giêsu không lùi bước trước những thái độ hoài nghi và những câu lẩm bẩm trách móc ấy. Ngài còn lặp đi lặp lại hai ba lần để khẳng định lời nói của Ngài. Rồi hình như sợ dân chúng chỉ hiểu theo nghĩa bóng, Ngài lại tuyên bố thêm: “Bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi để cho thế gian được sống”. Từ đó trở đi Ngài chỉ dùng hai tiếng “thịt” và “máu” thay thế cho tiếng bánh, mãi đến khi gần kết thúc bài giảng và để cho tiền hậu đồng nhất, Ngài nhắc lại tiếng bánh lần chót: “Đây là bánh từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời”. Như vậy, chúng ta thấy rõ ràng qua những lời tuyên bố trên đây, Chúa Giêsu muốn mạc khải về phép Thánh Thể.
Để thấy rõ và dễ nhớ mạc khải của Chúa Giêsu, chúng ta có thể xếp lại thứ tự từng lời mạc khải của Chúa Giêsu: Trước hết, Chúa phán: “Ai tin vào tôi thì có sự sống đời đời”, rồi Chúa phán: “Tôi là bánh ban sự sống”, rồi Chúa phán: “Đây là bánh từ trời xuống, ai ăn bánh này thì khỏi phải chết”, rồi Chúa liên kết hai điều đó: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời”, cuối cùng, Chúa kết luận: “Bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi để nuôi sống thế gian”.
Với một lối diễn tả tư tưởng rõ ràng và khúc chiết như thế, không ai còn có thể hoài nghi hay hiểu sai được nữa. Đối với chúng ta ngày nay thì quá rõ ràng rồi: bánh và rượu trong phép Thánh thể chính là thịt và máu Chúa Kitô. Thực vậy, Mình Máu Chúa Kitô mà chúng ta đón nhận không phải là những kỷ niệm và những biểu hiện đơn giản hay những sự vật không còn sự sống. Trái lại, tất cả còn sống động, còn cuộn chảy, còn cảm giác. Đó là một lương thực còn sức sống, một thứ bánh có sức sống, một loại bánh mang lại sự sống thần linh, hay nói khác đi, đó là bánh bởi trời.
Như vậy, khi rước lễ, Chúa Kitô kết hiệp với tâm hồn chúng ta, đem lại cho chúng ta sức sống, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải tỏ lộ sự kết hiệp đó bằng nếp sống xứng đáng. Người năng rước lễ thiết tưởng phải sống khác hẳn những người khác, miệng này đã nhận của ăn thần linh sao lại còn ham hố tìm kiếm của ăn khoái khẩu vô độ thế gian? Lưỡi kia là nơi thân xác một Thiên Chúa nằm nghỉ liệu còn dám nói những lời chua cay, độc dữ gây bất hòa, chia rẽ, ghen ghét và thù oán không? Hơn nữa, các ấn tượng, các tâm tình có được khi tiếp xúc với Chúa Kitô phải dần dần ghi trong ánh mắt, nụ cười, trong điệu bộ đi đứng, để rồi có thể nói được rằng tất cả thái độ của con người đó như phảng phất bóng dáng thần linh, hoặc ít ra thì cũng không bao giờ tỏ ra điều gì là tầm thường, hẹp hòi, ích kỷ, lạnh nhạt… Sống ngược lại là làm buồn lòng Chúa Kitô vô cùng.
Lạy Chúa Giêsu, đã có biết bao trường hợp thân xác Chúa không được tôn thờ xứng đáng, bởi vì có nhiều người rước Chúa với tâm hồn đầy tội nhẹ đáng kể mà họ không muốn sửa chữa; nhiều người khác đón Chúa vào lòng với thái độ hờ hững, máy móc, không chút chú tâm và cung kính. Nhưng Chúa vẫn không muốn ai nói rằng những tâm hồn như thế thì không xứng đáng, trái lại, Chúa muốn họ cứ đón nhận Chúa, vì như thế họ mới có được sức sống. Lạy Chúa, đó là thái độ, cách sống và hành động của chúng con, xin Chúa tha thứ và chúng con hứa sẽ cố gắng xứng đáng hơn, xin Chúa giúp chúng con.
45. Bánh trường sinh.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói: “Chẳng ai đến với Ta được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai Ta, không lôi kéo người ấy, và hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ”. Chúng ta đến được với Chúa Giêsu là nhờ được Thiên Chúa dạy bảo. Vì thế, chúng ta hãy ca tụng và cảm tạ Cha trên trời đã cho chúng ta được vào trong số những người được tuyển chọn. Chúng ta đừng để cho bất cứ điều gì lôi kéo chúng ta ra khỏi Chúa Giêsu. Ngược lại, chúng ta hãy nỗ lực để càng ngày càng sống gần gũi mật thiết với Chúa hơn. Sống như vậy là cách chúng ta biểu lộ lòng biết ơn đối với Chúa, trái với người Do Thái càm ràm và phản đối Chúa.
Chúa Giêsu dần dần biểu lộ rõ ràng bản thân của Người. Lúc đầu, Người nói: “Ta là bánh từ trời xuống”. Kế tiếp, Người nói thêm: “Ta là bánh hằng sống”. Rồi Người kết luận: “Bánh Ta sẽ ban tặng, chính là thịt Ta đây”. Tiến trình tiệm tiến, và người nghe được dẫn dắt để nhận ra bánh và thân thể của Đức Giêsu là một. Chúa Giêsu chính là bánh của chúng ta.
Chúa còn nói: “Ai tin thì được sự sống đời đời”. Tin cái gì? Tin Chúa Giêsu là bánh hằng sống. Ngày nay, nhiều Kitô hữu từ chối không chấp nhận Chúa Giêsu ban chính Người cho chúng ta qua hình bánh trong bí tích Thánh Thể. Nhiều người vẫn nói bánh chỉ là biểu tượng của thân xác Chúa Giêsu, chứ không thật sự là thịt của Chúa. Bản văn của Tin Mừng không nói gì đến biểu tượng. Chúa Giêsu nói rõ ràng: “Bánh Ta sẽ ban tặng, chính là Thịt Ta đây”. Nếu ai không tin vào lời này của Chúa Giêsu thì sẽ không có sự sống đời đời.
Hơn thế nữa, Chúa còn nói: “Ai ăn bánh này thì sẽ sống muôn đời” và “Ta sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết”, “Đây là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết”. Những câu này cho thấy, bí tích Thánh thể là bảo đảm cho chúng ta được phục sinh và được sự sống đời đời. Vì thế, để được sự sống đời đời Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta hai điều là tin Người là bánh hằng sống và ăn bánh này, tức là ăn thịt của Người.
Bánh này có khác gì với manna? Quả thực, manna là bánh từ trời xuống. Nhưng dân Israel ăn manna và vẫn phải chết. Còn ai ăn bánh hằng sống là thịt của Chúa Giêsu thì sẽ được sự sống đời đời.
Những suy tư trên đây về bản văn Tin Mừng giúp chúng ta hiểu được điều mà Giáo hội Công giáo giảng dạy về bí tích thánh thể không phải là phát minh của các nhà thần học, nhưng là những lời được chép trong Kinh Thánh.
Lạy Chúa Giêsu, con tin Chúa ban cho con chính Chúa qua bí tích Thánh thể. Xin Chúa giúp con rước Chúa cách xứng đáng để con có được sự sống đời đời.
46. Bánh Hằng Sống
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
“Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống”. Đó là tư tưởng then chốt của Tin Mừng Chúa nhật hôm nay và cũng là đề tài tranh luận giữa người Do Thái và Chúa Giêsu.
Chúng ta biết, ngoài câu chuyện man-na là bánh mà Thiên Chúa đã ban cho dân Do Thái làm lương thực nuôi họ 40 năm trong sa mạc trên đường về Đất Hứa, Kinh Thánh Cựu Ước còn kể lại hai phép lạ về bánh: một phép lạ đã xảy ra với ngôn sứ Ê-li-sa trong bài đọc một của ngày Chúa nhật cách đây hai tuần: có người đem đến dâng cho ngôn sứ Ê-li-sa 20 chiếc bánh làm bằng lúa mạch và cốm đầu mùa. Ngôn sứ bảo dọn cho mọi người ăn, và 20 chiếc bánh đã cho 100 người ăn no mà còn dư. Phép lạ thứ hai kể lại trong bài đọc một hôm nay: trên đường vào sa mạc tiến đến đỉnh núi Khô-rếp để trốn bạo chúa A-cáp và hoàng hậu Dê-da-ben, ngôn sứ Ê-li-a cảm thấy mệt mỏi, chán chường, thất vọng, chỉ cầu mong được chết đi cho xong, nhưng Thiên Chúa đã sai sứ thần đến ban bánh nướng cho ngôn sứ ăn hai lần, và theo Kinh Thánh, “nhờ sức của lương thực ấy, ông đã đi một hơi 40 đêm ngày tới núi của Thiên Chúa”.
Phép lạ trên đây thường được các giáo phụ coi như hình ảnh bánh hằng sống của Chúa Ki-tô, là thịt máu Đức Ki-tô ban để cho mọi người được sống. Đây chính là điều Chúa Giêsu giảng dạy người Do Thái trong bài Tin Mừng và cũng là tư tưởng then chốt của lời Chúa hôm nay:“Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống”, “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Qua những lời này, chúng ta thấy rõ ràng Chúa Giêsu muốn mạc khải về phép Thánh Thể.
Trước hết, chúng ta thấy khi Chúa tuyên bố “Tôi sẽ ban bánh hằng sống” thì người Do Thái lý luận: ông ta không thể làm được điều đó, vì ông ta không thể hơn cha ông tổ tiên họ, các ngài đã ăn man-na từ trời mà còn chết hết, thì làm sao bánh mà ông ta ban có thể làm cho họ sống bất diệt được? Lại nữa, ông ta nói xạo, ông ta không thể từ trời mà xuống được, vì họ đều biết nguồn gốc cha mẹ, anh chị em của Ngài, nhất là ông ta không thể lấy thịt mình cho họ ăn được.
Nhưng chúng ta thấy Chúa Giêsu không lùi bước trước những thái độ hoài nghi và những câu lẩm bẩm trách móc ấy, Ngài còn lặp đi lặp lại hai ba lần để khẳng định lời nói của Ngài. Rồi hình như sợ dân chúng chỉ hiểu theo nghĩa bóng, Ngài lại tuyên bố thêm: “Bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi để cho thế gian được sống”. Từ đó trở đi Ngài chỉ dùng hai tiếng “thịt” và “máu” thay thế cho tiếng bánh, mãi đến khi gần kết thúc bài giảng và để cho tiền hậu đồng nhất, Ngài nhắc lại tiếng bánh lần chót: “Đây là bánh từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời”. Như vậy, chúng ta thấy rõ ràng qua những lời tuyên bố trên đây, Chúa Giêsu muốn mạc khải về phép Thánh Thể.
Để thấy rõ và dễ nhớ mạc khải của Chúa Giêsu, chúng ta có thể xếp lại thứ tự từng lời mạc khải của Chúa: Trước hết, Chúa phán: “Ai tin vào tôi thì có sự sống đời đời”, rồi Chúa phán: “Tôi là bánh ban sự sống”, rồi Chúa phán: “Đây là bánh từ trời xuống, ai ăn bánh này thì khỏi phải chết”, rồi Chúa liên kết hai điều đó: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời”, cuối cùng, Chúa kết luận: “Bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi để nuôi sống thế gian”.
Với một lối diễn tả tư tưởng rõ ràng và khúc chiết như thế, không ai còn có thể hoài nghi hay hiểu sai được nữa. Đối với chúng ta ngày nay thì quá rõ ràng rồi: bánh và rượu trong phép Thánh Thể chính là thịt và máu Chúa Ki-tô. Thực vậy, Mình Máu Chúa Ki-tô mà chúng ta đón nhận không phải là những kỷ niệm và những biểu hiện đơn giản hay những sự vật không còn sự sống, trái lại, tất cả còn sống động, còn cuộn chảy, còn cảm giác. Đó là một lương thực còn sức sống, một thứ bánh có sức sống, một loại bánh mang lại sự sống thần linh, hay nói khác đi, đó là bánh bởi trời.
Như vậy, khi rước lễ, Chúa Ki-tô kết hiệp với tâm hồn chúng ta, đem lại cho chúng ta sức sống, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải tỏ lộ sự kết hiệp đó bằng nếp sống xứng đáng. Người năng rước lễ thiết tưởng phải sống khác hẳn những người khác, miệng này đã nhận của ăn thần linh sao lại còn ham hố tìm kiếm của ăn khoái khẩu vô độ thế gian? Lưỡi kia là nơi thân xác một Thiên Chúa nằm nghỉ liệu còn dám nói những lời chua cay, độc dữ gây bất hòa, chia rẽ, ghen ghét và thù oán không? Hơn nữa, các ấn tượng, các tâm tình có được khi tiếp xúc với Chúa Ki-tô phải dần dần ghi trong ánh mắt, nụ cười, trong điệu bộ đi đứng, để rồi có thể nói được rằng tất cả thái độ của con người đó như phảng phất bóng dáng thần linh, hoặc ít ra thì cũng không bao giờ tỏ ra điều gì là tầm thường, hẹp hòi, ích kỷ, lạnh nhạt… Sống ngược lại là làm buồn lòng Chúa Ki-tô vô cùng.
Lạy Chúa Giêsu, đã có biết bao trường hợp thân xác Chúa không được tôn thờ xứng đáng, bởi vì có nhiều người rước Chúa với tâm hồn đầy tội nhẹ đáng kể mà họ không muốn sửa chữa; nhiều người khác đón Chúa vào lòng với thái độ hờ hững, máy móc, không chút chú tâm và cung kính. Nhưng Chúa vẫn không muốn ai nói rằng những tâm hồn như thế thì không xứng đáng, trái lại, Chúa muốn họ cứ đón nhận Chúa, vì như thế họ mới có được sức sống. Lạy Chúa, đó là thái độ, cách sống và hành động của chúng con, xin Chúa tha thứ và chúng con hứa sẽ cố gắng xứng đáng hơn, xin Chúa giúp chúng con.
47. Bánh Hằng Sống – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Thiên Chúa đã nuôi dân Do Thái bằng mana xuyên suốt hành trình 40 năm trên đường về Đất Hứa. Thiên Chúa bồi bổ cho ngôn sứ Êlia bánh và nước trong cuộc đăng sơn Khôrep. Thiên Chúa ban Bánh Hằng Sống cho nhân loại đang lữ hành tiến về quê trời.
1. Mana nuôi dân Chúa trong sa mạc
Trước bánh Thiên Chúa ban, con cái Israel liền hỏi nhau: “Man hu?”, nghĩa là: “Cái gì đây?”. Ông Môsê bảo họ: “Đó là bánh Đức Chúa ban cho anh em làm của ăn!”. Bánh Thiên Chúa ban, họ chỉ biết gọi là mana, một tên gọi dưới dạng câu hỏi. Vẫn còn đó khía cạnh mầu nhiệm cần được vén tỏ.
Theo “Từ điển Công Giáo”: Mana có gốc tiếng Hipri là (man hu – cái gì đây; x. Xh 16,15), là một loại thức ăn Thiên Chúa đã ban cho dân Israel trong sa mạc, trên hành trình về Đất Hứa. Mana rơi xuống quanh trại vào mỗi buổi sáng “giống như hạt ngò, màu trắng và mùi vị tựa bánh tráng tẩm mật ong” (Xh 16,31).
Điều quan trọng đối với Thánh Kinh không phải là bản chất thể lý, nhưng là giá trị tượng trưng của nó. Câu hỏi của con cái Israel “Man hu?” (Cái gì đây?) đã nói lên tích cách huyền nhiệm của nó. Mana tiêu biểu cho một ân huệ kỳ diệu của Thiên Chúa trong việc chăm sóc Dân Ngài.
Trong Tân ước Chúa Giêsu dùng Mana để chỉ “Bánh Bởi Trời”, “Bánh Trường Sinh” là chính Người, ban cho các tín hữu trong Bí Tích Thánh Thể” (Ga 6,32-35). (x.Từ điển Công giáo, trang 226).
2. Bánh nuôi ngôn sứ Êlia lên núi Khôrep
Sau khi vua Salomon băng hà, đất nước Israel chia đôi: vương quốc Israel, phương Bắc, vương quốc Giuđa phương nam (1V 12). Tại Israel, vua Omri (885-874 tcn) đã lập một dòng vua mới và đặt kinh đô tại Samari. Con của Omri là vua Akháp (875 – 853 tcn) xây cất thành lũy và cung điện. Israel dưới thời Akháp khá thịnh vượng. Công việc thương mại tạo nên những tương quan thuận lợi với các nước lân bang, nhưng đồng thời cũng gây nên một tiêm nhiễm văn hóa và tôn giáo ngoại lai. Điển hình của việc suy đồi tôn giáo là cuộc hôn nhân của vua Akháp với Ideven, con gái vua Xiđôn (1V 16,29-34). Ideven du nhập đạo ngoại vào Israel, xây dựng đền thờ thần Baan tại Samari, tổ chức cộng đồng các Ngôn sứ thần Baan. Đạo Giavê bị bách hại. Chính trong hoàn cảnh đó, sách các Vua nói đến hoạt động của hai Ngôn sứ Êlia và Êlisê (1V17; 2V 13).
Ngay từ khi Israel đặt chân lên Canaan, tôn giáo Canaan và việc thờ thần Baan đã là mối ưu tư và nguy hiểm cho niềm tin vào Giavê. Mối nguy hiểm cũng như sự tiêm nhiễm đạo ngoại lai ấy ngày càng gia tăng qua sự phát triển kinh tế, tương quan thương mại với các dân tộc lân bang và đạt tới cao điểm vào thời Akháp. Đây không phải là việc từ bỏ đức tin truyền thống của cha ông vào Thiên Chúa Giavê, nhưng đúng hơn là sự pha trộn đạo Giavê với tôn giáo Canaan. Baan là vị thần của mưa gió, của sức mạnh thiên nhiên, của phú túc. Đối với dân, đây quả là vị thần lý tưởng cho cuộc sống chủ yếu là nông nghiệp thời bấy giờ. Êlia xuất hiện như vị anh hùng bảo vệ đạo Giavê, chống lại mọi pha trộn, mọi thỏa hiệp. Ông quả là người hùng của Thiên Chúa duy nhất và chân thật của Israel.
Cuộc so tài trên núi Carmen giữa Êlia và các ngôn sứ thần Baan được hoàng hậu Ideven bảo trợ, có mục đích cho dân nhận định rõ ai là Chúa thật tại Israel: Giavê hay Baan. Các ngôn sứ Baan làm mọi cách: kêu cầu, nhảy múa, rạch mình, nhưng không có hiệu quả. Êlia kêu cầu Thiên Chúa. Giavê trả lời bằng một phép lạ chứng tỏ Ngài là Chúa các năng lực thiên nhiên. Người chính là Thiên Chúa của toàn thể vũ trụ (1V 18,17 - 40).
Bài đọc 1 thuật lại cuộc hành trình của ngôn sứ Êlia trong sa mạc tiến đến núi Khôrép. Êlia chạy trốn trước sự trả thù bách hại của Ideven. Trên đường đi, Êlia đói lã và chán nản thất vọng. Sứ thần Chúa mang đến cho ông bánh và nước. “Ông dậy ăn bánh và uống nước. Rồi nhờ lương thực bổ dưỡng ấy, ông đi suốt 40 ngày, 40 đêm tới Khôrép là núi của Thiên Chúa”. Tại Khôrep, ông được gặp Đức Giavê. Ông lấy lại được niềm tin và tiếp tục sứ mệnh tái lập một Israel đích thực.
Bốn trăm năm đã trôi qua giữa ngôn sứ Môsê và ngôn sứ Êlia. Danh tiếng của hai vị được liên kết với đỉnh núi Khôrep, núi thánh của Đức Chúa. Hai nhận vật Cựu Ước danh tiếng lừng lẫy nầy sẽ cùng nhau tái xuất hiện trên đỉnh núi Tabor.
Các Giáo phụ nhìn 40 ngày hành trình của Êlia như gợi lại cuộc hành trình của Israel trong hoang địa tiến về đất hứa,40 ngày chay tịnh của Môisê (Xh 34,28), tiên trưng việc Chúa Giêsu ăn chay 40 đêm ngày trươc khi thi hành sứ vụ công khai. Các Giáo phụ cũng nhìn thấy nơi những chiếc bánh mà sứ thần trao cho Êlia là hình ảnh tiên báo phép Thánh Thể nuôi dưỡng tín hữu trên đường dương thế tiến về quê trời. Lương thực nuôi dưỡng Êlia trở thành biểu tượng cho của ăn đi đường cho Kitô hữu trong suốt cuộc hành trình trần gian. Các thế hệ Kitô hữu đã xem Êlia như võ sĩ vô địch về đức tin. Các đan viện, các dòng tu nhìn Êlia như vị tiền phong của mọi nổ lực từ bỏ nếp sống trần tục để đi vào trong thinh lặng và nội tâm, tìm kiếm Thiên Chúa. Đó là con đường đầy thử thách, nhưng chắc chắn sẽ gặp thần lương đi đường cho những ai có thiện chí.
3. Bánh Hằng Sống nuôi tín hữu lữ hành về quê trời.
Chúa Giêsu Kitô là Bánh Hằng Sống, Bánh bởi Trời, Bánh ban sự sống cho cả nhân loại. Nhưng làm sao mà con người có thể lãnh hội được ngay mạc khải quan trọng ấy. Vì thế, đã có tiếng xầm xì to nhỏ: “Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống?”. Người Do thái có đủ lý do để nghi ngờ những lời nói của Chúa Giêsu: Ngài đang sống ở giữa họ như một người giữa mọi người vậy mà Ngài bất ngờ tuyên bố mình từ trời xuống. Chúa Giêsu đòi hỏi họ hãy tin vì Ngài là Đấng ban sự sống và Ngài từ Chúa Cha mà đến. Ngài là Lời Hằng Sống của Thiên Chúa Cha. Gặp gỡ Ngài là gặp gỡ Thiên Chúa Hằng Sống. Chúa Giêsu khẳng định: “Tôi là Bánh Hằng Sống. Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, ai ăn thì khỏi phải chết”. Chúa Giêsu tuyên bố: “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Thánh Thể được mạc khải một cách minh nhiên ngay từ bây giờ với điểm nhấn trên hy tế cứu độ trong mầu nhiệm thập giá. Sự sống vĩnh cửu hàm chứa trong mầu nhiệm Thánh Thể.
Cho tới Bữa Tiệc Ly và Hy Tế Thập Giá, khi Chúa Kitô tự nguyện nộp mình, như hạt lúa bị nghiền nát để trở nên tấm bánh cứu độ cho tất cả nhân loại, người ta mới hiểu và tin vào lời mạc khải về Bánh Hằng Sống.
Từ bông lúa bị nghiền nát, từ chùm nho bị ép; nghĩa là từ cuộc khổ nạn và cái chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã trở thành tấm bánh, thành ly rượu đem lại sự sống đời đời cho nhân loại.
Cuộc tử nạn của Chúa Giêsu chính là một hy lễ dâng lên Thiên Chúa Cha. Trong hy lễ này, Người vừa là tư tế vừa là lễ vật. Trên Thập giá, Chúa Giêsu đã đổ máu ra. Bằng cái chết cứu độ, Người đã thiết lập giao ước mới. Tự nguyện làm “Con Chiên Vượt Qua” bị sát tế, Chúa Giêsu đã lập phép Thánh Thể để lễ vật bị sát tế ấy là chính Người trở nên của ăn tâm linh nuôi dưỡng con người.
Chúa Giêsu ở giữa nhân loại trong Bí Tích Thánh Thể. Để trở nên nguồn sống tâm linh trong Thánh Thể, Chúa Giêsu đã đi qua Tử nạn và Thập giá.
Thánh Thể là Mình Chúa hy sinh bị nộp, bị giết vì chúng ta: “Đây là Mình Thầy hy sinh vì anh em”. Chén Máu của Chúa là Máu giao ước đổ ra, Máu của Đấng Cứu thế bị giết chết trên thập giá.
Thánh Thể, Tấm Bánh Chúa Kitô bẻ ra cho sự sống thế giới; Thánh Thể Mình Máu Chúa Kitô trao ban cho cả nhân loại; Thánh Thể tình yêu đã trở nên thực phẩm vun bồi sự sống cho hôm nay trên đường dương thế và cho mai sau trong hạnh phúc Nước Trời.
Trong cuộc hành trình tiến tới sự sống viên mãn với Thiên Chúa là Cha, chính Chúa Giêsu là lương thực bổ dưỡng con người.
Trong bài đọc 2, thánh Phaolô mời gọi các tín hữu hãy sống hoàn thiện theo mẫu gương của Ba Ngôi Thiên Chúa: sống theo Thánh Thần, bắt chước Thiên Chúa và thực hành đức ái như Đức Kitô. “Vậy anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, vì anh em là con cái được Người yêu thương, và hãy sống trong tình bác ái, như đã yêu thương chúng ta, và vì chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt”. Những ai tin vào Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống, phải sống đức tin bằng đức ái.
Ai rước Mình Máu Chúa Kitô sẽ có sự sống Chúa Kitô. Chúa Kitô sống trong họ và họ được hiệp thông sống trong Người.
Ai nhận Mình Máu Chúa Kitô sẽ cùng tham dự một sự sống, nên trở thành anh em với nhau, sống đức ái và trở nên chứng nhân của Chúa Kitô.
Tạ ơn Chúa đã ban Bánh Hằng Sống, quà tặng tình yêu thần linh cho chúng con. Mỗi lần rước Bánh Thánh Thể với lòng sốt mến kính cẩn chúng con được cảm nến hương vị thiên đàng. Chúng con tạ ơn Chúa đã luôn nuôi dưỡng và dẫn đưa chúng con vào sự sống đời đời. Amen.
48. Bánh hằng sống.
Steve Garwood là một nhà thầu tại tiểu bang South Carolina và là một thừa tác viên Thánh Thể của giáo xứ. Một hôm, sau Lễ Chúa Nhật ông mang Mình Thánh cho bệnh nhân. Trong khi bệnh nhân chuẩn bị, Steve đặt Mình Thánh Chúa đang được đựng trong một cái hộp nhỏ bằng vàng trên bàn thờ. Khi Steve đang quì và cúi đầu cầu nguyện thì bất chợt ông nhận ra rằng Chúa Giêsu đang ở bên. Sự nhận thức này đã làm cho ông thật sung sướng. Ông đã tả lại như sau:
"Máu đã dồn vào tai tôi, và tất cả những sợi tóc trên đầu tôi đều dựng đứng lên hết. Tôi đã cầu nguyện: 'Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, xin hãy thương xót con, một kẻ tội lỗi. Ngài đang ở trước mặt con và Ngài hằng luôn chúc lành cho con' (trích trong cuốn And You, Who Do You Say I Am?).
Câu truyện trên thích ứng với bài đọc Phúc Âm hôm nay vì nó nói lên niềm tin và lòng tôn kính đặc biệt nơi Chúa Giêsu Thánh Thể.
Thứ nhất, nó nhấn mạnh đến trung tâm mầu nhiệm của đức tin, đó là niềm tin mà người Công Giáo chúng ta tin rằng Chúa Kitô Phục Sinh đang sống với chúng ta cũng như Ngài đã sống trong thời xưa.
Giải thích rõ ràng hơn về mầu nhiệm này, Công Đồng Vaticanô II đã nói: "Chúa Kitô vẫn hằng luôn hiện diện trong Giáo Hội, nhất là trong những khi cử hành phụng vụ. Ngài hiện diện trong Thánh Lễ, trong con người linh mục... và nhất là trong phép Thánh Thể. Chúa Kitô hiện diện trong các bí tích bằng quyền năng của Ngài. Qua đó, khi một ai đó lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội chẳng hạn, thì chính là Chúa Giêsu rửa tội cho người đó. Chúa Giêsu còn hiện diện qua những lời Phúc Âm. Khi Giáo Hội tuyên bố Phúc Âm thì những lời đó chính là Chúa Giêsu phán. Sau hết, Ngài còn hiện diện khi Giáo Hội cầu nguyện và ca hát bởi chính Ngài đã hứa: "Ở đâu có hai ba người tụ lại cầu nguyện với Danh Ta, thì Ta ngự ở giữa họ" (Constitutin on the Sacred Liturgy).
Trong tất cả mọi cách, Chúa Giêsu hiện diện giữa chúng ta, Bí Tích Thánh Thể vẫn là cách đặc biệt nhất. Điều này được giải thích trong bài Phúc Âm hôm nay: "Ta là bánh ban sự sống... Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là Thịt Ta, để cho thế gian được sống."
Và như thế, chúng ta thấy câu truyện của Steve Garwood nhấn mạnh mầu nhiệm chính yếu của đức tin, đó là Chúa Giêsu Phục Sinh ngự giữa chúng ta qua Bí Tích Thánh Thể một cách sống động như thời xưa.
Do đó, người Công Giáo có lòng tôn kính đặc biệt đối với Bí Tích Thánh Thể. Cũng giống như Tôma, người môn đệ đã quì gối xuống trước mặt Chúa Giêsu Phục Sinh và thốt lên: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa con!" (Gn 20:28) Nhiều khi, chúng ta cũng cần phải quì gối xuống một lát và nói với Chúa Giêsu Thánh Thể điều mà Tôma đã nói: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa con!"
Lạy Chúa, xin cho chúng con thêm niềm tin để chúng con có thể nhận ra Máu Thịt của Con Ngài trong tấm bánh mà chúng con sẽ cùng nhau cử hành một lát nữa đây.
49. Của ăn đường
(Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh)
Khi nói đến “Của Ăn Đường”, ta thường nghĩ đó là việc trao Mình Thánh Chúa cho người chuẩn bị từ giả cuộc đời. Mình Thánh Chúa hay Của Ăn Đường mà những anh chị em nhận lãnh lúc sắp ra đi, sẽ giúp họ thêm lòng yêu mến, thêm sức mạnh của đức tin, thêm nghị lực thiêng liêng để bước vào giờ phút cuối cùng của cuộc đời. Có lẽ suốt cả hành trình cuộc sống, không có lúc nào làm người ta lo âu và sợ hãi cho bằng giờ phút cuối cùng ấy. Chết là thử thách cuối cùng, nhưng lại là thử thách lớn của đời người. Chính vì là thử thách lớn, Của Ăn Đường càng trở nên cần thiết và quan trọng để người ra đi được tiếp sức, đủ nghị lực mà trở về nhà Cha.
Bởi thế, nói đến Của Ăn Đường, ta nghĩ đến giờ phút cuối của từng cuộc đời con người là đúng lắm. Giáo Hội vẫn hiểu như thế. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đấy thì thật là thiếu sót. Vì cả cuộc đời ta được ví như một người lữ hành, thì Của Ăn Đường đâu chỉ có ở giây phút cuối cùng, đâu phải chỉ là lúc gần đến đích. Đúng hơn, ý nghĩa của cụm từ Của Ăn Đường mà ta cần nhấn mạnh đó là: lương thực nuôi sống trên suốt chặng đường dài mà người lữ hành phải đi. Bởi thế, chỉ duy nhất có Mình Máu Thánh Chúa Kitô mới là Của Ăn trên mọi của ăn, cần thiết trên mọi điều cần thiết cho hành trình thiêng liêng của mỗi cuộc đời, của chính bạn và của chính tôi.
Ý niệm về Của Ăn Đường, đâu chỉ có trong thời Tân Ước. Từ ngàn xưa, khi mà dân riêng của Chúa lang thang bốn mươi năm trường trong sa mạc, làm bạn một cách bất đắc dĩ với không biết bao nhiêu khó khăn: gió, cát, sức nóng của ban ngày, cái lạnh cắt da của đêm thâu, đói, khát, rắn độc… thì của ăn đường đã xuất hiện: Manna và nước chảy từ đá giữa sa mạc khô đã nuôi sống dân trên hành trình chông gai của họ. Họ đã sống để tiến vào Đất Hứa, nơi mà họ có thể đặt nguồn hy vọng chan chứa nhưng cũng là niềm hy vọng duy nhất đưa họ vượt qua bao nhiêu gập gềnh, chông chênh, nhiều phen tưởng như quỵ ngã.
Chưa dừng lại ở đó. Ý niệm về Của Ăn Đường lặp lại trong sách Các Vua quyển thứ I. Bài đọc 1 hôm nay là đoạn trích cho thấy ý niệm về Của Ăn Đường ấy. Đó là câu chuyện liên quan đến tiên tri Êlia. Trong nỗi khốn cùng của cái đói, cái khát giữa cảnh cháy khô da người của sa mạc, cũng chính lúc ấy, là nỗi khổ của một kẻ chạy trốn vì hoàng hậu Giêgiaben đang tìm giết, dẫu là người rất can đảm, Êlia cũng đã phải thốt lên: “Lạy Đức Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông của con” (1V 19, 4). Nhưng Thiên Chúa đã nhìn thấy ông. Người nhận ra tất cả những hoàn cảnh mà ông cam chịu. Người cứu ông. Ông đã nhận từ tay thiên thần của Thiên Chúa chiếc bánh lùi và bình nước uống. Bánh và nước - của ăn đường mà ông lãnh nhận đã tiếp sức cho ông, giúp ông đi hết chặng đường dài đến bốn mươi ngày, bốn mươi đêm. Bánh từ trời đã nuôi sống con người, đó cũng là sự biểu lộ của tình trời cao đối với người trần thế: Thiên Chúa đã yêu thương, mãi mãi vẫn một lòng yêu thương như thế.
Nếu ngày xưa dân Chúa lữ hành tiến về đất hứa, và cuộc lữ hành của tiên tri Êlia đều đã được nuôi dưỡng bởi của ăn đường đến từ trời cao, để tất cả cùng đi về đích bình an, thì trên đường lữ hành trần gian của người Kitô hữu hôm nay có phần giông giống những gì thuộc về ngày xưa ấy. Chỉ khác là hôm nay, những người Kitô hữu hy vọng trời cao, hướng về đất hứa, không phải chỉ là “đất chảy sữa và mật” mà thôi, nhưng là vùng đất vĩnh cửu. Vì lữ hành tiến về vĩnh cửu, người Kitô hữu cũng có Của Ăn Đường, không phải là manna và nước chảy từ đá, hay chiếc bánh lùi và bình nước của thiên thần, nhưng là lương thực vĩnh cửu, thần lương quý giá vô cùng: chính là Thịt Máu Chúa Kitô.
Chính Chúa Kitô đã mạc khải Mình Máu của Người là của ăn vĩnh cửu cho ta: “Ta là bánh bởi trời xuống, ai ăn bánh này thì khỏi chết. Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban chính là thịt Ta để cho thế gian được sống”. Đường về vĩnh cửu phải có Của Ăn Đường vĩnh cửu. Người trần thế tiến về vĩnh cửu phải có Đấng từ vĩnh cửu đến trần thế ban Thịt Máu mình làm Của Ăn Đường vĩnh cửu. Và như thế, Chúa Kitô: Của Ăn Đường quý giá, Nguồng Sống vĩnh cửu của chúng ta.
Là Của Ăn Đường quý giá, cần thiết cho mỗi Kitô hữu trên đường tiến về vĩnh cửu, vì thế Mình Thánh Chúa Kitô là nguồn sức mạnh, là tất cả sự sống đích thực của chúng ta. Bởi vậy, mỗi lần tham dự thánh lễ, bạn và tôi hãy chuẩn bị tâm hồn cẩn thận, hãy mở rộng lòng sẵn sàng đón Chính Chúa Kitô ngự đến trong hồn ta. Linh mục Phêrô Trần Thanh Sơn, trong bài “Thiên Chúa rất gần” (Chúa nhật 17 thường niên) đã từng mời gọi hãy siêng năng hiệp lễ bằng lời nhắc nhỡ khéo léo và tha thiết: “Thế nhưng, chúng ta vẫn thấy còn rất nhiều người ở giữa chúng ta, nhất là các bạn trẻ đi tham dự Thánh Lễ, nhưng lại chẳng cần Hiệp Lễ. Như vậy, chúng ta có khác gì một người đi tham dự một bữa tiệc, nhưng đến nơi, chúng ta chẳng chịu ăn, cứ ngồi nhìn người khác ăn, thì điều chắc chắn là sau đó, chúng ta phải mang bụng đói trở về nhà. Và nhiều lần “nhịn đói” như thế, chúng ta sẽ trở thành “suy dinh dưỡng”, và hậu quả tất yếu đối với những người “suy dinh dưỡng” là họ sẽ không đủ sức để làm bất cứ việc lành nào, và rất dễ mắc bệnh, tức là phạm tội khi bị các “vi trùng” tức là các cơn cám dỗ của ma quỷ tấn công”.
Và tôi chợt nghĩ, một người đói và suy dinh dưỡng, thiếu ơn Chúa, thiếu nguồn sức mạnh từ nơi Thiên Chúa, chắc chắn sẽ không đi hết con đường của mình, nếu không muốn nói là sẽ đổ quỵ và đổ quỵ một cách bi đát.
50. Chúa Giêsu là Bánh hằng sống từ trời xuống
Minh Họa Lời Chúa
1. Cuộc sống trường sinh
Sau khi Kha Luân Bố khám phá Mỹ châu, một người Tây-ban-Nha tên là Ponce de Lion nghe đồn ở Tân thế giới có ngọn suối trường sinh. Ông liền sắm thuyền vượt biển sang Nam Mỹ tìm. Và trước Chúa Giáng Sinh khoảng 2000 năm, hoàng đế Trung Hoa tên Tần Thủy Hoàng muốn được trường sinh bất tử. Ông nghe các nhà chiêm tinh nói ở biển Đông có hòn đảo thần, dân ở đó khám phá ra bí quyết trường sinh. Ông liền phái một số tàu thuyền chở đầy châu báu đến đó đổi lấy bí quyết trường sinh, nhưng dân chúng ở đó không chịu đổi…
*****
Những câu chuyện trên muốn nói lên điều gì? Nói lên con người thời nào cũng muốn trường sinh bất tử. Đó là ước mơ ngàn đời của loài người. Mỗi lần thấy một người nằm xuống là ước mơ này cũng dày vò con người mãnh liệt hơn.
Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu tự giới thiệu Người là “Bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời… Ai tin thì được sống đời đời” (Ga.6,50-51)
Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta cuộc sống nơi trần gian này không phải là cuộc sống duy nhất và chết không phải là hết. Còn có một cuộc sống mai hậu không bao giờ chấm dứt. Đó là cuộc sống trường sinh, cuộc sống vĩnh cửu.
Khi nghe Chúa Giêsu tuyên bố “Người là Bánh trường sinh từ trời xuống”. Dân Do thái không tin, họ xầm xì phản đối, vì họ chỉ nhận Người là con ông Giuse thợ mộc nghèo khó mà họ quen biết. Mãi đến khi họ thấy Người từ cõi chết sống lại, họ mới nhận ra Người là Con Thiên Chúa từ trời xuống cứu thoát họ khỏi chết, đem đến cho mọi người sự sống đời đời.
Chính vì tin nhận mầu nhiệm trường sinh này mà hôm nay chúng ta đến nhà thờ đây, để nghe Chúa Giêsu nói về cuộc sống vĩnh cửu, để được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa, nhất là bằng Mình Máu thánh Người là “Bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết’. (Ga.6,50).
Ngọn suối trường sinh mà Ponce de Lion người Tây-ban-Nha đã khổ công đi tìm kiếm, bí quyết sống vĩnh cửu mà Tần Thủy Hoàng cho người đến tận các đảo thần tiên đổi lấy hiện đang ở trước mặt chúng ta trong Bí tính Thánh Thể.
Muốn được trường sinh bất tử, muốn sống đời đời trong tương lai, mỗi người chúng ta chỉ cần đến rước lấy Mình Máu Thánh của Đấng là Bánh Hằng Sống từ trời xuống…
(Theo “Sunday Homilies”).
2. Trường sinh bất tử
Chuyện thần thoạt Hy-lạp kể:
Sivil là người phục vụ đền thờ, có nhiều công trạng. Khi được hỏi muốn được thưởng thế nào cho xứng với công khó của mình, bà trả lời:
- Xin cho tôi được trường sinh bất tử…
Thế là bà được toại nguyện. Tất cả người thân và bạn hữu bà đều chết hết, chỉ còn lại một mình bà. Nhưng dù không chết, thân bà ngày càng tàn tạ teo héo, bệnh tật ngày càng gia tang, nên bà không còn muốn được sống trường sinh nữa, chỉ muốn chết thôi.
*****
Con người thời nào và ở đâu cũng muốn được trường sinh bất tử. Nhưng trường sinh bất tử mà phải triền miên đau khổ bệnh tật thì nào có ích lợi gì, thà chết còn hơn…
Cuộc sống trường sinh Chúa Giêsu nói trong Tin mừng hôm nay không phải ở cõi đời này. Nó chỉ đến với con người trong cuộc sống mai sau. Để được sống trường sinh con người phải lìa bỏ đời này. Muốn được sống muôn đời, họ phải trải qua đau khổ, bệnh tật, chết chóc. Tuy nhiên không vì hướng đến cuộc sống vĩnh viễn đó mà họ được xao nhãng cuộc sống hiện tại. Trái lại họ phải biết rằng: hạt giống vĩnh cửu được gieo vãi và nảy mầm tại cuộc sống đời này. Họ phải làm sao cho hạt giống đó trổ sinh tươi tốt bằng đời sống lương thiện, yêu thương bác ái. Đặc biệt đối với các Kitô hữu, họ còn cần phải vun trồng cuộc sống trường sinh đó bằng tin cậy mến Chúa, bằng lắng nghe và thực hành Lời Chúa, bằng lương thực thiêng liêng là Mình Máu Thánh Chúa Giêsu: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là Thịt Ta, để cho thế gian được sống” (Ga.6,51) (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày, tập I).
3. Trên đường về quê
Lúc ông Theodore Roosevelt làm tổng thống Hoa Kỳ, một kỳ nghỉ hè ông sang Phi châu săn bắn hươu cao cổ để giải trí.
Lúc trở về Hoa Kỳ, ông cùng đi một chuyến tàu với nhà truyền giáo đã 40 năm hy sinh giảng đạo nơi vùng xa xôi hẻo lánh bên Phi châu. Khi tàu cập bến, nhà truyền giáo thấy cảnh các nhân vật trong chính phủ và dân chúng đứng sẵn trên bờ đón chào tổng thống đi săn về, không ai để ý đến ông. Ông lủi thủi một mình lên bờ, tủi phận nên phàn nàn với Chúa:
- Chúa có thấy không? Ông tổng thống đi nghỉ hè săn bắn trở về mà người ta còn tiếp rước nồng hậu như thế. Còn con đã hy sinh phục vụ Chúa 40 năm trời trở về, không một người nghĩ đến con. Thật là bất công tủi hổ cho con quá! Phải biết vậy, con không đi giảng đạo làm gì.
Chúa liền thầm thỉ trong lòng ông:
- Con chưa trở về quê hương thật của con mà…
*****
Có thể chúng ta cũng phàn nàn với Chúa như nhà truyền giáo đó. Chúng ta đã giảng đạo Chúa nhiều năm, chúng ta đã sống đạo Chúa nhiều ngày, nhưng cảm thấy mình chưa được Chúa thưởng công gì, mà lắm lúc còn phải khổ cực gian nan đủ thứ.
Câu Chúa trả lời cho nhà truyền giáo trong câu chuyện trên cũng là câu trả lời của Chúa cho mỗi người chúng ta: “Con ơi! Con chưa trở về Quê Hương thật của con. Ngày nào con trở về Quê Thật, con sẽ thấy Cha tiếp đó con nồng nhiệt thế nào!...
Thế gian này chỉ là nơi chúng ta sống tạm để lập công nghiệp, để chuẩn bị cho cuộc sống mai hậu trường sinh hạnh phúc. Chúng ta cứ cố gắng hết khả năng phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân, thay vì bận tâm lo lắng tích lũy cho bản thân, ganh tỵ với may mắn của kẻ khác.
Đặc biệt chúng ta là các Kitô hữu, chúng ta sẽ nhờ Thánh Thể Chúa Kitô mà đạt được cuộc sống trường sinh, như Lời Chúa Giêsu hứa với chúng ta trong Tin mừng hôm nay: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời” (Ga.6,51).
“Sự sống muôn đời mời gọi mỗi người chúng ta hãy sống thế nào, hành động ra sao, để đến giờ được Chúa gọi về Quê Hương Thật, chúng ta không lo sợ chi mà còn vững tâm an lòng đi vào cõi sống hạnh phúc trường sinh. Nhớ đến sự sống vĩnh cửu đời sau sẽ giúp mỗi người chúng ta sống trọn vẹn, sống tốt đẹp cuộc sống đời này. Sở dĩ nhiều người sống buông thả vô luân là vì họ không thường nghĩ gì đến sự sống đời đời của họ. Thánh Phaolô đã khóc lóc than phiền hạng người đó:
“Như tôi đã nói với anh em, và bây giờ tôi phải khóc mà nói lại, có nhiều người sống đối nghịch với thập giá Đức Kitô: chung cuộc là họ sẽ phải hư vong. Chúa họ thờ là cái bụng, và cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn. Họ là những người chỉ nghĩ đến những sự thế gian. Còn chúng ta, quê hương của chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu-Kitô từ trời đến cứu chúng ta”. (Pl.3,18-20) (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập I).
4. Sống sung mãn từng giây phút
Ngụ ngôn Mông Cổ có câu chuyện sau:
Một hôm con phượng hoàng hỏi con quạ:
- Anh quạ ơi! Sao anh sống được 300 năm, còn chúng tôi chỉ sống được 33 năm tuổi?
Con quạ hỏi ngược lại:
- Thế tại sao bạn chỉ uống máu tươi, còn chúng tôi phải sống bằng xác chết?
Con phượng hoàng nghĩ ngợi:
- Hay là chúng tôi thử ăn xác chết như anh quạ xem sao! Coi có sống được lâu hơn không?
Thế là cả hai cùng bay lượn tìm mồi. Thấy con ngựa chết thúi, cả hai cùng lao mình xuống. Con quạ như trúng số độc đắc, nó ăn lấy ăn để cách ngon lành. Trong khi đó con phượng hoàng mổ một cái rồi dừng lại, nó rán thử một lần nữa, nhưng rồi lắc đầu bảo quạ:
- Anh quạ ơi! Tôi không thể ăn nữa được, thà một lần uống máu tươi, còn hơn 300 năm ăn đồ hôi thúi!...
*****
Bài học của câu chuyện trên là: một khoảnh khắc sống sung mãn có giá trị hơn một cuộc sống kéo lê trong bùn nhơ hôi thối. Có những cuộc sống kéo lê trong bùn nhơ hôi thối của trụy lạc, của tham lam, ích kỷ, hận thù, nhưng cũng có những cuộc sống tuy ngắn ngủi, mà sung mãn của những người biết sống xả kỹ, hy sinh, lương thiện…
Một người Do thái viết cuốn sách tựa đề “Khôn ngoan” như sau:
“Người đức nghĩa dầu chết sớm cũng tìm được an nghỉ. Tuổi thọ đáng kính đâu phải nhiều năm hay đo bằng số tuổi. Nhưng tuổi đời chính là sự khôn ngoan và một cuộc sống thọ là một cuộc sống không vết nhơ. Vì đẹp lòng Thiên Chúa, người đức nghĩa được Ngài yêu mến, bởi phải sống giữa những tội nhân nên được cất đi. Người ấy được cất đi kẻo sự dữ làm phôi phai trí khôn và quyến rũ tâm hồn. Bởi vì tật xấu làm mờ sự lành và đam mê quay cuống làm tiêu ma tinh thần chất phác”.
Thiên Chúa không để con người sống mãi trong cuộc sống tại thế, vì còn có một cuộc sống đáng quý hơn. Đó là cuộc sống vĩnh cửu. Có những giá trị cao cả gấp bội phần sự sống, sức khỏe và mọi thứ của cái trên thế giới, do đó giá trị của cuộc sống không phải là tuổi đời của cuộc sống, không phải là tuổi đời chồng chất, không phải là danh vọng hão huyền, mà là chính sự sống vĩnh cửu. Sống chính là dệt nên cuộc sống vĩnh cửu ấy qua từng khoảnh khắc trong cuộc sống tại thế. Và bí quyết dệt nên cuộc sống vĩnh cửu đó chính là nhận lãnh Thánh Thể Chúa Giêsu, như Lời Người đã xác quyết trong Tin mừng hôm nay: “Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn bánh man-na trong sa mạc nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi chết” (Ga.6,48-50) (Trích “Chờ đợi Chúa”).
5. Cuộc sống vĩnh cửu
Tại Phi luật Tân, cách thủ đô Manila chừng 200 cây số, có một trại tỵ nạn do quốc gia Hoa Kỳ tổ chức, nhằm chuẩn bị cho những người tỵ nạn Đông Dương chờ vào sống trong xã hội Mỹ.
Trại được tổ chức như một thành phố nhỏ: có trường học, chợ búa, đường xá, bưu điện… Tất cả cố gắng của người tỵ nạn đều được dồn vào hai mục địch: Đó là học Anh ngữ, và tập sống nếp sống một cách rất khít khao, để tạo cho người tỵ nạn cái cảm tưởng là họ đang sống trên đất Mỹ, nơi mà giờ rảnh được coi là xa xỉ.
*****
Cứu cánh tối hậu của con người là sự sống vĩnh cửu. Do đó cuộc sống tạm bợ trên trần gian này chỉ có giá trị khi nó là một chuẩn bị để bước vào vĩnh cửu. Chúng ta hãy tập sống làm sao để mỗi giây phút, mỗi việc làm, mỗi cuộc gặp gỡ của chúng ta đều là một sinh hoạt trong cuộc sống vĩnh cửu.
Đặc biệt chúng ta chuẩn bị cho cuộc sống vĩnh cửu đó bằng cách năng dọn mình rước Chúa Giêsu vào tâm hồn chúng ta. Vì trong Tin mừng hôm nay, Người tự giới thiệu: Người là bánh ban cho chúng ta sự sống trường sinh: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời” (Ga.6,5).
Không ai trong chúng ta có thể tưởng tượng được cuộc sống đó như thế nào, chỉ biết rằng tình yêu là giá trị sẽ mãi mãi tồn tại ở đời sau. Và chỉ có tình yêu mới thắng được sự chết, và tất cả những gì trói buộc con người trong giới hạn của cuộc sống này. Hãy sống mỗi phút giây của cuộc sống này như hương vị ngọt ngào của mai hậu.
(Trích “Như lòng Chúa khoan dung”).
51. Bánh Hằng Sống
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Nếu chúng ta gặp một người tuyên bố rằng: “Ta từ trời mà đến”, chúng ta nghĩ sao? Chúng ta có tin được không? Đứng trước những lời tuyên bố lạ thường của Chúa Giêsu, đám đông dân chúng không thể tin được, tất nhiên họ phản đối. Vì thế, họ xầm xì với nhau: “Ông này là con ông Giuse, tại sao ông ấy dám tuyên bố là Bánh bởi trời xuống?” Họ biết cha mẹ và dòng họ của Ngài. Có lẽ Chúa Giêsu muốn gây “sốc” để từ đó tạo ra một thắc mắc và sau đó giải quyết vấn đề.
Chúng ta cũng thế thôi. Chúng ta thường căn cứ vào “lý lịch”, hay căn cứ vào những gì mình đã biết, nhất là vào thời của chúng ta: phải có lý lịch mới được công nhận. Đó là căn bản.
Khi Ngài về Nadareth, quê hương của Ngài, không mấy ai tin Ngài, vì nơi đó lý lịch của Ngài quá rõ, không ai có thể chấp nhận sự thông thái của Ngài vì họ biết, Ngài chỉ là một anh thợ mộc dốt nát.
Lý lịch trở thành một rào cản không cho phép người ta đi xa hơn. Nó ràng buộc một con người trong khung cảnh nhỏ hẹp của họ. Ngài là con ông thợ mộc, thì suốt đời Ngài cũng chỉ là con ông thợ mộc mà thôi.
Điều này không gây trở ngại cho Chúa Giêsu. Ngài khẳng định: “Anh em biết tôi là con ông thợ mộc, nhưng không chỉ là con ông thợ mộc. Đó chỉ là lý lịch thôi. Tôi vượt xa hơn thế.”
Ngài tuyên bố những lời rất “khó nghe”: “Các ông đừng xầm xì nữa. Chẳng ai đến được với tôi nếu Chúa Cha, Đấng đã sai tôi không lôi kéo người ấy”.
“Không ai đến được với tôi”, tức là tôi không thuộc về mảnh đất này, môi trường này, tôi thuộc về nơi khác, tôi ở nơi Chúa Cha. Ngài muốn ám chỉ mối liên hệ sâu xa của Ngài với Chúa Cha. Chính Chúa Cha “kéo” chúng ta đến với Ngài chứ không phải chúng ta tự mình đến với Ngài. Ngài là Đấng Chúa Cha đã ghi dấu và sai đến, thì chính Chúa Cha cũng kéo chúng ta đến với Ngài.
Dân Do Thái thắc mắc về lý lịch của Ngài và không muốn vượt qua rào cản đó, vì họ không được Chúa Cha lôi kéo. Họ dừng lại ở những dữ kiện bên ngoài mà quên những yếu tố bên trong. Con người là một huyền nhiệm vì họ mang một thực tại siêu linh và một sự sống thiêng liêng mà con mắt phàm trần không thể nhìn thấy. Đánh giá một người dựa trên lý lịch là một sự thiển cận tai hại.
Ông Giêsu Nadareth, ông thợ mộc ấy không chỉ là ông thợ mộc. Nếu chúng ta dừng lại nơi những sự kiện vật chất, chúng ta sẽ không thể khám phá huyền nhiệm của Ngài.
Để trả lời cho những thắc mắc của người Do Thái, Chúa Giêsu mạc khải Chúa Cha. Nhiều lần, Ngài đã tự xưng mình là Con của Chúa Cha, nhất là trong những lần tranh luận với đám Pharisêu. Nhưng họ có hiểu đâu! Và họ lại ném đá Ngài.
Trong xã hội hôm nay, người ta chỉ căn cứ vào lý lịch để đánh giá một người. Trong Giáo Hội lắm khi cũng vậy, chúng ta đánh giá theo lý lịch. Lý lịch đôi khi cũng giúp chúng ta tìm hiểu về nhân cách hay nguồn gốc của một người, nhưng còn những yếu tố khác cũng quan trọng, giúp chúng ta khám phá ra tâm hồn của một người. Thường chúng ta dán nhãn cho một người và xếp hạng họ vào một loại nào đó mà quên rằng con người có thể biến đổi, chúng ta không nhìn thấy những hy sinh, chịu đựng của một người để sống tốt hơn. Chúng ta căn cứ vào những lỗi lầm của dĩ vãng mà không nhìn thấy những đổi mới nơi một người. Trong Giáo Hội mọi thời vẫn có những người như thánh Âutinh, những Charles de Foucauld, những Mađalêna … Những con người trở về từ rất xa. Cần cố gắng nhìn những hồng ân của Chúa nơi người khác.
Bè phái Pharisêu sai lầm và không thoát ra được khỏi sự lầm lạc của mình và họ đã đi đến sai lầm cuối cùng là đóng đinh Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu vẫn không ngại tuyên bố, không úp mở về chính Ngài: Ngài là Đấng Chúa Cha đã ghi dấu và sai đến. Ngài là người đã “thấy Chúa Cha”. Con người duy nhất đã thấy Chúa Cha và mạc khải Người cho chúng ta. Và Ngài đòi hỏi phải tin vào Ngài mới có sự sống đời đời.
Chúng ta có tin không? Niềm tin của chúng ta được đánh giá bằng gì? Bằng một vài hành động đạo đức, bằng việc dự lễ, rước lễ và vài ba câu kinh hấp tấp?
Tin vào Chúa Giêsu chính là sống như Ngài đã sống, khiêm nhượng và hiền lành, yêu thương không tính toán, là sống trong tình yêu của Chúa Cha.
Tin là ăn lấy Ngài vì Ngài chính là Bánh Trường Sinh. Chỉ có Ngài mới làm cho sống. Ngài đã tuyên bố mạnh mẽ rõ ràng: “Tôi là Bánh từ trời xuống… Và Bánh tôi ban tặng chính là Thịt Tôi đây”.
Chỉ có Ngài mới dám tuyên bố những lời như thế mà không sợ bẽ mặt, vì Ngài nói và làm đúng như đã nói. Ngài là Thiên Chúa quyền năng đã đến trong trần gian. Con người của chúng ta hồ nghi vì chúng ta đã quá quen với những lời tuyên bố trống rỗng, chúng ta trở nên đa nghi. Người Do Thái xưa cũng đa nghi và họ không thể tin vào ai được vì có quá nhiều tiên tri giả.
Chúng ta vẫn có thể vững tin dù cho mọi người không dám tin. Chúng ta là những người đến sau, chúng ta có đủ bằng chứng để không thể hồ nghi. Đó là Chúa Giêsu đã chết và sống lại. Niềm tin của chúng ta được đặt trên sự sống lại vinh hiển của Ngài chứ không còn thắc mắc như dân Do Thái xưa kia nữa; nhưng chúng ta vững tin rằng, Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống.
Hãy đến ăn lấy Ngài trong tin tưởng và hân hoan: “Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”. Bàn tiệc thiên quốc đang mời gọi mỗi Kitô hữu. Chúng ta hãy ăn lấy Bánh Tình Yêu để sống trong tình yêu và loan truyền Tình Yêu.
52. Nguồn sinh lực.
Ngày kia, tiên tri Elia phải lìa bỏ kinh thành mà chạy trốn vì hoàng hậu Zézabel muốn tìm giết ông. Tiên tri vội vã lên đường, không kịp mang theo đồ ăn và thức uống, rồi chính ông cũng chẳng biết mình sẽ phải về đâu.
Sau nhiều ngày lang thang trong sa mạc cát nóng, vừa mệt mỏi lại vừa tuyệt vọng, ông bèn nằm dưới một bóng cây chờ chết và thiếp vào một giấc ngủ nặng nề.
Lúc sau có một thiên thần đánh thức ông, đưa cho ông bánh và nói:
- Nào hãy chỗi dậy, cầm lấy mà ăn vì đường còn xa.
Elia chỗi dậy, ăn bánh và cơ thể ông lấy lại được sức khỏe, ông trở nên một con người mới, hăm hở băng qua sa mạc, đi cho đến tận đỉnh Horb là núi thánh của Chúa.
Hình ảnh tiên tri Elia cũng chính là hình ảnh chúng ta. Và cuộc hành trình đầy gian khổ tiến lên núi thánh cũng chính là hình ảnh cuộc đời của mỗi người.
Thực vậy, sống trong cuộc đời, chúng ta đều gặp phải những đau khổ đắng cay, những đớn đau buồn phiền. Làm sao chúng ta có đủ sức chịu đựng nổi.
Hơn thế nữa, Thiên Chúa là Đấng yêu thương, Ngài mong muốn cho tất cả chúng ta đều được hưởng niềm hạnh phúc nước trời. Nhưng để xứng đáng với niềm hạnh phúc ấy, chúng ta phải trở nên thánh thiện.
Thế nhưng kinh nghiệm cho chúng ta hay, trở nên thánh không phải là một việc dễ dàng. Biết bao nhiêu lần chúng ta đã dốc quyết điều nọ điều kia, nhưng rồi chỉ trong vòng ba bảy hai mươi mốt ngày, chúng ta lại vội vã quên đi, để rồi vẫn chứng nào tật ấy, mèo vẫn hoàn mèo mà thôi.
Hay như lời thánh Phaolô đã diễn tả:
- Sự thiện tôi muốn thì tôi lại không làm, còn điều ác tôi không muốn thì tôi lại làm.
Trên đường tiến tới quê hương nước trời, chúng ta phải chống cự với biết bao nhiêu kẻ thù, chúng ta phải vượt qua biết bao nhiêu khó khăn.
Như tiên tri Elia đã lấy lại được sức khỏe do bánh mà sứ thần đem tới, thì chúng ta cũng có được một thứ bánh bởi trời, một thứ lương thực thần linh, bồi bổ cho tâm hồn đó là Mình Máu Thánh Chúa.
Ý thức được những lợi ích to lớn ấy, chúng ta hiểu được tại sao Chúa Giêsu đã truyền cho chúng ta phải rước lễ. Để cho chúng ta được sống và không phải chết, Chúa Giêsu đã phán:
- Hãy cầm lấy mà ăn, hãy cầm lấy mà uống…
Đồng thời Ngài cũng cảnh giác:
- Nếu các con không ăn thịt Ta và không uống máu Ta, các con sẽ không có sự sống.
Hơn thế nữa, Ngài còn hứa:
- Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì sẽ có được sự sống đời đời và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại ngày sau hết.
Thế nhưng nhiều người trong chúng ta đã coi thường lệnh truyền của Chúa. Họ giống như những người được nhà vua mời tới tham dự tiệc cưới, nhưng đã viện lý do nọ lý do kia: nào là tôi mới mua nhà, nào là tôi mới tậu bò, nào là tôi mới cưới vợ… để rồi tất cả đã từ chối không đến tham dự. Họ có đủ thời giờ làm mọi việc, chỉ trừ có một việc là không đáp trả lời mời gọi của nhà vua.
Với chúng ta cũng thế. Bí tích Thánh Thể là một bàn tiệc, là một bữa ăn. Chúa Giêsu đã lên tiếng kêu mời chúng ta. Phải chăng chúng ta đã đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ, không đếm xỉa gì tới lời mời gọi ấy, bởi vì có khi cả năm chúng ta không rước lễ lấy được một lần?
Để đáp trả tình thương của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta hãy siêng năng tham dự thánh lễ và nhất là hãy sốt sắng rước lễ, mỗi khi có thể, vì việc rước lễ chính là một giới luật, chính là một lệnh truyền, chính là một lời mời gọi đầy yêu thương của Chúa.
53. Sống đời đời.
Bài Tin Mừng tiếp tục kể lại bài giảng về bánh hằng sống của Chúa Giêsu. Qua bài giảng này Chúa Giêsu muốn mạc khải về phép Thánh Thể mà Ngài sẽ thiết lập. Chúng ta hãy ôn lại ít điều giáo lý về việc rước Chúa, tức là việc rước lễ, đem lại cho chúng ta rất nhiều ơn ích lớn lao, có thể tóm tắt trong bốn điều:
Thứ nhất, rước Chúa chúng ta được tăng thêm ơn thánh hóa. Khi chúng ta lãnh các bí tích Thêm sức, Giải tội, Xức dầu, Truyền chức thánh và Hôn phối, chúng ta cũng được tăng thêm ơn thánh hóa. Nhưng khi lãnh bí tích Thánh Thể chúng ta được tăng thêm ơn thánh hóa nhiều nhất, vì không phải chúng ta chỉ lãnh thêm ơn thánh mà là lãnh nhận chính Đấng ban ơn thánh, là chính nguồn mạch ơn phúc.
Thứ hai, rước Chúa làm chúng ta kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu và với các anh chị em tín hữu khác. Cũng như khi chúng ta ăn bất cứ thứ gì, thì của ăn đó được biến hóa và trở nên thịt máu vào chính con người chúng ta. Vậy khi ăn thịt Chúa, thì thịt Chúa sẽ trở nên thịt máu chúng ta. Chúng ta sẽ sống trong Chúa và Chúa sẽ sống trong chúng ta, như Chúa đã phán: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy”. Khi đó chúng ta có thể nói như thánh Phaolô: “Không phải tôi sống nữa mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”. Không những chúng ta kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu mà chúng ta còn hiệp nhất với anh chị em tín hữu trong cả hoàn cầu nữa. Bởi vì chúng ta cùng chia sẻ một lương thực là cùng chia sẻ một sự sống, nên chúng ta hiệp thông và hiệp nhất với nhau, như thánh Phaolô đã nói: “Chúng ta ăn mình Chúa nên tất cả chúng ta đều là một”. Do đó, đã hiệp nhất với Chúa Giêsu thì cũng hiệp nhất với nhau.
Thứ ba, rước Chúa chúng ta được tha các tội nhẹ và bảo vệ chúng ta khỏi tội trọng. Hằng ngày chúng ta phạm nhiều tội nhẹ trong tư tưởng, ước muốn, lời nói, việc làm. Những tội này không những không ngăn trở chúng ta rước lễ, mà chính việc rước lễ sẽ tha các tội nhẹ cho chúng ta. Còn khi có tội trọng thì không được rước lễ. Nhưng chính việc rước lễ sẽ giúp chúng ta, sẽ gìn giữ chúng ta khỏi sa ngã phạm tội trọng, như Công Đồng Tridentinô đã nói: Việc rước Chúa là một liều thuốc gìn giữ chúng ta khỏi sa ngã phạm tội trọng”.
Thứ tư, rước Chúa ban cho chúng ta sự sống đời đời ngay khi chúng ta còn sống trên mặt đất này, Chúa Giêsu nói rõ: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời”. Chúa không nói người ấy “sẽ được sống muôn đời”. Chúa nhấn mạnh người ấy “được sống muôn đời”. Còn việc bảo đảm sẽ được sống lại sau này thì chính Chúa Giêsu đã khẳng định: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết”. Như vậy, phép Thánh Thể, sự phục sinh và cuộc sống vĩnh cửu có tương quan với nhau, nghĩa là bây giờ nhờ rước Chúa, chúng ta có đời sống ân sủng, sau khi chết, linh hồn chúng ta được hạnh phúc trường cửu, và ngày tận thế, thân xác chúng ta sẽ được đồng vinh hiển cùng với linh hồn.
Anh chị em có đọc được ở đâu hay tìm thấy nơi một tôn giáo nào khác có một đấng thần minh, dám nói như Chúa Giêsu đã nói hôm nay không: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời”?. Chúa Giêsu dám nói như thế, vì Ngài có nền tảng, vì Ngài là Thiên Chúa hằng sống, nên Ngài có quyền ban sự sống đời đời cho những ai tin Ngài. Ngài là lẽ sống của họ. Trong những thế kỷ đầu của Giáo Hội, dân ngoại bỡ ngỡ khi thấy người có đạo anh dũng chịu chết vì Chúa. Đâu là lý do của sự can đảm lạ lùng ấy? Thánh Si-pơ-ri-a-nô trả lời: “Chính nhờ Mình Thánh Chúa Giêsu gìn giữ mà người có đạo mới ra pháp trường một cách anh dũng như vậy”. Đời vua Tự Đức, tổ tiên chúng ta cũng không thua kém các vị tử đạo đầu tiên ở Rôma. Nhờ đâu? Nhờ rước Mình Thánh Chúa. Bằng chứng: trong một sắc lệnh cấm đạo của vua Tự Đức có một điều như sau: “Không được để cho người ta đem đến cho kẻ có đạo thứ bánh mầu nhiệm gì đó, vì thứ bánh ấy làm cho họ không sợ đau đớn và vui vẻ chịu chết”.
Quả thực, ăn thịt máu Chúa sẽ tìm được sức mạnh thánh hóa và can đảm. Thịt máu Chúa còn đem lại hiệu quả cuối cùng là sự sống lại và sự sống đời đời. Vì thế, nếu chúng ta đến dâng lễ mà chúng ta không rước Mình Thánh Chúa, thì cũng không khác gì đi ăn tiệc mà không ăn gì cả. Và như thế là chúng ta đã từ chối ân huệ lớn lao, như nhà vua kia mời dự tiệc cưới con mình mà bị từ chối, là năm trinh nữ khờ dại không vào phòng tiệc, là chôn giấu nén bạc chủ trao cho, là mất kho tàng và đá ngọc, là vứt hòn ngọc đi. Tóm lại. Mình Máu Chúa là của ăn không những nuôi dưỡng linh hồn mà còn tăng thêm niềm tin, lòng yêu mến và hy vọng, giúp chúng ta sống hào hùng, sống tốt đẹp ở đời này và bảo đảm cho chúng ta hạnh phúc đời sau. Vậy chúng ta hãy quí mến phép Thánh Thể và siêng năng rước lễ, để lãnh nhận những ơn ích và những hiệu quả cao quý ấy.
54. Dậy mà ăn, vì đường còn xa!
(Suy niệm của Lm. Giuse Trịnh Ngọc Danh)
“Dậy mà ăn, vì ngươi còn phải đi đường xa”. Đó là lời thiên sứ của Thiên Chúa thúc dục ngôn sứ Êlia, sau khi ông đã được thiên sứ cung cấp bánh và nước cho ăn no sau cuộc vượt thoát khỏi hoàng hậu Ideven đang tìm giết ông; vì ông đã chiến thắng trong cuộc thách đố với 450 ngôn sứ của thần Baan. Ăn no, ông lại tiếp tục ngủ.Thiên sứ lại hiện ra, dục ông dậy mà ăn, vì đường lên núi Khôrếp, núi Thiên Chúa còn xa.
Lương thực cho Êlia
Ngôn sứ Êlia là người được Thiên Chúa sai đến với dân chúng để làm chứng cho họ nhận biết chỉ một mình Thiên Chúa là Đấng duy nhất họ phải tôn thờ, nhưng dân chúng không nghe; ông đã khiển trách toàn thể con cái Israen trên núi Cácmen: “Các ngươi nhảy khập khiểng cho tới bao giờ? Nếu Đức Chúa là Thiên Chúa, thì hãy theo Người; còn nếu là Baan, thì cứ theo nó!”(1V 18: 21); và ông đã mạnh dạn thách thức với 450 ngôn sứ của thần Baan trên núi Cácmen: cả hai bên cùng dâng hy lễ để chứng minh Đấng nào là Thiên Chúa chân thật. Thiên Chúa đã nhậm lời ông để cho dân chúng nhận ra Thiên Chúa là Đấng nào và ông đã giết chết 450 ngôn sứ của thần Baan; vì thế, hoàng hậu Ideven thề sẽ lấy mạng sống ông. Ông thất vọng, chán nản, buông xuôi. Ông trốn chạy và đã xin với Chúa: “Lạy Đức Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi, vì con cũng chẳng hơn gì cha ông của con”. Rồi ông nằm dưới cây kim tước mà ngủ thiếp đi”(1V. 19: 4). Được thiên sứ của Chúa cung cấp đồ ăn, đồ uống; nhưng ăn xong, ông lại nằm ngủ tiếp.
Một mình chống chọi với các thế lực tà thần làm ông trở nên yếu đuối, mệt mỏi, mất tinh thần, hoảng sợ vì làm ngôn sứ của Thiên Chúa. Ông trốn chạy để cứu mạng sống. Ông muốn bỏ cuộc: ăn no, ông lại ngủ tiếp!
Thiên sứ trở lại lần thư hai, đánh thức ông dậy và nói:“Dậy mà ăn, vì ngươi còn phải đi đường xa”. Và nhờ lương thực từ trời bổ dưỡng, ông đã đi suốt bốn mươi ngày, bốn mươi đêm tới Khôrếp, là núi của Thiên Chúa”(1V. 19: 7-8)
Lương thực cho chúng ta
Trên con đường hành trình đi về núi Thiên Chúa, Êlia chán nản, thất vọng: “Lạy Đức Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi, vì con cũng chẳng hơn gì cha ông của con”. Chúa Giêsu Nadarét bị đồng hương khinh bỉ, rồi lo buồn sầu não trước giờ tử nạn: “Lạy Cha, nếu có thể thì xin cho con khỏi uống chén này”. Và Hội Thánh hôm nay bị xoi mói, biêu rếu…Và chúng ta là dân Thiên Chúa đang hành trình trong đức tin về miền đất hứa của sự sống đời đời. Suốt cuộc hành trình ấy, chúng ta cũng không tránh khỏi những thất vọng, khó khăn, hoài nghi, chán nản, mất niềm tin khi gặp khó khăn, khốn khổ.Cũng có lúc, chúng ta dựa vào thế lực của trần thế hơn là dựa vào quyền năng của Thiên Chúa; nhưng Thiên Chúa không bỏ rơi con cái của Ngài.
Ngày xưa, cha ông chúng ta đã ăn manna trong hoang địa; tiên tri Êlia được Thiên sứ cho một thứ lương thực bồi dưỡng giúp ông đi suốt bốn mươi ngày đêm lên tới núi Thiên Chúa mà không mõi mệt.
Và chúng ta ngày nay, vì “còn phải đi đường xa”, chúng ta sẽ ăn gì đây để có đủ sức mạnh tiến về núi Thiên Chúa?
Hôm nay, Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta một thứ lương thực mới, không như manna mà cha ông chúng ta đã “ăn trong sa mạc nhưng đã chết”, nhưng là một thứ “bánh từ trời xuống để ai ăn thì khỏi phải chết”. Lương thực ấy, thứ bánh ấy chính là Thịt và Máu Chúa Kitô:“Tôi là bánh trường sinh. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Bánh tôi ban tặng chính là thịt tôi đây. Ai không ăn thịt và uống máu Con Người, không có sự sống nơi mình. Ai ăn thìđược sống muôn đời và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết”
“Dậy mà ăn, vì ngươi còn phải đi đường xa”. Đây cũng là lời Thiên Chúa thúc dục chúng ta trên con đường lữ hành về Nước Trời. Đường cònxa!
Qua bài Tin Mừng của thánh Gioan (Ga. 6: 41-51) vào ngày Chúa nhật 19 thường niên, năm B, Chúa Giêsu đã giới thiệu cho chúng ta về thân thế và sứ vụ của Ngài trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa: Người Con ở cùng Người Cha. Chắc chắn Người Con biết rõ về Người Cha, Người Con biết rõ rằng “Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ”; do đó, ai nghe và đón nhận giáo huấn Người Cha, thì sẽ đến với Người Con. Nếu Người Cha không lôi kéo người ấy, thì chẳng ai đến được với Người Con; và ai đến được với Người Con, thì Nguời Con sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. Người Con từ trời xuống thế gian theo ý của Người Cha. Người Con tự hiến tế đã trở thành bánh trường sinh bằng chính thịt và máu mình. Ai tin, và ăn thứ bánh hằng sống Người Con ban cho sẽ được sống đời đời.
Chúa Giêsu là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình. Chỉ trong Ngài, con người mới thấy được Thiên Chúa như lời Ngài đã nói: “Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha”.
Vì Chúa Giêsu và Chúa Cha là một; cho nên, nếu muốn được sống đời sống thần linh, chúng ta phải sống bằng chính sự sống của Chúa Giêsu, phải được nuôi dưỡng bằng chính Thịt và Máu Ngài: “Ai ăn thịt và uống máu tôi thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy như tôi sống nhờ Chúa Cha”.
Chúa Giêsu là “bánh từ trời xuống”, bánh được ban xuống cho con người để lôi kéo con người lên với Chúa Cha. Chúng ta tiếp nhận Thịt và Máu Chúa Giêsu là để được đón nhận tình yêu của Thiên Chúa, được sống kết hợp với Ngài.
Sẽ không được sống đời đời, sẽ không có sự sống đích thực, sẽ không được sống lại trong ngày sau hết, nếu không ăn thịt và uống máu Con Người: “Ai không ăn thịt và uống máu Con Người, không có sự sống nơi mình. Ai ăn thì được sống muôn đời và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết.”
Và sẽ không đến được với Con Người, nếu không đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, không tin vào Con Người, không tin vào tình yêu Thiên Chúa: “Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi”. Và “ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy Người Con và tin vào Người Con thì được sống muôn đời và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời”.
Thiên Chúa mà chúng ta quy tụ nhân danh Chúa Giêsu Kitô không chỉ là đích đến của cuộc hành trình về Nhà Cha mà Ngài còn là người bạn đồng hành, là một lương thực cần thiết trên con đường lữ hành ấy.
Điều kiện đến với Người Con để được sống đời đời là tin và phó thác vào Thiên Chúa và tuân giữ các giới răn của Ngài, là tin và sám hối theo Tin Mừng
Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài, cho con người làm con cái của Ngài. Ngài muốn con người được sống hạnh phúc. Ngài ban cho con người tự do; nhưng vì có tự do, con người đã đánh mất vị thế làm con, đánh mất cuộc sống hạnh phúc trong vườn Địa đàng.
Thay vì lên án, hủy diệt con người đã bất trung bội phản, nhưng vì yêu thương, Ngài đã không bỏ mặc những ai tin tưởng nơi Ngài, đã làm mọi cách để lôi kéo con người khỏi vòng bủa vây của sự diệt vong, khỏi sự lôi kéo của thần chết.
Thiên Chúa vẫn luôn tín trung với tình yêu của Ngài. Với những người tin tưởng và phó thác vào Ngài, Ngài chẳng bao giờ bỏ rơi họ như dụng ôn về con chiên lạc và dụ ngôn người con hoang đàng.
Trong cuộc hành trình tiến về núi Thiên Chúa, có những lúc, những giai đoạn chúng ta sẽ gặp những khó khăn, chán nản, thất vọng, cô đơn như trường hợp của ngôn sứ Elia. Nhưng những ai tin tưởng phó thác vào tình yêu Thiên Chúa, Ngài sẽ luôn quan phòng và không để họ thoát khỏi tình yêu của Ngài.
Chúng ta đã có một thứ lương thực trường sinh cho cuộc hành trình đi về với Chúa Cha: Đó là Thịt máu Chúa Kitô trong phép Thánh Thể. Khi đón nhận Bánh Hằng Sống là lãnh nhận tình yêu của Thiên Chúa và từ đó lan toả sang cho tha nhân để đưa mọi người về với Ngài.
Tin và thực hành những điều Thiên Chúa dạy là bước khởi đầu dẫn chúng ta vào Nước Trời. Chúng ta chính thức trở thành công dân Nươc Trời khi chúng ta sát nhập với Chúa Kitô, khi chúng ta ăn “ bánh hằng sống từ trời xuống” là chính Chúa Kitô. Ngài là nguyên lý sự sống đích thực và là trung tâm thu hút mọi người tìm về.
Chỉ có sức sống thần linh mới làm cho con người được sống đích thực cuộc sống của mình. “Dậy mà ăn, vì ngươi còn phải đi đường xa”.
55. Lương thực.
Êlia là vị ngôn sứ lớn nhất trong Cựu ước. Đến nỗi người ta đã nghĩ rằng ông sẽ trở lại để loan báo thời đại của Đấng Mêsia. Tuy nhiên, trong bài đọc 1, chúng ta thấy ông yếu đuối, kiệt sức, hoảng sợ. Ông đau đớn, mệt mỏi vì làm ngôn sứ của Thiên Chúa. Ông bỏ chạy để cứu mạng sống mình. Ông muốn bỏ cuộc. Ông bắt đầu nghi ngờ chính mình: “Tôi không tốt hơn cha ông tôi”.
Điều gì đã làm cho ông xuống tinh thần như thế? Ông đã theo đuổi một cuộc chiến đấu ác liệt chống việc thờ ngẫu tượng đang bùng lên trong thời kỳ ấy. Điều này đưa ông đến xung đột với hoàng hậu độc ác I-da-ven. Bà này muốn giết ông. Vì thế ông phải chạy trốn trong sa mạc, ở đó ông sấp mình xin Thiên Chúa lấy mạng sống của ông để mọi phiền muộn chấm dứt.
Ông đã mất hết tinh thần. Khi chúng ta mất hết tinh thần, chúng ta đánh mất sức mạnh cao cả. Tinh thần của chúng ta ví như đôi cánh của chim và gốc rễ của cây cối.
Cả bậc vĩ nhân cũng biết đến những thời kỳ yếu đuối, rã rời và thất vọng. Họ cảm thấy đời sống quá khó khăn đến nỗi họ không thể đương đầu với bất cứ điều gì nữa. Họ không vì thế mà kém vĩ đại. Dẫu sao, họ cũng chứng tỏ rằng họ rất con người và do đó có giới hạn. Chính Đức Giêsu biết điều đó một giờ trong vườn Giệtsimani.
Nhiều người không thích chấp nhận những giới hạn của mình trong nhân tính. Họ muốn tỏ ra lúc nào cũng mạnh mẽ. Họ nghĩ họ sẽ mất mặt trước những người khác nếu họ tỏ ra yếu đuối và sợ hãi. Nhưng, thật ra, trường hợp ngược lại mới phải. Người ta sẽ cảm động và sẵn sàng giúp đỡ khi họ thấy rằng chúng ta là con người giống họ. Hình như Picasso có nói: “Lòng trắc ẩn sẽ thắng bạn, khi bạn thấy nơi mỗi người dòng suối lệ”.
Vẫn còn có người cảm thấy rằng cảm nhận như thế là không xứng đáng với một người có đức tin vào Thiên Chúa. Nhưng sự yếu đuối không phải là không phù hợp với đức tin. Mặt khác, làm thế nào chúng ta có thể được giúp đỡ nếu chúng ta không thú nhận chúng ta cần? Sự nhận biết mình là bước đầu của sự cải hóa.
Thiên Chúa đã sai một “thiên thần” mang thức ăn, và thức uống cho Êlia. Hầu như “thiên thần” không ai khác hơn là người thị đồng (nô bộc) đã đi theo ông đến bìa sa mạc. Với sức mạnh mà lương thực ấy mang lại, Êlia đã đi hết con đường đến núi Khô-rếp, núi của Thiên Chúa. Như thể vấn đề tiên quyết của ông không phải do thiếu lương thực sinh ra (dù trong thời gian ấy có nạn đói) vì thế sức mạnh mới của ông không chỉ do lương thực mà do sự bảo đảm Thiên Chúa ở cùng ông. Chính sự bảo đảm này thổi vào ông sự sống mới và cho ông nhiệt tình để đi tiếp.
Chúng ta cũng đang hành trình tiến về núi của Thiên Chúa, nơi có sự sống đời đời. Chúng ta cũng sẽ cảm nghiệm những lúc yếu đuối trong cuộc lữ hành ấy. Chúng ta cần sự giúp đỡ mà ở hàng đầu là sự giúp đỡ của con người. Một cách lý tưởng điều này sẽ có hiệu lực qua cộng đoàn Kitô hữu. Và dĩ nhiên chúng ta cần sự giúp đỡ đến từ Thiên Chúa. Quả là một sự nâng đỡ đặc biệt khi chúng ta cảm nhận Thiên Chúa hiện diện với chúng ta và yêu thương chúng ta. Và chúng ta cần bánh cho cuộc hành trình của mình. Tuy nhiên bánh bình thường sẽ không đủ. Chúng ta cần bánh mà Đức Giêsu ban cho – Bánh Thánh Thể.
Thánh Thể còn được gọi là Viaticum có nghĩa là bánh hay thức ăn đi đường giống như khẩu phần của người chiến sĩ. Tuy nhiên, qua nhiều năm tháng Viaticum chỉ còn được áp dụng trong một ý nghĩa rất hẹp, và để chỉ sự rước lễ dành cho một người sắp chết. Vì thế nó chỉ được xem như bánh dành cho giai đoạn cuối cùng của cuộc hành trình trên trần gian của người Kitô hữu. Nhưng Thánh Thể có ý nghĩa nâng đỡ chúng ta suốt cuộc hành trình ấy.
Nhờ vào sức mạnh của lương thực mà Đức Giêsu ban cho chúng ta trong Thánh Thể, chúng ta sẽ đi trọn con đường dẫn đến Nước Chúa vĩnh cửu. Và dọc đường, chúng ta có đặc ân làm một thiên thần của Thiên Chúa cho một người khác đang cảm thấy xuống tinh thần. Đó chỉ là loại tình yêu và nâng đỡ mà bạn hy vọng cho người cùng ngồi ăn với bạn.
56. Giúp đỡ.
Êlia là một ngôn sứ lớn nhất của Cựu ước. Ông chống lại và đánh bại các ngôn sứ của thần Ba-an tại núi Cát minh. Điều này khiến ông bị hoàng hậu thờ ngẫu tượng I-da-ven căm thù và muốn cho người giết ông. Vì thế ông chạy trốn vào sa mạc, ở đó ông phủ phục và xin Thiên Chúa cất mạng sống ông đi. Và rồi mọi ưu phiền của ông cũng chấm dứt.
Thiên Chúa nghe lời cầu nguyện của Êlia và đã đáp lại, nhưng không phải theo cách Êlia mong muốn. Thiên Chúa sai một thiên thần đem đến cho ông lương thực và nước uống. Và khi được lương thực “từ trời” xuống làm cho mạnh mẻ, ông có thể tiếp tục cuộc hành trình lên núi Khô-rếp, ngọn núi của Thiên Chúa.
Về sự việc này, có thể không theo cách nói siêu nhiên mà giải thích theo cách tự nhiên. Thiên thần nuôi sống Êlia có lẽ chính là người nô bộc của ngôn sứ mà ông đã để lại phía sau một khoảng cách. Nhưng dù giải thích cách nào thì cũng đều là sự chăm sóc của Thiên Chúa đối với ngôn sứ của Người. Cách hoạt động thông thường của Thiên Chúa là qua những con người làm trung gian.
Có một câu chuyện để minh họa điều này. Có một cơn lũ tồi tệ và hầm rượu của nhà Tôma đã ngập nước. Một người chạy Canô đến và nói: “Ông có muốn tôi chở đến chỗ an toàn không?” “Không” Tôma nói “Tôi tin vào Thiên Chúa, Người sẽ cứu tôi”.
Nước tiếp tục dâng lên và ngập đến sàn nhà. Tôma phải lên lầu. Một người chèo một chiếc xuồng máy đi ngang qua và đề nghị đưa ông đến một chỗ an toàn, nhưng Tôma nói “Tôi tin vào Thiên Chúa, Người sẽ cứu tôi”.
Nước vẫn lên cao và Tôma phải trèo lên mái nhà. Một máy bay trực thăng đi ngang qua và phi công đề nghị đưa ông đến chỗ an toàn, nhưng Tôma nói: “Tôi tin vào Thiên Chúa và Người sẽ cứu tôi”.
Nhưng nước vẫn cứ dâng lên và ông bị cuốn trôi. Khi lên trời ông giận dữ nói với Thiên Chúa: “Con đã tin Chúa thế mà Chúa vẫn để con chết chìm”. Nhưng Thiên Chúa đáp lại: “Không chỉ một lần nhưng là ba lần, Ta cho người đến giúp con, nhưng lần nào, con cũng từ chối”.
Chúng ta thường không nhận ra sự giúp đỡ của Thiên Chúa khi nó đến. Lời cầu nguyện được đáp ứng không phải trong việc Thiên Chúa làm, nhưng trong việc Thiên Chúa giúp chúng ta tự làm, hoặc cho người khác giúp chúng ta. Chúng ta sẽ chờ đợi vô ích một Thiên Chúa từ trời xuống. Nhưng Thiên Chúa sai một thiên thần con người đến. Mọi người chúng ta đều có kinh nghiệm về tác vụ của những thiên thần như thế.
Và chúng ta cũng có những cơ hội để đóng vai một thiên thần đến với một người trong cảnh khốn khổ. Đôi khi để làm một việc gì đó, cung cấp một thứ phục vụ cơ bản nào đó như nấu một món ăn. Những lần khác để nói một lời động viên, hoặc chỉ để đem lại sự có mặt an ủi và người ta không còn chịu đau khổ một mình trong cảnh cô đơn.
Nhiều người đi qua một thời kỳ tồi tệ. Chỉ cần có sự chăm sóc của một thiên thần con người đủ giúp họ vượt qua thời kỳ ấy. Sau cùng “thiên thần” mà Thiên Chúa sai đến với chúng ta là Con của Người, Đức Giêsu. Đức Giêsu luôn ở bên cạnh chúng ta và cho chúng ta, không phải thứ bánh thông thường, mà là “bánh sự sống”. Nhờ sức mạnh bánh đó mang lại, chúng ta sẽ đi trọn con đường lên núi Thiên Chúa có tên gọi là sự sống đời đời.
57. Thoát ly.
Êlia, vị ngôn sứ dùng cả cuộc đời mình để chiến đấu chống lại sự thờ ngẫu tượng đang lan rộng trong thời kỳ đó. Điều này dẫn ông đến chỗ xung đột với hoàng hậu I-da-ven là người muốn giết ông. Vì thế ông đã chạy trốn vào trong sa mạc để thoát nạn. Nhưng ở đó ông bị nỗi phiền muộn dày vò. Ông đã cho đi tất cả, giờ đây ông cảm thấy mình kiệt sức. Vì thế ông phủ phục xuống đất và xin Thiên Chúa cất mạng sống ông đi. Và rồi mọi phiền muộn sẽ không còn nữa.
Êlia có lẽ là vị ngôn sứ lớn nhất trong Cựu ước. Tuy nhiên ở đây, chúng ta thấy ông yếu đuối, kiệt sức, hoảng sợ và chỉ muốn chết. Thay vì sửng sốt khó chịu bởi việc đó, chúng ta không nên bận tâm. Êlia là một vĩ nhân. Nhưng sự cao cả vĩ đại không thể được phong tặng, người ta phải thực hiện nó. Và khi thực hiện sự cao cả, vĩ đại, người ta không tránh khỏi những khó khăn, trái lại còn phải đương đầu và vượt qua chúng. Nhưng cả bậc vĩ nhân cũng biết đến những lúc yếu đuối, sợ hãi, hồ nghi như tất cả chúng ta.
Êlia đã chạy trốn khỏi những gì đuổi theo ông. Nhưng thay vì đáp ứng mong ước của ông. Thiên Chúa đã sai một thiên thần mang lương thực và nước uống đến cho ông. Biến cố này không hẳn là một sự kiện siêu nhiên. “Thiên thần” có lẽ là người tôi tớ của ngôn sứ và ông đã để lại phía sau không xa. Dù gì, đó cũng là một cách diễn tả sự chăm sóc mà Thiên Chúa đã dành cho Êlia. Trong bất cứ tình huống nào, được lương thực từ trời làm mạnh sức, Êlia có thể tiếp tục lên đường đến núi Khô-rếp, núi của Thiên Chúa.
Ở núi Khô-rếp ông đã có một kinh nghiệm về Thiên Chúa. Mục đích của kinh nghiệm này không phải để khuyến khích ông đào tẩu, thoát ly, nhưng để an ủi và làm ông thêm mạnh mẽ để có thể trở về và đối đầu với tình trạng lộn xộn và nguy hiểm ông đã để lại phía sau. Và đó chính xác là điều ông đã làm.
Cầu nguyện và tôn giáo không có nghĩa là một sự đào tẩu khỏi đời sống nhưng để được giúp đỡ đối đầu với nó. Chúng ta thường xuyên quay về đời sống cầu nguyện và các bí tích từ cuộc hành trình tìm kiếm Thiên Chúa mỗi ngày và trong nỗ lực sống đời Kitô hữu. Tuy nhiên không phải để trốn tránh và đào tẩu, nhưng để được tái tạo và đổi mới lòng can đảm và năng lực, ngõ hầu chúng ta có thể lại dấn thân vào cuộc hành trình.
Tôn giáo là để an ủi chúng ta trong những lúc phiền muộn và những khi đau buồn. Nhưng nếu tôn giáo không làm hơn thế, thì trong trường hợp ấy, tôn giáo không bao hàm nguy cơ và sự căng thẳng. Nó phải đem lại một điều gì để nâng chúng ta lên, một lý do tốt để chúng ta thêm mạnh mẽ. Tôn giáo phải thách thức và kéo căng chúng ta khỏi những giới hạn của mình và vượt qua chúng, để sau đó chúng ta có những tiêu chuẩn phán đoán chính mình.
Có một tôn giáo của lòng sùng tín và một tôn giáo của sự cam kết. Đức tin có thể là cây nạng hoặc một đôi cánh.
Đời sống Kitô hữu không nhắm đến đào tẩu thoát ly, những quan điểm mềm yếu, sự an ủi. Nó nhắm đến điều trái ngược với những điều đó. Thiên Chúa yêu thương chúng ta, mong mỏi điều tốt nhất cho chúng ta, Người không mong chờ điều gì thấp kém hơn.
Thiên Chúa cho chúng ta một lương thực đặc biệt nuôi dưỡng chúng ta. Lương thực mà Êlia nhận được, giúp ông có thể tiến lên núi của Thiên Chúa. Lương thực mà Đức Giêsu ban cho chúng ta trong thánh lễ có thể cho chúng ta năng lực tiến lên trên con đường đến Nước trời vĩnh cửu.
58. Bánh sự sống đến từ trời - Lm. Gioan Trần Khả.
Khát Trường Sinh
Ai trong chúng ta cũng muốn mình sống lâu và trẻ hoài. Nếu có cách gì làm cho mình khoẻ, trẻ và sống lâu thì chúng ta không ngại thử ngay.
Vào thế kỷ thứ 16 khi Kha Luân Bố tìm ra miền đất mới thì có tin đồn rằng miền đất mới có suối nước thần nếu ai tắm và uống nước đó sẽ trẻ trung hoài. Ponce de Leon đã quyết định đóng tầu đi thám hiểm đến miền đất mới để tìm giòng suối trẻ trung đó.
Hoàng Đế Chin của Trung Hoa, người xây Vạn Lý Trường Thành cũng rất sợ già và sợ chết. Một hôm người cận thần tâu trình rằng ở bên Biển Đông có hòn đảo địa đàng. Người dân trên đảo đã khám phá ra bí mật của sự sống trường sinh. Hoàng Đế liền cho lệnh chất vàng bạc châu báu lên tầu và khởi hành đi về Biển Đông để trao đổi lấy thuốc thần trường sinh.
Những ai coi phim tầu cũng rất quen thuộc với giấc mơ đi về miền núi xa xôi hoang vắng nào đó để tìm cho đuợc củ sâm ngàn năm. Củ sâm đó có sức làm cho người ta phục hồi sức sống, tăng thêm tuổi thọ, sống lâu không chết.
Trẻ trung và sống lâu hạnh phúc là giấc mơ của con người ở mọi thời đại. Con nguời luôn luôn mong muốn sống mãi sống hoài. Nếu bị bệnh là lo tìm thày chạy thuốc. Nếu có khiếm khuyết về dung mạo hay hình dáng thì lo tìm cách sửa trị hoặc che đậy đi. Nhưng xưa nay chưa có ai thực hiện được hoài bão sống trường sinh như thế. Chỉ có một người hứa với chúng ta bí mật sống trường sinh và người đó đã thực hiện được. Vị đó là chính Đức Giêsu Kitô.
Bánh Sự Sống Từ Trời
Đức Giêsu đã qủa quyết với những người theo Ngài: "Ta là Bánh Hằng Sống bởi trời xuống... Ai tin vào ta thì có sự sống đời đời. Ta là bánh ban sự sống... Ai ăn bánh này thì khỏi chết, nhưng sẽ sống đời đời. Bánh ta ban là chính thịt ta để cho thế gian được sống" (Gio. 6:41-52).
Ponce de Leon đã vất vả thám hiểm tới miền đất mới để tìm giòng suối nước có sức làm trẻ trung, nhưng chẳng thấy. Hoàng đế Chin đến hòn đảo ở biển đông với vàng bạc châu báu để tìm đổi lấy bí mật trường sinh, nhưng chẳng có. Nhiều người tìm uống các dược chất để hy vọng có sức khỏe lâu bền, nhưng rồi cũng chết. Mỗi người chúng ta hôm nay cũng đến thánh đường này để nghe lời Chúa về sự sống đời đời, và để được ăn bánh trường sinh Đức Giêsu hứa ban. Chúng ta không phải vất vả trèo non lội suối hay đi đâu xa để tìm kiếm thuốc trường sinh. Chúng ta không phải bỏ tiền mua dược phẩm để được sống trường sinh. Đức Giêsu Con Thiên Chúa hằng sống, Ngài là suối nước trường sinh đang hiện diện với chúng ta nơi đây, và chúng ta có thể tiếp nhận Ngài miễn phí. Tiếp nhận Ngài là chúng ta tiếp nhận sự sống đời đời. Tiếp nhận Ngài là chúng ta được bổ sức cho tinh thần sống.
Elia Được Dưỡng Sức
Elia trong bài đọc thứ nhất, đã cảm thấy mệt mỏi và chán nản. Nhưng trong lúc buồn chán đó Thiên Thần của Chúa đã đến đánh thức ông dạy để được nuôi dưõng bằng bánh bởi trời. Ông đã nghe lời của Thiên Thần Chúa, chỗi dạy ăn bánh, và ông đã được bồi dưỡng có đủ sức tiếp tục cuộc hành trình đi về núi thánh của Thiên Chúa. Giống như Elia, nhiều lần trong cuộc hành trình đức tin, chúng ta cũng cảm thấy mệt mỏi và yếu đuối vì những cám dỗ và tội lỗi, vì những nặng nợ vất vả trần thế. Chúng ta cần lắng nghe Thánh Thần của Thiên Chúa qua Giáo Hội thức tỉnh chúng ta. Chúng ta cần chỗi dạy để nghe lời Chúa, và được bổ dưỡng bằng của ăn hằng sống là Mình và Máu Thánh Chúa để chúng ta có đủ sức cho cuộc hành trình đức tin. Chính lúc chúng ta thấy mệt mỏi vì phải thức khuya dạy sớm, làm việc nhiều giờ, vì vất vả lo lắng trong cuộc sống, là lúc chúng ta cần thức tỉnh, và chỗi dậy, để tiếp nhận của ăn hằng sống. Của ăn có khả năng nuôi dưỡng sức mạnh và bổ dưỡng tinh thần cho chúng ta trên con đường đi về núi Thánh.
Dấu Có Sự Sống
Thêm vào đó, nguyên việc tin tưởng và tiếp nhận Đức Kitô là Bánh Sự Sống từ trời chưa đủ bảo đảm cho chúng ta có sự sống đời đời trong mình. Tiếp rước Mình và Máu Đức Kitô, chúng ta cần phải trở nên giống như Ngài. Chúng ta cần phải cố gắng sống như lời khuyên dạy của Thánh Phaolô trong bài đọc 2: "Anh em hãy loại ra khỏi anh em tính gay gắt, tức giận, nóng nảy, dức lác, chửi rủa, cùng mọi thứ độc ác... Anh em hảy ăn ở hiền hậu, thương xót và tha thứ cho nhau." Thanh trang tâm hồn chúng ta bằng những nhân đức ấy; rồi biết lắng nghe lời của Thiên Chúa và thường xuyên đến thánh đường tiếp nhận Mình và Máu Chúa Kitô cách sốt sắng là chúng ta có sự sống trường sinh trong mình ngay từ bây giờ. Sự sống đó chúng ta có thể cảm nghiệm được và những người chung quanh chúng ta cũng có thể nhận thấy nơi chúng ta.
59. Lương thực trên đường lữ hành
(Suy niệm của PM. Cao Huy Hoàng)
Bánh và Nước
Từ Ai Cập về Đất Hứa, dân Chúa đã trải qua 40 năm trên hành trình sa mạc. Họ nản lòng vì nóng cháy, đói khát, vất vả. Họ muốn quay lại Ai Cập. Nhưng Thiên Chúa đã ban bánh Manna từ trời rơi xuống cho họ ăn và nước từ tảng đá hóa cương chảy ra cho họ uống.(x Đệ Nhị Luật 8, 2-3, 14b-16a).
Tiên tri Elia tìm đến núi Horeb còn gọi là Núi của Thiên Chúa để trốn thoát sự truy lùng của Vua Ai cập. Ông phải mất 40 ngày đêm đói khát trong hoang địa đến độ kiệt sức và nản chí nói “Đủ rồi đó Chúa ơi! Chúa cất mạng tôi đi”. Nhưng Thiên Chúa đã sai thiên thần mang bánh và nước đến cho ông để ông đủ sức tiến về núi Thánh (x I Rg 19:7)
Những người ăn Manna và cả Elia ăn bánh của các Thiên thần, thảy đều đã chết. Đúng như lời Chúa Giê-su nói hôm nay: “Ta là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.” (Ga 6, 58)
Thịt và Máu
Bánh và Nước của Cựu Ước là hình ảnh tiên báo Chúa sẽ ban loại Bánh và Nước mới trong Tân Ước, chính là Thịt và Máu của Chúa Giê-su, như chính Chúa đã nói: “Ta là Bánh Hằng sống từ trời xuống, ai ăn Bánh này sẽ không phải chết, nhưng được sống đời đời . Vì Bánh Ta sẽ ban chính là Thịt Ta để cho thế gian được sống” (Jn 6:51-52).
Trong bữa tiệc ly, Chúa Giê-su đã thực hiện điều Ngài đã nói trên đây, khi Ngài cầm tấm bánh, nâng chén rượu đọc lời chúc tụng và trao cho các tông đồ: “Hãy cầm lấy mà ăn, vì nầy là Mình ta, sẽ bị nộp vì các con” “Hãy cầm lấy mà uống vì nầy là Máu ta, Máu giao ước mới, giao ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội”
Ngay sau đó, Ngài còn ủy thác cho các tông đồ “Các con hãy làm việc nầy mà nhớ đến Ta”. Đó là lễ phong chức linh mục đầu tiên trong Hội Thánh Công Giáo.
Như vậy, ngay sau lời truyền phép của Linh Mục, bánh và rượu đã trở nên Thịt và Máu của Chúa Giê-su cho chúng ta ăn và uống để được sống đời đời.
Sự Sống Đời Đời
Nếu Manna đã nuôi dân tiến về Đất Hứa, thì Mình Thánh Máu Thánh Chúa là của ăn của uống cho chúng ta đủ sức tiến về quê trời, về sự sống đời đời. Sự sống đời đời ấy, chính là cung lòng yêu thương của Ba Ngôi Thiên Chúa. Ấy vậy, mà chúng ta vẫn gọi Mình Thánh Máu Thánh Chúa là “của ăn đàng”, của ăn trên đường đi. Và khi rước lấy Mình Thánh Máu Thánh Chúa, có thể nói, chúng ta rước lấy cả Ba Ngôi Thiên Chúa ngự trị trong lòng.
Nếu nhờ Bánh Thiên Thần mà Elia đã đủ sức vượt khỏi sự truy lùng của Vua Ai-cập, thì những ai yêu mến và siêng năng rước lễ cũng đủ sức thắng vượt những cơn cám dỗ, những sự truy lùng của sa tan, của tội lỗi, để xứng đáng hưởng sự sống đời đời.
Sự sống đời đời mà chúng ta nhận lãnh nơi Mình Thánh Máu Thánh Chúa Giê-su, không chỉ là sự sống sau cái chết phần xác, nhưng còn là sự sống trong linh hồn ta ngay lúc nầy, khi còn sống trên dương thế. Đó còn là sự sống đầy tình bác ái huynh đệ của con cái Thiên Chúa mà Thánh Phao-lô giải thích rằng: cùng ăn một tấm bánh, cùng uống chung ly rượu, chúng ta cùng trong một thân thể của Chúa Giê-su Kitô. “Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể”. (x.1cor 10, 16-17)
Lương thực trên đường lữ hành
Theo Thánh Phao-lô, cùng ăn một tấm bánh, cùng uống chung ly rượu, cùng sống trong một thứ “Lương Thực trền đường lữ hành về Quê Trời”, mà từ nhà đạo thường gọi là “Của Ăn Đàng”, chúng ta sống trong cùng một “thân thể”. Vậy nếu Mình Máu Thánh Chúa Giê-su đã trở nên của ăn đàng cho bạn, cho tôi, và trở nên mối dây hiệp nhất tôi bạn và mọi người trong cùng một nguồn sống, thì thiết nghĩ, bạn và tôi cũng phải trở nên “của ăn đàng” cho mọi người.
Tình yêu thương nhau, lòng bác ái, sự khiêm tốn phục vụ anh em là tấm bánh bẻ ra cho đời, là hình ảnh sự sống đời đời đang sống động trong cuộc đời dương thế
Những cố gắng hy sinh của cha mẹ đến độ gầy hư đi, hao mòn đi để bảo đảm cho con cái sự sống phần xác, chắc chắn sẽ mang một ý nghĩa thánh thiện, ý nghĩa hy tế, nếu những hy sinh ấy kết hiệp ước muốn của Chúa Giê-su là chia sẻ của ăn đàng cho nhau, chia sẻ tình yêu cho nhau.
Một chiếc bánh, một chén cháo, một tô hủ tiếu, một viên thuốc, một viên gạch, một tấm áo, một tấm chăn, một vài trăm ngàn đều… có thể có giá trị thánh thiện, và thiết tưởng, chỉ có giá trị thánh thiện khi ta cho đi với sự thôi thúc tự bên trong của Tình Yêu Chúa Giê-su Thánh Thể: Tình yêu đòi dâng hiến, đòi cho đi vì hạnh phúc của người khác.
Thánh Thể Chúa Giê-su, của ăn thiêng liêng, của ăn đàng cho linh hồn, đã cụ thể sống động thành những của ăn phần xác, thành cơm bánh, thành áo mặc, thành nhà cửa, thành thuốc men, thành những nhu cầu thiết yếu cho cuộc sống con người, thành những của lễ dâng trong thánh lễ thường ngày mà bạn và tôi đang cử hành trên hành trình dương thế.
Thánh Phaolô còn cụ thể tấm bánh bẻ ra ấy bằng một đời sống yêu thương, hiền hòa: “Anh em hãy loại ra khỏi anh em mọi thứ gay gắt, tức giận, nóng nảy, dức lác, chửi rủa, cùng mọi thứ độc ác. Anh em hãy ăn ở hiền hậu với nhau, hãy thương xót và tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô” (Ep 4, 30) và “hãy sống trong tình thương, như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta và phó Mình làm của dâng và lễ tế thơm tho ngọt ngào dâng lên Thiên Chúa vì chúng ta”. (Ep 5, 2)
Lạy Chúa Giê-su, chúng con tạ ơn Chúa đã ban Thịt và Máu Chúa cho linh hồn chúng con được sống và sống đời đời. Xin cho chúng con biết sống trước đời sống phục sinh ngay trên dương gian này bằng việc vui lòng trở nên tấm bánh bẻ ra cho mọi người được sống, bằng tình yêu thương, bác ái và hiệp nhất huynh đệ trong Chúa. Amen.
60. Đường lên Núi Chúa
(Suy niệm của Như Hạ, OP)
Đời là một cuộc hành trình lên núi Chúa. Trên bước đường trần gian, nhiều biến cố dồn dập đến với con người. Biết bao người đã không leo đến đỉnh núi … Chính vì thế, Đức Giêsu đã mạc khải con đường sáng dẫn đến nguồn sống cho toàn thể nhân loại.
Đức Giêsu đã đi vào một trần gian đầy những con người thiển cận. "Chúa họ thờ là cái bụng." (Pl 3:19) Đi từ nhu cầu cấp thiết và căn bản nhất, Đức Giêsu muốn mạc khải về chính bản thân: "Tôi là bánh từ trời xuống," (Ga 6:41) để đem lại sự sống vĩnh cửu. Quả thực, "Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời." (Ga 6:51) Nói khác, để lên "núi của Thiên Chúa," (1 V 19:8) phải có một thứ lương thực mang lại sự sống đời đời.
Chính nguồn gốc và năng lực bánh ấy đã trở thành vấn đề cho "người Do thái xầm xì phản đối," (Ga 6:41) vì họ không tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Đức tin này vượt quá nhận thức về thực tại và nguồn gốc tầm thường của Người. Dân Do thái đã từng xầm xì trước khi đón nhận nước và manna trong sa mạc (x. Xh 15:24; 16:2,7,12). "Xầm xì là một điển hình về 'lòng bất tín.'" (The New Jerome Biblical Commentary 1990:962) Những đầu óc bảo thủ không thể thoát khỏi sức chi phối của những nếp suy nghĩ và phong tục thời đại. Nói khác, đó là phản ứng của con người tự nhiên.
Rõ ràng đức tin không phải là thái độ tự nhiên. "Không phải con người, nhưng Thiên Chúa mới đóng vai tích cực nhất trong công cuộc cứu độ." (Life Application Study Bible 1991:1888) Không được Thiên Chúa giúp đỡ và soi sáng, không ai có thể tin vào Đức Giêsu Kitô. Nhờ Thánh linh thúc đẩy, con người có thể đi đến một lựa chọn quyết liệt trước ngưỡng cửa vĩnh cửu. Thánh linh là sức lôi hút của Chúa Cha. Chính Đức Giêsu quả quyết: "Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy." (Ga 6:44) Thánh Phaolô là môt trường hợp điển hình. Ông đã từng chống đối quyết liệt niềm tin vào Đức Giêsu. Thế nhưng, ông đã không chống cưỡng nổi sức lôi hút ấy khi dấn thân theo Chúa.
Trên hành trình về nhà Cha, nhiều người cũng đang bị lôi hút mãnh liệt. Trước hết, họ "được Thiên Chúa dạy dỗ"(Is 54:13; Gr 31:34) để có thể đặt tất cả niềm tin vào Đức Giêsu Kitô. Những tia nắng dọi thấu con tim đó sẽ làm bừng lên cả một mùa hồng ân. Thế nhưng, ân sủng Thiên Chúa không bao giờ là một sức mạnh giết chết tự do. Chính ở niềm tin, con người chứng tỏ mức độ tự do cao cả nhất. Thực tế, không phải cứ biết là tin. Đức Giêsu chứng minh: "Phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi." (Ga 6:45) Có nhiều người chỉ nghe những gì muốn nghe, đón nhận những gì hợp sở thích và quyền lợi riêng. Họ "thuộc về đất và nói những chuyện dưới đất." (Ga 3:31)
Trái lại, "chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha" (Ga 6:46) mới có thể mạc khải về sự sống huyền nhiệm và tình yêu sâu thẳm nơi Thiên Chúa. Đạt tới đỉnh cao ấy, con người phải trải qua một hành trình rất dài, dài hơn "cuộc hành trình lên núi Khôrếp" (1 V 19:4) của ngôn sứ Êlia trong sa mạc. Làm sao đạt tới đích, nếu không có lương thực? Thực tế, không có một thứ lương thực trần gian nào có thể giúp con người đi đến cùng đường. Kinh nghiệm lịch sử Do thái đã cho Đức Giêsu thấy: "Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc, nhưng đã chết." (Ga 6:49)
Không có bánh trường sinh là chính Đức Giêsu (Ga 6:48), làm sao lên núi Chúa? Không những "ai ăn (bánh này) thì khỏi phải chết" (Ga 6:50), mà còn "được sống muôn đời" (Ga 6:51) trong Nhà Chúa. Bởi vậy, Đức Giêsu trở thành lương thực vô cùng cần thiết. Người còn nói rõ: "Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống" (Ga 6:51) mà hoàn thành cuộc hành trình về Nhà Cha. Muốn được thế, Đức Giêsu "đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt," (Ep 5:2) và trở thành "bánh hằng sống" (Ga 6:51) bổ dưỡng muôn dân trên đường lên núi Chúa. Khác hẳn với bánh nuôi sống ngôn sứ Êlia, "bánh hằng sống" có khả năng làm cho tín hữu "sống lại trong ngày sau hết." (Ga 6:44)
Như thế "bánh hằng sống" vừa là của ăn đàng vừa giúp tín hữu đạt tới hạnh phúc sau cùng. Trên hành trình trần gian, nhờ "bánh hằng sống", người tín hữu có khả năng "bắt chước Thiên Chúa" (Ep 5:1) để "sống trong tình bác ái." (Ep 5:2) Nói khác, nhờ "bánh hằng sống", các tín hữu hiệp nhất với nhau. Thật thế, "bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể." (1 Cr 10:17)
Hiệp nhất lớn nhất tỏ lộ trong lời cầu nguyện trong Thánh thể. Thật vậy, "cầu nguyện đem lại niềm hi vọng, niềm vui và ánh sáng, nhờ chân thành cậy dựa vào Thiên Chúa và thánh ý đầy tình yêu của Người. Đây là sức mạnh lời cầu nguyện, nguyên nhân sinh ra sự sống và ơn cứu độ." (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 9/7/03) Chính lời cầu nguyện trước Thánh Thể giúp tín hữu liên kết với Chúa Cha và "có thể đón nhận tất cả tình yêu cứu độ và trọn vẹn sự sống của Người." (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 9/7/03) Không được "bánh hằng sống" ấy bổ dưỡng, không thể có sức mạnh vượt qua những cơn đau buồn và sẽ "lâm vào cảnh cô độc và chết chóc, vì Chúa là nguồn sống." (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 9/7/03) Bởi đấy, "bánh hằng sống" là một mối lợi lớn nhất giúp người lữ hành trần gian thoát khỏi cơn đói khát và đủ sức đi trọn đường lên núi Chúa.
61. Một Chúa Kitô đến trong xác thịt
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)
Trong bài Phúc Âm tuần trước, Thánh Ký Gioan cho chúng ta thấy Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho chúng ta biết ý nghĩa siêu nhiên thực sự của bánh ăn cũng như của việc ăn bánh: Bánh Sự Sống đây chính là bản thân Người, và việc ăn bánh đây, trên hết và trước hết, là tin vào Người. Tuần này, tiếp tục cùng đoạn 6 của Phúc Âm Thánh Gioan, Chúa Giêsu đã mạc khải hơn nữa về Bánh Sự Sống: “Bánh Tôi sẽ ban chính là thịt của Tôi cho thế gian được sự sống”, một lời minh định làm thính giả hết sức thắc mắc và đầy kinh hoàng, thậm chí trong cả thành phần môn đệ của Người, như bài Phúc Aâm hai tuần nữa cho thấy. Thật vậy, tất cả những điều Người mạc khải ở bài Phúc Aâm Chúa Nhật tuần trước và tuần này cũng như tuần sau đều là một mầu nhiệm, mầu nhiệm thần linh vượt tầm mức hiểu biết tự nhiên của con người, một mầu nhiệm chỉ có đức tin mới thấu triệt, một mầu nhiệm chỉ có chính Đấng mạc khải mới làm cho con người chấp nhận dù không hiểu. Đó là lý do Chúa Giêsu đã khẳng định “không ai đến được với Tôi nếu Cha Tôi không cho phép”.
Đúng thế, một đàng con người trần gian hữu hình và hữu hạn không thể nào thấu triệt được Thiên Chúa, đúng như Ngài là, nếu chính Ngài không tỏ mình Ngài ra cho họ biết. Thế nhưng, chính lúc Ngài tỏ tất cả bản thân của Ngài ra qua Con Người Giêsu Nazarét thì nhân loại, qua dân Do Thái, cũng không thể nào hiểu nổi: Làm sao Thiên Chúa có thể trở thành một con người? Thiên Chúa thực sự cần phải hóa thành nhục thể vô cùng thấp hèn hay sao? Con Người Lịch Sử Giêsu Nazarét quả thực là Thiên Chúa hay sao? Đó là lý do trong bài Phúc Aâm Chúa Nhật tuần này dân chúng đã đặt vấn đề về nguồn gốc của Đấng công khai tuyên nhận: “Tôi là bánh từ trời xuống”, ở chỗ, trước mắt họ Đấng ấy chỉ là một con người như họ, đã từng sống với họ, một con người có cha mẹ anh chị em họ hàng họ đều quen biết, thế mà họ lại nghe Người phán Người từ trời mà xuống.
Nếu trước thời điểm và biến cố Lời Nhập Thể con người tự bản chất hướng về tín ngưỡng có khuynh hướng đa thần và tôn thờ ngẫu tượng thế nào, thì sau khi “ánh sáng thật chiếu soi hết mọi người đến trong thế gian” (Jn 1:9), con người càng ngày càng bớt mê tín dị đoan, càng bớt đa thần như vậy. Tuy nhiên, sau khi “Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta” (Jn 1:14), một hiện tượng tôn giáo khác đã xuất hiện, trực tiếp liên quan đến Kitô giáo và thuộc nội bộ Kitô giáo, đó là, con người càng văn minh khoa học lại càng trở thành vô thần, lại càng trở nên thành phần phản kitô, anti-christ, tức là thành phần không chấp nhận Chúa Kitô đến trong xác thịt (x 2Jn 7; 1Jn 4:2), hay không chấp nhận Con Người Giêsu là Đức Kitô. Hiện tượng này hiện nay đã quá hiển nhiên ở thế giới Tây Phương, thế giới Kitô giáo, một thế giới đã từng truyền bá đức tin, truyền bá hạt giống Kitô giáo khắp nơi trên thế giới, nhất là vào thời kỳ tân thế giới cuối thế kỷ 16, lại là một thế giới đang phủ nhận căn tính Kitô giáo của mình, đang sống như không hề có Thiên Chúa. Họ chẳng những hạ bệ Thiên Chúa xuống, bằng cách dẹp bỏ lề luật tự nhiên và luân lý của Ngài, như việc hợp thức hóa vấn đề ly dị và phá thai, mà còn thay thế Ngài bằng các thứ ngẫu tượng hiện đại là chủ nghĩa duy nhân bản và duy thực dụng, chủ nghĩa chỉ biết pro choice theo quyền làm người vô lối của mình, chỉ biết cá nhân và hưởng thụ, như việc cho phép hôn nhân đồng tính phái và việc thực hiện các phương pháp tạo sinh ngoại nhiên (cấy thai, cloning v.v.).
Tất cả những khoản luật này hay các khoản tương tự đã không nói lên khuynh hướng con người chỉ công nhận một “Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt.16:16), chứ không chấp nhận một “Con Người” khổ nạn và tử nạn rồi mới phục sinh (xem Mtù. 20:18-19; 16:21). Tức con người thiên về khoa học thực nghiệm và kỹ thuật tiện ích ngày nay chỉ giải quyết mọi sự, bao gồm cả lãnh vực lương tâm và luân lý, căn cứ vào những cái lợi thực tế mà thôi, hễ có lợi là tốt, mà tốt thì cần phải làm và được phép làm, có quyền làm, dù có phản trái với lương tâm hay nguyên tắc luân lý phổ quát đi nữa. Chân lý của con người ngày nay là phán đoán chủ quan của họ, và sự thiện của họ là lợi lộc hiện sinh của họ. Nghĩa là con người thuộc “triều đại của Satan” ngày nay muốn thay thế Thiên Chúa trong việc “biết lành biết dữ” (Gen.3:5), tức muốn tự mình định đoạt tất cả mọi sự theo ý riêng của mình, cái gì họ nghĩ lành là lành, như ly dị, phá thai, hôn nhân đồng tính, tạo sinh ngoại nhiên v.v., nên có quyền làm; và cái gì họ cho dữ là dữ, như thai nhi tàn tật, bệnh nhân bất trị v.v., nên cần phải giết đi!
Thế nhưng, với lý luận sắc bén và thực tế như thế, nhất là lối lý luận này lại được chính quyền hợp thức hóa, được nhiều người theo như thế, làm sao Kitô hữu chúng ta có thể nhận ra những sai lầm của “triều đại Satan”, tức có thể nhận diện và điểm mặt thành phần phản kitô này, một thành phần mà Thánh Kinh Tân Ước đã nhận định “chúng từ hàng ngũ của chúng ta mà ra” (1Jn.2:19). Chính vì thành phần này, cũng Thánh Kinh Tân Ước nhận định, là thành phần “gian xảo” (2Jn.7), mà Chúa Giêsu đã cảnh giác các môn đệ trong những ngày cuối thời, “lừa đảo nhiều người” (Mt.24:5,11), thậm chí lừa đảo “cả thành phần được chọn” (Mt.24:24). Ngay thánh Phêrô, sống ở kề bên và sống ngay trước một “Đức Kitô” (Mt.16:16) thực sự, như ngài được ơn Chúa tuyên xưng (xem Mt.16:17), mà còn trở thành “Satan” (Mt.16:23), tức còn khuynh hướng phản kitô, chưa hoàn toàn công nhận Đức Giêsu Kitô đến trong xác thể, huống chi chúng ta đã sống xa Người cả gần 2000 năm, chưa hề được “nghe bằng tai, thấy bằng mắt, sờ bằng tay” (1Jn.1:1), như các tông đồ là chứng nhân tiên khởi của Kitô giáo chúng ta.
Bởi thế, căn cứ vào lời Chúa Giêsu trách cứ thánh Phêrô trong việc thánh nhân “không phán đoán theo Thiên Chúa mà chỉ theo loài người” (Mt.16:23), tức chỉ theo phán đoán tự nhiên của mình hướng về những gì tốt lành chủ quan, chứ “không chấp nhận” (Jn.1:12) mạc khải của Thiên Chúa, một mạc khải được trọn vẹn thể hiện nơi “Lời đã hóa thành nhục thể” (Jn.1:14) là Đức Giêsu Kitô đã đến trong xác thịt, chúng ta có thể kết luận để lột trần bộ mặt phản kitô nơi chính bản thân mình cũng như trong việc giao tiếp xã hội. Sau đây là 4 dấu hiệu cho thấy đâu là thành phần kitô giả hay tinh thần kitô giả, thành phần không chấp nhận Chúa Kitô đến trong xác thịt, được thể hiện hay bộc lộ qua những dấu hiệu, thứ nhất, tỏ ra không tôn phục con người đại diện Người trên trần gian; thứ hai, tỏ ra không tôn kính bí tích Thánh Thể; thứ ba, tỏ ra không tôn sùng Mẹ Maria là Vị đã thụ thai và hạ sinh Người; thứ bốn, tỏ ra không tôn trọng thành phần anh em hèn mọn của Người trong xã hội loài người, hay ghê tởm thánh giá đau khổ Chúa gửi đến cho.
Dấu hiệu thứ nhất: những ai không tuân phục quyền bính Giáo Hội và Đức Thánh Cha nói riêng, đều là phản kitô, vì Giáo Hội là thân thể của Chúa Kitô và vị đại diện của Người trên trần gian là đầu của thân thể này, không tuân phục Giáo Hội và Đức Thánh Cha là không công nhận Đức Giêsu Kitô đã đến trong xác thể.
Dấu hiệu thứ hai có thể nhận diện thành phần phản kitô là họ không tin hay coi thường Bí Tích Thánh Thể, một thực tại thần linh mà Đức Giêsu Kitô còn đang hiện diện bằng cả thần tính cũng như nhân tính của Người nói chung và Mình Máu Thánh Người nói riêng; không tin hay tôn sùng Thánh Thể là dấu chứng tỏ phản kitô, thành phần không công nhận Đức Giêsu Kitô đã đến trong xác thịt.
Dấu hiệu thứ ba cũng không kém phần vững chắc để nhận ra thành phần phản kitô là họ không nhận biết Mẹ Maria, thậm chí còn chỉ trích và chống đối việc tôn sùng Mẹ, vì như thế là họ tỏ ra cũng không công nhận Đức Giêsu Kitô đã đến trong xác thịt, tức đã được sinh ra bởi Mẹ Maria.
Dấu hiệu thứ bốn để nhận ra thành phần phản kitô là lòng thù hằn thánh giá của họ, ở chỗ không phải họ chỉ sợ hãi và tránh né thánh giá theo tính tự nhiên như mọi con người bình thường, mà còn dùng thủ đoạn bất chính để tiêu diệt thánh giá nữa, bằng cách không được như ý là ly dị, là phá thai, là giết người nhân đạo v.v.; mà thánh giá là đường lối duy nhất Lời nhập thể đã dùng để cứu rỗi nhân loại, do đó, “trở thành những kẻ thù của thánh giá Đức Kitô” (Phil.3:18) như thế tức là không công nhận Đức Giêsu Kitô đã đến trong xác thịt.
Nếu “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24) thực sự làm người nơi “Lời đã hóa thành nhục thể” (Jn 1:14), và Lời Nhập Thể thực sự là Bánh Sự Sống từ trời xuống, là Mạc Khải Thần Linh, thì quả thực, đúng như Người đã khẳng định: “Bánh Tôi sẽ ban chính là thịt Tôi cho thế gian được sống”. Vì qua xác thịt của Người, một Thánh Thể Vượt Qua, thế gian đã được cứu độ, một Giáo Hội đã được hạ sinh, một nhân loại sẽ được canh tân “trong Thần Linh và chân lý” (Jn 4:24).
62. Suy niệm của Martin Vũ Thái Hiệp, OP
HÃY ĐẾN DỰ BÀN TIỆC THÁNH, NGƯỜI SẼ BỒI DƯỠNG CHO
Kính thưa cộng đoàn!
Trình thuật Tin Mừng theo thánh Gioan hôm nay thuật lại giáo huấn của Chúa Giêsu về mầu nhiệm của Bí Tích Thánh Thể. Đây là một mầu nhiệm cao cả vượt quá trí hiểu của con người khiến dân chúng không dễ dàng đón nhận. Trước sự cứng lòng tin của họ, Đức Giêsu không nản lòng. Ngài kiên trì cắt nghĩa Thánh Kinh cho họ và trích dẫn hình ảnh bánh Manna trong Cựu Ước, để liên hệ đến Manna mới từ trời xuống là chính thịt và máu Người.
Lần mò tìm về lịch sử, theo tiếng Do Thái, từ Man-na có nguồn gốc là từ Man hu (có nghĩa là: cái gì vậy?). Vì suốt bốn mươi năm trong sa mạc, mỗi sáng Thiên Chúa cho một lớp sương phủ quanh trại. Rồi khi sương tan đi thì trên mặt hoang địa, có một thứ gì mịn màng, nho nhỏ như sương muối phủ mặt đất. Thấy thế, con cái Israel hỏi nhau: "Man hu? " Nghĩa là: "Cái gì vậy? " (x. Xh 16, 13-15). Rồi về sau dân Israel gọi bánh ấy là Man-na.
Có một nét gì đó tương đồng ở đây. Cũng thế, Bí Tích Thánh Thể là một mầu nhiệm cực linh. Hẳn rằng chúng ta sẽ chẳng hiểu cho đủ mầu nhiệm ấy nếu Thiên Chúa không mặc khải cho. Lặng quì trước Thánh Thể, chúng ta cũng đã bao lần hỏi Chúa: Man hu, cái gì vậy?
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, con biết mắt phàm làm sao thấy được mầu nhiệm thanh cao. Vậy xin Chúa vén mở bức màn che khuất mà mặc khải cho chúng con hiểu thấu Thánh Thể tình yêu của Ngài, để lòng tin của con được thêm kiên vững. Xin tỏ cho trí hiểu non nớt của con biết máu thịt thực sự của Ngài trong Thánh Thể Chúa để lòng con thêm hớn hở vui mừng mỗi khi được đón Chúa ngự vào tâm hồn.
Lại nói về dân Israel, năm xưa dân Israel than trách với ông Môsê và Aharon vì ngày nào họ cũng chỉ được ăn một thứ bánh Man-na nhàm chán. Lúc này, họ hồi tưởng và ao ước được ăn thịt, cá, rồi cọng hành cọng tỏi… ở Ai Cập dù có phải làm nô lệ trong kiếp tù đày gian khổ. (x. Ds 11,4-6)
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, nhân loại ngày nay cũng vậy. Người ta chán ngán việc đi lễ hằng ngày và chỉ được rước Thánh Thể Chúa dưới hình bánh miến đơn điệu. Lúc này, người ta lại thèm muốn những lạc thú trong cõi hồng trần giả dối, những cái hiện thực thấy được. Nếu năm xưa dân Israel muốn được ăn thịt hơn bánh Man-na Chúa ban, thì giờ đây nhân loại cũng hám danh, thèm lợi, thèm đi dự tiệc cưới, sinh nhật… hơn là đi tham dự thánh lễ và được hiệp thông trong tình yêu của Bí Tích Thánh Thể. Quả thực, trái cấm nào cũng ngọt ngào và đường dẫn đến địa ngục bao giờ cũng bằng phẳng và thênh thang.
Hôm nay, Chúa Giêsu mặc khải rằng Ngài là Bánh Trường Sinh từ trời xuống. Và ai ăn Bánh ấy sẽ được sống muôn đời. Quả thực, cái gì bởi đất mà ra thì thuộc về đất là cõi phù du tạm bợ. Ví như tiền tài, danh vọng, hay thậm chí là cả thân xác của chúng ta cũng có ngày sẽ trở về cát bụi, là nơi nó đã xuất phát ra. Trái lại, cái gì bởi trời mà ra thì thuộc về trời, là vĩnh cửu và viên mãn. Bất cứ cái gì bởi trời thì tốt đẹp.
Quả vậy, Đức Giêsu là bánh bởi trời, Ngài đã trở nên như nguồn lương thực vĩnh cửu nuôi dưỡng ta, cho ta được trường sinh và dồi dào luôn mãi. Mỗi ngày, chúng ta được Giáo hội mời gọi đến tham dự bàn tiệc thánh. Và nơi đây Giáo hội tái diễn lại việc Chúa Giêsu lập Bí Tích Thánh Thể tình yêu.
Như dân Israel năm xưa trong sa mạc khát cháy được Chúa ban Man-na cho no thỏa, thì ngày hôm nay, lòng trí khô héo cằn cỗi của chúng ta cũng được chan chứa niềm phấn khởi vui mừng nhờ được Thánh Thể Chúa nuôi dưỡng. Cảm tạ Thiên Chúa đã thương ban cho chúng con được đến dự Bàn Tiệc Thánh mỗi ngày, để hồn chúng con được no thỏa và được hạnh phúc viên mãn khi đón nhận chính thân thể thực sự của Đức Giêsu Kitô.
Lạy Chúa, xin Ngài thương thứ tha cho bao lần con hờ hững trước Thánh Thể Ngài. Xin cho con không cố hiểu để yêu, nhưng là luôn cố yêu để hiểu biết mầu nhiệm Thánh Thể hơn nữa. Xin ban cho chúng con thấy được tầm quan trọng của Bí Tích Thánh Thể và cảm nghiệm được tình yêu chan chứa của Ngài; ngõ hầu chúng con càng được rước Chúa vào lòng, chúng con lại càng thêm yêu mến và khát khao Ngài hơn.
63. Đức Giêsu là bánh hằng sống từ trời xuống - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Tại sao người Do-thái phản đối câu nói của Đức Giêsu: “Tôi là bánh từ trời xuống”. Họ đã hiểu câu đó theo nghĩa tâm linh hay vật chất? Các câu diễn tả chân lý thâm sâu trong Kinh Thánh thường phải hiểu theo nghĩa nào?
2. Phải hiểu những từ “ăn thịt”, “uống máu” Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay theo nghĩa nào? Có thể dùng thể chất với cách ăn uống thể chất để nuôi dưỡng và phát triển tâm linh không?
3. Trong đời sống Kitô hữu, phải “ăn thịt”, “uống máu” Đức Giêsu theo nghĩa tâm linh như thế nào?
Suy tư gợi ý:
1. Tiền kiến sai lầm về những thực tại siêu việt (do hiểu Kinh Thánh theo nghĩa vật chất)
Chúng ta hiện nay biết Đức Giêsu là một con người siêu việt, là thần thánh, vì Ngài là Con Thiên Chúa, cũng là Thiên Chúa. Nhưng những người Do-thái xưa lại thấy Đức Giêsu là một con người rất tầm thường, vì Ngài xuất thân từ gia đình nghèo khó, lại kém học thức… “Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống?”“ Đối với họ, và cả chúng ta nếu ở vào trường hợp của họ, thật khó mà chấp nhận Ngài là một ngôn sứ, nói gì đến chuyện chấp nhận Ngài là Con Thiên Chúa. Lý do khiến họ không chấp nhận không phải là phi lý. Theo lẽ thường, họ không chấp nhận thì hữu lý hơn là chấp nhận. Họ hiểu Thánh Kinh hoàn toàn theo nghĩa đen: một người từ trời xuống có nghĩa là một người thật sự “từ trời xuống” hiểu theo nghĩa vật chất, chứ không phải là một người sinh ra từ bụng mẹ. Họ hiểu “trời” theo nghĩa vật chất là bầu trời, không trung. Chính vì thế, họ không hiểu được chân lý thâm sâu trong câu nói ấy của Đức Giêsu. Họ không ngờ được con người từ trời xuống lại chẳng có vẻ “từ trời xuống” (theo nghĩa vật chất) một chút nào.
Những câu nói lên những chân lý quan trọng trong Thánh Kinh đều cần phải hiểu theo nghĩa tâm linh hơn theo nghĩa vật chất. Trong lịch sử, Giáo Hội Công giáo đã bị “hố” nhiều lần vì hiểu Kinh Thánh theo nghĩa vật chất, để rồi về sau phải chỉnh lại cách hiểu của mình theo nghĩa tâm linh. Chẳng hạn việc hiểu trình tự sáng tạo vũ trụ và con người trong sách Sáng thế ký, việc hiểu câu Kinh Thánh Gs 10,12 đến nỗi đi đến việc kết án Côpécnic và Galilê…
Trong bài Tin Mừng hôm nay, ta lại gặp nhiều lần từ ngữ “từ trời xuống”: có từ được áp dụng vào Đức Giêsu, có từ được áp dụng vào bánh trường sinh. Nếu trong áp dụng trước người ta hiểu theo nghĩa vật chất thì bị sai lầm, ắt trong áp dụng sau việc hiểu theo nghĩa vật chất cũng rất có thể dẫn đến sai lầm. Điều quan trọng là chúng ta phải dựa vào sự kiện, vào thực nghiệm tâm linh trong thực tế đời sống, để biết hiểu theo cách nào là đúng. Chẳng hạn hai câu: “Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết”. Chữ “chết” trong câu trước - ứng với việc ăn manna - buộc phải hiểu theo nghĩa vật chất, nghĩa là chết về thể xác. Còn chữ “chết” trong câu sau - ứng với việc ăn “bánh từ trời xuống” - buộc phải hiểu theo nghĩa tâm linh, vì không có ý nói đến cái chết thể chất, bởi chưa ai ở trần gian này thoát chết về thể chất cả, kể cả Đức Giêsu.
Tương tự, những câu trong bài Tin Mừng hôm nay như: “Tôi là bánh trường sinh”, “ai ăn thì khỏi phải chết”, “bánh hằng sống từ trời xuống”, “ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời”, “bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây”, sẽ thật là ngộ nghĩnh và phi lý nếu hiểu theo nghĩa vật chất, nhưng sẽ trở nên hữu lý và đúng với thực nghiệm tâm linh khi hiểu theo nghĩa tâm linh. Những câu này chính là những chân lý quan trọng trong Kitô giáo mà mọi Kitô hữu cần áp dụng trong đời sống tâm linh để đời sống nội tâm được nuôi dưỡng và phát triển mạnh mẽ.
2. Đức Giêsu là “bánh hằng sống từ trời xuống”
a) Cần phải hiểu câu này theo nghĩa tâm linh
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu tuyên bố: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời”. Chắc chắn, đối với chúng ta, những người Kitô hữu, lời Ngài nói ắt phải là chân lý. Và đây là một chân lý quan trọng đem lại sự sống và phát triển tâm linh cho chúng ta. Vì thế, chúng ta phải triệt để áp dụng chân lý này vào đời sống. Chắc hẳn không ai trong chúng ta hiểu câu nói này theo kiểu các yêu tinh trong truyện Tôn Ngộ Không hiểu về thịt của Đường Tăng Tam Tạng. Chúng quyết tâm bắt cho được Đường Tăng để ăn thịt, với niềm tin tưởng rằng ăn thịt ông thì sẽ được sống lâu, thậm chí sẽ không chết. Tôi nghĩ: giả như có ai giết Đức Giêsu để ăn thịt Ngài (theo kiểu các yêu tinh ăn thịt Đường Tăng) thì người ấy vẫn chết như thường, và về mặt tâm linh thì cũng chẳng được ích lợi gì. Vì câu nói “thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống” của Đức Giêsu không thể hiểu theo nghĩa vật chất. “Thịt” và “máu” ở đây không phải là thịt và máu huyết vật chất, “của ăn” và “của uống” ở đây cũng không phải là của ăn và của uống vật chất. Tất cả những từ trên đều phải hiểu theo nghĩa tâm linh. Và nếu hiểu theo nghĩa tâm linh, thì Đức Giêsu chính là lương thực đem lại sự sống và sự phát triển tâm linh thật sự.
Hiện nay, không ai có thể gặp hay tiếp xúc với Đức Giêsu bằng xương bằng thịt như các tông đồ ngày xưa cả. Nhưng Đức Giêsu vẫn luôn hiện diện thật sự trong tâm hồn ta (x. Ga 14:17.20.23.26). Sự hiện diện của Ngài hiện nay không phải là một sự hiện diện tại thế, mang tính vật chất, mà là sự hiện diện mang tính tâm linh. Điều ấy người Kitô hữu nào cũng biết và cũng tin như thế. Vấn đề còn lại mang tính thực hành là: làm sao để Ngài thật sự nuôi dưỡng và phát triển đời sống tâm linh của ta?
b) “Ăn thịt” và “uống máu” Đức Giêsu thế nào?
Trước hết phải hiểu đúng các từ “ăn” và “uống”, “thịt” và “máu” theo nghĩa tâm linh là gì. Ăn và uống vật gì là được nuôi dưỡng, được trở nên mạnh mẽ bởi chính vật ấy. Thịt và máu một người nói lên chính bản thân hay bản chất người ấy. Ăn thịt và uống máu Đức Giêsu hiểu theo nghĩa tâm linh là được bổ dưỡng, được trở nên mạnh mẽ bởi chính bản chất Đức Giêsu. Bản chất của Đức Giêsu là gì? Hiểu và thường xuyên ý thức bản chất của Đức Giêsu là gì là điều cốt yếu và hết sức quan trọng để có thể “ăn” và “uống” Ngài. Trước tiên, Ngài chính là Thiên Chúa, là thần linh. Ngoài ra, Ngài còn là nguồn sống, nguồn tình yêu, nguồn sức mạnh, nguồn trí tuệ, nguồn của tất cả mọi sự thiện hảo trên trời dưới đất. “Ăn” và “uống” Ngài chính là làm cho bản chất của Ngài thấm nhập vào bản chất của ta, làm cho ta càng ngày càng trở nên Ngài, nói cụ thể hơn là giống y như Ngài, trở nên một với Ngài. Nghĩa là ta cũng trở nên thần linh, trở nên nguồn sự sống, nguồn tình yêu, nguồn sức mạnh, nguồn trí tuệ, nguồn của tất cả mọi sự thiện hảo. Để rồi cuối cùng trở nên đúng như Ngài đã mô tả: “Ai uống nước tôi cho (“nước” ở đây chính là bản thân Ngài) sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên đem lại sự sống đời đời” (Ga 4,14). Lúc đó ta sẽ không còn khao khát một thứ gì nữa, nghĩa là được thỏa mãn mọi bề, được tràn đầy hạnh phúc, vì Ngài đã là tất cả rồi. Và mọi người sẽ thấy ở nơi ta một nguồn mạch tràn đầy sức sống, tình thương, khôn ngoan, can đảm, nghị lực… luôn luôn “vọt lên”. Nhờ đó, chẳng những chính bản thân ta tràn đầy hạnh phúc, mà ta còn làm cho tất cả những người chung quanh ta hạnh phúc bằng sự dấn thân phục vụ không mệt mỏi của ta nữa.
Tôi muốn nhắc lại điều quan trọng này là: muốn cho bản chất của Ngài thấm nhập vào bản chất của ta, tức là ta “ăn” Ngài, thì không cách gì hữu hiệu hơn là thường xuyên ý thức về bản chất của Ngài và sự hiện diện thường hằng của bản chất ấy trong bản thân ta. Ý thức thường xuyên ấy là điều kiện tối cần thiết để bản chất của Ngài dần dần thấm sang bản chất của ta. Tương tự như hai bình liền nhau, cách nhau bởi một vách xốp: nước trong bình này từ từ thấm và chảy sang bình kia. Ý thức thường xuyên ấy làm cho vách ấy trở nên xốp để nước có thể thấm và chảy qua.
Đó là cách tôi hiểu đoạn Tin Mừng trên. Tôi hoàn toàn không bài bác những cách hiểu khác. Nhưng quả thật đời sống tâm linh tôi chỉ thật sự thay đổi và khởi sắc lên từ khi tôi hiểu và áp dụng bài Tin Mừng hôm nay theo cách này. Đó là thực nghiệm tâm linh của tôi mà tôi muốn chia sẻ với mọi người, để ai muốn thì cứ thử hiểu theo cách này xem. Tôi tin tưởng và hy vọng người ấy sẽ được biến đổi.
Cầu Nguyện
Lạy Cha, Đức Giêsu đang hiện diện trong con chính là nguồn sống, nguồn tình yêu, nguồn trí tuệ, nguồn thiện hảo… vô biên của toàn thể vũ trụ. Nguồn ấy đang hiện diện trong con với tất cả năng lực của một nguồn lực vô tận. Năng lực đa dạng trong nguồn ấy sẵn sàng tràn sang bản thân con với điều kiện con ý thức được bản chất và sự hiện diện của nguồn ấy trong con. Xin cho con thường xuyên ý thức được như vậy, để càng ngày con càng trở nên giống như Ngài, cũng là giống như Cha.
64. Bánh Ban Sự Sống
(Suy niệm của Tu sĩ Nguyễn Minh Tân)
Kính thưa cộng đoàn!
Trong cuộc sống không phải lúc nào cũng êm xuôi như nước chảy một chiều; có lúc vui nhưng cũng không vắng những nổi buồn, khi thành công nhưng đôi khi thất bại, có lúc hăng say nhưng đôi khi chán trường..., phải chăng "đời là bể khổ?". Ai trong chúng ta chẳng đã một lần cảm nhận được những ngày mệt nhọc, buồn rầu chán nản? trước mặt như có một khoảng trống không, sau lưng chồng chất cả một dĩ vãng nặng nề?
Bủa vây con suốt ngày ngần ấy thứ
Dồn dập tư bề như nước bao la
Cận thân Chúa khiến lìa xa
Chung quanh bầu bạn chỉ là bóng đêm.
Đó cũng là trường hợp của nhà tiên tri E-li-a mà chúng ta vừa nghe qua bài đọc một. Ông cảm thấy cô đơn mệt mỏi, bởi vì nhìn xung quanh, ông thấy dân chúng, dân của Thiên Chúa, càng ngày càng đi sâu vào con đường tội lổi. Chỉ còn lại một mình, lẻ loi trơ trọi. Ông tự hỏi: chiến đấu, hăm dọa làm gì, khi mà Thiên Chúa cứ để cho mụ đàn bà tên là Gêzabel, vợ vua Achal làm mưa làm gió!, trong lúc buồn rầu, ông lên đường vào sa mạc, vừa đi vừa nói: "Lạy Chúa! đã đủ rồi, xin cất mạng sống con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông chúng con", mệt mỏi quá, ngồi nghỉ dưới gốc cây tùng và ngủ thiếp đi. Chúa biết, không gì làm ích cho vị tông đồ, thần kinh căng thẳng, cho bằng một giấc ngủ, và Chúa đã để cho ông có một giấc ngủ dài. Sau đó Chúa lại dọn cho một bữa ăn, nhờ bữa ăn đó mà ông có sức. Rồi Chúa dạy ông hãy đi lên núi Khô-rếp, núi thánh, nơi mà xưa kia Mô-sê đã được gặp gỡ Chúa và trở về với bộ mặt sáng chói.
Thưa cộng đoàn!
Đời sống của người tín hữu cũng là một chuyến đi lâu dài và vất vả. Câu chuyện tiên tri E-li-a là tiền ảnh một vị tông đồ khác là Phao-lô: "Anh em hãy đi, hãy chạy trong lòng mến". Trong thư gửi Ê-phê-sô mà chúng ta vừa nghe qua bài đọc hai, Ngài dạy phải bắt chước Thiên Chúa, gương mẫu của chúng ta: "Anh em hãy sống trong tình bác ái. như Đức Ki-tô đã yêu thương chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tự hương thơm ngào ngạt". Qua đây Thánh Phao-lô muốn ám chỉ rằng cuộc sống của chúng ta cũng như của Chúa Giêsu là một cuộc "đăng sơn". Vậy! anh em chúng ta hãy để lại dưới chân núi những: chua cay, gắt gỏng, nóng nảy, giận hờn, thóa mạ..., để rồi cùng nhau hít thở bầu không khí trong mát trên đỉnh cao sơn: "Anh em hãy ăn ở hiền hậu với nhau, hãy thương xót và tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Ki-tô". Tình yêu là làn gió mát, là sức mạnh để chúng ta tiến bước.
Thưa cộng đoàn!
Chắc chúng ta còn nhớ bài Tin Mừng của Chúa Nhật tuần trước, đó là phần đầu của bài giảng về Bánh Hằng Sống của Đức Giêsu; Người đã phân biệt hai thứ bánh: bánh vật chất nuôi thân xác tức là manna trong Cựu Ước, bánh thiêng liêng nuôi hồn tức Thánh Thể Chúa Ki-tô trong Tân Ước, và bài Tin Mừng hôm nay tiếp nối bài Tin Mừng Chúa Nhật vừa qua, đồng thời cũng là phần thứ hai của bài giảng về Bánh Hằng Sống. Trong phần này Chúa Giêsu nói đến việc Người ban "Mình" làm Bánh Hằng Sống và kêu gọi người ta ăn bánh đó.
"Ta là Bánh Hằng Sống từ trời xuống, ai ăn Bánh này sẽ sống đời đời"
Ở đây chúng ta thấy Chúa Giêsu đưa dần đến mầu ngiệm "bánh ban sự sống". Thế nhưng dân chúng không chịu mở tai để nghe, mở trí để hiểu. Họ cứ khư khư xoay quanh những đòi hỏi vật chất, không khác gì cha ông họ kêu trách trong sa mạc ngày xưa. Họ nói: "Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả; sao bây giờ ông ta lại nó: "Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống". Thật vậy, Bánh Hằng Sống: đây là cách ám chỉ một con người sống, vì bánh tự nó không bao giờ có sự sống. Chúa Giêsu tự xưng là Bánh Hằng Sống vì Người là Thiên Chúa hằng sống, là Đấng phục sinh luôn mãi. Vì thế, chúng ta được lôi kéo đến cùng Người thì được thông phần vào mầu nhiệm của Người và cuối cùng được dẫn đến sự sống vinh quang.
Thưa cộng đoàn!
Nguồn gốc, nhân vị, quyền năng của Chúa Giêsu là một mầu nhiệm; "Ngài bởi đâu mà đến?". Thưa: chỉ có đức tin, một ân huệ của Chúa Cha, mới có thể trả lời cho chúng ta biết. Chúa Giêsu đã bác bỏ những luận điệu quá tự nhiên ấy, Ngài còn khẳng định rằng: "Ta là đường là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Ta, nếu Cha là Đấng sai Ta không lôi kéo kẻ ấy, và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại ngày sau hết". Thật vậy, chỉ có Thiên Chúa mới có thể mạc khải cho chúng ta Chúa Giêsu. Thánh kinh là con đường dẫn chúng ta đến với con Thiên Chúa; nhất là đến tột điểm hôm nay dưới hình ảnh Ngài là Bánh Hằng Sống. Để kết thúc bài giảng Chúa đã khẳng định rõ ràng, không úp mở: "Bánh Ta ban chính là Thịt Ta, để cho thế gian được sống!".
Xin cộng đoàn nhớ điều này: Phép Thánh Thể chính là biểu hiện và cũng là sự thật, tình thương của Ngài đã hiến mình vì chúng ta dưới hình bánh rượu. Như E-li-a buồn rầu, chán nản, Chúa đã dọn cho một bữa ăn để có sức đi lên núi Chúa; thì nay Chúa cũng dọn cho chúng ta, chính Thịt và Máu của Người để bồi dưỡng linh hồn và thể xác chúng ta qua Bí Tích Thánh Thể.
Thưa cộng đoàn!
Chúa đã hiến ban Thịt mình cho thế gian được sống; vì thế chúng ta hãy quảng đại hiến ban chính cuộc sống cũng như tài năng, sức khỏe, bổn phận, vật chất..., để tạo nên sự nhẹ nhàng, thoải mái, niềm vui và hạnh phúc cho những người xung quanh chúng ta. Có một điều mà người kitô hữu không thể sao lãng đó là: chúng ta đã tin vào Chúa Giêsu, nhưng đức tin của chúng ta chỉ có sự sống khi chúng ta không có thái độ thờ ơ nguội lạnh với phép Thánh Thể, nhưng là sốt sắng và mến yêu tha thiết, vì phép Thánh Thể là nguồn ban sinh lực sự sống đời đời cho chúng ta.
65. Tôi là Bánh Ban Sự Sống
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Cũng như trong việc chữa lành người bất toại ở Ga 5, sang Ga 6, Đức Giêsu lấy sáng kiến nuôi đám đông (6,4-13). Và đám đông nhìn nhận việc nhân bánh ra lạ lùng là dấu chứng tỏ Đức Giêsu là vị ngôn sứ và vua của thời cánh chung mà dân con Israel hằng mong đợi (6,14-15). Kế đó, việc Đức Giêsu trên mặt biển sôi sục (6,16-19) và lời “Thầy đây (egô eimi, “Tôi là”)” để trấn an nhưng mang tính mạc khải cho các môn đệ đang sợ hãi (6,20; x. Xh 3,14) cho thấy thần tính của Người. Bài diễn từ kế đó cũng tập trung vào bản thân Đức Kitô (6,22-59). Trước tiên Đức Giêsu tỏ ra chính Người là “bánh ban sự sống” (6,35.48), là mạc khải của Thiên Chúa nhằm ban sự sống cho loài người, là bánh ban sự sống do Thiên Chúa Cha ban từ trời cho họ (6,32-33). Để được thứ bánh ban sự sống vĩnh cửu này, người ta phải tin vào Đức Giêsu, là Đấng Chúa Cha sai phái (6,29.35.40.47), và ăn thịt cùng uống máu Người (6,53.54.57.58).
Chính Bài diễn từ về Bánh ban sự sống có thể phân chia như sau:
1) Chuyển tiếp vào Bài Diễn từ (6,22-24);
2) Mở đầu Bài Diễn từ (6,25-34);
3) Chính Bài Diễn từ (6,35-50.51-59);
4) Phản ứng lại với Bài Diễn từ (6,60-71).
2.- Bố cục
Bản văn có thể được chia thành bốn phần:
1) Người Do Thái xầm xì (6,41-42);
2) Đức Giêsu kêu gọi tin vào Người (6,43-47);
3) Đức Giêsu mời gọi đón nhận Người là bánh trường sinh (6,48-50);
4) Bánh trường sinh chính là thịt Đức Giêsu (6,51).
3.- Vài điểm chú giải
- Tôi là (42): Kiểu nói “Tôi là” trong TM IV được liên kết với tên của Thiên Chúa (x. Xh 3,14). Trong tư tưởng Sê-mít, tên của một người cho thấy tính cách của người ấy. Như thế, khi đồng hóa chính mình với tên Thiên Chúa, Đức Giêsu mạc khải bản tính của Thiên Chúa và làm cho người ta biết Thiên Chúa. Những lời nói của Đức Giêsu thông ban ơn cứu độ của Thiên Chúa, là nguồn mạch tối hậu ban sự sống và ánh sáng cho Dân Người. Công thức “Tôi là” được sử dụng cách tuyệt đối trong 6,20; 8,24.28.58; 13,19; 18,5.6.8; đó là cách Đức Giêsu mạc khải về bản thân và uy quyền của Người. Một cách thường xuyên hơn, công thức này được sử dụng phối hợp với một ẩn dụ. Có 7 lần công thức “Tôi là” được dùng theo kiểu ẩn dụ để nói rõ rằng Đức Giêsu là một món quà Thiên Chúa ban cho loài người để có sự sống đích thực và ánh sáng, hoặc là ơn cứu độ được Thiên Chúa ban cho nhân loại (6,35; 8,12; 10,7.9; 10,11; 11,25; 14,6; 15,1).
- Ông này (42): “Cái ông này”, tính từ houtos diễn tả sự khinh thường (6,52; 7,15; 3,16).
- lôi kéo (44): Động từ helkyein với nghĩa “kéo ra ngoài, rút ra, mang ra ngoài bằng sức mạnh”, thường được dùng để chỉ việc di chuyển một khối nặng, như một chiếc thuyền, một cái xe.
- sách các ngôn sứ (45): Số phức này có lẽ là một cách tổng-quát-hóa, vì ở đây chỉ có một câu trích Is 54,13.
- thịt (51): Sarx đúng là từ ngữ dịch từ bơsar (A-ram; bâsâr, Híp-ri). Nhưng từ ngữ này không chỉ có nghĩa là “thịt” (cơ bắp…), mà cũng có thể có nghĩa là toàn thân thể và thậm chí tất cả con người, với đặc điểm là có tương quan với những người chung quanh (x. 1,14). Hy-ngữ có khả năng diễn tả tốt hơn các sắc thái này. Trong Do Thái giáo sau này, người ta chọn dịch từ Híp-ri bâsâr-thân thể bằng từ sôma, cho dù trong Tân Ước, đôi khi người ta dùng cả hai từ sarx và sôma như nhau. Nhưng đối với bí tích Thánh Thể, từ sôma đã trở thành từ cổ điển, ngoại trừ trong một vài tác phẩm sau thời các Tông Đồ, do ảnh hưởng Ga 6, các tác giả đã dùng từ sarx (chẳng hạn thánh Inhaxiô và thánh Giustinô). Phần tác giả TM IV, tại sao ông vẫn giữ lại danh từ “thịt” mặc dù đã có một từ ngữ riêng cho Bí tích Thánh Thể? Đó là vì “thịt” có nghĩa rộng hơn là sôma-thân thể; vả lại trong TM IV, sôma là cái thi hài, là thân thể chết. Làm thế nào một thi hài có thể đưa lại sự sống? Ngược lại “thịt” vừa chỉ toàn thể con người vừa chỉ thân xác, nên một danh từ hai nghĩa này rất lý tưởng để vừa gợi tới cái chết trên thập giá vừa nhắc tới Bí tích Thánh Thể.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Đến đây, bên trong đám đông, bắt đầu xuất hiện những nhân vât đặc biệt. Nhóm đầu tiên là nhóm những người Do Thái. Chẳng lẽ tất cả những người làm thành “đám đông” lại không phải là Do Thái cả sao? Thế mà bên trong đám đông, tác giả Ga lại phân biệt ra một nhóm riêng gọi là “người Do Thái”, và ngài coi đây là những người càm ràm (“xầm xì”) và không tin.
* Người Do Thái xầm xì (41-42)
Phản ứng xầm xì của người Do Thái ở đây tương tự kiểu vấn nạn dân làng Nadarét đã nêu ra cho Đức Giêsu trong TM Mc (6,1-6). Phản ứng này còn khiến chúng ta nhớ lại quãng lịch sử xa hơn ngày trước: Trong sa mạc Sinai, con cái Israel đã xầm xì để bày tỏ sự ngờ vực đối với Môsê: họ không tin vào sứ mạng của ông là do Thiên Chúa trao và khả năng của ông là cung cấp bánh và nước cho họ (Xh 16,2-3; 17,3). Vẫn đi theo chiều hướng của tổ tiên, người Do Thái hôm nay xầm xì để nói lên sự hoài nghi của họ về tư cách và khả năng của Đức Giêsu.
Họ nhắc lại hai khẳng định của Đức Giêsu (c. 41): Người là bánh và Người từ trời xuống; đặc biệt họ nhấn mạnh tới điểm thứ hai. “Cái ông này” (giọng khinh thường), ta biết rõ gốc gác, thế mà ông ta lại cho rằng mình có một sứ mạng và một xuất xứ thần linh (x. 7,27)! Quả thật, theo niềm tin dân gian Do Thái, Đấng Mêsia phải xuất hiện thình lình, mà không ai biết Người từ đâu đến. Dựa trên niềm tin này, người Do Thái nghĩ rằng họ hoàn toàn có cơ sở để bác bỏ các khẳng định của Đức Giêsu.
* Đức Giêsu kêu gọi tin vào Người (43-47)
Đức Giêsu liền can thiệp, nhưng Người không bao giờ trả lời câu hỏi về nguồn gốc của Người trên bình diện nhân loại. Đứng tại quan điểm thần học, Người cho biết “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy” (c. 44). Người được Thiên Chúa sai đến (c. 44) và Người đến từ Thiên Chúa (c. 46), do đó Người có thể cho rằng Người từ trời xuống. Nếu người Do Thái thôi xầm xì, và để cho lòng họ mở ra với hoạt động của Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lôi kéo họ đến với Đức Giêsu. Đây chính là lúc lời ngôn sứ Isaia (54,13) được thể hiện: “Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ”. Việc dạy dỗ này có một phương diện bề ngoài, theo nghĩa là nó được cụ-thể-hóa bởi chính Đức Giêsu đang đi lại giữa họ, và có một phương diện bên trong, theo nghĩa là Thiên Chúa hành động trong tim họ. Điều này cũng ứng nghiệm lời ngôn sứ Gr (31,33). Sự thôi thúc bên trong này do bởi Chúa Cha sẽ làm cho họ có khả năng tin vào Người Con và như thế có sự sống đời đời.
* Đức Giêsu mời gọi đón nhận Người là bánh trường sinh (48-50)
Các câu 48-50 là một đoạn theo cách hành văn đóng khung, vì các câu này nhắc lại phần mở của Bài diễn từ: Câu 48 cùng với c. 35 làm thành một câu đóng khung; cc. 49-50 nhắc lại các đề tài của cc. 31-33. Đám đông đã nêu ra cho Đức Giêsu gương của các tổ tiên họ đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng Đức Giêsu cho thấy rằng việc này đã không cứu được các tổ tiên họ khỏi chết. Kế đó, Người lại nhắc lại ý câu trích Kinh Thánh ở c. 31 (“Người đã cho họ ăn bánh bởi trời”), Người nói rằng bánh đến thật sự từ trời là một thứ bánh không để cho người ta phải chết.
* Bánh trường sinh chính là thịt Đức Giêsu (51)
Sau đó, Đức Giêsu chuyển sang một đề tài mới: bây giờ vấn đề không còn phải là tin vào Người để được sống đời đời nữa, mà là ăn thịt và uống máu Người (cc. 51.54). Lâu nay các tác giả vẫn coi đây là một gợi ý về Bí tích Thánh Thể, nhưng ta có thể thấy nghĩa gần là Đức Giêsu nêu bật giá trị của cái chết của Người trên thập giá. Bởi vì chính là trong tư cách Con Người mà Đức Giêsu ban sự sống đời đời và Người lại trở thành Con Người đúng vào lúc cuối đời, vào Giờ của Người. Chính vì nhắm nối dài gợi ý về cái chết trên thập giá, tác giả dùng từ “thịt” (sarx), thay vì dùng từ “thân thể” (sôma). Bởi vì ý nghĩa căn bản và cũng là từ nguồn của thịt mà Con Người sẽ ban không phải là Bí tích Thánh Thể mà là ân ban “chính mình” trong cái chết trên thập giá. Vậy tại Caphácnaum, khi nói đến “thịt để cho thế gian được sống”, là Đức Giêsu muốn nói là “bản thân Người (chịu sát tế) để cho thế gian được sống”.
+ Kết luận
Điều mà không một thứ bánh nào có thể cung cấp và không một lời hứa nào của con người có thể đạt tới, cho dù có xác tín đến đâu, Đức Giêsu có thể ban tặng. Người mạnh hơn cái chết và Người muốn đưa chúng ta đi qua bên kia cái chết. Phần chúng ta, điều này có nghĩa là chúng ta phải chạy đến với Người để có sự sống đời đời, cũng như chúng ta vẫn chạy đến với bánh trần thế, để có sự sống trần thế. Nhưng điều này cũng có nghĩa là các biên giới của cái chết đã bị đánh đổ. Cũng như trong bánh, chúng ta tìm được phương thế để tránh thoát cái chết và tiếp tục ở lại trong sự sống trần thế, thì cũng thế Đức Giêsu giúp chúng ta thắng vượt sự chết và đi vào sự sống vĩnh cửu. Vì bánh giữ cho tôi sống, tôi phải ăn bánh, chứ không chỉ nói suông về bánh; vì Đức Giêsu là bánh ban sự sống vĩnh cửu, tôi phải đón nhận Người, tin vào Người và “ăn thịt” của Người, chứ không chỉ bằng lòng với việc biết điều gì đó về Người hoặc nói về Người, dù sâu sắc.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đức Giêsu đã thật sự cho đám đông được ăn no; nhưng biến cố này không có ý nghĩa tự nó, nó quy về một thực tại khác. Sự kiện Đức Giêsu có thể ban bánh và cho no thỏa về phương diện trần thế phải chứng minh rằng Người chính là bánh ban sự sống đời đời. Ở bên Người, chúng ta không được tìm cơm bánh vật chất; trái lại chúng ta phải nhận biết Người có thể và Người muốn ban cho chúng ta điều vô cùng to lớn hơn. Điều mà chúng ta đang tìm kiếm nơi Đức Giêsu và chúng ta phải nhận được từ nơi Người, có thể được tóm trong câu này: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ” (Ga 6,35; x. 6,48.51).
2. Đức Giêsu đã ra sức soi sáng chúng ta và quy hướng sự chú ý của chúng ta vào ân ban cốt yếu của Người. Lương thực ban cho đám đông chỉ là một dấu chỉ. Chúng ta coi thường dấu chỉ này, nếu chúng ta dừng lại với các mối quan tâm tức thời và chờ đợi Người ban cho cơm bánh và sức khỏe; thật ra Người muốn ban nhiều hơn thế nữa. Khi nói “Tôi là bánh hằng sống”, Đức Giêsu đặt mình vào trong mạc khải của Thiên Chúa mà Môsê đã được thông dự vào khi được Thiên Chúa kêu gọi. Vào dịp đó, Thiên Chúa đã mạc khải tên của Ngài: “Ta là Đấng Ta là” (Xh 3,14). Thiên Chúa được xác định chủ yếu bằng sự kiện là Ngài hiện diện vì Dân Ngai. Khi tự giới thiệu mình như thế, Đức Giêsu nói rằng Thiên Chúa đang hiện diện nơi Người vì loài người và quan tâm đến chúng ta, đến đời sống chúng ta. Đức Giêsu hiện thân là hình thái mới và vĩnh viễn của sự hiện diện đầy uy lực và năng động của Thiên Chúa, không chỉ nhắm ban sự che chở và hướng dẫn, mà còn nhắm có sự hiệp thông riêng tư về sự sống. Đức Giêsu không chỉ muốn ban bánh, mà còn ban sự hiệp thông vĩnh cửu riêng tư về sự sống với Thiên Chúa.
3. Chúng ta lệ thuộc cơm bánh, để đảm bảo được sự sống của chúng ta. Không có sức lực đến từ cơm bánh, chúng ta không thể sống và làm được gì. Điều này không tùy thuộc ý chí chúng ta; nó là như thế. Do bản tính tự nhiên, chúng ta phải nhờ cơm bánh. Có cơm bánh, cũng có khả năng của cơm bánh là duy trì sự sống cho chúng ta. Nhưng đây chỉ là một khả năng giới hạn, vì cuối cùng chúng ta vẫn phải chết. Với công thức “Tôi là bánh hằng sống”, Đức Giêsu khẳng định rằng tương quan giữa bản thân Người với loài người cũng cùng một kiểu như tương quan giữa bánh và chúng ta. Đích thân Người, với tất cả những gì thuộc về Người, có thể ban cho chúng ta những gì bánh đưa lại cho chúng ta, nhưng không chỉ nhằm sự sống giới hạn, mà là sự sống vĩnh cửu vô biên.
4. Dây liên kết duy nhất đích thật với Đức Kitô là tin vào Người. Tôi tin vào Người khi tôi ký thác tất cả lòng trí tôi nơi Người, xác tín vào lời Người nói, xây dựng mọi sự dựa trên Người, nhắm mọi sự theo Người, liên kết đời tôi vào Người. Đức tin không phải là một xác tín về trí thức và một đoan chắc rằng một lời khẳng định hay một sự kiện nào đó là thật; đức tin là một thái độ chắc chắn và tin tưởng tỏ ra với Đức Giêsu, với ý thức trọn vẹn rằng Người là ai và với sự nhận biết đầy đủ về chân tính của Người. Đức tin là tương quan và dây liên kết người với người. Niềm tin vào Đức Giêsu đưa lại sự sống đời đời (6,47).
66. Chú giải mục vụ của Alain Marchabour.
Sự cứng lòng không chịu tin:
Thấy mà không tin (c. 36)
Xầm xì (c. 41)
Chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? (c. 42)
Làm sao ông ta có thể nói?
Mặc khải:
Chẳng ai đến với Tôi được nếu Chúa Cha không lôi kéo người ấy (c. 44).
Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết
Không ai thấy Chúa Cha. Chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha (c.46).
Được dẫn nhập cách trịnh trọng một lần nữa bằng “Thật, Tôi bảo thật các ông”, sự mặc khải được nhấn mạnh hơn, bằng cách tập trung vào Chúa Giêsu. Việc người Do Thái soi chiếu với bánh manna dẫn đưa bài diễn từ của Chúa Giêsu đến “Bánh bởi trời”. Cũng như người Do Thái đã lãnh nhận bánh manna làm dấu chỉ của Lời và của sự mặc khải, thì Chúa Giêsu, bánh từ trời xuống, tỏ mình như sự mặc khải chung cuộc cho loài người. Có nhiều từ được lặp lại trong phần thứ ba (cc. 47-52). Như được chứng tỏ khi đem so sánh các câu 33 và 51-52:
Bánh Thiên Chúa ban (c. 33) đó là:
Đấng từ trời xuống và đem lại sự sống cho thế gian.
Tôi là (c. 51)
Bánh từ trời xuống
Bánh Tôi sẽ ban tặng...
Là để cho thế gian được sống
Trong bối cảnh lịch sử của Chúa Giêsu thì rõ ràng diễn từ về bánh trường sinh này không thể trực tiếp chỉ Thánh Thể, không thể nào hiểu được trước khi có bữa ăn sau cùng, sự chết và sống lại của Chúa Giêsu. Như vậy đúng là sự mặc khải, tiêu biểu bằng con người Chúa Giêsu. Tuy nhiên được viết sau Phục Sinh, với những lời lẽ ghi lại cụ thể từ việc cử hành Thánh Thể, thì rõ ràng toàn bộ chương 6 là một diễn từ gợi lên cùng một lúc Đức tin và Thánh Thể trở nên nổi bật, trong khi chính đức tin vào Chúa Giêsu, Đấng mạc khải, chiếm ưu thế cho đến bấy giờ. Cựu ước sẵn sàng soi sáng lời với lương thực: Như Amôt: “Đây Thiên Chúa phán: Kìa, thời kỳ ấy là khi ta khiến lãnh thổ đói kém, không vì đói khát nước, nhưng bởi đói nghe lời Thiên Chúa” (Am 8,11). Cách nói về lương thực cũng gợi nhớ đến sự khôn ngoan trong Cựu ước: “Ai ăn vào càng đói, uống càng khát”, sự Khôn ngoan tự tán dương (Kn 24,21). Có thể xem thêm Cn 9,5.
Sự sống mà Chúa Giêsu cho là ân ban ngay lập tức và là lời hứa được sống lại trong ngày sau hết. Sự cánh chung ngay lập tức và bảo chứng sự sống đời đời được trao ban nhờ đức tin vào Chúa Giêsu.
Ân ý của biến cố Xuất hành biến hóa trong các từ được dùng để diễn tả sự đối nghịch của người Do Thái: “họ xầm xì” (ở đây nên dịch là “càu nhàu” c.41) như tổ tiên họ đã làm trong sa mạc (Xh 16,2.7; 17,3). Họ phản ứng “theo xác thịt”: làm sao “con ông Giuse” (c.42). Con Người bằng thịt bằng máu, có thể nhận mình là Con của Chúa Cha?
Thật, Tôi bảo thật các ông (cc. 47-52)
Mặc khải: (cc. 47-51)
Sự cứng lòng không chịu tin:
Người Do Thái tranh luận sôi nổi với nhau: Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được (c,52)?
Sự mặc khải tiến dần theo cách thức Sêmit, theo hình xoắn ốc được lặp lại bằng cách đào sâu suy nghĩ. Các câu 33 và 51 song song nhau: vẫn là đức tin vào Chúa Giêsu trổi vượt hơn hết, Người là Đấng cho mình là Lời của Thiên Chúa từ trời xuống. Tuy nhiên trong 51, thình lình sự chết được nhắc đến, như nguồn mạch sự sống, được xác định: “Bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống.” Từ “thịt” làm liên tưởng đến lời tựa 1,14: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm”. Chính là sự nhập thể, nhưng ở đây được diễn tả theo cách: sự chết của Chúa Giêsu như nguồn mạch sự sống cho mọi người.
Ngôi Lời đã trở nên người phàm (1,14)
Thịt đã trở nên bánh (6,51)
Có sự liên tục giữa sự nhập thể, sự chết trên thập giá và bí tích Thánh Thể. Chính trong câu này mà sự mặc khải tỏ hiện cho mọi người, cùng với nguy cơ bị từ khước: ở đây người Do Thái “tranh luận”, tím kiếm lý lẽ (“làm sao”) thay vì sẵn sàng đón nhận mầu nhiệm.
67. Chú giải của Noel Quesson.
BÁNH HẰNG SỐNG
Người Do Thái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giêsu đã nói: "Tôi là bánh từ trời xuống".
Họ nói: "ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả sao bây giờ ông ta lại nói: "Tôi từ trời xuống?”
Theo truyền thống thiêng liêng qua mọi thời đại, chúng ta có thể nghĩ rằng không có một chi tiết nào trong Thánh Kinh là vô ích hay tầm thường. Nếu những "thính giả đầu tiên" của Đức Giêsu đã "phản đối" khi họ nghe nói về “Thánh Lễ" chắc điều này phải có ý nghĩa. Không phải chỉ có ngày nay con người mới khước từ Mầu nhiệm Trung tâm của đức tin. Sự khước từ hiện nay của nhiều người trẻ cũng như người trưởng thành không phải là một chuyện mới mẻ: việc này đã bắt đầu từ thời Đức Giêsu, khi chính Người đã giảng giải và dạy giáo lý! Trước hết chúng ta hãy khiêm tốn nhận biết lời xác quyết của Đức Giêsu thật to lớn. Chúng ta nên nhìn nhận rằng người, không tin không phải là một kẻ bất bình thường. Họ sống theo "lý trí” của con người một cách hoàn toàn tự nhiên. Điều này càng nhấn mạnh đến tính cách đặc biệt của đức tin; đức tin không chỉ giới hạn vào những quan điểm hợp lý mà thôi. "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống". Đây là cao vọng chưa từng thấy của một người thợ mộc thấp bé ở làng bên cạnh, mà người ta biết rõ cha mẹ. Đức Gỉêsu đã phản ứng thế nào, hôm đó (và hôm nay) trước sự khước từ “bánh bởi trời"?
Đức Giêsu bảo họ: "Các ông đừng có xầm xì với nhau! Chẳng ai đến với Tôi được, nếu Chúa Cha, là Đấng đã sai Tôi, không lôi kéo người ấy. và Tôi, Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ".
Ngay từ đầu, Đức Giêsu đã đứng trên một bình diện khác với lý trí của con người. Đó là điều mà chúng ta thường gọi là "ân sủng" hay nói cách khác, đó là sáng kiến của Thiên Chúa. Đức Giêsu nói, cần phải có sự soi sáng bên trong của Thiên Chúa là đức tin, để thấu 'hiểu được những việc của Thiên Chúa, để "đến với Đức Gíêsu”. Chỉ có Chúa mới có thể nói về Chúa. Đấng siêu việt không phải là một thực tại nhỏ bé nằm trong tầm hiểu của bộ óc con người hay của máy móc khoa học: Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn khác, vượt cao hơn tất cả. Hãy để cho Chúa dạy bảo chúng ta. Phải đón nhận "Lời Chúa", lời từ một nơi khác đến với chúng ta.
Có lẽ chúng ta chưa nghe Đức Giêsu nói cách đầy đủ. Hỡi bạn trẻ, bạn cho rằng Thánh lễ "chẳng có gì hấp dẫn", bạn hãy ra khỏi chân trời nhỏ bé của bạn, hãy bước vào cuộc phiêu lưu. Trước tiên, Thánh lễ không bao giờ là một hiện tượng văn hóa, xã hội hay mỹ thuật. Thánh lễ là mầu nhiệm của "sự hiện diện", tiếng Hêbrơ gọi là "Shekinnar" có nghĩa là "sự cư ngụ thực sự" của Thiên Chúa siêu việt trên địa cầu của chúng ta.
Bạn tìm cái gì khi bạn đi dự lễ? Nhạc "bình ca" hay nhạc "tân thời”? Chỗ nương tựa để bạn bảo thủ cương vị của mình cách an toàn, hay hứng khởi giúp bạn dấn thân đổi mới? Những bầu khí đó không phải là vô ích. Nhưng Đức Giêsu nói với chúng ta rằng Chúa là Đấng chúng ta phải tìm kiếm. Đến với Đức Giêsu là một "hồng phúc của Thiên Chúa". Một thứ ân sủng: "Bạn hãy đưa tay ra, hỡi người anh em, hãy mở rộng bàn tay hãy đón nhận Man-na, đón nhận lời Chúa".
Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Cha, thì sẽ đến với Tôi.
Đức Giêsu có một tư tưởng rất tinh tế. Không, lao vào một cuộc tranh cãi thần học nào, không bút chiến. Người khẳng định:
- Vai trò ưu tiên của "ân sủng", một sáng kiến của Chúa mà chúng ta phải nhận lãnh.
Vai trò cốt yếu của tự do, đặc chất của con người, luôn đòi hỏi một nỗ lực. Chính Chúa Cha "lôi kéo", "dạy bảo” và "đề nghị". Nhưng con người có thể "lắng nghe" và đáp lại hay bịt kín lỗ tai và từ chối.
Chỉ có những kẻ nào ưng thuận "lắng nghe lời dạy của Chúa Cha" mới có thể bước vào mầu nhiệm "Bánh hằng sống". Nhưng ta sẽ sai lầm nếu chỉ hiểu câu nói của Đức Giêsu theo nghĩa hẹp. Vì thế Đức Giêsu đã nói: "Có một số người được Chúa Cha lôi kéo đến đón nhận ân sủng”. Người vừa nhấn mạnh: "Tất cả họ đều được Thiên Chúa dạy dỗ". Do đó sự khác biệt trong thái độ, chính là sự khác biệt trong cách lắng nghe. Về phía Chúa, ân sủng được ban cho tất cả mọi người. Nhưng về phía con người tự do, họ có thể chối từ Thiên Chúa. "Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón tiếp" (Ga 1,11).
Lạy Chúa chúng con đang chờ đón Chúa. Này, đây đôi tay chúng con đang giang rộng...
Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha.
Một cách rõ ràng, Đức Giêsu muốn mang đến cho chúng ta một cái gì khác hơn là một ý thức hệ, một thứ luân lý, mỹ thuật hay chính, trị. "Ngôi vị Thiên Chúa" đã đột nhập trong lịch sử nhân loại: Người khẳng định, Người từ Thiên Chúa mà đến, và là "Đấng duy nhất" biết rõ về Thiên Chúa. Người là sự hiện diện đích thực của Thiên Chúa trong thế giới chúng ta. Vậy chúng ta chớ ngạc nhiên khi thấy Thánh lễ thật kỳ diệu lạ lùng. Đó là nơi gặp gỡ của Đấng vô hình, của Đấng tuyệt đối, của Thiên Chúa. Đó là cuộc phiêu lưu tuyệt vời đòi phải vượt qua những quan điểm thông thường nhân loại, Thánh lễ là một "lỗ hổng"... một sự mở rộng nhiệm mầu u nới bức tường lý trí hay lý luận của chúng ta: Thánh lễ có thể đưa chúng ta vào lãnh vực rất bí ẩn của Thiên Chúa.
Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ.
Đức Giêsu không dè giữ lời nói. Người đặt hàng rào chắn rất cao. Vượt qua được khó khăn đó, để gặp gỡ Chúa, thành tích của ta thật là hiển hách. Văn sĩ Peguy nói: Bí tích Thánh Thể, Bánh hằng sống, không phải là những chuyện tầm thường ngang tầm tay chúng ta. Phải tìm kiếm vượt trên những gì hữu hình. Không ai đã thầy bao giờ. Vậy để thấy rõ hơn có lẽ chúng ta sẽ nhắm hẳn mắt lại, tránh mọi sự chia trí trong thế giới hữu hình, để tập trung vào cái vô hình.
Ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết.
Đây là những lời nói lạ kỳ, hầu như không chấp nhận được khi ta biết rằng những lời này đã được một người có vẻ như mọi người, nói lên vào một ngày kia, bên bờ một hồ nhỏ tại Ca-phác-na-um trên hành tinh chúng ta. Sự việc Thiên Chúa đột nhập trong con người, đã gây ra ngạc nhiên biết bao. Ngạc nhiên như việc "sáng tạo đầu tiên từ hư không".
Chúng ta hãy để ý thì hiện tại: "Họ có sự sống đời đời” và thì tương lai: "Tôi sẽ cho người ấy sống lại".
Tôi là bánh trường sinh.
Ở đây chúng ta gặp lại sự khẳng định mạnh mẽ của Thánh kinh, định nghĩa Thiên Chúa như là "Đấng hiện hữu YAHVEH". Đó là 4 chữ không xóa nhòa được, chỉ có 4 phụ âm (vì tiếng Hêbrơ chỉ viết có phụ âm) mà không một người Do Thái nào dám đọc 4 chữ này, người Do Thái thay thế 4 chữ này bằng Adonai, (Đức Chúa). Còn Chúa Giêsu thì dám nói: "Tôi hiện hữu”, "Tôi là Bánh hằng sống".
Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là Bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời.
Ở đây chỉ đặt vấn đề "sự sống". Sau khi đã nói về “Bánh ban sự sống" (o artos tès zoès) bây giờ Đức Giêsu nói về "Bánh hằng sống" (o artos ozôn). Cuốn sách đầu tiên của Bộ Kinh Thánh (Sáng Thế 3,22) khẳng định con người (‘Ađam’ trong tiếng Hêbrơ) đã được tạo nên để sống vĩnh cửu do "cây hằng sống" mà con người có thể ăn những trái thần thiêng của cây này. Và cuốn sách mạc khải cuối cùng (Khải Huyền) khẳng định khi việc sáng tạo chấm dứt, sẽ không có sự chết nữa. "Ta sẽ cho kẻ chiến thắng ăn cây hằng sống trong vườn của Thiên Chúa". Đó là sự lặp lại và là sự thành công trong chương trình ban đầu của Thiên Chúa.
Do đó Chúa Giêsu đã khẳng định với những nông dân Galilê thời xưa, cũng như với chúng ta ngày nay rằng, sự “bất tử", sự sống không chết "này nhờ đức tin" đã được ban cho những người, không còn phải ăn "cây hằng sống”, nữa mà là "bánh hằng sống": Là chính Đức Giêsu. Ta có thể thắc mắc, những kẻ rước Mình Thánh Đức Giêsu cũng đã chết như mọi người? Nhưng rõ ràng ta không còn ở trong phạm vi nhân loại nữa nghĩa là trong lãnh vực các sự vật “hữu hình": Không ai đã thấy cái "vô hình” không ai có thể chứng minh là không có một "sự sống" vô hình. Điều đó không thuộc lãnh vực "lý trí". Nhưng tại sao chúng ta không để cho "Chúa Cha dạy bảo"? Tại sao chúng ta lại không tin Người?
Từ chối sự "dâng hiến" siêu việt này, là đánh mất ngay từ bây giờ sự sống vô hình, là tự phó mình cho hư không, cho tính hữu hạn thuộc bản chất tự nhiên của con người: "Cái gì bởi xác thịt mà sinh ra thì là xác thịt" (Ga 3,6). Tại sao Thiên Chúa lại không can thiệp để "ban cho" chúng ta sự sống, tuyệt đối vĩnh cửu của Người?
Lạy Chúa này đây tay chúng con đang giơ cao để đón nhận hồng ân đó.
Và bánh Tôi sẽ ban tặng chính là thịt Tôi để cho thế gian được sống.
An sủng của Thiên Chúa, tự nó là vô hình, nhưng đã trở nên hữu hình trong Chúa Giêsu Kitô. Tinh yêu của Thiên Chúa, phi thường, nhưng ẩn dấu, đã tự tỏ lộ ra và trở nên "cảm thấy được"; đó là Chúa Giêsu bị đóng đinh, là Thịt và Máu của Người đã được hiến tế. Ngôi Lời Thiên Chúa đã không chỉ nói với chúng ta bằng lời mà còn bằng hành động: "Trao hiến thịt mình, phó nộp thân mình, đó là dấu chỉ tình yêu trọn vẹn.
Chúng ta hãy đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa đang ban Thịt Máu Người cho chúng ta và trở nên sự sống cho chúng ta.
68. Chú giải của Fiches Dominicales.
BÁNH HẰNG SỐNG TỪ TRỜI XUỐNG
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Bỏ qua “những lời sầm xì phản đối”
Hôm nay chúng ta vẫn tiếp tục tìm hiểu bài 'diễn từ về Bánh hằng sống" đã khởi sự được đọc từ Chúa nhật trước. Đức Giêsu vừa long trọng khẳng định: "Tôi là bánh từ trời xuống”. Manna là của ăn tạm bợ, mau hư nát phải gợi lên cho con cái lsrael một cơn đói khác: đói Lời Chúa, một thứ lương thực duy nhất có khả năng làm cho lòng người được no đầy phỉ chí. Còn trổi vượt hơn manna kỳ diệu, Đức Giêsu tự xưng là "Bánh Trường sinh là mạc khải quyết định, nên nghe Người là được mời dùng bữa, hấp thụ lời Người trở thành lương thực đem lại kết quả là sự sống. Chúa nói tiếp: "Ai đến với tôi không hề phải đói, ai tin vào tôi chẳng khát bao giờ”.
Lời tuyên bố này vì có tính cách thúc ép họ phải xác định lập trường đối với Đức Giêsu, nên khiến cho quan hệ đôi bên trở nên tồi tệ: từ ngộ nhận này đến ngộ nhận khác đánh dấu hồi đầu của cuộc đối thoại, người ta đi tới thái độ không hiểu và chống đối.
Những điềm báo trước sự đổ vỡ này được Tin Mừng Gioan mô tả trong ba nét sau:
- Trước tiên đã có sự thay đổi từ vựng. Trước đây, thánh sử dùng những từ "đám đông" hoặc "dân chúng" để chỉ đám người Galilê. Chúa nói: Từ nay, Ngài sẽ nói là những người Do Thái, hiểu nơi này trong Tin Mừng Gioan không có ý chỉ dân Do Thái chút nào, mà được hiểu là những chức sắc tôn giáo ở Giêrusalem, họ là những người đã có lập trường chống đối Đức Giêsu. Kiểu nói đó, hiểu rộng ra cũng ám chỉ tất cả những kẻ đã từ chối tiếp nhận Chúa.
Thứ đến là việc lặp đi lặp lại hai động từ "xầm xì phăn đối" để nêu bật những phản ứng tiêu cực trong bụng dạ họ thay cho những thỉnh cầu tỏ tường và trực tiếp lúc ban đầu. Những động từ này rõ ràng mang âm hưởng Kinh Thánh vì gợi cho người ta nhớ đến thái độ phản loạn của con cái Israel trong hành trình ở sa mạc. X. Léon-dufour giải thích: "Trung thành với câu chuyện về manna trong sa mạc được làm nên cho cả chương sách, thánh sử với những thính giả của Đức Giêsu lúc này như thế hệ của những người trong sa mạc xưa: "họ xì xầm, phản đối”, những khác nào cha ông họ xưa tỏ ra cứng đầu cứng cổ, bị cơn đói dày vò, đã buông lời kêu trách ông Môsê vì đã dẫn đưa họ ra khỏi đất Ai Cập. Mối liên hệ giữa hai bản văn là sự thiếu lòng tin (...) Trong sa mạc khi những người Do Thái xì xầm phăn đối ông Môsê, ông đã trả lời rằng không phải họ đã phản đối ông, mà chính là đã phản đối Đức Giavê vậy". Có thể là Gioan thích dùng động từ "xì xầm phản đối" hơn bất cứ động từ nào khác, vì từ ấy thích hợp hơn để gợi ý rằng từ chối tin vào Đức Giêsu chính là từ chối đi theo chương trình của chính Thiên Chúa vậy. Ở 6,35-40, Đức Giêsu đã nhấn mạnh đến việc Người được “Chúa Cha sai đến và người hoàn toàn làm trọn ý Cha Người" ("Lecture de l'evangile selon Jean"; cuốn 11, trang 152).
Sau cùng có vấn nạn gay gắt họ đưa ra: "Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả. Sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống”. Họ nghĩ bụng: "Quả thực, có thể nhìn nhận cái gốc gác thần linh ông ta đòi, nơi một kẻ mà người ta biết rõ cả gia đình, nghề nghiệp và địa vị xã hội được chăng?”
2. Tiếp đến lòng tin vào Đức Giêsu, Đấng Thiên Chúa sai đến.
Không những không nhẹ giọng, Đức Giêsu còn lên tiếng mạnh mẽ quả quyết rằng Người từ Thiên Chúa mà đến, rằng chỉ mình Người đã thấy Chúa Cha. Tin Đức Kitô là tuyên xưng Người có nguồn gốc từ trời, không căn cứ vào những vẻ bề ngoài, không nệ vào những gì ta biết được về liên hệ gia đình và xã hội của Người. Tin chính là khởi đi từ dấu chỉ để học cho biết nhận ra và hết lòng tin cậy vào Đấng Chúa Cha sai đến. Và đó hẳn không phải là chuyện con người một mình tiến hành; chỉ những ai được Chúa Cha lôi kéo mới đến được với Đức Kitô thôi: "Chẳng ai đến với tôi được, nếu không được Chúa Cha, là Đấng đã sai tôi, lôi kéo người ấy”.
Dựa vào những lời hứa và hình ảnh tiên báo của Cựu Ước, Đức Giêsu liền tuyên bố rằng những lời hứa và hình ảnh ấy nay đang ứng nghiệm nơi bản thân Người.
Vị ngôn sứ xưa đã loan báo rằng Thiên Chúa sẽ tỏ mình ra cho toàn thể dân Người: "Mọi người sẽ được chính Thiên Chúa dạy dỗ" (ls 54,13 và 11,8 hoặc Giê 31,34). Chính bây giờ là lúc Đức Giêsu khẳng định - lời hứa ấy được ứng nghiệm. Người còn nói với họ: Chính bây giờ là lúc Chúa Cha kêu gọi các ông và lôi kéo các ông đấy, bởi lẽ lời dạy dỗ của Tôi là lời dạy dỗ của Chúa Cha; người mà các ông chỉ muốn coi là "con ông Giuse" chính là mạc khải trọn vẹn của Thiên Chúa đã được các ngôn sứ loan báo trước.
Manna, lương thực lạ lùng đấy, nhưng tạm bợ, đã không thể giữ cho lớp người ở sa mạc khỏi phải chết. Còn Đức Giêsu, vì Người bởi Thiên Chúa mà đến, mới thực là "bánh hằng sống”, bánh đem lại phúc trường sinh: "Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, ai ăn thì khỏi phải chết”.
Ở câu 51: "Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây để cho thế gian được sống”, Đức Giêsu loan báo cái chết của Người là ân huệ, một ân huệ nguồn sống. Đây là câu chuyển tiếp sang phần hai của "Diễn từ về Bánh hằng sống" chúng ta sẽ đọc vào Chúa nhật tới.
A.Marchadour muốn lưu ý ta rằng: "Trong bối cảnh lịch sử rõ ràng là bài diễn từ về bánh hằng sống này không thể trực tiếp ngụ ý nói về bí tích Thánh Thể, càng không thể hiểu được là bữa ăn sau hết, cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu. Vậy ta nên coi đây là mặc khải về chính bản thân con người Đức Giêsu. Nhưng vì được viết sau Phục sinh, cùng với những từ ngữ mang âm sắc mạnh mẽ của việc cử hành Thánh Thể, thì rõ ràng là toàn bộ chương 6 là một bài diễn từ gợi lại cùng một lúc lòng tin và bí tích Thánh Thể với một tỉ lệ đảo ngược: từ câu 51-52 trở đi, nốt chủ âm là bí tích Thánh Thể (51/71), còn từ đầu chương cho đến câu 51, thì lòng tin vào Đức Giêsu Đấng Mạc Khải chính là nốt chủ âm thứ nhất (1/51) vậy. (Sđd, trang 107)
BÀI ĐỌC THÊM
1. "Sâu thẳm lòng tin"
(Đức Cha L.Daloz, trong ‘Nous avons vu sa Gloire’, Desclée de Brouwer, trang 85-86).
Những lời Chúa nói gây nên trong đám đông một cuộc tranh luận sôi nổi. Như Cộng đồng Israel trong sa mạc, vì sợ chết đói, nên đã xầm xì phản đối hai ông Môsê và Aaron thế nào, thì những người Do Thái, như Tin Mừng cho biết, cũng bắt đầu xầm xì phản đối Đức Giêsu như vậy. Lời quả quyết của Người có vẻ lố bịch: ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta chúng ta đều biết cả. Vấn đề nhân tính của Đức Giêsu được họ đặt ra rất gay gắt. Con người này, người ta biết rõ gia đình của ông, thế mà ông ấy lại quả quyết mình từ trời xuống! Đó là cái nút thắt của mầu nhiệm mà sau này các Công đồng và các nhà thần học sẽ cố gắng tập trung nghiên cứu, mầu nhiệm Nhập Thể của Ngôi Con vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật. Vào thời điểm Tin Mừng Gioan được viết ra, các tín hữu đã suy niệm mầu nhiệm này rồi, nên không lạ gì mầu nhiệm ấy đã được trình bày cho chúng ta một cách khá rõ ràng.
Đây là một vấn đề luôn có tính thời sự. Cả chúng ta cũng phải đối diện với mầu nhiệm này nữa, nếu ta muốn tiếp nhận Đức Giêsu đúng như chân tính của Người: vừa gần gũi vừa khiến ta ngỡ ngàng, vừa dễ hiểu vừa nhiệm mầu. Để được như vậy, thì ta cần phải để cho Chúa Cha lôi kéo, để Người nói với con tim ta: “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi không lôi kéo người ấy”. Đức Giêsu vừa rất gần gũi, rất người, mà cũng xa cách biết bao. Để nhận biết Người cho đúng, ta phải "đến với Người”. Trong con người Giêsu ấy mà ta tưởng là đã nắm được lý lịch, ta sẽ khám phá ra Đấng đã thấy Chúa Cha, Đấng có quyền cho mọi người sống lại trong ngày sau hết. Đức tin ngay từ bây giờ đưa ta đi vào cuộc sống đời đời: "Thật, tôi bảo thật các ông ai tin thì được sự sống đời đời”. Đây chính là một giai đoạn mà ta phải quyết định. Đằng sau vẻ ồ ạt bên ngoài của đám đông theo Đức Giêsu vì Người đã thỏa mãn nhu cầu cơm bánh của họ, đằng sau ngay cả vẻ tán đồng của các môn đệ vì đã nhìn thấy qua các dấu chỉ của Người, vinh quang Chúa tỏ hiện, thì bước sau cùng tiến đến lòng tin vẫn là ngoan ngoãn để Chúa Cha lôi kéo. Những con mắt thịt của ta chỉ có thể trông thấy những cái bên ngoài; còn trực giác của ta chỉ có thể làm cho ta cảm nghiệm được mầu nhiệm. Việc tuyên xưng niềm tiến chỉ nảy ra trong lòng và tràn trên môi miệng ta nấu Thiên Chúa rọi sáng cho con mắt tâm hồn của ta và ta được ánh sáng hướng dẫn. Ta có lòng tin sâu thẳm khi trong mật thiết sâu xa và huyền nhiệm Chúa đến gần gũi ta và ta tự do dâng hiến toàn thân và dấn thân cho Người
2. “Chúng ta có tránh khỏi sầm xì không”.
(H.Vulliez, trong "Dieu si proche, Năm B", Desclée de Brouwer, tr. 137).
Khi những tiếng xầm xì, nhỏ to nổi lên từ một đám đông, thật đáng buồn. Những lời xầm xì nham hiểm, tệ hơn những lời phản đối mạnh mẽ! Không có gì đáng sợ và có sức phá hoại hơn thái độ khinh thị ngạo mạn này. Khi lang thang trong sa mạc, dân Do Thái đã luyến tiếc "những củ hành và miếng thịt" của Ai Cập mà quên đi kiếp nô lệ phũ phàng đã phải chịu. Họ bắt đầu xầm xì phản đối ông Môsê và Aaron.
Thực ra chính là họ đứng lên chống lại chính Thiên Chúa. Trong cả bộ Kinh Thánh, từ "xầm xì phản đối" đều có một ý nghĩa đạo đức nhất định. Đó sẽ là sự biểu lộ thái độ ngoan cố chối từ kế hoạch Chúa muốn cho con người. Như ta thấy biểu lộ trong phần đầu chương 6, Tin Mừng Gioan: những người lãnh đạo Do Thái giáo chối từ "bánh hằng sống”. Xa hơn (Ga 6,61) ta thấy thái độ chối từ của chính các môn đệ. Những lời xầm xì thường là thái độ chối từ chưa dám đem niêm yết công khai vậy.
Liệu chúng ta có tránh khỏi thái độ xầm xì không?
69. Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Làm sao bấy giờ ông ấy dám bảo: Ta đã từ trời mà xuống?"
Điều Chúa Giêsu vừa nói về nguồn gốc thiên giới của Người xem ra quá phóng đại. Làm sao một kẻ mà thiên hạ biết rõ họ hàng lại dám gán cho mình một nguồn gốc thiên giới. Những ý nghĩ này giúp chúng ta biết các dư luận phổ biến lúc ấy về Chúa Giêsu. Dĩ nhiên đây không phải là quan niệm của thánh sử và người ta cũng chẳng lấy được gì từ đó để chống lại tín điều về sự sinh hạ đồng trinh của Chúa Giêsu. Và cũng không có gì cho phép giả thiết là thánh Giuse lúc đó còn sống. Gioan chẳng nói đến điều đó bao giờ. Có lẽ là thánh Giuse đã chết trước khi Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đời công khai.
"Các ngươi đừng kêu ca với nhau tranh luận chỉ tổ vô ích; chỉ có hoạt động của Chúa Cha mới hướng dẫn những kẻ tin Ngài đến với Đấng có mặc khải viên mãn (3,21). "Đấng ấy đã thấy Chúa Cha” (xem 1,18).
Với câu này, Gioan loại trừ mọi lối giải thích sai lạc có thể có về câu trích dẫn (16,45 chết thảy chúng sẽ là môn sinh của Thiên Chúa), chính nhờ Chúa Giêsu, Đấng duy nhất biết Chúa Cha cách trực tiếp và hoàn toàn, mà lời hứa trên sẽ được thực hiện.
KẾT LUẬN
Khi nói về thịt (sarx) Người sẽ bị nộp để ban sự sống cho thế gian, rồi xa hơn về máu Người, Chúa Giêsu mặc nhiên loan báo Người sắp bị sát tế thành hy lễ, và các tín hữu của Người sẽ có thể tham dự vào hy tế ấy bằng cách ăn thịt của Tế vật, hầu nhờ đó lãnh nhận sự sống thần linh. Việc thịt Người sẽ trở nên phong phú sự sống và việc Chúa Giêsu sẽ đích thân trao ban nó, rõ rệt bao hàm điều này là: qua cái chết hy tế, Người sẽ tìm lại sự sống bằng sự Phục sinh. Khi để thịt Người, thân xác Người (và đồng thời cả bản thân vinh hiển Người) dưới hình thức bánh để các kẻ tin Người ăn uống, Chúa Giêsu một ngày nào đó sẽ cho thấy rõ ràng Người thật là bánh bởi trời, của ăn thiêng liêng cho nhân loại.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu nhiều lần nói “Ta là": "Ta là" ánh sáng, mục tử tốt lành, cửa chiên, sự sống lại và sự sống, đường, sự thật và sự sống, cây nho thật. Dưới mắt người Do thái, các danh xưng này có giá trị như những hồng ân của Thiên Chúa. Chúa Giêsu quả quyết Người chính là ân huệ thực sự và chung quyết của Thiên Chúa hôm nay.
2. Khi phán bảo: "Bánh sự sống chính là Ta", Chúa Giêsu biết rằng Người sẽ gây ra thắc mắc, sự cứng tin và cả thái độ công phẫn. Thật vậy, cách nói "Ta là" lúc bàn về sự sống, ánh sáng... gợi lên trong não trạng của các thính giả Người một ý niệm về tuyệt đối. Thiên Chúa mới có quyền bảo "Ta là”. Con người chỉ có thể nói: Tôi là kẻ này người nọ, nhưng không được bảo: Ta là bánh, là ánh sáng, là chân lý, là sự sống. Thế mà Chúa Giêsu đã làm vậy. Một xác quyết ntlư thế gây nên sự công phẫn hay đức tin. Chúng ta may mắn thuộc về những kẻ đáp lại bằng đức tin.
3. Diễn từ bánh sự sống thu hút chúng ta nhờ những lời quả quyết mạnh mẽ và đồng thời để chúng ta phân vân trước nỗi cô đơn mà Chúa Giêsu tạo ra quanh người qua những xác quyết đó. Ta tự hỏi tính cách đích thực của cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu với người Do thái đã là gì. Một điều chắc chắn là người Do thái không thể nâng mình lên bình diện mà Chúa Giêsu đang ở và từ đó Người đang nói. Chúa Giêsu đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Người Do thái lưu ý tới Người lập tức, nhưng không phải để theo vị sứ giả của Thiên Chúa, mà là để hắt lây Người hầu thỏa mãn những khát vọng trần tục của họ. Khuynh hướng sâu xa của họ ngược lại với khuynh hướng Chúa Giêsu. Họ muốn kéo Chúa Giêsu vào trong lãnh vực thế trần với họ; còn Chúa Giêsu. Người cố gắng đỡ nâng họ lên bình diện của Thiên Chúa. Trong vấn đề này, Chúa Kitô không có ngoại giao. Người xác quyết mình là ai, cho dù người Do thái chỉ muốn thấy trong người kẻ mà họ biết rõ cả cha lẫn mẹ.
4. Như tổ tiên của họ ngày xưa trong sa mạc, người Do thái kêu ca phàn nàn. Đây là một thái độ phức tạp, nhưng chủ yếu phát xuất từ một sự từ chối không tin, một sự bất lực đương đầu với số mệnh, và từ một nhu cầu muốn an thân này đó. Đấy là phản ứng hết sức nhân loại. Chúng ta chấp nhận đi theo Thiên Chúa bao lâu Ngài còn phục vụ hạnh phúc chúng ta, còn phục vụ quan niệm hạnh phúc của chúng ta; nhưng khi Ngài hay Giêsu, Đấng Ngài sai đến, muốn cắt đứt chúng ta khỏi những cái hiển nhiên thường nhật, khỏi lòng ham muốn tiện nghi và thỏa mãn của chúng ta, thì chúng ta chống chọi, phản kháng. Bấy giờ các "dấu chỉ" Thiên Chúa đã thực hiện trong đời chúng ta không còn giá trị gì nữa; chúng ta làm như chẳng có gì đã xảy ra; chúng ta dấy nẩy và trở lại dùng ân huệ của Thiên Chúa để chống lại Ngài (x. Ds 11,4-6), chúng ta gây gổ với Ngài và bịa ra nhiều cớ để khỏi tin; chúng ta quả là những người có tà ý.
5. "Không ai có thể đến với Ta, nếu Cha, Đấng đã sai Ta, không lôi kéo nó". Phải hiểu cho đúng lời này của Chúa Giêsu. Nó chẳng có nghĩa là Thiên Chúa chỉ lôi kéo một số người và bỏ rơi những kẻ khác. Thiên Chúa muốn cứu rỗi tất cả mọi người. Ngài không chọn lựa cách tiên thiên, ngay từ đầu, một phần nhân loại để cứu rỗi và bỏ rơi phần khác. Ngài đặt trong lòng mỗi con người một bản năng quy hướng họ về định mệnh hạnh phúc mà vì đó họ được tạo ra. Bản năng thiêng liêng này có nhiều hình thái và chỉ mình Thiên Chúa biết lúc nào nó thức dậy trong tâm thức mỗi người. Hãy nhớ rằng mỗi một con người, cho dù chỉ hiện hữu trong chốc lát thôi, cũng được kêu gọi để trở thành con Thiên Chúa.
6. "Phàm ai nghe và học nơi Cha thì sẽ đến với Ta”. Hãy lưu ý: Chúa Giêsu không nói ở thì quá khứ mà là hiện tại. Không phải đã nghe lời giáo huấn của Cha, đã được Ngài giảng dạy và đã đến với Chúa Giêsu, thì sau đó đạt mục đích. Đây là một thực tại hiện tại mà ta phải củng cố gia tăng thêm không ngừng. Mỗi ngày cần phải đặt mình vào tình trạng lắng nghe giáo huấn của Chúa Cha, học hỏi Ngài và đến với Chúa Giêsu. việc Chúa Giêsu đến trong cuộc sống của chúng ta là một thực tại luôn luôn tác động bên trong chúng ta không ngừng không dứt. Cũng vậy, việc chúng ta tiến về Chúa Giêsu việc chúng ta tin vào Người và gắn bó với Người, cũng là một sự tiến triển sống động ngày càng hơn. Tìm đâu năng lực nội tại để luôn tiến về Chúa Giêsu Kitô như thế? Tìm trong bánh sự sống, Thánh Thể.
70. Chú giải của William Barclay.
SỰ THẤT BẠI CỦA NGƯỜI DO THÁI
Điểm quan trọng ở đây là các lý do khiến người Do Thái chối bỏ Chúa Giêsu, mà chối bỏ Ngài là họ chối bỏ cả sự sống đời đời.
1. Họ xét theo các giá trị của loài người và theo các tiêu chuẩn bên ngoài.
Họ phản ứng trước lời tự xưng của Chúa, nêu ra sự kiện Ngài là con nhà thợ mộc, họ biết Ngài sống ở Nadaret. Làm sao họ hiểu được một người thợ mộc tầm thuờng lại có thể trở thành một sứ giả đặc biệt của Thiên Chúa được. Họ chối bỏ Chúa Giêsu vì đã xem xét Ngài bằng các giá trị của loài người, của xã hội và bằng tiêu chuẩn thế gian.
T.E.Lawrence là bạn thân của thi sĩ Thomas Hardy. Thời gian ông phục vụ trong Không Lực Hoàng Gia Anh với tư cách thợ máy, ông vẫn mặc thường mặc quân phục thợ máy khi đến thăm vợ chồng Hardy. Một lần tại nhà thi sĩ, ông gặp bà Thị Trưởng Dorchester. Không biết anh thợ máy cùng có mặt hôm ấy là ai, bà tỏ vẻ khó chịu quay sang bà Hardy, nói bằng tiếng Pháp, bà than phiền, “Từ thuở cha sinh mẹ đẻ đến nay, tôi chưa hề ngồi uống trà với một tên lính quèn như thế này”. Không ai nói năng gì. Một lúc sau, Lawrence nói với bà bằng tiếng Pháp “Xin lỗi bà, tôi có thể là thông dịch viên cho bà, vì bà Hardy không biết tiếng Pháp”. Một mệnh phụ phu nhân rởm đời và bất nhã đã nhầm lẫn tai hại chỉ vì xét người theo bề ngoài, theo tiêu chuẩn xã hội. Đó cũng là nhầm lẫn của dân Do Thái đối với Chúa Giêsu. Chúng ta phải thận trọng, đừng bao giờ xem thường một sứ điệp của Thiên Chúa vì chúng ta khinh dể hay chẳng đếm xỉa gì đến vị sứ giả. Không ai từ chối tấm ngân phiếu 1.000 Anh kim, chỉ vì nó được bỏ vào một phong bì không phù hợp với tiêu chuẩn về giấy tờ của hạng người quý phái. Thiên Chúa có nhiều sứ giả khác nhau. Sứ điệp quan trọng nhất của Ngài đến từ một người thợ mộc xứ Galilê, mà cũng chính vì thế nên người Do Thái đã xem thường.
2. Người Do Thái than phiền và cãi nhau. Họ mải lý luận và bị lôi cuốn vào đó, đến nỗi chẳng để ý đến quyết định của Thiên Chúa.
Họ nóng nảy muốn cho ai nấy biết họ nghĩ gì về vấn đề ấy, nhưng chẳng cần biết Thiên Chúa đã nghĩ gì. Trong một hội nghị hay hội đồng, khi ai nấy đều muốn bắt buộc người bên cạnh phải chấp nhận ý kiến của mình, tốt hơn hết chúng ta nên yên lặng cầu xin Thiên Chúa xem Ngài nghĩ gì và muốn chúng ta làm gì. Dù chúng ta có nghĩ gì đi nữa cũng chẳng quan trọng, những gì Thiên Chúa nghĩ mới thật quan trọng, vậy mà chúng ta lại rất ít chịu khó để tìm biết Ngài nghĩ gì!
3. Người Do Thái lắng nghe, nhưng không chịu học hỏi.
Có nhiều cách nghe: có lối nghe của nhà phê bình, lối nghe của người thù ghét, lối nghe của cấp trên, có lối nghe dửng dưng, lối nghe của người đành chịu vì chưa có cơ hội để nói. Cách nghe thích hợp duy nhất là lắng nghe để học hỏi, không có cách nào khác hơn để được nghe Thiên Chúa.
4. Người Do Thái chống lại sự lôi kéo của Thiên Chúa.
Chỉ những người được Thiên Chúa kéo lại với Chúa Giêsu mới tiếp nhận Ngài. Từ mà Gioan dùng mô tả động tác kéo rất thú vị, đó là chữ được dùng trong bản dịch Do Thái sang Hy Lạp. Khi Giêrêmia nghe tiếng Thiên Chúa phán: “Ta đã lấy sự nhân từ mà kéo ngươi đến” (Gr 31,3), nhưng điều thú vị trong từ này (Belkuein) là có ý nói về một sức kháng cự. Đó là chữ dùng mô tả sự “kéo một tay lưới nặng vào bờ hồ” (Ga 21,6.11). Đó cũng là chữ dùng chỉ việc Phaolô và Sila bị kéo đến các quan tòa tại Philipphê (Cv 16,19). Đó cũng là chữ chỉ việc rút gươm ra khỏi dây thắt lưng hay khỏi vỏ (Ga 18,10). Nó luôn luôn ngụ ý kháng cự lại. Thiên Chúa lôi cuốn người ta đến, thế nhưng sức kháng cự của con người có thể làm thất bại sự lôi kéo của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu là bánh sự sống. Như thế chúng ta hiểu Chúa là nhu cầu thiết yếu cho đời sống, vậy khước từ lời mời gọi và mệnh lệnh của Chúa Giêsu là đánh mất sự sống và phải chết. Người Pharisêu nói: “Thế hệ ở trong sa mạc chẳng có phần gì ở đời sống mai sau”. Trong câu chuyện xưa của sách Dân số, sau khi nghe các thám tử báo cáo, số người hèn nhát, từ chối mạo hiểm đi vào Đất Hứa đều bị kết án phải lưu lạc trong sa mạc cho đến chết. Vì họ không chấp nhận sự hướng dẫn của Thiên Chúa, nên cánh cửa vào Đất Hứa đã đóng vĩnh viễn. Khước từ đề nghị của Chúa là từ chối phần thiết yếu cho đời sống, do đó mất luôn sự sống đời này lẫn đời sau. Trong khi đó, tiếp nhận đề nghị của Chúa Giêsu là tìm được sự sống, một sự sống đích thực ở đời này và vinh hiển ở đời sau.
71. Suy niệm của Đức Ông James M. Reinert
(Đan Quang Tâm dịch)
ĐƯỢC CỨU THOÁT KHÔNG PHẢI BẰNG MỘT CÔNG THỨC NHƯNG NHỜ MỘT CON NGƯỜI.
Một lần nữa, như ta đã nghe trong Chúa nhật tuần trước, một sứ điệp với lời hứa sẽ được dưỡng nuôi trong cuộc hành trình phía trước. Điều này đặc biệt rõ rệt trong đoạn văn trong Sách Các Vua quyển thứ nhất. Trong sứ điệp này, ta nghe câu truyện về Ngôn sứ Êlia hành trình trong sa mạc. Điều quan trọng là xem thấy bối cảnh câu truyện diễn ra.
Êlia trên đường đến Khôrếp – “núi của Đức Chúa”. Chính trong cái hang ở đó Thiên Chúa đã tự mặc khải cho vị Ngôn sứ, không phải trong gió, trong một trận động đất hoặc ngọn lửa mà trong một “tiếng thì thầm”. Trước đó, trước khi lên đường, Êlia chứng minh cho Vua dân Israel và mọi người thờ thần ngoại, kể cả các thầy cúng Baal, rằng chỉ có một Thiên Chúa chân thực duy nhất, không phải chỉ ở Israel nhưng mà trong khắp cả thế giới.
Bây giờ, ta trở lại sứ điệp ngày hôm nay, Êlia đang chạy thục mạng. Tuy nhiên, ông không cô đơn. Thiên Chúa ở với ông, dưỡng nuôi ông trong cuộc hành trình.
Trong Thư Thánh Phaolô gửi các Tín hữu Êphêxô, ta nghe một bài khuyến thiện hãy noi gương Thiên Chúa – hãy sống bằng tình yêu. Thánh Phaolô khích lệ cộng đoàn Kitô hữu tại Êphêxô hãy hướng đến một sự thánh thiện mới bởi tặng ân đức tin mà họ đã lĩnh nhận.
“Niềm tin vào Thiên Chúa và vào Đức Giêsu Kitô soi sáng cho những nguyên tắc luân lý là “nền tảng duy nhất và không thể thay thế được của sự ổn định và an bình, của trật tự nội tâm và ngoại giới, trật tự riêng và chung, mà chỉ nền tảng đó mới có thể làm nảy sinh và bảo đảm sự thịnh vượng của các quốc gia”. Đời sống trong xã hội phải dựa trên nền tảng kế hoạch của Thiên Chúa vì “chiều kích thần học cần thiết cho việc giải thích lẫn việc giải quyết những vấn đề hiện nay trong xã hội loài người”. Trước sự hiện diện của những hình thức bóc lột và bất công xã hội trầm trọng, có “một nhận thức ngày càng rộng khắp và nhạy bén hơn về nhu cầu đổi mới triệt để cá nhân và xã hội để có thể bảo đảm công lý, tình liên đới, sự trung thực và cởi mở. Chắc chắn, có cả một con đường dài và khó khăn phía trước; việc đem lại một sự đổi mới như thế đòi hỏi nỗ lực to lớn, đặc biệt khi xét đến số lượng và tính trầm trọng của những nguyên nhân làm phát sinh và làm trầm trọng thêm những tình huống bất công đang hiện diện trong thế giới ngày nay. Nhưng, như lịch sử và kinh nghiệm cá nhân cho thấy, không khó để khám phá ra tại đáy của những tình huống này các nguyên nhân gọi cho đúng là về ‘văn hoá’, gắn kết với những cách nhìn nào đó về con người, xã hội và thế giới. Quả vậy, tại tâm điểm của vấn đề văn hoá, chúng ta tìm thấy nhận thức luân lý, đến lượt mình, nhận thức này được đâm rễ và hoàn thành trong nhận thức tôn giáo”. Về “vấn đề xã hội”, chúng ta không được để mình bị quyến rũ bởi “niềm mong ước ngây thơ rằng đối diện với những thử thách lớn lao của thời đại chúng ta, ta sẽ tìm thấy một công thức thần kỳ nào đó. Không, chúng ta sẽ không được cứu thoát bằng một công thức nhưng nhờ một Con Người, và sự bảo đảm mà Con Người đó ban cho chúng ta: Thầy ở với anh em! Vì thế, vấn đề không phải là phát minh ra một ‘chương trình mới’. Chương trình có sẵn rồi: đó là kế hoạch được tìm thấy trong Tin Mừng và trong Truyền Thống sống động, mãi mãi sẽ như vậy. Cuối cùng, chương trình đó có tâm điểm là chính Đức Kitô, Đấng phải được nhận biết, được yêu thương và được noi theo, để trong Người, chúng ta có thể sống đời sống của Ba Ngôi, và cùng với Người, chúng ta biến đổi lịch sử cho đến khi lịch sử hoàn thành nơi Giêrusalem trên trời” (Sách Tóm lược HTXHCG, 577).
Đức Giêsu tiếp tục bài đã được gọi là “diễn từ Bánh Hằng sống”. Người bảo đám đông rằng “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy”. Người nói điều này khi một vài người trong đám đông phản đối việc Đức Giêsu nhận mình là “bánh từ trời xuống”.
Một lần nữa, biến cố này xảy ra trong bối cảnh Đức Giêsu hóa bánh và cá ra nhiều để nuôi đám đông. Lại vẫn giống như những người Israel trong Cựu Ước, có sự thiếu hiểu biết. Không những thế, có cả sự thiếu sẵn sàng để cho phép tặng ân đức tin được vào trong tâm hồn và tâm trí của họ.
Trong đoạn văn, Đức Giêsu đưa ra một số lời hứa mà đã trở thành một bộ phận chính yếu trong đức tin của chúng ta. Người bảo họ rằng Người sẽ cho những người tin sống lại trong ngày sau hết. Người đoan chắc với họ rằng họ có thể đến với Người nếu họ nghe tiếng Chúa Cha và học được từ lời đó. Sau cùng Người hứa rằng những ai tin, những ai được gọi, những ai được thông phần vào việc ăn “bánh hằng sống từ trời xuống” sẽ sống muôn đời.
Đây là lời hứa của chúng ta và niềm hy vọng của chúng ta. Ta hãy cầu nguyện cho ta được nghe tiếng của Chúa Cha và được đến gần Đức Kiô hơn, Đấng là bánh hằng sống và chia sẻ sự sống của Người với chúng ta.
07/08 Lòng tin lớn bằng hạt cải
- Viết bởi Mt 17, 14-19
Lòng tin lớn bằng hạt cải.
Thứ Bảy đầu tháng, tuần 18 thường niên.
"Nếu các con có lòng tin, thì chẳng có gì các con không làm được".
Lời Chúa: Mt 17, 14-19
Khi ấy, có một người đến gần, quỳ gối trước mặt Chúa Giêsu mà nói rằng: "Lạy Ngài, xin thương xót con trai tôi vì nó mắc chứng kinh phong và rất trầm trọng: nó thường ngã vào lửa và lắm lúc nó ngã xuống nước. Tôi đã đem nó đến cùng môn đệ Ngài, nhưng các ông không thể chữa nó được". Chúa Giêsu đáp: "Ôi thế hệ cứng lòng tin và hư hỏng! Ta phải ở với các ngươi đến bao giờ? Ta còn phải chịu đựng các ngươi đến bao giờ nữa? Hãy đem nó lại đây cho Ta". Chúa Giêsu quát mắng quỷ và quỷ liền ra khỏi đứa bé. Và nó được lành ngay trong lúc ấy.
Bấy giờ các môn đệ đến hỏi riêng Chúa Giêsu rằng: "Tại sao chúng con không thể trừ quỷ ấy được?" Chúa Giêsu bảo các ông rằng: "Vì các con yếu lòng tin! Thầy bảo thật các con: Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì các con có khiến núi này rằng: 'Hãy rời khỏi đây mà sang nơi kia', thì nó liền đi sang, và chẳng có gì các con không làm được".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Tại anh em kém tin
Suy niệm:
Thầy Giêsu và ba môn đệ xuống từ trên núi, nơi Thầy mới hiển dung.
Bốn Thầy trò gặp ngay một đám đông.
Một người cha chạy đến, quỳ xuống trước mặt Đức Giêsu.
Ông xin Ngài thương xót đứa con trai của ông bị kinh phong nặng lắm.
Những mô tả của ông về bệnh tình của con đúng là triệu chứng kinh phong.
Cậu bé không làm chủ được mình, dễ ngã vào nước, vào lửa.
Tính mạng cậu lúc nào cũng bị đe dọa (c. 15).
Điều đáng lưu ý ở đây là chín môn đệ khác đã bó tay.
“Tôi đã đem cháu đến cho các môn đệ Ngài,
nhưng các ông không chữa được” (c. 16).
Chính những người đã được Thầy trao quyền để chữa bệnh và trừ quỷ
lại không thể giải quyết được trường hợp này.
Phải chăng vì không có sự hiện diện của Thầy, hay vì đám đông cứng lòng,
hay vì cơn bệnh quá nặng khiến các môn đệ không đủ tự tin và mạnh mẽ?
Dù sao Thầy Giêsu cũng phải ra tay, để làm điều cần làm.
Với thái độ hơi mất kiên nhẫn, Ngài đã trách móc đám đông (c. 17).
Ngài gọi họ là một thế hệ không tin và gian tà.
Đức Giêsu thấy mình vẫn còn phải ở lại với họ và chịu đựng họ (c. 17)
“Đem cháu lại đây cho tôi”
Đức Giêsu quát mắng quỷ, quỷ liền xuất, và cậu bé được khỏi lập tức.
Các môn đệ hẳn bối rối và xấu hổ vì không đuổi được quỷ.
Chắc họ cũng ngạc nhiên vì thấy mình thất bại trong trường hợp này,
tuy họ đã thành công trong nhiều trường hợp khác (x. Lc 10, 17).
Họ chờ lúc riêng tư giữa Thầy trò để hỏi lý do tại sao (c. 19).
Câu trả lời của Thầy Giêsu ở đây là khá rõ ràng.
“Tại anh em kém tin!” (c. 20).
Kém tin là một từ đặc biệt chỉ có trong Tin Mừng Mátthêu.
Từ này được dùng nhiều lần (6, 30; 8, 26; 14, 31; 16, 8).
Người kém tin là người có lòng tin nhỏ bé (oligopistia),
chứ không phải là hoàn toàn không tin chút nào (apistia).
Nhưng lòng tin nhỏ bé này thật sự cũng chẳng đem lại hiệu quả gì.
Nó chưa đáng được gọi là tin theo đúng nghĩa.
Một lòng tin đúng nghĩa thì dù nhỏ bé như một hạt cải
cũng có thể chuyển núi dời non (c. 20b; 1 Cr 13, 2).
Chỉ với lòng tin nhỏ như vậy, sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được.
Dĩ nhiên, câu này không có nghĩa là họ làm được mọi sự.
Các môn đệ chỉ làm được những gì liên quan đến việc loan báo Nước Trời,
như chữa mọi bệnh hoạn tật nguyền và trừ quỷ (Mt 10).
Họ chỉ làm được phép lạ khi người bệnh có lòng tin,
và khi việc họ làm nằm trong ý định của Thiên Chúa.
Những thừa tác viên của Giáo Hội nhiều khi thấy mình bất lực trước sự dữ.
Chúng ta cần xin Chúa thêm cho ta đức tin để có thể chuyển được
những đồi núi nơi lòng con người hôm nay.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa,
xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải,
để con làm bật rễ khỏi lòng con
những ích kỷ và khép kín.
Xin cho con đức tin can đảm
để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến,
chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.
Xin cho con đức tin sáng suốt
để con thấy được thế giới
mà mắt phàm không thấy,
thấy được Đấng Vô hình,
nhưng rất gần gũi thân thương,
thấy được Đức Kitô nơi những người nghèo khổ.
Xin cho con đức tin liều lĩnh,
dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân,
dám tiến bước trong bóng đêm
chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa,
dám lội ngược dòng với thế gian
và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.
Xin cho con đức tin vui tươi,
hạnh phúc vì biết những gì
đang chờ mình ở cuối đường,
sung sướng vì biết mình được yêu
ngay giữa những sa mù của cuộc sống.
Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp
qua những cọ xát đau thưong của phận người,
để dù bao thăng trầm dâu bể,
con cũng không để tàn lụi niềm tin
vào Thiên Chúa và vào con người.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2; Sống đức tin
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thế giới nhiễu nhương. Ma quỉ và bạo chúa thống trị thế giới. Sự ác và sự dữ đè bẹp con người. Nếu không có đức tin con người không thể sống nổi.
Thời Mô-sê dân Ít-ra-en chỉ là một nhóm người nô lệ. Không tổ chức. Không lực lượng. Nhưng họ có đức tin. Họ tin vào Chúa. Họ đi theo Mô-sê. Và Chúa đã làm những việc vượt quá sức tưởng tượng của họ. “Anh em được những thành lớn và đẹp mà anh em đã không xây, những nhà đầy mọi thứ của cải mà anh em đã không tích trữ, những bể nước có sẵn mà anh em đã không đào, những vườn nho và vườn ô-liu mà anh em đã không trồng”. Vì thế Mô-sê khuyên nhủ họ “đừng quên Đức Chúa, Đấng đã đưa anh em ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ…anh em phải kính sợ…phải phụng thờ…và nhân danh Người mà thề” (năm lẻ).
Thời Kha-ba-cúc, mặc dù Ít-ra-en bị Can-đê đặt ách thống trị tàn ác, chỉ vì Ít-ra-en tội lỗi phản bội Chúa. Nhưng Chúa khuyên nhủ dân hãy cứ tin tưởng và chờ đợi. Vì ngày Chúa giải thoát dân rồi sẽ đến: “Nó đang tiến nhanh tới chỗ hoàn thành, chứ không làm cho ai thất vọng. Nếu nó chậm tới, thì cứ đợi chờ, vì thế nào nó cũng đến, chứ không trì hoãn đâu”. Trong khi chờ đợi phải giữ vững đức tin. Vì “ai không có tâm hồn ngay thẳng sẽ ngã gục, còn người công chính thì sẽ được sống, nhờ lòng thành tín của mình” (năm chẵn).
Thời Chúa Giê-su ma quỉ hoành hành ác liệt. Khống chế con người. Các tông đồ cũng đành chịu thua. Nhưng khi Chúa đến, Chúa dùng quyền năng chế ngự và bắt ma quỉ phải vâng phục. Giải phóng con người khỏi ách nô lệ ma quỉ. “Đức Giê-su quát mắng tên quỷ, quỷ liền xuất, và đứa bé được khỏi ngay từ giờ đó”. Chúa cho biết ma quỷ hoành hành vì con người thiếu niềm tin. Chúa than phiền vì thế hệ thiếu niềm tin: “Ôi thế hệ cứng lòng không chịu tin và gian tà! Tôi còn phải ở với các người cho đến bao giờ, còn phải chịu đựng các người cho đến bao giờ nữa”? Ngài cho các tông đồ biết mọi việc trên thế giới có thể giải quyết dễ dàng với người có lòng tin: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: ‘Rời khỏi đây, qua bên kia! Nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được”.
Thời đại chúng ta bị biết bao ngọn núi ngăn trở khiến ta nản lòng. Tưởng không có gì có thể xê dịch được những ngọn núi ngăn chặn đời sống. Nhưng ta hãy an tâm. Nếu có đức tin một chút thôi, ta có thể giải quyết vấn đề cộng đoàn thật dễ dàng. Và thế giới ổn định. Vì khi có đức tin ta sống nhờ Chúa. Ta làm việc bằng sức mạnh của Chúa. Và mọi việc sẽ tốt đẹp.
SUY NIỆM 3: Ðức Tin Rất Cần Thiết
Thánh Augustinô nói: "Thiên Chúa dựng nên con người không cần con người, nhưng để cứu chuộc con người, thì Ngài cần đến sự cộng tác của con người". Sở dĩ như vậy là vì Thiên Chúa dựng nên con người có tự do, và tự do bao hàm sự lựa chọn tin nhận hoặc khước từ Thiên Chúa. Ðức tin cần thiết cho con người, không những để được cứu rỗi, mà còn để biết vui tươi đón nhận những biến cố trong đời sống theo thánh ý Chúa.
Tin Mừng hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu chữa một đứa bé bị kinh phong. Có thể nói, không có gì đặc biệt, nếu phép lạ được thực hiện do Chúa Giêsu, bởi vì Ngài là Thiên Chúa toàn năng làm được mọi sự. Nhưng điều quan trọng là phép lạ có thể xẩy ra là do đức tin của con người. Thật thế, trong bất cứ phép lạ nào, Chúa Giêsu cũng đòi hỏi con người phải tin, hoặc chính đương sự hoặc cha mẹ hay người bảo trợ. Là Ðấng Cứu Thế, Chúa Giêsu yêu thương và muốn cứu chữa con người khỏi mọi tật bệnh; nhưng mỗi khi thực hiện phép lạ để cứu chữa một người nào, Ngài cũng đòi phải có đức tin. Nếu việc cứu chữa riêng lẻ đó chỉ là hình ảnh lu mờ của việc cứu chữa tối hậu mà Chúa còn đòi hỏi đức tin, thì để được cứu rỗi trong thời cứu độ viên mãn, đức tin còn cần thiết biết chừng nào.
Kết thúc bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì chẳng có gì các con không làm được. Ðức tin làm cho chúng ta từ con người tội lỗi trở thành con cái Thiên Chúa; đức tin giúp cho những việc tầm thường trong đời sống trở thành có giá trị vĩnh cửu; đức tin cho chúng ta có cái nhìn lạc quan tin tưởng vào mọi biến cố cuộc sống; đức tin giúp con người làm được những điều mà người không có đức tin không hiểu nổi: các thánh tử đạo can đảm chấp nhận cái chết đau thương, các thánh hiển tu đã từ bỏ tất cả để hoàn toàn sống theo Chúa.
Nguyện xin Chúa củng cố đức tin của chúng ta để nhận ra bàn tay Chúa luôn dẫn dắt chúng ta và luôn sống trong bình an dưới sự chăm sóc của Ðấng Toàn Năng.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Lòng tin thật
Bây giờ các môn đệ đến gần hỏi riêng Đức Giêsu rằng: “Tại sao chúng con đây lại không trừ nổi tên quỷ ấy?” Người nói với các ông: “Tại sao anh em kém tin! Thầy bảo thật anh em: nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: “Rời khỏi đây, qua bên kia!” nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được. [Giống quỷ này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện]. (Mt. 17, 19-21)
Nếu người ta nhìn bề ngoài theo nghĩa đen, thì có lòng tin vào Đức Kitô đã đủ làm những điều phi thường: Chữa khỏi các bệnh tật.
Chớ gì có niềm tin vô điều kiện vào Thiên Chúa và Đức Kitô, tôi hoàn toàn đồng ý! Lời dạy của Đức Kitô được chép lại rõ ràng, cần phải đọc lại các sách Tin Mừng, đặc biệt của thánh Gio-an, để xác tín điều đó. Lòng tin là điều kiện cần cho lời cầu nguyện biết bao, nhất là lời cầu nguyện cầu xin.
Nhưng chưa đủ.
Nhưng cần thiết lời cầu nguyện phải hợp với kế hoạch của Thiên Chúa, Đức Giêsu, lúc sống ở trần thế, đã không chữa mọi bệnh tật cho dân Ít-ra-en, các tông đồ cũng thế. Vì nếu đánh giá lòng tin bằng được khỏi bệnh thì lòng tin đó chỉ như một thứ tiền trả cho việc chữa bệnh. Lòng tin như thế có đủ không? Đó không phải là thứ lòng tin sống động, không phải là thứ lòng tin của thứ phần tử trong Giáo Hội, của thân thể Đức Kitô. Lòng tin như thế là của những người không tín ngưỡng.
Tôi nghĩ những đoạn Tin Mừng này có thể sẽ bị hiểu lầm và sẽ gây ra những quá đáng đạo đức.
Vâng: Một lòng tin sâu sắc.
Lòng tin trong sáng và nhiệt thành ăn rễ sâu vào tâm hồn siêng năng hơn là hành động nhất thời. Nếu người ta không thường xuyên sống với tâm tình yêu mến và phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, thì làm sao tránh khỏi không nghi ngờ. Chỉ khi nào có một chút niềm tin hoàn hảo mới mong phát sinh ra những công cuộc kỳ diệu hữu hình và vô hình.
Có những Đấng Thánh có lòng tin, một lòng tin sâu xa, sống động! đã xẩy ra và còn xẩy ra nơi các Đấng một đức tin trọn vẹn để thực hiện ơn gọi đặc biệt trong Hội Thánh.
J.M
SUY NIỆM 5: KIÊU NGẠO SẼ THẤT BẠI (Mt 17, 14-20)
Xem thêm thứ Hai tuần 7 TN.
Một sự cám dỗ lớn lao nhất thường đến với con người, đó là cơn cám dỗ về sự kiêu ngạo.
Thật vậy, sự kiêu ngạo nó thường trực trong con người, và mức độ nguy hiểm của chúng là rất cao. Có thể ví rằng: sự kiêu ngạo luôn nhăm nhe bừng phát, chúng giống như bình xăng còn ma quỷ như bó đuốc. Nếu không cẩn thận và đề phòng bằng sự khiêm nhường, ắt không sớm thì muộn, chúng cũng làm cho bình xăng bốc cháy!
Đọc lại lịch sử cứu độ, chúng ta thấy, từ xa xưa, người ta vẫn bị mắc vào cám dỗ này.
Khởi đi từ Nguyên Tổ loài người là Ađam và Evà; rồi câu chuyện tháp Babel, đến hành động của Môsê, Aharon, Đavít, và ngay cả đến các môn đệ, tất cả đều bị ngã gục trước sự cám dỗ của ma quỷ dưới lưỡi hái của sự kiêu ngạo.
Thật vậy, cậy vào sức riêng của mình là chuyện bình thường. Tuy nhiên, vì tự tin đến độ không cần đến Thiên Chúa thì lại là kẻ bất thường, vì thế, thất bại là lẽ đương nhiên.
Hôm nay, bài Tin Mừng cho thấy việc các môn đệ thất bại trong việc trừ quỷ. Nguyên do chính là do các ông tự mãn và cậy vào khả năng riêng của mình chứ không phải là niềm tin vào Thiên Chúa.
Tin Mừng thuật lại, sau khi Đức Giêsu đưa ba môn đệ lên núi Tabor, số môn đệ còn lại ở dưới núi, vì thế người ta mang đến cho các ông một đứa trẻ bị quỷ ám mắc kinh phong. Các ông đã trừ mà không được. Nên thấy Đức Giêsu xuống, dân chúng đã xúm lại và xin Ngài chữa lành. Sau khi Ngài chữa cho bé gái khỏi quỷ ám. Các môn đệ tiến lại gần và hỏi: "Tại sao chúng con đây lại không trừ nổi tên quỷ ấy?". Đức Giêsu mặc khải cho họ biết: "Tại anh em kém tin! Thầy bảo thật anh em: nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: ‘rời khỏi đây, qua bên kia!’ nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được".
Sau khi các ông nhận ra sự thất bại của mình và hiểu rõ về sức mạnh của niềm tin, Đức Giêsu muốn dạy các ông sự khiêm nhường và gắn bó với Thiên Chúa cách trọn ven thì mới có thể thi hành được sứ vụ.
Trong cuộc sống đức tin của chúng ta, có lẽ không cần phải xin Chúa cho được chuyển núi dời non theo nghĩa đen. Nhưng điều mà chúng ta cần chuyển dời chính là ngọn núi của kiêu căng, tự ái, ghen ghét. Có thế, chúng ta mới để cho đức tin mà Thiên Chúa ban cho chúng ta được lớn mạnh.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con. Xin cho chúng con biết gắn bó với Chúa để được Chúa yêu thương. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Sức mạnh của lòng tin
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Sức mạnh của đời sống người Kitô hữu tùy thuộc vào mức độ của lòng tin. Lòng tin yếu, người Kitô hữu sẽ bất lực; còn lòng tin mạnh, người Kitô hữu sẽ vượt qua mọi thử thách.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, sau khi chứng kiến Chúa trừ quỷ kinh phong, các tông đồ đã hỏi Chúa: “Tại sao chúng con không trừ được quỷ ấy ?”. Bản thân con cũng nhiều lần tự hỏi: “Tại sao mình cứ sống tầm thường mãi ?”. Câu trả lời của Chúa thật rõ ràng: “Vì các ngươi yếu lòng tin”.
Vì yếu lòng tin mà con chưa cảm nhận được hết ánh nhìn yêu thương của Chúa, cái nhìn trìu mến, mời gọi, khích lệ. Và vì thế con chưa một lần mạnh dạn thưa với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì ?”. Con thường tránh né ánh nhìn của Chúa, vội cúi đầu quay đi. Vì yếu lòng tin mà con làm ngơ trước tiếng gọi của người anh em đang cần giúp đỡ. Vì yếu lòng tin mà con dè dặt tính toán mỗi khi cần hy sinh, con ngại ngùng đứng dưới chân dốc cuộc đời, thu hẹp khát vọng của mình lại. Đời con vẫn cứ tầm thường vì tự thâm tâm con đã cam nhận sống tầm thường. Con tự vạch ra xung quanh mình những chuẩn mực an toàn, không được lỗi luật và cũng chớ phiêu lưu. Con chôn nén bạc Chúa trao xuống lòng đất và chịu đựng quãng đời vô vị trôi qua. Lạy Chúa, con yếu tin quá.
Giờ đây con muốn tìm lại ánh mắt của Chúa, muốn lắng nghe tiếng Chúa thôi thúc trong tâm tư con. Xin Chúa củng cố đức tin yếu ớt của con. Chúa muốn con vươn cao và sẵn sàng ban ơn để con có thể vươn lên. Với lòng tin mạnh mẽ mà Chúa ban cho con, con sẽ cố gắng sống thánh và sẵn sàng chấp nhận mọi thách đố của cuộc sống. Với lòng tin mạnh mẽ, con sẽ dấn thân trọn vẹn để sống cho Chúa và cho anh chị em. Và với lòng tin mạnh mẽ, con sẽ có đủ sức mạnh để chiếm được Nước Trời. Amen.
Ghi nhớ: “Nếu các con có lòng tin, thì chẳng có gì các con không làm được”.
Suy Niệm 7: Lòng tin lớn bằng hạt cải
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Thời Thập Tự Quân (Croisade), một kỵ sĩ bị quân nghịch đạo tấn công sắp chết. Trong cơn nguy hiểm đó, ông nhìn lên trời và khấn: “Lạy Chúa, nếu con đánh trận còn sống, con sẽ thắp một cây sáp nơi mồ Chúa và đem cây sáp luôn cháy sáng về tận nhà”.
Ông được thoát nạn. Giữ lời hứa, ông thắp một cây sáp nơi mồ Chúa và tìm cách mang nó về tận nhà.
Trên đường về, ông luôn che cho cây nến khỏi tắt vì gió mạnh. Sắp hết cây nến này, ông thắp cây nến khác. Cứ thế, ông đem cây nến đó về tận nhà như lời đã hứa với Chúa.
Thật là một gương anh dũng!
Cây đèn đức tin của chúng ta cũng vậy, trên con đường về quê Trời, phải luôn được chúng ta thắp sáng.
Suy niệm
Hạt cải là hạt nhỏ nhất trong các hạt giống, nhưng khi lớn lên nó trở nên lớn nhất các loại rau cỏ. Hạt giống đức tin nếu chỉ bằng hạt cải, khi lớn lên sẽ làm được những việc phi thường như lời Chúa Giêsu cắt nghĩa trong Tin Mừng thánh Matthêu: “Nếu các con có đức tin bằng hạt cải, nhưng khi được nuôi dưỡng và lớn lên thành cây lớn nhất trong các loại rau mà chim trời có thể ẩn náu” (Mt 13,32).
Hãy nuôi dưỡng đức tin, dù nhỏ bé như hạt cải nhưng khi lớn lên sẽ làm được việc dời non lấp biển như Tin Mừng đã thuật lại các việc vĩ đại thành sự nhờ đức tin: Khi người đàn bà bị băng huyết đến sờ vào gấu áo Chúa với niềm tin bà được Chúa chữa lành, Chúa nói: “Này bà, cứ an tâm, đức tin của bà đã cứu chữa bà” (Mt 9,22). Ông trưởng hội đường có đứa con gái ốm nặng sắp chết, ông tin vào Chúa nhưng sau đó hơi chút hồ nghi vì gia nhân bảo con ông đã chết, Chúa nói: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5,36), ông vững tin, và Người đã làm cho em bé gái sống lại. Khi những người mang đứa con trai bị bệnh kinh phong tới Chúa Giêsu và tin vào Ngài (Mc 9,23), Chúa Giêsu cầm tay đứa bé, chữa lành. Tin rằng thầy Giêsu có thể chữa lành cho người anh em bất toại, nhưng không thể mang bệnh nhân vào trong nhà qua cửa được vì quá đông người, người ta phải dỡ mái nhà rồi thả bệnh nhân xuống trước mặt Chúa Giêsu và Ngài chữa lành cho anh (Lc 5:20). Người đàn bà thành Canaan xin Chúa chữa con bà khỏi bị quỷ ám (Mt 15:21-28), chính đức tin sống động, mãnh liệt này đã làm cho Chúa phải thốt lên: “Này bà, đức tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì được vậy” (Mt 15:28). Viên sĩ quan xin Chúa chữa người đầy tớ của ông khi tuyên xưng niềm tin mạnh mẽ vào Ngài (Mt 8,5-13). Đức tin của Martha đặt nơi Thầy là nguồn sự sống, Ngài đã thực hiện một phép lạ lớn lao: Cho Ladarô sống lại (x. Ga 11,7-44).
Nhưng đức tin lúc gặp phong ba bão tố nơi người tôi tớ, chính lúc đó cảm nghiệm được sự vô dụng của mình nên cần tin và bám víu vào Chúa, như Phêrô với lòng đơn thành xin Chúa cho được đi trên mặt biển đến với Chúa. Nhưng khi gặp phong ba ông hoài nghi, thiếu tin tưởng nên chìm xuống nước ông kêu cứu và Chúa ra tay nâng đỡ ông (x. Mt 14:22-33).
Tin Mừng cho chúng ta thấy sức mạnh của niềm tin. Thật thế, đức tin bằng hạt cải có thể dời non lấp biển…
Ý lực sống:
“Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Dt 11,1).
Suy Niệm 8: Chúa chữa đứa trẻ bị kinh phong (Mt 17,14-19)
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Lúc Chúa Giêsu và 3 môn đệ thân cận ở trên núi (biến hình) thì ở dưới núi, người ta đem đến cho các môn đệ một đứa trẻ bị quỷ ám mắc kinh phong, nhưng các ông không chữa được. Còn Chúa Giêsu đã quát mắng quỷ, nó đã xuất khỏi đứa trẻ ngay. Các ông phải một phen mất mặt. Các ông đã đến gần hỏi lý do tại sao các ông đã thất bại. Chúa cho biết lý do thất bại của các ông là thiếu lòng tin. Nếu các ông có lòng tin thì làm gì cũng được.
Tin mừng thuật lại, sau khi Chúa Giêsu đưa ba môn đệ lên núi Tabor, số môn đệ còn lại ở dưới núi, vì thế người ta mang đến cho các ông một đứa trẻ bị quỷ ám mắc kinh phong. Các ông đã trừ mà không được. Nên thấy Chúa Giêsu xuống, dân chúng đã xúm lại và xin Ngài chữa lành. Sau khi Ngài chữa cho bé gái khỏi quỷ ám, các môn đệ tiến lại gần và hỏi: “Tại sao chúng con đây lại không trừ nổi tên quỷ ấy ?” Chúa Giêsu mạc khải cho họ biết: “Tại anh em kém tin! Thầy bảo thật anh em: nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: ‘rời khỏi đây, qua bên kia’ nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được”.
Sau khi các ông nhận ra sự thất bại của mình và hiểu rõ về sức mạnh của niềm tin, Chúa Giêsu muốn dạy các ông sự khiêm nhường và gắn bó với Thiên Chúa cách trọn vẹn thì mới có thể thi hành được sứ vụ.
Việc Chúa Giêsu chữa một đứa bé bị kinh phong, có thể nói, không có gì đặc biệt, nếu phép lạ được thực hiện do Chúa Giêsu, bởi vì Ngài là Thiên Chúa toàn năng làm được mọi sự. Nhưng điều quan trọng là phép lạ có thể xảy ra là do đức tin của con người. Thật thế, trong bất cứ phép lạ nào, Chúa Giêsu cũng đòi hỏi con người phải tin, hoặc chính đương sự hoặc cha mẹ hay người bảo trợ. Là Đấng Cứu Thế, Chúa Giêsu yêu thương và muốn chữa con người khỏi mọi bệnh tật, nhưng mỗi khi thực hiện phép lạ để cứu chữa một người nào, Ngài cũng đòi phải có đức tin. Nếu việc cứu chữa riêng lẻ đó chỉ là hình ảnh lu mờ của việc cứu chữa tối hậu mà Chúa còn đòi hỏi đức tin, thì để được cứu rỗi trong thời cứu độ viên mãn, đức tin còn cần thiết biết chừng nào (Mỗi ngày một tin vui).
Mục sư Martin Luther nói: “Đức tin cho phép chúng ta nắm giữ trong tay những điều chúng ta không thấy được”.
Đức tin biến đổi chúng ta từ người tội lỗi trở thành con cái Thiên Chúa. Đức tin làm cho những việc tầm thường trở thành những việc có giá trị phi thường. Đức tin cho chúng ta có cái nhìn lạc quan, tin tưởng vào những điều dường như không thể lý giải. Đức tin cũng chính là điều kiện cần thiết, để Chúa Giêsu làm phép lạ cứu chữa người bệnh. Việc Chúa Giêsu chữa bệnh kinh phong cho em bé trong Tin mừng hôm nay là một ví dụ điển hình về sức mạnh của lòng tin. Thật vậy, chính nhờ lòng tin vững vàng của người cha mà em bé được chữa lành.
Con người dễ mắc phải cám dỗ cậy vào sức riêng và do đó dễ gặp thất bại trong đời sống. Chính các môn đệ cũng không tránh khỏi cám dỗ đó. Thật vậy, sau khi chứng kiến cuộc biến hình của Ngài, Chúa Giêsu muốn các ông xuống núi, trở về với những vấn đề của cuộc sống. Ngài muốn các ông nhận thức giới hạn của mình khi để các ông thất bại trong việc trừ quỉ câm. Trước đây nhờ quyền năng Chúa các ông đã xua trừ được nhiều quỷ. Có lẽ các ông bắt đầu quên điều đó, quên rằng mình chỉ là dụng cụ của Thiên Chúa. Bởi đó, sau khi các ông nhận thức rõ sự bất lực của mình, Chúa đã giải thích cho các ông biết rằng để thành công, các ông cần có đức tin dù chỉ là đức tin nhỏ bé, cần gắn bó với Chúa, và theo nhiều bản Tin mừng bổ túc, cần phải cầu nguyện và ăn chay (R.Veritas).
Như hạt cải trổ thành cây lớn, đức tin đích thực dù ở khởi điểm còn ở mức độ nhỏ, nhưng rồi sẽ phát triển thêm thành cây lớn. Hơn nữa, chúng ta cũng nên lưu ý điều này là sự phát triển không tự động cách máy móc, cần có sự cộng tác của đương sự với ơn Chúa, để phát triển đức tin thêm nữa cho đến mức độ trưởng thành và sự cộng tác này được củng cố bằng lời cầu nguyện và việc ăn chay. Đây có thể là bài học Chúa Giêsu nhắc khéo cho các môn đệ khi Ngài phán: “Giống quỷ này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay, cầu nguyện”.
Truyện: Cần có niềm tin Một tướng quân quyết định tấn công cho dù binh lính của ông chỉ bằng một phần mười quân địch. Ông quả quyết rằng sẽ thắng, nhưng lính của ông rất nghi ngờ.
Vì thế, trên đường đi tới trận chiến, ông dừng lại ở một nhà thờ và cầu nguyện. Khi trở ra, ông nói với họ:
- Tôi sẽ tung một đồng tiền lên. Nếu nó ngửa, chúng ta sẽ thắng. Nếu nó sấp, chúng ta sẽ thua. Vận mệnh bây giờ sẽ được tiết lộ.
Ông tung đồng tiền lên. Nó ngửa. Những người lính rất hăm hở vào trận đấu và tin tưởng rằng họ sẽ thắng cách dễ dàng. Hôm sau, một sĩ quan có niềm tin mạnh nói với tướng quân rằng:
- Kết quả cho thấy rằng không ai có thể thay đổi cánh tay vận mệnh.
Tướng quân trả lời:
- Rất đúng - và ông cho hay rằng đồng tiền có hai mặt ngửa!
06/08 Vinh quang Phục Sinh
- Viết bởi Mc 9, 1-9
Vinh quang Phục Sinh.
Thứ Sáu đầu tháng, tuần 18 thường niên – CHÚA HIỂN DUNG năm B. Lễ kính.
"Đây là Con Ta yêu dấu".
* Bốn mươi ngày trước lễ Suy Tôn Thánh Giá, lễ Hiển Dung nhắc cho các tín hữu nhớ rằng Chúa Kitô đã muốn ‘chuẩn bị tâm hồn các môn đệ khỏi vấp phạm vì khổ hình thập giá’. Nhưng đồng thời lễ này cũng loan báo cho mọi tín hữu biết mình được nhận làm con cái Thiên Chúa, nhờ Con Thiên Chúa là Đức Giêsu, và loan báo ánh sáng diệu kỳ một ngày kia sẽ rạng ngời trên toàn thân thể nhiệm mầu, tức là Hội Thánh.
Lời Chúa: Mc 9, 1-9
Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê, và Gioan đi riêng với Người lên núi cao, và Người biến hình trước mặt các ông, và áo Người trở nên chói lọi trắng tinh như tuyết, không thợ giặt nào trên trần gian có thể giặt trắng đến thế. Rồi Êlia cùng Môsê hiện ra và đàm đạo với Chúa Giêsu.
Bấy giờ Phêrô lên tiếng thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm, chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia". Phêrô không rõ mình nói gì, vì các ông đều hoảng sợ. Lúc đó một đám mây bao phủ các Ngài, và từ đám mây có tiếng phán rằng: "Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người". Bỗng nhìn chung quanh, các ông không còn thấy ai khác, chỉ còn một mình Chúa Giêsu với các ông.
Và trong lúc từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu đã ra lệnh cho các ông đừng thuật lại cho ai những điều vừa xem thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lời căn dặn đó, nhưng vẫn tự hỏi nhau: "Từ trong cõi chết sống lại nghĩa là gì?"
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Được biến đổi hình dạng
Đức Giêsu mê những ngọn núi vắng vẻ,
đó là nơi Ngài gặp gỡ Cha, chìm đắm trong cầu nguyện.
Có nhiều ngọn núi trong cuộc đời Đức Giêsu:
núi của Bài Giảng về các mối phúc, núi Tabo nơi Ngài biến hình,
núi Sọ và núi Ô-liu nơi Chúa thăng thiên.
Những ngọn núi trở thành cột mốc đánh dấu.
Những ngọn núi đan vào nhau làm nên cuộc hành trình.
Ba môn đệ thân tín được Ngài đưa lên núi Tabo,
để củng cố niềm tin của họ,
trước khi họ thấy Ngài như người bị Cha bỏ rơi
và bị mọi người khai trừ ruồng rẫy trên núi Sọ.
Nhưng vinh quang của núi Tabo
chỉ là một loé sáng bất ngờ và tạm thời,
báo trước vinh quang viên mãn khi Ngài về Thiên Quốc.
Biến hình là một hành động của Thiên Chúa Cha.
Sau khi gặp Cha, Đức Giêsu được Cha biến hình.
Sự biến đổi này ảnh hưởng đến thân xác và khuôn mặt,
và đến cả y phục của Ngài.
Vinh quang của Con Thiên Chúa làm người
vốn bị che khuất, nay được Cha hé mở cho các môn đệ.
Ông Môsê ngày xưa, sau khi lên núi gặp Đức Chúa
cũng đã phải che lại khuôn mặt chói lọi của mình.
Chẳng ai gặp Thiên Chúa thực sự mà lại không biến hình.
Đời sống kết hiệp thực sự với Thiên Chúa
làm cho người Kitô hữu tỏa sáng rực rỡ.
Biến hình không phải là trở thành cái gì khác mình,
như Tôn Ngộ Không với các trò biến hoá.
Biến hình là trở lại với cái tôi sâu thẳm của mình:
tôi là con yêu dấu của Thiên Chúa.
Từ khi chịu phép Thánh Tẩy, chúng ta
đã bước vào một cuộc biến hình, từ từ và liên tục.
Nếu chúng ta chấp nhận đi vào đường hẹp của Thầy Giêsu
chúng ta sẽ được biến hình đổi dạng
và phản ánh ngời sáng hơn vinh quang Chúa (x. 2Cr 3,18).
Chúng ta phải trở thành điều chúng ta đang là.
Đời sống Kitô hữu là một cuộc lên núi
và xuống núi với Chúa Kitô mỗi ngày.
Cần cảm nếm được sự dịu ngọt và hạnh phúc
khi được chiêm ngắm Chúa Giêsu trên núi cao.
Nhưng cũng phải xuống núi với Chúa
để đi đến nơi hiến mình, nơi phục vụ,
đi cùng và đi sau Chúa Giêsu đến với Vườn Dầu và Núi Sọ.
Ước gì chúng ta dám đón nhận những gai góc đời thường
và nhìn mọi khổ đau bằng cái nhìn mới mẻ.
Người Kitô hữu lên núi gặp Chúa
để rồi được sai xuống núi hành đạo.
Nhưng xuống núi rồi, lại có khi thấy cần lên núi.
Gợi Ý Chia Sẻ
Một số bạn trẻ bỏ rất nhiều tiền để sửa sang sắc đẹp và chạy theo mốt. Bạn nghĩ gì về tương quan giữa vẻ đẹp bên ngoài và vẻ đẹp bên trong tâm hồn con người?
Cầu nguyện có thể làm con người "biến hình". Bạn có tin điều đó không? Bạn có quen ai đã biến đổi sâu xa nhờ cầu nguyện không?
Cầu Nguyện:
Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào,
xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc,
xin cho con quý chuộng những lúc được an nghỉ trước nhan Chúa.
Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo,
xin cho con biết thanh thản
ngồi dưới chân Chúa để nghe lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng,
xin cho con thoát được lên cao
nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.
Lạy Chúa,
ước gì tinh thần cầu nguyện thấm nhuần vào cả đời con.
Nhờ cầu nguyện, xin cho con gặp được con người thật của con
và khuôn mặt thật của Chúa.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: LỄ CHÚA HIỂN DUNG
A. Anh chị em thân mến,
Chúng ta vừa nghe một bài Tin mừng tường thuật cho chúng ta câu chuyện về việc Chuá biến hình trên một ngọn núi cao. Đây là một câu chuyện rất đặc biệt cho nên đã được cả ba Tin Mừng nhất lãm: Mathêô, Marco và Luca đã thuật lại. Nếu đọc lại và so sánh thì chúng ta sẽ thấy cả ba tường thuật lại câu chuyện này theo một bối cảnh chung xuất phát từ truyền thống có trước. Đại cương thì sự việc diễn tiến như sau:
Phêrô tuyên xưng đức tin,
Chúa loan báo về cuộc tử nạn và Phục sinh của Người lần thứ nhất
Chúa đưa ra những điều kiện để được theo Chúa
Chúa biến hình.
Chúa loan báo về cuộc tử nạn và phục sinh lần của Người lần thứ hai.
Chúa lên Jêrusalem để chịu tử nạn và sau đó Chúa phục sinh.
Câu chuyện biến hình của Chuá xẩy ra vào giữa những biến cố rất quan trọng vào cuối cuộc đời của Chúa. Như vậy nó phải mang một ý nghĩa nào đó. Chúng ta cùng nhau tìm hiểu.
B. Chúng ta tự hỏi: Chúa Biến Hình để làm gì?
Mục đích của việc Đức Giêsu biến hình hay hiển dung trên núi trước mặt ba môn đệ không phải là để cho các ông dựng lều ở lại ngay trên đó. Nhưng là để giúp các môn đệ nhận ra thiên tính của một Con Người mà họ đang cùng đồng hành và nói chuyện với họ. Con Người đó không phải chỉ là người nhưng còn là Con Thiên Chúa. Lần thứ nhất Thiên Chúa xác nhận Đức Giêsu là Con của Ngài bên sông Gio-đan. Và đây là lần thứ hai Thiên Chúa Cha xác nhận Đức Giêsu là Con của Ngài trên núi cao. Ngài là Con Thiên Chúa nhưng đồng thời Ngài cũng là Người Tôi Tớ chịu đau khổ bởi vâng lời Thánh ý của Thiên Chúa Cha đến đổ máu chết trên thập giá. Núi Tabor nơi Chúa biến hình tỏ vinh quang của Ngài là dấu báo trước chuẩn bị cho cảnh hy sinh trên núi Can-vê.
Sau khi chứng kiến Chúa biến hình thì các môn đệ đã có cơ hội biết rõ hơn Thầy của họ thực sự là ai, và họ được hưởng nếm trước cái vinh quang và hạnh phúc đang chờ đón họ bởi việc đi theo Ngài. Đây cũng là sự chuẩn bị tinh thần cho họ để khi Thầy của họ bị xỉ nhục bắt bớ thì họ không bị mất niềm tin mà thất vọng.
Thực ra, thoạt đầu khi bước theo Đức Giêsu cả ba ông Phêrô, Giacôbê và Gioan cũng như các môn đệ khác đã không biết cái giá họ phải trả khi theo Chúa như thế nào. Chính vì thế mà khi được chứng kiến dung nhan vinh quang của Đức Giêsu trên núi, họ đã sung sướng ngất ngây và muốn ở lại luôn trên đó. Nhưng chương trình của Đức Giêsu và của Thiên Chúa không như thế. Ngài đã dẫn họ xuống núi trở lại và ngăn cấm không cho họ nói với ai về những gì họ đã thấy cho đến khi "Con Người từ cõi chết sống lại."(Mt 17,9) Ngài đã trích dẫn lời chép về Ngài , "Người phải chịu nhiều đau khổ và khinh bỉ."(Mt 16,21) Nhưng họ vẫn không hiểu và hỏi nhau, "Từ cõi chết sống lại nghĩa là gì?"
C. Qua việc tường thuật là biến có Chúa biến hình hôm nay Giáo Hội muốn nhắc cho chúng ta điều gì? Câu trả lời không khó lắm: Giáo Hội muốn cho chúng ta hãy nghe Lời Đức Kitô.
Trách nhiệm của người Kitô hữu chúng ta là mở tai, mở lòng và mở trí để đón nhận những gì Đức Giêsu giảng dạy và làm gương bằng cuộc sống của Ngài. Lắng nghe lời Ngài không có nghĩa là chỉ nghe những gì Ngài nói, nhưng còn phải chú ý đến những gì Ngài đã làm; đi theo con đường Ngài đã đi; bắt chước cách Ngài đã làm trong việc xử sự với Thiên Chúa và với những người khác. Chúng ta đáp lại tình yêu của Ngài không phải chỉ bằng việc ca hát tôn vinh, xin ơn và tạ ơn. Nhưng còn bằng việc dốc tâm dấn bước sống theo gương của Ngài. Chúng ta đi theo Ngài lên núi để cảm nghiệm niềm hạnh phúc vinh quang để rồi lại cùng Ngài xuống núi trở về với những phận vụ hằng ngày, đi vào vườn cây dầu để đổ mồ hôi máu, hành trình trên khắp nẻo đường để rao giảng Tin Mừng và làm việc thiện. Sau cùng tiến thẳng lên Giêrusalem, nhận lấy bản án, vác thập giá, và tiến lên đồi Can-vê để chịu chết.
Con đường Đức Kitô đi đã thay đổi lịch sử nhân loại.
Con đường Đức Kitô đi đã mang lại ơn cứu độ cho loài người.
Con đường Đức Kitô đi đã làm thỏa lòng Thiên Chúa Cha.
Con đường Đức Kitô đi đã hấp dẫn nhiều tâm hồn.
Đó cũng là con đường mỗi người chúng ta được mời gọi bước theo.
Việc nghe Chúa, đi theo Chúa dứt khoát phải làm cho chúng ta biế đổi. Biến đổi như thế nào thì thánh Phaolô đã gợi ý: “Trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô”.
Xin đan cử một thí dụ để minh họa.
Một nhóm doanh nhân đi dự một buổi họp ở Chicago. Họ đã dặn vợ con ở nhà là sẽ trở về nhà để kịp bữa tối. Nhưng rồi cứ hết việc này lại giây sang việc kia khiến cho cuộc họp kéo dài hơn dự định. Sau khi kết thúc họ đã vội vàng chạy ra phi trường cho kịp chuyến bay. Khi họ hấp tấp chạy tới cổng phi trường thì không may một người trong họ đụng vào một chiếc bàn có để một rổ táo của một cô bé đang đứng bán. Tất cả đã không dừng lại, cứ cúi đầu chạy thẳng để kịp chuyến bay. Khi đến nơi họ thở phào nhẹ nhõm. Nhưng rồi một người trong nhóm đã ý thức được mình phải làm gì để cảm thông với cô bé bán táo kia. Anh đã giơ tay ra chào các bạn và quay trở lại. Anh thấy vui vì đã làm như thế. Anh nhận ra cô bé bán táo là một cô gái mù. Anh đã thu lượm các trái táo đổ lăn trên trên lối đi. Anh nhận ra có một số trái táo đã bị dập bể. Anh liền móc túi lấy bóp ra và nói với cô bé bán táo mù đó rằng, "Đây xin cô cầm lấy 10 dollars để đền bù cho thiệt hại chúng tôi đã gây ra. Tôi hy vọng cô không buồn."
Khi người thanh niên vừa quay bước đi thì cô bé mù đó sửng sốt hỏi: "Thưa ông! Ông có phải là Chúa Giêsu không?"
Câu hỏi đó đã làm cho người doanh nhân suy nghĩ.
Bạn và tôi, chúng ta có phải là Giêsu không? Chúng ta có đi con đường Giêsu đã đi không? Chúng ta có hành xử như Giêsu đã hành xử không?
Xin được kết thúc bằng lời cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con,
xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.
Mỗi lần con thấy Chúa,
xin biến đổi ánh mắt con.
Mỗi lần con rước Chúa,
xin biến đổi môi miệng con.
Mỗi lần con nghe lời Chúa,
xin biến đổi tai con.
Xin làm cho khuôn mặt con rạng ngời hơn
sau mỗi lần gặp Chúa.
Ước chi mọi người thấy nét tươi tắn của Chúa
trong nụ cười của con,
thấy sự dịu dàng của Chúa
trong lời nói của con.
Thế giới hôm nay không cần những Kitô hữu
có bộ mặt chán nản và thất vọng.
Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm
cùng đi với Chúa và với tha nhân
trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen.
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
SUY NIỆM 3: Vinh quang Phục Sinh.
Tin Mừng được Giáo Hội cho chúng ta suy niệm hôm nay ghi lại biến cố hiển dung của Chúa Giêsu trên núi Tabo. Biến cố này diễn ra sáu ngày sau khi Chúa loan báo về cuộc tử nạn và sự phục sinh của Ngài. Các môn đệ và ngay cả những người môn đệ thân tín nhất là Phêrô, Gioan và Giacôbê, không thể hiểu và không muốn chấp nhận cuộc tử nạn của Ngài. Cho các ông chứng kiến sự hiển dung, Chúa Giêsu muốn lặp lại dưới một hình thức khác lời loan báo về cuộc tử nạn và phục sinh của Ngài. Lần này Ngài muốn xác quyết với các ông rằng để đi vào vinh quang Phục Sinh cần phải đi qua bóng tối của sự chết.
Với những ai đang trải qua bóng tối của thập giá, biến cố hiển dung của Chúa Giêsu là một nguồn nâng đỡ vô biên. Dietrick Bonhoffer, vị mục sư người Ðức đã bị giam tù vì can đảm lên tiếng chống lại chủ trương dã man độc ác của Ðức Quốc Xã. Trong tám tháng bị giam giữ, ông đã không ngừng suy nghĩ về biến cố hiển dung của Chúa Giêsu và tìm thấy được ánh sáng ngay giữa những đêm dài vô tận trong một nhà tù ở Berlin. Ngay chính buổi sáng bị đem ra hành quyết, ông đã thốt lên: "Thế là hết! Cuộc sống đã khởi đầu đối với tôi". Trong bài thơ có tựa đề Những Tiếng Thì Thầm Trong Ðêm Tối, ông đã kêu gọi: "Hỡi những người anh em, sau những đêm dài, bao lâu ngày của chúng ta chưa đến, chúng ta hãy chiến đấu".
Ba người môn đệ thân tín của Chúa Giêsu đã ngây ngất khi chiêm ngắm vinh quang phục sinh của Chúa Giêsu, nhưng ánh sáng phục sinh ấy chỉ kéo dài trong giây lát; bóng đêm đã trở lại, nhìn chung quanh, họ thấy lại Chúa Giêsu cũng như mọi người và nhất là như một tên tử tội đang tiến ra pháp trường. Nhưng chắc chắn ánh sáng phục sinh ấy đang chiếu rọi trong tâm hồn các ông.
Tất cả những ai đang sống trọn cho niềm tin của mình, tất cả những ai đang thực thi cho đến cùng sứ mệnh của các ngôn sứ đều có trong mình ánh sáng phục sinh ấy. Chính ánh sáng phục sinh ấy mang lại cho họ niềm hy vọng và can đảm để tiến tới trong đêm đen của hận thù, dối trá và đặt niềm tin tưởng mãnh liệt vào Chúa, họ có đủ lý do để có thể thấy trước sự chiến thắng của ánh sáng, của chân lý và tình yêu.
Nguyện xin Chúa nâng đỡ cho tất cả những ai đang sống cho đến cùng sứ mệnh ngôn sứ cho chân lý.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Xin được chiêm ngưỡng vinh quang Nước Chúa
(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)
Trong thời Cựu ước, Thiên Chúa hiện ra với dân Người trong đám mây, ngoài sa mạc, nơi bụi cây. Thiên Chúa hiện ra với Môsê và Êlia trong đám mây thì Ðức Giêsu cũng biến hình trong đám mây trước mặt các tông đồ trên đỉnh núi (Mc 9:2). Thời đó, đám mây được coi là biểu hiệu của việc Chúa hiện diện.
Ðức Giêsu nhận thức rằng cuộc khổ hình mà Người sắp phải chịu, sẽ để lại một kinh nghiệm đau thương cho các tông đồ nhất là cho Phêrô, Giacôbê và Gioan là những người sẽ chứng kiến cảnh khổ nạn của Người trong vườn cây dầu. Vì thế Người đem ba tông đồ liên hệ lên núi, biến hình trước mắt các ông, cho các ông thấy cảnh vinh quang của nước Chúa và để củng cố đức tin và đức cậy của các ông trong viễn tượng của cuộc khổ hình thập giá. Nếu có ai hỏi vậy thì Ðức Giêsu biến hình trên núi nào? Truyền thuyết cho rằng đó là núi Tabo nằm về phía nam xứ Galilê, cao khoảng 600 thước tây mà nhìn lên thì thấy có vẻ giốc thẳng. Thời nay người ta làm đường trôn ốc vòng quanh núi cho tài xế tắc-xi chở khách hành hương lên. Còn thời đó chắc Chúa phải dùng quyền năng thiêng liêng mà tự nâng mình lên và cất nhắc các tông đồ lên núi.
Vậy thì tại sao trong cảnh Biến hình lại có sự hiện diện của ông Môsê và Êlia (Mc 9:4)? Theo truyền thuyết Do thái giáo, thì Môsê được coi là tác giả thu thập và kết hợp của sách Ngũ kinh, tượng trưng cho giới luật; còn Êlia là một đại ngôn sứ trong Cựu ước, tượng trưng cho các ngôn sứ. Cũng theo truyền thuyết Do thái thời bấy giờ thì ông Môsê và Êlia sẽ trở lại vào cuối thời. Như vậy sự hiện diện của hai vị này có mục đích chỉ cho bộ ba tông đồ thấy rằng đạo Kitô giáo mà Ðức Giêsu sẽ thiết lập sau này, không tách biệt khỏi những gì đã được ghi chép trong Thánh kinh Cựu ước, hầu để các ông vững tâm tiến bước theo Thầy mình mà khỏi bị hoang mang nao núng.
Tương tự như cảnh Biến hình, ngôn sứ Ðanien trong một thị kiến cũng nhìn thấy một cảnh tương tự, cũng dùng từ ngữ Con Người (Ðn 7:13) như Ðức Giêsu dùng trong cảnh Biến hình. Từ ngữ Con Người mà ngôn sứ Ðanien dùng có nghĩa là một nhân vật siêu phàm nào đó (Ðn 7:13). Trong Phúc âm Ðức Giêsu dành cho mình tước hiệu Con Người (Mc 9:9), ám chỉ thiên tính cách siêu việt và cũng nhấn mạnh đến nhân tính của Người. Còn Ðấng Lão Thành mà ngôn sứ Ðanien nói đến (Ðn 7:9,14) ám chỉ về Ðấng phán ra lời: Ðây là Con Ta yêu dấu (Mc 9:7) nghĩa là Thiên Chúa Cha trong cảnh Biến hình. Như vậy ta thấy một trường hợp nữa có sự liên hệ giữa Cựu ước và Tân ước. Nói cách khác Tân ước là sự hoàn thành của Cựu ước.
Ðức Giêsu cho ba tông đồ chủ chốt là Phêrô, Giacôbê và Gioan được thấy cảnh Biến hình để các ông có thể giữ vững đức tin của chính các ông sau ngày Thứ Sáu Chịu nạn và giúp giữ vững đức tin cho các bạn đồng chí hướng. Vậy mà trong dinh thượng tế, vì khiếp sợ, ông Phêrô đã chối Thầy mình ba lần. Phúc thay cho ông Phêrô, khi nghe tiếng gà gáy, ông liền nhớ lại lời Chúa tiên báo, khiến ông: Oà lên khóc (Mc 14:72). Nước mắt ông tuôn trào ra như là ông hối hận nói với Thầy mình: Sao con có thể chối Thầy khi con xin dựng ba lều ỏ trên núi để chiêm ngưỡng cảnh vinh quang của nước Thầy mà? Rồi con còn tuốt gươm chép đứt tai tên đầy tớ của vị thượng tế để bảo vệ Thầy, mà sao giờ này con lại hèn nhát đến thế? Như vậy những thực tại của cảnh Biến hình: đám mây, áo trắng hơn tuyết, sự hiện diện của ông Môsê và ông Êlia, tiếng phán từ đám mây có mục đích giúp các tông đồ nhận thức rằng cảnh khổ hình và thập giá của Thầy mình, không phải là một thất bại, nhưng chỉ là một sự biến đổi: qua thánh giá tới phục sinh.
Sau cảnh Biến hình, Ðức Giêsu căn dặn các tông đồ không được nói cho ai biết về chuyện này cho tới khi Con Người sống lại từ cõi chết. Và các ông đã tuân giữ lời Chúa. Sau khi Ðức Giêsu từ cõi chết sống lại thì thánh Phêrô mới thuật lại cảnh biến hình trong thư gừi giáo đoàn và nhắc lại tiếng phán từ trời: Ðây là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng qúi mến (2 Pr 1:17). Ðó là tiếng Thiên Chúa Cha phán mà thánh sử Mác-cô đã thuật lại trong Phúc âm hôm nay: Ðây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người (Mc 9:7).
Trong ngày lễ Chúa Biến hình, Giáo hội muốn dạy người tín hữu hai chân lý. Thứ nhất là Ðức Giêsu có hai bản tính: một bản tính Thiên Chúa và một bản tính loài người. Thứ hai là loài người có ngày sẽ được thông phần vào vinh quang của Nước Chúa. Thật là một điều vinh dự và an ủi, khi người tín hữu mang trong mình thân xác yêu đuối, bệnh tật và rồi sẽ chết, lại có thể được chung hưởng vinh quang phục sinh trên nước trời. Thánh Phêrô trong lúc xuất thần có xin Thầy mình để được ở lại trên núi hầu được tiếp tục chiêm ngưỡng cảnh vinh quang của nước Chúa, cho tâm hồn được chìm đắm trong thiên cảnh tuyêt vời. Ông chưa nhận thức được rằng ông còn phải xuống núi đã để làm chứng cho đức tin vào Chúa, để chịu đau khổ và vác thánh giá trước khi được vào vinh quang. Và đó là đường lối của đạo Chúa: qua đau khổ thánh giá, mới tới vinh quang phục sinh. Là môn đệ Chúa, sao ta có thể đi theo con đường khác ngoài đường Chúa đã đi?
Lời cầu nguyện xin cho được chiêm ngưỡng vinh quang của nước Chúa:
Lậy Ðức Giêsu, cũng như Chúa đã biến hình
cho các tông đồ được thấy vinh quang của nước Chúa,
xin ban cho con cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa
ở đời này để con vững tâm theo Chúa
và được thấy vinh quang nước Chúa đời sau.
Xin Chúa là niềm hi vọng và là sự cậy trông của con. Amen.
SUY NIỆM 5: Hãy nghe Người.
Thánh Mác-cô kể cho chúng ta biết thân thể Đức Giê-su chiếu tỏa một thứ ánh sáng cực mạnh xuyên qua những lớp quần áo, chiếu vào đêm tối sáng choang. Trước Người Môise và Êlia đang nghiêng mình thờ lạy. Lạ lùng hơn nữa, tiếng Thiên Chúa bảo đảm sự thật cho lời dạy của Đức Giê-su: “Đây là Con Ta rất yêu dấu, hãy nghe lời Người”.
Tiếng Thiên Chúa.
Sự biến hình của Đức Giê-su mặc khải cho chúng ta sự cao cả huy hoàng của Người. Đức Giê-su là con rất yêu dấu của Thiên Chúa, là ánh sáng sinh ra bởi Thiên Chúa là ánh sáng, Ngôi Lời hằng sống của Thiên Chúa. Trong cuộc sống của Đức Giê-su, thần tính của Con Thiên Chúa bị che phủ, người ta thấy Người trước hết là một người tên là Giêsu. Biến hình mặc khải cho chúng ta biết Người là Con Thiên Chúa, nhờ tiếng Chúa phán và lời Người dạy rất đáng tin.
“Hãy nghe Người”:
Sự biến hình làm cho đức tin của chúng ta mạnh mẽ, vững chắc. Chúng ta tin Đức Giê-su là Con Thiên Chúa. Chúng ta tin Người nhờ lời chứng của các tông đồ, đó chính là lời chứng của Thánh Phêrô mà thánh Mác-cô kể lại cho chúng ta.
Nhưng chúng ta có nghe lời Đức Ki-tô không? Tai chúng ta có chăm chú nghe lời Người trong phụng vụ không? chúng ta có thể quả quyết với lòng liêm chính rằng Tin Mừng Chúa Giê-su là lương thực nuôi tinh thần, nuôi con tim chúng ta không? là thuốc bổ cho ý chí, là sức nâng đỡ lòng hy vọng của chúng ta không?
Những tin tức được báo chí, phát thanh, truyền hình, dư luận có ảnh hưởng đến phán đoán, lối cư xử của chúng ta có hơn Thiên Chúa không?
Sứ điệp của Ngài có là ánh sáng cho chúng ta biết phán đoán về hạnh kiểm của chúng ta và về những biến cố xã hội, chính trị không?
Khẫn thiết phải làm cho chúng ta tự cảm thấy luôn luôn quay về với đức tin vào Đức Giê-su Ki-tô và sống xứng đáng là Kitô hữu. Hãy làm cho chúng ta biến hình nhờ lời Chúa, để cho nước Đức Giê-su, Đấng Cứu Thế trị đến trong xã hội chúng ta.
J.M
SUY NIỆM 6: “Lạy Thầy chúng tôi được ở đây thì tốt lắm”.
Người ta không thể leo nhanh lên ngọn núi Thabor được, và chính Thabor cũng chỉ là một điểm dừng ngắn ngủi trên chặng đường đến với Thiên Chúa. Mỗi một ngày sống là một chặng đường mà chúng ta cần phải vượt qua. Nhờ vào những gì mà các tông đồ đã sống, chúng ta có thể hiểu rõ hơn chặng đường mà chúng ta cần vượt qua để đến gần với cõi vĩnh hằng hơn.
Và hôm nay trên núi Thabor chúng ta chứng kiến cuộc biến hình của Chúa Giêsu. Tại sao Ngài lại chỉ đem theo 3 Tông đồ, mà lại không đem theo thêm những người khác?
Chúng ta, là những người tin Chúa, Chúa mời gọi chúng ta tin vào Người. Tại sao Chúa lại chỉ gọi chúng ta là những người tin Chúa, mà trong khi đó biết bao người đã không tin? Chúng ta cũng là những người Chúa chọn, cũng là những người đặc tuyển leo lên núi Thabor để chứng kiến việc Chúa biến hình. Chúng ta hãy hãnh diện về ơn gọi của chúng ta và sống làm sao để đáp trả ơn gọi đó.
Ba tông đồ đã vượt qua thung lũng và đã được Chúa cho thấy vinh quang của Người trên núi Thabor. Và các ông chỉ muốn thời gian đó kéo dài, đến nỗi Phêrô đã thưa với Chúa: “Lạy Thầy, chúng tôi được ở đây thì tốt lắm, nếu Chúa ưng, chúng tôi xin làm 3 lều, một cho Thầy, một cho Môisê và một cho Êlia”.
Chúng ta cũng vậy! Có những khoảnh khắc, chúng ta cảm thấy cuộc sống sung mãn, hạnh phúc và bình yên, làm ăn phát đạt. Thế giới chung quanh và trong tâm hồn chứa đầy vẻ hài hoà. Rất có thể đó là lúc ngắm cảnh mặt trời lặn hoặc đứng trên núi chứng kiến vẻ hùng vĩ của thiên nhiên; cũng có thể là lúc rung động do một vần thơ, một giọng ca truyền cảm; cũng có thể là một cuộc gặp gỡ tình cờ,… Trong những hoàn cảnh đó chúng ta có thể thốt lên như Phêrô: “Lạy Thầy chúng tôi được ở đây thì tốt lắm”.
Nhưng dựa vào kinh nghiệm bản thân chúng ta biết rằng: không có tiệc vui nào mà lại không có lúc tàn. Có khi kéo dài dăm ba ngày, có khi chỉ trong khoảnh khắc. Sau đó tất cả lại trở về cuộc sống thường nhật.
Có lẽ những kinh nghiệm đó giúp chúng ta hiểu rõ những gì bài Tin Mừng hôm nay tường thuật. Tác giả mô tả những giây phút quí báu nhất của cuộc đời 3 môn đệ theo chân Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cùng với ba môn đệ và Người hiển dung trước mặt các ông. Trong khoảnh khắc các ông có thể cảm nhận sâu xa Đấng Cứu Thế là ai và dung nhan của Đấng Phục sinh như thế nào. Dĩ nhiên, chẳng ai muốn bỗng chốc buột khỏi tầm tay tất cả. Tất cả đều muốn nắm giữ lấy, muốn xây dựng ở đó ba lều.
Giây phút thần tiên thường hiếm có và ngắn ngủi! Thoáng chốc, Phêrô phải từ chín tầng mây trở về với cuộc sống muôn ngàn sóng gió. Ông phải học để biết rằng: những giây phút này là quà tặng của Thiên Chúa, không ai có thể giữ lấy bo bo cho mình. Ông phải từ trên núi trở về với cuộc sống thường nhật, trở về với con người và những khó khăn phải đương đầu!
Quả thật, cuộc sống con người đầy thăng trầm, và dường như chìm dần trong thung lũng tối. Ngày qua ngày, sương mù dày đặc! Chuỗi ngày kéo dài lê thê ảm đạm! Tất cả dường như vô nghĩa và tẻ nhạt!…Cũng có những giây phút con người không được yên thân, cuộc sống chao đảo, đầu tắt mặt tối với công việc. Việc này chưa xong, thì việc khác đã đứng chực ngoài cửa.
Đời sống đạo và đời sống nội tâm chúng ta từng có những kinh nghiệm như thế. Cũng chính vì vậy mà người ta thất vọng, xao nhãng công việc của cộng đoàn, bỏ luôn cả kinh hạt lễ lạy. Họ nghĩ rằng lễ lạy và kinh hạt cũng thế thôi. Làm ban hành giáo có được gì đâu, mà chỉ thấy kinh tế gia đình mình càng sa sút.
Trong hoàn cảnh này điều cần thiết nhất là nhớ đến những phút giây thiêng thánh nhất trong đời. Đó là những ngày tĩnh tâm, những giờ chầu Mình Thánh, những giây phút chìm lắng trong thinh lặng giúp chúng ta tái khám phá ra ý nghĩa đích thực của đời sống ơn gọi làm người, ơn gọi tu trì: một cuộc sống sung mãn, hạnh phúc thành công. Chúng ta cần những giây phút thần tiên ấy để giữ gìn cái nhìn toàn diện về cuộc sống. Thiên Chúa hứa đồng hành với chúng ta, đứng về phía chúng ta khi thành công cũng như lúc thất bại, khi vui cũng như lúc buồn tủi.
Điều quan trọng chính là kinh nghiệm trong cuộc sống thường nhật: tìm cho chính mình một mảnh thiên đàng tại thế. Thabor trước tiên không phải là một nơi chốn, nhưng là sự kiện có thể xẩy ra bất cứ ở đâu trong hoàn cảnh nào. Chúng ta chỉ có thể khám phá ra khi chúng ta sẵn sàng cởi mở tấm lòng tiếp nhận: một cuộc gặp gỡ vô tình, một vẻ đẹp của thiên nhiên, một khoảnh khắc yên tĩnh, một lời khen tặng, một thành công nhỏ, một sự dấn thân cho họ đạo, một kinh nghiệm trong đời sống cầu nguyện. Những lúc chúng ta cảm thấy cuộc đời này còn có nhiều thứ quí báu hơn, chúng ta phải ra sức bảo vệ, duy trì như những kho tàng vô giá trong ký ức. Những kinh nghiệm đó giúp chúng ta thêm can đảm và hăng hái dù phải gặp hoạn nạn éo le. Nhờ đó chúng ta tin rằng Thiên Chúa sẽ dẫn đưa chúng ta tới đích điểm tốt đẹp, là Thiên Đàng, là Thabor Vĩnh Cửu!
Lm.Gioan Đặng Văn Nghĩa
SUY NIỆM 7: Biến hình.
Để một chú rắn con có thể lớn lên, nó phải “thay hình” và “đổi dạng”, phải đau đớn loại bỏ lớp da cũ kỹ, phải “lột xác” để mặc lấy bộ áo mới và trưởng thành hơn.
Đời sống tâm linh của chúng ta cũng vậy. Nếu muốn phát triển và lớn lên mãi trong tình nghĩa với Chúa, chúng ta cũng phải như chú rắn kia. Chúng ta phải can đảm hy sinh chấp nhận mọi đớn đau trong sự “biến hình” và “đổi dạng”, phải từ bỏ những cằn cỗi, già nua của lớp da cũ kỹ là thói tham sân si, ghen ghét, hận thù, bất công, vu oan, cáo vạ,… đồng thời ta phải “thay đổi” nếp sống để trở nên tốt hơn.
Vinh quang mà thánh Phêrô, Giacôbê và Gioan được cảm mến khi chứng kiến Đức Giêsu biến hình cũng sẽ là vinh quang của chúng ta mai này, nếu chúng ta trung thành bước theo Chúa, và chấp nhận những khó khăn do việc biến đổi đời sống theo tinh thần Tin Mừng.
Nhưng liệu vinh quang ấy có đủ sức hấp dẫn chúng ta vượt qua mọi thử thách, mọi cám dỗ, mọi cạm bẫy trong cuộc đời để đi trọn con đường mà Chúa mời gọi chúng ta đi vào hay không?
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã biến hình trên núi như một khởi điểm cho sự biến đổi bản thân con. Xin Chúa biến đổi con nên đồng hình đồng dạng với Chúa. Amen.
(Suy niệm Tin Mừng hằng ngày)
SUY NIỆM 8: Trông mặt mà bắt hình trong
Người ta vẫn thường nói nửa đùa nửa thật với nhau rằng: “trông vậy mà không phải vậy”. Mội lời nói đơn sơ nhưng đầy triết lý cuộc sống.
Có những người “đẹp người nhưng xấu nết”. Có những người miệng nói “nam mô nhưng lại một bồ dao găm”. Có những người bên ngoài làm biết bao điều thiện nhưng chỉ là tìm hư danh. Có biết bao điều diễn ra trước mắt nhưng thực hư lại càng khó phân biệt phải trái, đúng sai.
Nhà văn Pháp Pécaut đã kể một câu chuyện thật cảm động mà chính ông vẫn ân hận mỗi khi nhớ lại chuyện xưa. Ong kể rằng: Một hôm, thằng bé trai bán diêm quẹt cứ van nài ông mua giúp em một hộp diêm quẹt. Động lòng thương ông rút ví ra định mua, nhưng khổ nỗi trong túi chỉ có toàn tiền chẵn. Ông đang ngần ngại thì thằng bé nói ngay: “Không sao ông ạ, xin ông cứ vui lòng đưa tiền cho cháu, cháu sẽ chạy đi tìm chỗ đổi tiền rồi trả lại cho ông”. Thằng bé cầm tiền và chạy biến ngay về hướng cuối phố. 5 phút trôi qua, rồi 10 phút, chẳng thấy bóng dáng thằng bé quay trở lại trả tiền. Ông thất vọng và nghĩ rằng sẽ chẳng bao giờ còn tin vào những bọn lêu lổng đầu đường xó chợ như thế nữa. Cho tới chiều tối, ông lại thấy một đứa bé hơn nữa, chỉ độ 8, 9 tuổi, khuôn mặt giống thằng ăn cắp như tạc. Nét mặt nó bộc lộc sự lo âu tuyệt vọng. Nó thổn thức nói với ông: “Thưa ông, có phải ông đã đưa cho anh cháu một đồng tiền vàng không ạ? Đây là chỗ tiền lẻ. Chính anh cháu nhờ gửi lại cho ông. Chúng cháu đều là trẻ mồ côi nhưng không phải là bọn ăn cắp. Anh cháu không thể trao tận tay ông ngay lúc sáng là vì anh cháu đã bị xe đụng khi vội chạy đi tìm chỗ đổi tiền”. Nghe tin đó, ông đã vội vàng cùng thằng em đến gặp thằng anh đang nằm thoi thóp ở xó nhà. Vừa thấy ông thằng bé đã nói: “Em cháu đã đưa tiền lẻ cho ông rồi phải không ạ? Ông thấy không, chúng cháu đâu có phải là những đứa lừa gạt và ăn cắp”. Ông hối hận vì đã nghi oan cho một đứa trẻ thơ ngây.
Có thể sự gian dối của thế gian đã làm ông không thể có cái nhìn tích cực về những gì đang diễn ra xung quanh. Ông không thể hình dung rằng: ở giữa cảnh đời nghèo khó và đau khổ đến cùng cực này mà em bé vẫn giữ được tấm lòng ngay thẳng thật thà. Em đã chết trong danh dự, còn ông đã chết trong sự xét đoán mù quáng của mình.
Đôi khi trong cuộc sống, chúng ta thường dễ dàng kết án người khác khi chưa tìm hiểu nguyên nhân, đã bao lần chúng ta nhìn người ăn xin ở chợ, một em bé bán vé số bên đường, một người áo quần rách nát bằng ánh mắt nghi ngờ, tẩy chay.
Dù biết rằng “chiếc áo dòng không làm nên thầy tu”, thế mà, chúng ta vẫn nhìn những người lịch sự, giầu có, chức cao quyền trọng bằng ánh mắt kiêng nể, kính phục; và một ánh mắt nghi ngờ, khinh bỉ, dè bỉu dành cho những ai bên ngoài rách rưới, bẩn thỉu.
Xã hội hôm nay, người ta đang có chủ trương “thà nghi lầm còn hơn tin lầm”, hay tệ hơn nữa là “giết lầm hơn bỏ sót”. Một xã hội đang mất dần vẻ thân thiện yêu thương bởi sự đa nghi dẫn đến xa lạ và dửng dưng.
Chúa Giêsu ngày xưa cũng bị những con người đương thời nhìn bằng ánh mắt nghi ngờ. “Làm sao ông này có thể làm được chuyện đó? Ông ta cũng chỉ là một bác thợ mộc nghèo nàn miền Nagiaret thôi mà. Có gì đáng kính phục đâu!”. Họ đã không thể nhận ra ở bên trong sự bình dị đó, chính là một vì Thiên Chúa đang đồng hành với con người. Một vì Thiên Chúa đã từ bỏ tất cả để mặc lấy xác phàm đến nỗi họ không thể nhận ra sự thật về một Giêsu miền Nagiarét lại là Đấng Emanuel, Đấng của Lời Hứa ban cho trần gian. Từ chỗ không nhận ra đến khinh khi coi thường và đỉnh cao là kết án, loại trừ.
Chúa Giêsu đã nhìn thấy trước những sóng gió mà các tông đồ sẽ phải trải qua trong cuộc đời theo Chúa và cuộc sống làm chứng nhân cho Chúa sau này. Ngài đã tỏ rõ dung nhan thật của Ngài là Thiên Chúa qua việc hiển dung trên núi Tabor. Với sự chứng giám của Môi-sê và Elia là hai đại diện của các tổ phụ và các tiên tri, họ là những con người đã nỗ lực chuẩn bị cho Đấng cứu thế đến trần gian. Hôm nay họ xuất hiện như một chứng nhân cho sự thật về con người Giêsu Nagairet chính là Đấng muôn dân đang mong chờ.
Ngày hôm nay, Giêsu Nagiaret đó vẫn đang hiện diện giữa chợ đời hôm nay. Ngài có thể là một bác nông dân nghèo khó, một cụ bà côi cút sống cô độc nơi ngôi nhà rách nát nghèo nàn. Ngài có thể là một anh, một chị công nhân đang đổ mồ hôi trên công trường, trong nhà máy. Ngài vẫn đang hiện diện nơi những người nghèo khổ, bần cùng trong xã hội hôm nay. Ngài đang cần chúng ta đón nhận trong yêu thương huynh đệ, trong bác ái cảm thông. Vì chính Ngài đã từng đồng hoá mình với những con người bần cùng, nghèo khó đó. Ngài đã từng hứa ân thưởng cho những ai chia sẻ với ngài một ly nước khi khát, một chén cơm khi đói. Một chiếc áo để che thân thể, một cái mền để đắp khi trời lạnh đêm đông.
Xin Chúa cho chúng con trái tim của Chúa, để có thể nhìn thấy Chúa qua những người bị xã hội khi chê, ruồng bỏ. Xin cho chúng con cái nhìn của Chúa để nhìn vào tâm hồn nơi một người chứ không chỉ dừng lại ở dáng vẻ bên ngoài. Xin cho chúng con biết mở lòng với những người thấp bé, nghèo khổ vì Chúa đang nói với chúng con qua những con người nhỏ bé đó. Amen.
(Lm.Jos Tạ duy Tuyền)
05/08 Chìa khóa nước trời
- Viết bởi Mt 16, 13-23
Chìa khóa nước trời.
Thứ Năm đầu tháng, tuần 18 thường niên.
"Con là Đá, Thầy sẽ ban cho con chìa khoá nước trời".
Lời Chúa: Mt 16, 13-23
Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt thành Cêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: "Người ta bảo Con Người là ai?" Các ông thưa: "Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó". Chúa Giêsu nói với các ông: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?" Simon Phêrô thưa rằng: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". Chúa Giêsu trả lời rằng: "Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo cho con biết: Con là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá Nước trời. Sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở". Bấy giờ Người truyền cho các môn đệ đừng nói với ai rằng Người là Đức Kitô.
Kể từ đó, Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho các môn đệ thấy: Người sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ lão, luật sĩ và thượng tế, phải bị giết, và ngày thứ ba thì sống lại. Phêrô kéo Người lại mà can gián Người rằng: "Lạy Thầy, xin Chúa giúp Thầy khỏi điều đó. Thầy chẳng phải như vậy đâu". Nhưng Người quay lại bảo Phêrô rằng: "Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy: con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Anh là tảng đá
Suy niệm:
Chúng ta đã quen cầu nguyện cho Đức giáo hoàng với bài hát:
“Này con là đá, trên viên đá này Ta xây Giáo hội…”
Theo Tin Mừng Gioan, ngay từ lần đầu gặp gỡ (Ga 1, 42),
Đức Giêsu đã đặt cho anh Simon một tên mới: Kêpha, nghĩa là Đá.
Trong bài Tin Mừng bằng tiếng Hy Lạp, Đức Giêsu nói với Simon:
“Anh là Petros (Phêrô), và trên petra (đá) này, Thầy sẽ xây Giáo Hội Thầy.”
Rất có thể Ngài đã nói với Simon bằng tiếng Do Thái thời của Ngài như sau:
“Anh là Kêpha, và trên kêpha này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy.”
Người Do Thái hầu như không có thói quen đặt tên con là Đá, Kêpha.
Khi đặt cho Simon cái tên lạ, Đức Giêsu đã muốn trao sứ mạng cho anh.
Anh sẽ là nền cho ngôi nhà mới của Thầy, do tay Thầy xây dựng (c. 18).
Ngôi nhà ấy chính là Giáo hội, là cộng đoàn giao ước mới do Thầy lập nên.
Chúng ta rất ngạc nhiên vì Đức Giêsu muốn đặt nền trên Kêpha (Phêrô),
một con người bình thường, một ngư phủ ít học.
Làm sao Giáo hội có thể xây nền trên một con người yếu đuối như thế?
Kêpha vững như bàn thạch không nhờ sức riêng, nhưng nhờ ơn Chúa.
Quyền lực của Tử thần, của Ác thần không thắng được cộng đoàn này.
Bất chấp những tấn công trong ngoài từ hai mươi thế kỷ qua,
Giáo hội vẫn đứng vững trên nền đá Phêrô, anh ngư phủ vùng Galilê,
đơn giản vì Chúa phục sinh vẫn luôn ở với Giáo hội (Mt 28, 20),
và vẫn tiếp tục xây dựng Giáo hội của Ngài trong sự thăng trầm của lịch sử.
Nhưng Phêrô cũng có những yếu đuối của mình.
Khi Thầy Giêsu loan báo về con đường khổ nạn và cái chết sắp đến,
Phêrô không thể chấp nhận được con đường hẹp này.
Dù đã được Cha mặc khải để biết Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa,
nhưng Phêrô lại chưa thể hình dung được một đấng Kitô thất bại ê chề.
“Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy” (c. 22).
Nếu Thầy là Con Thiên Chúa, thì Cha chẳng để Thầy phải chịu như vậy.
Trong phút chốc, từ Đá Tảng vững chắc (kêpha, petra)
Phêrô trở thành viên đá làm cho Thầy vấp phạm (scandalon),
trở thành cơn cám dỗ lớn cho Thầy đến từ Satan (c. 23).
Đức Giêsu đã phản ứng mạnh mẽ đối với anh môn đệ mà Ngài tin tưởng.
“Lui đi sau Thầy!”: Ngài nói giống như lần bị cám dỗ bởi Satan (Mt 4, 10).
Ngài muốn Phêrô trở lại vị trí đi sau của người môn đệ.
Cần có thời gian Phêrô mới hiểu được con đường Thầy đã đi.
và tự nguyện đón lấy cái chết thập giá mà chính Thầy đã chịu.
Cám dỗ tránh con đường hẹp của khổ đau, nhục nhã, thất bại, khó nghèo
là cám dỗ muôn thuở mà Thầy Giêsu và anh Phêrô đã trải qua,
cũng là cám dỗ muôn thuở của Giáo hội mọi thời.
Làm thế nào để chúng ta nghĩ như Thiên Chúa, chứ không như thế gian,
chọn sự ngu dại của Thập Giá hơn là sự khôn ngoan người đời (x. 1 Cr 1, 25)?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
Xin nhìn đến Hội Thánh của Chúa trên khắp hoàn cầu,
Hội Thánh Chúa đã lập bằng rất nhiều tình yêu.
Xin nhìn đến những nơi thiếu nhà thờ, cần chủ chăn,
những đồng lúa chín vàng chờ người gặt.
Xin nhìn đến những thánh đường vắng bóng giáo dân,
những chủng viện và tập viện phải đóng cửa vì thiếu ơn gọi.
Xin thương những kitô hữu đang bị bách hại ở nhiều nơi,
và bao người trẻ mất đức tin, mất niềm hy vọng vào Chúa.
Lạy Chúa Giêsu,
Hội Thánh sau hai ngàn năm đã lớn mạnh hơn nhiều,
nhưng vẫn bị đe dọa bởi bao sóng gió bên ngoài và bên trong.
Xin cho Hội Thánh biết không ngừng canh tân nhờ Thánh Thần,
để có thể đồng hành và đối thoại với con người hôm nay.
Xin cho các kitô hữu sống thánh thiện như Cha trên trời.
để những khiếm khuyết của chúng con khỏi làm cớ cho nhiều người bỏ Chúa.
Cuối cùng, xin Chúa cho Hội Thánh chúng con những vị thánh mới,
tươi tắn, khiêm hạ và nhân từ như Chúa,
để cuộc sống ngát hương của họ khiến Hội Thánh đáng tin hơn,
và chinh phục được những tâm hồn chưa biết Chúa.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: Khắc ghi trong tâm hồn
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Dân Do thái là dân cứng đầu cứng cổ. Dù đã chứng kiến biết bao việc lạ Chúa làm và thấy Mô-sê thực hiện biết bao điềm thiêng dấu lạ, nhưng cứ mỗi lần gặp thửu thách họ lại bộc lộ niềm tin yếu kém. Họ than van kêu trách. Họ đòi hỏi thoả mãn nhu cầu tức khắc. Họ sống theo xác thịt. Họ chưa có Thần Khí. Họ gây áp lực khiến Mô-sê cũng mất tinh thần mà chao đảo niềm tin. Lề Luật mới được ghi khắc vào bia đá. Chưa ghi trong tâm hồn. Nên lòng họ còn chai đá (năm lẻ).
Chúa mong muốn con người tiến sâu và xa hơn trong tình yêu Chúa. Chúa mong muốn họ sống theo Thần Khí chứ không theo xác thịt. Chúa muốn ghi khắc Lề luật vào trái tim chứ khôgn vào bia đá. Để họ tự mình nhận biết Chúa không cần phải có ai dạy dỗ. Chúa quyết định khơi lên trong trái tim họ lòng tin yêu đích thực. Đó là giao ước mới: “Đây là giao ước mới ta sẽ ký với nhà Ít-ra-en sau những ngày đó. Ta sẽ đặt Lề Luật của Ta trong đáy lòng chúng, và sẽ ghi trong tâm hồn chúng. Ta sẽ là Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân của Ta” (năm chẵn).
Khi Chúa Giê-su đến đã hứa ban Thần Khí. Để con người được Thiên Chúa hướng dẫn. Để con người sống trong thân tình với Thiên Chúa. Có xác tín riêng. Không phải sống hời hợt bên ngoài, dựa dẫm theo đám đông. Chính vì thế Chúa hỏi từng môn đệ: “Còn các con, các con bảo Thầy là ai”. Không thể chạy theo dư luận. Phải có xác tín riêng. Và chính Chúa Cha đã soi sáng cho thánh Phê-rô để ông đại diện các tông đồ tuyên xưng: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Tuy nhiên để được Thần KHí soi sáng hướng dẫn, con người cần từ bỏ mọi suy nghĩ và hành xử theo xác thịt. Phê-rô chưa thoát khỏi xác thịt. Trong một phút để xác thịt chi phối ông đã sai lầm. Cũng như Mô-sê, Phê-rô còn một chút yếu đuối. Mô-sê cũng suốt đời kiên vững, nhưng vẫn còn một phút giây chao đảo. Chỉ có Chúa Giê-su tràn đầy Thần KHí. Tình yêu mến Chúa Cha tràn ngập trong tâm hồn. Nên Chúa Giê-su không phút giây nào không tuân hành thánh ý Chúa Chá. Vì thế Chúa trở nên người Con Yêu Dấu hằng đẹp lòng Chúa Cha. Đó là khuôn mẫu của chúng ta.
Hãy noi gương Chúa Giê-su luôn để Thần Khí hướng dẫn mọi suy nghĩ, lời nói, việc làm. Ta sẽ biết chu toàn thánh ý Theien Chúa. Sẽ trở nên con người mới. Của giao ước mới. Hoàn toàn thuộc về Chúa. Là dân của Chúa. Là con của Chúa.
SUY NIỆM 3: Vác Thập Giá Theo Chúa Giêsu
Có lẽ chúng ta quá quen thuộc với hình ảnh của Thập giá. Nơi nào có người Kitô hữu thì nơi đó có Thập giá. Vào thời Chúa Giêsu, Thập giá là một cực hình làm cho con người khiếp sợ, tủi hổ. Hằng ngày, người Do thái chứng kiến cảnh các tội nhân vác những khúc gỗ lớn tuần hành qua các khu phố trước khi đến Núi Sọ; những khúc gỗ sần sùi ấy sẽ được sử dụng để treo chính các tội nhân.
Chúa Giêsu đã loan báo về cái chết của Ngài, đồng thời mời gọi các môn đệ Ngài cũng hãy vác Thập giá của mình để tiến bước theo Ngài. Theo Chúa Giêsu, đó là lời mời gọi cốt yếu của Kitô giáo. Vì sự nghiệp, vì lý tưởng, người ta có thể hy sinh mạng sống của mình. Một người vô tín ngưỡng có thể vì lý tưởng dám hy sinh tất cả cuộc đời của mình; thế nhưng điểm chính yếu của Tin Mừng lại là một con người, đó là Chúa Giêsu Kitô. Ðời sống Kitô giáo chỉ có thể là đời sống, nếu nó được tiếp tục nuôi dưỡng bởi con người Chúa Kitô như là nguồn mạch của sự sống.
Chúng ta ghi dấu Thánh giá trên người chúng ta, chúng ta mang Thánh giá trong người chúng ta, đó không là dấu hiệu của sự chết, nhưng là biểu dương của một sức sống của Ðấng đã chết, đã phục sinh và đang tác động trong chúng ta. Nói như thánh Phaolô: "Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi". Chúa Kitô sống trong chúng ta để tiếp tục và hoàn tất công trình cứu rỗi của Ngài. Chúa Kitô đã vác Thập giá và đã chết một lần, cuộc Tử nạn ấy cần phải đươc tiếp tục qua các Kitô hữu. Cũng chính thánh Phaolô đã nói: "Tôi cần phải bổ khuyết những gì còn thiếu sót trong cuộc tử nạn của Chúa Kitô".
Thập giá đang được vẽ lại dưới muôn nghìn hình thức. Chúa Kitô đang tiếp tục vác Thập giá với những người đang bị giam giữ một cách bất công, những người bị tước đoạt quyền sống, những người bị tra tấn và hành hạ. Chúa Kitô đang tiếp tục cuộc tử nạn của Ngài qua con người chúng ta. Người Kitô hữu chịu gian khó thử thách vì ý thức rằng Chúa Kitô đang sống trong chúng ta.
Xin cho Lời Chúa và sức sống của Chúa nâng đỡ chúng ta, để giữa những đau khổ, thử thách của cuộc sống hiện tại, chúng ta luôn kiên vững và an vui.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Trưởng Thành Trong Ðức Tin
Chúng ta hãy chú ý đến thái độ sống của hai nhân vật nổi bật trong đoạn Phúc Âm hôm nay là Chúa Giêsu và tông đồ Phêrô. Trước khi mạc khải rõ ràng hơn về vận mệnh phải chịu đau khổ của mình, Chúa Giêsu khơi dậy lòng tin của các môn đệ đã từng sống với Ngài, nghe lời Ngài giảng dạy, thấy những việc lạ Ngài làm qua câu hỏi: "Dân chúng nghĩ Con Người là ai? Và các con, thì các con nghĩ như thế nào?". Sau lời tuyên xưng của Phêrô: "Thầy là Chúa Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống", Chúa Giêsu nói về quyền đứng đầu của Phêrô, về sự đau khổ Chúa sẽ phải chịu tại Giêrusalem để các môn đệ đừng có những hy vọng không đâu. Sai lầm! Cần khám phá ra thực thể của Chúa để theo Chúa cách trọn vẹn. Mạc khải của Chúa không hòa hợp được với quan niệm còn trần tục, chưa được thanh tẩy của Phêrô. Vì thế, ông đã căn ngăn Chúa: "Thưa Thầy, làm sao như vậy được. Xin cho chuyện khổ này đừng xảy ra cho Thầy". Và Phêrô đã bị khiển trách: "Satan, hãy lui ra khỏi mắt Ta". Trước đó không lâu, Phêrô được khen, nhưng liền sau đó là bị khiển trách vì ông chưa được thanh luyện. Dĩ nhiên, vào thời điểm này, tông đồ Phêrô và những tông đồ khác còn cần ơn Chúa Thánh Thần soi sáng để tin trọn vẹn vào một Vị Thiên Chúa chấp nhận khổ đau, chịu chết cách nhục nhã rồi sẽ sống lại. Phêrô và các môn đệ còn cần ơn Chúa Thánh Thần để được ơn Chúa dẫn đến sự thật trọn vẹn và làm chứng cho Chúa.
Lạy Chúa,
Xin thương giúp con được trưởng thành trong đức tin. Xin cho con được biết đúng và chấp nhận Chúa cách trọn vẹn. Xin cho con được theo Chúa đến cùng.
SUY NIỆM 5: Phêrô Của Đức Giêsu
Đức Giêsu lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Simon Phê-rô thưa: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.” Đức Giêsu nói với ông: “Này anh Simon con ông Gio-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên Tảng Đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy trao cho anh chìa khóa Nước Trời: Dưới đất, anh cầm buộc điều gì, thì trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì thì trên trời cũng tháo cởi như vậy.” (Mt. 16, 15-19)
Sự tuyên xưng đức tin của Phê-rô, Đức Giêsu chọn Phê-rô đứng đầu Giáo Hội Người, sự trao đổi giữa Phê-rô và Đức Giêsu, điều đó rất rõ, người ta viết nhiều về điều đó! điều đáng chú ý nữa là bạn thâm sâu và trưởng thành cũng như lòng tin cậy giữa Phê-rô và Đức Kitô luôn bền vững.
Phê-rô.
Phê-rô được Đức Giêsu chọn đứng đầu. Người ta thấy luôn luôn gần gũi Đức Giêsu như một nhân vật giữ gìn chìa khóa. Đức Giêsu luôn quan tâm đến giây phút cuối cùng, Phê-rô có nhiều lầm lỗi, tuyên bố quá đáng, phản kháng mạnh mẽ, những vui vẻ chất phát hào phóng và có thiện cảm kỳ lạ. Ông yêu mến Đức Giêsu! Cảm phục Người không chút dè dặt. Đức Giêsu yêu mến ông vì sức mạnh mẽ tự nhiên này, Người hoàn toàn tín nhiệm ông. Chính ông là nền tảng Đức Giêsu xây đá Hội Thánh, chính ông được Đức Giêsu trao chìa khóa Nước Trời, khi Đức Kitô nói với các môn đệ, Phê-rô đã tự mình làm xướng ngôn viên, ông đã phát biểu: “Thầy là Con Thiên Chúa Hằng Sống” chính ông hiểu ra ông sẽ là người đầu tiên bước theo gót của Thầy.
Không có những ủy mị hào phóng.
Thật ngồ ngộ, vui vui, và thật cảm động! khi Đức Kitô loan báo về việc khổ nạn và cái chết của Người, Phê-rô phản đối Người! Chớ dại, sao lại đi nộp mình vào tay quân thù!
Đức Giêsu và Phê-rô được các môn đệ và đám đông vây quanh. Hai người không bước đồng hành với nhau, nhưng tháp tùng nhau, hai người sát cánh nhau đến cùng!
Đức Giêsu đến lượt Người phải quay lại khiển trách Phê-rô. Người quở mắng thẳng thừng bạn đồng hành thứ nhất của mình, bạn tri ân, bạn đáng tin cậy nhất của mình.
Một tình bạn không chịu cho người khác hòa giải, cũng không ủy mị hào nhoáng. Nếu người ta muốn biết quy tắc của tình bạn, chúng ta chỉ mở Tin Mừng ra và đồng hành với Đức Giêsu và Thánh Phê-rô đã sống làm bạn với nhau là quá đủ.
J.M
SUY NIỆM 6: CẦN TUYÊN XƯNG ĐỂ ĐÓN NHẬN SỨ VỤ (Mt 16, 13-23)
Xem lại CN 21 TN A,
lễ kính Toà Thánh Phê-rô 22/2, lễ thánh Phê-rô và Phao-lô 29/6
"Người ta bảo Con Người là ai?".
Tại sao Đức Giêsu lại hỏi các môn đệ như vậy? Câu hỏi này của Đức Giêsu có ý gì?
Thưa vì những lý do sau:
Thứ nhất, Ngài và các môn đệ đang ở vùng Cêsarêa Philipphê, đây là vùng đất của dân ngoại. Địa danh này còn được biết đến là một trung tâm thờ thần Baan. Nơi đây cũng có thể là nơi “chôn nhau cắt rốn” của thần Hylạp có tên là Panias - thần thiên nhiên.
Dân chúng ở đây, trong tâm thức của họ, Đức Giêsu chỉ là một nhân vật vĩ đại và thuần túy, hay chỉ là người tiếp nối quá khứ truyền thống các tiên tri mà thôi. Sẵn có lối suy nghĩ như vậy, nên họ không hiểu rõ sứ vụ Thiên Sai của Đức Giêsu. Vì thế không lạ gì khi được hỏi về dư luận trong dân chúng về mình, các môn đệ đã thông tri cho Đức Giêsu biết: "Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó". Khi nghe thấy như thế, Đức Giêsu không thỏa mãn với câu trả lời đó, nên đã hỏi trực tiếp các môn đệ: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?". Phêrô đã thay mặt anh em lên tiếng: "Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống".
Khi Phêrô tuyên xưng điều đó, có lẽ ông cũng không hiểu hết, bởi vì mầu nhiệm này quá sức của ông và các môn đệ khác.
Quả thật, “Đấng Kitô” mà Đức Giêsu muốn các môn sinh của mình hiểu ở đây không chỉ đơn thuần theo nghĩa là Đấng được Thiên Chúa sinh ra, mà còn là người hành động như Thiên Chúa, ngang bằng với Thiên Chúa. Còn “Con Thiên Chúa hằng sống ”, tức Ngài là Đấng tự hữu và tự tồn tại, vì thế “Ngài ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế”.
Thứ hai, đây là dịp để Đức Giêsu trắc nghiệm niềm tin của các môn đệ vào mình, bởi lẽ không thể trao phó một trách nhiệm quan trọng mang tính trường tồn cho một kẻ kém tin và không hiểu biết gì về Người Trao.
Vì vậy, khi Phêrô tuyên xưng niềm tin, ngay lập tức, Ngài đã đổi tên của ông là Simon thành Phêrô và giải thích là “Đá Tảng”, đồng thời, Ngài cũng đặt gánh nặng lên vai Simon Phêrô: “Trên tảng đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” và “Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy".
Khi nói Phêrô là “Đá Tảng”, Đức Giêsu cho biết, đây là một thực tại chắc chắn, không lay chuyển, không thay đổi.
Thứ ba, khi đặt Phêrô làm “Đá Tảng” để xây dựng Giáo Hội, Đức Giêsu muốn chúng ta tin rằng:
Giáo Hội được Ngài thiết lập trên “Đá Tảng” là Phêrô, và chúng ta là người được ở trong tòa nhà đó, hẳn chúng ta phải xác tín rằng: “quyền lực tử thần sẽ không phá nổi”.
Thật vậy, trải qua biết bao thế kỷ, Giáo Hội luôn đứng vững trước sự công phá của ma quỷ, không những thế, Giáo Hội còn giải thoát con người khỏi ách của tội lỗi... và sự chết.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay muốn mời gọi chúng ta hãy vững tin vào Đức Kitô, vì “Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống”. Tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa nơi Bí tích Hòa Giải. Vâng phục, yêu mến đấng thay mặt Chúa, kế vị Thánh Phêrô là Đức Giáo Hoàng. Đồng thời luôn biết thể hiện tinh thần hiệp thông để xây dựng Giáo Hội của Chúa trên trần gian này, hầu cho nhiều người nhận biết “Ðức Kitô, là Con Thiên Chúa hằng sống". Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 7: Chúa Giêsu là ai?
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Sau một thời gian giảng dạy và làm nhiều phép lạ, Đức Giêsu muốn biết người ta nghĩ sao về mình và Ngài cũng muốn hỏi các Tông đồ nghĩ sao về Ngài.
Dân chúng biết mù mờ về Đức Giêsu bởi họ không chú ý đến giáo huấn của Ngài. Lúc này đã gần đến giờ của Đức Giêsu, giờ Ngài sắp bước vào cuộc Thương khó – đỉnh cao của chương trình cứu chuộc nhân loại. Ngài muốn các môn đệ xác tín lập trường của mình, để các ông can đảm theo Ngài. Chúng ta cũng không thể biết Đức Giêsu là ai, nếu chúng ta không quan tâm học hỏi và khám phá. Không biết Đức Giêsu là một thiệt thòi lớn lao. Vì chỉ khi biết Đức Giêsu, chúng ta mới đạt được nguồn bình an và hạnh phúc vĩnh cửu.
2. Có nhiều câu trả lời về Chúa Giêsu: người thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó. Mọi câu trả lời đều nói lên phần nào sứ mệnh của Chúa, nhưng chưa đúng hẳn, tức là dân chúng chỉ coi Chúa Giêsu là một tiên tri, tức là một người được Thiên Chúa sai đến để dọn đường cho Đấng Thiên Sai, chứ chưa phải là Đấng Thiên Sai. Vì thế, chỉ với câu trả lời của ông Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, Chúa Giêsu mới hoàn toàn bằng lòng, tức là ông Phêrô tuyên xưng Chúa là Đấng Thiên Sai. Quả thực, tin nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa hằng sống là diễn tả được cả sứ mạng lẫn con người của Ngài.
3. Lời đáp trả của Phêrô quả là một lời tuyên xưng: “Ngài là Đức Kitô” tức là Đấng Thiên Chúa sai đến để giải phóng dân tộc. Tuy nhiên chúng ta thấy, trong cái nhìn của Phêrô và phù hợp với giấc mơ chung của các ông, thì Đức Kitô mà các ông mong đợi là Đấng sẽ đánh đuổi ngoại xâm và biến đất nước thành một vương quốc cường thịnh.
Chính vì thế, khi Chúa Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn Ngài phải trải qua, Phêrô đã can gián Ngài. Tuyên xưng một Đức Kitô Cứu Thế mà không chấp nhận con đường thập giá, Chúa Giêsu gọi đó là thái độ của Satan. Ba cám dỗ của Satan đối với Chúa Giêsu đều qui về một mối là khước từ con đường Thập giá. Do đó, khi Phêrô can gián Ngài từ bỏ ý định cứu rỗi bằng con đường Thập giá, Ngài đã gọi Phêrô là Satan.
4. Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống và được Ngài khen là người có phúc. Tuy nhiên, ông không thể chấp nhận Đấng Kitô phải chịu đau khổ và chịu chết như thế được. Cũng như bao người Do thái khác, Phêrô mong đợi một Đấng Kitô như là một vị vua trần thế nắm quyền lực chính trị, giải phóng Israel khỏi ánh thống trị Rôma, làm bá chủ thế giới. Nhưng đường lối của Chúa thì khác, con đường hiến thân phục vụ: “Con người đến không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ và hiến mạng sống làm giá cứu chuộc muôn người” (Mc 10,45) (5 phút Lời Chúa).
4. Phêrô và các môn đệ chỉ hiểu được sứ mệnh của Chúa Giêsu khi Ngài từ trong kẻ chết sống lại. Đấng Kitô là một danh hiệu gắn liền với Thập giá. Mang danh hiệu Kitô, tuyên xưng Đức Kitô cũng có nghĩa là chấp nhận đi theo con đường của Ngài. Phêrô và các môn đệ đã sống đến tận cùng lời tuyên xưng của các ông. Tất cả đều lặp lại cái chết khổ hình của Đức Kitô.
Chúng ta ghi dấu Thánh giá trên người chúng ta, chúng ta mang thánh giá trong người chúng ta, đó không là dấu hiệu của sự chết, nhưng là biểu dương của một sức sống của Đấng đã chết, đã phục sinh và đang tác động trong chúng ta. Nói như thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”. Chúa Kitô sống trong chúng ta để tiếp tục và hoàn tất chương trình cứu rỗi loài người. Chúa Kitô đã vác Thập giá và đã chết một lần, cuộc Tử nạn ấy cần phải được tiếp tục qua các Kitô hữu. Cũng chính thánh Phaolô đã nói: “Tôi cần phải bổ khuyết những gì còn thiếu sót trong cuộc tử nạn của Chúa Kitô (Mỗi ngày một tin vui).
5. Truyện: Ý nghĩa của một bức tượng.
Nhà điêu khắc Dannecker người Đức, đã để nhiều công khó trong công tác tạc một bức tượng của Chúa Giêsu bằng cẩm thạch. Trong hai năm đầu, bức tượng đã xong, nhà điêu khắc mời một em bé vào phòng vẽ của mình và hỏi em bé rằng:
- Ai đó?
Em bé tức khắc trả lời:
- Một vĩ nhân.
Nhà điêu khắc buồn và nghĩ rằng, công khó của mình trong hai năm kể như đã hỏng. Ông tiếp tục tạc lại trong sáu năm nữa và mời một em bé khác vào phòng vẽ và hỏi:
- Em biết bức tượng này là ai không?
Sau khi nhìn bức tượng một lúc, yên lặng và nước mắt tràn ra đôi mi, em khẽ nói:
- Hỡi những con trẻ đau khổ, hãy đến cùng ta!
Nhà điêu khắc thỏa mãn, thành công về tác phẩm của mình. Nhà điêu khắc Dannecker sau đó đã tuyên bố:
- Tôi đã thấy Chúa Cứu Thế Giêsu và hình ảnh của Ngài đã thể hiện trong khi tôi tạc bức tượng Ngài bằng cẩm thạch này.
Sau đó ít lâu, hoàng đế Napoléon Bonaparte yêu cầu nhà điêu khắc tạc cho hoàng đế bức tượng nữ thần Vệ Nữ để trưng bầy trong việc bảo tàng Louvre, Paris. Hoàng đế hứa sẽ trả cho ông một món tiền rất lớn, nhưng Dannecker từ chối. Ông nói rằng: “Một người đã thấy Đấng Kitô và đã tạc vẽ mặt của Ngài rồi thì không thể dùng nghệ thuật của mình vào những việc ở đời này được nữa, bởi vì làm như thế là tục hóa nghệ thuật của mình mất rồi”.
04/08 Lòng tin bà mẹ ngoại giáo
- Viết bởi Mt 15, 21-28
Lòng tin bà mẹ ngoại giáo.
Thứ Tư tuần 18 thường niên. – Thánh Gioan Maria Vianê, linh mục. Lễ nhớ.
Bổn mạng các linh mục.
"Này bà, bà có lòng mạnh tin".
* Thánh nhân sinh năm 1786 tại Lyon. Sau biết bao khó khăn gian khổ, người làm linh mục và được giao phó nhiệm vụ làm cha sở họ Ars thuộc giáo phận Benle. Người quả là vị mục tử gương mẫu: hoàn toàn lo việc loan báo lời Thiên Chúa, giải tội, cầu nguyện và hãm mình. Có nhiều lúc, khuôn mặt người rạng rỡ khác thường, nhờ tình yêu bắt nguồn từ bí tích Thánh Thể mà người đem hết lòng sốt sắng để vừa cử hành, vừa thờ phượng. Người qua đời năm 1859.
Lời Chúa:
Khi ấy, ra khỏi đó, Chúa Giêsu lui về miền Tyrô và Siđon, thì liền có một bà quê ở Canaan từ xứ ấy đến mà kêu cùng Người rằng: "Lạy Ngài là con Vua Đavít, xin thương xót tôi: con gái tôi bị quỷ ám khốn cực lắm".
Nhưng Người không đáp lại một lời nào. Các môn đệ đến gần Người mà rằng: "Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi". Người trả lời: "Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel".
Nhưng bà kia đến lạy Người mà nói: "Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi". Người đáp: "Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó". Bà ấy đáp lại: "Vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống".
Bấy giờ, Chúa Giêsu trả lời cùng bà ấy rằng: "Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy". Và ngay lúc đó, con gái bà đã được lành.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Lòng tin của bà lớn thật
Suy niệm :
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại chuyện Đức Giêsu chữa bệnh từ xa,
tại Tia và Xiđon, vùng đất của dân ngoại.
Nhưng chuyện chữa bệnh không quan trọng lắm.
Chuyện quan trọng là lòng tin của người phụ nữ Canaan.
Hẳn bà biết ít nhiều về Do Thái giáo, khi gọi Đức Giêsu là Con Vua Đavít.
Con Vua Đavít là tước hiệu người Do Thái dùng để chỉ Đấng Mêsia.
Bà tin Đức Giêsu có thể chữa lành con gái của bà.
Người phụ nữ trực tiếp gặp Đức Giêsu và ngỏ lời nài xin:
“Xin thương xót tôi… con gái tôi bị quỷ hành hạ dữ lắm.”
Người mẹ đau vì con của mình đau.
Bà kêu xin Đức Giêsu thương mình, bằng cách chữa lành cho cô con gái.
Nhưng bà chỉ gặp sự thinh lặng như thể Người không nghe thấy.
Dầu vậy bà vẫn không ngừng đi sau và kêu to.
Tiếng kêu dai dẳng của bà đuổi theo các môn đệ khiến họ bực bội.
Khi không chịu nổi được nữa, họ mới chạy đến với Thầy Giêsu.
“Xin Thầy cho bà ấy đi đi, vì bà ấy cứ kêu sau lưng chúng ta mãi.”
Có vẻ các môn đệ muốn Thầy gặp bà và cho điều bà cần.
Cho đến nay vẫn chưa có cuộc đối thoại giữa bà và Đức Giêsu.
Người phụ nữ vẫn là người độc thoại.
Nhưng Đức Giêsu vẫn chưa muốn nói chuyện với bà.
Người chỉ nói với các môn đệ và xác định sứ vụ của mình:
“Thầy chỉ được sai đến với những chiên lạc nhà Israel thôi.”
Đây là lời từ chối đầu tiên, rõ ràng và dứt khoát.
Nó như đặt một dấu chấm hết cho mọi hy vọng của người mẹ.
Đức Giêsu như muốn nói: Đừng kêu la vô ích.
Chị không phải là chiên của nhà Israel.
Dân ngoại lúc này không phải là sứ vụ của tôi,
vì Cha tôi chưa sai tôi đến.
Lòng tin của người phụ nữ bị thử thách đến tột độ.
Chắc bà bị cám dỗ bỏ đi vì sự thinh lặng lạnh lùng,
và sự từ chối cương quyết của Đức Giêsu.
Nhưng trái tim của một người mẹ không cho phép bà làm thế.
Bà trở nên táo bạo hơn và dám vượt lên trước để gặp Đức Giêsu.
Trong thái độ cung kính bái lạy, bà tiếp tục nài xin:
“Lạy Ngài, xin giúp tôi” (c. 25);
khác với lúc nãy: “Lạy Ngài, xin thương xót tôi” (c. 22).
Cả hai lời nài xin đều nhắm đến người con, dù có vẻ bà chỉ xin cho bà.
Xin giúp tôi bằng cách giúp con tôi khỏi móng vuốt quỷ dữ.
Hạnh phúc của người mẹ gắn liền với hạnh phúc của con,
vì tình yêu nối kết cả hai nên một.
Tuy vậy lời nài xin này của trái tim người mẹ
dường như vẫn chưa đụng được vào trái tim Thầy Giêsu.
Người đưa ra lời từ chối thứ hai
quyết liệt hơn và có thể gây tổn thương nghiêm trọng:
“Không nên lấy bánh dành cho con mà ném cho chó.”
Con ở đây là dân Israel, là người trong nhà, có quyền hành.
Dân ngoại đôi khi được ví với chó nuôi trong nhà.
Hai bên không ở trên cùng một mặt phẳng.
Câu nói này của Đức Giêsu phản ánh cái nhìn của người Do Thái.
Họ tự hào về tính ưu việt của mình
trong tư cách là Dân riêng của Chúa.
Nói chung họ cho rằng chỉ họ mới xứng đáng hưởng ơn cứu độ.
Người phụ nữ không phản đối cái nhìn của Đức Giêsu
Bà không cảm thấy mình bị xúc phạm và giận dữ bỏ đi.
Trái lại, bà đón nhận cái nhìn ấy và tìm thấy một kẽ hở cho ơn Chúa:
“Thưa Ngài đúng thế.
Nhưng chó con cũng được ăn các mảnh vụn rơi xuống từ bàn của chủ.”
Bà chấp nhận mình chỉ là chó con nuôi trong nhà,
không phải là ông chủ đang ngồi tại bàn ăn.
Bà tin rằng dù mình không đủ tư cách
để ngồi dự bàn tiệc cánh chung như những người Do Thái,
bà vẫn có thể được hưởng chút vụn bánh từ bàn ăn rớt xuống.
Bà vẫn giữ niềm hy vọng ngay khi bị từ chối thẳng thừng.
Chính lời từ chối của Đức Giêsu lại mở ra niềm hy vọng.
Đức Giêsu bị ấn tượng bởi lòng tin của bà.
Người kêu lên: “Này bà, lòng tin của bà lớn thật.”
Đức Giêsu từng ngỡ ngàng trước lòng tin của viên bách quản (Mt 8,10-11).
Giờ đây Người đối diện với lòng tin của một người mẹ thương con.
Chính tình thương thêm sức mạnh cho lòng tin,
khiến lòng tin trở nên kiên trì, bất chấp thinh lặng và từ chối.
Lòng tin không mất hy vọng ngay khi có vẻ chẳng còn gì để hy vọng.
Lòng tin mạnh mẽ và khiêm hạ của người mẹ đã chinh phục Đức Giêsu,
và cuối cùng đã chạm được vào trái tim của Người.
Đức Giêsu đã để mình bị cuốn đi, ngỡ ngàng và ngây ngất…
Bây giờ Người mới thực sự nói chuyện với bà: “Này bà…”
Người sẽ làm điều trước đây Người không định làm.
Người sẽ đáp lại lòng tin của bà, lòng ao ước của bà
chỉ bằng một lời nói từ xa cho một cô bé chưa hề gặp mặt:
“Hãy xảy ra cho bà như bà muốn”.
Cô bé đã được chữa lành kể từ lúc đó.
Mẹ cô đã được thương xót và trợ giúp.
Đức Giêsu không cứng nhắc và bó hẹp trong sứ vụ Cha giao.
Người vẫn nghe tiếng kêu của con người và chấp nhận những ngoại lệ.
Ngoại lệ cũng nằm trong Ý Cha.
Ý Cha vẫn mở ra mới mẻ từng ngày đòi ta phải tìm kiếm liên tục.
Ngoại lệ hôm nay sẽ mở đường cho sứ vụ ngày mai:
“Các con hãy đi, hãy làm cho mọi dân tộc thành môn đệ,”
để “nhiều người từ Đông sang Tây sẽ đến và dự tiệc trong Nước Trời.”
Xã hội hôm nay không thiếu những bà mẹ khổ vì con mình bị ám.
Ám vì đủ thứ nghiện ngập do cuộc sống đem lại.
Các bà mẹ thấy mình bất lực, chỉ biết hy vọng vào Chúa.
Nhiều khi có cảm tưởng Chúa không nghe và lạnh lùng trước nỗi đau.
Hãy có lòng tin lớn của người phụ nữ Dân ngoại,
tiếp tục tin, tiếp tục yêu, tiếp tục hy vọng
và biết mình có thể chạm được vào trái tim của Thiên Chúa.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa,
xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải,
để con làm bật rễ khỏi lòng con
những ích kỷ và khép kín.
Xin cho con đức tin can đảm
để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến,
chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.
Xin cho con đức tin sáng suốt
để con thấy được thế giới
mà mắt phàm không thấy,
thấy được Đấng Vô hình,
nhưng rất gần gũi thân thương,
thấy được Đức Kitô nơi những người nghèo khổ.
Xin cho con đức tin liều lĩnh,
dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân,
dám tiến bước trong bóng đêm
chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa,
dám lội ngược dòng với thế gian
và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.
Xin cho con đức tin vui tươi,
hạnh phúc vì biết những gì
đang chờ mình ở cuối đường,
sung sướng vì biết mình được yêu
ngay giữa những sa mù của cuộc sống.
Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp
qua những cọ xát đau thuong của phận người,
để dù bao thăng trầm dâu bể,
con cũng không để tàn lụi niềm tin
vào Thiên Chúa và vào con người.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: Thiên Chúa xót thương
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Các bài Sách Thánh hôm nay tương phản nhau mãnh liệt: niềm tin của dân ngoại và sự bất tín của Ít-ra-en. Ít-ra-en đã chứng kiến biết bao việc kỳ diệu Chúa làm nhưng vẫn thiếu niềm tin. Hôm nay họ sợ người khổng lồ nên chống đối Mô-sê, chống lại ý Chúa. Không chịu vào Đất Hứa theo hướng nam qua vùng Ca-đê mà chọn đi vòng qua phía đông theo sông Gióc-đan. Họ thiếu niềm tin vào Chúa. Xét về quân đội thời ấy, còn ai mạnh hơn Ai cập. Thế mà Chúa đã tiêu diệt tất cả trong nháy mắt. So với quân đội Pha-ra-ô thì những người khổng lồ này có là gì. Nếu tin Chúa họ đâu phải sợ hãi đến hoảng loạn và chống lại ý Chúa như vậy (năm lẻ).
Tuy Ít-ra-en bất tín. Nhưng Chúa vẫn trung tín. Sau khi trừng phạt rồi lại xót thương. Tiếp tục yêu thương và cứu chữa họ: “Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, nên Ta vẫn dành cho ngươi lòng xót thương. Ta sẽ lại xây ngươi lên, và ngươi sẽ được xây lại” (năm chẵn).
Lòng thương xót của Chúa bao la. Nên sau cùng đã trải rộng ra khỏi Ít-ra-en, đến với mọi dân mọi nước. Hôm nay người phụ nữ Ca-na-an đã được hưởng lòng thương xót của Chúa. Đó là dấu hiệu Chúa lập ra một dân mới. Bà chưa hề biết Chúa, mới chỉ nghe nói, thế mà đã tin tưởng hết sức vào Chúa. Chúa đặt ra trước mặt bà 3 chướng ngại lớn và bà đã vượt qua. Một sự im lặng. Chúa không đáp lại lời bà xin. Nhưng bà vẫn tha thiết, kiên trì và dai dẳng cầu xin. Một lời từ chối: “Thầy chỉ được sai đến với chiên lạc nhà Ít-ra-en thôi”. Ranh giới đã được phân định. Thế mà bà vẫn nhất quyết nài xin. Một lời nhục mạ: “Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó”. Thật là tàn nhẫn. Nhưng bà này đã chấp nhận: “Nhưng chó cũng có thể được những mảnh vụn bánh từ bàn chủ rơi xuống”. Và Chúa phải khen ngợi lòng tin của bà. Bà không còn phải là chó con nữa. Bà trở nên con cái Chúa. Được đồng bàn với Chúa. Không còn phải chờ bánh vụn. Nhưng được hưởng bánh tự do trên bàn của Chúa.
Tạ ơn Chúa vì Lòng Thương Xót của Chúa bao la trải rộng khắp mười phương. Xin cho con được vững tin vào Lòng Thương Xót của Chúa.
SUY NIỆM 3: Sống Niềm Tin
Mahatma Gandhi, người có công giành độc lập cho Ấn Ðộ bằng con đường bất bạo động, đã có lần tuyên bố: "Tôi yêu mến Chúa Kitô, nhưng tôi không phục những người Kitô hữu". Câu nói của con người đã từng lấy giáo lý của Chúa Kitô làm nền tảng cho chủ trương bất bạo động đáng làm cho chúng ta suy nghĩ.
Giáo lý của Chúa Kitô thì cao đẹp, nhưng nhiều Kitô hữu làm cho bao nhiêu người xa lánh Giáo Hội, chỉ vì cuộc sống của họ đi ngược lại với những gì họ tuyên xưng. Người ta thường nói: "Bà con xa không bằng láng giềng gần". Ðôi khi chúng ta cảm thấy gần gũi với những người láng giềng hơn là với những người thân thuộc. Trong liên hệ với Chúa Giêsu cũng thế, có biết bao người chưa từng được nghe nói đến Chúa Giêsu, có biết bao người không mang danh hiệu Kitô, nhưng lại gần gũi với Chúa Kitô và sống tinh thần Kitô hơn chính những người Kitô hữu.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề cao lòng tin của người đàn bà xứ Canaan, tức là một người ngoại giáo. Một trong những điều hẳn sẽ làm chúng ta ngỡ ngàng, đó là trên Thiên đàng, chúng ta sẽ gặp gỡ những người chúng ta chưa từng quen biết, ngay cả những người chưa một lần mang danh hiệu Kitô hay đặt chân đến nhà thờ.
Thời Chúa Giêsu, có biết bao người ngoại giáo có lòng tin sâu sắc hơn cả những người Do thái. Trước hết, tiên tri Isaia đã từng khiển trách lòng giả dối của người Do thái: "Dân này thờ Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng họ thì xa Ta". Thời Chúa Giêsu, có biết bao người bị loại ra khỏi xã hội, bị đặt bên lề Ðền thờ, và có lẽ cũng không hề thuộc toàn bộ lề luật của Môsê, nhưng lại có lòng sám hối và tin tưởng sâu xa hơn. Nói với những người chỉ giữ đạo một cách hình thức, Chúa Giêsu đã cảnh cáo: "Không phải những ai nói: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời; nhưng là những kẻ thực thi ý Chúa".
Người đàn bà Canaan có lẽ không hề biết đến lề luật Môsê, nhưng đã sống niềm tin của mình một cách mãnh liệt. Lòng tin đó được thể hiện qua việc phó thác hoàn toàn vào quyền năng của Chúa Giêsu. Trong tình thế hầu như tuyệt vọng, bà đã chạy đến với Chúa Giêsu; sự van nài của bà cho thấy sự kiên nhẫn và lòng tin sắt đá của bà. Sự khác biệt cơ bản giữa một người có niềm tin và một người không có niềm tin, không hệ tại ở danh hiệu Kitô hay những thực hành đạo đức, mà chính là lòng tin. Tin vào sự hiện diện quyền năng của Thiên Chúa trong cuộc sống, tin vào tình yêu vô biên của Ngài, tin vào ý nghĩa của cuộc sống, tin vào tình người, đó là sắc thái chủ yếu của người có niềm tin: chính trong niềm tin đó, con người gặp gỡ Chúa Giêsu.
Trong một hoàn cảnh mà cái nhìn của con người có thể cho là tuyệt vọng, người Kitô hữu hơn bao giờ hết được mời gọi để nêu cao niềm tin của mình. Ðây là thời điểm để họ chứng tỏ bản sắc đích thực của mình. Trong cuộc sống chỉ có nghi kỵ và hận thù, họ được mời gọi để đốt lên ngọn đuốc của yêu thương. Trong một xã hội bị gậm nhấm bởi chán nản tuyệt vọng, họ được mời gọi để mang lại niềm hy vọng. Chỉ khi nào giữ đúng vai trò đó, người Kitô hữu mới thực sự xứng đáng với danh hiệu của mình.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Tâm Hồn Khiêm Tốn (Mt 15,21-28)
Biến cố chúng ta vừa đọc lại trên đây cho thấy Chúa Giêsu đã vượt qua một biên giới, và đến gần vùng đất của dân ngoại. Và tại đây Ngài đã gặp một người đàn bà được hưởng lấy lợi ích từ tác vụ của Chúa Giêsu, tự lãnh nhận những hồng ân Thiên Chúa như những người con Do Thái đồng hương. Vừa bước vào vùng đất mới, Chúa Giêsu nghe được lời kêu van của một người đàn bà đang gặp thử thách: "Lạy Ngài, con vua Ðavít, xin dủ lòng thương tôi. Ðức con gái tôi bị quỉ ám khổ sở lắm". Nhưng Chúa Giêsu không đáp lại một lời. Trước lời kêu xin tha thiết như vậy, tại sao Chúa không đáp lại? Chúa là Ðấng nhân từ, đầy cảm thông trước cảnh cùng khổ của những ai đến với Chúa và đã dạy các tông đồ: "Hãy cầu nguyện thì sẽ được. Hãy gõ cửa thì sẽ mở cho". Thế mà tại sao Chúa lại làm thinh, không trả lời cho người đàn bà đang thành tâm kêu xin? Hẳn có lý do.
Các tông đồ không hiểu được thái độ của Chúa và cũng không muốn bị quấy rầy nên đã nói với Chúa như sau: "Xin Thầy bảo bà ấy đi đi, kẻo bà ấy cứ theo chúng ta mà kêu mãi". Các tông đồ hiểu lầm thái độ im lặng của Chúa như một sự từ chối và các ngài cũng muốn phủi tay: "Xin Chúa đuổi bà ấy đi cho, đừng để bà ấy quấy rầy nữa". Chúa Giêsu không chỉ im lặng mà Ngài còn lên tiếng nói lời chối từ như sau: "Ta chỉ được sai đến để cứu những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi".
Chúng ta nên học hỏi thái độ khiêm tốn và kiên trì của người đàn bà: "Lạy Thầy, xin cứu giúp tôi". Bà không bực tức, không nổi giận, không trách móc Chúa tại sao thế này, tại sao thế nọ. Chúa càng im lặng thì bà càng khiêm tốn hơn nữa. Không những bà chỉ nói mà còn van xin bằng cả con người của mình. Bà sụp lạy Chúa Giêsu và nói: "Xin Ngài thương xót con". Sự im lặng của Chúa là một thử thách, thử thách trong đức tin, thử thách trong việc cầu nguyện Chúa Giêsu thử thách nhiều hơn nữa: "Không được lấy bánh dành cho con cái mà đem ném cho chó". Ðây là thử thách ở mức độ cuối cùng, ai có thể vượt qua được. Người đàn bà xa lạ và thuộc dân ngoại khiêm tốn thưa cùng Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, đúng thế, nhưng mà những con chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ trên bàn chủa rơi xuống". Có thể nói tâm hồn khiêm tốn đã giúp người đàn bà vượt qua được thử thách và trưởng thành trong đức tin. Chúa Giêsu trấn an bà như sau: "Này bà, lòng tin của bà thật mạnh. Bà muốn sao thì sẽ được như vậy". Người đàn bà chỉ xin Chúa cho lợi lộc thông thường cho con bà khỏi bị quỉ ám và bà được nhận lời.
Chúng ta có thể tượng tưởng người đàn bà sẽ vui mừng biết bao hơn nữa khi lãnh nhận được ơn Chúa. Cuối đoạn đường gian nan nhìn lại, chúng ta sẽ thấy rõ những giây phút Chúa xem ra im lặng là những giây phút quí trọng vô cùng vì những im lặng và từ chối này của Chúa giúp đức tin của chúng ta được trưởng thành. Khi đi qua đoạn đường gian nan, chúng ta có thể hiểu được chương trình của Chúa dành cho cuộc đời mình. Thử hỏi, chúng ta còn đủ nghị lực để đi qua đoạn đường nhiều gian nan thử thách hay không.
Lạy Chúa, Xin thương ban cho tất cả những ai chọn theo Chúa có được tâm hồn khiêm tốn để lãnh nhận những mầu nhiệm ân sủng của cuộc đời.
Lạy Chúa, Xin thương nâng đỡ chúng con và củng cố đức tin cho chúng con.
SUY NIỆM 5: Một Con Chó Biết Ơn.
Bà ấy liền bái lạy và thưa với Người rằng: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” Người đáp: “Không lên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.” Bà ấy nói: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.” Bấy giờ Đức Giêsu đáp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” Từ giờ đó con gái bà được khỏi. (Mt. 15, 25-28)
Những câu: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì sẽ được vậy.” cho người ta thấy Đức Giêsu rất cảm thương, tốt lành và kính chuộng những kẻ hèn mọn và nghèo khổ.
Thánh Mát-thêu cho chúng ta thấy một Đức Giêsu có óc bè phái: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi.” Có óc khinh bỉ: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.”
Nhưng kìa: Đức Giêsu hoàn toàn không phải thế, Thánh sử muốn dạy chúng ta biết lắng nghe và hiểu rõ bài học này.
Có nhiều người lương dân biết xưng tụng, kêu van danh Đức Kitô, trong khi những Kitô hữu nghe danh người xưa kia mà nay lại không biết kêu cầu Người. Hay ngay cả khi họ nghĩ đến Người, hiểu biết Người bây giờ, họ vẫn điếc chẳng nghe Tin Mừng của Người, mù không thấy những phép lạ của Người, sự phục sinh của Người, câm không nói về Người.
Chó con trong nhà.
Chó con được ăn những đồ thừa, không những nó bằng lòng mà còn tỏ niềm vui mừng và biết ơn nữa. Trẻ con trong nhà thì sao? Không phải lúc nào chúng cũng biết ơn, cảm ơn dù chúng được chăm lo rất nhiều, chúng không thấy vì được quá nhiều đặc ân, quá thường xuyên.
Bà lương dân này chẳng được dạy dỗ, chẳng được ân huệ gì, bà lại có niềm tin thật mạnh đó là điều thiết yếu Đức Giêsu muốn Người không nói bà phải tỏ ra ngoan ngoãn phục tùng, Người không tra hỏi về đời tư của bà. Như bất cứ một kẻ nào đó đến với Người, cầu khẩn Người, với cảnh cùng khổ của mình, với lòng tin cậy được nhận lời.
Chúng ta hãy thành khẩn.
Còn chúng ta ngày nay thì sao?
Không còn đề cập đến vấn đề đức tin nữa, nó làm chúng ta mù quáng bằng đủ mọi thứ bào chữa để che đậy lòng thiếu đức tin của chúng ta.
Nếu người lương dân biết tin vào Đức Kitô thì càng có lý mạnh mẽ đòi chúng ta càng xây dựng niềm tin vào Đức Kitô biết bao! và phải làm cho Người trở lên sống động nơi chúng ta và nơi mọi người đến chừng nào! vì chúng ta hiểu biết Người hơn lương dân gấp bội.
SUY NIỆM 6: NHỜ NIỀM TIN CỦA MẸ MÀ CON ĐƯỢC CỨU SỐNG
Xem lại CN 20 TN A.
Trong câu chuyện kể về phép lạ của Đức Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận, người ta kể về gương sáng đức tin của một bà mẹ. Chuyện kể rằng: nhờ mối liên hệ thân tình với Đức Hồng Y, lòng quý trọng và niềm tin tuyệt đối vào ngài, vì thế, bà thường xuyên cầu khấn với ngài khi con bà đang trong tình trạng hôn mê sâu nhiều tháng và chỉ còn chờ chết ngay tại đất nước Hoa Kỳ văn minh tiến bộ vào hạng nhất nhì thế giới!
Quả thật, cậu chủng sinh con bà đã thoát khỏi tử thần khi được chính Đức Hồng Y cầu thay nguyện giúp nhờ vào lòng tin của bà mẹ.
Hôm nay, Tin Mừng cũng trình thuật phép lạ Đức Giêsu đã làm khi cho một bé gái thoát khỏi quỷ ám nhờ vào lòng tin của mẹ em.
Thật vậy, lời cầu xin“Lạy Ngài là con vua Đavít, xin rủ lòng thương tôi” của người phụ nữ xứ Canaan đã đụng chạm đến lòng trắc ẩn của Đức Giêsu, nên bà đã được Ngài xót thương. Nhưng Đức Giêsu còn muốn kiểm chứng đức tin của bà xem có phát xuất từ con tim yêu mến hay chỉ là thực dụng???
Tuy nhiên, càng đi sâu vào câu chuyện, chúng ta lại càng thấy niềm tin ấy được tỏa sáng. Tại sao vậy? Thưa, bởi vì qua sự thinh lặng của Đức Giêsu và nhất là lời khước từ của Ngài khi nói: “Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho lũ chó con”. Đồng thời, bà còn gặp khó khăn khi những người Dothái cũng như của chính các môn đệ ngăn cản không cho bà đến gần Đức Giêsu, thế nhưng, niềm hy vọng vào tình thương của Chúa đã làm cho bà đặt hết niềm tin tưởng nơi Ngài. Vì thế, bà đã thốt lên: “Nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Đứng trước niềm tin đặc biệt đó, Đức Giêsu đã phải chạnh lòng thương đến con bà khi nói: “Lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì sẽ được vậy”.
Trong cuộc sống hiện nay của chúng ta nhiều khi đức tin mang tính nhất thời, tức là chỉ tin khi thuận tiện. Mặt khác, niềm tin của mỗi người có lúc mang tính nửa vời, tức là tin Chúa 50%; 50% còn lại thì dành cho những thần khác...
Tuy nhiên, niềm tin thì hời hợt như vậy, nhưng khi có người khác thể hiện niềm tin vào Chúa thì chúng ta lại tìm cách ngăn cản hay cho là phù phiếm... như các môn đệ và người Dothái khi xưa. Phải chăng họ không muốn vào Nước Trời, nhưng những người muốn vào thì chính họ lại ngăn cản không cho vào.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết đặt niềm tin tuyệt đối nơi Chúa. Đồng thời ý thức rằng: niềm tin trưởng thành là một niềm tin trải qua thử thách và có kinh nghiệm thực sự về Chúa. Cuối cùng, hãy biết noi gương Chúa để thi ân giáng phúc cho những người hoạn nạn, kể cả họ là kẻ thù của ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho mỗi chúng con biết yêu mến Chúa và luôn đặt niềm tin tưởng tuyệt đối vào Chúa. Xin cũng cho chúng con có lòng nhân hậu với hết mọi người. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 5: Niềm tin mãnh liệt
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Niềm tin mãnh liệt và khẩn khoản của người đàn bà dân ngoại đã làm Chúa Giêsu không nỡ từ chối ban phép lạ cho bà.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con thấy có hai lần Chúa đã từ chối không ban phép lạ, nhưng vì niềm tin và lời khẩn khoản của người xin, Chúa đã thực hiện phép lạ: đó là lời cầu xin của Đức Maria tại đám cưới Ca-na, và câu chuyện người đàn bà xứ Ca-na-an hôm nay.
Niềm tin mạnh mẽ và kiên trì đã khiến Chúa không nỡ từ chối ban ơn. Xét cho cùng, chúng con thực không xứng đáng để Chúa ban ơn cho. Con không có quyền đòi Chúa làm phép lạ. Điều con có thể làm được và phải làm, đó là tin tưởng vào Chúa, xác tín vào tình thương đầy quyền năng của Chúa và đặt trọn hy vọng vào Chúa.
Khi con cầu xin Chúa, con thường muốn Chúa thực hiện theo ý muốn của con, vào thời điểm mà con muốn, mà con không hiểu rằng điều quan trọng là tin tưởng và phó thác vào Chúa, phó dâng để Chúa thực hiện điều tốt nhất cho con theo ý định của Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con biết kiên trì tín thác vào Chúa, cho con biết bày tỏ tấm lòng của con trong nhẫn nại. Chúa biết điều con cần, nhưng Chúa cũng muốn con tin tưởng, cậy trông vào Chúa. Đôi lúc vì cuộc đời quá đau khổ và phức tạp, con không còn dám tin vào Chúa nữa. Và vì nghi ngờ nên con không dám cầu xin nữa. Xin Chúa giúp con vững tin ngay cả trong những lúc khó tin và không còn gì để hy vọng. Amen.
Ghi nhớ: “Này bà, bà có lòng mạnh tin”.
Suy Niệm 6: Niềm tin mạnh mẽ và lòng khiêm tốn
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một em bé vâng lời mẹ xách giỏ ra tiệm tạp hóa. Em cẩn thận đọc cho người bán hàng tên của từng món đồ mà mẹ em đã ghi trên mảnh giấy. Người bán hàng nhìn em và để ý theo dõi từng cử chỉ cẩn thận của em một cách thích thú.
Sau khi đã xếp gọn các món vào giỏ cho em, người bán hàng dẫn em đến trước cái hộp đầy kẹo. Vừa mở nắp hộp người bán hàng vừa bảo em thò tay vào lấy kẹo. Em bé vui mừng rút ra một viên kẹo. Người bán hàng bèn khích lệ em và nói: “Cháu hãy bốc cho đầy lòng bàn tay của cháu đi”. Em bé mỉm cười đáp: “Vậy ông hãy bốc kẹo giùm con”. Người bán hàng ngạc nhiên hỏi: “Tại sao vậy ?” Em bé dí dỏm trả lời: “Tại vì bàn tay của ông lớn hơn bàn tay của con rất nhiều”.
Em bé nhìn nhận cái bé nhỏ của mình trước sự lớn lao của người khác, nên đã được ban cho dư đầy. Người đàn bà ngoại giáo xứ Canaan khiêm tốn nhận mình là dân ngoại, so sánh với dân Chúa Israel ? Bà coi mình nhỏ bé như “chó con” chỉ đáng được ăn “những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”, chính vì bé nhỏ trước mặt Thiên Chúa, cho nên bà được Chúa rộng ban theo lòng thương xót của Ngài, còn hơn cả lòng bà mong ước.
Suy niệm
Người đàn bà ngoại giáo khẩn cầu xin Chúa chữa lành cho con bà bị quỷ ám. Lời cầu của người đàn bà đầy niềm tin, nhẫn nại và khiêm tốn. Bà nhận biết Chúa Giêsu là Đấng Mêssia - Cứu Thế (dòng dõi Đavít) (x. Mt 15:22) trong lúc đó những người Do Thái không chấp nhận tư cách Mêssia của Ngài. Chính đức tin mạnh mẽ với lòng khiêm tốn chân thành của bà đã làm Chúa Giêsu xúc động, Ngài đã thi ân trên lời cầu xin.
Sự viên mãn đời đời của chúng ta là do đức tin. Chính thánh Phaolô đã xác định: “Người công chính nhờ đức tin sẽ được sống” (Rm 1,17; Gl 3,11), đức tin không phải do chúng ta đạt tiêu chuẩn mà có, nhưng là một ơn riêng nhưng không của Thiên Chúa ban cho. Đức tin có nghĩa là tin một cách đơn sơ, cởi mở, vô điều kiện vào Thiên Chúa toàn năng, Đấng tạo dựng và ban sự sống như người phụ nữ đã tín thác tuyệt đối bằng lời cầu xin: “Xin rủ lòng thương tôi!...” (Mt 15:22), cả khi bị thử thách, niềm tin vẫn không lay chuyển như người nữ Canaan xác tín: “Lạy Ngài xin cứu giúp tôi!” (Mt 15:25). Lòng kiên nhẫn của bà được sinh ra từ đức tin, như thánh Giacôbê xác quyết: “Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn” (Gc 1,3). Các môn đệ muốn đuổi bà đi vì sợ bà quấy rầy Thầy. Nhưng các ông không làm lay chuyển đức tin của bà nơi sức mạnh cứu độ của Chúa Giêsu, sức mạnh có thể chữa lành con bà. Cho nên, thay vì thối chí rút lui với tâm hồn cam chịu số phận, bà tiến đến quỳ trước Ngài và van xin một cách khiêm tốn, chân thành và đơn sơ. Hình ảnh của bà đã nói lên một chân lý: Đức tin được dọn đường bằng khiêm nhượng.
Người phụ nữ mang tâm tình như trẻ nhỏ tin và chạy đến với cha mình, bà xác tín vào tình yêu và quyền năng của Chúa, Ngài là Đấng không bao giờ rút lại tình yêu đối với người đặt niềm tin tưởng phó thác vào Ngài. Hình ảnh đức tin nơi bà có nghĩa là tin như trẻ nhỏ, tin vào sự chiến thắng của Thiên Chúa trên tất cả. Niềm tin đó được Thánh vịnh quả quyết tin Chúa như con tin vào cha: “Như trẻ thơ đặt hết niềm tin nơi Chúa” (Tv 131). Cho nên, Đức Kitô đã quả quyết nơi người mang đức tin trẻ nhỏ trở nên vĩ đại: “Ai hạ mình xuống như những trẻ nhỏ sẽ là người lớn trong nước Trời” (Mt 18:4).
Nếu như ban đầu, là một hành động thử thách, Đức Giêsu đã làm ngơ trước lời khẩn cầu trong niềm tin của bà, nhưng Ngài không thể im lặng trước lòng tin mang tâm tình chân thành, khiêm tốn của một người mẹ dám làm tất cả cho con mình được sống, Chúa Giêsu trả lời, “Này bà, đức tin của bà mạnh. Bà được như bà tin”... “Lập tức, con gái bà được lành” (Mt 15:28). Bà hạnh phúc vì Thiên Chúa thi ân: Con yêu của bà được chữa lành, niềm tin của bà đã nở hoa.
Xin Đức Kitô – Đấng đã nhìn thấu lòng tin của người phụ nữ Canaan, cũng hãy dạy con vì con luôn có nhu cầu tin chân thành và khiêm tốn như người phụ nữ Canaan, tin là không đòi hỏi, là tín thác, chờ đợi tất cả từ tay Chúa và đón lấy tất cả như hồng ân nhưng không. Niềm tin phát sinh kiên nhẫn và với lòng khiêm cung trước Thiên Chúa qua mọi hoàn cảnh trong cuộc đời, chúng con sẽ được Thiên Chúa ở cùng và thi ân…
Ý lực sống:
“Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa,
và có Đức Chúa làm chỗ nương thân” (Gr 17,7).
Suy Niệm 7: Sức mạnh của niềm tin (Mt 15,21-28)
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Đức tin có sức mạnh vô song, có khả năng đảo ngược tình cảnh hay đời người, giúp chúng ta vượt qua được gian khổ và làm được những việc quá sức tự nhiên của mình. Người phụ nữ Canaan nhờ lòng tin mạnh mẽ đã nhận được điều bà muốn xin. Tuy nhiên con gái của bà bị quỷ ám khốn cực và các thầy thuốc đều bó tay vô phương chữa trị, tức là tình cảnh của bà đã tuyệt vọng về mặt tự nhiên, nhưng vì đức tin mạnh mẽ của bà, Chúa Giêsu đã chữa cho con bà được khỏi ngay lúc đó.
Ta thường hát bài “Lòng mẹ” của nhạc sĩ Y Vân: “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào. Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào”. Người đàn bà Canaan này rất mực thương con nên đã đến xin Chúa Giêsu chữa cho con bà bị quỷ ám. Nhưng ngoài tình mẹ thương con cao độ, còn có một điểm khác đáng chú ý, đó là sự phát triển lòng tin nơi bà mẹ. Trước tiên bà gọi Chúa Giêsu là Con Vua Đavít, một tước hiệu mang tính cách trần thế, nghĩa là bà chỉ nhìn Chúa Giêsu như một con người. Tiếp đến, khi nghe Chúa Giêsu nói Ngài chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel, bà đã chấp nhận Ngài là một vị tiên tri, và hơn thế nữa, bà gọi Ngài là “Lạy Ngài”, một tước hiệu mang tính cách thiêng liêng, tương tự như danh hiệu “Lạy Chúa”, và như thế chứng tỏ rằng cuối cùng bà đã chấp nhận Thần tính nơi Chúa Giêsu.
Người đàn bà Canaan có lẽ không hề biết đến lề luật Maisen, nhưng đã sống niềm tin của mình một cách mãnh liệt. Lòng tin đó được thể hiện qua việc phó thác hoàn toàn vào quyền năng của Chúa Giêsu. Trong tình thế hầu như tuyệt vọng, bà đã chạy đến với Chúa Giêsu; sự van nài của bà cho thấy sự kiên nhẫn và lòng tin sắt đá của bà. Sự khác biệt cơ bản giữa một người có niềm tin và một người không có niềm tin, không hệ tại ở danh hiệu Kitô hay những thực hành đạo đức, mà chính là lòng tin. Tin vào sự hiện diện quyền năng của Thiên Chúa trong cuộc sống, tin vào tình yêu vô biên của Ngài, tin vào ý nghĩa của cuộc sống, tin vào tình người, đó là sắc thái chủ yếu của người có niềm tin: chính trong niềm tin đó con người gặp gỡ Chúa Giêsu (Mỗi ngày một tin vui).
Có thể nói người phụ nữ Canaan đã thắng được Chúa Giêsu nhờ lòng tin và sự khiêm tốn. Thật thế trước lời đáp trả cứng cỏi của Chúa: “Ta chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel...”, “Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó”, nhưng người phụ nữ Canaan không buông xuôi ngã lòng, bà khiêm tốn đáp: “Đúng thế, nhưng chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Thiên Chúa phải đầu hàng trước niềm tin và sự khiêm tốn của con người.
Nhà văn Pháp Marcel Proust nhận xét: một cuộc thám hiểm thật sự không phải ở chỗ tìm gặp được những vùng đất mới, cho bằng có được đôi mắt mới. Đôi mắt ấy giúp họ khám phá thế giới quen thuộc, nhưng chứa chất nhiều bí ẩn, tuyệt diệu hữu ích cho cuộc sống.
Người đàn bà xứ Canaan trong trình thuật Tin mừng hôm nay, quả thật có đôi mắt mới. Bà không nhìn Chúa Giêsu như những người Nazareth, đồng hương của Chúa, để khinh bỉ Ngài. Bà cũng không nhìn Chúa Giêsu như những đồng hương xứ Canaan của bà, để xa tránh Chúa. Trái lại, bà nhận ra trong con người Giêsu ấy quyền năng, mà không ai trong xã hội có thể có để cứu giúp bà trong cơn khốn đốn. Ở nơi Ngài, bà trực giác nhận ra một lòng thương xót thường trực, khích lệ bà tìm đến. Như người thấy được kho báu trong ruộng, bà bỏ hết những mặc cảm, đến với Chúa Giêsu và đặt tất cả niềm tin vào Ngài. Với bà, Giêsu là Đấng làm cho con tim của bà và con bà “vui trở lại” (5 phút Lời Chúa).
Thánh nữ Monica đã kiên trì cầu nguyện trong suốt 27 năm ròng để con trai của bà được ơn hoán cải trở về với đức tin Công giáo. Cuối cùng, Thiên Chúa đã nhận lời bà cầu xin. Người không chỉ đưa cậu con trai Augustinô trở về, mà còn làm cho cậu trở thành một vị đại thánh trong Giáo hội.
Niềm tin mãnh liệt và thái độ khẩn khoản nài xin của người phụ nữ đã làm Chúa Giêsu cảm động, và Người không nỡ từ chối cứu giúp. Nhờ vậy, cô con gái của bà được chữa lành. Sự kiên trì cầu xin của người đàn bà xứ Canaan làm gương sáng cho người Kitô hữu chúng ta.
Thật vậy, trong cuộc sống ngày nay, đức tin gặp rất nhiều thử thách. Tuy nhiên, có trải qua thử thách, chúng ta mới chứng tỏ được lòng tin mạnh mẽ của mình. Vì vậy, chúng ta được mời gọi luôn tin tưởng, cậy trông vào Chúa trong mọi hoàn cảnh cuộc đời.
Truyện: Niềm tin nửa vời
Một người vô thần rất mê leo núi. Ngày kia trượt chân té ngã lăn từ đỉnh núi xuống. Nhưng may thay ông nắm được một cành cây nằm chơ vơ giữa đỉnh cao và vực thẳm. Giữa lúc chỉ còn biết chờ chết, một ý nghĩ chợt đến với ông: Tại sao không gọi Chúa đến cứu giúp. Thế là lấy hết sức lực, người vô thần la lớn: “Lạy Chúa”. Tuy nhiên, bốn bể chỉ có yên lặng và ông chỉ nghe được tiếng dội của lời kêu van. Một lần nữa, người vô thần lại kêu xin tha thiết hơn: “Lạy Chúa, nếu quả thật Chúa hiện hữu thì xin hãy cứu con. Con sẽ tin Chúa và dạy cho người khác cũng tin Chúa”. Sau một hồi thinh lặng, bỗng người vô thần nghe một tiếng vang dậy cả vực thẳm và núi cao: “Gặp hoạn nạn thì ai cũng cầu xin như thế”. “Không, lạy Chúa, nghìn lần không. Con không giống như những người khác. Chúa không thấy sao, con đã bắt đầu tin từ khi nghe tiếng Chúa phán. Nào bây giờ xin Chúa hãy cứu con đi, và con sẽ cao rao danh Chúa cho đến tận cùng trái đất”. Tiếng ấy trả lời: “Được lắm, Ta sẽ cứu ngươi. Vậy nếu ngươi tin thì hãy buông tay ra”. Người vô thần thất vọng thốt lên: “Buông tay ra ư, bộ Chúa tưởng tôi điên sao ?”.
03/08 Chúa Ði Trên Biển.
- Viết bởi Mt 14, 22-36
Chúa Ði Trên Biển.
Thứ Ba tuần 18 thường niên.
"Xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy".
Lời Chúa: Mt 14, 22-36
Khi dân chúng đã ăn no, lập tức Chúa Giêsu giục môn đệ trở xuống thuyền mà qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng. Giải tán họ xong, Người lên núi cầu nguyện một mình. Ðến chiều, Người vẫn ở đó một mình. Còn thuyền thì đã ra giữa biển, bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió.
Canh tư đêm tối, Người đi trên mặt biển mà đến với các ông. Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hồn mà nói rằng: "Ma kìa" và các ông sợ hãi kêu la lớn tiếng. Lập tức, Chúa Giêsu nói với các ông rằng: "Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ". Phêrô thưa lại rằng: "Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy". Chúa phán: "Hãy đến". Phêrô xuống khỏi thuyền bước đi trên mặt nước mà đến cùng Chúa Giêsu. Khi thấy gió mạnh, ông sợ hãi và sắp chìm xuống nên la lên rằng: "Lạy Thầy, xin cứu con". Lập tức, Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy ông mà nói: "Người hèn tin, tại sao lại nghi ngờ?" Khi cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng. Những người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng: "Thật, Thầy là Con Thiên Chúa!"
Khi đã sang qua biển hồ, các ngài lên bộ và ghé vào Ghênêsarét. Nhận ra Ngài, dân địa phương liền loan tin đi khắp cả vùng xung quanh, và người ta đem đến cho Ngài hết mọi kẻ ốm đau. Họ nài xin Ngài cho họ rờ đến tua áo choàng của Ngài thôi, và ai đã rờ đến thì đều được chữa lành.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Xin cứu con
Suy niệm :
Bài Tin Mừng hôm nay là một loạt những kinh nghiệm thiêng liêng.
Có thể chúng ta ít nhiều đều đã có những kinh nghiệm này.
Thầy Giêsu là một nhà giáo nhân từ và cương quyết.
Ngài giáo dục các môn đệ bằng cách đưa họ vào những kinh nghiệm.
Kinh nghiệm bị Thầy bắt buộc phải qua bờ bên kia (c. 22),
dù họ rất muốn ở lại bờ bên này để nếm dư vị của thành công vừa rồi.
Sau phép lạ nhân bánh, người ta định tôn Thầy lên làm vua (Ga 6, 15).
Chỉ cần Thầy gật đầu là trò được chia sẻ tiếng tăm và quyền lực.
Các môn đệ đã bị ép lên thuyền, ngay lập tức, lúc chạng vạng tối.
Kinh nghiệm bị sóng đánh vì ngược gió.
Thuyền đã xa bờ mấy cây số, tiến tới không được, lùi lại cũng không xong.
Vào lúc khó khăn ấy lại không có Thầy ở trong thuyền.
Hầu như suốt đêm các môn đệ phải vất vả chèo chống với sóng gió.
Họ phải tập chiến đấu trong đêm tối khi không có Thầy ở bên.
Họ có nghĩ quyết định của Thầy là sai lầm, vội vã không ?
Kinh nghiệm hốt hoảng, sợ hãi và được trấn an.
Mãi đến lúc gần sáng, Thầy Giêsu mới đi trên biển mà đến với các môn đệ.
Ngài đến khi họ chưa thấy rõ mặt Ngài.
Ngài đến vào lúc bất ngờ và đến theo cách bất ngờ, khiến họ khiếp kinh.
Ngài đến đem bình an mà họ tưởng là ma quái đe dọa (c. 26).
Quả thật có những lúc không dễ nhận ra là Chúa đang đến với mình.
Chúa đến làm các môn đệ sợ hãi hơn cả sóng gió.
Nhưng “Cứ yên tâm, chính Thầy đây. Đừng sợ !” (c. 27).
Kinh nghiệm tự đưa mình vào một thách đố của lòng tin.
Một mặt Phêrô vẫn chưa tin trọn vẹn khi nói câu: Nếu quả là Thầy…(c. 28).
Nhưng mặt khác ông lại rất táo bạo khi dám xin ơn đi trên mặt nước.
Ông coi đó là cách thức chắc chắn nhất để biết có phải là Thầy không.
Nếu đúng là Thầy thì Thầy cũng có thể cho mình làm được như Thầy.
Chỉ cần Thầy truyền lệnh là đủ, Phêrô tin như thế.
Kinh nghiệm đi trên mặt nước và kinh nghiệm bị chìm.
Khi được Thầy cho phép, Phêrô đã dám từ thuyền bước xuống biển động.
Và ông đã đi được một quãng không rõ bao xa (c. 29).
Mặt nước cứng như đá hay người ông trở nên nhẹ bổng?
Bây giờ thì đúng là Thầy rồi, chỉ Thầy mới cho mình làm được như Thầy.
Phêrô sung sướng tiến về phía Thầy với lòng tin đang lớn lên.
Nhưng khi gặp gió thổi mạnh thì ông lại sợ, lại hoài nghi, yếu tin.
Ông mất tập trung vào sự hiện diện quyền năng của Thầy và bị chìm.
Người ta có thể bị chìm ngay khi biết Chúa ở trước mặt.
Kinh nghiệm được Thầy nắm tay mà dắt vào thuyền.
Khi Phêrô kêu cứu, Thầy Giêsu đã giữ ông khỏi bị nước nuốt chửng.
Sau đó hẳn hai Thầy trò đã cùng nhau đi trên sóng mà về thuyền.
Khi cả hai lên thuyền thì gió lặng, chẳng cần Thầy phải dẹp yên sóng gió.
Các kinh nghiệm môn đệ vừa trải qua thật kinh khủng và gần gũi với ta.
Buồn bực, sợ hãi, căng thẳng, bình an, nghi ngờ, chới với, hạnh phúc.
Đời Kitô hữu là một chuỗi những kinh nghiệm như thế.
Chúng ta tưởng Chúa bỏ rơi, Chúa vắng mặt, Chúa là ma làm ta sợ hãi.
Đơn giản Chúa là Thầy biết cách làm ta trưởng thành qua kinh nghiệm.
Cuối cùng chúng ta sẽ nhìn nhận: “Quả thật Thầy là Con Thiên Chúa” (c. 33).
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
con chẳng dám xin đi trên mặt nước như Phêrô,
nhưng nhiều khi con cảm thấy
sống đức tin giữa lòng cuộc đời
chẳng khác nào đi trên mặt nước.
Có bao thứ sóng gió đẩy đưa và lôi cuốn.
Có bao cám dỗ muốn hút con vô vực sâu.
Cả sự nặng nề của thân xác con
cũng kéo ghì con xuống.
Đi trên mặt nước cuộc đời chẳng mấy dễ dàng.
Nhiều khi con thấy mình bàng hoàng sợ hãi.
Xin cứu con khi con hầu chìm.
Xin nắm lấy tay con khi con quỵ ngã.
Xin nâng đỡ niềm tin yếu ớt của con,
để con trở nên nhẹ tênh
mà bước những bước dài hướng về Chúa. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: Xác thịt và thần khí
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
My-ri-am đối đầu với Mô-sê. Về phương diện con người thì My-ri-am chiếm ưu thế ở 3 điểm. Về xã hội: Tập tục không cho phép người Do thái kết hôn với ngoại kiều, thế mà Mô-sê đã cưới một người xứ Cút. Về gia đình: My-ri-am là chị cả trong gia đình và Mô-sê phải vâng lời bà. Về cá nhân: My-ri-am là ân nhân cứu mạng Mô-sê và chăm sóc ông từ bé. Thế nhưng Chúa lại cho rằng My-ri-am đã đối đầu với Chúa vì dám xúc phạm đến Mô-sê là tôi tớ của Chúa. Hơn nữa, bà ghen tị vì Mô-sê được Chúa gặp trực tiếp. Đó chính là cuộc đối đầu giữa xác thịt và Thần Khí. My-ri-am đã để cho tính ghen tức xác thịt bùng nổ nên nói xấu Mô-sê. Mô-sê là người của Thần Khí vì ông tràn đầy ơn Chúa và ông cư xử theo Thần Khí, hiền lành khiêm nhường không đối đáp lại My-ri-am (năm lẻ).
Tin Mừng cũng tường thuật lại cuộc đối đầu giữa nhóm Pha-ri-sêu và Chúa Giê-su. Pha-ri-sêu cũng vận dụng tập tục tiền nhân để chống lại Chúa Giê-su. Họ cũng tự cho mình có quyền giảng dậy và cắt nghĩa lề luật để dậy dỗ Chúa và các môn đệ. Cuối cùng họ cũng bộc lộ tính xác thịt, chống lại Chúa vì ghen tức với Chúa. Chúa Giê-su cho biết ai sống theo xác thịt sẽ đi vào chỗ chết: “Cây nào mà Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời không trồng, thì sẽ bị nhổ đi. Cứ để mặc họ. Họ là những người mù dắt người mù. Mù mà lại dắt mù, cả hai sẽ lăn cù xuống hố”. Bà My-ri-am lập tức bị phong cùi, tức là đi vào đất kẻ chết.
Sống theo xác thịt sẽ chết theo xác thịt. Như Chúa nói với Giê-rê-mi-a: “Không ai biện hộ cho vụ kiện của ngươi…Mọi nhân tình của ngươi đều quên ngươi hết, chúng không kiếm tìm ngươi nữa…Ngươi kêu la vì thương tích của ngươi làm gì? Nỗi thống khổ của ngươi thật hết đường cứu chữa. Ấy chỉ vì sự gian ác của ngươi quá nhiều, và tội lỗi của ngươi quá nặng”. Nhưng khi dân ăn năn sám hối, từ bỏ con đường xác thịt để sống theo Thần Khí, Chúa lại cho phục hồi. Sống theo Thần Khí họ được tự do vì làm chủ lấy mình: “Thủ lãnh của nó sẽ từ nó xuất thân, và người thống trị nó sẽ từ giữa nó mà ra”. Họ thuộc về Chúa: “Các ngươi sẽ là dân Ta chọn, và Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi”. Biết thờ phượng, ngợi khen Chúa: “Từ các nơi ấy, sẽ vọng ra lời cảm tạ và tiếng reo mừng” (năm chẵn).
Sống theo xác thịt thì mù quáng. Sống theo Thần Khí thì sáng suốt. Sống theo xác thịt thì lăn xuống hố. Sống theo Thần khí thì thanh thoát vươn lên. Sống theo xác thịt là đi vào cõi chết. Sống theo Thần Khí đi vào đời sống. Sống theo xác thịt bị nô lệ. Sống theo Thần Khí tự do vì tự mình làm chủ lấy mình.
Suy Niệm 3: Chúa Ði Trên Biển
Thiên Chúa tỏ ra là một nhà giáo dục đại tài: Ngài luôn tôn trọng tư tưởng, dự định của con người, nhưng với thời gian và qua dòng lịch sử, Ngài thanh lọc, kiện toàn những gì không phù hợp với Nước Trời. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể làm người cũng đi theo đường lối đó, như chúng ta có thể thấy trong bài Tin Mừng hôm nay.
Sau khi cho dân chúng ăn no, Chúa Giêsu buộc các môn đệ lên đò sang bờ bên kia. Giải tán dân chúng xong, Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện một mình. Các môn đệ vâng lời Thầy ra đi, nhưng có lẽ các ông không được hài lòng. Các ông đã hết sức kiên nhẫn chờ đợi ngày Chúa Giêsu làm vua, cơ hội đó hôm nay đã đến, nhưng Chúa lại từ chối. Không những bỏ lỡ cơ hội, Chúa còn ra lệnh cho các ông lập tức rời bỏ hiện trường. Bất mãn, chán nản và mệt nhọc làm cho các ông ngã lòng. Chúa Giêsu biết rõ tâm trạng của các ông, không những bằng ánh mắt và bằng cả cõi lòng khi Ngài cầu nguyện trên triền núi. Ngài thấy các ông chèo chống ngược với sóng gió và ngược với cả ý muốn. Chính lúc đó, Ngài đi trên mặt biển để đến với các ông. Ngài đã làm như thế để các ông hiểu rằng Ngài có quyền năng trên các tạo vật, Ngài có chương trình của Ngài và Ngài sẽ thực hiện chương trình ấy khi giờ của Ngài đến.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đặt tất cả niềm tin vào quyền năng của Chúa. Ngài có chương trình cho mỗi người chúng ta. Ðiều quan trọng không phải là chúng ta bắt Thiên Chúa làm theo ý chúng ta, để rồi khi không được như ý nguyện, chúng ta tỏ ra buồn phiền, than trách Chúa. Trái lại, chúng ta hãy đặt hết tin tưởng vào Chúa, Ngài vẫn hiện diện để sẵn sàng cứu giúp chúng ta. Hãy phó thác vào quyền năng yêu thương của Ngài và như thế tâm hồn chúng ta sẽ được bình an.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Ðừng Sợ
Biến cố Chúa đi trên mặt biển cũng được tường thuật nơi Phúc Âm thánh Maccô chương 6 và nơi Phúc Âm thánh Gioan chương 6, nhưng nơi Phúc Âm thánh Mátthêu thì có thêm chủ ý hành văn của tác giả và ý định trình bày một cái nhìn. Các nhà chú giải đồng ý có ba phương diện giúp dễ hiểu đoạn Phúc Âm này hơn:
- Bình diện thứ nhất là bình diện của biến cố khi được tường thuật.
- Bình diện thứ hai là bình diện thần học về việc Chúa mạc khải Thần Khí của Người.
- Bình diện thứ ba là ý nghĩa xã hội học của biến cố.
Trước hết, về bình diện tường thuật biến cố thì câu chuyện được kể đơn sơ, dễ hiểu: "Sau biến cố bánh hóa nhiều, Chúa Giêsu truyền cho các tông đồ xuống thuyền sang bờ bên kia. Còn Người thì ở lại giải tán dân chúng, rồi lên núi cầu nguyện. Ðến khuya, Chúa đi trên mặt biển đang bị động để đến với các tông đồ".
Nhưng nếu nhìn biến cố trong viễn tượng việc Chúa mạc khải chính mình thì biến cố mang một đặc điểm mới. Chúa Giêsu có quyền trên mọi biến cố thiên nhiên. Câu nói của Chúa: "Thầy đây, đừng sợ!" nhắc lại công thức Thiên Chúa mạc khải chính mình bằng lời quả quyết: "Ta là Ðấng Ta là".
Ý nghĩa xã hội học được trình bày qua hình ảnh con thuyền tượng trưng cho Giáo Hội Chúa. Thuyền gặp bão, Giáo Hội Chúa gặp thử thách. Nhưng Chúa Giêsu không để cho các tông đồ một mình chống lại với bão táp, không thể để cho Giáo Hội một mình gặp thử thách: "Ta sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế". Chúa muốn cho các tông đồ luôn kiên trì trong đức tin, đừng lo sợ mê man. Chúa đến với các tông đồ, Chúa đến với Giáo Hội trong cơn thử thách. Chúng ta hãy để cho Chúa đến với chúng ta và hiện diện với chúng ta mãi mãi.
Lạy Chúa, Ðấng đã kêu gọi mọi người "Ðừng sợ".
Xin thương củng cố đức tin chúng con trong những lúc gặp gian nan thử thách.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 5: Tôi Tin
Thấy Người đi trên mặt biển các ông hoảng hốt bảo nhau: “Ma đấy!”, và sợ hãi la lên. Đức Giêsu liền bảo các ông: “Cứ yên tâm chính Thầy đây đừng sợ!” Ông Phê-rô liền thưa với Người: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài.” Đức Giêsu bảo ông: “Cứ đến!” Ông Phê-rô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Đức Giêsu. Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và bắt đầu chìm, ông la lên: “Thưa Ngài, xin cứu con với!” (Mt. 14, 26-30)
Phêrô
Mọi chú ý đổ dồn vào một nhân vật: Phêrô. Ông là tông đồ thứ nhất. Ông nói, làm nhân danh các bạn khác. Hơn nữa, ông là người thứ nhất trong các kẻ tin. Ông tỏ vẻ rất linh hoạt và diễn xuất niềm tin xuất sắc. Ông mạnh mẽ và hiên ngang tuyên bố những lời kêu gọi và lôi cuốn con người. Đó là khát vọng sâu xa hướng về mình, ở bên mình, ở với mình. Đó là bước đường dẫn tới hố sâu vì được người ta tin cậy và yêu mến. Thế rồi, khi lòng tin cậy yếu đuối, lập tức kéo theo sự mất sức căn bản và những nguy khốn tứ bề ập tới làm mình run sợ mất lòng trông cậy. Lúc đó mình là mồi ngon cho các thế lực đe dọa, nếu mình không tìm ngay đến bàn tay của Thầy đến cứu vớt. Có lòng trông cậy, có lòng tin, nhưng quá hèn mọn, quá yếu ớt thì đừng bo bo cậy mình. Chỉ có đức tin vô điều kiện mới mong dẫn dắt các bạn một cách chân chính mà thôi. Điều xảy ra với tông đồ thứ nhất là Phêrô, luôn là gương mẫu cho tất cả những kẻ tin tưởng.
Giáo Hội
Giáo hội toàn thể luôn luôn ở trước tôn nhan Đức Giêsu. Giáo hội đã được bảo đảm thắng vượt mọi gian nan thử thách, có đủ khả năng thoát khỏi mọi nguy biến. Giáo hội biết mình được bảo đảm không bao giờ bị đắm chìm tan biến theo chiều dài của lịch sử ở điều kiện nắm vững đức tin.
Một đức tin đơn sơ
Những câu cuối cùng của đoạn Tin mừng này nhắc nhở chúng ta bài học về Phêrô bước đi trên mặt biển: một bài học về đức tin đơn sơ, không giải thích. Một đức tin biểu lộ bằng cử chỉ, bằng chỉ cần động đến gấu áo Chúa, nhưng đã diễn tả mọi rung động của con tim. “Nếu anh không trở nên trẻ nhỏ…”. Nếu đức tin không như thế, chúng ta phức tạp hóa đức tin của chúng ta, đức tin sẽ mất sức mạnh, mất sức sống! Ước chi chúng ta hãy hết lòng nói với Chúa: “Lạy Chúa, con tin”.
JM
Suy Niệm 6: HÃY VỮNG TIN VÀO CHÚA (Mt 14, 22-36)
Xem lại CN 19 TN A, CN 6 PS C,
lễ Cung Hiến Đền Thánh Phê-rô và Phao-lô, ngày 18 tháng 11.
Trong cuộc sống, nơi xã hội hôm nay luôn có những bất trắc. Nào là chuyện “cá lớn nuốt cá bé”; hay “ma mới bắt nạt ma cũ”; hoặc “chân lý thuộc về kẻ mạnh”. Một xã hội như thế, người ta lấy thước đo để đánh giá vấn đề, sự kiện... dựa vào tiền và quyền... Vì thế, không lạ gì khi vẫn còn đó tình trạng áp bức, bất công với người lương thiện và thấp cổ bé họng!
Đứng trước thực trạng ấy, chúng ta không thể không đặt ra câu hỏi: “Thiên Chúa ở đâu?”; “Ngài có thực sự hiện hữu không?”; “Nếu có, tại sao lại có chuyện con người thay Trời hành đạo như vậy?”.
Hôm nay, bài Tin Mừng tường thuật việc các môn đệ đang trên thuyền để đi sang bờ bên kia. Trong lúc các ông trèo thuyền ra xa, thì gió lớn nổi lên, khiến các ông lo sợ. Đúng lúc đó, Đức Giêsu hiện đến mà các ông không nhận ra Ngài. Vì thế, trong cơn hốt hoảng, các ông đã la lên: “Ma đấy”. Thấy vậy, Ngài đã trấn an các ông và nói: "Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!". Tuy nhiên, chưa tin và vẫn còn nghi ngờ, nên Phêrô đã thử liều một phen mang tính thách thức: "Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài".
Sự kiện Đức Giêsu đi trên mặt biển để đến với các môn đệ và việc cho Phêrô đi trên mặt nước với Ngài giúp cho chúng ta hiểu rằng: Chúa vẫn luôn còn đó trong cuộc đời. Mọi khó khăn thử thách, Ngài luôn có mặt, chỉ có điều chúng ta có một đức tin đủ mạnh để vượt qua mọi khó khăn và có đủ độ nhạy bén để nhận ra Ngài hay không mà thôi!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay dạy cho chúng ta bài học: nếu có niềm tin và tín thác vào Chúa trong sự khiên tốn thì sẽ được Chúa thương.
Mong sao trong mọi hoàn cảnh, chúng ta hãy nhớ đến câu nói của Đức Giêsu khi xưa: "Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!".
Lạy Chúa Giêsu, cuộc đời của chúng con nhiều khi hoang mang và sợ hãi chẳng kém các môn đệ của Chúa là bao! Nhưng như các môn đệ, các ngài đã tin vào Chúa và được Chúa cứu, thì xin cũng ban thêm đức tin cho chúng con, để chúng con cũng được Chúa thương như các môn đệ khi xưa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Tin-nhận Chúa và bước đi bình an
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Giữa biển đời sóng gió, Chúa Giêsu vẫn hiện diện bên ta dù ta không thấy. Sự hoài nghi làm ta sợ hãi và chìm xuống biển sâu. Còn lòng tin sẽ giúp ta nhận ra Chúa và bước đi trong bình an.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, chẳng bao giờ Chúa bỏ các tông đồ một mình trong sóng gió. Chúa luôn có mặt chính lúc các ngài đang gặp thử thách. Chúa đến củng cố niềm tin các ngài: “Cứ yên tâm Thầy đây, đừng sợ”.
Lạy Chúa, hôm nay con nhớ đến Giáo Hội đang gặp những cơn sóng gió, những khủng hoảng, đang phải đương đầu với nhiều thế lực, những quyền bính, những phong trào: tất cả như những đợt sóng vùng lên đòi nhận chìm Chân Lý.
Con cũng nhớ đến những khủng hoảng của loài người trong xã hội hôm nay. Khủng hoảng của gia đình và của chính bản thân con. Chúng con đang bị vật nhào giữa biển đời đầy bất công, hận thù, đang quay cuồng trong dòng sông gian nan vất vả, và linh hồn con đang thoi thóp giữa cơn sóng gào tội lỗi.
Lạy Chúa, con vẫn tin tưởng Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng con. Xin Chúa đến nâng đỡ để chúng con đi trọn hành trình trần gian trong bình an của Chúa. Xin Chúa yên ủi và giúp chúng con vượt qua những đau khổ, nhất là những người không còn được xã hội quan tâm. Xin cho chúng con nhận ra Chúa vẫn ở bên chúng con và cho chúng con biết tin tưởng vào tình yêu Chúa luôn mãi. Niềm tin sẽ là sức mạnh và bình an luôn mãi cho con. Amen.
Ghi nhớ : “Xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy”.
Suy Niệm 8: Chúa đi trên mặt biển
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Sau khi cho dân chúng ăn no, Chúa Giêsu bảo các môn đệ xuống thuyền để sang bờ bên kia. Còn Người thì lên núi cầu nguyện. Thuyền các ông ra giữa biển, bỗng gió lớn nổi lên... Lúc gần sáng, Chúa đi trên mặt nước đến với các môn đệ. Các ông thấy Người thì hoảng sợ tưởng là ma. Người bảo: “Thầy đây, đừng sợ!” Nhưng Phêrô cũng còn hoài nghi nên thưa: “Nếu thật là Thầy, xin cho con đi trên nước mà đến với Thầy”. Chúa bảo ông đi. Nhưng đi một đỗi, ông thấy sóng gió thì sợ nên bị chìm xuống. Ông hoảng hốt xin Chúa cứu giúp. Chúa liền giơ tay nắm lấy ông và trách sao ông kém lòng tin, nếu ông tin Chúa vững vàng thì ông khỏi bị chìm trong nước. Các môn đệ thấy vậy thì tin thật Người là Con Thiên Chúa.
Qua biến cố Chúa Giêsu đi trên mặt biển đến với các môn đệ trong cơn giông tố, chúng ta cần có một số suy nghĩ:
- Đối với Chúa: Việc này không có gì khó khăn, và đối với chúng ta, cũng chẳng có gì là khó hiểu, vì Chúa Giêsu là Thiên Chúa, là Đấng tạo dựng vũ trụ, chính Ngài cầm quyền trên mọi định luật vật lý, nên việc Chúa đi trên sóng nước không có gì phản khoa học hay vô lý, nhưng lại minh chứng uy quyền Thiên Chúa của Ngài. Các môn đệ hôm ấy nhận thấy tỏ tường: Chúa có quyền trên sóng biển, đi trên sóng nước, truyền cho chúng yên lặng, vì thế, lòng tin của các môn đệ càng gia tăng.
- Đối với chúng ta: Lòng tin của chúng ta còn quá yếu kém, nên chúng ta cần phải cầu xin Chúa rất nhiều. Đứng trước cuộc đời đầy đau khổ, chúng ta chẳng khác nào con thuyền bập bềnh trên mặt biển đầy sóng gió. Chúa vẫn có ở đó và chờ đợi để đưa cánh tay đỡ lấy chúng ta. Đứng trước khổ đau của đồng loại, chúng ta lại được Chúa sử dụng như những chiếc phao ,để cho bao nhiêu người khác được cứu thoát.
- Đối với Giáo hội: Giáo hội được tượng trưng như con thuyền. Thuyền gặp bão, Giáo hội Chúa gặp thử thách, nhưng Chúa Giêsu không để cho các Tông đồ một mình chống lại với bão táp, không thể để cho Giáo hội một mình gặp thử thách: “Ta sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Chúa muốn cho các Tông đồ luôn kiên trì trong đức tin, đừng lo sợ mê man. Chúa đến với các Tông đồ, Chúa đến với Giáo hội trong cơn thử thách. Chúng ta hãy để cho Chúa đến với chúng ta và hiện diện với chúng ta mãi mãi.
Chúng ta hãy coi Chúa Giêsu giáo dục đức tin cho Phêrô và các Tông đồ: ban đầu Ngài để cho các Tông đồ bị bão biển doạ (cũng như để Phêrô bị chìm xuống). Khi các ông sợ, các ông nghĩ tới Chúa. Cuối cùng Ngài ra tay cứu giúp. Kết quả là các ông tin vào Ngài: “Thật, Ngài là Con Thiên Chúa”.
Thánh Phêrô Đamianô viết: ”Giữa cuộc đời sóng gió, Chúa Giêsu vẫn ở bên ta, dù ta không thấy. Sự hoài nghi làm ta sợ hãi và chìm xuống biển sâu; còn lòng tin sẽ giúp ta nhận ra Chúa và bước đi trong bình an”.
Việc Chúa Giêsu đi trên mặt biển đến với các môn đệ và Người cho Phêrô đi trên mặt nước giúp chúng ta hiểu rằng: Chúa vẫn luôn hiện diện trong cuộc sống. Trong mọi khó khăn thử thách, Người luôn ở bên ta, chỉ có điều là chúng ta có đức tin đủ mạnh và lòng yêu mến đủ lớn, để có thể mau mắn nhận ra và kêu xin Người cứu giúp hay không mà thôi.
Trong cuộc sống, nơi xã hội hôm nay luôn có những bất trắc. Nào là chuyện “cá lớn nuốt cá bé’, hay “ma cũ bắt nạt ma mới” hoặc “chân lý thuộc về kẻ mạnh”. Một xã hội như thế, người ta lấy thước đo để đánh giá vấn đề, sự kiện... dựa vào quyền và tiền... Vì thế, không lạ gì vẫn còn đó tình trạng áp bức, bất công với người lương thiện và thấp cổ bé miệng!
Đứng trước tình trạng ấy, chúng ta không thể không đặt câu hỏi: “Thiên Chúa ở đâu ?”, “Ngài có thực sự hiện hữu không ?”; “Nếu có, tại sao lại có chuyện con người thay Trời hành đạo như vậy”.
Sự kiện Đức Giêsu đi trên mặt biển để đến với các môn đệ và việc cho ông Phêrô đi trên mặt nước đến với Ngài giúp chúng ta hiểu rằng: Chúa vẫn luôn còn đó trong cuộc đời. Mọi khó khăn thử thách, Ngài luôn có mặt, chỉ có điều chúng ta có một đức tin đủ mạnh để vượt qua mọi mọi khó khăn và có đủ độ nhạy bén để nhận ra Ngài hay không mà thôi!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta bài học: nếu có niềm tin vào Chúa trong sự khiêm tốn thì sẽ được Chúa thương (Ngọc Biển).
Truyện: Hãy bám chặt vào Ta
Có người kể: Tối qua, tôi mơ thấy mình đang cầu nguyện, bỗng một luồng sáng xuất hiện; và Chúa Giêsu hiện ra mỉm cười và nói: “Con hãy ngồi trên tấm thảm này với Ta”.
Lòng tràn đầy vui sướng, tôi làm theo ý Ngài. Tấm thảm từ từ bay bổng lên không trung đưa theo Chúa Giêsu và tôi ngồi trên đó. Tôi mỉm cười, lòng đầy vui sướng và tự nhủ: thật không còn gì hạnh phúc cho bằng được ở gần bên Chúa.
Một lúc sau, tôi quay nhìn Chúa Giêsu để tỏ bày niềm vui: nhưng tim tôi bắt đầu đập mạnh vì Ngài không còn bận tâm gì đến tôi nữa, bởi lẽ Ngài đang chăm chủ rút từng sợi chỉ của tấm thảm thả cho nó bay lơ lửng ở trên không trung. Hết sợ chỉ này đến sợi chỉ khác từ từ bay lên theo gió. Chân tay tôi bắt đầu run lên vì hoảng sợ, thế mà Chúa Giêsu vẫn thản nhiên tiếp tục rút từng sợi chỉ. Sau cùng tôi kêu lên: “Lạy Chúa, Chúa làm gì thế ? Chúa không thấy là chẳng còn mấy chốc nữa tấm thảm sẽ tan tành hay sao ?”
Chúa Giêsu mỉm cười nắm tay tôi và nói: Sao con nhát đảm và kém tin thế ? Hãy bám chặt vào Ta, con sẽ không sợ gì, dù có bị tước đoạt mọi sự, cả đến sợi chỉ cuối cùng đi nữa”.
Chúa Giêsu vừa dứt lời, thì quả thực sợi chỉ cuối cùng của tấm thảm cũng bị rút đi luôn và tôi giật mình thức giấc.