Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
22/06 Thi hành điều muốn người khác làm cho mình
- Viết bởi Mt. 7, 6. 12-14
Thi hành điều muốn người khác làm cho mình.
Thứ Ba tuần 12 thường niên.
"Tất cả những gì các con muốn người ta làm cho các con, thì hãy làm cho người ta".
Lời Chúa: Mt. 7, 6. 12-14
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Đừng lấy của thánh mà cho chó, và đừng vất ngọc trai trước mặt heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi quay lại cắn xé các con.
"Vậy tất cả những gì các con muốn người ta làm cho các con, thì chính các con hãy làm cho người ta như thế! Đấy là điều mà lề luật và các tiên tri dạy.
"Các con hãy vào qua cửa hẹp, vì cửa rộng và đường thênh thang là lối đưa đến hư mất, và có nhiều kẻ đi lối ấy; cửa và đường đưa tới sự sống thì chật hẹp, và ít kẻ tìm thấy".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Cửa hẹp và đường chật
Suy niệm :
Bài Tin Mừng hôm nay gồm những câu rời rạc.
Câu đầu tiên là một câu khó hiểu đối với chúng ta ngày nay (c.6),
tuy có thể rất dễ hiểu đối với những người trực tiếp nghe Đức Giêsu.
“Của thánh, đừng quăng cho chó; ngọc trai chớ liệng cho heo…”
Heo là con vật nhơ uế, chó thường được dùng để chỉ dân ngoại.
Vào khoảng đầu thế kỷ thứ hai,
sách Điđakhê coi của thánh ở đây là Mình Thánh Chúa,
từ đó xác định rằng chỉ tín hữu mới được rước lễ (9, 5).
Tuy nhiên, có thể hiểu của thánh hay ngọc trai là Tin Mừng Nước Trời.
Tin Mừng này có thể được đón nhận hay bị từ chối một cách thô bạo.
Không hẳn chỉ dân ngoại mới có người từ chối và chà đạp viên ngọc quý.
Cả người Do thái cũng có kẻ bách hại những ai rao giảng (Mt 10, 17).
Thái độ của người môn đệ là không dừng lại, nản lòng khi bị chối từ.
nhưng là tiếp tục mang sứ điệp ấy đến cho người khác.
Câu 12 thường được coi là khuôn vàng thước ngọc.
Nó xuất hiện trong nhiều tôn giáo và văn hóa từ xưa.
“Làm cho người khác mọi điều mình muốn họ làm cho mình.”
Đây là một thái độ tích cực đòi chúng ta một chút tưởng tượng.
Tôi thử nghĩ xem mình muốn gì nơi người khác.
Cảm thông, bao dung, yêu mến, kính nể, trung thành, nâng đỡ…
Rồi tôi tìm cách trao cho họ những điều tốt lành mà tôi ước mong,
vì giữa con người với nhau, vẫn có chung những khát vọng.
Trong một thế giới mà người ta chỉ tìm làm điều tốt cho nhau,
thì thế giới đó là địa đàng, nơi sự dữ không còn đất đứng.
Như thế người Kitô hữu không chỉ yêu anh chị em trong cộng đoàn,
yêu người thân cận như chính mình (Mt 22, 39),
mà còn yêu mọi người đau khổ cơ nhỡ (Mt 25, 31-46),
thậm chí yêu cả kẻ thù (Mt 5, 44).
Cộng đoàn Kitô hữu là cộng đoàn yêu bằng hành động tích cực :
“chính anh em hãy làm cho người ta” (c. 12).
Người ta ở đây là mọi người, vượt quá mọi thứ biên giới.
Con đường mà Đức Giêsu đã đi là con đường hẹp, khó đi.
Nó hẹp vì nó là con đường tình yêu, mà yêu thì không dễ.
Ít ai tìm thấy con đường này, mà cũng ít người muốn đi (c. 14).
Chúng ta được mời chọn đi con đường Giêsu,
con đường tình yêu đòi hy sinh mạng sống,
con đường đòi ra khỏi mình để sống cho và sống với tha nhân.
Và chúng ta tin mình sẽ gặp được hạnh phúc.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu, Tình Yêu của con,
nếu Hội Thánh được ví như một thân thể
gồm nhiều chi thể khác nhau,
thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu
một chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất.
Đó là Trái Tim, một Trái Tim bừng cháy tình yêu.
Chính tình yêu làm cho Hội Thánh hoạt động.
Nếu trái tim Hội Thánh vắng bóng tình yêu,
thì các tông đồ sẽ ngừng rao giảng,
các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình...
Lạy Chúa Giêsu,
cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con,
ơn gọi của con chính là tình yêu.
Con đã tìm thấy
chỗ đứng của con trong Hội Thánh:
nơi Trái tim Hội Thánh, con sẽ là tình yêu,
và như thế con sẽ là tất cả,
vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong Hội Thánh.
Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho con,
mọi ước mơ của con được thực hiện. Amen.
(dựa theo lời của thánh Têrêxa)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: Vào cửa hẹp
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa chỉ cho ta con đường dẫn đến sự sống đó là phải vào qua cửa hẹp.
Cửa hẹp là chế ngự được thú tính. “Đừng quăng của thánh cho chó; đừng liệng ngọc trai cho heo”. Trong ta có của thánh và ngọc quí. Đó là đức tin, là ơn thánh, là tước hiệu con cái Chúa. Quí giá vì quyết định hạnh phúc đời đời. Vì thế phải bảo vệ trân trọng bằng bất cứ giá nào. Bằng cả mạng sống ta. Nhưng trong ta cũng có những con thú. Thú dữ như chó. Thú dơ bẩn như heo. Nếu ta không kềm chế, thả lỏng những con thú này. Chúng sẽ chà đạp hết những gì cao quí trong con người ta rồi quay lại cắn xé ta tan nát. Chế ngự thú tính là bắt mình đi vào cửa hẹp, không cho thú tính tự do tung tác. Như thế mới bảo vệ được ơn thánh và ngọc quí trong ta.
Cửa hẹp là biết quan tâm đến tha nhân sống chung quanh ta. Quan tâm để phục vụ: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta”. Đó là yêu người như mình. Khi muốn làm vui lòng tha nhân, phải từ bỏ mình. Phải chịu hẹp một chút. Đó là vào cửa hẹp yêu thương. Cửa hẹp này sẽ mở rộng cánh cửa tâm hồn của ta và của tha nhân.
Như Áp-ra-ham biết giữ những giá trị tinh thần cao quí. Giá trị đó là đức tin vào Chúa một cách tuyệt đối. Giá trị đó cũng là tình gia tộc. Phải phân chia nơi ở để gìn giữ hòa khí. Trong phân chia, Áp-ra-ham đã đi vào cửa hẹp là nhường nhịn. Dành cho Lót quyền ưu tiên chọn lựa. Dù Lót là phận dưới. Lại chỉ là người ăn theo lời hứa. Lót đã chọn thành Xô-đô-ma là một thành phố giầu sang thịnh vượng. Vừa dễ làm ăn vừa vui tươi. Còn Áp-ra-ham theo lời hứa đã chọn hướng ngược lại, vào sa mạc cắm lều dưới rặng sồi Măm-rê. Ông đã giữ được của thánh và ngọc quý. Ông được Chúa thưởng công gấp bội (năm lẻ).
Như Khít-ki-gia. Không cậy dựa vào sức mạnh của nhân loại. Cũng không hèn nhát hàng phục. Nhưng phó thác cho Chúa. Trước sức hung hãn của Át-sua. Giống như chó dữ. Và như heo dơ bẩn. Muốn cắn xé đức tin của ông. Muốn chà đạp sự linh thiêng của Chúa. Khít-ki-gia đi vào cửa hẹp. Lên Đền Thờ tỏ bày với Chúa. Và ông đã được Chúa cứu thoát khỏi ách xâm lược của Át-sua. “Chính đêm ấy, thiên sứ của Đức Chúa ra đánh chết một trăm tám mươi lăm ngàn người trong trại quân Át-sua. Vua Át-sua là Xan-khê-ríp nhổ trại và lên đường. Ông rút về Ni-ni-vê” (năm chẵn).
Đường rộng thênh thang muôn lối nhưng dẫn đến diệt vong. Xin Chúa cho con biết đi vào đường hẹp, chỉ có một lối duy nhất của Chúa dẫn đến sự sống.
SUY NIỆM 3: Hãy qua cửa hẹp
Một cuốn phim Mỹ với nội dung như sau: Có đôi vợ chồng trẻ mới thành hôn đưa nhau đi nghỉ cuối tuần tại Las Vegas, một thành phố cờ bạc nổi tiếng nhất nước Mỹ. Ðang lúc thuận thời vận, hai người chia sẻ cho nhau ước muốn có được một căn nhà. Một nhà tỷ phú tình cờ theo dõi câu chuyện của đôi vợ chồng trẻ. Với tất cả nghiêm chỉnh, ông đề nghị với họ: nếu cô vợ chịu ngủ với ông một đêm, ông sẽ tặng cho họ một triệu Mỹ kim. Chỉ sau một đêm họ có thể trở thành triệu phú. Nghĩ thế, họ ra phòng luật sư để ký giao kèo. Nhưng khi người vợ lên đường đến với nhà tỷ phú, người chồng cũng bắt đầu nghĩ lại, viễn ảnh mất vợ bỗng làm anh lo sợ. Thế nhưng đã quá muộn, sau một đêm để có được tất cả cũng chính là lúc họ mất nhau để rồi đi đến tan vỡ.
Câu chuyện phim trên đây có thể là một dụ ngôn cho chúng ta hiểu được giáo huấn của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay: con đường dễ dãi là con đường dẫn đến hư mất, đó là định luật chung của cuộc sống. "Hãy vào qua cửa hẹp, vì cửa rộng và đường rộng đưa đến diệt vong". Thái độ hững hờ không thể đi đôi với những đòi hỏi của Tin Mừng; cuộc sống dễ dãi, buông thả không có chỗ đứng trong nếp sống của những người theo Chúa. Ðã một thời cùng ăn, cùng uống, cùng nghe giảng dạy, chưa phải là giấy thông hành để vào Nước Trời: "Ai nghe những lời Ta dạy mà không đem ra thực hành, thì ví được như người ngu xây nhà trên cát". Nếu viện lý do mình là con dòng cháu giống, cũng chưa phải là lý do để được thâu nhận vào Nước Trời.
Trong lúc huấn đức cho đồ đệ, một người mới nhập viện lên tiếng hỏi vị Thiền sư:
- Thưa Thầy, con quyết chí tu cho đắc đạo dễ hay khó?
Thiên sư trả lời:
- Không dễ cũng không khó.
Người đồ đệ ngạc nhiên hỏi:
- Tại sao lại không dễ cũng không khó? Con thật không hiểu, xin thầy giải thích.
Thiền sư dõng dạc trả lời:
- Vì tu đắc đạo không ở đó.
Người đồ đệ càng sửng sốt hơn:
- Con không thể nào hiểu được. Vậy làm sao để đạt đích?
Thiền sư trả lời:
- Vì đường tu không khoảng cách. Khi con ngưng bước là lúc con tới đích.
Xin Chúa cho chúng ta thực thi những gì Chúa đòi hỏi. Xin cho chúng ta luôn đi sát Chúa và hướng thẳng tới đích cao vời.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Cửa hẹp
“Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng là đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua cửa đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy.” (Mt. 7, 13-14)
Những cánh cửa khép kín
Ta nghĩ đến cái gì khi nghe Phúc âm nói về cửa hẹp? Có lẽ ta cho đó là chuyện chẳng có gì đáng “tếu”, đáng phấn khởi cả. Trong đầu óc ta, đó là những tiếng gợi nên cảnh nhiệm nhặt, khổ chế, những điều răn, thập giá và đau khổ. Trong tất cả những điều này, chẳng có gì làm cho ta ham sống cả. Một phần nào đó cũng giống như muốn qua cửa hẹp, thì trước tiên là phải lo đóng chặt các cửa chung quanh, phải bận tâm nhiều đến những điều cấm đoán, phải thường xuyên ở thế phòng thủ, phải luôn luôn canh chừng để khỏi rơi xuống hố sâu vực thẳm.
Như vậy thiết tưởng cửa hẹp là một cái vòng xiềng cổ, là cái áo bó chặt vào người, là con đường khúc khuỷu gập ghềnh chẳng có nhiều ánh sáng, niềm vui sống và tự do.
Những cánh cửa mở rộng
Nghĩ tưởng như vậy đúng là không biết đánh giá cao điều Chúa Giêsu đề nghị cho ta. Để tỏ ra công bằng đối với Chúa, khĩ nghĩ đến cửa hẹp, thiết tưởng ta phải nghĩ nhiều đến những cánh cửa rộng mở hơn là những cánh cửa khép kín. Chúa Giêsu chẳng phải là con người dập tắt niềm vui, sự sống và tự do. Và chính cửa hẹp Chúa nói đến ở đây, sẽ đưa ta tới đó.
Nếu Chúa Giêsu có mời gọi ta sống nhiệm nhặt khắc khổ, chính là để nếp sống ấy đưa ta tới nguồn vui. Chúng ta sẽ phải đau khổ, nếu Chúa không giấu ta điều đó, chính là để nói với ta rằng hạnh phúc đang chờ ta ở cuối đoạn đường. Nếu Người thúc ép ta vác thập giá mình, chính la để dẫn ta đến sự sống.
Thế nên cửa hẹp được gọi là tình yêu thương, sự hiến thân, đức công bình, sự tha thứ lỗi lầm, lòng quảng đại, nhân từ, dịu hiền. Cửa hẹp này mở rất rộng rãi hướng về một thế giới tuyệt vời; thế giới chan hòa tự do và hoan lạc này chỉ mình Thiên Chúa mới có thể vun trồng ở thâm sâu của lòng ta.
SUY NIỆM 5: KHUÔN VÀNG THƯỚC NGỌC (Mt 7, 6. 12-14)
"Tất cả những gì các con muốn người ta làm cho các con, thì hãy làm cho người ta".
Đây là khuôn vàng thước ngọc để ta thi hành đức ái theo thánh ý Chúa.
Thật vậy, chẳng ai muốn điều xấu đến với mình bao giờ. Vì thế, không có lẽ gì lại mong muốn điều xấu đến với anh chị em mình. Chỉ có ai nuôi lòng hận thù, hay vì ích kỷ thì mới làm điều bất chính cho tha nhân và muốn điều tốt cho riêng mình mà thôi.
Hôm nay, Đức Giêsu đã đưa ra kim chỉ nam cho các môn đệ và cũng cho mỗi người chúng ta là: hãy muốn và làm điều tốt cho tha nhân trước khi thi hành điều tốt cho chính mình. Phải quên đi bản thân để mưu cầu hạnh phúc cho tha nhân trước. Hãy đặt mình vào hoàn cảnh của anh chị em và hãy đối xử với họ như chính mình muốn được đối xử khi ở địa vị của họ.
Lời Chúa hôm nay không chỉ kêu mời chúng ta “hãy làm cho người khác những điều mình muốn họ làm cho mình” mà Ngài muốn chúng ta đi xa hơn nữa là hãy cư xử với tha nhân tốt hơn là họ đáng được cư xử. Không chỉ “yêu tha nhân như chính mình” mà hãy “yêu tha nhân như Chúa đã yêu thương chúng ta”. Đó là yêu vô điều kiện, yêu đến mức hy sinh cả mạng sống.
Khi yêu như thế, ấy là lúc chúng ta đang đi trên con đường hẹp, con đường của hy sinh, từ bỏ, của yêu thương, quảng đại và vô vị lợi. Sẵn sàng từ bỏ con đường thênh thang là con đường của kiêu ngạo, ích kỷ, nhỏ nhen, trục lợi cho cá nhân mình.
Lạy Chúa Giêsu, Lời Chúa hôm nay vạch ra cho chúng con con đường về trời. Con đường đó là hy sinh, yêu thương và bác ái vô vị lợi.
Xin cho chúng con biết chọn con đường hẹp ấy để tiến bước trên hành trình sứ vụ của chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Cửa hẹp và đường chật
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Điều ta muốn người khác làm cho mình thì ta hãy làm cho họ. Đó là cửa hẹp và đường chật mà ta phải đi vào để gặp được sự sống.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa luôn sống hạnh phúc viên mãn vì Chúa hoàn toàn sống cho Chúa Cha và cho chúng con. Chúa Cha cũng hạnh phúc viên mãn vì hoàn toàn trao ban chính mình cho Chúa và cho chúng con. Chúa cho con hiểu rằng hạnh phúc hệ tại cuộc sống quên mình và biết sống vì người khác.
Lạy Chúa, ai trong chúng con cũng muốn coi mình là trung tâm, ai cũng muốn sống cho mình, ai cũng muốn người khác hy sinh cho mình, mà chẳng bao giờ muốn sống cho người khác và hy sinh cho người khác. Chính vì thế nhân loại chẳng bao giờ gặp được hạnh phúc đích thực và lâu bền.
Chúa dạy con phải biết làm cho người khác điều mà con muốn họ làm cho con. Xin Chúa giúp con đi bước trước. Xin Chúa dạy con biết yêu mến và an ủi người khác hơn là mong được họ yêu mến và an ủi, biết giúp đỡ quan tâm và tế nhị với họ hơn là được họ giúp đỡ, quan tâm. Con mong được người khác tha thứ cảm thông, thì xin Chúa giúp con biết quảng đại tha thứ và cảm thông trước. Và sau đó Chúa sẽ cho con nhận lại tất cả.
Lạy Chúa, hạnh phúc của con là làm sao cho người khác được hạnh phúc. Con sẽ chẳng bao giờ hạnh phúc khi chỉ biết chờ đợi người khác hầu hạ khen tụng con, nhưng trái lại hạnh phúc sẽ bắt đầu khi con biết sống cho người khác. Điều này ngược với tính ích kỷ của con. Xin Chúa giúp con biết hy sinh đi vào cửa hẹp và con đường chật như chính Chúa đã dạy và làm gương cho con. Amen.
Ghi nhớ : “Tất cả những gì các con muốn người ta làm cho các con, thì hãy làm cho người ta”.
Suy Niệm 7: Phấn đấu qua cửa hẹp
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Có một khách bộ hành phải đi qua một cái làng để đến một nơi mà ông ta không biết đích xác còn bao xa nữa thì mới tới được. Dọc đường ông ta gặp một bác tiều phu, liền dừng lại hỏi xem khoảng bao lâu nữa thì tới nơi mình muốn tới. Bác tiều phu nhìn ông khách rồi đáp ngay: “Tôi không biết”.
Nghe thế, ông khách vội bước đi và nghĩ rằng người nhà quê đó không biết thật, chứ không phải khó tính khó nết. Nhưng khi vừa mới đi được vài bước thì bác tiều phu gọi với theo: “Này ông ơi, ông đi độ 15 phút nữa thì tới nơi đó”. Ngạc nhiên, ông khách quay trở lại hỏi bác tiều phu: “Tại sao khi nãy hỏi bác, bác trả lời không biết?”. Bác tiều phu thông cảm đáp: “Lúc ông hỏi tôi, ông chưa hành động nên chưa thấy bước đi của ông dài hay ngắn, mau hay chậm thì làm sao tôi có thể trả lời cho ông rõ ràng được”.
Suy niệm
Chúa Giêsu trình bày giáo huấn của Ngài với ba ý khác nhau:
“Của thánh, đừng quăng cho chó; ngọc trai chớ liệng cho heo”… Người Do Thái coi heo là con vật nhơ uế, chó thường được dùng để chỉ dân ngoại. Chúa Giêsu muốn dùng hình ảnh của thánh hay ngọc trai để nói về Tin Mừng nước Trời. Tin Mừng có thể được đón nhận hay bị từ chối một cách thô bạo từ dân ngoại. Ngay cả nơi người Do Thái cũng có kẻ bách hại những ai rao giảng (x. Mt 10,17). Sách Điđakhê vào khoảng đầu thế kỷ thứ hai, nhấn mạnh thêm coi của thánh ở đây là Mình Thánh Chúa, từ đó xác định rằng chỉ tín hữu mới được rước lễ.
Đức Giêsu đưa ra khuôn vàng thước ngọc về bổn phận của người tin vào Ngài: Luôn làm những điều tích cực, điều tốt cho anh em với tất cả lòng quảng đại và yêu mến. Cựu ước dạy: “Đừng làm cho người khác những điều chính mình không thích” (Tb 4,16). Giáo huấn của Chúa Giêsu mang tính cách tích cực hơn: “Hãy làm cho người ta trước”. Muốn người khác giúp đỡ, thì chính mình cũng phải giúp đỡ cho người khác.
Qua hình ảnh con đường hẹp, cửa hẹp. Ðức Giêsu dạy ta cần phải luôn cố gắng, phấn đấu hết sức để được vào nước Chúa. Ngài nói phải phấn đấu bước qua: “Hãy đi qua cửa hẹp”. Ngài nhấn mạnh: “Cửa hẹp dẫn đến sự sống” (Mt 7,14). Qua cửa hẹp, phải cố gắng, phải chiến đấu không ngừng để về quê Trời. Cho nên, Tin Mừng nói đến hình ảnh: “Chỉ những ai mạnh sức mới chiếm được nước Trời” (Mt 11,12; Lc 16,16).
Xin cho chúng ta luôn gìn giữ ơn thánh được trao ban qua Lời Chúa và Thánh Thể, đó là sức mạnh để chúng ta cùng nhau đi trên con đường mà Đức Giêsu đã đi - con đường hẹp, khó đi - con đường tình yêu đòi hy sinh mạng sống - con đường đòi ra khỏi mình để sống cho và sống với tha nhân.
Ý lực sống:
“Các con hãy vào qua cửa hẹp… cửa và đường đưa tới sự sống thì chật hẹp” (Mt 7,13-14)
Suy Niệm 8: Khuôn vàng thước ngọc (Mt 7,6.12-14)
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Chúa Giêsu đưa ra khuôn vàng thước ngọc về bổn phận của mọi người đối với tha nhân. Sự độc đáo nơi nguyên tắc của Ngài: không chỉ không làm những điều tiêu cực, mà còn phải làm những điều tích cực, điều tốt cho anh em, nghĩa là sống bác ái, cho đi với tất cả với lòng quảng đại và yêu mến.
Qua hình ảnh con đường hẹp, cửa hẹp, Chúa Giêsu dạy ta phải khước từ những quyến rũ bất chính của cuộc sống để được vào Nước trời. Muốn theo Chúa Giêsu, chúng ta phải phấn đấu với chính mình và đi trên con đường Ngài đã đi, đó là con đường khổ giá.
Chớ phạm thánh: “Của thánh, đừng quăng cho chó; ngọc trai, chớ liệng cho heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi quay lại cắn xé anh em”. Với lời dạy này Chúa Giêsu, trước hết, được hiểu là Bí tích không thể phát bừa bãi cho kẻ không tin và không có ý ngay lành. Lời này cũng là một sự nhắc nhở cho chúng ta sự cẩn trọng đối với đồ thánh, nơi thánh và tất cả những gì liên quan tới phụng tự. Vì những gì dành cho việc phụng thờ Thiên Chúa là Đấng Chí Thánh thì cần được trân trọng và gìn giữ. Đặc biệt, mọi Kitô hữu luôn ý thức mình đã được hiến thánh khi chịu các Bí tích, thì hãy luôn giữ mình trong sạch để xứng đáng là nơi thánh cho Thiên Chúa ngự, và xứng đáng đến tham dự cử hành các mầu nhiệm thánh trong đạo (Hiền Lâm).
Khuôn vàng thước ngọc. Trước Chúa Giêsu, sách Tôbia cũng đã viết: “Điều gì con không thích thì cũng đừng làm cho ai cả” (Tb 4,15). Khổng Tử cũng trả lời cho một đệ tử: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”, nghĩa là điều gì con không muốn thì đừng làm cho người ta. Triết gia Aristote cũng dạy: “Đừng làm lại những điều người khác làm cho ngươi nổi giận”.
Tuy nhiên, các hiền nhân xưa chỉ nói theo mặt tiêu cực. Còn Chúa Giêsu khuyên bảo theo cách tích cực: “Điều gì các ngươi muốn người ta làm cho mình, thì chính các ngươi hãy làm cho họ trước”. Đó là khuôn vàng thước ngọc của Kitô giáo và là “kim chỉ nam” cho những ai theo Chúa. Thật vậy, đừng làm điều ác mà thôi thì chưa đủ, nhưng chỉ khi nào mọi người bắt tay làm điều thiện, làm điều mình muốn người khác làm cho mình, lúc đó xã hội mời hy vọng tốt đẹp được (Hiền Lâm).
Phải đi qua cửa hẹp. Có những con đường chẳng ai muốn đi, bởi vì nó chật hẹp, đầy chông gai. Bởi vì thường người ta muốn đi trên những con đường thênh thang, êm ái, muốn hưởng thụ một cuộc sống đầy tiện nghi, thoải mái. Biết bao nhiêu phát minh khoa học kỹ thuật đều nhằm thỏa mãn khát vọng đó. Thế mà Chúa Giêsu giới thiệu với chúng ta con đường hẹp, con đường ít người muốn đi: “Cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” (Mt 6,14).
Cửa hẹp và đường chật chẳng ai thích đi, trừ phi họ được Thiên Chúa dẫn vào. Thời Xuất hành, nếu dân Israel không trải qua cảnh cùng cực bên Ai cập, làm sao họ chịu vào sa mạc để tìm về Đất hứa? Kể cả Chúa Giêsu, Ngài cũng từng được Thần khí dẫn vào sa mạc để chịu thử thách (Mt 4,1), Ngài cũng xin Chúa Cha cất cho Ngài khỏi chén đắng (Mt 26,42) (5 phút Lời Chúa).
Phải cộng tác với Chúa. Để có được những thiện hảo đời này hẳn nhiên không thể thiếu sự cố gắng nỗ lực. Cũng vậy để có hạnh phúc vĩnh cửu thì sự nỗ lực hoàn thiện bằng đời sống đạo đức càng phải trổi vượt hơn gấp bội. Thật thế, Thiên Chúa chuẩn bị cho ta ơn cứu độ, dọn sẵn cho ta Nước trời, nhưng Thiên Chúa muốn con người cộng tác để đạt cùng đích ấy, như thánh Augustinô nói: “Thiên Chúa dựng nên ta Ngài không cần ta, nhưng để cứu chuộc ta Ngài cần ta cộng tác”.
Dĩ nhiên để đạt tới ơn cứu độ và hưởng Nước trời không phải chỉ do sức riêng chúng ta tự nỗ lực, nhưng cần đến sự trợ giúp của Ơn Chúa (khác với tự thân nỗ lực giải thoát trong Phật giáo). Việc đi qua cửa hẹp chính là sự hy sinh mỗi ngày, vừa dành thời gian cho Chúa để được trợ lực, vừa thực hành sống đạo đức và bác ái giữa đời.
Truyện: Trên bước đường chông gai
Năm 1796, chiến tranh giữa Pháp và liên minh Ý-Áo, Đại tướng Bonaparte của Pháp đã đưa quân đội đến một địa điểm, có cây cầu bắc qua trận tuyến của địch.
Khi trận chiến đã đến hồi quyết định, Bonaparte hô quân tiến qua cầu, nhưng không một ai qua! Bonaparte xuống ngựa, giựt lá cờ quân đoàn, chân bước qua cầu, miệng hô to:
- Ai yêu tổ quốc thì theo ta.
Lịch sử kể lại rằng, lúc đó trên cầu người ta chỉ thấy có mình ông với lá cờ đã rách nhiều mảnh vì đạn của địch quân. Rất may sau đó có cậu bé 13 tuổi đánh trống thúc quân, hai tay đập mạnh vào trống, chân bước qua cầu theo đại tướng, quân sĩ thấy vậy liền tràn qua cầu. Bonaparte toàn thắng và chấm dứt chiến tranh.
8 năm sau, Bonaparte đã là hoàng đế Napoléon, trở lại chỗ cũ, có lễ nghi nghinh tiếp rất long trọng. Napoléon muốn bắt tay cậu bé Vidal đã 21 tuổi hiện ở trong quân đoàn tại đó. Hỏi đến Vidal thì cậu đã xin nghỉ phép để về đưa đám tang mẹ. Napoléon bãi bỏ tất cả nghi lễ quân đội, đi thẳng đến làng của Vidal, theo sau đám tang đến tận huyệt, đọc bài điếu văn rồi đi bộ cùng Vidal trở về. Vidal từ chối và mời Hoàng đế lên xe. Hoàng đế Napoléon đáp:
- Tám năm trước con đã liều chết theo ta trên con đường chết, nay trên con đường đau khổ, con cho ta theo con, cho có bạn!
21/06 Phương thế tốt để tự biết mình.
- Viết bởi Mt 7, 1-5
Phương thế tốt để tự biết mình.
Thứ Hai tuần 12 thường niên. – Thánh Lu-y Gôndaga, tu sĩ. Lễ nhớ.
“Hãy lấy cái đà khỏi mắt ngươi trước đã”.
* Sinh năm 1568, gần Man-tu-a miền Lom-bác-đi-a, trong một gia đình Cát-ti-di-ô-nê quyền quý, hấp thụ lòng đạo đức của thân mẫu. Lu-y sớm có khuynh hướng sống đời tu. Sau khi trao lại cho anh (em) phần đất người được tổ tiên giao cho để cai quản, người gia nhập dòng Chúa Giêsu. Trong khi phục vụ bệnh nhân đang kỳ dịch, thánh nhân bị lây và qua đời lúc mới 23 tuổi (năm 1591)
Lời Chúa: Mt 7, 1-5
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con đừng đoán xét để khỏi bị đoán xét. Các con đoán xét thể nào thì các con cũng bị đoán xét như vậy.
Các con dùng đấu nào mà đong, thì cũng sẽ đong lại cho các con bằng đấu ấy.
Sao ngươi thấy cái rác trong mắt anh em, mà không thấy cái đà trong mắt ngươi? Hoặc sao ngươi bảo anh em: “Để tôi lấy cái rác ra khỏi mắt anh”, và này: cái đà đang ở trong mắt ngươi. Đồ giả hình, hãy lấy cái đà khỏi mắt ngươi trước đã, rồi ngươi sẽ thấy rõ để lấy cái rác ra khỏi mắt anh em ngươi”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Lấy xà ra khỏi mắt
Suy niệm:
Mỗi ngày chúng ta đưa ra biết bao nhận xét về người khác.
Thầy cô phải nhận xét về học trò, cấp trên phải nhận xét về thuộc hạ.
Việc lượng giá về từng cá nhân thường rất cần thiết và hữu ích.
Trong đời sống tu trì, vẫn có chuyện anh em sửa lỗi cho nhau.
Nói chung, sống thì phải đưa ra những phán đoán về người khác.
Nhưng làm sao để phán đoán ấy không trở nên một xét đoán lệch lạc?
Đức Giêsu dạy ta biết cách xét đoán qua bài Tin Mừng hôm nay.
“Anh em đừng xét đoán”: thật ra Đức Giêsu không cấm mọi thứ xét đoán.
Ngài còn dạy các môn đệ biết cách phân biệt ngôn sứ giả và thật (Mt 7,15),
phân biệt người xứng đáng và người không xứng đáng (Mt 10, 11),
biết cách đề phòng thói xấu của nhóm Xađốc và Pharisêu (Mt 16, 6).
Đức Giêsu chỉ đòi các tín hữu sống trong cộng đoàn huynh đệ
phải tránh lối xét đoán thiếu bao dung, khắc nghiệt,
mà quên chính mình cũng có những lỗi lầm lớn hơn nhiều.
“Anh em xét đoán thế nào, thì cũng bị Thiên Chúa xét đoán như vậy” (c. 2).
Ngài muốn ta nhẹ tay và nhân từ khi cần phải xét đoán người anh em.
Vì cái đấu ta dùng để đong cho họ, Thiên Chúa sẽ dùng để đong cho ta.
Đấu đong đi càng lớn, đấu đong lại càng đầy.
Chỉ cần thay đổi cái đấu ta vẫn quen dùng, là cuộc đời của ta thay đổi.
Đức Giêsu dùng một hình ảnh liên quan đến nghề mộc của Ngài,
để nói về chuyện người đạo đức giả.
Đó là hình ảnh bụi mùn cưa trong mắt người khác và cái xà trong mắt mình.
Một cái thì thật bé, một cái thì to đến độ khó lòng ở trong mắt được.
Hình ảnh phóng đại này hẳn làm ai cũng phải buồn cười.
Tôi thấy lỗi bé nơi anh em, nhưng lại không để ý tới lỗi lớn nơi tôi.
Tôi hăng hái xin được lấy hạt bụi ra khỏi mắt anh em,
nhưng lại rất khoan dung với cái xà trong mắt mình.
Đức Giêsu hóm hỉnh khuyên chúng ta nên lấy xà ra khỏi mắt trước đã,
rồi mới thấy tỏ tường để lấy hạt bụi mùn cưa khỏi mắt anh em.
Điều khó vẫn là thấy được cái xà trong mắt mình.
Lẽ ra tôi phải thấy ngay vì nó quá lộ liễu, ai cũng thấy.
Nhưng nó khó thấy, vì tôi không muốn thấy cái xấu của mình.
Càng có quyền, có chức, có uy tín, có tuổi tác và kinh nghiệm,
càng khó chấp nhận nếp nhăn nơi khuôn mặt mình.
Giá mà tôi thấy được cái xà nơi mắt tôi,
chắc tôi đã không dám đòi lấy hạt bụi nơi mắt người khác,
hay nếu có được ai nhờ lấy đi nữa,
thì cũng chỉ lấy một cách khiêm hạ, nhẹ nhàng.
Trong bài hát “Chúa Hòa Bình” của Phạm Duy có câu:
“Nếu có ai lầm lỡ, rồi sinh ra khắt khe…”
Chỉ mong chúng ta, nhờ thấy mình lầm lỡ và đã được Chúa thứ tha,
nên sinh ra dễ cảm thông với lỗi lầm người khác.
Cầu nguyện :
Như người mù ngồi bên vệ đường
xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.
Xin cho con được thấy bản thân
với những yếu đuối và khuyết điểm,
những giả hình và che đậy.
Cho con được thấy Chúa hiện diện bên con
cả những khi con không cảm nghiệm được.
Xin cho con thực sự muốn thấy,
thực sự muốn để cho ánh sáng Chúa
chiếu dãi vào bóng tối của con.
Như người mù ngồi bên vệ đường
xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: Xét đoán
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Ai cũng thích xét đoán. Nhưng thường sai lầm. Có hai sai lầm cơ bản. Sai lầm vì chủ quan. Không xét mình nhưng luôn xét người. Xét mình thì nặng thành nhẹ. Xét người lại nhẹ thành nặng. “Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới? Sao anh lại nói với người anh em: ‘Hãy để tôi lấy cái rác ra khỏi mắt bạn’. trong khi có cả một cái xà trong con mắt anh?”. Sai lầm khác nguy hiểm hơn. Đó là quên Thiên Chúa mới có quyền xét đoán. Vì Thiên Chúa là chủ. Không chỉ xét đoán bâng quơ. Nhưng ấn định số phận đời đời của ta. “Anh đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán”. Nhưng Thiên Chúa rất công bằng và nhân hậu. Người xét đoán ta theo cách ta xét đoán anh em. “Vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy; anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em”. Chính ta tự tạo thước đo và bàn cân cho mình. Nên hãy cẩn thận.
Tổ phụ Áp-ra-ham không xét đoán ai. Và cũng chẳng coi trọng xét đoán của người đời. Chỉ quan tâm đến Thiên Chúa. Nhất nhất thi hành mệnh lệnh của Chúa không sai chạy. Vững tin vào Lời Chúa hứa. Dù trải qua những giây phút thật khó khăn. Vẫn tin cả khi không còn gì để tin. Luôn để Chúa làm chủ đời mình. Luôn cư xử hoà nhã tốt lành với đồng loại. Vì thế ông được chúc phúc. Và muôn dân cũng nhờ ông mà được chúc phúc. “Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi; Ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa. Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc”. Nhờ trung tín với Chúa, Áp-ra-ham trở thành chuẩn mực. Phúc cho ai chúc phúc cho ông. Thiệt cho ai nguyền rủa ông (năm lẻ).
Ít-ra-en, đặc biệt vào thời vua Hô-sê thì không được như thế. Nên bị thua vào tay Át-sua. Và bị lưu đầy. Vì phản bội Chúa. “Sự việc đó xảy ra, vì con cái Ít-ra-en đã đắc tội với Đức Chúa, Thiên Chúa của họ, là Đấng đã đem họ lên từ đất Ai-cập, đã giải thoát họ khỏi tay Pha-ra-ô, vua Ai-cập, và vì họ đã kính sợ các thần khác”.
Chúa làm chủ lịch sử. Làm chủ thế giới. Làm chủ vận mệnh bản thân ta và dân tộc ta. Chúa mới có quyền phán xét. Và phán xét mới quyết định số phận. Hiểu biết như thế ta sẽ không còn e ngại những bậc quyền cao chức trọng. Sẽ biết kính sợ Thiên Chúa. Vì Chúa sẽ phán xét ta. Nhưng ta cũng tin tưởng. Vì Người phán xét ta theo cách ta đoán xét người khác. Sẽ khoan dung với ta. Nếu ta biết khoan dung với anh em.
SUY NIỆM 3: Một phương thế tốt để tự biết mình
Khi Chúa Giêsu bảo đừng xét đoán đó là một lệnh truyền khắt khe, có nghĩa: đừng bao giờ xét đoán không tốt cho kẻ khác, đừng kết án ai. Sự xét đoán này là công việc của một mình Thiên Chúa. Không ai được thay thế cho Thiên Chúa. Hơn nữa mỗi người phải xác tín rằng mình không được quyền lưu ý kẻ khác về tội của họ, vì ai nấy đều là kẻ có tội.
Chúng ta hãy đưa ra đây một nhận xét của khoa tâm lý cổ điển để làm sáng tỏ câu: người ta sẽ đong cho các ngươi đấu nào mà các ngươi đã đong cho họ. Lời nói này của Chúa vượt quá sự khôn ngoan của các giáo sĩ Do thái thời Ngài; chính họ cũng đã nói những điều tương tự. Người ta thấy trên kia lệnh truyền đặc biệt của Chúa là không được ‘đong đấu’ nào cả. Nhưng ở đây Chúa Giêsu nhấn mạnh rằng: kẻ khác sẽ ‘đong đấu’ cho chúng ta, xét đoán chúng ta về tật xấu này nọ mà chúng ta có, và họ xem thấy nhưng chúng ta lại là những người duy nhất không trông thấy. Thật vậy, đặc tính của khuynh hướng xét đoán kẻ khác là làm cho con người hóa ra mù quáng về mình. Người ta biết rằng: tật xấu nào ta ghét nơi kẻ khác, tật xấu đó đáng ghét, vì người ta cũng có nơi mình. Kẻ xét đoán không ý thức rằng người khác cũng sẽ xét đoán lại họ căn cứ trên việc xét đoán họ làm. Người khác thấy điều mà chính họ không thấy. Người ta cũng có thể lật ngược lời của Chúa và quả quyết như sau: hãy tự xét đoán mình theo cách thức mình xét đoán kẻ khác.
Việc cấm xét đoán kẻ khác và việc kêu mời hãy tự xét mình, hãy lấy cái xà nơi mắt mình, quả là chính yếu trong lời rao giảng của Chúa Giêsu. Tại sao? Bởi vì khi ta xét đoán ai, ta tự tách lìa khỏi họ. Và tất cả chiều hướng của Phúc Âm là dẫn đến việc hợp nhất và thông hiệp. Hơn nữa, xét đoán là tự cướp đoạt cho mình cái thuộc về Chúa, điều này không chính trực.
Có những trường hợp người ta bị bó buộc phải phê phán về một người nào. Đó là vấn đề khác. Dầu sao đi nữa, sự phê phán này phải được lồng trong sự kính trọng và tình yêu.
Tôi có nghĩ tới cách tìm hiểu mình, căn cứ vào cái mà tôi chán ghét nơi kẻ khác không?
SUY NIỆM 4: Ðừng xét đoán
Augustin Goden trong khi còn là sinh viên trường nghệ thuật ở Paris đã nổi tiếng về tài điêu khắc. Có một người đàn bà giàu, nhưng chẳng biết gì về nghệ thuật đến nhờ Goden thiết kế một bức tượng để đặt ở giữa vườn nhà bà. Người đàn bà đến xem bức tượng nhằm lúc ông đang tiếp khách. Sau khi người đàn bà ra về, nhóm bạn hữu ra xưởng vẽ thấy Goden đang nhảy múa cuồng loạn trước bức tượng. Ðược hỏi tại sao, Goden trả lời: "Bởi vì người đàn bà không đồng ý về bức tượng, nên tôi vui mừng, vì biết rằng tác phẩm của tôi có giá trị".
Mỗi lần chấm thi một bộ môn nào đó, người ta thường mời những người chuyên môn về bộ môn ấy cho biết nhận xét. Phải biết rõ vấn đề, con người mới hy vọng có được nhận xét xác đáng, nếu không chỉ là những lời bâng quơ, thiên lệch. Chúa Giêsu đã không muốn những kẻ theo Ngài vấp phải sai lầm này. Tự bản thân, con người chưa hiểu được mình, vì con người có phần tinh thần ẩn khuất đằng sau thể xác. Những gì được phô diễn bên ngoài mới chỉ là hình thức. Không thiếu những trường hợp cái hình thức bên ngoài được dựng nên để che dấu cái sự thật bên trong, hoặc những tín hiệu gửi đi chỉ được đón nhận một cách sai lạc, do thành kiến và ác ý.
Bởi thế, con người không thể tự cho mình quyền xét đoán, phê phán người khác, mà chỉ có một mình Thiên Chúa, Ðấng thấu suốt mọi sự. Ngài hiểu con người hơn chính họ và mời gọi con người hãy nhìn vào bản thân mình: hãy nhìn vào mắt mình để lấy cái xà đã đóng chặt vào đó, cái xà được kết tinh bằng bao lỗi lầm, thành kiến, ác ý. Lấy được cái xà, mắt sẽ trong sáng, con người sẽ nhìn rõ sự vật.
Cái nhìn của đôi mắt không có cái xà sẽ không còn là cái nhìn của phê phán, chỉ trích, nhưng là cái nhìn của Chúa Giêsu, một cái nhìn đầy yêu thương, tha thứ, mang lại cho kẻ được nhìn niềm tin yêu, hy vọng. Lêvi, người thu thuế, sẵn sàng bỏ mọi sự để theo Thầy; Zakêu, người thu thuế trưởng, đã thành tâm hoán cải; Mađalêna dứt khoát từ bỏ con đường tội lỗi. Tất cả đã chuyển hướng cuộc đời bởi cái nhìn từ ái bao dung của Chúa Giêsu.
Ước chi lời cầu nguyện của thánh Augustinô: "Xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con" cũng là lời cầu nguyện của mỗi người chúng ta. Biết Chúa để thấy lòng quảng đại yêu thương vô bờ của Chúa; biết mình để ý thức về sự yếu đuối, bất toàn của mình, nhờ đó chúng ta sẽ dễ dàng rộng lượng với người khác như Chúa đã đối xử các đại lượng với chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 5: Cái xà và cọng rác
“Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán, vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy; và anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong cho anh em đấu ấy. Sao anh thấy cái rác trong măt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình lại không để ý tới?” (Mt. 7, 1-3)
Không có những tiêu chuẩn
Chúa phán: “Đừng xét đoán”. Câu nói vắn gọn và rõ ràng. Câu nói có tính truyền lệnh. Câu nói không dành phần cho một tranh cãi nào hết. Ta không được xét đoán tha nhân về mặt luân lý. Định đọat ai tốt ai xấu không phải là việc của ta. Chuyện đó không liên hệ tới ta.
Lý do để biện minh rất đơn giản. Chúng ta không có được những tiêu chuẩn lẽ rá phải có để xét đoán. Chúng ta chỉ có những tiêu chuẩn yếu kém và ở mức thấp. Chỉ vì khi nói rằng: “Người này xấu. Điều anh đã làm là xấu”, ta chỉ có thể nói được cái bề ngoài mà thôi. Xét cho cùng, ta không biết rõ thật sự. Ta không thể nhìn thấy từ bên trong, nơi nội tâm con người. Ta không thể biết tại sao người ấy làm điều xấu; người ấy có làm điều xấu thật sự hay không, ta cũng chẳng biết được. Trước hết phải khẳng định rằng sự xấu tiềm ẩn trong lòng người. Và tim người ta rung động phập phồng điều gì, ta đâu có biết được. Chỉ mình Thiên Chúa biết được mà thôi. Thế nên chỉ mình Chúa mới có quyền xét đoán. Còn chúng ta thì không.
Trước khi xét đoán
Mặc dầu Chúa bảo ta “Đừng xét đoán”, Chúa biết rõ ta vẫn cứ xét đoán. Ta hay xét đoán người khác. Điều xấu có ở nơi người khác như cái gai đâm thẳng vào mắt ta và kích thích ta. Thế nên Chúa nói thêm: “Hãy lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi anh sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em”.
Ta chẳng mấy tin vào chuyện cái xà ở trong mắt ta và cái rác ở trong mắt người anh em. Mà ta lại tin điều ngược lại. Ta đâu đến nỗi xấu như vậy. Không kể một vài điều ngoại lệ, người khác vốn xấu hơn ta. Đúng là ta thường có suy nghĩ như vậy đó.
Chúa Giêsu nghĩ gì về điều ta suy nghĩ ấy? Người chỉ đơn giản nghĩ rằng cách ta suy nghĩ như vậy là dấu chứng tỏ rõ ràng rằng chính trong mắt ta đang có cái xà đấy.
SUY NIỆM 6: KHÔN NGOAN KHI SỬA LỖI (Mt 7, 1-5)
Ở một đền thờ Hy lạp, ngay lối cổng vào, có khắc câu: “Hãy tự biết mình”. Tại sao lại có câu nói đó? Thưa, bởi vì biết mình là một điều khó, nhưng nếu khó mà không làm được thì làm sao biết được người khác? Không biết mình thì không thể tồn tại theo hướng tích cực, mà nếu có tồn tại thì cũng trở thành trò cười cho thiên hạ, bởi vì nhiều khi: “Ngôn hành bất tất”.
Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dùng lối nói ngoa ngữ để cho thấy tác hại của việc kiêu ngạo, háo danh nên không biết mình. Vì không biết, nên đâu thấy nơi mình có khuyết điểm, lỗi lầm trầm trọng, vì thế mới thích “lên mặt dạy đời”.
Trong thực tế, có rất nhiều người hăng say, vội vã sửa lỗi cho anh em, dù là lỗi nhỏ, nhưng thực tế, lỗi mình thì lớn hơn rất nhiều mà không thấy hay cố tình che lấp để như một ngụy biện nhằm khẳng định mình là người đạo đức hơn người.
Đức Giêsu không có ý cấm chúng ta sửa lỗi cho anh em, bởi vì sửa lỗi cho anh em bằng việc nêu gương sáng và chân tình thì đây là đức ái. Tuy nhiên, vì hiềm khích thì lại trở thành gương mù và phản tác dụng.
Vì thế, nguyên tắc hữu lý và đạt tình chính là bao dung với tha nhân, và nghiêm khắc với chính mình. Không thổi phồng tội người khác, không thu nhỏ lỗi của mình. Khiêm tốn sửa mình trước khi góp ý cho tha nhân.
Lạy Chúa Giêsu, theo Lời Chúa dạy hôm nay, chắc có lẽ chúng con sẽ bị xét đoán thật nhiều vì lối sống thiếu bác ái khi hay xét đoán anh chị em của chúng con. Xin cho chúng con luôn biết thưa với Chúa: xin cho con biết Chúa và xin cho con biết con. Biết Chúa để yêu mến Chúa. Biết con để sống khiêm tốn. Chỉ khi nào chúng con biết sống như thế, chúng con mới yêu thương anh chị em cách thật lòng. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Bác ái là không xét đoán
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Một trong những đòi hỏi của lòng bác ái là đừng bao giờ xét đoán và lên án anh em mình. Hơn nữa, ta xét đoán anh em thế nào, thì Thiên Chúa cũng xét đoán ta như vậy.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, bản tính tự nhiên của con người là muốn hơn người khác, nên khi thấy ai hơn mình, thì tìm đủ mọi cách để hạ họ xuống: vạch trần những khuyết điểm hay thổi phồng những lỗi lầm của họ.
Lạy Chúa, bản tính tự nhiên đó cũng tồn tại trong con. Con vẫn nhìn anh em sống chung quanh con bằng một cái nhìn dò xét đầy nghi ngờ. Con đã đóng khung anh em con trong một cái nhìn đầy thành kiến và ghen ghét. Vì quá chủ quan, nên con không thấy cái xà trong mắt con, mà chỉ nhìn thấy cái rác trong mắt anh em. Con đã đeo một cái bị gồm những tật xấu của con ở đàng sau lưng, nên không thấy được những lỗi lầm to lớn của mình, nhưng lại dễ trông thấy những khuyết điểm nhỏ bé của người anh em. Con luôn dễ dãi với chính mình mà lại khắt khe với người khác.
Lạy Chúa, khi nhìn một sự việc, người ta có nhiều đoán xét khác nhau. Nếu tâm hồn con rộng lượng, con sẽ nhìn người khác với ánh mắt cảm thông. Nếu tâm hồn con xấu xa, con sẽ dễ kết án người khác cách bất công.
Lạy Chúa, xin Chúa giúp con biết sáng suốt nhận ra những lỗi lầm của mình. Xin ban cho con một tình yêu bao dung để con không bao giờ vạch lá tìm sâu hoặc phê bình người khác một cách ác ý. Xin cho con biết tha thứ để được Chúa thứ tha. Và xin cho con một tâm hồn quảng đại để luôn nghĩ tốt về người khác. Amen.
Ghi nhớ : “Hãy lấy cái đà khỏi mắt ngươi trước đã”.
Suy Niệm 7: Lấy được cái đà trong mắt mình
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Đang đi dạo, tôi ngạc nhiên nhìn thấy một người ngồi trên ghế cuốc vườn. Tôi nghĩ: “Quá lười biếng!”. Nhưng đột nhiên tôi thấy đôi nạng dựa ở ghế của anh. Anh làm việc dù bị tật nguyền.
Bài học tôi học được về sự phán đoán nông nổi vẫn khắc ghi trong tôi cho đến hôm nay: Thánh giá của người khác đôi khi là do cái nhìn hạn hẹp của ta.
Suy niệm
Chúa Giêsu phán: “…đừng đoán xét để khỏi bị đoán xét. Các con đoán xét thế nào thì các con cũng bị đoán xét như vậy. Các con dùng đấu nào mà đong, thì cũng sẽ đong lại cho các con bằng đấu ấy” (Mt 7,1-2). Như thế, khi phải phán xét, chúng ta xét đoán trong bao dung thương mến như Ngài. Vì chúng ta sẽ “được” hay “bị” Thiên Chúa xét xử, đều do chính cách xét đoán của chúng ta đối với người khác: Quảng đại vị tha hay hẹp hòi ích kỷ, khoan dung độ lượng hay “bới lông tìm vết”, “chẻ sợi tóc làm tư” khi xét đoán người khác.
Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta thường có khuynh hướng nhìn thấy lầm lỗi của tha nhân mà không biết nhận ra những khuyết điểm của mình. Có những khuyết điểm của bản thân mình rất lớn, công khai gây gương mù, gương xấu cho anh chị em. Thiên Chúa - Ðấng thấu suốt mọi sự, Ngài mời gọi chúng ta phải sáng suốt và khôn ngoan khi sửa lỗi cho anh chị em: Hãy nhìn vào bản thân mình trước như Chúa nhấn mạnh: “Trước hết phải lấy cây đà khỏi mắt mình đi”, cái đà được hình thành từ bao lỗi lầm, thành kiến, ác ý trong suốt chiều dài lịch sử của cá nhân. Lấy được cái đà, mắt sẽ trong sáng, con người sẽ nhìn rõ sự vật. Chúa muốn chúng ta phải nhận ra khuyết điểm của mình và sửa đổi.
Sửa đổi bản thân là lấy được cái đà trong mắt mình. Không có cái đà sẽ không còn là cái nhìn của phê phán, chỉ trích, nhưng là cái nhìn của Chúa Giêsu, một cái nhìn đầy yêu thương tha thứ…
Thật thế, khi sửa đổi chính mình, ý thức được sự yếu đuối, bất toàn của mình, nhờ đó chúng ta sẽ dễ dàng rộng lượng với người khác mang niềm tin yêu, hy vọng cho các hối nhân. Chính Chúa đã và sẽ đối xử đại lượng với chúng ta.
Ý lực sống:
“Có một sáng suốt đáng buồn, khi chỉ nhìn thấy những điều xấu nơi người khác. Cũng có một xét đoán đầy yêu thương, khi đã nhìn thấy những điểm sáng tốt đẹp, ngay từ nơi bóng tối những điều không tốt đẹp của người anh em mình” (Hồng y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận).
Suy Niệm 8: Đừng xét đoán người khác (Mt 7,1-5)
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Chúa Giêsu nói với các môn đệ: anh em không được xét đoán lên án kẻ khác, vì việc đó thuộc quyền của Thiên Chúa. Anh em xét đoán kẻ khác thế nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ xét đoán anh em như vậy. Sao anh em thấy cọng rác nhỏ trong con mắt kẻ khác, còn cái xà trong mắt anh em, mà anh em không thấy, nghĩa là lỗi lầm nhỏ mọn của người khác thì anh em thấy rõ rồi phê bình lên án đủ thứ, còn tội nặng nề của anh em, anh em lại không chịu thấy, không chịu nhận, không lo sửa chữa. Hãy lo từ bỏ sửa chữa tội lỗi của anh em trước đã rồi anh em mới giúp được kẻ khác chừa bỏ lỗi lầm của họ.
Xénophon, nhà hiền triết Hy lạp sống vào giữa thế kỷ thứ 5 TCN đã nói như sau: “Thượng Đế đặt trên vai con người hai cái bị: một cái đằng trước, một cái đằng sau. Cái bị đằng sau chứa đựng tất cả những cái xấu của chính con người mình, còn cái bị đằng trước thì đầy rẫy những cái xấu của người khác. Do đó, con người khó mà thấy được những thiếu sót của mình, nhưng lại dễ dàng nhìn thấy những khuyết điểm của người khác”.
Khuynh hướng tự nhiên của con người là dễ dàng kết án người khác, nhưng lại tỏ ra dễ dãi với mình. Chúa Giêsu đến để chỉnh đốn khuynh hướng lệch lạc ấy. Ngài mời con người hoán cải, nghĩa là quay trở lại với mình, nhìn thẳng vào thực chất của mình, để từ những yếu đuối, bất toàn của mình để dễ dàng thông cảm và tha thứ cho người khác hơn. Đó là nội dung những lời khuyên của Chúa Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay.
Dân gian có câu:
Chân mình thì lấm lê mê,
Lại cầm bó đuốc mà rê chân người.
Hay: Bàng quan giả tỉnh, đương cục giả mê (Việc mình thì quáng, việc người thì sáng).
Chúa Giêsu vạch rõ tính cách của nhiều người trong chúng ta thường thì không thấy lỗi lầm của mình, nhưng lại soi mói dò xét cái lỗi của người khác mà lắm khi cái lỗi của chúng ta còn lớn gấp trăm lần cái lỗi của tha nhân.
“Sao ngươi nhìn cái rác trong mắt anh em, còn cái đà trong chính mắt ngươi thì lại không thấy?” Cái lỗi nhỏ như cái rác của tha nhân thì mình dễ nhìn thấy, nhưng cái lỗi lớn như xà nhà của mình thì lại không thấy. Chúng ta dễ dàng kết án cái lỗi nhỏ nhặt của tha nhân, nhưng lại không ý thức về những tội tầy đình của bản thân...
Con người không thể tự cho mình quyền xét đoán, phê phán người khác, mà chỉ có một mình Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi sự. Ngài hiểu con người hơn chính họ và mời gọi con người hãy nhìn vào bản thân mình: hãy nhìn vào mắt mình để lấy cái xà đã đóng chặt vào đó, cái xà được kết tinh bằng lỗi lầm, thành kiến, ác ý. Lấy được cái xà, mắt sẽ trong sáng, con người sẽ nhìn rõ sự vật.
Cái nhìn của đôi mắt không có cái xà sẽ không còn là cái nhìn của phê phán, chỉ trích, nhưng là cái nhìn của Chúa Giêsu, một cái nhìn đầy yêu thương, tha thứ, mang lại cho kẻ được nhìn niềm tin yêu, hy vọng. Lêvi, người thu thuế, sẵn sàng bỏ mọi sự để theo Thầy; Giakêu, người thu thuế trưởng, đã thành tâm hoán cải, Madalena đã dứt khoát từ bỏ con đường tội lỗi. Tất cả đã chuyển hướng cuộc đời bởi cái nhìn từ ái bao dung của Chúa Giêsu (Mỗi ngày một tin vui).
Tóm lại, như lời Chúa Giêsu dạy: “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán, vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy; và anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng đong bằng đấu ấy cho anh em” (Mt 7,1-2), nghĩa là khi chúng ta dùng lăng kính chủ quan của mình để xét cho anh em thế nào, thì chúng ta sẽ phải trả lẽ trước mặt Thiên Chúa thể ấy. Vậy nên, nếu khi xét đoán, chúng ta cần biết nhìn lại chính mình, nhất là trong lời xét đoán về anh em có thực sự khách quan hay không, có thực sự vì yêu thương anh em và vì sự thật hay không.
Truyện: Biểu diễn trồng táo
Tại một xứ Hồi giáo, có một người đàn ông bị vua ra lệnh treo cổ, vì đã ăn trộm thức ăn của người khác. Như thường lệ, trước khi bị xử, tội nhân được nhà vua cho phép xin một ân huệ. Kẻ tử tội bèn xin nhà vua:
- Tâu bệ hạ, xin cho thần được trồng một cây táo. Chỉ trong một đêm thôi, hạt giống sẽ nảy mầm, mọc thành cây và có trái ăn tức khắc. Đây là một bí quyết mà cha thần đã truyền lại cho thần. Thần tiếc là khi thần chết đi rồi, bí quyết này sẽ không được truyền lại cho hậu thế.
Nhà vua truyền chuẩn bị mọi sự để sáng hôm sau tử tội sẽ biểu diễn trồng táo. Đến giờ hẹn, trước mặt vua và các quan văn võ, tên trộm đào một cái lỗ nhỏ và nói:
- Chỉ có người nào chưa hề ăn trộm của người khác mới trồng được hạt giống này. Vì tôi đã lỡ ăn trộm nên không thể trồng được.
Nhà vua vẫn chiều lòng tên ăn trộm, nên quay sang nhìn tể tướng. Sau một lúc do dự, vị tể tướng thưa:
- Tâu bệ hạ, thần nhớ lúc còn niên thiếu, thần cũng đã có lần lấy của người khác. Thần nhận thấy không đủ điều kiện để trồng hạt táo này.
Nhà vua đưa mắt nhìn quanh các quan văn võ đang có mặt. Ông nghĩ may ra quan thủ kho trong triều là người nổi tiếng trong sạch có thể đủ điều kiện. Nhưng quan thủ kho cũng lắc đầu từ chối và tuyên bố với mọi người rằng ông cũng đã có lần gian tham trong chuyện tiền bạc.
Không tìm được ai, nhà vua mới định cầm hạt táo đến bỏ vào lỗ. Nhưng ông cũng chợt nhớ ra lúc con nhỏ ông đã có lần đánh cắp báu vật của vua cha.
Bấy giờ người tử tội mới chua xót lên tiếng:
- Tâu bệ hạ, các ngài là những người quyền thế cao trọng, không thiếu thốn gì. Vậy mà các ngài không thể trồng được hạt táo này, chỉ vì các ngài cũng đã có lần lấy của người khác. Còn hạ thần, một con người khốn khổ, chỉ vì lỡ lấy thức ăn của người khác cho đỡ đói, thế mà các ngài đã kết án treo cổ hạ thần.
Nghe thế, nhà vua và cả triều thần như xốn xang trong lương tâm. Ông bèn ra lệnh phóng thích người ăn trộm.
20/06 Gió lẫn biển đều vâng lệnh Người
- Viết bởi Mc 4, 35-40
Gió lẫn biển đều vâng lệnh Người.
CHÚA NHẬT 12 THƯỜNG NIÊN năm B.
"Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người".
Lời Chúa: Mc 4, 35-40
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Ngày ấy, khi chiều đến, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Chúng ta hãy sang bên kia biển hồ".
Các ông giải tán đám đông; vì Người đang ở dưới thuyền, nên các ông chở Người đi. Cũng có nhiều thuyền khác theo Người.
hợt có một cơn bão lớn và những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi sắp đầy nước. Và Người thì ở đàng lái dựa gối mà ngủ. Các ông đánh thức Người và nói: "Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?" Chỗi dậy, Người đe gió và phán với biển rằng: "Hãy im đi, hãy lặng đi". Tức thì gió ngừng biển lặng như tờ. Rồi Người nói với các ông: "Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?"
Bấy giờ các ông kinh hãi và nói với nhau rằng: "Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?"
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm CHÚA NHẬT 12 THƯỜNG NIÊN - B
Lời Chúa: G 38,1.8-11; 2Cr 5,14-17; Mc 4,35-41
1. Thầy không lo sao?
(Trích trong ‘Manna’)
Các môn đệ gặp trận cuồng phong khi vượt biển.
Họ kinh hoàng vì thấy mình sắp bị nuốt chửng.
Bất lực trước cơn cuồng nộ của sóng gió,
họ đã đánh thức Đức Giêsu, xin Ngài giúp đỡ.
Cuộc đời nào tránh được mọi cơn giông tố?
Ai trong chúng ta cũng thích biển lặng sóng yên,
nhưng giông tố lại giúp ta nhận ra mình:
yếu đuối, chao đảo, mong manh, bất lực,
không đủ khả năng đương đầu với bao thách đố.
Giông tố đưa ta đến với Đức Giêsu,
và phó thác cho sự trợ giúp của Ngài.
“Chúng con chết mất!”
Cái chết thể lý và cái chết tinh thần.
Cái chết của bản thân và của tập thể mình gắn bó.
Cái chết của những công trình mình xây dựng.
Chúa là sự sống, sao Chúa lặng yên để chúng con chịu chết?
Sao Chúa để sự dữ tung hoành trên thế giới?
“Mà Thầy không lo sao?”. Một lời trách móc?
Nhiều khi chúng ta cũng trách Chúa như vậy.
Có vẻ Chúa quá vô tư, lãnh đạm, hững hờ.
Chúa yên ngủ khi đời ta gặp cơn giông tố.
Đức Giêsu đã thức dậy, ra lệnh cho gió và biển:
“Câm đi! Im đi!”. Gió ngừng ngay và biển lặng xuống.
Sự lặng đi của biển đưa đến sự trầm lặng của lòng.
Nỗi kinh hoàng tan biến, nỗi sợ chết cũng bay xa.
Nhưng chúng ta không đòi phép lạ biển lặng trong đời.
Điều quý hơn, đó là lòng ta được lặng.
Lòng lặng không phải vì biển lặng,
mà lặng ngay giữa lúc biển động.
Đó là một phép lạ lớn hơn nhiều,
và đó cũng là thái độ Chúa muốn ta phải có.
Tại sao các anh lại kinh sợ?
Sóng gió làm gì được các anh
khi Thầy đang cùng các anh ở chung một con thuyền?
Đức Giêsu đòi các môn đệ không được khiếp sợ.
Thầy đã làm bao phép lạ trước mắt các anh,
vậy mà các anh vẫn chưa có lòng tin ư?
Nếu có lòng tin thì đâu có cuống cuồng như vậy.
Đức tin chỉ lộ ra khi biển động.
Và có thể nói, biển động giúp hình thành đức tin.
Đức tin lớn lên ít nhiều sau mỗi lần biển động.
Thuyền đời Kitô hữu chẳng bao giờ êm ả.
Nó chỉ êm ả khi về tới bến.
Nhưng lòng ta lại phải giữ cho bình yên,
ngay cả khi Ngài không thức dậy,
dù ta đã gọi Ngài nhiều lần giữa tiếng sóng gào thét.
Ta tin rằng Ngài sẽ cứu ta theo cách của Ngài.
Gợi Ý Chia Sẻ
Điều gì khiến bạn sợ hơn cả trong cuộc sống? (Sợ thất nghiệp, sợ thi rớt, sợ không được yêu, sợ mất uy tín, hay sắc đẹp...). Sự sợ hãi có làm đời bạn bớt vui không? Có làm bạn bớt tự do không?
Khi bạn bị căng thẳng, lo âu, mất bình an, bạn thường làm gì để trở lại bình thường? Cầu nguyện có giúp gì cho bạn không?
Cầu Nguyện
Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào,
xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc,
xin cho con quý chuộng những lúc được an nghỉ trước nhan Chúa.
Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo,
xin cho con biết thanh thản
ngồi dưới chân Chúa để nghe lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng,
xin cho con thoát được lên cao
nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.
Lạy Chúa,
ước gì tinh thần cầu nguyện thấm nhuần vào cả đời con.
Nhờ cầu nguyện, xin cho con gặp được
con người thật của con và khuôn mặt thật của Chúa.
2. Thầy chẳng lo gì sao?
(Suy niệm của Huệ Minh)
Đọc qua trang Tin Mừng hôm nay, ta có thể nói: "Thầy chơi xấu!". Vì sao? Ai cũng hiểu rằng ngay lúc xảy ra sóng gió thì Thầy lại "vui vẻ"... nằm ngủ!
Thử hỏi, ta đặt ta trong tâm trạng, trong trạng thái như các môn đệ ắt hẳn ta sẽ giận lắm bởi lẽ người ta lo muốn chết mà ngủ như chết vậy. Giận quá nên hỏi luôn cho xong chuyện: "Thầy ơi, chúng ta chết mất, Thầy chẳng lo gì sao?" (Mc 4, 38).
Cũng dễ hiểu bởi lẽ ai cũng sợ sóng biển. Sóng biển đã làm cho bao nhiêu con người ra đi không trở lại.
Lần kia, tắm biển Mũi Né, sóng cũng không lớn lắm nhưng cũng không nhỏ. Những cơn sóng nhấp nhô đó làm chùn lòng du khách. Nhiều người ngại sóng nên không dám xuống biển lúc đó. Và, lúc đó chỉ còn ít người gọi là dám "chơi" với biển nên xuống tắm.
Đang tắm, có chàng trai kia ghé vào tai tôi nói: "Sóng như thế này đã thấy ớn! Nếu như sóng 5m thì sao?. Tôi trả lời anh: "chết chắc chứ sao nữa".
Cũng dể thấy hậu quả của những cơn sóng dữ. Nhiều cơn sóng dữ đến đã làm cho bao nhiêu căn nhà và bao nhiêu con người phải ra đi không bao giờ trở lại. Biển cũng cho con người nhiều hải sản, nhiều khoáng sản quý dưới đáy đại dương nhưng biển cũng đã chôn vùi bao nhiêu con người bằng những cơn sóng dữ của mình.
Chiều hôm ấy, có hai cha con nhà nọ tắm gần tôi. Đứa bé được cha đưa ra hơi quá đầu gối anh ta một tí nghĩa là tới khoảng ngực của đứa trẻ. Ban đầu, sóng xô cháu cũng ngại ngùng và không muốn ra nữa. Nhưng, sau đó nhờ có đôi bàn tay của cha, cháu tiếp tục vui đùa dưới sóng bởi lẽ khi ấy, cậu an tâm trước vòng tay của cha mình.
Nhớ lại hình ảnh của các môn đệ, khi Thầy Giêsu thức giấc và Thầy đã ra lệnh cho biển cả lặng yên thì khi đó các môn đệ an tâm và bình an.
Sau khi bảo sóng biển yên lặng thì Chúa Giêsu như trách yêu các môn đệ: "Sao nhát thế? Anh em vẫn chưa có lòng tin sao?"
Trang Tin Mừng hôm nay sao mà nó thích hợp hay nói đúng hơn là nó quá đúng với cuộc đời của mỗi người chúng ta.
Trong hành trình vượt biển để về nhà Cha, về nước Chúa ta đã không ít lần hay nói đúng hơn là quá nhiều lần chúng ta hốt hoảng kêu la lên. Kêu la cũng dễ hiểu bởi lẽ ta gặp quá nhiều cơn sóng dữ trong cuộc đời mà dường như ta cảm thấy Chúa bỏ ta bơ vơ, chơ vơ giữa cuộc đời này thì phải? Ta thấy có những cơn sóng tưởng chừng như ập xuống đời ta và ta cảm như là chìm rồi.
Đời ta, không ít lần ta đối diện với sóng dữ là mất cha mất mẹ ở cái tuổi còn quá trẻ! Sóng dữ đến khi ta bị người khác hiểu lầm, bị chà đạp và bị hại. Sóng dữ đến khi ta phải đối diện với chứng bệnh nan y trong người. Sóng dữ khi ta bị chính người thân, ruột thịt... hại ta, loại trừ ta.
Ai đã hơn một lần sống trong cảm giác đó cũng cảm được như những cơn sóng dữ của cuộc đời. Đối diện với những điều đó ta cũng mất ăn mất ngủ, bất an và ta thầm trách Chúa như các môn đệ: "Thầy chẳng lo gì sao?".
Hẳn nhiên đó là bản tính của con người, là cảm nhận, là đức tin yếu đuối của con người. Ta tưởng chừng như ta chơi vơi, như Chúa đã bỏ ta nhưng khi đó ta đã lầm.
Nhớ lại tác phẩm "Dấu chân trên cát" thật hay và ý nghĩa:
Một đêm kia tôi nằm mơ thấy Chúa.
Ngài cùng tôi song hành trên bài biển hoang.
Cùng lúc ấy trên trời xanh đang diễn ra những cảnh đời tôi.
Mỗi cảnh vui buồn đều có đôi dấu chân ghi trên nền cát trắng.
Lòng lâng lâng tôi lặng nghe tiếng sóng vỗ, và xa xa chập chờn đôi cánh hải âu.
Chợt sóng gió chẳng biết từ đâu bồng bùng lên khiến tôi kinh hãi.
Quay mặt nhìn lui: "ôi kìa! Sao tôi chỉ thấy một dấu chân?"
Hốt hoảng thắc mắc tôi vội kêu: "Chúa hỡi! Chúa hỡi! Sao bỏ con.
Những lúc sóng gió là những lúc con cần đến Chúa hơn bao giờ hết!"
Chúa đã nói với con rằng: "Sẽ mãi yêu quý con, sẽ luôn nâng đỡ con suốt cuộc đời cho đến chết."
Chợt bên tai tôi nghe được tiếng Chúa nói: "Này con bé nhỏ của ta ơi, đừng hoảng hốt hãi sợ chi. Ta ở đây luôn bên con. Những dấu chân này là của Ta đó! Vì những lúc ấy Ta đang bồng bế con trên tay."
Vâng! Như Chúa nói đó: "Những lúc ấy Ta đang bồng bế con trên tay".
Nghiệm lại cuộc đời ta, trong những giây phút lắng đọng của cuộc đời, ta sẽ thấy Chúa luôn luôn, Chúa mãi mãi ẵm ta trên tay của Chúa. Chuyện quan trọng rằng ta có tín thác, tin tưởng phó thác cuộc đời của ta trong tay của Chúa hay không mà thôi.
Tâm tình Thánh Vịnh 131 thật hay:
Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ,
trong con, hồn lặng lẽ an vui.
Cậy vào Chúa, Israel,
từ nay đến mãi muôn đời muôn năm. (Tv 131, 2.3)
Xin Chúa cho ta luôn luôn sống tâm tình như trẻ nhỏ nép mình vào lòng Chúa để rồi ta vui vẻ bước đi giữa cuộc đời đầy sóng gió nhưng lòng vẫn an vui vì có Chúa ở cùng.
3. Ơn thánh lạ lùng
(Suy niệm của Lm. Mark Link, SJ)
John Newton là con của một thuyền trưởng người Anh. Khi John mười tuổi, mẹ chết và cậu đi biển với cha mình.
Cậu học nghề biển cách thành thạo. Nhưng khi 17 tuổi, John chống lại cha mình, bỏ tầu, và bắt đầu một cuộc sống phóng túng.
Sau đó John nhận việc trên một chiếc tầu chở hàng, đưa nô lệ từ Phi Châu sang Mỹ Châu. Anh được thăng chức mau chóng và không lâu được trở nên thuyền trưởng của chiếc tầu này.
John không bao giờ nghĩ đến việc buôn bán nô lệ là đúng hay sai. Anh chỉ thi hành công việc. Đó là một cách để kiếm tiền. Sau đó một điều xảy ra đã làm đảo lộn tất cả.
Một đêm kia, cơn bão dữ dội như thổi tung biển cả. Những ngọn sóng dâng cao như núi. Chúng nhồi dập con tầu của John như món đồ chơi. Mọi người trên tầu đều ngập tràn sợ hãi.
Sau đó John thi hành một điều mà chưa bao giờ anh làm kể từ khi rời chiếc tầu của cha mình. Anh cầu xin. Bằng cả sức lực, anh nói lớn, “Chúa ơn, nếu Ngài cứu chúng con, con hứa sẽ trở nên nô lệ cho Ngài muôn đời.” Thiên Chúa đã nghe tiếng anh kêu xin và con tầu được thoát nạn.
Khi John đặt chân lên đất liền, anh đã giữ lời hứa và bỏ nghề buôn bán nô lệ. Sau này anh học làm mục sư và đã trông coi một nhà thờ nhỏ ở Olney, Anh Quốc. Ở đây anh trở nên một nhà rao giảng nổi tiếng và là một người sáng tác thánh ca.
Một trong những bài thánh ca cảm động nhất mà John Newton viết là bài ca ngợi Thiên Chúa đã giúp anh hoán cải, với dòng chữ như sau: “Ôi ơn thánh lạ lùng! Dịu ngọt dường bao, đã cứu vớt một người tồi tệ như tôi! Trước đây tôi đã lạc lối, nhưng giờ đây tôi đã biết đường – đã mù, giờ đây đã thấy...
“Tôi đã từng kinh qua những hiểm nguy, lao nhọc, và cạm bẫy; ơn thánh đã đưa tôi đến sự an toàn, và ơn thánh sẽ dẫn tôi về nhà.”
Câu chuyện của John Newton rất tương tự như bài phúc âm hôm nay.
Cũng như Newton, các Tông Đồ cũng gặp một cơn bão dữ dội. Cũng như Newton, các ông đã lớn tiếng xin Chúa, “Hãy cứu chúng tôi với!” Cũng như Newton, các ông cũng đã thay đổi cuộc đời sau khi lời cầu xin được nhận lời.
Bài phúc âm hôm nay chấm dứt tường thuật cơn bão ở biển khi nói về các Tông Đồ: “Họ vô cùng kinh hãi và bắt đầu nói với nhau, ‘Người này là ai? Ngay cả sóng gió cũng phải vâng theo Người!’”
“Người này là ai?” Chắc chắn đó là câu hỏi quan trọng. Và dĩ nhiên, câu trả lời nằm trong bài đọc một và thánh vịnh đáp ca.
Bài đọc một diễn tả cách Thiên Chúa tạo nên biển và ra lệnh cho nó những gì có thể hay không thể làm.
Thánh vịnh đáp ca nói về các thủy thủ gặp nạn trong một cơn bão trên biển. Tác giả thánh vịnh nói về họ: “Trong cơn hoạn nạn, họ kêu cầu đến Chúa, và Người đã cứu họ... Người làm yên cơn bão lớn, và dẹp tan sóng cả.” (TV 107:6, 29).
Trong cả hai bài đọc thuộc Cựu Ước này, chúng ta thấy Thiên Chúa sử dụng quyền hành trên sóng gió. Thiên Chúa ra lệnh chúng và chúng tuân theo Người.
Đây chính là điều Đức Giêsu thi hành trong bài phúc âm. Chúng ta thấy Người sử dụng quyền hành trên sóng gió. Người ra lệnh và chúng tuân theo Người.
Do đó, các bài đọc hôm nay cho thấy Thiên Chúa trong Cựu Ước và Đức Giêsu trong Tân ước sử dụng cùng một quyền hành.
Cả hai sử dụng cùng một quyền lực bởi vì cả hai giống nhau. Đức Giêsu nói: “Ai thấy ta là thấy Chúa Cha... Ta ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong ta.” (Gioan 14:9, 11). “Chúa Cha và ta là một.” (Gioan 10:30).
Câu chuyện về cơn bão ở biển trả lời câu hỏi “Người này là ai?” Đức Giêsu là Con Thiên Chúa.
Chúng ta hãy trở về điểm thứ hai. Chúng ta hãy xem thử bằng cách nào cơn bão ở biển chứa đựng một thông điệp mỹ miều, thực tế cho các gia đình nhân Ngày Hiền Phụ.
Khi John Newton bỏ tầu của cha mình, cha của anh thật đau lòng. Chúng ta có thể hinh dung cha anh đứng trên sàn tầu đêm ấy và cầu xin Thiên Chúa với những lời như sau:
“Lậy Chúa, sao điều này lại xảy ra? Sao John không nhìn thấy là con thương nó? Sau nó không thấy là Ngài thương nó? Lậy Chúa, ngay cả khi John từ bỏ hai chúng ta, xin Chúa hãy bảo vệ nó. Hãy bảo vệ nó vì hai chúng ta.”
Hoàn cảnh bi thảm này, hay hoàn cảnh tương tự, đã lập lại nhiều lần, trong nhiều mái nhà. Nó không phải là một hiện tượng mới trong thời đại ngày nay. Nó cũ như câu chuyện của người con hoang đàng trong Phúc Âm Luca.
Nhưng ngay cả khi con cái không từ bỏ mái nhà về thể lý, chúng thường rời xa mái nhà về tinh thần.
Chúng không còn đồng lòng với cha mẹ khi đề cập đến Thiên Chúa hay tôn giáo.
Và sự xa lìa tinh thần này có thể đau lòng hơn từ giã mái nhà về thể lý.
Khi điều này xảy ra, cha mẹ không được nghĩ về mình hay về con cái như một thất bại. Đúng hơn, họ phải nhớ lại câu chuyện người con hoang đàng và câu chuyện của John Newton.
Trong cả hai câu chuyện, sau cùng người con đã trở về nhà. Và trong cả hai câu chuyện, khi trở về nhà người con đã tốt hơn là khi từ bỏ, người cha cũng trở nên tốt hơn khi con cái bỏ đi.
Lý do cả hai người – cha và con – trở nên tốt hơn là vì, ở một thời điểm nào đó khi xa cách, cả hai đã kêu cầu đến Chúa xin giúp đỡ. Và đó là khi cả hai trở nên tốt hơn.
Thật không may khi phải nhờ đến một cơn bão để khám phá ra, không chỉ người cha hay người con ở trần thế, nhưng còn biết đến Cha chúng ta ở trên trời và Đức Giêsu, Con của Người.
Do đó, chúng ta hãy hân hoan, và hôm nay hãy cảm tạ vì hai người cha: một người cha trần thế và một người Cha trên trời.
Chúng ta cũng hãy nhớ rằng khi tìm thấy một trong những người cha này, chúng ta cũng thường tìm thấy người cha kia.
Hãy kết thúc bằng cách lập lại những lời thánh ca mà John Newton đã viết để ca tụng Thiên Chúa.
“Ôi ơn thánh lạ lùng! Dịu ngọt dường bao, đã cứu vớt một người tồi tệ như tôi! Trước đây tôi đã lạc lối, nhưng giờ đây tôi đã biết đường – đã mù, giờ đây đã thấy...
“Tôi đã từng kinh qua những hiểm nguy, lao nhọc, và cạm bẫy; ơn thánh đã đưa tôi đến sự an toàn, và ơn thánh sẽ dẫn tôi về nhà.”
4. Bớt giỡn!
Trang Tin mừng hôm nay thật thú vị!
Đang trong cơn sóng dữ, anh em lo chèo chống thì Thầy lại ngủ. Hẳn nhiên là nể Thầy lắm đó để cho Thầy nằm trên đầu thuyền mà không phải làm gì. Nhưng rồi đâu phải thấu anh em nể Thầy rồi Thầy muốn làm gì làm, Thầy để mặc anh em.
Vừa lo, vừa sợ, vừa hờn nên các môn đệ hỏi luôn cho ra ngô ra khoai: "Thầy ơi, chúng ta chết mất, Thầy chẳng lo gì sao?" (Mc 4, 38).
Tưởng gì, làm cho biển im lặng! Tài thật! Dĩ nhiên là anh em biết quyền năng của Thầy chứ! Nhưng thôi, "của cho không bằng cách cho", cho biển im lặng rồi thôi, đàng này còn trả treo: "Sao nhát thế? Anh em vẫn chưa có lòng tin sao?" (Mc 3,40).
Nói thiệt với Thầy, giận Thầy lắm đó! Chúng con chưa áp dụng cái chiêu ngày xưa trong Cựu Ước là con cho Thầy xuống biển như cho ông Nôê là may lắm rồi! Thầy mà làm chúng con giận là chúng con cho Thầy xuống biển như xưa cho xong chuyện.
Thật ra, niềm tin của các môn đệ khi ấy cũng còn vững lắm là không bỏ Thầy xuống biển mà đến cầu cứu Thầy. Nếu sống với niềm tin Cựu Ước thời Nôê thì Thầy chết chắc.
Cuộc đời của chúng ta ắt hẳn cũng có quá nhiều lần nhiều lúc chúng ta cũng gặp sóng gió như các môn đệ ngày hôm nay. Thế nhưng, đứng trước trước những sóng gió của cuộc đời ta có bám vào Chúa, ta có chạy đến Chúa hay ta lại nại sức của ta hay tệ hại hơn là nhờ vào những thế lực của thế gian, của sự dữ.
Một gia đình kia tan nát cũng chỉ vì nại vào thế lực của sự dữ. Tưởng chừng nại vào thế lực của sự dữ thì sẽ bình an nhưng ngày mỗi ngày lại tụt dốc.
Chuyện là người vợ có vấn đề về tâm thần, về tâm lý... người chồng nghe người này người kia nói và bắt đầu tìm thầy bỏ Chúa. Người chồng loanh quanh đi tìm thầy cao tay để chữa cho vợ mình bất chấp điều đó là sai tín lý, sai lạc đức tin, sai lạc niềm tin vào Thiên Chúa mà họ đã tin theo. Khi đi theo thầy bùa chú và bỏ Chúa thì cuộc sống của vợ chồng đã đi vào bế tắc và cuối cùng chồng đi đường chồng, vợ đi đường vợ.
Lẽ ra trong gia đình có vấn đề thì họ nên và cần bám vào Chúa, đàng này họ bỏ Chúa để đi tìm thế lực khác để cứu mình. Hậu quả là gia đình đã bỏ Chúa và đi theo thế lực khác.
Cùng với kinh nghiệm bỏ Chúa là mất tất cả, bỏ Chúa là sẽ gặp sóng dữ của cuộc đời, tôi được một người thân quen chia sẻ về thế lực của sự dữ. Chuyện là chính bản thân chị, gần nhất là mẹ của chị đã có vấn đề về thần kinh, tâm lý mà theo như người ta nói là bị "ám". Đứng trước cảnh mẹ mình bị "ám" như vậy, chị và gia đình chỉ có 1 cách, 1 thế, 1 phương án duy nhất là bám vào Chúa và cầu nguyện.
Sau biến cố để đời đó, chị khuyên với những ai chị gặp gỡ, trong đó có bản thân tôi là dù cuộc đời thế nào đi chăng nữa cũng chỉ có bám vào Chúa và Chúa mà thôi.
Quả thật, niềm tin vào Chúa nói thì dễ nhưng khi đụng chạm bế tắt, đụng chạm với những khó khăn của cuộc đời ta vẫn thường đi tìm những người có thể giúp chúng ta. Theo kiểu người đời thường dùng đó là "chạy thầy chạy thuốc". Đó là cách nhìn, cách nghĩ, cách giải quyết theo kiểu thế gian vì dù cho có những người có thế lực có thể "gỡ" cho họ những khó khăn trong cuộc sống nhưng rồi tất cả rồi cũng qua đi chứ chẳng có ai mãi mãi và chẳng có ai vĩnh cửu.
Người đời, dù họ có quyền lực đến đâu đi chăng nữa, họ có thể chia sẻ quyền lực của họ cho những người theo phe nhóm của họ để đạt được nguồn lợi nhưng khi họ đối diện với thử thách phong ba của cuộc đời chưa chắc có người cứu được họ. Có khi ở trong đỉnh của vinh quang quyền lực nhưng rồi đến một lúc nào đó cũng ra đi, những người ngày xưa vui vẻ với họ dù muốn cứu họ nhưng cũng đành chịu.
Đó là cái nhìn của quyền lực, của thế gian. Người Kitô hữu thật sự lại được mời gọi vượt qua những sóng dữ của cuộc đời để đạt được Nước Thiên Chúa chứ không phải đạt được những lợi ích của thế gian.
Và, trong hành trình về nhà Cha, mỗi người Kitô ngày mỗi ngày đều phải đối diện với sóng dữ và tìm cách thoát sóng dữ. Ắt hẳn mỗi người cũng sẽ có cách lựa chọn khi đời mình gặp phải phong ba bão táp của cuộc đời. Có khi ta cũng sẽ có suy nghĩ là bám vào Chúa để xin Chúa đến trợ giúp nhưng cũng có khi ta muốn vất Chúa xuống khỏi tàu như ngày xưa trên chuyến tàu Nôê người ta đã sẵn sàng vất Nôê xuống biển.
Chính khi gặp sóng dữ, ta sẽ bám vào ai vẫn là sự tự do lựa chọn của mỗi người. Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta để dù bất cứ sống trong hoàn cảnh nào của cuộc đời ta cũng chỉ bám vào Chúa mà thôi.
Xin cho ta đừng bao giờ vất Chúa ra khỏi thuyền nhưng cứ mãi xin Chúa ở lại cuộc đời của chúng ta, trên thuyền đời của chúng ta.
Chúa ơi! Chúa bớt giỡn! Chúa cứ ở mãi trên thuyền của con và cứu đời con nha Chúa!
5. Khi Đức Giêsu ngủ say
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Đức Cha Agatho, Giám Mục Giáo phận Palermo, đi từ đảo Sicily đến Rome. Trong cuộc hành trình, ngài gặp nguy cơ chìm tàu. Một cơn giông tố hãi hùng nổi lên, sắp sửa đánh chìm con tàu ngài đang đi. Không còn hy vọng gì, ngoại trừ lòng thương xót nhân lành của Thiên Chúa toàn năng.
Khi ấy, tất cả mọi người bắt đầu cầu nguyện và dâng lên Chúa lời cầu xin hãy gìn giữ mạng sống cho họ. Trong khi họ cầu nguyện như thế, thì người thủy thủ đang cầm bánh lái, tuy được cột chặt vào tàu, nhưng một cơn giông mạnh mẽ đã làm đứt dây cột và kéo người thủy thủ xấu số kia xuống sóng nước, và Đức Cha Agatho coi anh ta như đã chết. Trong lúc đó, con tàu vẫn đi, sau những cơn hiểm nguy, đã đến được đảo Ostika. Tại đây, Đức Giám Mục dâng thánh lễ cầu cho người thủy thủ không may; nhưng ngay khi con tàu được sửa chữa xong, tiếp tục hành trình đến Rome. Khi vừa lên bờ, Đức Giám Mục đã thấy anh thủy thủ, người mà ngài tưởng rằng đã chết, đang đứng trên bờ. Tràn ngập niềm vui, ngài hỏi anh đã thoát những nguy hiểm dữ dằn suốt nhiều ngày như thế nào. Người thủy thủ khi ấy kể lại chiếc xuồng nhỏ bé của anh lúc nào cũng như sắp sửa lật úp, nhưng lại luôn luôn trồi lên trên những làn sóng, vô hại. Hết ngày lại đêm, anh ta mới thành công trong việc chinh phục những ngọn sóng; nhưng đuối sức vì đói và khát, chắc chắn anh cũng bị chết chìm nếu như không được phù giúp. Anh ta kể tiếp, “Thế rồi bỗng nhiên, khi tôi đã hoàn toàn vô vọng, như thể xuất thần, không biết mình đang ngủ hay thức, tôi nhìn thấy một người đứng trước mặt và cho tôi bánh. Vừa khi tôi lãnh nhận bánh ấy, sức lực của tôi liền hồi phục, và ngay sau đó, tôi được một con tàu cứu vớt và chở về đây.” Khi hỏi biết ngày giờ sự việc này xảy ra, Đức Giám Mục nhận thấy trùng với ngày giờ ngài dâng thánh lễ tại đảo Ostika để cầu cho người thủy thủ xấu số. (Joan Carroll Cruz, Phép Lạ Thánh Thể)
Tin Mừng Thánh Máccô hôm nay thuật lại Đức Giêsu dẹp yên sóng gió, cứu các môn đệ khỏi cơn bão bất ngờ, xảy ra khi Người đang say ngủ. Với câu chuyện trên, Chúa Giêsu Thánh Thể đã cứu người tài công rơi xuống biển, theo lời cầu nguyện của Đức Giám Mục Agatho và toàn thể khách trên con tàu bị bão. Trong cuộc đời mỗi người, thường vẫn gặp những sóng gió, ba đào. Chúng càng dữ dội hơn mỗi khi thiếu vắng Thiên Chúa Quan Phòng che chở, ở cùng.
Khi Đức Giêsu ngủ say
Thực ra, Chúa Giêsu luôn ở cùng, mà con người không nhận ra Người luôn canh thức, che chở lúc nguy nan, tai ương, hoạn nạn, chỉ vì quên mất Người vô hình, chỉ vì sống quá thực dụng, quá dung tục, chỉ luôn biết trông cậy vào hữu hình, vào phương tiện thế gian, vào sức người, sức của, khoa học, kỹ thuật, dịch vụ. Nhưng những thứ hữu hình đó thường không thể giải quyết trọn vẹn như mong đợi, mà chỉ tạm bợ, chắp vá, lưng chừng, nửa vời, bế tắc, chia lìa, đổ vỡ, mất mát, đau khổ, chết chóc, như ly dị, điên loạn hay tự vẫn.
Vì thế, để kính mời Đức Giêsu thức cùng, sống cùng, an ủi, chăm sóc, chở che, Thánh Phaolô khuyên nhủ đừng bắt chước theo thế gian, mà sống theo Lời Chúa đã chỉ dạy, để được cứu giúp an toàn: “Tôi khuyên Anh Chị Em: đừng ăn ở như dân ngoại nữa, vì họ sống theo những tư tưởng phù phiếm của họ. Tâm trí họ đã ra tối tăm, họ xa lạ với sự sống Thiên Chúa ban.” (Ep 4, 17-18)
Khi Đức Giêsu ngủ say
Người vẫn còn say ngủ, khi con người kiêu căng, tự phụ, cậy vào sức mình, tài năng, tri thức, chuyên môn, phương tiện, không cần đến Chúa, không cần đến sức mạnh Chúa Thần Linh, không màng đến Lương Thực trường sinh Thánh Thể, không dựa vào Lời Chúa, ngọn đèn soi dẫn, ánh sáng đi đường, không chạy đến với Chủ Chiên, hay những tâm hồn dâng hiến giúp đỡ, chia sẻ.
Để kính mời Đức Giêsu thức dậy đồng hành, thì Thánh Phaolô ân cần khuyên bảo những ai còn do dự, luyến tiếc những phù phiếm, hãy đoạn tuyệt, để mưu cầu bình an và hạnh phúc vĩnh cửu: “Anh Chị Em đã được trỗi dậy cùng với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới. (Cl 3, 1- 2)
Khi Đức Giêsu ngủ say
Người vẫn tiếp tục ngủ say khi người tín hữu Kitô còn thiếu các nhân đức Tin Cậy Mến, còn chưa đặt vào Người hết niềm tin, niềm trông cậy và nhất là tình yêu. Bởi vậy, sau khi dẹp yên bão tố, Đức Giêsu quay lại quở trách các môn đệ yếu niềm tin cậy: “Sao nhát thế? Làm sao anh em vẫn chưa có lòng tin?” (Mc 4, 40)
Lo sợ, thất vọng vì thiếu đức tin, bất an, khủng hoảng vì thiếu đức cậy, lạc lõng, bơ vơ vì thiếu đức mến, khi người tín hữu Kitô chưa sẵn sàng khẩn khoản, trọng kính mời Đức Giêsu ngự vào trung tâm điểm đời sống, để có thể quy chiếu mọi sự về với Người. Khi hoàn toàn nhờ Người, với Người và trong Người, thì Người sẽ thức dậy và truyền cho sóng gió, ba đào “im đi, câm đi,” tức thì tâm hồn tín hữu liền được bình an giữa biển đời đen tối.
Mặc cho sóng gió đe dọa tứ bề, mặc cho sự dữ hoành hành áp đảo, không sức mạnh thế gian nào uy hiếp được tín hữu Kitô, khi có Chúa cùng đồng hành. Chính các thánh, các người công chính và các chứng nhân đã trân trọng xác tín điều đó qua cuộc đời.“Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? (Rm 8, 35)
“Người Công giáo là ánh sáng giữa đen tối, là muối sống giữa thối nát, là hy vọng giữa một nhân loại thất vọng,” (Đường Hy Vọng, số 950)
Con tưởng rằng con vững tin, tin vào Chúa là Cha nhân hiền, khi cuộc sống nhẹ trôi êm đềm với tháng ngày lặng lẽ bình yên. Nhưng khi đường đời gieo nguy khó, bên trời ngập tràn cơn giông tố. Con lo âu lạc bến xa bờ, con mới biết rằng con chưa vững tin.
ĐK. Thì lạy Chúa, Chúa biết con yếu đuối và đổi thay, con luôn cần đến Chúa từng phút giây. Nhờ ơn Chúa, con kiên trì tín thác kể từ đây, khi yên vui cũng như khi sầu đầy. (Lm Nguyễn Duy, Cho con vững tin)
Lạy Mẹ Maria, Mẹ từng trải qua biết bao sóng gió từ khi thưa hai chữ “Xin Vâng,” nhưng Mẹ chẳng bao giờ nao núng, hoảng sợ, kinh hãi, thậm chí khi cùng Thánh Gia vượt biên, tránh quân Hêrôđê truy sát Hài Nhi, vì Mẹ luôn có Chúa ở cùng. Kính xin Mẹ an ủi, cầu bầu, che chở chúng con trên đường về Quê Trời. Amen.
6. Sóng gió
Con thuyền của các môn đệ trong bài Tin Mừng sáng hôm nay chính là hình ảnh cuộc đời chúng ta. Thực vậy, cuộc đời chúng ta với bao nhiêu phong ba bão táp, đó là những thất bại của bản thân, những khó khăn của cuộc sống, của xã hội, những khổ đau của những người xunh quanh, làm cho chúng ta nhiều lúc chán nản tuyệt vọng.
Tại sao lại có những sóng gió trong cuộc đời? Phải chăng Thiên Chúa đã bỏ rơi chúng ta? Có người cho rằng chính Thiên Chúa thử thách để rèn luyện và củng cố niềm tin nơi chúng ta. Có người lại cho rằng do trình độ hạn chế của con người trước sức mạnh của thiên nhiên. Nhưng có lẽ nguyên nhân trực tiếp nhất vẫn là do cách đối xử của con người đối với con người trong cuộc sống.
Thực vậy, chính thái độ vô trách nhiệm của những người làm cha làm mẹ đã dẫn đến tình trạng tuổi trẻ lang thang, bụi đời. Chính sự ích kỷ tàn nhẫn của một số người đã tước đoạt đi những phương tiện sống và phẩm giá của những người khác.
Nghịch cảnh và sóng gió như vẫn tồn tại song song với số phận và lịch sử con người. Các môn đệ cũng như chúng ta phải đương đầu, phải đối phó với cuồng phong. Thế nhưng chúng ta sẽ tìm thấy niềm an ủi nơi Thiên Chúa bởi vì dưới bàn tay quyền năng và yêu thương của Ngài, sóng gió cũng phải khuất phục và sự bình an sẽ trở lại với chúng ta.
Sự dữ tuy tràn lan, nhưng ơn sủng của Ngài vẫn dư đầy, bởi vì Ngài luôn yêu thương chúng ta, Ngài không hề bỏ rơi con người. Bằng chứng là Đức Kitô đã đến, Ngài tìm mọi phương cách, thậm chí cả đến cái chết của mình để cho chúng ta thêm xác tín vào tình thương của Ngài. Một vị Thiên Chúa nhân lành như vậy, nhất định sẽ không bao giờ muốn cho con người phải đau khổ, nhất định Ngài sẽ cứu chúng ta.
Làm sao chúng ta có thể thất vọng và chán nản khi Ngài vẫn ở bên chúng ta và vẫn yêu thương chúng ta. Mặc dù ngày nay Thiên Chúa không còn trực tiếp làm phép lạ để truyền cho sóng gió phải yên lặng, nhưng Ngài dùng bàn tay của những người nhiệt tâm làm vơi giảm những nghịch cảnh, những bất công trong cuộc sống. Và cũng không ít những con người đang đấu tranh cho công bằng xã hội. Nhiều khi họ cũng đã phải trả giá cho những đấu tranh ấy bằng chính mạng sống của mình.
Còn chúng ta thì sao? Niềm tin vào một Thiên Chúa toàn năng và yêu thương lẽ nào lại để cho chúng ta phải buông xuôi và tuyệt vọng bởi vì Đức Kitô chính là niềm hy vọng, chính là sức sống trong cuộc đời chúng ta.
7. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
THỬ THÁCH TRONG CUỘC ĐỜI
Trong đời ta gặp nhiều trường hợp giả vờ rất đáng yêu. Chẳng hạn bà mẹ trẻ giả vờ trốn đứa con nhỏ, để nó phải lo âu đi tìm. Và khi thấy nó đã lo âu đến độ tuyệt vọng, sắp khóc đến nơi, bấy giờ bà mẹ mới xuất hiện. Vừa thấy bà mẹ xuất hiện, đứa trẻ vui mừng khôn xiết. Và nó càng yêu mến, càng bám chặt lấy mẹ nó hơn nữa.
Chúa Giêsu cũng có nhiều lần giả vờ như thế. Lần giả vờ được minh nhiên ghi lại trong Tin Mừng là khi Người cùng hai môn đệ đi trên đường Emmaus. Khi đã đến nơi, Người giả vờ muốn đi xa hơn, làm cho các môn đệ phải tha thiết nài nỉ Người mới chịu ở lại. Khi Người ở lại, các môn đệ vui mừng khôn xiết. Và niềm vui lên đến tuyệt đỉnh khi các môn đệ nhận ra Người lúc bẻ bánh.
Hôm nay tuy Tin Mừng không minh nhiên ghi lại, nhưng ta có thể đoán biết Chúa Giêsu đang giả vờ. Vì sóng to gió lớn dập vùi làm cho thuyền chòng chành nghiêng ngả, nước tràn vào đến nỗi thuyền có nguy cơ bị chìm đắm, trong khi đó các tông đồ xôn xao chạy ngược chạy xuôi, hò hét nhau tìm cách tát nước ra. Giữa khung cảnh như thế, làm sao có thể nằm ngủ ngon lành được. Chỉ có thể là giả vờ. Việc giả vờ của Chúa phát xuất do tình yêu.
Vì yêu thương ta, Chúa muốn ta đáp lại tình yêu thương của Chúa. Đó là định luật thông thường trong tình yêu. Khi yêu ai cũng muốn được đáp trả. Chúa không đi ra ngoài định luật thông thường đó. Người tha thiết yêu ta. Người mong ta yêu mến gắn bó với Người, nên đôi khi Người giả vờ lãng quên để ta nhớ mà chạy đến với Người, gắn bó với Người hơn. Như bà mẹ muốn đứa con tỏ ra cần đến mẹ, tha thiết đi tìm mẹ, hốt hoảng khi không thấy mẹ, Chúa cũng mong ta cần đến Chúa, tha thiết đi tìm Chúa và hốt hoảng lo âu khi thấy vắng bóng Chúa.
Vì yêu thương ta, Chúa muốn rèn luyện ta nên người. Để rèn luyện ta, Chúa gửi những thử thách tới. Cuộc đời ví như mặt biển cả mênh mông. Mỗi người là một con thuyền lênh đênh trên mặt nước. Sóng gió là những thử thách trong cuộc đời. Những thử thách Chúa gửi đến giúp ta trưởng thành ở ba phương diện.
Những thử thách giúp ta biết mình hơn. Bình thường ta nghĩ mình chẳng kém thua ai. Nhưng khi gặp thử thách mới biết mình thật yếu đuối. Thánh Phêrô thấy Chúa đi trên mặt nước thì tưởng mình cũng đi được. Nhưng chỉ được mấy bước đã chìm xuống. Các tông đồ là những bạn chài đã quen với sóng nước. Thế mà vẫn kinh hoảng trước bão tố. Đã chứng kiến biết bao phép lạ Chúa làm, nhưng khi gặp gió bão vẫn hoảng kinh. Thử thách giúp ta biết mình. Biết mình để thêm khôn ngoan, thêm trông cậy và nhất là để biết rèn luyện bản thân cho tiến bộ hơn.
Thử thách giúp ta biết yêu mến, cậy trông vào Chúa hơn. Có thử thách ta mới biết sức mình, biết có những việc ở ngoài tầm tay của mình, chẳng ai có thể giúp mình ngoài Chúa. Vì thế gặp nhiều thử thách giúp ta biết cậy trông phó thác vào Chúa hơn. Gặp thử thách ta mới biết chẳng ai yêu thương ta bằng Chúa. Chúa sẽ không để ta bị thử thách quá sức chịu đựng, nên ta sẽ biết yêu mến Chúa hơn.
Thử thách giúp đức tin vững mạnh. Chẳng có thử thách nào kéo dài mãi mãi. Chúa chỉ cho thử thách một thời gian. Rồi Chúa lại can thiệp để sóng yên biển lặng. Khi sóng yên biển lặng rồi, các môn đệ càng vững tin nơi Chúa hơn. Để từ nay các ngài không còn cuống quít lo sợ mỗi khi gặp gian nan nữa. Đời sống mỗi người chúng ta cũng thế. Ai càng gặp nhiều thử thách thì càng trở nên từng trải, vững vàng.
Đời sống không thể thiếu thử thách. Hãy biết rằng Chúa cho phép thử thách vì yêu thương ta, để rèn luyện ta nên người. Hơn nữa Chúa luôn ở bên ta. Vì thế ta hãy vững tin, hãy cậy trông phó thác và hãy biết tận dụng những khó khăn để đức tin thêm vững mạnh. Thử thách rồi sẽ qua đi. Nhưng cách ta phản ứng trước thử thách lại tồn tại và tạo thành giá trị đời ta. Ước gì mọi thử thách ta gặp trong đời đều biến thành cơ hội cho ta được thêm lòng, lòng cậy và lòng mến Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Tại sao Chúa cho ta bị thử thách? Thử thách có cần thiết không?
2) Thử thách giúp ta trưởng thành thế nào?
3) Ta phải sống thế nào trong thử thách để vượt lên trên thử thách?
8. Người dựa vào chiếc gối mà ngủ
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
“Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi mà Thầy chẳng lo gì sao?”
Cũng như hai dụ ngôn ‘hạt giống tự mọc’ và ‘hạt cải nhỏ bé’ được kể trước đó, sự kiện cuồng phong nổi lên và sóng nước ập vào làm cho con thuyền các môn đệ hòng chìm, trong khi đó Đức Giê-su ‘đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ’ buộc ta phải suy nghĩ khi giáp mặt với những nghịch lý đầy thách thức trong chính đời sống Tin Mừng. Tự nhiên, khi nghĩ về Thiên Chúa cũng như về vương quốc của Ngài, thì quyền năng và sức mạnh mới chính là điều mà mọi người thường nghĩ tới trước nhất. Chính vì vậy mà khi nhìn thấy đau khổ tràn lan, bất công ngập tràn và sự ác thống trị, trong khi sự thiện lại thoi thóp trong tuyệt vọng, nhiều người đã cho rằng, đó là một bằng chứng thuyết phục cho thấy không hề có Thiên Chúa; vì nếu Ngài thật sự hiện hữu, thì với tất cả quyền năng và thánh thiện như thế, tại sao lại không can thiệp, không giáng phạt bằng tất cả sức mạnh của Ngài? Thiên Chúa lẽ nào lại vô tâm tới mức đó sao? Giải đáp duy nhất mà người ta thường nại tới để giải quyết nghịch lý này là sự kiên nhẫn chịu đựng có giới hạn của Thiên Chúa, sự nhẫn nhục này chỉ tồn tại trong thời gian ngắn ngủi của cuộc đời này, để rồi tới kiếp sau sự công thẳng và quyền bính của Ngài sẽ hiển trị qua việc nghiêm minh xét xử, với phần thưởng thiên đàng dành cho người thiện, hay hình phạt hỏa ngục dành cho người dữ. Giải đáp này trên thực tế hình như được hầu hết các tôn giáo trưng ra, tuy với những hình thái khác nhau, chẳng hạn như thuyết luân hồi của Phật Giáo.
Vẫn biết Thiên Chúa là quyền năng và quyền năng này vượt trên tất cả mọi sự, ‘Thức dậy, Người ngăn đe gió và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi!” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ’. Thiên Chúa đương nhiên có quyền trên cả sự dữ! Trong trường hợp cụ thể này, theo lối suy nghĩ của các môn đệ, biển cả dậy sóng là hình ảnh quen thuộc của sức mạnh sự dữ, của tà thần (xem Mc 1:25). Có điều là ít tôn giáo nào dám nghĩ rằng quyền năng lớn lao nhất của Thiên Chúa (Thượng Đế…) lại chính là quyền năng buộc Ngài phải câm nín. Ngoài Ki-tô giáo, có tôn giáo nào dám nghĩ rằng có một Thiên Chúa mà quyền năng và bản chất tuyệt hảo nhất của Người lại chính là lòng nhân từ và thứ tha? Đặc tính ‘nhân từ và hay thương xót’ của Thiên Chúa, nếu có tìm thấy trong Do Thái giáo, Hồi giáo…, thì cũng chỉ mang tính tạm bợ và hạn hẹp, và chỉ dành cho một số đối tượng nhất định mà thôi (các tín hữu trung thành, những người công chính chẳng hạn). Chỉ riêng Tin Mừng của Đức Giê-su mới cho ta hiểu rằng Thiên Chúa là tình yêu, và bản chất của Tình Yêu đó trước hết và trên hết là thứ tha và hay thương xót. Phải chăng từ muôn thuở yếu tính của Thiên Chúa chính là điều này… và sẽ còn tiếp tục mãi mãi cho tới muôn đời? Mạc khải lớn nhất của Đức Giê-su Ki-tô chính là đây: Thiên Chúa không lên án, Ngài không luận phạt, Ngài chỉ làm một điều duy nhất là cứu độ và xót thương. Luận phạt hay lên án là do chính con người tự quàng vào cổ mình “vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3:16-21). Kể từ mạc khải vĩ đại này, thinh lặng trước sự dữ, thay vì là yếu đuối sợ hãi, lại biểu lộ sức mạnh vô địch nhất của Thiên Chúa. “Ông không nói lại được một lời sao? Mấy người này tố cáo ông gì đó?... Nhưng đức Giê-su vẫn làm thinh” (Mt 26:62-63).
Thần lực Người làm cho gió im biển lặng đã làm cho các môn đệ hoảng sợ, mối hoảng sợ này có lẽ lớn không kém lúc cuồng phong bão tố nổi lên, ‘Các ông hoảng sợ nói với nhau…’ Mô-sê trước bụi gai bốc cháy (Xh 3:1), hoặc I-sai-a khi thoáng nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa (Is 6:5), hoặc bất cứ ai khác cũng đều run sợ trước mọi biểu hiện của quyền lực thần linh. Chỉ duy uy quyền tình yêu của Thiên Chúa là không gây sợ hãi! Và chỉ có sức mạnh tình yêu tha thứ mới làm cho con người được thư thái và an bình thực sự. “Bình an cho anh em… Thầy đây đừng sợ!” (Lc 24:36). Một khi được Đức Giê-su tỏ cho biết Thiên Chúa là ai trong thực chất của Ngài, và Thần Khí giúp ta khám phá ra Thiên Chúa thật gần gũi, thấu hiểu hết các yếu đuối lỗi lầm của con người cho dù họ có gian ác tội lỗi tới đâu đi nữa, bất cứ ai cũng sẽ cảm thấy tràn ngập một niềm an bình độc đáo, một thứ an bình không ai trên cõi đời này có thể ban cho. “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy… không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi…” (Ga, 14:27)
Tuy nhiên, một khi khám phá ra và hiểu rõ hơn về sức mạnh tình yêu tha thứ và xót thương của Thiên Chúa, con người sẽ không khỏi cảm thấy một mối kinh ngạc thú vị, gần giống như một cảm giác ngất ngây. Hy vọng rằng các Ki-tô hữu chúng ta, một khi nghiệm thấy cảm giác tuyệt diệu đó, hãy để cho mối ‘kinh ngạc ngất ngây’ này tiếp tục tràn ngập tâm hồn mình… bây giờ và cho tới muôn đời!
Lạy Vua Tình Yêu nhân ái, cảm tạ Chúa đã một lần cho con nếm cảm được uy lực tình yêu nhân ái Chúa trong đời sống con. Xin cho con luôn nghiệm thấy Thiên Chúa tình yêu đang thinh lặng hiện diện trong con giữa mọi sóng gió cuộc đời. Xin đừng bao giờ cất khỏi lòng con sự bình an ngây ngất của Thần Khí hiện diện trong con, để con luôn có thể mở miệng kêu lên ‘Áp-ba’ giữa mọi nghịch cảnh. Amen.
9. Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn
PHÓ THÁC VÀ TIN TƯỞNG VÀO CHÚA
KHI GẶP NGHỊCH CẢNH HAY ĐAU KHỔ?
Rất nhiều người trong chúng ta đã một lần lâm vào khó khăn, nghịch cảnh. Lúc ấy, chúng ta luôn tự chất vấn mình: “Sao cuộc đời lại đầy rẫy khó khăn, đau khổ?”; “Tại sao điều này lại xảy ra với mình?”; “Tại sao đời bất hạnh đến vậy?”; hay ““Tôi có làm gì đâu mà tôi ra như thế này?”. Nhưng nếu suy tư một chút, chúng ta thấy rằng nghịch cảnh hay đau khổ trong cuộc đời là điều không thể tránh được. Chẳng hạn, người thì bị mất việc, kinh doanh thất bại, mất đi người thân, khủng hoảng tài chính, người thì đổ vỡ trong các mối quan hệ, hoặc thậm chí sức khỏe sa sút và bệnh tật. Lời Chúa trong các bài đọc hôm nay giúp chúng ta có cái nhìn và lối sống trước nghịch cảnh trong đời.
Bài đọc 1 kể Ông Gióp là người công chính, đạo đức và kính sợ Chúa vì thế ông được Chúa chúc phúc, con đàn cháu đống và của cải sung túc. Nhưng chẳng bao lâu ông gặp những cơn bão táp trong đời sống vật chất lẫn tinh thần: mất hết bà con bạn bè, tán gia bại sản, còn thân thể thì bị ung nhụt khủng khiếp. Thế nhưng, ông không nguyền rủa Thiên Chúa trái lại tin tưởng, phó thác và cậy trông vào Chúa. Cuối cùng Chúa thương ban cho ông có lại tất cả và phong phú hơn trước đây. Còn trong Bài Tin Mừng, Thánh Mác-cô kể khi gặp bão táp cuồng phong nỗi lên, các tông đồ hoảng sợ quá đến nỗi quên mất Chúa đang ở với mình. Các ông kêu Chúa và Chúa dẹp tan sóng gió.
Thật ra, mỗi khi thử thách đến trong đời, mỗi người đối diện và phản ứng một kiểu, chẳng ai giống ai. Có người thì quay lưng lại với chúng. Có người lại không dám tiến lên vì sợ thất bại. Lại có người không bao giờ hành động... vì lo không vượt qua nỗi. Có người kiên trì chịu đựng và can đảm vượt qua, nhưng có người thì nhụt chí thất vọng và tuyệt tự…
Khởi đi từ nguyên tắc cứu độ của Đức Giêsu trong nguyên lý của hạt lúa mì: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24); rồi chính Đức Giêsu đã đi trên con đường tự hủy đó để cứu độ con người. Đỉnh cao của mầu nhiệm này là cái chết trên thập giá như Ngài đã tiên báo: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại” (Mc 8, 31). Tinh thần này đã được thánh Phanxicô Assisi lựa chọn và sống, ngài viết: “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
Quả thế, đằng sau sự mục nát của hạt lúa, chúng ta thấy trổ sinh nhiều cây và bông hạt khác. Cũng vậy, nếu không có thập giá hôm nào thì không có sự phục sinh của Đức Giêsu và niềm hy vọng của chúng ta. Chính Tôi Tớ Chúa, Đức Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận cũng đã nói: “Đừng nản lòng vì thất bại. Nếu con tìm ý Chúa thực sự, thì chính sự thất bại đó là thành công. Chúa muốn như vậy. Chỉ có một sự thất bại là không hy vọng vào Chúa. Con đã hy vọng vào Chúa và con sẽ không hổ thẹn đến muôn đời" (Đường Hy Vọng, số 41. 43).
“Lửa thử vàng, gian nan thử đức tin”. Trong hành trình sống đạo của chúng ta, hẳn không thiếu những nghịch cảnh, những sóng gió cuộc đời. Tuy nhiên, khi đối diện với chúng, mỗi người chúng ta hãy kiên trì và trung thành với ý Chúa. Mỗi khi khó khăn thử thách đến với chúng ta, đừng vì thất vọng mà buông xuôi nhưng biết chạy đến kêu cầu Chúa ra tay giúp đỡ như các Tông đồ hôm nay. Hãy trung thành, tin tưởng và cậy trông vào Chúa. Đừng than oán mỗi khi rơi vào nghịch cảnh nhưng nhớ rằng Chúa là Cha của chúng ta ở trên trời, Chúa luôn yêu thương chúng ta, Ngài biết trước những gì chúng ta cần, vì thế chúng ta nên phó thác trong tay Ngài. Hãy tin tưởng vào Chúa quan phòng (Mt 6,25-34).
Cuối cùng, mỗi khi gặp nghịch cảnh, khó khăn xảy đến, chúng ta đừng quá bận tâm cho câu hỏi tại sao? Mà hãy chú tâm và khám phá ra ý định của Thiên Chúa trong nghịch cảnh đó. Thật vậy, chính lúc ấy, Chúa sẽ cho biết lý do tại sao, hay cần phải làm gì để chúng ta nhận biết được những hồng ân quý báu Chúa ban cho trong nghịch cảnh đó. Mọi sự đều trở nên ích lợi cho những người yêu mến, tin tưởng và cậy trông ở Chúa. Vì thế, không còn chuyện than thân trách phận hay buồn bực, chán nản và thất vọng nữa. Ông Gióp là người đã sống mầu nhiệm đau khổ qua những nghịch cảnh một cách xuất sắc. Ông xin Chúa cho chịu thật nhiều đau khổ để đền vì tội mình. Ông sẵn lòng chịu khổ cực thay cho người khác vì lòng yêu mến Chúa. Ông luôn chiến đấu với sự yếu đuối bản thân, với những nghịch cảnh từng ngày từng giờ, từng phút, từng giây trong cuộc sống.
Xin hãy nhớ rằng những điều tốt đẹp ngày hôm nay là kết quả của những thử thách ngày hôm qua. Cho nên, Đức Hồng Y Phanxicô Xavie nói: "‘Khổ’. Đúng vậy. Thương khó, bỏ dễ. Khó mới quí, bỏ là quỉ” (ĐHV, số 60). Ước gì, Lời Chúa hôm nay là động lực và nguồn an ủi và sức mạnh để chúng ta dám đương đầu và chiến đấu với với bao nghịch cảnh trong đời ngõ hầu nhờ ơn Chúa con thuyền đức tin của chúng ta về thiên đàng bình an. Amen.
10. Quyền năng của Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP
Các bài đọc trong Thánh lễ hôm nay nhắc nhở chúng ta trong cuộc sống hiện tại có nhiều gian nan thử thách, hãy tin cậy vào Chúa quan phòng. Thực vậy, trong cuộc sống hằng ngày không thiếu gì những giông tố xẩy đến cho Giáo hội, quốc gia, thế giới và riêng của từng người chúng ta nữa. Trước những trạng huống đó, chúng ta cảm thấy hoang mang không biết phải xoay sở ra sao, có khi đã nản lòng trước những biến cố bất ngờ xẩy đến.
Nhưng trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã nói với chúng ta như đã nói với các Tông đồ xưa kia trên biển hồ Tibériade:”Việc gì phải sợ, người đâu mà kém tin thế”? Qua lời kêu cứu của các Tông đồ, Đức Giêsu đã truyền cho giống tố ngưng lại và biển trở nên phẳng lặng như tờ. Sở dĩ các Tông đồ chưa đủ tin tưởng vào Đức Giêsu và sợ hãi như vậy vì các ông chưa nhìn ra con người thật của Ngài, nên mới đặt câu hỏi:”Ngài là ai mà cả gió và biển phải vâng lời vậy”?
Trong suốt lịch sử của mình, Giáo hội đã trải qua những cảnh huống bi đát như bị bách hại, chia rẽ nội bộ, lạc giáo... nhưng Giáo hội vẫn đứng vững vì có Chúa “nằm ngủ” ở đó, Ngài sẽ ra tay khi cần thiết. Ngoài ra, trong cuộc sống hằng ngày của mỗi người cũng không thiếu gì những gian nan thử thách, hãy tin tưởng vào tình yêu quan phòng của Chúa, hãy vững tin và cầu nguyện, Ngài sẽ đến cứu giúp.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: G 38,1.8-11.
Ông Gióp gặp nhiều tai ương hoạn nạn mặc dầu ông là người công chính. Trước những đau khổ đó, ông biểu lộ những hoài nghi về sự công bằng của Thiên Chúa: ông muốn hỏi Thiên Chúa tại sao lại để cho đau khổ xẩy đến với ông cách bất công như vậy? Đâu là nguyên do những nỗi bất hạnh ấy?
Thiên Chúa không trực tiếp giải đáp thắc mắc của ông, Ngài chỉ cho ông biết Ngài là Chúa tể muôn loài, Ngài có thể làm được mọi sự theo ý Ngài: chính Ngài điều hành sức mạnh của nước, cho nó chảy đi đâu, Ngài dẹp yên sóng cả ngoài biển khơi.
Như vậy, Thiên Chúa gián tiếp trả lời cho ông Gióp: mọi sự lành hay sự dữ được Ngài cho phép mới xẩy ra, con người phải biết phó thác vào sự sắp xếp của Ngài, đừng nên mở miệng than trách.
+ Bài đọc 2: 2Cr 5,14-17.
Thánh Phaolô cho tín hữu Côrintô biết: Đức Kitô đến trần gian này để làm một cuộc tạo dựng mới nhờ sự chết và phục sinh của Ngài. Nhờ cái chết của mình, Đức Kitô làm cho nhân loại thực sự chết cho tội lỗi và nhờ sự sống lại của mình, Ngài làm cho con người hoàn toàn đổi mới, mặc lấy cuộc sống mới đã được biến hình đổi dạng, được trở nên một tạo vật mới tốt lành thánh thiện
Nếu Đức Kitô đã ban cho chúng ta một cuộc sống mới thì chúng ta cũng phải bỏ nếp sống của con người cũ để sống một cuộc sống mới hoàn toàn trong Đức Kitô để thông hiệp vào sự sống của Ngài.
+ Bài Tin mừng: Mc 4,35-41.
Buổi chiều, khi đã giảng dạy cho dân chúng xong, Đức Giêsu bảo các Tông đồ xuống thuyền vượt biển hồ Tibériade sang bờ bên kia. Biển hồ này thường có bão, nhất là vào buổi chiều. Khi ra giữa biển, một cơn bão táp nổi lên, nước đã tràn vào thuyền, các môn đệ cuống cuồng lên. Trong khi đó, Đức Giêsu, bị mệt mỏi vì rao giảng suốt ngày, nằm gối đầu ở đàng lái mà ngủ, như không có sự gì xẩy ra.
Các ông sợ hãi đánh thức Ngài và còn có sự trách móc:”Chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm sao”? Đức Giêsu bình tĩnh đứng lên phán một lời vắn tắt:”Im đi, câm đi”, tức thì gió im, biển lặng như tờ. Sau đó Đức Giêsu vừa trách các môn đệ vừa khuyên họ hãy tin vào quyền năng của Ngài.
Các môn đệ chưa nhận ra con người thật của Đức Giêsu nên mới nói:”Ngài là ai mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh”? Có lẽ thánh Marcô thuật lại cảnh dẹp yên sóng gió trên đây nhằm trấn an và củng cố các Kitô hữu đầu tiên tại Rôma đang hoảng sợ trước cơn bách hại của hoàng đế Néron?
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Đừng sợ, hãy vững tin.
I. SÓNG GIÓ TRÊN BIỂN KHƠI.
1. Gió và biển.
“Trong ngôn ngữ Do thái, cùng một tiếng “gió” cũng có nghĩa là “thần trí”. Ngoài ra trong Kinh thánh, biển thường là biểu tượng những thế lực gian tà mà Thiên Chúa phải đánh gục để kế hoạch của Người toàn thắng. Ở đây, biển động dữ dội do ảnh hưởng của cuồng phong. Ta phải hiểu là có “thần trí xấu” (Satan chăng?) đang tung những ma lực dưới quyền để ùa đến tấn công con thuyền, tức là tấn công các môn đệ”(Boismard, Jésus, un homme de Nazareth, 1966, tr 78).
Làm cho bão tố yên lặng là một dấu chỉ đặc biệt về quyền năng của Thiên Chúa, bởi vì biển và gió được coi như là những sức mạnh của xấu xa và hỗn loạn, mà chỉ Thiên Chúa mới có thể làm chủ, điều khiển chúng (Bài đọc 1).
2. Biển hồ Tibériade.
Biển hồ này cũng có tên gọi là biển hồ Galilê. Biển có chiều dài 21 km và chỗ rộng nhất là 13 km. Thung lũng Jordan là một vết nứt sâu trên mặt đất và biển Tibériade là một phần của vết nứt đó. Nó thấp hơn mặt biển 200 mét nên khí hậu ấm áp dễ chịu, nhưng cũng đem lại nhiều nguy hiểm. Bên phía tây có núi non, thung lũng, khe suối, nên khi gió lạnh từ phía tây thổi đến thì thung lũng, khe suối này có tác dụng như những cái phễu lớn. Gió bị nén trong đó và thổi ào ào xuống hồ bất thình lình với sức gió mạnh dữ dội đến nỗi mặt hồ phẳng lặng biến thành sóng gió gào thét. Vì thể, biển Tibériade hay nổi lên những cơn sóng gió bão táp vào ban chiều hay ban đêm.
II. CHÚA DẸP YÊN SÓNG GIÓ.
1. Câu chuyện giông tố.
Đức Giêsu cũng có một số môn đệ để giúp phổ biến giáo thuyết của Ngài. Các môn đệ này không phải là những nhà trí thức hay ít ra là những người học thức trung bình, nhưng thực ra họ là những người ít học: họ là những người chài lưới. Chúa cần phải giáo dục họ từng bước để trở thành những môn đệ kiên cường và trung thành trong việc rao giảng Tin mừng. Họ cần phải đặt tin tưởng vào Chúa nhất là trong những cơn gian nan khốn khó lúc này và về sau.
Ngài phải thử thách họ bằng những tình huống nguy hiểm. Vi thế, sau một ngày giảng cho dân chúng những dụ ngôn về Nước Trời. Đức Giêsu bảo các môn đệ xuống thuyền sang bờ biển bên kia, là vùng của dân ngoại để truyền giáo cho họ. Nhưng mục đích chính là để thử thách họ và cho họ thấy quyền năng của Ngài.
Vì thế, một cơn sóng gió nổi lên hầu nhận chìm con thuyền của các ông mà Đức Giêsu thì nằm ở đàng lái mà ngủ, coi như không có chuyện gì xẩy ra. Các môn đệ vừa cầu cứu vừa có vẻ hơi trách móc Ngài. Lúc ấy Ngài mời bình tĩnh đứng lên, truyền lệnh cho sóng gió phải ngưng hoạt động, tức thì gió im, biển trở nên lặng như tờ. Trước cảnh tượng này các môn đệ hết sức kinh ngạc và thán phục Đức Giêsu nên mới nói với nhau:”Ngài là ai mà cả gió và biển đều phải tuân lệnh Ngài”? Các ông đã nhìn ra quyền năng của Ngài và tin tưởng vào Ngài hơn.
2. Ý nghĩa câu truyện.
a) Củng cố niềm tin cho môn đệ.
Đức Giêsu truyền cho các môn đệ xuống thuyền ra biển là có ý tỏ quyền năng của Ngài để các ông tin tưởng vào Ngài. Sóng gió bão táp cũng có nghĩa là những thử thách và đau buồn mà người công chính phải chịu đựng và chỉ có quyền năng của Thiên Chúa mới có thể cứu họ ra khỏi tình trạng ấy.
Các môn đệ chưa hiểu rõ con người Đức Giêsu, các ông coi Ngài cũng chỉ là một đấng tiên tri có quyền phép, làm được nhiều phép lạ để cho nhiều người tin theo nên các ông mới thắc mắc với câu hỏi “Người này là ai”? Khi bão tố yên lặng, các ông chứng kiến một việc mà chỉ Thiên Chúa mới có thể hoàn thành. Điều đó có ý nghĩa là Đức Giêsu có quyền năng của Thiên Chúa. Thực ra, họ mới biết Đức Giêsu theo quan niệm của loài người. Đồng thời, nhờ phép lạ này cho thấy Đức Giêsu chăm sóc các môn đệ của Ngài.
Theo suy luận của J. Hervieux thì “khi đọc lại câu chuyện Chúa đi qua biển và dẹp yên sóng gió như vậy, Marcô cố gắng đáp ứng những nhu cầu hiện thực của Giáo hội thời Ngài. Những tín hữu Rôma đang phải điêu đứng vì những cuộc bách hại. Họ đang sống trong nỗi sợ hãi, giống như các môn đệ trong con thuyền vượt biển xưa. Đối với họ, Đức Kitô hình như đang ngủ. Việc Ngài “vắng mặt” rõ ràng trong những biến cố bi thảm họ đang sống, tạo cho họ thêm e dè sợ sệt! Chúa phải làm gì để giải thoát họ khỏi cảnh chết chóc đang rình rập” (Fiches dominicales, năm B, tr 207).
b) Chúa vẫn có mặt ở đó.
Cơn sóng gió nổi lên dữ dội, các môn đệ bất lực, không chèo chống nổi, nước tràn vào đầy thuyền và sắp ngập, khi đó Đức Giêsu lại đang nằm ngủ ở đàng lái! Ngài ở chỗ quan trọng nhất vì số phận con thuyền tùy ở tay lái. Thế mà đang lúc khó khăn nguy hiểm tột độ, Ngài lại nằm ngủ.
Đối với Marcô, Ngài nằm ngủ như thế là hình ảnh về Thiên Chúa như nhắm mắt làm ngơ và ngủ say quên mất rằng loài người chúng ta sắp chết rồi, con thuyền Hội thánh đang sắp chìm và bản thân chúng ta sắp bị vùi giập trong nguy hiểm. Thái độ lạ lùng này khiến loài người phải đặt ra nhiều câu hỏi về vấn đề đau khổ và sự dữ: có Thiên Chúa hay không? Ngài không biết chúng ta đang đau khổ sao? Ngài bất lực hay đa đoan như người ta thường nói về “Con Tạo”?
Bài đọc 1 cũng đặt ra cho chúng ta một câu hỏi, giống như thời ông Gióp; chúng ta cũng tra hỏi, chất vấn, sửng sốt, đòi hỏi Chúa phải giải thích và trình bầy cho ra nhẽ! Tại sao vẫn xẩy ra những vụ tàn sát những người vô tội, những cảnh chém giết nhau không nương tay, những cuộc bách hại đẫm máu, những trận dịch kinh hoàng, những bất công chỉ biết kêu trời báo oán, những cảnh chết đói khiến phải đào mồ chôn tập thể?
Thật ra, đường lối sư phạm của Thiên Chúa rất huyền diệu, ta không hiểu nổi, nhưng dầu sao nó cũng nhằm giúp chúng ta tin tưởng rằng trong mọi nơi mọi lúc “Con thuyền Giáo hội lúc nào cũng bị sóng gió dập dồn” (theo Tertullianô), nhưng không sao, không bị chìm được vì luôn có Ngài ở đó, Ngài có vẻ ngủ nhưng thực ra Ngài vẫn thức để theo dõi chúng ta chèo chống và chờ đợi chúng ta kêu cầu Ngài giúp đỡ.
Theo nhận xét của chúng ta, dù có Đức Giêsu ở trong thuyền với các môn đệ thì bão tố vẫn xẩy ra. Vì thế, dù bão tố có chụp xuống chúng ta, điều đó không có nghĩa là Thiên Chúa đã bỏ rơi chúng ta. Nếu chúng ta có đức tin, chúng ta sẽ không nghi ngờ Ngài ở với chúng ta, và chúng ta sẽ hướng về Ngài để cầu xin và tin chắc rằng Ngài sẽ đến giúp đỡ.
Một ngày kia, viên lái đò chở hoàng đế César qua sông, thấy sóng cả đã ngã tay chèo, được hoàng đế phán ra một câu bất hủ:”Anh không biết là anh đang chở hoàng đế César sao”?
Một vị hoàng đế sẽ bất lực trước cơn cuồng phong dữ dội, thế mà dám nói những lời như thế. Thì huống hồ ở đây, không phải là vị vua trần thế mà là vua cả trên trời Ngài làm cho sóng gió bão táp phải lặng yên sao? Thánh vịnh đã nói:
Đổi phong ba thành gió thoảng nhẹ nhàng
Sóng đang gầm, bỗng im tiếng.
Họ vui mừng vì trời yên bể lặng
Và Chúa dẫn đưa về bến mong chờ.
(Tv 107, 29-30)
III. THÁI ĐỘ CỦA CHÚNG TA.
Câu chuyện trong bài Tin mừng hôm nay dạy chúng ta bài học: hãy tin cậy vào Chúa và cầu nguyện. Ai cũng thích sóng yên bể lặng, xuôi chèo mát mái. Nhưng cuộc đời nào mà chẳng có giông tố? Tuy nhiên, chính giông tố mới giúp chúng ta nhận ra chính mình: mình còn yếu đuối và bất lực, còn nhát đảm và kém tin. Cũng chính giông tố sẽ đưa ta đến với Chúa, để ta hoàn toàn phó thác cho sự quan phòng của Ngài. Cũng chính giông tố sẽ giúp chúng ta biểu lộ đức tin. Có thể nói, đức tin sẽ lớn lên ít nhiều sau mỗi lần giông tố. Khi đã biết con người hoàn toàn yếu đuối và bất lực thì chỉ còn biết trông cậy vào Chúa và xin Ngài đến cứu giúp, không phải chỉ cầu xin khi gặp hoạn nạn, nhưng phải tin Chúa và cầu xin Ngài mọi nơi mọi lúc trong lúc được bình yên.
Truyện: Cầu nguyện khi bình yên.
Có câu chuyện về một đại úy hải quân, khi về hưu làm thuyền trưởng trên một chiếc tầu đưa khách đến đảo Shetland tham quan trong ngày. Trong một chuyến đi chơi, tầu chở toàn thanh niên. Họ cười nhạo ông đại úy gìa khi thấy ông này cầu nguyện trước lúc ra khơi, bởi vì đó là một ngày trời đẹp và biển êm.
Nhưng biển không êm lâu khi một trận cuồng phong bất ngờ thổi tới và chiếc tầu bắt đầu chồm lên chồm xuống dữ dội. Các hành khách hoảng sợ chạy đến ông đại úy thuyền trưởng để yêu cầu ông cùng cầu nguyện với họ. Nhưng ông đáp:”Tôi đã cầu nguyện lúc trời êm bể lặng. Khi sóng gió nổi lên, tôi phải lo cho con tầu của tôi”.
Đó là một bài học cho chúng ta. Nếu chúng ta không thể hoặc không muốn tìm đến Thiên Chúa trong những lúc yên tĩnh của đời mình thì chúng ta có lẽ sẽ không tìm thấy Người khi cơn rối loạn chụp xuống. Có lẽ chúng ta hoảng sợ nhiều hơn. Nhưng nếu chúng ta đã biết tìm đến Người và phó thác nơi Người trong những lúc bình yên thì hầu như chắc chắn chúng ta sẽ tìm thấy Người khi sóng gió nổi lên (Flor McCarthy, Phụng vụ Chúa nhật B, tr 458).
Mỗi người chúng ta không khác gì chiếc thuyền nan chồng chềnh giữa biển trần gian đầy sóng gió bão táp, khó khăn nối tiếp khó khăn. Nếu chúng ta chỉ dựa vào sức mình hay dựa vào một quyền năng nào đó thì chúng ta sẽ thất bại. Ai có thể cứu chúng ta thoát khỏi sóng gió ba đào khi chiếc thuyền của chúng ta sắp chìm? Chỉ còn có Thiên Chúa. Ngài như người cha lái con tầu vững chắc trên biển cả, chúng ta là con chỉ biết tin tưởng vào quyền năng của người Cha trên trời.
Có Chúa trong đời, Ngài sẽ hướng dẫn cuộc đời của mỗi chúng ta. Lúc đó, những cô đơn như bị xóa nhòa, những khó khăn dường như nhỏ lại, những yếu đuối như được mạnh sức. Chúng ta không cầu xin cho cuộc đời mình như biển lặng, nhưng xin cho cõi lòng chúng ta được tĩnh lặng ngay giữa lúc biển động.
Truyện: Cha tôi câm lái tầu.
Một thi sĩ người Anh, ông Byron, có viết một câu chuyện như sau:
Hôm ấy, một con tầu đang rẽ sóng lướt đi trên mặt biển mênh mông. Bỗng chốc, bầu trời kéo mây đen đặc. Rồi giông tố ầm ầm nổi lên, sấm chớp kinh hoàng. Mưa càng lớn, gió càng mạnh. Các hành khách kêu la hỗn loạn. Duy có một em bé cứ ngồi chơi trên boong tầu như không có gì xẩy ra.
Lạ lùng, một thủy thủ giương to đôi mắt hỏi em:
- Em không sợ chết sao?
Cậu bé thản nhiên trả lời:
- Sao lại sợ? Chính ba cháu cầm lái con tầu này mà!
Câu chuyện trong bài Tin mừng hôm nay thách đố sự tin tưởng của chúng ta vào quyền năng của Thiên Chúa. Khi đã có đức tin, chúng ta không cần đứng ra chỉ huy mọi sự. Đã có Chúa Tình yều, Ngài sẽ làm tất cả.
11. Bão táp cuộc đời – Cố Lm. Hồng Phúc
Một phái đoàn quan khách đến thăm quan một trại cùi. Họ rất cảm phục vì thấy các nữ tu vui vẻ săn sóc cho bệnh nhân. Một người trong phái đoàn hỏi một chị: “Vì sao chị lại sống ở đây? Cho tôi một triệu tôi cũng không dám!” Người nữ tu trả lời: “Cho tôi hai triệu tôi cũng không ở. Sở dĩ tôi muốn ở đây và sống chết ở đây vì tình yêu Chúa Kitô thúc đẩy tôi.” Với giáo đoàn Côrintô, Thánh Phaolô cũng từng nói như vậy: “Lòng yêu mến Đức Kitô thúc bách tôi”. Từ ngày ngài được biết Chúa Kitô và cảm thấy tình thương của Chúa đến độ “hiến thân mình vì tôi” (Ga.2,20), Phaolô như bị đè nặng dưới khối tình yêu của Chúa. Từ trong thâm tâm, người nghe như có tiếng vọng lại: Hãy yêu mến Ta như Ta đã yêu mến ngươi. Hãy tiến lên nữa. Hãy để Ta dùng ngươi để yêu mến kẻ khác. “Chúa Kitô đã chết thay cho hết mọi người, để những ai đang sống không sống cho mình nữa, mà chỉ sống cho Đấng đã chết và sống lại vì ta.”
Đối với tất cả chúng ta, tình yêu Thiên Chúa cũng thúc bách và đè nặng như vậy.
Bài Phúc Âm hôm nay, dưới ngòi bút linh động của Marcô, là một bài phóng sự một cơn bão táp xảy ra trên mặt biển hồ Tiberiade hay có những cơn gió lốc về chiều do bầu khí bị dồn ép trong thung lũng sông Giordan. Sau khi giải tán đám đông, Chúa truyền cho các môn đệ chèo thuyền qua bên kia biển hồ. Ngài lên thuyền. Sau một ngày giảng dạy mệt nhọc, Ngài đến phía sau lái, dựa trên một chiếc gối và ngủ say. Một cơn gió lốc thổi đến, cuộn lên những ngọn sóng lớn làm cho thuyền đầy nước. Các môn đệ tay chống tay tát…, còn Ngài, Ngài vẫn ngủ. Các ông đến thức Ngài dậy: “Chúng con chết mất, Thầy không quan tâm sao?” Ngài bèn đe gió và phán với biển, như một người bị quỉ ám: “Hãy im đi!” Tức thì gió và biển lặng.
Tường thuật cơn bão táp im lặng có ý nghĩa gì? Đối với Chúa Giêsu, Ngài muốn dạy cho chúng ta phải có niềm trông cậy và phó thác nơi Chúa: “Sao các con sợ hãi? Các con không có đức tin ư?” Trong mọi hoàn cảnh, mọi hiểm nguy, chúng ta đều nằm trong bàn tay của Cha trên trời. Trong một hoàn cảnh tương tự, viên lái đò chở hoàng đế César qua sông, thấy sóng cả đã ngã tay chèo, được nghe một câu nói bất hủ: Anh không biết là anh đang chở vua César? Thì huống hồ ở đây, không phải là một vị vua trần thế mà là Vua Cả trên trời, “Ngài làm cho bão táp dừng yên phăng phắc, sóng biển yên lặng như tờ” (Tv. 107, 29).
Đối với nhiều người đã chứng kiến, vì Marcô nói: “Có nhiều thuyền khác theo”, thì đây là một phép lạ nói lên quyền năng của Chúa Giêsu, Đấng chỉ cần phán lên một lời thì gió yên biển lặng, Đấng có quyền trên vạn vật, là Đấng tạo thành vạn vật. Các Thánh Giáo phụ nhìn thấy ở đây tác động của hai bản tính của Chúa Giêsu. Thánh Gioan Kim-Khẩu nói: “Họ vừa nhìn thấy Ngài, dựa trên gối, ngủ say, đó là một con người, họ nhìn thấy Ngài bắt biển cả phải lặng yên, đó là vị Thiên Chúa.” Trong khi các nhà thần học minh giáo lại đề cao ý tưởng “con thuyền Giáo hội” giữa sóng gió ba đào (Tertullien). Chúa Kitô vẫn ở trong con thuyền Giáo hội cũng như Ngài ở trong tâm hồn chúng ta. Một hôm Bà Thánh Catarina Sienna phải chiến đấu mãnh liệt với chước cám dỗ, Bà kêu lên: “Lạy Chúa, trong khi con phải chống lại những ý tưởng nhuốc nha thì Chúa ở đâu? Chúa phán: Ta đang ở trong tâm hồn con, để hỗ trợ con và để chia sẻ sự toàn thắng của con.”
“Lạy Thầy, xin cứu chúng con vì chúng con sắp chết mất!”
12. Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?
(Trích trong ‘Tin Vui Xuân Lộc’)
Lời Chúa trong đoạn Tin Mừng hôm nay thánh Maccô thuật lại một hành trình trên biển để “sang bờ bên kia” của Chúa Giêsu và các môn đệ. Hành trình này được ví như hành trình đức tin của mỗi chúng ta. Hành trình trên biển gặp sóng gió là chuyện không lạ lắm đối với những người thường xuyên đi biển và sống bằng nghề biển như các môn đệ. Tuy nhiên, chiếc thuyền của Chúa Giêsu và các môn đệ hôm nay không gặp những con sóng ngọn gió hiền lành bình thường, mà là gặp “cuồng phong”… “sóng ập vào”… “thuyền đầy nước”… Các môn đệ lo lắng như “chết đến nơi rồi”, còn Chúa Giêsu thì “chẳng lo gì”… Các môn đệ kêu cầu đến Chúa và Chúa đã ra tay uy quyền, Chúa mắng các môn đệ “làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”
Chúng ta ngắm nhìn xem, tại sao Chúa Giêsu lại mắng các môn đệ chưa có lòng tin?
Qua trình thuật này chúng ta có thể hiểu rằng, giữa Chúa Giêsu và các môn đệ đã có một tương quan rất thân thiện với nhau rồi. Cùng làm việc và cùng thi hành sứ vụ chung với nhau. Tuy nhiên, chúng ta cũng dễ dàng cảm nghiệm rằng, dường như tương quan ấy chỉ mới có ở bề mặt bên ngoài, có nghĩa là các môn đệ mới chỉ gặp gỡ, gần gũi làm việc chung, mới tương quan trên bình diện công việc và cuộc sống, chứ các môn đệ chưa đi vào tương quan sâu, chưa hiểu hết Chúa như thế nào, quyền năng của Ngài ra sao?
Chúa mắng các môn đệ “chưa có đức tin” quả thật là phải lẽ, vì hành trình của các ông đang có Chúa đó, nhưng các ông chẳng ý thức về sự hiện diện đồng hành của Ngài, các ông không nhận biết quyền năng của Chúa, các ông cũng chẳng trông cậy vào Ngài… Sóng gió ập đến, các môn đệ mới sực nhớ đến Chúa, và rồi các ông vội trách Chúa “chẳng lo gì”.
Cuộc sống thường ngày của chúng ta dường như cũng thế, chúng ta ít khi ý thức sự hiện diện của Chúa, chúng ta thường đi với Chúa cách vô ý thức, coi như Chúa không biết gì, Chúa chẳng quan tâm. Đến lúc nguy khó mới nhớ chạy đến Chúa và kêu la rối rít. Thái độ sống này, chắc chắn sẽ bị Chúa mắng là “chưa có lòng tin”. Tuy nhiên, một thái độ ngược lại cũng đáng quan tâm. Cuộc sống đôi lúc chúng ta cũng rơi vào tâm trạng thất vọng nặng nề, chúng ta cũng chẳng còn nhớ đến Chúa, và quên rằng Ngài ở bên chúng ta và chờ chúng ta khiêm tốn lên tiếng kêu cầu Ngài. Thái độ chỉ kêu đến Chúa khi gặp khó khăn, hoặc là thất vọng đến quên cả Chúa mà lầm lũi bước đi đó là thái độ “chưa có lòng tin”.
Thánh Maccô thuật tiếp, sau khi các môn đệ kêu đến Chúa, tin tưởng vào quyền năng của Chúa, Chúa bắt đầu ra tay. Nhưng sau khi Chúa ra tay truyền sóng biển im lặng, thì các ông hoảng sợ và nói với nhau: “Vậy người này là ai…?”
Gặp sóng gió, các môn đệ hoảng sợ, không tin đủ vào Chúa. Sau khi Chúa tỏ quyền năng thì các ông lại thắc mắc “Ngài là ai?” Điều này chứng tỏ nền tảng đức tin của các môn đệ chưa vững chắc, đi bên Chúa, gặp gỡ Chúa nhưng không khao khát tìm biết Chúa là ai? Lẽ ra các ông phải tìm hiểu về Chúa, biết Chúa là ai khi bắt đầu cất bước theo Ngài! Còn nghi ngờ vào chính Thiên Chúa thì chắc chắn là chưa có lòng tin. Tin Chúa là phải học cho biết Ngài là ai và đi vào trong tương quan sâu để cảm nghiệm Ngài như ta đã được học biết. Tin vào Chúa là hiểu điều Chúa làm, mong điều Chúa muốn và phó thác cho Ngài cuộc sống của ta.
Sau phép lạ Chúa làm truyền sóng biển im lặng, chắc chắn các môn đệ phải tìm được câu trả lời Chúa là ai khi quan sát sự kiện và khi tương quan gần gũi song hành với Chúa. Vậy mà không hiểu sao các ông lại còn hoảng sợ và thắc mắc “ông này là ai?” Câu hỏi này chứng tỏ lòng tin của các ông chưa có và bị Chúa mắng thì cũng không oan uổng gì.
Bởi vì các môn đệ chưa có lòng tin, nên chưa ý thức sự hiện diện của Chúa. Chưa có niềm tin nên còn nghi ngờ “ông này là ai?”. Chưa có lòng tin nên còn dành quyền điều khiển và kiểm soát hành trình. Khi các môn đệ dành quyền kiểm soát và điều khiển hành trình đời mình, thì Chúa dành cho họ ưu tiên đó, Ngài nghỉ ngơi. Giả như chúng ta tin tưởng trao phó cho Chúa để Ngài điều khiển và an tâm nghỉ ngơi, thì chính lúc ấy Chúa sẽ giang tay ra hành động, Ngài chở che, bao bọc và cứu giúp.
Thái độ của những người “chưa có lòng tin” là thái độ của những người ưa thích đảo lộn tình thế, đứng vào vị trí điều khiển của Chúa, quên đi vai trò lệ thuộc của chính bản thân mình.
Có lòng tin là ý thức Chúa hiện diện trong mọi nẻo hành trình; Có lòng tin là trả lời xác tín với mọi người về chính Chúa, bằng sự cảm nghiệm của chính cá nhân mình; Có lòng tin là để Chúa điều khiển và kiểm soát cuộc sống của mình; Có lòng tin là khiêm tốn kêu xin khi gặp gian nan khốn khó.
Giờ đây, chúng ta khiêm tốn dâng lên Chúa lời nguyện xin ơn đức tin:
Lạy Chúa Giêsu,
Chúng con cám ơn Chúa vẫn hiện diện trong cuộc sống chúng con.
Xin cho chúng con tin vào quyền năng Chúa vẫn hiển trị trong cuộc đời chúng con.
Lạy Chúa, cuộc sống quanh chúng con có biết bao điều xảy đến.
Tất cả đều nằm dưới bàn tay tình thương quan phòng của Chúa.
Xin Chúa giúp chúng con biết cùng với vạn vật dâng lời ca khen quyền năng Chúa.
Xin giúp chúng con biết đón nhận ân ban của Chúa trong sự khiêm tốn thẳm sâu.
Xin dạy chúng con biết chạy đến với Chúa khi gặp những gian nan thử thách,
Xin giúp chúng con biết bám vào Chúa để đi qua những giông bão trong cuộc đời.
Lạy Chúa, Chúa luôn nâng đỡ những ai kêu cầu Chúa.
Chúng con xin phó dâng cuộc sống trong tình thương quan phòng của Chúa. Amen.
13. Sóng gió cuộc đời - Lm Anphong Trần Đức Phương
Tôi đã được nghe một câu chuyện về Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII (1881-1963). Ngài chỉ ở trên ngôi vị Giáo Hoàng trong vòng 5 năm (1958-1963), nhưng được nhiều người sùng mộ. Sau khi Ngài qua đời, rất nhiều người đã đến viếng mộ của Ngài, đến nỗi di hài của Ngài đã được đưa từ hầm mộ lên trên nền Đền Thờ Thánh Phêrô để dễ dàng cho giáo dân kính viếng. Ngài có một niềm ưu tư đặc biệt về việc hiện đại hóa Giáo Hội. Ngài cũng luôn quan tâm về nền hòa bình thế giới. Một trong những thông điệp nổi tiếng của Ngài là Thông Điệp “Hòa Bình Trên Thế Giới” (Pacem in Terris), ra ngày 11-4-1963, trong đó Ngài kêu gọi mọi người có thành tâm thiện chí hãy chung tay xây dựng Hòa Bình và sự Công Chính trên thế giới, để “làm cho trái đất này trở nên nơi ở tốt đẹp hơn cho nhân loại!”(Lời kết Thông Điệp) Một đêm khi Ngài đang ngủ, Ngài chợt nghĩ đến bao nhiêu những điều cần phải thực hiện trong Giáo Hội. Ngài mong cho đến sáng để xin vào trình bày với Đức Giáo Hoàng về những việc cần phải làm ngay. Nhưng Ngài sực tỉnh và mới nhận ra chính Ngài đang là Giáo Hoàng! Lúc đó, Ngài cảm thấy hết sức sợ hãi! Nhưng như có tiếng Chúa nói với Ngài: “Giáo Hội là của Cha chứ không phải của con!” Bấy giờ Ngài mới lấy lại can đảm và cầu nguyện xin Chúa soi sáng cho Ngài biết phải làm gì để canh tân Giáo Hội. Rồi Ngài đã mở Đại Công Đồng Vatican II (1962-1965), mời các vị Hồng Y và Giám Mục từ các nơi trên thế giới trở về Rôma họp để cùng nhau đưa ra những ý kiến hiện đại hóa Giáo Hội.
Thánh Lễ Chúa Nhật hôm nay, trong Bài Phúc Âm (Mc 4, 35-41), chúng ta thấy các Thánh Tông Đồ đang chèo thuyền trên Biển Hồ Tibêriat trong đêm tối, thì sóng to gió lớn nổi lên, nước ùa vào trong thuyền đến nỗi thuyền sắp chìm, mà Chúa Giêsu cứ ‘ngủ yên’ trên mạn thuyền, như không biết gì cả. Các Tông Đồ phải đánh thức Chúa dậy: “Chúng con sắp chết đến nơi mà Thày không quan tâm đến sao?” Chúa Giêsu đã ‘thức dậy’ và làm phép lạ cho gió yên, biển lặng! Rồi Chúa trách các Tông Đồ: “Các con không có đức tin ư? Sao mà qúa sợ hãi như vậy!”
Trong cuộc đời mỗi người chúng ta, mỗi gia đình chúng ta có nhiều lúc cũng gặp “bão tố nổi lên” và chúng ta có cảm tưởng Chúa cứ ‘ngủ yên’ mà không thương cứu giúp chúng ta. Y như trong trường hợp khổ đau của ông Gióp trong Bài Đọc I (Gióp 38, 1.8-11). Nhưng ông Gióp đã luôn vững tin nơi Chúa, không phàn nàn, kêu trách; rồi Chúa đã làm cho sóng gió cuộc đời ông chấm dứt, và ban lại cho ông một cuộc sống tốt đẹp hơn. Trong Bài Đọc II (2Cr 5,14-17), Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: Vì thương yêu chúng ta, “Chúa Giêsu Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, nhưng Ngài đã sống lại!..”, đem lại cho chúng ta một niềm tin vững chắc vào tình thương của Chúa.
Là những tín hữu của Chúa, chúng ta hãy noi gương ông Gióp, luôn biết tin tưởng, phó thác nơi Chúa trong mọi biến cố xảy ra cho chúng ta, gia đình chúng ta, thế giới chúng ta và ngay trong Giáo Hội Chúa nữa; vì Chúa là Thiên Chúa toàn năng, và là Cha yêu thương của chúng ta. Trong Phúc Âm Chúa Giêsu cũng bảo chúng ta hãy luôn tin tưởng nơi sự quan phòng của Chúa là Cha luôn yêu thương chúng ta và lo lắng mọi điều cần thiết cho chúng ta. (Mt 6, 25-34)
Trong thế giới ngày nay, người ta thường thiếu niềm tin nơi Chúa, và vì thế dễ lo lắng, sợ hãi trước những biến cố đau thương xảy ra trong cuộc đời, và trở nên khủng hoảng tinh thần, bất mãn với cuộc đời, tâm trí bị căng thẳng, rồi suy nhược (depressed) và có những trường hợp đưa đến loạn trí, hành động điên rồ gây nên những tội ác khủng khiếp: như tự hủy chính mình, có khi giết hại mạng sống cả gia đình, có khi giết hại những người vô tội, như những cuộc bắn giết tại các trường học, tiệm ăn, sở làm và các trung tâm thương mại v.v...
Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta hãy cầu nguyện cho chúng ta được vững niềm tin phó thác nơi tình thương che chở của Chúa là Cha chúng ta. Xin cho chúng ta biết nhìn lên Thánh Giá Chúa để chấp nhận mọi đau khổ, thử thách xảy ra cho chúng ta, gia đình chúng ta. Chính những đau khổ, thử thách tôi luyện đức tin của chúng ta, làm cho đức tin của chúng ta trở nên vững chắc hơn. Đau khổ và thử thách cũng là những dịp để chúng ta được thông phần với sự đau khổ Chúa đã chịu để cứu chuộc chúng ta (Xin xem 1 Pr 1, 6-9; 2 Cr 4, 17-18; Rm 8,18).
“Anh em hãy phó thác mọi nỗi lo âu cho Chúa; vì Chúa luôn lo lắng cho anh em!” (1Pr 5,7).
“Hãy phó thác đường đời cho Chúa,
Người sẽ lo liệu mọi sự cho chúng ta!”
(TV 37).
“Tôi tin, tôi tin Chúa đã thương tôi, nên Người đã chết, chết vì tôi…
“Tôi tin Chúa vẫn thương tôi, cho dù đời tôi bao phen giông tố…”
(Bản Thánh ca “Tôi Tin” của Thành Tâm)
14. Tái tạo
(Suy niệm của Lm Vũ Đình Tường)
Để tái tạo vật mới từ vật cũ thì vật cũ cần phải tháo gỡ cho việc tái tạo. Hành động tháo gỡ mang í nghĩa chết và í nghĩa sống. Chết hiểu theo nghĩa từ nay hình dạng cũ thuộc về quá khứ, không còn nữa. Thay vào đó là hình dạng mới với đời sống mới. Thí dụ điển hình nhất là sau cơn hoả hoạn, cây cũ cháy rụi, chết đi nhường chỗ cho mầm non phát sinh.
Thiên tai tàn phá và tái tạo. Quan trọng hơn nữa thiên tai hi vọng giúp ta nhận biết thân phận nhỏ bẻ của con người. So với vũ trụ bao la con người nhỏ hơn hạt cát biển và tàn lụi nhanh hơn hạt sương trước ánh dương. Dù nhỏ bé như thế nhưng con người có tham vọng làm chủ tể của vũ trụ có trước con người nhiều tỉ năm. Tìm hiểu để biết hơn về vũ trụ là điều tốt nhưng tìm cách làm chủ, chối bỏ công trình sáng tạo của Thiên Chúa là việc hạt cát đòi làm chủ đại dương, sương sớm đòi làm chủ mặt trời.
Sóng gió trong đời là điều không thể tránh khỏi và khi chúng đến con người thường có hai chọn lựa. Người có đức tin mạnh mẽ thường chạy đến Chúa trong lời kinh. Khi bão tố đến họ bám chặt hơn vào Thiên Chúa, tìm an bình nơi Ngài. Đồng thời họ cũng tìm sự hỗ trợ của đồng loại. Các tông đồ khi gặp sóng gió các ông cũng vừa chèo chống vừa chạy đến cùng Đức Kitô và các ông kinh ngạc chỉ một lời phán bảo sóng gió im lặng nghe lời Ngài. Con người không có khả năng ra lệnh cho thiên tai. Con người chỉ có những nhà chuyên môn trong ngành có khả năng tiên đoán tai ương có thể sẽ xảy đến và chuẩn bị trước mong tránh càng nhiều thảm hại càng tốt. Con người chấp nhận khi các chuyên gia tiên đoán sai về thiên tai sẽ xảy đến nhưng khi Chúa không đáp đúng lởi chúng ta cầu xin chúng ta phàn nàn Chúa không thương con người. Vì sao lại có thái độ đó? Thưa vì chúng ta đặt í ta trên í Chúa.
Người có đức tin mạnh nơi Đức Kitô tin vào phép lạ và qua phép lạ giúp cho đức tin mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên khi không có phép lạ đức tin vẫn không yếu kém vì đức tin đặt nền tảng trên Đức Kitô, không phải dựa vào phép lạ để tin. Để có phép lạ cần có đức tin như thế đức tin phát sinh phép lạ, không phải phép lạ sinh ra đức tin. Trong Kinh Thánh Đức Kitô luôn khẳng định với người Ngài ban ơn: Đức tin con đã cứu con. Như thế Đức tin luôn đi trước, phép lạ theo sau.
Kitô hữu tin chúng ta sống nơi trần thế chỉ trong giai đoạn và khi đi trọn con đường chúng ta trở về với Chúa. Thời gian khi nào trở về không thuộc về khả năng con người nhưng do Chúa định đoạt. Kitô hữu mong sống hạnh phúc và sống lâu dài nơi trần gian nhưng Kitô hữu cũng biết rằng đó là í muốn của ta; ngoài í ta muốn còn có í Chúa mà ta luôn tôn trọngg và xin lắng nghe và chấp nhận như điều chúng ta tuyên xưng khi đọc kinh Lậy Cha.
Đức Kitô đón nhận sóng gió trong đời với môt niềm tin mãnh liệt nơi Chúa Cha và Ngài đã cảm thấy bình an trước sóng gió cuộc đời. Học từ Đức Kitô khi sóng gió đến chúng ta cũng xin ơn biết đặt trọn niềm tin vào Đức Kitô, xin ơn khôn ngoan biết xử thế trước sóng gió và nhận ra ý Chúa mặc khải qua biến cố cuộc đời.
15. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Đồng bào chúng ta vẫn tin ở Ông Trời, coi Ông Trời là Đấng làm chủ gió mưa, thời tiết, mùa màng và nắm vận mạng của con người. Phần chúng ta, nhờ đức tin, chúng ta được biết Ông Trời ấy chỉ là một ý thức mơ hồ về Thiên Chúa. Chúng ta cảm tạ Thiên Chúa đã cho chúng ta được biết Ngài và chúng ta hãy cố gắng yêu mến thờ phượng Ngài cho xứng đáng, nhất là trong Thánh lễ này.
II. Gợi ý sám hối
Thiên Chúa là chủ tể thiên nhiên. Đối với Ngài, chúng ta thường cầu xin ơn này ơn nọ, nhưng ít khi để ý tới việc thờ phượng Ngài.
Thiên Chúa là Đấng quan phòng chăm sóc mọi loài. Nhưng ít khi chúng ta trông cậy phó thác vào Ngài.
Ngày xưa, Đức Giêsu đã trách các môn đệ thiếu đức tin. Huống chi chúng ta, đức tin chúng ta cũng rất yếu kém.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (G 38,1.8-11)
Gióp là một người công chính nhưng phải gặp rất nhiều tai họa. Thân nhân ông trách móc Chúa và không tin vào Chúa nữa. Phần ông, ông không dám trách mà chỉ than thở và cầu xin Chúa cho ông một lời giải đáp về lý do những khổ sở ông đang chịu.
Trong trích đoạn này, Thiên Chúa đưa ra một lời giải đáp gián tiếp: Ngài là chủ tể của thiên nhiên. Chính Ngài điều hành sức mạnh của nước: Ngài tạo dựng ra nó, ấn định cho nó được chảy tới đâu, ngăn không cho nó tràn bờ...
Lời giải đáp hàm chứa trong Lời Chúa là: mọi sự lành hay sự dữ đều được Chúa cho phép mới xảy tới, con người phải biết phó thác vào sự sắp xếp của Ngài.
2. Đáp ca (Tv 106)
Tv này là một bài ca tụng uy quyền Thiên Chúa trên biển cả.
3. Tin Mừng (Mc 4,35-41)
Biển hồ Galilê thường có bão, nhất là vào buổi chiều. Chiều hôm ấy Đức Giêsu bảo các môn đệ dùng thuyền đi từ bờ bên này sang bờ bên kia. Xem ra Ngài cố ý để cho họ gặp bão.
Khi bão đến, Đức Giêsu lại bình thản dựa vào chiếc gối sau lái mà ngủ. Đây lại là một việc làm cố ý để thử xem các môn đệ phản ứng thế nào trong cơn bão.
Phản ứng của họ là "kinh hãi", lại còn trách Chúa "Chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm sao!"
Đức Giêsu đứng lên, và chỉ cần phán một lời, bão liên ngưng. Một bằng chứng rõ ràng Ngài là chủ tể của thiên nhiên.
Sau đó, Đức Giêsu vừa trách các môn đệ vừa kêu gọi họ hãy tin vào uy quyền của Ngài.
4. Bài đọc II (2 Cr 5,14-17)
Chúng ta có thể tóm tắt ý tưởng của Phaolô trong trích đoạn này là: Đức Giêsu Kitô là tất cả.
Sau đây là các chi tiết trong lập luận của thánh Phaolô:
Vì Đức Kitô đã chết thay cho chúng ta, nên đáp lại chúng ta phải sống cho Ngài chứ đừng sống cho mình nữa.
Chúng ta cũng chẳng cần biết ai khác ngoài một mình Đức Kitô.
Đức Kitô đã ban cho chúng ta một cuộc sống mới, vậy từ nay chúng ta phải bỏ hết những gì thuộc cuộc sống cũ để sống một cuộc sống hoàn toàn mới trong Đức Kitô.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Chúa tể thiên nhiên
Bài đọc thứ I của Thánh Lễ hôm nay trích từ sách Gióp, trong đó có một hình ảnh hơi lạ: Chúa đã đóng cửa và gài chốt để ngăn không cho nước chảy tràn lan khắp mặt đất. Đó là một lối diễn tả, dựa theo vũ trụ quan của thời kỳ quyền sách này được biên soạn, tức thế kỷ thứ V trước Công nguyên, nghĩa là cách đây đến 2.500 năm. Thời đó người ta nghĩ rằng trái đất như một cái đĩa nổi bồng bềnh trên mặt đại dương. Chung quanh trái đất và bên dưới trái đất toàn là nước. Phía trên trái đất là vòm trời như một cái chụp tròn úp xuống, và cũng chứa đầy nước. Tất cả lượng nước trên vòm trời và dưới biển ấy được chặn lại bằng những cánh cửa. Khi cửa trời mở ra thì nước mưa rơi xuống; khi cửa biển mở ra thì nước thuỷ triều dân lên; còn khi cả cửa trời và cửa biển đều đóng kín lại trong một thời gian lâu dài thì đó là hạn hán. Và người giữ quyền đóng hay mở các cửa đó chính là Thiên Chúa. Đây quả là một lối nhìn vũ trụ rất là đơn sơ và có phần ngây ngô nữa. Tuy nhiên chúng ta có thể thông cảm với tác giả, vì ông sống cách chúng ta đến 2.500 năm, làm sao ông có thể diễn tả chính xác như các nhà khoa học thế kỷ 21 này được. Chúng ta chỉ cần ghi nhận tư tưởng của ông, đó là: chính Thiên Chúa là Đấng làm chủ thiên nhiên, và điều khiển thiên nhiên vận hành để giúp có thể sinh sống.
Có một điều hay, là tư tưởng ấy được chính các nhà khoa học ngày nay xác nhận. Mặc dù không trực tiếp nói đến Chúa như là Chúa tể thiên nhiên, nhưng các nhà khoa học đã cho thấy thiên nhiên đã vận hành theo một trật tự xít xao, nhờ đó mà loài người mới có thể sinh sống được. Thí dụ như trật tự vận hành của trái đất, mặt trời và mặt trăng. Cả 3 đều di chuyển không ngừng, mỗi cái theo quỹ đạo riêng của nó. Nhưng khoảng cách của chúng thì hình như đã được tính toán và điều khiển thật xít xao: chỉ cần mặt trời và trái đất gần nhau hơn một chút nữa thì trái đất sẽ nóng khủng khiếp, do đó loài người sẽ chết cháy; ngược lại chỉ cần trái đất và mặt trời xa nhau thêm một khoảng nữa thì mặt đất, sẽ giá lạnh, loài người sẽ chết cóng. Còn khoảng cách giữa mặt trăng với trái đất cũng thế: xích gần hơn chút nữa thì thuỷ triều sẽ dâng phủ ngập mặt đất, loài người chết chìm; còn dang xa hơn một chút thì không còn thuỷ triều, mọi loài trên mặt đất sẽ chết khô.
Ngay cả một hiện tượng thiên nhiên mà người ta thường coi là tai hoạ, đó là giông bão, nhưng khoa học cũng xem là có lợi. Khi nào có giông bão? Thưa là khi một vùng quá nóng, không khí bốc lên cao tạo thành một khoảng trống. Không khí ở các vùng khác liền ùa về để lấp đầy khoảng trống đó. Dĩ nhiên, khi mà không khí di chuyển như thế với một tốc độ nhanh thì sẽ tạo ra những luồng gió mạnh, có thể làm gãy cây cối, sập nhà, và có người chết. Nhưng nếu nhìn hiện tượng ấy một cách bao quát thì sẽ thấy giông bão là có lợi, và cần thiết nữa, vì nhờ đó mà không khí trên mặt đất được điều hoà.
Rõ ràng thiên nhiên đã được điều khiển theo một trật tự diệu kỳ bởi một Đấng đầy quyền năng. Đấng quyền năng ấy là ai? Nhiều người chưa được biết, nhưng từ xưa tác giả sách Gióp đã biết và gọi đó là Thiên Chúa. Hôm nay Tin mừng lại nói cho chúng ta biết thêm một lần nữa. Chúng ta hãy nói đến cơn giông bão trên biển hồ Gênêzarét. Vị trí của Biển hồ này hơi đặc biệt: nó giống như một cái lòng chão dưới thấp, chung quanh được bao bọc bởi những rặng núi. Như đã nói ở trên giông bão là do không khí di chuyển đổi vùng với một tốc độ nhanh mạnh. Vậy thì cái Biển Hồ này, do địa thế đặc biệt của nó nên nó rất thường gặp giông bão. Bởi vì khi những luồng gió mạnh thổi qua, gió bị núi ngăn chặn nên không lướt ngay đến vùng khác được., nhưng chạy vòng vòng giữa các rặng núi tạo thành những cơn lốc xoáy, và thế là có bão trên mặt biển. Tuy nhiên những cơn bão này cũng chóng tan. Hôm ấy, Đức Giêsu và các tông đồ đang di chuyển bằng thuyền trên mặt Biển Hồ thì gặp giông bão. Đức Giêsu vì đã nắm rõ bản chất của những cơn bão loại đó nên an tâm cứ nằm ngủ. Còn các tông đồ thì hoảng sợ cuống cuồng. Các ông còn trách móc Chúa "Thưa Thầy, chúng con chết đến nơi rồi mà Thầy không quan tâm sao?" Đức Giêsu bình tĩnh đứng dậy ra lệnh cho gió và biển, lập tức bão yên, biển lặng. Sau đó Chúa trách lại các tông đồ "Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?" Qua sự kiện này, Đức Giêsu muốn chứng tỏ rằng Ngài chính là chúa tể của thiên nhiên, và mời gọi chúng ta hãy tin vào Ngài.
Thế nào là tin vào Chúa là chúa tể thiên nhiên?
- Trước hết là đừng kiêu căng: có một số người có chút ít kiến thức về khoa học, hay có được một vài công trình khoa học ứng dụng trên thiên nhiên, rồi tưởng mình đã là giỏi lắm, đã hoàn toàn điều khiển được thiên nhiên, và từ đó tự coi mình là chúa tể, phủ nhận cả Thiên Chúa. Thực ra khoa học không tạo ra thiên nhiên, khoa học cũng không sửa đổi được những quy luật điều khiển thiên nhiên. Tất cả những gì mà khoa học có thể làm được chỉ là nghiên cứu thiên nhiên có sẵn, tìm hiểu những quy luật có sẵn trong thiên nhiên, rồi ứng dụng để mưu lợi ích cho loài người. Thí dụ như khoa học làm ra được một chiếc tàu chạy trên mặt biển, thì cũng nhờ dựa vào những quy luật thiên nhiên có sẵn, như luật về sức đẩy Archimède khiến cho thân tàu có thể nổi trên mặt nước, luật về sức đẩy của gió được ứng dụng để thổi những cánh buồm v.v. Có gì là ghê gớm lắm đâu? có gì mà đã lên mặt coi mình giỏi hơn cả Thiên Chúa? Có gì mà kiêu căng?
- Thứ hai là đừng mê tín dị đoan: nếu như người kiêu căng là người quá tự phụ vì những hiểu biết khoa học của mình đến nỗi phủ nhận vai trò của Chúa, thì người mê tín dị đoan là người vì không có những kiến thức cơ bản của khoa học và của giáo lý nên không đủ tin vào Chúa mà lại tin những điều nhảm nhí. Ngày xưa vì ngu dốt nên người ta nhìn đâu đâu cũng cho là có thần: như thần sấm sét, thần gió, thần lửa, thuỷ thần, hà bá... Còn ngày nay cũng có người coi các thứ bệnh tật như là do tà ma, do quỷ ám, do bị thư, bị bùa, bị ngãi... Thực ra bệnh tật là gì? Theo giáo lý, đó là thân phận tự nhiên của loài người kể từ sau tội nguyên tổ. Còn theo khoa học, bệnh là do cô thể suy yếu mà ra. Có bệnh thì phải chữa trị bằng vệ sinh, bằng y dược, chứ không phải chỉ cầu xin, khấn vái hay uống bùa uống ngãi mà hết được, vừa không hết bệnh, lại vừa phạm tội thiếu lòng tin vào Chúa.
- Điều thứ ba để tỏ lòng tin vào Chúa là Chúa tể thiên nhiên là an tâm vui sống dưới ánh mắt Chúa Quan phòng: Chúa đã tạo dựng muôn loài, Chúa còn tiếp tục chăm sóc cho muôn loài, trong đó đương nhiên và hơn hết là loài người chúng ta. Đức Giêsu đã phán "không một sợi tóc nào trên đầu chúng con rụng xuống mà không do ý của Chúa". Vì thế cho dù sự đời có lúc suy, cuộc đời có lúc thăng lúc trầm, nhưng nếu ta biết mọi sự đều năm trong tay Chúa quan phòng thì chúng ta hãy an tâm phó thác đời mình cho Chúa, không có gì phải sợ hãi quá "Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?"
* 2. Quyền năng Thiên Chúa và phát minh khoa học.
Trong vài thế kỷ gần đây, loài người đã có nhiều phát minh khoa học rất to lớn:
Cuối thế kỷ 19, Lilienthal làm ra chiếc máy bay có 2 cánh rộng để lượn theo chiều gió. Sau đó Ader đã cải tiến cho chiếc máy bay chạy bằng động cơ.
Cũng trong thế kỷ 19 đó, Thomas Edison đã phát minh ra bóng đèn điện. Phát minh đó đã khiến cho người ta mừng rỡ và nhiều người đã coi ông như là Thần Ánh Sáng.
Đến thế kỷ 20, người ta đã bước lên cung trăng và còn đang tiếp tục đi đến các hành tinh khác.
Cách đây vài năm, người ta đã biết phương pháp "nhân bản" sinh vật (cloning), nghĩa là lấy một tế bào của một sinh vật rồi làm cho thụ tinh để sinh ra một hoặc nhiều sinh vật giống y sinh vật gốc.
Và hiện nay người ta đang giải mã bộ gien của người và các sinh vật. Kết quả này sẽ giúp trị được rất nhiều chứng bệnh nan y.
Những thành công to lớn ấy của khoa học đã khiến cho một số người nghĩ rằng loài người có thể làm được mọi sự, không cần đến Thiên Chúa nữa... Có kẻ còn cho rằng chẳng có Thiên Chúa nữa. Có đúng như vậy không?
- Xét kỹ những phát minh khoa học chúng ta sẽ nhận ra rằng loài người thực ra chẳng làm gì hơn là khám phá ra những quy luật có sẵn trong thiên nhiên và áp dụng những quy luật ấy để phục vụ cho đời sống. Chẳng hạn như những phát minh mà chúng ta vừa nói ở trên:
Chiếc máy bay: đây không phải là sáng kiến mới mẻ gì, mà chỉ là bắt chước khả năng của loài chim thôi.
Còn về dòng điện: cũng không phải là do con người sáng tạo ra. Điện đã có sẵn trong thiên nhiên từ khi mới có vũ trụ. Đến cuối thế kỷ 18, Benjamin Franklin mới khám phá ra nó có trong sấm sét. Về sau người ta mới đưa điện vào sử dụng trong nhiều việc.
Và việc người ta tạo ta những bào thai trong ống nghiệm cũng không phải là vượt quyền Chúa sáng tạo nên một con người. Người ta vẫn phải dùng đến những tế bào nam nữ có sẵn và cho kết hợp trong ống nghiệm thay vì kết hợp trong bụng mẹ thế thôi.
Tóm lại, Khoa học chỉ là bắt chước thiên nhiên, làm lại những gì mà thiên nhiên đã từng làm từ ngàn triệu năm trước. Do đó, nếu ai biết nhìn xa cho tới Đấng đã sáng tạo nên thiên nhiên thì người đó càng đi sâu vào khoa học chừng nào thì càng ngưỡng mộ Thiên Chúa bấy nhiêu. Chỉ có những kẻ thiển cận mới tưởng những khám phá ấy là do chính mình sáng tạo và phủ nhận quyền năng của Thiên Chúa. Chúng ta thấy có 2 thái độ nơi những nhà khoa học: một là thái độ khiêm tốn của một nhà thiên văn kia, ông nói "Tôi đã nhìn ra Thiên Chúa qua ống kính viễn vọng của tôi"; và một nhà du hành vũ trụ khác thì ngạo mạn tuyên bố "Tôi đã bay lên tận trời, nhìn khắp nơi mà chẳng thấy có Thiên Chúa đâu cả". Hai thái độ khác nhau ấy xuất phát từ hai lối nhìn khác nhau: một nhìn xa và một nhìn gần; xuất phát từ hai tâm trạng khác nhau: một là khiêm tốn, hai là kiêu căng.
- Bài Tin mừng hôm nay giúp chúng ta xác định rõ ai là chủ thực sự của thiên nhiên: chỉ có Chúa mới là chủ thiên nhiên đích thực và đúng nghĩa. Con người chẳng làm gì hơn là khám phá những bí mật của thiên nhiên. Nếu có nói con người là chủ thiên nhiên thì chỉ là theo nghĩa con người được Thiên Chúa ban quyền quản lý thiên nhiên và ban cho những khả năng để khám phá những bí mật trong thiên nhiên ấy. Con người biết suy nghĩ chín chắn và khiêm nhường không thể nào phủ nhận vai trò của Thiên Chúa được. Con người chỉ khám phá những gì có sẵn thôi. Chừng nào con người không cần dùng tới những gì có sẵn ấy, chỉ nói một lời mà có được mọi sự (như Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay chỉ phán một lời thì gió liền yên, biển liền lặng) thì khi đó con người mới có quyền tuyên bố mình là chủ thực sự của thiên nhiên.
Chúng ta phải nhìn nhận rằng khoa học kỹ thuật ngày nay đang tiến những bước thật xa thật nhanh đến nỗi có thể khiến chúng ta say sưa khâm phục. Sự say sưa khâm phục ấy có thể giúp con người suy nghĩ xa hơn, tìm đến chính Đấng là tác giả của những việc kỳ diệu ấy trong thiên nhiên. Nhưng cũng sự say sưa khâm phục ấy có thể làm choáng mắt con người khiến con người chỉ thấy tài năng của mình mà ngạo mạn phủ nhận vai trò của Thiên Chúa.
- Cầu mong cho việc học hỏi tìm tòi không làm chúng ta xa Chúa nhưng khiến chúng ta càng tới gần Chúa hơn. Cầu mong cho việc học hỏi tìm tòi của chúng ta không biến chúng ta thành những kẻ kiêu căng, nhưng giúp các bạn càng khiêm nhường hơn, như lời của một danh nhân nọ "Càng học thì thấy mình càng dốt".
* 3. Cha em là người cầm lái.
Trong một cuộc hải trình vượt Đại Tây Dương, khách du lịch đang thư thái ngắm cảnh hoàng hôn trên boong tàu.
Nơi tít mù xa, mặt trời đỏ cam đang chiếu những ánh vàng cuối cùng của một ngày còn sót lại.
Bỗng mây đen ùn ùn kéo tới, tối sầm cả một vùng trời. Sấm chớp đổ xuống liên hồi, giông tố cuồn cuộn nổi lên, càng lúc càng thét gào dữ dội.
Mọi người trên boong chen lấn nhau chạy về phòng mình. Duy chỉ có một bé trai cứ tiếp tục chạy giỡn trên boong giữa trận cuồng phong.
Được hỏi tại sao em không sợ hãi trước cơn giông tố?
Em thản nhiên đáp lại:
- Vì cha em là người cầm lái con tàu!
***
Giống như khách du lịch trong câu chuyện trên, các môn đệ cũng gặp một trận cuồng phong khi vượt biển. Các ngài kinh hoàng vì thấy mình sắp bị nuốt chững. Bó tay bất lực trước phong ba bão táp, các ngài đã vội đánh thức Đức Giêsu và xin Người ra tay cứu giúp: "Thưa Thầy, chúng con chết mất, Thầy không quan tâm sao" (Mc. 4,38). Người liền đe gió và phán với biển như một người bị quỉ ám: "Hãy im đi". Tức thì sóng yên biển lặng.
Ai cũng thích sóng yên biển lặng, xuôi chèo mát mái. Nhưng cuộc đời nào mà chẳng có những cơn giông? Đại dương nào mà không có những bão tố?
Tuy nhiên, chính giông tố mới giúp chúng ta nhận ra chính mình: mình còn yếu đuối và bất lực, còn nhát đảm và kém tin.
Cũng chính giông tố sẽ đưa ta đến với Chúa, để ta hoàn toàn phó thác cho sự quan phòng của Người. Cũng chính giông tố sẽ giúp ta biểu lộ đức tin. Có thể nói, đức tin sẽ lớn lên ít nhiều sau mỗi lần giông tố.
Thánh Phaolô viết: "Thiên Chúa không ban cho ta một thần khí nhát sợ nhưng mạnh mẽ, bác ái và tự chủ" (2Tm.1,7),
Mỗi người chúng ta không khác chi chiếc thuyền nan chông chênh giữa cơn lốc cuộc đời, khó khăn nối tiếp khó khăn. Giống như cậu bé đã tin tưởng ở cha mình cầm lái con tàu, mỗi người chúng ta cũng hãy vững tin ở Thiên Chúa tình yêu. Người sẽ hướng dẫn cuộc đời của mỗi chúng ta. Có Chúa trong đời, những cô đơn như bị xóa nhòa, những khó khăn dường như nhỏ lại, những yếu đuối như được mạnh sức. Chúng ta không cầu xin cho cuộc đời mình như biển lặng, nhưng xin cho cõi lòng chúng ta được tĩnh lặng ngay giữa lúc biển động.
Thánh Phanxicô Salêsiô dạy: "Phải ở lại trong con thuyền mà Thiên Chúa đã đặt chúng ta vào, để hành trình từ cõi đời này về chốn đời sau. Chúng ta phải sẵn sàng ở lại trong sự bình an thanh thản".
***
Lạy Chúa, thuyền đời chúng con chẳng bao giờ được êm ả, nó chỉ êm ả khi tới bến thiên đường. Xin cho lòng chúng con luôn bình an ngay cả khi Chúa còn đang ngủ, miễn là có Chúa trong thuyền, vì Chúa chính là thuyền trưởng của đời chúng con. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 4. Vượt tầm kiểm soát
Chiều hôm ấy, Đức Giêsu và các môn đệ đi thuyền vượt biển. Một cơn bão nổi lên. Ban đầu, các môn đệ còn chèo chống và giữ được con thuyền vẫn còn đứng vững trước phong ba bão táp. Đó là tình trạng còn trong tầm kiểm soát. Khi mọi sự còn trong tầm kiểm soát nghĩa là chúng còn nằm trong khả năng xoay sở của ta. Khi đó ta rất dễ nghĩ rằng mình có đức tin. Lèo lái con thuyền đời mình cũng thế. Khi ta còn kiểm soát được những sự việc xảy ra cho đời mình thì ta cảm thấy hạnh phúc. Ta xác định những mục tiêu, ta hoạch định chương trình, ta làm chủ tình thế. Những khi đó, ta không thực sự cảm thấy cần đến Chúa.
Nhưng giông tố ngày càng lớn. Các môn đệ dù đã làm hết sức mình nhưng vẫn không giữ được con thuyền, nó sắp chìm. Các ông chợt nhận ra rằng tình thế đã vượt tầm kiểm soát của họ. Trong đời chúng ta cũng có những lúc tương tự như thế. Đó là khi ta gặp một hoàn cảnh quá khó khăn, hay khi ta bệnh nặng, ta sắp chết. Những khi đó ta thấy mình như không còn sức lực, ta hoang mang, sợ hãi. Chính những khi đó ta mới biết đức tin của mình còn quá yếu kém, thậm chí không có đức tin thực sự. Ta nghĩ rằng không có Chúa hoặc Chúa đã bỏ ta. Trong bài Tin Mừng này, các môn đệ cũng cảm thấy như thế. Họ chạy đến tìm Đức Giêsu nhưng họ thấy Ngài đang ngủ. Họ còn trách Ngài nữa.
Giữa phong ba bão táp, Đức Giêsu vẫn ngủ. Đó là dấu chỉ một đức tin vững mạnh vào Thiên Chúa. Ngược hẳn với đức tin yếu kém của các môn đệ. Khi họ kêu cầu Ngài, Ngài thức dậy, và chỉ một lời thôi, Ngài dẹp yên bão táp.
Con thuyền trong bão táp, đó là hình ảnh cuộc đời chúng ta. Nên nhớ là trong thuyền có Đức Giêsu. Mặc dù Ngài ngủ nhưng Ngài không ở xa và không bỏ chúng ta một mình. Ngài ngủ để thử đức tin của chúng ta đó thôi, để chúng ta biết được đức tin của mình đã vững mạnh hay vẫn còn yếu kém. Chỉ cần chúng ta nhớ đến Ngài, kêu xin Ngài thì Ngài sẵn sàng thức dậy và dẹp yên bão táp đang đe dọa chúng ta.
5. Chuyện minh họa
a/ Câu chuyện của cây vả
Một cây vả kia đã đứng vững suốt mùa đông trước bao cơn gió mạnh. Nhưng đến đầu mùa hè, khi gặp một cơn gió trung bình thôi, nó đã ngã sập xuống. Nhiều người lấy làm lạ.
Thực ra cũng chẳng có gì lạ lắm: Trong mùa đông, cũng như hầu hết các cây khác, cây vả này bị rụng trụi lá. Gió đông có thổi đến thì cũng lọt qua các cành trơ trụi khẳng khiu của nó và bay đi. Bởi thế bao nhiều cơn gió mùa đông cũng không làm cho nó nhúc nhích. Nhưng đông tàn, xuân tới, cây vả bắt đầu đâm chồi nẩy lộc. Đến mùa hè thì cành lá đã xum xuê. Khi gió thổi đến, lá cây cản lại làm sức tấn công của gió càng mạnh hơn. Chính vì thế mà cây vả không còn đứng vững được nữa.
Câu chuyện này giúp ta hiểu thế nào là "giông tố mùa đông" và "giông tố mùa hè". "Giông tố mùa hè" gây hại nhiều hơn "giông tố mùa đông". "Mùa hè" nói đây là lúc cuộc đời ta đang đầy đủ, thoải mái, sung sướng.
b/ Loại máy bay đầu tiên
Ngày kia, tôi đang ngồi trong phòng, một con ruồi vo ve bay vào. Nó bay dập dờn và vù xuống ăn những thức ăn thừa....Nó làm bất cứ điều gì nó thích và bất cứ khi nào nó muốn.
Một con ruồi chỉ là một sinh vật. Nó hơn hẳn chiếc máy bay.... Nó cất cánh mà không cần chạy như máy bay. Nó đáp xuống ngay tức khắc. Nó không bao giờ rơi và không bao giờ đâm vào bất cứ vật gì hoặc gặp một tai nạn nào. Phi hành đoàn của nó không phải học cách lái hoặc kiểm tra. Nó không có những động cơ trục trặc hay hết nhiên liệu. Và hơn thế nữa: nó có thể sản xuất ra những chiếc máy bay tương tự mà chỉ cần một chút sức lực.
Thật khó có thể kiếm được một thiết bị điện tử hoặc động cơ nào sánh với tất cả những gì một con ruồi có thể làm.
Nó chỉ là một trong nhiều sinh vật của Chúa.....và cho ta thấy rằng có ai đó đã tạo ra nó.
c/ Điều huyền bí.
Một thanh niên đi du lịch tới một thành phố lớn. Đến một nhà thờ, cậu ngả mũ cung kính cúi chào. Thấy điều này, một hành khách vẻ trí thức bên cạnh cậu nhận định:
- Ồ, tôi biết bạn có đạo. Bạn học gì ở đó?
- Tôi học những điều huyền nhiệm của tôn giáo.
- Huyền nhiệm? Bạn không biết rằng chúng ta chẳng bao giờ tin những gì chúng ta không hiểu? Ít ra đó là nguyên tắc của tôi.
- Vậy anh hãy nói cho tôi biết tại sao ngón tay anh cử động khi anh ngoáy nó?"
- Nó cử động vì sự sống trong tôi làm nó cử động.
- Nhưng tại sao nó cử động?
- Vì tôi muốn thế.
- Tại sao tai của anh không cụp lại khi anh muốn?
Lúc đó cuộc đối thoại chấm dứt.
6. Tin vào quyền năng Thiên Chúa
Một sinh viên y khoa người Tây Ban Nha đi viếng trung tâm hành hương kính Đức Mẹ tại Lộ Đức. Ở đại học Madrid, người sinh viên này đã từng nghe các giáo sư vô tín ngưỡng nói về Lộ Đức như xuất xứ của những thứ mê tín dị đoan vẫn còn được loan truyền đi nhiều nơi. Ba tháng ở Lộ Đức, anh muốn theo dõi việc làm của văn phòng xác minh các phép lạ xảy ra tại trung tâm này.
Vậy thời gian ba tháng ở Lộ Đức, người sinh viên này đã được chứng kiến ba phép lạ. Cả ba trường hợp đều có các bác sĩ vô thần theo dõi để xác minh tính đích thực của phép lạ.
hãy nghe người sinh viên này chia sẻ điều mắt thấy tai nghe về một trong ba phép lạ đó.
Tại Lộ Đức
"Hôm đó tôi đang ở tiền đường vương cung thánh đường Lộ Đức cùng với các chị của tôi hiện có đó chỉ mấy phút trước khi Kiệu Mình Thánh Chúa đi qua. Khi ấy một người đàn bà tuổi trung tuần đang đẩy chiếc xe lăn qua trước mắt chúng tôi. Một người chị tôi lưu ý chứng tôi khi nói "Kìa hãy coi cậu con trai đáng thương trên chiếc xe lăn!" Đó là một chàng trai chừng 20 tuổi bị bệnh bại liệt làm biến dạng. Mẹ của chàng khi ấy lần chuỗi to tiếng, lúc lúc lại thở dài thưa với Đức Mẹ "Lạy Đức Nữ Đồng Trinh, xin giúp đỡ chúng con!" Quả là một cảnh tượng cảm động gợi nhớ lại bệnh nhân xưa đã thưa với Đức Giêsu: "Lạy Chúa, xin cho con được sạch khỏi bệnh phong." Người đàn bà đẩy xe lăn không muốn chậm trễ nhưng đã tới ngay chỗ những người đang chờ Đức Giám Mục rước Mình Thánh đi ngang qua.
Đã đến lúc Đức Giám Mục sắp ban phép lành Mình Thánh cho chàng thanh niên bại liệt. Khi ấy chàng thanh niên nhìn thẳng mặt nhật đựng Mình Thánh Chúa. Đó xem ra là cách anh biểu lộ niềm tin của anh. Thế rồi khi Đức Giám Mục ban phép lành với dấu thánh giá bao quát, cậu thanh niên bại liệt liền chỗi dậy, ra khỏi xe lăn, hoàn toàn khỏi bại liệt! Dân chúng liền hô to trong niềm vui: "Đó là một phép lạ! Đó là một phép lạ!"
Nhờ có giấy phép đặc biệt, tôi được chứng kiến những xác minh tiếp theo để thấy quả thật, Chúa đã chữa lành người thanh niên. Tôi không thể nào diễn tả hết được những điều tôi cảm nhận và tâm trạng tôi lúc đó. Tôi đến từ trường Y Khoa Đại Học Madrid, nơi có nhiều giáo sư vô tín (và nhiều vị nổi tiếng). Nhiều sinh viên bạn học tôi luôn nhạo báng các phép lạ. Và giờ đây, tôi được thấy tận mắt một phép lạ. Đây là một phép lạ do Đức Giêsu Thánh Thể thực hiện, cũng Đức Giêsu xưa đã từng chữa lành bao người bại liệt và bệnh nhân khác. Tôi nghiệm được một niềm vui lớn lao. Tôi có ấn tượng tôi được ở ngay bên cạnh Chúa. Khi ấy tôi cảm nhận sức mạnh vô song của Chúa và cảm thấy thế giới bao quanh tôi bỗng trở nên cực kỳ nhỏ bé. Tôi đã trở về Madrid, Tây Ban Nha. Những chồng sách, những bài học, những cuộc thí nghiệm tôi đã từng thực hiện với bao là hứng khởi nay không còn là sức nặng lôi kéo tôi nữa. Các bạn tôi hỏi tôi: "Điều gì đã xảy ra cho cậu trong niên học này vậy? Điều gì khiến cậu sững sờ?" Quả thật tôi bị sững sờ do kỷ niệm khiến tôi bị khuynh đảo mỗi ngày. Duy hình ảnh Mình Thánh Chúa được giơ lên để ban phép lành khiến cậu thanh niên bại liệt kia nhảy vọt ra khỏi chiếc xe lăn, hình ảnh ấy in sâu vào ký ức và vào trái tim tôi. Ba tháng sau đó tôi nhập Tập Viện Dòng Tên. Đó là ngày 15 tháng 1, 1927."
Tại Nhật Bản
Chàng sinh viên ấy tên là Pedro Arrupe. Suốt đời chàng sẽ không bao giờ quên được phép lạ Chúa làm trước mắt anh. Được củng cố mạnh mẽ do phép lạ như dấu chỉ về quyền năng vô cùng của Thiên Chúa, anh sẽ không bao giờ lùi bước trên đường dấn thân phục vụ Người:
+ Bị trục xuất khỏi quê hương Tây Ban Nha ngày 13 tháng 02, 1932 cùng với tất cả các tu sĩ Dòng Tên.
+ Nhận thừa tác vụ Linh Mục ngày 30 tháng 7, 1936 tại Hà Lan.
+ Được phái đi truyền giáo tại Nhật Bản ngày 15 tháng 10, 1938
+ Phục vụ nạn nhân bom nguyên tử giáng trên Hiroshima ngày 6 tháng 8, 1945.
+ Được bầu làm Tổng Quyền thứ 29 Dòng Tên ngày 22 tháng 5, 1965 sau nhiều năm làm giám đốc Tập Sinh và làm giám tỉnh Dòng Tên ở Nhật.
Quả thật phép lạ xưa cũng như nay chỉ có ý nghĩa khi là dấu chỉ về Nước của Thiên Chúa như lời Đức Giêsu tuyên bố với người Pharisêu: "Nếu tôi dựa vào Thần Khí của Thiên Chúa mà trừ quỷ thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông" (Mt 12,28). Ai nhận ra dấu lạ Chúa làm cũng được thúc đẩy dấn thân hết mình để phục vụ Nước Thiên Chúa.
Câu chuyện phép lạ chàng thanh niên bại liệt được chữa lành tại Lộ Đức khiến chàng sinh viên Pedro Arrupe được hoán cải như thế nào trên con đường phục vụ Nước Chúa. Cuộc hoán cải ấy không thấm vào đâu so với cuộc hoán cải của Simon Phêrô và các bạn một khi nhận biết quyền năng của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Phục Sinh. Họ đã hy sinh cả mạng sống mình để phục vụ Nước Thiên Chúa. Họ đã thực sự trở nên giềng cột của Hội Thánh Chúa nhờ tin vào quyền năng của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu. (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Trong niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa là chủ tể thiên nhiên, chúng ta hãy dâng lên Ngài những lời cầu xin của chúng ta:
1. Hội Thánh có sứ mạng rao giảng cho mọi người nhận biết Thiên Chúa là chủ tể của thiên nhiên. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho nhân loại đón nhận lời rao giảng của Hội Thánh.
2. Khoa học kỹ thuật ngày nay rất tiến bộ, phát minh ra nhiều điều kỳ diệu. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những phát minh đó không làm cho loài người kiêu căng chối bỏ Chúa, trái lại giúp loài người càng nhận biết và khâm phục Chúa hơn.
3. Mặc dù y học đã tiến bộ rất nhiều, nhưng cũng đành phải bó tay trước cái chết, nghĩa là không thể làm cho con người thành bất tử được. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những người mang những chứng bệnh ngặt nghèo và nhất là những người hấp hối, để họ biết bình an phó thác mạng sống của mình trong tay Chúa.
4. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta thực sự là một cộng đoàn đức tin, một cộng đoàn phượng tự, nghĩa là luôn tin tưởng vào Chúa và thờ phượng Chúa như chủ tể mọi loài.
CT: Lạy Đức Giêsu, ngày xưa Chúa đã trách các môn đệ rằng "Sao các con sợ hãy thế? Các con không có đức tin ư?". Ngày nay cũng vì thiếu đức tin mà chúng con phải sợ hãi nhiều điều. Xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng con, để trong mọi hoàn cảnh chúng con biết hoàn toàn cậy dựa vào Chúa và phó thác trong tay Chúa. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.
VI. Trong Thánh lễ
Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta có một người Cha "ở trên trời", nghĩa là một người Cha uy quyền, làm chủ mọi loài mọi vật. Chúng ta hãy tin tưởng cầu nguyện với Ngài.
Chúc bình an: Chúng ta hãy chúc cho nhau được bình an, bình an vì biết mình đang sống trong vòng tay yêu thương của Chúa.
VII. Giải tán
Cuộc sống ví như một cuộc đi thuyền giữa biển cả cuộc đời nhiều phong ba bão táp. Nhưng có Chúa trên thuyền thì mọi sự đều bình an. Chúng ta hãy trở lại cuộc sống với tâm tình trông cậy phó thác tất cả trong tay Chúa. Chúc anh chị em luôn bình an.
16. Lời kêu xin.
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay cho chúng ta thấy các tông đồ đang ở vào một tình thế tuyệt vọng. Lời van xin của họ dường như bị sóng biển vùi lấp:
- Lạy Thầy, xin cứu chúng con.
Chúa Giêsu rất có thể lên tiếng trách cứ các ông:
- Bộ các con không hiểu rằng bao lâu Thầy còn ở với các con, thì không một tai ương hoạn nạn nào có thể xảy ra.
Thế nhưng lời van xin ấy lại rất bình thường và gần gũi với bản tính của chúng ta. Lời van xin xuất phát từ trái tim của một tạo vật nhỏ bé, như muốn xác quyết rằng: Vấn đề thật vô phương cứu chữa, chỉ mình Chúa mới có thể giúp đỡ.
Thế nhưng ngày hôm nay, liệu chúng ta có còn tìm thấy những lời van xin đầy tin tưởng và hy vọng như thế hay không? Nếu chúng ta hỏi những người lính chiến rằng: Vào những lúc nguy hiểm có bao giờ các bạn đã nghĩ tới Chúa và xin Ngài giúp đỡ hay không. Hầu như tất cả đều trả lời rằng không.
Nếu chúng ta hỏi những người lái xe rằng khi xảy ra tai nạn có bao giờ các bạn nghĩ tới đời sau và xin Chúa phù trợ hay không. Hầu như tất cả đều trả lời rằng không.
Chiếc tàu Dora với một ngàn bảy trăm hành khách, chẳng may gặp nạn và chìm dần xuống biển, người ta đã ghi nhận được một cảnh tượng thật trái ngược trong thời điểm hoảng hốt đó. Các cô thì lo giữ lấy đôi giày của mình. Các bà thì lo giữ lấy những bộ áo của mình. Các ông thì lo giữ lấy ví tiền của mình. Chỉ có một em bé năm tuổi là đã quỳ gối cầu nguyện.
Ngay cả bản thân chúng ta cũng thế. Mỗi khi gặp phải tai ương hoạn nạn, chúng ta vùng vẫy, chúng ta kêu gào, chúng ta làm mọi cách để thoát khỏi tai ương hoạn nạn ấy, nhưng lại không biết mở miệng kêu xin:
- Lạy Chúa, xin Chúa cứu giúp con kẻo con chết mất. Chỉ mình Chúa mới có thể bảo đảm cho con được an toàn.
Chúng ta cũng giống như dân ngoại. Chẳng tìm thấy hướng đi cũng như ánh sáng cho cuộc đời chúng ta. Ngày xưa mỗi khi mất mùa đói kém giặc giã xảy ra, người ta kêu cầu Chúa:
- Lạy Chúa xin giúp đỡ con.
Người ta tổ chức những cuộc rước kiệu, những cuộc hành hương để kêu cầu Chúa. Còn chúng ta ngày hôm nay thì sao?
Ngày hôm nay, người ta có rất nhiều phương tiện, chẳng hạn như thuốc trụ sinh, công ty bảo bảo hiểm, và người ta cảm thấy không còn cần đến sự trợ giúp của Chúa nữa. Và tệ hơn nữa, người ta muốn trục xuất Thiên Chúa ra khỏi những sinh hoạt cá nhân và xã hội. Người ta muốn thay trời vắt đất làm mưa. Người ta sống như không còn sự hiện diện của Ngài nữa.
Từ những điều vừa trình bày chúng ta đi tới kết luận: Bao lâu Chúa Giêsu còn ở trong chúng ta thì không một tai nạn nào có thể xảy ra. Tuy nhiên con người thời nay lại không hiểu là như thế. Do đó, vấn đề cần phải đặt ra cho mỗi người, đó là Chúa Giêsu có thực ở trong thuyền đời chúng ta hay không. Tôi đã phản ứng và hành động như thế nào trong những hoàn cảnh đen tối. Tôi có biết hướng tới Chúa và xin Ngài giúp đỡ hay không? Đó là những câu hỏi mà mỗi người chúng ta phải tự tìm lấy lời giải đáp.
17. Tin cậy Thiên Chúa toàn năng
MINH HỌA LỜI CHÚA
1. Bám sát vào Chúa
Blondin là một tay xiếc nổi danh. Ông đi nhiều lần trên sợi dây căng qua thác Niagara độ cao khoảng 500 thước, tay đẩy chiếc xe cút kít.
Ngày nọ ông mời ai dám ngồi trên xe đó, để ông đẩy qua sợi dây căng. Nhiều người muốn nhưng không ai dám, vì sợ té xuống thác nước là chết. Sau cùng có người chấp nhận. Ông liền cho anh ngồi trên xe và đẩy đi. Trong khi đó nhiều người đánh cá với nhau. Thấy ông ta đi được nửa đường cách dễ dàng, người đánh cá nhiều tiền sợ bị thua nên lén cắt đức một sợi trong số các dây căng. Tức thì dây căng rung chuyển dữ dội. Ông Blondin biết nguy hiểm sắp đến, nên bảo người trong xe:
- Hãy đứng dậy và bám sát vào tôi.
Nhưng người đó quá sợ hãi, không dám làm theo lời ông. Ông liền ra lệnh:
- Hãy đưa hai tay ôm cổ tôi, hai chân kẹp vào hông tôi, bằng không, chúng ta sẽ ngã xuống thác nước mà chết.
Người đó liền bám chặt vào ông. Và ông đã đưa anh ta qua bờ bên kia an toàn…
***
Câu chuyện trên minh họa Lời Chúa trong Tin mừng hôm nay tuyệt vời. Lúc các tông đồ trên thuyền sang biển hồ, thấy sóng to gió lớn thì sợ chết, kêu cầu Chúa, Chúa phán một lời biển yên gió lặng.
Tin cậy vào quyền năng Chúa là bám sát vào Chúa mỗi khi gặp gian nan thử thách. Tin cậy vào quyền năng Chúa là biết kêu cầu Chúa cứu giúp mỗi lần gặp sóng to gió lớn, để Người dẫn dắt chúng ta qua bờ bên kia.
Nói “tin cậy vào quyền năng Chúa” rất dễ, ai nói cũng được. Nhưng có mấy ai không nhát đảm sợ sệt khi để cho Người đưa qua biển cả sóng to gió lớn của cuộc sống như người để cho ông Blondin dẫn đi trên sợi dây căng qua thác Niagara. Chúa Giêsu đã trách các môn đệ: “Sao nhát thế? Làm sao mà anh em chưa có lòng tin?” Các môn đệ hoảng sợ vì “chưa có lòng tin”, còn chúng ta thì sao?... (Theo “Chuyện hay ý đẹp”).
2. Cha tôi là người cầm lái
Người ta tổ chức cuộc du lịch xuyên qua Đại tây Dương.
Trong lúc tàu chạy yên hàn, mọi người ra bong tàu khoan khoái nhìn ngắm cảnh hoàng hôn tươi thắm. Bỗng sóng to gió lớn nổi lên làm cho chiếc tàu nghiêng ngửa dữ dội. Mọi người hoảng sợ chạy vào phòng, duy chỉ còn một cậu trai vẫn tiếp tục ở lại xem cảnh. Thấy vậy, nhiều người lo sợ nguy hiểm cho em, nên gọi em vào phòng trú ẩn, nhưng em không vào. Được hỏi tại sao em không sợ hãi trước cơn giông tố hãi hùng như thế. Em thản nhiên trả lời:
- Vì cha tôi là người cầm lái con tàu.
***
Như khách du lịch sợ hãi trên tàu khi phong ba bão táp, trong Tin mừng hôm nay chúng ta cũng thấy các tông đồ khiếp đảm sợ chết trong trận cuồng phong khi vượt biển hồ. Cùng ở trong thảm cảnh đó, cậu trai thản nhiên không sợ, vì “cha em là người cầm lái con tàu, còn các Tông đồ khiếp vía, đang khi có Chúa Giêsu ở bên các ông. Thế nên Chúa quở các ông: “Chưa có lòng tin” là đáng.
“Ai cũng thích sóng biển yên lặng, xuôi chèo mát mái. Nhưng cuộc đời nào mà chẳng có những cơn giông tố? Đại dương nào mà chẳng có những cơn sóng to? Chính giông tố mới giúp chúng ta nhận biết bất lực yếu đuối, nhát đảm kém tin của chúng ta. Chính bão tố mới đưa chúng ta đến với Chúa, tin tưởng phó thác vào quyền năng cao cả của Người. Và chính nhờ bão tố của cuộc đời, mà lòng tin cậy của chúng ta sẽ lớn lên, sẽ vững vàng, sẽ kiên cố…” (Theo “Như Thầy đã yêu”).
3. Tin nhưng không dám theo
Nhà làm xiếc thời danh Blondin đã băng qua thác nước Niagara trên dây căng nhiều lần mà không cần dùng lưới an toàn.
Ngày nọ, đông đảo dân chúng đến xem cuộc thử nghiệm nguy hiểm nhất của ông. Ông tuyên bố vừa đi trên dây căng vừa đẩy chiếc xe cút kít chở một bao xi măng nặng trên sợi dây căng đó, để đi từ bờ vực này sang bờ vực bên kia thác nước.
Lúc ông bắt đầu đi như thế, mọi người nín thở theo dõi nhưng ông cứ bình tĩnh đẩy xe đi, bất chấp tiếng gầm thét của thác nước dưới chân ông. Khi ông sang đến bờ bên kia, mọi người đều thở phào và reo vang:
-Thật là một kỳ công!...
Ông Blondin mới hỏi một phóng viên gần đó:
-Anh có tin rằng: thay vì chở một bao xi măng, tôi có thể chở một người trên xe cút kít này, đi sang bờ bên kia thác nước mà không cần giăng lưới an toàn không?
-Tôi tin! Tôi tin chớ.
Ông Blondin liền nói:
-Vậy tôi xin mời anh ngồi vào.
Anh phóng viên xanh mặt, vội vàng biến mất trong đám đông.
***
Tin Thiên Chúa quyền năng là một việc, nhưng sống đức tin ấy lại là việc khác. Có người nói tin Thiên Chúa toàn năng nhưng không đi theo Chúa, mà theo ma quỷ xác thịt thế gian, theo của cải danh vọng, lạc thú ở đời.
Thánh Phaolô khuyên bảo chúng ta: Anh em hãy mặc lấy tâm tình của Đức Kitô, hết lòng tin kính Thiên Chúa là Đấng toàn năng, để anh em đứng vững trong mọi nghịch cảnh và thử thách, để Người cứu giúp anh em mỗi khi gian nan khốn khó, để Người đưa tay hùng mạnh của Người nắm lấy anh em, khi anh em gặp sóng to gió lớn trong cuộc đời.
Phải chăng thánh Phaolô mời gọi chúng ta noi gương các tông đồ trong Tin mừng hôm nay? Các ông thấy “trận cuồng phong nổi lên sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước gần chìm”. Các ông kêu lên Chúa Giêsu: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi” Người ngâm đe gió và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi!”. Gió liền tắt và biển lặng như tờ” (Mc.4,38-39) (Theo “Chuyện hay ý đẹp”).
4. Người này là ai?
John Newton là thuyền trưởng chiếc tàu buôn nô lệ từ Phi châu đến Mỹ châu. Cậu không bao giờ nghĩ đến việc buôn bán nô lệ là đúng hay sai, là tốt hay xấu; cậu chỉ làm việc để kiếm tiền, để xài phí cho thỏa thích thôi.
Một đêm nọ, cơn bão dữ dội xuất hiện trên mặt biển. Sóng dâng cao như thác núi xô đẩy và quay vòng chiếc tàu của cậu. Cậu và mọi người trong tàu đều kinh khiếp! Lúc đó cậu lại buột miệng cầu xin. Điều mà cậu chưa bao giờ làm. Cậu kêu to: “Lạy Chúa, xin thương cứu vớt chúng con. Con nguyện sẽ mãi làm nô lệ cho Ngài”.
Chúa đã nhận lời cậu cầu xin. Khi được vào bờ, cậu đã giữ lời hứa: bỏ nghề buôn bán nô lệ, và sau đó cậu đi tu, trở thành nhà truyền giáo và soạn thánh ca trứ danh.
***
Câu chuyện trên đây có nhiều điểm tương tự với diễn biến bài Tin mừng hôm nay.
Như Newton, các tông đồ cũng gặp bão tố dữ dội. Các ngài đã kêu cầu Chúa và Chúa cũng đã cứu giúp; và như Newton, các ngài cũng biến đổi: từ những kẻ “chưa có lòng tin” trở thành những người hoàn toàn tin tưởng phó thác vào quyền năng vô cùng của Chúa; “Các ông hoảng sợ và nói với nhau: Vậy người này là ai? Mà cả đến gió và biển cũng phải tuân lệnh?” (Mc.4,41).
“Người này là ai?” Đây là câu hỏi quan trong. Và câu trả lời nằm ngay trong bài đọc thứ nhất, khi ông Gióp đau khổ kêu xin Chúa cứu giúp. Đặc biệt câu trả lời ở trong bài Tin mừng hôm nay, khi Chúa Giêsu thực thi quyền năng của Người trên sóng gió: “Im đi! Câm đi! Gió liền tắt, và biển lặng như tờ”.
Như thế, câu chuyện bão biển trong Tin mừng đã trả lời cho chúng ta câu hỏi: “Ông này là ai?” “Là Con Thiên Chúa toàn năng. Tin cậy phó thác vào Người sẽ được Người giải thoát khỏi mọi sự dữ phần hồn phần xác”. (Theo “Sunday Homilies”).
18. Muốn có đức tin mạnh - Cần phải thử thách
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Tin Mừng Lc 1: 57-66.80: Người tài là người được lớn lên trong thử thách. Người có đức là người biết vượt qua thử thách, trung thành và can đảm trong lòng mến.
Có một câu chuyện kể rằng: đêm nọ, có một người thấy giấc mơ lạ. Anh ta thấy mình đang đi trên bãi biển với Chúa. Những lúc vui, thành công, anh thấy có hai đôi chân in trên cát, một của Chúa và một của anh. Nhưng lúc anh gặp khó khăn, đau buồn thì khi nhìn lại, anh chỉ còn thấy một đôi chân!
Anh trách Chúa rằng: “Tại sao những lúc khó khăn, thất bại, Chúa lại bỏ con?” Chúa trả lời: “Ta không bỏ con đâu, vì những lúc đó, Ta đã cõng con trên vai, vì thế, con chỉ còn thấy có một đôi chân của Ta nữa mà thôi”.
Hôm nay, thánh sử Máccô thuật lại câu chuyện Đức Giêsu và các môn đệ gặp phải sóng gió trên biển hồ. Ngay trong lúc gặp sóng gió, Đức Giêsu vẫn ngủ yên, còn các môn đệ thì vất vả vì chèo trống. Sứ điệp Tin Mừng chỉ bắt đầu có ý nghĩa lớn khi các ông trách Thầy của mình vô cảm trước sự vất vả của các ông, và, ngược lại, Đức Giêsu quở trách các ông kém lòng tin và ra lệnh dẹp yên bão tố, ban lại sự bình an cho mọi người trên thuyền.
1. Địa lý của Biển Hồ Galilê và nỗi hoang mang sợ hãi của các môn đệ
Để thấy được nỗi sợ hãi của các môn đệ và quyền năng của Đức Giêsu, chúng ta cùng nhau tìm hiểu đôi nét về Biển Hồ này để thấy được đâu là nguyên nhân dẫn đến trận cuồng phong dữ dội như vậy.
Khi nói đến biển hồ, chắc có lẽ nhiều người trong chúng ta nghĩ ngay đến độ rộng lớn, mênh mông, nhìn không thấy bờ…. Tuy nhiên, với Biển Hồ Galilê lại hoàn toàn khác! Khác ở chỗ Biển Hồ này chỉ vỏn vẹn 21km chiều dài và 13km chiều rộng. Địa thế nằm ở thung lũng vùng Giodan do một vết nứt sâu trên mặt đất, có thể do núi lửa tạo nên! Biển Hồ Galilê là một phần của vết nứt đó.
Nó thấp hơn mặt biển 210 mét, vì thế, khí hậu rất ấm áp và dễ chịu, nhưng cũng tạo nên tiền đề cho những nguy hiểm bất ngờ ập đến. Lý do: bên phía tây có núi non cao hiểm trở kết hợp với thung lũng và nhiều khe suối. Vì thế, khi có gió nổi lên, thì khu vực trũng của Biển Hồ này giống như cái phễu lớn thu hút những làn gió từ trên cao và nơi các khe suối thổi về. Gió bị dồn nén trong đó và thổi mạnh xuống hồ cách bất thình lình như vũ bão, khiến mặt hồ đang phẳng lặng, bỗng chốc trở nên hung thần, dữ tợn và có thể vùi lấp mọi thứ trên mặt hồ.
Khi các môn đệ và Đức Giêsu có một chuyến vận hành trên Biển Hồ Galilê sau một ngày làm việc mệt nhọc để sang bờ bên kia thì cũng là lúc trận cuồng phong ập tới. Các môn đệ của Đức Giêsu là những nhà ngư phủ chuyên nghiệp và hẳn các ông có rất nhiều kinh nghiệm trong việc chống chọi với những bất trắc xảy ra trên biển, thế nhưng, trận cuồng phong hôm nay vừa bất thình lình vừa vượt quá khả năng của các ông, nên họ rất hốt hoảng, lo sợ và kêu la ầm ĩ: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?” (Mc 4, 38). Câu nói này chứng tỏ cho thấy sự nguy hiểm đã lên tới tột độ và vượt sức cũng như kinh nghiệm của các ông. Ngay sau đó, sự nguy hiểm của Biển Hồ và nỗi lo sợ của các ông đã động đến lòng trắc ẩn của Đức Giêsu, vì thế, Ngài đã truyền lệnh dẹp yên bão tố qua lời nói: “Im đi! Câm đi! " ‘Gió liền tắt, và biển lặng như tờ’” (Mc 4, 39), khiến các ông không khỏi ngỡ ngàng là bảo nhau: “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?" (Mc 4, 41).
2. Có Chúa, chúng ta sẽ sang “bờ bên kia” cách an toàn
Từ câu chuyện Tin Mừng trên, liên tưởng đến đời sống đức tin của chúng ta:
Trong cuộc sống đời thường, người ta thường nói: tư cách thật của một con người chỉ được bộc lộ thật khi gặp gian nan. Lúc bình thường thì ai cũng như ai, khó thấy được tư cách ấy.
Đức tin của mỗi người cũng thế. Muốn biết ai vững vàng trong đức tin phải đợi tới lúc đức tin đó chịu thử thách. Điều này cho thấy, “lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Chỉ khi gặp khó khăn, bất trắc, lúc ấy mới có thể lượng định được phẩm chất của đức tin.
Khó khăn, trở ngại là một thứ “kiểm tra chất lượng”. Có kiểm tra thì mới thấy cái gì tốt, cái gì xấu, cái gì thật, cái gì giả.
Một mẫu số chung cho nhiều người, đó là: đức tin phải được rèn luyện, gọt giũa để đứng vững trước mọi thử thách, giông tố của cuộc đời. Khi có được nền tảng này, lúc gặp thử thách, chúng ta sẽ can đảm, trung thành, vững vàng hơn. Sẵn sàng đối phó với chúng và cậy trông vào Chúa Quan Phòng. Lúc đó, chúng ta sẽ coi những thử thách ập đến là điều kiện cần thiết để thanh lọc những thứ không phù hợp với giá trị Tin Mừng, nó giống như: “Bão tố quật ngã cây cối, bẻ gẫy cành khô, cành sâu. Nhưng không thể nhổ được cây thánh giá đã cắm vào lòng đất. Đừng tiếc những cành kia, dù không gió cũng gẫy, không gẫy cũng phải chặt vì nó làm hại” (ĐHV. số 691), có thế, mới có những cành cây khác trưởng thành hơn khi chúng đủ sức mạnh đâm trồi nảy lộc.
Từ những nguyên lý trên, chúng ta liên tưởng đến đời sống hôn nhân của người Công Giáo. Lúc mới cưới, ai dám nói là mình không chung thủy! Lúc du ngoạn tuần trăng mật, ai dám bảo mình không vui và hạnh phúc! Chỉ khi nào ốm đau, bệnh tật, thất bại trong công việc, thiếu sự chung thủy, lúc đó mới thực sự có vấn đề! Hay trong đời sống đạo đức cũng thế: lúc xin gì được đấy, hay xin một được mười, đâu cần ai phải nhắc đi lễ, đọc kinh hay chia sẻ bác ái! Chỉ khi xin hoài không được, làm ăn thất bát, lúc đó có đẩy cũng không đi. Hoặc trong đời tu cũng thế: mới khấn, mới chịu chức, sức khỏe dồi dào, chúng ta giống như những vị thánh. Tuy nhiên, lâu ngày, giá trị và ý nghĩa đời dâng hiến bị nhạt phai, sự hiểu lầm, cô đơn, đau bệnh, việc phụng vụ nhàm chán, lúc ấy mới thực sự thấy con người thật của chúng ta. Những trạng thái này, một lần nữa sách Đường Hy Vọng có viết: “Đường con đi, có hoa thơm, cảnh đẹp, có chông gai, có hùm beo, có bạn hiền, có trộm cướp, lúc mưa sa, lúc nắng cháy, chuyện không thể tránh được. Con cứ đi, miễn lòng con đầy Chúa, đi như Phanxicô, như Cyrillô, Athanasiô... đừng mất thì giờ đứng lại, đừng sợ tiếng chửi, đừng ăn mày tiếng khen” (ĐHV. số 693).
Nếu không bền chí cũng như đức tin mạnh thì không phải là người tài đức song toàn. Người tài là người được lớn lên trong thử thách. Người có đức là người biết vượt qua thử thách, trung thành và can đảm trong lòng mến.
Giuđa và Gioan chỉ khác nhau ở lòng mến mà thôi. Trong tâm hồn chúng ta cũng vẫn còn đó hai hình ảnh và hai lối sống lẫn lộn: Gioan và Giuđa. Bao lâu chúng ta còn yêu mến, sẵn sàng hy sinh, kiên trung, bền chí, và hy vọng, ấy là dấu chỉ ta theo Gioan để đi trọn con đường tình yêu dưới chân thập giá. Còn giờ phút nào chúng ta nhát đảm, sợ sệt, ham tiền, ham danh, ấy là lúc chúng ta đã chọn Giuđa làm quan thầy và thắp hương tôn thờ vị "quan thầy phản bội".
Cần xác tín rằng: Chúa vẫn còn đó. Ngài không bỏ chúng ta. Ngài sẽ lên tiếng, can thiệp, làm sóng gió im lặng, trả lại cho chúng ta niềm hy vọng, qua đó, ta và Ngài, cả hai cùng “sang bờ bên kia” được trọn vẹn trong bình an.
Lạy Chúa Giêsu, con thuyền của cuộc đời chúng con luôn gặp phải những sóng to vũ bão của tội lỗi, hưởng thụ, trụy lạc và những chân lý nửa vời, khiến đôi khi cuộc đời chúng con bị nước ập đầy thuyền làm cho đức tin bị lung lay và tưởng mình đơn côi giữa dòng đời. Xin Chúa ban cho chúng con đức tin mạnh mẽ và xác tín chắc chắn rằng: Chúa luôn còn đó trên con thuyền cuộc đời của mỗi người, để chúng con vững tin bám chặt lấy Chúa. Amen.
19. Tình cha
(Suy niệm của Huệ Minh)
Phương tiện di chuyển cơ bản của con người có thể là đường bộ, đường sông, đường biển... hay đường hàng không.
Với những phương tiện đó, phải chăng phương tiện đường sông, đường biển có thể nói là làm cho con người có"cảm giác" nhất bởi lẽ nếu bình thường, thời tiết không có gì quan ngại thì không sao nhưng nếu có bất trắc con người sẽ rất sợ hãi. Ai đã một lần ngồi trên chiếc thuyền chòng chành giữa trời dông bão sẽ có cảm nghiệm hơn ai hết.
Với những người đi biển, họ được trang bị kiến thức hay có những khả năng hay kỹ năng để đi trên nước. Có thể có gió, có thể có sóng đó nhưng họ không sợ bằng những người không có kinh nghiệm cũng như không có khả năng với sóng dữ.
Những người dân Việt tị nạn vì lý do nào đó bằng đường biển chắc có kinh nghiệm hơn ai hết. Chính người dì ruột của tôi khi kể lại tình sử vượt biên của bà làm cho nhiều người kinh ngạc. Khi đặt chân lên bờ, dì chỉ còn đúng 1 bộ đồ dính người chứ không hơn không kém. Dì kể lại hành trình vượt biển với biết bao nhiêu sóng gió trên hành trình. Chuyế đi của dì lần đó chỉ còn một số ít người thoát khỏi cơn sóng dữ để đến bến bờ bình an.
Kinh nghiệm đó, hôm nay ta bắt gặp nơi các môn đệ trên chính chiếc thuyền của các ông. Kinh nghiệm nhiều, thuyền của mình để rồi cứ tưởng là "chắc ăn như bắp" như kiểu nhiều người nói nhưng rồi bỗng nhiên có một cơn bão lớn và những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi sắp đầy nước.
Bi đát ở chỗ là cái "anh chàng" đi ké lại dựa gối ở đàng lái mà ngủ! Mê ngủ đến độ sóng gió đó không làm chàng ta thức giấc. Các môn đệ hoảng quá nên đành đánh thức anh ta: "Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?"
Giật mình chỗi dậy và Chúa Giêsu đe gió và phán với biển rằng: "Hãy im đi, hãy lặng đi".
Trước lời phán đó, gió ngừng biển lặng như tờ. Sau đó, Chúa mới nói với các ông: "Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?"
Đùa vui! Bớt giỡn đi chứ! Sóng to biển dữ như thế mà bảo là sợ hãi thế! Thầy vừa phải thôi chứ! Chẳng lẽ chúng con lại vất Thầy xuống thuyền như ông Noe ngày xưa trong Cựu Ước.
Giận lắm nhưng cơn kinh hãi vẫn còn chưa tan trong các ông và các ông thầm thì với nhau: "Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?"
Thật ra mà nói, kinh nghiệm về những trận cuồng phong như thế trong hành trình người Kitô hữu không phải là hiếm. Những cơn sóng xô của cuộc đời cứ mãi giật trên con đường về quê, trên con đường lữ thứ trần gian của thân phận làm người.
Một anh bạn tri kỷ, khi ngồi lại với nhau, anh không ngần ngại kể lại cuộc đời tưởng chừng như không còn gì để mất của anh nữa nhất là với biến cố cụt 2 chân sau tai nạn nhớ đời. Mẹ góa, con côi với cái nách mang 4 đứa con trong mình và đặc biệt đứa con trai lớn nhất nhà đã làm cho mẹ con mất phương hướng.
Anh kể lại có những lúc anh muốn buông xuôi vì với cái thân phận tật nguyền của anh chỉ có nước đi ăn xin hay cùng lắm cạp đất mà ăn chứ làm nên cái trò trống gì. Thế nhưng, Thiên Chúa đã ra tay để cứu gia đình anh, bản thân anh thoát khỏi những cơn sóng dữ của cuộc đời.
Trong sâu lắng, anh cảm nhận được tình yêu bao la mà Thiên Chúa trao ban cho anh, cho cuộc đời anh, cho gia đình anh.
Ngay như bây giờ cũng vậy! Cuộc sống tưởng chừng yên dù anh muốn yên nhưng vẫn còn đó thử thách của hành trình làm người, là người và nhất là hành trình đức tin. Có những lúc chán nản vì sóng dữ, dường như muốn buông xuôi nhưng rồi anh lại thấy Chúa Giêsu bên đời đang ở cạnh anh để nâng đỡ anh.
Khi đối diện với những sóng xô của cuộc đời như cơn sóng lớn ngày hôm đó. Chúa Giêsu chỉ giản đơn trách các môn đệ kém lòng tin!
Một lần nữa, Chúa lại mời gọi niềm tin của mỗi người chúng ta vào quyền năng của Chúa.
Cũng trong tình thân, anh nói rằng anh cũng như các em có được như ngày hôm nay đó là nhờ anh và các em thụ hưởng gia tài cao quý của mẹ, của cha anh để lại, đặc biệt nơi người cha dù đã khuất mấy chục năm trời. Cha anh ra đi không để lại tài sản gì to lớn cả, chỉ để lại lòng đạo đức và sự hiền lành. Chính đời sống hiền lành và đạo đức cũng như niềm tin vào Chúa mà gia đình anh được như ngày hôm nay.
Ngày hôm nay Chúa nhật thứ 3 trong tháng 6, Chúa nhật mà người ta đặc biệt kính nhớ đến người cha thân yêu của mỗi người.
Tôi với anh cùng may mắn như nhau, cùng được thừa hưởng một người cha hiền lành, khiêm nhường và đạo đức.
Tôi thầm nghĩ, để đối diện với tất cả những cơn sóng dữ của cuộc đời, không có cách nào khác là đặt niềm tin vào Thiên Chúa là Cha nhân lành trên cuộc đời ta. Khi ta đặt cuộc đời của ta trong tay Chúa thì dù cho phong ba bão táp đi chăng nữa, ta vẫn không sợ gì vì có Chúa kề bên.
Trang Tin Mừng ngày hôm nay có phần am hợp với ngày mừng người Cha. Thiên Chúa là người cha luôn luôn yêu thương che chở chúng ta trên mọi nẻo đường đời. Chuyện quan trọng là ta có tin tưởng, tín thác cuộc đời của ta trong tay Chúa hay không mà thôi.
20. Chất vấn
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Hai từ “chất vấn” xem ra ít gây thiện cảm hơn là các từ “hỏi” hay là “đặt vấn đề”. Dù là đặt vấn đề hay đặt câu hỏi hay chất vấn thì mục đích nhắm đều là để được sáng tỏ một vấn đề nào đó mà người chất vấn chưa nắm rõ hay chưa đồng thuận. Dĩ nhiên ở các xã hội độc tài, chuyên chế thì ít có ai dám to gan chất vấn người cầm quyền, vì sợ mang vạ vào thân. Lại có những thể chế muốn chứng tỏ rằng có sự dân chủ nên “cho phép” người ta chất vấn nhưng thực chất vẫn không muốn người bị trị có quyền chất vấn.
Nhân dịp mẹ Hội Thánh dọn cho đoàn tín hữu bài đọc thứ nhất và bài Tin Mừng trong Chúa Nhật XII TN B, xin đặt câu hỏi làchúng ta có được phép chất vấn Thiên Chúa không? Một trận cuồng phong trên biển cả xem ra là chuyện thường tình của giới tự nhiên. Thế nhưng, khi gió lớn, sóng to ập vào thuyền của tôi, thì đó không còn là chuyện bình thường. Những tai ương, hoạn nạn, dịch bệnh do thiên tai hay do nhân họa vẫn mãi là những sự dữ đối với những người trực tiếp hay gián tiếp gánh chịu. Chúng ta có quyền hỏi Thiên Chúa không hay chúng ta có nên đặt vấn đề không, nhất là những vấn đề liên quan đến sự dữ?
Trước vấn nạn sự dữ thì dường như không chỉ khó hiểu mà còn khó chấp nhận. Người làm sự lành mà phải gánh sự dữ thì vẫn có đó trước mắt chúng ta, không riêng gì mình ông Gióp thuở nào. Về vấn đề này, sách Gióp và Cựu ước nói chung, thường có câu trả lời rằng như chiếc bình sànhkhông thể và không có quyền chất vấn người thợ gốm, thì con người trong kiếp thụ tạo hữu hạn không có quyền chất vấn Thiên Chúa, Đấng dựng nên vũ trụ vạn vật, dựng nên con người từ hư vô. Ông Gióp cuối cùng đã biết phận để rồi “lấy tay che miệng” (x.G 40,4) và “xin rút lại những gì đã nói” (x.G 42,6).
Tân ước lại cho chúng ta một cái nhìn có vẻ như ngược lại nhưng thực ra là bổ túc, là hoàn thiện cái nhìn của Cựu ước. Đến thế gian, Chúa Kitô không ngại ngần trước các vấn nạn người ta đặt ra. Người còn gợi ý để cho các môn đệ chất vấn bằng việc đặt câu hỏi trước. “Người ta bảo Con Người là ai?... Còn các con, các con bảo thầy là ai? (Mt 16,13). Cáctông đồ, các môn đệ đã không ngại ngần “chất vấn” Thầy chí Thánh. “Thầy ơi, chúng ta chết mất, Thầy chẳng lo gì sao?” (Mc 4, 38). Chúa ơi, Chúa ở đâu khi con đang trong cảnh khốn cùng? Con biết Chúa không vui thích gì khi con người phải khổ, phải chết, thế mà sao cái khổ, cái chết vẫn mãi đe dọa chúng con? Saocon làm người trong cái hình hài này, ở một thời đại, một hoàn cảnh không chút gì thuận lợi? Tại sao những người độc tài, độc quyền, độc ác cứ mãi nhởn nhơ trong nhung lụa? Nhiều câu hỏi tại sao thỉnh thoảng lại đến mà như không có lời giải đáp, đúng hơn là khó làm thỏa lòng thỏa trí chúng ta.
Điểm tới của những lời chất vấn là lòng tin. “Anh em vẫn chưa có lòng tin sao?” Dù như khiển trách, nhưng Chúa Giêsu đãbiết các môn đệ vốn có lòng tin vào Người nhưng lòng tin ấy đang còn non yếu. Không tin vào Thầy thì cớ sao các ngài lại đánh thức Thầy dậy để xin cứu giúp. Đức tin không phải là một thực tại đã hoàn thành mà là một quá trình dấn thân. Niềm tin của Kitô hữu là tiến trình bước theo Đức Kitô. Tiến trình ấy không luôn trơn tru, thẳng tắp, kiểu thuận buồm xuôi gió. Có khi chững lại vì gặp vật cản, có khi chệch hướng, thậm chí có lúc bị giật lùi. Những câu hỏi, những lời chất vấn xuất hiện là một trong những động lực hay là cách thế để ta vượt qua vật cản, chỉnh hướng và tiến lên. Như thế, các câu hỏi hay những lời chất vấn trở thành một phương thế củng cố niềm tin, thanh luyện đức tin.
Ðức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI thời làm HồngY đã từng khẳng định: “Chúng ta đã học biết, đã sống, và đáng khác chúng ta đã thấy đức tin được xây dựng hết sức hoàn hảo và được hệ thống hoá quá đáng, tới độ người ta không còn dễ dàng đến được với đức tin nữa. Vậy tôi nghĩ rằng chúngta cần một thứ cách mạng đức tin, theo một nghĩa phức hợp. Trước hết chúng tacần đến một cuộc cách mạng này để có được lòng can đảm nói ngược lại với những xác tín tổng quát” (Muối cho đời – trang 42). Khi trên ngai giáo hoàng, mở đầu cho tập sách “Đức Giêsu thành Nagiarét”, ngài cũng thẳng thắn và sẵn sàng đón nhậnnhững ý kiến “chống lại” những “tìm hiểu” của ngài về “diện mạo của Chúa”(x. Phần I - trang 31).
Chúa Kitô không ngần ngại trước những lời chất vấn của người Do Thái và các câu hỏi của các môn đệ, vì nhờ chúng mà căn tính và sứ mạng của Người ngày càng được tỏ bày, và qua đó đức tin của nhiềungười được hình thành và vững mạnh. Quả thật, chẳng có ai dám to gan cho rằng mình đã nắm trọn chân lý hay đã vững vàng trong đức tin. Thế mà đã có lúc chúng lại ngại ngần và có khi lại sợ người đồng đạo, sợ người “ngoại đạo” chất vấn niềm tin của chúng ta. Cần thú nhận rằng chính chúng ta cũng rất ngại ngùng chất vấn niềm tin của mình, đúng hơn là đặt vấn đề về một vài nội hàm của đức tin vì sợ rằng sẽ có nguy cơ lạc đạo hay bị gán ghép là rối đạo. Trong tình bạn thì các câu hỏi hay những lời chất vấn là chuyện thường tình như lẽ đương nhiên. Chúng chỉ là bất thường trong mối quan hệ chủ tớ. Chúa Kitô đã khẳng định Người không muốn chúng ta làm người tôi tớ mà là bạn hữu (x. Ga 15,15).
Chúa Kitô mãi là dấu hỏi cho con người đến tận cùng lịch sử. Hiện nay, chúng ta chỉ thấy lờ mờ như trong gương, sau này chúng ta sẽ thấy Người như chính Người là. Ngưòi thế nào, chúng ta sẽ thấy như vậy (x.1Cor 13,12). Chính vì thế, vị trí, vai trò của những câu hỏi luôn còn đó. Và một trong những vai trò chính yếu của chúng là dẫn chúng ta đến với niềm tin. Mỗi khi chúng ta không còn biết đặt vấn đề thì rất có thể là chúng ta đang ở trong tình trạng “cuồng tín” hay là vô tín. Khi chúng ta ngần ngại tha nhân đặt vấn đề hay chúng ta thấy khó chịu khi tha nhân, khi người dưới quyền chất vấn chúng ta thì có lẽ chính chúng ta đang có vấn đề. Một trong những vấn đề thật khó chối cãi, đó là chúng ta chưa thực sự tin vào sự ngay chính của bản thân hay của công việc mình đang thực hiện. Và một điều khá chắc chắn nữa, đó là người ta cũng chưa tin vào chúng ta. Mong sao những lời sau đây của ngài Hồng Y J.Ratzinger mà nay là Đức Bênêđictô XVI có điều kiện thành hiện thực: “Chúng ta phải có can đảm đứng lên chống lại cái được coi như chuẩn mực cho conngười vào cuối thế kỷ XX này, và tái khám phá đức tin nguyên tuyền” (Muối cho đời – trang 43).
21. Ai có thể trở nên một người như thế?
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tng’ – Charles E. Miller)
Chiếc tàu Titanic được chào hàng như một chiếc tàu không bao giờ chìm. Và sau đó là đụng một tảng băng ngay trong cuộc hành trình đầu tiên của nó, chiếc Titanic đã chìm xuống đáy của Đại Tây Dương với hầu hết những người đi trên con thuyền đó trong vài phút. Đại dương quyền năng hơn bất cứ một con tàu nào, đã nuốt trọn con tàu Titanic giống như nó đã nuốt một hộp cá mòi vậy.
Đó là một mầu nhiệm sâu xa về biển cả, và đó không có gì là ngạc nhiên về quyền năng của nước được xem là một thuộc tính của thần linh. Trong sách Gióp chính Thiên Chúa đã làm chứng về quyền năng thần linh của Ngài, bằng việc biểu dương quyền năng của Ngài là chủ tể của nước sâu. Những tông đồ là những người đánh cá, hơn ai hết họ không cần ai nói cho họ biết về việc phải sợ hãi cái vẻ bề ngoài đáng sợ của biển Galilê. Thình lình, tai họa có thể xảy ra một cách bất thường. Biển thì ở 685 bộ bên dưới mực nước biển và bao quanh bởi những ngọn núi. Với một làn không khí lạnh thổi xuống từ những ngọn núi hầu như nhanh chóng biến đổi làn nước đại dương thành những con sóng nguy hiểm cao đến bảy hoặc tám bộ.
Thật chính xác những gì đã xảy ra vào buổi chiều hôm đó, khi Chúa Giêsu vào thuyền của các môn đệ ở trên biển Galilê. Đó giống như một ngày của sáng tạo, những yếu tố tự nhiên đang chờ đợi khoảnh khắc khi mà Chúa là chủ tể của chúng xác quyết quyền năng và tỏ hiện sự thần linh của Ngài. Sau khi Chúa Giêsu làm cho biển bình yên bởi những lời của Ngài, các tông đồ đã kinh ngạc hỏi nhau rằng: “Người này là ai mà làm cho gió biển phải vâng lời?”
Gió và biển đã biết Chúa Giêsu là ai và cả chúng ta cũng như thế. Chúng ta có thể trả lời cho câu hỏi của các tông đồ. Nếu chúng ta không có đức tin, chúng ta xem Người một cách giới hạn bởi xét đoán của con người nhưng bởi đức tin mà chúng ta nhận biết rằng Chúa Giêsu là Chúa, là Đấng Cứu Độ. Vì Chúa là Đấng cứu độ của chúng ta, Ngài ước ao giải thoát chúng ta khỏi những tai họa của đời sống trên biển. Sự sợ hãi những căn bệnh như ung thư hoặc Siđa, lo lắng về tận cùng của tương lai một cách bất an, những lo lắng về con cái trong một xã hội say sưa và hỗn tạp, sự không vững chắc hay gãy đổ của đời sống hôn nhân, sự khủng hoảng hay sự cô độc, bị bỏ rơi, sự khủng khiếp mà viễn cảnh của sự chết có thể phát sinh.
Trong lời tuyên xưng Thánh Thể chúng ta đã kêu lên: “Bởi thánh giá và sự Phục Sinh của Ngài, Ngài đã giải thoát chúng ta”. Sau kinh Lạy Cha chúng ta cầu nguyện: “Lạy Chúa xin giải thoát chúng con khỏi mọi sự dữ và ban cho chúng con bình an trong ngày hôm nay, bởi lòng thương xót Chúa sẽ giữ gìn chúng con khỏi tội lỗi và bảo vệ chúng con khỏi mọi lo âu”. Lời nguyện này muốn nói lên lời diễn tả đức tin của chúng ta nhưng cấp độ bình an và quang đãng của chúng ta không tùy thuộc và sự diễn tả đức tin của chúng ta nhưng ở chiều sâu của nó. Đức tin của chúng ta phải sâu như biển cả vậy.
Khi chiếc Titanic chìm xuống, số người bị lâm nạn đã tăng lên gấp bội bởi vì thuyền đã không trang bị đủ những thuyền cứu sinh. Chúng ta còn được hơn thuyền cứu sinh cứu nữa. Chính Chúa Giêsu đã cứu chúng ta khi chúng ta bị chìm trong biển cám dỗ sâu nhất của cuộc đời. Chúng ta có con người của Chúa Giêsu Kitô, luôn luôn hiện diện với chúng ta trong Giáo Hội và hướng về Người, chúng ta có thể cầu nguyện một cách tin tưởng. Trong cơn bão trên biển hồ, các tông đồ đã phàn nàn: “Lạy Thầy chúng con sắp chết mà Thầy không quan tâm đến sao?” Với đức tin chúng ta biết rằng, không có vấn đề gì với Chúa Giêsu. Vấn đề là sự cứu độ của chúng ta không đến từ những lời nói, tuy nhiên ở nơi. Lời quyền năng của Ngài: “Hãy yên lặng, hãy im đi”. Sự cứu độ của chúng ta đến từ hy tế nơi thánh giá. Đức tin của chúng ta là: “Lạy Chúa bởi thánh giá của Người, và sự Phục Sinh của Người xin giải thoát chúng con, Người là Đấng cứu độ chúng con”.
22. Suy niệm của Achille Degeest.
NỖI KINH HOÀNG CỦA CON NGƯỜI
VÀ SỰ YÊN TĨNH CỦA THIÊN CHÚA
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Giai thoại bão táp yên lặng là một cơ hội tốt cho những ai ngã theo khuynh hướng “giải huyền thoại” trong phúc âm (khuynh hướng này ngày nay đã giảm). Để giản lược biến cố vào một sự kiện tự nhiên, họ chỉ cần tưởng tượng và rồi sau khi đã chiều theo sức ép của trí tưởng tượng, quả quyết rằng bão táp tự nó ngưng lại, vừa lúc Đức Giêsu ra lệnh cho biển; và như thế là do tình cờ. Có một loại não trạng tự gọi là khoa học, chủ trương ngay từ đầu chối bỏ mọi can thiệp của Thiên Chúa trong vũ trụ và giải thích một số sự kiện bằng một định kiến như thế thật dễ dàng. Trong trường hợp này chúng ta có thể bám vào lời này: Ở khởi điểm của truyền thống Phúc Âm, có thật là biến cố, nhưng liền được giải thích trong môi trường của Giáo Hội sơ khai, dựa trên một não trạng Kinh Thánh và một niềm tin vào sự Sống Lại” (X.L. Dufour, Etudes d’Evangile, Paris, 1965).
Ưu tư của Giáo Hội sơ khai là minh chứng: Đức Giêsu có cùng một quyền năng trên tạo vật như Thiên Chúa (não trạng Kinh Thánh) và dẫn đưa người tín hữu đến một niềm tin nơi Đức Giêsu Phục Sinh, một niềm tin trọn vẹn, truyền giáo (Hãy sang bên kia bờ) và có khả năng đương đầu với mọi nghịch cảnh.
Giải quyết xong điều trên, câu chuyện bão táp yên lặng gợi cho chúng ta một vài suy nghĩ rất đơn sơ:
1) ‘Thưa Thày, chúng con chết mất mà Thày không quan tâm đến sao?’
Lời trách móc này cho thấy rõ sự mâu thuẫn giữa nỗi kinh hoàng của các môn đệ và sự yên tĩnh của vị Thày. Một bên sóng gió nguy hiểm, một bên Đức Giêsu vẫn ngủ. Biển hồ Giê-nê-sa-rét, như các biển hồ được núi đồi bao phủ khác, thường có những cơn bão táp đột ngột và dễ sợ. Con thuyền bị sa vào một trong các cơn bão táp như thế. Chúng ta hiểu Đức Giêsu sau một ngày trọn rao giảng mệt nhọc, đã ngủ thiếp đi. Các môn đệ không hiểu được sóng gió mạnh mẽ như thế, lại tràn ngập vào thuyền mà không làm cho Ngài tỉnh dậy. Họ không mường tượng được rằng: chỉ duy có sự hiện diện của Đức Giêsu với họ, đã là một sự bảo đảm an toàn vững chắc.
Họ có lỗi vì đánh thức thày dậy không? Chắc là không. Đó chỉ là phản ứng bình thường của con người hoảng hốt, sự yếu hèn của họ (nhưng họ chưa có niềm tin sau Phục Sinh) ở chỗ họ không đặt sự an toàn của mình nơi con người Đức Giêsu. Chúng ta cũng gặp phải những giây phút thử thách nghiêm trọng. Chúng ta không có lỗi khi kêu đến Thiên Chúa, khi đánh thức Người dậy. Chúng ta không thể chế ngự một số âu lo tự nhiên. Ít là chúng ta nên nhớ Đức Giêsu đang ở với chúng ta để giữ vững niềm tin của chúng ta.
2) Hình ảnh con thuyền gợi lên con thuyền Giáo Hội, theo như ngôn từ của các thánh phụ.
Trong thời đại của chúng ta, cũng như trong mọi thời đại, Giáo Hội tựa con thuyền bị lay động và cản trở mạnh mẽ do các lầm lạc, bách hại, thao túng của thế gian. Một vài lầm lỗi hình như xâm chiếm cả Giáo Hội. Những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi thuyền đầy nước. Điều này có lẽ tạo nên nỗi lo âu lớn nhất cho nhiều người ưu tú trong nhóm môn đệ Đức Kitô. Hãy nhớ rằng chỉ một lời của Chúa vào lúc ngài muốn, có khả năng cứu thoát tất cả. Ngài nói: “Im đi….”, tức thì gió ngừng biển lặng như tờ. Điều quan trọng là hãy giữ niềm tin cho sống động và mạnh mẽ. ‘Các con không có đức tin ư?’.
23. Đức tin trưởng thành.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
John Newton là con trai một đại uý hải quân người Anh. Khi John lên 10 tuổi, mẹ cậu qua đời. Từ đó cậu bé thường theo bố đi biển. Nhờ vậy mà cậu rành rẽ đường lối ngoài biển khơi. Tuy nhiên vào năm cậu 17 tuổi, cậu bé bất mãn với bố. Cậu bỏ thuyền ra đi lao vào cuộc đời gió bụi. Cuối cùng cậu nhận được việc làm trên chiếc tàu hàng buôn nô lệ từ Phi Châu đến Mỹ Châu. Cậu thăng quan tiến chức rất lẹ và chẳng bao lâu đã trở nên thuyền trưởng. Chẳng bao giờ Newton bận tâm suy nghĩ đến việc buôn nô lệ là đúng hay sai. Cậu chỉ làm công việc của mình nhằm mục đích kiếm tiền mà thôi. Thế nhưng một biến cố quan trọng đã xẩy đến thay đổi tất cả cuộc đời cậu.
Một đêm nọ một cơn bão dữ dội xuất hiện trên mặt biển. Sóng dâng cao như thác núi xô đẩy và quay vòng chiếc thuyền của Newton như món đồ chơi trẻ con. Mọi người trên thuyền vô cùng kinh khiếp. Lúc bấy giờ bỗng dưng Newton buột lời cầu nguyện. Đây là điều cậu không hề làm kể từ khi rời khỏi thuyền của bố cậu, cậu kêu to: “Lạy Chúa, nếu Ngài thương, xin cứu vớt chúng con, con nguyện sẽ mãi mãi làm nô lệ cho Ngài”.
Chúa nhậm lời cầu xin của cậu và cứu vớt con thuyền. Thế rồi sau khi vào được bờ, Newton đã giữ lời hứa và bỏ nghề buôn nô lệ. Sau đó cậu đi tu, và một thời gian sau trở thành mục sư coi sóc một nhà thờ nhỏ ở Olney, nước Anh. Ở đây vị mục sư trở nên một nhà giảng thuyết kiêm nhà soạn thánh ca lừng danh. Một trong những bản thánh ca cảm động nhất mà Newton đã sáng tác là bản nhạc ca ngợi Chúa về cuộc trở lại của cậu.
Giống như Newton, các Tông đồ cũng gặp phải bão biển dữ dội. Giống như Newton, các ông đã kêu to lên cùng Chúa: “Xin hãy cứu chúng con”. Giống như Newton, các ông cũng đã được biến đổi hoàn toàn sau khi Chúa nhậm lời cầu xin. Các ông hoảng sợ và nói với nhau: “Ông này là ai, mà cả đến gió và biển cũng phải tuân lệnh?”.
“Ông này là ai?”. Đây chắc chắn là một câu hỏi căn bản. Dĩ nhiên câu trả lời đã có sắn trong bài đọc 1 và trong Thánh Vịnh đáp ca hôm nay. Bài đọc 1 mô tả Chúa là Đấng Tạo Hoá, chính Ngài đã tạo dựng biển cả, đã đặt ranh giới cho chúng và truyền lệnh cho chúng tuân theo ý muốn của Ngài. (x.G 38,1.8-11). Thánh Vịnh đáp ca là lời kêu cầu Chúa của những thuỷ thủ gặp bão biển. Và Chúa đã ra tay cứu họ. Họ vui sướng, vì trời yên biển lặng. Và Chúa dẫn đưa về bờ bến mong chờ. Họ tạ ơn Chúa, vì Chúa từ nhân (x. Tv 107).
Trong cả hai bài đọc Cựu Ước này, chúng ta thấy Chúa đang thi hành chủ quyền của Ngài trên sóng gió. Ngài truyền lệnh cho chúng và chúng tuân phục Ngài. Đây cũng là điều chúng ta thấy Chúa Giêsu đang thực hiện trong Tin Mừng hôm nay.ngài đang biểu lộ chủ quyền của Ngài trên sóng gió. Ngài truyền lệnh và chúng tuân phục ngay. Như thế các bài đọc hôm nay cho thấy Thiên Chúa trong Cựu Ước và Đức Giêsu của Tân Ước là một. Ngài đang thực thi quyền năng của một Thiên Chúa. Thánh Marcô không chỉ muốn nói lên quyền năng của Chúa mà còn muốn khẳng định Ngài chính là Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ, và mời gọi chúng ta hãy hoàn toàn tin vào Ngài.
Các môn đệ ở chung một thuyền với Chúa, các ông đã biết Chúa quyền năng, có thể làm nhiều phép lạ, nhưng khi sóng gió nổi lên, các ông vẫn hoảng hốt. Các ông quên rằng dù thức hay ngủ, Chúa vẫn là Chúa. Các ông chưa hoàn toàn tin vào Chúa. Chúng ta thường nghĩ mình có đức tin, nhưng trong thử thách, khi cần biểu lộ lòng tin thì nhiều khi ta lại hoảng sợ.
Đời tự nó đã là khó. Đi trong cuộc đời với niềm tin theo cách Chúa dạy lại càng khó hơn. Chúng ta đã vâng lệnh Chúa mà nhổ neo ra khơi, đã tin tưởng vì có Chúa ở đàng lái, ở vị trí hoa tiêu, nhưng có thể đã có lần chúng ta đau đớn vì Chúa lại ngủ giữa phong ba. Điều đó có thật, là kinh nghiệm muôn đời của những ai tin Chúa. Niềm tin không phải là giải đáp dễ dãi, không miễn trừ những khó khăn. Cần phải dày công học tập mới chấp nhận được thực tế đó. Người có niềm tin trưởng thành là người “giữa phong ba khốn cùng ngàn nỗi vẫn luôn thành tín ngợi khen Chúa là thuẫn đỡ, là khiên che, là đồn luỹ”. Phải dám ra đi dù trời đã về chiều, dù có thể gặp phong ba. Nếu không thì chẳng bao giờ sang được “bờ bên kia” của cuộc sống. Chúa có thể ngủ, nhưng Chúa luôn thức vào lúc quyết định để trợ giúp những ai bằng lòng để cho “Chúa ở đằng lái”.
Bão lớn, nước sắp đầy thuyền thì ai mà không sợ? Vậy mà Chúa còn trách: “Sao các con sợ thế, các con không có đức tin ư?”. Các môn đệ lâm nguy thật sự. Trong hoàn cảnh đó, chẳng những nên kêu cứu Chúa, mà đúng là phải kêu cứu Chúa. Nhưng đừng kêu cứu với tâm trạng sợ hãi đến tuyệt vọng như vậy. Phải kêu cứu nhưng hãy kêu cứu trong niềm cậy trông tín thác tuyệt đối. Lời trách cứ của Chúa Giêsu khai mở cho chúng ta một kinh nghiệm đức tin quý báu: niềm tin vững vàng làm chúng ta thêm can đảm lắm mới có thể tin. Vì tin Chúa, thực tế chính là “ trao thân gởi phận” cho Chúa. Người tin Chúa thực sự thì không sợ, còn người sợ thực sự thì không tin. Trong rất nhiều trường hợp, “yếu tin” đồng nghĩa với “hèn tin”!
Câu hỏi của các môn đệ sau khi được Chúa cứu nguy: “Ngài là ai mà cả gió lẫn biểu cũng đều vâng lệnh?” phải là câu hỏi căn bản cho những ai muốn tin và muốn đạt tới niềm tin trưởng thành vào Chúa Giêsu. Phải trả lời cho thật, cho đúng, cho sâu và sát với hoàn cảnh đời mình. Tin không phải chỉ là xác tín về một chân lý lý thuyết cho thoả trí óc, nhưng là “trao thân gởi phận” cho Chúa, nên phải biết rõ Chúa là ai, đáng tin đến mức nào. Thánh Phaolô là chứng nhân đức tin kiệt xuất, đã trải qua bao gian nan mà vẫn tín trung với Chúa, vì thánh nhân “biết mình đã tin vào ai” (2Tm 1,13). Nếu thực sự muốn tin, chúng ta cũng phải biết: Chúa Giêsu Kitô là ai? Tin Mừng cho chúng ta biết: Chúa Giêsu chính là Thiên Chúa. Chân lý ấy quá đơn sơ, chúng ta đều đã biết. Nhưng có thể chúng ta mới biết bằng “cái đầu”, bằng trí óc, chứ chưa biết bằng “con tim”, bằng lòng yêu mến. Tin cuối cùng là yêu, là trung thành gắn bó với Chúa Giêsu trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Vậy lòng ta cần phải biết Ngài là Chúa, nghĩa là không chỉ biết rằng Ngài quyền trên cuộc đời mình, Ngài là Chúa của mình. Khi lòng ta chưa biết điều đó, thì dù không nói hay không dám nói ra, tự thâm tâm ta vẫn nghĩ: Lời Chúa chói tai quá! Lệnh Chúa truyền khó khăn qúa! Và sẽ bỏ đi như người Do Thái, vì thầy tin Chúa là phải là phiêu lưu và quá khó khăn! Người có đức tin trưởng thành là người “biết điều”: họ nhận ra Đấng mời gọi là Đấng có quyền, nên họ dấn thân theo lời mời gọi của Ngài vì đó là đòi hỏi của tình yêu.
Hãy vận dụng đức tin để dấn thân vào đời, lấy sức chèo chống, ngăn chận sự ác đang hoành hành. Hãy chạy đến Chúa và phó thác cho Ngài mọi lo lắng của cuộc đời, kiên trì tin tưởng Chúa sẽ cứu thoát chúng ta.
24. Các con không có lòng tin sao? – Noel Quesson.
Một sĩ quan người Anh cùng gia đình xuống tầu đi tới một miền xa lạ. Đang lênh đênh trên biển thì bỗng có giông bão khủng khiếp ập tới. Hành khách trên tầu cuống cuồng lo sợ, nhất là bà vợ của viên sĩ quan. Bà thấy ông vẫn bình thản thì bực bội và trách ông không quan tâm đến nỗi lo lắng của bà và các con. Ông này ra khỏi phòng một lát rồi trở lại, ông nghiêm nét mặt, rút kiếm ra dí vào ngực vợ. Bà vợ hơi tái mặt, nhưng lát sau bà phá lên cười. Viên sĩ quan hỏi: - Thấy mũi kiếm sắp đâm vào người mà em không sợ sao? - Việc gì em phải sợ? Em biết anh vẫn thương em mà.
- Thế tại sao em bắt anh phải sợ khi anh biết Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta? Và cơn bão này cũng ở trong bàn tay Thiên Chúa?
Chúng ta thường nghĩ mình có đức tin, nhưng trong thử thách, khi cần biểu lộ lòng tin thì nhiều khi ta lại hoảng sợ. Chính vì thế, Chúa nhắc bảo ta luôn nhớ cầu nguyện để xin ơn tăng cường đức tin. Các môn đệ ở chung một thuyền với Chúa, các ông đã biết Chúa có quyền năng có thể làm nhiều phép lạ, nhưng khi sóng gió nổi lên, các ông vẫn hoảng hốt. Các ông quên rằng dù thức hay ngủ, Chúa vẫn là Chúa. Các ông chưa tin vào Chúa hoàn toàn. Chúng ta có thể nghĩ rằng Chúa làm ra vẻ ngủ say để thử lòng tin của các môn đệ. Nhưng cũng có thể Chúa ngủ thực, vì Chúa cũng mang bản tính con người như ta. Chúa mệt mỏi vì bao công chuyện dồn dập mấy bữa qua: đi lại, giảng dạy, chữa bệnh cho bao nhiêu người. Sự mệt mỏi đã đưa Chúa vào giấc ngủ say.
Có những bất trắc, những tai nạn, rủi ro xảy tới cho đời ta, ta kêu cầu hoài mà không thấy Chúa đáp cứu. Những nhà duy vật thời nay thường nói: “Thiên Chúa đã chết”. Đôi khi, chính chúng ta là tín hữu Kitô, cũng có cảm tưởng như vậy. Chúng ta bị đe dọa, bị xô đẩy, bị chèn ép, chúng ta bất lực mà Thiên Chúa cứ làm thinh cho thiên nhiên hoành hành, cứ để cho bạo động xảy tới, xem ra Thiên Chúa đang ngủ quên. Tuy hoảng sợ, các môn đệ cũng còn chút tin tưởng ở Chúa, các ông tới đánh thức Chúa: “Thưa Thầy, chúng con chết đến nơi mà Thầy không quan tâm sao?”. Chúa thức dậy, đứng lên, quát nạt sóng gió và sóng gió trở lại yên tĩnh tức thì.
Sau khi trời yên biển lặng, Chúa bảo các môn đệ: “Sao các con sợ hãi? Các con không có đức tin ư?”. Chúa trách các môn đệ thiếu lòng tin. Không tin rằng có Chúa đang ở với mình trong thuyền. Không tin rằng Chúa vẫn yêu thương săn sóc các ông. Nhiều khi chúng ta còn đáng trách hơn các môn đệ, vì những lần chúng ta than thân trách phận, oán trời, trách Chúa: Sao Chúa để chúng ta đau khổ, kêu mãi kêu hoài mà Chúa vẫn làm ngơ.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sức mạnh để chúng con lướt thắng mọi thử thách trên đường đức tin. Xin giúp chúng con luôn nhận ra Chúa trong những biến cố cuộc đời để chúng con an tâm phục vụ Tin Mừng. Quyền năng và tình thương của Chúa luôn làm cho con vững dạ an lòng (Tv 23,4).
25. Mời gọi qua sông – Jean-Yves Garneau.
Chúng ta phải liên lỉ băng qua bờ bên kia. Thường thường biển động. Nhưng Chúa Kitô ở với chúng ta. Việc băng qua hồ Tibêriát, như thánh Marcô kể lại, mang một ý nghĩa tượng trưng, cho ta thấy một kinh nghiệm quan trọng và sâu sắc mà các môn đệ đã có được. Kinh nghiệm này có một giá trị gương mẫu đối với chúng ta. Thường thường chúng ta phải sống những kinh nghiệm tương tự.
Sang bờ bên kia.
Chúa Giêsu bảo bạn hữu của Chúa sang bờ bên kia. Vấn đề không phải chỉ đơn giản là đi từ nơi này đến nơi khác, nhưng là sống một biến cố sẽ giúp họ lớn lên. Lúc đó họ chưa biết được điều này.
Nhiều lần cả chúng ta nữa, chúng ta đứng trước một tiếng gọi của Chúa Kitô. Gọi vươn lên, gọi sống đời sống Kitô hữu của chúng ta mãnh liệt hơn, gọi dấn thân một cách mới mẻ… Nếu chúng ta đáp trả tiếng gọi ấy chúng ta không biết trước những gì sẽ xảy ra cho mình hoặc nó sẽ đưa mình đến tận đâu.
Từ biển lặng đến sóng gió.
Không chút do dự các tông đồ chấp nhận qua bờ bên kia, thậm chí họ còn có sáng kiến chuẩn bị nữa. Lúc khởi hành, mọi sự diễn ra suôn sẻ. Biển hồ yên lặng. Họ là những tay chèo giỏi. Chúa Kitô nằm ngủ ở mạn thuyền.
Rồi gió nổi lên. Đó là giông bão. Các môn đệ hoảng hốt. Từ đáy lòng họ la lên: “Lạy Thầy, chúng con chết mất!”.
Sự kiện này có thể áp dụng vào chính cuộc sống của chúng ta. Nhiều lần chúng ta phải đáp lại những lời mời gọi của Thiên Chúa. Không thể nghi ngờ thiện chí của chúng ta: Như các môn đệ, chúng ta thưa vâng trước những tiếng gọi này. Nhưng việc thực hành những gì tiếng gọi ấy thường có vẻ khó khăn và gắt gao hơn ta tưởng. Các khó khăn nhất thiết sẽ xảy đến. Chúng rất thường nhiều hơn và lớn hơn điều ta dự tính.
Thế giới này trong đó chúng ta sống cũng giống như mặt biển động vậy. Sống đạo trên một mặt biển như thế không dễ dàng, không đơn giản! Không dễ dàng lớn lên về mặt Kitô hữu trong một xã hội như xã hội của chúng ta, đang loan truyền đủ mọi thứ khác trừ sứ điệp của Chúa Kitô và lôi cuốn đến mọi nơi khác trừ những con đường của Tin Mừng.
Lúc đó ta bị cám dỗ buông xuôi hết. Trở thành những kẻ không dấn thân. Không đi nhà thờ nữa, chỉ còn sống cho mình, chỉ còn mang tên là tín hữu mà thôi. Người ta vớt vát cho bộ mặt bên ngoài nhưng trong lòng thì không còn gì nữa.
Phải làm một hành vi đức tin.
Giữa cơn giông tố, các tông đồ có ý tưởng rất hay là quay về với Thầy của mình và cầu cứu Ngài. Kết quả thật lạ lùng. Chúa Kitô ra lệnh cho biển. Biển lặng như tờ. Ngài trách họ: “Sao lại sợ? Tại sao các con không có lòng tin?”. Phản ứng của các môn đệ có thể làm chúng ta ngạc nhiên. Thay vì kêu lên: “Lạy Chúa, chúng con tin”, họ lại tự hỏi: “Ngài là ai mà ngay cả đến phong ba và biển cả cũng phải vâng phục Ngài?”.
Không phải một sớm một chiều mà ta có được một niềm tin vững chắc và sâu xa. Cần thời gian. Phải trải qua nhiều kinh nghiệm trong cuộc đời làm Kitô hữu.
Ba điểm cần nhớ.
Những gì cần nhớ trong bài Tin Mừng hôm nay có thể tóm tắt trong ba điểm.
Một là: đừng sợ qua bờ bên kia. Đây là một điều kiện phải có để lớn lên. Khi cứ ở lại mãi trên bờ yên tĩnh của thế giới bé nhỏ an toàn của mình, người ta không bao giờ trở thành một Kitô hữu biết nhìn xa thấy rộng được Chúa Kitô luôn luôn mời gọi đi xa hơn, cao hơn.
Hai là: đừng ngạc nhiên về những khó khăn gặp phải khi muốn sống một cuộc đời Kitô chân chính. Biển động là thành phần của cuộc sống ấy, đó là dịp để tiến bộ.
Ba là: không nghi ngờ về sự hiện diện và quyền năng của Chúa Kitô. Ngài ở với chúng ta. Cùng với Ngài, chúng ta luôn luôn tới được những bến bờ khác. Chính Ngài đã đi qua cái chết… và đã tới bờ của một cuộc sống mới. Những lần chúng ta phải đi từ bờ bên này sang bờ bên kia trong cuộc sống hằng ngày đó là chúng ta được chuẩn bị cho cuộc vượt qua cuối cùng.
Coi chừng những cuộc sống Kitô quá yên ổn, quá an toàn. Chúa Kitô chờ đời chúng ta trên biển động. Thường thường đó chính là nơi mà Ngài tự mặc khải cho chúng ta cách mạnh mẽ. Và chính ở đó, ở ngoài khơi mà rất thường đức tin của chúng ta có thể được thức tỉnh hơn hết và có thể lớn lên.
26. Giông bão.
Qua hình ảnh mặt biển dạy sóng Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta những gì?
Mặt biển dạy sóng trước hết là hình ảnh của tâm hồn chúng ta.
Thực vậy, nhiều lúc chúng ta đã cảm thấy: những quyến dũ bất chính, những đam mê mù quáng, những cám dỗ nặng nề, quả thực đã trở nên như những ngọn sóng ngầm. Những quyến dũ ấy, những đam mê ấy, những cám dỗ ấy như muốn đè bẹp con thuyền nhỏ bé là tâm hồn chúng ta, nhận chìm nó xuống đáy nước tội lỗi, nếu như Chúa Giêsu, Đấng có quyền làm cho gió yên biển lặng đã không đến can thiệp và giúp đỡ chúng ta. Vì thế chúng ta hãy kêu xin Chúa như các tông đồ ngày xưa:
- Lạy Chúa, xin hãy cứu giúp chúng con không thì chúng con chết mất.
Mặt biển dạy sóng còn là hình ảnh của thế gian.
Đúng vậy, thế gian là một mặt biển dạy sóng, trong khi đó Giáo hội chỉ là một con thuyền nhỏ bé, mà người cầm lái, là Đức Kitô thì dường như lại đang ngủ say. Những phong ba bão táp và những ngọn sóng trào dâng là những cấm cớ bách hại, là những lập trường bài bác vu khống và chụp mũ, khiến cho chúng ta, những môn đệ của Chúa cũng phải bàng hoàng kinh hãi, nếu không muốn nói là đã đi đến chỗ tuyệt vọng.
Tại sao chúng ta lại sợ hãi? Phải chăng là vì yếu đức tin. Chúng ta nên nhớ rằng, tình thương và sự quan phòng của Ngài luôn canh giữ chúng ta. Chỉ một cái nhìn của Ngài cũng đã đủ để làm cho sóng yên biển lặng, tất cả trở lại trật tự.
Kinh nghiệm của Giáo hội, cũng như của bản thân mỗi người cũng làm chứng như vậy. Điều quan trọng, chúng ta phải luôn xác tín rằng: Chúa Giêsu luôn ở với chúng ta. Mặc dù đôi lúc Ngài dường như có vẻ ngủ say, nhưng thực sự thì tình thương của Ngài luôn canh giữ chúng ta. Và một khi Ngài đã ở với chúng ta thì không ai có thể chống lại chúng ta.
Thánh nữ Cartarina Sienna ngày kia đã hỏi Chúa, sau khi đã thoát khỏi sự cám dỗ nặng nề:
- Lạy Chúa, Chúa ở đâu khi con phải chiến đấu. Chúa Giêsu đã trả lời:
- Ta ở bên cạnh con để giúp đỡ con.
Chính vì thế, giữa những gian nguy thử thách, giữa những cám dỗ đe dọa, chúng ta hãy biết chạy đến và kêu van:
- Lạy Chúa, xin cứu chúng con, không thì chúng con chết mất.
Điều quan trọng là làm thế nào để Chúa Giêsu thực sự ở trong chúng ta với tất cả tình thương của Ngài?
Tôi xin đưa ra một pháp đó là hãy xa tránh tội lỗi. Vì tội lỗi sẽ đẩy chúng ta xa lìa tình Chúa và làm dấy lên trong tâm hồn cũng như xã hội một trận cuồng phong thảm khốc.
Chính vì thế muốn trấn áp cuồng phong, muốn tái lập trật tự, chúng ta phải biết hãm dẹp những dục vọng xấu xa, những khuynh hướng tội lỗi. Tuy nhiên, để bảo đảm sự thành công, chúng ta hãy bắt chước các môn đệ đã kêu lên với Chúa giữa cơn phong ba bão táp:
- Lạy Chúa, xin cứu giúp chúng con, không thì chúng con chết mất.
27. Điều khiển.
Rufus Jones có thuật lại câu chuyện sau đây: “Một cậu bé đang chơi trên boong tàu, khi đó một cơn bão tố đang nổi lên. Một hành khách tiến lại hỏi cậu bé: Này cháu, cháu không sợ cơn bão đang đến hay sao? Cậu bé trả lời: “Không, cháu không sợ. Bởi vì cha cháu đang điều khiển con tàu”.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng thuật lại một câu chuyện xảy ra trong một cơn bão tố. Nhưng nó chỉ giống ở khung cảnh mà lại khác hẳn về nội dung. Nỗi sợ hãi của các môn đệ hoàn toàn trái nghịch với lòng tín thác của cậu bé trong câu chuyện của Jones, một lòng tín thác xuất phát từ một niềm tin vững mạnh.
Không có gì ngạc nhiên khi chúng ta nghe Chúa Giêsu quở trách: “Tại sao các con nhát gan thế? Các con vẫn chưa có lòng tin sao?” Chúng ta cần nhớ lại lời Kinh Thánh đã chép: “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy”.
Chúng ta không luôn luôn thấy những đối tượng đức tin của chúng ta, đặc biệt khi niềm tin của chúng ta bị che phủ bởi nỗi sợ hãi và lo âu xao xuyến, và nhất là khi chúng ta bị những cơn giông tố trong cuộc đời vùi lấp một cách phũ phàng. Trong những cơn thử thách mãnh liệt như vậy, chúng ta hãy đặt tất cả niềm tin tưởng phó thác vào chính Thiên Chúa. Vào thế kỷ 19, tiểu thuyết gia kiêm thi sĩ người Tô Cách lan George MacDonald đã viết: “Con người hoàn hảo về đức tin là kẻ có thể đến với Thiên Chúa trong sự trống rỗng về cảm giác, không có một chút cảm hứng và an ủi nào, chỉ có những thất bại nặng nề, bị bỏ rơi, bị quên lãng hoàn toàn, và vẫn nói với Thiên Chúa: “Lạy Chúa, Chúa là nơi con náu ẩn, là thành lũy che chở con”.
Lạy Chúa Thánh Thần, Chúa là Trạng Sư và là bạn thân thiết của con. Xin Chúa dạy con biết từ bỏ bản thân mà lệ thuộc hoàn toàn vào Chúa Giêsu. Con không muốn trốn tránh trách nhiệm của con đối với cuộc đời của mình, nhưng con muốn để Chúa Giêsu chi phối toàn bộ cuộc sống của con.
28. Bão tố.
Hồ Tibêria nằm ở mạn bắc Palestine, còn gọi là hồ Gênêsarét hay biển Galilê, nhưng quen gọi là Biển Hồ, có hình bầu dục, chiều dài 21 km, chiều ngang 12 km, thấp hơn mặt biển Địa Trung Hải 208m, lại nằm bên rặng núi Hemon cao ngất, luôn có tuyết phủ, vì thế, các luồng gió mạnh đều dốc đổ vào hồ, gây nên những cơn giông và bão tố bất thường.
Cựu Ước ít nhắc tới Biển Hồ này, nhưng trong Tân Ước, hồ này nổi tiếng, vì nơi đây Chúa Giêsu đã làm một số phép lạ và giảng dạy nhiều điều. Phép lạ kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay xảy ra ở Biển Hồ này, vào một buổi chiều đầy kỷ niệm của một ngày tháng chạp, năm thứ nhất công khai giảng dậy của Chúa.
Hôm ấy, sau khi dùng thuyền làm tòa giảng dạy dân chúng nhiều dụ ngôn, Chúa Giêsu giải tán cho họ ra về, rồi bảo các môn đệ kéo buồm ra khơi sang bờ bên kia đến thành Gêrasa. Khi thuyền ra gần giữa khơi thì gặp biển động mạnh, gió thổi dữ dội, sóng nước quật mạnh vào thuyền khiến thuyền chòng chành, chồm lên chồm xuống muốn chìm. Các môn đệ ra sức chèo chống, tuy là những ngư phủ đã quen với những cơn giông bão trên biển, mà lần này các ông cũng hoảng sợ, vậy mà Chúa Giêsu vẫn nằm ngủ ngon lành ở cuối thuyền như không có sự gì nguy hiểm đang xảy ra.
Các môn đệ không còn biết xoay sở làm sao đưa thuyền vào bờ, trở lui không được vì bị sóng gió cản lại, mà tiến sang bờ bên kia thì còn xa quá. Thật là tiến thoái lưỡng nan, các ông chỉ còn biết cầu cứu đến Chúa, mà Chúa thì lại đang ngủ. Các ông đánh thức Chúa dậy và xin Chúa cứu giúp. Lời kêu cứu này chứng tỏ các môn đệ tin Chúa có quyền phép. Nhưng Chúa đã quở trách các ông: “Sao nhát thế? Anh em vẫn chưa có lòng tin sao?” Chúa trách các môn đệ như vậy là vì mấy tuần qua các ông đã được chứng kiến Chúa làm nhiều phép lạ tỏ ra Chúa là Đấng có quyền phép, nên đáng lẽ các ông phải tin tưởng nơi Chúa mà không hoảng sợ trước cơn giông bão. Nhưng đức tin của các ông còn yếu kém, gặp cơn giông bão, tuy có Chúa ở trong thuyền mà các ông vẫn hốt hoảng sợ hãi, nên Chúa mới quở trách như vậy. Tuy nhiên, Chúa vẫn đứng dậy, truyền cho sóng gió yên lặng, tức khắc biển trở lại bình thường.
Qua phép lạ này, Chúa Giêsu muốn cho các môn đệ thấy uy quyền Thiên Chúa toàn năng của Ngài, đồng thời cũng cho họ biết: họ phải vững tin vào Ngài, có Ngài ở bên, họ không được sợ hay không phải lo sợ gì cả, vì không có gì Ngài không làm được, mọi sự đều tùy thuộc uy quyền toàn năng của Ngài.
Khi tìm hiểu về cơn bão tố xảy ra trên Biển Hồ, một nhà chú giải Kinh Thánh đã giải thích: “Chúa Giêsu đã muốn đem các môn đệ của mình đi trên biển, giữa bão tố kinh hoàng để cho họ thấy trước những bão tố sau này là những bắt bớ, những hành hạ mà họ sẽ gặp trên đường tông đồ. Đối với họ, là những người sẽ cầm lái thế giới sau này, con thuyền nhỏ bị sóng gió dữ tợn đánh chòng chành sắp chìm, là hình ảnh của những trận bão tố sau này sẽ tấn công Giáo hội mà họ phải kiên gan chống đỡ”.
Các nhà giảng thuyết thường áp dụng việc Chúa Giêsu làm cho sóng gió yên lặng vào việc Chúa luôn ở cùng Giáo hội, và bênh vực gìn giữ Giáo hội trải qua những cơn sóng gió trần gian. Chiếc thuyền của Phêrô là tượng trưng cho con thuyền Giáo hội của Chúa mà Phêrô là đầu. Những cơn sóng gió là những cơn thử thách bách hại mà Giáo hội luôn gặp phải. Cũng như khi xưa các tông đồ trên thuyền đã được an toàn qua cơn sóng gió vì có Chúa Giêsu ở với các ông, thì ngày nay cũng nhờ có Chúa Giêsu luôn hiện diện trong Giáo hội mà trải qua bao cơn thử thách bách hại, Giáo hội vẫn đứng vững và trường tồn.
Nhìn vào lịch sử Giáo hội, qua dòng thời gian, trải qua các thời đại, chúng ta thấy Giáo hội đã gặp phải bao cơn gió bão, thuyền Phêrô, tức là Giáo hội, đã vượt biển được hai ngàn năm, thuyền đó ra đi, mặc dầu gặp bao sóng gió, nhưng vẫn luôn đứng vững, lý do là vì Chúa Giêsu luôn hiện diện trong Giáo hội như Ngài có mặt trên thuyền của các môn đệ xưa kia. Đôi khi xem ra Ngài ngủ và có vẻ buông xuôi tay lái, nhưng thực ra đó chỉ là những cơ hội để nêu cao sự hiện diện đầy quyền năng của Ngài.
Đối với mỗi người chúng ta cũng vậy, Thiên Chúa toàn năng cai trị những bão tố bên ngoài, thì Ngài cũng thống trị những cơn bão, những sóng gió trong tâm hồn, trong cuộc sống, trong cuộc đời thăng trầm của mỗi người. Cuộc đời chúng ta là một đời lữ khách, vui buồn chen nhau. Là thân lữ khách, chúng ta biết phận mình là thế, và trong muôn cảnh ngộ, chúng ta luôn có hy vọng về tới bến. Đức tin vững chắc là bánh lái thuyền đưa chúng ta về tới bến cứu độ. Chúa Giêsu luôn ngồi đàng sau con thuyền để trợ giúp chúng ta. Chúng ta cứ yên trí lớn chèo thuyền ra đi, điều cần thiết nhất là chúng ta có luôn tin tưởng vững chắc vào Chúa hay không?
Vì thế, giữa những bão tố, những sóng gió của biển đời, chúng ta cần bắt chước gương các tông đồ, chạy lại với Chúa Giêsu và xin Ngài cứu giúp: Lạy Chúa, xin cứu chúng con kẻo chúng con chết mất. Tin tưởng và cầu xin Chúa, chúng ta sẽ được bình an.
29. Cha em là người cầm lái. – Thiên Phúc
(Trích trong "Như Thầy đã yêu")
Trong một cuộc hải trình vượt Đại Tây Dương, khách du lịch đang thư thái ngắm cảnh hoàng hôn trên boong tàu.
Nơi tít mù xa, mặt trời đỏ cam đang chiếu những ánh vàng cuối cùng của một ngày còn sót lại.
Bỗng mây đen ùn ùn kéo tới, tối sầm cả một vùng trời. Sấm chớp đổ xuống liên hồi, giông tố cuồn cuộn nổi lên, càng lúc càng thét gào dữ dội.
Mọi người trên boong chen lấn nhau chạy về phòng mình. Duy chỉ có một bé trai cứ tiếp tục chạy giỡn trên boong giữa trận cuồng phong.
Được hỏi tại sao em không sợ hãi trước cơn giông tố?
Em thản nhiên đáp lại:
- Vì cha em là người cầm lái con tàu!
***
Giống như khách du lịch trong câu chuyện trên, các môn đệ cũng gặp một trận cuồng phong khi vượt biển. Các ngài kinh hoàng vì thấy mình sắp bị nuốt chững. Bó tay bất lực trước phong ba bão táp, các ngài đã vội đánh thức Đức Giêsu và xin Người ra tay cứu giúp: "Thưa Thầy, chúng con chết mất, Thầy không quan tâm sao" (Mc. 4,38). Người liền đe gió và phán với biển như một người bị quỉ ám: "Hãy im đi". Tức thì sóng yên biển lặng.
Ai cũng thích sóng yên biển lặng, xuôi chèo mát mái. Nhưng cuộc đời nào mà chẳng có những cơn giông? Đại dương nào mà không có những bão tố?
Tuy nhiên, chính giông tố mới giúp chúng ta nhận ra chính mình: mình còn yếu đuối và bất lực, còn nhát đảm và kém tin.
Cũng chính giông tố sẽ đưa ta đến với Chúa, để ta hoàn toàn phó thác cho sự quan phòng của Người. Cũng chính giông tố sẽ giúp ta biểu lộ đức tin. Có thể nói, đức tin sẽ lớn lên ít nhiều sau mỗi lần giông tố.
Thánh Phaolô viết: "Thiên Chúa không ban cho ta một thần khí nhát sợ nhưng mạnh mẽ, bác ái và tự chủ" (2Tm.1,7),
Mỗi người chúng ta không khác chi chiếc thuyền nan chông chênh giữa cơn lốc cuộc đời, khó khăn nối tiếp khó khăn. Giống như cậu bé đã tin tưởng ở cha mình cầm lái con tàu, mỗi người chúng ta cũng hãy vững tin ở Thiên Chúa tình yêu. Người sẽ hướng dẫn cuộc đời của mỗi chúng ta. Có Chúa trong đời, những cô đơn như bị xóa nhòa, những khó khăn dường như nhỏ lại, những yếu đuối như được mạnh sức. Chúng ta không cầu xin cho cuộc đời mình như biển lặng, nhưng xin cho cõi lòng chúng ta được tĩnh lặng ngay giữa lúc biển động.
Thánh Phanxicô Salêsiô dạy: "Phải ở lại trong con thuyền mà Thiên Chúa đã đặt chúng ta vào, để hành trình từ cõi đời này về chốn đời sau. Chúng ta phải sẵn sàng ở lại trong sự bình an thanh thản".
Lạy Chúa, thuyền đời chúng con chẳng bao giờ được êm ả, nó chỉ êm ả khi tới bến thiên đàng. Xin cho lòng chúng con luôn bình an ngay cả khi Chúa còn đang ngủ, miễn là có Chúa trong thuyền, vì Chúa chính là thuyền trưởng của đời chúng con. Amen.
30. An tâm – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Sau một ngày giảng dạy dân chúng, Chúa Giêsu bảo các môn đệ chèo thuyền đưa Ngài sang bên kia Biển Hồ. Biển Galilê dài 21km, rộng 12km, xung quanh có những rặng núi bao bọc. Nhiệt độ ở Galilê thuộc miền Bắc Israel và ở Biển Chết thuộc miền Nam chênh lệch nhau, thỉnh thoảng tạo ra những cơn gió mạnh. Biển Galilê nổi sóng dữ dội vì hình thể lòng chảo với núi non bao quanh. Vì thế, người xưa quan niệm rằng, biển là biểu hiện cho những gì nguy hiểm, tối tăm và sợ hãi. Biển động sóng gào biểu trưng cho một thế giới hỗn loạn và phường tội lỗi (x. Is 57, 20). Ý định băng qua bên kia Biển hồ lúc trời đã về chiều quả là một ý định táo bạo, liều lĩnh, bất chấp hiểm nguy.
Tuy vậy, Chúa Giêsu quyết định ra đi và thực hiện phép lạ trên biển với mục đích củng cố đức tin cho các môn đệ, đồng thời biểu lộ uy quyền của Thiên Chúa vượt trên mọi thế lực sự dữ.
Chúa Giêsu cùng với các môn đệ và có một số thuyền khác vượt biển giữa trời đêm. Thuyền lướt sóng ra khơi giữa màn đêm. Bão tố cuồng phong bỗng dưng ập đến. Các môn đệ, dù nhiều trải nghiệm về biển cả vẫn hốt hoảng lo lắng hoang mang. Chỉ mình Chúa Giêsu vẫn an nhiên tự tại, vẫn ngủ như không có gì xảy đến. Lạy Chúa, đến nước này mà Ngài vẫn ngủ sao? Trong dòng lịch sử, không ít lần dân Do thái thấy như Chúa ngủ quên: “Lạy Chúa, Ngài quên con mãi tới bao giờ? Tới bao giờ còn ngoảnh mặt làm ngơ? Tới bao giờ hồn con vẫn còn lo lắng và lòng con ủ rũ đêm ngày? Tới bao giờ kẻ thù con thắng mãi?” (Tv 13,1-2).
Các môn đệ cuống cuồng lo sợ và hỏi: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?” Tiếng kêu cứu trong tuyệt vọng. Gặp bão tố cuồng phong trên biển cả, không lẽ những dân chài thứ thiệt như các ngư phủ lại phải cậy đến sự trợ giúp của một bác thợ mộc ư? Kinh nghiệm thợ mộc giúp được ích gì cho các ông lúc này? Ở đây rõ ràng là các ông cần sự trợ giúp thần linh, cần một phép lạ. Khi con người đối diện với những gian nan khốn khó, với những mãnh lực ác thần, họ mới thấy sức người quá hèn yếu, nhỏ bé. Bài đọc 1 cho thấy con người yếu đuối tìm đâu được một chỗ dựa vững vàng ngoài niềm tin vào Thiên Chúa toàn năng: “Bấy giờ, giữa cơn bão táp, Đức Chúa lên tiếng trả lời ông Gióp như sau: Cửa đại dương, ai ra tay khép lại khi nước tuôn trào từ đáy vực sâu, khi Ta giăng mây làm áo nó mặc, phủ sương mù làm tã che thân?” (G 38,1.8-9). Đứng trước số phận ngàn cân treo sợi tóc, họ mới thấy cần biết bao quyền năng Thiên Chúa trợ giúp. Thiên Chúa sẽ ra tay đúng lúc để đáp ứng tiếng van nài của họ.
Không phải bằng một kỹ năng hàng hải mà bằng uy quyền của trời cao, Chúa Giêsu thức dậy và ra lệnh cho sóng biển: “Im đi! Câm đi!”. Cử chỉ và lời nói của Chúa giống như lúc Ngài trừ quỉ. Lập tức, gió ngừng thổi và biển yên lặng như tờ. Rồi Chúa quở các môn đệ: sao các con lại sợ hãi thế? Đức tin của các con như thế nào? Rõ ràng, Chúa không nói các môn đệ không có đức tin; Chúa cũng không nói các môn đệ có đức tin bé nhỏ; ở đây đức tin của các môn đệ giới hạn quyền năng của Thiên Chúa, thua sức mạnh thiên nhiên, sự hiện diện của Chúa Giêsu không thể cứu nguy cho những người cùng thuyền được nên họ phải đánh thức Chúa dậy.
Khi Chúa dùng lời quyền năng dẹp yên gió bão, các môn đệ ngạc nhiên và hỏi: "Người này là ai mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?". Thông cảm với các môn đệ vì các ông chưa biết rõ Chúa là ai, quyền năng thế nào để phó thác mạng sống mình cho Chúa. Nhờ phép lạ này, các ông nhận ra Thầy có quyền trên cả gió và biển, có quyền như Thiên Chúa vậy. Từ đó, các ông suy nghĩ, tìm hiểu con người Thầy hơn.
Những trắc trở đến từ thiên nhiên chỉ nói lên một phần nhỏ sự yếu đuối của con người khi phải đối diện với trăm ngàn đợt sóng mãnh liệt từ các dục vọng làm xáo động tâm hồn họ. Những sự ác dữ dội như sóng biển ấy chẳng để ai ngủ yên, mà bắt người ta phải đặt niềm tin vào Chúa trong khi chống cự để có được sự sống muôn đời: “Xin Chúa thấy cho: thù địch con đông vô kể, chúng ghét thân này, ghét cay ghét đắng. Xin bảo toàn sinh mạng và giải thoát con, đừng để con tủi nhục, bởi vì con ẩn náu bên Ngài” (Tv 25,19-20).
Giông bão bắt người ta phải tin, nhưng niềm tin lại cần đến thử thách của giông bão, vì niềm tin cần được thử thách để lớn lên. Sóng gió là những thử thách trong cuộc đời. Những thử thách Chúa gửi đến giúp ta giúp ta biết mình hơn, biết yêu mến cậy trông vào Chúa hơn và giúp đức tin vững mạnh hơn. Chúa phán với ông Gióp trong gió bão, dạy dỗ ông những lẽ khôn ngoan. Ông Gióp đã luôn vững tin vào Chúa, không phàn nàn, kêu trách; rồi Chúa đã làm cho sóng gió cuộc đời ông chấm dứt, và ban lại cho ông một cuộc sống tốt đẹp hơn. Các Tông đồ cũng gặp bão táp trên biển cả. Chúa dùng lời quyền năng dẹp yên giông bão. Khi sóng yên biển lặng rồi, các môn đệ càng vững tin nơi Chúa hơn, từ nay các ngài không còn cuống quít sợ hãi mỗi khi gặp gian nan nữa. Ai càng gặp nhiều thử thách thì càng trở nên từng trải, vững vàng hơn. Thánh Phaolô nhắc nhở: vì thương yêu chúng ta, “Chúa Giêsu Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, nhưng Ngài đã sống lại!” đem đến cho chúng ta một niềm tin vững chắc vào tình thương của Thiên Chúa.
Tàu thuyền một khi đã lênh đênh trên mặt biển rồi thì không thể nào tránh được những cơn sóng to nhỏ và chẳng có cách chi thoát khỏi những chao đảo, bập bềnh và lắc lư do bão táp và cuồng phong gây nên. Cũng vậy, mọi người không ai tránh khỏi những sóng gió và bão tố to nhỏ do biển đời này gây ra!
- Khi tôi lâm vào cảnh hoang mang, sợ hãi, lúng túng, lo lắng, bất an, phiền muộn, chán chường, thất vọng…
- Khi gia đình tôi chạm trán với những biến cố đau thương như tai nạn xe cộ, tai nạn nghề nghiệp, thất nghiệp, vợ chồng con cái bất hòa xung đột với nhau, đau ốm, tang chế…
- Khi trong cộng đoàn giáo xứ của tôi xảy ra những gương mù, gương xấu: đố kị, ghen tương, kèn cựa, tranh giành quyền lợi, chia bè, kéo phái, tố cáo nhau, mạt sát, thù ghét nhau …
- Khi trong cộng đoàn dòng tu của tôi phải đương đầu với những khủng hoảng về mặt nhân sự, tài chánh, huấn luyện, đào tạo, kỳ thị, chia rẽ, phân biệt, thiên vị…
- Khi Giáo Hội bị bêu xấu, hạ nhục, và bị công kích bởi gương mù gương xấu do một số nhỏ giáo sĩ gây ra…
Thuyền trên biển gặp sóng gió, bão táp là chuyện rất bình thường. Khi thuyền đời của mình không thể tránh được sức va chạm và những ảnh hưởng của sóng gió, bão táp giông tố của cuộc đời này thì tôi phải làm gì để giữ cho thuyền khỏi bị lật úp?
Cách hay nhất là bắt chước các môn đệ, chạy đến với Chúa Giêsu để xin Ngài dẹp tan sóng gió và bão tố bảo vệ thuyền của mình khỏi bị nhận chìm. Chỉ khi nào tin vào sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô, Đấng có quyền năng trên sóng gió mưa bão và mở miệng van xin Ngài ra tay cứu giúp thì lúc đó thuyền đời mới được bình an, bởi lẽ “Không có Thầy thì các con không thể làm gì được!” (Ga 15,5).
Tin mừng hôm nay giúp chúng ta luôn sống an tâm. An tâm, bởi con thuyền cuộc đời chúng ta ra khơi, giữa phong ba bão táp, giữa những thử thách gian truân vẫn luôn có Chúa là thuyền trưởng hướng dẫn thuyền vượt sóng. An tâm, bởi Chúa luôn xuất hiện đúng lúc đúng thời để ra tay nâng đỡ chúng ta trước những khó khăn. An tâm, bởi chúng ta biết chúng ta tin vào Đấng chiến thắng mọi thế lực ác thần và sự chết. An tâm, bởi từ nay, cuộc đời chúng ta đã trao vào tay Chúa, tín thác mọi sự trong sự quan phòng của Thiên Chúa, vì như thánh Phaolô, “tôi biết tôi tin vào ai” (2 Tm 1,12).
Xin cho Lời Chúa hôm nay giúp mỗi người chúng ta vững tin vào sự hiện diện của Chúa, để trong mọi hoàn cảnh cuộc đời, chúng ta luôn có Chúa ở vị trí hoa tiêu để hướng dẫn và can thiệp kịp thời, giúp chúng ta đến bến bờ bình an.
31. Biển đời và biển khơi – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền.
Cuộc ra khơi nào cũng chứa đựng những bất trắc, những hiểm nguy. Dòng đời nào cũng có biết bao cạm bẫy giăng ngang. Biển khơi luôn làm cho con người sợ hãi. Dòng đời luôn làm cho con người lo âu. Con người luôn cảm thấy mình quá nhỏ bé trước biển khơi và biển đời. Biển đời và biển khơi mãi mãi làm cho con người cảm thất bất lực. Sóng gió vẫn thét gào. Sự dữ vẫn tung hoành. Con người luôn phải đối phó trước những tình huống rủi ro có thể xảy đến.
Thời gian qua báo chí nói nhiều về những nguy hiểm của các ngư dân Việt Nam đánh cá xa bờ. Lênh đênh trên biển. Không được bảo vệ. Một mình đối phó với biết bao hiểm nguy do thiên nhiên đưa đến, và ghê sợ hơn là do chính con người gây ra. Sự táo bạo của bọn cướp biển. Sự tranh giành phần biển đánh cá của các nước lân bang. Nhiều ngư dân cảm thấy sợ hãi khi phải rời bến xa bờ. Họ cảm thấy bất lực trước gian nguy trước mặt. Họ không dám mạo hiểm đánh đổi tính mạng mình để đổi lấy một vài con cá. Họ đành rút lui. Họ sợ không thể đương đầu với bao sóng gió nghi nan. Kẻ bán thuyền. Người để thuyền nằm bờ chờ đợi thời cơ. Có mấy ai đủ can đảm ra khơi lúc này? Họ biết rằng ở nhà thì đói. Nhưng ra đi càng thêm nợ nần, có khi còn mất cả tính mạng!
Năm xưa các tông đồ đã từng hoảng loạn, sợ hãi trước sức mạnh của thiên nhiên, của giông bão. Giông bão như muốn nhấn chìm tất cả: con người và tài sản. Con thuyền của họ thật mong manh! Họ đâu nghĩ rằng đêm nay biển dậy sóng trào. Họ đâu lường hết được những rủi ro có thể đến với họ đêm nay. Họ phải đối đầu với nguy nan, với bất trắc, với rủi ro. Một chiếc thuyền nan mong manh trên biển cả biết bám víu vào đâu? Làm sao họ có thể vào bờ an toàn trước gió biển và cuồng phong lồng lộng. Họ bất lực. Họ muốn buông xuôi cho dòng đời xô đẩy. Nhưng may thay, họ đã nhớ đến Thầy. Thầy vẫn hiện diện bên họ. Có Thầy hiện diện tại sao không cầu cứu? Thầy có thể làm cho kẻ chết sống lại. Thầy có thể đẩy lùi sự dữ. Thầy có thể làm mọi sự. Tại sao không chạy đến cùng Thầy? Dầu sao Thầy cũng là một cái phao duy nhất để các ông bám víu trong lúc nguy nan của dòng đời.
Các ông đã chạy đến kêu cầu Thầy: “Thầy ơi, chúng con chết mất!”. Đó là tiếng kêu từ thẳm sâu tâm hồn cần đến sự trợ giúp từ Thầy Chí Thánh. Đó là tiếng cầu cứu nói lên sự bất lực của con người trước sóng gió ba đào.
Đó cũng là tiếng kêu cứu của con người hôm nay khi đứng trước biết bao nghịch cảnh xảy đến trong đời. Biển đời vẫn đưa đẩy những sóng gió nghi nan, những bất trắc đau thương. Thiên tai vẫn ập xuống địa cầu. Sự dữ vẫn đang tung hoành. Có nhiều người như muốn thất vọng buông xuôi vì không tìm được lối thoát. Có nhiều người oán trời oán đất vì quá sức chịu đựng. Có nhiều người ôm phiền muộn trong đau thương một mình vì chẳng tìm được sự an ủi, cảm thông và tin tưởng nơi tha nhân. Dòng đời vẫn còn đó tiếng kêu van tha thiết dâng lên Đấng tối cao. “Xin cứu chữa chúng con, Chúa ơi!”.
Vâng, cuộc đời vẫn còn đó biết bao sóng gió nổi trôi. Cuộc đời tựa như chiếc thuyền nan chòng chành trước bao cám dỗ mời mọc, bao sự dữ bủa vây. Chúa vẫn mời gọi chúng ta hãy tín thác vào Chúa. Hãy kêu cầu Chúa. Hãy đưa tay để Chúa dìu chúng ta đi qua những thăng trầm của dòng đời. Dòng đời đâu mấy khi bình yên. Con người mãi chơi vơi trong bể khổ trần gian. Nhưng có Chúa vẫn đang đi trong cuộc đời chúng ta. Hãy tin tưởng phó thác vào Chúa. Hãy tin tưởng vào tình thương quan phòng của Chúa, Ngài sẽ luôn làm những điều tốt đẹp nhất cho con cái của Ngài.
Nguyện xin Chúa Giêsu là Đấng luôn hiện diện bên cạnh các tông đồ và bên cuộc đời chúng ta, xin thương đến những cảnh đời đầy khó khăn thử thách của kiếp người chúng ta. Amen.
32. Vẫn chưa có lòng tin?
(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Nằm trong văn mạch 4:35-5:43, trình thuật 4:35-41 là một trong những đoạn trình bày quyền năng của Chúa Giêsu được biểu lộ cho các môn đệ sau khi Người đã giảng dạy (4:1-34): giải thoát khỏi nguy hiểm sự chết (4:35-41); khỏi quyền lực thù nghịch với Thiên Chúa (5:1-20), khỏi bệnh tật (5:25-34), và khỏi sự chết (5:21-24.35-43). Điểm chung của các trình thuật nầy là: - sự hiện diện của các môn đệ ( 4:35; 5:13; 5:31.37); - sự bất lực của con người - cầu cứu ở Chúa Giêsu (4:38; 5:3; 5:23; 5:26); - Chúa Giêsu giải thoát mọi sự dữ (4:39; 5:12-13; 5:29; 5:41tt); - Người đòi hỏi lòng tin (4:40; 5:34.36). Cấu trúc của đoạn 4:35-41 có thể phân ra như sau: 1- Nhập đề: bối cảnh và nhân vật (cc. 35-36); 2- Chúa Giêsu làm sóng gió lặng yên (cc. 37-29); 3- Kết luận: Thắc mắc của cả Chúa Giêsu và các môn đệ (cc. 40-41).
Câu 4:34 là móc nối giữa hai đoạn 4:1-34 và 4:35-5:43. Như khi ở riêng với các môn đệ, Chúa Giêsu đã thường cắt nghĩa mọi sự cho họ, Người cũng sẽ tỏ chân dung của Người qua những việc quyền năng Người thực hiện khi Người và họ đã tách khỏi dân chúng (x. 3:9.20.32; 4:1). Họ cần “ở với Người” (c. 36) như lần đầu tiên họ được kêu gọi để có thể có kinh nghiệm sâu đậm về Người (3:14; x. 5:37). “Buổi chiều” trong Marcô thường là khung cảnh của những việc không tốt lành sẽ xảy đến (4:35; x. 6:47; 11:11; 14:17; 15:42). Đây là lần duy nhất Marcô nói là các môn đệ “đem Người theo” (paralambano). Động từ nầy nói đến quan hệ giữa Chúa Giêsu-môn đệ. Thông thường Người đem các môn đệ theo để tỏ cho họ chân tính của Người (9:2), cho họ hiệp thông vào cuộc thương khó của Người (10:32; 14:33). Ngược lại, các môn đệ đem Người theo và cuối cùng tỏ lộ cho Người thấy sự yếu đuối của họ (4: 40).
Trong hành trình sang bờ bên kia, các môn đệ kinh nghiệm ba điều: vũ lực của gió bão kéo theo nguy hiểm chết người, sự bất lực của con người và quyền năng của Chúa Giêsu (cc. 37-39). Gió bão được kể là quyền lực thù nghịch gây hại cho con người. Chúa Giêsu ngăm đe và ra lệnh “Im đi!” cho ma quỷ và gió bão (x. 1:25; 3:12; 4:38; 8:33; 9:25). Các môn đệ thấy lâm nguy cho tất cả “chúng ta”, nhưng lại tỏ ra bất lực chế ngự gió bão, nên phải làm Người chỗi dậy (egeirò). Mỗi lần Chúa Giêsu “làm ai chỗi dậy” là Người đã chữa lành người đó (x. 1:31; 5:41; 9:27). Trái lại, các môn đệ chờ đợi sự can thiệp từ phía Người. Việc Người ngủ trong khi thuyền gặp bão tố cho thấy Người không sợ bị hại do những gì có thể xảy ra (x. 13:36; 14:37.40tt). Không cần ngăn ngừa và tránh né, vì Người làm chủ trên gió bão.
Khi gió bão đã biến mất, Chúa Giêsu đặt câu hỏi với các môn đệ, cũng như họ cũng tự hỏi về Người là ai. Hai câu hỏi của Người không mâu thuẫn nhau; trái lại, mở một con đường. Trong tình huống gió bão có thể gây chết người, vì đã để mình cuốn lôi bởi vũ lực vô nhân tính, nên các môn đệ đã cảm nghiệm cách thâm sâu sự bất lực mà biểu hiện của nó là sự sợ hãi. Trái lại, cũng trước nguy hiểm ấy, nếu để Chúa Giêsu và sự hiện diện của Người dẫn dắt vô điều kiện, sẽ không cảm thấy bị đe dọa và không sợ hãi. Đó là đức tin vô điều kiện Người muốn nơi môn đệ của Người (x. 11:22). Còn câu tự hỏi của các môn đệ rất giống với những câu hỏi của dân chúng trước đây, chỉ sự kinh ngạc và thán phục trước công cuộc cao cả tỏ hiện quyền năng của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu (x. 1:27).
Biết Chúa Giêsu không chỉ bằng tri thức, mà cả kinh nghiệm bản thân. Đức tin cần thiết để nhận biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đang thực hiện những điều không thể cho con người, và để sống hiệp thông với Người (x. 4:11).
33. Lạy Thầy cứu chúng con với, chết mất
(Suy niệm của Lm. Thu Băng, CRM)
1. Lo sợ và tin tưởng
Kinh nghiệm cho thấy Sợ hãi vẫn đi theo đời sống của con người và mỗi chặng đường cuộc sống là một cái gì đó làm cho con người sợ hãi.
Từ cái sợ mơ hồ của thời còn nhỏ như:
* Sợ người lớn, sợ bóng gió, sợ con vật.
Đến cái sợ chính đáng của tuổi trưởng thành:
* Sợ thất nghiệp, sợ gia đình phân tán, sợ thiên tai, sợ chiến tranh, sợ chết...
Câu chuyện của Phêrô đi trên biển hôm nay gợi lại cho chúng ta thấy phần nào cái sợ của con người và niềm tin mỏng manh vào Chúa.
a. Sợ hãi chiếm một địa vị khá lớn trong cuộc sống:
- Đứng trước một nghịch cảnh, ta thấy lòng nao nao rung động.
- Nhìn núi cao hùng vĩ, ngó vực thẳm hun hút, chân đứng trên đá vững chắc cũng vẫn thất run run trong lòng.
- Gặp một con thuyền lạ tiến đến với súng ống lăm le chĩa vào thuyền, ta thấy nguy cho tính mạng.
- Một tiếng động trong đêm hoang vắng làm ta lạnh xương sống.
- Nhìn vào thực tại cuộc sống còn biết bao nhiêu cái lo cái sợ khác nữa: Thất nghiệp lấy gì mà trả tiền nhà? Sợ thiếu thuốc men, sợ bệnh tật, sợ con hư thân, sợ cả bà nội tướng la nữa... Sợ hãi chỉ vì lúc đó cái ý tưởng nguy nan ám ảnh làm ta mất bình tĩnh, tâm thần rối loạn.
b. Ngước nhìn về lịch sử con người từ thời thượng cổ:
- Ađam Evà cũng đã mang cái sợ khi lỗi luật Chúa: Ăn trái cấm, trần truồng nên không dám bước ra khỏi bụi cây (Gen 3:9-10).
- Con trẻ sơ sinh vừa lọt lòng mẹ đã cảm thấy sợ hãi mà khóc.
c. Sợ có nhiều cấp bậc và nhiều phương diện:
- Kẻ bạo động giết người vì sợ người khác giết mình.
- Kẻ độc tài như Tần Thủy Hoàng tàn sát, đốt làng vì sợ dân hại mình.
- Các cường cuốc trên thế giới võ tranh ráo riết cũng vị sợ mình bị tiêu diệt.
- Tóm lại, thế giới này là thế giới sợ hãi, ngoại trừ kẻ điếc không sợ súng còn chúng ta ai cũng sợ cả.
Nhưng phải nhận thực: Chỉ nên sợ cái nào đáng sợ, lại phải biết trấn át sợ hãi để mình bình yên.
- Chúa Kitô sau khi truyền cho sóng gió im lặng, Ngài bảo các môn đệ: "Sao các con sợ? Các con không có đức tin ư?" Điều đó không khác gì Ngài nói: "Các con không biết Thầy ở cùng thuyền sao? Các con không biết Thầy có quyền năng lấn át gió biển sao? Thầy đã chẳng cho Phêrô đi trên mặt biển đến với Thầy sao? Vậy sao các con sợ chìm thuyền?"
2. Có Chuyện kể rằng:
a. Một người làm xiệc rất giỏi, ông đi trên một sợi dây từ nóc nhà này qua nóc nhà kia, hai tay kẹp thêm hai người nữa. Ông vừa đi vừa nhảy mà không sao cả. Hai người hai bên còn cười và dẫy dụa mua vui cho khán giả.
Nhìn xuống dưới đất, ông làm xiệc thấy em bé đứng há hốc miệng nhìn lên cách thú vị. Ông hỏi: "Em có tin tôi cũng bế em trên dây được không?" Em trả lời: "Tôi tin chứ". Nhưng khi ông làm xiệc tới gần, em bé liền chạy mất. Đó là tin tưởng ngoài miệng nhiều hơn là tin tưởng trong lòng. Còn kẻ tin tưởng thật vào Chúa thì khác.
Một Chuyện khác:
b. Một cậu bé 5 tuổi đang ngủ ngon trên thuyền, bỗng thức giấc vì bão nổi lên. Cậu mở mắt thấy mọi sự đang chìm trong bóng tối. Tiếng gió lách qua khe cửa rít lên từng cơn. Bỗng bé xao động, cậu hoảng hốt goị cha:
- Cha ơi. Cha ơi! Con sợ quá.
Người cha nghe tiếng con hối hả đáp lời:
- Cha đây con. Nghe tiếng cha cậu đáp vọng lại: Cha đâu? Con không thấy?
Cậu đưa tay quờ quạng lung tung. Đụng được vào cha, cậu níu lất cha. Cha ôm con vào lòng, vỗ về và ru cậu ngủ lại trong giấc ngủ lại.
Mặc dù trời vẫn mưa, bão vẫn lớn, màn đêm vẫn dầy đặc, nhưng sợ hãi trong lòng cậu bé không còn nữa.
Trong những ngày đau khổ của cuộc sống trần gian, những lúc hiểm hoạ cuộc đời, chớ gì chúng ta cũng biết cầu cứu Chúa với niềm tin, một niềm tin phó thác. Chỉ vậy thôi, không cần gì hơn nữa, chúng ta sẽ cảm thấy an tâm với cuộc sống.
Chúa sẽ không cất lấy sự lo lắng của chúng ta cho tới khi ta quyết định phó thác cho Ngài.. Lăng xả vào lòng Ngài và Ngài sẽ vỗ về ta vào trong giây phút bình an. Chúa không chịu thua chúng ta khi chúng ta biết phó thác nơi Ngài.
34. Bão tố yên lặng
(Suy niệm của Lm. Minh Vận, CRM)
Lịch sử tường thuật một phép lạ sau đây: Khi Đô Đốc Magella hướng dẫn đoàn tầu thám hiểm Phi Luật Tân, vừa ra giữa biển khơi thì gặp cơn bão dữ dội, khiến đoàn tầu đắm chìm hầu hết, chỉ còn duy chiếc tầu của Đô Đốc đang bồng bềnh trôi dạt trên sóng nước. Mọi người đều kinh hoàng khiếp sợ, tụ họp lại trên bong tầu để chờ đợi tử thần. Nhìn thấy bên cạnh mình, một thiếu phụ ẵm đứa con thơ, Đô Đốc xin được ẵm đứa bé. Rồi ông bồng nó trên tay, dâng lên trời cao và dâng lời cầu nguyện thống thiết lên Chúa: "Lạy Chúa, chúng con là những kẻ tội lỗi, đáng chết chìm dưới vực thẳm này, nhưng xin Chúa hãy đoái thương nhìn đến em bé thơ ngây vô tội này, mà tha thứ tội lỗi cho chúng con". Lịch sử xác nhận sự kiện lạ lùng này bằng lời chứng: "Lời ông nguyện vừa dứt thì cơn bão tố yên lặng" (Trích sách "Gặp Gỡ Chúa" trang 94).
I. TẠI SAO CHÚNG CON SỢ HÃI
Cũng một tâm trạng hoảng sợ như đoàn thám hiểm của Đô Đốc Magella trên đây, các Tông Đồ cũng hãi hùng kinh khiếp khi thấy phong ba nổi lên dữ dội, khiến các ngài tới đánh thức Chúa dậy và có vẻ trách giỗi Chúa: "Thưa Thầy, chúng con hầu chết chìm mà Thầy cứ làm ngơ, không quan tâm gì sao?" Chúa chỗi dậy ngay và quát bảo giông tố: "Hãy im đi! Hãy im đi!" Với lời uy quyền đó của Chúa, lập tức giông tố ngừng và biển lặng như tờ. Quay lại nhìn các môn đệ, Chúa hỏi như quở trách các ông: "Tại sao các con sợ hãi? Các con không có Đức Tin ư?" Thấy phép lạ Chúa làm, lại được nghe lời Chúa khiển trách, các Tông Đồ tự cảm thấy hổ thẹn vì thiếu lòng tin nơi Thầy, nên các ngài kinh hãi nói với nhau: "Người là ai mà gió bão và giông tố cũng đều phải vâng lệnh Người?"
II. TRẦN GIAN LÀ BIỂN KHƠI
Trần gian là biển khơi, lúc phẳng lặng, lúc gợn sóng, lúc phong ba giông tố. Nhân loại như đoàn lữ hành vượt biển, cầu mong tới bến bình an.
Trần gian lúc được sánh ví như là biển khổ, như thung lũng nước mắt; như nơi giao chiến với biết bao kẻ thù, phải vật lộn vất vả, đổ mồ hôi sôi nước mắt vì sinh kế.
Nhưng với cái nhìn hy vọng và lạc quan, Thánh Tông Đồ Phaolô đã nói với chúng ta: "Đây là thời thuận tiện, đây là ngày cứu độ" (1 Cor 6:2). Như thế, thời gian Chúa ban cho chúng ta được sống trên trần gian này, lại không phải là một ơn ban, một cơ hội thuận tiện giúp chúng ta lập công luyện đức, để thánh hóa bản thân và cứu độ tha nhân, cùng nhau phụng sự tôn thờ và yêu mến Thiên Chúa để đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu mà Chúa đã sắm sẵn cho chúng ta là con cái Chúa trên Quê Trời sao?
Toàn thể nhân loại, nhất là con cái Chúa, sống trên trần gian này là như đoàn lữ hành đang trên đường tiến về Quê Hương vĩnh cửu, lòng luôn khát mong đạt tới bến bình an, nơi hạnh phúc, nơi mà lòng chúng ta được toại nguyện, được thỏa mãn trong Chúa là cùng đích tối chung của chúng ta.
Kết Luận
Để đạt tới cùng đích mong chờ của ơn gọi làm con cái Thiên Chúa, chúng ta cần phải đặt trót niềm tin cậy phó thác nơi một mình Chúa. Có Chúa hiện diện nơi cuộc sống, được Chúa ngự trong tâm hồn, chúng ta còn sợ hãi gì? Chúa đã chết thay cho chúng ta, để tái sinh chúng ta trong ơn thánh, cho chúng ta được phục hồi ơn làm con cái Chúa nhờ công nghiệp Ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu Kitô Con Chúa, chúng ta còn sợ hãi gi?
Vậy chúng ta hãy sống cho Chúa, hãy biến đổi và trở nên một tạo vật mới của Chúa. Nếu chúng ta có tâm hồn trong sạch thánh thiện, luôn sống trong ơn nghĩa Chúa, giông tố bão táp có nổi lên mạnh mẽ thế nào đi nữa, đời sống chúng ta cũng sẽ luôn được an bình và được thưởng nếm niềm vui sướng hạnh phúc chân thật của Chúa ngay trên trần gian này.
35. Suy niệm của Lm Trọng Hương.
A. Hạt giống...
Phép lạ dẹp yên bão tố này chứng tỏ uy quyền của Chúa Giêsu trên sức mạnh thiên nhiên:
- Những chi tiết mô tả sức mạnh của thiên nhiên: một trận cuồng phong, sóng ập vào thuyền, thuyền đầy nước, các môn đệ hoảng sợ.
- Những chi tiết mô tả sức mạnh ưu việt của Chúa Giêsu: Ngài vẫn ngủ, Ngài hăm đe gió và truyền lệnh cho biển, sau chỉ một lời truyền của Ngài gió liền tắt và biển lặng như tờ; sau phép lạ các môn đệ hỏi nhau “Người này là ai mà cả đến gió lẫn biển cũng tuân lệnh”.
B.... nẩy mầm.
1. Vì Chúa là chúa tể của thiên nhiên nên khi nhìn thiên nhiên, chúng ta phải dâng lời ca tụng Chúa. “Chúc tụng Chúa đi, nguồn nước tận cao xanh; Chúc tụng Chúa đi mọi cơ binh thượng giới; Chúc tụng Chúa đi mặt trời với mặt trăng; Chúc tụng Chúa đi hỡi tinh tú muôn ngàn; Chúc tụng Chúa đi nào mưa sương tất cả; Chúc tụng Chúa đi mọi luồng gió cơn giông; Chúc tụng Chúa đi sức nóng với lửa hồng; Chúc tụng Chúa đi trời nồng và khí lạnh; Chúc tụng Chúa đi nào sương đọng mưa tuôn; Chúc tụng Chúa đi kìa thời đông tiết giá; Chúc tụng Chúa đi nào băng phủ tuyết rơi; Chúc tụng Chúa đi hỡi đêm ngày đắp đổi; Chúc tụng Chúa đi ánh sáng và bóng tối; Chúc tụng Chúa đi chớp giật với mây trôi...” (Tv 62: Kinh Sáng Chúa nhựt Tuần I).
2. Sức mạnh thiên nhiên cũng là những hiện tượng tự nhiên xảy đến trong cơ thể ta. Thí dụ: lúc ta khoẻ khi ta bệnh, khi ta trẻ lúc ta già... Có lúc sức khoẻ suy sụp làm ta tưởng mình đang trên một chiếc thuyền gặp cuồng phong bão táp. Và khi đó hình như Chúa vẫn ngủ. Nhưng thực sự Ngài không ngủ, Ngài vẫn là người lèo lái dẫn dắt thuyền đời của ta. Hãy phó thác cho Ngài dẫn dắt.
3. Thi sĩ Lord Tennyson và một người bạn đang đi dạo trong vườn hoa và cùng nhau trao đổi về những chủ đề thời thượng của quần chúng. Là một Kitô-hữu, người bạn muốn biết thái độ của thi sĩ đối với đức Kitô. Sau mấy giây thinh lặng, người bạn hỏi: “Anh có khi nào nghĩ về đức Kitô không?” Tennyson đưa tay ngắt một bông hoa rực rỡ toả hương bên đường, nói: “Như mặt trời đối với đoá hoa thế nào, thì đức Kitô đối với tôi cũng vậy.” (Góp nhặt)
36. Bão biển – Lm VIKINI
Cơn bão số hai đổ bộ vào tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng từ chiều 24 đến 25 tháng 05 năm 1989, sức gió giật cấp 12 kèm theo mưa to đổ xuống như thác. Đây là cơn bão mạnh nhất từ trước đến nay ở tỉnh này. Thống kê đầu tiên cho biết gần 500 người bị chết và mất tích. Hàng trăm người bị thương, hàng vạn ngôi nhà, nhiều trường học, bệnh viện, trạm trại, kho tàng … bị sụp đổ, hàng nghìn tầu thuyền bị chìm, hư hỏng, thất lạc. Trên 50.000 mét khối kinh mương thủy lợi bị vỡ lở … Bị tổn thất rất to lớn chưa thể tính hết được.
Chỉ một cơn bão ở một miền nhỏ so sánh với cả nước, và nếu sánh với cả địa cầu nó chỉ là một chấm nhỏ đã phải chịu một cơn bão khủng khiếp như thế, thì trên trái đất này còn phải chịu bao nhiêu cơn bão khủng khiếp đến chừng nào! Biển cả đối với loài người vẫn là mối nguy cơ lớn đe dọa ghê gớm, một mãnh lực không thể chế ngự được. Trước nguy cơ của biển, con người quá bé nhỏ mong manh không ai dám cậy tài, cậy sức vào bất cứ một con tàu nào, dù nó là con tàu khổng lồ như Titan, hay tối tân như con tàu nguyên tử, chỉ đụng sơ vào tảng băng, đá ngầm đều vỡ tan, chìm mất tích dưới đáy đại dương.
Biển hồ Tibêria xưa tới nay vẫn nổi tiếng sóng gió đột ngột nổi lên dữ dội do những luồng gió thổi từ cao nguyên Giôlăng tới. Thêm vào đó, thời các tông đồ, thuyền bè chỉ là mấy miếng gỗ, tre, nứa thô sơ, khi gặp bão biển, chỉ còn cách nộp mình cho thần chết. May cho các môn đệ, các ông đã biết Đức Giêsu, Đấng đã trừ khử quỷ dữ (Mc. 1, 25), Đấng chế ngự thần chết (Mc. 5, 35-43), Ngài đang ngủ ở đàng sau thuyền, chắc chắn sẽ khắc phục được bão biển.
Nhưng sao Ngài vẫn ngủ yên trước cuồng phong dữ dội? Thật lạ lùng! Các ông không thể kiên nhẫn chờ Ngài thức dậy. Sóng đã ập vào thuyền đầy tràn nước rồi, mau mau chạy đến kêu gào Ngài cứu nguy: “Lạy Thầy, xin Thầy cứu vớt, chúng con chết mất”.
Chìm thuyền, chết đến nơi rồi, thế mà Ngài còn than trách: “Sao nhát đảm, hỡi kẻ yếu lòng tin?”. Lòng tin quá yếu, nhưng các ông vẫn còn một chút tin tưởng cầu xin Ngài, nhờ đó, Thầy đã quát bảo bão biển phải im lặng ngay. Kinh ngạc bao nhiêu, Ngài là ai mà bão tố, sóng gió biển cả phải tuân lệnh. Thứ mãnh lực vô tri, vô giác, sao biết nghe lời Ngài? Sao những thứ có tri, có giác, không biết nghe lời Ngài mà lặng yên đi, đừng nổi loạn nữa? Tại sao loài người dám nổi loạn chống lại Ngài? Phải chăng họ cậy có tri, có giác, có tài? Vì cậy có tri, có giác, có tài nên đã bị những thứ vô tri, vô giác, vô tài nổi loạn chống lại loài người. Chừng nào loài người mới biết mở mắt ra thấy mình quá yếu đuối, quá bất lực trước thiên nhiên vô tri giác, lúc đó loài người mới biết chạy đến cầu cứu Đấng đã dựng nên và an bài mọi sự. Thiên Chúa nhiều lần đã dạy cho loài người những bài học đích đáng như đại hồng thủy, động đất, cháy rừng, hạn hán, bệnh tật để đừng bao giờ dám cậy mình đòi bằng Thiên Chúa hay chối bỏ Ngài.
Các môn đệ, phải chăng lúc ra khơi cũng tự mãn cho mình là dân biển lành nghề, chẳng sợ chi ai, mặc kệ Thầy nằm đó, Thầy đang nhờ cậy ta vượt biển! Viết đoạn Phúc Âm này, Marcô không phải chỉ giản dị kể lại một phép lạ, mà chủ đích làm nổi bật câu hỏi: “Ngài là ai mà bão và biển phải tuân lệnh?”. Không phải Ngài vô tình dẫn môn đệ sang bờ biển đối diện bên kia, miền đất của lương dân thù địch với Galilê, miền đất của dân Do thái. Suốt cuộc đời Ngài phải trải qua những cuộc chiến gay go chống lại kẻ tin ma thờ quấy, sự dữ, tội lỗi, bệnh tật và cái chết khốc liệt. Những sự dữ đó Kinh thánh thường gọi đêm tối, vực sâu biển cả, Ngài ngủ trong đêm tối giữa biển cả trần gian, bao nhiêu cuồng phong bão lực đang phá xiềng, phá xích, xổ lồng tung hoành khủng khiếp. Giấc ngủ kinh hoàng của Ngài là cuộc thương khó; Ngài ở đàng lái, cuối thuyền, dựa đầu vào gối mà ngủ giữa đêm bão biển. Cuối đời Ngài, Ngài cũng phải dựa đầu vào cây thập giá mà chết giữa những địch thù khát máu. Hôm nay, giữa bão biển đêm tối, Ngài muốn thao dượt đức tin non yếu của các ông, để ngày mai giữa cơn khủng hoảng thương khó của Ngài, các ông “đừng sợ”. Nhưng các ông vẫn khiếp sợ chạy trốn. Phúc cho các ông, Ngài thức dậy, dẹp yên sóng gió. Ngài chỗi dậy từ trong kẻ chết cho các ông được bình an! được chỗi dậy với Ngài trong vinh quang, Ngài bảo trước cho Phêrô: “Khi con chỗi dậy, con hãy làm cho anh em con nên vững mạnh” (Lc. 22, 32).
Giờ đây Phêrô đang kể lại kinh nghiệm sống chết này cho giáo đoàn Rôma đang lâm cảnh cuồng phong bão táp gây nên cảnh chết chóc tử đạo khốc liệt để họ kiên trì vững mạnh trong đức tin mà biết dựa đầu vào Đức Giêsu mà chỗi dậy trong “Đấng đã chết và sống lại vinh quang vì họ” (2Cr. 5, 17).
Lạy Chúa, biển đời đầy dẫy những nguy hiểm: “nguy hiểm về sông ngòi, nguy hiểm về trộm cướp, nguy hiểm về đồng bào, nguy hiểm về dân ngoại, nguy hiểm nơi thành thị, nguy hiểm chốn hoang vu, nguy hiểm trên biển cả, nguy hiểm vì anh em giả dối … nào ai yếu đuối mà tôi không yếu đuối? Ai vấp ngã mà tôi không bỏng xót!” (2Cr. 11, 26-29).
Lạy Chúa xin cho chúng con biết dựa đầu vào Chúa mà chỗi dậy luôn luôn.
37. Những đợt sóng
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Có lẽ chẳng ai lạ gì với câu ca dao này: “Người ta đi biển có đôi, còn tôi đi biển mồ côi một mình”. Đó là nói về tình trạng một phụ nữ có chồng nhưng chẳng nhờ chồng được gì, cứ phải mình ên lo toan mọi thứ cho gia đình.
Nói đến sóng là nói đến nước, sông và biển. Sóng có nhiều loại: Sóng lớn (to), sóng nhỏ, sóng cao, sóng thấp, sóng cồn, sóng cả, sóng bạc đầu, sóng thần,… Sóng còn mang nghĩa khác như sóng truyền hình, sóng phát thanh, sóng điện từ,… thậm chí còn gọi là làn sóng người. Chắc hẳn nguy hiểm nhất và đáng sợ nhất là sóng cám dỗ, sóng tội lỗi, sóng mê đắm, sóng thù hận,… Các xu hướng xấu càng ngày càng xuất hiện nhiều, đó cũng là những “con sóng” nguy hiểm cần phải lưu ý!
Về điện tử, sóng còn gọi là bước sóng, có chuyển động với tần số dài hoặc ngắn, và có tác dụng khác nhau. Ví dụ: Sóng phát thanh có tần số ngắn thì có thể phát đi xa, sóng phát thanh có tần số dài thì có thể phát đi gần. Trong vật lý, sóng là sự lan truyền của dao động, sóng có thể mang theo năng lượng, lan truyền trong nhiều môi trường khác nhau, cũng có thể bị đổi hướng (bởi khúc xạ, phản xạ, tán xạ, nhiễu xạ,...), và có thể thay đổi năng lượng (bởi hấp thụ, bức xạ,...), thậm chí là thay đổi cấu trúc (như thay đổi tần số, môi trường phi tuyến tính,...).
Trong ca khúc “Sóng Về Đâu”, cố NS Trịnh Công Sơn đã từng nói với biển: “Biển sóng biển sóng đừng xô tôi, đừng xô tôi ngã dưới chân người; biển sóng biển sóng đừng xô nhau, ta xô biển lại sóng về đâu?”.
Sóng là hình tượng của nỗi gian truân, cực khổ của con người. Không ai muốn gặp đau khổ, nhưng chính đau khổ mới làm cho người ta thành nhân. Vả lại, thử thách càng lớn, cơ hội càng lớn. Ngạn ngữ Phi châu có câu: “Biển lặng chẳng tạo nên thủy thủ tài ba”. Tục ngữ Việt Nam cũng nói: “Lửa thử vàng, gian nan thử sức”. Chính gian khổ cho chúng ta biết ai là người đáng là thầy ta hay không.
Thomas Carlyle (1795-1881, triết gia, nhà văn châm biếm, nhà viết luận, sử gia và nhà giáo người Tô Cách Lan) đã nhận định: “Tai ương là bụi kim cương mà Thiên Đường dùng để đánh bóng châu báu” (Adversity is the diamond dust that Heaven polishes its jewels with).
Từ cổ chí kim – và có thể cho đến tận thế, có lẽ không ai phải lao đao chịu khốn khổ như Thánh Gióp, thậm chí còn bị Satan thử thách đủ kiểu (Sách Gióp, chương 1). Nhưng dù thế nào thì ông Gióp vẫn một niềm tín trung. Và rồi ngay giữa cơn bão táp, Đức Chúa đã lên tiếng trả lời ông: “Cửa đại dương, ai ra tay khép lại khi nước tuôn trào từ đáy vực sâu, khi Ta giăng mây làm áo nó mặc, phủ sương mù làm tã che thân? Đường ranh giới của nó, chính Ta vạch sẵn, lại đặt vào nơi cửa đóng then cài” (G 38:8-10). Rồi Thiên Chúa nói với ông Gióp: “Ngươi chỉ tới đây thôi, chứ không được tiến xa hơn nữa, đây là nơi các đợt sóng cao phải vỡ tan tành!” (G 38:11).
Trong tâm tình tạ ơn vì được Thiên Chúa giải thoát, tác giả Thánh Vịnh cho biết: “Họ vượt biển ngược xuôi nghề thương mãi, giữa trùng dương lèo lái con tàu, mắt đã tường việc Chúa làm nên và kỳ công Người thực hiện giữa dòng nước lũ. Chúa truyền lệnh khiến bùng lên bão táp, lớp sóng xô cuồn cuộn dập dồn. Họ nhô lên tận trời, nhào xuống vực sâu, lúc nguy hiểm, hồn xiêu phách lạc, bị quay cuồng, lảo đảo như say, khéo cùng khôn đã chìm đâu mất” (Tv 107:23-27). Thiên Chúa là Tạo Hóa, là Đấng cầm quyền sinh tử, Ngài có quyền “đẩy xuống âm phủ rồi lại kéo lên” (1 Sm 2:6). Quả thật, đúng như ông Gióp nhận định: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa!” (G 1:21). Xác định được như ông Gióp thì không gì phải lo. Nhưng muốn được vậy, vấn đề quan trọng là chúng ta có dám chấp nhận thân phận mình mà vẫn chúc tụng Chúa hay không. Điều này không dễ chút nào!
Có tin tưởng thì mới trung thành, và ai trung thành thì chắc chắn không phải thất vọng. Tác giả Thánh Vịnh nói về những người thành tín với Thiên Chúa: “Khi gặp bước ngặt nghèo, họ kêu lên cùng Chúa, Người đưa tay kéo họ ra khỏi cảnh gian truân. Đổi phong ba thành gió thoảng nhẹ nhàng, sóng đang gầm, bỗng đâu im tiếng, họ vui sướng, vì trời yên bể lặng và Chúa dẫn đưa về bờ bến mong chờ. Ước chi họ dâng lời cảm tạ vì tình thương của Chúa, và vì những kỳ công Chúa đã thực hiện cho người trần” (Tv 107:28-31).
Thánh Phaolô cho biết: “Tình yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi, vì chúng tôi nghĩ rằng: nếu một người đã chết thay cho mọi người thì mọi người đều chết. Đức Kitô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình” (2 Cr 5:14-15). Tình yêu có sức mạnh hơn cả tử thần, khả dĩ khiến người ta làm được những điều lạ lùng, ngỡ như không bao giờ làm được. Tình yêu biến đổi tất cả. Vì yêu thương mà người mẹ liều lấy thân mình che cho đứa con dù biết mình sẽ bị thương hoặc thiệt mạng. Vì yêu thương mà Thánh Lm Maximilian Maria Kolbe (1894-1941, Dòng Phanxicô) đã dám chết thay cho một tử tù. Đó là tình yêu vị tha (vì người khác) chứ không hề có chút gì vị kỷ (vì mình).
Loại tình yêu cao thượng như vậy được Đức Kitô gọi là “tình yêu vĩ đại nhất” (Ga 15:13). Và chính Ngài đã thể hiện tình yêu này vì yêu thương và để cứu độ các tội nhân chúng ta: Ngài bị đóng đinh vào Thập Giá và chết trên đồi Can-vê. Thật hợp lý khi Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta phải “sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình”.
Và vì thế, Thánh Phaolô xác định: “Từ đây, chúng tôi không còn biết một ai theo quan điểm loài người. Và cho dù chúng tôi đã được biết Đức Kitô theo quan điểm loài người, thì giờ đây chúng tôi không còn biết Người như vậy nữa. Cho nên, phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi” (2 Cr 5:16-17). Người ta luôn thích mọi thứ đổi mới (quần áo, vóc dáng, giày dép, điện thoại, xe cộ,…), nhưng có lẽ người ta chưa thực sự quan tâm việc đổi mới tâm hồn, đặc biệt là tâm linh. Chúng ta đã được Đức Kitô đổi mới, nhưng chúng ta chưa tích cực duy trì sự đổi mới đó nên tâm hồn chúng ta vẫn có cái gì đó “cũ” lắm!
Mỗi khi con sóng duyềnh lên, nó không chỉ “đổi mới” mà còn đem theo phù sa bồi đắp cho vùng đất đó. Tâm hồn chúng ta cũng cần có những đợt sóng mới để đổi mới, để hoàn thiện. Các đợt sóng đó vẫn hằng ngày như thủy triều: Sóng tình yêu, sóng ân sủng, sóng thứ tha, sóng thương xót,… Ước gì “vùng đất” chúng ta để cho Sóng Tình Chúa biến đổi bất cứ lúc nào!
Trình thuật Tin Mừng hôm nay là đoạn Mc 4:35-40, nói về việc Đức Giêsu dẹp yên sóng gió (tương đương Mt 8:23-27 và Lc 8:22-25).
Hôm ấy, khi chiều đến, sau khi giảng dạy cho dân chúng về một loạt các dụ ngôn (người gieo giống, ngọn đèn, cái đấu, hạt giống tự mọc, hạt cải), Đức Giêsu bảo các môn đệ cho thuyền sang bờ bên kia. Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Ngài đi, có những thuyền khác cũng chèo đi theo Ngài. Bỗng dưng một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước. Trong khi đó, Đức Giêsu đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ thấy Thầy “vô tư” thế không biết, nên họ vội đánh thức Ngài, gọi giật dậy và hốt hoảng la toáng lên: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”.
Có lẽ chúng ta cũng như các môn đệ xưa, chứ chẳng “ngon lành” gì hơn ai, ở ngay bên Thầy Giêsu mà vẫn chưa thấy an tâm khi gặp giông tố cuộc đời. Gọi như điện giật thế thì ai mà chợp mắt nổi. Ngài thức dậy, rồi ngăm đe gió, và truyền cho biển phải “im ngay và câm ngay”. Thế là gió liền tắt, và biển lặng như tờ.
Đâu vào đấy rồi, Ngài nghiêm mặt và nghiêm trách các ông: “Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”. Họ chỉ có nước ngậm tăm chứ nói chi được. Đúng quá mà! Cãi gì nổi? Các ông hoảng sợ – vừa sợ vì thấy phép lạ vừa sợ vì Thầy mắng thẳng, rồi họ xì xầm với nhau: “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”. Theo Thầy vì tin Thầy hay thích điều gì ở Thầy mà giờ này còn hỏi nhau “người này là ai” vậy chứ?
Vâng, thật buồn! Buồn cho họ và buồn cho chính chúng ta, vì chúng ta cũng vẫn “thắc mắc” như vậy, dù chúng ta không nói ra thôi. Chúa Giêsu cũng buồn, Ngài không buồn vì Ngài chưa được chúng ta tin thật, mà Ngài buồn cho đức tin của chúng ta còn non nớt, còn ấu trĩ, chỉ chạy theo “sự lạ” chứ chưa “bén rễ sâu” vào đất-ân-sủng và chưa lưu thông “nhựa” của Cây Nho.
Kinh Thánh đã cho chúng ta biết chắc rằng Thiên Chúa là “Đấng gìn giữ chúng ta, không để chúng ta lỡ chân trật bước”, chắc chắn “Ngài không ngủ quên” và cũng “không chợp mắt ngủ quên” bao giờ (Tv 121:3-4). Thiên Chúa không hề vô tâm vô tính như chúng ta tưởng, đừng suy bụng ta ra bụng người! Miệng thì nói tin, nhưng khi gặp sóng đời duyềnh lên là chúng ta hốt hoảng ngay, mà sóng đời đâu đã to gì cho cam, chỉ mới “lăn tăn” thôi! Chúng ta có đáng trách không nhỉ?
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết vững tay chèo, chống, bát, cậy,... dù sóng đời nhỏ hay to. Chúng con không dám xin Ngài đưa thuyền của chúng con ra khỏi vùng biển động hoặc nước xoáy, nhưng xin Ngài làm Hoa Tiêu hướng dẫn chúng con chèo lái để có thể vượt qua mọi con sóng dữ. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
38. Bão tố – Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
Hôm qua ngồi nghe sư huynh Phong giảng tĩnh tâm tại giáo xứ Lộ Đức, Hoa Kỳ, tôi thấy rùng mình khi thấy những cô bé Việt nam bị bán sang các lầu xanh bên Cambodia. Có những em mới chỉ hơn mười tuổi. Kết quả một số em bị mắc bệnh liệt kháng và đã sớm kết thúc cuộc đời trong hoang lạnh. Có cảnh bé thơ Việt nam bị bán đi với giá hai trăm đô. Nhưng em bị trả lại vì có bệnh liệt kháng. Suýt nữa em đã bị giết ngay trước mặt người mua. May thay, đứng trước cảnh đau lòng đó, người mua đành hy sinh mất hai trăm để cứu mạng em.
Những cảnh tang thương đó đã đập vào mắt các bạn trẻ Việt nam hải ngoại. Sư huynh lạc quan về giới trẻ Việt nam Hải ngoại. Chỉ cần năm ngàn đô để cứu các cô gái kém may mắn. Nhưng các bạn trẻ ở Los Angeles đã lạc quyên được mười lăm ngàn. Với số tiền lớn gấp ba như thế, sư huynh đã hết sức cảm động và đầy tin tưởng xông pha đi tìm đường cứu sống những cô gái đó. Nhiều nơi các bạn trẻ, như tại Lộ Đức, tự động đứng ra rửa xe, lạc quyên, hớt tóc giúp người nghèo khổ, bệnh tật, già nua, xây trường học v.v.
Tất cả những khốn cùng của dân tộc đều do sự nghèo đói. Đứng trước biển cả nghèo đói bao la của dân tộc, nhiều người đã tự hỏi: Thiên Chúa ở đâu? Chúa có biết gì về những khốn cùng của kiếp người không? Chúa đang ngủ hay thức? Thất vọng tràn trề. Thất vọng như những môn đệ của Chúa trên khoang thuyền năm xưa.
Hôm ấy, sau khi rời đám đông sang bờ bên kia (x. Mc 5:35), Chúa Giêsu đã lôi cuốn một số thuyền theo Người. Chắc lúc đó trời yên bể lặng nên các thuyền mới có thể nối đuôi nhau như thế. Các thuyền đi đông vừa vui vừa cảm thấy an toàn khi hữu sự. Chúa Giêsu cũng chỉ là một người ngồi trong khoang thuyền nào đó mà thôi. Gió biển thổi lên mát quá. Chúa chìm vào giấc điệp bao giờ không hay. Chắc Chúa phải ngủ say lắm mới không nghe tiếng các môn đệ đang thi nhau thét gào cùng sóng biển.
Gió rít mạnh. Các con thuyền lắc lư quá đến nỗi nước trào vào đầy khoang thuyền (x. Mc 5:38). Mạnh đến thế mà sóng gió cũng không kéo Chúa ra khỏi giấc nồng. Đó là dấu chứng tỏ, sau một ngày hoạt động mục vụ, Chúa bị dân chúng “quần thảo” dữ dội lắm. Nhưng như thế mới biết tâm hồn Chúa bình an chừng nào! Quả thế, “ai có tâm hồn trong sạch, mới ngủ được. Và ai ngủ được đều có tâm hồn trong sạch.”(Péguy 1962:27) Đố ai ngủ được như Chúa!
Nhưng Chúa càng bình an, các môn đệ càng bấn loạn lên. Bao nhiêu chiếc thuyền vẫn không thể nương dựa nhau trong cơn sóng bão. Bao nhiêu ngư phủ lành nghề vẫn không đủ tài trí bảo đảm an toàn cho bấy nhiêu sinh mạng đang treo sợi mành. Vận dụng hết năng lực vẫn không tát hết nước ra khỏi các khoang thuyền. Tình hình càng lúc càng nguy ngập. Bí quá, các môn đệ mới chợt nhớ đến Thày như giải pháp cuối cùng. Các ông vội vàng đến kéo Chúa ra khỏi giấc nồng. Các ông không ngại gài thêm một lời trách móc: “Thày ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thày chẳng lo gì sao?” (Mc 5:38) Đối với các ông, Thày thuộc loại người “vô ăn vô lo.” Sao Thày vô tư đến thế?!
Choàng tỉnh khỏi giấc nồng, Thày liền bắt tay vào việc. Các ông nghĩ, nếu mình không đánh thức, chắc chìm xuống đáy biển Thày vẫn còn ngủ. Nhưng thực ra, họ đánh thức Thày, hay Thày đánh thức họ? Thực tế, họ còn ngủ sâu hơn Thày nữa. Họ ngủ vùi trong sự hèn nhát và vô tín (x. Mc 5:40). Bởi vậy, sau khi dẹp tan biển cả, Chúa lôi các ông ra khỏi cảnh tối tăm. Té ra, chính họ mới cần đánh thức, chứ không phải Chúa. Chứng kiến cảnh Chúa ra tay uy quyền trên biển cả, họ mới ngạc nhiên về quyền năng vô biên của Chúa. Từ đó, họ mới biết Chúa là ai.
Nếu chỉ là người phàm, hẳn Chúa không thể nào có quyền năng lớn lao như vậy. Trước sức mạnh biển cả, họ mất bình tĩnh. Nhưng trước quyền năng của Chúa, họ mới “hoảng sợ.” (Mc 5:41) Biển cả có gầm thét cũng chỉ làm cho các ông đâm lo vì sự bất lực của mình. Nhưng quyền năng Chúa mới thực sự làm cho các ông phải đứng trước một thần lực lớn lao trổi vượt hơn thủy thần như Bơhêmốt, Giao long, Raháp. Biển cả vẫn là nơi quỷ dữ hoành hành. Như thế, “Chúa Giêsu chứng tỏ thần lực của Người trên quyền lực sự dữ.” (Các Giờ Kinh Phụng Vụ 2005:184) Nếu không là Thiên Chúa, làm sao Chúa Giêsu có thể có quyền toàn năng đến như vậy?!
Đứng trước những thống khổ mênh mông như biển cả của hàng triệu người Do thái đã bị Đức Quốc Xã tiêu diệt hồi thế chiến thứ hai, ĐGH Bênêđictô XVI cũng đã ngạc nhiên về sự im lặng của Chúa. Có lẽ cũng như các môn đệ trên biển cả, ĐGH cũng thắc mắc: “Thày chẳng lo gì sao?” (Mc 5,38) Câu hỏi đó đã dẫn nhiều người xa Chúa. Nhưng cũng chính thắc mắc đó lại đặt môn đệ trước một mầu nhiệm vô cùng lớn lao. Mầu nhiệm này vượt quá khả năng con người. Bởi thế, muốn đi sâu vào mầu nhiệm đó, con người phải có đức tin. “Chỉ có lòng tin tưởng vào Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng đã chiến thắng quyền lực sữ dữ, mới cho phép họ vượt qua sự sợ hãi.” (Các Giờ Kinh Phụng Vụ 2005:184) Đức tin trở thành sức mạnh khiến ta đứng vững trước tất cả mọi giông tố cuộc đời. Chỉ có đức tin mới là câu trả lời đích xác nhất cho những gì chúng ta đang quan tâm lo lắng hôm nay. Đức tin sẽ không trình bày một Chúa Kitô theo quan điểm loài người (x. 2 Cr 5:16), nhưng một Chúa Kitô đã chết cho mọi người theo đúng ý định Thiên Chúa.
Cám ơn Chúa vẫn cho đức tin sống mạnh trong các bạn trẻ Việt nam hôm nay. Nhìn kỹ vào niềm tin tuổi trẻ chúng ta sẽ thấy tất cả sức mạnh của niềm tin. Bạn trẻ đã mở ra một lối thoát mới cho những bế tắc hôm nay. Chúng ta có quyền hy vọng và học hỏi nơi các bạn!
39. Sao nhát thế? Anh em chưa có lòng tin.
Trên con đường theo Chúa Giêsu, mặc dù các môn đệ đã được Người đào tạo, dậy dỗ, uốn nắn… các ông vẫn chưa hiểu gì về đường lối của Chúa: Người đã giảng dậy, đã làm nhiều phép lạ nhưng các môn đệ vẫn sống trong sự mờ ảo của cuộc sống, các ông vẫn chưa làm sao hiểu được ý của Thầy Giêsu. Do đó, đã có lúc các ông tưởng Thầy mình là ma, đã có lúc các ông lánh xa Chúa, đã có lúc các ông phản ứng lại những lời nói, cách sống, cử chỉ, thái độ của Thầy mình. Đức tin của các môn đệ nhiều lúc tưởng như lu mờ, hay nói một cách khác các ông chưa có lòng tin. Tin Mừng Mc 1, 35-41 là một bằng chứng nói lên quyền năng vô biên của Chúa giống như sách Gióp khẳng định:” Chỉ Thiên Chúa là Đấng sáng tạo quyền năng, chủ tể muôn loài, muôn vật, chủ tể mọi sự”. Phép lạ Chúa Giêsu làm cho sóng to, gió lớn phải im bật nói lên quyền uy của Chúa. Đáng lẽ các môn đệ phải vui mừng vì Thầy có quyền năng khiến gió to, biển động im hơi lặng tiếng, các môn đệ lại hoảng hốt sợ sệt. Chúa Giêsu đã phải lên tiếng:” Sao nhát thế? Anh em chưa có lòng tin sao?”.
CÁI TRỚ TRÊU CỦA CÁC MÔN ĐỆ
Theo Chúa gần ba năm, các môn đệ đã được Chúa dậy bảo nhiều điều: Người đã nói thực tế, đã làm những phép lạ, đã dùng những dụ ngôn, những ví dụ xẩy ra chung quanh các môn đệ để làm sáng tỏ lòng tin của các ông, nhưng các ông vẫn còn u tối, các ông vẫn chưa cảm nghiệm được quyền năng và tư cách thần linh của Chúa Giêsu. Các môn đệ luôn tỏ ra không hiểu hay tỏ ra hiểu lờ mờ về Thầy mình. Các ông luôn mơ tưởng đến việc Chúa Giêsu sẽ khôi phục lại nước Israen và rồi các ông được ăn trên ngồi trốc trước mọi người khi Chúa Giêsu đăng quang làm vua theo ý nghĩ trần gian của các ông. Điều đó không lấy gì làm lạ khi phép lạ hôm nay xẩy ra. Bối cảnh phép lạ được Chúa Giêsu thực hiện vào một buổi chiều trên biển hồ. Thuyền của các môn đệ rời bến để qua bờ bên kia. Chi tiết này giúp chúng ta hiểu phép lạ diễn ra trong đêm. Chúa Giêsu ngồi ở đằng lái, gối đầu mà ngủ. Bỗng gió to, sóng lớn nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước.
Các môn đệ hoảng hốt, xôn xao, nhốn nháo đánh thức Chúa: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo sao?”(Mc 4, 38). Chúa Giêsu liền can thiệp bằng một lời và chỉ một lời truyền của Người: “Im đi! Câm đi!”(Mc 4,39). Gió liền im. Biển lặng như tờ. Điều làm chúng ta ngạc nhiên không phải là phép lạ, nhưng là cách Chúa Giêsu thực hiện phép lạ: “Tại sao Chúa biết trước sẽ có cuồng phong, biết trước việc Người sẽ làm?. Tại sao Người không can thiệp liền, tại sao Người cứ gối đầu mà ngủ?
Thực ra khi gió to, biển động, sóng gào, các môn đệ xốn xáo, chạy lại đánh thức Chúa dậy, các ông xin Chúa can thiệp hai điều xem ra như là một tối hậu thư: “Thầy ơi, chúng con chết đến nơi rồi”. Điều thứ hai: “Thầy chẳng lo gì sao?”. Câu nói thứ hai của các môn đệ hàm ý sao Thầy vô tư quá, chúng con sắp chết mà Thầy cứ tỉnh bơ ngủ say. Chúa Giêsu đã trả lời cả hai điều các môn đệ yêu cầu. Điều thứ nhất, Chúa truyền cho biển yên, gió lặng. Điều thứ hai, Người khiển trách: “Sao nhát thế? Anh em chưa đủ đức tin hay sao?” (Mc 4, 40). Cái trớ trêu hầu như khờ khạo của các môn đệ ở chỗ Chúa luôn có mặt, luôn hiện diện dù Người đang ngủ, Người hay biết mọi sự nhưng các môn đệ đâu có nhận ra điều ấy. Vậy, khi Người khiếm diện, khi Người không có mặt ở đấy, các môn đệ sẽ ra thế nào!: “Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”(Mc 4, 40). Anh em để đức tin ở đâu? Ở đây, trong tình huống này, các môn đệ có thể nghĩ đến những can thiệp của Thiên Chúa đối với số mệnh của dân tộc các ông. Thiên Chúa đã cứu thoát cha ông của các ông, đã giữ lời Giao Ước của Ngài cho dù có lúc Thiên Chúa hầu như im lặng. Thiên Chúa đã không bỏ rơi dân tộc. Bốn mươi năm sau, dân lưu đầy bên Ai Cập đã được Thiên Chúa giải thoát, đoàn người lưu đầy kéo về Giêrusalem được thanh luyện và lớn lên trong thử thách.
CHÚA MỜI GỌI CÁC MÔN ĐỆ VÀ NHÂN LOẠI TIN VÀO CHÚA:
Đối diện với quyền lực của sự dữ, của ma quỷ vì theo não trạng của người Do Thái, biển là biểu tượng của quyền lực ma quỷ. Các môn đệ cuống quýt đã quên cả lòng tin của mình vào Chúa Giêsu. Vậy phải chăng Tin Mừng hôm nay mời gọi con người, nhân loại hãy tin vào Chúa, hãy bám chặt lấy Chúa, hãy tin vào uy quyền tuyệt đối của Chúa trên mọi loài, mọi vật, mọi sự. Tiếng la hoảng hốt của các môn đệ trước trận cuồng phong bão táp, phải chăng đang là thử thách của con người, của mỗi người khi họ gặp cơn cám dỗ, gặp sự thử thách gian nan giữa cuộc đời, giữa hành trình đức tin đầy cam go? Liệu Chúa có bỏ con người hay con người chỉ ngờ ngợ, yếu tin chưa có lòng tin mạnh mẽ và gắn chặt vào Chúa Giêsu? Chúng ta hãy đọc lại nhiều dụ ngôn trong Tin Mừng, chúng ta sẽ thấy nhiều lòng tin làm ta ngạc nhiên. Và khi ta tin thật sự vào Chúa, chắc chắn sự an bình sẽ đến với chúng ta. Thiên chúa không ở xa ta, Ngài ở bên ta, Ngài yêu thương ta, Ngài sẵn sàng can thiệp vào mọi biến cố của đời ta. Nhưng chắc chắn chúng ta cũng có thái độ như các môn đệ hoảng hốt, như ông Môsê trước bụi gai bốc cháy (Xh 3,1), như ngôn sứ Isaia khi nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa trong đền thờ (Is 6,5). Tất cả đều tùy thuộc vào lòng mến và vào sự phó thác tuyệt đối của mỗi người chúng ta trong bàn tay yêu thương của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn bám chặt lấy Chúa vì Chúa là Đấng uy quyền và hay thương xót.
40. Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Thiên Chúa ở đâu nơi Trại Tử Thần Đức Quốc,
nơi Sóng Thần Nam Á v.v.
Vẫn biết Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống là thời điểm mở đầu cho Mùa Thường Niện Hậu Phục Sinh, tiếp Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh bị cắt quãng bởi Mùa Chay, Tuần Thánh và Mùa Phục Sinh. Tuy nhiên, Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh thường được Giáo Hội mở màn bằng các Lễ Trọng vào 3 Chúa Nhật Liên, trước hết là Lễ Thánh Thần Hiện Xuống, Đấng ban sự sống, sau đó là Lễ Thiên Chúa Ba Ngôi, nguồn mạch Sự Sống, tiếp tới là Lễ Mình Máu Thánh Chúa, bí tích Sự Sống, (chưa kể đến Lễ Trọng Thánh Tâm Chúa, động lực Sự Sống, bao giờ cũng được cử hành vào Thứ Sáu sau Chúa Nhật Lễ Mình Máu Thánh Chúa). Chiều hướng Mầu Nhiệm Chúa Kitô Là Sự Sống mở đầu Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh bằng ba Lễ Trọng như thế, cũng được thể hiện ở bài Phúc Âm của Thánh Ký Marcô cho Chúa Nhật hay tuần lễ XII Thường Niên, ở chỗ, “caœ gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người”?, một quyền lực phục sinh của Chúa Kitô, Lời Nhập Thể, một quyền lực, dù trong trường hợp được bài Phúc Âm hôm nay thuật lại Người chưa Vượt Qua, vẫn tiềm tàng nơi Người nhờ Mầu Nhiệm Ngôi Hiệp.
Đó là lý do việc Người chẳng những tỏ mình ra trong bài Phúc Âm hôm nay đã cho thấy trước biến cố phục sinh, mà còn cho thấy cả trong đó việc Người tỏ ra câm nín bất lực trên cây thập tự giá, việc Người âm thầm nằm trong lòng đất ba ngày, việc Người gieo giống rồi đi ngủ để cho kẻ thù chẳng những lợi dụng gieo cỏ lòng vực mà còn nhất định không cho nhổ những thứ cỏ rất nguy hại cho lúa tốt này cho tới mùa gặt cánh chung (x Mt 24-30). Đây là Mầu Nhiệm Quan Phòng Thần Linh theo đức tin Kitô Giáo, một mầu nhiệm mà chỉ có đức tin mới có thể giải mã và chấp nhận, ở chỗ, tin rằng Thiên Chúa là Chủ Tế muôn loài và cai quản mọi sự, tới giờ của Ngài thì mọi sự sẽ xẩy ra, tới lúc của Ngài thì Ngài sẽ ra tay (mà thường là lúc cuối cùng, lúc con người cảm thấy bất lực, trần gian bó tay, Ngài mới xuất hiện để cứu độ, hầu con người tin vào Ngài hơn, và không cảm thấy rằng họ là Chúa chứ không phải là Ngài). Chính vì Ngài ngủ (chứ không phải chết) mà Ngài mới nghe được tiếng kêu cứu của họ, như các vị tông đồ trong bài Phúc Âm đã hoảng hốt la lên: “Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao”?
Tuy nhiên, thực tế đặt ra vấn đề ở đây là, việc Thiên Chúa quá im hơi lặng tiếng, nhất là trong những lúc quá khủng khiếp đối với niềm tin của con người, dường như đối với nhiều người và thật sự đối với một số người, Ngài là Vị Thiên Chúa đã chết, nếu không muốn nói chẳng có chúa bà nào cả, vì tại sao có Ngài, một vị Thiên Chúa, qua Mạc Khải Thánh Kinh Kitô Giáo, là Đấng toàn thiện và toàn năng, mà lại có thể để cho sự dữ xẩy ra, để cho bao nhiêu nạn nhân vô tội bị thảm sát như thế chứ, chẳng hạn như đã xẩy ra ở các Trại Tử Thần Đức Quốc trong Thế Chiến Thứ Hai thuộc thế kỷ 20, hay ở cuộc Sóng Thần Nam Á vào ngày 26/12/2004?
Trước hết, về việc câm nín lặng thinh đến kinh hoàng của Thiên Chúa ở các trại tử thần Đức Quốc Xã hồi Thế Chiến Thứ II, chúng ta hãy đọc lại những lời của chính vị Giáo Hoàng đương kim Đức Quốc của chúng ta cảm nhận và diễn tả trong cuộc tông du mục vụ Balan cuối tháng 5/2006, khi ghé thăm trại tử thần Auschwitz, nơi đã có hai vị thánh Công Giáo là Thánh Maximilian Kolbe người Balan và Thánh Edith Stein, Theresia Benedicta a Cruce, người Đức gốc Do Thái, trước khi ngài lên đường về Rôma Chúa Nhật 28/5, nguyên văn như sau:
“Không thể nào nói được bất cứ điều gì ở nơi kinh hoàng này đây, ở nơi đã xẩy ra vô vàn tội ác chưa từng có phạm đến Thiên Chúa và con người, nhất là lại nói bởi một Kitô hữu, bởi một vị Giáo Hoàng xuất thân từ Đức. Ở một chốn như thế này thì lời nói đành câm nín; để rồi chỉ còn duy nỗi lặng thinh kinh hãi – một thứ lặng thinh tự mình là một lời kêu gào chân tình lên Thiên Chúa: Lạy Chúa, tại sao Chúa lại cứ thinh lặng chứ? Làm sao Chúa lại có thể chịu đựng được tất cả những thứ này? Bởi vậy, trong thinh lặng, chúng ta cúi đầu trước vô tận những ai đã chịu khổ cực và bị sát hại ở nơi đây; tuy nhiên việc thinh lặng của chúng ta lại trở thành một lời van xin tha thứ và hòa giải, một lời van nài Vị Thiên Chúa hằng sống đừng bao giờ để điều này tái diễn nữa.
“Hai mươi bảy năm trước đây, vào ngày 7/6/1979, Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đứng ở nơi này. Ngài đã nói rằng: ‘Hôm nay tôi đến đây như một người hành hương. Như anh chị em biết, tôi đã đến đây nhiều lần rồi. Rất nhiều lần rồi! Và nhiều lần tôi đã đi xuống tới ngục thất tử thần của Maximilian Kolbe, dừng lại trước bức tường hành quyết, và bước đi giữa những đổ nát hoang tàn của các lò thiêu Birkenau. Tôi không thể nào không tới đây như một vị Giáo Hoàng’. Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tới đây như là một người con của một dân tộc, cùng với dân Do Thái, đã chịu khổ nhất ở nơi chốn này, nói chung suốt cả cuộc chiến. ‘Sáu triệu người Balan đã bị mất mạng trong Thế Chiến Thứ II, tức 1/5 dân số của quốc gia này, ngài đã nhắc nhở chúng ta như thế. Cũng ở nơi đây, ngài đã trang trọng kêu gọi tôn trọng các thứ nhân quyền và quốc quyền, như các vị tiền nhiệm của ngài là Gioan XXIII và Phaolô VI đã làm trước ngài, và thêm rằng: ‘Con người đang nói những lời lẽ này đây là … người con của một quốc gia theo lịch sử của mình đã bị khổ đau rất nhiều bởi kẻ khác. Ngài nói điều này, không phải là để cáo tối mà là để tưởng nhớ. Ngài nói nhân danh tất cả những quốc gia có quyền lợi bị vi phạm và bị gạt bỏ ra ngoài…’
“Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đến đây như là một người con của nhân dân Balan. Tôi đến đây hôm nay như là một người con của nhân dân Đức quốc. Chính vì lý do ấy mà tôi có thể làm vang vọng và cần phải làm âm vang những lời của ngài, đó là tôi không thể nào không tới đây. Tôi cần phải tới nơi đây. Đó là một nhiệm vụ trước sự thật và công lý đối với tất cả những ai đã phải chịu khổ ở nơi đây, một nhiệm vụ trước Thiên Chúa, mà đối với tôi cần phải đến đây như là vị thừa kế của Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và là một người con dân Đức quốc – một người con thuộc dân tộc bị một nhóm những tay tội ác nổi lên nắm quyền hành bằng những hứa hẹn liên quan tới cái cao cả mai hậu cùng với việc phục hồi vinh dự, nổi nang và thịnh vượng cho dân tộc , nhưng qua việc khủng bố và đe dọa, hậu quả dân tộc chúng tôi đã phải hứng chịu đó là bị sử dụng và làm dụng như công cụ cho khát vọng hủy diệt và quyền bính của họ. Phải, tôi đã không thể nào không tới nơi đây. Vào ngày 7/6/1979, tôi đã đến đây với tư cách là một vị Tổng Giám Mục ở Munich-Freising, cùng với các vị Giám Mục khác đi hộ tống Đức Giáo Hoàng này, lắng nghe những lời ngài nói và liên kết với việc nguyện cầu của ngài. Vào năm 1980, tôi đã trở lại với nơi chốn rùng rợn này với một phái đoàn đại biểu những vị Giám Mục Đức quốc, những vị cảm thấy kinh hoàng trước sự dữ xẩy ra cho nó, nhưng lại lấy làm biết ơn trước sự kiện xuất hiện một vì tinh tú hòa giải ở bên trên các tầng mây mù vây phủ nó. Đó cũng chính là lý do tại sao hôm nay tôi đã đến đây để xin ơn hòa giải thứ tha – trước hết từ Thiên Chúa là Đấng duy nhất có thể mở lòng chúng ta và thanh tẩy tâm can của chúng ta, từ những con người nam nữ đã chịu khổ đau ở nơi đây, và sau cùng nguyện xin ơn hòa giải cho tất cả những ai, vào chính giây phút lịch sử này đây đang chịu khổ đau một cách mới mẻ bởi quyền lực của hận thù và bởi bạo lực do thù hận gây ra.
“Biết bao nhiêu là vấn đề được xuất phát ở nơi chốn này! Vấn đề liên lỉ hiện lên đó là Thiên Chúa ở đâu trong những ngày ấy? Tại sao Ngài lại thinh lặng chứ? Làm sao Ngài lại có thể để xẩy ra cuộc tàn sát khôn cùng này chứ, cuộc chiến thắng của sự dữ ấy chứ? Những lời của bài Thánh Vịnh 44 đã hiện lên trong tâm trí, đó là lời than vãn của dân Yến Duyên về các kẻ thù địch của họ: ‘Ngài đã vùi dập chúng tôi trong hang động chó rừng, và phủ chụp tăm tối kín mít lên chúng tôi… vì Ngài chúng tôi đá bị sát hại suốt ngày, và đã bị coi như con chiên mang đi làm thịt. Xin Ngài hãy ra tay! Ôi Chúa, tại sao Ngài lại ngủ chứ? Xin hãy tỉnh giấc, đừng mãi mãi bỏ mặc chúng tôi! Tại sao Ngài lại cứ ẩn mặt đi? Tại sao Ngài lại chẳng lưu ý gì tới nỗi đau thương và tình trạng bị đàn áp của chúng tôi chứ? Vì chúng tôi bị dìm xuống cát bụi; thân thể chúng tôi dính liền với mắt đất. Xin hãy vùng lên và ra tay cứu giúp chúng tôi! Xin hãy cứu chúng tôi vì tình yêu trung kiên của Ngài!’ (19,22-26). Tiếng kêu thống khổ này, tiếng kêu được dân Yến Duyên dâng lên Thiên Chúa trong cảnh khổ đau của họ, trong giây phút hết sức sầu thương của họ, cũng là tiếng kêu cứu giúp của tất cả những ai thuộc mọi thời đại – hôm qua, hôm nay và ngày mai – chịu khổ vì tình yêu Thiên Chúa, vì lòng yêu chuộng chân lý và sự thiện hảo. Họ nhiều biết bao, thậm chí ở cả thời đại của chúng ta đây!
“Chúng ta không thể nào nhìn thấu được dự án huyền nhiệm của Thiên Chúa – chúng ta chỉ thấy được một phần nào, và chúng ta có thể sai lầm một khi cho mình là những kẻ thẩm phán của Thiên Chúa và lịch sử. Bấy giờ chúng ta không phải là kẻ đang bênh vực con người mà chỉ góp phần vào việc sụp đổ của con người mà thôi. Không – một khi tất cả những gì đã nói và đã làm, chúng ta cần phải tiếp tục khiêm nhượng song cương quyết kêu lên cùng Thiên Chúa rằng: Xin hãy đứng lên! Đừng quên nhân loại là tạo vật của Ngài! Và lời chúng ta kêu lên Thiên Chúa cũng phải là một tiếng kêu xuyên thấu chính tâm can của chúng ta, một tiếng kêu đánh động trong chúng ta sự hiện diện âm thầm của Thiên Chúa – nhờ đó, quyền năng của Ngài, một quyền năng Ngài đã cấy trồng nơi tâm can của chúng ta, sẽ không bị chôn vùi hay chết nghẹt trong chúng ta bởi bùn lầy của lòng vị kỷ, của tính nhu nhược, của thái độ lạnh lùng hay của chủ trương thời cơ. Chúng ta hãy kêu lên Thiên Chúa bằng tất cả tâm can của mình, vào giờ khác hiện tại này đây, khi đang đổ xuống trên chúng ta những bất hạnh mới, khi tất cả mọi mãnh lực của tối tăm dường như đang xuất phát một cách mới mẻ từ tâm can nhân loại của chúng ta: một là việc lạm dụng danh Thiên Chúa như phương tiện để biện minh cho việc bạo động vô nghĩa phạm tới những con người vô tội, hai là tỏ ra chủ trương yếm thế chối bỏ việc nhận biết Thiên Chúa và nhạo cười niềm tin tưởng vào Ngài. Chúng ta hãy kêu lên Thiên Chúa, để Ngài làm cho con người nam nữ biết hoán cải và giúp họ thấy được rằng bạo động không phải là những gì mang lại hòa bình song chỉ gây thêm bạo loạn mà thôi – gây ra một cuộc sa lầy tàn hại mà cuối cùng tất cả moị người đều là những kẻ thua cuộc. Vị Thiên Chúa mà chúng ta tin tưởng là một Thiên Chúa của lý trí – một lý trí chắc chắn không phải là một thứ toán học lạnh lùng về vũ trụ này mà là một lý trí biết yêu thương và thiện hảo. Chúng ta hãy dâng lời nguyện cầu lên Thiên Chúa và chúng ta kêu gọi nhân loại, để lý trí này, tức lý lẽ của yêu thương và việc nhìn nhận quyền lực hòa giải và bình an, được thắng vượt những thứ đe dọa xuất phát từ khuynh hướng vô tri hay từ một thứ lý trí sai lạc và phi thần linh”.
Sau nữa, về việc câm nín lặng thinh đến kinh hoàng của Thiên Chúa ở biến cố thiên tai Sóng Thần Nam Á ngày 26/12/2004.
Về nguyên tắc, Thiên Chúa thực sự chủ động muốn sử dụng sự dữ để làm ích cho nhân loại. Thần học Kitô giáo rất cẩn thận về điểm này. Ở chỗ, thường sử dụng chữ “để”, “để sự dữ xẩy ra”, nghĩa là thái độ “mần ngơ” thụ động, chứ không chủ động nhúng tay vào, chủ động sử dụng chính sự dữ, nên tránh cả việc sử dụng chữ “gửi”, “gửi sự dữ đến cho”. Thật ra, như những xác tín đầu tiên trên đây cũng công nhận rằng “Thiên Chúa là Đấng Toàn Thiện không dựng nên sự dữ và không thể nào tạo nên sự dữ”, và “sự dữ phát xuất từ tội lỗi của con người, bắt nguồn từ nguyên tội, từ việc con người có tự do đã tự ý chấp nhận sự dữ”. Tuy nhiên, một khi sự dữ đã xuất hiện như cỏ lùng do kẻ thù của Ngài gây ra (x Mt 13:25,28), Thiên Chúa phải chủ động và tích cực ra tay diệt trừ nó cho con người, bằng cách, nơi Chúa Giêsu Kitô Con Mình, Ngài đã trở thành tội lỗi (x 2Cor 5:21), thành một thứ đồ bị nguyền rủa (x Gal 3:13). Và, chỉ trở thành sự dữ như thế Vị Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan và toàn năng mới làm cho con người thấy được sự chết nơi họ và của họ đã được sự sống của Ngài và nơi Ngài nuốt đi (x 1Cor 15:54).
Việc Thiên Chúa chủ động muốn sử dụng sự dữ để làm ích cho chung nhân loại là những gì rất hiển nhiên trong Thánh Kinh. Trước hết là câu Ngài tuyên bố qua miệng Tiên Tri Isaia: “Ta làm nên ánh sáng và tạo ra bóng tối, Ta làm nên phúc hạnh và gây ra khốn nạn” (45:7). Sau nữa, việc Ngài muốn (bằng cách ra lệnh cho) tổ phụ Abraham sát tế đứa con duy nhất của mình là Isaac (x Gen 22:2), trước con mắt của Dân Ngoại, không phải là một điều quái ác hay sao, không phải là một hành động của một vị ác thần, một vị thần linh ăn thịt người hay sao, tìm vinh danh nơi khổ ải và chết chóc của tạo vật? Cả trong việc Ngài lệnh cho vua Saolê bắt buộc phải sát hại tất cả người lẫn vật của Amalek vì đã cản đường đi của Dân Chúa cũng không quá tàn ác hay sao (x 1Sam 15:2-3,18-19; Ex 17:8)? Thật ra, Chúa ra tay dữ dằn với các Dân Ngoại, như dân Ai Cập, Amalek hay các dân vốn ở Đất Hứa là để cho cả Dân Ngài lẫn Dân Ngoại nhận biết Ngài qua những việc Ngài làm theo quyền năng và phép công bằng của Ngài. Trong trận lụt Đại Hồng Thủy, Thiên Chúa Hóa Công “để” cho thiên tai vô tiền khoáng hậu này xẩy ra, hay Ngài cố ý muốn gây ra biến cố ấy để thanh tẩy loài người đã quá băng hoại làm ô uế cả mặt đất (x Gen 6:5-7)?? Nếu bảo rằng Thiên Chúa được quyền dùng tai ương để trừng phạt con người tội lỗi thì phải nói làm sao khi Ngài cố tình bắt chính Người Con vô tội vô cùng thánh thiện của Ngài phải uống cạn chén đắng khổ đau (x Mt 26:39 và Rm 8:32), chứ không phải chỉ “để” thập giá xẩy ra cho Người.
Tuy nhiên, việc Thiên Chúa thực sự chủ động sử dụng sự dữ để làm ích cho nhân loại đây, điển hình là trường hợp tử nạn của Chúa Giêsu Kitô, không phải là Ngài chủ động xui bẩy kẻ dữ làm bậy hay phạm tội. Không. Hoàn toàn không phải là như thế. Ở chỗ này đúng là Ngài “để” cho kẻ dữ làm bậy hay phạm tội tùy theo tự do của họ. Sở dĩ Ngài “để” xẩy ra như thế, trước hết, là vì tự do của con người, thành phần chịu trách nhiệm về hành vi cử chỉ của họ; sau nữa, là vì Ngài thấy rằng Ngài có thể lợi dụng sự dữ do họ gây ra để tạo nên một thiện ích lớn hơn; bằng không, sau hết, nếu sự dữ do con người gây ra không mang lại hay chưa tới lúc mang lại lợi ích hơn ít là cho chính đương sự, thì Đấng làm chủ lịch sử con người như Ngài không để cho những sự dữ ấy xẩy ra, như nơi những vụ tự tử không thành hay những vụ thoát chết trong đường tơ kẽ tóc.
Trong trường hợp tử nạn của Chúa Kitô, thành phần cố tình nhúng tay vào việc giết Con Thiên Chúa, như hầu hết Hội Đồng Do Thái bấy giờ, cũng như thành phần trực tiếp ra tay sát hại Người, như thẩm quyền đế quốc Rôma qua Tổng Trấn Philatô và lực lượng quân đội của họ, đã được Thiên Chúa “để” cho họ phạm đến Con của Ngài, hay cho phép họ thi hành được hành động phạm thượng đáng lẽ họ không làm được (về quyền năng thể lý) và không được làm (về quyền hạn luân lý), bằng cách “để” cho “họ lầm không biết việc mình làm” (Lk 23:34; x Acts 3:17), nhờ đó, chính họ, cũng có thể nhờ chính việc xấu họ làm, nhận ra Chân Lý (x Lk 23:47-48), bằng không, nếu họ biết được mầu nhiệm của Thiên Chúa, họ sẽ không dám làm như họ đã làm (x 1Cor 2:8). Đó là lý do Chúa Kitô đã minh nhiên tuyên bố: “Khi nào Tôi được treo lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo tất cả mọi người lên cùng Tôi” (Jn 12:32). Ôi, Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan và thượng trí là dường nào! Ôi, Ngài toàn thiện và toàn năng biết bao!!
Phải, chỉ có một mình Thiên Chúa mới là Đấng duy nhất, về phương diện luân lý, chẳng những có quyền hạn (right/authority) được làm, mà còn có cả quyền năng (power/ability) làm được, trong việc sử dụng phương tiện biện minh cho mục đích, tức trong việc sử dụng ngay chính sự dữ để mang lại sự lành thôi. Nếu thấy nhà của mình bị hư hại không thể ở được nữa, chẳng lẽ chúng ta không có quyền phá nó đi để xây lại ngôi nhà mới. Cũng thế, việc Thiên Chúa “phá” con người cũ của nhân loại đã bị băng hoại, như ở thời Noe, bằng những sự dữ, như trận đại hồng thủy bấy giờ, dù là việc dữ hay sự dữ Ngài vẫn muốn làm và cần làm cho họ, để nhờ đó, họ mới được nên tốt hơn, mới được tái sinh bởi trời (x Jn 3:3).
Ngoài ra, bất cứ ai muốn nên ngang hàng với Thiên Chúa hay nên bằng Thiên Chúa (x Gen 3:3-5), trong việc tự mình quyết định lành dữ (như việc hợp thức hóa vấn đề hôn nhân đồng tính chẳng hạn), cũng như trong việc tự động biến sự dữ thành sự lành (như trong việc triệt sinh an tử hay tạo sinh sao bản trị liệu chẳng hạn), họ sẽ thấy rằng những gì họ làm chỉ khiến cho chính họ nói riêng và xã hội của họ nói chung dần dần đi đến chỗ hỗn loạn và diệt vong mà thôi, như hiện trạng thế giới văn minh về vật chất (khoa học và kỹ thuật) cũng như về nhân bản (văn hóa và quyền lợi) ngày nay thê thảm cho thấy.
Chính vì con người văn minh càng ngày càng tội lỗi và băng hoại mà Thiên Chúa đã phải sử dụng đến nhiều sự dữ khủng khiếp, không phải để trừng phạt con người cho bằng để lay tỉnh con người đang quay cuồng say men tự do thái quá của mình, hay nói một cách dung hòa hơn, để trừng phạt con người cho con người có thể bừng tỉnh. Đó là lý do, trong phần Bí Mật Fatima thứ hai, Mẹ Maria cũng đã nói đến vấn đề tai ương liên quan đến việc trừng phạt của Thiên Chúa để cứu độ con người như sau:
“Các con vừa thấy hỏa ngục, nơi tội nhân khốn nạn rơi xuống. Để cứu họ, Thiên Chúa muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới. Nếu những điều Mẹ dạy được thi hành thì nhiều linh hồn được cứu rỗi và thế giới sẽ có hòa bình. Chiến tranh sắp chấm dứt, nhưng nếu người ta không thôi xúc phạm đến Thiên Chúa, một cuộc chiến khốc liệt hơn sẽ bùng nổ trong đời Đức Piô XI. Khi các con thấy ánh sáng lạ lùng chiếu giữa ban đêm, thì các con hãy biết rằng đó là điềm lạ vĩ đại Thiên Chúa muốn cho các con hay Ngài sắp sửa trừng phạt thế giới tội lỗi, bằng chiến tranh, đói khát và việc bắt bớ Giáo Hội cùng Đức Thánh Cha. Để ngăn ngừa điều này, Mẹ sẽ đến để xin dâng hiến Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ và xin rước lễ đền tạ các ngày Thứ Bảy Đầu Tháng. Nếu người ta nghe lời Mẹ yêu cầu, Nước Nga sẽ trở lại và sẽ có hòa bình. Bằng không, Nước Nga sẽ truyền bá lầm lạc khắp thế giới, gây chiến tranh và bách hại Giáo Hội. Nhiều người lành bị giết, Đức Thánh Cha sẽ khổ; nhiều nước sẽ biến mất, nhưng cuối cùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ sẽ thắng. Đức Thánh Cha sẽ dâng hiến Nước Nga cho Mẹ, Nước Nga sẽ trở lại, và thế giới sẽ được hưởng một thời gian hòa bình”.
Như thế, con người nạn nhân gặp tai ương hoạn nạn về thiên tai hay nhân tai có thể là vì chính tội lỗi của họ, như trường hợp thành Sôđôma và Gômôra trong Cựu Ước (x Gen 18:20-21, 19:4-11,24-25), cũng có thể là vật hy sinh cho việc Thiên Chúa tỏ hiện như trường hợp người mù từ lúc mới sinh (x Jn 9:3).
Chính Chúa Giêsu đã xác nhận tính cách lưỡng đôi của sự dữ gây ra cho cả người vô tội lẫn có tội, khi Người trả lời cho những kẻ báo tin về vụ một số người Galilêa đã bị Tổng Trấn Philatô lấy máu của họ hòa với các lễ tế của họ, như sau: “Quí vị có nghĩ rằng những người Galilê này tội lỗi nhất ở Galilê vì họ phải chịu như thế hay chăng? Không phải đâu! Nhưng Tôi nói cho quí vị nghe là nếu không xám hối tất cả quí vị cũng sẽ phải chịu y như thế thôi. Hay vụ 18 người bị thác Siloe đè chết. Quí vị cho rằng họ là những người tội lỗi hơn các người ở Giêrusalem hay chăng? Chắc chắn không! Thế nhưng, tôi nói cho quí vị hay, nếu quí vị không hoán cải, tất cả quí vị cũng chịu y như thế thôi” (Lk 13:1-5).
Qua câu huấn đáp này, Chúa Giêsu muốn nói rằng, thành phần nạn nhân của vụ nhân tai bị Philatô đổ máu hay của vụ thiên tai bị tháp Siloe đè chết là những người vô tội, nhưng cũng có thể là hình phạt cho ai có tội, cho ai không biết ăn năn hối cải. Qua câu huấn đáp này, Chúa Giêsu còn có ý muốn nói rằng, sự dữ nhân tai hay thiên tai là những gì được Thiên Chúa dùng để cảnh giác con người về đời sống luân lý của họ, nhất là thành phần nghĩ mình công chính hơn người, không có tội nên không bị tai ương hoạn nạn như thành phần tội lỗi xấu số.
Những nạn nhân của thiên tai và nhân tai, nếu là thành phần vô tội thì là vật hy sinh được Chúa dùng để cảnh giác phần rỗi nơi anh chị em đồng loại của họ, (tất nhiên sự hy sinh của họ sẽ được Ngài đền bù cân xứng như trường hợp các Thánh Anh Hài chết thay cho Người được Phúc Âm Thánh Mathêu thuật lại ở đoạn 2 câu 16, chẳng hạn nhờ sự hy sinh vô tội của họ mà nhiều người còn sống sợ chết nghĩ lại sống tốt lành hơn), và nếu nạn nhân may mắn còn sống là thành phần thực sự có tội thì tai ương họ trải qua chính là một thứ hình phạt được Thiên Chúa dùng để cứu độ họ, nếu họ biết nhìn ra dấu chỉ thời đại mà giác ngộ trở về với Ngài.
Từ những suy tư được căn cứ vào Mạc Khải Thần Linh trên đây, chúng ta cảm nhận được rằng: Qua biến cố nhân tai khủng bố tấn công ngày 11/9/2001 ở Hoa Kỳ, và thiên tai biển động sóng thần ở Nam Á ngày 26/12/2004, Thiên Chúa muốn lay tỉnh loài người càng ngày càng duy vật vô thần hiện đại nhớ rằng: Ngài vẫn còn hiện diện trong lịch sử loài người đấy, chứ chưa có chết như họ tưởng bở đâu, và Ngài là Đấng rất công thẳng, nếu không biết ăn năn thống hối, Ngài sẽ làm hết sức, kể cả bằng các thứ sự dữ do chính con người gây ra, như khủng bố và chiến tranh, để cho họ nhận biết Ngài mới thôi, chỉ vì Ngài yêu thương họ, muốn họ nhận biết chân lý để được cứu độ.
Tóm lại, vì phần rỗi của loài người, và chính vì phần rỗi của loài người là vấn đề hệ trọng trên hết mọi sự trên thế gian này mà Thiên Chúa toàn thiện và toàn năng vô cùng khôn ngoan làm mọi cách, thậm chí sử dụng cả sự dữ, để cứu độ con người yếu đuối và mù tối vô cùng đáng thương. Đó là lý do, trong Thông Điệp Tình Yêu Nhân Hậu gửi Các Hồn Nhỏ, Chúa Giêsu đã tâm sự với người nữ sứ giả giáo dân biệt danh Magarita ở Bỉ của mình vào ngày 19/12/1973 như sau:
• “Một Thiên Chúa báo oán chỉ là một người Cha tội nghiệp, khi phải trừng phạt con cái mình để buộc chúng phải hồi tâm nghĩ lại”.
41. Trong vòng tay Chúa
(Suy niệm của Br. B.M.Thiện Mỹ CRM)
SUY NIỆM:
Blondin là một tay xiếc nổi danh. Ông đi nhiều lần trên sợi dây căng qua thác Niagara, độ cao khoảng 500 thước, tay đẩy chiếc xe cút kít.
Ngày nọ ông mời ai dám ngồi trên xe đó, để ông đẩy qua sợi dây căng. Nhiều người muốn nhưng không ai dám, vì sợ té xuống thác nước là chết. Sau cùng có người chấp nhận. Ông liền cho anh ngồi trên xe và đẩy đi. Trong khi đó nhiều người đánh cá với nhau. Thấy ông ta đi được nửa đường cách dễ dàng, người đánh cá cược nhiều tiền sợ bị thua, nên lén cắt đứt một sợi trong số các dây căng. Tức thì dây căng rung chuyển dữ dội. Ông Blondin biết nguy hiểm sắp đến nên bảo người trong xe:
- Hãy đứng dậy bám sát vào tôi.
Nhưng người đó quá sợ hãi, không dám làm theo lời ông. Ông liền ra lệnh:
- Hãy đưa hai tay ôm cổ tôi, hai chân kẹp vào lòng tôi, bằng không, chúng ta sẽ ngã xuống thác nước mà chết.
Người đó liền bám chặt vào ông. Và ông đã đưa anh ta qua bờ bên kia an toàn ….
Cuộc đời là bể dâu, cho dù có đề phòng đến mấy cũng không sao có thể tránh được bão tố: Hết thiên tai rồi đến hiểm họa do con người gây ra cho nhau. Những đau thương bên ngoài cũng đã quá ghê gớm, thế nhưng những thù nghịch của tâm hồn mới đáng sợ, nhiều lúc nó muốn nhận chìm chúng ta vào vực thẳm tội lỗi khốn nạn. Tuy nhiên đó lại là điểm đáng yêu của mối tình Giêsu, nhờ vậy chúng ta có dịp chạy đến cầu xin sức mạnh vạn năng của Đấng Cửu Trùng như Phúc Âm thuật lại hôm nay:
Biển Ga-li-lê chỉ dài độ 21 km theo chiều từ bắc chí nam, và chỗ rộng nhất là 13 km theo chiều từ đông sang tây, thung lũng Gio-đan là một vết nứt sâu trên mặt đất, và biển Ga-li-lê là một phần của vết nứt đó. Nó thấp hơn mặt biển 210 mét nên khí hậu ấm áp dễ chịu, nhưng cũng lại nhiều nguy hiểm. Bên phía tây có núi non, thung lũng, khe suối, nên khi gió lạnh từ phía tây thổi đến thì những chỗ trũng, khe suối này có tác dụng như những cái phễu lớn. Gió bị nén trong đó và thổi ào ào xuống hồ bất thình lình với sức mạnh dữ dội, đến nỗi mặt hồ đang phẳng lặng, trong giây lát biến thành sóng gió gầm thét. Những cơn bão biển Ga-li-lê vừa bất ngờ vừa mãnh liệt độc đáo.
Cảnh tượng trong bài Tin Mừng kể lại là cảnh thường xảy ra trên biển Ga-li-lê. Chúa Giêsu đang ngủ, Ngài ngủ vì mệt mỏi sau khi dùng thuyền làm giảng đài dạy dỗ dân chúng. Các môn đệ là các ngư phủ chuyên nghiệp, và vùng biển này là địa bàn hoạt động của các ông, thế mà lúc này các ông hoảng sợ kêu cứu: “Thưa Thầy, chúng con chết mất”.
Chắc ai trong chúng ta cũng hiểu rằng theo Chúa không phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió hay được hưởng thái bình thịnh vượng. Ngay cả lúc chúng ta gần Ngài nhất, giông tố vẫn có thể nổi lên. Chúa không hứa cho chúng ta được thư thái an nhàn, nhưng là chiến đấu và thậm chí phải hy sinh cả đến tính mạng.
Hôm nay chúng ta hãy đặt tâm hồn vào hoàn cảnh hôm đó: Vào lúc chiều đến, tức là màn đêm bắt đầu buông xuống, đây là thời gian của sự tăm tối, hình bóng của những sự dữ hoành hành. Chúa Giêsu nhắc nhủ các môn đệ chuẩn bị một cuộc vượt qua những thử thách và nguy hiểm, Ngài nói: “Chúng ta hãy sang bên kia Biển Hồ”. Theo ý nghĩa của Kinh Thánh thì biển được trình bày như một sự hỗn mang, từ đó phát sinh những quyền lực chống lại Thiên Chúa và con người. Chỉ có quyền năng của Thiên Chúa mới có thể bắt ba đào hung hăng phải tuân nghe và cứu con người khỏi cơn bão tố. Ở đây bối cảnh diễn tả việc Thiên Chúa giải thoát con người khỏi mọi sự dữ của ma quỉ để đưa họ đến bến bình an là sự sống đời đời. Như vậy chúng ta luôn sẵn sàng đón nhận mọi tình huống tăm tối của cuộc đời bằng cách:
1. Khẩn cầu xin Chúa:
- Cho dù ai có là vĩ nhân đối với con người, thì đối với Thiên Chúa họ vẫn chỉ là rất nhỏ bé. Cho nên chẳng có gì phải ngại ngùng đến van xin ơn Chúa cho bản thân, nhất là những lúc éo le của cuộc đời.
- Tiên vàn trong việc cầu xin là chúng ta phải tuyệt đối tin tưởng vào quyền năng vô cùng của Thiên Chúa, Ngài là Đấng thống trị địa cầu, là vua cả trời đất.
- Chúng ta có thể kêu xin Chúa bằng nhiều cách, như các tông đồ đã đánh thức Chúa, và thắc mắc “sao Thầy không quan tâm đến ….”. Lời trách yêu này biểu lộ một tâm trạng khát mong được Chúa cứu thoát hơn là sự nghi ngờ vào sức mạnh của Ngài.
- Khi theo Chúa chúng ta có cảm tưởng như Chúa có nhiệm vụ che chở cho các mọn đệ của Ngài. Tuy nhiên chúng ta vẫn luôn phải lấy lòng con thảo khiêm tốn nài xin Chúa, chứ không được đòi hỏi theo ý riêng một cách thiếu tế nhị.
2. Bình an tâm hồn:
- Trong cơn bão tố tâm hồn, tự nhiên chúng ta sẽ tự đặt nhiều thắc mắc: Tại sao Chúa lại để cho sự dữ xảy ra? Tại sao Chúa lại để cho nghĩa tử yêu dấu của Ngài phải tan nát tâm tư? Giữa nghịch cảnh khốn khó đau thương, chúng ta còn tìm được sự hiện diện của Chúa trong tâm hồn không?
- Đứng trước ngã rẽ cuộc đời, chẳng biết phải làm gì, chúng ta hãy thưa lên cùng Chúa: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?”. Trốn tránh đau khổ theo ý riêng, có phải là sự bình an nội tâm không? Theo gương Chúa Giêsu, trước giờ chiến đấu quyết liệt nhất, Ngài đã thưa lên cùng Chúa Cha rằng: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa Con. Tuy nhiên, xin đừng làm theo ý Con, mà làm theo ý Cha” (Lc.22.42).
Ước gì trong mọi hoàn cảnh chúng ta luôn phó thác nơi tay Chúa như em thơ nương náu ở cung lòng mẹ hiền. Thiên Chúa là Cha nhân từ luôn nhìn đến những giọt lệ cần thiết nơi con cái loài người. Sự sợ hãi chỉ làm phiền lòng Chúa, nhưng tin tưởng vào Ngài là dịp Chúa tỏ uy quyền trên sự dữ, cứ mỗi lần như thế chúng ta có dịp gần gũi Ngài. Ngày xưa Chúa nói với các tông đồ sang bên kia Biển Hồ trải qua nhiều sóng gió, ngày nay Chúa mời gọi mọi người vượt qua biển thương đau của trần gian để về đến bến bình an đời đời trên Thiên Quốc. Chúng ta hãy mạnh dạn đáp lại tiếng Chúa mà tiến bước: “Có Chúa đi với ta, ta sẽ không còn sợ chi; có Chúa đi với ta, ta sẽ không lo lắng gì……”.
42. Gợi ý suy niệm của Hiền Lâm
Câu chuyện thầy trò Chúa Giêsu và các môn đệ vượt biển đã gặp phải cuồng phong đe dọa, cho chúng ta hình ảnh một Đức Giêsu Con Thiên Chúa đầy quyền năng trừ phong dẹp vũ, trong một con người Giêsu mệt mỏi nằm ngủ trên thuyền sau một ngày làm việc vất vả.
Câu chuyện này gợi lại hình ảnh được nói tới trong Thánh Vịnh 78:
“Bấy giờ Chúa như người đang ngủ,
như tướng hùng đã thấm men say,
bỗng tỉnh giấc, đánh cho quân thù quay lưng chạy,
phải thảm thê nhục nhã muôn đời”.
(Tv 78,65-66).
Kẻ thù ở đây là biển cả cuồng phong. Theo não trạng người Do-thái, biển là biểu tượng của quyền lực ma quỷ. Mỗi ngày, biển cũng nhắc mọi người nhớ lại thời hỗn mang nguyên thủy: tại đây hải thần thủy quái vẫy vùng và chỉ có một mình Thiên Chúa Toàn Năng mới thách thức và chế ngự được chúng. Khi Chúa Giêsu thức dậy “ngăm đe gió và biển” như khi Người truyền cho ma quỷ ( x. Mc 1,25), cho thấy Chúa Giêsu chứng tỏ thần lực của Người trên quyền lực sự dữ.
Chúa Giêsu chứng minh sức mạnh và sự phát triển không có gì chống lại được của Nước Thiên Chúa. Người chứng tỏ điều này bằng một dấu chỉ quyền năng là phép lạ dẹp tan sóng gió trước khi đi vào miền đất dân ngoại, nghĩa là chiến thắng của Tin Mừng trên ma quỷ vượt ra ngoài biên giới Israel.
Khi đối mặt với mọi hình thức sự dữ đang tấn công con người trong các trận cuồng phong nó gây nên, đôi khi chúng ta tự hỏi: Phải chăng Thiên Chúa đang ngủ?
Thật vậy, cảm nhận của con người giữa biển đời lắm khi như Thiên Chúa ẩn mình hay vắng bóng. Và rồi giữa phong ba bão tố cuộc đời, con người lựa chọn đương đầu ít nhất với 3 cách:
- Dùng sức mình để vật lộn với sóng gió để rồi thất bại tuyệt vọng,
- Chạy đến với Thiên Chúa mọi nơi mọi lúc nên không bao giờ sợ hãi,
- Gặp khi khó khăn mới chạy đến kêu cứu Chúa, nghĩa là coi Chúa chỉ như một phương thế giải quyết tức thời, mà thiếu đi đức tin thật sự và lòng yêu mến nồng nàn.
Trường hợp thứ ba này là trường hợp của dân Do-thái xưa, sách Xuất Hành và đặc biệt là sách Thủ Lãnh là một câu chuyện lặp đi lặp lại khi dân bị quân thù ức hiếp thì kêu cứu Chúa, Chúa giải cứu rồi lại tiếp tục phản nghịch Ngài…
Và có thể nói, đây cũng là thái độ của các môn đệ của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay, khi họ chưa có niềm tin và lòng yêu mến Thầy cho đủ, đến nỗi ngay khi chứng kiến phép lạ rồi vẫn ngỡ ngàng không hiểu Thầy là ai. Thầy Giêsu đang ở trên thuyền nhưng có vẻ như không có Người hiện diện, cho đến khi sóng gió bủa vây mà kinh nghiệm chống đỡ của dân làng chài như mấy ông đã bất lực mới chạy đến cầu cứu Thầy.
Đó cũng là cách sống và giữ đạo của không ít người trong chúng ta ngày nay. Khi an vui hạnh phúc chúng ta quên mất sự hiện diện của Thiên Chúa, đến khi gặp khó khăn thất bại mới tìm về cầu cứu Chúa. Sống đạo như thế là hời hợt, thiếu niềm tin đích thật và thiếu lòng lòng mến Chúa Giêsu. Cũng không thiếu những người ỷ lại vào khả năng mình mà thiếu đi lòng tín thác vào Chúa nên khi gặp sóng gió đã dễ ngã lòng kêu trách Người.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mọi người chúng con luôn tin tưởng vào sự hiện diện của Chúa trên con thuyền cuộc đời chúng con giữa biển đời sóng gió. Để chúng con không bao giờ nao núng vì Chúa đã chiến thắng nên chúng con cũng sẽ chung phần chiến thắng và cập bến Nước Trời. Amen.
43. Suy niệm của Lm. Nguyễn Ngọc Thế
“Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”
* Vài hàng sơ lược
- Từ đoạn thánh kinh này Mc 4,35-41 đến 5,43, Mác-cô bắt đầu kể về những phép lạ của Chúa Giêsu. Qua đó những hành động quyền năng của Chúa được nêu bật. Vì vậy mà sau đó người ta bắt đầu thắc mắc về Giêsu: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?” (Mc 6, 2)
Ngoài ra, tất cả những phép lạ này đều có một khung cảnh chung, đó khung cảnh biển hồ Ga-li-lê-a. Và hình ảnh thuyền đều xuất hiện trong mỗi phép lạ (x. 4, 36.37; 5,2.18.21)
Một điều luôn được nhấn mạnh trong chuỗi phép lạ này. Đó là niềm tin tưởng. (x. 4, 40; 5. 34.36) Thêm vào đó có thể nhắc đến việc thiếu lòng tin trong 6,6. Ngoài ra, một thái độ đi đôi với niềm tin tưởng được nhắc lại 3 lần trong chuỗi phép lạ này. Đó là thái độ bái lạy, sụp xuống và phủ phục trước Đức Kitô (x. 5, 6.22.33) Điều này làm nổi bật sự “chào thua” của những quyền lực đe dọa trước Chúa Giêsu: quyền lực thiên nhiên (4, 35-42), quyền lực ma quỷ 5, 1-20, quyền lực của bệnh hoạn (5, 24-34) và quyền lực của sự chết (5, 21-23 và 35-43)
- Liên quan đến những đoạn thánh kinh về các dụ ngôn trước đó, chúng ta thấy đoạn thánh kinh này nối kết với đoạn 4,1, mở đầu cho các bài giảng với các dụ ngôn: “Đức Giê-su lại bắt đầu giảng dạy ở ven Biển Hồ”. Như vậy, khung cảnh biển hồ đức Giêsu giảng dạy vẫn là khung cảnh của câu chuyện phép lạ này, chỉ khác là giờ đây Giêsu lên thuyền và đi trên biển hồ. Ngoài ra, theo Adolf Pohl thì sau những bài giảng bằng lời nói của Giêsu, thì tiếp nối bằng những hành động của Ngài, để qua đó chứng thực về một Thiên Chúa không chỉ nói hay mà còn làm giỏi nữa. Lời nói và hành động đi đôi với nhau.
- Ngoài ra, khi đọc đoạn Thánh Kinh này, người ta có thể liên hệ ngay với đoạn thánh kinh ở Giona chương 1. Theo Rudfolf Pesch thì đoạn thánh kinh là câu chuyện kể lại câu chuyện của Giona, với sự phụ họa của thánh vịnh 107, 23-30. Mục đích chính là sự tuyên xưng: Giêsu lớn hơn tiên tri.
Ở đây, chúng ta có thể so sánh hai câu chuyện với nhau:
(a) Trong Giona 1, 4 ĐỨC CHÚA tung ra một cơn gió to trên biển. Còn ờ trong đoạn phúc âm của Mác-cô thì gió bão đến như là quyền lực muốn chống lại Thiên Chúa.
(b) Trong Giona 1, 5 Giona đi ngủ vì không muốn tuân phục Thiên Chúa. Còn theo Mác-cô thì Giêsu ngủ vì mệt mỏi sau những ngày tuần phục Thiên Chúa làm việc phục vụ mọi người.
(c) Trong Giona 1, 14 mọi người trên tàu sợ hãi và kêu cầu Thiên Chúa. Còn ở Mác-cô thì chính Giêsu là Thiên Chúa đã lên tiếng.
(d) Trong Giona 1, 14 các người dân ngoại trên tàu có niềm tin vào Chúa, còn các môn đệ trong đoạn Mác-cô này lại là những người thiều niềm tin.
(e) Trong Giona 1, 15 Biển dừng cơn giận dữ, vì Giona đã vâng lời Chúa và đồng ý để người ta quăng xuống biển. Ở Mác-cô thì biển hồ và cuồng phong vâng lệnh Giêsu.
- Trong đoạn Thánh Kinh Mc 4, 35-41 này tích cách Kitô học và Giáo Hội học được nêu bật, trong khi những sự kiện lịch sử cụ thể không đóng vai trò quan trọng.
- Ngoài ra, theo Johannes Bours, trong câu chuyện mà Mác-cô kể lại ở trên, có hai câu hỏi đã đụng độ nhau. Câu hỏi đầy sợ hãi của các môn đệ đã gặp gỡ câu hỏi đầy trách cứ của Giêsu. Khi đọc câu chuyện này, tôi cảm nhận rằng, câu chuyện đang kể về chính cuộc đời của chúng ta. Và câu hỏi sống còn của các môn đệ cũng liên hệ đến chính câu hỏi sống còn của mỗi người chúng ta: Cái gì có thể chiến thắng sự sợ hãi? Ai là người mạnh hơn? Thần Dữ, kẻ muốn nhấn chìm chúng ta xuống biển sâu, hay là Đấng mà trong đoạn Thánh Kinh này đã nhắc đến: “Người thức dậy.”
- Biển hồ Genesareth được người Ả-rập gọi là “Ajn Allah” – Mắt của Chúa”. Biển hồ này theo Adolf Pohl, nằm 212 m dưới mặt nước biển và ba phía của biển hồ được bao bọc bởi ba vách núi cao đến 300 m. Và biển hồ này có khí hậu bán nhiệt đới. Giữa tháng 5 và tháng 6 nhiệt độ nóng đến 40 độ C. Sự điều hòa nhiệt độ nhờ luồng khí lạnh trong miền cao, kết hợp với nhiệt độ nóng nực ở trên biển hồ, có thể được những trận gió lớn kéo theo một cách bất ngờ, như Luca diễn tả: “Một trận cuồng phong ập xuống hồ; các ngài bị ngập nước và lâm nguy” (8,23). Vì sự bất ngờ không thể dự đoán trước của các trận cuồng phong tại biển hồ này, mà các ngư dân ở đây rất sợ hãi. Và để tránh sự bất ngờ này nên các con thuyền đều cố gắng hướng về phía đông, nơi mà các ngư dân qua tiếng gió thổi, có thể đoán được xem có cuồng phong hay không.
* Suy niệm
- “35 Hôm ấy, khi chiều đến, Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Chúng ta sang bờ bên kia đi!”
“Hôm ấy, khi chiều đến” Câu chuyện được bắt đầu như vậy. Chiều đến nghĩa là ngày sống từ từ chào tạm biệt, công việc từ từ được gác xuống, giờ đây là thời gian để nghỉ ngơi. Ngày sống vừa qua của Giêsu là một ngày làm việc miệt mài. Ngài đi giảng dạy ở ven Biển Hồ. Ngài đã giảng gì vậy? Đọc lại các đoạn trước đó, chúng ta nhận ra rằng, Giêsu đã giảng dậy nhiều dụ ngôn khác nhau: Dụ ngôn người gieo giống; dụ ngôn cái đèn và đấu đong, dụ ngôn hạt cải. Từ ở trên thuyền Giêsu đã giảng dạy những điều đó cho dân chúng. Giờ đây khi bóng dương từ từ ngả xuống, Giêsu cũng từ từ muốn ngả lưng, Ngài cũng cần giờ cho mình, cần giờ để nghỉ ngơi, để ngủ nữa chứ. Vì thế, các môn đệ đã chở thầy mình qua bờ bên kia. Trên thuyền Giêsu mệt nhoài đã thiếp ngủ. Theo sau thuyền của Giêsu là rất nhiều thuyền khác nữa.
- 36 Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Người đi, vì Người đang ở sẵn trên thuyền; có những thuyền khác cùng theo Người.
Giêsu bỏ đám đông ở lại mà không chia tay gì với họ, là dấu hiệu Ngài mệt mỏi lắm rồi. Điều này được chứng minh qua câu 38 qua sự thiếp ngủ của Chúa. Thuyền mà Giêsu đang ở sẵn trên đó theo Adolf Pohl thì chắc không nhỏ, vì trên đó có cả một nhóm người. Ngoài ra, có những thuyền khác theo Người. Động từ “theo với, ở với” trong Mác-cô luôn hướng về Giêsu (x. 1, 13; 2,19; 3, 14; 5, 18; 14,57). Điều này nói lên tương quan chặt chẽ với Chúa Giêsu. Không chỉ là nhóm 12 thôi, mà còn cả những môn đệ khác nữa (ss. 4, 10)
- 37 Và một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước.
Hôm ấy, khi chiều đến cũng còn là thời gian ánh dương từ từ lặn dần để nhường bước cho đêm đen.
Và đêm càng đen hơn nữa, khi những con thuyền lênh đênh trên mặt hồ bao la kia. Phải chăng đêm đen này như đang dẫn đời người vào trong cái vòng ma quái? Hay đêm đen kia đang như muốn nuốt chửng không chỉ ánh mặt trời, mà tất cả những con người đang ở trên thuyền kia, những con người mệt mỏi sau một ngày vất vả với công việc?
Không chỉ đen, mà thêm vào đó là một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước. Ở đây cần nhắc đến một yếu tố. Trong bản gốc của Hy-lạp, câu chuyện này được kể tiếp nối với nhau trong thì hiện tại và quá khứ. Ngoài ra, chữ “Kai” trong tiếng Hy-lạp, có nghĩa là “Và”, được nhắc đến tất cả 12 x. Theo Johannes Bours, thì điều đó làm cho câu chuyện ly kỳ hơn. Cái thảm cảnh trong câu chuyện theo đó được diễn tả thảm não hơn. Thêm vào đó, trong thời cổ đại, thì thần dữ luôn gắn liền với cuồng phong bão táp của biển khơi. Phải chăng đại dương là nơi chốn của thần dữ với sức mạnh tàn phá và nuốt chửng?
Vâng, sự ly kỳ và thảm não của câu chuyện trong Thánh Kinh bắt tôi phải dừng bước một chút, để lật lại những trang sách kể về các chuyến vượt biển của người Việt thân thương. Lênh đênh trên mặt biển chứ không phải là mặt hồ đâu. Đêm đen không chỉ làm đen cả bầu trời xanh ngát, mà còn làm đen cả bao tâm hồn chan chứa hy vọng, khi xuống thuyền ra đi. Rồi chiếc thuyền có lớn lao bao nhiêu đâu. Xăng dầu cũng đã gần cạn rồi. Thuyền nào chẳng may bị bọn hải tặc “ghé thăm” một lần hay nhiều lần, thì còn thê thảm hơn nữa. Có một số thuyền không chỉ đầy nước mà còn bị vỡ tan tành, giờ đây chỉ là những mảnh gỗ của thuyền, làm bè cho một vài thân xác mệt nhoài, lực đã tàn sức đã kiệt, thả cuộc đời trôi theo sóng, trôi theo biển, trôi theo bóng đen, mà không còn nhìn thấy một tia hy vọng, không còn nhận ra một bến bờ để tấp vô. Mà có bờ đâu để tấp để đậu. Phải làm sao đây? Không lẽ đứng chết chân một chỗ? Hay chấp nhận một cái chết thê thảm trong bóng đêm, trong lòng biển? Không, ít nhất cần phải hò hét! Nhưng “hò” thì ai “thưởng thức” và hét thì có ai nghe giữa đại dương mênh mông này không? Đó là câu hỏi của những con người đụng tới đường cùng của cuộc sống. Truớc đường cùng này, tôi cũng xin không chỉ dừng bước, mà với tất cả tấm lòng xin cầu nguyện cho bao người Việt đã qua đời trên biển cả. Xin Chúa thương nhìn đến và đón nhận tất cả vào Nước của Chúa.
Vâng, chúng con dù sao vẫn tin vào lòng nhân từ và ơn giải thoát của Chúa, như Chúa đã nói:
“1 Bấy giờ, giữa cơn bão táp, ĐỨC CHÚA lên tiếng trả lời ông Gióp như sau:
8 Cửa đại dương, ai ra tay khép lại
khi nước tuôn trào từ đáy vực sâu,
9 khi Ta giăng mây làm áo nó mặc,
phủ sương mù làm tã che thân?
10 Đường ranh giới của nó, chính Ta vạch sẵn,
lại đặt vào nơi cửa đóng then cài;
11 rồi Ta phán: “Ngươi chỉ tới đây thôi,
chứ không được tiến xa hơn nữa,
đây là nơi các đợt sóng cao phải vỡ tan tành!” (Gióp 38, 1.8-11)
Dù tin đấy, nhưng không dậm chân tại chỗ. Niềm tin cũng cần biết tạo sáng kiến. Niềm tin cũng cần phải lên tiếng. Vâng, lên tiếng để đánh thức Chúa dậy. Một hành động tuyệt vời. Đến đường cùng rồi, vì thế cần phải đánh thức Ánh Dương, cần phải đánh thức Thiên Chúa đang ngủ dậy. Bóng đêm kia không thể mạnh hơn Ánh Sáng. Cuồng phong kia không thể mạnh hơn Thần Khí Thiên Chúa được. Cuồng phong và biển cả đều phải có ranh giới. Chúng phải ở đàng sau cánh cửa kia. Thiên Chúa chính là người không chỉ vạch ranh giới, không chỉ đặt then cài, mà Ngài còn là người có đủ quyền năng để gài then cửa.
- 38 Trong khi đó, Đức Giê-su đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ đánh thức Người dậy và nói: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”
Và quyền năng của Thiên Chúa cũng được trao cho Giêsu, Người con dấu ái. Vì thế, các môn đệ đã đánh thức thầy: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”
Một câu hỏi chất chứa sợ hãi và âu lo, một câu hỏi mang chút trách cứ và hờn giận Thiên Chúa. Joachim Gnilka, một nhà chú giải thánh kinh đã cắt nghĩa rằng, câu hỏi của các môn đệ đã diễn tả thái độ sai lầm của họ: Khi gặp hiểm nguy họ chỉ nghĩ về mình và về sự an toàn của mình mà thôi. Một cách nào đó họ đã không chia sẻ nỗi hiểm nguy của họ với Thiên Chúa. Họ không để cho Thiên Chúa cùng gánh vác nỗi hiểm nguy của họ. Thái độ này được nhắc lại rất rõ ràng trong biến cố họ chạy trốn trước thánh giá tử nạn của Giêsu. Còn với Rudolf Pesch thì lòng yếu tin của các môn đệ nằm ở chỗ, là họ không hiểu được và chấp nhận được một Thiên Chúa ẩn mình. Và trên con đường thương khó, các ông cũng đã ngựa quen đường cũ, không hiểu được tại sao Giêsu thầy mình phải chịu bắt bớ, tra khảo, kết án và chết tất tưởi trên thập tự.
Đâu rồi niềm tin và sự cậy trông vào một Thiên Chúa đã sinh ra làm người nghèo khổ trong hang lừa, để chia sẻ và gánh vác với đời người những âu lo, những khổ đau? Đâu rồi sứ điệp và tin mừng Phục Sinh của một Giêsu chiến thắng sự chết? Giêsu đó, Thiên Chúa đó ngay từ đầu và mãi mãi nói với con người chúng ta rằng: “Đừng sợ!”
Hay sức mạnh của bóng đêm và sự đe dọa của cuồng phong bão táp đã làm tắt lịm đi chút ánh sáng của niềm tin, và chút hơi ấm của niềm hy vọng? Không, ngay từ ngày đầu tiên, khi Thiên Chúa sáng tạo con người, Thiên Chúa đã thấy rằng, hành động sáng tạo này là hành động tuyệt vời nhất. Còn tạo vật nào hơn con người mà Thiên Chúa yêu thương nữa. Vì thế, dù biển sâu hay cuồng phong, dù bão táp hay đêm đen, dù thần dữ hay lòng người gian dối, không có gì có thể làm cho tình yêu của Thiên Chúa phai nhòa.
Thiên Chúa vẫn hiện diện. “Emmanuel - Thiên Chúa luôn ở cùng với chúng ta”.
Ngay cả trong những đêm tăm tối nhất của cuộc sống, Ngài vẫn không hề bỏ mặc chúng ta một mình. Ngay cả trong những lúc khó khăn nhất của cuộc đời, Ngài vẫn luôn hiện diện với chúng ta. Và thậm chí, ngay cả trong đêm cuối đời, trong giây phút cô đơn hiu quạnh cuối cùng của cuộc sống, vốn dĩ không ai có thể đồng hành cùng với chúng ta, trong đêm cuối cùng trước giờ lâm tử đó, Thiên Chúa vẫn không hề từ bỏ chúng ta.... (Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI)
Lời của Đức Thánh Cha chất chứa niềm hy vọng. Niềm hy vọng này cũng chính là nguồn sống cho Alfred Delp, một linh mục dòng Tên bị phát xít Đức giam cầm trong ngục tù đen tối. Cha Alfred kể lại rằng: “Vào một buổi tối tôi cảm thấy tâm hồn mình chao đảo. Tôi bị hành hạ rất dã man và sau đó bị tống trở lại vào ngục. Những tên lính phát xít giải tôi vào ngục đã nói những lời như sau: “Như vậy là đêm nay mày không thể nhắm mắt được đâu. Mày sẽ cầu nguyện, nhưng không có một Thiên Chúa và cũng chẳng có một thiên thần nào đến, để cứu thoát mày. Phần chúng ta sẽ đánh một giấc ngon lành, và sáng sớm ngày mai chúng ta sẽ tiếp tục hành hạ mày.’
Alfred kể tiếp: Thiên Chúa đã thử thách tôi. Giờ đây làm thế nào để có thể bền bỉ đứng vững được thôi. Tôi vẫn luôn tin tưởng vững vàng và hy vọng nơi Bàn Tay nhân từ, Bàn Tay đã đón nhận chúng ta và hướng dẫn chúng ta.... và Thiên Chúa đã ban tặng cho tôi một không gian thật đẹp với sự bình tâm thẳm sâu. Tôi cảm thấy lúc này Chúa thật gần và thương tôi thật nhiều....Với tôi có những lúc thật là khó khăn. Tôi đã trải qua những giờ phút rất đau thương với nước mắt và máu. Nhưng tôi đã luôn luôn cố gắng đưa những giọt nước mắt và máu của mình vào trong hai hành động thật nhỏ bé, để nhờ đó có thể đứng vững được. Hai hành động đó là: Cầu Nguyện và Yêu Thương. Tất cả mọi hành động khác trong lúc đó đều sai cả.... Hôm nay là một ngày tồi tệ. Thiên Chúa như đang thử thách tôi, xem tôi có giữ những lời mà tôi đã từng xác tín không: Chỉ với Chúa thì cuộc sống mới tồn tại và phận người mới đứng vững được.
Giờ phút của Phêrô lại đến. Gió bão và sóng lớn lại đe dọa... Phêrô bắt đầu run lẩy bẩy... Giờ đây mọi sự nằm trong bàn tay của Chúa... Ngài có nhiều cách để vực chúng ta dậy và dìu chúng ta tiếp tục tiến bước. Tôi đã thường cảm thấy điều này trong những tuần lễ thê thảm đầy sợ hãi và dài đằng đẵng. Tôi luôn hy vọng vào Thiên Chúa, và vào tình yêu cùng sự trung thành của Ngài...Tôi muốn đốt lên những ngọn lửa cho các bạn. Các bạn đã cùng đi với tôi trong những đêm đen của cuộc đời. Các bạn cũng đã từng bị gió bão và cuồng phong đe dọa, và các bạn đã đứng vững. Vai kề vai chúng ta cùng gánh vác chung với nhau nhé... Giữa đêm đen Ánh Sáng sẽ bừng lên!”
Hành động của Cha Alfred chắc chắn là một bài học thật quý giá cho chúng ta. Thực vậy, trên con thuyền của cuộc đời, chúng ta chỉ cần tin thôi. Chúng ta hãy cứ an tâm. Dù cho Giêsu có ngủ, nhưng ngủ ở đàng lái đấy! Và không chỉ ngủ ở đàng lái, mà theo Hans Urs von Balthasar, thì Giêsu còn nằm nghỉ trong lòng của Chúa Cha, Đấng canh giữ cuộc sống của Giêsu và sứ mạng của Giêsu, không bao giờ cho phép sức mạnh của thiên nhiên ảnh hưởng đến sứ mạng của Giêsu.
Nhưng sứ mạng của Giêsu là gì? Là yêu thương mọi người, là trao ban tình yêu của Cha cho mọi người, là chở che mọi người trước bao nỗi hiểm nguy, là giải thoát con người khỏi mọi nỗi sợ hãi, và đưa mọi người về với bờ bến của bình an, của hạnh phúc. Vâng, chúng ta hãy an tâm và đừng sợ, Giêsu luôn gìn giữ chúng ta, và không bao giờ để cho chúng ta mất đi. Như người mục tử nhân lành, chính Ngài chứ không ai khác sẽ che chở đoàn chiên trước thú dữ đang nhâm nhe đe dọa.
Vì thế, dù gió có lớn, bão có to đến mấy, thì Giêsu vẫn vững tay lái, vững mái chèo trên con thuyền của cuộc đời. Và dù Ngài đang ngủ, nhưng Ngài vẫn hiện diện. Dù vì mệt mỏi đang nghỉ ngơi, nhưng Ngài nghỉ ngơi trên con thuyền của chúng ta, của con người yếu đuối, chứ ngài không nằm nghỉ trên giường êm nệm ấm. Và kìa Ngài đã nghe tiếng kêu của các môn đệ. Chúng ta hãy nhìn xem. Ngài đứng dậy. Rồi Giêsu làm gì? Ngài sẽ mắng các môn đệ chăng? Không, điều đầu tiên là:
- “39 Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi!” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ.”
Tuyệt vời quá sức! Tuyệt vời như từ thuở xa xưa:
“Khi gặp bước ngặt nghèo, họ kêu lên cùng CHÚA,
Người đưa tay kéo họ ra khỏi cảnh gian truân.
Đổi phong ba thành gió thoảng nhẹ nhàng,
sóng đang gầm, bỗng đâu im tiếng,
họ vui sướng, vì trời yên bể lặng
và Chúa dẫn đưa về bờ bến mong chờ.” (Tv 107, 28-30)
Vâng, dù tiếng sóng có gầm vang, có thét lên đến long trời lở đất, thì cũng cần phải im tiếng đi, cần phải nhường bước cho Thiên Chúa, Đấng là tình yêu, Đấng từ thuở đời đời luôn ở đó bên người con nhỏ yêu dấu của Ngài:
“Sóng nước đã gầm lên, lạy CHÚA,
sóng nước đã gầm lên tiếng thét gào.
Sóng nước đã gầm lên, long trời lở đất.
Nhưng hơn hẳn tiếng nước ngàn trùng,
hơn hẳn sóng oai hùng ngoài biển cả,
CHÚA oai hùng ngự trị chốn cao xanh.” (Tv 93, 3-4)
Sự hiện diện đầy quyền năng của Chúa đã làm cho biển phải câm lặng. Quyền năng này các môn đệ ngày xưa không thể hiểu được. Có lẽ chính vậy mà niềm tin của các ông còn nhỏ lắm. Và có lẽ Giêsu hiểu thấu được niềm tin của môn đệ mình, nên Ngài chỉ mắng:
- “40 Rồi Người bảo các ông: Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”
Ở đây một điều thú vị là, trước hết Giêsu ra lệnh cho biển phải im lặng, sau đó Ngài mới mắng các môn đệ. Vâng, ngài đã hiểu thấu sự sợ hãi của các ông, nên điều đầu tiên cần làm không phải là trách mắng người đang sợ hãi, mà ra tay giúp đỡ giải thoát họ ra khỏi sự sỡ hãi trước, sau đó muốn nói gì thì nói, muốn mắng gì thì cũng không sao.
Lời mắng các môn đệ nhát sợ được Giêsu lập lại nhiều lần khác (x. Mc 4, 13.40; 7,18; 8,17tt.21.33; 9, 19). Nhưng khi mắng các môn đệ như thế, Giêsu có ý chống lại sự nghi ngờ của các môn đệ vào chính Ngài, Thầy của họ, cũng như chống lại sự nhát sợ của người được chọn, người môn đệ Chúa. Như vậy lời mắng của Giêsu như là lời tỉnh thức giúp cho những ai theo Chúa cần dừng bước lại, để nhận ra sự yếu đuối rất hay nhát sợ của con người mình, và ý thức bám vào Chúa nhiều hơn. Vâng, ai càng bám vào Chúa và sống trong tình thân với Ngài, thì sẽ chẳng sợ gì, họ càng ngày càng bình tâm hơn. Một sự bình tâm tín thác và tin tưởng hoàn toàn vào Chúa, đến nỗi không ước muốn sức khỏe hơn bệnh tật, giàu sang hơn nghèo khổ, danh vọng hơn nhục nhã, sống lâu hơn chết yểu và tương tự thế đối với mọi sự khác, nhưng chỉ ước muốn và lựa chọn cái gì dẫn đưa chúng ta tới cứu cánh của mình hơn cả, và cái gì đúng theo thánh ý của Chúa mà thôi (ss. Sách Linh Thao số 23)
Điều thứ hai mà Giêsu mắng các môn đệ là việc yếu lòng tin của các ông. Về điều này chúng ta cũng thấy Máccô nhắc đến nhiều lần. Vâng, dù cho các ông đã theo Giêsu và ở với Người (ss. Mc 3, 14), dù cho mầu nhiệm Nước Trời đã được trao cho các ông (ss. Mc 4, 11), và giải nghĩa cho các ông cặn kẽ (ss. Mc 4, 34b), nhưng các ông vẫn chưa có lòng tin. Adolf Pohl chú ý chúng ta về từ ngữ “chưa có lòng tin”. Với từ ngữ này chúng ta có thể nhận ra rằng, sự chậm hiểu và thiếu lòng tin của các môn đệ là dấu hiệu của sự thiếu kinh nghiệm thiêng liêng về Thiên Chúa và về niềm tin.
Phải chăng niềm tin không chỉ là một món quà của Chúa ban tặng một lần là xong, mà niềm tin còn cần phải được chăm bón, cần phải được thử sức và tôi luyện, cần phải luôn luôn được lấy ra khỏi “kinh tin kính”, để đem vào cuộc sống, để nhìn lại và để rút ra thêm kinh nghiệm. Và cũng thật quan trọng, khi ý thức như Luca cầu xin Chúa: “Lạy Chúa, con tin Chúa, nhưng xin Chúa tăng thêm lòng yếu tin của con.” Thực vậy, không ai dám nói rằng, khi tôi bước theo Chúa và trở thành môn đệ của Ngài, thì niềm tin của tôi vào Ngài đã vững vàng 100%, đến nỗi tôi không cần phải “vào nhà tập lại”, không cần phải đi tĩnh tâm năm, không cần phải cầu nguyện hằng ngày, không còn phải ra sức học hành và trau dồi Lời Chúa nữa.
Ai dám nghĩ như thế, thì thật là “tuyệt”, vì họ là con người hoàn hảo rồi. Mà đã hoàn hảo rồi thì đi tu để làm gì nữa? Vì vậy, thật hay từ ngữ “tu” của Việt Nam ta: Tu là để sửa chữa, để ngày ngày học biết tinh thần của Giêsu và ý thức sửa đổi bắt chước Giêsu mỗi ngày nhiều hơn một chút. Hay theo thiển ý của tôi, có thể nói theo kiểu của Linh Thao: Tu là một chuỗi ngày tập thể thao cho linh hồn của mình, bằng cách ngày ngày ý thức dọn dẹp và chuẩn bị linh hồn để xa bỏ những quyến luyến lệch lạc và sau đó tìm kiếm ý Chúa trong cách xếp đặt cuộc sống để mưu ích cho linh hồn mình (ss. Linh Thao số 1)
- 41 Các ông hoảng sợ và nói với nhau: “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”
Sau khi chứng kiến quyền năng của Giêsu trên thiên nhiên, thì các môn đệ hoảng sợ. Ở đây, Adolf Pohl so sánh một điều rất hay. Trong câu 37 nói về một trận cuồng phong lớn. Và sau đó ở câu 39 là “biển lặng như tờ” nghĩa là sự thinh lặng lớn. Và ở câu 41 này thì các môn đệ “hoảng sợ”, nghĩa là nỗi sợ thật lớn. Như vậy, nỗi sợ thật lớn này không còn là sự nhát sợ mà Giêsu mắng các ông ở câu 40, mà là sự sợ hãi lớn trước sự mạc khải của Thiên Chúa. Sự sợ hãi này cũng là sự công nhận của con người nhỏ bé trước quyền năng phi thường của Thiên Chúa. Vâng, nỗi sợ lớn lao trước Thiên Chúa này không trói buộc con người lại, mà thúc đẩy con người biết ý thức phủ phục, biết ý thức tỏ lòng thờ lạy Chúa của mình, như trong Giona 1, 16: “Những người ấy sợ ĐỨC CHÚA, sợ lắm; họ dâng hy lễ lên ĐỨC CHÚA và khấn hứa.” Như vậy, trong sự sợ hãi này chứa đựng những điều thật tích cực: Tin tưởng và thờ lạy. Vâng, sau khi biển và cuồng phong đã phải tuân phục và bái lạy Thiên Chúa, thì giờ đây đến lượt con người chúng ta.
Nỗi sợ hãi lớn lao này cũng thúc đẩy con người đi vào trong giao động mới, đó là đi tìm căn tính của Đức Kitô: Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh? Theo R. Pesch thì những ai chứng kiến cảnh tưởng này chỉ có thể trả lời rằng: Đấng mà cả gió và biển phải tuân lệnh thì lớn hơn tiên tri Giona. Ngài hành động với sức mạnh của chính Gia-vê Thiên Chúa. Ngài là Đấng lớn hơn cả sức mạnh và bạo lực của hỗn mang. Phần bạn và tôi, chúng ta hãy luôn để câu hỏi này đi với mình trong cuộc đời: “Đức Kitô là ai đối với tôi vậy?” Chắc chắn rằng, mỗi thời điểm câu trả lời sẽ khác, vì kinh nghiệm về niềm tin và về Giêsu của chúng ta cũng sẽ khác đi và dồi dào hơn.
44. Đức Giêsu dẹp yên bão tố
(Chú giải và Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
TM Máccô theo một cái khung quen thuộc để kể truyện này: một trở ngại phải vượt qua (một trận cuồng phong trên biển), hành động quyền năng của Đức Giêsu (lệnh truyền im lặng), và sự xác nhận (sự yên lặng hoàn toàn và nỗi sợ hãi của các môn đệ). Bối cảnh của câu truyện này rất có thể là quan niệm cổ xưa của Cận Đông về biển: đây là biểu tượng của những quyền lực của hỗn mang và sự dữ đấu tranh chống lại Thiên Chúa. Các độc giả đầu tiên của Mc nắm được ý nghĩa của biểu tượng này đến mức nào, thì khó mà biết. Nhưng chắc chắn câu hỏi của các môn đệ (“người này là ai?”) cho thấy là tác giả muốn nhấn mạnh trên chân tính của Đức Giêsu. Câu hỏi ấy trở thành một lời tung hô mặc nhiên mang tính Kitô học nhìn nhận bản tính thần linh của Đức Giêsu, bởi vì Người làm được những việc Thiên Chúa làm.
Ở đầu bản văn, rõ ràng Mc bận tâm tạo ra một móc nối với những phần đi trước. Ngày sắp tàn là ngày đã có bài giảng dài trên hồ (x. 4,1). Chiếc thuyền Đức Giêsu dùng để qua hồ vẫn là chiếc thuyền Người đã dùng làm bệ giảng trên hồ (x. hình ảnh con thuyền trong Mc: 5,1.21; 6,45; 8,31). Bỏ đám đông ở đầu c. 36 cũng là một điểm móc nối. Riêng với chiếc thuyền: Chuyến vượt hồ bằng thuyền tương ứng với việc dừng lại nơi một ngôi nhà; và cũng như có những giáo huấn đặc biệt Đức Giêsu ban cho các môn đệ được nối kết với lần dừng lại nơi một ngôi nhà (x. 7,17-23; 9,28t; 9,33-50; 10,10-12), thì cũng có những hành vi quyền lực đặc biệt được liên kết với chuyến vượt hồ bằng thuyền. Chiếc thuyền là nơi để Đức Giêsu mạc khải đặc biệt cho các môn đệ (4,35-41; 6,45-52) và là nơi Người chờ đợi các ông tỏ ra hiểu biết các hành vi quyền lực của Người (8,17-21). Chiếc thuyền là nơi có sự hiệp thông đặc biệt chặt chẽ giữa Đức Giêsu và các môn đệ. Và chính là trong sự hiệp thông rất chặt chẽ này và không thiếu hiểm nguy, mà các hành vi cứu độ và mạc khải quan trọng của Đức Giêsu được thực hiện.
2.- Bố cục
Sau khi đã giản lược một số chi tiết, chúng ta có thể xác định bố cục như sau:
1) Đức Giêsu và các môn đệ trước khi gặp sóng gió (4,35-37);
2) Đức Giêsu và các môn đệ trong sóng gió (4,38-39);
3) Đức Giêsu và các môn đệ sau sóng gió (4,40-41).
3.- Vài điểm chú giải
- Hôm ấy, khi chiều đến (35): Tác giả quen dùng hai thành ngữ đi liền nhau để chỉ thời gian, trong đó vế thứ hai xác định vế thứ nhất (x. 1,32.35).
- sang bờ bên kia: nghĩa là sang bờ phía đông của Hồ Galilê. Tại sao Đức Giêsu muốn sang đó: để tránh sự chống đối? để tìm một vùng đất mới mà rao giảng? Ta không được rõ.
- ngủ (38): Giữa trận cuồng phong dữ dội, Đức Giêsu vẫn có thể ngủ, có lẽ vì Người quá mệt, nhưng cũng chắc chắn vì Người vừa hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa (x. Tv 4,9; 3,24-26) vừa chứng tỏ Người luôn làm chủ mọi tình huống.
- Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao? (38) Câu hỏi này của các môn đệ đã được làm nhẹ đi rất nhiều trong Mt 8,25 (“Thưa Ngài, xin cứu chúng con, chúng con chết mất”) và Lc 8,24 (“Thầy ơi! Chúng ta chết mất!”).
- truyền cho biển (39): x. 1,25. Đức Giêsu có thể kiểm soát biển, đây là mặc nhiên khẳng định rằng Đức Giêsu có quyền năng của Thiên Chúa, bởi vì chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể điều khiển biển (x. Tv 73/74,13-14; 88/89,10-12).
- Câm đi! x. 1,25: động từ phimoô. Cơn bão được coi như một thú dữ. Động từ này cho hiểu rằng Đức Giêsu đang chứng tỏ Người có thể kiểm soát các mãnh lực của tà thần.
- Gió liền tắt và biển lặng như tờ: Nhận định này cho thấy Đức Giêsu hoàn toàn kiểm soát được biển.
- nhát (HL. deiloi, 40): Nhiều lần các tác giả Tân Ước đã cảnh giác về deilia (“sự nhát đảm”). Ở Kh 21,8, những người nhát đảm được kể ra cùng với những người không tin (x. 2 Tm 1,7; Ga 14,1).
- Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin? Lời trách này rất nặng, do nhắm thẳng vào các môn đệ (x. 8,14-21). Phải chăng họ đã mất niềm tin vào Thiên Chúa hoặc vào Đức Giêsu? Nếu họ đã mất niềm tin vào Thiên Chúa, chính là vì họ đã không chịu noi theo Đức Giêsu đặt hết tin tưởng vào Thiên Chúa (4,38). Nếu họ đã mất niềm tin vào Đức Giêsu, chính là họ vì họ đã không cậy dựa vào quyền lực của Đức Giêsu.
- Vậy người này là ai? (41): Bởi vì chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể chế ngự gió và biển, câu hỏi này của các môn đệ hàm chứa một lời tuyên xưng mặc nhiên rằng Người làm được những việc mà truyền thống Cựu Ước thường trình bày là chỉ Thiên Chúa mới làm được.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Bản văn vừa cho thấy tương quan mật thiết giữa Đức Giêsu và các môn đệ vừa diễn tả lộ trình các môn đệ khám phá ra mầu nhiệm Đức Giêsu: họ bước theo Người, họ chứng kiến các biến cố trong đó Người can thiệp, họ khám phá ra mầu nhiệm bản thân Người. Chi tiết “có những thuyền khác cùng theo” chỉ được nêu ra ở câu đầu, rồi sau đó cho đến cuối, không xuất hiện nữa.
* Đức Giêsu và các môn đệ trước khi gặp sóng gió (35-37)
Sáng kiến vượt hồ là sáng kiến của Đức Giêsu. Các môn đệ luôn thinh lặng bước theo Người và tận tình thực hiện những việc Người đề nghị. Đức Giêsu luôn tỏ ra là chủ, nắm vững mọi hướng đi.
* Đức Giêsu và các môn đệ trong sóng gió (38-39)
Nguy hiểm được mô tả bằng các chi tiết về sóng to gió lớn. Nhưng Đức Giêsu vẫn tỏ ra là chúa tể, làm chủ tình hình: Người ngủ. Bình thường các môn đệ chờ đợi Đức Giêsu phản ứng và dạy bảo rồi mới làm theo; nhưng ở đây, thấy bão táp quá nguy hiểm, các ông bị chao đảo trong đức tin, các ông đã phản ứng trước Thầy, các ông thúc bách Thầy bằng giọng hốt hoảng và trách móc. Người đã trỗi dậy, dẹp yên sóng gió. Ở đây, bão và biển được truyền lệnh như những sinh vật; chúng được yêu cầu “im đi!”, “câm mõm lại!”. Quả thật, từ vựng của bản văn là từ vựng của một truyện trừ quỷ.
* Đức Giêsu và các môn đệ sau sóng gió (40-41)
Dù sao chúng ta thấy phản ứng của các môn đệ (hoảng sợ và đánh thức Thầy) là chuyện hợp lý. Khó hiểu hơn, đó là những câu hỏi của Đức Giêsu: “Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?” (c. 40). Làm sao có thể cấm các môn đệ sợ hãi khi gặp nguy hiểm chết người? Đức tin này là loại đức tin nào, mà ngay trong nguy hiểm cùng cực vẫn loại trừ được nỗi sợ hãi? Đức Giêsu trách các môn đệ là chỉ nhìn đến nguy hiểm và những sức mạnh đe dọa của thiên nhiên chứ không hiểu biết ai là người đang cùng ở trên thuyền với họ.
Chỉ sau khi đã thực hiện phép lạ, Đức Giêsu mới ngỏ lời với các môn đệ; lúc này, họ lại trở về đúng vị trí là những người bước theo, đón nhận giáo huấn. Câu nói: “Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?” chứng tỏ các môn đệ đã được sống với Đức Giêsu khá lâu rồi. Câu hỏi “Vậy người này là ai…?” vừa nhìn nhận quyền lực của Đức Giêsu vừa như muốn tìm ra câu trả lời nơi những người nghe kể lại sự cố. Ta sẽ gặp câu trả lời được đề nghị trên môi Phêrô ở 8,29.
+ Kết luận
Đoạn văn nêu bật sự cần thiết của đức tin trong đời sống người môn đệ. Nếu chúng ta hiểu rộng ra rằng trận bão trên biển ấy là một hình ảnh báo trước cuộc Khổ Nạn mà Đức Giêsu sẽ đi vào, thì bước theo Đức Giêsu, dù ngày hôm qua hay ngày hôm nay, luôn luôn là bước theo Người xuyên qua Khổ Nạn. Và như thế, cần phải có đức tin. Chỉ với giá ấy, người môn đệ mới được tham dự vào cuộc Phục Sinh vinh quang với sự an bình thẳm sâu được.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Hình ảnh con thuyền trong đó các môn đệ sống chung với Đức Giêsu là biểu tượng cho cộng đoàn gồm những môn đệ hôm nay vẫn đang muốn bước theo Người. Đó chính là một cuộc “cộng đồng sinh mệnh”, sống chết có nhau. Phản ứng của các môn đệ trong biến cố này là một tấm gương và một lời nhắc nhở cho cộng đoàn Kitô hữu là đừng rơi vào một thái độ không tin như thế. Nếu chúng ta gắn bó với Đức Giêsu, thì không có hoàn cảnh nào có thể tiêu diệt chúng ta, bởi vì không có hoàn cảnh nào mà Người không chế ngự được.
2. Sai lầm của các môn đệ là chỉ nghĩ đến mình chứ không sẵn sàng chia sẻ nguy hiểm với nhau và với Đức Giêsu. Hoàn cảnh này sẽ được lặp lại khi họ chạy trốn trong đêm Đức Giêsu bị bắt và bị đưa đi đóng đinh. Cơn sóng gió cuối cùng chúng ta sẽ gặp, và không có cách nào tránh được, đó là cái chết. Mỗi người chúng ta đều sẽ phải đương đầu với cái chết; cái chết có thể đến bất ngờ một trận cuồng phong hay chậm chạp từ từ. Nhưng cho dù cái chết đến bằng cách nào đi nữa, chúng ta cũng lo sợ. Bài Tin Mừng này cho chúng ta biết là chúng ta phải tin rằng Đức Giêsu luôn nghĩ đến chúng ta, Người sẽ không để chúng ta phải lo sợ quá mức. Chúng ta tin rằng khi chúng ta cần, Người sẽ lên tiếng bảo cơn sóng gió “Câm đi! Im đi!”
3. Lời mời gọi “Hãy sang bờ bên kia” có nhiều ý nghĩa đối với chúng ta. Với Giáo Hội, “bờ bên kia” mang ý nghĩa là những người hiện giờ không ở trong cộng đoàn chúng ta, họ đang ở “bờ bên kia”, có thể họ là những người vừa di chuyển đến trong xã hội chúng ta, những người “bên phía kia”, là người cao niên, người tàn tật, người bệnh chờ chết, hay người di dân vì chiến tranh trong trại di cư... Đức giáo hoàng Phanxicô dạy trong Tông huấn Niềm vui Tin Mừng: “Mỗi Kitô hữu và mỗi cộng đồng phải phân định đường đi nước bước mà Chúa vạch ra, nhưng tất cả chúng ta đều được yêu cầu vâng theo tiếng gọi của Người là ra đi khỏi khu vực tiện nghi của mình để đến mọi vùng ngoại vi đang cần ánh sáng Tin Mừng” (s. 20).
4. Lời Đức Giêsu trách các môn đệ: “Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?” rất đúng cho chúng ta là những người đã biết Đức Giêsu từ lâu, đã sống với Người, đã được chứng kiến biết bao nhiêu việc kỳ diệu Người làm trong đời sống chúng ta, mà vẫn không biết phản ứng hay lấy những quyết định tương hợp với kinh nghiệm ấy. Nhận biết đúng đắn chân tính của Đức Giêsu thì sẽ có một thái độ đúng đắn đối với bản thân Người.
5. Các cộng đoàn chúng ta phải đưa Đức Kitô đến cho người ngoại, nên không thể nào tránh khỏi những khó khăn và đối kháng. Chẳng hạn, không phải mọi nhóm tôn giáo đều tôn trọng tự do của cá nhân; những sứ giả Tin Mừng có thể gặp những nguy hiểm chết người… Tuy nhiên, vì loan báo Tin Mừng là sứ mạng làm nên bản chất Kitô hữu, chúng ta không thể tránh né.
45. Chú giải của Noel Quesson.
Giáo huấn bằng dụ ngôn của Đức Giêsu đã nói lên sự phân biệt rõ ràng giữa hai loại người: Đối với những “người ở ngoài”, thì tất cả đều bí hiểm. Còn đối với các “môn đệ”, thì mọi sự đều sáng tỏ trong các mạc khải về mầu nhiệm mà “vị Thầy “ đã thông tỏ riêng cho họ. Trong Tin Mừng theo Thánh Mác-cô, tiếp theo một chuỗi những dụ ngôn là bốn phép lạ. Những phép lạ này có đặc tính rõ ràng: Không được thực hiện trước công chúng, nhưng chỉ “trước mặt các môn đệ”. Phải chăng những phép lạ này là những dụ ngôn bằng hành động, phải được hiểu trên bình diện biểu tượng cũng như bình diện thực tế? Các tông đồ giữa cơn bão tố được kể lại hôm nay, gọi Đức Giêsu là “Thầy” (tiếng Hy Lạp là didaskalos có nghĩa là “Thầy dạy dỗ”), việc này phải chăng có một giá trị mạc khải lớn? Vậy chúng ta hãy lắng nghe giáo huấn của Người trong biến cố này. Đọc một biến cố để nêu ý nghĩa thần học, không làm cho biến cố đó mất tính cách lịch sử, nhưng mang lại cho nó chiều kích sâu xa hơn.
Chiều hôm ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Chúng ta sang bờ bên kia đi?”. Vì Người đang ở trên thuyền, các ông cứ thế chở Người đi bỏ dân chúng ở lại; có những thuyền khác cùng theo Người”.
Trên bình diện thực tế lịch sử, tôi tưởng tượng một buổi chiều hè đẹp trời, Đức Giêsu mượn chiếc thuyền của Simon Phêrô và từ từ rời xa bờ biển Ca-phác-na-um. Sau một ngày nóng bức, bây giờ là buổi chiều tà mát mẻ. Sau khi đã tiếp xúc với đám đông ồn ào, bây giờ là lúc thân mật ân tình với nhóm bạn hữu trên biển. Chính Đức Giêsu đã có sáng kiến tạo ra những giây phút yên tĩnh này:
“Chúng ta hãy qua bờ bên kia”. Gió tốt, cánh buồm căng phồng đang nhẹ rung - Người ta chỉ nghe tiếng nước vỗ nhẹ vào mạn thuyền đang rẽ sóng và tiếng kêu của một vài con chim biển. Sau một ngày giảng dạy bằng dụ ngôn, Đức Giêsu mệt mỏi thiếp ngủ nơi cuối thuyền. Bên cạnh Người là Phêrô đang cầm bánh lái. Nhưng nếu chỉ dừng ở những trang này thì thật đáng tiếc. Chúng ta biết rằng, từng câu, từng chữ trong trình thuật Tin Mừng, đều được khoa Giáo lý ban đầu chú giải. Do đó chúng ta cũng phải đọc và hiểu theo nghĩa tượng trưng, như những chú giải của các Giáo phụ minh chứng.
“Ngày hôm đó”: Đây không phải là một kiểu nói thông thường, có nghĩa là: Ngày giảng dạy bằng dụ ngôn đã chấm dứt. Đối với Thánh Maccô “sự trình bày cán sự kiện nối tiếp nhau là một cấu trúc thần học hơn là một phóng sự “Ngày hôm đó” sẽ không phải một ngày thường. Phêrô sẽ nhớ ngày đó suốt đời. Vì ông gợi nhớ những hình ảnh Thánh kinh: “Ngày hiển hách của “Giavê”, “Ngày Thiên Chúa quyền năng can thiệp mạnh mẽ”, ngày đó có những tai họa cánh chung đi trước (Ga 2,3).
“Chiều tối đến”: Không chỉ là màn đêm buông xuống, mà còn “giờ của bóng tối”, giờ thử thách (Mc 14,17; Ga 9,4-13.30).
“Bờ bên kia”: Không chỉ là bờ hồ đối diện mà còn là bước đi vĩ đại sang bên kia thế giới. Đó là số kiếp của mỗi người vào lúc hoàng hôn của cuộc đời. Đó là ngày trọng đại Ngày của Thiên Chúa”... Tất cả những ngày khác đều phải chuẩn bị cho ngày đó.
Bỗng nổi lên một trận cuồng phong, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước.
Bão tố thực sự. Ngày nay hồ Tibêria vẫn nổi tiếng về những cơn bão bất ngờ và mãnh liệt từ đồi Gôlăng thổi xuống. Hơn ai hết, vì nghề nghiệp Phêrô đã biết rõ điều này. Những cơn gió thổi mạnh đập vào cánh buồm và làm nghiêng ngả chiếc tàu thật nguy hiểm. Nhưng không cần phải đi biển mới bị những cơn bão tố như thế. Tất cả các ngôn ngữ trên thế giới đều dùng chữ bão tố để ám chỉ “một cơn thử thách bất ngờ đổ xuống trên con người”. Trong Thánh Kinh, đề tài bão tố thường được dùng để nói về sức mạnh của sự dữ. Công cuộc tạo dựng ta được hiểu như sự chiến thắng của Thiên Chúa trên cảnh hỗn loạn của biển khơi nổi dậy (St 1,2). Theo khoa huyền thoại xưa của Do Thái. Biển cả là “vực thẳm vĩ đại”, nơi những con rồng, những thủy quái, Lêviathan, biểu tượng của Satan, thống trị (Is 27,1; Tv 74,13; G 9,13; Đn 7; Kh 12,13).
Trong khi đó, Đức Giêsu đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ.
Tôi ngắm nhìn Đức Giêsu đang ngủ, đôi mắt nhắm, hơi thở đều đặn, vẻ bình thản, ở đằng lái thuyền, trong cớn bão tố. Chi tiết này gợi cho tôi tâm tình cầu nguyện nào? Lạy Chúa, Chúa đưa chúng con đi đến đâu? Chúa làm cho chúng con bối rối biết bao? Trong Thánh kinh, có một người khác cùng ngủ trong cơn bão táp, đó là Giona. Người ta phải đến đánh thức ông dậy (Gn 1,3-16). Có phải tình cờ, mà Đức Giêsu nói về “dấu lạ của Gio-na” như một dấu hiệu duy nhất để diễn tả về: Cái chết và sự Phục sinh của Người? (Mt 12,39-40; Lc 11,29-30; Mc 8,12-13). Vả lại các tác giả Kinh thánh thường nói về “cái chết” bằng từ “giấc ngủ” (Tv 13,4; Đn 12,2; Ep 5,14; Ga 11,11; Mc 5,39-41). Hình ảnh này cũng dùng để diễn tả sự “lãnh đạm của Chúa”, sự “vắng mặt của Chúa”: Lạy Chúa, xin Chúa chỗi dậy đi, tại sao Chúa lại ngủ? Chúa hãy thức dậy đi (Tv 44,24; 45,23; 59,6; 78,65; Is 51,9-10). Vâng, đúng vậy trong những cơn bão tố cuộc đời chúng con, dường như Chúa vẫn ngủ. Lạy Chúa, không phải chỉ có con người hiện đại nghĩ ra đề tài “cái chết của Thiên Chúa”, nhưng đó là tình cảm tự nhiên của thân phận con người, khi thấy mình bất lực, bị đe dọa trước một Thiên Chúa không can thiệp để cho lực lượng của thần chết hành động, một Thiên Chúa dường như đang ngủ.
Các môn đệ đánh thức Người dậy, và nói: “Thầy ơi! chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”
Đây là một lời cầu tuyệt diệu, đáng cho chúng ta bắt chước, trước những bão tố cuộc đời.
Người thức dậy, ngăn đe gió, và truyền cho biển: “Im đi? Câm đi?” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ.
Ở đây chữ được dịch là “thức dậy”, “diégertheis” cũng chính là chữ được dùng để nói “được sống lại, Phục sinh” (Mc 5,41- 16,6.14).
Qua tình tiết có thực mà Maccô kể lại (đó là bài giảng của Phêrô), chúng ta có lý do chính đáng để nhận ra cuộc khổ nạn của Đức Giêsu là một cơn bão dữ dội: Nó làm lắc lư con thuyền nhỏ bé của cộng đoàn tông đồ, vào lúc Đức Giêsu đã ngủ yên trong cái chết của Người. Nhưng đối đầu với lực lượng thần chết được tượng trưng là “biển cả” Đức Kitô đã Phục sinh. Chúng ta gặp lại kiểu nói của người Do Thái về biển cả, hình ảnh những lực lượng thù địch với con người, vì ở đây, Maccô dùng chính những từ như khi Đức Giêsu “hăm dọa” quỷ dữ để “bắt chúng im lặng” (Mc 1,25; 9,25).
Đức Giêsu nói với họ: “Tại sao lại sợ? Tại sao các người không có đức tin?”
Câu nói rất nghiêm khắc: “Các anh không có đức tin”, “các anh đã mất lòng tin”, thực sự đã được áp dụng vào lúc Đức Giêsu chịu khổ nạn, lúc này tất cả các tông đồ chạy trốn, chối bỏ, hoài nghi. Chúng ta sẽ nghe lặp lại ba lần rằng, các tông đồ “đã không tin”: “Chúa trách sự cứng lòng tin của họ, vì. họ đã không tin những người đã thấy Chúa Phục sinh” (Mc 16,11-13).
Những cơn bão tố đời tôi thế nào? Chúa có làm nhẹ bớt những cơn bão đó không?
Nếu đọc Thánh kinh một cách ngây ngô, chúng ta có thể tin điều đó. Sự bình lặng của hồ Tibêria làm chúng ta mơ tưởng một cuộc sống an bình, trong đó Chúa sẽ thường xuyên can thiệp vào những nguyện nhân tự nhiên để tránh cho chúng ta sự thử thách và cái chết.
Nhưng đọc Thánh kinh cách đúng đắn, sẽ dẫn chúng ta đến sự “thanh tẩy đức tin” theo lời mời gọi của Chúa. Chính qua giấc ngủ của sự chết, Chúa Kitô đã giải thoát chúng ta khỏi những thế lực của hỏa ngục và sự chết.
Không phải đức tin nào cũng dẹp yên được bão tố, mà chỉ đức tin nới “Đức Kitô tử nạn và Phục sinh” mới có khả năng. Sự cứu độ mà chúng ta tin, không làm cho chúng ta thoát khỏi những đau khổ gắn liền với bản chất con người cách lạ lùng và đặc biệt.
Sự xác tín vào quyền lực của Chúa đã không ngăn cản Chúa Kitô trải qua, giấc ngủ ở trong hồ. Chính chúng ta cũng phải trả qua thử thách mới đến được “bến bờ bên kia”. Nhưng Đức Giêsu đang ở đó với chúng ta trong những thử thách. Quả thật trang Tin Mừng này có một biểu tượng đáng phục.
Các ông hoảng sợ và nói với nhau: “Người là ai, mà cả đến gió và biển cũng phải tuân lệnh?”
Đây là lần đầu tiên Thánh Maccô ghi lại câu hỏi này của các môn đệ. Câu hỏi chủ yếu nhắm đến lai lịch sâu xa của vị “Thầy” trẻ trung. Người phải chăng chỉ là một ông “Thầy” (Rabbi) như bao ông thầy khác? Người là ai? Người sẽ đưa họ đến đâu? Một ngày gần đây, Đức Giêsu sẽ hỏi Phêrô: “Đối với anh, Thầy là ai?” (Mc 8,29).
Không người nào có thể tự miễn cho mình khỏi phải đặt câu hỏi đó. Và nếu không trả lời thì đó là chấp nhận rằng, những cơn bão trong cuộc đời sẽ kết thúc bằng một sự chìm đắm vào hư vô. “Nhưng nếu người nào ở trong Đức Giêsu, người đó sẽ là một tạo vật mới” (1Cr 5,7). Đức tin được thanh luyện đưa chúng ta vào cuộc sống mới. Lạy Chúa, Chúa đã nói: “Chúng ta hãy sang bờ bên kia”.
46. Chú giải của Fiches Dominicales.
ĐỨC GIÊSU DẸP YÊN SÓNG GIÓ
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI.
1. Một trình thuật giống kiểu trừ tà
Đức Giêsu rời bỏ ven Biển Hồ Galilê, nơi Người đã dùng dụ ngôn mà giảng dạy cho dân chúng (x. Tin Mừng CN.11 TN) để phiêu lưu sang “bờ bên kia”, nơi có đông dân cư' là người ngoại. Trình thuật Maccô ta đọc hôm nay nằm trong bối cảnh đó.
Đọc trích đoạn trên, người đọc chỉ có thể thấy cái hời hợt bên ngoài, nếu không biết gió và biển trong Kinh Thánh có ý nghĩa biểu tượng gì, và nếu không để giờ đối chiếu đoạn văn này với câu chuyện Chúa gặp người bị quỷ ám ở hội đường Capharnaum. Thực vậy, “gió” và “biển” đối với người am tường Kinh Thánh, mang rất nhiều ý nghĩa. M.E.Boismard giải thích: “Trong ngôn ngữ Do Thái, cùng một tiếng “gió” cũng có nghĩa là “Thần trí”. Ngoài ra trong Kinh Thánh, biển thường là biểu tượng những thế lực gian tà mà Thiên Chúa phải đánh gục để kế hoạch của Người toàn thắng. Ở đây, biển động dữ dội do ảnh hưởng của cuồng phong. Ta phải hiểu là có một “thần tríxấu (Satan chăng) đang, tung những ma lực dưới quyền để ùa đến tấn công con thuyền, “tức là tân công các môn đệ” (“Jésus, un homme de Nazareth”, Cerf, 1996, trang 78). Quả là một trở ngại lớn lao cho việc loan báo Tin Mừng trên miền đất dân ngoại!
Còn nếu đối chiếu với phép lạ giải thoát người bị quỷ ám ở hội đường Capharnaum (Mc 1,23-27) ý nghĩa lại càng rõ.
+ Nơi Mc 1,25: Đức Giêsu đã quát mắng “thần ô uế”. “Câm đi” hãy xuất khỏi người này!”. Còn ở đây, sau khi được các bạn đồng hành đánh thức dậy, vì Người đang ngủ ở đàng lái, Đức Giêsu ngăm đe gió và truyền cho biển: “Im đi, câm đi”.
+ Nơi Mc 1,26: thần ô uế, sau khi đã lay mạnh người ấy, thì thét lên một tiếng và xuất khỏi anh ta. Còn ở đây, gió và biển đều tuân phục Đức Giêsu: “ Gió liền tắt và biển lặng như tờ”.
+ Nơi Mc 1,27: cảnh kết thúc với lời bàn tán của những người chứng kiến: Mọi người đều kinh ngạc và bàn tán: Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh. Còn ở đây, các môn đệ cũng bàn tán: các ông hoảng sợ và nói với nhau. Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh”.
Thế nên, trong chuyện kể về bão táp được dẹp yên, không chỉ đơn thuần là việc Đức Giêsu biểu dương quyền lực đối với thiên nhiên mà chính là vấn đề trữ quỷ đích thực: Đức Giêsu có quyền trấn áp Satan và những thế lực của sự ác đang hoạt động song hành với Người.
Còn về lời bàn tán của các môn đệ “Vậy người này là ai mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh”, thì rõ ràng là lời mạc khải. J.Potin chú giải: theo cách nhìn của Kinh Thánh, bão táp là biểu hiện của những ma lực tiềm ẩn trong biển cả. Chỉ mình Thiên Chúa hoặc kẻ được Chúa ban quyền mới có thể chế ngự được những ‘thế lực ấy’. Ở đây các môn đệ được mời gọi khám phá ra chân lý tiềm ẩn đàng sau cảnh dẹp yên sóng gió là: Đức Giêsu được Thiên Chúa trao ban quyền lực để thu hồi mọi lực lượng về phục tùng Thiên Chúa. Nhờ thế lực của Đức Giêsu mà các môn đệ đã khắc phục được hiểm nguy lớn lao. Việc hồi tưởng lại một biến cố rõ rệt đã trải qua, sự hộ phù che chở của Chúa trong chuyến vượt biển nguy hiểm ấy. Đều là biểu tượng ơn nâng đỡ người sẽ ban cho các ông trong lúc con thuyền Giáo Hôi lâm cảnh lênh đênh sóng gió “Jésus, l’histoire vaie”, Centurion, 1994, trang 256-257).
2. Khi đọc lại câu chuyện dưới ánh sáng phục sinh.
Một sự đối chiếu khác không kém phần lý thú và chứa đựng nhiều giáo huấn. Đó là cảnh khởi đầu của sách Giona mà trích đoạn Tin Mừng này coi như đã sao họa lại.
Trong cả hai trường hợp, câu chuyện đều cùng mở đầu bằng việc hành khách xuống thuyền (Ga 1,31 Mc 4,35-36).
+ Nếu Giona xuống thuyền để đi Taxê là vì ông nghĩ mình có thể trốn lánh mặt Chúa, Người đã lệnh cho ông phải đi tới Ninivê, một thành phố lớn của dân ngoại để kêu gọi dân thành ở đây trở lại.
+ Còn Đức Giêsu xuống thuyền là để tới ven bờ bên kia của Biển Hồ, miền đất thuộc dân ngoại, cũng là để rao giảng Tin Mừng ở đây. Đây là một khúc quanh quan trọng trong sứ vụ của Người.
Trong cả hai trường hợp đều có một trận cuồng phong nổi lên khiến biển động dữ dội.
Trong khi đó, Giona và Đức Giêsu đều cùng ngủ mệt: Giona ngủ vùi dưới lòng tàu, còn Đức Giêsu thì dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ ở đàng lái, chỗ thường dành cho người thủy thủ cầm lái (T.O.B). Tất cả đều “cùng sợ hãi”: các thủy thủ trong Giona 1,5, các môn đệ Đức Giêsu trong Mc 4,40. Cùng xoay sở và cùng buông lời trách móc. Nói với Giona: “Ông làm nghề gì”? Sao ngủ mê mệt như vậy? Hãy chỗi dậy cầu khẩn cùng Thiên Chúa của ông, may ra Người sẽ đoái đến chúng ta, và chúng ta khỏi chết chăng? Nói với Đức Giêsu trong Mc 4: “Thầy ơi chúng ta chết đến nơi rồi. Thầy chẳng lo gì sao?”.
- Cùng cảnh êm ả trở lại.
+ ở Giona 1: Sau khi các thủy thủ đã kêu cầu Chúa, trước khi ném Giona xuống biển theo yêu cầu của ông.
+ Nơi Mc 4: Theo lệnh truyền của chính Đức Giêsu.
- Cùng một phản ứng từ phía những người chứng kiến sự việc:
+ Nơi Giona 1: “Mọi người đều rất kính sợ Chúa, họ làm lễ tế dâng lên Chúa cùng với lời khân hứa”.
+ Nơi Mc 4: “Các ông hoảng sợ và nói với nhau: Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”.
Ở đây “dấu chỉ Giona” há chẳng phải là một lối ám chỉ và là một biểu tượng loan báo cuộc đối đầu quyết liệt của Ngày Thứ Sáu Thánh (nhất nữa, giấc ngủ theo Kinh Thánh thường là biểu ttượng của sự chết và động từ chỗi dậy” được trình thuật sử dụng vốn là một trong những động từ thế hệ Kitô giáo ban đầu dùng để chỉ sự phục sinh)?.
J.Hervieux đưa ra nhận xét: “Câu chuyện Chúa dẹp yên sóng gió không chỉ đơn giản là một tường thuật về một phép lạ. Câu chuyện đó được coi như một biểu tượng nói lên một cách cô đọng số phận nghiệt ngã của Đức Giêsu. Nếu Người có đưa các môn đệ vào trận cuồng phong, thì cũng không phải do ngẫu nhiên! Toàn bộ cuộc đời Người là một cuộc chiến cam go với những thế lực của sự ác. Người phải tiến lên đối đầu với một cuộc chạm trán khốc liệt nhất: đối đầu với chính cái chết của mình. Việc Người ngủ - chẳng ai lại ngủ giữa lúc phong ba bão táp - lại là điều rất có ý nghĩa. Trong Kinh Thánh, giấc ngủ thường là biểu tượng sự chết. Ở đây cuộc khổ nạn của Đức Giêsu như được diễn trước bằng kịch câm. Đức Giêsu thiếp ngủ đi như chết giữa cảnh xôn xao náo động của hỏa ngục được gợi hình bằng những đợt sóng lồng lộng điên cuồng. Trong một tình huống như vậy, mà Thầy vẫn ngủ, thì chuyện các môn đệ hoảng sợ cũng là điều dễ hiểu. Trước cảnh tượng của thập giá sau này, cũng như ở đây lúc này, các ông sẽ mất lòng tin là điều hiển nhiên” (“Evanglle de Marc”, Centurion, trang 75).
Cũng tác giả J.Hervieux kết luận: “Khi đọc lại câu chuyện Chúa đi qua biển và dẹp yên sóng gió như vậy, Maccô cố gắng đáp ứng những nhu cầu hiện thực của Giáo Hội thời ngài. Những tín hữu Rôma đang phải điêu đứng vì những cuộc bách hại. Họ đang sống trong nỗi sợ hãi, giống như các môn đệ trong con thuyền vượt biển xưa, đối với họ, Đức Kitô hình như đang ngủ. Việc người: “vắng mặt” rõ ràng trong những biến cố bi thảm họ đang sống, tạo cho họ thêm e dè, sợ sệt! Chúa phải làm gì để giải thoát họ khỏi cảnh chết chóc đang rình rập?
Cuối cùng ta đừng quên, bão táp xảy đến trong lúc Đức Giêsu đã quyết đinh đem các bạn hữu theo mình đi truyền giáo ở phía bên kia Biển Hồ, nơi các dân ngoại. Người ta có thể nghĩ bụng phải chăng các tín hữu đầu tiên ở Rôma không linh cảm việc loan báo Tin Mừng cho những người đương thời của họ là một công việc đáng dễ sợ sao?” (Sđd)
BÀI ĐỌC THÊM
1. “Vậy người này là ai”.
“Có một thứ mâu thuẫn trong cách phản ứng của các môn đệ: khi sợ hãi trong lúc gặp sóng gió, các ông liền lên tiếng kêu cứu Chúa, đánh thức Người dậy: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao? Thế nhưng khi Chúa truyền cho gió yên bể lặng rồi, thì các ông lại kinh ngạc: “Vậy người này là ai mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh? Đức Giêsu biết rõ lòng các ông còn lẫn lộn bán tín bán nghi: “Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin? Lắm lúc chúng ta cũng mang một tâm trạng như vậy. Ta cậy dựa vào Chúa, biết rõ mình có thể kêu cầu Chúa, chẳng cần phải đánh thức Người dậy! Cùng lúc ấy, tâm trí ta lại vương nỗi do dự này: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, mà Thầy những lo gì sao? Chúa liền ra tay để củng cố lòng tin cho ta. Tin như vậy là tiếng kêu gọi thiết tha, là niềm cậy trông còn nhỏ bé và mong manh thúc đẩy ta chạy đến với Chúa. Rồi lòng tin ấy trở nên tâm tình cảm phục, vững tin khi Chúa cho ta biết Người là ai, Người có thể làm gì cho những ai dám đến cùng Người. “Vậy người này là ai? Lời đó phải vừa là câu hỏi, vừa là tiếng kêu bày tỏ lòng suy tôn vậy”.
2. “Từ sợ hãi đến tin tưởng”
“Hãy xem ông Gióp, bị điêu đứng vì những thử thách trăm bề, về mặt vật chất cũng như tinh thần, mặt đạo đức cũng như thiêng liêng. Một người chính trực như ông mà đã phải gánh chịu bao bất công, phải chao đảo vì những tai ương dồn dập, và vì sự thinh lặng của Chúa. Ông tố cáo Chúa, Chúa sẽ chẳng đưa ra lời giải thích nào, và sẽ chẳng vén lên bức màn bao trùm mầu nhiệm khôn dò về sự ác. Thế nhưng chỉ giữa lúc phong ba bão táp thì Chúa mới nhắc nhở cho ông biết rằng Người là Chúa tể của bão, Người có quyền đặt ranh giới và ngăn chặn những đợt sóng kiêu hùng của bão. Thế là ông Gióp nghiêng mình bái phục Chúa với lòng tin, đồng thời thú nhận sự ngu muội của mình.
Maccô dùng cũng thứ ngôn ngữ ấy để nói với các tín hữu của giáo đoàn Rôma đang hốt hoảng và bị chấn thương vì cơn bách hại. Ngài để lại cho họ một kinh nghiệm bản thân: chính các tông đồ cũng đã từng biết đến một Đức Giêsu ấy nằm ngủ và tỉnh bơ trước thảm cảnh của những bạn đồng hành, hoảng hốt thấy mình sắp “đi đời” rồi, dù họ là những tay ngư phủ dày dạn. Thực tế là các ông đã chỉ thiếu lòng tin mà thôi, hay nói cách khác là lòng tin tưởng và yêu mến, vì theo kiểu nói của thánh Phaolô, họ đã chỉ biết Đức Kitô theo quan điểm loài người (Bài đọc 2).
Đường lối sư phạm của Chúa vẫn trước sau như một. Những lớp sóng vẫn liên lì và ồ ạt vập vào thuyền khiến thuyền đầy nước. Vậy mà Đức Kitô luôn có mặt ở đó, vẫn cứ ngủ. Giống như thời ông Gióp, ta cũng thường tra hỏi, chất vấn, sửng sốt, đòi hỏi Chúa phải giải thích và trình bày. Tại sao vẫn xảy ra những vụ tàn sát những người vô tội, những cảnh anh em chém giết nhau không nương tay, những cuộc bách hại đẫm máu, những trận dịch kinh hoàng, những bất công chỉ biết kêu trời báo oán, những cảnh chết đói khiến phải đào mồ chôn tập thể.
Ta đừng chờ đợi phép lạ, có chăng chính là phép lạ của lòng tin, cậy, mến. Thực ra “Đức Kitô hôm qua, hôm nay và ngày mai” cũng vẫn là một. Hằng ngày ta vẫn còn thấy Người thực hiện những điều kỳ diệu khi làm nẩy sinh những tạo vật mới, khi tạo dựng một thế giới mới. Đó là mỗi lần mà tha thứ thay thế cho hận thù, ích kỷ nhường chỗ cho quảng đại và lòng can đảm quét sạch đi những hèn nhát.
Còn một câu hỏi và nỗi sợ hãi khác từ phía những tín hữu vốn khư khư với những tập quán, quan niệm hẹp hòi, với những chương trình và kế hoạch tương lai cho Giáo Hội do họ suy luận ra, nên họ la ó lên rằng: những hết cả rồi, khi họ nhìn thấy những bảng thống kê sụt giảm, những cơ cấu rạn nứt, những hình thức đổi thay và những cánh cửa canh tân mở toang. Câu trả lời của Chúa vẫn không thay đổi: “Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin? Há các bạn không nhìn thấy trong “cơn gió chướng mạnh” Thần Khí vẫn đang thổi hơi, làm nổi lên cho mãi tới những gốc cây cổ thụ đang chết một giải đất. bao la đầy những chồi non đang vươn lên ngợi ca sự sống và hy vọng. Bởi lẽ “cái cũ đã biến mất, và cái mới đã có đây rồi” (Bài đọc 2)
47. Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
BÃO TỐ DẸP YÊN
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Người tín hữu thường quên chiều kích vũ trụ trong hành động của Chúa Kitô, trong khi thời đại này, các khoa học kỹ thuật nói nhiều đến việc khai thác, nhân hóa, bảo tồn, chinh phục thiên nhiên, các khoa học nhân văn nói nhiều đến mối liên quan giữa con người và vật chất, thiên nhiên, vũ trụ, môi trường sống. Kitô hữu phải hiểu cùng làm cho người khác hiểu rằng Chúa Kitô không xa lạ với vật chất đã làm nên vũ trụ. Trái lại qua việc nhập thể và phục sinh trong thân xác, Người đã mở rộng ơn cứu rỗi tới cho tất cả những gì hiện hữu. Chúa Giêsu đã đến không phải chỉ để cứu linh hồn con người mà thôi, nhưng cứu toàn thể con người xác hồn, và qua thân xác con người, Người biến đổi sâu xa cả vũ trụ vật chất (x. Rm 8,19): chính vũ trụ vật chất đang trên đường về với Thiên Chúa.
2. Câu chuyện xảy ra được Maccô kể lại theo lời chứng nhân tận mắt là Phêrô nên có nhiều chi tiết. Nhưng một trong những điểm quan trọng, chủ yếu của trình thuật là chính thắc mắc của các sứ đồ sau khi bão yên: “Người là ai mà gió cùng biển phải tuân phục Người?”. Ngày nay với phát minh khoa học kỹ thuật, con người khắc phục được thiên nhiên rất nhiều đã từng nghiêng đồng đổ nước, thay trời làm mưa, bắt sông uốn khúc, ép núi cúi đầu, nên dễ quên Đấng Tạo Hóa. Kitô hữu phải biết khám phá thấy trong mọi chuyển động tự nhiên của vũ trụ cũng như trong mọi khắc phục thiên thiên của con người bàn tay quan phòng của Thiên Chúa.
3. “Xảy đến một trận gió táp thổi mạnh, và sóng ập tràn vào đò, làm đò đã hòng ngập đầy”. Ngày nay, đâu là cơn bão tố lớn đang vùi dập con đò Phêrô? Là trào lưu vô thần, là sự tục hóa, là thái độ tấn công tinh vi hay dửng dưng với tôn giáo. Nhưng Kitô hữu đừng lo! Giáo Hội đã trải qua nhiều cơn bão lớn hơn trong lịch sử rồi, như những sa đọa trong hàng ngũ lãnh đạo, sự cấu kết thái quá với thế quyền, sự chểnh mảng trong việc trau dồi đức tin, những xâu xé nội bộ, thế mà Giáo Hội vẫn không chìm đắm. Vì Chúa Kitô và Thánh Thần luôn ở với Giáo Hội.
4. “Tại sao sợ hãi? Các ngươi không có đức tin ư”. Lời chất vấn và trách cứ của Chúa Giêsu cũng như lời mời gọi hãy tin tưởng đang được gởi đến những tín hữu mà niềm tin vào Thiên Chúa hôm nay đang bị lung lay vì bao bão tố, đau khổ. Kitô hữu hãy nhớ: tin trước hết là xác tín rằng dù gặp phải bao yêu thương, là hiểu rằng mọi chướng ngại chỉ là dấu chỉ tình yêu Thiên Chúa, là phương tiện giúp ta về với Thiên Chúa.
5. Chúa Giêsu không hứa với Giáo Hội là sẽ che chở cho khỏi cơn bão tố, trái lại người hứa là Giáo Hội sẽ thắng bão tố, sẽ không bị chìm ngập và con thuyền Giáo Hội, cho dầu có xảy ra gì chăng nữa, sẽ đến bờ như đã hứa. Chúa Kitô đã chẳng trải qua cơn bão tố Tử nạn để rồi đạt đến bờ Phục sinh ư? Cuộc sống Giáo Hội và cuộc sống mỗi Kitô hữu chúng ta không thoát khỏi định luật này, là định luật của tất cả những ai, những gì muốn về với Thiên Chúa. Dĩ nhiên, đây không phải là định luật Thiên Chúa ra một cách độc đoán, như thể Ngài muốn ta phải trả giá Nước Trời, hành hạ ta đã rồi mới cho được nghỉ ngơi. Bão tố, gian nan, thử thách chính là những gì xảy ra khi ta quyết tâm trung thành với Thiên Chúa, khi ta từ bỏ chính mình, từ bỏ mọi sự để chiếm đoạt cho được Thiên Chúa là hạnh phúc đích thực của ta.
48. Chú giải của William Barclay.
BÌNH AN CỦA SỰ HIỆN DIỆN
Biển hồ Galilê nổi tiếng về bão tố. Những cơn bão từ nguồn đến hết sức thình lình với sự tàn phá kinh khủng. Một tác giả đã mô tả chúng như vậy: “Các trận cuồng phong khủng khiếp lồng lộn trên mặt nước mà bình thường rất phẳng lặng, ngay cả khi bầu trời hoàn toàn trong trẻo, thình lình cơn bão đến không phải là điều không thường thấy. Vô số các thung lũng từ hướng đông bắc và hướng đông trải ra ở phần trên của hồ tạo thành rất nhiều hẻm núi nguy hiểm bọc gió từ cao nguyên Hauran, vùng đồi Tracônít và đỉnh núi Hetmôn tạo thành một sức nén, ào đến với một lực kinh khủng qua một khoảng trống hẹp rồi thình lình thoát ra làm xao động hồ Giênêdarét bé nhỏ trong một tình trạng kinh hoàng nhất. Những khách vượt hồ luôn luôn có cơ hội phải đối diện với những cơn bão thình lình như vậy”.
Chúa Giêsu đang ở trong thuyền, tại chỗ dành cho bất cứ một vị khách quý nào. Chúng ta được biết, “Trong những thuyền này, tại đó có sắm sẵn một tấm thảm và gối. Người lái thuyền đứng cách đó một chút gần bánh lái thuyền để có thể dễ dàng nhìn phía trước”.
Thật thú vị khi ghi nhận được những lời của Chúa Giêsu truyền cho gió và sóng hoàn toàn giống như điều Người đã truyền cho người bị quỷ ám trong Maccô 1,25. Sức mạnh phá huỷ của bão tố cũng như sức mạnh tàn phá của ma quỷ khi nó nhập vào con người, vì vậy dân chúng tại Palestine vào thời ấy tin rằng quyền lực xấu xa của ma quỷ cũng đang hoạt động trong lãnh vực thiên nhiên.
Thật thiếu công bằng khi chúng ta chỉ suy nghĩ câu chuyện này theo nghĩa đen. Nếu nó chỉ thuật lại một phép lạ vật chất trong đó một cơn bão thực sự yên lặng thì đó là một điều rất lạ lùng và là điều đáng cho chúng ta kinh ngạc, nhưng đó là điều xảy ra một lần. Trong trường hợp đó nó hoàn toàn ở bên ngoài đối với chúng ta. Nhưng nếu chúng ta đọc nó theo ý nghĩa biểu tượng thì sẽ thấy giá trị hơn. Khi các môn đệ nhận thức được sự hiện diện của Chúa ở với họ thì cơn bão yên lặng. Một lần nữa họ kinh nghiệm sợ hãi tan biến và bình an vào trong lòng họ. Ra khơi với Chúa Giêsu là ra khơi an toàn ngay cả trong bão tố. Giờ đây là sự thật cho mọi trường hợp. Đó không phải là điều chỉ xảy ra một lần, nhưng vẫn còn đang xảy ra và có thể xảy ra cho chúng ta. Trong sự hiện diện của Chúa Giêsu chúng ta có được bình an ngay cả trong bão tố khủng khiếp nhất của cuộc sống.
1/ Ngài ban cho chúng ta bình an trong bão tố của sầu muộn.
Khi sầu muộn đến, Ngài nói với chúng ta về vinh quang của cuộc đời sẽ đến. Ngài biến đổi bóng tối của sự chết thành ánh sáng của sự sống vĩnh cửu. Ngài nói với chúng ta về tình yêu của Thiên Chúa. Một câu chuyện cổ nói về một người làm vườn, nơi ấy có một đoá hoa mà ông rất yêu quý. Một ngày nọ khi ra vườn thấy bông hoa đó đã mất. Ông ta vô cùng phật ý, bực tức và phàn nàn. Trong lúc đang bực tức ông gặp chủ vườn và phàn nàn với chủ. Chủ vườn nói “Anh yên tâm! Chính tôi đã hái nó cho tôi”. Giữa bão tố của sầu muộn, Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng những người chúng ta thương yêu đã đi ở với Thiên Chúa và Ngài đảm bảo rằng rồi đây chúng ta sẽ gặp lại những người thân thương mà chúng ta đã thiếu vắng họ một thời gian.
2/ Ngài ban cho chúng ta bình an khi những nan đề của cuộc sống cuốn hút chúng ta vào trong cơn bão của nghi ngờ, căng thẳng và không chắc chắn.
Rồi có những lúc chúng ta chẳng biết phải làm gì, khi chúng ta đứng trước ngã ba của cuộc sống không biết đi đường nào. Lúc ấy chúng ta quay sang Chúa Giêsu và thưa cùng Ngài rằng “Lạy Chúa, Ngài muốn con làm chi?”. Con đường sẽ được khai thông. Thảm kịch không phải là chúng ta không biết phải làm gì, nhưng chính là chúng ta thường không hạ mình tuân phục sự hướng dẫn của Chúa Giêsu. Câu hỏi ý Ngài và tuân phục ý đó là đường dẫn đến bình an trong những lúc như vậy.
3/ Ngài ban cho chúng ta bình an trong bão tố của lo âu.
Kẻ thù hàng đầu của bình an là lo lắng, lo lắng cho chính mình, lo lắng về tương lai ngoài sự hiểu biết, lo lắng về những người mình yêu. Nhưng Chúa Giêsu nói với chúng ta về một người Cha không bao giờ làm đổ những giọt lệ không cần thiết nơi con Ngài, và về một tình yêu vượt trội giữa chúng ta và những người thân yêu của chúng ta khỏi trôi giạt. Trong bão tố của lo âu, Ngài đem đến cho chúng ta bình an của tình yêu Thiên Chúa.
49. Bão táp cuộc đời mỗi người
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Đời người là một cuộc hành trình lâu dài và khó khăn, bởi vì cuộc đời con người không phải lúc nào cũng xuôi chảy,có lúc giống như mặt nước êm ả, chảy trôi nhưng có lúc không thiếu giông ba bão táp…Với ngòi bút thật linh động của thánh Marcô, thánh sử mô tả một cơn bão tố trên biển hồ Tibêriat hay gió mênh mông, thổi mạnh vào những buổi chiều trong thung lũng sông Giorđăn. Dân chúng đi theo Chúa, nghe Chúa giảng dạy và khi họ được Chúa làm phép lạ nuôi họ, Ngài giải tán dân chúng và ra lệnh cho các môn đệ qua bờ bên kia để nghỉ ngơi một chút…
Chúa lên thuyền bởi vì mệt mỏi sau một ngày giảng dạy không ngơi nghỉ, Ngài xuống cuối mạn thuyền và nằm ngủ. Các môn đệ vẫn cần mẫn chèo thuyền để qua phía kia biển hồ…Các môn đệ đâu có tưởng được bỗng dưng gió thổi mạnh, sóng dâng cao…nước vào đầy thuyền,các môn đệ vẫn tay chèo, tay tát nước. Thế mà, Chúa vẫn ngủ say như không hề để ý gì đến cơn lốc, cơn bão táp. Thực tế, Chúa Giêsu muốn đưa các môn đệ của Người đi trên biển hồ mênh mông, giữa bão táp, sóng to, gió lớn, là để cho các môn đệ thấy trước những bão tố trong cuộc đời sau này sẽ xẩy đến cho các môn đệ là những thử thách, gian nan như bắt bớ, bách hại, tù đầy, hy sinh cả mạng sống mà các môn đệ sẽ gặp phải trên đường loan báo Tin Mừng. Các môn đệ sẽ phải đối diện với nhiều thử thách trên đường truyền giáo. Họ sẽ lèo lái con thuyền Giáo Hội và Giáo Hội sẽ gặp nhiều thử thách, các môn đệ và các tông đồ phải kiên trì, can đảm, mạnh mẽ chống đỡ.Cái trớ trêu là khi Chúa Giêsu đang có mặt, các môn đệ vẫn lo âu, sợ sệt, phải chăng các ngài chưa tin tưởng vào Chúa? Chúa Giêsu nói tại sao các con sợ sệt? Sợ sệt đang lúc Chúa đang có mặt chung trong con thuyền? Sợ như thế thật vô lý! Chúa muốn, Chúa đòi hỏi các môn đệ không được sợ, không được khiếp đảm! Chúa Giêsu đã làm biết bao phép lạ trước mặt các môn đệ! Tại sao các môn đệ lại cuống cuồng lên như thế? Nếu các ngài có lòng tin, chắc chắn các ngài không sợ sệt như thế! Các môn đệ chỉ hoàn hồn khi Chúa truyền cho biển im, gió lặng…Đức tin chỉ hình thành khi con người phó thác và hiểu quyền năng của Chúa Giêsu.
Vâng, phép lạ Chúa Giêsu làm cho sóng to, gió lớn, biển động im lặng giúp chúng ta hiểu được rắng Giáo Hội trải qua thời gian trong lịch sử, đã gặp biết bao thử thách, đã gặp biết bao sóng to, gió lớn. Tuy nhiên, con thuyền Giáo Hội, cầm đầu là các Đức Giáo Hoàng, đứng đầu là Phêrô, đã vượt qua
Đối với chúng ta, cuộc đời mỗi người là một cuộc hành trình đầy sóng gió, có lúc đức tin chúng ta vững, nhưng cũng cói lúc đức tin chúng ta yếu, không vững vàng. Có lúc chúng ta như thấy Chúa đang hiện diện với ta, nhưng cũng có lúc xem ra chúng ta không còn thấy Chúa nữa. Những lúc đó đức tin của chúng ta thực yếu, thực mệt mỏi, chúng ta như muốn buông xuôi tất cả. Trong những lúc như thế, chúng ta phải bắt chước các môn đệ, đến với Chúa Giêsu, xin Ngài cứu giúp vì Ngài đã hứa:” Ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế “.
Xin mượn lời Cha Christophe Husson,A.a. để kết luận bài chia sẻ này:” …Con thuyền cũng là Giáo Hội của chúng ta, mà chúng ta là thành phần liên đới.Thuyền lướt êm trên biển lặng và thuyền quay cuồng muốn lật úp dưới sóng gió hung tàn. Chúng ta đều thấy rõ, dù là tín hữu, cuộc đời không nhân nhượng với chúng ta, nhưng giữa những thử thách của niềm tin, chúng ta phải giữ vững mũi tàu trong niềm hy vọng, chỉ đơn giản vì Thiên Chúa đang nắm giữ mũi tàu của chúng ta:” Tại sao các con lại sợ? “.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con vững mạnh, can đảm lướt thắng những thử thách, khó khăn vì tin rằng Chúa đang hiện diện với chúng con. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Tại sao Chúa lại nói các môn đệ chèo thuyền qua bên kia biển hồ Tibêriat?
2.Tại sao Chúa lại ngủ?
3.Trước sóng to gió lớn thái độ của các môn đệ như thế nào?
4.Các môn đệ có tin vào Chúa đang có mặt trong thuyền với các ngài không?
5.Chúa mắng các môn đệ làm sao?
50. Quyền uy trên thiên nhiên
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH: Đức Giê-su chứng tỏ quyền năng của Người trên gió và biển, tượng trưng cho những thế lực của ma quỉ muốn chống lại Thiên Chúa. Người đã dùng lời quyền năng dẹp yên sóng gió để củng cố đức tin yếu kém của các môn đệ. Đồng thời cũng để các ông vững tin khi gặp phải những cơn thử thách bách hại sau này.
CHÚ THÍCH:
- C 35-36: + Chúng ta sang bờ bên kia đi": Biển hồ ở đây là hồ Galilê, cũng có tên Giê-nê-sa-rét hay Ti-nê-ri-a. Đây là một các hồ lớn nằm bên trong đất liền xứ Ga-li-lê, dài 21 km và rộng 13 Km. Hồ thấp hơn mặt biển 210 mét nên khí hậu ấm áp dễ chịu, nhưng cũng thương hay có những trận cuồng phong. Biển hồ theo nghĩa của Thánh Kinh là một thế lực gian ác chống lại Thiên Chúa và con người. Đức Giê-su đã làm nhiều phép lạ tại vùng biển hồ này như: Hóa bánh ra nhiều (x Mt 14,14-31); Đi trên mặt nước (x Mt 14,25); Chữa nhiều bệnh nhân (x Mt 15,29-31); Hiện ra sau khi sống lại (x Ga 21,1); Mẻ cá lạ lùng (x Ga 21,4-8).
- C 37-38: + Và một cơn cuồng phong nổi lên: Cơn cuồng phong đe doạ sẽ nhấn chìm thuyền của các Tông đồ xuống lòng biển, tiên báo những nguy hiểm thử thách mà Hội Thánh sẽ phải trải qua sau này. +Đức Giê-su đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ: Trong khi chiếc thuyền và những người trên thuyền lâm nguy vì bị bão tố trù dập thì Đức Giê-su vẫn nằm ngủ để thử thách đức tin của các môn đệ. Giấc ngủi còn là hình ảnh ám chỉ về sự chết của Người (x Tv 13, 4; Ep 5, 14).. +Các môn đệ đánh thức Người dậy và nói: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi. Thầy chẳng lo gì sao?”: Đánh thức là hành động của các môn đệ kêu cầu Đức Giệ-su cứu giúp trong cơn nguy hiểm. Điều này cho thấy lòng tin yếu kém của các ông vì chưa tín vào quyền năng và tình thương của Thầy mình. +Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi. Thầy chẳng lo gì sao?”: Các môn đệ hốt hoảng khi thấy thuyền của các ông sắp bị chìm đắm giữa biển khơi mà xem ra thầy các ông không hay biết.
- C 39-41: +Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi!”: Đức Giê-su bày tỏ uy quyền trên gió bão và biển động. Khi ra lệnh cho ai là chứng tỏ mình có quyền trên người đó. Khi truyền cho sóng gió yên lặng, Đức Giê-su chứng tỏ quyền năng trấn áp các thế lực gian ác. +Lập tức gió ngưng biển lặng: cho thấy sự dữ đã phải tùng phục uy quyền của Con Thiên Chúa. +”Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?: Đức Giê-su quở trách sự hèn tin của các môn đệ như nhiều lần khác Người đã trách các ông chậm tin vào Người: “Hỡi những kẻ ngu muội và trí lòng chậm tin”(Lc 24, 25); “Người quở mắng sự cứng tin chai đá của họ, bởi họ không tin những kẻ đã thấy Người sống lại” (Mc 16,14). +Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?: Các môn đệ ngạc nhiên và đầy lòng thán phục Đức Giê-su, khi họ được chứng kiến lời phán đầy uy quyền của Người trên thiên nhiên là gió và biển..
CÂU HỎI: 1-Biển hồ Ga-li-lê còn có những tên gọi nào? Dài rộng bao nhiêu? 2-Đức Giê-su đã làm các phép lạ nào tại vùng biển hồ này? 3-Cơn cuồng phong tượng trưng cho điều gì? 4-Đức Giê-su ngủ ở đàng lái trong khi cuồng phong nổi lên nhằm mục đích gì? 5-hành động đánh thức Đức Giê-su nói lên điều gì về đức tin của các môn đệ? 6-Đức Giê-su bày tỏ quyền năng Con Thiên Chúa qua lời nói và hành động nào? 7-Ngoài lần này, Đức Giê-su còn trách các môn đệ hèn tin trong những hoàn cảnh nào nữa không? 8-Các môn đệ đã biểu lộ đức tin thế nào khi chứng kiến phép lạ Đức Giê-su thực hiện trên thiên nhiên?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Môn đệ liền nói:”Người là ai, mà cả đến gió và biển cũng phải tuân lệnh?”(Mc 4,41).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Tín thác vào tài năng của cha:
Trong một chuyến du hành vượt Đại Tây Dương, nhiều du khách đang đứng trên boong ngắm cảnh hoàng hôn mặt trời đang dần lặn xuống biển. Bỗng mây đen ùn ùn kéo tới, chẳng mấy lúc làm tối sầm cả vùng trời. Rồi sấm chớp đổ xuống liên hồi, trên mặt biển giông tố cuồn cuộn nổi lên, gió càng lúc càng thét gào dữ dội. Mọi người trên boong chen lấn nhau đi về phòng mình, duy chỉ một bé trai là tiếp tục chơi trên boong khi trận cuồng phong sắp ập xuống.
Khi có người hỏi “Em không thấy sợ khi cơn giông tố đang ập đến sao?” Em thản nhiên đáp lại: “Em không sợ, vì ba em chính là thuyền trưởng cừ khôi đang cầm lái con tàu này!”.
Giống như cậu bé đã tin tưởng ở cha mình đang cầm lái con tàu, mỗi người chúng ta cũng hãy vững tin Thiên Chúa là Cha đầy tình yêu và quyền năng. Ngài sẽ hướng dẫn cuộc đời chúng ta bước theo đường lối của Ngài để tới bến bình an.
2) Con ruồi: một tạo vật tinh xảo của Thiên Chúa:
Ngày kia khi tôi đang ngồi ăn trong phòng thì một con ruồi từ bên ngoài bay vào. Nó bay mấy vòng trên bàn rồi nhẹ nhàng hạ cánh xuống miếng chuối ăn dở trên bàn.... Con ruồi đã có thể làm bất cứ điều gì nó thích và bay đến bất cứ nơi nó muốn.
Con ruồi chỉ là một sinh vật nhỏ bé và không chứt giá trị, thế nhưng hoạt động của nó lại trổi vượt hơn hẳn một chiếc máy bay tinh xảo đắt tiền.... Ruồi cất cánh mà không cần lấy đà như máy bay. Đang bay nhưng nó vẫn có thể đáp xuống ngay. Ruồi không bị rơi, không va chạm vào vật nào khác và cũng không bị tai nạn mjuw máy bay. Nó không cần phải học bay và động cơ cũng không bao giờ bị trục trặc hay gặp sự cố. Và cuối cùng nó có khả năng sản xuất ra ngàn vạn con ruồi tương tự mà không phải tốn bao nhiêu công sức.
Con ruồi cho chúng ta thấy quyền năng vô biên của Thiên Chúa trong vũ trụ thiên nhiên.
3) Tận mắt chứng kiến phép lạ Tại Lộ Đức:
Một sinh viên y khoa người Tây Ban Nha đi viếng trung tâm hành hương Đức Mẹ tại Lộ Đức bên Pháp. Ở đại học Madrid, chàng sinh viên này đã nghe các giáo sư vô tín ngưỡng nói về Lộ Đức như là nơi sản xuất của những mê tín dị đoan trong tôn giáo. Nên trong thời gian ba tháng này, anh sinh viên muốn điều tra thực hư về các phép lạ. Tại đây anh đã được tận mắt chứng kiến một phép lạ như sau:
"Hôm đó tôi đang ở sân Vương cung Thánh đường Lộ Đức cùng với các bà chị của tôi chờ Kiệu Mình Thánh Chúa sắp đi qua. Bấy giờ một bà tuổi trung tuần đang đẩy một chiếc xe lăn đi tới ngay trước mắt chúng tôi. Bà chị tôi chỉ chiếc xe lăn nói: "Kìa hãy coi cậu con trai đáng thương của bà ta!" Đó là một anh chàng khoảng 20 tuổi bị bại liệt và toàn thân biến dạng. Mẹ của anh ta đang lần chuỗi to tiếng, kèm theo lời cầu nguyện "Lạy Đức Nữ Đồng Trinh, xin hãy giúp đỡ chúng con!".
Khi Đức Giám Mục ban phép lành Mình Thánh cho chàng thanh niên bại liệt, đang lúc anh ta nhìn vào mặt nhật có đựng Mình Thánh Chúa. Đột nhiên chàng thanh niên bại liệt trỗi dậy, từ từ bước ra khỏi chiếc xe lăn và đã hoàn toàn bình phục! Dân chúng thấy vậy liền hô to trong niềm vui hân hoan: "Phép lạ! Phép lạ!"
Sau đó nhờ có giấy phép, nên tôi được xem các bằng chứng xác minh phép lạ này. Tôi không thể diễn tả hết những điều tôi cảm nhận và về tâm trạng tôi lúc đó. Tôi đến từ trường Y Khoa Đại Học Madrid, nơi có nhiều giáo sư vô tín nổi tiếng và nhiều sinh viên bạn học của tôi luôn miệng nhạo báng phép lạ. Thế mà giờ đây, tôi đã được chứng kiến tỏ tường một phép lạ do Chúa Giê-su Thánh Thể thực hiện. Khi ấy tôi đã cảm nhận được một sức mạnh vô song của Chúa và thấy thế giới chung quanh tôi thật nhỏ bé. Tôi đã trở về Madrid, Tây Ban Nha và ba tháng sau tôi chính thức được gia nhập vào Tập Viện Dòng Tên”.
4) Sức mạnh vô song của lời cầu nguyện:
Xác Inh-Lít (Charles Inglis), một nhà truyền giáo nổi tiếng thánh thiện đã kể lại câu chuyện như sau: trên một chuyến đi biển kia có một nhà truyền giáo tên là Gioóc-Dơ Mu-Lơ ở Bớ-Rai-Tơn, dự định sẽ đến nhà thờ lớn ở Quê-Béc giảng đạo vào chiều thứ Bảy cuối tuần. Nhưng do bị sương mù quá dầy khiến vị thuyên trưởng phải cho tàu chạy chậm và như thế khiến nhà truyền giáo sẽ bị trễ hẹn. Bấy giờ nhà truyền giáo mới nói với thuyền trưởng mình có cách sẽ sớm làm tan làn sương mù kia đi. Thuyền trưởng nghĩ ông này bị mát dây thần kinh nên không thèm để ý. Bấy giờ nhà truyền giáo liền yêu cầu thuyền trưởng cùng quỳ gối cầu nguyện với mình. Rồi ông một mình quỳ gối xuống dâng một lời cầu nguyện sốt sắng, đang khi viên thuyền trưởng vẫn đứng nhìn với con mắt không mấy tin tưởng. Chờ cho nhà truyền giáo cầu nguyện xong, vị thuyền trưởng mới nói: “Ngài có biết độ dày của sương mù kia đến cỡ nào không?”. Nhà truyền giáo trả lời:”Không biết! Nhưng tôi không nhìn vào sương mù. Tôi chỉ nhìn vào Đấng dựng nên sương mù mà thôi”. Viên thuyền trưởng định quỳ gối xuống cầu nguyện thì nhà truyền giáo đã ngăn lại và nói: “Nếu lòng ông không tin thì cầu nguyện nào có ích gì? Hơn nữa, tôi tin chắc Chúa đã nhận lời cầu của tôi rồi nên ông chẳng cần phải cầu thêm làm chi! Tôi đã nhận biết Chúa được 57 năm rồi, và trong suốt thời gian đó không ngày nào mà tôi không thưa chuyện với Người. Bây giờ ông hãy mở cửa ra mà xem việc Chúa làm”. Quả nhiên khi mở cửa ra thì viên thuyền trưởng thấy làn sương mù dày đặc trước đó đã tan biến hết, con tàu lại tiếp tục tăng tốc và cuối cùng đã cập bến đúng theo lịch trình.
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy đức tin mạnh mẽ của nhà truyền giáo. Chính Chúa Giê-su đã luôn kết hiệp mật thiết với Chúa Cha và hoàn toàn tín thác cậy trông nơi Cha. Ngày nay, vì thiếu lòng tin nên người ta coi thường việc cầu nguyện. Mỗi khi gặp phải hoàn cảnh khó khăn hay gặp gian nan thử thách, người ta thường chỉ biết dựa vào sức riêng mình, đang khi lẽ ra vừa phải xin Chúa ban ơn soi sáng để tìm ra giải pháp tốt nhất, lại vừa phải cố gắng làm hết sức mình để giải quyết các khó khăn trở lực ấy.
3. SUY NIỆM:
Tin Mừng kể lại cảnh tượng xảy ra trên biển hồ Ga-li-lê: Đức Giêsu đang ngủ. Ngài ngủ vì mệt mỏi sau khi dùng thuyền làm giảng đài để dạy dỗ dân chúng. Các môn đệ đều là các ngư phủ chuyên nghiệp, và vùng biển này là điạ bàn hoạt động quen thuộc của các ông, thế mà lúc này các ông lại đang trong tâm trạng hoảng loạn.
1. Chúa ngủ trong thuyền giữa cơn bão: Theo Chúa không phải lúc nào cũng thuận buồn xuôi gió hay được hưởng thái bình thịnh vượng. Ngay cả những lúc chúng ta gần Người nhất, khi không có tội lỗi hay nghi ngờ nào làm ta cách ly Người, thì giông tố vẫn có thể xảy tới. Chúa không hứa cho chúng ta được thư thái an nhàn, nhưng đòi ta phải sẵn sàng chiến đấu, từ bỏ, thậm chí có khi còn phải chịu chết vì danh Người…
2. Chết đến nơi rồi mà Thầy không lo gì sao?: Câu nói biểu lộ sự kinh hãi tột độ và ngụ ý trách móc Chúa đã không quan tâm giúp đỡ khi môn đệ đang gặp nguy nan. Ngày nay một bộ phận tín hữu chúng ta cũng có tư tưởng này mỗi khi bị cơn bão cuộc đời vùi dập. Từ khi tin theo Chúa chúng ta thường nghĩ rằng chúng ta sẽ đương nhiên được Chúa che chở và cứu khốn phò nguy như đó là trách nhiệm Chúa phải chu tòàn, đang khi lẽ ra ta phải luôn cầu xin Chúa giúp ta vượt qua thử thách và phó thác cuộc đời trong bàn tay Chúa quan phòng.
3. Gió liền tắt và biển lặng như tờ: Chúa Giêsu đã lệnh cho sóng gio yên lặng. Ngày nay cũng có người tự hỏi: “Tại sao Chúa lại không ra tay can thiệp cứu giúp các tín hữu mà lại mặc họ phải bị chết chìm trong biển cả cuộc đời?” Nếu chúng ta hiểu câu chuyện chỉ vỏn vẹn là sự dẹp yên bão tố của thời tiết thì chắc chắn sẽ phát sinh nhiều vấn đề làm chúng ta phải nặng lòng. Nhưng ý nghĩa của câu chuyện này còn lớn hơn thế nữa:
4. Chúng tôi phải làm gì?: Trong cuộc sống, các tín hữu chúng ta phải thể hiện đức tin bằng cách:
- Khi sự sầu muộn đến như nó phải đến: Ta tin rằng Chúa sẽ biến đổi bóng tối của sự chết thành ánh sáng phục sinh vĩnh cửu. Người sẽ giúp chúng ta tin cậy vào tình yêu vô cùng của Ngài. Chằng hạn khi ta bị nất đi một người thân yêu, thì chúng ta nên biết rằng: Chết không phải là hết, nhưng là bườc vào một đời sống mới vình hằng và mai ngày chúng ta sẽ gặp lại người thân của chúng ta trên Thiên đàng.
- Khi chúng ta gặp phải một hoàn cảnh nan giải: Khi ta không biết phải làm gì, phải giải quyết thế nào mới đúng, chúng ta hãy thưa với Chúa Giê-su: “Lạy Chúa, nếu Chúa ở trong hoàn cảnh của con bây giờ thì Chúa sẽ làm gì?” hoặc: “Lạy Chúa Chúa muốn con làm gì?” Bấy giờ Chúa sẽ nói trong lương tân để giúp chúng ta nhận biết con đường phải đi và ta sẽ có thể mạnh dạn thưa cùng Chúa:”Này con xin đến để thi hành thánh ý Cha”.
- Khi gặp cơn lo âu bối rối: Khi ta phải lo cho bản thân, lo về một tương lai bất định, lo cho con cái sau này… Chúng ta hãy ý thức về lòng nhân từ yêu thương của Thiên Chúa để trông cậy phó thác cuộc đời trong tay Chúa quan phòng. Người sẽ luôn giúp chúng ta đạt tới hạnh phúc đời đời. Bấy giờ tâm hồn chúng ta sẽ được bình an như lời Chúa Giê-su phán:”Hỡi những ai lao nhọc và gồng gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta. Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.… Và tâm hồn các con sẽ được bình an” (Mt 11,29).
4. THẢO LUẬN: 1) Một người có đức tin vững mạnh có bị thất bại hay gặp phải những sự gian nan khốn khó trong cuộc đời hay không? 2) Một người chỉ biết cầu xin Chúa giúp mà không cố gắng làm việc để tự giải quyết những khó khăn gặp phải thì có phải là người có đức tin vững mạnh không? Tại sao? 3) Vậy khi gặp gian nan thử thách, người tín hữu phải làm gì để chứng tỏ đức tin vững mạnh của mình?
5. CẦU NGUYỆN:
- Lạy Chúa Giêsu. Ngày nào chúng con cũng gặp phải nhiều gian nan thử thách. Nhiều khi những sự sui sẻo hoạn nạn lại cứ dồn dập đổ xuống làm con thuyền đức tin của chúng con như sắp bị chìm đắm. Trong những lúc ấy, xin cho chúng con ý thức rằng Chúa vẫn đang ở trong thuyền linh hồn chúng con, để chúng con yên tâm và không còn bị nao núng sợ hãi nữa. Xin cho chúng con biết vừa làm hết sức mình, vừa tín thác cậy trông vào ơn cứu độ của Chúa. Nhờ đó chúng con sẽ có thể vượt qua các cơn gian nan sóng gió và tới bến bình an.
- Lạy Chúa. Xin cho chúng con luôn tin vào tình thương quan phòng của Chúa. Cho chúng con biết xử dụng những ơn lành Chúa ban để giải quyết những trở ngại gặp phải trên đường đời. Mỗi khi gặp phải điều gì trái ý, xin cho chúng con biết cầu nguyện như Chúa khi xưa: “Lạy Cha, nếu có thể được, thì xin cho con khòi uống chén này. Nhưng đừng theo ý riêng con, một xin vâng ý Cha” (Mt 26,39). Xin cho chúng con vừa làm việc vừa cầu xin Chúa trợ giúp như lời bài hát:“Có Chúa đi với con, con sẽ không còn sợ chi. Có Chúa đi với con, con sẽ không còn thiếu gì”. Xin cho con năng dâng lời ngợi khen cảm tạ Chúa về muôn ơn lành Chúa đã thương ban, cho con biết noi gương Mẹ Ma-ri-a mà dâng lên lời ngợi khen cảm tạ tình thương bao la của Chúa, vì Chúa đã làm cho con biết bao điều lớn lao kỳ diệu (x Lc 1,46-55).
19/06 Hãy làm tôi tớ Thiên Chúa
- Viết bởi Mt 6, 24-34
Hãy làm tôi tớ Thiên Chúa.
Thứ Bảy tuần 11 thường niên.
"Các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai".
Lời Chúa: Mt 6, 24-34
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Không ai có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó sẽ ghét người này, và yêu mến người kia, hoặc nó chuộng chủ này, và khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và Tiền Của được. Vì thế, Thầy bảo các con: Chớ áy náy lo lắng cho mạng sống mình: lấy gì mà ăn; hay cho thân xác các con: lấy gì mà mặc. Nào mạng sống không hơn của ăn, và thân xác không hơn áo mặc sao?
"Hãy nhìn xem chim trời, chúng không gieo, không gặt, không thu vào lẫm, thế mà Cha các con trên trời vẫn nuôi chúng. Nào các con không hơn chúng sao? Nào có ai trong các con lo lắng áy náy mà có thể làm cho mình cao thêm một gang được ư? Còn về áo mặc, các con lo lắng làm gì?
Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng coi chúng mọc lên thế nào? Chúng không làm lụng, không canh cửi. Nhưng Thầy nói với các con rằng: Ngay cả Salomon trong tất cả vinh quang của ông, cũng không phục sức được bằng một trong những đoá hoa đó. Vậy nếu hoa cỏ đồng nội, nay còn, mai bị ném vào lò lửa, mà còn được Thiên Chúa mặc cho như thế, huống chi là các con, hỡi những kẻ kém lòng tin.
Vậy các con chớ áy náy lo lắng mà nói rằng: "Chúng ta sẽ ăn gì, uống gì hoặc sẽ lấy gì mà mặc? Vì chưng, dân ngoại tìm kiếm những điều đó. Nhưng Cha các con biết rõ các con cần đến những điều đó. Tiên vàn các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các điều đó Người sẽ ban thêm cho các con. Vậy các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai. Vì ngày mai sẽ lo cho ngày mai. Ngày nào có sự khốn khổ của ngày ấy".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Người sẽ thêm cho
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Chế độ nô lệ tưởng như đã không còn trên thế giới.
Nhưng ngày nay người ta vẫn nói đến những hình thức nô lệ mới.
Nước nghèo mất chủ quyền, chịu nô lệ cho nước giàu,
các phụ nữ trở nên nạn nhân của nô lệ tình dục,
trẻ em nô lệ cho chơi game, thanh niên nô lệ cho ma túy.
Xem ra khó tránh được chuyện bị làm nô lệ,
giữa một thế giới đề cao tự do và giải phóng.
Khi không muốn làm nô lệ cho ai,
con người lại trở nên nô lệ cho cái tôi ích kỷ.
Khi không chấp nhận lệ thuộc Đấng Tạo Hóa cao vời,
con người lại trở nên nô lệ cho các thụ tạo do mình tạo ra.
Đức Giêsu đặt chúng ta trước một chọn lựa.
“Anh em không thể đồng thời làm tôi Thiên Chúa và Tiền Của được.”
Nếu có hai chủ thì thế nào cũng yêu mến người này hơn người kia.
Giữa Thiên Chúa và Tiền Của, tôi sẽ gắn bó với ai hơn, tôi sẽ chọn ai?
Tôi không thể giả vờ thỏa hiệp để chọn cả hai, để được cả hai.
Thần Tài hứa hẹn cho tôi sự an toàn và hạnh phúc giả tạo,
còn Thiên Chúa hứa cho tôi hạnh phúc đích thực, vững bền.
Chỉ khi đặt Thiên Chúa lên trên mọi sự, tôi mới thật sự tự do.
Có sáu động từ lo trong bài Tin Mừng trên đây.
Đức Giêsu nhiều lần khuyên các môn đệ đừng lo (cc. 25. 31. 34).
Nhưng làm người ai lại không lo về ngày mai, trừ phi là trẻ thơ?
Trên thế giới bao người vẫn phải vật vã từng ngày với cơm ăn, nước uống?
Con người có thể sống vô tư như chim trời không
khi chim trời ngày nay cũng bị đe dọa không nơi trú ẩn?
Chúng ta cần hiểu cho đúng chữ lo của Đức Giêsu.
Ngài không dạy chúng ta sống vô trách nhiệm, phó mặc hay lười biếng.
Cái lo mà ta nên tránh là cái lo âu, lo sợ của người kém lòng tin (c. 30),
không tin rằng Thiên Chúa quý con người hơn mọi thụ tạo khác.
hơn giống chim trời, hơn hoa ngoài đồng nội.
Lo âu đó chi phối quá khiến người ta cứ loay hoay, bối rối tự hỏi:
ta sẽ ăn gì, uống gì hay mặc gì đây? (c. 31).
Lo âu này khiến người ta bất an và sợ hãi, vì là lo âu một mình,
quên rằng mình có Người Cha biết rõ những nhu cầu thiết yếu (c. 32),
và sẵn sàng lo cho mình những điều cần dùng (c. 33).
Lo âu này cũng khiến người ta tìm kiếm thỏa mãn nhu cầu của mình
hơn là ưu tiên tìm kiếm xây dựng Nước Thiên Chúa (c. 33).
Kitô hữu không phải là người ngây thơ, sống không lo ngày mai.
Kitô hữu là người biết lo liệu, lo toan cho cuộc sống của họ.
Nhưng họ không căng thẳng vì phải bơ vơ lo một mình.
Họ lo như một người con trưởng thành, cùng lo với Thiên Chúa Cha.
Họ lo một cách thư thái nhẹ nhàng như loài chim buổi sớm đi tìm thức ăn.
Kitô hữu nắm được chìa khóa của hạnh phúc, của no đủ và bình an.
Đó là cứ tìm kiếm Thiên Chúa trước tiên, mọi sự khác sẽ được ban dư dật.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa,
xin cho con luôn vui tươi.
dù có phải lo âu và thống khổ,
xin cho con đừng bao giờ khép lại với chính mình;
nhưng biết nghĩ đến những người quanh con,
những người - cũng như con -
đang cần một người bạn.
Nếu như con nên yếu đuối,
thì xin cho con biết yêu thương và sáng suốt hơn,
thông cảm và nhân từ hơn.
Nếu bàn tay con run rẩy,
thì xin giúp con luôn biết mở ra và cho đi.
Khi lâm tử,
xin cho con biết đón nhận khổ đau và bệnh tật
như một lời kinh.
Ước chi con sẽ chết trong khiêm hạ và tín thác,
như một lời xin vâng cuối cùng.
Và con về nhà Chúa,
để dự tiệc yêu thương muôn đời. Amen.
Suy Niệm 2: Không thể làm tôi hai chủ
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa Giê-su dứt khoát nói với ta: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được”. Ai lo tìm những giá trị đời này sẽ bỏ quên Thiên Chúa. Ai tìm Thiên Chúa sẽ không màng gì những lợi lộc đời này. Vì Thiên Chúa đã ban cho ta điều cơ bản nhất: sự sống. Thế mà ta cứ lo tìm những gì phụ thuộc. “Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao?” Chúa đưa ra ví dụ cụ thể. Chim trời không gieo không gặt vẫn được Chúa nuôi dưỡng. Bông hoa ngoài đồng không dệt không may mà áo đẹp còn hơn vua chúa. Huống chi chúng ta là con cái của Chúa. “Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao?” Vì thế Chúa khuyên ta cứ an tâm phục vụ Thiên Chúa. “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”.
Gio-át là người hai lòng hai dạ. Ông đã thờ phượng Chúa. Nên được Chúa phù hộ. Qua thầy cả Giơ-hô-gia-đa. Nhưng nghe lời xiểm nịnh của các thủ lãnh Giu-đa ông đã thay lòng đổi dạ. Bỏ “Đền Thờ của Đức Chúa là Thiên Chúa tổ tiên họ, mà phụng sự các cột thờ và các ngẫu tượng”. Tư tế Da-ca-ri-a, là con tư tế Giơ-hô-gia-đa, đứng lên ngăn cản. “Họ liền toa rập chống lại ông và, theo lệnh vua, họ ném đá giết ông trong sân Đền Thờ Đức Chúa”. Vì thế Chúa đã từ bỏ ông. Một số ít quân đội A-ram tiến đánh. Nhưng số đông Giu-đa thua trận. “Vua bị giết ngay trên giường. Vua đã chết,…nhưng không được chôn nơi phần mộ hoàng gia” (năm chẵn).
Thánh Phao-lô là người chỉ chọn phụng sự Thiên Chúa. Ngài đã từ bỏ mọi lợi lộc trần gian. Tuy được Thiên Chúa yêu thương ban tràn đầy ân sủng. Một ân huệ lớn lao là được đưa lên tầng trời thứ ba. Nhưng ngài vẫn còn chịu đau khổ. “Thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Xa-tan được sai đến vả mặt tôi”. Đó là thiệt thòi ngài chịu nơi trần gian. Ngài tha thiết xin Chúa “cho thoát khỏi nỗi khổ này. Nhưng Người quả quyết với tôi: “Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối”. Và điều lạ lùng xảy ra. “Tôi tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Ki-tô ở mãi trong tôi… Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh”. Khi hoàn toàn không còn trông cậy gì ở trần gian. Chỉ trông cậy vào Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ làm việc. Và thánh nhân “cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô”. Từ bỏ trần gian. Chỉ phụng sự Chúa. Sẽ có tất cả (năm lẻ).
Suy Niệm 3: Thiên Chúa quan phòng
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng quá lo lắng cho mạng sống mình: sẽ ăn gì? mặc gì? ngày mai sẽ ra sao?, mà phải tin cậy vào sự quan phòng chăm sóc của Thiên Chúa. Ngài đưa ra hai hình ảnh chứng minh sự quan phòng liên lỉ của Thiên Chúa: chim trên trời, bông huệ ngoài đồng, chúng có đáng gì đâu, thế mà Thiên Chúa vẫn hằng nuôi nấng, để ý đến, huống chi con người, vì con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa và được Chúa Giêsu Kitô cứu chuộc bằng chính giá máu Ngài.
Ðọc kỹ bản văn của Matthêu, chúng ta thấy có bốn lần Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng quá lo lắng đến nỗi mất tin cậy vào Thiên Chúa. Khi nói như thế, Ngài muốn chúng ta đừng tìm bảo đảm nơi của cải nay còn mai mất, mà phải tìm cái cốt yếu cho cuộc đời trước đã, rồi mọi sự khác sẽ được thêm cho. Lo lắng quá cũng chẳng giải quyết được gì: "Dù có lo lắng đi nữa, hỏi có ai trong các con kéo dài đời mình thêm được một vài gang tấc không?". Tín nhiệm hoàn toàn vào Thiên Chúa không có nghĩa là sống trong thụ động, mà là cộng tác với công việc của Thiên Chúa tùy ơn gọi của mỗi người: tự giúp mình thì trời sẽ giúp cho.
Thiên Chúa biết rõ chúng ta không phải là những con chim hay bông hoa ngoài đồng, mà là những con người phải làm việc để nuôi thân và góp phần xây dựng gia đình và xã hội. Chúa dạy chúng ta "trước hết hãy tìm" nghĩa là hẫy đặt đúng chỗ công việc: việc nào trước, việc nào sau. "Trước hết hãy lo tìm Nước Chúa và sự công chính của Ngài", lời này đặt nền tảng cho người Kitô hữu trong việc chọn lựa: Thiên Chúa phải chiếm chỗ ưu tiên trong con người và công việc của chúng ta, rồi đến việc cứu rỗi bản thân và đưa người khác về với Chúa; đảo lộn trật tự này tức là đi ngược thánh ý và chương trình của Thiên Chúa.
Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta tự kiểm thảo xem từ trước đến giờ, chúng ta đã chọn Chúa hay chọn tiền bạc? Ðã quá lo lắng đến vật chât hay đã luôn tín nhiệm vào Thiên Chúa quan phòng? Xin Chúa cho chúng ta biết tìm kiếm trước hết Nước Chúa và sự thánh thiện, và tin chắc rằng Chúa sẽ ban cho chúng ta mọi sự khác mỗi khi chúng ta cần đến, vì Chúa là Cha chúng ta và hằng yêu thương săn sóc chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Như loài chim
“Vì vậy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao? Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao?” (Mt. 6, 25-26)
Chim trời và hoa huệ ngoài đồng
Sống như loài chim. Chẳng phải lo đến cơm ăn áo mặc. Sống như vậy thật thảnh thơi tuyệt vời và không thiếu những vần thơ. Có những ngày nào đó, ta mong ước được sống như vậy. Nhưng cuộc sống còn đó với lắm đòi hỏi nhiêu khê. Chúng ta đâu phải là những cánh chim trời. Phải có tiền để mua lương thực và còn dành dụm đôi chút. Và mọi cái đều đắt đỏ, mỗi ngày lại đắt hơn. Những kẻ có đồng lương tối thiểu, hoặc những ai đành phải hưởng trợ cấp của chính phủ, thì ít có thích thú mơ ước được sống như loài chim. Chỉ những người giầu có, có lẽ có thể thực hiện được giấc mơ tương tự và có thể biến ước mơ thành hiện thực. Những người bình thường thường phải chắt chiu từng xu và cố dành dụm lấy vài đồng, bởi lẽ những ngày xấu và những tai ương biết đâu lại chẳng ập tới và thường nhanh hơn không ngờ.
Chúa Giêsu tỏ ra nghiêm chỉnh
Tất cả những điều trên đều đúng. Thế nhưng Chúa Giêsu không chế nhạo ai, khi Người mời gọi người ta sống như chim trời và hoa huệ ngoài đồng. Hãy hiểu cho đúng. Chúa không đòi hỏi ai phải tỏ ra hoàn toàn vô lo về những của cải vật chất. Điều Người mong muốn, chính là sự lo lắng kiếm tiền, và lo luôn luôn kiếm được nhiều tiền hơn, không được là nỗi bận tâm hàng đầu của ta. Ngoài chuyện ăn ngon mặc đẹp, còn có những chuyện khác quan trọng hơn trong cuộc đời. Ngoài chuyện bảo đảm tài chánh cho ngày mai, còn có chuyện khác bắt ta phải chú ý tới.
Sống cho một điều khác, chứ không phải sống vì tiền bạc. Sống không quá cồng kềnh. Sống luôn tin tưởng vào ngày mai. Sống hiến dâng từng giờ và từng giờ cho lòng yêu mến Thiên Chúa và yêu thương mọi người. Đó chính là lối sống Chúa Giêsu muốn đề nghị cho ta. Thật sự có kiểu sống nào tuyệt hảo hơn không?
Suy Niệm 5: Đâu là ‘trục’ của việc chúng ta kiếm tìm?
Nếu ta đọc đoạn Tin Mừng tuyệt diệu này, sau khi nghe tin tức hoặc nhìn xem sự lưu thông của một xa lộ qua khung cửa sổ, ta sẽ cảm thấy một tương phản gắt gao đến độ tự hỏi: cái gì là thật và cái gì là không thật? Trong thế giới chúng ta sống, đâu là sự tìm kiếm ưu tiên cho Nước Chúa và sự công chính của Người? Một thế giới sai trục đi về đâu, bởi vì “tỷ số tăng trưởng” của nó đã bị rối loạn? Trong suốt lịch sử đời sống nhân loại, con người đã chiều theo cám dỗ kiếm tìm không ngừng sự thụ hưởng vật chất, trong khi định mệnh con người lại là thiêng liêng. Ở đây, Chúa Kitô, bằng những từ ngữ bóng bẩy, mời gọi con người đi tìm cái chính yếu. Ngài không khuyên dạy sự phó thác thụ động nơi Chúa quan phòng, cũng không dạy việc khinh chê các nhu cầu thể xác và tinh thần, cũng không cổ võ một thứ lạc quan thuyết vô tư. Ngài chỉ nói lên điều nào cần trước nhất và điều nào phụ thuộc vào. Người môn đệ Chúa Kitô, đã trở nên con Thiên Chúa trong Đức Kitô, đương nhiên phải tìm kiếm trước nhất Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người; công việc dưới đất phải được suy tư, sắp xếp theo sự công chính của Nước này, và hoa quả của nó sẽ được Cha trên trời ban thêm cho.
Từ ngữ của thánh Mátthêu và thánh Gioan gặp nhau ở đây để nói lên rằng: phải đặt ưu tiên cho việc tìm kiếm Nước Trời. Nó phải được ưu đãi, và nếu cần, phải loại bỏ những gì làm cản trở bước tiến của nó. Cũng như Đức Kitô miệt mài trong việc tìm kiếm chuyên nhất Ý Chúa Cha và tìm thấy nơi đó niềm an vui, cũng thế, người Kitô hữu, noi gương Đức Kitô, phải tìm kiếm cũng một Thánh Ý này, vì đó là vận mệnh, là mức viên mãn của mình, và đồng thời cũng là sự thành đạt của xã hội loài người. Kiếm tìm Nước Chúa không phải là một việc làm giữa bao việc làm khác. Đây là việc làm chính. Nó liên lụy toàn con người. Hơn nữa sự kiếm tìm này giải thoát tâm hồn khỏi những lắng lo và bận tâm, vì Thiên Chúa chắc chắn sẽ ban cơm ăn áo mặc cho kẻ nào, sau khi đã làm việc cách bình thường, biết đặt tin tưởng nơi Thiên Chúa về những sự còn lại.
Đối với những nhu cầu vật chất, tôi có thái độ của người ngoại giáo hay Kitô giáo?
Suy Niệm 6: “Không ai có thể làm tôi hai chủ”
Vở kịch “Con người của mọi mùa” là một câu chuyện có thật về thánh Thomas More.
Trong một màn, một người bạn gây áp lực buộc thánh nhân phải ký giấy xác nhận rằng cuộc hôn nhân giữa vua Henry VIII và Anne Boleyn là hợp pháp. Nếu không chịu ký, vua sẽ buộc tội ngài là phản quốc.
Thánh nhân từ chối, vì Ngài nghĩ rằng cuộc hôn nhân này là bất hợp pháp. Người bạn của ngài giận dữ nói: “Anh cứ làm rối tung mọi thứ. Thực ra, tôi không biết cuộc hôn nhân này có hợp pháp không. Nhưng quỷ quái thật, Thomas, hãy nhìn vào danh sách này, anh biết chứ! Anh không thể thỏa hiệp vì tình bạn sao?”. Thomas More vẫn từ chối, ngài không thể làm tôi hai chủ được.
Chỗ nào trong cuộc đời tôi bị áp lực làm tôi hai chủ?
“Này con, đừng bao giờ tạo ra một tình bạn hoặc giữ một tình bạn bằng cách làm một điều sai trái”. (Robert E. Lee).
Suy Niệm 7: TIN VÀO CHÚA QUAN PHÒNG (Mt 6, 24-34)
Xem lại CN 8 TN A, Lễ mùng một Tết.
Khi nói đến khái niệm “Thiên Chúa là Đấng Quan Phòng”, ấy là lúc chúng ta nói đến sự can thiệp của Thiên Chúa cách nhiệm mầu, khiến con người không thể ngờ cũng như không thể hiểu được.
Tuy nhiên, sự quan phòng của Thiên Chúa không giống như kiểu quan niệm của những người không có niềm tin. Những người đó thường hay coi đó như là một định mệnh, hay số mệnh đã được ấn định trước cho mỗi người phải chịu một kiếp sống tốt hay xấu, sướng hay khổ, thành công hay thất bại giống như kiểu rút thăm, rút số ghi sẵn cái gì thì phải lãnh cái đó.
Nhưng quan phòng theo mặc khải của Thánh Kinh có hai vế: về phía Thiên Chúa, Người là Đấng Khôn Ngoan, đầy tình thương mến, hy sinh tận tụy lo toan cho con cái, luôn tìm dịp để ban phát cho con của mình những điều tốt đẹp nhất, đồng thời luôn bảo vệ để chúng được an lành; còn về phía con người, được mời gọi tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, vì không thể nào một người con xin cá, mà cha hay mẹ của mình lại cho rắn hay bọ cạp, xin bánh lại cho đá...
Hôm nay, Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ và cũng là mời gọi mỗi người chúng ta: hãy tin tưởng vào một mình Thiên Chúa, không được “bắt cá hai tay”, tức là làm tôi hai chủ. Thiên Chúa, Đấng Yêu Thương luôn chăm sóc anh em mọi lúc. Hãy xem chim trời, hoa huệ ngoài đồng thì sẽ thấy được tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người là dường nào!
Tuy nhiên, sự tin tưởng vào Chúa không có tính cách thụ động, khoanh tay ngồi chờ theo kiểu: “Trời sinh voi, Trời sinh cỏ”, không phải thái độ vô vi, yếm thế, buông trôi. “Đức tin chân chính phải thể hiện bằng việc làm”, càng tin, càng phải đem “hết sức mình, hết lòng, hết trí khôn, hết linh hồn” cộng tác vào công trình sáng tạo và cứu thế của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, ước gì tâm hồn chúng con được như em bé nằm gọn trong vòng tay Chúa để được Chúa yêu thương. Xin cho chúng con tin tưởng tuyệt đối vào tình thương của Chúa và biết cộng tác với Chúa trong công trình cứu độ mà Chúa đang thực hiện trong trần thế hôm nay. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 8: Thiên Chúa thương yêu quan phòng
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Thiên Chúa là Cha chúng ta, nên ta phải biết cậy trông phó thác. Đừng sống như kẻ không có Cha trên trời.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con xin tạ ơn Chúa vì Chúa thương nhận con là con cái Chúa và hằng thương yêu quan phòng cho cuộc đời con.
Lạy Chúa, mỗi người mỗi phận. Con cũng như bao người phải lo phận mình. Sống vô lo như chim trời, cây cỏ, mà chẳng dùng trí khôn Chúa ban để tính toán làm ăn, đó là sống thiếu trách nhiệm. Chúa không dạy con sống vô trách nhiệm. Nhưng ngược lại có lắm người và đôi khi cả con nữa quá lo lắng đến độ quên Chúa là Cha Toàn Năng và hằng thương yêu con người.
Khi con lo lắng cào cấu sao cho có nhiều của cải tiền bạc mà quên luật công bình bác ái…, chính là lúc con đang quên Chúa là Cha và quên mọi người là anh em. Nếu tiền của trở thành ông chủ đời con, nó dắt con đến tình trạng mất nghĩa cùng Chúa và mất tình với anh em.
Xin giúp con luôn cố gắng làm việc với tất cả trí khôn Chúa ban để thăng tiến bản thân và giúp đỡ mọi người. Tiền của phải làm công cụ phục vụ con dưới sự hướng dẫn của lề luật Chúa. Con sẽ chỉ được tự do khi biết chọn Chúa làm chủ đời mình.
Xin giúp con biết làm tôi Chúa cách trung thành, không vì đồng tiền của cải mà sao lãng bổn phận thờ phượng Chúa, không vì công ăn việc làm mà từ chối giữ luật Chúa. Xin Chúa ban ơn để con luôn trung thành với Chúa: lúc vui và cả khi buồn, khi thành công và cả khi thất bại.
Lạy Chúa, con xin phó thác đời con nơi Chúa. Xin Chúa giúp con luôn sống như một người con đẹp lòng Chúa. Amen.
Ghi nhớ : “Các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai”.
Suy Niệm 9: Phó thác trong tay Chúa
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Thánh Giáo hoàng Gioan XXIII, được mệnh danh là vị Giáo hoàng của lòng nhân hậu. Một ngày kia, có một vị Giám mục đến gặp Ngài và chia sẻ những lo âu, nhọc nhằn, mất ngủ… vì trách nhiệm chủ chăn, rồi xin ngài cho một lời khuyên. Sau khi nghe những tâm sự của vị Giám mục, Đức Giáo hoàng mỉm cười và nói: “Khi mới được bầu làm Giáo hoàng, tôi cũng lo âu và mất ngủ như Đức Cha vậy. Thế rồi một hôm trong giấc ngủ, có một thiên thần hiện đến vỗ vào cái bụng to của tôi và nói: “Gioan ơi, ngươi chớ lo lắng thái quá, hãy phó thác trong tay Chúa và nghỉ ngơi cho khỏe”. Kể từ hôm đó, tôi không bị mất ngủ nữa”.
Suy niệm
Lo âu đó là sự thương tình của con người, đặc biệt là trước những sự việc quan trọng, trách nhiệm nặng nề và lao công vất vả trong cuộc sống để mưu sinh…
Thế nhưng, Chúa Giêsu muốn con người sống trong bình an hạnh phúc, Ngài muốn con người “đừng lo lắng”.
Chúa Giêsu đã khuyên dạy: “Trước hết hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những sự khác, Người sẽ thêm cho. Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6,33-34). Ngài đưa ra hình ảnh chim không lo gieo trồng và làm lụng vất vả vẫn được nuôi sống, hoa đồng nội không dệt may vẫn được mặc sắc màu đẹp tươi, tất cả được đặt dưới sự quan phòng của Tạo hóa. Hình ảnh quá ấn tượng, tuyệt vời diễn ra chung quanh mỗi ngày mà ta chưa nghiệm ra tình yêu quan phòng của Thiên Chúa cho vạn vật của vũ trụ. Hình ảnh cũng dễ làm chúng ta có thể hiểu sai ý của Đức Kitô: Đừng làm gì cả, sống vô tư như anh chàng ngồi dưới gốc cây chờ sung rụng. Thật thế, Đức Giêsu đã không nói rằng không nên làm việc. Ngài cũng không bao giờ khuyến khích con người lười biếng, vô tư ỷ vào lòng bố thí của bá tánh khi đi ăn xin, vô nghề nghiệp.
Thiên Chúa luôn khuyến khích con người lao công, vì chính Ngài đã truyền cho con người ngay từ thuở tạo dựng vũ trụ: “Hãy thống trị đất và bắt nó phục tùng” (St 1,28). Đức Giêsu khẳng định của ăn có được là do lao công: “Vì thợ đáng được nuôi ăn” (Mt 10,10).
Lo lắng làm việc là trách nhiệm của con người với Thiên Chúa với anh em với vũ trụ vạn vật nhưng Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Tiên vàn các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa”, gợi lên ý nghĩa Kinh Lạy Cha mà Chúa Giêsu dạy cầu nguyện nước Chúa và danh Cha trước hiển trị trên trời và dưới đất rồi mới đến cơm bánh nhu cầu vật chất và tinh thần của con người.
“Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người” cũng có nghĩa là một lối sống phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa theo yêu cầu và luật lệ của nước Ngài.
Cho nên, việc tìm kiếm nước Thiên Chúa không phải là một sự chờ đợi tiêu cực, không chỉ là một thái độ tôn giáo nội tâm, nhưng là một lối thực hành đức công chính, là sự dấn thân như bài giảng bát phúc đã trình bày (x. Mt 5,1-12).
Tuy nhiên, sự nỗ lực của con người không chỉ là sự cố gắng của bản thân mà cùng đồng hành với Thiên Chúa, Đấng luôn ở với chúng ta mỗi ngày cho đến tận thế như lời hứa của Ngài (x. Mt 28,20), Đấng tỏ ra với con người qua lời ngôn sứ Isaia: “Cho dù người mẹ đó có quên, nhưng Ta sẽ không quên ngươi” (Is 49,15).
Chúa Giêsu khuyên dạy: “Đừng lo lắng cho mạng sống, lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể, lấy gì mà mặc…” (Mt 6,25). Tin mừng Matthêô dùng 6 lần động từ “lo lắng” cùng với lời khuyên nhủ: “đừng lo” để nói lên lời khẩn bách mời gọi từ bỏ mọi âu lo thái quá, vì cả cuộc sống của ta đã được đặt trước mặt Thiên Chúa Cha là Đấng “biết rõ điều ta cần” (x. Mt 6,8.32). Thánh Phêrô mời gọi chúng ta: Mọi lo âu, hãy trút cả cho Chúa, vì Người chăm sóc anh em (x. 1Pr 5,7).
Cuộc sống hằng ngày vốn nhiều lo lắng: Lo lắng và ám ảnh một quá khứ vất vả, thất bại khiến chúng ta không dám bước vào hiện tại và tiến tới tương lai. Lo lắng về một hiện tại chưa thành công, còn nhiều vất vả, không đủ nương tựa vào cuộc sống, khiến ta luôn mệt mỏi không dám dấn thân; lo lắng về việc cơm áo gạo tiền, khiến chúng ta rơi vào trạng thái lo âu triền miên. Vì thế, sẽ lo lắng về một tương lai mịt mù không có chút ánh sáng để tiếp tục bước đi. Giữa biển đời ngập tràn lo âu, lời thánh Âugustinô chia sẻ cho chúng ta: “Phó thác quá khứ cho lòng thương xót của Chúa, hiện tại cho tình yêu của Ngài, và tương lai cho sự quan phòng của Ngài”.
Ý lực sống:
“Tin vào Người, thì Người sẽ nâng đỡ con. Đường con đi, hãy giữ cho ngay thẳng và trông cậy vào Người” (Hc 2,6).
Suy Niệm 10: Tin vào Chúa quan phòng (Mt 6,24-34)
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
“Không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được”. Đó là một lời cảnh giác cho những ai quá coi trọng, suy tôn tiền của mà bỏ quên Thiên Chúa. Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy cậy trông, tin tưởng vào Cha đầy quyền năng và tình thương. Hãy phó thác cuộc đời chúng ta cho Cha, Cha sẽ làm cho chúng ta tất cả những gì tốt đẹp nhất.
“Không ai có thể làm tôi hai chủ”. Dù trong địa vị nào, con người vẫn muốn “bắt cá hai tay”, đối với họ thì Chúa cũng muốn mà xa hoa cũng muốn. Thật ra, tiền của không có gì là xấu xa mà là rất cần thiết cho cuộc sống, nhưng nó sẽ xấu khi ta trở thành nô lệ chúng, để rồi vì tiền mà không ngại bất cứ thủ đoạn nào phạm đến Chúa và tha nhân. Nhất là vì lo chạy theo tiền bạc mà quên mất việc đạo đức rồi dần dần tiền của lấn át cả Thiên Chúa, tiền và những lo toan vật chất ngự trị trong tâm hồn ta thay cho Thiên Chúa.
Đọc kỹ bản văn Mátthêu, chúng ta thấy có sáu lần Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng quá lo lắng đến mất tin cậy vào Thiên Chúa. Khi nói thế, Ngài muốn chúng ta đừng tìm bảo đảm vào của cải nay còn mai mất, mà phải tìm cái cốt yếu cho cuộc đời trước đã, rồi mọi sự khác sẽ được thêm cho. Lo lắng quá cũng chẳng giải quyết được gì: “Dù có lo lắng đi nữa, hỏi có ai trong các con kéo dài đời mình thêm được một vài gang tấc không ?” Tín nhiệm hoàn toàn vào Thiên Chúa không có nghĩa là sống trong thụ động, mà là cộng tác với công việc của Thiên Chúa tùy ơn gọi của mỗi người: hãy giúp mình rồi trời sẽ giúp cho.
Đừng quá lo lắng về những nhu cầu của cuộc sống thể xác (của ăn, áo mặc, tuổi thọ), vì đã có Chúa lo cho ta những thứ đó. Điều cần lo trước hết là tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài.
Sở dĩ con người lo lắng thái quá mà mất đi cả hạnh phúc trong cuộc sống, là vì con người không tin ở sự hiện diện và quan phòng của Thiên Chúa. Chim trời không gieo vãi mà vẫn có ăn, hoa cỏ đồng nội không canh cửi mà vẫn xinh đẹp rực rỡ. Con người còn hơn chim trời cũng như hoa cỏ đồng nội bội phần. Nếu con người biết tin ở tình yêu quan phòng của Thiên Chúa, biết đón nhận từng giây phút hiện tại Ngài ban cho, thì con người sẽ tìm được niềm vui và hạnh phúc cho cuộc sống của mình. Ngược lại, con người sẽ phải vất vả cực nhọc và cuối cùng, cũng chỉ là người bắt bóng.
Hãy tin vào Chúa quan phòng
Chúa Giêsu không chủ trương cho chúng ta lười biếng hay ỷ lại, mà là muốn chúng ta đừng quá tin cậy vào sức mình, nhưng cần đến sự tin tưởng phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Sự tin tưởng vào Chúa quan phòng không có tính cách thụ động, khoanh tay ngồi chờ “trời sinh voi, trời sinh cỏ”, không phải thái độ vô vi, yếm thế, buông trôi. Tín nhiệm hoàn toàn vào Thiên Chúa không có nghĩa là sống trong thụ động, mà là cộng tác với công việc của Thiên Chúa tùy theo ơn gọi của mỗi người: tự giúp mình thì trời sẽ giúp cho.
“Đức tin chân chính phải thể hiện bằng việc làm”, càng tin, càng phải đem “hết sức mình, hết lòng, hết trí khôn, hết linh hồn” cộng tác vào công trình sáng tạo và cứu thế của Thiên Chúa: Biết xây dựng trần thế tốt đẹp như khi Người dựng nên mọi sự tốt đẹp, biết xây dựng Nước trời cho tình thương của Thiên Chúa trải rộng khắp mọi nơi (Hiền Lâm).
“Chỉ có một đường đến hạnh phúc, đó là ngừng lo lắng về những gì vượt khả năng ý muốn của mình” (Triết gia Epictetus). Trong Tin mừng hôm nay, kiểu nói đừng lo được lặp lại đến 6 lần, điều đó cho thấy Chúa Giêsu lưu ý ta đừng để những nỗi lo về nhu cầu của cuộc sống này khiến ta quên đi, - hoặc gạt qua một bên, hoặc coi như chuyện nhỏ, - việc tìm kiếm Nước trời cũng như việc nên thánh trong cuộc đời ta. Ngài không bảo ta vô trách nhiệm với bản thân và gia đình, lười biếng làm việc mưu sinh, vô lo về ngày mai. Trái lại, Ngài dạy ta tin tưởng, cậy trông nơi Thiên Chúa là Cha quan phòng yêu thương. Cha lo liệu cho chim trời, hoa huệ, huống chi con người được Cha yêu thương, đến nỗi ban Con Một cho ta, dẫn ta đến Nước trời (5 phút Lời Chúa).
Truyện: Đừng quá lo cho ngày mai
Một thương gia giàu có nọ đi dạo trên bờ biển, tình cờ ông thấy có những ngư phủ nằm ngủ một cách ngon lành trên thuyền, mặc cho sóng nước chòng chành. Tò mò ông đến hỏi một ngư phủ:
- Sao anh không đi đánh cá?
Chàng ngư phủ trả lời:
- Tôi đã đánh bắt số cá đủ cho ngày hôm nay rồi.
Thấy câu trả lời chưa được thoả mãn, thương gia hỏi tiếp:
- Sao anh không tiếp tục đi đánh, để bắt thêm nhiều cá hơn?
Thay vì trả lời, chàng ngư phủ hỏi lại:
- Nhưng thưa ông để làm gì ?
Với đầu óc kinh doanh sẵn có, thương gia kia như muốn vạch đường hướng làm ăn cho anh chàng ngư phủ, nên đã trả lời:
- Càng đánh bắt được nhiều cá, anh càng kiếm được nhiều tiền. Có nhiều tiền anh có thể mua được chiếc thuyền lớn hơn, để có thể ra xa hơn, bắt được nhiều cá hơn. Rồi từ một thuyền, anh sẽ có thể có hai, ba, bốn chiếc... và như thế anh sẽ là một người giàu có.
Chàng ngư phủ xem chừng như không thiết tha với kế hoạch làm giàu của thương gia kia nên hỏi tiếp:
- Giàu có rồi làm gì nữa?
Thấy như người đối thoại với mình quá chất phác, nên thương gia trả lời:
- Rồi anh sẽ được vui hưởng cuộc sống.
Lúc ấy, chàng ngư phủ mỉm cười nói:
- Thế tôi nằm đây để ngắm nhìn trời biển như thế này không phải là vui sướng cuộc đời hay sao?
18/06 Kho tàng trên trời
- Viết bởi Mt 6, 19-23
Kho tàng trên trời.
Thứ Sáu tuần 11 thường niên.
"Kho tàng con ở đâu, thì lòng con cũng ở đó".
Lời Chúa: Mt 6, 19-23
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đừng tích trữ cho mình kho tàng dưới đất: là nơi ten sét mối mọt sẽ làm hư nát, và trộm cướp sẽ đào ngạch lấy mất, nhưng các con hãy tích trữ cho mình kho tàng trên trời: là nơi không có ten sét, mối mọt không làm hư nát, trộm cướp không đào ngạch lấy mất: Vì kho tàng con ở đâu, thì lòng con cũng ở đó.
Con mắt là đèn soi cho thân xác con. Nếu mắt con trong sáng, thì toàn thân con được sáng. Nhưng nếu mắt con xấu kém, thì toàn thân con phải tối tăm.
Vậy nếu sự sáng trong con tối tăm, thì chính sự tối tăm, sẽ ra tối tăm biết chừng nào?"
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Kho tàng ở đâu, tim ở đó
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Cuộc sống con người ở đời thật mong manh và bấp bênh.
Vì thế con người muốn tìm cho mình một cái gì chắc chắn.
Của cải vật chất hứa hẹn cho con người một chỗ dựa an toàn.
Càng có nhiều của cải thì càng vững:
nhiều người đã thành thật tin như vậy
nên đã suốt đời lo tích trữ một kho tàng trên trần gian.
Thầy Giêsu không tin như thế.
Đối với Thầy, kho tàng dưới đất cũng mong manh và bấp bênh.
Thời xưa mối mọt là kẻ thù đáng sợ của nhiều thứ tài sản (G 4, 19).
Nhà cửa, đồ đạc đều có thể làm mồi cho chúng.
Thật ra vật chất tự nó đã mang mầm mống hư hoại rồi.
Hơn nữa, sự đe dọa không chỉ đến từ bên trong.
Kẻ trộm là nguy hiểm có thực đối với những căn nhà thời ấy.
Hắn có thể đào ngạch, khoét vách làm bằng bùn,
để lấy đi những của cải thường được chôn dấu dưới đất (c. 19).
Kho tàng dưới đất quả là không bền.
Thầy Giêsu đề nghị chúng ta tích trữ một cách khôn ngoan hơn,
tích trữ một kho tàng gì đó mà mối mọt không đục khoét được
và kẻ trộm không sao ăn cắp được.
Đó là thứ kho tàng trên trời được tích trữ qua bao việc lành,
những việc ta làm theo ý Thiên Chúa.
Có một sự khác biệt lớn giữa kho tàng trên trời và kho tàng dưới đất.
Tích trữ kho tàng dưới đất khiến ta cậy dựa vào của cải đời này.
Tích trữ kho tàng trên trời đòi ta hoàn toàn cậy dựa vào Thiên Chúa.
Kho tàng ở đâu thì tim anh ở đó (c. 21).
Kho tàng trên trời sẽ nâng tim anh lên trời cao.
Kho tàng dưới đất sẽ kéo tim anh xuống đất thấp.
Trái tim là nơi sâu thẳm của tâm linh con người.
Chính vì thế thi thoảng cần kiểm tra xem tim mình đang ở đâu,
kho tàng nào đang khiến mình gắn bó.
Chúng ta phải ngừng theo đuổi những kho tàng mau qua
để gắn bó với những giá trị thực sự bền vững.
Con người thời nay cũng phải sống trong sự bấp bênh triền miên.
Càng tiến bộ kỹ thuật lại càng có nhiều bất ổn, bất trắc,
nên đời sống vẫn không vì thế mà được thư thái bình an.
Nhiều người đã cảm được sự phù du của vật chất và tiếng tăm.
Tiền bạc và quyền lực như nước trôi qua kẽ tay, chẳng ai nắm được.
Thầy Giêsu mời chúng ta đổi mới cái nhìn.
Đừng nhìn bằng mắt xấu, nghĩa là bằng cặp mắt thèm muốn, tham lam.
Hãy nhìn bằng mắt tốt, nghĩa là bằng cặp mắt siêu thoát, quảng đại.
Cái nhìn bằng mắt tốt sẽ đem lại ánh sáng cho toàn thân (c. 22).
Cái nhìn bằng mắt xấu sẽ gây ra bóng tối kinh khủng (c. 23).
Con mắt là ngọn đèn cho thân thể.
Ước gì con mắt tôi biết thấy Chúa là kho tàng đích thực của mình.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
giàu sang, danh vọng, khoái lạc
là những điều hấp dẫn chúng con.
Chúng trói buộc chúng con
và không cho chúng con tự do ngước lên cao
để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con
khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,
nhờ cảm nghiệm được phần nào
sự phong phú của kho tàng trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi
bán tất cả những gì chúng con có,
để mua được viên ngọc quý là Nước Trời.
Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng
trước những lời mời gọi của Chúa,
không bao giờ ngoảnh mặt
để tránh cái nhìn yêu thương
Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen.
Suy Niệm 2: Tích trữ kho tàng trên trời
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Tích trữ thường đi với đầu cơ. Thu thập của cải, hàng hóa, hoặc tiền bạc để dành chờ khi cần đem ra dùng hoặc bán lại với giá thật cao, thu được nhiều lợi. Có nhiều món hàng hôm nay chẳng có giá trị gì nhưng mai sau giá cao khôn lường. Tùy tầm nhìn, tùy chuyên môn, tùy thời hạn, có người tích trữ nhà đất, có người tích trữ vàng bạc, có người tích trữ thóc lúa, có người tích trữ tranh ảnh, có người đầu tư vào con người như bà Giơ-hô-se-va đã bồng Gio-át vào trốn trong Đền Thờ, thoát lưỡi gươm của A-than-gia. Sáu năm sau ông trở thành vua cai trị Í-ra-en (năm chẵn).
Chúa Giêsu khuyên ta hãy khôn ngoan tích trữ kho tàng sao cho không bao giờ hư hao hay bị mất mát. Đó là kho tàng ở trên trời. Kho tàng trên trời khác hẳn kho tàng dưới đất. Giữa hai kho tàng, ta phải khôn ngoan lựa chọn. Lựa chọn này không phải dễ dàng vì kho tàng dưới đất là thứ khả giác, dễ thấy còn kho tàng trên trời vô hình khó thấy. Kho tàng dưới đất tiện dụng ngay tức khắc, kho tàng trên trời chỉ dùng được ở đời sau. Kho tàng dưới đất đem lại tiện nghi hưởng thụ cho hiện tại. Kho tàng trên trời phải chấp nhận thiệt thòi trong hiện tại để được hưởng thụ trong tương lai.
Thánh Phaolo đã khôn ngoan khi từ bỏ kho tàng dưới đất để tích trữ kho tàng trên trời khi từ bỏ những ưu thế, phẩm giá, quyền lợi của ngài trong thế giới Do thái để chấp nhận bị đánh đòn, bị ném đá, bị đắm tàu, bị nguy hiểm, chịu đói khát, rét mướt trần truồng vì Chúa và vì Tin Mừng. Đó là ngài tích trữ kho tàng ở trên trời. Ngoài ra ngài còn chăm lo cho Hội Thánh là di sản Chúa Giê-su để lại: “Không kể các điều khác, còn có nỗi ray rứt hằng ngày của tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội Thánh” (năm lẻ).
Lựa chọn lý tưởng là nền tảng cho cuộc sống. Sáng suốt sẽ chọn được lý tưởng tốt và sẽ đạt tới hạnh phúc. Người khôn ngoan trong Chúa có cặp mắt sáng là người có lựa chọn đúng. Nếu chọn sai là mắt có vấn đề, nhìn không thấy mà chọn lựa bóng tối sẽ đi trong bóng tối. Đã lựa chọn nền tảng sai thì cả cuộc đời chìm trong bóng tối.
Xin cho con khôn ngoan, có đôi mắt sáng để biết chọn lựa, chấp nhận những đau khổ thiệt thòi ở đời này, đó chính là tích trữ kho tàng trên trời, để sau này được hưởng hạnh phúc đích thực trong Nhà Cha, nơi hạnh phúc vững bền mãi mãi.
Suy Niệm 3: Hai tư thế
Trong điện Vatican, có treo một bức họa nổi tiếng của Rafaelo mang tên là "trường phái Athène", mô tả dung mạo và sứ điệp của hai triết gia Hy Lạp là Aristote và Platon. Danh họa Rafaelo mô tả Aristote đứng vững trên mặt đất, một tay cầm cuốn sách luân lý, một tay chỉ xuống mặt đất; còn Platon thì được vẽ hai chân chỉ chạm nhẹ mặt đất, một tay cầm cuốn sách, một tay chỉ về trời cao. Trong hai tư thế khác nhau này, Rafaelo muốn nói lên khía cạnh nổi bật của thiên tài Hy Lạp, đồng thời là hai chiều kích căn bản của ơn gọi làm người, đó là chinh phục mặt đất, đồng thời vượt qua vật chất, vượt khỏi tầm mức những gì thấy được; vừa dấn thân trong lãnh vực trần thế, vừa biết hướng về trời cao và những giá trị đời đời.
Tin mừng mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay cũng mời gọi chúng ta đang sống trong ơn gọi trên trần gian, nhưng hãy biết hướng về trời cao, nơi tích chứa của cải đích thực. Tin Mừng nhắc đến hai tư tưởng: một mời gọi con người hướng về trời, một mời nói lên vai trò của mắt, không phải mắt thân xác, nhưng là mắt tinh thần, mắt đức tin hướng dẫn cuộc sống con người. Suy nghĩ kỹ, chúng ta có thể nhận ra được liên hệ giữa hai tư tưởng này. Sự tăm tối tinh thần là điều đáng sợ hơn cả, vì không nhận thấy đâu là điều phúc thật của con người. Do mù quáng tinh thần và chỉ nhận của cải, danh vọng, quyền bính là phúc thật, con người sẽ tìm cách có được những thứ ấy càng nhiều càng tốt. "Kho tàmg của con ở đâu, thì lòng con ở đó". Ðó là định luật tâm lý tự nhiên của con người. Nếu tôi chỉ nhìn thấy lý tưởng của mình trong việc thu tích của cải, danh vọng, quyền thế, thì làm sao tôi có thể hướng nhìn trời cao và số phận đời đời của con người.
Xin Chúa thanh tẩy và soi sáng con mắt tinh thần chúng ta, để chúng ta có thể nhận ra đâu là điều thiện hảo và qui hướng về đó mà tiến tới.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Sống điều cốt lõi
“Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, nơi kẻ trộm khoét vách và lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, nơi trộm cắp không đào ngạch và lấy đi được.” (Mt. 6, 19-20)
Mới chịu tin có một nửa
Trong cuộc sống có nhiều chuyện làm ta phải vất vả và tiêu tốn, dầu biết rằng nó chẳng bao giờ đem lại hạnh phúc trọn vẹn cho ta. Người ta gọi những cái đó là tiền bạc, tiện nghi, thú vui, địa vị, thăng thưởng… Những cái đó không có gì là xấu cả, nếu ta biết xử dụng tốt. Những thứ đó có thể mang lại cho ta ít nhiều hạnh phúc và tọai nguyện. Chẳng ai lại khinh miệt những thứ đó. Ta đâu phải là những thiên thần. Và những của cải trần gian có đó không phải để làm cho con người thoái hóa, nhưng là giúp thăng tiến.
Tuy nhiên nếu chỉ bám víu vào của cải và coi đó như tiền cọc cho ta tìm hớn hở và sống an bình thì lầm đường rồi. Người ta đã nói nhiều và nói đi nói lại điều này rồi. Chúng ta chịu tin đấy, nhưng chưa trọn vẹn, vì nếu không hẳn chúng ta sẽ chú tâm hơn nữa để tìm kiếm những thực tại khác, còn quý hơn cả những của cải trần gian, vì nó có thể làm cho ta thành những con người hạnh phúc.
Những của cải quý giá hơn
Những thực tại kia tiềm ẩn ngay trong nội tâm ta, chứ không ở bên ngoài.Những thực tại ấy không nằm trong diện sở hữu, nhưng là thực thể thuộc về hiện hữu của ta. Nếu muốn gọi tên những thực thể đó, người ta sẽ gọi là tinh thần phục vụ, là sự hiến thân quên mình. Người ta cũng gọi nó là tình nghĩa bạn bè, là bình an nội tâm, là sự sống thiêng liêng. Đó là những kho báu đích thực mà Phúc âm nói đến. Kho tàng đó ở trong nội tâm ta và người ta không thể dùng tiền bạc mà mua sắm được.
Cái làm cho đời sống ta có phẩm chất, không phải là những của cải quý giá mà ta có, nhưng là phẩm chất của tâm hồn và ý hướng của ta. Đó chính là khả năng ta có, khả năng dám sống mạo hiểm một cách cao đẹp với những người ta yêu thương, và mạo hiểm một cách đặc biệt với Thiên Chúa Đấng yêu thương ta. Tiếc rằng chúng ta lo lắng quá nhiều đến cái là hời hợt và thứ yếu, còn cái là cơ bản và cốt lõi trong đời, thì lại không để tâm cho đủ.
Suy Niệm 5: Điểm lợi thú của chúng ta ở đâu?
Con người tôn giáo xây dựng bản ngã mình theo điều họ ao ước, điều họ hướng đến, tìm kiếm, nói cách khác, kho tàng của họ. Không thể tích trữ cùng một lúc hai kho tàng, một ở dưới đất và một ở trên trời. Phải chọn lựa. Hôm nay Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng: Phúc Âm không thể trung lập. Phúc Âm đòi hỏi dấn thân. Phúc Âm đòi hỏi con người không được chia sẻ giữa hai kho tàng nhưng phải dấn thân theo đuổi một trong hai mà thôi. Môn đệ Đức Kitô từ chối dấn thân con người mình, đời sống mình vào những của cải chóng tàn của một thế giới đi vào hư vô. Trái lại hãy dấn thân vào cái hơn là bất diệt nữa. “Trời” ở đây không phải là một sự vật, nhưng là một Con người. Môn đệ Đức Kitô phải dấn thân cho Đức Kitô, phó thác cho Đức Kitô, sống vì Đức Kitô, làm những công việc của Đức Kitô. Điều họ tìm kiếm là xây dựng bản ngã, số phận, hạnh phúc mình trong Đức Kitô. Cần phải nhớ Đức Kitô đã hiến tất cả công việc và mạng sống cho anh chị em mình. Chính nhờ một đường lối như thế mà người Kitô hữu tích trữ kho tàng trên trời.
Cũng như việc quyến luyến với một kho tàng nào liên kết số phận vào đó, cũng thế con mắt điều khiển các thái độ của thân thể: Chúng ta đang đứng trước một kiểu nói đặc biệt của Kinh Thánh.
Thân thể là con người cụ thể. Mắt đóng vai trò lôi kéo tất cả con người vào sự sống hay sự chết. Mắt và con người góp phần tích cực trong việc lựa chọn chúng muốn. Nếu mắt rộng mở, nghĩa là khi hiểu biết rõ ràng, con người quyết định bằng một lựa chọn tốt, lúc bấy giờ toàn con người ở trong ánh sáng. Đức Kitô mời gọi chúng ta hãy “ngước mắt” nhìn về những gì tốt lành, chân thật, công minh, tươi đẹp, nhưng chớ “ngước mắt” trên những gì có thể lôi cuốn chúng ta vào bóng tối sự gian dối và sự dữ. Đâu là những chọn lựa của chúng ta về sách báo, phim ảnh, bạn bè…?
Mắt tôi, tức là sự chú ý của tôi, có được định hướng nhờ một sự lựa chọn tình bạn cao cả nhất, tình bạn với Đức Kitô không?
Suy Niệm 6: HAI CUỘC SỐNG (Mt 6, 19-23)
Sống trên đời ai cũng phải làm lụng vật vả để kiếm kế sinh nhai. Đây là quy luật sinh tồn tất yếu của con người trong đời sống.
Tuy nhiên, hôm nay, Đức Giêsu cho các môn đệ thấy con người chúng ta có hai cuộc sống. Một là cuộc sống thể xác; hai là cuộc sống thần linh. Cuộc sống thể xác luôn gắn liền với quy luật: sinh, lão, bệnh, tử. Vì thế, cuộc sống này có giới hạn nhất định của nó. Tuy nhiên, trong niềm tin, con người còn có cuộc sống vĩnh cửu, nơi cuộc sống này, không có sinh, cũng chẳng có diệt, tức là cuộc sống thần linh.
Tuy nhiên, để có cuộc sống hạnh phúc trong cuộc sống thần linh thì lại phải kết tố từ chính cuộc sống trần gian này. Thế nên, những gì diễn ra trong cuộc sống vật chất thì đều có ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực trong cuộc sống mai hậu.
Lời Chúa hôm nay cho thấy, Đức Giêsu đã khuyên các môn đệ hãy lo tích trữ những của cải trên trời, nơi đó mối mọt không tài nào đục khoét được cũng như không ai lấy mất đi. Gia tài đó được tích trữ qua hành động yêu thương, sự sẻ chia bác ái vô vị lợi.
Cùng một sứ điệp, Đức Giêsu cũng mời gọi mỗi chúng ta hãy hướng về quê trời như là mục đích tối hậu của mình. Muốn được như thế, ngay giây phút này, chúng ta hãy tích trữ những việc lành phúc đức với lòng mến ngang qua những nghĩa cử bác ái, liên đới, cảm thông và yêu thương anh chị em đồng loại. Đây chính là kho tàng không thể mối mọt nào đục khoét được.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con trong khi lo tìm kiếm của cải vật chất phần xác, thì cũng biết tìm kiếm của cái trên trời. Xin cho chúng con làm mọi việc vì lòng mến Chúa và yêu người chân thành, để những việc ấy thật sự có giá trị cứu chuộc linh hồn chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Tích trữ kho tàng trên trời
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Tiền bạc, danh lợi, chức quyền... tất cả chỉ là tạm thời. Cuộc sống ở trần gian không có gì vững bền: vui qua, sầu tới; hợp rồi tan, biến chuyển rồi lại biến chuyển. Nếu khôn ngoan, hãy tích trữ cho mình kho báu vĩnh cửu bằng tình yêu chân thành, sẵn sàng chia sẻ cho anh em những gì có thể. Đây là kho tàng không những bền lâu mà còn bảo đảm cho chúng ta cuộc sống vĩnh viễn trên trời.
2. Lời Chúa hôm nay cho thấy, Chúa Giêsu đã khuyên các môn đệ hãy lo tích trữ những của cải trên trời, nơi đó mối mọt không tài nào đục khoét được cũng như không ai lấy mất đi. Gia tài đó được tích trữ qua hành động yêu thương, sự chia sẻ bác ái vô vị lợi. Cùng một sứ điệp, Chúa Giêsu cũng mời gọi mỗi người chúng ta hãy hướng về Quê trời như là mục đích tối hậu của mình. Muốn được như thế, ngay giây phút này, chúng ta hãy tích trữ những việc lành phúc đức với lòng mến ngang qua những cử chỉ bác ái, liên đới, cảm thông và yêu thương anh chị em đồng loại. Đây chính là kho tàng không thể mối mọt nào đục khoét được.
3. Cả Tây phương lẫn Đông phương có chung một quan niệm: “bao tử đi trước, đầu óc theo sau” hoặc “Có thực mới vực được đạo”. Bởi thế “tích cốc phòng cơ” – để dành của cải khi thiếu hụt – vẫn được xem là thái độ khôn ngoan. Sự thiếu hụt không những làm cho con người bị khổ cực... bị xem thường, mà đôi khi còn dẫn con người vào đường tội lỗi.
Chúa Giêsu không kết án thái độ cất dành của cải, nhưng chỉ lưu ý con người biết đâu là của cải đích thực, đâu là kho lẫm thật để con người ký gửi của cải: “Các ngươi chớ tích trữ cho mình kho tàng dưới đất, nơi mối mọt nhấm nát được, nơi trộm cắp đào khoét mất được. Nhưng hãy tích trữ cho mình kho tàng trên trời, nơi mối mọt không nhấm nát, nơi trộm cắp không đào khoét phòng mất được” (Mỗi ngày một tin vui).
4. Chính vì thế mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cần đầu tư vào một kho tàng mang tính vĩnh viễn hơn là những thứ vật chất mau qua. Đó là kho tàng trên trời, nơi không thể bị mối mọt hay sẻ trộm chiếm đoạt. Kho tàng trên trời không phải là những gì chúng ta tích trữ cho riêng mình, nhưng là những gì chúng ta biết trao ban cho Chúa và tha nhân. Những gì chúng ta mua sắm sẽ để lại cho người khác, và những gì chúng ta cho đi sẽ theo chúng ta đến trước tòa phán xét để biện hộ cho chúng ta. Kho tàng trên trời là các việc lành chúng ta làm khi còn ở trần gian, như săn sóc người nghèo, an ủi người đau khổ, cho kẻ đói ăn...
5. “Đèn của thân thể là con mắt”. Mắt còn tượng trưng cho con người. Con mắt sáng, tượng trưng cho lương tâm lành mạnh. Người có con mắt lương tâm sáng là người hào hiệp, và kẻ có con mắt lương tâm tối tức là kẻ sống hẹp hòi. Ai có lương tâm lành mạnh thì cuộc sống người đó sáng ngời. Ngược lại ai mà có lương tâm hắc ám thì cả cuộc sống đời người đó tối đen, lương tâm lệch lạc sẽ làm cho con người lạc lối và thu mình lại chỉ còn biết có mình.
6. Chúa Giêsu còn nhắc nhở ta rằng nếu lòng chúng ta hướng về kho tàng trên trời, thì đôi mắt ta sẽ rạng sáng; trái lại, nếu lòng chúng ta quá chú tâm đến kho tàng dưới đất, đôi mắt ta sẽ ra tối tăm, mù quáng. Kho tàng trên trời trước hết là Thánh Danh Chúa, Nước Trời, là những giá trị Chân, Thiện, Mỹ. Kho tàng ấy còn là những ưu tư, quan tâm hướng về các việc lành phúc đức, những thiện ích cho tha nhân và bản thân. Kho tàng dưới đất là những tham lam, thèm muốn, chiếm đoạt, hưởng thụ bằng mọi giá, làm giầu bằng mọi cách. Nếu lòng ta hướng về loại kho tàng
17/06 Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu.
- Viết bởi Mt 6, 7-15
Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu.
Thứ Năm tuần 11 thường niên.
"Vậy các ngươi hãy cầu nguyện như thế này".
Lời Chúa: Mt 6, 7-15
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Khi cầu nguyện, các con đừng nhiều lời như dân ngoại: họ nghĩ là phải nói nhiều mới được chấp nhận. Ðừng làm như họ, vì Cha các con biết rõ điều các con cần, ngay cả trước khi các con xin. Vậy các con hãy cầu nguyện như thế này:
"Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, như chúng tôi cũng tha kẻ có nợ chúng con, xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.
"Vì nếu các con có tha thứ cho người ta những lầm lỗi của họ, thì Cha các con, Ðấng ngự trên trời, mới tha thứ cho các con. Nếu các con không tha thứ cho người ta, thì Cha các con cũng chẳng tha thứ lỗi lầm cho các con".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Lạy Cha chúng con
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Chúng ta không thể lèo lái hay ép buộc Thiên Chúa
bằng những lải nhải dài dòng hay bằng những câu thần chú.
Cầu nguyện không phải là thông báo cho Chúa biết nhu cầu của ta (c. 8).
Cha Teilhard de Chardin đã viết:
“Chúng ta phải cầu xin Chúa không phải vì lề luật buộc như thế,
cũng không phải vì Chúa không biết ta cần gì.
Không, kinh nguyện là tình yêu, là cách diễn tả tình yêu.”
Thiên Chúa thích nghe miệng chúng ta nói lên nhu cầu của mình.
Đức Giêsu dạy chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha, Abba, như Ngài đã gọi.
Abba là tiếng gọi âu yếm thân thương của đứa con đối với người cha.
Khi gọi Thiên Chúa là Cha, chúng ta thấy mình hết sợ hãi và xa cách.
Cha siêu việt và quyền uy, nhưng Cha không áp bức và bắt con làm nô lệ,
Cha cao sang ở trên trời nhưng Cha lại gần gũi với nhu cầu của con cái.
Ba lời cầu xin đầu tiên đều hướng về Cha: Danh Cha, Nước Cha, và Ý Cha.
Danh Cha được vinh hiển khi Nước Cha được thành tựu, Ý Cha được thể hiện.
Nước Cha đã đến rồi với sự hiện diện và hoạt động của Đức Giêsu,
nhưng chúng ta vẫn phải cầu xin cho Nước ấy mau đến cách viên mãn.
Ý Cha và quyền tối cao của Cha đã được thể hiện trọn vẹn trên trời rồi,
nhưng còn phải được thể hiện dưới đất nữa, nơi mọi người và nơi từng người.
Ba lời cầu đầu tiên, là những lời trực tiếp nài xin Cha.
Làm cho Danh Cha được biết đến, Nước Cha được nhìn nhận,
Ý Cha được tuân hành : đó là công việc của Cha cho đến tận thế.
Nhưng việc đó cũng cần sự cộng tác hằng ngày của mỗi Kitô hữu
qua việc họ sống tận căn những đòi hỏi gai góc của Nước Trời,
để cho thấy Nước Trời đã đến trên mặt đất.
Bốn lời cầu xin sau nhắm đến nhu cầu cụ thể của các môn đệ.
Xin lương thực hàng ngày là điều cần thiết cho họ,
những người nay đây mai đó, sống nhờ lòng tốt của người nghe.
Xin ơn tha thứ là điều ta cần mỗi ngày từ Chúa, sau bao sai lỗi,
mà cũng là điều ta phải trao lại cho anh em.
Xin Chúa đừng đưa chúng ta vào cơn thử thách quá sức chịu đựng
đến mức mất đức tin và quỵ ngã.
Nhưng xin Chúa gìn giữ và giải thoát chúng ta khỏi Ác Thần.
Kinh Lạy Cha giúp chúng ta trò chuyện với chính Thiên Chúa là Cha.
Chúng ta được mở ra trước thế giới trên trời nơi Cha ngự trị,
những cũng được mở ra trước thế giới dưới đất của con người.
Một thế giới có bao người thiếu bánh ăn, cần được chia sẻ.
Một thế giới có nhiều xung đột và hận thù, cần sự bao dung thứ tha.
Một thế giới hỗn loạn với bao điều phải chấn chỉnh cho hợp Ý Chúa.
Một thế giới không biết mình là anh em, con cùng một Cha.
Kinh Lạy Cha bao giờ cũng nhắc chúng ta về những điều dang dở…
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến.
Xin đừng mỉm cười mà nói rằng
Chúa đã ở bên chúng con rồi.
Có cả triệu người chưa biết Chúa.
Nhưng biết Chúa thì được cái gì?
Chúa đến để làm gì
nếu đời sống con cái của Chúa
cứ tiếp tục y như cũ?
Xin hoán cải chúng con.
Xin lay chuyển chúng con.
Ước gì sứ điệp của Chúa
trở nên máu thịt của chúng con,
trở nên lẽ sống của cuộc đời chúng con.
Ước gì sứ điệp đó
lôi chúng con ra khỏi sự an nhiên tự tại,
và đòi buộc chúng con,
làm chúng con không yên.
Bởi lẽ chỉ như thế,
sứ điệp đó mới mang lại cho chúng con bình an sâu xa,
thứ bình an khác hẳn,
đó là Bình An của Chúa. Amen. (Hélder Câmara)
Suy Niệm 2: Như người con hiếu thảo
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Cầu nguyện là hành vi cao đẹp. Vì nâng con người lên. Chúa Giê-su dạy ta cầu nguyện. Đừng lải nhải nhiều lời như người dân ngoại. Đừng biến mình thành kẻ ăn mày. Nhưng nâng tâm hồn lên. Như người con hiếu thảo. Người con hiếu thảo quan tâm đến việc nhà. Đến chương trình của cha. Cầu nguyện đầu tiên là tha thiết với chương trình của Cha. Cộng tác với chương trình của Cha. “Nguyện Danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến. Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Hiến thân thực hiện chương trình của Cha. Vì trong chương trình đó có hạnh phúc của ta. Vì Cha nên yêu thương anh em. Cầu nguyện cho tha nhân. Tha thứ cho anh em. Để nên một trong Cha. Chúa Giê-su là người đầu tiên. Là Con Một Yêu Dấu. Hiếu thảo. Đã hoàn toàn huỷ mình ra không. Để thánh ý Cha được thể hiện.
Ê-li-a là người con hiếu thảo. Hoàn toàn quên mình vì Chúa. Vì Chúa ông chịu thiệt thòi. Bị săn đuổi. Phải chạy trốn. Bị bỏ rơi. Nhưng ở trong Chúa, ông được đầy uy lực. “Ông dùng lời Thiên Chúa mà đóng cửa trời, và ba lần cũng cho lửa đổ xuống… Ông dùng lời của Đấng Tối Cao mà làm cho một kẻ chết trỗi dậy”. Sau đó lại đến Ê-li-sa. Người đã bỏ hết gia đình, ruộng vườn, bò bê. Để thực hiện chương trình của Thiên Chúa. “Lúc sinh thời, ông đã làm nhiều dấu lạ, sau khi chết, ông vẫn còn thực hiện những điềm thiêng”. Các ngài đến với Chúa như những người con hiếu thảo. Nên Chúa dùng các ngài thực hiện chương trình của Chúa. Vì kết hợp với Chúa, các ngài được quyền năng. Và Lời Chúa ở với các ngài (năm chẵn).
Thánh Phao-lô cũng là một người con hiếu thảo. Ngài yêu mến Chúa Giê-su. Chết cho bản thân. Để chỉ sống cho Chúa. Ngài yêu thương dân bằng tình yêu của Chúa. Nên ngài mong ước dân thuộc về Chúa. Nên một với Chúa. Trung tín với Chúa. Đừng thay lòng đổi dạ. “Thật thế, vì anh em, tôi ghen cái ghen của Thiên Chúa, bởi tôi đã đính hôn anh em với một người độc nhất là Đức Ki-tô, để tiến dâng anh em cho Người như một trinh nữ thanh khiết”. Nên một với Chúa. Để cộng tác với Chúa. Trở thành cánh tay nối dài. Thực hiện chương trình của Chúa trên trần gian. Như thánh Phao-lô. Làm hết sức mình để chương trình của Chúa được thực hiện: “Tôi đã hạ mình xuống để tôn anh em lên, khi rao giảng không công cho anh em Tin Mừng của Thiên Chúa. Tôi đã bóc lột các Hội Thánh khác, ăn lương của họ, để phục vụ anh em”.
Xin cho con trở thành người con hiếu thảo. Để khi cầu nguyện con gặp người Cha quyền năng và yêu thương. Và không mong gì hơn là hiến mình cho công trình của Cha được thực hiện. Đó là hạnh phúc của con.
Suy Niệm 3: Kinh Lạy Cha
Kinh Lạy Cha là một kinh quan trọng đối với đời sống người Kitô hữu, vì đó là kinh do chính Chúa Giêsu đặt ra, là kinh được Giáo Hội đọc nhiều hơn cả trong các cử hành phụng vụ và các cử hành khác, là kinh tóm gọn tất cả những gì phải làm trong khi cầu nguyện.
Chúng ta cần cầu nguyện với Chúa Cha để sống và hoạt động tông đồ đắc lực, khi cầu nguyện như thế, chúng ta cậy nhờ Chúa Giêsu và nhờ chính lời cầu nguyện của Ngài. Có một điểm Chúa Giêsu căn dặn là trong khi cầu nguyện đừng có thái độ thuyết phục Thiên Chúa theo ý muốn của mình bằng những lời khéo léo dài dòng như những người ngoại giáo đối với các thần minh của họ. Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng làm như thế, bởi vì "Cha các con đã biết rõ các con cần gì, trước khi các con cầu xin". Nói khác đi, khi cầu nguyện, chúng ta chỉ cần đơn sơ khiêm tốn nhìn nhận mình hèn mọn thiếu thốn, vạch rõ con người của chúng ta trước mặt Thiên Chúa, rồi vững dạ cậy trông tin tưởng. Thiên Chúa chẳng những sẽ lấp đầy cái trống rỗng của chúng ta, mà còn dằn lắc, còn ban cho chúng ta nhiều ơn hơn chúng ta khấn xin.
Kinh Lạy Cha là kiểu mẫu cho tất cả việc cầu nguyện.
Theo thánh Luca, Kinh Lạy Cha có 5 lời nguyện, trong khi đó ở Phúc Âm Matthêu có 7 lời nguyện: 3 lời cầu đầu tiên nói về Thiên Chúa, Ðấng mà Chúa Giêsu dạy chúng ta gọi là Cha: Cha chúng con ở trên trời, sau đó chúng ta xin cho Danh Thánh Cha được hiển vinh, nước Cha được lan rộng trên thế gian, nhất là trong tâm hồn con người, và xin cho thánh ý Cha được thực hiện dưới đất cũng như trên trời. Trong phần hai, có 4 lời nguyện: xin lương thực hàng ngày, nghĩa là xin cơm bánh nuôi thân xác và của ăn nuôi hồn, tức là Lời Chúa và Mình Chúa; xin tha thứ các tội xúc phạm đến Thiên Chúa, nhưng để được tha thứ, chúng ta cũng phải tha thứ lỗi lầm của anh em; xin ơn kiên trì để lướt thắng cám dỗ hàng ngày, nhất là trong cơn thử thách sau cùng trước sức tấn công của tà thần muốn đưa chúng ta xa lìa Chúa; xin ơn thoát khỏi mọi sự dữ để có thể phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân mọi ngày trong đời sống chúng ta.
Chúng ta hãy dốc quyết không bao giờ bỏ đọc Kinh quan trọng và hiệu nghiệm này trong đời sống cá nhân, gia đình và cộng đoàn chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Ta thường cầu xin ngược lại
“Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời. Đừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin. Vậy anh em hãy nguyện như thế này:
“Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời,
xin cho danh thánh Cha vinh hiển,” (Mt. 6, 7-9)
Mẫu kinh tuyệt hảo
Chúa Giêsu đã ban cho ta một mẫu cầu nguyện là Kinh Lạy Cha. Không có lời kinh nào tuyệt hảo và quân bình hơn kinh Lạy Cha. Vậy để cầu nguyện nên, ta phải cảm hứng từ kinh Lạy Cha, để có được những tâm tình và ý hướng xứng hợp.
Mặc dầu người ta đã nói nhiều về kinh này, nhưng nhắc lại một lần nữa ở đây, thiết tưởng cũng là điều tốt. Kinh Lạy Cha gồm hai phần. Trong phần đầu ta lo đến những sự thuộc về Chúa. Ta cầu xin cho điều Chúa muốn được thực hiện: “Nguyện danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Từ phần thứ hai của kinh, ta mới quan tâm đến những chuyện thuộc về ta: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, xin chớ để chúng con xa chước cám dỗ …”.
Muốn cầu ngụyện nên, phải cầu nguyện theo cách này. Việc của Chúa phải được đặt lên hàng đầu. Việc của ta phải ở hàng thứ yếu. Nếu ta đặt những lợi ích của ta lên trên và trước những lợi ích của Chúa, nếu ta nghĩ đến ta trước khi nghĩ đến Chúa, là ta cầu xin điều trái ngược. Và Thiên Chúa không ưa điều gì làm trái ngược.
Hãy đứng ở vị trí thứ hai
Vậy mà ta vẫn thường cầu xin ngược lại như thế. Ta vẫn luôn làm như vậy, mỗi khi ta không cần đến kinh Lạy Cha, mà dùng lời lẽ riêng của mình để bày tỏ điều ta muốn. Điều đầu tiên nảy ra trong đầu óc ta thường là cầu xin Chúa ban cho ta được những ơn lành; nào là xin cho được mạnh khỏe, xin cho những người thân của ta, xin cho qua khỏi cơn bối rối v.v…
Ta phải học cho biết cầu nguyện đúng chỗ. Cầu nguyện đúng chỗ, là quan tâm trước hết đến Chúa, là dành cho Người địa vị hàng đầu, còn ta đứng hàng thứ yếu. Nếu ta không có khả năng làm được như vậy, thà rằng chú ý và thành tâm đọc kinh Lạy Cha nhiều lần còn tốt hơn.
Suy Niệm 5: Thân phận đích thực của con người
Kinh “Lạy Cha” là một lời kinh giản dị, phong phú, qui tụ vào cái chính yếu, đầy sức sống, phản ánh một nếp sống tôn giáo sâu đậm vào bậc nhất. Những đức tính này rất đáng lưu ý, nếu chúng ta nghĩ đến sự kiện là kinh này chỉ được biên soạn khoảng bốn mươi hay năm mươi năm sau khi Chúa Giêsu đã giảng dạy. Điều này có nghĩa là trong khoảng thời gian đó các cộng đoàn Kitô hữu, ngược lại với điều người ta lo sợ, đã không kéo dài kinh đó ra, đã không chất thêm vào, cũng như đã không diễn giải sâu rộng. Ngay từ đầu, các môn đệ đã nhận ra trong Kinh Lạy Cha một Kinh Nguyện chính yếu và họ đã gìn giữ nó nguyên vẹn. Cái dấu tích trung thực này càng làm cho lời kinh quý giá hơn.
Khi dạy kinh Lạy Cha, không những Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện, nhưng Ngài còn muốn cho chúng ta ý thức địa vị của con người chúng ta. Ngài nói rằng: sự viên mãn của thân phận chúng ta, và của hạnh phúc chúng ta là ở chỗ tự vượt lên khỏi mình nơi Thiên Chúa, trong ý muốn và trong Nước Ngài; nhưng để đến đó, chúng ta có thể tin cậy ở nơi Ngài. Đàng khác ngay từ bây giờ, chúng ta phải thực thi sự hòa giải với nhau giữa con người, hòa giải mà Thiên Chúa ban cho qua mối tương quan giữa chúng ta với Chúa. Địa vị con người đặt chúng ta trong hai mối tương quan mà thực ra chỉ là hai nhịp điệu của cùng một đời sống duy nhất. Đối với Thiên Chúa, tương quan của chúng ta là tương quan con thảo; đối với con người lại là tương quan huynh đệ.
Đâu là địa vị, chỗ đứng của tôi trước mặt Thiên Chúa? Tôi có phải là đứa con hoang đàng mà người Cha chờ đợi và tiếp đón mỗi ngày? Tôi là con người mà thân phận được thể hiện trong ý muốn và Nước của Đấng vì tình yêu mà tạo dựng và phân phát sự sống Ngài chăng? Ước chi Chúa gìn giữ tôi khỏi làm người anh cả trong dụ ngôn, nổi giận vì người ta mừng ngày trở lại của người em; người anh mà đối với em mình không có những tâm tình như người Cha.
Tôi có xin Chúa Giêsu dạy tôi biết cách cầu nguyện kinh Lạy Cha không?
Suy Niệm 6: Hãy cầu nguyện như thế này
Nhắc đến cuộc đời của thánh Gioan M. Vianey, cha sở họ Ars. Người ta không thể quên câu chuyện sau đây về một nông dân xứ Ars: Mỗi ngày trước khi ra đồng, anh đều ghé vào nhà thờ cầu nguyện giây lát rồi mới ra đồng. Khi trở về nhà anh cũng ghé vào nhà thờ để cầu nguyện như vậy. Trong xứ ai cũng nể và kính phục. Một hôm có người hỏi: “Ngày ngày ông ghé vào nhà thờ mấy lần để làm gì thế?”. Anh nông dân trả lời: “Tôi bàn chuyện với Chúa và Chúa bàn chuyện với tôi”.
“Tôi bàn chuyện với Chúa và Chúa bàn chuyện với tôi”. Câu trả lời trên của anh nông dân xứ Ars diễn tả được tận gốc tủy của việc cầu nguyện. Hoạt động không cầu nguyện là vô ích trước mặt Thiên Chúa. Máy móc tự động có thể làm hơn con. Cầu nguyện là nền tảng của đời sống thiêng liêng, vì lúc cầu nguyện con nối liền sự kết hợp với Thiên Chúa. Bí quyết nuôi dưỡng đời sống Kitô hữu là cầu nguyện. Không cầu nguyện dù có làm phép lạ con cũng đừng tin. Các tông đồ đã thưa với Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy xin dạy chúng con cầu nguyện”. Chúa Giêsu đáp: “Khi các con cầu nguyện hãy nói: Lạy Cha chúng con ở trên trời”.
Chúa đã dạy đọc kinh để giúp chúng con cầu nguyện, nhưng điểm chính là gặp gỡ, là nói chuyện giữa Chúa và con. Khi con cầu nguyện đừng lo phải nói gì, chỉ vào phòng đóng cửa mà cầu nguyện với Cha của con một cách kín đáo, chắc chắn Ngài sẽ nhận lời con. Không cần hình thức, chỉ cần tâm tình phụ tử.
Những chia sẻ trên của tác giả “Đường Hy Vọng” hướng dẫn chúng ta hiểu sâu hơn ý nghĩa của đoạn Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe. Giờ đây chúng ta hãy chia sẻ với nhau những ý nghĩa sâu xa của lời kinh Lạy Cha mà Chúa Giêsu đã truyền dạy cho các tông đồ. Trong vài phút suy niệm này, chúng ta hãy chú ý đến tinh thần phải có khi cầu nguyện.
Trong đoạn Phúc Âm trên, Chúa Giêsu đã dạy cho các môn đệ lời kinh Lạy Cha, như những lời dạy nói về tinh thần phải có khi cầu nguyện. Đó là tinh thần tha thứ cho kẻ xúc phạm đến mình, và tinh thần đơn sơ khiêm tốn nhằm gặp gỡ thân tình với Chúa hơn là nói nhiều lời ngoài môi miệng: “Khi anh cầu nguyện, thì đừng nhiều lời như những kẻ ngoại giáo, vì họ nghĩ rằng nói nhiều thì được nhiều”. Vì suốt ngày mỏi mệt rao giảng Tin Mừng, nên mỗi khi đêm về quỳ gối trước Chúa Giêsu Thánh Thể, thánh Phanxicô có những lúc quá mệt mỏi phải ngủ gục bên bàn thờ. Lúc ấy ngài thường cầu nguyện với Chúa một cách đơn sơ như sau: “Lạy Chúa, nếu linh hồn con không tỉnh thức được với Chúa, thì ít nữa xác con đây muốn ở gần Chúa”.
Cầu nguyện là giờ tâm sự với Chúa là Cha, chứ không phải là giờ làm bài. Giờ cầu nguyện là giờ của quả tim, chứ không phải là giờ của luận lý. Đừng nặn óc bóp trán để trình bày với Chúa. Khi chúng ta cầu nguyện, chúng ta không cô độc lẻ loi một mình. Thánh Phaolô tông đồ giãi bày như sau: “Chúng ta không biết phải cầu nguyện như thế nào cho phải, nhưng Chúa Thánh Thần cầu nguyện cho chúng ta với những lời kêu van không thể diễn tả được” (Rm 8,26)
Nhờ bí tích Rửa tội mà ta đã lãnh nhận, mỗi người Kitô hữu sẽ được kết hợp với Chúa Giêsu Kitô và được lãnh nhận hồng ân Chúa Thánh Thần. Chúng ta hãy cố gắng sống trong Chúa Thánh Thần, để phát triển đời sống con người trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Nếu ta không phải là người cầu nguyện thì không ai tin ta làm việc vì Chúa. Nếu muốn biết công việc tông đồ của ai như thế nào, thì hãy xem người đó có cầu nguyện hay không, và cầu nguyện ra sao?
Lạy Chúa, xin hãy thương ban cho chúng con được tràn đầy Chúa Thánh Thần để canh tân chính mình và anh chị em trong môi trường chúng con sống. Amen.
Suy Niệm 7: THIÊN CHÚA LÀ CHA YÊU THƯƠNG (Mt 6, 7-15)
Xem lại thứ Ba tuần 1 MC, Thứ Tư tuần 27 TN
Đạo Công Giáo của chúng ta thật hạnh phúc vì được gọi Thiên Chúa là Cha. Đây là đặc ân cao quý mà nhờ Đức Giêsu mặc khải, chúng ta mới biết và dám thưa với Thiên Chúa “Ápba - Cha”.
Hôm nay, các môn đệ đã xin Đức Giêsu dạy cầu nguyện, vì thế, Ngài đã lên tiếng dạy họ cầu nguyện:
Trước tiên, cần xác định căn tính là con của các môn đệ với Cha trên trời: “Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời”. Khi có chung một Cha, thì ắt sẽ có nhau là anh em.
Thứ hai, đã là con thì luôn mong cho danh Cha mình được tỏ lộ và nhiều người tin nhận: “Xin làm cho Danh Cha được vinh hiển”; “Triều đại Cha mau đến”.
Thứ ba là nguyện xin cho: “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”, tức là xin Cha thể hiện mục đích của Người trên nhân loại như đã có trong chương trình yêu thương của Người.
Thứ tư, thể hiện lòng trông cậy vào Cha, đồng thời phó thác đời sống xác hồn cho Cha để Người chăm lo: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”.
Thứ năm, ý thức mình là kẻ tội lỗi nên cần Cha tha tội: “Xin tha tội cho chúng con, như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con”, tức là thành khẩn xin Cha tha mọi tội lỗi chúng ta xúc phạm đến Người, cũng như cho ta biết tha thứ các lỗi lầm mà anh em xúc phạm đến ta.
Thứ sáu, ý thức sự mong manh, yếu đuối của bản thân, nên cần Cha bảo vệ: “Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ”.
Cuối cùng, xin được trao phó mọi sự trong tay Cha, để xin Cha cứu giúp khỏi bị rơi vào tình trạng mất ơn nghĩa cùng Cha: “Nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ”.
Qua kinh lạy Cha, Đức Giêsu dạy các môn đệ cầu nguyện, thì ngày hôm nay, Ngài cũng dạy mỗi người chúng ta hãy cầu nguyện như thế để xứng đáng là con Cha trên trời và có nhau là anh em trong cùng đại gia đình Hội Thánh.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con luôn sống xứng đáng là con cái Thiên Chúa và luôn tin tưởng, phó thác cũng như biết cùng nhau làm sáng danh Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 8: Chân trời rộng mở: con cùng một Cha
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Lời kinh Chúa dạy dẫn chúng ta đến một chân trời rộng mở. Tất cả đều là con cùng một Cha. Vì thế, ta cần giang rộng vòng tay đón nhận anh em trong tình yêu Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa là Cha của con, con xin dâng Cha tâm tình cảm tạ tri ân, vì Con Một Cha đã dạy con gọi Chúa là Cha. Ngài cũng dạy con biết cách trò chuyện với Cha trong tâm tình cha con. Lời kinh tuyệt hảo này như cánh cửa mở ra dẫn con bước vào khung trời yêu thương: mọi người là con Cha, là anh em với nhau.
Lạy Cha, lời kinh Chúa Giêsu dạy giúp con khám phá địa vị của người khác. Cho dù người bên cạnh con sống với tâm hồn khép kín, cho dù người bên cạnh con đang cố tình tránh mặt Cha, cho dù người bên cạnh con gây nên bất hòa… thì họ vẫn là con Cha, là anh chị em với con. Cha đã quảng đại đón nhận tất cả mọi người vào gia đình Cha. Xin cũng mở rộng lòng con để con biết đón nhận mọi người. Xin Cha phá tung cánh cửa ích kỷ nơi con để con biết nghĩ đến người khác. Vì từ nghĩa cử cao đẹp con làm cho anh em là con đang được lớn lên trong ân tình của Cha. Và từng ánh mắt cảm thông, từng nụ cười chia sẻ với người khác, là con trở nên thân thiết với họ, làm tình anh em được bền chặt hơn.
Lạy Cha, tình thương của Cha đang thúc bách con yêu thương người khác. Và thực hành yêu thương là điều khẩn cấp, vì đó là điều kiện để con trở thành con Cha và nên anh em bạn hữu thân thiết với mọi người. Xin Cha giúp con. Amen.
Ghi nhớ : “Vậy các ngươi hãy cầu nguyện như thế này”.
Suy Niệm 9: Chúa Giêsu dạy ta cách cầu nguyện
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Người con gái của Karl Marx có lần tâm sự với một người bạn: “Tôi lớn lên mà không hề biết đến bất cứ tôn giáo nào. Tôi cũng không tin tưởng Thiên Chúa. Thế rồi, tình cờ tôi đọc được một quyển sách trong đó có lời kinh khác lạ. Tôi đọc hết lời kinh ấy và tự nhủ: Nếu quả thật Thiên Chúa của lời kinh đó hiện hữu, tôi nghĩ rằng tôi có thể tin Ngài được”.
Người bạn hỏi cho biết đó là lời kinh nào. Người con gái của Karl Marx mới từ từ đọc lại kinh Lạy Cha (...) Tình cha con và tình anh em được Chúa Giêsu mạc khải qua kinh Lạy Cha. Sống với Cha trong tình phó thác, với anh em trong tình bác ái.
Suy niệm
Chúa Giêsu đã dạy chúng ta cách cầu nguyện: đừng nói nhiều lời vì Thiên Chúa là Cha chúng ta, Ngài đã hiểu rõ chúng ta đang cần gì. Ðiều quan trọng là chúng ta phải sống trong tương quan thân tình với Cha và với anh chị em như Ngài dạy lời cầu nguyện Abba - Lạy Cha.
So với kinh Lạy Cha của Luca ghi lại, kinh Lạy Cha của Matthêu chi tiết hơn: “Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Trong lúc đó, Luca ghi nhận vắn tắt hơn: “Lạy Cha, nguyện cho danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến”. Và câu kết của kinh Lạy Cha theo Matthêu: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ”, trong khi Luca trình bày ngắn hơn: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”.
Lời kinh Lạy Cha, đầu tiên “nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến”: Nước Cha đến là nội dung chính của lời Đức Giêsu loan báo. Ngài loan báo Tin Mừng về triều đại Thiên Chúa, về quyền chúa tể của Thiên Chúa (x. Lc 4,43; 8,1; 10,9.11). Vì Cha là tình yêu, khi danh Cha toả sáng, là tình yêu Cha trải dài trên trái đất nơi những người con của Cha hiện hữu và ý Cha thể hiện được cả dưới đất cũng như trên trời: Tuân hành thánh ý là nhiệm vụ của Đức Kitô ở trần gian (x. Mt 26,39) là lương thực của Đức Giêsu (x. Ga 4,34).
Bốn lời nguyện tiếp theo, con người trình bày với Cha về các nhu cầu và những sự cần thiết của mình trên đường tiến về quê cha: được nuôi dưỡng, xin được tha thứ - chữa lành tội lỗi và được thắng cuộc chiến đấu với Sự Dữ bằng Sự Lành và ân sủng đến từ Thiên Chúa qua Đấng Cứu Thế. Khi xin “cho chúng con” là chúng ta nói lên, trong tình hiệp thông huynh đệ của mình, lòng tin tưởng của con cái được phó thác nơi Cha trên trời.
Với tâm tình con thảo, “Việc cầu nguyện cùng Cha của chúng ta phải làm triển nở trong chúng ta ý muốn nên giống như Ngài và nuôi dưỡng nơi chúng ta một tấm lòng khiêm nhu tin tưởng” (Giáo lý Công giáo, số 2800). Cha luôn dõi mắt theo từng người con mà ban phát, như Chúa Giêsu khẳng định: “Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ thì sẽ mở cho” (Lc 11,9-10).
Tất cả thúc đẩy chúng ta luôn tin tưởng phó thác vào Chúa là Cha hiển vinh như định luật tình thương mà Con Thiên Chúa đã mạc khải: “Chúa sẽ ban những của tốt lành cho những kẻ xin Người” (Mt 7,11).
Ý lực sống:
“Tình thương Chúa đời đời con ca ngợi” (Tv 89,2).
Suy Niệm 10: Phải cầu nguyện thế nào (Mt 6,7-15)
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Thiên Chúa là Cha chúng ta. Người biết rõ chúng ta cần gì và điều gì tốt hơn cho chúng ta. Vì thế, khi cầu nguyện không nên lải nhải nhiều lời. Chúa muốn lắng nghe những lời tâm tình đơn sơ chân thành của chúng ta, những quan tâm của ta đối với cuộc sống với anh em, chứ không phải là những nhu cầu cá nhân, ích kỷ. Chúng ta hãy xin Chúa Giêsu dạy chúng ta cách cầu nguyện đẹp ý Chúa. Khi cầu nguyện, chúng ta phải đặt mình trong tương quan Cha – con với Thiên Chúa: Cha muốn gì, con xin vâng theo.
Chúng ta cần cầu nguyện với Chúa Cha để sống và hoạt động tông đồ đắc lực, khi cầu nguyện như thế, chúng ta cậy nhờ Chúa Giêsu và nhờ chính lời cầu nguyện của Ngài. Có một điểm Chúa Giêsu căn dặn là trong khi cầu nguyện đừng có thái độ thuyết phục Thiên Chúa theo ý muốn của mình, bằng những lời khéo léo dài dòng như những người ngoại giáo đối với các thần minh của họ. Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng làm như thế, bởi vì ”Cha các con đã biết rõ các con cần gì, trước khi các con cầu xin”. Nói khác đi, khi cầu nguyện, chúng ta chỉ cần đơn sơ khiêm tốn nhìn nhận mình hèn mọn thiếu thốn, vạch rõ con người của chúng ta trước mặt Thiên Chúa, rồi vững dạ cậy trông tin tưởng. Thiên Chúa chẳng những sẽ lấp đầy cái trống rỗng của chúng ta, mà còn dằn lắc, còn ban cho chúng ta nhiều hơn chúng ta khẩn xin (Mỗi ngày một tin vui).
Chúa Giêsu không muốn cho các môn đệ nói nhiều lời với Thiên Chúa. Cầu nguyện không phải là nói nhiều lời như con két. Nhưng trước hết, phải là hành động của con tim, của lòng yêu mến đối với Thiên Chúa Cha, là trao đổi tâm tình với Thiên Chúa, Cha chúng ta, Đấng ngự trên trời: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”. Thánh Augustinô đã khuyên các tín hữu như sau: “Tất cả những gì chúng ta muốn cầu nguyện đều có sẵn trong kinh Lạy Cha. Và những gì không có trong kinh này, thì chúng ta không nên cầu xin”.
Cầu nguyện được ví như hơi thở, là hoạt động căn bản của đời sống tâm linh. Cầu nguyện đối với người Công giáo là tâm tình con thảo với Cha trên trời, là thể hiện niềm tin và phó thác cho sự quan phòng của Thiên Chúa.
Các nhà tu đức học thường coi cầu nguyện là câu chuyện thân mật giữa ta và Chúa với tâm tình con thảo. Vì thế, cầu nguyện là nói chuyện với Chúa. Đã nói chuyện thì phải có lúc nói lúc nghe. Nếu chỉ nói thì cuộc nói chuyện sẽ trở thành độc thoại. Xin kể ra đây một ít sự kiện để chúng ta hiểu việc cầu nguyện với Chúa như thế nào. Khi viếng Chúa, các thánh thường làm gì ? Sau đây là một số câu trả lời:
* Thánh Ignatiô Loyola nói: “Có khi tôi nói chuyện với Chúa như một người bạn, có khi như một người đầy tớ đối với Chúa. Tôi xin Chúa một vài ơn, thú tội đã phạm với Chúa, xin Ngài an ủi và khuyên bảo”.
* Còn thánh Phanxicô Xaviê trả lời: Có khi tôi thưa với Chúa: “Lạy Chúa, con khẩn cầu Chúa đừng để con thoải mái trong cuộc đời, hoặc ít ra, khi con chìm vào lòng nhân lành thương xót của Chúa, xin dẫn đưa con đến nhà thánh của Chúa”.
* Vua Louis IX của nước Pháp có lần hỏi vua Henry III của nước Anh:
- Tại sao bệ hạ thích dự Thánh lễ hơn là nghe giảng ?
- Bởi vì, vua Henry trả lời, tôi thích nói chuyện mặt đối với Vua trên trời hơn là nghe kẻ khác nói về Ngài.
* Khi thánh Phanxicô khó khăn trình lên Đức Thánh Cha Hônôriô II bản qui luật của Dòng, để xin Ngài phê chuẩn thì Đức Thánh Cha có hỏi thánh nhân: - Có bao giờ con thấy Chúa chưa ?
Phanxicô: - Dạ thưa có. Con vừa thấy đêm hôm qua.
Đức Thánh Cha: - Người có nói gì với con không ?
Phanxicô: - Người và con ở bên nhau suốt đêm mà không nói được gì. Tuy nhiên mỗi lần con nói “Abba” với Người thì Người lại trả lời với con: “Con Ta”. Cứ thế... chẳng có gì hơn cho tới sáng.
Truyện: Thế nào là cầu nguyện không ngừng
Tác phẩm “Con đường hành hương” kể câu chuyện như sau:
Một người kia học Thánh kinh thấy lời khuyên hãy cầu nguyện không ngừng. Ông không biết làm thế nào để có thể cầu nguyện không ngừng. Vì thế, ông hành hương đến một tu viện và xin một tu sĩ chỉ dạy ông. Vị tu sĩ mời khách hành hương ở lại tu viện, trao cho ông một tràng chuỗi và dặn ông cứ lần chuỗi và đọc câu “Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Người này nghe lời làm theo, mỗi ngày vừa lần chuỗi vừa đọc không biết bao nhiêu lần câu đó, có đến cả trăm ngàn lần.
Một ngày kia vị tu sĩ qua đời. Người khách hành hương khóc sướt mướt khi đưa vị tu sĩ đến nơi an nghỉ cuối cùng. Sau đó ông rời tu viện tiếp tục cuộc hành hương, bởi vì vị tu sĩ ấy vẫn chưa dạy cho ông làm thế nào để có thể cầu nguyện không ngừng. Vừa đi, ông vừa làm như thói quen vị tu sĩ đã dạy. Khi ông hít vào, ông đọc “Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa”, khi thở ra, ông đọc tiếp “Xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Cứ thế không bao lâu lời cầu nguyện đã thành hơi thở của ông: dù khi ăn, dù khi uống, dù khi nói năng, đi đứng... Mỗi hơi thở, mỗi nhịp đập của trái tim ông đều trở thành cầu nguyện. Và người khách hành hương chợt hiểu: Bây giờ tôi đã hiểu thế nào là cầu nguyện không ngừng (Chờ đợi Chúa).
16/06 Đạo đức thực sự vì Chúa
- Viết bởi Mt. 6, 1-6, 16-18
Đạo đức thực sự vì Chúa.
Thứ Tư tuần 11 thường niên.
"Cha ngươi Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho ngươi".
Lời Chúa: Mt. 6, 1-6, 16-18
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để thiên hạ trông thấy, bằng không, các con mất công phúc nơi Cha các con là Đấng ở trên trời.
Vậy khi các con bố thí, thì đừng thổi loa báo trước, như bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người ta ca tụng họ. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Còn con có bố thí, thì làm sao đừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc con bố thí được giữ kín, và Cha con, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.
"Rồi khi các con cầu nguyện, thì cũng chớ làm như những kẻ giả hình: họ ưa đứng cầu nguyện giữa hội đường và các ngả đàng, để thiên hạ trông thấy. Quả thật, Ta bảo các con: họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi cầu nguyện, thì hãy vào phòng đóng cửa lại mà cầu xin với Cha con, Đấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.
"Khi các con ăn chay, thì đừng làm như bọn giả hình thiểu não: họ làm cho mặt mũi ủ dột, để có vẻ ăn chay trước mặt người ta. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi ăn chay, hãy xức dầu thơm trên đầu và rửa mặt, để thiên hạ không biết con ăn chay, nhưng chỉ tỏ ra cho Cha con Đấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Đấng thấu suốt những gì kín đáo
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
“Đã mang tiếng ở trong trời đất,
phải có danh gì với núi sông.”
Danh tiếng để lại cho đời là điều khiến nhiều người bận tâm.
Có người hiến mình để làm những công trình lớn lao để lại cho hậu thế.
Nhưng cũng có người rơi vào thói háo danh,
làm mọi sự chỉ để tìm cho mình chút tiếng khen mau qua.
Trong Bài Giảng trên núi mà ta nghe hôm nay,
Đức Giêsu tố giác thói háo danh của những người đạo đức giả,
khi họ làm ba việc đạo đức căn bản là bố thí, cầu nguyện, ăn chay.
Ngài cũng cho thấy cách sống đạo của người môn đệ.
Làm các việc đạo đức để tìm tiếng khen, là một cám dỗ có thật.
Có người thổi kèn trong hội đường hay ngoài phố khi bố thí.
Có người thích đứng cầu nguyện tại giữa ngã ba đường.
Có người có mang bộ mặt thiểu não khi ăn chay.
Tất cả chỉ nhằm thu hút sự chú ý của nhiều người khác,
chỉ nhằm “cho người ta thấy”, “để người ta khen” (cc. 1. 2. 5. 16).
Họ làm những việc tốt lành, nhưng lại tìm mình, co quắp trên chính mình,
trong khi lẽ ra những việc này phải mở họ ra trước Thiên Chúa.
Đối với Đức Giêsu, được người ta khen là nhận được phần thưởng rồi,
nên cũng chẳng được Cha trên trời ban thưởng nữa (c. 1).
Họ được phần thưởng mau qua của người đời,
nhưng mất phần thưởng trọng hậu trong ngày sau hết.
Đức Giêsu mời các môn đệ đi vào cái kín đáo, thầm lặng,
nơi đó không có con mắt của người đời, không có tiếng khen chê.
Nơi đó kín đến mức tay trái không biết việc tay phải làm.
Nơi đó là căn phòng đóng cửa, để chỉ có Cha và anh gặp gỡ.
Cha là Đấng hiện diện ở nơi kín đáo (cc. 6. 18).
Cha cũng là Đấng thấy những gì được làm ở nơi kín đáo (cc. 4. 6. 18).
Cha thấy anh đã bố thí, cầu nguyện, ăn chay cách thầm lặng.
Chính Cha sẽ ban thưởng cho anh.
“Hữu xạ tự nhiên hương” có thể là một hình ảnh đẹp về người Kitô hữu.
Đời Kitô hữu là cuộc đời kín đáo thầm lặng, như bị che khuất.
Nhưng cũng là cuộc đời không che giấu được trước mắt mọi người.
Chính khi cái tốt được làm một cách vô cầu, thì nó lại tỏa ngát hương.
Không hẳn là chúng ta luôn luôn phải cầu nguyện trong phòng đóng cửa.
Cũng như không hẳn chúng ta phải tô son đánh phấn khi ăn chay.
Nhưng điều quan trọng là chúng ta làm mọi sự cho vinh danh Chúa.
Cầu nguyện :
Ngày lại ngày, lạy Thiên Chúa,
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan,
hai tay cung kính, lạy Thiên Chúa muôn loài,
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan.
Dưới bầu trời bao la,
trong cô đơn và thầm lặng,
với tấm lòng thanh tịnh,
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan.
Trong thế giới ồn ào vì nhọc nhằn,
huyên náo vì đấu tranh,
giữa đám đông hối hả lăng xăng,
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan.
Và khi đã hoàn tất việc đời,
lạy Thiên Chúa muôn loài,
một mình, lặng lẽ,
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan. Amen.
(R. Tagore, Đỗ Khánh Hoan dịch)
Suy Niệm 2: Chúa sẽ trả lại
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Tôn giáo là một tổ chức. Nhưng thực chất lại là mối liên hệ sâu xa và riêng tư giữa từng người với Thiên Chúa. Càng sâu xa và riêng tư hơn nữa khi đó là mối liên hệ Cha – Con. Vì thế các thực hành tôn giáo đúng nghĩa chỉ nói lên mối tình Cha – Con riêng tư. Không để khoe khoang thành tích. Không làm để cho người đời khen tặng. Thực tế đã có nhiều giả hình, phô trương trong sinh hoạt tôn giáo. Mượn đạo tạo đời. Đó là điều Chúa Giê-su cảnh báo: “Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng. Vậy khi bố thí, đừng có khua chiếng đánh trống, …Khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy…Khi ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả,…Còn anh, khi ăn chay, phải làm…để không ai thấy là anh ăn chay, ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh”.
Chúa sẽ trả lại. Trả cách hậu hĩnh. Như thánh Phao-lô cảm nghiệm. “Thưa anh em, tôi xin nói điều này: gieo ít thì gặt ít; gieo nhiều thì gặt nhiều. Mỗi người hãy cho tuỳ theo quyết định của lòng mình, không buồn phiền, cũng không miễn cưỡng, vì ai vui vẻ dâng hiến, thì được Thiên Chúa yêu thương. Vả lại, Thiên Chúa có đủ quyền tuôn đổ xuống trên anh em mọi thứ ân huệ, để anh em vừa được luôn đầy đủ mọi mặt, vừa được dư thừa mà làm việc thiện”. Người vui vẻ dâng hiến cho Chúa. Chỉ vì Chúa sẽ được Chúa trả lại gấp bội (năm lẻ).
Ê-li-a suốt đời phục vụ Chúa. Ông chỉ biết một mình Chúa. Bất chấp vua A-kháp và hoàng hậu I-de-ven. Kết hợp mật thiết với Chúa. Hi sinh trọn đời cho Chúa. Rồi cuối cùng Chúa ban phần thưởng trọng hậu. Cho có người nối tiếp nhiệm vụ tiên tri. Cho xe lửa và ngựa lửa đón ngài về trời. Để lại quyền năng cho Ê-li-sa, người kế vị: “Các ông còn đang vừa đi vừa nói, thì này một cỗ xe đỏ như lửa và những con ngựa đỏ như lửa tách hai người ra. Và ông Ê-li-a lên trời trong cơn gió lốc…E-li-sa trở về và đứng bên bờ sông Gio-đan. Ông lấy áo choàng của ông Ê-li-a đã rơi xuống mà đập xuống nước … nước rẽ ra hai bên, và ông Ê-li-sa đi qua” (năm chẵn).
Khi sống đạo hình thức. Ta không có Chúa. Đạo thật buồn nản. Là gánh nặng. Nhưng khi sống nội tâm. Với một mình Chúa. Ta có niềm vui. Và sức sống. Vì Chúa sẽ đổ tràn niềm vui mừng hạnh phúc, trả lại cho ta.
Suy Niệm 3: Các việc đạo đức
Tại nhiều nơi, cứ vào mùa tranh cử, người ta lại dễ dàng nhìn thấy những bảng hiệu ghi ơn dân biểu này, nghị sĩ nọ, hoặc loan báo những công trình xây dựng của các nhân vật chính trị. Dĩ nhiên, ai cũng hiểu đó là những vận động gián tiếp, những hứa hẹn với dân chúng để hy vọng được bầu vào những chức vụ công quyền. Tâm thức và lối hành xử thường tình của con người là như thế đó: làm việc tốt để kể công, để được trọng vọng, khen thưởng. Người Kitô hữu cũng dễ bị cám dỗ để có tinh thần khoe khoang kể công như trên vào đời sống đạo đức.
Tin Mừng hôm nay ghi lại những lời dạy của Chúa Giêsu về tinh thần tu đức cần phải có, với nguyên tắc sống đạo: đừng làm việc lành có ý phô trương cho người ta thấy. Theo luật Môsê, bố thí, cầu nguyện, ăn chay là những việc lành cao quý, và người ta thường tổ chức các việc đạo đức đó cách công khai để thúc đẩy nhiều người tham gia. Chúa Giêsu không phản đối các việc đó, nhưng Ngài chỉ muốn người ta thực hiện chúng với ý hướng mới, đó là làm vì lòng yêu mến và tìm đẹp lòng Chúa hơn là để được người đời khen ngợi. Chẳng vậy, các việc đạo đức ấy có thể chỉ có hình thức, đấy là chưa nói đến trường hợp có nhiều người làm bộ cầu nguyện lâu giờ, ăn chay nhiều ngày, bố thí rộng rãi để dễ lừa gạt người khác.
Chúa Giêsu cảnh giác chúng ta đề phòng thứ đạo đức vụ hình thức. Nhưng việc đạo đức tự nó rất ích lợi cho bản thân, cho tha nhân và đáng được Thiên Chúa ban thưởng, với điều kiện chúng được thực hiện với ý ngay lành. Chúng ta cần thực hành các việc lành với ý hướng này, vì đó là lẽ sống, là niềm vui và là động lực cho cuộc đời hy sinh phục vụ của chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Đừng phô trương
“Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng.” (Mt. 6, 1)
Hãy nhìn tôi đây
Tất cả chúng ta đều nhìn nhận rằng những cách cư xử như vậy mà Chúa muốn chúng ta chấp nhận, đều là tuyệt hảo. Bố thí không khua chiêng đánh trống, cầu nguyện không để cho ai thấy, ăn chay không làm bộ rầu rĩ, ta muốn cho mọi người hành động như thế, và ta muốn mình cũng làm như vậy. Nhưng thực ra không phải dễ dàng đâu. Trong ta, mỗi người đều có một chút riêng tư, thực tế khó mà dứt ra được.
Ta thích cho người khác nhìn thấy việc tốt ta làm, cũng là thích phô trương những khía cạnh tốt của ta. Người ta phô trương mình, cũng là vì ý tốt và hàu như vô tình thôi.
Khi người khác có dụng ý khoe khoang, tìm những cử chỉ hợp thời để làm nổi bật mình, ta rất tinh để nhận ra điều đó. Lẽ nào ta lại không tinh tường đủ để nhận ra chính mình cũng mắc chứng tật đó khi tìm dịp để đặt mình lên bục cao sao?
Ta hãy nhớ lại chỉ trong một tuần lễ thôi, biết bao lần ta đã làm hết sức để cho người ta khen ta là dễ thương, quảng đại và hay giúp đỡ. Có lẽ những lần đó nhiều hơn ta tưởng.
Hãy để chính Thiên Chúa nhìn ta!
Thiên Chúa yêu thích những con người đơn sơ, khiêm tốn và kín đáo. Những kẻ thích làm ngôi sao nhỏ”, đối với Chúa thường chỉ là những người kiêu ngạo lớn. Khi ta thu xếp để người chung quanh ca ngợi ta, thì Thiên Chúa nhắm mắt lại. hoặc nhìn đi nơi khác.
Thiên Chúa chỉ đoái nhìn và xót thương những ai không tìm cách làm cho người ta nhìn mình.
Suy Niệm 5: Ý định và cách thức thể hiện
“Sống như kẻ công chính” có nghĩa, vào thời Chúa Giêsu, là trung thành với ba việc làm căn bản của đời sống tôn giáo: bố thí, kinh nguyện và chay tịnh. Một cách mặc nhiên Chúa Giêsu nói: các việc làm này quan trọng, và vì thế phải tránh đừng làm giảm giá chúng. Phải thực thi chúng không phải “trước mặt người ta”, nhưng trước mặt Thiên Chúa.
Một đàng con người có thể xác; vì vậy, thật là hợp lý khi thân xác được liên kết với cách thức diễn tả của đời sống thiêng liêng, tôn giáo. Điều này đưa đến những cử chỉ bên ngoài, có thể xem thấy được, thuộc về thể xác.
Người ta gọi là những việc làm. Đàng khác, thân xác là phương thế, là trung gian, là điểm tựa cho những tương quan xã hội. Những sinh hoạt thể xác, trông thấy được không thể là dửng dưng, nhưng được xem xét, lượng giá. Vì thế các việc làm tôn giáo là đối tượng của xem xét và lượng giá. Chúa Giêsu đề phòng chúng ta khỏi việc sử dụng những việc làm tôn giáo để lôi kéo sự xét đoán nịnh bợ và đánh giá khen ngợi của những kẻ trông thấy.
Phải làm gì? Hãy làm sao cho các việc làm này bớt tính cách thể xác, bớt dễ dàng cho người ta xem thấy tới mức tối đa. Vấn đề không phải là phát động một tôn giáo thoát xác và hoàn toàn bên trong. Bố thí, cử chỉ có tính cách vật chất; kinh nguyện đi đôi với thân xác; chay tịnh, kiêng cử thể xác. Tất cả những cái đó đều tốt và nên thực hành cách trung tín. Nhưng còn cách thức thực hiện: phải làm sao cho những việc làm có sự tham dự của thể xác và có thể thấy được, bớt tính cách phô trương. Phải làm cho chúng trở nên kín đáo tới mức tối đa, và hãy luôn ước muốn chỉ một mình Thiên Chúa xét đoán thôi. Tóm lại Chúa Giêsu muốn cho chúng ta hiểu điều này: đời sống tôn giáo là một việc làm giữa chúng ta và Thiên Chúa; vì thế điều hệ trọng là cái nhìn của Thiên Chúa trên ta, một cái nhìn thấu suốt được mọi bí nhiệm. Dùng những việc làm tôn giáo để được nhân loại tán dương thay vì muốn làm đẹp lòng Thiên Chúa, là sự giả hình ghê tởm nhất. Ngày nay chúng ta có thể thêm: khinh dể bố thí, kinh nguyện, chay tịnh mà Chúa Giêsu đã làm gương thi hành, và lớn tiếng tuyên bố cổ võ một Phúc Âm giải thoát nhưng rỗng tuếch nhựa sống, điều này cũng là một sự giả hình không kém.
Việc từ bỏ mình của tôi, mà Thiên Chúa biết có tỏa rạng niềm vui không?
Suy Niệm 6: Đừng cầu danh
Một thi sĩ người Anh, ngoài tài làm thơ ông còn có năng khiếu về âm nhạc. Thi sĩ thường cùng với nhóm thân hữu họp để ngâm thơ và hòa nhạc. Một đêm nọ, lúc đang trên đường tới dự một buổi hòa nhạc, thi sĩ đã gặp một chiếc xe ngựa đang bị sa lầy, trên xe hàng hóa chất đầy, tài xế thì già yếu và con ngựa lại gầy còm. Không chút ngần ngại, ông đã bỏ cây đàn sang một bên, dỡ số hàng hóa trên xe xuống, đẩy xe qua khỏi vũng lầy và chất hàng hóa lên xe trở lại. Ông còn tặng thêm cho bác tài xế ít tiền nhỏ để mua thức ăn cho con ngựa. Xong xuôi công việc thì trời đã về khuya và bộ đồ dạ hội đã vấy bùn. Tuy nhiên, ông vẫn đến nơi hẹn, lúc ông đến nơi thì buổi hòa nhạc đã gần tàn, một người bạn nói với ông: “Nhà thơ của chúng ta đã lỡ mất một buổi hòa nhạc tuyệt vời”. Thi sĩ vui vẻ mỉm cười và đáp: “Vâng! đúng thế. Tuy nhiên, bù lại tôi đã tấu được khúc nhạc khác tuyệt vời hơn nhiều”.
Mỗi công việc đều đem lại một kết quả, kết quả đem lại cho con người hài lòng thì nó là phần thưởng. Đối với nhóm bạn bè thân hữu của thi sĩ thì công việc của ông làm đã hạ thấp giá trị người nghệ sĩ, ông bỏ mất phần thưởng giá trị để lao mình vào chuyện không đâu. Riêng đối với nhà thơ thì khác, qua công việc bác ái vừa làm, ông đã tấu được những khúc nhạc tuyệt vời. Vậy đâu là giá trị, là phần thưởng của công việc. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã dạy cho chúng ta phương thế để tìm kiếm và chọn lựa.
Thật thế, bố thí, cầu nguyện và ăn chay là ba nét chính yếu trong đời sống đạo của người Do thái, vì chúng diễn tả đến ba mối tương quan của con người. Có thể gọi “bố thí” là sự liên hệ đối với người khác, “cầu nguyện” là trao đổi, trò chuyện cùng Thiên Chúa và “ăn chay” là công việc liên quan đến chính bản thân mình.
Trong đời sống đạo chẳng thể bỏ qua ba công việc này, chúng rất cần thiết, vì đó là hình thức diễn đạt của con người hữu hình. Một tinh thần chịu sự lệ thuộc của thân xác, hình thức bên ngoài để bộc lộ bên trong. Tuy nhiên, cũng vì hình thức bên ngoài mà việc làm lại mang những ý nghĩa khác nhau, vì có người lợi dụng chiếc vỏ hình thức này để che giấu hoặc phô bày những khuyết điểm, nghĩa là thái độ giả hình. Thái độ giả hình này đã bị Chúa Giêsu thẳng thắn kết án. Những hạng người giả hình này, họ cũng bố thí, ăn chay, cầu nguyện, nhưng tựu trung chỉ để phô diễn cái tôi của họ để rồi đánh mất giá trị đích thực của công việc. Giá trị ít khi đi chung đường, và chính giá trị này sẽ hủy diệt giá trị kia.
Giữa Thiên Chúa và thế gian đã có một cách biệt rõ ràng; nếu chỉ tìm kiếm những giá trị trần gian thì con người khó lòng vươn tới được giá trị ở trong Thiên Chúa: “Họ đã được thưởng công rồi”. Lời nói nhẹ nhàng của Chúa Giêsu cũng là một tuyên bố dứt khoát đối với những ai mải mê chạy theo các giá trị trần thế, và dù người ta có muốn quay về với giá trị đích thực thì giấc mộng phù du cũng đã cản lối quay về.
Bố thí là một lời yêu thương nghĩ đến người khác, nhưng nếu bố thí chỉ muốn làm thỏa mãn cái tôi của mình thì làm sao thấy được kẻ khác. Cầu nguyện hướng về Thiên Chúa, thế mà chỉ quy về bản thân thì làm sao còn chỗ cho Thiên Chúa, còn biết Ngài ở đâu để trò chuyện. Ăn chay là một đền bù cho những gì sai lỗi, khiếm khuyết. Ăn chay được diễn tả như một khao khát được Thiên Chúa lấp đầy, thế nhưng nếu con người đã no thỏa với chính mình thì họ đâu cần đến Thiên Chúa. Đã tìm thấy giá trị nơi bản thân mình nên con người đánh mất giá trị quý báu do công việc đem lại.
Bởi thế, lời dạy của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay luôn là lời hướng dẫn cho người Kitô hữu khi hành động, không chỉ trong các việc làm căn bản của đời sống đạo, mà cả đến mọi công việc làm trong đời sống hằng ngày của con người. Công việc chỉ có giá trị khi người Kitô hữu biết nhìn công việc bằng ánh mắt của Đức Kitô, biết phân tích theo những tiêu chuẩn thẩm định của Thiên Chúa. Có thể người đời cho là thấp kém hoặc không ai biết đến. Tuy nhiên, Thiên Chúa Đấng thấu suốt mọi điều, Ngài sẽ thưởng công cho cách tràn đầy.
Lạy Chúa, trước một công việc chúng con làm, xin Chúa sáng soi để chúng con có thể khám phá được đâu là giá trị thực và xin giúp sức để chúng con quyết tâm theo đuổi giá trị ấy. Vì thân xác chúng con thật yếu đuối, vẻ hào nhoáng bên ngoài vẫn luôn là miếng mồi quyến rũ kéo chúng con lạc đường lối của Chúa. Xin Chúa cho chúng con biết chấp nhận những tầm thường để đổi lấy những giá trị cao cả của Nước Trời. Amen.
Suy Niệm 7: KHIÊM NHƯỜNG THÌ MỚI CÓ ÍCH ( Mt 6, 1-6. 16-18)
Xem lại Thứ Tư lễ Tro.
Ngày nọ, có một người đến nói với cha xứ: “Con sẵn sàng dâng cúng tiền để mua một quả chuông cho Giáo xứ, nhưng với điều kiện, phải khắc tên con trên quả chuông ấy!”.
Đây là thực trạng của rất nhiều người biểu lộ niềm tin của mình cách thực dụng như thế!
Sẵn sàng giúp đỡ, nhưng không thể thành hiện thực khi không được nêu danh tánh và công trạng của mình cách công khai!
Hôm nay, Đức Giêsu lên tiếng khuyên răn các môn đệ của Ngài phải cẩn trọng trong việc thi hành đức bác ái, kẻo lỡ trở thành “công dã tràng” tức là tốn công vô ích. Ngài dạy cho các ông khi làm việc thiện, hãy làm vì lòng mến và tinh thần vô vị lợi. Không cần phô trương để người đời biết mà ca tụng. Nếu muốn được biểu dương thì hẳn đã được phần thưởng do người phàm tán tụng rồi, và như một quy luật: đã được người đời thưởng công thì không được Thiên Chúa chúc phúc nữa.
Vậy, cùng một việc bác ái, khi thi hành, chúng ta muốn được phần thưởng muôn đời do Thiên Chúa ban tặng hay chỉ muốn phần thưởng tạm bợ, nhất thời, mau qua chóng hết do con người trao tặng?
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cùng nhau làm một bài toán hầu tính ra sự hơn thiệt để mà tiến bước. Tuy nhiên, đáp án chỉ có khi chúng ta kết thúc cuộc sống trần thế này, và lúc ấy, phần thưởng được trao ban khi và chỉ khi chúng ta làm việc thiện với lòng tin, cậy trông và lòng mến.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con tinh thần của Chúa và giúp chúng con thi hành vì yêu mến Chúa và anh chị em, để mọi hành động, mọi việc làm của chúng con đều xuất phát từ tấm lòng khiêm cung và tràn đầy yêu thương. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 8: Làm việc đạo đức là làm vì Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Bố thí, cầu nguyện và ăn chay chỉ có giá trị trước mặt Chúa khi được thực hiện vì Chúa, chứ không vì người đời hay với dụng ý khoe khoang.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, lắng nghe Tin Mừng hôm nay, con thấy Chúa muốn dạy con rằng các việc đạo đức con làm là làm cho Chúa, là sống với Chúa và với mọi người trong sự chân thành yêu thương, mà không cầu lợi cho mình, không mong tìm sự đánh giá của người khác. Chúa muốn cảnh giác con, để con tránh khỏi hình thức đạo đức bên ngoài. Chúa không muốn con đến cùng Chúa với dụng ý tư lợi, không muốn con đối xử với kẻ khác bằng thái độ vị kỷ. Trong gia đình, thật là tệ nếu con cái yêu thương bố mẹ chỉ vì muốn cha mẹ mua cho chiếc xe, cái máy. Con cũng không thể đến với Chúa với thái độ như vậy.
Ẩn sau các việc đạo đức là một thái độ sống: sống trước mặt Chúa và cho Chúa như một người cha. Đó là cách để con tỏ bày lòng thảo hiếu yêu mến Chúa.
Lạy Chúa, xin Chúa cho con nhận ra điều đó để con sống tốt trước mặt Chúa. Chúa là Cha yêu thương con, đã ban cho con rất nhiều ơn mà con không nhận thấy được. Chúa ban ơn phúc cho con mà không mong tìm điều gì cho Chúa. Con ao ước cuộc sống của con là cách thức để nói lên tấm lòng của con đối với Chúa, dù khi con sống một mình hoặc con sống trước mặt kẻ khác.
Con muốn sống lương thiện không phải để được tiếng khen của người đời nhưng là để sống theo giáo huấn của Chúa. Con muốn cầu nguyện bởi vì đời sống con cần Chúa và phải gắn bó với Chúa. Con yêu thương tha nhân vì chúng con là con của Chúa. Xin tình yêu Chúa tinh luyện mọi hành vi và cuộc sống của con. Amen.
Ghi nhớ : “Cha ngươi Ðấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho ngươi”.
Suy Niệm 9: Làm vui lòng Cha trên trời
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Có một con chuột sống trong một ngôi nhà thờ cũ kỹ ở miền quê. Một hôm nó đi lang thang dạo mát bỗng gặp một con chuột khác cũng đang đi chơi. Nó liền được dịp tâm sự: “Tôi sống chui rúc dưới gầm một tòa giải tội. Nhưng chẳng được yên thân vì hầu như lúc nào cũng có người xưng tội, phá giấc ngủ của tôi”. Nghe thế, con chuột kia nói: “Vậy bạn hãy dọn đến chỗ ở của tôi. Chỗ ấy ấm áp sạch sẽ mà chẳng mấy khi có người quấy rầy, yên tĩnh lắm”. “Ô thế bạn ở đâu vậy ?”. “Tôi ở trong thùng tiền cứu giúp người nghèo” (Trích Món quà giáng sinh).
Suy niệm
Ba việc đạo đức tiêu biểu mà người Do Thái thường làm: bố thí, cầu nguyện và ăn chay. Người pharisiêu vụ lợi hình thức luôn làm những việc này trước mặt công chúng để người khác biết và khen họ đạo đức.
Chúa Giêsu cảnh báo những người làm việc đạo đức chỉ để khoe khoang và lấy tiếng khen của người đời, như thế thì vô ích trước mặt Ngài. Mọi hành vi đạo đức nhằm phần thưởng nhân loại trần thế, thì mất phần thưởng thần linh và vĩnh cửu.
Chúa dạy hãy làm việc bác ái và các việc đạo đức cách khiêm nhường và làm cách kín chỉ mong làm vui lòng Cha trên trời. Thiên Chúa thấu suốt mọi sự sẽ thưởng cho: “Cha con, Ðấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con”. Hơn nữa, việc đạo đức trên nền khiêm tốn và cách kín đáo xây dựng nên sự “công chính” theo Tin Mừng, có chiều sâu nội tâm của các ý hướng, quên mình và ưu tiên cho danh dự và quyền lợi của Thiên Chúa.
Xin Chúa dạy chúng ta tinh thần nhỏ bé và nhân hậu. Ðể mọi hành động, mọi việc làm của chúng ta luôn kín đáo, xuất phát từ tấm lòng chân thành khiêm cung vì Chúa và vì anh chị em. “… Và khi đã hoàn tất việc đời, lạy Thiên Chúa muôn loài, một mình, lặng lẽ, tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan” (R. Tagore, Đỗ Khánh Hoan dịch).
Ý lực sống:
‘‘ Mỗi người hãy cho theo như lòng đã định, không phải cách buồn rầu, hoặc miễn cưỡng: Thiên Chúa yêu thương kẻ cho cách vui lòng” (2Cr 9,7).
Suy Niệm 10: Hãy trung thực, đừng giả hình (Mt 6,1-6.16-18)
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Trong số các việc đạo đức, người Do thái coi trọng 3 việc là bố thí, cầu nguyện và ăn chay. Chúa dạy chúng ta cách thức làm ba việc lành ấy cho tốt, để đáng được Chúa thưởng công.
Điều cốt yếu là khi làm ba việc lành đó, chúng ta tránh phô trương ra bên ngoài, mỗi khi làm được việc gì lành, điều gì tốt, chúng ta luôn luôn muốn cho mọi người biết. Còn khi làm việc gì không tốt thì chúng ta muốn giấu kín. Chúng ta phải làm việc lành với lòng khiêm tốn, âm thầm, kín đáo, vì lòng mến Chúa yêu người thực sự, để làm đẹp lòng Chúa, làm sáng danh Chúa, để Chúa là Đấng thấu suốt mọi bí ẩn sẽ thưởng công chúng ta.
Tin mừng hôm nay ghi lại những lời dạy của Chúa Giêsu về tinh thần tu đức cần phải có, với nguyên tắc sống đạo: đừng làm việc lành có ý phô trương cho người ta thấy. Theo luật Maisen, bố thí, cầu nguyện, ăn chay là những việc lành cao quí, và người ta thường tổ chức các việc đạo đức đó cách công khai để thúc đẩy nhiều người tham gia. Chúa Giêsu không phản đối các việc đó, nhưng Ngài chỉ muốn người ta thực hiện chúng với ý hướng mới, đó là làm vì lòng yêu mến và tìm đẹp lòng Chúa hơn là để được người ta khen ngợi. Chẳng vậy, các việc đạo đức ấy có thể chỉ có hình thức, đấy là chưa nói đến trường hợp có nhiều người làm bộ cầu nguyện lâu giờ, ăn chay nhiều ngày, bố thí rộng rãi để dễ lừa gạt người khác (Mỗi ngày một tin vui).
Nhưng lời Chúa dạy hôm nay sao mà gắt gao quá, phải không bạn ? Khi làm việc lành phúc đức tôi đã hy sinh cái lợi, cái thú rồi thì ít ra tôi cũng được phép kiếm chút danh chứ ? Câu trả lời của Chúa là KHÔNG! Chúa nói rõ: làm việc đạo đức mà cầu danh thì đấy là đạo đức giả. Điều Chúa muốn, đó là chúng ta thực thi ý Ngài với ý thức rằng:”Chúng tôi chỉ là những tôi tớ vô dụng, chúng tôi chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (x. Lc 17,10). Các sách Tin mừng cho thấy Chúa Giêsu đã gặp gỡ, tiếp xúc với rất nhiều loại người, nhưng gặp rắc rối là với những kẻ đạo đức giả, chứ không phải với những người tội lỗi thật (5 phút Lời Chúa).
Trước đây Chúa Giêsu trình bày sự công chính mới trong lãnh vực các điều răn, nay Ngài đề cập tới nền đạo đức mới: phải thực thi những việc đạo đức thế nào phải phù hợp với tinh thần của Chúa Kitô. Những lời khuyên bảo của Chúa Giêsu về những việc đạo đức được bao gồm ba chiều kích:
- Đối với tha nhân: bố thí.
- Đối với Thiên Chúa: cầu nguyện.
- Đối với bản thân: chay tịnh.
Ba chiều kích này tiêu biểu cho cả cuộc sống. Điều cốt yếu trong cả ba trường hợp vẫn là sống thật, sống trước mặt Thiên Chúa với ý hướng ngay thẳng và thi hành ý Chúa.
Bố thí, cầu nguyện, ăn chay là ba nét chính yếu trong đời sống đạo của người Do thái. Việc làm thì tốt, nhưng vì hình thức bên ngoài mà việc làm mang ý nghĩa khác, bởi vì có người bố thí, cầu nguyện, ăn chay chỉ là để phô diễn cái tôi của họ để rồi đánh mất đi giá trị đích thực của công việc.
- Bố thí là lời yêu thương gửi đến người khác, nhưng nếu chỉ để mình được thấy thì làm sao thấy được kẻ khác;
- Cầu nguyện là hướng về Thiên Chúa, nhưng nếu chỉ qui về mình thì làm sao còn có chỗ cho Thiên Chúa;
- Ăn chay là một đền bù cho những lỗi lầm, và diễn tả khao khát được Thiên Chúa lấp đầy, nhưng nếu con người đã no thoả trong chính mình thì làm sao họ còn cần đến Thiên Chúa.
Giữa Thiên Chúa và thế gian đã có một cách biệt rõ ràng: nếu đã tìm giá trị trần gian, con người khó lòng vươn tới được giá trị đích thực. “Họ đã được thưởng công rồi”: đó là lời tuyên bố dứt khoát đối với những ai chỉ mải miết chạy theo những giá trị trần thế.
Lời Chúa hôm nay là một hướng dẫn cho người Kitô hữu không những trong các việc làm căn bản của đời sống đạo, mà cả những công việc trong đời sống hằng ngày nữa. Công việc chỉ có giá trị khi người Kitô hữu biết nhìn công việc bằng ánh mắt của Đức Kitô và biết phân tích theo những tiêu chuẩn thẩm định của Thiên Chúa. Đó có thể là công việc mà người đời cho là tầm thường hoặc không được ai biết đến, nhưng Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi sự sẽ thưởng công cho.
Truyện: Đừng phô trương
Có một linh sư Ấn độ nổi tiếng là bậc thánh thiện. Ông đã mở được một trung tâm cầu nguyện và qui tụ được khá nhiều đệ tử. Ngày nọ có một người tìm thầy học đạo. Để thử đức vâng lời của anh, ông bảo anh phải bơi qua một dòng sông đầy cá sấu. Không chút ngần ngại, người thanh niên nhảy xuống và bơi qua sông mà không bị nguy hiểm gì cả. Anh vui mừng hô to: “Tung hô quyền năng kỳ diệu của Thầy tôi”. Sự kiện này làm cho vị linh sư tin rằng mình là một người thánh thiện. Do đó ông muốn chứng minh cho các đệ tử thấy quyền năng của mình. Ông tập họp tất cả các đệ tử trên bờ sông. Rồi ông hô lớn “Tung hô quyền năng của ta” và nhảy xuống sông. Thế nhưng vừa khi ông rơi xuống, đàn cá sấu đã ào tới cắn xé ông ra từng mảnh.
Dụ ngôn trên có thể là một định nghĩa về sự thánh thiện. Thánh thiện là sự quên mình, quên mình đến độ không còn ý thức về sự thánh thiện của mình và sử dụng chính sự thánh thiện của mình nữa. Thiên Chúa ban sự thánh thiện cho một người nào đó là để những kẻ khác được hưởng nhờ. Bao lâu sự thánh thiện của người đó còn được người khác hưởng dùng thì bấy lâu người đó còn thánh thiện. Trái lại, kể từ giây phút người đó muốn giữ riêng sự thánh thiện cho mình, thì người đó mất sự thánh thiện và đánh mất cả chính mình (Chờ đợi Chúa).
15/06 Yêu thương kẻ thù, để nên trọn lành
- Viết bởi Mt. 5, 43-48
Yêu thương kẻ thù, để nên trọn lành.
Thứ Ba tuần 11 thường niên.
"Các ngươi hãy yêu thương thù địch".
Lời Chúa: Mt. 5, 43-48
Khi ấy, Chúa phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đã nghe dạy: "Ngươi hãy yêu thân nhân, và hãy thù ghét địch thù". Còn Ta, Ta bảo các con: Hãy yêu thương thù địch và làm ơn cho những kẻ ghét các con, hãy cầu nguyện cho những ai bắt bớ và nguyền rủa các con: để như vậy các con nên con cái Cha các con, Đấng ngự trên trời: Người khiến mặt trời mọc lên cho người lành kẻ dữ, và cho mưa xuống trên người liêm khiết và kẻ bất lương.
Vì nếu các con yêu thương những ai mến trọng các con, thì các con được công phúc gì? Các người thu thuế không làm thế ư? Nếu các con chỉ chào hỏi anh em các con thôi, thì các con đâu có làm chi hơn? Những người ngoại giáo không làm như thế ư?
Vậy các con hãy nên hoàn hảo như Cha các con trên trời là Đấng hoàn hảo".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Như Cha trên trời
(Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)
Bí tích Thánh Tẩy làm chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa.
Nhưng bí tích Thánh Tẩy không phải chỉ là bí tích để lãnh nhận,
mà còn là bí tích để sống.
Trở nên con cái Thiên Chúa là tiến trình dài một đời người.
Kitô hữu trở nên con Cha trên trời nhờ bí tích Thánh Tẩy,
và cũng nhờ cố gắng liên tục sống như Cha của mình.
Thiếu cố gắng này, người ta chỉ còn là Kitô hữu có tên trong sổ Rửa tội.
Bài Tin Mừng hôm nay thật là đỉnh cao của Kitô giáo.
Đức Giêsu dạy ta nẻo đường để trở nên con cái Cha trên trời (c. 45).
Đó là: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em”.
Cựu Ước dạy ta yêu người thân cận (Lv 19, 18).
Còn Đức Giêsu dạy ta yêu kẻ thù và cầu nguyện cho họ (c. 44).
Yêu ở đây không phải là chuyện của cảm xúc hay thích thú.
Dĩ nhiên chúng ta không thể yêu kẻ thù tha thiết như yêu cha mẹ mình được.
Yêu ở đây là chuyện của ý chí và hành động.
Chúng ta yêu kẻ thù, vì kẻ thù cũng là thụ tạo của Cha như ta.
Dù kẻ thù của ta có là kẻ xấu xa và bất chính, nhưng họ vẫn được Cha trên trời dấu yêu.
Ngài cho mặt trời mọc lên mỗi sáng để nắng ấm đem lại sự sống cho họ.
Ngài cho mưa rơi xuống luống cày của họ để họ có của nuôi thân (c. 45).
Thiên Chúa không dành nắng hay mưa cho riêng người tử tế đạo đức.
Ngài bao dung và rộng rãi khi đối xử với mọi người.
Trở nên con cái Cha là mang những tâm tình sâu kín ấy của trái tim Cha.
Khi trái tim ta giống trái tim Cha,
ta sẽ nhìn kẻ thù bằng cặp mắt mới,
sẽ cư xử với họ theo cung cách mới.
Lúc đó họ sẽ chẳng còn là kẻ thù nữa, mà là bạn.
Đức Giêsu mời gọi các môn đệ của mình bước lên,
lên cao hơn cái tự nhiên, bình thường của người đời.
Dù là kẻ xấu, người thu thuế vẫn yêu kẻ yêu thương ông ta.
Người dân ngoại chưa biết Chúa vẫn chào hỏi anh em của họ (c. 46).
Điều mà Đức Giêsu đòi các Kitô hữu phải làm hơn người khác,
đó là yêu kẻ thù ghét mình, cầu nguyện cho kẻ làm khổ mình,
và chào những kẻ chẳng bao giờ chào hỏi mình.
Làm thế là vượt lên trên tình cảm tự nhiên đang kéo trì mình xuống,
là giải thoát mình khỏi sức nặng của cái tôi nhỏ mọn, tự ái, kiêu căng.
Làm thế là bắt đầu đi vào trong nơi sâu nhất của trái tim Thiên Chúa.
“Hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời” (c. 48).
Lý tưởng này thật là cao xa, sức người không vươn tới được.
Nhưng nếu ta tập quen yêu kẻ thù chung quanh ta,
- mà ai trong chúng ta lại không có kẻ thù -
thì chúng ta dần dần sẽ trở nên hoàn thiện.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi, khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu,
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu,
để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
Suy Niệm 2: Yêu kẻ thù
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Yêu kẻ thù. Ai cũng bảo là không thể. Đó là vì ta theo thói quen. Để đối tượng qui định tình cảm. Gặp người tốt thì ta quý. Gặp người dễ thương thì ta thương. Người làm ơn cho ta thì ta biết ơn và quý trọng. Gặp người xấu thì ta tránh xa. Gặp người khó thương thì ta chối từ. Đó chẳng có gì lạ. Nhưng đó là để cho đối tượng qui định tình cảm của mình. Ta đâu có chủ động. Vì ta không có nền tảng. Phải có nền tảng tình yêu ở nơi Chúa. Phải có tình yêu từ trong trái tim mình. Khi đó ta sẽ yêu bất chấp ngoại cảnh thế nào. Vẫn yêu bất chấp người đối diện là thế nào. Vẫn yêu bất chấp người khác có làm gì cho ta, dù tốt, dù xấu. Như thế yêu kẻ thù là có thể. Ta không yêu để đáp lại kẻ thù. Nhưng ta yêu vì tình yêu đầy trong trái tim ta. Đó chính là tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Tình Yêu. Trong Người chỉ có yêu thương. Như mặt trời. Như cơn mưa. Không phân biệt.
Chính vì thế Chúa luôn tha thứ. Luôn chạnh lòng thương. A-kháp phạm tội tầy đình. Nhưng khi nghe Chúa tuyên án, ông khóc lóc ăn năn. Chúa liền tha thứ. “Khi nghe những lời ấy, vua A-kháp xé áo mỉnha, khoác áo vải bố bám sát vào thịt, ăn chay, nằm ngủ với bao bì và bước đi thiểu não. Bấy giờ có lời Đức Chúa phán với ông Ê-li-a, người Tít-be rằng: “Ngươi có thấy A-kháp đã hạ mình trước mặt Ta thế nào không?...nên Ta sẽ không giáng hoạ trong buổi sinh thời của nó”. Quả thật là tình yêu nguyên tuyền. Chỉ có yêu thương (năm chẵn).
Thánh Phao-lô khen ngợi tín hữu Ma-kê-đô-ni-a. Vì họ đã có tình yêu của Chúa. Trong mọi gian nan thử thách họ vẫn vui tươi. Vì họ có Chúa ở cùng. “Trải qua bao nỗi gian truân, họ vẫn được chan chứa niềm vui; giữa cảnh khó nghèo cùng cực, họ lại trở nên những người giàu lòng quảng đại. Họ đã tự nguyện theo sức họ, và tôi xin làm chứng là quá sức họ nữa; họ khẩn khoản nài xin chúng tôi cho họ được phúc tham dự vào việc phục vụ các người trong dân thánh”. Yêu thương. Quảng đại. Họ đã nên hoàn thiện như Cha trên trời.
Thánh Phao-lô dùng tấm gương đó mà khích lệ tín hữu Cô-rin-tô. Và cả chúng ta nữa. Hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời. Có Chúa trong ta sẽ có tình yêu trong ta. Có tình yêu ta sẽ tràn đầy niềm vui. Và tình yêu sẽ lan toả đến khắp mọi người. Kể cả kẻ thù. Vì bấy giờ tim ta không có gì khác ngoài tình yêu. Nó không còn bị qui định bởi đối tượng bên ngoài. Chỉ biết toả lan tình yêu. Như Chúa Giê-su “Chúa chúng ta,…Người vốn giầu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có” (năm lẻ).
Suy Niệm 3: Yêu thương kẻ thù
Sau hơn 50 ngày bị bắt làm con tin và bị sút gần 20 ký vì sống trong thiếu thốn vật chất cũng như tinh thần, một nhà truyền giáo nọ đã bình tĩnh trả lời câu hỏi của các phóng viên về những gì mình đang suy tính trong lòng: "Tôi vẫn yêu mến đất nước và dân tộc đó, như ngày tôi mới đến truyền giáo cách đây 40 năm. Tôi đã tha thứ cho những kẻ bắt giữ và hành hạ tôi. Tôi muốn nói với họ rằng tôi không có gì thù ghét họ, nhưng vẫn yêu thương và sẵn sàng trở lại đó làm việc mục vụ".
Những lời dạy của Chúa Giêsu mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, cũng không mập mờ, không nhượng bộ hay chiều theo khuynh hướng tự nhiên của con người muốn giới hạn tình yêu của mình đối với tha nhân.
"Hãy yêu mến anh em mình", mệnh lệnh này được ghi rõ trong sách Lêvi 19,18. Những "anh em" được nhắc đến ở đây chỉ những kẻ thân thuộc, đồng hương, thuộc về dân riêng của Chúa. Còn câu: "Hãy ghét kẻ thù địch" thì chúng ta không gặp thấy công thức nào tương tự như vậy trong Kinh Thánh. Những lời này có thể hiểu như một diễn tả tự nhiên của tâm lý thường tình nơi con người, một hậu quả của tình yêu thương có giới hạn trong khung cảnh những kẻ thân thuộc, những người thuộc về cùng một dân tộc, một xã hội. Theo tâm thức hạn hẹp của Cựu Ước, bất cứ ai không thuộc về Dân Chúa chọn, thì người đó là kẻ xa lạn, là kẻ thù địch, không được yêu thương.
Chúa Giêsu đã đến để mạc khải sứ điệp trọn hảo hơn, bẻ gẫy những giới hạn tự nhiên: "Còn Thầy, Thầy bảo các con: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con". Chúng ta chú ý đến hai chi tiết trong lời dạy của Chúa Giêsu: thứ nhất: không còn ai bị loại ra khỏi tình yêu thương của người môn đệ Chúa và sự phân chia con người ra làm hai loại: thân thuộc và thù địch không còn nữa. Thứ hai: Tình yêu thương đó được thể hiện bằng những hành động cụ thể, và quan trọng nhất, đó là thi ân và cầu nguyện cho những kẻ không tự nhiên được chúng ta yêu thương, và đây không còn là tình yêu thương theo tình cảm, mà là tình yêu thương thực sự hướng đến lợi ích của người khác.
Nhưng tại sao phải yêu thương như vậy? Bởi vì chính chúng ta là con cái của Thiên Chúa và do đó phải noi gương trọn lành của Ngài, Ðấng cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người lành.
Xin Chúa đổ tràn trên chúng ta tình thương của Chúa, để chúng ta được giải thoát khỏi tình yêu hạn hẹp, có tính toán, mà quảng đại yêu thương tất cả mọi người, ngay cả kẻ chống đối và có ác cảm với chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Tha thứ, được! Yêu thương, không!
“Anh em đã nghe luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo thật anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.” (Mt. 5, 43-44)
Yêu như Chúa Cha yêu thương
Yêu thương kẻ thù của ta. Yêu thương những ai làm ta thất vọng, làm tổn thương, phản bội và bầm dập ta. Yêu thương những ai không còn yêu ta nữa. Yêu thương những kẻ đã làm hư hỏng đời ta. Yêu như thế đó. Và đúng là Chúa đòi hỏi ta nhiều lắm. Chúng ta sẽ dám nói là quá nhiều nữa.
Không phải chúng ta chống lại việc yêu kẻ thù. Ta còn cảm thấy rõ rằng nếu có thể yêu tới mức đó mới thật là đẹp. Hãy yêu thương như Chúa Giêsu và Cha Người yêu thương chúng ta. Yêu thương đối lại với tất cả. Yêu thương bất chấp tất cả. Được như vậy, quả là tuyệt vời. Nhưng có thể được không? Có vừa sức ta không? Ta có thể đi tới đó được không?
Ta có thể cố gắng tha thứ cho kẻ đã làm khổ ta, có thể không tìm ác để trả ác. Nhưng yêu thù địch của ta, lại là một chuyện. Nếu Thiên Chúa có thế làm được điều này, thì ta có thể làm được không?
Tha thứ, chính là yêu thương nhiều
Khi tự thâm tâm, ta nói với người đã nhẫntâm làm khổ ta rằng: “Tôi tha thứ cho nó. Tôi sẽ cố gắng quên đi phần nào”; và ngay cả khi có nói thêm rằng: “Nhưng yêu hắn nữa, thì tôi không có thể!” … ấy là lúc ta đang đặt chân trên đường lành rồi. Chúng ta đã hành động như Thiên Chúa ước mong, bởi vì thực lòng tha thứ, chính là đã tỏ ra yêu thương nhiều.
Có những tình yêu sẽ không bao giờ tái sinh. Có những con người đã gần gũi với ta ngày nào và rồi có thể không gần cận nữa. Đó chính là những cảnh nghiệt ngã của cuộc sống mà thường thường ta không thể cưỡng lại được. Thế nên mỗi khi ta trục xuất hận thù ra khỏi lòng ta, mỗi khi ta không mong ước điều xấu cho người đã làm ta tan nát, mỗi khi ta muốn thành tâm cầu nguyện cho họ, là ta đang có đôi nét giống Cha. Và Cha vui thích nhìn ta khi không khép kín cửa lòng như vậy.
Suy Niệm 5: Yêu là một sự tham dự
Nhiều đoạn trong bài giảng Trên Núi làm chúng ta ngạc nhiên về lối diễn tả nghịch lý, và đặc biệt đoạn này: Hãy yêu thương thù địch và làm ơn cho những kẻ làm khổ ngươi. Đây là điều gây vấp phạm nặng cho những khuynh hướng tự nhiên của chúng ta. Nhưng đâu là ý nghĩa đích thực của những lời này? Thật khó mà xác định ý nghĩa cách mạnh mẽ, và nhất là phải tránh làm giảm giá chúng với ý định làm cho chúng trở nên dễ chấp nhận hơn. Tuy nhiên chúng ta có thể đưa ra một vài suy tư sau đây:
Danh từ ‘thù địch’ thời Chúa Giêsu có nghĩa trước nhất là đối thủ và kẻ bắt bớ dân thánh. Cũng có thể là kẻ xa lạ với dân được lựa chọn. Chính trong nghĩa này mà dư luận Do thái thời bấy giờ áp dụng cho từ ngữ Chúa Giêsu nhắc đến: Hãy ghét thù địch. Hơn nữa, cần nhớ là chữ “ghét” không phải luôn luôn có nghĩa mạnh như chúng ta thường hiểu. “Ghét” có thể là: từ chối mọi liên lạc, ruồng bỏ, xa lánh. Chẳng hạn các tư tế và Lêvi thành Giêrusalem xem những người xứ Samaria là “thù địch”; điều này cắt nghĩa thái độ của thầy tư tế và Lêvi trong dụ ngôn đã bỏ rơi người xứ Samaria với số phận của họ.
Trên bình diện thứ nhất này Chúa Giêsu phán, và Ngài phán điều đó với Giáo Hội của Ngài hôm nay: hãy yêu thương thù địch, kẻ bách hại và cầu nguyện cho họ, vì Cha trên trời cũng muốn họ được rỗi.
Trên bình diện thực tế hơn, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta vượt mọi hiềm khích. Người Kitô hữu không những phải tránh mọi tình cảm ghen ghét và thù hằn, mà còn phải mong muốn biến cải kẻ thù mình thành bạn hữu. Nếu thực tế đôi khi rất khó thực hiện, thì ít là bên trong tâm hồn mình điều đó phải được thực hiện. Nghị lực con người sẽ không đủ. Người Kitô hữu thành công được là người múc lấy sức mạnh trong tình yêu và gương sáng của Chúa Kitô.
Phải nhớ rằng hiềm khích không hẳn là một sự kiện như những sự kiện khác. Hậu quả trực tiếp của nó là Thập Giá Chúa Kitô, Thập Giá mà chúng ta tham dự vào. Cách thức chúng ta vượt thắng hiềm khích tùy thuộc cách thức chúng ta tham dự vào Thập Giá Chúa Kitô. Nếu chúng ta chấp nhận điều đó, chúng ta sẽ yêu thương thù địch vì, với Đức Kitô trên Thập Giá, chúng ta hoạt động cho sự cứu rỗi của họ.
Tôi đã dùng sự đau khổ của tôi cho kẻ nào làm khổ tôi chưa?
Suy Niệm 6: Các con hãy nên trọn lành
Nữ tu Antoinette vẫn thường nhắc đến bệnh nhân già khó tính nhất trong bệnh viện, gặp ai ông cũng nhăn nhó nạt nộ. Có chuyện gì khó chịu một chút là ông la lớn, rùm beng lên. Ngày kia, đang lúc mải mê phục vụ các bệnh nhân, nữ tu Antoinette đã nghe thấy tiếng bệnh nhân già đó hét lên: “Đem cho tôi quả trứng”. Nữ tu Antoinette vui vẻ đem đến, nhưng bệnh nhân già lại nhăn nhó: “Trứng chưa chín đủ mà lại mang cho tôi ăn à?”, và nữ tu Antoinette vui vẻ mang trứng đi luộc lại. Nhưng rồi bệnh nhân lại kiếm lý do khác để gây phiền hà đến nữ tu: “Luộc trứng chín quá, tôi không ăn nổi đâu. Tôi muốn trứng khác”.
Nữ tu Antoinette không biết làm sao, chị bèn có sáng kiến chế một lò nấu nhỏ kê ở bên giường ông, và trao cho ông một quả trứng để chính ông có thể nấu lấy theo sở thích của ông. Người bệnh nhân thấy thế lại nổi giận hơn nữa. Ông đạp đổ bếp, quẳng trứng xuống sàn nhà và quát lớn: “Tôi là bệnh nhân mà đi luộc trứng à!”. Nữ tu Antoinette chẳng nói nửa lời, chỉ biết thinh lặng cúi xuống thu sạch và quét dọn. Lát sau, nữ tu đem đến cho bệnh nhân khó tính ấy một quả trứng khác và nhẹ nhàng nói với bệnh nhân: “Ông hãy dùng thử quả trứng này, tôi luộc vừa chín mà thôi”. Thái độ của nữ tu Antoinette đã làm cho bệnh nhân cảm động và lập bập nói: “Cám ơn nữ tu. Tôi ăn trứng này và cũng ăn cả lòng tốt của nữ tu nữa. Xin nữ tu tha thứ cho tôi”.
Tình thương bác ái phải được trải dài trong mọi giây phút, mọi hành động của cuộc sống. Tình thương đó luôn bị thử thách bởi những thái độ nghi kỵ, đối nghịch, khắt khe, khó tính, thiếu cảm thông của những người sống xung quanh ta. Khi phải đối diện với những người không thích mình, không hòa hợp, thông cảm với mình; thay vì đối đầu trả đũa thì ta hãy tự vấn mình xem có phải vì những tật xấu, những khuyết điểm của mình đã khơi dậy thái độ đối nghịch hay không? Có thể đôi khi chúng ta là thủ phạm đã gây nên những sự chống đối với người khác mà chúng ta lại không hay biết. Cách sống, cách suy tư, cách hành động của ta không phù hợp với những cách thức của anh em, hay cả những xúc phạm đến những anh em chung quanh mà chính mình không hay biết. Chính vì thế mà ta cần phải kiểm điểm lại đời sống của mình luôn, để đừng khơi dậy những ngăn cách với người khác.
Nhưng, cũng có những trường hợp ta bị đối xử oan ức, bị ghét bỏ cách bất công vì niềm tin của mình vào Chúa. Lúc đó chúng ta không còn gì khác đáp lại hơn là cầu nguyện xin Chúa thêm sức mạnh, để ta có thể tha thứ và yêu thương họ đến cùng như Chúa muốn. Và chúng ta cũng đừng bỏ cuộc, không rút lại điều tốt ta đang thực hiện như nữ tu Antoinette trong câu chuyện kể trên: “Phúc cho kẻ bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ”. Tình yêu thương kiên trì của ta chắc chắn sẽ không trở thành vô ích, nhưng sẽ cảm hóa được người làm phiền lòng ta vào lúc chỉ có Chúa biết mà thôi. Phần ta, ta chỉ cần biết một điều là: “Hãy yêu thương cho đến cùng”.
Tác giả tập sách “Đường Hy Vọng” đã chia sẻ như sau: “Bác ái là tu đức liên lỉ. Tu miệng lưỡi, tu quả tim, tu lỗ tai, tu con mắt, tu lá gan, tu bộ óc. Tất cả con người con vùng vẫy, nhưng con phải yêu thương như Chúa Giêsu”. Hãy lấy một tờ giấy và bình tĩnh viết trên đó đức tính của người con bất bình, con sẽ thấy họ không hoàn toàn xấu như con nghĩ từ đầu: “Tôi không muốn biết, không muốn nhớ quá khứ của anh em tôi. Tôi chỉ muốn biết hiện tại của anh em để thương nhau, giúp đỡ nhau và biết tương lai để tin nhau, để khuyến khích nhau”.
Sống bổn phận hiện tại không phải là thụ động, nhưng là liên lỉ canh tân, quyết định chọn Chúa hay chối từ, và tìm Nước Chúa là tin tưởng ở tình yêu vô bờ bến của Ngài, là hành động với tất cả hăng say. Đó là việc làm thể hiện đức mến Chúa và yêu người ngay trong giây phút hiện tại. Đó là những lời khuyến khích đầy kinh nghiệm giúp mỗi người chúng ta sống sứ điệp Phúc Âm của Chúa xác thực hơn, hiệu quả hơn.
Đặc biệt Lời Chúa hôm nay nhắc nhở cho mỗi người chúng ta rằng: “Con hãy yêu thương kẻ thù nghịch và làm ơn cho kẻ ghét con. Hãy cầu nguyện cho tất cả những ai bắt bớ và nguyền rủa con, để các con trở nên giống Cha, Đấng ngự trên trời. Ngài làm ơn cho người lành, kẻ dữ và cho mưa xuống trên người liêm khiết và kẻ bất lương. Các con hãy nên hoàn thiện như Cha các con trên trời là Đấng hoàn hảo”.
Mỗi người Kitô hữu phải như tấm kính phản chiếu sự trọn lành tình yêu của Thiên Chúa Cha. Noi theo mẫu gương của Chúa Giêsu Kitô, mỗi ngày cuộc sống của chúng ta phải chiếu sáng hơn để anh chị em xung quanh có thể nhìn thấy mà ngợi khen tình thương Thiên Chúa trên trời.
Lạy Chúa, trên Thập Giá Chúa đã nêu gương tha thứ cho những kẻ giết Chúa. Xin thương củng cố tình thương của Chúa trong tim con, để con mỗi ngày được tiến thêm và kiên trì đi trên con đường yêu thương của Chúa cho đến cùng. Amen.
Suy Niệm 7: HÃY YÊU KẺ THÙ ( Mt 5, 43-48)
Xem lại CN 7 TN A.
“Yêu mến anh em, là sống chu toàn giới luật. Yêu mến người lành và yêu thương kẻ gian ác. Chính do tình yêu mà chúng ta được cứu độ, thành con Chúa Trời và thành bạn hữu Chúa Kitô”. Đây là lời bài hát mà có lẽ ai cũng thuộc vì nó được lặp lại nhiều lần trong Mùa Chay.
Đây cũng chính là lệnh truyền của Đức Giêsu cho các môn đệ, đồng thời cũng là lời mời gọi cho những ai đang bước theo Đức Giêsu trên lộ trình cứu độ.
Thật vậy, cốt lõi Đạo Công Giáo của chúng ta là tình yêu thương. Tại sao vậy? Thưa vì Đạo chúng ta bắt nguồn từ Thiên Chúa, mà bản chất của Thiên Chúa là Tình Yêu. Vì thế: "Người làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, làm cho mưa xuống trên kẻ lành cũng như người bất lương...".
“Yêu thương kẻ thù" là một nghĩa cử anh hùng, một nỗ lực vượt thắng tình cảm tự nhiên, vượt trên phản ứng thường tình của con người. "Yêu thương kẻ thù" là bước vào thế giới siêu nhiên của con cái Chúa, sống nhân hậu và hoàn thiện như Cha trên trời.
Khi dạy "hãy yêu kẻ thù", Đức Giêsu không có ý cổ võ sự nhu nhược, nhát đảm, nhưng là đề nêu cao tinh thần khoan dung, hiền từ, quảng đại, tha thứ.
"Hãy yêu kẻ thù", đó là lệnh truyền khó thi hành nhất trong các lệnh truyền của Đức Giêsu. Tuy nhiên, chính Ngài đã nêu gương khi sẵn sàng tha thứ cho kẻ hại mình và cầu xin Chúa Cha tha cho họ. Ý tưởng ấy rất cao và rất khó nhưng nó tạo nên ý nghĩa.
Như vậy, Đức Giêsu mở ra con đường mới cho nhân loại. Con đường lấy thiện thắng ác, lấy tình yêu vượt thắng hận thù. Chỉ có yêu thương mới làm cho thù hận tiêu tan.
Là những Kitô hữu, chúng ta được mời gọi đứng về phía bất bạo động. Tuy nhiên đó không phải là một chọn lựa cho sự nhu nhược hay thụ động leo thang, nhưng chọn lựa bất bạo động có nghĩa là tin tưởng mạnh mẽ vào sức mạnh của chân lý, của công bằng và tình yêu hơn là sức mạnh của chiến tranh, vũ khí và hận thù… Chúng ta phải cố gắng dùng điều tốt nhất để đáp lại điều xấu nhất.
Hãy nhớ rằng: “Viên đạn căm thù chỉ có thể làm thương tổn kẻ thù sau khi đã xuyên qua thân xác chúng ta trước”. Khi nuôi trong mình sự trả thù thì đồng nghĩa với việc ta đào thêm một cái hố nữa để chôn chính ta. Người Hy Lạp cổ thường ví von như sau: “Người khôn ngoan thà chịu đựng sự ác hơn là làm điều ác”.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu rằng đây là con đường nằm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, và chỉ khi nào chúng con đạt được điều đó, ấy là lúc chúng con trở thành môn đệ đích thực của Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 8: Môn đệ Chúa yêu thương kẻ thù
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Là người môn đệ Chúa Giêsu, ta yêu thương cả kẻ thù, vì ta phải bắt chước lòng quảng đại của Cha trên trời và phải có lòng yêu thương hơn những người khác.
Cầu nguyện: Lạy Cha, Cha là tình yêu. Con cảm tạ Cha đã yêu thương con. Nhiều lúc con đã phạm tội chống lại Cha, tự đặt mình làm kẻ thù của Cha. Nhưng dù vậy, Cha cũng vẫn một lòng yêu thương con, tha thứ cho con, vẫn hằng tiếp tục ban phát muôn vàn hồng ân xuống trên con. Cả những người chưa hề biết Cha, cả bao nhiêu người cố tình chối bỏ Cha, cả muôn vàn người tội lỗi bất chính, Cha vẫn yêu thương họ, vẫn cho mặt trời soi sáng và cho mưa xuống trên họ.
Tình yêu của Cha luôn đi bước trước, luôn quên mình, luôn quảng đại. Chúa Giêsu cũng yêu thương với một tình yêu như vậy. Người tha thứ cho kẻ giết mình, Người cầu nguyện cho kẻ ngược đãi mình, Người yêu thương kẻ giết mình.
Lạy Cha, Cha đã thông chia tình yêu ấy cho con. Xin dạy con biết quên mình để yêu thương cả kẻ thù, biết cầu nguyện cho kẻ làm hại con, biết quảng đại với kẻ ích kỷ với con, biết làm ơn cho kẻ chơi xấu con, biết vui vẻ với những kẻ mắng chửi hoặc dửng dưng với con, biết nói tốt cho kẻ nói xấu con.
Xin cho con biết sống trong tình yêu, để con sống trong hạnh phúc. Những lúc con để bụng để dạ giữ lòng hận thù, con cũng chẳng sung sướng gì, mà chính là con tự đày đọa mình. Ích kỷ phát sinh ích kỷ, hận thù lôi kéo hận thù, gian ác sinh ra gian ác. Hận thù như loài vi khuẩn sinh sản thật nhiều, ăn sâu vào lòng mỗi người chúng con và phá hoại hạnh phúc chúng con.
Lạy Cha, xin cho chúng con biết sống xứng đáng là con cái của Cha, xứng đáng với danh hiệu làm môn đệ Chúa Giêsu. Amen.
Ghi nhớ : “Các ngươi hãy yêu thương thù địch”.
Suy Niệm 9: Tình yêu hoàn thiện khi tha thứ
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Lịch sử đã từng ghi lại rất nhiều sự kiện về những tù binh chiến tranh ở Việt Nam luôn được đối xử tử tế, được mở đường hiếu sinh, được cấp đầy đủ quân trang khi trở về nước. Ví dụ như cách hành xử vị tha của quân chiến thắng Lam Sơn với quân Minh kẻ thù bại trận: Theo lời cố vấn của Nguyễn Trãi, tha thứ cho kẻ thù, vua Đại Việt là Lê Thái Tổ còn cung cấp cho họ lương thực và những phương tiện di chuyển như ngựa, thuyền để trở về đất nước họ.
Suy niệm
Đức Giêsu Kitô đến hoàn thiện Lề Luật, với cách hành xử yêu thương dứt khoát và hoàn hảo như Chúa Cha vượt lên trên sự yêu ghét thông thường. Ngài cho thấy tình yêu là trung tâm. Ngài giảng dạy và đã sống yêu thương để nêu gương cho chúng ta: Tha thứ cho kẻ ghét mình và làm ơn cho kẻ thù mình. Theo suy nghĩ tự nhiên của con người, cách hành xử đó xem ra không thể có đối với kẻ thù. Nhưng Chúa Giêsu mời gọi chúng ta biến nó thành cái có thể để nên hoàn thiện như Chúa Cha và chính Ngài đã sống trước tiên khi tha thứ cho những kẻ giết mình, trên thập giá Ngài đã cầu nguyện thống thiết cho kẻ giết mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Trước đó Ngài cũng dạy: “Anh em hãy làm ơn cho kẻ oán ghét mình, chúc lành cho kẻ nguyền rủa mình, cầu cho kẻ nhục mạ mình” (Lc 6,27-28). Lời mời gọi của Đấng đã yêu thương tha thứ gửi đến mỗi người chúng ta hôm nay hãy tha thứ để tôn vinh đỉnh cao của sự yêu thương, làm cử chỉ anh hùng, vượt lên trên tình cảm tự nhiên yêu bạn ghét thù, để bước cuộc sống nhân hậu và hoàn thiện như Cha trên trời mà Đức Kitô mời gọi: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Ðấng ngự trên trời” (Mt 5,44-45).
Lời dạy yêu thương tha thứ của Chúa Giêsu làm thăng hoa lòng khoan dung, vị tha của truyền thống Việt Nam qua câu tục ngữ: “Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh kẻ chạy lại”, người Việt không những vị tha với nhau như tục ngữ có câu: “Chín bỏ làm mười”, mà còn vị tha với cả kẻ thù.
Nguyễn Trãi đã nhấn mạnh: “Trả thù, báo oán là thường tình của mọi người; mà không thích giết người là bản tâm của người nhân” (Quân trung từ mệnh tập). Vị anh hùng dân tộc đã gây ý thức cho nhân dân Đại Việt: Có những nhu cầu làm người cao cả, trọng đại và lâu bền hơn. Nhu cầu báo thù sẽ bùng lên và vụt tắt như ngọn lửa rơm. Nhu cầu tha thứ xây dựng hòa bình “thêm bạn bớt thù” như người đời thường nói, xây dựng bình an bản thân và cộng đồng. Tổng thống Abraham Lincoln nói với mọi người: “Với thái độ thân thiện, tôi đã loại được kẻ thù và biến họ thành bạn của tôi”. Thật thế, sự quảng đại tha thứ đi bước trước trong tình yêu sẽ giúp cho chính bản thân của chúng ta thư thái an bình và có nhiều bạn hữu như câu châm ngôn dạy: “Gieo tha thứ gặt bình an” đạt tới sự hòa giải và được tha thứ mọi lỗi lầm như Đức Kitô dạy trong kinh Lạy Cha: “Xin tha thứ cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.
Ý lực sống :
‘‘Có nhiều cách thức để làm việc bố thí, giúp ta lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa, nhưng không có cách nào cao cả hơn là cách chúng ta tha thứ thật lòng cho người anh em đã xúc phạm đến ta” (Thánh Augustinô).
Suy Niệm 10: Hãy yêu kẻ thù (Mt 5,43-48)
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Theo cách cư xử thông thường của người đời thì “yêu bạn ghét thù”. Nhưng đối với chúng ta, Chúa Giêsu dạy chúng ta phải noi gương Chúa nhân lành, khoan dung, đại lượng với hết mọi người. Ngài cho mặt trời mọc lên và mưa xuống cho người lành cũng như kẻ dữ. Chúng ta là con cái Chúa, là môn đệ Chúa, chúng ta phải làm như Chúa, chúng ta phải yêu thương giúp đỡ, cầu nguyện, chẳng những cho thân nhân bạn hữu mà cho hết mọi người, kể cả những kẻ nghịch người thù, những kẻ làm khổ làm hại chúng ta.
‘‘Hãy yêu kẻ thù”, đó là lệnh truyền khó thi hành nhất trong các lệnh truyền của Chúa Giêsu. Tuy nhiên, chính Ngài đã yêu thương khi sẵn sàng tha thứ cho kẻ hại mình và cầu xin Chúa Cha tha cho họ. Ý tưởng ấy rất cao và rất khó nhưng nó tạo nên ý nghĩa. Như vậy Chúa Giêsu mở ra con đường mới cho nhân loại. Con đường lấy thiện thắng ác, lấy tình yêu vượt thắng hận thù. Chỉ có yêu thương mới làm cho thù hận tiêu tan.
Là những môn đệ Chúa, chúng ta được mời gọi đứng về phía bất bạo động. Tuy nhiên, đó không phải là một chọn lựa cho sự nhu nhược hay thụ động leo thang, nhưng chọn lựa bất bạo động có nghĩa là tin tưởng mạnh mẽ vào sức mạnh của chân lý, của công bằng và tình yêu hơn là sức mạnh của chiến tranh, vũ khí và hận thù... Chúng ta phải cố gắng dùng điều tốt nhất để đáp lại điều xấu nhất.
‘‘Hãy yêu kẻ thù”. Ai cũng bảo là không thể. Đó là vì ta theo thói quen. Để đối tượng qui định tình cảm. Gặp người tốt thì ta quí. Gặp người dễ thương thì ta thương. Người làm ơn cho ta thì ta biết ơn và quí trọng. Gặp người xấu thì ta lánh xa. Gặp người khó thương thì ta chối từ. Đó chẳng có gì lạ. Nhưng đó là để cho đối tượng qui định tình cảm của mình. Ta đâu có chủ động, vì ta không có nền tảng. Phải có nền tảng tình yêu ở nơi Chúa. Phải có tình yêu từ trong trái tim mình. Khi đó ta sẽ yêu bất chấp ngoại cảnh thế nào. Vẫn yêu bất chấp người đối diện là thế nào. Vẫn yêu bất chấp người khác có làm gì cho ta, dù tốt, dù xấu.
Như thế yêu kẻ thù là có thể. Ta không yêu để đáp lại kẻ thù. Nhưng ta yêu vì tình yêu đầy trong trái tim ta. Đó chính là tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Tình Yêu. Trong Ngài chỉ có yêu thương: như mặt trời, như cơn mưa, không phân biệt (Tgm Ngô Quang Kiệt).
‘‘Hãy yêu kẻ thù”. Cá tính của con người thật khó để yêu kẻ thù, ngay việc tha thứ và không trả thù đã là cao thượng lắm rồi, đằng này Chúa còn đòi hỏi chúng ta bước thêm một bước cao hơn nữa lên đỉnh hoàn thiện là “Yêu kẻ thù và cầu nguyện cho họ”. Thật ra, dù khó, nhưng lại là một phương thế tuyệt hảo nhất có thể hoá giải được những mâu thuẫn giữa người với người. Vì khi, cứ tìm cách trả thù nhau thì thù hận càng ngày càng chồng chất từ đời cha sang con, đời con sang cháu và cả những dòng tộc trả thù đến trường kỳ. Nếu tôi trả thù được anh thì con anh tìm cách trả thù cho tôi và cứ như thế mãi mãi. Còn khi lấy ân để trả thù thì không những thù được hóa giải, mà còn dễ nên bạn hữu của nhau và làm gương cho hậu thế.
Truyện: Nelson Mandela, một nhà hoạt động cách mạng Nam Phi, từng bị giam giữ và bị xúc phạm trong suốt 27 năm. Đến khi ông trở thành Tổng thống Nam Phi, ông đã mời 3 người cai ngục từng canh giữ ông trong thời gian tại chốn lao tù đến gặp mặt. Khi Mandela đứng dậy cung kính chào 3 vị cai tù này thì mọi người có mặt và trên toàn thế giới đều phải tĩnh lặng. Ông nói: “Khi tôi bước ra khỏi phòng giam của mình, đi qua cánh cổng nhà tù để được tự do, tôi đã hiểu rõ ràng rằng: nếu không thể để nỗi đau của riêng mình và oán giận ở lại đàng sau, thì tôi vẫn là còn ở trong lao tù”.
Người Kitô hữu không thể trốn tránh con đường chông gai, để chọn những lối đi bằng phẳng êm mát. Nhưng họ phải can đảm tiến tới để đạp gãy chông gai ghen ghét, san bằng sỏi đá hận thù, dõi theo ánh sáng của Đức Kitô, Đấng đã yêu thương và tha thứ cho những kẻ giết hại mình.
Truyện: Lấy thiện báo ác
Thời Xuân Thu chiến quốc, nước Sở và nước Lương có chung biên giới đều trồng dưa. Người bên nước Lương, vun xới chăm chỉ nên dưa tốt quả nhiều. Người bên nước Sở lười, làm biếng tưới nên dưa xấu quả ít. Quan huyện sở tại nước Sở thấy vậy thì lấy làm tức giận lắm. Những người trồng dưa bên Sở thấy vậy cũng đem lòng ghen ghét, tối tối lẻn sang nhổ cây, bứt lá làm cho dưa bên nước Lương đang tốt tươi bỗng trở nên héo hon, xơ xác. Những người trồng dưa bên nước Lương rình biết, bèn trình báo lên quan sở tại của mình và cũng rắp tâm sang phá dưa bên Sở để trả thù. Nhưng quan sở tại của nước Lương là người thâm trầm, liền can ngăn và bảo: “Nếu lấy ác mà xử lại thì chỉ là cách gây thù chuốc oán, gieo mầm loạn lạc binh đao, cho nên thay vì trả thù, ta cứ lẳng lặng sang tưới dưa cho họ, đó mới là thiện chí”.
Một thời gian sau, dưa bên nước Sở xanh tốt, quả nhiều. Dân nước Sở lấy làm lạ, họ để ý rình rập mới hay người bên nước Lương sang tưới dưa cho mình. Biết được điều đó, Quan bản địa có ý thẹn.
Việc đó đến tai vua Sở, vua Sở lấy làm xấu hổ và nghĩ rằng ngoài cái tội phá hoại dưa của người, chắc còn những việc khác gây oán thù. Vua Sở bèn xuống chiếu trách cứ quan huyện, khuyến cáo dân chúng nước Sở, rồi viết thư sai sứ giả sang nước Lương xin lỗi, tỏ lòng hiếu hoà bang giao.
14/06 Ðừng báo thù
- Viết bởi Mt 5, 38-42
Ðừng báo thù.
Thứ Hai tuần 11 thường niên.
"Thầy bảo các con: đừng chống cự lại với kẻ hung ác".
Lời Chúa: Mt 5, 38-42
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đã nghe bảo: "Mắt đền mắt, răng đền răng".
Còn Thầy, Thầy bảo các con: đừng chống cự lại với kẻ hung ác; trái lại, nếu ai vả má bên phải của con, thì hãy đưa má bên kia cho nó nữa. Và ai muốn kiện con để đoạt áo trong của con, thì hãy trao cho nó cả áo choàng nữa. Và ai bắt con đi một dặm, thì con hãy đi với nó hai dặm. Ai xin, thì con hãy cho. Ai muốn vay mượn, thì con đừng khước từ".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Ai xin, hãy cho
(Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)
Đoạn Tin Mừng hôm nay dễ bị đem ra nhạo cười,
vì có vẻ nó dung túng sự ác và biểu lộ một tinh thần yếu hèn bạc nhược.
Người ta hay nghĩ rằng nếu cứ sống theo tinh thần của Chúa Kitô,
thì hẳn kẻ ác sẽ tha hồ tác oai tác quái trong thế giới này.
Tuy nhiên, chính vì con người muốn sống theo khuynh hướng tự nhiên,
nên thế giới hôm nay mới không ngớt chiến tranh và đau khổ.
Đánh phủ đầu là đánh trước khi người kia kịp đánh mình.
Trên thế giới mỗi ngày có biết bao vụ sát nhân chỉ vì một chút hờn oán.
“Mắt đền mắt, răng đền răng”,
câu này thường được dùng để cho thấy sự tàn nhẫn của Cựu Ước.
Thật ra, Cựu Ước chẳng bắt người ta phải móc mắt, nhổ răng kẻ thù.
Câu này chỉ nhằm giới hạn việc báo thù trong mức độ cân xứng.
Trong xã hội mang tính bộ tộc của Ítraen thuở ban đầu,
“mắt đền mắt” đã là một tiến bộ đáng kể.
Đức Giêsu đi xa hơn khi đòi hỏi đừng chống cự lại người ác,
nghĩa là đừng lấy ác báo ác, đừng sống theo luật báo phục (lex talionis).
“Nếu bị ai vả má bên phải, hãy đưa cả má kia ra nữa” (c. 39).
Bị vả má bên phải nghĩa là bị tát bằng mu bàn tay phải.
Không phải là đau hơn, nhưng là nhục nhã hơn nhiều.
Đức Giêsu đã từng có kinh nghiệm này trong cuộc Khổ Nạn (Mt 26, 67).
“Đưa má kia” đơn giản chỉ có nghĩa là
tránh trả thù, chịu mình ở thế yếu,
vì báo oán là chuyện của Thiên Chúa (Rm 12, 19-20).
“Đừng để cho sự ác thắng được mình, nhưng hãy lấy thiện mà thắng ác” (Rm 12,21).
“Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong, hãy để cho hắn lấy cả áo ngoài nữa” (c. 40).
Ở Đông phương, áo ngoài là quan trọng để chống cái lạnh ban đêm,
nên nếu bị cầm cố, thì cũng phải trả lại cho người ta có cái mà đắp (Đnl 24, 13).
Đưa cả áo trong lẫn áo ngoài cho kẻ kiện cáo mình,
là chấp nhận bị trần trụi và xấu hổ, nếu ai đó chỉ có một bộ thôi.
Trong xã hội Paléttin bị đô hộ bởi đế quốc Rôma,
chuyện bị ép vác đồ dùm cho lính tráng vẫn hay xảy ra (x. Mt 27, 32).
“Người bắt anh đi một dặm, hãy đi với người ấy hai dặm” (c. 41).
Môn đệ Đức Giêsu, trước những ép buộc không mấy chính đáng,
chẳng những được mời ưng thuận, mà còn làm hơn cả điều bị ép buộc.
Câu cuối của bài Tin mừng cho thấy thái độ bác ái của Kitô hữu
trước những yêu cầu của có thật của tha nhân (c. 42).
Mở lòng ra trước người xin, người muốn vay mượn,
dù kẻ ấy là kẻ thù hay người không có khả năng hoàn trả.
Lời của Đức Giêsu hôm nay làm chúng ta choáng váng.
Lời này không đòi dẹp bỏ hệ thống pháp luật, cảnh sát hay nhà tù.
Nhưng nếu các Kitô hữu cứ để cho Lời này thấm vào lòng từ từ,
đời sống của họ sẽ được thay đổi một cách kỳ diệu, và bộ mặt thế giới sẽ đổi khác.
Hiền hậu, bao dung, quảng đại, đó là điều thế giới hôm nay thiếu trầm trọng.
Gandhi, người say mê những câu Lời Chúa hôm nay, đã than phiền:
“Tôi thích Đức Kitô của các anh,
nhưng tôi không thích các Kitô hữu.
Vì các Kitô hữu thì chẳng giống Đức Kitô mấy.”
Chỉ mong chúng ta có trái tim hiền hậu giống Đức Kitô hơn.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin cho con quả tim của Chúa.
Xin cho con đừng khép lại trên chính mình,
nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa:
vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường,
để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen, mọi trả thù ti tiện.
Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng,
không một biến cố nào làm xáo trộn,
không một đam mê nào khuấy động hồn con.
Xin cho con đừng quá vui khi thành công,
cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.
Xin cho quả tim con đủ lớn, để yêu người con không ưa.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở,
để có thể ôm cả những người thù ghét con.
Suy Niệm 2: Thừa tác viên của Chúa
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Người đời cư xử với nhau theo sức mạnh. Mạnh được yếu thua. Câu chuyện vườn nho Na-vốt là tiêu biểu. A-kháp đã có nhiều vườn tược. Nhưng vẫn còn ham muốn vườn nho của Na-vốt. Hoàng hậu I-de-ven đã dùng thủ đoạn gian dối. Vu cáo Na-vốt. Giết chết ông. Và chiếm vườn nho. Người có quyền thế có mọi sự. Sai bảo người khác làm điều dữ. Giết người. Cướp của. Nhưng lại dùng chiêu bài đạo đức. “Trong thư bà viết rằng: “Hãy công bố một thời kỳ chay tịnh và đặt Na-vốt ngồi ở hàng đầu dân chúng. Hãy đặt hai đứa vô lại ngồi đối diện với nó, để chúng tố cáo nó: ‘Ông đã nguyền rủa Thiên Chúa và đức vua’. Và hãy đem nó ra ngoài ném đá cho chết”.Thật là ghê gớm (năm chẵn).
Ngược hẳn với thói cư xử của người đời, Chúa dạy ta điều răn mới. Kiện toàn Lề Luật. Đề ra một lối sống mới. Đó là tinh thần Nước Trời. Và sẽ canh tân trần gian. Không còn mạnh hiếp yếu. Quyền lực áp chế dân đen. Nhưng là hiền lành, khiêm nhường và bác ái. Không dùng bạo lực. Chỉ dùng bác ái. Quảng đại. Yêu thương. Phục vụ: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: … Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặn, thì hãy đi với người ấy hai dặm. Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi”. Đó chính là tinh thần của Chúa. Chính Chúa Giê-su đã làm như thế. Quỳ xuống rửa chân cho các tông đồ. Chữa lành anh lính bị Phê-rô chém đứt tai. Tha thứ cho những kể giết mình. Xin Chúa tha tội cho những kẻ làm hại mình. Đó chính là tinh thần Nước Trời.
Thánh Phao-lô ý thức được cộng tác với Chúa trong công trình xây dựng Nước Trời. Ngài làm tròn vai trò thừa tác viên của Chúa. Sống tinh thần của Chúa. Làm chứng cho Nước Trời. “Trong mọi sự, chúng tôi luôn chứng tỏ mình là những thừa tác viên của Thiên Chúa: gian nan, khốn quẩn, lo âu, đòn vọt, tù tội, loạn ly, nhọc nhằn, vất vả, mất ăn mất ngủ, chúng tôi đều rất mực kiên trì chịu đựng”. Về phương diện con người ngài bị coi như khốn khổ. Nhưng ngài cảm thấy đầy đủ, bình an, sung mãn trong Chúa: “Bị coi là sắp chết, nhưng kỳ thực chúng tôi vẫn sống; … coi như nghèo túng, nhưng kỳ thức chúng tôi làm cho bao người trở nên giầu có; coi như không có gì, nhưng kỳ thực chúng tôi có tất cả”(năm lẻ).
Xin cho con sống tinh thần của Chúa. Và làm chứng cho Nước Trời ở giữa trần gian. Bằng chấp nhận mọi thiệt thòi ở đời này. Để được sung mãn trong Nước Trời.
Suy Niệm 3: Thay đổi những cử chỉ phản xạ tự nhiên
“Anh em nghe luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị vả mà bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa.” (Mt. 5, 38-39)
Phản xạ tự nhiên
Trong các điều Chúa đòi hỏi ở đây, chẳng có điều nào là tự nhiên đối với ta cả. Giơ má bên trái khi người ta vả ta má bên phải, không chống cự lại khi người đánh ta, cho họ vay mượn mà không đòi những những bảo đảm cần thiết để người ta hoàn trả. Tất cả những cử chỉ đáp lại trên đây đều không phải là những cử chỉ bộc phát tự nhiên đối với ta. Ngay cả những người lương thiện và nhân từ cũng chẳng hành động theo cách đó.
Có lẽ tất cả chúng ta đều đồng ý rằng thi hành đúng như lòi Chúa dạy, trong nhiều trường hợp, thiết tưởng mình sẽ tỏ ra ngây ngô và hèn nhát. Chẳng khác nào như nối giáo thêm cho giặc và bỏ ngỏ cửa nhà cho trộm dễ vào vậy. Trong cuộc sống thường phải biết đứng thẳng hiên ngang và không được mềm như bún. Phải có khả năng tỏ ra cương quyết, khả năng đòi lại quyền lợi của mình.
Những cử chỉ phản xạ của người con cái Chúa
Thiết tưởng Chúa Giêsu cũng sẽ đồng ý với điều ta vừa nói. Chúa không mong muốn ta trở thành những con người hiền lành như cục đất, bạc nhược và mềm như bún. Vậy phải hiểu rõ Chúa chờ đợi gì ở nơi ta.
Điều Chúa mong đợi ở nơi ta chính la, khi phải đương đầu với mọi tình huống, thì cử chỉ phản xạ đầu tiên của ta luôn luôn phải là cử chỉ của lòng nhân ái, hiểu biết và đầy quảng đại. Chúa đồng ý là tiên vàn ta phải cố gắng lấy đức báo oán, lấy tình yêu thắng hận thù. Người cho rằng đấy là cách làm tốt nhất để tước khí giới kẻ tấn công ta hay có ý lợi dụng ta.
Chỉ có tình yêu và lòng đại độ mới thay đổi được lòng người xấu. Hãy giết chết bạo lực từ trong trứng nước bằng một phản ứng bất bạo lực. Hãy làm bẽ mặt đối phương bằng một tâm hồn vô cùng độ lượng. Hãy có những cử chỉ phản xạ của những người con cái Chúa chứ đừng trả miếng theo lối hoàn toàn phàm phu. Chúa mời gọi ta làm như vậy đó. Ai dám bảo Chúa lầm?
Tránh mắc vào guồng bạo động
Sau khi đọc đoạn Tin Mừng này, người ta tự hỏi phải tổ chức đời sống xã hội trên thể thức công bằng nào? Phải chăng là bật đèn xanh cho người hung ác và kẻ bất lương mà không bắt họ phải chịu thiệt thòi gì cả?
Thật ra, những lời Chúa Giêsu nói không nhằm đến nền luân lý trong xã hội. Luật báo thù, xét về phương diện xã hội học, đã là một bước tiến quan trọng so với những tập tục xa xưa, khi mà sự trả đũa diễn ra trong hỗn loạn. Nhưng ở đây Chúa Giêsu tuyên bố: luật báo thù phải được bãi bỏ. Luật lệ xã hội không bao giờ đủ để làm cho công bằng và hòa bình chân chính ngự trị. Chúa Giêsu kêu mời đừng trả đũa khi bị lầm lỗi và thiệt hại. Điều này không có nghĩa là xã hội được miễn khỏi việc tái lập công bằng, nhưng người Kitô hữu không được trả thù, nghĩa là gây thiệt hại lại khi bị thiệt hại. Có một khác biệt sâu xa giữa việc đền bù một bất công thuộc thẩm quyền tư pháp và gây thiệt hại lại khi bị thiệt hại.
Đàng khác phải nhớ rằng Chúa Giêsu dùng thứ ngôn ngữ rất thực tế, hợp với dân chúng. Chúa lấy những ví dụ đập mạnh vào sự chú ý của dân chúng nhờ tính cách rắn rỏi và có vẻ nghịch lý. Nếu hiểu theo nghĩa đen thí dụ cái vả má, người ta sẽ tự hỏi tại sao Chúa Giêsu, khi bị tên đầy tớ vả má trước mặt Caipha, lại quả quyết mình vô tội, thay vì giơ má bên kia nữa. Vậy điều hệ trọng là tìm xem điều Chúa Giêsu muốn dạy qua những thí dụ về áo choàng, cái vả má… Lời giải thích được tìm thấy trong câu ngắn ngủi này: Ta bảo các ngươi đừng cự lại người ác. Điều này có nghĩa: chớ cãi vã, đánh đập, trả thù, chớ đi vào tinh thần kiện tụng (là thứ tinh thần quen thuộc trong xã hội Do thái thời Chúa Giêsu). Bình an là hoa quả của công bằng, nhưng không ai có bình an bằng phương tiện bạo động tự xử cho mình.
Một điểm nhỏ cần lưu ý: nếu ai cậy nhờ ngươi… Trong đời sống thường nhật chúng ta đã chẳng bị ‘nhờ vả’ bởi đủ thứ việc sao? Đừng tìm cách tránh né, nghĩa là chúng ta đừng lẩn trốn, nhưng hãy đáp lại với lòng quảng đại và nhân ái.
Suy Niệm 4: Khoan dung với kẻ ác
Lorobel khi còn làm quan toàn quyền ở Ấn Độ, vào một ngày kia ông đáp tàu trở về Trung Quốc, cùng trên chuyến tàu có một phu nhân mang theo đứa nhỏ, bà chẳng ngó ngàng gì đến đứa bé khiến nó cứ khóc thét suốt ngày đêm. Hành khách ai cũng bực mình, có người thô lỗ còn hăm dọa sẽ ném đứa bé xuống biển. Lorobel đã quyết định một việc mà ít ai ngờ tới: Ông ẵm đứa bé lên, đặt nó ngồi trên đùi của ông và từ giờ này qua giờ khác, ông nói chuyện đùa giỡn và làm trò đùa hoặc làm bất cứ điều gì đứa bé thích. Đầu tiên đứa bé ngạc nhiên quên đi chuyện khóc lóc, và sau khi quen rồi nó lại thích thú quấn quýt bên Lorobel. Hành khách trên tàu cảm thấy dễ chịu, ít bực mình và đôi khi còn vui lây niềm vui của đứa bé. Đứa bé không còn làm phiền ai nữa, nhưng nó đã trở nên tâm điểm truyền đạt niềm vui cho hành khách.
Nếu có mặt trên chuyến tàu cùng với Lorobel hôm đó, chúng ta cũng được chứng kiến một cảnh khôi hài, đó là một vị quan toàn quyền đầy uy quyền như thế mà lại nhận lãnh vai trò vú em. Ông không sử dụng uy quyền của mình để ra lệnh cho người đàn bà, nhưng đã dùng tình thương để đối xử với sự thiếu sót của bà. Đây quả thực là một phản chiếu lời dạy của Chúa Giêsu được thánh sử Matthêu gởi đến cho chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay.
Thật vậy, đền ơn trả oán là một áp dụng cụ thể trong công bằng giao hoán. Từ khi có ý niệm về luật pháp thì việc báo oán cũng được quy định. Luật của người Babylon viết: “Nếu kẻ nào làm cho một người nào đó trong giai cấp bị mất mắt hoặc gẫy tay chân thì phải chịu mất mắt hoặc gẫy tay chân để đền bù. Nếu đối tượng là kẻ bần dân thì chỉ cần đền bù bằng một lạng bạc”. Người Do thái cũng áp dụng luật này, nhưng không phân biệt giai cấp: mắt đền mắt, răng thế răng, mọi người đều có quyền được đền bù xứng đáng.
Thật ra ý niệm về công bằng này không hoàn toàn chia khỏi luật lệ người Do thái. Sách Lêvi viết: “Ngươi sẽ không báo oán, không tư thù với con cái dân ngươi”. Hoặc sách Cách Ngôn có viết: “Nếu kẻ thù ngươi đói hãy cho nó bánh ăn, nếu nó khát hãy cho nó nước uống”. Như vậy, dân tộc Israel vẫn còn chút gì là dân riêng của Chúa. Họ không buộc phải tuân giữ những điều này, họ vẫn có thể được đòi hỏi mắt đền mắt, răng thế răng. Chỉ khi Chúa Giêsu đến, Ngài mới kéo con người ra khỏi cái vòng oán thù lẩn quẩn này. Có thể xem cái vả vào má là một cái đụng chạm đến danh dự, một xúc phạm về tinh thần, và kiện tụng để đoạt áo là một đụng chạm đến của cải, một xúc phạm về vật chất.
Dù bị xúc phạm đến vật chất hoặc tinh thần thì người môn đệ của Chúa Giêsu không được vịn vào đó để báo oán, nhưng phải đưa má bên kia cho họ vả nữa. Hành động như vậy xem ra như một nhu nhược, cúi đầu khuất phục, nhưng chính hành động ấy diễn tả một thái độ quả cảm sẵn sàng cho đi tất cả để phục vụ người khác. Con người càng trở nên cao cả qua việc cho đi mà không giữ lại cho mình điều gì, dù điều đó là niềm hạnh phúc chính đáng, dù đó là một chút quyền lợi hợp với quyền sống con người. Càng cho đi, người môn đệ càng gần gũi với Thầy của mình là Đức Giêsu, Đấng đã cho đi hoàn toàn, cho đi cả mạng sống của mình.
Đồng thời, khi cho đi như vậy con người lại càng gần gũi với nhau hơn. Khi trao ban cho người khác điều gì là mở ngỏ cho họ sự cảm thông, và khi thực hành điều Chúa dạy: “Ai xin thì con hãy cho, ai muốn vay mượn con đừng khước từ”, cũng có nghĩa là đã thêm được một lần nối kết và nhiều nối kết sẽ tạo nên sự bền chặt và sức mạnh. Sợi tơ nhện mỏng manh, nhưng nhiều sợi tơ sẽ giữ được con ruồi. Một sự cho đi của con người xét ra thì chẳng đáng gì, thế nhưng nếu cả một thế giới cho đi thì cũng đủ khả năng để cầm giữ sự ác, để chống lại quyền lực của sự dữ.
Lạy Chúa, thế giới vẫn còn nhiều bóng dáng của sự ác, vẫn còn nhiều chiến tranh, vì mỗi người chúng con chỉ biết thu góp quyền lợi về cho mình mà chưa biết cho đi. Xin Chúa cho chúng con biết sẵn sàng cho đi, để rồi trong trao ban chúng con sẽ được nhận lãnh, chúng con sẽ gặp được Chúa là chính nguồn bình an, đồng thời cũng làm người em bên cạnh cũng nếm được mùi hạnh phúc thật của Chúa. Amen.
Suy Niệm 5: Ðừng báo thù
"Mắt đền mắt, răng đền răng", đó là công thức của luật báo thù. Người ta xúc phạm đến tôi bao nhiêu, tôi phải làm lại cho người đó bấy nhiêu. Kẻ lý luận như thế là dựa trên sự công bằng, nhưng đây là sự công bằng theo mức độ của loài người. Luật trả thù này đã được ghi chép thành văn trong bộ luật của vua xứ Babylon năm 1750 TCN. Trong Bộ Ngũ Kinh, người ta cũng có thể đọc thấy vài công thức của luật trả thù này, và đó là sự bất toàn của Luật Môsê thời Cựu Ước.
Nhưng luật trả thù này không những có trong những bộ luật lâu đời, mà còn nằm trong tâm hồn con người mọi thời. Chúa Giêsu muốn nhắc cho các môn đệ Ngài xưa cũng như nay, là cần phải sẵn sàng dập tắt ngay nơi bản thân mầm mống của bạo động: "Ðừng chống cự người ác". Ngài nhấn mạnh đến tinh thần mà người môn đệ phải có, đó là tinh thần tha thứ, vượt qua điều anh em xúc phạm đến mình. Ðây là hình thức cao cả của tình yêu Kitô: yêu thương một cách nhưng không, không đòi lại điều gì, cũng không chờ đợi điều gì. Như vậy câu nói của Chúa Giêsu: "Ai muốn lấy áo trong của con, thì hãy cho nó cả áo ngoài" không phải là thái độ thụ động, mà là thái độ tích cực sống yêu thương tha thứ như Chúa đã nêu gương từ trên Thập giá khi Ngài cầu nguyện: "Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm". Chúa Giêsu đã yêu thương và tha thứ đến cùng, và Ngài dạy chúng ta sống theo gương Ngài, nếu chúng ta muốn trở nên môn đệ đích thực của Ngài.
Chúng ta hãy cầu xin bằng chính lời kinh hòa bình của thánh Phanxicô Assisiô: Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người. Xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn u sầu.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 6: YÊU VÀ SỐNG (Mt 5, 38-42)
Xem lại CN 7 TN A, CN 7 TN C, thứ Năm tuần 23 TN
Khi đạo Công Giáo mới được loan báo trên quê hương Nước Việt, cha ông chúng ta đã mau mắn đón nhận Tin Mừng và sống những giá trị Tin Mừng ấy rất sống động. Một trong những điểm sáng mà tổ tiên chúng ta đã sống đó là “tình yêu thương”. Khi sống như thế, nhiều người không phải là Kitô hữu, họ đã không hiểu được các ngài theo đạo gì, vì thế, họ không ngần ngại đặt cho tôn giáo mới này là: “Đạo Yêu Nhau”.
Hôm nay, Đức Giêsu dạy cho các môn đệ bài học yêu thương. Yêu thương thì không oán hờn; không tính toán thiệt hơn; yêu thương thì không có khái niệm trả thù mà sẽ tha thứ không chỉ bẩy lần, mà bẩy mươi lần bẩy, tức là không có giới hạn.
Trong thực tế hôm nay, nhiều người Công Giáo không dám sống căn tính của mình là yêu thương. Bởi vì khi yêu thương như Chúa đòi hỏi, thì họ phải trả giá bằng chính sự thiệt thòi, ức hiếp, bóc lột, coi thường, khinh khi..., vì thế, không thiếu gì hình ảnh những người Công Giáo cũng “ga lăng” chẳng kém gì ai! Đây đó vẫn có những người Công Giáo sống kiểu “đàn anh đàn chị!”.
Lời Chúa ngày hôm nay mời gọi mỗi chúng ta hãy trở nên “thánh thật” chứ không chỉ làm thánh “lâm thời”. Muốn trở nên “thánh thật” thì phải mến Chúa trên hết mọi sự và yêu thương nhau thật lòng, dầu có phải thiệt thòi đôi chút. Chấp nhận đau khổ, hiểu lầm vì mối lợi lớn hơn là được biết Chúa và được Chúa yêu thương. Sẵn sàng đi trên con đường tình yêu được chứng minh bằng việc đón nhận thập giá trong cuộc sống vì lòng yêu mến Chúa, để qua đó, chúng ta có sự sống đời đời làm gia nghiệp.
Lạy Chúa Giêsu, Lời Chúa dạy khó quá đối với con người yếu đuối, ích kỷ của chúng con! Nhưng chúng con tin Lời Chúa có sức mạnh biến đổi. Xin Chúa thánh hóa chúng con, để mỗi ngày chúng con nên giống Chúa hơn khi biết quảng đại, bao dung và vô vị lợi như Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Tha thứ
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Tha thứ là điều khó khăn nhất và cũng là điều cao cả nhất mà Chúa Giêsu đã cống hiến cho con người. Lòng tha thứ không báo thù chính là tuyệt đỉnh của yêu thương.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trong thế giới hôm nay, con đọc qua báo chí, qua truyền thanh, qua truyền hình và cả thực tế vẫn xảy ra chung quanh con, bao nhiêu là chuyện gây thù báo oán. Người ta ăn miếng trả miếng, và càng ngày con người càng lạc sâu vào cái vòng luẩn quẩn của hận thù ghen ghét.
Lời Chúa hôm nay mở ra cho con một lối thoát, đó là lấy thiện thắng ác, dùng tình yêu đáp trả hận thù. Chính Chúa đã nêu gương cho con, khi trên thập giá, Chúa đã tha thứ cách tuyệt đối cho những kẻ đang reo hò đắc thắng vì đã giết được Chúa. Và ngày hôm nay, qua bí tích Hòa Giải, Chúa vẫn hằng tha thứ những lỗi lầm con đã phạm, cho dù đã bao lần con sa đi ngã lại. Chúa chỉ đòi con đền đáp ơn Chúa, bằng cách con cũng biết tha thứ cho anh em con, như Chúa đã tha thứ cho con.
Lạy Chúa, khi tha thứ không những con phải quên đi những lỗi lầm của anh em, mà còn phải xóa sạch những điều ấy trong tư tưởng, trong lời nói và nơi việc làm của con. Tha thứ là biết đối xử tử tế với họ như những người tốt.
Lạy Chúa, điều này không phải là dễ dàng, bởi vì trao ban tiền của, trao ban thời gian, trao ban chính mạng sống mình, xem ra còn dễ làm hơn là trao ban sự tha thứ. Xin Chúa dạy con biết thực hành bài học yêu thương của Chúa, để nơi đâu có hận thù, con loan báo tình yêu; nơi đâu có bất hòa, con trao ban lòng tha thứ. Xin Chúa biến đổi lòng con trở nên khí cụ bình an của Chúa. Amen.
Ghi nhớ : “Thầy bảo các con: đừng chống cự lại với kẻ hung ác”.
Suy Niệm 8: Thể hiện tình yêu qua sự tha thứ, yêu thương
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Winifred Potenza sống ở Santa Rosa, California. Trong một đêm khuya con trai cả của bà là Jonathan 21 tuổi cùng bạn gái Lisa Rodriguez chết ngay tại chỗ sau khi bị một viên tài xế say xỉn tông trúng. Potenza gần như hóa dại và không thể gượng dậy trước nỗi đau. Bà thường lang thang trên phố mỗi đêm, khi thì thổn thức, khi thì la hét.
Viên chưởng lý cáo buộc người tài xế say xỉn mới 20 tuổi về tội giết người. Anh đã nhận tội và chờ đợi phán quyết của toà. Anh hiểu hành động của mình và dằn vặt muốn được chết.
Ngồi trong phòng xử án, khi quan tòa quyết định William chịu án 15 năm tù, Potenza mới thực sự nhìn thấy William lần đầu tiên. Trong chốc lát, bà hiểu rằng anh không phải là kẻ tàn ác như bà từng được nghe nói. Sau này bà kể rằng, khi ấy bà đã nghĩ: “Chúa ơi, đây là sai lầm”. Bà hiểu rằng, William cũng có cha mẹ và cha mẹ anh cũng xót xa lo lắng cho con trẻ. Bà nói: “William không cố tình giết người, đây chỉ là một tai nạn thảm kịch”, Potenza từ từ đứng lên và đi qua hàng người bảo vệ, nhẹ nhàng ôm lấy William. Bà tha thứ và trở thành người bạn, người bào chữa cho người đã cướp mất mạng sống con bà. Lòng vị tha giúp Potenza hàn gắn vết thương và cũng giúp William hàn gắn nỗi ăn năn hối hận, đưa anh trở lại với cuộc sống. Hàng tuần, Potenza tới thăm William, đầu tiên là nhà tù Corcoran rồi nhà tù Vacaville. Bà nói: “William là một người tốt, anh ấy có tài năng đặc biệt và xứng đáng được hưởng một cơ hội khác”.
Potenza đã không ngừng nỗ lực làm việc, thuyết phục tòa án giảm cáo buộc tội giết người xuống thành tội ngộ sát, đồng thời giảm án tù cho William. Nỗ lực của bà đã được đền đáp. Sau bảy năm thụ án, William được ân xá và ra tù trước thời hạn.
Còn với Potenza, cái chết của con trai và sự hóa giải đau thương cùng với tình yêu vị tha đánh dấu bước khởi đầu của một dự án nghệ thuật lớn. Bà đã hoàn thành dự án chuyển tải thông điệp xã hội trong suốt 30 năm. Bà tập trung vào dự án hòa bình, cả ở góc độ cá nhân và toàn cầu. Dự án mang tên “Những Trái Tim Của Thế Giới”. Đó là các bức sơn dầu khổ lớn, mỗi bức mô tả một trái tim được vẽ từ chính biểu tượng, màu cờ của mỗi quốc gia. Có 80 trong số 185 tác phẩm đã hoàn thành…
Suy niệm
Trong cuộc sống hàng ngày, theo tình cảm tự nhiên, trước người anh em làm khổ chúng ta, chúng ta đáp trả bằng sự giận hờn, căm thù: Lửa để chống lại lửa, dễ dàng theo luật trả thù mắt đền mắt, răng đền răng. Cách hành xử đó trở nên như là nguyên tắc báo thù: Phạm nhân phải bồi thường tương xứng với thiệt hại đã gây nên. Nguyên tắc này đã được áp dụng chung từ thời xa xưa cho đến nay trong thế giới văn minh của con người. Người ta đã tìm thấy nguyên tắc báo thù này trong bộ luật Hammourai 2000 năm trước Chúa Giêsu. Trong Cựu ước được quy định “Mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân, phỏng đền phỏng, bầm đền bầm, sưng đền sưng” (Xh 21,24 và x. Đnl 19,21; Lv 24,20).
Ban đầu Thiên Chúa tìm cách làm cho dân riêng biết vâng phục Lề Luật, biết vâng lời và luật đã quy định một cách rất tự nhiên trong cách hành xử giữa người với người mình như luật quy định: “Mắt thế mắt, răng đền răng” (Xh 21,24). Trong Cựu ước người ta còn cầu nguyện “chống lại” các kẻ thù của mình “Lạy Chúa, ước chi Ngài tiêu diệt kẻ gian tà… Lạy Chúa, kẻ ghét Ngài, làm sao con không ghét ? Con ghét chúng, ghét cay, ghét đắng, chúng trở thành thù địch của chính con” (Tv 139,19-22) (và xem thêm các Thánh vịnh 17,13; 28,4; 69,23-29…). Thủ bản kinh Thánh ở Qumram có lệnh truyền này: “Ngươi sẽ ghét những đứa con của bóng tối”.
“Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,16). Ngài tỏ lộ trên dân Ngài đặc tính tình yêu và giáo dục dân Chúa cách tiệm tiến để đạt tới tình yêu thương tuyệt hảo như Cha trên trời. Dân Chúa trưởng thành từ từ và vươn đến sự toàn thiện. Để sự thù hận nơi con người được hòa giải bằng tình yêu qua sự tha thứ, quảng đại, yêu thương. Nhờ vậy con người sẽ được bình an và vui sống trong sự hoàn thiện như Chúa Cha mà Chúa Giêsu đã mời gọi mọi người hãy trở nên như Ngài (x. Mt 5,48).
Xin cho chúng ta học theo tinh thần của Chúa dạy: Luôn quảng đại bao dung. Lấy ân báo oán, lấy yêu thương báo hận thù. Chúa muốn con cái Ngài trải rộng tình thương cho tất cả mọi người, kể cả thù địch. Phải biết yêu như Chúa đã yêu.
Ý lực sống:
Chúa Giêsu đã dạy tôi yêu thương tất cả mọi người, kể cả kẻ thù. Nếu không làm như thế, tôi sẽ không xứng đáng là Kitô hữu nữa. Thật là đẹp, nhưng khó hiểu quá. (ĐHY Fx. Nguyễn Văn Thuận, Chứng nhân Hy Vọng).
Suy Niệm 8: Đừng trả thù (Mt 5,38-42)
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Luật xưa dạy rằng: “Mắt đền mắt, răng đền răng”. Phạm nhân phải đền bù tương xứng với thiệt hại đã gây nên. Đó là luật công bằng. Còn Chúa Giêsu, Ngài dạy chúng ta phải quảng đại bao dung: lấy ân báo oán, lấy yêu thương đáp trả hận thù. Chúa muốn con cái mình phải biết yêu thương như Chúa đã yêu và trải rộng tình thương cho tất cả mọi người kể cả thù địch.
Bộ luật cổ nhất của nhân loại là bộ luật của Hammurabi vua cai trị Babylon khoảng gần 2.300 năm trước CN, qui định hễ ai gây thiệt hại hoặc thương tích cho người khác thế nào thì phải đền bù đúng như vậy. Luật ấy được lặp lại nhiều lần như nguyên tắc cơ bản cho luật Cựu ước: “Mắt đền mắt, răng đền răng” (x. Xh 21,23-25; Lv 14,19-20; Đnl 19,21).
Dù nó cổ nhất thật, luật đó vẫn còn thể hiện ưu điểm của chế độ pháp trị là ngăn ngừa sự báo thù quá khích và tuỳ tiện. Chúa Giêsu dạy một nền giáo lý mới: Chẳng những Ngài loại bỏ hẳn sự báo thù theo kiểu “ăn miếng trả miếng” hay “hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”, mà Ngài còn dạy phải vượt qua sự công bằng theo luật, bằng cách sống tinh thần quảng đại bao dung, không giận dữ, không báo thù (5 phút Lời Chúa).
“Ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra...”
Chúa Giêsu còn đi xa hơn các bậc tiền nhân Cựu ước khi đòi hỏi rằng phải yêu thương đáp lại hận thù, có như thế mới diệt được tận căn cái ác ở trong con người. Ngài chủ trương một thái độ rất cá biệt, tương phản hoàn toàn với thái độ bình thường: “Đừng chống cự với người ác”. Ngài đòi hỏi các môn đệ phải bẻ gãy vòng xích bạo lực, dù hợp pháp và được báo thù.
Nguyên tắc yêu thương của Chúa Giêsu làm đảo lộn cách xử sự theo qui ước của loài người. Sứ điệp Tin mừng vượt quá giới hạn công bằng giao hoán kiểu xử sự dân ngoại. Đức ái Kitô giáo chấp nhận cả các giới hạn và khiếm khuyết của con người và lòng nhân ái của Kitô hữu là thông dự vào tình yêu của chính Thiên Chúa.
Khi dạy đừng báo thù, Chúa Giêsu không có ý cổ võ sự nhu nhược, nhát đảm, nhưng là để nêu cao tinh thần khoan dung, hiền từ, quảng đại và tha thứ. Chỉ người nào rất mạnh mới chế ngự được khuynh hướng trả đũa vốn nằm sẵn trong lòng mình. Người đó còn mạnh về tình thương nữa, vì chỉ những ai có tình thương rất mạnh, mới có thể tiếp tục yêu thương và không trả đũa kẻ xúc phạm đến mình.
Ngày 4/4/1968, mục sư Luther King lãnh tụ da đen tranh đấu cho quyền bình đẳng của người Mỹ da đen bị bắn chết. Hàng triệu người da đen và những người da trắng hiểu biết đã thương tiếc ông. Martin Luther King đã hy sinh cả cuộc đời mình để “ôn hoà” đấu tranh, chống cảnh kỳ thị chủng tộc màu da. Cũng chính vì đã dám lên tiếng đòi cho mọi người được đối xử bình đẳng như nhau trong một đại gia đình của Thiên Chúa mà ông đã bị bắn gục.
Theo quan niệm dân gian thì người ta nghĩ thế nào ?
Người đời chia con người thành hai loại xung khắc nhau: hiền nhân quân tử và tiểu nhân. Trong xã hội chịu ảnh hưởng Nho giáo thì con người hiền nhân quân tử được đề cao, coi là bậc thầy, mẫu mực của mọi người. Còn tiểu nhân là những con người tầm thường, bê bối, và nếu hiểu trong tinh thần Kitô giáo, thì ta hiểu tiểu nhân là những kẻ tội lỗi. Những kẻ tiểu nhân, những kẻ vũ phu có những hành động vụt chạc, thiếu suy nghĩ, không cầm được mình, khi bị sỉ nhục là tuốt gươm xông đánh kẻ thù, giống như trường hợp anh chàng Tân Ti Tụ; còn người quân tử thì hiếu dũng không thèm chấp nhặt những sỉ nhục ấy, họ bình tĩnh đón nhận một cách vui vẻ như hiền triết Socrates.
Vì thế, người đời coi tha thứ là đặc tính của người trượng phu, anh dũng:
Đấng trượng phu đừng thù mới đáng,
Đấng anh hùng đừng oán mới hay.
Truyện: Trả thù làm chi ?
Văn hào Nga ông Leon Tolstoi có kể chuyện ngụ ngôn như sau: Có một người hành khất nọ đến trước cửa nhà người giàu có để xin bố thí một đồng xu nhỏ hay một miếng bánh vụn, đó là tất cả những gì người ăn xin chờ đợi. Nhưng, mặc cho người khốn khổ van xin, người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Đến một lúc không chịu nổi những lời van xin, thay vì bố thí, người giàu đã lấy đá ném vào con người khốn khổ.
Người hành khất lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho vào bị rồi thì thầm trong miệng: “Ta mang hòn đá này cho đến ngày nhà ngươi sa cơ thất thế. Ta sẽ dùng nó để ném trả lại ngươi”.
Năm tháng qua đi. Lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự thật. Vì biển lận, người giàu có bị tước đoạt tất cả và bị tống giam vào ngục. Ngay hôm đó, người hành khất chứng kiến cảnh áp giải người giàu có vào tù. Nỗi căm hờn sôi sục trong lòng. Ông đi theo đoàn người áp tải. Tay không rời khỏi hòn đá mà người giàu có đã ném vào người ông cách đây mười mấy năm.
Ông muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa sạch mối nhục đeo đẳng bên ông. Nhưng cuối cùng, nhìn thấy khuôn mặt tiều tuỵ đáng thương của kẻ đang bị cùm tay, người hành khất thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự nhủ: “Tại sao ta phải mang nặng hòn đá này từ bao nhiêu năm qua ? Con người này, giờ đây, cũng chỉ là một con người khốn khổ như ta”.
13/06 Nước Thiên Chúa phát triển
- Viết bởi Mc 4, 26-34
Nước Thiên Chúa phát triển.
Chúa Nhật tuần 11 Thường Niên năm B.
"Người kia đã gieo hạt xuống đất, rồi đi ngủ, hạt giống mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết".
Lời Chúa: Mc 4, 26-34
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: “Nước Thiên Chúa giống như người kia đã gieo hạt xuống đất: người đó ngủ hay thức, đêm hay ngày, hạt giống cứ đâm mầm và mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết nữa. Đất tự nó làm cây lúa mọc lên: trước hết thành cây, rồi đâm bông, rồi kết hạt. Và khi lúa chín, người ấy liền gặt vì đã đến mùa”.
Người còn phán: “Chúng ta sẽ lấy gì mà hình dung Nước Thiên Chúa? Hay dùng dụ ngôn nào mà so sánh Nước đó được? Nước đó giống như hạt cải, khi gieo xuống đất thì nhỏ bé nhất trong tất cả các hạt trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, nó mọc lên thành cây rau lớn nhất, và đâm những cành to, đến nỗi chim trời có thể tới núp bóng được”.
Người dùng nhiều dụ ngôn như thế mà rao giảng Lời Chúa cho họ, tùy sức họ có thể hiểu được và Người chỉ nói với họ bằng dụ ngôn, nhưng khi ở riêng với các môn đệ, Người giải thích tất cả cho các ông.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 11 THƯỜNG NIÊN – B
Lời Chúa: Ed 17, 22-24; 2Cr 5, 6-10; Mc 4, 26-34
1. Bông lúa trĩu hạt
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Một người có cái nhìn bi quan về Hội Thánh
chắc sẽ tìm được nhiều dữ kiện để chứng minh.
Tại một số nước phương Tây, có nhiều nhà thờ vắng người,
chủng viện thiếu chủng sinh, tập viện tạm đóng cửa.
Kitô hữu càng lúc càng chiếm tỉ lệ nhỏ trong tổng số dân trên thế giới.
Có những khủng hoảng đức tin trong giới trẻ.
Người ta tự hỏi Hội Thánh đã lỗi thời chưa.
Có cần phải tin vào Đức Kitô nữa không?
Vào thời thánh Mác-cô viết sách Tin Mừng,
cũng có những Kitô hữu bi quan về Hội Thánh.
Hội Thánh ở Rôma chỉ là một thiểu số nhỏ nhoi
chịu bách hại dưới ách của bạo chúa Nê-rô.
Liệu Hội Thánh có tồn tại và phát triển không
dưới sức mạnh hùng hậu của đế quốc?
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta niềm lạc quan.
Đó là hai dụ ngôn về Nước Thiên Chúa,
cũng là hai dụ ngôn về hạt giống.
Trong dụ ngôn thứ nhất, hạt giống được gieo xuống đất
là bắt đầu nảy mầm và lớn lên,
theo một tiến trình không gì ngăn cản nổi.
Trước hết mọc lên thành cây lúa,
rồi trổ đòng đòng và sau cùng thành bông lúa trĩu hạt.
Tự nó, hạt giống mang một sức sống mạnh mẽ.
Nó lớn lên cả đêm lẫn ngày, chẳng cần con người can thiệp.
Có cái gì mầu nhiệm trong sự tăng trưởng này
khiến chính người gieo cũng không sao hiểu nổi.
Một cách âm thầm, chậm rãi nhưng vững vàng,
hạt lúa đạt đến kết quả mỹ mãn.
Dụ ngôn thứ hai lại cho thấy một sự tương phản.
Nước Thiên Chúa như một hạt cải nhỏ xíu,
vậy mà theo thời gian, nó mọc lên thành cây,
và cây này lớn hơn mọi thứ cây cỏ khác.
Hạt bé nhất lại cho cây lớn nhất.
Nước Trời khởi đầu bằng Đức Giêsu
và một nhóm nhỏ môn đệ làm nghề chài lưới.
Sau hai mươi thế kỷ, Kitô giáo đã lan khắp thế giới, đến với mọi dân tộc.
Tuy nhiên, Nước Trời chỉ đến trọn vẹn vào ngày cánh chung.
Thái độ ta phải có là kiên nhẫn chờ đợi.
Hạt giống nào cũng phải vùi sâu dưới đất,
và phải đương đầu với những khó khăn khi thành cây.
Có lúc ta thấy nó như bị chững lại hay suy thoái.
Có lúc ta sợ nó không đứng vững trước bão bùng.
Đây là lúc ta phải sống niềm tin:
tin rằng Thiên Chúa sẽ đưa Nước Ngài đến thành tựu,
bất chấp những khiếm khuyết và cản trở của con người.
Đừng nản chí mà ngừng gieo vãi hạt giống Lời Chúa,
dù nhiều khi chúng ta không thấy hạt giống lớn lên.
Gợi Ý Chia Sẻ
Ở Việt Nam, Kitô hữu chỉ là thiểu số. Bạn nghĩ gì về sự đóng góp của các Kitô hữu Việt Nam cho quê hương đất nước hôm nay?
Theo bạn, những người ngoài Kitô giáo nghĩ gì về chúng ta? Họ có thiện cảm hay ác cảm? Chúng ta cần phát huy thêm tinh thần nào để gần gũi hơn với đa số đồng bào?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
xin thương nhìn đến Hội Thánh là đàn chiên của Chúa.
Xin ban cho Hội Thánh sự hiệp nhất và yêu thương,
để làm chứng cho Chúa giữa một thế giới đầy chia rẽ.
Xin cho Hội Thánh không ngừng lớn lên như hạt lúa.
Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước,
đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên.
Ước gì Hội Thánh trở nên men
được vùi sâu trong khối bột loài người
để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh.
Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp
để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ.
Xin cho Hội Thánh trở nên bàn tiệc của mọi dân nước,
nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do.
Cuối cùng xin cho chúng con biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời,
nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh.
Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian,
nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. Amen.
2. Hãy góp phần mình làm phát triển Nước Thiên Chúa
(Suy niệm của Huệ Minh)
Đang ở trong trần gian, chịu ảnh hưởng của trần gian ấy vậy mà phải nghe chuyện Nước Thiên Chúa! Như thế, có phải là viễn vông hay nói cách khác là vớ vẩn hay không?
Xem chừng ra cũng vớ vẩn đấy chứ! Bởi lẽ trong nhiều cách diễn tả về Nước Thiên Chúa thì Chúa Giêsu dùng hình ảnh này, hình ảnh kia. Có khi Chúa lại ví Nước Thiên Chúa như viên ngọc quý được chôn trong thửa ruộng và người khôn thì biết cách về để bán tất cả mọi sự để mua cho bằng được cái thửa ruộng có viên ngọc quý đó. Có khi Nước Thiên Chúa lại được ví như tí men trong bột dù rằng chỉ một dúm men nhưng làm cho đống bột dậy nên.
Và, hôm nay, Chúa là dí dỏm và vó von Nước Thiên Chúa như hạt cải. Thoạt tiên, ta cũng khó nghĩ bởi lẽ cây cải thì có gì để đáng nói. Thế nhưng, ở đất nước Palesitine thì cây cải khác ở nhiều nước trong đó có cả Việt Nam.
Nhà khảo cổ về Kinh Thánh đã viết trong quyển sách: “Xứ Thánh và Kinh Thánh” như sau: “Tôi đã thấy cây cải trong cánh đồng phì nhiêu ở Akkar (Trung Đông), nó cao bằng con ngựa. Tôi đã nhổ được một cây cao hơn bốn mét. Nơi những cây cải này, có những đàn chim đến bu quanh để ăn những hạt cải đen”.
Và như vậy, Với sự cao lớn của cây cải như thế, thì hình ảnh “cành lá sum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ” là điều rất dễ hiểu. Từ cây cải cụ thể trong đời thường, Chúa Giêsu muốn dẫn đưa mọi người đến một thực tại vô hình, đó là sự lớn mạnh và phát triển không ngừng của Nước Thiên Chúa.
Chúa Giêsu thật sự đã không nói quá với sự thật mà Chúa muốn diễn tả, muốn trình bày, muốn bày tỏ về Nước Thiên Chúa như vậy. Sự thật vẫn là sự thật khi khởi đầu Nước Thiên Chúa chỉ với 1 dúm nhỏ 12 môn đệ. Và, cái khó là trong cái nhóm 12 đó cũng không phải là hoàn hảo, cũng không phải là tròn vẹn.
Nhìn lại một chút, có quá đáng chăng khi nói 12 cột trụ của Giáo Hội, của Nước Thiên Chúa lại được xây trên 12 cột móng mà 12 cột móng đó lại là 12 tính cách, 12 con người hoàn cảnh, 12 suy nghĩ... để rồi tất cả đều hiệp nhất, yêu thương nên một để xây dựng Hội Thánh.
Trong nhóm 12 đó, chỉ trừ Giuđa là người đã “rẽ đường” khác để mà đi. Còn lại, 12 môn đệ sau khi đã có Barnaba thay thế Giuđa đã làm nên chuyện.
Giáo Hội trải qua biết bao nhiêu thăng trầm của lịch sử cũng đã trải qua biết bao nhiêu thử thách để tồn tại. Trong niềm tin, cửa hỏa ngục cũng như ma quỷ dù thế nào đi chăng nữa vẫn không thắng được Nước Thiên Chúa.
Và, như Chúa Giêsu đã hơn một lần nói rằng muốn vào Nước Thiên Chúa phải vào cửa hẹp. Những ai đã không đủ can đảm, không đủ nhẫn nại, không đủ kiên nhẫn chắc chắn sẽ không được vào, sẽ không có chỗ để mà “làm tổ dưới bóng” như Chúa Giêsu mời gọi.
Ngày nay, ngày xưa và ngày nào cũng thế! Vẫn còn đó, vẫn có đó sự giằng co giữa những người đi tìm Nước Thiên Chúa và những con người đi tìm nước thế gian. Nước thế gian, thật sự ngay tầm tay với và quá gần để người ta nhìn thấy, người ta dễ nắm bắt trong tay để rồi người ta mãi miết đi tìm cái nước của trần gian này dẫu rằng người ta vẫn thường biết thế gian này không bền vững.
Bằng chứng hết sức cụ thể trong cuộc đời chúng ta, chúng ta cứ nhìn lại ngay cả ông bà cha mẹ của chúng ta, những người ngày xa xưa rất thân với ta nay không còn nữa. Họ đi đâu? Họ đã đi vào thiên cổ và không còn ai thấy họ được nữa. Ta cũng thế! Một ngày nào đó ta cũng ra đi như họ để tìm về Nước Thiên Chúa.
Vả lại, thật sự mà nói thì bả phù hoa thế gian có quá nhiều điều hay để ta mãi miết đi tìm và không còn tha thiết chuyện thế gian nữa.
Ngày nào cũng thế, thời nào cũng thế, người ta đi tìm danh vọng và vật chất để rồi danh vọng và vật chất làm cho người ta không còn sức mạnh, không còn ý chí đi tìm và xây dựng Nước Thiên Chúa nữa. Nhất là thời nay, khi chủ nghĩa vật chất lên cao, khi chủ nghĩa cá nhân quá lớn để rồi không còn tình yêu thương giữa anh chị em đồng loại và nhất là trong gia đình của mình.
Phải nói rằng như quá nhiều lần như Chúa Giêsu nói Nước Thiên Chúa như lúa mọc và kèm theo đó có cỏ lùng. Nước Thiên Chúa có đó nhưng sự dữ thế gian vẫn chen vào. Và khi đó, ta lại được mời gọi sống niềm tin vào Nước Thiên Chúa, sống diễn tả mầu nhiệm Nước Trời.
12 người đã đi khắp thế gian để loan báo Tin Mừng, để loan báo về Nước Trời. Ta cũng thế, ta cũng được mời gọi cũng là cho Nước Thiên Chúa được triển nở trong đời ta, ngay trong cách hành xử của ta.
Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta để ngày mỗi ngày ta góp một chút xíu phần của ta vào cho công trình Nước Trời ngày càng lớn mạnh và Nước Cha trị đến.
3. Tin tưởng – kiên nhẫn
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Ở Trung Quốc có một loại tre kỳ lạ trồng bằng hạt. Nó nằm trong lòng đất suốt 5 năm rồi mới ló chồi non lên trên mặt đất. Thế nhưng một khi đã trồi lên khỏi mặt đất thì chỉ trong vòng sáu tuần, nó mọc lên cao tới 5 mét. Các chuyên gia cho rằng suốt thời gian 5 năm trong lòng đất, hạt giống của loại tre ấy đã hình thành một hệ thống rễ phức tạp. Nhờ hệ thống rễ này, mầm non có thể tăng trưởng một cách mau chóng như vậy.
Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng hai hạt giống: Lúa và Cải để nói đến hạt giống Nước Trời. Nước Trời và Lời Chúa cần một thời gian dài nẩy mầm, bén rễ sâu vào Thiên Chúa hầu có đủ sức của Chúa Thánh Thần, đủ dữ dinh dưỡng là ơn Chúa thì chắc chắn cây đời sống đức tin của chúng ta mọc lên mạnh mẻ và sinh nhiều hoa thơm trái tốt cho đời và cho Đạo, đó mới là điều đẹp lòng Thiên Chúa.
Đôi khi thời gian này quá lâu khiến chúng ta băn khoăn tự hỏi: không biết hạt giống Nước Trời và Lời Chua được gieo vào tâm hồn ta trong ngày nhận bí tích Rửa Tội đã bén rễ chưa? Hay đã bị sỏi đá và gai góc là tội lỗi bóp nghẹt chết rồi? Vậy nếu sống thì sống như thế nào? Có trổ bông hạt hay không? Hay cây chỉ có lá sum suê mà chẳng có trái nào?
Thiên Chúa đã gieo Hạt giống Nước Trời (Chân, Thiện, Mỹ) và hạt giống Lời Chúa (Các điều răn và Tám Mối Phúc) trong lòng chúng ta khi chúng ta chịu phép Rửa Tội. Ngài biết tất cả đã, đang sẽ xảy ra nơi con người chúng ta, còn chúng ta lúc biết lúc không. Cho nên, chúng ta phải tin tưởng phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa, đồng thời cần phải kiên nhẫn chăm sóc chúng.
Vì vậy, nhiều khi hạt giống Nước Trời và Lời Chúa xem ra như không phát triển gì cả trong chúng ta, nghĩa là chúng ta dường như chẳng chân thực, thánh thiện và đẹp về nhân cách lẫn tâm hôn hơn tí nào, nhiều khi còn tệ hơn trước. Ví dụ, mấy tuần qua dân Việt Nam phẫn nộ vụ nhiều người mẫu, diễn viên tham gia đường dây bán dâm cùng á khôi. Mà những ngưới đẹp chân dài này là những người đã từng đoạt giải trong các cuộc thi sắc đẹp quốc gia đàng hoàng. Ấy thế, mà người đẹp nhưng mất nết, đáng bị nguyền rủa!
Còn đối với chúng ta, Chúa Giêsu đến rao giảng và kêu gọi làm cho Nước Thiên Chúa trị đến, thế mà hơn 2000 năm đã trôi qua, dường như Nước Thiên Chúa vẫn còn quá xa. Hội Thánh nỗ lực xây dựng vương quốc của tình yêu, công lý và hoà bình. Nhưng tội lỗi vẫn còn đó, lòng hận thù, bất công vẫn còn đó trong xã hội, giáo xứ hay gia đình mình. Trong bối cảnh đó, đôi lúc chúng ta không khỏi ưu tư và thất vọng, mất kiên nhẫn. Chúng ta đừng nản lòng. Tốt hơn chúng ta nên tiếp tục vun xới nhưng hạt giống trong chúng ta bằng việc cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích chắc chắn sẽ có hoa có trái thơm cho đời mình và tha nhân. Vì chưng, Ngôn sứ Ê-dê-ki-en trong bài đọc 1 khẳng định rằng: “Tất cả cây cối ngoài đồng ruộng sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA. Ta hạ thấp cây cao và nâng cao cây thấp, Ta làm cho cây xanh tươi phải khô héo và cây khô héo được xanh tươi.
Chính Ta là ĐỨC CHÚA, Ta đã phán là Ta thực hiện” (Ed 17,24).
Thánh Vinh Sơn – Phaolô nói: “Công việc của Chúa được thực hiện từ từ và không hay biết”. Chúng ta đừng sốt ruột, đừng ai tự cho mình là thiện toàn hoàn hảo. Cũng đừng quá vội vã, quay cuồng, lo lắng vì thấy hoạt động tông đồ hay kinh nguyện của mình không có linh nghiệm gì! Cũng đừng thất vọng khi không thấy kết quả trước mắt. Thái độ nôn nóng đôi khi là dấu hiệu của sự kiêu hãnh vì nghĩ rằng việc đạo đức của mình là do công lao của mình. Không biết kiên nhẫn đợi chờ có thể dẫn chúng ta đến những chọn lựa nghịch với Tin Mừng để tìm sức mạnh của quyền lực, giàu sang, và dối trá và chắc chắn không sớm thì muộn sẽ gặp phải thất bại. Vì vậy, Thánh Phaolô trong bài đọc 2 nói rằng: “Chúng tôi biết rằng: ở lại trong thân xác này là lưu lạc xa Chúa, vì chúng ta tiến bước nhờ lòng tin chứ không phải nhờ được thấy Chúa... Vậy, chúng tôi luôn mạnh dạn, và điều chúng tôi thích hơn, đó là lìa bỏ thân xác để được ở bên Chúa” (1Cr 6,6-8).
Vì thế hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cộng tác trong niềm tin. Tin vào quyền năng của Thiên Chúa. Tin vào sự hướng dẫn của Chúa đối với cuộc sống ta. Niềm tin mời gọi chúng ta tiến bước, bền chí sống Lời Chúa vì biết rằng: “Tôi trồng, Apôlô tưới, còn Thiên Chúa mới là người làm cho mọc lên” (1Cr 3,6). Tôi chỉ góp phần rất bé nhỏ, còn Thiên Chúa mới làm cho hạt giống Nước Chúa lớn lên theo cách của Thiên Chúa. Chỉ cần chúng ta khiêm nhường nép bên vào Chúa, chính lúc đó dù ta có tội- Chúa cho sạch, ta yếu Chúa cho ta mạnh, Ngài làm đẹp chúng ta từ trong ra ngoài.
Trong Thánh lễ, chúng ta được đón nhận Lời Chúa và Thánh Thể. Chúa Giêsu chính là hạt giống Nước Trời được gieo vào lòng ta. Hạt giống ấy hôm nay nhỏ bé nhưng sẽ âm thầm lớn lên trong chúng ta. Có Chúa sống trong ta, cuộc đời ta sẽ trổ sinh hoa trái, xanh tươi, hoa lá cành, đem lại bóng mát đó là niềm tin và hạnh phúc cho mọi người qua cung cách sống đạo của chúng ta trong đời sống hằng ngày.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con kiên tâm và vững chí làm cho cây đức tin của chúng con sống dồi dào và sinh nhiều trái tốt cho Nước Chúa. Amen.
4. Sức mạnh kỳ diệu của hạt giống
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.)
Tin mừng Mc 4:26-34: Mỗi người Kitô Hữu cũng là những hạt giống mà Chúa đã gieo vào lòng đất Việt qua việc lãnh nhận Bí tích Rửa Tội.
Ngày 19/06/2018, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam hân hoan khai mạc Năm Thánh, kỷ niệm 30 năm ngày phong thánh cho Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Đậy là một sự kiện quan trọng, đánh dấu sự trưởng thành ân sủng và đức tin của Giáo Hội Việt Nam. Chính vì điều này mà trong thư công bố Năm Thánh, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã viết: “Năm Thánh 2018 mời gọi mọi tín hữu chiêm ngắm và học hỏi gương sống đức tin của Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Việc học hỏi này vừa giúp chúng ta hiểu biết hơn về lịch sử Hội Thánh và Các Thánh Tử Đạo, vừa thúc đẩy chúng ta noi theo gương sống của các ngài”; bên cạnh đó, “Năm Thánh 2018 nhắc nhở và thúc đẩy tất cả chúng ta sống tinh thần tử đạo trong môi trường hiện nay. Bằng cái chết của mình, Các Thánh Tử Đạo đã làm chứng trước mặt vua chúa, quan quyền và mọi người rằng Nước Trời là ‘kho tàng chôn giấu trong ruộng’ và ‘ngọc quý vô giá’ nên khi tìm được, các ngài sẵn sàng bán tất cả những gì mình có, kể cả mạng sống, để ‘mua thửa ruộng và ngọc quý đó’ (x. Mt 13,44-46). Ngày nay, các Kitô hữu cũng được kêu gọi sống tinh thần hi sinh, từ bỏ theo bậc sống của mình để làm chứng cho Chúa và Tin Mừng Nước Trời”.
Khi tôn vinh Các Thánh Tử Đạo Việt Nam như vậy, Giáo Hội ca ngợi sự hy sinh cao quý của các thánh. Bởi vì các ngài đã chấp nhận trở thành hạt giống gieo vào lòng đất, thối đi và mọc lên để trở thành những cây to lớn mang lại hoa trái dồi dào cho Giáo Hội. Các ngài đã hy sinh tất cả, đánh đổi tất cả để làm vinh danh Chúa và phần rỗi của các linh hồn.
Có thể nói: các ngài chính là những hạt giống âm thầm, bền bỉ, trung kiên, nhỏ bé nhưng mãnh liệt.
1. Ý nghĩa các dụ ngôn
Hôm nay, qua Bài Tin Mừng, Đức Giêsu dùng dụ ngôn để nói cho dân chúng biết về mầu nhiệm Nước Trời.
Trước tiên là dụ ngôn người gieo giống. Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn nhấn mạnh đến sự kiên trì của người gieo và sức mạnh nội tại của hạt giống. Ngài nói: Hạt giống được gieo xuống đất, đêm hay ngày, người gieo dù ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nảy mầm, mọc lên và sinh hoa kết quả (x. Mc 4, 27-28).
Khi khẳng định điều này, Đức Giêsu muốn dạy cho dân chúng và nhất là các môn đệ bài học về sự sống tiềm tàng của hạt giống. Người gieo phải kiên trì, khiêm nhường và tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa. Lòng nhiệt tình của người nông phu sẽ được đến đáp xứng đáng. Bởi vì, việc hạt giống mọc lên và sinh hoa kết trái vượt ra xa khỏi tầm kiểm soát của con người.
Sống trong một hoàn cảnh như thế, người môn đệ sẽ nhận ra quyền năng của Thiên Chúa để cậy trông vào Người. Đây là tiến trình trưởng thành của đức tin. Điều này phù hợp với giáo huấn của thánh Phaolô: “Phaolô trồng, Apolô tưới, nhưng chính Thiên Chúa mới làm cho mọc lên (1Cr 3,6)”.
Thứ đến, Đức Giêsu dùng dụ ngôn hạt cải để nói về Nước Trời. Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn trình bày Nước Trời dưới một góc độ khác! Hạt cải nhỏ bé ở đây chính là Giáo Hội. Một Giáo Hội khởi đi từ nhóm người hết sức nhỏ bé vỏn vẹn chỉ có 12 người. Rồi hạt cải ấy bị biết bao khó khăn trù dập…. Ấy thế mà hạt cải vẫn lớn lên và to cao lạ thường, đến nỗi chim trời đến làm tổ và cư ngụ ở đó cách an toàn.
Điều kỳ diệu này cũng được tiên tri Ezekien nói đến trong bài đọc I hôm nay, ngài nói:“Từ ngọn cây hương bá cao chót vót, ta sẽ ngắt một chồi non. Ta sẽ trồng nó trên đỉnh núi cao, nó sẽ trổ cành kết trái thành cây hương bá huy hoàng. Ta hạ thấp cây cao và nâng cao cây thấp” (x. Ed 17, 22 - 24).
Lời tiên báo này, vị tiên tri muốn nói đến đường lối của Thiên Chúa thật phi thường không ai có thể ngờ được.
Còn với thánh Phaolô, qua Bài đọc II, ngài đã xác định yếu tố cần thiết để hạt giống đức tin được lớn lên và trưởng thành, đó là: hãy ra khỏi thân xác ích kỷ và hưởng thụ, để được gần Thiên Chúa và thuộc về Người. Nói cách khác, thánh nhân nhấn mạnh đến việc: hạt giống tâm hồn của chúng ta được lớn lên là nhờ ơn Chúa và sự nỗ lực không ngừng. Một sự hy sinh liên lỷ. Tất cả những cộng góp đó, làm cho đức tin lớn mạnh và vững vàng….
2. Bài học cho người Kitô Hữu Hữu
Dựa trên ý nghĩa hai dụ ngôn, chúng ta lần dở lại lịch sử cứu độ, nhất là lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, hẳn ai cũng thấy: có những lúc Giáo Hội luôn gặp những thử thách từ nhiều phía. Thế nhưng, sự kiên trì và dũng cảm của các bậc tiền nhân đã làm cho hạt giống đức tin được lớn mạnh không ngừng và trổ sinh hoa trái thật xum xuê như hiện nay.
Sự lớn mạnh như vậy, không hệ tại nơi con người như trong bài Tin Mừng Đức Giêsu đã nói: hạt giống cứ âm thầm mọc lên. Chỉ cần có cơ hội là mở tung, phá vỡ vỏ hạt để đâm trồi nảy lộc.
Mỗi người Kitô Hữu cũng là những hạt giống mà Chúa đã gieo vào lòng đất Việt qua việc lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Hạt giống của mỗi người chúng ta đã biết bao lần gặp phải sóng gió, phong ba, bão táp ập đến. Nhưng nhờ ơn Chúa, hạt giống đức tin ấy vẫn lớn lên ngay trong những thử thách và đã trổ sinh nhiều hoa trái thiêng liêng.
Tuy nhiên, vẫn còn đó biết bao hạt giống chưa chịu bức phá ra khỏi cái vỏ hạt xù xì xấu xa của mình để vươn lên đón ánh mặt trời và lớn lên như những hạt giống khác.
Sự khác biệt giữa mọc lên và nằm yên chính là việc có chấp nhận vượt ra khỏi vỏ bọc ích kỷ, tự phụ, kiêu căng để sẵn sàng bung ra với sự kiên trì, can đảm, nhằm đạt được những hoa trái thánh thiện và tốt lành của những đức tính như bác ái, từ bi, nhân hậu hay không?
Có sẵn sàng vượt ra khỏi định kiến cá nhân, bảo thủ, để nghĩ đến người khác như: vợ chồng, con cái biết nghĩ, biết sống cho nhau và vì nhau? Mái nhà của gia đình có thực sự là nơi an toàn để mọi thành viên hưởng nếm sự ngọt ngào của yêu thương, sự quan tâm và lòng liên đới hay là nơi cắn xé, chửi bới, la rày nhau?
Bao lâu trong mái nhà ấy, mỗi thành viên chưa nghiệm thấy và đụng chạm được sự bình an, hạnh phúc và niềm vui, thì bấy lâu gia đình ấy là hỏa ngục, nơi chôn giấu những hạt giống ích kỷ, vụ lợi, thực dụng, kiêu ngạo.
Ngược lại, mỗi người hãy làm cho gia đình mình chan chứa niềm vui khi mỗi người là những cành yêu thương, hoa nhân ái và quả đạo đức.
Được như vậy, mỗi gia đình là cung thánh của lòng thương xót, để nơi ấy, tình thương của Thiên Chúa được diễn đạt rõ nét cho anh chị em xung quanh. Là nơi an toàn cho những cánh chim đang mỏi mệt, thất vọng. Nói cách khác, khi sống xứng đáng là người Kitô Hữu thực thụ với những đặc tính yêu thương bác ái, chúng ta sẽ là nơi nương tựa của những người đau khổ, bất hạnh, bị bỏ rơi, những người cô thế cô thân, những người bị áp bức bóc lột, đói khát bần cùng. Trở thành điểm tựa và niềm hy vọng cho những ai đang đánh mất niềm tin, đang xa đọa vào những con đường tội lỗi để dẫn đưa họ về với Chúa.
Có thế, chúng ta mới thực sự làm cho Nước Chúa lan rộng khắp nơi và lớn mạnh không ngừng như hạt cải tuy nhỏ bé, nhưng lớn lên vĩ đại.
Lạy Chúa Giêsu, hạt giống nơi tâm hồn mà Chúa đã gieo vào lòng mỗi người ngày chúng con lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, Chúa mong ước cho hạt giống ấy mọc lên để thành những cây cao lớn làm nơi nương ẩn cho những ai cần đến.
Tuy nhiên, chúng con đã hồ đồ, ích kỷ, kiêu ngạo và không kiên định, nên làm cho hạt giống mà Chúa đã tin tưởng gieo vào tâm khảm chúng con bị chết nghẹt nơi thửa đất cằn khô sỏi đá. Xin Chúa tha thứ và ban ơn giúp sức, để chúng con kiên trì, can đảm vươn ra khỏi những vỏ bọc an toàn tạm thời để làm cho danh Chúa được cả sáng, Nước Chúa được trị đến trên khắp hoàn cầu. Amen.
5. Hạt giống nhỏ nhất trở nên cây lớn nhất
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Đến trong trần gian, Chúa Giêsu chỉ có một ý nguyện duy nhất là thiết lập Nước Thiên Chúa hay Triều đại của Thiên Chúa. Vì thế, trong việc rao giảng, Ngài thường nói đến vấn đề này theo nhiều cách, nhưng phần lớn Ngài dùng dụ ngôn.
Dụ ngôn là những hình ảnh rút ra từ cuộc sống hằng ngày, được trình bày dưới dạng thức một câu chuyện để khơi lên trong tâm trí người nghe một suy nghĩ nào đó, giúp họ đặt lại những vấn đề của họ. Chúa Giêsu thường sử dụng những hình ảnh của cuộc sống bình thường như hạt giống, muối, ngọn đèn, ruộng lúa, kho tàng… để lồng khung những giáo huấn của Ngài.
Hôm nay, Giáo Hội mời chúng ta suy nghĩ về hai dụ ngôn ám chỉ Nước Trời: dụ ngôn hạt giống và hạt cải.
Nước Trời tương tự như một người nông dân gieo hạt. Gieo xong, dù người ấy ngủ hay thức, ngày hay đêm, hạt giống cứ tự mình từ từ nẫy mầm, lớn lên và sinh hoa kết quả.
Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, nhỏ bé hơn nhưng hạt giống khác, khi lớn lên thì thành cây to đến nỗi có thể cho chim trời đến làm tổ trên cành.
Hai dụ ngôn chứa tràn đầy niềm hy vọng.
Hạt giống nhỏ bé được trao phó cho mảnh đất… nó vẫn nẫy mầm, triển nở và sinh bông hạt, không cần đến sự trợ giúp nào.
Sức sống mãnh liệt ẩn chứa trong sự nhỏ bé, và có thể tự mình vươn lên và sinh hoa quả.
Hạt cải nhỏ bé vẫn có thể thành cây to.
Nước Trời là thế đó.
Nước Trời không là một lực lượng hùng hậu chinh phục thế giới bằng vũ lực, mà chỉ là một hạt giống nhỏ thôi.
Chúng ta mơ tưởng những ngày vinh quang. Chúng ta mãn nguyện vì những thành công bên ngoài, những lễ hội rình rang, những đám đông rầm rộ…
Chúa Giêsu không ở trong đám đông, cũng không có mặt nơi con người tự tìm thấy vinh quang trong những lúc phô trương lực lượng.
Ngài sinh ra nơi Bêlem nghèo khó, vô danh… Ngài là hạt lúa được gieo vào mảnh đất nhân loại.
Chúng ta mơ những thành công rực rỡ, nhưng con số báo cáo thật kêu, còn Chúa Giêsu chỉ là một tử tội bị bêu trên thập giá. Thất bại tang thương! Bị chôn vùi trong mảnh đất Palettin, nhưng trong Ngài, trong con người bị chống đối, bị khinh khi, bị ruồng bỏ, có một sức sống mãnh liệt đang tiềm tàng, sức sống của tình yêu.
Tình yêu không lộ diện, không chói sáng. Tình yêu như một vì sao nhỏ nhưng mãnh liệt: “Đừng sợ! Thầy đã thắng thế gian”.
Hạt giống chính là Tình yêu chứa đựng một sức năng động nội tại, có thể tự mình nẫy mầm và tăng trưởng, không cần một trợ lực nào. Người nông dân không biết vì sao nó mọc lên, vì đâu nó sinh hoa trái.
Chúng ta chỉ cần gieo nó vào lòng đất và đợi chờ đến ngày thu hoạch.
Chúa Giêsu chính là hạt giống đầu tiên của một nhân loại mới. Ngài là mầm sống bất diệt.
Thời thánh Maccô, Giáo Hội Rôma đang bị bách hại triệt để.
Nhiều người e sợ, giáo dân phải trốn chui trốn nhủi. Đó là hạt giống đầu tiên của Giáo Hội được gieo vào mảnh đất nhuốm máu, nhưng hạt giống vẫn mọc lên. Khi trời bước vào mùa xuân, khi ánh sáng tự do ló dạng, mùa gặt đã bội thu.
Giáo Hội Việt Nam cũng chịu bách hại suốt cả trăm năm, nhưng hạt giống đức tin vẫn âm thầm lặng lẽ mọc lên, và sinh hoa kết quả.
Chúa Giêsu luôn bảo: “Đừng sợ!”
Chúa Giêsu phải qua bao đau khổ mới đến vinh quang. “Giữa thế gian, chúng ta vẫn gieo trong nước mắt. Con thuyền Giáo Hội đang đi trên biển đời, làm sao không bị sóng gió? Nhưng tình yêu vẫn là sức mạnh không sóng gió nào dập tắt được. Đừng mơ mộng những ngày yên lành tươi vui, nhưng hãy đứng vững kiên trì. Vững tin vào Đấng đã chết và sống lại cho chúng ta. Bao lâu còn Chúa Giêsu, chúng ta không buồn nản vì “thù trong giặc ngoài”. Chính những cơn bách hại, rõ ràng hay tiềm ẩn, lại là yếu tố giúp chúng ta can đảm.
Dụ ngôn hạt cải cũng chứa chan hy vọng.
Hạt giống nhỏ bé mọc lên thành cây lớn.
Khởi đầu khiêm nhượng, chôn vùi trong âm thầm suốt 30 năm trong làng Nadaret, sau đó tươi nở được mười một nhánh, hôm nay thành một cây cổ thụ, chim trời có thể làm tổ yên lành, líu lo…
Chúng ta không đắc thắng nhưng tin cậy. Chúng ta không là những trẻ mồ côi bị bỏ rơi trên đường. Chúng ta có lời hứa: “Thầy sẽ không để các con mồ côi, Thầy sẽ đến cùng các con”. “Thầy sẽ ở cùng các con cho đến tận thế”.
Chúng ta có lương thực thần linh để bước tới: “Nầy là Mình Thầy, hãy cầm lấy mà ăn”.
Và chúng ta có nhiệm vụ phải làm cho Nước Trời triển nở và sinh nhiều hoa trái. Chúng ta đang mang trong chúng ta kho tàng Nước Trời, phải mang cho mọi người quanh chúng ta kho tàng vô giá đó.
Chúng ta có thể làm cho Nước Trời triển nở khi có một tâm hồn tội lỗi trở về với Đấng đang kêu gọi họ; Khi những nữ tu hay những người thiện chí tận tâm lo cho những người khốn khổ thoát khỏi những cơn quẩn bách, nghèo khổ, bị bệnh liệt kháng, hay bệnh cùi… Nước trời tiếp tục triển nở khi chúng ta dám nâng đỡ những người đang bị bỏ rơi, khi chúng ta dám tha thứ cho những người nhục mạ chúng ta… Khi có ai đó ngồi lặng trước nhà tạm để lắng nghe tiếng thì thầm yêu thương của Chúa… Tất cả những hành vi bác ái của chúng ta sẽ làm cho Nước Trời triển nở, vì Nước Trời chính là Tình Yêu.
Chúng ta không thể gói Nước Trời trong một tấm khăn tay. Tình Yêu không thể giữ trong một bình sành, nhưng tình yêu phải được san sẻ, phải cho đi. Bao lâu chúng ta không biết cho đi, chúng ta vẫn khóa chặt Nước Trời trong lâu đài ích kỷ nhỏ nhen của chúng ta. Hãy là con chim trời bay vút trên cao để hòa mình vào ánh sáng của mặt trời và làm sống động khung trời bao la im lặng. Hãy nói lên tiếng nói yêu thương trong cuộc sống, nhờ đó Nước Trời được rộng mở cho ai muốn lắng nghe.
Nước Trời chính là Giêsu được trao ban nhưng không cho mọi người.
6. Thử thách và đức tin
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay muốn nhắn gởi chúng ta những gì? Dụ ngôn hạt giống âm thầm mọc lên nhấn mạnh đến sức nuôi sống khó cưỡng lại của đất. Đất làm cho hạt giống nẩy mầm, mọc lên thành cây rồi đâm bông kết trái, xuyên qua một quá trình phát triển hài hoà. Con người chỉ đóng vai trò chủ động khi mùa gặt đến.
Dĩ nhiên hình ảnh người gieo giống gợi lên hình ảnh Chúa Giêsu. Ngài so sánh hoạt động của Người rao giảng Nước Trời với hoạt động của ông chủ trại, bằng lòng đợi ngày mùa thu hoạch. Sở dĩ như thế là vì Ngài muốn đề cao sức mạnh của công trình rao giảng của Ngài, một công trình không thể không đem lại kết quả. Khi gieo hạt giống vào những tâm hồn sẵn sàng đón nhận. Đức Kitô ban cho họ sức mạnh để đáp trả và sinh hoa kết quả.
Vả lại, ở đây cũng muốn gợi lên sự cần thiết của thời gian, của hạn kỳ Thiên Chúa hoạt động trong lịch sử, Ngài quan tâm tới sự trưởng thành nhờ tác đợng của thời gian. Khi đó, người gieo giống trở thành thợ gặt. Và dĩ nhiên thợ gặt ở đây được đồng nhất với con người.
Dụ ngôn hạt cải cũng tạo được niềm phấn khởi lạc quan. Sự lớn lên kỳ diệu của hạt cải gợi lên sự phát triển của Nước Thiên Chúa. Dùng dụ ngôn này, Đức Kitô muốn tạo niềm tin tưởng nơi các môn đệ, có lẽ lúc bấy giờ đang dao động trước những khó khăn buổi đầu của công trình rao giảng của chính Chúa Giêsu. Do đó, Ngài không ngại tưởng tượng cái không-như-thật trong cách trình bày của Ngài, khi bảo rằng hạt cải mọc lên lớn hơn các thứ rau, cành lá xum xuê đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng. Nhưng điều không như thật trên bình diện khoa học đó lại là như thật trên bình diện giáo huấn của Ngài. Thiên Chúa thích cho thấy sức mạnh của Ngài trong cái yếu đuối, mong manh của buổi ban đầu.
Để kết luận, Chúa Giêsu cho thấy rằng dụ ngôn hàm chứa trong chính nó cả một sự phong phú về mặt gợi ý và ứng dụng. Trong một hoàn cảnh có nhiều khó khăn, trong đó một số tấn công bất nhân nào đó của môi trường chung quanh hay một số suy thoái nào đó về ý thức tôn giáo, làm che khuất các cố gắng khiêm tốn, kín đáo cua những tâm hồn cao thượng, như hoàn cảnh ta đang sống, các dụ ngôn về sự tăng trưởng và phát triển của Nước Thiên Chúa mang lại một bầu khí phấn chấn, trong lành. Cũng giống như các môn đệ của Chúa Giêsu hay những người đương thời với Ngài, nhiều khi chúng ta cũng dễ dàng tỏ ra thiếu kiên nhẫn và dễ nghi ngờ sự phát triển của Giáo Hội. Thiết tưởng chúng ta nên đọc kỹ lại các dụ ngôn trên để củng cố niềm tin vào sự lớn mạnh của Giáo Hội nhất là giữa cảnh bão bùng giông tố, bởi sức phát triển bất khuất đó không do sức mạnh của con người, mà là do sức mạnh của Thiên Chúa.
Sự khẳng định kiên vững đó của đức tin sẽ hâm nóng lại niềm hy vọng của chúng ta, mang lại đà tiến cho lòng chúng ta cũng như cho phép chúng ta tiếp tục can đảm dấn thân cho Nước Thiên Chúa. Niềm hy vọng đó sẽ làm nẩy nở ước muốn của chúng ta, dạy cho chúng ta biết kiên nhẫn, biết thán phục công trình của Chúa mà nhiều khi mới nhìn thoáng qua, chúng ta không nhận ra hết được cái sức mạnh kỳ diệu của nó. Niềm hy vọng đó cũng sẽ không ngừng kích thích chúng ta trông chờ mọi sự ở Thiên Chúa bằng cách đặt mình trong thế sẵn sàng thực hiện thánh ý của Ngài.
7. Hạt giống.
Một trong những hạt giống kỳ lạ nhất trên thế giới, đó là hạt giống của một loại tre bên Trung Quốc. Nó nằm trong lòng đất suốt 5 năm rồi mới ló chồi non lên trên mặt đất. Trong khoảng thời gian này, người ta phải chăm sóc, phải tưới nước, phải bón phân đều đặn cho nó. Thế nhưng một khi đã trồi lên khỏi mặt đất thì chỉ trong vòng sáu tuần, nó sẽ mọc lên cao tới 5 mét. Các chuyên gia cho rằng suốt thời gian 5 năm trong lòng đất, hạt giống của loại tre ấy đã hình thành một hệ thống rễ phức tạp. Nhờ hệ thống rễ này, mầm non có thể tăng trưởng một cách mau chóng.
Từ hình ảnh trên chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Thực vậy, hạt giống Nước Trời cũng giống như hạt giống của loại tre Trung Quốc. Nó cần một thời gian dài trước khi trồi lên. Đôi khi thời gian này quá lâu khiến chúng ta băn khoăn tự hỏi: Liệu hạt giống Nước Trời được gieo vào tâm hồn ngày nhận bí tích Rửa Tội đã bén rễ chưa? Hay đã bị tội lỗi là như những sỏi đá và gai góc bóp nghẹt mất rồi? Nói một cách thực tế, những điều trên có ý nghĩa gì đối với chúng ta? Tôi xin thưa có hai ý nghĩa.
Ý nghĩa thứ nhất đó là chúng ta phải tin tưởng vào Chúa. Ngài đã gieo trồng hạt giống trong chúng ta, Ngài hiểu được điều gì đang xảy ra, đang chuyển biến cho dù chúng ta chẳng hề nhận biết. Ý nghĩa thứ hai đó là chúng ta cần phải kiên nhẫn. Dù Nước Trời xem ra như không phát triển gì cả trong chúng ta, nghĩa là chúng ta dường như chẳng thánh thiện gì hơn trước. Chúng ta đừng nản lòng. Tốt hơn chúng ta nên tiếp tục vun xới hạt giống trong chúng ta bằng việc cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích. Mẫu gương kiên nhẫn này chúng ta có thể học được nơi các bậc cha mẹ.
Ai cũng biết rằng việc gầy dựng một gia đình đòi hỏi nhiều kiên nhẫn và phó thác. Thực vậy, cha mẹ không thể lúc nào cũng có mặt bên cạnh con cái. Vì thế họ phải tin tưởng và phó thác vào chúng. Nếu như thỉnh thoảng sự tin tưởng ấy bị phản bội, thì lúc đó các ngài vẫn tiếp tục tha thứ và tin tưởng vào con cái mình. Hơn nữa, đôi khi cha mẹ thấy con cái mình chậm phát triển, chậm trưởng thành. Vậy phải làm gì? Họ càng phải yêu thương đứa bé hơn và tiếp tục kiên nhẫn đối với nó.
Chúng ta cũng hãy tin tưởng và kiên nhẫn như thế, bởi vì sẽ có ngày Nước Chúa sẽ trồi lên từ tâm hồn chúng ta và phát triển thành một thực tại vinh quang mà muôn đời chúng ta sẽ phải cảm tạ Chúa luôn mãi. Tóm lại, Thiên Chúa đã trồng hạt giống Nước Trời trong tâm hồn chúng ta vào ngày chúng ta lãnh nhận bí tích Rửa Tội. Bổn phận của chúng ta hôm nay là phải nuôi dưỡng nó với lòng tin tưởng và kiên nhẫn, qua việc cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích, để rồi đức tin sẽ nẩy mầm, lớn lên và đem lại hoa trái cho cuộc đời chúng ta.
8. Gieo lời yêu thương – Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Malcolm Dolkoff là một cậu bé nhút nhát, dễ bị tổn thương. Cậu có rất ít bạn và luôn phải lủi thủi một mình.
Một lần, cô giáo đọc cho cả lớp một đoạn truyện ngắn. Loài vật là bạn thân của con người, sau đó phân công mỗi học sinh tự viết đoạn kết cho câu chuyện. Dolkoff thích lắm, ngay chiều hôm ấy cậu đã hoàn thành bài viết của mình. Nhưng mãi cậu mới có đủ tự tin đem nộp truyện của mình cho cô giáo vào buổi học tuần sau.
Những gì cậu viết cũng như điểm số mà cô giáo đã cho không hề quan trọng. Đối với cậu, điều quan trọng nhất mà cũng là điều cậu nhớ nhất lại chính là 4 chữ cô giáo đã phê: “Em viết hay lắm!” Chỉ 4 chữ mà cũng đủ thay đổi toàn bộ cuộc đời cậu bé. Trước khi nhận được 4 chữ đó, cậu chưa bao giờ có khái niệm về bản thân hay những điều mình đã làm. Còn sau buổi học hôm ấy, cậu đã chạy thật nhanh về nhà, ngồi ngay vào bàn và bắt đầu viết một câu truyện ngắn, một câu truyện về tất cả những điều cậu đã từng mơ tới và không bao giờ dám nghĩ mình có thể biến những giấc mơ đó thành hiện thực.
Cậu viết ngày càng nhiều hơn và cứ được một truyện cậu lại mang ngay tới cho cô giáo của mình nhận xét.
Nhiều năm trôi qua, Malcolm Dalkoff đã trở thành một nhà văn nổi tiếng thay cho cậu bé tự ti ngày nào. Cậu trở về thăm trường cũ và thăm lại cô giáo ngày xưa của mình. Điều cậu phải cảm ơn cô không phải vì cô đã trở thành một người bạn của cậu mà chính là 4 chữ đầu tiên cô đã từng phê “Em viết hay lắm!”, bởi những chữ ấy đã có thể thay đổi cả một cuộc đời.
Có những lời nói, cử chỉ tưởng như vô tình lại trở thành nguyên nhân thay đổi cho cả một đời người. Biết bao con cái rơi vào sự tự ti mặc cảm khi cha mẹ vô tình lặp lại lời chê trách đối với con. Biết bao con người trở thành hung dữ khi cha mẹ luôn gieo vào tâm trí trẻ thơ những lời nói việc làm chất chứa đầy hiềm khích, bất công. Và ngược lại, biết bao con người đã bẻ gãy ổ khoá tự ti mặc cảm để can đảm vào đời, khi nhận được một sự khích lệ, một sự cảm thông từ những người thân. Biết bao con người đã hoàn thiện nhờ vào gương lành của tha nhân đã gieo vào lòng họ những lời nói, những việc làm tốt. Những lời nói, những việc làm của ta tưởng như vô tình nhưng thực ra nó vẫn âm thầm gieo vào lòng những người chung quanh ta để có thể biến đổi họ theo cách sống của chúng ta.
Cha ông ta vẫn thường nói: “Lời nói chẳng mất tiền mua - Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Nói cho vừa lòng nhau không phải để lấy lòng nhau hay lừa dối lòng mình. Nhưng là lựa lời để nói. Nói để xây dựng con người. Nói để giúp họ thăng tiến. Đừng dùng lời nói làm đau lòng người khác, và cũng đừng dùng lời nói để kết án anh em. Một lời nói có thể thay đổi cả đời người. Hãy trao tặng cho anh em những lời nói thật chân tình và đầy ắp yêu thương. Lời nói không mất tiền mua, không phải để chúng ta phung phí bừa bãi, nhưng biết quý trọng từng lời. Lời nói thể hiện nét đẹp văn hoá nơi con người. Hãy biết chắt lọc ngôn ngữ. Hãy làm cho lời nói của ta có giá trị bằng cách biết dùng lời cho vừa lòng nhau.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy ra đi gieo vãi Lời Chúa. Gieo trong kiên trì. Dù đêm hay ngày. Người gieo giống luôn gieo vào nhân thế hạt giống của tin mừng, hạt giống của yêu thương và hạnh phúc. Nếu cô giáo của Malcolm Dolkoff không gieo vào lòng cậu bé lòng tin và nghị lực thì không có một nhà văn tài ba. Người Kitô không gieo Lời Chúa thì làm sao có cánh đồng lúa bát ngát bông lúa vàng là tâm hồn các tín hữu?
“Đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống này nảy mần và mọc lên, bằng cách nào thì người ấy không biết”. Sự kỳ diệu của hạt giống là vẫn âm thầm lớn lên theo quy luật tự nhiên và sẽ có một ngày nó trở thành cây cao bóng cả cho đàn chim trú ngụ. Người Kitô hãy gieo trong kiên trì, gieo với niềm cậy trông để nhờ ơn Chúa lời ta nói, việc ta làm sẽ sinh hoa kết trái nơi môi trường chúng ta đang sống.
Xin Chúa giúp chúng ta luôn gieo vãi yêu thương trong hành trình cuộc sống của chúng ta, để mỗi bước chân chúng ta đi luôn để lại dấu ấn của yêu thương và hy vọng cho nhân thế. Amen.
9. Hạt cải
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe chúng ta cùng nhau dừng lại ở hình ảnh hạt cải.
Nước Thiên Chúa giống như hạt cải nhỏ xíu, nhưng nó có thể lớn lên thành cây to cho chim trời tới đậu. Qua dụ ngôn này Chúa Giêsu như muốn xác định lại lời rao giảng lúc ban đầu: Thời giờ đã mãn và Nước Thiên Chúa đã đến gần. Chính Ngài là người gieo hạt giống đầu tiên để hạt giống đó âm thầm phát triển. Ngài nói điều đó với tất cả niềm xác tín, bởi vì đó chính là sự nghiệp của Chúa Cha.
Hơn nữa, nếu đem so sánh những lời giảng của Chúa Giêsu với cả thế giới bao la bát ngát này, thì có lẽ nó còn nhỏ bé hơn cả một hạt cải. Thế nhưng, Tin Mừng vẫn đứng vững và lớn lên từng ngày, đồng thời có biết bao nhiêu người đã được nâng đỡ và ủi an.
Trong niềm tin, chúng ta xác tín rằng Nước Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta, mặc dù trên thế giới ngày hôm nay vẫn còn biết bao nhiêu những bất công và tội lỗi. Lời Chúa đem lại cho chúng ta niềm hy vọng. Vấn đề được đặt ra ra cho mỗi người, là chúng ta phải trở nên những hạt giống, được gieo vãi vào lòng cuộc đời, qua những việc làm nhỏ bé và khiêm tốn, nhưng không kém phần hiệu quả.
Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng đã biết cuộc đời thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Cuộc đời ấy cũng như cuộc đời của biết bao nhiêu người khác. Thế nhưng nó mang đậm giá trị Tin Mừng, nên Giáo Hội đã tôn phong chị lên ngang bằng những vị đại thánh khác. Mẹ Têrêsa thành Calcutta, người phụ nữ nhỏ bé và mảnh khảnh, nhưng lại lớn mạnh trong cả thế giới qua những hành động bác ái yêu thương, giúp đỡ những kẻ nghèo túng và bất hạnh. Và còn biết bao nhiêu người khác nữa chung quanh chúng ta, họ đang âm thầm làm việc, phục vụ cho những kẻ bất hạnh trong mọi lãnh vực của cuộc sống.
Chúng ta hoàn toàn có cơ sở để tin rằng Nước Thiên Chúa đã, đang và sẽ còn âm thầm lớn lên, không phải theo nghĩa một lực lượng đối đầu với nước thế gian, như chính Chúa Giêsu đã xác quyết: Nước tôi không thuộc về thế gian này, nhưng là những thực tại: kẻ què được đi, người mù được thấy, người điếc được nghe và kẻ chết được sống lại, người nghèo khó được rao giảng Tin Mừng.
Hãy tin vào Chúa Giêsu, là người gieo giống, đồng thời cũng là hạt giống đầu tiên được ươm trồng trên mảnh đất nhân loại này.
10. Hạt cải nhỏ nhất – Lm. ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Đến Victoria và Vancouver nước Canada, du khách thấy tận mắt một cây thông mọc lâu hơn 300 năm, cao hơn 100 mét, chu vi thân cây dài 9 mét và một cây sống hơn 1.000 năm cao lớn lạ thường. Có lẽ đó là cây cao lớn nhất thế giới. Nhưng hạt thông chỉ nhỏ bằng hạt táo.
Nhìn cây cổ thụ kỳ lạ đó, con người cảm thấy mình quá bé nhỏ. Bé nhỏ về tuổi thọ, bé nhỏ về thân phận mỏng dòn, yếu ớt.
Càng kinh ngạc hơn nữa, nếu con người nhìn hạt lúa, với con mắt khoa học, sẽ thấy nó chứa hàng tỷ tỷ hạt nguyên tử hợp bởi tỷ tỷ hạt li ti nhỏ bằng một tỷ lần milimét chạy quanh một hạt nhân với tốc độ kinh khủng 297.000 km trong một giây đồng hồ. Hạt lúa đó gieo trong đồng ruộng, nảy mầm, mọc lên, trổ đòng đòng thành bông lúa chín nặng trĩu, người ta vui mừng gặt về một mùa lúa bội thu, người ta vẫn không biết ai làm cho nó mọc lên, trổ bông, chín vàng.
Xét cho cùng, tất cả vũ trụ này, chỉ là những hạt li ti như thế thôi, dần dần bành trướng to lớn ra hàng tỷ tỷ tỷ lần. Ai đã gieo thứ hạt giống đó? Ai đã làm nó vô cùng to lớn như thế?
Chẳng biết ai, các bác học chỉ đưa ra những giả thuyết vu vơ. Cách đây hai ngàn năm, Đức Giêsu đã ví nước Thiên Chúa giống như những hạt giống đó. Đấng đã làm nên nước Trời thì cũng làm nên hạt giống đó, Ngài biết nó tự đâu có, Ngài đã cho nó mọc lên, trổ bông và chín nặng trĩu hạt.
Thiên Chúa còn gieo một thứ hạt giống lạ lùng vô cùng hơn nữa, thứ hạt giống từ trời gieo xuống đất, đó là Ngôi Lời xuống thế làm người. Thế gian chẳng ai biết Người bởi đâu! như Gioan viết: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian; thế gian nhờ Người mà có nhưng lại không nhận biết Người” (Ga. 1, 9-10). Dù thế gian không biết Người, Người vẫn như hạt cải mọc lên lớn hơn mọi thứ, xum xuê cho muôn dân tụ họp, sinh sống dưới bóng mát tình thương của Người. Lời Người, ân sủng của Người, công cuộc cứu thế của Người đang soi sáng và bao phủ khắp muôn dân. Người là đèn sáng, không ai có thể lấy thùng úp lại được, không một thế lực phàm trần nào có thể đè nén được. “Chẳng lẽ mang đèn đến để cho đặt dưới cái thùng hay dưới gầm giường? Nào chẳng phải đem đèn đến để đặt trên cao sao?” (Mc. 4, 21).
Do thái cậy mình con cháu Abraham đã ra sức vùi dập ánh sáng Đức Giêsu bằng xuyên tạc, chống đối, đe dọa, bắt bớ, đánh đòn và đóng đanh. Hy lạp tự kiêu khôn ngoan, bài bác, trục xuất Tin mừng Phaolô rao giảng. Rôma hùng mạnh đã tù đầy, kết án, xử tử những tông đồ tha thiết gieo giống cứu độ. Hạt giống nước Thiên Chúa vẫn nảy mầm mọc lên vươn cao, vươn rộng, vươn xa đến tận cùng trái đất và cho đến tận thế.
Người Tây phương chỉ thấy Thiên Chúa đã chết rồi (Nietzsch) mà không biết rằng: “Cha Ta hằng làm việc và luôn ẩn danh” (Deus abscondito). Ngài không nói sống sượng như kẻ kiêu ngạo, Ngài chỉ nói cách khiêm tốn và dịu hiền để ai có tai, có thiện tâm thì nghe rất thấm thía. Kẻ ác tâm, dã tâm, vô tâm chẳng bao giờ nghe được tiếng Ngài mà chỉ thấy chói tai quá!
Người Đông phương xưa, tuy không gần Ngài bằng xương, bằng thịt, nhưng cũng nhìn thấy: “Thiên hành kiện” – Trời hành động kiên cường không ngừng, mà chẳng nói gì “Thiên hà ngôn tai” – Trời không nói bằng miệng, nhưng nói bằng nhiều cách: nói bằng tác tạo trời đất muôn vật, nói trong lương tâm con người: “Thiên mệnh chi vị tính”, nói bằng ban phép tắc cho muôn vật: “Duy thiên sinh dân, hữu vật, hữu tắc”. Vì thế con người phải biết luôn luôn tìm ý Ngài để tuân theo. Không biết tìm ý Trời thì không đáng là quân tử, làm con Trời: “Bất tri thiên mệnh, vô dĩ vi quân tử”.
Đức Giêsu đã nói với chúng ta rất nhiều: Nói xa qua công việc tạo dựng và bảo tồn muôn vật, nói gần qua Hội thánh, qua các bài giáo lý, Tin mừng, ơn thánh và kinh nguyện.
Chúng ta có nghe được tiếng Người không? Có thiện chí tiếp nối công việc của Người đã làm không? Chúng ta có sống theo đời sống khiêm tốn, dịu hiền và thương yêu như Người không? Chúng ta có biết gieo những hạt giống tốt vào trong hồn các bé thơ để sau này nó sẽ tự nảy mầm, lớn lên và sinh hoa kết quả nặng trĩu không? Nhiều bà mẹ đã biết gieo vào lòng tuổi thơ những hạt giống tốt như kêu tên: Giêsu Maria Giuse, hay đọc kinh Kính Mừng. Nhờ những hạt giống nhỏ bé đó đã mọc lên những cây vĩ đại như Bernadette, Lucia, Giaxinta và Phanxicô để hàng triệu người được đến nương ẩn bóng mát ơn phúc của Lộ Đức và Fatima.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến trần gian như hạt giống bị vùi dập, chết đi trong lòng đất nhưng không bị hủy diệt mà đã sống lại vinh sáng. Xin cho chúng con cũng được sống lại sau những cái chết vì đau khổ dập vùi.
11. Công việc tông đồ – Cố Lm. Hồng Phúc
Tiên tri Ezechiel nhìn thấy những cảnh xáo trộn, thay ngôi đổi chủ, xảy ra tại Giêrusalem, trước ngày thành phố bị hủy, đã tiên báo về tương lai của dân Chúa. Mặc dầu bị lăng nhục tủi hổ… nhưng hãy trông cậy. Thiên Chúa sẽ cho mọc ra một chồi non, nó sẽ đâm chồi kết quả và trở thành cây hương nam vĩ đại. Lời hứa ấy tiên báo rằng Đức Messia sẽ đến, sẽ giữ lời Ngài đã phán: “Ta là Giavê, Ta sẽ hạ cây cao xuống và cho cây thấp mọc lên.”
Lời ngôn sứ ấy đưa ta đến dụ ngôn Phúc Âm về hạt lúa gieo xuống lòng đất mà Marcô một mình ghi lại. Chúa phán: Nước Thiên Chúa giống như người kia đã gieo hạt xuống đất…, hạt giống tự nó đâm mầm và mọc lên thế nào, nào ai biết? Thì Nước trời cũng giống như vậy. Hạt giống Lời Chúa được rao giảng bên ngoài, sức tác động của Chúa hoạt động bên trong, thế là Phúc Âm sẽ sinh hoa kết quả. Nhưng, Chúa thấy trước, lời của Ngài, sứ vụ của Ngài sẽ gây kết quả từ từ, không gấp gáp, không gây chấn động. Vậy hãy nhẫn nại, hãy đợi chờ, như người nông phu đợi chờ hạt giống nẩy mầm sinh hoa.
Thánh Vinh Sơn Phaolô nói: “Công việc của Chúa được thực hiện từ từ, không ai hay biết”. Chúng ta không được “sốt ruột”, đừng ai tự cho mình là cần thiết, không có ta mặt trời sẽ không mọc, sau ta là lụt đại hồng thủy. Cũng đừng quá vội vã, quay cuồng, lo lắng vì thấy việc Tông đồ của mình như không đi đến đâu! Ngày cũng như đêm, hạt giống gieo vào lòng đất sẽ đâm chồi nẩy mộng. Và để kết luận, Chúa phán: “Chúng ta sẽ lấy gì mà hình dung Nước Thiên Chúa?... Nước đó giống như hạt cải, khi gieo xuống đất thì nhỏ bé nhất trong tất cả các hạt trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, nó mọc lên thành cây rau lớn nhất, và đâm những cành to, đến nỗi chim trời có thể tới núp bóng được”.
Dụ ngôn mang lại cho chúng ta nhiều bài đọc. Trước hết, Nước Thiên Chúa âm thầm lớn mạnh, tuần tự nhi tiến, dưới sự thúc đẩy của Chúa. Nhưng sự tiến triển cũng đòi hỏi sự góp phần tích cực của chúng ta. Đừng ngã lòng khi không thấy kết quả trước mắt. Sự lỗi lầm lớn của người Tông đồ là dựa trên tài cán nghị lực của ta hơn là vào sức mạnh của Chúa. Nhưng hãy cố gắng hết sức ta, làm phận bé nhỏ của ta vì yêu mến. Và kết quả sẽ đến vào lúc thật bất ngờ nhất!
Một hôm, cha Petitjean đến giảng đạo tại Nagasaki cho một số đông người Nhật. Nghĩ rằng họ đều là người bên lương, nên sau bài giảng, ngài tươi cười hỏi:
- Anh em có thắc mắc gì không?
Một người đưa tay đặt câu hỏi:
- Chúng tôi muốn được hỏi ông ba điều, yêu cầu ông trả lời có hay không? Câu hỏi thứ nhất, các ông có tin Đức Mẹ đồng trinh không?
- Có.
- Câu hỏi thứ hai: Các ông có vâng lời và thông hiệp với Đức Thánh Cha không?
- Có.
- Câu hỏi thứ ba: Là linh mục, các ông có giữ mình đồng trinh và sống độc thân không?
- Có.
- Vậy thì mấy trăm người chúng tôi đây với ông là đồng đạo. Chúng tôi là Công giáo cả.
Cha Petitjean bàng hoàng như từ cung trăng rơi xuống. Cha con âu yếm ôm cổ nhau. Nhà truyền giáo hỏi:
- Bấy lâu nay, có ai giảng dạy cho anh em không?
- Thưa Cha, không có ai suốt hai thế kỷ rồi! Đó là nhờ ông bà tổ tiên chúng con truyền lại, rồi chúng con âm thầm cầu nguyện, dạy giáo lý cho con em, đoàn kết đùm bọc nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ông bà chúng con trước khi chết có nhắn nhủ: Sau này có ai đến giảng đạo hãy cảnh giác, phải lấy ba tiêu chuẩn ấy mà nhận xem họ có phải là các cha đích thực, là người của Hội thánh sai đến.
Giáo hội Nhật bản đã tái sinh.
“Nước Trời như hạt cải bé nhỏ nhất khi gieo xuống lòng đất, nhưng khi gieo rồi, nó mọc lên thành cây rau lớn nhất, chim trời đến núp bóng được”.
12. Hạt giống cây tre tầu – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Nhà tâm lý học Weldon cho rằng hạt giống kỳ lạ nhất thế giới là hạt giống của cây tre Trung Quốc. Hạt giống này nằm yên dưới lòng đất đến 5 năm, rồi mới nhú chồi non lên mặt đất. Suốt thời gian 5 năm này, người ta phải vất vả chăm sóc nó, nào là tưới nước nào là bón phân, mà không hề nhìn thấy hệ thống rễ phức tạp đang bố trí trong lòng đất.
Cuối cùng, một sự sống đã vươn lên đầy kinh ngạc: Chỉ trong 6 tuần đầu, cây tre đã mọc cao lên gần 3 mét.
****
Hạt giống Nước Trời cũng tương tự như hạt giống cây tre Trung Quốc. Cần một thời gian dài "vùi sâu dưới lòng đất", điều này đòi hỏi chúng ta phải kiên nhẫn chờ đợi. Khi hạt giống nẩy mầm lớn lên thành cây, nó phải đương đầu với tính khí thất thường của thời tiết, phải đối phó với cơn giận dữ của giông tố. Đây là lúc phải sống niềm tin: tin rằng Thiên Chúa sẽ đưa Nước Người đến thời viên mãn, bất chấp những cản trở của con người. Vì thế, chúng ta không ngừng gieo vãi Lời Chúa, cho dù không thấy hạt giống đang âm thầm phát triển.
Hạt giống Nước Trời cũng không khác chi hạt giống cây tre Trung Quốc. "Hạt bé nhất" lại cho cây lớn nhất. Nước Trời khởi đầu là Đức Giêsu và một nhóm nhỏ môn đệ dân chài. Sau hai mươi thế kỷ, Kitô giáo đã lan tràn khắp nơi, đến với mọi dân tộc.
Có thể nói Đức Giêsu đã gieo hạt giống Hội thánh vào giữa lòng thế giới. Sau đó Người biến mất khỏi dòng lịch sử, để hạt giống Hội thánh "âm thầm lớn lên" với bao gian nan thử và thử thách, yếu đuối và bất lực. Dường như Người dửng dưng trước bao khó khăn của Hội thánh. Dường như Người không biết đến bao tội ác đang lan tràn thế giới. Dường như Người không quan tâm đến nỗ lực sống thánh của dân Người.
Nhưng với niềm tin yêu phó thác, chúng ta xác tín rằng: bên kia dòng thời gian, nơi cuộc sống vĩnh hằng, Thiên Chúa đang chờ đợi, nhìn xem và điều khiển cho hạt giống Nước Trời lớn lên và tăng trưởng sung mãn vào một mùa bội thu trong Ngày Cánh Chung sẽ tới.
Có thể nói Đức Giêsu cũng đã gieo hạt giống Đức tin vào tâm hồn chúng ta qua Bí tích Rửa tội. Người cũng đang chờ đợi hạt giống ấy mọc lên và tăng trưởng: qua những lời cầu nguyện âm thầm, qua việc siêng năng lãnh nhận các Bí tích, và qua đời sống chứng nhân của mỗi người. Đây là việc đòi hỏi sự kiên nhẫn lâu dài và lòng trung tín suốt đời. Đức Giêsu nói: "Kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát" (Mt.10,22).
Wendell Holmes cho chúng ta một bí quyết: "Để vào Nước Trời, chúng ta luôn phải chèo lái con thuyền của mình, đôi khi thuận buồm xuôi gió, nhưng cũng có lúc phải lội ngược dòng. Điều quan trọng là phải luôn chèo chống, đừng neo thuyền lại".
Thánh Phaolô dạy: "Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện" (Rm.12,12). Ngài cũng đã nêu gương bền chí: "Tôi đã chiến đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin" (2Tm.4,7).
***
Lạy Chúa, Chúa đã đến trần gian như hạt giống chôn vùi dưới lòng đất nhưng Chúa đã sống lại vinh quang. Xin cho chúng con biết âm thầm chết đi cho tội lỗi, để được lớn lên trong nguồn ơn Thánh Chúa. Amen.
13. Tin tưởng và hy vọng vào sức mạnh của Lời Chúa
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bước vào Chúa nhật XI thường niên B, trung tuần tháng Sáu, tháng kính Trái Tim Cực Thánh Chúa Giêsu. Lời Chúa mời gọi chúng ta sống tin tưởng và hy vọng vào Chúa là Thiên Chúa tình yêu. Quả thật, tình yêu của Thiên Chúa đối với mỗi người chúng ta là vô cùng vô tận, một tình yêu nhập thể (gieo vào thế gian) đối thoại với con người, khiến con người tin tưởng, kiên nhẫn, phó thác trong tin yêu vào Chúa là nguyên nhân mọi sự (x. Ed 17, 22-24), là sức mạnh, là niềm vui và là động lực, giúp con người nhận được ơn của Chúa, và sống tốt đời sống làm con Chúa.
Chủ nhật này, thánh Marcô, người con tinh thần của Thánh Phêrô thuật lại cho chúng ta hai dụ ngôn tuyệt vời, giàu ý nghĩa của Chúa Giêsu: dụ ngôn hạt giống tự mình mọc lên và dụ ngôn hạt cải (x. Mc 4, 26-34). Qua những hình ảnh nông nghiệp bình dân ấy, Chúa trình bày mầu nhiệm Nước Trời, và mời gọi con người hy vọng và tin tưởng nơi Chúa là Thiên Chúa quyền năng (x. Ed 17, 22 – 24).
Có người gọi dụ ngôn này là “hạt giống mọc lên một mình”. “Người đó ngủ hay thức, đêm hay ngày, hạt giống cứ đâm mầm và mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết nữa” (Mc 4, 27). Thực tế, hạt giống không có tự mình mọc lên được như Phaolô nói: “Tôi trồng, Apôllô tưới, những chính Thiên Chúa cho mọc lên” (1Cr 3, 6). Một khi hạt giống được gieo vào lòng đất, tương quan giữa hạt giống với đất được thiết lập, một chuỗi những kỳ bí vô hình tuyệt vời bắt đầu, quá trình nảy mầm sẽ xảy ra, nếu như nhà nông không để ý đến những gì ông đã gieo và không ai quan tâm đến hạt rơi vào thửa đất.
Đây là một trong những dụ ngôn lạc quan nhất mà chúng ta có được. Mưa hay nắng, các thực tại thần linh được gieo trong nhân loại và chắc chắn mỗi ngày một triển nở, sự yếu đuối của chúng ta là sức mạnh của hạt giống. Hạt giống Chúa Giêsu Con Thiên Chúa được gieo vào mảnh đất nhân loại chúng ta.
Nước Thiên Chúa được sánh ví như hạt cải với sự lớn mạnh của nó... Liệu tất cả những người tin có hy vọng thế không? Và các tín hữu có trông đợi như vậy không? Phải chăng “những điều mắt chẳng hề thấy, tai không hề nghe, và đã không hề nảy lên nơi lòng một người phàm, hết thảy là những điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai yêu mến Người sao?” (1 Cr 2, 9) Thật vậy, “sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh mẽ hơn loài người” (1Cr 1, 25), nên điều nhỏ nhặt tốt lành của Chúa cũng lộng lẫy hơn sự bao la của thế giới.
Chúa Giêsu là Nước Trời. Theo cách thức của người gieo hạt, Người đã được gieo vào lòng đất thân xác Đức Trinh Nữ Maria. Người đã lớn lên và trở thành cây che phủ toàn thể địa cầu. Sau khi bị nghiền nát bởi cuộc Thương Khó, trái cây sinh ra đủ mọi hương vị, phù hợp với khẩu vị và tỏa hương thơm cho mọi vật sống chạm đến Người. Vì, như hạt cải, sự kiện hạt bị nứt ra chính là mạnh của nó. Tương tự như vậy, Chúa Kitô muốn thân mình được nghiền tán ra để sức quyền năng Thiên Chúa được thể hiện trong thế gia... Chúa là vua, là nguyên lý của mọi quyền hành là Nước Trời, vì tất cả vinh quang của nước ấy ở nơi Chúa.
Lời Chúa Giêsu: “Chúng ta sẽ lấy gì mà hình dung nước Thiên Chúa? Hay dùng dụ ngôn nào mà so sánh nước đó được? Nước đó giống như hạt cải, khi gieo xuống đất thì nhỏ bé nhất trong tất cả các hạt trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, nó mọc lên thành cây rau lớn nhất, và đâm những cành to, đến nỗi chim trời có thể tới núp bóng được” (Mc 4, 30-32). Với ngôn ngữ văn chương của người Do thái, các loài chim tượng trưng cho các dân ngoại và những người nước ngoài đến ẩn náu với số lượng lớn. Tiên tri Êdêkien đã nói rất chí lý: “Ta sẽ trồng nó trên đỉnh núi Israel, nó sẽ đâm chồi, kết quả, và trở thành cây hương nam vĩ đại; các thứ chim trời đều đến ẩn náu dưới thân cây và làm tổ dưới tàn nó” (Ed 17, 23). Hình ảnh của hạt cải lớn lên trở thành nơi cho “chim trời” ẩn núp không có mục đích gì hơn là giúp cho chim trời sống thoải mái và bình an! Hình ảnh này nhấn mạnh đến Nước Thiên Chúa ở trong chúng ta, và hạt cải nhỏ bé sẽ trở thành một cái cây lớn, trong đó chim trời đến làm tổ, ám chỉ tình yêu vô cùng của Thiên Chúa được ban nhưng không cho chúng ta. Vương quốc của Thiên Chúa sẽ lan rộng đến tất cả các quốc gia trên khắp thế và người ta tìm nơi trú ẩn nơi một Kitô giáo tốt lành.
Ơn gọi của Giáo Hội Chúa Giêsu Kitô không phải là để trở nên mạnh mẽ. Trở nên vĩ đại, không phải là ơn gọi của Chúa Kitô. Giáo hội không tìm cách trở thành bình đẳng của các vương quốc thế trần: đó không phải là sứ mạng của Giáo hội, càng không phải là chứng nhân mà Thiên Chúa mong muốn nơi Giáo hội. Dụ ngôn nói rằng chim trời đến ẩn núp. Đây không phải là sự bành trướng nhưng là sự hiếu khách. Nước Trời không đến để áp đặt lên con người, nhưng đón nhận họ. Trong cây sự sống hoặc cây mà cho phép loài chim đến đậu rồi bay đi và đôi khi được đón nhận ở đó, cho đến ngày làm tổ, đẻ ấp trứng và sống hình thành.
Trong bước đường thiêng liêng, chúng ta thường có thói quen mơ tưởng những điều được coi là vĩ đại. Và rồi thất vọng. Không, chúng ta phải tin tưởng và hy vọng. Niềm hy vọng nơi chúng ta qua đức tin và lòng mến, cho phép chúng ta khám phá ra Thiên Chúa bao bọc chung ta, khiến chúng ta không nản lòng hay thất vọng trong việc truyền giáo, nhưng giữ vững niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng sẽ dẫn dắt mọi sự đến thành toàn mà Ngài đã khởi đầu. Dù điều gì xảy ra với chúng ta đi chăng nữa, thì đời chúng ta đã được đồng hành bởi lời hứa đáng tin này: “Nếu ta cùng chết, ta sẽ cùng sống! Nếu ta chịu đựng, ta sẽ đồng trị. Nếu ta chối Ngài, Ngài sẽ chối ta” (2Tm 2, 11-12).
Lạy Chúa Giêsu, chúng con yêu mến Chúa, chúng con đặt tin cậy và hy vọng nơi Chúa. Amen.
14. Chúng ta ví Nước Thiên Chúa với cái gì đây?
(Suy niệm của Nguyễn ngọc Thế SJ)
* Vài hàng sơ lược
Trước đoạn này, Chúa Giêsu cũng kể về hai dụ ngôn khác: Dụ ngôn người gieo giống (4, 1-20) và dụ ngôn cái đèn, đấu đong (4, 21-25). Về hài dụ ngôn trong đoạn này (26-29 và 30-32) Chúa Giêsu dùng để rao giảng về Nước Thiên Chúa.
Trong đoạn phúc âm này có thể chia ra làm ba phần: (1) Từ câu 26-29: Dụ ngôn hạt giống tự mọc lên; (2) câu 30-32: Dụ ngôn hạt cải; (3) câu 33-34: Kết luận về các dụ ngôn.
Ở đoạn (1) chúng ta có thể nhận ra được trọng tâm chính yếu hướng về việc hoa màu sinh ra. Nhưng cần phải nhấn mạnh thêm là, tự động sinh ra (câu 28). Tất cả những câu trước và câu sau gắn liền và hương về câu trọng tâm này.
Trong khi đọan (1) nhấn mạnh đến việc hạt giống tự mọc lên, thì ở đoạn (2) trọng tâm hướng về việc hạt cải nhỏ nhất, nhưng khi mọc lênm thì lớn hơn mọi thứ rau cỏ (câu 31 và 32). Đây là một sự tương phản rõ rệt. Ngoài ra, cả ba dụ ngôn: dụ ngôn người gieo giống (1-20) và hai dụ ngôn trong đoạn này đều có một điểm chung được nhấn mạnh và là hạt giống tự mọc lên, Nước Thiên Chúa sự tự đến vào thời gian nhất định, con người không có thể làm gì, ngoài việc gieo hạt xuống đất và chờ đợi.
Đoạn (3) là kết luận về các dụ ngôn. Điều được nhấn mạnh ở đây là cách thức rao giảng của Đức Kitô: “Người không bao giờ rao giảng cho họ mà không dùng dụ ngôn“ (câu 34)
* Suy niệm
26 Người nói: "Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất.27 Đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết.
Dụ ngôn bắt đầu bằng câu: “Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện...” Ở đây Nước Thiên Chúa chính là chủ đề chính yếu mà Đức Giêsu muốn rao giảng, muốn cách nghĩa cho mọi người hiểu. Vậy chuyện mà Ngài dùng để hướng về Nước Thiên Chúa là chuyện gì? Đó là chuyện một người vãi hạt giống xuống đất (câu 26b). Trong câu này, Rudolf Pesch đã chú ý một điều là Mác-cô sử dụng động từ gieo vãi trong thì quá khứ, aorist (ba,lh - từ động từ ba,llw - gieo vãi) Như vậy hành động của người gieo giống được kết thúc ở đây. Điều này có nghĩa gì? Điều quan trọng giờ đây là việc lớn lên của hạt giống được diễn tả rất cụ thể. Đó là trọng tâm cần được chú ý.
Trong câu 27 hình ảnh một người nông dân “lười biếng“ được diễn tả qua một vài hành động: “ngủ... thức, không biết”. Nhưng có thực là anh nông dân này lười không? Phải chăng công việc của anh đã xong, giờ đây thì anh được thảnh thơi? Theo Adolf Pohl, thì việc gieo vãi hạt giống của anh nông dân không có ý nghĩa là vất bỏ, là quẳng đi không cần chú ý tới. Cũng giống như ở câu 3, Chúa Giêsu kể về người gieo giống: “Các người nghe đây! Người gieo giống đi ra gieo giống“, nhưng ở đây trong câu 27 này thì hình ảnh người nông dân được kể khác. Trong câu 3 thì việc gieo giống được kể rất chi tiết, còn ở đây thì hướng về thời gian sau khi gieo giống. Vì vậy mà hành động có tính cách bị động “ngủ” của người gieo giống ở đây được diễn tả như một hành động hướng về việc hạt giống mọc lên. Một cách nào đó, anh ta đã thi hành trách nhiệm của mình xong rồi, giờ đây thật bình tâm và thanh thản, anh ta tiếp tục sống và làm việc như mọi ngày, ăn ngủ, thức và làm việc cần làm. Còn chuyện hạt giống đâm chồi và mọc lên là chuyện sẽ đến và chuyện này đã có người khác lo rồi. Vì thế, nếu nói anh nông dân lười biếng thì tội nghiệp cho anh ta, và cũng không thể nói rằng anh ta chẳng màng gì đến việc hạt giống mọc lên thế nào. Như vậy, ở đây Chúa Giêsu muốn diễn tả một điều rất hay mà thánh Phao-lô đã nêu bật: “Vậy A-pô-lô là gì? Phao-lô là gì? Đó là những tôi tớ đã giúp cho anh em có đức tin, mỗi người đã làm theo khả năng Chúa ban. Tôi trồng, anh A-pô-lô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên. Vì thế, kẻ trồng hay người tưới chẳng là gì cả, nhưng Thiên Chúa, Đấng làm cho lớn lên, mới đáng kể” (1Cr 3, 5-7) Vâng, chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban tặng và Ngài cũng muốn ban tặng, nên người nông dân đã hiểu được điều này, vì thế người nông dân chẳng lo lắng, chẳng phiền muộn, mà ngược lại anh vẫn ngủ, vẫn thức và vẫn làm việc bình thương như mọi ngày. Điều này có lẽ cần giúp chúng ta suy nghĩ lại chính niềm tin của mình. Chúng ta có ý thức về sức mạnh tiềm ẩn của Thiên Chúa không? Chúng ta có tin tưởng vào hành động và ảnh hưởng của Ngài không? Hay chúng ta chỉ tin vào sức mình mà thôi, để rồi trong mọi chuyện chúng ta ra sức làm, để đạt được thành công mỹ mãn và hãnh diện về điều đó? Đâu rồi sự hiện diện sống động của Thiên Chúa? Ngài có chỗ trong đời sống chúng ta không? Còn nếu cố gằng hết sức mình nhưng vẫn thất bại thì sao đây? Lúc đó chúng ta mới đi tìm Thiên Chúa sao?
Ngoài ra, việc người nông dân vẫn ngủ, vẫn thức và vẫn làm việc bình thương như mọi ngày diễn tả một điều: Thời gian cứ xoay vần như vậy có nghĩa là, đây là thời gian mà hạt giống cũng được “vần xoay”, cũng đang được cho lớn lên, để rồi đến một lúc nào đó sẽ nẩy mầm thực sự. Đó là cao điểm của dụ ngôn, cao điểm của ân sủng và tình yêu. Và nhìn kìa:
28 Đất tự động sinh ra hoa màu: trước hết cây lúa mọc lên, rồi trổ đòng đòng, và sau cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt.29 Lúa vừa chín, người ấy đem liềm hái ra gặt, vì đã đến mùa."
“auvto,matoj – Tự động” có nghĩa là không có nguyên nhân rõ rệt, và qua đó nói lên việc mọc lên của hạt giống là hành động lạ lùng của Thiên Chúa đã làm. Ba hình ảnh rất sống động nói lên được việc lạ lùng Thiên Chúa đã làm: “cây lúa mọc lên, rồi trổ đòng đòng, và sau cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt“. Như vậy, việc hạt giống mọc lên và phát triển người gieo giống biết tới (câu 27), mà cần gì phải biết tới những công việc Thiên Chúa làm. Ngài luôn có mặt và làm những việc cần làm, để sự phát triển không chỉ nở hoa thơm, mà còn phải được trổ sinh trái chín trĩu nặng cành cây. Vâng, không có mặt người gieo giống, nhưng có Thiên Chúa hiện diện. Vậy là tốt lắm rồi!
Nhưng việc là lùng Thiên Chúa làm ở đây theo Rudolf Pesch không gạt bỏ con người và những gì con người làm ra rìa. Có lẽ điều con người có thể làm là gieo hạt, là ưng thuận, là kiên nhẫn đợi chờ, là trung thành với Đấng là Chủ Đất Trời, là tin tưởng và cậy trông hoàn toàn, đến nỗi mọi chuyện đều do Thiên Chúa làm, phần mình chỉ góp một chút thiện chí nhỏ nhoi. Vâng, thái độ rất căn bản mà nhà nông cần có là kiên nhẫn đợi chờ, bình tâm và tín thác hoàn toàn (ss. Giacôbê 5,7)
Giờ đã đến. Giờ của Thiên Chúa, giờ của tình yêu đã đến. Đây là sứ điệp trọng yếu của Đức Kitô rao giảng. Từ cái không không trở thành điều tuyệt hảo, từ một hạt giống nhỏ nhoi trở thành đồng lúc chin vàng mơn mởn với hương thơm lan tỏa. Và giờ đây:
“29 Lúa vừa chín, người ấy đem liềm hái ra gặt, vì đã đến mùa."
Vâng, đợi chờ đã đến đích. Kiên nhẫn và tin tưởng giờ đây được thưởng rồi: “Các ngươi hãy tra liềm vào, vì đã tới mùa lúa chín. (Gioen 4, 13) Tiên tri Gioen đã kêu lên như thế, nhưng trong ý nghĩa của tòa án chung thẩm, nơi Thiên Chúa sẽ kết án (xem thêm Gioen 4, 9-14). Còn với Giêsu tiếng kêu này không hướng về kẻ thù nào cả. Tiếng kêu gọi hãy cầm liềm hái ra gặt là tiếng kêu mừng vui về mùa gặt đã tới, vì cành lúa đã trĩu nặng lắm rồi. Vâng, mừng vui về ơn giải thoát của Gia-vê Thiên Chúa, như tiên tri Isaia nói: “Chúa đã ban chứa chan niềm hoan hỷ, đã tăng them nỗi vui mừng. Họ mừng vui trước nhan Ngài, như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt.” (Is 9,2) Trở về lại với điểm quan trọng của dụ ngôn. Đó là hạt giống “tự động” nảy mầm và lớn lên, qua đó chúng ta nhận ra rằng, niềm vui về mùa gặt chính là món quà lớn lao của Thiên Chúa. Vâng, món quà về hạt lúa được gieo vào trong lòng đất tối tăm, nhưng sau đó tự động nảy mầm, rồi trổ đòng đòng, và sau cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt. Đây chính là công việc lạ lùng Thiên Chúa làm trước mặt chúng ta. Trong ý nghĩa này, theo Adolf Pohl, thì chính Giêsu cũng sống trong niềm tin tưởng trọn vẹn vào sự “tự động” và Ngài luôn hướng về niềm vui về mùa gặt sẽ đến trong thời cao điểm. Hành động lạ lung của Thiên Chúa xảy ra vào ngày thứ sáu tuần thánh và ngày Phục Sinh. Từ chương 8, trong Mác-cô, Giêsu đã từ từ loan báo hành động lớn lao này của Thiên Chúa. Đó là cái nhìn Kitô học trong dụ ngôn này.
Theo cái nhìn Kitô học luôn là hiệu quả trong nhãn quan của Giáo Hội học. Vâng, theo Adolf Pohl, thì với dụ ngôn này Giêsu đã đặt cộng đoàn của Ngài trong tâm tình của Dacaria chương 4, câu 6: “Không phải nhờ thế lực, cũng chẳng phải nhờ sức mạnh mà nó hoàn thành công việc Ta giao phó, nhưng là nhờ thần khí của Ta, ĐỨC CHÚA các đạo binh phán.” Vâng, điều xảy ra này cộng đoàn và các môn đệ của Giêsu không thể tự mình nài công vất vả để làm ra và tạo nên, mà họ chỉ có thể cầu xin, mở lời ngợi ca, làm chứng tá, và đôi khi phải đau khổ nữa.
Thực, một môn đệ đích thực không muốn những gì anh ta không thể làm. Anh ta không muốn tự mình xây lên Thiên Đàng. Đây chính là điểm mà chúng ta cần phải suy niệm sâu sa. Vâng, trong chính công việc truyền giáo, rao giảng tin mừng, làm chứng tá, xây dựng cộng đoàn hay dòng tu, ai ai trong chúng ta cũng hăng say, cũng ra sức. Đó chính là điểm son của lòng nhiệt thành và thiện chí. Nhưng nếu không khéo, thì chúng ta quên đi rằng, chúng ta chỉ là người gieo giống mà thôi. Còn việc hạt giống nảy mầm, sinh hoa kết trái là của Chúa. Vâng, điều cần làm vẫn phải làm, đoạn đường cần đi vẫn phải đi, như anh người môn đệ đích thực, anh ta đã đi con đường mình cần đi rồi, thì với tất cả lòng khiêm tốn, anh ta dừng bước, và kiên nhẫn đợi chờ. Vâng, với lòng khao khát về Nước Trời sẽ đến, tình yêu sẽ nở bông lúa chín vàng nặng trĩu. Và khi mùa gặt đến rồi, anh ta với tất cả tấm lòng biết ơn sẽ mở lời tung hô Thiên Chúa, chứ không tự tung hô mình:
“Việc CHÚA làm cho ta, ôi vĩ đại!
ta thấy mình chan chứa một niềm vui.” (Tv 126, 3)
30 Rồi Người lại nói: "Chúng ta ví Nước Thiên Chúa với cái gì đây? Lấy dụ ngôn nào mà hình dung được?
Chúa Giêsu mở đầu dụ ngôn hạt cải với hai câu hỏi. Qua đó, Ngài như mời gọi người nghe đi vào câu chuyện với Ngài. Vâng, Nước Thiên Chúa được ví với cái gì?
31 Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. 32 Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng.
Nước Thiên Chúa, một đỉnh cao chót vót, nhưng giờ đây trở nên nhỏ bé nhất. Đấng vĩ đại trở thành Kẻ bé nhỏ nhất. Một hình ảnh thật đặc biệt chứa đựng sự táo bạo. Vâng, tình yêu có thể thúc đẩy người ta làm những hành động ngược đời, chẳng logic chút nào trong đôi mắt của cuộc đời. Ờ đây nếu chiêm ngắm tường tận Giêsu, thì chúng ta sẽ nhận ra được cái ngược đời này. Vâng, ngược với cuộc đời, nhưng xuôi với Thiên Chúa. Và ở đây hạt cải mà Giêsu nhắc đến, theo Joachim Jeremias thì trong đôi mắt con người, hạt cải nhỏ như lỗ kim, nhỏ nhất trên mặt đất (câu 31), đến nỗi người ta ít chú ý đến.
Trong sự so sánh này, theo Joachim Jeremias thì điều mà Giêsu muốn so sánh với Nước Thiên Chúa, là ở phần sau. Nghĩa là, từ hạt cải nhỏ nhất, cây cải mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ. Những cây cải này theo Jeremias, ở bờ hồ Giê-nê-gia-rét, cao từ 2,5m đến 3 m. Và cây cải này có nhiều cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng. Cây cải này với Adolf Pohl như là Cây của vương quốc Thiên Chúa mọc lên ngay tại chỗ hạt giống nhỏ bé được gieo, và người người đã từng đi qua nhưng chẳng màng nhìn đến. Giờ đây, chim trời tìm đến chú ẩn. Chim được nhắc ở đây không còn là loại chim biểu tượng cho sự dữ mà Mác-cô nhắc đến trong câu 4: “Trong khi gieo, có hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất.” Loài chim ở đây liên hệ với loài chim mà Êdêkien nhắc đến, biểu tượng cho tất cả mọi dân tộc: “Trên cành cây, mọi giống chim trời đến làm tổ.” (31,6) Vâng, theo Êdêkien thì làm tổ trên cành cây, còn theo Mác-cô thì làm tổ dưới bóng cành cây. Bóng cây ở đây không phải là bóng của thần chết, mà là bóng mát che đầu, bóng che chở mọi người trước ánh nắng chói chang nóng nực kia.
Ngoài ra, theo Adolf Pohl thì hình ảnh hạt cải này cũng nói lên sứ mạng của Giêsu. Một sứ mạng thật mầu nhiệm. Vâng, đó là mầu nhiệm về hành động yêu thương của Thiên Chúa đang sống động, đang bao trùm và ấp ủ thế giới này. Hành động của Thiên Chúa được thể hiện nơi Người tôi trung chẳng là gì, và cũng chẳng có nơi gối đầu, trong khi chim trời có tổ để ở. Qua chính sự dấn thân, việc làm và lời rao giảng của Ngài, mà hạt giống là Nước Trời được gieo vào lòng đất. Không chỉ dừng ở đấy, Người tôi tớ này bị hành hạ và đày ải, bị bắt bớ và kết án, bị đóng đinh trên thập giá và chết đi. Nhưng cái chết không thể thẳng được Ngài. Hay cái chết là điều cần thiết. Vâng, như hạt lúa mì cần phải chết đi mới sinh nhiều hoa trái, thì Giêsu cũng cần chết đi, để rồi từ đó mà Ngài đã đem lại cho nhân loại Cây Cải thật lớn với cành lá xum xuê, với bóng mát che đầu. Vâng, nơi đây dưới cây cổ thụ này, chim trời thích tìm đến, và mọi người ai tìm tới sẽ tìm thấy nơi gối đầu, tìm thấy quê hương và ngôi nhà để trú ẩn. Vâng, trú ẩn cả cuộc đời. Theo Rudolf Pesch, thì đây chính là ý nghĩa của động từ theo tiếng Hy-lạp: kataskhnou/n (kataskhno,w) – trú ẩn, làm tổ cả cuộc đời trong vương quốc Nước Thiên Chúa.
Vương quốc này theo Rudolf Pesch được tiềm ẩn trong cộng đoàn, trong Giáo Hội. Vâng, Giáo Hội chính là người có trách nhiệm gìn giữ chỗ cho Vương Quốc Thiên Chúa. Vâng, trong Giáo Hội nhỏ bẻ và bất toàn này Cây Vương Quốc rất thánh và rất huy hoàng đang ẩn mình. Như vậy, cây cải lớn lao này là biểu tượng cho vương quốc vĩ đại và mạnh mẽ, trong đó mọi người được trú ẩn, được chở che. Trong sách của tiên tri Edêkien chúng ta đọc được hình ảnh này:
“ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán như sau:
Từ ngọn cây, từ ngọn hương bá cao chót vót,
Ta sẽ lấy, sẽ ngắt một chồi non;
chính Ta sẽ trồng nó trên đỉnh núi cao vòi vọi.
Ta sẽ trồng nó trên núi cao của Ít-ra-en.
Nó sẽ trổ cành và kết trái
thành một cây hương bá huy hoàng.
Muông chim đến nương mình bên nó,
và ẩn thân dưới bóng lá cành.” (17, 22-23)
Tóm lại ý nghĩa của dụ ngôn này theo Jeremias là: Từ sự bắt đầu nhỏ bé nhất, từ cái không không chẳng đáng nhìn trong đôi mắt con người, Thiên Chúa đã làm nên vương quốc vĩ đại, bao la và mạnh mẽ của mình. Trong vương quốc này người người, nhà nhà của của thế giới được phép trú ẩn và sống dồi dào.
33 Người dùng nhiều dụ ngôn tương tự mà rao giảng lời cho họ, tuỳ theo mức họ có thể nghe.34 Người không bao giờ rao giảng cho họ mà không dùng dụ ngôn. Nhưng khi chỉ có thầy trò với nhau, thì Người giải nghĩa hết.
Đây là phần kết luận về các dụ ngôn trong đoạn này của Mác-cô. Ở đây từ ngữ “Lời” gắn liền với từ vựng “Lời” được nhắc đến 8x trong đoạn trước đó, từ câu 14-20. Giêsu chính là người đi gieo giống. Lời chính là Sứ Điệp, là Tin Mừng, là lời kêu gọi về sự hiện diện của Vương Quốc Thiên Chúa trong chính Con Người Giêsu và những gì Ngài làm. Nhưng sứ điệp này Giêsu trình bày một cách gián tiếp, không bao giờ trình bày một cách trực tiếp. Cách thức cổ điển về việc trình bày gián tiếp là các dụ ngôn. Nhưng dụ ngôn không chỉ là hình thức rao giảng của Giêsu, mà còn là lời dạy dỗ (xem Mc 4, 1tt), hay còn là lời tiên tri, là những lời dùng trong lúc tranh luận, là lời hướng dẫn mang tính cách luân lý. Như vậy Giêsu không bao giờ nói về chính Ngài một cách trực tiếp và thẳng thẳn cho người nghe, như cách Ngài nói với các môn đệ của mình, như trong Mc 8, 31-32 về cuộc thương khó của Ngài.
Nhưng tại sao Giêsu lại không nói rõ ràng và thẳng thắn cho dân chúng? Lý do không nằm ở nơi Ngài, mà nơi dân chúng. Vâng, Ngài rao giảng lời cho họ, tuỳ theo mức họ có thể nghe. Ở đây chúng ta nhận ra rõ ràng nghệ thuật giáo dục của Giêsu. Hơn nữa, nếu Giêsu nói trực tiếp và rõ ràng, thì có thể sẽ đem lại một bầu khí áp đặt. Hơn nữa, lời rao giảng trực tiếp cũng có thể đưa tới tình trạng là dân chúng sẽ ùa vào và trở thành một tập thể không tin tưởng vào Ngài và chống lại Ngài, vì họ hay một vài người trong họ không hiểu những gì Ngài giảng dạy.
Như vậy, lời rao giảng theo tính cách tượng hình, dùng dụ ngôn … là cách thức dễ dàng đi vào lòng người, dễ dàng đi vào tập thể nhất. Hơn nữa, dụ ngôn Giêsu dùng lại liên hệ rất chặt chẽ với đời sống thường ngày của dân chúng nữa chứ. Vì thế, Người không bao giờ rao giảng cho họ mà không dùng dụ ngôn.
Nhưng khi chỉ có thầy trò với nhau, thì Người giải nghĩa hết. Với nhóm môn đệ của mình, những người đã hiểu Giêsu một cách nào đó, thì Giêsu không sợ phải giải thích nhiều hơn hay nói thẳng ra rõ ràng. Có lẽ Giêsu đã biết chắc rằng, nhóm môn đệ này, khi nghe Lời giảng dạy trực tiếp sẽ không chống lại Ngài và trở thành những kẻ không tin vào Ngài. Ngoài ra, những gì các môn đệ được nghe trực tiếp cũng là một ân sủng: “Người nói với các ông: "Phần anh em, mầu nhiệm Nước Thiên Chúa đã được ban cho anh em; còn với những người kia là những kẻ ở ngoài, thì cái gì cũng phải dùng dụ ngôn” (câu 11)
15. Giáo Hội là mầu nhiệm – Charles E. Miller.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
Ngày hôm nay Chúa Giêsu đã diễn tả một chân lý mà tất cả chúng ta đều nhận biết, ít nhất là qua cuộc suy niệm. Sau khi hạt giống đã được gieo vào trong đất, nó phát triển ra thành một mùa gặt lớn lao. Chỉ với một ít nước, ánh sáng mặt trời và một ít kiên nhẫn thì một sự tăng trưởng kỳ diệu đã diễn ra.
Những điều đó xảy ra thế nào chúng ta không biết. Đây là một sự kiện kỳ diệu, khi một bụi cây được cắt tỉa, một số cành bị cắt đi, nó thực sự trở nên sung mãn và sinh được nhiều hoa trái.
Đó là một mầu nhiệm trong tự nhiên mà có thể được miêu tả lại nhưng không thể cắt nghĩa. Chúng ta có thể nói huyên thuyên rằng những gì sẽ bay lên hoặc phải rớt xuống, nhưng chúng ta không biết vì sao lại có trọng lực nhưng chỉ thấy những việc đó diễn ra. Vì sao mọi vật chất đều được kéo đến trung tâm trái đất mà không chuyển đi từ đó? Không người nào thể có hiểu một cách hoàn toàn về những điều này.
Chủ ý của Chúa Giêsu không phải dạy về một bài học canh nông hoặc vật lý, nhưng muốn chúng ta suy nghĩ về một mầu nhiệm sâu hơn, mầu nhiệm đó là sự ngự trị của Thiên Chúa trong Giáo Hội. Chúa Giêsu nói rằng, việc ngự trị của Thiên Chúa thì giống như hạt cải, nó có thể lớn lên như một cây lớn. Chúng ta có thể sẵn sàng thấu suốt chân lý mà Ngài đã so sánh. Giáo Hội đã bắt đầu với một nhóm nhỏ các tông đồ ở Giêrusalem. Từ nhóm nhỏ đó đã trải dài lên phía bắc của Antiôkia và tiếp đó là băng qua Địa trung Hải để đến Rôma, xuyên qua Châu Âu và dần dần lan ra cả thế giới.
Tất cả những điều này đã xảy ra thì không mầu nhiệm hơn sự tăng trưởng của một hạt giống trở thành một cây lớn. Tuy nhiên một mầu nhiệm sẽ không chấm dứt từ đó. Mầu nhiệm không phải là một chân lý mà chúng ta không biết một tí gì. Mầu nhiệm là một chân lý mà trong đó chúng ta có thể biết về mầu nhiệm đó là Giáo Hội, là điều mà Chúa Thánh Thần đang thực hiện. Đời sống của rau cỏ thảo mộc cần ánh sáng và nước để tăng trưởng. Giáo Hội cũng cần Chúa Thánh Thần. Sau ngày lễ Hiện Xuống, Chúa Thánh Thần đã được gởi đến trên Giáo Hội, Giáo Hội đã bắt đầu tăng triển và lan rộng.
Công trình này của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội sẽ không làm cho chúng ta ngạc nhiên. Chính Chúa Giêsu đã thụ thai trong cùng lòng Mẹ Maria, bởi quyền phép Chúa Thánh Thần. Trong kinh nguyện Thánh Thể, chúng ta kêu cầu Chúa Cha: “Xin Thánh Thần của Người ban ơn xuống trên chúng con và làm cho chúng con nên thánh và chúng con xin Thánh Thần ngự trị trên những lễ vật này và làm cho chúng nên thánh để chúng trở nên cho chúng con là Mình Thánh và Máu Thánh của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng con”. Tiếp đó, chúng ta cầu xin cho tất cả chúng ta được thông dự vào Mình và Máu Chúa Kitô và để cho tất cả chúng ta được hiệp nhất bởi Chúa Thánh Thần. Sự hợp nhất này là Giáo Hội, là thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô.
Thánh Thần đã hình thành Đức Kitô trong dạ của Mẹ Maria, Người đã tiếp tục hình thành Đức Kitô trong Thánh Thể, cũng như trong Giáo Hội, Giáo Hội này là Giáo Hội hoàn vũ và chúng ta gọi là Công giáo, bởi vì nó đã đạt sự thân mật với mọi người nhân loại. Thánh Thần giống như sức mạnh của trọng lực lôi kéo tất cả mọi người đến trung tâm là Đức Kitô.
Để trở thành một người Công Giáo là suy nghĩ và nhận biết rằng, chúng ta là thành phần của Giáo Hội và Giáo Hội đó đã được thông truyền qua các thế kỷ do chính Chúa Kitô và bây giờ lan rộng khắp trái đất ở mọi nơi mọi chốn. Giáo Hội dù là hoàn vũ vẫn không hoàn hảo, chúng ta phải chấp nhận điều đó. Sự yếu đuối và lầm lẫn, là thân phận của chính chúng ta và những kẻ khác ở trong Giáo Hội, nhưng điều đó sẽ không bao giờ làm cho chúng ta nhát đảm. Như một bụi cây sẵn sàng chịu tỉa xén, để trở nên mạnh mẽ và tăng trưởng mạnh hơn thì Giáo Hội cũng như vậy, cũng cần phải thống hối và canh tân để cho những công trình của Chúa Thánh Thần phát triển. Quả thật chúng ta được đặc ân là thành phần của một Giáo Hội Công Giáo lớn lao này.
16. Hạt giống âm thầm.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một hôm, cha Petitjean đến giảng đạo tại Nagasaki cho một số đông người Nhật. Nghĩ rằng họ đều là người ngoại giáo, nên sau bài giảng cha tươi cười hỏi:
- Anh chị em có thắc mắc gì không?
Một người đưa tay đặt câu hỏi:
- Chúng tôi muốn được hỏi ông ba điều, yêu cầu ông trả lời có hay không? Câu hỏi thứ nhất, các ông có Đức Mẹ đồng trinh không?
- Có.
- Câu hỏi thứa hai: Các ông có vâng lời và hiệp thông với Đức Giáo Hoàng không?
- Có.
- Câu hỏi thứ ba: Là linh mục, các ông có giữ mình khiết tịnh và sống độc thân không?
- Có.
- Vậy thì mấy trăm người chúng tôi đây với ông là đồng đạo. Chúng tôi là người Công Giáo cả.
Cha Petijean bàng hoàng như từ cung trăng rơi xuống. Cha con âu yếm ôm cổ nhau. Nhà truyền giáo hỏi:
- Bây lâu nay, có ai giảng dạy cho anh em không?
- Thưa cha, không có ai suốt hai thế kỷ rồi! Đó là nhờ ông bà tổ tiên chúng con truyền lại, rồi chúng con âm thầm cầu nguyện, dạy giáo lý cho con em, đoàn kết đùm bọc nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ông bà chúng con trước khi chết có nhắn nhủ: Sau này có ai đến giảng đạo, hãy cảnh giác, phải lấy ba tiêu chuẩn ấy mà nhận xem họ có phải là các cha đích thực, là người của Hội Thánh sai đến không.
Kể từ đó, Giáo Hội Nhật Bản được tái sinh sau 200 năm cấm đạo. Hạt giống Lời Chúa đã được gieo vào lòng đất Nhật Bản từ 200 năm trước vẫn âm thầm nẩy mầm, mọc lên và sinh hoa kết quả.
Sự kiện lịch sử này đưa chúng ta đến hai dụ ngôn về hạt giống trong Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu nói: “Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện người gieo giống trong đồng ruộng. Đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nảy mầm và mọc lên bằng cách nào, thì người ấy không biết. Nước Thiên Chúa cũng giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên thế giới. Nhưng gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng”.
Hai dụ ngôn đều cho thấy đây là Nước của Thiên Chuá, chứ không phải nước của con người, nên hạt giống Nước ấy lớn lên và sinh hoa kết quả là do sức tăng trưởng của nội tại của mình, do quyền năng của Thiên Chúa chứ không do tại sức của của con người. Và vì thế, chắc chắn kết quả chung cuộc sẽ lớn lao bất ngờ hơn so với hạt giống bé nhỏ ban đầu.
Có những loại phong lan ủ rễ trong lòng đất hàng chục năm trước khi nở ra những cành lá xanh và bông hoa xinh đẹp, quý hiếm. Bộ rễ của cây to thường phát triển chậm, nhưng có thể mọc xuyên qua vách đá hoặc xi măng, không có gì có thể ngăn cản nổi. Cũng vậy, Nước Thiên Chúa có thể tăng trưởng chậm, lâu dài và âm thầm. Loài người có thể không nhận ra sự tăng trưởng của Nước ấy, nhưng chắc chắn Nước Thiên Chúa vẫn luôn tăng trưởng không ngừng, âm thầm nhưng mãnh liệt, không có gì có thể ngăn chặn được. Nước của Thiên Chúa vẫn luôn phát triển cả bề trong lẫn bề ngoài, cả chất lượng lẫn số lượng. Nước Thiên Chúa hôm nay vẫn chỉ nhỏ bé, nhưng Thiên Chúa đang làm cho Nước ấy lớn lên, trở thành nơi nương náu cho muôn dân muôn nước.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu đến rao giảng sự tăng trưởng của Nước Thiên Chúa, thế mà hơn 2000 năm đã trôi qua, dường như Nước Thiên Chúa vẫn còn quá xa. Hội Thánh nỗ lực xây dựng Vương quốc của tình yêu, công lý và hoà bình. Nhưng biết đến bao giờ vương quốc ấy mới đến? Đôi khi xem ra lịch sử thay vì tiến lên thì lại thụt lùi tụt dốc. Tội lỗi vẫn còn đó, lòng hận thù, bất công vẫn còn đó. Hội Thánh là dấu chỉ của Nước Chúa trên trần gian, nhưng cho tới hôm nay, Hội Thánh vẫn chỉ là “đoàn chiên bé nhỏ” (Lc 2,32) giữa cộng đoàn nhân loại. Dân số thế giới vẫn gia tăng với những bước nhảy vọt, còn các Kitô hữu không tăng bao nhiêu, thậm chí ở một vài nơi lại sụp đổ từng mảng lớn và tỉ lệ lại càng chênh lệch lớn hơn.
Trong bối cảnh đó, đôi lúc chúng ta không khỏi ưu tư và nôn nóng. Càng nhiệt tình và thiện chí thì càng dễ thất vọng và mất kiên nhẫn. Phải chăng Thiên Chúa không còn can thiệp vào lịch sử này nữa? Phải chăng sự im lặng của Thiên Chúa chứng tỏ Ngài bất lực? Tin Mừng là một giải pháp vô ích và phải chăng Thiên Chúa đã chết?
Lời Chúa công bố hôm nay chính là Tin Mừng cho Hội Thánh lữ hành. Hội Thánh là bí tích của Nước Thiên Chúa, tức là dấu chỉ và là tôi tớ phục vụ cho Nước Chúa, nên Hội Thánh nghe được từ Lời Chúa hôm nay một sứ điệp quan trọng: tín thác và kiên nhẫn. Vì Nước Thiên Chúa là công trình của Thiên Chúa, nên Hội Thánh luôn tín thác vào sự tác động quyền năng của Thiên Chúa. Hội Thánh – tức là mọi Kitô hữu- không được tự hào về thánh tích của mình, không được quyền nghĩ rằng Nước Chúa sẽ đến là do khả năng của mình, do nỗ lực hay sáng kiến của mình.
Thánh Vinh Sơn – Phaolô nói: “Công việc của Chúa được thực hiện từ từ không hay biết”. Chúng ta không được sốt ruột, đừng ai tự cho mình là cần thiết: “Không có ta mặt trời sẽ không mọc, sau ta là lụt đại hồng thuỷ”. Cũng đừng quá vội vã, quay cuồng, lo lắng vì thấy hoạt động của mình như không đi đến đâu! Ngày cũng như đêm, hạt giống gieo vào lòng đất cứ âm thầm đâm chồi nẩy mộng. Cũng đừng thất vọng khi không thấy kết quả trước mắt. Lỗi lầm của người tông đồ là dựa trên tài sức của mình hơn là vào sức mạnh của Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa không thể xây dựng trong một ngày, nhưng trường kỳ từ ngày này sang ngày khác. Thái độ nôn nóng đôi khi là dấu hiệu của sự kiêu hãnh vì nghĩ rằng sự tiến bộ là do công lao của mình. Không biết kiên nhẫn đợi chờ có thể dẫn Hội Thánh đến những chọn lựa nghịch với Tin Mừng để tìm sức mạnh của quyền lực, giàu sang và chắc chắn không sớm thì muộn sẽ gặp phải thất bại.
Thưa anh chị em,
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cộng tác trong niềm tin. Tin vào quyền năng của Thiên Chúa. Tin vào sự hướng dẫn của Chúa đối với với lịch sử, để tất cả vũ trụ đi tới sự viên mãn chung cuộc của mùa gặt phong phú cuối cùng. Niềm tin mời gọi chúng ta tiến bước, bền chí lên đường reo rắc hạt giống Lời Chúa, vì biết rằng: “Tôi trồng, Apôlô tưới, còn Thiên Chúa mới là người làm cho mọc lên” (1Cr 3,6). Tôi chỉ góp phần rất bé nhỏ, con Thiên Chúa mới làm cho hạt giống Nước Chúa lớn lên theo cách của Thiên Chúa. Có khi chính trong lúc ta tưởng ngờ- như Giáo Hội Nhật Bản đã phải trải qua 200 năm âm thầm và kiên nhẫn chờ đợi ngày tái sinh.
Trong Thánh lễ chúng ta được đón nhận Lời Chúa và Thánh Thể. Chúa Giêsu chính là hạt giống Nước Trời được gieo vào lòng ta. Hạt giống ấy hôm nay nhỏ bé nhưng sẽ âm thầm lớn lên trong chúng ta. Có Chúa sống trong ta, cuộc đời ta sẽ trổ sinh hoa trái, xanh tươi, hoa lá cành, đem lại bóng mát, niềm tin và hạnh phúc cho mọi người.
17. Hạt Giống Thiên Quốc
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Bạn tôi đến Trung Quốc làm ăn cũng đã hơn 10 năm, và do nhu cầu công việc, tình cờ anh đến thăm một làng nọ, chuyên trồng tre làm hàng xuất khẩu. Khi anh đến thăm làng, ông chủ làng dẫn anh đi thăm khu vực đang trồng tre. Để cung ứng tre, họ trồng đủ cả: tre mới trồng, tre 1 năm tuổi, tre 2 năm tuổi, tre 3 và 4 năm tuổi, rồi tre 5 năm tuổi. Vào lúc 5 tuổi, những cây tre đã xanh, bự, cao ngất. Thế nhưng điều kỳ lạ là nếu bạn quan sát những mảnh đất trồng tre của 4 năm trước đó, thì bạn sẽ thấy… không gì cả.
Khi đó, anh bạn của tôi tưởng rằng do mất mùa, hoặc do làng không đủ vốn nên hỏi lại ông chủ làng: “Mất mùa thế kia, thì làng ta có thể cung cấp nguyên liệu đủ cho tôi nếu chúng ta ký hợp đồng nhiều năm không?”
Ông chủ làng cười và nói: “Anh có điều chưa hiểu. Tôi chắc khi anh nhìn vào các mảnh đất không gì cả ở đằng này của chúng tôi, anh nghĩ rằng chúng tôi sẽ không đủ khả năng cung ứng tốt những cây tre 5 năm tuổi cao, xanh và khỏe giống như đằng kia, đúng không? Thực ra không phải vậy. Cây tre ở làng chúng tôi đã được trồng nhiều đời theo cùng một cách… Nó là một giống tre khá lạ, chúng tôi gọi nó là giống tre Lã Vọng.”
Năm đầu tiên, khi những người nông dân của chúng tôi đem những cây giống của loại tre này trồng xuống, họ rất chăm chỉ làm cỏ, tưới nước, xới đất, bón phân với một niềm tin rằng cây tre sẽ phát triển nhanh, và mang lại nguồn thu nhập nuôi sống gia đình họ. Thế nhưng vào cuối năm ấy cái họ nhìn thấy là… không gì cả. Nhưng đến năm thứ 5, những cây tre này đã tự vọt cao một cách kinh khủng không ai hình dung nổi, lên tới hơn 24 mét.
Thực ra, trong những năm đầu, mọi tăng trưởng đều được dồn xuống dưới gốc tre. Sau đó khi đã có đủ bộ rễ, tất cả sự tăng trưởng của cây tre liền trồi lên mặt đất và mọi người lúc ấy mới có thể nhìn thấy được.” (Phùng Lê Sơn Hải, Câu chuyện cây tre Lã Vọng)
Trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Đức Giêsu ví Nước Trời như hạt giống gieo vào lòng đất âm thầm lớn lên thành cây lúa, hoặc như hạt cải nhỏ bé mà lớn thành cây cao bóng cả. Hình ảnh Nước Trời hoàn toàn trái ngược với các nước thế gian, thậm chí chẳng có lãnh thổ, chẳng có cơ cấu chính quyền và lẫn thần dân. Điều đó được Đức Giêsu công khai xác nhận với quan Tổng trấn Philatô:"Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do-thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này." (Ga 18, 36)
Tuy vô hình với thế gian, nhưng Nước Chúa vẫn hiện hữu, vẫn tồn tại trong lòng người thiện tâm, công dân Nước Trời với hiến chương Bát Phúc. Khi Nước Chúa được ví như hạt giống gieo xuống đất, chính là Lời Chúa gieo vào lòng mọi người. Nếu mảnh đất được chăm sóc, tưới nước, bón phân, diệt cỏ, thì hạt giống Lời Chúa mới có cơ hội phát triển, mặc dầu rất âm thầm, rất khiêm nhượng, nhưng sức sống hạt giống dồi dào, vô cùng mãnh liệt, mà chẳng ai có thể ngờ được, vì cây phát triển, lớn mạnh sau này.
Âm thầm & Phát triển
Giống tre Lã Vọng kể trên có lẽ phản ảnh phần nào hạt giống Nước Trời, vốn khiêm nhu, hiền lành, mộc mạc, sẽ âm thầm phát sinh sức sống mới trong tâm hồn những ai nghe và thực hành Lời Chúa. Họ đều được vinh hạnh sẽ trở nên huynh đệ, là người anh, chị, em của Đức Giêsu trong Thiên Quốc. “Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em, chị em tôi, là mẹ tôi.” (Mc 3, 35)
Với đất tốt, phì nhiêu, lòng chân thành, đạo đức, với sự chăm sóc, diệt trừ cỏ dại, ăn năn, sám hối, từ bỏ thói mê tật xấu, với sự đầu tư phân bón thích hợp, những việc lành phúc đức, bác ái, yêu thương, dấn thân phục vụ tha nhân, cùng hy sinh, chịu khổ cực, chịu chết đi tính xác thịt, thì hạt giống Nước Trời mới có cơ hội biến chuyển, nảy mộng, đâm chồi, bén rễ, tăng trưởng vượt bậc.
“Đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết.” (Mc 4, 27) Làm sao ai thấu đáo nổi sức sống thần linh của Lời Chúa? Chính Thánh Phaolô cũng đã chứng thực, đó là quyền năng tuyệt hảo: “Tôi trồng, Apollô tưới, nhưng Thiên Chúa cho mọc lên.” (1Cr 3, 6)
Không cần xảo ngôn, không cần tuyên truyền, không cần phô trương, diễu võ dương oai, không phức tạp những kỹ năng tiếp thị, Nước Chúa luôn chân chất bình dị, không cầu kỳ, màu mè, hương sắc, chỉ đơn sơ, hiền lành như hạt giống lúa, chỉ nhỏ nhắn, khiêm hạ như hạt giống cải, chỉ nhu mì, giản dị như nắm men làm dậy cả đấu bột, nhưng lại vô cùng phát triển, vô cùng vững mạnh, nhất là lại vô cùng cao quý hiếm hoi, tựa như kho báu chôn giấu kỹ dưới ruộng, hay viên ngọc đẹp nhất vô giá, vô song. Bất cứ ai ngay lành, công chính, có lương tri, cũng đều thao thức, trăn trở làm sao sở hữu được báu vật trường cửu viên mãn đó.
Quảng đại và thử thách
Hạt Giống Thiên Quốc không chỉ hạn hẹp gieo vãi vào những mảnh đất phì nhiêu, bờ xôi ruộng mật, đệ nhất đẳng điền, nhưng còn quảng đại gieo vào khắp nơi, không phân biệt xấu tốt, như nắng mưa đổ xuống mọi người lành cũng như kẻ dữ. Có hạt rơi bên vệ đường, hạt rơi trên sỏi đá, hạt rơi vào bụi gai, hạt rơi vào đất tốt. (Mt 13, 3-9) Thiên Chúa luôn giàu lòng từ bi, yêu thương tất cả tạo vật, tất cả loài người, nên rộng lượng ban phát Lời Chúa cho tất cả mọi người. Nhưng chỉ có những ai thiện tâm, được hồng phúc, mới ươm trồng được Hạt Giống Thiên Quốc nảy chồi trong tâm hồn, mới hội nhập vào Nước Chúa, mới hoàn tất được hồ sơ xin chiếu khán vào Thiên Quốc.
Tuy nhiên, nhập cảnh vào Thiên Quốc không hề dễ dàng chút nào, lẽ đương nhiên còn phải chịu bao thử thách, bao gian khổ, bao công lao khó nhọc, thậm chí có khi phải hiến cả mạng sống, để xứng đáng làm công dân Thiên Quốc. Bởi vì Hiến Chương Nước Trời đã quy định tám điều luật cần thiết và ắt đủ để được cứu xét quyền lưu trú, quyền định cư vĩnh viễn vào Thiên Quốc.
Không thể như thế gian, cứ bon chen chạy chọt, cứ lải nhải xin xỏ, bẻm mép là được cứu xét, vì Đức Giêsu đã tuyên bố điều kiện gia nhập Nước Trời rất cụ thể và hữu lý: "Không phải tất cả những ai nói với Thầy: "Lạy Chúa, Lạy Chúa", là được vào Nước Trời, nhưng chỉ có người thực hiện ý Cha Thầy ở trên trời, kẻ ấy mới được vào Nước Trời. (Mt 7, 21)
Thực hiện Ý Thiên Chúa chính là làm những điều Đức Giêsu đã phán dạy, cũng như những điều Người đã vâng theo Thánh Ý Chúa Cha, mà chịu khổ nạn vả chịu chết. “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm, thì sẽ cứu được mạng sống mình. Vì chưng được lời lãi cả thế gian mà mất mạng sống mình, thì nào được ích gì?”(Mc 8, 34-36)
“Hạt lúa gieo xuống đất không chết, trong nó sẽ phát xuất sự sống phong phú mới mẻ hơn. Hạt lúa nấu thành cơm nuôi nhân loại cũng không chết, nó tươi nở trong một cuộc sống khác đẹp hơn, cao quý hơn.” (Đường Hy Vọng, số 688)
Lạy Chúa Giêsu, xin gieo vào lòng chúng con Hạt Giống Thiên Quốc, xin Chúa ban cho hạt giống nảy nở, đâm chồi, phát lộc vững mạnh, phát triển bền đỗ, tránh được hiểm họa sâu bệnh, lẫn phong ba, bão táp, lũ lụt, vẫn một lòng trung kiên, trung thành với Nước Trời.
Lạy Mẹ Maria từ bi nhân hậu, xin Mẹ cầu bầu chở che chúng con được ở trong Nước Chúa, dù có sa ngã, lỗi lầm, vấp phạm, vẫn được Mẹ thương yêu sửa dạy, ân cần dìu dắt, chỉ đường dẫn lối cho chúng con can đảm dấn bước về quê Trời. Amen.
18. Nước Cha Trị Đến
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Chúa Giêsu chính là Người Đi Gieo Hạt Giống Tin Mừng, khởi sự mở cửa Nước Trời cho nhân loại. Tiếp đến, các Tông Đồ, các mục tử và cả đoàn chiên cũng đã và đang tiếp nối sứ vụ Đi Gieo, mà Chúa Giêsu đã trao phó.
Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế. (Mt 28, 19-20)
1. Đi Gieo
Trước khi về trời, Chúa Giêsu ân cần trao cho các Tông Đồ sứ vụ Đi Gieo Hạt Giống, rao giảng Tin Mừng đến muôn dân, mở mang Nước Chúa. Nhờ ơn Đức Chúa Thánh Thần, các ngài đã can đảm và tích cực phát triển Nước Chúa ngoạn mục, ngay từ những giây phút đầu tiên.
Anh em hãy sám hối và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô, để được ơn tha tội; và anh em nhận được ân huệ là Thánh Thần…Và những ai đón nhận lời ông (Phêrô), đều chịu phép rửa. Và hôm đó đã có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo. (Cv 2, 38-41)
2. Chim trời, đất sỏi và gai góc
Nhưng sứ vụ Đi Gieo không hề dễ dàng thuận lợi, mà trái lại, gặp vô vàn gian nan, thử thách, thậm chí chịu bức bách, tù tội và hành hình. Như chim chóc, ác điểu lạnh lùng kéo nhau đến tiêu diệt, như đất sỏi đá, môi trường khắc nghiệt, từ chối, chống đối, áp bức, như bụi gai, những thế lực đen gian ác uy hiếp, cấm đoán, bót nghẹt.
Trong khi gieo, có hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất. Có hạt rơi trên sỏi đá, chỗ không có nhiều đất, nó mọc ngay, vì đất không sâu; nhưng khi nắng lên, nó liền bị chết cháy. Có hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm nó chết nghẹt và không sinh hoa kết quả. (Mc 4, 4-8)
Vào Tháng 8 năm 64, Hoàng đế Nero bắt đầu bách hại Kitô hữu. Cuộc bắt đạo diễn ra đến tận năm 313. Lúc ấy, Thánh Phêrô, viên đá tảng của Hội Thánh, là Đức Giám Mục Roma và là Đức Giáo Hoàng đầu tiên của Hội Thánh Công Giáo, được vinh dự làm chứng nhân Đức Tin, chịu tử vì đạo. Rồi Thánh Phaolô cũng chịu xử trảm.
Tại Việt Nam, vào thời Trịnh Nguyễn, Giáo Hội Công Giáo ước tính có đến hàng trăm ngàn người đã làm chứng nhân Chúa Kitô. Bây giờ cơn thử thách vẫn còn tiếp diễn, nhưng tinh vi, xảo quyệt hơn.
Khắp nơi lan tràn tinh thần thế tục, nếp sống hưởng thụ, chủ thuyết duy vật và các tà thuyết vô thần, đang hiệp đồng hăm hở đánh phá Nước Chúa, cùng ngăn chận những bước chân Đi Gieo.
3. Hạt Giống nhiệm mầu
Nhưng Hạt Giống vẫn âm thầm đâm chồi, nấy lộc, mọc lên. Tin Mừng vẫn tiếp tục được rao truyền. Nhờ Đức Chúa Thánh Thần vẫn âm thầm, che chở và tác động trên Dân Chúa, mọi nơi và mọi lúc, Nước Thiên Chúa vẫn phát triển mạnh mẽ không ngừng, mà chẳng ai có thể ngờ hay hiểu nổi.
Đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nảy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết. (Mc 4, 27)
4. Bội thu
Mặc cho mưa sa, bão táp, mặc cho bạo quyền cấm đoán, bách hại, Nước Chúa vẫn lặng lẽ phát triển cho đến khi hoàn thành mỹ mãn.
Có những hạt lại rơi nhằm đất tốt, nó mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả: Hạt thì được ba mươi, hạt thì được sáu mươi, hạt thì được một trăm. (Mc 4, 9)
Đất tự động sinh ra hoa màu: trước hết cây lúa mọc lên, rồi trổ đòng đòng, và sau cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt. (Mc 4, 28)
Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại nhỏ nhất trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên, lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá sum suê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng. (Mc 4, 30-32)
Trong số 118 vị tử đạo ở Việt Nam, đã có 117 vị đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong thánh vào ngày 19, tháng 6, năm 1988. Và Thầy Giảng Anrê Phú Yên được phong Chân Phước ngày 5 tháng 3, năm 2000. Những Hạt Giống ấu chiu6 mục nát đi, để cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam hôm nay xum xuê, tươi tốt, nhiều hoa thơm, trái ngọt. Dù bị cấm đoán, bách hại ngay từ thuở sơ khai, nhưng đến nay Nước Chúa vẫn mãi trường tồn và phát triền vững bền.
Lạy Chúa, xin gìn giữ, bảo vệ và an ủi, ban muôn hồng ân cho Dân Chúa trước những khó khăn, cấm đoán, bách hại, để Danh Cha luôn cả sáng, Nước Cha trị đến muôn đời.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã từng trải qua bao cơn bĩ cực, qua cơn bách hại của Hêrôđê ngày xưa, xin giúp con vượt qua hiểm nguy và cám dỗ, để vẫn mãi là con chiên trung thành của Nước Trời. Amen.
19. Hạt giống đức tin
(Suy niệm của Lm. John Nguyễn)
Cách đây vài năm, tôi được xem cuốn phim về cái chết của Đức cha Oscar Romero, Tổng giám mục El Salvador, ngài bị ám sát chết trong lúc dâng lễ. Khi xem cuốn phim này, nó làm cho tôi có nhiều cảm xúc và cảm phục về vị Giám mục đã hy sinh mạng sống của mình, ngài đứng lên bảo vệ chân lý và công bằng cho người nghèo, cho những người bị áp bức bất công trong xã hội lúc bấy giờ. Ngài như là hạt giống được gieo vào lòng đất để trổ sinh ra những bông hạt khác.
Biến cố xẩy ra vào lúc 6 giờ 25 chiều, ngày 24/3/1980, tại nguyện đường của bệnh viện khi Đức cha dâng Thánh lễ cầu hồn cho thân mẫu của một người bạn thân vừa mới qua đời. Ngài đọc cho cộng đoàn nghe đoạn Phúc Âm của thánh Gioan:" Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác." (Gioan 12, 23-24), rồi ngài áp dụng Lời Chúa vào tình cảnh khốn cùng của người dân nước El Salvador, họ phải cam chịu dưới ách thống trị của độc tài quân phiệt. Ngài tâm sự với cộng đoàn nhỏ bé đang dự lễ: "Điều quan trọng là đừng yêu mình đến nỗi không dám dính líu vào những việc liều lĩnh mà lịch sử đòi hỏi nơi chúng ta. Kẻ nào tránh né sự nguy hiểm, kẻ ấy sẽ mất sự sống mình. Nhưng bất cứ ai có lòng yêu mến Chúa Kitô và hiến thân phục vụ tha nhân, kẻ ấy sẽ được sống giống như hạt lúa chết đi , nhưng thật ra chỉ chết về mặt bề ngoài để sinh nhiều bông hạt khác". Ngài nói thêm:"Tôi tin trong sự chết có sự sống lại. Nếu người ta giết tôi, tôi sẽ được sống lại trong lòng người dân El Salvador của tôi."
Kết thúc bài giảng, Đức Cha Oscar Romero tiến lên giữa bàn thờ chuẩn bị dâng thánh lễ thì có tiếng súng nổ và một loạt đạn từ dưới cuối nhà nguyện. Đức cha Romero bị trúng đạn, máu chảy ra lai láng và tắt hơi thở ngay dưới bàn thờ. Ngày nay không chỉ người dân El Salvador mà cả những người công giáo trên toàn thế giới gọi Ngài là vị Giám mục của người nghèo.
Ngày 29/5/2015, Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô phong chân phước cho ngài với hơn 2 ngàn người tham dự. Theo báo chí tòa thánh đưa tin, khi thánh tích Đức Tổng Giám Mục Oscar Romero là chiếc áo sơ mi vấy máu, ngài mặc khi bị bắn chết được rước lên, và cộng đoàn bắt đầu hát kinh Vinh Danh, bầu trời xám xịt trong một tuần đầy mưa bão đột nhiên trở nên trong sáng với một vầng hào quang, mà từ chuyên môn gọi là “solar halo”, một hiện tượng rất hiếm khi xảy ra.
Cha Manuel Dorantes, linh mục thuộc tổng giáo phận Chicago Hoa Kỳ, ngài xác tín rằng, hiện tượng siêu tự nhiên này cho thấy việc phong Chân Phước cho Đức Tổng Giám Mục Oscar Romero là rất đẹp lòng Thiên Chúa. Nhiều Hồng y, Giám mục và linh mục đã rơi lệ vì cảm động trước những điều kỳ diệu Chúa làm.
Giáo hội ngày hôm nay cần chứng nhân hơn là thầy dạy, cần có những hạt giống tốt gieo vào thế gian, thì Giáo hội mới có thể gặt hái được mùa bội thu, điều đó được tìm thấy trong hai dụ ngôn hạt giống của Chúa Giê-su. Ngài diễn giải Nước Trời giống như hạt cải nhỏ bé âm thầm gieo xuống đất. Dù đêm hay ngày thì hạt giống ấy vẫn mọc lên thành cây to. Nếu chúng ta áp dụng cái chết của vị Giám mục Romero vào bài Tin mừng hôm nay, thì chúng ta hiểu rõ hơn về những gì Chúa Giêsu dùng dụ ngôn hạt giống để nói về Nước Trời, hạt giống đó phải chấp nhận tự hủy chính bản thân mình thì mới sinh ra nhiều bông hạt khác. Vì chính nơi Đức Chúa Giêsu, Ngài đến trần gian để gieo hạt giống Tin mừng bằng chính đời sống và bằng cái chết của Ngài. Hạt giống của Chúa là bằng lời rao giảng, bằng sự yêu thương, bằng lời an ủi, chia sẻ và cảm thông, bằng giọt máu để cứu rỗi nhân loại. Hạt giống ấy dành cho những ai biết lắng nghe và đón nhận Lời Chúa.
Và mỗi người chúng ta cũng được ví như những hạt giống được gieo vào trần gian này. Nếu hạt giống đức tin của chúng ta được lớn lên và phát triển, thì cần có mãnh đất tâm hồn tốt. Đó là những tâm hồn biết mở ra cho tha nhân, tâm hồn quảng đại, yêu thương và tha thứ. Trái lại, hạt giống Lời Chúa và hạt giống đức tin không thể mọc lên với những tâm hồn ích kỷ, hẹp hòi, hận thù, ghen ghét, đố kỵ chỉ biết lo cho mình, cho nên, chúng không thể sinh ra hoa trái tốt và lợi ích cho người khác.
Đức Giám mục Oscar Romero là dấu chỉ hạt giống cho Tin mừng, hạt giống đức tin hôm nay, ngài là chứng nhân cho Đức Kitô tự hủy, sống cho chân lý, cho lẽ công bằng, cho người nghèo bị áp bức. Ngài nằm xuống để cho bao người khác được ngẩng đầu bước đi, cho Nước Chúa được lan tỏa khắp nơi.
20. Hạt giống, hạt cải.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’ – Radio Veritas Asia)
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng hạt giống và hạt cải làm ví dụ để nói về Nước Thiên Chúa.
Nước Thiên Chúa được thiết lập giống hệt như một tiến trình gieo gặt trọn vẹn: từ hạt giống, hạt nẩy sinh thành cây, rồi thành bông lúc. Như người dân Palestina, sau khi gieo hạt giống, họ âm thầm chờ đợi lúa chín để gặt hái, chứ không hề biết hạt giống được gieo xuống đất đã phát triển như thế nào: Chúa Giêsu cũng gieo hạt giống Nước Trời nơi tấm lòng con người, cùng với ơn Chúa, Nước đó âm thầm phát triển lan rộng khắp thế giới, tạo nên mùa gặt các linh hồn. Chúa Giêsu chỉ đích thân có mặt trong mùa gieo giống và mùa gặt hái. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian chờ đợi, Ngài vẫn tiếp tục hoạt động một cách vô hình, qua Chúa Thánh Thần và Giáo Hội. Khi Nước Thiên Chúa đã phát triển đến mức tối đo, Ngài sẽ trở lại trong vinh quang, thu hoạch mùa gặt của Ngài.
Dụ ngôn hạt cải là dụ ngôn cuối cùng trong năm dụ ngôn về Nước Thiên Chúa. Cũng như các dụ ngôn trước, dụ ngôn này được rút ra từ đời sống thôn dã. Nó đưa ra một nét tương phản hấp dẫn: hạt cải nhỏ xíu trở thành một cây to lớn. Nước Thiên Chúa cũng mang nơi mình một nghịch lý tương tự: Dưới cái nhìn của thánh Marcô, dụ ngôn hạt cải chứa đựng cách diễn tả tuyệt vời về bí mật Mêsia. Cho đến lúc này, hành vi của Chúa Giêsu có thể bị coi là vô nghĩa và Nước Thiên Chúa vẫn chỉ là một thực tế khiêm tốn. Dù vậy, các dân ngoại đang nhìn thấy sự tăng trưởng dị thường của nó như các Kitô hữu ở Rôma đã kinh nghiệm được điều này. Chính Giáo Hội tiên khởi, dù yếu đuối, vẫn ý thức được mình đang tham dự vào sự thành công của một công trình đã sẵn tiềm tàng nguồn sinh lực vô biên, công trình này sẽ đạt tới mức hoàn vũ vào cuối giai đoạn phát triển của nó.
Hạt giống đã trải qua một quá trình phát triển âm thầm trước khi tới mùa gặt; hạt cải được trồng dưới đất cũng phải trải qua một quá trình cho đến khi trở thành một cây lớn. Trong những bổn phận dù âm thầm hằng ngày, chúng ta hãy tin tưởng phó thác cho quyền năng yêu thương của Chúa, chính Ngài sẽ làm cho công việc chúng ta thực hiện theo ý Chúa đạt tới kết quả vượt quá sức tưởng tượng của chúng ta, và như vậy chúng ta sẽ làm ích cho chính bản thân, cho tha nhân và cho Nước Chúa.
Xin Chúa củng cố chúng ta trong niềm xác tín đó.
21. Vấn đề thân cận.
Người nói: “Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất. Đêm hay ngày, người ấy ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nảy mầm và mọc lên, bắng cách nào thì người ấy không biết.” (Mc. 4. 26-27)
Phúc âm hôm nay lấy chủ đề là việc gieo giống. Nhưng những lời lẽ được dùng lại vang lên những âm điệu mới lạ đáng chúng ta quan tâm suy nghĩ: mầu nhiệm Đức Kitô có một sức mạnh âm thầm hằng thúc đẩy để mầu nhiệm ấy được thực hiện trọn vẹn; dầu có tính cách mong manh, mầu nhiệm ấy vẫn có một sức mạnh vô địch; sau cùng lòng gắn bó hoặc tin cậy vào Chúa Giêsu giúp ta hiểu biết đầy đủ về mầu nhiệm này.
Một sức mạnh âm thầm
Mỗi ngày ta khó nhọc vất vả gieo hạt giống Nước Trời, mong cho Nước Chúa trị đến. Nào là: kinh lễ, hội họp, thảo luận, phục vụ, thăm viếng tình nghĩa, dạy giáo lý, hoạt động nghề nghiệp, săn sóc bệnh nhân, dạy học, làm việc chân tay… Chúng ta tin rằng thực hiện một trong những công việc kể trên là làm cho chúng ta sống mầu nhiệm phục sinh, là đưa mọi loài thụ tạo đến sự phục hồi. Ta tin nhưng mắt không nhìn thấy gì cả. Những kết quả công khó của ta thường âm thầm kín đáo. Chúng ta phải khiêm tốn và có khi phải cay đắng chấp nhận những giới hạn của thân phận con người.
“Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như …”, Chúa Kitô nói với chúng ta như vậy mà, …
Ta hãy kiên nhẫn và tin tưởng!
Một sức mạnh vô địch
Chúa còn kể dụ ngôn thứ hai, dụ ngôn hạt cải, để ta thêm vững lòng. Thực vậy, Chúa đặt đối chọi nhau hai sự thể: một bên là cái mong manh bé nhỏ, bên kia lại là những kết quả to lớn đạt được. “Cây cải mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng”.
Chúng ta không thường sống sự tương phản này sao, sự tương phản giữa một bên là những dấu chỉ mong manh, còn bên kia là những kết quả to lớn đạt được? Tất cả đời sống bí tích chỉ là việc xử dụng một loại hạt giống nhỏ nhất để rồi hạt giống đó trở thành một dấu chỉ sinh ân sủng vô vàn của Chúa.
Chỉ có ai yêu mến mới hiểu được
Sau cùng, những dụ ngôn này kết thúc với lời ghi nhận rằng khi chỉ có thầy trò với nhau, thì Chúa Giêsu giải nghĩa hết cho các Tông đồ. Sự gắn bó, gần gũi với Chúa giúp ta tiến tới Người vượt xa mức bình thường mà quần chúng có thể tiếp cận được, bởi vì xét cho cùng người ta chỉ có thể hiểu biết rõ được một người khi ta yêu mến người đó.
22. Sức mạnh của hạt giống Nước Trời.
Trong hành trình rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu thường dùng những dụ ngôn, những câu chuyện thường ngày mà Ngài rút ra được từ cuộc sống thực tế để giảng dạy, vì nó đơn giản, dễ hiểu, sống động và gần gũi với dân chúng. Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn “Hạt giống tự mọc” (Mc 4,26-29) và “Hạt cải nhỏ bé” (Mc 4, 31-32) để nói lên sức mạnh quyền năng nhiệm mầu của nước Thiên Chúa.
Thật vậy, ai trong chúng ta nếu không biết nhiều thì cũng biết chút ít về việc gieo trồng của nhà nông. Hạt giống khi được gieo xuống đất, người nông dân có thể yên tâm mà làm những chuyện khác. Vì tự nó sẽ tiếp thu ánh sáng, khí trời, cùng những chất dinh dưỡng khác trong đất. Khi gặp điều kiện khí hậu, nhiệt độ thích hợp, nó sẽ âm thầm nảy mầm, từ từ mọc lên và trổ sinh bông hạt. Thế là mùa gặt đã đến. Người nông dân lại ra đồng gặt lúa đem về.
Cũng vậy, Chúa Giêsu đến trần gian và Ngài đã gieo hạt giống Nước Trời, hạt giống Tình Yêu, hạt giống Tin Mừng cứu rỗi là lời Ngài, cuộc sống, cái chết, và sự phục sinh của Ngài vào lòng nhân loại. Hạt giống ấy đã nảy mầm, lớn lên, có sức mạnh kỳ diệu, lan rộng khắp thế giới cách Nhiệm Mầu. Và Ngài đã âm thầm chờ đợi “mùa gặt bội thu.” Ngày Ngài lại đến để “thu hoạch”, để đưa tất cả những đồ đệ thân yêu của Ngài, những ai thật sự ước ao, khao khát nước trời, những ai suốt đời âm thầm lặng lẽ lắng nghe và tuân giữ lời Ngài, hy sinh phục vụ Nước Trời với tinh thần yêu thương, quảng đại, vị tha, và tiếp bước theo Ngài để gieo hạt giống tin mừng khắp mọi nơi.
Sức mạnh Nước Trời còn ví như hạt cải, một loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. nhưng khi gieo, nó mọc lên và lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá sum xuê đến nỗi chim trời đến làm tổ ẩn náu (Mc 4,31). Thật thế, Nước Trời khởi đi từ sự vâng lời thi hànhThánh ý Chúa Cha của Chúa Giêsu qua sứ mệnh công khai rao giảng tin mừng của Người. Và Nước Trời lớn lên với việc kêu gọi, thiết lập nhóm mười hai (Mc 3, 13-19), những con người hầu như xuất thân từ tầng lớp nghèo, thất học, thấp cổ bé miệng. Thế mà, nó lại phát triển thành một “cây Giáo Hội” to lớn, lan rộng khắp nơi và vô cùng mạnh mẽ với qui mô lớn. Có hệ thống chặt chẽ, có phẩm trật trên dưới vững mạnh đến nỗi không gì có thể ngăn chặn được ngay cả quyền lực hỏa ngục cũng không thể nào làm chuyển lay ( x.Mt 16,)
Như những hạt giống gieo vào lòng đất, âm thầm, chết đi để sinh nhiều bông hạt. như những hạt cải bé nhỏ phải tự phân hủy mình đi thì mới mọc lên và trở thành cây to,là chỗ tựa nương cho bao sinh vật khác. Cuộc sống của người Ki tô hữu chúng ta cũng chết đi chính mình từng ngày, từng giờ từng phút cho tha nhân, cho Nước Trời một cách vô vì lợi. cho dù chúng ta có gặp nhiều chống đối, thử thách, ngay cả khi coi như thất bại, mất mát tất cả, chúng ta đừng nản lòng lùi bước. Vì chúng ta tin rằng, với cách sống âm thầm cầu nguyện, khiêm tốn dấn thân phục vụ trong hân hoan, tin yêu và phó thác của chúng ta, Thiên Chúa sẽ có cách làm cho những hạt giống bé nhỏ đời ta sẽ trổ sinh nhiều bông hạt. sinh ích cho tha nhân và cứu rỗi các linh hồn. Phải chăng đây chính là sức mạnh Nhiệm Mầu của hạt giống nước trời?
Cầu nguyện:
Chúng con đang sống trong một xã hội thực dụng, mọi thành tựu đều được đánh giá trên kết quả của lợi nhuận trước mắt. Thế giới đang mong chờ những con người đầy khả năng, trí tuệ nhưng chúng con thì bất tài, kém cỏi chẳng giúp ích gì cho xã hội, giáo hội, giáo xứ và ngay cả gia đình cũng như chính bản thân chúng con. Nhưng Lời Chúa hôm nay đã cho con một sức manh. Sức manh của tình yêu và niềm tin. Dù chúng con chẳng là gì, chỉ là những hạt giống bé nhỏ tầm thường. nhưng chính Chúa có cách để làm cho hạt giống đó có một sức mạnh kỳ diêu trở nên cây vĩ đại, sinh nhiều bông hạt, trái tốt.
Xin cho chúng con biết gieo vào lòng đời những hạt giống yêu thương, phục vụ bằng chính con người và cuộc sống chúng con. Amen.
23. Giá trị của những việc nhỏ
(Suy niệm của Rev. Louis Kim Nguyen)
Hạt nhân nguyên tử có sức công phá khủng khiếp; vi trùng nhỏ bé lại là nguyên nhân gây ra bệnh tật cho con người; chỉ một hạt cát nhỏ nếu rơi vào mắt sẽ làm xốn xang, khó chịu... là những thí dụ đơn giản giúp chúng ta ý thức được những giá trị không thể kể hết của những gì vốn thường hay được coi là nhỏ bé và âm thầm trong cuộc sống thường ngày.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, để quảng diễn những giá trị siêu việt và phổ quát của Nước Trời, Đức Giêsu cũng sử dụng những hình ảnh rất bình thường như hạt giống nhỏ bé được gieo vào lòng đất, âm thầm mọc lên, rồi sinh hoa kết trái. Nhỏ bé và âm thầm nhưng với thời gian, chúng để lại những hiệu quả không còn là nhỏ bé và âm thầm nữa.
Suy niệm Lời Chúa hôm nay sẽ giúp chúng ta thấy mình được mời gọi để nhận ra được những giá trị thật của những gì vốn rất bình thường, nhỏ bé. Thật thế, chúng ta cần tái khám phá ra những giá trị của chúng và sử dụng chúng để xây dựng Nước Thiên Chúa ngay trong cuộc sống hiện tại.
Nói như thế là vì thông thường chúng ta hay quá chú trọng đến những gì gọi là vĩ mô, những kế hoạch to lớn nhưng lại thường quên, hay bỏ sót không chú trọng đến những gì là vi mô, đơn giản, âm thầm.
Thử xét xem chúng ta sẽ thấy: những đức tính nhân bản tốt lành như nhân, tín, lễ, nghĩa… mà chúng ta đang có vốn đã được Cha Mẹ, Thầy Cô dày công dạy bảo, giúp uốn nắn khi chúng ta còn bé. Chính những uốn nắn, sửa bảo thời xa xưa ấy đã giúp hình thành nên những nhân cách tốt đẹp sau này.
Những buổi đọc kinh tối chung trong gia đình, những câu kinh căn bản được Cha Mẹ chỉ dạy, hướng dẫn cách cầu nguyện, sau này sẽ hình thành nên những thói quen đạo đức tốt lành trong hành trình sống đạo của chúng ta.
Những chân lý từ Tin Mừng được tiếp thu qua các lớp giáo lý căn bản, vỡ lòng khi còn niên thiếu, sẽ theo chúng ta qua năm tháng để rồi sau này sẽ được áp dụng trong cuộc sống giúp chúng ta trở thành những Kitô hữu tốt.
Có thể nói Cha Mẹ, Thầy Cô, và những người có trách nhiệm đã âm thầm gieo hạt giống Nước Trời vào trong tâm hồn chúng ta. Theo năm tháng chúng hình thành, được lưu lại trong tâm hồn và rồi sinh ra những hiệu quả tốt, tích cực trong các mối quan hệ xã hội và sống đạo của chúng ta.
Hôm nay chúng ta được mời gọi nhận thức lại những hướng dẫn tưởng như bình thường ấy và thực hành chúng trong cuộc sống hằng ngày. Đây là lúc chúng ta chuyển giao đức tin cho các thế hệ tương lai, và chúng sẽ được thể hiện qua những lời khuyên bảo ân cần; những tấm gương sáng bằng những hành động tốt, cụ thể.
Khi ý thức thực hiện những công việc này, chúng ta như những người đang gieo giống, đang xây dựng và làm hình thành Nước Trời ngay trong cuộc sống tại thế này bởi Nước Trời không ở đâu xa. Nước Trời ở ngay trong gia đình, trong xã hội, trong cộng đoàn của chính mình.
Chúng ta được mời gọi bởi Lời Chúa, qua dụ ngôn người gieo giống âm thầm, qua hạt giống nhỏ bé như hạt cải… tượng trưng cho những việc tốt nhỏ được âm thầm thực hiện hằng ngày. Những việc tốt nhỏ nhưng được làm với tâm hồn không nhỏ để làm gương sáng và để trở nên những nhân tố tích cực trong việc xây dựng Nước Trời trong lòng xã hội và thế giới này, một Nước Trời phổ quát và rộng lớn, không biên giới.
Thiên Chúa mời gọi chúng ta xây dựng Nước Trời bằng việc âm thầm làm chứng và làm gương sáng về đức tin qua cuộc sống hằng ngày. Hãy làm những hành động nhỏ nhặt nhất, nhỏ nhặt nhưng với một tinh thần và ý thức lớn lao. Những việc ấy sẽ có tác dụng và để lại những ảnh hưởng tích cực đến môi trường sống, đến cộng đoàn.
Đức Giêsu đã gửi đến cho chúng ta một định hướng rõ ràng: không nên coi thường giá trị của những sự việc, hành động nhỏ bé. Và chính qua qua việc thực hiện những gì tưởng như là bình thường, đơn điệu ấy Nước Trời đang thực sự hiện diện và lớn lên giữa chúng ta.
24. Làm đẹp lòng Chúa.
(Trích trong ‘Giải Nghĩa Lời Chúa’ - Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Chúa nhật hôm nay đáng gọi là là ngày phấn khởi và hy vọng. Bài sách Ezekiel cho chúng ta thấy một nhánh cây đã được trồng và mọc lên trở thành bá hương oai lẫm. Còn trong bài Tin Mừng, Chúa Yêsu kể cho chúng ta nghe câu truyện hạt giống gieo xuống đất âm thầm mọc lên một cách tự nhiên nhưng chắc chắn. Và nhất là chúng ta phải bỡ ngỡ khi thấy hạt cải nhỏ bé nhất trong mọi thứ hạt mà lớn cao đến nỗi "chim trời có thể nương náu dưới bóng nó".
Những dụ ngôn và ví dụ ấy muốn nói gì với chúng ta về đời sống đạo đức? Có phải Lời Chúa hôm nay muốn khuyên chúng ta phấn khởi nhìn về tương lai, như thánh Phaolô nói trong bài thư không? Chắc chắn cả ba bài đọc đều phong phú, chúng ta không nên tổng hợp mau lẹ.
A. Nhánh cây bá hương
Bài sách Ezekiel đưa chúng ta trở về thời lưu đày của dân Dothái cách đây những 2,600 năm. Nhà tiên tri cũng ở trong số đám dân lưu lạc. Ông có chức tư tế nên càng thấm thía cảnh sống xa Đền thờ. Mọi nhân tố bên ngoài cho thấy chẳng còn hy vọng nào nữa cho đám người lưu vong này trở về quê cũ. Các tin tức bên nhà cho biết quê hương điêu tàn ngày nay đã có người khác đến ở. Họ không thờ Yavê và chẳng biết gì Luật pháp Môsê. Còn dân lưu đày, lúc đầu còn nhớ quê hương và noi giữ phong tục tổ tiên; nhưng dần dần đã muốn đồng hóa với dân ngoại, xây dựng cơ sở làm ăn và chẳng thiết gì việc trở về quê cũ nữa. Như vậy mọi lời hứa của Thiên Chúa Israel đã trở nên hão huyền sao? Người bỏ hẳn Dân được tuyển mãi ư? Niềm tin của những người chân chính như Ezekiel làm sao chịu được những ý nghĩ như vậy?
Nhưng cũng không vì vậy mà có thể lấy ước mơ làm sự thật. Thời gian đã cho thấy mọi kiểu mơ ước như vậy thật hão huyền và tai hại. Sấm ngôn của các tiên tri thì khác hẳn. Những người này không nói theo ước mơ của những kẻ bất lực và tuyệt vọng. Họ tuyên bố những điều phi thường nhân danh Thiên Chúa. Họ rất tỉnh và sáng suốt. Họ biết mình đang nói những điều không trí óc loài người nào nghĩ ra được. Họ chỉ tuyên bố những điều Chúa phán dạy.
Hôm nay Người nói qua miệng Ezekiel. Ông đến với đám dân lưu lạc không còn gì hy vọng. Ông nói với họ rằng: Chúa phán như sau. Người sẽ ngắt một nhánh trên ngọn bá hương cao ngất và đem trồng trên sơn lĩnh vòi vọi của Israel. Nó sẽ mang lá, sinh hoa và trở thành bá hương oai lẫm. Thú vật và chim trời sẽ đến núp bóng nó. Hơn nữa, người ta sẽ thấy nó vươn cao lên, đang khi cây gốc trước kia của nó sẽ cụp xuống và khô héo đi.
Thiên Chúa muốn nói gì vậy? Đám dân lưu đày thời bấy giờ đã hiểu ngay ý nghĩa. Ta có thể nhìn thấy mắt họ sáng lên và chân tay hồi sinh. Có thật như vậy không, bấy giờ họ hỏi nhau. Chúa đã dùng lời lẽ của loài người để nói với họ. Người mượn lại các quan niệm của họ quen sánh ví các dân tộc và các bậc vĩ nhân như các cây to lớn như giống bá hương. Do đó ở đây Lời Chúa muốn nói rằng, Người sẽ lấy một người hoặc một số ít người trên đất Babylon rộng lớn, vĩ đại này đem về trồng ở Israel. Tức là Người sẽ cho thiểu số dân lưu vong này được trở về Hứa Địa. Hơn nữa, nhóm dân nhỏ bé sẽ mang lá mang cành, mang hoa mang trái, trở thành cây bá hương oai lẫm, đang khi Babylon sẽ suy tàn héo hắt.
Rõ ràng phải hiểu Lời Chúa như vậy. Văn chương thời bấy giờ bắt phải cắt nghĩa như thế. Lời tiên tri hôm nay khẳng định Dân Chúa sẽ được hồi hương. Họ sẽ hồi sinh, họ sẽ trở thành chỗ tựa cho thú vật và chim trời tức là cho mọi thứ sinh linh. Đang khi ấy kẻ chiến thắng của họ trước đây sẽ bị quật xuống. Cây tươi (bây giờ) sẽ thành khô héo; và cây héo khô (lúc này) sẽ đâm chồi nẩn mầm. Vì chỉ có Thiên Chúa làm được như thế. Người hứa sẽ làm như vậy. Dân Chúa không thể nhận được lời hứa nào to lớn hơn. Tương lai quá sức huy hoàng. Mọi người phải phấn khởi. Tất cả phải hồi sinh. Hy vọng quá đỗi lớn lao!
Có chăng chỉ còn một thắc mắc: nhánh bá hương được Thiên Chúa ngắt và đem trồng trên Núi thánh Israel, là ai? Là một cá nhân được Thiên Chúa dùng để dựng lại nhà Đavít? Hoặc là cả thiểu số còn sót lại trong cuộc lưu đày sẽ được hồi hương và xây lại Dân Chúa? Bản văn không rõ ràng. Và lịch sử sau đó cho thấy, không phải một người nào -ngay cả trong hoàng tộc- đã dựng lại được cơ đồ cho Israel. Những người có công lớn trong việc trùng tu xứ sở như Ezra và Nêhêmya, cũng không đáng được coi như nhánh bá hương đã được ngắt từ Babylon đem về. Nhưng cũng không hoàn toàn đúng khi chúng ta hiểu nhánh cây lựa ấy ám chỉ toàn thể những con người hồi hương xây dựng lại Đất Hứa. Trước mắt thì đúng, vì công cuộc tái thiết quê hương là thành quả của cả dân còn sót lại sau thử thách lưu đày. Nhưng bảo rằng công việc của họ đã vươn lên trở thành bá hương oai lẫm khiến thú vật, chim trời đến núp bóng, tưởng không đúng với lịch sử. Israel sau lưu đày chẳng lúc nào được hoàn toàn quang vinh. Ngược lại, Dân Chúa lại mau chóng rơi vào lầm than khổ sở rồi lại bị ngoại bang đô hộ.
Như vậy lời sấm của Ezekiel đã đúng, nhưng chưa thực hiện hoàn toàn. Cây khô là Israel lưu đày có lúc đã được tươi tỉnh lại. Tuy nhiên người ta còn phải chờ xem khi nào cây mọc trên sơn lĩnh vòi vọi của Israel mới thật sự trở thành bá hương oai lẫm. Ngày nay nhờ đức tin chúng ta biết mọi lời tiên tri của Cựu Ước phải chờ thời Tân Ước mới hoàn thành. Và nhánh cây ưu tuyển mà Thiên Chúa lựa chọn trong Cựu Ước sẽ là một thực tại Tân Ước. Nó có phải là hạt giống và là hạt cải nói trong bài Tin Mừng hôm nay không? Chúng ta cứ thử tìm hiểu.
B. Hai dụ ngôn về hạt giống và hạt cải
Thoạt đầu, không ai thấy ngay có nét giống nhau nào giữa nhánh cây bá hương trong sách Ezekiel và dụ ngôn hạt giống. Tuy nhiên đọc lại người ta thấy bài Tin Mừng khẳng định: về Nước Thiên Chúa thì giống như khi người kia gieo giống xuống đất; dù người ấy ngủ hay thức, ban đêm hay ban ngày, hạt giống cứ nảy mầm, lớn lên... cho đến lúc có hạt chắc, đợi đến mùa sẽ tra liềm hái.
Khi kể dụ ngôn này, Chúa Yêsu muốn nói đến tương lai chắc chắn của Nước Thiên Chúa. Người gieo có thức hay ngủ, ban đêm hay ban ngày, hạt giống vẫn cứ mọc lên cho đến ngày mang hạt chắc, sẵn sàng cho mùa gặt hái. Nói cách khác Nước Thiên Chúa sẽ lớn lên và đi đến chỗ thành tựu như Thiên Chúa đã dự định, dường như bất kể thái độ của con người. Đó là công trình của Thiên Chúa, chứ không phải của loài người. Và Thiên Chúa đã dự định thế nào thì sẽ xảy ra như vậy.
Do đó ở đây cũng không khác trong sách Ezekiel: chính Yavê đã nói và sẽ làm. Người làm những việc không ai mường tượng được. Cây tươi, Người cho héo; cây héo, Người cho đâm chồi. Vậy nếu lời sấm của Ezekiel đã hồi sinh những tâm hồn héo hắt trong đám dân lưu đày, đem tin tưởng phấn khởi lại cho những kẻ đang rã rời, thì dụ ngôn hạt giống cũng muốn đem đến cho những người trong thời đại Tân Ước một niềm tin tương tự. Nhiều khi họ không tự hỏi về tương lai Nước Thiên Chúa và của Hội Thánh sao? Những hiện tượng bên ngoài lắm lúc khiến người ta phải tự hỏi: Nước Thiên Chúa đâu rồi? Ước gì những lúc ấy lại tự hỏi cũng nhận được câu trả lời của bài Tin Mừng hôm nay: hạt giống Nước Thiên Chúa đã gieo xuống rồi thì dù con người ngủ hay thức, ban đêm hay ban ngày, nó vẫn một mực nảy mầm lớn lên như Thiên Chúa đã dự liệu. Mùa gặt sẽ đến, ngày tận thếsẽ xảy ra. Nước Thiên Chúa sẽ thành tựu trong vinh quang.
Nhưng bài Tin Mừng hôm nay còn ví Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, khi gieo xuống đất nó nhỏ tí; nhưng đã gieo xuống rồi nó mọc thành to lớn đến nỗi chim trời có thể nương náu dưới bóng nó. Chúng ta thấy dụ ngôn này gần với bài sách Ezekiel hơn. Như một nhánh bá hương ngắt trên đỉnh cao của cây bá hương to lớn, đã lớn lên thành bá hương oai lẫm, hạt cải nhỏ xíu ở đây khi gieo xuống bé hơn mọi thứ hạt; nhưng lớn lên nó to lớn hơn mọi thứ rau. Tương lai Nước Thiên Chúa cũng như vậy. Khởi sự nhỏ mọn thôi, nhưng rồi sẽ trở nên nơi nương tựa cho mọi người được cứu chuộc.
Tuy nhiên, nếu chỉ so sánh như vậy, chúng ta chưa thấy vẻ đặc sắc của bài Tin Mừng. Có thể bảo bài sách Ezekiel còn phấn khởi và "hùng vĩ" hơn. Nhà tiên tri nói đến cây bá hương, trên đỉnh cao chót vót của núi đồi Israel. Ở đây, Chúa Yêsu lấy ví dụ hạt giống và hạt cải, không to lớn bằng. Ấy cũng do điều này mà nhiều người Dothái đã không muốn đón nhận ngay giáo lý của Đức Yêsu. Người ta thấy Người giảng dạy có uy quyền; nhưng những điều Người hé mở cho thấy lại không có vẻ hùng vĩ, oai lẫm. Người ví Nước Trời như hạt giống, hạt cải, hoặc như lưới vét và như men trong bột... Cách thức Người sống cũng không hứa hẹn phong cách triều đình. Nhất là những kẻ đi theo Người hầu hết là kẻ nghèo và thứ dân. Người Dothái ao ước Vị Thiên Sai phải lớn hơn các tiên tri và thời đại của Người sẽ cho thấy một nước Dothái bá quyền. Như vậy Người có thực hiện các lời tiên tri không? Cụ thể bài Tin Mừng hôm nay có giải đáp thắc mắc còn lại của bài sách Ezekiel không?
Đức tin khiến chúng ta trả lời không do dự. Ezekiel báo trước thời cực thịnh của Dân Chúa. Khi những người lưu đày trở về xây lại Israel, thì lời sấm của nhà tiên tri đã khởi sự thực hiện. Nhưng nó chỉ kiện toàn khi Đức Yêsu Kitô là mầm non của nhà Đavít đã trở nên thân nho ưu tuyển mà bất cứ kẻ nào muốn được cứu vớt cũng phải đến kết hiệp như cành phải gắn vào thân cây. Và Đức Yêsu Kitô Cứu thế hiện nay ở giữa chúng ta cũng là Hội Thánh mà Người đã thiết lập. Đó là dân Mới của Thiên Chúa. Dân đâm chồi trên cây héo là Israel xưa. Dân Mới khởi sự là một nhóm nhỏ, bé như hạt cải, thua mọi thứ hạt; nhưng đang lớn lên thành nơi cho chim trời đến nương bóng. Hội Thánh của Thiên Chúa sẽ thành tựu trong Thiên Chúa, sau khi trời đất này và mọi sự trong đó sẽ qua đi. Lúc đó lời sách Ezekiel mới hoàn toàn thực hiện. Bấy giờ người ta mới thấy rõ Hội Thánh là công trình của Thiên Chúa. Chính Người hướng dẫn lịch sử Hội Thánh chứ không phải con người; Hội Thánh lớn lên ban ngày # ban đêm, trải qua mọi thăng trầm của lịch sử loài người.
Qua bài Tin Mừng chúng ta còn nhận thấy nhiều hơn những điều Ezekiel muốn nói. Nhà tiên tri loan tin phấn khởi, nhưng có lẽ ông chưa cho người nghe thấy có thể cộng tác vào công trình của Chúa. Ông rao giảng một niềm tin chờ đợi. Còn Chúa Yêsu, trong khi kể dụ ngôn hạt giống và hạt cải, muốn cho người nghe phải tích cực hơn nhiều. Hạt giống gieo xuống, mọc lên, trổ bông, đậu quả, chờ đợi ngày gặt lúa, là hình ảnh Nước Thiên Chúa mà Đức Yêsu đang rao giảng. Thính giả của Người phải kiên trì. Đừng muốn có những kết quả thành tựu ngay. Phải chờ ngày gặt, mà theo Thánh Kinh, cũng là ngày Thiên Chúa xét xử. Như vậy thời gian trở nên giá trị. Đây là lúc Thiên Chúa có thể nói với người đã gieo xong. Người để cho các sự việc diễn tiến theo định luật của chúng. Ngày tận thế Người mới sai các thiên thần của Người tra liềm gặt hái: thóc sẽ được thu vào lẫm, cỏ sẽ bị đốt cháy trong khóc lóc nghiến răng. Và như vậy, đây cũng là thời gian để con người làm lành lánh dữ, xây dựng hay phá hoại hạnh phúc sau này.
Hơn nữa hạt giống Nước Thiên Chúa lại chỉ như một hạt cải. Nhưng nó sẽ thành cây rau lớn. Đức Yêsu và công việc của Người bề ngoài người ta chỉ thấy nhỏ mọn thôi, nhưng đừng vì vậy mà coi thường và không đón nhận. Phúc cho những ai không bị xúc phạm vì Người và cách sống của Người. Những kẻ không muốn trở nên bé nhỏ không thể vào Nước Thiên Chúa.
Những bài học ấy, ai bảo không còn cần thiết cho chúng ta?
C. Chỉ ao ước một điều: làm đẹp lòng Chúa
Chắc chắn cuộc đời của hết thảy chúng ta không giống như của thánh Phaolô, nhưng phương hướng phải như một, để chúng ta cũng thật sự có đức tin của các tông đồ.
Trong đoạn thư hôm nay, sau khi nhắc đến những gian truân thử thách xảy đến trong cuộc đời tông đồ, thánh Phaolô khẳng định lòng người luôn luôn vững vàng. Người ý thức rõ rệt cuộc sống hiện nay là lưu đày, không phải vì nhiều khổ sở, nhưng vì đang đi trong đức tin, chưa được ở bên Chúa như sau này ở trên trời. Chỉ ngày nào ra khỏi thân xác, mới ra khỏi nơi lưu lạc, mới không còn bước đi loạng choạng trong thứ ánh sáng nửa tối nửa sáng của đức tin, và mới được ở trước thiên nhan Chúa, diện đối diện, sáng tỏ hoàn toàn, không còn tranh tối tranh sáng nữa.
Do đó không phải chỉ khi gặp thử thách nặng nề, con người mới rơi vào chốn lưu đày. Nhưng bản chất của cuộc đời hiện nay là thời gian như không thấy Thiên Chúa hành động và các sức lực tự nhiên trong vũ trụ như cứ xảy ra theo định luật của chúng. Nước Thiên Chúa và sự công chính, nếu không hoàn toàn y như hạt giống đang nằm trong lòng đất, chẳng ai nhìn thấy, thì cũng chỉ giống như hạt cải đứng bên mọi thứ hạt khác, nhỏ bé đến nỗi người ta có thể không để ý đến nó. Chính vì vậy mà rất nhiều người hiện nay không quan tâm sống đạo đức và đi tìm Nước Thiên Chúa. Nhưng như hạt giống sẽ đi đến ngày gặt hái, hạt cải sẽ lớn thành cây, Nước Thiên Chúa cũng sẽ đi đến ngày tỏ hiện và sẽ bao trùm tất cả thế gian. Lúc ấy mỗi người sẽ lĩnh lấy thành quả đời mình khi còn sống trong thân xác, nơi chốn lưu đày. Thế nên điều quan trọng nhất cho chúng ta trong cuộc đời, là làm đẹp lòng Chúa, để khi Người đưa chúng ta ra khỏi chốn lưu đày, chúng ta được trở nên như nhánh bá hương oai lẫm; để khi mùa gặt đến, chúng ta là bông thóc chắc, để khi thời gian đã qua, chúng ta là cây rau to lớn... hoặc như khi chim trời được đến nấp bóng cây cải đã to là Hội Thánh trong thời viên mãn, là thân thể Chúa Kitô đã đạt tới tầm vóc kiện toàn.
Giờ đây mầu nhiệm Nước Thiên Chúa được cử hành trong mầu nhiệm Thánh Thể. Bề ngoài chỉ có tấm bánh và chén rượu. Có là gì trước mắt thế gian và đối với lịch sử thế giới? Không như hạt giống hạt cải sao? Và cộng đoàn tín hữu này có hơn gì đám dân lưu đày thời Ezekiel? Nhưng đức tin dạy chúng ta nhìn thấy mầu nhiệm Chúa Cứu thế, mầu nhiệm Hội Thánh, mầu nhiệm cuộc đời nơi những sự bé nhỏ và thông thường kia. Chúng ta hãy đón nhận Chúa, hãy kết hợp với Hội Thánh, hãy quyết tâm sống đẹp lòng Chúa. Mọi sự trong cuộc sống của chúng ta sẽ có ý nghĩa mới và có thể sẽ giống như hạt giống, hạt cải và nhánh bá hương nói đến trong ba bài đọc Kinh Thánh hôm nay.
25. Chúa Giêsu thích dùng Dụ Ngôn
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin mừng Mc 4:26-34: Dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói: “Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất. Đêm hay ngày, người ấy ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy cũng không biết.”
Từ thời Giáo Hội sơ khai, người ta gọi dụ ngôn là loại chuyện Chúa Giêsu kể để minh giải lời giảng dạy của Người. Theo gốc Hy Lạp, từ ngữ- parabolê có ý tưởng so sánh. Thực vậy, tinh thần Đông Phương thích nói và dạy dỗ dưới hình thức so sánh; họ cũng dùng ẩn ngữ để khêu gợi tính tò mò, khích lệ việc tìm tòi; chúng ta thấy âm hưởng của sở thích đó trong Sách Thánh, đặc biệt trong những châm ngôn của các bậc hiền triết (Cn 10, 26; 12,4; Qa 14,14). Tuy nhiên đó không phải là điều cốt yếu để cắt nghĩa thể văn dụ ngôn này: ta phải hiểu dụ ngôn như là việc dàn cảnh những biểu tượng, nghĩa là các hình ảnh rút ra từ những thực tại trần thế để chỉ các thực tại được Thiên Chúa mạc khải và những thực tại này thường phải được cắt nghĩa sâu xa.
Chúa Giêsu thích dùng dụ ngôn
Mầu nhiệm Vương Quốc và con người Chúa Giêsu quá mới lạ đến nỗi chỉ có thể được biểu lộ dần dần và theo sức hấp thụ khác nhau của thính giả. Chính vì thế trong giai đọan đầu cuộc đời công khai, Chúa Giêsu dặn bảo mọi người giữ bí mật về Đấng Massia mà thánh Marcô đã làm nổi bật (Mc 1,34.44; 3,12; 5,43…). Vì vậy Chúa Giêsu cũng thích nói bằng dụ ngôn, và các dụ ngôn dù đưa ra ý tưởng đầu tiên giáo thuyết của Người, chúng buộc thính giả phải suy nghĩ và cần phải giải thích, nếu họ muốn thấu hiểu chúng. Như thế chúng ta gặp một lời giảng dạy có hai cấp bậc được thánh Marcô nhấn mạnh rõ ràng (4, 33-34): dựa theo các chủ đề cổ điển (Vua, tiệc cưới, vườn nho, chủ chăn, hạt giống. . .) các thính giả đều có thể đoán ý nghĩa dụ ngôn nhưng các môn đệ có quyền xin Chúa Giêsu giúp đào sâu giáo thuyết… Như thế các dụ ngôn xuất hiện như trung gian cần thiết để lý trí đến gần đức tin: người tín hữu càng thấu suốt mầu nhiệm mạc khải, họ càng hiểu rõ các dụ ngôn; trái lại người nào càng từ khước sứ điệp của Chúa Giêsu càng thấy các dụ ngôn về Nước Trời khó hiểu. Các thánh sử nhấn mạnh sự kiện này, vì họ xúc động khi thấy nhiều người Do Thái cứng lòng trước Tin Mừng, nên họ trình bày việc Chúa Giêsu trả lời cho các môn đệ bằng một câu trích trong Isaia: các dụ ngôn làm nổi bật sự mù quáng của những kẻ cương quyết từ chối đón nhận sứ điệp của Chúa Kitô (Mt 13, 10-15ss). Tuy nhiên bên cạnh các dụ ngôn có liên quan đến thể văn khải huyền, cũng có những dụ ngôn rõ ràng hơn nhằm dạy luân lý mà ai cũng có thể lĩnh hội được (như Lc 8, 16tt ; 10, 30-37 ; 11,5-8)
J.Hervieux định nghĩa dụ ngôn như sau: “Dụ ngôn là một câu chuyện rút ra từ thiên nhiên hay trong đời sống thường nhật. Với hình thức rất đơn giản và tính cách lạ thường, dụ ngôn dễ làm cho người nghe chú ý và khiến họ phải suy nghĩ đến điều mà dụ ngôn có ý nhắm tới thông qua những hình ảnh”
Dụ ngôn hạt giống trong bài Tin Mừng hôm nay
Dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói: “Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất. Đêm hay ngày, người ấy ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy cũng không biết.” (Mc 4,26-27).
Đức Giêsu kể một dụ ngôn nói về sự phát triển từ những cái nhỏ bé. Dụ ngôn này đem lại rất nhiều sức nâng đỡ, ủi an, nếu ta biết sống đúng chân lý của dụ ngôn ấy. Thật vậy, nhiều khi vì lòng nhiệt thành mà ta lại phải chuốc lấy lo âu phiền muộn. Khi ta mệt mỏi phần nào vì trông cho Nước Chúa trị đến, nên có lẽ vì sự mệt mỏi đó, mà ta đòi hỏi phải có ngay và thấy được sự thành tựu. Đó cũng là điều tự nhiên. Thế nhưng thái độ đó thật nguy hiểm. Vì rốt cuộc nó sẽ làm cho ta ngờ rằng chính ta là những tác giả, là những người thợ kiến tạo Nước Trời.
Trong những thời kỳ khủng hoảng chúng ta đang trải qua trong Giáo Hội, thiết tưởng ta nên coi trọng dụ ngôn này. Những xao xuyến, bồn chồn, cuồng nhiệt của ta sẽ chẳng thêm gì hơn cho Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa chỉ cần ta góp phần vào một việc là người gieo hãy làm công việc của mình cách trung thực. Đành rằng công việc gieo vãi này, ta phải chu toàn. Nhưng hãy ở đúng vị trí của mình, chứ đừng bao giờ lấn sang chỗ không phải là của ta. Hạt giống mọc lên không tùy thuộc ở ta mà hoàn toàn tùy thuộc ở Chúa. Nếu tình hình hiện nay của Giáo Hội cho phép ta hiểu biết khá hơn chân lý này, thiết tưởng cũng là điều hữu ích vậy, nhưng chúng ta phải tâm niệm một điều đó là “Chính Thiên Chúa mới là tác giả của Nước Trời”. Amen.
26. Có hạt giống Nước Trời ở trong tôi không?
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Thưa quý OBACE, khi bắt đầu sứ mạng công khai rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã kêu gọi: Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần đến. Lời kêu gọi này gây ngỡ ngàng cho nhiều người, và họ tự hỏi Nước Trời là gì?
Trong sứ mạng loan báo Nước Trời, Đức Giêsu cũng đã dùng đến những hình ảnh nông nghiệp gần gũi, để diễn tả về Nước trời như dụ ngôn về hạt cải được thuật lại hôm nay. Hạt cải là một hạt giống nhỏ bé, vậy mà khi nảy mầm đâm nhánh, nó lại trở thành một cây to lớn đến độ chim trời có thể đến nương náu dưới cành của nó. Hình ảnh này đã được tiên tri Ezekian tiên báo trong thị kiến của ông: Ngày ấy, từ ngọn cây hương bá cao chót vót, Đức Chúa sẽ ngắt một chồi non, chính ta sẽ trồng chúng trên đỉnh núi cao vời vợi… nó sẽ trổ cành kết trái thành một cây hương bá huy hoàng. Cây hương bá của Israel là một loài cây gỗ quý giá, là niềm tự hào và hãnh diện của quốc gia, vì vậy những anh hùng dân tộc của họ cũng được sánh ví như cây hương bá, hoặc vẻ đẹp trong trắng và cao sang cũng được sánh ví như rừng hương bá núi Liban (như Đức Maria được sánh ví như vườn hương bá Liban). Với hình ảnh chính Thiên Chúa sẽ trồng trên ngọn núi cao vườn cây của Ngài, nó sẽ trổ sinh hoa trái, muôn chim sẽ tìm đến ẩn nơi cành nó, vị tiên tri muốn nói đến một thời mà Thiên Chúa sẽ cắt đi sự kiêu hãnh của Israel, và chính tay Ngài sẽ trồng và tạo nên một dòng dõi mới, một thế hệ mới, giống như một rừng cây hương bá mới. Chính Thiên Chúa sẽ chăm sóc vun trồng và làm cho nó nên xanh tươi, và muôn dân tộc trên khắp thế giới sẽ nhận biết Thiên Chúa là Đấng đã trồng và đã làm nên như vậy, còn Israel cùng với sự kiêu căng tự mãn của họ sẽ bị Thiên Chúa làm cho khô héo.
Hình ảnh vườn cây của Thiên Chúa mà tiên tri Ezekien nói tới, đã được Đức Giêsu sử dụng để nói về Nước Trời. Chính Đức Giêsu là Đấng sẽ gầy dựng nên một dòng giống mới, một khu vườn mới, vườn của Nước Trời. Trong vườn này, được trồng toàn những cây giống đã được tuyển chọn, và tưới gội bằng máu và nước chảy ra từ cạnh sườn của Ngài, và chính Thiên Chúa sẽ bảo vệ và làm cho vườn cây mới này được nên xanh tươi và sinh nhiều hoa quả tốt lành. Qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn nói đến sức mạnh nội tại, sức mạnh lan tỏa của nước Trời, những ai đón nhận lời rao giảng của Ngài, giới răn và giáo huấn của Ngài, bước đi theo Ngài, tức là đón nhận hạt giống nước trời, thì người ấy sẽ mang một sức mạnh từ bên trong tâm hồn và sẽ lớn mạnh trong đời sống đức tin, sẽ trổ sinh hoa trái thiêng liêng thánh thiện trong cuộc đời và còn trở nên có ích cho mọi người.
Nước Trời, quả thật là một hình ảnh thật mới mẻ và khó có thể diễn tả hết bằng lời và cũng không thể so sánh một cách đầy đủ bằng một hình ảnh, chính vì thế Đức Giêsu đã dùng nhiều hình ảnh khác nhau để mạc khải về nước Trời: Nước Trời giống như vườn nho mà Thiên Chúa là người chủ vườn, như chuồng chiên mà Thiên Chúa là mục tử, như mẻ lưới được quăng xuống biển và bắt được nhiều cá, hôm nay Chúa Giêsu dùng hình ảnh hạt cải để trình bày về nước trời.
Nước trời bắt đầu bằng một sư nhỏ bé khiêm tốn như một hạt cải, Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài như những hạt giống nhỏ bé đầu tiên, thế mà, với quyền năng của Thiên Chúa, hạt cải này đã trổ mầm và thành một cây to lớn hơn mọi thứ rau cỏ khác. Những hạt cải nhỏ bé ngày xưa nay đã trở thành cây to lớn là Giáo Hội, mà ngày nay cành lá của giáo hội đã lan tỏa khắp cùng trái đất, và Giáo hội đang trổ sinh hoa quả của Nước Trời cho con người và thế giới hôm nay. Hình anh một cây xum xuê hoa trái che phủ cả mặt đất, và chim trời đến nương náu dưới cành của nó, muốn nói đến cây Giáo Hội hôm nay cũng là nơi dành cho mọi người mọi dân có thể nương náu nơi sự chở che bảo vệ của Giáo hội.
Nhưng sâu xa hơn, hình ảnh hạt giống Nước Trời mà Chúa Giêsu nói hôm nay, còn muốn nói đến hạt giống tin Mừng ở trong mảnh đất tâm hồn của mỗi người. Nếu như người phật giáo cho rằng ở nơi mỗi con người đều có phật tính, thì chúng ta là những Kitô hữu, tức là những người có Chúa Kitô, những người thuộc về Chúa Kitô, chúng ta tin rằng trong mỗi chúng ta đều có Chúa Kitô và có mầm giống Nước Trời ở trong tâm hồn, hay nói khác hơn là mỗi người đều có Nước Trời trong tâm hồn ngay hôm nay và ngay lúc này. Hạt giống nước trời trong chúng ta đã được gieo trong ngày chúng ta lãnh Bí tích Rửa tội, và chúng ta được chăm bón và vun tưới bằng các Bí Tích nhất là Bí tích Thánh Thể và Bí tích Giải tội, vấn đề là mầm giống ấy hôm nay đang ở tình trạng nào? Hạt giống đức tin, mầm sống Nước Trời ở trong chúng ta có thực sự tươi tốt hay là chỉ còn đang sống một cách èo uột không có hoa trái?
Thưa quý OBACE, Nước trời trong tâm hồn chúng ta là gì, hiện nay chúng ta có sinh được hoa trái của Nước Trời hay không? Hay nói khác đi Nước Trời có ở trong chúng ta hay không?
Đức Giêsu Kitô và Tin Mừng của Ngài chính là nước Trời, có Đức Giêsu là có cả Nước trời, giữ Lời Đức Giêsu và đem ra thực hành là chúng ta đang làm cho hạt giống Nước Trời sinh hoa kết trái. Chúa Giêsu đã có lần nói như thế với những người Do Thái: Nếu các ông tin và đón nhận Ngài, thì nước trời đang hiện diện trong lòng các ông rồi. Như vậy để chứng tỏ mình là công dân Nước Trời, là những người thuộc về chúa Giêsu, thì chúng ta phải có Chúa trong tâm hồn và trong cuộc đời, trong hành động của mình. Thực tế trong cuộc sống của nhiều tín hữu, họ chỉ có Chúa khi đến nhà thờ, chỉ có Chúa trên môi miệng, mà không hề có Chúa trong cuộc sống và không có Chúa trong các hành động của mình, chính vì vậy mà hành động của họ toàn là sự gian ác bất công, là mờ ám gian dối, là tội lỗi xấu xa; chính vì không có Chúa trong cuộc sống, nên cuộc sống của nhiều người tín hữu không khác gì cuộc sống của dân ngoại, thậm chí còn tệ hơn cả những người dân ngoại.
Chỉ khi có nước trời trong tâm hồn, chúng ta mới có thể sinh được hoa trái thánh thiện, hoa trái của nước trời, theo thánh Phaolô hoa trái ấy là: sự bình an, niềm vui, lòng quảng đại, nhân ái yêu thương, là khoan dung, nhân từ độ lượng… Như thế, nếu mỗi người tự xét mình mà không thấy những hoa trái nêu trên thì chứng tỏ người ấy chưa có nước trời trong tâm hồn, hoặc là hạt giống Nước trời chưa phát triển được trong tâm hồn người ấy.
Không chỉ có nước trời trong tâm hồn, mà mỗi người còn được mời gọi trở nên nước trời và là nước trời ngay trong xã hội hôm nay, làm cho hạt giống nước trời được trổ cành đâm nhánh trong thế giới và trở thành nơi nương náu an toàn cho mọi người. Hãy bắt đầu trổ sinh hoa trái ngay trong gia đình của mình, các bậc cha mẹ hãy làm cho gia đình của mình được che phủ bởi bóng mát của Nước Trời, hãy để cho những hoa trái là lòng nhân ái sự khoan dung tha thứ, sự thông cảm lắng nghe được nảy nở trong gia đình, hãy đem đến cho gia đình mình sự bình an thay cãi vã, sư tha thứ thay cho giận hờn, tiếng nói tiếng cười thay cho những lời chửi bới. Hãy làm cho gia đình mình thực sự trở thành nơi nương náu an tòan cho con cái, để mọi thành viên cảm nhận được gia đình chính là nơi nghỉ ngơi an toàn, là nơi mà mỗi người đều được đón nhận thông cảm và tôn trọng.
Các bạn trẻ cũng cần tự đặt cho mình câu hỏi như thế: Nước Trời có ở trong tôi hay không? Tôi có thuộc về Nước Trời hay không? Thưa các bạn, cuộc sống của chúng ta dành ưu tiên cho điều gì, dành phần lớn thời gian cho ai là chúng ta đang nghiêng chiều về phía đó, nhiều bạn trẻ ngày nay hầu như chỉ còn dành sự quan tâm cho công ăn việc làm, cho danh vọng bằng cấp, lương bổng nhiều hơn là quan tâm đến việc làm cho nước Trời lớn lên trong cuộc đời, và càng không quan tâm đên trổ sinh hoa trái nước trời trong cuộc sống, họ đã để mình cuốn trôi theo dòng chảy của xã hội và không còn biết mình thuộc về ai, không biết mình thuộc về Thiên Chúa, về Nước trời hay thuộc về thế gian?
Xin cho mỗi người luôn biết tự đặt cho mình câu hỏi: Tôi đang thuộc về ai? Nước trời có ở trong tôi hay không? Và biết tìm đến Chúa để có câu trả lời đúng đắn cho cuộc đời mình.
27. Tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa.
(Suy niệm của Lm Ignatiô Hồ Thông)
Chúa Giê-su rao giảng cho đám đông bằng dụ ngôn, từ những hình ảnh đơn sơ giản dị được lấy ra từ đời thường, để dẫn đưa họ vào những thực tại cao vời khôn ví của Nước Trời. Văn chương Đông Phương (Ai-cập, Cận Đông) thích những bí nhiệm; các sách khải huyền Do thái được điểm tô với những bí nhiệm này. Các dụ ngôn rất gần với thể loại văn chương này. Tuy nhiên, Chúa Giê-su giải thích các dụ ngôn cho các môn đệ, vì sau này, họ sẽ tiếp tục sự nghiệp của Ngài mà loan báo Lời rõ ràng và phong phú cho quần chúng. Tin Mừng Mác-cô đề nghị cho chúng ta hai dụ ngôn: dụ ngôn hạt giống tự mọc lên và dụ ngôn hạt cải: dụ ngôn thứ nhất thuộc nguồn riêng của Mác-cô, dụ ngôn thứ hai chung với Mát-thêu (13, 31-32) và Lu-ca (13, 18-19).
1. Dụ ngôn hạt giống tự mọc lên (4, 26-29):
Bản văn của ngôn sứ Ê-dê-ki-en (Bài Đọc I) giúp chúng ta hiểu dụ ngôn hạt giống tự mọc lên này. Chính Đức Chúa sẽ trồng một chồi non mà Ngài đã ngắt từ ngọn hương bá. Vì Đức Chúa trồng, chắc chắn chồi non này sẽ mọc và lớn lên: “Nó sẽ trổ cành và kết trái”. Cũng vậy trong dụ ngôn hạt giống tự mọc lên, hình ảnh Nước Thiên Chúa được phát triển trong thầm lặng nhưng chắc chắn. Có lẽ không dụ ngôn nào đem đến niềm an ủi hơn dụ ngôn này. Thiên Chúa hiện diện và hành động trong thế giới và hành động của Ngài chắc chắn rồi sẽ sinh hoa kết quả, dù bên ngoài âm thầm lặng lẽ. Thời gian cũng không được tính đến.
Phải chăng dụ ngôn này muốn nói rằng người Ki-tô hữu không cần phải hành động bởi vì “đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết”? Không phải như thế! Việc dọn đất được nêu lên, vấn đề đất có thuận lợi hay không cho hạt giống phát triển đã được bàn đến trong một dụ ngôn khác (dụ ngôn người gieo giống: 4: 1-9). Chúng ta không những có bổn phận cầu xin cho “Nước Chúa trị đến”, nhưng còn phải góp phần mình vào việc xây dựng Nước Chúa ở ngay trong cõi thế này. Ở đây, vấn đề được nêu lên đó là quyền năng tất thắng của Thiên Chúa, Ngài hướng dẫn Triều Đại của Ngài cho đến lúc phát triển viên mãn: đó sẽ là mùa thu hoạch.
Tuy nhiên, phải chăng Chúa Giê-su dùng dụ ngôn này nhằm nhắn gởi đến những người nôn nóng và bạo động, tức là nhóm Nhiệt Thành được nuôi dưỡng bằng những giấc mơ đầy tham vọng của họ mà vài người trong số họ là môn đệ của ngài. Ngài muốn dẫn các môn đệ của Ngài đến một sự hiểu biết đầy đủ hơn về sứ mạng của Ngài. Ngài đã đến gieo lời Ngài và lời Ngài sẽ sinh hoa kết trái. Họ phải đặt trọn niềm tin tưởng tuyệt đối vào lời Ngài, tuy nhiên, chiều kích năng động của lời này cốt yếu là nội tại và tinh thần.
2. Dụ ngôn hạt cải (4, 30-32):
Để diễn tả năng lực phát triển kỳ diệu của Nước Trời khởi đi từ khởi đầu rất khiêm tốn, Chúa Giê-su đưa ra một so sánh được mượn từ một hình ảnh rất quen thuộc thường ngày: hình ảnh hạt cải khi được gieo thì nhỏ nhất trong mọi hạt giống, nhưng khi “mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng”. Nước Trời cũng sẽ như vậy. Khởi đi hầu như không gì cả: mười hai tông đồ, vài môn đệ và vài người phụ nữ, nhưng sẽ phát triển rực rỡ.
Chúa Giê-su ám chỉ đến các bản văn của Ê-dê-ki-en và Đa-ni-en trong các dụ ngôn cây hương bá của họ; tuy nhiên, rõ ràng Ngài tránh lấy lại hình ảnh cây hương bá cao vút trên đỉnh non cao, biểu tượng cho quyền lực thống trị. Ngài cũng không lấy lại hình ảnh chồi non, vì hình ảnh này gợi lên hậu duệ nhà Đa-vít và có thể gợi lên việc phục hưng quyền lực chính trị. Hình ảnh hạt cải hàm chứa một sự mĩa mai, nhưng chắc chắn nói lên tính chất phi chính trị của Nước Trời.
28. Suy niệm của Lm. Alfonso
Tin mừng Mc 4:26-34: Hôm nay, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta cảm nhận việc Chúa Giêsu dùng hai dụ ngôn về nông nghiệp, gần gũi với đời sống thường ngày để mặc khải cho dân chúng về sự phát triển của nước Trời.
Hôm nay, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta cảm nhận việc Chúa Giêsu dùng hai dụ ngôn về nông nghiệp, gần gũi với đời sống thường ngày để mặc khải cho dân chúng về sự phát triển của nước Trời.
Xem ra, hai dụ ngôn nông nghiệp này dần xa lạ với cuộc sống ngày nay đối với người trẻ, vì chúng ta đang sống trong một cuộc sống công nghiệp hiện đại. Dẫu vậy, chắc hẳn chúng ta có thể hiểu ít nhiều về việc trồng trọt, tưới nước và thu hoạch. Chẳng hạn, kinh nghiệm việc mình gieo một hạt giống, có thể là hột ớt, hột cà hay hột một bông hoa. Và Chúa Giêsu đã sử dụng dụ ngôn gieo trồng mà con người ta quen thuộc, dễ nắm bắt để giúp hình dung về Nước Thiên Chúa, về Vương quốc tâm linh phát triển trong mỗi con người.
Để trở thành công dân của một quốc gia, chúng ta cần sự chuẩn bị trong một khoảng thời gian nhất định tùy mỗi người cho những thủ tục cần thiết. Cũng vậy, để trở thành công dân Vương quốc tâm linh nước Trời, mỗi người chúng ta cũng cần chuẩn bị cho mình tâm thế sẵn sàng. Như Đức Thánh cha Bênêđictô thứ XVI nhắc nhở chúng ta rằng “tâm hồn con người là vị trí thiết yếu của Vương quốc Thiên Chúa”.
Thiên Chúa đã gieo hạt giống là tiếng lương tâm vào trong tâm hồn con người, bất kể lương dân hay giáo dân. Và Ngài muốn hiện diện, sống và phát triển bên trong mỗi chúng ta. Khi chúng ta tìm kiếm sự khôn ngoan của Thiên Chúa, khi sống theo điều luật Chúa truyền là làm làm lánh dữ, khi sống dưới con mắt của Đấng luôn xem thấy mọi sự, từ suy nghĩ, dự tính, lời nói, hành động của chúng ta, khi chúng ta thờ phượng Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu thương anh chị em như chính mình, cuộc sống của chúng ta sẽ trở nên mỗi ngày một vững chãi hơn.
Vâng, một người được gọi là thánh khi ngay từ những giây phút đời tạm này, người đó cố gắng sống tốt. Những thói quen tốt sẽ tạo thành nhân đức; những nhân đức giúp con người ta nên thánh. Và thánh nhân sẽ được ở trong Nước Trời. Và nếu như muốn trở thành người tốt, chúng ta hãy biết khởi đầu. “Cây non dễ uốn”, dẫu trong chúng ta có những bất toàn và va vấp, chúng ta hãy bắt đầu lại, hãy để cho hạt giống Thiên Chúa được gieo lại trong mảnh đất tâm hồn chúng ta. Không bao giờ là quá muộn cho một người muốn nên thánh, muốn sống tốt dẫu rằng còn đó những khuyết điểm.
Xin minh họa bằng câu chuyện về “Chiếc thùng nứt”:
Có người nọ dùng hai cái thùng để gánh nước. Theo thời gian, một trong hai cái thùng bị nứt, lỗ mọt làm nước rỉ ra. Cho nên, khi anh ta gánh nước từ giếng về thì một bên thùng đầy nước, và bên kia thì nước chỉ còn một nửa. Nhưng anh cảm thấy mỗi ngày mình thực hiện công việc gánh nước một cách vui tươi hơn, tinh thần phấn chấn hơn. Và rồi, một ngày nọ, anh phát hiện con đường quen thuộc anh gánh nước mỗi ngày, bên phía chiếc thùng rỉ nước xuất hiện những đóa hoa rực rỡ. Anh nhận ra chính những giọt nước rỉ ra đã tưới cho cây cỏ ven đường.
Lạy Chúa, con biết thân phận con người chúng con đầy những bất toàn yếu đuối, đầy những “vết nứt”, nhưng con cũng tin Chúa là Đấng toàn năng có thể biến sự xấu thành sự lành nơi tâm hồn chúng con. Xin giúp chúng con học biết nên thánh mỗi ngày. Amen.
29. Việc lớn, việc nhỏ – PM. Cao Huy Hoàng
Từ trong gia đình ra đến ngoài xã hội, đâu đâu cũng có những việc lớn việc nhỏ. Ai cũng thích làm việc lớn hơn là những việc nhỏ mặc dù ai cũng hiểu việc nhỏ đã không làm nổi thì đừng mong làm chuyện lớn hơn.
Nếu không có người mẹ với gánh chè xôi nho nhỏ kia, xe cháo lòng dân dã kia… nếu không có sự chắt chiu trân trọng từng đồng tiền nhỏ lẻ kia, hẳn đã không thể mọc lên một căn nhà tươm tất tương đối là mái ấm hoàn mỹ cho gia đình.
Nếu không có người cha đã rong ruổi bán từng cái bong bóng nho nhỏ, từng que cà rem nho nhỏ những năm khó khăn gian khổ kia, hẳn là không thể có những mảnh bằng đại học của con cái hôm nay.
Nếu không có những tiếng ru êm ái, những lời kinh thì thầm, những lời dặn dò dịu ngọt, những lời sửa dạy nhẹ nhàng, những nhẫn nhịn chân thành, những hy sinh đơn sơ, những gương sáng đạo đức âm thầm của cha mẹ, hẳn đã không thể có những đứa con ngoan ngoãn biết thờ phượng Chúa, biết yêu thương người, biết quý trọng việc làm, biết làm lành lánh dữ, biết quan tâm sẻ chia, và nhất là biết ưa chuộng việc nhỏ, yêu mến đức khiêm nhường.
Nếu không có những việc nhỏ… hẳn không thể kết tinh được những thành quả lớn hơn: một người con của Chúa, một linh mục, một nữ tu, một người tài đức, một người hữu ích cho xã hội, cho Hội Thánh.
Trong công cuộc truyền giáo cũng vậy, ai cũng thích làm chuyện lớn lao, chuyện nổi danh cho ra ông kia bà nọ, và thường vẫn chê chối những việc nhỏ nhặt, chê bai những người làm công việc tầm thường, thậm chí còn dè bỉu coi thường những người có khả năng nhưng đã tận tuỵ làm những việc nhỏ, những đóng góp nhỏ.
Tưởng cũng nên nhắc đến ngay cả những người sống đời tận hiến, khi lãnh nhận bài sai phục vụ đoàn chiên của Chúa cũng có người phàn nàn trách móc bề trên ngay trong lễ nhận xứ rằng “trâu to mà sai cày ruộng nhỏ”… khiến nó trở thành câu nói “nổi tiếng” truyền đi hết nơi này đến nơi kia!
Hội Thánh lớn lên từ hạt cải bé nhỏ, từ tấm lòng khiêm nhượng: Hạt cải bé nhỏ của Giêsu - Tấm lòng khiêm nhượng của Giêsu - Hạt cải khiêm nhượng của những người theo gương Giêsu.
Nếu không có những đồng tiền của bà góa ở khắp năm châu, những đồng tiền nhỏ của những người hy sinh lớn, chắc gì xây nổi một Thánh Đường, một phòng Giáo Lý, hay một công trình nào đó cho Thiên Chúa.
Nếu không có những lời nguyện âm thầm của những người bệnh hoạn tật nguyền, những lời cầu nguyện âm thầm của những người đau khổ, thiếu thốn, đói nghèo ở khắp năm châu, thì chắc gì bạn đã được bình yên, được khoẻ mạnh, được thành đạt trong việc phục vụ Chúa, phục vụ gia đình, giáo xứ và cả Hội Thánh nữa.
Thiết tưởng, mỗi chúng ta nên sống tâm tình này: “Tôi sống nhờ lời cầu nguyện nho nhỏ, nhờ lời kinh rất âm thầm của những người đau khổ mà tôi chưa hề biết tên, biết mặt”.
Và từ suy gẫm ấy, mỗi chúng ta cũng phải trở thành người nhỏ bé khiêm nhu tận hiến cho Chúa từng việc nhỏ với lòng yêu mến, đơn sơ, chân thành và khiêm tốn vì “tất cả cho vinh danh Thiên Chúa”.
Ở một vài giáo xứ, khi có nhiều sinh hoạt đoàn thể khác nhau, thường có những cái nhìn so sánh phân biệt đoàn thể này giá trị hơn đoàn thể kia, hội này to hơn hội nọ. Thực đáng buồn cho những cái nhìn phân biệt ấy. Tôi vẫn để ý tới những kinh nguyện âm thầm, những bước chân lặng lẽ của những chiến sĩ của Mẹ trong Hội Legio. Họ không làm gì nổi bật cả, cũng không được phép huênh hoang điều gì cả, càng không được phép tiết lộ công việc của họ với người không liên quan… thế mà, có những mùa gặt Đức Tin bội thu từ những việc nho nhỏ ấy, từ một hội đoàn vẫn thường bị anh em xem thường. Có người còn nặng lời cho rằng hội ấy dành cho người bình dân, thấp bé, ít học. Thật đáng trách cho những người xem mình là lớn lao, thích làm việc lớn, việc nổi, mà chưa chắc đã sinh ích lợi gì cho mình và cho Hội Thánh.
Hoặc gần đây, cũng có một vài cái nhìn không mấy thiện cảm dành cho những hội viên Lòng Chúa Thương Xót vì cho rằng đó là việc đạo đức của những cụ già, của những người bệnh tật đau yếu, của những người tội lỗi… nhưng thực ra, chính họ đang khẩn cầu lòng Chúa thương xót cho họ, cho mỗi chúng ta và cho toàn thế giới.
Còn có những người không chỉ bé nhỏ mà còn vô danh tiểu tốt đang âm thầm làm hạt cải của Thiên Chúa ở khắp nơi giữa chợ đời. Họ vẫn chịu nhiều khinh miệt. Họ không được viếng thăm, cũng chẳng được tiếp rước linh đình, nhưng họ đang là bạn chí thân của những người đau khổ, xấu số, bất hạnh. Họ không sinh hoạt đoàn thể nào cả, vì chẳng có thời gian bỏ cái quang gánh thúng bưng, nhưng họ đang sống tốt lành trước mặt Chúa, để Đức Tin trưởng thành và gương sống công bình bác ái của họ nên lời chứng cho Thiên Chúa.
Hạt cải người đi gieo trồng với lòng tín thác vào quyền năng Chúa sẽ được Thiên Chúa cho mọc lên và phát triển.
Việc nhỏ mà chúng ta thực hiện cho danh Chúa cả sáng thì chắc hẳn Thiên Chúa sẽ làm cho nên lớn lao trong công cuộc của Ngài.
Chị Marie Paul NTL, năm ấy, vì những thất bại trong cuộc đời, trong chuyện gia đình, đã âm thầm tìm ra hải đảo để sinh sống. Chị đã thấy một hải đảo thiếu vắng Tin Mừng. Chị đã nguyện làm một hạt cải trong thánh ý của Thiên Chúa. Sau hơn 15 năm làm hạt cải âm thầm trên hải đảo, Chúa đã cất đi sự tủi hổ, cất đi sự thất bại của cuộc đời chị và đã làm cho hạt cải của chị lớn lên thành một cộng đoàn Giáo họ Hải Đảo Phú Quý như hôm nay: 157 giáo dân trên tổng số 27.000 dân hải đảo, một ngôi thánh đường sắp mọc lên. Và chúng ta có quyền hy vọng 157 hạt cải mới kia sẽ được Thiên Chúa cho vươn lên thành một cộng đoàn lớn, một công trình cứu rỗi.
Chúa đã làm nên bao việc lạ lùng trước mắt chúng ta, bắt đầu từ sự khiêm tốn của chúng ta.
Lạy Chúa, xin cho mỗi chúng con biết rằng ‘quý chuộng và thực hiện việc nhỏ cho vinh danh Thiên Chúa thì có giá trị hơn là quý chuộng và thực hiện những việc lớn lao cho vinh danh mình’. Xin ban cho chúng con lòng khiêm tốn tín thác và chấp nhận để Chúa tác động trong mỗi việc của chúng con. Amen.
30. Ai ngăn được Nuớc Trời tăng trưởng?
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Dụ ngôn là một loại hình văn phong khá quen thuộc với người Do Thái, đặc biệt thời Chúa Giêsu. Dụ ngôn là một câu chuyện kể vốn được lấy trong đời thường. Ý của tác giả kể chuyện dụ ngôn thường nằm ở câu kết và có khi lại được gợi mở qua một hai chi tiết nào đó có vẻ nghịch thường, không hợp lý của câu chuyện.
Tin Mừng Hội Thánh cho trích đọc trong Chúa Nhật XI TN B là hai câu chuyện dụ ngôn mà Chúa Giêsu kể để nói về Nước Trời. Ý nghĩa của hai dụ ngôn dường như đã quá rõ, đó là sự phát triển cách diệu kỳ của Nước Trời như mùa gặt bội thu, như cành lá xum xuê của cây cải. Ý nghĩa của dụ ngôn còn hiển thị nơi chi tiết có vẻ nghịch thường đó là người nông dân làm mùa cách bàng quan và nơi hình ảnh chim làm tổ dưới cành lá cây cải vốn chỉ là một loại rau. Xưa nay ít có nhà nông nào đã gieo hạt mà chẳng cần biết lúa mọc ra sao. Chuyện chim làm tổ dưới cành lá cây cải cũng là chuyện xưa nay hiếm. Các chi tiết nghịch thường này muốn làm nổi rõ chân lý này: sự phát triển của Nước Trời không hệ tại bởi sức con người mà chủ yếu là do quyền năng của Thiên Chúa.
Dựa vào lời mạc khải, chúng ta có thể khẳng định Nước Trời là nước của Thiên Chúa, vương quốc của tình yêu và của sự thật. Con người đã bị sự tham lam ích kỷ chi phối, do đó tình yêu đã bị làm biến dạng và băng hoại cách nào đó. Sự ích kỷ tham lam cũng đã làm con người xa rời, tránh né sự thật. Đây là tình trạng mà thánh Gioan gọi là “thế gian”, theo nghĩa là tình trạng vắng bóng hay chối từ Thiên Chúa.
Thế nhưng, “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một…” (Ga 3,16). Con Thiên Chúa đã vào trần gian để “làm chứng cho sự thật”, để sống yêu thương bằng việc phục vụ và hiến dâng mạng sống của mình (x.Ga 18,37). Nước Trời đã ở giữa nhân loại chúng ta. Cho dù bị khuớc từ hay bị chống đối lúc này lúc kia, nơi này khác, bởi người này người nọ, nhưng Nước Trời vẫn không ngừng lớn mạnh, vì Thiên Chúa là Đấng xây dựng và làm cho Nước Trời phát triển. Hạt giống Nước Trời được gieo vải, có thể có nhiều hạt như là bị hoang phí vô ích vì rơi trên vệ đường, rơi vào đất sỏi đá hay đất gai góc, nhưng khi có hạt rơi vào đất tốt thì sẽ sinh được một trăm hạt, sáu mươi hạt và chí ít cũng sinh được ba mươi (x.Mt 13,18-23). Thế là vẫn dư lãi.
Vì sự tham lam ích kỷ, háo danh, tham quyền, hám lợi lộc, con người bị cám dỗ sống giả dối, gian trá, sống bất công, ghen ghét, hận thù, sát phạt lẫn nhau. Tuy nhiên niềm khát mong sống trong công lý và sự thật vẫn mãi còn đó, sự ao ước được sống trong yêu thương vẫn luôn có đó. Nền khoa học công nghệ của con người luôn tăng tiến và ngày nay xem ra tiến bộ cách tỏ tường, đặc biệt là nền công nghệ viễn thông. Nhân loại ngày càng xích lại gần nhau hơn và nhờ thế sự tương thân tương ái càng có điều kiện phát triển. Một tai ương hoạn nạn vừa xảy ra ở đây thì chỉ năm bảy phút sau nhiều người trên thế giới đã có thể cập nhật thông tin và tình người lại được dịp rộng mở với sự sẻ chia cách này cách khác. Bên cạnh đó nền thông tin hiện đại đã giúp con người dễ dàng tiếp cận với chân lý và có điều kiện để đòi hỏi quyền được sống trong sự thật. Các phong trào dân chủ nhân quyền đang phát triển đó đây là một minh chứng cụ thể.
Nước Trời, vương quốc của tình yêu, của sự thật không ngừng tăng trưởng cả về mặt không gian lẫn chất lượng. Không có gì, không có ai có thể ngăn cản sự phát triển của Nước Trời. Tất thảy vì lý do này: chính Thiên Chúa là Đấng dựng xây Nước Trời. Tuy nhiên, Thiên Chúa lại muốn dành phần vinh dự cho con người khi trao trọng trách cho con người góp phần xây dựng vương quốc ấy. “Xin cho Nước Cha trị đến”. Một nội dung của lời kinh “Lạy Cha” mà Chúa Giêsu truyền dạy khẳng định với chúng ta chân lý này (x.Mt 6,10). Là Kitô hữu, bạn, tôi, chúng ta đã làm gì cho Nước Trời trị đến trên trần gian này và trên quê hương chúng ta đang sống?
31. Hạt giống âm thầm.
Suy niệm:
Bài Phúc Âm trình hai dụ ngôn khác nhau: dụ ngôn hạt giống tự mọc (Mc 4,26-29). Và dụ ngôn hạt cải (3,34).
I/ Dụ ngôn hạt giống tự mọc (c.26-29). Trước khi hiểu về dụ ngôn này, xin đừng quá nhấn mạnh vào chi tiết để hỏi ai là người gieo hạt giống tự mọc kia. Nếu cho đó là Chúa Kitô thì phải hiểu thế nào về việc Ngài ngủ Ngài thức, về việc Ngài không quan tâm và không hay biết gì về Nước Trời tiến triển ra sao trong khi chúng ta biết Chúa hằng quan phòng và săn sóc Giáo hội cho đến tận thế. Vậy chúng ta phải hiểu dụ ngôn bao giờ cũng trình bày một số bài học chính như sau:
1. Nước Trời, Giáo Hội của Chúa có sức mạnh tăng trưởng tự động bởi ơn Chúa.
2. Nhưng tăng trưởng một cách chắc chắn, từ từ và âm thầm, mà bất chấp mọi trở ngại thử thách. Thiên Chúa có giờ của Ngài chứ Ngài không đốt giai đoạn.
3. Đối với nhà nông, chúng ta hay cho rằng thành quả của mùa màng là do công lao của riêng mình. Có khi còn nghĩ rằng được mùa là do công khổ của mình; còn mất mùa là đổ thừa cho Chúa. Trên phạm vi mùa màng chúng ta thấy có gì? Chúng ta gieo giống, cấy giống, làm cỏ, thuỷ lợi, gặt hái. Thế nhưng cái căn bản nhất là sự tăng truởng, sự sống, và sự lớn lên, kết bông trái của mùa màng thì chắc chắn chúng ta không làm được đâu. Dù chúng ta thức hay ngủ nghỉ, dù muốn hay không thì cây lúa vẫn tự nó lớn từ từ không gián đoạn... cho đến ngày mùa.
Nước Trời cũng thế. Con người chúng ta có thể làm được nhiều chuyện, nhưng là những chuyện phụ thuộc thôi, chúng ta chỉ là người cộng tác với Thiên Chúa. Nước Trời không lệ thuộc vào văn minh của chúng ta đâu. Điều này Thiên Chúa vẫn thường minh chứng trong lịch sử con người. Thiên Chúa đã cấy Giáo Hội của Ngài vào trong trần gian là cánh đồng. Cánh đồng ấy sẽ tăng trưởng, lớn lên và ngày mùa là ngày tận thế. Nước Chúa qua Giáo Hội vẫn cứ tăng trưởng qua mọi hoàn cảnh, thời gian và không gian.
Nước Chúa trị đến sẽ mãi mãi là đến chứ không lùi. Cho nên phía chúng ta là nhân loại đừng quá nóng ruột mà mất hy vọng, mất cả lòng tin và đức cậy nữa. Trong sách Khải Huyền có tiếng kêu: “Khi nào Thiên Chúa can thiệp?” thì được trả lời “khi nào số kẻ được chọn đủ số.” Số kẻ được lựa chọn vẫn cứ được bồi thêm mỗi ngày. Tóm lại Nước Trời vẫn trị đến cả lúc Babel sụp đổ giữa cả bao nhiêu nền văn minh tan nát, giữa hai lần thế chiến, giữa lòng người bất an với nhau... thì Kinh lạy Cha vẫn cứ vang lên “Danh Cha cả sáng.”
Dụ ngôn này cho chúng ta thấy một vẻ lạc quan an lòng. Nhưng cũng đừng quá lạc quan cho rằng mình như một thứ đồng hồ lên giây đủ rồi để rồi không làm việc. Không, con người phải làm bổn phận của mình như dụ ngôn nén bạc đã nói (Mt 25,14-30). Khi chúng ta làm xong bổn phận, hãy tạ ơn Thiên Chúa mà nói rằng: “Chúng tôi là đầy tớ vô ích, làm việc mình phải làm” (Lc 17,10). Chúng ta nhớ lại lời Thánh Phaolô “Nhưng Chúa làm cho cây lớn lên” (1C 5,3-7)
II/ Dụ ngôn hạt cải muốn nói lên chân lý: bất cứ cái gì dù nhỏ bé đến mấy mà Thiên Chúa can thiệp vào đều trở nên quan trọng lớn lao và hữu ích.
Hạt cải theo Máccô là thứ hạt nhỏ hơn hết mặc dù không hẳn đúng như thế, nhưng quan niệm của người Do Thái khi muốn so sánh vẫn lấy hạt cải làm mốc. Cũng như kiểu nói Việt Nam vẫn lấy con kiến làm nhỏ “nhỏ như con kiến.” Vậy một hạt cải nhỏ bé tầm thường mà chúng ta có thể vo trong tay. Nhưng nếu gieo vào lòng đất, nó sẽ nẩy mầm, vươn lên. Nẩy mầm là khởi đầu một sự sống mới. Sự sống ấy tuy mỏng manh nhưng không gì ngăn cản được. Hạt cải gieo vào đất ít tháng sau có thể cao như cây trứng cá của chúng ta mà chim trời tới đậu được. Nhất là vào mùa hè trái cải chín mọng chim sẻ rất ham ăn... Còn trẻ con cũng tới đó để bắt chim vui nhộn.
* Ý nghĩa chung của dụ ngôn này là sức mạnh bành trướng chiều rộng của Nước Trời, của Hội Thánh Chúa ở trần gian.
1. Trước hết Đấng Sáng Lập là Đức Kitô sống ẩn dật không ai biết tới, bị khinh dể là ở Nagiarét, là con bác thợ mộc.
2. Giáo Hội của Chúa từ đầu bé nhỏ nghèo nàn, không quân quốc, không binh bị, tiền tài, uy thế. Tất cả công việc của Chúa lúc bình sinh xem ra thất bại và kết thúc bằng cái chết nhục nhã trên Thánh Giá. Nhưng đó chính là hạt giống tự mục nát đi (Ga 12,24).
3. Sự thiếu thốn nhân sự. Vỏn vẹn lúc đầu chỉ có 12 tông đồ nhút nhát. Thật đúng như lời Chúa phán: “Hỡi đoàn chiên nhỏ của Ta, đừng sợ vì Cha các con thích ban Nước Trời cho các con” (Lc 12,32). Chúa Giêsu đã dùng ngay hình ảnh hạt cải để ám chỉ về Giáo Hội Ngài thành lập. Nhưng lúc ấy không mấy ai lưu tâm đến dụ ngôn này. Khởi đầu nước Chúa với con số 12 người. Ngày Chúa về Trời con số môn đệ khoảng 120, âm thầm sống và tăng trưởng đều đều.
Theo như 4 bản niên giám thế giới thì năm 1950 số tín hữu theo Chúa khoảng 800 triệu người. Đến năm 1975, số tín hữu (kể cả 3 ngành: Chính thống, Tin lành, Công giáo) lên tới một tỷ 24 triệu 106 ngàn 500 người. Nhưng con số đó không hề quan hệ cho bằng vấn đề ơn cứu rỗi. Có đức tin thì dễ, nhưng duy trì được đức tin là chuyện khác và thực hành đức tin lại là chuyện khác nữa.
Nếu chỉ có tin mà không thực hành là một cái xác không hồn, là thứ cây vả xanh um bên ngoài (Mc 11,20). Có lẽ ngày về trời chúng ta mới hiểu được thế nào là dụ ngôn hạt cải. Ngày ấy chúng ta có thể đếm những số các thánh mà ngày nay sách Khải Huyền cũng chịu, đếm không được, không xuể.
Đối với mỗi người cũng bắt đầu từ chỗ tầm thường nhỏ bé như vậy, từ một em bé thành người lớn. Kể cả trên phạm vi sự nghiệp cũng thế. Vậy thì trên lãnh vực đức tin, chúng ta nhớ rằng dù một hành vi nhỏ bé tầm thường đến đâu như cho đi một bát nước lã – là cũng đang đóng góp vào sự nghiệp nước trời. Chính việc bác ái gương lành đan kết thành triều thiên chói ngời trên trời ngày mai.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, trong những bổn phận dù âm thầm hàng ngày, xin cho chúng con biết tin tưởng và phó thác cho quyền năng yêu thương của Chúa. Chính Ngài sẽ làm cho công việc của chúng con thực hiện theo ý Chúa để đạt kết quả tốt. Như thế chúng con sẽ làm ích cho chính bản thân, cho tha nhân và cho Nước Chúa. Lạy Chúa, xin cho con biết kiên trì gieo Lời Chúa dù gặp điều kiện thuận lợi hay không.
(Trích trong http://www.dmhcg.org)
32. Chuyện Nước Trời
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Mùa thường niên (còn gọi là mùa quanh năm) là mùa bát ngát màu xanh. Xanh tươi mát. Xanh hy vọng. Hy vọng được về Thiên Quốc. Nhưng muốn về nơi đó thì phải cố gắng miệt mài tìm kiếm Nước Trời. Chúa Giêsu đã từng căn dặn: “Anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6:31-33). Ngài còn đưa ra nhiều cách so sánh khác về Nước Trời, chứng tỏ Nước Trời vô cùng quý giá! Tuy nhiên, “chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa” (Cv 14:22).
Đức Chúa là Chúa Thượng tuyên phán: “Từ ngọn cây, từ ngọn hương bá cao chót vót, Ta sẽ lấy, sẽ ngắt một chồi non; chính Ta sẽ trồng nó trên đỉnh núi cao vòi vọi. Ta sẽ trồng nó trên núi cao của Ít-ra-en. Nó sẽ trổ cành và kết trái thành một cây hương bá huy hoàng. Muông chim đến nương mình bên nó, và ẩn thân dưới bóng lá cành” (Ed 17:22-23). Thiên Chúa lấy một “chồi non”, chồi non thì nhỏ và yếu ớt, thế nhưng nó lại trổ thành cây cao bóng to đến nổi muôn chim ẩn mình dưới bóng cây đó. Thiên Chúa là Đấng toàn năng, biến “cái không thể” thành “cái có thể” (x. Mt 19:26).
Thật vậy, Ngài biết chắc: “Tất cả cây cối ngoài đồng ruộng sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa. Ta hạ thấp cây cao và nâng cao cây thấp, Ta làm cho cây xanh tươi phải khô héo và cây khô héo được xanh tươi. Chính Ta là Đức Chúa, Ta đã phán là Ta thực hiện” (Ed 17:24). Ngài có thể biến khô thành tươi, cải tử hoàn sinh,… nói chung là Ngài biến đổi tất cả!
Một Thiên Chúa như vậy thì quá kỳ diệu, quá tuyệt vời. Và đó là Chúa của chúng ta. Thế nên tác giả Thánh vịnh đã thốt lên: “Thú vị thay được tạ ơn Chúa, được mừng hát danh Ngài, lạy Đấng Tối Cao, được tuyên xưng tình thương của Ngài từ buổi sớm, và lòng thành tín của Ngài suốt canh khuya” (Tv 92:2-3). Tác giả so sánh: “Người công chính vươn lên tựa cây dừa tươi tốt, lớn mạnh như hương bá Li-băng được trồng nơi nhà Chúa, mơn mởn giữa khuôn viên đền thánh Chúa ta; già cỗi rồi, vẫn sinh hoa kết quả, tràn đầy nhựa sống, cành lá xanh rờn” (Tv 92:13-15). Chúng ta được như vậy là để loan truyền Danh Chúa uy linh, đồng thời phải nói to rằng: “Chúa thực là ngay thẳng, là núi đá cho tôi ẩn náu, nơi Ngài chẳng có chút bất công” (Tv 92:16).
Cảm nghiệm niềm hạnh phúc đó, Thánh Phaolô xác định: “Ở lại trong thân xác này là lưu lạc xa Chúa, vì chúng ta tiến bước nhờ lòng tin chứ không phải nhờ được thấy Chúa” (2 Cr 5:6-7). Nghĩa là đức tin quan trọng hơn phép lạ. Chắc chắn là vậy, vì chính Đức Kitô cũng đã xác định: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29). Đức tin có đủ mạnh thì chúng ta mới có thể “mạnh dạn lìa bỏ thân xác để được ở bên Chúa” (2 Cr 5:8). Lìa bỏ thân xác mình bằng nhiều cách: Bỏ một thói xấu, bỏ đường tội lỗi, hy sinh làm điều gì đó hoặc khước từ điều gì đó,… Không dễ chút nào, nhưng với ơn Chúa thì chúng ta có thể dứt khoát hành động.
Thánh Phaolô nói thêm: “Dù còn ở trong thân xác hoặc đã lìa bỏ thân xác, chúng tôi chỉ có một tham vọng là làm đẹp lòng Ngài” (2 Cr 5:9). Vậy mới là tham vọng thánh thiện, vì đôi khi chúng ta hành động vì đẹp lòng người khác (và mình được vinh danh) hơn là làm đẹp lòng Chúa. Cho nên chúng ta phải hết sức cẩn trọng: “Vì tất cả chúng ta đều phải được đưa ra ánh sáng, trước toà Đức Kitô, để mỗi người lãnh nhận những gì tương xứng với các việc tốt hay xấu đã làm, khi còn ở trong thân xác” (2 Cr 5:10).
Trình thuật Mc 4:26-34 hôm nay kể về “Chuyện Nước Trời”. Chúa Giêsu nói: “Chuyện Nước Thiên Chúa cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất. Đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào thì người ấy không biết. Đất tự động sinh ra hoa màu: trước hết cây lúa mọc lên, rồi trổ đòng đòng, và sau cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt. Lúa vừa chín, người ấy đem liềm hái ra gặt, vì đã đến mùa”. Chúa Giêsu dùng dụ ngôn để nói về Nước Trời nhưng không hề bóng gió khó hiểu, trái lại, rất đơn giản và dễ hiểu. Dù người không được học văn hóa nhiều cũng có thể hiểu chính xác.
Rồi Ngài lại nói: “Chúng ta ví Nước Thiên Chúa với cái gì đây? Lấy dụ ngôn nào mà hình dung được? Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng”. Nước Trời thật kỳ lạ, nhỏ mà to, hẹp mà rộng, yếu mà mạnh. Nước Trời rất quý, là “chúa ngọc” của những viên ngọc, ai đã “thấy” thì không thể không bỏ mọi sự để có thể chiếm hữu Viên Ngọc đó.
Thánh sử Máccô cho biết rằng Chúa Giêsu dùng nhiều dụ ngôn tương tự mà rao giảng lời cho họ, tuỳ theo mức họ có thể nghe. Ngài không bao giờ rao giảng cho họ mà không dùng dụ ngôn. Giống như ca dao Việt Nam nói: “Người khôn ăn nói nửa chừng, để cho kẻ dại nửa mừng nửa lo”. Vậy đó, nhưng khi chỉ có thầy trò với nhau, Ngài giải nghĩa hết. Không phải Ngài thiên tư tây vị, mà Ngài làm vậy để giáo huấn và đào tạo các tông đồ và rồi trao trọng trách cho họ phải nói cho người khác biết rõ về Nước Trời.
Lạy Thiên Chúa toàn năng và hằng hữu, xin thương giúp chúng con can đảm từ bỏ chính mình, không ngừng tìm kiếm Nước Trời, để có thể quyết tâm triệt để và dứt khoát hành động bằng mọi giá. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
33. Dụ ngôn Nước Trời
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Dụ ngôn cũng được gọi là ngụ ngôn. Hai danh từ này có nghĩa tương đương nhưng cũng nghĩa khác nhau.
Ngụ ngôn (Anh: parable, fable; Pháp: parabole, fable) là một câu chuyện ngắn, đơn giản, bằng văn xuôi hoặc văn vần, mang tính hoang đường, truyền thuyết, hư cấu, “bịa” ra như chuyện phiếm, nhưng vẫn có bài học luân lý, mang tính giáo dục, răn đời; các nhân vật thường là vật hoặc con vật được nhân cách hóa, các nhân vật cũng có thể là người hoặc thần linh.
Dụ ngôn (parable, parabole) cũng là một câu chuyện ngắn, đơn giản, bằng văn xuôi, nhưng khác là mang tính bí ẩn, mang tính tục ngữ, đặc biệt là mang chiều kích tâm linh. Chúa Giêsu dùng thể loại này, tức là Ngài dùng thể loại “dụ ngôn” chứ không dùng “ngụ ngôn”.
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn để minh họa chân lý, dùng hình ảnh dưới thế nhưng mang ý nghĩa trên trời. Ngài thích dùng dụ ngôn, có lẽ vì loại văn này độc đáo, như Kinh Thánh xác nhận: “Ngài không nói gì với họ mà không dùng dụ ngôn” (Mt 13:34; Mc 4:34). Có khoảng 35 dụ ngôn trong các Phúc Âm nhất lãm.
Có lần các môn đệ đã hỏi Chúa Giêsu: “Sao Thầy lại dùng dụ ngôn mà nói với họ?” (Mt 13:10). Ngài nói: “Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không. Ai đã có thì được cho thêm, và sẽ có dư thừa; còn ai không có thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy mất. Bởi thế, nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, vì họ nhìn mà không nhìn, nghe mà không nghe không hiểu. Thế là đối với họ đã ứng nghiệm lời sấm của ngôn sứ I-sai-a: Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy; vì lòng dân này đã ra chai đá: chúng đã bịt tai nhắm mắt, kẻo mắt chúng thấy, tai chúng nghe, và lòng hiểu được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành” (Mt 13:11-15; x. Mc 4:10-12 và Lc 8:9-10).
Nhưng khi chỉ có Thầy trò với nhau, Chúa Giêsu giải thích hết cho các môn đệ hiểu. Ngài nói rằng việc sử dụng các dụ ngôn có hai mục đích: Mặc khải sự thật cho những người muốn biết và che giấu sự thật đối với những người dửng dưng, không quan tâm. Nhóm Pha-ri-sêu đã công khai khước từ Đấng Mê-si-a và phỉ báng Chúa Thánh Thần, nghĩa là họ phạm loại tội nặng nhất, không được tha cả ở đời này và đời sau (Mt 12:22-32). Họ đã ứng nghiệm lời ngôn sứ I-sai-a nói về những người cứng lòng, đui mù và câm điếc: “Hãy đi nói với dân này rằng: Cứ nghe cho rõ, nhưng đừng hiểu, cứ nhìn thật kỹ, nhưng đừng nhận ra. Hãy làm cho lòng dân này ra đần độn, cho tai nó điếc, cho mắt nó mù; kẻo mắt nó thấy, tai nó nghe và lòng nó hiểu, mà nó trở lại và được chữa lành” (Is 6:9-10).
Sau khi dùng các dụ ngôn, Chúa Giêsu thường nói: “Ai có tai nghe thì nghe” (Mc 4:9; Mc 4:23; Mc 7:16; Lc 8:8; Lc 14:35). Đó là cách mời gọi lắng nghe dụ ngôn, không chỉ nghe chuyện đời thường mà là tìm kiếm sự thật của Thiên Chúa. Ngài ban cho mỗi người có HAI TAI và MỘT MIỆNG, tức là PHẢI NGHE nhiều hơn NÓI. (Ngoài ra còn hai mắt, hai chân và hai tay – nhìn nhiều, đi nhiều và làm nhiều).
Thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã phán hứa: “Từ ngọn cây, từ ngọn hương bá cao chót vót, Ta sẽ lấy, sẽ ngắt một chồi non; chính Ta sẽ trồng nó trên đỉnh núi cao vòi vọi. Ta sẽ trồng nó trên núi cao của Ít-ra-en. Nó sẽ trổ cành và kết trái thành một cây hương bá huy hoàng. Muông chim đến nương mình bên nó, và ẩn thân dưới bóng lá cành. Tất cả cây cối ngoài đồng ruộng sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa. Ta hạ thấp cây cao và nâng cao cây thấp, Ta làm cho cây xanh tươi phải khô héo và cây khô héo được xanh tươi. Chính Ta là Đức Chúa, Ta đã phán là Ta thực hiện” (Ed 17:22-24). Trong đó có “hình bóng” của dụ ngôn thời Tân Ước mà Chúa Giêsu sử dụng để nói về Nước Trời. Đó là một lời hứa, nhưng là lời hứa đang ứng nghiệm trong “Thời Cánh Chung” – thời chúng ta đang sống.
Được lời hứa của Thiên Chúa thì còn gì hạnh phúc bằng, vì lời hứa đó chắc chắn ứng nghiệm và hiện thực, chứ không như lời hứa của phàm nhân – nhưng con người mang họ “hứa” và liên quan dòng máu Chú Cuội. Tác giả Thánh Vịnh thầm nguyện: “Thú vị thay được tạ ơn Chúa, được mừng hát danh Ngài, lạy Đấng Tối Cao, được tuyên xưng tình thương của Ngài từ buổi sớm, và lòng thành tín của Ngài suốt canh khuya” (Tv 92:2-3). Tạ ơn và xưng tụng Chúa là trách nhiệm của phàm nhân, các “sinh vật cao cấp” được Ngài tạo dựng vì yêu quý và thương xót.
Tác giả Thánh Vịnh so sánh: “Người công chính vươn lên tựa cây dừa tươi tốt, lớn mạnh như hương bá Li-băng được trồng nơi nhà Chúa, mơn mởn giữa khuôn viên đền thánh Chúa ta; già cỗi rồi, vẫn sinh hoa kết quả, tràn đầy nhựa sống, cành lá xanh rờn, để loan truyền rằng: Chúa thực là ngay thẳng, là núi đá cho tôi ẩn náu, nơi Người chẳng có chút bất công” (Tv 92:13-16). Màu xanh thiên nhiên cho thấy sức sống dồi dào của cảnh vật, đó là nhờ bám rễ sâu vào lòng đất để hút các dưỡng chất; cũng vậy, con người sẽ thanh thản và bình an phát triển nhờ hồng ân Thiên Chúa, mãi mãi không tàn úa.
Thánh Phaolô bộc bạch: “Chúng tôi luôn mạnh dạn, và chúng tôi biết rằng: ở lại trong thân xác này là lưu lạc xa Chúa, vì chúng ta tiến bước nhờ lòng tin chứ không phải nhờ được thấy Chúa. Vậy, chúng tôi luôn mạnh dạn, và điều chúng tôi thích hơn, đó là lìa bỏ thân xác để được ở bên Chúa” (2 Cr 5:6-8). Đức tin thực sự rất cần thiết, cần hơn việc “được thấy Chúa”. Thế nhưng, nhiều người vẫn “đua nhau” tìm kiếm “sự lạ” ở nơi này hoặc nơi kia, Thánh Thể là phép lạ vĩ đại nhất, hằng ngày vẫn xảy ra tại các nhà thờ hoặc nhà nguyện ở khắp nơi trên thế giới, thế thì còn tìm điều gì lạ ở nơi nào chứ?
Thánh Phaolô cho biết thêm: “Nhưng, dù còn ở trong thân xác hoặc đã lìa bỏ thân xác, chúng tôi chỉ có một tham vọng là làm đẹp lòng Người. Vì tất cả chúng ta đều phải được đưa ra ánh sáng, trước toà Đức Kitô, để mỗi người lãnh nhận những gì tương xứng với các việc tốt hay xấu đã làm, khi còn ở trong thân xác” (2 Cr 5:9-10). Ý Chúa có lẽ không phức tạp như chúng ta tưởng, ý Chúa là bổn phận của chúng ta trong thời điểm hiện tại, dù chúng ta ở nơi này hoặc nơi khác. Làm tròn bổn phận và trách nhiệm của mình là “làm đẹp lòng Chúa”. Đơn giản mà lại không dễ hoàn tất!
Trình thuật Mc 4:26-34 là dụ ngôn “Hạt Giống Tự Mọc Lên” mà Chúa Giêsu dùng với ngụ ý đề cập Nước Trời. Ngài nói: “Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất. Đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, người ấy không biết. Đất tự động sinh ra hoa màu: trước hết cây lúa mọc lên, rồi trổ đòng đòng, và sau cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt. Lúa vừa chín, người ấy đem liềm hái ra gặt, vì đã đến mùa”. Cái mà chúng ta gọi là “tự động” hoặc “tự nhiên” thì thật ra chính là ý Chúa quan phòng và tiền định. Không ai thấy Nước Trời, nhưng Nước Trời vẫn lớn dần trong mỗi chúng ta và trong xã hội. Đơn giản và thực tế như chính phủ, chẳng ai thấy chính phủ và chẳng ai là chính phủ, nhưng chính phủ vẫn hiện hữu.
Nói dụ ngôn xong, Ngài đặt vấn đề: “Chúng ta ví Nước Thiên Chúa với cái gì đây? Lấy dụ ngôn nào mà hình dung được? Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng”. Ngài muốn dùng cách nói cụ thể để ai cũng hiểu, tất nhiên tùy theo mức độ nghe và hiểu của mỗi người – nhưng phải hiểu đúng chứ đừng hiểu theo ý riêng mình.
Hiểu ý Chúa qua Phúc Âm cũng dễ mà cũng khó. Có lẽ dụ ngôn “Người Gieo Giống” (Mt 13:18-23; Mc 4:13-20; Lc 8:11-15) là dụ ngôn duy nhất được Chúa Giêsu đã giải thích cặn kẽ, tỉ mỉ. Để hiểu các dụ ngôn khác, có thể lưu ý mấy điểm này:
1. Xác định phạm vi tâm linh. Chúa Giêsu thường giới thiệu một dụ ngôn bằng cách nói “Nước Trời ví như...” hoặc “giống như…” (đề cập 7 lần trong chương 13, Phúc Âm theo Thánh Mát-thêu). Trong dụ ngôn “Người Pha-ri-sêu và Người Thu Thuế”, Thánh Luca ghi: “Đức Giêsu còn kể dụ ngôn sau đây với một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác...” (Lc 18:9).
2. Phân biệt “chính” và “phụ”. Nói cách khác, không phải các chi tiết của dụ ngôn đều có ý nghĩa sâu sắc. Một số chi tiết chỉ làm cho câu chuyện thực tế hơn. Chẳng hạn, theo cách giải thích của Chúa Giêsu về dụ ngôn “Người Gieo Giống”, Ngài không bình luận về bốn loại đất khác nhau. Chi tiết “bốn loại” chỉ là chi tiết phụ đối với toàn bộ dụ ngôn này.
3. So sánh Kinh Thánh. So sánh Kinh Thánh với Kinh Thánh là quy luật chú giải vô giá khi tìm hiểu các dụ ngôn. Các dụ ngôn của Chúa Giêsu không bao giờ mâu thuẫn với Lời Chúa (Kinh Thánh), bởi vì Ngài đã xác nhận: “Không phải tôi tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, truyền lệnh cho tôi phải nói gì, tuyên bố gì” (Ga 12:49). Các dụ ngôn minh họa giáo lý, và các giáo huấn của Chúa Giêsu luôn rõ ràng, mạch lạc.
Chúng ta thấy sách Châm Ngôn có những điều tương tự. Thánh vương Sa-lô-môn đã dùng cách so sánh (tỷ giảo cách) để dạy về sự thật, đặc biệt trong tính tương đương điển hình, sinh ra một “dụ ngôn đơn giản”. Chẳng hạn: “Cơn thịnh nộ của vua như tiếng gầm sư tử, kẻ làm vua nổi giận là làm hại chính mình” (Cn 20:2). Tiếng gầm của sư tử được “ví như” cơn giận của nhà vua với mục đích là so sánh. Cách so sánh là cách giúp người ta dễ hiểu vấn đề nào đó. Văn so sánh là đặc ngữ trong các dụ ngôn – ngụ ngôn không có loại này.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con hiểu rõ và biết cố gắng thực hành các huấn lệnh Ngài dạy, cụ thể là qua các dụ ngôn. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
34. Vương Quốc và Giáo Hội
(Suy niệm của Lm. Mark Link, S.J.)
Một ngày kia, bé Sharon, năm tuổi, đến thăm bà ngoại. Trong cuộc thăm viếng này, bà đã cho cháu một trái dưa leo lớn nằm trong lọ thuỷ tinh.
Bé Sharon rất ngạc nhiên và hỏi: “Ngoại ơi, làm sao trái dưa leo lọt được vào cái chai qua cái miệng nhỏ xíu này?” Bà ngoại mỉm cười và nói:
“Cháu ơn, nếu bà nói cho cháu nghe bí mật này ngay lập tức, nó sẽ làm hư một bí mật lớn hơn mà bà muốn nói cho cháu nghe sau này. Hãy suy nghĩ một chút xíu đi.
“Bà biết là cháu sẽ tìm ra câu trả lời. Và lúc đó, bà sẽ nói cho cháu biết một bí mật lớn hơn.”
Khoảng một tuần sau, bé Sharon thơ thẩn hái bông trong khu vườn của bà ngoại. Bỗng dưng, nó thấy một cái chai mà trong đó bà ngoại đã nhét vào một nhánh nhỏ với trái dưa leo chút xíu. Bây giờ nó đã hiểu cách bà ngoại nó làm: bà nhét dưa leo vào cái chai khi nó còn nhỏ và để nó lớn lên ở trong đó. Nó chạy đến bà ngoại, vừa nhảy nhót vừa nói, “Ngoại ơi, con biết bí mật đó rồi. Bây giờ ngoại nói cho con biết bí mật lớn đi. Con không chờ được nữa!”
Bà ngoại nó bắt đầu:
“Bí mật thì như thế này: một thói quen tốt mà cháu tập luyện bây giờ giống như trái dưa leo nhỏ trong cái chai. Từ từ nó lớn lên và lớn hơn nữa bên trong con người cháu, như vậy khi cháu trưởng thành, không ai lấy đi được đức tính ấy.
“Và như vậy, điều bí mật là thế này: Nếu cháu muốn sau này hạnh phúc thì phải tập luyện một thói quen tốt ngay tự bây giờ.”
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Đức Giêsu kể cho chúng ta nghe một bí mật cũng giống như bí mật của bà ngoại cháu Sharon đã kể.
Đức Giêsu gieo một hạt cải nhỏ xíu của Nước Trời trong lòng mỗi người chúng ta. Nó “đâm chồi và lớn lên” mà không ai biết.
Công việc của chúng ta là nuôi dưỡng nó với sự cầu nguyện và công việc lành cho đến khi nó lớn lên đến độ không ai có thể lấy đi khỏi chúng ta – dù là những tai hoạ, những bách hại, và ngay cả cái chết.
Ở đây, điều quan trọng cần để ý là sự lớn lên của Nước Trời trong mỗi người chúng ta thì từ từ, thay đổi dần dần.
Cũng giống như cần phải có thời gian để trái dưa leo nhỏ xíu lớn lên trong cái chai, Nước Trời cũng vậy. Đây là lý do tại sao vẫn còn sự dữ bên trong tâm hồn chúng ta, và nhất là trong thế giới.
Hạt giống của Nước Trời đã được gieo xuống; nó đang mọc lên nhưng chưa đạt đến trọn vẹn.
Đây là lý do chúng ta xin cho “nước Cha trị đến” khi đọc kinh Lậy Cha.
Trong khi đó, “lĩnh vực của Satan” tiếp tục chiến đấu chống với Nước Trời.
Nói cách khác, vương quốc của Satan thì chỉ mới bị kết án tử hình. Nó chưa bị tiêu diệt. Và hậu quả là nó vẫn gieo rắc sự thù địch trong thế giới chúng ta.
Điều này đưa chúng ta đến điểm quan trọng thứ hai về Nước Trời.
Không giống như một cây rõ ràng xuất phát từ hạt giống nhỏ xíu, để mọi người đều thấy, Nước Trời thì vô hình và không thể thấy. Nó là tinh thần. Đức Giêsu nói:
“Nước Thiên Chúa không đến theo kiểu cách để được thấy. Không ai có thể nói, ‘Kìa, nó ở đây! Hay ‘Nó ở kia’; bởi vì Nước Thiên Chúa thì trong lòng anh em.” (Luca 17:20-21)
Điều này đưa chúng ta đến với vai trò của Giáo Hội. Đức Giêsu đã thiết lập Hội Thánh để phục vụ hai mục đích.
Thứ nhất, nó phục vụ như một “hạt giống” mà từ đó Nước Trời sẽ xuất phát. Thứ hai, nó là một “dấu hiệu” thấy được của vương quốc Thiên Chúa trong thế giới chúng ta.
Cũng giống như Đức Giêsu, Hội Thánh có hai chiều kích: chiều kích thiêng liêng và chiều kích nhân bản.
Chiều kích thiêng liêng thì vô hình. Không có ai khác hơn là chính Đức Kitô, Người là đầu và là sự sống của Hội Thánh.
Ngược lại, chiều kích nhân bản thì hữu hình. Đó là các phần tử của Hội Thánh.
Qua đời sống chứng nhân và phụng tự của chúng ta, là các phần tử của thân thể Đức Kitô, chúng ta làm cho Hội Thánh trở nên hữu hình và hoạt động trong thế giới.
Chiều kích nhân bản của Hội Thánh thì giống như bất cứ gì thuộc về con người; nó có khuyết điểm. Điều này không chỉ bao gồm các phần tử, nhưng còn cả giới lãnh đạo: các giám mục và linh mục của Hội Thánh.
Bởi vì có khuyết điểm, nó không luôn luôn trưng ra được “diện mạo của Đức Kitô” cho thế giới thấy như nó phải thi hành.
Nó cũng dễ sa ngã tội lỗi và vẫn phải tranh đấu để trở nên điều mà Thiên Chúa đã mời gọi.
Hậu quả là trong cuộc lữ hành trần thế của Hội Thánh, nó luôn luôn là một sự pha trộn giữa ánh sáng và bóng tối.
Sẽ luôn luôn có đủ ánh sáng cho những ai thành tâm muốn được thấy và cũng đủ tối tăm cho những ai không muốn.
Đây là điều nó phải như vậy. Ánh sáng của Hội Thánh không bao giờ trùm lấp chúng ta. Nó chỉ mời gọi chúng ta.
Nói cách khác: khi nói đến sự hiện diện của Hội Thánh, nó không bao giờ quá sáng tỏ đến độ chúng ta không cần phải thắc mắc gì cả.
Nó cũng không ẩn giấu quá kín đến độ người thành tâm muốn tìm kiếm phải lầm lạc. Nó luôn luôn mở rộng cho cả hai điều khả dĩ.
Và đây là điều phải như vậy. Đức Giêsu tôn trọng sự tự do con người. Đức Giêsu không ép buộc chúng ta phải đi theo Người.
Hãy để tôi kết thúc với một đoạn trích từ bài thơ thật hay bởi một tác giả vô danh.
Nó hầu như tóm lược những gì mà chúng ta muốn nói. Bài thơ viết:
Tôi nghĩ không bao giờ tôi thấy được một Giáo Hội đúng như tất cả những gì nó phải là:
Một Giáo Hội mà các phần tử không bao giờ lệch lạc khỏi con đường thẳng và hẹp.
Một Giáo Hội không còn hàng ghế trống trong nhà thờ, và cha xứ không bao giờ phải thất vọng.
Các Giáo Hội tuyệt hảo như thế có lẽ cũng có nhưng tôi chưa bao giờ được biết.
Tuy vậy, chúng ta sẽ làm việc và chơi đùa và hoạch định để làm cho Giáo Hội của chính chúng ta trở nên tốt nhất có thể.
35. Sức mạnh của Nước Trời
(Suy niệm của Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP
Đức Giêsu đi rao giảng Tin mừng về Nước Trời. Đây là một đề tài rất khó hiểu vì nó quá trừu tượng. Ngài phải vận dụng mọi sự vật chung quanh, mọi hình ảnh cụ thể để nói lên cho thính giả biết về những đặc tính của Nước Trời.
Vì thế, Đức Giêsu phải dùng nhiều dụ ngôn, để mỗi dụ ngôn nói lên một đặc tính của Nước Trời. Dĩ nhiên, dụ ngôn không làm cho người ta hiểu chính xác và thấu đáo về Nước Trời, nhưng cũng đem lại cho người nghe một vài ý niệm, để từ đó, dưới sự trợ giúp của ơn Chúa và dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, người ta sẽ có một quan niệm chính xác về Nước Trời.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu chỉ đưa ra hai dụ ngôn về người gieo giống và hạt cải để nói lên sức mạnh nội tại của Nước Trời, nghĩa là hạt giống Lời Chúa được gieo vãi, cứ âm thầm mọc lên và phát triển không ngừng. Hội thánh của Chúa từ một khởi đầu nhỏ bé, khiêm tốn, nhưng vẫn phát triển trong gian nan thử thách và một ngày kia Hội thánh sẽ lan tràn khắp nơi, đến với mọi dân tộc, mọi ngôn ngữ. Và sau cùng, Hội thánh sẽ trở nên thành toàn viên mãn trên thiên quốc.
Tuy Nước Trời có sức mạnh nội tại tự phát triển không ngừng, nhưng chúng ta là những thành viên, có nhiệm vụ góp phần làm cho Nước Trời phát triển lớn mạnh trong khả năng hạn hẹp của chúng ta. Phần việc của chúng ta thì chúng ta cứ làm, còn phần của Thiên Chúa thì Ngài sẽ làm theo sự khôn ngoan của Ngài. Chúng ta hãy tin chắc rằng Nước Trời sẽ thành toàn trong ngày sau hết và chúng ta sẽ được vào đó để hưởng vinh quang mà Chúa dành cho chúng ta. Nhưng trong khi chờ đợi đến ngày đó, theo lời thánh Phaolô trong bài đọc 2, chúng ta hãy cố gắng sống sao cho đẹp lòng Thiên Chúa.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Ed 17,22-24
Đây là một dụ ngôn lạc quan mà tiên tri Ezéchiel nói với dân Israel đang bị lưu đầy bên Babylon để họ nuôi niềm hy vọng lớn lao.
Từ cây bị đốn ngã là Israel, chính Thiên Chúa sẽ ngắt một nhánh con trên ngọn và đem trồng nơi đất tốt để từ nhánh mới đó sẽ lại xuất hiện một cây hương bá sum suê, nghĩa là Thiên Chúa sẽ cho họ được hồi hương và đất nước họ sẽ được thịnh vượng.
Thực tế là Thiên Chúa sẽ tái thực hiện kế hoạch của Ngài, nhưng trong sự khiêm tốn và hèn mọn của một “số sót nhỏ bé”.
+ Bài đọc 2: 2Cr 5,6-10
Người Kitô hữu sống ở thế gian ví như bị lưu đầy “xa Chúa” (2Cr 5,6). Khi nói như thế, có lẽ thánh Phaolô nghĩ đến những người Do thái nơi tha hương, sống xa Đền thờ Giêrusalem. Quả thật, người Kitô hữu cũng ở trong hoàn cảnh tương tự với đền thờ mới là Đức Kitô vinh quang.
Tuy sống ở trần gian như bị lưu đầy xa Chúa, người Kitô hữu vẫn một lòng trông cậy sẽ thoát cảnh lưu đầy đó mà về với Chúa.
Trong khi chờ đợi đến ngày đó, chúng ta hãy cố gắng sống sao cho đẹp lòng Chúa, để khi đến ngày đó, chúng ta sẽ được Thiên Chúa xét xử và thưởng công.
+ Bài Tin mừng: Mc 4,26-34
Đức Giêsu dùng hai dụ ngôn để nói về sự tăng trưởng của Nước Thiên Chúa theo hai đặc tính:
- Dụ ngôn thứ nhất: Đức Giêsu ví Nước Thiên Chúa như hạt giống gieo vào lòng đất, hạt giống cứ âm thầm mọc lên thành cây, không cần biết người gieo thức hay ngủ, đêm hay ngày. Điều đó nói lên sức phát triển nội tại của Nước Thiên Chúa.
- Dụ ngôn thứ hai: Đức Giêsu ví Nước Thiên Chúa như hạt cải rất nhỏ gieo xuống đất. Hạt cải dần dà lớn lên thành cây to đến nỗi chim trời có thể đến núp dưới bóng của nó. Điều đó nói lên sức bành trướng rất mạnh của Nước Thiên Chúa.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Sức mạnh của Nước Trời
I. NÓI VỀ DỤ NGÔN
Đức Giêsu đi rao giảng về Nước Thiên Chúa cho mọi người, cách riêng cho người Do thái. Nước Thiên Chúa tức là Nước Trời như Ngài đã rao giảng:”Thời kỳ đã mãn, và Triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin mừng” (Mc 1,15)… Đức Giêsu có ý phân biệt Nước Thiên Chúa mà Ngài sẽ thiết lập, tức là Hội thánh của Ngài, với nước trần gian theo kiểu người Do thái vẫn hằng mong ước, là được giải thoát khỏi ách nô lệ của đế quốc Rôma.
Đức Giêsu không dùng kiểu nói của các nhà hiền triết hay các nhà thần học với kiểu nói trừu tượng để nói về Nước Trời nhưng dùng những hình ảnh tự nhiên, quen thuộc và một kiểu nói bình dân để nói lên các đặc tính của Nước Trời. Hay nói cách khác, Ngài hay dùng dụ ngôn mà giảng dạy.
J. Hervieux giải thích:”Dụ ngôn là một câu chuyện rút ra từ thiên nhiên hay trong đời sống thường nhật. Nhờ hình thức rất đơn giản và tính cách lạ thường, dụ ngôn dễ làm cho người nghe chú ý và khiến họ phải suy nghĩ đến điều mà dụ ngôn có ý nhắm tới thông qua những hình ảnh (L’Evangile de Marc, Centurion, tr 65).
Các dụ ngôn không cho chúng ta thấy toàn cảnh, nhưng dù sao cũng cho chúng ta một số khái niệm về Nước Thiên Chúa. Trong chương 4 của Phúc âm thánh Marcô, chúng ta thấy có 3 dụ ngôn khác nhau về Nước Chúa. Nhìn vào lần lượt từng dụ ngôn một, chúng ta có 3 hình ảnh khác nhau về Nước Thiên Chúa. Điều lý thú là cả ba đều nói về hình ảnh hạt giống. Hôm nay chúng ta chỉ nói tới hai dụ ngôn thôi.
II. HAI DỤ NGÔN VỀ NƯỚC TRỜI
Hôm nay Đức Giêsu đưa ra hai dụ ngôn về người gieo giống và hạt cải để nói lên hai đặc tính của Nước Trời, đó là Nước Trời hay Hội thánh của Chúa cứ âm thầm tăng triển và từ một cộng đoàn nhỏ bé sẽ trở nên một cộng đoàn lớn mạnh.
1. Dụ ngôn người gieo hạt giống.
Đức Giêsu dùng lối so sánh rất tự nhiên mà các thính giả của Ngài đều biết rõ. “Gieo hạt giống” đó là cử chỉ rất quen thuộc, đến nỗi ta có nguy cơ không còn nhận ra mầu nhiệm của nó nữa. Người ta đã gọi dụ ngôn này là “hạt giống tự mọc lên” vì mọi sự diễn tiến đúng như vậy.
Theo Đức Giêsu, Nước Thiên Chúa như người kia gieo hạt giống xuống đất… hạt giống tự nó đâm mầm và mọc lên thế nào, nào ai biết? Thì Nước Trời cũng giống như vậy. Hạt giống Lời Chúa được rao giảng bên ngoài, sức tác động của Chúa hoạt động bên trong, thế là Phúc âm sẽ sinh hoa kết quả. Nhưng Chúa thấy trước, lời của Ngài, sứ vụ của Ngài sẽ gây kết quả từ từ, không gấp gáp, không gây chấn động. Vậy phải nhẫn nại, hãy đợi chờ, như người nông phu đợi chờ hạt giống nảy mầm và sinh hoa kết quả.
Vì vậy, người tông đồ không được sốt ruột khi thấy công việc rao giảng Tin mừng không đi đến đâu. Hạt giống đâu có thể lớn vượt thời gian được, nó phải lớn lên từng bước theo trật tự tự nhiên của vạn vật. Do đó, Lời Chúa cũng phải theo một trật tự như thế.
Chúng ta cần hiểu rằng Nước Thiên Chúa âm thầm lớn mạnh, tuần tự nhi tiến, dưới sự thúc đẩy của Chúa. Nhưng sự tiến triển cũng đòi hỏi sự góp phần tích cực của chúng ta.
Đừng ngã lòng khi không thấy kết quả trước mắt. Sự lỗi lầm lớn của các tông đồ là dựa trên tài cán, nghị lực của ta hơn là vào sức mạnh của Chúa. Nhưng hãy cố gắng hết sức ta, thi hành phận bé nhỏ của ta vì yêu mến. Và kết quả sẽ đến vào lúc thật bất ngờ nhất.
Truyện: Giải đáp ba thắc mắc
Một hôm, cha Petitjean đến giảng đạo tại Nagasaki cho một số đông người Nhật. Nghĩ rằng họ đều là người bên lương nên sau bài giảng, ngài tươi cười hỏi:
- Anh em có thắc mắc gì không?
Một người đưa tay đặt câu hỏi:
- Chúng tôi muốn được hỏi ông ba điều, yêu cầu ông trả lời có hay không? Câu hỏi thứ nhất, các ông có tin Đức Mẹ Đồng trinh không?
- Có.
Câu hỏi thứ hai: các ông có vâng lời và thông hiệp với Đức Thánh Cha không?
- Có.
Câu hỏi thứ ba: Là Linh mục, các ông có giữ mình đồng trinh và sống độc thân không?
- Có.
- Vậy thì mấy trăm người chúng tôi đây với ông là đồng đạo. Chúng tôi là người Công giáo cả.
Cha Petitjean bàng hoàng như từ cung trăng rơi xuống. Cha con âu yếm ôm cổ nhau. Nhà truyền giáo hỏi:
- Bấy lâu nay, có ai giảng dạy cho các anh không?
- Thưa cha, không có ai suốt hai thế kỷ rồi! Đó là nhờ ông bà tổ tiên chúng con truyền lại, rồi chúng con âm thầm cầu nguyện, dạy giáo lý cho con em, đoàn kết đùm bọc nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ông bà chúng con trước khi chết có nhắn nhủ: Sau này có ai đến giảng đạo hãy cảnh giác, phải lấy ba tiêu chuẩn ấy mà nhận xem họ có phải là các cha đích thực, là người của Hội thánh sai đến.
Giáo hội Nhật bản đã tái sinh.
2. Dụ ngôn hạt cải
Đức Giêsu sánh ví Nước Thiên Chúa như hạt cải. Dụ ngôn này cho thấy vẻ tương phản rõ rệt giữa một bên là sự nhỏ bé, vô nghĩa lúc ban đầu, và bên kia là kết quả cuối cùng lại phong phú không ngờ. Thật chẳng tương xứng chút nào! “Hạ cải… là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất, nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ”.
Cây cải ở xứ Palestine khác với cây cải ở xứ ta. Ở xứ Palestine hạt cải mọc lên thành cây to đến nỗi chim trời có thể đến trú ẩn.
Ông Thompson trong cuốn “Xứ thánh và Kinh thánh” đã viết:”Tôi đã thấy cây này trong cánh đồng phì nhiêu ở Akka, nó cao bằng con ngựa và người cưỡi ngựa. Với sự giúp đỡ của người hướng dẫn, tôi đã nhổ được một cây cao hơn 4 mét”.
Ví dụ này của Đức Giêsu không thổi phồng sự thật chút nào. Người ta vẫn thấy những loại cải hay cây cải to như vậy có bầy chim bu quanh, vì chim thích những hạt cải đen nên chúng đậu trên cây để ăn. Vì thế Đức Giêsu mới nói rằng Nước Ngài giống như hạt cải lớn lên thành cây.
Ý nghĩa của ví dụ này rất rõ ràng. Nước Thiên Chúa bắt đầu từ những bước khởi điểm hết sứ nhỏ bé, nhưng không biết khi nào nó kết thúc.
Ngỏ lời với đám thính giả đang đánh giá sứ vụ của mình theo những tiêu chuẩn phàm trần, và với những ai đang thất vọng khi thấy vẻ khiêm tốn lúc ban đầu của mình. Đức Giêsu báo trước cho họ biết rằng, dù thế nào, họ cũng vẫn là những người được chứng kiến công cuộc khai trương Nước Thiên Chúa. Nơi bản thân Đức Giêsu, dù bằng cách kín đáo thế nào chăng nữa, thì Nước Thiên Chúa cũng đã xuất hiện rồi. Một ngày nào đó, nhân loại sẽ phải ngỡ ngàng chứng kiến sức mạnh vô địch và vẻ phong phú lạ lùng của Nước ấy. Cái gì mắt người được nhìn thấy hiện nay không cho ai đoán trước được nó sẽ như thế nào ở giai đoạn chót của mức phát triển.
Tường thuật lại cho các độc giả của mình những lời này của Đức Giêsu, Marcô muốn trấn an họ rằng hoạt động của Đức Giêsu khi còn tại thế dù khiêm nhường, nhỏ bé, và cộng đoàn các môn đệ của Ngài là Giáo hội, dù có yếu đuối thế nào, thì tất cả đều đang tham gia vào thành tựu vẻ vang của một công trình tràn đầy sức sống và khi tới giai đoạn chót của mức phát triển, phải đạt được chiều kích toàn cầu (Theo J. Hervieux).
Bước khởi đầu của Nước Thiên Chúa khiêm tốn như vậy đấy, nhưng sự bắt đầu là rất quan trọng. Có nhiều việc lớn phải bắt đầu bằng những việc nhỏ, ví dụ: muốn xây một tòa nhà thì phải bắt đầu bằng từng viên gạch; muốn viết một cuốn sách thì phải bắt đầu bằng từng trang, thậm chí từng chữ; muốn làm một chuyến viễn du phải bắt đầu bằng từng bước; muốn xây một tình bạn thì phải bắt đầu bằng những cuộc gặp gỡ đổi trao.
Truyện: Hạt giống cây tre Tầu
Nhà tâm lý học Weldon cho rằng hạt giống kỳ lạ nhất thế giới là hạt giống cây tre Trung quốc. Hạt giống nằm yên dưới lòng đất đến 5 năm, rồi mới nhú chồi non lên mặt đất. Suốt thời gian 5 năm này, người ta phải vất vả chăm sóc nó, nào là tưới nước, nào là bón phân, mà không hề nhìn thấy hệ thống rễ phức tạp đang bố trí trong lòng đất.
Cuối cùng, một sự sống đã vươn lên đầy kinh ngạc: Chỉ trong 6 tuần đầu, cây tre đã mọc cao lên gần 3 mét.
Hạt giống Nước Trời cũng không khác chi hạt giống cây tre Trung quốc. “Hạt bé nhất” lại cho cây lớn nhất. Nước Trời khởi đầu là Chúa Giêsu và một nhóm nhỏ môn đệ dân chài. Sau 20 thế kỷ, Kitô giáo đã lan tràn khắp nơi, đến với mọi dân tộc.
Có thể nói Đức Giêsu đã gieo hạt giống Hội thánh vào giữa lòng thế giới. Sau đó Ngài biến mất khỏi dòng lịch sử, để hạt giống Hội thánh “âm thầm lớn lên” với bao gian nan và thử thách, yếu đuối và bất lực. Dường như Ngài dửng dưng trước bao khó khăn của Hội thánh. Dường như Ngài không biết đến bao tội ác đang lan tràn khắp thế giới. Dường như Ngài không quan tâm đến nỗ lực sống thánh của dân Ngài.
Nhưng với lòng tin yêu phó thác, chúng ta xác tín rằng: bên kia dòng thời gian, nơi cuộc sống vĩnh hằng, Thiên Chúa đang chờ đợi, nhìn xem và điều khiển cho hạt giống Nước Trời lớn lên và tăng trưởng sung mãn vào một mùa bội thu trong ngày Cánh chung sẽ tới.
III. NHIỆM VỤ CỦA CHÚNG TA.
Đức Giêsu đã thành lập Hội thánh qua 2000 năm rồi, Hội thánh vẫn trường tồn nhưng chưa hoàn chỉnh. Chúa còn cần đến sự đóng góp của chúng ta, tuy nhỏ bé, nhưng cần thiết. Người ta thường nói:”Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”, việc của chúng ta thì chúng ta cứ làm, còn kết quả là do Chúa định.
Truyện: Thế giới chưa hoàn chỉnh
Có một phiên bản của câu chuyện sáng thế như sau: Khi Thiên Chúa dựng nên thế giới, Ngài dựng nên từ từ. Ngài tạo ra cây cối, cỏ hoa, sinh vật, chim cá… Khi Ngài làm ra những vật ấy, các thiên thần liền hỏi:”Thưa Chúa, vậy thế giới đã xong chưa”? Thiên Chúa đáp lại với một từ “chưa” đơn giản.
Sau cùng Thiên Chúa đã tạo ra con người và nói với họ:”Ta mệt rồi. Ta muốn các con hoàn thành thế giới. Nếu các con đồng ý làm thế, Ta sẽ cộng tác với các con”. Họ đồng ý. Sau đó, bất cứ lúc nào các thiên thần hỏi Thiên Chúa thế giới đã hoàn thành chưa, câu trả lời vẫn là: ”Ta không biết. Các ngươi phải hỏi những người cộng tác của ta”.
Có những điều mà chúng ta có thể làm và phải làm, Thiên Chúa sẽ không làm điều đó thay chúng ta. Không phải vì Ngài không thể làm chỉ vì muốn chúng ta cộng tác với Ngài. Chúng ta phải gieo hạt giống, đó là phần việc của chúng ta. Nhưng khi làm điều ấy, chúng ta phải hiểu rằng, chúng ta không thể làm mọi việc. Chúng ta không thể làm cho hạt giống mọc lên. Đó là phần việc của Thiên Chúa. Và Thiên Chúa làm phần việc của Ngài. Không một chủ nông trại hoặc người làm vườn nào sẽ nói với bạn điều ấy.
Chúng ta có nhiệm vụ truyền bá Nước Thiên Chúa cho người ta trong hoàn cảnh thuận tiện cũng như không thuận tiện, cho những người muốn nghe cũng như cho những người không muốn nghe. Phần chúng ta cứ việc gieo Lời Chúa và để cho Lời Chúa âm thầm mọc lên.
Bên Phương Tây, có những người thẳng thừng chống lại Thiên Chúa, họ bảo rằng:”Thiên Chúa đã chết rồi” (Nietzsch), nhưng Thiên Chúa vẫn còn, Ngài là Đấng ẩn danh (Deus Absconditus), Ngài vẫn nói, nói một cách khiêm tốn và dịu hiền để ai có tai, có thiện tâm thì nghe rất thấm thía. Kẻ ác tâm, dã tâm, vô tâm chẳng bao giờ nghe được tiếng Ngài. Mà chỉ thấy chói tai.
Người Đông Phương xưa, tuy không gần Ngài bằng xương, bằng thịt, nhưng cũng nhìn thấy:”Thiên hành kiện” – Trời hành động kiên cường không ngừng, mà chẳng nói gì “Thiên hà ngôn tai” – Trời không nói bằng miệng, nhưng nói bằng nhiều cách: nói bằng tác tạo trời đất muôn vật, nói trong lương tâm con người:”Thiên mệnh chi vị tính”, nói bằng ban phép tắc cho muôn vật:”Duy thiên sinh dân, hữu vật, hữu tắc”. Vì thế, con người phải biết luôn luôn tìm ý Ngài để tuân theo. Không biết tìm ý Trời thì không đáng là quân tử, không xứng đáng làm con Trời:”Bất tri thiên mệnh, vô dĩ vi quân tử”.
Để kết thúc, chúng ta hãy trở lại bài đọc 2, thánh Phaolô cho biết cuộc sống ở trần gian này được coi như cuộc lưu đầy “xa Chúa” (2Cr 5,6). Nhưng chúng ta tin chắc rằng một ngày kia chúng ta sẽ rời bỏ chốn lưu đầy này mà về với Chúa.
Tuy nhiên, trong khi còn sống ở trần gian này chúng ta hãy cố gắng sống sao cho đẹp lòng Chúa, góp phần làm cho hạt giống Lời Chúa được phát triển mạnh mẽ, được sinh hoa kết quả dồi dào, đợi chờ một mùa bội thu trong thời viên mãn là ngày Cánh chung.
36. Hạt giống
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Tin mừng Mc 4:26-34: Nước Thiên Chúa giống như người nông dân gieo hạt xuống đất. Hạt giống âm thầm nẩy mầm, phát triển và sinh bông hạt. Cũng vậy, hạt giống Lời Chúa được gieo vào lòng thế giới và gieo vào lòng người sẽ nảy mầm và sinh nhiều hoa trái tốt lành.
Vào một đêm nọ, người phụ nữ nằm mơ. Chị thấy mình bước vào một siêu thị. Khách hàng tấp nập. Có một quày hàng đặc biệt, người ta chen chân không lọt. Chị ngạc nhiên thấy Chúa Giêsu đứng bán ở quày hàng này.
Chờ đợi đến phiên mình, chị hỏi: Chúa mà cũng bán hàng sao? Chúa bán cái gì ở đây vậy?
Chúa trả lời: Ta bán mọi sự con đang ước muốn trong trái tim con.
Chị nói liền một hồi: Thưa Chúa, con muốn có bình an, có tình yêu, có hạnh phúc, có khôn ngoan và tự do không sợ hãi. Suy nghĩ một lúc, chị lại thêm: không chỉ cho con mà thôi nhưng còn cho chồng, cho con và cho những người thân yêu của con nữa.
Chúa mỉm cười và nói: hỡi con yêu dấu, ở đây,Ta không bán hoa trái mà chỉ bán hạt giống thôi. (Anthony de Mello).
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn hạt giống để rao giảng về Nước Thiên Chúa. Hình ảnh cụ thể và dễ hiểu. Nước Thiên Chúa giống như người nông dân gieo hạt xuống đất. Hạt giống âm thầm nẩy mầm, phát triển và sinh bông hạt. Cũng vậy, hạt giống Lời Chúa được gieo vào lòng thế giới và gieo vào lòng người sẽ nảy mầm và sinh nhiều hoa trái tốt lành. Nước Thiên Chúa là vương quốc của tình yêu, của sự thật không ngừng tăng trưởng dọc dài thời gian của lịch sử nhân loại. Không ai có thể ngăn cản sự phát triển của Nước Thiên Chúa.
Dụ ngôn “Hạt lúa âm thầm mọc lên” (x. Mc 4,26-29) chính là hình ảnh của Tin mừng chan hoà trong một nền văn hoá.
Hạt giống Tin Mừng Đức Giêsu Kitô đã đến với quê hương Việt Nam gần năm thế kỷ.Trước đó cả ngàn năm đã có ba tôn giáo lớn là Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo và Tín Ngưỡng dân gian ăn sâu vào tâm hồn người Việt Nam. Phong tục tập quán, văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam, đã được nhào luyện bởi tất cả những mầm sống cũng như giới hạn các tín ngưỡng đó.
Trên nền tảng một đời sống tâm linh phong phú mà Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo và nhất là Đạo Ông Bà đã xây dựng từ hơn một ngàn năm, hạt giống Tin Mừng đã nẩy mầm và trổ sinh nhiều hoa trái. Tinh thần hiếu khách, lòng bao dung làm cho người Việt Nam sẵn sàng tiếp xúc với những người tỏ ra có thiện cảm với mình, cho dù họ từ xa đến. Với những đức tính như lòng hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ, kính trên nhường dưới trong gia đình, với một tâm hồn yêu thích tĩnh mịch và chiêm niệm, người Việt Nam là một mãnh đất tốt để đón nhận những giá trị thiêng liêng hàm chứa trong Tin Mừng.
Nhờ các nhà truyền giáo, từ các thế hệ tiền nhân, người Việt đã nhận lãnh nhiều điều tốt lành: những thường thức về vệ sinh, khoa học, những hiểu biết mới, những đồ vật quý hiếm cũng như những trợ giúp vật chất dù rất khiêm tốn, những nhân vật thánh thiêng đầy nhân ái... khiến họ, nhất là những người thuộc lớp bình dân, sẵn sàng đón nhận giáo lý mà những người tốt lành như vậy mang đến cho họ. Nhờ đó những tập tục phi lý và phi nhân (bùa mê, sát tế) như một gánh nặng đè lên cuộc đời của họ nay được cởi bỏ. Khi đã tìm gặp một vị thần đầy yêu thương, họ liền cảm thấy được giải thoát và tin theo.
Rao giảng Tin Mừng cho họ cần gắn liền với phát triển cuộc sống, quan tâm săn sóc sức khỏe, nâng cao văn hóa giáo dục. Người truyền giáo cần phải sống giữa những anh chị em nầy và chia sẽ đời sống của họ. Đó là điều cần phải làm trước tiên và đó là chìa khóa thành công của một nhà truyền giáo thật sự. Cần huấn luyện những cá nhân trưởng thành và những tổ chức tự lập ngõ hầu những thành phần của địa phương có thể rao giảng phúc âm cho chính đồng bào của họ và cung cấp những giáo dân có đức tin vừng mạnh, có trình độ trí thức tốt, có khả năng làm việc cách hăng say giữa anh chị em mình.
Tôi vừa mới đi du lịch hành hương đất nước Hàn Quốc(10-15/6/2012). Theo linh mục Piero Gheddo, thuộc Hội Truyền Giáo Nước Ngoài Milano: “Trong suốt 50 năm qua có lẽ đã không có quốc gia nào trên thế giới có được sự phát triển liên tục trên mọi bình diện chính trị, kinh tế, xã hội và tôn giáo như Hàn Quốc. Sự phát triển mạnh mẽ này cũng xảy ra đối với Kitô giáo nữa. Thật thế, từ năm 1960 đến năm 2010, dân số Hàn Quốc từ 23 triệu đã tăng lên 48 triệu người. Lợi tức bình quân tính trên đầu người gia tăng từ 1.300 USD lên 19.500 USD hằng năm. Số Kitô hữu từ 2% tăng lên 30%, trong đó có khoảng 11% là tín hữu Công giáo, tức khoảng 5,4 triệu. Số linh mục từ 250 lên đến 5.000”. (Nhật báo Avvenire (Tương lai), cơ quan ngôn luận chính thức của Hội đồng Giám mục Italia số ra ngày 8-4-2012).
Với 5.000 linh mục hiện nay, tính bình quân, mỗi vị coi sóc 1.100 tín hữu. Hồi năm 2008, số tín hữu Công giáo đã vượt 10% tổng số dân Hàn Quốc và gia tăng 3% mỗi năm.
Theo thống kê của Giáo Hội năm 2009, số người lãnh nhận bí tích Rửa tội đã là 159.000, và đã có 149 phó tế được thụ phong linh mục, tức gia tăng 21 vị so với năm 2008. Trong năm 2009 có 69% người Hàn Quốc thuộc lứa tuổi 23 tới 40. Điều này cho thấy người dân Hàn Quốc rất trẻ trung và tràn đầy sức sống.
Đức Hồng y Nicholas Cheong Jin Suk, Tổng Giám mục thủ đô Seoul, cho biết trong 10 năm qua, số tín hữu Công giáo Hàn Quốc đã gia tăng từ 3 lên đến hơn 5 triệu, khiến cho Giáo Hội Hàn Quốc là Giáo Hội tiến triển mạnh nhất châu Á. Tại Hàn Quốc, quyền tự do tôn giáo được hoàn toàn tôn trọng.
Hiện nay Giáo Hội Hàn Quốc đang sống chương trình gọi là "Rao giảng Tin Mừng hai mươi hai mươi", có nghĩa là mọi tín hữu trong Giáo Hội phải dấn thân truyền giáo làm sao để vào năm 2020, số tín hữu Công giáo đạt tỷ lệ 20% tổng số dân Hàn Quốc, nghĩa là gia tăng gấp đôi số tín hữu hiện nay lên 10 triệu. (Sẽ chia sẻ thêm về Giáo hội Hàn Quốc trong những bài sau).
Loan báo Tin Mừng là chia sẻ cuộc sống, một cuộc sống như chính Chúa Giêsu đã sống, là yêu thương mọi người, và yêu thương đến cùng (x. Ga 13,11), yêu thương đến nỗi dám chấp nhận hy sinh tính mạng cho những người mình yêu (x. Ga 15,13).
Một Giáo Hội khiêm nhu nhỏ bé dễ hòa mình vào giữa đại đa số những người nghèo của Châu Á. Và một Giáo Hội không quyền lực dễ gần gũi số đông những người chỉ mơ ước được làm người, được cơm no áo ấm, được học hành và có việc làm. Vì phải chăng đã đến lúc cần sáng tạo ra những "mô hình" mới của Giáo Hội như là những cộng đồng nhỏ bé, dễ hòa mình vào những cộng đồng xã hội của người nghèo: những cộng đồng nghèo hơn, ít bề thế, ít cồng kềnh, khiến người ta không còn e dè sợ hãi khi tiếp cận, gặp gỡ, những cộng đồng mở rộng hơn là khép kín. Sau cùng đó là những cộng đồng quan tâm nhiều hơn nữa đến đời sống toàn diện của con người, không chỉ khép kín trong đời sống thuần túy tôn giáo, nghĩa là trong việc cử hành bí tích hay phụng vụ, mà còn dấn thân trực tiếp vào việc cải thiện đời sống vật chất, nâng cao văn hóa và giáo dục cho người dân, nhất là những người nghèo. Tục ngữ Việt Nam có câu: "có thực mới vực được đạo". Giáo Hội không được sai đến để giải quyết vấn đề kinh tế xã hội... nhưng không phải vì thế mà Giáo Hội không quan tâm đến những vấn đề ấy. Chúa Giêsu đã loan báo Tin Mừng không chỉ bằng lời nói, mà Tin Mừng của Người là "làm cho người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết chỗi dậy" (Lc 7,22).
Trong bối cảnh xã hội Việt Nam hôm nay, truyền giáo chính là “làm muối,” “làm men,” “làm ánh sáng”... như những hình ảnh chính Chúa Giêsu đã dùng khi trao sứ mạng cho các môn đệ. Muối, men, ánh sáng thì không ồn ào áp chế, công việc của nó là âm thầm hiện diện, và chỉ cần hiện diện đúng như bản chất của mình, tự khắc môi trường xung quanh nó sẽ thấm mặn, sẽ dậy men, và sẽ đầy ánh sáng.
37. Hạt cải Nước Trời
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Chúng ta thường nghe nói chúng ta là công dân Nước Thiên Chúa và có bổn phận xây dựng Nước Thiên Chúa. Nhưng có lẽ chúng ta chưa hiểu bao nhiêu. Lời Chúa hôm nay sẽ dạy chúng ta những điều đó.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa dạy và xin Chúa giúp chúng ta thực hành Lời Ngài.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta chưa sống đúng theo niềm tin của mình.
Chúng ta không làm chứng cho những giá trị tốt của Tin Mừng.
Chúng ta không quan tâm xây dựng Nước Thiên Chúa.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Êd 17,22-24)
Ngôn sứ Êdêkien rao giảng dụ ngôn này trong thời dân Israel đang bị lưu đày bên Babylon:
Cây hương nam cao nhất ám chỉ Nabuchodonosor và đế quốc của ông. Nó sẽ bị Thiên Chúa chặt xuống.
Một chồi non được Thiên Chúa trồng và lớn lên thành cây hương nam vĩ đại ám chỉ dân Israel. Họ sẽ được Thiên Chúa cho hồi hương và đất nước họ sẽ thịnh vượng.
Tất cả những cây rừng khác ám chỉ các vua và các nước khác. Họ sẽ nhận biết uy quyền của Thiên Chúa và vinh quang của Israel.
2. Đáp ca (Tv 91)
Tv này cũng so sánh người hiền đức như một cây là cây chà là: được vun trồng trong nhà Chúa, lớn lên và trổ sinh hoa trái như cây hương bá đất Liban.
3. Tin Mừng (Mc 4,26-34)
Đức Giêsu dùng hai dụ ngôn giúp người ta hiểu về Nước Thiên Chúa:
Nước Thiên Chúa giống như hạt giống được gieo xuống đất và dù người gieo thức hay ngủ, dù ngày hay đêm, hạt giống cứ âm thầm mọc lên thành cây... Sức phát triển nội tại của Nước Thiên Chúa.
Nước Thiên Chúa giống như một hạt cải rất nhỏ gieo xuống đất nhưng dần dà lớn lên thành cây to đến nỗi chim trời đến núp dưới bóng của nó. Sức bành trướng rất mạnh của Nước Thiên Chúa.
4. Bài đọc II (2 Cr 5,6-10)
Giữa những gian truân khổ sở của cuộc đời, thánh Phaolô bày tỏ niềm trông cậy vào Chúa:
* bởi vì sống ở đời này cũng như bị lưu đày xa cách Thiên Chúa. Một ngày nào đó chúng ta sẽ thoát cảnh lưu đày mà về với Chúa.
* trong khi chờ đến ngày đó, chúng ta hãy cố gắng sống sao cho đẹp lòng Chúa, để khi đến ngày đó chúng ta sẽ được Thiên Chúa xét xử và thưởng công.
IV. Gợi ý giảng
* 1. "Nước Thiên Chúa giống như người kia gieo hạt xuống đất"
Cách Đức Giêsu dùng để mô tả Nước Thiên Chúa rất xa lạ với trí tưởng tượng của con người. Ngài không nói Nước Thiên Chúa giống như một đất nước đông đảo hay một đạo quân hùng mạnh, nhưng nói "Nước Thiên Chúa giống như người kia gieo hạt xuống đất". Câu này có nhiều ý nghĩa.
Nước Thiên Chúa là một hạt giống: thực chất của Nước Thiên Chúa không phải là hệ thống tổ chức quy mô hay thế lực mạnh mẽ bề ngoài, mà là những giá trị bên trong, những giá trị mà Đức Giêsu đã rao giảng trong Tin Mừng, như yêu thương, tha thứ, hòa thuận v.v.
Nước Thiên Chúa giống như người kia gieo hạt: Xây dựng Nước Thiên Chúa không phải bằng cách lập hội kêu gọi càng nhiều người ghi tên vào càng tốt, hay đem quân xâm lấn để mở mang bờ cõi, mà là gieo hạt: đem những giá trị Tin Mừng vùi vào thế giới này, gieo vào lòng nhân loại này.
Hạt giống sẽ dần dần mọc lên: Không nên nôn nóng mong chờ một sự phát triển nhanh chóng ngoạn mục mà phải kiên nhẫn chờ đợi. Nhưng đồng thời cũng phải lạc quan tin tưởng vì thế nào Nước Thiên Chúa cũng lớn lên.
* 2. Nhỏ bé mà rất mạnh, âm thầm mà bền bĩ
Nhỏ bé mà rất mạnh, âm thầm mà bền bĩ: đó là những đặc tính của hạt giống.
Đức Giêsu dùng hình ảnh hạt giống để dạy môn đệ Ngài sống và xây dựng Nước Thiên Chúa:
Chúng ta không cần làm những việc to tát vĩ đại. Chỉ cần làm cho tốt những việc nhỏ bé hằng ngày của mình.
Chúng ta không cần ồn ào phô trương hay quảng cáo cho niềm tin của chúng ta. Chỉ cần sống một cách âm thầm nhưng kiên trì những giá trị Tin Mừng mà mình đã nhập tâm.
* 3. Tính nóng vội
Thời nay có nhiều sản phẩm "xài liền", như mì ăn liền, cà phê uống liền, chụp hình lấy liền v.v. Dù chúng ta biết phẩm chất của những thứ đó không được tốt, nhưng chúng ta vẫn thích, bởi vì đỡ tốn công và đỡ mất giờ.
Thế nhưng chúng ta quên rằng có nhiều thứ không thể hối thúc được. Phát triển thành một con người chín chắn là công việc của cả một đời người. Xây dựng một tương quan tốt đẹp với ai đó đòi hỏi rất nhiều thời gian. Biết và hiểu con cái mình cũng đòi cha mẹ phải tốn nhiều thời giờ. Vượt qua tội lỗi và thói xấu cũng không phải là công việc một sớm một chiều.
Thời đại chúng ta ngày này cũng được gọi là thời đại nhấn nút. Nhấn nút một cái là đèn cháy, nhấn nút một cái là máy nổ, nhấn nút một cái là cửa mở ra... Quả thật nhiều phương tiện hiện đại nhằm tiết kiệm sức người là tốt. Thế nhưng kiểu sống "nhấn nút" như thế làm cho chúng ta có khuynh hướng tìm sự dễ dãi. Đi đến thăm một người già hay một người bệnh làm chi cho mất công, sao không gọi điện thoại cho tiện! Hơn nữa có rất nhiều chuyện không thể giải quyết bằng cách nhấn nút: không có nút nào thay thế việc nuôi dạy con cái cho nên người, cũng không có nút nào thay thế việc luyện tập thành thạo một kỹ năng...
Trong dụ ngôn hôm nay, người nông dân đã làm tất cả những gì phải làm, là dọn đất và gieo hạt giống. Sau đó là phần việc của hạt giống, phần việc này ngoài tầm của người nông dân. Người nông dân phải chờ, chờ trong kiên nhẫn và hy vọng.
Dụ ngôn này nhắc chúng ta rằng chúng ta có thể gieo hạt giống nhưng chúng ta không thể làm cho hạt giống mọc lên. Chính Chúa làm việc đó. Nếu chúng ta làm xong phần bổn phận mình thì chắc chắn Chúa sẽ cho sinh hoa kết quả. Nhưng liệu chúng ta có đủ kiên nhẫn và đủ lòng trông cậy không? (Viết theo Flor McCarthy)
* 4. Những sự bắt đầu nho nhỏ
Dụ ngôn thứ hai của bài Tin Mừng hôm nay (hạt cải nhỏ mọc thành cây to) chứa đựng bài học này: có nhiều việc lớn phải bắt đầu bằng những việc nhỏ.
Có rất nhiều thí dụ: Muốn xây một tòa nhà thì phải bắt đầu bằng từng viên gạch; muốn viết một quyển sách thì phải bắt đầu bằng từng trang, thậm chí từng chữ; muốn làm một chuyến viễn du thì phải bắt đầu bằng từng bước; muốn xây dựng một tình bạn thì phải bắt đầu bằng những lần gặp gỡ đổi trao v.v.
Sự bắt đầu rất là quan trọng. Nếu bạn muốn con bạn lớn lên thành người tốt thì bạn phải bắt đầu chăm sóc dạy dỗ nó ngay từ nhỏ. Mà khi bắt đầu thì phải chú ý đến những điều rất nhỏ. Một tính tốt dần dần thành hình từ những thói quen tốt nho nhỏ. Một tính xấu cũng thành hình từ những thói quen xấu được lặp đi lặp lại.
* 5. Câu chuyện minh họa:
a/ Hạt giống:
Bà và cháu gái đang phân loại hạt giống chuẩn bị cho vụ mùa tới. Cô bé nhận xét khi kiểm tra những hạt trong tay: "Những mong đợi nhỏ bé và mỏng manh phải không bà? Có phải mỗi hạt là một niềm hy vọng không?"
- Phải, mỗi hạt là một niềm hy vọng. Nhưng vì là hy vọng, cần có những điều kiện để đi tới thành đạt.
Chúa cho chúng ta niềm hy vọng được an bình mỗi khi gặp đau khổ; được sức mạnh khi gặp thử thách; được ánh sáng cho những ngày tối tăm. Nhưng chúng ta phải có niềm tin và can đảm tiến về phía trước.
Hạt giống nhỏ bé phải chịu chôn vùi trong đất và phơi mình dưới mưa nắng, thì khả năng tốt đẹp của nó mới thành hiện thực.
b/ Chìa khóa vào thiên đường
Một thầy dòng là thợ may cho cộng đoàn. Ngày kia, ông đau nặng và chờ chết. Ông nói với anh em: "Đưa cho tôi chìa khóa vào thiên đường!"
Anh em nhìn nhau bối rối. Họ không biết ông muốn nói gì. Nhưng ông chỉ lập lại lời đề nghị: "Đưa cho tôi chìa khóa vào thiên đường". Cuối cùng, họ đưa cho ông chiếc kim may. Một nụ cười mãn nguyện làm gương mặt thầy già sáng lên khi liếc nhìn chiếc kim trong tay và nói: "Tôi làm việc mỗi ngày với chiếc kim này vì vinh quang Chúa. Bây giờ nó là chìa khóa mở cửa cho tôi vào thiên đường".
* 6. Hạt giống cây tre tàu.
Nhà tâm lý học Weldon cho rằng hạt giống kỳ lạ nhất thế giới là hạt giống của cây tre Trung Quốc. Hạt giống này nằm yên dưới lòng đất đến 5 năm, rồi mới nhú chồi non lên mặt đất. Suốt thời gian 5 năm này, người ta phải vất vả chăm sóc nó, nào là tưới nước nào là bón phân, mà không hề nhìn thấy hệ thống rễ phức tạp đang bố trí trong lòng đất.
Cuối cùng, một sự sống đã vươn lên đầy kinh ngạc: Chỉ trong 6 tuần đầu, cây tre đã mọc cao lên gần 3 mét.
***
Hạt giống Nước Trời cũng tương tự như hạt giống cây tre Trung Quốc. Cần một thời gian dài "vùi sâu dưới lòng đất", điều này đòi hỏi chúng ta phải kiên nhẫn chờ đợi. Khi hạt giống nẩy mầm lớn lên thành cây, nó phải đương đầu với tính khí thất thường của thời tiết, phải đối phó với cơn giận dữ của giông tố. Đây là lúc phải sống niềm tin: tin rằng Thiên Chúa sẽ đưa Nước Người đến thời viên mãn, bất chấp những cản trở của con người. Vì thế, chúng ta không ngừng gieo vãi Lời Chúa, cho dù không thấy hạt giống đang âm thầm phát triển.
Hạt giống Nước Trời cũng không khác chi hạt giống cây tre Trung Quốc. "Hạt bé nhất" lại cho cây lớn nhất. Nước Trời khởi đầu là Đức Giêsu và một nhóm nhỏ môn đệ dân chài. Sau hai mươi thế kỷ, Kitô giáo đã lan tràn khắp nơi, đến với mọi dân tộc.
Có thể nói Đức Giêsu đã gieo hạt giống Hội thánh vào giữa lòng thế giới. Sau đó Người biến mất khỏi dòng lịch sử, để hạt giống Hội thánh "âm thầm lớn lên" với bao gian nan thử và thử thách, yếu đuối và bất lực. Dường như Người dửng dưng trước bao khó khăn của Hội thánh. Dường như Người không biết đến bao tội ác đang lan tràn thế giới. Dường như Người không quan tâm đến nỗ lực sống thánh của dân Người.
Nhưng với niềm tin yêu phó thác, chúng ta xác tín rằng: bên kia dòng thời gian, nơi cuộc sống vĩnh hằng, Thiên Chúa đang chờ đợi, nhìn xem và điều khiển cho hạt giống Nước Trời lớn lên và tăng trưởng sung mãn vào một mùa bội thu trong Ngày Cánh Chung sẽ tới.
Có thể nói Đức Giêsu cũng đã gieo hạt giống Đức tin vào tâm hồn chúng ta qua Bí tích Rửa tội. Người cũng đang chờ đợi hạt giống ấy mọc lên và tăng trưởng: qua những lời cầu nguyện âm thầm, qua việc siêng năng lãnh nhận các Bí tích, và qua đời sống chứng nhân của mỗi người. Đây là việc đòi hỏi sự kiên nhẫn lâu dài và lòng trung tín suốt đời. Đức Giêsu nói: "Kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát" (Mt.10,22).
Wendell Holmes cho chúng ta một bí quyết: "Để vào Nước Trời, chúng ta luôn phải chèo lái con thuyền của mình, đôi khi thuận buồm xuôi gió, nhưng cũng có lúc phải lội ngược dòng. Điều quan trọng là phải luôn chèo chống, đừng neo thuyền lại".
Thánh Phaolô dạy: "Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện" (Rm.12,12). Ngài cũng đã nêu gương bền chí: "Tôi đã chiến đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin" (2Tm.4,7).
***
Lạy Chúa, Chúa đã đến trần gian như hạt giống chôn vùi dưới lòng đất nhưng Chúa đã sống lại vinh quang. Xin cho chúng con biết âm thầm chết đi cho tội lỗi, để được lớn lên trong nguồn ơn Thánh Chúa. Amen (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Đức Giêsu đã phán: "Khi nào có hai ba người họp nhau cầu nguyện thì có Ta ngự giữa". Giờ đây chúng ta hãy hợp một ý một lòng dâng lên Thiên Chúa những lời cầu nguyện của chúng ta:
1. Hội Thánh chính là Nước Thiên Chúa hữu hình ở trần gian. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho Hội Thánh ngày càng vững mạnh và phát triển.
2. Thế giới ngày nay đang chạy theo những giá trị vật chất và xa dần những giá trị đạo đức. Chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp phát huy những giá trị Tin Mừng để hoán cải thế giới này.
3. Chúng ta hãy cầu xin Chúa hỗ trợ đặc biệt những người đang âm thầm gieo những hạt giống Tin Mừng trong môi trường sống của họ.
4. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta tích cực và kiên trì xây dựng Nước Thiên Chúa ở trần gian.
CT: Lạy Chúa, ngày xưa Chúa đã dùng dụ ngôn hạt giống âm thầm mọc để dạy các môn đệ Chúa hãy kiên trì và lạc quan xây dựng Nước Thiên Chúa. Sứ mạng ấy ngày nay được trao lại cho chúng con. Xin Chúa giúp chúng con chu toàn sứ mạng Chúa trao. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh lễ
Trước kinh Lạy Cha: Trong Kinh Lạy Cha sau đây, chúng ta hãy đặc biệt cầu nguyện cho Nước Cha được trị đến.
VII. Giải tán
Thánh lễ đã xong. Ước gì mỗi người anh chị em trở thành một hạt giống Nước Chúa giữa cuộc đời. Chúc anh chị em bình an.
38. Tin tưởng và phó thác – Lm Paul Nguyễn Nguyên
Ai trong chúng ta cũng biết rằng: bất cứ một hạt giống nào, dù nhỏ bé đến đâu cũng đều mang trong mình một sức sống mãnh liệt, bằng chứng khi nó được gieo xuống đất nếu gặp điều kiện thuận tiện để nảy mầm thì nó sẽ phát triển cách rất mạnh mẽ, bất chấp mọi cản trở. Hôm nay, mượn hình ảnh từ thiên nhiên đó, Chúa Giêsu muốn nói tới sự phát triển của Nước Trời. Ngài không nói Nước Trời giống như một đất nước đông đảo hay như một đạo quân hùng mạnh, nhưng nói “Nước Trời giống như người kia gieo hạt xuống đất”, rồi âm thầm chờ đợi theo dòng thời gian, Nước Trời sẽ tự nhiên lớn mạnh, như hạt cải ban đầu nhỏ tí dần dần cũng mọc thành cây cao. Sở dĩ Chúa Giêsu lạc quan như vậy, vì Nước Trời là việc thuộc quyền năng và tình thương của Thiên Chúa. Không một sức mạnh hay gian khó nào có thể cản trở dự định của Thiên Chúa, không một yếu hèn sai lỗi nào của con người có thể là lực cản không cho Nước Trời hiển trị. Thiên Chúa sẽ thắng tội lỗi, thậm chí chính từ tội lỗi con người, Thiên Chúa có thể kéo ra sự lành, để ngay giữa dòng tội lỗi Nước Trời tiếp tục lớn mạnh.
Lịch sử giáo hội đã chứng minh cho chúng ta thấy rõ điều đó: Nước trời khi khởi sự thật là khiêm tốn, chỉ là một Thầy Giêsu thuộc làng quê Nazaret và mười hai đệ tử, những con người hầu như xuất thân từ tầng lớp nghèo, thất học, thấp cổ bé miệng. Thế mà, trải qua năm tháng nó lại phát triển thành một “cây Giáo Hội” to lớn, đã có mặt ở mọi nơi trên mặt đất này, và vô cùng mạnh mẽ với qui mô lớn. Có hệ thống chặt chẽ, có phẩm trật trên dưới vững mạnh, đến nỗi không gì có thể ngăn chặn được ngay cả quyền lực hỏa ngục cũng không thể nào làm chuyển lay. Như vậy, trong nước Thiên Chúa điều quan trọng không phải là những việc làm đấy khó khăn vất vả, nhưng là sức mạnh của lòng tin và sức mạnh của tâm tình phó thác, và đó là điều kiện cho sự lớn lên.
Vì thế, tin mừng hôm nay làm cho chúng ta thêm can đảm sống một cách đầy tin tưởng hơn. Chúng ta không phải một mình làm hết mọi việc với sức riêng, không cần phải vất vả và lo lắng đến thành qủa, nhưng, như người gieo giống, chúng ta có thể thoải mái vô tư chờ sự lớn lên của hạt giống. Tuy nhiên, nói như thế, không có nghĩa là chúng ta không làm gì cả, vì “đêm hay ngày, người ấy ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết”? Không phải như thế! Vì công việc gieo vải, vun trồng và tưới nước là phải của con người, còn việc làm cho hạt mầm mọc lên và đâm hoa kết trái là công việc của Thiên Chúa. Vì yếu tố quan trọng căn bản không phải là đòi hỏi những kế hoạch hay chương trình sống to lớn, nhưng là sự bền bỉ và kiên nhẫn thực hiện từng bước nhỏ, là hoàn tất những hành động bé nhỏ tầm thường trong cuộc sống. Nước Thiên Chúa sẽ được bắt đầu khi ở đâu có người biết mỉm cười an ủi người khác, biết nâng đỡ người đang gặp khó khăn. Nước Thiên Chúa được bắt đầu khi ở đâu có những bàn tay giơ ra và nắm chặt với nhau để làm hoà, khi ở đâu con người biết xích lại gần nhau với tất cả tâm hồn đầy thiện chí, khi ở đâu mọi người biết ngồi lại để cùng nhau bàn bạc và cùng nhau tìm cách giải quyết các vấn đề còn vướng mắc trong tâm tình đầy cảm thông và hiểu biết.
Vậy ước gì mỗi người trong chúng ta hôm nay ý thức được rằng: chúng ta không cần làm những việc to tát vĩ đại, mà chỉ cần làm cho tốt những việc nhỏ bé hằng ngày của mình, không cần ồn ào phô trương hay quảng cáo cho niềm tin. Chỉ cần sống một cách âm thầm nhưng kiên trì những giá trị Tin Mừng mà mình đã nhập tâm. Rồi Thiên Chúa sẽ có cách làm cho những hạt giống bé nhỏ đời ta sẽ trổ sinh nhiều bông hạt. sinh ích cho tha nhân và cứu rỗi các linh hồn.
Nguyện xin Chúa củng cố chúng ta trong niềm xác tín đó. Xin cho chúng ta biết gieo vào lòng đời những hạt giống yêu thương, phục vụ bằng chính con người và cuộc sống chúng ta. Amen.
39. Nguồn sống – Lm Giuse Trần Việt Hùng.
Tiên tri Ezêkiel xuất hiện thực hành sứ vụ khoảng giữa năm 592-571 trước Công Nguyên. Tiên tri mang lại cho dân một niềm hy vọng rằng Thiên Chúa sẽ không quên dân tộc mà Ngài đã chọn. Chúa không bỏ mặc dân trong lưu đầy khổ nạn. Chúa sẽ cứu họ và sẽ đưa họ trở về quê hương xứ sở. Hình ảnh cây hương nam được trồng nơi đỉnh núi Israel sẽ đâm chồi nẩy lộc là dấu chỉ sự phát triển thịnh vượng của dân tộc. Thiên Chúa đã làm cho cây khô trở nên xanh tươi. Cho dù Dân có phạm tội và ngoảnh mặt làm ngơ chạy theo bụt thần, Thiên Chúa luôn ngóng đợi và tạo mọi cơ hội cho dân trở về.
Giữa thời kỳ lưu đầy xa xứ, dân của Chúa đã phải đối diện với nhiều khó khăn nơi đất khách quê người. Họ bị tước mất quyền lợi và chịu đầu phục những kẻ ngoại bang thờ ngẫu tượng. Tấm lòng dần dà bị xa rời khỏi những luật lệ và giới răn. Họ đã chạy theo những cách sống của dân ngoại mà dần quên lãng những kỳ công Chúa đã thực hiện với cha ông họ. Dân còn bị lang thang phiêu bạt không đích hướng. Họ bị rơi vào sự chán chường thất vọng và không còn biết bám víu vào đâu. Tiên tri xuất hiện đã mang lại cho họ tin vui hy vọng. Họ có một Thiên Chúa để tôn thờ, một dân tộc được yêu thương chọn lựa và một quê hương để trở về xây dựng lại.
Bài phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn để giảng về Nước Thiên Chúa. Những hình ảnh áp dụng rất cụ thể và dễ hiểu. Nước Thiên Chúa giống như người ta gieo hạt xuống đất, từ từ hạt nẩy mầm, phát triển và sinh bông hạt. Thiên Chúa đã quan phòng cho tất cả các giống hạt, khi môi trường có đủ điều kiện thì hạt nẩy mầm cho dù người gieo hạt ngủ hay thức và có mặt hay không có mặt: Đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết (Mc 4, 27).Trong khi hạt giống lời Chúa được gieo vào lòng người thì không phải tự nhiên sẽ mọc lên tươi tốt được, mà cần được ý thức chấp nhận, chăm dẵm và áp dụng vào đời sống.
Kinh nghiệm cho chúng ta thấy, khi chúng ta lấy nước tưới lên khoảnh đất chai lì và khô cứng, nước sẽ chảy thoáng qua và bốc hơi ráo khô nhanh chóng. Mưa to nước thoáng chảy tuôn trào mặt đất, chỉ có mưa dầm chầm chậm thấm đất nguồn. Đất cần cầy xới và để khô ải, nguồn nước sẽ thấm mềm đất. Hạt giống gieo mới có cơ hội đâm chồi nẩy lộc và bám rễ sâu. Lòng con người cũng cần được khơi dậy và xới lở để đón nhận hạt giống lời Chúa. Những lời giảng dậy, những phê bình góp ý, những bài suy niệm và những lời mời gọi sám hối, đôi khi nó xoáy vào tâm làm chúng ta cảm thấy khó chịu và chướng tai. Chúng ta cần những có những giây phút thinh lặng, tâm tư phản hồi, xét mình, gẫm suy và muốn đổi mới. Muốn nên hoàn thiện, chúng ta cần những quyết tâm để thực hiện điều tốt và tránh điều xấu.
Tâm địa con người tốt hay xấu giống như mảnh đất có cả cây tốt lẫn cỏ dại. Cây tốt là các nhân đức, việc lành và việc thiện. Cỏ dại là những thói hư tật xấu. Tật xấu thì nhiều vô kể. Cây tốt hay cỏ dại, việc lành hay việc xấu, nếu không được vun tưới sẽ khó bề phát triển. Những thói xấu như ích kỷ, tham lam, lừa đảo gian dối, trộm cắp, hận thù, ghen ghét… nếu không được vun xới và nuơng chiều thì những thói hư cũng không thể lớn mạnh. Chính chúng ta đã tạo nhiều cơ hội giúp những thói xấu tiêu cực phát triển trong tâm hồn. Như khi nói xấu, nói hành, nói gian cho người khác, chúng ta muốn nói cho hả giận và nói cho đã miệng, đó chính là lúc chúng ta đang thêm phân đạm và mở lòng cho cỏ dại được tự do phát triển trong tâm hồn của chúng ta.
Cỏ dại mọc lên rất tự nhiên và rất mạnh mẽ. Người nông dân thường nói: Cỏ dại là con đẻ, còn lúa là con nuôi. Khi mảnh ruộng được bón phân chăm sóc thì cỏ dại phát triển lấn át cả lúa. Cho nên nhà nông cần phải diệt cỏ dại trước. Cây tốt như các nhân đức phải chăm sóc cách đặc biệt, vì nó rất mỏng dòn và dễ đốn ngã. Nhân đức khó có thể bon chen đối đầu với những thói xấu vây quanh. Sống trong môi trường xã hội xô bồ không định hướng, thường thì chúng ta bị nhiễm những thói đời hơn là tìm học những nhân đức. Thực ra, ai cũng muốn nên tốt, nên đẹp, nên giầu có và thành công. Cách thế nên tốt lành đòi hỏi chúng ta phải kiên trì và gắng công không ngừng. Chúng ta hết sức cẩn thận nuôi dưỡng và trau dồi các nhân đức trong cuộc sống hằng ngày.
Hạt giống lời Chúa gieo xuống mảnh đất tâm hồn cần được thấm nhuần, bén rễ và nẩy mầm sinh hạt. Không có lời nào trở thành vô ích hay cùi cụt. Lời Chúa là lời hằng sống có sinh lực biến đổi. Có sức biến đổi tâm hồn trở nên tốt hơn, bén nhậy hơn và thánh thiện hơn. Không phải ngày một ngày hai mà chúng ta có thể cải đổi hoàn toàn cuộc sống. Chúng ta cần có sự quyết tâm và nỗ lực không ngừng. Thử nhìn một cầu thủ chơi banh, họ phải qua những thời gian tập luyện cực khổ để có những thành tích. Những người chạy Marathon đã phải kiên trì tập luyện ngày này qua tháng khác mới đạt kết qủa tốt.
Muốn lấy được bằng cấp nơi học đường cũng phải miệt mài đèn sách. Muốn có được bằng cử nhân, cao học hay tiến sĩ, cũng phải cố gắng trong suốt 15 tới 20 năm trường. Muốn trở thành một giáo sư, mục sư, nhà giảng thuyết, linh mục hay nhà hùng biện cũng phải học hỏi cả 20 năm nơi ghế nhà trường. Để trở thành một Kitô hữu ngoan đạo và hiểu biết cần có thời gian khả dĩ dài đủ. Muốn trở thành một vĩ nhân hay một vị thánh, chúng ta còn phải đầu tư cả cuộc đời để sinh hoa trái cho đồng loại. Cuộc sống không đơn giản và dễ dàng như chúng ta ngồi suy nghĩ và tưởng tượng. Phải dấn thân và hòa nhập trong cuộc sống. Không ai nên thánh một mình.
Thánh Phaolô tông đồ viết thơ gởi cho tín hữu Corintô: Vì tất cả chúng ta đều phải được đưa ra ánh sáng, trước toà Đức Kitô, để mỗi người lãnh nhận những gì tương xứng với các việc tốt hay xấu đã làm, khi còn ở trong thân xác (2 Cor 5, 10). Ngày phán xét sau cùng, mỗi người đều phải đứng trên đôi chân của mình, không còn thể dựa dẫm vào thành tích của ai cả. Phần thưởng sẽ dành cho những việc tốt mà chúng ta đã thực hành trong cuộc sống. Thành qủa hoa trái của các nhân đức sẽ trổ bông. Thiên Chúa nhân từ đầy lòng thương xót, nhưng Ngài cũng công bằng vô cùng. Ngài không xét đoán thiên tư tây vị ai cả. Mỗi người chúng ta cố gắng chu toàn bổn phận trong ơn gọi của mình để làm cho danh Chúa được cả sáng.
Chúng ta biết rằng khi thời gian đã qua đi, sẽ không bao giờ trở lại. Những lời đã nói, chẳng bao giờ rút lại được cũng giống như chén nước đã đổ, chúng ta sẽ không hốt lại nguyên vẹn. Nếu để vuột mất cơ hội trong cuộc sống, dịp may sẽ trôi qua và không tìm lại được. Chúng ta hãy dùng mọi thời gian Chúa ban để sống tốt, sống vui và sống thánh. Sống từng giây phút trong ân tình của Chúa và từ bi với mọi người. Chúng ta sẽ vui hưởng những hoa trái dịu ngọt của cuộc sống. Chúng ta sẽ hạnh phúc cả đời này lẫn đời sau.
Lạy Chúa, xin Chúa đốt lửa kính mến trong lòng chúng con để đón nhận lời Chúa. Xin cho hạt giống lời Chúa sinh xôi nẩy nở và phát sinh nhiều hoa trái tốt lành, yêu thương và thánh thiện. Để mọi người nhận ra chúng con là môn đệ của Chúa.
40. Hạt giống Lời Chúa - Lm Giuse Trần Việt Hùng
Hạt giống được gieo xuống đất từ từ phát triển mỗi ngày. Đất tự nó làm trổ sinh hoa trái. Cho dù con người không cần vun xới hay chăm sóc. Chúa Giêsu nói với dân chúng về Nước Thiên Chúa cũng giống như người kia gieo hạt giống xuống đất, dù người đó ngủ hay thức, đêm hay ngày, hạt giống cứ nẩy mầm và mọc lên.
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn để diễn tả về nước trời. Hạt giống lời Chúa cứ tiếp tục được gieo vãi trong lòng người từ thời này qua thời kia. Hạt giống âm thầm nẩy nở và phát triển. Chúng ta quan sát sự phát triển của Giáo Hội qua các thời đại. Từ một nhóm nhỏ các tông đồ mà Chúa Giêsu đã kêu gọi và trao ban sứ mệnh. Hạt giống đầu tiên đã gieo vào lòng các ngài và hạt giống được nhân lên qua các thế hệ.
Đã có biết bao nhiêu người được lắng nghe lời Chúa qua sách vở, truyền thanh, truyền hình, điện thư, sự giảng dạy và đời sống chứng nhân. Đây là một sự cố gắng liên tục của Giáo Hội qua mọi thời đại. Lời Chúa được lắng nghe, suy niệm và sinh hoa trái trong đời sống. Hạt giống ngoài đồng nội cần có đủ môi trường sinh sống là hạt giống phát triển nhưng hạt giống lời Chúa cần được gieo vãi và chăm sóc.
Lạy Chúa, lời Chúa là hạt giống sống động. Lời Chúa có nguồn sinh lực nội tại phát triển không ngừng. Xin Chúa cho lời Chúa thấm nhập tâm hồn của chúng con để sinh hoa qua.
41. Chú giải của Noel Quesson.
Đức Giêsu nói: "Chuyện nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện người gieo giống trong đồng ruộng".
Đức Giêsu dùng một so sánh rất tự nhiên mà các thính giả của Người đều biết rõ. "Gieo hạt giống” đó là một cử chỉ rất quen thuộc, đến nỗi ta có nguy cơ không còn nhận ra mầu nhiệm của nó nữa. Đây là việc làm rất mạo hiểm. Hạt giống này sẽ ra thế nào?
Đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết. Đất tự nó sinh ra hoa màu: Trước hết cây lúa mọc lên, rồi trổ đòng đòng, và sau cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt.
Người ta đã gọi dụ ngôn này là "hạt giống tự mọc lên". Quả nhiên, mọi sự diễn tiến như thế. "Không ai" chăm sóc hạt giống khi rớt xuống đất, như thể người nông dân đã không quan tâm đến hạt lúa mà anh đã gieo. Đây là một dụ ngôn lạc quan nhất mà chúng ta có được. Máccô là thánh sử duy nhất đã kể lại dụ ngôn này. Chúng ta hãy để cho trí tưởng tượng hoạt động quay lại cuộn phim về sự tăng trưởng này, mà ta không nhận thấy và không hiểu được ngày nay cũng như vào thời Đức Giêsu.
Những nhà bác học của chúng ta đã tiến bộ rất nhiều trong việc mô tả và phân tách những biến động bên ngoài, nhưng chưa vị nào biết được sự sống là cái gì. Ngay khi một hạt giống rơi xuống đất, thì trong vòng bí mật, bắt đầu một sự chuyển hóa vật chất thật tuyệt vời, một loạt những sự kỳ diệu mà ta không thấy được. Dù con người có lo lắng về việc đó hay không, thì trong phần cốt yếu của nó sự sống không tùy thuộc con người. Việc trồng trọt giúp thiên nhiên, nhưng không bao giờ thay thế thiên nhiên được. Hạt giống, rồi cọng cây xanh non, bông hoa nhỏ xíu, hạt lúa, và sau cùng là vô số những hạt khác.
Lạy Chúa, Chúa muốn nói gì với chúng con qua dụ ngôn hy vọng này? Chúa gởi đến chúng con lời mời gọi nào qua những câu đó? Không ai có thể thay thế chúng ta để trả lời những câu hỏi này. Tình trạng của tôi" như thế nào, vào lúc này, hôm nay, mà Chúa đang nói với tôi? Tình trạng của Giáo Hội, của thế giới hiện nay ra sao, để chúng ta có thể áp dụng bài học hy vọng này?
Lúa vừa chín, người ta đem liềm hái ra gặt vì đã đến mùa.
Bỗng nhiên tình thế biến đổi. Bản văn Hy Lạp của Mác-cô gồm hai từ nhấn mạnh về sự đối chọi này "nhưng" và “ngay sau đó". Sau một thời gian dài không hoạt động của nơi nông dân, bây giờ là lúc gặt hái sôi nổi. Chúng ta chớ quên phần đầu của dụ ngôn này. Đó là nói về "Nước Thiên Chúa". Thái độ của người nông dân giúp chúng ta hiểu thái độ của Thiên Chúa. Một lần nữa, Tin Mừng không phải là một bài học luân lý và chúng ta không nên vội áp dụng thực tế vào cuộc sống.
Trước hết Tin Mừng là mạc khải" về Thiên Chúa, và chỉ bằng cách liên quan với chân lý đức tin được khám phá rõ hơn, mà chúng ta mới có thể có một thái độ cụ thể một cách gián tiếp. Như vậy sự mạc khải về Chúa qua dụ ngôn này là thế nào? Đức Giêsu soi sáng cho tình hình vào thời của Người, mà Thánh Gioan Tẩy giả đã nói rõ lên sự thất vọng của ông. "Người có phải là Đấng phải đến, hay chúng tôi phải đợi một Đấng khác?" (Mt 11,3). Nhưng đó cũng là một câu hỏi ngày nay, như của mọi thời đại: Tại sao người ta không thấy Nước Thiên Chúa rõ hơn? Tại sao Người lại cho ta có cảm tưởng là Người không lo lắng gì đến những việc xảy ra trên thế giới? Đức Giêsu trả lời. Thiên Chúa không làm gì khác hơn là người nông dân. Các người hãy chờ đến "mùa gặt”. Trong khi chờ đợi, nếu ta nghĩ là không có gì xảy ra, thì chúng ta đã bị ảo giác. Các bạn thấy nhưng các bạn khống thấy được tất cả. Chúng ta cũng biết, những gì chúng ta không thấy không phải là không hiện hữu, ngược lại thì có. "Điều cốt yếu thì không thể thấy được", con chồn đã nói như vậy với vị hoàng tử nhỏ bé" trong chuyện của văn sĩ St Exupéry. Một hạt lúa mì chứa đựng hàng tỷ tỷ hạt nhân, gồm một lõi và những phân tử chỉ to bằng một phần tỷ của một phần tỷ một milimét xoay quanh lõi đó với tốc độ 297.000 cây số/một giây? Bạn không thấy hết được điều đó, nhưng đấy là sự thật của hạt lúa mì.
Tất cả những gì "thần thiêng" ở trong thế giới đều nằm trong đó: Sức mạnh tiềm tàng, khó nhận biết và tích cực... chỉ có những tâm hồn đơn sơ mới tìm thấy được, đó là những người chấp nhận "tin" những gì Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta về Thiên Chúa.
Vậy đối với những người tin "hậu quả thực tế" là gì? Xin bạn hãy tự rút ra kết luận. Chúa tác động trong sự bí mật. Đó là một Thiên Chúa ẩn dật.
Bạn hãy để cho hạt giống chín mùi. Bạn chớ bao giờ nản lòng. Hãy khởi công. Hãy gieo hạt. Vũ trụ không đang đi đến cõi chết, nhưng đang tiến tới "niềm vui của mùa gặt". Hời nông dân bạn hãy giơ liềm lên!
Rồi Đức Giêsu lại nói: "Chúng ta ví Nước Thiên Chúa với cái gì đây? lấy dụ ngôn nào mà hình dung được?"
Đó là hai câu hỏi. Đơn thuần là một cách hành văn để nhắc nhở đề tài? Hay là những câu hỏi của Đức Giêsu để nhấn mạnh về sự khó khăn khi nói về Nước Thiên Chúa? Dù sao chúng ta cũng nên tìm hiểu Nước Thiên Chúa có thể như thế nào? Nước này sẽ đi đến đâu? Hình thức của nó ra sao? Nó giống cái gì?
Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống để tự nó là loại hạt nhỏ nhất trên thế gian. Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ.
Lại một hình ảnh nữa. Đức Giêsu là một "Thầy dạy khôn ngoan" một nhà sư phạm giỏi, một người kể chuyện biết tìm những câu châm ngôn kích thích tính hiếu kỳ. “Hạt cải" đã được nổi tiếng trong những câu tục ngữ vì sự nhỏ bé của nó. Đức Giêsu đã ám chỉ hạt cải này một lần khác khi Người nói: "Nếu anh em có đức tin lớn hơn một hạt cải..." (Lc 17,6). Dụ ngôn này nhấn mạnh về sự bất trung xứng giữa lúc đầu "nhỏ xíu” và khi hoàn thành rất lớn. Trong sự so sánh. này cũng như trong so sánh trước đó. Đức Giêsu đã trả lời cho thái độ bất bình của những người đồng thời cũng là cớ gây chống đối Người. Sự can thiệp của Đấng Mêsia đã được mọi người mong đợi như một biến cố hiển thắng và mau lẹ, thế nhưng "buổi chiều tối quan trọng của Thiên Chúa đã không đến. Đứng trước những đảo lộn hiển nhiên của những niềm hy vọng người Do Thái, tác vụ của Đức Giêsu xem ra thật là vô vị, nhưng Máccô trả lời cho thái độ bất bình của thời ông, vào lúc ông viết Tin Mừng, có một sự kiện không chối cãi được, đã làm mọi người suy nghĩ xôn xao: Làm sao dân Chúa chọn, dân ít-ra-en phần lớn lại không đón nhận Tin Mừng của Đức Giêsu? Có phải là sự thất bại của chương trình Thiên Chúa không? Trang Tin Mừng của Máccô trên đây phù hợp cách diệu kỳ với câu hỏi đáng sợ nhất của thời đại chúng ta: Nếu Thiên Chúa hiện hữu thì mọi việc sẽ sáng tỏ hơn... Vậy tại sao có rất nhiều người ngay thẳng và lương thiện mà lại không tin, hay cứ theo thuyết vô tri. Thiên Chúa có hiện hữu thực sự không? phải chăng đó chỉ là bóng ma, là chủ quan? Hay là ảo giác của một số người cuồng tưởng? Thiên tài, thánh thiện, toàn hảo như thế mà đã không làm cho người đồng thời trở lại được, ngay cả chính thân nhân của Người. (Như bài Tin Mừng Chúa nhật trước đã cho ta thấy). Tuy nhiên với một sự bạo dạn như điên rồ, Người đã tin rằng Người đã không mất thời giờ để gieo "hạt giống nhỏ bé" của Người, và lịch sử chứng minh Người đã có lý kể từ bây giờ, bất cứ ai đã gieo một "mầm" trong một linh hồn người nào để dấn thân phục vụ một công trình giúp đỡ anh em mình, bất cứ ai đã cố gieo Tin Mừng, có thể dựa trên lời nói của Đức Giêsu trên đây, để vượt qua mọi thất vọng và thất bại nhất thời. Cha mẹ, ông bà nào đã nghĩ mình đã thất bại trong giáo dục con cháu, quý vị hãy cầm lên một hạt cải nhỏ: Dù kết quả bề ngoài xem ra nhỏ bé, quý vị vẫn là những người được "mời gọi để hy vọng". Cuộc phiêu lưu nhỏ bé của Đức Giêsu đã được chứng thực: Cuộc phiêu lưu đó bây giờ đã "lớn lao". Cuối cùng rồi các bạn sẽ thấy!
Cành lá xum xuê đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng.
Hạt nhỏ nhất trong các hạt đã trở nên một cây nhỏ đẹp. Cây là chỗ cho "chim trời tới trú ẩn" đã là một hình ảnh cổ điển trong Thánh kinh (Đn 4,9; Ed 31,6-17,22-23; Tp 9,15). Đttc Giêsu đã hoàn toàn được xác định vị trí trong môi trường văn hóa của Người. Và nói theo lúc đó Người dám tiên đoán sự thành công cuối cùng này, chỉ là một con người u tối xứ Galilê, vùng Na-za-rét có 12 người nghèo khổ, không văn hóa, không thế lực đi theo. Lạy Đức Giêsu, con đọc lại lời hứa của Người và con áp dụng lời đó cho mọi cơn thất vọng của con. Xin Người cho chúng con niềm hy vọng và lòng tin tưởng.
Đức Giêsu dùng nhiều dụ ngôn tương tự mà rao giảng Lời Thiên Chúa cho dân chúng nghe tùy theo sức họ hiểu. Người không bao giờ rao giảng cho họ mà không dùng dụ ngôn. Nhưng khi chỉ có thầy trò với nhau, thì Người giải nghĩa hết.
Vậy Đức Giêsu đã lưu ý đến trình độ đức tin của người nghe. Đó là mầu nhiệm của tự do. Đối với những người có thiện cảm với Người. Với các bạn hữu của Người, Đức Giêsu đã giải thích bổ túc cách riêng. Đức tin là một "sự sống" một tương giao sống động". Mỗi lời cầu nguyện chuẩn bị cho lời cầu kế tiếp. Mỗi suy niệm chuẩn bị cho suy niệm tiếp theo. Mỗi bước chân đi tới Chúa sửa soạn cho bước kế tiếp. Điều còn là tối tăm khó hiểu đối với nhiều người, lại là một thực tế dần dần trở nên hiển nhiên đối với những người khác. Nếu bạn muốn biết -Thiên Chúa nhiều hơn, bạn hãy bắt đầu bước đi đầu tiên tới Chúa đi. Bạn hỡi, chỉ một bước thôi. Bạn sẽ phải thể hiện một bước đi như thế nào, để cho sự sống tiếp tục nảy nở?
42. Hai dụ ngôn về Nước Thiên Chúa
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
Qua các dụ ngôn trong bài Tin Mừng này, chúng ta hiểu rằng ngay bây giờ trong hiện tại, ta đã có thể cảm nghiệm sức mạnh cứu độ của Triều Đại Thiên Chúa.
1.- Ngữ cảnh
TM Máccô liên tục nhắc lại rằng Đức Giêsu giảng dạy, nhưng không bao giờ ghi lại nội dung cả (x. 1,21; 2,13; 6,2.6.34; 10,1). Ngoại trừ bài Diễn từ cánh chung (ch. 13), các giáo huấn được triển khai nhất của Đức Giêsu nằm trong Mc 4, có thể được gọi là "Chương các dụ ngôn (ba dụ ngôn)" (4,1-34). Chương này gồm có hai phân đoạn lớn và ba phân đoạn nhỏ:
* Mở (cc. 1-2);
1) Dụ ngôn Người gieo giống (cc. 3-9);
a- Mục đích của các dụ ngôn (cc. [10]11-12);
* Giải thích dụ ngôn Người gieo giống (cc. 13-20);
b- Hình ảnh Cái đèn và cái đấu: trách nhiệm (cc. 21-25);
2) Dụ ngôn Hạt giống tự mọc lên (cc. 26-29) và Hạt cải (cc. 30-32);
c- Kết luận về các dụ ngôn (cc. 33-34).
Đây là cách hành văn quen thuộc của Mc: ghép các phần của các bài tường thuật vào nhau để soi sáng các bài lẫn nhau.
2.- Bố cục
Bản văn này có thể chia thành ba phần:
1) Dụ ngôn Hạt giống tự mọc lên (4,26-29);
2) Dụ ngôn Hạt cải (4,30-32);
3) Kết luận về các dụ ngôn (4,33-34).
3.- Vài điểm chú giải
- Chuyện Nước Thiên Chúa cũng tựa như chuyện một người (26): dịch sát "Nước Thiên Chúa tựa như một người". Trong lối diễn tả của các kinh sư, dụ ngôn không ví Nước Thiên Chúa với một người; dụ ngôn chỉ muốn minh hoạ một sự thật liên quan đến Nước Thiên Chúa nhờ một câu truyện trong đó người ấy có một vai trò. Trong những ví dụ thuộc loại này, thường thường chính phần cuối mới cung cấp một hình ảnh trực tiếp hoặc gián tiếp gợi đến Nước Thiên Chúa. Trong bài dụ ngôn Mc, sự việc Nước Thiên Chúa đến thì tựa như những gì xảy ra vào lúc thu hoạch (c. 29).
- một người: Không nhất thiết phải đồng hoá người gieo giống với Đức Giêsu, bởi vì từ ngữ này được dùng rất tổng quát (không như bản văn Mt).
- Đêm hay ngày: Đêm đi trước ngày bởi vì ngày được coi như bắt đầu với lúc mặt trời lặn.
- Bằng cách nào thì người ấy không biết: Tiến trình theo đó hạt giống mọc lên có một quy luật bên trong nó; người gieo giống không phân tích tiến trình này, mà ông có băn khoăn về tiến trình này cũng không lợi ích gì.
- Đất tự động (HL. automatê) (28): Từ này mô tả một sự tăng trưởng tiệm tiến của hạt giống trước mùa gặt. Trong ngữ cảnh là sự so sánh với Nước Thiên Chúa, tác giả nhấn mạnh trên hoạt động ẩn giấu và tiệm tiến của Nước Thiên Chúa hầu đưa hạt giống đến chỗ tăng trưởng hoàn toàn.
- Lúa vừa chín (29): Trong giai đoạn tăng trưởng, người nông phu không phải làm gì trên cánh đồng cả; mọi sự tiến hành không cần ông. Nhưng hoàn cảnh thay đổi đột ngột với c. 29 (x. liên từ dé [= "nhưng"; "khi"] và trạng từ Hy Lạp euthys [= "tức khắc"]). Sau một thời gian không làm gì cả (những câu trước), người nông phu can thiệp không chút chậm trễ vào lúc thu hoạch. Bây giờ bản văn hoàn toàn chú ý đến người nông phu, đến sự thay đổi thình lình trong lối xử sự của ông.
- đem liềm hái ra gặt: Đây là câu trích mặc nhiên Giôen 4,13: "Các ngươi hãy tra liềm vào, vì đã tới mùa lúa chín". Vị ngôn sứ loan báo cuộc phán xét mà Thiên Chúa sắp thực hiện trong cánh đồng Giôsaphát để chống các dân tộc ngoại giáo (Ge 4,12-16). Sách Khải huyền cũng ám chỉ đến biến cố này (Kh 14,14-16).
- hạt cải (31): Tục ngữ xứ Paléttina coi đây là hạt giống nhỏ nhất. Để nói một vết máu thật nhỏ, các kinh sư nói: "Không lớn hơn một hạt cải". Điểm nhắm là một hạt giống nhỏ nhất và một cây thật to. Cách sử dụng thì (tense) hỗ trợ cho sự tương phản này: tác giả nói đến việc gieo hạt ở thì quá khứ aorist ("một khi người đã được gieo", cc. 31 và 32) và nói đến sự tăng trưởng ở thì hiện tại.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Dụ ngôn Hạt giống tự mọc lên (26-29)
Sẽ đến ngày Thiên Chúa can thiệp dứt khoát vào lịch sử nhân loại. Trước đó, có một thời gian Thiên Chúa để cho mọi sự cứ đi theo dòng của chúng, khiến ta có thể nghĩ rằng Ngài không quan tâm gì đến thế giới (x. sự ngạc nhiên của Gioan Tẩy Giả: Mt 11,2-6). Đức Giêsu loan báo rằng Nước Thiên Chúa đã gần kề. Thế mà mọi người đều biết rằng sự thiết lập Nước Thiên Chúa được khởi đầu bằng việc phán xét để tiễu trừ khỏi dân Israel tất cả những kẻ tội lỗi, không xứng đáng được tham dự vào ân huệ của Nước Thiên Chúa. Vậy, nếu Thiên Chúa đã thực sự quyết định thiết lập Vương quyền của Ngài trên mặt đất, tại sao ta chưa thấy một dấu gì cho biết là cuộc phán xét khủng khiếp ấy đã đến?
Để trả lời, Đức Giêsu dùng một dụ ngôn để ví: Hạt giống là Lời. Hạt giống mang trong mình một sức mạnh vô phương kháng cự. Một khi đã được gieo, hạt giống-Lời đi sâu vào trong các tâm trí và con tim và biến đổi những ai nghe Lời. Hoa trái không lệ thuộc người gieo giống, người rao giảng, nhưng lệ thuộc vào sức mạnh mà hạt giống có trong mình. Không ai có thể kéo một cây con để làm cho nó mọc nhanh hơn được! Dụ ngôn dạy chúng ta đặt tin tưởng nơi lời Tin Mừng. Làm cho hạt giống-Lời lớn lên: đây không phải là công việc của chúng ta. Chúng ta chỉ có một việc phải làm đó là gieo Lời trên mảnh đất được giao cho chúng ta. Rồi sẽ đến lúc thu hoạch. Đức Giêsu cho các thính giả hiểu rằng thời gian Người hoạt động ở trần gian chính là giai đoạn cuối cùng của Lịch sử cứu độ, đi sát ngay trước cuộc can thiệp chung cuôc của Thiên Chúa. Ai có bổn phận cộng tác với Người để gieo hạt giống-Lời, hãy kiên nhẫn chờ đợi. Nhưng tất cả mọi người đều đón nhận Lời, hãy làm sao để hạt giống có thể thật sự mọc lên và sinh hoa trái.
* Dụ ngôn Hạt cải (30-32)
Một cây cho chim trời trú ngụ rất thường được dùng để nói về một vị vua biết dùng quyền lực mà che chở thuộc hạ (x. Đn 4,9.18; Ed 31,5...). Nhưng một đoạn như Ed 17,22-23 thì lại nhấn mạnh trên sự phồn vinh xảy ra với Nước Thiên Chúa vào thời tận thế. Đây cũng là ý nhắm của dụ ngôn Tin Mừng: hình ảnh một cây che chở chim trời báo trước tình trạng sự việc vào lúc Thiên Chúa thiết lập Vương quyền của Ngài trên mặt đất.
Vào lúc tiến trình đưa tới việc thiết lập Nước Thiên Chúa bắt đầu diễn tiến (sứ vụ của Đức Giêsu), người ta nghĩ đây là một biến cố không đáng kể. Nhưng cũng như hạt cải nhỏ bé hứa hẹn một cây lớn, sứ mạng của Đức Giêsu đúng là chặng đầu tiên của sự can thiệp của Thiên Chúa nhằm thiết lập Triều Đại của Người. Vậy nhận biết ý nghĩa đích thực của sứ mạng của Đức Giêsu, chính là hiểu rằng thái độ phải có trước sứ mạng này là chấp nhận hoặc từ khước quyền chủ tể cánh chung của Thiên Chúa. Chính thái độ này sẽ xác định vận mệnh của mỗi người trong thế giới bên kia.
* Kết luận về các dụ ngôn (33-34)
Cả hai dụ ngôn đều nhấn mạnh tầm quan trọng quyết định của thời gian hiện tại đối với các thính giả của Đức Giêsu. Hai dụ ngôn này mời gọi nhận biết sứ mạng của Đức Giêsu chính là khởi đầu cuộc can thiệp cánh chung của Thiên Chúa. Áp dụng giáo huấn vào trong đời sống Giáo Hội, thời gian hiện tại không còn phải là thời gian của sứ vụ của Đức Giêsu, nhưng là thời gian của nếp sống và hoạt động rao giảng của Giáo Hội.
+ Kết luận
Thoạt nhìn, chúng ta thấy kết luận của diễn từ các dụ ngôn không có vấn đề. Đức Giêsu loan báo Lời Thiên Chúa cho người ta ("đám đông"; x. 4,1-2). Người diễn tả bằng các dụ ngôn theo mức độ hiểu biết của họ. Dường như đối với Đức Giêsu, các dụ ngôn là một phương tiện để giúp các thính giả hiểu Người dễ dàng hơn. Ngoài ra, Người còn cung cấp các giải thích bổ sung cho nhóm môn đệ (c. 10). Mọi sự không rõ ràng rồi hay sao?
Vấn đề chỉ xuất hiện rõ ràng khi ta lưu ý rằng tác giả Mc đã muốn kết thúc với đề tài ngài đã đưa vào ở trên (cc. 10-12). Đối với công chúng, "những kẻ ở ngoài" (c. 11), Đức Giêsu "không bao giờ rao giảng mà không dùng dụ ngôn" (c. 34); "với những người kia..., cái gì cũng phải dùng dụ ngôn" (c. 11). "Nhưng khi chỉ có riêng thầy trò với nhau" (HL. kat' idian, c. 34), "khi còn một mình" (HL. kata monas, c. 10), Đức Giêsu "giải đáp" tất cả cho các môn đệ (c. 34), nghĩa là "những kẻ đang ngồi quanh Người cùng với Nhóm Mười Hai" (c. 10), là những kẻ mà "mầu nhiệm nước Thiên Chúa đã được ban cho" (c. 11).
Vậy, các dụ ngôn là một thứ ẩn ngữ, mà chỉ các môn đệ mới có chìa khóa để hiểu được, còn đám đông, mà Đức Giêsu không muốn nói với họ bằng một ngôn ngữ rõ ràng, thì vẫn không thể nắm bắt được ý nghĩa đích thực của giáo huấn của Người: "Mầu nhiệm Nước Thiên Chúa" không được ban cho "những kẻ ở ngoài"; chính vì thế mà Đức Giêsu "không nói gì mà không dùng dụ ngôn".
Đây chính là "thuyết các dụ ngôn" trong TM Mc (J. Dupont), mà thật ra, đây cũng chỉ là một phương diện đặc biệt của "thuyết về bí mật thiên sai" của tác giả. Vào lúc tác giả soạn TM I, có một sự kiện không thể phủ nhận, nhưng thật gai chướng: dân tộc Do Thái nói chung đã không đón nhận Tin Mừng. Phải chăng kế hoạch của Thiên Chúa đã thất bại? Hay là phải nhìn nhận rằng sứ mạng của Đức Giêsu không đến từ Thiên Chúa? Tác giả Mc tìm ra được câu trả lời thần học trong bản văn Is 6,9-10 (x. Mc 4,12). Trong sứ mạng của Đức Giêsu, đã được ứng nghiệm lệnh truyền của Thiên Chúa qua miệng của vị ngôn sứ, là phải nói với dân cách nào để "họ có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy, có lắng tai nghe cũng không hiểu...".
Vậy, vị sứ giả của Thiên Chúa phải diễn tả cách nào để người ta không hiểu được: đó đã là quyết định của Thiên Chúa mà! Người đã muốn làm cho sứ mạng của vị sứ giả trở thành một phán quyết chống lại một dân mù quáng và cứng lòng. Nhưng làm thế nào nhận ra sấm ngôn ấy là chương trình hoạt động của Đức Giêsu? Tác giả Mc tìm ra được đáp số nơi việc Đức Giêsu sử dụng các dụ ngôn: Người nói bằng dụ ngôn cho đám đông hoặc cho các đối thủ, vì Người không buộc phải làm cho họ hiểu Người. Dưới mắt Mc, dụ ngôn là như một phương tiện không phải để làm cho một giáo huấn nên dễ hiểu hơn, nhưng để che đậy ý nghĩa của giáo huấn này dưới những hình ảnh. Để người ta hiểu, thì cần có một lời giải thích; nhưng lời giải thích chỉ được ban cho các môn đệ mà thôi. Tuy nhiên, tác giả đã nhận ra ngay nguy cơ là thuyết này có thể đưa tới chủ trương bí truyền (esoterism); vì thế, ở 4,21-25, ngài mới xác định rằng các môn đệ đã nhận được mạc khải là để đi phổ biến rộng rãi, để đi hô to trên mái nhà.
Chúng ta có thể nhận định rằng thuyết của Mc về các dụ ngôn là một thuyết khá giả tạo. Nhưng để đánh giá đúng đắn, cần đo lường được mức độ nghiêm trọng của vấn đề đang được hoàn cảnh cụ thể đặt ra cho tác giả và cho Hội Thánh thời ngài: đoàn dân đông đảo được Thiên Chúa tuyển chọn đã không tin vào Đức Giêsu và đã không chấp nhận sứ điệp của Người. Bản văn Is 6,9-10 cho thấy là Thiên Chúa đã thấy trước (quan phòng) tình trạng sự việc như thế.
Rõ ràng công việc soạn thảo TM Mc mang dấu ấn của các hoàn cảnh và các vấn đề thời tác giả. Ngài đã nghĩ tới việc rao giảng khi kể lại dụ ngôn trong đó Lời Chúa được hình dung như một hạt giống. Ngài cũng đang cố gắng tìm một giải thích thần học cho thất bại của sứ vụ này, bằng thuyết về giáo huấn bằng dụ ngôn. Chứng nhân của Lời Chúa không phải là người chỉ biết bằng lòng với việc lập lại máy móc Lời Chúa, nhưng là người biết tìm nơi Lời Chúa câu trả lời cho những nhu cầu của những con người thời mình.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Cả ba dụ ngôn (Người gieo giống, Hạt giống tự mọc lên, và Hạt cải) có điểm chung là không truyền đạt những giáo huấn đặc biệt, nhưng chỉ bàn về việc lấy lập trường trước lối hành động của Đức Giêsu. Dường như thực tại thấy được (sự từ chối, sự vắng mặt của Thiên Chúa, những khởi đầu không sáng sủa mấy) thì mâu thuẫn với sứ điệp và uy thế Mêsia của Người. Do đó, ba dụ ngôn đều mời gọi sống đức tin.
2. Qua các dụ ngôn, chúng ta hiểu rằng Triều Đại Thiên Chúa không những đến chắc chắn, mà bây giờ trong hiện tại, ta đã có thể cảm nghiệm sức mạnh cứu độ của Triều Đại này. Tuy nhiên, chỉ người nào biết nhìn các sự việc với con mắt đức tin mới nhận ra được sức mạnh này.
3. Như tác giả Mc, thừa tác viên Lời Chúa cần phải tìm cho ra sứ điệp được gửi đến cho dân Thiên Chúa hôm nay từ bản văn Kinh Thánh. Đó chính là sống và thi hành chức năng ngôn sứ, bởi vì ngôn sứ chính là người thay mặt Thiên Chúa mà truyền đạt cho dân Ngài biết thánh ý Ngài đối với dân trong hoàn cảnh hiện tại.
4. Khi thấy rằng tình yêu, sự kính trọng đối với các quyền của con người và sự tự do, sự tha thứ, không đưa tới những kết quả mong muốn, có những Kitô hữu đã bị cám dỗ thúc bách Triều Đại Thiên Chúa đến cho nhanh bằng cách sử dụng những phương tiện Đức Giêsu đã cấm, như vũ lực, mưu mô, gian dối... Đức Giêsu dạy chúng ta tin tưởng vào sức mạnh của Lời Tin Mừng.
43. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux.
Dụ ngôn hạt giống tự triển nở một mình (4, 26-29)
Trình thuật này đơn sơ và rõ ràng: Đây là cách hành văn riêng của Maccô. Maccô khởi đầu bằng câu: “Chúa Giêsu nói” mà chẳng cần lưu tâm đến việc Ngài nói cho ai. Người ta có thể giả thuyết lần này không phải Chúa Giêsu nói cho nhóm thân hữu của Ngài như lần vừa rồi mà là nói với toàn đám đông đi theo Ngài. Đoạn cuối chương nói về các dụ ngôn sẽ cho thấy được điều suy đoán này (4, 33).
Trước hết, rõ ràng là hình ảnh dụ ngôn này là liên quan đến Nước Thiên Chúa (c. 26a). nước Thiên Chúa được thiết lập giống hệt như một tiến trình gieo gặt trọn vẹn: từ hạt giống, hạt này sinh thành cây rồi thành bông lúa (c. 26b-28). Vậy thì thính giả phải chú ý đến điều gì ở đây? Rõ ràng là phải lưu ý đến quyền năng mầu nhiệm không gì chống lại được của Thiên Chúa. Quyền năng này có thể làm phát sinh và tăng trưởng Vương Quốc Ngài mà chẳng cần loài người tham gia đóng góp gì vào đó cả.
Chúa Giêsu thường dùng dụ ngôn để giúp cử tọa Ngài nhờ đó thoát ra được các tình cảnh khó khăn. Chắc chắn Maccô rất sung sướng khi đặt ra trước mắt các độc giả của ông sự đảm bảo là tổ chức sẽ dẫn đưa Vương Quốc Ngài đến chung cục tốt đẹp qua hành vi phù trợ liên tục, tuy âm thầm, nhưng hiệu quả. Giáo Hội Rôma được Maccô soạn thảo cho cuốn Tin Mừng này, lúc bấy giờ đang sống trong những ngày thử thách, hình như Thiên Chúa vắng mặt ở chốn trần gian này. Vì thế, thật an ủi biết bao khi biết Ngài vẫn đang hoạt động! Dụ ngôn hạt giống mọc lên một mình được hoàn tất ở câu kêu gọi mùa gặt (c. 29). Dù loài người có hành động xấu tốt thế nào đi nữa, Thiên Chúa vẫn trung thành theo đuổi ý định của Ngài đến cùng, đó là sẽ thu hoạch hạt gieo. Thật hy vọng lớn biết bao cho những ai được trông thấy mùa gặt chín!
Dụ ngôn hạt cải (4,30-32)
Chúa Giêsu vẫn tiếp tục dùng ngôn ngữ tượng hình để giảng dạy (c. 30). Đây là dụ ngôn cuối cùng trong năm dụ ngôn về Nước Thiên Chúa. Giống như các dụ ngôn trước, dụ ngôn này được rút ra từ đời sống thôn dã. Nó đưa ra một nét tương phản hấp dẫn. Hạt cải bé xíu trở thành một cây lớn oai phong (c. 31-32a). Làm sao có thể đo được khoảng cách hạt cải bé xíu và cái cây to lớn mà nó phát sinh ra? Nước Thiên Chúa cũng mang nơi mình một nghịc lý tương tự như thế đó. Chớ vội thấy bước khởi đầu bé xíu mà lầm! Rồi nó sẽ gặt hái được thành công dị tiết khác thường đập mạnh vào trí tưởng tượng. Ở đây cái khác thường đó là sự to lớn bất ngờ của cây cải (c. 32b). hình ảnh thân cây hùng vĩ, có thể làm nơi trú ngụ Ngài cho vô số chim trời, là hình ảnh thuộc về Kinh Thánh. Người ta găp thấy hình ảnh này nơi tiên tri Daniel (4,7-9), ở đây Nước Thiên Chúa đã được đảm bảo sẽ gặt hái thành công mang chiều kích vũ hoàn.
Trong ánh mắt của Maccô, dụ ngôn hạt cải chứa đựng cách diễn tả tuyệt vời nhất về bí mật Đấng Mêsia. Cho đến giờ này, hành vi của Chúa Giêsu có thể bị xét đoán là vô nghĩa và Vươn Quốc Thiên Chúa vận chỉ là một thực tế khiêm tốn. Dầu vậy, các dân ngoại đang nhìn thấy sự tăng trưởng dị thường của Vương Quốc ấy, như các Kitô hữu ở Rôma đã kinh nghiệm được điều này. Dù yếu đuối, Giáo Hội sơ khai vẫn ý thức được mình đang tham dự vào thành công của một công trình đã sẵn tiềm tàng nguồn sinh lực vô biên, công trình này sẽ đạt đến toàn vũ truyện vào cuối giai đọan phát triển của nó.
Kết luận về bài diễn từ bằng dụ ngôn (4,33-34)
Năm dụ ngôn Maccô sưu tập vừa rồi không phải là năm dụ ngôn duy nhất Chúa Giêsu dùng (c. 33a). chắc chắn Ngài đã kể ra rất nhiều câu chuyện bằng hình ảnh thuộc loại này. Maccô nhắc rõ là lối giảng dạy này hoàn toàn thích hợp với đám cử tọa bình dân. Hẳn là đám đông có khả năng nắm bắt được điều cốt lõi. Tuy nhiên Maccô nhấn mạnh là Chúa Giêsu chỉ loan báo Tin Mừng cho họ bằng hình thức dụ ngôn trong mức độ họ có thể hiểu được (c. 33b). Như thế Maccô lại trở về với điều mà ông cố gắng giải thích, liên quan đến thời đại ông (ở chương 4,11-12) đó là một số đông người Do Thái không đón nhận Tin Mừng. Mặc dù mang mục đích làm cho quảng đại quần chúng hiểu được chủ ý, các dụ ngôn vẫn là những chuyện “khó hiểu” đối với phần lớn dân Chúa chọn.
Và Maccô đã kết luận “bài diễn từ” về chương bốn này trong tinh thần trung thành với quan niệm của ông về bí mật Đấng Mêsia. Chúa Giêsu dùng dụ ngôn nói với đám đông, nhừng Ngài phải dẫn các môn đệ riêng ra để giải thích cho họ về các dụ ngôn ấy (c. 34). Đối với Maccô, như người ta biết, mầu nhiệm về Chúa Giêsu (tức thân thế và sứ vụ Ngài) vẫn không thể đến được với “người người ngoài” (4,11). Để vào được mầu nhiệm này, cần phải tin và hơn nữa, cần phải bước theo Chúa Giêsu trên con đường (rất não nề!) dẫn đến cuộc tử nạn và phục sinh của Ngài. Chỉ các biến cố này mới có thể giúp chúng ta, nhờ đức tin, đạt đến được bản tính và sứ mệnh đích thực của Đấng Mêsia.
44. Chú giải của Fiches Dominicales.
HAI DỤ NGÔN VỀ NƯỚC TRỜI.
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Hạt giống tự mọc lên.
Tiếp theo trình thuật về ai là thân nhân thực của Đức Giêsu, Máccô đã long trọng đưa vào một chương mới, phải nói là quan trọng. Lúc ấy Đức Giêsu đang ở ven Biển Hồ "Galilê". Một đám người rất đông tụ họp chung quanh Người. Nên Người phải "xuống thuyền mà ngồi dưới biển để giảng dạy đám đông đang ở trên bờ" (4,1-2).
Đây là lần đầu tiên Người giảng dạy "bằng dụ ngôn" (4,2). J. Hervieux giải thích: "Dụ ngôn là một câu chuyện rút ra từ thiên nhiên hay trong đời sống thường nhật. Nhờ hình thức rất đơn giản và tính cách lạ thường, dụ ngôn dễ làm cho người nghe chú ý và khiến họ phải suy nghĩ đến điều mà dụ ngôn có ý nhắm tới thông qua những hình ảnh" ("L'evangile de Marc", Centurion, trang 65).
Bỏ qua các dụ ngôn người gieo giống (1-9, 13-20) dụ ngôn cái đèn (21-23) cái đấu (24-25), là những dụ ngôn ta đã suy niệm trong năm A- Matthêu, bài đọc năm B này chỉ giữ lại hai dụ ngôn cuối cùng: dụ ngôn hạt giống tự mọc lên và dụ ngôn hạt cải.
Mở đầu Tin Mừng Chúa nhật XI thường niên này là dụ ngôn Hạt giống tự mọc lên.
+ Tiên vàn trình thuật vắn tắt gợi lại thời gieo vãi: chuyện nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện một người-vãi hạt giống xuống đất”.
+ Rồi kết thúc cũng một cách vắn gọn, nói về "thời gặt lúa”. "Lúc vừa chín, người ta đem liềm hái ra gặt". Kiểu nói sau này là mượn lời của ngôn sứ Joel 4,1 3 loan báo ngày phán xét của Chúa tương tự như mùa gặt: "Ta sẽ ngự tòa phán xét muôn dân - Hãy đem liềm hái ra, vì đã đến mùa gặt rồi".
+ Khoảng giữa hai thời kỳ là việc nảy mầm và phát triển của hạt giống diễn ra trong âm thầm và chậm chạp, được tác giả Tin Mừng gợi ra bằng những giai đoạn lần lượt nối tiếp nhau: “cây lúa”, “ trổ đòng" rồi "bông lúa nặng trĩu hạt”.
Đối lại với sự hoạt động của hai thời kỳ gieo và gặt, là tính vô lo rõ ràng của người gieo trong giai đoạn trung gian này. Thật vậy bác nhà nông của chúng ta đã trở lại nhịp sống thường ngày. Bác lo toan những công việc khác mà chẳng phải bận tâm đến đồng ruộng nữa. Vậy mà đang lúc ấy, "đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức”, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, "bằng cách nào” thì người ấy không biết.
Một dụ ngôn trả lời cho tâm trạng thiếu kiên nhẫn hoặc thất vọng của đám thính giả vốn dựa vào lời giáo huấn của Gioan Tẩy Giả nên đang trông đợi ngày Chúa phán xét và trừng trị những quân gian ác, cùng với sự xuất hiện của Nước Chúa. Về phần Đức Giêsu, Người muốn cho họ hiểu rằng Người sẽ thi hành quyền xét xử đó vào ngày tận thế, tức là vào thời kỳ gặt lúa. Còn sứ vụ hiện nay của Người là thời gian để hạt giống nẩy mầm và lớn lên; đó là thời trung gian cần thiết để Lời được gieo vãi vào lòng đất, hoạt động không ngừng trong lòng mọi người hầu chuẩn bị cho Ngày Thu Hoạch.
Khi lấy lại những lời này của Đức Giêsu để gởi đến cho các độc giả của mình, Máccô muốn đoan chắc với họ rằng dù họ đang phải sống những giờ phút gian nan thử thách thế mà Thiên Chúa lại có vẻ như vắng bóng, nhưng kỳ thực Người vẫn đang lèo lái công trình của Người bằng một hoạt động là lặng lẽ và âm thầm, nhưng miệt mài và có kết quả.
2. Hạt nhỏ nhất lại trở thành cây lớn
Dụ ngôn thứ năm và cũng là dụ ngôn cuối cùng của chương 4 Tin Mừng Máccô, cho thấy vẻ tương phản rõ rệt giữa một bên là sự nhỏ bé, vô nghĩa lúc ban đầu, và bên kia là kết quả cuối cùng lại phong phú không ngờ, thật chẳ người tương xứng chút nào! "Hạt cải... là loại hạt nhỏ nhặt trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ".
Ngỏ lời với đám thính giả đang đánh giá sứ vụ của mình theo những tiêu chuẩn phàm trần, và với những ai đang thất vọng khi thấy vẻ khiêm tốn lúc ban đầu của mình, Đức Giêsu báo trước cho họ biết rằng, dù thế nào, họ cũng vẫn là những người được chứng kiến công cuộc khai trương Nước Thiên Chúa. Nơi bản thân Đức Giêsu, dù bằng cách kín đáo thế nào chăng nữa, thì Nước Thiên Chúa cũng đã xuất hiện rồi. Một ngày nào đó, nhân loại sẽ phải ngỡ ngàng chứng kiến sức mạnh vô địch và vẻ phong phú lạ lùng của Nước ấy. Cái gì mắt người được nhìn thấy hiện nay không cho ai đoán trước được nó sẽ như thế nào ở giai đoạn chót của mức phát triển.
Tường thuật lại cho các độc giả của mình những lời này của Đức Giêsu, Máccô muốn trấn an họ rằng hoạt động của Đức Giêsu khi còn tại thế dù khiêm tốn, nhỏ bé, và cộng đoàn các môn đệ của Người là Giáo Hội, dù có yếu đuối thế nào, thì tất cả đều đang tham gia vào thành tựu vẻ vang của một công trình tràn đầy sức sống mà khi tới giai đoạn chót của mức phát triển, phải đạt được chiều kịch toàn cầu (J. Hervieux).
BÀI ĐỌC THÊM
1. “Chính Thiên Chúa mới là tác giả của Nước Trời”
Đức Giêsu kể tiếp một dụ ngôn khác liên kết với dụ ngôn nói về sự phát triển từ những cái nhỏ bé. Dụ ngôn này đem lại rất nhiều sức nâng đỡ, ủi an, nếu ta biết sống đúng chân lý của dụ ngôn ấy. Thật vậy, nhiều khi vì lòng nhiệt thành mà ta lại phải chuốc lấy lo âu phiền muộn. Khi ta mệt mỏi phần nào vì trông cho Nước Chúa trị đến, nên có lẽ vì sự mệt mỏi đó, mà ta đòi hỏi phải có ngay và thấy được sự thành tựu. Đó cũng là điều tự nhiên thời. Thế nhưng thái độ đó thật nguy hiểm. Vì rốt cuộc nó sẽ làm cho ta ngờ rằng chính ta là những tác giả, là những người thợ kiến tạo Nước Trời. Mà thực ra chỉ mình Thiên Chúa và chính Thiên Chúa mới là tác giả của Nước ấy. Về phần ta, chỉ phải coi mình là những dụng cự bé mọn mà tay Chúa dùng. Hãy nhìn hạt giống đã gieo vãi xuống đất. Đêm hay ngày, người gieo có ngủ hay thức, lo âu hay thanh thản, thì hạt giống vẫn nảy mầm và mọc lên. Không ai có thể thúc bách cho hạt giống mọc vội, mọc nhanh. Bởi lẽ chính Chúa mới là Kẻ Kiến Tạo Nước Trời.
Trong những thời kỳ khủng hoảng chúng ta đang trải qua trong Giáo Hội, thiết tưởng ta nên coi trọng dụ ngôn này. Những xao xuyến, bồn chồn, cuồng nhiệt của ta sẽ chẳng thêm gì hơn cho Nước Chúa. Nước Chúa chỉ cần ta góp phần vào một việc là người gieo hãy làm công việc của mình cách trung thực. Đành rằng công việc gieo vãi này, ta phải chu toàn. Nhưng hãy ở đúng vị trí của mình, chứ đừng bao giờ lấn sang chỗ không phải là của ta. Hạt giống mọc lên không tùy thuộc ở ta mà hoàn toàn tùy thuộc ở Chúa. Nếu tình hình hiện nay của Giáo Hội cho phép ta hiểu biết khá hơn chân lý này, thiết tưởng cũng là điều hữu ích vậy.
2. “Chỉ trong vài dòng mà đã nói lên tất cả hành trình cuộc đời của Đức Giêsu và tất cả bước đường phiêu lưu của Nước Trời.
Quả thực, chuyện Nước Thiên Chúa cũng giống như chuyện của hạt giống vậy. Được gieo vãi vào lòng đất, hạt giống sẽ nẩy mầm, mọc lên và phát triển, không cần đến bày tay can thiệp của người gieo, không cần biết hạt giống mọc lên như thế nào. Nước ấy sẽ tỏ hiện vào mùa gặt, nghĩa là vào ngày “chung thẩm". Trong ngôn ngữ Kinh Thánh, liềm hái và mùa gặt gợi ra hình ảnh ngày tận thế"? Từ khi gieo vãi cho đến mùa gặt là thời gian đất hoạt động âm thầm: mầu nhiệm sự chết và sự sống. Khi kể dụ ngôn này, Đức Giêsu có vẻ đặc biệt nhấn mạnh đến giai đoạn phát triển của phạt giống. Trọn hành trình cuộc đời của Đức Giêsu được nói lên ở đây, vắn gọn trong một vài dòng - Và đó cũng là tất cả bước đường phiêu lưu của Nước Trời. Lời Chúa đã mang mầm mống nhân loại: "và Ngôi Lời đã trở nên người phàm”. Giờ đây Người động ở trong cánh đồng nhân loại để gieo vãi. Rồi sẽ tới ngày là mùa gặt. Hiện giờ là phải sống tin tưởng và hy vọng vì là lúc hạt giống đang nẩy mầm và lớn lên.
Dụ ngôn thứ hai, dụ ngôn hạt cải nhấn mạnh đến tính cách nhỏ bé của hạt và tầm vóc lớn lao của cây. Thật lạ lùng! Hãy nhìn coi, vật nhỏ bé nhất của trần gian, mà phát triển như vậy đón Nước trời ở khắp mọi nơi. Ở đâu người ta đón nhận Lời Chúa, ở đó lời chúa trở nên hữu hình. Hạt giống của Lời nẩy mầm và lớn lên trong âm thầm của những cõi lòng, trong huyền nhiệm của những cuộc đời vậy.
45. Hạt cải, men bánh - Lm. Giuse Hoàng Kim Toan
Hạt cải, men bánh là biểu trưng con số nhỏ, hoặc hình ảnh con số còn lại.
Con số nhỏ bé nhưng quan trọng, bằng cách thuật chuyện, dụ ngôn diễn tả: như hạt cải gieo vào đất vườn, hạt ấy nhỏ bé, nảy mầm, thành cây, lớn lên, đến nỗi chim trời có thể đến làm tổ. Tiến trình lớn lên trong một hạt nhỏ bé, một mầu nhiệm của sự sống diễn ra trong từng ngày. Nhỏ bé mang tầm vóc vũ trụ, những người theo Đạo giáo [Tôn giáo cổ phát sinh từ tín ngưỡng dân gian thờ các vị thần tiên bất tử, nên còn gọi là Đạo Tiên. Hình thành trở thành tôn giáo chính thức vào thời Đông Hán (thếkỷ I - II sau Công Nguyên), tôn Lão Tử làm thuỷ tổ, nên còn gọi là Đạo Lão, lấy Đạo Đức Kinh làm kinh điển. Sau này có nhiều nhánh phát triển: Thần tiên, luyện đan, phong thuỷ, bói toán.], xem hạt cải là hạt mang dấu chỉ trường sinh bất tử, vì hạt này rất nhiều trong một quả. Hạt bất tử nằm nhỏ bé trong đời sống con người như hạt ước mơ trường sinh mà con người hằng đi tìm kiếm.
Hạt bé nhỏ này Đức Giêsu gọi là Nước Trời. Nước Trời có trong tâm hồn của mỗi con người mang tính nhỏ bé, có thể sánh ví như hạt giống được người đi gieo hạt, gieo vào cuộc sống, hạt có thể bị chim trời ăn mất, hạt có thể chịu bụi gai chèn ép, hạt có thể chịu rơi vào sỏi đá và hạt có thể trổ sinh những hạt khác. Nước Trời khi sánh ví như hạt nhỏ bé được gieo vào lòng người, Đức Giêsu muốn liên hệ với trách nhiệm bản thân của mỗi người.
Với sự nhỏ bé của hạt, gợi ý hình ảnh số còn sót lại thờ phượng Thiên Chúa, con số nhỏ của các môn đệ tiên khởi, con số nhỏ của những người sống theo Đức Kitô giữa lòng thế giới, con số nhỏ bé liên hệ tới men.
Như một ít men ở giữa khối bột, men làm dậy cả khối bột. Lên men là một quá trình biến đổi, tiệm tiến từ hạt - chết đi - thành cây - sinh hoa - kết trái. Men là nguyên nhân tác động tiến trình biến đổi. Như vậy khi nói men Tin Mừng, Đức Giêsu muốn nói tới chất xúc tác hướng dẫn sự biến đổi tiềm tàng bên trong. Quá trình lên men còn được nói là quá trình của sự thăng hoá, con người không chỉ bám víu vào trái đất, mỗi ngày sống cần thăng hoá hơn về tinh thần và đạt cao hơn về cõi trời. Giải nghĩa dụ ngôn hạt cải và men này soi sáng nhiều dụ ngôn khác.
Nếu nói theo Dịch học, men là nguyên nhân làm cho mọi vật chuyển động, chuyển động làm phát sinh, sinh hoài và sinh mãi. Yếu tố của men rất quan trọng, sự sinh hoá tuỳ thuộc vào men tốt xấu. Men xấu làm hư khối bột, làm thành hôi thối. Sự phân rã là một trong những bước tiến trình để biến đổi, chết là sự phân rã, sự phân rã làm nên hai cách tái sinh, men xấu làm phân rã dẫn đến tiêu huỷ đờiđời và men tốt dẫn đến sự phân rã tái sinh, làm nên cái mới.
Nước Trời khi sánh ví như hạt cải và như men, có ý nghĩa làm cho men Tin Mừng thấm nhuần vào các nền văn hoá. Tin Mừng ấy chính là Đức Giêsu, Ngài vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng đã mang lấy xác phàm nhân để cứu độ con người phàm nhân về với Thiên Chúa. Như hạt cải bé nhỏ, Thiên Chúa ưa thích đi lối nhỏ giữa cuộc đời, Con Thiên Chúa không sinh hạ trong hoàn cảnh của một gia đình quyền thế giàu sang, nhưng chọn một gia đình nghèo khó, sinh ra giữa những người nghèo.
Lối nhỏ, con đường nhỏ, những phận nhỏ là những nẻo đường Thiên Chúa đã dùng trong lịch sử. Để chọn một người làm tổ phụ dân tộc, Thiên Chúa chọn cụ già Abraham, đã gần đất xa trời mà chưa có đứa con nối dõi. Để đánh bại Goliat, Thiên Chúa dùng cậu bé Đavit, để chọn những người rao giảng sám hối Chúa đã chọn các bác nhà quê như Amốt, như Giêrêmia. Để chọn một bà mẹ làm mẹ Con Thiên Chúa làm người, Người đã chọn một thiếu nữ làng quê. Để chọn nơi cư trú cho Giêsu, Người đã chọn làng nghèo Nazareth, để chọn các tông đồ, Đức Giêsu đã chọn các bác làng chài, các bác nhà nông và người thu thuế và ngay cả Giuđa Iscariôt. Để chọn Đá Tảng xây dựng Hội Thánh, ngài đã chọn con người ba lần phản bội, Phêrô. Trong cách lựa chọn ấy, Chúa muốn chọn đi lối nhỏ, từ những gì xem ra hèn kém nhất, Thiên Chúa dùng để chinh phục những đỉnh cao. Từ đổ vỡ của thân phận, Chúa dùng kinh nghiệm bản thân ấy làm chứng tá. Có Giuđa bội phản kết liễu đời mình vì đã không tin vào lối nhỏ của Chúa dùng. Sự cứng lòng dẫn tới cái chết tự huỷ hoại.
Nếu bạn tin, niềm tin ấy nhỏ bé như hạt cải, nhưng hạt cải ngày kia sẽ mọc thành cây lớn và chim trời có thể đến cư trú. Nếu bạn tin, niềm tin ấy như nắm men, người đàn bà goá nọ đem trộn vào đấu bột, một ngày kia đấu bột dậy men. Lối nhỏ, phận nhỏ xem ra mong manh nhưng chẳng mong manh chút nào, bởi vì nơi ấy Thiên Chúa bày tỏ quyền năng. Tất cả chất liệu nỏ bé cuộc đời của bạn đều có thểtrở thành men thành hạt cải có giá trị nảy mầm hiến tế vô song để thánh hoá trần gian.
Lối đi nhỏ, con đường nhỏ và phận nhỏ đã hình thành con đường thơ ấu thiêng liêng của chị Têrêsa Hài Đồng Giêsu, một bí quyết đơn giản để nên thánh và thánh hoá các thực tại bằng cách cho chúng một giá trị bền vững. Cách thức ấy là dù bất cứ làm việc gì cũng đều dâng lên Chúa như lễ vật, để từ lễ vật Thiên Chúa hiến thánh.
Một chiếc chìa khoá bé nhỏ so với một cánh cửa khổng lồ, thế nhưng chiếc chìa khoá sẽ mở được cánh cửa, nếu bạn tin điều bé nhỏ sẽ mở được điều lớn lao; từ hạt nhỏ trở thành cây lớn.
46. Suy niệm của Lm Đan Vinh
GÓP PHẦN PHÁT HUY SỨC SỐNG CỦA HẠT CẢI NƯỚC TRỜI
I. HỌC HỎI LỜI CHÚA
Ý CHÍNH: Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng 2 dụ ngôn là “Hạt giống tự mọc” (Mc 4,26-29) và “Hạt cải nhỏ bé” (Mc 4, 31-32) để nói lên sức mạnh nội tại và quyền năng nhiệm mầu của Nước Thiên Chúa hay Nước Trời do Người thiết lập.
CHÚ GIẢI:
- C 26-29: +Nước Thiên Chúa: Trong cuộc hành trình rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu thường dùng dụ ngôn mà rao giảng Lời Chúa. Dụ ngôn là những câu chuyện rút ra từ cuộc sống thực tế đời thường mà mọi người nghe đều có thể hiểu biết, để trình bày về các mầu nhiệm siêu việt của Nước Thiên Chúa. Chỉ những người nghe có thiện chí muốn tìm hiểu mới có thể lãnh hội được ý nghĩa của chúng. Còn những kẻ không tin Chúa Giê-su thì khi nghe Người rao giảng sẽ giống “như vịt nghe sấm”, hầu ứng nghiệm sấm ngôn của ngôn sứ Isaia: “Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy. Vì lòng dân này đã ra chai đá: chúng đã bịt tai nhắm mắt, kẻo mắt chúng thấy, tai chúng nghe, và lòng hiểu được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành.” (Mt 13,14-15). Sau đây có thể kể tên một số dụ ngôn: Nước Thiên Chúa giống như một cánh đồng lúa có cỏ lùng xen lẫn, hoặc giống như một hạt cải ban đầu nhỏ bé, như nắm men ít ỏi được hòa lẫn trong thúng bột lớn, như kho báu giá trị cao được chôn giấu trong thửa ruộng, như một viên ngọc rất quí giá, như việc ngư dân thả lưới bắt được mọi thứ cá... (x Mt 13). Qua các dụ ngôn này, Đức Giêsu cho biết Nước Thiên Chúa là điều có thực và đang tỏ hiện qua các dấu chỉ là các phép lạ do Người làm như: Xua trừ ma quỷ, chữa lành các thứ bệnh tật, chữa lành người phong, phục sinh kẻ chết… (x Mc 1,54). +Tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất: Hạt giống được gieo xuống ruộng; dù người gieo ngủ hay thức, đêm hay ngày, hạt giống vẫn có khả năng tự nảy mầm mọc lên thành cây lúa, rồi sẽ trổ đòng đòng trước khi trở thành bông lúa nặng trĩu nhiều hạt. Nước Thiên Chúa cũng sẽ dần lớn lên để đạt tới viên mãn vào ngày tận thế, dù gặp bao nghịch cảnh đàn áp bách hại.
- C 31-32: +Nước Thiên Chúa giống như hạt cải… nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất: Hạt cải theo Máccô là thứ hạt giống nhỏ bé nhất trong mọi thứ hạt giống khác, mặc dù thực tế có thể không hòan toàn như thế. + khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng: cây cải ở Palestine cao to, có cây cao tới 4 mét, khác với cây rau cải ở Việt Nam. Và cây cải cao lớn cũng có những con chim bay quanh để ăn những hạt cải đen của nó. Từ cây cải cụ thể đời thường, Đức Giêsu muốn đưa người nghe đến một thực tại vô hình là Hội Thánh. Hội Thánh cũng giống như Nước Thiên Chúa lúc đầu nhỏ bé nhưng sẽ ngày càng phát triển lớn mạnh. Nước Thiên Chúa khởi đầu chỉ vỏn vẹn có Nhóm nhỏ 12 Tông đồ ít học và không mấy hòan thiện… nhưng Nhóm nhỏ này sau này nhờ ơn Thánh Thần sẽ trở thành một Hội Thánh to lớn bao gồm nhiều dân tộc trên trần thế.
- C 33-34: + Người dùng nhiều dụ ngôn tương tự: Khi rao giảng Tin Mừng cho dân chúng, Đức Giêsu dùng nhiều dụ ngôn nhằm trình bày các mầu nhiệm của Nước Thiên Chúa. + Nhưng khi chỉ có thầy trò với nhau, thì Người giải nghĩa hết: Các môn đệ là những người tiếp tục sứ mạng rao giảng Tin Mừng thay Đức Giê-su sau này, nên được Người giải thích cặn kẽ mầu nhiệm Nước Thiên Chúa trong các dụ ngôn, để các ông có thể chu toàn sứ vụ cách tốt đẹp.
CÂU HỎI: 1) Dụ ngôn là gì? Hãy kể ra một số dụ ngôn về Nước Thiên Chúa trong Tin Mừng. 2) Ý nghĩa của dụ ngôn hạt lúa được gieo tự mọc lên sinh hoa kết quả ám chỉ điều gì? 3) Ý nghĩa của dụ ngôn hạt cải nhỏ bé hơn cả nhưng lại mọc lên thành cây cải cao lớn có nhiều chim chóc làm tổ ám chỉ điều gì về Hội Thánh?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Nước Thiên Chúa giống như hạt cải [...] khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng (Mc 4, 31-32).
2. CÂU CHUYỆN: Về sức tăng trưởng của Hội Thánh:
Theo bản nghiên cứu thường niên về "Tình trạng Truyền giáo Toàn cầu" ngày 25/11/2011 được đăng trên Vietcatholic News cho biết số lương các Kitô hữu như sau: Tổng số Kitô hữu (gồm cả Công giáo, Chính thống giáo và Tin lành) hiện nay có khoảng 2,3 tỉ người và là tôn giáo có sức phát triển mạnh mẽ nhất. Cho đến đầu thế kỷ 20, Kitô giáo mới chỉ có 1.600 giáo đoàn. Nhưng đến nay, sau một thế kỷ đã tăng lên tới 42.000 giáo đoàn khác nhau.
Riêng Hội thánh Công giáo hiện nay có khoảng 1,16 tỉ tín hữu, và mỗi ngày lại thêm được 34 nghìn tín hữu. Việc tăng trưởng có thể do sinh sản tự nhiên kèm theo việc giáo dục đức tin. Việc theo đạo cũng có thể do sự tự nguyện từ các đạo khác hoặc không theo đạo nào cải sang theo đạo Kitô. Đã có hàng triệu người mỗi năm gia nhập Hội Thánh qua con đường hôn nhân với nguopwì công giáo.
Niên giám cũng cho thấy, số lượng các giám mục và linh mục cũng tăng trưởng theo tỷ lệ thuận với số người Công giáo trên toàn thế giới, tức là vào khỏang 1,3% trong năm 2008. Theo thống kê cuối năm 2009, Giáo Hội Công Giáo đã có 5.065 giám mục và 410.593 linh mục.
3. THẢO LUẬN:
1) Muốn giúp nhiều người lương gia nhập vào Hội thánh Công Giáo, mỗi tín hữu chúng ta cần phải làm gì?
2) Khi làm việc tông đồ mở mang Nước Thiên Chúa mà gặp phải trở lực và chống đối bách hại, các tín hữu cần làm gì noi gương Đức Giêsu khi đi rao giảng Tin Mừng?
4. SUY NIỆM:
Khi mạc khải về Nước Thiên Chúa hay Nước Trời, Đức Giêsu thường dùng nhiều dụ ngôn với lời mở đầu như sau: “Nước Trời giống như…”. Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng dùng dụ ngôn. Người đã dùng hai hình ảnh đời thường là cây lúa và cây cải, để dẫn đưa người nghe từ những đuêù đã hiểu biết đến những điều mầu nhiệm chưa hiểu biết, từ cõi hữu hình đến thực tại vô hình là Nước Thiên Chúa như sau:
1) Về sức tăng trưởng của Nước Thiên Chúa là Hội Thánh:
Ở Việt Nam người ta có câu ví sau: “Bé hạt tiêu!”. Thực ra, hạt tiêu không phải loại hạt bé nhất. Cũng vậy, hạt cải ở Palestine cũng không phải là loại hạt nhỏ nhất (hạt trắc bá và hạt thông còn nhỏ hơn nhiều). Tuy nhiên, Chúa Giêsu cũng mượn ý niệm của người thời đó qua câu nói “bé như hạt cải” để diễn tả về Tin Mừng Nước Thiên Chúa do Người sắp thiết lập. Nước Thiên Chúa được hình thành từ một nhóm nhỏ gồm mười hai tông đồ vừa ít học lại vừa có nhiều thói hư khuyết điểm.. Nhưng về sau, Nước ấy đã không ngừng lớn mạnh, giống như hạt cải, ban đầu chỉ là hạt giống nhỏ bé, nhưng sau này sẽ trở thành cây cải cao lớn, mà chim trời là các dân tộc đã đến xin gia nhập. Từ hình ảnh cây cải trong thiên nhiên, Đức Giêsu đã tiên báo về sức tăng trưởng lớn lao của Hội Thánh cả về số lượng cũng như chất lượng.
Thực vậy: Hội Thánh lúc đầu chỉ bé nhỏ như hạt cải. Nhưng về sau, nhờ ơn Thánh Thần mà Hội Thánh đã tăng trưởng về mọi mặt: trở thành một cây cải to lớn có thể đón nhận nhiều chim trời là các dân tộc gia nhập. Hiện nay Kitô giáo đã có trên 2 tỷ người, chiếm 1/3 dân số thế giới. Đồng thời vai trò của Đức Thánh Cha trong Hội Thánh cũng có ảnh hưởng lớn lao đối với các quốc gia trên thế giới. Đến ngày tận thế Thiên Chúa sẽ sai các thiên thần đi gặt hái: Lúa tốt là những tín hữu biết thực hành đức ái cụ thể, sẽ được vào hưởng hạnh phúc thiên đàng. Còn cỏ dại ám chỉ những kẻ gian ác dửng dưng vô cảm, không thực hành đức ái cụ thể… sẽ bị hình phạt hỏa ngục muôn đời, “nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó” (Mt 25,41).
2) Phải làm gì góp phần vào sự phát triển của Nước Thiên Chúa?
- Hạt giống phải tự hủy mới mọc thành cây và sinh hoa trái: Mỗi tín hữu cũng phải hằng ngày tập chết đi cho ý riêng ích kỷ tự mãn, các đam mê nhục dục thấp hèn, các thói hư tật xấu của mình… Mỗi khi việc loan báo Tin Mừng gặp phải chống đối thất bại, thay vì nản lòng thóai lui, các tín hữu cần xác tín rằng: Việc cứu độ là việc của Chúa. Chúng ta chỉ cần chu toàn sứ vụ hết sức của mình và hãy phó thác cho Chúa quan phòng những gì còn lại. Nếu chúng ta luôn sống khiêm tốn nhỏ bé, âm thầm cầu nguyện và can đảm dấn thân làm việc với sự tín thác cậy trông vào Chúa Thánh Thần trợ giúp… chắc chắn việc tông đồ của chúng ta sẽ đạt được kết quả đúng theo thánh ý Thiên Chúa.
- Nước Thiên Chúa giống như hạt giống âm thầm phát triển: Đừng đòi phải thấy kết quả trước mắt, nhưng mỗi người cứ làm hết sức mình với sự phó thác cậy trông vào Chúa quan phòng. Ngài sẽ hoàn thành những điều tốt đẹp Ngài đã khởi sự theo thánh ý Ngài. Chúng ta chỉ cần góp phần vào sự tăng trưởng của Nước Thiên Chúa bằng việc năng cầu nguyện kèm theo một việc bác ái cụ thể phục vụ tha nhân, nhất là phục vụ người đau khổ bệnh tật và bị bỏ rơi... Nhờ đó Hội thánh sẽ ngày một lớn mạnh lên theo thánh ý Chúa.
3. Chúng tôi phải làm gì?
- Phải khiêm tốn chu toàn bổn phận:
Tuy mỗi người chúng ta chỉ là những con người nhỏ bé tầm thường, không quyền lực, không giàu sang tài giỏi để có thể làm được những việc lớn lao… Nhưng nếu chúng ta luôn ý thức sứ vụ “làm cho danh Cha cả sáng”, nghĩa là làm cho Thiên Chúa được nhiều người nhận biết tôn thờ, làm cho Nước Chúa mau đến trên mọi người, cho thánh ý Thiên Chúa muốn cứu độ toàn thể nhân loại sớm trở thành hiện thực… thì chúng ta cần làm những việc tốt trong tầm tay của mình. Mỗi việc tốt được ví như một hạt cải đức tin. Nếu làm được nhiều việc tốt, sẽ được hình thành một cánh đồng cây cải thiêng liêng, sẽ làm bừng lên ánh sáng tin yêu, tiêu trừ ma quỷ và các điều xấu xa tội ác của chúng ra khỏi môi trường sống là gia đình khu xóm, trường hoc, nhà máy, công sở và cộng đoàn Hội Thánh…
- Phải kiên nhẫn chờ đợi mùa gặt sẽ đến:
Điều quan trọng là sau khi gieo hạt giống Lời Chúa, chúng ta cần phải kiên nhẫn bình tĩnh chờ đợi mùa gặt chắc sẽ tới. Đất sẽ tự sinh ra hoa trái. Điều cần là phải kiên nhẫn chờ đợi chứ không quá nôn nóng. Việc truyền giáo của Hội Thánh có những lúc xem ra không tiến triển và còn gặp nhiều khó khăn; Trong lịch sử Hội Thánh, cũng có những lúc con thuyền Hội Thánh gió bão vùi giập như sắp bị chìm, sự khó khăn bác hại do các thế lực thù địch là ma quỷ và thế gian gây ra, hoặc do sự xuống cấp tinh thần nơi các vị chủ chăn trong Hội Thánh. Trong tình huống ấy, chúng ta hãy cầu nguyện và tin chắc Chúa sẽ ra tay cứu giúp chúng ta bằng việc sai một vị thánh đến mở ra một lối thoát, để Hội Thánh lại được bình an. Lời Chúa hôm nay kêu mời chúng ta hãy lkiên nhẫn, khiêm nhường chờ đợi Chúa sẽ cấp thời đến cứu chúng ta.
5. LỜI CẦU:
Lạy Chúa Cha Tòan Năng. xin cho chúng con biết tin tưởng và phó thác vào quyền năng yêu thương và quan phòng của Cha trong công cuộc tông đồ cứu độ trần gian. Dù chúng con chỉ có khả năng làm việc giới hạn, chỉ làm được các việc nhỏ bé tầm thường, nhưng chúng con tin rằng: Chính Chúa sẽ làm cho các việc nhỏ bé tầm thường ấy phát sinh hiệu quả lớn lao.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết kiên trì gieo Lời Chúa mỗi khi có dịp tiếp xúc với tha nhân dù gặp hoàn cảnh thuận lợi hay không thuận lợi, dụ trong lúc bình an hay những khi bị phong ba bão táp… Xin cho chúng con luôn tín thác vào quyền năng và tình thương vô biên của Chúa. Chính Chúa sẽ hòan tất những gì còn thiếu sót nơi chúng con, như thánh Phaolô đã nói: “Tôi trồng, anh Apôlô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên” (1 Cr 3,6).
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con