Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
17/10 Gió lẫn biển đều vâng lệnh Chúa.
- Viết bởi Mc 4, 35-41
Gió lẫn biển đều vâng lệnh Chúa.
CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN năm B.
THÁNH LỄ CẦU NGUYỆN TRONG THỜI GIAN ĐẠI DỊCH.
“Người này là ai mà cả gió lẫn biển đều vâng lệnh Người.”
THÁNH LỄ CẦU NGUYỆN TRONG THỜI GIAN ĐẠI DỊCH.
Lời Chúa: Mc 4, 35-41
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Marcô
Ngày hôm ấy, khi chiều đến, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Chúng ta hãy sang bờ bên kia”. Rời đám đông dân chúng, các ông chở Người đi vì Người đang ở dưới thuyền; có nhiều thuyền khác cùng theo Người.
Một trận cuồng phong nổi lên, những lớp sóng ập vào thuyền đến nỗi thuyền đầy nước. Người thì ở đàng lái dựa gối mà ngủ; các môn đệ đánh thức Người và nói: “Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?”
Người đứng dậy quát nạt gió và phán với biển: “Hãy im đi, hãy lặng đi”. Tức thì gió ngưng, biển lặng như tờ.
Người nói với các ông: “Sao các con nhát sợ thế? Các con chưa có đức tin sao?”
Bấy giờ các ông kinh sợ và nói với nhau: “Người này là ai mà cả gió lẫn biển đều vâng lệnh Người?”
CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN năm B.
Lời Chúa: Mc 10, 35-45
"Con Người đến để ban mạng sống Mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Giacôbê và Gioan con ông Giêbêđê đến gần Chúa Giêsu và thưa Người rằng: "Lạy Thầy, chúng con muốn Thầy ban cho chúng con điều chúng con sắp xin Thầy". Người hỏi: "Các con muốn Thầy làm gì cho các con?" Các ông thưa: "Xin cho chúng con một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả Thầy trong vinh quang của Thầy".
Chúa Giêsu bảo: "Các con không biết các con xin gì. Các con có thể uống chén Thầy sắp uống và chịu cùng một phép rửa Thầy sắp chịu không?" Các ông đáp: "Thưa được". Chúa Giêsu bảo: "Chén Thầy uống, các con cũng sẽ uống, và phép rửa Thầy sắp chịu, các con cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì không thuộc quyền Thầy ban, nhưng là dành cho những ai đã được chỉ định".
Mười môn đệ kia nghe chuyện đó liền bực tức với Giacôbê và Gioan.
Chúa Giêsu gọi các ông lại gần mà bảo: "Các con biết rằng những người được coi là lãnh tụ các nước, thì sai khiến dân chúng như ông chủ, và những người làm lớn thì lấy uy quyền mà trị dân. Còn các con không như thế.
Trái lại, ai trong các con muốn làm lớn, thì hãy tự làm đầy tớ anh em. Và ai muốn thành người cầm đầu trong các con, thì hãy tự làm nô lệ cho mọi người.
Vì chính Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
* THÁNH LỄ CẦU NGUYỆN TRONG THỜI GIAN ĐẠI DỊCH.
Lời Chúa: Ac 3, 17-26; Rm 8, 31b-39; Mc 4, 35-41
* CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN – B 2021
Lời Chúa: Is 53,10-11; Dt 4,14-16; Mc 10,35-45
1. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.
Suy niệm
Chẳng hiểu tại sao lúc chiều xuống,
Đức Giêsu lại bảo các môn đệ đưa mình qua bờ phía đông của Biển hồ,
trên con thuyền mà Ngài ngồi giảng các dụ ngôn (Mc 4,1).
Do địa thế đặc biệt, hồ Galilê hay có những trận cuồng phong ập đến bất chợt,
tạo ra những cơn bão lớn trên sóng nước.
Tối hôm ấy, thầy trò đã gặp một cơn bão như vậy.
Thầy Giêsu phó thác mọi sự cho các môn đệ vốn là ngư phủ lành nghề.
Thầy mệt nên ngủ say ở đuôi thuyền, ngủ trên một cái gối.
Trong khi đó các môn đệ phải vật lộn với sóng gió, nước tràn đầy thuyền.
Họ có vẻ mất bình tĩnh khi thấy cơn giông bão không đánh thức Thầy được.
Chính họ đánh thức Thầy bằng một lời trách móc:
“Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi mà Thầy chẳng lo gì sao?” (c.38).
Thầy Giêsu đã thức dậy, và đã làm cho biển lặng, gió yên.
Đời con người ai tránh được sóng gió bất chợt.
Nếu biết trước sẽ gặp sóng gió, ai dám vượt biến ban đêm.
Sóng gió xảy ra trong đời riêng của mỗi người, trong gia đình,
trong đất nước, trong Giáo Hội, trên thế giới.
Sóng gió làm ta thấy mình con thuyền đời mình chòng chành, mong manh,
và khiến ta sợ hãi, hoảng loạn.
Giữa cơn sóng gió có khi người tín hữu lại thấy Chúa lạnh lùng, vô cảm.
Như các môn đệ, chúng ta không hiểu tại sao Chúa có thể ngủ được
khi đời ta bị đe dọa bởi cuồng phong,
tại sao Chúa vắng mặt, thinh lặng và khoanh tay
vào lúc chúng ta cần đến Ngài hơn cả.
“Tại sao anh em sợ? Anh em không có lòng tin sao?” (c.40).
Anh em không tin là Thầy đang ở trong cùng một con thuyền với anh em sao?
Lẽ ra chúng ta phải cảm thấy yên tâm
khi nhìn Chúa ngủ giấc ngủ tín thác của trẻ thơ ngay giữa cơn giông bão.
Nhìn Chúa ngủ bình an, chúng ta hiểu rằng chẳng có gì đáng sợ.
Vâng lời Chúa để qua bờ bên kia, và có Chúa trong con thuyền đời mình,
điều đó không làm chúng ta tránh được giông bão,
có khi lại gặp bão tố nhiều hơn.
Nhưng điều chắc chắn là chúng ta sẽ qua được bờ bên kia
với lòng tin được tôi luyện của người tín hữu dày dạn.
Chúng ta dám tin Chúa có quyền trên sóng gió của đời ta không?
Cầu Nguyện
Lạy Cha từ ái,
đây là niềm tin của con.
Con tin Cha là Tình yêu,
và mọi sự Cha làm đều vì yêu chúng con.
Cả những khi Cha mạnh tay cắt tỉa,
cả những khi Cha thinh lặng hay vắng mặt,
cả những khi Cha như chịu thua sức mạnh của ác nhân,
con vẫn tin Cha là Cha toàn năng nhân ái.
Con tin Cha không chịu thua con về lòng quảng đại,
chẳng để con thiệt thòi khi dám sống cho Cha.
Con tin rằng nơi lòng những người cứng cỏi nhất
cũng có một đốm lửa của sự thiện,
được vùi sâu dưới những lớp tro.
Chỉ một ngọn gió của tình yêu chân thành
cũng đủ làm đốm lửa ấy bừng lên rạng rỡ.
Con tin rằng chẳng có giọt nước mắt nào vô ích,
thế giới vẫn tồn tại nhờ hy sinh thầm lặng của bao người.
Con tin rằng chiến thắng cuối cùng thuộc về Ánh sáng.
Sự Sống và Tình yêu sẽ chiếm ngự địa cầu.
Con tin rằng dòng lịch sử của loài người và vũ trụ
đang chuyển mình tiến về với Cha,
qua trung gian tuyệt vời của Chúa Giêsu
và sức tác động mãnh liệt của Thánh Thần.
Con tin rằng dần dần mỗi người sẽ gặp nhau,
vượt qua mọi tranh chấp, bất đồng, mọi dị biệt, thành kiến,
để cùng nắm tay nhau đi qua sa mạc cuộc đời
mà về nhà Cha là nơi hạnh phúc viên mãn.
Lạy Cha, đó là niềm tin của con.
Xin Cha cho con dám sống niềm tin ấy. Amen.
2. Sao chưa có lòng tin?—Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
“Sóng gió” là từ thường được dùng để chỉ những thử thách
mà ai cũng có lần gặp trong cuộc đời.
Chẳng đời ai hoàn toàn êm đềm như biển lặng.
Cả cuộc đời của những người đi theo Đức Giêsu cũng vậy.
Các môn đệ không tránh khỏi sóng gió, hiểu theo nghĩa đen.
Hồ Galilê thường hay có những cơn bão bất ngờ.
Giữa lúc trời yên bể lặng thì sóng gió ập tới.
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện về một kinh nghiệm sóng gió
mà Thầy trò trải qua trên hồ Galilê.
Có nhiều yếu tố làm tăng độ khó cho kinh nghiệm này.
Trời lúc đó đã là chiều tối, chứ không phải ban ngày.
Đức Giêsu và các môn đệ đang ở bên này của biển hồ.
Chính Thầy đưa ra lệnh: “Chúng ta hãy sang bờ bên kia đi!”
Bờ bên kia là vùng Thập Tỉnh, nơi ở chủ yếu của dân ngoại.
Không rõ tại sao khi trời tối, Thầy lại muốn mọi người qua đó.
Thầy đã từ thuyền mà ngồi giảng các dụ ngôn cho dân (Mc 4,1).
Bây giờ Thầy vẫn đang ở trong con thuyền đó (Mc 4,36).
Hành trình trên biển của Thầy trò xem ra không suông sẻ,
vì bất ngờ một trận cuồng phong nổi lên.
Cùng với gió mạnh là sóng to.
Cùng với sóng to là nước lớn ào vào.
Con thuyền chòng chành vì gió, nghiêng ngả vì sóng,
và ngập nước đến độ có nguy cơ bị chìm.
Các môn đệ quen đánh cá ban đêm có kinh nghiệm này không?
Vậy mà Thầy lại nằm ngủ say, trên một chiếc gối, ở đàng lái.
Các môn đệ thật không sao hiểu được
làm sao Thầy có thể ngủ bình yên
trong hoàn cảnh hiểm nghèo như thế (G 11,18-19; Tv 4,9).
Họ cuống lên nên trách móc Thầy mình:
“Chúng ta sắp chết mà Thầy chẳng quan tâm sao?”(Mc 4,38).
Dường như họ muốn Thầy mình làm một điều gì đó.
Thầy Giêsu đang ngủ, bị đánh thức và Thầy đã thức dậy.
Thầy ngăm đe gió như đã ngăm đe quỷ (Mc 1,25; 3,12),
và ra lệnh cho biển động phải yên lặng như tờ.
Những sức mạnh tự nhiên đe dọa con người bị khuất phục.
Thầy Giêsu không chỉ có quyền uy trên bệnh tật, ma quỷ,
Thầy còn có quyền trên các năng lực tự nhiên trong trời đất.
Khi biển lặng, sóng yên, Thầy mới bắt đầu trách môn đệ:
“Tại sao anh em nhát thế? Anh em vẫn chưa có lòng tin sao.”
Khi sống bên Thầy, lẽ ra họ phải có lòng tin vững mạnh,
nhưng sóng gió đã làm lộ ra chuyện họ yếu tin.
Sau phép lạ của Thầy Giêsu, chỉ bằng một lời quyền năng,
các môn đệ hoảng sợ, sợ hơn cả lúc gió to sóng lớn.
Nhưng đứng trước Đấng làm chủ cả gió và biển,
họ vẫn chưa trả lời được câu hỏi: “Người này là ai?” (Mc 4,41).
Các môn đệ đã trải qua bao kinh nghiệm trong đêm nay:
kinh nghiệm bị sóng gió dập vùi, kinh nghiệm cận kề cái chết,
kinh nghiệm tuyệt vọng và hoảng loạn,
kinh nghiệm trách móc đối với sự thinh lặng của Thiên Chúa,
và kinh nghiệm bình an khi biển lặng sóng yên.
Con thuyền Giáo hội và thế giới cũng có khi gặp sóng gió.
Chúng ta chỉ cần có Chúa trong thuyền, Ngài ngủ cũng được.
Cũng cần kêu xin Ngài với lòng tin, chứ không hoảng hốt.
Rồi mọi sự sẽ qua, bình an trở lại.
LỜI NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu,
Sống ở đời chẳng ai thích sóng gió,
nhưng sóng gió lúc nào cũng có trong đời người.
Các môn đệ đầu tiên đã nhiều lần gặp sóng gió ở hồ Galilê.
Sóng gió đến khi Chúa đang ngủ vùi trên thuyền,
khiến môn đệ phải vội vàng đánh thức.
Sóng gió đến khi Chúa không ở trong thuyền,
khiến môn đệ phải chèo chống vất vả.
Chúa không tránh cho đời chúng con khỏi mọi sóng gió,
vì Chúa biết sóng gió làm chúng con trưởng thành,
tập vượt qua nỗi sợ hãi bằng lòng tin,
tập vượt qua nỗi lo âu bằng hy vọng.
Chúa để chúng con chiến đấu suốt đêm với gió ngược,
nhưng lại đến với chúng con khi trời gần sáng.
Xin cho chúng con yêu quý sự bình an,
nhưng lại không ngỡ ngàng trước sóng gió.
Giữa cơn sóng gió, xin cho chúng con tin rằng
Chúa vẫn hiện diện gần bên chúng con,
và đang đưa con thuyền Giáo Hội về đến bến.
3. Thầy không lo sao? -- ‘Manna’
Suy Niệm
Các môn đệ gặp trận cuồng phong khi vượt biển. Họ kinh hoàng vì thấy mình sắp bị nuốt chửng. Bất lực trước cơn cuồng nộ của sóng gió, họ đã đánh thức Đức Giêsu, xin Ngài giúp đỡ.
Cuộc đời nào tránh được mọi cơn giông tố?
Ai trong chúng ta cũng thích biển lặng sóng yên, nhưng giông tố lại giúp ta nhận ra mình: yếu đuối, chao đảo, mong manh, bất lực, không đủ khả năng đương đầu với bao thách đố.
Giông tố đưa ta đến với Đức Giêsu, và phó thác cho sự trợ giúp của Ngài. “Chúng con chết mất!”
Cái chết thể lý và cái chết tinh thần. Cái chết của bản thân và của tập thể mình gắn bó. Cái chết của những công trình mình xây dựng.
Chúa là sự sống, sao Chúa lặng yên để chúng con chịu chết? Sao Chúa để sự dữ tung hoành trên thế giới? “Mà Thầy không lo sao?”. Một lời trách móc?
Nhiều khi chúng ta cũng trách Chúa như vậy. Có vẻ Chúa quá vô tư, lãnh đạm, hững hờ. Chúa yên ngủ khi đời ta gặp cơn giông tố.
Đức Giêsu đã thức dậy, ra lệnh cho gió và biển: “Câm đi! Im đi!”. Gió ngừng ngay và biển lặng xuống.
Sự lặng đi của biển đưa đến sự trầm lặng của lòng. Nỗi kinh hoàng tan biến, nỗi sợ chết cũng bay xa.
Nhưng chúng ta không đòi phép lạ biển lặng trong đời. Điều quý hơn, đó là lòng ta được lặng.
Lòng lặng không phải vì biển lặng, mà lặng ngay giữa lúc biển động. Đó là một phép lạ lớn hơn nhiều, và đó cũng là thái độ Chúa muốn ta phải có.
Tại sao các anh lại kinh sợ? Sóng gió làm gì được các anh khi Thầy đang cùng các anh ở chung một con thuyền?
Đức Giêsu đòi các môn đệ không được khiếp sợ.
Thầy đã làm bao phép lạ trước mắt các anh, vậy mà các anh vẫn chưa có lòng tin ư? Nếu có lòng tin thì đâu có cuống cuồng như vậy.
Đức tin chỉ lộ ra khi biển động. Và có thể nói, biển động giúp hình thành đức tin. Đức tin lớn lên ít nhiều sau mỗi lần biển động.
Thuyền đời Kitô hữu chẳng bao giờ êm ả. Nó chỉ êm ả khi về tới bến. Nhưng lòng ta lại phải giữ cho bình yên, ngay cả khi Ngài không thức dậy, dù ta đã gọi Ngài nhiều lần giữa tiếng sóng gào thét. Ta tin rằng Ngài sẽ cứu ta theo cách của Ngài.
Gợi Ý Chia Sẻ
Điều gì khiến bạn sợ hơn cả trong cuộc sống? (Sợ thất nghiệp, sợ thi rớt, sợ không được yêu, sợ mất uy tín, hay sắc đẹp...). Sự sợ hãi có làm đời bạn bớt vui không? Có làm bạn bớt tự do không?
Khi bạn bị căng thẳng, lo âu, mất bình an, bạn thường làm gì để trở lại bình thường? Cầu nguyện có giúp gì cho bạn không?
Cầu Nguyện
Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào, xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc, xin cho con quý chuộng những lúc được an nghỉ trước nhan Chúa.
Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo, xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa để nghe lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng, xin cho con thoát được lên cao nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.
Lạy Chúa, ước gì tinh thần cầu nguyện thấm nhuần vào cả đời con. Nhờ cầu nguyện, xin cho con gặp được con người thật của con và khuôn mặt thật của Chúa.
4. Suy niệm -- TGM Giuse Nguyễn Năng
Sứ điệp: Chúa Giêsu đang ở trên thuyền với các môn đệ. Ngài dùng quyền năng để dẹp tan sóng gió. Hôm nay Chúa cũng đang hiện diện trong cuộc đời chúng ta. Hãy lên tiếng cầu cứu, Chúa sẽ ra tay cứu giúp.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, thật là thú vị khi chứng kiến cảnh Chúa dẹp tan bão táp giữa biển khơi. Phép lạ Chúa làm thật bất ngờ. Điều đó khơi dậy nơi tâm hồn con ý thức về một Thiên Chúa quyền uy và đầy sức mạnh.
Sống giữa biển đời với bao sóng gió gian nan thử thách, tâm hồn con chao đảo tưởng chừng như đắm chìm. Lạy Chúa, xin ban thêm niềm tin để con nhận ra Chúa đang hiện diện nơi cuộc đời con. Chúa vẫn “hiện diện một cách vắng mặt”, hiện diện một cách kín đáo.
Con muốn xác tín rằng: Thiên Chúa con tin thờ là Thiên Chúa quyền uy. Con biết rằng nếu Chúa muốn, Chúa sẽ ra tay dẹp yên sóng biển. Nhưng đối với con, điều quan trọng nhất là xin Chúa nâng đỡ cuộc đời con, để con vượt thắng những gian nan thử thách trong cuộc sống: một sự hiểu lầm, người thân đau ốm lâu ngày, mùa màng thất thu, con cái ngỗ nghịch ngang bướng…
Con tin Chúa vẫn đang hiện diện nơi cuộc đời con. Đôi vai trĩu nặng những trái ý, con không chịu đựng một mình nhưng được chia sẻ trên đôi vai của Chúa nữa. Xin giúp con nhận ra được sự hiện diện của Chúa trong gia đình. Sự hiện diện ấy là ánh sáng giúp nhận ra con người thật của con, như luồng sáng soi tỏ những hạt bụi li ti. Sự hiện diện ấy là sức mạnh đỡ nâng và giải thoát, như hôm nào trên biển, Chúa uy quyền dẹp yên bão tố. Amen.
Ghi nhớ: “Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?”
5. Thử thách trong cuộc đời -- TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Trong đời ta gặp nhiều trường hợp giả vờ rất đáng yêu. Chẳng hạn bà mẹ trẻ giả vờ trốn đứa con nhỏ, để nó phải lo âu đi tìm. Và khi thấy nó đã lo âu đến độ tuyệt vọng, sắp khóc đến nơi, bấy giờ bà mẹ mới xuất hiện. Vừa thấy bà mẹ xuất hiện, đứa trẻ vui mừng khôn xiết. Và nó càng yêu mến, càng bám chặt lấy mẹ nó hơn nữa.
Chúa Giêsu cũng có nhiều lần giả vờ như thế. Lần giả vờ được minh nhiên ghi lại trong Tin Mừng là khi Người cùng hai môn đệ đi trên đường Emmaus. Khi đã đến nơi, Người giả vờ muốn đi xa hơn, làm cho các môn đệ phải tha thiết nài nỉ Người mới chịu ở lại. Khi Người ở lại, các môn đệ vui mừng khôn xiết. Và niềm vui lên đến tuyệt đỉnh khi các môn đệ nhận ra Người lúc bẻ bánh.
Hôm nay tuy Tin Mừng không minh nhiên ghi lại, nhưng ta có thể đoán biết Chúa Giêsu đang giả vờ. Vì sóng to gió lớn dập vùi làm cho thuyền chòng chành nghiêng ngả, nước tràn vào đến nỗi thuyền có nguy cơ bị chìm đắm, trong khi đó các tông đồ xôn xao chạy ngược chạy xuôi, hò hét nhau tìm cách tát nước ra. Giữa khung cảnh như thế, làm sao có thể nằm ngủ ngon lành được. Chỉ có thể là giả vờ. Việc giả vờ của Chúa phát xuất do tình yêu.
Vì yêu thương ta, Chúa muốn ta đáp lại tình yêu thương của Chúa. Đó là định luật thông thường trong tình yêu. Khi yêu ai cũng muốn được đáp trả. Chúa không đi ra ngoài định luật thông thường đó. Người tha thiết yêu ta. Người mong ta yêu mến gắn bó với Người, nên đôi khi Người giả vờ lãng quên để ta nhớ mà chạy đến với Người, gắn bó với Người hơn. Như bà mẹ muốn đứa con tỏ ra cần đến mẹ, tha thiết đi tìm mẹ, hốt hoảng khi không thấy mẹ, Chúa cũng mong ta cần đến Chúa, tha thiết đi tìm Chúa và hốt hoảng lo âu khi thấy vắng bóng Chúa.
Vì yêu thương ta, Chúa muốn rèn luyện ta nên người. Để rèn luyện ta, Chúa gửi những thử thách tới. Cuộc đời ví như mặt biển cả mênh mông. Mỗi người là một con thuyền lênh đênh trên mặt nước. Sóng gió là những thử thách trong cuộc đời. Những thử thách Chúa gửi đến giúp ta trưởng thành ở ba phương diện.
Những thử thách giúp ta biết mình hơn. Bình thường ta nghĩ mình chẳng kém thua ai. Nhưng khi gặp thử thách mới biết mình thật yếu đuối. Thánh Phêrô thấy Chúa đi trên mặt nước thì tưởng mình cũng đi được. Nhưng chỉ được mấy bước đã chìm xuống. Các tông đồ là những bạn chài đã quen với sóng nước. Thế mà vẫn kinh hoảng trước bão tố. Đã chứng kiến biết bao phép lạ Chúa làm, nhưng khi gặp gió bão vẫn hoảng kinh. Thử thách giúp ta biết mình. Biết mình để thêm khôn ngoan, thêm trông cậy và nhất là để biết rèn luyện bản thân cho tiến bộ hơn.
Thử thách giúp ta biết yêu mến, cậy trông vào Chúa hơn. Có thử thách ta mới biết sức mình, biết có những việc ở ngoài tầm tay của mình, chẳng ai có thể giúp mình ngoài Chúa. Vì thế gặp nhiều thử thách giúp ta biết cậy trông phó thác vào Chúa hơn. Gặp thử thách ta mới biết chẳng ai yêu thương ta bằng Chúa. Chúa sẽ không để ta bị thử thách quá sức chịu đựng, nên ta sẽ biết yêu mến Chúa hơn.
Thử thách giúp đức tin vững mạnh. Chẳng có thử thách nào kéo dài mãi mãi. Chúa chỉ cho thử thách một thời gian. Rồi Chúa lại can thiệp để sóng yên biển lặng. Khi sóng yên biển lặng rồi, các môn đệ càng vững tin nơi Chúa hơn. Để từ nay các ngài không còn cuống quít lo sợ mỗi khi gặp gian nan nữa. Đời sống mỗi người chúng ta cũng thế. Ai càng gặp nhiều thử thách thì càng trở nên từng trải, vững vàng.
Đời sống không thể thiếu thử thách. Hãy biết rằng Chúa cho phép thử thách vì yêu thương ta, để rèn luyện ta nên người. Hơn nữa Chúa luôn ở bên ta. Vì thế ta hãy vững tin, hãy cậy trông phó thác và hãy biết tận dụng những khó khăn để đức tin thêm vững mạnh. Thử thách rồi sẽ qua đi. Nhưng cách ta phản ứng trước thử thách lại tồn tại và tạo thành giá trị đời ta. Ước gì mọi thử thách ta gặp trong đời đều biến thành cơ hội cho ta được thêm lòng, lòng cậy và lòng mến Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Tại sao Chúa cho ta bị thử thách? Thử thách có cần thiết không?
2) Thử thách giúp ta trưởng thành thế nào?
3) Ta phải sống thế nào trong thử thách để vượt lên trên thử thách?
6. Suy niệm (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
CHÚA DẸP YÊN SÓNG GIÓ (Mc 4,35-41)
Sau một loạt bài nói về mầu nhiệm Nước Thiên Chúa, hôm nay thánh Marcô kể lại cho chúng ta phép lạ Chúa dẹp yên sóng gió trên biển cả. Chúa Giêsu ngồi trên thuyền giảng dạy dân chúng. Giảng xong, Người bảo các môn đệ chèo thuyền qua biển hồ Tibêriat mà sang miền Ghêrasa... Bỗng cơn bão lớn nổi lên, sóng tạt nước vào thuyền sắp chìm. Các môn đệ sợ hãi, còn Chúa thì nằm ngủ ở sau lái. Các ông vội vã đánh thức Người và nói: “Thầy ơi! Chúng ta chết mất”. Người trỗi dậy truyền khiến sóng gió yên lặng, rồi bảo các ông: “Sao anh em nhát đảm quá! Anh em chưa tin Thầy sao?” Còn các ông thì khiếp vía hỏi nhau: Người là ai mà sóng gió phải vâng phục Người?
Biển hồ Tibêriat này cũng có tên gọi là Galilê. Biển có chiều dài 21km và chỗ rộng nhất là 13 km. Thung lũng Jordan là một vết nứt sâu trên mặt đất và biển Tibêriat là một phần của vết nứt đó. Nó thấp hơn mặt biển 200 mét nên khí hậu ấm áp dễ chịu, nhưng cũng đem lại nhiều nguy hiểm. Bên phía tây có núi non, thung lũng, khe suối, nên khi gió lạnh từ phía tây thổi đến thì thung lũng, khe suối này có tác dụng như những cái phễu lớn. Gió bị nén trong đó và thổi ào ào xuống hồ bất thình lình với sức gió dữ dội đến nỗi mặt hồ phẳng lặng biến thành sóng gió gào thét. Vì thế, biển Tibêriat hay nổi lên những cơn sóng gió bão táp vào ban chiều hay ban đêm.
Các môn đệ chưa hiểu rõ con người Đức Giêsu, các ông coi Ngài cũng chỉ là một Đấng tiên tri có quyền phép, làm được nhiều phép lạ để cho nhiều người tin theo, nên các ông mới thắc mắc với câu hỏi “Người này là ai?” Khi bão tố yên lặng, các ông chứng kiến một việc mà chỉ Thiên Chúa mới có thể hoàn thành. Điều đó có ý nghĩa là Đức Giêsu có quyền năng của Thiên Chúa. Thực ra, họ mới biết Đức Giêsu theo quan niệm của người đương thời. Đồng thời, nhờ phép lạ này cho thấy Đức Giêsu chăm sóc các môn đệ của Ngài.
Theo suy luận của J. Hervieux thì “khi đọc lại câu chuyện Chúa đi qua biển và dẹp yên sóng gió như vậy, Marcô cố gắng đáp ứng những nhu cầu hiện thực của Giáo hội thời Ngài. Những tín hữu Rôma đang phải điêu đứng vì những cuộc bách hại. Họ đang sống trong nỗi lo sợ, giống như các môn đệ trong con thuyền vượt biển xưa. Đối với họ, Đức Kitô hình như đang ngủ. Việc Ngài ‘vắng mặt’ rõ ràng trong những biến cố bi thảm họ đang sống, tạo cho họ thêm e dè sợ sệt! Chúa phải làm gì để giải thoát họ khỏi cảnh chết chóc đang rình rập” (Fiches dominicales, năm B, tr 207).
Đường lối sư phạm của Chúa rất huyền diệu, ta không hiểu nổi, nhưng dầu sao nó cũng nhắm giúp chúng ta tin tưởng rằng: trong mọi nơi mọi lúc “Con thuyền Giáo hội lúc nào cũng bị sóng gió dập dồn” (theo Tertullianô), nhưng không sao, không bị chìm được vì luôn có Ngài ở đó, Ngài có vẻ ngủ nhưng thực ra Ngài vẫn thức, để theo dõi chúng ta chèo chống và chờ đợi chúng ta kêu cầu Ngài giúp đỡ. Theo nhận xét của chúng ta, dù có Đức Giêsu ở trong thuyền với các môn đệ thì bão tố vẫn xảy ra. Vì thế, dù bão tố có chụp xuống chúng ta, điều đó không có nghĩa là Thiên Chúa đã bỏ rơi chúng ta. Nếu chúng ta có đức tin, chúng ta sẽ không nghi ngờ Ngài ở với chúng ta, và chúng ta sẽ hướng về Ngài để cầu xin và tin chắc rằng Ngài sẽ đến giúp đỡ.
Một ngày kia, viên lái đò chở hoàng đế César qua sông, thấy sóng cả đã ngả tay chèo, được hoàng đế phán ra một câu bất hủ: “Anh không biết là anh đang chở hoàng đế César sao?”
Một vị hoàng đế bất lực trước cơn cuồng phong dữ dội, thế mà dám nói những lời như thế! Thì huống hồ ở đây, không phải là vị vua trần thế mà là vua cả trên trời Ngài làm sao cho sóng gió bão táp phải lặng yên sao! Thánh vịnh đã nói:
Đổi phong ba thành gió thoảng nhẹ nhàng
Sóng đang gầm, bỗng im tiếng.
Họ vui mừng vì trời yên bể lặng
Và Chúa dẫn đưa về bến mong chờ (Tv 107,29-30).
Mỗi người chúng ta không khác gì chiếc thuyền nan chông chênh giữa biển trần gian đầy sóng gió bão táp, khó khăn nối tiếp khó khăn. Nếu chúng ta chỉ dựa vào sức mình hay dựa vào một quyền năng nào đó thì chúng ta sẽ thất bại. Ai có thể cứu chúng ta thoát khỏi sóng gió ba đào khi chiếc thuyền của chúng ta sắp chìm? Chỉ còn có Thiên Chúa. Ngài như người Cha lái con tàu vững chắc trên biển cả, chúng ta là con chỉ biết tin tưởng vào quyền năng của Người Cha trên trời. Có Chúa trong đời, Ngài sẽ hướng dẫn cuộc đời của mỗi chúng ta. Lúc đó, những cô đơn như bị xoá nhoà, những khó khăn dường như nhỏ lại, những yếu đuối như được sức mạnh. Chúng ta không cầu xin cho cuộc đời mình như biển lặng, nhưng xin cho cõi lòng chúng ta được tĩnh lặng ngay giữa lúc biển động.
Truyện: Cha tôi cầm lái con tàu
Một thi sĩ người Anh, ông Byron, có viết một câu chuyện như sau:
Hôm ấy, một con tàu đang rẽ sóng lướt đi trên mặt biển mênh mông. Bỗng chốc, bầu trời kéo mây đen đặc. Rồi giông tố ầm ầm nổi lên, sấm chớp kinh hoàng. Mưa càng lớn, gió càng mạnh. Các hành khách kêu la hỗn loạn. Duy có một em bé cứ ngồi chơi trên boong tàu như không có gì xảy ra cả.
Lạ lùng, một thuỷ thủ dương to đôi mắt hỏi em:
- Em không sợ chết sao?
Cậu bé thản nhiên trả lời:
- Sao lại sợ? Chính ba em cầm lái con tàu này mà!
7. Quyền năng của Thiên Chúa -- Lm Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP
Các bài đọc trong Thánh lễ hôm nay nhắc nhở chúng ta trong cuộc sống hiện tại có nhiều gian nan thử thách, hãy tin cậy vào Chúa quan phòng. Thực vậy, trong cuộc sống hằng ngày không thiếu gì những giông tố xẩy đến cho Giáo hội, quốc gia, thế giới và riêng của từng người chúng ta nữa.Trước những trạng huống đó, chúng ta cảm thấy hoang mang không biết phải xoay sở ra sao, có khi đã nản lòng trước những biến cố bất ngờ xẩy đến.
Nhưng trong bàiTin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã nói với chúng ta như đã nói với các Tông đồ xưa kia trên biển hồ Tibériade:”Việc gì phải sợ, người đâu mà kém tin thế”? Qua lời kêu cứu của các Tông đồ, Đức Giêsu đã truyền cho giống tố ngưng lại và biển trở nên phẳng lặng như tờ. Sở dĩ các Tông đồ chưa đủ tin tưởng vào Đức Giêsu và sợ hãi như vậy vì các ông chưa nhìn ra con người thật của Ngài, nên mới đặt câu hỏi:”Ngài là ai mà cả gió và biển phải vâng lời vậy”?
Trong suốt lịch sử của mình, Giáo hội đã trải qua những cảnh huống bi đát như bị bách hại, chia rẽ nội bộ, lạc giáo... nhưng Giáo hội vẫn đứng vững vì có Chúa “nằm ngủ” ở đó, Ngài sẽ ra tay khi cần thiết.Ngoài ra, trong cuộc sống hằng ngày của mỗi người cũng không thiếu gì những gian nan thử thách, hãy tin tưởng vàotình yêu quan phòng của Chúa, hãy vững tin và cầu nguyện, Ngài sẽ đến cứu giúp.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: G 38,1.8-11.
Ông Gióp gặp nhiều tai ương hoạn nạn mặc dầu ông là người công chính. Trước những đau khổ đó, ông biểu lộ những hoài nghi về sự công bằng của Thiên Chúa: ông muốn hỏi Thiên Chúa tại sao lại để cho đau khổ xẩy đến với ông cách bất công như vậy? Đâu là nguyên do những nỗi bất hạnh ấy?
Thiên Chúa không trực tiếp giải đáp thắc mắc của ông, Ngài chỉ cho ông biết Ngài là Chúa tể muôn loài, Ngài có thể làm được mọi sự theo ý Ngài: chính Ngài điều hành sức mạnh của nước, cho nó chảy đi đâu, Ngài dẹp yên sóng cả ngoài biển khơi.
Như vậy, Thiên Chúa gián tiếp trả lời cho ông Gióp: mọi sự lành hay sự dữ được Ngài cho phép mới xẩy ra, con người phải biết phó thác vào sự sắp xếp của Ngài, đừng nên mở miệng than trách.
+ Bài đọc 2: 2Cr 5,14-17.
Thánh Phaolô cho tín hữu Côrintô biết: Đức Kitô đến trần gian này để làm một cuộc tạo dựng mới nhờ sự chết và phục sinh của Ngài. Nhờ cái chết của mình, Đức Kitô làm cho nhân loại thực sự chết cho tội lỗi và nhờ sự sống lại của mình, Ngài làm cho con người hoàn toàn đổi mới, mặc lấy cuộc sống mới đã được biến hình đổi dạng, được trở nên một tạo vật mới tốt lành thánhthiện
Nếu Đức Kitô đã ban cho chúng ta một cuộc sống mới thì chúng ta cũng phải bỏ nếp sống của con người cũ để sống một cuộc sống mớihoàn toàn trong Đức Kitô để thông hiệp vào sự sống của Ngài.
+ Bài Tin mừng: Mc 4,35-41.
Buổi chiều, khi đã giảng dạy cho dân chúng xong, Đức Giêsu bảo các Tông đồ xuống thuyền vượt biển hồ Tibériade sang bờ bên kia. Biển hồ này thường có bão, nhất là vào buổi chiều. Khi ra giữa biển, một cơn bão táp nổi lên, nước đã tràn vào thuyền, các môn đệ cuống cuồng lên. Trong khi đó, Đức Giêsu, bị mệt mỏi vì rao giảng suốt ngày, nằm gối đầu ở đàng lái mà ngủ, như không có sự gì xẩy ra.
Các ông sợ hãi đánh thức Ngài và còn có sự trách móc:”Chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm sao”? Đức Giêsu bình tĩnh đứng lên phán một lời vắn tắt:”Im đi, câm đi”, tức thì gió im, biển lặng như tờ. Sau đó Đức Giêsu vừa trách các môn đệ vừa khuyên họ hãy tin vào quyền năng của Ngài.
Các môn đệ chưa nhận ra con người thật của Đức Giêsu nên mới nói:”Ngài là ai mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh”? Có lẽ thánh Marcô thuật lại cảnh dẹp yên sóng gió trên đây nhằm trấn an và củng cố các Kitô hữu đầu tiên tại Rôma đang hoảng sợ trước cơn bách hại của hoàng đế Néron?
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Đừng sợ, hãy vững tin.
I. SÓNG GIÓ TRÊN BIỂN KHƠI.
1. Gió và biển.
“Trong ngôn ngữ Do thái, cùng một tiếng “gió” cũng có nghĩa là “thần trí”. Ngoài ra trong Kinh thánh, biển thường là biểu tượng những thế lực gian tà mà Thiên Chúa phải đánh gục để kế hoạch của Người toàn thắng. Ở đây, biển động dữ dội do ảnh hưởng của cuồng phong. Ta phải hiểu là có “thần trí xấu” (Satan chăng?) đang tung những ma lực dưới quyền để ùa đến tấn công con thuyền, tức là tấn công các môn đệ”(Boismard, Jésus, un homme de Nazareth, 1966, tr 78).
Làm cho bão tố yên lặng là một dấu chỉ đặc biệt về quyền năng của Thiên Chúa, bởi vì biển và gióđược coi như là những sức mạnh của xấu xa và hỗn loạn, mà chỉ Thiên Chúa mới có thể làm chủ, điều khiển chúng (Bài đọc 1).
2. Biển hồ Tibériade.
Biển hồ này cũng có tên gọi là biển hồ Galilê. Biển có chiều dài 21 km và chỗ rộng nhất là 13 km. Thung lũng Jordan là một vết nứt sâu trên mặt đất và biển Tibériade là một phần của vết nứt đó. Nó thấp hơn mặt biển 200 mét nên khí hậu ấm áp dễ chịu, nhưng cũng đem lại nhiều nguy hiểm. Bên phía tây có núi non, thung lũng, khe suối, nên khi gió lạnh từ phía tâythổi đến thì thung lũng, khe suối này có tác dụng như những cái phễu lớn. Gió bị nén trong đó và thổi ào ào xuống hồ bất thình lình với sức gió mạnh dữ dộiđến nỗi mặt hồ phẳng lặng biến thành sóng gió gào thét. Vì thể, biển Tibériade hay nổi lên những cơn sóng gió bão táp vào ban chiều hay ban đêm.
II. CHÚA DẸP YÊN SÓNG GIÓ.
1. Câu chuyện giông tố.
Đức Giêsu cũng có một số môn đệ để giúp phổ biến giáo thuyết của Ngài. Các môn đệ này không phải là những nhà trí thức hay ít ra là những người học thức trung bình, nhưng thực ra họ là những người ít học: họ là những người chài lưới. Chúa cần phải giáo dục họ từng bước để trở thành những môn đệ kiêncường và trung thành trong việc rao giảng Tin mừng. Họ cần phải đặt tin tưởng vào Chúa nhất là trong những cơn gian nan khốn khó lúc này và về sau.
Ngài phải thử thách họ bằng những tình huống nguy hiểm. Vi thế, sau một ngày giảng cho dân chúng những dụ ngôn về Nước Trời. Đức Giêsu bảo các môn đệ xuống thuyền sang bờ biển bên kia, là vùng của dân ngoại để truyền giáo cho họ. Nhưng mục đích chính là để thử thách họ và cho họ thấy quyền năng của Ngài.
Vì thế, một cơn sóng gió nổi lên hầu nhận chìm con thuyền của các ông mà Đức Giêsu thì nằm ở đàng lái mà ngủ, coi như không có chuyện gì xẩy ra. Các môn đệ vừa cầu cứu vừa có vẻ hơi trách móc Ngài.Lúc ấy Ngài mời bình tĩnh đứng lên, truyền lệnh cho sóng gió phải ngưng hoạt động, tức thì gió im, biển trở nên lặng như tờ. Trước cảnh tượng này các môn đệ hết sức kinh ngạc và thán phục Đức Giêsu nên mới nói với nhau:”Ngài là ai mà cả gió và biển đều phải tuân lệnh Ngài”?Các ông đã nhìn ra quyền năng của Ngài và tin tưởng vào Ngài hơn.
2. Ý nghĩa câu truyện.
a) Củng cố niềm tin cho môn đệ.
Đức Giêsu truyền cho các môn đệ xuống thuyền ra biển là có ý tỏ quyền năng của Ngài để các ông tin tưởng vào Ngài. Sóng gió bão táp cũng có nghĩa là những thử thách và đau buồn mà người công chính phải chịu đựng và chỉ có quyền năng của Thiên Chúa mới có thể cứu họ ra khỏi tình trạng ấy.
Các môn đệ chưa hiểu rõ con người Đức Giêsu, các ông coi Ngài cũng chỉ là một đấng tiên tri có quyền phép, làm được nhiều phép lạ để cho nhiều người tin theo nên các ông mới thắc mắc với câu hỏi “Người này là ai”? Khi bão tố yên lặng, các ông chứng kiến một việc mà chỉ Thiên Chúa mới có thể hoàn thành. Điều đó có ý nghĩa là Đức Giêsu có quyền năng của Thiên Chúa.Thực ra, họ mới biết Đức Giêsu theo quan niệm của loài người. Đồng thời, nhờ phép lạ này cho thấy Đức Giêsu chăm sóc các môn đệ của Ngài.
Theo suy luận của J. Hervieux thì “khi đọc lại câu chuyện Chúa đi qua biển và dẹp yên sóng gió như vậy, Marcô cố gắng đáp ứng những nhu cầu hiện thực của Giáo hội thời Ngài. Những tín hữu Rôma đang phải điêu đứng vì những cuộc bách hại. Họ đang sống trong nỗi sợ hãi, giống như các môn đệ trong con thuyền vượt biển xưa. Đối với họ, Đức Kitô hình như đang ngủ. Việc Ngài “vắng mặt” rõ ràng trong những biến cố bi thảm họ đang sống, tạo cho họ thêm e dè sợ sệt! Chúa phải làm gì để giải thoát họ khỏi cảnh chết chóc đang rình rập” (Fiches dominicales, năm B, tr 207).
b) Chúa vẫn có mặt ở đó.
Cơn sóng gió nổi lên dữ dội, các môn đệ bất lực, không chèo chống nổi, nước tràn vào đầy thuyền và sắp ngập, khi đó Đức Giêsu lại đang nằm ngủ ở đàng lái! Ngài ở chỗ quan trọng nhất vì số phận con thuyền tùy ở tay lái. Thế mà đang lúc khó khăn nguy hiểm tột độ, Ngài lại nằm ngủ.
Đối với Marcô, Ngài nằm ngủ nhưthế là hình ảnh về Thiên Chúa như nhắm mắt làm ngơ và ngủ say quên mất rằng loài người chúng tasắp chết rồi, con thuyền Hội thánh đang sắp chìm và bản thân chúng tasắp bị vùi giập trong nguy hiểm. Thái độ lạ lùng này khiến loài người phải đặt ra nhiều câu hỏi về vấn đề đau khổ và sự dữ: có Thiên Chúa hay không? Ngài không biết chúng ta đang đau khổ sao? Ngài bất lực hay đa đoan như người ta thường nói về “Con Tạo”?
Bài đọc 1 cũng đặt ra cho chúng ta một câu hỏi, giống như thời ông Gióp; chúng ta cũng tra hỏi, chất vấn, sửng sốt, đòi hỏi Chúa phải giải thích và trình bầy cho ra nhẽ! Tại sao vẫn xẩy ra những vụ tàn sát những người vô tội, những cảnh chém giết nhau không nương tay, những cuộc bách hại đẫm máu, những trận dịch kinh hoàng, những bất công chỉ biết kêu trời báo oán, những cảnh chết đói khiến phải đào mồ chôn tập thể?
Thật ra, đường lối sư phạm của Thiên Chúa rất huyền diệu, ta không hiểu nổi, nhưng dầu sao nó cũng nhằm giúp chúng tatin tưởng rằng trong mọi nơi mọi lúc “Con thuyền Giáo hội lúc nào cũng bị sóng gió dập dồn” (theo Tertullianô), nhưng không sao, không bị chìm được vì luôn có Ngài ở đó, Ngài có vẻ ngủ nhưng thực ra Ngài vẫn thức để theo dõi chúng ta chèo chống và chờ đợi chúng ta kêu cầu Ngài giúp đỡ.
Theo nhận xét của chúng ta, dù có Đức Giêsu ở trong thuyền với các môn đệ thì bão tố vẫn xẩy ra. Vì thế, dù bão tố có chụp xuống chúng ta, điều đó không có nghĩa là Thiên Chúa đã bỏ rơi chúng ta. Nếu chúng ta có đức tin, chúng ta sẽ không nghi ngờ Ngài ở với chúng ta, và chúng ta sẽ hướng về Ngài để cầu xin và tin chắc rằng Ngài sẽ đến giúp đỡ.
Một ngày kia, viên lái đò chở hoàng đế César qua sông, thấy sóng cả đã ngã tay chèo, được hoàng đế phán ra một câu bất hủ:”Anh không biết là anh đang chở hoàng đế César sao”?
Một vị hoàng đế sẽ bất lực trước cơn cuồng phong dữ dội, thế mà dám nói những lời như thế. Thì huống hồ ở đây, không phải là vị vua trần thế mà là vua cả trên trời Ngài làm cho sóng gió bão táp phải lặng yên sao? Thánh vịnh đã nói:
Đổi phong ba thành gió thoảng nhẹ nhàng
Sóng đang gầm, bỗng im tiếng.
Họ vui mừng vì trời yên bể lặng
Và Chúa dẫn đưa về bến mong chờ.
(Tv 107, 29-30)
III. THÁI ĐỘ CỦA CHÚNG TA.
Câu chuyện trong bài Tin mừng hôm nay dạy chúng ta bài học: hãy tin cậy vào Chúa và cầu nguyện.Ai cũng thích sóng yên bể lặng, xuôi chèo mát mái. Nhưng cuộc đời nào mà chẳng có giông tố? Tuy nhiên, chính giông tố mới giúp chúng ta nhận ra chính mình: mình còn yếu đuối và bất lực, còn nhát đảm và kém tin. Cũng chính giông tố sẽ đưa ta đến với Chúa, để ta hoàn toàn phó thác cho sự quan phòng của Ngài. Cũng chính giông tố sẽ giúp chúng ta biểu lộ đức tin. Có thể nói, đức tin sẽ lớn lênít nhiều sau mỗi lần giông tố.Khi đã biết con người hoàn toàn yếu đuối và bất lực thì chỉ còn biết trông cậy vào Chúa và xin Ngài đến cứu giúp, không phải chỉ cầu xin khi gặp hoạn nạn, nhưng phải tin Chúa và cầu xin Ngài mọi nơi mọi lúc trong lúc được bình yên.
Truyện: Cầu nguyện khi bình yên.
Có câu chuyện về một đại úy hải quân, khi về hưu làm thuyền trưởng trên một chiếc tầu đưa khách đến đảo Shetland tham quan trong ngày. Trong một chuyến đi chơi, tầu chở toàn thanh niên. Họ cười nhạo ông đại úy gìa khi thấy ông này cầu nguyện trước lúc ra khơi, bởi vì đó là một ngày trời đẹp và biển êm.
Nhưng biển không êm lâu khi một trận cuồng phong bất ngờ thổi tới và chiếc tầu bắt đầu chồm lên chồm xuống dữ dội. Các hành khách hoảng sợ chạy đến ông đại úy thuyền trưởng để yêu cầu ông cùng cầu nguyện với họ. Nhưng ông đáp:”Tôi đã cầu nguyện lúc trời êm bể lặng. Khi sóng gió nổi lên, tôi phải lo cho con tầu của tôi”.
Đó là một bài học cho chúng ta. Nếu chúng ta không thể hoặc không muốn tìm đến Thiên Chúa trong những lúc yên tĩnh của đời mình thì chúng ta có lẽ sẽ không tìm thấy Người khi cơn rối loạn chụp xuống. Có lẽ chúng ta hoảng sợ nhiều hơn. Nhưng nếu chúng ta đã biết tìm đến Người và phó thác nơi Người trong những lúc bình yên thì hầu như chắc chắn chúng ta sẽ tìm thấy Người khi sóng gió nổi lên (Flor McCarthy, Phụng vụ Chúa nhật B, tr 458).
Mỗi người chúng ta không khác gì chiếc thuyền nan chồng chềnh giữa biển trần gian đầy sóng gió bão táp, khó khăn nối tiếp khó khăn. Nếu chúngta chỉ dựa vào sức mình hay dựa vào một quyền năng nào đó thì chúng ta sẽ thất bại. Ai có thể cứu chúng ta thoát khỏi sóng gió ba đào khi chiếc thuyền của chúng ta sắp chìm? Chỉ còn có Thiên Chúa. Ngài như người cha lái con tầu vững chắc trên biển cả, chúng ta là con chỉ biết tin tưởng vào quyền năng của người Cha trên trời.
Có Chúa trong đời, Ngài sẽ hướng dẫn cuộc đời của mỗi chúng ta. Lúc đó, những cô đơn như bị xóa nhòa, những khó khăn dường như nhỏ lại, những yếu đuối như được mạnh sức. Chúng ta không cầu xin cho cuộc đời mình như biển lặng, nhưng xin cho cõi lòng chúng tađược tĩnh lặng ngay giữa lúc biển động.
Truyện: Cha tôi câm lái tầu.
Một thi sĩ người Anh, ông Byron, có viết một câu chuyện nhưsau:
Hôm ấy, một con tầu đang rẽ sóng lướt đi trên mặt biển mênh mông. Bỗng chốc, bầu trời kéo mây đen đặc. Rồi giông tố ầm ầm nổi lên, sấm chớp kinh hoàng. Mưa càng lớn, gió càng mạnh. Các hành khách kêu la hỗn loạn. Duy có một em bé cứ ngồi chơi trên boong tầu như không có gì xẩy ra.
Lạ lùng, một thủy thủ giương to đôi mắt hỏi em:
- Em không sợ chết sao?
Cậu bé thản nhiên trả lời:
- Sao lại sợ? Chính ba cháu cầm lái con tầu này mà!
Câu chuyện trong bài Tin mừng hôm nay thách đố sự tin tưởng của chúng ta vào quyền năng của Thiên Chúa. Khi đã có đức tin, chúng ta không cần đứng ra chỉ huy mọi sự. Đã có Chúa Tình yều, Ngài sẽ làm tất cả.
8. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Đồng bào chúng ta vẫn tin ở Ông Trời, coi Ông Trời là Đấng làm chủ gió mưa, thời tiết, mùa màng và nắm vận mạng của con người. Phần chúng ta, nhờ đức tin, chúng ta được biết Ông Trời ấy chỉ là một ý thức mơ hồ về Thiên Chúa. Chúng ta cảm tạ Thiên Chúa đã cho chúng ta được biết Ngài và chúng ta hãy cố gắng yêu mến thờ phượng Ngài cho xứng đáng, nhất là trong Thánh lễ này.
II. Gợi ý sám hối
Thiên Chúa là chủ tể thiên nhiên. Đối với Ngài, chúng ta thường cầu xin ơn này ơn nọ, nhưng ít khi để ý tới việc thờ phượng Ngài.
Thiên Chúa là Đấng quan phòng chăm sóc mọi loài. Nhưng ít khi chúng ta trông cậy phó thác vào Ngài.
Ngày xưa, Đức Giêsu đã trách các môn đệ thiếu đức tin. Huống chi chúng ta, đức tin chúng ta cũng rất yếu kém.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (G 38,1.8-11)
Gióp là một người công chính nhưng phải gặp rất nhiều tai họa. Thân nhân ông trách móc Chúa và không tin vào Chúa nữa. Phần ông, ông không dám trách mà chỉ than thở và cầu xin Chúa cho ông một lời giải đáp về lý do những khổ sở ông đang chịu.
Trong trích đoạn này, Thiên Chúa đưa ra một lời giải đáp gián tiếp: Ngài là chủ tể của thiên nhiên. Chính Ngài điều hành sức mạnh của nước: Ngài tạo dựng ra nó, ấn định cho nó được chảy tới đâu, ngăn không cho nó tràn bờ...
Lời giải đáp hàm chứa trong Lời Chúa là: mọi sự lành hay sự dữ đều được Chúa cho phép mới xảy tới, con người phải biết phó thác vào sự sắp xếp của Ngài.
2. Đáp ca (Tv 106)
Tv này là một bài ca tụng uy quyền Thiên Chúa trên biển cả.
3. Tin Mừng (Mc 4,35-41)
Biển hồ Galilê thường có bão, nhất là vào buổi chiều. Chiều hôm ấy Đức Giêsu bảo các môn đệ dùng thuyền đi từ bờ bên này sang bờ bên kia. Xem ra Ngài cố ý để cho họ gặp bão.
Khi bão đến, Đức Giêsu lại bình thản dựa vào chiếc gối sau lái mà ngủ. Đây lại là một việc làm cố ý để thử xem các môn đệ phản ứng thế nào trong cơn bão.
Phản ứng của họ là "kinh hãi", lại còn trách Chúa "Chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm sao!"
Đức Giêsu đứng lên, và chỉ cần phán một lời, bão liên ngưng. Một bằng chứng rõ ràng Ngài là chủ tể của thiên nhiên.
Sau đó, Đức Giêsu vừa trách các môn đệ vừa kêu gọi họ hãy tin vào uy quyền của Ngài.
4. Bài đọc II (2 Cr 5,14-17)
Chúng ta có thể tóm tắt ý tưởng của Phaolô trong trích đoạn này là: Đức Giêsu Kitô là tất cả.
Sau đây là các chi tiết trong lập luận của thánh Phaolô:
Vì Đức Kitô đã chết thay cho chúng ta, nên đáp lại chúng ta phải sống cho Ngài chứ đừng sống cho mình nữa.
Chúng ta cũng chẳng cần biết ai khác ngoài một mình Đức Kitô.
Đức Kitô đã ban cho chúng ta một cuộc sống mới, vậy từ nay chúng ta phải bỏ hết những gì thuộc cuộc sống cũ để sống một cuộc sống hoàn toàn mới trong Đức Kitô.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Chúa tể thiên nhiên
Bài đọc thứ I của Thánh Lễ hôm nay trích từ sách Gióp, trong đó có một hình ảnh hơi lạ: Chúa đã đóng cửa và gài chốt để ngăn không cho nước chảy tràn lan khắp mặt đất. Đó là một lối diễn tả, dựa theo vũ trụ quan của thời kỳ quyền sách này được biên soạn, tức thế kỷ thứ V trước Công nguyên, nghĩa là cách đây đến 2.500 năm. Thời đó người ta nghĩ rằng trái đất như một cái đĩa nổi bồng bềnh trên mặt đại dương. Chung quanh trái đất và bên dưới trái đất toàn là nước. Phía trên trái đất là vòm trời như một cái chụp tròn úp xuống, và cũng chứa đầy nước. Tất cả lượng nước trên vòm trời và dưới biển ấy được chặn lại bằng những cánh cửa. Khi cửa trời mở ra thì nước mưa rơi xuống; khi cửa biển mở ra thì nước thuỷ triều dân lên; còn khi cả cửa trời và cửa biển đều đóng kín lại trong một thời gian lâu dài thì đó là hạn hán. Và người giữ quyền đóng hay mở các cửa đó chính là Thiên Chúa. Đây quả là một lối nhìn vũ trụ rất là đơn sơ và có phần ngây ngô nữa. Tuy nhiên chúng ta có thể thông cảm với tác giả, vì ông sống cách chúng ta đến 2.500 năm, làm sao ông có thể diễn tả chính xác như các nhà khoa học thế kỷ 21 này được. Chúng ta chỉ cần ghi nhận tư tưởng của ông, đó là: chính Thiên Chúa là Đấng làm chủ thiên nhiên, và điều khiển thiên nhiên vận hành để giúp có thể sinh sống.
Có một điều hay, là tư tưởng ấy được chính các nhà khoa học ngày nay xác nhận. Mặc dù không trực tiếp nói đến Chúa như là Chúa tể thiên nhiên, nhưng các nhà khoa học đã cho thấy thiên nhiên đã vận hành theo một trật tự xít xao, nhờ đó mà loài người mới có thể sinh sống được. Thí dụ như trật tự vận hành của trái đất, mặt trời và mặt trăng. Cả 3 đều di chuyển không ngừng, mỗi cái theo quỹ đạo riêng của nó. Nhưng khoảng cách của chúng thì hình như đã được tính toán và điều khiển thật xít xao: chỉ cần mặt trời và trái đất gần nhau hơn một chút nữa thì trái đất sẽ nóng khủng khiếp, do đó loài người sẽ chết cháy; ngược lại chỉ cần trái đất và mặt trời xa nhau thêm một khoảng nữa thì mặt đất, sẽ giá lạnh, loài người sẽ chết cóng. Còn khoảng cách giữa mặt trăng với trái đất cũng thế: xích gần hơn chút nữa thì thuỷ triều sẽ dâng phủ ngập mặt đất, loài người chết chìm; còn dang xa hơn một chút thì không còn thuỷ triều, mọi loài trên mặt đất sẽ chết khô.
Ngay cả một hiện tượng thiên nhiên mà người ta thường coi là tai hoạ, đó là giông bão, nhưng khoa học cũng xem là có lợi. Khi nào có giông bão? Thưa là khi một vùng quá nóng, không khí bốc lên cao tạo thành một khoảng trống. Không khí ở các vùng khác liền ùa về để lấp đầy khoảng trống đó. Dĩ nhiên, khi mà không khí di chuyển như thế với một tốc độ nhanh thì sẽ tạo ra những luồng gió mạnh, có thể làm gãy cây cối, sập nhà, và có người chết. Nhưng nếu nhìn hiện tượng ấy một cách bao quát thì sẽ thấy giông bão là có lợi, và cần thiết nữa, vì nhờ đó mà không khí trên mặt đất được điều hoà.
Rõ ràng thiên nhiên đã được điều khiển theo một trật tự diệu kỳ bởi một Đấng đầy quyền năng. Đấng quyền năng ấy là ai? Nhiều người chưa được biết, nhưng từ xưa tác giả sách Gióp đã biết và gọi đó là Thiên Chúa. Hôm nay Tin mừng lại nói cho chúng ta biết thêm một lần nữa. Chúng ta hãy nói đến cơn giông bão trên biển hồ Gênêzarét. Vị trí của Biển hồ này hơi đặc biệt: nó giống như một cái lòng chão dưới thấp, chung quanh được bao bọc bởi những rặng núi. Như đã nói ở trên giông bão là do không khí di chuyển đổi vùng với một tốc độ nhanh mạnh. Vậy thì cái Biển Hồ này, do địa thế đặc biệt của nó nên nó rất thường gặp giông bão. Bởi vì khi những luồng gió mạnh thổi qua, gió bị núi ngăn chặn nên không lướt ngay đến vùng khác được., nhưng chạy vòng vòng giữa các rặng núi tạo thành những cơn lốc xoáy, và thế là có bão trên mặt biển. Tuy nhiên những cơn bão này cũng chóng tan. Hôm ấy, Đức Giêsu và các tông đồ đang di chuyển bằng thuyền trên mặt Biển Hồ thì gặp giông bão. Đức Giêsu vì đã nắm rõ bản chất của những cơn bão loại đó nên an tâm cứ nằm ngủ. Còn các tông đồ thì hoảng sợ cuống cuồng. Các ông còn trách móc Chúa "Thưa Thầy, chúng con chết đến nơi rồi mà Thầy không quan tâm sao?" Đức Giêsu bình tĩnh đứng dậy ra lệnh cho gió và biển, lập tức bão yên, biển lặng. Sau đó Chúa trách lại các tông đồ "Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?" Qua sự kiện này, Đức Giêsu muốn chứng tỏ rằng Ngài chính là chúa tể của thiên nhiên, và mời gọi chúng ta hãy tin vào Ngài.
Thế nào là tin vào Chúa là chúa tể thiên nhiên?
- Trước hết là đừng kiêu căng: có một số người có chút ít kiến thức về khoa học, hay có được một vài công trình khoa học ứng dụng trên thiên nhiên, rồi tưởng mình đã là giỏi lắm, đã hoàn toàn điều khiển được thiên nhiên, và từ đó tự coi mình là chúa tể, phủ nhận cả Thiên Chúa. Thực ra khoa học không tạo ra thiên nhiên, khoa học cũng không sửa đổi được những quy luật điều khiển thiên nhiên. Tất cả những gì mà khoa học có thể làm được chỉ là nghiên cứu thiên nhiên có sẵn, tìm hiểu những quy luật có sẵn trong thiên nhiên, rồi ứng dụng để mưu lợi ích cho loài người. Thí dụ như khoa học làm ra được một chiếc tàu chạy trên mặt biển, thì cũng nhờ dựa vào những quy luật thiên nhiên có sẵn, như luật về sức đẩy Archimède khiến cho thân tàu có thể nổi trên mặt nước, luật về sức đẩy của gió được ứng dụng để thổi những cánh buồm v.v. Có gì là ghê gớm lắm đâu? có gì mà đã lên mặt coi mình giỏi hơn cả Thiên Chúa? Có gì mà kiêu căng?
- Thứ hai là đừng mê tín dị đoan: nếu như người kiêu căng là người quá tự phụ vì những hiểu biết khoa học của mình đến nỗi phủ nhận vai trò của Chúa, thì người mê tín dị đoan là người vì không có những kiến thức cơ bản của khoa học và của giáo lý nên không đủ tin vào Chúa mà lại tin những điều nhảm nhí. Ngày xưa vì ngu dốt nên người ta nhìn đâu đâu cũng cho là có thần: như thần sấm sét, thần gió, thần lửa, thuỷ thần, hà bá... Còn ngày nay cũng có người coi các thứ bệnh tật như là do tà ma, do quỷ ám, do bị thư, bị bùa, bị ngãi... Thực ra bệnh tật là gì? Theo giáo lý, đó là thân phận tự nhiên của loài người kể từ sau tội nguyên tổ. Còn theo khoa học, bệnh là do cô thể suy yếu mà ra. Có bệnh thì phải chữa trị bằng vệ sinh, bằng y dược, chứ không phải chỉ cầu xin, khấn vái hay uống bùa uống ngãi mà hết được, vừa không hết bệnh, lại vừa phạm tội thiếu lòng tin vào Chúa.
- Điều thứ ba để tỏ lòng tin vào Chúa là Chúa tể thiên nhiên là an tâm vui sống dưới ánh mắt Chúa Quan phòng: Chúa đã tạo dựng muôn loài, Chúa còn tiếp tục chăm sóc cho muôn loài, trong đó đương nhiên và hơn hết là loài người chúng ta. Đức Giêsu đã phán "không một sợi tóc nào trên đầu chúng con rụng xuống mà không do ý của Chúa". Vì thế cho dù sự đời có lúc suy, cuộc đời có lúc thăng lúc trầm, nhưng nếu ta biết mọi sự đều năm trong tay Chúa quan phòng thì chúng ta hãy an tâm phó thác đời mình cho Chúa, không có gì phải sợ hãi quá "Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?"
* 2. Quyền năng Thiên Chúa và phát minh khoa học.
Trong vài thế kỷ gần đây, loài người đã có nhiều phát minh khoa học rất to lớn:
Cuối thế kỷ 19, Lilienthal làm ra chiếc máy bay có 2 cánh rộng để lượn theo chiều gió. Sau đó Ader đã cải tiến cho chiếc máy bay chạy bằng động cơ.
Cũng trong thế kỷ 19 đó, Thomas Edison đã phát minh ra bóng đèn điện. Phát minh đó đã khiến cho người ta mừng rỡ và nhiều người đã coi ông như là Thần Ánh Sáng.
Đến thế kỷ 20, người ta đã bước lên cung trăng và còn đang tiếp tục đi đến các hành tinh khác.
Cách đây vài năm, người ta đã biết phương pháp "nhân bản" sinh vật (cloning), nghĩa là lấy một tế bào của một sinh vật rồi làm cho thụ tinh để sinh ra một hoặc nhiều sinh vật giống y sinh vật gốc.
Và hiện nay người ta đang giải mã bộ gien của người và các sinh vật. Kết quả này sẽ giúp trị được rất nhiều chứng bệnh nan y.
Những thành công to lớn ấy của khoa học đã khiến cho một số người nghĩ rằng loài người có thể làm được mọi sự, không cần đến Thiên Chúa nữa... Có kẻ còn cho rằng chẳng có Thiên Chúa nữa. Có đúng như vậy không?
- Xét kỹ những phát minh khoa học chúng ta sẽ nhận ra rằng loài người thực ra chẳng làm gì hơn là khám phá ra những quy luật có sẵn trong thiên nhiên và áp dụng những quy luật ấy để phục vụ cho đời sống. Chẳng hạn như những phát minh mà chúng ta vừa nói ở trên:
Chiếc máy bay: đây không phải là sáng kiến mới mẻ gì, mà chỉ là bắt chước khả năng của loài chim thôi.
Còn về dòng điện: cũng không phải là do con người sáng tạo ra. Điện đã có sẵn trong thiên nhiên từ khi mới có vũ trụ. Đến cuối thế kỷ 18, Benjamin Franklin mới khám phá ra nó có trong sấm sét. Về sau người ta mới đưa điện vào sử dụng trong nhiều việc.
Và việc người ta tạo ta những bào thai trong ống nghiệm cũng không phải là vượt quyền Chúa sáng tạo nên một con người. Người ta vẫn phải dùng đến những tế bào nam nữ có sẵn và cho kết hợp trong ống nghiệm thay vì kết hợp trong bụng mẹ thế thôi.
Tóm lại, Khoa học chỉ là bắt chước thiên nhiên, làm lại những gì mà thiên nhiên đã từng làm từ ngàn triệu năm trước. Do đó, nếu ai biết nhìn xa cho tới Đấng đã sáng tạo nên thiên nhiên thì người đó càng đi sâu vào khoa học chừng nào thì càng ngưỡng mộ Thiên Chúa bấy nhiêu. Chỉ có những kẻ thiển cận mới tưởng những khám phá ấy là do chính mình sáng tạo và phủ nhận quyền năng của Thiên Chúa. Chúng ta thấy có 2 thái độ nơi những nhà khoa học: một là thái độ khiêm tốn của một nhà thiên văn kia, ông nói "Tôi đã nhìn ra Thiên Chúa qua ống kính viễn vọng của tôi"; và một nhà du hành vũ trụ khác thì ngạo mạn tuyên bố "Tôi đã bay lên tận trời, nhìn khắp nơi mà chẳng thấy có Thiên Chúa đâu cả". Hai thái độ khác nhau ấy xuất phát từ hai lối nhìn khác nhau: một nhìn xa và một nhìn gần; xuất phát từ hai tâm trạng khác nhau: một là khiêm tốn, hai là kiêu căng.
- Bài Tin mừng hôm nay giúp chúng ta xác định rõ ai là chủ thực sự của thiên nhiên: chỉ có Chúa mới là chủ thiên nhiên đích thực và đúng nghĩa. Con người chẳng làm gì hơn là khám phá những bí mật của thiên nhiên. Nếu có nói con người là chủ thiên nhiên thì chỉ là theo nghĩa con người được Thiên Chúa ban quyền quản lý thiên nhiên và ban cho những khả năng để khám phá những bí mật trong thiên nhiên ấy. Con người biết suy nghĩ chín chắn và khiêm nhường không thể nào phủ nhận vai trò của Thiên Chúa được. Con người chỉ khám phá những gì có sẵn thôi. Chừng nào con người không cần dùng tới những gì có sẵn ấy, chỉ nói một lời mà có được mọi sự (như Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay chỉ phán một lời thì gió liền yên, biển liền lặng) thì khi đó con người mới có quyền tuyên bố mình là chủ thực sự của thiên nhiên.
Chúng ta phải nhìn nhận rằng khoa học kỹ thuật ngày nay đang tiến những bước thật xa thật nhanh đến nỗi có thể khiến chúng ta say sưa khâm phục. Sự say sưa khâm phục ấy có thể giúp con người suy nghĩ xa hơn, tìm đến chính Đấng là tác giả của những việc kỳ diệu ấy trong thiên nhiên. Nhưng cũng sự say sưa khâm phục ấy có thể làm choáng mắt con người khiến con người chỉ thấy tài năng của mình mà ngạo mạn phủ nhận vai trò của Thiên Chúa.
- Cầu mong cho việc học hỏi tìm tòi không làm chúng ta xa Chúa nhưng khiến chúng ta càng tới gần Chúa hơn. Cầu mong cho việc học hỏi tìm tòi của chúng ta không biến chúng ta thành những kẻ kiêu căng, nhưng giúp các bạn càng khiêm nhường hơn, như lời của một danh nhân nọ "Càng học thì thấy mình càng dốt".
* 3. Cha em là người cầm lái.
Trong một cuộc hải trình vượt Đại Tây Dương, khách du lịch đang thư thái ngắm cảnh hoàng hôn trên boong tàu.
Nơi tít mù xa, mặt trời đỏ cam đang chiếu những ánh vàng cuối cùng của một ngày còn sót lại.
Bỗng mây đen ùn ùn kéo tới, tối sầm cả một vùng trời. Sấm chớp đổ xuống liên hồi, giông tố cuồn cuộn nổi lên, càng lúc càng thét gào dữ dội.
Mọi người trên boong chen lấn nhau chạy về phòng mình. Duy chỉ có một bé trai cứ tiếp tục chạy giỡn trên boong giữa trận cuồng phong.
Được hỏi tại sao em không sợ hãi trước cơn giông tố?
Em thản nhiên đáp lại:
- Vì cha em là người cầm lái con tàu!
***
Giống như khách du lịch trong câu chuyện trên, các môn đệ cũng gặp một trận cuồng phong khi vượt biển. Các ngài kinh hoàng vì thấy mình sắp bị nuốt chững. Bó tay bất lực trước phong ba bão táp, các ngài đã vội đánh thức Đức Giêsu và xin Người ra tay cứu giúp: "Thưa Thầy, chúng con chết mất, Thầy không quan tâm sao" (Mc. 4,38). Người liền đe gió và phán với biển như một người bị quỉ ám: "Hãy im đi". Tức thì sóng yên biển lặng.
Ai cũng thích sóng yên biển lặng, xuôi chèo mát mái. Nhưng cuộc đời nào mà chẳng có những cơn giông? Đại dương nào mà không có những bão tố?
Tuy nhiên, chính giông tố mới giúp chúng ta nhận ra chính mình: mình còn yếu đuối và bất lực, còn nhát đảm và kém tin.
Cũng chính giông tố sẽ đưa ta đến với Chúa, để ta hoàn toàn phó thác cho sự quan phòng của Người. Cũng chính giông tố sẽ giúp ta biểu lộ đức tin. Có thể nói, đức tin sẽ lớn lên ít nhiều sau mỗi lần giông tố.
Thánh Phaolô viết: "Thiên Chúa không ban cho ta một thần khí nhát sợ nhưng mạnh mẽ, bác ái và tự chủ" (2Tm.1,7),
Mỗi người chúng ta không khác chi chiếc thuyền nan chông chênh giữa cơn lốc cuộc đời, khó khăn nối tiếp khó khăn. Giống như cậu bé đã tin tưởng ở cha mình cầm lái con tàu, mỗi người chúng ta cũng hãy vững tin ở Thiên Chúa tình yêu. Người sẽ hướng dẫn cuộc đời của mỗi chúng ta. Có Chúa trong đời, những cô đơn như bị xóa nhòa, những khó khăn dường như nhỏ lại, những yếu đuối như được mạnh sức. Chúng ta không cầu xin cho cuộc đời mình như biển lặng, nhưng xin cho cõi lòng chúng ta được tĩnh lặng ngay giữa lúc biển động.
Thánh Phanxicô Salêsiô dạy: "Phải ở lại trong con thuyền mà Thiên Chúa đã đặt chúng ta vào, để hành trình từ cõi đời này về chốn đời sau. Chúng ta phải sẵn sàng ở lại trong sự bình an thanh thản".
***
Lạy Chúa, thuyền đời chúng con chẳng bao giờ được êm ả, nó chỉ êm ả khi tới bến thiên đường. Xin cho lòng chúng con luôn bình an ngay cả khi Chúa còn đang ngủ, miễn là có Chúa trong thuyền, vì Chúa chính là thuyền trưởng của đời chúng con. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 4. Vượt tầm kiểm soát
Chiều hôm ấy, Đức Giêsu và các môn đệ đi thuyền vượt biển. Một cơn bão nổi lên. Ban đầu, các môn đệ còn chèo chống và giữ được con thuyền vẫn còn đứng vững trước phong ba bão táp. Đó là tình trạng còn trong tầm kiểm soát. Khi mọi sự còn trong tầm kiểm soát nghĩa là chúng còn nằm trong khả năng xoay sở của ta. Khi đó ta rất dễ nghĩ rằng mình có đức tin. Lèo lái con thuyền đời mình cũng thế. Khi ta còn kiểm soát được những sự việc xảy ra cho đời mình thì ta cảm thấy hạnh phúc. Ta xác định những mục tiêu, ta hoạch định chương trình, ta làm chủ tình thế. Những khi đó, ta không thực sự cảm thấy cần đến Chúa.
Nhưng giông tố ngày càng lớn. Các môn đệ dù đã làm hết sức mình nhưng vẫn không giữ được con thuyền, nó sắp chìm. Các ông chợt nhận ra rằng tình thế đã vượt tầm kiểm soát của họ. Trong đời chúng ta cũng có những lúc tương tự như thế. Đó là khi ta gặp một hoàn cảnh quá khó khăn, hay khi ta bệnh nặng, ta sắp chết. Những khi đó ta thấy mình như không còn sức lực, ta hoang mang, sợ hãi. Chính những khi đó ta mới biết đức tin của mình còn quá yếu kém, thậm chí không có đức tin thực sự. Ta nghĩ rằng không có Chúa hoặc Chúa đã bỏ ta. Trong bài Tin Mừng này, các môn đệ cũng cảm thấy như thế. Họ chạy đến tìm Đức Giêsu nhưng họ thấy Ngài đang ngủ. Họ còn trách Ngài nữa.
Giữa phong ba bão táp, Đức Giêsu vẫn ngủ. Đó là dấu chỉ một đức tin vững mạnh vào Thiên Chúa. Ngược hẳn với đức tin yếu kém của các môn đệ. Khi họ kêu cầu Ngài, Ngài thức dậy, và chỉ một lời thôi, Ngài dẹp yên bão táp.
Con thuyền trong bão táp, đó là hình ảnh cuộc đời chúng ta. Nên nhớ là trong thuyền có Đức Giêsu. Mặc dù Ngài ngủ nhưng Ngài không ở xa và không bỏ chúng ta một mình. Ngài ngủ để thử đức tin của chúng ta đó thôi, để chúng ta biết được đức tin của mình đã vững mạnh hay vẫn còn yếu kém. Chỉ cần chúng ta nhớ đến Ngài, kêu xin Ngài thì Ngài sẵn sàng thức dậy và dẹp yên bão táp đang đe dọa chúng ta.
5. Chuyện minh họa
a/ Câu chuyện của cây vả
Một cây vả kia đã đứng vững suốt mùa đông trước bao cơn gió mạnh. Nhưng đến đầu mùa hè, khi gặp một cơn gió trung bình thôi, nó đã ngã sập xuống. Nhiều người lấy làm lạ.
Thực ra cũng chẳng có gì lạ lắm: Trong mùa đông, cũng như hầu hết các cây khác, cây vả này bị rụng trụi lá. Gió đông có thổi đến thì cũng lọt qua các cành trơ trụi khẳng khiu của nó và bay đi. Bởi thế bao nhiều cơn gió mùa đông cũng không làm cho nó nhúc nhích. Nhưng đông tàn, xuân tới, cây vả bắt đầu đâm chồi nẩy lộc. Đến mùa hè thì cành lá đã xum xuê. Khi gió thổi đến, lá cây cản lại làm sức tấn công của gió càng mạnh hơn. Chính vì thế mà cây vả không còn đứng vững được nữa.
Câu chuyện này giúp ta hiểu thế nào là "giông tố mùa đông" và "giông tố mùa hè". "Giông tố mùa hè" gây hại nhiều hơn "giông tố mùa đông". "Mùa hè" nói đây là lúc cuộc đời ta đang đầy đủ, thoải mái, sung sướng.
b/ Loại máy bay đầu tiên
Ngày kia, tôi đang ngồi trong phòng, một con ruồi vo ve bay vào. Nó bay dập dờn và vù xuống ăn những thức ăn thừa....Nó làm bất cứ điều gì nó thích và bất cứ khi nào nó muốn.
Một con ruồi chỉ là một sinh vật. Nó hơn hẳn chiếc máy bay.... Nó cất cánh mà không cần chạy như máy bay. Nó đáp xuống ngay tức khắc. Nó không bao giờ rơi và không bao giờ đâm vào bất cứ vật gì hoặc gặp một tai nạn nào. Phi hành đoàn của nó không phải học cách lái hoặc kiểm tra. Nó không có những động cơ trục trặc hay hết nhiên liệu. Và hơn thế nữa: nó có thể sản xuất ra những chiếc máy bay tương tự mà chỉ cần một chút sức lực.
Thật khó có thể kiếm được một thiết bị điện tử hoặc động cơ nào sánh với tất cả những gì một con ruồi có thể làm.
Nó chỉ là một trong nhiều sinh vật của Chúa.....và cho ta thấy rằng có ai đó đã tạo ra nó.
c/ Điều huyền bí.
Một thanh niên đi du lịch tới một thành phố lớn. Đến một nhà thờ, cậu ngả mũ cung kính cúi chào. Thấy điều này, một hành khách vẻ trí thức bên cạnh cậu nhận định:
- Ồ, tôi biết bạn có đạo. Bạn học gì ở đó?
- Tôi học những điều huyền nhiệm của tôn giáo.
- Huyền nhiệm? Bạn không biết rằng chúng ta chẳng bao giờ tin những gì chúng ta không hiểu? Ít ra đó là nguyên tắc của tôi.
- Vậy anh hãy nói cho tôi biết tại sao ngón tay anh cử động khi anh ngoáy nó?"
- Nó cử động vì sự sống trong tôi làm nó cử động.
- Nhưng tại sao nó cử động?
- Vì tôi muốn thế.
- Tại sao tai của anh không cụp lại khi anh muốn?
Lúc đó cuộc đối thoại chấm dứt.
6. Tin vào quyền năng Thiên Chúa
Một sinh viên y khoa người Tây Ban Nha đi viếng trung tâm hành hương kính Đức Mẹ tại Lộ Đức. Ở đại học Madrid, người sinh viên này đã từng nghe các giáo sư vô tín ngưỡng nói về Lộ Đức như xuất xứ của những thứ mê tín dị đoan vẫn còn được loan truyền đi nhiều nơi. Ba tháng ở Lộ Đức, anh muốn theo dõi việc làm của văn phòng xác minh các phép lạ xảy ra tại trung tâm này.
Vậy thời gian ba tháng ở Lộ Đức, người sinh viên này đã được chứng kiến ba phép lạ. Cả ba trường hợp đều có các bác sĩ vô thần theo dõi để xác minh tính đích thực của phép lạ.
hãy nghe người sinh viên này chia sẻ điều mắt thấy tai nghe về một trong ba phép lạ đó.
Tại Lộ Đức
"Hôm đó tôi đang ở tiền đường vương cung thánh đường Lộ Đức cùng với các chị của tôi hiện có đó chỉ mấy phút trước khi Kiệu Mình Thánh Chúa đi qua. Khi ấy một người đàn bà tuổi trung tuần đang đẩy chiếc xe lăn qua trước mắt chúng tôi. Một người chị tôi lưu ý chứng tôi khi nói "Kìa hãy coi cậu con trai đáng thương trên chiếc xe lăn!" Đó là một chàng trai chừng 20 tuổi bị bệnh bại liệt làm biến dạng. Mẹ của chàng khi ấy lần chuỗi to tiếng, lúc lúc lại thở dài thưa với Đức Mẹ "Lạy Đức Nữ Đồng Trinh, xin giúp đỡ chúng con!" Quả là một cảnh tượng cảm động gợi nhớ lại bệnh nhân xưa đã thưa với Đức Giêsu: "Lạy Chúa, xin cho con được sạch khỏi bệnh phong." Người đàn bà đẩy xe lăn không muốn chậm trễ nhưng đã tới ngay chỗ những người đang chờ Đức Giám Mục rước Mình Thánh đi ngang qua.
Đã đến lúc Đức Giám Mục sắp ban phép lành Mình Thánh cho chàng thanh niên bại liệt. Khi ấy chàng thanh niên nhìn thẳng mặt nhật đựng Mình Thánh Chúa. Đó xem ra là cách anh biểu lộ niềm tin của anh. Thế rồi khi Đức Giám Mục ban phép lành với dấu thánh giá bao quát, cậu thanh niên bại liệt liền chỗi dậy, ra khỏi xe lăn, hoàn toàn khỏi bại liệt! Dân chúng liền hô to trong niềm vui: "Đó là một phép lạ! Đó là một phép lạ!"
Nhờ có giấy phép đặc biệt, tôi được chứng kiến những xác minh tiếp theo để thấy quả thật, Chúa đã chữa lành người thanh niên. Tôi không thể nào diễn tả hết được những điều tôi cảm nhận và tâm trạng tôi lúc đó. Tôi đến từ trường Y Khoa Đại Học Madrid, nơi có nhiều giáo sư vô tín (và nhiều vị nổi tiếng). Nhiều sinh viên bạn học tôi luôn nhạo báng các phép lạ. Và giờ đây, tôi được thấy tận mắt một phép lạ. Đây là một phép lạ do Đức Giêsu Thánh Thể thực hiện, cũng Đức Giêsu xưa đã từng chữa lành bao người bại liệt và bệnh nhân khác. Tôi nghiệm được một niềm vui lớn lao. Tôi có ấn tượng tôi được ở ngay bên cạnh Chúa. Khi ấy tôi cảm nhận sức mạnh vô song của Chúa và cảm thấy thế giới bao quanh tôi bỗng trở nên cực kỳ nhỏ bé. Tôi đã trở về Madrid, Tây Ban Nha. Những chồng sách, những bài học, những cuộc thí nghiệm tôi đã từng thực hiện với bao là hứng khởi nay không còn là sức nặng lôi kéo tôi nữa. Các bạn tôi hỏi tôi: "Điều gì đã xảy ra cho cậu trong niên học này vậy? Điều gì khiến cậu sững sờ?" Quả thật tôi bị sững sờ do kỷ niệm khiến tôi bị khuynh đảo mỗi ngày. Duy hình ảnh Mình Thánh Chúa được giơ lên để ban phép lành khiến cậu thanh niên bại liệt kia nhảy vọt ra khỏi chiếc xe lăn, hình ảnh ấy in sâu vào ký ức và vào trái tim tôi. Ba tháng sau đó tôi nhập Tập Viện Dòng Tên. Đó là ngày 15 tháng 1, 1927."
Tại Nhật Bản
Chàng sinh viên ấy tên là Pedro Arrupe. Suốt đời chàng sẽ không bao giờ quên được phép lạ Chúa làm trước mắt anh. Được củng cố mạnh mẽ do phép lạ như dấu chỉ về quyền năng vô cùng của Thiên Chúa, anh sẽ không bao giờ lùi bước trên đường dấn thân phục vụ Người:
+ Bị trục xuất khỏi quê hương Tây Ban Nha ngày 13 tháng 02, 1932 cùng với tất cả các tu sĩ Dòng Tên.
+ Nhận thừa tác vụ Linh Mục ngày 30 tháng 7, 1936 tại Hà Lan.
+ Được phái đi truyền giáo tại Nhật Bản ngày 15 tháng 10, 1938
+ Phục vụ nạn nhân bom nguyên tử giáng trên Hiroshima ngày 6 tháng 8, 1945.
+ Được bầu làm Tổng Quyền thứ 29 Dòng Tên ngày 22 tháng 5, 1965 sau nhiều năm làm giám đốc Tập Sinh và làm giám tỉnh Dòng Tên ở Nhật.
Quả thật phép lạ xưa cũng như nay chỉ có ý nghĩa khi là dấu chỉ về Nước của Thiên Chúa như lời Đức Giêsu tuyên bố với người Pharisêu: "Nếu tôi dựa vào Thần Khí của Thiên Chúa mà trừ quỷ thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông" (Mt 12,28). Ai nhận ra dấu lạ Chúa làm cũng được thúc đẩy dấn thân hết mình để phục vụ Nước Thiên Chúa.
Câu chuyện phép lạ chàng thanh niên bại liệt được chữa lành tại Lộ Đức khiến chàng sinh viên Pedro Arrupe được hoán cải như thế nào trên con đường phục vụ Nước Chúa. Cuộc hoán cải ấy không thấm vào đâu so với cuộc hoán cải của Simon Phêrô và các bạn một khi nhận biết quyền năng của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Phục Sinh. Họ đã hy sinh cả mạng sống mình để phục vụ Nước Thiên Chúa. Họ đã thực sự trở nên giềng cột của Hội Thánh Chúa nhờ tin vào quyền năng của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu. (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Trong niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa là chủ tể thiên nhiên, chúng ta hãy dâng lên Ngài những lời cầu xin của chúng ta:
1. Hội Thánh có sứ mạng rao giảng cho mọi người nhận biết Thiên Chúa là chủ tể của thiên nhiên. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho nhân loại đón nhận lời rao giảng của Hội Thánh.
2. Khoa học kỹ thuật ngày nay rất tiến bộ, phát minh ra nhiều điều kỳ diệu. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những phát minh đó không làm cho loài người kiêu căng chối bỏ Chúa, trái lại giúp loài người càng nhận biết và khâm phục Chúa hơn.
3. Mặc dù y học đã tiến bộ rất nhiều, nhưng cũng đành phải bó tay trước cái chết, nghĩa là không thể làm cho con người thành bất tử được. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những người mang những chứng bệnh ngặt nghèo và nhất là những người hấp hối, để họ biết bình an phó thác mạng sống của mình trong tay Chúa.
4. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta thực sự là một cộng đoàn đức tin, một cộng đoàn phượng tự, nghĩa là luôn tin tưởng vào Chúa và thờ phượng Chúa như chủ tể mọi loài.
CT: Lạy Đức Giêsu, ngày xưa Chúa đã trách các môn đệ rằng "Sao các con sợ hãy thế? Các con không có đức tin ư?". Ngày nay cũng vì thiếu đức tin mà chúng con phải sợ hãi nhiều điều. Xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng con, để trong mọi hoàn cảnh chúng con biết hoàn toàn cậy dựa vào Chúa và phó thác trong tay Chúa. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.
VI. Trong Thánh lễ
Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta có một người Cha "ở trên trời", nghĩa là một người Cha uy quyền, làm chủ mọi loài mọi vật. Chúng ta hãy tin tưởng cầu nguyện với Ngài.
Chúc bình an: Chúng ta hãy chúc cho nhau được bình an, bình an vì biết mình đang sống trong vòng tay yêu thương của Chúa.
VII. Giải tán
Cuộc sống ví như một cuộc đi thuyền giữa biển cả cuộc đời nhiều phong ba bão táp. Nhưng có Chúa trên thuyền thì mọi sự đều bình an. Chúng ta hãy trở lại cuộc sống với tâm tình trông cậy phó thác tất cả trong tay Chúa. Chúc anh chị em luôn bình an.
9. Bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô---phép lành Urbi et Orbi
Bài giảng của ĐTC trong giờ cầu nguyện và ban phép lành Urbi et Orbi
Đức Thánh Cha đã chủ sự buổi cầu nguyện lịch sử trong quảng trường hoàn toàn trống vắng những lại có đông đảo tín hữu tham dự từ khắp nơi trên thế giới tham dự. Ngài xin Chúa ban sức khỏe cho thể xác và an ủi trái tim. Sau khi chầu Thánh Thể, Đức Thánh Cha ban phép lành Mình Thánh Urbi et Orbi cho các tín hữu trong buổi cầu nguyện đặc biệt cầu cho thế giới trước đại dịch.
Lúc 6 giờ chiều ngày 27/03, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự giờ cầu nguyện tại quảng trường thánh Phêrô để cầu nguyện cho thế giới trước đại dịch virus corona. Giờ cầu nguyện bắt đầu với nghi thức cử hành Lời Chúa.
Đoạn Tin Mừng thánh Marco được đọc trong giờ cầu nguyện thuật lại sự kiện các môn đệ đang ở trên tàu, khi Chúa Giêsu đang ngủ, thì giông bão nổi lên. Các môn đệ hoảng sợ, đánh thức Ngài dậy và nói: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?” Chúa Giêsu đã truyền cho sóng im biển lặng và ngài bảo họ “Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”
Suy tư về đoạn Tin Mừng trên, Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu hãy mời Chúa vào cuộc đời chúng ta, hãy phó thác những khó khăn đau khổ cho Chúa, hãy tin rằng Chúa là Đấng yêu thương và yêu chương chúng ta nhất.
Sau đây là bài giảng của Đức Thánh Cha
Chúng ta ở trên cùng con thuyền và cần cùng nhau chèo để vượt qua sóng gió
”Khi chiều xuống” (Mc 4,35). Đó là câu mở đầu đoạn Tin Mừng chúng ta đã nghe. Từ nhiều tuần nay, dường như chiều đã xuống. Những bóng đen dầy đặc phủ trên các quảng trường, các đường phố và thành thị của chúng ta; chúng chiếm hữu cuộc sống chúng ta, làm đầy mọi sự bằng một sự im lặng gây choáng váng và một sự trống rỗng thê lương, làm tê liệt mọi sự khi nó đi qua: người ta cảm thấy điều ấy trong không khí, nhận thấy nó qua các cử chỉ, qua những cái nhìn. Chúng ta lo sợ và ngỡ ngàng. Như các môn đệ trong bài Tin Mừng, chúng ta bất ngờ bị bão tố hung bạo vùi dập. Chúng ta nhận thấy mình đang ở trên cùng một con thuyền, tất cả đều mong manh và mất hướng, nhưng đồng thời tất cả đều quan trọng và cần thiết, tất cả được kêu gọi cùng chèo với nhau, tất cả đều cần an ủi nhau. Tất cả chúng ta đều ở trên con thuyền ấy. Như những môn đệ trong bài Tin Mừng đồng thanh và lo âu nói với nhau: ”Chúng ta chết mất” (v.38), chúng ta cũng nhận thấy mình không thể tiến bước nếu mỗi người chỉ lo cho mình, nhưng phải cùng nhau.
Chúa Giêsu ngủ yên vì Ngài tín thác nơi Chúa Cha
Thật là dễ thấy mình ở trong hoàn cảnh như trình thuật này. Điều khó khăn là làm sao hiểu thái độ của Chúa Giêsu. Trong khi các môn đệ tự nhiên thấy hốt hoảng và tuyệt vọng, thì Chúa ở phần cuối thuyền, là phần sẽ bị chìm trước tiên. Ngài làm gì thế? Mặc dù những giao động, hối hả, Ngài vẫn ngủ yên, tín thác nơi Chúa Cha - đó là lần duy nhất trong Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu ngủ -. Và khi Ngài bị đánh thức dậy, Chúa cho gió yên biển lặng, rồi nói với các môn đệ với giọng khiển trách: ”Tại sao các con lại sợ? Các con chưa có đức tin sao?” (v.40).
Các môn đệ thiếu đức tin: họ không tin Chúa quan tâm đến họ
Chúng ta hãy tìm cách hiểu. Sự thiếu đức tin của các môn đệ hệ tại điều gì, một thái độ trái ngược với sự tin tưởng của Chúa Giêsu? Các môn đệ không ngừng tin nơi Chúa, và thực sự họ kêu cầu Ngài. Nhưng chúng ta hãy xem cách thức môn đệ kêu cầu: ”Thưa Thầy, Thày chẳng quan tâm gì đến sự kiện chúng con sắp chết sao?” (v. 38). 'Thầy chẳng quan tâm': họ nghĩ rằng Chúa Giêsu không đoái hoài gì đến họ, không chăm sóc họ. Giữa chúng ta, trong các gia đình, một trong những điều làm đau lòng nhất, đó là khi chúng ta nghe nói: ”Anh chẳng quan tâm gì đến em sao?”. Đó là một câu làm thương tổn và tạo nên bão tố trong tâm hồn. Câu ấy cũng làm tổn thương cả Chúa Giêsu. Vì chẳng có ai quan tâm đến chúng ta hơn Ngài. Thực vậy, sau khi được kêu cầu, Chúa đã cứu vớt các môn đệ thiếu lòng tin.
Bão tố cho thấy chúng ta đã bỏ qua điều nâng đỡ và ban sức mạnh cho chúng ta
Bão tố vạch trần sự dễ thương tổn của chúng ta và cho thấy những an ninh giả tạo và thừa thãi qua đó chúng ta đã xây dựng những chương trình hoạt động, những dự án, các tập quán và ưu tiên của chúng ta. Nó tỏ cho thấy chúng ta đã lơ là và bỏ qua điều nuôi dưỡng, nâng đỡ và ban sức mạnh cho cuộc sống và cộng đoàn của chúng ta. Bão tố để lộ tất cả những chủ tâm ”gói lại” và quên đi những gì đã nuôi dưỡng cái hồn của các dân tộc chúng ta; tất cả những toan tính gây mê với những tập quán có vẻ là ”cứu thoát”, nhưng không có khả năng tham chiếu những căn cội và nhắc nhớ tới các vị tiền bối của chúng ta, và vì thế khiến cho chúng ta không còn khả năng miễn dịch cần thiết để đương đầu với nghịch cảnh.
Bão tố cũng làm rơi mất những mánh khóe chúng ta dùng để ngụy trang ”cái tôi” của chúng ta, luôn lo lắng về hình ảnh của mình; một lần nữa, chúng ta khám thấy điều tốt lành là chúng ta cùng thuộc về nhau, cùng là anh chị em của nhau.
Chúng con đang ở giữa biển động, chúng con khẩn cầu Chúa: "Lạy Chúa, xin hãy thức dậy!”
"Tại sao các con sợ hãi? Các con chưa có niềm tin sao?”. Lạy Chúa, Lời Chúa chiều tối hôm nay đánh động và có liên hệ tới tất cả chúng con. Trong thế giới chúng con hiện nay, thế giới mà Chúa yêu thương nhiều hơn cả chúng con yêu, chúng con tiến bước rất mau lẹ, cảm thấy hùng mạnh và có khả năng trong mọi sự. Chúng con ham hố lợi lộc, để cho mình bị vật chất thu hút mất và bị choáng váng vì vội vã. Chúng con không dừng lại trước những lời nhắc nhở của Chúa, không thức tỉnh trước những chiến tranh và bất công trên thế giới, chúng con đã không lắng nghe tiếng kêu của những người nghèo và của trái đất của chúng con đang bị bệnh nặng. Chúng con cứ tiếp tục tiến bước không chút sợ hãi, nghĩ rằng mình sẽ luôn khỏe mạnh trong một thế giới bị bệnh. Giờ đây, trong lúc chúng con đang ở giữa biển động, chúng con khẩn cầu Chúa: "Lạy Chúa, xin hãy thức dậy!”
Đây là thời điểm chọn lựa điều gì đáng kể và điều gì chóng qua
"Tại sao các con sợ hãi? Các con chưa có đức tin sao?” Lạy Chúa, Chúa kêu gọi chúng con, một lời kêu gọi hãy tin tưởng. Không phải chỉ tin Chúa hiện hữu cho bằng hãy đến cùng Chúa và tín thác nơi Chúa. Trong Mùa Chay này vang dội lời kêu gọi cấp thiết của Chúa: ”Hãy hoán cải”, ”hãy hết lòng trở về cùng Ta” (Gl 2,13). Chúa gọi chúng con hãy đón nhận thời điểm thử thách này như 'một thời điểm chọn lựa'. Đây không phải là thời điểm phán xét của Chúa, nhưng là lúc chúng con phải suy xét: thời điểm chọn lựa điều gì đáng kể và điều gì chóng qua, tách biệt điều cần thiết ra khỏi điều không cần. Lạy Chúa, đây là lúc điều chỉnh lại hành trình cuộc sống của chúng con hướng về Chúa và hướng về tha nhân. Và chúng con có thể nhìn bao nhiêu bạn đồng hành gương mẫu, trong sợ hãi, họ đã phản ứng bằng cách hiến mạng sống mình. Đó là sức mạnh tác động được Thánh Linh đổ xuống và nhào nặn thành những sự hiến thân can đảm và quảng đại.
Cầu nguyện và phục vụ âm thầm: đó là những khí giới chiến thắng của chúng ta
Đó là sự sống của Thánh Linh có khả năng cứu chuộc, nâng cao giá trị và tỏ cho thấy cuộc sống của chúng con được hình thành và nâng đỡ nhờ những người thường - những người thường bị quên lãng, - không được báo chí nói đến, không xuất hiện trong những cuộc biểu dương mới nhất, nhưng chắc chắn, họ đang viết lên những biến cố quan trọng ngày nay trong lịch sử chúng con: các bác sĩ, y tá nam nữ, các nhân viên siêu thị, nhân viên vệ sinh, những người giúp việc gia đình, các nhân viên chuyên chở, các nhân viên công lực, những người thiện nguyện, các linh mục, nữ tu và bao nhiêu người khác đã hiểu rằng không ai tự cứu thoát một mình. Đứng trước đau khổ, qua đó người ta đo lường mức độ phát triển đích thực của các dân tộc chúng con, chúng con khám phá và cảm nghiệm lời nguyện tư tế của Chúa Giêsu: ”Ước gì tất cả chúng được nên một” (Ga 17,21). Bao nhiêu người hằng ngày thực hành kiên nhẫn và đổ tràn hy vọng, chú tâm không gieo rắc kinh hoàng nhưng gieo vãi tinh thần đồng trách nhiệm. Bao nhiêu người cha, người mẹ, ông bà, giáo chức, chỉ cho các trẻ em chúng con - qua những cử chỉ bé nhỏ và thường nhật - cách thức đương đầu và vượt thắng một cuộc khủng hoảng, bằng cách điều chỉnh các thói quen, ngước mắt lên cao và khích lệ cầu nguyện. Bao nhiêu người cầu nguyện, dâng hy sinh và chuyển cầu cho ích chung của tất cả mọi người. Cầu nguyện và phục vụ âm thầm: đó là những khí giới chiến thắng của chúng ta.
Hãy mời Chúa Giêsu bước lên những con thuyền cuộc sống của chúng ta
”Tại sao các con sợ hãi? Các con chưa có đức tin sao?”. Khởi đầu đức tin là biết mình cần được cứu độ. Chúng ta không tự mãn, chỉ tự mình thôi thì chúng ta sẽ bị chìm; chúng ta cần Chúa như những người hải hành xưa kia cần những vì sao. Chúng ta hãy mời Chúa Giêsu bước lên những con thuyền cuộc sống của chúng ta. Hãy phó thác cho Chúa những lo sợ của chúng ta để Ngài chiến thắng chúng. Như những môn đệ chúng ta sẽ cảm nghiệm thấy rằng có Chúa ở trên thuyền, thuyền sẽ không bị đắm. Vì sức mạnh của Thiên Chúa là: tất cả những gì xảy ra cho chúng ta, cả những điều bất hạnh, đều mưu ích cho chúng ta. Chúa đưa sự thanh thản vào trong những bão tố của chúng ta, vì với Thiên Chúa, sự sống sẽ không bao giờ chết.
Chúa mời gọi chúng ta hãy đánh thức và khởi động tình liên đới và hy vọng
Chúa đặt câu hỏi cho chúng ta, giữa bão tố của chúng ta, Chúa mời gọi chúng ta hãy đánh thức và khởi động tình liên đới và hy vọng, có khả năng mang lại sự vững chắc, nâng đỡ và mang lại ý nghĩa cho những lúc này, trong đó tất cả dường như bị chìm. Chúa thức dậy để đánh thưc và hồi sinh niềm tin của chúng ta nơi sự phục sinh.
Trong thập giá của Chúa chúng ta được cứu độ
Chúng ta có một cái neo; trong thập giá của Chúa chúng ta được cứu độ. Chúng ta có một hoa tiêu: trong thập giá của Ngài chúng ta được cứu chuộc. Chúng ta có một hy vọng: trong thập giá của Chúa, chúng ta được chữa lành và ấp ủ vì không có gì và không một ai có thể tách biệt chúng ta ra khỏi tình thương cứu độ của Chúa. Giữa tình trạng cách ly, trong đó chúng ta đang thiếu thốn tình cảm quí mến và những cuộc gặp gỡ, chịu đựng bao nhiêu thiếu thốn, một lần nữa chúng ta nghe lời loan báo cứu độ: Chúa đã sống lại và Ngài sống cạnh chúng ta. Chúa kêu gọi chúng ta, từ trên thập giá của Ngài, hãy tìm lại cuộc sống đang chờ đợi chúng ta, và hãy nhìn đến những người đang kêu chúng ta hãy củng cố, nhìn nhận và khởi động ơn thánh đang ở trong chúng ta. Đừng dập tắt tim đèn còn ngún khói (Xc Is 42,3), không bao giờ yếu liệt và hãy để cho niềm hy vọng được bùng lên.
Đón nhận thập giá là can đảm đón nhận tất cả các nghịch cảnh, đón nhận hy vọng
Đón nhận thập giá của Chúa có nghĩa là tìm lại can đảm để đón nhận tất cả các nghịch cảnh của thời điểm hiện nay, tạm bỏ sự lo lắng của chúng ta về sự toàn năng và chiếm hữu, để nhường chỗ cho tinh thần sáng tạo mà chỉ có Thánh Linh mới có khả năng khơi dậy. Điều này có nghĩa là tìm lại can đảm mở ra những không gian trong đó tất cả mọi người đều thể cảm thấy được kêu gọi và thực hiện những hình thức mới của lòng hiếu khách, tình huynh đệ và liên đới. Trong thập giá của Chúa, chúng ta được cứu thoát để đón nhận hy vọng và để cho niềm hy vọng ấy củng cố và nâng đỡ tất cả các biện pháp và những con đường khả dĩ giúp chúng ta bảo tồn bản thân và giữ gìn. Đón nhận Chúa để đón nhận hy vọng: đó là sức mạnh của đức tin, giải thoát khỏi sợ hãi và mang lại hy vọng.
Xin Chúa lập lại lần nữa: ”Các con đừng sợ”
”Tại sao các con sợ hãi? Các con chưa có đức tin sao?” Anh chị em thân mến, từ nơi này, nhắc nhớ đức tin kiên vững của thánh Phêrô, tối hôm nay tôi muốn phó thác tất cả anh chị em cho Chúa, nhờ lời chuyển cầu của Đức Mẹ là sức khỏe của dân Ngài, là Sao biển giữa bão tố. Từ những hàng cột này như vòng tay ôm lấy thành Roma và thế giới, ước gì phúc lành của Thiên Chúa đổ xuống trên anh chị em như một vòng tay an ủi. Lạy Chúa, xin Chúa chúc lành cho thế giới, xin ban sức khỏe cho thân xác và an ủi cho tâm hồn. Chúa dạy chúng con đừng sợ hãi. Nhưng niềm tin của chúng con yếu ớt, và chúng con nhát đảm. Nhưng lạy Chúa, Chúa không bỏ mặc chúng con trong bão tố. Xin Chúa lập lại lần nữa: ”Các con đừng sợ” (Mt 28,5). Và cùng với thánh Phêrô, ”chúng con phó thác cho Chúa mọi lo âu, vì Chúa chăm sóc chúng con” (Xc 1 Pr 5,7).
10. Niềm tin trong cơn đại dịch—dongten.net
(Suy niệm của Sương Mai – Nguồn: dongten.net)
“Ai trong chúng ta cũng thích biển lặng sóng yên, nhưng giông tố lại giúp ta nhận ra mình: yếu đuối, chao đảo, mong manh, bất lực, không đủ khả năng đương đầu với bao thách đố. Giông tố đưa ta đến với Ðức Giêsu, và phó thác cho sự trợ giúp của Ngài” (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Đã hơn một năm rưỡi trôi qua kể từ khi đại dịch Covid-19 bùng phát tại Vũ Hán, rồi sau đó nhanh chóng lan qua nhiều quốc gia khác trên thế giới. Nhân loại phải đối diện với nhiều khó khăn, phức tạp về mọi phương diện trong cuộc sống, trong đó đời sống tâm linh cũng bị ảnh hưởng không kém. Con người dường như đang thích nghi và quen dần với cuộc sống mới khi có thêm một thành viên mới lạ, một vị khách không mời mà tới bỗng đâu xuất hiện: Virus Corona
Virus corona đúng là vị khách không mời mà tới nhưng lại đem đến cho thế giới nhiều bài học ý nghĩa. Linh mục nhà văn Nguyễn Trung Tây trong buổi phỏng vấn trên đài Vietcatholic về đề tài “Những suy tư thần học về đại dịch Covid-19” dí dỏm gọi Virus Corona là “Ngôn sứ Sars-Cov-2”.
Mang kiếp làm người, không ai có thể tránh khỏi những bão tố của cuộc đời, nó như một định luật tất yếu của cuộc sống. Bão tố cuộc đời có khi là những tai nạn, những hiểm nguy, những trái ý, thất bại, những điều không may xảy đến ngoài ý muốn, cũng có khi là những con sóng nhấp nhô lúc bừng, lúc lặng trong tâm hồn của mỗi người.
Tin mừng Mc 4,35-41 trong Chúa nhật thứ 12 thường niên năm B vang lên trở thành sứ điệp đầy ý nghĩa về niềm tin của con người vào Thiên Chúa, đặc biệt trong cơn đại dịch Covid-19 đang hoành hành như hiện nay. Nhìn vào hình ảnh của các Tông đồ khi đối diện với trận cuồng phong, ta thấy được phần nào về thế giới, về thái độ của con người khi đối diện với bão tố của cuộc đời. Vậy thái độ đó là gì?
Thái độ của con người trước bão tố cuộc đời
Một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền khi Chúa Giêsu đang cùng các Tông đồ trên thuyền đi qua “bờ bên kia” (Mc 4,37). Bờ bên kia là vùng Thập Tỉnh, nơi ở chủ yếu của dân ngoại. Các Tông đồ cảm thấy hoang mang, sợ hãi, dường như các ông không còn đủ bình tĩnh để biết mình phải làm gì. Các ông cầu cứu đến Thầy Giêsu nhưng các ông thấy Thầy vẫn đang dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ ở đàng lái (Mc 4,38a). Các ông trách Thầy “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?” (Mc 4,38b).
Thái độ của các Tông đồ trước trận cuồng phong cho ta thấy được điều gì nơi chính mình?
Ta có thái độ nào? Phản ứng của ta ra sao? Suy nghĩ của ta như thế nào? Và nhất là niềm tin của ta vào Thiên Chúa ở mức độ nào khi đối diện với những nghịch cảnh của cuộc đời, đặc biệt trong bối cảnh đại dịch Covid-19 vẫn đang hoành hành?
Nhiều người hoang mang, sợ hãi, thậm chí bị stress, mất niềm tin vào Thiên Chúa vì những khó khăn xảy đến do đại dịch Covid-19: thất nghiệp, nghèo đói, khủng hoảng kinh tế, đau khổ vì mất người thân, áp lực công việc nơi các bác sĩ, nhân viên y tế…Còn rất nhiều khó khăn khác mà con người vẫn đang phải đối diện từng ngày, từng giờ khi đại dịch vẫn còn hoành hành.
Con người tự hỏi: liệu Thiên Chúa ở đâu trong biến cố này? Ngài có đang “ngủ” không? Ngài có nghe thấy tiếng con cái Ngài đang ngày đêm kêu van lòng thương xót của Ngài không? Qua những kinh nghiệm trong đời sống đức tin, ta nhận ra rằng chỉ trong khó khăn, nghịch cảnh, ta mới biết thật về niềm tin của ta vào Thiên Chúa. Có khi nào ta cũng trách Chúa như các Tông đồ xưa “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao ?” (Mc 4,38b).
Quyền năng và lòng thương xót của Thiên Chúa
Bản chất của Thiên Chúa là tình yêu, vì thế làm sao Ngài có thể làm ngơ trước những đau khổ, những giông tố xảy đến cho con người vốn là loại thụ tạo được Ngài yêu thương hết mực như người cha đối với con mình (Hs 11,1) Vậy tại sao trong cơn bão tố, cuồng phong ập đến mà Thầy Giêsu vẫn ngủ? Ngài không quan tâm, lo lắng gì sao?
Chúa ngủ, Chúa thinh lặng, không phải vì Ngài không biết hay không quan tâm nhưng chính là Ngài đang muốn dạy các Tông đồ một bài học. Ngài muốn cho các ông thấy được niềm tin của các ông dành nơi Chúa như thế nào? Các ông có đủ kiên nhẫn đối diện với trận cuồng phong để tín thác vào quyền năng và lòng thương xót của Ngài không?
Trong cơn đại dịch, ta vẫn cầu nguyện rất nhiều, xin Chúa cho cơn đại dịch mau chấm dứt nhưng cho đến bây giờ đại dịch vẫn còn tiếp tục và bùng phát, nhiều khi ta cảm thấy như vắng bóng Thiên Chúa, Ngài có đang “ngủ” không?
Vâng, nếu như Ngài có đang “ngủ” thì ta vẫn an tâm vì Ngài chính là vị thuyền trưởng đang ở đàng lái đồng hành với ta. Dù bão tố, cuồng phong đến đâu, nếu có Thầy Giêsu mọi sự đều sẽ ổn. Điều quan trọng là ta hãy tin tưởng kêu lên Ngài như các Tông đồ xưa, ta đừng để mình bị Chúa trách: “Sao kém lòng tin”
Vâng, ta cứ tin rồi Ngài sẽ “thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi!” (Mc 4,39).
Đứng trước những trận cuồng phong, con người dần nhận ra sự giới hạn, mong manh của phận người, con người thấy mình bất lực trước sức mạnh đáng sợ của bão tố cuộc đời.
Virus Corona làm cho nhiều người khiếp sợ, nhưng có một loại virus đáng sợ hơn, đó là virus của lòng người thiếu lương thiện thể hiện qua sự ích kỷ, tham lam, kiêu căng, thù hận, ghen ghét… Con người đã có lúc tự mãn nghĩ rằng “mình làm được mọi sự” nhưng qua biến cố đại dịch Covid-19, làm sao con người dám tiếp tục tự hào về điều đó.
Chỉ có Thiên Chúa là Đấng quyền năng mới làm được mọi sự vì Ngài là chủ của muôn loài. Con người vốn mỏng manh, yếu đuối và giới hạn nhưng “sức mạnh của Thiên Chúa biểu lộ trọn vẹn nơi sự yếu đuối của con người” (2 Cr 12,9). Thiên Chúa chỉ muốn nơi ta một điều, đó là tin và Ngài. Niềm tin sẽ dẫn ta đến ơn cứu độ, niềm tin cho ta hy vọng một ngày không xa, con sóng đại dịch Covid-19 sẽ mau chấm dứt. Gió covid sẽ tắt, và biển đại dịch sẽ lặng như tờ nhờ quyền năng và lòng thương xót của Thiên Chúa. Chỉ cần có Chúa, chỉ cần ta vững tin và kiên nhẫn phó thác vào tình thương của Thiên Chúa rồi mọi sự sẽ bình yên trở lại.
“Ngôn sứ Sars Cov-2” mang lại cho ta nhiều thông điệp ý nghĩa, ta hãy nhìn mọi sự trong cái nhìn của đức tin rồi ta sẽ thấy nhiều “phép màu” hiện ra, tình Chúa và tình người luôn thể hiện trong mọi biến cố. Ta đừng hoang mang, sợ hãi nhưng “mọi âu lo, trút cả cho Thiên Chúa vì Người chăm sóc anh em” (1Pr 5,7). Cuộc sống mới của thế giới khi có thêm “thành viên mới” chắc chắn sẽ có nhiều thay đổi nhưng dù trong hoàn cảnh nào “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến Người” (Rm 8,28).
Lạy Thầy Giêsu, mang kiếp làm người, khi đối diện với cuộc sống đầy biến chuyển và phức tạp, con không thể tránh khỏi những trận cuồng phong, bão tố của cuộc đời. Có khi là do ngoài ý muốn nhưng cũng có khi do chính con tự tạo nên. Dù trong hoàn cảnh nào, con tin Thầy vẫn luôn đồng hành bên con, cùng con lênh đênh trên chiếc thuyền cuộc đời. Con an tâm vì có Thầy, nếu một lúc nào đó đức tin của con bị chao đảo bởi sóng gió cuộc đời hay chính trong lòng con, con xin Thầy ban thêm ơn đức tin cho con, xin vực con lên, xin kéo con ra khỏi vòng xoáy của sóng gió cuộc đời để cùng với Thầy, con cập bến bình an trên Nước Trời. Amen.
11. Thiên Chúa ở đâu giữa đại dịch? --Lm. James Martin, SJ.
Trước sự lan tràn của virus corona hay còn gọi là Covid-19 và sự giết chóc của nó, nhiều người trong chúng ta đặt câu hỏi “tại sao?” Tại sao lại có đại dịch này? Tại sao Chúa để cho dịch bệnh xảy ra? Tại sao Chúa không can thiệp khi chúng ta kêu cầu trong đau đớn và thậm chí có người sợ hãi thất vọng? Cha James Martin, một linh mục dòng Tên người Mỹ, chia sẻ những suy tư của ngài về mầu nhiệm sự dữ. Đối với cha, câu trả lời vẫn là không có câu trả lời. Nhưng cha xác tín rằng chúng ta có thể tìm câu trả lời của đau khổ nơi Chúa Giêsu. Qua cuộc đời của Chúa Giêsu, Kitô hữu biết rằng Con Thiên Chúa đã trải nghiệm và biết hết những đau khổ của phận người và chắc chắn Ngài không bỏ rơi chúng ta. Và những người không phải Kitô hữu cũng tìm được nơi Chúa Giêsu một gương mẫu cho cuộc sống. Vấn đề là chúng ta có tin vào một Thiên Chúa mà chúng ta không hiểu không?
James Martin SJ
Cha Martin chia sẻ: “Mùa hè năm ngoái tôi phải đi hóa trị. Và mỗi khi tôi đi qua cánh cửa có bảng ghi “Khoa Ung thư xạ trị”, trái tim tôi dường như hụt đi một nhịp. Trong khi tình trạng bệnh của tôi không nguy hiểm lắm (khối u của tôi là lành tính, và đôi khi người ta cần xạ trị), hàng ngày tôi đã gặp những người cận kề với cái chết.
Cuộc "hẹn" của mỗi người
Trong sáu tuần lễ, mỗi ngày tôi đón một chiếc taxi và nói, làm ơn đưa tôi đến đường 68 và York. Khi đến nơi, tôi dừng lại ở một nhà thờ gần đó để cầu nguyện. Sau đó, trên đường đi đến nơi hẹn làm hóa trị, nằm trong một khu phố đầy các bệnh viện, tôi đã đi ngang qua những bệnh nhân ung thư bị rụng tóc, những ông già bà cụ kiệt sức phải ngồi xe lăn, được các nhân viên chăm sóc y tế tại gia đẩy đi và những người vừa mới phẫu thuật. Nhưng trên cùng những vỉa hè đó, tôi gặp các bác sĩ bận rộn, những y tá tươi cười và các thực tập viên háo hức, và nhiều người khác nhìn có vẻ rất khỏe mạnh. Một ngày nọ, tôi chợt nhận ra: Tất cả chúng ta sẽ đến đường 68 và York, mặc dù tất cả chúng ta đều có những giờ hẹn khác nhau của mình.
Thiên Chúa ở đâu trong tất cả những điều này?
Chỉ trong vài tuần qua, hàng triệu người bắt đầu lo sợ rằng họ đang đi đến cuộc hẹn của mình với vận tốc kinh hoàng, do đại dịch Covid-19. Sự kinh hoàng do lây nhiễm lan nhanh cộng thêm cú sốc bởi sự khởi phát đột ngột của nó. Là một linh mục, tôi đã nghe thấy các cảm xúc tuôn tràn như núi lở trong tháng vừa qua: hoảng loạn, sợ hãi, giận dữ, buồn bã, bối rối và tuyệt vọng. Càng ngày tôi càng cảm thấy như mình sống trong một bộ phim kinh dị, nhưng theo bản năng, tôi đã tắt cuốn phim này đi vì nó gây quá nhiều xáo trộn. Và ngay cả những người sùng đạo nhất cũng hỏi tôi: Tại sao điều này xảy ra? Và: Thiên Chúa ở đâu trong tất cả những điều này?
Mầu nhiệm sự dữ
Về cơ bản, nó giống như câu hỏi mà mọi người đặt ra khi một cơn bão tước đi hàng trăm mạng sống hoặc khi một đứa trẻ chết vì ung thư. Nó được gọi là “vấn đề đau khổ”, “mầu nhiệm về sự dữ’, … và nó là một câu hỏi mà các vị thánh và các nhà thần học đã phải vật lộn trong nhiều thiên niên kỷ. Câu hỏi về nỗi đau khổ tự nhiên (từ bệnh tật hoặc thiên tai) khác với câu hỏi về “sự ác luân lý”. Nhưng bỏ qua phân biệt thần học này, câu hỏi hiện nay đã làm mệt mỏi tâm trí của hàng triệu người có đức tin, của những người mất can đảm với số người chết đang gia tăng đều đặn, của những người đấu tranh với những câu chuyện về các bác sĩ buộc phải phân loại bệnh nhân và những người giật mình trước những bức ảnh của những hàng dài các quan tài: Tại sao?
Đau khổ để thử thách, tôi luyện đức tin?
Qua nhiều thế kỷ, nhiều câu trả lời về đau khổ tự nhiên đã được đưa ra; tất cả đều muốn trả lời câu hỏi theo một cách nào đó. Phổ biến nhất là câu trả lời cho rằng đau khổ là một thử thách. Đau khổ thử thách đức tin của chúng ta và củng cố nó, như lời thánh Gia-cô-bê: “Thưa anh chị em, bất cứ khi nào anh chị em gặp bất kỳ thử thách nào, đừng xem nó là điều gì khác hơn là niềm vui, bởi vì anh chị em biết rằng thử thách đức tin sẽ làm cho nó kiên vững”. Nhưng trong khi giải thích đau khổ như một thử thách có thể giúp ích trong các khó khăn nho nhỏ (ví dụ như sự kiên nhẫn được kiểm tra bởi một người gây phiền hà), thì nó thất bại trong những trải nghiệm đau đớn nhất của con người. Có phải Chúa gửi bệnh ung thư đến để thử thách một đứa trẻ? Đúng là cha mẹ của em bé có thể học được điều gì đó về sự kiên trì hoặc đức tin, nhưng cách tiếp cận đó có thể khiến Chúa trở thành một con quái vật.
Đau khổ là hình phạt của tội lỗi?
Cũng có lập luận cho rằng đau khổ là một hình phạt của tội lỗi, một cách giải thích vẫn còn phổ biến giữa một số tín hữu (họ thường nói rằng Chúa trừng phạt những người hoặc những nhóm mà không cùng ý kiến với họ). Nhưng chính Chúa Giêsu đã bác bỏ lối suy nghĩ đó khi Ngài gặp một người mù như câu chuyện được kể lại trong Tin Mừng thánh Gioan chương 9: Thưa Thầy, ai là người đã phạm tội, người đàn ông này hoặc cha mẹ anh ta, khiến anh ta sinh ra đã bị mù? Chúa Giêsu trả lời: “Không phải người đàn ông này cũng không phải cha mẹ của anh ta đã phạm tội”. Đây là lời bác bỏ dứt khoát của Chúa Giêsu về hình ảnh một Chúa Cha tàn ác. Trong Tin Mừng Thánh Luca, Chúa Giêsu trả lời câu chuyện về tháp Babel bằng đá đã đổ xuống và đè chết đám đông dân chúng: Anh em nghĩ rằng họ là những kẻ tội lỗi tồi tệ hơn tất cả những người khác sống ở Giêrusalem sao? Tôi nói với anh em không phải như vậy.”
Tam đoạn luận
Sự nhầm lẫn chung của các tín hữu được gói gọn trong cái được gọi là tam đoạn luận không chắc chắn, có thể được tóm tắt như sau: Thiên Chúa hoàn toàn quyền năng, do đó, Thiên Chúa có thể ngăn chặn đau khổ. Nhưng Thiên Chúa không ngăn cản đau khổ, do đó, Thiên Chúa không phải là toàn năng hoặc không hoàn toàn yêu thương.
Nguyên nhân của đau khổ: Chúng ta không biết!
Cuối cùng, câu trả lời trung thực nhất cho câu hỏi tại sao virut Covid-19 lại giết chết hàng ngàn người, tại sao các bệnh truyền nhiễm lại tàn phá nhân loại và tại sao lại có đau khổ, đó là: Chúng ta không biết. Đối với tôi, đây là câu trả lời trung thực và chính xác nhất. Người ta cũng có thể nghĩ rằng virus là một phần của thế giới tự nhiên và bằng một cách nào đó đóng góp cho cuộc sống, nhưng cách giải thích này không thể dùng để nói chuyện với một người bị mất bạn bè hoặc người thân. Một câu hỏi quan trọng đối với những người có đức tin trong những lúc đau khổ là: Bạn có thể tin vào một Thiên Chúa mà bạn không hiểu không?
Câu trả lời là Chúa Giêsu
Nhưng nếu mầu nhiệm đau khổ không thể giải đáp được thì các tín hữu có thể đi tìm lời giải đáp ở đâu trong những lúc như thế này? Đối với người Kitô hữu và có lẽ ngay cả đối với người khác, câu trả lời là Chúa Giêsu.
Một Giêsu sống trong một thế giới với những giới hạn của con người
Các Kitô hữu tin rằng Chúa Giêsu vừa hoàn toàn là Thiên Chúa vừa hoàn toàn là con người. Tuy nhiên, đôi khi chúng ta bỏ qua phần thứ hai. Giêsu thành Nazareth được sinh ra trong một thế giới của bệnh tật. Trong cuốn sách “Đá và phân, dầu và nước bọt”, về cuộc sống hàng ngày ở Galilê vào thế kỷ thứ nhất, Jodi Magness, một học giả về Do Thái giáo thời kỳ đầu, gọi môi trường mà Chúa Giê-su sống bẩn thỉu, tồi tệ và không lành mạnh. John Dominic Crossan và Jonathan L. Reed, các học giả về bối cảnh lịch sử của Chúa Giêsu, đã tổng hợp những điều kiện sống này trong một câu nói nghiêm túc trong cuốn sách “Khai quật Giêsu”: “Một trận cúm, một cơn cảm lạnh, hay một cái răng bị sưng có thể giết chết người. Đây là thế giới của Giê-su.”
Đối với Kitô hữu: Chúa Giêsu là con người và cảm hiểu hết những bệnh tật
Hơn nữa, trong sứ vụ công khai của mình, Chúa Giêsu liên tục tìm kiếm những người bị bệnh. Hầu hết các phép lạ của Ngài là chữa lành khỏi bệnh tật và khuyết tật: các căn bệnh về da (thường được gọi chung là phong cùi), chứng động kinh, một người phụ nữ bị rong kinh, một bàn tay bại liệt, mù lòa, câm điếc, bất toại. Trong những thời điểm đáng sợ này, các Kitô hữu có thể thấy thoải mái khi biết rằng khi họ cầu nguyện với Chúa Giêsu, họ đang cầu nguyện với một người hiểu họ không chỉ bởi vì Ngài là Thiên Chúa và biết tất cả mọi sự, mà bởi vì Ngài là con người và đã có kinh nghiệm về tất cả những điều này.
Đối với người không phải Kitô hữu: Chúa Giêsu là mẫu gương chăm sóc bệnh nhân, với trái tim cảm thương
Nhưng những người không phải là Kitô hữu cũng có thể xem Chúa Giêsu như một gương mẫu chăm sóc người bệnh. Không cần phải nói, khi chăm sóc cho người bị nhiễm virus corona, người ta cần thực hiện các biện pháp phòng ngừa cần thiết để không lây nhiễm bệnh. Nhưng đối với Chúa Giêsu, người bệnh hay người sắp chết không phải là người khác, không phải là người đáng trách, mà là anh chị em của chúng ta. Khi Chúa Giêsu thấy một người có khốn khổ, các Tin mừng cho chúng ta biết rằng trái tim của Ngài đã bị lay động bởi lòng thương xót. Ngài là mẫu gương về cách thế chúng ta sống trong cuộc khủng hoảng này: với những trái tim xúc động vì thương xót.
Đối với tôi, Chúa Giêsu là khuôn mẫu cho cuộc sống
Bất cứ khi nào tôi cầu nguyện trong nhà thờ gần đường 68 và York, tôi dừng lại trước một bức tượng Chúa Giêsu, đôi tay Ngài vươn ra, trái tim Ngài lộ ra. Chỉ là một bức tượng thạch cao, đó không phải là tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời, nhưng nó rất có ý nghĩa với tôi. Tôi không hiểu tại sao mọi người chết, nhưng tôi có thể đi theo một người, là Đấng cho tôi một khuôn mẫu cho cuộc sống." (The New York Times 22/03/2020)
12. Đức tin thời đại dịch
Đại dịch Covid-19 vẫn đang trở nên quá khó hiểu và đáng sợ với hàng triệu người dân cả nước. Việt Nam đang chứng kiến hàng chục ngàn người nhiễm bệnh và một số đã phải ra đi. Nếu tình hình không mấy khả quan, số ca nhiễm và tử vong vẫn tiếp tục gia tăng từng ngày. Cuộc khủng hoảng này đang khiến cộng đồng đặt lại vấn đề về y tế, đạo đức và hậu cần. Nhưng chính nó cũng đang chất vấn những người có đức tin. Đức tin của bạn như thế nào? Liệu nó có thể giúp bạn vượt qua cơn đại dịch này không? Ở đây, Cha James Martin, S.J. sẽ giúp bạn một vài phương thế sống đức tin thời đại dịch.
Chống lại sự hoang mang là phương thế đầu tiên. Điều này không có nghĩa là bạn sẽ không còn lo lắng nữa, hay cứ phớt lờ những lời khuyên hữu ích của các chuyên gia y tế và các biện pháp phòng chống dịch cộng đồng. Thi thoảng cảm thấy lo lắng là chuyện hết sức bình thường. Nhưng mọi chuyện sẽ khác nếu lo lắng kéo dài, ảnh hưởng đến các hoạt động hằng ngày, và khiến bạn cảm thấy sợ hãi. Trước cơn khủng hoảng của đại dịch, làm sao con người có thể bình tĩnh vượt qua? Làm sao có thể cảm thấy bình an và hy vọng nội tâm? Chính Thiên Chúa sẽ mang lại niềm hy vọng, sự bình an cho bạn chứ không phải hoang mang, hãi sợ.
Thánh Inhaxiô thường nói về hai chuyển động trong đời sống nội tâm: một lôi kéo bạn tiến gần tới Chúa, và một đẩy bạn ra xa Người. Chuyển động lôi kéo bạn ra xa Chúa, thánh Inhaxiô gọi là thần dữ, gây ra “sự cắn rứt, làm buồn phiền và đặt chướng ngại bằng cách gây băn khoăn, lo lắng với những lý lẽ giả tạo để người ta khỏi tiên tới.” (LT 315). Tin tưởng vào những lời dối trá, đồn thổi, hay đầu hàng chỉ khiến bạn thêm hoang mang, hoảng sợ mà thôi. Bạn nên tin tưởng vào những lời khuyên của các chuyên gia y tế hơn là của những người đang sợ hãi, lo lắng.
Hoang mang dễ khiến bạn bối rối, hãi sợ dễ lấy đi ơn trợ giúp Chúa muốn ban cho bạn. Tất nhiên, hoang mang, sợ hãi không đến từ Thiên Chúa. Vậy điều gì đến từ Thiên Chúa? Thánh Inhaxiô nói rằng, Thần khí của Thiên Chúa, hay thần lành, “đem đến sự can đảm và sức mạnh, an ủi và ơn soi sáng cùng bình an.” (Lt 315). Và đây là cơ hội tin tưởng vào sự bình tĩnh và hy vọng bạn đang cảm nhận. Hãy lắng xuống và bắt đầu nghe lời thì thầm của Thần Khí. Chúa Giêsu sẽ đến bên và an ủi bạn: “Đừng sợ!” như Người đã nhiều lần trấn an các môn đệ năm xưa.
Đừng sợ! Chính Thầy đây mà!
Thứ đến, bạn chớ để mình trở thành con cái của sự dữ.Một câu chuyện thật buồn xảy ra ở NewYork thời điểm này năm ngoái. Khi một ông già người Trung Quốc bước lên tàu điệm ngầm, cả toa la hét, bỏ chạy, và bắt đầu những lời thoá mạ với ông vì cho rằng Trung Quốc đã để cho Covid-19 lây lan. Thật thế, trong những thời điểm căng thẳng, nhất là giữa đại dịch này, chống lại những cám dỗ đó của ma quỷ không phải chuyện dễ dàng. Đại dịch này có lẽ không phải là căn bệnh của Trung Quốc, hay vi rút Vũ Hán gì đó. Nó cũng không hẳng là một căn bệnh ngoại lai. Nó cũng không phải lỗi của ai cả. Đến cả những bệnh nhân Covid-19 cũng không hề đáng trách. Bạn có thể nhớ lại trình thuật Đức Giêsu chữa một người mù từ thuở mới sinh. Các môn đệ đã hỏi Người: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?”. Nhưng Đức Giêsu trả lời:”Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh.” (Ga9, 1-3) Dịch bệnh không phải là một hình phạt. Thế nên, bạn không thể đổ lỗi cho ai, cho một nhóm người, hay quốc gia nào. Đó có lẽ là mưu mô của ma quỷ. Hãy nhớ rằng, Covid-19 có thể ngăn cản rất nhiều thứ xung quanh bạn, nhưng nó không thể cản lối tình yêu.
Covid-19 không thể cản lối tình yêu.
Chăm sóc các bệnh nhân là phương thế thứ ba. Đại dịch này có thể là một chặng đường dài. Bất cứ ai trong số người thân, bạn bè của bạn cũng có thể trở thành nạn nhân cho nó. Vậy, làm tất cả những gì có thể để giúp đỡ người khác là điều rất tuyệt vời lúc này, nhất là những người thân yêu, những người già cả, tàn tật, nghèo khó và vô gia cư. Có lẽ thực hiện các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn dịch bệnh lây lan là cần thiết, nhưng đừng quên rằng bổn phận cơ bản của các Kitô hữu là giúp đỡ tha nhân. Thật thế, trong cuộc phán xét chung, Đức Vua sẽ nói:“Ta đau yếu, các ngươi đã viếng thăm.”(Mt 25, 36) Và cái kết là “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” (Mt 25,40).
Vào thời Chúa Giêsu, người dân làm gì có cơ hội tiếp cận với sự chăm sóc y tế như hiện nay, và việc thăm viếng người bệnh trở nên cực kỳ nguy hiểm. Thế mà, Người vẫn khích lệ các môn đệ thăm viếng bệnh nhân trong mọi hoàn cảnh, và chính Người là mẫu gương sáng ngời cho nghĩa cử cao đẹp đó. Tiếp nối truyền thống ấy, Hội Thánh cũng tiếp tục khuyến khích con cái mình chăm sóc các bệnh nhân, thậm chí là giúp đỡ họ về mặt vật chất. Hôm nay, Đức Giêsu vẫn đang mời gọi bạn mở rộng con tim với những ai nghèo khổ, những người vô gia cư và lạc lõng. Người mời gọi bạn đến với những ai đang cần bạn và huấn luyện lương tâm của bạn qua những thực hành bác ái ấy.
Phương thế thứ tư là cầu nguyện. Các nhà thờ tại Việt Nam cũng như nhiều nơi trên thế giới phải đóng cửa. Các Thánh Lễ và sinh hoạt giáo xứ cũng bị huỷ bỏ. Đó có lẽ là một giải pháp thận trọng và cần thiết để đảm bảo an toàn cho mọi tín hữu cũng như sức khoẻ cộng đồng. Nhưng chúng ta đang phải trả một cái giá quá đắt. Đối với rất nhiều người, Thánh Lễ và Thánh Thể là một nguồn an ủi rất lớn trong đời sống của họ. Thế mà nay còn đâu nữa! Họ cũng bị cô lập với cộng đoàn vào thời điểm họ rất cần sự trợ giúp.
Chúng ta có thể làm gì đây? Đã có rất nhiều Thánh Lễ, buổi cầu nguyện online được diễn ra khắp nơi trên cả nước. Nhưng ngay cả khi bạn không thể tham dự được, bạn vẫn có thể cầu nguyện riêng. Khi đó, bạn sẽ hiểu rằng mình là một phần của cộng đoàn dân Chúa. Hơn thế nữa, rước lễ thiêng liêng, một truyền thống lâu đời trong các nhà thờ Công giáo, vẫn đang được nhiều Kitô hữu, nhiều nhóm, hội đoàn thực hiện. Nhờ thế, bạn có thể hiệp nhất với Thiên Chúa trong lời cầu nguyện của mình.
Hãy sáng tạo! Có nhiều người đã suy niệm với Tin Mừng, tham khảo chú giải Kinh Thánh về các bài đọc, và cùng gia đình chia sẻ Lời Chúa. Có nhiều người cũng đã nhắn tin, gọi điện cho bạn bè, người thân, và chia sẻ kinh nghiệm cá nhân về Thiên Chúa ngay giữa cơn khủng hoảng của đại dịch. Thật thế, khi xưa, các bậc cha ông chúng ta đã cầu nguyện và chia sẻ, nâng đỡ đức tin cho nhau trong thời kỳ bách hại đạo. Hôm nay, noi gương các ngài, bạn và tôi cũng có thể làm như vậy. Khi xưa, Đức Giêsu đã dạy các môn đệ:”Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho; vì đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ.” (Mt 18, 20 -21). Hôm nay, bạn và tôi cũng thể làm như vậy. Bạn nên nhớ rằng, nhà thờ là một cộng đoàn chứ không phải một toà nhà.
Nhà thờ là một cộng đoàn chứ không phải một toà nhà.
Phương thế cuối cùng là tin tưởng rằng Chúa luôn ở bên bạn. Hãy tin tưởng vào điều đó! Hàng triệu người dân Việt Nam, nhất là các bệnh nhân Covid-19, đang bị cách ly. Điều ấy càng khiến nỗi sợ hãi tăng lên bội phần. Có lẽ sẽ đến một ngày, bạn cũng có thể bị nhiễm Covid chăng? Rồi bạn sẽ tự hỏi: “Tại sao điều này lại xảy ra?”
Dường như chẳng có câu trả lời thoả đáng cho bạn. Nhưng đằng sau đó là sự tồn tại của đau khổ. Điều này là một bí ẩn quá lớn. Trải qua nhiều thế kỷ, các vị thánh và các thần học gia đã tốn quá nhiều giấy mực cho vấn nạn này. Sâu xa hơn, bạn có thể tự hỏi, làm sao tôi có thể tin vào một Thiên Chúa mà tôi không hiểu?
Thế nhưng, bạn và tôi biết rằng, Đức Giêsu thấu hiểu nỗi đau của bạn và đồng hành với bạn theo một cách rất riêng. Khi xưa, Người đã dành nhiều thời gian và tâm huyết cho các bệnh nhân. Người hiểu rõ mối nguy của bệnh tật, nhưng vẫn tiến lại gần, an ủi và chữa lành họ. Hôm nay, Người cũng hiểu rõ mọi nỗi sợ, lo lắng của bạn. Đức Giêsu hiểu thấu con người bạn không chỉ bởi Chúa là Chúa, Chúa biết rõ mọi sự, mà còn bởi Chúa cũng là con người giống bạn và “chịu thử thách về mọi phương diện” (Dt 4,15) như bạn cũng như kinh nghiệm mọi sự trên trần gian.
Hãy đến với Người trong lời cầu nguyện, và tin tưởng Người sẽ lắng nghe và ở bên bạn.
Hãy tin tưởng vào những lời cầu nguyện của tôi, của bạn, và của anh chị em Việt Nam chúng ta.
Thiên Chúa sẽ giúp chúng ta cùng nhau vượt qua đại dịch này.
13. Vị thánh chúng ta cần đến trong cơn đại dịch
(Tác giả: James Martin, S.J. - Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển Từ: worldmissionmagazine.com - Nguồn:giaophannhatrang.org)
WGPNT (29.7.2021) - Đại dịch Covid-19 đã cướp đi sinh mạng của nhiều người và tiếp tục lan tràn khắp thế giới, buộc nhiều người phải sống cách ly và ẩn mình. Thánh Giuse, cha nuôi của Đức Giêsu, đã sống một cuộc đời âm thầm, hơn bao giờ hết Ngài là vị thánh bảo trợ mà chúng ta cần đến trong những lúc khó khăn này.
Đức Giáo hoàng Phanxicô đã công bố Năm Thánh Giuse nhằm tôn kính một trong những vị thánh mà ngài yêu thích. Bằng Tông thư Với trái tim người cha (Patris Corde), Đức Giáo hoàng mời gọi Giáo hội hoàn vũ suy niệm và kêu cầu sự bảo trợ từ người cha nuôi của Đức Giêsu.
Mẫu gương và sự bảo trợ của thánh Giuse đến thật đúng lúc. Vào thời điểm mà đại dịch toàn cầu đã buộc hàng triệu người sống trong nhà, cách ly, và cô đơn, chúng ta có thể xem thánh Giuse như là khuôn mẫu của đời sống thầm lặng. Chúng ta cũng biết rằng thánh Giuse đã mất trước khi Đức Giêsu khởi đầu sứ vụ công khai; như vậy, chắc chắn người chồng của Đức Maria cũng đã quen với khổ đau. Vì thế, cũng có thể xem ngài là đấng bảo trợ, cầu bầu cho chúng ta vì Ngài thấu hiểu cuộc chiến đấu của chúng ta với bệnh tật.
Nhưng chúng ta biết gì về đấng bảo trợ và đồng hành này? Giống như nhiều vị thánh vào những thời kỳ đầu của Giáo hội, chúng ta biết rất ít về thánh Giuse, ngoài vài dòng được nhắc đến trong các sách Tin mừng. Ngài thuộc dòng dõi vua Đavít và đã đính hôn với một thiếu nữ làng Nadarét. Khá bất ngờ khi biết tin Đức Maria mang thai, nhưng ông Giuse “là người công chính và không muốn tố giác bà” (Mt 1,19) như Tin mừng Matthêu thuật lại; Ngài đã định tâm hủy bỏ hôn ước cách kín đáo. Do đó, ngay cả trước khi Đức Giêsu chào đời, ông Giuse đã thể hiện tròn đầy lòng trắc ẩn và tha thứ.
Nhưng Thiên Chúa lại có những kế hoạch khác. Giống như tổ phụ Giuse trong tình huống khó khăn nơi sách Sáng thế, Thiên Chúa cũng dùng một giấc mơ để bày tỏ kế hoạch cứu độ cho người thợ mộc làng Nadarét. Trong giấc mơ, thiên thần cho thánh Giuse biết bí mật về Đức Maria: “Này ông Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20). Sau khi Đức Maria sinh con, cũng chính thiên thần đó bảo ông Giuse đưa Hài nhi và Mẹ Người sang Ai Cập để trốn vua Hêrôđê tàn ác. Và thánh Giuse đã vâng nghe.
Còn vài câu chuyện nữa về cậu Giêsu – bị lạc trong chuyến hành hương và được tìm thấy đang giảng dạy trong đền thờ – và rồi chúng ta biết đến quãng đời ẩn dật của Đấng Cứu thế. Tất cả những gì Tin mừng Luca nói về 18 năm đó là thế này: “Còn Đức Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2,52).
Thời gian thánh Giuse
Những năm đó là thời gian của thánh Giuse – thời gian dành để chăm sóc và dạy nghề thợ mộc cho người con nuôi. Nơi xưởng mộc của ông Giuse ở Nadarét, có lẽ Đức Giêsu đã được chỉ dẫn về các nguyên liệu thô của nghề mộc: loại gỗ nào thích hợp nhất để làm bàn ghế, loại gỗ nào tốt nhất để làm ách và cày. Là người giàu kinh nghiệm, ông Giuse có lẽ đã dạy cho anh thợ học nghề này cách đóng đinh bằng búa, cách khoan thẳng và sâu vào ván, và cách bào phẳng mép gỗ hay thanh đà.
Thánh Giuse có lẽ cũng đã truyền lại cho Đức Giêsu những giá trị cần có để trở thành một người thợ mộc giỏi. Bạn cần kiên nhẫn (để đợi gỗ khô và có thể sử dụng), khả năng phán đoán chính xác (để đảm bảo rằng dây dọi đã thẳng), sự kiên trì (để chà nhẵn mặt bàn) và sự trung thực (để tính giá hợp lý cho mọi người).
Cùng với người thầy dạy nghề của mình, anh thanh niên Giêsu đã lao động và xây dựng, đóng góp suốt quãng thời gian đó cho lợi ích chung của làng Nadarét và các làng mạc xung quanh. Không khó để hình dung những đức tính mà Đức Giêsu học được từ người thầy của mình – kiên nhẫn, phán đoán chính xác, kiên trì và trung thực – đã giúp ngài chu toàn tốt sứ vụ sau này. Thánh Giuse đã giúp trang bị cho Đức Giêsu điều mà nhà thần học Dòng Tên John Haughey gọi là “khí cụ cần thiết nhất để cứu độ thế giới.”
Cái chết sớm của ông Giuse
Tuy nhiên gần như ngay sau khi Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ công khai thì thánh Giuse biến mất – ít nhất là trong các trình thuật Tin mừng. Điều đáng chú ý là ông Giuse không có tên trong số các khách mời dự tiệc cưới Cana, đánh dấu khởi đầu sứ vụ công khai của Đức Giêsu. Phải chăng ông đã mất trước khi người con trai đến tuổi trưởng thành?
Vài năm trước, trong một cuộc triển lãm nghệ thuật tại nhà thờ Chánh tòa thánh Gioan của Giáo hội Trưởng lão ở thành phố New York, tôi đã bắt gặp một bức chân dung có tên là “Cái chết của thánh Giuse.” Nơi bức chân dung lớn, họa sĩ Francisco Goya vẽ một ông Giuse ốm yếu nằm trên giường. Đứng bên cạnh là anh thanh niên Giêsu, có lẽ khoảng 16 hay 17 tuổi, không để râu, mặc áo choàng dài, chăm chú nhìn thánh Giuse. Ngồi bên giường là Mẹ Maria.
Bức tranh của Goya ghi lại thật đẹp nỗi buồn bao trùm trước cái chết sớm của thánh Giuse. Nỗi buồn như vậy cũng đã xảy ra với chúng ta nhiều tháng qua, nỗi buồn bao quanh cái chết của rất nhiều người do dịch Covid.
Theo truyền thống, thánh Giuse được kêu cầu như là bổn mạng “kẻ mong sinh thì” [kẻ chết lành]. Tuy nhiên cái chết của thánh Giuse có lẽ không phải không gây bất an đối với Đức Giêsu hay Mẹ Maria. Các sách Tin mừng không kể gì về việc than khóc. Không chỗ nào cho biết nỗi sầu khổ của Mẹ Maria, hay nỗi đau buồn của Đức Giêsu. Thế nên Thánh gia cũng giống như bao gia đình ngày nay đang đau buồn khi mất cha mẹ, ông bà, cô bác, anh chị em và con cái trong cơn đại dịch. Họ cũng đã gánh chịu phần lớn nỗi đau trong cảnh cách ly, nhưng lại không thấy xuất hiện trên bất kỳ bản tin nào.
Cuộc đời âm thầm của thánh Giuse
Cuộc đời âm thầm của thánh Giuse cũng có thể nói với những người bị áp đảo trong cơn đại dịch này; họ tự hỏi liệu Chúa có ở với họ, có nhìn thấy họ không. Chỉ xuất hiện thoáng qua trong các sách Tin mừng, không nói một lời nào, thánh Giuse đã sống một cuộc đời âm thầm phục vụ Thiên Chúa, một cuộc sống mà chúng ta gần như không hề biết đến. Tuy nhiên, cuộc sống của Ngài có giá trị vô cùng, đầy những hành động yêu thương âm thầm, kín đáo, dù không được ghi lại. Cuộc đời của thánh Giuse nói với tất cả chúng ta: “Chúa nhìn thấy tất cả.”
Cuộc đời âm thầm của Ngài thật gần gũi với hàng triệu con người đang nỗ lực tìm cách vượt qua cơn đại dịch: những nhân viên y tế ở tuyến đầu, mà những hy sinh âm thầm không được biết đến ngay cả với gia đình của họ. Những cha mẹ đơn thân không thể tâm sự cùng ai nỗi lo lắng khôn nguôi về con cái mình.
Những người con lớn tuổi có cha mẹ già đang sống trong nhà dưỡng lão, lo sợ về sự lây lan của dịch bệnh giữa những cư dân cao tuổi. Nhân viên kiểm soát, tài xế công cộng, thợ bảo trì, hầu như không đủ sống trước cuộc khủng hoảng kinh tế trong năm, giờ đây không có cách nào để “làm việc tại nhà.” Linh mục dù đã cử hành vô số đám tang cho các nạn nhân Covid và gia đình của họ, lo lắng không thể an ủi họ như mong muốn. Các bệnh nhân Covid đang chết trong cô đơn, than khóc trong thất vọng và đau khổ, tự hỏi không biết điều gì đang xảy ra.
Có rất nhiều cuộc đời âm thầm, biết bao hành động yêu thương không được nhìn thấy trong cơn đại dịch này. Biết bao lời cầu nguyện thầm kín cất lên đến tận thiên đàng. Người bạn thanh sạch của Đức Maria và là cha nuôi của Đức Giêsu, thấu hiểu tất cả.
Lạy thánh Giuse, đấng bảo trợ những cuộc đời âm thầm, đấng bảo trợ trong cơn đại dịch này, xin cầu cho chúng con, năm nay và mãi mãi.
14. Sự chết, đau khổ, sợ hãi...
(Từ: avvenire.it [28/03/2020) - Chuyển ngữ: An Bình, C.Ss.R. - Nguồn: hdgmvietnam.com)
Đại dịch Covid-19 dưới nhãn quan Kinh Thánh
Có phải Covid-19 là một sự trừng phạt của Thiên Chúa không? Hiệu quả của việc cầu nguyện trong đại dịch ra sao? Có phải đức tin chỉ dựa vào các phép lạ không? Dựa trên một vài đoạn Kinh Thánh, chúng ta cùng nhau suy tư về những gì đang xảy ra trong thế giới hôm nay...
WHĐ (03.9.2021) - Có phải Covid-19 là một sự trừng phạt của Thiên Chúa không? Hiệu quả của việc cầu nguyện trong đại dịch ra sao? Có phải đức tin chỉ dựa vào các phép lạ không? Dựa trên một vài đoạn Kinh Thánh, chúng ta cùng nhau suy tư về những gì đang xảy ra trong thế giới hôm nay.
Trong giai đoạn buộc phải ở nhà này, lời khuyên trở về với các bài đọc, đào sâu và sống nội tâm với các bản văn Kinh Thánh được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Vậy thì còn thời điểm nào thuận lợi hơn để cầm trên tay cuốn Kinh Thánh mà chúng ta có trong nhà mình? Quả thực, trong những trang Kinh Thánh, chúng ta có thể tìm thấy nhiều sự gợi ý cho việc suy tư (nếu không muốn nói chính là câu trả lời) cho những chất vấn hiện sinh mà đại dịch đặt ra cho mỗi chúng ta. Vì vậy, chúng ta thử xem xét một số đoạn Thánh Kinh để giúp chúng ta hiện thực hóa việc đọc trong khoảng thời gian tạm ngưng giữa nỗi sợ hãi về một dịch bệnh nguy hiểm và “sự im lặng của Thiên Chúa”.
Nỗi sợ hãi cái chết
Để mở đầu cho những suy tư ngắn này, chúng ta cùng nhau đọc và suy ngẫm về đoạn Tin Mừng của Thánh Gio-an (Ga 11,1-45) nói về việc Chúa Giê-su hồi sinh sự sống cho anh La-za-rô. Người bạn của Chúa Giêsu bị chết sau một cơn bạo bệnh (một chi tiết khiến chúng ta cảm thấy câu chuyện của anh ta rất thời sự, giống như sự ra đi của những người bị nhiễm Covid ngày hôm nay vậy) trước khi Chúa Giê-su có thể đến kịp thời (ít nhất là như lời “trách móc” mà người chị gái Mat-ta nói với Chúa: “Nếu Thầy ở đây, em con đã không chết”; và cách thể hiện nỗi đau rất người này cũng tạo nên cầu nối giữa bi kịch đang diễn ra hôm nay và đoạn Tin Mừng này).
Nhưng vượt trên tất cả, có một chi tiết trong câu chuyện Tin Mừng này khiến chúng ta sững sờ: sự khóc lóc của Chúa Giê-su. Dù biết rằng, trong vài phút nữa Ngài sẽ làm cho bạn của mình sống lại. Thật vậy, Đức Kitô chia sẻ với chúng ta mọi điều, ngoại trừ tội lỗi: ngay cả nỗi sợ hãi về cái chết và nỗi đau mất mát người thân yêu. Trong vườn Ghết-sê-ma-ni, không lâu trước khi bị bắt, chính Chúa Giê-su đã đổ mồ hôi máu và cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin hãy cất chén này khỏi con! Nhưng không phải theo ý con, mà để ý Cha được thực hiện” (Lc 22,42). Trong hoàn cảnh đau buồn như hiện nay, chúng ta cảm thấy rằng chúng ta có một “người đồng hành” đảm bảo hơn mọi thứ. Bởi vì, Chúa Giê-su là người đầu tiên cảm nghiệm được cảm giác sợ hãi của chúng ta và Ngài đã kinh nghiệm được“sự thinh lặng của Thiên Chúa Cha”, điều mà hôm nay dường như chúng ta không thể chịu đựng được.“Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 15,34), những tiếng than van này là lời cuối cùng của Ngài trên thập giá. Nhưng chắc chắn điều đó không phải là điểm kết thúc của biến cố Con người-Thiên Chúa của Ngài. Một điểm trong thời gian đại dịch Covid hoành hành có thể khiến chúng ta suy tư, đó là sự chết, điều mà sau nhiều thập kỷ tuyên truyền đã khiến chúng ta loại bỏ nó khỏi tầm nhận thức “văn hóa” của mình, ngoại trừ làm gia tăng nó trong những việc làm không bình thường (như phá thai, trợ tử, an tử...) hoặc thậm chí gây mê nó bằng một số các hình thức biểu diễn nào đó.
Mầu nhiệm thập giá và đau khổ
Mặt khác, toàn bộ Thánh Kinh, phơi bày ra trước mắt chúng ta mầu nhiệm của thập giá và đau khổ. Mầu nhiệm đó mang tính cứu rỗi. Vào ngày 25 tháng 3 năm 2020, trong một cuộc phỏng vấn với báo Avvenire, Đức Hồng y Giuseppe Betori, Tổng giám mục của Florence và là một học giả Thánh Kinh tài giỏi, đã nhắc lại đoạn Thánh Kinh trong sách Dân số (Ds 21,4-9) liên quan đến “bệnh dịch”. Bệnh dịch đã tấn công dân Ít-ra-en trong sa mạc khi rắn cắn họ và gây ra cảnh chết chóc. “Ở thời điểm đó, sự cứu thoát đến từ con rắn đồng do Mô-sê treo lên, điều mà chúng ta biết sau này Chúa Giêsu xem đó như là dấu chỉ của chính mình và của thập giá Ngài mà phải chịu. Đức Hồng y giải thích rằng: Ngày hôm nay, tôi tin rằng đối với một Kitô hữu, việc nhìn vào “những con rắn” vô hình đang tấn công chúng ta (Covid-19) phải khiến chúng ta hướng nhìn lên Đức Ki-tô, theo cách mà Ngài đã hiến mình vì chúng ta. Bởi vì, chỉ bằng cách tái khám phá lại sự phục vụ và hy sinh, như khuôn mẫu cho đời sống của chúng ta, chúng ta mới có thể thay đổi thế giới”.
Hay đối với Đức Hồng y Gianfranco Ravasi, một học giả Thánh Kinh quan trọng khác, trong một bình luận về đoạn Thánh Kinh tương tự cũng nhấn mạnh: “‘Việc nâng lên’ trên thập giá là một kiểu tôn vinh, cây gỗ đáng sợ đó trở thành ngai Thiên Chúa, sự đóng đinh là khởi đầu của phục sinh – suối nguồn giải thoát khỏi ác thần cho toàn thể nhân loại. Chính Chúa Giê-su, trước khi bước vào Cuộc Khổ Nạn, Ngài đã nói: “Khi ta được cất lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta” (Gv 12,32). Trong thời gian này, chúng ta có thể đóng lại để chúng ta được thu hút bởi Đấng đã chịu đóng đinh, như ĐTC Phan-xi-cô đã nhiều lần làm chứng, nó không phải như một hành động sùng kính đơn thuần, nhưng để chứng minh tính chắc chắn rằng thập giá dẫn đến Đấng Phục Sinh.
Sức mạnh của lời cầu nguyện
Tất cả những gì chúng ta vừa nói ở trên đều dẫn đến sức mạnh của việc cầu nguyện. Về vấn đề này, chúng ta đọc đoạn Thánh Kinh được nói ở trong Cựu Ước trích từ sách Xuất Hành (Xh 17,8-16). Ông Mô-sê cầu nguyện giơ hai tay hướng lên trời trên một ngọn đồi, trong khi ông Giô-suê chiến đấu ở vùng đồng bằng phía dưới chống lại người A-ma-lếch. Những lời cầu nguyện của ông có ý nghĩa quyết định đến chiến thắng cuối cùng. Thiết nghĩ, cũng cần phải đề cập đến sự đóng góp của ông A-ha-ron và ông Khua – những người luôn sát cánh bên Mô-sê để giữ vững cánh tay của ông. Các nhà chú giải đã thấy trong đoạn Thánh Kinh này một trong những khuôn mẫu hoàn chỉnh nhất của lời cầu nguyện Kitô giáo, nơi chiều dọc (nghĩa là mối tương quan giữa thụ tạo và Đấng Tạo Hóa) và chiều ngang (kéo dài sự cầu nguyện trong cuộc sống hằng ngày) hợp nhất với nhau một cách lạ lùng. Trên thực tế, lời cầu nguyện của Mô-sê hỗ trợ trận chiến của Giô-suê theo cách mang tính quyết định, nhưng không thay thế nó. Vì thế, lời cầu nguyện không phải là cây đũa thần, tự nó có quyền năng làm nên phép lạ, nhưng ngược lại, nó là sự tin tưởng hoàn toàn vào quyền năng của Thiên Chúa, Đấng trong Chúa Giêsu đã nhắc nhở chúng ta: “Không có Thầy, anh em không làm được gì” (Ga 15,5). Và đồng thời lời cầu nguyện đó đòi hỏi phải được chuyển hóa vào trong các “cuộc chiến đấu” nhỏ hay lớn mỗi ngày. Lời cầu nguyện sử dụng những hồng ân mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta: chẳng hạn như sự thông minh của khoa học và ý chí tự do tương ứng với điều thiện. Thánh Gia-cô-bê đã nói từ nhiều thế kỷ trước: “Đức tin không việc làm là đức tin chết” (Gc 2,26). Vào thứ Sáu, ngày 27 tháng 3 năm 2020, với buổi cầu nguyện ở quảng trường của Vương cung thánh đường Thánh Phê-rô, ĐTC Phan-xi-cô đã khiến chúng ta hồi tưởng lại trang Thánh Kinh này. Ngay cả Giáo Hoàng, một Mô-sê mới, từ đồi Vatican đã giơ đôi tay trong lời cầu nguyện hướng về Thiên Chúa của Đức Giê-su Ki-tô, Đấng luôn hiện diện và hằng sống trong Bí tích Thánh Thể. Và ngài đã làm như vậy cũng để nâng đỡ “nhiều Giô-suê” hiện đang tham gia vào “chiến trường” của các khu bệnh viện và các môi trường khác nhau trong cuộc chiến chống lại virus Corona. Lời cầu nguyện của ngài nâng đỡ và khuyến khích họ. Trong khi đó, cánh tay của ngài được giữ vững bởi ông A-ha-ron và ông Khua, tức là từ những lời cầu nguyện của chúng ta hiệp thông với những lời cầu nguyện của ngài. Và vì vậy, tất cả cùng nhau, chúng ta tin tưởng rằng kẻ thù (trong trường hợp này là Covid-19) sẽ bị đánh bại.
Nhưng chẳng lẽ virus Corona lại là hình phạt của Thiên Chúa sao?
Đây cũng là câu hỏi được nghe đi nghe lại nhiều lần trước sự lây lan của dịch bệnh. Đức Hồng y Betori, (trong cuộc phỏng vấn với báo Avvenire đã nhắc đến ở trên) đã bàn về vấn đề này ngang qua đoạn Lời Chúa được trích từ Tin Mừng của Thánh Lu-ca (Lc 13,1-5). Đó là đoạn nói về việc Chúa Giê-su trả lời cho những người xin Ngài lời giải thích về vụ thảm sát người Ga-li-lê. Họ bị Phi-la-tô giết chết và sau đó chính Ngài đề cập đến sự việc 18 người bị chết vì sự sụp đổ của tháp Si-lô-ác. Đức Hồng y Betori giải thích: “Tôi cảm thấy rằng, ngày hôm nay cũng có nhiều người tự hỏi, làm thế nào để đặt vào trong mối tương quan giữa những điều đang xảy ra với lòng nhân lành của Thiên Chúa? Và như thế, đại dịch Covid-19 được hiểu như là sự trừng phạt của Thiên Chúa sao? Chúa Giê-su nói rằng những người bị giết chết không có tội hơn những người khác. ‘Nhưng nếu các ông không chịu sám hối – Ngài cảnh báo – thì các ông cũng sẽ bị chết như vậy’. Vì vậy, đây không phải là một hình phạt nhưng đúng hơn là một lời mời gọi sám hối. Đức Hồng y nhấn mạnh: “điều này liên quan đến cả việc suy nghĩ lại về lối sống của chúng ta và cả những chọn lựa mang tính định hướng cho xã hội thời đại của chúng ta. Tôi lấy một ví dụ: chúng ta hãy xem kinh phí cho việc nghiên cứu khoa học quan trọng biết chừng nào. Tại sao chúng ta không cấm việc sản xuất và buôn bán vũ khí để lấy kinh phí đó dành cho việc nghiên cứu khoa học mang lại lợi ích cho con người? Chúng ta biết rằng, việc chạy đua vũ trang biểu trưng cho một xã hội nhầm lẫn về niềm vui và hạnh phúc. Tôi nghĩ rằng tình cảnh này mời gọi chúng ta làm một cuộc hoán cải thực sự. Nếu không muốn bị thua cuộc, thì đây được xem như là bổn phận của cả nhân loại chứ không riêng gì người Kitô hữu hay những người có tôn giáo”.
Cha Lorizio, một nhà thần học gia cũng đưa ra kết luận tương tự, ngài trích dẫn đoạn Thánh Kinh nói về việc chữa lành cho người mù bẩm sinh trong Tin Mừng của Thánh Gio-an (Ga 9,1-41), trong một bài báo xuất bản trên Famiglia Cristiana. Đối với những người hỏi Ngài: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” Chúa Giê-su trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh”. Do đó, Cha Lorizio chú thích rằng: “Chúa Giê-su làm đảo lộn nền thần học thời của Ngài, một nền thần học giải thích mọi hình thức của đau khổ như là hậu quả của tội lỗi. Ngài loại bỏ khuôn mẫu của sự trừng phạt”. Nhưng đoạn Thánh Kinh này đóng vai trò cầu nối để giới thiệu cho chúng ta một chủ đề khác đáng để suy ngẫm hơn.
Các phép lạ phục vụ cho điều gì?
Trong mọi hoàn cảnh, ngay cả những hoàn cảnh bi đát nhất, Cha Lorizio trả lời trong bài báo nói trên, “chúng được trao cho chúng ta bởi vì trong những hoàn cảnh đó bày tỏ chính ‘mầu nhiệm của Nước Thiên Chúa’”. Và, nếu trong trường hợp của người mù bẩm sinh, sự chữa lành đến từ sự trộn lẫn nước bọt của Chúa Giê-su và bụi đất, thì ơn cứu độ, sự chữa lành có thể được nảy sinh từ cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người, giữa ân sủng và tự nhiên. Nước bọt của Chúa Giê-su là dấu chỉ của Thiên Chúa, của tính siêu nhiên, được bày tỏ trong nhân tính của Ngài. Trong khi đó, đất lại biến thành bùn, điều đó nói với chúng ta rằng sự chữa lành sẽ được sản sinh từ đất, nghĩa là bởi sự dấn thân của chúng ta ngang qua trí thông minh và khoa học (nghiên cứu khoa học) và sự thực hành của ý chí tự do (tôn trọng các nguyên tắc và tình liên đới)”.
Tương tự như vậy, đoạn Tin Mừng nói về việc Chúa Giêsu dẹp sóng gió (Mc 4,35-41), được công bố vào thứ Sáu ngày 27 tháng 3 năm 2020 trong buổi cầu nguyện của ĐTC tại quảng trường Thánh Phêrô, cũng đi theo hướng đó. Trong con thuyền bị trận cuồng phong lật tung (giống như nhân loại của chúng ta trong thời đại dịch Covid-19) có Chúa Giêsu luôn ở cùng, chúng ta không được sợ hãi, như ĐTC nhấn mạnh. Chúng ta phải cầu xin Ngài chấm dứt “sự thinh lặng của Thiên Chúa”, tượng trưng bởi giấc ngủ của Ngài. Và Ngài, Đấng có quyền năng ngay cả với các hiện tượng tự nhiên, sẽ luôn luôn sẵn sàng cứu giúp. Tuy nhiên, mục đích của mô phạm này của Thiên Chúa, chắc chắn không phải dừng lại ở những “hiệu ứng đặc biệt” của chính phép lạ, nhưng xa hơn là ở câu hỏi, (không phải ngẫu nhiên mà thánh sử Mác-cô đặt vào môi miệng các tông đồ sau khi trở lại trạng thái yên tĩnh): “Vậy người này là ai, cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?” Nói một cách đơn giản, mọi thứ phải kết hợp lại với nhau để tăng thêm đức tin của chúng ta vào Đức Kitô. Bây giờ, chúng ta hãy cầu xin sự trợ giúp của Ngài. Và sau này, khi – như chúng ta tin tưởng – mối nguy hiểm của virus Corona bị đánh bại, chúng ta cần biến đức tin của mình thành hành động.
15. Bài suy tư của Đức Thánh Cha
ĐTC Phanxicô: Trong khủng hoảng cần kiên vững trong đức tin.
(Văn Yên, SJ - Vatican News)
Sau thời gian hè ngưng các buổi tiếp kiến chung trong tháng 7, lúc 10h sáng 5/8, Đức Thánh Cha trở lại với các buổi tiếp kiến chung hằng tuần mỗi thứ Tư. Trở lại với các buổi tiếp kiến trong tháng 8, Đức Thánh Cha không tiếp tục các bài giáo lý như thường lệ, nhưng với tình hình đại dịch hiện tại, Đức Thánh Cha sẽ có một loạt bài suy tư về đại dịch, từ hôm nay và trong những tuần kế tiếp.
Sau đây là bài suy tư của Đức Thánh Cha
Anh chị em thân mến,
Dịch bệnh đang tiếp tục gây ra những tổn thương ghê gớm, làm bộc lộ sự mong manh của con người. Đã có nhiều người chết, rất nhiều người nhiễm bệnh, ở tất cả các châu lục. Nhiều cá nhân và gia đình đang sống thời khắc vô định gây ra bởi những vấn đề kinh tế-xã hội, đặc biệt là những người nghèo.
Bởi thế, chúng ta cần kiên định hướng mắt về Chúa Giêsu (x. Dt 12,2) và với đức tin này, chúng ta ôm ấp niềm hy vọng vào Nước Trời mà chính Đức Giêsu đã giới thiệu cho chúng ta (x. Mt 1,5; Mt 4,17; GLGHCG 2816). Một Vương quốc của chữa lành và cứu độ đã ở giữa chúng ta (x. Lc 10,11). Một Vương quốc của công lý và hoà bình thể hiện ngang qua việc bác ái, và từ đó làm gia tăng niềm hy vọng và củng cố đức tin (x. 1 Cr 13,13). Trong truyền thống Kitô giáo, đức tin, đức cậy và đức mến có ý nghĩa to lớn chứ không đơn thuần là những cảm thông hay thái độ. Đó là nhân đức mà Chúa Thánh Thần trao tặng cho chúng ta (x. GLGHCG 1812-1813); những quà tặng chữa lành chúng ta, mở ra cho ta những chân trời mới, ngay cả khi chúng ta đang vật lộn với tình huống khó khăn như hiện nay.
Một cuộc gặp gỡ mới với Tin Mừng trong đức tin, đức cậy và đức mến mời gọi chúng ta đảm nhận một tinh thần sáng tạo và đổi mới. Trong cách thức này, chúng ta mới có thể chuyển hoá từ gốc rễ những hạn chế thể lý, tinh thần và xã hội. Chúng ta mới có thể chữa lành tận căn những bất công mang tính cơ cấu và những hoạt động mang tính phá huỷ đang chia rẽ chúng ta, đang đe doạ gia đình nhân loại và toàn thể trái đất này.
Sứ vụ của Đức Giêsu thực hiện rất nhiều phép lạ chữa lành: chữa lành người bị sốt (x. Mc 1, 29-34), người phong (x. Mc 1,40-45), người bại liệt (x. Mc 2, 1-12), người mù (x. Mc 8, 22-26; Ga 9, 1-7), người câm và điếc (x. Mc 7,31-37). Trong thực tế, chữa lành không chỉ là bệnh thể lý, mà là toàn bộ con người. Theo đó, người được chữa lành trở lại với cộng đoàn, được giải thoát khỏi tình trạng cô lập vì đã được chữa lành.
Chúng ta hãy chiêm ngắm trình thuật chữa lành người bại liệt ở Ca-pha-na-um (x. Mc 2,1-12), một trình thuật tuyệt đẹp mà chúng ta vừa nghe. Trong khi Đức Giêsu rao giảng ở trong nhà, bốn người khiêng người bạn bại liệt đến với Đức Giêsu; và vì không thể đi vào nhà do đám đông chật kín, họ là dỡ mái nhà và thả người bại liệt xuống trước mặt Đức Giêsu. “Thấy họ có lòng tin như vậy, Đức Giê-su bảo người bại liệt: ‘Này con, con đã được tha tội rồi.’” (c. 5). Và Ngài nói thêm, như dấu chỉ khả giác, “Ta truyền cho con: Hãy đứng dậy, vác lấy chõng của con mà đi về nhà!” (c. 11).
Phép lạ chữa lành thật tuyệt vời! Hành động của Đức Giêsu là phản ứng trực tiếp với đức tin của những người ấy, với đức cậy mà họ đặt nơi Ngài, với đức ái mà họ thể hiện với tha nhân. Đức Giêsu đã chữa lành, không chỉ là người bại liệt, mà tất cả, Ngài tha hết tội lỗi, làm mới lại cuộc sống của người bại liệt và của các bạn anh. Chúng ta có thể nói Đức Giêsu tái sinh tất cả. Một sự chữa lành cả thể lý và tinh thần, tất cả với nhau, là hoa trái của cuộc gặp gỡ cá vị và cộng đoàn. Chúng ta thử nghĩ đến tình bạn như thế, và đức tin của tất cả những ai hiện diện trong nhà, tất cả được củng cố nhờ phép lạ của Đức Giêsu. Cuộc gặp gỡ chữa lành với Đức Giêsu!
Chúng ta tự hỏi: chúng ta có thể góp phần chữa lành thế giới hôm nay không? Như các môn đệ của Thầy Giêsu, là thầy thuốc linh hồn và thể xác, chúng ta được mời gọi tiếp tục “hành động chữa lành và cứu độ của Ngài” (GLGHCG 1421) theo nghĩa thể lý, cộng đoàn và tinh thần.
Giáo Hội, mặc dù thi hành ân sủng chữa lành của Chúa Kitô ngang qua các Bí tích, và dù cung cấp những hỗ trợ y tế đến mọi ngóc ngách của thế giới, vẫn không phải là chuyên gia trong việc phòng và chống đại dịch. Giáo Hội cũng không thể đưa ra những hướng dẫn đặc thù mang tính xã hội-chính trị (x. Th. Phaolo VI, tông thư Octogesima adveniens, 14 tháng Năm 1971, 4). Đây là nhiệm vụ của các nhà lãnh đạo chính trị và xã hội. Tuy vậy, xuyên suốt nhiều thế kỷ, và dưới ánh sáng Tin Mừng, Giáo Hội đã đưa ra một vài nguyên tắc xã hội căn bản (x. Tóm lược Học thuyến xã hội của Giáo Hội, 160-208), những nguyên tắc có thể giúp chúng ta vượt qua khó khăn và để chuẩn bị cho tương lai. Tôi xin trích dẫn những nguyên tắc chính, có liên hệ mật thiết với nhau: nguyên tắc về nhân phẩm con người, nguyên tắc về công ích, nguyên tắc về lựa chọn ưu tiên người nghèo, nguyên tắc về phân phối tài sản phổ quát, nguyên tắc liên đới, hỗ tương, nguyên tắc về chăm sóc ngôi nhà chung. Những nguyên tắc này giúp các nhà lãnh đạo, những người chịu trách nhiệm về xã hội, làm thăng tiến, như trong tình trạng dịch bệnh hiện nay, và chữa lành cả cấp độ cá nhân và cộng đồng. Các nguyên tắc này diễn tả, bằng nhiều cách khác nhau, đức tin, đức cậy và đức mến.
Trong những tuần tiếp theo, tôi mời gọi anh chị em suy tư về những vấn nạn nổi cộm mà dịch bệnh đang đặt ra, nhất là những căn bệnh ở cấp độ xã hội. Và chúng ta suy tư dưới ánh sáng Tin Mừng, các nhân đức đối thần và các nguyên tắc về xã hội của Giáo Hội. Chúng ta cùng nhau khám phá truyền thống xã hội công giáo của chúng ta có thể giúp gia đình nhân loại thế nào trong việc chữa lành thế giới đang đau khổ vì dịch bệnh. Tôi ao ước suy tư và làm việc cùng với anh chị em, như những môn đệ của Đức Giêsu, Đấng chữa lành, hầu xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn, tràn đầy hy vọng vào các thế hệ tương lai (x. Tông huấn Evangelii gaudium, 24 tháng Mười Một 2013, 183).
16. Chết đến nơi rồi -- Lm. Thái Nguyên
Ngày Toàn Quốc cầu nguyện xin Ơn Chữa lành: Mc 4,35-41 - Chúa Nhật 17.10.2021.
Suy niệm
Trong lễ này, Giáo Hội đặt bài Tin Mừng kể lại trận cuồng phong nổi lên, khi Chúa Giêsu và các Tông đồ đang trên thuyền đi qua “bờ bên kia”. Trước cơn sóng dữ ập vào thuyền, các Tông đồ hoang mang, sợ hãi, các ông hốt hoảng chạy đến đánh thức và kêu cứu Thầy. “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?” Có gì đáng sợ bằng đứng trước cái chết, nó cho ta một cảm giác kinh hoàng. Lời kêu cứu của các tông đồ xem ra cũng là lời trách móc, có vẻ như Thầy quá vô tư hững hờ trước mạng sống của các đồ đệ. Nhưng có lẽ cần phải như thế để các ông nhận ra sự yếu đuối và bất lực của con người mình.
Ðức Giêsu đã thức dậy, ra lệnh cho gió và biển: “Câm đi! Im đi!”. Thế là sóng yên biển lặng như tờ. Lúc đó, Đức Giêsu mới trách lại các ông: “Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”. Nếu có lòng tin thì đâu có cuống cuồng như vậy. Có Thầy mà cũng như không. Mặc dù các ông đã từng chứng kiến những phép lạ lớn lao Thầy làm, nhưng hôm nay các ông mới thực sự kinh ngạc và thốt lên: “người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”. Nhìn các Tông đồ đối mặt với trận cuồng phong, ta thấy được phần nào về thế giới, về thái độ của con người khi đối diện với bão tố của cuộc đời.
Thế giới mà nhiều người ảo tưởng là vĩnh cửu dường như sắp sa chìm trong biển cả của sự dữ. Chỉ cần nhìn lại một năm rưỡi nay (từ 2020), ta đã thấy nhiều thảm họa xảy ra: trước tiên là cuộc cháy rừng ở Úc, hơn 10 triệu ha bị phá hủy; khoảng 1.400 ngôi nhà ở bang New South Wales bị thiêu rụi. Tiếp đến là trận “lụt hồng thủy” 40 ngày đêm ở Trung Quốc nhấn chìm hàng trăm ngàn ngôi nhà, khiến cho hàng ngàn người chết, đó là chưa kể đến lũ lụt ở các tỉnh miền Trung Việt Nam làm chết hàng trăm người, và cuộc chiến tàn sát nhau vì màu da sắc tộc trên nước Mỹ. Vượt lên trên các thảm họa kia là thảm họa Covid 19. Cơn đại dịch này làm cho thế giới kinh hoàng, làm tê liệt nền kinh tế và các hoạt động xã hội. Số người chết vì Covid 19 tính tới thời điểm này đã lên đến 10 triệu người ([1]). Thảm họa này làm cho con người điên đảo, cạn kiệt niềm hy vọng vào một thế giới tươi sáng.
Có nhiều người nghĩ đây đúng là cuộc chiến tranh thế giới thứ ba. Nó làm cho nhà nhà, người người phải chia ly, kẻ ở người đi không một lời trăn trối. Bao gia đình tan tác, bao người thân chết không thấy xác, bao thương đau về tinh thần và đói khát về thể xác; thời gian héo hắt phai tàn, và không gian im lìm chìm vào hoang vắng; nhà thờ và chùa chiền không bóng người. Mỗi ngày ở Việt Nam có hàng ngàn người phải cách ly, họ đang phải chiến đấu để giành giật lấy từng hơi thở, không biết ngày mai mình còn có mặt ở trên đời nữa không,… Tất cả mọi người đều rơi vào hoang mang, sợ hãi, thậm chí bị stress, và rồi những khó khăn lại nối tiếp như thất nghiệp, nghèo đói, không nơi nương tựa… Bao người tự hỏi: liệu Thiên Chúa có hay không? Nếu có thì Ngài ở đâu trong biến cố này? Ngài có nghe thấy tiếng con cái đang ngày đêm kêu cầu lòng thương xót của Ngài không? Có khi chúng ta cũng trách Chúa như các Tông đồ xưa: Chúng con chết đến nơi rồi mà Chúa không ra tay cứu chữa! Ngài còn chờ gì nữa đây?
Nếu cứ loay hoay tìm câu trả lời cho những vấn nạn đó thì không bao giờ thỏa đáng, nhưng nếu ta nhớ lại câu chuyện Ladarô trong Tin Mừng Gioan, thì ta sẽ có được tia sáng đầy hy vọng về cách hành động của Thiên Chúa. Mặc dù Chúa Giêsu rất yêu quí Ladarô nhưng Ngài không đến cứu ngay, mà để chết rồi mới đến cứu. Điều này cho ta thấy “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa cứu thoát cho bằng một Thiên Chúa cứu chuộc. Ngài không can thiệp để cứu ta khỏi nhục nhã, đau khổ và chết chóc, nhưng Ngài cứu chuộc ta khi ta đã qua nhục nhã, đau khổ và phải chết cách nào đó” (Ronald Rolheiser). Thật không dễ để hiểu được điều này nếu thiếu cảm nghiệm dưới ánh sáng đức tin.
Tuy nhiên, câu chuyện Chúa ngủ trên chiếc thuyền đang bị bão bùng năm xưa vẫn còn nguyên giá trị. Ngài vẫn ở đó, vẫn bên cạnh các Tông đồ, nhưng lo sợ đã làm các ông quên mất sự hiện diện của Chúa. Lúc này cũng vậy, Chúa đang ở đây, đang đau niềm đau của con người, đang khổ nổi khổ của nhân loại. Nhưng vì quá hoảng sợ, ta không còn nhận ra Chúa. Ngài vẫn ở bên chúng ta, “cho dù người mẹ có quên đứa con của mình, phần Ta, Ta sẽ không quên ngươi” (Is 49,15).
Thập giá là điều tất yếu của cuộc sống con người. Đau khổ cũng là lẽ tất nhiên trong thân phận làm người. Chúng ta không thể trốn chạy hay đổ lỗi cho Thiên Chúa, mà trái lại, thực tế lại thường là hậu quả của tội lỗi loài người. Mỗi người đều phải vác thập giá của mình, và những đau khổ chúng ta đang chịu lúc này đều liên hệ với những những đau khổ của Chúa Giêsu trên thập giá. Chúa đảm nhận tất cả những đau khổ ấy để thánh hóa mọi người chúng ta. Ta đừng ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối, nhưng hãy thắp lên một ngọn lửa của niềm tin và hy vọng; cần vác đỡ thập giá cho nhau. Được như vậy, thập giá sẽ trở nên Thánh giá, vì nó được đón nhận từ trái tim chúng ta trong sự kết hiệp với trái tim Chúa Giêsu, Đấng đã đổ máu để cứu chuộc chúng ta.
Virus Corona làm cho nhiều người khiếp sợ, nhưng có một loại virus đáng sợ hơn, đó là virus của lòng kiêu căng, ích kỷ, tham lam, hận thù, ghen ghét, nhất là chủ nghĩa bá quyền đang bành trướng dưới nhiều hình thức. Con người đã có lúc tự mãn nghĩ rằng “mình làm được mọi sự” nhưng qua biến cố đại dịch này, con người mới biết mình là ai? Làm được cái gì? Quả thật, nếu không có Chúa, thiếu Chúa, vắng Chúa, thế giới sẽ trở thành “ngôi nhà ma”, và biển cả của sự dữ là mồ chôn tất cả. Hãy nhìn mọi sự dưới cái nhìn đức tin để thấy Chúa đang hành động, và hành động cụ thể qua những con người đầy thiện chí, đầy nhiệt tình, đang xả thân cho anh em đồng loại ở mọi góc độ của cuộc sống hôm nay. Ta đừng hoang mang, sợ hãi nhưng “mọi âu lo, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em” (1Pr 5,7). Cuộc sống của thế giới giờ đây có nhiều thay đổi, có thể mọi người phải tiếp tục sống chung với lũ, nhưng dù trong hoàn cảnh nào “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến Người” (Rm 8,28).
Ước gì nạn Covid không làm cho sự hiện diện của Thiên Chúa bị “phong tỏa” bằng những suy nghĩ tiêu cực, bi quan, nhưng mở rộng tâm hồn ta để tiếp nhận ánh sáng, tình yêu và ân sủng, mà Thánh Thần Chúa đang tiếp tục tuôn đổ xuống cho những kẻ tin.
Cầu nguyện
Lạy Chúa!
Cuộc đời như biển cả mênh mông,
có những khi đầy sóng gió chập chùng,
với dịch bệnh, tai ương và nghèo túng,
biết bao người phải lâm cảnh khốn cùng,
chúng con thấy hoang mang và nao núng,
lại thấy Chúa như xa cách muôn trùng.
Cuộc sống với đau khổ không thể tránh,
bao lần con ưu phiền và than trách,
nhưng thử thách lại là phương cách,
Chúa muốn tôi luyện đời sống con,
qua những đau thương thêm vững vàng,
qua những nguy nàn thêm tin cậy.
Thử thách như cơ hội triển nở,
giúp con khai mở những tiềm năng,
để con khai sáng cuộc đời mình,
theo như chương trình tình yêu Chúa.
Thử thách như thập giá hằng ngày,
cho con biết luôn kề vai vác lấy,
trong an vui và hy vọng tràn đầy,
vì thấy mình được nên giống Chúa hơn.
Trong thử thách con thấy mình chới với,
nhưng tin rằng Chúa có mặt ở mọi nơi,
luôn yêu thương và hành động kịp thời,
không để đời con phải chơi vơi,
Thuyền đời con chẳng bao giờ êm ả,
chỉ êm ả khi về tới bến quê,
chỉ mong sao con giữ vẹn lời thề,
biết sống đức tin giữa cuộc đời trần thế,
Xin cảm tạ và tôn vinh danh Chúa,
trong gian nan thử thách của đời con. Amen.
—
[1]. https://zingnews.vn/so-ca-tu-vong-thuc-te-vi-covid-19-tren-toan-cau-la-bao-nhieu-post1254231.html (24.08.2021)
17. Đức Giêsu, sự cần thiết cho cơn đại dịch Covid-19 – Lm Phaolô Phạm Trọng Phương
Thiên Chúa ở đâu giữa đại dịch
(Suy niệm của Lm. Phaolô Phạm Trọng Phương)
Trong khi tôi soạn bài giảng này, mọi người trên khắp cả thế giới, nhất là tại Việt Nam đang phải oằn mình, hoang mang lo sợ vì đại dịch Covid-19 bùng phát rất nhanh từng giờ từng phút kéo theo con số tử vong cũng như người nhiễm bệnh rất cao. Đây quả là sóng gió bão bùng đối với con người mà tự sức khó để chèo chống. Tuy nhiên, có nhiều quốc gia, tập thể và cá nhân đã nỗ lực dùng nhiều cách thức như quyền lực, tiền tài, vật chất, ngay cả cầu khấn các thần thánh để chống lại Covid, nhưng mọi sự đều vô vọng không muốn nói càng ngày đại dịch lại càng gia tăng. Trong phụng vụ Lời Chúa của tuần 12 thương niên B hôm nay, chúng ta bắt gặp một Giê-su, nguồn sức mạnh của Thiên Chúa hiện diện với nhân loại ngang qua việc làm cho chiếc thuyền của các môn đệ thoát khỏi những cơn sóng mạnh mẽ và giết chết.
Quả thật, Covid, hình bóng của sự Dữ và sự Chết đang ‘gầm gừ’ và ‘mạnh mẽ hoành hành’ trong thế giới lữ hành của chúng ta. ‘Bão tố hung dữ’ này đang làm cho người người, nhà nhà phải xa cách vì bị cách ly hay tử vong khi bị nó xâm nhập và lây nhiễm. Biết bao nhiêu nỗ lực của các nhà khoa học và các chuyên gia y tế đã, đang và sẽ tìm mọi phương cách hữu hiệu nhất để phòng chống ‘cơn sóng dữ dội’ này. Nhìn chung phần nào đó đã ngăn chặn được sự lây lan của dịch bệnh qua việc nghiên cứu ra Vacinne. Tuy nhiên, tự sức con người làm sao có thể chống trả được ‘cơn sóng’ nguy hiểm này? Nơi bài Tin mừng hôm nay, chính Chúa Giê-su đã muốn cho các môn đệ tiếp cận với cơn sóng dữ dội nơi biển hồ Galile khi Ngài bảo: “Chúng ta sang bờ bên kia đi!” (Mc 4,35). Nơi đây các môn đệ đã bị cuồng phong giông tố đe doạ: “Một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước.” (c.37). Ý Chúa Giê-su muốn dạy cho các môn đệ nói riêng và tất cả mọi người chúng ta nói chung bài học trong cuộc đời là không thể mà không có sự Dữ, nhất là sự Chết. Chúng ta phải chấp nhận tiếp cận, chung đụng và trải qua. Các môn đệ đã va chạm và đối diện với sóng dữ. Các ông đã hoang mang lo sợ và bất lực hoàn toàn khi nhận ra rằng tự mình chẳng giải quyết và chiến thắng được cơn giống tố bão bùng này. Chính vì thế, các môn đệ đã mau chóng chạy đến với Đức Giê-su để cậy nhờ Ngài can thiệp: Trong khi đó, Đức Giê-su đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ đánh thức Người dậy và nói: “Thầy ơi, chúng ta chết mất, Thầy chẳng lo gì sao?”. Một điều chúng ta đáng lưu ý là việc Chúa Giê-su ‘ngủ’ trên chiếc thuyền không phải là Ngài không hiện diện, Ngài bỏ rơi các môn đệ, bỏ rơi nhân loại, nhưng Ngài muốn cho mọi người biết rằng Ngài vẫn hiện diện ở đó, trong mọi nơi mọi lúc, nhất là trong những lúc bi thương nhất của cuộc đời. Điều quan trọng là con người đã không nhận ra Ngài và đã mời Ngài ra khỏi con thuyền cuộc đời của mình để tự giải quyết mọi sự. Và đương nhiên, đứng trước mọi khó khăn hay sóng gió cuộc đời, con người dường như bị giới hạn và chẳng làm được gì để vượt qua. Cái khôn ngoan nơi các môn đệ là nhớ đến Chúa Giê-su và kêu cầu Ngài để Ngài giúp đỡ vì biết rằng ‘không có Thầy, chúng con không làm được gì.’ (Ga 15,5). Quả thật, sự hiện diện của Chúa Giê-su đã làm vơi đi, tan đi và mất đi sự ‘lộng hành của bão táp’ mà các môn đệ đang phải hứng chịu. Tin mừng đã thuật lại điều đó: “Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi!” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ.” (c.39). Đức Giê-su, Ngôi Lời Thiên Chúa, có uy quyền trên mọi sự, cụ thể là trên biển cả mà Tin mừng hôm nay trình thuật. Uy quyền của Ngài đã và đang chiến thắng mọi sự Dữ và ngay cả sự Chết. Hình ảnh Ngài ‘ngủ’ như là hình ảnh báo trước cái chết của Ngài. Và khi Ngài ‘thức dậy’ là hình ảnh chiến thắng tử thần của Ngài trong tương lai, nghĩa là Ngài sẽ sống lại hiển vinh. Đối với Ngài, sự Dữ và sự Chết chẳng làm được gì vì Ngài là Thiên Chúa toàn năng toàn thiện và Đấng tác sinh muôn loài muôn vật.
Chính vì thế, đứng trước sự Dữ là giông tố cuộc đời, nhất là trong bối cảnh cả và nhân loại đang đối diện với Đại dịch Covid-19, con người chúng ta ngoài việc nỗ lực thực hiện phòng chống nó với tiêu chuẩn 9K (Khẩu trang – Khử khuẩn – Khoảng cách – Không tập trung – Khai báo y tế - Kiểm soát biên giới - Khu cách ly an toàn - Không ra khỏi nhà khi cần thiết - Không đăng tải thông tin sai sự thật), ngoài việc nỗ lực tìm kiếm Vacinne phòng ngừa, là những người có đức tin chân chính, chúng ta được mời gọi hãy mau chóng chạy đến với Thiên Chúa tình yêu ngang qua Chúa Giê-su Ki-tô để nhờ Ngài, trong Ngài và với Ngài mọi người sẽ được cứu chữa và giải thoát. Cũng vậy, đứng trước sóng dữ hoành hành, các môn đệ đã vội vã kêu cầu Đức Giê-su hơn là cậy dựa vào sức lực yếu đuối của con người, và kết quả đã được giải thoát khỏi bão tố hãi hùng đó. Chính Thánh Phao lô, tông đồ dân ngoại, cũng đã khẳng quyết trong bài đọc II (2Cr 5, 14-17): nơi Đức Giê-su, Đấng đã chết và sống lại hiển vinh sẽ làm cho con người trở nên thụ tạo mới và được tham dự vào phần vinh quang bất diệt. Nơi Ngài, mọi người sẽ được giải thoát mọi sự Dữ và sự Chết. Cũng vậy, nơi bài đọc I, Thiên Chúa đã khẳng định với Gióp rằng: “Bấy giờ, giữa cơn bão táp, Đức Chúa lên tiếng trả lời ông Gióp như sau: Cửa đại dương, ai ra tay khép lại khi nước tuôn trào từ đáy vực sâu, khi Ta giăng mây làm áo nó mặc, phủ sương mù làm tã che thân ? Đường ranh giới của nó, chính Ta vạch sẵn, lại đặt vào nơi cửa đóng then cài,…” (G 38, 1.8-10). Chính Thiên Chúa làm nên mọi sự, chủ mọi sự và giải thoát mọi sự, con người chỉ là dụng cụ và là người quản lý công trình sáng tạo mà thôi.
Thật vậy, hình ảnh sóng gió bão bùng trong bài Tin mừng hôm nay đối với con thuyền các môn đệ chính là hình ảnh giông tố trong cuộc đời của mỗi chúng ta. Hình ảnh rõ ràng và thiết thực nhất, đó là Đại dịch Covid mà nhân loại chúng ta đang đối diện. Nó đang làm cho thế giới đảo điên và hoang mang lo sợ. Đứng trước Đại dịch này, mọi người đã dùng mọi phương cách để phòng chống nhưng xem ra mọi sự không như mong muốn. Phải chăng con người đã tự cậy dựa vào sự khôn ngoan, thông minh, giàu có của mình để giải quyết? Phải chăng mọi người tự cho mình làm được mọi sự, tự cho mình là cái rốn của vũ trụ? Nhưng thực tế đã cho thấy, tất cả nỗ lực của con người chẳng đem lại được cái gì nếu thiếu đi sự can thiệp của Thiên Chúa. Vì thế, là những người tin nhờ sự vào mặc khải của Chúa Giê-su, nhờ Tin mừng của Ngài, chúng ta được nhận chân rằng chính Chúa là Đấng uy quyền trên trời dưới đất. Nhờ Ngài, trong Ngài và với Ngài, mọi sóng gió bão bùng sẽ được dập tắt nếu chúng ta biết cậy dựa vào Ngài.
Do đó, chúng ta hãy mau nói cho thế giới loài người biết rằng Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, Đấng dựng nên muôn loài muôn vật và có uy quyền trên mọi sự. Ngài luôn yêu thương và ban phát mọi ơn lành cho những ai biết tin tưởng vào Ngài và mong muốn Ngài đi vào con thuyền cuộc đời đang chênh vênh và gập ghềnh bởi biết bao sóng gió dữ dằn của ma quỷ, của thế gian và xác thịt, nhất là trong tình cảnh khó khăn và sợ hãi bởi cơn sóng của Đại dịch Covid-19 này.
18. Suy niệm Kinh Lạy Cha mùa dịch Covid-19 -- Aug. Trần Cao Khải
Có lẽ hơn lúc nào hết, trong thời điểm hiện tại khi mà đại dịch cúm Covid-19 đã trở nên cực kỳ nguy hiểm và lan rộng hầu hết khắp nơi trên thế giới, thì kinh “Lạy Cha” mà chúng ta đọc hằng ngày đã trở nên một lời kinh thắm thiết nhất trong các kinh nguyện. Đó cũng trở nên một bài suy niệm gợi mở cho ta nhiều suy tư và quyết định khi đang phải đối diện với sự lo âu, sợ hãi, hoảng loạn, thất vọng và hoang mang cùng cực.
Trước tình hình đáng lo sợ này, người Ki-tô hữu chúng ta tự hỏi, “Thiên Chúa đang ở đâu? Người muốn nói gì thông qua những biến cố đáng sợ và đau buồn này?”.
Hơn lúc nào hết, mọi tín hữu chúng ta đừng quên đặt niềm tin tưởng vào Thiên Chúa, nhất là khi cuộc sống của chúng ta đang gặp phải những khó khăn thử thách. Có thể chúng ta dễ dàng quên đi Người chăm lo thế giới này khi những biến cố xảy ra làm đảo lộn cuộc sống của mình. Giữa những sợ hãi, buồn phiền và nỗi thống khổ ấy, chúng ta cần xác tín rằng Thiên Chúa vẫn gìn giữ mọi sự trong trật tự. Khi mọi thứ bị xáo trộn, chúng ta hãy luôn giữ bình an và tín thác vào Thiên Chúa khi biết rằng Người là Đấng sáng tạo và gìn giữ muôn loài. [1]
Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời
Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, Người “ở trên trời” nhưng Người không xa chúng ta. Sự hiện diện của Người là vô cùng, vô biên và sâu thẳm. Mặc dù không “thấy” Người, nhưng chúng ta nghe được Lời của Người: “Đừng sợ hãi: có Ta ở với ngươi. Đừng nhớn nhác: Ta là Thiên Chúa của ngươi. Ta cho ngươi vững mạnh, Ta lại còn trợ giúp với tay hữu toàn thắng của Ta ” (Is 41, 10).
Chúng ta cầu nguyện với Thiên Chúa là Cha chúng ta ở trên trời vì Người là Đấng duy nhất để ta tôn thờ và yêu mến, vì tất cả chúng ta là con cái của Người và vì chúng ta tin tưởng tất cả mọi sự dữ sẽ qua đi và chỉ mình Người là tồn tại. Chúng ta xác tín rằng, không có gì vĩnh cửu trong thế giới này, kể cả những điều hạnh phúc và những phiền muộn của chúng ta. Vậy chúng ta hãy an tâm. Thiên Chúa hằng sống và chúng ta sẽ vượt qua cuộc sống tạm bợ này để cùng được sống với Người trong Nước vĩnh cửu.
Chúa Giê-su luôn dùng từ “Cha” trong những thời điểm thử thách nhất, và cho chúng ta biết rằng Cha luôn biết mọi sự chúng ta cần, trước cả khi chúng ta lên tiếng. Người là Cha lắng nghe chúng ta trong thầm lặng, cũng như Chúa Giê-su dạy chúng ta cầu nguyện nơi kín đáo.
Trong lúc dịch bệnh hoành hành thế này, chúng ta cầu xin cho nhiều người biết đến Danh (Tên) Thiên Chúa để có niềm tin và hi vọng. Biết Danh là biết Người. Biết Người thì sẽ cảm nhận được quyền năng và tình thương của Người lớn lao chừng nào. Người Ki-tô hữu và người ngoài Ki-tô giáo khác nhau ở chỗ người Ki-tô hữu biết đích xác Danh Đấng mà mình tôn thờ và cầu xin. Không cầu xin một cách vu vơ.
Chúa Giê-su đã dạy chúng ta cầu xin với Cha của Ngài. Tức là Đấng mà Ngài đã mạc khải cho chúng ta biết. Cha của Đức Giê-su là một người Cha quyền năng và giàu lòng thương xót. Lịch sử cứu độ đã chứng tỏ cho thấy rằng Cha luôn có kế hoạch giải thoát con người khỏi tội, sự chết và mọi tai họa. Cha là Chúa của kẻ sống.
Khi dịch Covid-19 lan rộng ra các nước trên thế giới, ngày nào người ta cũng thiết lập bản đồ virus-Corona để theo dõi tình hình dịch bệnh. Chúng ta cầu xin cho các chấm đỏ hay mảng tím ngày càng ít đi. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn, đó vẫn là xin cho Nước Cha ngày được triển nở trên trái đất và trong vũ trụ này. Nước của Thiên Chúa không có trên bản đồ nhân loại cũng không phải là một vương quốc của một đế chế nào. Đó là Vương Quốc của Thiên Chúa mà Đức Ki-tô Phục Sinh là Đấng được trao quyền thiết lập.
Phải cầu xin để Vương Quốc ấy ngày càng lan tỏa ra toàn vũ trụ và khắp cùng trái đất. Chỉ trong Vương Quốc ấy con người mới thoát khỏi sự kiềm tỏa của mãnh lực sự dữ. Chỉ trong Vương Quốc ấy, con người mới có bình an, hạnh phúc, yêu thương và tự do đích thực. Chúa Ki-tô đã được Thiên Chúa Cha trao cho Vương Quyền thiên giới sau khi Ngài đã sống lại từ kẻ chết. Ngài thiết lập Hội thánh Tân Ước để tất cả những ai tham dự vào mầu nhiệm Nước Trời sẽ được hưởng ân huệ mà Thiên Chúa đã hứa ban. “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 18-20).
Trong khi chúng ta thưa với Thiên Chúa là “xin ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”, chúng ta lại thường lèo lái thánh ý Chúa theo ý muốn của ta. Khi dịch bệnh xảy ra, thay chúng ta khiêm tốn cầu xin để biết đâu là đường lối của Thiên chúa, đâu là kế hoạch của Người, thì chúng ta lại “điều khiển” Thiên Chúa làm điều này điều kia như thể ban một vài phép lạ nào đó cho chúng ta.
Thực ra, ý Thiên Chúa luôn là một mầu nhiệm. Người hành động một cách kỳ diệu, lạ lùng mà trí khôn ta không thể thấu suốt được. “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi và đường lối của Ta cũng không phải là đường lối của các ngươi” (Is 55, 8). Vì thế đối với những việc xảy ra cho con người, dù tốt hay xấu, chúng ta một lòng tin tưởng và phó thác vào Chúa quan phòng. Thánh Phao-lô đã nhắn nhủ các tín hữu: “Chúng ta biết rằng: Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến Người, tức là cho những kẻ được Người kêu gọi theo như ý Người định ” (Rm 8, 28).
Về ý nguyện này, ĐTC Phan-xi-cô đã chia sẻ như sau: [2]
“Khó khăn thử thách giúp chúng ta cảm nghiệm đau khổ: Như đã xảy ra với Chúa Giê-su trong vườn Giết-sê-ma-ni, khi Người nếm trải sự đau khổ và Người đã cầu nguyện; “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin hãy cất chén này xa con! Nhưng xin đừng theo ý con, mà là theo ý Cha” (Lc 22, 42). Chúa Giê-su đã bị vùi dập bởi sự ác của thế gian nhưng Người phó thác cách tin tưởng vào đại dương tình yêu của thánh ý Chúa Cha.
“Cả các vị tử đạo, trong thử thách, các ngài không tìm sự chết, các ngài tìm điều sau cái chết, đó là sự Phục sinh. Thiên Chúa, vì yêu thương, có thể đưa chúng ta đi trên những nẻo đường khó khăn để cảm nhận những vết thương và gai góc đau khổ, nhưng Người sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Người sẽ luôn ở với chúng ta, bên cạnh chúng ta, trong tâm hồn chúng ta”.
Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày
Lời cầu xin này xem ra rất gần gũi và cần thiết đối với mỗi người chúng ta. Mong được hằng ngày dùng đủ. Đó là niềm mơ ước của nhiều người, nhiều gia đình. Nhưng tại sao Chúa lại dạy ta xin điều mà xem ra Ngài không muốn chúng ta bận tậm lắm.
Đức Giê-su đã chẳng kêu gọi chúng ta phải hoàn toàn tin tưởng vào Chúa quan phòng sao? Ngài phán: “Vì thế anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha em em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6, 31-33).
Khi dịch bệnh xảy ra, ngoài vấn đề lo bệnh viện chạy chữa, lo chỗ cách ly, lo sắm khẩu trang, lo thầy, lo thuốc, người ta còn phải lo cái ăn, cái uống trong điều kiện khan hiếm và mắc mỏ. Nhiều người đua nhau tích trữ lương thực. Hàng hóa, thực phẩm trong siêu thị bỗng bị “hút” hết. Chuyện này không chỉ xảy ra bên Trung Quốc hay VN mà còn diễn ra bên Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc châu…
Trong số những người lo lắng, hoang mang về cái ăn cái uống thời Covid-19 chắc cũng có nhiều người Công giáo chúng ta. Chúa biết điều này. Chúa không trách móc chúng ta, nhưng Ngài mời gọi chúng ta nhìn xa hơn. Nếu như chúng ta đầy đủ lương thực nhưng nhiễm virus Corona dương tính, rồi vĩnh viễn ra đi, thì liệu có ích gì cho ta. Nếu như trong hoàn cảnh dịch bệnh này, ta có đầy đủ lương thực, thực phẩm trong khi nhiều người anh em của ta thiếu thốn, cạn kiệt mà ta không ra tay giúp đỡ, thì liệu lương tâm ta có bình an không.
Bên cạnh việc nhắc bảo chúng ta nên chấp nhận cuộc sống vật chất “đủ dùng hằng ngày”, Chúa cũng đề nghị chúng ta nên lo tích trữ kho tàng trên trời là nơi mà những thứ đó không bị mối mọt ăn. “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi. Vì kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó” (Mt 6, 19-21).
Và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con
Đối với Thiên Chúa, chúng ta hoàn toàn “mắc nợ” Người. Bởi vì tất cả con người và cuộc sống chúng ta đều là ơn huệ của Người. Chúng ta được tạo dựng từ “không” đến “có”, từ hư vô đến hiện hữu, từ không-là-gì đến có-là-gì. Hơn nữa, chúng ta được Chúa cứu chuộc, từ kẻ có tội trở thành bạn hữu của Chúa, từ phạm nhân đáng chết trở thành con cái của sự Sống. Ơn cứu chuộc là vô giá. Chính Đức Giê-su, Con Một của Thiên Chúa đã hy sinh mạng sống mình để xóa nợ thay cho chúng ta.
Trong cuộc sống đời này, mọi người cũng mắc nợ nhau. Chúng ta không chỉ mắc nợ nhau tiền bạc, vật chất này nọ, mà còn mắc nợ nhau về chất xám, trí năng, tinh thần, lòng tốt, sự tử tế, sự hy sinh xả kỷ, sự hiến thân do nghề nghiệp vv. Mỗi người đều mắc nợ nhau và mỗi người phải có bổn trả nợ, cách này hay cách khác.
Khi dịch cúm do virus Corona bùng phát, ta đã thấy không ít các bác sĩ, y tá, nhân viên y tế, các lực lượng bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cộng đồng, các nhà khoa học, đã liều thân lao vào “trận địa của cơn đại dịch”. Đã không ít người đã bỏ mạng ngay tại nơi làm việc, vì nhiễm virus hay vì làm việc quá sức. Chúng ta được sống an lành như hiện tại, đó là cũng là nhờ phần lớn những con người hy sinh thầm lặng ấy.
Trong khi chúng ta cầu xin Chúa tha nợ cho chúng ta thì chúng ta cũng xin Chúa giúp ta làm mọi cách để có thể trả nợ cho những người anh em đã hy sinh mạng sống vì nhân loại chúng ta. Thánh Phao-lô đã quả quyết: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề luật” (Rm 13, 8).
Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi mọi sự dữ
Không một Ki-tô hữu nào mà không có kinh nghiệm về những cám dỗ trong đời sống mình. Vấn đề là chúng ta có thái độ và phản ứng như nào trước những cám dỗ xảy đến cho mình. Ma quỷ là tác nhân chính của cám dỗ. Nhưng cũng có những “mãnh lực” khác hùa theo ma quỷ, chúng cũng có sức mạnh cám dỗ ta làm sự tội, đó là thế gian, xác thịt. Trước hết, chúng ta phải khẳng định rằng, cám dỗ có một sức mạnh kinh khủng, nó như một cơn cuồng phong cuốn hút ta vào vòng xoáy của sự ác, để chúng ta phải làm điều ác.
Thánh Phê-rô đã nhắc nhở chúng ta: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé, anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự, vì biết rằng toàn thể anh em trên trần gian đều trải qua cùng một loại thống khổ như thế” (1Pr 5, 8-9).
Chắc chắn chúng ta không thể sống mà không bị cám dỗ được, vì nó ở ngay sát bên ta, ở trong ta. Vấn đề là chúng ta xin Chúa ban ơn để chúng ta có sức mạnh không chiều theo nó, không rơi vào bàn tay điều khiển của nó. Có hai phương thế để chúng ta đối phó với cơn cám dỗ, đó là: sống tiết độ và tỉnh thức.
Trong thư mùa Chay gửi cộng đoàn dân Chúa giáo phận Mỹ Tho ngày 22-2-2020, ĐGM Phê-rô Nguyễn Khảm đã nhắc nhở như sau:
“Để phòng chống dịch bệnh Covid-19, người dân được nhắc nhở về việc đeo khẩu trang nơi công cộng, rửa tay thường xuyên và đúng cách sau khi tiếp xúc với vật dụng hay bề mặt có nhiều người chạm vào như tay nắm cửa, bàn phím, thang máy…Đồng thời chính quyền sử dụng biện pháp cách ly những người có dấu hiệu nhiễm bệnh, để khoanh vùng dịch, tránh lây lan cho nhiều người khác.
“Cũng thế, nếu ý thức được mối nguy hiểm và sự tàn phá của tội lỗi, chúng ta cần phải phòng chống tội lỗi. Theo kinh nghiệm lâu đời của mình, Hội Thánh đưa ra nhiều lời khuyên đạo đức để giúp thực hiện điều này, cụ thể nhất là tránh xa dịp tội. Trong Kinh Ăn năn tội, chúng ta vẫn đọc: “Nhờ ơn Chúa giúp, con sẽ tránh xa dịp tội và làm việc đền tội cho cân xứng”. Dịp tội là những hoàn cảnh bên ngoài (không gian, thời gian, sự vật, con người) khiến chúng ta dễ bị cám dỗ phạm tội. Không tránh xa những dịp đó thì khó lòng tránh được tội lỗi. Vì thế, cần phải tránh xa dịp tội, nhất là những dịp tội gần. Mỗi người cần xét xem đâu là những tội mình hay phạm, hoàn cảnh nào khiến mình dễ sa ngã phạm tội đó, từ đó cố gắng xa tránh dịp tội.” [3]
Khi dịch bệnh mới xảy ra ở thành phố Vũ Hán (Trung Quốc), mọi người đều lo lắng và hoảng loạn vì có thể đây sẽ là một thảm kịch lớn của nhân loại. Người ta đã ghi lại chứng từ của một nhân chứng có mặt tại chỗ, như sau:
“Trong gần một tuần, sinh viên Mỹ Nicholas Schneider, 21 tuổi, đã cố gắng nhưng chưa ra được khỏi Vũ Hán, thành phố là tâm chấn của đại dịch virus corona và đang bị phong tỏa.
“Schneider đã nói trong cuộc phỏng vấn với Reuters ngày 29-1 rằng đây như một thị trấn ma, không có nhiều người và xe cộ. Một cảm giác lạ. Một cách nào đó, anh ta cảm thấy như ngày tận thế! Thành phố sầm uất 11 triệu dân giờ đây vắng lặng một cách lạnh lùng. Schneider ở đây để theo học toán học ứng dụng ở Đại học Vũ Hán, cách 16 km so với khu chợ buôn bán trái phép động vật hoang dã được cho là nơi mà chủng virus corona mới bắt đầu lây lan”. [4]
Tai họa dịch cúm virus corona xảy đến có vẻ bất ngờ khiến cho nhiều người hoảng sợ đưa ra nhiều suy đoán. Người ta tập trung đi tìm nguyên nhân. Đây có thể không phải là thiên tai, nhưng là một nhân tai khủng khiếp? Đây có thể là biến chất của một loại hình chiến tranh vi trùng? Đây cũng có thể là một ý đồ xấu xa của một quốc gia nào đó muốn tiêu diệt một nước thù địch vv.
Cũng có một cách lý giải khác, rằng Thiên Chúa phạt người này, người kia, nước nọ, vì tội chống báng Thiên Chúa và phỉ báng Hội thánh Chúa Ki-tô! Thực ra, xét ở bản chất tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa, chúng ta tin rằng Người không thù ghét ai cả. Người cũng không muốn nhân loại phải khổ sở, điêu đứng. Người không phải là tác nhân gây tai họa.
“Mạnh bạo lên, can đảm lên! Đó chẳng phải là lệnh Ta đã truyền cho ngươi sao? Đừng run khiếp, đừng sợ hãi, vì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, sẽ ở với ngươi bất cứ nơi nào ngươi đi tới” (Gs 1, 9).
Chúng ta cũng biết rằng, “Hình phạt nặng nhất của Thiên Chúa không phải là gởi đến những tai họa, tang tóc để ta không thể nghỉ yên trong tội lỗi. Đó còn là dấu chỉ lòng nhân từ của Người muốn cảnh tỉnh ta để ta trở lại với Người. Hình phạt nặng nhất là để cho ta có dư dật của cải, vui sướng ở đời này và chỉ cất khỏi ta sự hiện diện sinh động của Người, vì ở trạng thái thấy con người có cảm giác mình chẳng còn thiếu thốn chi nên không nghĩ đến trở lại nữa”. [5]
________________
[1] conggiao.info
[2] vaticannews.va
[3] giaophanmytho.net
[4] news.zing.vn
[5] LM Thân Văn Tường – Đối diện với Thiên Chúa – Gp Long Xuyên 1993 trang 6.
19. Chúa nói gì với ta qua cơn đại dịch? – Lm Giuse Anh Tuấn
(Suy niệm của Lm. Jos. Anh Tuấn - Giáo phận Lạng Sơn - Cao Bằng. Từ hdgmvietnam.com)
WHĐ (11.9.2021) - Hơn hai năm qua, cả thế giới phải đối diện với đại dịch Covid-19, với biết bao mất mát, đau khổ, chết chóc mỗi ngày một lan tràn khủng khiếp hơn vì có những biến chủng mới. Riêng tại Việt Nam, dịp tái phát lần này là khủng khiếp nhất. Worldometer ghi nhận Việt Nam: 576,096 ca nhiễm, 14,470 ca tử vong, 338,170 ca khỏi bệnh (cập nhật 10/9/2021).
Đứng trước thảm trạng này, có nhiều người thất vọng, trách móc và đổ lỗi cho nhau; có nhiều người than trách cả Chúa… Chúa đâu? Sao Ngài không ra tay? Ngài vẫn có đó! Im lặng! Trong thinh lặng của cầu nguyện chúng ta sẽ nghe được Chúa nói với chúng ta nhiều điều. Riêng tôi, đúng dịp Sài Gòn tròn 100 ngày giãn cách nghiêm ngặt (31/5-7/9), tôi ngồi ghi lại những điều Chúa muốn nói với chúng ta.
1. Chúa nói với tôi, Chúa nói với bạn
Chúa đang nói với tôi và với bạn nhiều điều.
Chúng ta đang sống quá vội vàng.
Quả vậy, cuộc sống của chúng ta ngày hôm nay quá tất bật. Tất bật vì công việc. Tất bật vì học hành. Tất bật vì đi tìm địa vị… Làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm. Cuộc sống quay cuồng đến nỗi chúng ta không có thời gian dành cho nhau, thậm chí những người thân yêu trong gia đình cũng chẳng mấy khi gặp nhau. Có những gia đình khi con thức dậy đi học thì bố đã đi làm; khi bố đi làm về thì con đã đi ngủ. Chúng ta đang biến mình thành cỗ máy; trong khi Chúa muốn chúng ta có làm việc và có nghỉ ngơi, giống như trong công cuộc tạo dựng vậy (x.St 2,2).
Thời gian dịch bệnh Chúa cho chúng ta được sống chậm lại. Tất cả phải chậm lại vì dịch bệnh, vì giãn cách xã hội.Trong thời gian này, các gia đình nhỏ được dành trọn thời gian cho nhau, chăm lo cho nhau từng miếng cơm, giấc ngủ, giờ học online. Thật hạnh phúc. Chúng ta phải tạ ơn Chúa.
Chúng ta đang quá kiêu căng và tự mãn.
Con người đang sống trong sự kiêu hãnh của mình vì những thành quả khoa học đạt được. Họ có thể lên đến mặt trăng và các ngôi sao mà! Con người nghĩ rằng mình có thể làm được mọi sự, thậm chí cả việc nhân bản sự sống, nên đâu cần đến chúa bà gì! Sự kiêu căng ấy của chúng ta chẳng khác gì sự tự mãn của dân Chúa khi người ta muốn xây cho mình một tháp Ba-ben chọc trời (x.St 11,1-9).
Khi dịch bệnh ập đến, Chúa nhắc chúng ta cần phải sống khiêm nhường hơn. Chúng ta phải biết mình là ai trong trật tự thế giới này. Vì thế, chúng ta vẫn phải cầu xin: “xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con”, như chúng ta vẫn hát. Chứng kiến những người chết như rạ, chúng ta mới thấy thân phận con người thật mong manh. Quả đúng là bụi tro. Cứ nghĩ rằng mình làm được tất cả, nhưng rồi tất cả đều phải buông xuôi. Con người không thể làm chủ cuộc đời mình được. Trước mặt Chúa, chúng ta chỉ biết thốt lên lời Thánh Vịnh: “Lòng con chẳng dám tự cao, mắt con chẳng dám tự hào, CHÚA ơi!” (Tv 131,1).
Chúng ta đang thích sống ảo.
Cuộc sống xã hội phát triển của thời công nghệ 4.0, chúng ta có quá nhiều phương tiện công nghệ. Cùng với mạng Internet toàn cầu, chúng ta dễ dàng gặp gỡ nhau trên màn hình với cả những người xa lạ trên khắp thế giới. Việc sống ảo đó mang lại nhiều niềm vui và những kết nối, nhưng nguy cơ của nó là con người đánh mất đi những tương quan thực của cuộc sống. Người ta sống ảo đến mức, ngay những người trong một gia đình cũng chẳng mấy khi gặp gỡ hàn huyên vì nghĩ rằng thăm hỏi nhau qua điện thoại là đủ rồi. Và người ta an phận trong việc sống ảo ấy.
Sống trong thời dịch bệnh, chúng ta mới cảm nghiệm được việc sống ảo không thể bằng sống thực. Thử hỏi những người tín hữu đang “xem lễ ảo” - lễ online - trên các phương tiện truyền thông họ cảm nhận thế nào? Ai cũng khao khát có một thánh lễ bình thường, được rước Mình Thánh Chúa thật, chứ không chỉ rước thiêng liêng! Phải giãn cách xã hội, chúng ta phải ở nhà và như vậy chúng ta bớt sống ảo với nhau hơn. Chúng ta cũng ước mong sớm được đến nhà thờ để được tham dự thánh lễ thật.
Như thế, qua cơn dịch bệnh này Chúa nhắc cho bạn và tôi biết sống chậm lại, bớt kiêu căng và bớt sống ảo hơn.
2. Chúa nói với mẹ Hội Thánh
Qua cơn đại dịch này, Chúa cũng nói nhiều điều với mẹ Hội Thánh chúng ta.
Chúa nhắc cho Hội Thánh cần phải củng cố đức tin.
Đức tin mà chúng ta tuyên xưng vào Chúa vừa mang tính cộng đoàn, vừa mang tính cá nhân. Tôi tin, chúng tôi tin vẫn là lời tuyên xưng của Hội Thánh và của từng người chúng ta. Chúng ta sống đức tin nhờ các cử hành được trao cho Hội Thánh. Nhưng đức tin ấy phải dẫn đến việc tôi tin, không chỉ dựa vào đức tin người của khác. Mẹ Hội Thánh vẫn luôn chăm lo, mọi lúc mọi nơi mọi thời, để đức tin của Hội Thánh được vững vàng và đức tin của từng người tín hữu được kiên vững trước mọi nỗi vui buồn của cuộc sống.
Chúng ta có đủ chiều sâu của đức tin để xác tín rằng Chúa vẫn đang ở bên và ở trong chúng ta khi Ngài vẫn để cho con người phải căng mình lên chống chọi với dịch bệnh không? Khi không còn lễ lạc rước sách, không còn tổ chức hội đoàn linh đình nữa, liệu chúng ta còn đủ tin vào Chúa là Đấng đầy quyền năng không? Khi phải ở nhà trong thời dịch bệnh, chúng ta càng cần xác tín hơn lời của thánh Phaolô nói với cộng đoàn Êphêsô: “Xin cho anh em, nhờ lòng tin, được Đức Ki-tô ngự trong tâm hồn; … để cùng toàn thể dân thánh, anh em đủ sức thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu, và nhận biết tình thương của Đức Ki-tô, là tình thương vượt quá sự hiểu biết.” (Ep 3,17-19). Có như thế, chúng ta mới vững mạnh trong mọi hoàn cảnh được.
Chúa nhắc cho Hội Thánh cần phải gieo niềm hy vọng.
Cuộc sống phải có hy vọng thì mới đáng sống. Đời sống người tín hữu không chỉ sống hy vọng ở đời này mà còn có niềm hy vọng vĩnh cửu. Nhờ có hy vọng mà chúng ta vươn lên trong cuộc sống. Chúng ta còn hy vọng được hưởng hạnh phúc đời đời bên Chúa.
Khi phải chống chọi với đại dịch, hơn bao giờ hết, người tín hữu càng cảm nghiệm được niềm hy vọng là cần thiết. Không bao giờ được phép để cho mình tuyệt vọng! Mẹ Hội Thánh có bổn phận gieo niềm hy vọng không ngừng. Trong bức thư, 31/8/2021, gửi cho TGP Sài Gòn, Đức Tổng Giuse Nguyên Năng đã gửi gắm thông điệp: “Hãy nắm giữ niềm hy vọng dành cho chúng ta” (Dt 6, 18). Chúng ta sống niềm hy vọng vì Mẹ Hội Thánh luôn đồng hành với chúng ta trong mọi hoàn cảnh. Niềm hy vọng ấy, Đức cố Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận đã trở nên chứng nhân sống.
Chúa nhắc cho Hội Thánh cần phải xây dựng tình hiệp thông.
Tình hiệp thông vốn là bản chất của Hội Thánh. Mối hiệp thông ấy được khơi nguồn từ mối hiệp thông sâu xa của Ba Ngôi Thiên Chúa, như lời cầu nguyện của Chúa Giêsu: “để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta” (Ga 17,21). Đó là mối hiệp thông mang tính hữu cơ, đến nỗi “một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau” (1Cr 12, 26), vì tất cả chúng ta là một thân thể trong Đức Kitô (x. 1Cr 12,13).
Trong thời đại dịch này, Hội Thánh càng bày tỏ tình hiệp thông ấy một cách sâu xa hơn. Chúng ta hiệp thông trong lời cầu nguyện, trong các cử hành phụng vụ. Hơn bao giờ hết, chúng ta cảm nghiệm được: một thánh lễ, cho dù một linh mục dâng riêng, cũng luôn mang tính hiệp thông toàn cầu, cả cho người sống và người chết. Bên cạnh đó, Hội Thánh cũng chung tay góp sức với xã hội để mang lại niềm an ủi cho những ai đau khổ, mang lại ấm no cho nhưng ai đói khát. Các đấng bậc trong Hội Thánh đã kêu gọi mọi người cùng góp phần của mình để cứu giúp anh chị em của mình, bất kể lương giáo. Toà Thánh cũng chung tay với Việt Nam chúng ta 100.000 Euro. Tình hiệp thông ấy sẽ giúp anh chị em chúng ta sớm vượt qua cơn hoạn nạn này.
Qua đại dịch này, Chúa giúp chúng ta kiên vững hơn, hy vọng hơn và hiệp thông hơn.
3. Chúa nói với xã hội nhân loại
Chúa cũng đang nói với xã hội nhân loại nhiều điều trong thời dịch bệnh này.
Xã hội nhân loại đang cư xử với nhau bằng quyền lực.
Người ta dùng quyền hành theo kiểu “cá lớn nuốt cá bé”, mạnh thì sống, yếu thì chết. Người ta sống ích kỷ, chỉ muốn thu vén cho cộng đồng của mình, cho nước của mình; đôi khi không ngại chà đạp lên người khác và nước khác. Biết bao tiền bạc chi cho quân sự để biểu dương lực lượng. Anh lớn nào cũng muốn làm “bá chủ thế giới”.
Chính trong quyền lực mạnh mẽ ấy thì cả thế giới dường như phải khuất phục trước con virus corona, gần như là vô hình! Nhớ lời Đức Hồng Y GB. Phạm Minh Mẫn, cách đây gần 2 năm, khi được phỏng vấn, ngài nói: “tôi thấy thật nực cười vì con người đang tỏ ra đầy quyền lực mà lại phải chịu khuất phục trước con virus bé nhỏ!”. Như thế, qua cơn đại dịch này Chúa nhắc cho xã hội nhân loại thấy được giới hạn của mình. Cuộc đời con người mong manh lắm, cần thương yêu theo tinh thần: “Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em” (Mt 20,26).
Xã hội nhân loại chỉ thích đẩy lỗi cho nhau.
Thực ra, đây là vấn đề muôn thuở! Nó đã xuất hiện từ lúc tạo thiên lập địa rồi. Đó là tội nguyên tổ. Khi con người phạm tội, chẳng ai muốn nhận tội cả. Khi bị hỏi đến, Ađam đổ lỗi cho Evà; Evà đổ lỗi cho con rắn (x.St 3,12). Xã hội chúng ta đang sống cũng vậy. Chúng ta thích đổ thừa cho nhau mà không nhận lỗi về mình. Có người nói: dịch bệnh xảy ra là do nước này, do nước kia; do tội lỗi của người này người khác nên bị Chúa phạt! Thực ra Chúa chẳng phạt theo cách mà con người hay cư xử với nhau đâu. Bởi, nếu Chúa chấp tội thì làm gì ai được cứu rỗi (x.Tv 130,3).
Chính vì thế, thời gian dịch bệnh này xã hội nhân loại được nhắc nhở phải sám hối. Chúng ta sám hối vì mình chưa nhìn nhận đủ thân phận thụ tạo của mình. Chúng ta sám hối vì mình còn những hành xử thiếu yêu thương. Chúng ta sám hối vì chúng ta đang làm đảo lộn trật tự thế giới, khi không bảo vệ vũ trụ này cho đúng ý của Đấng Tạo Hoá. Đây là điều mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nhắc cả thế giới qua thông điệp Laudato Si’: chúng ta phải biết “chăm sóc ngôi nhà chung” của chúng ta.
Xã hội nhân loại đang sống thiếu công bằng xã hội.
Mọi sự được ban: trên rừng hay dưới biển, trên mặt đất hay dưới vực sâu… đều được dành cho tất cả mọi người. Thế nhưng, trên thực tế, một số ít người lại nắm trong tay tất cả những tài nguyên Chúa ban. Người nghèo vẫn mãi đói nghèo và khổ đau vì bị “ăn chặn” bởi anh chị em của mình, những người có khả năng và có nhiều phương tiện khai thác hơn. Hơn nữa, cuộc sống còn đầy những bất công qua việc tham nhũng, vơ vét của công làm của riêng. Đây là điều mà các thông điệp về xã hội của Giáo Hội thường nhắc đi nhắc lại để cảnh báo xã hội.
Đối diện với dịch bệnh khủng khiếp, ai ai cũng đang vất vả chống dịch, không màng chi đến bản thân nữa, không lo tích trữ nữa và chắc chắn cũng bớt bất công đi. Quả vậy, từ các cấp chính quyền đến từng người dân đều tập trung dập dịch; nhất là các y bác sĩ, y tá, các tình nguyện viên, trong đó có các linh mục và tu sĩ chẳng có mấy chuyên môn, đang căng mình ở tuyến đầu. Họ phải làm việc 200-300% sức lực để cứu lấy sự sống cho anh chị em mình. Công bằng xã hội cũng được thực hiện một cách ráo riết khi các gói cứu trợ từ chính quyền đến các tôn giáo và các mạnh thường quân được trao đến tay những người nghèo. Tạ ơn Chúa về những tấm lòng, mà có lẽ chỉ thời dịch bệnh này mới có.
Như vậy, đợt dịch bệnh kéo dài này tuy gây nhiều mất mát đau thương, nhưng lại là cơ hội để con người nhìn nhận thân phận của mình mà sám hối và có những hành xử yêu thương và công bằng hơn!
Lời Chúa nói với chúng ta: “mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người” (Rm 8,28). Vì thế, đợt dịch bệnh xảy ra cũng nên kinh nghiệm hữu ích cho chúng ta. Chúa dành thời gian để từng người chúng ta phải sống chậm lại, khiêm nhường hơn và sống thực tế hơn. Chúa cũng nhắc nhở Mẹ Hội Thánh phải không ngừng củng cố đức tin để người tín hữu không chao đảo trước mọi biến cố. Hội Thánh cũng phải gieo niềm hy vọng và xây dựng tình hiệp thông mạnh mẽ hơn nữa. Thời gian phải căng mình chống dịch, cũng là lúc Chúa nói với xã hội nhân loại phải biết mình là ai: là thụ tạo chứ không phải là chúa tể. Xã hội nhân loại cũng phải biết sám hối về những sai sót và lỗi lầm của mình, đồng thời phải cư xử công bằng với nhau giữa cuộc sống này. Hy vọng, những tấm lòng chúng ta thể hiện lúc dịch bệnh sẽ còn tiếp tục kéo dài để những hận thù ghen ghét được phủ lấp bởi tình yêu thương; đau khổ được phủ lấp bằng những hy sinh, bất công được phủ lấp bởi lòng quảng đại.
20. Chọn lựa của ngườ Kitô hữu giữa đại dịch Covid
(Chuỗi suy tư về Sàigòn Mùa Covid Thứ 04 - Jorathe Nắng Tím)
TMĐP- Ngay giữa cuồng phong nguy hiểm của đại dịch Covid, người Kitô hữu vẫn chọn bước theo Đức Giêsu trên đường sứ vụ, vẫn chọn hy vọng vào Đức Giêsu, vẫn chọn hết tình yêu thương và hết mình chia sẻ, phục vụ đồng loại bằng mở rộng trái tim hay chạnh lòng thương; bằng trái tim sốt sắng thờ phượng Thiên Chúa; bằng dành ưu tiên cho đức ái trong mọi lựa chọn, quyết định.
Những ngày đầu của đại dịch Covid, không ít người đã bỡ ngỡ và có những phản ứng tiêu cực trước quyết định ngưng các sinh hoạt tôn giáo như thánh lễ, học giáo lý của nhiều toà giám mục. Nhưng đến hôm nay, ở vào thời điểm mà số người bị lây nhiễm và tử vong vượt ngưỡng đang làm mọi người kinh hãi, khiếp sợ, thì biện pháp chống dịch như chống giặc đã ngưng mọi sinh hoạt bình thường, và người dân chỉ còn được phép ra vào, đi lại khi có việc khẩn cấp, cho một số nhu cầu thực sự thiết yếu.
Ở giữa tâm dịch với vô số khó khăn và bất ngờ, không ít những suy tư đã được rộng rãi chia sẻ giúp chúng ta phân định và chọn lựa hợp với Tin Mừng:
1. Đóng cửa nhà thờ, nhưng không đóng cửa lòng:
Trong thư mục vụ ngày 27.07.2021, Đức Cha Giuse Nguyễn Năng, Tổng Giám Mục Sàigòn đã chia sẻ nỗi ưu tư và đường lối mục vụ của ngài trước làn sóng đại dịch Covid ngày càng dữ dội, khủng khiếp khi viết: “Chúng ta đóng cửa nhà thờ, chứ không đóng cửa lòng”.
Lời kêu gọi dấn thân phục vụ của ngài nhắc nhở sứ vụ của người Kitô hữu là được sai đi để phục vụ như “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28), và địa chỉ được sai đến chính là người nghèo hèn, bị giam cầm, áp bức, và tật nguyền, khốn khổ, bị bạc đãi, bỏ rơi (x. Lc 4,16-19).
Sứ vụ ấy đã được chính Đức Giêsu khai triển, và trình bày cách rõ ràng, cụ thể khi mô tả quang cảnh “cuộc Phán Xét chung”, ở đó, mỗi người sẽ phải trả lời trước Thiên Chúa về đời sống phục vụ và những việc làm bác ái của mình nơi những anh em bé nhỏ nhất của Đức Giêsu mà Ngài tự đồng hoá với họ (x. Mt 25,40). Sở dĩ được gọi là “anh em bé nhỏ nhất” vì ho đói khát, trần truồng, đau yếu, tù đầy, tha hương tỵ nan … (x. Mt 25,35-36); họ bị người đời xếp vào hàng những người hèn mọn nhất, vì thấp cổ bé miệng, không tiếng nói, không địa vị, không chức quyền, không ảnh hưởng, không cả khả năng tự giải cứu mình ở hiện tại cũng như khả thể bảo đảm sự tồn tại của mình ở tương lai.
Quả thực, lòng người Kitô hữu là Đền Thờ của Thánh Thần Tình Yêu. Chính Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và tác động tâm hồn người Kitô hữu để người ấy không chỉ biết yêu mến Thiên Chúa như con cái yêu mến cha mình và được kêu lên “Áp – ba, Cha ơi !” (Gl 4,6), mà còn nhận ra mọi người là anh em cùng Cha trên trời, và được hưởng “hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (Gl 5, 22-23).
Tâm tình của vị cha chung tổng giáo phận cũng là lời mời gọi mỗi người đổi mới con tim, và công trình đổi mới sẽ chỉ được thực hiện, nếu chúng ta kiên trì và khiêm tốn nài xin Đấng đã hứa với dân Ngài: “Ta sẽ ban tặng các ngươi một qủa tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi qủa tim bằng đá và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng thịt. Chính thần trí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thi hành” (Ed 36, 26-27). Thánh chỉ, phán quyết ấy chính là yêu mến Thiên Chúa và chạnh lòng xót thương anh em mình.
2. Thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật:
Những ngày cách ly, phong toả, giáo đường không bóng giáo dân, sân nhà thờ lặng lẽ, hiu quạnh. Cũng may còn phương tiện truyền thông internet, nếu không thì chẳng có lễ trực tuyến mà thông công, và người trong xứ có đói khát, sống chết ra sao cũng chẳng ai hay biết.
Rơi vào tình trạng không gặp được ai, không đến được nơi nào, không tập trung đông đảo, nhiều người tín hữu không tránh khỏi tâm trạng hụt hẫng, chênh vênh, bởi từ lâu đời sống đức tin luôn rộn ràng sinh động, các cuộc lễ được tổ chức quy mô, hoành tráng, đông đảo, và mọi người cảm thấy an toàn khi được tập thể, cơ cấu bảo vệ, gìn giữ. Bỗng nhiên không còn gì, không được làm gì, không gặp gỡ, quy tụ được ai, và tình trạng này đã đặt ra cách sống đức tin mới, đòi người tín hữu phải linh động thể hiện niềm tin của mình cách phù hợp với hoàn cảnh mới do đại dịch gây ra.
Quả thực, Covid đang bao trùm thế giới, đe doa mọi người trên địa cầu, và đặt ra cho chúng ta, những người Kitô hữu một hoàn cảnh “giữ đạo” không đến được nhà thờ, một cách “sống đạo” không phong trào, đoàn thể. Hoàn cảnh này không mấy khác hoàn cảnh không còn Đền Thờ của dân Do Thái khi họ bị tản mác lưu đầy, không còn nơi thờ phượng Thiên Chúa Giavê, khi quân thù tàn phá “Nhà Thiên Chúa”.
Đức Giêsu khi đối thoại với người đàn bà Samari bên giếng Giacóp đã nói với chị ta: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem… Nhưng giờ đã đến, và chính lúc này đây – giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế.” (Ga 4, 21.23).
Trong thần khí và sự thật, nghĩa là trong Thánh Thần, Đấng ngự trong Đền Thờ tâm hồn mỗi người, như Đức Giêsu đã căn dặn: “Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em” (Ga 14,17), “Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thày đã nói với anh em” (Ga 14,26).
Có Thần Khí sự thật ở giữa chúng ta và ở trong tâm hồn mỗi người, mọi hoàn cảnh dù khó khăn đến đâu, mọi tình huống dù nhiêu khê, phức tạp thế nào, sự thật của Thiên Chúa vẫn ngời sáng trong tâm hồn và hướng dẫn đời sống chúng ta, để chúng ta không lầm đường lạc lối, không hoang mang, lo sợ, không thối chí, tuyệt vọng, nhưng tuyệt đối tin tưởng vào lòng thương xót và ơn phù trợ của Thiên Chúa.
3.Ưu tiên của đức ái:
Không lúc nào đức ái cần thiết và “gặp thời” như những ngày giữa tâm dịch, khi mà người sống cũng khổ và cô đơn như người chết, người chết cũng tức tưởi, và tang thương như người sống.
Chính trong tâm bão của mọi nỗi khổ, niềm đau, thánh Giacôbê Tông Đồ khuyên nhủ người tín hữu chúng ta: “Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu được người ấy chăng? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: “Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no”, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì? Cũng vậy, đức tin không có hành động thì qủa là đức tin chết. Đàng khác, có người sẽ bảo: “Bạn, bạn có đức tin ; còn tôi, tôi có hành động. Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin” (Gc 2, 14-18). “Thật thế, một thân xác không hơi thở là một xác chết, cũng vậy, đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2,26). Và hành động của đức tin chính là đức ái.
Đức ái đang làm chứng đức tin sống động ở những nữ tu tình nguyện quét dọn vệ sinh, lau chùi nhà cầu trong các bệnh viện chữa trị bệnh nhân Covid; đức ái đang chiếu sáng dung mạo Đức Giêsu, Thiên Chúa của lòng thương xót nơi các thầy dòng ngày đêm phân phát lương thực, xăng dầu cho đoàn người di tản thiếu thốn mọi sự trên đường trốn dịch, bỏ thành phố về quê; đức ái thực là dấu chỉ của người môn đệ Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ nhân hậu qua “mùi chiên và mùi Covid” toát ra từ những mục tử dám hy sinh hiến mạng vì đoàn chiên, như lời cha Phạm Quang Long, giáo họ Na, thuộc giáo phận Hà Tĩnh, khi viết về cha Phêrô Nguyễn Ngọc Long, Nhà Thờ Mỹ Lợi B, Cái Bè, Tiền Giang, thuộc giáo phận Mỹ Tho, người đã ưu tiên chọn đức ái, khi lấy hết tiền xây nhà thờ để mua nhu yếu phẩm từ miền Tây gửi giúp bà con Sài Gòn đang lâm cảnh khan hiếm lương thực trầm trọng; đức ái đang “loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại” ở những giáo dân âm thầm chia sẻ từng bó rau, cọng cải với gia đình lương dân hàng xóm, những thành viên của các hội đoàn công giáo tích cực đóng góp trong công trình cứu trợ nạn nhân Covid bên cạnh anh chị em của các tôn giáo bạn; và đức ái đã tạo nên những nhịp cầu nối trái tim này với tấm lòng kia, nối vùng miền này với địa phương nọ, nhất là nối con người với Thiên Chúa qua thiện tâm và công tác thiện nguyện.
Tóm lại, Covid tuy là tai họa của nhân loại, là sự dữ gây nhiều đau khổ cho con người, nhưng với đức tin, “chúng ta biết rằng: Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người..” (Rm 8, 28), nên ngay giữa cuồng phong nguy hiểm của đại dịch Covid, người Kitô hữu vẫn chọn bước theo Đức Giêsu trên đường sứ vụ, vẫn chọn hy vọng vào Đức Giêsu đã chết và đã sống lại, vẫn chọn hết tình yêu thương và hết mình chia sẻ, phục vụ đồng loại bằng mở rộng trái tim được Chúa biến đổi từ chai đá vô cảm thành quả tim bằng thịt hay chạnh lòng thương; bằng xây dựng trái tim sốt sắng thờ phượng thành Đền Thờ của Thiên Chúa; bằng dành ưu tiên cho đức ái trong mọi lựa chọn, quyết định.
Và như thế, không một giây phút nào của thời Covid sẽ trở nên vô ích, vì chúng ta không ngừng chọn Chúa; không một sự kiện, biến cố trái ý, nghịch lòng nào từ đại dịch sẽ bị coi là vô nghĩa, vô vị, vì trong mọi sự luôn có sự hiện diện và tác động của Thần Khí sự thật; và không một ý nghĩ, lời nói, việc làm nào giữa cơn đại dich của chúng ta sẽ bị xếp xuống hàng vô phúc, vì tất cả đều được Tình Yêu Đức Kitô khai sinh, thúc bách.
21. Sóng gió cuộc đời – “Mỗi ngày một tin vui”
(Suy niệm Lời Chúa Hằng Ngày của Ðài Phát Thanh Chân Lý Á Châu – “Mỗi Ngày Một Tin Vui”)
Sự kiện Chúa Giêsu và các môn đệ sang bên kia biển hồ, như được trình thuật trong Tin Mừng hôm nay, không phải chỉ có ý nghĩa địa lý: di chuyển từ nơi này sang nơi nọ, cũng như sóng gió nổi lên không chỉ mang ý nghĩa về khí tượng thuần tuý; nhưng các biến cố đó còn mang ý nghĩa thần học nữa. Chúa Giêsu và các môn đệ rời bỏ miền đất Israel để đi sang phía dân ngoại, điều đó mang ý nghĩa truyền giáo; sóng gió nổi lên tượng trưng cho sức mạnh của sự dữ, của ma quỷ nổi lên chống lại Chúa và các môn đệ.
Tuy nhiên, như trình thuật Tin Mừng cho thấy, lúc đó Chúa Giêsu đang ở đàng lái, gối đầu mà ngủ. Giấc ngủ ấy khiến ta liên tưởng đến cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá. Trong cái chết đó, Chúa Giêsu dường như đã thất bại, trong khi đó các quyền lực sự dữ tưởng chừng như đã thành công, vì đã thủ tiêu được người mà họ coi như kẻ thù, như kẻ quấy rầy nền đạo đức tôn giáo của họ. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã thức dậy, nghĩa là Ngài đã phục sinh, và sự Phục Sinh của Ngài loan báo cuộc chiến thắng vĩ đại của Ngài trên mọi quyền lực của ma quỷ và sự dữ cũng như của bất cứ thế lực nào chống đối Giáo Hội.
Ðời sống của Giáo Hội cũng như của mỗi Kitô hữu được ví như một cuộc ra khơi. Thiên Chúa vẫn luôn hiện diện, ngay cả khi chúng ta tưởng như Ngài vắng mặt trong những thử thách, phong ba của cuộc đời. Ðiều quan trọng là chúng ta biết chạy đến cầu nguyện với Chúa để Ngài làm yên cơn sóng gió và dẫn đưa con thuyền cuộc đời chúng ta về tới bến bờ bình an.
Ước gì chúng ta luôn có được xác tín của thánh Phaolô Tông đồ: Thiên Chúa không để chúng ta bị thử thách quá sức chịu đựng, Ngài sẽ ra tay cứu giúp mỗi khi chúng ta kêu cầu đến Ngài.
22. “Anh em vẫn chưa có lòng tin sao?”
(Suy niệm của Hiền Lâm)
Câu chuyện thầy trò Chúa Giê-su và các môn đệ vượt biển đã gặp phải cuồng phong đe dọa, cho chúng ta hình ảnh một Đức Giê-su Con Thiên Chúa đầy quyền năng trừ phong dẹp vũ, trong một con người Giê-su mệt mỏi nằm ngủ trên thuyền sau một ngày làm việc vất vả.
Câu chuyện này gợi lại hình ảnh được nói tới trong Thánh Vịnh 78:
“Bấy giờ Chúa như người đang ngủ,
như tướng hùng đã thấm men say,
bỗng tỉnh giấc, đánh cho quân thù quay lưng chạy,
phải thảm thê nhục nhã muôn đời”.
(Tv 78,65-66).
Kẻ thù ở đây là biển cả cuồng phong. Theo não trạng người Do-thái, biển là biểu tượng của quyền lực ma quỷ. Biển cũng nhắc mọi người nhớ lại thời hỗn mang nguyên thủy: tại đây hải thần thủy quái vẫy vùng và chỉ có một mình Thiên Chúa Toàn Năng mới thách thức và chế ngự được chúng. Khi Chúa Giê-su thức dậy “ngăm đe gió và biển” như khi Người truyền cho ma quỷ (x. Mc 1,25), cho thấy Chúa Giê-su chứng tỏ thần lực của Người trên quyền lực sự dữ.
Chúa Giê-su chứng minh sức mạnh và sự phát triển không có gì chống lại được của Nước Thiên Chúa. Người chứng tỏ điều này bằng một dấu chỉ quyền năng là phép lạ dẹp tan sóng gió trước khi đi vào miền đất dân ngoại, nghĩa là chiến thắng của Tin Mừng trên ma quỷ vượt ra ngoài biên giới Israel.
Khi đối mặt với mọi hình thức sự dữ đang tấn công con người trong các trận cuồng phong nó gây nên, đôi khi chúng ta tự hỏi: Phải chăng Thiên Chúa đang ngủ?
Thật vậy, cảm nhận của con người giữa biển đời lắm khi như Thiên Chúa ẩn mình hay vắng bóng. Và rồi giữa phong ba bão tố cuộc đời, con người lựa chọn đương đầu ít nhất với 3 cách:
– Dùng sức mình để vật lộn với sóng gió để rồi thất bại tuyệt vọng,
– Chạy đến với Thiên Chúa mọi nơi mọi lúc nên không bao giờ sợ hãi,
– Gặp khi khó khăn mới chạy đến kêu cứu Chúa, nghĩa là coi Chúa chỉ như một phương thế giải quyết tức thời, mà thiếu đi đức tin thật sự và lòng yêu mến nồng nàn.
Trường hợp thứ ba này là trường hợp của dân Do-thái xưa, sách Xuất Hành và đặc biệt là sách Thủ Lãnh là một câu chuyện lặp đi lặp lại khi dân bị quân thù ức hiếp thì kêu cứu Chúa, Chúa giải cứu rồi lại tiếp tục phản nghịch Người.
Và có thể nói, đây cũng là thái độ của các môn đệ của Chúa Giê-su trong bài Tin Mừng hôm nay, khi họ chưa có niềm tin và lòng yêu mến Thầy cho đủ, đến nỗi ngay khi chứng kiến phép lạ rồi vẫn ngỡ ngàng không hiểu Thầy là ai. Thầy Giê-su đang ở trên thuyền nhưng có vẻ như không có Người hiện diện, cho đến khi sóng gió bủa vây mà kinh nghiệm chống đỡ của dân làng chài như mấy ông đã bất lực mới chạy đến cầu cứu Thầy.
Đó cũng là cách sống và giữ đạo của không ít người trong chúng ta ngày nay. Khi an vui hạnh phúc chúng ta quên mất sự hiện diện của Thiên Chúa, đến khi gặp khó khăn thất bại mới tìm về cầu cứu Chúa. Sống đạo như thế là hời hợt, thiếu niềm tin đích thật và thiếu lòng lòng mến Chúa Giê-su. Cũng không thiếu những người ỷ lại vào khả năng mình mà thiếu đi lòng tín thác vào Chúa nên khi gặp sóng gió đã dễ ngã lòng kêu trách Người.
Lạy Chúa Giê-su, xin cho mọi người chúng con luôn tin tưởng vào sự hiện diện của Chúa trên con thuyền cuộc đời chúng con giữa biển đời sóng gió. Để chúng con không bao giờ nao núng vì Chúa đã chiến thắng nên chúng con cũng sẽ chung phần chiến thắng và cập bến Nước Trời. Amen.
23. Ơn thánh lạ lùng – Lm Mark Link SJ
(Suy niệm của Lm. Mark Link, SJ)
John Newton là con của một thuyền trưởng người Anh. Khi John mười tuổi, mẹ chết và cậu đi biển với cha mình.
Cậu học nghề biển cách thành thạo. Nhưng khi 17 tuổi,John chống lại cha mình, bỏ tầu, và bắt đầu một cuộc sống phóng túng.
Sau đó John nhận việc trên một chiếc tầu chở hàng, đưa nô lệ từ Phi Châu sang Mỹ Châu. Anh được thăng chức mau chóng và không lâu được trở nên thuyền trưởng của chiếc tầu này.
John không bao giờ nghĩ đến việc buôn bán nô lệ là đúng hay sai. Anh chỉ thi hành công việc. Đó là một cách để kiếm tiền. Sau đó một điều xảy ra đã làm đảo lộn tất cả.
Một đêm kia, cơn bão dữ dội như thổi tung biển cả. Những ngọn sóng dâng cao như núi. Chúng nhồi dập con tầu của John như món đồ chơi. Mọi người trên tầu đều ngập tràn sợ hãi.
Sau đó John thi hành một điều mà chưa bao giờ anh làm kể từ khi rời chiếc tầu của cha mình. Anh cầu xin. Bằng cả sức lực, anh nói lớn, “Chúa ơn, nếu Ngài cứu chúng con, con hứa sẽ trở nên nô lệ cho Ngài muôn đời.” Thiên Chúa đã nghe tiếng anh kêu xin và con tầu được thoát nạn.
Khi John đặt chân lên đất liền, anh đã giữ lời hứa và bỏ nghề buôn bán nô lệ. Sau này anh học làm mục sư và đã trông coi một nhà thờ nhỏ ở Olney, Anh Quốc. Ở đây anh trở nên một nhà rao giảng nổi tiếng và là một người sáng tác thánh ca.
Một trong những bài thánh ca cảm động nhất mà John Newton viết là bài ca ngợi Thiên Chúa đã giúp anh hoán cải, với dòng chữ như sau: “Ôi ơn thánh lạ lùng! Dịu ngọt dường bao, đã cứu vớt một người tồi tệ như tôi! Trước đây tôi đã lạc lối, nhưng giờ đây tôi đã biết đường – đã mù, giờ đây đã thấy...
“Tôi đã từng kinh qua những hiểm nguy, lao nhọc, và cạm bẫy; ơn thánh đã đưa tôi đến sự an toàn, và ơn thánh sẽ dẫn tôi về nhà.”
Câu chuyện của John Newton rất tương tự như bài phúc âm hôm nay.
Cũng như Newton, các Tông Đồ cũng gặp một cơn bão dữ dội. Cũng như Newton, các ông đã lớn tiếng xin Chúa, “Hãy cứu chúng tôi với!” Cũng như Newton, các ông cũng đã thay đổi cuộc đời sau khi lời cầu xin được nhận lời.
Bài phúc âm hôm nay chấm dứt tường thuật cơn bão ở biển khi nói về các Tông Đồ: “Họ vô cùng kinh hãi và bắt đầu nói với nhau, ‘Người này là ai? Ngay cả sóng gió cũng phải vâng theo Người!’”
“Người này là ai?” Chắc chắn đó là câu hỏi quan trọng. Và dĩ nhiên, câu trả lời nằm trong bài đọc một và thánh vịnh đáp ca.
Bài đọc một diễn tả cách Thiên Chúa tạo nên biển và ra lệnh cho nó những gì có thể hay không thể làm.
Thánh vịnh đáp ca nói về các thủy thủ gặp nạn trong một cơn bão trên biển. Tác giả thánh vịnh nói về họ: “Trong cơn hoạn nạn, họ kêu cầu đến Chúa, và Người đã cứu họ... Người làm yên cơn bão lớn, và dẹp tan sóng cả.” (TV 107:6, 29).
Trong cả hai bài đọc thuộc Cựu Ước này, chúng ta thấy Thiên Chúa sử dụng quyền hành trên sóng gió. Thiên Chúa ra lệnh chúng và chúng tuân theo Người.
Đây chính là điều Đức Giêsu thi hành trong bài phúc âm. Chúng ta thấy Người sử dụng quyền hành trên sóng gió. Người ra lệnh và chúng tuân theo Người.
Do đó, các bài đọc hôm nay cho thấy Thiên Chúa trong Cựu Ước và Đức Giêsu trong Tân ước sử dụng cùng một quyền hành.
Cả hai sử dụng cùng một quyền lực bởi vì cả hai giống nhau. Đức Giêsu nói: “Ai thấy ta là thấy Chúa Cha... Ta ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong ta.” (Gioan 14:9, 11). “Chúa Cha và ta là một.” (Gioan 10:30).
Câu chuyện về cơn bão ở biển trả lời câu hỏi “Người này là ai?” Đức Giêsu là Con Thiên Chúa.
Chúng ta hãy trở về điểm thứ hai. Chúng ta hãy xem thử bằng cách nào cơn bão ở biển chứa đựng một thông điệp mỹ miều, thực tế cho các gia đình nhân Ngày Hiền Phụ.
Khi John Newton bỏ tầu của cha mình, cha của anh thật đau lòng. Chúng ta có thể hinh dung cha anh đứng trên sàn tầu đêm ấy và cầu xin Thiên Chúa với những lời như sau:
“Lậy Chúa, sao điều này lại xảy ra? Sao John không nhìn thấy là con thương nó? Sau nó không thấy là Ngài thương nó? Lậy Chúa, ngay cả khi John từ bỏ hai chúng ta, xin Chúa hãy bảo vệ nó. Hãy bảo vệ nó vì hai chúng ta.”
Hoàn cảnh bi thảm này, hay hoàn cảnh tương tự, đã lập lại nhiều lần, trong nhiều mái nhà. Nó không phải là một hiện tượng mới trong thời đại ngày nay. Nó cũ như câu chuyện của người con hoang đàng trong Phúc Âm Luca.
Nhưng ngay cả khi con cái không từ bỏ mái nhà về thể lý, chúng thường rời xa mái nhà về tinh thần.
Chúng không còn đồng lòng với cha mẹ khi đề cập đến Thiên Chúa hay tôn giáo.
Và sự xa lìa tinh thần này có thể đau lòng hơn từ giã mái nhà về thể lý.
Khi điều này xảy ra, cha mẹ không được nghĩ về mình hay về con cái như một thất bại. Đúng hơn, họ phải nhớ lại câu chuyện người con hoang đàng và câu chuyện của John Newton.
Trong cả hai câu chuyện, sau cùng người con đã trở về nhà. Và trong cả hai câu chuyện, khi trở về nhà người con đã tốt hơn là khi từ bỏ, người cha cũng trở nên tốt hơn khi con cái bỏ đi.
Lý do cả hai người – cha và con – trở nên tốt hơn là vì, ở một thời điểm nào đó khi xa cách, cả hai đã kêu cầu đến Chúa xin giúp đỡ. Và đó là khi cả hai trở nên tốt hơn.
Thật không may khi phải nhờ đến một cơn bão để khám phá ra, không chỉ người cha hay người con ở trần thế, nhưng còn biết đến Cha chúng ta ở trên trời và Đức Giêsu, Con của Người.
Do đó, chúng ta hãy hân hoan, và hôm nay hãy cảm tạ vì hai người cha: một người cha trần thế và một người Cha trên trời.
Chúng ta cũng hãy nhớ rằng khi tìm thấy một trong những người cha này, chúng ta cũng thường tìm thấy người cha kia.
Hãy kết thúc bằng cách lập lại những lời thánh ca mà John Newton đã viết để ca tụng Thiên Chúa.
“Ôi ơn thánh lạ lùng! Dịu ngọt dường bao, đã cứu vớt một người tồi tệ như tôi! Trước đây tôi đã lạc lối, nhưng giờ đây tôi đã biết đường – đã mù, giờ đây đã thấy...
“Tôi đã từng kinh qua những hiểm nguy, lao nhọc, và cạm bẫy; ơn thánh đã đưa tôi đến sự an toàn, và ơn thánh sẽ dẫn tôi về nhà.”
24. Niềm tin vượt thắng sợ hãi
Có một câu chuyện kể rằng: Người ta tổ chức một cuộc du lịch xuyên qua Đại Tây Dương. Trong lúc tàu chạy yên hàn, mọi người ra hong tàu khoan khoái nhìn ngắm cảnh hoàng hôn tươi thắm. Bỗng sóng to gió lớn nổi lên làm cho chiếc tàu nghiêng ngửa dữ dội. Mọi người hoảng sợ chạy vào phòng, duy chỉ còn một cậu con trai vẫn tiếp tục ở lại xem cảnh. Thấy vậy, nhiều người lo sợ nguy hiểm cho em, nên gọi em vào phòng trú ẩn, nhưng em không vào. Được hỏi tại sao em không sợ hãi trước cơn giông tố hãi hùng như thế. Em thản nhiên trả lời: vì cha tôi là người cầm lái con tàu.
Như khách du lịch sợ hãi trên tàu khi phong ba bão táp, chúng ta bình thường cũng mang nhiều nỗi sợ hãi trong cuộc đời. Người thì sợ lái xe trên xa lộ. Kẻ khác sợ phải nói chuyện trước công chúng. Sợ thi rớt. Sợ bị bệnh ung thư. Sợ bị nhiễm HIV. Sợ cô đơn. Sợ thất nghiệp. Sợ gia đình tan vỡ. Sợ con cái hư hỏng… thậm chí sợ ma nữa. Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy các Tông đồ sợ bão tố, sợ nguy hiểm và sợ chết. Bão lớn, nước sắp đầy thuyền thì ai mà không sợ. Vậy mà Chúa còn trách các Tông đồ: “Sao nhát thế? Anh em vẫn chưa có lòng tin sao?”. Các Tông đồ lâm nguy thật sự. Trong hoàn cảnh đó, chẳng những nên kêu cứu Chúa, mà đúng là phải kêu cứu Chúa. Nhưng đừng kêu cứu với tâm trạng sợ hãi đến tuyệt vọng như vậy. Phải kêu cứu nhưng hãy kêu cứu trong niềm cậy trông và tín thác tuyệt đối. Lời trách cứ của Chúa Giêsu mở cho chúng ta một kinh nghiệm đức tin quý báu: niềm tin vững vàng làm chúng ta thêm can đảm và bớt sợ hãi, thậm chí an bình trong gian nguy. Nhưng cũng phải can đảm lắm mới có thể tin.
Trong câu chuyện trên, vì tin vào tài cầm lái con tàu của cha mình mà cậu con trai thản nhiên không lo sợ nguy hiểm trước mắt. Cũng vậy, đối với mỗi người chúng ta đang sống trên cuộc đời này cũng giống như con thuyền của các Tông đồ lênh đênh trên biển cả và gặp gió bão. Chúng ta cũng gặp không ít những cơn dông tố bất ngờ. Thật vậy, có lẽ ai trong chúng ta cũng đã có lần trải qua một nỗi lo sợ nào đó hoặc kinh nghiệm qua những giờ phút đen tối trong cuộc sống. Bởi vì cuộc đời này luôn có những cam go, gian truân, thử thách, nguy hiểm, đau thương… đứng trước những hoàn cảnh như thế, ai cũng lo lắng, sợ hãi. Nhưng đối với chúng ta, những người có đức tin, không phải chúng ta không biết sợ hãi, nhưng chúng ta tin rằng Thiên Chúa ở đàng lái, là Cha yêu thương luôn quan tâm săn sóc chúng ta. Nhưng có thể đã có những lần chúng ta đau đớn vì Chúa lại ngủ giữa phong ba. Niềm tin không phải là giải đáp dễ dãi, không miễn trừ những khó khăn. Nhưng trong những khó khăn đó, chúng ta phải hoàn toàn phó thác vào Chúa. Chúa có thể ngủ, nhưng Chúa luôn thức vào lúc khó khăn, nguy hiểm để trợ giúp những ai bằng lòng để cho “Chúa ở đàng lái”. Với niềm tin đó sẽ giúp chúng ta có thái độ lạc quan hơn trước cuộc sống và bình tĩnh để đối phó với những khó khăn thử thách. Nếu niềm tin không đem lại cho chúng ta sự an bình, thanh thản, thì đó là dấu chỉ cho thấy niềm tin của chúng ta chưa mạnh mẽ đủ, chúng ta cần phải cầu xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng ta.
Chính vì thế, qua Lời Chúa hôm nay, ước gì mỗi khi chúng ta gặp khó khăn, thử thách, gian nan, vất vả trong cuộc đời, chúng ta biết chạy đến kêu cầu Chúa Giêsu với một niềm tin tưởng sâu xa, phó thác trọn vẹn và cầu nguyện chân thành, xin Chúa cứu giúp. Amen.
25. Quyền năng của Chúa Giêsu
Trong cuộc đời, kinh nghiệm đã cho chúng ta nhiều bài học về sự dữ. Sự dữ là một thực tại khả thể, hiện hữu và hoạt động trong thế trần. Tự sức mình con người chúng ta khó có thể chiến thắng sự dữ, nhưng nếu có ơn Chúa trợ giúp thì chúng ta có thể chiến thắng. Tuy nhiên nhiều khi chúng ta cũng còn lờ mờ, đi trong đêm tối của đức tin để tìm kiếm chân lý, sự thật, Thiên Chúa.
Trên con đường theo Chúa Giêsu, mặc dù các môn đệ được Người đào tạo, dậy dỗ, uốn nắn… các ông vẫn chưa hiểu về đường lối của Chúa: Người đã giảng dạy, làm nhiều phép lạ nhưng các môn đệ vẫn sống trong sự mờ ảo của cuộc sống, các ông chưa làm sao hiểu được ý của Thầy Giêsu. Do đó, có lúc các ông tưởng Thầy mình là ma, có lúc các ông lánh xa Chúa, các ông phản ứng lại bằng lời nói, cách sống, cử chỉ, thái độ của Thầy mình. Đức tin của các môn đệ nhiều lúc tưởng như lu mờ, hay nói một cách khác các ông chưa có lòng tin. Tin Mừng Mc 1,35- 41 là một bằng chứng nói lên quyền năng vô biên của Chúa giống như sách Gióp khẳng định: “Chỉ Thiên Chúa là Đấng sáng tạo quyền năng, chủ tể muôn loài, muôn vật, chủ tể mọi sự”. Phép lạ Chúa Giêsu làm cho sóng to, gió lớn phải im bật nói lên quyền uy của Chúa. Đáng lẽ các môn đệ phải vui mừng vì Thầy có quyền năng khiến gió to, biển động im hơi lặng tiếng, các môn đệ lại hoảng hốt sợ sệt. Chúa Giêsu phải lên tiếng:” Sao nhát thế? Anh em chưa có lòng tin sao?”. Sự dữ trong đời sống đã che mắt đức tin của họ.
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta hãy tin vào Chúa, bám chặt lấy Chúa, tin vào uy quyền tuyệt đối của Chúa trên mọi loài, mọi vật, mọi sự để chiến đấu ới sự dữ cuộc đời. Tiếng la hoảng hốt của các môn đệ trước trận cuồng phong bão táp, phải chăng đang là thử thách của con người, của mỗi người khi họ gặp cơn cám dỗ, gặp sự thử thách gian nan giữa cuộc đời, giữa hành trình đức tin đầy cam go? Liệu Chúa có bỏ con người hay con người chỉ ngờ ngợ, yếu tin chưa có lòng tin mạnh mẽ và gắn chặt vào Chúa Giêsu? Nếu đọc lại nhiều dụ ngôn trong Tin Mừng, chúng ta sẽ thấy nhiều lòng tin làm ta ngạc nhiên. Và khi ta tin thật sự vào Chúa, chắc chắn sự an bình sẽ đến với chúng ta. Thiên chúa không ở xa ta, Ngài ở bên ta, Ngài yêu thương ta, Ngài sẵn sàng can thiệp vào mọi biến cố của đời ta. Nhưng chắc chắn chúng ta cũng có thái độ như các môn đệ hoảng hốt, như ông Môsê trước bụi gai bốc cháy (Xh 3,1), như ngôn sứ Isaia khi nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa trong Đền Thờ (Is 6,5). Tất cả đều tùy thuộc vào lòng mến và vào sự phó thác tuyệt đối của mỗi người chúng ta trong bàn tay yêu thương của Thiên Chúa.
Bình thường ta nghĩ mình chẳng kém thua ai. Nhưng khi gặp thử thách mới biết mình thật yếu đuối. Đã chứng kiến biết bao phép lạ Chúa làm, nhưng khi gặp gió bão vẫn hoảng kinh. Thử thách giúp ta biết mình. Biết mình để thêm khôn ngoan, thêm trông cậy và nhất là để biết rèn luyện bản thân cho tiến bộ hơn.
Thử thách giúp ta biết yêu mến, cậy trông vào Chúa hơn. Vì thế gặp nhiều thử thách giúp ta biết cậy trông phó thác vào Chúa hơn. Gặp thử thách ta mới biết chẳng ai yêu thương ta bằng Chúa. Chúa sẽ không để ta bị thử thách quá sức chịu đựng, nên ta sẽ biết yêu mến Chúa hơn.
Thử thách giúp đức tin vững mạnh. Chúa chỉ cho thử thách một thời gian. Rồi Chúa lại can thiệp để sóng yên biển lặng. Khi sóng yên biển lặng rồi, các môn đệ càng vững tin nơi Chúa hơn. Đời sống mỗi người chúng ta cũng như vậy. Ai càng gặp nhiều thử thách thì càng trở nên từng trải, vững vàng.
Đời sống không thiếu thử thách. Hãy biết rằng Chúa cho phép thử thách vì yêu thương ta, để rèn luyện ta nên người. Nhưng Chúa luôn ở bên ta. Nên ta hãy vững tin, cậy trông phó thác và biết tận dụng những khó khăn để đức tin thêm mạnh mẽ. Thử thách rồi sẽ qua đi. Nhưng cách ta phản ứng trước thử thách lại tồn tại và tạo thành giá trị đời ta. Xin Chúa cho mọi thử thách ta gặp trong đời đều biến thành cơ hội cho ta được thêm lòng, lòng cậy và lòng mến Chúa.
Lạy Chúa, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn bám chặt lấy Chúa vì Chúa là Đấng uy quyền và hay thương xót để chúng con có thể vượt qua thử thách, chiến đấu với sự dữ trong cuộc sống và thêm tin yêu vào Chúa hơn.
26. Sang bên kia bờ
Dẫu biết dòng đời không êm ái như dòng sông nhưng tôi vẫn thích cách so sánh dòng đời giống như dòng sông. Cách so sánh đó gợi lên một hình ảnh rất thực về cuộc sống. Nếu dòng sông khi đầy khi vơi thì dòng đời có khi ngập đầy có khi thiếu thốn. Nếu dòng sông đem nguồn nước tưới mát cho cánh đồng, cho vườn tược thì dòng đời cũng đem lại cho con người nguồn sức sống nơi sự thịnh đạt và những niềm vui. Nếu dòng sông có những đợt sóng dâng trào thì dòng đời cũng có những mênh mông của buồn chán.
Buổi chiều trên biển hồ Tibêriat như là điểm hẹn của từng đợt sóng dữ. Thời điểm ai cũng biết hiểm nguy, vậy mà Thầy Giêsu bảo các môn đệ “Chúng ta sang bờ bên kia đi”. Lời thúc giục tưởng chừng Chúa Giêsu muốn tìm chỗ nghỉ ngơi sau một ngày giảng dạy mệt lã. Thật ra Chúa không tìm nghỉ ngơi, Ngài tiếp tục dạy dỗ. Nếu từ sáng đến chiều Ngài giảng dạy cho đám đông thì giờ đây Ngài muốn dành ưu tiên cho các môn đệ yêu dấu của mình. Chúa Giêsu dạy họ từ những lời được ghi chép trong Thánh Kinh đến những biến cố thường ngày đã xảy ra trong đời sống.
Sang bên kia bờ để nhận ra quyền năng của Chúa
Nơi Thiên Chúa, quyền năng của Ngài không phải để phô diễn làm loé mắt người đời. Ngài không muốn người khác theo Ngài chỉ vì tính hiếu kỳ của họ được đáp ứng. Vì vậy mà Ngài không hoá đá thành bánh, không nhảy xuống từ nóc đến thờ để mọi người tung hô. Ngài không làm phép lạ cách phung phí để “dằng mặt” những kẻ thách thức Ngài.
Quyền năng của Ngài tỏ hiện nhằm đem đến những giá trị sâu xa hơn: nâng đỡ đức tin những người yếu kém, ban niềm vui cho kẻ u sầu, đem bình an cho những ai đang phải khốn đốn. Rõ ràng quyền năng Thiên Chúa không chỉ để giải quyết những vấn nạn tức thời nhưng là củng cố một cuộc sống luôn tiếp nối nhiều bất an.
Sang bên kia bờ để lòng tin được củng cố mỗi ngày
Chúa có mặt trên tàu nhưng sóng dữ vẫn bùng lên. Sóng dữ không kiên nễ người nào vì đó là quy luật mà Thiên Chúa đã đặt để. Điều đó cho ta hiểu rằng bình an của người vượt sóng không phải là sự bất động của dòng sông nhưng là một tâm thái biết cậy nhờ, biết ứng phó để vượt qua sóng gió. Biết rõ buổi chiều biển hồ sóng mạnh, Chúa vẫn bảo sang bờ bên kia. Biết sóng dữ sắp làm đắm con thuyền, Chúa vẫn ngon giấc bình thường như việc gì đến sẽ đến. Tưởng chừng Chúa không biết gì nhưng thật ra Ngài biết tất cả, Ngài lo tất cả.
Dĩ nhiên hiệu quả của niềm tin không do Thiên Chúa làm cách độc lập nhưng cần có sự “tận lực” của con người, “tận nhân lực, tri thiên mênh”. Tận lực của các môn đệ ở chỗ sẵn sàng nghe thầy sang bên kia. Tận lực sau cùng là lời kêu cầu có vẻ trách móc: “Thầy ơi, chúng ta chết tới rồi, Thầy chẳng lo gì sao?” Tận lực của các tông đồ có thế thôi nhưng đó là lời kêu cầu cần thiết.
Chúng ta không thể kêu cầu chấm dứt chiến tranh vì Chúa cho chúng ta có khả năng kiến tạo hoà bình. Chúng ta không thể nài xin Thiên Chúa xoá đi nghèo đói vì Ngài đã ban cho chúng ta của cải để biết cùng nhau chia ngọt sẻ bùi. Chúng ta không xin Chúa dẹp bỏ những nghi kỵ hờn ghen, vì Ngài ban cho chúng ta một lương tâm ngay chính và một trái tim biết cảm thông. Chúng ta cũng không nài xin Chúa cất di sự tuyệt vọng bởi vì Ngài ban cho ta đầy đủ nghị lực để vượt thắng khổ đau mà vươn lên hy vọng.
Sang bên kia bờ để tâm hồn được đổi mới
Từ chỗ thay đổi địa điểm Thầy Giêsu đã thay đổi tâm hồn của các học trò. Khi sang đến bờ bên kia các ông đã có cái nhìn khác hẳn trước đây. Niềm tin đã vững vàng hơn. Các ông không tự mãn vì có Thầy ở bên nhưng tự hào vì mình có thêm sức mạnh. Lời trách cứ về Thầy có vẻ vô tâm giờ đã đổi thành những lời tán dương không ngớt.
Sự yên lặng của biển kéo theo sự lắng đọng của cõi lòng. Chính khi tâm hồn lắng đọng thì hiểu biết mới được khai sáng. Khi tâm trí sáng suốt ta mới hiểu được rằng Chúa luôn có mặt để cùng vượt sóng với ta. Những sóng gió của hiện tại không làm nhạt mờ biết bao điều tốt đẹp Chúa đã ban cho ta. Sợ hãi không làm ta cuống cuồng vì biết rằng Chúa sẽ hướng dẫn ta về tới bến bình an.
Nếu dòng đời còn nhiều nổi trôi thì thuyền đời kitô hữu không bao giờ êm ả. Nó chỉ bình yên khi ta về tới bến mong chờ. Nhưng dù thế nào thì lòng ta vẫn một lòng tin tưởng vào quyền năng của Chúa. Dẫu có lúc ta nghĩ Ngài đã ngủ quên, Ngài không nghe đến tiếng cầu cứu của ta nhưng ta luôn tin rằng Ngài sẽ cứu lấy ta theo cách của Ngài.
27. Chúa làm yên lặng sóng gió -- Rev. Raniero Cantalamessa
(Suy niệm của Rev. Raniero Cantalamessa)
Bài giải thích của Cha Capuchin Raniero Cantalamessa, cha giảng Phủ giáo hoàng, về những bài đọc phụng vụ Chúa nhật này với đề tài: "Chợt có Một Cơn Bão Lớn"
Bài Tin Mừng Chúa nhật này là sự làm yên lặng sóng gió. Trong buổi chiều, sau một ngày làm việc cực nhọc, Chúa Giêsu xuống một chiếc thuyền và bảo các tông đồ chèo qua bờ bên kia. Vì mệt nhọc, Chúa nằm ngủ ở đàng lái.
Lúc đó, một trận bão lớn nổi lên dọa phá hủy chiếc thuyền
Hoảng sợ, các tông đồ đánh thức Chúa Giêsu dậy, thưa với Người: “Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?” Sau khi thức dậy, Chúa Giêsu truyền cho biển yên lặng: “Hãy im đi! Hãy lặng đi!” Tức thì gió ngừng và biển lặng như tờ. Rồi Chúa nói với các ông: “Tại sao anh em sợ hãi thế? Anh em không có đức tin sao?”
Chúng ta cố gắng tìm hiểu sứ điệp gởi đến chúng ta hôm nay trong trang Tin Mừng này.
Sự vượt Biển Galilée chỉ cuộc hành trình sự sống. Biển là gia đình tôi, cộng đồng tôi, chính cõi lòng tôi. Trong những biển nhỏ, như chúng ta biết, những trận bảo lớn và thình lình có thể được tháo xích
Ai không biết một số những trận bảo này, khi tất cả ra tối tăm và con thuyền nhỏ sự sống chúng ta bắt đầu đầy nước tứ phía, đang khi Chúa xem ra vắng mặt hay ngủ thiếp. Một sự chẩn đoán báo động của bác sĩ, và hết sức thình lình chúng ta đang ở trên cao đỉnh cơn bảo.
Phải làm gì? Chúng ta có thể bám vào cái gì và chúng ta phải thả neo phía nào? Chúa Giêsu không cho chúng ta phương pháp ma thuật để trốn thoát mọi cơn bảo. Người không hứa với chúng ta là chúng ta sẽ tránh khỏi mọi sự khó khăn. Tuy nhiên, Người đã hứa ban cho chúng ta sức mạnh để vượt thắng chúng nếu chúng ta xin Chúa cho phép như vậy.
Thánh Phaolo nói với chúng ta về một vấn đề nghiêm chỉnh ngài phải đối mặt trong cuộc sống của ngài, mà ngài gọi là “một cái dầm trong thân xác tôi,” “Ba lần”—nghĩa là, vô số lần—ngài nói ngài xin Chúa giải thoát ngài khỏi nỗi khổ này, và Chúa đã trả lời ngài ra sao?
Chúng ta hãy đọc chung câu này: “Ơn của Thầy đã đủ cho coni, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối.”
Từ ngày đó, ngài nói với chúng ta, ngài rất tự hào vì những yếu đuối, nhửng cơn bắt bớ và những nổi âu lo của mình, đến độ có thể nói: “Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 Co 12:7-10).
Sự tin tưởng vào Chúa: Đó là sứ điệp của Tin Mừng. Trong ngày đó điều đã cứu sống các môn đệ khỏi đắm thuyền là hành vi rước Chúa Giêsu trong thuyền, trước khi khởi sự vượt biển.
Đối với chúng ta đó cũng là sự bảo đảm tốt nhất chống lại những cơn bảo sự sống: đưa Chúa Giêsu đi với chúng ta. Những phương tiện rước Chúa Giêsu xuống thuyền của sự sống chúng ta và của gia đình chúng ta là đức tin, sự cầu nguyện và sự tuân giữ các điều răn.
Khi một cơn bảo tung hoành trong biển, ít nhất trong quá khứ, những người thủy thủ có thói quen đổ dầu trên sống để làm yên lặng chúng. Trong những đợt sóng sợ hải và âu lo chúng ta phải đổ sự tin tưởng vào Chúa.
Thánh Pherô khuyên những Kitô hữu đầu tiên tin tưởng vào Chúa trong những cơn bắt bớ, ngài nói: “Mọi âu lo hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em” (1 Pt 5:7). Sự thiếu đức tin của các môn đệ mà Chúa Giêsu quở trách trong dịp này là do sự kiện các ông nghi ngờ Người “quan tâm” về mạng sống và sự an toàn của các ông: “ Thưa thầy chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?”
Thiên Chúa chăm sóc đến chúng ta, Người quan tâm về mạng sống chúng ta! Một giai thoại thường được trưng dẫn nói về một người có một giấc mơ. Ông thấy hai cặp dấu chân in trong cát sa mạc và ông hiểu một cặp vết chân là của mình và cặp kia là của Chúa Giêsu, Đấng đi bên mình.
Tới một lúc, một cặp vết chân biến mất, và ông ấy hiểu rằng sự đó đã xảy ra đúng lúc cuộc sống của ông gặp khó khăn.
Lúc đó ông phàn nàn với Chúa Kitô, đã để ông một mình trong lúc thử thách. “Nhưng, Ta đã ở với con!” Chúa Giêsu trả lời.
“Làm sao được việc Chúa ở với con, khi chỉ có một cặp vết chân trong cát?” người đó nói.
“Đó là những vết chân của Ta,” Chúa Giêsu trả lời. “Trong những lúc đó, Ta vác con trên vai Ta.”
Chúng ta hãy nhớ điều này khi chúng ta cảm thấy cơn cám dỗ phàn nàn với Chúa là Chúa bỏ chúng ta một mình.
28. Khi Đức Giêsu ngủ say
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Đức Cha Agatho, Giám Mục Giáo phận Palermo, đi từ đảo Sicily đến Rome. Trong cuộc hành trình, ngài gặp nguy cơ chìm tàu. Một cơn giông tố hãi hùng nổi lên, sắp sửa đánh chìm con tàu ngài đang đi. Không còn hy vọng gì, ngoại trừ lòng thương xót nhân lành của Thiên Chúa toàn năng.
Khi ấy, tất cả mọi người bắt đầu cầu nguyện và dâng lên Chúa lời cầu xin hãy gìn giữ mạng sống cho họ. Trong khi họ cầu nguyện như thế, thì người thủy thủ đang cầm bánh lái, tuy được cột chặt vào tàu, nhưng một cơn giông mạnh mẽ đã làm đứt dây cột và kéo người thủy thủ xấu số kia xuống sóng nước, và Đức Cha Agatho coi anh ta như đã chết. Trong lúc đó, con tàu vẫn đi, sau những cơn hiểm nguy, đã đến được đảo Ostika. Tại đây, Đức Giám Mục dâng thánh lễ cầu cho người thủy thủ không may; nhưng ngay khi con tàu được sửa chữa xong, tiếp tục hành trình đến Rome. Khi vừa lên bờ, Đức Giám Mục đã thấy anh thủy thủ, người mà ngài tưởng rằng đã chết, đang đứng trên bờ. Tràn ngập niềm vui, ngài hỏi anh đã thoát những nguy hiểm dữ dằn suốt nhiều ngày như thế nào. Người thủy thủ khi ấy kể lại chiếc xuồng nhỏ bé của anh lúc nào cũng như sắp sửa lật úp, nhưng lại luôn luôn trồi lên trên những làn sóng, vô hại. Hết ngày lại đêm, anh ta mới thành công trong việc chinh phục những ngọn sóng; nhưng đuối sức vì đói và khát, chắc chắn anh cũng bị chết chìm nếu như không được phù giúp. Anh ta kể tiếp, “Thế rồi bỗng nhiên, khi tôi đã hoàn toàn vô vọng, như thể xuất thần, không biết mình đang ngủ hay thức, tôi nhìn thấy một người đứng trước mặt và cho tôi bánh. Vừa khi tôi lãnh nhận bánh ấy, sức lực của tôi liền hồi phục, và ngay sau đó, tôi được một con tàu cứu vớt và chở về đây.” Khi hỏi biết ngày giờ sự việc này xảy ra, Đức Giám Mục nhận thấy trùng với ngày giờ ngài dâng thánh lễ tại đảo Ostika để cầu cho người thủy thủ xấu số. (Joan Carroll Cruz, Phép Lạ Thánh Thể)
Tin Mừng Thánh Máccô hôm nay thuật lại Đức Giêsu dẹp yên sóng gió, cứu các môn đệ khỏi cơn bão bất ngờ, xảy ra khi Người đang say ngủ. Với câu chuyện trên, Chúa Giêsu Thánh Thể đã cứu người tài công rơi xuống biển, theo lời cầu nguyện của Đức Giám Mục Agatho và toàn thể khách trên con tàu bị bão. Trong cuộc đời mỗi người, thường vẫn gặp những sóng gió, ba đào. Chúng càng dữ dội hơn mỗi khi thiếu vắng Thiên Chúa Quan Phòng che chở, ở cùng.
Khi Đức Giêsu ngủ say
Thực ra, Chúa Giêsu luôn ở cùng, mà con người không nhận ra Người luôn canh thức, che chở lúc nguy nan, tai ương, hoạn nạn, chỉ vì quên mất Người vô hình, chỉ vì sống quá thực dụng, quá dung tục, chỉ luôn biết trông cậy vào hữu hình, vào phương tiện thế gian, vào sức người, sức của, khoa học, kỹ thuật, dịch vụ. Nhưng những thứ hữu hình đó thường không thể giải quyết trọn vẹn như mong đợi, mà chỉ tạm bợ, chắp vá, lưng chừng, nửa vời, bế tắc, chia lìa, đổ vỡ, mất mát, đau khổ, chết chóc, như ly dị, điên loạn hay tự vẫn.
Vì thế, để kính mời Đức Giêsu thức cùng, sống cùng, an ủi, chăm sóc, chở che, Thánh Phaolô khuyên nhủ đừng bắt chước theo thế gian, mà sống theo Lời Chúa đã chỉ dạy, để được cứu giúp an toàn: “Tôi khuyên Anh Chị Em: đừng ăn ở như dân ngoại nữa, vì họ sống theo những tư tưởng phù phiếm của họ. Tâm trí họ đã ra tối tăm, họ xa lạ với sự sống Thiên Chúa ban.” (Ep 4, 17-18)
Khi Đức Giêsu ngủ say
Người vẫn còn say ngủ, khi con người kiêu căng, tự phụ, cậy vào sức mình, tài năng, tri thức, chuyên môn, phương tiện, không cần đến Chúa, không cần đến sức mạnh Chúa Thần Linh, không màng đến Lương Thực trường sinh Thánh Thể, không dựa vào Lời Chúa, ngọn đèn soi dẫn, ánh sáng đi đường, không chạy đến với Chủ Chiên, hay những tâm hồn dâng hiến giúp đỡ, chia sẻ.
Để kính mời Đức Giêsu thức dậy đồng hành, thì Thánh Phaolô ân cần khuyên bảo những ai còn do dự, luyến tiếc những phù phiếm, hãy đoạn tuyệt, để mưu cầu bình an và hạnh phúc vĩnh cửu: “Anh Chị Em đã được trỗi dậy cùng với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới. (Cl 3, 1- 2)
Khi Đức Giêsu ngủ say
Người vẫn tiếp tục ngủ say khi người tín hữu Kitô còn thiếu các nhân đức Tin Cậy Mến, còn chưa đặt vào Người hết niềm tin, niềm trông cậy và nhất là tình yêu. Bởi vậy, sau khi dẹp yên bão tố, Đức Giêsu quay lại quở trách các môn đệ yếu niềm tin cậy: “Sao nhát thế? Làm sao anh em vẫn chưa có lòng tin?” (Mc 4, 40)
Lo sợ, thất vọng vì thiếu đức tin, bất an, khủng hoảng vì thiếu đức cậy, lạc lõng, bơ vơ vì thiếu đức mến, khi người tín hữu Kitô chưa sẵn sàng khẩn khoản, trọng kính mời Đức Giêsu ngự vào trung tâm điểm đời sống, để có thể quy chiếu mọi sự về với Người. Khi hoàn toàn nhờ Người, với Người và trong Người, thì Người sẽ thức dậy và truyền cho sóng gió, ba đào “im đi, câm đi,” tức thì tâm hồn tín hữu liền được bình an giữa biển đời đen tối.
Mặc cho sóng gió đe dọa tứ bề, mặc cho sự dữ hoành hành áp đảo, không sức mạnh thế gian nào uy hiếp được tín hữu Kitô, khi có Chúa cùng đồng hành. Chính các thánh, các người công chính và các chứng nhân đã trân trọng xác tín điều đó qua cuộc đời.“Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? (Rm 8, 35)
“Người Công giáo là ánh sáng giữa đen tối, là muối sống giữa thối nát, là hy vọng giữa một nhân loại thất vọng,” (Đường Hy Vọng, số 950)
Con tưởng rằng con vững tin, tin vào Chúa là Cha nhân hiền, khi cuộc sống nhẹ trôi êm đềm với tháng ngày lặng lẽ bình yên. Nhưng khi đường đời gieo nguy khó, bên trời ngập tràn cơn giông tố. Con lo âu lạc bến xa bờ, con mới biết rằng con chưa vững tin.
ĐK. Thì lạy Chúa, Chúa biết con yếu đuối và đổi thay, con luôn cần đến Chúa từng phút giây. Nhờ ơn Chúa, con kiên trì tín thác kể từ đây, khi yên vui cũng như khi sầu đầy. (Lm Nguyễn Duy, Cho con vững tin)
Lạy Mẹ Maria, Mẹ từng trải qua biết bao sóng gió từ khi thưa hai chữ “Xin Vâng,” nhưng Mẹ chẳng bao giờ nao núng, hoảng sợ, kinh hãi, thậm chí khi cùng Thánh Gia vượt biên, tránh quân Hêrôđê truy sát Hài Nhi, vì Mẹ luôn có Chúa ở cùng. Kính xin Mẹ an ủi, cầu bầu, che chở chúng con trên đường về Quê Trời. Amen.
29. Lòng tin
(Suy niệm của Xuân Hạ, OMI)
“Người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?” đó là lời kinh ngạc thốt lên từ miệng các môn đệ, khi các ông cùng với Đức Giêsu đi thuyền qua bên kia Biển Hồ. Các ông thốt lên lời kinh ngạc đó, bởi đã chứng kiến một phép lạ lớn lao chưa từng thấy bao giờ.
Tin mừng Mác-cô thuật lại rằng: khi Đức Giêsu đã giảng dạy cho đám đông dân chúng xong, Ngài bảo các môn đệ chèo thuyền qua bờ bên kia. Nhưng, đang khi đi thì một trận cuồng phong nổi lên, nước ập vào đầy thuyền, và mọi người kinh sợ, bởi thuyền có thể bị chìm; đang khi đó, Đức Giêsu vẫn nằm ngủ say sưa. Họ đến lay Đức Giêsu dậy, với âm giọng như trách móc “chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?” Đức Giêsu đã trỗi dậy, và truyền cho trận cuồng phong dừng lại và sóng yên biển lặng. Kèm theo uy quyền ấy, Ngài trách mắng các môn đệ “Sao nhát thế, anh em vẫn chưa có lòng tin sao?”.
Với phép lạ lớn lao ấy, Đức Giêsu đã lần nữa tỏ cho các môn đệ và muôn dân biết Ngài là Đấng Mêsia, cho họ thấy thần tính của Ngài và chính Ngài là con Thiên Chúa thật như lời Gioan tẩy giả đã giới thiệu. Chúng ta hãy đọc chậm rãi đoạn tin mừng và chú ý đến vài chi tiết mang tính biểu tượng: “Biển Hồ” là nơi đầy nguy hiểm, ở đó đầy “thủy quái dị hình” là ma lực của bóng tối, của tà thần. “Trận cuồng phong” là sức mạnh của sự dữ, nó như một con thủy quái kinh khiếp và mạnh mẽ đến nổi làm cho mọi người kinh hồn bạc vía. Đối lại với tà lực ấy, thì Đức Giêsu vẫn “đang ngủ”, điều này cho thấy Ngài chẳng bận tâm hay lo lắng gì về thế lực sự dữ, bởi lẽ Ngài luôn tin tưởng vào Thiên Chúa Cha. Khi được gọi dậy, Ngài ngăm đe gió và biển “im đi, câm đi”, một vẻ giọng khỏe khoắn đầy quyền năng. “Im đi, câm đi” là một mệnh mệnh vì cơn bão được xem như con thú dữ, điều này cho ta hiểu Đức Giêsu đang chứng tỏ Ngài có thể kiểm soát được mãnh lực của tà thần, của sự dữ. Quả thế, mệnh lệnh được phán ra là “biển lặng như tờ”.
Cuộc sống trần thế của mỗi người chúng ta cũng thế, luôn bị vây hãm với biết bao nhiêu là thế lực của tà thần, với đầy dẫy những cạm bẫy của trần tục (tình, tiền, danh vọng, quyền lực, tham lam, ghen tương, đố kỵ,..) như chiếc thuyền đang đi trên biển vậy. Tuy nhiên, trong niềm tin của người Ki-tô hữu, chúng ta cần xác tín rằng Thiên Chúa đang lữ hành cùng chúng ta trên chiếc thuyền ấy. Khi gặp những khó khăn trong cuộc sống, lúc gặp nghi nan và phạm tội, chúng ta có dám chạy đến với Chúa, để xin ơn trợ lực với thái độ tin tưởng tín thác, hay ngược lại ta tự mình tìm cách để cải thiện tình trạng bi thảm của mình mà không hề nghĩ đến ơn Chúa, và thậm chí ta chẳng dám tin vào sự trợ lực của Ngài. Như các môn đệ trong đoạn tin mừng, ta cứ tìm cách chèo chống mà quyên đi sự hiện diện của Chúa bên cạnh “Ta ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20). Ta mãi ngồi than thân trách phận và nói “sao Chúa mãi im lặng? Ngài chẳng bận tâm đến sự khốn khổ của con sao?”
Chúng ta hãy đọc lại đoạn tin mừng và nghe lời Đức Giêsu trách mắng các môn đệ “Sao nhát thế, anh em vẫn chưa có lòng tin sao?”, mà đó cũng là lời trách mắng chúng mỗi khi chúng ta thờ ơ và không tin tưởng nơi Chúa. Vì chúng ta vẫn đọc thường ngày “cứ xin thì sẽ được, cứ tìm sẽ thấy, cứ gõ cửa thì được mở cho” (x. Lc 11, 9) nhưng thiếu lòng tin tưởng. Lạy Chúa, Chúa biết chúng con tin Chúa, nhưng xin trợ lực cho lòng tin yếu kém của mỗi chúng con. Để trong mọi biến cố của cuộc đời, chúng con biết tìm đến Chúa và phó thác cậy tin nơi lòng lân tuất của Ngài. Amen!
30. Sóng gió
Con thuyền của các môn đệ trong bài Tin Mừng sáng hôm nay chính là hình ảnh cuộc đời chúng ta. Thực vậy, cuộc đời chúng ta với bao nhiêu phong ba bão táp, đó là những thất bại của bản thân, những khó khăn của cuộc sống, của xã hội, những khổ đau của những người xunh quanh, làm cho chúng ta nhiều lúc chán nản tuyệt vọng.
Tại sao lại có những sóng gió trong cuộc đời? Phải chăng Thiên Chúa đã bỏ rơi chúng ta? Có người cho rằng chính Thiên Chúa thử thách để rèn luyện và củng cố niềm tin nơi chúng ta. Có người lại cho rằng do trình độ hạn chế của con người trước sức mạnh của thiên nhiên. Nhưng có lẽ nguyên nhân trực tiếp nhất vẫn là do cách đối xử của con người đối với con người trong cuộc sống.
Thực vậy, chính thái độ vô trách nhiệm của những người làm cha làm mẹ đã dẫn đến tình trạng tuổi trẻ lang thang, bụi đời. Chính sự ích kỷ tàn nhẫn của một số người đã tước đoạt đi những phương tiện sống và phẩm giá của những người khác.
Nghịch cảnh và sóng gió như vẫn tồn tại song song với số phận và lịch sử con người. Các môn đệ cũng như chúng ta phải đương đầu, phải đối phó với cuồng phong. Thế nhưng chúng ta sẽ tìm thấy niềm an ủi nơi Thiên Chúa bởi vì dưới bàn tay quyền năng và yêu thương của Ngài, sóng gió cũng phải khuất phục và sự bình an sẽ trở lại với chúng ta.
Sự dữ tuy tràn lan, nhưng ơn sủng của Ngài vẫn dư đầy, bởi vì Ngài luôn yêu thương chúng ta, Ngài không hề bỏ rơi con người. Bằng chứng là Đức Kitô đã đến, Ngài tìm mọi phương cách, thậm chí cả đến cái chết của mình để cho chúng ta thêm xác tín vào tình thương của Ngài. Một vị Thiên Chúa nhân lành như vậy, nhất định sẽ không bao giờ muốn cho con người phải đau khổ, nhất định Ngài sẽ cứu chúng ta.
Làm sao chúng ta có thể thất vọng và chán nản khi Ngài vẫn ở bên chúng ta và vẫn yêu thương chúng ta. Mặc dù ngày nay Thiên Chúa không còn trực tiếp làm phép lạ để truyền cho sóng gió phải yên lặng, nhưng Ngài dùng bàn tay của những người nhiệt tâm làm vơi giảm những nghịch cảnh, những bất công trong cuộc sống. Và cũng không ít những con người đang đấu tranh cho công bằng xã hội. Nhiều khi họ cũng đã phải trả giá cho những đấu tranh ấy bằng chính mạng sống của mình.
Còn chúng ta thì sao? Niềm tin vào một Thiên Chúa toàn năng và yêu thương lẽ nào lại để cho chúng ta phải buông xuôi và tuyệt vọng bởi vì Đức Kitô chính là niềm hy vọng, chính là sức sống trong cuộc đời chúng ta.
31. Chưa có lòng tin -- TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Biển khơi là một sức mạnh đáng sợ. Nhất là khi biển nổi sóng gió. Các môn đệ sợ hãi là bình thường. Tại sao Chúa mắng các ông: “Sao nhát thế? Anh em vẫn chưa có lòng tin sao”. Vì đã trải qua nhiều sự kiện như phép lạ hoá bánh ra nhiều, Chúa Giê-su đi trên mặt nước. Tất cả chứng tỏ Chúa làm chủ vật chất. Là Chúa Tể muôn loài. Đã được chứng kiến những phép lạ như thế mà các ông vẫn còn chưa có lòng tin. Đó là điều khiến Chúa buồn. Và hôm nay nữa. Sau khi Chúa quát mắng “ngăm đe gió, và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi!” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ”. Thế mà các ông vẫn chưa nhận biết Chúa. Lại còn thắc mắc hỏi nhau: “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”
Chẳng sánh được với tổ phụ Áp-ra-ham. Luôn tin tưởng nơi Chúa. Tin vào lời Chúa hứa cho một miền đất chảy sữa và mật. Nên sẵn sàng ra đi. “Ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu”. Tin vào lời Chúa hứa cho một dòng dõi đông như sao trên trời như cát dưới biển. nên “bà Xa-ra, vốn hiếm muộn, cũng đã có thể thụ thai và sinh con nối dòng vào lúc tuổi đã cao, vì bà tin rằng Đấng đã hứa là Đấng trung tín”. “Tất cả các ngài đã chết, lúc vẫn còn tin như vậy, mặc dù chưa được hưởng các điều Thiên Chúa hứa”. Dám sát tế I-xa-ác, đứa con duy nhất. “Quả thật, ông Áp-ra-ham nghĩ rằng Thiên Chúa có quyền năng cho người chết trỗi dậy”. Quả là một đức tin lớn lao. Trọn vẹn. Không lay chuyển.
Xin cho chúng ta có một đức tin vững vàng vì “đức tin là bảo đảm cho những điều ta hi vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy”. Để ta an vui sống giữa dòng đời đầy biến động thăng trầm này.
32. Chú giải của Noel Quesson
Tin mừng Mc 4: 35-41 Biển, theo quan niệm của người Do Thái, là nơi ẩn náu của kẻ thù nghịch, chống lại Thiên Chúa và con người.
Sau một loạt những dụ ngôn, Marcô đề cập đến một chuỗi những phép lạ. Bốn phép lạ mà Marcô trích dẫn ở đây không được thực hiện trước đám đông quần chúng, nhưng chỉ dẫn ra trước môn đệ, nhằm giáo dục các ông. Chỉ có một ít dụ ngôn, mà Marcô đã chăn chú nhắc nhở ta nhiều lần: Còn khi ở riêng, Chúa Giêsu đã giải nghĩa tất cả cho môn đệ của Người" '(Mc 4,10 + 4,34).
Chúa Giêsu đã giảng dạy dân chúng... Khi chiều đến, Người phán cùng các môn đệ rằng: "Chúng ta hãy sang bờ bên kia".
Các ông giải tán đám đông, vì Người đang ở dưới thuyền, nên các ông cho Người đi.
Tôi tưởng tượng ra những giây phút thân mật trên.
Đó là những khoảnh khắc êm ả hơn, để Chúa Giêsu có dịp hiện diện một mình cùng với Nhóm nhỏ của Người.
Chúa Giêsu đã xếp đặt và dự kiến những giây phút này: "Chúng ta hãy sang bờ bên kia". Người rời Galilêa, nơi mà dân chúng báo động và tìm cách quấy rầy Người. Từ phía dân ngoại, Người tiến đến những người xứ Giêrasa, một xứ mới mà Lời Thiên Chúa chưa được vang lên, miền truyền giáo... ở đó, đã tiềm tàng những tín hữu mới và hứa hẹn những cuộc trở lại mới cần thực hiện.
Và Người trẩy đi. "cùng với các môn đệ của Người". Họ sẽ có một chút thời gian hơn để nói năng với suy nghĩ chín chắn, cách thanh thản, xa hẳn dân chúng.
Lạy Chúa, nếu Chúa muốn, xin hãy nâng bước xuống thuyền của con. Chúng ta cùng trẩy đi.
Chợt có một cơn bão lớn. Những lớp sóng nã vào thuyền đến nỗi sắp đầy nước.
Thật là kinh hồn!
Không. Họ trẩy đi không phải chỉ để gặp cảnh trên?
Thiên Chúa không dự kiến như thế. Cơn gió mạnh đang vỗ đập trên chiếc buồm và làm cho con thuyền nghiêng ngã: điều mà người ta không ngờ được. Xem ra như biển hồ Tibêriát quen thuộc với những cuộc tấn công dữ dội kiểu này, mà người ta không ngờ. Thiên Chúa đánh lạc hướng.
Thiên Chúa gây bối rối!
Tôi có chấp thuận để cho Thiên Chúa hướng dẫn tôi, đến nỗi có thể không biết Người sẽ dẫn tôi đi đâu không?
Còn Người thì ở đàng lái, dựa gối mà ngủ.
Thất là chưng hửng!
Xét theo phương diện nhân loại, để đạt được điều đó, nghĩa là để có thể ngủ nghỉ êm ả giữa trận phong ba như thế, thì cần:
Hoặc là phải Có một sự quân bình tự nhiên phi thường.
Hay là phải vô cùng mệt mỏi.
Tôi chiêm ngắm Chúa Giêsu ngủ, đầu đặt trên gối, phía dưới thuyền.
Các ông đánh thức Người và nói: "Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?"
Quang cảnh thật ngoạn mục.
Chúng ta lập lại lời kêu xin: một tiếng kêu la.... một sự thân tình dạn dĩ …một lời chất vấn... như chúng ta vẫn thường có cảm tưởng như thế…
Lạy Chúa. Chúa ngủ sao? Xin hãy thức dậy.
Trỗi dậy, Người đe gió và phán với biển rằng: "Hãy im đi, hãy lặng đi". Tức thì gió ngưng, biển lặng như tờ.
Lạy Chúa, con thường mơ ước đến cảnh yên lặng như tờ tiếp theo như thế.
Với Chúa, làm sao con phải sợ hãi?
Chúa Giêsu nói với các ông: "Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?". Bấy giờ các ông kinh hãi và nói với nhau rằng: Người là ai mà cả gió lẫn biển đều vâng lệnh Người?".
Đây là lần đầu tiên Marcô ghi nhận câu hỏi này trong Nhóm môn đệ. Câu hỏi chủ yếu về con người sâu rắc của người Thầy trẻ trung này, mà các ông cùng đang đi thuyền: Người là ai? Phiêu lưu gì đây? Người sẽ dẫn chúng ta tới đâu? Lúc đó, không có câu trả lời... khiến họ kinh hãi. Ta cũng thông cảm cho họ.
33. Chú giải của Giáo phận Nha Trang
Chúa dẹp yên sóng gió
HOÀN CẢNH:
Sau những dụ ngôn về Nước Thiên Chúa (4,1-33), thánh Mác-cô ghi lại một số phép lạ. Phép lạ Chúa dẹp yên sóng gió trong bái Tin Mừng hôm nay là một trong những phép lạ Chúa làm, để tỏ uy quyền thiên sai của Người.
Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng hôm nay ghi lại phép lạ Đức Giê-su dẹp yên sóng gió để trình bày sứ vụ cứu thế của Người.
NHẬN THỨC VÀ ÁP DỤNG:
1. Biển, theo quan niệm của người Do Thái, là nơi hỗn mang. Từ đó phát xuất những sức mạnh đối nghịch với Thiên Chúa và con người. Việc Chúa dẹp yên sóng gió trên biển tỏ bày quyền năng của Chúa trên sự dữ.
2. Việc Chúa Giê-su nằm ngủ, gợi đến sự vắng bóng của Chúa. Chúa nằm ngủ trên thuyền là hính bóng của Hội Thánh tại thế: vẫn có Chúa hiện diện nhưng bề ngoài ta không cảm thấy. Sự hiện của Chúa nơi Hội Thánh, chỉ có thể nhìn thấy qua các dấu chỉ và qua con mắt đức tin.
3. Chúa lên thuyền và truyền lệnh cho các tông đồ chở sang bờ bên kia. Chi tiết này cho thấy Chúa trao quyền điều khiển Hội Thánh cho các Tông Đồ để các ngài lèo lái Hội Thánh đến bến bình an là Nước Trời.
4. Con thuyền sang bờ bên kia, là hình ảnh Hội Thánh vượt biển trần gian. Cuộc hành trình vượt biển này đầy cam go và thử thách.
5. Có Chúa hiện diện trong thế ngủ (hiện diện cách vô hình), các Tông Đồ đã không nhận ra quyền năng của Người, nên các ông hoảng sợ khi gặp sóng gió bão táp.
Chúa vẫn hiện diện trong Hội Thánh với tư cách là Đầu Nhiệm Thể. Bất cứ lúc nào ta tin tưởng vào Người, ta liền được hiệp nhất với Người, được hiệp thông quyền năng như Người:
- Khi gặp đau khổ mà tin vào Chúa, ta sẽ cùng được Người thống trị.
- Khi phải chết mà tin vào Chúa, ta sẽ cùng được phục sinh với Người.
- Khi còn sống mà tin vào Chúa, thì ta sẽ cảm nghiệm được hạnh phúc với Chúa ở đời này và đời sau.
6. Chi tiết "Chúa thức dậy, ngăm đe gió …" gợi đến việc Chúa phục sinh.
Lời Chúa ngăm đe sóng và biển, giống như lời Chúa vẫn sử dụng khi trừ quỷ, lời đó diễn tả việc Chúa chiến thắng trên ma quỷ sau khi Chúa phục sinh.
7. Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta xác tín hơn vào sự hiện diện cách vô hình của Chúa trong Hội Thánh và an tâm hơn khi gặp thử thách vì luôn có Chúa hiện diện để gìn giữ, che chở và giúp đỡ ta trên đường về quê trời.
Hành Trang Mục Vụ Khóa 10 - ĐCV Thánh Giuse Sài Gòn
34. Người dựa vào chiếc gối mà ngủ
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
“Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi mà Thầy chẳng lo gì sao?”
Cũng như hai dụ ngôn ‘hạt giống tự mọc’ và ‘hạt cải nhỏ bé’ được kể trước đó, sự kiện cuồng phong nổi lên và sóng nước ập vào làm cho con thuyền các môn đệ hòng chìm, trong khi đó Đức Giê-su ‘đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ’ buộc ta phải suy nghĩ khi giáp mặt với những nghịch lý đầy thách thức trong chính đời sống Tin Mừng. Tự nhiên, khi nghĩ về Thiên Chúa cũng như về vương quốc của Ngài, thì quyền năng và sức mạnh mới chính là điều mà mọi người thường nghĩ tới trước nhất. Chính vì vậy mà khi nhìn thấy đau khổ tràn lan, bất công ngập tràn và sự ác thống trị, trong khi sự thiện lại thoi thóp trong tuyệt vọng, nhiều người đã cho rằng, đó là một bằng chứng thuyết phục cho thấy không hề có Thiên Chúa; vì nếu Ngài thật sự hiện hữu, thì với tất cả quyền năng và thánh thiện như thế, tại sao lại không can thiệp, không giáng phạt bằng tất cả sức mạnh của Ngài? Thiên Chúa lẽ nào lại vô tâm tới mức đó sao? Giải đáp duy nhất mà người ta thường nại tới để giải quyết nghịch lý này là sự kiên nhẫn chịu đựng có giới hạn của Thiên Chúa, sự nhẫn nhục này chỉ tồn tại trong thời gian ngắn ngủi của cuộc đời này, để rồi tới kiếp sau sự công thẳng và quyền bính của Ngài sẽ hiển trị qua việc nghiêm minh xét xử, với phần thưởng thiên đàng dành cho người thiện, hay hình phạt hỏa ngục dành cho người dữ. Giải đáp này trên thực tế hình như được hầu hết các tôn giáo trưng ra, tuy với những hình thái khác nhau, chẳng hạn như thuyết luân hồi của Phật Giáo.
Vẫn biết Thiên Chúa là quyền năng và quyền năng này vượt trên tất cả mọi sự, ‘Thức dậy, Người ngăn đe gió và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi!” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ’. Thiên Chúa đương nhiên có quyền trên cả sự dữ! Trong trường hợp cụ thể này, theo lối suy nghĩ của các môn đệ, biển cả dậy sóng là hình ảnh quen thuộc của sức mạnh sự dữ, của tà thần (xem Mc 1:25). Có điều là ít tôn giáo nào dám nghĩ rằng quyền năng lớn lao nhất của Thiên Chúa (Thượng Đế…) lại chính là quyền năng buộc Ngài phải câm nín. Ngoài Ki-tô giáo, có tôn giáo nào dám nghĩ rằng có một Thiên Chúa mà quyền năng và bản chất tuyệt hảo nhất của Người lại chính là lòng nhân từ và thứ tha? Đặc tính ‘nhân từ và hay thương xót’ của Thiên Chúa, nếu có tìm thấy trong Do Thái giáo, Hồi giáo…, thì cũng chỉ mang tính tạm bợ và hạn hẹp, và chỉ dành cho một số đối tượng nhất định mà thôi (các tín hữu trung thành, những người công chính chẳng hạn). Chỉ riêng Tin Mừng của Đức Giê-su mới cho ta hiểu rằng Thiên Chúa là tình yêu, và bản chất của Tình Yêu đó trước hết và trên hết là thứ tha và hay thương xót. Phải chăng từ muôn thuở yếu tính của Thiên Chúa chính là điều này… và sẽ còn tiếp tục mãi mãi cho tới muôn đời? Mạc khải lớn nhất của Đức Giê-su Ki-tô chính là đây: Thiên Chúa không lên án, Ngài không luận phạt, Ngài chỉ làm một điều duy nhất là cứu độ và xót thương. Luận phạt hay lên án là do chính con người tự quàng vào cổ mình “vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3:16-21). Kể từ mạc khải vĩ đại này, thinh lặng trước sự dữ, thay vì là yếu đuối sợ hãi, lại biểu lộ sức mạnh vô địch nhất của Thiên Chúa. “Ông không nói lại được một lời sao? Mấy người này tố cáo ông gì đó?... Nhưng đức Giê-su vẫn làm thinh” (Mt 26:62-63).
Thần lực Người làm cho gió im biển lặng đã làm cho các môn đệ hoảng sợ, mối hoảng sợ này có lẽ lớn không kém lúc cuồng phong bão tố nổi lên, ‘Các ông hoảng sợ nói với nhau…’ Mô-sê trước bụi gai bốc cháy (Xh 3:1), hoặc I-sai-a khi thoáng nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa (Is 6:5), hoặc bất cứ ai khác cũng đều run sợ trước mọi biểu hiện của quyền lực thần linh. Chỉ duy uy quyền tình yêu của Thiên Chúa là không gây sợ hãi! Và chỉ có sức mạnh tình yêu tha thứ mới làm cho con người được thư thái và an bình thực sự. “Bình an cho anh em… Thầy đây đừng sợ!” (Lc 24:36). Một khi được Đức Giê-su tỏ cho biết Thiên Chúa là ai trong thực chất của Ngài, và Thần Khí giúp ta khám phá ra Thiên Chúa thật gần gũi, thấu hiểu hết các yếu đuối lỗi lầm của con người cho dù họ có gian ác tội lỗi tới đâu đi nữa, bất cứ ai cũng sẽ cảm thấy tràn ngập một niềm an bình độc đáo, một thứ an bình không ai trên cõi đời này có thể ban cho. “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy… không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi…” (Ga, 14:27)
Tuy nhiên, một khi khám phá ra và hiểu rõ hơn về sức mạnh tình yêu tha thứ và xót thương của Thiên Chúa, con người sẽ không khỏi cảm thấy một mối kinh ngạc thú vị, gần giống như một cảm giác ngất ngây. Hy vọng rằng các Ki-tô hữu chúng ta, một khi nghiệm thấy cảm giác tuyệt diệu đó, hãy để cho mối ‘kinh ngạc ngất ngây’ này tiếp tục tràn ngập tâm hồn mình… bây giờ và cho tới muôn đời!
Lạy Vua Tình Yêu nhân ái, cảm tạ Chúa đã một lần cho con nếm cảm được uy lực tình yêu nhân ái Chúa trong đời sống con. Xin cho con luôn nghiệm thấy Thiên Chúa tình yêu đang thinh lặng hiện diện trong con giữa mọi sóng gió cuộc đời. Xin đừng bao giờ cất khỏi lòng con sự bình an ngây ngất của Thần Khí hiện diện trong con, để con luôn có thể mở miệng kêu lên ‘Áp-ba’ giữa mọi nghịch cảnh. Amen.
35. Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn
PHÓ THÁC VÀ TIN TƯỞNG VÀO CHÚA
KHI GẶP NGHỊCH CẢNH HAY ĐAU KHỔ?
Rất nhiều người trong chúng ta đã một lần lâm vào khó khăn, nghịch cảnh. Lúc ấy, chúng ta luôn tự chất vấn mình: “Sao cuộc đời lại đầy rẫy khó khăn, đau khổ?”; “Tại sao điều này lại xảy ra với mình?”; “Tại sao đời bất hạnh đến vậy?”; hay ““Tôi có làm gì đâu mà tôi ra như thế này?”. Nhưng nếu suy tư một chút, chúng ta thấy rằng nghịch cảnh hay đau khổ trong cuộc đời là điều không thể tránh được. Chẳng hạn, người thì bị mất việc, kinh doanh thất bại, mất đi người thân, khủng hoảng tài chính, người thì đổ vỡ trong các mối quan hệ, hoặc thậm chí sức khỏe sa sút và bệnh tật. Lời Chúa trong các bài đọc hôm nay giúp chúng ta có cái nhìn và lối sống trước nghịch cảnh trong đời.
Bài đọc 1 kể Ông Gióp là người công chính, đạo đức và kính sợ Chúa vì thế ông được Chúa chúc phúc, con đàn cháu đống và của cải sung túc. Nhưng chẳng bao lâu ông gặp những cơn bão táp trong đời sống vật chất lẫn tinh thần: mất hết bà con bạn bè, tán gia bại sản, còn thân thể thì bị ung nhụt khủng khiếp. Thế nhưng, ông không nguyền rủa Thiên Chúa trái lại tin tưởng, phó thác và cậy trông vào Chúa. Cuối cùng Chúa thương ban cho ông có lại tất cả và phong phú hơn trước đây. Còn trong Bài Tin Mừng, Thánh Mác-cô kể khi gặp bão táp cuồng phong nỗi lên, các tông đồ hoảng sợ quá đến nỗi quên mất Chúa đang ở với mình. Các ông kêu Chúa và Chúa dẹp tan sóng gió.
Thật ra, mỗi khi thử thách đến trong đời, mỗi người đối diện và phản ứng một kiểu, chẳng ai giống ai. Có người thì quay lưng lại với chúng. Có người lại không dám tiến lên vì sợ thất bại. Lại có người không bao giờ hành động... vì lo không vượt qua nỗi. Có người kiên trì chịu đựng và can đảm vượt qua, nhưng có người thì nhụt chí thất vọng và tuyệt tự…
Khởi đi từ nguyên tắc cứu độ của Đức Giêsu trong nguyên lý của hạt lúa mì: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24); rồi chính Đức Giêsu đã đi trên con đường tự hủy đó để cứu độ con người. Đỉnh cao của mầu nhiệm này là cái chết trên thập giá như Ngài đã tiên báo: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại” (Mc 8, 31). Tinh thần này đã được thánh Phanxicô Assisi lựa chọn và sống, ngài viết: “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
Quả thế, đằng sau sự mục nát của hạt lúa, chúng ta thấy trổ sinh nhiều cây và bông hạt khác. Cũng vậy, nếu không có thập giá hôm nào thì không có sự phục sinh của Đức Giêsu và niềm hy vọng của chúng ta. Chính Tôi Tớ Chúa, Đức Hồng Y Phanxicô XavieNguyễn Văn Thuận cũng đã nói: “Đừng nản lòng vì thất bại. Nếu con tìm ý Chúa thực sự, thì chính sự thất bại đó là thành công. Chúa muốn như vậy. Chỉ có một sự thất bại là không hy vọng vào Chúa. Con đã hy vọng vào Chúa và con sẽ không hổ thẹn đến muôn đời" (Đường Hy Vọng, số 41. 43).
“Lửa thử vàng, gian nan thử đức tin”. Trong hành trình sống đạo của chúng ta, hẳn không thiếu những nghịch cảnh, những sóng gió cuộc đời. Tuy nhiên, khi đối diện với chúng, mỗi người chúng ta hãy kiên trì và trung thành với ý Chúa. Mỗi khi khó khăn thử thách đến với chúng ta, đừng vì thất vọng mà buông xuôi nhưng biết chạy đến kêu cầu Chúa ra tay giúp đỡ như các Tông đồ hôm nay. Hãy trung thành, tin tưởng và cậy trông vào Chúa. Đừng than oán mỗi khi rơi vào nghịch cảnh nhưng nhớ rằng Chúa là Cha của chúng ta ở trên trời, Chúa luôn yêu thương chúng ta, Ngài biết trước những gì chúng ta cần, vì thế chúng ta nên phó thác trong tay Ngài. Hãy tin tưởng vào Chúa quan phòng (Mt 6,25-34).
Cuối cùng, mỗi khi gặp nghịch cảnh, khó khăn xảy đến, chúng ta đừng quá bận tâm cho câu hỏi tại sao? Mà hãy chú tâm và khám phá ra ý định của Thiên Chúa trong nghịch cảnh đó. Thật vậy, chính lúc ấy, Chúa sẽ cho biết lý do tại sao, hay cần phải làm gì để chúng ta nhận biết được những hồng ân quý báu Chúa ban cho trong nghịch cảnh đó. Mọi sự đều trở nên ích lợi cho những người yêu mến, tin tưởng và cậy trông ở Chúa. Vì thế, không còn chuyện than thân trách phận hay buồn bực, chán nản và thất vọng nữa. Ông Gióp là người đã sống mầu nhiệm đau khổ qua những nghịch cảnh một cách xuất sắc. Ông xin Chúa cho chịu thật nhiều đau khổ để đền vì tội mình. Ông sẵn lòng chịu khổ cực thay cho người khác vì lòng yêu mến Chúa. Ông luôn chiến đấu với sự yếu đuối bản thân, với những nghịch cảnh từng ngày từng giờ, từng phút, từng giây trong cuộc sống.
Xin hãy nhớ rằng những điều tốt đẹp ngày hôm nay là kết quả của những thử thách ngày hôm qua. Cho nên, Đức Hồng Y Phanxicô Xavie nói: "‘Khổ’. Đúng vậy. Thương khó, bỏ dễ. Khó mới quí, bỏ là quỉ” (ĐHV, số 60). Ước gì, Lời Chúa hôm nay là động lực và nguồn an ủi và sức mạnh để chúng ta dám đương đầu và chiến đấu với với bao nghịch cảnh trong đời ngõ hầu nhờ ơn Chúa con thuyền đức tin của chúng ta về thiên đàng bình an. Amen.
36. Bão táp cuộc đời – Cố Lm. Hồng Phúc
Một phái đoàn quan khách đến thăm quan một trại cùi. Họ rất cảm phục vì thấy các nữ tu vui vẻ săn sóc cho bệnh nhân. Một người trong phái đoàn hỏi một chị: “Vì sao chị lại sống ở đây? Cho tôi một triệu tôi cũng không dám!” Người nữ tu trả lời: “Cho tôi hai triệu tôi cũng không ở. Sở dĩ tôi muốn ở đây và sống chết ở đây vì tình yêu Chúa Kitô thúc đẩy tôi.” Với giáo đoàn Côrintô, Thánh Phaolô cũng từng nói như vậy: “Lòng yêu mến Đức Kitô thúc bách tôi”. Từ ngày ngài được biết Chúa Kitô và cảm thấy tình thương của Chúa đến độ “hiến thân mình vì tôi” (Ga.2,20), Phaolô như bị đè nặng dưới khối tình yêu của Chúa. Từ trong thâm tâm, người nghe như có tiếng vọng lại: Hãy yêu mến Ta như Ta đã yêu mến ngươi. Hãy tiến lên nữa. Hãy để Ta dùng ngươi để yêu mến kẻ khác. “Chúa Kitô đã chết thay cho hết mọi người, để những ai đang sống không sống cho mình nữa, mà chỉ sống cho Đấng đã chết và sống lại vì ta.”
Đối với tất cả chúng ta, tình yêu Thiên Chúa cũng thúc bách và đè nặng như vậy.
Bài Phúc Âm hôm nay, dưới ngòi bút linh động của Marcô, là một bài phóng sự một cơn bão táp xảy ra trên mặt biển hồ Tiberiade hay có những cơn gió lốc về chiều do bầu khí bị dồn ép trong thung lũng sông Giordan. Sau khi giải tán đám đông, Chúa truyền cho các môn đệ chèo thuyền qua bên kia biển hồ. Ngài lên thuyền. Sau một ngày giảng dạy mệt nhọc, Ngài đến phía sau lái, dựa trên một chiếc gối và ngủ say. Một cơn gió lốc thổi đến, cuộn lên những ngọn sóng lớn làm cho thuyền đầy nước. Các môn đệ tay chống tay tát…, còn Ngài, Ngài vẫn ngủ. Các ông đến thức Ngài dậy: “Chúng con chết mất, Thầy không quan tâm sao?” Ngài bèn đe gió và phán với biển, như một người bị quỉ ám: “Hãy im đi!” Tức thì gió và biển lặng.
Tường thuật cơn bão táp im lặng có ý nghĩa gì? Đối với Chúa Giêsu, Ngài muốn dạy cho chúng ta phải có niềm trông cậy và phó thác nơi Chúa: “Sao các con sợ hãi? Các con không có đức tin ư?” Trong mọi hoàn cảnh, mọi hiểm nguy, chúng ta đều nằm trong bàn tay của Cha trên trời. Trong một hoàn cảnh tương tự, viên lái đò chở hoàng đế César qua sông, thấy sóng cả đã ngã tay chèo, được nghe một câu nói bất hủ: Anh không biết là anh đang chở vua César? Thì huống hồ ở đây, không phải là một vị vua trần thế mà là Vua Cả trên trời, “Ngài làm cho bão táp dừng yên phăng phắc, sóng biển yên lặng như tờ” (Tv. 107, 29).
Đối với nhiều người đã chứng kiến, vì Marcô nói: “Có nhiều thuyền khác theo”, thì đây là một phép lạ nói lên quyền năng của Chúa Giêsu, Đấng chỉ cần phán lên một lời thì gió yên biển lặng, Đấng có quyền trên vạn vật, là Đấng tạo thành vạn vật. Các Thánh Giáo phụ nhìn thấy ở đây tác động của hai bản tính của Chúa Giêsu. Thánh Gioan Kim-Khẩu nói: “Họ vừa nhìn thấy Ngài, dựa trên gối, ngủ say, đó là một con người, họ nhìn thấy Ngài bắt biển cả phải lặng yên, đó là vị Thiên Chúa.” Trong khi các nhà thần học minh giáo lại đề cao ý tưởng “con thuyền Giáo hội” giữa sóng gió ba đào (Tertullien). Chúa Kitô vẫn ở trong con thuyền Giáo hội cũng như Ngài ở trong tâm hồn chúng ta. Một hôm Bà Thánh Catarina Sienna phải chiến đấu mãnh liệt với chước cám dỗ, Bà kêu lên: “Lạy Chúa, trong khi con phải chống lại những ý tưởng nhuốc nha thì Chúa ở đâu? Chúa phán: Ta đang ở trong tâm hồn con, để hỗ trợ con và để chia sẻ sự toàn thắng của con.”
“Lạy Thầy, xin cứu chúng con vì chúng con sắp chết mất!”
37. Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin? -- ‘Tin Vui Xuân Lộc’
Lời Chúa trong đoạn Tin Mừng hôm nay thánh Maccô thuật lại một hành trình trên biển để “sang bờ bên kia” của Chúa Giêsu và các môn đệ. Hành trình này được ví như hành trình đức tin của mỗi chúng ta. Hành trình trên biển gặp sóng gió là chuyện không lạ lắm đối với những người thường xuyên đi biển và sống bằng nghề biển như các môn đệ. Tuy nhiên, chiếc thuyền của Chúa Giêsu và các môn đệ hôm nay không gặp những con sóng ngọn gió hiền lành bình thường, mà là gặp “cuồng phong”… “sóng ập vào”… “thuyền đầy nước”… Các môn đệ lo lắng như “chết đến nơi rồi”, còn Chúa Giêsu thì “chẳng lo gì”… Các môn đệ kêu cầu đến Chúa và Chúa đã ra tay uy quyền, Chúa mắng các môn đệ “làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”
Chúng ta ngắm nhìn xem, tại sao Chúa Giêsu lại mắng các môn đệ chưa có lòng tin?
Qua trình thuật này chúng ta có thể hiểu rằng, giữa Chúa Giêsu và các môn đệ đã có một tương quan rất thân thiện với nhau rồi. Cùng làm việc và cùng thi hành sứ vụ chung với nhau. Tuy nhiên, chúng ta cũng dễ dàng cảm nghiệm rằng, dường như tương quan ấy chỉ mới có ở bề mặt bên ngoài, có nghĩa là các môn đệ mới chỉ gặp gỡ, gần gũi làm việc chung, mới tương quan trên bình diện công việc và cuộc sống, chứ các môn đệ chưa đi vào tương quan sâu, chưa hiểu hết Chúa như thế nào, quyền năng của Ngài ra sao?
Chúa mắng các môn đệ “chưa có đức tin” quả thật là phải lẽ, vì hành trình của các ông đang có Chúa đó, nhưng các ông chẳng ý thức về sự hiện diện đồng hành của Ngài, các ông không nhận biết quyền năng của Chúa, các ông cũng chẳng trông cậy vào Ngài… Sóng gió ập đến, các môn đệ mới sực nhớ đến Chúa, và rồi các ông vội trách Chúa “chẳng lo gì”.
Cuộc sống thường ngày của chúng ta dường như cũng thế, chúng ta ít khi ý thức sự hiện diện của Chúa, chúng ta thường đi với Chúa cách vô ý thức, coi như Chúa không biết gì, Chúa chẳng quan tâm. Đến lúc nguy khó mới nhớ chạy đến Chúa và kêu la rối rít. Thái độ sống này, chắc chắn sẽ bị Chúa mắng là “chưa có lòng tin”. Tuy nhiên, một thái độ ngược lại cũng đáng quan tâm. Cuộc sống đôi lúc chúng ta cũng rơi vào tâm trạng thất vọng nặng nề, chúng ta cũng chẳng còn nhớ đến Chúa, và quên rằng Ngài ở bên chúng ta và chờ chúng ta khiêm tốn lên tiếng kêu cầu Ngài. Thái độ chỉ kêu đến Chúa khi gặp khó khăn, hoặc là thất vọng đến quên cả Chúa mà lầm lũi bước đi đó là thái độ “chưa có lòng tin”.
Thánh Maccô thuật tiếp, sau khi các môn đệ kêu đến Chúa, tin tưởng vào quyền năng của Chúa, Chúa bắt đầu ra tay. Nhưng sau khi Chúa ra tay truyền sóng biển im lặng, thì các ông hoảng sợ và nói với nhau: “Vậy người này là ai…?”
Gặp sóng gió, các môn đệ hoảng sợ, không tin đủ vào Chúa. Sau khi Chúa tỏ quyền năng thì các ông lại thắc mắc “Ngài là ai?” Điều này chứng tỏ nền tảng đức tin của các môn đệ chưa vững chắc, đi bên Chúa, gặp gỡ Chúa nhưng không khao khát tìm biết Chúa là ai? Lẽ ra các ông phải tìm hiểu về Chúa, biết Chúa là ai khi bắt đầu cất bước theo Ngài! Còn nghi ngờ vào chính Thiên Chúa thì chắc chắn là chưa có lòng tin. Tin Chúa là phải học cho biết Ngài là ai và đi vào trong tương quan sâu để cảm nghiệm Ngài như ta đã được học biết. Tin vào Chúa là hiểu điều Chúa làm, mong điều Chúa muốn và phó thác cho Ngài cuộc sống của ta.
Sau phép lạ Chúa làm truyền sóng biển im lặng, chắc chắn các môn đệ phải tìm được câu trả lời Chúa là ai khi quan sát sự kiện và khi tương quan gần gũi song hành với Chúa. Vậy mà không hiểu sao các ông lại còn hoảng sợ và thắc mắc “ông này là ai?” Câu hỏi này chứng tỏ lòng tin của các ông chưa có và bị Chúa mắng thì cũng không oan uổng gì.
Bởi vì các môn đệ chưa có lòng tin, nên chưa ý thức sự hiện diện của Chúa. Chưa có niềm tin nên còn nghi ngờ “ông này là ai?”. Chưa có lòng tin nên còn dành quyền điều khiển và kiểm soát hành trình. Khi các môn đệ dành quyền kiểm soát và điều khiển hành trình đời mình, thì Chúa dành cho họ ưu tiên đó, Ngài nghỉ ngơi. Giả như chúng ta tin tưởng trao phó cho Chúa để Ngài điều khiển và an tâm nghỉ ngơi, thì chính lúc ấy Chúa sẽ giang tay ra hành động, Ngài chở che, bao bọc và cứu giúp.
Thái độ của những người “chưa có lòng tin” là thái độ của những người ưa thích đảo lộn tình thế, đứng vào vị trí điều khiển của Chúa, quên đi vai trò lệ thuộc của chính bản thân mình.
Có lòng tin là ý thức Chúa hiện diện trong mọi nẻo hành trình; Có lòng tin là trả lời xác tín với mọi người về chính Chúa, bằng sự cảm nghiệm của chính cá nhân mình; Có lòng tin là để Chúa điều khiển và kiểm soát cuộc sống của mình; Có lòng tin là khiêm tốn kêu xin khi gặp gian nan khốn khó.
Giờ đây, chúng ta khiêm tốn dâng lên Chúa lời nguyện xin ơn đức tin:
Lạy Chúa Giêsu,
Chúng con cám ơn Chúa vẫn hiện diện trong cuộc sống chúng con.
Xin cho chúng con tin vào quyền năng Chúa vẫn hiển trị trong cuộc đời chúng con.
Lạy Chúa, cuộc sống quanh chúng con có biết bao điều xảy đến.
Tất cả đều nằm dưới bàn tay tình thương quan phòng của Chúa.
Xin Chúa giúp chúng con biết cùng với vạn vật dâng lời ca khen quyền năng Chúa.
Xin giúp chúng con biết đón nhận ân ban của Chúa trong sự khiêm tốn thẳm sâu.
Xin dạy chúng con biết chạy đến với Chúa khi gặp những gian nan thử thách,
Xin giúp chúng con biết bám vào Chúa để đi qua những giông bão trong cuộc đời.
Lạy Chúa, Chúa luôn nâng đỡ những ai kêu cầu Chúa.
Chúng con xin phó dâng cuộc sống trong tình thương quan phòng của Chúa. Amen.
38. Sóng gió cuộc đời
(Suy niệm của Lm Anphong Trần Đức Phương)
Tôi đã được nghe một câu chuyện về Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII (1881-1963). Ngài chỉ ở trên ngôi vị Giáo Hoàng trong vòng 5 năm (1958-1963), nhưng được nhiều người sùng mộ. Sau khi Ngài qua đời, rất nhiều người đã đến viếng mộ của Ngài, đến nỗi di hài của Ngài đã được đưa từ hầm mộ lên trên nền Đền Thờ Thánh Phêrô để dễ dàng cho giáo dân kính viếng. Ngài có một niềm ưu tư đặc biệt về việc hiện đại hóa Giáo Hội. Ngài cũng luôn quan tâm về nền hòa bình thế giới. Một trong những thông điệp nổi tiếng của Ngài là Thông Điệp “Hòa Bình Trên Thế Giới” (Pacem in Terris), ra ngày 11-4-1963, trong đó Ngài kêu gọi mọi người có thành tâm thiện chí hãy chung tay xây dựng Hòa Bình và sự Công Chính trên thế giới, để “làm cho trái đất này trở nên nơi ở tốt đẹp hơn cho nhân loại!”(Lời kết Thông Điệp) Một đêm khi Ngài đang ngủ, Ngài chợt nghĩ đến bao nhiêu những điều cần phải thực hiện trong Giáo Hội. Ngài mong cho đến sáng để xin vào trình bày với Đức Giáo Hoàng về những việc cần phải làm ngay. Nhưng Ngài sực tỉnh và mới nhận ra chính Ngài đang là Giáo Hoàng! Lúc đó, Ngài cảm thấy hết sức sợ hãi! Nhưng như có tiếng Chúa nói với Ngài: “Giáo Hội là của Cha chứ không phải của con!” Bấy giờ Ngài mới lấy lại can đảm và cầu nguyện xin Chúa soi sáng cho Ngài biết phải làm gì để canh tân Giáo Hội. Rồi Ngài đã mở Đại Công Đồng Vatican II (1962-1965), mời các vị Hồng Y và Giám Mục từ các nơi trên thế giới trở về Rôma họp để cùng nhau đưa ra những ý kiến hiện đại hóa Giáo Hội.
Thánh Lễ Chúa Nhật hôm nay, trong Bài Phúc Âm (Mc 4, 35-41), chúng ta thấy các Thánh Tông Đồ đang chèo thuyền trên Biển Hồ Tibêriat trong đêm tối, thì sóng to gió lớn nổi lên, nước ùa vào trong thuyền đến nỗi thuyền sắp chìm, mà Chúa Giêsu cứ ‘ngủ yên’ trên mạn thuyền, như không biết gì cả. Các Tông Đồ phải đánh thức Chúa dậy: “Chúng con sắp chết đến nơi mà Thày không quan tâm đến sao?” Chúa Giêsu đã ‘thức dậy’ và làm phép lạ cho gió yên, biển lặng! Rồi Chúa trách các Tông Đồ: “Các con không có đức tin ư? Sao mà qúa sợ hãi như vậy!”
Trong cuộc đời mỗi người chúng ta, mỗi gia đình chúng ta có nhiều lúc cũng gặp “bão tố nổi lên” và chúng ta có cảm tưởng Chúa cứ ‘ngủ yên’ mà không thương cứu giúp chúng ta. Y như trong trường hợp khổ đau của ông Gióp trong Bài Đọc I (Gióp 38, 1.8-11). Nhưng ông Gióp đã luôn vững tin nơi Chúa, không phàn nàn, kêu trách; rồi Chúa đã làm cho sóng gió cuộc đời ông chấm dứt, và ban lại cho ông một cuộc sống tốt đẹp hơn. Trong Bài Đọc II (2Cr 5,14-17), Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: Vì thương yêu chúng ta, “Chúa Giêsu Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, nhưng Ngài đã sống lại!..”, đem lại cho chúng ta một niềm tin vững chắc vào tình thương của Chúa.
Là những tín hữu của Chúa, chúng ta hãy noi gương ông Gióp, luôn biết tin tưởng, phó thác nơi Chúa trong mọi biến cố xảy ra cho chúng ta, gia đình chúng ta, thế giới chúng ta và ngay trong Giáo Hội Chúa nữa; vì Chúa là Thiên Chúa toàn năng, và là Cha yêu thương của chúng ta. Trong Phúc Âm Chúa Giêsu cũng bảo chúng ta hãy luôn tin tưởng nơi sự quan phòng của Chúa là Cha luôn yêu thương chúng ta và lo lắng mọi điều cần thiết cho chúng ta. (Mt 6, 25-34)
Trong thế giới ngày nay, người ta thường thiếu niềm tin nơi Chúa, và vì thế dễ lo lắng, sợ hãi trước những biến cố đau thương xảy ra trong cuộc đời, và trở nên khủng hoảng tinh thần, bất mãn với cuộc đời, tâm trí bị căng thẳng, rồi suy nhược (depressed) và có những trường hợp đưa đến loạn trí, hành động điên rồ gây nên những tội ác khủng khiếp: như tự hủy chính mình, có khi giết hại mạng sống cả gia đình, có khi giết hại những người vô tội, như những cuộc bắn giết tại các trường học, tiệm ăn, sở làm và các trung tâm thương mại v.v...
Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta hãy cầu nguyện cho chúng ta được vững niềm tin phó thác nơi tình thương che chở của Chúa là Cha chúng ta. Xin cho chúng ta biết nhìn lên Thánh Giá Chúa để chấp nhận mọi đau khổ, thử thách xảy ra cho chúng ta, gia đình chúng ta. Chính những đau khổ, thử thách tôi luyện đức tin của chúng ta, làm cho đức tin của chúng ta trở nên vững chắc hơn. Đau khổ và thử thách cũng là những dịp để chúng ta được thông phần với sự đau khổ Chúa đã chịu để cứu chuộc chúng ta (Xin xem 1 Pr 1, 6-9; 2 Cr 4, 17-18; Rm 8,18).
“Anh em hãy phó thác mọi nỗi lo âu cho Chúa; vì Chúa luôn lo lắng cho anh em!” (1Pr 5,7).
“Hãy phó thác đường đời cho Chúa,
Người sẽ lo liệu mọi sự cho chúng ta!”
(TV 37).
“Tôi tin, tôi tin Chúa đã thương tôi, nên Người đã chết, chết vì tôi…
“Tôi tin Chúa vẫn thương tôi, cho dù đời tôi bao phen giông tố…”
(Bản Thánh ca “Tôi Tin” của Thành Tâm)
39. Tái tạo
(Suy niệm của Lm Vũ Đình Tường)
Để tái tạo vật mới từ vật cũ thì vật cũ cần phải tháo gỡ cho việc tái tạo. Hành động tháo gỡ mang í nghĩa chết và í nghĩa sống. Chết hiểu theo nghĩa từ nay hình dạng cũ thuộc về quá khứ, không còn nữa. Thay vào đó là hình dạng mới với đời sống mới. Thí dụ điển hình nhất là sau cơn hoả hoạn, cây cũ cháy rụi, chết đi nhường chỗ cho mầm non phát sinh.
Thiên tai tàn phá và tái tạo. Quan trọng hơn nữa thiên tai hi vọng giúp ta nhận biết thân phận nhỏ bẻ của con người. So với vũ trụ bao la con người nhỏ hơn hạt cát biển và tàn lụi nhanh hơn hạt sương trước ánh dương. Dù nhỏ bé như thế nhưng con người có tham vọng làm chủ tể của vũ trụ có trước con người nhiều tỉ năm. Tìm hiểu để biết hơn về vũ trụ là điều tốt nhưng tìm cách làm chủ, chối bỏ công trình sáng tạo của Thiên Chúa là việc hạt cát đòi làm chủ đại dương, sương sớm đòi làm chủ mặt trời.
Sóng gió trong đời là điều không thể tránh khỏi và khi chúng đến con người thường có hai chọn lựa. Người có đức tin mạnh mẽ thường chạy đến Chúa trong lời kinh. Khi bão tố đến họ bám chặt hơn vào Thiên Chúa, tìm an bình nơi Ngài. Đồng thời họ cũng tìm sự hỗ trợ của đồng loại. Các tông đồ khi gặp sóng gió các ông cũng vừa chèo chống vừa chạy đến cùng Đức Kitô và các ông kinh ngạc chỉ một lời phán bảo sóng gió im lặng nghe lời Ngài. Con người không có khả năng ra lệnh cho thiên tai. Con người chỉ có những nhà chuyên môn trong ngành có khả năng tiên đoán tai ương có thể sẽ xảy đến và chuẩn bị trước mong tránh càng nhiều thảm hại càng tốt. Con người chấp nhận khi các chuyên gia tiên đoán sai về thiên tai sẽ xảy đến nhưng khi Chúa không đáp đúng lởi chúng ta cầu xin chúng ta phàn nàn Chúa không thương con người. Vì sao lại có thái độ đó? Thưa vì chúng ta đặt í ta trên í Chúa.
Người có đức tin mạnh nơi Đức Kitô tin vào phép lạ và qua phép lạ giúp cho đức tin mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên khi không có phép lạ đức tin vẫn không yếu kém vì đức tin đặt nền tảng trên Đức Kitô, không phải dựa vào phép lạ để tin. Để có phép lạ cần có đức tin như thế đức tin phát sinh phép lạ, không phải phép lạ sinh ra đức tin. Trong Kinh Thánh Đức Kitô luôn khẳng định với người Ngài ban ơn: Đức tin con đã cứu con. Như thế Đức tin luôn đi trước, phép lạ theo sau.
Kitô hữu tin chúng ta sống nơi trần thế chỉ trong giai đoạn và khi đi trọn con đường chúng ta trở về với Chúa. Thời gian khi nào trở về không thuộc về khả năng con người nhưng do Chúa định đoạt. Kitô hữu mong sống hạnh phúc và sống lâu dài nơi trần gian nhưng Kitô hữu cũng biết rằng đó là í muốn của ta; ngoài í ta muốn còn có í Chúa mà ta luôn tôn trọngg và xin lắng nghe và chấp nhận như điều chúng ta tuyên xưng khi đọc kinh Lậy Cha.
Đức Kitô đón nhận sóng gió trong đời với môt niềm tin mãnh liệt nơi Chúa Cha và Ngài đã cảm thấy bình an trước sóng gió cuộc đời. Học từ Đức Kitô khi sóng gió đến chúng ta cũng xin ơn biết đặt trọn niềm tin vào Đức Kitô, xin ơn khôn ngoan biết xử thế trước sóng gió và nhận ra ý Chúa mặc khải qua biến cố cuộc đời.
40. Lời kêu xin.
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay cho chúng ta thấy các tông đồ đang ở vào một tình thế tuyệt vọng. Lời van xin của họ dường như bị sóng biển vùi lấp:
- Lạy Thầy, xin cứu chúng con.
Chúa Giêsu rất có thể lên tiếng trách cứ các ông:
- Bộ các con không hiểu rằng bao lâu Thầy còn ở với các con, thì không một tai ương hoạn nạn nào có thể xảy ra.
Thế nhưng lời van xin ấy lại rất bình thường và gần gũi với bản tính của chúng ta. Lời van xin xuất phát từ trái tim của một tạo vật nhỏ bé, như muốn xác quyết rằng: Vấn đề thật vô phương cứu chữa, chỉ mình Chúa mới có thể giúp đỡ.
Thế nhưng ngày hôm nay, liệu chúng ta có còn tìm thấy những lời van xin đầy tin tưởng và hy vọng như thế hay không? Nếu chúng ta hỏi những người lính chiến rằng: Vào những lúc nguy hiểm có bao giờ các bạn đã nghĩ tới Chúa và xin Ngài giúp đỡ hay không. Hầu như tất cả đều trả lời rằng không.
Nếu chúng ta hỏi những người lái xe rằng khi xảy ra tai nạn có bao giờ các bạn nghĩ tới đời sau và xin Chúa phù trợ hay không. Hầu như tất cả đều trả lời rằng không.
Chiếc tàu Dora với một ngàn bảy trăm hành khách, chẳng may gặp nạn và chìm dần xuống biển, người ta đã ghi nhận được một cảnh tượng thật trái ngược trong thời điểm hoảng hốt đó. Các cô thì lo giữ lấy đôi giày của mình. Các bà thì lo giữ lấy những bộ áo của mình. Các ông thì lo giữ lấy ví tiền của mình. Chỉ có một em bé năm tuổi là đã quỳ gối cầu nguyện.
Ngay cả bản thân chúng ta cũng thế. Mỗi khi gặp phải tai ương hoạn nạn, chúng ta vùng vẫy, chúng ta kêu gào, chúng ta làm mọi cách để thoát khỏi tai ương hoạn nạn ấy, nhưng lại không biết mở miệng kêu xin:
- Lạy Chúa, xin Chúa cứu giúp con kẻo con chết mất. Chỉ mình Chúa mới có thể bảo đảm cho con được an toàn.
Chúng ta cũng giống như dân ngoại. Chẳng tìm thấy hướng đi cũng như ánh sáng cho cuộc đời chúng ta. Ngày xưa mỗi khi mất mùa đói kém giặc giã xảy ra, người ta kêu cầu Chúa:
- Lạy Chúa xin giúp đỡ con.
Người ta tổ chức những cuộc rước kiệu, những cuộc hành hương để kêu cầu Chúa. Còn chúng ta ngày hôm nay thì sao?
Ngày hôm nay, người ta có rất nhiều phương tiện, chẳng hạn như thuốc trụ sinh, công ty bảo bảo hiểm, và người ta cảm thấy không còn cần đến sự trợ giúp của Chúa nữa. Và tệ hơn nữa, người ta muốn trục xuất Thiên Chúa ra khỏi những sinh hoạt cá nhân và xã hội. Người ta muốn thay trời vắt đất làm mưa. Người ta sống như không còn sự hiện diện của Ngài nữa.
Từ những điều vừa trình bày chúng ta đi tới kết luận: Bao lâu Chúa Giêsu còn ở trong chúng ta thì không một tai nạn nào có thể xảy ra. Tuy nhiên con người thời nay lại không hiểu là như thế. Do đó, vấn đề cần phải đặt ra cho mỗi người, đó là Chúa Giêsu có thực ở trong thuyền đời chúng ta hay không. Tôi đã phản ứng và hành động như thế nào trong những hoàn cảnh đen tối. Tôi có biết hướng tới Chúa và xin Ngài giúp đỡ hay không? Đó là những câu hỏi mà mỗi người chúng ta phải tự tìm lấy lời giải đáp.
41. Tin cậy Thiên Chúa toàn năng
MINH HỌA LỜI CHÚA
1. Bám sát vào Chúa
Blondin là một tay xiếc nổi danh. Ông đi nhiều lần trên sợi dây căng qua thác Niagara độ cao khoảng 500 thước, tay đẩy chiếc xe cút kít.
Ngày nọ ông mời ai dám ngồi trên xe đó, để ông đẩy qua sợi dây căng. Nhiều người muốn nhưng không ai dám, vì sợ té xuống thác nước là chết. Sau cùng có người chấp nhận. Ông liền cho anh ngồi trên xe và đẩy đi. Trong khi đó nhiều người đánh cá với nhau. Thấy ông ta đi được nửa đường cách dễ dàng, người đánh cá nhiều tiền sợ bị thua nên lén cắt đức một sợi trong số các dây căng. Tức thì dây căng rung chuyển dữ dội. Ông Blondin biết nguy hiểm sắp đến, nên bảo người trong xe:
- Hãy đứng dậy và bám sát vào tôi.
Nhưng người đó quá sợ hãi, không dám làm theo lời ông. Ông liền ra lệnh:
- Hãy đưa hai tay ôm cổ tôi, hai chân kẹp vào hông tôi, bằng không, chúng ta sẽ ngã xuống thác nước mà chết.
Người đó liền bám chặt vào ông. Và ông đã đưa anh ta qua bờ bên kia an toàn…
***
Câu chuyện trên minh họa Lời Chúa trong Tin mừng hôm nay tuyệt vời. Lúc các tông đồ trên thuyền sang biển hồ, thấy sóng to gió lớn thì sợ chết, kêu cầu Chúa, Chúa phán một lời biển yên gió lặng.
Tin cậy vào quyền năng Chúa là bám sát vào Chúa mỗi khi gặp gian nan thử thách. Tin cậy vào quyền năng Chúa là biết kêu cầu Chúa cứu giúp mỗi lần gặp sóng to gió lớn, để Người dẫn dắt chúng ta qua bờ bên kia.
Nói “tin cậy vào quyền năng Chúa” rất dễ, ai nói cũng được. Nhưng có mấy ai không nhát đảm sợ sệt khi để cho Người đưa qua biển cả sóng to gió lớn của cuộc sống như người để cho ông Blondin dẫn đi trên sợi dây căng qua thác Niagara. Chúa Giêsu đã trách các môn đệ: “Sao nhát thế? Làm sao mà anh em chưa có lòng tin?” Các môn đệ hoảng sợ vì “chưa có lòng tin”, còn chúng ta thì sao?... (Theo “Chuyện hay ý đẹp”).
2. Cha tôi là người cầm lái
Người ta tổ chức cuộc du lịch xuyên qua Đại tây Dương.
Trong lúc tàu chạy yên hàn, mọi người ra bong tàu khoan khoái nhìn ngắm cảnh hoàng hôn tươi thắm. Bỗng sóng to gió lớn nổi lên làm cho chiếc tàu nghiêng ngửa dữ dội. Mọi người hoảng sợ chạy vào phòng, duy chỉ còn một cậu trai vẫn tiếp tục ở lại xem cảnh. Thấy vậy, nhiều người lo sợ nguy hiểm cho em, nên gọi em vào phòng trú ẩn, nhưng em không vào. Được hỏi tại sao em không sợ hãi trước cơn giông tố hãi hùng như thế. Em thản nhiên trả lời:
- Vì cha tôi là người cầm lái con tàu.
***
Như khách du lịch sợ hãi trên tàu khi phong ba bão táp, trong Tin mừng hôm nay chúng ta cũng thấy các tông đồ khiếp đảm sợ chết trong trận cuồng phong khi vượt biển hồ. Cùng ở trong thảm cảnh đó, cậu trai thản nhiên không sợ, vì “cha em là người cầm lái con tàu, còn các Tông đồ khiếp vía, đang khi có Chúa Giêsu ở bên các ông. Thế nên Chúa quở các ông: “Chưa có lòng tin” là đáng.
“Ai cũng thích sóng biển yên lặng, xuôi chèo mát mái. Nhưng cuộc đời nào mà chẳng có những cơn giông tố? Đại dương nào mà chẳng có những cơn sóng to? Chính giông tố mới giúp chúng ta nhận biết bất lực yếu đuối, nhát đảm kém tin của chúng ta. Chính bão tố mới đưa chúng ta đến với Chúa, tin tưởng phó thác vào quyền năng cao cả của Người. Và chính nhờ bão tố của cuộc đời, mà lòng tin cậy của chúng ta sẽ lớn lên, sẽ vững vàng, sẽ kiên cố…” (Theo “Như Thầy đã yêu”).
3. Tin nhưng không dám theo
Nhà làm xiếc thời danh Blondin đã băng qua thác nước Niagara trên dây căng nhiều lần mà không cần dùng lưới an toàn.
Ngày nọ, đông đảo dân chúng đến xem cuộc thử nghiệm nguy hiểm nhất của ông. Ông tuyên bố vừa đi trên dây căng vừa đẩy chiếc xe cút kít chở một bao xi măng nặng trên sợi dây căng đó, để đi từ bờ vực này sang bờ vực bên kia thác nước.
Lúc ông bắt đầu đi như thế, mọi người nín thở theo dõi nhưng ông cứ bình tĩnh đẩy xe đi, bất chấp tiếng gầm thét của thác nước dưới chân ông. Khi ông sang đến bờ bên kia, mọi người đều thở phào và reo vang:
-Thật là một kỳ công!...
Ông Blondin mới hỏi một phóng viên gần đó:
-Anh có tin rằng: thay vì chở một bao xi măng, tôi có thể chở một người trên xe cút kít này, đi sang bờ bên kia thác nước mà không cần giăng lưới an toàn không?
-Tôi tin! Tôi tin chớ.
Ông Blondin liền nói:
-Vậy tôi xin mời anh ngồi vào.
Anh phóng viên xanh mặt, vội vàng biến mất trong đám đông.
***
Tin Thiên Chúa quyền năng là một việc, nhưng sống đức tin ấy lại là việc khác. Có người nói tin Thiên Chúa toàn năng nhưng không đi theo Chúa, mà theo ma quỷ xác thịt thế gian, theo của cải danh vọng, lạc thú ở đời.
Thánh Phaolô khuyên bảo chúng ta: Anh em hãy mặc lấy tâm tình của Đức Kitô, hết lòng tin kính Thiên Chúa là Đấng toàn năng, để anh em đứng vững trong mọi nghịch cảnh và thử thách, để Người cứu giúp anh em mỗi khi gian nan khốn khó, để Người đưa tay hùng mạnh của Người nắm lấy anh em, khi anh em gặp sóng to gió lớn trong cuộc đời.
Phải chăng thánh Phaolô mời gọi chúng ta noi gương các tông đồ trong Tin mừng hôm nay? Các ông thấy “trận cuồng phong nổi lên sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước gần chìm”. Các ông kêu lên Chúa Giêsu: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi” Người ngâm đe gió và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi!”. Gió liền tắt và biển lặng như tờ” (Mc.4,38-39) (Theo “Chuyện hay ý đẹp”).
4. Người này là ai?
John Newton là thuyền trưởng chiếc tàu buôn nô lệ từ Phi châu đến Mỹ châu. Cậu không bao giờ nghĩ đến việc buôn bán nô lệ là đúng hay sai, là tốt hay xấu; cậu chỉ làm việc để kiếm tiền, để xài phí cho thỏa thích thôi.
Một đêm nọ, cơn bão dữ dội xuất hiện trên mặt biển. Sóng dâng cao như thác núi xô đẩy và quay vòng chiếc tàu của cậu. Cậu và mọi người trong tàu đều kinh khiếp! Lúc đó cậu lại buột miệng cầu xin. Điều mà cậu chưa bao giờ làm. Cậu kêu to: “Lạy Chúa, xin thương cứu vớt chúng con. Con nguyện sẽ mãi làm nô lệ cho Ngài”.
Chúa đã nhận lời cậu cầu xin. Khi được vào bờ, cậu đã giữ lời hứa: bỏ nghề buôn bán nô lệ, và sau đó cậu đi tu, trở thành nhà truyền giáo và soạn thánh ca trứ danh.
***
Câu chuyện trên đây có nhiều điểm tương tự với diễn biến bài Tin mừng hôm nay.
Như Newton, các tông đồ cũng gặp bão tố dữ dội. Các ngài đã kêu cầu Chúa và Chúa cũng đã cứu giúp; và như Newton, các ngài cũng biến đổi: từ những kẻ “chưa có lòng tin” trở thành những người hoàn toàn tin tưởng phó thác vào quyền năng vô cùng của Chúa; “Các ông hoảng sợ và nói với nhau: Vậy người này là ai? Mà cả đến gió và biển cũng phải tuân lệnh?” (Mc.4,41).
“Người này là ai?” Đây là câu hỏi quan trong. Và câu trả lời nằm ngay trong bài đọc thứ nhất, khi ông Gióp đau khổ kêu xin Chúa cứu giúp. Đặc biệt câu trả lời ở trong bài Tin mừng hôm nay, khi Chúa Giêsu thực thi quyền năng của Người trên sóng gió: “Im đi! Câm đi! Gió liền tắt, và biển lặng như tờ”.
Như thế, câu chuyện bão biển trong Tin mừng đã trả lời cho chúng ta câu hỏi: “Ông này là ai?” “Là Con Thiên Chúa toàn năng. Tin cậy phó thác vào Người sẽ được Người giải thoát khỏi mọi sự dữ phần hồn phần xác”. (Theo “Sunday Homilies”).
42. Muốn có đức tin mạnh - Cần phải thử thách
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Tin Mừng Lc 1: 57-66.80: Người tài là người được lớn lên trong thử thách. Người có đức là người biết vượt qua thử thách, trung thành và can đảm trong lòng mến.
Có một câu chuyện kể rằng: đêm nọ, có một người thấy giấc mơ lạ. Anh ta thấy mình đang đi trên bãi biển với Chúa. Những lúc vui, thành công, anh thấy có hai đôi chân in trên cát, một của Chúa và một của anh. Nhưng lúc anh gặp khó khăn, đau buồn thì khi nhìn lại, anh chỉ còn thấy một đôi chân!
Anh trách Chúa rằng: “Tại sao những lúc khó khăn, thất bại, Chúa lại bỏ con?” Chúa trả lời: “Ta không bỏ con đâu, vì những lúc đó, Ta đã cõng con trên vai, vì thế, con chỉ còn thấy có một đôi chân của Ta nữa mà thôi”.
Hôm nay, thánh sử Máccô thuật lại câu chuyện Đức Giêsu và các môn đệ gặp phải sóng gió trên biển hồ. Ngay trong lúc gặp sóng gió, Đức Giêsu vẫn ngủ yên, còn các môn đệ thì vất vả vì chèo trống. Sứ điệp Tin Mừng chỉ bắt đầu có ý nghĩa lớn khi các ông trách Thầy của mình vô cảm trước sự vất vả của các ông, và, ngược lại, Đức Giêsu quở trách các ông kém lòng tin và ra lệnh dẹp yên bão tố, ban lại sự bình an cho mọi người trên thuyền.
1. Địa lý của Biển Hồ Galilê và nỗi hoang mang sợ hãi của các môn đệ
Để thấy được nỗi sợ hãi của các môn đệ và quyền năng của Đức Giêsu, chúng ta cùng nhau tìm hiểu đôi nét về Biển Hồ này để thấy được đâu là nguyên nhân dẫn đến trận cuồng phong dữ dội như vậy.
Khi nói đến biển hồ, chắc có lẽ nhiều người trong chúng ta nghĩ ngay đến độ rộng lớn, mênh mông, nhìn không thấy bờ…. Tuy nhiên, với Biển Hồ Galilê lại hoàn toàn khác! Khác ở chỗ Biển Hồ này chỉ vỏn vẹn 21km chiều dài và 13km chiều rộng. Địa thế nằm ở thung lũng vùng Giodan do một vết nứt sâu trên mặt đất, có thể do núi lửa tạo nên! Biển Hồ Galilê là một phần của vết nứt đó.
Nó thấp hơn mặt biển 210 mét, vì thế, khí hậu rất ấm áp và dễ chịu, nhưng cũng tạo nên tiền đề cho những nguy hiểm bất ngờ ập đến. Lý do: bên phía tây có núi non cao hiểm trở kết hợp với thung lũng và nhiều khe suối. Vì thế, khi có gió nổi lên, thì khu vực trũng của Biển Hồ này giống như cái phễu lớn thu hút những làn gió từ trên cao và nơi các khe suối thổi về. Gió bị dồn nén trong đó và thổi mạnh xuống hồ cách bất thình lình như vũ bão, khiến mặt hồ đang phẳng lặng, bỗng chốc trở nên hung thần, dữ tợn và có thể vùi lấp mọi thứ trên mặt hồ.
Khi các môn đệ và Đức Giêsu có một chuyến vận hành trên Biển Hồ Galilê sau một ngày làm việc mệt nhọc để sang bờ bên kia thì cũng là lúc trận cuồng phong ập tới. Các môn đệ của Đức Giêsu là những nhà ngư phủ chuyên nghiệp và hẳn các ông có rất nhiều kinh nghiệm trong việc chống chọi với những bất trắc xảy ra trên biển, thế nhưng, trận cuồng phong hôm nay vừa bất thình lình vừa vượt quá khả năng của các ông, nên họ rất hốt hoảng, lo sợ và kêu la ầm ĩ: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?” (Mc 4, 38). Câu nói này chứng tỏ cho thấy sự nguy hiểm đã lên tới tột độ và vượt sức cũng như kinh nghiệm của các ông. Ngay sau đó, sự nguy hiểm của Biển Hồ và nỗi lo sợ của các ông đã động đến lòng trắc ẩn của Đức Giêsu, vì thế, Ngài đã truyền lệnh dẹp yên bão tố qua lời nói: “Im đi! Câm đi! " ‘Gió liền tắt, và biển lặng như tờ’” (Mc 4, 39), khiến các ông không khỏi ngỡ ngàng là bảo nhau: “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?" (Mc 4, 41).
2. Có Chúa, chúng ta sẽ sang “bờ bên kia” cách an toàn
Từ câu chuyện Tin Mừng trên, liên tưởng đến đời sống đức tin của chúng ta:
Trong cuộc sống đời thường, người ta thường nói: tư cách thật của một con người chỉđược bộc lộ thật khi gặp gian nan. Lúc bình thường thì ai cũng như ai, khó thấy được tư cách ấy.
Đức tin của mỗi người cũng thế. Muốn biết ai vững vàng trong đức tin phải đợi tới lúc đức tin đó chịu thử thách. Điều này cho thấy, “lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Chỉ khi gặp khó khăn, bất trắc, lúc ấy mới có thể lượng định được phẩm chất của đức tin.
Khó khăn, trở ngại là một thứ “kiểm tra chất lượng”. Có kiểm tra thì mới thấy cái gì tốt, cái gì xấu, cái gì thật, cái gì giả.
Một mẫu số chung cho nhiều người, đó là: đức tin phải được rèn luyện, gọt giũa để đứng vững trước mọi thử thách, giông tố của cuộc đời. Khi có được nền tảng này, lúc gặp thử thách, chúng ta sẽ can đảm, trung thành, vững vàng hơn. Sẵn sàng đối phó với chúng và cậy trông vào Chúa Quan Phòng. Lúc đó, chúng ta sẽ coi những thử thách ập đến là điều kiện cần thiết để thanh lọc những thứ không phù hợp với giá trị Tin Mừng, nó giống như: “Bão tố quật ngã cây cối, bẻ gẫy cành khô, cành sâu. Nhưng không thể nhổ được cây thánh giá đã cắm vào lòng đất. Đừng tiếc những cành kia, dù không gió cũng gẫy, không gẫy cũng phải chặt vì nó làm hại” (ĐHV. số 691), có thế, mới có những cành cây khác trưởng thành hơn khi chúng đủ sức mạnh đâm trồi nảy lộc.
Từ những nguyên lý trên, chúng ta liên tưởng đến đời sống hôn nhân của người Công Giáo. Lúc mới cưới, ai dám nói là mình không chung thủy! Lúc du ngoạn tuần trăng mật, ai dám bảo mình không vui và hạnh phúc! Chỉ khi nào ốm đau, bệnh tật, thất bại trong công việc, thiếu sự chung thủy, lúc đó mới thực sự có vấn đề! Hay trong đời sống đạo đức cũng thế: lúc xin gì được đấy, hay xin một được mười, đâu cần ai phải nhắc đi lễ, đọc kinh hay chia sẻ bác ái! Chỉ khi xin hoài không được, làm ăn thất bát, lúc đó có đẩy cũng không đi. Hoặc trong đời tu cũng thế: mới khấn, mới chịu chức, sức khỏe dồi dào, chúng ta giống như những vị thánh. Tuy nhiên, lâu ngày, giá trị và ý nghĩa đời dâng hiến bị nhạt phai, sự hiểu lầm, cô đơn, đau bệnh, việc phụng vụ nhàm chán, lúc ấy mới thực sự thấy con người thật của chúng ta. Những trạng thái này, một lần nữa sách Đường Hy Vọng có viết: “Đường con đi, có hoa thơm, cảnh đẹp, có chông gai, có hùm beo, có bạn hiền, có trộm cướp, lúc mưa sa, lúc nắng cháy, chuyện không thể tránh được. Con cứ đi, miễn lòng con đầy Chúa, đi như Phanxicô, như Cyrillô, Athanasiô... đừng mất thì giờ đứng lại, đừng sợ tiếng chửi, đừng ăn mày tiếng khen” (ĐHV. số 693).
Nếu không bền chí cũng như đức tin mạnh thì không phải là người tài đức song toàn. Người tài là người được lớn lên trong thử thách. Người có đức là người biết vượt qua thử thách, trung thành và can đảm trong lòng mến.
Giuđa và Gioan chỉ khác nhau ở lòng mến mà thôi. Trong tâm hồn chúng ta cũng vẫn còn đó hai hình ảnh và hai lối sống lẫn lộn: Gioan và Giuđa. Bao lâu chúng ta còn yêu mến, sẵn sàng hy sinh, kiên trung, bền chí, và hy vọng, ấy là dấu chỉ ta theo Gioan để đi trọn con đường tình yêu dưới chân thập giá. Còn giờ phút nào chúng ta nhát đảm, sợ sệt, ham tiền, ham danh, ấy là lúc chúng ta đã chọn Giuđa làm quan thầy và thắp hương tôn thờ vị "quan thầy phản bội".
Cần xác tín rằng: Chúa vẫn còn đó. Ngài không bỏ chúng ta. Ngài sẽ lên tiếng, can thiệp, làm sóng gió im lặng, trả lại cho chúng ta niềm hy vọng, qua đó, ta và Ngài, cả hai cùng “sang bờ bên kia” được trọn vẹn trong bình an.
Lạy Chúa Giêsu, con thuyền của cuộc đời chúng con luôn gặp phải những sóng to vũ bão của tội lỗi, hưởng thụ, trụy lạc và những chân lý nửa vời, khiến đôi khi cuộc đời chúng con bị nước ập đầy thuyền làm cho đức tin bị lung lay và tưởng mình đơn côi giữa dòng đời. Xin Chúa ban cho chúng con đức tin mạnh mẽ và xác tín chắc chắn rằng: Chúa luôn còn đó trên con thuyền cuộc đời của mỗi người, để chúng con vững tin bám chặt lấy Chúa. Amen.
43. Chất vấn
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Hai từ “chất vấn” xem ra ít gây thiện cảm hơn là các từ “hỏi” hay là “đặt vấn đề”. Dù là đặt vấn đề hay đặt câu hỏi hay chất vấn thì mục đích nhắm đều là để được sáng tỏ một vấn đề nào đó mà người chất vấn chưa nắm rõ hay chưa đồng thuận. Dĩ nhiên ở các xã hội độc tài, chuyên chế thì ít có ai dám to gan chất vấn người cầm quyền, vì sợ mang vạ vào thân. Lại có những thể chế muốn chứng tỏ rằng có sự dân chủ nên “cho phép” người ta chất vấn nhưng thực chất vẫn không muốn người bị trị có quyền chất vấn.
Nhân dịp mẹ Hội Thánh dọn cho đoàn tín hữu bài đọc thứ nhất và bài Tin Mừng trong Chúa Nhật XII TN B, xin đặt câu hỏi làchúng ta có được phép chất vấn Thiên Chúa không? Một trận cuồng phong trên biển cả xem ra là chuyện thường tình của giới tự nhiên. Thế nhưng, khi gió lớn, sóng to ập vào thuyền của tôi, thì đó không còn là chuyện bình thường. Những tai ương, hoạn nạn, dịch bệnh do thiên tai hay do nhân họa vẫn mãi là những sự dữ đối với những người trực tiếp hay gián tiếp gánh chịu. Chúng ta có quyền hỏi Thiên Chúa không hay chúng ta có nên đặt vấn đề không, nhất là những vấn đề liên quan đến sự dữ?
Trước vấn nạn sự dữ thì dường như không chỉ khó hiểu mà còn khó chấp nhận. Người làm sự lành mà phải gánh sự dữ thì vẫn có đó trước mắt chúng ta, không riêng gì mình ông Gióp thuở nào. Về vấn đề này, sách Gióp và Cựu ước nói chung, thường có câu trả lời rằng như chiếc bình sànhkhông thể và không có quyền chất vấn người thợ gốm, thì con người trong kiếp thụ tạo hữu hạn không có quyền chất vấn Thiên Chúa, Đấng dựng nên vũ trụ vạn vật, dựng nên con người từ hư vô. Ông Gióp cuối cùng đã biết phận để rồi “lấy tay che miệng” (x.G 40,4) và “xin rút lại những gì đã nói” (x.G 42,6).
Tân ước lại cho chúng ta một cái nhìn có vẻ như ngược lại nhưng thực ra là bổ túc, là hoàn thiện cái nhìn của Cựu ước. Đến thế gian, Chúa Kitô không ngại ngần trước các vấn nạn người ta đặt ra. Người còn gợi ý để cho các môn đệ chất vấn bằng việc đặt câu hỏi trước. “Người ta bảo Con Người là ai?... Còn các con, các con bảo thầy là ai? (Mt 16,13). Cáctông đồ, các môn đệ đã không ngại ngần “chất vấn” Thầy chí Thánh. “Thầy ơi, chúng ta chết mất, Thầy chẳng lo gì sao?” (Mc 4, 38). Chúa ơi, Chúa ở đâu khi con đang trong cảnh khốn cùng? Con biết Chúa không vui thích gì khi con người phải khổ, phải chết, thế mà sao cái khổ, cái chết vẫn mãi đe dọa chúng con? Saocon làm người trong cái hình hài này, ở một thời đại, một hoàn cảnh không chút gì thuận lợi? Tại sao những người độc tài, độc quyền, độc ác cứ mãi nhởn nhơ trong nhung lụa? Nhiều câu hỏi tại sao thỉnh thoảng lại đến mà như không có lời giải đáp, đúng hơn là khó làm thỏa lòng thỏa trí chúng ta.
Điểm tới của những lời chất vấn là lòng tin. “Anh em vẫn chưa có lòng tin sao?” Dù như khiển trách, nhưng Chúa Giêsu đãbiết các môn đệ vốn có lòng tin vào Người nhưng lòng tin ấy đang còn non yếu. Không tin vào Thầy thì cớ sao các ngài lại đánh thức Thầy dậy để xin cứu giúp. Đức tin không phải là một thực tại đã hoàn thành mà là một quá trình dấn thân. Niềm tin của Kitô hữu là tiến trình bước theo Đức Kitô. Tiến trình ấy không luôn trơn tru, thẳng tắp, kiểu thuận buồm xuôi gió. Có khi chững lại vì gặp vật cản, có khi chệch hướng, thậm chí có lúc bị giật lùi. Những câu hỏi, những lời chất vấn xuất hiện là một trong những động lực hay là cách thế để ta vượt qua vật cản, chỉnh hướng và tiến lên. Như thế, các câu hỏi hay những lời chất vấn trở thành một phương thế củng cố niềm tin, thanh luyện đức tin.
Ðức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI thời làm HồngY đã từng khẳng định: “Chúng ta đã học biết, đã sống, và đáng khác chúng ta đã thấy đức tin được xây dựng hết sức hoàn hảo và được hệ thống hoá quá đáng, tới độ người ta không còn dễ dàng đến được với đức tin nữa. Vậy tôi nghĩ rằng chúngta cần một thứ cách mạng đức tin, theo một nghĩa phức hợp. Trước hết chúng tacần đến một cuộc cách mạng này để có được lòng can đảm nói ngược lại với những xác tín tổng quát” (Muối cho đời – trang 42). Khi trên ngai giáo hoàng, mở đầu cho tập sách “Đức Giêsu thành Nagiarét”, ngài cũng thẳng thắn và sẵn sàng đón nhậnnhững ý kiến “chống lại” những “tìm hiểu” của ngài về “diện mạo của Chúa”(x. Phần I - trang 31).
Chúa Kitô không ngần ngại trước những lời chất vấn của người Do Thái và các câu hỏi của các môn đệ, vì nhờ chúng mà căn tính và sứ mạng của Người ngày càng được tỏ bày, và qua đó đức tin của nhiềungười được hình thành và vững mạnh. Quả thật, chẳng có ai dám to gan cho rằng mình đã nắm trọn chân lý hay đã vững vàng trong đức tin. Thế mà đã có lúc chúng lại ngại ngần và có khi lại sợ người đồng đạo, sợ người “ngoại đạo” chất vấn niềm tin của chúng ta. Cần thú nhận rằng chính chúng ta cũng rất ngại ngùng chất vấn niềm tin của mình, đúng hơn là đặt vấn đề về một vài nội hàm của đức tin vì sợ rằng sẽ có nguy cơ lạc đạo hay bị gán ghép là rối đạo. Trong tình bạn thì các câu hỏi hay những lời chất vấn là chuyện thường tình như lẽ đương nhiên. Chúng chỉ là bất thường trong mối quan hệ chủ tớ. Chúa Kitô đã khẳng định Người không muốn chúng ta làm người tôi tớ mà là bạn hữu (x. Ga 15,15).
Chúa Kitô mãi là dấu hỏi cho con người đến tận cùng lịch sử. Hiện nay, chúng ta chỉ thấy lờ mờ như trong gương, sau này chúng ta sẽ thấy Người như chính Người là. Ngưòi thế nào, chúng ta sẽ thấy như vậy (x.1Cor 13,12). Chính vì thế, vị trí, vai trò của những câu hỏi luôn còn đó. Và một trong những vai trò chính yếu của chúng là dẫn chúng ta đến với niềm tin. Mỗi khi chúng ta không còn biết đặt vấn đề thì rất có thể là chúng ta đang ở trong tình trạng “cuồng tín” hay là vô tín. Khi chúng ta ngần ngại tha nhân đặt vấn đề hay chúng ta thấy khó chịu khi tha nhân, khi người dưới quyền chất vấn chúng ta thì có lẽ chính chúng ta đang có vấn đề. Một trong những vấn đề thật khó chối cãi, đó là chúng ta chưa thực sự tin vào sự ngay chính của bản thân hay của công việc mình đang thực hiện. Và một điều khá chắc chắn nữa, đó là người ta cũng chưa tin vào chúng ta. Mong sao những lời sau đây của ngài Hồng Y J.Ratzinger mà nay là Đức Bênêđictô XVI có điều kiện thành hiện thực: “Chúng ta phải có can đảm đứng lên chống lại cái được coi như chuẩn mực cho conngười vào cuối thế kỷ XX này, và tái khám phá đức tin nguyên tuyền” (Muối cho đời – trang 43).
44. Ai có thể trở nên một người như thế?
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tng’ – Charles E. Miller)
Chiếc tàu Titanic được chào hàng như một chiếc tàu không bao giờ chìm. Và sau đó là đụng một tảng băng ngay trong cuộc hành trình đầu tiên của nó, chiếc Titanic đã chìm xuống đáy của Đại Tây Dương với hầu hết những người đi trên con thuyền đó trong vài phút. Đại dương quyền năng hơn bất cứ một con tàu nào, đã nuốt trọn con tàu Titanic giống như nó đã nuốt một hộp cá mòi vậy.
Đó là một mầu nhiệm sâu xa về biển cả, và đó không có gì là ngạc nhiên về quyền năng của nước được xem là một thuộc tính của thần linh. Trong sách Gióp chính Thiên Chúa đã làm chứng về quyền năng thần linh của Ngài, bằng việc biểu dương quyền năng của Ngài là chủ tể của nước sâu. Những tông đồ là những người đánh cá, hơn ai hết họ không cần ai nói cho họ biết về việc phải sợ hãi cái vẻ bề ngoài đáng sợ của biển Galilê. Thình lình, tai họa có thể xảy ra một cách bất thường. Biển thì ở 685 bộ bên dưới mực nước biển và bao quanh bởi những ngọn núi. Với một làn không khí lạnh thổi xuống từ những ngọn núi hầu như nhanh chóng biến đổi làn nước đại dương thành những con sóng nguy hiểm cao đến bảy hoặc tám bộ.
Thật chính xác những gì đã xảy ra vào buổi chiều hôm đó, khi Chúa Giêsu vào thuyền của các môn đệ ở trên biển Galilê. Đó giống như một ngày của sáng tạo, những yếu tố tự nhiên đang chờ đợi khoảnh khắc khi mà Chúa là chủ tể của chúng xác quyết quyền năng và tỏ hiện sự thần linh của Ngài. Sau khi Chúa Giêsu làm cho biển bình yên bởi những lời của Ngài, các tông đồ đã kinh ngạc hỏi nhau rằng: “Người này là ai mà làm cho gió biển phải vâng lời?”
Gió và biển đã biết Chúa Giêsu là ai và cả chúng ta cũng như thế. Chúng ta có thể trả lời cho câu hỏi của các tông đồ. Nếu chúng ta không có đức tin, chúng ta xem Người một cách giới hạn bởi xét đoán của con người nhưng bởi đức tin mà chúng ta nhận biết rằng Chúa Giêsu là Chúa, là Đấng Cứu Độ. Vì Chúa là Đấng cứu độ của chúng ta, Ngài ước ao giải thoát chúng ta khỏi những tai họa của đời sống trên biển. Sự sợ hãi những căn bệnh như ung thư hoặc Siđa, lo lắng về tận cùng của tương lai một cách bất an, những lo lắng về con cái trong một xã hội say sưa và hỗn tạp, sự không vững chắc hay gãy đổ của đời sống hôn nhân, sự khủng hoảng hay sự cô độc, bị bỏ rơi, sự khủng khiếp mà viễn cảnh của sự chết có thể phát sinh.
Trong lời tuyên xưng Thánh Thể chúng ta đã kêu lên: “Bởi thánh giá và sự Phục Sinh của Ngài, Ngài đã giải thoát chúng ta”. Sau kinh Lạy Cha chúng ta cầu nguyện: “Lạy Chúa xin giải thoát chúng con khỏi mọi sự dữ và ban cho chúng con bình an trong ngày hôm nay, bởi lòng thương xót Chúa sẽ giữ gìn chúng con khỏi tội lỗi và bảo vệ chúng con khỏi mọi lo âu”. Lời nguyện này muốn nói lên lời diễn tả đức tin của chúng ta nhưng cấp độ bình an và quang đãng của chúng ta không tùy thuộc và sự diễn tả đức tin của chúng ta nhưng ở chiều sâu của nó. Đức tin của chúng ta phải sâu như biển cả vậy.
Khi chiếc Titanic chìm xuống, số người bị lâm nạn đã tăng lên gấp bội bởi vì thuyền đã không trang bị đủ những thuyền cứu sinh. Chúng ta còn được hơn thuyền cứu sinh cứu nữa. Chính Chúa Giêsu đã cứu chúng ta khi chúng ta bị chìm trong biển cám dỗ sâu nhất của cuộc đời. Chúng ta có con người của Chúa Giêsu Kitô, luôn luôn hiện diện với chúng ta trong Giáo Hội và hướng về Người, chúng ta có thể cầu nguyện một cách tin tưởng. Trong cơn bão trên biển hồ, các tông đồ đã phàn nàn: “Lạy Thầy chúng con sắp chết mà Thầy không quan tâm đến sao?” Với đức tin chúng ta biết rằng, không có vấn đề gì với Chúa Giêsu. Vấn đề là sự cứu độ của chúng ta không đến từ những lời nói, tuy nhiên ở nơi. Lời quyền năng của Ngài: “Hãy yên lặng, hãy im đi”. Sự cứu độ của chúng ta đến từ hy tế nơi thánh giá. Đức tin của chúng ta là: “Lạy Chúa bởi thánh giá của Người, và sự Phục Sinh của Người xin giải thoát chúng con, Người là Đấng cứu độ chúng con”.
45. Suy niệm của Achille Degeest.
NỖI KINH HOÀNG CỦA CON NGƯỜI
VÀ SỰ YÊN TĨNH CỦA THIÊN CHÚA
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Giai thoại bão táp yên lặng là một cơ hội tốt cho những ai ngã theo khuynh hướng “giải huyền thoại” trong phúc âm (khuynh hướng này ngày nay đã giảm). Để giản lược biến cố vào một sự kiện tự nhiên, họ chỉ cần tưởng tượng và rồi sau khi đã chiều theo sức ép của trí tưởng tượng, quả quyết rằng bão táp tự nó ngưng lại, vừa lúc Đức Giêsu ra lệnh cho biển; và như thế là do tình cờ. Có một loại não trạng tự gọi là khoa học, chủ trương ngay từ đầu chối bỏ mọi can thiệp của Thiên Chúa trong vũ trụ và giải thích một số sự kiện bằng một định kiến như thế thật dễ dàng. Trong trường hợp này chúng ta có thể bám vào lời này: Ở khởi điểm của truyền thống Phúc Âm, có thật là biến cố, nhưng liền được giải thích trong môi trường của Giáo Hội sơ khai, dựa trên một não trạng Kinh Thánh và một niềm tin vào sự Sống Lại” (X.L. Dufour, Etudes d’Evangile, Paris, 1965).
Ưu tư của Giáo Hội sơ khai là minh chứng: Đức Giêsu có cùng một quyền năng trên tạo vật như Thiên Chúa (não trạng Kinh Thánh) và dẫn đưa người tín hữu đến một niềm tin nơi Đức Giêsu Phục Sinh, một niềm tin trọn vẹn, truyền giáo (Hãy sang bên kia bờ) và có khả năng đương đầu với mọi nghịch cảnh.
Giải quyết xong điều trên, câu chuyện bão táp yên lặng gợi cho chúng ta một vài suy nghĩ rất đơn sơ:
1) ‘Thưa Thày, chúng con chết mất mà Thày không quan tâm đến sao?’
Lời trách móc này cho thấy rõ sự mâu thuẫn giữa nỗi kinh hoàng của các môn đệ và sự yên tĩnh của vị Thày. Một bên sóng gió nguy hiểm, một bên Đức Giêsu vẫn ngủ. Biển hồ Giê-nê-sa-rét, như các biển hồ được núi đồi bao phủ khác, thường có những cơn bão táp đột ngột và dễ sợ. Con thuyền bị sa vào một trong các cơn bão táp như thế. Chúng ta hiểu Đức Giêsu sau một ngày trọn rao giảng mệt nhọc, đã ngủ thiếp đi. Các môn đệ không hiểu được sóng gió mạnh mẽ như thế, lại tràn ngập vào thuyền mà không làm cho Ngài tỉnh dậy. Họ không mường tượng được rằng: chỉ duy có sự hiện diện của Đức Giêsu với họ, đã là một sự bảo đảm an toàn vững chắc.
Họ có lỗi vì đánh thức thày dậy không? Chắc là không. Đó chỉ là phản ứng bình thường của con người hoảng hốt, sự yếu hèn của họ (nhưng họ chưa có niềm tin sau Phục Sinh) ở chỗ họ không đặt sự an toàn của mình nơi con người Đức Giêsu. Chúng ta cũng gặp phải những giây phút thử thách nghiêm trọng. Chúng ta không có lỗi khi kêu đến Thiên Chúa, khi đánh thức Người dậy. Chúng ta không thể chế ngự một số âu lo tự nhiên. Ít là chúng ta nên nhớ Đức Giêsu đang ở với chúng ta để giữ vững niềm tin của chúng ta.
2) Hình ảnh con thuyền gợi lên con thuyền Giáo Hội, theo như ngôn từ của các thánh phụ.
Trong thời đại của chúng ta, cũng như trong mọi thời đại, Giáo Hội tựa con thuyền bị lay động và cản trở mạnh mẽ do các lầm lạc, bách hại, thao túng của thế gian. Một vài lầm lỗi hình như xâm chiếm cả Giáo Hội. Những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi thuyền đầy nước. Điều này có lẽ tạo nên nỗi lo âu lớn nhất cho nhiều người ưu tú trong nhóm môn đệ Đức Kitô. Hãy nhớ rằng chỉ một lời của Chúa vào lúc ngài muốn, có khả năng cứu thoát tất cả. Ngài nói: “Im đi….”, tức thì gió ngừng biển lặng như tờ. Điều quan trọng là hãy giữ niềm tin cho sống động và mạnh mẽ. ‘Các con không có đức tin ư?’.
46. Đức tin trưởng thành.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
John Newton là con trai một đại uý hải quân người Anh. Khi John lên 10 tuổi, mẹ cậu qua đời. Từ đó cậu bé thường theo bố đi biển. Nhờ vậy mà cậu rành rẽ đường lối ngoài biển khơi. Tuy nhiên vào năm cậu 17 tuổi, cậu bé bất mãn với bố. Cậu bỏ thuyền ra đi lao vào cuộc đời gió bụi. Cuối cùng cậu nhận được việc làm trên chiếc tàu hàng buôn nô lệ từ Phi Châu đến Mỹ Châu. Cậu thăng quan tiến chức rất lẹ và chẳng bao lâu đã trở nên thuyền trưởng. Chẳng bao giờ Newton bận tâm suy nghĩ đến việc buôn nô lệ là đúng hay sai. Cậu chỉ làm công việc của mình nhằm mục đích kiếm tiền mà thôi. Thế nhưng một biến cố quan trọng đã xẩy đến thay đổi tất cả cuộc đời cậu.
Một đêm nọ một cơn bão dữ dội xuất hiện trên mặt biển. Sóng dâng cao như thác núi xô đẩy và quay vòng chiếc thuyền của Newton như món đồ chơi trẻ con. Mọi người trên thuyền vô cùng kinh khiếp. Lúc bấy giờ bỗng dưng Newton buột lời cầu nguyện. Đây là điều cậu không hề làm kể từ khi rời khỏi thuyền của bố cậu, cậu kêu to: “Lạy Chúa, nếu Ngài thương, xin cứu vớt chúng con, con nguyện sẽ mãi mãi làm nô lệ cho Ngài”.
Chúa nhậm lời cầu xin của cậu và cứu vớt con thuyền. Thế rồi sau khi vào được bờ, Newton đã giữ lời hứa và bỏ nghề buôn nô lệ. Sau đó cậu đi tu, và một thời gian sau trở thành mục sư coi sóc một nhà thờ nhỏ ở Olney, nước Anh. Ở đây vị mục sư trở nên một nhà giảng thuyết kiêm nhà soạn thánh ca lừng danh. Một trong những bản thánh ca cảm động nhất mà Newton đã sáng tác là bản nhạc ca ngợi Chúa về cuộc trở lại của cậu.
Giống như Newton, các Tông đồ cũng gặp phải bão biển dữ dội. Giống như Newton, các ông đã kêu to lên cùng Chúa: “Xin hãy cứu chúng con”. Giống như Newton, các ông cũng đã được biến đổi hoàn toàn sau khi Chúa nhậm lời cầu xin. Các ông hoảng sợ và nói với nhau: “Ông này là ai, mà cả đến gió và biển cũng phải tuân lệnh?”.
“Ông này là ai?”. Đây chắc chắn là một câu hỏi căn bản. Dĩ nhiên câu trả lời đã có sắn trong bài đọc 1 và trong Thánh Vịnh đáp ca hôm nay. Bài đọc 1 mô tả Chúa là Đấng Tạo Hoá, chính Ngài đã tạo dựng biển cả, đã đặt ranh giới cho chúng và truyền lệnh cho chúng tuân theo ý muốn của Ngài. (x.G 38,1.8-11). Thánh Vịnh đáp ca là lời kêu cầu Chúa của những thuỷ thủ gặp bão biển. Và Chúa đã ra tay cứu họ. Họ vui sướng, vì trời yên biển lặng. Và Chúa dẫn đưa về bờ bến mong chờ. Họ tạ ơn Chúa, vì Chúa từ nhân (x. Tv 107).
Trong cả hai bài đọc Cựu Ước này, chúng ta thấy Chúa đang thi hành chủ quyền của Ngài trên sóng gió. Ngài truyền lệnh cho chúng và chúng tuân phục Ngài. Đây cũng là điều chúng ta thấy Chúa Giêsu đang thực hiện trong Tin Mừng hôm nay.ngài đang biểu lộ chủ quyền của Ngài trên sóng gió. Ngài truyền lệnh và chúng tuân phục ngay. Như thế các bài đọc hôm nay cho thấy Thiên Chúa trong Cựu Ước và Đức Giêsu của Tân Ước là một. Ngài đang thực thi quyền năng của một Thiên Chúa. Thánh Marcô không chỉ muốn nói lên quyền năng của Chúa mà còn muốn khẳng định Ngài chính là Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ, và mời gọi chúng ta hãy hoàn toàn tin vào Ngài.
Các môn đệ ở chung một thuyền với Chúa, các ông đã biết Chúa quyền năng, có thể làm nhiều phép lạ, nhưng khi sóng gió nổi lên, các ông vẫn hoảng hốt. Các ông quên rằng dù thức hay ngủ, Chúa vẫn là Chúa. Các ông chưa hoàn toàn tin vào Chúa. Chúng ta thường nghĩ mình có đức tin, nhưng trong thử thách, khi cần biểu lộ lòng tin thì nhiều khi ta lại hoảng sợ.
Đời tự nó đã là khó. Đi trong cuộc đời với niềm tin theo cách Chúa dạy lại càng khó hơn. Chúng ta đã vâng lệnh Chúa mà nhổ neo ra khơi, đã tin tưởng vì có Chúa ở đàng lái, ở vị trí hoa tiêu, nhưng có thể đã có lần chúng ta đau đớn vì Chúa lại ngủ giữa phong ba. Điều đó có thật, là kinh nghiệm muôn đời của những ai tin Chúa. Niềm tin không phải là giải đáp dễ dãi, không miễn trừ những khó khăn. Cần phải dày công học tập mới chấp nhận được thực tế đó. Người có niềm tin trưởng thành là người “giữa phong ba khốn cùng ngàn nỗi vẫn luôn thành tín ngợi khen Chúa là thuẫn đỡ, là khiên che, là đồn luỹ”. Phải dám ra đi dù trời đã về chiều, dù có thể gặp phong ba. Nếu không thì chẳng bao giờ sang được “bờ bên kia” của cuộc sống. Chúa có thể ngủ, nhưng Chúa luôn thức vào lúc quyết định để trợ giúp những ai bằng lòng để cho “Chúa ở đằng lái”.
Bão lớn, nước sắp đầy thuyền thì ai mà không sợ? Vậy mà Chúa còn trách: “Sao các con sợ thế, các con không có đức tin ư?”. Các môn đệ lâm nguy thật sự. Trong hoàn cảnh đó, chẳng những nên kêu cứu Chúa, mà đúng là phải kêu cứu Chúa. Nhưng đừng kêu cứu với tâm trạng sợ hãi đến tuyệt vọng như vậy. Phải kêu cứu nhưng hãy kêu cứu trong niềm cậy trông tín thác tuyệt đối. Lời trách cứ của Chúa Giêsu khai mở cho chúng ta một kinh nghiệm đức tin quý báu: niềm tin vững vàng làm chúng ta thêm can đảm lắm mới có thể tin. Vì tin Chúa, thực tế chính là “ trao thân gởi phận” cho Chúa. Người tin Chúa thực sự thì không sợ, còn người sợ thực sự thì không tin. Trong rất nhiều trường hợp, “yếu tin” đồng nghĩa với “hèn tin”!
Câu hỏi của các môn đệ sau khi được Chúa cứu nguy: “Ngài là ai mà cả gió lẫn biểu cũng đều vâng lệnh?” phải là câu hỏi căn bản cho những ai muốn tin và muốn đạt tới niềm tin trưởng thành vào Chúa Giêsu. Phải trả lời cho thật, cho đúng, cho sâu và sát với hoàn cảnh đời mình. Tin không phải chỉ là xác tín về một chân lý lý thuyết cho thoả trí óc, nhưng là “trao thân gởi phận” cho Chúa, nên phải biết rõ Chúa là ai, đáng tin đến mức nào. Thánh Phaolô là chứng nhân đức tin kiệt xuất, đã trải qua bao gian nan mà vẫn tín trung với Chúa, vì thánh nhân “biết mình đã tin vào ai” (2Tm 1,13). Nếu thực sự muốn tin, chúng ta cũng phải biết: Chúa Giêsu Kitô là ai? Tin Mừng cho chúng ta biết: Chúa Giêsu chính là Thiên Chúa. Chân lý ấy quá đơn sơ, chúng ta đều đã biết. Nhưng có thể chúng ta mới biết bằng “cái đầu”, bằng trí óc, chứ chưa biết bằng “con tim”, bằng lòng yêu mến. Tin cuối cùng là yêu, là trung thành gắn bó với Chúa Giêsu trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Vậy lòng ta cần phải biết Ngài là Chúa, nghĩa là không chỉ biết rằng Ngài quyền trên cuộc đời mình, Ngài là Chúa của mình. Khi lòng ta chưa biết điều đó, thì dù không nói hay không dám nói ra, tự thâm tâm ta vẫn nghĩ: Lời Chúa chói tai quá! Lệnh Chúa truyền khó khăn qúa! Và sẽ bỏ đi như người Do Thái, vì thầy tin Chúa là phải là phiêu lưu và quá khó khăn! Người có đức tin trưởng thành là người “biết điều”: họ nhận ra Đấng mời gọi là Đấng có quyền, nên họ dấn thân theo lời mời gọi của Ngài vì đó là đòi hỏi của tình yêu.
Hãy vận dụng đức tin để dấn thân vào đời, lấy sức chèo chống, ngăn chận sự ác đang hoành hành. Hãy chạy đến Chúa và phó thác cho Ngài mọi lo lắng của cuộc đời, kiên trì tin tưởng Chúa sẽ cứu thoát chúng ta.
47. Các con không có lòng tin sao? – Noel Quesson.
Một sĩ quan người Anh cùng gia đình xuống tầu đi tới một miền xa lạ. Đang lênh đênh trên biển thì bỗng có giông bão khủng khiếp ập tới. Hành khách trên tầu cuống cuồng lo sợ, nhất là bà vợ của viên sĩ quan. Bà thấy ông vẫn bình thản thì bực bội và trách ông không quan tâm đến nỗi lo lắng của bà và các con. Ông này ra khỏi phòng một lát rồi trở lại, ông nghiêm nét mặt, rút kiếm ra dí vào ngực vợ. Bà vợ hơi tái mặt, nhưng lát sau bà phá lên cười. Viên sĩ quan hỏi: - Thấy mũi kiếm sắp đâm vào người mà em không sợ sao? - Việc gì em phải sợ? Em biết anh vẫn thương em mà.
- Thế tại sao em bắt anh phải sợ khi anh biết Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta? Và cơn bão này cũng ở trong bàn tay Thiên Chúa?
Chúng ta thường nghĩ mình có đức tin, nhưng trong thử thách, khi cần biểu lộ lòng tin thì nhiều khi ta lại hoảng sợ. Chính vì thế, Chúa nhắc bảo ta luôn nhớ cầu nguyện để xin ơn tăng cường đức tin. Các môn đệ ở chung một thuyền với Chúa, các ông đã biết Chúa có quyền năng có thể làm nhiều phép lạ, nhưng khi sóng gió nổi lên, các ông vẫn hoảng hốt. Các ông quên rằng dù thức hay ngủ, Chúa vẫn là Chúa. Các ông chưa tin vào Chúa hoàn toàn. Chúng ta có thể nghĩ rằng Chúa làm ra vẻ ngủ say để thử lòng tin của các môn đệ. Nhưng cũng có thể Chúa ngủ thực, vì Chúa cũng mang bản tính con người như ta. Chúa mệt mỏi vì bao công chuyện dồn dập mấy bữa qua: đi lại, giảng dạy, chữa bệnh cho bao nhiêu người. Sự mệt mỏi đã đưa Chúa vào giấc ngủ say.
Có những bất trắc, những tai nạn, rủi ro xảy tới cho đời ta, ta kêu cầu hoài mà không thấy Chúa đáp cứu. Những nhà duy vật thời nay thường nói: “Thiên Chúa đã chết”. Đôi khi, chính chúng ta là tín hữu Kitô, cũng có cảm tưởng như vậy. Chúng ta bị đe dọa, bị xô đẩy, bị chèn ép, chúng ta bất lực mà Thiên Chúa cứ làm thinh cho thiên nhiên hoành hành, cứ để cho bạo động xảy tới, xem ra Thiên Chúa đang ngủ quên. Tuy hoảng sợ, các môn đệ cũng còn chút tin tưởng ở Chúa, các ông tới đánh thức Chúa: “Thưa Thầy, chúng con chết đến nơi mà Thầy không quan tâm sao?”. Chúa thức dậy, đứng lên, quát nạt sóng gió và sóng gió trở lại yên tĩnh tức thì.
Sau khi trời yên biển lặng, Chúa bảo các môn đệ: “Sao các con sợ hãi? Các con không có đức tin ư?”. Chúa trách các môn đệ thiếu lòng tin. Không tin rằng có Chúa đang ở với mình trong thuyền. Không tin rằng Chúa vẫn yêu thương săn sóc các ông. Nhiều khi chúng ta còn đáng trách hơn các môn đệ, vì những lần chúng ta than thân trách phận, oán trời, trách Chúa: Sao Chúa để chúng ta đau khổ, kêu mãi kêu hoài mà Chúa vẫn làm ngơ.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sức mạnh để chúng con lướt thắng mọi thử thách trên đường đức tin. Xin giúp chúng con luôn nhận ra Chúa trong những biến cố cuộc đời để chúng con an tâm phục vụ Tin Mừng. Quyền năng và tình thương của Chúa luôn làm cho con vững dạ an lòng (Tv 23,4).
48. Mời gọi qua sông – Jean-Yves Garneau.
Chúng ta phải liên lỉ băng qua bờ bên kia. Thường thường biển động. Nhưng Chúa Kitô ở với chúng ta. Việc băng qua hồ Tibêriát, như thánh Marcô kể lại, mang một ý nghĩa tượng trưng, cho ta thấy một kinh nghiệm quan trọng và sâu sắc mà các môn đệ đã có được. Kinh nghiệm này có một giá trị gương mẫu đối với chúng ta. Thường thường chúng ta phải sống những kinh nghiệm tương tự.
Sang bờ bên kia.
Chúa Giêsu bảo bạn hữu của Chúa sang bờ bên kia. Vấn đề không phải chỉ đơn giản là đi từ nơi này đến nơi khác, nhưng là sống một biến cố sẽ giúp họ lớn lên. Lúc đó họ chưa biết được điều này.
Nhiều lần cả chúng ta nữa, chúng ta đứng trước một tiếng gọi của Chúa Kitô. Gọi vươn lên, gọi sống đời sống Kitô hữu của chúng ta mãnh liệt hơn, gọi dấn thân một cách mới mẻ… Nếu chúng ta đáp trả tiếng gọi ấy chúng ta không biết trước những gì sẽ xảy ra cho mình hoặc nó sẽ đưa mình đến tận đâu.
Từ biển lặng đến sóng gió.
Không chút do dự các tông đồ chấp nhận qua bờ bên kia, thậm chí họ còn có sáng kiến chuẩn bị nữa. Lúc khởi hành, mọi sự diễn ra suôn sẻ. Biển hồ yên lặng. Họ là những tay chèo giỏi. Chúa Kitô nằm ngủ ở mạn thuyền.
Rồi gió nổi lên. Đó là giông bão. Các môn đệ hoảng hốt. Từ đáy lòng họ la lên: “Lạy Thầy, chúng con chết mất!”.
Sự kiện này có thể áp dụng vào chính cuộc sống của chúng ta. Nhiều lần chúng ta phải đáp lại những lời mời gọi của Thiên Chúa. Không thể nghi ngờ thiện chí của chúng ta: Như các môn đệ, chúng ta thưa vâng trước những tiếng gọi này. Nhưng việc thực hành những gì tiếng gọi ấy thường có vẻ khó khăn và gắt gao hơn ta tưởng. Các khó khăn nhất thiết sẽ xảy đến. Chúng rất thường nhiều hơn và lớn hơn điều ta dự tính.
Thế giới này trong đó chúng ta sống cũng giống như mặt biển động vậy. Sống đạo trên một mặt biển như thế không dễ dàng, không đơn giản! Không dễ dàng lớn lên về mặt Kitô hữu trong một xã hội như xã hội của chúng ta, đang loan truyền đủ mọi thứ khác trừ sứ điệp của Chúa Kitô và lôi cuốn đến mọi nơi khác trừ những con đường của Tin Mừng.
Lúc đó ta bị cám dỗ buông xuôi hết. Trở thành những kẻ không dấn thân. Không đi nhà thờ nữa, chỉ còn sống cho mình, chỉ còn mang tên là tín hữu mà thôi. Người ta vớt vát cho bộ mặt bên ngoài nhưng trong lòng thì không còn gì nữa.
Phải làm một hành vi đức tin.
Giữa cơn giông tố, các tông đồ có ý tưởng rất hay là quay về với Thầy của mình và cầu cứu Ngài. Kết quả thật lạ lùng. Chúa Kitô ra lệnh cho biển. Biển lặng như tờ. Ngài trách họ: “Sao lại sợ? Tại sao các con không có lòng tin?”. Phản ứng của các môn đệ có thể làm chúng ta ngạc nhiên. Thay vì kêu lên: “Lạy Chúa, chúng con tin”, họ lại tự hỏi: “Ngài là ai mà ngay cả đến phong ba và biển cả cũng phải vâng phục Ngài?”.
Không phải một sớm một chiều mà ta có được một niềm tin vững chắc và sâu xa. Cần thời gian. Phải trải qua nhiều kinh nghiệm trong cuộc đời làm Kitô hữu.
Ba điểm cần nhớ.
Những gì cần nhớ trong bài Tin Mừng hôm nay có thể tóm tắt trong ba điểm.
Một là: đừng sợ qua bờ bên kia. Đây là một điều kiện phải có để lớn lên. Khi cứ ở lại mãi trên bờ yên tĩnh của thế giới bé nhỏ an toàn của mình, người ta không bao giờ trở thành một Kitô hữu biết nhìn xa thấy rộng được Chúa Kitô luôn luôn mời gọi đi xa hơn, cao hơn.
Hai là: đừng ngạc nhiên về những khó khăn gặp phảikhi muốn sống một cuộc đời Kitô chân chính. Biển động là thành phần của cuộc sống ấy, đó là dịp để tiến bộ.
Ba là: không nghi ngờ về sự hiện diện và quyền năng của Chúa Kitô. Ngài ở với chúng ta. Cùng với Ngài, chúng ta luôn luôn tới được những bến bờ khác. Chính Ngài đã đi qua cái chết… và đã tới bờ của một cuộc sống mới. Những lần chúng ta phải đi từ bờ bên này sang bờ bên kia trong cuộc sống hằng ngày đó là chúng ta được chuẩn bị cho cuộc vượt qua cuối cùng.
Coi chừng những cuộc sống Kitô quá yên ổn, quá an toàn. Chúa Kitô chờ đời chúng ta trên biển động. Thường thường đó chính là nơi mà Ngài tự mặc khải cho chúng ta cách mạnh mẽ. Và chính ở đó, ở ngoài khơi mà rất thường đức tin của chúng ta có thể được thức tỉnh hơn hết và có thể lớn lên.
49. Giông bão.
Qua hình ảnh mặt biển dạy sóng Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta những gì?
Mặt biển dạy sóng trước hết là hình ảnh của tâm hồn chúng ta.
Thực vậy, nhiều lúc chúng ta đã cảm thấy: những quyến dũ bất chính, những đam mê mù quáng, những cám dỗ nặng nề, quả thực đã trở nên như những ngọn sóng ngầm. Những quyến dũ ấy, những đam mê ấy, những cám dỗ ấy như muốn đè bẹp con thuyền nhỏ bé là tâm hồn chúng ta, nhận chìm nó xuống đáy nước tội lỗi, nếu như Chúa Giêsu, Đấng có quyền làm cho gió yên biển lặng đã không đến can thiệp và giúp đỡ chúng ta. Vì thế chúng ta hãy kêu xin Chúa như các tông đồ ngày xưa:
- Lạy Chúa, xin hãy cứu giúp chúng con không thì chúng con chết mất.
Mặt biển dạy sóng còn là hình ảnh của thế gian.
Đúng vậy, thế gian là một mặt biển dạy sóng, trong khi đó Giáo hội chỉ là một con thuyền nhỏ bé, mà người cầm lái, là Đức Kitô thì dường như lại đang ngủ say. Những phong ba bão táp và những ngọn sóng trào dâng là những cấm cớ bách hại, là những lập trường bài bác vu khống và chụp mũ, khiến cho chúng ta, những môn đệ của Chúa cũng phải bàng hoàng kinh hãi, nếu không muốn nói là đã đi đến chỗ tuyệt vọng.
Tại sao chúng ta lại sợ hãi? Phải chăng là vì yếu đức tin. Chúng ta nên nhớ rằng, tình thương và sự quan phòng của Ngài luôn canh giữ chúng ta. Chỉ một cái nhìn của Ngài cũng đã đủ để làm cho sóng yên biển lặng, tất cả trở lại trật tự.
Kinh nghiệm của Giáo hội, cũng như của bản thân mỗi người cũng làm chứng như vậy. Điều quan trọng, chúng ta phải luôn xác tín rằng: Chúa Giêsu luôn ở với chúng ta. Mặc dù đôi lúc Ngài dường như có vẻ ngủ say, nhưng thực sự thì tình thương của Ngài luôn canh giữ chúng ta. Và một khi Ngài đã ở với chúng ta thì không ai có thể chống lại chúng ta.
Thánh nữ Cartarina Sienna ngày kia đã hỏi Chúa, sau khi đã thoát khỏi sự cám dỗ nặng nề:
- Lạy Chúa, Chúa ở đâu khi con phải chiến đấu. Chúa Giêsu đã trả lời:
- Ta ở bên cạnh con để giúp đỡ con.
Chính vì thế, giữa những gian nguy thử thách, giữa những cám dỗ đe dọa, chúng ta hãy biết chạy đến và kêu van:
- Lạy Chúa, xin cứu chúng con, không thì chúng con chết mất.
Điều quan trọng là làm thế nào để Chúa Giêsu thực sự ở trong chúng ta với tất cả tình thương của Ngài?
Tôi xin đưa ra một pháp đó là hãy xa tránh tội lỗi. Vì tội lỗi sẽ đẩy chúng ta xa lìa tình Chúa và làm dấy lên trong tâm hồn cũng như xã hội một trận cuồng phong thảm khốc.
Chính vì thế muốn trấn áp cuồng phong, muốn tái lập trật tự, chúng ta phải biết hãm dẹp những dục vọng xấu xa, những khuynh hướng tội lỗi. Tuy nhiên, để bảo đảm sự thành công, chúng ta hãy bắt chước các môn đệ đã kêu lên với Chúa giữa cơn phong ba bão táp:
- Lạy Chúa, xin cứu giúp chúng con, không thì chúng con chết mất.
50. Điều khiển.
Rufus Jones có thuật lại câu chuyện sau đây: “Một cậu bé đang chơi trên boong tàu, khi đó một cơn bão tố đang nổi lên. Một hành khách tiến lại hỏi cậu bé: Này cháu, cháu không sợ cơn bão đang đến hay sao? Cậu bé trả lời: “Không, cháu không sợ. Bởi vì cha cháu đang điều khiển con tàu”.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng thuật lại một câu chuyện xảy ra trong một cơn bão tố. Nhưng nó chỉ giống ở khung cảnh mà lại khác hẳn về nội dung. Nỗi sợ hãi của các môn đệ hoàn toàn trái nghịch với lòng tín thác của cậu bé trong câu chuyện của Jones, một lòng tín thác xuất phát từ một niềm tin vững mạnh.
Không có gì ngạc nhiên khi chúng ta nghe Chúa Giêsu quở trách: “Tại sao các con nhát gan thế? Các con vẫn chưa có lòng tin sao?” Chúng ta cần nhớ lại lời Kinh Thánh đã chép: “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy”.
Chúng ta không luôn luôn thấy những đối tượng đức tin của chúng ta, đặc biệt khi niềm tin của chúng ta bị che phủ bởi nỗi sợ hãi và lo âu xao xuyến, và nhất là khi chúng ta bị những cơn giông tố trong cuộc đời vùi lấp một cách phũ phàng. Trong những cơn thử thách mãnh liệt như vậy, chúng ta hãy đặt tất cả niềm tin tưởng phó thác vào chính Thiên Chúa. Vào thế kỷ 19, tiểu thuyết gia kiêm thi sĩ người Tô Cách lan George MacDonald đã viết: “Con người hoàn hảo về đức tin là kẻ có thể đến với Thiên Chúa trong sự trống rỗng về cảm giác, không có một chút cảm hứng và an ủi nào, chỉ có những thất bại nặng nề, bị bỏ rơi, bị quên lãng hoàn toàn, và vẫn nói với Thiên Chúa: “Lạy Chúa, Chúa là nơi con náu ẩn, là thành lũy che chở con”.
Lạy Chúa Thánh Thần, Chúa là Trạng Sư và là bạn thân thiết của con. Xin Chúa dạy con biết từ bỏ bản thân mà lệ thuộc hoàn toàn vào Chúa Giêsu. Con không muốn trốn tránh trách nhiệm của con đối với cuộc đời của mình, nhưng con muốn để Chúa Giêsu chi phối toàn bộ cuộc sống của con.
51. Bão tố.
Hồ Tibêria nằm ở mạn bắc Palestine, còn gọi là hồ Gênêsarét hay biển Galilê, nhưng quen gọi là Biển Hồ, có hình bầu dục, chiều dài 21 km, chiều ngang 12 km, thấp hơn mặt biển Địa Trung Hải 208m, lại nằm bên rặng núi Hemon cao ngất, luôn có tuyết phủ, vì thế, các luồng gió mạnh đều dốc đổ vào hồ, gây nên những cơn giông và bão tố bất thường.
Cựu Ước ít nhắc tới Biển Hồ này, nhưng trong Tân Ước, hồ này nổi tiếng, vì nơi đây Chúa Giêsu đã làm một số phép lạ và giảng dạy nhiều điều. Phép lạ kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay xảy ra ở Biển Hồ này, vào một buổi chiều đầy kỷ niệm của một ngày tháng chạp, năm thứ nhất công khai giảng dậy của Chúa.
Hôm ấy, sau khi dùng thuyền làm tòa giảng dạy dân chúng nhiều dụ ngôn, Chúa Giêsu giải tán cho họ ra về, rồi bảo các môn đệ kéo buồm ra khơi sang bờ bên kia đến thành Gêrasa. Khi thuyền ra gần giữa khơi thì gặp biển động mạnh, gió thổi dữ dội, sóng nước quật mạnh vào thuyền khiến thuyền chòng chành, chồm lên chồm xuống muốn chìm. Các môn đệ ra sức chèo chống, tuy là những ngư phủ đã quen với những cơn giông bão trên biển, mà lần này các ông cũng hoảng sợ, vậy mà Chúa Giêsu vẫn nằm ngủ ngon lành ở cuối thuyền như không có sự gì nguy hiểm đang xảy ra.
Các môn đệ không còn biết xoay sở làm sao đưa thuyền vào bờ, trở lui không được vì bị sóng gió cản lại, mà tiến sang bờ bên kia thì còn xa quá. Thật là tiến thoái lưỡng nan, các ông chỉ còn biết cầu cứu đến Chúa, mà Chúa thì lại đang ngủ. Các ông đánh thức Chúa dậy và xin Chúa cứu giúp. Lời kêu cứu này chứng tỏ các môn đệ tin Chúa có quyền phép. Nhưng Chúa đã quở trách các ông: “Sao nhát thế? Anh em vẫn chưa có lòng tin sao?” Chúa trách các môn đệ như vậy là vì mấy tuần qua các ông đã được chứng kiến Chúa làm nhiều phép lạ tỏ ra Chúa là Đấng có quyền phép, nên đáng lẽ các ông phải tin tưởng nơi Chúa mà không hoảng sợ trước cơn giông bão. Nhưng đức tin của các ông còn yếu kém, gặp cơn giông bão, tuy có Chúa ở trong thuyền mà các ông vẫn hốt hoảng sợ hãi, nên Chúa mới quở trách như vậy. Tuy nhiên, Chúa vẫn đứng dậy, truyền cho sóng gió yên lặng, tức khắc biển trở lại bình thường.
Qua phép lạ này, Chúa Giêsu muốn cho các môn đệ thấy uy quyền Thiên Chúa toàn năng của Ngài, đồng thời cũng cho họ biết: họ phải vững tin vào Ngài, có Ngài ở bên, họ không được sợ hay không phải lo sợ gì cả, vì không có gì Ngài không làm được, mọi sự đều tùy thuộc uy quyền toàn năng của Ngài.
Khi tìm hiểu về cơn bão tố xảy ra trên Biển Hồ, một nhà chú giải Kinh Thánh đã giải thích: “Chúa Giêsu đã muốn đem các môn đệ của mình đi trên biển, giữa bão tố kinh hoàng để cho họ thấy trước những bão tố sau này là những bắt bớ, những hành hạ mà họ sẽ gặp trên đường tông đồ. Đối với họ, là những người sẽ cầm lái thế giới sau này, con thuyền nhỏ bị sóng gió dữ tợn đánh chòng chành sắp chìm, là hình ảnh của những trận bão tố sau này sẽ tấn công Giáo hội mà họ phải kiên gan chống đỡ”.
Các nhà giảng thuyết thường áp dụng việc Chúa Giêsu làm cho sóng gió yên lặng vào việc Chúa luôn ở cùng Giáo hội, và bênh vực gìn giữ Giáo hội trải qua những cơn sóng gió trần gian. Chiếc thuyền của Phêrô là tượng trưng cho con thuyền Giáo hội của Chúa mà Phêrô là đầu. Những cơn sóng gió là những cơn thử thách bách hại mà Giáo hội luôn gặp phải. Cũng như khi xưa các tông đồ trên thuyền đã được an toàn qua cơn sóng gió vì có Chúa Giêsu ở với các ông, thì ngày nay cũng nhờ có Chúa Giêsu luôn hiện diện trong Giáo hội mà trải qua bao cơn thử thách bách hại, Giáo hội vẫn đứng vững và trường tồn.
Nhìn vào lịch sử Giáo hội, qua dòng thời gian, trải qua các thời đại, chúng ta thấy Giáo hội đã gặp phải bao cơn gió bão, thuyền Phêrô, tức là Giáo hội, đã vượt biển được hai ngàn năm, thuyền đó ra đi, mặc dầu gặp bao sóng gió, nhưng vẫn luôn đứng vững, lý do là vì Chúa Giêsu luôn hiện diện trong Giáo hội như Ngài có mặt trên thuyền của các môn đệ xưa kia. Đôi khi xem ra Ngài ngủ và có vẻ buông xuôi tay lái, nhưng thực ra đó chỉ là những cơ hội để nêu cao sự hiện diện đầy quyền năng của Ngài.
Đối với mỗi người chúng ta cũng vậy, Thiên Chúa toàn năng cai trị những bão tố bên ngoài, thì Ngài cũng thống trị những cơn bão, những sóng gió trong tâm hồn, trong cuộc sống, trong cuộc đời thăng trầm của mỗi người. Cuộc đời chúng ta là một đời lữ khách, vui buồn chen nhau. Là thân lữ khách, chúng ta biết phận mình là thế, và trong muôn cảnh ngộ, chúng ta luôn có hy vọng về tới bến. Đức tin vững chắc là bánh lái thuyền đưa chúng ta về tới bến cứu độ. Chúa Giêsu luôn ngồi đàng sau con thuyền để trợ giúp chúng ta. Chúng ta cứ yên trí lớn chèo thuyền ra đi, điều cần thiết nhất là chúng ta có luôn tin tưởng vững chắc vào Chúa hay không?
Vì thế, giữa những bão tố, những sóng gió của biển đời, chúng ta cần bắt chước gương các tông đồ, chạy lại với Chúa Giêsu và xin Ngài cứu giúp: Lạy Chúa, xin cứu chúng con kẻo chúng con chết mất. Tin tưởng và cầu xin Chúa, chúng ta sẽ được bình an.
52. Cha em là người cầm lái. – Thiên Phúc
(Trích trong "Như Thầy đã yêu")
Trong một cuộc hải trình vượt Đại Tây Dương, khách du lịch đang thư thái ngắm cảnh hoàng hôn trên boong tàu.
Nơi tít mù xa, mặt trời đỏ cam đang chiếu những ánh vàng cuối cùng của một ngày còn sót lại.
Bỗng mây đen ùn ùn kéo tới, tối sầm cả một vùng trời. Sấm chớp đổ xuống liên hồi, giông tố cuồn cuộn nổi lên, càng lúc càng thét gào dữ dội.
Mọi người trên boong chen lấn nhau chạy về phòng mình. Duy chỉ có một bé trai cứ tiếp tục chạy giỡn trên boong giữa trận cuồng phong.
Được hỏi tại sao em không sợ hãi trước cơn giông tố?
Em thản nhiên đáp lại:
- Vì cha em là người cầm lái con tàu!
***
Giống như khách du lịch trong câu chuyện trên, các môn đệ cũng gặp một trận cuồng phong khi vượt biển. Các ngài kinh hoàng vì thấy mình sắp bị nuốt chững. Bó tay bất lực trước phong ba bão táp, các ngài đã vội đánh thức Đức Giêsu và xin Người ra tay cứu giúp: "Thưa Thầy, chúng con chết mất, Thầy không quan tâm sao" (Mc. 4,38). Người liền đe gió và phán với biển như một người bị quỉ ám: "Hãy im đi". Tức thì sóng yên biển lặng.
Ai cũng thích sóng yên biển lặng, xuôi chèo mát mái. Nhưng cuộc đời nào mà chẳng có những cơn giông? Đại dương nào mà không có những bão tố?
Tuy nhiên, chính giông tố mới giúp chúng ta nhận ra chính mình: mình còn yếu đuối và bất lực, còn nhát đảm và kém tin.
Cũng chính giông tố sẽ đưa ta đến với Chúa, để ta hoàn toàn phó thác cho sự quan phòng của Người. Cũng chính giông tố sẽ giúp ta biểu lộ đức tin. Có thể nói, đức tin sẽ lớn lên ít nhiều sau mỗi lần giông tố.
Thánh Phaolô viết: "Thiên Chúa không ban cho ta một thần khí nhát sợ nhưng mạnh mẽ, bác ái và tự chủ" (2Tm.1,7),
Mỗi người chúng ta không khác chi chiếc thuyền nan chông chênh giữa cơn lốc cuộc đời, khó khăn nối tiếp khó khăn. Giống như cậu bé đã tin tưởng ở cha mình cầm lái con tàu, mỗi người chúng ta cũng hãy vững tin ở Thiên Chúa tình yêu. Người sẽ hướng dẫn cuộc đời của mỗi chúng ta. Có Chúa trong đời, những cô đơn như bị xóa nhòa, những khó khăn dường như nhỏ lại, những yếu đuối như được mạnh sức. Chúng ta không cầu xin cho cuộc đời mình như biển lặng, nhưng xin cho cõi lòng chúng ta được tĩnh lặng ngay giữa lúc biển động.
Thánh Phanxicô Salêsiô dạy: "Phải ở lại trong con thuyền mà Thiên Chúa đã đặt chúng ta vào, để hành trình từ cõi đời này về chốn đời sau. Chúng ta phải sẵn sàng ở lại trong sự bình an thanh thản".
Lạy Chúa, thuyền đời chúng con chẳng bao giờ được êm ả, nó chỉ êm ả khi tới bến thiên đàng. Xin cho lòng chúng con luôn bình an ngay cả khi Chúa còn đang ngủ, miễn là có Chúa trong thuyền, vì Chúa chính là thuyền trưởng của đời chúng con. Amen.
53. An tâm – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Sau một ngày giảng dạy dân chúng, Chúa Giêsu bảo các môn đệ chèo thuyền đưa Ngài sang bên kia Biển Hồ. Biển Galilê dài 21km, rộng 12km, xung quanh có những rặng núi bao bọc. Nhiệt độ ở Galilê thuộc miền Bắc Israel và ở Biển Chết thuộc miền Nam chênh lệch nhau, thỉnh thoảng tạo ra những cơn gió mạnh. Biển Galilê nổi sóng dữ dội vì hình thể lòng chảo với núi non bao quanh. Vì thế, người xưa quan niệm rằng, biển là biểu hiện cho những gì nguy hiểm, tối tăm và sợ hãi. Biển động sóng gào biểu trưng cho một thế giới hỗn loạn và phường tội lỗi (x. Is 57, 20). Ý định băng qua bên kia Biển hồ lúc trời đã về chiều quả là một ý định táo bạo, liều lĩnh, bất chấp hiểm nguy.
Tuy vậy, Chúa Giêsu quyết định ra đi và thực hiện phép lạ trên biển với mục đích củng cố đức tin cho các môn đệ, đồng thời biểu lộ uy quyền của Thiên Chúa vượt trên mọi thế lực sự dữ.
Chúa Giêsu cùng với các môn đệ và có một số thuyền khác vượt biển giữa trời đêm. Thuyền lướt sóng ra khơi giữa màn đêm. Bão tố cuồng phong bỗng dưng ập đến. Các môn đệ, dù nhiều trải nghiệm về biển cả vẫn hốt hoảng lo lắng hoang mang. Chỉ mình Chúa Giêsu vẫn an nhiên tự tại, vẫn ngủ như không có gì xảy đến. Lạy Chúa, đến nước này mà Ngài vẫn ngủ sao? Trong dòng lịch sử, không ít lần dân Do thái thấy như Chúa ngủ quên: “Lạy Chúa, Ngài quên con mãi tới bao giờ? Tới bao giờ còn ngoảnh mặt làm ngơ? Tới bao giờ hồn con vẫn còn lo lắng và lòng con ủ rũ đêm ngày? Tới bao giờ kẻ thù con thắng mãi?” (Tv 13,1-2).
Các môn đệ cuống cuồng lo sợ và hỏi: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?” Tiếng kêu cứu trong tuyệt vọng. Gặp bão tố cuồng phong trên biển cả, không lẽ những dân chài thứ thiệt như các ngư phủ lại phải cậy đến sự trợ giúp của một bác thợ mộc ư? Kinh nghiệm thợ mộc giúp được ích gì cho các ông lúc này? Ở đây rõ ràng là các ông cần sự trợ giúp thần linh, cần một phép lạ. Khi con người đối diện với những gian nan khốn khó, với những mãnh lực ác thần, họ mới thấy sức người quá hèn yếu, nhỏ bé. Bài đọc 1 cho thấy con người yếu đuối tìm đâu được một chỗ dựa vững vàng ngoài niềm tin vào Thiên Chúa toàn năng: “Bấy giờ, giữa cơn bão táp, Đức Chúa lên tiếng trả lời ông Gióp như sau: Cửa đại dương, ai ra tay khép lại khi nước tuôn trào từ đáy vực sâu, khi Ta giăng mây làm áo nó mặc, phủ sương mù làm tã che thân?” (G 38,1.8-9). Đứng trước số phận ngàn cân treo sợi tóc, họ mới thấy cần biết bao quyền năng Thiên Chúa trợ giúp. Thiên Chúa sẽ ra tay đúng lúc để đáp ứng tiếng van nài của họ.
Không phải bằng một kỹ năng hàng hải mà bằng uy quyền của trời cao, Chúa Giêsu thức dậy và ra lệnh cho sóng biển: “Im đi! Câm đi!”. Cử chỉ và lời nói của Chúa giống như lúc Ngài trừ quỉ. Lập tức, gió ngừng thổi và biển yên lặng như tờ. Rồi Chúa quở các môn đệ: sao các con lại sợ hãi thế? Đức tin của các con như thế nào? Rõ ràng, Chúa không nói các môn đệ không có đức tin; Chúa cũng không nói các môn đệ có đức tin bé nhỏ; ở đây đức tin của các môn đệ giới hạn quyền năng của Thiên Chúa, thua sức mạnh thiên nhiên, sự hiện diện của Chúa Giêsu không thể cứu nguy cho những người cùng thuyền được nên họ phải đánh thức Chúa dậy.
Khi Chúa dùng lời quyền năng dẹp yên gió bão, các môn đệ ngạc nhiên và hỏi: "Người này là ai mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?". Thông cảm với các môn đệ vì các ông chưa biết rõ Chúa là ai, quyền năng thế nào để phó thác mạng sống mình cho Chúa. Nhờ phép lạ này, các ông nhận ra Thầy có quyền trên cả gió và biển, có quyền như Thiên Chúa vậy. Từ đó, các ông suy nghĩ, tìm hiểu con người Thầy hơn.
Những trắc trở đến từ thiên nhiên chỉ nói lên một phần nhỏ sự yếu đuối của con người khi phải đối diện với trăm ngàn đợt sóng mãnh liệt từ các dục vọng làm xáo động tâm hồn họ. Những sự ác dữ dội như sóng biển ấy chẳng để ai ngủ yên, mà bắt người ta phải đặt niềm tin vào Chúa trong khi chống cự để có được sự sống muôn đời: “Xin Chúa thấy cho: thù địch con đông vô kể, chúng ghét thân này, ghét cay ghét đắng. Xin bảo toàn sinh mạng và giải thoát con, đừng để con tủi nhục, bởi vì con ẩn náu bên Ngài” (Tv 25,19-20).
Giông bão bắt người ta phải tin, nhưng niềm tin lại cần đến thử thách của giông bão, vì niềm tin cần được thử thách để lớn lên. Sóng gió là những thử thách trong cuộc đời. Những thử thách Chúa gửi đến giúp ta giúp ta biết mình hơn, biết yêu mến cậy trông vào Chúa hơn và giúp đức tin vững mạnh hơn. Chúa phán với ông Gióp trong gió bão, dạy dỗ ông những lẽ khôn ngoan. Ông Gióp đã luôn vững tin vào Chúa, không phàn nàn, kêu trách; rồi Chúa đã làm cho sóng gió cuộc đời ông chấm dứt, và ban lại cho ông một cuộc sống tốt đẹp hơn. Các Tông đồ cũng gặp bão táp trên biển cả. Chúa dùng lời quyền năng dẹp yên giông bão. Khi sóng yên biển lặng rồi, các môn đệ càng vững tin nơi Chúa hơn, từ nay các ngài không còn cuống quít sợ hãi mỗi khi gặp gian nan nữa. Ai càng gặp nhiều thử thách thì càng trở nên từng trải, vững vàng hơn. Thánh Phaolô nhắc nhở: vì thương yêu chúng ta, “Chúa Giêsu Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, nhưng Ngài đã sống lại!” đem đến cho chúng ta một niềm tin vững chắc vào tình thương của Thiên Chúa.
Tàu thuyền một khi đã lênh đênh trên mặt biển rồi thì không thể nào tránh được những cơn sóng to nhỏ và chẳng có cách chi thoát khỏi những chao đảo, bập bềnh và lắc lư do bão táp và cuồng phong gây nên. Cũng vậy, mọi người không ai tránh khỏi những sóng gió và bão tố to nhỏ do biển đời này gây ra!
- Khi tôi lâm vào cảnh hoang mang, sợ hãi, lúng túng, lo lắng, bất an, phiền muộn, chán chường, thất vọng…
- Khi gia đình tôi chạm trán với những biến cố đau thương như tai nạn xe cộ, tai nạn nghề nghiệp, thất nghiệp, vợ chồng con cái bất hòa xung đột với nhau, đau ốm, tang chế…
- Khi trong cộng đoàn giáo xứ của tôi xảy ra những gương mù, gương xấu: đố kị, ghen tương, kèn cựa, tranh giành quyền lợi, chia bè, kéo phái, tố cáo nhau, mạt sát, thù ghét nhau …
- Khi trong cộng đoàn dòng tu của tôi phải đương đầu với những khủng hoảng về mặt nhân sự, tài chánh, huấn luyện, đào tạo, kỳ thị, chia rẽ, phân biệt, thiên vị…
- Khi Giáo Hội bị bêu xấu, hạ nhục, và bị công kích bởi gương mù gương xấu do một số nhỏ giáo sĩ gây ra…
Thuyền trên biển gặp sóng gió, bão táp là chuyện rất bình thường. Khi thuyền đời của mình không thể tránh được sức va chạm và những ảnh hưởng của sóng gió, bão táp giông tố của cuộc đời này thì tôi phải làm gì để giữ cho thuyền khỏi bị lật úp?
Cách hay nhất là bắt chước các môn đệ, chạy đến với Chúa Giêsu để xin Ngài dẹp tan sóng gió và bão tố bảo vệ thuyền của mình khỏi bị nhận chìm. Chỉ khi nào tin vào sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô, Đấng có quyền năng trên sóng gió mưa bão và mở miệng van xin Ngài ra tay cứu giúp thì lúc đó thuyền đời mới được bình an, bởi lẽ “Không có Thầy thì các con không thể làm gì được!” (Ga 15,5).
Tin mừng hôm nay giúp chúng ta luôn sống an tâm. An tâm, bởi con thuyền cuộc đời chúng ta ra khơi, giữa phong ba bão táp, giữa những thử thách gian truân vẫn luôn có Chúa là thuyền trưởng hướng dẫn thuyền vượt sóng. An tâm, bởi Chúa luôn xuất hiện đúng lúc đúng thời để ra tay nâng đỡ chúng ta trước những khó khăn. An tâm, bởi chúng ta biết chúng ta tin vào Đấng chiến thắng mọi thế lực ác thần và sự chết. An tâm, bởi từ nay, cuộc đời chúng ta đã trao vào tay Chúa, tín thác mọi sự trong sự quan phòng của Thiên Chúa, vì như thánh Phaolô, “tôi biết tôi tin vào ai” (2 Tm 1,12).
Xin cho Lời Chúa hôm nay giúp mỗi người chúng ta vững tin vào sự hiện diện của Chúa, để trong mọi hoàn cảnh cuộc đời, chúng ta luôn có Chúa ở vị trí hoa tiêu để hướng dẫn và can thiệp kịp thời, giúp chúng ta đến bến bờ bình an.
54. Biển đời và biển khơi – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền.
Cuộc ra khơi nào cũng chứa đựng những bất trắc, những hiểm nguy. Dòng đời nào cũng có biết bao cạm bẫy giăng ngang. Biển khơi luôn làm cho con người sợ hãi. Dòng đời luôn làm cho con người lo âu. Con người luôn cảm thấy mình quá nhỏ bé trước biển khơi và biển đời. Biển đời và biển khơi mãi mãi làm cho con người cảm thất bất lực. Sóng gió vẫn thét gào. Sự dữ vẫn tung hoành. Con người luôn phải đối phó trước những tình huống rủi ro có thể xảy đến.
Thời gian qua báo chí nói nhiều về những nguy hiểm của các ngư dân Việt Nam đánh cá xa bờ. Lênh đênh trên biển. Không được bảo vệ. Một mình đối phó với biết bao hiểm nguy do thiên nhiên đưa đến, và ghê sợ hơn là do chính con người gây ra. Sự táo bạo của bọn cướp biển. Sự tranh giành phần biển đánh cá của các nước lân bang. Nhiều ngư dân cảm thấy sợ hãi khi phải rời bến xa bờ. Họ cảm thấy bất lực trước gian nguy trước mặt. Họ không dám mạo hiểm đánh đổi tính mạng mình để đổi lấy một vài con cá. Họ đành rút lui. Họ sợ không thể đương đầu với bao sóng gió nghi nan. Kẻ bán thuyền. Người để thuyền nằm bờ chờ đợi thời cơ. Có mấy ai đủ can đảm ra khơi lúc này? Họ biết rằng ở nhà thì đói. Nhưng ra đi càng thêm nợ nần, có khi còn mất cả tính mạng!
Năm xưa các tông đồ đã từng hoảng loạn, sợ hãi trước sức mạnh của thiên nhiên, của giông bão. Giông bão như muốn nhấn chìm tất cả: con người và tài sản. Con thuyền của họ thật mong manh! Họ đâu nghĩ rằng đêm nay biển dậy sóng trào. Họ đâu lường hết được những rủi ro có thể đến với họ đêm nay. Họ phải đối đầu với nguy nan, với bất trắc, với rủi ro. Một chiếc thuyền nan mong manh trên biển cả biết bám víu vào đâu? Làm sao họ có thể vào bờ an toàn trước gió biển và cuồng phong lồng lộng. Họ bất lực. Họ muốn buông xuôi cho dòng đời xô đẩy. Nhưng may thay, họ đã nhớ đến Thầy. Thầy vẫn hiện diện bên họ. Có Thầy hiện diện tại sao không cầu cứu? Thầy có thể làm cho kẻ chết sống lại. Thầy có thể đẩy lùi sự dữ. Thầy có thể làm mọi sự. Tại sao không chạy đến cùng Thầy? Dầu sao Thầy cũng là một cái phao duy nhất để các ông bám víu trong lúc nguy nan của dòng đời.
Các ông đã chạy đến kêu cầu Thầy: “Thầy ơi, chúng con chết mất!”. Đó là tiếng kêu từ thẳm sâu tâm hồn cần đến sự trợ giúp từ Thầy Chí Thánh. Đó là tiếng cầu cứu nói lên sự bất lực của con người trước sóng gió ba đào.
Đó cũng là tiếng kêu cứu của con người hôm nay khi đứng trước biết bao nghịch cảnh xảy đến trong đời. Biển đời vẫn đưa đẩy những sóng gió nghi nan, những bất trắc đau thương. Thiên tai vẫn ập xuống địa cầu. Sự dữ vẫn đang tung hoành. Có nhiều người như muốn thất vọng buông xuôi vì không tìm được lối thoát. Có nhiều người oán trời oán đất vì quá sức chịu đựng. Có nhiều người ôm phiền muộn trong đau thương một mình vì chẳng tìm được sự an ủi, cảm thông và tin tưởng nơi tha nhân. Dòng đời vẫn còn đó tiếng kêu van tha thiết dâng lên Đấng tối cao. “Xin cứu chữa chúng con, Chúa ơi!”.
Vâng, cuộc đời vẫn còn đó biết bao sóng gió nổi trôi. Cuộc đời tựa như chiếc thuyền nan chòng chành trước bao cám dỗ mời mọc, bao sự dữ bủa vây. Chúa vẫn mời gọi chúng ta hãy tín thác vào Chúa. Hãy kêu cầu Chúa. Hãy đưa tay để Chúa dìu chúng ta đi qua những thăng trầm của dòng đời. Dòng đời đâu mấy khi bình yên. Con người mãi chơi vơi trong bể khổ trần gian. Nhưng có Chúa vẫn đang đi trong cuộc đời chúng ta. Hãy tin tưởng phó thác vào Chúa. Hãy tin tưởng vào tình thương quan phòng của Chúa, Ngài sẽ luôn làm những điều tốt đẹp nhất cho con cái của Ngài.
Nguyện xin Chúa Giêsu là Đấng luôn hiện diện bên cạnh các tông đồ và bên cuộc đời chúng ta, xin thương đến những cảnh đời đầy khó khăn thử thách của kiếp người chúng ta. Amen.
55. Chúa luôn đồng hành với chúng ta
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Sau khi kết thúc những loạt bài giảng về các dụ ngôn, Chúa Giêsu cùng với các tông đồ rời bỏ ven biển hồ Galilê lên thuyền đi sang “bờ bên kia”. “Bờ bên kia” chính là thành Gêrasa. Đây là vùng có đông dân cư là người ngoại. Trong khi thuyền đang lướt sóng, thì bổng chốc “một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước”. Thấy cảnh tượng đó, Thánh Phêrô sợ hãi, đánh thức Chúa dậy : "Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao? ". Chúa Giêsu chổi dậy, chỉ phán một lời “Im đi, câm đi”. Gió liền tắt, biển lặng như tờ.
Phép lạ này cho chúng ta thấy quyền phép của Chúa Giêsu. Ngài chính là Thiên Chúa. Vì chỉ có Thiên Chúa mới truyền cho gió yên, biển lặng. Con người bình thường không thể làm được điều đó. Phép lạ này cũng kêu mời chúng ta tin tưởng phó thác vào Chúa, nhất là khi gặp thử thách gian nan.
Tại sao Chúa trách các tông đồ chưa có lòng tin? Theo tin mừng Marcô, trước biến cố này, các tông đồ đã từng chứng kiến nhiều phép lạ Chúa Giêsu làm. Phép lạ Chúa Giêsu chữa lành một người bị quỷ ám (Mc 1,21-28). Phép lạ Chúa Giêsu chữa nhạc mẫu ông Simon(Mc 1,29-31). Phép lạ Chúa Giêsu còn chữa cho nhiều người (Mc 1,32-34). Phép lạ Chúa Giêsu chữa người bị phong hủi (Mc 1,41-45). Phép lạ Chúa Giêsu chữa người bị bại liệt (Mc 2,1-12). Phép lạ Chúa Giêsu chữa người bị bại tay (Mc 3,1-6). Chứng kiến nhiều phép lạ như thế, đáng lẽ các tông đồ phải tin tưởng vào Chúa. Các ông không lo sợ khi có Chúa ở cùng. Nhưng các ông vẫn lo sợ, chứng tỏ các ông chưa có lòng tin. Các ông vẫn chưa tin vào quyền năng của Chúa. Cho nên, Chúa trách các ông “chưa có lòng tin”. Dẫu sao, sau khi phép lạ xảy ra, các ông xác tín hơn niềm tin của mình vào Chúa Giêsu. Bằng chứng là các ông hỏi nhau : "Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?". Hỏi tức là trả lời. Chỉ có Chúa là Thiên Chúa mới có thể làm được điều đó.
Qua đó cho chúng ta thấy, tuyên xưng đức tin khi bình an, sau khi chứng kiến phép lạ thì rất dễ. Nhưng tuyên xưng đức tin trong đau khổ, trong khi gặp hoạn nạn rủi ro thì không dễ chút nào.
Hội Thánh như con thuyền vượt biển thế gian, luôn gặp sóng to gió lớn là sức chống phá của ma quỷ và tay sai của chúng. Nhìn lại lịch sử Giáo hội chúng ta thấy rõ điều đó. Sự bách hại Giáo hội thời sơ khai. Sự bách hại Giáo hội khắp mọi nơi qua mọi thời đại. Sự bách hại Giáo hội Việt Nam trong thời kỳ đầu. Tuy vậy, Giáo Hội luôn đứng vững và phát triển. Bởi vì, Giáo Hội là của Chúa. Chúa luôn can thiệp và đồng hành với Giáo Hội.
Gia đình, bản thân mỗi kitô hữu chúng ta cũng giống như con thuyền vượt biển thế gian. Có những lúc bình an. Có những lúc gặp sóng to gió lớn. Thử thách về đức tin. Thử thách về đời sống gia đình. Chúng ta có vượt qua được “những cơn cuồng phong” hay không là tuỳ thuộc vào chúng ta. Nghĩa là, trong thử thách, đau khổ, hoạn nạn rủi ro, chúng ta có cầu xin Chúa cứu giúp chúng ta không? Chúng ta có tin tưởng vào quyền năng của Chúa không? Nếu chúng ta chỉ dựa vào sức riêng của mình, hay dựa vào một thế lực khác ngoài Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ thất bại. Còn nếu chúng ta biết cậy dựa vào Chúa, tin tưởng phó thác vào Chúa chúng ta sẽ được Chúa cứu giúp. Mặc dầu có những lúc chúng ta cảm thấy như Chúa đang ngủ.
Có một người nọ ví cuộc đời của mình như một người lữ hành đang đi trên một bãi biển đầy cát. Khi nhìn lại cuộc hành trình, anh nhận ra hai điều kỳ lạ.
- Khi anh thành công, hạnh phúc, vui sướng… anh thấy có bốn dấu chân trên cát. Đó là hai dấu chân của anh và hai dấu chân của Chúa. Thiên Chúa đồng hành để chia sẻ niềm vui với anh.
- Khi anh thất bại, đau khổ, buồn sầu…anh chỉ thấy có hai dấu chân trên cát. Và anh nghĩ đó là hai dấu chân của mình. Thiên Chúa đã bỏ rơi khi anh thất bại. Thiên Chúa đã vắng bóng khi anh đau khổ.
Sau đó, anh thắc mắc với Chúa: “Khi con thành công, hạnh phúc…Chúa lại đồng hành với con, đi với con…Nhưng khi con thất bại, đau khổ…những lúc con cần Chúa nhất thì Chúa lại bỏ rơi con. Tại sao Chúa lại đối xử với con như thế?”. Chúa Giêsu trả lời: “Khi con vui thì Ta đi bên cạnh con, đi với con, song hành cùng con. Còn khi con buồn, đau khổ, thất vọng thì Ta lại vác con trên vai của Ta. Cho nên dấu chân trên cát là của Ta chứ không phải của con”.
Ngày kia, sau khi đã thoát khỏi sự cám dỗ nặng nề Thánh nữ Cartarina Sienna đã hỏi Chúa:
- Lạy Chúa, Chúa ở đâu khi con phải chiến đấu. Chúa Giêsu đã trả lời:
- Ta ở bên cạnh con để giúp đỡ con.
Lạy Chúa, Chúa luôn ở bên cạnh chúng con, đồng hành với chúng con trên mọi nẻo đường trần thế. Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng con. Chúa luôn cứu giúp chúng con trong cơn gian nan khốn khó. Chúng con hết lòng cám ơn Chúa. Xin cho chúng con hằng tin cậy phó thác vào quyền năng vô cùng của Chúa. Amen.
56. Vẫn chưa có lòng tin?
(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Nằm trong văn mạch 4:35-5:43, trình thuật 4:35-41 là một trong những đoạn trình bày quyền năng của Chúa Giêsu được biểu lộ cho các môn đệ sau khi Người đã giảng dạy (4:1-34): giải thoát khỏi nguy hiểm sự chết (4:35-41); khỏi quyền lực thù nghịch với Thiên Chúa (5:1-20), khỏi bệnh tật (5:25-34), và khỏi sự chết (5:21-24.35-43). Điểm chung của các trình thuật nầy là: - sự hiện diện của các môn đệ ( 4:35; 5:13; 5:31.37); - sự bất lực của con người - cầu cứu ở Chúa Giêsu (4:38; 5:3; 5:23; 5:26); - Chúa Giêsu giải thoát mọi sự dữ (4:39; 5:12-13; 5:29; 5:41tt); - Người đòi hỏi lòng tin (4:40; 5:34.36). Cấu trúc của đoạn 4:35-41 có thể phân ra như sau: 1- Nhập đề: bối cảnh và nhân vật (cc. 35-36); 2- Chúa Giêsu làm sóng gió lặng yên (cc. 37-29); 3- Kết luận: Thắc mắc của cả Chúa Giêsu và các môn đệ (cc. 40-41).
Câu 4:34 là móc nối giữa hai đoạn 4:1-34 và 4:35-5:43. Như khi ở riêng với các môn đệ, Chúa Giêsu đã thường cắt nghĩa mọi sự cho họ, Người cũng sẽ tỏ chân dung của Người qua những việc quyền năng Người thực hiện khi Người và họ đã tách khỏi dân chúng (x. 3:9.20.32; 4:1). Họ cần “ở với Người” (c. 36) như lần đầu tiên họ được kêu gọi để có thể có kinh nghiệm sâu đậm về Người (3:14; x. 5:37). “Buổi chiều” trong Marcô thường là khung cảnh của những việc không tốt lành sẽ xảy đến (4:35; x. 6:47; 11:11; 14:17; 15:42). Đây là lần duy nhất Marcô nói là các môn đệ “đem Người theo” (paralambano). Động từ nầy nói đến quan hệ giữa Chúa Giêsu-môn đệ. Thông thường Người đem các môn đệ theo để tỏ cho họ chân tính của Người (9:2), cho họ hiệp thông vào cuộc thương khó của Người (10:32; 14:33). Ngược lại, các môn đệ đem Người theo và cuối cùng tỏ lộ cho Người thấy sự yếu đuối của họ (4: 40).
Trong hành trình sang bờ bên kia, các môn đệ kinh nghiệm ba điều: vũ lực của gió bão kéo theo nguy hiểm chết người, sự bất lực của con người và quyền năng của Chúa Giêsu (cc. 37-39). Gió bão được kể là quyền lực thù nghịch gây hại cho con người. Chúa Giêsu ngăm đe và ra lệnh “Im đi!” cho ma quỷ và gió bão (x. 1:25; 3:12; 4:38; 8:33; 9:25). Các môn đệ thấy lâm nguy cho tất cả “chúng ta”, nhưng lại tỏ ra bất lực chế ngự gió bão, nên phải làm Người chỗi dậy (egeirò). Mỗi lần Chúa Giêsu “làm ai chỗi dậy” là Người đã chữa lành người đó (x. 1:31; 5:41; 9:27). Trái lại, các môn đệ chờ đợi sự can thiệp từ phía Người. Việc Người ngủ trong khi thuyền gặp bão tố cho thấy Người không sợ bị hại do những gì có thể xảy ra (x. 13:36; 14:37.40tt). Không cần ngăn ngừa và tránh né, vì Người làm chủ trên gió bão.
Khi gió bão đã biến mất, Chúa Giêsu đặt câu hỏi với các môn đệ, cũng như họ cũng tự hỏi về Người là ai. Hai câu hỏi của Người không mâu thuẫn nhau; trái lại, mở một con đường. Trong tình huống gió bão có thể gây chết người, vì đã để mình cuốn lôi bởi vũ lực vô nhân tính, nên các môn đệ đã cảm nghiệm cách thâm sâu sự bất lực mà biểu hiện của nó là sự sợ hãi. Trái lại, cũng trước nguy hiểm ấy, nếu để Chúa Giêsu và sự hiện diện của Người dẫn dắt vô điều kiện, sẽ không cảm thấy bị đe dọa và không sợ hãi. Đó là đức tin vô điều kiện Người muốn nơi môn đệ của Người (x. 11:22). Còn câu tự hỏi của các môn đệ rất giống với những câu hỏi của dân chúng trước đây, chỉ sự kinh ngạc và thán phục trước công cuộc cao cả tỏ hiện quyền năng của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu (x. 1:27).
Biết Chúa Giêsu không chỉ bằng tri thức, mà cả kinh nghiệm bản thân. Đức tin cần thiết để nhận biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đang thực hiện những điều không thể cho con người, và để sống hiệp thông với Người (x. 4:11).
57. Lạy Thầy cứu chúng con với, chết mất
(Suy niệm của Lm. Thu Băng, CRM)
1. Lo sợ và tin tưởng
Kinh nghiệm cho thấy Sợ hãi vẫn đi theo đời sống của con người và mỗi chặng đường cuộc sống là một cái gì đó làm cho con người sợ hãi.
Từ cái sợ mơ hồ của thời còn nhỏ như:
* Sợ người lớn, sợ bóng gió, sợ con vật.
Đến cái sợ chính đáng của tuổi trưởng thành:
* Sợ thất nghiệp, sợ gia đình phân tán, sợ thiên tai, sợ chiến tranh, sợ chết...
Câu chuyện của Phêrô đi trên biển hôm nay gợi lại cho chúng ta thấy phần nào cái sợ của con người và niềm tin mỏng manh vào Chúa.
a. Sợ hãi chiếm một địa vị khá lớn trong cuộc sống:
- Đứng trước một nghịch cảnh, ta thấy lòng nao nao rung động.
- Nhìn núi cao hùng vĩ, ngó vực thẳm hun hút, chân đứng trên đá vững chắc cũng vẫn thất run run trong lòng.
- Gặp một con thuyền lạ tiến đến với súng ống lăm le chĩa vào thuyền, ta thấy nguy cho tính mạng.
- Một tiếng động trong đêm hoang vắng làm ta lạnh xương sống.
- Nhìn vào thực tại cuộc sống còn biết bao nhiêu cái lo cái sợ khác nữa: Thất nghiệp lấy gì mà trả tiền nhà? Sợ thiếu thuốc men, sợ bệnh tật, sợ con hư thân, sợ cả bà nội tướng la nữa... Sợ hãi chỉ vì lúc đó cái ý tưởng nguy nan ám ảnh làm ta mất bình tĩnh, tâm thần rối loạn.
b. Ngước nhìn về lịch sử con người từ thời thượng cổ:
- Ađam Evà cũng đã mang cái sợ khi lỗi luật Chúa: Ăn trái cấm, trần truồng nên không dám bước ra khỏi bụi cây (Gen 3:9-10).
- Con trẻ sơ sinh vừa lọt lòng mẹ đã cảm thấy sợ hãi mà khóc.
c. Sợ có nhiều cấp bậc và nhiều phương diện:
- Kẻ bạo động giết người vì sợ người khác giết mình.
- Kẻ độc tài như Tần Thủy Hoàng tàn sát, đốt làng vì sợ dân hại mình.
- Các cường cuốc trên thế giới võ tranh ráo riết cũng vị sợ mình bị tiêu diệt.
- Tóm lại, thế giới này là thế giới sợ hãi, ngoại trừ kẻ điếc không sợ súng còn chúng ta ai cũng sợ cả.
Nhưng phải nhận thực: Chỉ nên sợ cái nào đáng sợ, lại phải biết trấn át sợ hãi để mình bình yên.
- Chúa Kitô sau khi truyền cho sóng gió im lặng, Ngài bảo các môn đệ: "Sao các con sợ? Các con không có đức tin ư?" Điều đó không khác gì Ngài nói: "Các con không biết Thầy ở cùng thuyền sao? Các con không biết Thầy có quyền năng lấn át gió biển sao? Thầy đã chẳng cho Phêrô đi trên mặt biển đến với Thầy sao? Vậy sao các con sợ chìm thuyền?"
2. Có Chuyện kể rằng:
a. Một người làm xiệc rất giỏi, ông đi trên một sợi dây từ nóc nhà này qua nóc nhà kia, hai tay kẹp thêm hai người nữa. Ông vừa đi vừa nhảy mà không sao cả. Hai người hai bên còn cười và dẫy dụa mua vui cho khán giả.
Nhìn xuống dưới đất, ông làm xiệc thấy em bé đứng há hốc miệng nhìn lên cách thú vị. Ông hỏi: "Em có tin tôi cũng bế em trên dây được không?" Em trả lời: "Tôi tin chứ". Nhưng khi ông làm xiệc tới gần, em bé liền chạy mất. Đó là tin tưởng ngoài miệng nhiều hơn là tin tưởng trong lòng. Còn kẻ tin tưởng thật vào Chúa thì khác.
Một Chuyện khác:
b. Một cậu bé 5 tuổi đang ngủ ngon trên thuyền, bỗng thức giấc vì bão nổi lên. Cậu mở mắt thấy mọi sự đang chìm trong bóng tối. Tiếng gió lách qua khe cửa rít lên từng cơn. Bỗng bé xao động, cậu hoảng hốt goị cha:
- Cha ơi. Cha ơi! Con sợ quá.
Người cha nghe tiếng con hối hả đáp lời:
- Cha đây con. Nghe tiếng cha cậu đáp vọng lại: Cha đâu? Con không thấy?
Cậu đưa tay quờ quạng lung tung. Đụng được vào cha, cậu níu lất cha. Cha ôm con vào lòng, vỗ về và ru cậu ngủ lại trong giấc ngủ lại.
Mặc dù trời vẫn mưa, bão vẫn lớn, màn đêm vẫn dầy đặc, nhưng sợ hãi trong lòng cậu bé không còn nữa.
Trong những ngày đau khổ của cuộc sống trần gian, những lúc hiểm hoạ cuộc đời, chớ gì chúng ta cũng biết cầu cứu Chúa với niềm tin, một niềm tin phó thác. Chỉ vậy thôi, không cần gì hơn nữa, chúng ta sẽ cảm thấy an tâm với cuộc sống.
Chúa sẽ không cất lấy sự lo lắng của chúng ta cho tới khi ta quyết định phó thác cho Ngài.. Lăng xả vào lòng Ngài và Ngài sẽ vỗ về ta vào trong giây phút bình an. Chúa không chịu thua chúng ta khi chúng ta biết phó thác nơi Ngài.
58. Bão tố yên lặng
(Suy niệm của Lm. Minh Vận, CRM)
Lịch sử tường thuật một phép lạ sau đây: Khi Đô Đốc Magella hướng dẫn đoàn tầu thám hiểm Phi Luật Tân, vừa ra giữa biển khơi thì gặp cơn bão dữ dội, khiến đoàn tầu đắm chìm hầu hết, chỉ còn duy chiếc tầu của Đô Đốc đang bồng bềnh trôi dạt trên sóng nước. Mọi người đều kinh hoàng khiếp sợ, tụ họp lại trên bong tầu để chờ đợi tử thần. Nhìn thấy bên cạnh mình, một thiếu phụ ẵm đứa con thơ, Đô Đốc xin được ẵm đứa bé. Rồi ông bồng nó trên tay, dâng lên trời cao và dâng lời cầu nguyện thống thiết lên Chúa: "Lạy Chúa, chúng con là những kẻ tội lỗi, đáng chết chìm dưới vực thẳm này, nhưng xin Chúa hãy đoái thương nhìn đến em bé thơ ngây vô tội này, mà tha thứ tội lỗi cho chúng con". Lịch sử xác nhận sự kiện lạ lùng này bằng lời chứng: "Lời ông nguyện vừa dứt thì cơn bão tố yên lặng" (Trích sách "Gặp Gỡ Chúa" trang 94).
I. TẠI SAO CHÚNG CON SỢ HÃI
Cũng một tâm trạng hoảng sợ như đoàn thám hiểm của Đô Đốc Magella trên đây, các Tông Đồ cũng hãi hùng kinh khiếp khi thấy phong ba nổi lên dữ dội, khiến các ngài tới đánh thức Chúa dậy và có vẻ trách giỗi Chúa: "Thưa Thầy, chúng con hầu chết chìm mà Thầy cứ làm ngơ, không quan tâm gì sao?" Chúa chỗi dậy ngay và quát bảo giông tố: "Hãy im đi! Hãy im đi!" Với lời uy quyền đó của Chúa, lập tức giông tố ngừng và biển lặng như tờ. Quay lại nhìn các môn đệ, Chúa hỏi như quở trách các ông: "Tại sao các con sợ hãi? Các con không có Đức Tin ư?" Thấy phép lạ Chúa làm, lại được nghe lời Chúa khiển trách, các Tông Đồ tự cảm thấy hổ thẹn vì thiếu lòng tin nơi Thầy, nên các ngài kinh hãi nói với nhau: "Người là ai mà gió bão và giông tố cũng đều phải vâng lệnh Người?"
II. TRẦN GIAN LÀ BIỂN KHƠI
Trần gian là biển khơi, lúc phẳng lặng, lúc gợn sóng, lúc phong ba giông tố. Nhân loại như đoàn lữ hành vượt biển, cầu mong tới bến bình an.
Trần gian lúc được sánh ví như là biển khổ, như thung lũng nước mắt; như nơi giao chiến với biết bao kẻ thù, phải vật lộn vất vả, đổ mồ hôi sôi nước mắt vì sinh kế.
Nhưng với cái nhìn hy vọng và lạc quan, Thánh Tông Đồ Phaolô đã nói với chúng ta: "Đây là thời thuận tiện, đây là ngày cứu độ" (1 Cor 6:2). Như thế, thời gian Chúa ban cho chúng ta được sống trên trần gian này, lại không phải là một ơn ban, một cơ hội thuận tiện giúp chúng ta lập công luyện đức, để thánh hóa bản thân và cứu độ tha nhân, cùng nhau phụng sự tôn thờ và yêu mến Thiên Chúa để đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu mà Chúa đã sắm sẵn cho chúng ta là con cái Chúa trên Quê Trời sao?
Toàn thể nhân loại, nhất là con cái Chúa, sống trên trần gian này là như đoàn lữ hành đang trên đường tiến về Quê Hương vĩnh cửu, lòng luôn khát mong đạt tới bến bình an, nơi hạnh phúc, nơi mà lòng chúng ta được toại nguyện, được thỏa mãn trong Chúa là cùng đích tối chung của chúng ta.
Kết Luận
Để đạt tới cùng đích mong chờ của ơn gọi làm con cái Thiên Chúa, chúng ta cần phải đặt trót niềm tin cậy phó thác nơi một mình Chúa. Có Chúa hiện diện nơi cuộc sống, được Chúa ngự trong tâm hồn, chúng ta còn sợ hãi gì? Chúa đã chết thay cho chúng ta, để tái sinh chúng ta trong ơn thánh, cho chúng ta được phục hồi ơn làm con cái Chúa nhờ công nghiệp Ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu Kitô Con Chúa, chúng ta còn sợ hãi gi?
Vậy chúng ta hãy sống cho Chúa, hãy biến đổi và trở nên một tạo vật mới của Chúa. Nếu chúng ta có tâm hồn trong sạch thánh thiện, luôn sống trong ơn nghĩa Chúa, giông tố bão táp có nổi lên mạnh mẽ thế nào đi nữa, đời sống chúng ta cũng sẽ luôn được an bình và được thưởng nếm niềm vui sướng hạnh phúc chân thật của Chúa ngay trên trần gian này.
59. Bão biển – Lm VIKINI
Cơn bão số hai đổ bộ vào tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng từ chiều 24 đến 25 tháng 05 năm 1989, sức gió giật cấp 12 kèm theo mưa to đổ xuống như thác. Đây là cơn bão mạnh nhất từ trước đến nay ở tỉnh này. Thống kê đầu tiên cho biết gần 500 người bị chết và mất tích. Hàng trăm người bị thương, hàng vạn ngôi nhà, nhiều trường học, bệnh viện, trạm trại, kho tàng … bị sụp đổ, hàng nghìn tầu thuyền bị chìm, hư hỏng, thất lạc. Trên 50.000 mét khối kinh mương thủy lợi bị vỡ lở … Bị tổn thất rất to lớn chưa thể tính hết được.
Chỉ một cơn bão ở một miền nhỏ so sánh với cả nước, và nếu sánh với cả địa cầu nó chỉ là một chấm nhỏ đã phải chịu một cơn bão khủng khiếp như thế, thì trên trái đất này còn phải chịu bao nhiêu cơn bão khủng khiếp đến chừng nào! Biển cả đối với loài người vẫn là mối nguy cơ lớn đe dọa ghê gớm, một mãnh lực không thể chế ngự được. Trước nguy cơ của biển, con người quá bé nhỏ mong manh không ai dám cậy tài, cậy sức vào bất cứ một con tàu nào, dù nó là con tàu khổng lồ như Titan, hay tối tân như con tàu nguyên tử, chỉ đụng sơ vào tảng băng, đá ngầm đều vỡ tan, chìm mất tích dưới đáy đại dương.
Biển hồ Tibêria xưa tới nay vẫn nổi tiếng sóng gió đột ngột nổi lên dữ dội do những luồng gió thổi từ cao nguyên Giôlăng tới. Thêm vào đó, thời các tông đồ, thuyền bè chỉ là mấy miếng gỗ, tre, nứa thô sơ, khi gặp bão biển, chỉ còn cách nộp mình cho thần chết. May cho các môn đệ, các ông đã biết Đức Giêsu, Đấng đã trừ khử quỷ dữ (Mc. 1, 25), Đấng chế ngự thần chết (Mc. 5, 35-43), Ngài đang ngủ ở đàng sau thuyền, chắc chắn sẽ khắc phục được bão biển.
Nhưng sao Ngài vẫn ngủ yên trước cuồng phong dữ dội? Thật lạ lùng! Các ông không thể kiên nhẫn chờ Ngài thức dậy. Sóng đã ập vào thuyền đầy tràn nước rồi, mau mau chạy đến kêu gào Ngài cứu nguy: “Lạy Thầy, xin Thầy cứu vớt, chúng con chết mất”.
Chìm thuyền, chết đến nơi rồi, thế mà Ngài còn than trách: “Sao nhát đảm, hỡi kẻ yếu lòng tin?”. Lòng tin quá yếu, nhưng các ông vẫn còn một chút tin tưởng cầu xin Ngài, nhờ đó, Thầy đã quát bảo bão biển phải im lặng ngay. Kinh ngạc bao nhiêu, Ngài là ai mà bão tố, sóng gió biển cả phải tuân lệnh. Thứ mãnh lực vô tri, vô giác, sao biết nghe lời Ngài? Sao những thứ có tri, có giác, không biết nghe lời Ngài mà lặng yên đi, đừng nổi loạn nữa? Tại sao loài người dám nổi loạn chống lại Ngài? Phải chăng họ cậy có tri, có giác, có tài? Vì cậy có tri, có giác, có tài nên đã bị những thứ vô tri, vô giác, vô tài nổi loạn chống lại loài người. Chừng nào loài người mới biết mở mắt ra thấy mình quá yếu đuối, quá bất lực trước thiên nhiên vô tri giác, lúc đó loài người mới biết chạy đến cầu cứu Đấng đã dựng nên và an bài mọi sự. Thiên Chúa nhiều lần đã dạy cho loài người những bài học đích đáng như đại hồng thủy, động đất, cháy rừng, hạn hán, bệnh tật để đừng bao giờ dám cậy mình đòi bằng Thiên Chúa hay chối bỏ Ngài.
Các môn đệ, phải chăng lúc ra khơi cũng tự mãn cho mình là dân biển lành nghề, chẳng sợ chi ai, mặc kệ Thầy nằm đó, Thầy đang nhờ cậy ta vượt biển! Viết đoạn Phúc Âm này, Marcô không phải chỉ giản dị kể lại một phép lạ, mà chủ đích làm nổi bật câu hỏi: “Ngài là ai mà bão và biển phải tuân lệnh?”. Không phải Ngài vô tình dẫn môn đệ sang bờ biển đối diện bên kia, miền đất của lương dân thù địch với Galilê, miền đất của dân Do thái. Suốt cuộc đời Ngài phải trải qua những cuộc chiến gay go chống lại kẻ tin ma thờ quấy, sự dữ, tội lỗi, bệnh tật và cái chết khốc liệt. Những sự dữ đó Kinh thánh thường gọi đêm tối, vực sâu biển cả, Ngài ngủ trong đêm tối giữa biển cả trần gian, bao nhiêu cuồng phong bão lực đang phá xiềng, phá xích, xổ lồng tung hoành khủng khiếp. Giấc ngủ kinh hoàng của Ngài là cuộc thương khó; Ngài ở đàng lái, cuối thuyền, dựa đầu vào gối mà ngủ giữa đêm bão biển. Cuối đời Ngài, Ngài cũng phải dựa đầu vào cây thập giá mà chết giữa những địch thù khát máu. Hôm nay, giữa bão biển đêm tối, Ngài muốn thao dượt đức tin non yếu của các ông, để ngày mai giữa cơn khủng hoảng thương khó của Ngài, các ông “đừng sợ”. Nhưng các ông vẫn khiếp sợ chạy trốn. Phúc cho các ông, Ngài thức dậy, dẹp yên sóng gió. Ngài chỗi dậy từ trong kẻ chết cho các ông được bình an! được chỗi dậy với Ngài trong vinh quang, Ngài bảo trước cho Phêrô: “Khi con chỗi dậy, con hãy làm cho anh em con nên vững mạnh” (Lc. 22, 32).
Giờ đây Phêrô đang kể lại kinh nghiệm sống chết này cho giáo đoàn Rôma đang lâm cảnh cuồng phong bão táp gây nên cảnh chết chóc tử đạo khốc liệt để họ kiên trì vững mạnh trong đức tin mà biết dựa đầu vào Đức Giêsu mà chỗi dậy trong “Đấng đã chết và sống lại vinh quang vì họ” (2Cr. 5, 17).
Lạy Chúa, biển đời đầy dẫy những nguy hiểm: “nguy hiểm về sông ngòi, nguy hiểm về trộm cướp, nguy hiểm về đồng bào, nguy hiểm về dân ngoại, nguy hiểm nơi thành thị, nguy hiểm chốn hoang vu, nguy hiểm trên biển cả, nguy hiểm vì anh em giả dối … nào ai yếu đuối mà tôi không yếu đuối? Ai vấp ngã mà tôi không bỏng xót!” (2Cr. 11, 26-29).
Lạy Chúa xin cho chúng con biết dựa đầu vào Chúa mà chỗi dậy luôn luôn.
60. Những đợt sóng
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Có lẽ chẳng ai lạ gì với câu ca dao này: “Người ta đi biển có đôi, còn tôi đi biển mồ côi một mình”. Đó là nói về tình trạng một phụ nữ có chồng nhưng chẳng nhờ chồng được gì, cứ phải mình ên lo toan mọi thứ cho gia đình.
Nói đến sóng là nói đến nước, sông và biển. Sóng có nhiều loại: Sóng lớn (to), sóng nhỏ, sóng cao, sóng thấp, sóng cồn, sóng cả, sóng bạc đầu, sóng thần,… Sóng còn mang nghĩa khác như sóng truyền hình, sóng phát thanh, sóng điện từ,… thậm chí còn gọi là làn sóng người. Chắc hẳn nguy hiểm nhất và đáng sợ nhất là sóng cám dỗ, sóng tội lỗi, sóng mê đắm, sóng thù hận,… Các xu hướng xấu càng ngày càng xuất hiện nhiều, đó cũng là những “con sóng” nguy hiểm cần phải lưu ý!
Về điện tử, sóng còn gọi là bước sóng, có chuyển động với tần số dài hoặc ngắn, và có tác dụng khác nhau. Ví dụ: Sóng phát thanh có tần số ngắn thì có thể phát đi xa, sóng phát thanh có tần số dài thì có thể phát đi gần. Trong vật lý, sóng là sự lan truyền của dao động, sóng có thể mang theo năng lượng, lan truyền trong nhiều môi trường khác nhau, cũng có thể bị đổi hướng (bởi khúc xạ, phản xạ, tán xạ, nhiễu xạ,...), và có thể thay đổi năng lượng (bởi hấp thụ, bức xạ,...), thậm chí là thay đổi cấu trúc (như thay đổi tần số, môi trường phi tuyến tính,...).
Trong ca khúc “Sóng Về Đâu”, cố NS Trịnh Công Sơn đã từng nói với biển: “Biển sóng biển sóng đừng xô tôi, đừng xô tôi ngã dưới chân người; biển sóng biển sóng đừng xô nhau, ta xô biển lại sóng về đâu?”.
Sóng là hình tượng của nỗi gian truân, cực khổ của con người. Không ai muốn gặp đau khổ, nhưng chính đau khổ mới làm cho người ta thành nhân. Vả lại, thử thách càng lớn, cơ hội càng lớn. Ngạn ngữ Phi châu có câu: “Biển lặng chẳng tạo nên thủy thủ tài ba”. Tục ngữ Việt Nam cũng nói: “Lửa thử vàng, gian nan thử sức”. Chính gian khổ cho chúng ta biết ai là người đáng là thầy ta hay không.
Thomas Carlyle (1795-1881, triết gia, nhà văn châm biếm, nhà viết luận, sử gia và nhà giáo người Tô Cách Lan) đã nhận định: “Tai ương là bụi kim cương mà Thiên Đường dùng để đánh bóng châu báu” (Adversity is the diamond dust that Heaven polishes its jewels with).
Từ cổ chí kim – và có thể cho đến tận thế, có lẽ không ai phải lao đao chịu khốn khổ như Thánh Gióp, thậm chí còn bị Satan thử thách đủ kiểu (Sách Gióp, chương 1). Nhưng dù thế nào thì ông Gióp vẫn một niềm tín trung. Và rồi ngay giữa cơn bão táp, Đức Chúa đã lên tiếng trả lời ông: “Cửa đại dương, ai ra tay khép lại khi nước tuôn trào từ đáy vực sâu, khi Ta giăng mây làm áo nó mặc, phủ sương mù làm tã che thân? Đường ranh giới của nó, chính Ta vạch sẵn, lại đặt vào nơi cửa đóng then cài” (G 38:8-10). Rồi Thiên Chúa nói với ông Gióp: “Ngươi chỉ tới đây thôi, chứ không được tiến xa hơn nữa, đây là nơi các đợt sóng cao phải vỡ tan tành!” (G 38:11).
Trong tâm tình tạ ơn vì được Thiên Chúa giải thoát, tác giả Thánh Vịnh cho biết: “Họ vượt biển ngược xuôi nghề thương mãi, giữa trùng dương lèo lái con tàu, mắt đã tường việc Chúa làm nên và kỳ công Người thực hiện giữa dòng nước lũ. Chúa truyền lệnh khiến bùng lên bão táp, lớp sóng xô cuồn cuộn dập dồn. Họ nhô lên tận trời, nhào xuống vực sâu, lúc nguy hiểm, hồn xiêu phách lạc, bị quay cuồng, lảo đảo như say, khéo cùng khôn đã chìm đâu mất” (Tv 107:23-27). Thiên Chúa là Tạo Hóa, là Đấng cầm quyền sinh tử, Ngài có quyền “đẩy xuống âm phủ rồi lại kéo lên” (1 Sm 2:6). Quả thật, đúng như ông Gióp nhận định: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa!” (G 1:21). Xác định được như ông Gióp thì không gì phải lo. Nhưng muốn được vậy, vấn đề quan trọng là chúng ta có dám chấp nhận thân phận mình mà vẫn chúc tụng Chúa hay không. Điều này không dễ chút nào!
Có tin tưởng thì mới trung thành, và ai trung thành thì chắc chắn không phải thất vọng. Tác giả Thánh Vịnh nói về những người thành tín với Thiên Chúa: “Khi gặp bước ngặt nghèo, họ kêu lên cùng Chúa, Người đưa tay kéo họ ra khỏi cảnh gian truân. Đổi phong ba thành gió thoảng nhẹ nhàng, sóng đang gầm, bỗng đâu im tiếng, họ vui sướng, vì trời yên bể lặng và Chúa dẫn đưa về bờ bến mong chờ. Ước chi họ dâng lời cảm tạ vì tình thương của Chúa, và vì những kỳ công Chúa đã thực hiện cho người trần” (Tv 107:28-31).
Thánh Phaolô cho biết: “Tình yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi, vì chúng tôi nghĩ rằng: nếu một người đã chết thay cho mọi người thì mọi người đều chết. Đức Kitô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình” (2 Cr 5:14-15). Tình yêu có sức mạnh hơn cả tử thần, khả dĩ khiến người ta làm được những điều lạ lùng, ngỡ như không bao giờ làm được. Tình yêu biến đổi tất cả. Vì yêu thương mà người mẹ liều lấy thân mình che cho đứa con dù biết mình sẽ bị thương hoặc thiệt mạng. Vì yêu thương mà Thánh Lm Maximilian Maria Kolbe (1894-1941, Dòng Phanxicô) đã dám chết thay cho một tử tù. Đó là tình yêu vị tha (vì người khác) chứ không hề có chút gì vị kỷ (vì mình).
Loại tình yêu cao thượng như vậy được Đức Kitô gọi là “tình yêu vĩ đại nhất” (Ga 15:13). Và chính Ngài đã thể hiện tình yêu này vì yêu thương và để cứu độ các tội nhân chúng ta: Ngài bị đóng đinh vào Thập Giá và chết trên đồi Can-vê. Thật hợp lý khi Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta phải “sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình”.
Và vì thế, Thánh Phaolô xác định: “Từ đây, chúng tôi không còn biết một ai theo quan điểm loài người. Và cho dù chúng tôi đã được biết Đức Kitô theo quan điểm loài người, thì giờ đây chúng tôi không còn biết Người như vậy nữa. Cho nên, phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi” (2 Cr 5:16-17). Người ta luôn thích mọi thứ đổi mới (quần áo, vóc dáng, giày dép, điện thoại, xe cộ,…), nhưng có lẽ người ta chưa thực sự quan tâm việc đổi mới tâm hồn, đặc biệt là tâm linh. Chúng ta đã được Đức Kitô đổi mới, nhưng chúng ta chưa tích cực duy trì sự đổi mới đó nên tâm hồn chúng ta vẫn có cái gì đó “cũ” lắm!
Mỗi khi con sóng duyềnh lên, nó không chỉ “đổi mới” mà còn đem theo phù sa bồi đắp cho vùng đất đó. Tâm hồn chúng ta cũng cần có những đợt sóng mới để đổi mới, để hoàn thiện. Các đợt sóng đó vẫn hằng ngày như thủy triều: Sóng tình yêu, sóng ân sủng, sóng thứ tha, sóng thương xót,… Ước gì “vùng đất” chúng ta để cho Sóng Tình Chúa biến đổi bất cứ lúc nào!
Trình thuật Tin Mừng hôm nay là đoạn Mc 4:35-40, nói về việc Đức Giêsu dẹp yên sóng gió (tương đương Mt 8:23-27 và Lc 8:22-25).
Hôm ấy, khi chiều đến, sau khi giảng dạy cho dân chúng về một loạt các dụ ngôn (người gieo giống, ngọn đèn, cái đấu, hạt giống tự mọc, hạt cải), Đức Giêsu bảo các môn đệ cho thuyền sang bờ bên kia. Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Ngài đi, có những thuyền khác cũng chèo đi theo Ngài. Bỗng dưng một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước. Trong khi đó, Đức Giêsu đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ thấy Thầy “vô tư” thế không biết, nên họ vội đánh thức Ngài, gọi giật dậy và hốt hoảng la toáng lên: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”.
Có lẽ chúng ta cũng như các môn đệ xưa, chứ chẳng “ngon lành” gì hơn ai, ở ngay bên Thầy Giêsu mà vẫn chưa thấy an tâm khi gặp giông tố cuộc đời. Gọi như điện giật thế thì ai mà chợp mắt nổi. Ngài thức dậy, rồi ngăm đe gió, và truyền cho biển phải “im ngay và câm ngay”. Thế là gió liền tắt, và biển lặng như tờ.
Đâu vào đấy rồi, Ngài nghiêm mặt và nghiêm trách các ông: “Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”. Họ chỉ có nước ngậm tăm chứ nói chi được. Đúng quá mà! Cãi gì nổi? Các ông hoảng sợ – vừa sợ vì thấy phép lạ vừa sợ vì Thầy mắng thẳng, rồi họ xì xầm với nhau: “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”. Theo Thầy vì tin Thầy hay thích điều gì ở Thầy mà giờ này còn hỏi nhau “người này là ai” vậy chứ?
Vâng, thật buồn! Buồn cho họ và buồn cho chính chúng ta, vì chúng ta cũng vẫn “thắc mắc” như vậy, dù chúng ta không nói ra thôi. Chúa Giêsu cũng buồn, Ngài không buồn vì Ngài chưa được chúng ta tin thật, mà Ngài buồn cho đức tin của chúng ta còn non nớt, còn ấu trĩ, chỉ chạy theo “sự lạ” chứ chưa “bén rễ sâu” vào đất-ân-sủng và chưa lưu thông “nhựa” của Cây Nho.
Kinh Thánh đã cho chúng ta biết chắc rằng Thiên Chúa là “Đấng gìn giữ chúng ta, không để chúng ta lỡ chân trật bước”, chắc chắn “Ngài không ngủ quên” và cũng “không chợp mắt ngủ quên” bao giờ (Tv 121:3-4). Thiên Chúa không hề vô tâm vô tính như chúng ta tưởng, đừng suy bụng ta ra bụng người! Miệng thì nói tin, nhưng khi gặp sóng đời duyềnh lên là chúng ta hốt hoảng ngay, mà sóng đời đâu đã to gì cho cam, chỉ mới “lăn tăn” thôi! Chúng ta có đáng trách không nhỉ?
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết vững tay chèo, chống, bát, cậy,... dù sóng đời nhỏ hay to. Chúng con không dám xin Ngài đưa thuyền của chúng con ra khỏi vùng biển động hoặc nước xoáy, nhưng xin Ngài làm Hoa Tiêu hướng dẫn chúng con chèo lái để có thể vượt qua mọi con sóng dữ. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
61. Bão tố – Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
Hôm qua ngồi nghe sư huynh Phong giảng tĩnh tâm tại giáo xứ Lộ Đức, Hoa Kỳ, tôi thấy rùng mình khi thấy những cô bé Việt nam bị bán sang các lầu xanh bên Cambodia. Có những em mới chỉ hơn mười tuổi. Kết quả một số em bị mắc bệnh liệt kháng và đã sớm kết thúc cuộc đời trong hoang lạnh. Có cảnh bé thơ Việt nam bị bán đi với giá hai trăm đô. Nhưng em bị trả lại vì có bệnh liệt kháng. Suýt nữa em đã bị giết ngay trước mặt người mua. May thay, đứng trước cảnh đau lòng đó, người mua đành hy sinh mất hai trăm để cứu mạng em.
Những cảnh tang thương đó đã đập vào mắt các bạn trẻ Việt nam hải ngoại. Sư huynh lạc quan về giới trẻ Việt nam Hải ngoại. Chỉ cần năm ngàn đô để cứu các cô gái kém may mắn. Nhưng các bạn trẻ ở Los Angeles đã lạc quyên được mười lăm ngàn. Với số tiền lớn gấp ba như thế, sư huynh đã hết sức cảm động và đầy tin tưởng xông pha đi tìm đường cứu sống những cô gái đó. Nhiều nơi các bạn trẻ, như tại Lộ Đức, tự động đứng ra rửa xe, lạc quyên, hớt tóc giúp người nghèo khổ, bệnh tật, già nua, xây trường học v.v.
Tất cả những khốn cùng của dân tộc đều do sự nghèo đói. Đứng trước biển cả nghèo đói bao la của dân tộc, nhiều người đã tự hỏi: Thiên Chúa ở đâu? Chúa có biết gì về những khốn cùng của kiếp người không? Chúa đang ngủ hay thức? Thất vọng tràn trề. Thất vọng như những môn đệ của Chúa trên khoang thuyền năm xưa.
Hôm ấy, sau khi rời đám đông sang bờ bên kia (x. Mc 5:35), Chúa Giêsu đã lôi cuốn một số thuyền theo Người. Chắc lúc đó trời yên bể lặng nên các thuyền mới có thể nối đuôi nhau như thế. Các thuyền đi đông vừa vui vừa cảm thấy an toàn khi hữu sự. Chúa Giêsu cũng chỉ là một người ngồi trong khoang thuyền nào đó mà thôi. Gió biển thổi lên mát quá. Chúa chìm vào giấc điệp bao giờ không hay. Chắc Chúa phải ngủ say lắm mới không nghe tiếng các môn đệ đang thi nhau thét gào cùng sóng biển.
Gió rít mạnh. Các con thuyền lắc lư quá đến nỗi nước trào vào đầy khoang thuyền (x. Mc 5:38). Mạnh đến thế mà sóng gió cũng không kéo Chúa ra khỏi giấc nồng. Đó là dấu chứng tỏ, sau một ngày hoạt động mục vụ, Chúa bị dân chúng “quần thảo” dữ dội lắm. Nhưng như thế mới biết tâm hồn Chúa bình an chừng nào! Quả thế, “ai có tâm hồn trong sạch, mới ngủ được. Và ai ngủ được đều có tâm hồn trong sạch.”(Péguy 1962:27) Đố ai ngủ được như Chúa!
Nhưng Chúa càng bình an, các môn đệ càng bấn loạn lên. Bao nhiêu chiếc thuyền vẫn không thể nương dựa nhau trong cơn sóng bão. Bao nhiêu ngư phủ lành nghề vẫn không đủ tài trí bảo đảm an toàn cho bấy nhiêu sinh mạng đang treo sợi mành. Vận dụng hết năng lực vẫn không tát hết nước ra khỏi các khoang thuyền. Tình hình càng lúc càng nguy ngập. Bí quá, các môn đệ mới chợt nhớ đến Thày như giải pháp cuối cùng. Các ông vội vàng đến kéo Chúa ra khỏi giấc nồng. Các ông không ngại gài thêm một lời trách móc: “Thày ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thày chẳng lo gì sao?” (Mc 5:38) Đối với các ông, Thày thuộc loại người “vô ăn vô lo.” Sao Thày vô tư đến thế?!
Choàng tỉnh khỏi giấc nồng, Thày liền bắt tay vào việc. Các ông nghĩ, nếu mình không đánh thức, chắc chìm xuống đáy biển Thày vẫn còn ngủ. Nhưng thực ra, họ đánh thức Thày, hay Thày đánh thức họ? Thực tế, họ còn ngủ sâu hơn Thày nữa. Họ ngủ vùi trong sự hèn nhát và vô tín (x. Mc 5:40). Bởi vậy, sau khi dẹp tan biển cả, Chúa lôi các ông ra khỏi cảnh tối tăm. Té ra, chính họ mới cần đánh thức, chứ không phải Chúa. Chứng kiến cảnh Chúa ra tay uy quyền trên biển cả, họ mới ngạc nhiên về quyền năng vô biên của Chúa. Từ đó, họ mới biết Chúa là ai.
Nếu chỉ là người phàm, hẳn Chúa không thể nào có quyền năng lớn lao như vậy. Trước sức mạnh biển cả, họ mất bình tĩnh. Nhưng trước quyền năng của Chúa, họ mới “hoảng sợ.” (Mc 5:41) Biển cả có gầm thét cũng chỉ làm cho các ông đâm lo vì sự bất lực của mình. Nhưng quyền năng Chúa mới thực sự làm cho các ông phải đứng trước một thần lực lớn lao trổi vượt hơn thủy thần như Bơhêmốt, Giao long, Raháp. Biển cả vẫn là nơi quỷ dữ hoành hành. Như thế, “Chúa Giêsu chứng tỏ thần lực của Người trên quyền lực sự dữ.” (Các Giờ Kinh Phụng Vụ 2005:184) Nếu không là Thiên Chúa, làm sao Chúa Giêsu có thể có quyền toàn năng đến như vậy?!
Đứng trước những thống khổ mênh mông như biển cả của hàng triệu người Do thái đã bị Đức Quốc Xã tiêu diệt hồi thế chiến thứ hai, ĐGH Bênêđictô XVI cũng đã ngạc nhiên về sự im lặng của Chúa. Có lẽ cũng như các môn đệ trên biển cả, ĐGH cũng thắc mắc: “Thày chẳng lo gì sao?” (Mc 5,38) Câu hỏi đó đã dẫn nhiều người xa Chúa. Nhưng cũng chính thắc mắc đó lại đặt môn đệ trước một mầu nhiệm vô cùng lớn lao. Mầu nhiệm này vượt quá khả năng con người. Bởi thế, muốn đi sâu vào mầu nhiệm đó, con người phải có đức tin. “Chỉ có lòng tin tưởng vào Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng đã chiến thắng quyền lực sữ dữ, mới cho phép họ vượt qua sự sợ hãi.” (Các Giờ Kinh Phụng Vụ 2005:184) Đức tin trở thành sức mạnh khiến ta đứng vững trước tất cả mọi giông tố cuộc đời. Chỉ có đức tin mới là câu trả lời đích xác nhất cho những gì chúng ta đang quan tâm lo lắng hôm nay. Đức tin sẽ không trình bày một Chúa Kitô theo quan điểm loài người (x. 2 Cr 5:16), nhưng một Chúa Kitô đã chết cho mọi người theo đúng ý định Thiên Chúa.
Cám ơn Chúa vẫn cho đức tin sống mạnh trong các bạn trẻ Việt nam hôm nay. Nhìn kỹ vào niềm tin tuổi trẻ chúng ta sẽ thấy tất cả sức mạnh của niềm tin. Bạn trẻ đã mở ra một lối thoát mới cho những bế tắc hôm nay. Chúng ta có quyền hy vọng và học hỏi nơi các bạn!
62. Sao nhát thế? Anh em chưa có lòng tin.
Trên con đường theo Chúa Giêsu, mặc dù các môn đệ đã được Người đào tạo, dậy dỗ, uốn nắn… các ông vẫn chưa hiểu gì về đường lối của Chúa: Người đã giảng dậy, đã làm nhiều phép lạ nhưng các môn đệ vẫn sống trong sự mờ ảo của cuộc sống, các ông vẫn chưa làm sao hiểu được ý của Thầy Giêsu. Do đó, đã có lúc các ông tưởng Thầy mình là ma, đã có lúc các ông lánh xa Chúa, đã có lúc các ông phản ứng lại những lời nói, cách sống, cử chỉ, thái độ của Thầy mình. Đức tin của các môn đệ nhiều lúc tưởng như lu mờ, hay nói một cách khác các ông chưa có lòng tin. Tin Mừng Mc 1, 35-41 là một bằng chứng nói lên quyền năng vô biên của Chúa giống như sách Gióp khẳng định:” Chỉ Thiên Chúa là Đấng sáng tạo quyền năng, chủ tể muôn loài, muôn vật, chủ tể mọi sự”. Phép lạ Chúa Giêsu làm cho sóng to, gió lớn phải im bật nói lên quyền uy của Chúa. Đáng lẽ các môn đệ phải vui mừng vì Thầy có quyền năng khiến gió to, biển động im hơi lặng tiếng, các môn đệ lại hoảng hốt sợ sệt. Chúa Giêsu đã phải lên tiếng:” Sao nhát thế? Anh em chưa có lòng tin sao?”.
CÁI TRỚ TRÊU CỦA CÁC MÔN ĐỆ
Theo Chúa gần ba năm, các môn đệ đã được Chúa dậy bảo nhiều điều: Người đã nói thực tế, đã làm những phép lạ, đã dùng những dụ ngôn, những ví dụ xẩy ra chung quanh các môn đệ để làm sáng tỏ lòng tin của các ông, nhưng các ông vẫn còn u tối, các ông vẫn chưa cảm nghiệm được quyền năng và tư cách thần linh của Chúa Giêsu. Các môn đệ luôn tỏ ra không hiểu hay tỏ ra hiểu lờ mờ về Thầy mình. Các ông luôn mơ tưởng đến việc Chúa Giêsu sẽ khôi phục lại nước Israen và rồi các ông được ăn trên ngồi trốc trước mọi người khi Chúa Giêsu đăng quang làm vua theo ý nghĩ trần gian của các ông. Điều đó không lấy gì làm lạ khi phép lạ hôm nay xẩy ra. Bối cảnh phép lạ được Chúa Giêsu thực hiện vào một buổi chiều trên biển hồ. Thuyền của các môn đệ rời bến để qua bờ bên kia. Chi tiết này giúp chúng ta hiểu phép lạ diễn ra trong đêm. Chúa Giêsu ngồi ở đằng lái, gối đầu mà ngủ. Bỗng gió to, sóng lớn nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước.
Các môn đệ hoảng hốt, xôn xao, nhốn nháo đánh thức Chúa: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo sao?”(Mc 4, 38). Chúa Giêsu liền can thiệp bằng một lời và chỉ một lời truyền của Người: “Im đi! Câm đi!”(Mc 4,39). Gió liền im. Biển lặng như tờ. Điều làm chúng ta ngạc nhiên không phải là phép lạ, nhưng là cách Chúa Giêsu thực hiện phép lạ: “Tại sao Chúa biết trước sẽ có cuồng phong, biết trước việc Người sẽ làm?. Tại sao Người không can thiệp liền, tại sao Người cứ gối đầu mà ngủ?
Thực ra khi gió to, biển động, sóng gào, các môn đệ xốn xáo, chạy lại đánh thức Chúa dậy, các ông xin Chúa can thiệp hai điều xem ra như là một tối hậu thư: “Thầy ơi, chúng con chết đến nơi rồi”. Điều thứ hai: “Thầy chẳng lo gì sao?”. Câu nói thứ hai của các môn đệ hàm ý sao Thầy vô tư quá, chúng con sắp chết mà Thầy cứ tỉnh bơ ngủ say. Chúa Giêsu đã trả lời cả hai điều các môn đệ yêu cầu. Điều thứ nhất, Chúa truyền cho biển yên, gió lặng. Điều thứ hai, Người khiển trách: “Sao nhát thế? Anh em chưa đủ đức tin hay sao?” (Mc 4, 40). Cái trớ trêu hầu như khờ khạo của các môn đệ ở chỗ Chúa luôn có mặt, luôn hiện diện dù Người đang ngủ, Người hay biết mọi sự nhưng các môn đệ đâu có nhận ra điều ấy. Vậy, khi Người khiếm diện, khi Người không có mặt ở đấy, các môn đệ sẽ ra thế nào!: “Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”(Mc 4, 40). Anh em để đức tin ở đâu? Ở đây, trong tình huống này, các môn đệ có thể nghĩ đến những can thiệp của Thiên Chúa đối với số mệnh của dân tộc các ông. Thiên Chúa đã cứu thoát cha ông của các ông, đã giữ lời Giao Ước của Ngài cho dù có lúc Thiên Chúa hầu như im lặng. Thiên Chúa đã không bỏ rơi dân tộc. Bốn mươi năm sau, dân lưu đầy bên Ai Cập đã được Thiên Chúa giải thoát, đoàn người lưu đầy kéo về Giêrusalem được thanh luyện và lớn lên trong thử thách.
CHÚA MỜI GỌI CÁC MÔN ĐỆ VÀ NHÂN LOẠI TIN VÀO CHÚA:
Đối diện với quyền lực của sự dữ, của ma quỷ vì theo não trạng của người Do Thái, biển là biểu tượng của quyền lực ma quỷ. Các môn đệ cuống quýt đã quên cả lòng tin của mình vào Chúa Giêsu. Vậy phải chăng Tin Mừng hôm nay mời gọi con người, nhân loại hãy tin vào Chúa, hãy bám chặt lấy Chúa, hãy tin vào uy quyền tuyệt đối của Chúa trên mọi loài, mọi vật, mọi sự. Tiếng la hoảng hốt của các môn đệ trước trận cuồng phong bão táp, phải chăng đang là thử thách của con người, của mỗi người khi họ gặp cơn cám dỗ, gặp sự thử thách gian nan giữa cuộc đời, giữa hành trình đức tin đầy cam go? Liệu Chúa có bỏ con người hay con người chỉ ngờ ngợ, yếu tin chưa có lòng tin mạnh mẽ và gắn chặt vào Chúa Giêsu? Chúng ta hãy đọc lại nhiều dụ ngôn trong Tin Mừng, chúng ta sẽ thấy nhiều lòng tin làm ta ngạc nhiên. Và khi ta tin thật sự vào Chúa, chắc chắn sự an bình sẽ đến với chúng ta. Thiên chúa không ở xa ta, Ngài ở bên ta, Ngài yêu thương ta, Ngài sẵn sàng can thiệp vào mọi biến cố của đời ta. Nhưng chắc chắn chúng ta cũng có thái độ như các môn đệ hoảng hốt, như ông Môsê trước bụi gai bốc cháy (Xh 3,1), như ngôn sứ Isaia khi nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa trong đền thờ (Is 6,5). Tất cả đều tùy thuộc vào lòng mến và vào sự phó thác tuyệt đối của mỗi người chúng ta trong bàn tay yêu thương của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn bám chặt lấy Chúa vì Chúa là Đấng uy quyền và hay thương xót.
63. Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Thiên Chúa ở đâu nơi Trại Tử Thần Đức Quốc,
nơi Sóng Thần Nam Á v.v.
Vẫn biết Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống là thời điểm mở đầu cho Mùa Thường Niện Hậu Phục Sinh, tiếp Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh bị cắt quãng bởi Mùa Chay, Tuần Thánh và Mùa Phục Sinh. Tuy nhiên, Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh thường được Giáo Hội mở màn bằng các Lễ Trọng vào 3 Chúa Nhật Liên, trước hết là Lễ Thánh Thần Hiện Xuống, Đấng ban sự sống, sau đó là Lễ Thiên Chúa Ba Ngôi, nguồn mạch Sự Sống, tiếp tới là Lễ Mình Máu Thánh Chúa, bí tích Sự Sống, (chưa kể đến Lễ Trọng Thánh Tâm Chúa, động lực Sự Sống, bao giờ cũng được cử hành vào Thứ Sáu sau Chúa Nhật Lễ Mình Máu Thánh Chúa). Chiều hướng Mầu Nhiệm Chúa Kitô Là Sự Sống mở đầu Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh bằng ba Lễ Trọng như thế, cũng được thể hiện ở bài Phúc Âm của Thánh Ký Marcô cho Chúa Nhật hay tuần lễ XII Thường Niên, ở chỗ, “caœ gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người”?, một quyền lực phục sinh của Chúa Kitô, Lời Nhập Thể, một quyền lực, dù trong trường hợp được bài Phúc Âm hôm nay thuật lại Người chưa Vượt Qua, vẫn tiềm tàng nơi Người nhờ Mầu Nhiệm Ngôi Hiệp.
Đó là lý do việc Người chẳng những tỏ mình ra trong bài Phúc Âm hôm nay đã cho thấy trước biến cố phục sinh, mà còn cho thấy cả trong đó việc Người tỏ ra câm nín bất lực trên cây thập tự giá, việc Người âm thầm nằm trong lòng đất ba ngày, việc Người gieo giống rồi đi ngủ để cho kẻ thù chẳng những lợi dụng gieo cỏ lòng vực mà còn nhất định không cho nhổ những thứ cỏ rất nguy hại cho lúa tốt này cho tới mùa gặt cánh chung (x Mt 24-30). Đây là Mầu Nhiệm Quan Phòng Thần Linh theo đức tin Kitô Giáo, một mầu nhiệm mà chỉ có đức tin mới có thể giải mã và chấp nhận, ở chỗ, tin rằng Thiên Chúa là Chủ Tế muôn loài và cai quản mọi sự, tới giờ của Ngài thì mọi sự sẽ xẩy ra, tới lúc của Ngài thì Ngài sẽ ra tay (mà thường là lúc cuối cùng, lúc con người cảm thấy bất lực, trần gian bó tay, Ngài mới xuất hiện để cứu độ, hầu con người tin vào Ngài hơn, và không cảm thấy rằng họ là Chúa chứ không phải là Ngài). Chính vì Ngài ngủ (chứ không phải chết) mà Ngài mới nghe được tiếng kêu cứu của họ, như các vị tông đồ trong bài Phúc Âm đã hoảng hốt la lên: “Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao”?
Tuy nhiên, thực tế đặt ra vấn đề ở đây là, việc Thiên Chúa quá im hơi lặng tiếng, nhất là trong những lúc quá khủng khiếp đối với niềm tin của con người, dường như đối với nhiều người và thật sự đối với một số người, Ngài là Vị Thiên Chúa đã chết, nếu không muốn nói chẳng có chúa bà nào cả, vì tại sao có Ngài, một vị Thiên Chúa, qua Mạc Khải Thánh Kinh Kitô Giáo, là Đấng toàn thiện và toàn năng, mà lại có thể để cho sự dữ xẩy ra, để cho bao nhiêu nạn nhân vô tội bị thảm sát như thế chứ, chẳng hạn như đã xẩy ra ở các Trại Tử Thần Đức Quốc trong Thế Chiến Thứ Hai thuộc thế kỷ 20, hay ở cuộc Sóng Thần Nam Á vào ngày 26/12/2004?
Trước hết, về việc câm nín lặng thinh đến kinh hoàng của Thiên Chúa ở các trại tử thần Đức Quốc Xã hồi Thế Chiến Thứ II, chúng ta hãy đọc lại những lời của chính vị Giáo Hoàng đương kim Đức Quốc của chúng ta cảm nhận và diễn tả trong cuộc tông du mục vụ Balan cuối tháng 5/2006, khi ghé thăm trại tử thần Auschwitz, nơi đã có hai vị thánh Công Giáo là Thánh Maximilian Kolbe người Balan và Thánh Edith Stein, Theresia Benedicta a Cruce, người Đức gốc Do Thái, trước khi ngài lên đường về Rôma Chúa Nhật 28/5, nguyên văn như sau:
“Không thể nào nói được bất cứ điều gì ở nơi kinh hoàng này đây, ở nơi đã xẩy ra vô vàn tội ác chưa từng có phạm đến Thiên Chúa và con người, nhất là lại nói bởi một Kitô hữu, bởi một vị Giáo Hoàng xuất thân từ Đức. Ở một chốn như thế này thì lời nói đành câm nín; để rồi chỉ còn duy nỗi lặng thinh kinh hãi – một thứ lặng thinh tự mình là một lời kêu gào chân tình lên Thiên Chúa: Lạy Chúa, tại sao Chúa lại cứ thinh lặng chứ? Làm sao Chúa lại có thể chịu đựng được tất cả những thứ này? Bởi vậy, trong thinh lặng, chúng ta cúi đầu trước vô tận những ai đã chịu khổ cực và bị sát hại ở nơi đây; tuy nhiên việc thinh lặng của chúng ta lại trở thành một lời van xin tha thứ và hòa giải, một lời van nài Vị Thiên Chúa hằng sống đừng bao giờ để điều này tái diễn nữa.
“Hai mươi bảy năm trước đây, vào ngày 7/6/1979, Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đứng ở nơi này. Ngài đã nói rằng: ‘Hôm nay tôi đến đây như một người hành hương. Như anh chị em biết, tôi đã đến đây nhiều lần rồi. Rất nhiều lần rồi! Và nhiều lần tôi đã đi xuống tới ngục thất tử thần của Maximilian Kolbe, dừng lại trước bức tường hành quyết, và bước đi giữa những đổ nát hoang tàn của các lò thiêu Birkenau. Tôi không thể nào không tới đây như một vị Giáo Hoàng’. Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tới đây như là một người con của một dân tộc, cùng với dân Do Thái, đã chịu khổ nhất ở nơi chốn này, nói chung suốt cả cuộc chiến. ‘Sáu triệu người Balan đã bị mất mạng trong Thế Chiến Thứ II, tức 1/5 dân số của quốc gia này, ngài đã nhắc nhở chúng ta như thế. Cũng ở nơi đây, ngài đã trang trọng kêu gọi tôn trọng các thứ nhân quyền và quốc quyền, như các vị tiền nhiệm của ngài là Gioan XXIII và Phaolô VI đã làm trước ngài, và thêm rằng: ‘Con người đang nói những lời lẽ này đây là … người con của một quốc gia theo lịch sử của mình đã bị khổ đau rất nhiều bởi kẻ khác. Ngài nói điều này, không phải là để cáo tối mà là để tưởng nhớ. Ngài nói nhân danh tất cả những quốc gia có quyền lợi bị vi phạm và bị gạt bỏ ra ngoài…’
“Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đến đây như là một người con của nhân dân Balan. Tôi đến đây hôm nay như là một người con của nhân dân Đức quốc. Chính vì lý do ấy mà tôi có thể làm vang vọng và cần phải làm âm vang những lời của ngài, đó là tôi không thể nào không tới đây. Tôi cần phải tới nơi đây. Đó là một nhiệm vụ trước sự thật và công lý đối với tất cả những ai đã phải chịu khổ ở nơi đây, một nhiệm vụ trước Thiên Chúa, mà đối với tôi cần phải đến đây như là vị thừa kế của Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và là một người con dân Đức quốc – một người con thuộc dân tộc bị một nhóm những tay tội ác nổi lên nắm quyền hành bằng những hứa hẹn liên quan tới cái cao cả mai hậu cùng với việc phục hồi vinh dự, nổi nang và thịnh vượng cho dân tộc , nhưng qua việc khủng bố và đe dọa, hậu quả dân tộc chúng tôi đã phải hứng chịu đó là bị sử dụng và làm dụng như công cụ cho khát vọng hủy diệt và quyền bính của họ. Phải, tôi đã không thể nào không tới nơi đây. Vào ngày 7/6/1979, tôi đã đến đây với tư cách là một vị Tổng Giám Mục ở Munich-Freising, cùng với các vị Giám Mục khác đi hộ tống Đức Giáo Hoàng này, lắng nghe những lời ngài nói và liên kết với việc nguyện cầu của ngài. Vào năm 1980, tôi đã trở lại với nơi chốn rùng rợn này với một phái đoàn đại biểu những vị Giám Mục Đức quốc, những vị cảm thấy kinh hoàng trước sự dữ xẩy ra cho nó, nhưng lại lấy làm biết ơn trước sự kiện xuất hiện một vì tinh tú hòa giải ở bên trên các tầng mây mù vây phủ nó. Đó cũng chính là lý do tại sao hôm nay tôi đã đến đây để xin ơn hòa giải thứ tha – trước hết từ Thiên Chúa là Đấng duy nhất có thể mở lòng chúng ta và thanh tẩy tâm can của chúng ta, từ những con người nam nữ đã chịu khổ đau ở nơi đây, và sau cùng nguyện xin ơn hòa giải cho tất cả những ai, vào chính giây phút lịch sử này đây đang chịu khổ đau một cách mới mẻ bởi quyền lực của hận thù và bởi bạo lực do thù hận gây ra.
“Biết bao nhiêu là vấn đề được xuất phát ở nơi chốn này! Vấn đề liên lỉ hiện lên đó là Thiên Chúa ở đâu trong những ngày ấy? Tại sao Ngài lại thinh lặng chứ? Làm sao Ngài lại có thể để xẩy ra cuộc tàn sát khôn cùng này chứ, cuộc chiến thắng của sự dữ ấy chứ? Những lời của bài Thánh Vịnh 44 đã hiện lên trong tâm trí, đó là lời than vãn của dân Yến Duyên về các kẻ thù địch của họ: ‘Ngài đã vùi dập chúng tôi trong hang động chó rừng, và phủ chụp tăm tối kín mít lên chúng tôi… vì Ngài chúng tôi đá bị sát hại suốt ngày, và đã bị coi như con chiên mang đi làm thịt. Xin Ngài hãy ra tay! Ôi Chúa, tại sao Ngài lại ngủ chứ? Xin hãy tỉnh giấc, đừng mãi mãi bỏ mặc chúng tôi! Tại sao Ngài lại cứ ẩn mặt đi? Tại sao Ngài lại chẳng lưu ý gì tới nỗi đau thương và tình trạng bị đàn áp của chúng tôi chứ? Vì chúng tôi bị dìm xuống cát bụi; thân thể chúng tôi dính liền với mắt đất. Xin hãy vùng lên và ra tay cứu giúp chúng tôi! Xin hãy cứu chúng tôi vì tình yêu trung kiên của Ngài!’ (19,22-26). Tiếng kêu thống khổ này, tiếng kêu được dân Yến Duyên dâng lên Thiên Chúa trong cảnh khổ đau của họ, trong giây phút hết sức sầu thương của họ, cũng là tiếng kêu cứu giúp của tất cả những ai thuộc mọi thời đại – hôm qua, hôm nay và ngày mai – chịu khổ vì tình yêu Thiên Chúa, vì lòng yêu chuộng chân lý và sự thiện hảo. Họ nhiều biết bao, thậm chí ở cả thời đại của chúng ta đây!
“Chúng ta không thể nào nhìn thấu được dự án huyền nhiệm của Thiên Chúa – chúng ta chỉ thấy được một phần nào, và chúng ta có thể sai lầm một khi cho mình là những kẻ thẩm phán của Thiên Chúa và lịch sử. Bấy giờ chúng ta không phải là kẻ đang bênh vực con người mà chỉ góp phần vào việc sụp đổ của con người mà thôi. Không – một khi tất cả những gì đã nói và đã làm, chúng ta cần phải tiếp tục khiêm nhượng song cương quyết kêu lên cùng Thiên Chúa rằng: Xin hãy đứng lên! Đừng quên nhân loại là tạo vật của Ngài! Và lời chúng ta kêu lên Thiên Chúa cũng phải là một tiếng kêu xuyên thấu chính tâm can của chúng ta, một tiếng kêu đánh động trong chúng ta sự hiện diện âm thầm của Thiên Chúa – nhờ đó, quyền năng của Ngài, một quyền năng Ngài đã cấy trồng nơi tâm can của chúng ta, sẽ không bị chôn vùi hay chết nghẹt trong chúng ta bởi bùn lầy của lòng vị kỷ, của tính nhu nhược, của thái độ lạnh lùng hay của chủ trương thời cơ. Chúng ta hãy kêu lên Thiên Chúa bằng tất cả tâm can của mình, vào giờ khác hiện tại này đây, khi đang đổ xuống trên chúng ta những bất hạnh mới, khi tất cả mọi mãnh lực của tối tăm dường như đang xuất phát một cách mới mẻ từ tâm can nhân loại của chúng ta: một là việc lạm dụng danh Thiên Chúa như phương tiện để biện minh cho việc bạo động vô nghĩa phạm tới những con người vô tội, hai là tỏ ra chủ trương yếm thế chối bỏ việc nhận biết Thiên Chúa và nhạo cười niềm tin tưởng vào Ngài. Chúng ta hãy kêu lên Thiên Chúa, để Ngài làm cho con người nam nữ biết hoán cải và giúp họ thấy được rằng bạo động không phải là những gì mang lại hòa bình song chỉ gây thêm bạo loạn mà thôi – gây ra một cuộc sa lầy tàn hại mà cuối cùng tất cả moị người đều là những kẻ thua cuộc. Vị Thiên Chúa mà chúng ta tin tưởng là một Thiên Chúa của lý trí – một lý trí chắc chắn không phải là một thứ toán học lạnh lùng về vũ trụ này mà là một lý trí biết yêu thương và thiện hảo. Chúng ta hãy dâng lời nguyện cầu lên Thiên Chúa và chúng ta kêu gọi nhân loại, để lý trí này, tức lý lẽ của yêu thương và việc nhìn nhận quyền lực hòa giải và bình an, được thắng vượt những thứ đe dọa xuất phát từ khuynh hướng vô tri hay từ một thứ lý trí sai lạc và phi thần linh”.
Sau nữa, về việc câm nín lặng thinh đến kinh hoàng của Thiên Chúa ở biến cố thiên tai Sóng Thần Nam Á ngày 26/12/2004.
Về nguyên tắc, Thiên Chúa thực sự chủ động muốn sử dụng sự dữ để làm ích cho nhân loại. Thần học Kitô giáo rất cẩn thận về điểm này. Ở chỗ, thường sử dụng chữ “để”, “để sự dữ xẩy ra”, nghĩa là thái độ “mần ngơ” thụ động, chứ không chủ động nhúng tay vào, chủ động sử dụng chính sự dữ, nên tránh cả việc sử dụng chữ “gửi”, “gửi sự dữ đến cho”. Thật ra, như những xác tín đầu tiên trên đây cũng công nhận rằng “Thiên Chúa là Đấng Toàn Thiện không dựng nên sự dữ và không thể nào tạo nên sự dữ”, và “sự dữ phát xuất từ tội lỗi của con người, bắt nguồn từ nguyên tội, từ việc con người có tự do đã tự ý chấp nhận sự dữ”. Tuy nhiên, một khi sự dữ đã xuất hiện như cỏ lùng do kẻ thù của Ngài gây ra (x Mt 13:25,28), Thiên Chúa phải chủ động và tích cực ra tay diệt trừ nó cho con người, bằng cách, nơi Chúa Giêsu Kitô Con Mình, Ngài đã trở thành tội lỗi (x 2Cor 5:21), thành một thứ đồ bị nguyền rủa (x Gal 3:13). Và, chỉ trở thành sự dữ như thế Vị Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan và toàn năng mới làm cho con người thấy được sự chết nơi họ và của họ đã được sự sống của Ngài và nơi Ngài nuốt đi (x 1Cor 15:54).
Việc Thiên Chúa chủ động muốn sử dụng sự dữ để làm ích cho chung nhân loại là những gì rất hiển nhiên trong Thánh Kinh. Trước hết là câu Ngài tuyên bố qua miệng Tiên Tri Isaia: “Ta làm nên ánh sáng và tạo ra bóng tối, Ta làm nên phúc hạnh và gây ra khốn nạn” (45:7). Sau nữa, việc Ngài muốn (bằng cách ra lệnh cho) tổ phụ Abraham sát tế đứa con duy nhất của mình là Isaac (x Gen 22:2), trước con mắt của Dân Ngoại, không phải là một điều quái ác hay sao, không phải là một hành động của một vị ác thần, một vị thần linh ăn thịt người hay sao, tìm vinh danh nơi khổ ải và chết chóc của tạo vật? Cả trong việc Ngài lệnh cho vua Saolê bắt buộc phải sát hại tất cả người lẫn vật của Amalek vì đã cản đường đi của Dân Chúa cũng không quá tàn ác hay sao (x 1Sam 15:2-3,18-19; Ex 17:8)? Thật ra, Chúa ra tay dữ dằn với các Dân Ngoại, như dân Ai Cập, Amalek hay các dân vốn ở Đất Hứa là để cho cả Dân Ngài lẫn Dân Ngoại nhận biết Ngài qua những việc Ngài làm theo quyền năng và phép công bằng của Ngài. Trong trận lụt Đại Hồng Thủy, Thiên Chúa Hóa Công “để” cho thiên tai vô tiền khoáng hậu này xẩy ra, hay Ngài cố ý muốn gây ra biến cố ấy để thanh tẩy loài người đã quá băng hoại làm ô uế cả mặt đất (x Gen 6:5-7)?? Nếu bảo rằng Thiên Chúa được quyền dùng tai ương để trừng phạt con người tội lỗi thì phải nói làm sao khi Ngài cố tình bắt chính Người Con vô tội vô cùng thánh thiện của Ngài phải uống cạn chén đắng khổ đau (x Mt 26:39 và Rm 8:32), chứ không phải chỉ “để” thập giá xẩy ra cho Người.
Tuy nhiên, việc Thiên Chúa thực sự chủ động sử dụng sự dữ để làm ích cho nhân loại đây, điển hình là trường hợp tử nạn của Chúa Giêsu Kitô, không phải là Ngài chủ động xui bẩy kẻ dữ làm bậy hay phạm tội. Không. Hoàn toàn không phải là như thế. Ở chỗ này đúng là Ngài “để” cho kẻ dữ làm bậy hay phạm tội tùy theo tự do của họ. Sở dĩ Ngài “để” xẩy ra như thế, trước hết, là vì tự do của con người, thành phần chịu trách nhiệm về hành vi cử chỉ của họ; sau nữa, là vì Ngài thấy rằng Ngài có thể lợi dụng sự dữ do họ gây ra để tạo nên một thiện ích lớn hơn; bằng không, sau hết, nếu sự dữ do con người gây ra không mang lại hay chưa tới lúc mang lại lợi ích hơn ít là cho chính đương sự, thì Đấng làm chủ lịch sử con người như Ngài không để cho những sự dữ ấy xẩy ra, như nơi những vụ tự tử không thành hay những vụ thoát chết trong đường tơ kẽ tóc.
Trong trường hợp tử nạn của Chúa Kitô, thành phần cố tình nhúng tay vào việc giết Con Thiên Chúa, như hầu hết Hội Đồng Do Thái bấy giờ, cũng như thành phần trực tiếp ra tay sát hại Người, như thẩm quyền đế quốc Rôma qua Tổng Trấn Philatô và lực lượng quân đội của họ, đã được Thiên Chúa “để” cho họ phạm đến Con của Ngài, hay cho phép họ thi hành được hành động phạm thượng đáng lẽ họ không làm được (về quyền năng thể lý) và không được làm (về quyền hạn luân lý), bằng cách “để” cho “họ lầm không biết việc mình làm” (Lk 23:34; x Acts 3:17), nhờ đó, chính họ, cũng có thể nhờ chính việc xấu họ làm, nhận ra Chân Lý (x Lk 23:47-48), bằng không, nếu họ biết được mầu nhiệm của Thiên Chúa, họ sẽ không dám làm như họ đã làm (x 1Cor 2:8). Đó là lý do Chúa Kitô đã minh nhiên tuyên bố: “Khi nào Tôi được treo lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo tất cả mọi người lên cùng Tôi” (Jn 12:32). Ôi, Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan và thượng trí là dường nào! Ôi, Ngài toàn thiện và toàn năng biết bao!!
Phải, chỉ có một mình Thiên Chúa mới là Đấng duy nhất, về phương diện luân lý, chẳng những có quyền hạn (right/authority) được làm, mà còn có cả quyền năng (power/ability) làm được, trong việc sử dụng phương tiện biện minh cho mục đích, tức trong việc sử dụng ngay chính sự dữ để mang lại sự lành thôi. Nếu thấy nhà của mình bị hư hại không thể ở được nữa, chẳng lẽ chúng ta không có quyền phá nó đi để xây lại ngôi nhà mới. Cũng thế, việc Thiên Chúa “phá” con người cũ của nhân loại đã bị băng hoại, như ở thời Noe, bằng những sự dữ, như trận đại hồng thủy bấy giờ, dù là việc dữ hay sự dữ Ngài vẫn muốn làm và cần làm cho họ, để nhờ đó, họ mới được nên tốt hơn, mới được tái sinh bởi trời (x Jn 3:3).
Ngoài ra, bất cứ ai muốn nên ngang hàng với Thiên Chúa hay nên bằng Thiên Chúa (x Gen 3:3-5), trong việc tự mình quyết định lành dữ (như việc hợp thức hóa vấn đề hôn nhân đồng tính chẳng hạn), cũng như trong việc tự động biến sự dữ thành sự lành (như trong việc triệt sinh an tử hay tạo sinh sao bản trị liệu chẳng hạn), họ sẽ thấy rằng những gì họ làm chỉ khiến cho chính họ nói riêng và xã hội của họ nói chung dần dần đi đến chỗ hỗn loạn và diệt vong mà thôi, như hiện trạng thế giới văn minh về vật chất (khoa học và kỹ thuật) cũng như về nhân bản (văn hóa và quyền lợi) ngày nay thê thảm cho thấy.
Chính vì con người văn minh càng ngày càng tội lỗi và băng hoại mà Thiên Chúa đã phải sử dụng đến nhiều sự dữ khủng khiếp, không phải để trừng phạt con người cho bằng để lay tỉnh con người đang quay cuồng say men tự do thái quá của mình, hay nói một cách dung hòa hơn, để trừng phạt con người cho con người có thể bừng tỉnh. Đó là lý do, trong phần Bí Mật Fatima thứ hai, Mẹ Maria cũng đã nói đến vấn đề tai ương liên quan đến việc trừng phạt của Thiên Chúa để cứu độ con người như sau:
“Các con vừa thấy hỏa ngục, nơi tội nhân khốn nạn rơi xuống. Để cứu họ, Thiên Chúa muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới. Nếu những điều Mẹ dạy được thi hành thì nhiều linh hồn được cứu rỗi và thế giới sẽ có hòa bình. Chiến tranh sắp chấm dứt, nhưng nếu người ta không thôi xúc phạm đến Thiên Chúa, một cuộc chiến khốc liệt hơn sẽ bùng nổ trong đời Đức Piô XI. Khi các con thấy ánh sáng lạ lùng chiếu giữa ban đêm, thì các con hãy biết rằng đó là điềm lạ vĩ đại Thiên Chúa muốn cho các con hay Ngài sắp sửa trừng phạt thế giới tội lỗi, bằng chiến tranh, đói khát và việc bắt bớ Giáo Hội cùng Đức Thánh Cha. Để ngăn ngừa điều này, Mẹ sẽ đến để xin dâng hiến Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ và xin rước lễ đền tạ các ngày Thứ Bảy Đầu Tháng. Nếu người ta nghe lời Mẹ yêu cầu, Nước Nga sẽ trở lại và sẽ có hòa bình. Bằng không, Nước Nga sẽ truyền bá lầm lạc khắp thế giới, gây chiến tranh và bách hại Giáo Hội. Nhiều người lành bị giết, Đức Thánh Cha sẽ khổ; nhiều nước sẽ biến mất, nhưng cuối cùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ sẽ thắng. Đức Thánh Cha sẽ dâng hiến Nước Nga cho Mẹ, Nước Nga sẽ trở lại, và thế giới sẽ được hưởng một thời gian hòa bình”.
Như thế, con người nạn nhân gặp tai ương hoạn nạn về thiên tai hay nhân tai có thể là vì chính tội lỗi của họ, như trường hợp thành Sôđôma và Gômôra trong Cựu Ước (x Gen 18:20-21, 19:4-11,24-25), cũng có thể là vật hy sinh cho việc Thiên Chúa tỏ hiện như trường hợp người mù từ lúc mới sinh (x Jn 9:3).
Chính Chúa Giêsu đã xác nhận tính cách lưỡng đôi của sự dữ gây ra cho cả người vô tội lẫn có tội, khi Người trả lời cho những kẻ báo tin về vụ một số người Galilêa đã bị Tổng Trấn Philatô lấy máu của họ hòa với các lễ tế của họ, như sau: “Quí vị có nghĩ rằng những người Galilê này tội lỗi nhất ở Galilê vì họ phải chịu như thế hay chăng? Không phải đâu! Nhưng Tôi nói cho quí vị nghe là nếu không xám hối tất cả quí vị cũng sẽ phải chịu y như thế thôi. Hay vụ 18 người bị thác Siloe đè chết. Quí vị cho rằng họ là những người tội lỗi hơn các người ở Giêrusalem hay chăng? Chắc chắn không! Thế nhưng, tôi nói cho quí vị hay, nếu quí vị không hoán cải, tất cả quí vị cũng chịu y như thế thôi” (Lk 13:1-5).
Qua câu huấn đáp này, Chúa Giêsu muốn nói rằng, thành phần nạn nhân của vụ nhân tai bị Philatô đổ máu hay của vụ thiên tai bị tháp Siloe đè chết là những người vô tội, nhưng cũng có thể là hình phạt cho ai có tội, cho ai không biết ăn năn hối cải. Qua câu huấn đáp này, Chúa Giêsu còn có ý muốn nói rằng, sự dữ nhân tai hay thiên tai là những gì được Thiên Chúa dùng để cảnh giác con người về đời sống luân lý của họ, nhất là thành phần nghĩ mình công chính hơn người, không có tội nên không bị tai ương hoạn nạn như thành phần tội lỗi xấu số.
Những nạn nhân của thiên tai và nhân tai, nếu là thành phần vô tội thì là vật hy sinh được Chúa dùng để cảnh giác phần rỗi nơi anh chị em đồng loại của họ, (tất nhiên sự hy sinh của họ sẽ được Ngài đền bù cân xứng như trường hợp các Thánh Anh Hài chết thay cho Người được Phúc Âm Thánh Mathêu thuật lại ở đoạn 2 câu 16, chẳng hạn nhờ sự hy sinh vô tội của họ mà nhiều người còn sống sợ chết nghĩ lại sống tốt lành hơn), và nếu nạn nhân may mắn còn sống là thành phần thực sự có tội thì tai ương họ trải qua chính là một thứ hình phạt được Thiên Chúa dùng để cứu độ họ, nếu họ biết nhìn ra dấu chỉ thời đại mà giác ngộ trở về với Ngài.
Từ những suy tư được căn cứ vào Mạc Khải Thần Linh trên đây, chúng ta cảm nhận được rằng: Qua biến cố nhân tai khủng bố tấn công ngày 11/9/2001 ở Hoa Kỳ, và thiên tai biển động sóng thần ở Nam Á ngày 26/12/2004, Thiên Chúa muốn lay tỉnh loài người càng ngày càng duy vật vô thần hiện đại nhớ rằng: Ngài vẫn còn hiện diện trong lịch sử loài người đấy, chứ chưa có chết như họ tưởng bở đâu, và Ngài là Đấng rất công thẳng, nếu không biết ăn năn thống hối, Ngài sẽ làm hết sức, kể cả bằng các thứ sự dữ do chính con người gây ra, như khủng bố và chiến tranh, để cho họ nhận biết Ngài mới thôi, chỉ vì Ngài yêu thương họ, muốn họ nhận biết chân lý để được cứu độ.
Tóm lại, vì phần rỗi của loài người, và chính vì phần rỗi của loài người là vấn đề hệ trọng trên hết mọi sự trên thế gian này mà Thiên Chúa toàn thiện và toàn năng vô cùng khôn ngoan làm mọi cách, thậm chí sử dụng cả sự dữ, để cứu độ con người yếu đuối và mù tối vô cùng đáng thương. Đó là lý do, trong Thông Điệp Tình Yêu Nhân Hậu gửi Các Hồn Nhỏ, Chúa Giêsu đã tâm sự với người nữ sứ giả giáo dân biệt danh Magarita ở Bỉ của mình vào ngày 19/12/1973 như sau:
• “Một Thiên Chúa báo oán chỉ là một người Cha tội nghiệp, khi phải trừng phạt con cái mình để buộc chúng phải hồi tâm nghĩ lại”.
64. Trong vòng tay Chúa
(Suy niệm của Br. B.M.Thiện Mỹ CRM)
SUY NIỆM:
Blondin là một tay xiếc nổi danh. Ông đi nhiều lần trên sợi dây căng qua thác Niagara, độ cao khoảng 500 thước, tay đẩy chiếc xe cút kít.
Ngày nọ ông mời ai dám ngồi trên xe đó, để ông đẩy qua sợi dây căng. Nhiều người muốn nhưng không ai dám, vì sợ té xuống thác nước là chết. Sau cùng có người chấp nhận. Ông liền cho anh ngồi trên xe và đẩy đi. Trong khi đó nhiều người đánh cá với nhau. Thấy ông ta đi được nửa đường cách dễ dàng, người đánh cá cược nhiều tiền sợ bị thua, nên lén cắt đứt một sợi trong số các dây căng. Tức thì dây căng rung chuyển dữ dội. Ông Blondin biết nguy hiểm sắp đến nên bảo người trong xe:
- Hãy đứng dậy bám sát vào tôi.
Nhưng người đó quá sợ hãi, không dám làm theo lời ông. Ông liền ra lệnh:
- Hãy đưa hai tay ôm cổ tôi, hai chân kẹp vào lòng tôi, bằng không, chúng ta sẽ ngã xuống thác nước mà chết.
Người đó liền bám chặt vào ông. Và ông đã đưa anh ta qua bờ bên kia an toàn ….
Cuộc đời là bể dâu, cho dù có đề phòng đến mấy cũng không sao có thể tránh được bão tố: Hết thiên tai rồi đến hiểm họa do con người gây ra cho nhau. Những đau thương bên ngoài cũng đã quá ghê gớm, thế nhưng những thù nghịch của tâm hồn mới đáng sợ, nhiều lúc nó muốn nhận chìm chúng ta vào vực thẳm tội lỗi khốn nạn. Tuy nhiên đó lại là điểm đáng yêu của mối tình Giêsu, nhờ vậy chúng ta có dịp chạy đến cầu xin sức mạnh vạn năng của Đấng Cửu Trùng như Phúc Âm thuật lại hôm nay:
Biển Ga-li-lê chỉ dài độ 21 km theo chiều từ bắc chí nam, và chỗ rộng nhất là 13 km theo chiều từ đông sang tây, thung lũng Gio-đan là một vết nứt sâu trên mặt đất, và biển Ga-li-lê là một phần của vết nứt đó. Nó thấp hơn mặt biển 210 mét nên khí hậu ấm áp dễ chịu, nhưng cũng lại nhiều nguy hiểm. Bên phía tây có núi non, thung lũng, khe suối, nên khi gió lạnh từ phía tây thổi đến thì những chỗ trũng, khe suối này có tác dụng như những cái phễu lớn. Gió bị nén trong đó và thổi ào ào xuống hồ bất thình lình với sức mạnh dữ dội, đến nỗi mặt hồ đang phẳng lặng, trong giây lát biến thành sóng gió gầm thét. Những cơn bão biển Ga-li-lê vừa bất ngờ vừa mãnh liệt độc đáo.
Cảnh tượng trong bài Tin Mừng kể lại là cảnh thường xảy ra trên biển Ga-li-lê. Chúa Giêsu đang ngủ, Ngài ngủ vì mệt mỏi sau khi dùng thuyền làm giảng đài dạy dỗ dân chúng. Các môn đệ là các ngư phủ chuyên nghiệp, và vùng biển này là địa bàn hoạt động của các ông, thế mà lúc này các ông hoảng sợ kêu cứu: “Thưa Thầy, chúng con chết mất”.
Chắc ai trong chúng ta cũng hiểu rằng theo Chúa không phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió hay được hưởng thái bình thịnh vượng. Ngay cả lúc chúng ta gần Ngài nhất, giông tố vẫn có thể nổi lên. Chúa không hứa cho chúng ta được thư thái an nhàn, nhưng là chiến đấu và thậm chí phải hy sinh cả đến tính mạng.
Hôm nay chúng ta hãy đặt tâm hồn vào hoàn cảnh hôm đó: Vào lúc chiều đến, tức là màn đêm bắt đầu buông xuống, đây là thời gian của sự tăm tối, hình bóng của những sự dữ hoành hành. Chúa Giêsu nhắc nhủ các môn đệ chuẩn bị một cuộc vượt qua những thử thách và nguy hiểm, Ngài nói: “Chúng ta hãy sang bên kia Biển Hồ”. Theo ý nghĩa của Kinh Thánh thì biển được trình bày như một sự hỗn mang, từ đó phát sinh những quyền lực chống lại Thiên Chúa và con người. Chỉ có quyền năng của Thiên Chúa mới có thể bắt ba đào hung hăng phải tuân nghe và cứu con người khỏi cơn bão tố. Ở đây bối cảnh diễn tả việc Thiên Chúa giải thoát con người khỏi mọi sự dữ của ma quỉ để đưa họ đến bến bình an là sự sống đời đời. Như vậy chúng ta luôn sẵn sàng đón nhận mọi tình huống tăm tối của cuộc đời bằng cách:
1. Khẩn cầu xin Chúa:
-Cho dù ai có là vĩ nhân đối với con người, thì đối với Thiên Chúa họ vẫn chỉ là rất nhỏ bé. Cho nên chẳng có gì phải ngại ngùng đến van xin ơn Chúa cho bản thân, nhất là những lúc éo le của cuộc đời.
-Tiên vàn trong việc cầu xin là chúng ta phải tuyệt đối tin tưởng vào quyền năng vô cùng của Thiên Chúa, Ngài là Đấng thống trị địa cầu, là vua cả trời đất.
-Chúng ta có thể kêu xin Chúa bằng nhiều cách, như các tông đồ đã đánh thức Chúa, và thắc mắc “sao Thầy không quan tâm đến ….”. Lời trách yêu này biểu lộ một tâm trạng khát mong được Chúa cứu thoát hơn là sự nghi ngờ vào sức mạnh của Ngài.
-Khi theo Chúa chúng ta có cảm tưởng như Chúa có nhiệm vụ che chở cho các mọn đệ của Ngài. Tuy nhiên chúng ta vẫn luôn phải lấy lòng con thảo khiêm tốn nài xin Chúa, chứ không được đòi hỏi theo ý riêng một cách thiếu tế nhị.
2. Bình an tâm hồn:
-Trong cơn bão tố tâm hồn, tự nhiên chúng ta sẽ tự đặt nhiều thắc mắc: Tại sao Chúa lại để cho sự dữ xảy ra? Tại sao Chúa lại để cho nghĩa tử yêu dấu của Ngài phải tan nát tâm tư? Giữa nghịch cảnh khốn khó đau thương, chúng ta còn tìm được sự hiện diện của Chúa trong tâm hồn không?
-Đứng trước ngã rẽ cuộc đời, chẳng biết phải làm gì, chúng ta hãy thưa lên cùng Chúa: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?”. Trốn tránh đau khổ theo ý riêng, có phải là sự bình an nội tâm không? Theo gương Chúa Giêsu, trước giờ chiến đấu quyết liệt nhất, Ngài đã thưa lên cùng Chúa Cha rằng: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa Con. Tuy nhiên, xin đừng làm theo ý Con, mà làm theo ý Cha” (Lc.22.42).
Ước gì trong mọi hoàn cảnh chúng ta luôn phó thác nơi tay Chúa như em thơ nương náu ở cung lòng mẹ hiền. Thiên Chúa là Cha nhân từ luôn nhìn đến những giọt lệ cần thiết nơi con cái loài người. Sự sợ hãi chỉ làm phiền lòng Chúa, nhưng tin tưởng vào Ngài là dịp Chúa tỏ uy quyền trên sự dữ, cứ mỗi lần như thế chúng ta có dịp gần gũi Ngài. Ngày xưa Chúa nói với các tông đồ sang bên kia Biển Hồ trải qua nhiều sóng gió, ngày nay Chúa mời gọi mọi người vượt qua biển thương đau của trần gian để về đến bến bình an đời đời trên Thiên Quốc. Chúng ta hãy mạnh dạn đáp lại tiếng Chúa mà tiến bước: “Có Chúa đi với ta, ta sẽ không còn sợ chi; có Chúa đi với ta, ta sẽ không lo lắng gì……”.
65. Gợi ý suy niệm của Hiền Lâm
Câu chuyện thầy trò Chúa Giêsu và các môn đệ vượt biển đã gặp phải cuồng phong đe dọa, cho chúng ta hình ảnh một Đức Giêsu Con Thiên Chúa đầy quyền năng trừ phong dẹp vũ, trong một con người Giêsu mệt mỏi nằm ngủ trên thuyền sau một ngày làm việc vất vả.
Câu chuyện này gợi lại hình ảnh được nói tới trong Thánh Vịnh 78:
“Bấy giờ Chúa như người đang ngủ,
như tướng hùng đã thấm men say,
bỗng tỉnh giấc, đánh cho quân thù quay lưng chạy,
phải thảm thê nhục nhã muôn đời”.
(Tv 78,65-66).
Kẻ thù ở đây là biển cả cuồng phong. Theo não trạng người Do-thái, biển là biểu tượng của quyền lực ma quỷ. Mỗi ngày, biển cũng nhắc mọi người nhớ lại thời hỗn mang nguyên thủy: tại đây hải thần thủy quái vẫy vùng và chỉ có một mình Thiên Chúa Toàn Năng mới thách thức và chế ngự được chúng. Khi Chúa Giêsu thức dậy “ngăm đe gió và biển” như khi Người truyền cho ma quỷ ( x. Mc 1,25), cho thấy Chúa Giêsu chứng tỏ thần lực của Người trên quyền lực sự dữ.
Chúa Giêsu chứng minh sức mạnh và sự phát triển không có gì chống lại được của Nước Thiên Chúa. Người chứng tỏ điều này bằng một dấu chỉ quyền năng là phép lạ dẹp tan sóng gió trước khi đi vào miền đất dân ngoại, nghĩa là chiến thắng của Tin Mừng trên ma quỷ vượt ra ngoài biên giới Israel.
Khi đối mặt với mọi hình thức sự dữ đang tấn công con người trong các trận cuồng phong nó gây nên, đôi khi chúng ta tự hỏi: Phải chăng Thiên Chúa đang ngủ?
Thật vậy, cảm nhận của con người giữa biển đời lắm khi như Thiên Chúa ẩn mình hay vắng bóng. Và rồi giữa phong ba bão tố cuộc đời, con người lựa chọn đương đầu ít nhất với 3 cách:
- Dùng sức mình để vật lộn với sóng gió để rồi thất bại tuyệt vọng,
- Chạy đến với Thiên Chúa mọi nơi mọi lúc nên không bao giờ sợ hãi,
- Gặp khi khó khăn mới chạy đến kêu cứu Chúa, nghĩa là coi Chúa chỉ như một phương thế giải quyết tức thời, mà thiếu đi đức tin thật sự và lòng yêu mến nồng nàn.
Trường hợp thứ ba này là trường hợp của dân Do-thái xưa, sách Xuất Hành và đặc biệt là sách Thủ Lãnh là một câu chuyện lặp đi lặp lại khi dân bị quân thù ức hiếp thì kêu cứu Chúa, Chúa giải cứu rồi lại tiếp tục phản nghịch Ngài…
Và có thể nói, đây cũng là thái độ của các môn đệ của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay, khi họ chưa có niềm tin và lòng yêu mến Thầy cho đủ, đến nỗi ngay khi chứng kiến phép lạ rồi vẫn ngỡ ngàng không hiểu Thầy là ai. Thầy Giêsu đang ở trên thuyền nhưng có vẻ như không có Người hiện diện, cho đến khi sóng gió bủa vây mà kinh nghiệm chống đỡ của dân làng chài như mấy ông đã bất lực mới chạy đến cầu cứu Thầy.
Đó cũng là cách sống và giữ đạo của không ít người trong chúng ta ngày nay. Khi an vui hạnh phúc chúng ta quên mất sự hiện diện của Thiên Chúa, đến khi gặp khó khăn thất bại mới tìm về cầu cứu Chúa. Sống đạo như thế là hời hợt, thiếu niềm tin đích thật và thiếu lòng lòng mến Chúa Giêsu. Cũng không thiếu những người ỷ lại vào khả năng mình mà thiếu đi lòng tín thác vào Chúa nên khi gặp sóng gió đã dễ ngã lòng kêu trách Người.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mọi người chúng con luôn tin tưởng vào sự hiện diện của Chúa trên con thuyền cuộc đời chúng con giữa biển đời sóng gió. Để chúng con không bao giờ nao núng vì Chúa đã chiến thắng nên chúng con cũng sẽ chung phần chiến thắng và cập bến Nước Trời. Amen.
66. Suy niệm của Lm. Nguyễn Ngọc Thế
“Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”
*Vài hàng sơ lược
- Từ đoạn thánh kinh này Mc 4,35-41 đến 5,43, Mác-cô bắt đầu kể về những phép lạ của Chúa Giêsu. Qua đó những hành động quyền năng của Chúa được nêu bật. Vì vậymà sau đó người ta bắt đầu thắc mắc về Giêsu: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?” (Mc 6, 2)
Ngoài ra, tất cả những phép lạ này đều có một khung cảnh chung, đó khung cảnh biển hồ Ga-li-lê-a. Và hình ảnh thuyền đều xuất hiện trong mỗi phép lạ (x. 4, 36.37; 5,2.18.21)
Một điều luôn được nhấn mạnh trong chuỗi phép lạ này. Đó là niềm tin tưởng. (x. 4, 40; 5. 34.36) Thêm vào đó có thể nhắc đến việc thiếu lòng tin trong 6,6. Ngoài ra, một thái độ đi đôi với niềm tin tưởng được nhắc lại 3 lần trong chuỗi phép lạ này. Đó là thái độ bái lạy, sụp xuống và phủ phục trước Đức Kitô (x. 5, 6.22.33) Điều này làm nổi bật sự “chào thua” của những quyền lực đe dọa trước Chúa Giêsu: quyền lực thiên nhiên (4, 35-42), quyền lực ma quỷ 5, 1-20, quyền lực của bệnh hoạn (5, 24-34) và quyền lực của sự chết (5, 21-23 và 35-43)
- Liên quan đến những đoạn thánh kinh về các dụ ngôn trước đó, chúng ta thấy đoạn thánh kinh này nối kết với đoạn 4,1, mở đầu cho các bài giảng với các dụ ngôn: “Đức Giê-su lại bắt đầu giảng dạy ở ven Biển Hồ”. Như vậy, khung cảnh biển hồ đức Giêsu giảng dạy vẫn là khung cảnh của câu chuyện phép lạ này, chỉ khác là giờ đây Giêsu lên thuyền và đi trên biển hồ. Ngoài ra, theo Adolf Pohl thì sau những bài giảng bằng lời nói của Giêsu, thì tiếp nối bằng những hành động của Ngài, để qua đó chứng thực về một Thiên Chúa không chỉ nói hay mà còn làm giỏi nữa. Lời nói và hành động đi đôi với nhau.
- Ngoài ra, khi đọc đoạn Thánh Kinh này, người ta có thể liên hệ ngay với đoạn thánh kinh ở Giona chương 1. Theo Rudfolf Pesch thì đoạn thánh kinh là câu chuyện kể lại câu chuyện của Giona, với sự phụ họa của thánh vịnh 107, 23-30. Mục đích chính là sự tuyên xưng: Giêsu lớn hơn tiên tri.
Ở đây, chúng ta có thể so sánh hai câu chuyện với nhau:
(a) Trong Giona 1, 4 ĐỨC CHÚA tung ra một cơn gió to trên biển. Còn ờ trong đoạn phúc âm của Mác-cô thìgió bão đến như là quyền lực muốn chống lại Thiên Chúa.
(b) Trong Giona 1, 5 Giona đi ngủ vì không muốn tuân phục Thiên Chúa. Còn theo Mác-cô thì Giêsu ngủ vì mệt mỏi sau những ngày tuần phục Thiên Chúa làm việc phục vụ mọi người.
(c) Trong Giona 1, 14 mọi người trên tàu sợ hãi và kêu cầu Thiên Chúa. Còn ở Mác-cô thì chính Giêsu là Thiên Chúa đã lên tiếng.
(d) Trong Giona 1, 14 các người dân ngoại trên tàu có niềm tin vào Chúa, còn các môn đệ trong đoạn Mác-cô này lại là những người thiều niềm tin.
(e) Trong Giona 1, 15 Biển dừng cơn giận dữ, vì Giona đã vâng lời Chúa và đồng ý để người ta quăng xuống biển. Ở Mác-cô thì biển hồ và cuồng phong vâng lệnh Giêsu.
- Trong đoạn Thánh Kinh Mc 4, 35-41 này tích cách Kitô học và Giáo Hội học được nêu bật, trong khi những sự kiện lịch sử cụ thể không đóng vai trò quan trọng.
- Ngoài ra, theo Johannes Bours, trong câu chuyện mà Mác-cô kể lại ở trên, có hai câu hỏi đã đụng độ nhau. Câu hỏi đầy sợ hãi của các môn đệ đã gặp gỡ câu hỏi đầy trách cứ của Giêsu. Khi đọc câu chuyện này, tôi cảm nhận rằng, câu chuyện đang kể về chính cuộc đời của chúng ta. Và câu hỏi sống còn của các môn đệ cũng liên hệ đến chính câu hỏi sống còn của mỗi người chúng ta: Cái gì có thể chiến thắng sự sợ hãi? Ai là người mạnh hơn? Thần Dữ, kẻ muốn nhấn chìm chúng ta xuống biển sâu, hay là Đấng mà trong đoạn Thánh Kinh này đã nhắc đến: “Người thức dậy.”
- Biển hồ Genesareth được người Ả-rập gọi là “Ajn Allah” – Mắt của Chúa”. Biển hồ này theo Adolf Pohl, nằm 212 m dưới mặt nước biển và ba phía của biển hồ được bao bọc bởi ba vách núi cao đến 300 m. Và biển hồ này có khí hậu bán nhiệt đới. Giữa tháng 5 và tháng 6 nhiệt độ nóng đến 40 độ C. Sự điều hòa nhiệt độ nhờ luồng khí lạnh trong miền cao, kết hợp với nhiệt độ nóng nực ở trên biển hồ, có thể được những trận gió lớn kéo theo một cách bất ngờ, như Luca diễn tả: “Một trận cuồng phong ập xuống hồ; các ngài bị ngập nước và lâm nguy” (8,23). Vì sự bất ngờ không thể dự đoán trước của các trận cuồng phong tại biển hồ này, mà các ngư dân ở đây rất sợ hãi. Và để tránh sự bất ngờ này nên các con thuyền đều cố gắng hướng về phía đông, nơi mà các ngư dân quatiếng gió thổi, có thể đoán được xem có cuồng phong hay không.
* Suy niệm
- “35 Hôm ấy, khi chiều đến, Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Chúng ta sang bờ bên kia đi!”
“Hôm ấy, khi chiều đến”Câu chuyện được bắt đầu như vậy. Chiều đến nghĩa là ngày sống từ từ chào tạm biệt, công việc từ từ được gác xuống, giờ đây là thời gian để nghỉ ngơi. Ngày sống vừa qua của Giêsu là một ngày làm việc miệt mài. Ngài đi giảng dạy ở ven Biển Hồ. Ngài đã giảng gì vậy? Đọc lại các đoạn trước đó, chúng ta nhận ra rằng, Giêsu đã giảng dậy nhiều dụ ngôn khác nhau: Dụ ngôn người gieo giống; dụ ngôn cái đèn và đấu đong, dụ ngôn hạt cải. Từ ở trên thuyền Giêsu đã giảng dạy những điều đó cho dân chúng. Giờ đây khi bóng dương từ từ ngả xuống, Giêsu cũng từ từ muốn ngả lưng, Ngài cũng cần giờ cho mình, cần giờ để nghỉ ngơi, để ngủ nữa chứ. Vì thế, các môn đệ đã chở thầy mình qua bờ bên kia. Trên thuyền Giêsu mệt nhoài đã thiếp ngủ. Theo sau thuyền của Giêsu là rất nhiều thuyền khác nữa.
- 36 Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Người đi, vì Người đang ở sẵn trên thuyền; có những thuyền khác cùng theo Người.
Giêsu bỏ đám đông ở lại mà không chia tay gì với họ, là dấu hiệu Ngài mệt mỏi lắm rồi. Điều này được chứng minh qua câu 38 qua sự thiếp ngủ của Chúa. Thuyền mà Giêsu đang ở sẵn trên đó theo Adolf Pohl thì chắc không nhỏ, vì trên đó có cả một nhóm người. Ngoài ra, có những thuyền khác theo Người. Động từ “theo với, ở với” trong Mác-cô luôn hướng về Giêsu (x. 1, 13; 2,19; 3, 14; 5, 18; 14,57). Điều này nói lên tương quan chặt chẽ với Chúa Giêsu. Không chỉ là nhóm 12 thôi, mà còn cả những môn đệ khác nữa (ss. 4, 10)
- 37 Và một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước.
Hôm ấy, khi chiều đến cũng còn là thời gian ánh dương từ từ lặn dần để nhường bước cho đêm đen.
Và đêm càng đen hơn nữa, khi những con thuyền lênh đênh trên mặt hồ bao la kia. Phải chăng đêm đen này như đang dẫn đời người vào trong cái vòng ma quái? Hay đêm đen kia đang như muốn nuốt chửng không chỉ ánh mặt trời, mà tất cả những con người đang ở trên thuyền kia, những con người mệt mỏi sau một ngày vất vả với công việc?
Không chỉ đen, mà thêm vào đó là một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước. Ở đây cần nhắc đến một yếu tố. Trong bản gốc của Hy-lạp, câu chuyện này được kể tiếp nối với nhau trong thì hiện tại và quá khứ. Ngoài ra,chữ “Kai” trong tiếng Hy-lạp, có nghĩa là “Và”, được nhắc đến tất cả 12 x. Theo Johannes Bours, thì điều đó làm cho câu chuyện ly kỳ hơn. Cái thảm cảnh trong câu chuyện theo đó được diễn tả thảm não hơn. Thêm vào đó, trong thời cổ đại, thì thần dữ luôn gắn liền với cuồng phong bão táp của biển khơi. Phải chăng đại dương là nơi chốn của thần dữ với sức mạnh tàn phá và nuốt chửng?
Vâng, sự ly kỳ và thảm não của câu chuyện trong Thánh Kinh bắt tôi phải dừng bước một chút, để lật lại những trang sách kể về các chuyến vượt biển của người Việt thân thương. Lênh đênh trên mặt biển chứ không phải là mặt hồ đâu. Đêm đen không chỉ làm đen cả bầu trời xanh ngát, mà còn làm đen cả bao tâm hồn chan chứa hy vọng, khi xuống thuyền ra đi. Rồi chiếc thuyền có lớn lao bao nhiêu đâu. Xăng dầu cũng đã gần cạn rồi. Thuyền nào chẳng may bị bọn hải tặc “ghé thăm” một lần hay nhiều lần, thì còn thê thảm hơn nữa. Có một số thuyền không chỉ đầy nước mà còn bị vỡ tan tành, giờ đây chỉ là những mảnh gỗ của thuyền, làm bè cho một vài thân xác mệt nhoài, lực đã tàn sức đã kiệt, thả cuộc đời trôi theo sóng, trôi theo biển, trôi theo bóng đen, mà không còn nhìn thấy một tia hy vọng, không còn nhận ra một bến bờ để tấp vô. Mà có bờ đâu để tấp để đậu. Phải làm sao đây? Không lẽ đứng chết chân một chỗ? Hay chấp nhận một cái chết thê thảm trong bóng đêm, trong lòng biển? Không, ít nhất cần phải hò hét! Nhưng “hò” thì ai “thưởng thức” và hét thì có ai nghe giữa đại dương mênh mông này không? Đó là câu hỏi của những con người đụng tới đường cùng của cuộc sống. Truớc đường cùng này, tôi cũng xin không chỉ dừng bước, mà với tất cả tấm lòng xin cầu nguyện cho bao người Việt đã qua đời trên biển cả. Xin Chúa thương nhìn đến và đón nhận tất cả vào Nước của Chúa.
Vâng, chúng con dù sao vẫn tin vào lòng nhân từ và ơn giải thoát của Chúa, như Chúa đã nói:
“1 Bấy giờ, giữa cơn bão táp, ĐỨC CHÚA lên tiếng trả lời ông Gióp như sau:
8 Cửa đại dương, ai ra tay khép lại
khi nước tuôn trào từ đáy vực sâu,
9 khi Ta giăng mây làm áo nó mặc,
phủ sương mù làm tã che thân?
10 Đường ranh giới của nó, chính Ta vạch sẵn,
lại đặt vào nơi cửa đóng then cài;
11 rồi Ta phán: “Ngươi chỉ tới đây thôi,
chứ không được tiến xa hơn nữa,
đây là nơi các đợt sóng cao phải vỡ tan tành!” (Gióp 38, 1.8-11)
Dù tin đấy, nhưng không dậm chân tại chỗ. Niềm tin cũng cần biết tạo sáng kiến. Niềm tin cũng cần phải lên tiếng. Vâng, lên tiếng để đánh thức Chúa dậy. Một hành động tuyệt vời. Đến đường cùng rồi, vì thế cần phải đánh thức Ánh Dương, cần phải đánh thức Thiên Chúa đang ngủ dậy. Bóng đêm kia không thể mạnh hơn Ánh Sáng. Cuồng phong kia không thể mạnh hơn Thần Khí Thiên Chúa được. Cuồng phong và biển cả đều phải có ranh giới. Chúng phải ở đàng sau cánh cửa kia. Thiên Chúa chính là người không chỉ vạch ranh giới, không chỉ đặt then cài, mà Ngài còn là người có đủ quyền năng để gài then cửa.
- 38 Trong khi đó, Đức Giê-su đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ đánh thức Người dậy và nói: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”
Và quyền năng của Thiên Chúa cũng được trao cho Giêsu, Người con dấu ái. Vì thế, các môn đệ đã đánh thức thầy: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”
Một câu hỏi chất chứa sợ hãi và âu lo, một câu hỏi mang chút trách cứ và hờn giận Thiên Chúa. Joachim Gnilka, một nhà chú giải thánh kinh đã cắt nghĩa rằng, câu hỏi của các môn đệ đã diễn tả thái độ sai lầm của họ: Khi gặp hiểm nguy họ chỉ nghĩ về mình và về sự an toàn của mình mà thôi. Một cách nào đó họ đã không chia sẻ nỗi hiểm nguy của họ với Thiên Chúa. Họ không để cho Thiên Chúa cùng gánh vác nỗi hiểm nguy của họ. Thái độ này được nhắc lại rất rõ ràng trong biến cố họ chạy trốn trước thánh giá tử nạn của Giêsu. Còn với Rudolf Pesch thì lòng yếu tin của các môn đệ nằm ở chỗ, là họ không hiểu được và chấp nhận được một Thiên Chúa ẩn mình. Và trên con đường thương khó, các ông cũng đã ngựa quen đường cũ, không hiểu được tại sao Giêsu thầy mình phải chịu bắt bớ, tra khảo, kết án và chết tất tưởi trên thập tự.
Đâu rồi niềm tin và sự cậy trông vào một Thiên Chúa đã sinh ra làm người nghèo khổ trong hang lừa, để chia sẻ và gánh vác với đời người những âu lo, những khổ đau? Đâu rồi sứ điệp và tin mừng Phục Sinh của một Giêsu chiến thắng sự chết? Giêsu đó, Thiên Chúa đó ngay từ đầu và mãi mãi nói với con người chúng ta rằng: “Đừng sợ!”
Hay sức mạnh của bóng đêm và sự đe dọa của cuồng phong bão táp đã làm tắt lịm đi chút ánh sáng của niềm tin, và chút hơi ấm của niềm hy vọng? Không, ngay từ ngày đầu tiên, khi Thiên Chúa sáng tạo con người, Thiên Chúa đã thấy rằng, hành động sáng tạo này là hành động tuyệt vời nhất. Còn tạo vật nào hơn con người mà Thiên Chúa yêu thương nữa. Vì thế, dù biển sâu hay cuồng phong, dù bão táp hay đêm đen, dù thần dữ hay lòng người gian dối, không có gì có thể làm cho tình yêu của Thiên Chúa phai nhòa.
Thiên Chúa vẫn hiện diện. “Emmanuel - Thiên Chúa luôn ở cùng với chúng ta”.
Ngay cả trong những đêm tăm tối nhất của cuộc sống, Ngài vẫn không hề bỏ mặc chúng ta một mình. Ngay cả trong những lúc khó khăn nhất của cuộc đời, Ngài vẫn luôn hiện diện với chúng ta. Và thậm chí, ngay cả trong đêm cuối đời, trong giây phút cô đơn hiu quạnh cuối cùng của cuộc sống, vốn dĩ không ai có thể đồng hành cùng với chúng ta, trong đêm cuối cùng trước giờ lâm tử đó, Thiên Chúa vẫn không hề từ bỏ chúng ta.... (Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI)
Lời của Đức Thánh Cha chất chứa niềm hy vọng. Niềm hy vọng này cũng chính là nguồn sống cho Alfred Delp, một linh mục dòng Tên bị phát xít Đức giam cầm trong ngục tù đen tối. Cha Alfred kể lại rằng: “Vào một buổi tối tôi cảm thấy tâm hồn mình chao đảo. Tôi bị hành hạ rất dã man và sau đó bị tống trở lại vào ngục. Những tên lính phát xít giải tôi vào ngục đã nói những lời như sau: “Như vậy là đêm nay mày không thể nhắm mắt được đâu. Mày sẽ cầu nguyện, nhưng không có một Thiên Chúa và cũng chẳng có một thiên thần nào đến, để cứu thoát mày. Phần chúng ta sẽ đánh một giấc ngon lành, và sáng sớm ngày mai chúng ta sẽ tiếp tục hành hạ mày.’
Alfred kể tiếp: Thiên Chúa đã thử thách tôi. Giờ đây làm thế nào để có thể bền bỉ đứng vững được thôi. Tôi vẫn luôn tin tưởng vững vàng và hy vọng nơi Bàn Tay nhân từ, Bàn Tay đã đón nhận chúng ta và hướng dẫn chúng ta.... và Thiên Chúa đã ban tặng cho tôi một không gian thật đẹp với sự bình tâm thẳm sâu. Tôi cảm thấy lúc này Chúa thật gần và thương tôi thật nhiều....Với tôi có những lúc thật là khó khăn. Tôi đã trải qua những giờ phút rất đau thương với nước mắt và máu. Nhưng tôi đã luôn luôn cố gắng đưa những giọt nước mắt và máu của mình vào trong hai hành động thật nhỏ bé, để nhờ đó có thể đứng vững được. Hai hành động đó là: Cầu Nguyện và Yêu Thương. Tất cả mọi hành động khác trong lúc đó đều sai cả.... Hôm nay là một ngày tồi tệ. Thiên Chúa như đang thử thách tôi, xem tôi có giữ những lời mà tôi đã từng xác tín không: Chỉ với Chúa thì cuộc sống mới tồn tại và phận người mới đứng vững được.
Giờ phút của Phêrô lại đến.Gió bão và sóng lớn lại đe dọa... Phêrô bắt đầu run lẩy bẩy... Giờ đây mọi sự nằm trong bàn tay của Chúa... Ngài có nhiều cách để vực chúng ta dậy và dìu chúng ta tiếp tục tiến bước. Tôi đã thường cảm thấy điều này trong những tuần lễ thê thảm đầy sợ hãi và dài đằng đẵng. Tôi luôn hy vọng vào Thiên Chúa, và vào tình yêu cùng sự trung thành của Ngài...Tôi muốn đốt lên những ngọn lửa cho các bạn. Các bạn đã cùng đi với tôi trong những đêm đen của cuộc đời. Các bạn cũng đã từng bị gió bão và cuồng phong đe dọa, và các bạn đã đứng vững. Vai kề vai chúng ta cùng gánh vác chung với nhau nhé... Giữa đêm đen Ánh Sáng sẽ bừng lên!”
Hành động của Cha Alfred chắc chắn là một bài học thật quý giá cho chúng ta. Thực vậy, trên con thuyền của cuộc đời, chúng ta chỉ cần tin thôi. Chúng ta hãy cứ an tâm. Dù cho Giêsu có ngủ, nhưng ngủ ở đàng lái đấy! Và không chỉ ngủ ở đàng lái, mà theo Hans Urs von Balthasar, thì Giêsu còn nằm nghỉ trong lòng của Chúa Cha, Đấng canh giữ cuộc sống của Giêsu và sứ mạng của Giêsu, không bao giờ cho phép sức mạnh của thiên nhiên ảnh hưởng đến sứ mạng của Giêsu.
Nhưng sứ mạng của Giêsu là gì? Là yêu thương mọi người, là trao ban tình yêu của Cha cho mọi người, là chở che mọi người trước bao nỗi hiểm nguy, là giải thoát con người khỏi mọi nỗi sợ hãi, và đưa mọi người về với bờ bến của bình an, của hạnh phúc. Vâng, chúng ta hãy an tâm và đừng sợ, Giêsu luôn gìn giữ chúng ta, và không bao giờ để cho chúng ta mất đi. Như người mục tử nhân lành, chính Ngài chứ không ai khác sẽ che chở đoàn chiên trước thú dữ đang nhâm nhe đe dọa.
Vì thế, dù gió có lớn, bão có to đến mấy, thì Giêsu vẫn vững tay lái, vững mái chèo trên con thuyền của cuộc đời. Và dù Ngài đang ngủ, nhưng Ngài vẫn hiện diện. Dù vì mệt mỏi đang nghỉ ngơi, nhưng Ngài nghỉ ngơi trên con thuyền của chúng ta, của con người yếu đuối, chứ ngài không nằm nghỉ trên giường êm nệm ấm. Và kìa Ngài đã nghe tiếng kêu của các môn đệ.Chúng ta hãy nhìn xem. Ngài đứng dậy. Rồi Giêsu làm gì? Ngài sẽ mắng các môn đệ chăng? Không, điều đầu tiên là:
- “39Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi!” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ.”
Tuyệt vời quá sức! Tuyệt vời như từ thuở xa xưa:
“Khi gặp bước ngặt nghèo, họ kêu lên cùng CHÚA,
Người đưa tay kéo họ ra khỏi cảnh gian truân.
Đổi phong ba thành gió thoảng nhẹ nhàng,
sóng đang gầm, bỗng đâu im tiếng,
họ vui sướng, vì trời yên bể lặng
và Chúa dẫn đưa về bờ bến mong chờ.” (Tv 107, 28-30)
Vâng, dù tiếng sóng có gầm vang, có thét lên đến long trời lở đất, thì cũng cần phải im tiếng đi, cần phải nhường bước cho Thiên Chúa, Đấng là tình yêu, Đấng từ thuở đời đời luôn ở đó bên người con nhỏ yêu dấu của Ngài:
“Sóng nước đã gầm lên, lạy CHÚA,
sóng nước đã gầm lên tiếng thét gào.
Sóng nước đã gầm lên, long trời lở đất.
Nhưng hơn hẳn tiếng nước ngàn trùng,
hơn hẳn sóng oai hùng ngoài biển cả,
CHÚA oai hùng ngự trị chốn cao xanh.” (Tv 93, 3-4)
Sự hiện diện đầy quyền năng của Chúa đã làm cho biển phải câm lặng. Quyền năng này các môn đệ ngày xưa không thể hiểu được. Có lẽ chính vậy mà niềm tin của các ông còn nhỏ lắm. Và có lẽ Giêsu hiểu thấu được niềm tin của môn đệ mình, nên Ngài chỉ mắng:
- “40 Rồi Người bảo các ông: Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”
Ở đây một điều thú vị là, trước hết Giêsu ra lệnh cho biển phải im lặng, sau đó Ngài mới mắng các môn đệ. Vâng, ngài đã hiểu thấu sự sợ hãi của các ông, nên điều đầu tiên cần làm không phải là trách mắng người đang sợ hãi, mà ra tay giúp đỡ giải thoát họ ra khỏi sự sỡ hãi trước, sau đó muốn nói gì thì nói, muốn mắng gì thì cũng không sao.
Lời mắng các môn đệ nhát sợ được Giêsu lập lại nhiều lần khác (x. Mc 4, 13.40; 7,18; 8,17tt.21.33; 9, 19). Nhưng khi mắng các môn đệ như thế, Giêsu có ý chống lại sự nghi ngờ của các môn đệ vào chính Ngài, Thầy của họ, cũng như chống lại sự nhát sợ của người được chọn, người môn đệ Chúa. Như vậy lời mắng của Giêsu như là lời tỉnh thức giúp cho những ai theo Chúa cần dừng bước lại, để nhận ra sự yếu đuối rất hay nhát sợ của con người mình, và ý thức bám vào Chúa nhiều hơn. Vâng, ai càng bám vào Chúa và sống trong tình thân với Ngài, thì sẽ chẳng sợ gì, họ càng ngày càng bình tâm hơn. Một sự bình tâm tín thác và tin tưởng hoàn toàn vào Chúa, đến nỗi không ước muốn sức khỏe hơn bệnh tật, giàu sang hơn nghèo khổ, danh vọng hơn nhục nhã, sống lâu hơn chết yểu và tương tự thế đối với mọi sự khác, nhưng chỉ ước muốn và lựa chọn cái gì dẫn đưa chúng ta tới cứu cánh của mình hơn cả, và cái gì đúng theo thánh ý của Chúa mà thôi (ss. Sách Linh Thao số 23)
Điều thứ hai mà Giêsu mắng các môn đệ là việc yếu lòng tin của các ông. Về điều này chúng ta cũng thấy Máccô nhắc đến nhiều lần. Vâng, dù cho các ông đã theo Giêsu và ở với Người (ss. Mc 3, 14), dù cho mầu nhiệm Nước Trời đã được trao cho các ông (ss. Mc 4, 11), và giải nghĩa cho các ông cặn kẽ (ss. Mc 4, 34b), nhưng các ông vẫn chưa có lòng tin. Adolf Pohl chú ý chúng ta về từ ngữ “chưa có lòng tin”. Với từ ngữ này chúng ta có thể nhận ra rằng, sự chậm hiểu và thiếu lòng tin của các môn đệ là dấu hiệu của sự thiếu kinh nghiệm thiêng liêng về Thiên Chúa và về niềm tin.
Phải chăng niềm tin không chỉ là một món quà của Chúa ban tặng một lần là xong, mà niềm tin còn cần phải được chăm bón, cần phải được thử sức và tôi luyện, cần phải luôn luôn được lấy ra khỏi “kinh tin kính”, để đem vào cuộc sống, để nhìn lại và để rút ra thêm kinh nghiệm. Và cũng thật quan trọng, khi ý thức như Luca cầu xin Chúa: “Lạy Chúa, con tin Chúa, nhưng xin Chúa tăng thêm lòng yếu tin của con.” Thực vậy, không ai dám nói rằng, khi tôi bước theo Chúa và trở thành môn đệ của Ngài, thì niềm tin của tôi vào Ngài đã vững vàng 100%, đến nỗi tôi không cần phải “vào nhà tập lại”, không cần phải đi tĩnh tâm năm, không cần phải cầu nguyện hằng ngày, không còn phải ra sức học hành và trau dồi Lời Chúa nữa.
Ai dám nghĩ như thế, thì thật là “tuyệt”, vì họ là con người hoàn hảo rồi. Mà đã hoàn hảo rồi thì đi tu để làm gì nữa? Vì vậy, thật hay từ ngữ “tu” của Việt Nam ta: Tu là để sửa chữa, để ngày ngày học biết tinh thần của Giêsu và ý thức sửa đổi bắt chước Giêsu mỗi ngày nhiều hơn một chút. Hay theo thiển ý của tôi, có thể nói theo kiểu của Linh Thao: Tu là một chuỗi ngày tập thể thao cho linh hồn của mình, bằng cách ngày ngày ý thức dọn dẹp và chuẩn bị linh hồn để xa bỏ những quyến luyến lệch lạc và sau đó tìm kiếm ý Chúa trong cách xếp đặt cuộc sống để mưu ích cho linh hồn mình (ss. Linh Thao số 1)
- 41 Các ông hoảng sợ và nói với nhau: “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”
Sau khi chứng kiến quyền năng của Giêsu trên thiên nhiên, thì các môn đệ hoảng sợ. Ở đây, Adolf Pohl so sánh một điều rất hay. Trong câu 37 nói về một trận cuồng phong lớn. Và sau đó ở câu 39 là “biển lặng như tờ” nghĩa là sự thinh lặng lớn. Và ở câu 41 này thì các môn đệ “hoảng sợ”, nghĩa là nỗi sợ thật lớn. Như vậy, nỗi sợ thật lớn này không còn là sự nhát sợ mà Giêsu mắng các ông ở câu 40, mà là sự sợ hãi lớn trước sự mạc khải của Thiên Chúa. Sự sợ hãi này cũng là sự công nhận của con người nhỏ bé trước quyền năng phi thường của Thiên Chúa. Vâng, nỗi sợ lớn lao trước Thiên Chúa này không trói buộc con người lại, mà thúc đẩy con người biết ý thức phủ phục, biết ý thức tỏ lòng thờ lạy Chúa của mình, như trong Giona 1, 16: “Những người ấy sợ ĐỨC CHÚA, sợ lắm; họ dâng hy lễ lên ĐỨC CHÚA và khấn hứa.” Như vậy, trong sự sợ hãi này chứa đựng những điều thật tích cực: Tin tưởng và thờ lạy. Vâng, sau khi biển và cuồng phong đã phải tuân phục và bái lạy Thiên Chúa, thì giờ đây đến lượt con người chúng ta.
Nỗi sợ hãi lớn lao này cũng thúc đẩy con người đi vào trong giao động mới, đó là đi tìm căn tính của Đức Kitô: Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh? Theo R. Pesch thì những ai chứng kiến cảnh tưởng này chỉ có thể trả lời rằng:Đấng mà cả gió và biển phải tuân lệnh thì lớn hơn tiên tri Giona. Ngài hành động với sức mạnh của chính Gia-vê Thiên Chúa. Ngài là Đấng lớn hơn cả sức mạnh và bạo lực của hỗn mang. Phần bạn và tôi, chúng ta hãy luôn để câu hỏi này đi với mình trong cuộc đời: “Đức Kitô là ai đối với tôi vậy?” Chắc chắn rằng, mỗi thời điểm câu trả lời sẽ khác, vì kinh nghiệm về niềm tin và về Giêsu của chúng ta cũng sẽ khác đi và dồi dào hơn.
67. Đức Giêsu dẹp yên bão tố -- Lm. FX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
TM Máccô theo một cái khung quen thuộc để kể truyện này: một trở ngại phải vượt qua (một trận cuồng phong trên biển), hành động quyền năng của Đức Giêsu (lệnh truyền im lặng), và sự xác nhận (sự yên lặng hoàn toàn và nỗi sợ hãi của các môn đệ). Bối cảnh của câu truyện này rất có thể là quan niệm cổ xưa của Cận Đông về biển: đây là biểu tượng của những quyền lực của hỗn mang và sự dữ đấu tranh chống lại Thiên Chúa. Các độc giả đầu tiên của Mc nắm được ý nghĩa của biểu tượng này đến mức nào, thì khó mà biết. Nhưng chắc chắn câu hỏi của các môn đệ (“người này là ai?”) cho thấy là tác giả muốn nhấn mạnh trên chân tính của Đức Giêsu. Câu hỏi ấy trở thành một lời tung hô mặc nhiên mang tính Kitô học nhìn nhận bản tính thần linh của Đức Giêsu, bởi vì Người làm được những việc Thiên Chúa làm.
Ở đầu bản văn, rõ ràng Mc bận tâm tạo ra một móc nối với những phần đi trước. Ngày sắp tàn là ngày đã có bài giảng dài trên hồ (x. 4,1). Chiếc thuyền Đức Giêsu dùng để qua hồ vẫn là chiếc thuyền Người đã dùng làm bệ giảng trên hồ (x. hình ảnh con thuyền trong Mc: 5,1.21; 6,45; 8,31). Bỏ đám đông ở đầu c. 36 cũng là một điểm móc nối. Riêng với chiếc thuyền: Chuyến vượt hồ bằng thuyền tương ứng với việc dừng lại nơi một ngôi nhà; và cũng như có những giáo huấn đặc biệt Đức Giêsu ban cho các môn đệ được nối kết với lần dừng lại nơi một ngôi nhà (x. 7,17-23; 9,28t; 9,33-50; 10,10-12), thì cũng có những hành vi quyền lực đặc biệt được liên kết với chuyến vượt hồ bằng thuyền. Chiếc thuyền là nơi để Đức Giêsu mạc khải đặc biệt cho các môn đệ (4,35-41; 6,45-52) và là nơi Người chờ đợi các ông tỏ ra hiểu biết các hành vi quyền lực của Người (8,17-21). Chiếc thuyền là nơi có sự hiệp thông đặc biệt chặt chẽ giữa Đức Giêsu và các môn đệ. Và chính là trong sự hiệp thông rất chặt chẽ này và không thiếu hiểm nguy, mà các hành vi cứu độ và mạc khải quan trọng của Đức Giêsu được thực hiện.
2.- Bố cục
Sau khi đã giản lược một số chi tiết, chúng ta có thể xác định bố cục như sau:
1) Đức Giêsu và các môn đệ trước khi gặp sóng gió (4,35-37);
2) Đức Giêsu và các môn đệ trong sóng gió (4,38-39);
3) Đức Giêsu và các môn đệ sau sóng gió (4,40-41).
3.- Vài điểm chú giải
- Hôm ấy, khi chiều đến (35): Tác giả quen dùng hai thành ngữ đi liền nhau để chỉ thời gian, trong đó vế thứ hai xác định vế thứ nhất (x. 1,32.35).
- sang bờ bên kia: nghĩa là sang bờ phía đông của Hồ Galilê. Tại sao Đức Giêsu muốn sang đó: để tránh sự chống đối? để tìm một vùng đất mới mà rao giảng? Ta không được rõ.
- ngủ (38): Giữa trận cuồng phong dữ dội, Đức Giêsu vẫn có thể ngủ, có lẽ vì Người quá mệt, nhưng cũng chắc chắn vì Người vừa hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa (x. Tv 4,9; 3,24-26) vừa chứng tỏ Người luôn làm chủ mọi tình huống.
- Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao? (38) Câu hỏi này của các môn đệ đã được làm nhẹ đi rất nhiều trong Mt 8,25 (“Thưa Ngài, xin cứu chúng con, chúng con chết mất”) và Lc 8,24 (“Thầy ơi! Chúng ta chết mất!”).
- truyền cho biển (39): x. 1,25. Đức Giêsu có thể kiểm soát biển, đây là mặc nhiên khẳng định rằng Đức Giêsu có quyền năng của Thiên Chúa, bởi vì chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể điều khiển biển (x. Tv 73/74,13-14; 88/89,10-12).
- Câm đi! x. 1,25: động từ phimoô. Cơn bão được coi như một thú dữ. Động từ này cho hiểu rằng Đức Giêsu đang chứng tỏ Người có thể kiểm soát các mãnh lực của tà thần.
- Gió liền tắt và biển lặng như tờ: Nhận định này cho thấy Đức Giêsu hoàn toàn kiểm soát được biển.
- nhát (HL. deiloi, 40): Nhiều lần các tác giả Tân Ước đã cảnh giác về deilia (“sự nhát đảm”). Ở Kh 21,8, những người nhát đảm được kể ra cùng với những người không tin (x. 2 Tm 1,7; Ga 14,1).
- Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin? Lời trách này rất nặng, do nhắm thẳng vào các môn đệ (x. 8,14-21). Phải chăng họ đã mất niềm tin vào Thiên Chúa hoặc vào Đức Giêsu? Nếu họ đã mất niềm tin vào Thiên Chúa, chính là vì họ đã không chịu noi theo Đức Giêsu đặt hết tin tưởng vào Thiên Chúa (4,38). Nếu họ đã mất niềm tin vào Đức Giêsu, chính là họ vì họ đã không cậy dựa vào quyền lực của Đức Giêsu.
- Vậy người này là ai? (41): Bởi vì chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể chế ngự gió và biển, câu hỏi này của các môn đệ hàm chứa một lời tuyên xưng mặc nhiên rằng Người làm được những việc mà truyền thống Cựu Ước thường trình bày là chỉ Thiên Chúa mới làm được.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Bản văn vừa cho thấy tương quan mật thiết giữa Đức Giêsu và các môn đệ vừa diễn tả lộ trình các môn đệ khám phá ra mầu nhiệm Đức Giêsu: họ bước theo Người, họ chứng kiến các biến cố trong đó Người can thiệp, họ khám phá ra mầu nhiệm bản thân Người. Chi tiết “có những thuyền khác cùng theo” chỉ được nêu ra ở câu đầu, rồi sau đó cho đến cuối, không xuất hiện nữa.
* Đức Giêsu và các môn đệ trước khi gặp sóng gió (35-37)
Sáng kiến vượt hồ là sáng kiến của Đức Giêsu. Các môn đệ luôn thinh lặng bước theo Người và tận tình thực hiện những việc Người đề nghị. Đức Giêsu luôn tỏ ra là chủ, nắm vững mọi hướng đi.
* Đức Giêsu và các môn đệ trong sóng gió (38-39)
Nguy hiểm được mô tả bằng các chi tiết về sóng to gió lớn. Nhưng Đức Giêsu vẫn tỏ ra là chúa tể, làm chủ tình hình: Người ngủ. Bình thường các môn đệ chờ đợi Đức Giêsu phản ứng và dạy bảo rồi mới làm theo; nhưng ở đây, thấy bão táp quá nguy hiểm, các ông bị chao đảo trong đức tin, các ông đã phản ứng trước Thầy, các ông thúc bách Thầy bằng giọng hốt hoảng và trách móc. Người đã trỗi dậy, dẹp yên sóng gió. Ở đây, bão và biển được truyền lệnh như những sinh vật; chúng được yêu cầu “im đi!”, “câm mõm lại!”. Quả thật, từ vựng của bản văn là từ vựng của một truyện trừ quỷ.
* Đức Giêsu và các môn đệ sau sóng gió (40-41)
Dù sao chúng ta thấy phản ứng của các môn đệ (hoảng sợ và đánh thức Thầy) là chuyện hợp lý. Khó hiểu hơn, đó là những câu hỏi của Đức Giêsu: “Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?” (c. 40). Làm sao có thể cấm các môn đệ sợ hãi khi gặp nguy hiểm chết người? Đức tin này là loại đức tin nào, mà ngay trong nguy hiểm cùng cực vẫn loại trừ được nỗi sợ hãi? Đức Giêsu trách các môn đệ là chỉ nhìn đến nguy hiểm và những sức mạnh đe dọa của thiên nhiên chứ không hiểu biết ai là người đang cùng ở trên thuyền với họ.
Chỉ sau khi đã thực hiện phép lạ, Đức Giêsu mới ngỏ lời với các môn đệ; lúc này, họ lại trở về đúng vị trí là những người bước theo, đón nhận giáo huấn. Câu nói: “Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?” chứng tỏ các môn đệ đã được sống với Đức Giêsu khá lâu rồi. Câu hỏi “Vậy người này là ai…?” vừa nhìn nhận quyền lực của Đức Giêsu vừa như muốn tìm ra câu trả lời nơi những người nghe kể lại sự cố. Ta sẽ gặp câu trả lời được đề nghị trên môi Phêrô ở 8,29.
+ Kết luận
Đoạn văn nêu bật sự cần thiết của đức tin trong đời sống người môn đệ. Nếu chúng ta hiểu rộng ra rằng trận bão trên biển ấy là một hình ảnh báo trước cuộc Khổ Nạn mà Đức Giêsu sẽ đi vào, thì bước theo Đức Giêsu, dù ngày hôm qua hay ngày hôm nay, luôn luôn là bước theo Người xuyên qua Khổ Nạn. Và như thế, cần phải có đức tin. Chỉ với giá ấy, người môn đệ mới được tham dự vào cuộc Phục Sinh vinh quang với sự an bình thẳm sâu được.
5.- Gợi ý suy niệm
1.Hình ảnh con thuyền trong đó các môn đệ sống chung với Đức Giêsu là biểu tượng cho cộng đoàn gồm những môn đệ hôm nay vẫn đang muốn bước theo Người. Đó chính là một cuộc “cộng đồng sinh mệnh”, sống chết có nhau. Phản ứng của các môn đệ trong biến cố này là một tấm gương và một lời nhắc nhở cho cộng đoàn Kitô hữu là đừng rơi vào một thái độ không tin như thế. Nếu chúng ta gắn bó với Đức Giêsu, thì không có hoàn cảnh nào có thể tiêu diệt chúng ta, bởi vì không có hoàn cảnh nào mà Người không chế ngự được.
2. Sai lầm của các môn đệ là chỉ nghĩ đến mình chứ không sẵn sàng chia sẻ nguy hiểm với nhau và với Đức Giêsu. Hoàn cảnh này sẽ được lặp lại khi họ chạy trốn trong đêm Đức Giêsu bị bắt và bị đưa đi đóng đinh. Cơn sóng gió cuối cùng chúng ta sẽ gặp, và không có cách nào tránh được, đó là cái chết. Mỗi người chúng ta đều sẽ phải đương đầu với cái chết; cái chết có thể đến bất ngờ một trận cuồng phong hay chậm chạp từ từ. Nhưng cho dù cái chết đến bằng cách nào đi nữa, chúng ta cũng lo sợ. Bài Tin Mừng này cho chúng ta biết là chúng ta phải tin rằng Đức Giêsu luôn nghĩ đến chúng ta, Người sẽ không để chúng ta phải lo sợ quá mức. Chúng ta tin rằng khi chúng ta cần, Người sẽ lên tiếng bảo cơn sóng gió “Câm đi! Im đi!”
3. Lời mời gọi “Hãy sang bờ bên kia” có nhiều ý nghĩa đối với chúng ta. Với Giáo Hội, “bờ bên kia” mang ý nghĩa là những người hiện giờ không ở trong cộng đoàn chúng ta, họ đang ở “bờ bên kia”, có thể họ là những người vừa di chuyển đến trong xã hội chúng ta, những người “bên phía kia”, là người cao niên, người tàn tật, người bệnh chờ chết, hay người di dân vì chiến tranh trong trại di cư... Đức giáo hoàng Phanxicô dạy trong Tông huấn Niềm vui Tin Mừng: “Mỗi Kitô hữu và mỗi cộng đồng phải phân định đường đi nước bước mà Chúa vạch ra, nhưng tất cả chúng ta đều được yêu cầu vâng theo tiếng gọi của Người là ra đi khỏi khu vực tiện nghi của mình để đến mọi vùng ngoại vi đang cần ánh sáng Tin Mừng” (s. 20).
4. Lời Đức Giêsu trách các môn đệ: “Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?” rất đúng cho chúng ta là những người đã biết Đức Giêsu từ lâu, đã sống với Người, đã được chứng kiến biết bao nhiêu việc kỳ diệu Người làm trong đời sống chúng ta, mà vẫn không biết phản ứng hay lấy những quyết định tương hợp với kinh nghiệm ấy. Nhận biết đúng đắn chân tính của Đức Giêsu thì sẽ có một thái độ đúng đắn đối với bản thân Người.
5. Các cộng đoàn chúng ta phải đưa Đức Kitô đến cho người ngoại, nên không thể nào tránh khỏi những khó khăn và đối kháng. Chẳng hạn, không phải mọi nhóm tôn giáo đều tôn trọng tự do của cá nhân; những sứ giả Tin Mừng có thể gặp những nguy hiểm chết người… Tuy nhiên, vì loan báo Tin Mừng là sứ mạng làm nên bản chất Kitô hữu, chúng ta không thể tránh né.
68. Chú giải của Noel Quesson.
Giáo huấn bằng dụ ngôn của Đức Giêsu đã nói lên sự phân biệt rõ ràng giữa hai loại người: Đối với những “người ở ngoài”, thì tất cả đều bí hiểm. Còn đối với các “môn đệ”, thì mọi sự đều sáng tỏ trong các mạc khải về mầu nhiệm mà “vị Thầy “ đã thông tỏ riêng cho họ. Trong Tin Mừng theo Thánh Mác-cô, tiếp theo một chuỗi những dụ ngôn là bốn phép lạ. Những phép lạ này có đặc tính rõ ràng: Không được thực hiện trước công chúng, nhưng chỉ “trước mặt các môn đệ”. Phải chăng những phép lạ này là những dụ ngôn bằng hành động, phải được hiểu trên bình diện biểu tượng cũng như bình diện thực tế? Các tông đồ giữa cơn bão tố được kể lại hôm nay, gọi Đức Giêsu là “Thầy” (tiếng Hy Lạp là didaskalos có nghĩa là “Thầy dạy dỗ”), việc này phải chăng có một giá trị mạc khải lớn? Vậy chúng ta hãy lắng nghe giáo huấn của Người trong biến cố này. Đọc một biến cố để nêu ý nghĩa thần học, không làm cho biến cố đó mất tính cách lịch sử, nhưng mang lại cho nó chiều kích sâu xa hơn.
Chiều hôm ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Chúng ta sang bờ bên kia đi?”. Vì Người đang ở trên thuyền, các ông cứ thế chở Người đi bỏ dân chúng ở lại; có những thuyền khác cùng theo Người”.
Trên bình diện thực tế lịch sử, tôi tưởng tượng một buổi chiều hè đẹp trời, Đức Giêsu mượn chiếc thuyền của Simon Phêrô và từ từ rời xa bờ biển Ca-phác-na-um. Sau một ngày nóng bức, bây giờ là buổi chiều tà mát mẻ. Sau khi đã tiếp xúc với đám đông ồn ào, bây giờ là lúc thân mật ân tình với nhóm bạn hữu trên biển. Chính Đức Giêsu đã có sáng kiến tạo ra những giây phút yên tĩnh này:
“Chúng ta hãy qua bờ bên kia”. Gió tốt, cánh buồm căng phồng đang nhẹ rung - Người ta chỉ nghe tiếng nước vỗ nhẹ vào mạn thuyền đang rẽ sóng và tiếng kêu của một vài con chim biển. Sau một ngày giảng dạy bằng dụ ngôn, Đức Giêsu mệt mỏi thiếp ngủ nơi cuối thuyền. Bên cạnh Người là Phêrô đang cầm bánh lái. Nhưng nếu chỉ dừng ở những trang này thì thật đáng tiếc. Chúng ta biết rằng, từng câu, từng chữ trong trình thuật Tin Mừng, đều được khoa Giáo lý ban đầu chú giải. Do đó chúng ta cũng phải đọc và hiểu theo nghĩa tượng trưng, như những chú giải của các Giáo phụ minh chứng.
“Ngày hôm đó”: Đây không phải là một kiểu nói thông thường, có nghĩa là: Ngày giảng dạy bằng dụ ngôn đã chấm dứt. Đối với Thánh Maccô “sự trình bày cán sự kiện nối tiếp nhau là một cấu trúc thần học hơn là một phóng sự “Ngày hôm đó” sẽ không phải một ngày thường. Phêrô sẽ nhớ ngày đó suốt đời. Vì ông gợi nhớ những hình ảnh Thánh kinh: “Ngày hiển hách của “Giavê”, “Ngày Thiên Chúa quyền năng can thiệp mạnh mẽ”, ngày đó có những tai họa cánh chung đi trước (Ga 2,3).
“Chiều tối đến”: Không chỉ là màn đêm buông xuống, mà còn “giờ của bóng tối”, giờ thử thách (Mc 14,17; Ga 9,4-13.30).
“Bờ bên kia”: Không chỉ là bờ hồ đối diện mà còn là bước đi vĩ đại sang bên kia thế giới. Đó là số kiếp của mỗi người vào lúc hoàng hôn của cuộc đời. Đó là ngày trọng đại Ngày của Thiên Chúa”... Tất cả những ngày khác đều phải chuẩn bị cho ngày đó.
Bỗng nổi lên một trận cuồng phong, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước.
Bão tố thực sự. Ngày nay hồ Tibêria vẫn nổi tiếng về những cơn bão bất ngờ và mãnh liệt từ đồi Gôlăng thổi xuống. Hơn ai hết, vì nghề nghiệp Phêrô đã biết rõ điều này. Những cơn gió thổi mạnh đập vào cánh buồm và làm nghiêng ngả chiếc tàu thật nguy hiểm. Nhưng không cần phải đi biển mới bị những cơn bão tố như thế. Tất cả các ngôn ngữ trên thế giới đều dùng chữ bão tố để ám chỉ “một cơn thử thách bất ngờ đổ xuống trên con người”. Trong Thánh Kinh, đề tài bão tố thường được dùng để nói về sức mạnh của sự dữ. Công cuộc tạo dựng ta được hiểu như sự chiến thắng của Thiên Chúa trên cảnh hỗn loạn của biển khơi nổi dậy (St 1,2). Theo khoa huyền thoại xưa của Do Thái. Biển cả là “vực thẳm vĩ đại”, nơi những con rồng, những thủy quái, Lêviathan, biểu tượng của Satan, thống trị (Is 27,1; Tv 74,13; G 9,13; Đn 7; Kh 12,13).
Trong khi đó, Đức Giêsu đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ.
Tôi ngắm nhìn Đức Giêsu đang ngủ, đôi mắt nhắm, hơi thở đều đặn, vẻ bình thản, ở đằng lái thuyền, trong cớn bão tố. Chi tiết này gợi cho tôi tâm tình cầu nguyện nào? Lạy Chúa, Chúa đưa chúng con đi đến đâu? Chúa làm cho chúng con bối rối biết bao? Trong Thánh kinh, có một người khác cùng ngủ trong cơn bão táp, đó là Giona. Người ta phải đến đánh thức ông dậy (Gn 1,3-16). Có phải tình cờ, mà Đức Giêsu nói về “dấu lạ của Gio-na” như một dấu hiệu duy nhất để diễn tả về: Cái chết và sự Phục sinh của Người? (Mt 12,39-40; Lc 11,29-30; Mc 8,12-13). Vả lại các tác giả Kinh thánh thường nói về “cái chết” bằng từ “giấc ngủ” (Tv 13,4; Đn 12,2; Ep 5,14; Ga 11,11; Mc 5,39-41). Hình ảnh này cũng dùng để diễn tả sự “lãnh đạm của Chúa”, sự “vắng mặt của Chúa”: Lạy Chúa, xin Chúa chỗi dậy đi, tại sao Chúa lại ngủ? Chúa hãy thức dậy đi (Tv 44,24; 45,23; 59,6; 78,65; Is 51,9-10). Vâng, đúng vậy trong những cơn bão tố cuộc đời chúng con, dường như Chúa vẫn ngủ. Lạy Chúa, không phải chỉ có con người hiện đại nghĩ ra đề tài “cái chết của Thiên Chúa”, nhưng đó là tình cảm tự nhiên của thân phận con người, khi thấy mình bất lực, bị đe dọa trước một Thiên Chúa không can thiệp để cho lực lượng của thần chết hành động, một Thiên Chúa dường như đang ngủ.
Các môn đệ đánh thức Người dậy, và nói: “Thầy ơi! chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”
Đây là một lời cầu tuyệt diệu, đáng cho chúng ta bắt chước, trước những bão tố cuộc đời.
Người thức dậy, ngăn đe gió, và truyền cho biển: “Im đi? Câm đi?” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ.
Ở đây chữ được dịch là “thức dậy”, “diégertheis” cũng chính là chữ được dùng để nói “được sống lại, Phục sinh” (Mc 5,41- 16,6.14).
Qua tình tiết có thực mà Maccô kể lại (đó là bài giảng của Phêrô), chúng ta có lý do chính đáng để nhận ra cuộc khổ nạn của Đức Giêsu là một cơn bão dữ dội: Nó làm lắc lư con thuyền nhỏ bé của cộng đoàn tông đồ, vào lúc Đức Giêsu đã ngủ yên trong cái chết của Người. Nhưng đối đầu với lực lượng thần chết được tượng trưng là “biển cả” Đức Kitô đã Phục sinh. Chúng ta gặp lại kiểu nói của người Do Thái về biển cả, hình ảnh những lực lượng thù địch với con người, vì ở đây, Maccô dùng chính những từ như khi Đức Giêsu “hăm dọa” quỷ dữ để “bắt chúng im lặng” (Mc 1,25; 9,25).
Đức Giêsu nói với họ: “Tại sao lại sợ? Tại sao các người không có đức tin?”
Câu nói rất nghiêm khắc: “Các anh không có đức tin”, “các anh đã mất lòng tin”, thực sự đã được áp dụng vào lúc Đức Giêsu chịu khổ nạn, lúc này tất cả các tông đồ chạy trốn, chối bỏ, hoài nghi. Chúng ta sẽ nghe lặp lại ba lần rằng, các tông đồ “đã không tin”: “Chúa trách sự cứng lòng tin của họ, vì. họ đã không tin những người đã thấy Chúa Phục sinh” (Mc 16,11-13).
Những cơn bão tố đời tôi thế nào? Chúa có làm nhẹ bớt những cơn bão đó không?
Nếu đọc Thánh kinh một cách ngây ngô, chúng ta có thể tin điều đó. Sự bình lặng của hồ Tibêria làm chúng ta mơ tưởng một cuộc sống an bình, trong đó Chúa sẽ thường xuyên can thiệp vào những nguyện nhân tự nhiên để tránh cho chúng ta sự thử thách và cái chết.
Nhưng đọc Thánh kinh cách đúng đắn, sẽ dẫn chúng ta đến sự “thanh tẩy đức tin” theo lời mời gọi của Chúa. Chính qua giấc ngủ của sự chết, Chúa Kitô đã giải thoát chúng ta khỏi những thế lực của hỏa ngục và sự chết.
Không phải đức tin nào cũng dẹp yên được bão tố, mà chỉ đức tin nới “Đức Kitô tử nạn và Phục sinh” mới có khả năng. Sự cứu độ mà chúng ta tin, không làm cho chúng ta thoát khỏi những đau khổ gắn liền với bản chất con người cách lạ lùng và đặc biệt.
Sự xác tín vào quyền lực của Chúa đã không ngăn cản Chúa Kitô trải qua, giấc ngủ ở trong hồ. Chính chúng ta cũng phải trả qua thử thách mới đến được “bến bờ bên kia”. Nhưng Đức Giêsu đang ở đó với chúng ta trong những thử thách. Quả thật trang Tin Mừng này có một biểu tượng đáng phục.
Các ông hoảng sợ và nói với nhau: “Người là ai, mà cả đến gió và biển cũng phải tuân lệnh?”
Đây là lần đầu tiên Thánh Maccô ghi lại câu hỏi này của các môn đệ. Câu hỏi chủ yếu nhắm đến lai lịch sâu xa của vị “Thầy” trẻ trung. Người phải chăng chỉ là một ông “Thầy” (Rabbi) như bao ông thầy khác? Người là ai? Người sẽ đưa họ đến đâu? Một ngày gần đây, Đức Giêsu sẽ hỏi Phêrô: “Đối với anh, Thầy là ai?” (Mc 8,29).
Không người nào có thể tự miễn cho mình khỏi phải đặt câu hỏi đó. Và nếu không trả lời thì đó là chấp nhận rằng, những cơn bão trong cuộc đời sẽ kết thúc bằng một sự chìm đắm vào hư vô. “Nhưng nếu người nào ở trong Đức Giêsu, người đó sẽ là một tạo vật mới” (1Cr 5,7). Đức tin được thanh luyện đưa chúng ta vào cuộc sống mới. Lạy Chúa, Chúa đã nói: “Chúng ta hãy sang bờ bên kia”.
69. Chú giải của Fiches Dominicales.
ĐỨC GIÊSU DẸP YÊN SÓNG GIÓ
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI.
1. Một trình thuật giống kiểu trừ tà
Đức Giêsu rời bỏ ven Biển Hồ Galilê, nơi Người đã dùng dụ ngôn mà giảng dạy cho dân chúng (x. Tin Mừng CN.11 TN) để phiêu lưu sang “bờ bên kia”, nơi có đông dân cư' là người ngoại. Trình thuật Maccô ta đọc hôm nay nằm trong bối cảnh đó.
Đọc trích đoạn trên, người đọc chỉ có thể thấy cái hời hợt bên ngoài, nếu không biết gió và biển trong Kinh Thánh có ý nghĩa biểu tượng gì, và nếu không để giờ đối chiếu đoạn văn này với câu chuyện Chúa gặp người bị quỷ ám ở hội đường Capharnaum.Thực vậy, “gió” và “biển” đối với người am tường Kinh Thánh, mang rất nhiều ý nghĩa. M.E.Boismard giải thích: “Trong ngôn ngữ Do Thái, cùng một tiếng “gió” cũng có nghĩa là “Thần trí”. Ngoài ra trong Kinh Thánh, biển thường là biểu tượng những thế lực gian tà mà Thiên Chúa phải đánh gục để kế hoạch của Người toàn thắng. Ở đây, biển động dữ dội do ảnh hưởng của cuồng phong. Ta phải hiểu là có một “thần tríxấu (Satan chăng) đang, tung những ma lực dưới quyền để ùa đến tấn công con thuyền, “tức là tân công các môn đệ” (“Jésus, un homme de Nazareth”, Cerf, 1996, trang 78). Quả là một trở ngại lớn lao cho việc loan báo Tin Mừng trên miền đất dân ngoại!
Còn nếu đối chiếu với phép lạ giải thoát người bị quỷ ám ở hội đường Capharnaum (Mc 1,23-27) ý nghĩa lại càng rõ.
+ Nơi Mc 1,25: Đức Giêsu đã quát mắng “thần ô uế”. “Câm đi” hãy xuất khỏi người này!”. Còn ở đây, sau khi được các bạn đồng hành đánh thức dậy, vì Người đang ngủ ở đàng lái, Đức Giêsu ngăm đe gió và truyền cho biển: “Im đi, câm đi”.
+ Nơi Mc 1,26: thần ô uế, sau khi đã lay mạnh người ấy, thì thét lên một tiếng và xuất khỏi anh ta. Còn ở đây, gió và biển đều tuân phục Đức Giêsu: “ Gió liền tắt và biển lặng như tờ”.
+ Nơi Mc 1,27: cảnh kết thúc với lời bàn tán của những người chứng kiến: Mọi người đều kinh ngạc và bàn tán: Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh. Còn ở đây, các môn đệ cũng bàn tán: các ông hoảng sợ và nói với nhau. Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh”.
Thế nên, trong chuyện kể về bão táp được dẹp yên, không chỉ đơn thuần là việc Đức Giêsu biểu dương quyền lực đối với thiên nhiên mà chính là vấn đề trữ quỷ đích thực: Đức Giêsu có quyền trấn áp Satan và những thế lực của sự ác đang hoạt động song hành với Người.
Còn về lời bàn tán của các môn đệ “Vậy người này là ai mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh”, thì rõ ràng là lời mạc khải. J.Potin chú giải: theo cách nhìn của Kinh Thánh, bão táp là biểu hiện của những ma lực tiềm ẩn trong biển cả. Chỉ mình Thiên Chúa hoặc kẻ được Chúa ban quyền mới có thể chế ngự được những ‘thế lực ấy’. Ở đây các môn đệ được mời gọi khám phá ra chân lý tiềm ẩn đàng sau cảnh dẹp yên sóng gió là: Đức Giêsu được Thiên Chúa trao ban quyền lực để thu hồi mọi lực lượng về phục tùng Thiên Chúa. Nhờ thế lực của Đức Giêsu mà các môn đệ đã khắc phục được hiểm nguy lớn lao. Việc hồi tưởng lại một biến cố rõ rệt đã trải qua, sự hộ phù che chở của Chúa trong chuyến vượt biển nguy hiểm ấy. Đều là biểu tượng ơn nâng đỡ người sẽ ban cho các ông trong lúc con thuyền Giáo Hôi lâm cảnh lênh đênh sóng gió “Jésus, l’histoire vaie”, Centurion, 1994, trang 256-257).
2. Khi đọc lại câu chuyện dưới ánh sáng phục sinh.
Một sự đối chiếu khác không kém phần lý thú và chứa đựng nhiều giáo huấn. Đó là cảnh khởi đầu của sách Giona mà trích đoạn Tin Mừng này coi như đã sao họa lại.
Trong cả hai trường hợp, câu chuyện đều cùng mở đầu bằng việc hành khách xuống thuyền (Ga 1,31 Mc 4,35-36).
+ Nếu Giona xuống thuyền để đi Taxê là vì ông nghĩ mình có thể trốn lánh mặt Chúa, Người đã lệnh cho ông phải đi tới Ninivê, một thành phố lớn của dân ngoại để kêu gọi dân thành ở đây trở lại.
+ Còn Đức Giêsu xuống thuyền là để tới ven bờ bên kia của Biển Hồ, miền đất thuộc dân ngoại, cũng là để rao giảng Tin Mừng ở đây. Đây là một khúc quanh quan trọng trong sứ vụ của Người.
Trong cả hai trường hợp đều có một trận cuồng phong nổi lên khiến biển động dữ dội.
Trong khi đó, Giona và Đức Giêsu đều cùng ngủ mệt: Giona ngủ vùi dưới lòng tàu, còn Đức Giêsu thì dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ ở đàng lái, chỗ thường dành cho người thủy thủ cầm lái (T.O.B).Tất cả đều “cùng sợ hãi”: các thủy thủ trong Giona 1,5, các môn đệ Đức Giêsu trong Mc 4,40. Cùng xoay sở và cùng buông lời trách móc. Nói với Giona: “Ông làm nghề gì”? Sao ngủ mê mệt như vậy? Hãy chỗi dậy cầu khẩn cùng Thiên Chúa của ông, may ra Người sẽ đoái đến chúng ta, và chúng ta khỏi chết chăng? Nói với Đức Giêsu trong Mc 4: “Thầy ơi chúng ta chết đến nơi rồi. Thầy chẳng lo gì sao?”.
- Cùng cảnh êm ả trở lại.
+ ở Giona 1: Sau khi các thủy thủ đã kêu cầu Chúa, trước khi ném Giona xuống biển theo yêu cầu của ông.
+ Nơi Mc 4: Theo lệnh truyền của chính Đức Giêsu.
- Cùng một phản ứng từ phía những người chứng kiến sự việc:
+ Nơi Giona 1: “Mọi người đều rất kính sợ Chúa, họ làm lễ tế dâng lên Chúa cùng với lời khân hứa”.
+ Nơi Mc 4: “Các ông hoảng sợ và nói với nhau: Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”.
Ở đây “dấu chỉ Giona” há chẳng phải là một lối ám chỉ và là một biểu tượng loan báo cuộc đối đầu quyết liệt của Ngày Thứ Sáu Thánh (nhất nữa, giấc ngủ theo Kinh Thánh thường là biểu ttượng của sự chết và động từ chỗi dậy” được trình thuật sử dụng vốn là một trong những động từ thế hệ Kitô giáo ban đầu dùng để chỉ sự phục sinh)?.
J.Hervieux đưa ra nhận xét: “Câu chuyện Chúa dẹp yên sóng gió không chỉ đơn giản là một tường thuật về một phép lạ. Câu chuyện đó được coi như một biểu tượng nói lên một cách cô đọng số phận nghiệt ngã của Đức Giêsu. Nếu Người có đưa các môn đệ vào trận cuồng phong, thì cũng không phải do ngẫu nhiên! Toàn bộ cuộc đời Người là một cuộc chiến cam go với những thế lực của sự ác. Người phải tiến lên đối đầu với một cuộc chạm trán khốc liệt nhất: đối đầu với chính cái chết của mình. Việc Người ngủ - chẳng ai lại ngủ giữa lúc phong ba bão táp - lại là điều rất có ý nghĩa. Trong Kinh Thánh, giấc ngủ thường là biểu tượng sự chết. Ở đây cuộc khổ nạn của Đức Giêsu như được diễn trước bằng kịch câm. Đức Giêsu thiếp ngủ đi như chết giữa cảnh xôn xao náo động của hỏa ngục được gợi hình bằng những đợt sóng lồng lộng điên cuồng. Trong một tình huống như vậy, mà Thầy vẫn ngủ, thì chuyện các môn đệ hoảng sợ cũng là điều dễ hiểu. Trước cảnh tượng của thập giá sau này, cũng như ở đây lúc này, các ông sẽ mất lòng tin là điều hiển nhiên” (“Evanglle de Marc”, Centurion, trang 75).
Cũng tác giả J.Hervieux kết luận: “Khi đọc lại câu chuyện Chúa đi qua biển và dẹp yên sóng gió như vậy, Maccô cố gắng đáp ứng những nhu cầu hiện thực của Giáo Hội thời ngài. Những tín hữu Rôma đang phải điêu đứng vì những cuộc bách hại. Họ đang sống trong nỗi sợ hãi, giống như các môn đệ trong con thuyền vượt biển xưa, đối với họ, Đức Kitô hình như đang ngủ. Việc người: “vắng mặt” rõ ràng trong những biến cố bi thảm họ đang sống, tạo cho họ thêm e dè, sợ sệt! Chúa phải làm gì để giải thoát họ khỏi cảnh chết chóc đang rình rập?
Cuối cùng ta đừng quên, bão táp xảy đến trong lúc Đức Giêsu đã quyết đinh đem các bạn hữu theo mình đi truyền giáo ở phía bên kia Biển Hồ, nơi các dân ngoại. Người ta có thể nghĩ bụng phải chăng các tín hữu đầu tiên ở Rôma không linh cảm việc loan báo Tin Mừng cho những người đương thời của họ là một công việc đáng dễ sợ sao?” (Sđd)
BÀI ĐỌC THÊM
1. “Vậy người này là ai”.
“Có một thứ mâu thuẫn trong cách phản ứng của các môn đệ: khi sợ hãi trong lúc gặp sóng gió, các ông liền lên tiếng kêu cứu Chúa, đánh thức Người dậy: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao? Thế nhưng khi Chúa truyền cho gió yên bể lặng rồi, thì các ông lại kinh ngạc: “Vậy người này là ai mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh? Đức Giêsu biết rõ lòng các ông còn lẫn lộn bán tín bán nghi: “Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin? Lắm lúc chúng ta cũng mang một tâm trạng như vậy. Ta cậy dựa vào Chúa, biết rõ mình có thể kêu cầu Chúa, chẳng cần phải đánh thức Người dậy! Cùng lúc ấy, tâm trí ta lại vương nỗi do dự này: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, mà Thầy những lo gì sao? Chúa liền ra tay để củng cố lòng tin cho ta. Tin như vậy là tiếng kêu gọi thiết tha, là niềm cậy trông còn nhỏ bé và mong manh thúc đẩy ta chạy đến với Chúa. Rồi lòng tin ấy trở nên tâm tình cảm phục, vững tin khi Chúa cho ta biết Người là ai, Người có thể làm gì cho những ai dám đến cùng Người. “Vậy người này là ai? Lời đó phải vừa là câu hỏi, vừa là tiếng kêu bày tỏ lòng suy tôn vậy”.
2. “Từ sợ hãi đến tin tưởng”
“Hãy xem ông Gióp, bị điêu đứng vì những thử thách trăm bề, về mặt vật chất cũng như tinh thần, mặt đạo đức cũng như thiêng liêng. Một người chính trực như ông mà đã phải gánh chịu bao bất công, phải chao đảo vì những tai ương dồn dập, và vì sự thinh lặng của Chúa. Ông tố cáo Chúa, Chúa sẽ chẳng đưa ra lời giải thích nào, và sẽ chẳng vén lên bức màn bao trùm mầu nhiệm khôn dò về sự ác.Thế nhưng chỉ giữa lúc phong ba bão táp thì Chúa mới nhắc nhở cho ông biết rằng Người là Chúa tể của bão, Người có quyền đặt ranh giới và ngăn chặn những đợt sóng kiêu hùng của bão. Thế là ông Gióp nghiêng mình bái phục Chúa với lòng tin, đồng thời thú nhận sự ngu muội của mình.
Maccô dùng cũng thứ ngôn ngữ ấy để nói với các tín hữu của giáo đoàn Rôma đang hốt hoảng và bị chấn thương vì cơn bách hại. Ngài để lại cho họ một kinh nghiệm bản thân: chính các tông đồ cũng đã từng biết đến một Đức Giêsu ấy nằm ngủ và tỉnh bơ trước thảm cảnh của những bạn đồng hành, hoảng hốt thấy mình sắp “đi đời” rồi, dù họ là những tay ngư phủ dày dạn. Thực tế là các ông đã chỉ thiếu lòng tin mà thôi, hay nói cách khác là lòng tin tưởng và yêu mến, vì theo kiểu nói của thánh Phaolô, họ đã chỉ biết Đức Kitô theo quan điểm loài người (Bài đọc 2).
Đường lối sư phạm của Chúa vẫn trước sau như một. Những lớp sóng vẫn liên lì và ồ ạt vập vào thuyền khiến thuyền đầy nước. Vậy mà Đức Kitô luôn có mặt ở đó, vẫn cứ ngủ. Giống như thời ông Gióp, ta cũng thường tra hỏi, chất vấn, sửng sốt, đòi hỏi Chúa phải giải thích và trình bày. Tại sao vẫn xảy ra những vụ tàn sát những người vô tội, những cảnh anh em chém giết nhau không nương tay, những cuộc bách hại đẫm máu, những trận dịch kinh hoàng, những bất công chỉ biết kêu trời báo oán, những cảnh chết đói khiến phải đào mồ chôn tập thể.
Ta đừng chờ đợi phép lạ, có chăng chính là phép lạ của lòng tin, cậy, mến. Thực ra “Đức Kitô hôm qua, hôm nay và ngày mai” cũng vẫn là một. Hằng ngày ta vẫn còn thấy Người thực hiện những điều kỳ diệu khi làm nẩy sinh những tạo vật mới, khi tạo dựng một thế giới mới. Đó là mỗi lần mà tha thứ thay thế cho hận thù, ích kỷ nhường chỗ cho quảng đại và lòng can đảm quét sạch đi những hèn nhát.
Còn một câu hỏi và nỗi sợ hãi khác từ phía những tín hữu vốn khư khư với những tập quán, quan niệm hẹp hòi, với những chương trình và kế hoạch tương lai cho Giáo Hội do họ suy luận ra, nên họ la ó lên rằng: những hết cả rồi, khi họ nhìn thấy những bảng thống kê sụt giảm, những cơ cấu rạn nứt, những hình thức đổi thay và những cánh cửa canh tân mở toang. Câu trả lời của Chúa vẫn không thay đổi: “Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin? Há các bạn không nhìn thấy trong “cơn gió chướng mạnh” Thần Khí vẫn đang thổi hơi, làm nổi lên cho mãi tới những gốc cây cổ thụ đang chết một giải đất. bao la đầy những chồi non đang vươn lên ngợi ca sự sống và hy vọng. Bởi lẽ “cái cũ đã biến mất, và cái mới đã có đây rồi” (Bài đọc 2)
70. Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
BÃO TỐ DẸP YÊN
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Người tín hữu thường quên chiều kích vũ trụ trong hành động của Chúa Kitô, trong khi thời đại này, các khoa học kỹ thuật nói nhiều đến việc khai thác, nhân hóa, bảo tồn, chinh phục thiên nhiên, các khoa học nhân văn nói nhiều đến mối liên quan giữa con người và vật chất, thiên nhiên, vũ trụ, môi trường sống. Kitô hữu phải hiểu cùng làm cho người khác hiểu rằng Chúa Kitô không xa lạ với vật chất đã làm nên vũ trụ. Trái lại qua việc nhập thể và phục sinh trong thân xác, Người đã mở rộng ơn cứu rỗi tới cho tất cả những gì hiện hữu. Chúa Giêsu đã đến không phải chỉ để cứu linh hồn con người mà thôi, nhưng cứu toàn thể con người xác hồn, và qua thân xác con người, Người biến đổi sâu xa cả vũ trụ vật chất (x. Rm 8,19): chính vũ trụ vật chất đang trên đường về với Thiên Chúa.
2. Câu chuyện xảy ra được Maccô kể lại theo lời chứng nhân tận mắt là Phêrô nên có nhiều chi tiết. Nhưng một trong những điểm quan trọng, chủ yếu của trình thuật là chính thắc mắc của các sứ đồ sau khi bão yên: “Người là ai mà gió cùng biển phải tuân phục Người?”. Ngày nay với phát minh khoa học kỹ thuật, con người khắc phục được thiên nhiên rất nhiều đã từng nghiêng đồng đổ nước, thay trời làm mưa, bắt sông uốn khúc, ép núi cúi đầu, nên dễ quên Đấng Tạo Hóa. Kitô hữu phải biết khám phá thấy trong mọi chuyển động tự nhiên của vũ trụ cũng như trong mọi khắc phục thiên thiên của con người bàn tay quan phòng của Thiên Chúa.
3. “Xảy đến một trận gió táp thổi mạnh, và sóng ập tràn vào đò, làm đò đã hòng ngập đầy”. Ngày nay, đâu là cơn bão tố lớn đang vùi dập con đò Phêrô? Là trào lưu vô thần, là sự tục hóa, là thái độ tấn công tinh vi hay dửng dưng với tôn giáo. Nhưng Kitô hữu đừng lo! Giáo Hội đã trải qua nhiều cơn bão lớn hơn trong lịch sử rồi, như những sa đọa trong hàng ngũ lãnh đạo, sự cấu kết thái quá với thế quyền, sự chểnh mảng trong việc trau dồi đức tin, những xâu xé nội bộ, thế mà Giáo Hội vẫn không chìm đắm. Vì Chúa Kitô và Thánh Thần luôn ở với Giáo Hội.
4. “Tại sao sợ hãi? Các ngươi không có đức tin ư”. Lời chất vấn và trách cứ của Chúa Giêsu cũng như lời mời gọi hãy tin tưởng đang được gởi đến những tín hữu mà niềm tin vào Thiên Chúa hôm nay đang bị lung lay vì bao bão tố, đau khổ. Kitô hữu hãy nhớ: tin trước hết là xác tín rằng dù gặp phải bao yêu thương, là hiểu rằng mọi chướng ngại chỉ là dấu chỉ tình yêu Thiên Chúa, là phương tiện giúp ta về với Thiên Chúa.
5. Chúa Giêsu không hứa với Giáo Hội là sẽ che chở cho khỏi cơn bão tố, trái lại người hứa là Giáo Hội sẽ thắng bão tố, sẽ không bị chìm ngập và con thuyền Giáo Hội, cho dầu có xảy ra gì chăng nữa, sẽ đến bờ như đã hứa. Chúa Kitô đã chẳng trải qua cơn bão tố Tử nạn để rồi đạt đến bờ Phục sinh ư? Cuộc sống Giáo Hội và cuộc sống mỗi Kitô hữu chúng ta không thoát khỏi định luật này, là định luật của tất cả những ai, những gì muốn về với Thiên Chúa. Dĩ nhiên, đây không phải là định luật Thiên Chúa ra một cách độc đoán, như thể Ngài muốn ta phải trả giá Nước Trời, hành hạ ta đã rồi mới cho được nghỉ ngơi. Bão tố, gian nan, thử thách chính là những gì xảy ra khi ta quyết tâm trung thành với Thiên Chúa, khi ta từ bỏ chính mình, từ bỏ mọi sự để chiếm đoạt cho được Thiên Chúa là hạnh phúc đích thực của ta.
71. Chú giải của William Barclay.
BÌNH AN CỦA SỰ HIỆN DIỆN
Biển hồ Galilê nổi tiếng về bão tố. Những cơn bão từ nguồn đến hết sức thình lình với sự tàn phá kinh khủng. Một tác giả đã mô tả chúng như vậy: “Các trận cuồng phong khủng khiếp lồng lộn trên mặt nước mà bình thường rất phẳng lặng, ngay cả khi bầu trời hoàn toàn trong trẻo, thình lình cơn bão đến không phải là điều không thường thấy. Vô số các thung lũng từ hướng đông bắc và hướng đông trải ra ở phần trên của hồ tạo thành rất nhiều hẻm núi nguy hiểm bọc gió từ cao nguyên Hauran, vùng đồi Tracônít và đỉnh núi Hetmôn tạo thành một sức nén, ào đến với một lực kinh khủng qua một khoảng trống hẹp rồi thình lình thoát ra làm xao động hồ Giênêdarét bé nhỏ trong một tình trạng kinh hoàng nhất. Những khách vượt hồ luôn luôn có cơ hội phải đối diện với những cơn bão thình lình như vậy”.
Chúa Giêsu đang ở trong thuyền, tại chỗ dành cho bất cứ một vị khách quý nào. Chúng ta được biết, “Trong những thuyền này, tại đó có sắm sẵn một tấm thảm và gối. Người lái thuyền đứng cách đó một chút gần bánh lái thuyền để có thể dễ dàng nhìn phía trước”.
Thật thú vị khi ghi nhận được những lời của Chúa Giêsu truyền cho gió và sóng hoàn toàn giống như điều Người đã truyền cho người bị quỷ ám trong Maccô 1,25. Sức mạnh phá huỷ của bão tố cũng như sức mạnh tàn phá của ma quỷ khi nó nhập vào con người, vì vậy dân chúng tại Palestine vào thời ấy tin rằng quyền lực xấu xa của ma quỷ cũng đang hoạt động trong lãnh vực thiên nhiên.
Thật thiếu công bằng khi chúng ta chỉ suy nghĩ câu chuyện này theo nghĩa đen. Nếu nó chỉ thuật lại một phép lạ vật chất trong đó một cơn bão thực sự yên lặng thì đó là một điều rất lạ lùng và là điều đáng cho chúng ta kinh ngạc, nhưng đó là điều xảy ra một lần. Trong trường hợp đó nó hoàn toàn ở bên ngoài đối với chúng ta. Nhưng nếu chúng ta đọc nó theo ý nghĩa biểu tượng thì sẽ thấy giá trị hơn. Khi các môn đệ nhận thức được sự hiện diện của Chúa ở với họ thì cơn bão yên lặng. Một lần nữa họ kinh nghiệm sợ hãi tan biến và bình an vào trong lòng họ. Ra khơi với Chúa Giêsu là ra khơi an toàn ngay cả trong bão tố. Giờ đây là sự thật cho mọi trường hợp. Đó không phải là điều chỉ xảy ra một lần, nhưng vẫn còn đang xảy ra và có thể xảy ra cho chúng ta. Trong sự hiện diện của Chúa Giêsu chúng ta có được bình an ngay cả trong bão tố khủng khiếp nhất của cuộc sống.
1/ Ngài ban cho chúng ta bình an trong bão tố của sầu muộn.
Khi sầu muộn đến, Ngài nói với chúng ta về vinh quang của cuộc đời sẽ đến. Ngài biến đổi bóng tối của sự chết thành ánh sáng của sự sống vĩnh cửu. Ngài nói với chúng ta về tình yêu của Thiên Chúa. Một câu chuyện cổ nói về một người làm vườn, nơi ấy có một đoá hoa mà ông rất yêu quý. Một ngày nọ khi ra vườn thấy bông hoa đó đã mất. Ông ta vô cùng phật ý, bực tức và phàn nàn. Trong lúc đang bực tức ông gặp chủ vườn và phàn nàn với chủ. Chủ vườn nói “Anh yên tâm! Chính tôi đã hái nó cho tôi”. Giữa bão tố của sầu muộn, Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng những người chúng ta thương yêu đã đi ở với Thiên Chúa và Ngài đảm bảo rằng rồi đây chúng ta sẽ gặp lại những người thân thương mà chúng ta đã thiếu vắng họ một thời gian.
2/ Ngài ban cho chúng ta bình an khi những nan đề của cuộc sống cuốn hút chúng ta vào trong cơn bão của nghi ngờ, căng thẳng và không chắc chắn.
Rồi có những lúc chúng ta chẳng biết phải làm gì, khi chúng ta đứng trước ngã ba của cuộc sống không biết đi đường nào. Lúc ấy chúng ta quay sang Chúa Giêsu và thưa cùng Ngài rằng “Lạy Chúa, Ngài muốn con làm chi?”. Con đường sẽ được khai thông. Thảm kịch không phải là chúng ta không biết phải làm gì, nhưng chính là chúng ta thường không hạ mình tuân phục sự hướng dẫn của Chúa Giêsu. Câu hỏi ý Ngài và tuân phục ý đó là đường dẫn đến bình an trong những lúc như vậy.
3/ Ngài ban cho chúng ta bình an trong bão tố của lo âu.
Kẻ thù hàng đầu của bình an là lo lắng, lo lắng cho chính mình, lo lắng về tương lai ngoài sự hiểu biết, lo lắng về những người mình yêu. Nhưng Chúa Giêsu nói với chúng ta về một người Cha không bao giờ làm đổ những giọt lệ không cần thiết nơi con Ngài, và về một tình yêu vượt trội giữa chúng ta và những người thân yêu của chúng ta khỏi trôi giạt. Trong bão tố của lo âu, Ngài đem đến cho chúng ta bình an của tình yêu Thiên Chúa.
CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN NĂM B
1. Đầy tớ và nô lệ -- ‘Manna’
Ghế tượng trưng cho địa vị, quyền lực và quyền lợi,
nên ghế là nỗi ám ảnh của nhiều người.
Ghế trưởng phòng, ghế giám đốc, ghế đại biểu...
Tất cả nỗ lực dồn vào việc có một ghế,
sau đó là giữ ghế, hay tìm cách lên ghế cao hơn.
Ngay cả những người đã bỏ mọi sự để theo Chúa
cũng bị ám ảnh bởi những chiếc ghế danh dự.
Chính lúc Đức Giêsu nói đến cái chết gần kề của mình,
thì Gioan và Giacôbê lại xin được ngồi hai bên tả hữu.
Có vẻ họ không bắt được tần số của Thầy!
Thanh tẩy mình khỏi tội lỗi không khó lắm.
Nhưng thanh tẩy mình khỏi nhân đức và công trạng của mình
thì khó hơn bội phần.
Hai môn đệ đã từ bỏ những điều rất cao quý,
nhưng bây giờ lại muốn kiếm chút lợi lộc
từ chính sự từ bỏ và phục vụ của mình.
Họ dám lên tiếng đòi hỏi Đức Giêsu:
"Chúng con muốn Thầy làm cho chúng con điều chúng con xin."
Thái độ bực tức của mười môn đệ còn lại
có thể bắt nguồn từ một sự ganh tỵ ngấm ngầm.
Nhiều môn đệ cũng ước mơ hai ghế tả hữu.
Đức Giêsu kéo hai ông ra khỏi tham vọng và đam mê
để đưa họ trở về với thực tại gai góc sắp đến.
Họ muốn được chung phần với Ngài trong vinh quang,
nhưng liệu họ có dám chia phần với Ngài trong đau khổ?
Uống chung chén đắng Thầy sắp uống,
chịu chung phép Rửa Thầy sắp chịu
là chấp nhận bị dìm sâu xuống dòng nước khổ đau.
Thật ra được ngồi hai bên tả hữu Thầy trong vinh quang
đâu phải là phần thưởng để trả công cho người bền chí.
Trung tín theo Chúa đến cùng đã là phần thưởng rồi.
Chúng ta không giữ đạo để đòi một chỗ thật cao,
nhưng mong được ban một chỗ thật gần bên Chúa.
Người đứng đầu, người làm lớn, người có quyền
thường dễ có thái độ thống trị, áp đặt, hống hách.
Chức vụ và quyền lực trở thành phương tiện phục vụ bản thân.
Đó là lối lãnh đạo dễ thấy nơi người đời.
Đức Giêsu không chấp nhận chuyện đó nơi Hội Thánh:
"Nơi anh em thì không như vậy."
Ngài đề xướng một lối lãnh đạo mới.
Ai muốn làm lớn, làm đầu trong Hội Thánh
phải trở nên đầy tớ và nô lệ cho mọi người.
Đức Giêsu mời chúng ta làm một cuộc cách mạng lớn,
không phải chỉ là đổi ngôi, mà là đổi lòng.
Tận diệt trong tim những tham vọng ăn trên ngồi trước.
Đức Giêsu không ủng hộ một xã hội hay Giáo Hội vô tổ chức.
Nhưng Ngài coi lãnh đạo là khiêm nhường phục vụ.
Phục vụ là động từ tóm kết toàn bộ đời Đức Giêsu.
Ngài đến trần gian để phục vụ, sống như người phục vụ,
và chết như dấu chứng lớn nhất của phục vụ trong yêu thương.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đức Giêsu chết để chuộc ta khỏi cảnh nô lệ. Ngài tự nguyện trở nên nô lệ để giải phóng ta. Theo bạn, con người hôm nay vẫn nô lệ cho những điều gì? Đâu là những hình thức nô lệ mới của thế kỷ 21?
"Lãnh đạo là phục vụ". Câu này khá quen thuộc với chúng ta. Bạn nghĩ sống khẩu hiệu này có khó không? Tại sao?
Cầu Nguyện
Lạy Thầy Giêsu, Thầy không gọi chúng con là tôi tớ,
Thầy cũng không chỉ coi chúng con là môn đệ.
Thầy còn coi chúng con như bạn hữu của Thầy,
vì Thầy đã thổ lộ cho chúng con
những điều riêng tư thầm kín nhất trong tương quan giữa Thầy với Cha.
Hơn nữa, sau phục sinh, Thầy đã gọi các môn đệ là anh em.
Mặc nhiên Thầy tự nhận mình
là Anh Trưởng đứng đầu một đoàn em đông đúc.
Xin cho chúng con luôn thi hành ý muốn của Cha
để trở nên những người em cùng huyết nhục với Thầy.
Lạy Thầy Giêsu, Thầy đã nâng chúng con lên làm môn đệ,
làm bạn, làm anh em của Thầy.
Còn Thầy lại hạ mình xuống phục vụ chúng con như người tôi tớ
rửa chân cho chúng con như một nô lệ
và chết thay cho chúng con trên thập giá.
Xin cho chúng con hiểu được tấm lòng của Thầy
và sống yêu thương mọi người như anh em. Amen.
2. Tôi tớ của mọi người -- Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP
Theo tâm lý chung của loài người, ai cũng muốn được giầu sang phú quí, muốn có địa vị cao, thích ăn trên ngồi trước, muốn được người ta hầu hạ… Nhưng những tiêu chuẩn đó không nhất thiết là của Chúa. Tham vọng lo liệu của những con trai ông Giêbêđê là Giacôbê và Gioan đã là dịp để Đức Giêsu nói rõ: sự cao trong đích thực ở tại cái gì?
Đức Giêsu không đáp ứng lời cầu xin của hai anh em Giacôbê và Gioan vì nó không thích hợp với đường lối của Ngài. Nhân dịp này Ngài dạy cho các ông là môn đệ đặc biệt của Ngài, và cũng là cho chúng ta một bài học: Sự cao trọng không cốt ở danh dự, giầu có, chức quyền danh vọng hay sức mạnh… nhưng ở tại sự phục vụ tha nhân. Chính vì vậy, Ngài mới nói:Ai muốn làm lớn phải làm tôi tớ mọi người”. Lời giáo huấn này đi ngược lại với lối hành xử của người đời, buộc chúng ta phải động não!
Đức Giêsu là vị Thượng Tế có thế giá, luôn chuyển cầu cho chúng ta trước tòa Thiên Chúa. Ngài cũng đã trải qua những đau khổ trong đời sống trần thế, đồng thời cũng hé mở cho chúng ta thấy được vinh quang của Ngài sau này khi đã sống lại. Mọi Kitô hữu đều có chức năng tư tế phổ quát, nên cũng phải sống và làm chứng bằng đời sống phục vụ. Và nếu cần, họ cũng phải sẵn sàng hiến mạng sống để chứng tỏ sự trung thực của đời sống phục vụ của mình. Yêu thương là phục vụ, càng phục vụ, tình yêu càng dồi dào thắm thiết.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Is 53,10-11
Hai câu trong bài đọc 1 là một trích đoạn của Bài Ca thứ tư về Người Tôi Trung của Isaia. Cho mãi đến thời Giêrêmia, tư tưởng tôn giáo Do thái mới nhận biết một mối liên hệ giữa việc đền tội với những đau khổ của người công chính bị bách hại. Người công chính đây là Người Tôi Trung hiến mạng sống của mình để chuộc tội cho dân Người. Cái chết của Người sẽ là khởi điểm của vinh quang Người và là suối nguồn của mọi ơn phúc cho những người khác.
Khi suy tư về những đoạn văn như đoạn văn này, các Kitô hữu tiên khởi đã đi đến một sự hiểu biết về những đau khổ và cái chết của Đức Giêsu.
+ Bài đọc 2: Dt 4,14-16
Đức Giêsu là vị Linh mục Thượng phẩm tuyệt hảo của chúng ta. Thánh Phaolô kêu mời chúng ta hãy vững tâm đến với Ngài để được tiến đến cùng Chúa Cha. Ngài về trời để làm trung gian cho chúng ta. Chính Ngài đã có kinh nghiệm bản thân về những thử thách, những đau khổ mà chúng ta đang phải chịu. Do đó, Ngài dễ dàng thông cảm với những yếu đuối của chúng ta, Ngài nâng đỡ chúng ta và cầu bầu cho chúng ta trước tòa Chúa Cha.
+ Bài Tin mừng: Mc 10,35-46
Lần thứ ba Đức Giêsu loan báo cuộc Thương Khó sắp tới của Ngài cho các môn đệ, nhưng xem ra các ông chẳng hiểu gì. Họ vẫn còn giữ nguyên quan niệm của người Do thái là chờ đợi một nước vinh quang trần thế theo nghĩa chính trị.
Họ chỉ nghĩ đến địa vị trong nước mà Đức Giêsu sắp lập. Họ lo bàn cãi và tranh luận với nhau, lo chiếm cho mình một chỗ cao hơn trong vương quốc tương lai. Nhưng Đức Giêsu đã dạy cho các ông một bài học: ở trong vương quốc của Ngài sự cao trọng thực sự không cốt ở trong uy thế và danh dự, nhưng ở trong sự phục vụ tha nhân đến tột cùng, nếu cần:Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”.
Những lời nói này của Đức Giêsu có liên quan đến tất cả chúng ta. Nó làm xẹp đi những tham vọng, tính kiêu căng và những mơ ước quyền thế của chúng ta. Phục vụ là đòi hỏi của tình yêu. Phục vụ là con đường duy nhất của sự cao trọng đích thực.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Trở nên tôi tớ mọi người
I. AI CŨNG THÍCH QUYỀN CAO CHỨC TRỌNG
1. Tâm lý người đời.
Ngày nay trên khắp thế giới, hầu hết các nước đều có cuộc bầu cử vào quốc hội, bầu Tổng thống hay một chức vụ tại một địa phương nào đó. Bất cứ ai ra tranh cử cũng tỏ ra mình có tài năng, xứng đáng lãnh nhận chức vụ, càng lên cao càng tốt. Thời nào và ở đâu cũng có những người tranh nhau làm lớn để lấy quyền hành áp chế dân, bắt dân phục vụ mình. Đó là lý do người đời tranh nhau địa vị trong xã hội.
Người ta tìm kiếm quyền bính vì những lý do khác nhau. Một số người thích có quyền lực đi chung với quyền bính: nó làm cho người ta cảm thấy quan trọng. Những người khác thích uy thế mà nó đem lại. Những người khác nữa thích được trả lương cao. Tất cả những lý do ấy đều có một điểm chung – quyền bính được xem như cơ hội để thăng tiến bản thân.
2. Tâm lý các môn đệ Chúa.
Mặc dầu đã đi theo Chúa gần ba năm, nhưng các môn đệ cũng chưa lãnh hội giáo lý của Ngài được bao nhiêu. Ngay sau lần thứ ba Đức Giêsu loan báo cho các môn đệ sự Thương Khó của Ngài: “Nào chúng ta lên Giêrusalem… Con Người sẽ bị nộp cho các Thượng tế. Họ sẽ lên án tử Người. Họ sẽ nhạo báng Người, sẽ khạc nhổ vào Người, sẽ đánh đòn và giết Người”(10,32-34), các ông cũng không quan tâm đến lời loan báo ấy, có lẽ chẳng hiểu gì, hơn nữa đầu óc các ông còn đang mơ tưởng đến vương quốc Đức Giêsu sắp lập. Như vậy có nghĩa là vào lúc Đức Giêsu “chọn chỗ chót” thì các ông lại cố “đua nhau” chiếm chỗ tốt hơn: Họ vẫn còn mơ mộng về Đấng Cứu Thế vinh quang của dân tộc. Đấng Cứu Thế đối với họ, đó là Đấng chiến thắng hiển hách, sẽ dùng quyền lực của mình điều khiển mọi sự.
Riêng trường hợp đối với Giacôbê và Gioan, theo tục lệ tự nhiên trong nhiều nền văn minh phương Đông, họ cho là tự nhiên khi sử dụng đặc quyền của người trong họ: vì là anh em bà con với Đức Giêsu, họ đến xin người bà con “dòng họ” được tham dự vào vào sự thành công của một thành viên trong gia tộc như người ta thường nói:Một người làm quan, cả họ được nhờ”(Tục ngữ).
Có lẽ vì vậy mà hai anh em Giacôbê và Gioan đã lợi dụng người anh em bà con để được thăng tiến, được hưởng đặc quyền đặc lợi, được tiến cử. Các ông đã xin:Khi Thầy ngự trên ngai vinh hiển, xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy”{Mc 10,37).
Lời thỉnh nguyện này đã nói lên tham vọng của hai ông là muốn tham dự vào quyền điều hành trong vinh quang của Đức Giêsu. Thứ “vinh quang” mà các ông xin là vinh quang theo kiểu trần thế vì các ông tin Đức Giêsu sẽ lập nước Israel ở trần gian, chứ không phải vinh quang của Đức Giêsu sau khi tử nạn và phục sinh.
Đức Giêsu trả lời ngay:Các con không biết điều các con xin”. Khi nói câu này, Đức Giêsu mốn tỏ ra cho các ông biết lời thỉnh cầu của các ông thật là ngây ngô vì các ông chưa hiểu gì về việc tử nạn và phục sinh mà Ngài đã loan báo đến lần thứ ba này. Cho nên Ngài hỏi tiếp:”Các con có thể uống chén đắng Thầy sắp uống và chịu cùng một phép rửa Thầy sắp chịu không”? Nói như vậy có nghĩa là chấp nhận đau khổ và sự chết. Chúa có ý nói đến cuộc tử nạn của Ngài trên Thập giá. Chẳng hiểu gì, các ông thưa đại đi:Thưa được”.
Chúng ta cũng nên tìm hiểu thêm hai từ “chén đắng” và “phép rửa”.
Trong Cựu ước, “Chén” đôi khi người ta nói đến chén chúc tụng, nhưng thường là nói về chén đắng để diễn tả những đau đớn trước khi chết. Lúc hấp hối, Đức Giêsu đã xin Chúa Cha cất chén đắng cho Người, nhưng cũng nói tiếp:Nhưng đừng theo ý Con, cứ theo ý Cha”.
Còn “phép rửa” trong bí tích rửa tội, toàn thân được dìm xuống nước, tượng trưng cho việc “chìm đắm” trong cái chết trước khi “chỗi dậy” trong đời sống mới. Trong cuộc khổ nạn, Đức Giêsu sẽ trải qua một phép rửa thật sự. Người sẽ bị dìm xuống làn nước chết, trước khi chỗi dậy vào ngày thứ ba (Fiches dominicales, tr 304).
Câu “Thưa được” đã đưa Giacôbê và Gioan đến cái chết. Sự việc xẩy ra: ông Giacôbê đã bị vua Hêrôđê Agrippa giết năm 44, Gioan chết trong tuổi già cuối thế kỷ I. Nhưng ông đã bị bỏ vào vạc dầu sôi ở cửa Latinh. Ông thoát chết được do phép lạ Chúa làm. Sau đó bị phát lưu ở đảo Patmos trong cảnh “nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”, sống cũng như chết. Như vậy lời Chúa đã được thực hiện đúng.
II. BÀI HỌC CỦA ĐỨC GIÊSU
1. Khát vọng của người đời
Từ 2000 năm trước, Đức Giêsu đã cho thấy: những thủ lãnh các nước lấy quyền sai khiến dân như ông chủ. Ông chủ thời xưa là người đầy quyền lực muốn bắt đầy tớ làm gì, đầy tớ phải làm theo, dù cực nhọc, khốn khổ đến đâu cũng không được từ chối. Nhiều nơi, đầy tớ bị coi như nô lệ, chủ cho sống thì sống, muốn giết thì giết. Vì thế, Đức Giêsu nói:Các con biết: những người được coi là thủ lãnh thì cai trị dân như những bạo chúa, những người làm lớn thì lấy quyền mà áp chế dân”(Mc 10,42).
Tuy thế, có những loại quyền bính khác nhau. Jean Vanier phân biệt hai loại quyền bính: một quyền bình áp đặt, thống trị và điều khiển; và một quyền bính đồng hành, lắng nghe, giải phóng, phân quyền làm cho người dân tự tin và kêu gọi họ ý thức về những trách nhiệm của mình.
Còn có một loại quyền bính thứ ba thinh lặng, yêu thương và ẩn giấu – quyền bính yêu thương nhưng không dùng quyền lực, xây dựng lòng tín thác và đôi khi chờ đợi đêm ngày trong nỗi lo âu. Cha mẹ đôi khi phải chờ đợi suốt đêm trường mong sao đứa con mình lầm đường lạc lối trở về…
2. Tiêu chuẩn của công dân Nước Trời
Giáo huấn mới của Đức Giêsu là sự đảo nghịch của Tin mừng. Khi nói với các tông đồ, cũng như với những người chịu trách nhiệm về các cộng đoàn Kitô hữu có mặt lúc đó hay trong tương lai. Đức Giêsu nêu lên một luật đối trọng với cách thế mà các xã hội dân sự chủ trương về quyền hành:Những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai trị dân”. Điều luật này chống lại lòng ham muốn thống trị, như Giacôbê và Gioan và mười tông đồ còn lại. Điều luật này không chỉ là một điều luật bình thường, mà Đức Giêsu coi nó là Hiến chế cho các cộng đồng môn đệ Người: mỗi người là đầy tớ mọi người (J. Delorme).
Đây là một đảo lộn tận gốc, một lý thuyết cách mạng bắt đầu một mối tương quan mới giữa người với người:Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em”.
Đối với Đức Giêsu, chức quyền là để phục vụ. Chức quyền cũng như tiền bạc, tự nó không xấu. Bất cứ nhóm nào cũng cần có một người phụ trách. Nhưng theo ý Chúa, phụ trách trước hết không phải là một địa vị thống trị hưởng lợi, hưởng uy thế, mà là một địa vị để phục vụ nhiều hơn:Con Người đến không phải được phục vụ, nhưng là để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người”(Mc 10,45).
Người lãnh đạo trong Hội thánh là “đầy tớ”. Trong các văn kiện, Đức Giáo hoàng thường dùng danh hiệu “Servus servorum”: đầy tớ của các đầy tớ. Những chức vụ có vai trò đặc biệt chỉ nên gọi là thừa tác hay trợ tá theo đúng nghĩa của chữ Latinh “Minister” là tôi tớ, hoặc tiếng Hy lạp “Diakonos”: đầy tớ và “Doulos” là nô lệ.
Trong các vị lãnh đạo trong Hội thánh cũng phải có phẩm trật như người ta nói:Kim chỉ phải có đầu”(tục ngữ), cần phải có một người đứng đầu điều khiển một cộng đoàn, chứ không thể có cảnh “cá đối bằng đầu”(tục ngữ) mà mọi việc được xuôi lọt, vì sẽ không ai muốn phục tùng ai. Điều quan trọng mà Đức Giêsu muốn nhấn mạnh: không phải là hủy bỏ chức vụ của những người đứng đầu, chức vụ của những người lãnh đạo, nhưng đừng dùng địa vị và quyền bính của mình để áp bức người khác.
Truyện: Đức Hồng y Roncalli
Một hôm Đức Hồng y Roncalli vừa trên xe bước xuống. Ngài mới đi xa về. Phái đoàn tòa giám mục ra đón. Mọi người ngạc nhiên trên vai áo Hồng y có vướng mấy cộng rơm đồng quê. Ai hỏi ngài cũng cười xòa vui vẻ, nhưng mấy nhân viên phụ tá trên xe đều hiểu chuyện. Chiếc xe của Đức Hồng y đang từ hướng Bắc xuống miền Nam qua vùng đồng ruộng. Giữa đường một chiếc xe bò chở rơm sa hố. Người đánh xe gắng sức đẩy phụ nhưng xe không nhúc nhích. Đức Hồng y cho xe dừng lại, xắn tay áo hò dô ta đẩy phụ, và chiếc xe rơm sa lầy lại chuyển bánh tiếp tục lên đường.
Những cọng rơm trên vai Đức Hồng y đối với ngài chỉ cười xòa cho qua. Nhưng thực sự tỏ rõ cho chúng ta một Hồng y không quản ngại khó khăn hay sợ bẩn chiếc áo dòng sang trọng.
Sau này lên ngôi Giáo hoàng, Đức Gioan 23 vẫn tiếp tục nếp sống bình dị phục vụ.
III. QUYẾT TÂM CỦA CHÚNG TA
Chúng ta có quyền tự do chấp nhận hay từ chối lời dạy của Chúa là trở nên tôi tớ của mọi người, nhưng chúng ta phải chịu trách nhiệm về quyết định đó vì hậu qủa của nó sẽ khôn lường. Hãy chọn con đường đúng mà đi.
1. Hai hướng đi trước mắt
Con người chúng ta, trong mọi hoàn cảnh, cứ bị dẫn đến những ngã ba đường: nghĩa là trước mắt ta luôn có hai ngả mà ta phải chọn một. Hai ngả đó thường dẫn đến hai chiều khác nhau; một hướng vị kỷ và một hướng vị tha.
Hướng vị kỷ có một sức mạnh tự nhiên lôi cuốn ta vào, nó khiến ta chỉ nghĩ đến bản thân mình, hạnh phúc hay đau khổ của mình, quyền lợi hay trách nhiệm của mình. Nói chung, nó thu hút ta vào chính bản thân ta. Hầu hết mọi người, trong hầu hết mọi trường hợp, đều bị lôi cuốn vào ngả này.
Còn hướng vị tha rất ít khi lôi cuốn ta, nhưng lương tâm ta lại thúc đẩy ta, đôi khi còn ép buộc ta bước vào. Nó đòi hỏi ta phải quên bản thân, quên những gì liên quan tới bản thân, để nghĩ đến người khác, đến đám đông bên ngoài ta, đến hạnh phúc hay đau khổ của họ. Dù đi vào hướng nào, thì sau khi đi một đoạn đường nữa, ta sẽ lại đến một ngã ba khác, cũng với hai hướng vị kỷ và vị tha trước mặt. Mỗi lần gặp ngã ba đó là mỗi lần ta phải lựa chọn hướng đi cho mình (JKN).
2. Phải chọn một hướng đi
Đối với những người theo Chúa, hai hướng ấy vẫn luôn luôn mở ra đòi buộc họ chọn lựa mỗi lần họ phải quyết định để hành động.
* Chọn hướng vị kỷ: hướng vị kỷ sẽ cám dỗ họ lợi dụng con đường theo Chúa như một phương tiện để tiến thân, để bước vào vinh quang trần thế, với quyền lực, danh vọng, tiền bạc trong tay, là những thứ mà Giáo hội cũng như xã hội cống hiến cho họ, mong họ dùng chúng để phục vụ Thiên Chúa, Giáo hội và mọi người. Nhưng họ lại dùng chúng cho mục đích vị kỷ của mình, mặc dù trên danh nghĩa vẫn là để phục vụ Thiên Chúa, Giáo hội và tha nhân.
Truyện: Hòn đá vấp ngã
Một hôm, khách qua đường gặp một triết gia nổi tiếng người Hy lạp. Ông ta đứng ở góc đường và cười nắc nẻ một cách đắc chí. Ai cũng tưởng ông là người điên nên không thèm để ý.
Sau cùng, có một người đánh bạo đến gần và hỏi:
- Vì lý do gì ông cười như vậy?
Ông ta trả lời:
- Ông có thấy cục đá nằm giữa đường kia không? Từ sáng tới giờ không biết bao nhiêu người đã vấp ngã vì hòn đá đó, và họ bực mình chửi bới. Thế nhưng, không có một ai cúi xuống nhặt hòn đá vứt khỏi lối đi để người khác khỏi bị vấp ngã.
* Chọn hướng vị tha: Còn hướng vị tha sẽ khiến người theo Chúa coi việc theo Chúa như một phương cách hữu hiệu nhất để phụng sự Thiên Chúa, nhân loại, quê hương và tha nhân. Họ không quan tâm hay mong muốn chuyện thăng tiến bản thân, không bao giờ coi đó như một mục đích phải đạt tới trong cuộc đời. Nếu họ được giao địa vị, trách nhiệm, với những phương tiện hữu hiệu trong tay, họ sẽ lợi dụng tất cả những thứ ấy để phục vụ Thiên Chúa và tha nhân. Điều họ quan tâm là: con người được hạnh phúc, và qua đó Thiên Chúa được vinh danh.
Chúng ta không bao giờ quên được những gương phục vụ một cách xả kỷ vô vị lợi như thánh Đamien tông đồ người hủi, thánh Maximilianô Kolbê xin chết thay cho một vị trung úy trẻ trong trại tập trung Đức quốc xã, các vị khác như Ozanam, chân phước Têrêsa Calcutta…
3. Xem lại con đường đang đi
Đức Giêsu không nài ép chúng ta làm môn đệ Ngài, Ngài chỉ kêu mời chúng ta với tinh thần tự nguyện. Ngày nay chúng ta còn mang cái tâm trạng của các tông đồ ngày xưa khi Đức Giêsu chưa đi vào cuộc tử nạn và phục sinh không? Lời mời gọi của Đức Kitô hôm nay có giá trị đặc biệt để chúng ta xét lại thái độ của mình. Chúng ta lượng định thế nào về các thành công và tầm vóc quan trọng trong nội bộ Hội thánh, và ngoài xã hội? Chúng ta trân trọng những ai và khinh miệt kẻ nào? Cứ như cái nhìn của Tin mừng hôm nay, thì kẻ “vĩ đại” là người phục vụ kẻ khác. Nó mở mắt cho chúng ta thấy được tấm lòng “vĩ đại” trong nếp sống thường nhật chung quanh mình như người cha hy sinh, các bà mẹ chung thủy, dịu dàng, những người hiền lành khiêm nhường chất phác phục vụ không cần tiếng khen, không cần phần thưởng, cũng không cần lời cám ơn…
Phục vụ là một nhân đức gần gũi với đức bác ái. Nhân đức phục vụ bắt nguồn từ lòng yêu mến tha nhân. Như vậy quyền thế và phục vụ không xung khắc nhau, vì ai có nhiều quyền và quyền lớn thì có khả năng phục vụ nhiều hơn. Phục phụ phải là cái dấu chỉ của người môn đệ đích thực của Chúa Kitô. Hơn nữa, chính khi phục vụ tha nhân là lúc người ta tìm lại được chính mình vì “chính khi hiến thân, là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình, là lúc gặp lại bản thân”. Chính khi phục vụ tha nhân là lúc chúng ta tìm được hạnh phúc nhự thi sĩ Tagore người An độ đã viết:
Nằm ngủ, tôi mơ thấy đời sống toàn là Niềm vui và Hạnh phúc.
Tỉnh dậy tôi nhận ra sống là Phục vụ.
Tôi dấn thân Phục vụ và tôi khám phá ra rằng Phục vụ là Hạnh phúc.
3. Phục vụ và hạnh phúc -- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Có chức quyền phải chăng là điều tốt nhất?
Dường như hầu hết mọi người đều nghĩ: giầu sang chức quyền, được người khác phục vụ, là điều đáng ao ước và làm người ta hạnh phúc! Thái độ của các tông đồ trong Tin Mừng hôm nay cũng cho thấy như vậy. Gioan và Yacôbê mong ước được ngồi bên phải bên trái khi Đức Giêsu “lên ngôi”, còn các tông đồ khác tức tối khi biết Gioan và Giacôbê “chơi gác” mình. Nếu các tông đồ khác không tham muốn như hai anh em Gioan và Giacôbê, chắc các ngài không đến nỗi phải tức bực như vậy.
Đức Giêsu không cho Gioan và Giacôbê điều các ông mong muốn, vì đó không là điều tốt cho hai ông: “các anh không biết điều các anh xin”! Và Đức Giêsu đã cho hai tông đồ Gioan và Giacôbê điều tốt hơn: “Chén thày uống các anh sẽ được uống”, còn chuyện ngồi bên phải hay bên trái (không cần thiết cho hai anh) thì tùy Thiên Chúa Cha xếp đặt. Ngài sẽ xếp đặt cho ai Ngài thấy tốt nhất, tốt nhất cho người đó và tốt nhất cho cả Hội Thánh nữa.
Có nhiều điều chúng ta xin mà không được, vì điều đó không tốt cho chúng ta.
Phục vụ là hạnh phúc
Đứng trước thái độ của các tông đồ, Đức Giêsu đã gọi họ lại, dạy cho họ biết rằng người đời thì tìm được phục vụ, còn trong vương quốc của Ngài thì không như vậy: “ai muốn làm đầu thì phải làm tôi tớ phục vụ người khác”.
Cảm nghiệm hạnh phúc khi phục vụ người khác, đó là một ơn mà ngay cả các tông đồ trong thời gian đầu tiên cũng chưa cảm nghiệm được. Ước gì con người hiểu rằng chính khi mình phục vụ, chính khi mình giúp người khác hạnh phúc, thì chính mình cũng được hạnh phúc.
Yêu thì hạnh phúc hơn là được yêu. Phục vụ thì hạnh phúc hơn là được phục vụ. Ai cảm nghiệm được điều này, thì không ai tước được hạnh phúc nơi họ. Đây là một ơn mà chúng ta cần xin cho nhau.
Phục vụ theo gương Đức Giêsu
Đức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể làm người. Ngài đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng làm giá chuộc con người. Ngài trở nên giống con người mọi đàng, Ngài chia sẻ những giới hạn của con người. Có thể nói: ai bị cám dỗ thử thách như thế nào thì Đức Giêsu ít nhất cũng bị cám dỗ và thử thách như vậy.
Ngài trở thành tôi tớ phục vụ con người! Tại sao Ngài phải sinh trong chuồng chiên cừu nghèo hèn như vậy? Tại sao Ngài phải lang thang rong ruổi hết nơi này nơi kia để rao giảng Tin Mừng? Tại sao Ngài phải bữa đói bữa no? Tại sao Ngài phải ngủ bờ ngủ bụi “chồn cáo có hang chim trời có tổ nhưng con người không có chỗ tựa đầu”? Tại sao Ngài phải nói sự thật để phải chết? Tại sao bây giờ Ngài vẫn tự hủy nơi bí tích Thánh Thể? Tất cả là để phục vụ con người, để con người biết sự thật về Thiên Chúa, về tình yêu Thiên Chúa đối với con người đến độ nào. Và Ngài sẵn sàng chấp nhận tất cả, miễn là con người nhận ra sự thật, được giải phóng và hạnh phúc.
Phục vụ là thái độ của người tôi tớ. Tôi tớ không ra lệnh cho chủ, không đòi chủ làm theo ý mình, không đòi chủ phải tôn trọng mình, nhưng sẵn sàng làm tất cả để thực hiện ý chủ. Người tôi tớ là người sau khi phục vụ xong, phải luôn luôn coi mình là tôi tớ vô dụng (Lc.17, 10). Ai muốn làm lớn thì phải là người phục vụ người khác. Đức Giáo Hoàng vâng theo lời Đức Giêsu, nên coi mình là “tôi tớ của các tôi tớ”. Tuy vậy, các môn đệ của Chúa phải phục vụ lẫn nhau: “Thầy đã rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga.13, 14). Không ai được đòi người khác phục vụ mình, cũng như không ai được từ chối phục vụ. Thái độ đòi người khác phục vụ mình, cũng như từ chối người khác “rửa chân” cho mình, đều là thái độ của người kiêu ngạo, không phải là thái độ của môn đệ Đức Giêsu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Bạn được đánh động bởi gương phục vụ của ai nhất? Về điểm nào?
2. Theo bạn, thái độ phục vụ đích thực đòi hỏi điều gì?
3. Bạn có cảm nghiệm hạnh phúc khi phục vụ người khác bao giờ chưa? Làm sao để bạn hoặc người khác cảm nghiệm hạnh phúc khi phục vụ?
4. Quyền hành để phục vụ -- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Có chức có quyền là điều nhiều người mong ước, vì người có chức có quyền thường thống trị người khác và bắt người khác phục vụ mình; tuy nhiên theo Đức Giêsu, người lớn nhất phải là người phục vụ người khác, phải là người “nô lệ” người khác.
I. Chức quyền: điều nhiều người mong ước
Tiền của địa vị, giầu sang chức quyền, là những điều người đời vẫn tìm kiếm. Người có tiền của, có thể dùng tiền của để mua gần như được tất cả; người có chức quyền được người khác phục vụ, vì những người này có thể cho người ta điều họ mong muốn. Có những người có chức có quyền được hối lộ để họ cho người ta được quyền này quyền nọ, phép này phép kia, hầu những người này có thể làm được nhiều tiền hơn. Người có chức quyền thường được người ta trọng vọng, ăn trên ngồi trước. Có lẽ đó là những lý do nhiều người thích có chức vị quyền hành.
Các tông đồ khi theo Đức Giêsu cũng còn có tham vọng tương tự. Họ có ao ước lớn muốn giải phóng Israel khỏi ách thống trị của người Roma, nhưng cũng ao ước có chức có quyền. Điều này được thấy khi hai anh em Giacôbê và Gioan xin cho được ngồi bên tả bên hữu thầy khi thầy được vinh quang. Các tông đồ khác tức giận khi biết hai ông xin điều đó; sở dĩ vậy vì các ông cũng ao ước cùng một điều. Gioan và Giacôbê quá khôn nên muốn “qua mặt” các ông.
Đức Giêsu sẵn sàng cho hai môn đệ thân yêu được chia sẻ chén đắng và phép rửa của Ngài, nhưng còn việc ngồi bên tả bên hữu thì lại không thuộc quyền Ngài. Cái nhìn của Đức Giêsu về quyền hành chức vị khác người đời quan niệm rất nhiều. Với người đời, những người có chức có quyền được người khác phục vụ; còn đối với Đức Giêsu và cả những người theo Đức Giêsu, những người muốn làm lớn nhất giữa anh em mình, thì phải làm người phục vụ anh em, phải là tôi tớ anh em, phải là người “tùy thuộc” anh em để mưu lợi ích cho anh em mình.
II. Ai muốn làm lớn nhất phải là nô lệ của tất cả
Quyền hành đối với những người theo Đức Giêsu, không được dùng để trục lợi riêng cho mình như người đời thường làm, nhưng phải dùng để xây dựng, để làm tốt cho cộng đoàn. Với những thẩm quyền trong Giáo Hội, chẳng hạn như các cha xứ hoặc nơi những bề trên của các hội dòng, quyền bính là để phục vụ những thành viên trong giáo xứ hoặc cộng đoàn. Ai dùng quyền hành để bắt người khác phục vụ mình, là không sống theo lời dạy của Đức Giêsu, là không sống theo Đức Giêsu, và không là môn đệ đích thực của Ngài.
Trong Giáo Hội, có nhiều giáo xứ mà các tín hữu trong giáo xứ không phục tùng cha xứ, cũng có tu sĩ không phục tùng bề trên vì cho rằng bề trên không cai quản như người đại diện Thiên Chúa mà xử sự theo ý riêng của mình. Một người sống theo Đức Giêsu có lẽ cũng không buộc người khác phải vâng phục mình. Con người chỉ phải vâng phục Thiên Chúa thôi, và chỉ không vâng phục Thiên Chúa mới là tội thôi, còn con người với nhau, mình có khá gì hơn người khác mà đòi người ta tùng phục mình! Thiên Chúa đâu phải của riêng ai. Thiên Chúa đâu có thiên tư tây vị. Đâu phải chỉ mình có Thánh Thần còn người khác không có Thánh Thần! Đâu phải chỉ có những người có địa vị hoặc chức thánh mới có Thánh Thần! Đâu phải các tín hữu không có Thánh Thần! Kéo Thánh Thần về mình và “không cho” Thánh Thần hiện diện với người khác, là tội “ngăn cản” Thiên Chúa (mà đâu có ngăn cản được Thiên Chúa!).
“Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ” (Ga.20, 23). Quyền này được ban để tha tội; còn nếu người đó không có tội thì quyền này đâu được ban để buộc tội người ta. “Ai nghe các con, là nghe Ta” (), nhưng điều này đâu có nghĩa: ai không nghe các con là không nghe Ta. Khi những người có trách nhiệm ở trên tòa giảng dạy dỗ nhân danh Thiên Chúa, thì phải vâng phục họ, nhưng đừng bắt chước việc họ làm (Mt.23, 2-3). Tuy nhiên, nếu có một vị nào đã không dùng quyền hành để phục vụ dân Chúa, thì cũng không vì vậy mà phải liên minh chống lại họ. Hơn nữa, có chắc là họ dùng quyền hành để phục vụ họ không? Sao mình dám làm quan tòa mà phán xét họ. Thiên Chúa là Đấng thông biết tất cả, biết cả những gì kín ẩn, sẽ là Đấng phán xét chí công. Còn con người, có chắc gì những điều tôi biết về người đó là đúng, có chắc gì những gì tôi biết về người đó không nằm trong một “âm mưu” của một con người nào đó?
III. Phục vụ giúp người ta triển nở và hạnh phúc
Có lẽ những ai bận tâm về quyền hành nhiều, cũng là người thích quyền hành. Phải chăng nên là đừng bận tâm về quyền hành, hoặc nên tự do với quyền hành? Hãy phục vụ theo gương Đức Giêsu, phục vụ những con người cụ thể, làm tất cả những gì mình có thể làm được. Ai muốn có quyền để phục vụ, cứ để họ dùng quyền mà phục vụ. Những người không có quyền, cứ phục vụ như những người không có quyền. Cứ vâng phục lẽ phải, sẵn sàng vâng phục tất cả mọi người, cứ coi mình như nhỏ bé nhất để phục vụ, như vậy là theo gương Đức Giêsu. Bận tâm về những điều thuộc quyền bính làm gì! Đòi hỏi người khác phải làm điều này điều kia để làm gì! Tại sao họ lại phải làm theo ý tôi? Đâu phải chỉ những điều tôi cho là đúng mới là đúng!
Quyền hành không quan trọng bằng phục vụ. Nếu chọn giữa chức quyền địa vị và việc phục vụ, thiết tưởng tôi sẽ chọn việc phục vụ, vì phục vụ làm mình lại gần con người, làm mình có “trọng lượng thật” hơn, làm mình có công phúc hơn, làm mình triển nở và hạnh phúc hơn. Quyền hành địa vị so với việc phục vụ, là như tiếng thanh la vang dội, như phù vân giả tạo, như hình bóng so với cái thực. “Con người đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và làm giá cứu chuộc nhiều người”.
Tạ ơn Đức Giêsu, Ngài đã dạy con đường hạnh phúc đích thực cho con người. Phục vụ, là điều làm cho con người triển nở và hạnh phúc. Không có con đường nào tuyệt vời hơn con đường Đức Giêsu đã đi. Đức Giêsu đã tự hủy để phục vụ, để dạy con người bước đi theo Ngài; và một khi theo Ngài, con người sẽ tìm được bình an, triển nở, và hạnh phúc đích thực.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Địa vị chức quyền đem lại gì cho bạn? Nó có giúp bạn triển nở hơn không? Tại sao?
2. Bạn có nghĩ: phục vụ làm bạn triển nở và hạnh phúc hơn không? Tại sao?
3. Làm sao để một người hiểu rằng: phục vụ làm cho người phục vụ triển nở và hạnh phúc thật sự?
5. Phục vụ -- Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Ðức Giêsu dạy chúng ta nhiều điều rất ngược đời: đối với người đời, làm lớn thì có quyền sai khiến và được cung phụng, còn làm nhỏ thì phải hầu hạ người lớn. Ðức Giêsu dạy khác hẳn: "Ai muốn làm lớn thì phải làm người phục vụ, ai muốn làm đầu thì phải làm đầy tớ".
Thực ra giáo huấn của Ðức Giêsu rất khôn ngoan. Nếu những người làm lớn đều biết phục vụ những kẻ dưới quyền mình thì xã hội sẽ rất bình an, và mọi người đều hạnh phúc.
Xin Chúa giúp chúng ta thấm nhuần bài học quý báu này.
II. Gợi ý sám hối
Khi được làm lớn, chúng con không lo phục vụ những kẻ dưới quyền mình, trái lại thường hống hách bắt họ phục vụ chúng con.
Chúng con hay đòi hỏi người khác phục vụ chúng con mà không nhiệt tình phục vụ người khác.
Chúng con coi thường những công việc nhỏ nhặt ít người để ý tới.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Is 53,10-11)
Người Tôi Tớ Giavê bị nghiền nát vì đau khổ để hiến thân làm lễ vật đền tội và làm cho muôn người nên công chính.
2. Ðáp ca (Tv 32)
Thiên Chúa cũng phục vụ loài người: Ngài để mắt trông nom người kính sợ Chúa, cứu họ khỏi tay thần chết và nuôi sống họ trong buổi cơ hàn.
3. Tin Mừng (Mc 10,35-45)
Chuyện xảy ra ngay sau khi Ðức Giêsu loan báo (đây đã là lần thứ ba) rằng Ngài sắp chịu nạn, chịu chết và sống lại.
- Hai môn đệ Giacôbê và Gioan lại xin hai địa vị ưu tiên trong "nước" mà họ nghĩ Ðức Giêsu sắp thành lập. 10 môn đệ kia bực tức. Không phải vì cho rằng hai môn đệ này sai mà vì nghĩ họ đã muốn "chơi trội" hơn mình trong cuộc chạy đua tranh dành địa vị.
Trong bối cảnh đó, Ðức Giêsu dạy về Nước Thiên Chúa và nước trần gian, về cách cư xử của những người lớn trong hai nước đó:
Trong nước trần gian, kẻ làm lớn thì lấy quyền mà trị dân, bắt dân phục vụ mình.
Trong Nước Thiên Chúa, làm lớn là làm đầy tớ, càng làm lớn thì càng phải phục vụ.
4. Bài đọc II (Dt 4,14-16) (Chủ đề phụ)
Ðức Giêsu là Vị Thượng Tế siêu phàm: (1) Ngài chính là Con Thiên Chúa; (2) Ngài cảm thông những nỗi yếu hèn của loài người vì chính bản thân Ngài cũng từng trải qua đau khổ. Bởi vậy chúng ta hãy mạnh dạn tiến đến gần Ngài để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp.
IV. Gợi ý giảng
1. Quyền bính để phục vụ
a. Một nhà tu đức tên là Jean Vanier, người sáng lập dòng Arche, phân biệt hai loại quyền bính:
Một loại quyền bính từ trên áp xuống. Người nắm loại quyền bính này tự coi mình là kẻ ở trên và những kẻ thuộc quyền mình là những người ở dưới. Người này bắt những kẻ dưới phải làm theo ý mình, nếu không theo thì phạt. Loại quyền bính này được dùng để cai trị, hay nói chính xác hơn là thống trị.
Loại quyền bính thứ hai không từ trên áp xuống mà đứng bên cạnh để giúp đỡ. Người nắm quyền bính này không coi mình là ở trên cũng không coi kẻ thuộc quyền mình là ở dưới. Người này không nhắm cho ý mình được người ta thực hiện, nhưng nhắm đến ích lợi chung và ích lợi của kẻ mình muốn giúp đỡ. Loại quyền bính này được dùng để phục vụ.
b. Khi hai người con ông Dêbêđê, tức là Gioan và Giacôbê đến xin Ðức Giêsu cho mình được hai chỗ bên tả và bên hữu Chúa là họ muốn loại quyền bính nào? Thưa là quyền thống trị.
Nhưng Ðức Giêsu đã từ chối. Lý do thứ nhất là Ngài thấy trong các tổ chức chính trị, hành chánh và xã hội, những người lãnh đạo đều thích loại quyền thống trị đó. Nhưng các tổ chức mà họ lãnh đạo người ta không được hạnh phúc gì cả, trái lại còn phải đau khổ. Lý do thứ hai là trong tổ chức mà Ngài thành lập, tức Giáo Hội, không có người trên kẻ dưới, không có người lớn kẻ nhỏ, mà tất cả đều bình đẳng với nhau vì tất cả đều là anh em với nhau, cùng là con của một Cha trên trời. Cho nên không có chuyện người này bắt người kia làm theo ý mình, nhưng mọi người đều giúp nhau để làm theo ý Cha trên trời. Bởi vậy trong Giáo Hội, quyền bính được trao không phải cho kẻ ham muốn kiếm tìm nó, mà trao cho những người nào có thiện chí và khả năng phục vụ.
c. Khi 10 môn đệ kia bực tức với hai người con ông Dêbêđê, thì họ cũng có quan niệm giống như hai ông này về quyền bính. Vì cùng ham quyền thống trị như nhau cho nên họ ganh tị nhau, bực tức nhau và tranh dành nhau.
Có một câu chuyện ngụ ngôn như sau: một chiếc đồng hồ đeo tay một hôm đi dạo ở công trường trước một nhà thờ. Nó nhìn lên tháp nhà thờ thấy một chiếc đồng hồ rất lớn nên thấy ghét. Nó nói: Anh tưởng là anh ngon lắm hả. Thực ra cái mặt anh to quá khổ chẳng đẹp chút nào, hai cánh tay thì dài thượt coi chẳng đẹp gì cả. Giọng nói thì khàn khàn. Chiếc đồng hồ lớn chỉ mỉm cười và nói "Hãy lên đây". Chiếc đồng hồ nhỏ leo lên. Khi đứng bên chiếc đồng hồ lớn nhìn xuống thì nó mới hoảng sợ. Thì ra ở trên cao này nguy hiểm quá té xuống tan xác như chơi. Rồi lúc nào cũng bị bao nhiêu cắp mắt nhìn lên, và lại còn cô đơn nữa. Khi đó chiếc đồng hồ lớn khều nó nói "Ở dưới có người muốn biết giờ kìa. Em đưa mặt ra cho họ xem đi". Chiếc đồng hồ nhỏ đáp: "Không được, từ đây xuống dưới xa quá mà mặt em nhỏ quá ở dưới xem không thấy đâu". "Vậy thì em nói giờ cho họ nghe đi". "Cũng không được, vì tiếng em nhỏ quá". Khi đó chiếc đồng hồ lớn mới ôn tồn giải thích: "Ðó em thấy chưa. Em cũng không thể làm việc của anh, mà anh cũng không thể làm việc của em. Mỗi người chúng ta ai làm việc nấy, chỉ để phục vụ cho người ta thôi. Từ này về sau mình đừng chỉ trích nhau nữa nhé".
Câu chuyện rất ý nhị: mỗi người có một nhiệm vụ để phục vụ người khác. Kẻ ở địa vị cao thì phải phục vụ nhiều hơn. Và ở địa vị cao thì càng gặp khó khăn nhiều hơn, có khi còn cô đơn hơn nữa.
d. Bởi vậy, khi hai người con ông Dêbêđê xin địa vị, Ðức Giêsu đã hỏi: "Chúng con có uống nổi chén đắng không?" Ðịa vị và quyền bính trong Giáo Hội luôn đi kèm với chén đắng, tức là những hy sinh, đau khổ.
2. "Các anh không biết các anh xin gì"
Chuyện hai người con nhà Dêbêđê xin được hai địa vị trong Nước Ðức Giêsu không có gì lạ. Có lạ chăng là họ đã xin điều đó liền ngay sau khi Ðức Giêsu loan báo Ngài sẽ chịu nạn chịu chết.
Ai mà không thích địa vị. Nhiều người cũng giống hai môn đệ kia thôi, chỉ khác là không dám nói ra như họ.
Vả lại Ðức Giêsu cũng không muốn lập một Giáo Hội không có phẩm trật. Giáo Hội, như bất cứ tổ chức nào khác, cũng cần có phẩm trật, kẻ trên người dưới chứ.
Cái đáng nói là hai môn đệ ấy đã xin một điều mà họ không hiểu:
Họ không hiểu rằng trong Nước Chúa, địa vị rất khác với nước trần gian, vì địa vị là để phục vụ chứ không phải để được người ta phục vụ mình.
Họ không hiểu rằng có địa vị trong Nước Chúa thì họ sẽ phải uống chén đắng chứ không phải sẽ ngồi đó mà hưởng thụ.
Tóm lại, họ không đáng trách vì đã ham muốn địa vị, nhưng đáng trách vì chưa hiểu mục đích và điều kiện của địa vị trong Nước Chúa, thế mà đã nhanh nhẫu xin cho bằng được.
3. Phục vụ
Một lần Ðức Hồng Y Roncalli vừa từ trên xe bước xuống. Ngài mới đi xa về. Phái đoàn tòa Giám mục ra đón. Mọi người ngạc nhiên trên vai áo Hồng Y có vương mấy cọng rơm đồng quê. Ai hỏi ngài cũng cười xoà vui vẻ, nhưng mấy nhân viên phụ tá trên xe đều hiểu chuyện. Chiếc xe của Ðức hồng Y đang từ hướng Bắc xuống miền Nam qua vòng đồng ruộng. Giữa đường một chiếc xe bò chở rơm sa hố. Người đánh xe gắng sức đẩy phụ nhưng xe không nhúc nhích. Ðức Hồng Y cho xe dừng lại, xắn tay áo hò dô ta đẩy phụ, và chiếc xe rơm sa lầy lại chuyển bánh tiếp tục lên đường.
Những cọng rơm trên vai áo Hồng Y đối với ngài chỉ cười xoà cho qua. Nhưng thực sự tỏ rõ cho chúng ta một Hồng Y không quản ngại khó khăn hay sợ bẩn chiếc áo dòng sang trọng.
Sau này lên ngôi Giáo hoàng, Ðức Gioan 23 vẫn tiếp tục sống nếp sống bình dị phục vụ.
Lần khác, cả giáo triều Rôma báo động: "Ðức Giáo hoàng mất tích". Nhân viên an ninh đổ xô đi tìm. Cuối cùng người ta gặp ngài đang chuyện trò thân mật với các tù nhân trong khám đường Rôma.
"Con người đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người" (Mc.10,45).
Ðó là Hiến chương Nước Trời, là Hiếp Pháp Ðức Kitô đã tuyên bố cho Giáo hội. Từ đây, mỗi tín hữu Kitô phải là đầy tớ của mọi người.
Người lãnh đạo trong Giáo hội chính là "Ðầy tớ của các đầy tớ" (Sevrus Servorum). Chữ Latin "Minister" có nghĩa là đầy tớ. Vì thế, trong Giáo hội chỉ có kẻ thừa sai, người thừa tác, nữ tì, tôi tá, hay mục tử chăm lo cho đoàn chiên.
Mẹ của Giacôbê và Gioan xin Ðức Giêsu cho hai con bà được làm tể tướng trong nước của Người. Nhưng họ đã không hiểu rằng Ðức Giêsu không bước lên ngai vàng để thống trị, mà Người chỉ leo lên thập giá để hiến dâng mạng sống, để yêu thương và "yêu cho đến cùng". (Ga.13,1).
Hôm nay, Chúa cũng mời gọi các tín hữu Kitô hãy noi gương Người: Phục vụ và hiến dâng mạng sống cho tha nhân. Trước nhất là yêu thương phục vụ những người trong gia đình: "Charity begin at home" (Bác ái bắt đầu từ gia đình), sau đó mới lan tỏa sang những người chung quanh, nhất là những người nghèo hèn, yếu đuối.
Nếu chúng ta chưa nên giống được như Cha Maximilien Kolbe xin chết thay cho bạn tù, như thánh Martino Porres bán mình làm nô lệ, hoặc như cha Damien tông đồ người hủi, thì ít là mỗi ngày chúng ta hãy âm thầm phục vụ hết mình những người thân yêu, những người Chúa giao phó trong gia đình mình, trong cộng đoàn mình.
Báo chí Pháp đăng hình của Cha Damien sau mấy chục năm phục vụ trong trại cùi, ghép cạnh hình cha hồi còn tẻ. Tấm hình gây xúc động cho biết bao con người. Khi nhìn vào tấm hình, mẹ Ngài không thể tin được con mình đã thay hình đổi dạng đến thế. Chính thái độ tận tụy phục vụ đã tiêu hao sức lực và tàn phá hình hài con người. Vì thế, chúng ta không thể phục vụ nếu không có sẵn một tấm lòng dấn thân quảng đại.
Người thành công nhất là người phục vụ cho đồng loại nhiều nhất. Albett Shweitzer đã nói: "Người hạnh phúc thật là người biết tìm cách sống thiện ích cho người khác". Martin Luther King nói: "Chúng ta học bay như chim trên trời, học bơi như cá dưới nước, nhưng lại chưa học sống với nhau như anh em". Ở giây phút định mệnh của mỗi con người chỉ có cường độ tình yêu và tinh thần phục vụ là có giá trị.
Lạy Chúa, ai trong chúng con cũng có một chút ham mê địa vị, chức quyền. Nếu Chúa xếp đặt cho chúng con một chức vụ nào đó, xin cũng ban chúng con một ơn này, là chức vụ càng cao, chúng con càng biết khiêm tốn phục vụ anh em nhiều hơn. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
4. Hiến thân phục vụ
Thiên Chúa đã gọi Cha Kỷ bước ra khỏi vực thẳm của nghèo khó
Một cậu bé nhà nghèo bị bố bỏ rơi, 4 tuổi đã phải đi ăn xin. Xong tiểu học ở tuổi 13, Giuse Lê Ðình Kỷ (Joseph Wresinski) học được nghề làm bánh ngọt để sống tới tuổi 19. Qua trung gian phong trào Thanh Sinh Công, cậu được hướng dẫn theo ơn gọi linh mục.
Năm 1937 cậu nhập ngũ theo tuổi quân dịch. Hai năm sau, chiến tranh bùng nổ ở Pháp, cậu bị bắt làm tù binh nhưng trốn được và về học ở chủng viện Sinh Ðông (Soissons), nơi Thầy Giuse thụ phong linh mục năm 1946. Kế đó là 4 năm làm cha phó và 6 năm làm cha sở.
Năm 1956 Cha Kỷ được giao nhiệm vụ mở ra một giai đoạn hoàn toàn mới không riêng cho cha. Cha ghi lại như sau:
Ðức Giám Mục đã phái tôi đến trại tiếp cư khẩn cấp vùng ngoại ô Noisy-le-Grand của Thủ đô Paris. Ngày đầu tôi tới đó là 14 tháng 7, 1956. Tôi được gặp những gia đình gợi nhớ tình cảnh túng quẫn của mẹ tôi. Trẻ con tới tấp tới quấy phá tôi, tôi kể đó là những người em trong gia đình tôi.
Ðó là hình ảnh của chính tôi, bốn mươi năm trước đây trên đường Gia-cô-bê của thành phố Aùnh Dương (Angers). Từ ngày tôi đặt chân tới trại, chính những gia đình ấy đã khởi hứng cho tôi về tất cả những gì tôi thực hiện nhằm giải phóng họ. Họ ôm chầm lấy tôi, ám ảnh tôi, thúc bách tôi, đưa đẩy tôi cùng với họ thiết lập một phong trào. Chính họ rèn luyện nên căn tính riêng và tự xưng là "Thế giới thứ Bốn".
Ðể cha hiến thân phục vụ người nghèo
Tại sao gọi là "Thế giới thứ Bốn"? Cha Kỷ muốn người ta nhìn nhận phẩm giá của những gia đình đó. Ngài muốn nói lên thái độ của họ muốn từ khước túng quẫn. Chính vì muốn chấm dứt cảnh túng quẫn của họ nên Cha Kỷ đã khởi xướng kế hoạch phát triển cộng đồng cùng với họ. Cùng với những gia đình đó, cha Kỷ đã thiết lập phong trào Trợ Giúp người lâm bất cứ cảnh túng quẫn nào (Aide à Toute Détress (ATD), tức International Movement ATD Fourth World).
Nhật ký của Cha Kỷ ghi tiếp:
"Ngày đó, tôi nguyền làm cho thế giới biết đến những gia đình đó. Tôi đoan thề sẽ tìm cho họ nơi ở xứng đáng, thanh niên có việc làm, người trẻ được dạy nghề, trẻ con có trường để học hành. Hôm đó tôi chọn cho tôi con đường nhắm tới mục tiêu là làm cho người nghèo có chỗ đứng và chỗ đứng ấy được thế giới nhìn nhận và tôn trọng. Tôi sẽ phải làm thế nào để họ có cơ hội trèo lên những bậc thang của Liên Hiệp Quốc, của cơ quan Giáo Dục UNESCO, của Tổ Chức Lao Ðộng thế giới (ILO), của Hội Ðồng các nước Âu Châu và của Vatican, để tiếng nói của họ được nghe thấy.
Năm 1961 Cha Kỷ thiết lập Viện nghiên cứu đầu tiên để nghiên cứu về cảnh cùng cực (Research Institute on extreme poverty), lôi cuốn các chuyên gia đến từ các nước và các ngành khoa học. Qua những chuyến công du và những bài thuyết trình, nhiều dự án nghiên cứu của phong trào lan rộng đến nhiều nước Âu Châu và Hoa Kỳ.
Ðược thúc đẩy do thâm tín rằng túng quẫn phải được chấm dứt khỏi đời sống con người, những người thiện nguyện đầu tiên đến cộng tác với cha Kỷ từ năm 1960. Họ đến từ nước, thuộc nhiều quốc tịch, nhiều tín ngưỡng và nghề nghiệp. Một số có gia đình, một số độc thân. Con số những thành viên chí nguyện này hiện là 350 tại 20 quốc gia, trong số đó 200 người đã phụcvụ trên 5 năm và 35 người đã phục vụ trên 20 năm. Họ sống trong những cộng đoàn nơi họ phục vụ bằng cách cổ võ giao lưu giữa những gia đình nghèo và dân chúng nói chung.
Cuộc viếng Ấn Ðộ năm 1965 khiến Cha Kỷ có thêm phong trào Tapori, trong đó các em thiếu nhi từ nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội trở nên bạn thân với nhau. Song song nữa là phong trào thanh niên cũng nhằm mục tiêu là gây tình bạn vượt mọi rào cản.
Hai biến cố đánh dấu năm 1987 là năm chót đời cha Kỷ. Năm ấy cha đệ lên Hội Ðồng Kinh Tế và Xã Hội của Pháp Quốc một đề nghị tổng hợp nhằm diệt tận căn bệnh nghèo trường kỳ. Tài liệu của cha Kỷ nhan đề là "nghèo cùng cực và sự bấp bênh Kinh Tế và Xã Hội" khiến chó nước Pháp đã làm luật để bảo đảm đồng lương tối thiểu. Ðiều này đã gây hứng khởi cho những nước khác của Âu Châu và lôi kéo sự chú ý trên toàn cầu.
Cũng năm ấy, vào ngày 17 tháng 10, trước sự có mặt của trên 100,000 người từ khắp nơi trên thế giới, cha Kỷ đã đặt viên đá kỷ niệm nhằm tán dương những khổ đau và lòng can đảm của người nghèo. Viên đá kỷ niệm được đặt tại Công Trường Các Quyền Con Người tại Paris, đối diện tháp Eiffel. Bảng viết ghi rõ: "Bất cứ khi nào người nam hay nữ phải sống trong nghèo khổ thì quyền làm người của họ bị chà đạp (condemned). Ta có bổn phận cùng nhau bảo đảm cho những quyền đó được tôn trọng."
Trong lễ an táng cha Kỷ tại nhà thờ chính toà Paris, Ðức Hồng Y Lustiger nói: "Thiên Chúa đã gọi cha Giuse Kỷ bước ra khỏi vực thẳm của nghèo khó để cha hiến thân trở nên sức hút nhằm loại bỏ tận căn tệ nạn người loại bỏ người. Ðiều dễ phát sinh ra căm hờn đã trở nên dấu chỉ của tình thương. Ðiều dễ phát sinh ra tàn phá đã mở lối vào để con người được triển nở, được nhận ra mình và khám phá ra phẩm giá của mình.
Lý tưởng cao đẹp nhất của người môn đệ Ðức Giêsu
Câu chuyện Cha Kỷ hiến thân phục vụ người nghèo được kể để giúp lãnh hội ý nghĩa bài Tin Mừng hôm nay. Ý nghĩa ấy quả thật ngược lại với xu hướng tự nhiên của Nhóm Mười Hai. Khởi sự là hai anh em trong nhóm, tức Giacôbê và Gioan, đã xin để được ngồi bên hữu bên tả Ðức Giêsu khi người thiết lập Vương quốc, nhưng Người đã giao cho hai ông vác thập giá theo Người. Lời hai anh em này yêu cầu cũng dễ hiểu vì cả nhóm đã từng: "cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả" (Mc 9,34). Tin Mừng Mátthêu còn cho thấy chính bà mẹ của hai ông nói lên lời thỉnh cầu của gia đình (Mt 20,20). Nhưng Ðức Giêsu đã phản ứng với lời thách đố: "các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?" (Mc 10,38). Ðức Giêsu có ý nói tới cơn hấp hối và cái chết mà Người sẽ chịu. Hai anh em được thách đố để theo Ðức Giêsu đến cùng. Ðức Giêsu kết thúc đối thoại bằng cách đặt hai anh em trước một câu trả lời đòi họ phải được hoán cải để theo ý muốn của Thiên Chúa. Người nói: "Có thể Chúa Cha sẽ dành địa vị cho các anh, nhưng các anh phải sẵn sàng vác thập giá tôi vác, uống chén đắng tôi uống và chịu phép rửa tôi chịu." Nghĩa là hai anh em phải bước theo Ðức Giêsu cho tới cái chết trên thập tự.
Không riêng hai anh em là Giacôbê và Gioan, mười người còn lại trong nhóm Mười Hai, đều bị chỉnh khi họ tỏ ra tức tối với hai anh em liên quan tới việc tranh giành ảnh hưởng giữa nhau. Ðể bước theo Ðức Giêsu cần phải dứt khoát loại bỏ thái độ "hống hách đối với người khác" (c.42). Là Kitô hữu có nghĩa là trở nên kẻ phục vụ tha nhân như Ðức Giêsu đã phục vụ (c.45). Ai ở địa vị cao nhất và uy thế nhất, người đó nhận lấy trách nhiệm đáp ứng nhu cầu của mọi người theo gương Ðức Giêsu (c.44). Ðó là con đường đưa người môn đệ vào vinh quang của Ðức Giêsu.
Bài Tin Mừng hôm nay liên quan trước hết tới hai môn đệ thân cận nhất của Ðức Giêsu là ông Giacôbê và Gioan (cùng với Simon-Phêrô, hai ông này được Ðức Giêsu chọn để tháp tùng Ngài lên núi biến hình (9,2-9) và có mặt trong cơn hấp hối tại Vườn Dầu (14,32-42)). Sứ điệp mà Tin Mừng Máccô có ý truyền đạt liên quan tới địa vị lãnh đạo trong Giáo Hội, họ phải là người đầu tiên "uống chén đắng" bằng cách phục vụ nhu cầu của anh chị em, bất cứ là nhu cầu nào họ nhận thấy và bất cứ trong hoàn cảnh nào họ nhận ra. Ðó quả là một đòi hỏi tận căn, hầu như không bao giờ người được giao trách nhiệm cảm thấy mình đã chu toàn được nhiệm vụ.
Nơi Cha Kỷ, ý nghĩa của bài Tin Mừng hôm nay được sáng tỏ. Thiên Chúa đã an bài để Cha sinh ra trong khó nghèo hầu cả đời hiến thân phục vụ người nghèo. Cha không căm hờn người giàu nhưng đòi họ bằng mọi giá phải hoán cải bản thân. Bằng mọi giá họ phải trả lại cho người nghèo quyền lợi và phẩm giá thuộc về họ. Lý tưởng cao đẹp nhất được nêu cho người môn đệ Ðức Giêsu là họ phải cúi mình phục vụ người nghèo theo gương chính Ðức Giêsu. (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Ðức Giêsu đã tuyên bố: "Con Người đến để được người ta hầu, nhưng là để hầu hạ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người". Chúng ta hãy cảm tạ Chúa thương chúng ta và dâng lời cầu xin:
1. Ðức Giêsu đã nói với các tông đồ rằng: đối với anh em, ai muốn làm lớn thì phải làm bé hầu hạ / ai muốn làm đầu thì phải làm đầy tớ mọi người / Xin Chúa cho các người lãnh đạo trong Hội thánh biết ứng xử đúng theo lời dạy của Chúa / để luôn sẵn sàng phục vụ mọi người.
2. Ðức Giêsu cũng cho biết rằng / những người được coi là thủ lãnh các nước thì cai trị dân như những bạo chúa / và những người làm lớn thì lấy quyền mà áp chế dân / Xin Chúa cho các nhà cầm quyền ngày nay biết từ bỏ cách cai trị độc tài chuyên chế / để tôn trọng nhân phẩm và nhân quyền của mọi người.
3. Khắp nơi trên thế giới vẫn còn rất nhiều người đang cần được giúp đỡ và phục vụ / Xin Chúa cho họ được nhiều người trong Hội thánh và trong xã hội / biết quan tâm và lo lắng cho họ.
4. Ðức Giêsu đến trần gian để cứu độ bằng phục vụ, và Chúa phục vụ để cứu độ / Xin Chúa cho mọi người trong xứ đạo chúng ta biết noi gương Chúa / luôn sẵn sàng phục vụ để truyền giáo cho những người chung quanh.
Chủ tế: Lạy Ðức Giêsu, khi bắt đầu theo Chúa, các tông đồ còn mơ ước một cuộc sống giàu sang và quyền lực, nhưng sau các ngài đã hiểu và tự nguyện bước theo đường Chúa đã đi; Xin giúp mỗi người chúng con biết noi gương các ngài, chấp nhận hy sinh thiệt thòi, để phục vụ cho việc truyền giáo. Chúa là Ðấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh lễ
- Trước khi rước lễ: Ðức Giêsu đã hiến thân làm của ăn nuôi sống linh hồn chúng ta. Xin Chúa cho chúng ta sau khi rước Chúa vào lòng cũng biết hiến thân phục vụ anh chị em chúng ta.
VII. Giải tán
Hôm nay chúng ta đã học được bài học phục vụ: người lớn phải phục vụ người nhỏ, càng làm lớn thì càng phải phục vụ. Chúng ta hãy ra về và cố gắng thực hành bài học này.
6. Làm đầy tớ
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Đọc Tin Mừng, ta thấy dường như duy chỉ có trường hợp hai anh em nhà Giêbêđê (hay chính người mẹ của hai ông này) đến xin Chúa Giêsu cho xí phần tả hữu khi Chúa được vinh quang nghĩa là khi Chúa làm vua, theo mộng tưởng của hai vị. Dù rằng mười vị còn lại có biết chuyện này, vì các vị đã tức tối ra mặt, nhưng không thấy vị nào mon men đến xin xỏ Thầy một chức vị nào đó cho sau này. Có lẽ lý do là đây: Điều xin thì chưa chắc được nhưng điều không xin thì lại phải bị gánh chịu. “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống, phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được”(Mc 10,39-40).
Phen này đúng là thua to, hai vị nhà Giêbêđê im hơi lặng tiếng đủ nói lên tâm trạng của các vị. Thực ra không phải hai vị mà cả nhóm Mười Hai đã lầm. Cái lầm căn bản của cả nhóm đó là mong sẽ được có chức vị cao trọng ngoài xã hội, và dĩ nhiên sẽ được hưởng vinh hoa phú quý khi đi theo Thầy Giêsu. Vị tôn sư người Nagiarét đủ đầy quyền năng trong lời nói lẫn hành động hẳn phải là Đấng Thiên Sai, nếu không thì cũng là một đại ngôn sứ. Với uy quyền cả thể như thế, chắc chắn Người sẽ giải phóng dân tộc mình khỏi ách nô lệ ngoại bang và sẽ được phong làm vua. Ngay cả trước khi Chúa về trời thì các ngài cũng còn hỏi: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quóc Israel không?” (Cvtđ 1,6).
Cả nhóm Mười Hai lầm thì cũng dễ hiểu vì các ngài chưa được nghe lời khẳng định của Thầy trước mặt Philatô rằng Người là vua nhưng nước Người không thuộc về thế gian này (x.Ga 18,33-38). Tuy nhiên cần khẳng định với nhau điều này: nơi con người, song hành với tính xã hội thì còn có bản năng thống trị. Ở giữa một tập thể, người ta có khuynh hướng tìm cách làm đầu kẻ khác. Dẫu sao đi nữa, làm dầu con tôm cũng hơn là làm đuôi con rồng. Dù lớn hay bé, khi đã được làm đầu thì không chỉ sẽ được kính trọng mà còn được cung phụng. Vì thế, chúng ta không mấy ngạc nhiên khi thấy đây là một chủ đề thường xuyên trở thành nguyên cớ tranh luận giữa tập thể nhóm Mười Hai.
“Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em, ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người” (Mc 10,44). Lời khẳng định của Chúa Giêsu là một mệnh lệnh. Cả nhóm Mười Hai hôm ấy và cả chúng ta hôm nay, chẳng ai chối cãi hay biện bạch. Thế nhưng, thực tế minh chứng cho thấy chúng ta vẫn còn để mệnh lệnh ấy trên giấy cách nào đó. Không riêng gì người theo Chúa, quý vị nắm trọng trách ngoài xã hội cũng khẳng định rằng chính quyền là đầy tớ nhân dân. Thế mà chuyện đầy tớ ăn trên ngồi trước, còn các ông chủ thì khép nép tìm các hạt cơm thừa; đầy tớ thì chễm chệ ghế salon nệm dày, sở hữu nhà cao cửa rộng còn ông chủ lại vất vưởng trong các căn chòi ọp ẹp…đã trở thành “chuyện tử tế” của một thời và hình như là của mọi thời, nhiều nơi.
Có thể có nhiều lý do để biện minh về việc các ngài đầy tớ sở hữu cũng như sử dụng các phương tiện sang trọng. Các vị ấy cần có phương tiện thích ứng để làm đầy tớ tốt hơn, hữu hiệu hơn. Các vị ấy không chỉ cần có tác phong tương xứng, mà còn cần có những cái bên ngoài như y phục, đồ dùng, phương tiện đi lại…cách nào đó cho phù hợp với vai vế hay chức vụ đảm nhận mà thôi (noblesse oblige). Đây không phải là lời biện minh, nhưng là lời giải thích khá hữu lý và hợp tình. Thế thì đâu là dấu chỉ một người làm đầu đang thực sự làm đầy tớ?
Chúa Giêsu đã minh nhiên cho chúng ta một dấu chỉ bằng chính cuộc sống, cung cách hành động của Người: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10,45). Có thể nói việc hiến dâng mạng sống làm giá chuộc cho muôn người là bằng chứng của việc làm đầy tớ. Tác giả thư Do Thái triển khai việc làm đầy tớ qua hình ảnh vị Thượng Tế biết “cảm thương” nỗi yếu hèn của nhân loại (x. Dt 4,13). Ngôn sứ Isaia lại tiên báo việc làm đầy tớ bằng hình ảnh người tôi tớ trung thành chịu đau khổ để gánh lấy hậu quả tội lỗi con người (x. Is 53,10-11).
Số người được làm đầu con rồng trong Giáo Hội hay ngoài xã hội quả là không nhiều, nhưng số người làm đầu con tôm, tôm to, tôm vừa, tôm bé hay các loại tép thì đếm không xuể. Có một hoặc hai người thuộc quyền của chúng ta, dưới quyền của chúng ta, trong trách vụ của chúng ta thì chúng ta đang được đặt làm đầu. Đó là đàn chiên chúng ta đang chăn dắt, đó là con cái mà ta đã sinh thành, đó là nhóm học sinh ta đang dạy dỗ, đó là những người cô thân, bé phận ngoài xã hội hay trong Giáo Hội, đó là những người yếu đuối, tội lỗi đang cần chúng ta nâng đỡ, dìu dắt, chỉ lối, dẫn đường… Như thế, có thể nói hầu hết chúng ta đã được đặt làm đầu. Đã làm đầu thì phải làm đầy tớ.
Lịch sử cho thấy rằng những người “làm đầu” ngoài xã hội cũng như trong giáo hội, nếu xuất thân từ hoàn cảnh khó khăn hay đã từng kinh qua nhiều gian khổ thì thường dễ “làm đầy tớ” cách thực sự và đúng nghĩa hơn. Quả thật, để thực sự làm đầy tớ, tiên vàn cần phải có sự đồng cảm, đồng thân, chung phận một cách nào đó. Chúa Kitô đã nêu gương cho chúng ta khi “vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế…” (Pl 2,6-11).
Xã hội có ngày càng công bằng, văn minh, thinh vượng hay không, giáo hội có ngày càng tinh tuyền, thánh thiện hay không chắc hẳn phụ thuộc rất nhiều vào việc những người đứng đầu có thực sự sống tôn chỉ “làm đầy tớ nhân dân”, “làm tôi tớ của đàn chiên” hay không. Mong sao tôn chỉ ấy không dừng lại ở khẩu hiệu hay ở các bài phát biểu hùng hồn, nhưng được hiện thực hóa bằng việc làm và thái độ sống của những người làm đầu. Ngoài việc các đầy tớ phải hiến dâng mạng sống vì chủ, thì có thể nói một trong những tiêu chí để thẩm định các vai vế chủ - tớ có chính hiệu không, thì hãy xem các ông chủ tức là người dân, các con chiên, có được phép và được quyền mạnh dạn mở miệng nói lên suy nghĩ, nhận định của mình hay trình bày các nhu cầu chính đáng của mình trước các vị “đầy tớ” hay không, và dĩ nhiên không thể thiếu sự chân thành lắng nghe của các vị này.
7. Uống chén Thầy -- PM. Cao Huy Hoàng
Sách Giáo Lý Thêm Sức cho các em cấp 2, bài 12 có câu hỏi thưa số 31:
H. Vì sao con Thiên Chúa xuống thế làm người?
T. Con Thiên Chúa xuống thế làm người vì bốn lẽ này:
- Một là để cứu chuộc ta khỏi tội lỗi,
- Hai là để tỏ cho ta biết tình yêu của Thiên Chúa,
- Ba là để làm mẫu mực cho ta sống thánh thiện,
- Bốn là để ta được kết hợp với người mà trở nên con cái Thiên Chúa.
Sau khi các em đọc câu hỏi thưa 3 lần, cô Giáo Lý Viên hỏi: “Có em nào biết chữ “chuộc” nghĩa là gì không?” Một em nhanh nhẹn giơ tay xin trả lời: “Thưa cô, chuộc là xin lại. Ví dụ như mình mất cái điện thoại, biết người lượm được, tới xin lại”. “Đúng chưa các em”. “Thưa cô chưa đúng. Tới xin không chắc gì người ta cho lại. Phải đưa tiền chuộc cô ạ!”
…Con người sa ngã phạm tội phản nghịch Thiên Chúa, con người thuộc về Satan, sự dữ, bị Satan làm chủ, thống trị. Thiên Chúa Cha “chuộc tội” cho thiên hạ, tức là, cho con người tái thuộc về Thiên Chúa, thuộc quyền sở hữu của Thiên Chúa, trở lại làm con Thiên Chúa không bằng tiền, không bằng vàng, không bằng ngai tòa Thiên Chúa cao sang quyền quí, nhưng bằng chính Con Một Mình, Ngôi Hai Thiên Chúa, là Đức Giêsu Kitô. Ngài đến để yêu thương và phục vụ cho đến chết.
Cảm ơn cô Giáo Lý Viên.
Vâng, bài đọc 1 hôm nay, Ngôn Sứ Isaia loan báo về Đức Giêsu: "Chúa đã muốn hành hạ người trong đau khổ Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ thấy một dòng dõi trường tồn, và nhờ người, ý định của Chúa sẽ thành tựu" (Is 53, 10 – 11).
Chúa Giêsu là Lễ Vật Đền Tội đẹp lòng Thiên Chúa Cha nhất, nhờ lễ vật ấy, mà Lòng Thương Xót của Thiên Chúa Cha mở ra, đón nhận lại con người tội lỗi đã được rửa sạch nhờ máu Con Của Ngài.
Chúng ta, những Kitô hữu, được ghi danh vào “dòng dõi trường tồn” nhờ ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô. Và khi đã được ghi tên mình vào danh sách ấy, hẳn phải cộng tác vào Ơn Cứu Chuộc bằng việc noi gương yêu thương phục vụ của Chúa. Đó là đức tin của chúng ta. Hơn nữa phải “giữ vững việc tuyên xưng Đức Tin của chúng ta”, nhờ đức trông cậy, vì lòng khiêm tốn nhận biết mình mỏng dòn yếu đuối (x. Dt 4, 14 – 16).
Ai dám nói mình không hèn mọn yếu đuối trước những cám dỗ của lòng kiêu ngạo về quyền bính, để được phục vụ hơn là phục vụ? Người càng chiều theo những khát khao phù du của lòng kiêu ngạo, càng chứng tỏ sự yếu đuối về Đức Tin về Đức Cậy và cả về Đức Kính Mến Thiên Chúa.
Chuyện hai anh em nhà Dêbêđê: "Xin cho chúng con một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả Thầy trong vinh quang của Thầy" là chuyện thường tình rất con người của chúng ta.
Chúng ta có khác gì? Đôi khi còn tệ hơn nữa. Tệ hơn ở chỗ, không xin nhưng dùng mọi thủ đoạn hạ bệ người khác mà đưa mình lên cao. Chuyện ở đời, người ta thanh trừng nhau để kiếm một địa vị xã hội đã đành, trong Giáo Hội, tâm trạng khắc khoải bồn chồn vì sợ ảnh hưởng của người khác hơn mình vẫn cứ đeo bám.
Giáo Sĩ phải được trọng vọng, được kính nể hơn Giáo Dân, bất kể cuộc sống của ngài như thế nào đi nữa. Linh Mục phải là người lãnh đạo, là người quyết định tối hậu mọi chuyện trong Giáo Xứ, không phải Giáo Dân. Giáo dân biết gì? Bởi vậy có Linh Mục đã từng tuyên bố không cần Hội Đồng Giáo Dân cho đông người, chỉ cần hai người biết nghe gì làm nấy là đủ.
Cái ảo tưởng quyền bính thế gian đã xâm nhập vào Giáo Hội từ lâu rồi, đến mức Giáo Dân phải mang lấy những cái ách nặng nề không đáng có, rồi dù có thấp cổ bé miệng cách mấy cũng phải la toáng lên: Chúa ơi, đây là thời kỳ thống trị của Giáo Sĩ, thời kỳ Giáo Sĩ trị. Thời kỳ ấy có vẻ như vẫn còn kéo dài tới hôm nay!
Không dừng lại ở các Giáo Sĩ, mà bệnh quyền bính còn lây lan sang những Giáo Dân cộng tác, gần gũi với Giáo Sĩ, học đòi cách ăn cách nói cách ứng xử quyền bính mà xem thường kẻ khác cách quá đáng.
Một ông mới được cha sở chỉ định làm Trùm một họ lẻ, đã có thể đập bàn quát tháo với anh em rằng: “Tôi đã bảo không thể là không thể”, hoặc hù dọa bà con rằng: “Sao? Có muốn chôn trong Đất Thánh không đấy?”
Tội nghiệp cho ai bây giờ?
Theo tôi thì thật là tội nghiệp, thật là đáng thương cho những người tưởng mình có quyền bính và dùng quyền bính ấy khiến cho mọi người phải vâng dạ cả những chuyện sai trái, mọi người phải phục vụ mình xứng đáng.
Chúa Giêsu nào muốn cho các môn đệ của Ngài có lối hành xử như vậy? Có Chủng viện nào có đường lối đào tạo linh mục như vậy? Chẳng là vì con người ấy chỉ tu thân cho đến lúc đạt được chức linh mục thôi sao? Đạt được rồi, không cần tu thân nữa sao?
Chúa Giêsu trả lời cho người xin địa vị, quyền bính mà không xin hiến mình phục vụ rằng: “Các con không biết các con xin gì. Các con có thể uống chén Thầy sắp uống và chịu cùng một phép rửa Thầy sắp chịu không?”
“Uống chén Thầy sắp uống” hẳn không phải uống chén quyền bính, nhưng là uống chén yêu thương, phục vụ, và yêu thương, phục vụ cho đến chết.
Năm Đức Tin mở ra, để mọi người nhìn lại mà sám hối cải thiện cách sống đức tin của mình. Tin vào Chúa Giêsu là phải sống như Chúa Giêsu đã sống. Nếu không sống như Chúa Giêsu đã sống yêu thương phục vụ, thì việc chúng ta rao giảng Ơn Cứu Chuộc của Thiên Chúa trở nên mất tác dụng, đôi khi còn phản tác dụng và trở nên trò cười hổ danh Thiên Chúa của chúng ta.
Tin Mừng hôm nay thiết thực mời gọi cách sống Đức Tin của những người có trách nhiệm trong Giáo Hội, kể cả những Giáo Dân được tham dự vào những công việc của Giáo Hội:
"Các con biết rằng những người được coi là lãnh tụ các nước, thì sai khiến dân chúng như ông chủ, và những người làm lớn thì lấy uy quyền mà trị dân. Còn các con không như thế. Trái lại, ai trong các con muốn làm lớn, thì hãy tự làm đầy tớ anh em. Và ai muốn thành người cầm đầu trong các con, thì hãy tự làm nô lệ cho mọi người. Vì chính Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người" (Mc 10, 42 – 45).
Lạy Chúa Giêsu, Đấng Cứu Chuộc chúng con bằng lòng yêu thương phục vụ cho đến chết. Xin cho chúng con biết cộng tác vào ơn cứu chuộc bằng lòng yêu thương phục vụ hết mọi người. Amen.
8. Bài học về sự phục vụ -- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Chạy đua tranh giành quyền lực, địa vị là điều thường thấy trong thế gian ở mọi nơi mọi thời. Đó đây luôn có người tìm mọi cách để có được địa vị hay nắm được quyền hành trong xã hội, từ nhà nước, đến quyền lực của quân vương, lãnh chúa phong kiến, tới quyền lực của quốc hội, các đảng phái và của các tổ chức khác. Để đạt được mục tiêu, người ta sẵn sàng dùng mọi phương tiện, kể cả những phương tiện xấu nhất. Các môn đệ Chúa cũng không nằm ngoại cái đời thường ấy. Họ ước muốn ngồi trong hàng lãnh đạo cao nhất trong vương quốc vinh quang của Chúa Giêsu nghĩa là, khi Chúa Giêsu chiến thắng quân La mã, tái lập Vương quốc Israel. Lời họ cầu xin với đầy vẻ tự tin cho thấy họ theo đuổi cái hoàn toàn trần thế về đấng Messia.
Sau khi Chúa Giêsu loan báo cuộc Khổ nạn lần thứ nhất (x. Mc 8, 31-33) rồi lần thứ hai (x. Mc 9, 30-32), bài học về tư cách của người đứng đầu Chúa dành cho các môn đệ (x. Mc 9, 35-37), cách sử dụng danh Chúa trong cộng đoàn tín hữu dù là môn đệ hay không (x. Mc 9, 38-40); phần thưởng dành cho những ai sống xứng với danh Kitô hữu của mình (x. Mc 9,41); và đương nhiên kẻ làm cớ vấp phạm cho người khác, nhất là trẻ em sẽ bị trừng phạt thích đáng (9,42), Chúa Giêsu loan báo tiếp cuộc thương khó lần thứ ba (x. Mc 10,32-34). Hôm nay, Chúa Giêsu cho các ông một bài học dài về tư cách của người làm lớn, người có quyền và nhấn mạnh đến sự phục vụ cần phải có đối với các môn đệ Chúa.
Chúng ta tiếp tục cùng với các môn đệ đi theo Chúa Giêsu lên Giêrusalem, và chuyện "ai là người lớn nhất" trong họ vẫn đang được bàn tán, cho dù Chúa Giêsu nói cho họ biết là trong số họ, người lớn nhất là người sẵn sàng làm "tôi tớ cho anh em". Bài học đắt giá như thế, các ông chưa thuộc lòng, tâm trí các ông vẫn không thay đổi là bao, chính vì lẽ ấy mà dọc đàng các ông vẫn còn tham danh vọng, quyền hành và địa vị dẫn đến cuộc cãi vã dọc đường (x. Mc 9, 34), tệ hơn nữa Giacôbê và Gioan đến xin Chúa Giêsu cho được một ngồi bên tả, một ngồi bên hữu Thầy (x. Mc 10, 35). Thầy vừa loan báo cuộc thương khó lần thứ ba xong thì Giacôbê và ông Gioan lại nghĩ đến ánh vinh quang đang đợi chờ Giêrusalem với Chúa Giêsu. Hai ông hẳn đã thống nhất với nhau giữ lại cho mình những vị thế quyền cao chức trọng, là sẽ được ngồi chỗ danh dự sau này.
Câu trả lời của Chúa Giêsu thật mạnh mẽ: "Ai trong các con muốn làm lớn nhất thì hãy tự làm đầy tớ anh em" (Mc 10,44); Và Người nói tiếp: "Cũng vậy, Con Người đến không phải để được người ta hầu hạ, nhưng để hầu hạ và hiến mạng sống cho nhiều người" (Mc 10, 45). Chúng ta không trách hai ông, bởi trên đường đi với Chúa Giêsu, hai ông đã thấy tận mắt Chúa làm nhiều phép lạ và lôi cuốn dân chúng. Hai ông nghĩ rằng khi lên Giêrusalem, Chúa Giêsu sẽ được tôn vinh là vua, việc ngồi bên hữu bên tả trên ngai vinh quang, quyền thế là có thể. Chắc các ông không nghĩ đến một quền lực nào có thể lật đổ được Chúa Giêsu và đưa Người đến cái chết. Điều Giacôbê và Gioan nài van làm Chúa Giêsu có dịp một lần nữa nhấn mạnh: ai muốn theo Người thì sẽ làm "nô lệ cho tất cả" (Mc 10,44). Hình ảnh Chúa Giêsu dùng để minh hoạ cho giáo huấn của Người thật rõ ràng. Cũng như Con Người tự nguyện làm nô lệ cho mọi người, như khi quì xuống rửa chân cho các môn đệ (Ga 13,1-17), và chết bằng khổ hình thập giá dành cho các nô lệ, người kitô hữu bắt chước Chúa Giêsu cũng phải trở nên người phục vụ anh em.
Lời Chúa Giêsu giúp chúng ta hiểu rằng, Nước Thiên Chúa không thuộc về thế gian này, chỉ gồm những người tranh giành quyền lực bằng bất cứ phương tiện nào, hay những kẻ tìm mọi cơ hội để lợi dụng. Trái lại, trong Giáo hội, quyền hành là để phục vụ. Chính Người nói với chúng ta: "Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban sự sống làm giá cứu chuộc cho mọi người" (Mc 10,45).
Hôm nay, chúng ta nhớ đến tất cả các linh mục, nam nữ tu sĩ và những người dấn thân loan báo Tin Mừng. Nhiều người đang phải đối đầu với đau khổ, bao lực, bách hại, diệt chủng, đói kém. Tất cả chúng ta làm nên một Giáo hội. Trong chính thân thể Chúa Kitô, khi một chi thể đau đớn thì toàn thân đều mang lấy hậu quả. Sứ mạng của Giáo Hội trước tiên là phục vụ, vì thế Giáo hội mời gọi mỗi người chúng ta hãy dấn thân hơn nữa trong việc cầu nguyện, chia sẻ và loan báo Đức Giêsu Kitô. Amen.
9. Phục vụ
Khi mới đi theo Chúa Giêsu, các môn đệ còn rất mơ hồ về sứ mạng của Ngài, cũng như về ơn gọi của mình. Các ông mơ ước một cuộc sống giàu sang và quyền thế. Các ông tin chắc Chúa Giêsu sẽ tạo cho các ông cơ hội thực hiện giấc mơ trái mùa ấy. Thực ra ngồi bên tả hay bên hữu Chúa không phải chỉ là ước muốn riêng của hai anh em Giacôbê và Gioan, mà còn là điều thèm khát chung của tất cả các môn đệ khác. Chỉ có điều là những người này đã không dám công khai thú nhận mà thôi.
Nhưng họ đã lầm. Giàu sang và thế lực trần gian không phải là con đường được Thiên Chúa chọn để cứu thế. Xoá bỏ tội lỗi của loài người, hoán cải thế giới này để đưa về với Chúa Cha, chỉ cho mọi người thấy được phần nào lòng yêu thương của Chúa Cha. Chắc chắn không phải là con đường bằng phẳng êm ái. Để hoàn thành sứ mạng được trao phó, Chúa Giêsu đã chọn con đường đau khổ và hiến tế của Người tôi tớ. Ngài đã nhận lấy chén đắng và chịu thanh tẩy trong sự chết. Chắc chắn Đấng Cứu Thế là Vua cao cả, nhưng sự cao cả đó được thể hiện trong chính tình trạng tự hạ để phục vụ theo đúng quy luật mà Ngài đã đặt ra: ai muốn làm lớn thì hãy tự làm đầy tớ cho anh em mình. Ai muốn thành người cầm đầu thì hãy tự làm nô lệ cho mọi người.
Quy luật này Ngài đã thực hành một cách trọn vẹn và gương mẫu trong chính cuộc sống của Ngài. Tất cả cuộc đời của Chúa Giêsu cho thấy: Cứu thế là phục vụ. Mà đã phục vụ thì làm sao tránh khỏi cảnh “uống chén đắng” và “chịu thanh tẩy”. Hy sinh, chấp nhận những thiệt thòi cho bản thân là điều không thể thiếu được của ơn cứu độ. Và chúng luôn có giá trị siêu nhiên to lớn. Bắt đầu các môn đệ còn ngây thơ chưa hiểu thế nào là cứu độ và cứu độ đòi hỏi phải trả giá nào. Nhưng qua cuộc sống của Ngài, Chúa Giêsu đã từng bước chỉ cho các ông thấy con đường chính Ngài sẽ phải đi và rồi chính các ông cũng phải bước theo. Dần dần các ông không còn quan tâm đến chỗi ngồi bên tả và bên hữu nữa, nhưng đã bước theo Chúa lên tận đỉnh cao thập giá để cùng uống chén đắng và cùng chịu thanh tẩy.
Lời Chúa nói với các con ông Giêbêđê xưa nay đã được thực hiện. Cuộc khám phá và hành trình của các môn đệ ngày xưa phải chăng cũng vẫn còn là điều mà chúng ta hôm nay phải thực hiện cho chính bản thân mình. Thực vậy, bằng phục vụ Chúa Giêsu đã cứu độ nhân loại, còn chúng ta, chúng ta đã đi con đường nào để lãnh nhận ơn cứu độ cho bản thân và cho những người chung quanh?
10. Làm lớn
Qua đoạn Tin Mừng nay, chúng ta thấy rõ được cái tham vọng của Giacôbê và Gioan, đó là cái tham vọng xôi thịt, muốn được chia chác chức vụ nọ chức vụ kia, một khi Chúa Giêsu thành công trong việc giải phóng dân Israel khỏi sự kìm kẹp của đế quốc Lamã, dẫn đưa quê hương này tới một thời đại hoàng kim. Cái nhìn của các ông là một cái nhìn trần tục và ước mơ của các ông là ước mơ được làm lớn trong địa hạt chính trị. Nhân cơ hội này Chúa muốn dạy cho các tông đồ và tất cả những ai muốn làm chính trị một bài học. Người bảo: Trong các nước, những người làm lớn thường sai khiến dân chúng như ông chủ, họ lấy uy quyền mà trị dân. Còn các con, không được như thế, ai trong các con muốn làm lớn thì hãy tự làm đầy tớ anh em và ai muốn cầm đầu giữa các con, thì hãy trở nên tôi tớ cho mọi người. Vì chính Con Người đến không phải để được phục vụ nhưng đến để phục vụ và ban mạng sống làm gái cứu chuộc cho nhiều người.
Quan niệm của Chúa Giêsu thật gần với quan niệm của Nho giáo và hai quan niệm này thì lại khác xa tâm địa của nhiều người, coi làm chính trị là một kế sinh nhai, ăn trên ngồi trốc. Đúng thế, theo quan niệm của Nho giáo thì người cầm quyền chính trị là vua. Vua là người thay Trời để cai trị dân, nên được gọi là thiên tử, hay con của trời. Thế nhưng ông vua phải hành quyền như thế nào? Chữ Vương theo Hán tự, có ba nét ngang và một nét dọc. Ba nét ngang là chữ Tam, hay quẻ Càn, tượng trưng cho tam tài hay ba đạo, đó là thiên đạo, địa đạo và nhân đạo. Sổ dọc đứng giữa ngụ ý rằng vua là người thụ mệnh trời, đứng ra dung hoà ba đạo: trời đất và người, thành một mối duy nhất. Vì thế Khổng Tử đã nói: Nhất quán tam vi vương là thế.
Còn những người ra giúp vua trị an thiên hạ thì được coi như là con của nhà vua, vì vậy được gọi là quân tử. Người quân tử phải lấy sự học đạo của thánh hiền, tức là lấy sự tu thân làm căn bản. Muốn tu thân cho thành người đức hạnh, trước hết phải giữ tâm mình cho chính. Tâm đã chính rồi thì tự nhiên cái minh đức, hay là lương năng của mình sẽ thành ra mẫn nhuệ, lúc bấy giờ việc làm, cách xử sự sẽ điều hoà, hợp với đạo lý, thuận với thiên lý, tức là theo đúng lẽ trung dung vậy.
Trung dung được thì chính. Chữ chính cũng là chữ vương biến thể. Một bên ngang một bên dọc. Kẻ làm vua quan mà chính thì thiên hạ sẽ được thái bình trị. Cho nên mới gọi là chính trị. Vậy người làm chính trị phải ở cho chính. Nếu họ mà không chính, thì bên dưới sẽ loạn: Thượng bất chính hạ tất loạn. Bởi đó người xưa cũng đã bảo: Dục tri kỳ quốc, tiên tề kỳ gia. Dục tề kỳ gia, tiên tu kỳ thân. Có nghĩa là muốn trị quốc thì phải tề gia. Muốn tề gia thì phải tu thân. Hay nói một cách vắn gọn hơn, đó là: Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Có nghĩa là phải tu thân, tề gia trước đã, rồi sau đó mới trị quốc và bình thiên hạ.
11. Phục vụ vì lợi ích của tha nhân
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Theo Chúa lâu năm, nhưng các Tông đồ vẫn đang còn nuôi mộng làm lớn. Tin mừng hôm nay cho biết, hai ông Giacôbê và Gioan con ông Giêbêđê đến gần Chúa Giêsu và thưa Người rằng: "Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang”(Mc 10,37). Mười môn đệ kia, mặc dầu không công khai nói lên điều đó, nhưng khi nghe hai ông lên tiếng, họ đã tỏ thái độ“bực tức”. Chứng tỏ họ cũng không hơn gì hai ông, thích tranh dành quyền lực.
Chúa Giêsu giải thích về sứ mạng của Ngài và mời gọi các ông thông phần: "Chén Thầy uống, các con cũng sẽ uống, và phép rửa Thầy sắp chịu, các con cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì không thuộc quyền Thầy ban, nhưng là dành cho những ai đã được chỉ định"(Mc 10,39-40). Nhân dịp này, Chúa cũng dạy cho các ông bài học về việc phục vụ: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người”(Mc 10, 43-44). Qua lời Chúa dạy hôm nay, chúng ta tìm hiểu về tinh thần phục vụ nơi Chúa Giêsu và tinh thần phục vụ của con người qua mọi thời đại.
1. Tinh thần phục vụ nơi Chúa Giêsu
Trong Kinh tin kính chúng ta đọc rằng: “Vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế”. Thật vậy, cả cuộc đời của Chúa Giêsu từ khi sinh ra cho đến lúc chịu chết trên thập giá, là một chuỗi thời gian phục vụ: Sinh ra trong hang đá nghèo nàn. Lớn lên trong gia đình Nazareth đơn sơ. Trong ba mươi năm sống ẩn dật, Ngài làm nghề thợ mộc kiếm sống. Ngài làm nhiều việc như những người khác (ngoại trừ tội lỗi) để giúp đỡ Thánh Giuse và Mẹ Maria. Đặc biệt, Ngài hằng vâng phục hai ông bà. Trong ba năm hoạt động công khai, tinh thần phục vụ của Ngài được thể hiện một cách rõ nét hơn.
Tinh thần phục vụ của Ngài được thể hiện qua việc chọn lựa và huấn luyện các tông đồ. Từ những người quê mùa, dốt nát, ham danh tranh lợi, Chúa đã kiên nhẫn huấn luyện họ trở thành những tông đồ chân chính.
Tinh thần phục vụ của Ngài được thể hiện qua việc kiên trì giảng dạy. Mặc dầu “Lời giảng của Ngài có uy quyền” làm cho nhiều người thán phục, nhưng cũng không ít người phản đối, lên án, thậm chí bỏ Ngài mà đi. Dầu vậy, Ngài vẫn tiếp tục giảng dạy, khuyên nhủ trong tinh thần kiên trì, nhẫn nại và yêu thương.
Tinh thần phục vụ của Ngài được thể hiện qua những phép lạ Ngài làm. Cho kẻ què được đi. Kẻ câm nói được. Kẻ điếc nghe được. Kẻ mù được thấy. Kẻ chết sống lại. Ngài chữa bệnh cho những người bị bệnh phong cùi, người đàn bà bị bệnh loạn huyết mười hai năm. Ngài cho ông Lazarô đã chết bốn ngày được sống lại… Ngài cảm thông những nỗi yếu hèn của loài người vì chính bản thân Ngài cũng từng trải qua đau khổ(x. Bài đọc II).
Tinh thần phục vụ của Ngài được thể hiện qua sự lưu tâm đến những người tội lỗi: Những người thu thuế và các cô gái điếm. Ngài cho họ cơ hội cải tà quy chính, trở thành người tốt.
Tinh thần phục vụ của Ngài được thể hiện qua việc quan tâm đến những người không có chỗ đứng trong xã hội thời bấy giờ, đó là các trẻ em và các phụ nữ. Ngài nói với các tông đồ: "Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Trời là của những ai giống như chúng”(Mt 19,14).
Tinh thần phục vụ của Ngài được thể hiện một cách cụ thể nhất khi Ngài cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Đỉnh cao của việc phục vụ là Ngài tự nguyện bước vào cuộc khổ nạn, hy sinh tính mạng của mình vì người mình phục vụ như lời Ngài nói: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”(Mc 10,45). Ngài chính là Người Tôi Tớ Giavê bị nghiền nát vì đau khổ để hiến thân làm lễ vật đền tội và làm cho muôn người nên công chính (x. Bài đọc I).
2. Tinh thần phục vụ nơi con người qua mọi thời đại.
Nhà tu đức Jean Vanier, người sáng lập dòng Arche, phân biệt hai loại quyền bính: Một loại quyền bính từ trên áp xuống. Người nắm loại quyền bính này tự coi mình là kẻ ở trên và những kẻ thuộc quyền mình là những người ở dưới. Người này bắt những kẻ dưới phải làm theo ý mình, nếu không theo thì phạt. Loại quyền bính này được dùng để cai trị, hay nói chính xác hơn là thống trị. Loại quyền bính thứ hai không từ trên áp xuống mà đứng bên cạnh để giúp đỡ. Người nắm quyền bính này không coi mình là ở trên cũng không coi kẻ thuộc quyền mình là ở dưới. Người này không nhắm cho ý mình được người ta thực hiện, nhưng nhắm đến ích lợi chung và ích lợi của kẻ mình muốn giúp đỡ. Loại quyền bính này được dùng để phục vụ(x. SCĐ CHÚA NHẬT XXIX TN.B).
Thật vậy, nhìn vào Giáo hội và xã hội hôm nay, chúng ta vẫn thấy tồn tại hai thứ quyền bính trên.
May mắn cho Giáo hội và xã hội vì có rất nhiều những con người phục vụ vô vị lợi theo gương Chúa Giêsu. Đó là tinh thần phục vụ của các tông đồ sau ngày lễ Ngũ Tuần. Đó là tinh thần phục vụ của Giáo hội qua mọi thời đại. Đó là tinh thần phục vụ của Mẹ Têrêxa Cacutta. Tinh thần phục vụ của Đức Thánh Cha Phanxicô. Tinh thần phục vụ của những người cha người mẹ trong gia đình tận tuỵ hy sinh vì con cái. Tinh thần phục vụ của những người thầy cô giáo vì các học sinh thân yêu. Tinh thần phục vụ của các bác sĩ, y sĩ vì các bệnh nhân. Tinh thần phục vụ vì người nghèo, vì những người thấp cổ bé miệng. Họ phục vụ vì lợi ích chung và vì lợi ích người mình phục vụ.
Nhưng vẫn còn đó rất nhiều người trong đạo ngoài đời dùng quyền để “Sai khiến dân chúng như ông chủ, họ lấy uy quyền mà trị dân”(x. Mc 10,42). Họ phục vụ vì mình, vì tiền, vì lợi ích phe nhóm: Thích đến với người giàu, người có chức quyền, ngại gặp người nghèo, người thấp cổ bé miệng. Vì vậy, đối tượng ưu tiên để họ phục vụ là người giàu, người có chức quyền. Người có quyền, có tiền sẽ được phục vụ chu đáo. Người nghèo luôn bị bỏ rơi. Cho nên, vẫn còn đó những bệnh nhân không được phục vụ chu đáo và thậm chí còn bị chết oan trong bệnh viện vì không có tiền “Phong bì”. Có những người dân bị đánh đập dã man và chết oan tại các cơ quan công quyền. Có rất nhiều người nghèo đói, ốm đau bệnh tật không được ai quan tâm. Có thể họ là thành viên trong các cộng đoàn giáo xứ, thậm chí họ ở ngay trong gia đình của chúng ta.
Là người kitô hữu, chúng ta được mời gọi phục vụ kẻ khác theo địa vị và khả năng của mình. Là linh mục, tu sĩ, ban hành giáo, giáo lý viên, thành viên các hội đoàn, cha mẹ, vợ chồng, con cái… Chúng ta đang phục vụ với thái độ nào? Thống trị hay giúp đỡ? Phục vụ vì mình hay vì lợi ích của tha nhân?
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con có tinh thần phục vụ của Chúa, phục vụ vì lợi ích chung và vì lợi ích của người mình phục vụ. Amen.
12. Hầu hạ+hiến mạng sống–ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’-Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Ở Việt Nam thời đệ nhị Cộng Hòa, 11 liên danh tranh cử làm Tổng thống, 480 người tranh nhau 60 ghế Thượng Viện và 1650 ông bà tranh giành những chiếc ghế Hạ Viện.
Thời nào và ở đâu đâu cũng có những người tranh nhau làm lớn để “lấy quyền hành áp chế dân, bắt dân phục vụ mình”. Đó là lý do người đời tranh nhau địa vị. Nhưng khi họ gặp nguy khốn, họ bỏ chạy trốn trước nhất. Họ thật là hèn nhát!
Còn những chức vụ cần phải hy sinh gian khổ, như bầu Ban Hành Giáo các xứ đạo, các đoàn thể từ thiện, đạo đức thì chẳng thấy ai tranh cử. Ai được bầu thì tìm hết cách từ chối.
Từ hai ngàn năm trước, Đức Giêsu cho ta thấy: Những thủ lãnh các nước lấy quyền sai khiến dân như ông chủ. Ông chủ thời xưa là người đầy quyền lực muốn bắt đầy tớ làm gì, đầy tớ phải làm theo, dù cực nhọc, khốn khổ đến đâu cũng không được từ chối. Nhiều nơi, đầy tớ như nô lệ, chủ cho sống thì sống, muốn giết thì giết. Thật kinh khủng! Đặc quyền đặc lợi như thế, ai chẳng ham. Đang tuổi đầy tham vọng và lợi dụng là anh em chú bác với Đức Giêsu, hai anh em thanh niên Giacôbê và Gioan tưởng Thầy mình lên thủ đô Giêrusalem với quyền phép lạ lùng thế này, chắc sẽ lên ngai vua dễ dàng, nên hai anh đã đến xin cho mình được ngồi hai bên tả hữu của Thầy trong vinh quang nước Thầy. Đức Giêsu đã tức khắc sửa sai thói tham danh tham lợi trần tục đó và bảo: “Các anh không biết điều các anh xin! Các anh có uống nổi chén đắng Thầy sắp uống hay có chịu nổi phép rửa Thầy sắp chịu không?”.
Các anh thưa được. Các anh thưa đại đi, chứ các anh đâu có biết chén đắng đó là gì, phép rửa đó là gì. Mãi đến khi Người bị bắt, bị đánh đòn, bị vác thập giá, bị đóng đinh, bị đâm thấu tim, máu cùng nước chảy ra, lúc đó, các anh mới hiểu chén đắng là hy sinh chịu xỉ nhục chua xót, chịu đau khổ cay đắng. Chịu phép rửa là đổ máu và nước trong trái tim ra để yêu thương hiến mạng sống làm giá cứu độ muôn người. Thấy thế, các anh trốn mất, chẳng còn thấy các anh đâu nữa.
Thật đắng cay, chua xót đến chừng nào! Nhưng Đức Giêsu đã hết sức bình tĩnh chỉ dẫn thêm cho mấy anh: “Ai muốn làm lớn, phải làm kẻ hầu hạ, ai muốn làm đầu, phải làm đầy tớ mọi người, vì Con Người đến không để được người ta hầu hạ, nhưng để hầu hạ và hiến mạng sống làm giá cứu chuộc muôn người”. Con Người đây chính là Đức Giêsu. Lời đó chính là Hiến Chương Nước Trời, là Hiến Pháp của Đức Kitô tuyên bố cho Giáo Hội, cho các cộng đồng Kitô giáo, cho các môn đệ: Mỗi người đều phải là đầy tớ mọi người. Không phải bô bô ngoài môi, ngoài miệng mình là đầy tớ, nhưng là sống đầy tớ, phục vụ mọi người thực sự mới phản chiếu rõ nét hình ảnh của Đức Giêsu. Trong Giáo Hội cần nhấn mạnh đến nguyên lý đó, để từ bỏ những đầu óc vụ lợi, vụ những danh hiệu, chức vị, danh dự, huy chương, phong thần, phong tước.
Chỉ có một nguyên tắc độc nhất là tôi tớ khiêm tốn hèn mọn. Những chức vụ có vai trò đặc biệt chỉ nên gọi là thừa tác, trợ tá, theo đúng nghĩa chữ La tinh minister là tôi tớ, chứ không phải bộ trưởng, thủ trưởng theo lối dịch tôn ty phong thần của người đời, không phải của đạo Đức Kitô.
Trong Giáo Hội Đức Kitô chỉ có kẻ thừa sai, thừa tác, trợ tá, tôi tá, nhân viên phục vụ hay mục tử, là đầy tớ chăm lo, săn sóc chiên như Đức Giêsu. Đức Kitô dầu là Con Thiên Chúa quyền phép vô cùng, Người không đến để ngự trị, nhưng để hầu hạ, không đóng vai trò ông chúa, ông chủ, ông Seigneur, nhưng phục vụ như nô bộc, như nội trợ, như người mẹ đích thực, làm tất cả, phục vụ tất cả, hầu hạ tất cả vì yêu thương con cái. Hầu hạ con từ trong trứng nước tới khi sinh ra, cho đến khôn lớn: Hầu hạ từ những việc đê tiện nhất như hót phân, lót tã, lau nhà, giặt giũ mọi đồ dơ, tắm rửa, nấu nướng, nuôi dưỡng, bú mớm đến những việc cao quý nhất như dạy dỗ con cái thành nhân, thành thánh, thành con Chúa. Người yêu thương hy sinh không còn nghĩ đến mình, sẵn sàng chịu mọi thiệt thòi, vất vả, đau khổ đến hiến cả mạng sống vì hầu hạ con. Hầu hạ như thế còn cao chót vót hơn cả thái sơn, mạnh mẽ tuôn trào hơn cả nước nguồn chảy ra. Đó là tình yêu hy sinh tuyệt hảo xứng đáng là hình ảnh Đức Giêsu.
Hình ảnh của Người đã được thể hiện qua các vị thánh nhân như: Maximiên Kolbê xin xung phong chết thay cho một gia trưởng còn một đàn con dại; như cha Trương bửu Diệp xin chịu bắn thay cho cả đoàn người ẩn náu trong nhà thờ; như thánh Martinô Porres xin bán mình đi làm nô lệ để nhà dòng lấy tiền trả nợ …
Hầu hạ và hiến dâng mạng sống, không phải là thứ phục vụ vì trách nhiệm hay bổn phận bó buộc hay tệ hơn nữa, hầu hạ vì sợ sệt như nô lệ. Cũng chưa phải là hầu hạ và hiến dâng mạng sống khi người ta phục vụ vì thích hy sinh, thích dấn thân, hay hy sinh cầm chừng hoặc hiến dâng có tính toán.
Chỉ khi nào hầu hạ vì yêu thương sẵn sàng hy sinh hiến dâng mạng sống mình cứu giúp người mới đích thực nên giống Đức Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, Người đã uống chén đắng, đã chịu phép rửa trên Thánh giá, trở nên người tôi tớ phải tan nát vì đau khổ để thông cảm với mọi nỗi yếu hèn của chúng con, để hiến thân làm lễ vật đền tội chúng con, cho chúng con được ơn cứu sống. Xin cho chúng con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người.
13. Phục vụ
Nhìn vào cuộc đời của Chúa Giêsu, chúng ta nhận thấy nổi bật lên tinh thần phục vụ.
Thực vậy, vì yêu thương nhân loại, Ngài đã xuống thế làm người và ở giữa chúng ta. Suốt quãng đời công khai, Ngài đã làm biết bao nhiêu phép lạ, cho kẻ què được đi, kẻ mù được sáng, kẻ phong cùi được lành sạch, hầu xoa dịu phần nào những đớn đau và bất hạnh. Chúng ta có thể nói về Ngài như sau: Đi tới đâu, Ngài liền thi ân giáng phúc tới đó.
Và sau cùng để cứu độ chúng ta, Ngài đã phải chịu chết trên thập giá, như lời Ngài đã xác quyết: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu. Chính Ngài cũng đã đúc kết về cuộc đời của mình: Con người đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.
Đồng thời, Ngài cũng muốn chúng ta noi gương bắt chước Ngài đi vào con đường dấn thân để phục vụ. Trong bữa tiệc ly vào buổi tối ngày thứ năm Tuần thánh, Ngài đã quì xuống rửa chân cho các môn đệ và nói: Các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm. Nhưng nếu ta là Thầy và là Chúa mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau.
Vậy chúng ta cần phải phục vụ và giúp đỡ người khác như thế nào?
Bác sĩ Tom Dolly, người đã từng hy sinh cả cuộc đời của mình giữa chốn rừng thiêng nước độc ở bên Lào, để giúp đỡ cho những người thiếu may mắn vào khoảng đầu thế kỷ này, đã nói như sau: Không ai quá nghèo đến độ không có một cái gì đó để trao tặng cho người khác.
Cũng vậy, dầu bất tài, xấu xí hay bệnh tật đến đâu chăng nữa, thì chẳng ai là một kẻ vô dụng cho người khác và cho xã hội. Như thế có nghĩa là ở mọi nơi và trong mọi lúc, chúng ta đều có thể thực hiện được những hành động bác ái yêu thương, phục vụ và giúp đỡ người khác.
Đúng thế, một người ăn xin ư? Họ có thể cho chúng ta một dịp để sống quảng đại và chia sẻ. Một kẻ tàn tật và đau ốm ư? Họ có thể mời gọi chúng ta sống cảm thông và nâng đỡ, đồng thời còn đặt ra cho chúng ta những câu hỏi về ý nghĩa của cuộc đời, của đau khổ và của sự chết. Một kẻ thù của chúng ta ư? Họ có thể đem lại cho chúng ta một cơ may để sống kiên nhẫn, chịu đựng và tha thứ.
Phải, bất kỳ ai cũng có thể ban tặng cho chúng ta một cái gì đó. Vấn đề là chúng ta có biết mở rộng cõi lòng để đón nhận hay không? Đồng thời chúng ta cũng phải tự vấn lương tâm xem chúng ta đã làm được những gì để phục vụ và giúp đỡ những người chung quanh? Chẳng hạn như một nụ cười, một ánh mắt, một sự lắng nghe, một lời nói cảm thông, an ủi và khích lệ.
Mỗi lời nói, mỗi cử chỉ, mỗi việc làm của tình bác ái yêu thương sẽ là như một quà tặng mà từng giây từng phút, chúng ta có thể và phải đem đến cho người khác.
Giữa đám đông dân chúng đang dâng cúng tiền bạc tại đền thờ, đôi mắt Chúa Giêsu đã dừng lại nơi một bà goá nghèo hèn. Bà chỉ bỏ vào hòm tiền có một đồng xu, thế nhưng Ngài đã nhìn thấy giá trị to lớn của hành vi và đồng xu nhỏ bé ấy. Bởi vì dưới cái nhìn của Chúa, mọi sự dù nhỏ bé đến đâu chăng nữa cũng vẫn có giá trị của nó.
14. Phục vụ làm nên quyền bính
(Suy niệm của Lm Giuse Maria Lê Quốc Thăng)
Tin mừng Mc 10: 35-45: Tin mừng hôm nay cho thấy các môn đệ, và có lẽ là tuyệt đại đa số nhân loại luôn mơ ước và nhào nắn một mẫu người lãnh đạo lý tưởng là người có quyền thống trị, chi phối người khác và được người khác phục vụ...
Trong một cộng đoàn, đăc biệt là Giáo hội luôn cần một cơ chế, một thể chế lãnh đạo. Vì thế, vai trò của người lãnh đạo rất cần thiết, tuy nhiên, lãnh đạo theo tinh thần của Chúa Giêsu không phải theo cách hiểu và sự hành xử quyền bính của thế gian. Lãnh đạo trong Giáo hội là một thừa tác vụ, một chức vụ để phục vụ làm phát triển con người và cộng đồng.
I. Khám Phá Sứ Điệp Tin Mừng: Mc 10,35-45
Ngay sau lời loan báo về cuộc Thương khó, xem ra các môn đệ chưa hiểu và chưa lãnh hội được mạc khải của Chúa Giêsu, các ông đã vội vàng cầu xin một địa vị, một chỗ tốt trong vinh quang Nước Chúa. Nhân đấy, Chúa Giêsu dạy một bài học về tinh thần phục vụ của người lãnh đạo.
1. Lời thỉnh cầu của anh em Giacôbê: Sau lời Chúa Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn, Thánh Máccô tường thuật tiếp câu chuyện hai anh em Giacôbê và Gioan đến xin được ngồi bên hữu và bên tả Chúa trong vinh quang. Rõ ràng lời thỉnh cầu của hai ông thật phi lý và ngây ngô trong bối cảnh này. Chúa Giêsu đã trách cứ các ông: không biết điều các ông xin. Điều các ông xin là quá lớn, không thuộc quyền Chúa Giêsu ban mà thuộc quyền Chúa Cha. Điều các ông xin quả là vô tâm và vô ích, trong khi Thầy đang nói đến cuộc khổ nạn, các ông chưa hiểu, chưa cảm thông, chưa can đảm theo Thầy mà đã vội đòi hỏi vinh quang, đòi chỗ tốt.
2. Lời mời gọi của Chúa Giêsu: Trước yêu cầu của hai anh em Giacôbê, Chúa Giêsu mời gọi họ uống chén Người sắp uống và chịu cùng phép Rửa Người sắp chịu. Hai hình ảnh Chúa Giêsu dùng "chén và phép Rửa" có nghĩa là chấp nhận đau khổ, chấp nhận tử đạo. Do đó, vinh quang chỉ có thể có, nếu biết can đảm đi vào con đường thập giá với Thầy mình.
3. Con Người đến để phục vụ, chứ không phải để được người ta phục vụ: Lời thỉnh cầu của hai anh em Giacôbê đã tạo nên sự khó chịu nơi các môn đệ khác và cũng lộ ra tính ham địa vị, sự tranh dành địa vị giữa các ông. Chính các ông khi đi đường cũng đã từng tranh luận xem ai là người lớn nhất trong số họ. Với giáo huấn của Chúa Giêsu, mọi chức tước, quyền bính, địa vị đều nhằm mục đích duy nhất là phục vụ. Các thủ lãnh trong cộng đoàn Giáo hội của Chúa phải hiểu chức vụ của mình là một sự phục vụ. Làm lớn là làm đầy tớ của anh chị em, của mọi người. Như Chúa Giêsu, Người đến để phục vụ và thí mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người chứ không phải để thống trị, để bắt người khác phục vụ mình.
II. Chiêm Ngắm Chúa Giêsu:
Tin mừng hôm nay cho thấy các môn đệ, và có lẽ là tuyệt đại đa số nhân loại luôn mơ ước và nhào nắn một mẫu người lãnh đạo lý tưởng là người có quyền thống trị, chi phối người khác và được người khác phục vụ. Nhưng Chúa Giêsu lại phác họa và đòi hỏi các môn đệ của mình một khuôn mẫu ngược lại. Người lãnh đạo phải là người tôi tớ, người phục vụ. Chính Chúa Giêsu khi nói lên điều ấy, Người đã đi trước, đã thực hiện trọn vẹn điều Người giảng dạy. Người đã hiến mạng, đã phục vụ sự sống nhân loại. Chúa Giêsu là con người phục vụ.
III. Gợi ý bài giảng:
1. Quyền bính trong Giáo hội đến từ sự phục vụ:
Các môn đệ xin Chúa được ngồi bên hữu và tả Người trong vinh quang, nghĩa là xin có một địa vị cao trọng, quyền thế trong Nước Chúa, trong cộng đoàn. Các ông cũng đã từng tranh luận với nhau xem ai là người lớn nhất trong số họ. Sự kiện này phản ánh não trạng tham chức, ham quyền, hám lợi danh của con người. Chỉ muốn mình được ở trên người khác, được người khác cung phụng, phục vụ. Lời dạy của Chúa Giêsu chỉ ra cách thế để có địa vị, để được làm lớn, làm lãnh đạo đó là hạ mình xuống làm đầy tớ phục vụ mọi người. Một lời dạy, một cách thế nghịch lý, nếu không muốn nói là phi lý. Đối với Chúa, điều làm nên môn đệ của Người không phải là quyền bính, chức tước mà là sự phục vụ. Quyền bính chỉ có thể đến với những ai biết phục vụ và chân thành phục vụ anh chị em mình. Ai càng biết hạ mình phục vụ, càng có uy thế trước cộng đoàn, trước Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu đã đi trước thực hiện trọn hảo điều Người dạy. Người đến để phục vụ và hiến mạng sống làm giá cứu chuộc nhân loại. Môn đệ Đức Kitô cũng phải đi vào con đường khiêm hạ phục vụ của Thầy mình. Ngày nay, là Kitô hữu, môn đệ Chúa Giêsu, chúng ta đã và đang hạ mình phục vụ như thế nào? Hay đang là những người mơ ước và tìm mọi cách ngay cả cách bất chính, bất công để tìm kiếm danh vọng địa vị trần thế.
2. Để trở nên đầy tớ mọi người:
Chức quyền danh vọng, địa vị, tự thân nó không xấu. Trong một cộng đoàn, một xã hội luôn cần có người đứng đầu để điều hành, lèo lái thì cộng đoàn ấy, xã hội ấy mới có thể vận hành tốt và tiến tới. Việc làm hết sức mình vì lợi ích chung, vì mọi người của người lãnh đạo là thái độ phục vụ chân thành. Ngày nay, người ta cũng đã nhận thức được lãnh đạo là phục vụ: nào là "đầy tớ của nhân dân"; quan chức là "nô bộc của dân"… Nhưng để sống tinh thần hạ mình làm đầy tớ phục vụ mọi người theo tinh thần của Chúa Giêsu không phải là chuyện dễ dàng. Theo tinh thần của Lời Chúa dạy, sự phục vụ có nghĩa là làm cho cộng đoàn được chăm sóc, mọi người được chăm lo, được lớn lên. Do đó, Kitô hữu trở nên người đầy tớ phục vụ anh chị em mình là làm cho họ được yêu thương, được quan tâm, được khơi dậy những tiềm năng phát triển đời sống toàn diện. Ngai vàng, quyền bính mà Chúa Giêsu hứa và mời gọi mọi người là hãy yêu mến như Người, hãy thí mạng sống vì tha nhân như Người. q
IV. Lời cầu chung:
Mở đầu: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu đến trần gian để phục vụ và hiến mạng sống làm giá cứu chuộc nhân loại chúng ta. Trong tâm tình tri ân, chúng ta cùng dâng lời nguyện xin.
1. Mọi quyền bính, phẩm trật trong Giáo hội đều là các thừa tác viên của Chúa, nghĩa là nhằm để phục vụ Giáo hội, con người và thế giới. Chúng ta cùng cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng, các Đức Giám mục và Linh mục luôn thấm nhuần và sống đúng tinh thần hạ mình làm đầy tớ phục vụ mọi người như Chúa Giêsu đã sống và dạy dỗ.
2. Ai muốn làm lớn thì hãy tự làm đầy tớ anh chị em. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo các quốc gia được tràn đầy ơn thánh, luôn ý thức trách nhiệm phục vụ của mình để hết lòng tận tụy phục vụ, làm cho dân nước ngày càng phát triển, được thịnh vượng, tự do và hạnh phúc.
3. Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn biết yêu thương phục vụ lẫn nhau trong gia đình, trong cộng đoàn giáo xứ bằng sự hy sinh và sự giúp đỡ nhau chân thành.
Lời kết: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến để phục vụ nhân loại chúng con bằng việc hy sinh chết trên thập giá để cho chúng con được sống và sống dồi dào. Xin cho mỗi người chúng con đây luôn biết mang lấy tinh thần phục vụ của Chúa để sống và đối xử chân thành với nhau trong cuộc sống hằng ngày. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
15. Chúa Nhật 29 TN – Chúa Nhật Truyền Giáo
(Suy niệm chú giải Lời Chúa CN 29 TN B. Chúa Nhật truyền giáo - Lm. Inhaxio Hồ Thông)
Mỗi người Ki-tô hữu phải là nhà truyền giáo, vì đó là bản chất của Giáo Hội. Khi nói về công việc truyền giáo, chúng ta thường nghĩ ngay đến việc loan báo Tin Mừng. Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay xác định cho chúng ta nội dung của việc loan báo Tin Mừng được cô động ở nơi lời phát biểu của Đức Giê-su: “Con Người không đến để được kẻ hầu người hạ, nhưng là để hầu hạ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người”.
Nếu công việc truyền giáo được định nghĩa theo truyền thống Đông Phương “kể cho nhau nghe cuộc đời của Đức Ki-tô”, thì mỗi người Ki tô hữu phải kể về cuộc đời của Đức Giê-su cho anh chị em mình không chỉ bằng lời nói mà bằng chính cuộc sống của mình, nghĩa là, tự đặt mình vào trong tình liên đới với những anh chị em chung quanh mình, biến cuộc đời mình thành cuộc đời phục vụ và những đau khổ của mình thành giá cứu chuộc muôn người. Đó là lời loan báo Tin Mừng cụ thể nhất, sống động nhất và hữu hiệu nhất.
Trong tuyến phát triển của Tin Mừng Mác-cô, chúng ta theo Đức Giê-su trên đường lên Giê-ru-sa-lem, ở đó cái chết đang chờ đợi Ngài. Viễn cảnh Thương Khó ở trung tâm của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay; hai trong số ba bài đọc: Bài Đọc I và Bài Đọc II, được mượn từ Phụng Vụ Lời Chúa Thứ Sáu Tuần Thánh.
Is 53: 10-11
Trong Bài Đọc I trích từ bài ca Người Tôi Trung chịu đau khổ, những khốn khổ và cái chết của Người Tôi Trung đã được Thiên Chúa chấp thuận như hiến lễ xóa tội, nhờ đó muôn người nên công chính.
Dt 4: 14-16
Trong Bài Đọc II trích từ thư gởi tín hữu Do thái, tác giả minh chứng Đức Giê-su là vị Thượng Tế đầy lòng cảm thương, Ngài đã tự đặt mình liên đới với nhân loại, cho đến mức chịu đau khổ và chịu chết để đưa con người đến bên lờng Chúa xót thương.
Mc 10: 35-45
Trong Tin Mừng, Đức Giê-su trả lời cho những tham vọng của hai anh em nhà Dê-bê-đê và cho tất các môn đệ của Ngài nữa, bằng cách phác họa chân dung người tôi tớ lý tưởng, biến cuộc đời mình thành đời phục vụ và những đau khổ của mình thành giá chuộc cho muôn người.
BÀI ĐỌC I (Is 53: 10-11)
Đoạn văn này được trích từ bài ca thứ tư về Người Tôi Trung đau khổ trong tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (ch. 40-55). Bài ca nầy mô tả số phận Người Tôi Trung mầu nhiệm của Đức Chúa: chịu đau khổ và bị giết chết, đoạn được tôn vinh, số phận tương tự với số phận của Đức Giê-su. Thân phận Người Tôi Trung này loan báo thân phận của Chúa Giê-su.
1. Hy lễ của cuộc đời đau khổ (Is 53: 10)
Người thuật chuyện, chắc chắn chính là vị ngôn sứ, hoàn tất những suy niệm của mình về số phận đau thương của Người Tôi Trung qua lời nguyện mà ông ngỏ lời với Đức Chúa:
“Đức Chúa đã muốn người phải bị nghiền nát vì đau khổ.
Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội,
người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn,
và nhờ người, ý muốn của Đức Chúa sẽ thành tựu” (Is 53: 10).
“Kẻ nối dõi” chắc chắn có cùng một ý nghĩa như trong nhiều đoạn văn Cựu Ước, tức là hậu duệ của tổ phụ Áp-ra-ham, chính xác hơn, đông đảo những người tín hữu được hưởng nhờ việc Người Tôi Trung hiến thân mình làm của lễ đền tội. Người “sẽ được trường tồn” (cũng như: “Người sẽ nhìn thấy ánh sáng”) có thể ám chỉ đến “sự sống lại”.
2. Câu trả lời của Đức Chúa (Is 53: 11):
Lúc đó, Đức Chúa trả lời cho vị ngôn sứ bằng cách hứa ban một số phận vinh quang cho Người Tôi Trung của Ngài, vì những đau khổ mà ông đã phải hứng chịu, và nhờ ông gánh lấy tội lỗi của muôn dân mà họ được nên công chính và thánh thiện. Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su sẽ tự đồng hóa mình với “người tôi tớ”, “Ngài đến để phục vụ” và Ngài sẽ lập lại bằng những từ ngữ tương tự: “hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người”.
BÀI ĐỌC II (Dt 4: 14-16)
Bài Đọc II tiếp tục trích thư gởi tín hữu Do thái. Trong đoạn trích trước, tác giả nhân cách hóa Lời Chúa: Lời Chúa thấu suốt lòng trí của chúng ta, xét xử tận cõi thâm sâu qua tiếng lương tâm mỗi người. Trong đoạn trích hôm nay, tác giả đem đến một viễn cảnh trấn an: Đức Ki-tô là Đấng chuyển cầu lý tưởng của chúng ta, vì Ngài “thông cảm được những nỗi yếu hèn của chúng ta; vì Ngài đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như chúng ta, nhưng không phạm tội”. Ngài là vị Thượng Tế tuyệt vời; Ngài đã không đơn giản băng qua Đền Thờ Giê-ru-sa-lem để đi vào nơi Cực Thánh – như vị Thượng Tế Cựu Ước – nhưng đã băng qua các tầng trời để tiến đến ngai Thiên Chúa và dẫn đưa chúng ta theo Ngài đến tận nơi Thiên Chúa ngự. Vì thế, chính nhờ Ngài mà chúng ta nhận được muôn vàn ân sủng.
Lời chuyển cầu đầy quyền năng của Đức Ki-tô bắt nguồn từ những đau khổ mà Ngài đã chấp nhận hứng chịu khi mặc lấy thân phận con người. Bản văn âm vang Bài Đọc I và loan báo bài học mà Đức Giê-su sẽ đưa ra cho các môn đệ Ngài trong Tin Mừng hôm nay.
TIN MỪNG (Mc 10: 35-45)
Cuộc vận động của hai anh em nhà Dê-bê-đê, Gia-cô-bê và Gioan, được thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu thuật lại (thánh Mát-thêu quy cuộc vận động nầy cho bà mẹ của họ). Cả hai thánh ký đều đặt tình tiết nầy ngay liền sau lời loan báo thứ ba của Đức Giê-su về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Lời loan báo thứ ba nầy có nhiều chi tiết chính xác hơn hai lần loan báo trước; Đức Giê-su kể ra: Ngài sẽ phải chịu những lời nhạo báng, nhục mạ, đánh đòn và bị giết chết. Thánh ký đã không ghi nhận bất kỳ phản ứng nào của các môn đệ, ngoài việc họ im lặng, vì không hiểu và chắc chắn cũng sợ hãi nữa. Quả thật, trước khi thuật lại Chúa Giê-su loan báo lần thứ ba cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài, thánh Mác-cô viết: “Đức Giê-su và các môn đệ đang trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Người dẫn đầu các ông. Các ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi” (Mc 10: 32).
1. Phản ứng của các môn đệ:
Cứ mỗi lần Đức Giê-su loan báo cuộc Tử Nạn và Phục Sinh sắp đến của mình, các môn đệ của Ngài luôn luôn tìm cách xua đuổi khỏi tâm trí của mình những hình ảnh đau thương mà chỉ nghĩ đến quyền hành, chức tước, bổng lộc. Sau lời loan báo thứ nhất, ông Phê-rô tìm cách ngăn cản Ngài và Chúa Giê-su yêu cầu các bạn hữu Ngài hãy từ bỏ chính mình để theo Ngài (8: 31-9: 1). Sau lời loan báo thứ hai, họ bày tỏ một thái độ dững dưng vô cảm đối với những lời bi thảm của Thầy mà chỉ tranh nhau về những đặc quyền đặc lợi giữa họ; lúc đó, Chúa Giê-su đòi hỏi họ phải tự hạ mình “làm người phục vụ mọi người” (9: 30-37). Sau lời loan báo thứ ba nầy, sự tương phản cũng không kém dữ dội: hai trong số họ có tham vọng riêng của mình.
2. Hai anh em nhà Dê-bê-đê:
Hai ông Gia-cô-bê và Gioan là những người thợ được gọi vào giờ thứ nhất: hai ông đã là đối tượng được Đức Giê-su ưu ái một cách đặc biệt: Ngài cho hai ông cùng với ông Phê-rô chứng kiến cuộc phục sinh bé gái ông Gia-ia; Ngài cho hai ông cùng với thánh Phê-rô chiêm ngưỡng cuộc Biến Hình của Ngài trên núi cao; chỉ hai ông cùng thánh Phê-rô và thánh An-rê, hỏi riêng Ngài khi nào thì Đền Thờ Giê-ru-sa-lem bị tàn phá và những điềm báo nào về thời chung cuộc (Mc 13: 3); cuối cùng, chỉ hai anh em nầy cùng với thánh Phê-rô sẽ chứng kiến cơn xao xuyến tận mức của Chúa Giê-su trong vườn Ghết-sê-ma-ni.
Chắc chắn hai người con của ông Dê-bê-đê đã được hưởng mối thân tình gần gũi với Đức Giê-su hơn các môn đệ khác; họ mong muốn được tiếp tục tình thân nầy trong Nước Chúa và chiếm những chỗ ưu tiên bên cạnh Thầy mình. Quả thật, đầy tham vọng, họ sẵn sàng chịu đựng tất cả để đạt cho bằng được những chỗ ưu tiên nầy; nhưng dù thế nào, lòng yêu mến của họ và sự ngây thơ của họ khiến chúng ta cảm động. Giả như họ biết rằng hai chỗ mà họ cầu xin sẽ là hai chỗ của hai tên cướp bị đóng đinh bên cạnh Thầy mình, liệu họ có thỉnh cầu không?
3. Được chia sẻ cùng số phận với Ngài:
Đức Giê-su hứa với hai anh em ông Gia-cô-bê và ông Gioan, họ sẽ được dự phần vào vận mệnh đau khổ của Ngài: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu”. “Chén” để uống là hình ảnh Kinh Thánh được dùng để tượng trưng những đau khổ phải chịu (Tv 75: 9; Is 51: 17-22; vân vân). Diễn ngữ “uống cạn chén” đồng nghĩa với việc phải chịu thử thách cho đến tận cùng. Vào những giờ phút xao xuyến tận mức trong vườn Ghết-xê-ma-ni, chính Đức Giê-su sẽ nài xin Cha Ngài: “Xin cất chén nầy xa con” (14: 36).
Còn về phép rửa mà Ngài sắp chịu, đó là những giờ phút cam go, những giờ phút Ngài sắp phải bị dìm mình vào trong những cơn sóng đau khổ và cái chết bi thảm. Ngài sẽ chuẩn bị cho hai anh em những bách hại và phúc tử đạo; nhưng Ngài từ chối lời thỉnh nguyện của họ là được ngồi bên hữu bên tả của Ngài, bởi vì đó không thuộc thẩm quyền của Ngài; vai trò của Ngài thì khác: “Con Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con Người, mà được cứu độ” (Ga 3: 17). Các môn đệ chỉ có một cách hành xử phải theo: phó thác vào bàn tay của Chúa Cha.
4. Lý tưởng phục vụ:
Lời thỉnh cầu của hai anh em nhà Dê-bê-đê đã dấy lên một làn sóng tranh dành quyền cao chức trọng giữa các môn đệ, vốn đã tiềm tàng từ lâu trong lòng họ, nhưng chưa có cơ hội để bộc phát. Đức Giê-su đã hiểu rõ rằng các ông còn nghĩ đến một vương quốc trần thế mà họ tin triều đại nầy sắp đến gần. Với một sự kiên nhẫn vô tận để không gây thất vọng cho họ, Ngài lấy lại giáo huấn của Ngài về việc thay đổi tận căn những giá trị theo quan niệm trần thế. Giáo Hội của Ngài không được bắt chước những xã hội trần thế. Nếu những kẻ quyền cao chức trọng trong xã hội trần thế được hưởng những đặc quyền đặc lợi, được ăn trên ngồi trước, được kẻ hầu người hạ, thì trong Giáo Hội của Ngài “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em”.
Để làm cho rõ nghĩa lý tưởng “phục vụ” nầy, Đức Giê-su còn bổ túc thêm: “Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người”. Trong bất kỳ xã hội nào, đầy tớ là hạng người thấp kém nhất và ai cũng biết người đầy tớ phải làm những gì rồi. Hơn nữa, việc phục vụ không chỉ dừng lại trong vòng anh em của mình, hay cho một tiểu số nào, mà phải trải rộng cho hết “mọi người”.
Như vậy, bài học thật sống động cụ thể, nhưng còn trở nên sống động và cụ thể hơn nữa khi được rút ra từ chính cuộc đời của Đức Giê-su: “Con Người không đến để được kẻ hầu người hạ, nhưng là để hầu hạ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Những từ ngữ nầy được mượn ở nơi cuộc đời của Người Tôi Trung chịu đau khổ mà ngôn sứ I-sai-a đệ nhị đã phác họa trong Bài Đọc I. Chúa Giê-su sẽ trao ban mạng sống mình “làm giá cứu chuộc”, nghĩa là Ngài sẽ phải trả giá rất đắt cho tội lỗi của nhân loại, không trừ một ai hết.
16. Ý nghĩa của sự đau khổ - Lm Hồng Phúc
"Vì Ngài trải qua thử thách"
Các bài phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta đào sâu ý nghĩa sự đau khổ trong chương trình cứu chuộc. Bốn câu thi văn của Isaia về người Tôi tớ đau khổ là chóp đỉnh của Cựu ước, là mạc khải ý nghĩa của sự đau khổ. Trước đây, người ta quan niệm sự đau khổ là hình phạt do tội lỗi. Đành rằng người phạm đến Thiên Chúa thì đáng lãnh nhận một hình phạt, nhưng rồi cả những ngươì trong trắng, các trẻ em vô tội và người công chính, các vị tử đạo cũng phải đau khổ. Người ta đi đến quan niệm rằng người công chính đau khổ có thể chuộc thay tội lỗi của người khác. Người Tôi tớ của Thiên Chúa chính là Chúa Giêsu đến, dùng sự đau khổ để cứu chuộc nhân loại.
Thánh Thư Hêbrêô gọi Chúa Giêsu là vị Thượng tế, "vì Ngài trải qua thử thách bằng đau khổ, thì Ngài có thể đáp ứng những ai chịu chử thách" (Hêb. 2,17). Ngài cũng là người anh em của chúng ta, vì Ngài cũng chia sẻ sự yếu hèn của chúng ta, khi nhận lãnh sự cám dỗ trên núi, khi lo buồn hấp hối trong vườn Cây Dầu: "Xác thịt thì yếu đuối" (Mt 26,41); "Nhưng nếu chén này không thể qua đi được mà con phải uống thì xin theo ý Cha" (c. 42). Với lời Fiat của Chúa Kitô, chúng ta có thể hiệp thông sự đau khổ của chúng ta làm giá cứu chuộc với Chúa vậy.
Phúc âm kể lại việc can thiệp của hai con của ông Giêbêđê, muốn được ngồi bên hữu và bên tả Thầy trong vinh quang. Việc đó đã gây bất bình cho các Tông đồ khác. Chúa Giêsu dùng dịp này để giải thích điều kiện làm lớn trong Nước Trời. Không có vấn đề nào lớn lao cho bằng vấn đề đau khổ. Vì sao đau khổ? Đây là câu trả lời của Chúa: Đau khổ là để phục vụ, một việc phục vụ công hiệu hơn cả. Cha Maximilien Kolbe đã hy sinh để cứu một người bạn tù khỏi chết phần xác thì Chúa Giêsu đã chết cho mọi người để họ được sống đời đời. Ngài nói: "Con người đến không phải để được phục vụ nhưng là để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người". Phục vụ là cứu thoát, là dấn thân. Vì thế, trước ngày đi chịu nạn, Chúa đã quì dưới dân các Môn đệ, rửa chân cho họ và phán: "Chúng con hãy thương yêu nhau như Thầy đã thương yêu chúng con. Thầy ở giữa chúng con như một người tôi tớ".
Như vậy, chúng ta mới hiểu vai trò của quyền bính trong Giáo Hội. Quyền bính được trao cho ai là để người đó giúp đỡ anh em có phương tiện phát triển, là để phục vụ kẻ khác chứ không phải để cho mình tiến thân. Người nắm quyền bính tối thượng trong Giáo hội là người "đầy tớ trên mọi đầy tớ", servus servorum. Ngày này, không ai lại không biết Mẹ Têrêxa, thành Calcutta, một nữ tu Bác ái, áo trắng viền xanh, lặn lội với các chị em cùng dòng, để cứu giúp những người hấp hối nằm la liệt bên vỉa hè thành phố Calcutta, Ấn độ, để "cho họ được hưởng những giây phút hấp hối cuối đời xứng là một con người, trước khi chết". Trước đây, có một vị Sư Phật Giáo nói với Mẹ: "Tôi biết và yêu mến Đức Kitô lắm. Nhưng tôi ghét Hội thánh của Ngài. Nếu các chị làm điều các chị nói, có lẽ chúng tôi có thể gặp gỡ Hội thánh của Đức Kitô". Sau một năm làm việc với Mẹ, vị sư phát biểu: "Tôi đã quan sát. Bây giờ tôi thực sự tin các chị chỉ làm việc để phục vụ người nghèo và xấu số nhất. Chúng tôi sẽ dâng cho các chị một ngôi nhà trong khuôn viên Chùa chúng tôi để làm bệnh xá miễn phí".
Phục vụ người nghèo là phương cách làm cho kẻ khác biết Chúa và thương mến Giáo hội.
17. Phục vụ -- ‘Như Thầy Đã Yêu’ của Thiên Phúc
Một lần Ðức Hồng Y Roncalli vừa từ trên xe bước xuống. Ngài mới đi xa về. Phái đoàn tòa Giám mục ra đón. Mọi người ngạc nhiên trên vai áo Hồng Y có vương mấy cọng rơm đồng quê. Ai hỏi ngài cũng cười xoà vui vẻ, nhưng mấy nhân viên phụ tá trên xe đều hiểu chuyện. Chiếc xe của Ðức hồng Y đang từ hướng Bắc xuống miền Nam qua vòng đồng ruộng. Giữa đường một chiếc xe bò chở rơm sa hố. Người đánh xe gắng sức đẩy phụ nhưng xe không nhúc nhích. Ðức Hồng Y cho xe dừng lại, xắn tay áo hò dô ta đẩy phụ, và chiếc xe rơm sa lầy lại chuyển bánh tiếp tục lên đường.
Những cọng rơm trên vai áo Hồng Y đối với ngài chỉ cười xoà cho qua. Nhưng thực sự tỏ rõ cho chúng ta một Hồng Y không quản ngại khó khăn hay sợ bẩn chiếc áo dòng sang trọng.
Sau này lên ngôi Giáo hoàng, Ðức Gioan 23 vẫn tiếp tục sống nếp sống bình dị phục vụ.
Lần khác, cả giáo triều Rôma báo động: "Ðức Giáo hoàng mất tích". Nhân viên an ninh đổ xô đi tìm. Cuối cùng người ta gặp ngài đang chuyện trò thân mật với các tù nhân trong khám đường Rôma.
****
"Con người đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người" (Mc.10,45).
Ðó là Hiến chương Nước Trời, là Hiếp Pháp Ðức Kitô đã tuyên bố cho Giáo hội. Từ đây, mỗi tín hữu Kitô phải là đầy tớ của mọi người.
Người lãnh đạo trong Giáo hội chính là "Ðầy tớ của các đầy tớ" (Sevrus Servorum). Chữ Latin "Minister" có nghĩa là đầy tớ. Vì thế, trong Giáo hội chỉ có kẻ thừa sai, người thừa tác, nữ tì, tôi tá, hay mục tử chăm lo cho đoàn chiên.
Mẹ của Giacôbê và Gioan xin Ðức Giêsu cho hai con bà được làm tể tướng trong nước của Người. Nhưng họ đã không hiểu rằng Ðức Giêsu không bước lên ngai vàng để thống trị, mà Người chỉ leo lên thập giá để hiến dâng mạng sống, để yêu thương và "yêu cho đến cùng". (Ga.13,1).
Hôm nay, Chúa cũng mời gọi các tín hữu Kitô hãy noi gương Người: Phục vụ và hiến dâng mạng sống cho tha nhân. Trước nhất là yêu thương phục vụ những người trong gia đình: "Charity begin at home" (Bác ái bắt đầu từ gia đình), sau đó mới lan tỏa sang những người chung quanh, nhất là những người nghèo hèn, yếu đuối.
Nếu chúng ta chưa nên giống được như Cha Maximilien Kolbe xin chết thay cho bạn tù, như thánh Martino Porres bán mình làm nô lệ, hoặc như cha Damien tông đồ người hủi, thì ít là mỗi ngày chúng ta hãy âm thầm phục vụ hết mình những người thân yêu, những người Chúa giao phó trong gia đình mình, trong cộng đoàn mình.
Báo chí Pháp đăng hình của Cha Damien sau mấy chục năm phục vụ trong trại cùi, ghép cạnh hình cha hồi còn tẻ. Tấm hình gây xúc động cho biết bao con người. Khi nhìn vào tấm hình, mẹ Ngài không thể tin được con mình đã thay hình đổi dạng đến thế. Chính thái độ tận tụy phục vụ đã tiêu hao sức lực và tàn phá hình hài con người. Vì thế, chúng ta không thể phục vụ nếu không có sẵn một tấm lòng dấn thân quảng đại.
Người thành công nhất là người phục vụ cho đồng loại nhiều nhất. Albett Shweitzer đã nói: "Người hạnh phúc thật là người biết tìm cách sống thiện ích cho người khác". Martin Luther King nói: "Chúng ta học bay như chim trên trời, học bơi như cá dưới nước, nhưng lại chưa học sống với nhau như anh em". Ở giây phút định mệnh của mỗi con người chỉ có cường độ tình yêu và tinh thần phục vụ là có giá trị.
***
Lạy Chúa, ai trong chúng con cũng có một chút ham mê địa vị, chức quyền. Nếu Chúa xếp đặt cho chúng con một chức vụ nào đó, xin cũng ban chúng con một ơn này, là chức vụ càng cao, chúng con càng biết khiêm tốn phục vụ anh em nhiều hơn. Amen.
18. Chạy ghế
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
Ngày 12.10.2012, để vận đông tranh cử vào Nhà Trắng, Phó Tổng Thống Joe Biden đã không ngần ngại dối trá về Sắc Lệnh của HHS: “Về vấn đề có liên quan đến Giáo Hội Công Giáo tôi xin nói tuyệt đối rõ ràng là không cơ sở tôn giáo nào, Công Giáo hay các tôn giáo khác, bao gồm các cơ sở xã hội Công Giáo, bệnh viện Geogetown, Mercy hay bất kỳ một nơi nào khác bị bắt buộc phải cung cấp phương tiện ngừa thai, phải trả tiền phá thai. Không ai phải thi hành các tiến hành ngừa thai trong chính sách bảo hiểm cho nhân viên. Đây chính là sự thật. Đây chính là sự thật.”
(Xin xem: http://www.usccb.org/news/2012/12-163.cfm)
Trong nhiều tháng qua, Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ đã phát động một chiến dịch rộng lớn chống lại Sắc Lệnh HHS vì nó xâm phạm trầm trọng đến sứ mạng Bảo Vệ Sự Sống của Giáo Hội. Theo Sắc Lệnh HHS thì các cơ sở xã hội và bệnh viện Công Giáo phải cung cấp các phương tiện ngừa thai và phá thai cho nhân viên. Chính quyền Obama không hề chùn bước khi cương quyết áp dụng Sắc Lệnh. Nhưng trước mắt để đừng mất thêm phiếu của khối cử tri Công Giáo vốn xem nhẹ việc Bảo Vệ Sự Sống, thì ông phó tổng thống cũng là một người Công Giáo cứ phát biểu sai lạc như vậy. Sau đó, nếu ông Obama được làm thêm một nhiệm kỳ nữa thì sẽ thẳng tay áp dụng.(Theo Ephata, NguyễnTrung, Một trò lường gạt của chính quyền Obama)
Như thế, để đạt được chiếc ghế thủ lãnh quốc gia người ta không chút ngượng miệng, công khai nói điều dối trá với toàn thể dân chúng Hoa kỳ.
Trong trích thuật Tin Mừng hôm nay, hai anh em ông Giacôbê và Gioan cũng mong được hai cái ghế bên tả và bên hữu Chúa Giêsu, khi Người “được vinh quang,” cùng sẵn sàng chấp nhận mọi sự khó trong tương lại.
Quyền bính từ Thiên Chúa
Khi nghe lời khẩn cầu, Chúa Giêsu hỏi lại các ông Giacôbê và Gioan: “Các ông có uống nổi chén thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” Các ông đáp: “Thưa được.” Đức Giêsu bảo: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống, phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được.” (Mc 10, 38-40)
Như thế, Chúa Giêsu khẳng định quyền bính đều phát xuất từ Thiên Chúa trao ban, chứ không phải do thế lực tranh đấu, kế thừa, tài năng, hay may mắn tạo nên, như thiên hạ vẫn thường ngộ nhận.
Quyền bính để phục vụ
Nhân tiện, nói về quyền bính, Chúa Giêsu phân biệt rõ rệt hai loại quyền lực: Thế quyền và giáo quyền. Với thế quyền trong xã hội, thì dùng uy lực để cai trị dân chúng, dùng quyền hành đem lại phúc lợi cho dân, hoặc tệ hại thì đàn áp, bóc lộc dân.
Còn với giáo quyền của Hội Thánh, thì tính cách hoàn toàn trái nghịch, đó là sử dụng quyền hành để phục vụ tận tình mọi người. “Anh em biết, những người được coi là thủ lãnh các dân, thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người.” (Mc 10, 43-44)
Thế quyền bao giờ cũng đi đôi với quyền bính, sức mạnh, danh lợi, vinh hoa phú quý, vinh thân phì gia. Còn giáo quyền trong Hội Thánh thì luôn kết hợp nhuần nhuyễn với bác ái, yêu thương, bất vụ lợi, hy sinh, dấn thân, chân chínhlàm người đầy tớ mọi người.
Chúa Giêsu đã làm gương sáng, quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ ngay trước bữa Tiệc Ly, rồi tiếp theo đỉnh điểm phục vụ, là cuộc Khổ Nạn vô cùng thảm khốc. Chính vì vậy, Đức Giáo Hoàng, người đứng đầu Giáo Hội Công Giáo, nắm giữ một địa vị quan trọng nhất trên thế giới, thế mà ngài vẫn tự nhận cho mình là “Servus servorum,”tôi tớ của các tôi tớ. Đáng tiếc, vẫn còn những người lãnh đạo, cố tình quên đi điều rất căn bản và dị biệt này.
Tận hiến để phục vụ.
Nhân tiện, Chúa Giêsu đề cập đến sứ vụ cao quý, mà Người lãnh nhận. Đó là phục vụ nhân loại hết sức tận tình, cho đến hơi thở cuối cùng: “Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người.” (Mc 10, 45) Người mong mỏi người Kitô hữu thấm nhuần tinh thần phục vụ, và hiệp thông vào Ơn Cứu Độ, để được sống viên mãn.
“Lãnh đạo là phục vụ: phụng sự Thiên Chúa, phục vụ người mình điều khiển, phục vụ công ích. Lãnh đạo là nô bộc tình nguyện.” (ĐHV, 835)
Lạy Chúa Giêsu, xin ban con lòng can đảm, dũng mãnh theo chân Chúa, dù phải chịu nhiều cay đắng, ngược đãi, chống báng của thế gian, vẫn một lòng một dạ phục vụ tha nhân và Hội Thánh.
Lạy Mẹ Maria Sầu Bi, Mẹ đã đau khổ biết bao dưới chân Thánh Giá, vì Mẹ Đồng Công Cứu Chuộc, xin dạy cho con biết chấp nhận những thử thách cuộc đời, như phần nào được hiệp thông vào cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu. Amen.
19. Thủ lãnh làm nô bộc
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
Ngay mấy tháng đầu nhận chức vụ, Đức Cha Angelo Giuseppe Roncalli đã âm thầm rảo khắp nước Bảo Gia Lợi (Bulgarie). Từ Sofia Ngài đi Burgas, gần Hắc Hải rồi về Yamboli. Trong chuyến hành trình thứ hai, Ngài viếng thăm những địa điểm sát biên giới Hy lạp và Thổ Nhĩ Kỳ như Svilengrad Adrianopoli, Pakrovan, miền núi non hiểm trở, tuy phong cảnh rất ngoạn mục nhưng xa xôi và hay gặp cướp bóc. Những cuộc viếng thăm của Đức Kinh lược Tông Tòa Roncalli chẳng long trọng, tưng bừng như thường thấy, mà tựa như hành trình rao giảng gian lao của Chúa Giêsu trong Phúc âm.
Lúc đi Pakrovan vừa được nửa đường thì cảnh sát phải chận xe Ngài và cho một toán cảnh binh hộ vệ cho khỏi hiểm nghèo. Sau lúc đi được 50 cây số như thế Ngài qua đò. Bên kia sông đã có một con ngựa chực sẵn để đưa Ngài. Ngài ở lại trong một nhà xứ chật hẹp làm bằng đá, không sơn quét gì cả. Nhà tối đen và phải cần đến đường nứt ở vách soi sáng. Trong một góc nhà chỉ có hai cái giường, mà Cha xứ và Cha phó nhường cho Đức Kinh lược và vị thư ký...
Ngài lại ra đi giữa mưa gió. Lẽ ra có xe hơi đợi Ngài ở bờ sông, rủi thay tài xế sợ quân cướp, nên không đến như đã hẹn. Bây giờ chỉ còn một nước lên ngựa. Đến sườn núi Ngài gặp lính canh biên giới họ đưa Ngài về trại. Đêm ấy đồn trưởng cho Ngài một cái giường xếp, các người khác phải nằm dưới đất, hai hôm sau họ đã thuê được một chiếc xe có hai bò kéo để đưa Ngài đi. Lúc ra đi viên đồn trưởng có lòng lo lắng, yêu cầu Ngài giấu Thánh Giá, nhẫn và những tua ở mũ vì sợ quân cướp để ý. Chúa đã gìn giữ Ngài đi bằng an vô sự. Ngày hôm trước bọn cướp đánh phá xe phát thư và để lại ông tài xế nằm mê man giữa đường.
Ngài còn muốn thăm giáo dân ở Malko Ternovo vì đây là pháo đài Công Giáo của nước Bảo. Nhưng phần ở gần biên giới Thổ và Bắc Hải, phần đường sá xa xôi hiểm trở, nên mọi người khuyên Đức Cha rút lui. Nhưng không cầm lòng đậu, cùng với cha Don Stefano Kartev, Đức Kinh lược lên đường lần thứ ba. Ở đây Ngài đã làm êm dịu sự căng thẳng giữa Chính Thống và Công Giáo, Ngài vui vẻ tiếp xúc với mọi người, và để cho dân chúng tiếp đón cho thỏa lòng, họ xin hôn nhẫn, mời chụp hình, họ sắp hàng rước Ngài, trẻ con tung hô mừng Ngài. Đến đâu Đức Cha Roncalli cũng giảng. Đức Kinh lược trình bày ba ý kiến vắn tắt, cha thư ký dịch ra tiếng Bảo, tiếp theo ba ý kiến vắn tắt khác, cha thư ký lại dịch nữa, cứ thế độ nửa giờ, và thính giả chăm chú cảm động vì những lời lẽ thành thực và sự cố gắng của Đức Kinh lược.
Đến đâu Ngài cũng đánh tan ngờ vực, bầu không khí trở nên thành thực, thân mật. Tuy công việc của Ngài thầm lặng, nhưng cả nước Bảo đều chú ý. Báo "La Bulgaria" ở Sofia ngày 7-8-1925, đăng một bài tường thuật rất đầy đủ, kết luận "Dân Bảo đầy thiện cảm với Đức Kinh lược, và chúng tôi khen ngợi đức hy sinh và tính thành thực của Ngài trong công việc nặng nhọc và cao cả hằng ngày." (Linh mục Fx Nguyễn Văn Thuận, Đức Thánh Cha Gioan XXIII)
Năm 1960, qua cuốn sách Đức Thánh Cha Gioan XXIII, Linh mục Fx Nguyễn Văn Thuận tường thuật lại thời kỳ Thánh Giáo Hoàng Gioam XXIII còn bôn ba, vất vả làm Kinh lược tại Bulgarie và Thổ Nhĩ Kỳ. Một khoảng thời gian khá dài ít được biết và nhắc đến sau này. Những hình ảnh chân thật của Đức Giám Mục Roncalli phản ảnh khá chính xác Lời Chúa hôm nay: “Ai muốn thành người cầm đầu trong các con, thì hãy tự làm nô lệ cho mọi người.“ Đức Kinh lược Roncalli đã không quản ngại khó khăn, nguy hiểm, đến thăm mục vụ, cùng tận tình phục vụ con chiên xa xôi hẻo lánh.
Nhưng đâu phải chỉ khi có chức cao quyền trọng mới phải phục vụ tha nhân, mà bất kỳ ai ở địa vị nào cũng cần phục vụ người khác. Một người cha, người mẹ, người anh, người em, con cháu, đều cần sống cho nhau, phục vụ lẫn nhau, thì gia đình đó mới yên vui tràn đầy yêu thương và hạnh phúc. Nhất là người gia trưởng cần thiết làm gương sáng phục vụ, để mọi thành viên trong gia đình noi theo. Nếu mỗi người chỉ biết sống ích kỷ, vị kỷ, bất cần quan tâm đến ai, thì tổ ấm gia đình chẳng sớm thì chày trở nên giá lạnh, dần nảy mầm nguy cơ tan vỡ, tan đàn xẻ nghé.
Yêu thương phục vụ
Phục vụ trước hết phát xuất từ con tim mới có ý nghĩa cao trọng. Nếu không chỉ là hành động đơn thuần, tẻ nhạt, tầm thường của kẻ hầu bị bó buộc phục dịch, dĩ nhiên chẳng có chút giá trị cao quý. Yêu thương phục vụ xả kỷ vị tha, hoàn toàn tự nguyện, vô tư, bất vụ lợi, chẳng màng báo đáp, cũng chẳng mảy may cầu cạnh lợi danh. Nhân ái phục vụ, cảm thương phục vụ tha nhân, vì những người nghèo nàn, đói rách, cô quả, cơ nhỡ, đau yếu chính là hiện thân cụ thể của Đức Giêsu Kitô đang chịu đau khổ. "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han." (Mt 25, 34- 36)
Thấm nhuần Lời Chúa, Thánh Phaolô ân cần khuyên nhủ, mời gọi tín hữu vùng Galát, cũng như tất cả tín hữu Kitô ở mọi thời đại và mọi nơi:”Hãy lấy đức mến mà phục vụ lẫn nhau!” (Gl 5, 13)
“Hãy yêu thương nhau không bằng lời nói, mà bằng việc làm. Hãy yêu thương nhau bằng tay mặt, mà tay trái không biết. “Hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương chúng con.”(Đường Hy Vọng, số 755)
Khiêm tốn phục vụ
Phục vụ không phải là trịch thượng ban phát ơn huệ, thương hại gia ân, đua nhau làm công quả, mà cần thiết âm thầm, khiêm tốn, tự hạ mình xuống ngang tầm, ngang vai, đồng cảm, chia sẻ với người được giúp đỡ, phục vụ. Kín đáo, lặng lẽ phục vụ, chia sẻ làm sao tay phải đừng cho tay trái biết, như Đức Giêsu từng dặn dò, nhắn nhủ rất thấu đáo.
Khiêm nhường, chân tình, thân mật, chan chứa yêu thương phục vụ, noi gương Đức Giêsu đích thân lấy khăn thắt vào lưng, đổ nước vào chậu, rửa chân cho từng môn đệ, lấy khăn thắt lưng mà lau. Chẳng thể nào có ai khiêm hạ phục vụ hơn thế nữa!“Anh em gọi Thầy là "Thầy", là "Chúa", điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.” (Ga 13, 13-15)
Hân hoan phục vụ
Đức Kinh lược Roancalli luôn lạc quan, hân hoan, vui vẻ đi thăm mục vụ các địa phận trong nước Bảo Gia Lợi và Thổ Nhĩ Kỳ, mặc dù ngài gặp biết bao gian truân, hiểm nguy thách thức trên đường. Hẳn ngài đã rất đồng cảm với các Tông Đồ bước đầu đi rao giảng: “Các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu.” (Cv 2, 41)
Thánh Phaolô đã không quên khuyên nhủ các tín hữu Kitô luôn trung thành, nhiệt thành và vui vẻ phục vụ trong bất kỳ công việc nào được trao phó: “Được ơn phục vụ, thì phải phục vụ. Ai dạy bảo, thì cứ dạy bảo. Ai khuyên răn, thì cứ khuyên răn. Ai phân phát, thì phải chân thành. Ai chủ tọa, thì phải có nhiệt tâm. Ai làm việc bác ái, thì hãy vui vẻ.” (Rm 12, 7-8)
“Nếu con làm vì Chúa, tại sao con nản lòng? Càng gian truân con càng vui tươi, như Gioan và Phêrô bị đánh đập ở hội đường “ra về vui vẻ vì được xứng đáng chịu sỉ nhục vì danh Chúa”, như Phaolô: “Tôi tràn đầy vui tươi giữa những thử thách của tôi.” (Đường Hy Vọng, số 536)
Hy vọng phục vụ
Dấn thân phục vụ không chút ngần ngại, nửa vời với niềm hy vọng sâu xa là phục vụ chính Chúa Giêsu hiện diện ngay trong những người khốn khổ, đói rách, nghèo nàn, tàn tật, cô đơn,..
Chức vị càng cao càng cần hăng say phục vụ, vì có nhiều khả năng, phương tiện và nhân sự hỗ trợ, nếu dám xả kỷ vị tha, nếu dám hy sinh và dâng hiến cuộc đời cho Chúa và tha nhân.“Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy."(Ga 12, 25-26)
Chớ gì từng Kitô hữu đều thấm nhuần lời tuyên bố lẫy lừng của Đức Giêsu, để làm kim chỉ nam cho cuộc đời: “Con Người không đến để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và trao mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người.”
Lạy Chúa Giêsu, chúng con thường mê muội cái bả danh lợi, quyền hành, chức tước, địa vị, không thua kém hai ông con Dêbêđê. Xin Chúa soi sáng và ban chúng con can đảm tránh xa và dứt khoát đoạn tuyệt với thói ăn trên ngồi trốc, để chúng con dám xả thân phục vụ Tin Mừng, cũng như tha nhân.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ luôn yêu thương, khiêm nhường, gần gũi với những người khốn khó nghèo nàn, như các mục đồng, đến đôi tân hôn khó khăn, để ân cần chia sẻ và giúp đỡ. Xin Mẹ dạy chúng con noi gương Mẹ, luôn sẵn sàng phục vụ tha nhân. Amen.
20. Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB
ƯỚC MƠ THIÊN ĐÀNG HAY CHIÊM NGẮM ĐỨC KITÔ THẬP GIÁ!
“Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang”; thiết tưởng theo tư duy tự nhiên, thì lời khẩn cầu của hai anh em nhà Dê-bê-dê rất chính đáng. Phải chăng rất nhiều người chúng ta cũng đã từng có những ước muốn ‘chính đáng’ tương tự; chúng ta đã chẳng mơ ước được một chỗ cao sang trên thiên đàng, được giầu công nghiệp trước mặt Chúa, được phần thưởng trọng hậu là gì? Các môn đệ khác, chứ không cứ gì hai anh em, cũng đã không ít lần bàn cãi về chuyện đó, xem: “ai sẽ là người lớn nhất trong nước trời”. Trước thao thức của các ông, hình như Đức Giêsu muốn nhắc nhở rằng: công nghiệp hay chỗ cao trên thiên đàng là việc dành riêng cho Thiên Chúa: “Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được”, môn đệ chân chính không nên quan tâm tới. Nếu hiểu đúng ý Đức Giêsu, thì điều duy nhất cần quan tâm trong việc sống Tin Mừng sẽ chỉ là theo sát Đức Kitô Thập Giá, và theo cho tới cùng, là “Uống chén thầy sắp uống, chịu phép rửa thầy sắp chịu”.
Trước hết, Kitô hữu chúng ta cần biết rõ: ‘chén của Thầy, phép rửa của Thầy’ là gì; trên đường tiến về Giê-ru-sa-lem, Đức Giêsu đã nhiều lần cảnh báo các môn đệ về cuộc thương khó và phục sinh sắp xảy ra (xem Mc 10:32-34), tuy nhiên bài học này lúc đó hình như các ông không kham nổi, đơn giản là vì các ông không thể hình dung nó sẽ ra sao? Kitô hữu chúng ta ngày nay thì không lạ lẫm gì về diễn biến Thập Giá, khi Đức Giêsu (Lời Thiên Chúa) tự hiến để phục vụ lợi ích thiết thực của con người nhân loại tội lỗi. Thập Giá là bằng chứng thuyết phục rằng: Người đến không phải để luận phạt theo lẽ công bình, mà để hiến mình cứu độ, qua đó chỉ cho mọi người thấy một Chúa Cha vô cùng nhân ái; chính vì vậy mà, trước cuộc thương khó, Người đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ, một biểu tượng của hạ mình phục vụ để thanh tẩy và tha thứ (xem Ga 13). Qua hành động này, Đức Giêsu chắc hẳn không nhằm dạy các môn đệ mình một ‘chiến thuật’ để chinh phục và cai trị thiên hạ, như Lão tử - nhà hiền triết Trung Hoa đã từng vịnh rằng: “Sông, biển để làm gì, để cai trị trăm ngàn thung lũng? Nó đặt mình nằm dưới tất cả và vì thế nó cai trị hàng trăm thung lũng. Nếu thánh hiền muốn làm đầu dân tộc hãy học nói năng cho khiêm tốn. Nếu muốn lãnh đạo dân hãy đặt mình vào chỗ rốt hết”; Những lời khôn ngoan thật đấy, nhưng đâu phải là Tin Mừng!
Môn đệ là những người ‘theo Đức Kitô’, vì thế họ có thể tự hào: “Thầy coi, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo thầy” (Mc 10:28). Nhưng họ cũng cần hiểu rằng: từ bỏ là để đi con đường Thầy đi, và đó là con đường phục vụ, phục vụ tới độ tự hủy, tới độ hiến cả mạng sống mình; “Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Điều khó chấp nhận nhất chính là: sự vĩ đại của Thiên Chúa mà lại đồng hóa với việc cúi xuống phục vụ người thấp hèn. Thầy Giêsu đã làm gương và dạy môn đệ làm theo: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người”.Phải mất một thời gian dài nữa, các ông mới hiểu được điều này; phải đợi tới khi được Thấn Khí tác động, các ông mới dứt khoát “trở nên mọi sự cho hết mọi người…”
Kitô hữu chúng ta cũng vậy thôi! Quyết định theo Chúa đấy, nhưng bài học quên mình phục vụ thì mãi vẫn chưa thuộc. Lý do là vì, chúng ta mơ ước quá nhiều về thiên đàng, còn chiêm ngắm Thập Giá thì lại quá ít. Duy nhất Thầy Giêsu mới là đường, là chân lý, và là sự sống! Do đó thiên đàng không phải là cùng đích, nhất là cái thứ thiên đàng mà ta vẫn thường vẽ ra trong đầu. Nếu Thiên Chúa là Đấng nhân ái và xót thương, thì thiên đàng phải là nơi chan hòa nhân ái; bên hữu hay bên tả của Thiên Chúa nhân ái trên thiên đàng đó sẽ chỉ dành cho những ai có lòng thương xót mà thôi; “Phúc thay những ai xót thương, vì họ sẽ đươc Thiên Chúa xót thương” (Mt 5:7).
Nếu vậy, lạy Cha nhân ái, xin cho con được ngồi bên hữu Cha; không phải vì con đạo đức thánh thiện hơn người, nhưng chỉ vì con nhận biết Cha hằng xót thương những con người yếu hèn, nên sẽ yếu mến sự hèn kém của con. Đặc biệt, thể theo lời mời gọi của Cha, con sẽ quyết tâm chia sẻ lòng thương xót đó cho mọi người, đặc biệt cho các tội nhân thấp kém. Amen.
21. Con đường vương giả – Lm Phạm Quốc Hưng
Ước muốn làm lớn hay ước muốn được trở nên cao trọng luôn được ấp ủ trong nơi sâu kín của tâm hồn mỗi người chúng ta. Ai lại chẳng muốn làm lớn? Ai lại chẳng muốn trở nên cao trọng? Điều này là một thực tại phù hợp với bản tính con người, vì chúng ta là thụ tạo “linh ư vạn vật”, được Thiên Chúa cao cả yêu thương tạo dựng theo giống hình ảnh của chính Người mà!
Điểm đáng lưu ý ở đây là điều gì làm cho chúng ta trở nên cao trọng thực sự? Đây chính là một trong những chủ đề được nhận thấy trong Phụng Vụ hôm nay.
Trong đời sống xã hội, người ta thường quan niệm việc làm lớn hay trở nên cao trọng luôn gắn liền với quyền bính, chức tước, danh vọng. Như vậy, làm lớn đồng nghĩa với việc được phục vụ, được ca tụng, được ngưỡng mộ. Biết bao người đã xử dụng mọi thời giờ, vận dụng mọi tài sức, chấp nhận mọi hy sinh và lắm khi không từ nan mọi thủ đoạn đê hèn để thực hiện ước muốn đạt được danh vọng, chức tước, quyền bính trong nhiều lãnh vực khác nhau: chính trị, kinh tế, văn nghệ, thể thao…và cả tôn giáo nữa!
Các môn đệ bỏ mọi sự để theo Chúa Giêsu vì vốn nghĩ Chúa Giêsu là Đấng Mêsia, Đấng Kitô, Đấng Thiên Sai và Đấng Thiên Sai đầy quyền bính trong lời nói và hành động. Như thế, chắc hẳn sẽ có ngày Người đạt tới một thứ vinh quang cao trọng nào đó, như Thánh Vương Đavít năm xưa chẳng hạn. Và chắc chắn họ sẽ được chia sẻ vinh quang với Người. Như để nắm chắc được phần thưởng tương lai, hai anh em con Ông Giêbêđê trong Tin Mừng hôm nay đã mạnh dạn đến bày tỏ với Chúa Giêsu ước muốn thầm kín xưa nay của họ: “Xin cho chúng con một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả Thầy trong vinh quang của Thầy” (Mc10:37). Chúa Giêsu không trách mắng các ông vì sự mê muội của các ông, nhưng Người nhẹ nhàng hướng các ông về mầu nhiệm Thập Giá khi nói các ông: “Các con không biết các con xin gì. Các con có thể uống chén Thầy sắp uống và chịu cùng phép rửa Thầy sắp chịu không?” (Mc 10: 38).
Vốn có cùng ước muốn làm lớn theo lối thế gian như hai anh em con Ông Giêbêđê, mười môn đệ còn lại trong Nhóm Mười Hai nghe chuyện đó liền bực tức với hai ông. Chúa Giêsu nhân cơ hội này đã dạy các ông một bài học để đời, một bài học về con đường vương giả dẫn đến vinh quang đích thực, giúp người ta đạt được ước muốn làm lớn thực, trở nên cao trọng thực.
Đó là con đường Thánh Giá, con đường yêu thương được thể hiện qua tinh thần khiêm nhường phục vụ, xả kỷ vị tha. Đó là con đường mà chính Chúa Giêsu đã khai mở và bước đi đến cùng để cứu độ nhân loại, để trở thành Vua lòng mọi người, để trở thành gương mẫu tuyệt hảo cho mọi người bước theo. Người nói: “Các con biết rằng những người được coi là lãnh tụ các nước, thì sai khiến dân chúng như ông chủ, và những người làm lớn thì lấy uy quyền mà trị dân. Còn các con không như thế. Trái lại, ai trong các con muốn làm lớn, thì hãy tự làm đầy tớ anh em. Và ai muốn thành người cầm đầu trong các con, thì hãy tự làm nô lệ cho mọi người. Vì chính Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người” (Mc 10:42-45).
Hình ảnh trung thực của Chúa Giêsu-Đấng Mêsia-được ngôn sứ Isaia đã diễn tả như Người Tôi Tớ Đau Khổ của Thiên Chúa nơi bài đọc một: “Chúa đã muốn hành hạ Người trong đau khổ. Nếu Người hiến thân làm lễ vật đền tội, Người sẽ thấy một dòng dõi trường tồn, và nhờ Người, ý định của Chúa sẽ thành tựu. Nhờ nỗi khổ tâm của Người, Người sẽ thấy và sẽ được thỏa mãn. Nhờ sự thông biết, tôi tớ công chính của Ta sẽ công chính hóa nhiều người, sẽ gánh lấy những tội ác của họ” (Is 53:10-11).
Tác giả Thư Gửi Tín Hữu Do Thái trong bài đọc hai cũng nhắc lại việc Đấng Cứu Thế đã vì yêu thương loài người mà gánh lấy mọi đau khổ thử thách để cứu chuộc chúng ta. Chính vì thế mà Người đã trở thành Vị Thượng Tế đem lại ơn cứu độ cho chúng ta: “Vì chưng, không phải chúng ta có vị Thượng Tế không thể cảm thông sự yếu đuối của chúng ta, trái lại, Người đã từng chịu thử thách bằng mọi cách như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi” (Dt 4:15).
Theo cùng một tinh thần ấy, tác giả sách Gương Chúa Giêsu nhận ra rằng Thiên Chúa chính là Đấng phụng sự con người hơn là Đấng để cho người ta phụng sự khi viết: “Mọi của con có, mọi cái con dùng để phụng thờ Chúa thảy đều là của Chúa! Mà xét lại, chính Chúa đã phụng sự con nhiều hơn là con phụng sự Chúa. Kìa, trời và đất Chúa đã tạo nên để mưu ích cho người đời; chúng sẵn sàng luôn và ngày ngày thi thành mệnh lệnh Chúa. Hơn nữa, Chúa đã tổ chức nên sứ bộ thiên thần cũng vì nhân loại. Nhưng cái trỗi vượt hơn cả chính là Chúa đã tự hạ để phụng sự người đời, và Chúa đã tự đoan sẽ ban cả mình Chúa cho người đời nữa” (Q. III, Ch. #10).
Bàn về sự cao trọng của con người, Mẹ Terêsa Calcutta nói: “Bạn được dựng nên cho những điều cao cả hơn: để yêu và được yêu”. Và Mẹ luôn tâm niệm: “Hoa trái của yêu thương là phục vụ” và “Yêu thương là trao ban đến đớn đau”. Đó là lý do khiến Mẹ từ giả đời sống êm đềm của một nữ tu dạy học để tìm đến phục vụ những người cùng khổ bị bỏ rơi trên những khu ổ chuột ở Calcutta và lập nên Dòng Thừa Sai Bác Ai. Đó cũng là lý do khiến Thánh Đamien đang là một linh mục Dòng Thánh Tâm tráng kiện tình nguyện đến sống và phục vụ những người phong cùi ở đảo Molokai, và chia sẻ cả bệnh phong cùi với họ, chết giữa họ. Đó cũng là lý do biết bao tín hữu Chúa Kitô tiếp tục dấn thân âm thầm phục vụ tha nhân đến hy sinh chính mình, trong mọi môi trường trong mọi nơi mọi thời mà chỉ có Chúa mới có thể thẩm định đúng mức sự cao cả của tình yêu trong trái tim họ.
Trong tác phẩm Những Người Lữ Hành Trên Đường Hy vọng, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận kể về chứng từ của cô Sophie Berdanska. Vì túng nghèo, cô phải đi làm thuê cho một gia đình Do Thái tên là Merston. Công việc của cô là chăm sóc mấy đứa con của ông chủ. Biết Sophie là người Công giáo, ông chủ đặt điều kiện là cô “không được giảng đạo” cho con cái ông. Tối hôm ấy, Sophie lấy một miếng giấy nhỏ ghi ít chữ vào đó rồi bỏ vào huy chương ba cô trối lại và đeo vào cổ. Các con ông chủ nhiều lần đòi coi huy chương ấy, nhưng cô không cho. Nhờ sự chăm sóc tận tâm của Sophie, các con ông Merston càng ngày càng ngoan ngoãn giỏi giang. Ít năm sau, các con ông lần lượt đau nặng. Cô Sophie tận tình lo lắng phục vụ lũ trẻ, và chúng lần lượt được bình phục. Nhưng vì quá tận tâm lo cho chúng, Sophie kiệt sức và qua đời. Ít lâu sau, ông Merston tình cờ mở chiếc huy chương nàng để lại và đọc được hàng chữ trong mảnh giấy trong đó: “Khi người ta cấm tôi nói về đạo của tôi, tôi quyết sống đạo trước mặt họ như một chứng tích hùng hồn”. Chợt hiểu ra tất cả và cảm phục Sophie, cả gia đình Merston sau đó đã xin theo đạo! Sophie là người đã hiểu và bước theo con đường vương giả của Chúa Giêsu, đường yêu thương phục vụ, đường xả kỷ vị tha!
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là Mẹ của tình yêu mỹ diệu. Xin Mẹ dạy con biết trung thành và vui tiến trên con đường vương giả của Chúa Giêsu, đường yêu thương phục vụ, đường xả kỷ vị tha, để đạt được vinh quang đích thực là được nên giống Chúa Giêsu, nên một với Người, và cảm hóa mọi người thiết tha yêu mến Chúa và Mẹ. Amen.
22. Hy tế – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Khi bước vào trong nhà thờ Công giáo, chúng ta sẽ nhìn thấy hình ảnh đau thương của Chúa Giêsu Kitô chết treo trên Thánh giá nơi cung thánh. Thân mình Chúa trần trụi, đầu đội mạo gai, hai chân hai tay bị đóng đinh vào thánh giá, cạnh sườn bị đâm thủng, mình mẩy dính đầy máu và chết trong tư thế gục đầu xuống. Cái chết của Chúa thật bi thương. Những người tin vào Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế đã kính thờ bái lạy và ghi dấu thánh giá trên mình. Chúa đã hiến thân mình làm hy tế để giao hòa nhân loại với Chúa Cha. Của lễ hiến tế là chính thân xác của Chúa Giêsu. Chúa Kitô đã chết trên Thánh giá và đã sống lại vinh hiển đang ngự bên hữu Chúa Cha. Nhiều người không biết và không tin vào Chúa Kitô, họ không thể hiểu tại sao người Công giáo lại tôn thờ một Đấng, bị xem như là tội nhân của đế quốc Rôma đã phải xử tội tử hình.
Tiên tri Isaia đã tiên báo về Đấng sẽ đến, người tôi tớ trung tín và công chính sẽ chịu khổ hình để gánh tội: “Nhờ nỗi thống khổ của mình, người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện. Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ” (Is 53,11). Làm người ai cũng muốn sống an vui và hạnh phúc, chẳng mấy ai muốn đời mình bị đau khổ. Thực ra, chỉ có đau khổ mới hoá giải được khổ đau. Nếu chúng ta không gặp đau khổ, chúng ta không biết thế nào là vui sướng hạnh phúc. Nếu chúng ta không có đau đớn bệnh hoạn, chúng ta không biết mình đang an khang khoẻ mạnh. Người tôi tớ công chính đã lãnh chịu mọi thống khổ ở đời để biến đổi nó thành hoa trái tốt lành của ơn cứu độ.
Người Tôi Trung của Tiên tri Isaia là hình ảnh của Đấng Được Xức Dầu, Chúa Giêsu Kitô. Ngài đã chấp nhận thân phận con người yếu đuối, ngoại trừ tội lỗi. Ngài đã chọn con đường thánh giá để giao hoà. Thư gửi tín hữu Dothái đã viết: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội” (Dt 14,15). Con đường Chúa đi là con đường ngược chiều, có nhiều đau thương và chông gai. Thư Dothái gọi Ngài là Thượng Tế để gắn kết với hy tế mà chính Ngài đã hiến dâng. Hy lễ đền tội cho nhân loại hiến dâng lên Thiên Chúa Cha một lần là đủ.
Câu truyện trong bài Phúc Âm rất tuyệt vời. Thánh Marcô rằng hai anh em ông Giacôbê và Gioan đến gần Chúa và thưa: “Xin cho chúng con một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả Thầy trong vinh quang của Thầy”. Sự khẩn cầu của hai ông cũng giống như sự cầu xin hằng ngày của mỗi người chúng ta. Mở lời cầu xin, nếu nhận được ơn ngay, thì dễ dàng quá. Ai cũng có thể cầu xin được. Chúa Giêsu vạch rõ con đường mà mỗi Kitô hữu phải đi qua: Đức Giêsu nói: “Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?”(Mc 10,38). Không trải qua đắng cay thử thách, chúng ta không thể đạt được triều thiên vinh quang. Chúa Giêsu đã thẳng thắn trả lời cho hai ông và các Tông đồ về cách sống đạo. Muốn được hưởng vinh quang, các ngài phải uống chén đắng mà Chúa sắp uống. Có nghĩa là phải sống, phải tu luyện, phải phấn đấu trường kỳ và phải chịu mọi thử thách gian nan trong niềm tin.
Ngày nay, có những phong trào đưa dẫn nhiều người đi qua con đường tắt. Họ mở ra cho thấy hào quang thánh thiện hiện diện ngay trong đời sống mà không cần phải trải qua tu luyện và thử thách. Cứ đến mà xin, xin gì được nấy. Không phải tốn phí tiền bạc, thuốc thang, thời gian trị liệu hay phải hy sinh từ bỏ điều gì. Kiểu hành đạo quá nhẹ nhàng, dễ dãi và thoải mái, ai mà không mến chuộng. Có nhiều người quan niệm rằng chúng ta cứ tụ nhóm đọc kinh cầu nguyện và xin ơn chữa lành, Chúa sẽ ban cho tất cả. Trong khi đó chúng ta chối từ chén đắng của sự hy sinh, từ bỏ, sám hối, tránh tội, kiêng cữ và hãm mình. Chúng ta chỉ muốn thực hành đạo tại chỗ nơi hội họp và xin đừng nhắc đến đời sống riêng tư lầm lỗi. 2.000 năm trước, Chúa Giêsu đã cảnh tỉnh các Tông đồ về hành trình theo Chúa. Các ngài phải qua thánh giá và đau khổ để bước vào vinh quang.
Chúa Giêsu rất hài lòng với câu trả lời của hai ông: Các ông đáp: “Thưa được”. Đức Giêsu bảo: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu”(Mc 10,39). Chúa Giêsu đã uống chén đắng qua tất cả những khổ đau mà Ngài phải chịu. Chúa bị người đời ruồng bỏ, chống đối, tẩy chay, khinh dể, nhạo báng, đánh đập, xô đẩy, khạc nhổ, la hét, phản bội, chối từ, đóng đinh và chết trên thập giá. Chúa chấp nhận tất cả như người tôi tớ trung tín để cảm thông mọi nỗi cơ cực của con người. Hai Tông đồ Gioan và Giacôbê đã đi trọn con đường theo Chúa. Tông đồ Giacobê là người đầu tiên trong mười hai tông đồ đã đổ máu đào làm nhân chứng cho Chúa Giêsu đã chết và sống lại. Thánh Gioan đã một đời rao giảng về tình yêu của Chúa và tín trung cho đến giây phút cuối cùng.
Tin vào Chúa là bước theo con đường Chúa đã đi. Chúng ta không thể đi theo con đường tắt để đạt vinh quang. Con đường vắn gọn, thư thái nhẹ nhàng chỉ là bánh vẽ và ảo tưởng. Muốn hành đạo tốt, chúng ta phải bước xuống: “Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em”(Mc 10,43). Sống đạo phải khởi đi từ trái tim yêu thương. Chúa Giêsu đã trải nghiệm kiếp người trong khiêm hạ phục vụ. Chúa là Thầy và là Chúa đã quỳ xuống, lấy nước rửa và lau chân cho các môn đệ. Chúa đã không loại trừ một ai, cho dù Chúa biết có những đôi bàn chân không xứng đáng. Chúa đã hạ mình xuống tận cùng để lãnh nhận công việc của người tôi tớ. Từ đáy vực thẳm thấp hèn, Chúa đã nâng con người lên làm bạn hữu và được đồng thừa tự vinh quang trong Nước Chúa.
“Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người”(Mc 10,44). Lấy tinh thần phục vụ để làm thước đo giá trị đời mình. Phục vụ trên môi miệng thì rất dễ dàng nhưng phục vụ qua hành động mới mang giá trị. Đôi khi thực hành một việc rất nhỏ nhưng có giá trị lớn. Tự hỏi: Ai là người tôi tớ phục vụ trong mái ấm đời sống gia đình? Phải chăng là người mẹ. Mẹ không than van hay quản ngại việc gì, dù bề bộn khó khăn, bẩn thỉu và dơ dáy. Hằng ngày mẹ lau chùi nhà vệ sinh, quét dọn nhà cửa, rửa ráy từng cái ly, cái chén mà chồng con đã vô ý chất chồng trong bồn rửa. Có khi người bố và các con nghĩ rằng đã có người làm việc trong nhà, nên cứ việc bừa bãi. Người mẹ cứ phải nai lưng chịu đựng (after you). Trong đời sống chung, chúng ta đừng quá ỷ lại vào người khác. Mỗi người có thể góp phần phục vụ lẫn nhau, có đi có lại mới toại lòng nhau.
Chúa Giêsu mở con đường phục vụ trong khiêm hạ: “Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”(Mc 10,45). Một lời mời gọi phục vụ chân tình đối với tất cả các phẩm trật trong Giáo Hội. Đặc biệt trong các giờ phụng vụ thánh lễ và các nghi lễ, linh mục và các thừa tác viên có những trách nhiệm và bổn phận riêng phải chu toàn. Chúng ta hãy ý thức tôn trọng lẫn nhau, đừng dẫm chân lên nhau, đừng lớn tiếng phàn nàn, đừng tỏ thái độ cau có và xúc phạm danh dự của nhau. Chúng ta cùng đến để phục vụ cộng đoàn, chứ không phải được phục vụ.
Lạy Chúa, con đường Chúa đã đi xưa là con đường khổ giá, khiêm tốn và phục vụ, xin cho chúng con biết dõi theo lối gót của Chúa để cùng xả thân hy sinh phục vụ tha nhân.
23. Mù sương
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Ai đi sáng tinh sương cũng có kinh nghiệm đi trong sương. Cái mát lạnh buổi tinh sương làm con người tỉnh ngủ. Cảnh vật tươi mát, đầy sức sống mang lại niềm hy vọng ngày mới phá tan màn đêm. Ánh bình minh chan hoà sự sáng mang lại nhựa sống cho thảo vật, sinh vật. Sương sáng mang tươi mát, sự sống, niềm hy vọng nhưng sương sáng thường che đường, mờ lối người đi khiến không nhìn thấu suốt và cản trở tầm nhìn xa.
Đi đường mờ sương có nguy cơ sa hố. Sa hố ít nhiều gì cũng cản trở việc tiến tới, hay ít ra tinh thần hăng hái lúc đầu bị chùn lại, không còn mạnh chân tiến bước như lúc mới ra đi. Hơn nữa đường dài tiêu hao sinh lực nên người đi thường hoặc mong cho chóng đến nơi, hoặc mong được dừng chân lấy sức. Trường hợp của anh em Giacôbê và Gioan không mong sớm đến nơi mà mong tột đỉnh danh vọng. Không phải thích thú được ngồi bên phải, bên trái Thầy mà thích được liệt vào hàng ăn trên, ngồi trước. Đây không phải là ước mơ của riêng hai ông mà là ước mơ của các môn đệ theo Thầy. Nhìn thái độ ganh tị, không hài lòng của mười ông khác để biết rõ các ông không hài lòng. Rõ ràng điều các ông mong ước, dù nói ra hay thầm kín trong lòng đều bị một làn sương mù bao phủ khiến các ông không nhìn rõ điều các ông mong.
Có quá nhiều làn sương mù che phủ trong việc theo Thầy.
Thứ nhất các ông tin là Thầy sẽ lập vương quốc trần gian, giải thoát dân tộc khỏi ách đô hộ của ngoại bang. Xin ngồi bên phải, bên trái lãnh tụ là xin ghế lãnh đạo.
Thứ hai các ông không dự đoán phản ứng của các môn đệ khác khi các ông xin được ngồi ghế lãnh đạo.
Thứ ba các ông không hiểu về chén Thầy sẽ uống và phép rửa Thầy sẽ chịu vì thế các ông mạnh dạn thưa có.
Thứ tư các ông lờ mờ trong việc làm chứng nhân cho Thầy chính là phục vụ chứ không phải để được phục vụ.
Thứ năm các ông muốn lãnh đạo theo kiểu dân ngoại để hưởng tài lộc và danh tiếng.
Thứ sáu các ông cũng không hiểu giá cứu chuộc Thầy nhắc đến là gì. Bao nhiêu, nhiều ít và trả cho ai?
Điều chúng ta biết rõ là phục vụ đòi rộng lượng và hi sinh. Thiếu rộng lượng và hi sinh thì không thể phục vụ. Giá mà Đức Kitô nói đến không phải là trả cho Chúa Cha, cũng không phải là trả cho ma quỉ, cũng không phải trả cho chính mình cũng không phải trả cho nhân loại. Giá đó chính là giá của yêu mến chân thành, phục vụ thiết tha. Tình yêu chân chính luôn kèm theo hi sinh. Trong khi bản chất thật của hi sinh là từ bỏ. Từ bỏ có thể là từ bỏ thời gian hay ý riêng. Từ bỏ lợi danh hay tư lợi. Từ bỏ thiệt thòi và đau khổ là từ bỏ í riêng. Từ bỏ khó nhất, đau nhất và cao cả nhất là từ bỏ chính mình. Đức Kitô đã chọn từ bỏ cao cả nhất và cũng là giá cao nhất, cao đến độ không còn giá nào cao hơn nên đôi khi người ta nói đến hi sinh của Ngài là hi sinh vô giá. Nghĩa là không còn giá nào có thể vượt qua, thắng nổi giá đó nên trở thành vô giá. Ngài tự nguyện hi sinh để mang lại sự sống cho muôn người. Hi sinh đó được các tiên tri tiên đoán và loan báo nhiều ngàn năm trước.
Người phải bị nghiền nát vì đau khổ, nếu Người hiến thân làm lễ vật đền tội.
Vì nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính. Is 53,10.
Nhờ cái chết và sự phục sinh của Người đánh tan làn sương mù mà các tông đồ sau này trở thành những tôi trung không ngại đau khổ.
24. Chuyện phục vụ
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Phục vụ là giúp đỡ người khác, có thể đó là việc phải làm theo bổn phận, theo trách nhiệm, hoặc có thể là việc muốn làm vì tự nguyện. Tinh thần phục vụ làm cho chúng ta nên cao quí, vì phục vụ là dâng hiến chính con người bé nhỏ của chúng ta cho Thiên Chúa, Đấng tối cao tuyệt đối.
Hàng ngày, các công ty, các cửa hàng, các quán ăn hoặc giải khát,… luôn có những đợt tuyển nhân viên phục vụ. Công việc của người phục vụ rất bình thường, đôi khi bị coi làm tầm thường, nhưng thực ra lại rất cần thiết. Có thể nói rằng không có họ thì các sinh hoạt xã hội khó tồn tại. Không có các công nhân thì giám đốc chỉ bó tay, và xã hội sẽ không có sản phẩm để tiêu thụ. Cách phân biệt “cao – thấp” là do quan niệm của những người thiển cận, nông cạn – cũng là một dạng “thiểu não” đấy. Chỉ có người xấu chứ không có nghề xấu, cũng không có nghề nào hơn nghề nào. Tiền nhân nói: “Nhất sĩ, nhì nông; hết gạo chạy rông... nhất nông, nhì sĩ”. Ảnh hưởng “” là do quan niệm xưa: Sĩ, Nông, Công, Thương, Binh. Kẻ sĩ được coi là “dân ngon”. Nhưng hết gạo ăn thì “ngon” cái nỗi gì? Ai hơn ai đây?
Ai cũng phục vụ lẫn nhau, dù là trực tiếp hoặc gián tiếp, hoặc bằng cách nào đó. Đừng tưởng tôi tớ mới phải phục vụ chủ nhân, mà chính chủ nhân cũng phải phục vụ tôi tớ bằng cách nào đó; đừng tưởng chỉ có nhân viên mới phải phục vụ giám đốc, mà chính giám đốc cũng phải phục vụ nhân viên bằng cách nào đó; đừng tưởng chỉ có đệ tử mới phải phục vụ sư phụ, mà chính sư phụ cũng phải phục vụ đệ tử bằng cách nào đó; đừng tưởng chỉ có giáo dân mới phải phục vụ linh mục quản xứ, mà chính linh mục cũng phải phục vụ giáo dân bằng cách nào đó; đừng tưởng chỉ có bề dưới mới phải phục vụ bề trên, mà chính bề trên cũng phải phục vụ bằng cách nào đó; đừng tưởng chỉ có người nhỏ mới phải phục vụ người lớn, mà chính người lớn cũng phải phục vụ người nhỏ bằng cách nào đó;… Rất nhiều mối quan hệ trong xã hội, mọi mối quan hệ đều liên đới với nhau. Vợ chồng đối với nhau, cha mẹ và con cái đối với nhau, anh chị em đối với nhau, bạn bè đối với nhau,... nói chung là con người đối với con người. Chúa Giêsu đã có quy luật sống: “Ai làm đầu phải hầu thiên hạ” (x. Mt 20:25-28; Mc 10:40-45).
Sau khi được Chúa Giêsu chữa khỏi chứng sốt nặng, nhạc mẫu của ông Phêrô liền chỗi dậy phục vụ Người (x. Mc 1:29-31; Lc 4:38-39). Và rồi chính Chúa Giêsu đã minh định: “Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ” (Lc 22:27). Quả thật, ngay tại Bữa Tiệc Ly, trước khi Chúa Giêsu bị bắt, chính Ngài đã đích thân hạ mình bằng cách quỳ xuống mà rửa chân cho các môn đệ, Ngài muốn làm gương và dạy chúng ta về tầm quan trọng của sự phục vụ (x. Ga 13:3-20).
Chuyện phục vụ cũng liên quan thái độ “chảnh”. Người ta thường thích “sai” người ta làm cái này, việc nọ, và cứ tưởng thế là oai lắm. Ảo tưởng quá, dại dột quá, vì đi ngược lại đường lối của Chúa mà lại dám “hãnh diện”, thế mới chết chứ! Phục vụ là việc bình thường mà lại nhiêu khê. Phục vụ là dấn thân, cũng rất cần phải khiêm nhường mới có thể phục vụ. Không dễ chút nào!
Phục vụ còn liên quan nịnh bợ, tâng bốc, ranh mãnh. Cứ thấy “ông to, bà lớn” thì họ tìm mọi cách để “đưa đón” và “đẩy đưa”, đãi bôi, tâng bốc,… cốt để tỏ ra mình “oai”, tìm mọi cách “nịnh trên, đạp dưới”. Thật ra họ chỉ là “cáo mượn oai hổ”, chứng tỏ đầu óc kém cỏi, ngu dốt với cái đầu rỗng tuếch. Họ tự thú với người khác rằng “ông ơi, tôi ở bụi này”, ngu dại mà cứ tưởng mình giỏi giang. Kinh khủng thật! Tục ngữ Đức có câu nói thú vị: “Người ta bắt thỏ rừng bằng chó săn, bắt đàn bà bằng bạc tiền, và bắt kẻ ngu si bằng lời khen dối trá”.
Ngôn sứ Isaia cho biết: “Đức Chúa đã muốn người phải bị nghiền nát vì đau khổ. Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn, và nhờ người, ý muốn của Đức Chúa sẽ thành tựu“” (Is 53:10). Nghe chừng rất lạ, vì có vẻ rất… “ngược đời”, bình dân gọi là “trái khoáy”. Thế nhưng như vậy mà lại không phải như thế. Nghịch mà thuận, gọi là nghịch-lý-thuận.
Lý do vừa mặc nhiên vừa minh nhiên: “Nhờ nỗi thống khổ của mình, người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện. Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ” (Is 53:11). Ai chân thành theo Chúa sẽ được tha thứ tội lỗi, được “trắng án” và được công chính hóa – tức là được “giải án, tuyên công”, vì chính Thiên Chúa “bù lỗ” cho họ. Thật hạnh phúc biết bao!
Thiên Chúa công minh và chính trực. Ngài giàu lòng thương xót (Ep 2:4), nhưng Ngài lại thẳng thắn, không thiên vị bất cứ ai (1 Pr 1:17; Gl 2:6; Cv 10:34). Mọi lời Ngài nói đều nên trọn: “Lời Chúa phán quả là ngay thẳng, mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu thích điều công minh chính trực, tình thương Chúa chan hoà mặt đất” (Tv 33:4-5).
Thiên Chúa nhất định là Đấng chân thật, còn mọi người đều giả dối (Rm 3:4). Thiên Chúa tốt lành tuyệt đối, Ngài “không thể bị cám dỗ làm điều xấu và chính Ngài cũng không cám dỗ ai” (Gc 1:13). Tác giả Thánh Vịnh đã minh chứng: “Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa, kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương, hầu cứu họ khỏi tay thần chết và nuôi sống trong buổi cơ hàn. Tâm hồn chúng tôi đợi trông Chúa, bởi Người luôn che chở phù trì” (Tv 33:18-20).
Thiên Chúa là Tình yêu (1 Ga 4:8 và 16), là lòng thương xót, là lòng trắc ẩn. Chúng ta có biết yêu thương thì cũng là nhờ Ngài, bắt nguồn từ Nguồn Yêu Thương của Ngài. Thiếu tình yêu, chắc chắn con người sẽ chết sớm. Vì thế, chúng ta phải biết không ngừng cầu xin Ngài: “Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy Chúa, như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài” (Tv 33:22).
Yêu thương là phục vụ, không yêu thương thì người ta không muốn phục vụ – dù có thể họ vẫn biết cách phục vụ. Nhưng để có thể phục vụ, người ta phải biết yêu thương; để có thể yêu thương, người ta phải biết lắng nghe nhau, đặc biệt là lắng nghe Thiên Chúa. Ước gì mọi người đều biết sẵn sàng và mau mắn như cậu Samuel ngày xưa: “Lạy Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe” (1 Sm 3:9).
Chúa Giêsu là vị Thượng Tế biết cảm thương, luôn chạnh lòng thương xót người khác, luôn động lòng trắc ẩn trước những con người khốn khổ. Thánh Phaolô cho biết: “Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin” (Dt 4:14). Tuyên tín là điều cần thiết, nhưng lại không đơn giản, vì đơn giản như việc làm Dấu Thánh Giá mà nhiều người vẫn “e ngại”, nhất là khi có người khác tôn giáo hoặc ở nơi công cộng. Họ lý luận bằng cách phát âm là “làm dấu” nhưng thực ra là “làm giấu” đó mà!
Thánh Phaolô nói rõ ràng, dùng phủ định cách để làm nổi bật sự xác định: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần” (Dt 4:15-16). Không đến với Lòng Chúa Thương Xót không chỉ là dại dột mà phải nói là ngu xuẩn. Tuy nhiên, nếu ảo tưởng thì chúng ta chỉ “lợi dụng” Lòng Chúa Thương Xót mà thôi. TIN mình được Chúa thương thì không là kiêu ngạo, nhưng TƯỞNG mình được Chúa thương thì lại là kiêu ngạo!
Kiêu ngạo là ảo tưởng. Vì ảo tưởng mà không yêu thương – mà yêu thương thì rất thực tế, vì cần hành động cụ thể. Do đó, không yêu thương thì không thể phục vụ. Phục vụ đối lập với quyền hành, địa vị, chức tước, vì người có chức quyền không muốn phục vụ, chỉ muốn “chỉ dạy” và muốn được phục vụ. Tại sao chúng ta khó phục vụ? Bởi vì chúng ta ích kỷ, ỷ lại, ngại khó, sợ hèn, quen “chảnh”. Thánh nữ Têrêsa Avila (1515-1582), Tiến sĩ Thần bí, nhận xét: “Chúng ta quá tự ái, quá vận dụng tài trí trần gian để khoe khoang mình, đó là sự dối trá to lớn và ngông cuồng, các thánh nhân không như thế”.
Chuyện phục vụ có “dính líu” tới chức quyền. Trình thuật Mc 10:35-45 là câu chuyện đầy kịch tính về vấn đề này, hầu như lúc nào cũng là vấn đề “thời sự nóng”.
Hai người con ông Dêbêđê là Giacôbê và Gioan đến gần Đức Giêsu và “lấy lòng” Ngài bằng cách rào trước đón sau: “Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây”. Ngài hỏi: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?”. Họ không ngần ngại vào thẳng vấn đề: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang”.
Đức Giêsu trách mắng họ và Ngài cũng nói thẳng: “Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?”. Họ có vẻ “vô tư” khi trả lời Ngài: “Thưa được”. Đức Giêsu bảo: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được”. Nghe lời này, có lẽ họ cảm thấy… “ngại” lắm đấy. Và đó cũng là “tâm trạng” của chúng ta ngày nay!
Sau khi nghe hai anh em nhà Dêbêđê nói vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Giacôbê và ông Gioan. Bản tính ghen tỵ trong con người luôn muốn trỗi dậy, sẵn sàng vùng lên bất cứ lúc nào, nhất là khi cảm thấy mình “lép vế” hơn người khác. Ghen tỵ vì tự ái. Tính ghen tỵ có ở mọi nơi và trong mọi người. Tính ghen tỵ dễ thấy trong các cộng động – cả xã hội và tôn giáo. Trong các giáo xứ, đoàn thể, cộng đoàn tu trì, nhóm từ thiện, thậm chí ngay trong gia đình, chúng ta vẫn thấy có tính ghen tỵ – với các mức độ khác nhau. Con gà còn tức nhau vì tiếng gáy kia mà! Tự ái và ghen tỵ là “chướng ngại vật” khiến chúng ta khó “từ bỏ mình” theo ý của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu biết các đệ tử đang hậm hực với nhau vì muốn tranh giành quyền hành, Ngài gọi các ông lại và nói: “Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người”. Rõ ràng quá, không có gì khó hiểu, nói ngắn gọn là “ai muốn làm đầu phải hầu người khác”.
Tại sao lại “ngược đời” vậy chứ? Chúa Giêsu đã minh chứng cụ thể: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10:45). Chúng ta không thể viện cớ với bất cứ lý do gì để tự biện hộ nữa. Thật vậy, cứ “xem quả thì biết cây” (Mt 12:33; Lc 6:44).
Trong dịp viếng thăm đất nước Hoa Kỳ (cuối tháng 9-2015), ĐGH Phanxicô đã vấp bậc cầu thang và lảo đảo khi lên máy bay (*). Trong lúc đó, gió còn thổi khăn choàng vai phủ lên đầu, và không có ai đi kế bên ngài. Khi ngài lên tới cửa máy bay, có người muốn xách cặp giùm nhưng ngài từ chối. Gương khiêm nhường và phục vụ rốt rõ nét. Đúng như Chúa Giêsu đã nói: “Con Người đến KHÔNG phải để ĐƯỢC người ta phục vụ, nhưng là để PHỤC VỤ và HIẾN DÂNG mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:28; Mc 10:45). Khi ăn uống, ĐGH Phanxicô hòa mình vào với mọi người, thân thiện và gần gũi, không thích ngồi “chỗ danh dự”, không muốn đi ăn với người sang trọng mà thích đi ăn với người vô gia cư.
Còn chúng ta, nhất là những “người lớn”? Thực tế, có nhiều người chưa “lớn” đã chảnh lắm! Trả lời với Chúa Giêsu thế nào đây? Ai “dám” noi gương ĐGH Phanxicô? Có lẽ người ta gãi đầu, ậm ừ, lần lữa, và… hậu xét!
Hôm nay, ngay bây giờ, và hơn bao giờ hết, có lẽ chúng ta phải suy tư nhiều và cố gắng chân thành cầu nguyện theo gương Thánh Phanxicô Assisi: “Lạy Chúa, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người”. Lời cầu này mệnh danh là Kinh Hòa Bình vì đậm chất phục vụ theo Ý Chúa – phụng sự Chúa TRONG mọi người. Quả thật, đúng như lời Chúa Giêsu đã xác định khi “phân loại” Chiên và Dê: “Mỗi lần các ngươi LÀM [giúp đỡ] cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã LÀM cho chính Ta, mỗi lần các ngươi KHÔNG LÀM [giúp đỡ] cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta là các ngươi đã KHÔNG LÀM cho chính Ta” (x. Mt 25:31-46).
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết nhận diện chính mình để đủ sức triệt hạ “cái tôi” trong con. Hạt-bụi-con không đáng gì mà đã làm bận mắt Ngài, con chỉ là kẻ vô dụng vì bất tài, nhưng vì Tôn Danh Ngài, xin biến con thành khí cụ bình an và yêu thương, để bất cứ ai gặp con cũng gặp được Ngài, và xin cho con cũng gặp Ngài nơi những người con gặp. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
25. Đau khổ và Đức tin
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Không ai muốn “chạm trán” đau khổ, nghĩa là ai cũng tìm mọi cách và bằng mọi giá để tránh đau khổ, thế nhưng hầu như ngày nào chúng ta cũng phải đối mặt với đau khổ, dù ít hay nhiều, với các dạng và mức độ khác nhau.
Chính Chúa Giêsu đã từng tỏ cho các môn đệ biết rõ rằng “Ngài phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16:21). Một câu ngắn mà có tới 2 từ PHẢI và 1 từ BỊ, cả hai đều ở thể thụ động. Não lòng quá! Đau khổ có hệ lụy gần gũi với nước mắt, loại nước đặc biệt mang vị mặn đặc trưng.
Thế nhưng đau khổ như một phần tất yếu của cuộc sống, như “phần cứng” được cài đặt mặc định trong mỗi con người. Một đứa trẻ chưa hề nếm mùi đau khổ, thế mà vừa sinh ra đã bật tiếng khóc để chào đời. Vui sao lại khóc? Đứa trẻ nào không khóc là có vấn đề, cha mẹ lo sốt vó. Như vậy, mặc nhiên người ta đã chấp nhận sự đau khổ là phần tất yếu. Đúng vậy, Chúa Giêsu đã xác định: “Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6:34).
ĐAU KHỔ CÓ VỊ ĐẮNG HAY NGỌT?
Bài đọc I hôm nay là một phần của bài thứ tư trong số các Bài Ca Người Tôi Trung: “Đức Chúa đã muốn người phải bị nghiền nát vì đau khổ. Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn, và nhờ người, ý muốn của Đức Chúa sẽ thành tựu” (Is 53:10). “Bị nghiền nát vì đau khổ” là để “được trường tồn”. Ngược đời quá! Với con người, như thế thật là chua chát, cay đắng, có thể không còn nước mắt để khóc nữa. Người Tôi Trung đó chính là Đức Kitô, Con Thiên Chúa. Ngôn sứ Isaia giải thích: “Nhờ nỗi thống khổ của mình, người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện. Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ” (Is 53:11).
Đau khổ nào cũng cay đắng, đắng đến tê lòng, nhưng đau khổ vẫn có vị ngọt bùi kỳ lạ. Trong thực tế cuộc sống, khi chịu đau khổ vì tình yêu, có người gọi nỗi đau khổ đó là “thú đau thương”, là “nỗi đau dịu êm”. Vậy đó, đau thương mà vẫn thú vị, đau khổ mà vẫn dịu êm. Còn nước mắt lại được ví von là “giọt nước mắt ngà”. Thế mới lạ, thế mới cao thượng. Người đời con khả dĩ nhận thức như vậy huống chi những người tin nhận Đức Kitô là Thiên Chúa! Ai có thể cảm nhận được như vậy chính là người ta đã vượt lên trên nỗi đau khổ. Chắc chắn không ai có thể tránh đau khổ, nhưng muốn tránh đau khổ thì chỉ còn cách đi xuyên qua đau khổ. Đó là cách độc đáo để tự “vượt qua số phận”.
Người can đảm chấp nhận đau khổ mà không than thân trách phận, không so đo với những người may mắn khác, chắc hẳn người đó phải có chiều sâu tâm linh, sống trong niềm phó thác nơi Thiên Chúa quan phòng. Thật vậy, tác giả Thánh vịnh bày tỏ: “Lời Chúa phán quả là ngay thẳng, mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin” (Tv 33:4). Nói được như vậy là biết rõ Chúa là người thế nào: “Chúa yêu thích điều công minh chính trực, tình thương Chúa chan hoà mặt đất” (Tv 33:9). Chúng ta không thể nào hiểu hết tình yêu Chúa, cũng không thể cân-đo-đong-đếm Lòng Chúa Thương Xót, vì tình yêu thương ấy hoặc lòng trắc ẩn ấy vẫn triền miên hết ngày dài lại đêm thâu, suốt từ thuở hồng hoang trải dài từ đời nọ tới đời kia (x. Lc 1:50).
Tác giả Thánh vịnh tiếp tục minh định: “Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa, kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương, hầu cứu họ khỏi tay thần chết và nuôi sống trong buổi cơ hàn” (Tv 33:18-20). Ngay cả khi chúng ta quên Ngài mà Ngài vẫn luôn nhớ đến chúng ta, thậm chí cả khi chúng ta hoàn toàn đối nghịch với Ngài mà Ngài vẫn miệt mài tìm chúng ta để đưa về hưởng an bình nơi “đồng cỏ xanh rì bên suối ngọt lành” [x. Tv 22 (23)]. Vô tri bất mộ. Nhưng đã nếm thử Chúa ngọt ngào thế nào rồi thì không thể giữ riêng cho mình, mà tự lòng mình sẽ thôi thúc chia sẻ với người khác về Chúa: “Tâm hồn chúng tôi đợi trông Chúa, bởi Ngài luôn che chở phù trì” (Tv 33:20), đồng thời tin tưởng và vui mừng cầu nguyện liên lỉ: “Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy Chúa, như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài” (Tv 33:22).
Và tới lúc này thì sự đau khổ không còn vị đắng nữa mà lại hóa vị ngọt ngào và êm dịu. Nghĩa là người ta có thể cảm nhận sâu sắc thế nào là “thú đau thương”, là “nỗi đau dịu êm” hoặc “giọt nước mắt ngà”.
Thánh Phaolô cho biết: “Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin” (Dt 4:14). Niềm tin luôn quan trọng trong cuộc sống đời thường, đức tin càng quan trọng gấp bội trong đời sống Kitô hữu, nhất là chúng ta đang sống trong Năm Đức Tin (*), đồng thời còn phải lưu ý việc tân Phúc Âm hóa.
Thánh Phaolô vừa giải thích vừa khuyến khích: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Ngài đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần” (Dt 4:15-16). Chúa Giêsu đã mặc khải cho Thánh nữ Faustina: “Lòng Thương Xót của Thiên Chúa lớn hơn cả tội lỗi của cả nhân loại”. Quả thật, nếu Lòng Chúa Thương Xót không lớn lao hơn mọi thứ xấu xa tồi tệ nhất trên đời này thì chúng ta chết ngay lập tức. Tại sao? Không khí là bằng chứng sống động về Lòng Chúa Thương Xót: Nếu không khí loãng hơn một chút hoặc đậm đặc hơn một chút, chúng ta đủ chết ngắc rồi chứ đừng nói chi đến thiếu không khí. Đơn giản về không khí thôi thì chúng ta cũng phải không ngừng tạ ơn Chúa rồi, đừng nói chi đến những thứ khác!
ĐAU KHỔ CÓ ĐÁNG MƠ ƯỚC?
Hai người con ông Dêbêđê là Giacôbê và Gioan đến gần Đức Giêsu và nói: “Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây” (Mc 10:35). Rào trước đón sau, thậm chí như “ra điều kiện” với Chúa vậy. Và chúng ta cũng thường xuyên có cách cầu nguyện như vậy. Chúa Giêsu hỏi: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?” (Mc 10:36). Các ông thưa ngay, không hề ngại ngùng: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang” (Mc 10:37). Rất thẳng thắn, rất thực tế, rất rõ ràng. Đây là cách cầu nguyện vị kỷ và tìm tư lợi. Hai con trai ông Dêbêđê chắc mẩm Sư phụ mình rất “ngon”, nổi tiếng như cồn, quyền phép vô song, uy tín vô cùng, chắc chắn Sư phụ sẽ lên ngôi báu trị vì thiên hạ, làm cận thần của Thầy mình thì còn gì oai hơn chứ? Trên cả tuyệt vời! Nếu là chúng ta, có thể chúng ta không muốn làm cận thần như họ, vì như vậy vẫn “bèo” lắm, mà có thể chúng ta muốn làm phó nguyên soái hoặc thủ tướng, chí ít cũng phải xin làm bộ trưởng.
Tuy nhiên, Đức Giêsu bảo ngay: “Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” (Mc 10:38). Chén này không phải là chén mật hoặc chén sữa, cũng chẳng phải là chén cà-phê, càng không phải là chén mật ngọt, mà là chén mật đắng; phép rửa này không rửa bằng nước mà rửa bằng máu tươi. Có lẽ các ông không hiểu ý Chúa nên mạnh dạn đáp: “Thưa được” (Mc 10:39a). Quá ngon!
Đức Giêsu thản nhiên: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được” (Mc 10:39b-40). Vế thứ hai trong câu nói của Chúa Giêsu thật đáng lưu ý. Nghe Thầy trò họ đối thoại, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với anh em Giacôbê và Gioan. Đó cũng chính là động thái của chúng ta ngày nay, cũng ghen ăn tức ở chứ chẳng hơn gì ai!
Đức Giêsu gọi các ông lại và nói: “Anh em biết rằng những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em;ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người” (Mc 10:42-44). Và Ngài dẫn chứng: “Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10:45).
Vấn đề phục vụ là chuyện rất tế nhị, dễ “chạm” vào “phần mềm nhạy cảm” của bất kỳ ai – dù đời hay đạo. Nhưng Lời Chúa quá rõ ràng, không bóng gió, không “nói khéo”, không tránh né. Tuy nhiên, trong sinh hoạt thường nhật, cái mà người ta nói là phục vụ người khác nhưng thực chất có thể lại chỉ là cung cách “phục vụ có điều kiện”.
Phục vụ cũng liên quan đau khổ. Hầu như mọi thứ đều liên đới với nhau, nối kết như mạng nhện vậy, nối kết không trực tiếp thì gián tiếp. Trên một tấm bảng đồng, người ta khắc những dòng chữ này:
Lạy Chúa, con cầu xin được Mạnh Mẽ để thành đạt trong cuộc đời, Chúa lại làm cho con ra yếu đuối để biết vâng lời và khiêm hạ.
Con cầu xin có Sức Khỏe để mong thực hiện những công trình lớn lao, Chúa lại cho con chịu tàn tật để chỉ làm những việc nhỏ tốt lành.
Con cầu xin được Giàu Sang để sống sung sướng thoải mái, Chúa lại cho con nghèo nàn để học biết thế nào là khôn ngoan.
Con cầu xin có Uy Quyền để mọi người phải kính nể ca ngợi, Chúa lại cho con sự thấp hèn để con biết cần Chúa.
Con cầu xin cho Có Tất Cả để tận hưởng cuộc đời, Chúa lại cho con cả cuộc đời để tận hưởng mọi sự.
Con xin gì cũng chẳng được theo ý con muốn. Nhưng những điều con đáng phải mơ ước mà con không hề biết cầu xin, thế mà Chúa vẫn ban cho con thật dư đầy từ lâu.
Lạy Chúa, hóa ra con lại là người hơn hết trên đời này, bởi con đã nhận được vô vàn ân phúc của Chúa.Toàn những thứ trái ngược nhau. Tuy nhiên, chúng ta khả dĩ nhận thấy rằng đau khổ không là điều đáng nguyền rủa, mà ngược lại, đau khổ là điều đáng mơ ước: Thánh giá Chúa trao – như người ta thường nói với người gặp đau khổ. Vui chịu đau khổ là sống đức tin, là bước qua cửa hẹp (Mt 7:13-14; Lc 13:24), là vác thập giá theo Chúa (Mt 10:38; Lc 14:27), là từ bỏ mình (Mt 10:39; Lc 14:33).
Năm Đức Tin đã khởi đầu, nhắc nhở chúng ta phải nghiêm túc xem lại đức tin của chính mình: “Ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 10:32-33).
Lạy Thiên Chúa nhân hậu, xin ban cho chúng con lòng can đảm và khôn ngoan để chúng con tuyên xưng Danh Chúa mọi nơi và mọi lúc, đồng thời biết dùng ánh mắt đức tin để nhân biết Thánh Ý Ngài trong từng nỗi đau khổ của cuộc đời. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
-------------
(*) ĐGH Biển Đức XVI đã ban hành Tông thư Porta Fidei (Cổng Đức Tin) hồi tháng 10-2011, nói về việc mở Năm Đức Tin để kỷ niệm 50 năm Công đồng Vatican II (Chân phước GH Gioan XXIII) và 20 năm xuất bản sách Giáo lý Công giáo (Chân phước GH Gioan Phaolô II). Năm Đức Tin đã chính thức khai mạc tại Rôma ngày 11-10-2012, và sẽ kết thúc ngày 24-11-2013 (lễ Chúa Giêsu Kitô, Vua vũ trụ). Chủ đề của Năm Đức Tin là Tân Phúc Âm hóa.
Giáo hội Công giáo Việt Nam chính thức khai mạc Năm Đức Tin ngày 18-10-2012 tại GP Thanh Hóa, nơi diễn ra Hội nghị thường niên các Giám mục Việt Nam, và các giáo xứ khai mạc Năm Đức Tin ngày 21-10-2012, Chúa nhật Khánh nhật Truyền giáo.
26. Ai là người lớn nhất?
(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Tiến Tặng)
Như chúng ta đã biết, vào thời điểm hiện nay tại Hoa Kỳ, người dân của cường quốc này đang chú ý đến cuộc bầu cử tổng thống. Để lấy điểm dân chúng, các chiến dịch vận động tranh cử được các ứng cử tổ chức rầm rộ và quy mô, nhiều điều hứa hẹn được nêu ra qua các cuộc tranh luận…Tuy nhiên nói và làm là hai điều khác nhau. Đôi khi người ta không thực hiện được lời hứa. Có muôn ngàn lý do được nêu ra để thanh minh, nào là những khó khăn khách quan, nào là những hoàn cảnh ngoại cảnh tác động. Điều đáng nói ở đây vẫn là sự thiếu tinh thần trách nhiệm và thiếu tâm. Người ta vẫn nói rằng khoảng cách xa nhất vẫn là từ miệng lưỡi đến trái tim.
Nhân lời đề nghị của hai anh em trai Giacôbê và Gioan nhà Zêbêđê về chỗ ngồi trong nước vinh quang, Đức Giêsu đã cho các môn đệ của mình bài học về tinh thần trách nhiệm phục vụ trong bất kể chỗ đứng nào của mình: “Ai muốn làm lớn thì trở nên người phục vụ. Ai muốn làm đầu thì hầu tất cả mọi người” (Mc10, 43-44).
Đức Giêsu đã thực sự sống điều này trước khi nói ra cho các môn đệ mình. Hành động của Người luôn luôn phù hợp với những gì Người chỉ dạy. Nơi Người không hề có khoảng cách giữa lời nói và thực hành, “vì chưng Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người” (Mc10, 45). Đức Giêsu thực sự là Con Thiên Chúa, nhưng Ngài đã tự hạ mình xuống tận đáy của nhân loại để chia sẻ kiếp phàm nhân với chúng ta, ngoại trừ tội lỗi, nhằm nâng chúng ta lên địa vị làm con cái yêu dấu của Thiên Chúa.
Với Lời Chúa hôm nay, chúng ta được mời gọi đặt trọng tâm đến ý nghĩa của sự phục vụ hơn là tìm cho mình một chỗ đứng. Đó là điều căn bản để tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống. Đây cũng là cách thức nhìn nhận sự việc bằng con tim để tránh đi cái nhìn phiến diện bề ngoài.
Mỗi người đều có một chỗ đứng khác nhau để cùng xây dựng một kế hoạch chung trong tổng thể của việc cộng tác vào công trình sáng tạo. Tất cả công sức riêng của mỗi cá thể đều góp vào phần vào thành quả tốt đẹp chung. Cha Mẹ yêu thương con cái và làm hết bổn phận của mình để chúng được lớn lên về mọi phương diện. Người vợ và người mẹ được mời gọi trao hiến đời mình để phục vụ chồng và con. Cũng vậy, người chồng cần dấn thân để trở nên chỗ dựa cho vợ và con mình. Về phần mình, bậc làm con cần phải tôn trọng và vâng phục cha mẹ. Trong gia đình, mỗi thành viên thấy được chỗ đứng của mình để phục vụ người khác. Đó chính là bí quyết của hạnh phúc gia đình.
Trong khi suy niệm Lời Chúa của Chúa Nhật tuần 29 này, chúng ta nhớ đến thánh Phanxicô Khó Khăn, người đã muốn trở nên giống Đức Giêsu và sống sát với tinh thần Tin Mừng của Người. Chúng ta cũng được mời gọi trở nên sứ giả của tình thương và hòa bình:
“Lạy Chúa từ nhân
Xin cho con biết mến yêu
Và phụng sự Chúa trong mọi người
Lạy Chúa xin hãy dùng con
Như khí cụ bình an của Chúa
Ðể con đem yêu thương vào nơi oán thù
Ðem thứ tha vào nơi lăng nhục
Ðem an hòa vào nơi tranh chấp
Ðem chân lý vào chốn lỗi lầm
Ðể con đem tin kính vào nơi nghi nan
Chiếu trông cậy vào nơi thất vọng
Ðể con rọi ánh sáng vào nơi tối tăm
Ðem niềm vui đến chốn u sầu
Lạy Chúa xin hãy dậy con
Tìm an ủi người hơn được người ủi an
Tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết
Tìm yêu mến người hơn được người mến yêu
Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh
Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân
Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ
Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời
Ôi Thần Linh thánh ái xin mở rộng lòng con
Xin thương ban xuống những ai lòng đầy thiện chí
Ơn an bình”.
27. Thưa được – Lm Trịnh Ngọc Danh
Cách đây vài tuần, chúng ta đã nghe Chúa tiên báo lần thứ hai về cuộc khổ nạn Ngài sẽ phải trải qua; và qua lần tiên báo ấy, Ngài cũng đã hứa với các môn đệ là Ngài sẽ cho họ được ngồi trên ngai để xét xử mười hai chi tộc Israen; và các ông vẫn cứ đinh ninh rằng Chúa sẽ làm vua thống trị và họ sẽ được một chức vụ nào đó, nên dọc đường, các ông đã tranh cãi với nhau xem ai là người lớn hơn cả.
Trên đường lên Giêrusalem lần này, hai con ông Giêbêđê là Giacôbê và Gioan đến gần Chúa và nói: “Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây”. Ngài hỏi: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?” Các ông thưa: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang”.
Việc hai anh em con ông Giêbêđê xin được ngồi bên tả bên hữu Chúa, một lần nữa, lại gây ghen tức giữa các môn đệ, lại tranh giành địa vị xã hội vào ngày mà họ nghĩ Thầy sẽ lập vương quốc ở trần thế!
Đúng như lời Thầy khiển trách: ““Các anh không biết các anh xin gì!”
Gián tiếp Chúa cũng cho các ông biết: anh em lấy tư cách gì để xin ngồi bên tả, bên hữu Thiên Chúa! Ngồi bên tả hay bên hữu là việc Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được; “Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?”
Đây cũng là lần tiên báo thứ ba về cuộc khổ nạn Ngài sẽ phải chịu.
Hai ông dám công khai xin cho được ngồi bên hữu, bên tả Chúa kể ra cũng là một lời xin lộ liễu trước mặt các môn đệ khác, và tuy chẳng hiểu chén mà Thầy sắp uống, phép rửa mà Thầy sắp chịu là gì, nhưng hai ông vẫn quả quyết: “Thưa được”.
Có lẽ lúc bấy giờ hai ông “Thưa được” là để cho qua chuyện, nhưng về sau, lời quả quyết ấy đã trở nên sự thật. Hai ông đã uống chén đắng như Thầy đã uống và đã chịu phép rửa như Thầy đã chịu: Vào năm 44, thánh Giacôbê đã chịu tử đạo dưới thời vua Agrippa đệ nhất. Còn thánh Gioan bị bỏ vào vạc dầu sôi, nhưng được cứu thoát nhờ phép lạ; và cuối cùng ngài cũng chết anh hùng sau những tháng ngày sống lưu đày trên đảo Patmô.
Giacôbê và Gioan xin cho họ được ở vị trí cao nhất trong vương quốc của Chúa. Họ chỉ nghĩ đến mình nên gây bực tức cho người khác. Hai ông là biểu tượng cho những khát vọng trần thế: điạ vị xã hội, danh lợi, quyền thế, vinh quang, thống trị; đó là khát vọng của người đời.
Thực ra “ai ước mơ được làm thủ lãnh, là mơ ước một điều tốt lành” (1Tm. 3,1); Trong bất cứ tổ chức, tập thể nào cũng cần có người lãnh đạo. Chúa cũng không hủy bỏ vai trò của người đứng đầu, người thủ lãnh; nhưng làm thủ lãnh, làm đầu để phục vụ người khác thì khác với tinh thần làm lớn để người khác phục vụ mình.
Chúa Giêsu đưa ra hai mẫu người làm lớn, người cầm đầu thiên hạ, người thủ lãnh: mẫu người thứ nhất dùng uy quyền để thống trị và cai quản dân, mẫu người thứ hai đối nghịch với mẫu người thứ nhất là phục vụ và là đầy tớ của mọi người:“Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”.
Mẫu người làm thủ lãnh theo yêu cầu của Chúa Giêsu là phục vụ và làm đầy tớ người khác.
Có ông vua nào trên trần thế này quì xuống mà rửa chân cho các gia nhân trong triều không?
Có người nào giàu nhất thế giới mà chịu sống cảnh không cửa, không nhà, không có gối đầu để tìm đến những người nghèo khổ không?
Có vị thủ lãnh nào dám hy sinh mạng sống mình để cứu muôn người không?
Có vị thủ lãnh nào, bị nghiền nát, chịu kiếp sống lao đao, bị liệt vào hàng ngỗ nghịch vì hạnh phúc của con người không?
Thưa có. Vị vua ấy, vị thủ lãnh ấy là Vua Giêsu Kitô.
Thánh Paulinô, Giám mục thành Nôla (353-431), sau khi thu xếp xong việc gia đình, từ bỏ chức lãnh sự ở Rôma, đã sống một cuộc đời tu đức khổ hạnh và làm đến chức Giám mục. Khi quân Goths chiếm đóng xứ ngài và bắt nhiều người làm nô lệ, ngài đã bán tất cả gia sản để nuôi người nghèo và chuộc nhiều kẻ nô lệ trong số đó. Tới lúc quân Vandales tiến đến, ngài không còn gì để bán nữa nên đã hy sinh chính bản thân mình, đi làm nô lệ thay cho con trai của bà góa và bị điệu sang Phi châu. Mãi lâu sau, ngài được trả tự do và trở về lại giáo phận Nôla của ngài trước niềm hân hoan cảm phục của mọi giáo hữu.
Ngoài ra, nhân dịp này Chúa còn dạy các môn đệ một bài học sâu xa về lòng khiêm nhường phục vụ mà người thủ lãnh, người cầm đầu cần phải có.
Bất cứ ở địa vị nào, chúng ta cũng có thế phục vụ người khác; nhưng người ở địa vị có quyền lực cao là người có nhiều điều kiện và cơ hội để phục vụ người khác hơn. Quyền bính phải đi đôi với phục vụ và làm đầy tớ mọi người. Người đứng đầu lại là người rốt hết. Người có quyền lực lại là người phục vụ kẻ khác, người tôi tớ của mọi người. Vị trí vai trò đảo ngược trong Vương quốc của Thiên Chúa! Chúa đời hỏi người làm lớn, người có địa vị, quyền lực phải chấp nhận uống chén Thầy đã uống, chịu phép rửa Ngài đã chịu khác với quan niệm của thế nhân là người có quyền lực áp bức người yếu thế, người giàu sang cai trị, bắt nạt người nghèo khó.
Câu hỏi Chúa Giêsu nêu lên cho hai môn đệ Giacôbê và Gioan cũng là câu hỏi Chúa đặt ra cho mỗi người chúng ta: “Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?”
Chén mà Thầy sắp uống là chén đau khổ trong vườn cây dầu: “ Lạy Cha, nếu có thể, thì xin cho con khỏi uống chén này, nhưng không theo ý Con một theo ý Cha mà thôi”; và phép rửa Thầy sẻ chịu là phép rửa bằng máu, là cái chết đau thương trên Thập gía. Tóm lại, chúng ta có sẵn sàng chịu đau khổ với Chúa không?
Có lẽ chúng ta cũng “Thưa được” với Chúa, nhưng lại sống khác đi. Miệng chúng ta quả quyết mạnh mẽ là sẽ uống chén Chúa đã uống, sẽ sẵn sàng chịu phép rửa Chúa đã chịu, nghiã là vác lấy Thập gía theo Chúa, nhưng có thể trong thâm tâm chúng ta lại mong muốn có một cây Thập giá nhẹ nhàng, tiện lợi theo ý riêng của mình hơn là vác lấy Thập giá theo thánh ý của Chúa gởi đến cho mình.
Có lẽ chúng ta cũng đã “Thưa được” với Chúa, nhưng vẫn còn e dè tránh né chén và phép rửa Chúa đã đi qua. Chúng ta nói tới chứ chưa dám dấn thân thực sự vào, dầu Chúa đã tạo cho chúng ta nhiều cơ hội trong cuộc sống thường ngày của chúng ta.
Làm đầu hay làm người hèn mọn trong Nước trới đều là môn đệ của Chúa, đều được mời gọi phục vụ tha nhân đến quên mình, đến hy sinh mình. Không biết chúng ta đã đổ được bao nhiêu giọt mồ hôi cho Chúa, nói chi đến uống chén của Chúa, chấp nhận cuộc thanh tẩy của Chúa!
Chúa cho tôi một chỗ đứng trong Giáo hội, trong cộng đoàn, dầu chỗ đứng ấy lớn hay nhỏ, hãy lợi dụng nó để phục vụ anh em.
Chén đời sống của chúng ta có chén cay đắng, chén ngọt bùi, chén khó khăn trong việc đi theo Chúa là hy sinh và phục vụ người khác. Ai chia sẻ với Chúa chén cay đắng của Thập giá thì cũng sẽ chia sẻ với Ngài sự vinh quang Phục sinh.
28. Hơn thua – Lm. Anmai
Sống không hơn thua, không tranh giành chắc không thú vị hay sao đó?
Hôm nay, chúng ta lại bắt gặp câu chuyện tranh giành và những người tranh giành không ai khác đó chính lại là những người thân cận, những môn đệ thân tín của mình.
Giacôbê và Gioan con ông Giêbêđê đến gần Chúa Giêsu và thưa với Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con muốn Thầy ban cho chúng con điều chúng con sắp xin Thầy". Nghe xong, Chúa Giêsu hỏi luôn: "Các con muốn Thầy làm gì cho các con?" Các ông nghe thế cũng thưa lại ngay: "Xin cho chúng con một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả Thầy trong vinh quang của Thầy".
Chúa Giêsu hết sức bình thản và từ tốn nới với các ông: "Các con không biết các con xin gì. Các con có thể uống chén Thầy sắp uống và chịu cùng một phép rửa Thầy sắp chịu không?" Nghe như thế, tưởng sẽ được Chúa ban cho điều mình xin nên đáp ngay: "Thưa được". Chúa Giêsu bảo: "Chén Thầy uống, các con cũng sẽ uống, và phép rửa Thầy sắp chịu, các con cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì không thuộc quyền Thầy ban, nhưng là dành cho những ai đã được chỉ định".
Các ông có lẽ buồn thiu trước lời của thầy mình. Tưởng chừng với hai tiếng thưa được đó các ông cũng được điều mà các ông xin.
Sau đó, Chúa Giêsu gọi các ông lại gần mà bảo: "Các con biết rằng những người được coi là lãnh tụ các nước, thì sai khiến dân chúng như ông chủ, và những người làm lớn thì lấy uy quyền mà trị dân. Còn các con không như thế. Trái lại, ai trong các con muốn làm lớn, thì hãy tự làm đầy tớ anh em. Và ai muốn thành người cầm đầu trong các con, thì hãy tự làm nô lệ cho mọi người. Vì chính Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người".
Chúa Giêsu, có lẽ nhân cơ hội này muốn mời gọi các ông nhìn lại con đường của các ông theo Chúa. Con đường theo Chúa không phải là con đường vinh quang mà là con đường thập giá.
Trang sách ngôn sứ Isaia cho chúng ta hình ảnh của người tôi tớ đau khổ. Hình ảnh người ngôn sứ đó là Chúa đã muốn hành hạ người trong đau khổ. Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ thấy một dòng dõi trường tồn, và nhờ người, ý định của Chúa sẽ thành tựu. Nhờ nỗi khổ tâm của người, người sẽ thấy và sẽ được thoả mãn. Nhờ sự thông biết, tôi tớ công chính của Ta sẽ công chính hoá nhiều người, sẽ gánh lấy những tội ác của họ.
Chắc có lẽ không cần phải nói nhiều, chúng ta phần nào thấy được cuộc đời của các ngôn sứ và cách riêng với ngôn sứ Isaia. Phải nói là quá đau khổ chứ không phải là đau khổ bình thường nữa. Thế nhưng mà, qua đau khổ đó, Chúa Giêsu cứu độ con người.
Trong thư Do Thái chúng ta vừa nghe, chúng ta lại bắt gặp một lần nữa hình ảnh, thân phận của Chúa Giêsu: Anh em thân mến, chúng ta có một Thượng tế cao cả đã đi qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, nên chúng ta hãy giữ vững việc tuyên xưng đức tin của chúng ta. Vì chưng, không phải chúng ta có vị Thượng tế không thể cảm thông sự yếu đuối của chúng ta, trái lại, Người đã từng chịu thử thách bằng mọi cách như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Vậy chúng ta hãy cậy trông vững vàng mà tiến đến trước toà ân sủng, ngõ hầu lãnh nhận lòng từ bi và tìm kiếm ân sủng để gặp được ơn phù trợ kịp thời.
Đây là chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian! Thánh Gioan đã hơn một lần giới thiệu với mọi người, giới thiệu với chúng ta về Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu đến trong thân phận con người, Ngài đồng thân đồng phận để thông cảm sự yếu đuối của con người và thậm chí Ngài còn chịu những thử thách hết sức nghiệt ngã ngoại trừ tội lỗi để cứu con người tội lỗi của chúng ta.
Hành trình lịch sử, dòng lịch sử cứu độ đã để lại cho chúng ta bài học hết sức rõ ràng về vị ngôn sứ thời đại là Chúa Giêsu.
Quá nhiều lần, chúng ta đã than trách Chúa đủ thứ điều này điều kia hết. Và rồi, khi không được như điều mà ta xin thì ta lại quay quắt với Chúa.
Ngày hôm nay, nếu có mặt ở đây với ta, Chúa Giêsu cũng sẽ hỏi ta là ta có uống được chén đắng mà Chúa đã uống hay không? Có đi qua con đường thập giá như Chúa đã đi không?
Bao nhiêu lần chúng ta đau khổ với Chúa, bao nhiêu lần chúng ta cũng đã hát thật to rằng con xin theo Chúa đến giây phút cuối cuả cuộc đời nhưng rồi ta có theo thật hay không? Hay là chúng ta cũng chỉ hát ngoài môi ngoài miệng thôi.
Con đường đau khổ mà Chúa đang gửi đến cho chúng ta, chúng ta bình tâm nhìn lại thử xem? Chúng ta hạnh phúc hơn quá nhiều người nhưng chúng ta đâu có cảm nhận ra cái hạnh phúc đó để rồi chúng ta càm ràm thế này thế nọ. Và, có những đau khổ do chính chúng ta gây ra nhưng chúng ta không biết đó thôi.
Nhìn lại từ gia đình, từ bản thân chúng ta, Chúa ban cho qua nhiều nhưng rồi chúng ta không nhận ra để rồi cứ mãi ganh tỵ với anh chị em đồng loại thôi. Cũng chỉ vì ganh tỵ mà ngay trong chính gia đình của chúng ta mới xáo trộn.
Chúa Giêsu đã đến trong trần gian này để gánh tội cho chúng ta rồi, xin đừng chất thêm tội trên cuộc đời của Ngài nữa. Hãy bớt đi những lầm lỗi của chúng ta để Ngài bớt đi gánh nặng của chúng ta.
Nhiều lúc, do vô tình hay cố ý, chúng ta lại chất thêm gánh nặng cho anh chị em đồng loại của chúng ta.
Xin cho chúng ta trong sâu lắng của lòng mình, bớt đi những tôi lỗi, bớt đi những yếu đuối để làm bớt đau khổ cho Chúa. Và nếu có, xin Chúa thêm ơn cho chúng ta để chúng ta vác thập giá mà Chúa gửi cho đến hơi thở cuối cùng.
29. Phục vụ – Jean-Yves Garneau.
Chỗ nhất.
Giacôbê và Gioan không ngần ngại xin Chúa Giêsu điều mà các ông mơ ước có lẽ đã từ lâu. Trong vương quốc của Ngài, các ông muốn được những chỗ nhất, bên tả và bên hữu Ngài. Mười môn đệ kia nghe các ông xin như vậy thì lấy làm chướng tai… Điều đó cho thấy rõ rằng chính các ông này nữa muốn những chỗ nhất ấy.
Chúng ta đừng nói đó là chuyện trẻ con, là nhẹ dạ. Tự bản chất, con người muốn làm lớn, muốn ở trên kẻ khác, muốn thống trị, thích tìm ngồi chỗ nhất. Xã hội chúng ta lại khuyến khích và khơi dậy ước muốn đó, một ước muốn mà mọi con người bình thường đều có. Xã hội sùng bái những người đứng đầu, chiều chuộng những kẻ giàu nhất, mạnh nhất, thông minh nhất, đẹp nhất, táo bạo nhất. Chỗ nhất! Đôi khi chẳng có gì mà người ta không làm để đạt tới đó. Không phải ai cũng đều thành công, nhưng ai cũng ao ước, ai cũng mơ ước được như vậy.
Phục vụ chứ không phải được phục vụ.
Ta hãy lưu ý rằng Chúa Giêsu không trách hai môn đệ của Ngài vì muốn được gần Ngài trong vinh quang Thiên quốc. Ngài cũng không bảo các ông rằng ước muốn của các ông sẽ không thành đâu. Ngài không biết được. Không phải Ngài quyết định về việc này. “Về việc ở bên hữu hoặc ở bên tả Thầy thì không phải Thầy ban cho được”. Tuy nhiên Ngài lợi dụng dịp này để nhắc lại một giáo huấn cơ bản mà các môn đệ của Ngài khó hiểu.
Giáo huấn đã được lặp lại bao nhiêu lần rồi là: Những kẻ cao trọng trước mặt Thiên Chúa không phải là những kẻ để cho người ta phục vụ mình, nhưng là những kẻ phục vụ; những kẻ xứng đáng chỗ tốt trong Nước Trời, không phải là những kẻ chỉ biết ước mơ xin xỏ, nhưng là những kẻ bắt chước Chúa Kitô, uống chén đắng mà Ngài đã uống, làm đầy tớ như Ngài, chịu thanh tẩy bằng đau khổ như Ngài.
Uống chén đắng, được thanh tẩy bằng cuộc thanh tẩy bằng cuộc thanh tẩy của Chúa Kitô: làm đầy tớ, làm nô lệ mọi người, phục vụ chứ không mong người ta phục vụ mình, hiến mạng sống mình làm giá chuộc nhiều người, gặp thử thách, bị đau khổ nghiền nát, làm cho cuộc sống của mình trở thành một của lễ hy sinh đền tội… Đó là những từ ta gặp thấy trong các bài đọc hôm nay. Những từ ngày bổ túc cho nhau và diễn tả những gì làm cho chúng ta trở nên cao trọng trước mặt Thiên Chúa và những gì cho phép đạt đến những chỗ nhất bên cạnh Chúa Kitô. Ta có thể tóm tắt giáo huấn này bằng công thức sau đây: Phục vụ chứ không phải được phục vụ.
Một công việc khó nhọc.
Dĩ nhiên chúng ta có ý muốn bước theo Chúa Kitô và thực hành lời giáo huấn của Ngài. Nhưng chúng ta biết rằng điều này không dễ. Phục vụ, phục vụ cách vô vị lợi, phục vụ trong sự quên mình và xả thân, phục vụ cho đến nỗi phải đau khổ, không thể trong vòng một ngày mà chúng ta làm được và cứ phải làm lại mãi.
Bao nhiêu người muốn và tự nhủ phục vụ kẻ khác nhưng không phục vụ hoặc chỉ làm nửa chừng thôi. Người bán hàng nói với khách hàng “Xin phục vụ quý vị!”. Các nhà chính trị tuyên bố: “Hãy bỏ phiếu cho tôi để tôi có thể phục vụ quý vị!”. Các công đoàn tự nhủ sẽ phục vụ công nhân, các công ty lớn khẳng định là đưa tài sản phục vụ sự tiến bộ của xã hội, các bác sĩ muốn phục vụ bệnh nhân, các giáo sư phục vụ sinh viên. Các phụ huynh phục vụ con cái, các cha sở phục vụ con chiên và Giáo Hội phục vụ hết thảy mọi người bắt đầu từ những người nghèo nhất…
Có nguy cơ lạm dụng hai từ phục vụ. Bao nhiêu dịch vụ vẫn chẳng có gì là vô vị lợi cả! Nhiều tham vọng, có thể trà trộn vào ý muốn chân thành phục vụ.
Dù ở địa vị nào trong xã hội của chúng ta, bất chấp dù mức sống cao hay thấp, dù tài năng ra sao, dù làm công việc gì, chúng ta có quan tâm đến phục vụ kẻ khác không? Chúng ta có thực sự phục vụ họ không? Đó là những câu hỏi được đặt ra cho chúng ta hôm nay.
30. Lật ngược xuống là đúng chiều rồi.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)
Món Bánh táo đảo ngược là món ưa thích đối với nhiều người. Trong lúc nướng nó có vẻ giống như là bình thường và bằng phẳng, nhưng khi được phục vụ với đường, nước sốt và mứt trên đỉnh. Chúng ta có thể tin rằng Mẹ Maria đã không bao giờ nướng bánh táo lật ngược cho Chúa Giêsu (vì Giuđêa thời gian đó chưa nhập khẩu của Hawai), nhưng nếu Mẹ đã làm bánh táo này thì đó là món ưa thích đối với Chúa Giêsu. Lý do là khi bánh đảo ngược xuống giới thiệu những giá trị của Chúa Giêsu vì chúng xuất hiện trên bề mặt úp xuống.
Xã hội thế tục nói rằng: “Hãy tiến lên phía trước, hãy cạnh tranh. Đừng để bất cứ ai vượt qua mặt bạn. Hãy trình bày cho mọi người biết ông chủ là ai. Hãy làm cho mọi người nghĩ rằng bạn là quan trọng. Hãy tự chăm sóc như là số một. Hãy làm điều đó”. Ngay những tông đồ mặc dù không sống trong kỷ nguyên của chúng ta “nơi cái bánh ngọt lật ngược” họ đã nếm, đã thưởng thức với những loại tham vọng mà xã hội của chúng ta ngày nay đang tiến cử và Chúa Giêsu thì chống lại nó.
Tham vọng nơi lòng của Giacôbê và Gioan thì mạnh mẽ khiến cho họ bạo gan đòi hỏi Chúa Giêsu cho họ được ngồi ở chỗ quan trọng, bên phải hoặc bên trái Người khi Ngài tiến vào trong vinh quang của Người. Họ nhấn mạnh: “Hãy xem”. Chúng ta không chắc là những tông đồ đã tranh luận điều đó với Chúa Giêsu trong bao lâu, nhưng Giacôbê và Gioan đã không hiểu cả hai: Giáo huấn và gương mẫu của Chúa Giêsu.
Giáo huấn chắc chắn của Chúa Giêsu là khiêm nhường không được kiêu ngạo, đó là chúng ta phải sẵn lòng phục vụ người khác, không thống trị người khác. Từ khi Giacôbê, Gioan và những tông đồ khác đã thất bại trong việc nắm bắt giáo huấn của Chúa Giêsu, Người đã trở thành rõ ràng bao nhiêu có thể. Ngài nói: “Bất cứ ai trong các ngươi muốn làm lớn thì phải phục vụ như người hầu hạ, bất cứ ai muốn ngồi chỗ nhất thì phải phục vụ tất cả những người có nhu cầu”. Đó là tóm tắt tất cả giáo huấn của Người.
Gương mẫu của Chúa Giêsu còn quan trọng hơn giáo huấn của Ngài nữa, Chúa Giêsu là người Con đời đời của Thiên Chúa, đã rời bỏ ngai tòa trên trời mà trở nên một với chúng ta. Ngài đã từ bỏ tất cả những xa hoa của xã hội thế tục, Chúa Giêsu đã khiêm tốn, Ngài khiêm tốn trong suy nghĩ, không phải cho chính Ngài nhưng cho chúng ta, Ngài đã trở thành con người, Người trở thành tư tế, trở thành Đấng Cứu độ chúng ta, Đấng mà chúng ta có thể tin tưởng và nhận được lòng thương xót và giúp đỡ trong những giây phút cần. Đó là gương mẫu của Người mà Người đã trình bày trong khi tuyên bố: “Này Con Người đến không phải để được phục vụ nhưng phục vụ và hiến trao mạng sống để cứu chuộc muôn dân”.
Khi chúng ta tham dự Thánh Lễ, chúng ta vẫn còn tiếp tục là nhân chứng cho sự khiêm nhường của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đến với chúng ta trong bí tích Thánh Thể không phải để đặt bẫy cho sự trung thành hoặc là ở giữa những tiếng xập xình của các tín hữu hoặc là ở giữa những tiếng kèn trumbét của các thiên thần trên trời. Ngài đã đến trong sự khiêm tốn, Ngài đã sẵn lòng trở nên tầm thường, một tấm bánh đơn giản trở nên thân thể của Người, và Người đã thay đổi rượu nho rẻ tiền trở thành Máu Người, Người đã làm như thế để phục vụ chúng ta và không có điều gì hơn là để cho chúng ta có thức ăn và thức uống, nhưng chính Người là của nuôi sống thiêng liêng cho chúng ta. Thiên Chúa có thể nghĩ được điều gì hơn, gương mẫu nào hơn, trong sự khiêm nhường và phục vụ để cạnh tranh hơn không? Hãy để cho những người khác ước ao cố gắng làm Chúa trên những người khác thấy điều này, tất cả chúng ta có gương mẫu và giáo huấn của Chúa Giêsu. Một số người đã cố gắng làm ra vẻ quan trọng, Chúa Giêsu nói: “Đừng làm như thế”.
Thật là tồi tệ khi các tông đồ đã không bao giờ ăn một cái bánh đảo ngược, điều đó thì có thể cho họ nhưng điều đo cũng sẽ là cho chúng ta, một dấu hiệu mà Chúa Giêsu đã đảo ngược lại thành đúng chiều.
31. Thế giới đảo ngược – Achille Degeest.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’).
Vài ghi nhận chi tiết trước khi đi vào một khía cạnh sâu sắc của bài Phúc Âm Giacôbê và Gioan là con ông Zêbêđê và bà Salômê, bà này có họ xa với Chúa Giêsu. Theo một tục lệ phương đông và đặc quyền huyết tộc, hai anh em có lẽ cho việc cầu cạnh những chỗ trên trước là thường tình vì tất cả tộc họ đều được dự phần vào sự làm nên người trong họ. Mặt khác, ta ghi lại câu đáp của hai anh em trả lời Chúa: Thưa được. Tầm mức của câu đáp đi tới đâu? Có thể họ nghĩ tới sự thiết lập vương quốc mà toàn dân mong đợi, sẽ không tránh được khó khăn và hai anh em tuyên bố sẵn lòng đương đầu. Dường như họ không ý thức được thực tại sau này của Thập Giá. Trong Kinh Thánh, có những đoạn lấy chén uống làm biểu tượng cho niềm vui, trong những đoạn khác làm biểu tượng cho cay đắng, ở đây Chúa theo nghĩa chén uống chỉ sự cay đắng, và phép rửa Người nói đến trong đoạn này có nghĩa tương tự với câu chúng ta thường nói ngày này: ‘Bị dìm sâu trong thống khổ’.
1) Chén Ta phải uống... thanh tẩy ta chịu. Chúa dùng những từ ngữ mà mãi sau cuộc Khổ nạn và Phục sinh các môn đệ mới hiểu, để loan báo rằng số mệnh dưới thế của người không phù hợp với khái niệm của các môn đệ. Họ bám chắc lấy phương án trù hoạch, một vương quốc thế gian mà Chúa sẽ là Vua. Khó khăn lắm Chúa mới đảo ngược não trạng đó và chuyển đổi hy vọng của các môn đệ từ tầm mức tham vọng trần tục, đến thực tại công cuộc cứu rỗi. Cũng giống nhiều đoạn Phúc Âm khác, câu hỏi của Chúa chất vấn chúng ta ngày nay. Cuộc phấn đấu nói trong Phúc Âm, chúng ta quan niệm nó như thế nào? Mục tiêu chúng ta là gì? Giả sử nhân danh lý tưởng quảng đại của một nhân loại tốt đang sống, chúng ta phấn đấu cho một ý thức hệ trong đó Phúc Âm chỉ là một sự đóng góp trong giả thuyết ấy, chúng ta sẽ chỉ mưu tìm chiến thắng cho những tư tưởng của chúng ta. Trên hình diện này, ở ngoài Phúc Âm cũng có những chủ nghĩa độ thế có độ lượng nhưng là thứ độ lượng cuồng tín. Lời kêu gọi trước tiên và đặc thù của Phúc Âm thuộc một trật tự khác, Phúc Âm mời chúng ta tham dự thanh tẩy và chén đắng của Chúa Giêsu.
2) Ai muốn làm lớn trong các ngươi, thì hãy hầu hạ các ngươi. Chúa cố tháo gỡ một thứ xác tín theo bản năng ra khỏi đầu óc các môn đệ, thứ xác tín này khiến người ta nghĩ rằng điều quan trọng là tổ chức thế giới hiện đại theo những lời phán hứa của Thiên Chúa, được họ hiểu theo hướng nghĩ vật chất. Trong thế giới ấy, dịch vụ ‘tốt’ là chiếm lấy những chỗ tốt nhất. Vậy mà Nước Trời có những quy luật khác. Trước khi chính mình làm gương phục vụ hoàn toàn, Chúa cố giác ngộ các môn đệ cho họ ý thức được sự đòi hỏi đó. Chúa làm họ ngẩn ngơ, họ không hiểu Chúa muốn nói gì, nhưng sau này, họ sẽ hiểu và không quên bài học đó. Sau cuộc khổ nạn và Phục Sinh, họ sẽ phát hiện rằng: Tâm điểm của sự đòi hỏi phục vụ chính là tình yêu. Chúa tự hiến, vì tình yêu cho Cha Người, từ Chúa Cha phát xuất tình yêu của Chúa đối với loài người. Tình yêu thương của chúng ta đối với anh em nhân loại có đích thật vững vàng, bền bỉ, độ lượng, rộng lớn, sẵn sàng phục vụ là tùy thuộc ở mức độ chúng ta bị thâu tóm bởi tình yêu của Đức Kitô.
32. Về ba tuyến nhân vật
(Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm - theo gợi ý của cha Ngọc Hàm)
Đây là câu chuyện vạch rõ cho chúng ta thấy được nhiều điều hay, về 3 tuyến nhân vật: (1) về Matcô, người thuật chuyện; (2) về hai anh em kia, nhân vật phản diện; và (3) về Chúa Giêsu, nhân vật chính diện
1. Câu chuyện cho chúng ta biết đôi điều về Maccô
Matthêu cũng kể câu chuyện này (Mt 20, 20-23) nhưng lời yêu cầu không do Giacôbê và Gioan đích thân nêu ra, nhưng do mẹ của hai ông là bà Salômê. Có lẽ Matthêu cảm thấy rằng một lời yêu cầu như thế là không xứng đáng cho một tông đồ, nên nhằm cứu vãn tiếng tăm cho Giacôbê và Gioan, ông đã gán lời yêu cầu đó cho tham vọng tự nhiên của bà mẹ. Còn Matco nói rõ: chính 2 ông đến xin. Câu chuyện này cho chúng ta thấy sự thành thực của Maccô.
Người ta kể rằng có một họa sĩ trong triều đình vẽ chân dung cho Oliver Cromwell là người đầy mụn cóc. Nghĩ là để làm vui lòng Oliver, họa sĩ không vẽ những mụn cóc đó trong bức họa. Khi Cromwell thấy như vậy ông nói "dẹp bức chân dung này đi, vẽ cho ta một bức đầy đủ các mụn cóc".
Mục đích của Maccô là muốn chúng ta thấy đầy đủ mụn cóc của các tông đồ. Khi mười người môn đệ kia nghe biết thì đâm ra tức tối với hai ông. Không phải vì họ khiêm tốn nhưng vì họ cũng muốn những điều tương tự như hai ông. Và Maccô đã có lý, vì mười hai tông đồ vốn không phải là tập thể các vị thánh. Họ chỉ là những con người bình thường, đầy mụn cóc.
Chúa Giêsu đã dùng những con người tầm thường thế đó để thay đổi thế giới. Điều này đã thành hiện thực.
2. Câu chuyện cho chúng ta biết vài điều về Giacôbê và Gioan.
- Hai ông vốn có nhiều tham vọng. Họ nhắm những chức vụ cao nhất trong vương quốc của Chúa Giêsu khi cuộc chiến đã thắng và sự khải hoàn đã trọn vẹn. Có thể tham vọng đó đã manh nha, vì nhiều lần Chúa Giêsu từng biệt riêng họ ra trong số ba người chọn lọc tin cẩn. Hiển dung, chữa lành em bé chết sống lại, Lc 8, 51, vườn cây dầu. Có thể họ đã có một chỗ đứng khá hơn những tông đồ khác, dám xin lửa từ trời xuống thiêu đốt làng không cho thầy trò đi qua.
Thân phụ họ vốn khá giả đủ để thuê người giúp việc nên họ tưởng rằng ưu thế và địa vị xã hội có thể giúp họ chiếm được địa vị hàng đầu. Họ lại quen thượng tế: đâu phải dễ. “Môn đệ kia vì quen thượng tế, nên cùng với Chúa Giêsu vào sân trong tư dinh thượng tế” (Ga 18,15). Cho nên với câu chuyện xin xỏ nầy, để lộ cho thấy họ là những con người từ nơi sâu kín của lòng, có tham vọng chiếm giữ vị trí hàng đầu trong vương quốc trần gian.
- Nó cho chúng ta thấy hai ông hoàn toàn không hiểu Chúa Giêsu. Điều lạ lùng đối với chúng ta không phải là sự kiện ấy đã xảy ra, nhưng là thời gian mà sự việc ấy đã xảy ra. Lời yêu cầu này khiến chúng ta phải bàng hoàng vì nó được đưa ra hầu như trùng hợp với lúc Chúa Giêsu tuyên bố dứt khoát và báo trước chi tiết về cái chết của Ngài. Chứng tỏ họ đã hiểu quá ít ỏi những gì Chúa Giêsu nói. Lời lẽ của Ngài đã không gột rửa được ý niệm về Đấng Messia với quyền thế và vinh hiển thế gian, vốn ăn sâu trong tâm trí hai ông. [Chỉ có thập giá mới làm nổi việc ấy mà thôi.]
- Nhưng sau khi đã nói tất cả những gì có thể nói chống lại Giacôbê và Gioan thì câu chuyện này cho chúng ta thấy một điểm sáng chói về hai ông là: dù họ đang bàng hoàng, bối rối, họ vẫn tin vào Chúa Giêsu.
Điều đáng ngạc nhiên là họ vẫn còn gắn liền vinh quang với một người thợ mộc dân Galilê, người đã bị các cấp lãnh đạo chính thống giáo thù ghét, chống đối kịch liệt và rõ ràng đang tiến đến chỗ nhận lấy thập giá. Đây là một lòng tin cậy tập trung đáng cho chúng ta phải kinh ngạc. Họ vẫn đánh cuộc, vẫn “bắt” Giêsu (như trong cá cược bóng đá, biết một đội đủ mặt yếu, mà vẫn nhìn thấy được tương lai, tin mãnh liệt, để “bắt” đội đó thắng !). Dù Giacôbê và Gioan đã phạm sai lầm, tấm lòng của họ vẫn nằm đúng vị trí đáng phải có. Họ chẳng hề hoài nghi gì về chiến thắng khải hoàn tối hậu của Chúa Giêsu.
3. Câu chuyện cho chúng ta biết đôi điều về tiêu chuẩn vĩ đại của Chúa Giêsu.
Chúa nói: ai muốn làm lớn (vĩ đại), phải trở nên người nhỏ nhất. Ai muốn làm đầu, phải hầu thiên hạ.
Câu nói xem ra nghịch lý nhưng sự đời lại thường như vậy, kiểu như câu nói cán bộ lớn đi xe con, cán bộ nhỏ đi xe lớn.
Nhà chiến lược kinh doanh Bruce Barton chỉ cho thấy rằng căn bản là một hãng ôtô dựa vào để lưu tâm của khách hàng là họ sẵn sàng chui xuống gầm xe bạn thường hơn, chịu dơ bẩn bất cứ lúc nào. Nói cách khác, họ sẵn sàng phục vụ nhiều hơn, thì hãng xe của họ lớn mạnh hơn.
Barton cũng chỉ cho thấy rằng trong khi người thư ký bình thường có thể đi về nhà từ 5 giờ 30 chiều, thì ánh đèn trong văn phòng giám đốc điều hành vẫn còn sáng đến tối. Vì sẵn sàng phục vụ thêm giờ mà người ấy đứng đầu xí nghiệp.
Mẹ Têrêxa Calcutta phục vụ những người hèn mọn nhất, những người hấp hối không một chút tiện nghi tối thiểu, những trẻ em bị bỏ rơi, mà rồi trở nên vĩ đại, đến nỗi khi chết, Ấn Độ, một nước Ấn giáo là quốc giáo, cử quốc tang với 21 phát súng tiễn mẹ.
Hôm nay cũng là lễ cầu nguyện cho truyền giáo. Sứ điệp truyền giáo năm nay của ĐGH có chủ đề: “Cùng với người trẻ, chúng ta mang Tin Mừng cho tất cả mọi người” nhân Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới đang họp tại Roma về chủ đề người trẻ.
Có 1 ông đã kể lại lý do và động lực thúc đẩy ông theo đạo như sau: “Tôi đau rất nặng, người ta đưa tôi vào bệnh viện, không ai chăm sóc tôi cả ngoài một chị y tá còn trẻ, chị tỏ ra rất tốt và tận tình giúp đỡ tôi. Một đêm kia, trời đã rất khuya, tôi thấy chị quỳ gối im lặng trong phòng, tôi hỏi: ‘Chị quỳ làm gì thế ?’. Chị trả lời: ‘Tôi cầu nguyện cho ông’. Chỉ mấy tiếng đó thôi đủ làm cho tôi bấy lâu không biết Chúa, bây giờ được biết Chúa, tôi thấy Chúa nơi người chị y tá ấy. Giữa những đau khổ thể xác và tinh thần, nhờ sự săn sóc đầy tình người và những lời cầu nguyện đầy yêu thương của chị y tá ấy, tôi đã gặp Chúa”.
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy gương sáng và tình yêu thương là bằng chứng cho người ta nhận ra Thiên Chúa. Có nhiều người không bao giờ thấy chúng ta cầu nguyện sốt sắng ở nhà thờ, vì họ có đạo đâu mà đến nhà thờ, nhưng họ thấy cách chúng ta biểu lộ tình thương với họ hay với những người chung quanh mà họ nhận ra Thiên Chúa của tình yêu. Nếu chúng ta sống thực sự yêu thương thì không ai đánh giá sai lầm về đạo Chúa. Khi chúng ta chứng minh tình yêu bằng đời sống tốt thì chúng ta thực sự trở nên những người bạn tốt của nhau.
Việc xin ngồi bên hữu bên tả của Thầy rút ra bài học hay này: Chúng ta không giữ đạo để đòi một chỗ thật cao, nhưng mong được ban một chỗ thật gần bên Chúa. Bên phải bên trái là sát bên Thầy. Mà Chúa đồng hóa mình với người tôi tớ, người bé nhỏ, người hèn mọn, cho nên càng là người tôi tớ, càng phục vụ, càng được ở gần Thầy.
33. Ra lệnh và truyền lệnh – Gm Arthur Tonne.
Francis Joseph, hoàng đế nước Áo và vua nước Hungari từ 1848 đến 1916, một triều đại dài nhất trong lịch sử, cũng là triều đại tiến bộ nhất. Francis Joseph là người nghiêm khắc nhưng ông trị vì rất khoan dung. Khởi đầu triều đại ông, bệnh dịch tả lan tràn khắp Châu Âu. Người ta xin Francis rời Vienna để lánh nạn sang Salzburg cho tới khi tai nạn qua đi.
Hoàng đế hỏi: "Ở Salzbugr có đủ phòng cho các con ta không?" Quan cố vấn trả lời: "Chắc chắn, tâu Hòang Thượng, có nhiều phòng cho tất cả hoàng gia".
"Có thực sự đủ phòng cho các con ta?" Vừa chỉ tay qua cửa sổ lâu đài, về phía đám đông dưới, hoàng đế vừa nhắc lại: "Hãy nhìn đám dân này. Chúng là con của ta. Cha của chúng bỏ mặc chúng trong nguy hiểm sao? Không, những người thành Viena yêu quí luôn chia sẻ vui buồn với ta. Ta sẽ không bỏ họ trong giờ lo âu".
Chúng ta vừa nghe: Hai môn đệ Đức Kitô. Giacôbê và Gioan muốn được địa vị vinh dự và uy quyền trong Nước Chúa, Chúa Giêsu nhắc họ rằng: "Những người cai trị thế gian thì sai khiến con dân mình. Nhưng đó không phải là đường lối của Nước Chúa. Trong Nước Chúa ai có quyền bính phải là đầy tớ của người dưới quyền mình". Francis Joseph là một tấm gương về điều ấy.
Ngày nay, người ta tranh luận nhiều về quyền bính và tự do. Một chân lý nền tảng cho cuộc tranh luận này là: Trong mọi xã hội, loài người đều phải có người nắm quyền bính, một người có quyền và có bổn phận ra lệnh, một người có quyết định tối hậu. Bạn không thể có một quốc gia không người thủ lĩnh. Bạn không thể có một đội banh không huấn luyện viên, một chiếc tàu không có thuyền trưởng, một quân đội không tướng, một bộ lạc không tù trưởng, một xí nghiệp không giám đốc. Mỗi tập thể loài người đều phải có "ông Bầu" hoặc chỉ định hoặc bầu lên.
Chúa Giêsu biết cần phải có quyền bính. Người chỉ than phiền là nhiều người lạm quyền, lạm dụng quyền bính. Người ta ích kỷ, bất công, có khi còn tàn bạo nữa. Trong Nước Chúa Kitô, người lãnh đạo phải là đầy tớ của mọi người.
Bây giờ chúng ta tìm câu trả lời cho vấn đề quyền bính và tự do. Người chỉ huy phải dự tính và hành động vì lợi ích của tập thế. Cùng lúc người dưới phải được tự do góp ý, có khi còn phải phê bình nữa. Tóm lại, mọi người phải hành động theo quyết định của người có trách nhiệm với đoàn thể. Cũng vậy trong một thể chế dân chủ, người lãnh đạo được bầu lên có bổn phận phải quyết định.
Đây cũng là đường lối trong đơn vị xã hội nhỏ bé nhất và quan trọng nhất: gia đình. Nhiều gia đình bàn luận về mọi vấn đề và quyết định như một tập thể. Rất nhiều gia đình không có ai chịu trách nhiệm tối hậu. Đó cũng là tình trạng của nhiều tổ chức như trường học và xứ đạo. Do đó chúng ta thường thấy: đáng lý những người phải vâng lời lại ra lệnh cho người có trách nhiệm.
Việc phượng tự chung của gia đình Chúa là một điển hình tập thể nghĩ tưởng và hành động với nhau. Thánh lễ có thể dạy chúng ta ra lệnh thế nào và tuân lệnh làm sao.
Xin Chúa chúc lành bạn.
34. Hy sinh phục vụ theo gương Chúa Giêsu
CHUYỆN MINH HỌA LỜI CHÚA
1. Hy sinh phục vụ
Đức Hồng Y Roncalli đi xa về, phái đoàn tòa giám mục ra đón. Ngài vừa bước xuống xe, mọi người ngạc nhiên thấy trên áo còn mấy cọng rơm. Có người hỏi thì ngài cười xòa vui vẻ, nhưng các kẻ đi theo ngài thì biết rõ căn do. Trên đường về, ngài thấy chiếc xe bò chở rơm sa hố. Ngài bảo dừng xe lại, xuống phụ đẩy với anh nông dân, nên áo dòng của ngài dính rơm như thế.
Và sau khi lên ngôi Giáo hoàng, ngài lấy tên là Gioan XXIII, ngài vẫn sống giản dị và hy sinh phục vụ như thế. Chẳng hạn một hôm giáo triều báo động “Đức Giáo hoàng mất tích.” Nhân viên an ninh đổ xô đi tìm. Cuối cùng người ta gặp ngài đang chuyện trò thân mật với các tù nhân ở khám đường Rôma.
2. Hy sinh phục vụ là niềm vui
Vị sáng lập Cộng đoàn Emmaus là cha Pierre, chuyên lo phục vụ người nghèo. Cha kể một trong những cộng sự viên đắc lực nhất của cha là một cựu tù nhân lang thang không nhà không cửa. Người đàn ông này thất vọng chán đời đến nỗi dùng dao cắt mạch máu trên tay mình để tự vẫn. Thấy vậy có người điện thoại cho cha hay. Cha lập tức đến nơi, thấy người đàn ông với cánh tay máu chảy đầm đìa. Cha không an ủi mà nói như ra lệnh.
- Anh không được tự vẫn. Còn rất nhiều người kém may mắn hơn anh. Họ đang cần sự giúp đỡ của anh. Và chính tôi cũng đang bệnh và tôi cần đến anh…
Nghe những lời đó, người đàn ông với đôi mắt lờ đờ bỗng sáng lên. Anh để cho người ta băng lại vết thương, và từ đó trở thành cộng sự viên đắc lực của cha Pierre, tận tụy hy sinh phục vụ người nghèo khổ bất hạnh.
3. Hy sinh phục vụ trong gia đình trước
Cậu bé nọ đi học về trễ mãi mà không có lý do. Cha mẹ cậu hết lời khuyên bảo, nhưng cậu cứ chứng nào tật nấy. Quá thất vọng, cha cậu gọi cậu và nói, “Lần sau nếu con còn về trễ nữa, con chỉ được ăn tối với bánh mì và nước lã thôi, ngoài ra con không được ăn thứ gì khác. Con nghe rõ chưa?” Cậu bé nhìn cha nó và gật đầu.
Nhưng vài ngày sau, cậu lại đi về trễ hơn mấy ngày trước nữa. Tối hôm đó, khi mọi người vào bàn ăn, cậu bé thấy trên đĩa của cha cậu đầy dẫy thức ăn, trên đĩa của mẹ cậu cũng thế. Còn đĩa của cậu chỉ có ổ bánh mì, bên cạnh là một ly nước lã. Nhìn thấy đĩa thức ăn của mình, cậu bé buồn tủi đến nỗi chảy nước mắt. Phần vì bụng đói, phần vì biết chắc không thể nuốt trôi. Đây chính là hình phạt cha mẹ cậu đã nói trước.
Nhưng khi ngồi vào bàn ăn, cha cậu lặng lẽ cầm lấy đĩa thức ăn của cậu đặt trước mặt ông, rồi lấy đĩa thức ăn của ông đặt xuống trước mặt cậu. Cậu bé hiểu ngay việc cha cậu làm. Vì thương cậu, cha cậu hy sinh nhận lấy hình phạt thế cho cậu.
4. Nếu trả lời có
Bác sĩ Lloyd Judd hành nghề ở vùng quê Oklahoma. Nhiều bệnh nhân của ông nghèo và không có phương tiện di chuyển. Vì thế ông thường phải lái xe đến nhà họ và chữa trị cho họ. Một ngày nọ, bác sĩ đau nặng, phải nhập viện và khám phá mình mắc căn bệnh ung thư ở giai đoạn cuối. Ông nghĩ đến các con nhỏ của ông. Ông có nhiều điều muốn nói với chúng, nhưng chúng còn quá nhỏ chưa thể hiểu được. Do đó, ông ghi điều ông muốn nói vào một số cuốn băng. Ông nói với các con:
- Các con có sẵn sàng ra khỏi nệm ấm, xông vào đêm tăm tối giá lạnh, và lái xe suốt 20 dặm để thăm bệnh nhân, dù biết rằng họ không có tiền trả, và họ có thể chờ đến sáng chỉ để được chữa trị không? Nếu các con có thể trả lời “có,” tức là các con có thể theo học y khoa được.
5. Vua phục vụ
Vào thời thập tự chinh, hoàng đế Philippe Auguste có làm cử chỉ đặc biệt. Trước mỗi lần lên đường ra trận, ông tháo gỡ triều thiên đang đội trên đầu xuống đặt nó trên bàn rồi ghi dòng chữ, “Dành cho người nào xứng đáng nhất.” Sau đó ông quy tụ quan quân lại và yêu cầu họ hãy quên ông là vua mà chỉ coi ông là người chỉ huy của họ thôi. Ông nói, “Chiếc vương triều này được dành cho người nào xứng đáng nhất trong cuộc chiến đấu.”
Cuộc viễn chinh đã hoàn tất tốt đẹp. Mọi người hát khúc khải hoàn ca trở về quê hương. Họ tụ hợp lại xung quanh vương triều, một viên cận thần tiến đến cầm lấy chiếc vương triều trước mặt vua và nói, “Tâu bệ hạ, bệ hạ là người xứng đáng nhất!”
6. Hòn đá vấp ngã.
Một hôm, khách qua đường gặp một triết gia nổi tiếng người Hy lạp. Ông ta đứng ở góc đường và cười nắc nẻ một cách đắc chí. Ai cũng tưởng ông là người điên nên không thèm để ý.
Sau cùng, có một người đánh bạo đến gần và hỏi:
- Vì lý do gì ông cười như vậy?
Ông ta trả lời:
- Ông có thấy cục đá nằm giữa đường kia không? Từ sáng tới giờ không biết bao nhiêu người đã vấp ngã vì hòn đá đó, và họ bực mình chửi bới. Thế nhưng, không có một ai cúi xuống nhặt hòn đá vứt khỏi lối đi để người khác khỏi bị vấp ngã.
35. Ngông cuồng liều lĩnh…!
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)
Đọc bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, hình như ai cũng đều thông cảm với phản ứng tự nhiên của các vị tông đồ về thái độ có vẻ vừa ham danh vừa ngông cuồng liều lĩnh của hai anh em Gioan và Giacôbê, khi cặp anh em tông đồ này công khai xin Chúa Giêsu cho một người ngồi bên phải và một người ngồi bên trái của Người khi Người được vinh quang. Như thế, qua mối cảm thông này, độc giả đọc bài Phúc Âm đây còn cho thấy họ cũng có cùng ý nghĩ như các tông đồ, nghĩa là họ cũng cho rằng hai anh em tông đồ này ham danh và ngông cuồng liều lĩnh. Tuy nhiên, thực tế có đúng như vậy hay chăng, hay các tông đồ bấy giờ và chúng ta hiện nay đã hiểu lầm cặp anh em tông đồ vốn được Chúa Giêsu dẫn theo cùng với tông đồ Phêrô đến một số nơi đặc biệt, điển hình nhất là cuộc biến hình trên núi cao của Người (x Mk 9:2), hay trường hợp Người hồi sinh đứa con gái của ông Giairô (x Mk 5:37)?
Nếu để ý kỹ chúng ta thấy Chúa Giêsu chỉ lên tiếng dạy các tông đồ làm đầu là phục vụ sau khi 10 vị tông đồ cảm thấy ghen tức với hai anh em tông đồ Gioan và Giacôbê mà thôi. Chứ trước đó, Người không hề nói gì, mà còn tỏ ra vui vẻ (dù nghiêm nghị) đối đáp với lời yêu cầu có vẻ điên cuồng của anh em họ. Hình như Người đã thấy được lòng thành của cặp anh em này trong việc họ muốn cương quyết theo Người cho đến cùng, dù có phải uống chén đắng đau thương với Người, vì khi được vinh dự chịu đau khổ với Người là hưởng vinh quang với Người rồi vậy. Lịch sử đã cho thấy, quả thực, sau đó, hai anh em tông đồ này, một người đã được ngồi bên hữu của Chúa Kitô, đó là tông đồ Gioan, người tông đồ duy nhất đã cùng với Mẹ Maria đứng bên thập giá của Người để chứng kiến và cảm thông (uống) với cảnh vô cùng đau thương của Thày mình, và một người bên tả, đó là tông đồ Giacôbê, vị đã là giám mục đầu tiên ở Giêrusalem cũng là vị tông đồ tử đạo (x. Acts 12:2) trước hết trong các tông đồ, vị tông đồ bởi thế là vị đầu tiên được Chúa Kitô cho uống chén tử nạn với Người và như Người.
Sau đây chúng ta hãy đọc lại chương 9: “Tham lam Liều Lĩnh như Trẻ Nhỏ” của người viết trong cuốn “Trở Nên Như Trẻ Nhỏ” (Cao-Bùi 1994, trang 133-148)
Trong câu chuyện xin được ngồi hai bên Chúa Giêsu trong vương quốc của Người (xem Mathêu 20:20-28), không biết ai là người đã nghĩ đến tư tưởng nay đầu tiên.
Một là chính từ ba mẹ của hai anh em Giacôbê và Gioan, vì bà đã lên tiếng xin điều hết sức quan trọng này một cách trịnh trọng và thẳng thắn. Trịnh trọng ở chỗ, thứ nhất, bà đến xin Chúa "cùng với hai con của bà" (Mathêu 20:20), thứ hai, bà "phục lạy Người mà xin" (Mathêu 20:20), thứ ba, chỉ sau khi Chúa Giêsu lên tiếng hỏi "Bà muốn điều gì đây?" (Mathêu 20:21), bà mới dám nói (xem Mathêu 20-21). Thẳng thắn ở chỗ, sau khi đã làm đủ các lễ nghi tương xứng theo như bà nghĩ, và sau khi được Chúa Giêsu ban phép, bà đã không úp mở gì cả:
“Xin hứa với tôi là hai đứa con của tôi đây, một đứa sẽ được ngồi bên phải và một đứa sẽ được ngồi bên trái của Thày trong vương quốc của Thày" (Mathêu 20:21).
Phần Chúa Giêsu, có ít nhất hai điều chắc chắn ở đây là, thứ nhất, trước khi ba mẹ của hai anh em Giacôbê va Gioan mở miệng xin Người điều này, thì Chúa Giêsu đã biết bà muốn gì rồi; thứ hai, Người cũng thừa biết trước phản ứng "bất mãn khó chịu của mười người kia đối với hai anh em này" (Mathêu 20:24). Thế mà Người vẫn gợi ý để cho bà ấy phát biểu ra trước mặt tất cả các tông đồ.
Hành sử như thế, có thể Chúa Giêsu muốn lợi dụng dịp này để dạy cho các thánh tông đồ biết về tinh thần va đường lối làm đầu là làm tôi như gương sống động của Người. Bởi thế, sau khi thấy phản ứng của mười tông đồ đối với hai anh em Giacôbê và Gioan, phản ứng có tính cách người lớn, tỏ ra tranh giành, ghen tương đố kị theo kiểu trần tục, Chúa Giêsu mới "gọi họ lại mà nói:
“Các con biết những kẻ cầm quyền trong dân ngoại thì làm chúa cai trị nhau, tỏ ra ta đây. Nhưng các con không được như vậy. Ai trong cac con muốn làm lớn thì phải phục vụ những người còn lại. Ai muốn lãnh đạo trong các con thì phải phục vụ nhu cầu của tất cả mọi người. Đó là cách thức mà Con Người đã đến không phải để được người khác phục dịch, nhưng là để phục vụ, để hiến mình làm giá chuộc cho nhiều người" (Mathêu 20:25-28).
Ngoài ra, Chúa Giêsu cố ý lên tiếng hỏi trước để cho ba mẹ của hai anh em Giacôbê và Gioan dễ dàng mở lời xin một điều ngoại lệ như thế, chứng tỏ điều yêu cầu có vẻ tham quyền cố vị phàm tục này của ba chẳng những không làm phật lòng Người là Đấng "hiền lành và khiêm nhượng trong lòng" (Mathêu 11:29), mà còn làm cho Người có vẻ hài lòng nữa là đàng khác, bằng không, Người đã không mất giờ mặc cả với hai người con của bà làm gì!
Phần Giacôbê và Gioan, cũng có thể một trong hai người đã nghĩ đến điều yêu cầu này, song không dám trực tiếp xin cùng Thày mình, nên đã khôn khéo xúi mẹ mình đứng mũi chịu sào. Có thể kinh nghiệm sống với Thày đã gợi lên cho Giacôbê và Gioan chính điều yêu cầu này cũng như cho hai anh em cách chiếm được điều mình muốn xin với Thày.
Về chính điều yêu cầu được ngồi hai bên Chúa Giêsu trong vương quốc của Người có thể đã nẩy sinh từ kinh nghiệm nhiều lần hai anh em là bộ ba, (cùng với tông đồ trưởng Phêrô), dẫn đi sát với Người hơn các vị tông đồ khác nói riêng và các môn đệ của Người nói chung. Chẳng hạn như lần đến hồi sinh cho bé gái (xem Marcô 5:37) và lần được chứng kiến Chúa biến hình trên núi cao (xem Mathêu 17:1).
Theo tự nhiên, có thể vì thấy rằng hai anh em mình được Chúa Giêsu thương đặc biệt như thế, qua một số lần được Người ưu đãi cách riêng, (chưa kể còn một lần sau này cả hai còn được vao vườn cầu nguyện với Người trước khi Người nộp mình), mà cả hai đã nghĩ mình có giá, cần được Chúa Giêsu xác nhận vị thế của mình chăng?
Về cách thức nhờ đến bà mẹ để xin Chúa Giêsu điều yêu cầu của mình, chứ không dám đứng ra xin lấy, kinh nghiệm cũng dạy cho hai anh em Giacôbê và Gioan biết phán đoán của hai đấng cho dù tốt lành mấy cũng chưa chắc đã hợp với với ý của Thày Chí Thanh. Chẳng hạn lần hai vị bị Người "quở trách" (Luca 9:55) vì các vị tỏ ra mình là người lớn, bực tức khi thấy Thày Chí Thánh của mình bị dân Samaria không chịu tiếp rước, đã trở nên nóng nảy đến nỗi: "Thưa Thày, Thày có muốn chúng con gọi lửa trời xuống hủy diệt họ đi không?" (Luca 9:54).
Phải chăng vì bản chất trực tính nóng nẩy sốt sắng này của hai anh em Giacôbê và Gioan mà Chúa Giêsu, qua Phúc Âm thánh Marcô đã viết, "Người đặt cho hai anh em này cái tên là "những đứa con của sấm sét'" (Marcô 3:17).
Thật ra, Phúc Âm thánh Marcô lại tiết lộ cho chúng ta biết rằng chính hai anh em Giacôbê và Gioan trực tiếp đứng ra xin Thày điều này, chứ không phải là bà mẹ của hai vị. Cách thức của "những đứa con của sấm sét" này tuy thẳng thắn nhưng không tế nhị như của bà mẹ. Hai anh em đã chẳng những không tế nhị về chính lời lẽ yêu cầu mà còn về cả cách thức yêu cầu, khi bất kể Chúa Giêsu có cho phép hay không hai vị cũng cứ "như con trẻ" nhắm mắt nhào vô: "Thưa Thày, chúng con muốn Thày ban cho chúng con điều chúng con xin?" (Marcô 10:35)
Kết quả chúng ta thấy xem ra Chúa Giêsu đã chịu thua hai anh em "như trẻ nhỏ" này. Với những lý do có thể suy diễn sau đây.
Lý do thứ nhất, là vì Chúa Giêsu biết được hai anh em Giacôbê và Gioan hết lòng yêu mến Người. Bởi đó, ngay sau lần cuối cùng Người tiết lộ cho các tông đồ biết về cuộc tử nạn của Người, thì chỉ có hai anh em Giacôbê và Gioan đã có phản ứng qua lời yêu cầu của họ.
Lời yêu cầu này chứng tỏ hai vị đã hiểu và thông cảm được với Chúa Giêsu hơn ai hết. Chẳng lẽ hai vị ngớ ngẩn đến nỗi rõ ràng nghe thấy Chúa Giêsu nói về thân phận vô cùng bất hạnh và đen tối của Người như thế mà còn xin ngồi hai bên tả hữu của Người?
Chính vì thế mà khi Chúa Giêsu vừa hạch lại hai vị, (làm như Người muốn các vị tông đồ khác đang tức bực với hai vị biết rõ hơn chủ ý của hai vị), vừa tỏ ra thách thức hai vị: "Các con có biết được điều các con xin không. Các con có uống được chén mà Ta sẽ uống hay chịu được phép rửa trong cùng một cuộc khổ đau như Ta không?" (Marcô 10:38), "Họ thưa Người: 'Vâng, được'" (Marcô 10:39).
Lý do thứ hai Chúa Giêsu tỏ ra chịu thua hai anh em Giacôbê và Gioan là ở chỗ này, ở chỗ, cả hai nhất định theo Người cho đến cùng, dù hai vị biết Người đi đâu và con đường Người đi như thế nào, chứ không phải như tông đồ Tôma cho đến giây phút Thày trò gần biệt ly mà còn đặt vấn đề: "Thưa Thày, chúng con không biết Thày sẽ đi đâu thì làm sao chúng con biết được đường lối" (Gioan 14:5).
Cuối cùng, Chúa Giêsu đã tỏ ra như chịu thua trước lòng trung kiên theo Người bất chấp mọi sự của hai anh em Giacôbê và Gioan, bằng câu nói hứa hẹn là "Thày ở đâu các con cũng sẽ được ở đó với Thày" (Gioan 14:3), bao gồm ở cả trong đau thương cũng như vinh hiển, như thế này: "Các con sẽ uống chén Ta uống' các con sẽ thông phần phép rửa Ta chịu. Nhưng về việc ngồi bên hữu hay bên tả của Ta, thì không phải do Ta, mà là cho những ai đã được chỉ định trước" (Marcô 10:39-40).
Thực tế cho thấy, trong bữa tiệc ly, Gioan chẳng những được ngồi bên cạnh Chúa Giêsu mà còn được dịp ngả đầu vào ngực Người để nghe tâm sự thầm kín của Người (xem Gioan 13:23). Nhất là trên đỉnh núi sọ, dưới chân thập giá Chúa Giêsu, chỉ một mình Gioan đứng để nhận lời trăn trối cuối cùng của Người: "Này là Mẹ con" (Gioan 19:27), và cũng để "từ giờ ấy, vị môn đệ nhận Người làm mẹ của mình" (Gioan 19:27).
Theo Thày cho đến khi đứng dưới chân thập giá Chúa Giêsu như Mẹ Maria, thánh Gioan đã chúng tỏ lòng ngài yêu mến Chúa Giêsu là dường nào. Cũng chính vì tình yêu mãnh liệt này của ngài, (có thể vì thế mà sau này ở bờ biển Tibêria, ngài không cần phải trả lời với Thày ba lần như thánh Phêrô là "Thày biết con yêu Thày" - Gioan 21:15-17), mà phải nói là ngài đã cùng với Mẹ Maria chịu tử nạn với Chúa Giêsu.
(Phải chăng thánh Gioan bấy giờ đã "cùng chịu một phép rửa với Thày", chịu đóng đanh với Thày, mà ngài đã là vị tử đạo đầu tiên, tử đạo bằng lửa, tử đạo trong tinh thần, thay vì tử đạo bằng máu, tử đạo ở ngoài thân xác như các tông đồ khác sau này. Thật ra, theo hạnh tích của ngài, có lần ngài đã bị bắt bỏ vào vạc dầu sôi, nhưng ngài đã được thiên thần cứu sống, rồi cuối cùng ngài đã chết già tại gò Patmô).
Thánh Gioan, bởi thế, đã không phải là "người môn đệ được Chúa Giêsu yêu" (Gioan 20:2'21:7,20) hay sao, tức người môn đệ được gần Chúa Giêsu nhất, thương Chúa Giêsu nhất và hiểu Chúa Giêsu nhất. Do đó, không lạ gì, với mối thâm tình với Chúa Giêsu như thế, ngài la môn đệ đầu tiên, (sau thanh nữ Mađalena là người được Chúa dùng để đem Tin Mừng Phục Sinh cho chính các môn đệ), tin rằng Chúa Giêsu đã sống lại (xem Gioan 20:8), và cũng là người môn đệ đầu tiên nhận ra Thày mình trên biển hồ Tibêria (xem Gioan 21:7).
Bằng chứng hiển nhiên hơn nữa về mối thân tình sâu nhiệm Thày trò này là cuốn Khải Huyền, nhất là cuốn Phúc Âm của "người môn đệ được Chúa Giêsu yêu". Cuốn Phúc Âm như "phượng hoàng bay bổng" (Khải Huyền 4:7) này, (so với bộ Phúc Âm Nhất Lãm đặt trọng tâm ở nhân tính của Chúa Kitô), là nguồn tài liệu Thanh Kinh duy nhất mạc khải trọn vẹn Thiên Tính của Chúa Kitô:
"Lời ở nơi Thiên Chúa ngay từ ban đầu" (Gioan 1:1),
"nhờ Người mà mọi sự được thành nên" (Gioan 1:3),
"trong Người chúng được sự sống, sự sống soi sáng cho con người" (Gioan 1:4).
"Ánh Sáng chiếu trong tăm tối (Gioan 1:5),
"Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta... đầy ân sủng và chân lý" (Gioan 1:14).
Tóm lại, qua câu chuyện hai anh em Giacôbê và Gioan xin ngồi bên phải và bên trái Chúa Giêsu, "Trở nên như trẻ nhỏ" là trở nên đồng lao cộng khổ với Chúa Giêsu, bằng cách chấp nhận tất cả mọi đau khổ mà kiên trung theo Người cho đến cùng. Chúng ta hãy nghe Thông Điệp Tình Yêu Nhân Hậu Chúa Giêsu
“Linh hồn phải chịu hủy diệt dưới những đòn vọt của Cha. Bấy giờ Cha mới đưa nó vào con đường thánh thiện và Cha kết hợp mọi năng lực của nó vào quyền năng của Cha”. (Một trong những lời khai mở của Thông Điệp Tình Yêu Nhân Hậu Chúa Giêsu trước tháng 8/1965).
“Những ai hiến thân cho tình yêu thì nhận chịu những đòi hỏi của tình yêu. Họ ôm lấy thánh giá Cha với lòng sùng mộ. Âu yếm chấp nhận sự đau khổ, hỡi con, ấy là con đường vương giả mau chóng dẫn đến đỉnh trọn lành. Chịu đau khổ là con giống Cha. Con đang đau khổ đó, hỡi con nhỏ đáng thương của Cha. Nhưng Cha, Cha còn đau khổ hơn con. Con chỉ còn sống cho tình yêu. Những gì không phải là tình yêu thì chỉ là đau khổ cho con”. (21/6/1966)
“Tất cả những gì làm nên giá trị một vị thánh, đó là tuân theo thánh ý của Cha. Đó là tình yêu đem ra đón nhận thánh gia. Đó còn là khát vọng đón nhận thánh giá. Muốn tìm bình an cho linh hồn phải vào trường học "tình yêu", chứ không phải ở hưởng thụ tình yêu đâu con... Cha không thể miễn cho con vì yêu Cha mà khỏi chịu đau khổ. (19/4/1973)
“Người mạnh thì có thánh giá nặng, người yếu lại có thánh giá nhẹ hơn. Nhưng nếu được đón nhận với tình yêu, thì thánh giá nào cũng có giá trị như nhau để cứu rỗi các linh hồn. Ơn cứu chuộc đã được thực hiện bằng thánh giá. Thế giới sẽ được cứu rỗi bằng thánh giá. Cha dìu dắt các linh hồn đã được tuyển chọn, qua những con đường bí nhiệm mà tất cả đều gặp nhau ở chóp đỉnh. Nhiều linh hồn ẩn dật mà tạo được những kỳ công ân sủng và khoan hậu cho tha nhân”. (31/5/1967)
“Hỡi con nhỏ, con hãy hiểu cho kỹ tình yêu của Cha thì điên dại, Thiên Chúa là sức sống của hồn con vì tình yêu được đổ đầy tràn trong nó. Tình yêu hoạt động không ngừng: kích thích hồn nhỏ, làm nó khổ đau, nâng nó lên, xoa dịu nó, làm nó vui cười cũng như sa lệ... Con đừng sợ chi, Cha là sức mạnh của con, và cũng là sự yếu đuối của con. Là sức mạnh để chiến thắng, là sự yếu đuối để yêu thương” (28/10/1974)
Chúa Nhật tuần này, 19/10/2003, cũng là Ngày Chúa Nhật Truyền Giáo của Giáo Hội, bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này dù không phải là bài Phúc Âm về việc truyền giáo, nhưng vì chính Lời Chúa tự bản chất là truyền thông, là Tin Mừng Sự Sống mà ở bất cứ câu nào hay đoạn nào của Phúc Âm chúng ta vẫn có thể áp dụng vào việc truyền giáo hoặc có tính cách truyền giáo. Chẳng hạn bài Phúc Âm Chúa Nhật 29 Thường Niên Năm B tuần này có tính cách hay ý nghĩa truyền giáo ở chỗ ai gieo trong đau thương sẽ gặt trong vui sướng, tức là muốn được ngồi bên tả bên hữu Thày là Đấng đến để phục vụ, để hiến mạng sống mình, thì thành phần môn đệ chứng nhân đích thực của Người cũng phải cùng Người uống cạn chén khổ nạn, và cũng chỉ có ai dám uống chén khổ nạn với Người mới được.
36. Con Người đến để phục vụ – Noel Quesson.
Martin Caphu là người Bangla thuộc Cameroun Phi Châu. Cha anh là quốc vương Bangla. Từ thiếu niên, anh đã quen với phong trào Tổ Ấm, một tổ chức Công giáo làm việc xã hội ở Phi châu. Thấy các thành viên Tổ Ấm xả thân giúp đỡ người đồng loại, anh Caphu rất cảm phục, và tới năm 1963, vào lúc mười bảy tuổi, anh xin trở lại Công giáo. Sau khi tốt nghiệp Trung học, anh được Gia đình gởi về Rôma học ngành điện tử. Đậu tiến sĩ điện tử xong, anh Caphu gia nhập phong trào Tổ Ấm.
Năm 1980, cha anh qua đời, và theo chúc thư, ông đã chọn Caphu kế vị ngai vàng. Caphu vội vã trở về Bangla, anh họp cả sắc tộc lại và xin mọi người đề cử người khác làm vua. Còn anh, anh muốn dành cả cuộc sống làm việc xã hội theo tinh thần Kitô giáo. Và mọi người đã đồng ý.
Trong cuộc sống trần gian, ai cũng muốn có danh vọng, và người ta thường xếp tiền tài danh vọng như một cặp bài trùng. Caphu đã từ chối ngai vàng để phục vụ Chúa đắc lực hơn. Còn Giacôbê và Gioan, hai ông lại tới xin Chúa cho một địa vị trong Nước Chúa, các ông hiểu đây là nước trần gian mà các ông nghĩ Chúa sắp thiết lập.
Nhân dịp này Chúa Giêsu cắt nghĩa cho các ông hiểu thêm về công việc của Người. Người là Chúa Cứu Thế, Đấng Cứu chuộc trần gian bằng đau khổ, bằng thập giá chứ không phải bằng một hoạt động chính trị, Chúa buồn rầu trách nhẹ các ông. Các con chẳng biết mình xin cái gì! Nhưng Chúa thấy các ông chân tình và nồng nhiệt, nên Chúa cũng hé mở cho các ông một vài nét về tương lai: Các con sẽ uống chén đắng Ta uống, và đắm mình trong phép rửa bằng máu như Ta. Còn việc ngồi bền tả hay bên hữu Ta thì lại là chuyện khác. Những lời này làm hai tông đồ hoang mang, nhưng về sau các ông sẽ hiểu và coi đó là một động cơ cho niềm tin trong hoạt động rao giảng Tin Mừng.
Đọc lại câu chuyện hai tông đồ, có lẽ chúng ta mỉm cười. Nhưng trong cuộc đời Kitô hữu, nhiều khi chúng ta cũng chỉ nhằm lợi ích, địa vị cho mình, chúng ta nghĩ tới một bảo đảm cho cuộc sống hiện tại và mai sau. Đáng lẽ chúng ta phải đặt Chúa làm trung tâm đời sống, chúng ta muốn thực thi lòng tôn sùng, muốn dâng lời cảm tạ ngợi khen và phó thác tin tưởng vào Chúa. Còn tương lai của ta hoàn toàn do Chúa xếp định. Đó mới là tâm tình của người con thảo sống bên Cha hiền.
Lời thỉnh cầu của Giacôbê và Gioan đã làm các tông đồ khác khó chịu, vì tất cả các ông đều cùng tâm trạng như nhau, dù chưa dám xin Chúa. Cho tới lúc đó chưa ai hiểu được tư tưởng của Chúa. Chúa đã nói về cuộc khổ nạn của Người tới ba lần (Mc 10, 32-34) với những lời lẽ rõ rệt: Con Người sẽ bị bắt nộp, sẽ bị xử tử, bị chế giễu, ngừơi ta khạc nhổ vào mặt, đánh đòn và giết chết… Trong lúc Chúa Giêsu tự chọn chỗ rốt hết, thì các môn đệ lại mơ màng danh vọng, lại nghĩ tới địa vị cao sang. Một lần nữa Chúa nói lại chủ trương của Chúa trong tổ chức Người. Khác hẳn mọi tổ chức trần gian, ở đây người nào muốn lãnh đạo phải là tôi tớ, ai muốn đứng đầu phải trở thành nô lệ cho mọi người. "Vì Con Người không đến để cho người ta hầu hạ, nhưng để hầu hạ và hiến mạng sống làm giá cứu chuộc muôn dân". Đó là căn bản Hiến pháp của Giáo hội Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết noi gương Chúa, không màng tới địa vị cho mình, nhưng luôn dấn thân phục vụ anh em, như Chúa đã đến phục vụ và hy sinh cả mạng sống làm giá cứu chuộc chúng con.
37. Phục vụ.
Con Người đến để phục vụ.
Nhìn vào cuộc đời Chúa Giêsu, chúng ta thấy chính Ngài đã thực hiện lời giảng dạy của mình.
Thực vậy, với tinh thần phục vụ, Ngài đã xuống thế làm người, để giải thoát chúng ta khỏi vòng nô lệ của tội lỗi. Với tinh thần phục vụ, Ngài đã thực hiện những phép lạ để xoa dịu nỗi đớn đau của những người mà Ngài có dịp tiếp xúc. Với tinh thần phục vụ, Ngài đã chấp nhận cái chết trên thập giá để cứu độ chúng ta khỏi án phạt đời đời.
Đồng thời, Ngài cũng muốn chúng ta noi gương bắt chước Ngài thực hiện tinh thần phục vụ trong đời sống thường ngày. Ngài phán:
- Ai muốn làm lớn thì hãy trở nên rốt hết và làm tôi tớ cho mọi người.
Trong bữa tiệc ly vào buổi chiều ngày thứ năm tuần thánh, Ngài đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ để dạy cho các ông bài học khiêm nhường và phục vụ:
- Nếu Ta là Thày và là Chúa của các con, mà còn quỳ xuống rửa chân cho các con, thì các con cũng phải quỳ xuống mà rửa chân cho nhau.
Trải qua dòng thời gian, biết bao nhiêu người đã thực hiện lời khuyên trên đây của Chúa Giêsu.
Phanxicô d’Assie, mặc dù thuộc về gia đình quyền quý và giàu sang, nhưng đã từ bỏ tất cả, để sống khó nghèo, trở nên một người anh em hèn mọn để phục vụ những người khổ đau.
Gần đây, một Kitô hữu Nhật Bản nổi tiếng, tên là Kagawa, cũng đã từ bỏ căn nhà tiện nghi, đến sống trong những khu tồi tàn vùng Tokyo, để chia sẻ chính bản thân và của cải mình cho những ai đang cần đến một sự giúp đỡ. Một tác giả đã viết về ông như sau:
- Ông đã cho đi tất cả quần áo của mình và chỉ mặc trên người chiếc áo thụng đã cũ. Lần kia, mặc dù đang ốm, ông vẫn tiếp tục đi dạy giáo lý dưới cơn mưa, ông lặp đi lặp lại không ngừng: Thiên Chúa là tình yêu. Ở đâu có tình yêu thì ở đó có Thiên Chúa. Trong một bức thư, chính ông đã viết như sau: Chúa ở trong tâm hồn những người hèn mọn nhất. Ngài hiện diện giữa những kẻ ăn xin, Ngài nằm chung với những bệnh tật. Ngài đứng về phe những người thất nghiệp. Vì thế, ai muốn gặp Chúa thì hãy đến thăm nhà tù trước khi đến nhà thờ, đến thăm bệnh viện trước khi tham dự thánh lễ. Hãy giúp đỡ người nghèo khổ trước khi đọc Kinh Thánh.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta phải làm gì để sống tinh thần phục vụ một cách thiết thực hơn? Chúng ta phải làm gì để trở thành những Kitô hữu đích thực trong chính gia đình và môi trường làm việc của mình?
Tất cả chúng ta đều có thể làm một điều gì đó, dù rất nhỏ bé và vô nghĩa, khởi đầu là cho những người thân yêu trong gia đình, rồi từ đó mở rộng việc phục vụ ra môi trường rộng lớn hơn. Còn nếu không khởi sự từ gia đình thì chúng ta cũng sẽ chẳng bao giờ khởi sự được ở bất cứ nơi nào khác.
Và để kết luận, chúng ta nên nhớ:
- Mỗi khi chúng ta phục vụ anh em, cho dù bằng những việc làm nhỏ bé và tầm thường nhất, thì đó cũng là chúng ta phục vụ cho chính Chúa vậy.
38. Khôn ngoan.
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc hai ông Gioan và Giacôbê muốn ngồi hai bên tả hữu của Chúa Giêsu Kitô. Họ đang nghĩ đến chuyện thăng quan tiến chức. Họ cũng nghĩ rằng mình có khả năng và xứng đáng ngồi ở địa vị cao. Phản ứng của Chúa Giêsu là: “Các con không biết các con xin gì”. Thay vì nói đến vinh quang và sung sướng. Chúa Giêsu nói với họ về việc chia sẻ “chén đắng” và “phép rửa” với Chúa. Chén trong Kinh Thánh là hình ảnh tượng trưng cho những đau khổ lớn lao. Còn phép rửa tượng trưng cho những lo âu, buồn sầu, đau đớn. Đây là những điều đang chờ đón người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu.
Khi người môn đệ kia nghe biết thì đâm ra tức tối với hai ông, không phải vì họ khiêm tốn nhưng vì họ cũng muốn những điều tương tự như hai ông. Họ tức giận vì nghĩ rằng họ có đủ tư cách hơn hai ông Gioan và Giacôbê.
Có lẽ mỗi người trong chúng ta cũng bực mình với hai ông Giacôbê và Gioan, vì họ đầy tham vọng và ích kỷ. Nếu chúng ta có thái độ đó, là do chúng ta quên rằng mình cũng đang khiển trách y như họ. Chúng ta cũng đang làm những điều tương tự đối với những bạn đồng nghiệp của mình. Chúng ta cũng muốn vượt lên trên họ, bước lên họ mà đi, dùng họ như bàn đạp để thăng tiến bản thân mình. Chúng ta cũng muốn phục vụ, cũng muốn cho đi thời giờ, cống hiến tài năng và tiền bạc, bao lâu chúng ta có thể thu lại được một điều gì đó.
Rất ít người tự nguyện làm việc cho Giáo hội, bởi vì không được trả lương. Người làm việc phụ thuộc vào sự từ tâm của các giáo dân trong giáo xứ. Nhưng tạ ơn Chúa, vì cũng còn những người muốn chia sẻ tài năng ít ỏi của mình, thời giờ và tiền bạc cho công việc của Giáo hội. Đó là những bậc làm cha mẹ muốn giáo dục con cái theo các giá trị Kitô giáo, những giáo viên khơi dậy nơi học trò của mình lòng khao khát sống cho một lý tưởng cao đẹp, những y tá chăm sóc cho các bệnh nhân, và những người tình nguyện thăm viếng những người tản cư.
Lạy Chúa, xin cho con nhớ Chúa là Thầy, là Chúa nhưng Chúa đã hạ mình xuống để phục vụ tất cả mọi người.
39. Gus và Ruth.
Một người đàn bà tên là Ruth đang đi ra khỏi nhà thờ sau Lễ Chúa Nhật. Bà nhìn thấy một người đàn ông lụ khụ đang gắng sức để mặc chiếc áo lạnh. Bà liền đi lại gần ông già, mỉm cười và giúp ông một tay.
Sau đó, Ruth lại gặp ông già ấy một lần nữa và hai người bắt đầu nói chuyện với nhau. Sau khi hỏi han, Ruth mới biết tên ông già là Gus và nhà ông già ở tiện đường về nhà Ruth nên bà cho ông già quá giang. Lần quá giang đó đã trở nên hằng tuần cho tới hai năm.
Vào một buổi sáng Chúa nhật, Ruth không nhìn thấy Gus đâu hết nên mới vào nhà ông xem. Khi vô thì Ruth thấy ông già Gus đang nằm bệnh gần chết. Ông được đem vô nhà thương ngay.
Một vài ngày sau, Ruth được nhà thương gọi và báo là Gus chỉ còn có thể sống thêm một ngày nữa. Ruth liền hỏi cô y tá: "Vậy cô có gọi cho họ hàng của ông ấy chưa?"
Cô y tá trả lời: "Ông ấy không có họ hàng gì cả. Ông ấy chỉ bảo cô là người thân duy nhất để liên lạc trong trường hợp khẩn cấp." Nghe như thế, Ruth hết sức ngạc nhiên. "Chẳng lẽ Gus chỉ có một mình?"
Ruth liền đến nhà thương và đến bên cạnh giường ông già gần chết. Gus thở từng hơi rất mạnh và không thể nói được gì hết. Tuy vậy, Gus xem ra vẫn nhận ra Ruth. Gus chỉ biết dùng ánh mắt để đáp lại những lời an ủi và yêu thương của Ruth. Sau đó một vài phút, Gus đã ra đi trong bình an.
Câu truyện trên diễn tả một cách sống động hai chủ đề trong các bài đọc hôm nay, nhất là bài Phúc Âm. Hai chủ đề đó là đau khổ và phục vụ. Đau khổ và phục vụ giống như hai đường sắt của đường rầy xe lửa. Nếu bạn tìm thấy một ở đâu, thì đó bạn cũng tìm thấy cái kia. Hai cái luôn đi song đôi với nhau.
Thứ nhất, sự phục vụ người khác luôn đi với đau khổ. Bạn không thể nào giúp một người khác mà không phải hy sinh một cái gì đó. Chúng ta nhìn thấy điểm này trong câu truyện của Ruth và Gus. Trải qua hai năm, Ruth đã hy sinh để chở Gus về nhà sau lễ. Cho dù đây không phải là hy sinh lớn lao gì, nhưng đó cũng là hy sinh.
Thứ hai, đau khổ và phục vụ đi với nhau, bởi vì một trong những cách đơn giản nhất là chúng ta có thể giúp người khác làm cho gánh nặng đau khổ của họ nhẹ đi.
Chính Chúa Giêsu đã cứu giúp các anh chị em đau khổ của Ngài. Chúng ta hãy nhìn sâu xa hơn làm sao để chúng ta có thể phục vụ những người xung quanh chúng ta, nhất là những người thân trong gia đình, bằng cách là làm cho gánh nặng của họ được nhẹ đi.
Có lẽ điều cản trở lớn nhất để thực thi điều nói trên là tính lãnh đạm với những đau khổ của những người sống chung quanh chúng ta. Chúng ta bắt đầu dùng khả năng để ý tập trung đến những sự cần thiết của người khác hơn là những khó khăn của bản thân.
Trong thời gian 'Great Depression' (Đại Tình Thế Suy Nhược) vào năm 1930, các nhân viên chính phủ thường hay đi rảo qua các vùng núi tiểu bang Tennessee để phân phát tiền của cho một số nông phu nghèo để mua thức ăn và những thứ cần thiết.
Khi một nhân viên chính phủ đến một căn nhà lụp xụp nhỏ của một người đàn bà nọ, ông hỏi bà ấy rằng: "Nếu tôi cho bà $200 thì bà sẽ làm gì?" Sau một lúc, bà trả lời: "Tôi sẽ giúp cho những người nghèo ở chung quanh đây."
Người đàn bà ấy đã tập được cái tính biết để ý quan tâm đến những sự cần thiết của kẻ khác hơn là của chính mình.
"Lạy Chúa từ nhân! Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người."
40. Ai là người lớn nhất?
(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Tiến Tặng)
Như chúng ta đã biết, vào thời điểm hiện nay tại Hoa Kỳ, người dân của cường quốc này đang chú ý đến cuộc bầu cử tổng thống. Để lấy điểm dân chúng, các chiến dịch vận động tranh cử được các ứng cử tổ chức rầm rộ và quy mô, nhiều điều hứa hẹn được nêu ra qua các cuộc tranh luận…Tuy nhiên nói và làm là hai điều khác nhau. Đôi khi người ta không thực hiện được lời hứa. Có muôn ngàn lý do được nêu ra để thanh minh, nào là những khó khăn khách quan, nào là những hoàn cảnh ngoại cảnh tác động. Điều đáng nói ở đây vẫn là sự thiếu tinh thần trách nhiệm và thiếu tâm. Người ta vẫn nói rằng khoảng cách xa nhất vẫn là từ miệng lưỡi đến trái tim.
Nhân lời đề nghị của hai anh em trai Giacôbê và Gioan nhà Zêbêđê về chỗ ngồi trong nước vinh quang, Đức Giêsu đã cho các môn đệ của mình bài học về tinh thần trách nhiệm phục vụ trong bất kể chỗ đứng nào của mình: “Ai muốn làm lớn thì trở nên người phục vụ. Ai muốn làm đầu thì hầu tất cả mọi người” (Mc10, 43-44).
Đức Giêsu đã thực sự sống điều này trước khi nói ra cho các môn đệ mình. Hành động của Người luôn luôn phù hợp với những gì Người chỉ dạy. Nơi Người không hề có khoảng cách giữa lời nói và thực hành, “vì chưng Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người” (Mc10, 45). Đức Giêsu thực sự là Con Thiên Chúa, nhưng Ngài đã tự hạ mình xuống tận đáy của nhân loại để chia sẻ kiếp phàm nhân với chúng ta, ngoại trừ tội lỗi, nhằm nâng chúng ta lên địa vị làm con cái yêu dấu của Thiên Chúa.
Với Lời Chúa hôm nay, chúng ta được mời gọi đặt trọng tâm đến ý nghĩa của sự phục vụ hơn là tìm cho mình một chỗ đứng. Đó là điều căn bản để tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống. Đây cũng là cách thức nhìn nhận sự việc bằng con tim để tránh đi cái nhìn phiến diện bề ngoài.
Mỗi người đều có một chỗ đứng khác nhau để cùng xây dựng một kế hoạch chung trong tổng thể của việc cộng tác vào công trình sáng tạo. Tất cả công sức riêng của mỗi cá thể đều góp vào phần vào thành quả tốt đẹp chung. Cha Mẹ yêu thương con cái và làm hết bổn phận của mình để chúng được lớn lên về mọi phương diện. Người vợ và người mẹ được mời gọi trao hiến đời mình để phục vụ chồng và con. Cũng vậy, người chồng cần dấn thân để trở nên chỗ dựa cho vợ và con mình. Về phần mình, bậc làm con cần phải tôn trọng và vâng phục cha mẹ. Trong gia đình, mỗi thành viên thấy được chỗ đứng của mình để phục vụ người khác. Đó chính là bí quyết của hạnh phúc gia đình.
Trong khi suy niệm Lời Chúa của Chúa Nhật tuần 29 này, chúng ta nhớ đến thánh Phanxicô Khó Khăn, người đã muốn trở nên giống Đức Giêsu và sống sát với tinh thần Tin Mừng của Người. Chúng ta cũng được mời gọi trở nên sứ giả của tình thương và hòa bình:
“Lạy Chúa từ nhân
Xin cho con biết mến yêu
Và phụng sự Chúa trong mọi người
Lạy Chúa xin hãy dùng con
Như khí cụ bình an của Chúa
Ðể con đem yêu thương vào nơi oán thù
Ðem thứ tha vào nơi lăng nhục
Ðem an hòa vào nơi tranh chấp
Ðem chân lý vào chốn lỗi lầm
Ðể con đem tin kính vào nơi nghi nan
Chiếu trông cậy vào nơi thất vọng
Ðể con rọi ánh sáng vào nơi tối tăm
Ðem niềm vui đến chốn u sầu
Lạy Chúa xin hãy dậy con
Tìm an ủi người hơn được người ủi an
Tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết
Tìm yêu mến người hơn được người mến yêu
Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh
Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân
Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ
Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời
Ôi Thần Linh thánh ái xin mở rộng lòng con
Xin thương ban xuống những ai lòng đầy thiện chí
Ơn an bình”.
41. Làm lớn.
Lắng nghe đoạn Tin Mừng hôm nay, tôi bỗng nhớ tới một vài câu đố, thoạt xem ra thì có vẻ vô lý, nhưng ngẫm nghĩ lời giải đáp thì lại thấy có lý.
Câu đố thứ nhất: cái gì càng kéo thì lại càng ngắn. Tôi xin thưa đó là điếu thuốc lá. Câu đố thứ hai: cái gì càng to lại càng bé. Tôi xin thưa đó là con cua.
Từ câu đố thứ hai này, tôi muốn đi vào tinh thần của lời Chúa:
- Ai muốn làm lớn thì phải trở nên kẻ hầu hạ. Còn ai muốn làm đầu, thì phải trở nên đầy tớ.
Như vậy có nghĩa là càng làm to thì càng phải sống bé nhỏ khiên tốn trong tinh thần phục vụ.
Suy đi nghĩ lại, tôi thấy lời Chúa hôm nay quả thật rất đúng cho mọi mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc. Thời buổi nào cũng vậy, ngày xưa cũng như ngày nay. Thực vậy, bất kỳ chế độ nào cũng hô hào lấy dân làm gốc. Người công an cảnh sát là bạn của dân. Còn công chức cán bộ là nô bộc, là đày tớ của dân. Nhưng đó mới chỉ là những khẩu hiệu, việc thực hiện mới chỉ được phần nào, nếu không muốn nói là nhiều khi đã đi ngược lại với những lời hô hào kể trên.
Ngày xưa, ông vua làm đầu trong một nước. Vua phải tôn trọng dân, vì ý dân là ý trời, như người đời vốn thường bảo:
- Dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh. Nghĩa là dân đáng quí nhất, tiếp đến là đất nước, rồi sau mới tới nhà vua.
Thế nhưng, nhiều ông vua đã không tôn trọng nguyên tắc ấy, cai trị dân như tên hôn quân bạo chúa, dùng pháp luật và quyền lực để áp chế dân, đúng như Chúa đã nói.
Còn ngày nay, những cán bộ và công nhân viên cấp lớn, cũng vốn tự xưng mình là bạn dân, là đầy tớ của dân, thế nhưng lại quan liêu hống hách, khiến cho người dân thấp cổ bé miệng phải khốn đốn khổ sở.
Nhiều kẻ vơ vét về cho đầy túi bằng tham nhũng hối lộ, theo kiểu làm quan để được vinh thân phì gia. Nhiều kẻ lợi dụng chức quyền để bênh vực hay đề bạt đàn em, gương cao ô dù theo kiểu: một người làm quan cả họ được nhờ.
Vì thế, trong những ngày gần đây báo Tuổi Trẻ cũng như nhiều báo khác đã có những bức biếm họa, những bài phiếm luận đượm mùi cay đắng, nói lên tình trạng trộn đảo lộn khác thường: đầy tớ thì đi xe con còn ông chủ thì đi xe lớn, đầy tớ thì quát tháo còn ông chủ thì đứng mà run…
Vì thế, cần phải đổi mới cách nghĩ và cách sống, nhất là cần phải bám sát vào tinh thần của lời Chúa. Càng làm lớn thì càng phải tỏ ra khiêm nhường và bé nhỏ trong tinh thần phục vụ. Chúa Giêsu đã nói và đã làm như vậy. Là Thiên Chúa, Ngài đã trở nên một người như mọi người và hơn thế nữa, Ngài còn vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá để cứu chuộc chúng ta.
Trong ngày thứ năm tuần thánh, để nêu gương khiêm nhường và phục vụ, Ngài đã quì xồng rửa chân cho các môn đệ, như lời Ngài đã phán:
- Ta đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người… Các con gọi Ta là Thày và là Chúa thì phải lắm. Nếu Ta là Thày và là Chúa mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau.
Trải qua dòng thời gian, biết bao nhiêu người đã thực thi lời Chúa, đã sống khiêm nhường và phục vụ anh em. Ngay cả đến Đức Thánh Cha, trong mọi văn thư chính thức, bao giờ cũng tự xưng là “Servus servorum” nghĩa là đầy tớ của các đầy tớ.
Chúng ta cũng vậy, dù nắm giữ chức vụ nào trong xã hội cũng như trong tôn giáo, phần đạo cũng như phần đời, chúng ta hãy sống khiêm nhường và phục vụ. Bởi vì như lời Chúa đã xác quyết:
- Ai muốn làm lớn thì phải trở nên kẻ hầu hạ. Còn ai muốn làm đầu thì phải trở nên đầy tớ.
Nghĩa là càng to, thì lại càng phải nhỏ.
42. Khiêm nhường phục vụ.
Trên đường đi lên Giêrusalem, một lần nữa, đây là lần thứ ba, Chúa Giêsu lại loan báo cho các môn đệ về những đau khổ và cái chết Ngài phải chịu ở Giêrusalem. Lần này thánh Marcô không kể lại phản ứng của các môn đệ như thế nào, nhưng câu chuyện kể ra liền sau đó đã nói lên một cách sâu sắc rằng các ông vẫn chưa hiểu gì. Trái lại, các ông tưởng đâu Chúa sẽ ra đi làm vua thống trị, thì họ sẽ được những ghế cao trong nước Chúa, bởi vì trước đây vài tuần Chúa đã hứa là họ sẽ được ngồi trên ngai xét xử mười hai chi tộc Ítraen. Nhân câu chuyện này, Chúa Giêsu lại giảng thêm về ý nghĩa cái chết của Ngài và về cách thức làm môn đệ của Ngài.
Khởi đầu câu chuyện là việc hai anh ruột Giacôbê và Gioan đến xin Chúa Giêsu cho họ được ngồi hai bên tả hữu Chúa trong nước Chúa. Tức là hai ông muốn xin được địa vị cao trong nước Chúa khi Ngài được làm vua dân Do thái. Theo bài Tin Mừng thánh Marcô hôm nay thì chính hai môn đệ Giacôbê và Gioan xin Chúa Giêsu. Còn Tin Mừng thánh Matthêu lại cho biết: không phải hai môn đệ thỉnh nguyện mà là bà mẹ của hai ông đã đến thỉnh cầu cho hai con bà. Bà mẹ nào chẳng thế! Ai lại chẳng muốn cho con mình được chỗ tốt nhất, được vinh dự. Chúa Giêsu quá biết tâm lý tự nhiên của mỗi người: muốn được làm lớn, được vinh dự, được làm thủ lãnh sai bảo người khác. Chúa đã sửa bảo họ một cách tế nhị.
Trước hết, Chúa hỏi họ: “Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” Hai ông vui vẻ và mau mắn trả lời ngay: “Thưa được”. Chắc chắn lúc ấy hai ông chưa ý thức và chưa hiểu rõ thế nào là uống chén và thế nào là chịu phép rửa. Bởi vì ngay những tư tưởng về nước trời và vinh quang nước trời hai ông cũng chưa hiểu đúng, nên mới xin Chúa một cách đơn sơ được ngồi hai bên tả hữu Chúa.
Vậy “chén” và “phép rửa” Chúa Giêsu nói ở đây là gì? Trong Cựu ước, “chén” đôi khi cũng dùng để chỉ phúc thái ơn lộc, nhưng qua thời các ngôn sứ, “chén” thường được dùng để chỉ đau khổ, bất hạnh. Trong vườn cây dầu, Chúa Giêsu đã cầu nguyện: xin Chúa Cha cất chén đau khổ, nhưng đừng theo ý Con, một theo ý Cha mà thôi. Còn “phép rửa” ở đây là cái chết đau thương của Ngài, đây là phép rửa bằng máu, cũng có nghĩa là đau khổ. Nói chung, điều kiện mà Chúa đòi hỏi hai anh em Giacôbê và Gioan là có sẵn sàng chịu đau khổ với Ngài không? Lúc ấy hai ông thưa được dù chưa hiểu, nhưng sự thật sau này hai ông đã uống chén và chịu phép rửa như đã cam kết với Chúa. Vào năm 44, thánh Giacôbê đã chịu tử đạo dưới thời vua A-gờ-ríp-pa đệ nhất, và là thánh tông đồ chịu tử đạo đầu tiên. Còn thánh Gioan, nếu không có một phép lạ thì cũng đã chết tử đạo khi bị bỏ vào vạc dầu sôi. Nhưng dù sao ngài cũng chết anh hùng sau chuỗi ngày bị lưu đày ở đảo Pát-mô.
Ngoài ra, nhân dịp này Chúa còn dạy các môn đệ một bài học sâu xa về lòng khiêm nhường phục vụ và thắng vượt lòng ghen tị. Sở dĩ các môn đệ khác bực mình với Giacôbê và Gioan bởi vì họ cũng có lòng ghen tị không muốn cho hai anh em kia được phần hơn. Các môn đệ suy nghĩ về nước Chúa Giêsu ở trần gian này. Nhưng Chúa lại suy nghĩ một cách khác. Nước Ngài không thuộc về thế gian, nơi đó người có quyền áp bức người yếu thế, người giàu sang cai trị người nghèo đói. Nước Trời ngay trong lòng mỗi người, là Giáo Hội của Chúa, nơi đó không dựa trên quyền bính nhưng dựa trên tình thương. Đó là nơi không có hận thù, ghen tị, tranh chấp.
Trong Giáo Hội cũng như trong bất cứ một tập thể nào, thường có một người đứng đầu để điều khiển những người khác và tổ chức sinh hoạt, không thể nào có cảnh “cá đối bằng đầu” mà mọi việc được xuôi lọt, vì sẽ không ai muốn tùng phục ai. Điều quan trọng mà Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh: không phải là hủy bỏ chức vụ của những người đứng đầu, chức vụ của những người lãnh đạo, nhưng đừng dùng địa vị và quyền bính của mình để áp bức người khác, lên mặt ta đây tự cao tự đại. Trái lại, phải biết phục vụ. Lòng kiêu ngạo muốn tranh đấu để làm đầu mọi người vốn là điều không tốt, nhưng lòng ghen tị cũng không tốt đẹp gì. Hai tật xấu này vốn là những khuyết điểm đã từng làm cản trở sự phát triển đời sống con người về mọi phương diện. Nên Chúa Giêsu bảo chúng ta phải loại bỏ hai tật xấu ấy.
Xin Chúa cho chúng ta luôn có tham vọng tốt để phát triển khả năng của chúng ta và sử dụng khả năng đó để phục vụ mọi người. Đồng thời xin Chúa cho chúng ta luôn vui vẻ với mọi người, không ghen tị, để chúng ta luôn được mọi người yêu mến, và nhất là Chúa Giêsu cũng sẽ hài lòng về chúng ta.
43. Phục vụ.
Bài Tin Mừng bàn về một chủ đề quan trọng – sự thực thi quyền bính. Nó liên can đến tất cả chúng ta. Nhiều người đã có kinh nghiệm xấu về quyền bính.
Người ta tìm kiếm quyền bính vì những lý do khác nhau. Một số người thích có quyền lực đi chung với quyền bính: nó làm cho người ta cảm thấy quan trọng. Những người khác thích uy thế mà nó đem lại. Những người khác nữa thích được trả lương cao. Tất cả những lý do ấy đều có một điểm chung – quyền bính được xem như một cơ hội để thăng tiến bản thân.
Jean Vanier phân biệt hai loại quyền bính: một quyền bính áp đặt, thống trị và điều khiển; và một quyền bính đồng hành, lắng nghe, giải phóng, phân quyền, làm cho người dân tự tin và kêu gọi họ ý thức về những trách nhiệm của mình.
Còn có một loại quyền bính thứ ba thinh lặng, yêu thương và ẩn giấu – quyền bính yêu thương nhưng không dùng quyền lực, xây dựng lòng tín thác và đôi khi chờ đợi đêm ngày trong nỗi lo âu. Cha mẹ đôi khi phải chờ đợi suốt đêm trường mong sao đứa con mình lầm đường lạc lối trở về.
Một vài người có tham vọng quyền lực, và sử dụng quyền bính của họ để thống trị những người khác. Đó là một sự lạm dụng quyền bính. Tham vọng quyền lực không mọc rễ trong sức mạnh nhưng trong sự yếu đuối. Chỉ có kẻ yếu mới đo lường giá trị của mình bằng những con người mà họ có thể thống trị. Thực hành quyền bính theo cách này sẽ làm cho người có quyền bị cô lập và lúc đó quyền bính chỉ đem lại điều xấu nhất cho mọi người.
Khi Giacôbê và Gioan xin Đức Giêsu cho họ có chỗ cao nhất trong vương quốc của Người thì họ chỉ nghĩ về mình. Họ không nghĩ đến lòng ganh tị và sự bực bội to lớn mà họ gây ra cho các bạn mình. Rõ ràng họ đã nghĩ đến vương quốc của Người theo kiểu mẫu của các nước ở trần gian trong đó những người ở địa vị cao phải được hưởng danh dự, vinh quang và quyền lực. Nhưng Đức Giêsu nói với họ điều ngược lại. Trong vương quốc của Người, ai lớn nhất phải sẵn sàng phục vụ người khác thay vì chính bản thân mình.
Trước tiên, Đức Giêsu phác họa tiêu chuẩn mà người ta chấp nhận về chính quyền dân sự: sự thống trị với quyền lực của các thủ lãnh trên những thần dân của họ. Nhưng trong cộng đoàn của Người thì không phải như thế. Người coi quyền bính như một cơ hội để phục vụ. Và lúc nào cũng thế, Người lấy chính mình làm gương. Người không làm một chúa tể hống hách trên dân. Người kêu gọi, mời gọi để họ đáp lại. Người muốn hướng dẫn nhưng không muốn điều khiển. Quyền bính của Người phản ánh quyền bính của Thiên Chúa. Thiên Chúa dùng quyền lực của Người không phải để điều khiển mà để cho phép.
Đó là cách thi hành quyền bính mà Người muốn có trong cộng đoàn của Người. Quyền bính không nên ban cho những người tìm kiếm nó, nhưng chỉ ban cho những người đã chứng tỏ mình sẵn sàng để phục vụ. Những người được giao cho quyền bính trên anh em mình phải cẩn trọng, công bằng, nhân hậu, khôn ngoan, khoan dung và quảng đại.
Để phục vụ, người ta phải sẵn sàng uống chén mà Đức Giêsu đã uống – chén hy sinh và đau khổ. Người ta có thể phục vụ ở bất cứ địa vị nào. Tuy nhiên, những người ở địa vị có quyền bính có vị trí tốt nhất để phục vụ. Chúng ta đang khám phá lại tinh thần này trong Giáo Hội và đây là một điều rất tốt. Quyền bính được sử dụng để phục vụ của người Kitô hữu có thể trở thành một sức mạnh kỳ diệu cho điều thiện hảo.
44. Đảo ngược.
Trong bữa Tiệc ly, Đức Giêsu đã rửa chân cho các tông đồ. Người bắt các tông đồ phải nhớ lại một bài học mà Người đã dạy họ trước đó, tức là bài học quyền bính đối với họ là một hình thức của sự phục vụ. Thế nên trong tâm trí các tông đồ không còn chút mơ hồ, nghi hoặc về những lời Đức Giêsu muốn nói: “Vậy nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em”.
Ngày nay, thường có một hố sâu ngăn cách giữa những người cai trị và những người bị cai trị. Đặc biệt một số tổn hại là do những điều sau đây. Những người ở địa vị thấp cảm thấy không được những người ở địa vị cao đánh giá đúng. Họ thấy những người này xa cách và coi thường họ. Những người đã cố sức leo lên địa vị cao rất dễ quên lúc mình còn dưới “đất đen” thì sự việc ra sao. Nhớ lại chính là hiểu biết. Cha mẹ tốt nhớ lại sự việc như thế nào khi mình còn nhỏ như con mình bây giờ.
Giá mà những người quyền cao chức trọng theo được tấm gương của Đức Giêsu đã đưa ra trong Bữa Tiệc Ly. Hãy để cho anh cảnh sát bị bắt; linh mục xuống ngồi ở hàng ghế dành cho giáo dân; ông thầy giáo xuống ngồi ở bàn học trò, đốc công xuống con mương; cai ngục bị nhốt vào xà lim; bác sĩ bị bệnh nặng; quan tòa ngồi vào ghế bị cáo; ông tướng phải ra tiền tuyến; người có công việc ổn định phải đứng xếp hàng nhận trợ cấp… hẳn chúng ta sẽ có sự quan tâm và nhạy cảm nhiều hơn trong việc thực thi quyền bính?
Dĩ nhiên trường hợp ngược lại cũng xảy ra – những người cấp trên không được người cấp dưới hiểu, và những lời phê phán khó nghe đôi khi được truyền cho nhau nghe.
Một ngày nọ một đồng hồ đeo tay đi ngang qua quảng trường tháp đúng lúc đồng hồ lớn trên tháp chuông gõ mười hai giờ trưa. Chiếc đồng hồ đeo tay nhìn lên đồng hồ lớn và nói: “Có phải ông tưởng rằng mình tốt hơn chúng tôi sao? Ông hãy nhìn lại chính mình xem. Khuôn mặt ông thì thường quá, tay ông thì vụng về, lóng ngóng, còn giọng nói của ông thì thô lỗ?”
Nhưng đồng hồ lớn bình tĩnh đáp lại: “Chú em nhỏ của tôi hãy lên đây và anh sẽ chỉ cho chú em cái này”.
Đồng hồ đeo tay leo lên những cầu thang dài và sau cùng đứng bên cạnh đồng hồ lớn. Phong cảnh nhìn từ nơi này đẹp làm sao! Nhưng chẳng mấy chốc, nó nhận thấy ngất ngưởng trên này thật nguy hiểm và cũng luôn cô độc.
“Này chú em, có một người ở dưới kia muốn biết giờ. Tại sao chú em không nói cho người đó biết?”
“Ôi, tôi không thể nào làm cho người đó nghe và thấy tôi từ chỗ này. Đồng hồ đeo tay đáp.
“Thế thì chú em không thể nói cho người đó biết”, đồng hồ lớn đáp: “Nhưng tôi có thể làm được. Mỗi người chúng ta có một việc phải làm. Việc tôi làm được thì chú em không thể, việc chú em làm được thì tôi không làm được. Vì thế, chúng ta không nên phê phán lẫn nhau. Trái lại, mỗi người hãy theo cách của mình và từ vị trí của mình để nói cho người ta biết thời giờ. Bằng cách đó, chúng ta không những bình đẳng mà còn là anh em của nhau”.
Đức Giêsu phá bỏ khoảng cách giữa ông chủ và tôi tớ. Trong Người hai bên đã trở nên một.
45. Đắng cay.
Một trong những hình ảnh mà Kinh Thánh dùng để chỉ đời sống là cái chén. Cũng giống như một cái chén có thể đựng một thứ đồ uống vừa đắng vừa ngọt, cuộc đời của mỗi người chúng ta có thể nói được là sự pha trộn giữa ngọt ngào và đắng cay. Đây là một hình ảnh phong phú và mạnh mẽ.
Nếu chén có thể hiểu như cả một cuộc đời thì nó cũng có thể hiểu như một phần cuộc đời. Vậy thì, có những lúc chén đời sống đầy những điều đắng cay, đắng cay đến nỗi chúng ta không muốn uống hoặc cảm thấy không thể nào uống được. Nhưng có những lúc khác, chén ấy tràn đầy sự ngọt ngào. Có lúc chúng ta không có đủ. Và còn những lúc khác, chén ấy có thể nhạt nhẽo và vô vị. Sau cùng, có những lúc, chén của đời mình trống rỗng.
Giacôbê và Gioan đến cùng Đức Giêsu với một đòi hỏi rất ích kỷ. Họ đòi được một người ngồi bên tay phải và người kia ngồi bên tay trái Đức Giêsu trong nước trời. Rõ ràng họ nghĩ vương quốc của Đức Giêsu cũng theo kiểu mẫu của các nước ở trần gian. Người ở địa vị cao sẽ được hưởng danh dự, vinh quang và quyền lực.
Đức Giêsu đáp lại bằng một câu hỏi: “Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống không?” Họ liền đáp lại: “Thưa được”. Bởi vì họ nghĩ rằng đó là một chén rất ngọt ngào.
Nhưng điều mà Đức Giêsu thật sự muốn hỏi hai môn đệ là: “Các anh có sẵn sàng đi qua những đau khổ mà Thầy sắp trải qua không?”
Uống chén đau khổ và hy sinh không phải là việc dễ dàng. Dĩ nhiên khi giờ đã đến để Đức Giêsu phải uống chén đó, Người đã chùn bước. Ba lần Người xin Chúa Cha cất chén ấy khỏi tay Người: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha”, và Người đã uống chén đó.
Các tông đồ lúc đó không biết chén của Chúa sẽ là chén rất đắng cay. Họ cũng không biết sự yếu đuối của mình. Thế nên khi giờ của Chúa đến, họ không cùng uống chén ấy với Người mà để Người uống chén đắng cay ấy một mình.
Chúng ta không biết trước chén đời sống nào được đưa cho chúng ta. Chúng ta khám phá dần dần khi chúng ta tiến bước. Đức Giêsu, Đấng vô tội đã chọn uống chén rất đắng cay. Nhưng như chúng ta đã thấy. Người không thấy việc đó dễ dàng. Thế nhưng Người đã uống cạn chén đó và làm thế vì yêu thương chúng ta (sự cần thiết bi thảm cũng thế – hãy nghĩ đến những viên thuốc đắng mà người ta phải uống)
Dù Đức Giêsu vô tội, Người đã cảm nghiệm sự yếu đuối và cám dỗ mà chúng ta cảm nghiệm. Người biết sự yếu đuối của chúng ta. Vì thế, chúng ta phải đến gần Người với lòng trông cậy, vì biết rằng Người có thể và sẽ giúp đỡ chúng ta.
Nếu chúng ta thấy chén đời sống cay đắng lạ lùng, thì chúng ta không cần phải cho rằng nó ngọt ngào hoặc nghĩ rằng chúng ta uống nó bởi sức mạnh của riêng mình. Không giống như hai môn đệ Giacôbê và Gioan, chúng ta không nên sợ hãi hay xấu hổ mà nói rằng: “Không, Lạy Chúa, con không thể uống và không muốn uống. Nhưng nếu con phải uống thì với sự giúp đỡ của Chúa con sẽ uống được”.
Uống chén đời sống, đặc biệt chén khó khăn được làm bởi một cuộc đời hy sinh và phục vụ người khác, chính là đi theo Đức Kitô. Nhưng những ai chia sẻ với Người chén đắng cay của thập giá Người thì cũng sẽ chia sẻ với Người vinh quang phục sinh của Người.
46. Khiêm tốn phục vụ - Lm Jude Siciliano.
Tôi viết bài suy niệm này, khi đang rao giảng ở vịnh San Francisco, bang California. Hồi này là cuối tháng Chín. Tiểu bang đang vào mùa tranh cử. Không khí hùng biện thật sôi nổi. Người ta vận động truất phế thống đốc đương nhiệm và tranh nhau cái ghế của ông. Địa vị chỉ có một mà người tranh cử lại quá nhiều, cho nên cuộc ganh đua thật ráo riết. Thêm vào đó, chức vị thống đốc tiểu bang là cơ hội tốt để hướng tới những tham vọng chính trị khác, kể cả chức tổng thống hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Ngoài ra, bây giờ cũng là cuối mùa bóng chày (Baseball). Các đội mạnh cũng đang quyết tâm đoạt giải vô địch, thực tế đội San Francisco hay Oakland đang thư hùng những trận đấu cuối cùng, thành thử chỗ nào cũng nhan nhản các động viên, chính trị và thể thao. Đầu mùa đội San Francisco Forty Niners đã chịu một vài thất bại. Nếu như không thắng phen này thì quả là đại hoạ! Chỉ có mưu kế chui xuống đất để tránh xấu hổ cùng bàn dân thiên hạ! Mọi người đều muốn đội "ruột" của mình thắng, bởi lúc ấy chúng ta cùng "thắng" với họ. Chẳng ai dại liên kết với kẻ thất bại. Ông bầu Vince Lombardi một lần đã nói: "thắng là điều duy nhất chúng tôi nhắm tới."
Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật hai mươi chín này, các môn đệ Chúa Giêsu cũng khao khát là kẻ chiến thắng, bởi trong quá trình rao giảng họ đã kỳ mục sở thị danh tiếng và quyền năng của Ngài. Họ đã nếm trước vinh quang khi Chúa thực hiện các phép lạ, loại trừ các đối thủ một cách vẻ vang. Nhưng thực ra họ đã nhầm. Bài Phúc Âm cho thấy quan điểm của họ hoàn toàn trái ngược với mạc khải của Chúa về những đau khổ Ngài sắp phải chịu: "Các anh chẳng hiểu biết điều các anh xin! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?" Thực tế, bài Tin Mừng nối tiếp ngay sau lời tiên báo thứ ba về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu (Mc 10,32). Nếu để ý, chúng ta thấy Chúa huấn luyện các môn đệ đang trong hành trình lên Giêrusalem. Ngài dạy bảo họ nhiều điều và ngày càng hết thời gian. Các Ngài đã đến ngoại ô thành phố. Vậy mà các môn đệ chẳng tiếp thu được bao nhiêu, vẫn cái não trạng xôi thịt. Nếu như Chúa làm một cuộc kiểm tra cuối học kỳ, chắc chắn họ sẽ thất bại, ăn điểm loại. Có đúng là họ đã trốn học trong những ngày Chúa dạy về từ bỏ mình để có thể theo Ngài. (Mc 8,34). Hoặc những điều kiện để lắng nghe lời Thiên Chúa? Hay những kẻ giàu có khó vào Nước Thiên Chúa biết bao? Hoặc phải trở nên trẻ nhỏ để vào được Nước Hằng Sống?... Khi lắng nghe hai anh em Giacôbê và Gioan yêu cầu, hẳn Chúa Giêsu phải thất vọng ghê gớm! Họ chẳng thấm được chi hết! Tuy nhiên, phần chúng ta thế nào? Suốt đời nghe Chúa rao giảng, mời gọi, có học được gì không? Lương tâm và nếp sống mỗi người trả lời cho câu hỏi!
Cứ như tiến trình bình thường thì tham vọng của cuộc sống là như thế. Các ông Gioan và Giacôbê không thể ra ngoài thông lệ. Họ nhìn về phía trước, lượng định cho mai sau. Khi cho con đi học, vừa bước chân vào cổng trường là chúng ta đã hy vọng tương lai: bằng cấp, công ăn việc làm, địa vị, lương bổng,... Chúng ta muốn chúng thành công trong học hành, để có thể đạt tới các mục tiêu. Chúng phải cắt ngắn các ngày nghỉ hè, cắp sách đi học thêm, bỏ bớt các hoạt động ngoại khoá, các vui chơi giải trí, mùa hè xanh, lửa trại. Phải "cày" ngay từ buổi đầu năm học, thuê mướn gia sư phụ đạo, chạy chọt trường điểm, trường chuyên để đảm bảo việc học hành cho con cái và thoả mãn ước vọng tương lai. Như vậy, chúng ta hiểu được những hy sinh, gian khổ gắn liền với mục tiêu đề ra, khác hẳn các đệ tử ham chơi của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay, dễ dãi mà tính đạt danh vọng cao!
Nhưng cũng không thể quá nghiêm khắc với họ được, bởi lẽ trong cuộc sống xã hội cũng như riêng tư của các Ngài, toàn bị các phù phiếm tấn công (như chúng ta phải chịu đựng ngày nay): khao khát quyền lực, giàu sang phú quý, danh vọng, giai cấp. Họ mong đợi một Đấng Messiah, quyền uy mạnh mẽ, lật đổ ách thống trị ngoại bang, thiết lập vương quyền như thời David và dĩ nhiên, họ được chia phần, không khanh tướng thì cũng bộ trưởng nọ kia. Họ sẽ được ăn trên ngồi chốc, sai bảo, cắt cử, trị vì. Giấc mộng thật là đẹp. Hai tông đồ Gioan và Giacôbê chẳng qua can đảm hơn, nói lên được suy nghĩ của mình. Vì thế, họ mới phát ghen khi hai ông dự định dành chỗ nhất, và thẳng thừng nhờ mẹ (chỗ thân thích với Thầy Giêsu) yêu cầu giùm. Đúng là Giacôbê và Gioan ranh mãnh. Chiếc vé vinh quang hai bên tả hữu Chúa Giêsu hai ông tính chiếm đoạt! Trong lúc các môn đệ khác đều ước ao quyền bính, tiếng thơm và địa vị.
Sự thật là chiến thắng cuối cùng sẽ được Thiên Chúa ban cho Đức Kitô và các môn đệ. Nhưng phải thông qua đau khổ và cái chết. Đức Kitô đã mạc khải rõ như vậy. Thầy trò phải trở nên "tôi tớ" phục vụ nhân loại trong ý nghĩa "thí mạng sống để cứu chuộc loài người". Chắc chắn ý nghĩa này không phải là tham vọng trần tục của các tông đồ, và cũng không nằm trong ý đồ của chúng ta, khi vỗ ngực tự xưng là kẻ theo Chúa. Đức Kitô chẳng muốn xỉ nhục và đau khổ cho chính mình và các môn đệ. Nhưng đó là con đường không thể tránh khỏi khi tuân theo thiên ý Đức Chúa Trời. Đường lối Thiên Chúa trái ngược với những yêu thích xác thịt. Đau khổ của Đức Kitô là hậu quả tất yếu của việc Ngài lựa chọn con đường Thiên Chúa, đồng hoá với những kẻ nghèo hèn, tối tăm và bị loại. Ngài vươn tới những tội nhân, kết bạn với phường bị xã hội và tôn giáo nguyền rủa, tẩy chay. Bởi Ngài luôn đau nỗi đau của những số phận ngoài lề, cho nên bị loài người và dường như cả Thiên Chúa trừng phạt. Cuộc đời của Ngài nhằm mục tiêu duy nhất là phục vụ những ai bị khinh bỉ, dày xéo hoặc bỏ qua. Lòng của Ngài đối với những kẻ nghèo hèn thúc đẩy đến cái chết nhục nhã. Ngài đâu có dấu vết gì là thuộc thành phần thượng lưu, thống trị. Vậy mà luôn luôn đối đầu với giai cấp giàu sang, quyền quý cả đạo lẫn đời. Họ căm phẫn, cay đắng về cách hành xử và rao giảng của Ngài, đến độ nhất trí triệt hạ Ngài. Vậy thì không chi lạ lẫm nếu như hơn hai ngàn năm nay, những kẻ thực sự nhận Ngài làm tôn sư đều bị thế gian, ma quỷ và xác thịt truy lùng và giết hại. Bởi họ cũng như Ngài là cái gai gây nhức nhối thiên hạ: "Giả như anh em thuộc về thế gian, thì thế gian yêu thích cái gì thuộc về nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian, nên thế gian ghét bỏ anh em." (Ga 15,19) Đó là những gì Chúa Giêsu tiên báo về số phận của Ngài và của tông đồ, khi các Ngài đang trong hành trình tiến về Giêrusalem.
Nhưng xin nhớ Chúa Giêsu không cưỡng ép ai làm môn đệ Ngài. Ngài chỉ kêu mời và chúng ta hoàn toàn tự nguyện. Tuy nhiên vào giai đoạn này của Phúc Âm Marcô, Chúa có một lời mời gọi khác, quyết liệt hơn nhiều cho những kẻ sẵn sàng bước theo Ngài: "Các anh có uống nổi chén đắng Thầy sắp uống không?" Chả là vì lúc này theo Ngài có nghĩa là hy sinh triệt để cùng Ngài. Ẵm lấy thánh giá, chịu treo lên và chết nhục nhã. Cái chết của một tử tội, mọi người ghê sợ và xa tránh. Khi mới theo, có lẽ các môn đệ chưa nhận ra nội dung này, nhưng bây giờ thì họ được mời gọi chấp nhận, và họ vẫn còn tự do theo hoặc không theo. Đây là thực tế của ơn Ngài kêu gọi, các môn đệ chưa thể nhận ra lúc ban đầu, tuy nhiên điều phải đến đã đến. Hậu quả là đa số chạy trốn, ngoại trừ Gioan và các phụ nữ! Chúng ta cũng đã nói "vâng" với tiếng Chúa mời gọi, liệu có ý thức được đau khổ và hy sinh là một phần của thửa ruộng đã mua? Liệu có bằng lòng đi theo Ngài lên Giêrusalem để chịu chết? Liệu còn sẵn sàng chấp nhận số phận của Ngài trên thập giá? Xem chừng câu trả lời rất khó. Không kể các linh hồn thật sự can đảm. Con số này xưa nay hiếm!
Bởi lẽ, đa phần nhân loại đều tìm kiếm vẻ vang. Là con cháu dòng giống xây tháp Babel, luôn luôn có khuynh hướng nhìn lên cao, ngưỡng mộ những thành công rực rỡ, những công trình "vĩ đại". Nhanh hơn, cao hơn và xa hơn, là khẩu hiệu của các cuộc đua Olympic, phần nào nó nói lên tâm lý Babel này. Bất hạnh thay, các đệ tử của Chúa Giêsu trong Giáo Hội cũng mắc phải cùng một tâm trạng, ganh đua nhà thờ, tranh giành ảnh hưởng, địa vị cao sang, là nhân vật quan trọng trong địa phận, địa giới, âm mưu hạ bệ bạn bè, vươn lên chiếm ghế chủ toạ. Nói gọn lại, đủ mọi mánh khoé như con cháu Giacóp. Do đó, lời mời gọi của Chúa Giêsu hôm nay có giá trị đặc biệt để chúng ta xét lại thái độ của mình. Chúng ta lượng định thế nào về các thành công và tầm vóc quan trọng trong nội bộ Hội Thánh, và ngoài xã hội? Chúng ta trân trọng những ai và khinh miệt kẻ nào? Cứ như cái nhìn của Tin Mừng hôm nay, thì kẻ "vĩ đại" là người phục vụ kẻ khác, tinh thần và vật chất. Nó mở mắt cho chúng ta thấy được tấm lòng "vĩ đại" trong nếp sống thường nhật chung quanh mình. Những người cha hy sinh, các người mẹ chung thuỷ, dịu dàng, các con cái vâng lời, cần mẫn, những nông dân, công nhân vất vả làm ra của cải cho xã hội. Chúng ta cũng cần nhìn vào những con người hiền lành khiêm nhường chất phác phục vụ không cần tiếng khen, phần thưởng. Những giúp đỡ không cần lời tạ ơn. Những lòng trung thành với bổn phận không cần biểu dương ầm ĩ.
Trong giáo xứ tôi đang rao giảng có một nhóm ông bà lớn tuổi. Họ là những thành viên tích cực của hội từ thiện thánh Vinhsơn đệ Phaolô. Nhờ họ mà hội này sống được và hoạt động. Họ nuôi dưỡng những gia đình nghèo khổ trong giáo xứ. Họ đi xin lương thực, quần áo, chăn mùng rồi tập trung phân phát cho các gia đình thiếu thốn, nhập cư. Một giáo dân cho tôi hay, không có những người này thì hội đã tan rã từ lâu. Vậy mà xem dáng vẻ bên ngoài, họ toàn là những người quê kệch, lôi thôi, chẳng ai muốn nhìn, mặc dù công việc của họ là then chốt cho việc từ thiện trong giáo xứ. Ai mà biết được sự "vĩ đại" của họ nằm ở đâu? Họ thực thi sứ vụ và ơn gọi của mình khiêm tốn và lặng lẽ. Mục tiêu duy nhất của họ là người đói nghèo có cơm ăn áo mặc. Phải chăng họ đang nhắm đến nếp sống "vĩ đại" mà Phúc âm hôm nay chỉ bảo? Xin Chúa cho chúng ta cũng được trở nên các linh hồn sáng giá như họ. Amen
*** Ai đó hỏi linh mục John Wesley tại sao nhiều người vất vả vượt quãng đường xa để đến nghe ông giảng. Linh mục trả lời: "Tôi tự thiêu đốt mình và người ta đến xem tôi bốc cháy." Câu nói đáng chúng ta suy nghĩ. Tuy nhiên nó ngầm ý hy sinh và khổ hạnh.
47. Bánh và nước – Lm Mark Link.
"Chúng ta phải bắt chước Chúa Giêsu, Đấng đã đến để phục vụ người khác chứ không phải để được người khác phục vụ"
Câu cuối cùng trong bài Phúc Âm ngày hôm nay là một trong những câu hỏi nổi bật nhất trong toàn bộ Kinh Thánh, chúng ta hãy nghe lại câu ấy: "CON NGƯỜI không đến để được phục vụ, nhưng để Phục vụ và hiến thân cứu chuộc nhiều người". Ít câu nào trong Kinh Thánh tóm tắt được cuộc đời Chúa Giêsu một cách hoàn hảo như thế.
Lần đầu tiên nghe nói về cuộc đời Chúa Giêsu, một Kitô hữu Nhật Bản nổi tiếng tên là Kagawa kêu lên: "Lạy Chúa, xin cho con nên giống Đức Kitô của Ngài". Và để nên giống Đức Kitô hơn, Kagawa đã từ bỏ căn nhà tiện nghi để đến sống trong những khu tồi tàn vùng Tokyo. Ở đó, ông chia sẻ chính bản thân và của cải mình cho bất cứ ai cần sự giúp đỡ. Trong cuốn sách nhan đề "Quyết Định Nổi tiếng Về Cuộc Đời" (Famous Life Decision), Cecil North Cott viết: Kagawa đã cho đi hết áo quần của mình, và chỉ mặc trên người chiếc áo thụng rách nát tả tơi; vào một dịp khác, dù lâm bệnh rất nặng, ông vẫn tiếp tục thuyết giáo dưới cơn mưa, miệng lập đi lập lại không ngừng, "Thiên Chúa là Tình yêu, Thiên Chúa là Tình yêu. Ở đâu có tình yêu ở đấy có Thiên Chúa".
William Barclay cho chúng ta thấy tâm hồn và trí tuệ của Kagawa qua những lời của Kagawa mà ông trích dẫn như: "Chúa ở trong tâm hồn những người hèn mọn nhất, Ngài hiện diện giữa những kẻ ăn xin, Ngài nằm chung với những người bệnh hoạn, Ngài đứng về phía những người thất nghiệp. Vì thế, ai muốn gặp Thiên Chúa thì hãy đến thăm tù ngục trước khi đi tới đền thờ, hãy đến thăm tù ngục trước khi đi tới đền thờ, hãy đến thăm bệnh viện trước khi đi dự lễ, hãy giúp đỡ kẻ nghèo khổ trước khi đọc Kinh Thánh.
Khi đọc về một người như Kagawa, chúng ta nên tự vấn chính mình; chúng ta phải làm sao để có thể sống Phúc Âm một cách nghiêm chỉnh hơn trong đời sống mình? Phải làm sao để bắt chước đời sống phục vụ của Chúa Giêsu một cách thiết thực hơn? Phải làm sao để trở thành Kitô hữu đích thực hơn trong chính gia đình và trong môi trường làm việc của mình?
Dĩ nhiên không ai có thể trả lời dùm chúng ta, vì đây là những câu hỏi mà chúng ta phải tự trả lời lấy, nghĩa là mỗi người đang hiện diện ở đây sẽ phải trả lời những câu hỏi ấy theo cách thức của mình. Tuy nhiên, đừng bao giờ vịn cớ rằng: "Tôi không thể đến những khu tồi tàn ở Tokyo để sống giống như Kagawa đã làm", để rồi chúng ta chẳng làm gì nữa cả; vì nếu chúng ta không thể làm được một điều thật can đảm, thật anh hùng, thì điều đó không có nghĩa là chúng ta không còn có thể làm được bất cứ việc gì khác.
Tất cả chúng ta đều có thể làm một điều gì đó dù rất là nhỏ bé và xem ra vô nghĩa, khởi đầu là cho chính những người thân trong gia đình chúng ta, rồi từ đó chúng ta sẽ có những may mắn mở rộng việc phụng sự ra môi trường xa hơn, còn nếu chúng ta không khởi sự ngay từ gia đình mình thì chúng ta cũng sẽ không bao giờ khởi sự được ở bất cứ nơi nào khác.
Sau đây là một trong những ví dụ hấp dẫn nhất nói về việc phục vụ tha nhân khởi sự từ chính gia đình mình. Đó là câu chuyện được đăng trong tạp chí Leadership (Giới lãnh đạo) cách đây ít lâu:
Một cậu bé nọ cứ cố tình đi học về trễ hoài mà chẳng có lý do gì chính đáng cả, dù đã có biết bao lời khuyên nhủ răn bảo cậu. Cuối cùng, vì quá thất vọng, bố cậu bảo cậu ngồi xuống và nói; "Lần sau con còn về trễ nữa là con chỉ được ăn tối bằng bánh mì với nước lã thôi, ngoài ra không được ăn thứ gì khác nữa nhé. Con nghe rõ chưa?" Cậu bé nhìn thẳng vào mắt cha và gật đầu. Cậu đã hoàn toàn hiểu ý bố cậu.
Vài ngày sau, cậu bé về nhà còn trễ hơn bình thường nữa, Mẹ cậu gặp cậu ở cửa song chẳng nói một lời. Cha cậu gặp cậu trong phòng khách nhưng cũng vẫn chẳng nói lời nào với cậu. Tuy nhiên, tối hôm ấy, khi mọi người quây quần bên bàn ăn, trái tim cậu bé như muốn thót lại khi thấy đĩa cha cậu chất đầy thức ăn, đĩa của mẹ cũng thế, còn đĩa của cậu thì chỉ có một khúc bánh mì, bên cạnh có một ly nước lã, trông hiu quạnh làm sao! Đầu tiên cậu liếc nhìn miếng bánh, sau đó lại nhìn qua ly nước lã. Đây chính là hình phạt bố mẹ cậu đã nói trước với cậu, đáng buồn hơn nữa là tối nay cậu lại cảm thấy đói quá chừng.
J. Allan Peterson, tác giả câu chuyện đã mô tả diễn tiến sự việc như sau: "Người bố chờ cho bầu khí căng thẳng lắng xuống đoạn lặng lẽ cầm chiếc đĩa của cậu đặt trước mặt ông, rồi cầm chiếc đĩa của ông đặt trước mặt cậu bé…" Cậu bé chợt hiểu ngay điều bố cậu đang làm. Bố cậu đã nhận hình phạt mà lẽ ra chính cậu phải chịu vì hành vi bê bối của riêng cậu…. Mãi nhiều năm về sau, chính cậu bé ấy vẫn nhớ đến biến cố và nói: "Chính nhờ hành vi bố tôi đã làm tối hôm ấy, mà suốt cả đời, tôi đã hiểu được Thiên Chúa tốt lành biết bao!".
Câu chuyện trên giúp ta hiểu thật dễ dàng điều Chúa Giêsu muốn ám chỉ qua lời Ngài nói trong Phúc Âm hôm nay; "Con Người…. đến… để hiến mạng cứu chuộc nhiều người". Đức Giêsu đã đến trong thế gian để làm cho chúng ta điều mà bố cậu bé đã làm cho cậu. Ngài đến để đền tội lỗi chúng ta bằng chính cái chết của Ngài trên thập giá.
Vậy, để kết thúc, chúng ta hãy nhớ rằng bài Phúc Âm hôm nay đưa ra cho chúng ta một thách thức; Đó là chúng ta phải hiến mạng sống mình để phụng sự tha nhân như Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta và nơi chốn tốt nhất để khởi sự việc này là chính gia đình ta và môi trường làm vịêc của ta. Nếu chúng ta khởi đầu từ những môi trường này, chúng ta sẽ mở rộng được lòng yêu thương phục vụ của chúng ta sang những môi trường khác nữa.
Biết đâu vào một thời gian nào đó, chúng ta sẽ có dịp phục vụ kẻ khác cũng quảng đại như Kagawa đã làm nơi những căn nhà tồi tàn vùng Tokyo. Chúng ta sẽ có thể có dịp phục vụ tha nhân cũng quảng đại như người bố trong câu chuyện đối với đứa con hư của mình. Tuy nhiên, trước khi chúng ta hy vọng có thể bay được thì chúng ta phải tập đi bộ đã. Và bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta bắt đầu tập đi bộ, mời gọi chúng ta bắt đầu phục vụ lẫn nhau, ngay từ trong gia đình và môi trường làm việc của chúng ta; Đó chính là lời mời gọi chúng ta hãy bắt chước Chúa Giêsu là Đấng đã phán"
"Con Người đến không phải để được phục vụ, mà để phục vụ và hiến mạng sống cứu chuộc nhiều người".
48. Chết vì người khác - Lm Nguyễn Ngọc Long
Hai người con ông Dêbêđê là Giacôbê và Gioan đến gần Đức Giêsu và nói: “Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây.” Người hỏi: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?”. Các ông thưa: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang.”
Đức Giêsu bảo: “Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không? “. Các ông đáp: “Thưa được.” Đức Giêsu bảo: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được.”
Nghe vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Giacôbê và ông Gioan. Đức Giêsu gọi các ông lại và nói: “Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người.”
Các con thiếu nhi thương,
Thời Thế chiến, một tù nhân đã vượt ngục trốn khỏi trại tập trung Auschwitz, một nhà tù khét tiếng tàn ác của Đức Quốc Xã tại Ba Lan. Để cảnh cáo những tù nhân còn lại, bọn cai ngục đã bắt mười tù nhân khác phải chịu tử hình để thế mạng. Chúng chỉ ra mười tù nhân, trong đó có một người là bố trong một gia đình. Khi mười nạn nhân bước ra khỏi hàng, thì một người tù khác, cha Maximilianô Kolbê, một linh mục dòng Phanxicô, đã tiến ra và tình nguyện chết thay cho người cha gia đình kia.
Viên sĩ quan cai tù sửng sốt, nhưng cũng chấp nhận lời đề nghị kia. Và Cha Maximilianô đã chết (ngày 14/08/1941). Trong nghi thức phong hiển thánh cho vị tử đạo được cử hành 41 năm sau, người ta đã chứng kiến gương mặt giàn dụa nước mắt của người cựu tù năm xưa đã được thánh nhân thế mạng được truyền hình trên khắp thế giới (10/10/1982).
Ông ấy đã gặp được một con người thực sự có lòng yêu thương: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng vì bạn hữu mình.” (Ga 15, 13).
Các con thiếu nhi thương,
Câu chuyện của cha Maximilianô Kolbê mà các con vừa nghe có vẻ đi ngược lại với khuynh hướng tự nhiên của Nhóm Mười hai Tông đồ trong thời gian đầu đi theo Chúa Giêsu. Các ông muốn nắm hai chức vụ lớn nhất trong Vương quốc mà các ông tưởng rằng Chúa Giêsu sắp thiết lập, điển hình là hai anh em nhà Dêbêđê là ông Giacôbê và ông Gioan.
Hai ông đã xin gì, các con biết không? Thưa, hai ông đã xin rằng: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang.” Nhưng Chúa Giêsu đã trả lời, như thách thức hai ông cũng như các Tông đồ còn lại: “Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?”.
Đức Giêsu cố ý nói đến cơn hấp hối và cái chết mà Người phải chịu. Hai anh em được thách đố để theo Đức Giêsu đến cùng.
Đức Giêsu kết thúc cuộc trao đổi bằng cách đặt hai anh em trước một câu trả lời đòi họ phải được hoán cải để theo ý muốn của Thiên Chúa. Người nói: “Có thể Chúa Cha sẽ dành địa vị cho các anh, nhưng các anh phải sẵn sàng vác thập giá tôi vác, uống chén đắng tôi uống và chịu phép rửa tôi chịu”. Nghĩa là hai anh em phải bước theo Đức Giêsu cho tới cái chết trên thập tự.
Các con thương,
Sau này, khi Chúa Giêsu về trời, các vị Tông đồ Giacôbê và Gioan cùng với các Tông đồ khác đã hiểu được lời của Chúa Giêsu: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em, ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người”. Và các Tông đồ đã đem ra áp dụng trong đời sống của mình, khi hầu hết các ông đã chịu chết vì Danh Chúa trong khi các ông phục vụ công việc rao giảng Tin mừng. Làm như thế, các ông đã bắt chước Thầy của mình là: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”.
Các con thương,
Thầy Giêsu, các Tông đồ, Cha thánh Maximilianô đã “hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”, trong số đó có cha, có các con và nhiều người khác nữa. Ngày nay, noi gương Thầy Giêsu, các Tông đồ và thánh Maximilianô Kolbê, thiếu nhi có thể làm gì để phục vụ và hiến mạng vì người khác? Cha nghĩ rằng, các con có thể làm những việc nhỏ cụ thể sau đây:
– Phục vụ và hiến thân vì người khác khi các con biết nghĩ tốt cho bạn bè, không ghen tị, nói xấu hay chửi tục;
– Phục vụ và hiến thân vì người khác khi các con bớt tiền ăn sáng để đóng góp cùng với nhiều người để cứu giúp những người nghèo khổ, già cả, bệnh tật…
– Phục vụ và hiến thân vì người khác là các con học biết yêu mến Chúa Giêsu và bắt chước thánh Maximilianô Kolbê lòng yêu mến Đức Maria qua tràng chuỗi mân côi trong tháng Mân côi này và đặc biệt trong tháng Mân côi.
Thực hành:
1. Biết sống vì mọi người bằng cách sẻ chia vật chất với ai nghèo khó.
2. Noi gương Chúa Giêsu, tập sống đời phục vụ.
Tâm niệm: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”.
Đi tìm kho báu: Mời các con cùng suy nghĩ và trả lời các câu hỏi sau
1. Hai tông đồ Giacôbê và Gioan đã xin với Chúa Giêsu điều gì?
2. Câu trả lời của Chúa Giêsu đã dạy họ bài học gì?
3. Để được ở bên Thiên Chúa, các con cần phải trở nên như thế nào?
49. Muốn làm lớn, phải phục vụ như đầy tớ
(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)
Tham vọng chung của loài người là có được một chỗ đứng trong bậc thang xã hội. Vì thế mà hai tông đồ Giacôbê và Gioan toan ngỏ ý xin Thầy mình một ân huệ là được ngồi: một người bên tả và một người bên hữu trong vinh quang của nước Chúa. Nghe lỏm được ý đồ của họ, các môn đệ khác bèn tức tối với hai ông này (Mc 10:41). Xét theo công trạng, thì hai ông Giacôbê và Gioan chưa có làm được gì đáng kể. Nói kiểu bình dân, các ông chưa có điểm với Chúa Giêsu và với các tông đồ khác, nên việc xin ngồi bên tả và bên hữu chi là việc muốn ăn mảnh.
Đến đây, Chúa liền thách thức hai ông: Các con có uống nổi chén mà Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không? (Mc 10:38). Thời cổ xưa tại đất Do thái, việc uống cùng một chén với ai, có nghĩa là muốn tham phần vào vận mệnh của người đó: hoặc may hay rủi. Vậy thì vận mệnh của Chúa cứu thế là gì? Vận mệnh của Chúa là việc tự nguyện chấp nhận khổ hình thập giá để làm giá cứu chuộc nhân loại. Như vậy lời Chúa có nghĩa là lời thách đố xem hai ông có muốn trả giá cả để được ngồi bên tả và bên hữu Chúa không, nghĩa là xem các ông có muốn chịu khổ hình với Chúa và vì Chúa không? Chúa nhận lời quả quyết chấp nhận bách hại và chịu đau khổ của hai ông. Tuy nhiên ghế danh dự mà hai ông xin là tuỳ thuộc vào sự quyết định của Chúa Cha.
Trong những lần giảng dạy, Chúa Giêsu hứa sẽ thiết lập một vương quốc vĩnh cửu, nhưng Người sẽ phải chịu đau khổ và chịu chết trước khi hoàn thành theo như lời tiên báo trong sách Isaia: Thiên Chúa đã muốn người tôi trung phải bị nghiền nát vì đau khổ. Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn (Is 53:10). Và như vậy thì Chúa Giêsu đồng hoá với người tôi tớ đau khổ của Đức Giavê trong lời tiên tri Isaia. Nỗi đau khổ mang lại sự cứu độ còn được Thánh Phaolô đề cập đến trong thư gửi tín hữu Do thái (Dt 4:16).
Phúc âm hôm nay ghi lại Chúa Giêsu chặn đứng tham vọng cá nhân của ông Giacôbê và Gioan bằng cách dạy họ: Ai muốn làm đầu anh em, thì phải làm đầy tớ mọi người (Mc 10:44), nghĩa là phục vụ mọi người. Các tông đồ muốn phần thưởng cho những cố gắng của họ. Chúa bảo họ trong Nước Chúa thì có sự khác biệt. Nước Chúa không phải là nơi để người ta tâng bốc cái tôi. Trong Nước Chúa, tất cả những ai muốn có ảnh hưởng, địa vị thì phải làm đầy tớ người khác, nghĩa là phục vụ người khác. Nếu để các ông nuôi tham vọng cá nhân, có thể trở nên mối nguy hại cho Giáo hội mà Chúa sẽ thiết lập sau này.
Chúa dạy các tông đồ như vậy để cho những người kế vị và những người cộng sự hiểu biết đường lối Phúc âm hầu tránh việc lạm dụng chức tước mà gây ảnh hưởng cá nhân, thay vì tìm kiếm vinh danh Chúa và xây dựng Giáo hội. Như vậy khi hiểu được bản chất của Nước Chúa, các tông đồ sẽ là người cuối cùng tìm kiếm địa vị và danh dự. Các tông đồ nhận thức được rằng, họ sẽ có địa vị trong Nước Chúa, cũng như trong Giáo hội của Chúa. Tuy nhiên Chúa bảo họ không được dùng quyền để bá chủ và áp đặt, mà phải dùng quyền để phục vụ như Chúa đã phục vụ: Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người (Mc 45).
Có nhiều việc phục vụ khác nhau. Trong quá khứ, có những việc phục vụ do đầy tớ và nô lệ thực hiện. Vào thời cổ xưa tại đất Do thái, khi khách vào nhà ai, thì việc của đầy tớ là đem nước để rửa chân cho khách. Chân đi dép trên đất cát giữa trời nóng nực mà được dội nước vào thì cảm thấy khoan khoái biết bao. Trong bữa Tiệc ly Chúa Giêsu đã làm công việc của người nô lệ, lấy nước rửa chân cho các tông đồ vì yêu thương. Và Chúa dặn các ông phải rửa chân lẫn cho nhau, nghĩa là phục vụ lẫn nhau. Phục vụ cũng được thực hiện do người làm công hay tình nguyện. Việc phục vụ được coi là việc nhân đạo nếu được phát xuất tự chủ nghĩa nhân bản. Việc phục vụ được coi là việc bác ái nếu được làm vì yêu mến. Việc phục vụ có đượm tình yêu mến là điểm thiết yếu của đạo Kitô giáo. Phục vụ người khác vì yêu mến là một nhân đức mà mỗi người Kitô hữu cần thực hành. Khi phục vụ vì tình yêu mến Chúa thúc đẩy, công việc phục vụ sẽ trở nên nhẹ nhàng và người làm việc phục vụ mới cảm thấy vui được. Có những người khi không có việc gì làm, thì buồn chán, sinh bệnh; khi làm việc phục vụ giúp đỡ tha nhân, họ tìm được ý nghĩa của cuộc sống, lại lên tinh thần, rồi được khỏi bệnh. Và đó là ý nghĩa của tình yêu biến đổi. Thánh Âu-tinh cũng nhận định: đâu có yêu, đấy không còn khổ, mà giả như có khổ đi nữa, người ta sẽ chấp nhận cái khổ vì yêu.
Nếu muốn sống tinh thần phục vụ, người ta sẽ tìm thấy rất nhiều việc để làm trong nhà thờ như quét dọn nhà thờ, hốt lá khô, nhặt rác rưởi xung quanh nhà thờ; và nhiều việc để làm trong làng xóm, phố phường như tình nguyện giúp việc từ thiện, bác ái, việc xã hội và việc nhân đạo.
Là người công dân và người Kitô hữu, người tín hữu cần học để coi việc phục vụ trong gia đình, trong giáo xứ và trong xã hội như là phương thế để hoàn thành ơn gọi làm người Kitô giáo.
Lời cầu nguyện xin cho được biết sống tinh thần phục vụ:
Lạy Chúa Giêsu!
Chúa đến thế gian dạy các môn đệ
bài học phục vụ trong yêu thương.
Xin dạy con biết làm việc phục vụ vì yêu mến Chúa
và nhận ra hình ảnh của Chúa
nơi nguời anh chị em mà con phục vụ
nhất là những người nghèo đói, bệnh tật
đau khổ và bất hạnh. Amen.
50. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux.
LẦN THỨ BA LOAN BÁO VỀ CUỘC KHỔ NẠN (10,32-34)
Sau chuỗi huấn dụ chúng ta vừa đọc (9,33-10,31) quả là thích hợp khi Maccô nhắc lại cho chúng ta nhớ Chúa Giêsu đang cùng các môn đệ trên đừơng tiến về Giêrusalem, trung tâm của dân riêng Chúa (c. 32a). Dù không có ghi lại những chỉ dẫn địa lý chính xác người ta cũng biết rằng Đấng Mêsia đang tiến đến gần các biến cố trọng yếu của định mệnh Ngài. Ngài đã băng ngang vùng Galilê từ bắc tới nam (9,30). Ngay từ trước, ngài đã cố gắng dạy dỗ các môn đệ chuẩn bị cho những gì đang chờ đón Ngài.
Maccô đã nhấn mạnh “hành trình lên Giêrusalem này qua ba lần loan báo về cuộc khổ nạn. Con số “ba” mang tính cách tượng trưng muốn nói lên rằng điều đó được Chúa Giêsu lặp đi lặp lại trong suốt cuộc hành trình. Và đây là lần thứ ba và cũng là lần cuối Chúa Giêsu loan báo cho các môn đệ về cái chết sắp tới và cuộc phục sinh của Ngài. Người ta nhớ lại lần loan báo đầu tiên (8,31-33) đã làm các môn đệ thất vọng sâu xa. Nhân danh họ, Phêrô vừa mới nhìn nhận Chúa Giêsu là Đấng Mêsia, nhưng viễn cảnh về một Đấng Mêsia khổ đau và chết chóc đã làm cho Phêrô kịch liệt chống đối (8,32). Người Do Thái chỉ có thể mường tượng đặc sứ của Thiên Chúa mang ơn cứu độ cho họ qua lăng kính một vị anh hùng vinh thắng. Lần loan báo thứ hai về cuộc khổ nạn (9,32-33) được Chúa Giêsu nói với môn đệ trong khi băng ngang qua vùng Galilê. Ngài phải không ngừng đạt tâm trí bạn hữu mình hướng tới những khổ đau Ngài sẽ phải chịu. Ngài nói: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta” (9,31). Một lần nữa, sứ điệp này cũng không được tiếp nhận: Tin rằng vị đặc sứ của Thiên Chúa phải nếm mùi thất bại thì quả thật khó khăn biết bao!
Hiện giờ, đang khi Chúa Giêsu càng dấn bước đi tới thì bầu không khí càng lúc càng trở nên bi ai. Maccô nêu bật lên điều này. Ông viết: “Người dẫn đầu các ông” trong khi nhất quyết dẫn họ đi trên con đường đưa Ngài đến cái chết (c. 32b). Nỗi sợ hãi của đám bạn hữu Chúa Giêsu cũng ảnh hưởng lây đến tất cả mọi kẻ đang bước theo Ngài. Các Kitô hữu Rôma của Maccô cũng có thể nhận ra mình ở trong số những kẻ này. Tuy nhiên trong những kẻ đi theo Ngài, Chúa Giêsu cảm tâh1y cần phải huấn luyện và đào tạo đặc biệt hơn những ai mà sau này sẽ trở thành những nhà lãnh đạo dân chúng: “Lần nữa Ngài tách riêng nhóm Mười Hai ra và bắt đầu nói cho họ về những gì sắp xảy đến cho Ngài” (c. 32c). Lần loan báo tối hậu này quả thực còn chính xác hơn hai lần trước. Trách nhiệm của nhà cầm quyền Do Thái rõ ràng được nêu bật đúng như những gì liên quan tới vụ án của Chúa Giêsu (c. 33-34). Việc chuyển giao bị cáo cho Philatô (biểu trưng cho dân ngoại) cũng như các nhục hình gây ra cho Chúa đều là các chi tiết Chúa Giêsu không thể biết trước. Ngài không biết Ngài sẽ chết như thế nào. Maccô đã rút ra những xác định này từ trình thuật về cuộc khổ nạn.
Cần phải hiểu rõ tại sao Maccô ghi nhận những chi tiết này. Sở dĩ thế là vì các Kitô hữu sơ khai vẫn còn hoang mang về số phận dành cho Chúa Giêsu. Vụ án của Ngài được các chức sắc Do Thái xét xử sơ sài, rồi tiếp đó Ngài bị trao vào tay dân ngoại rồi chịu đóng đinh bi đát: tất cả những điều này đối với họ là một “nghịch chướng” không thể chấp nhận nổi (x. 1Cr 1,23a). bằng cách đặt vào miệng Chúa Giêsu lời loan báo, về số phận mà Chúa biết đến tận những chi tiết nhỏ nhặt nhất, Maccô muốn giúp đỡ các độc giả vượt qua “nghịch chướng” này. Giữa lòng đức tin Kitô giáo, mầu nhiệm CON NGƯỜI chịu đóng đinh vẫn luôn là một yếu tố khó chấp nhận. Cuối cùng nói về cuộc chiến thắng trên cái chết: “Ba ngày sau Người sẽ sống lại” (c. 34b) chỉ được thực sự lưu tâm một khi việc phục sinh của Chúa Giêsu đã hoàn tất.
Cũng như suốt Phúc Âm của mình, ở đây Maccô lặp lại bài học thâm thúy Chúa Giêsu sẽ ban cho các lữ khách trên đường Emmau: “Há Đức Kitô không phải chịu đau khổ rồi mới bước vào vinh quang của Ngài sao?” (Lc 24,26). Giáo Hội sơ khai sẽ phải suy nghĩ sâu xa về ý định của Thiên Chúa “trong toàn bộ Kinh Thánh” để có thể tháp nhập vào đức tin mình sứ điệp về một Đấng Mêsia chịu đóng đinh (Lc 24,27).
LỜI YÊU CẦU CỦA CÁC CON ÔNG GIÊBÊĐÊ (10,35-45)
Ở đây Maccô cũng sử dụng lược đồ quen thuộc của ông. Sau mỗi lần loan báo về cuộc khổ nạn, Maccô đều đặt một cảnh miên tả chậm hiểu của cá môn đệ, từ đó kéo theo lời giảng dạy của Chúa Giêsu về cách thức họ phải cư xử để có thể trung thành với Thầy của mình.
Lần đầu tiên, khi Chúa Giêsu nói với nhóm Mười Hai về các đau khổ Ngài sẽ phải chịu, người ta đã thấy Phêrô “sừng sộ” lên và Chúa Giêsu đã yêu cầu các bạn hữu Ngài hãy từ bỏ chính mình để theo Ngài “cần” phải đón nhận cái chết, thì người ta thấy các môn đệ vẫn chả quan tâm gì tới sứ điệp mà chỉ lo tranh giành nhau quyền hành. Lúc đó Chúa Giêsu đã mạnh mẽ đòi hỏi phải tự hạ mình “làm tôi tớ mọi người” (9,30-35).
Và lần thứ ba này khi Chúa đặt ra trước mắt các bạn hữu Ngài số phận không tránh khỏi đang chờ đón Ngài thì họ lại cũng vẫn không biểu lộ khá hơn khả năng tiếp nhận sứ điệp (10,32-34). Này đây hai người trong đám họ (c. 35a) do không ý thức, đã tạo cho Chúa Giêsu cơ hội mới để chỉnh đốn lại cách cư xử xứng hợp của những kẻ muốn theo Ngài. Tuy là những kẻ theo Chúa Giêsu từ thuở ban đầu, những kẻ dám đưa ra lời yêu cầu quá táo bạo (c. 37). Họ muốn tự trấn an về một tình cảnh tương lai. Tham vọng của họ không chỉ nhắm đến một chỗ danh dự bên cạnh vị Vua – Mêsia trong Vương Quốc Ngài, mà còn phải nắm được uy quyền cai trị thực sự nữa. Thật là một giấc mơ ngu ngốc biết bao! Thay vào đó, sự khôi hài của số mệnh sẽ sắp xếp cho hai gã ăn cướp một đứa bên hữu, một đứa bên tả Chúa Giêsu... trên thập giá (15,27).
Lập tức Chúa Giêsu tố cáo ngay kỳ vọng phù phiếm của hai người bạn thân thiết nhất của Ngài. Ngài đặt họ đối diện với những gì sắp xảy ra. Liệu họ có chắc chắn chia sẻ với Ngài số phận đẫm máu đang chờ đợi Ngài không (c.38). Ngài nói với họ về cái chết bằng những hình ảnh mạnh mẽ. Trong Thánh Kinh “chén” để uống rất thường dùng để tượng trưng các đau khổ phải chịu (x. Tv 75,9; Is 51,17-22 v.v...). Người ta há không thường ám chỉ các thử thách phải chịu bằng câu nói: “Uống cạn chén” đó sao? Vào giờ hấp hối, chính Chúa Giêsu nài xin Cha Ngài: “Xin cất xa con chén này” (14,36), còn hình ảnh “phép rửa” xem ra xa lạ với sự đau khổ xét theo lối diễn dịch. Tuy nhiên không phải thế đâu, việc dìm toàn thân vào trong nước, kể cả đầu, làm cho người chịu phép rửa trải qua một giây phút cam go: anh ta bị dìm trong cái chết. Trong cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu sẽ cảm nếm một “phép rửa” thực sự. Ngài sẽ bị các cơn sóng của tử thần dìm ngập. Liệu các môn đệ có thể theo Ngài đến đó không? Giacôbê và Gioan đoan chắc với Ngài điều này mà chẳng phiền hà gia cả (c. 39a). Tuy nhiên chắc chắn họ đã trả lời mà chẳng hề thực sự nhận biết những gì chờ đón họ. Lúc đó, Chúa Giêsu xác nhận với họ rằng họ sẽ chịu một số phận giống như Ngài (c. 39). Thực thế, tông đồ Giacôbê sẽ chịu tử đạo vào khoảng năm 44 sau Chúa Giêsu (Cv 12,1-2). Còn phần tông đồ Gioan, tùy theo truyền thống cho biết, ông đã chết một cách bình thường, nhưng thực ra trước đó ông cũng phải trải qua những thử thách kinh sợ.
Dù sao, Chúa Giêsu cũng khước từ quyền hành mà Ngài có thể vay mượn để cung cấp cho các môn đệ yêu quý của Ngài những vị trí béo bở trong vinh quang của Ngài. Xét về mặt nhân loại, Chúa Giêsu ý thức rằng quyền hành ấy không nằm trong tầm tay Ngài. Vì thế Ngài dùng công thức ở thể thụ động (những vị trí này đã được chuẩn bị) mà người Do Thái ưa thích dùng để xác định Thiên Chúa là tác giả mà khỏi cần nêu danh Người (c. 40b). Rõ ràng Đấng Mêsia không dành cho mình những quyền hành xuất phát từ quyền hành duy nhất của Thiên Chúa.
Sự tức giận của các môn đệ khác chẳng phải là tấm gương đáng noi theo (c. 40b). Không biết là do sự táo bạo quá mức của Giacôbê và Gioan hay do một sự ghen tuông thầm kín nào đó đối với hai ông này mà các môn đệ kia nổi giận? Hẳn không phải là lần đầu tiên Maccô vạch ra sự tranh giành địa vị thường thấy trong các cuộc tranh luận của nhóm tông đồ (x. 9,33-34). Dù thế nào đi nữa, Chúa Giêsu cũng phải nhóm họp Mười Hai ông lại để dạy cho các ông một bài học súc tích. Ngài bảo các ông (tức các vị hữu trách tương lai của cộng đoàn Kitô giáo) hãy ý thức về quan niệm quyền hành thường thấy nơi Đế quốc Rôma cũng như các xã hội dân sự khác. Theo các thể chế này, quyền hành đồng nghĩa với cai trị, thường mang tính cách độc tài. Các tập tích cực nơi những thể chế dân ngoại đối nghịch với những gì Chúa Giêsu muốn thấy nơi việc cai quản Giáo Hội Ngài (c. 42-43a). Và Chúa Giêsu nhấn mạnh đặc tính hoàn toàn độc đáo trong quan niẹm của Ngài về quyền hành trong Giáo Hội. Từ ngữ “tôi tớ” Ngài dùng ở câu 43b lại được bổ sung bằng từ “nô lệ” để làm gương trong việc phục vụ tha nhân (c. 44). Vào thời đó, những kẻ nô lệ thuộc hạng cùng đinh trong xã hội. Hình ảnh đưa ra thật sống động. Nhóm Mười Hai thì mơ ước quyền cao chức trọng, nhưng Chúa Giêsu lại muốn họ phải từ bỏ ảo vọng này và phải biết chấp nhận “phục vụ” kẻ khác trong bất cứ điều kiện thấp hèn nào.
Đây là lúc Chúa Giêsu chọn để xác định vị thế của Ngài bằng cách đưa chính bản thân Ngài ra làm gương: Ngài đã đến “không phải để được phục vụ, mà là để phục vụ”, đồng thời còn dâng hiến cả mạng sống mình “để làm giá chuộc cho nhiều người” (c. 45). Ở đây Chúa Giêsu vén mở cho thấy ý nghĩa cuối cùng cuộc đòi và sứ mệnh của Ngài. Lẽ ra Ngài có thể tự cho mình là vị thủ lãnh độc tài của đám môn đệ và đám dân Chúa mà Ngài đã đến quy tụ lại, nhưng Ngài không làm thế, Ngài lại đóng vai trò đầy tớ khiêm tốn phục vụ tất cả mọi người (x. 9,35-37). Sự phục vụ này sẽ không dừng lại ở một vài lần Ngài tự hại mình vì lợi ích của đám bạn hữu Ngài mà còn đi xa đến độ dám hiến dâng mạng sống mình để cứu độ mọi người. Điều này được diễn tả bằng những hình ảnh của thời bấy giờ. Chúa Giêsu sẽ ban mạng sống mình “làm giá chuộc”, nghĩa là Ngài sẽ phải trả giá cho tội lỗi của nhân loại. Ngài sẽ trao dâng mạng sống mình “vì đám đông” nghĩa là “vì tất cả mọi người” không trừ ai.
Các thành ngữ này được mượn từ bản văn trình bày khuôn mặt mầu nhiệm của “Người Tôi Tớ đau khổ” mà tiên tri Isaia đã phác họa: “Nếu người dâng mạng sống mình làm hy tế chuộc tội (vì tội lỗi loài người) thì người sẽ thấy miêu duệ (...) Bởi vì người đã chịu đau khổ (Chúa nói) nên Đấng Công Chính, tôi tớ Ta sẽ công chính hóa nhiều người” (Is 53,10-11).
Nhằm tạo hòa điệu thân ái trong cộng đồng Giáo Hội sơ khai, Maccô đã rút tỉa từ Thánh Kinh hình ảnh “Người Tôi Tớ đau khổ” để cắt nghĩa cho các Kitô hữu đôi chút về mầu nhiệm Chúa Kitô. Đấng đã dâng hiến mạng sống mình, tự hạ đến chết đẫm máu trên thập giá để cứu rỗi nhân loại. Bắt nguồn từ hy sinh của Chúa Giêsu, cộng đoàn Kitô hữu phải luôn luôn kiểm chứng xem cách hành xử của mình có phù hợp với cách hành xử của Đấng sáng lập không: nghĩa là mình có phục vụ và dâng hiến toàn vẹn bản thân mình không?
51. Chú giải của Noel Quesson.
Hai người con ông Dêbêđê là Giacôbê và Gioan đến gần Đức Giêsu và nói: "Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây."
Đây là hai chàng thanh niên con trai của ông Dêbêđê, làm nghề chài lưới, ở Bết-sai-đa một cảng nhỏ trên bờ hồ Ti-bê-ri-át. Mẹ của họ có lẽ là bà Xalômê, chị em với Đức Maria mẹ Đức Giêsu (Mc 15,10 - 16,l). Theo tục lệ tự nhiên trong nhiều nền văn minh phương Đông, họ cho là tự nhiên khi sử dụng các quyền của người trong dòng họ: Vì là anh em bà con với Đức Giêsu, họ đến xin người bà con cho "dòng họ" được tham dự vào sự thành công của một thành viên trong gia tộc.
Vả lại Đức Giêsu đã chẳng nói như thế sao: "Các ngươi hãy xin, thì sẽ nhận được". Vậy họ đưa ra một lời xin: "Thưa Thầy, chúng tôi muốn Thầy ban cho điều mà chúng tôi xin". Đây là một dịp mà chúng ta cần phải nắm vững, vì đôi khi chúng ta cũng ngạc nhiên về một số lời cầu xin của mình không được chấp nhận, ‘như’ chúng ta mong muốn.
Người hỏi: "Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?"
Lời cầu xin của họ quá mơ hồ. Đức Giêsu bảo họ hãy nói rõ lời yêu cầu đó.
Các ông thưa: "Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy.
Lần thứ ba, Đức Giêsu vừa loan báo cho các môn đệ sự thương khó của Người (Mc 10,32-34) "Nào chúng ta lên Giê-ru-sa-lem; Con Người sẽ bị giao nộp cho các Thượng tế. Họ sẽ lên án tử hình Người. Họ sẽ nhạo báng Người, sẽ khạc nhổ vào Người, sẽ đánh đòn và giết Người". Vào lúc Đức Giêsu "chọn chỗ chót" thì các ông lại cố "đua nhau” chiếm chỗ tốt hơn: Họ vẫn còn mơ mộng về Đấng Cứu Thế vinh quang của dân tộc. Đấng Cứu Thế đối với họ (và đối với chúng ta?), đó là Đấng chiến thắng hiển hách, sẽ dùng quyền lực của mình điều khiển mọi sự. Vậy tại sao lại không lợi dụng người anh em bà con để được thăng tiến, được hưởng đặc quyền, được tiến cử? Chúng ta chớ nên xét đoán các ông một cách khắt khe.
Chính chúng ta đã không làm như thế, khi chúng ta có dịp hay sao? Đó là chuyện thường tình của con người! Khi chúng ta quen lớn, thì tự nhiên chúng ta không muốn nhờ vả để trục lợi sao? Nhưng chúng ta hãy đi xa hơn: Đời sống Kitô hữu của chúng ta có phải là một cuộc sống phụng sự Thiên Chúa hay không? Hay đó là một cuộc sống mà chúng ta chỉ muốn Thiên Chúa phục vụ chúng ta? Việc hành đạo của chúng ta có phải là một sự thờ phượng, ca ngợi và vâng phục hướng về Thiên Chúa không? Hay đó chỉ là một thứ "bảo hiểm cho đời sau”? Lạy Thầy, xin dành cho con một chỗ phụ chắc chắn ở trên trời.
"Các anh không biết các anh xin gì!”
Thực vậy, họ đâu có biết "ai" sẽ ở "bên phải và bên trái" của Đức Giêsu, khi Người ở trong "vinh quang" của Người trên thập giá? Họ đang xin mà không biết chỗ của hai tên cướp bị đóng đinh cùng với Người trên đời. Họ vẫn chưa hiểu gì cả về định mệnh đích thực của Chúa Giêsu. Bằng những câu hỏi, Đức Giêsu đang cố chuyển biến tư tưởng của họ từ "vinh quang của Đấng Mêsisa" sang “con đường dẫn đến vinh quang" đó. Chúng ta cũng vậy thường chúng ta không biết điều mà chúng ta xin: Đó là lý do tại sao những lời cầu xin của chúng ta không được chấp nhận.
Chúng ta hãy để cho Thiên Chúa dời chúng ta đi, cho Người sửa đổi lời xin của chúng ta. Thiên Chúa nói: "Các con không biết các con xin những gì, các con hãy tin Ta hơn". "Sự vinh quang" mà các ông xin, hỡi Giacôbê và Gioan, các ông sẽ nhận được vào một ngày nào đó! ước mộng tuổi trẻ của các ông sẽ được thực hiện trong tuổi chín muồi của các ông.
Thực vậy, Giacôbê sẽ là vị tử đạo đầu tiên ở Giêrusalem (Cv 12,2) và Gioan sẽ phải chịu bắt bớ thời hoàng đế Nêrông, bị khổ sai tại đảo Patmos (Kh 1,9).
Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Đức Giêsu dùng hai hình ảnh cổ truyền của Kinh Thánh để giúp họ sửa đổi lời yêu cầu và ý muốn của họ: Đó là chén đắng và phép rửa. "Chén" trong Kinh Thánh là "chén đắng", thức uống ghê tởm, khó nuốt. "Chúa cầm chén trong tay”. Người rót một thứ rượu thuốc đã lên men: Họ sẽ uống rượu này, họ nốc đến cạn (Tv 75,9). ‘Phép rửa’ có một ý nghĩa tương tự: Đó là hình ảnh sự nhào nặn, chìm nghỉm; "Hết thảy nước đó sóng tràn ngập lút trên tôi" (Tv 42,9). Đức Giêsu biết rõ những gì sẽ xảy đến cho Người. Và Người hỏi hai môn đệ: "Các con có thể uống được chén đắng của sự thương khó Thầy không? Và chịu dìm vào phép rửa bằng máu của Thầy không? Như Thầy và cùng với Thầy, các con có chấp nhận vùi sâu dưới dòng nước chết đuối bi thảm này nghĩa là chia sẻ cái chết của Thầy không?
Các ông đáp: "Thưa được"
Họ tỏ ra quảng đại trong sự hăng say của tuổi trẻ.
Họ sẵn sàng trả giá bằng chính bản thân của mình, để 'uống’ chén đắng và bị dìm sâu trong phép rửa. Chúng ta đừng quên rằng khi Máccô viết Tin Mừng của ông, thì đã có 2 bí tích đang được các Kitô hữu thể nghiệm, như chúng ta ngày nay. Chúng ta gán cho Phép rửa tội và Thánh Thể mà ta lãnh nhận ý nghĩa nào? "chén mà chúng ta hiệp thông có thông hiệp với sự hy sinh của Đấng đã hiến ban mạng sống của Người không? Đức tin ngày chịu phép rửa có làm cho chúng ta "Theo Đức Giêsu không? và theo tới đâu?
Đức Giêsu bảo: "Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu.
Khi Máccô ghi lại lời tiên tri này của Đức Giêsu, thì nó đã được thực hiện một phần rồi. Vào năm 44, Giacôbê đã tử đạo. Vào thời đó Vua Hêrôđê đã bách hại một số thành viên của Giáo Hội. ông ấy đã cho chém đầu Giacôbê, người "anh em" của Gioan. Và khi nhận thấy người Do Thái hài lòng về việc làm đó, ông lại cho tiến hành cuộc bắt giữ khác (Cv 12,2-3). Kitô hữu là theo Đức Giêsu!
Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được.
Một lần nữa Đức Giêsu nói lên những lời khiêm nhường lạ lùng, trước Cha của Người: Người nói Người "không có quyền”. Người tỏ ra vâng phục. Qua lời này Người mời gọi chúng ta đến lượt mình, cũng để Thiên Chúa tùy nghi định đoạt về chúng ta. "Vinh quang" đó, Giacôbê và Gioan sẽ nhận được, nhưng không phải là thứ vinh quang mà hai ông ước vọng: Đó sẽ là vinh quang của Đức Giêsu cho. Do đó Chúa đã chấp nhận lời cầu xin của hai ông. Còn chúng ta thì sao? Khi lời cầu nguyện của chúng ta xem ra không được chấp nhận, chúng ta có luôn phó thác nơi Chúa, để Chúa chấp nhận, lời xin đó theo ý của Người hay không? Chính Đức Giêsu cũng đưa dẫn các bạn hữu của Người tới mầu nhiệm không thể dò thấu được của ý định Thiên Chúa.
Nghe vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Giacôbê và ông Gioan
Các ông bực mình vì các ông cũng có tham vọng như thế!
Đức Giêsu gọi các ông lại và nói: "Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân
Một lần Đức Giêsu nói về "chính trị” thì Người lại mô tả quá mạnh và khá mù tối. Ta không thể nói, Đức Giêsu muốn thiết lập một thế giới không có hệ thống hành chánh hay san bằng cấp bậc.
Nhưng, một lần nữa như đối với cách sử dụng (tiền bạc hay vấn đề tính dục), Người bác bỏ những lạm dụng: Quyền thế không được áp dụng như một cách để thống trị và hà hiếp, hay như một "tương quan lực lượng" mạnh được yếu thua. Đức Giêsu nói: "Không được như vậy”.
Nhưng giữa anh em thì không được như vậy
Đức Giêsu dứt khoát loại bỏ trong Giáo Hội, trong cộng đoàn Kitô hữu, kiểu quyền bính vẫn được thực thi trên thế giới.
Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người.
Đây không phải là một điều luật trong những điều luật khác nhưng đó là "hiến chương" của Giáo Hội, của cộng đoàn các môn đệ: Mỗi người phải trở nên đầy tớ của mọi người.
Hình ảnh mà Đức Giêsu đưa ra ở đây lại càng rõ nét. Ý mà chủ "đầy tớ" không nói ra ở đây, thì từ "nô lệ" lại nói lên một cách mạnh mẽ, bằng cách thêm ý "tùy thuộc" vào người mà ta phục vụ. Trong Giáo Hội, phải triệt để từ bỏ nguyên tắc thăng thưởng, quân hàm, công nghiệp, tước vị huy chương và chỗ danh dự. Chỉ có một nguyên tắc mà thôi: Đó là sự phục vụ, khiêm tốn. Cần nói về những vị có một vai trò đặc biệt, ta sẽ dùng kiểu nói "thừa tác viên" chữ này trong tiếng La tinh có nghĩa là "đầy tớ". Không có lãnh tụ theo nghĩa thế gian trong Giáo Hội. Chỉ có những “thừa tác viên", những "người phục vụ”.
Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người.
Lý do căn bản của "hiến chương" nguyên thủy này của Giáo Hội, là Giáo Hội đương nhiên phải bắt chước Đức Giêsu. Cần lưu ý về ý nghĩa tích cực mà Đức Giêsu đã gán cho cái chết của Người. Trong ý thức của Người, Người không nghĩ về cái chết này một cách đau khổ; con đường thập giá đối với Người không phải là "chịu đau khổ" mà là “phục vụ”. Mặc dù Người có quyền hạn đầy đủ vì là con Thiên Chúa, thế mà Đức Giêsu đã không hành xử như một vị thống trị, nhưng như "một người đầy tớ". Người đã không đóng vai “lãnh chúa" mà là "gia nhân" (Ga 13,13) bằng cách hầu bàn chiều Thứ Năm Thánh. Các bác cha mẹ Kitô hữu cũng phải hành xử như thế, đối với những kẻ dưới quyền của mình. Các người có trách nhiệm cũng phải hành xử như thế, đối với thuộc cấp của mình. Chúng ta có đón nhận lời mời gọi của Đức Giêsu một cách nghiêm chỉnh không? Chúng ta chớ nên xét lương tâm kẻ khác. Tôi đang có khuynh hướng "thống trị" ai? Tôi phải "thương yêu” ai? Tôi phải "phục vụ”ai?
52. Chú giải của Fiches Dominicales.
CON NGƯỜI ĐẾN KHÔNG PHẢI ĐỂ ĐƯỢC PHỤC VỤ, NHƯNG ĐỂ PHỤC VỤ
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Sau khi loan báo cuộc thụ khổ lần thứ ba
Trên đường lên Giêrusalem, lúc này đã gần tới nơi, bầu không khí càng lúc càng thêm bi thảm. "Người dẫn đầu các ông", những người đi theo "kinh hoàng" và “sợ hãi”, tiến trên đường dẫn đến cái chết.
Đây là lần thứ ba Chúa loan báo cuộc Khổ nạn và Phục sinh của Người. Loan báo mà Đức Giêsu gởi tới nhóm Mười Hai, là tế bào đầu tiên và cũng là những người phụ trách cộng đoàn môn đệ của Người. Một lời loan báo rõ rệt hơn hai lần trước (8, 31-33 và 9,32-33), vì đã phác họa trước những gì sẽ xảy ra bị nhà cầm quyền Do thái kết án (xem 14,64), trao nộp cho quan Philatô, kẻ "ngoại giáo" (xem 1 5,1), bị phỉ báng và chịu cực hình: “chúng sẽ nhạo báng người" (xem 15,30-31) “chúng sẽ khạc nhổ vào Người” (xem 14,65 và 15,9), “chúng sẽ đánh đòn Người" (15, 15) "chúng sẽ giết Người" (xem 15, 37) "và ba ngày sau sẽ sống lại”. Cũng như các lần loan báo trước, lần loan báo thứ ba này gây ra những phản ứng; chứng tỏ các môn đệ không hiểu, nên Đức Giêsu phải giải thích cho họ.
2. Thái độ không hiểu tái diễn nơi các môn đệ
Rõ ràng lời xin của Giacôbê và Gioan chẳng thích đáng chút nào trong bối cảnh đó (Đức Giêsu vừa mới loan báo về cuộc khổ nạn của Người). Hai ông đã từng là những người được gọi ngay thời kỳ đầu sứ vụ rao giảng (1,19-20), lúc Chúa hồi sinh con gái ông Giairô, hai ông đã có thể xác minh quyền năng của Người trên sự chết (5,37); hai ông đã cùng với Phêrô là những người duy nhất được chứng kiến Chúa hiển dung trên núi (9,28); và sau này cũng cùng với Phêrô chứng kiến Chúa hấp hối trong vườn Ghêtsêmani (14,33).
Khi Đức Giêsu vừa mới loan báo cuộc khổ nạn lần thứ ba, thì hai ông nóng lòng muốn bảo đảm chiếm cho được chỗ tốt, được một tương lai sáng lạn trong vương quốc. Các ông tiến lại thưa Chúa: "Xin cho hai anh em chúng con được ngồi một người bên hữu, một người ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang”. Số phận mỉa mai thật! khi sau này Chúa hấp hối trên thập giá, hai người được đặt ở bên tả bên hữu Chúa là hai người trộm cướp (15,37) đang cùng chia sẻ cực hình với Người!
- Đức Giêsu cố gắng tỏ cho hai ông biết: đặc ân họ xin là quá lớn và họ thật quả vô tâm, nhưng vô ích. "Các anh không biết các anh xin gì”. Rồi dùng hình ảnh mạnh mẽ, như ‘chén phải uống'; "phép rửa phải chịu” để cho các ông thấy trước những gì sắp xảy ra: "Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa thầy sắp chịu không?”.
+ Trong Cựu ước, “Chén" đôi khi người ta nói chén chúc tụng, nhưng thường là nói về chén đắng để diễn tả những đau đớn trước lúc chết. Lúc hấp hối, Đức Giêsu đã xin Chúa Cha cất chén đắng cho Người, nhưng cũng nói tiếp: "Nhưng đừng theo ý con, chỉ xin theo ý Cha mà thôi" (14,36).
+ Trong "Bí tích rửa tội”, toàn thân được dìm xuống nước, tượng trưng cho việc "chìm đắm" trong cái chết trước khi chỗi dậy trong đời sống mới. Trong cuộc khổ nạn, Đức Giêsu sẽ trải qua một phép rửa thật sự, Người sẽ bị dìm xuống làn nước chết, và chỗi dậy vào ngày thứ ba.
Xin được vinh dự bên cạnh Chúa trong Nước Người, tức là thuận theo cùng một con đường Người đã đi.
Hai môn đệ có dám theo Chúa tới đó không? "Thưa được" ông đáp không hề do dự, không đếm xỉa gì đến những điều Chúa đã cảnh báo.
Mười ông kia đã nghe rõ câu chuyện. Nếu họ "tức tối" thì hẳn không phải vì chê trách mưu đồ của Giacôbê và Gioan, mà vì sợ hai anh em ông này dành được chỗ nhất.
3. Giáo huấn mới của Đức Giêsu: Sự đảo ngịch của Tin Mừng.
Đức Giêsu qui tụ nhóm Mười Hai lại và long trọng giảng giải cho các tông đồ về sự đảo nghịch của Phúc âm.
Khi nói với các tông đồ, cũng như với những người chịu trách nhiệm về các cộng đoàn Kitô hữu có mặt lúc đó hay trong tương lai, Đức Giêsu nêu lên một luật đối trọng với cách thế mà xã hội dân sự chủ trương về quyền hành: "Những người được là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người lớn thì lấy quyền mà cai trị dân". Điều luật này chống lại lòng ham muốn thống trị và lòng khao khát quyền lực ta mang trong mình, như Giacôbê và Gioan và mười tông đồ còn lại. Điều luật này không chỉ là một điều luật bình thường, mà Đức Giêsu coi nó hiến chế cho các cộng đồng môn đệ Người: mỗi người là đầy tớ người (J. Delorme).
Đây là một đảo lộn tận gốc, một lý thuyết cách mạng bắt đầu cho một mối tương quan mới giữa người với người: "Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em (người phục vụ, tiếng hy lạp là diakonos, còn có nghĩa là thầy phó tế).
Lý do và gương mẫu cho nguyên lý cách mạng này chính là cách đối xử của Đức Giêsu, Người kết luận: "Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Câu này nhắc lại lời ngôn sứ nói về Người Tôi Tớ đau khổ (Bài đọc l), nhờ lời này soi sáng, Đức Giêsu nhận biết số phận của Đấng Mêsia-tôi tớ; Lời đó còn nói lên ý nghĩa sự sống và cái chết của Người và loan báo lời mà Chúa sẽ tuyên bố về "chén" vào thứ năm, trước khi Người bị bắt: "Này là máu Thầy, máu Giao ước sẽ đổ ra cho nhiều người”. Để có thể sống như một Kitô hữu chân chính, cộng đoàn môn đệ hôm nay, hôm qua cũng như ngày mai, cần phải xét xem lối hoạt động của mình có hợp với ý và gương mẫu của Đấng Sáng lập, Đấng đã đưa tinh thần phục vụ đến tột đỉnh không.
BÀI ĐỌC THÊM.
1. Vinh quang đầy mâu thuẫn của Con Người
Cuộc chuyện trò cuối cùng của Đức Giêsu với các môn đệ (10,38-43) là cuộc thảo luận lần nữa về ngôi thứ trong cộng đoàn, như vậy, nó nối kết với ý tưởng của phần đầu chương này. Lời xin của hai anh em Giacôbê và Gioan đưa đến cuộc chuyện trò này, đồng thời cũng biểu lộ ước muốn chỗ cao nhất: ngồi bên tả bên hữu Chúa trong vinh quang.
Diễn tiến của ước muốn này mang dấu ấn của Máccô. Trước hết, khi hai tông đồ vừa tỏ lộ ước muốn của mình, Đức Giêsu hỏi ngay: "Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?”. Đức Giêsu thăm dò, tìm hiểu hết mọi khát vọng của ta, đôi khi những ước muốn mà chính ta cũng không hiểu rõ ("Các anh không biết các anh xin gì”). Con đường mà ước muốn phải đi qua để tới đích không gì khác hơn là thập giá, ở đây được diễn tả bằng hai hình ảnh: chén và phép rửa. Cách nói lặp lại nhiều lần (ở đây lặp lại bốn lần) là đặc điểm của Máccô. Đối với ông, điều không thể tránh được trong cuộc sống Kitô hữu chính là thập giá. Còn vinh quang là một ơn hoàn toàn nhưng không, ta không thể biết trước, chỉ một mình Thiên Chúa biết mà thôi. "Cho những lời mà Thiên Chúa đã chuẩn bị”. Đối với những người xin nhiều, xin cả đến vinh quang Thiên Chúa, thì Máccô đề nghị họ sống theo tấm gương của Con Người, một tấm gương đi ngược lại cách sống của người đời: đến để phục vụ, và hiến mạng sống mình làm giá chuộc muôn người (10,45).
Sống theo gương Đức Giêsu là đề tài rất phổ biến, nhất là khi cuốn sách "Gương Chúa Giêsu" xuất bản ở thời Trung cổ, trở thành nền tảng cho toàn bộ "luân lý” và chính thánh sử Maccô đãtrình bày cho chúng ta điều đó. Ngài đã nói lên mối hệ gần gũi giữa đời sống của Đức Giêsu (nhất là cuộc khổ của Người) và đời sống của người Kitô hữu. Mối quan hệ gần gũi đó luôn là ví dụ điển hình cho mọi nỗ lực tìm hiểu cuộc sống người Kitô hữu. Máccô mời gọi ta suy nghĩ lại những thói quen giữ đạo: những hoạt động, bi kịch, và khát vọng của ta dưới ánh sáng của tấn thảm kịch duy nhất của Đức Giêsu: "Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại" (9,31).
2. Đối với Đức Giêsu, chức quyền là để phục vụ
Chức quyền cũng như tiền bạc, tự nó không xấu. Bất cứ nào cũng cần có một người phụ trách. Nhưng theo ý Chúa, phụ trách trước hết không phải một địa vị thống trị, hưởng lợi, hưởng uy thế, mà là một địa vị để phục vụ nhiều hơn. Trong Hội Thánh nói riêng, người cầm quyền là những thừa tác viên trong tiếng Latinh từ này có nghĩa là “đầy tớ" - Bản Hy lạp của Tin Mừng Máccô dùng hai từ diakonos = đầy tớ và doulos = nô lệ. Điều đáng buồn là ngày nay đôi khi còn có những người tranh giành quyền lực trong Hội Thánh. Đức Giáo Hoàng cũng tự xưng mình là “Tôi tớ các tôi tớ" của Thiên Chúa.
Thật vậy, cần phải đạt tới cách sống như thế. Người lãnh đạo giỏi là người biết làm cho người dưới cùng chịu trách nhiệm. Giáo sư giỏi là người biết khơi dậy sáng kiến của môn sinh. Chủ doanh nghiệp giỏi là người biết hỏi ý kiến của công nhân và cán bộ của mình. Cha mẹ tốt là người biết nghệ thuật làm triển nở con cái một cách tích cực. Những giáo xứ mạnh là nơi mà các tín hữu biết tham gia cộng tác với mọi tầng lớp và trong mọi việc.
Có lẽ người ta đã quên rằng từ "quyền thế"' trong tiếng Latinh: ‘auctoritas’ bởi gốc "augere" = làm cho lớn lên, thêm lên. Đối với Đức Giêsu, chính là như vậy: quyền hành là sự phục vụ trong một nhóm, nhằm giúp các thành viên lớn lên, dám tự mình chịu trách nhiệm. Người lãnh đạo chân chính là người biết nghe, hiểu, đánh giá, tôn trọng người khác, chứ không phải là người thống trị, hạ nhục, lợi dụng người khác, và để người khác thụ động vô trách nhiệm.
53. Gợi ý của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Đây là một bản văn mà các anh em phản chứng thường nhắc nhở và chú giải cách nhiệt thành: Chúa Kitô đã không bao giờ tán dương người trên, linh mục hoặc thủ lãnh. Đối với Người, điều làm nên môn đồ, chẳng phải là quyền bính, sự thông thái, nhưng là sự phục vụ. Chính Người đã từ chối dứt khoát cám dỗ của Satan là thống trị các dân tộc với các phép lạ lẫy lừng. Thầy ở giữa các con như một người phục vụ.
2. Thế nhưng ta đều bị cám dỗ sử dụng những phương tiện điều hành, bởi vì đối với ta chúng có vẻ hữu hiệu để hướng dẫn con người hơn là sự thuyết phục, sự tự do và lòng yêu thương. Giacôbê và Gioan đã mong ước thực thi việc tông đồ ở trên ngai, và Chúa Giêsu đã cho hai ông biết sẽ thực thi việc đó ở trên thập giá.
3. Chúa Kitô là thủ lãnh và là Thầy tuyệt hảo; muốn biết quyền bính trong Hội Thánh phải được thực thi như thế nào, hãy xem Chúa Giêsu dã sử dụng quyền năng Người ra sao. Đối với Chúa Giêsu, Vương quốc Thiên Chúa là một xã hội hoàn toàn khác với các quốc gia trần thế; nó không tự áp đặt cho con người do chính bản chất của mình, nhưng hằng tự do lương tâm. Lời mời gọi của Chúa luôn luôn là tự do: "nếu anh muốn làm tông đồ Ta... Nếu anh muốn trở nên hoàn hảo... hạnh phúc cho các anh nếu các anh làm như vậy...". Quyền bính Kitô giáo phải được thực thi bằng thuyết phục, bằng cảm hóa, soi sáng, dạy dỗ.
4. Nhưng những thí dụ và lời giáo huấn của Chúa Giêsu quá trái nghịch với những tham vọng tự nhiên của các môn đồ, nên khó mà không gặp phản ứng thái độ ngây ngô của Giacôbê và Gioan vẫn còn là thái độ của nhiều người trong Giáo Hội. Ngày nay, người ta khám phá rằng quyền bính trong Hội Thánh không phải là quyền áp đặt những quyết định của thủ lãnh cho các cấp dưới, nhưng là khả năng khơi dậy sự hiệp thông. Vấn đề không phải là truyền lệnh hay là thanh trừng, nhưng là kêu gọi lương tâm và xác tín. Vị thủ lãnh không phải là người ra lệnh nhưng là người tạo nên một bầu khí tin tưởng, thương yêu, tôn trọng, một cộng đoàn cùng chung những quan điểm và khát vọng đến nỗi giải đáp của các vấn đề sẽ được thể hiện bằng một sự nhất trí luân lý.
5. Chúa Giêsu đã không nói đến nguy hiểm và trật tự trọng Hội Thánh Người, nhưng Người đã nói nhiều đến nguy hiểm của một quyền bính tôn giáo được thực thi như một quyền bính trần thế. Chúa Giêsu đã không nói rằng các thủ lãnh phải cai trị bằng sự công bình và lòng nhân từ; Người đã nói rõ ràng rằng các thủ lãnh không được cai trị, nhưng hãy sống như các nô lệ và tôi tớ; người nào phục vụ nhất, người đó là thủ lãnh đích thực.
6. Chỉ có một tinh thần Tin Mừng, chỉ có Thánh Thần của Chúa Giêsu mời có thể linh ứng cho các người có trách nhiệm phương thức thi hành sứ mạng tôn giáo. Để thực thi tốt quyền bính, cũng như để sử dụng tốt của cải, cần phải nói như Chúa Kitô: "Đối với con người là điều không thể, nhưng đối với Thiên Chúa thì tất cả đều làm được".
7. Ngai vàng duy nhất, uy quyền duy nhất, quyền bính duy nhất mà Chúa Kitô đã hứa cho Giacôbê và Gioan, là hãy yêu mến như Người, uống chén đắng, thí mạng sống và yêu anh em như Người.
54. Chú giải mục vụ của William Barclay.
ĐÒI HỎI THAM VỌNG (10,35-40)
Đây là một câu chuyện cho chúng ta thấy nhiều điều hay:
1/ Nó cho chúng ta biết đôi điều về Maccô.
Matthêu cũng kể lại câu chuyện này (Mt 20,20-23) nhưng trong tường thuật của ông thì trước hết, lời yêu cầu không do Giacôbê và Gioan đích thân nêu ra, nhưng do mẹ của hai ông là bà Salômê. Có lẽ theo Matthêu thì một yêu cầu như thế là không xứng đáng cho một tông đồ, nhưng nhằm cứu vãn tiếng tăm cho hai anh em, ông đã gán lời yêu cầu đó cho tham vọng tự nhiên của bà mẹ. Câu chuyện này cho chúng ta thấy sự thành thật của Maccô. Người ta kể rằng có một họa sĩ trong triều đình vẽ chân dung cho Oliver Cromwell. Mặt Cromwell đầy mun cóc. Nghĩ để vui lòng ông, họa sĩ không vẽ những mụn cóc đó trong bức họa. Khi Cromwell thấy như vậy, ông nói “Dẹp bức chân dung này đi, vẽ cho ta một bức với đầy đủ mụn cóc”. Mục đích của Maccô là muốn chúng ta thấy đầy đủ mụn cóc của các tông đồ. Và Maccô đã có lý, vì mười hai tông đồ vốn không phải là tập thể các vị thánh. Họ chỉ là những con người giống như chúng ta để thay đổi thế giới. Điều này đã thành hiện thực.
2/ Nó cho chúng ta biết vài điều về Giacôbê và Gioan.
(a) Hai ông vốn có nhiều tham vọng. Họ nhắm vào những chức vị cao nhất trong vương quốc của Chúa Giêsu khi chiến thắng và khải hoàn trọn vẹn. Có thể tham vọng đó đã manh nha, vì nhiều lần Chúa Giêsu từng tách riêng họ ra trong số ba người chọn lọc tin cẩn. Có thể họ đã có một chỗ đứng khá hơn những người khác. Thân phụ họ vốn khá giả đủ để thuê người giúp việc (Mc 1,20) nên họ tưởng rằng ưu thế về địa vị xã hội có thể giúp họ chiếm được địa vị hàng đầu. Dù sao họ cũng để lộ cho thấy họ là những con người, từ nơi sâu kín của lòng họ, có tham vọng chiếm giữ vị trí hàng đầu trong vương quốc trần gian.
(b) Nó cho chúng ta thấy hai ông hoàn toàn không hiểu Chúa Giêsu. Điều lạ lùng đối với chúng ta không phải là sự kiện ấy đã xảy ra, nhưng là thời gian mà sự việc ấy đã xảy ra. Lời yêu cầu này khiến chúng ta phải bàng hoàng vì nó được đưa ra hầu như trùng hợp với lúc Chúa Giêsu tuyên bố dứt khoát và báo trước chi tiết cái chết của Ngài. Ngoài chuyện này, không có việc nào khác có thể bày tỏ cho chúng ta thấy họ đã hiểu quá ít những gì Chúa Giêsu nói. Lời lẽ của Ngài đã không gột rửa nổi ý niệm về Đấng Mêsia, với quyền thế và vinh hiển thế gian,vốn ăn sâu trong tâm trí hai ông. Chỉ có thập giá mới làm nổi việc ấy mà thôi.
(c) Nhưng sau khi chúng ta đã nói tất cả những gì có thể nói chống lại Giacôbê và Gioan, thì câu chuyện này cho chúng ta thấy một điểm sáng chói về hai ông là dù họ đang bàng hoàng, bối rối, họ vẫn còn tin vào Chúa Giêsu. Điều đáng ngạc nhiên là họ vẫn còn gắn liền vinh quang với một người thợ mộc dân Galilê, người đã bị các cấp lãnh đạo Do Thái giáo thù ghét, chống đối kịch liệt và rõ ràng Ngài đang tiến đến chỗ nhận lấy thập giá. Đây là một lòng tin cậy, tận trung đáng cho chúng ta phải kinh ngạc. (Giacôbê và Gioan đã phạm sai lầm nhưng tấm lòng của họ vẫn nằm đúng vị trí đáng phải có, họ chẳng hề hoài nghi chút gì về chiến thắng tối hậu của Chúa Giêsu).
3/ Nó cho chúng ta biết đôi điều về tiêu chuẩn của Chúa Giêsu.
Bản dịch của chúng ta đã dịch nguyên văn theo nghĩa đen câu hỏi của Chúa Giêsu “Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?”. Ở đây Chúa Giêsu đã dùng hai lối nói bóng theo người Do Thái. Theo tập tục, trong các dạ hội hoàng gia khoản đãi, nhà vua sẽ tự tay trao chén cho khách được mời. Do đó, chén muốn nói về đời sống và kinh nghiệm phúc lộc mà Thiên Chúa trao cho loài người? Tác giả Kinh Thánh cũng nói “Chén tôi đầy tràn” (Tv 23,5), khi ông đề cập đời sống và kinh nghiệm sống mà Thiên Chúa đã ban cho ông. Tác giả Kinh Thánh cũng nói “Trong tay Chúa có cái chén” (Tv 75,8) khi ông nghĩ đến số phận dành cho kẻ ác và không vâng lời. Khi nghĩ về những tai họa giáng trên Israel, Isaia mô tả dường như họ đã uống say “chén thịnh nộ từ tay Thiên Chúa” (Is 51,17). Vậy chén ám chỉ về kinh nghiệm sống mà Thiên Chúa dành cho loài người. Câu thứ hai Chúa Giêsu phán cũng dễ gây hiểu lầm. Ngài muốn đề cập đến phép rửa Ngài đã chịu. Động từ Hy văn baptizein có nghĩa là nhúng. Quá khứ phân từ của nó là bebatismenos, có nghĩa là bị chìm ngập và thường được dùng để chỉ một việc bị chìm ngập trong một kinh nghiệm nào đó. Chẳng hạn như chúng ta nói người hoang phí bị nợ ngập đầu. Người uống rượu được bảo là uống như hũ chìm. Người gặp đau khổ quá nhiều được gọi là chìm trong đau thương. Từ này thường được dùng để chỉ chiếc tàu bị đắm và chìm dưới nuớc. Cách nói bóng ở đây rất giống với lối nói bóng mà tác giả Kinh Thánh thường dùng. Tv 42,7. Chúng ta đọc thấy “Các lượn sóng và nước lớn của Chúa đã ngập tôi” Tv 124,4 “nước đánh chìm chúng ta, dòng nước tràn qua ngập linh hồn chúng ta”. Thành ngữ Chúa Giêsu dùng ở đây không liên hệ gì với thuật ngữ phép rửa. Điều Ngài ngụ ý muốn nói là “các ngươi có bằng lòng trải qua phần kinh nghiệm từng trải khủng khiếp mà ta sắp phải trải qua không? Các ngươi có dám đương đầu với thù ghét, đau khổ và cái chết sắp nhận chìm, như ta sắp phải chịu không?” Chúa Giêsu đang muốn dạy hai người môn đệ này rằng nếu không có thập giá thì sẽ chẳng bao giờ có được triều thiên. Tiêu chuẩn về sự cao trọng vĩ đại trong Nước Thiên Chúa là thập giá. Thật vậy, những tháng ngày sau đó, trải qua kinh nghiệm của Thầy mình, vì Giacôbê đã bị vua Ácríppa chém đầu (Cv 22,2) còn Gioan tuy không tử đạo nhưng ông đã chịu nhiều khổ nạn vì Chúa Giêsu. Họ đã chấp nhận lời thách thức trên đây của thầy mình, dẫu chưa hề hay biết gì.
4/ Chúa Giêsu bảo với họ rằng kết quả tối hậu của mọi việc là thuộc về Thiên Chúa.
Số phận tối hậu dành cho một người là do quyền của Chúa định đoạt. Chúa Giêsu không bao giờ lạm quyền của Thiên Chúa. Cả đời sống Ngài, chính là một hành động tuân phục ý Thiên Chúa cách trường kỳ, và Ngài biết rằng đến cuối cùng, thì ý của Thiên Chúa tối cao, tuyệt đối.
GIÁ CỦA CÔNG CUỘC CỨU RỖI LOÀI NGƯỜI (10,41-45)
Điều không thể tránh được là chuyện của Giacôbê và Gioan khiến mười tông đồ kia tức giận. Theo họ hai anh em cố giành bước trước, đã chơi xấu, muốn chiếm ưu thế đối với họ. Lập tức, vấn đề tranh cãi xem ai sẽ là người lớn hơn hết bắt đầu nổi lên dữ dội hơn bao giờ. Tình hình bỗng trở nên nghiêm trọng, thông điệp giữa các tông đồ bị sứt mẻ nếu Chúa Giêsu không hành động ngay. Ngài vạch rõ các tiêu chuẩn khác nhau về sự cao trọng trong Nước Thiên Chúa với các nước trên thế gian. Trong các vương quốc trần gian, tiêu chuẩn về cao trọng là quyền thế. Cách thử nghiệm là: một người cai trị được bao nhiêu người khác? Khi một người truyền lệnh, thì được bao nhiêu kẻ bị buộc phải răm rắp tuân theo? Người ấy có thể áp đặt ý của mình trên bao nhiêu người? Chẳng bao lâu sau đó, Galba đã tóm tắt quan niệm ngoại đạo về vương quyền và tính cách cao trọng khi ông ta bảo bây giờ ông ta đã là hoàng đế, ông muốn làm gì thì làm, ông có quyền thực hiện bất cứ việc gì cho bất kỳ ai. Trong vương quốc của Chúa Giêsu, tiêu chuẩn lại là phục vụ. Sự cao trọng không bao gồm việc bắt người khác phục vụ mình, nhưng là đặt chính mình vào việc phục vụ tha nhân. Cách thử nghiệm không phải là: tôi được thiên hạ phục vụ tới mức độ nào, nhưng là: tôi có thể phục vụ tới mức độ nào.
Chúng ta có khuynh hướng nghĩ đây là một tình trạng lý tưởng ở đời. Thật ra, đây chỉ là một lẽ thường hợp lý, là nguyên tắc đầu tiên của cách sống. Bruce Barton chỉ cho thấy rằng căn bản mà một hãng ô tô dựa vào để kêu gọi sự lưu tâm các khách hàng của mình là họ sẵn sàng chui xuống gầm xe của bạn thường hơn, chịu dơ bẩn hơn bất cứ một hãng cạnh tranh nào. Nói cách khác, họ sẵn sàng phục vụ nhiều hơn. Ông ta cũng chỉ cho thấy rằng trong khi người thư ký văn phòng bình thường có thể đi về nhà từ 5g30 chiều, thì ánh đèn trong văn phòng giám đốc điều hành vẫn còn sáng đến khuya. Vì sẵn sàng phục vụ thêm giờ, mà người ấy đứng đầu xí nghiệp. Chỗ rắc rối trong tâm trạng của con người, là ai cũng muốn làm ít nhất, nhưng lại được hưởng lợi nhiều nhất. Chỉ khi nào người ta muốn đầu tư vào cuộc sống nhiều mà lấy ra ít, thì đời sống mới phong phú và hạnh phúc cho chính họ và cho tha nhân. Thế giới này đang cần những con người có lý tưởng phục vụ, là những con người nhận thức được ý nghĩa sâu xa của câu mà Chúa Giêsu phán dạy ở đây.
Nhằm nhấn mạnh vào lời phán dạy của Ngài, Chúa Giêsu đã chỉ vào chính gương của Ngài. Với quyền năng sẵn có, Ngài có thể sắp xếp cuộc sống hoàn toàn phù hợp với chính Ngài, nhưng Ngài đã sử dụng bản thân và tất cả để phục vụ người khác. Ngài phán rằng, Ngài đã đến để phó mạng sống mình làm giá chuộc cho nhiều người. Đây là một trong những câu quan trọng nhất trong Phúc Âm, thế nhưng lại thường bị hiểu sai và bị xuyên tạc một cách đáng buồn. Nhiều người nỗ lực dùng câu nói đầy yêu thương đó để dựng nên một lý thuyết về chuộc tội. Chẳng bao lâu sau đó, người ta đã đặt vấn đề là giá chuộc của Chúa Giêsu được trả cho ai? Origen đưa ra câu hỏi “Ngài đã phó mạng sống trả giá cho ai để cứu chuộc nhiều người? Giá ấy không phải để trả cho Thiên Chúa vậy trả cho ma quỷ chăng? Vì ma quỷ vẫn muốn nắm chặt lấy chúng ta cho đến khi một giá chuộc phải được trả cho hắn, và đó chính là sinh mạng của Chúa Giêsu, vì nó đã bị lừa gạt bở tưởng rằng nó có thể cầm quyền trên sự sống ấy mà lại không thấy rằng nó không thể nào chịu nổi sự hành hạ trên quan điểm việc cầm giữ sự sống ấy”. Đó là một quan niệm xưa cũ chủ trương rằng sự sống của Chúa Giêsu đã được trả cho ma quỷ như một giá chuộc để giải thoát cho loài người khỏi xiềng xích nô lệ mà nó đã dùng trói buộc họ, nhưng ma quỷ đã thấy khi đòi hỏi và nhận được giá chuộc đó, nó đã cắn nhằm miếng mồi khó nuốt như ta thường nói là khạc chẳng ra, nuốt chẳng vào.
Gregory ở Nyssa đã nhìn thấy vết rạn trong lý thuyết ấy, thuyết ấy đã đặt ma quỷ ngang hàng với Chúa, mặc cả với Ngài trên tiêu chuẩn bình đẳng. Vì vậy Gregory ở Nyssa lại cưu mang một ý tưởng khác thường về việc Chúa đánh lừa ma quỷ. Ma quỷ đã bị lừa phỉnh với sự dường như yếu đuối của nhập thể. Nó lầm tưởng rằng Chúa Giêsu chỉ là một con người bình thường. Nó cố gắng thực thi quyền lực của nó trên Chúa Giêsu và khi làm vậy, nó bị mất đi phần quyền lực ấy. Đây cũng lại là một quan niệm kỳ quái, chủ trương rằng Thiên Chúa phải chinh phục ma quỷ bằng một mưu lược lừa phỉnh. Hai trăm năm nữa trôi qua và Gregory lại trở về với quan niệm ấy. Ông ta dùng một dụ ngôn kỳ dị. Sự nhập thể của Chúa Giêsu là một mưu lược của Thiên Chúa nhằm cài bẫy để bắt con Lêviathan khổng lồ. Thần tính của Chúa Kitô là cái lưỡi câu, còn xác thịt Ngài là miếng mồi. Khi miếng mồi được nhử trước mặt Lêviathan là ma quỷ, thì nó đã nuốt miếng mồi, đồng thời cũng muốn nuốt luôn cả lưỡi câu vì vậy nó đã bị chinh phục vĩnh viễn. Cuối cùng, Phêrô người Lombard đã đưa quan niệm ấy tới chỗ lố bịch và đáng ghê tởm nhất, ông ta nói “Thập giá là chiếc bẫy chuột để bắt ma quỷ mà máu của Chúa Cứu Thế đã được dùng làm mồi”. Tất cả những gì vừa trình bày cho thấy điều gì xảy ra khi con người lấy một bức tranh quý báu đáng yêu để tạo ra một lý thuyết thần học lạnh giá.
Khi chúng ta nói “Đau khổ là giá trả cho tình yêu” chúng ta ngụ ý rằng tình yêu không thể tồn tại mà không có đau khổ cặp theo, nhưng chúng ta không bao giờ nghĩ đến việc giải thích xem giá phải trả cho ai. Khi chúng ta nói tự do phải được trả giá bằng máu lao lực mồ hôi và nước mắt, chúng ta chẳng bao giờ tra vấn xem cái giá trả cho ai. Câu nói trên đây của Chúa Giêsu chỉ là một cách nói gợi hình, ngụ ý rằng Chúa Giêsu phải trả giá bằng chính mạng sống Ngài để đưa loài người đang đắm chìm trong tội lỗi, trở về với tình yêu thương của Chúa. Nó có nghĩa rằng cái giá phải trả để chúng ta được cứu rỗi chính là thập giá. Chúng ta không thể và cũng không cần vượt xa hơn điều đó, chúng ta chỉ cần biết đã có một việc gì đó đã xảy ra trên thập giá, và con đường đến cùng Thiên Chúa đã được mở rộng cho chúng ta.
55. Muốn làm đầu phải hầu thiên hạ -- Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Sau khi Đức Giê-su loan báo lần thứ ba về cuộc Thương Khó Người sắp trải qua, các môn đệ xem ra vẫn không hiểu và không muốn chấp nhận con đường đó. Các ông vẫn đinh ninh rằng Thầy các ông sắp lên Giê-ru-sa-lem để làm Vua Mê-si-a và các ông đã tranh giành nhau vị trí quan trọng trong Nước Thiên Chúa mà Người sắp thiết lập (Mc 9,33-34; 10,35-40); Đức Giê-su đã nhắc nhở các môn đệ về bổn phận của người làm đầu là phải hầu thiên hạ và nên tôi tớ phục vụ mọi người (9,33; 10,41-45).
CHÚ THÍCH:
- C 35-38: + Hai người con ông Dê-bê-đê là Gia-cô-bê và Gio-an: Gia-cô-bê và Gio-an là con ông Giêbêđê và bà Salomê và là anh em bà con của Đức Giê-su.. Hai ông thuộc Nhòm 12 Tông đồ, được Đức Giê-su kêu gọi đầu tiên và đã mau mắn bỏ thuyền và từ giã cha già mà đi theo Người (x Mt 4,21-22). Hai ông nhiệt thành bảo vệ Đức Giê-su và được Người gọi là "con cái của sấm chớp". + Chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin: Tin Mừng Mát-thêu thay lời xin của hai anh em bằng lời xin của bà mẹ. Có người cho rằng Mát-thêu muốn làm giảm tính tiêu cực của hai anh em qua việc đổ lỗi cho bà mẹ!
- C 37-38: + Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang: Hai ông nghĩ Thầy sắp vào trong vinh quang là lên làm Vua Thiên Sai, nên xin hai chỗ vinh dự nhất là được ngồi hai bên tả hữu. + Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?: Hai ông đã không hiểu được ý nghĩa thực sự và kết cục là cái chết đau thương đang chờ đón Thầy tại Giê-ru-sa-lem, nên Đức Giê-su đã nhắc cho các ông về điều ấy.
- C 39-40: + "Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu: Đức Giê-su hứa cho các ông được chia sẻ trọn vẹn thân phận của Người. “Chén Thầy sắp uống” tượng trưng cho những đau khổ, “phép rửa Thầy sắp chịu” ám chỉ việc Người sẽ bị dìm trong lòng đất khi chết và được an táng trong mồ. Nhưng ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại. Lời tiên báo này đã được ứng nghiệm khi Gia-cô-bê là vị Tông đồ đầu tiên chịu tử vì đạo vào n ăm 42 do vua Hêrôđê An-ti-pa, như sách Tông Ðồ Công Vụ đã cho biết như sau: "Cùng thời kỳ ấy, vua Hêrôđê ra tay bắt bớ và làm khổ mấy người trong Giáo Hội, vua đã truyền chém ông Gia-cô-bê, anh của ông Gio-an" (Cv 12,2). Còn Tông đồ Gio-an thì bị đi đày một thời gian trên đảo Pát-mốt thời hòang đế Do-mi-ti-en. Người đã bị bỏ vào vạc dầu sôi nhưng được Chúa cứu thóat. Ngài qua đời tại Ephêsô (Tiểu Á) dưới thời hòang đế Tra-jan sau năm 98. + Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được: “Chuẩn bị cho ai” ám chỉ là do ý muốn của Chúa Cha, chứ không phải sự tiền định.
- C 41-42: + Mười môn đệ kia đâm ra tức tối: Các ông tức tối vì chính các ông cũng muốn được ngồi chỗ nhất trong Nước Thầy sắp thiết lập. + Những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân: Đức Giê-su giáo huấn môn đệ về quyền lãnh đạo: Quyền bính xã hội thường mang tính áp chế do tham vọng ca nhân muốn được ăn trên ngồi trước.
- C 43-45: + Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em: Đức Giê-su phân biệt quyền bính trong Nước Trời hay Cộng đòan Hội Thánh mà Người sắp thiết lập. + Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người: Người đòi môn đệ và các mục tử lãnh đạo Cộng đòan phải noi gương Người để sống khiêm hạ và sẵn sàng phục vụ người dưới. + Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ: Đức Giê-su thường tự xưng mình là Con Người. Người luôn nêu gương khiêm hạ phục vụ và đòi môn đệ cũng phải học tập sống như vậy. + và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người: Giá chuộc ở đây thường là số tiền bỏ ra để mua sự giải thoát cho một tù nhân, hoặc để chuộc lại một người đang làm nô lệ. Tuy Đức Giê-su không bỏ tiền ra chuộc ai cả, nhưng Người chấp nhận trải qua cuộc tử nạn và phục sinh theo thánh ý Chúa Cha giống như giá chuộc để đền tội thay và giải thóat mọi người khỏi án chết muôn đời.
CÂU HỎI:
1) Hai môn đệ Gia-cô-bê và Gio-an là ai?
2) Hai môn đệ Gia-cô-bê và Gio-an xin Đức Giê-su điều gì?
3) Chén Thầy sắp uống và phép rửa Thầy sắp chịu ám chỉ biến cố gì? 3)Bạn biết gì về cuộc tử đạo của Tông đồ Gia-cô-bê?
4) Tông đồ Gio-an đã uống chén khổ nạn do Chúa trao cho thế nào?
5) Chúa Cha “chuẩn bị cho ai” nghĩa là gì?
6)Tại sao mười môn đệ kia lại tức tối với hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an?
7) Đức Giê-su giáo huấn các ông về quyền lãnh đạo trong Nước Thiên Chúa thế nào?
8) Người muốn các môn đệ và các mục tử sau này phải noi gương Người ra sao? 9)”Giá chuộc muôn người” nghĩa là gì?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Chúa phán: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mc 10,45).
2. CÂU CHUYỆN: Gương hy sinh phục vụ của đôi tân hôn:
Một câu chuyện phục vụ Mẹ TÊ-RÊ-SA CAN-QUÝT-TA hay kể lại như sau:
“Vào năm 1982, một hôm có đôi thanh niên nan nữ tới nhà chúng tôi tại Can-quýt-ta đến trao tặng một món tiền lớn giúp bữa ăn cho người nghèo. Thấy họ còn quá trẻ, tôi tò mò hỏi: “Do đâu mà hai con có món tiền lớn vậy?” Họ trả lời: “Chúng con vừa tổ chức lễ cưới được hai ngày nay. Trước lễ cưới, chúng con bàn nhau sẽ thuê áo cưới thay vì đi may, cũng không liên hoan linh đình, mà dùng khoản tiền ấy trao tặng cho những người kém may mắn. Vì chúng con yêu nhau và muốn có một kỷ niệm đẹp nhân ngày cưới nhau”.
Ðể biết rõ thêm, mẹ Têrêsa hỏi: “Tại sao chúng con quyết định táo bạo như thế? Chúng con không sợ việc làm như vậy sẽ làm cha mẹ và họ hàng buồn lòng hay sao?” Hai bạn trẻ ấy trả lời: “Chúng con muốn khởi đầu cuộc chung sống bằng một sự hy sinh mà cả hai đều cùng nhau thực hiện”.
Mẹ Tê-rê-sa kết luận: “Thật là tuyệt vời khi nghĩ đến một tình yêu cao quí như vậy. Tôi luôn cầu nguyện: Lạy Chúa, xin ban cho những người trẻ ơn thánh và sức mạnh, để trong ngày thành hôn, họ có thể trao cho nhau trái tim trong sạch, trái tim trinh khiết, thân xác trong trắng… là món quà lớn lao của tình yêu nhau”.
3. SUY NIỆM:
1) Con người ai cũng muốn được ngồi vào chỗ nhất:
Hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an đã không ngần ngại xin Đức Giê-su cho ngồi hai bên tả hữu Thầy, là hai chỗ tốt nhất khi Thầy lên làm Vua Mê-si-a. Mười môn đệ kia nghe vậy rất bực mình. Điều này cho thấy họ cũng muốn ngồi chỗ ấy.
Thực ra, tự bản chất, mỗi chúng ta đều muốn được “ăn trên ngồi trước”. Xã hội cũng tôn vinh những người địa vị cao, khuyến khích những ngừơi đoạt giải nhất trong các cuộc thi, hoan hô các nhà vô địch “khỏe nhất, nhanh nhất, xa nhất” như trong các Đại Hội Thể Thao Ô-lym-pic…
2) Đức Giê-su “đến để phục vụ hơn là được phục vụ”:
Khi đi giảng đạo, Đức Giê-su luôn nêu gương khiêm hạ phục vụ tha nhân: Người đã làm nhiều phép lạ cứu nhân độ thế như: “Cho người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (Lc 7,22; Is 35,5-6; 42,7). Để cứu độ chúng ta, Người chấp nhận hy sinh chịu chết trên thập giá, hầu chứng tỏ một tình yêu tột đỉnh (x Ga 15,13). Người cũng nói với các môn đệ rằng: “Con người đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người”(Mc 10.45). Trong bữa tiệc ly Người đã quì xuống rửa chân cho các môn đệ và sau đó đã dạy các ông bài học yêu thương phục vụ lẫn nhau như sau: “Anh em gọi Thầy là “Thầy” là “Chúa”. Điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là “Thầy” là “Chúa”. Vậy nếu Thầy là “Chúa” là “Thầy”, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13,13-15).
3) Chúng ta phải làm gì?
- Bác sĩ TOM DOLLY đã nói như sau: “Không ai quá nghèo đến độ không có một cái gì đó để trao tặng cho người khác”. Dù là người bất tài, xấu xí hay bệnh tật đến đâu, không ai trong họ là người hòan tòan vô dụng”.
- Ở bất cứ đâu và trong bất cứ hòan cảnh nào mỗi người chúng ta đều có thể yêu thương và phục vụ tha nhân: Là người bán hàng: chúng ta có thể nói với khách hàng rằmg: “Tôi có thể giúp gì được cho bạn?”. Là bác sĩ hay y tá bệnh viện, chúng ta có thể ân cần phục vụ bệnh nhân; Là linh mục, tu sĩ hay giáo dân, chúng ta có thể phục vụ người nghèo, bệnh tật và bị bỏ rơi noi gương Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta. Vấn đề là chúng ta có sẵn sàng mở rộng con tim để đón nhận và yêu thương phục vụ tha nhân như chính Đức Giê-su hay không?
- Buổi tối mỗi người hãy dành một phút xét mình trong giờ kinh tối gia đình: “Hôm nay tôi đã làm gì để phục vụ tha nhân? Như: Nở nụ cười thân thiện với người mới gặp; Trao cái nhìn yêu thương cho một người ăn xin; Lắng nghe cảm thông với một người đang lo âu; Nói một lời an ủi người chán nản …Mỗi lời nói, cử chỉ, việc làm kèm theo tình thương sẽ là món quà quý phục vụ tha nhân.
4. THẢO LUẬN:
1) Bạn cần làm gì để tránh thói ham mê danh vọng chức quyền thế gian?
2) Tuần này bạn sẽ làm gì để thực tập khiêm hạ phục vụ?
5. LỜI CẦU:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã hạ mình như đầy tớ phục vụ môn đệ và tình nguyện chịu chết đền tội thay cho chúng con. Xin giúp chúng con hiểu được tình yêu vô biên của Chúa và noi gương Chúa yêu thương phục vụ mọi người. Xin cho chúng con biết năng nghĩ đến người bên cạnh và phục vụ họ như phục vụ chính Chúa để xứng đáng thành môn đệ thực sự của Chúa.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
16/10 Thánh Thần sẽ dạy
- Viết bởi Lc 12, 8-12
Thánh Thần sẽ dạy.
Thứ Bảy tuần 28 thường niên.
"Trong giờ ấy, Thánh Thần sẽ dạy các con phải nói thế nào".
Lời Chúa: Lc 12, 8-12
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Hễ ai xưng nhận Thầy trước mặt người đời, thì Con Người cũng sẽ xưng nhận nó trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa; nhưng ai chối bỏ Thầy trước mặt người đời, thì sẽ bị chối bỏ trước mặt thiên thần của Thiên Chúa. Và hễ kẻ nào nói phạm đến Con Người, thì nó sẽ được tha. Nhưng kẻ nào nói phạm thượng đến Thánh Thần, thì sẽ không được tha.
"Khi người ta điệu các con vào các hội đường, đến trước mặt vua quan và chính quyền, các con chớ lo lắng phải thưa làm sao, hay phải nói thế nào, vì trong giờ ấy, Thánh Thần sẽ dạy các con phải nói thế nào".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Đừng lo
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Người ta thường nói giữ đạo tại tâm.
Đức Giêsu hôm nay đòi ta phải tuyên xưng Ngài trước mặt người đời,
nghĩa là tuyên xưng một cách công khai, không giấu diếm.
Các thánh tử đạo Việt Nam ngày xưa đã có kinh nghiệm đó.
Chỉ cần bước qua thập giá là coi như chối bỏ niềm tin vào Đức Giêsu.
Không bước qua thập giá là cử chỉ tuyên xưng đức tin rõ ràng nhất.
Một đoàn người đông đúc đã sẵn lòng chịu muôn vàn khổ hình,
nhưng quyết không bước qua thập giá.
Phêrô đã có kinh nghiệm về sự công khai chối bỏ Thầy (Lc 22, 57).
Ông bảo mình không biết Thầy, không phải là người đã ở với Thầy,
đã theo Thầy như một môn đệ và như một người bạn.
Đơn giản là ông sợ bị liên lụy, sợ chịu chung số phận của Thầy.
Xưa nay chẳng ai tuyên xưng Đức Giêsu mà không phải trả giá.
Tuyên xưng bằng cách không bước qua thập giá như hồi xưa,
hay tuyên xưng bằng cách bước qua những mời mọc thời nay,
Coi nhẹ những gì thế gian mê đắm và ưa chuộng,
Như khoái lạc, địa vị, quyền lực, giàu sang.
Phêrô đã bất ngờ và dễ dàng sa ngã.
Nhưng Đức Giêsu đã cầu xin để ông được đứng lên (Lc 22, 32).
Sau này, Phêrô sẽ có kinh nghiệm khác về việc công khai tuyên xưng.
Đó là lúc ông và Gioan bị đem ra trước Hội Đồng Do Thái (Cv 4, 8)
Sau khi đã chữa một người bất toại ở cửa Đền thờ.
Phêrô được đầy tràn Thánh Thần, đã mạnh dạn làm chứng về Đức Kitô.
Hội Đồng kinh ngạc trước sự bạo dạn của ông,
vì biết ông là người ít học, quê mùa (Cv 4, 13).
Bạo dạn là nét của cộng đoàn sơ khai, khi đứng trước đe dọa (Cv 4, 29).
“Chớ lo lắng phải biện hộ làm sao hay phải nói gì,
vì Thánh Thần sẽ dạy các ông ngay giờ đó về điều phải nói” (cc. 11-12).
Không sợ và không lo,
đó là thái độ của người Kitô hữu trưởng thành trước nghịch cảnh.
Đừng phạm thượng đến Thánh Thần, vì sẽ không được tha (c. 10).
Xúc phạm đến Thánh Thần là cứ ngoan cố,
khăng khăng chống lại tác động của Ngài trong đời ta.
Những mời gọi của Thánh Thần bị bóp chết ngay từ đầu.
Một người dứt khoát từ chối Thánh Thần là từ chối chính Thiên Chúa.
Người ấy không có sự mở ra sẵn sàng để đón nhận.
Người ấy không được tha thứ, đơn giản vì không muốn nhận ơn ấy.
Xin cho chúng ta nhận được sự nâng đỡ của Thánh Thần
để làm chứng cho Giêsu giữa lòng thế giới.
Và xin cho ta chấp nhận cái giá phải trả cho một tình yêu tín trung.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, vị tử đạo tuyệt vời,
Chúa đưa chúng con vào thế giằng co liên tục.
Chúa vừa chọn chúng con ra khỏi thế gian,
lại vừa sai chúng con vào trong thế gian đó.
Thế gian này vàng thau lẫn lộn.
Có khi vàng chỉ là lớp mạ bên ngoài.
Xin cho chúng con giữ được bản lãnh của mình,
giữ được vị mặn của muối,
và sức tác động của men,
để đem đến cho thế gian
một linh hồn, một sức sống.
Chúng con chẳng sợ mình bỏ đạo,
chỉ sợ mình bỏ sống đạo
vì bị quyến rũ bởi bao thú vui trần thế.
Xin cho chúng con đừng bao giờ quên rằng
chúng con mang dòng máu của các vị tử đạo,
những người đã đặt Chúa lên trên mạng sống.
Lạy Chúa Giêsu, nếu thế gian ghét chúng con,
thì xin cho chúng con cảm thấy niềm vui
của người được diễm phúc nên giống Chúa. Amen.
Suy niệm 2: Thiên Chúa và thiên hạ
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa Giê-su đặt Thiên Chúa đối diện với thiên hạ để cho ta phải dứt khoát chọn lựa. Thiên Chúa là chủ cả trời đất. Thiên hạ chỉ là người dưới gầm trời. Thế mà chọn lựa này vẫn khiến ta sợ hãi. Sợ hãi vì tuyên xưng Chúa trước mặt thiên hạ sẽ bị thiệt thòi. Thiệt thòi lớn nhất là mất mạng như các thánh tử đạo đã chịu. Thiệt thòi nhỏ hơn là bị mất chức quyền. Thiệt thòi tối thiểu là bị mất mối lợi trước mắt, mất ưu thế với người đời, mất tiền của… Thì ra khi gắn bó với trần gian ta đâm sợ thiên hạ. Ta sợ vì có gì để mất. Khi không có gì để mất ở trần gian, ta không còn gì phải sợ. Đó chính là thái độ của Áp-ra-ham. Đó chính là thái độ của người sống theo Chúa Thánh Thần.
Áp-ra-ham đã từ bỏ tất cả. Từ bỏ quê hương, gia tộc. Từ bỏ của cải đất đai. Thậm chí từ bỏ cả đứa con trai duy nhất, niềm hi vọng cuối cùng của tuổi già. Ông chỉ chọn Chúa. Ông chỉ đi theo ơn Chúa Thánh Thần. Ông chỉ sống, suy nghĩ, nói năng và hành động theo ơn Chúa Thánh Thần soi sáng. “Không phải chiếu theo Lề Luật, mà Thiên Chúa đã hứa cho ông Áp-ra-ham và dòng dõi ông được thế gian làm gia nghiệp; nhưng ông được lời hứa đó, vì đã trở nên công chính nhờ lòng tin” (năm lẻ).
Khi chọn Chúa chứ không chọn trần gian, ta hiên ngang ra trước cường quyền tuyên xưng Danh Chúa. Vì khi không còn bám víu gì vào trần gian, Chúa Thánh Thần sẽ làm việc. Tâm hồn con người giống như chiếc thuyền buồm. Khi trút bỏ mọi đam mê dục vọng, mọi ràng buộc gắn bó, thuyền sẽ nhẹ tênh. Khi không nhìn về trần gian, buồm sẽ căng gió Thánh Thần để đi đúng hướng Thiên Chúa. Và hoa trái của Thánh Thần thật lớn lao. Lớn lao nhất là được chính Chúa Giê-su tuyên dương trước mặt Chúa Cha và các thần thánh trên trời.
Vì thế thánh Phao-lô hằng cầu nguyện cho tín hữu Ê-phê-sô được “thần khí khôn ngoan” soi lòng mở trí, để nhận định rõ “đâu là niềm hi vọng, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú, đâu là quyền lực vô cùng lớn lao” để biết luôn chọn Chúa Ki-tô. Từ bỏ trần gian để chọn Chúa Ki-tô ta sẽ được tất cả. Vì “Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Ki-tô” (năm chẵn).
Lạy Chúa, xin cho con đừng bao giờ chọn trần gian chóng qua, đừng bị những khuynh hướng thế tục chi phối, để tâm hồn con tự do theo ơn Chúa Thánh Thần. Như thế con sẽ hiên ngang trước mặt người đời để tuyên xưng Chúa bằng đời sống từ bỏ của con.
Suy niệm 3: Tội Phạm Ðến Chúa Thánh Thần
Ông Charles Darwin, khi về già đã tâm sự: lúc còn trẻ, ông cũng rất yêu thích thi ca và âm nhạc, thế nhưng, công việc nghiên cứu đã chiếm hết thời giờ của ông. Dành trọn cuộc đời cho sinh vật học, cho nên ông đã mất dần khả năng thưởng thức thi ca và âm nhạc, đến nỗi về sau, thi ca đối với ông chỉ còn là những lời vô bổ và âm nhạc chỉ là những tiếng động ồn ào mà thôi. Cuộc đời ông đã thiếu hẳn vẻ tươi mát và trẻ trung. Thế nên, nếu được sống lại tuổi trẻ lần nữa, ông sẽ dành thời giờ tìm đến thi ca và âm nhạc, để khỏi mất đi khả năng thưởng thức chúng, một khả năng giúp cho cuộc đời thêm hương vị.
Lời tâm sự của Charles Darwin giúp chúng ta hiểu thêm phần nào về tội phạm đến Chúa Thánh Thần được Chúa Giêsu nói đến trong Tin Mừng hôm nay.
Chúa Thánh Thần là Thần Chân Lý. Một trong những công việc của Ngài là mạc khải về chân lý, giúp con người hiểu biết chân lý mà hướng lòng họ đi tìm sự thật. Bởi thế, sau khi Chúa Giêsu về trời, thì Thánh Thần đến trên các Tông đồ để dạy dỗ và hướng dẫn các ông. Nhờ Thánh Thần, các ông đã hiểu rõ những lời nói và việc làm của Chúa Giêsu; và cũng nhờ Thánh Thần, các ông đã mạnh dạn rao giảng Tin Mừng như lời căn dặn của Chúa Giêsu trước khi Ngài về trời.
Công cuộc rao giảng Tin Mừng không phải luôn luôn dễ dàng và gặt hái thành công, như lần 3,000 người trở lại liền sau bài giảng của thánh Phêrô vào dịp lễ Ngũ Tuần; nhưng các ông đã gặp biết bao chống đối và bách hại. Dù gặp gian nan thử thách như thế, các ông vẫn hiên ngang rao giảng, vì đó là lời mời gọi của Chúa Giêsu, và hơn nữa, một điều kiện: "Ai tuyên xưng Thầy trước mặt thiên hạ, thì Con Người cũng sẽ tuyên xưng người ấy trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa". Vả lại, các ông không phải đơn độc trong gian nan, thử thách, vì có Thánh Thần luôn hiện diện với các ông. Thánh Thần sẽ dạy cho các ông phải nói gì khi bị điệu đến trước nhà cầm quyền, vì Danh Chúa Giêsu. Một sự hiện diện gần gũi và cần thiết như vậy của Thánh Thần, khiến cho tội phạm đến Thánh Thần trở thành tội không được tha. Không được tha, không phải vì Thánh Thần là một Thiên Chúa nghiêm khắc trừng phạt; Chúa Thánh Thần vẫn mãi mãi là một Thiên Chúa khoan dung, từ bi, nhân hậu, là Ðấng Bầu Chữa, an ủi, vỗ về các tâm hồn. Không được tha không phải vì Chúa Thánh Thần không muốn tha, nhưng là vì thái độ của con người.
Nếu trong con người của Darwin có những sở thích về thi ca, âm nhạc, nhưng vì không chịu tiếp xúc với các môn ấy khiến ông mất dần khả năng thưởng thức thi ca, âm nhạc, để rồi chúng trở thành vô bổ đối với ông. Cũng thế, trong mỗi người chúng ta đều có những khát vọng về chân lý, nhưng chính thái độ bịt tai nhắm mắt trước sự thật đã khiến con người mất dần khả năng cảm nhận sự thật để rồi đối với họ sự thật chẳng còn giá trị gì. Chúa Thánh Thần là Chân Lý, nhưng nếu đứng trước Ngài, con người vẫn giữ thái độ cố chấp, thì dù Ngài là Ðấng giúp con người hiểu biết và đi tìm chân lý, Ngài cũng đành bó tay. Không tìm đến với nguồn chân lý, làm sao con người có thể nhận được ơn tha thứ?
Xin Chúa cho chúng ta có một tâm hồn yêu mến và nhạy cảm trước sự thật. Xin cho chúng ta biết can đảm vượt qua những trói buộc của đam mê, ích kỷ, tội lỗi, để tìm đến với sự thật, vì chỉ có sự thật mới giải thoát chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Cuộc Sống Chứng Tá
Sau khi khiển trách các người pharisiêu và những nhà thông luật, Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ hãy có lòng can đảm tuyên xưng đức tin trước mặt mọi người, ngay cả trước những kẻ dữ mà không sợ bị bách hại. Bài trình thuật Phúc Âm hôm nay vì thế mời gọi tất cả chúng ta hướng về một đức tin xác quyết và một niềm hy vọng bất diệt vào quyền năng của Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu dạy bảo các môn đệ hãy can đảm làm chứng tá cho Thiên Chúa giữa lòng thế gian, bất chấp những sự bách hại của các quyền lực trần thế, đó là điều kiện để các ông được Chúa Cha trên trời đón nhận như Ngài nói: "Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Con Người cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa".
Tất cả cuộc sống của người Kitô không nằm ở thái độ biểu dương đức tin để trở nên xứng đáng với trước mặt Thiên Chúa, nhưng là thái độ khiêm tốn và xác tín trong việc sống thực hành những lời răn của Thiên Chúa mà không đòi hỏi bất cứ sự đền bù nào. Khi Chúa Giêsu nói: "Bất cứ ai nói phạm đến Con Người thì còn được tha, nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần thì sẽ chẳng được tha", Người ngụ ý dạy rằng tội lỗi thực sự của loài người là sự ngoan cố đối nghịch với Thiên Chúa và từ khước tình yêu thương và sự tha thứ của Người.
Chúa Thánh Thần là Ðấng của tình yêu thương và sự tha thứ. Ai khước từ Chúa Thánh Thần là hoàn toàn từ chối sự cứu rỗi mà Thiên Chúa hứa ban cho nhân loại. Hồng ân và sức mạnh đến từ Chúa Thánh Thần làm cho đức tin của chúng ta được tăng trưởng và đức tin đó được đun nóng từ Chúa Thánh Thần sẽ thúc đẩy chúng ta đến những hành động anh hùng bằng gương tử đạo. Gương tử đạo không xuất phát từ các yếu tố con người mà là kết quả đến từ những ai để cho ngọn lửa tình yêu của Chúa Thánh Thần bùng cháy trong tâm hồn mình đó là hồng ân của Chúa Thánh Thần ban cho những ai biết mở rộng con tim để đón nhận Người.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu biết rằng các môn đệ sẽ chịu nhiều thử thách, thế nên Người đã cảnh giác rằng các ông có thể sẽ mất đi những hồng ân của Thiên Chúa và rơi vào tình trạng nghi ngờ hay từ bỏ đức tin. Mặt khác, Người cũng bảo đảm rằng Chúa Thánh Thần sẽ ban cho các ông sự khôn ngoan và lòng can đảm để đối diện với những kẻ dữ trong giờ phút bị bách hại. Ðồng thời, Chúa Giêsu cũng lên án những kẻ nói phạm đến Thánh Thần. Sự phạm thánh đó bao gồm những hành động hay những tư tưởng chống đối Thiên Chúa tiềm ẩn trong con tim hay biểu lộ ra bên ngoài. Tội nói phạm đến Chúa Thánh Thần là thái độ của những kẻ cứng lòng từ chối tình yêu và sự tha thứ của Thiên Chúa mà không thực lòng muốn sám hối.
Lòng nhân ái của Thiên Chúa thì vô bờ bến nhưng nếu một ai từ chối lòng thương xót của Người thì sẽ tự mình kết án chính mình. Hồng ân đến từ Chúa Thánh Thần sẵn sàng ban xuống cho những ai tin nhận Chúa Giêsu là Thiên Chúa và là Ðấng Cứu Thế.
Lạy Chúa,
Người là niềm hy vọng và là sự cứu rỗi của chúng con. Xin cho chúng con biết đặt sự tin tưởng vào Chúa trong bất kỳ hoàn cảnh khó khăn hay cám dỗ nào. Xin hãy để ngọn lửa của Chúa Thánh Thần bùng cháy trong con tim chúng con, cho chúng con sự khôn ngoan và can đảm để theo gương đức tin mặc dù phải đối diện với những sự bách hại của kẻ dữ.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 5: Chân lý chứng nhận cho bạn trong ngày phán xét
“Thầy nói cho anh em biết: Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước bặt thiên hạ, thì Con Người cũng tuyên bố nhận người ấy trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa.” (Lc. 12, 8)
Trong khi khuyên các môn đệ đi làm chứng cho chân lý thì đừng sợ gì, dù ở đâu thời nào, Đức Giêsu đã phấn chấn các ông, cho các ông biết về sự giúp đỡ của Thiên Chúa và những hiệu quả do lòng trung thành của các ông.
Trước tòa đời
Chân lý các môn đệ phải tuyên xưng là: “Đức Giêsu Kitô là Chúa ở trong vinh quang Thiên Chúa”. Nghĩa là, Con Thiên Chúa, Ngôi Lời Thiên Chúa, Nguồn Mặc Khải Thiên Chúa.
Không ai có thể tuyên xưng chân lý này, nếu không được linh ứng bởi Thánh Thần, Đấng ban cho họ hiểu biết và sức mạnh để làm chứng. Cho nên Đức Giêsu hứa ban cho các môn đệ, lúc tuyên xưng đức tin trước tòa người đời, Thánh Thần chân lý sẽ dạy các ông phải nói gì. Dù những môn đệ tầm thường nhất cũng không phải lo lắng. Thánh Thần sẽ đặt vào môi miệng các ông những lời để các ông mạnh mẽ tuyên xưng đức tin. Ngài sẽ còn hướng dẫn các ông trong đời sống vì các ông đang sống trong Thánh Thần từ lúc chịu phép rửa.
Trong ngày phán xét
Ai tuyên xưng chân lý trước mặt thiên hạ bằng đời sống, việc làm và lời nói sẽ được Con Thiên Chúa bênh vực trong ngày phán xét trước mặt Chúa Cha và các thiên thần.
Ai bỏ làm chứng và đức tin vào Đức Kitô vì kính nể người đời hay sợ bắt bớ, thì không thể được cánh tay của Con Người che chở trong ngày phán xét. Đức Giêsu trung thành với ai trung thành với Người. Chính mình sẽ tự lên án mình tùy theo đời sống của mình.
Nếu kẻ đã không tin vào lời Đức Giêsu và sự nghiệp của Người, nó có thể được tha thứ, vì nó chưa nhận được Thánh Thần, cho nên nó không có thể trung thành. Nhưng nếu ai đã tin chân lý mà không đón nhận lòng thương xót, nó cố chấp từ bỏ đức tin là xúc phạm đến Thánh Thần vì nó chối bỏ chân lý đã mặc khải cho nó.
Lạy Chúa, xin hãy ban Thánh Thần Chúa đến củng cố đức tin chúng con trong mọi nơi, mọi lúc, cho chúng con được sức mạnh can đảm tuyên xưng chân lý rằng: “Đức Giêsu Kitô là Chúa ở trong vinh quang Đức Chúa Cha”.
RC
Suy niệm 6: “Đừng sợ” Chúa Thánh Thần sẽ nói thay
Xem thêm thứ Sáu tuần 14 TN và ngày 26.12 trong tuần Giáng Sinh
Đọc lại lịch sử các thánh Tử đạo Việt Nam, chúng ta thấy: rất nhiều vị thánh xuất thân từ nhà quê, chẳng được học hành là bao, lại phải lam lũ khổ sở, suốt ngày bán mặt cho đất, bán lưng cho trời! Ấy vậy mà khi bị bắt, bị tra tấn, đánh đập, nhất là khi bị hỏi cung, các ngài đã trả lời hết sức trôi chảy. Không những thế, các ngài còn lý luận và bẻ gãy những lời nói phi nhân, bất nghĩa của vua quan. Mặt khác, nhân cơ hội, ngoài chuyện làm chứng cho Chúa bằng đời sống, các ngài còn rao giảng Lời Chúa cho những người đang làm hại mình nữa. Tất cả những chuyện đó, chúng ta, ai cũng hiểu là Chúa Thánh Thần nói trong và hành động nơi các thánh.
Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng nói cho các môn đệ biết, các ông sẽ phải chịu đau khổ, bách hại và gặp muôn điều khó khăn, tuy nhiên, các ông đừng sợ, những lúc như thế, Chúa Thánh Thần sẽ giúp các ông để cho các ông biết phải làm gì và nói gì.
Trong đời sống đạo của chúng ta hiện nay, không còn quá khó như thời các thánh tử đạo khi xưa. Nhưng vẫn còn nơi này, nơi kia, vì một số người kém hiểu biết, dốt nát, cổ hủ, nên còn gây khó dễ đối với các tín hữu cách này, cách khác. Những người này có thể vì một mục đích thực dụng nào đó cho cá nhân hay tập thể, nên mới có những hành xử kém hiểu biết và thiếu nhân văn như vậy! Tuy nhiên, điều này không đáng ngại, bởi vì kinh nghiệm cho thấy, càng khó khăn, khổ sở bao nhiêu thì niềm tin và đời sống đạo lại càng sống động. Nhưng điều đáng sợ hơn cả chính là những trào lưu tục hóa đang dần bách hại tinh thần của chúng ta. Những phim ảnh, sách báo, băng đĩa xấu đang lan tràn mọi nơi. Những thứ này nó phá hủy từ bên trong, nên có sức làm băng hoại đời sống đạo đức, luân lý nơi con người. Đây mới là thử thách đáng phải quan tâm!
Sống trong xã hội như thế, người Kitô hữu được mời gọi làm chứng cho Chúa bằng cuộc sống lành mạnh... Khước từ những điều không phù hợp với luân lý Kitô giáo. Còn nếu có gặp khó khăn, bắt bớ, cấm cách, chúng ta an tâm, vững tin vào Chúa Quan Phòng, vì những lúc đó, Chúa Thánh Thần sẽ thực thi vai trò của Người như xưa Người đã làm nơi các Tông đồ và các bậc tiền nhân của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban Chúa Thánh Thần xuống trên chúng con, để chúng con được ơn can đảm, trung thành với Chúa và Tin Mừng của Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Tuyên xưng Chúa trong đời
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu bảo đảm rằng: Ai tuyên xưng Ngài bằng cách trung thành với Ngài trong cuộc sống hôm nay, Ngài sẽ không quên họ trong cuộc sống mai sau.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, cuộc sống của con hôm nay dễ làm con quên Chúa. Con không chối Chúa trực tiếp như thánh Phêrô đã chối Chúa. Tuy thế, vì đồng tiền chi phối, công việc bận rộn, bổn phận nặng nhọc, các gương xấu và dịp tội nhan nhản, con như bị cuốn vào một cơn lốc, cơn lốc thế trần. Rồi con cũng bon chen, cũng gian tham, cũng ghen ghét oán thù, cũng lao mình vào tội lỗi và quên mình là môn đệ Chúa, chẳng khác gì con đã chối Chúa. Hẳn đã có một lần, vì một dịp vui với bạn bè, con đã thiếu sót bổn phận với Chúa. Đã có một lần vì một chút xúc phạm đến danh dự con, con vội nổi đóa, quên hẳn bài học khiêm tốn hiền lành Chúa dạy. Những lần như thế con đã phế bỏ Chúa ra khỏi tâm hồn con.
Con muốn quyết tâm sống sao cho xứng danh người môn đệ Chúa. Xin Chúa thương nâng đỡ con, để nếu con nghèo, thì đừng vì nghèo mà gian tham; nếu con bị người ta vô ơn, con đừng bất mãn để rồi không sống bác ái nữa; giả như con bị anh em xúc phạm đến danh dự thì đừng để lòng thù oán. Luôn sống theo tinh của Chúa trong mọi hoàn cảnh, đó là con đang tuyên xưng Chúa là Thầy và là Chúa của con.
Lạy Chúa, con tin vào Lời Chúa: “Ai tuyên xưng Ta trước mặt thiên hạ, Ta sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Ta”. Các thánh đã được hưởng lời hứa đó. Con quyết sống trung thành với Chúa và can đảm sống theo đường lối Chúa, để mai sau Chúa cũng sẽ nói với con: “Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, hãy vào hưởng sự vui mừng với Chủ ngươi”. Amen.
Ghi nhớ: “Trong giờ ấy, Thánh Thần sẽ dạy các con phải nói thế nào”.
Suy niệm 8: Nhóm “Không Sợ”
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Mặc dù được sống cùng với Chúa Giêsu: cùng ở, cùng ăn, cùng làm với Ngài và đã được thấy biết bao nhiêu phép lạ Thầy mình làm trước mắt, nhưng các tông đồ thì sợ vẫn sợ: Sợ không có gì ăn, sợ bão táp làm cho thuyền chìm, sợ quân dữ đến bắt Thầy nên đã bỏ chạy hết, sợ đến nỗi chối Thầy, sợ bị liên lụy nên không dám đi theo Thầy đến tận núi Sọ. Vì thế, chúng ta có thể gọi nhóm Mười hai này là nhóm “Sợ”.
Sau này, nhóm Mười hai này được gọi là nhóm “Không Sợ” vì Thánh Thần luôn ở với họ...
Suy niệm
Cuộc sống đầy vất vả, lo âu khó khăn dễ làm chúng ta sợ, đó là sự sợ hãi của kiếp nhân sinh mà ai ai cũng phải đối mặt, làm bào mòn niềm tin của người tín hữu, của môn đệ khi sống giữa thế gian... Người môn đệ trong thân phận của con người cũng cảm thấy mình yếu đuối, không có sức mạnh để đối mặt với gian nan cuộc đời và hoảng sợ khi tự mình đương đầu trước những bách hại vốn luôn có trong bước đường rao giảng...
Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ hãy can đảm đối mặt với mọi gian nan. Chính lúc đó, người môn đệ tuyên xưng đức tin trước mặt mọi người, ngay cả trước những kẻ dữ mà không sợ bị bách hại. Người môn đệ ý thức mình yếu đuối, nên luôn tín thác vào Chúa, sống gắn bó với Người mang lấy một đức tin xác quyết và một niềm hy vọng bất diệt vào quyền năng của Chúa Thánh Thần như Chúa hứa. Chính vì thế, sự yếu hèn của môn đệ trở nên sức mạnh của Thiên Chúa như thánh Phaolô khẳng định: “Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 12,10).
Hồng ân và sức mạnh đến từ Chúa Thánh Thần làm tăng trưởng đức tin và thúc đẩy người môn đệ làm những hành động anh hùng bằng gương tử đạo. Chính Chúa Thánh Thần sẽ ban cho các ông sự khôn ngoan và lòng can đảm để đối mặt với những gian nan, với những kẻ dữ trong giờ phút bị bách hại.
Xin ban cho chúng con ơn can đảm, sức mạnh và nghị lực của Chúa Thánh Thần để chúng con chống trả giữa những cơn thử thách, gian nan của cuộc sống mà chúng con phải đối mặt mỗi ngày.
Ý lực sống:
“Thật vậy, không phải chính anh em nói,
mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em”. (Mt 10,20)
Suy niệm 9: Hãy tuyên xưng danh Chúa
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Bài Tin mừng hôm nay tiếp tục ghi lại những lời Chúa dạy hôm qua là môn đệ của Chúa hãy mạnh dạn sống và rao giảng Tin mừng, đừng sợ vì đã có Chúa quan phòng. Ngoài ra Chúa dạy thêm: đừng sợ vì ngày phán xét chính Chúa Giêsu sẽ tuyên bố nhận kẻ can đảm làm chứng cho Ngài và hơn nữa, có Chúa Thánh Thần soi sáng cách ăn nói và ứng phó khi người môn đệ bị đưa ra trước những nhà cầm quyền thế gian.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu biết rằng các môn đệ sẽ chịu nhiều thử thách, thế nên Người đã cảnh giác rằng: các ông có thể sẽ mất đi những hồng ân của Thiên Chúa và rơi vào tình trạng nghi ngờ hay từ bỏ đức tin. Mặt khác, Người cũng bảo đảm rằng Chúa Thánh Thần sẽ giúp sức cho chúng ta trong những cuộc bách hại.
Đồng thời, Chúa Giêsu cũng lên án những kẻ nói phạm đến Thánh Thần. Tội nói phạm đến Chúa Thánh Thần là thái độ của những kẻ cứng lòng từ chối tình yêu và sự tha thứ của Thiên Chúa mà không thực lòng muốn sám hối.
Thế nào là tội phạm đến Chúa Thánh Thần ?
Chúa Giêsu nói: “Và hễ kẻ nào nói phạm đến Con Người, thì nó sẽ được tha. Nhưng kẻ nào nói phạm đến Thánh Thần, thì sẽ không được tha” (Lc 12,10). Đây là một vấn nạn rất khó giải thích. Chúa Thánh Thần là nguồn của bảy ơn sủng, là Đấng được ban để tha tội qua công ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô. Vì vậy, phạm đến Chúa Thánh Thần, nghĩa là khước từ ơn thánh và khước từ ơn cứu độ. Chúng ta chỉ được cứu độ nhờ đón nhận, còn khước từ thì Chúa cũng chịu vì sự tự do Chúa ban cho chúng ta. Chúng ta từ chối thì chúng ta mất linh hồn, không phải là Chúa không tha, mà là chúng ta khước từ sự tha thứ đó. Thánh Augustinô từng dạy: “Chúa dựng nên ta không cần ta, nhưng Chúa muốn cứu chuộc ta thì cần có ta cộng tác”. Chúa Thánh Thần hoạt động trong ta, mà ta xúc phạm đẩy Ngài ra để chỗ cho tà thần, thì làm sao được ơn cứu độ ? (Hiền Lâm)
Chúa muốn mọi người được ơn cứu độ, nhưng để hưởng ơn cứu rỗi Chúa, con người phải cộng tác bằng việc sám hối ăn năn. Vì thế, bao lâu còn sống ở trần gian mà có lòng thống hối, thì tội gì cũng được tha; còn khi cố chấp, không hối cải, thì tội không thể được tha. Tội phạm đến Chúa Thánh Thần chính là tội cố chấp, ngoan cố ở trong tình trạng tội lỗi, khước từ mọi ân huệ của Chúa, chắc chắn không được hưởng ơn tha thứ.
Tử đạo và chối đạo ngày nay: “Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng nhìn lại cuộc sống. Ngày nay những cuộc bách hại đạo công khai không còn, nhưng những khó khăn mọi mặt mà người Kitô hữu đang trải qua cũng đủ, để họ tuyên xưng đức tin đến mức tử đạo. Ngược lại, khước từ sống theo những cam kết đức tin cũng là một hình thức chối đạo. Chối đạo khi không có những hành động cụ thể, khi đóng khung đức tin vào những việc đạo đức làm vì thói quen, khi không nhận ra tình yêu quan phòng của Thiên Chúa” (Mỗi ngày một tin vui).
Thánh Stêphanô Nguyễn Văn Vinh, khi bị quân lính bắt bước qua Thánh giá, đã mạnh dạn tuyên xưng: “Tôi thà chết chứ không bao giờ chịu giẫm lên Thánh giá, vì tôi biết đạo Chúa Giêsu là đạo thật”. Đức Giêsu củng cố lòng trung thành của các môn đệ trước những biến cố sắp xảy đến với Người. Người đảm bảo phần thưởng cho các ông trên quê trời, nếu các ông mạnh mẽ ra đi làm chứng cho Người, can đảm tuyên xưng niềm tin vào Người, và sẵn sàng chịu vu khống cáo gian vì Người. Ngày hôm nay, Đức Giêsu vẫn không ngừng kêu gọi chúng ta ra đi làm chứng và giới thiệu Chúa cho những người khác.
Truyện: Có, tôi tin chứ
Trong một tu viện đang bị quân đội Xô Viết chiếm đóng, một cuộc đối thoại đang diễn ra giữa Tu viện trưởng và một sĩ quan Xô Viết. Ông này nói: - Hiện giờ chỉ có hai chúng ta, không một ai chứng kiến, vậy ông hãy nói sự thật, đừng sợ gì cả! Hãy nói cho tôi biết là ông không tin vào tất cả những chuyện Chúa Bà, tôn giáo mà ông tuyên xưng đây.
Vị Tu viện trưởng trả lời: - Có, tôi tin chứ!
Viên sĩ quan liền rút súng lục ra, gí thẳng vào thái dương cha và nói:
- Nếu ông không nói là ông chẳng tin gì cả thì tôi sẽ bắn!
Và Tu viện trưởng lặp lại một lần nữa lời tuyên xưng của mình. Viên sĩ quan hạ súng xuống và kêu lên vui vẻ: - Đây là điều mà tôi trông đợi, đây là người mà tôi tìm kiếm. Tôi cũng vậy, bây giờ tôi tin vào Chúa Kitô.
Rồi cuộc đối thoại tiếp tục trong hướng tinh thần đó (Trích trong cuốn “Bưng biền của Thiên Chúa” của cha Georges).
Suy niệm 10: Lời khuyên cho các môn đệ
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Chúa Giêsu tiếp tục đưa ra những lời khuyên cho các môn đệ mình. “Hãy mạnh dạn sống và rao giảng Tin Mừng, đừng sợ.” Ngài cũng tiếp tục đưa ra những lý do để họ luôn được an tâm:
1. Lý do thứ nhất vì trong ngày phán xét chính Chúa sẽ nhận những người dám can đảm làm chứng cho Ngài.
Sách Đường Hy Vọng dạy: Ðừng nhát sợ! Hãy xem Công Vụ Các Thánh Tông Ðồ: đói khát, rách rưới, trộm cướp, roi đòn, đắm tàu, vu vạ, tù ngục, chết chóc... Nếu con sợ, đừng làm tông đồ. (Số 167)
Con chỉ có một mối lo sợ: Tội lỗi.
Triều đình Hoàng Ðế Hy Lạp đã nhóm họp để bàn cách trả thù thánh Gioan Kim Khẩu vì ngài đã thẳng thắn khiển trách bà Hoàng Hậu.
Kế hoạch I: Bỏ tù.
- “Nhưng ông ấy sẽ được dịp cầu nguyện, chịu khó vì Chúa như ông hằng mong muốn.”
Kế hoạch II: Lưu đầy.
- “Nhưng đối với ông ấy, đâu cũng là đất Chúa.”
Kế hoạch III: Tử hình.
- “Ông sẽ được tử đạo, chúng ta sẽ thỏa mãn nguyện vọng ông: được về với Chúa.”
“Tất cả kế hoạch I, II và III không làm cho ông khổ đau, ngược lại ông sẽ vui sướng chấp nhận.”
Kế hoạch IV: “Chỉ có một điều ông khiếp sợ nhất, gớm ghét nhất là tội lỗi, nhưng bắt ông phạm tội không được!”
Nếu con chỉ sợ tội, thì không ai mạnh hơn con. (Đường Hy Vọng số 991)
Một vị tuyên úy người Mỹ vừa giảng một bài cho các binh sĩ Mỹ trong một thánh lễ tại một giáo đuờng ở Châu Âu. Chủ đề của bài giảng là: “Hãy tự hào về Đức tin Công giáo của bạn: Đừng xấu hổ khi phải tuyên xưng nó”.
Một người lính thuỷ nghe và cảm thấy hết sức xúc động nên sau thánh lễ người này đã chận vị tuyên úy lại ngay trước cửa giáo đường và hỏi: - Thưa Cha, cha có bằng lòng nghe con xưng tội không ?
Vị tuyên úy trả lời: - Tôi rất hạnh phúc được nghe anh xưng tội.
Thế là chàng lính thủy quì ngay xuống lối đi bên cạnh ngay trước giáo đường. Vị tuyên úy vội nói:
- Đừng quì gối kẻo thiên hạ nhìn kìa!
Chàng lính thủy đáp lại: - Kệ họ, thưa cha, cứ để họ nhìn, con hãnh diện về đức tin của con.
Chúa Giêsu không đòi hỏi mọi người phải chết cho niềm tin, nhưng Ngài đòi hỏi phải tuyên xưng có nghĩa là phải làm cho cuộc sống của mình trở thành những chứng từ. Ngày nay, chúng ta ít thấy hay khó mà tìm ra được những cuộc bách hại đạo công khai, nhưng những khó khăn về mọi mặt mà người Kitô hữu đang phải trải qua trong cuộc sống, cũng đủ để họ tuyên xưng đức tin đến mức tử đạo. Ngược lại, nếu họ khước từ sống theo những cam kết của đức tin thì phải kể họ là những người chối đạo. (Trích “Mỗi ngày một tin vui”).
2. Lý do thứ hai là sẽ có Thánh Thần soi sáng để họ có thể ăn nói và ứng phó mà không ai có thể bắt bẻ được.
Trong Tông Huấn Ecclesia in Asia (Giáo Hội tại Á Châu) các nghị phụ đã khắng định: “Chúa Thánh Thần tác động trên xã hội loài người, trên các nền văn hóa, bằng cách biến đổi và tái tạo tâm trí con người. Ngài là nguồn gốc của những lý tưởng cao thượng, những công trình mang lại lợi ích cho nhân loại. Thánh Thần Thiên Chúa có khả năng nhìn xa trông rộng tuyệt vời đang điều khiển dòng lịch sử và đang canh tân bộ mặt trái đất” (RM số 28).
Dạo tháng 2/1996, cùng với phái đoàn của Hội đồng Giám mục Pháp, một linh mục ký giả là cha Daniel, đã đến thăm một số giáo phận tại Việt Nam. Trong một bài ký sự được đăng trên một tờ báo Công giáo Pháp, cha Daniel đã gọi Việt Nam là đất thơm mùi máu các thánh tử đạo.
Chứng kiến cuộc sống sinh hoạt tôn giáo hàng ngày của các xứ đạo ở vùng quê, tác giả đã ghi lại từng chi tiết mà người dân Tây Phương ngày nay chỉ có thể ngỡ ngàng mà thôi: bốn giờ sáng chuông nhà thờ đổ hồi. Bốn giờ mười lăm phút, mọi người từ trẻ đến già lũ lượt đến nhà thờ. Bốn giờ ba mươi phút đọc kinh. Năm giờ, thánh lễ hoặc tham dự phụng vụ Lời Chúa.
Tại một nhà thờ chính tòa nọ, tác giả đã sửng sốt khi chứng kiến năm ngàn người đứng chật ních nhà thờ trong thánh lễ bốn giờ ba mươi phút mỗi ngày trong tuần.
Tác giả nhận định về thời khóa biểu tôn giáo này như sau: “Rõ ràng là ở đó, người ta chỉ sống cho Thiên Chúa, cho niềm vui con người, ở đó Thiên Chúa là niềm vui của người nghèo.”
Còn Đức Tổng Giám mục Claudio Celli, sau những ngày làm việc của ngài tại Việt Nam hồi trung tuần tháng 10/1996, Ngài nói như sau: “Con người có thể đặt ra những giới hạn cho sinh hoạt của Giáo Hội, nhưng không thể ngăn chặn tác động của Chúa Thánh Thần”.
Vâng, Giáo Hội Việt Nam đang có những sức sống đáng tự hào nhưng không phải vì đó mà chúng ta tự mãn. Hãy cố mà giữ lấy những hống ân Chúa ban.
Suy niệm 11: Mạnh dạn sống và rao giảng Tin Mừng
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Văn mạch: Đoạn này tiếp liền đoạn hôm qua và cùng một chủ đề “Chúa Giêsu khuyên môn đệ mình hãy mạnh dạn sống và rao giảng Tin Mừng, đừng sợ. Trong đoạn hôm qua, Chúa Giêsu đã đưa một lý do để đừng sợ, đó là có Thiên Chúa quan phòng. Hôm nay Ngài đưa thêm hai lý do nữa:
1. Câu 8-10: Lý do thứ hai để đừng sợ là trong ngày phán xét chính Chúa Giêsu sẽ tuyên bố nhận kẻ can đảm làm chứng cho Ngài. Lời trấn an này đi kèm với lời đe dọa: Chúa Giêsu sẽ không nhìn nhận kẻ nào vì sợ mà chối Ngài.
2. Câu 11-12: Lý do thứ ba để đừng sợ là sẽ có Thánh Thần soi sáng cách ăn nói và ứng phó khi người môn đệ bị đưa ra trước những nhà cầm quyền thế gian.
B.... nẩy mầm.
1. Tử đạo và chối đạo ngày nay: “Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại cuộc sống. Ngày nay những cuộc bách hại đạo công khai không còn, nhưng những khó khăn mọi mặt mà người kitô hữu đang trải qua cũng đủ để họ tuyên xưng đức tin đến mức tử đạo. Ngược lại, khước từ sống theo những cam kết đức tin cũng là một hình thức chối đạo. Chối đạo khi không có những hành động cụ thể, khi đóng khung đức tin vào những việc đạo đức làm vì thói quen, khi không nhận ra tình yêu quan phòng của Thiên Chúa” (Trích "Mỗi ngày một tin vui").
2. Lần đầu tiên giảng Lời Chúa, một nữ mục sư trẻ giảng chưa được lưu loát lắm. Trong đám thính giả, một người lên tiếng: “Cô ơi, cô chưa đủ khả năng giảng đâu. Cô nên xấu hổ về chính mình đi”. Nữ mục sư đáp: “Vâng, tôi rất xấu hổ về tôi. Nhưng tôi không hề xấu hổ về Chúa Giêsu, Đấng đã dám lấy chính máu mình để cứu chuộc chúng ta”. (Christian Herald).
3. Lc 1,28-37: Khi nghe Thiên sứ báo Thiên Chúa muốn giao cho Đức Maria một sứ mạng quan trọng là làm mẹ Đấng Cứu Thế, Người đã “bối rối”. Nhưng thiên sứ đáp: “Đừng sợ... Thánh Thần đã ngự xuống trên cô... Đối với Thiên Chúa không có gì là không thể làm được”.
4. Trong thời đầu mở mang Giáo Hội, các môn đệ Chúa đã nhờ “tràn đầy Thánh Thần” nên “không sợ” áp bức, “mạnh dạn” loan báo Tin Mừng (Cv 4,33: các tông đồ; Cv 7,55-56: Têphanô; Cv 21,8-14: Phaolô)
14/10 Dòng Máu Cứu Ðộ
- Viết bởi Lc 11, 47-54
Dòng Máu Cứu Ðộ.
Thứ Năm tuần 28 thường niên.
"Sẽ bị đòi nợ máu của các tiên tri đã đổ ra, kể từ máu của Abel cho đến máu của Giacaria".
Lời Chúa: Lc 11, 47-54
Khi ấy, Chúa phán: "Khốn cho các ngươi! Hỡi những người xây cất mồ mả các tiên tri, mà tổ phụ các ngươi đã giết chết. Thật, các ngươi làm chứng và tán thành những hành động của tổ phụ các ngươi: vì thực ra họ đã giết các vị tiên tri, còn các ngươi thì xây mồ mả cho họ. Bởi đó mà sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa đã nói: Ta sẽ sai đến với chúng các tiên tri và các tông đồ, trong số các vị đó, người thì chúng giết đi, người thì chúng bách hại, khiến cho dòng giống này sẽ bị đòi nợ máu của tất cả các tiên tri đã đổ ra từ lúc tạo thành vũ trụ, kể từ máu của Abel cho đến máu của Giacaria, người đã bị sát hại giữa bàn thờ và thánh điện. Phải, Ta bảo các ngươi, dòng giống này sẽ bị đòi nợ máu.
Khốn cho các ngươi! Hỡi những tiến sĩ luật, vì các ngươi cất giữ chìa khoá sự hiểu biết. Chính các ngươi đã không được vào, mà những người muốn vào, các ngươi đã ngăn cản họ lại".
Khi Người phán bảo cùng các biệt phái và tiến sĩ luật những lời đó, thì họ bắt đầu oán ghét Người một cách ghê gớm, và chất vấn Người về nhiều vấn đề, cố gài bẫy Người để may ra bắt bẻ được lời gì do miệng Người thốt ra chăng.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Ngôn sứ và tông đồ
(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)
Ơn gọi ngôn sứ chưa bao giờ là một ơn gọi dễ dàng.
Ngôn sứ là người bất ngờ được Thiên Chúa kêu gọi,
để trở nên phát ngôn viên chính thức cho Ngài trước toàn dân.
Thiên Chúa nói qua trung gian con người,
nói bằng thứ ngôn ngữ con người để họ hiểu được.
Ngôn sứ đã là người nghe trước khi là người nói,
là cầu nối chuyển đạt cho dân sứ điệp mình đã lãnh nhận.
Sứ điệp của Thiên Chúa lắm khi là những lời cảnh báo, răn đe,
nên công việc của ngôn sứ không dễ được mọi người đón nhận.
Ngôn sứ có thể tố cáo tính vụ hình thức nơi phụng vụ trong Đền thờ,
những người dâng lễ vật cho Chúa, nhưng lại bóc lột anh em (Is 1, 11).
Ngôn sứ cũng dám nói lên những điều chưa tốt nơi hàng tư tế,
những hư hỏng, bất công của vua quan (2 Sm 12, 7),
và những bất trung của dân chạy theo ngẫu tượng dân ngoại.
Phải có đảm lược mới dám nói điều Chúa bắt mình nói.
Số phận của một ngôn sứ thường gắn liền với đau khổ và bách hại.
Môsê và Êlia đều đã có lúc xin được chết cho xong (Ds 11, 15; 1 V 19, 4).
Giêrêmia cũng chỉ muốn từ nhiệm, nhưng không được (Gr 20, 7-18).
Giacaria bị ném đá và giết trong sân Đền thờ (2 Sb 24, 20-22).
Vào thời Tân Ước các ngôn sứ cũng chịu chung số phận.
Gioan Tẩy giả, Đức Giêsu và các tông đồ đều nếm khổ đau và cái chết.
Bài Tin Mừng hôm nay nói đến máu mà bao ngôn sứ đã đổ ra.
Từ thời Hêrôđê đại đế, người ta bắt đầu xây lăng mộ cho các ngôn sứ,
nhưng chuyện bắt bớ và sát hại các ngôn sứ thì vẫn kéo dài.
“Thế hệ này sẽ phải trả lời về máu của mọi ngôn sứ đã đổ ra…” (c.50).
Như vậy thế hệ hiện tại cũng phải chịu trách nhiệm về tội ác quá khứ,
vì chính họ đang nhúng tay
vào việc bách hại các người được Thiên Chúa sai (c. 49).
Các nhà thông luật hay các kinh sư mà Đức Giêsu đang gặp gỡ
sẽ có mặt trong Thượng Hội Đồng để luận tội Đức Giêsu (Lc 22, 66).
Máu vô tội của Đức Giêsu sẽ đổ ra trên đồi Sọ (Lc 22, 20; Ga 19, 34).
Máu châu báu ấy thực ra không đòi nợ máu, không đòi trả thù.
Máu ấy đổ ra để xóa tội cho muôn người (Mt 26, 28),
để giao hòa con người với Thiên Chúa.
Một số người sẽ phải chịu trách nhiệm về việc đổ máu Đức Giêsu,
nhưng ngay cả những người ấy cũng có thể thoát khỏi án phạt
nhờ chính dòng máu từ trái tim yêu thương của Đấng bị đóng đinh.
Đức Giêsu trên thập giá đã tha thứ cho những kẻ giết mình.
“Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34).
Đức Giêsu phục sinh đã sống sự tha thứ ấy
khi Ngài chẳng hề báo thù những kẻ can dự vào cái chết của Ngài.
Các tông đồ cũng lần lượt chia sẻ chén đắng của Thầy mình.
Kitô hữu tự bản chất là ngôn sứ cho thế giới mình đang sống.
Chỉ mong chúng ta cũng can đảm sống như Giêsu và chết như Giêsu.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa,
Chúa đã làm người như chúng con,
nên Chúa hiểu gánh nặng của phận người.
Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc
mà con người lại yếu đuối mong manh.
Hạnh phúc thường được trộn bằng nước mắt,
và giữa ánh sáng, cũng có những bóng mờ đe dọa.
Lạy Chúa Giêsu,
nếu có lúc con mệt mỏi và xao xuyến,
xin nhắc con nhớ rằng trong Vườn Dầu
Chúa đã buồn muốn chết được.
Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây,
xin nhắc con nhớ rằng trên thập giá
Chúa đã thốt lên: Sao Cha bỏ con?
Xin nâng đỡ con, để con đừng bỏ cuộc.
Xin đồng hành với con, để con không cô đơn.
Xin cho con yêu đời luôn
dù đời chẳng luôn đáng yêu.
Xin cho con can đảm
đối diện với những thách đố
vì biết rằng cuối cùng
chiến thắng thuộc về người
có niềm hy vọng lớn hơn.
Suy niệm 2: Vị tiên tri cuối cùng
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Tiên tri, một nhiệm vụ không dễ. Vì người ta không muốn nghe sự thật. Nhất là khi sự thật đó làm tổn hại đến quyền lợi, danh vọng. Và để chứng tỏ mình có lý, người ta giết các tiên tri. Hê-rô-đê giết Gio-an Tẩy giả là một bằng chứng. A-ben bị giết ám muội giữa đồng đã đành. Nhưng Da-ca-ri-a bị giết giữa thanh thiên bạch nhật. Giữa đền thờ. Tại bàn thờ. Người ta đã giết vị triên tri để chiếm đoạt sự thật. Thậm chí còn nhân danh Thiên Chúa và đạo giáo.
Sự kiên nhẫn của Thiên Chúa thật vô biên. Người nhịn nhục tất cả. Tha thứ tất cả. Đến nỗi sai Con Một xuống trần. Đó là thời điểm quyết định. Đã đến thời cuối cùng. Vị tiên tri cuối cùng xuất hiện. Đó là cơ hội cuối cùng cho con người. Hoặc chọn sự sống. Hoặc chọn sự chết. Ván bài cuối cùng. Được ăn cả. Ngã về không. Chốt lại một vấn đề: tin hay không tin Chúa Giê-su Ki-tô.
Khi gửi Con Một xuống trần, Thiên Chúa làm mới lại tất cả. Thư Rô-ma cho biết: Vì Chúa Giê-su Ki-tô, Thiên Chúa tha thứ tất cả tội lỗi xưa kia con người đã phạm. Vì Chúa Giê-su Ki-tô, Thiên Chúa bãi bỏ tất cả Lề Luật. Chỉ cần một điều: Tin vào Chúa Giê-su Ki-tô: “Thưa anh em, ngày nay, sự công chính của Thiên Chúa đã được thể hiện mà không cần đến Luật Mô-sê. Điều này, sách Luật và các Ngôn Sứ làm chứng. Quả thế, người ta được Thiên Chúa làm cho nên công chính nhờ lòng tin vào Đức Giê-su Ki-tô” (năm lẻ).
Thư Ê-phê-sô còn đi sâu xa hơn nữa. Cho biết Chúa Giê-su chính là trung gian duy nhất. Nhờ Người mà muôn vật được tạo thành. Nhờ Người mà muôn vàn ơn phúc được ban cho ta. Nhờ Người ta được trở nên nghĩa tử. Nhờ Người ta được thứ tha tội lỗi. Đó chính là bí mật của kế hoạch Thiên Chúa. Là kế hoạch yêu thương. Sẽ đến thời cuối cùng. Thời viên mãn. Mọi sự được quy tụ trong Chúa Ki-tô: “Người cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu; thiên ý này là kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Ki-tô. Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Ki-tô”(năm chẵn).
Đây là thời điểm cuối cùng. Đây là cơ hội cuối cùng. Nhưng cũng là cơ may cuối cùng. Ta sẽ được tất cả. Được tha thứ tất cả. Được ơn lành tất cả. Chỉ cần tin vào Chúa Giê-su Ki-tô. Vị tiên tri cuối cùng. Nhưng hãy cẩn thận. Mất lần này là mất tất cả. Không còn cơ hội nào nữa.
Suy niệm 3: Dòng Máu Cứu Ðộ
Với lý thuyết: "Người chết không nói", các đối thủ của những người thường dùng bạo lực để thủ tiêu những người can đảm đóng vai trò tiên tri để nói lên sự thật chống lại kỳ thị bất công, bênh vực quyền lợi của những người nghèo khổ. Từ máu Abel, người vô tội đầu tiên đổ ra vẫn luôn nhuộm hồng với máu các tiên tri thuộc mọi màu da, tiếng nói: một Martin Luther King, mục sư chủ trương bất bạo động để tranh đấu cho sự phân biệt và kỳ thị mầu da ở xã hội Mỹ và bị bắn ngã ngày 4/4/1968; hay một Oscar Roméro, vị giám mục thật sự yêu mến người nghèo đã bị ám sát khi đang dâng Thánh Lễ tại một bệnh viện vào chiều ngày 23/4/1980.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề cập đến việc lấy máu đào làm chứng cho sự thật nơi các tiên tri, Ngài cũng nói đến việc phải trả nợ máu. Ðoạn Tin Mừng còn cho thấy lòng oán ghét của các Luật sĩ và Biệt phái đối với Chúa Giêsu ngày càng gia tăng, và chính lòng oán ghét này đã dẫn Chúa Giêsu đến cái chết đẫm máu trên Thập Giá, để Ngài thực sự chia sẻ số phận của các tiên tri. Những dòng máu chảy từ thân xác Chúa Giêsu đã không đòi nợ máu, trái lại còn giải nợ máu, bởi vì những dòng máu chảy ra vì tình yêu và vâng phục đối với Chúa Cha, đã phá tan vòng luẩn quẩn của hận thù và oán ghét, qua lời Chúa Giêsu xin Cha tha thứ cho những kẻ hành khổ và xử tử Ngài.
Cái chết vì tình yêu và vì vâng phục của Chúa Giêsu cũng đã phá tan lý thuyết "người chết không nói", bởi lẽ từ dạo ngài gục đầu tắt thở trên Thập Giá, cái chết của Ngài đã nói và vẫn tiếp tục nói trải qua gần 2,000 năm nay, nói với những người tin lẫn người không tin vào Ngài về độ sâu của tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại và về độ dầy của tình yêu Ngài đối với mọi người. Qua đó, cái chết của Chúa Giêsu đã trở thành nguồn sống và trao ban cho cái chết của những người can đảm đóng vai trò tiên tri một ý nghĩa, một sức mạnh, để cái chết của họ cũng tiếp tục nói và gây ảnh hưởng cũng như thu lượm kết quả mỹ mãn hơn lúc họ còn sống. Cái chết của Mục sư Martin Luther King đã đẩy mạnh và đóng góp phần không nhỏ vào phong trào chống phân biệt, kỳ thị cho những người da mầu tại xã hội Mỹ và nhiều nơi khác trên thế giới. Cái gục đầu tắt thở trên bàn thờ đang lúc dâng Thánh Lễ của Ðức Cha Oscar Roméro đã gây niềm hy vọng và sức mạnh khôn lường cho bao nhiêu người dấn thân tranh đấu cho công bằng xã hội tại các quốc gia Mỹ Châu La Tinh.
Nợ máu vẫn đòi phải trả bằng máu. Nhưng từ dạo máu Chúa Giêsu chảy trên đồi Calvê và vẫn tiếp tục chảy trên bàn thờ mỗi ngày khắp nơi trên thế giới, những dòng máu hy sinh cho chính nghĩa, những dòng máu chảy ra vì tình yêu, đã trở thành khí giới sắc bén phá tan hận thù, bất công, để góp phần xây dựng một thế giới thấm nhuộm tình người, dẫn đến một nhân loại biết liên đới chia sẻ, yêu thương.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Những Kẻ Vụ Hình Thức
Những lời Chúa Giêsu khiển trách những người Pharisiêu và các vị thông luật như được ghi lại nơi Phúc Âm theo thánh Luca mà chúng ta vừa đọc lại trên đây được nói lên trong khung cảnh bữa tiệc tại nhà một người Pharisiêu, tức là trong khung cảnh thân tình của những người quen biết với nhau. Tuy nhiên, khung cảnh và bầu khí của bữa tiệc thân tình này đã bị làm hư đi, không phải vì Chúa Giêsu đã không rửa tay trước khi ăn theo như phong tục của người Do Thái thời đó mà vì thái độ nghi ngờ của người mời Chúa đến dự tiệc. Ông Pharisiêu lấy làm lạ vì Người đã không rửa tay trước khi ăn và đã lên án thái độ giả hình, lạm dụng Lề Luật, lạm dụng sự hiểu biết của mình mà khinh chê và đè bẹp anh chị em chung quanh của những người Pharisiêu và những luật sĩ được mời đến dự tiệc.
Những luật sĩ Do Thái, những nhà thông luật của dân Do Thái thời Chúa Giêsu là những kẻ có thể nói là nắm lấy kỷ cương cho sinh hoạt của dân chúng. Vai trò của những người thông luật này trong xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu giống như vai trò của những thần học gia, những nhà chú giải Kinh Thánh, những chuyên viên về luân lý. Họ nắm giữ sự hiểu biết về Kinh Thánh, giải thích giáo huấn của Môisen cho dân chúng sống, nhưng trớ trêu thay họ đã không chu toàn bổn phận làm người hướng dẫn chỉ đường mà đã trở thành kẻ cản đường vì các tật xấu của họ, những người nắm giữ chìa khóa. Chúa Giêsu không làm giảm giá trị sự hiểu biết Lề Luật của những luật sĩ này, nhưng Chúa Giêsu đã trách họ nặng lời vì thái độ sống phản chứng của họ: "Các ông không bước vào mà còn cản không cho kẻ khác bước vào". Họ không tin nhận Chúa mà còn cản trở không cho người khác gặp Chúa và tin nhận Ngài.
Lời trách của Chúa Giêsu có thể cũng thức tỉnh chúng ta ngày hôm nay, có thể là chúng ta hiểu biết Chúa, có chìa khóa để gặp Chúa nhưng chúng ta vì những tật xấu của mình, vì những tội lỗi của mình, chúng ta không đến với Chúa mà còn làm gương xấu cản trở không cho anh chị em đến với Chúa, vì thái độ sống phản chứng niềm tin Phúc Âm của chúng ta.
Lạy Chúa,
Xin Chúa giúp chúng con canh tân đời sống và khiêm tốn đến với Chúa, tin nhận Ngài và chu toàn giáo huấn của Ngài mỗi ngày một tốt đẹp hơn.
Lạy Chúa, Xin hãy ban ơn canh tân đời sống cho mỗi người chúng con.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 5: Làm câm miệng chân lý như thế nào?
Vì thế mà Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa đã phán: “Ta sẽ sai Ngôn Sứ và tông đồ đến với chúng: chúng sẽ giết người này, lùng bắt người kia.” (Lc. 11, 49)
Con tim loài người không hề thay đổi. Văn minh của chúng ta khá tiên tiến giúp cho con người nhiều phương tiện khéo léo bộc lộ dã tâm của mình hơn ngày xưa. Ngày nay hơn xưa, người ta không tha thứ cho những người nghĩ khác mình. Sách Khôn ngoan có lý: Chúng ta lùng bắt kẻ công chính vì nó làm phiền chúng ta và khiển trách đường lối suy nghĩ của chúng ta. “Nếu đúng là Con Thiên Chúa hẳn Ngài sẽ đến cứu nó. Chúng ta hãy kết án nó cho chết nhục nhã”.
Người ta hành quyết những chứng nhân:
Những ngôn sứ được sai đến để làm chứng về tình yêu Thiên Chúa và kêu gọi người ta trở về với Thiên Chúa. Người ta đã giết một số đông chứng nhân. Những người bị giết từ A-đam đến Gia-ca-ri-a: Người thứ nhất đến ngôn sứ cuối cùng đã được ghi trong kinh thánh Do thái. Đến thời Đức Giêsu, người Do thái đã xây mộ cho các chứng nhân chân lý đã bị cha ông họ giết bỏ. Nhưng, họ không khác gì cha ông họ, vì họ không thể nhận biết các ngôn sứ đang ở giữa họ. Đức Giêsu, Người là chứng nhân tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa, đã bị họ kết án chết nhục nhã vì mặc khải của Người không thuận với đường lối tư tưởng của họ. Tư tưởng của họ về một Thiên Chúa báo oán, thế hệ Do thái thời Đức Giêsu đã phải trả giá cho lối sống vô đạo này bằng sự phá hủy thành Giê-ru-sa-lem và dân tộc bị phân tán tản mác khắp nơi. Những cuộc hành quyết những chứng nhân chân lý đang xảy ra hàng ngày sẽ đem đến những hậu quả nào cho thế hệ ngày nay?
Người ta bỏ tù chân lý:
Nguồn mặc khải cho Mô-sê đã mở đường dẫn tới chân lý nước trời. Các luật sĩ đã hội nhập mặc khải đó vào lề luật và đem ra dạy một lối sống đạo bên ngoài. Như vậy họ đã nhốt chân lý vào tù, chân lý không còn ăn sâu vào lòng người được nữa.
Đức Giêsu là vị thừa kế mọi nguồn mặc khải, cũng là chìa khóa mở mọi hiểu biết về mặc khải, nhưng nhiều người trong chúng ta đã từ chối dùng chìa khóa này. Chúng ta không còn muốn biết chân lý nữa, vì chân lý là lời khiển trách đường lối tư tưởng và hành động gian ác của chúng ta. Khi hành quyết các ngôn sứ và nhốt tù chân lý, người ta hy vọng làm câm họng kẻ kêu gọi tình thương.
RC
Suy niệm 6: Đừng phản bội sứ vụ làm chứng cho sự thật
Đức Giêsu đến để làm chứng cho sự thật. Vì thế, Ngài không bao giờ chấp nhận lối sống giả hình, gian dối... Chính vì điều này mà đã làm cho sự căng thẳng giữa Ngài và các người Pharisêu ngày càng leo thang!
Hôm nay, Tin Mừng trình thuật cho chúng ta thấy việc Đức Giêsu thẳng thắn lên án nhóm Pharisêu và các Tiến Sĩ Luật về lối sống giả hình của họ cách nặng nề.
Ngài vạch trần tội ác của họ khi đồng lõa để giết các tiên tri là những người dám đứng lên loan báo và bênh đỡ sự thật. Họ còn là những người ngăn cản người khác trên con đường nhân đức nữa.
Những người này luôn coi mình là người lãnh đạo, nắm giữ chìa khóa hiểu biết, nhưng thực ra bên trong thì rỗng tuếch, chẳng qua chỉ như lớp sơn bôi bóng hay như mồ mả tô vôi với đầy dãy những sự ô uế. Họ không sống tinh thần của Chúa, mà luôn sống cuộc sống trịnh thượng, trưởng giả và bắt người khác thi hành lệnh của mình. Từ đó, họ đã trở thành những kẻ mù lại dắt kẻ mù, khiến những người được họ hướng dẫn cũng phải bơ vơ lạc lõng, mất phương hướng và không biết đi về đâu!
Khi Đức Giêsu khiển trách họ như thế, một sự đối đầu đã ập đến với Ngài. Vì thế, họ đã tìm mọi cách để bắt bẻ và tận dụng mọi cơ hội để tố cáo nhằm giết chết Ngài. Với họ, Đức Giêsu chẳng khác gì cái gai trong mắt, cái đinh trên đường, nên họ không thể đội trời chung.
Qua cung cách của họ, Đức Giêsu không phải không biết những đau khổ do những người này gây nên, nhưng trước sau như một, Ngài luôn trung thành với sứ mạng của mình. Dù đòn vọt, gươm đao, và chết chóc, không gì có thể làm cho Ngài phản bội sứ vụ của Thiên Chúa Cha đã trao phó nơi Ngài là: loan báo và làm chứng cho sự thật.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sống trung thành với đường lối của Thiên Chúa là làm chứng cho sự thật. Chấp nhận mọi thử thách, dù là cái chết, miễn sao sự thật được lên tiếng. Không được sống kiểu ăn mày tiếng khen mà sợ tiếng chửi kiểu những người Pharisêu khi xưa. Cũng đừng lấy danh này tiếng kia để bắt người khác phải phục vụ mình. Cần trung thành với Giáo Huấn của Chúa trong khi phục vụ người khác.
Lạy Chúa Giêsu, Đấng là đường là sự thật và là sự sống, xin hướng dẫn chúng con đi trên con đường Chúa đã đi để được sống đời đời. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Thay đổi cách nhìn để nhận ra Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Tính tự tôn và lòng ích kỷ khiến cho người ta mù lòa không nhận ra Chúa. Hãy để cho con người ích kỷ và kiêu ngạo của mình chết đi, ta mới có thể đón nhận Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Lời Chúa hôm nay cho con một cảm nghĩ: những người biệt phái và những thầy thông luật ngày xưa thật là quá quắt! Họ được phúc sống trong thời của Chúa, được nghe Chúa dạy bảo, được thấy những phép lạ Chúa làm, mà sao mà họ vẫn không chịu tin Chúa.
Con biết các biệt phái và luật sĩ không tin Chúa vì họ không muốn tin. Vì tin Chúa có nghĩa là họ phải chấp nhận những cái sai sót nơi họ. Mà họ không muốn nhìn nhận mình sai trái. Tính tự tôn là rào cản không cho họ gặp được Chúa.
Con cũng biết rằng những người biệt phái và luật sĩ không muốn đón nhận lời rao giảng của Chúa, và khi đó họ phải thay đổi cách sống của họ, một cuộc sống nhiều đặc quyền đặc lợi trong xã hội. Tính ích kỷ là một bức màn che mắt không cho họ nhận ra Chúa là Đấng Thiên Sai.
Xin Chúa giúp con đừng trở nên như những biệt phái và luật sĩ ngày xưa. Nếu con tự tôn coi thường người khác, con sẽ khó nhận ra được lời nhắc bảo của Chúa. Có thể Chúa đang nhờ một người con, một người em, một người bạn, hay một người nào đó để nhắc nhở con. Xin cho con biết khiêm tốn đón nhận.
Hôm nay, Chúa vẫn đang ẩn thân nơi những người nghèo khó và nhờ con giúp đỡ. Xin cho con đừng vì ích kỷ mà khép lòng mình lại và vô tình từ chối Chúa. Trái lại, xin giúp con biết mở rộng bàn tay để ban tặng, nhưng thật ra không phải là ban tặng, mà là đón nhận Chúa đến với con. Amen.
Ghi nhớ: “Sẽ bị đòi nợ máu của các tiên tri đã đổ ra, kể từ máu của Abel cho đến máu của Giacaria”.
Suy niệm 8: Thức tỉnh và từ bỏ tội lỗi để quay về với Chúa
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Vào năm 70 sau Công nguyên, vị tướng La Mã Titô đem đại quân vây hãm thành Giêrusalem. Ông ra lệnh không được đốt phá.
Thế nhưng, một quân nhân như bị thúc đẩy bởi một sức kỳ lạ đã cầm bó đuốc đang cháy ném vào bên trong đền thờ, lửa bốc cháy nhanh, không chữa được. Sau khi đám cháy tàn lụi, Titô ra lệnh phá hủy thành và đền thờ, ngoại trừ ba lều tháp và một bức tường, để cho hậu lai thấy sự kiên cố của thành đã bị phá. Tất cả những sự việc trên được sử gia Josèphe sống trong thời đó ghi chép lại cho hậu thế...
Suy niệm
Khi đến gần Giêrusalem và trông thấy thành, Ðức Giêsu khóc thương thành vì sẽ có ngày thành huy hoàng bị phá huỷ… Sau này, trong cuộc thương khó, dân chúng đấm ngực và thương khóc khi thấy Chúa Giêsu vác thánh giá. Chúa Giêsu nói: “Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi, hãy khóc cho thân phận mình và cho con cháu” (Lc 23,27-28). Ngài yêu thương thành Giêrusalem. Nhưng dân thành cố tình chối bỏ Ngài để chạy theo những mê muội của trần gian. Ngài cảm thấy xót xa khi người ta từ chối tình yêu của Ngài. Ngài đến cho họ tình yêu nhưng họ không đón nhận cho nên họ phải đau khổ. Tất cả mọi sự đã xảy ra như lời Chúa Giêsu đã loan báo: Vào năm 70 sau Công nguyên quân đội Rôma do tướng Titô chỉ huy đã phá hủy và bình địa thành nguy nga này.
Ngày nay, chúng ta cũng như dân thành Giêrusalem ngày xưa: Cố tình chối bỏ Chúa để chạy theo những vật chất, quyền bính danh vọng trần gian. Ðức Giêsu vẫn đang than khóc và đau khổ vì tội lỗi con người...
Xin Chúa cho chúng ta luôn khao khát, nhận biết và đón nhận tình yêu của Thiên Chúa. Biết thức tỉnh và từ bỏ đời sống tội lỗi để quay về với Ngài. Khi đó chúng con sẽ được hưởng tình yêu, sự tha thứ và ơn cứu độ từ Thiên Chúa.
Ý lực sống
“Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người,
các bạn đừng cứng lòng”. (Tv 95,8)
Suy niệm 9: Đức Giêsu hạch tội các luật sĩ
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Bài Tin mừng hôm nay ghi lại việc Đức Giêsu tiếp tục khiển trách các luật sĩ về tội giả hình.
Họ đã xây lăng cho các tiên tri, cha ông của họ, đã giết hại các tiên tri. Theo một truyền thống truyền khẩu rằng các tiên tri thường bị bách hại: Isaia bị cưa làm hai khúc, Giêrêmia bị ném đá chết, Amos bị đập đến chết... Khi người Do thái thời Đức Giêsu xây lăng cho các tiên tri thì chứng tỏ: họ chẳng ăn năn gì về việc tổ tiên họ đã giết chết các vị ấy, trái lại còn tán thành. Thái độ ấy còn cho thấy rằng: sứ điệp của các vị ấy chẳng có ý nghĩa gì đối với họ, cùng lắm chỉ là những sứ điệp cho các thế hệ xa xưa thời trước (Lm. Carôlô).
Đọc Tin mừng, chúng ta thấy ngay thái độ vừa chứng thực vừa tán thành của các luật sĩ. Các luật sĩ Do thái lo xây cất lăng tẩm cho các tiên tri, nghĩa là chứng thực rằng cha ông họ đã sai khi giết các tiên tri. Đồng thời, họ cũng đang tán thành việc bách hại của cha ông, khi hiện tại họ đang tìm cách bắt bẻ hãm hại chính Đức Giêsu và các môn đệ Người. Đức Giêsu lên án họ, nhắc lại cho họ thấy họ thuộc dòng giống gian ác, giết người này lùng bắt người kia, từ máu ông Aben cho đến đổ máu tiên tri Giacaria... Và Đức Giêsu cũng tiên báo cho họ biết: họ sẽ bị đòi nợ máu. Điều này đã xảy ra khi đến năm 70 họ đã bị xóa sổ khỏi bản đồ và tản mác khắp nơi.
Suy nghĩ về điều này, trong chúng ta không thiếu những lần chê trách những thế hệ trước chúng ta thế này thế khác, nhưng nhìn lại, chính chúng ta thậm chí còn tệ hơn tổ tiên mình khi kết án (Hiền Lâm).
Và Tin mừng hôm nay tiếp tục ghi lại những lời Đức Giêsu khiển trách các người luật sĩ về tội giả hình. Kiểu nói “khốn” ở đây không có nghĩa như một lời nguyền rủa, một kiểu chúc dữ, nhưng có ý than trách như một lời thương tiếc. Các luật sĩ là những người có cơ hội tốt là được học biết Thánh kinh, lề luật của Chúa, có quyền giảng nghĩa Thánh kinh. Lẽ ra, họ phải tận dụng cơ hội để sống tốt, sống đúng theo thánh ý Chúa; trái lại sự hiểu biết đó không mang lợi ích gì cho họ.
Đôi khi chúng ta cũng ỷ lại vào danh nghĩa người Công giáo, nại vào đạo gốc, để rồi quên mất việc sống đạo trong hiện tại: công bình, bác ái với tha nhân (5 phút mỗi ngày).
“Các ngươi đã cất dấu chìa khóa của sự hiểu biết, các ngươi đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các ngươi lại ngăn cản (Lc 11,52).
Các luật sĩ là những người hiểu biết luật lệ Thánh kinh. Họ được coi là những người lãnh đạo dân chúng, vì họ nắm giữ “chìa khóa của sự hiểu biết”. Thế nhưng “thay vì phục vụ, hướng dẫn người khác, họ đã sử dụng sự hiểu biết để bắt người khác phục vụ mình”. Một cách nào đó, ai trong chúng ta cũng có trách nhiệm hướng dẫn người khác... Cuộc sống hiện tại của chúng ta có sáng tỏ, để người khác có thể nhận ra chân lý đức tin không? Trong cách cư xử hằng ngày chúng ta có ý thức phải sống thế nào, để kẻ khác nhìn vào mà ngợi khen Cha trên trời không? (Mỗi ngày một tin vui)
Một quan chức bộ Giáo dục - Đào tạo nói: “Mỗi cán bộ hãy là một tấm gương sáng cho mọi người noi theo. Khi đã trở thành một tấm gương “mù” thì không thể làm lãnh đạo được”. Vào thời Đức Giêsu, các nhà thông luật là những người được đào tạo và “nắm chìa khoá hiểu biết” luật Chúa, để giải thích cho dân, hướng dẫn dân tuân giữ và đi đúng huấn lệnh của Chúa. Thế nhưng, thay vì giải thích và hướng dẫn, họ đã bắt người ta phục vụ và làm nô lệ lề luật. Hơn nữa, qua lối sống ưa hình thức bề ngoài, họ đã làm gương mù khiến người ta lìa xa Chúa hơn. Vì thế, Đức Giêsu đã chỉ trích thái độ của những người thông luật và dạy cho chúng ta tinh thần mới của lề luật, chứ không phải con người lệ thuộc vào luật.
Sứ điệp lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sống trung thành với đường lối của Thiên Chúa là làm chứng cho sự thật. Chấp nhận mọi thử thách, dù là cái chết, miễn sao sự thật được lên tiếng. Không được sống kiểu ăn mày tiếng khen mà sợ tiếng chửi kiểu những người biệt phái khi xưa. Cũng đừng lấy danh này tiếng kia để bắt người khác phải phục vụ mình. Cần trung thành với giáo huấn của Chúa trong khi phục vụ người khác.
Truyện: Giá trị con người ở đâu?
Chuyện kể rằng: một người được mời đến dự buổi tiệc lớn. Ông vui vẻ nhận lời và khoác bộ áo xấu nhất. Đến nơi, không ai thèm cười và để ý đến ông. Ông quay về, khoác bộ áo đẹp có đính kim cương và các hạt nút bằng vàng. Trong khi ấy yến tiệc vẫn tiếp tục. Ông quay trở lại, lập tức bao lời mời đẹp nhất, danh dự nhất đều dành cho ông. Thịt béo rượu thơm lúc này được bày ra trước mắt ông và ông được mời chỗ nhất.
Ông liền đứng lên, cởi áo, trèo lên ghế, đoạn lấy thức ăn đưa cho cái áo và nói: “Mày ăn uống đi, người ta mời mày đó”. Mọi người hết sức ngạc nhiên, nhưng đều hiểu ý ông này. Ông muốn nói với mọi người rằng: giá trị của con người không ở bộ áo xúng xính hay cái mã bên ngoài, nhưng đó là tấm lòng bên trong, không ở những cái mình có nhưng ở cái mình là.
Suy niệm 10: Chúa Giêsu khiển trách luật sĩ về tội giả hình.
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Bải Tin Mừng hôm nay tiếp tục ghi lại những lời Đức Giêsu khiển trách các thầy luật sĩ về tội giả hình.
Chúa khiển trách họ về hai tội:
- bách hại các tiên tri (Lc 11,47)
- và tội độc quyền về tri thức (Lc 11,49).
"Khốn cho các người...":
1. Kiểu nói "khốn" ở đây không có nghĩa như một lời nguyền rủa, nhưng một lời thương tiếc than trách. Chúa buồn vì thấy luật sĩ lo xây mộ cho các tiên tri xưa, để tỏ ra bất đồng với cha ông trước kia về việc họ đã giết các tiên tri.
Quả thực, nhiều tiên tri và những người công chính đã bị sát hại. Lịch sử Do Thái từ vụ sát hại Abilê được ghi ở đầu Sách Thánh đến vụ sát hại ngôn sứ Giacaria ở cuối sách (St 4,8-10; 2Chr 24,20-22) đã nói lên rằng lịch sử của họ là lịch sử nhuốm máu.
Thái độ của những người Do Thái thời của Chúa thật là mâu thuẫn vì đang khi họ hết lòng tôn kính các tiên tri ngày xưa bằng cách xây mộ, dựng bia cho các ngài thì họ lại bắt bớ và giết hại các tiên tri còn sống. Họ hết lời khen ngợi và ca tụng các tiên tri đã chết, nhưng khi gặp một đấng tiên tri còn sống thì họ lại tìm cách giết đi. Ngay trong thời của Chúa Giêsu bài học lịch sử cũng đã lặp lại. Các nhà lãnh đạo Do Thái đã không nhìn nhận những người mà Thiên Chúa sai đến với họ: họ đã từ chối không nhìn nhận Gioan Tẩy Giả (Lc 7,30); Hội đồng Tối cao Do Thái sai đại biểu đến hạch sách quyền hành của Chúa Giêsu (Lc 20,l-8) trước mặt quan tổng trấn Philatô, các đầu mục Do Thái đã xin quan lên án xử tử Chúa (Lc 9,15), rồi sau đó họ lại tiếp tục bách hại các Tông Đồ của Chúa, đúng như Lời Chúa tuyên bố với họ hôm nay (Lc 11,47-49).
2. Và Chúa bảo: "... thế hệ này sẽ bị đòi nợ máu..." (Lc 11,50) và quả đúng như thế.
Lịch sử còn ghi lại: Năm 66, người Do Thái đã tàn sát những binh lính Rôma trong đồn binh Antônia. Lập tức, hoàng đế Néron gởi tướng Vespasiano với một đạo binh hùng hậu đến Giuđê. Giữa chiến dịch thì Néron chết và Vespasiano lên ngôi hoàng đế. Ông này trao quyền chỉ huy quân đội cho con là Titus. Titus vây hãm thành vào lễ vượt qua năm 70. Jêrusalem, lúc đó đang có khoảng một triệu rưỡi người Do Thái tụ họp lại nhân ngày lễ, bị vây hãm kín mít. Chẳng bao lâu, đói kém xảy ra và mỗi ngày có cả ngàn người chết đói.
Titus trả thù bằng cách cho đóng đinh 300 người Do Thái tại chân núi Sọ, sau đó mỗi ngày lại cho đóng thêm gần 500 người Do Thái. Nhiều người bị mổ bụng vì lính Rôma nghi họ nuốt vàng. Khi đã làm chủ được tình hình, người Rôma cho đốt thành phố lẫn đền thờ. Jêrusalem bốc cháy hai ngày hai đêm. Ngày thứ ba nó chỉ còn là một đống gạch vụn hoang tàn. Hơn 200.000 người bị chôn vùi dưới đó. 97.000 người bị bắt làm nô lệ ở Rôma, và bị bán với giá rẻ mạt cho hí trường để đánh nhau với thú dữ hoặc chiến đấu giết nhau làm trò vui cho người Rôma. 2.000 nhà quí tộc Do Thái phải dự buổi khải hoàn của Titus ở Rôma. Họ phải mặc áo trắng, phải vác lấy chiến lợi phẩm lớn lao mà người chiến thắng đem về từ Jêrusalem. Khi đến đền Chiếm Thần, thì họ bị giết và đó là lễ đăng quang của cuộc chiến đẫm máu được trả giá bằng mạng sống của hơn một triệu người Do Thái. Sử gia Josephus, một nhà biên niên sử thời đó, người đã kể lại sử truyền này, đã cho rằng những điều kinh tởm của cuộc vây hãm thành Jêrusalem kinh khủng đến nỗi thế giới sẽ không bao giờ chứng kiến những điều như vậy.
Thật là một điều hết sức lạ lùng: Những người Do Thái bị trừng phạt năm 70 giống như cách tội ác họ đã phạm, vì:
1- Chúa Giêsu bị gia hình vào lễ Vượt Qua, thì cũng chính vào vào lễ Vượt Qua mà họ bị tàn phá.
2- Những người Do Thái đã dùng lính Rôma để đóng đinh Chúa Giêsu thì chính những người lính Rôma lại thực hiện cuộc trả thù như Lời Chúa báo trước.
3- Những người Do Thái đã bắt Chúa Giêsu tại vườn Cây dầu và đóng đinh Ngài trên núi Sọ, thì cũng chính tại vườn cây dầu này, mà Titus đóng đại bản doanh và cũng chính tại núi Sọ, mà người Rôma đã đóng đinh hàng trăm người Do Thái.
4- Chúa Kitô bị bán với giá 30 đồng, thì Titus đã bán 30 người Do Thái với giá 1 đồng.
5- Chúa Giêsu bị trùm áo trắng trong cuộc tử nạn thì vào cuộc khải hoàn của Titus, 2.000 người Do Thái bị mặc áo trắng để cho người Rôma chế giễu.
6- Trước mặt Philatô, người Do Thái đã kêu to: "Ước gì máu nó đổ trên chúng tôi và trên con cháu chúng tôi". Lời ước này đã được thực hiện cách khủng khiếp năm 70. Đó là điều mà Chúa Giêsu đã nói: "Vì các ngươi đong bằng đấu nào thì cũng sẽ được đong bằng đấu ấy" (Lc 6,38).
Lạy Chúa,
Xin Chúa giúp chúng con biết sống xứng đáng với tình thương của Chúa. Amen.
Suy niệm 11: Chúa Giêsu trách các luật sĩ
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Trong đoạn Tin Mừng hôm qua, Chúa Giêsu trách các người biệt phái. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay Ngài trách các luật sĩ:
1. Câu 47-48 “Xây lăng cho các ngôn sứ”: Có một truyền thống truyền khẩu rằng các ngôn sứ thường bị bách hại: Isaia đã bị cưa làm 2 khúc, Giêrêmia bị dân ném đá chết, Amos bị đập đến chết (x. Dt 11,32-40 2Sb 24,22)... Khi người do thái thời Chúa Giêsu xây lăng cho các ngôn sứ thì họ chứng tỏ họ chẳng ăn năn gì về việc tổ tiên họ đã giết chết các vị ấy trái lại còn tán thành. Thái độ ấy còn cho thấy rằng sứ điệp của các vị ấy chẳng có ý nghĩa gì đối với họ, cùng lắm chỉ là những sứ điệp cho các thế hệ xa xưa thời trước.
2. Câu 49-51 Chúa Giêsu duyệt lại lịch sử: chương trình của Thiên Chúa (“Đức Khôn ngoan của Thiên Chúa”) là gởi “các ngôn sứ và các tông đồ” đến với loài người để kêu gọi loài người ăn năn. Thế nhưng loài người đã chẳng đón nhận sứ điệp ấy, lại bách hại các vị ấy. Mặc dù Chúa Giêsu chỉ nêu tên hai người là Aben và Dacaria, nhưng vì trong Cựu Ước híp-ri, tên Aben ở đầu sách và tên Dacaria ở cuối sách, nên ý của Ngài là nói đến toàn bộ tội giết các ngôn sứ trong lịch sử. Và Chúa Giêsu cảnh cáo: nếu người do thái thời nay không chấm dứt thái độ ấy thì họ sẽ bị Thiên Chúa công bình hỏi tội (“thế hệ này sẽ bị đòi nợ máu”)
3. Câu 52 “Cất giấu chìa khóa sự hiểu biết”: do những kiến thức về Thánh Kinh, các luật sĩ đã nắm trong tay chìa khóa mở cửa vào Nước Trời. Nhưng do thái độ của họ, chẳng những họ không vào đó được mà lại còn ngăn cản người khác vào.
B.... nẩy mầm.
1. Tội giết các ngôn sứ: Các ngôn sứ là những người nói thay Chúa. Lời các ngài nói nhiều khi chói tai dân do thái nên nhiều vị đã bị bách hại và giết chết. Không riêng gì dân do thái, chúng ta ngày nay cũng có thể phạm tội giết ngôn sứ nếu như chúng ta không tập cho quen lắng nghe sự thật Chúa nói trong lương tâm chúng ta hoặc qua những “lời thật mất lòng” của người khác.
2. Cất dấu chìa khóa sự hiểu biết: Các luật sĩ là những người hiểu biết luật lệ Thánh Kinh. Họ được coi là những người lãnh đạo dân chúng vì họ nắm giữ “chìa khóa của sự hiểu biết”. Thế nhưng “thay vì phục vụ, hướng dẫn người khác, họ đã sử dụng sự hiểu biết để bắt người khác phục vụ mình. Một cách nào đó, ai trong chúng ta cũng có trách nhiệm hướng dẫn kẻ khác... Cuộc sống hiện tại của chúng ta có sáng tỏ để người khác có thể nhận ra chân lý đức tin không? Trong cách cư xử hằng ngày, chúng ta có ý thức phải sống thế nào để kẻ khác nhìn vào mà ngợi khen Cha trên trời không?” (Trích "Mỗi ngày một tin vui").
3. “Khốn cho các ngươi! Các ngươi xây lăng cho các ngôn sứ, nhưng cha ông các ngươi đã giết chết các vị ấy!” (Lc 11,47)
Chúa khiển trách người Pharisêu và các kinh sư là giả hình. Họ giả hình bởi che đậy tội lỗi bằng cách xây dựng những nấm mộ hào nhoáng, bằng luật giữ luật từ ngoài, bằng cách lên án người công chính.
Còn tôi, vì sợ mất địa vị, đã lừa dối mọi người, vì sợ hổ thẹn, đã không dám nói sự thật, vì sợ liên lụy, đã bỏ mặc anh em, và vì ích kỷ, đã xa rời Chúa, xa cách anh em...
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho con tự do, xin cho con biết lựa chọn và dám sống như Chúa dạy. (Hosanna).
14/10 Dòng Máu Cứu Ðộ
- Viết bởi Lc 11, 47-54
Dòng Máu Cứu Ðộ.
Thứ Năm tuần 28 thường niên.
"Sẽ bị đòi nợ máu của các tiên tri đã đổ ra, kể từ máu của Abel cho đến máu của Giacaria".
Lời Chúa: Lc 11, 47-54
Khi ấy, Chúa phán: "Khốn cho các ngươi! Hỡi những người xây cất mồ mả các tiên tri, mà tổ phụ các ngươi đã giết chết. Thật, các ngươi làm chứng và tán thành những hành động của tổ phụ các ngươi: vì thực ra họ đã giết các vị tiên tri, còn các ngươi thì xây mồ mả cho họ. Bởi đó mà sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa đã nói: Ta sẽ sai đến với chúng các tiên tri và các tông đồ, trong số các vị đó, người thì chúng giết đi, người thì chúng bách hại, khiến cho dòng giống này sẽ bị đòi nợ máu của tất cả các tiên tri đã đổ ra từ lúc tạo thành vũ trụ, kể từ máu của Abel cho đến máu của Giacaria, người đã bị sát hại giữa bàn thờ và thánh điện. Phải, Ta bảo các ngươi, dòng giống này sẽ bị đòi nợ máu.
Khốn cho các ngươi! Hỡi những tiến sĩ luật, vì các ngươi cất giữ chìa khoá sự hiểu biết. Chính các ngươi đã không được vào, mà những người muốn vào, các ngươi đã ngăn cản họ lại".
Khi Người phán bảo cùng các biệt phái và tiến sĩ luật những lời đó, thì họ bắt đầu oán ghét Người một cách ghê gớm, và chất vấn Người về nhiều vấn đề, cố gài bẫy Người để may ra bắt bẻ được lời gì do miệng Người thốt ra chăng.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Ngôn sứ và tông đồ
(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)
Ơn gọi ngôn sứ chưa bao giờ là một ơn gọi dễ dàng.
Ngôn sứ là người bất ngờ được Thiên Chúa kêu gọi,
để trở nên phát ngôn viên chính thức cho Ngài trước toàn dân.
Thiên Chúa nói qua trung gian con người,
nói bằng thứ ngôn ngữ con người để họ hiểu được.
Ngôn sứ đã là người nghe trước khi là người nói,
là cầu nối chuyển đạt cho dân sứ điệp mình đã lãnh nhận.
Sứ điệp của Thiên Chúa lắm khi là những lời cảnh báo, răn đe,
nên công việc của ngôn sứ không dễ được mọi người đón nhận.
Ngôn sứ có thể tố cáo tính vụ hình thức nơi phụng vụ trong Đền thờ,
những người dâng lễ vật cho Chúa, nhưng lại bóc lột anh em (Is 1, 11).
Ngôn sứ cũng dám nói lên những điều chưa tốt nơi hàng tư tế,
những hư hỏng, bất công của vua quan (2 Sm 12, 7),
và những bất trung của dân chạy theo ngẫu tượng dân ngoại.
Phải có đảm lược mới dám nói điều Chúa bắt mình nói.
Số phận của một ngôn sứ thường gắn liền với đau khổ và bách hại.
Môsê và Êlia đều đã có lúc xin được chết cho xong (Ds 11, 15; 1 V 19, 4).
Giêrêmia cũng chỉ muốn từ nhiệm, nhưng không được (Gr 20, 7-18).
Giacaria bị ném đá và giết trong sân Đền thờ (2 Sb 24, 20-22).
Vào thời Tân Ước các ngôn sứ cũng chịu chung số phận.
Gioan Tẩy giả, Đức Giêsu và các tông đồ đều nếm khổ đau và cái chết.
Bài Tin Mừng hôm nay nói đến máu mà bao ngôn sứ đã đổ ra.
Từ thời Hêrôđê đại đế, người ta bắt đầu xây lăng mộ cho các ngôn sứ,
nhưng chuyện bắt bớ và sát hại các ngôn sứ thì vẫn kéo dài.
“Thế hệ này sẽ phải trả lời về máu của mọi ngôn sứ đã đổ ra…” (c.50).
Như vậy thế hệ hiện tại cũng phải chịu trách nhiệm về tội ác quá khứ,
vì chính họ đang nhúng tay
vào việc bách hại các người được Thiên Chúa sai (c. 49).
Các nhà thông luật hay các kinh sư mà Đức Giêsu đang gặp gỡ
sẽ có mặt trong Thượng Hội Đồng để luận tội Đức Giêsu (Lc 22, 66).
Máu vô tội của Đức Giêsu sẽ đổ ra trên đồi Sọ (Lc 22, 20; Ga 19, 34).
Máu châu báu ấy thực ra không đòi nợ máu, không đòi trả thù.
Máu ấy đổ ra để xóa tội cho muôn người (Mt 26, 28),
để giao hòa con người với Thiên Chúa.
Một số người sẽ phải chịu trách nhiệm về việc đổ máu Đức Giêsu,
nhưng ngay cả những người ấy cũng có thể thoát khỏi án phạt
nhờ chính dòng máu từ trái tim yêu thương của Đấng bị đóng đinh.
Đức Giêsu trên thập giá đã tha thứ cho những kẻ giết mình.
“Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34).
Đức Giêsu phục sinh đã sống sự tha thứ ấy
khi Ngài chẳng hề báo thù những kẻ can dự vào cái chết của Ngài.
Các tông đồ cũng lần lượt chia sẻ chén đắng của Thầy mình.
Kitô hữu tự bản chất là ngôn sứ cho thế giới mình đang sống.
Chỉ mong chúng ta cũng can đảm sống như Giêsu và chết như Giêsu.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa,
Chúa đã làm người như chúng con,
nên Chúa hiểu gánh nặng của phận người.
Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc
mà con người lại yếu đuối mong manh.
Hạnh phúc thường được trộn bằng nước mắt,
và giữa ánh sáng, cũng có những bóng mờ đe dọa.
Lạy Chúa Giêsu,
nếu có lúc con mệt mỏi và xao xuyến,
xin nhắc con nhớ rằng trong Vườn Dầu
Chúa đã buồn muốn chết được.
Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây,
xin nhắc con nhớ rằng trên thập giá
Chúa đã thốt lên: Sao Cha bỏ con?
Xin nâng đỡ con, để con đừng bỏ cuộc.
Xin đồng hành với con, để con không cô đơn.
Xin cho con yêu đời luôn
dù đời chẳng luôn đáng yêu.
Xin cho con can đảm
đối diện với những thách đố
vì biết rằng cuối cùng
chiến thắng thuộc về người
có niềm hy vọng lớn hơn.
Suy niệm 2: Vị tiên tri cuối cùng
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Tiên tri, một nhiệm vụ không dễ. Vì người ta không muốn nghe sự thật. Nhất là khi sự thật đó làm tổn hại đến quyền lợi, danh vọng. Và để chứng tỏ mình có lý, người ta giết các tiên tri. Hê-rô-đê giết Gio-an Tẩy giả là một bằng chứng. A-ben bị giết ám muội giữa đồng đã đành. Nhưng Da-ca-ri-a bị giết giữa thanh thiên bạch nhật. Giữa đền thờ. Tại bàn thờ. Người ta đã giết vị triên tri để chiếm đoạt sự thật. Thậm chí còn nhân danh Thiên Chúa và đạo giáo.
Sự kiên nhẫn của Thiên Chúa thật vô biên. Người nhịn nhục tất cả. Tha thứ tất cả. Đến nỗi sai Con Một xuống trần. Đó là thời điểm quyết định. Đã đến thời cuối cùng. Vị tiên tri cuối cùng xuất hiện. Đó là cơ hội cuối cùng cho con người. Hoặc chọn sự sống. Hoặc chọn sự chết. Ván bài cuối cùng. Được ăn cả. Ngã về không. Chốt lại một vấn đề: tin hay không tin Chúa Giê-su Ki-tô.
Khi gửi Con Một xuống trần, Thiên Chúa làm mới lại tất cả. Thư Rô-ma cho biết: Vì Chúa Giê-su Ki-tô, Thiên Chúa tha thứ tất cả tội lỗi xưa kia con người đã phạm. Vì Chúa Giê-su Ki-tô, Thiên Chúa bãi bỏ tất cả Lề Luật. Chỉ cần một điều: Tin vào Chúa Giê-su Ki-tô: “Thưa anh em, ngày nay, sự công chính của Thiên Chúa đã được thể hiện mà không cần đến Luật Mô-sê. Điều này, sách Luật và các Ngôn Sứ làm chứng. Quả thế, người ta được Thiên Chúa làm cho nên công chính nhờ lòng tin vào Đức Giê-su Ki-tô” (năm lẻ).
Thư Ê-phê-sô còn đi sâu xa hơn nữa. Cho biết Chúa Giê-su chính là trung gian duy nhất. Nhờ Người mà muôn vật được tạo thành. Nhờ Người mà muôn vàn ơn phúc được ban cho ta. Nhờ Người ta được trở nên nghĩa tử. Nhờ Người ta được thứ tha tội lỗi. Đó chính là bí mật của kế hoạch Thiên Chúa. Là kế hoạch yêu thương. Sẽ đến thời cuối cùng. Thời viên mãn. Mọi sự được quy tụ trong Chúa Ki-tô: “Người cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu; thiên ý này là kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Ki-tô. Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Ki-tô”(năm chẵn).
Đây là thời điểm cuối cùng. Đây là cơ hội cuối cùng. Nhưng cũng là cơ may cuối cùng. Ta sẽ được tất cả. Được tha thứ tất cả. Được ơn lành tất cả. Chỉ cần tin vào Chúa Giê-su Ki-tô. Vị tiên tri cuối cùng. Nhưng hãy cẩn thận. Mất lần này là mất tất cả. Không còn cơ hội nào nữa.
Suy niệm 3: Dòng Máu Cứu Ðộ
Với lý thuyết: "Người chết không nói", các đối thủ của những người thường dùng bạo lực để thủ tiêu những người can đảm đóng vai trò tiên tri để nói lên sự thật chống lại kỳ thị bất công, bênh vực quyền lợi của những người nghèo khổ. Từ máu Abel, người vô tội đầu tiên đổ ra vẫn luôn nhuộm hồng với máu các tiên tri thuộc mọi màu da, tiếng nói: một Martin Luther King, mục sư chủ trương bất bạo động để tranh đấu cho sự phân biệt và kỳ thị mầu da ở xã hội Mỹ và bị bắn ngã ngày 4/4/1968; hay một Oscar Roméro, vị giám mục thật sự yêu mến người nghèo đã bị ám sát khi đang dâng Thánh Lễ tại một bệnh viện vào chiều ngày 23/4/1980.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề cập đến việc lấy máu đào làm chứng cho sự thật nơi các tiên tri, Ngài cũng nói đến việc phải trả nợ máu. Ðoạn Tin Mừng còn cho thấy lòng oán ghét của các Luật sĩ và Biệt phái đối với Chúa Giêsu ngày càng gia tăng, và chính lòng oán ghét này đã dẫn Chúa Giêsu đến cái chết đẫm máu trên Thập Giá, để Ngài thực sự chia sẻ số phận của các tiên tri. Những dòng máu chảy từ thân xác Chúa Giêsu đã không đòi nợ máu, trái lại còn giải nợ máu, bởi vì những dòng máu chảy ra vì tình yêu và vâng phục đối với Chúa Cha, đã phá tan vòng luẩn quẩn của hận thù và oán ghét, qua lời Chúa Giêsu xin Cha tha thứ cho những kẻ hành khổ và xử tử Ngài.
Cái chết vì tình yêu và vì vâng phục của Chúa Giêsu cũng đã phá tan lý thuyết "người chết không nói", bởi lẽ từ dạo ngài gục đầu tắt thở trên Thập Giá, cái chết của Ngài đã nói và vẫn tiếp tục nói trải qua gần 2,000 năm nay, nói với những người tin lẫn người không tin vào Ngài về độ sâu của tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại và về độ dầy của tình yêu Ngài đối với mọi người. Qua đó, cái chết của Chúa Giêsu đã trở thành nguồn sống và trao ban cho cái chết của những người can đảm đóng vai trò tiên tri một ý nghĩa, một sức mạnh, để cái chết của họ cũng tiếp tục nói và gây ảnh hưởng cũng như thu lượm kết quả mỹ mãn hơn lúc họ còn sống. Cái chết của Mục sư Martin Luther King đã đẩy mạnh và đóng góp phần không nhỏ vào phong trào chống phân biệt, kỳ thị cho những người da mầu tại xã hội Mỹ và nhiều nơi khác trên thế giới. Cái gục đầu tắt thở trên bàn thờ đang lúc dâng Thánh Lễ của Ðức Cha Oscar Roméro đã gây niềm hy vọng và sức mạnh khôn lường cho bao nhiêu người dấn thân tranh đấu cho công bằng xã hội tại các quốc gia Mỹ Châu La Tinh.
Nợ máu vẫn đòi phải trả bằng máu. Nhưng từ dạo máu Chúa Giêsu chảy trên đồi Calvê và vẫn tiếp tục chảy trên bàn thờ mỗi ngày khắp nơi trên thế giới, những dòng máu hy sinh cho chính nghĩa, những dòng máu chảy ra vì tình yêu, đã trở thành khí giới sắc bén phá tan hận thù, bất công, để góp phần xây dựng một thế giới thấm nhuộm tình người, dẫn đến một nhân loại biết liên đới chia sẻ, yêu thương.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Những Kẻ Vụ Hình Thức
Những lời Chúa Giêsu khiển trách những người Pharisiêu và các vị thông luật như được ghi lại nơi Phúc Âm theo thánh Luca mà chúng ta vừa đọc lại trên đây được nói lên trong khung cảnh bữa tiệc tại nhà một người Pharisiêu, tức là trong khung cảnh thân tình của những người quen biết với nhau. Tuy nhiên, khung cảnh và bầu khí của bữa tiệc thân tình này đã bị làm hư đi, không phải vì Chúa Giêsu đã không rửa tay trước khi ăn theo như phong tục của người Do Thái thời đó mà vì thái độ nghi ngờ của người mời Chúa đến dự tiệc. Ông Pharisiêu lấy làm lạ vì Người đã không rửa tay trước khi ăn và đã lên án thái độ giả hình, lạm dụng Lề Luật, lạm dụng sự hiểu biết của mình mà khinh chê và đè bẹp anh chị em chung quanh của những người Pharisiêu và những luật sĩ được mời đến dự tiệc.
Những luật sĩ Do Thái, những nhà thông luật của dân Do Thái thời Chúa Giêsu là những kẻ có thể nói là nắm lấy kỷ cương cho sinh hoạt của dân chúng. Vai trò của những người thông luật này trong xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu giống như vai trò của những thần học gia, những nhà chú giải Kinh Thánh, những chuyên viên về luân lý. Họ nắm giữ sự hiểu biết về Kinh Thánh, giải thích giáo huấn của Môisen cho dân chúng sống, nhưng trớ trêu thay họ đã không chu toàn bổn phận làm người hướng dẫn chỉ đường mà đã trở thành kẻ cản đường vì các tật xấu của họ, những người nắm giữ chìa khóa. Chúa Giêsu không làm giảm giá trị sự hiểu biết Lề Luật của những luật sĩ này, nhưng Chúa Giêsu đã trách họ nặng lời vì thái độ sống phản chứng của họ: "Các ông không bước vào mà còn cản không cho kẻ khác bước vào". Họ không tin nhận Chúa mà còn cản trở không cho người khác gặp Chúa và tin nhận Ngài.
Lời trách của Chúa Giêsu có thể cũng thức tỉnh chúng ta ngày hôm nay, có thể là chúng ta hiểu biết Chúa, có chìa khóa để gặp Chúa nhưng chúng ta vì những tật xấu của mình, vì những tội lỗi của mình, chúng ta không đến với Chúa mà còn làm gương xấu cản trở không cho anh chị em đến với Chúa, vì thái độ sống phản chứng niềm tin Phúc Âm của chúng ta.
Lạy Chúa,
Xin Chúa giúp chúng con canh tân đời sống và khiêm tốn đến với Chúa, tin nhận Ngài và chu toàn giáo huấn của Ngài mỗi ngày một tốt đẹp hơn.
Lạy Chúa, Xin hãy ban ơn canh tân đời sống cho mỗi người chúng con.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 5: Làm câm miệng chân lý như thế nào?
Vì thế mà Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa đã phán: “Ta sẽ sai Ngôn Sứ và tông đồ đến với chúng: chúng sẽ giết người này, lùng bắt người kia.” (Lc. 11, 49)
Con tim loài người không hề thay đổi. Văn minh của chúng ta khá tiên tiến giúp cho con người nhiều phương tiện khéo léo bộc lộ dã tâm của mình hơn ngày xưa. Ngày nay hơn xưa, người ta không tha thứ cho những người nghĩ khác mình. Sách Khôn ngoan có lý: Chúng ta lùng bắt kẻ công chính vì nó làm phiền chúng ta và khiển trách đường lối suy nghĩ của chúng ta. “Nếu đúng là Con Thiên Chúa hẳn Ngài sẽ đến cứu nó. Chúng ta hãy kết án nó cho chết nhục nhã”.
Người ta hành quyết những chứng nhân:
Những ngôn sứ được sai đến để làm chứng về tình yêu Thiên Chúa và kêu gọi người ta trở về với Thiên Chúa. Người ta đã giết một số đông chứng nhân. Những người bị giết từ A-đam đến Gia-ca-ri-a: Người thứ nhất đến ngôn sứ cuối cùng đã được ghi trong kinh thánh Do thái. Đến thời Đức Giêsu, người Do thái đã xây mộ cho các chứng nhân chân lý đã bị cha ông họ giết bỏ. Nhưng, họ không khác gì cha ông họ, vì họ không thể nhận biết các ngôn sứ đang ở giữa họ. Đức Giêsu, Người là chứng nhân tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa, đã bị họ kết án chết nhục nhã vì mặc khải của Người không thuận với đường lối tư tưởng của họ. Tư tưởng của họ về một Thiên Chúa báo oán, thế hệ Do thái thời Đức Giêsu đã phải trả giá cho lối sống vô đạo này bằng sự phá hủy thành Giê-ru-sa-lem và dân tộc bị phân tán tản mác khắp nơi. Những cuộc hành quyết những chứng nhân chân lý đang xảy ra hàng ngày sẽ đem đến những hậu quả nào cho thế hệ ngày nay?
Người ta bỏ tù chân lý:
Nguồn mặc khải cho Mô-sê đã mở đường dẫn tới chân lý nước trời. Các luật sĩ đã hội nhập mặc khải đó vào lề luật và đem ra dạy một lối sống đạo bên ngoài. Như vậy họ đã nhốt chân lý vào tù, chân lý không còn ăn sâu vào lòng người được nữa.
Đức Giêsu là vị thừa kế mọi nguồn mặc khải, cũng là chìa khóa mở mọi hiểu biết về mặc khải, nhưng nhiều người trong chúng ta đã từ chối dùng chìa khóa này. Chúng ta không còn muốn biết chân lý nữa, vì chân lý là lời khiển trách đường lối tư tưởng và hành động gian ác của chúng ta. Khi hành quyết các ngôn sứ và nhốt tù chân lý, người ta hy vọng làm câm họng kẻ kêu gọi tình thương.
RC
Suy niệm 6: Đừng phản bội sứ vụ làm chứng cho sự thật
Đức Giêsu đến để làm chứng cho sự thật. Vì thế, Ngài không bao giờ chấp nhận lối sống giả hình, gian dối... Chính vì điều này mà đã làm cho sự căng thẳng giữa Ngài và các người Pharisêu ngày càng leo thang!
Hôm nay, Tin Mừng trình thuật cho chúng ta thấy việc Đức Giêsu thẳng thắn lên án nhóm Pharisêu và các Tiến Sĩ Luật về lối sống giả hình của họ cách nặng nề.
Ngài vạch trần tội ác của họ khi đồng lõa để giết các tiên tri là những người dám đứng lên loan báo và bênh đỡ sự thật. Họ còn là những người ngăn cản người khác trên con đường nhân đức nữa.
Những người này luôn coi mình là người lãnh đạo, nắm giữ chìa khóa hiểu biết, nhưng thực ra bên trong thì rỗng tuếch, chẳng qua chỉ như lớp sơn bôi bóng hay như mồ mả tô vôi với đầy dãy những sự ô uế. Họ không sống tinh thần của Chúa, mà luôn sống cuộc sống trịnh thượng, trưởng giả và bắt người khác thi hành lệnh của mình. Từ đó, họ đã trở thành những kẻ mù lại dắt kẻ mù, khiến những người được họ hướng dẫn cũng phải bơ vơ lạc lõng, mất phương hướng và không biết đi về đâu!
Khi Đức Giêsu khiển trách họ như thế, một sự đối đầu đã ập đến với Ngài. Vì thế, họ đã tìm mọi cách để bắt bẻ và tận dụng mọi cơ hội để tố cáo nhằm giết chết Ngài. Với họ, Đức Giêsu chẳng khác gì cái gai trong mắt, cái đinh trên đường, nên họ không thể đội trời chung.
Qua cung cách của họ, Đức Giêsu không phải không biết những đau khổ do những người này gây nên, nhưng trước sau như một, Ngài luôn trung thành với sứ mạng của mình. Dù đòn vọt, gươm đao, và chết chóc, không gì có thể làm cho Ngài phản bội sứ vụ của Thiên Chúa Cha đã trao phó nơi Ngài là: loan báo và làm chứng cho sự thật.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sống trung thành với đường lối của Thiên Chúa là làm chứng cho sự thật. Chấp nhận mọi thử thách, dù là cái chết, miễn sao sự thật được lên tiếng. Không được sống kiểu ăn mày tiếng khen mà sợ tiếng chửi kiểu những người Pharisêu khi xưa. Cũng đừng lấy danh này tiếng kia để bắt người khác phải phục vụ mình. Cần trung thành với Giáo Huấn của Chúa trong khi phục vụ người khác.
Lạy Chúa Giêsu, Đấng là đường là sự thật và là sự sống, xin hướng dẫn chúng con đi trên con đường Chúa đã đi để được sống đời đời. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Thay đổi cách nhìn để nhận ra Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Tính tự tôn và lòng ích kỷ khiến cho người ta mù lòa không nhận ra Chúa. Hãy để cho con người ích kỷ và kiêu ngạo của mình chết đi, ta mới có thể đón nhận Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Lời Chúa hôm nay cho con một cảm nghĩ: những người biệt phái và những thầy thông luật ngày xưa thật là quá quắt! Họ được phúc sống trong thời của Chúa, được nghe Chúa dạy bảo, được thấy những phép lạ Chúa làm, mà sao mà họ vẫn không chịu tin Chúa.
Con biết các biệt phái và luật sĩ không tin Chúa vì họ không muốn tin. Vì tin Chúa có nghĩa là họ phải chấp nhận những cái sai sót nơi họ. Mà họ không muốn nhìn nhận mình sai trái. Tính tự tôn là rào cản không cho họ gặp được Chúa.
Con cũng biết rằng những người biệt phái và luật sĩ không muốn đón nhận lời rao giảng của Chúa, và khi đó họ phải thay đổi cách sống của họ, một cuộc sống nhiều đặc quyền đặc lợi trong xã hội. Tính ích kỷ là một bức màn che mắt không cho họ nhận ra Chúa là Đấng Thiên Sai.
Xin Chúa giúp con đừng trở nên như những biệt phái và luật sĩ ngày xưa. Nếu con tự tôn coi thường người khác, con sẽ khó nhận ra được lời nhắc bảo của Chúa. Có thể Chúa đang nhờ một người con, một người em, một người bạn, hay một người nào đó để nhắc nhở con. Xin cho con biết khiêm tốn đón nhận.
Hôm nay, Chúa vẫn đang ẩn thân nơi những người nghèo khó và nhờ con giúp đỡ. Xin cho con đừng vì ích kỷ mà khép lòng mình lại và vô tình từ chối Chúa. Trái lại, xin giúp con biết mở rộng bàn tay để ban tặng, nhưng thật ra không phải là ban tặng, mà là đón nhận Chúa đến với con. Amen.
Ghi nhớ: “Sẽ bị đòi nợ máu của các tiên tri đã đổ ra, kể từ máu của Abel cho đến máu của Giacaria”.
Suy niệm 8: Thức tỉnh và từ bỏ tội lỗi để quay về với Chúa
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Vào năm 70 sau Công nguyên, vị tướng La Mã Titô đem đại quân vây hãm thành Giêrusalem. Ông ra lệnh không được đốt phá.
Thế nhưng, một quân nhân như bị thúc đẩy bởi một sức kỳ lạ đã cầm bó đuốc đang cháy ném vào bên trong đền thờ, lửa bốc cháy nhanh, không chữa được. Sau khi đám cháy tàn lụi, Titô ra lệnh phá hủy thành và đền thờ, ngoại trừ ba lều tháp và một bức tường, để cho hậu lai thấy sự kiên cố của thành đã bị phá. Tất cả những sự việc trên được sử gia Josèphe sống trong thời đó ghi chép lại cho hậu thế...
Suy niệm
Khi đến gần Giêrusalem và trông thấy thành, Ðức Giêsu khóc thương thành vì sẽ có ngày thành huy hoàng bị phá huỷ… Sau này, trong cuộc thương khó, dân chúng đấm ngực và thương khóc khi thấy Chúa Giêsu vác thánh giá. Chúa Giêsu nói: “Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi, hãy khóc cho thân phận mình và cho con cháu” (Lc 23,27-28). Ngài yêu thương thành Giêrusalem. Nhưng dân thành cố tình chối bỏ Ngài để chạy theo những mê muội của trần gian. Ngài cảm thấy xót xa khi người ta từ chối tình yêu của Ngài. Ngài đến cho họ tình yêu nhưng họ không đón nhận cho nên họ phải đau khổ. Tất cả mọi sự đã xảy ra như lời Chúa Giêsu đã loan báo: Vào năm 70 sau Công nguyên quân đội Rôma do tướng Titô chỉ huy đã phá hủy và bình địa thành nguy nga này.
Ngày nay, chúng ta cũng như dân thành Giêrusalem ngày xưa: Cố tình chối bỏ Chúa để chạy theo những vật chất, quyền bính danh vọng trần gian. Ðức Giêsu vẫn đang than khóc và đau khổ vì tội lỗi con người...
Xin Chúa cho chúng ta luôn khao khát, nhận biết và đón nhận tình yêu của Thiên Chúa. Biết thức tỉnh và từ bỏ đời sống tội lỗi để quay về với Ngài. Khi đó chúng con sẽ được hưởng tình yêu, sự tha thứ và ơn cứu độ từ Thiên Chúa.
Ý lực sống
“Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người,
các bạn đừng cứng lòng”. (Tv 95,8)
Suy niệm 9: Đức Giêsu hạch tội các luật sĩ
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Bài Tin mừng hôm nay ghi lại việc Đức Giêsu tiếp tục khiển trách các luật sĩ về tội giả hình.
Họ đã xây lăng cho các tiên tri, cha ông của họ, đã giết hại các tiên tri. Theo một truyền thống truyền khẩu rằng các tiên tri thường bị bách hại: Isaia bị cưa làm hai khúc, Giêrêmia bị ném đá chết, Amos bị đập đến chết... Khi người Do thái thời Đức Giêsu xây lăng cho các tiên tri thì chứng tỏ: họ chẳng ăn năn gì về việc tổ tiên họ đã giết chết các vị ấy, trái lại còn tán thành. Thái độ ấy còn cho thấy rằng: sứ điệp của các vị ấy chẳng có ý nghĩa gì đối với họ, cùng lắm chỉ là những sứ điệp cho các thế hệ xa xưa thời trước (Lm. Carôlô).
Đọc Tin mừng, chúng ta thấy ngay thái độ vừa chứng thực vừa tán thành của các luật sĩ. Các luật sĩ Do thái lo xây cất lăng tẩm cho các tiên tri, nghĩa là chứng thực rằng cha ông họ đã sai khi giết các tiên tri. Đồng thời, họ cũng đang tán thành việc bách hại của cha ông, khi hiện tại họ đang tìm cách bắt bẻ hãm hại chính Đức Giêsu và các môn đệ Người. Đức Giêsu lên án họ, nhắc lại cho họ thấy họ thuộc dòng giống gian ác, giết người này lùng bắt người kia, từ máu ông Aben cho đến đổ máu tiên tri Giacaria... Và Đức Giêsu cũng tiên báo cho họ biết: họ sẽ bị đòi nợ máu. Điều này đã xảy ra khi đến năm 70 họ đã bị xóa sổ khỏi bản đồ và tản mác khắp nơi.
Suy nghĩ về điều này, trong chúng ta không thiếu những lần chê trách những thế hệ trước chúng ta thế này thế khác, nhưng nhìn lại, chính chúng ta thậm chí còn tệ hơn tổ tiên mình khi kết án (Hiền Lâm).
Và Tin mừng hôm nay tiếp tục ghi lại những lời Đức Giêsu khiển trách các người luật sĩ về tội giả hình. Kiểu nói “khốn” ở đây không có nghĩa như một lời nguyền rủa, một kiểu chúc dữ, nhưng có ý than trách như một lời thương tiếc. Các luật sĩ là những người có cơ hội tốt là được học biết Thánh kinh, lề luật của Chúa, có quyền giảng nghĩa Thánh kinh. Lẽ ra, họ phải tận dụng cơ hội để sống tốt, sống đúng theo thánh ý Chúa; trái lại sự hiểu biết đó không mang lợi ích gì cho họ.
Đôi khi chúng ta cũng ỷ lại vào danh nghĩa người Công giáo, nại vào đạo gốc, để rồi quên mất việc sống đạo trong hiện tại: công bình, bác ái với tha nhân (5 phút mỗi ngày).
“Các ngươi đã cất dấu chìa khóa của sự hiểu biết, các ngươi đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các ngươi lại ngăn cản (Lc 11,52).
Các luật sĩ là những người hiểu biết luật lệ Thánh kinh. Họ được coi là những người lãnh đạo dân chúng, vì họ nắm giữ “chìa khóa của sự hiểu biết”. Thế nhưng “thay vì phục vụ, hướng dẫn người khác, họ đã sử dụng sự hiểu biết để bắt người khác phục vụ mình”. Một cách nào đó, ai trong chúng ta cũng có trách nhiệm hướng dẫn người khác... Cuộc sống hiện tại của chúng ta có sáng tỏ, để người khác có thể nhận ra chân lý đức tin không? Trong cách cư xử hằng ngày chúng ta có ý thức phải sống thế nào, để kẻ khác nhìn vào mà ngợi khen Cha trên trời không? (Mỗi ngày một tin vui)
Một quan chức bộ Giáo dục - Đào tạo nói: “Mỗi cán bộ hãy là một tấm gương sáng cho mọi người noi theo. Khi đã trở thành một tấm gương “mù” thì không thể làm lãnh đạo được”. Vào thời Đức Giêsu, các nhà thông luật là những người được đào tạo và “nắm chìa khoá hiểu biết” luật Chúa, để giải thích cho dân, hướng dẫn dân tuân giữ và đi đúng huấn lệnh của Chúa. Thế nhưng, thay vì giải thích và hướng dẫn, họ đã bắt người ta phục vụ và làm nô lệ lề luật. Hơn nữa, qua lối sống ưa hình thức bề ngoài, họ đã làm gương mù khiến người ta lìa xa Chúa hơn. Vì thế, Đức Giêsu đã chỉ trích thái độ của những người thông luật và dạy cho chúng ta tinh thần mới của lề luật, chứ không phải con người lệ thuộc vào luật.
Sứ điệp lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sống trung thành với đường lối của Thiên Chúa là làm chứng cho sự thật. Chấp nhận mọi thử thách, dù là cái chết, miễn sao sự thật được lên tiếng. Không được sống kiểu ăn mày tiếng khen mà sợ tiếng chửi kiểu những người biệt phái khi xưa. Cũng đừng lấy danh này tiếng kia để bắt người khác phải phục vụ mình. Cần trung thành với giáo huấn của Chúa trong khi phục vụ người khác.
Truyện: Giá trị con người ở đâu?
Chuyện kể rằng: một người được mời đến dự buổi tiệc lớn. Ông vui vẻ nhận lời và khoác bộ áo xấu nhất. Đến nơi, không ai thèm cười và để ý đến ông. Ông quay về, khoác bộ áo đẹp có đính kim cương và các hạt nút bằng vàng. Trong khi ấy yến tiệc vẫn tiếp tục. Ông quay trở lại, lập tức bao lời mời đẹp nhất, danh dự nhất đều dành cho ông. Thịt béo rượu thơm lúc này được bày ra trước mắt ông và ông được mời chỗ nhất.
Ông liền đứng lên, cởi áo, trèo lên ghế, đoạn lấy thức ăn đưa cho cái áo và nói: “Mày ăn uống đi, người ta mời mày đó”. Mọi người hết sức ngạc nhiên, nhưng đều hiểu ý ông này. Ông muốn nói với mọi người rằng: giá trị của con người không ở bộ áo xúng xính hay cái mã bên ngoài, nhưng đó là tấm lòng bên trong, không ở những cái mình có nhưng ở cái mình là.
Suy niệm 10: Chúa Giêsu khiển trách luật sĩ về tội giả hình.
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Bải Tin Mừng hôm nay tiếp tục ghi lại những lời Đức Giêsu khiển trách các thầy luật sĩ về tội giả hình.
Chúa khiển trách họ về hai tội:
- bách hại các tiên tri (Lc 11,47)
- và tội độc quyền về tri thức (Lc 11,49).
"Khốn cho các người...":
1. Kiểu nói "khốn" ở đây không có nghĩa như một lời nguyền rủa, nhưng một lời thương tiếc than trách. Chúa buồn vì thấy luật sĩ lo xây mộ cho các tiên tri xưa, để tỏ ra bất đồng với cha ông trước kia về việc họ đã giết các tiên tri.
Quả thực, nhiều tiên tri và những người công chính đã bị sát hại. Lịch sử Do Thái từ vụ sát hại Abilê được ghi ở đầu Sách Thánh đến vụ sát hại ngôn sứ Giacaria ở cuối sách (St 4,8-10; 2Chr 24,20-22) đã nói lên rằng lịch sử của họ là lịch sử nhuốm máu.
Thái độ của những người Do Thái thời của Chúa thật là mâu thuẫn vì đang khi họ hết lòng tôn kính các tiên tri ngày xưa bằng cách xây mộ, dựng bia cho các ngài thì họ lại bắt bớ và giết hại các tiên tri còn sống. Họ hết lời khen ngợi và ca tụng các tiên tri đã chết, nhưng khi gặp một đấng tiên tri còn sống thì họ lại tìm cách giết đi. Ngay trong thời của Chúa Giêsu bài học lịch sử cũng đã lặp lại. Các nhà lãnh đạo Do Thái đã không nhìn nhận những người mà Thiên Chúa sai đến với họ: họ đã từ chối không nhìn nhận Gioan Tẩy Giả (Lc 7,30); Hội đồng Tối cao Do Thái sai đại biểu đến hạch sách quyền hành của Chúa Giêsu (Lc 20,l-8) trước mặt quan tổng trấn Philatô, các đầu mục Do Thái đã xin quan lên án xử tử Chúa (Lc 9,15), rồi sau đó họ lại tiếp tục bách hại các Tông Đồ của Chúa, đúng như Lời Chúa tuyên bố với họ hôm nay (Lc 11,47-49).
2. Và Chúa bảo: "... thế hệ này sẽ bị đòi nợ máu..." (Lc 11,50) và quả đúng như thế.
Lịch sử còn ghi lại: Năm 66, người Do Thái đã tàn sát những binh lính Rôma trong đồn binh Antônia. Lập tức, hoàng đế Néron gởi tướng Vespasiano với một đạo binh hùng hậu đến Giuđê. Giữa chiến dịch thì Néron chết và Vespasiano lên ngôi hoàng đế. Ông này trao quyền chỉ huy quân đội cho con là Titus. Titus vây hãm thành vào lễ vượt qua năm 70. Jêrusalem, lúc đó đang có khoảng một triệu rưỡi người Do Thái tụ họp lại nhân ngày lễ, bị vây hãm kín mít. Chẳng bao lâu, đói kém xảy ra và mỗi ngày có cả ngàn người chết đói.
Titus trả thù bằng cách cho đóng đinh 300 người Do Thái tại chân núi Sọ, sau đó mỗi ngày lại cho đóng thêm gần 500 người Do Thái. Nhiều người bị mổ bụng vì lính Rôma nghi họ nuốt vàng. Khi đã làm chủ được tình hình, người Rôma cho đốt thành phố lẫn đền thờ. Jêrusalem bốc cháy hai ngày hai đêm. Ngày thứ ba nó chỉ còn là một đống gạch vụn hoang tàn. Hơn 200.000 người bị chôn vùi dưới đó. 97.000 người bị bắt làm nô lệ ở Rôma, và bị bán với giá rẻ mạt cho hí trường để đánh nhau với thú dữ hoặc chiến đấu giết nhau làm trò vui cho người Rôma. 2.000 nhà quí tộc Do Thái phải dự buổi khải hoàn của Titus ở Rôma. Họ phải mặc áo trắng, phải vác lấy chiến lợi phẩm lớn lao mà người chiến thắng đem về từ Jêrusalem. Khi đến đền Chiếm Thần, thì họ bị giết và đó là lễ đăng quang của cuộc chiến đẫm máu được trả giá bằng mạng sống của hơn một triệu người Do Thái. Sử gia Josephus, một nhà biên niên sử thời đó, người đã kể lại sử truyền này, đã cho rằng những điều kinh tởm của cuộc vây hãm thành Jêrusalem kinh khủng đến nỗi thế giới sẽ không bao giờ chứng kiến những điều như vậy.
Thật là một điều hết sức lạ lùng: Những người Do Thái bị trừng phạt năm 70 giống như cách tội ác họ đã phạm, vì:
1- Chúa Giêsu bị gia hình vào lễ Vượt Qua, thì cũng chính vào vào lễ Vượt Qua mà họ bị tàn phá.
2- Những người Do Thái đã dùng lính Rôma để đóng đinh Chúa Giêsu thì chính những người lính Rôma lại thực hiện cuộc trả thù như Lời Chúa báo trước.
3- Những người Do Thái đã bắt Chúa Giêsu tại vườn Cây dầu và đóng đinh Ngài trên núi Sọ, thì cũng chính tại vườn cây dầu này, mà Titus đóng đại bản doanh và cũng chính tại núi Sọ, mà người Rôma đã đóng đinh hàng trăm người Do Thái.
4- Chúa Kitô bị bán với giá 30 đồng, thì Titus đã bán 30 người Do Thái với giá 1 đồng.
5- Chúa Giêsu bị trùm áo trắng trong cuộc tử nạn thì vào cuộc khải hoàn của Titus, 2.000 người Do Thái bị mặc áo trắng để cho người Rôma chế giễu.
6- Trước mặt Philatô, người Do Thái đã kêu to: "Ước gì máu nó đổ trên chúng tôi và trên con cháu chúng tôi". Lời ước này đã được thực hiện cách khủng khiếp năm 70. Đó là điều mà Chúa Giêsu đã nói: "Vì các ngươi đong bằng đấu nào thì cũng sẽ được đong bằng đấu ấy" (Lc 6,38).
Lạy Chúa,
Xin Chúa giúp chúng con biết sống xứng đáng với tình thương của Chúa. Amen.
Suy niệm 11: Chúa Giêsu trách các luật sĩ
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Trong đoạn Tin Mừng hôm qua, Chúa Giêsu trách các người biệt phái. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay Ngài trách các luật sĩ:
1. Câu 47-48 “Xây lăng cho các ngôn sứ”: Có một truyền thống truyền khẩu rằng các ngôn sứ thường bị bách hại: Isaia đã bị cưa làm 2 khúc, Giêrêmia bị dân ném đá chết, Amos bị đập đến chết (x. Dt 11,32-40 2Sb 24,22)... Khi người do thái thời Chúa Giêsu xây lăng cho các ngôn sứ thì họ chứng tỏ họ chẳng ăn năn gì về việc tổ tiên họ đã giết chết các vị ấy trái lại còn tán thành. Thái độ ấy còn cho thấy rằng sứ điệp của các vị ấy chẳng có ý nghĩa gì đối với họ, cùng lắm chỉ là những sứ điệp cho các thế hệ xa xưa thời trước.
2. Câu 49-51 Chúa Giêsu duyệt lại lịch sử: chương trình của Thiên Chúa (“Đức Khôn ngoan của Thiên Chúa”) là gởi “các ngôn sứ và các tông đồ” đến với loài người để kêu gọi loài người ăn năn. Thế nhưng loài người đã chẳng đón nhận sứ điệp ấy, lại bách hại các vị ấy. Mặc dù Chúa Giêsu chỉ nêu tên hai người là Aben và Dacaria, nhưng vì trong Cựu Ước híp-ri, tên Aben ở đầu sách và tên Dacaria ở cuối sách, nên ý của Ngài là nói đến toàn bộ tội giết các ngôn sứ trong lịch sử. Và Chúa Giêsu cảnh cáo: nếu người do thái thời nay không chấm dứt thái độ ấy thì họ sẽ bị Thiên Chúa công bình hỏi tội (“thế hệ này sẽ bị đòi nợ máu”)
3. Câu 52 “Cất giấu chìa khóa sự hiểu biết”: do những kiến thức về Thánh Kinh, các luật sĩ đã nắm trong tay chìa khóa mở cửa vào Nước Trời. Nhưng do thái độ của họ, chẳng những họ không vào đó được mà lại còn ngăn cản người khác vào.
B.... nẩy mầm.
1. Tội giết các ngôn sứ: Các ngôn sứ là những người nói thay Chúa. Lời các ngài nói nhiều khi chói tai dân do thái nên nhiều vị đã bị bách hại và giết chết. Không riêng gì dân do thái, chúng ta ngày nay cũng có thể phạm tội giết ngôn sứ nếu như chúng ta không tập cho quen lắng nghe sự thật Chúa nói trong lương tâm chúng ta hoặc qua những “lời thật mất lòng” của người khác.
2. Cất dấu chìa khóa sự hiểu biết: Các luật sĩ là những người hiểu biết luật lệ Thánh Kinh. Họ được coi là những người lãnh đạo dân chúng vì họ nắm giữ “chìa khóa của sự hiểu biết”. Thế nhưng “thay vì phục vụ, hướng dẫn người khác, họ đã sử dụng sự hiểu biết để bắt người khác phục vụ mình. Một cách nào đó, ai trong chúng ta cũng có trách nhiệm hướng dẫn kẻ khác... Cuộc sống hiện tại của chúng ta có sáng tỏ để người khác có thể nhận ra chân lý đức tin không? Trong cách cư xử hằng ngày, chúng ta có ý thức phải sống thế nào để kẻ khác nhìn vào mà ngợi khen Cha trên trời không?” (Trích "Mỗi ngày một tin vui").
3. “Khốn cho các ngươi! Các ngươi xây lăng cho các ngôn sứ, nhưng cha ông các ngươi đã giết chết các vị ấy!” (Lc 11,47)
Chúa khiển trách người Pharisêu và các kinh sư là giả hình. Họ giả hình bởi che đậy tội lỗi bằng cách xây dựng những nấm mộ hào nhoáng, bằng luật giữ luật từ ngoài, bằng cách lên án người công chính.
Còn tôi, vì sợ mất địa vị, đã lừa dối mọi người, vì sợ hổ thẹn, đã không dám nói sự thật, vì sợ liên lụy, đã bỏ mặc anh em, và vì ích kỷ, đã xa rời Chúa, xa cách anh em...
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho con tự do, xin cho con biết lựa chọn và dám sống như Chúa dạy. (Hosanna).
13/10 Yêu thương là linh hồn của lề luật
- Viết bởi Lc 11, 42-46
Yêu thương là linh hồn của lề luật.
Thứ Tư tuần 28 thường niên.
"Khốn cho các ngươi, hỡi những người biệt phái, và khốn cho các ngươi, hỡi những tiến sĩ luật".
Lời Chúa: Lc 11, 42-46
Khi ấy, Chúa phán rằng: "Khốn cho các ngươi, hỡi những người biệt phái! Vì các ngươi nộp thuế thập phân, bạc hà, vân hương, và các thứ rau, mà lại bỏ qua đức công bình và lòng yêu mến Thiên Chúa: Phải thi hành những điều này, và không được bỏ những điều kia.
Khốn cho các ngươi, hỡi những người biệt phái! Vì các ngươi ưa thích ngồi ghế nhất trong các hội đường, và ưa thích được chào hỏi ngoài phố chợ.
Khốn cho các ngươi, vì các ngươi giống những mồ mả không rõ rệt, người ta bước đi ở trên mà không hay biết!"
Có một tiến sĩ luật trả lời Người rằng: "Thưa Thầy, Thầy nói như thế là Thầy sỉ nhục cả chúng tôi nữa".
Người đáp lại rằng: "Hỡi những tiến sĩ luật, khốn cho các ngươi nữa! Vì các ngươi chất lên người ta những gánh nặng không thể vác được, mà chính các ngươi dù một ngón tay cũng không động tới".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Xao lãng lẽ công bình
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu trách các nhà lãnh đạo.
Họ là những người Pharisêu, những nhà thông luật.
Họ được dân chúng kính nể vì học thức, vì chức vụ, vì đời sống đạo đức.
Nhưng họ cũng có những khiếm khuyết cần sửa đổi.
Đức Giêsu ba lần nói “Khốn cho” đối với người Pharisêu (cc. 42-44).
Khốn cho thứ nhất vì họ quá chú tâm giữ những điều lặt vặt, phụ thuộc,
mà xao lãng cái chính yếu và quan trọng.
Họ nộp thuế 10% về những thứ rau cỏ ngoài vườn để tỏ lòng đạo đức.
Tiền thuế này được dùng để giúp đỡ các tư tế và các thầy Lêvi.
Nhưng tiếc là họ không để ý đến sự công bình đối với tha nhân,
và lòng yêu mến đối với Thiên Chúa (c. 42).
Tương quan hai chiều của họ bị tổn thương.
Việc nộp thuế, dâng cúng cho nhiều cũng không sao kéo lại được.
Đức Giêsu đòi giữ cả hai, nhất là những bổn phận chính yếu:
“Các điều này phải làm mà các điều kia cũng không được bỏ.”
Khốn cho thứ hai vì họ thích tiếng khen từ người đời.
Không yêu mến Thiên Chúa, nhưng họ lại yêu mến ghế đầu nơi hội đường,
và yêu thích được chào hỏi nơi công cộng (c. 43).
Địa vị, tiếng tăm là điều họ tha thiết tìm kiếm.
Mọi việc họ làm đều nhằm tôn vinh cho cái tôi.
Chính vì thế một đời sống bề ngoài có vẻ sống cho Chúa,
kỳ thực lại là một tìm kiếm hư danh cho chính mình.
Khốn cho thứ ba gắn liền với sự giả hình trên đây.
Đức Giêsu ví họ với mồ mả người chết chôn dưới đất.
Vì không có gì làm dấu, nên chẳng ai biết đó là mồ mả để tránh.
Nhiều người giẫm lên nên bị ô nhơ mà không hay.
Nghe Đức Giêsu nói, một nhà thông luật cảm thấy bị xúc phạm.
Đức Giêsu cũng sẽ nói ba lần Khốn cho đối với các vị này.
Họ là những nhà chuyên môn giải thích luật và là thầy dạy dân chúng.
Khốn cho đầu tiên vì họ đã làm cho luật trở nên một gánh quá nặng.
Những giải thích của họ làm sinh ra bao cấm đoán và đòi buộc
vượt xa những gì chính bản văn lề luật đòi hỏi.
Thí dụ trong ngày sabát, có 39 loại công việc không được phép làm.
Luật thay vì là nguồn vui, nguồn hạnh phúc, thì lại trở nên ách nặng nề.
Nhiệm vụ của người thông luật không phải chỉ là dạy luật,
mà còn là giúp người khác giữ luật.
Với thái độ đứng ngoài, không muốn động vào,
không muốn trợ giúp, dù bằng một ngón tay (c. 46),
người thông luật sẽ không làm cho người ta cảm thấy tình yêu Thiên Chúa.
Những lời Khốn cho của Đức Giêsu cách đây hai mươi thế kỷ
vẫn còn nguyên giá trị cho Hội Thánh của các Kitô hữu hôm nay.
Để có thể xây dựng một Hội Thánh Việt Nam cho kỷ nguyên mới,
chúng ta cần tránh những lỗi của người xưa.
Cầu nguyện:
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận,
xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,
xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ,
xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,
xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi,
Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng,
xin cho các Kitô hữu chúng con
trở thành tình yêu
cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài,
biết sống nhờ và sống cho tha nhân,
biết quảng đại cho đi
và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh,
xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa
ở sâu thẳm lòng chúng con,
và trong lòng từng con người bé nhỏ.
Suy niệm 2: Đạo thật
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Đạo Do thái rất chặt chẽ. Tầng lớp lãnh đạo gồm các thượng tế, các thày Lê-vi, các kinh sư, luật sĩ. Lại thêm nhóm Pha-ri-sêu rất nghiêm ngặt. Tất cả luôn bảo vệ Lề Luật. Học hỏi Lề Luật. Cắt nghĩa Lề Luật. Làm cho đạo trở thành một hệ thống Lề Luật vững vàng. Nhưng hôm nay Chúa Giê-su cho thấy đó không phải là đạo của Chúa. Nhưng là đạo của con người. Không phải đạo vì con người. Nhưng là đạo vì bản thân. Thật đáng sợ khi chỉ lo giữ bề ngoài mà không giữ bề trong. Chỉ giữ những điều phụ mà lại quên điều chính. Chỉ giữ những điều nhỏ mà lại quên điều lớn. Chỉ buộc người khác tuân giữ còn mình thì không. Nó biến đạo thành giả dối, lừa đảo và biến chất.
Đạo thật phải là đạo của Chúa. Đạo của Chúa thì phải giữ “lẽ công bằng và lòng yêu mến Thiên Chúa”. Và nhất là phải có lòng thương xót. Đừng “chất lên vai kẻ khác những gánh nặng không thể gánh nổi, còn chính các người, thì dù một ngón tay cũng không động vào”.
Tầng lớp lãnh đạo Do thái sai lầm vì họ tự cho mình thay Chúa. Ở trên Lề Luật. Có quyền phán đoán xét xử người khác. Thư Rô-ma dạy ta biết ta không có quyền xét đoán tha nhân. Chính ta bị Thiên Chúa xét xử. “Dù bạn là ai đi nữa mà bạn xét đoán thì bạn cũng không thể tự bào chữa được”. Đạo vì Chúa và vì tha nhân chứ không phải vì bản thân sẽ nhắc ta biết mình tội lỗi bất toàn. Đừng xét đoán người. Hãy biết xét mình. “Vì khi bạn xét đoán người khác, mà bạn cũng làm như họ, thì bạn tự kết án chính mình”. Bản thân ta cũng tội lỗi bất toàn. Vì thế hãy biết “Thiên Chúa nhân hậu như thế là để thúc giục bạn hối cải” (năm lẻ).
Kẻ tự cho mình thay quyền Chúa để tìm quyền lợi cho bản thân, chèn ép anh em, là kẻ sống theo xác thịt. Thư Ga-lát dạy ta đừng sống theo xác thịt. Vì “những kẻ làm điều đó sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa”. Vì đó là đạo giả. Đạo thật phải sống theo Thần Khí. Sống theo Thần Khí là quên mình. Mến Chúa. Yêu người. Sống như thế là “thuộc về Đức Ki-tô Giê-su, đóng đinh tính xác thịt vào thâp giá cùng với các dục vọng đam mê”. Sẽ gặt hái được “hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (năm chẵn). Đó mới là đạo thật.
Suy niệm 3: Kiện Toàn Lề Luật
Tin Mừng hôm nay có lẽ mời gọi chúng ta suy nghĩ về ý nghĩa đích thực của luật lệ. Chỉ có xã hội loài người mới có luật lệ. Thú vật xem chừng cũng tuân thủ một thứ luật nào đó, nhưng là luật rừng. Khi con người dùng sức mạnh áp đặt luật lệ để nhằm quyền lợi của một thiểu số, chứ không nhằm phục vụ công ích, thì đó cũng chỉ là luật rừng, luật của kẻ mạnh mà thôi.
Chúa Giêsu đã đến để kiện toàn lề luật. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu một lần nữa muốn xác nhận điều đó khi Ngài tuyên bố: "Phải làm các điều này mà không được bỏ qua các điều kia". Chúa Giêsu đã kiện toàn lề luật bằng cách mặc cho nó tinh thần yêu thương: yêu thương là linh hồn của lề luật. Tất cả lề luật trong đạo đều qui về một giới răn nền tảng và duy nhất, đó là yêu thương.
Thánh Phaolô đã nói: "Yêu thương là chu toàn lề luật". Sống yêu thương là dấu ấn Thiên Chúa đã ghi khắc trong tâm hồn con người, bởi vì chỉ có con người mới là tạo vật duy nhất được Thiên Chúa tạo dựng theo và giống hình ảnh Ngài. Mà bởi lẽ Thiên Chúa là Tình Yêu, cho nên mang lấy hình ảnh của Ngài, con người cũng chỉ có một ơn gọi duy nhất, đó là sống yêu thương. Tất cả lề luật Giáo Hội ban hành là chỉ nhằm giúp con người sống yêu thương mà thôi. Chỉ có yêu thương, con người mới trưởng thành; chỉ có yêu thương mới đem lại cho con người một sự giải phóng đích thực, đó là giải phóng khỏi tội lỗi, khỏi ích kỷ, khỏi hận thù.
Xin Chúa cho chúng ta hiểu được lòng Chúa yêu thương chúng ta từng giây phút trong cuộc đời, để chúng ta sống trong tình Ngài nâng đỡ ủi an chúng ta trên con đường tiến về hạnh phúc vĩnh cửu. Xin cho chúng ta luôn quảng đại chu toàn mọi bổn phận với lòng yêu mến, để đáp lại tình Chúa yêu thương chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Thiên Chúa Là Tình Yêu
Ðối diện với sự gian dối và bất lương của những người pharisiêu và các nhà thông luật, Chúa Giêsu đã không ngần ngại lên tiếng khiển trách họ. Thái độ thích khoe khoang và cái bề ngoài công chính, giả tạo nhưng bên trong lòng thì chứa đầy những gian xảo của những người pharisiêu hay như hành động chèn ép và áp bức của các nhà thông luật đối với người dân bần cùng là cội rễ của các bất công xã hội. Chúa Giêsu không có chủ ý kết án những người pharisiêu và những nhà thông luật, ngược lại, Ngài chỉ muốn khiển trách để cảnh tỉnh lương tâm của họ, để họ lắng nghe lời Ngài là Con Thiên Chúa mà trở về con đường ngay thẳng.
Chúa Giêsu dạy cho họ biết rằng chỉ có một điều luật lớn nhất vượt lên trên mọi Lề Luật khác đó là luật mến Chúa yêu người. Những ai sống theo luật yêu thương này là thực hành ý muốn của Thiên Chúa. Thánh Phaolô tông đồ trong thư gởi các tín hữu Rôma nhắc nhở rằng: "Tất cả chúng ta cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa, vì chúng ta không thể tự mình trở nên công chính trước mặt Người". Thánh Phaolô cũng lên tiếng cảnh giác những người tự cho mình là công chính mà không cần tới lòng thương xót của Thiên Chúa, và từ đó nảy sinh ra thái độ xét đoán người khác. Người nói: "Còn bạn, hỡi người xét đoán những kẻ làm điều đó trong khi chính mình cũng làm như vậy. Bạn tưởng mình khỏi sẽ bị Thiên Chúa xét xử sao?"
Vì thế, ai phán xét và kết án những người khác là lòng bị bất công vì chính mình cũng thuộc vào cùng một lỗi lầm, hay nói cách khác, tất cả chúng ta đều là những người tội lỗi như nhau. Mặt khác, thái độ lên án người khác gây ra sự chia rẽ giữa chúng ta với những người khác. Ngay cả trường hợp chúng ta có làm được những công nghiệp tốt lành đi nữa thì hành động này của chúng ta cũng không làm cho Thiên Chúa hài lòng. Một công nghiệp tốt lành có tác động làm cho mọi người được hiệp nhất với nhau chứ không tạo nên sự chia rẽ.
Thiên Chúa chính là sự hiệp nhất và tình yêu. Những ai sống theo tinh thần này là sống theo thánh ý của Thiên Chúa. Chúng ta cần đặt mình trước sự thương xót và lòng bác ái của Thiên Chúa, đó là con đường duy nhất dẫn đến sự cứu rỗi. Chúng ta cần hướng về Thiên Chúa để xin Người ban cho hồng ân cứu rỗi mà Người đã hứa ban cho toàn thể nhân loại, không kể đó là người Kitô hay dân ngoại, người công chính hay người tội lỗi. Vì tất cả chúng ta đều cần tới tình yêu thương và sự thương xót của Thiên Chúa, là vị Cha chung của tất cả chúng ta ở trên trời.
Lạy Chúa,
Chúa là cội nguồn của sự công chính và bác ái. Xin soi sáng và hướng dẫn lương tâm chúng con để chúng con biết sống một cách lương thiện và công bằng mà không xúc phạm hay làm tổn thương đến những người anh em khác. Qua thái độ sống lương thiện và chân thật đó chúng con làm chứng tá cho tình yêu và sự hiện diện của Chúa trên trần gian này.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 5: Bệnh mù quáng tinh thần
Đức Giêsu nói: “Khốn cho các ngươi, hỡi các người Pha-ri-sêu! các người nộp thuế thập phân về bạc hà, vân hương, và đủ thứ rau cỏ, mà sao lãng lẽ công bình và lòng yêu mến Thiên Chúa, phải làm các điều này mà không được bỏ qua các điều kia.” (Lc. 11, 42)
Ngày nay, người ta sản xuất mọi thứ hàng giả, hàng dỏm được sơn phết, sao chép như thiệt để tiếp thị, bán chạy như tôm tươi và thật mát mắt. Không chỉ hàng hóa dổm mà còn cả những nhân vật học giả, học dổm có đầy đủ học vị cao, lừa đảo, khiến người khác tin tưởng họ như thật. Người ta đã muốn thay con tim người bằng tim khỉ đột, chỉ thấy cái hào nhoáng bên ngoài mà không biết được giá trị cốt lõi bên trong.
Đức Giêsu quan tâm đến lòng người, tinh thần bên trong, chứ không để bị lừa bởi dáng vẻ hấp dẫn bên ngoài. Người vạch cho thấy lối sống giả hình mù quáng.
Những con buôn giả phải chịu trách nhiệm về sự thất bại của mình, phải lãnh hậu quả tai hại
Nơi một dân coi những việc cử hành đạo đức đóng một vai trò cứu thế, thì dễ xuất hiện lòng sùng bái đối với lối đạo đức hình thức phô trương bên ngoài. Những người biệt phái như những con buôn hàng giả, tỏ ra vẻ cao cả khi giữ luật rất tỉ mỉ, cầu nguyện giữa phố phường và những nơi công cộng cho người ta thấy.
Rất nhiều kẻ trong số biệt phái đó tỏ ra kiêu ngạo, họ quên lẽ công bình và lòng yêu mến Thiên Chúa, Đấng ban ơn soi sáng cho tất cả mọi việc đạo đức. Đức Giêsu chúc dữ những kẻ giả hình để hy vọng dẫn đưa họ ăn năn sám hối trở về.
Tính kiêu ngạo và phô trương của họ do nội tâm họ không trong sạch được che đậy để người ta kính trọng họ, theo họ và hư đi theo họ mà không biết. Sự che đậy của biệt phái có thể lây lan sang những ai bước xuống mồ của họ, vì họ không thể biết được lòng họ. Lời khiển trách của Đức Giêsu cũng giáng xuống đầu các nhà thông luật vì họ dạy biệt phái cũng như dân chúng. “Họ chất trên vai kẻ khác những gánh nặng gánh không nổi, còn họ thì dù một ngón tay họ cũng không để đụng tới”. Họ phải chịu trách nhiệm về tội hủ hóa người khác.
Chúng ta có là những người hành đạo theo thói quen và để được người ta kính trọng không? Trong khi đó con tim lại đầy ghen ghét, hận thù, bất công chăng? Chớ gì lời chúc dữ của Chúa Giêsu đừng áp dụng vào chúng ta.
RC
Suy niệm 6: Hãy thi hành trước, dạy người khác sau
Bài Tin Mừng hôm nay đặt trong khung cảnh của một bữa ăn tại nhà một người Pharisêu.
Đức Giêsu được mời dự tiệc và Ngài đã bị các người Pharisêu để ý đến việc Ngài không rửa tay trước khi ăn. Họ bắt bẻ Đức Giêsu và cho rằng Ngài bỏ qua tập tục của tiền nhân... Tuy nhiên, lại một lần nữa, Ngài đã tố cáo lối sống bề ngoài của họ.
Thật vậy, những người người Pharisêu thì chỉ lo giữ luật theo mặt chữ, còn thực chất tinh thần thì đã chết khi họ nhất nhất bám vào từng dấu chấm, dấu phẩy. Họ sống vì luật, nên chỉ quan tâm đến chuyện đúng sai bề ngoài, không hề có sự công bằng và yêu thương. Họ luôn coi trọng hình thức trước đám đông, vì thế, luôn thích được chào hỏi nơi công cộng.
Bên cạnh đó, những Tiến Sĩ Luật cũng bị khiểm trách nặng nề vì họ luôn bắt người khác phải làm chuyện này chuyện kia... nhưng thực ra bản thân họ thì không hề có một chút gì quan tâm đến việc phải làm nơi mình. Họ chất lên vai người ta đủ thứ, còn chính họ thì dù chỉ một chút nhỏ cũng không hề đụng ngón tay vào.
Ngày hôm nay, trong xã hội, người ta ít quan tâm đến việc đạo đức! Nếu có ai thực tâm sống tốt lành thì sẽ bị người ta dè bửu... Ngược lại, họ quan tâm đến kiến thức, coi trọng việc đào tạo trí thức, hay kỹ thuật để sau này kiếm sao được nhiều tiền chứ không mảy may quan tâm đến chuyện kiếm tiền như thế nào cho phù hợp với lương tâm. Nói cách khác, xã hội và con người ngày hôm nay quan tâm đến cái đầu chứ đâu có màng chi đến trái tim! ... Như vậy, lối sống hình thức, giả tạo là điều đương nhiên có mặt trong thời buổi này; đồng thời sự vô cảm, dửng dưng, bất nhân xuất hiện nhan nhản trong xã hội là lẽ thường tình.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết coi trọng tiếng nói của Lương Tâm. Biết quan tâm đến đời sống nội tâm hơn là hình thức. Biết sống liên đới và lo cho anh chị em của mình được hạnh phúc thực sự. Biết nêu gương sáng trong đời sống hằng ngày trước khi hướng dẫn ai đó về đường đạo đức.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu rằng: với Chúa, bề ngoài không nhất thiết quan trọng, nhưng điều cần thiết chính là bề trong, nơi sâu thẳm tâm hồn. Xin cho chúng con được sống theo đường lối của Chúa muốn. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Chúa dạy sống công bằng và yêu thương.
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu lên án gắt gao thái độ kiêu căng giả hình của những người biệt phái. Chúa dạy ta sống khiêm tốn, công bằng và yêu thương.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Đấng hiền hậu và hay tha thứ. Chúa đã dạy con: “Hãy tha thứ cho thù địch”. Chúa còn nói với con: “Hãy học với Ta vì Ta hiền hậu và khiêm nhường”. Ngay trên thập giá, Chúa đã xin Chúa Cha tha thứ cho bọn lý hình. Thế nên, con rất ngạc nhiên khi thấy Chúa nặng lời khiển trách những người biệt phái. Nhưng cuối cùng con đã hiểu ra rằng, Chúa nặng lời với họ vì họ kiêu căng giả hình. Chúa ghét thói giả dối kiêu căng vì nó làm cho chúng con cố chấp và mù quáng.
Lạy Chúa, từ trước đến nay con vẫn hài lòng về đời sống đạo của mình. Con vẫn dự lễ, rước lễ, đọc kinh sáng tối, làm được vài việc bác ái, tham gia các sinh hoạt đoàn thể.
Nhưng hôm nay, dưới ánh sáng Lời Chúa, khi tự vấn lương tâm, con chợt nhận ra rằng có những lúc con làm những việc đó là vì tính kiêu căng tự đắc hơn là vì lòng mến Chúa yêu người thực sự. Vì thế, con cũng chẳng khác gì những biệt phái xưa, và con cũng đáng bị lên án như họ.
Lạy Chúa, xin giúp con diệt trừ thói kiêu căng và giả hình. Xin dạy con biết sống khiêm tốn, sống thật lòng với Chúa, với anh chị em con, nhất là với chính lòng con, để mọi hành vi của con trở nên lời tán dương Chúa, đồng thời giúp ích cho mọi người và thăng tiến bản thân con. Amen.
Ghi nhớ: “Khốn cho các ngươi, hỡi những người biệt phái, và khốn cho các ngươi, hỡi những tiến sĩ luật”.
Suy niệm 8: Biết phân biệt đúng sai theo ý Chúa
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Để diễn tả nỗ lực của mỗi người qua phần thưởng Chúa sẽ ban, thánh Têrêsa Hài Đồng đã dùng một hình ảnh hết sức đơn sơ để so sánh về phần thưởng nước Trời với sự cố gắng của con người như sau: Nếu ta đặt trên bàn một số những chiếc ly lớn nhỏ khác nhau rồi đổ đầy nước vào từng ly ấy, chúng ta sẽ nhận thấy rằng tất cả mọi ly đều đầy nước, có nghĩa là không ly nào có thể chứa thêm được nữa. Nhưng không phải là không có sự khác nhau vì những ly lớn sẽ chứa được nhiều nước hơn những ly nhỏ.
Suy niệm
Trong Tin Mừng hôm nay có thể hiểu rộng ra là tất cả mọi người đều được trao những nén bạc, đều tận tâm tận lực làm cho sinh lời. Có người mặc cảm với số vốn ít ỏi, nên không tận lực làm lời, hình ảnh đó phác họa mặc cảm tự ti của con người. Tâm lý học có nói mặc cảm là một thứ bệnh khó trị. Nó sinh ra nhiều biến chứng tệ hại. Người mang mặc cảm luôn tự cho mình thua kém người khác, tự ti về khả năng, nên họ muốn buông xuôi chôn vùi cuộc đời mình trong sự thất vọng. Mặc cảm làm mình thu lại trong “vỏ ốc tự ti”...
Hãy chui ra khỏi vỏ ốc của sự tự ti, phá bỏ bức tường mặc cảm yếu kém hơn người để tiến vào cuộc sống trong an vui và trách nhiệm. Chúng ta hãy tùy theo khả năng sống mà phục vụ hết mình, thánh Phaolô mời gọi chúng ta: “Mỗi người hãy xem xét việc làm của chính mình (...) chứ đừng so sánh với người khác” (Gl 6,4). Làm việc tận khả, Ngài nhấn mạnh giá trị của thời giờ, con người phải biết trân trọng, vì đó là thời gian Chúa ban. Ngài kêu gọi đừng ngủ mê, nhưng phải luôn làm việc (x. 1Tx 5,1-6).
Thiên Chúa luôn mời gọi sự cố gắng của con người, dù đó là việc bình thường nhưng tận lực trong phi thường, con người sẽ làm nên những kỳ tích cho cuộc đời mình và cho xã hội. William Barclay đã viết: “Thiên Chúa không muốn những con người phi thường làm những việc phi thường, nhưng Ngài rất muốn những con người bình thường làm những việc bình thường một cách phi thường”.
Thật thế, trong ngày phán xét chung. Thiên Chúa sẽ phán xét mỗi người, mỗi hành vi tùy theo ân huệ Người ban và người đó đã sử dụng sinh lợi cho Chúa như thế nào trong cuộc đời. Mỗi chúng ta cũng đều là một người quản lý ân huệ và tài năng của Chúa ban. Chúng ta có bổn phận phải khiêm tốn nỗ lực làm lời cho Chúa để phục vụ Chúa và anh em đồng loại.
Ý lực sống
“Ai có sẽ cho thêm, và người đó sẽ được dư dật;
còn ai không có, người ta sẽ lấy đi cả cái nó đang có…” (Lc 19,26).
Suy niệm 9: Cần tránh thói giả hình
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Sau khi Đức Giêsu lên tiếng khiển trách các biệt phái về tội vụ luật, hình thức, bây giờ Người vạch ra tội giả hình của họ. Đọc bài Tin mừng hôm nay, chúng ta phải suy nghĩ: có lẽ chúng ta đang sống cách sống của người biệt phái xưa. Lối sống mà Đức Giêsu chê trách là chỉ giữ cặn kẽ những điều luật dạy một cách giả hình mà không theo tinh thần của lề luật, đó là mến Chúa và yêu thương anh em. Đức Giêsu không bác bỏ việc giữ luật, nhưng phải giữ với lòng yêu mến chứ đừng hình thức. Người cũng lên án tính huênh hoang tự cao tự đại chỉ biết hưởng thụ, còn gánh nặng và khó khăn thì trút tất cả cho người khác.
Đối với sự gian dối và bất lương của những người biệt phái và các nhà thông luật Đức Giêsu đã không ngần ngại lên tiếng khiển trách họ. Thái độ khoe khoang và cái bề ngoài công chính, giả tạo, nhưng bên trong lòng thì chứa đầy những gian xảo của những người biệt phái hay như hành động chèn ép và áp bức của các nhà thông luật đối với người dân bần cùng là cội rễ của các bất công xã hội. Đức Giêsu không có chủ ý kết án những người biệt phái và những nhà thông luật, ngược lại Người chỉ muốn khiển trách để cảnh tỉnh lương tâm của họ, để họ lắng nghe lời Người là Con Thiên Chúa mà trở về con đường ngay thẳng (R.Veritas).
Đức Giêsu vạch rõ thói giả hình của họ. Giống như mồ mả tô vôi, các người biệt phái với áo vàng mũ miện đai nịt màu mè, nhưng trong tâm hồn đầy những đam mê và suy nghĩ xấu xa. Đó là lối sống đóng kịch và khoe khoang khi muốn tỏ ra cho những người chung quanh những việc làm của họ để được ca tụng. Đó cũng là thái độ của không ít người trong chúng ta, tìm cách che giấu sự thật về con người của mình khi không khiêm tốn nhận những khuyết điểm của mình, không đón nhận sự thật về con người của mình. Lời Chúa mời gọi chúng ta trong khi lo trang điểm cho mình vẻ đẹp bề ngoài, thì cũng lo trang sức cho tâm hồn những nhân đức thánh thiện, lo cải hoá đời sống để được đổi mới trong mọi sự.
Chúa phê bình người biệt phái như vậy mà họ vẫn không tự ái, vẫn im lặng không lên tiếng. Trong lúc đó, có một người thông luật không chịu nổi nữa nên đã phản ứng lại:
- Thưa Thầy, Thầy nói như vậy là nhục mạ cả chúng tôi nữa! (Lc 11,45)
Đang ngon trớn, với giọng phẫn nộ, Đức Giêsu phê bình luôn cả những người thông luật: “Khốn cho các ngươi nữa, hỡi các nhà thông luật. Các ngươi chất lên vai kẻ khác những gánh nặng không thể gánh nổi, còn các ngươi thì, dù một ngón tay cũng không động vào” (Lc 11,46).
Bắt người khác làm mà mình không làm... đó cũng là cách sống giả hình, ích kỷ.
Thánh Giacôbê khẳng định: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,26).
Đức Giêsu không bao giờ rao giảng những gì mà Người đã không thực hiện trước. Người dạy các môn đệ tránh xa thứ men giả hình của biệt phái, tránh thái độ “ngôn hành bất nhất”, nói mà không làm. Đã có lần Chúa tuyên bố: “Không phải mọi kẻ nói với Thầy: Lạy Chúa, Lạy Chúa, là sẽ được vào Nước trời, nhưng là kẻ làm theo ý Cha Thầy” (Mt 7,21).
Có người nói: “Trời cho những cái bên ngoài, để che những cái sơ sài bên trong”. Những thứ bên ngoài lắm khi được chú ý một cách thật tỉ mỉ, nhưng thực chất chỉ nhằm che giấu thực trạng tồi tàn trống rỗng nội tâm. Tình trạng đó xảy ra trong đủ mọi lãnh vực từ việc quan hệ giao tiếp giữa người với nhau cho đến việc thờ phượng Thiên Chúa. Ngược lại có người phản ứng lại thái độ đó bằng cách phủ nhận mọi hình thức biểu dương bên ngoài, họ cho rằng chỉ cần giữ “đạo tại tâm” và không cần bất cứ hình thức thể hiện nào khác.
Đức Giêsu dạy chúng ta một đường lối trung dung: “Phải làm các điều này mà không được bỏ các điều kia”. Hãy bắt đầu sống “công bình và nhân ái” và rồi việc bên ngoài như “nộp thuế thập phân về bạc hà, vân hương và đủ thứ rau cỏ” sẽ là một trong những cách thể hiện “lẽ công bình và lòng nhân ái” đó (5 phút Lời Chúa).
Truyện: Người buôn cam ở Hàng Châu
Ngày xưa ở Hàng Châu, có người chuyên đi buôn cam. Anh ta có tài để dành cam lâu ngày mà không ung, không thối, để lâu ngày mà vỏ vẫn đỏ hồng, vẫn tốt, vẫn đẹp như cam mới hái. Anh đem ra chợ bán. Thiên hạ tranh nhau mua. Ai thấy cam như vậy cũng ham!
Nhưng rồi có một người tên Lưu Cơ cũng mua một quả. Đem về nhà bóc ra thì ôi, hơi thối xông lên mặt, múi thì xác xơ như bông nát. Lưu Cơ liền chạy ra chợ tìm gặp người bán cam và trách móc:
- Anh bán cam cho người ta để làm của cúng của lễ, đãi tân khách hay là chỉ để làm choáng mắt bên ngoài, đánh lừa thiên hạ ? Tệ thật! Anh giả dối lắm!
Người buôn cam mỉm cười:
- Tôi làm nghề này đã lâu lắm để kiếm tiền nuôi thân. Tôi bán thì người ta mua, chẳng ai nói năng gì cả. Chỉ có ông là kêu ca thôi. Thiên hạ giả dối nhiều, chẳng riêng gì một mình tôi. Thật ông chẳng nghĩ cho đến nơi đến chốn. Hãy thử xem, người đeo hộ phù, da hổ hùng dũng trông ra dáng quan võ lắm. Kỳ thực họ có được như Ngô Khởi, Tôn Tẫn thuở xưa không ? Người đội mũ cao, đóng đai vàng, trông ra dáng quan văn lắm. Kỳ thực họ có được giỏi như Cao Dao, Y Doãn không ? Giặc nổi lên, không biết dẹp, dân khổ, không biết kêu vào đâu. Quan lại thì tham nhũng, không biết trừng trị. Pháp đồ hỏng không biết sửa đổi, ngồi không, ăn lương chẳng biết xấu hổ... thế mà lúc ra ngồi công đường, đi xe ngựa, uống rượu ngon, ăn của lạ, hách dịch vô cùng!... Đó, bề ngoài họ chẳng như vàng ngọc, mà bề trong chẳng hôi xác xơ như bông nát là gì ? Sao ông không chịu xét những hạng người như thế mà lại đi xét quả cam tôi ?
Suy niệm 10: Tránh cách sống giả hình, ích kỷ
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Chúa Giêsu nêu đích danh 3 điều lầm lạc của nhóm Pharisêu:
a/ Quan tâm đến việc nộp thuế thập phân, về những rau cỏ tầm thường vốn không có ghi trong những bộ luật xưa (Nkm 13,10-13) mà lại bỏ quên những nhân đức rất lớn như công bình và yêu thương.
b/ Thích danh vọng bề ngoài, bằng cách chọn ghế đầu trong hội đường. Việc những người Pharisêu được ngồi như thế chưa phải là đáng trách; điều đáng trách là họ “thích” và nhất là họ không xứng đáng mà lại thích như thế.
c/ Thích được chào ở nơi công cộng.
Và Ngài đúc kết: họ giống như những nấm mồ.
Cuộc sống mà chỉ căn cứ vào những vẻ bên ngoài như thế thì sớm muộn gì thì cũng xảy ra những điều không tốt không hay.
Ngày xưa ở Hoàng Châu, có người chuyên đi buôn cam. Anh ta có tài để dành cam lâu ngày mà không ung, không thối, để lâu ngày mà vỏ vẫn đỏ hồng trông vẫn tốt, vẫn đẹp như cam mới hái. Anh đem ra chợ bán. Thiên hạ tranh nhau mua. Ai thấy cam như vậy cũng ham!
Nhưng rồi có một người tên Lưu Cơ cũng mua một quả. Đem về nhà bóc ra thì ôi, hơi thối xông lên mặt, múi thì xác xơ như bông nát. Lưu Cơ liền chạy ra chợ tìm gặp người bán cam và trách móc:
- Anh bán cam cho người ta để làm của cúng của lễ, đãi tân khách hay là chỉ để làm choáng mắt bên ngoài, đánh lừa thiên hạ ? Tệ thật! Anh giả dối lắm!
Người buôn cam mỉm cười:
-Tôi làm nghề này đã lâu lắm để kiếm tiền nuôi thân. Tôi bán thì người ta mua, chẳng ai nói năng gì cả. Chỉ có ông là kêu ca thôi. Thiên hạ giả dối nhiều, chẳng phải riêng gì một mình tôi. Thật ông chẳng nghĩ cho đến nơi đến chốn.
Hãy thử xem, người đeo hộ phù, da hổ hùng dũng trông ra dáng quan võ lắm. Kỳ thực họ có được như Ngô Khởi, Tôn Tần thuở xưa không ? Người đội mũ cao, đóng đai vàng, trông ra dáng quan văn lắm. Kỳ thực họ có giỏi được như Cao Dao, Y Doãn không. Giặc nổi lên, không biết dẹp, dân khổ, không biết kêu vào đâu. Quan lại thì tham nhũng, không biết trừng trị. Pháp đô hỏng không biết sửa đổi, ngồi không, ăn lương chẳng biết xấu hổ... thế mà lúc ra ngồi công đường, đi xe ngựa, uống rựơu ngon ăn của lạ, hách dịch vô cùng!.. Đó, bề ngoài họ chẳng như vàng ngọc, mà bề trong chẳng hôi xác xơ như bông nát là gì ? Sao ông không chịu xét những hạng người như thế mà lại đi xét quả cam tôi ?
2. Chúa phê bình người Pharisêu như vậy mà họ vẫn không tự ái, vẫn im lặng không lên tiếng. Trong lúc đó, có một người thông luật không nhịn nổi nữa cho nên đã phản ứng lại:
- Thưa Thầy, Thầy nói như vậy là nhục mạ cả chúng tôi nữa! (Lc 11,45)
Đang ngon trớn, với giọng phẫn nộ, Chúa Giêsu phê bình luôn cả những người thông luật: “Khốn cho các ngươi nữa, hỡi các nhà thông luật. Các người chất trên vai kẻ khác những gánh nặng không thể gánh nổi, còn các người thì, dù một ngón tay cũng không động vào!” (Lc 11,46)
Bắt người khác làm mà mình không làm …đó cũng là cách sống giả hình, ích kỷ.
Thánh Giacôbê khẳng định: “Ðức tin không có việc làm là Ðức tin chết” (Gc 2,26).
Ðức Giêsu không bao giờ rao giảng những gì mà Người đã không thực hiện trước. Người dạy các môn đệ tránh xa thứ men giả hình của Pharisêu, tránh thái độ “ngôn hành bất nhất”, “nói mà không làm”. Đã có lần Chúa tuyên bố: “Không phải mọi kẻ nói với Thầy; Lạy Chúa, lạy Chúa, là sẽ được vào Nước Trời, nhưng là kẻ làm theo ý Cha Thầy” (Mt 7,21).
Buổi tối hôm đó trời thật lạnh.
Một em bé khoảng sáu, bảy tuổi đang đứng tần ngần trước cửa hàng. Đứa bé không có giày, còn quần áo chỉ là những miệng giẻ rách. Có một thiếu phụ đi ngang qua trông thấy cậu bé và đọc được nỗi thèm muốn trong đôi mắt mầu xanh u uất của nó. Bà cầm tay đứa trẻ, dẫn em vào tiệm và mua cho em đôi giày và bộ quần áo ấm. Họ trở lại phố và thiếu phụ nói với cậu bé:
- Bây giờ cháu có thể về nhà và hương một ngày nghỉ vui vẻ nhé!
Đứa bé ngước nhìn thiếu phụ và hỏi: - Thưa bà, bà có phải là Chúa không ?
Bà cúi xuống mỉm cười với cậu bé và trả lời: - Con ơi, không phải đâu, bà chỉ là một trong những đứa con của Ngài thôi!
Lúc đó cậu bé nói: - Cháu đã biết ngay là bà có họ hàng với Ngài mà!
Một lần kia, có một nhà quí tộc triệu phú khi quan sát những nữ tử thừa sai Bác ái của Mẹ Têrêsa chăm sóc và rửa những vết thương cho các bệnh nhân tại một trại phong cùi, ông đã buột miệng phát biểu: - Cho tôi một triệu mỹ kim tôi cũng không làm được những việc này.
Nghe nói thế, Mẹ Têrêsa Calcutta trả lời: - Cho chúng tôi một triệu mỹ kim để bảo chúng tôi ngưng làm những việc này, chúng tôi vẫn tiếp tục.
Suy niệm 11: Điều lầm lạc của nhóm pharisêu và luật sĩ
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
1. Chúa Giêsu nêu đích danh 3 điều lầm lạc của nhóm pharisêu:
a/ Quan tâm đến việc nộp thuế thập phân về những rau cỏ tầm thường vốn không có ghi trong những bộ luật xưa (x. Nkm 13,10-13) mà lại bỏ quên những nhân đức rất lớn như công bình và yêu thương;
b/ Thích danh vọng bề ngoài, bằng cách chọn ghế đầu trong hội đường. Thực ra trong buổi họp ở hội đường thì phải có người ngồi ghế đầu. Việc những người pharisêu được ngồi như thế chưa phải là đáng trách; điều đáng trách là họ “thích” và nhất là họ không xứng đáng mà lại thích như thế;
c/ Thích được chào ở nơi công cộng.
2. Và Ngài đúc kết: họ giống như những nấm mồ. Mồ là cái chôn dấu xác chết vốn là một thứ ô uế. Do đó ai đạp lên mồ mả thì cũng bị nhiễm uế. Vì thế các nấm mồ cần phải có dấu hiệu cho người ta biết để trách đạp lên. Người pharisêu, vì trong lòng đầy sự xấu xa, nên cũng chứa đựng nhiều thứ ô uế nhưng người khác lại không biết.
3. Một luật sĩ lên tiếng bênh vực cho nhóm pharisêu, vì cách sống của pharisêu chính là dựa theo cách giải thích luật của các luật sĩ. Chúa Giêsu cũng trách nhóm luật sĩ “Chất gánh nặng lên vai người khác”: Trong Thánh Kinh, chữ “gánh nặng” ám chỉ luật lệ. Các luật sĩ cứ miệt mài nghiên cứu luật và càng ngày càng đưa thêm nhiều khoản luật khiến người ta không kham nổi, trong khi chính họ lại không tuân giữ.
B.... nẩy mầm.
1. “Họ không động đến ngón tay”: “Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu lên án gắt gao thái độ trưởng giả của những người biệt phái. Họ là chuyên viên giải thích những luật lệ tôn giáo. Nhưng cái cốt lõi của tôn giáo là bác ái yêu thương thì họ không màng tới. Chúa Giêsu nói “Họ không động đến ngón tay”. Ra giữa phố chợ, họ xuất hiện như những nhà đạo đức. Nhưng Chúa Giêsu bảo “Họ giống như những mồ mả tô vôi, bên trong chỉ toàn là mớ xương hôi thối”. Đó là những hình ảnh của những người đạo đức giả, của những người rao giảng Tin Mừng nhưng không sống điều mình rao giảng, của những người mang danh hiệu Kitô nhưng không sống tinh thần Kitô. Ngày nay Giáo Hội của Ngài có sống còn hay không, Giáo Hội của Ngài có đáng tin cậy hay không, điều đó còn tùy ở mức độ Giáo Hội có sống trọn lời mình rao giảng hay không. Dĩ nhiên, Giáo Hội được thể hiện qua những con người bằng xương bằng thịt là chúng ta. Chúng ta có sứ mệnh minh chứng Giáo Hội ấy vẫn tiếp tục sống” (Trích "Mỗi ngày một tin vui").
2. Giả hình: “Giả hình là hình giả, hình nộm. Đó là đời sống đạo che đậy dấu diếm. Kinh Thánh nói giả hình giống như một nấm mồ sơn vôi, bên ngoài coi bộ trắng trẻo, nhưng bên trong là dòi bọ xương xẩu (...) Ở đời này chúng ta có thể sống giả hình dấu diếm đánh lừa được một số người thôi, chứ không thể đánh lừa được một số đông... Mà giả như chúng ta có thể đánh lừa được số đông đi nữa thì cũng không thể đánh lừa được chính Thiên Chúa... Ngài thấu suốt mọi bí ẩn tâm can” (Trích "TMCGK ngày trong tuần").
3. Thomas K. Beecher không chịu nổi sự lừa dối dưới bất cứ hình thức nào. Khi thấy chiếc đồng hồ trong nhà thờ cứ khi thì chạy sớm khi thì chạy trễ, ông treo một tấm bảng phía trên chiếc đồng hồ ấy, với hàng chữ: “Xin đừng trách mắng đôi cánh tay tôi. Cái đáng trách nằm sâu hơn thế nhiều”. Beecher muốn nói hai điều. Điều thứ nhất: đừng trách hai chiếc kim đồng hồ mà hãy trách những bánh xe bên trong đồng hồ. Điều thứ hai: có khi tay ta cử động sai, chân ta bước không đúng, môi miệng ta nói không chỉnh... nhưng quan trọng hơn chính là tội lỗi nằm sâu ngay trong tâm hồn của ta (Christian Witness).
4. Có khi nào người ta dám quẳng bỏ những tờ giấy bạc không ? Thưa có, khi đó là tiền giả. Nhiều người đã quẳng bỏ Kitô giáo vì thấy những kitô hữu giả hình (W.E. Biederwolf).
5. “Khốn cho các ngươi hỡi người Pharisêu. Các người thích ngồi ghế đầu trong hội đường, thích người ta chào hỏi nơi công cộng...” Lc 11,43
Con người như một ma lực phải làm đẹp cho mình. Nhưng có khi chỉ là để che đậy những trống rỗng bên trong.
Đôi khi tôi tự hỏi không biết mình có tự tôn, tự tạo cho mình một vẻ đẹp hào nhoáng bên ngoài bằng một “lý lịch” rất đạo đức ? Tôi đi lễ mỗi ngày, tôi đã từng sinh hoạt trong ca đoàn, trong nhóm giáo lý viên. Nay tôi đang tham gia các nhóm công tác xã hội, nhóm chia sẻ Lời Chúa... Đàng sau những công việc tốt đẹp ấy là gì ? Phải chăng là mong được những người xung quanh nể vì ? Không biết bài học “hiền lành và khiêm nhường” của Chúa đến bao giờ tôi mới thuộc được ?
Con cố gắng cúi mình khiêm nhu
Xuống dấu chân nơi Ngài dừng lại.
Nhưng sâu ngút vô ngần, Ngài ơi
Vẫn không sao chạm được. (Tagore) (Hosanna)
12/10 Thanh tẩy hữu hiệu, chính là tình yêu.
- Viết bởi Lc 11, 37-41
Thanh tẩy hữu hiệu, chính là tình yêu.
Thứ Ba tuần 28 thường niên.
"Hãy bố thí, thì mọi sự sẽ nên trong sạch cho các ông".
Lời Chúa: Lc 11, 37-41
Khi ấy, lúc Chúa Giêsu còn đang nói, thì có một người biệt phái mời Người dùng bữa tại nhà ông. Người đi vào và ngồi bàn ăn. Nhưng người biệt phái ngạc nhiên, nghĩ trong lòng rằng tại sao Người không rửa tay trước khi dùng bữa.
Bấy giờ Chúa phán cùng ông ấy rằng: "Này các ông, những người biệt phái, các ông lau rửa bên ngoài chén đĩa, nhưng nội tâm các ông đầy tham lam và gian ác.
Hỡi những kẻ ngu dại, chớ thì Đấng đã tạo thành cái bên ngoài, lại chẳng tạo thành cả cái bên trong sao? Hãy đem những cái bên trong ra mà bố thí, thì mọi sự sẽ nên trong sạch cho các ông".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Bên ngoài, bên trong
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Một ông Pharisêu mời Đức Giêsu đến dùng bữa.
Cử chỉ đó cho thấy thiện cảm của ông đối với Ngài.
Đức Giêsu đã đáp lại lời mời, đã đến nhà ông và liền ngồi vào bàn tiệc.
Ông chủ nhà bị sốc vì thấy khách không rửa tay trước khi ăn.
Đối với ông đây là một thói quen quan trọng, không thể thiếu.
Thế là Đức Giêsu đã giảng cho ông một bài hẳn hoi.
Tuy nhiên, vì tế nhị, vì là khách mời cho một bữa ăn,
nên chắc Ngài đã chẳng nặng lời đến mức đó.
Bài Tin Mừng này thật ra phản ánh sự căng thẳng từ sau năm 70,
giữa những người Pharisêu thuộc giới lãnh đạo hội đường với các Kitô hữu.
Đức Giêsu đã dùng hình ảnh một cái chén uống nước và cái đĩa.
Đối với Ngài, các người Pharisêu chỉ lo lau rửa ở bên ngoài chén đĩa.
Chú trọng tỉ mỉ đến cái bên ngoài là nét riêng của họ.
Lắm khi cái bên ngoài chỉ là những cái phụ thuộc, không cần thiết.
Điều họ muốn mọi người tuân giữ lại không phải là chính Luật Môsê,
nhưng chỉ là những lời giải thích chi li Luật đó
được truyền miệng nơi các rabbi, rồi sau này được viết lại thành sách.
Đức Giêsu cho thấy cái bên trong của người Pharisêu,
cái bên trong của chén và đĩa mà họ không để tâm lau rửa.
“Cái bên trong của các người thì đầy chuyện cướp bóc, gian tà” (c. 39).
Như thế cái bên trong của chén đĩa
tượng trưng cho cái bên trong của tâm hồn con người.
Rửa sạch cái bên ngoài của chén đĩa, không đủ.
Cần phải rửa sạch cả cái lòng tham lam chiếm đoạt và lòng độc ác gian tà.
Rửa sạch cái bên trong mới là điều quan trọng hơn, cấp thiết hơn, khó hơn.
Có khi vì khó nên người ta né tránh bằng cách làm cái dễ.
Đức Giêsu bực bội về sự tương phản này nơi một số người Pharisêu,
tương phản giữa cái bên ngoài rất sạch và cái bên trong rất dơ,
khiến nhiều người có thể bị ngộ nhận.
Nhưng Thiên Chúa thì không.
Ngài thấy cả hai, vì ngài đã làm ra cả cái bên ngoài lẫn cái bên trong (c. 40).
Đức Giêsu cho ta cách để tẩy rửa cái bên trong nhơ uế, đó là bố thí (c. 41).
Trong tiếng Hy Lạp, bố thí có nghĩa gốc là bày tỏ lòng thương xót.
“Bấy giờ mọi sự trở nên sạch cho các người.”
Khi bố thí chia sẻ, người ta biến đổi từ bên trong.
Tấm lòng tham lam ác độc trở nên đầy tình bác ái xót thương.
Đức Giêsu đưa chúng ta về với cái bên trong, cái cốt lõi của đời Kitô hữu.
Như người Pharisêu cách đây hai ngàn năm,
chúng ta vẫn bị cám dỗ để dừng lại và mãn nguyện với cái bên ngoài.
Làm sao để chúng ta thực sự trong sạch dưới ánh mắt của Thiên Chúa?
Làm sao để cái bên ngoài của chúng ta thực sự phản ánh cái bên trong?
Đời Kitô hữu chính là một nỗ lực đi từ việc giữ đạo hời hợt, hình thức,
đến việc sống đạo từ trong máu thịt mình.
Xin Chúa giúp ta rút ngắn khoảng cách giữa cái bên ngoài và cái bên trong.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
khi đến với nhau,
chúng con thường mang những mặt nạ.
Chúng con sợ người khác thấy sự thật về mình.
Chúng con cố giữ uy tín cho bộ mặt
dù đó chỉ là chiếc mặt nạ giả dối.
Khi đến với Chúa,
chúng con cũng thường mang mặt nạ.
Có những hành vi đạo đức bên ngoài
để che giấu cái trống rỗng bên trong.
Có những lời kinh đọc trên môi,
nhưng không có chỗ trong tâm hồn,
và ngược hẳn với cuộc sống thực tế.
Lạy Chúa Giêsu,
chúng con cũng thường ngắm mình trong gương,
tự ru ngủ và đánh lừa mình,
mãn nguyện với cái mặt nạ vừa vặn.
Xin giúp chúng con cởi bỏ mọi thứ mặt nạ,
đã ăn sâu vào da thịt chúng con,
để chúng con thôi đánh lừa nhau,
đánh lừa Chúa và chính mình.
Ước gì chúng con xây dựng bầu khí chân thành,
để chúng con được lớn lên trong bình an.
Suy niệm 2: Người công chính sống bởi đức tin
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Người Biệt phái tuyệt đối tin vào Lề Luật. Lề Luật làm cho họ nên công chính. Đến nỗi Thiên Chúa chỉ có việc thưởng công khi họ chu toàn Lề Luật. Và họ chẳng cần nhờ gì đến Chúa. Đó là một sai lầm lớn lao. Sai lầm nối tiếp sai lầm. Giữ Lề Luật chỉ cần hình thức bề ngoài là đủ. Làm như Lề Luật là bùa chú. Cứ theo công thức là thành. Vì thế đạo của họ không có nội tâm. Bên trong của họ tội lỗi xấu xa. Lại còn tự kiêu tự mãn.
Chúa Giê-su vạch rõ sai lầm của họ. Thiên Chúa là chủ cuộc đời. Không có Chúa con người chẳng làm gì nên công trạng. Người ta chẳng thể tự mình nên công chính. Vì thế phải sống trong đức tin. Đức tin cho thấy ta chẳng là gì. Chúa là tất cả. Ta chẳng có gì. Chúa có tất cả. Nhưng Chúa vô hình. Nên ta phải tin tưởng. Chúa không nhìn bề ngoài nhưng chỉ xét thâm tâm. Vì thế phải thanh tẩy bên trong tâm hồn. Khỏi mọi gian ác. Khỏi mọi tự kiêu tự mãn. Để Chúa hoàn toàn làm chủ cuộc đời. Để ta sống hoàn toàn nhờ Chúa. Chính Chúa làm ta nên công chính.
Nhận thức đúng đắn sẽ đưa ta đến đời sống đạo đúng đắn. Không còn dừng lại bên ngoài. Không thờ những thần tượng khả giác của người phàm. Thậm chí cả dưới hình dạng súc vật. “Thay vì Thiên Chúa vinh quang bất tử, họ đã thờ hình tượng người phàm là loài phải chết, hay hình tượng các loài chim chóc, thú vật, rắn rết”. Tin vào Tin Mừng vì “Tin Mừng là sức mạnh Thiên Chúa dùng để cứu độ bất cứ ai có lòng tin…Vì trong Tin Mừng, sự công chính của Thiên Chúa được mặc khải”. Chỉ sống trong đức tin vào Thiên Chúa: “Vì người công chính nhờ đức tin sẽ được sống”(năm lẻ).
Sống trong đức tin, con người được giải thoát, được tự do. Không còn lệ thuộc vào những gì bên ngoài. Lề Luật. Dư luận. Chỉ sống cho Chúa. Sống trong đức tin vào Thiên Chúa. “Anh em mà tìm sự công chính trong Lề Luật, là anh em đoạn tuyệt với Đức Ki-tô và mất hết ân sủng. Còn chúng tôi thì nhờ Thần Khí và dựa vào đức tin mà vững lòng chờ đợi được nên công chính như chúng tôi hy vọng. Quả thật, trong đức Ki-tô Giê-su, cắt bì hay không cắt bì đều không có giá trị, chỉ có đức tin hành động nhờ đức ái” (năm chẵn).
Sống đức tin thực sự. Sống nội tâm thực sự. Tôi chẳng còn bận tâm đến bên ngoài. Đến người ngoài. Chỉ thanh tẩy nội tâm. Để một mình Thiên Chúa chiếm ngự tâm hồn. Thế là đủ.
Suy niệm 3: Quan Tâm Ðến Ðiều Cốt Yếu
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy nhóm Biệt phái ngạc nhiên vì Chúa Giêsu không rửa tay trước khi dùng bữa. Họ ngạc nhiên không phải vì Chúa Giêsu không giữ phép vệ sinh, nhưng vì Ngài không giữ luật định, theo đó, trước mỗi bữa ăn phải rửa tay bằng nước chứa trong các chum lớn bằng đá, với một số lượng nước được quy định và qua một cách thức được ấn định. Dưới con mắt người Biệt phái, người nào không giữ luật này, đó là người không xử sự đúng đắn: chẳng những không giữ vệ sinh, mà còn nhơ bẩn trước mặt Thiên Chúa; không rửa tay trước khi dùng bữa sẽ trở nên đối tượng tấn công của quỉ dữ, dẫn đến nghèo đói vì bị phá sản; và bánh ăn với bàn tay không sạch thì chẳng khác gì phân bón.
Vì những lý do trên và những lý do khác tương tư, sách các Rabbi có ghi những mẫu truyện như sau: Một Rabbi nọ không giữ luật rửa tay trước khi dùng bữa chỉ có một lần, thế mà đến lúc chết đã bị chôn cất như một người bị dứt phép thông công. Một Rabbi khác bị người Rôma giam giữ, đã dùng nước uống cung cấp rất hạn chế cho việc thi hành nghi thức rửa tay trước và trong khi dùng bữa, vì thế đã gần phải chết khát, bởi lẽ ông nhất định thà chết khát hơn là chểnh mảng giữ luật rửa tay.
Quan niệm và tâm thức của những người Biệt phái thời Chúa Giêsu coi các phong tục, tập quán, luật lệ là cốt tủy của việc thờ phượng Thiên Chúa và có giá trị như trọng tâm của tôn giáo, do đó những ý nghĩa cao thượng khác của niềm tin và tôn giáo cũng như những giá trị luân lý quan trọng hơn hầu như bị chôn vùi dưới lớp bụi dầy đặc của những luật lệ rườm rà tỉ mỉ; tâm thức này đưa họ đến việc giữ đạo vụ hình thức. Câu trả lời của Chúa Giêsu hướng con người vào những giá trị bên trong, quan tâm đến điều cốt yếu là sự trong sạch của lương tâm và tâm hồn.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta duyệt xét lại cách thức và mức độ giữ đạo và hành đạo của chúng ta. Ước gì chúng ta dần dần từ bỏ những cách thức giữ đạo hình thức, để đi vào chiều sâu của việc sống đạo với một lương tâm trong sạch, một tâm hồn quảng đại và ý hướng ngay lành.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Những Kẻ Sống Giả Hình
Việc rửa tay trước khi dùng bữa là một nghi thức, là một nếp sống theo truyền thống chứ không phải là một giới răn bắt buộc. Ðây là một nghi thức tự nó không có tính cách bắt buộc tuyệt đối. Nhưng những người biệt phái đã có thái độ câu nệ vào đó một cách thái quá, đến độ dùng nó như là một mẫu mực để phán xét giá trị của một người. Chúa Giêsu không để mình phải lệ thuộc vào một nghi thức bề ngoài này, và đối với Ngài, tâm hồn trong sạch, tuân giữ luật Chúa là điều quan trọng hơn. Chúa Giêsu đã trách thái độ giả hình của người Pharisiêu: "Các ngươi lo rửa tay, rửa chén dĩa cho sạch, mà không lo thanh luyện tâm hồn trong sạch, để tâm hồn mình đầy sự gian ác, mánh mung".
Bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao. Thái độ sống giả hình, vụ hình thức là một cám dỗ triền miên của con người mọi thời đại. Những lời trách của Chúa Giêsu đối với người biệt phái, thức tỉnh mỗi người chúng ta hôm nay trong nếp sống đức tin của mình.
Phải chăng chúng ta cũng đang rơi vào thái độ vụ hình thức giả hình, chúng ta mang thánh giá Chúa trên mình, đọc kinh trước khi dùng bữa nhưng thật sự tâm hồn chúng ta thì sao? Có đầy lòng mến Chúa, có tình yêu thương chân thành, chia sẻ, khiêm tốn phục vụ anh chị em chung quanh hay không? Chúng ta đến nhà thờ đọc kinh, nhưng tâm hồn chúng ta có đầy lòng yêu mến và tôn thờ Chúa hay không? Hay là giống như dân Do Thái ngày xưa, bị Chúa Giêsu quở trách: "Dân này kính Ta bằng môi miệng, nhưng lòng chúng thì ở xa ta. Không phải chỉ kêu lên "Lạy Chúa, Lạy Chúa" thì được vào nước Trời, nhưng chỉ những ai thi hành thánh ý Cha Ta thì người ấy mới đáng vào nước Trời". Chu toàn giới răn Chúa, tôn thờ giới răn Chúa trong Thánh Thần và trong sự thật, đó là điều quan trọng nhất. Ðức tin chúng ta cần được trưởng thành mỗi ngày một hơn.
Lạy Chúa
Xin giải thoát chúng con khỏi mọi sự giả hình, xin ban cho chúng con một tâm hồn tràn đầy tình yêu Chúa và nhờ tình yêu này mà chu toàn những lời dạy của Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 5: Dành ưu tiên cho nội tâm
Hôm nay chúng ta đề cập tới ít đoạn Phúc Âm nói về lòng thù ghét của nhóm biệt phái đối với Chúa Giêsu. Chúng cho ta phỏng đoán một trong những kích thước của sự thù nghịch con người đối với Thiên Chúa. Đó quả là một mầu nhiệm.
Một phần nào, mầu nhiệm ấy nằm ở chỗ con người cảm thấy khó sống trong “trung tâm” mình, cái trung tâm thiêng liêng của lương tâm. Khuynh hướng của con người, và ngay của tư tưởng nó, những gì điều kiện hóa nó. Cá nhân thường đánh giá mình bằng cách đối chiếu với kẻ khác. Nó tìm cách để được người ta chấp nhận và mến chuộng mình. Trên bình diện tư tưởng (và tư tưởng lắm khi do những sự chọn lựa sâu xa gây nên), một triết thuyết như thuyết mác-xít đang giản lược con người vào điều kiện vật chất của nó. Trong cả hai trường hợp, liên hệ của lương tâm với Thiên Chúa đều không có.
Chúa Giêsu quở trách bọn biệt phái một cái gì tương tự như thế, bởi họ lo lắng về bề ngoài hơn bề trong.
Nhưng lời nói sau đây mới đáng ngạc nhiên: “Vậy hãy làm phúc bố thí… thì mọi sự sẽ nên trong sạch cho các ngươi”. Trong mạch văn tổng quát của Phúc Âm, thì của bố thí có giá trị tẩy rửa trong mức độ nó diễn tả tình yêu đích thực đối với tha nhân. Tình yêu này bắt nguồn trong Thiên Chúa là Tình Yêu. Điều đó có nghĩa là con người được tẩy rửa tùy theo chỗ nó tiến gần đến Chúa Tình Yêu như thế nào. Nếu con người cố gắng yêu mến thật sự như Chúa Kitô và trong Chúa Kitô, thì nó sẽ gột bỏ được lòng ích kỷ, sẽ trở nên đơn giản, tinh tuyền.
Suy niệm 6: Rửa cái gì mới sạch nhất?
Đức Giêsu nói: “Thật nhóm Pha-ri-sêu các người, bên ngoài chén dĩa thì các ngươi rửa sạch, nhưng bên trong các ngươi thì đầy những chuyện cướp bóc, gian tà.” (Lc. 11, 39)
Bệnh dễ sợ bị lây nhiễm đủ thứ không hợp thời với mục tử. Từ lâu trước thời Đức Giêsu, luật Mô-sê đã phổ biến nghi thức thanh tẩy rất tỉ mỉ, câu nệ, lại được nhóm biệt phái cố gắng thực hành và áp đặt mọi người tuân theo.
Đối với những vết nhơ
Suốt buổi sáng người ta đi làm phải tiếp xúc với đủ mọi thứ và đủ mọi người, làm họ có thể bị ô uế như luật dạy. Trước bữa trưa, điều quan trọng buộc họ phải thanh tẩy kỹ lưỡng khỏi mọi thứ ô uế nhơ bẩn trước khi đọc kinh tạ ơn Thiên Chúa để dùng bữa.
Đức Giêsu thấy tận căn sâu thẳm: Người ta không thể hư mất do việc không thanh tẩy bên ngoài, sự ô uế bên trong mới đáng sợ. Từ lâu, tác giả Thánh vịnh đã nhận thức được điều đó: “Xin dùng cành hương thảo rửa tội tôi thì tôi được trong sạch, xin rửa tôi thì tôi được trắng hơn tuyết” (Tv. 50, 9). Chính vì thế, Đức Giêsu nhắc nhóm biệt phái. Họ ngạc nhiên thấy Người và môn đệ không rửa tay trước khi ăn. “Các ông chỉ rửa bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong các ông đầy những chuyện cướp bóc, gian tà”.
Thanh tẩy hữu hiệu, chính là tình yêu
Có gì khác giữa chúng ta và biệt phái? Chẳng phải chúng ta cũng như biệt phái, đã nồng nhiệt tiếp đón người khác theo dáng vẻ bên ngoài mà không quan tâm đến tính tình bên trong đó sao?
Đức Giêsu nói rằng chính bên trong, tận thâm sâu giữa lòng con người mới đáng kể. Nếu lương tâm mình ô uế thì không còn gì bên ngoài có thể rửa sạch được. Cần phải ăn năn sám hối tội lỗi mình và cầu xin Thiên Chúa, Đấng làm nên cả bên trong lẫn bên ngoài, mới làm cho con tim mình nên trong sạch. Lúc đó, được đầy lòng mến Chúa, mình mới hiến thân đi bố thí giúp đỡ người khác một cách không vụ lợi và không mong đáp lại. Như vậy, mới có tấm lòng trong sạch hoàn toàn. Chính tình yêu Thiên Chúa và tha nhân có sức thanh tẩy tận cõi lòng. Thánh Augustinô đã diễn tả sự thật này: “Hãy yêu mến và làm điều anh muốn” thì mới được tốt đẹp.
RC
Suy niệm 7: Cái bên ngoài không làm nên đạo đức
Trong chuyến viếng thăm mục vụ tại Brasil thuộc Châu Mỹ Latinh vào năm 1980, Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã để lại một ấn tượng hết sức đẹp, đó là: ngài đã tháo chiếc nhẫn vàng Giáo Hoàng của mình để tặng cho người dân nghèo ngoại ô thành phố Rio de Janeiro. Tuy nhiên, qua sự kiện này đã làm cho nhiều người đi cùng với ngài tỏ vẻ không hài lòng!
Hôm nay, Tin Mừng cũng thuật lại một nghĩa cử hết sức lạ thường của Đức Giêsu, đó là: Ngài đã sẵn sàng đáp lại lời mời của một người trong nhóm Pharisêu vốn đã không thích gì Đức Giêsu và giáo huấn của Ngài, để đến dự tiệc tại gia đình ông, mặc cho nhiều người chống đối, xầm xì.
Điều đáng nói ở đây chính là sự bất mãn của một số Pharisêu đối với Đức Giêsu khi Ngài không rửa tay trước khi dùng bữa. Thấy vậy, Đức Giêsu đã lật tẩy thói đạo đức vụ hình thức của họ khi nói: “Này các ông, những người Pharisêu, các ông lau rửa bên ngoài chén đĩa, nhưng nội tâm các ông đầy tham lam và gian ác. Hỡi những kẻ ngu dại, chớ thì Ðấng đã tạo thành cái bên ngoài, lại chẳng tạo thành cả cái bên trong sao?”; đồng thời, Ngài cũng mời gọi họ hãy hoán cải để đẹp lòng Thiên Chúa và được Ngài tha thứ bằng việc thực thi bác ái với tha nhân.
Qua câu nói này, Đức Giêsu muốn nói cho những người Pharisêu biết tính vụ luật của họ không được Thiên Chúa hài lòng; đồng thời họ đang dùng luật để đẩy người khác đến sự bất hạnh; hơn nữa, chính đường lối và nơi lòng họ thì đang xa cách Thiên Chúa. Điều mà những người Pharisêu cần lúc này chính là sự thanh tẩy tâm hồn, chân thành, thanh tịnh trước mặt Chúa. Những thứ bề ngoài chỉ như “màn thưa che mắt thánh”, thực ra Thiên Chúa biết hết mọi sự kín đáo từ bên trong tâm hồn mỗi người. Vì thế, điều họ đang làm và bắt người khác phải làm theo không hề có ý nghĩa trước mặt Người.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy trở về với lòng mình để thấy được đâu là điều tốt, đâu là điều xấu. Sống cốt lõi của Tin Mừng là tình liên đới, chia sẻ với người nghèo, bất hạnh, cô đơn. Tránh thói xét đoán bề ngoài như những người Pharisêu khi xưa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con có một tấm lòng bao dung, độ lượng. Xin Chúa ban ơn giúp sức để chúng con can đảm sống thật với lương tâm của mình, để được bình an và hạnh phúc thật. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 8: Tôn thờ Thiên Chúa là sống trong tình yêu
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chỉ lo giữ luật lệ tập tục mà ích kỷ với tha nhân là một sự giả hình. Tôn thờ Thiên Chúa cách chân thành là phải sống trong tình yêu.
Cầu nguyện: Lạy Cha là Thiên Chúa tình yêu, ở nơi Cha tất cả chỉ là tình yêu. Cha đã thông ban tình yêu Cha cho con để con biết sống yêu thương. Càng yêu thương, con càng trở nên giống Cha. Và càng yêu thương, con càng là một Kitô hữu sống đạo đích thực.
Đạo của Cha là đạo yêu thương. Đạo của Cha không phải là đạo của luật lệ hoặc đạo của nghi lễ, cũng chẳng phải là đạo của tín điều hay đạo của phép lạ. Nhưng con đã dừng lại ở đó, thay vì từ đó mà đi tìm gặp Cha. Con đã dừng lại ở đó mà quên mất anh chị em con. Bao nhiêu lần con đã chu toàn mọi lề luật, nhưng lại quên sống luật yêu thương. Bao nhiêu lần khi xét mình xưng tội, con đã chú ý tới những việc xấu làm con ra ô uế, nhưng Chúa Giêsu còn cho con hiểu rằng cướp bóc, gian tà, ích kỷ hẹp hòi với người khác, cũng làm con ra ô uế không kém.
Lạy Cha, xin thanh tẩy lòng con khỏi sự gian ác, hận thù, ích kỷ. Xin đừng để con chỉ lo sạch sẽ đẹp đẽ bề ngoài, mà trong lòng thì dửng dưng không quan tâm đến người khác. Xin đừng để con chỉ chú ý tới các tổ chức, các nghi lễ bề ngoài long trọng, mà lại sống ích kỷ hẹp hòi với nhau. Xin đừng để con chỉ lo bảo vệ mọi thứ thủ tục và quy luật, để rồi loại trừ nhau, lên án nhau, bỏ rơi và nghi kỵ nhau.
Lạy Cha, xin đừng để con ung dung bình thản trong một thứ đạo ru ngủ lương tâm. Xin Cha giúp con luôn sống trong tình yêu chân thành. Amen.
Ghi nhớ: “Hãy bố thí, thì mọi sự sẽ nên trong sạch cho các ông”.
Suy niệm 9: Sống tâm tình yêu thương đích thực
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một bà mẹ lo lắng nhiều cho đứa con trai không đi nhà thờ, mà lại đi theo những bạn bè xấu và còn tỏ ra bất mãn mọi chuyện. Bà mẹ đau khổ này đã tìm mọi cách để đưa con về con đường tốt, nhưng tất cả đều vô ích. Vào một ngày Chúa nhật, bà nảy ra một ý tưởng. Gọi đứa con trai lại, bà nói: “Con làm ơn giúp mẹ một chuyện. Hãy đem gói đồ này đến cho gia đình ở căn nhà trong khu phố đối diện với chúng ta. Nếu con làm cho mẹ việc này, mẹ hứa sẽ không bao giờ quấy rầy con nữa”.
Có lẽ để khỏi nghe tiếng mẹ giảng dạy, la rầy, chàng thanh niên đã nhận làm điều mẹ anh yêu cầu. Anh đi đến địa chỉ như mẹ dặn, bước vào một căn nhà nghèo nàn và bỡ ngỡ đến tột điểm, anh đã khám phá thấy một người đàn bà đau ốm chỉ còn da bọc xương với ba đứa con nhỏ, rách rưới, lem luốc, đang than khóc, kêu la vì đói. Chàng thanh niên trao vội gói đồ và muốn nhanh bước rút lui. Nhưng người đàn bà đã gọi giật anh trở lại, và qua giọng yếu ớt bà thều thào: “Cậu ơi! Cậu không thể đi ngay được khi tôi chưa kịp cám ơn cậu. Cậu là ơn quan phòng Chúa gửi đến cho chúng tôi. Xin Ngài trả ơn cho cậu”.
Chàng ra về với tấm lòng bị cảm xúc mạnh. Ngày hôm sau, anh trở lại nhà bà mẹ đang bị đau ốm với đàn con nheo nhóc hôm qua với một gói quà khác, mà anh đã mua với chính tiền của anh. Và sau khi trao quà, anh còn ở lại chơi với mấy đứa nhỏ. Kể từ đó, chàng thanh niên đã thay đổi cuộc đời, vì lòng nhân hậu đã làm anh mỗi ngày hiểu được ý nghĩa của cuộc sống và nhờ đó anh cảm thấy hạnh phúc hơn (Theo Lòng nhân từ cảm hóa).
Suy niệm
Với người dân Do Thái, người thu thuế là tay sai cho đế quốc La Mã, đô hộ và bóc lột đồng bào. Hơn nữa, thu thuế là nghề nghiệp có thể lợi dụng chức quyền ăn chặn của công, của tư để trục lợi cho bản thân. Giakêu “sếp thu thuế” là ông trùm người tội lỗi, con người ghê tởm, đáng bị mọi người ghét bỏ.
Giakêu thắc mắc, tò mò về Chúa Giêsu, Người đang được thiên hạ bàn tán xôn xao khắp cùng ngõ hẻm. Không biết hỏi ai, ông cũng hòa với đám đông, nhưng không để đón, mà để xem ông Giêsu thế nào cho thỏa sự tò mò. Người ông thấp bé không thể thấy Đấng Ngôn sứ Giêsu, nên chỉ còn cách chạy lên đằng trước leo lên cây sung nhìn xuống (x. Lc 19,3-4). Chúa Giêsu đi ngang qua Giêricô, Ngài đi ngang chỗ của Giakêu. Ngài dừng lại và ngước nhìn lên chỗ Giakêu, cái nhìn nhân từ và khoan dung, Ngài cất lời: “Này Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” (Lc 19,5).
Đấng ban ơn cứu độ, đầy lòng nhân từ và xót thương. Chính tấm lòng đó đã làm thay đổi Giakêu. Giakêu không còn chỉ thấy tiền bạc, quyền lực, giàu sang, nhưng giờ đây mang tâm tình chia sẻ và trao ban: “Thưa Ngài, này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo, và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn” (Lc 19,8). Ông Giakêu xin đền gấp bốn, nghĩa là ông tự thú công khai: Tội ông quá nặng. Còn theo luật Rôma, đối với những tội trộm cắp công khai thì phải đền gấp bốn. Cho nên, quyết định của ông vừa là khiêm nhường, vừa là công bình, vừa là bác ái.
Sống trong tinh thần công bình bác ái khiêm cung là kết quả của ơn cứu độ như Chúa Giêsu có nói: “Ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham” (Lc 19,9). Ơn cứu độ đã khiến cho con tim của Giakêu đổi mới như ngôn sứ Êdêkien nói Lời Thiên Chúa: “Ta sẽ ban cho ngươi một trái tim mới và đặt một tinh thần mới trong người của Ta, hầu các ngươi giữ gìn và hành động theo đúng lệnh Ta” (Ed 36,26).
Hình ảnh đổi mới của Giakêu, gợi cho chúng ta mang tâm tình: Khao khát gặp Chúa Giêsu. Được gặp tình thương của Chúa thanh tẩy, chúng ta bước ra khỏi vùng trũng thẳm sâu tăm tối và tiến lên với một tinh thần mới, tinh thần công bình bác ái như Giakêu. Tinh thần chúng ta vượt qua tăm tối tiến lên Giêrusalem ánh sáng trong niềm vui được cứu độ. Bởi vì “Thiên Chúa đã viếng thăm cứu chuộc dân Người” (Lc 1,68).
Ý lực sống
“Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”. (Lc 19,10b)
Suy niệm 10: Chúa khuyên đừng vụ hình thức
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Các người biệt phái vẫn chống đối Đức Giêsu, tuy nhiên không phải tất cả, vì một số người có thiện cảm với Chúa và mời Người tới dự bữa cơm gia đình. Nhân dịp này, Đức Giêsu đưa ra một bài học về những cái bên ngoài và bên trong: bên ngoài là việc tuân thủ những qui định về hình thức; bên trong là lòng đạo thật. Nhóm biệt phái chỉ chú trọng đến cái bên ngoài và bỏ quên cái bên trong.
Theo thói thường, việc rửa tay trước khi ăn là một thói quen tốt giúp an toàn vệ sinh, nó như một nét văn hoá được các giáo viên mầm non tập cho trẻ từ thuở bé. Và ở nhiều nơi trên thế giới, việc rửa tay trước khi ăn đã trở thành một tập tục, thậm chí như là một điều buộc phải làm để giữ vệ sinh. Tuy nhiên, đối với các biệt phái thì nó được giải thích như là một điều luật và là một nghi thức tôn giáo, để đánh giá con người trong sạch hay dơ bẩn.
Tin mừng hôm nay thuật lại việc Đức Giêsu nhận lời mời của một trong nhóm biệt phái đến dùng bữa tại nhà minh, và những người này đã không thích gì Đức Giêsu và giáo huấn của Ngài, mặc dầu cho nhiều người chống đối xầm xì. Nhưng điều đáng nói ở đây là sự bất mãn của một số biệt phái đối với Đức Giêsu khi Ngài không rửa tay trước khi dùng bữa. Thấy vậy, Đức Giêsu đã lật tẩy thói đạo đức vụ hình thức của họ khi nói: “Này các ông, những người biệt phái, các ông lau rửa bên ngoài chén đĩa, nhưng nội tâm các ông đầy tham lam và gian ác. Hỡi những kẻ ngu dại, chớ thì Đấng tạo thành cái bên ngoài, lại chẳng tạo thành cả cái bên trong sao ?” Đồng thời, Ngài cũng mời gọi họ hãy hoán cải, để đẹp lòng Thiên Chúa và được Ngài tha thứ bằng việc thực thi bác ái với tha nhân.
Qua bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu dạy cho chúng ta bài học về sự trong sạch đúng nghĩa. Nhóm biệt phái bắt bẻ Đức Giêsu và các môn đệ Ngài không rửa tay trước bữa ăn, họ cho rằng đó là lề luật. Đức Giêsu sửa lại những quan điểm sai lầm đó là lối sống vụ luật, hình thức. Việc rửa tay trước khi ăn là đều tốt bên ngoài nhằm bảo vệ sức khoẻ. Nhưng chúng ta không dừng lại ở việc thanh tẩy bên ngoài, mà phải thanh tẩy bên trong tâm hồn trong sạch bằng lối sống công chính trong suy nghĩ và đối xử với tha nhân. Chính lòng quảng đại tha thứ đối với tha nhân có giá trị tẩy rửa tâm hồn và nâng cao giá trị tâm linh cho con người (5 phút Lời Chúa).
Lời Chúa nói với người biệt phái cũng là lời cảnh tỉnh cho con người thuộc mọi thời đại. Bên ngoài người ta có thể là những người rất đạo mạo, lịch sự, danh giá, chức quyền, sang trọng, nhưng bên trong lại chất chứa đầy sự tham lam độc ác “đầy những chuyện cướp bóc, gian tà”. Bên ngoài đẹp như hàng “gin” của Tây Âu, nhưng bên trong thì là linh kiện rởm của những kẻ bắt chước. Nhiều người chúng ta tô điểm cho vẻ bề ngoài của mình để được nổi trội, kể cả việc làm phúc bố thí, nhưng bên trong đầy những mưu mô ngầm ý về danh tiếng và danh vọng.
Quan niệm và tâm thức của những người biệt phái thời Đức Giêsu coi các phong tục, tập quán, luật lệ là cốt tủy của việc thờ phượng Thiên Chúa và có giá trị như trọng tâm của tôn giáo, do đó những ý nghĩa cao thượng khác của niềm tin và tôn giáo cũng như những giá trị luân lý quan trọng hơn hầu như bị chôn vùi dưới lớp bụi dày đặc của những luật lệ rườm rà tỉ mỉ; tâm thức này đưa họ đến việc giữ đạo vụ hình thức. Câu trả lời của Đức Giêsu hướng con người vào những giá trị bên trong, quan tâm đến điều cốt yếu là sự trong sạch của lương tâm và tâm hồn (Mỗi ngày một tin vui).
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn” hay “Cái nết đánh chết cái đẹp”, để khẳng định rằng: giá trị bên trong cao quý hơn những gì người ta thấy bên ngoài. Trước những người biệt phái quá chú trọng về hình thức và luôn tự coi mình là công chính, Đức Giêsu nhắc nhở họ hãy nhìn lại bên trong con người mình. Qua lời nhắc nhở này, Đức Giêsu cũng muốn nói với chúng ta hôm nay: Đừng chỉ lo cho bề ngoài tươm tất, thơm tho mà quên mất phần tô điểm cho vẻ đẹp tâm hồn, bằng cách “bố thí” những gì tốt đẹp bên trong. Đó là cách để chúng ta được nên trong sạch.
Truyện: Cần thanh tẩy cõi lòng
Có hai vị thiền sư trên đường về tu viện sau một cơn mưa, tình cờ họ gặp một cô thiếu nữ xinh đẹp đang đứng trước vũng sình to lớn chắn lối đi. Thấy vậy, một trong hai vị liền cõng cô trên vai rồi lội qua vũng sình để qua bên kia bờ. Vị tu sĩ cùng đi chung thấy cảnh tượng đó lấy làm khó chịu và cho đó là một gương mù gương xấu.
Suốt hai tiếng đồng hồ ông ta trách mắng vị tu sĩ đã cõng người con gái qua vũng sình bùn, vì làm như thế là đã phá giới của đạo rồi. Ông nói với vị tu sĩ kia rằng: “Thầy không biết mình là người tu sĩ sao ? Tại sao thầy dám đụng đến một người phụ nữ. Hơn nữa, khi thầy cõng cô ta qua vũng sình lầy như vậy dân chúng thấy sẽ suy nghĩ như thế nào ? Họ còn tin vào đạo nữa không ?”
Vị tu sĩ bị mắng vẫn kiên trì lắng nghe, cuối cùng ông ta đáp lại rằng: “Thưa thầy, tôi đã để cô gái ở lại bên bờ kia rồi, còn thầy mới chính là kẻ cõng cô gái đó trong lòng mình”.
Suy niệm 11: Sống con người thật tin vào Chúa
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Một người Pharisêu mời Chúa đến nhà dùng bữa. Đây là một người Pharisêu có cảm tình với Chúa và thường nghe Chúa giảng dạy. Chúa không rửa tay trước khi ăn. Người Pharisêu tỏ vẻ ngạc nhiên. Là người Do Thái, Chúa Giêsu thừa biết luật lệ buộc phải rửa tay trước khi ăn, nhưng tại sao hôm nay Chúa lại không làm như thế ? Có người nghĩ rằng, Chúa cố ý tạo ra một cơ hội để dạy cho gia đình người Pharisêu này cũng như những người đồng bàn hôm nay một bài học về lối sống giả hình mà họ ưa chuộng. Chúa nặng lời chê trách họ bởi vì họ chỉ biết sống cái mã, cái giả dối bên ngoài, còn bên trong thì họ chẳng đế ý tới.
Truyện kể lại rằng, có một linh mục kia hay trò chuyện với một người đàn bà đẹp, và trò chuyện cả ở những nơi công cộng nữa. Nhà dòng đều lấy làm vấp phạm về điều này.
Cuối cùng, Giám mục gọi ngài lên trách mắng và yêu cầu giải thích sự việc. Vị linh mục nói:
- Thưa Đức Cha, con luôn quan niệm rằng, thà nói chuyện với một người đàn bà đẹp với những ý tưởng hướng về Thiên Chúa, còn hơn là cầu nguyện với Chúa mà có những tư tưởng hướng về người đàn bà đẹp.
Thánh Phêrô đã viết cho các tín hữu của mình như thế này: “Anh em hãy từ bỏ mọi thứ gian ác, mọi điều xảo trá, giả hình và ghen tương cùng mọi lời nói dèm pha. Như trẻ thơ, anh em hãy khao khát sữa tinh tuyền là Lời Chúa, nhờ đó anh em sẽ lớn lên để hưởng ơn cứu độ.” (1Pr 2,1-2)
Truyện kể rằng: Ngày kia, Nữ hoàng Shaba gởi đến vua Salomon hai bó hoa rất giống nhau, để thử xem sự khôn ngoan của ông tới đâu. Đó là một bó hoa thật và một bó hoa giả.
Nhận được hai bó hoa, nhà vua bèn mở cửa sổ cho bầy ong bướm bay vào. Tức thì các chú ong và các nàng bướm liền sà ngay xuống những bông hoa thật.
Những bông hoa giả có sắc mà chẳng có hương, có bóng hình mà không có sự sống.
Những kẻ giả hình cũng như thế: nói nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu. Thậm chí, chỉ nói suông mà không có thực hành. Họ dung túng cho mình nhưng lại nghiêm khắc với kẻ khác.
Người giả hình có nhiều tật xấu khác mà Đức Giêsu không tiếc lời chỉ trích. Chắng hạn, tính khoe khoang công đức, thích ăn trên ngồi trước, ưa được kính trọng chào hỏi nơi công cộng, và muốn người ta gọi mình là “thầy”.
Phần chúng ta thì sao kính thưa anh chị em ?
Giả như có ai đó nói chúng con giả hình, chắc là chúng ta sẽ buốn lắm, nhưng khi đối diện với chính mình, thành thực mà nói nhiều lúc chúng ta cũng thấy mình có ít nhiều giả dối. Chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta tháo gỡ đi những thứ mặt nạ mà bấy lâu nay đã làm cho khuôn mặt chúng ta biến dạng, để chúng ta không còn sống đánh lừa Chúa, đánh lừa nhau và đánh lừa chính mình. Xin Chúa dạy cho chúng ta luôn biết sống chân thành trước mặt Chúa và mọi người.
2. Rồi khi chỉ trích những người Pharisêu quá chú trọng đến bề ngoài, không phải Chúa Giêsu chủ trương chỉ lo đến bề trong. Thực ra “Chúa Giêsu muốn chúng ta có cái nhìn toàn diện về cuộc sống, về những biến cố xảy đến cho con người (...) Phải có sự thống nhất trong ý hướng và hành động. Phải có sự hòa hợp giữa đức tin và việc làm. Đi xa hơn nữa, chúng ta có thể nói, Chúa Giêsu không muốn tách biệt giữa cái bên trong với cái bên ngoài, cái thánh thiêng với cái phàm tục”
Vào một đêm trời lạnh năm l980, thanh niên Paul Keating 27 tuổi đang đi bộ trong khu Greenwich Village, bỗng thấy có hai tên cướp có súng tấn công một sinh viên trẻ tuổi.
Paul Keating là một người hiền lành, thợ chụp ảnh cho tuần báo Time, có đủ lý do để tránh đi cho khỏi vạ lây. Anh ta không hề quen biết chàng sinh viên đó, lại cũng chẳng ai thấy việc gì xảy ra. Hơn nữa, anh ta chỉ có một thân một mình, can thiệp vào chẳng được lợi gì mà còn có thể bị hại. Nhưng Paul Keating vẫn xông vào đánh hai tên cướp. Nhờ đó nạn nhân thoát được và đến một cửa hiệu gần đó kêu cứu. Vài giây sau, hai tiếng nổ vang lên trong đêm tối, hai kẻ cướp chạy mất, bỏ lại Paul Keating nằm chết trên vũng máu.
Thành phố New York về sau đã truy tặng huy chương anh dũng cho Paul Keating. Thị trưởng Edward Koch trong buổi lễ nói:
- Đêm hôm ấy không ai thấy Paul Keating cả. Cũng không ai thúc đẩy anh ta phải xông pha vào lúc nguy biến. Anh ta đã can thiệp vì con người anh ta là như vậy, và chỉ có Thiên Chúa, Ngài biết rõ bên trong tâm hồn của anh ta.
Can đảm đúng là sự biểu lộ con người thật của chúng ta. Những hỗ trợ bên ngoài có thể tạm làm cho ta an tâm, nhưng chỉ có đức tính thật bên trong mới tạo ra sự quả cảm. Người tin vào Chúa phải chứng thực được lòng tin của mình bằng sự can đảm cao thượng.
Suy niệm 12: ,,,
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
1. Hoàn cảnh: Một người pharisêu mời Chúa Giêsu đến nhà dùng bữa. Vừa vào nhà, Chúa Giêsu “liền vào bàn ăn”: nghĩa là Ngài không rửa tay trước. Nhóm Pharisêu coi các nghi thức thanh tẩy rất quan trọng, không phải vì lý do vệ sinh mà vì lý do luân lý, nhằm tẩy xóa những ô uế mà ta có thể vô tình bị lây nhiễm khi tiếp xúc với những kẻ tội lỗi. Trong câu chuyện này, không phải Chúa Giêsu quên, mà đó là lập trường cố hữu của Ngài (x. 11,14.29). Dĩ nhiên người pha-risêu ấy ngạc nhiên và thầm khó chịu trong lòng.
2. Nhân dịp này, Chúa Giêsu đưa ra một bài học về những cái bên ngoài và bên trong: bên ngoài là việc tuân thủ những quy định về nghi thức; bên trong là lòng đạo đức thật. Nhóm pharisêu chỉ chú trọng tới cái bên ngoài và bỏ quên cái bên trong.
3. Tiếp theo Chúa Giêsu nói về “sự bố thí”. Ngài khẳng định rằng bố thí có thể thay thế mọi quy định lề luật: đối với người bố thí cho kẻ nghèo thì mọi cái đều tinh sạch.
B.... nẩy mầm.
1. Cái nhìn toàn diện: Khi chỉ trích những người biệt phái quá chú trọng đến bề ngoài, không phải Chúa Giêsu chủ trương chỉ lo đến bề trong. Thực ra “Chúa Giêsu muốn chúng ta có cái nhìn toàn diện về cuộc sống, về những biến cố xảy đến cho con người (...) Phải có sự thống nhất trong ý hướng và hành động. Phải có sự hòa hợp giữa đức tin và việc làm. Đi xa hơn nữa, chúng ta có thể nói Chúa Giêsu không muốn tách biệt giữa cái bên trong với cái bên ngoài, cái thánh thiêng với cái phàm tục” (Trích “Mỗi ngày một tin vui”).
2. Nhìn tượng Trái tim Chúa Giêsu, một người nói: “Có lẽ Chúa Giêsu là người duy nhất dám đưa trái tim bên trong của mình ra ngoài cho người ta thấy”. Người thứ hai góp ý: “Ngài là người độc nhất trong lịch sử không cần che dấu gì về mình cả”. (Onward)
3. Một ông vua kia rất ham mặc áo quần đẹp. Hai tên lưu manh đến gạ gẫm: “Chúng tôi có thể dệt và may cho bệ hạ một bộ áo rất đặc biệt từ xưa tới nay chưa ai từng thấy. Nhưng áo này phải dệt bằng vàng”. Vì quá ham bộ áo đặc biệt ấy, nhà vua đưa cho hai tên ấy hết túi vàng này tới túi vàng khác. Thực ra chúng chẳng may gì cả. Rồi một hôm hai tên lưu manh cho biết áo đã may xong, mời nhà vua mặc thử. Chúng chỉ làm cử điệu tay chân như đang mặc áo cho nhà vua. Khi chúng cho biết đã mặc xong, nhà vua hỏi các quan chung quanh “Áo ta có đẹp không ?” Ai nấy trầm trồ khen nức nở. Quá phấn khởi, nhà vua bảo quân hầu kiệu ngài ra các đường phố để khoe áo đẹp. Dân chúng hai bên đường cũng nức nở khen. Nhà vua rất sung sướng. Bỗng nhiên một đứa trẻ hô lớn: “Ông vua ở truồng ! Ông vua ở truồng !”. Nhà vua nhìn lại mình và mới biết mình đang ở truồng thật.
4. “Đồ ngốc ! Đấng làm tra cái bên ngoài lại đã không làm ra cái bên trong sao ?” (Lc 11,40)
Cứ hè đến là nó đi tĩnh tâm hay đi linh thao. Như mọi người, nó cũng thinh lặng, nhận điểm, dự cầu nguyện, dự lễ, xưng tội, và còn nức nở sám hối nữa ! ! ! Ai cũng nghĩ nó là người đạo đức. Nhưng lần này nó lộ nguyên hình là đứa đạo đức giả, đúng hơn, một “diễn viên kịch” đại tài trong đời sống đức tin. Điều lạ lùng là nó cũng thừa nhận như vậy. Khi bị chất vấn, nó cười chua chát: “Phải, tôi chưa tin Chúa, tôi đi tìm Ngài và ước ao được thấy Ngài và ước ao được thấy Ngài qua đời sống của các bạn. Để được đón nhận nhanh nhất, bằng mọi giá, tôi phải có hình thức giống mọi người. Tôi phải trở thành Pharisêu...”
Lạy Chúa, chúng con không chuộng lối sống đạo hình thức, nhưng lại đánh giá và chỉ chấp nhận nhau khi có sự đồng điệu ở bề ngoài. Vô tình chúng con xô đẩy nhau đến chỗ trở thành những pharisêu chính hiệu. Chúa ơi, xin đừng để ai muốn tìm Chúa nơi con phải thất vọng. (Hosanna)
11/10 Dấu lạ Gio-na
- Viết bởi Lc 11, 29-32
Dấu lạ Gio-na.
Thứ Hai tuần 28 thường niên.
"Không ban cho dòng giống này điềm lạ nào ngoài điềm lạ của tiên tri Giona".
Lời Chúa: Lc 11, 29-32
Khi ấy, thấy dân chúng từng đoàn lũ tụ tập lại, Chúa Giêsu phán rằng: "Dòng giống này là dòng giống gian ác. Chúng đòi điềm lạ, nhưng sẽ không ban cho chúng điềm lạ nào, ngoài điềm lạ của tiên tri Giona. Vì Giona đã nên điềm lạ cho dân thành Ninivê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là điềm lạ cho dòng giống này như vậy.
Đến ngày phán xét, nữ hoàng phương nam sẽ đứng lên tố cáo và lên án dòng giống này, vì bà đã từ tận cùng trái đất mà đến nghe sự khôn ngoan của Salomon. Nhưng ở đây còn có người hơn Salomon. Dân thành Ninivê cũng sẽ đứng lên tố cáo và lên án dòng giống này, vì họ đã sám hối theo lời Giona giảng, nhưng ở đây còn có người hơn Giona nữa".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Tìm kiếm dấu lạ
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Theo nhận xét của thánh Phaolô trong thư gửi giáo hữu Côrintô,
“Người Do Thái đòi hỏi dấu lạ,
còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan” (1 Cr 1, 22).
Có vẻ người Do Thái thích dấu lạ và đòi hỏi dấu lạ để tin.
Đối với họ, dấu lạ là một bảo đảm cho tính chân thực của lời rao giảng.
Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ trong mấy năm rao giảng Tin Mừng.
Trừ quỷ và chữa những bệnh nan y là những dấu lạ Ngài hay làm.
Ngài chữa người mù bẩm sinh, người phong, người nhiều năm bất toại.
Ngài hoàn sinh con gái ông Giairô, con trai bà góa thành Nain,
và nhất là cho anh Ladarô chết chôn trong mồ bốn ngày được sống lại.
Có những dấu lạ Ngài làm trên thiên nhiên mà chỉ các môn đệ biết,
như bắt bão táp phải lặng yên hay đi trên mặt nước lúc sóng gió.
Cũng có dấu lạ trước mặt cả ngàn người như làm cho bánh hóa nhiều.
Không ai có thể phủ nhận chuyện Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ (Ga 11, 47).
Nhưng Ngài không làm dấu lạ để biểu diễn phô trương.
Ngài cũng không dùng dấu lạ để mua lòng tin của dân chúng.
Dấu lạ của Đức Giêsu không qui về vinh quang hay lợi lộc cho Ngài,
nhưng nhắm đến việc khai mở Nước Thiên Chúa và hạnh phúc nhân loại.
Nhiều lần Ngài thắng được cám dỗ làm dấu lạ.
Ngài đã không biến đá thành bánh để ăn cho no bụng
hay nhảy xuống từ nóc Đền thờ để dân chúng kinh ngạc tung hô.
Ngài cũng không biểu diễn vài dấu lạ trước mặt Hêrôđê để được tha.
Trên thập giá, Ngài đã không đáp lại thách đố của các nhà lãnh đạo.
“Hắn đã cứu người khác, thì hãy cứu lấy mình đi!” (Lc 23, 35).
Đức Giêsu đã làm dấu lạ cho người khác, nhưng không làm cho mình.
Ngài không tự cứu lấy mình, nghĩa là không xuống khỏi thập giá.
Hôm nay, chúng ta có thể không mãn nguyện như người Do Thái xưa.
Tuy Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ trong đời ta,
nhưng, như họ, ta vẫn đòi một dấu lạ đầy ấn tượng từ trời.
Chúng ta muốn một dấu chỉ không thể chối cãi được
để tin thật sự có Thiên Chúa, tin Ngài mạnh hơn sự dữ ở quanh ta.
Nhưng chúng ta quên rằng Thiên Chúa cũng là Đấng ẩn mình,
và quyền năng của Ngài được biểu lộ qua sự bao dung khiêm hạ.
Chúng ta chờ dấu lạ về việc Đức Giêsu hùng mạnh đến giải thoát ta,
nhưng lại quên rằng Ngài cũng thích cùng ta âm thầm chịu đau khổ.
Làm sao tôi nhận ra được những dấu rất lạ mà lại rất đỗi bình thường,
những dấu lạ lớn lao mà nhỏ bé Chúa vẫn làm cho đời tôi?
Làm sao tôi nhận ra được cái bình thường của đời tôi cũng là dấu lạ?
Ngỡ ngàng như trẻ thơ trước những điều mà nhiều người coi là tự nhiên,
tôi dần dần hiểu rằng đời tôi được bao bọc bởi tình yêu là dấu lạ.
Thay vì bôn chôn tìm kiếm và đòi hỏi những điều ngoạn mục, ly kỳ,
tôi khám phá ra Chúa vẫn ở bên tôi trong những điều đơn sơ nhỏ bé.
Xin được ơn sám hối chỉ vì những dấu lạ bình thường Chúa ban cho đời tôi.
Cầu nguyện:
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,
những ơn con thấy được,
và những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng
con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng,
biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những gì
Cha không ban cho con,
và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì
Cha cương quyết không ban
bởi lẽ điều đó có hại cho con,
hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha
dù con không hiểu hết những gì
Cha làm cho đời con. Amen.
Suy niệm 2: Dấu chỉ ơn cứu độ
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thiên Chúa đã làm muôn vàn điềm kỳ dấu lạ. Tuy nhiên dấu lạ quan trọng nhất là dấu chỉ ơn cứu độ. Chính vì thế Chúa Giê-su cho biết sẽ tái diễn dấu lạ Gio-na.
Dấu lạ Gio-na là tình thương của Chúa. Muốn cứu độ dân Ni-ni-vê. Nên sai Gio-na đến. Đó là dấu lạ của quyền năng. Cho Gio-na vào bụng cá ba ngày vẫn còn sống. Trên hết đó là dấu lạ của ơn cứu độ. Nhưng ơn cứu độ chỉ đến được với người có niềm tin. Dân Ni-ni-vê ngoại đạo nhưng lại tin vào Chúa và tin lời Gio-na. Ăn năn sám hối nên được ơn cứu độ.
Chúa Giê-su còn hơn Gio-na. Nếu Gio-na là người được Chúa sai đến. Thì Chúa Giê-su là Thiên Chúa đích thân đến. Nếu Gio-na miễn cưỡng đến rao giảng. Thì Chúa Giê-su yêu thương con người, tự nguyện đến tìm con người. Nếu Gio-na được Chúa cho vào bụng cá ba ngày không chết. Thì Chúa Giê-su tự mình sống lại sau khi chết thật. Đó là dấu lạ lớn lao của ơn cứu độ. Tiếc rằng người Do thái không tin. Vì thế họ sẽ bị phán xét nặng nề. “Trong cuộc Phán Xét, dân thành Ni-ni-vê sẽ trỗi dậy cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Gio-na rao giảng; mà đây thì còn hơn ông Giô-na nữa”.
Thư Rô-ma cho thấy tình yêu thương của Thiên Chúa có từ muôn ngàn đời. Muốn cứu độ con người qua các sứ giả. Nhưng đến thời sau cùng Thiên Chúa ban chính Con Một. Cái chết và sự sống lại của Chúa Giê-su cho thấy quyền năng và tình yêu cứu độ của Chúa. Vì thế thánh Phao-lô nguyện suốt đời đem Tin Mừng cứu độ đến cho mọi người. Để tình yêu và quyền năng Thiên Chúa được rạng rỡ: “Nhờ Người chúng tôi nhận được đặc ân và chức vụ Tông Đồ, làm cho hết thảy các dân ngoại vâng phục Tin Mừng hầu danh Người được rạng rỡ”(năm lẻ).
Chúa Giê-su ban ơn cứu độ. Để ta được giải thoát khỏi ách nô lệ tội lỗi. Để ta được tự do. Chúa mặc lấy thân nô lệ để ta được tự do. Chúa chịu chết cho ta được sống. Ta hãy biết trân trọng tự do. Vì nó được chuộc lại bằng giá rất đắt. Ta hãy biết trân trọng sự sống. Vì nó được chuộc lại bằng giá Máu Chúa. Đó là dấu lạ lớn lao. Đó là dấu chỉ vĩ đại. Dấu chỉ tình yêu. Dấu chỉ ơn cứu độ. “Chính để chúng ta được tự do mà Đức Ki-tô đã giải thoát chúng ta. Vậy, anh em hãy đứng vững, đừng mang lấy ách nô lệ một lần nữa” (năm chẵn).
Suy niệm 3: Dấu Lạ Cả Thể
Thế nào là phép lạ? Theo quan niệm thông thường, khi một sự kiện có giá trị tích cực không thể giải thích được thì đó là phép lạ. Những người có niềm tin tôn giáo thì cho rằng phép lạ là một sự can thiệp của Chúa.
Giáo Hội Công Giáo luôn tin có phép lạ, nhưng trong thực tế lại tỏ ra vô cùng thận trọng trong việc nhìn nhận các phép lạ; cụ thể là những gì đã và đang xảy ra tại Trung tâm Thánh Mẫu Lộ Ðức bên Pháp: từ hơn 100 năm nay, đã có trên 2,000 trường hợp khỏi bệnh được nhiều người xem là phép lạ, nhưng cho tới nay, Giáo Hội Công Giáo chỉ chính thức nhìn nhận 67 vụ thực sự là phép lạ theo đúng nghĩa mà thôi.
Thế nào là phép lạ? Thiên Chúa có còn làm phép lạ không? Ðó là những câu hỏi mà Tin Mừng hôm nay như muốn nêu lên để chúng ta cùng suy nghĩ. Chúa Giêsu thực sự làm nhiều phép lạ: Ngài biến nước thành rượu, Ngài nhân bánh và cá ra nhiều để nuôi sống đám đông, Ngài chữa lành bệnh tật, Ngài làm cho kẻ chết sống lại. Tất cả những phép lạ Chúa Giêsu thực hiện đều nhắm nói lên sứ mệnh của Ngài và Ngài chính là Ðấng Thiên Chúa sai đến để cứu rỗi nhân loại. Một số người Do thái đã tin nhận và đi theo Ngài, nhưng phần đông vẫn tỏ ra dửng dưng trước những lời rao giảng của Ngài. Riêng những thành phần lãnh đạo trong dân, như nhóm Biệt Phái, thì chẳng những không tin nhận, mà còn chống đối Ngài ra mặt; họ thách thức nếu Ngài làm một dấu lạ cả thể thì họ mới tin nhận Ngài.
Trước thái độ đó, Chúa Giêsu mượn hình ảnh của tiên tri Yôna để nói về Ngài. Tiên tri Yôna đã đến Ninivê để rao giảng sự sám hối, tất cả các phép lạ của Chúa Giêsu cũng đều nhằm nói lên sứ mệnh của Ngài và kêu gọi sám hối. Tiên tri Yôna đã ở trong bụng kình ngư ba ngày ba đêm. Giáo Hội tiên khởi đã xem đây như là một dấu chỉ loan báo chính cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu. Như vậy, nếu có một dấu lạ cả thể mà Chúa Giêsu thực hiện để đáp lại thách thức của những người Biệt phái, thì dấu lạ đó không gì khác hơn là chính cái chết của Ngài; chết để nên Lời, và Lời ấy là Lời của Yêu Thương.
Ngày nay, không thiếu những người thách thức Thiên Chúa. Cũng như những người Biệt phái, họ đòi Thiên Chúa phải làm một dấu lạ cụ thể nào đó, họ mới tin nhận Ngài. Nhưng mãi mãi, Thiên Chúa sẽ không bao giờ hành động như thế. Ngài mãi mãi vẫn là Thiên Chúa Tình Yêu. Ngài đã nhập thể làm người và sống cho đến tận cùng thân phận làm người. Cái chết trên Thập giá vốn là tuyệt đỉnh của thân phận làm người, do đó đã trở thành dấu lạ cả thể nhất mà Thiên Chúa đã thực hiện, đó là dấu lạ của tình yêu.
Thiên Chúa vẫn tiếp tục bày tỏ dấu lạ cả thể ấy. Trong trái tim mỗi người, Thiên Chúa đã đặt vào đó sức mạnh vĩ đại nhất là tình yêu. Sức mạnh ấy không ngừng nung nấu con người; sức mạnh ấy đang được thể hiện qua những nghĩa cử mà chúng ta có thể bắt gặp mỗi ngày.
Ðó là phép lạ cả thể nhất Thiên Chúa đang tiếp tục thực hiện trong lịch sử con người.
Tình yêu vốn là sức mạnh vĩ đại nhất, nhưng thường lại được bày tỏ qua những cử chỉ nhỏ bé và âm thầm nhất. Một nụ cười thân ái, một cái xiết tay, một lời an ủi, một cử chỉ tử tế, một ánh mắt cảm thông và tha thứ, đó là những cử chỉ nhỏ, nhưng lại là biểu hiện của dấu lạ cả thể nhất là tình yêu.
Ước gì chúng ta luôn thức tỉnh để nhận ra phép lạ Thiên Chúa vẫn tiếp tục thực hiện trong cuộc sống chúng ta. Ước gì chúng ta cũng trở thành dấu lạ cho những người xung quanh.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Dấu Lạ Ông Giôna
Chắc mỗi người chúng ta ít nhiều đều trải qua kinh nghiệm gặp một con người ngoan cố, cãi bướng, không biết phục thiện, không bao giờ có lòng khiêm tốn đủ để nhìn nhận lỗi lầm hay sự sai trái của mình. Họ sẽ tìm đủ mọi lý do để biện hộ, để tránh né vấn đề, để khỏi phải nhìn nhận sự thật. Trong số những người Do Thái nghe Chúa Giêsu rao giảng và nhìn thấy tận mắt những dấu lạ Ngài thực hiện cũng có những người ngoan cố không tin, thậm chí còn tìm cách giải thích khác đi.
Nơi câu 14 chương 11, Phúc Âm theo thánh Luca, trong khi đã chứng kiến tận mắt phép lạ Chúa Giêsu trừ quỉ thì có kẻ trong đám đông đưa ra lời giải thích đầy ác ý: "Ông ấy dựa trên quỉ vương Bêendêbun, quỉ cả mà trừ quỉ con", kẻ khác lại muốn thử Ngài nên đòi Ngài một dấu lạ từ trời. Ðoạn Phúc Âm mà chúng ta vừa nghe đọc lại trên đây có thể được ta hiểu trong khung cảnh sự ngoan cố không tin của những người Do Thái, nhất là của những vị lãnh đạo đầy ác ý và ganh tị với Chúa. Chúa Giêsu nhận định về họ như sau: "Thế hệ này là một thế hệ gian ác, chúng xin dấu lạ, nhưng chúng sẽ không được thấy dấu lạ nào ngoài dấu lạ ông Gioan". Xin Chúa ban cho một dấu lạ để củng cố một quyết định không phải là một điều xấu nếu ta xin bởi lòng khiêm tốn, tin tưởng vào Chúa. Các thánh thường làm như vậy để được củng cố giữa những thử thách. Khiêm tốn xin Chúa một dấu lạ với một tâm hồn ngay thẳng, tin tưởng, phó thác khác với một thái độ ác ý, thách thức. Và Chúa Giêsu từ chối chiều theo thách thức ác ý của những kẻ ngoan cố không tin.
Ðể tin nhận Chúa, cần phải thực hiện một ăn năn hoán cải, chừa bỏ những thói hư tật xấu của mình, những ác ý của mình như dân thành Ninivê khi nghe lời rao giảng của tiên tri Giôna ngày xưa. Vì thế mà Chúa Giêsu nói tiếp: "Quả thực, ông Giôna là một dấu lạ cho dân thành Ninivê thế nào, thì Con Người đây cũng sẽ làm một dấu lạ cho thế hệ này như vậy". Sự ăn năn hối cải là bước đầu tiên cần thực hiện để đón nhận sứ điệp Tin Mừng của Chúa, không có phương thế nào khác để thay đổi sự ngoan cố của con người, bằng chính lời mời gọi người đó khiêm tốn hối cải, thoát ra khỏi những tật xấu và thái độ tự mãn tự kiêu, thoát ra khỏi những ác ý của họ. Dân thành Ninivê đã được Chúa nhắc lại để nêu gương vì họ đã tỏ ra mau mắn đáp lại lời rao giảng của tiên tri Giôna mà ăn năn thống hối. Chúng ta hôm nay thì sao? Chúng ta có thái độ như thế nào trước những dấu lạ Chúa thực hiện trong cuộc đời chúng ta, để mời gọi ăn năn hối cải trở về tin nhận Chúa. Ðức tin không phải là kết luận đương nhiên của những dấu lạ nhưng là hồng ân nhưng không Thiên Chúa ban cho những tâm hồn khiêm tốn, biết ăn năn hoán cải vì những lỗi lầm của mình.
Lạy Chúa, Xin thương ban cho con một tinh thần khiêm tốn để có thể nhìn thấy và hiểu được những ý nghĩa dấu lạ Chúa thực hiện trong con và quanh con để mời gọi con canh tân đời sống, từ bỏ những ác ý trở về cùng Chúa.
Lạy Chúa, Xin hãy thương ban cho con một tâm hồn khiêm tốn, trong sạch. Xin ban cho con đức tin. Con tin nhưng hãy thương ban ơn trợ giúp cho đức tin còn non yếu nơi con.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 5: Căn cước của Đấng Mê-si-a
Đức Giêsu nói: “Trong cuộc phán xét, dân thành Ni-ni-vê sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Gio-na rao giảng, mà đây thì còn hơn ông Gio-na nữa. (Lc. 11, 32)
“Người ta đồn: Đây là Đấng Mê-si-a, Đấng Thiên sai cứu thế! Thế thì Ngài có làm nhiều phép lạ không?”. Rồi tứ phía người ta tấp nập chạy đến, tụ họp đông đảo vây quanh Đức Giêsu. Họ xin: “Xin cho chúng tôi man-na như Mô-sê đã cho tổ phụ chúng tôi. Được thế, người ta sẽ nhận Ngài thật là ngôn sứ vĩ đại và tin vào Ngài”. Vậy theo họ bắt buộc: Thiên sai cứu thế phải làm dấu lạ từ trời xuống.
Từ chối đòi hỏi của họ:
Đức Giêsu quá rõ người ta. Họ chạy theo dấu lạ. Rồi … họ chẳng còn thấy ơn ích gì nữa. Người ta đi trên mặt trăng; khi được rồi, người ta lại bỏ, đi tìm cảm giác mới trên một hành tinh khác. Trước sự bất nhất hay thay đổi của tính con người, “của thế hệ gian ác này”, Đức Giêsu giữ thái độ huyền nhiệm và từ chối hẳn, không làm dấu lạ như họ đòi hỏi kêu xin. Người từ chối dùng cách cưỡng bách họ phải tin.
Chính Người là dấu chỉ của nước Thiên Chúa đã đến với họ. Tuy nhiên, Người không từ chối chữa bệnh và đuổi quỷ ám. Những ai có tâm hồn cởi mở đón nhận tình yêu của Thiên Chúa, họ thấy được ngón tay của Thiên Chúa trong những công việc và lời nói của Đức Giêsu và họ tin rằng Đức Giêsu là Đấng Thiên sai cứu thế, là Con Thiên Chúa hằng sống. Họ không cần đòi căn cước chứng minh thêm, ký tên thêm, ấn chứng phụ nữa.
Kêu gọi lòng tin
Gio-na không ai biết căn cước về ông. Một cách đơn giản, bình thường, ông đã rảo khắp phố phường kêu gọi: “Còn bốn mươi ngày nữa thành Ni-ni-vê sẽ bị án phạt tiêu diệt”. Ông chưa đi được ba ngày đường, dân thành đã tin vào Thiên Chúa, và vua tuyên bố ăn chay đền tội. Và thành Ni-ni-vê được Thiên Chúa tha thứ. Hoàng hậu Sa-ba nghe biết sự khôn ngoan của vua Sa-lô-môn, bà từ tận cùng trái đất đến nghe lời vua. Đức Giêsu nói: Sự loan báo của Người hơn cả Gio-an, sự khôn ngoan của Người hơn cả Sa-lô-môn. Nhưng dân được hưởng giao ước lại từ chối tin vào Người, nên họ sẽ bị những dân ngoại kết án họ trong ngày phán xét.
Ở mọi thời, Thiên Chúa vẫn bày tỏ những dấu chỉ về Ngài. Ngay từ khi tạo dựng vũ trụ, dù phần lớn nhân loại không nhận ra, ngay cả dân riêng của Ngài cũng không đón nhận lời Đức Giêsu nói, tuy nhiên, lời Người luôn luôn sống động và khẩn thiết. Tại sao lại đòi xem căn cước của Người hay đòi biết số thẻ bảo hiểm xã hội của Người trước khi nghe Người?
RC
Suy niệm 6: Đừng thách thức Thiên Chúa trong sự kiêu ngạo
Xem thêm thứ Tư tuần 1 MC, thứ hai tuần 16 TN
"Tôi đã đi khắp vũ trụ, nhưng không thấy Thiên Chúa ở đâu cả!”. Đó là lời thốt lên từ một phi hành gia của Liên Xô sau chuyến thám hiểm vũ trụ.
Thật vậy, tâm thức của con người trong thời đại này thiên về thực dụng, vì thế, họ chỉ tin khi mắt thấy, tai nghe. Thái độ này trùng hợp với tâm thức của những người Pharisêu thời Đức Giêsu.
Sẵn có sự hiềm khích đối với Đức Giêsu, vì thế, họ tận dụng mọi cơ hội để thử thách Ngài. Hôm nay, họ đòi hỏi Đức Giêsu phải làm một dấu lạ để họ tin. Tuy nhiên, họ đã bị khước từ vì bản chất của phép lạ không nhằm thỏa mãn sự tò mò hay hiếu tri của con người, nên Đức Giêsu đã không đáp ứng nhu cầu bất chính của họ.
Thật vậy, nội dung và ý nghĩa của phép lạ không nằm ở việc thỏa mãn trong sự thách thức, mà là ngang qua phép lạ, người đón nhận sẽ có tâm tình sám hối, thay đổi đời sống và có mối tương quan thân mật, tin tưởng nơi Thiên Chúa và có tấm lòng bao dung với tha nhân. Sự biến đối này được khởi đi từ tâm tình khiêm tốn và sẵn sàng làm mới lại đời sống cho phù hợp với Thánh Ý Thiên Chúa.
Thực trạng ngày nay của mỗi người chúng ta hẳn rất giống với người Pharisêu khi xưa! Thường thì chúng ta hay xin Chúa cho mình làm ăn phát đạt, mà không hề để ý đến cách kinh doanh của mình! Có khi kinh doanh bất chính nhưng vẫn xin Chúa cho thuận buồn xuôi gió! Hay cộng tác vào những chuyện trái với luân thường đạo lý, nhưng lại xin được bình an! Hoặc xin Chúa chữa lành bệnh tật nhưng đời sống không có gì thay đổi...! Đôi khi cũng có những người thách thức Chúa như những Pharisêu khi xưa!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy nhạy bén với ơn Chúa, để nhận ra một phép lạ vĩ đại, cả thể mà Ngài vẫn thường làm trên cuộc đời và trong cuộc sống của chúng ta, đó là tình yêu thương, sự bao dung của Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Thật vậy, nếu Chúa không yêu thương và đại lượng với chúng ta, hẳn chúng ta đã không bao giờ có được như ngày hôm nay!
Đồng thời cần khiêm tốn để sẵn sàng biến đổi đời sống, trở nên người hiền lành, khiêm nhường. Có thế, chúng ta mới hy vọng được Chúa ban thưởng hạnh phúc Nước Trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con nhận ra sự quan phòng của Chúa trên cuộc đời chúng con, để từ đó, chúng con sống trong sự khiêm tốn và tin tưởng vào Ngài. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Người Do thái không tin Chúa Giêsu
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Những phép lạ Chúa làm đủ để chứng tỏ Ngài là sứ giả của Thiên Chúa, là Con Thiên Chúa. Thế nhưng người Do thái đã không tin. Đây cũng là thảm kịch của con người ngày nay.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, người Do thái đã trả giá lòng tin của họ bằng cách đòi cho được những dấu lạ là bằng chứng về một Thiên Chúa quyền năng và tình thương, luôn sẵn sàng đáp ứng mọi nhu cầu và khát vọng của con người. Họ đòi dấu lạ, nhưng lại không tin vào các phép lạ Chúa làm.
Lạy Chúa, đôi lúc nghĩ về dân Do thái ngày xưa, con tức giận và thầm oán trách họ cứng lòng tin. Nhưng khi nhìn lại con, có thể con đã không tốt hơn họ bao nhiêu, mà có lẽ còn tệ hơn. Trong thế giới hôm nay, con người ngày càng đánh mất ý thức về sự thánh thiêng, và không còn nhận ra quyền năng Thiên Chúa đang hoạt động trong thế giới. Con cũng đang quay cuồng trong đời sống vật chất, ảnh hưởng các trào lưu tục hóa, làm niềm tin của con bị lung lay tận gốc rễ. Có những lúc vì quá thất vọng, chán nản ê chề, con đã cầu mong Chúa thực hiện một phép lạ nào đó như là dấu chỉ Chúa vẫn thương con. Khi không được như ý, con lại oán trách Chúa và nghi ngờ Chúa.
Lạy Chúa, một cách vô tình, con đã coi Chúa như là đầy tớ phải làm theo ý con muốn. Xin Chúa thương tha thứ cho sự xúc phạm của con. Xin ban cho con một tâm hồn khiêm tốn để con tin vào Chúa và đón nhận Lời Chúa. Xin ban cho con đôi mắt của niềm tin, để thay vì đòi Chúa làm phép lạ, con sẽ thấy được quyền năng Chúa vẫn đang hoạt động trong các biến cố, trong cuộc sống thường ngày nơi chính cuộc đời con. Amen.
Ghi nhớ: “Không ban cho dòng giống này điềm lạ nào ngoài điềm lạ của tiên tri Giona”.
Suy niệm 8: Giúp con sáng mắt
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một nhóm sinh viên tổ chức tham quan mỏ than Scottish ở nước Anh. Mỗi sinh viên được phát một mũ bảo hộ của thợ mỏ, đằng trước mũ có gắn bóng đèn nối với một bình điện đeo ở thắt lưng.
Người hướng dẫn đưa họ vào buồng thang máy xuống tận đáy hầm than. Tới nơi, ông đề nghị các sinh viên bật đèn trên mũ bảo hộ vì con đường dẫn đến khu khai thác tối đen như mực. Mái vòm chỉ cao một mét hai, nên mọi người phải cúi rạp xuống khi di chuyển. Than được chở trên băng tải và đổ vào các toa trên đường ray.
Ngay trước khi nhóm sinh viên đến khu khai thác, người hướng dẫn nói: “Các bạn hãy tắt tất cả các đèn trên mũ”. Mọi người đều làm theo. Không ai thấy gì cả. Mọi vật đều một màu đen. Trong tăm tối, người thợ mỏ nói: “Hãy cố gắng nhìn kỹ vào ngón tay của bạn”. Chẳng ai thấy gì cả. Một vài người bắt đầu sợ hãi. Rồi người thợ mỏ nói một câu mà các sinh viên không bao giờ quên được: “Đây là tình trạng của những người mù”.
Tất cả các sinh viên đều hiểu ra. Bị mù thì không bao giờ thấy được ánh sáng hoặc bất cứ thứ gì khác. Họ cũng hiểu tại sao những người thợ mỏ lại thích bầu trời trong xanh và ánh nắng rực rỡ của mặt trời.
Suy niệm
Khi Chúa Giêsu và các môn đệ đến gần thành Giêricô thì gặp anh hành khất mù, đang ngồi ăn xin ở vệ đường, khi nghe biết Đức Giêsu thành Nadarét đi qua, liền kêu lên: “Lạy ông Giêsu con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Tước hiệu “Con Vua Đavít”, nghĩa là Đức Kitô, Đấng như các lời tiên báo của ngôn sứ: Đấng Cứu Thế xuất thân tự dòng dõi vua Đavít, Đấng được Thiên Chúa xức dầu bằng Thánh Thần. “Xin thương xót tôi”, tiếng Hy Lạp là “Kyrie Eleison”. Sau này xuất phát một truyền thống rất lâu đời của Giáo hội Đông phương dạy các tu sĩ ở Hy Lạp, Libăng, Xyria, Ai Cập, Cappadoce vùng sa mạc... Phương thế tự thánh hóa mình nhờ “lời cầu xin với Đức Giêsu bằng cách chỉ lặp đi lặp lại một cách đơn sơ và không biết mỏi mệt những từ này: “Lạy Đức Giêsu, xin thương xót. Lạy Đức Giêsu, xin thương xót”.
Anh mù tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu trước mặt mọi người bằng cách lớn tiếng kêu cầu, bất chấp mọi cấm cản của những người chung quanh. Anh được sáng mắt nhờ đức tin như Chúa Giêsu đã khẳng định: “Hãy nhìn xem, lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi”, đối tượng đức tin duy nhất là Đức Giêsu Nadarét con vua Đavít mà anh đã đặt hết niềm tin vào. Nhờ đức tin sống động ấy, anh mù đã sáng mắt.
Chúng ta cũng duyệt lại đời sống của mình, có còn ở trong bóng tối, như anh mù ở thành. Chúng ta tín thác vào Thầy Giêsu, Đấng sẽ kéo chúng ta về sự sáng trong lời cầu: Xin Chúa chữa niềm tin còn u tối… U tối của tội lỗi, của bất toàn và của yếu đuối thân phận của con người… U tối của những suy nghĩ, u tối trong cách hành xử với nhau.
Ý lực sống
Giúp con sáng mắt Chúa ơi!
nhận ra tình Chúa giữa đời gian nan.
Tin tưởng, phó thác, bình an
giã từ bóng tối, vững vàng niềm tin. (Ánh sáng niềm tin, Monica Lệ Thi).
Suy niệm 9: Cảnh cáo những kẻ cứng lòng tin
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Khi Đức Giêsu cứu chữa một người bị quỷ câm ám, thì dân chúng chia làm ba nhóm khác nhau: nhóm tin, nhóm không tin, còn nhóm thứ ba cũng không tin, nhưng đòi phải đưa ra một dấu chỉ “từ trời” để chứng minh Người là kẻ được Thiên Chúa sai đến. Đức Giêsu từ chối vì biết họ chỉ có ý khiêu khích. Người hứa cho họ xem một dấu lạ lớn lao, tuyệt hảo nơi bản thân Người khi dựa vào câu chuyện ông Giona đã làm thời xuất hành để hứa ban một dấu lạ nơi chính bản thân Người là sự tử nạn và phục sinh của Người để kêu gọi mọi người sám hối.
Chắc mọi người chúng ta ít nhiều đều đã trải qua kinh nghiệm gặp một con người ngoan cố, cãi bướng, không biết phục thiện, không bao giờ có lòng khiêm tốn đủ để nhìn nhận lỗi lầm hay sự sai trái của mình. Họ sẽ tìm đủ mọi lý do để biện hộ, để tránh né vấn đề, để khỏi phải nhìn nhận sự thật. Trong số những người Do thái nghe Chúa Giêsu rao giảng và nhìn thấy tận mắt những dấu lạ Ngài thực hiện cũng có những người ngoan cố không tin, thậm chí còn tìm cách giải thích khác đi. Họ đòi Chúa Giêsu phải làm một dấu lạ “từ trời” xuống thì họ mới tin. Nhưng Chúa không làm theo ý họ.
Dấu lạ hay phép lạ chỉ hỗ trợ cho lời rao giảng và góp phần nâng đỡ niềm tin. Bởi vì khi đã thấy tỏ tường thì không còn là đức tin nữa, mà là một sự chấp nhận bất đắc dĩ không thể chối cãi. Nếu niềm tin chỉ dựa vào phép lạ sẽ rất nông cạn nhất thời và gặp khi thử thách sẽ bỏ cuộc. Chúa Giêsu và các Tông đồ chỉ làm phép lạ khi cần thiết và hợp ý Thiên Chúa, các Ngài luôn từ chối thực hiện phép lạ theo đòi hỏi của con người. Bài Tin mừng hôm nay kể về việc người biệt phái đòi Chúa Giêsu làm một dấu lạ, nhưng Chúa Giêsu đã từ chối và lên án sự cứng lòng của họ.
Ngày xưa, tiên tri Giona được Chúa sai đến thành Ninivê, loan báo thành này sắp bị phá huỷ. Dân Ninivê từ vua tới dân (thậm chí cả súc vật) đã ăn chay, mặc vải thô, xức tro lên đầu và thống hối ăn năn, cuối cùng được Chúa tha thứ. Ấy thế mà, hôm nay Đấng là Thiên Chúa (cao trọng khôn vời so với Giona) đang kêu gọi: “Hãy ăn năn sám hối, vì Nước Thiên Chúa đã gần”. Người Do thái đã không đón nhận và không chịu sám hối, cải thiện đời sống mà trở về với Thiên Chúa.
Đó cũng là thái độ của nhiều người trong chúng ta, vẫn thả mình buông theo tội lỗi và làm bao nhiêu việc sai trái trong ‘bóng tối’. Lời Chúa hôm nay mời gọi những ai đang sống trong tội, hãy mau ăn năn thống hối, bỏ đường tội lỗi, trở về với Chúa qua bí tích Hoà giải và đón nhận ơn tha thứ của Chúa, hầu cuộc đời chúng ta được đổi mới và nên thánh thiện (Hiền Lâm).
Trước khi đi chợ, mẹ dặn hai cậu con trai ở nhà, không được đi chơi xa kẻo kẻ trộm vào nhà. Hai đứa bé không tin vì nghĩ kẻ trộm không đến vào ban ngày. Cả hai cùng đi chơi. Thế là trộm vào nhà. Hôm nay, dân Do thái, đòi Chúa Giêsu làm một dấu lạ. Trước đó, Người đã làm nhiều phép lạ khi còn ở giữa họ, sao họ còn đòi thêm một dấu lạ ? Chẳng lẽ họ đã quên phép lạ Chúa đã làm cho con trai bà góa thành Naim sống lại, hay làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho dân chúng ăn no nê rồi sao, hay vì họ muốn trốn tránh lời kêu gọi sám hối của Chúa ?
Khi tiên tri Giona đến rao giảng và kêu gọi sám hối, dân thành Ninivê tin lời ông và ăn năn hối cải. Dân Do thái đã thấy dấu lạ Chúa Giêsu làm, nhưng vì không chịu tin Người là Con Thiên Chúa, nên họ đóng cánh cửa lòng mình trước lời kêu gọi sám hối của Người.
Để tin nhận Chúa, cần phải thực hiện cuộc ăn năn hoán cải, chừa bỏ những thói hư tật xấu của mình, những ác ý của mình như dân thành Ninivê khi nghe lời rao giảng của tiên tri Giona ngày xưa. Vì thế mà Chúa Giêsu nói tiếp: “Quả thực, ông Giona là một dấu lạ cho dân thành Ninivê thế nào, thì con người đây cũng sẽ làm một dấu lạ cho thế hệ này như vậy”.
Sự ăn năn hối cải là bước đầu tiên cần thực hiện để đón nhận sứ điệp Tin mừng của Chúa, không có phương thế nào khác để thay đổi sự ngoan cố của con người, bằng chính lời mời gọi người đó khiêm tốn hối cải, thoát ra khỏi những tật xấu và thái độ tự mãn tự kiêu, thoát ra khỏi những ác ý của họ (R. Veritas).
Truyện: Đức Kitô là một mầu nhiệm
Một người đàn ông đến với vị linh mục và muốn thắc mắc các cớ về đức tin, ông nói:
- Làm sao mà bánh, rượu biến thành Mình, Máu Chúa Kitô được ?
Linh mục trả lời: - Có gì đâu. Bản thân ông cũng biến thức ăn thành máu thịt ông đấy. Thế thì lẽ nào Chúa Kitô không làm được như vậy ?
- Nhưng, làm sao mà Chúa Kitô toàn thể ở trong tấm bánh nhỏ tí được ?
- Này, cả vùng trời bao la trước mặt còn nằm gọn trong mắt ông, thì Chúa Kitô cũng vậy đấy.
- Vậy cùng một Chúa Kitô làm sao có thể hiện diện đồng thời ở khắp các nhà thờ ?
Lúc bấy giờ linh mục cầm chiếc gương cho ông ấy soi mình vào. Sau đó, ngài thả rơi chiếc gương xuống đất nó vỡ thành nhiều mảnh, rồi nói với kẻ hoài nghi:
- Đấy chỉ có một mình ông thôi, vậy mà ông có thể thấy gương mặt mình trên từng mảnh gương vỡ. Chúa Kitô cũng thế (Willi Hoffsuemmer).
Người đời thường nói: “Mặt trời vẫn có đó nhưng chỉ có những ai không dùng bàn tay che kín mắt mình lại, thì người ấy mới có thể thấy được ánh sáng huy hoàng rực rỡ của nó”.
Suy niệm 10: Dấu chỉ Chúa nói với ta hằng ngày
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói về dấu chỉ.
Công Đồng Vaticanô II cũng nhắc lại và nói nhiều đến vai trò các dấu chỉ trong đời sống hằng ngày.
Một người đang chạy xe gắn máy trên đại lộ, bỗng thấy phía trước có đèn đỏ, người đó dừng lại. Đèn đỏ là một dấu chỉ.
Một người bước vào một ngôi nhà thấy hình một điếu thuốc lá bị cắt ngang bởi một gạch chéo. Hình đó là một dấu chỉ. Dấu chỉ đó ngầm nói: Không được hút thuốc ở chỗ này. Những dấu chỉ chúng ta vừa nói là những dấu chỉ “nhân tạo”. Ngoài những dấu chỉ nhân tạo ra, chúng ta còn thấy những dấu chỉ “của thiên nhiên” nữa, thí dụ đám mây đen bỗng dưng kéo đến là dấu chỉ báo cho ta biết là trời sắp mưa.
Xét như thế thì còn rất nhiều những dấu chỉ khác. Thí dụ như những trật tự kỳ diệu của vũ trụ, bàn tay Chúa quan phòng dẫn dắt mọi biến cố, những tác động của Chúa trong con người v.v.
2. Vấn dề là làm sao để chúng ta có thể dễ dàng nhận ra được ý nghĩa của những dấu chỉ Chúa nói với chúng ta hằng ngày như thế ? Thưa, phải có cặp mắt đức tin và nhất là phải có lòng yêu mến.
Một trong những cuốn phim hay nhất của Charlot và có lẽ cũng là một trong những cuốn phim hay nhất trong lịch sử điện ảnh, đó là cuốn phim có tựa đề: “Ánh sáng đô thị”. Cuốn phim thuật lại một câu chuyện tình giữa một gã lang thang và một cô gái bán hoa.
Nàng là một cô gái mù bán hoa bên vệ đường. Một nhà tỉ phú trong rừng ngày nào cũng dừng lại mua hoa của nàng. Ngày kia, gã lang thang là chàng Charlot cũng dừng lại mua hoa. Cô gái bán hoa tưởng là người tỉ phú. Thế là một giấc mộng đã sớm chớm nở nối kết hai linh hồn. Nàng tưởng mình gặp người mình mơ mộng từ lâu nay. Chàng thì hy vọng sẽ kiếm được tiền để chữa lành tật mù lòa cho nàng.
Nhưng sau đó, chẳng may vì một sự ngộ nhận, chàng bị cảnh sát bắt giam. Sau một thời gian bị cầm tù, chàng được trả tự do. Chàng trở lại chỗ cũ để tìm người con gái mù bán hoa, nhưng không thấy. Nhờ tiền bạc trước kia chàng đã gửi cho, người con gái mù đó đã được chữa lành và hiện đang đứng trông coi một cửa hàng bán hoa rộng lớn hơn. Chàng đi qua đi lại nhiều lần, nhưng không thể nào nhận ra nàng.
Tình cờ, một cánh hoa hồng rơi xuống đất, chàng cúi xuống nhặt. Người con gái thấy vậy thì cười như nhạo báng. Chàng định bỏ đi, nhưng chợt nhận ra tiếng cười rất quen nên chàng quay lại. Chàng hỏi một cách nhút nhát: - Cô đã thấy được rồi sao ?…
Người con gái nhận ra tiếng nói rất quen thuộc của chàng. Nàng từ từ nhặt chiếc hoa và gắn lên áo chàng. Và nàng thốt lên trong cảm xúc: - Anh đấy sao ?
Thế là cả hai bên đã nhận ra nhau và họ sẽ không bao giờ rời nhau nữa.
Một giọng nói quen thuộc của một người trước kia mới chỉ nghe thấy giọng nói chứ chưa một lần được nhìn thấy bằng mắt, vậy mà qua giọng nói họ đã nhận ra nhau.
Trong Tân Ước, chúng ta có rất nhiều bằng chứng về vấn đề này. Maria Mađalêna khi gặp thấy Chúa lúc Người sống lại, lúc đầu cứ tưởng là người giữ vườn, thế nhưng chỉ sau một lần Chúa gọi là Maria đã nhận ra Chúa ngay. Gioan cũng như thế: Sở dĩ Gioan nhận ra sự kiện ngôi mộ trống và khăn liệm như dấu chỉ của sự Phục Sinh, vì ông nhớ lại lời Kinh Thánh: “Ngày thứ ba, Người sẽ chỗi dậy” và phép lạ “Ông Giôna ở trong bụng cá ba ngày ba đêm” (Gn 2,1).
Trên bãi biển Galilê, khi các tông đồ khác chưa ai nhận ra Chúa thì Gioan đã nhận ra. Ông nhận ra nhờ mẻ cá lạ mà người khách lạ đang đứng ở trên bãi biển truyền lệnh cho các ông. Tại sao thế ? Tại vì ông tin và yêu mạnh hơn những tông đồ khác. Như vậy chúng ta thấy, chính Kinh Thánh đã soi sáng và hướng dẫn cho con người nhận ra những dấu chỉ của Thiên Chúa trong mỗi biến cố hằng ngày.
Một vị Giám mục kiểm tra khả năng của một nhóm ứng viên xin lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy. Ngài hỏi: - Bằng dấu chỉ nào mà các người khác nhận ra các con là người Công giáo ?
Không có tiếng trả lời. Rõ ràng không có ai ngờ một câu hỏi như thế. Vị Giám mục lập lại nhiều lần câu hỏi và lần cuối cùng ngài kín đáo vẽ một dấu Thánh Giá có ý mách nước cho các người dự tòng một câu trả lời.
Bất chợt một ứng viên trả lời: - Đó là “Tình yêu”.
Vị Giám mục rất ngạc nhiên! Khi định mở miệng nói “Sai”, nhưng rất may ngài kịp thời ngậm miệng lại.
Xin Chúa cho chúng ta biết nhận ra ý của Chúa qua những dấu chỉ Chúa gửi đến cho chúng ta hằng ngày và nhất là xin cho mỗi người chúng ta biết trở thành những dấu chỉ để qua đó mọi người có thể nhận ra được Thiên Chúa là Đấng yêu thương mọi người.
Suy niệm 11: Dấu chỉ giúp người hiểu ta là môn đệ Chúa
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
1. Văn mạch: Ở đoạn trước (Lc 11,14-22), Thánh Luca thuật rằng sau khi Chúa Giêsu làm phép lạ cứu một người bị câm thì dân chúng chia ra thành 3 nhóm phản ứng khác nhau: nhóm thứ nhất (đa số) tin Ngài; nhóm thứ hai không tin, cho rằng Ngài đã làm tà thuật do dựa vào thế lực quỷ vương Bêenzêbun, Chúa Giêsu đã trả lời cho họ; nhóm thứ ba cũng không tin, họ đòi Ngài phải đưa ra một dấu chỉ “từ trời” chứng minh Ngài là kẻ được Thiên Chúa sai đến. Trong đoạn này, Chúa Giêsu sẽ đưa ra dấu chỉ đó.
2. Trong Thánh Kinh, kiểu nói “Thế hệ này” có nghĩa xấu, hàm ý nói về những người cứng tin (x. Đnl 1,30): Đối với những người cứng tin, Thiên Chúa sẽ chẳng cho dấu lạ nào ngoài dấu lạ Giôna. Ta biết Giôna là một ngôn sứ ban đầu không vâng lệnh Chúa để đi rao giảng cho dân thành Ninivê, nhưng sau khi phải bị một con cá nuốt vào bụng 3 ngày thì ông đành vâng theo. Kết quả là toàn dân thành ấy đã hối cải. Khi nhắc chuyện Giôna, Chúa Giêsu không nhắm đền việc ông bị cá nuốt, mà nhắm đến sự hoán cải của dân thành Ninivê, để khuyên người do thái hãy nghe theo lời rao giảng của Ngài như dân Ninivê xưa nghe lời Giôna
3. Câu 31-32: Tiếp theo, Chúa Giêsu dùng hai thí dụ (nữ hoàng phương Nam và dân Ninivê) để cho thấy Ngài biết trước người do thái sẽ không chịu nghe lời giảng của Ngài chứ không như dân Ninivê ngày xưa đã chịu nghe lời giảng của Giôna Bởi thế, tới ngày phán xét, tôi của họ sẽ nặng hơn.
B.... nẩy mầm.
1. Đối với Kitô hữu: Phải chăng chúng ta cũng chính là “thế hệ này” mà Chúa Giêsu đã trách. Chúng ta cứng lòng tin. Chúng ta đòi thấy dấu lạ rồi mới tin. Ngày xưa chính Chúa Giêsu là một dấu lạ phô bày hằng ngày trước mắt người do thái nhưng họ đâu có nhận ra và tin Ngài. Ngày nay cũng có rất nhiều dấu lạ diễn ra hằng ngày: trật tự kỳ diệu của vũ trụ, bàn tay Chúa quan phòng dẫn dắt mọi biến cố, những tác động của Chúa trong con người v.v. Thánh Phanxicô Assisi đã nhận ra được những dấu lạ đó và đã rơi lệ vì cảm động. Phải có cặp mắt đức tin và trái tim yêu mến mới nhận ra được những dấu lạ ấy. Và ai nhận ra được những dấu lạ ấy thì lại càng thêm tin tưởng và yêu mến Chúa hơn.
2. Câu đố: Một người đang chạy xe gắn máy trên đại lộ bỗng dừng lại, vì phía trước có dấu chỉ đèn đỏ. Một người bước vào một ngôi nhà thấy một dấu chỉ nên vội dụi tắt điếu thuốc của mình. Dấu đó thế nào ? là hình một điếu thuốc bị gạch chéo... Trên đây là những dấu chỉ “nhân tạo”. Ngoài ra còn những dấu chỉ “thiên nhiên tạo” nữa, thí dụ đám mây đen bỗng dưng kéo đến là dấu báo trời sắp mưa. Loại thứ ba là những dấu chỉ nhắc ta nhớ đến Chúa. Loại thứ tư là những dấu chỉ Chúa muốn ta làm đề nhắc người khác nhớ đến Chúa. Đố bạn nghĩ ra một số dấu chỉ thuộc loại thứ ba và thứ tư...
3. Đối với những người quanh ta: Chúng ta còn được mời gọi trở nên những dấu lạ cho người thời nay để giới thiệu Chúa cho họ. “Một nụ cười, một ánh mắt cảm thông, một bàn tay nâng đỡ... phải chăng đó không là những phép lạ mà lúc nào những người chung quanh cũng đang chờ đợi nơi chúng ta ?” (Trích “Mỗi ngày một tin vui”).
4. Dấu chỉ: dấu chỉ là một dấu hiệu ẩn dấu một ý nghĩa. Tuy người ta không nghe dấu chỉ nói (vì nó không nói) nhưng người ta có thể hiểu điều nó muốn nói khi nhìn thấy nó. Thí dụ: khi ta thấy một lá cờ cắm trên nóc một ngôi nhà, ta hiểu nhà đó là cơ quan của nhà nước; khi ta thấy áo một người kia có hình chữ thập đỏ, ta hiểu người đó làm công tác y tế v.v. Vậy thử hỏi: khi người ta nhìn tôi, có những dấu chỉ nào giúp người ta hiểu tôi là môn đệ Chúa Giêsu không ? (Frank Mihalic)
5. Người câm không nói được nhưng có cách làm cho người khác hiểu được họ, đó là dùng những dấu hiệu bằng tay, bằng nét mặt, có khi bằng cả thân thể. Tuy nhiên, muốn hiểu được người câm thì ta phải rất chú ý từng động tác nhỏ của họ. Rất nhiều khi Thiên Chúa nói với ta bằng ngôn ngữ của người câm. Ta cần chú ý lắm mới hiểu được ý Chúa.
6. “Ông Gio-na đã là một dấu lạ cho dân thành Ni-ni-vê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là một dấu lạ cho thế hệ này như vậy.” (Lc 11,30)
Tôi đi tìm Thiên Chúa.
Tôi tin chắc Ngài đang hiện diện bên tôi.
Tôi kêu cầu Ngài.
Tôi chờ đợi Ngài.
Và tôi những muốn xin Ngài cho tôi một dấu lạ về quyền năng của Thiên Chúa để có thể hoàn toàn tín thác vào Ngài. Tôi muốn được như dân thành Ni-ni-vê xưa...Tôi đã không đủ lòng tin để hiểu rằng chính bản thân Ngài, và lời rao giảng của ngài mới là dấu lạ tuyệt vời nhất.
Lạy Chúa, xin cho con biết tìm kiếm những dấu chỉ của Thiên Chúa không để thoả mãn tính hiếu kỳ, óc tò mò, mà để canh tân và sám hối. (Hosanna)
10/10 Chúa Giêsu và thanh niên giàu có
- Viết bởi Mc 10, 17-30
Chúa Giêsu và thanh niên giàu có.
CHÚA NHẬT TUẦN 28 THƯỜNG NIÊN năm B.
"Ngươi hãy đi bán tất cả gia tài rồi đến theo Ta".
Lời Chúa: Mc 10, 17-30
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy Chúa Giêsu vừa lên đường, thì một người chạy lại quỳ gối trước Người và hỏi: "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?"
Chúa Giêsu trả lời: "Sao ngươi gọi Ta là nhân lành? Chẳng có ai là nhân lành, trừ một mình Thiên Chúa. Ngươi đã biết các giới răn: đừng ngoại tình, đừng giết người, đừng trộm cắp, đừng làm chứng gian, đừng lường gạt; hãy thảo kính cha mẹ".
Người ấy thưa: "Lạy Thầy, những điều đó tôi đã giữ từ thuở nhỏ".
Bấy giờ Chúa Giêsu chăm chú nhìn người ấy và đem lòng thương mà bảo rằng: "Ngươi chỉ thiếu một điều, là ngươi hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta".
Nhưng người ấy nghe những lời đó, thì sụ nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.
Lúc đó Chúa Giêsu nhìn chung quanh và bảo các môn đệ rằng: "Những người giàu có vào nước Thiên Chúa khó biết bao!" Các môn đệ kinh ngạc vì những lời đó.
Nhưng Chúa Giêsu lại nói tiếp và bảo các ông rằng: "Hỡi các con, những kẻ cậy dựa vào tiền bạc, thật khó mà vào nước Thiên Chúa biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước Thiên Chúa". Các ông càng kinh ngạc hỏi nhau rằng: "Như vậy thì ai có thể được cứu độ?" Chúa Giêsu chăm chú nhìn các ông, và nói: "Ðối với loài người thì không thể được, nhưng không phải đối với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa làm được mọi sự".
Phêrô thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Ðây chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy".
Chúa Giêsu trả lời rằng: "Thầy bảo thật các con, chẳng ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái, đồng ruộng vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ lại không được gấp trăm ở đời này về nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái và ruộng nương, cùng với sự bắt bớ, và ở đời sau được sự sống vĩnh cửu. Nhưng có nhiều kẻ trước nhất sẽ nên rốt hết, và những kẻ rốt hết sẽ nên trước nhất".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm CHÚA NHẬT 28 THƯỜNG NIÊN - B
Lời Chúa: Kn 7,1-7; Dt 4,12-13; Mc 10,17-30
1. Được gấp trăm.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Khi đọc bài Tin Mừng trên đây
ta nếm được nỗi buồn của Đức Giêsu và của anh nhà giàu.
Đức Giêsu buồn vì bị từ chối bởi người mà mình yêu mến.
Anh kia buồn vì có sự rạn nứt nơi bản thân.
Anh đã phấn khởi gặp Chúa, rồi ra đi đầy muộn phiền.
Thầy Giêsu đòi anh đúng điều anh muốn giữ lại,
vì của cải vốn là chỗ dựa của đời anh.
Anh sẵn sàng làm mọi điều Thầy đòi hỏi,
trừ việc bỏ chỗ dựa này.
Bây giờ anh thấy rõ hơn mình nô lệ cho điều gì.
Tiếc thay anh không có can đảm ra khỏi sự nô lệ này
dù anh vẫn khát khao sự sống đời đời.
Bi kịch của anh cũng là của chúng ta.
Ai trong chúng ta cũng từng bị giằng co
giữa ước mơ bay cao và sự kéo ghì của vật chất.
Của cải vật chất có sức hấp dẫn mãnh liệt.
Tôi làm chủ nó, nhưng sau đó nó lại làm chủ tôi
và trở thành thịt xương mà tôi không thể dứt bỏ.
Không chắc người giàu này sẽ bị luận phạt,
nhưng chắc chắn anh ta khó hạnh phúc.
Hạnh phúc chỉ đến với người dám sống theo ý Chúa.
Người có của khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!
Vào thời Đức Giêsu, giàu có được coi là một phúc lành.
Vậy mà Ngài lại coi đây là một cản trở nguy hiểm.
Của cải dễ làm người ta khép kín trước Thiên Chúa
và nỡ tâm chà đạp lên quyền lợi anh em.
Tệ nạn tham nhũng, hối lộ ở Châu Á
là một thí dụ về nguy hiểm của tiền bạc.
Đức Giêsu và các môn đệ đã sống nghèo,
sống như những người lữ hành, không chỗ cậy dựa,
để tín thác vào Cha và dễ dàng đến với anh em.
Theo Đức Giêsu là chấp nhận tay trắng, bấp bênh.
Nhưng đừng quên theo Ngài cũng là trở nên giàu có.
Không phải sự giàu có do ích kỷ giữ lại,
nhưng là sự giàu có do mở ra trao hiến.
Không phải sự giàu có do tìm kiếm chiếm đoạt,
nhưng là sự giàu có đến như một quà tặng biếu không.
Theo Ngài không phải chỉ là bỏ nhà cửa, ruộng vườn,
bỏ những người thân yêu, bỏ đến cả mạng sống.
Theo Ngài còn là được gấp trăm ngay từ đời này,
và nhất là đời sống vĩnh cửu mai hậu.
Khi Phêrô ra khỏi hồ Galilê, với nghề đánh cá,
ông được biết những biển khơi mênh mông hơn nhiều.
Khi Phêrô bỏ lại cha mẹ, vợ con,
ông đứng đầu một cộng đoàn đông đảo là Hội Thánh.
Chắc Têrêxa Hài Đồng không ngờ mình trở nên Thánh Sư.
Chắc Têrêxa Calcutta không ngờ
đám táng của mình sẽ có cả triệu người tham dự.
Theo Đức Giêsu, ta sẽ được lại cả những điều đã mất.
Cái được quan trọng nhất là được Đức Giêsu (x. Pl 3,8).
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn nghĩ gì về giá trị của tiền bạc, của cải? Đâu là thái độ cần có trước những cạm bẫy của tiện nghi vật chất đang mời mọc chúng ta?
Theo Chúa trong tư cách là một Kitô hữu đòi hỏi ta phải từ bỏ nhiều. Bạn có thấy mình được lại điều gì không? Bạn có khi nào được gấp trăm so với điều đã mất không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
giàu sang, danh vọng, khoái lạc
là những điều hấp dẫn chúng con.
Chúng trói buộc chúng con
và không cho chúng con tự do ngước lên cao
để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,
nhờ cảm nghiệm được phần nào sự phong phú của kho tàng trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn
và vui tươi bán tất cả những gì chúng con có,
để mua được viên ngọc quý là Nước Trời.
Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng
trước những lời mời gọi của Chúa,
không bao giờ ngoảnh mặt
để tránh cái nhìn yêu thương Chúa
dành cho từng người trong chúng con. Amen.
2. Khôn ngoan – TGM Giuse Ngô Quang Kiệt.
Câu chuyện chàng thanh niên giàu có tốt lành có một khởi đầu tốt đẹp. Đẹp cho đến nỗi Chúa nhìn và đem lòng yêu thương anh. Nhưng lại có một kết thúc đáng buồn. Anh thanh niên bỏ đi buồn bã vì không thể theo Chúa. Chúa Giêsu cũng buồn vì anh gắn bó với tiền bạc hơn yêu mến Chúa.
Câu chuyện người thanh niên có thể là câu chuyện của mỗi người. Cũng như chàng thanh niên, bình thường ta giữ đạo rất dễ dàng. Sáng đi lễ, chiều đọc kinh, không làm điều gì gian ác, không bất công tham lam của người khác. Nhưng khi gặp mâu thuẫn giữa cuộc sống với việc đạo, phải chọn lựa giữa Thiên Chúa và những giá trị trần gian, nhiều khi ta nao núng và rất nhiều người đã vì những giá trị trần gian mà bỏ Chúa. Có những người khi còn nghèo túng thì giữ đạo rất tốt. Nhưng khi đứng trước những cám dỗ của tiền của thì vì ham mê tiền của mà sống gian dối, đánh mất lương tâm Công giáo. Có những người khi còn nhỏ thì rất ngoan ngoãn đạo đức, nhưng khi đến tuổi trưởng thành thì vì thú vui mà bỏ quên việc đạo. Nhưng nhất là có những người vốn con nhà đạo gốc rất sốt sắng, nhưng khi gặp cám dỗ về chức quyền thì vì một chút danh vọng, đành bỏ Chúa, bỏ đạo.
Theo suy nghĩ của người đời, những ai tìm được tiền của, đạt được danh vọng, nay lên chức mai lên quyền, là những người tài khéo khôn ngoan. Nhưng đó chỉ là khôn ngoan nhất thời kiểu trần gian. Vì cuộc sống trần gian có hạn. Con người ai cũng phải chết. Chết rồi có ai mang theo được của cải, danh vọng, chức quyền vào thế giới bên kia đâu. Thế mà cuộc sống sau cái chết mới là quan trọng, vì là cuộc sống vĩnh cửu không bao giờ phai tàn.
Chúa muốn ta đừng gắn bó với của cải nhưng phải gắn bó với Chúa, không phải vì Chúa muốn con cái phải khổ sở, hèn hạ. Nhưng vì Chúa muốn cho ta chọn con đường khôn ngoan, để đạt tới hạnh phúc đích thực, vĩnh cửu.
Ta đi đạo để chọn Chúa. Vì chọn Chúa ta phải từ bỏ tất cả những gì ngăn cản ta đến với Chúa. Những cản trở có thể là tiền bạc, danh vọng, chức quyền. Những cản trở cũng có thể là một người mà ta gắn bó, một nơi mà ta không thể dứt bỏ. Những cản trở đó cũng có thể là một lòng tự ái, một sự ghen ghét, bất mãn.
Nếu ta biết bỏ tất cả những gì cản trở để đến với Chúa ta sẽ đạt được chính Chúa. Được Chúa là được tất cả. Vì Chúa là hạnh phúc viên mãn. Được Chúa rồi ta sẽ không còn khao khát gì khác nữa.
Vì thế khi thánh Phêrô hỏi Chúa: Chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Chúa, chúng con sẽ được gì. Chúa đã trả lời: ai bỏ mọi sự mà theo Chúa, sẽ được gấp trăm và được sự sống vĩnh cửu.
Người khôn ngoan thì phải biết nhìn xa trông rộng. Biết bỏ những mối lợi trước mắt để tìm những giá trị vĩnh cửu.
Như thế yêu mến Chúa là chìa khóa của sự khôn ngoan. Chọn Chúa là chọn giá trị tuyệt đối, vĩnh cửu không gì có thể so sánh được.
Lạy Chúa, xin dạy con biết yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Vì Chúa chính là hạnh phúc của con. Amen.
3. Kho báu trên trời – Thiên Phúc
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu”)
Kagawa là một tín hữu Kitô Nhật Bản, khi nghe Lời Chúa phán: "Hãy đem bán hết gia tài, bố thí cho người nghèo, và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta", ông liền bán căn nhà tiện nghi sang trọng của mình, đến khu nhà ổ chuột tồi tàn vùng Tokyo. Nơi đây ông chia sẻ của cải cho bất cứ ai cần trợ giúp, ông đi thăm nuôi tù nhân, an ủi giúp đỡ người bệnh, cấp dưỡng cho kẻ nghèo đói... Có một lần, dù lâm bệnh, ông vẫn tiếp tục rao giảng dưới cơn mưa, miệng không ngừng thốt lên: "Thiên Chúa là tình yêu. Ở đâu có tình yêu ở đấy có Thiên Chúa".
Nhà thần học Wiliam Barclay đã trích dẫn những lời đầy sắc bén của Kagawa như sau: "Chúa ở trong tâm hồn những người hèn mọn nhất. Người hiện diện giữa những kẻ ăn xin. Người nằm chung với những ai bệnh hoạn. Người đứng về phía những kẻ thất nghiệp. Vì thế, ai muốn gặp Thiên Chúa hãy đến thăm tù ngục trước khi tới đền thờ, hãy đến thăm bệnh viện trước khi dự lễ, hãy giúp đỡ người nghèo khổ trước khi đọc Kinh Thánh".
****
Người thanh niên trong bài Tin mừng hôm nay là một con người đạo đức. Anh đã thưa với Ðức Giêsu: "Những giới răn ấy, con đã giữ từ thuở nhỏ" (Mc.10,20). Người đã chăm chú nhìn anh và đem lòng thương mến. Người mời gọi anh tiến thêm một bước nữa: "Hãy đem bán hết gia tài, bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta" (Mc.10,21) Trong khi người tín hữu Nhật Bản Kagawa mau mắn, vui tươi thực hiện ngay Lời Chúa thì người thanh niên lại sụ nét mặt, buồn rầu bỏ đi vì anh ta có nhiều của cải.
Quả thật: "Ðồng tiền đi liền khúc ruột". Có thể nói: "Tiền đã thắng tình". Lòng ham mê của cải đã thắng tình yêu dành cho Thiên Chúa và tha nhân. Lòng tham đã bóp nghẹt con tim. Tình yêu của anh chưa đủ mạnh để thúc đẩy anh làm điều nên làm và phải làm. Thánh Phaolô cũng có cảm nghiệm ấy khi ngài viết: "Ðiều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm". (Rm.7,16). Ngài cho đó là tội lỗi trong ta đã hành động, và chỉ có tin tưởng vào Ðức Kitô mới giải thoát ta khỏi tình trạng ù lì đó.
Tình yêu phát sinh sức mạnh. Thánh Augustinô quả quyết: "Cứ yêu rồi làm điều gì mình muốn". Tình yêu sẽ thúc đẩy chúng ta phải làm một cái gì đó cụ thể cho anh em, một cái gì đó anh em đang thực sự mong đợi. Chúng ta không thể nói yêu mến Chúa mà lại làm ngơ trước nhu cầu cấp bách của anh em.
"Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa" (Mc.10,25).
Ðây là một kiểu nói Á Ðông, diễn tả một việc làm rất khó. Ðức Giêsu đã từng tham dự những bữa tiệc sang trọng của người biệt phái giàu có, từng ăn uống tại nhà những người thu thuế lắm tiền, từng chịu ơn những phụ nữ nhân đức nhiều của. Vậy Người chỉ lên án những ai ham mê của cải, coi đồng tiền là chúa tể, làm nô lệ cho nó, để không dám mở tay ra với anh em và quảng đại với công việc của Thiên Chúa.
****
Lạy Chúa
Có những lần lẽ ra phải cứu giúp người khác, nhưng vì ích kỷ, nên chúng con đã không làm.
Có những lần lẽ ra phải hy sinh cho anh em, nhưng vì sợ phiền hà, nên chúng con đã làm ngơ.
Có những lần lẽ ra phải bỏ tiền trợ giúp một ai đó, nhưng vì so đo tính toán, nên chúng con lại thôi.
Xin tha thứ cho chúng con, và xin đổ tràn tình yêu Chúa vào lòng chúng con, để chúng con có đủ can đảm bán tất cả những gì mình có mà mua được viên ngọc quý là Nước Trời. Amen.
4. Huyền nhiệm ơn gọi
(Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh)
Bài Tin Mừng hôm nay gồm ba phần, được coi là ba phần khác nhau nhưng thánh Marcô xếp chúng lại gần nhau để làm thành một nội dung duy nhất. Phần đầu (Mc 9, 17-22) là cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người thanh niên giàu có. Người thanh niên này có một đời sống thật tốt. Chính vì thế, anh ta được Chúa Giêsu “đem lòng yêu mến”, Người MỜI GỌI anh theo mình. Nhưng trước khi làm môn đệ của Chúa, anh phải là người nghèo, cùng trở nên nghèo với những ai nghèo khó, mới được, vì thế, anh “hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo”, rồi theo Chúa. Nhưng đối với anh, một điều kiện xem ra quá khắc nghiệt và cũng chưa từng bao giờ mường tượng như thế, anh không thể làm được. Anh đã thua cuộc, đã rút lui.
Phần thứ hai (Mc 9, 23-27) như được rút ra từ phần thứ nhất. Sau khi nói chuyện với người thanh niên giàu có, bây giờ nhân cơ hội này Chúa dạy hãy sống siêu thoát, đừng để lòng mình dính bén với của cải vật chất. Muốn siêu thoát phải sống tinh thần nghèo khó, phải từ bỏ của cải vật chất, vì “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước trời” (Mc 10, 25). Khi ai đó dám chấp nhận sống siêu thoát như thế, họ mới thực sự là người nghèo, nghèo toàn diện: tinh thần, vật chất. Vì chỉ có người nghèo mới có thể ĐÁP TRẢ ƠN GỌI của Chúa. Và lúc ta trở nên người nghèo để đáp trả ơn gọi, đó cũng chính là lúc ta bắt đầu SỐNG ƠN GỌI.
Phần thứ ba (Mc 10, 28-31), cũng trong mạch văn nói về sự từ bỏ để sống ơn gọi theo Chúa, Chúa Giêsu cho ta biết một KẾT QUẢ cuối cùng của người bước theo Chúa qua câu trả lời cho câu hỏi khá tế nhị: “Đây chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy?” (Mc 10, 28) của thánh Phêrô. Người nói: Không ai bỏ mọi sự đi theo Thầy mà “ngay bây giờ lại không được gấp trăm ở đời này về nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái và ruộng nương, cùng với sự bắt bớ, và đời sau được sự sống vĩnh cửu” (Mc 10, 19 – 31).
Theo chiều hướng suy nghĩ về ơn gọi dựa trên Lời Chúa như thế, tôi muốn nói về HUYỀN NHIỆM của ơn gọi, và mời bạn cùng tôi tiếp tục nhìn vào ơn gọi của chính mình, nhất là những ai đang sống lý tưởng tu trì, để một lần nữa khám phá lại lòng Chúa Giêsu yêu ta khi mời gọi ta dấn bước theo Người, trực tiếp sống ơn gọi mà chính Người đã nhận lãnh từ nơi Chúa Cha. Qua đó ta càng ý thức sâu xa hơn niềm hãnh diện, sự cao cả và hạnh phúc về ơn gọi của mình, để mỗi một ngày, ta biết vun bồi cho ơn gọi ấy đầy đặn hơn, xinh tươi hơn, ý nghĩa hơn…
Có một lần, trước khi bắt đầu bài nói chuyện cùng một số bạn trẻ nam dự tu vào Đại chủng viện, tôi đã đặt câu hỏi cho các bạn thế này: “Theo anh em, anh em nghĩ, ơn gọi là gì?” Và chính tôi đã tự đưa ra câu trả lời: “Nếu ai đó nghĩ rằng, ơn gọi là cái đích phải đạt tới cho bằng được, người đó sẽ thất bại. Có khi do chính suy nghĩ ấy, ta tự mình chuốc lấy sự đau buồn. Vì cứ bình thường mà nói, không phải bất cứ cái gì ta muốn đều có thể đạt được, huống hồ ơn gọi thuộc chiều kích thánh thiêng, không phải chỉ có con người muốn mà trước hết là do ý muốn của Thiên Chúa. Nhưng nếu ta biết rằng ơn gọi là thánh ý Thiên Chúa dìu đưa từng giây từng phút trong cuộc đời của mình, còn ta là kẻ thụ nhận và từng lúc, từng giai đoạn trong cuộc đời mình, ta sẽ phải xin vâng theo thánh ý của Người, ta phải phó thác vận mạng đời mình cho Người, thì lòng ta sẽ bình an, sẽ cảm nhận hạnh phúc, niềm hy vọng sẽ vẫn không tắt dẫu lý tưởng ơn gọi có đạt được hay không”.
Đưa ra câu hỏi và trả lời như thế, có lẽ sẽ khó hiểu cho người ngoài cuộc. Bạn có biết, tôi đang nói đến hoàn cảnh đặc thù của ơn gọi tại chính nơi tôi đang sống? Rất nhiều trường hợp, một thanh niên đã được xét là đã đủ hạnh kiểm, đủ khả năng, đủ tư cách để được vào Đại Chủng viện, phải dừng lại vì một vài lý do tế nhị nào đó. Có nhìn thấy những giọt nước mắt đau buồn, tiếc xót của những bạn trẻ ấy, bạn mới có thể hiểu điều mà tôi đã nói: huyền nhiệm ơn gọi. Huyền nhiệm ấy đã thúc bách, đã nung đốt tâm hồn của biết bao nhiêu người trẻ. Với hai năm mới có một đợt tuyển vào Đại Chủng viện, và mỗi đợt như thế, số người được tuyển cũng rất giới hạn, nhưng họ vẫn sẵn sàng chờ đợi cho đến lúc có tên mình dù phải xếp hàng chờ đợi trong nhiều năm liền. Tất cả những người trẻ muốn đi tu đều đã qua đại học. Có người đang làm bác sĩ, giáo sư, thẩm phán, kiến trúc sư, kỷ sư… nghĩa là họ có quyền mơ và xây dựng cho mình một cuộc sống tiện nghi, giàu có. Nhưng các bạn đã dám từ chối tất cả để chỉ đạt được một điều duy nhất mà thôi: theo Chúa Kitô trong ơn gọi tu trì. Phải hy sinh nhiều bao nhiêu, phải vượt qua khó khăn nhiều bao nhiêu, bị người đời ghét bao nhiêu, thì khi được thực hiện lý tưởng đời mình, niềm vui càng lớn, hạnh phúc càng trào dâng bấy nhiêu. Ngược lại, với những chua cay và khó khăn như thế, cuối cùng vẫn bị từ chối, vì thế, nỗi đau như muốn xé nát tâm hồn các bạn là điều hợp lý đấy thôi. Bởi vậy tôi hiểu, hiểu lắm những giọt nước mắt đáng yêu, đáng quý của những bạn trẻ bị chối từ. Huyền nhiệm của ơn gọi thật lạ lùng quá đỗi. Nó là một hấp lực lớn, không phải chỉ có hôm nay, nhưng là hàng ngàn năm lịch sử, đã làm rung động triệu triệu con tim của biết bao nhiêu người trẻ. Và Chúa Kitô muôn đời vẫn là lý tưởng mà lớp lớp người đã chọn để theo và sống.
Bạn ạ, ơn gọi là một huyền nhiệm mà Thiên Chúa yêu thương trao ban cho con người. Dù đến từ Thiên Chúa, nó vẫn luôn luôn tôn trọng tự do của con người. Mời gọi để ta bước theo Chúa, đó là việc của Chúa. Nhưng đáp trả ơn gọi hay không, hoặc đáp trả như thế nào là chuyện của ta. Và một khi đã đáp trả, nghĩa là đã chọn lựa bước theo Người, ta phải sống ơn gọi. Vì ơn gọi dù đã quang trọng ở ngay việc ta đáp trả, nhưng vẫn không quan trọng cho bằng nỗ lực sống ơn gọi ấy từng ngày sau lời đáp trả của chính bản thân. Nói cách khác, Chúa mời gọi ta bước theo Người và ta đã đáp bằng lời “xin vâng”, nhưng như thế chưa đủ, điều cần thiết là phải sống lời xin vâng ấy bằng cả cuộc đời của mình.
Nếu Tin Mừng cho ta biết người thanh niêu giàu có nào đó, đã không dám dấn mình cho ơn gọi, thì lịch sử của Giáo Hội, mãi cho đến hôm nay, đó vẫn còn là thực tế. Nhưng tôi tin thực tế ấy chắc không nhiều. Ngược lại ơn gọi trên quê hương tôi thật dồi dào, thật phong phú. Trong hoàn cảnh và điều kiện còn đầy khó khăn cho những ai dám hy sinh bước theo ơn gọi, tôi nhận ra nơi các bạn trẻ như đã nói trên, là những người quá đỗi giàu có. Họ nghèo tiền của, không có địa vị xã hội, nhưng họ mới chính là những người giàu có. Trước hết họ giàu ơn Chúa, giàu nghị lực, giàu lòng quả cảm, giàu đời sống nội tâm, và giàu trên mọi thứ giàu: đó là đạt tới con đường Chúa Kitô đã đi. Một khi đạt tới sự giàu sang như thế, phải chăng họ không dừng lại bằng cách đáp trả lời “Xin vâng” trên môi miệng, nhưng đã làm cho tiếng “Xin vâng” thành lời của sự sống mà họ đã sống từng giây phút của cuộc đời mình!!
Nếu đặt trong khung cảnh của bài Tin Mừng mà tôi vừa phân tích bên trên để chỉ ra bốn tiến trình: CHÚA MỜI GỌI – CON NGƯỜI ĐÁP TRẢ ƠN GỌI – CON NGƯỜI SỐNG ƠN GỌI – KẾT QUẢ cuối cùng của người bước theo Chúa, tôi vui mừng thấy những bạn trẻ muốn dấn mình cho ơn gọi trên quê hương tôi đã thực sự nên thánh ngay trong chính ơn gọi của họ. Tận trong tâm hồn, các bạn trẻ ấy đã lắng nghe tiếng Chúa mời gọi. Và cũng sâu thẳm nơi tận tâm hồn, họ đã đáp trả tiếng gọi ấy. Không một chút ồn ào, không hề lên tiếng thốt ra một lời khoe mẻ, không một hành động khoa trương nào dù nhỏ nhất, họ đã âm thầm hiến dâng cuộc đời của họ, âm thầm hy sinh, âm thầm gánh chịu sự bị chối từ, can đảm sống nghèo, sống dứt bỏ mọi vướng bận cản trở họ tiến về phía Chúa Kitô… Tất cả những điều đó đủ làm bằng chứng lớn lao cho ta thấy họ đã sống ơn gọi từng ngày trong bầu nhiệt huyết trẻ trung của họ. Tin rằng Chúa đã nhận và ban cho họ những kết quả lớn lao còn ở phía trước như Người đã hứa.
Bạn ạ, suy nghĩ như thế về những người anh em của chúng ta, bạn và tôi thấy gì, áp dụng gì cho mình? Ai cũng có một sứ mạng để sống giữa đời. Sứ mạng ấy là chính ơn gọi Chúa trao cho bạn và tôi. Rất cụ thể: Bạn là công nhân, bạn là nông dân, là dân chài lưới, hay là người phá đất vỡ hoang… Hãy sống hết mình, hãy yêu mến đến tận cùng những gì bạn đang có trong tay, và hãy thánh hiến tất cả bằng một đời sống đức tin. Được như thế, đó là dấu chứng cho thấy bạn đang sống ơn gọi Chúa trao và nên thánh trong chính ơn gọi của bạn.
Tôi muốn nói với bạn về niềm vui mà Chúa vừa ban cho chúng ta: Đức Tổng Giám mục Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn được cất nhắc lên tước vị Hồng y. Cách đây năm năm, ngày mà Đức Hồng y lãnh chức vụ Tổng Giám mục, ngài đã dâng một lời nguyện rất thắm thía. Nhân niềm vui chan chứa hôm nay, tôi muốn nhắc lại lời cầu nguyện ấy để chúng ta cũng biết tự tra vấn lòng mình như chính Đức Hồng y đã từng làm: “Dù bạn run sợ, lẽ nào bạn không đứng lên”. Nhờ đó, ta cũng sẽ làm một cuộc “Đứng lên” đáp lại ơn gọi của Chúa:
Thiên Chúa cần một người cha cho dân của mình, Người chọn một cụ già. Thế là Abraham đứng lên.
Thiên Chúa cần một người phát ngôn, Người chọn một anh chàng vừa nhút nhát vừa có tật nói ngọng. Thế là Môsê đứng lên
Thiên Chúa cần một thủ lãnh để hướng dẫn dân mình, Người chọn một cậu thanh niên nhỏ nhất, yếu nhất trong nhà. Thế là Đavit đứng lên.
Thiên Chúa cần một tảng đá làm nền cho ngôi nhà Giáo Hội, Người chọn một anh chối đạo. Thế là Phêrô đứng lên.
Thiên Chúa cần một gương mặt để diễn tả tình yêu nhân loại, Người chọn một cô gái điếm. Đó là Maria Mađalêna.
Thiên Chúa cần một chứng nhân để hô lên sứ điệp của Người, Người chọn một kẻ chuyên bắt đạo. Đó là Phaolô gốc thành Tarsô.
Thiên Chúa cần một ai đó để quy tụ dân và đi đến với những người khác. Người đã chọn bạn. Dù bạn run sợ, lẽ nào bạn không đứng lên?…
5. Lấy của cải tạm thời đổi lấy kho tàng bền vững.
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Chàng thanh niên trong bài Tin Mừng hôm nay là con người có đầu óc, biết nhìn xa thấy rộng. Anh có nhiều của cải nhưng anh biết rằng mai đây anh chết đi thì tài sản cũng chẳng còn nghĩa lý gì. Vì thế anh tìm gặp Chúa Giêsu để xin Ngài chỉ giáo cho biết phương cách đạt được sự sống đời đời.
Chúa Giêsu dạy anh giữ các giới răn. Anh đáp: “Thưa Thầy, tất cả những điều đó tôi đã giữ từ thuở nhỏ”.
“Bấy giờ Đức Giêsu nhìn anh ta và đem lòng yêu mến, Người bảo: “Anh chỉ còn thiếu có một điều: là hãy về bán những gì anh có mà bố thí cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Sau đó, hãy đến theo tôi.”
“Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt, và buồn rầu bỏ đi...”
Anh bỏ đi vì anh có nhiều của cải. Anh đã hành động dại dột vì không muốn đánh đổi của cải phù du hiện có để lấy gia nghiệp tồn tại muôn đời.
Qua đoạn Tin Mừng nầy, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta một bài học quan trọng, đó là phải khôn ngoan dùng những của cải tạm bợ đời nầy để đổi lấy kho tàng vô tận trên thiên quốc; hay nói một cách bình dân là “bỏ con tép bắt con cá” mà cá đây lại là cá voi! Vì phần bỏ ra rất nhỏ nhưng phần thu lại thật lớn lao.
Chúa Giêsu tiếp tục khẳng định điều nầy với thánh Phê-rô và các tông đồ: “Thầy bảo thật anh em: Chẳng ai từ bỏ nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất vì Thầy và vì Tin Mừng mà không được gấp trăm và được sống đời đời.”
Vào khoảng năm 1975-1980, thời điểm kinh tế Việt Nam gặp khủng hoảng, vật giá leo thang từng ngày, giá vàng nhích lên liên tục, đồng tiền mỗi ngày một mất giá.
Rồi lâu lâu lại có vụ đổi tiền, sau mỗi lần đổi tiền, giá trị đồng tiền lại giảm sút thêm. Từ đó, những người có tiền không dại gì giữ tiền trong tủ, có tiền cứ mua vàng mà trữ. Vàng thì càng lúc càng lên giá, Nhà Nước có đổi tiền mấy lần cũng không sợ. Thế là khi có chút ít tiền dư, người ta đua nhau sắm vàng. Kẻ có nhiều tiền thì sắm cả cây vàng, người ít tiền thì sắm nửa chỉ hoặc một hai phân. Thế là an lòng chắc dạ.
Người khôn thời đó biết đổi tiền giấy lấy vàng, nhưng vàng cũng không còn giá trị khi người ta nằm xuống nhắm mắt xuôi tay. Thế nên Chúa Giêsu dạy chúng ta phải đổi bạc, đổi vàng, đổi tất cả của cải ta có đời nầy để lấy thứ quý kim muôn đời có giá, đó là công phúc. Ai có nhiều công phúc là có cả một kho báu trên trời không bao giờ mai một, hư hao.
Mai đây, ngày chết của chúng ta rồi cũng ụp đến thình lình. Nếu hôm nay không kịp chuyển đổi những gì ta có thành công phúc, thì lúc đó ta sẽ trở thành người trắng tay, chẳng còn gì tồn tại với mình khi bước qua thế giới bên kia. Đến lúc ấy, có hối tiếc thì cũng đã quá muộn màng!
Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
Xét về một vài khía cạnh nào đó, chúng con cũng là những người giàu có, không giàu của cải thì cũng có thể giàu thời giờ, hoặc giàu sức lực, hay giàu khả năng, trí tuệ... Xin dạy chúng con biết đem những thứ của cải tạm bợ nầy đổi lấy thứ tài sản không bao giờ hư nát.
Xin cho chúng con biết dùng thời giờ Chúa ban để tôn vinh Chúa và phục vụ con người. Đó là cách chuyển của cải tạm bợ đời nầy thành công đức bền vững cho mai sau.
Xin cho chúng con biết cống hiến sức lực, tài năng, trí tuệ... để gánh vác việc đời, để góp phần xây dựng xã hội, để phúc âm hoá môi trường, để phụng sự Hội Thánh. Đó là những cách biến của cải tạm bợ đời nầy thành công phúc, thành của cải không bao giờ hư nát dành cho mai sau.
6. Vĩnh cửu và tạm thời
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Thế giới ngày hôm nay có đầy sự hấp dẫn, khiến người ta thích những gì là tạm bợ, và không thích những gì là bền vững.
Trong cuộc gặp gỡ các chủng sinh, khấn sinh và tập sinh tại hội trường Phaolô VI, Đức Thánh Cha Phanxicô kể, ngài đã nghe một chủng sinh, một chủng sinh tốt lành nói rằng anh muốn phục vụ Đức Kitô, nhưng chỉ 10 năm thôi, và rồi anh sẽ nghĩ đến việc bắt đầu một cuộc sống khác... và ngài kết luận, thật nguy hiểm! Tuy tạm thời, nhưng điều này thật nguy hiểm bởi vì ta không đánh cược đời mình một lần cho tất cả. Tôi kết hôn chừng nào còn yêu; tôi sẽ là một nữ tu nhưng chỉ trong một "thời gian ngắn" thôi, trong "một khoảng thời gian nào đó" và tôi sẽ tính tiếp, tôi không biết câu chuyện sẽ kết thúc thế nào. Thế này thì không phải với Đức Giêsu! Đúng là cái thứ văn hóa tạm thời, nó không làm cho chúng ta nên tốt đẹp: bởi vì đưa ra một lựa chọn dứt khoát ngày nay thật là khó. Chúng ta là những nạn nhân của nền văn hóa tạm thời này.
Cái tạm thời đã cản trở chàng thanh niên
Chành thanh niên trong Tin Mừng là ai? Là con nhà giàu có. Nói theo ngôn ngữ ngày hôm nay thì anh ta là một thiếu gia. Nhưng một thiếu gia có lối sống gương mẫu, không bồ bịch lăng nhăng, không đua đòi ăn diện. Anh rất thành tâm thiện chí tuân giữ cả Mười Giới Răn một cách nghiêm túc từ thủa nhỏ, không ai chê trách được điều gì. Tắt một lời, anh là người hết sức gương mẫu trong việc chu toàn các đòi hỏi của Mười Điều Răn.
Hơn thế nữa, anh còn là một người nhiệt huyết và cầu tiến, không bằng lòng với cuộc sống hiện tại, nên anh thao thức đi tìm kiếm con đường trọn lành, để hoàn thiện. Chính vì những đức tính đó mà anh được Chúa Giêsu đem lòng thương mến. Người còn muốn mời gọi anh tiến xa thêm một bước nữa trên đường hoàn thiện. Đó là đem bán tất cả của cải là cái tạm thời và đem bố thí cho người nghèo để được kho tàng trên trời là cái vĩnh cửu, rồi đến theo Chúa Giêsu làm môn đệ của Người. Tin Mừng cho biết: "Anh sù nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải" (Mc 10,22). Vậy là, cái tạm thời đã rào cản anh.
Vượt qua rào cản
Chàng thanh niên trong Tin Mừng hôm nay thật tuyệt vời. Nếu xưa nay người ta cứ tưởng có một đời sống luân lý hoàn hảo đã đủ bảo đảm về mặt đạo đức, tiền bạc dư thừa bảo đảm về mặt vật chất, thì anh vẫn mang trong mình khát vọng sống đời đời cho dù anh đã thủ đắc trong tay toàn bộ những thứ đó.
Để biến khát vọng thành hiện thực, anh đã tìm đến với Đức Giêsu là Đấng mà anh gọi là nhân lành. Đức Giêsu đã chỉ cho anh: "Hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người khó khó" (Mc 10,17). Bán sạch tài sản mà cha mẹ anh và chính anh đã vất vả tích lũy một đời bằng mồ hôi nước mắt; đã thế, còn đem bố thì hết cho người nghèo, còn mình trở nên trắng tay mà có sự sống đời đời sao?Một lời mời gọi mới khó làm sao!
Đây là một rào cản anh phải vượt qua, trở nên nghèo vì người nghèo. Vì chính lúc nghèo như thế, "anh có một kho báu trên trời" (Mc 10, 21). Kho báu đó đang hiện diện ngay trước mặt anh. Thế nên, Đức Giêsu mới nói: "Rồi đến theo Ta" (Mc 10,21). Đức Giêsu là một giá trị vượt trên tất cả những của cải trần gian, vì Người là "sức mạnh và sự không ngoan của Thiên Chúa" (1Cr 1,24). "Trong Người có cất giấu một kho tàng của sự khôn ngoan và hiểu biết" (Cl 2, 3). Gia tài của chàng thanh niên có là gì so với Đức Khôn Ngoan? Nếu biết Đức Giêsu là Đức Khôn Ngoan hiện thân, có lẽ anh sẽ nói như tác giả sách Khôn Ngoan: "Đem so sánh sự giầu sang với sự không ngoan, tôi kể sự giầu sang như không" (Kn 7, 8). Chàng thanh niên chưa vượt qua được rào cản về tài sản, nên anh mới kinh ngạc về đề nghị và lời mời gọi của Đức Giêsu.Nguyên nhân khiến anh chấp nhận mãi mãi “thiếu một điều”,là do chính của cải, tài sản mà anh đang có.
Chọn chung kết
Chàng thanh niên giàu có không muốn bỏ cái tạm bợ là sự giàu sang để đi theo Chúa Giêsu, sự giàu sang và của cải là một cản trở làm cho hành trình tiến về nước Thiên Chúa trở nên khó khăn. Chính Chúa tuyên bố: "Những người giầu có vào nước Thiên Chúa khó biết bao" (Mc 10, 23). Chúa biết khó, nhưng Người vẫn mời gọi chúng ta từ bỏ, vì Nước Trời có giá trị lớn lao, đòi hỏi con người phải trả giá. Vì chưng giữ đạo không chỉ dừng lại ở chỗ ăn ngay ở lành, chu toàn các đòi hỏi của luân lý, không làm điều xấu…mà quan trọng hơn, đó còn là tin nhận và dấn bước theo một con người, người đó là Đức Giêsu Kitô. Nói khác đi, sự hoàn thiện theo Tin Mừng hệ tại ở điều này: bước theo Chúa Kitô để làm môn đệ của Người.
Thực ra, tiền bạc không phải là một sự dữ. "Có của" không đương nhiên là xấu, thái độ khi "có của" mới xác định giá trị con người. Giáo hội từng có những vị thánh xuất thân từ ngai vàng như vua Louis nước Pháp, vua Stêphan nước Hungari. Giữa đống tiền của, họ vẫn lắng nghe tiếng Chúa và dấn thân cho người nghèo.
Của cái là phúc lành của Thiên Chúa như sách Châm ngôn viết: "Chính phúc lành của Đức Chúa cho ta được giầu sang" (Cn10, 22); "Chúa bắt phải nghèo và cho giầu có" (1Sm 2,7). Người giầu cũng không bị kết án vì có nhiều tiền của. Chính Đức Giêsu cũng giao du với những người giầu sang quyền quí như Giakêu, Nicôđêmô, Matthêu v.v…
Như vậy, tiền bạc và sự giầu sang không phải là đối tượng nguyền rủa. Đức Giêsu muốn chúng ta dùng nó làm bàn đạp để bước lên bậc hoàn thiện chiếm được nước trời có Chúa làm gia nghiệp đời ta. Amen.
7. Sự nghiệp chóng qua - Cơ nghiệp đời đời
(Suy niệm của Anmai, CSsR)
Ít nhiều gì trong chúng ta cũng đã được nghe hay cũng được biết về tác phẩm "Ở trọ" của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Bài hát thật ngắn ngủi. Bài hát ấy chỉ có 5 đoạn nho nhỏ mà thôi. Mở đầu bài hát ấy, Trịnh Công Sơn viết:
Con chim ở đậu cành tre
Con cá ở trọ trong khe nước nguồn
Tôi nay ở trọ trần gian
Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời (Ở trọ - Trịnh Công Sơn)
Ông đã mượn hình ảnh hết sức thực tế, hết sức mộc mạc, hết sức dễ thương để nói về phận của con chim, phận của con cá và phận của con người. Ai ai trong chúng ta cũng biết con chim đậu ở cành tre ấy nhưng đâu biết khi nào nó bị bắn, bị bẫy. Con cá cũng vậy, ở trong khe nước nguồn thật đấy nhưng nó đâu biết được nó "thọ" được bao năm? Còn con người, dù cho có được một trăm năm đi chăng nữa thì cũng đi về chốn xa xăm cuối trời. Vậy thì, cuộc đời này chỉ là tạm, là bợ mà thôi. Sự nghiệp của con người ở đời này thật mau qua và chóng tàn còn cơ nghiệp đời đời của con người thì mãi mãi là vĩnh cửu.
Sự nghiệp của con người: Thường thì con người vẫn chạy, vẫn đặt sự nghiệp đời mình ở vật chất, ở tiền tài và danh vọng còn cơ nghiệp đời đời của con người là khác, là đặt để trong lòng bàn tay của Thiên Chúa. Con người vẫn được mời gọi để chọn lựa, để sống cái sự nghiệp chóng qua hay cái cơ nghiệp đời đời.
Cuộc đời này mau qua chóng tàn thật để rồi hơn nhau ở cái chỗ khôn ngoan để chọn lựa cho mình lối sống, lối hành xử với những cái sự nghiệp chóng qua. Sẽ có những người cứ đi tìm cho mình đầy túi tiền và ngược lại, có những người đi tìm sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Bằng chứng đi tìm sự khôn ngoan của Thiên Chúa chúng ta vừa được nghe tác giả sách Khôn Ngoan thuật lại:
Vậy tôi nguyện xin, và Thiên Chúa đã ban cho tôi sự hiểu biết.
Tôi kêu cầu, và thần khí Đức Khôn Ngoan đã đến với tôi.
Đức Khôn Ngoan, tôi đã quý trọng
còn hơn cả vương trượng, ngai vàng.
Tôi không coi của cải là gì so với Đức Khôn Ngoan.
Đối với tôi, trân châu bảo ngọc
chẳng sánh được với Đức Khôn Ngoan,
vì vàng trên cả thế giới, so với Đức Khôn Ngoan,
cũng chỉ là cát bụi,
và bạc, so với Đức Khôn Ngoan, cũng kể như bùn đất.
Tôi đã ham chuộng Đức Khôn Ngoan hơn sức khoẻ và sắc đẹp,
đã quý Đức Khôn Ngoan hơn ánh sáng,
vì vẻ rực rỡ của Đức Khôn Ngoan chẳng bao giờ tàn lụi.
Nhưng cùng với Đức Khôn Ngoan, mọi sự tốt lành đã đến với tôi.
Nhờ tay Đức Khôn Ngoan, của cải quá nhiều không đếm xuể. (Kn 7, 7-11)
Tác giả đã nói với mọi người rằng của cải chẳng là gì cả so với Đức Khôn Ngoan. Tất cả cũng chỉ là cát bụi mà thôi. Ngay cả sức khoẻ và sắc đẹp là cái mà con người ta cứ mãi miết đi tìm nhưng cũng chẳng bằng Đức Khôn Ngoan. Đức Khôn Ngoan đem đến cho con người mọi sự tốt lành và cái tốt lành ấy không bao giờ tàn lụi. Tốt lành ấy phải chăng là cơ nghiệp đời đời mà Chúa đã hứa dành cho những ai bỏ vật chất, bỏ tất cả mọi sự để chọn Chúa.
Trang Tin mừng mà chúng ta vừa nghe Thánh Maccô thuật lại cho chúng ta biết về cái sự nghiệp chóng qua và cái cơ nghiệp đời đời của con người. Trang Tin mừng này, thánh ký đã sử dụng nhiều nguồn tài liệu khác nhau để biên soạn lại thành một trình thuật xoay quanh chủ đề về thái độ phải có đối với của cải vật chất nếu họ muốn trung thành theo chân Chúa Giêsu.
Xét về kết cấu văn chương, trình thuật này chia ra làm 3 tiểu khúc liên kết nhau:
- Câu 17-22: cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu và người giàu có.
- 23-27: cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và các môn đệ về sự giàu sang như một trở ngại cho việc thừa hưởng Nước Thiên Chúa.
- Câu 28-31: phần thưởng của những kẻ theo Chúa Giêsu.
Quả thực, trong tư cách là Đấng Thiên sai cứu độ, Chúa Giêsu mời gọi mọi người đến lãnh nhận ơn cứu độ trong Nước Thiên Chúa. Tuy nhiên, khác với quan niệm đã lỗi thời của người Do Thái, điều kiện mà Người đưa ra không phải là sự chu toàn trọn lề luật song còn là một cái gì hơn thế. Đó chính là dám khước từ tất cả để đi theo Người, là chấp nhận vác khổ mình bước theo Người bất chấp khổ đau thử thách hay quyến rũ. Tuy nhiên đó cũng chính là con đường đưa dẫn đến sự sống, đến hạnh phúc cứu độ của Nước Thiên Chúa.
Nhằm lúc Người đi đường, có người chạy lại quì xuống bái lạy Người mà hỏi: Lạy Thầy tốt lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm cơ nghiệp? Nhưng Chúa Giêsu nói với người ấy: sao ngươi nói ta tốt lành? Không có ai tốt lành trừ phi có một Thiên Chúa? (C. 17-18)
Sự sống đời đời - Làm cơ nghiệp
Trong truyền thống Do Thái, hạn từ sự sống đời đời ám chỉ cuộc sống với Thiên Chúa. Ngữ vựng làm cơ nghiệp vốn là một hạn từ chuyên môn của truyền thống Cựu ước ám chỉ tới sự sở hữu một miền đất Chúa ban.
Như vậy vấn nạn người giàu có nhằm tới liên hệ đến điều kiện để được vào Nước Thiên Chúa, được hưởng hạnh phúc cứu độ. Đó là bận tâm hàng đầu của người Do Thái thời ấy, và trong nhãn quan thần học của Maccô, vấn đề được nêu lên ở đây liên hệ trực tiếp tới bất cứ ai chọn tin theo Chúa Giêsu. Vì chưng mục đích cuộc sống của họ chính là hạnh phúc cứu độ mà Thiên Chúa muốn trao ban cho họ.
Vấn đề đặt ra ở đây là c. 18: "Chúa Giêsu nói với người ấy: sao ngươi nói Ta tốt lành? Không có ai tốt lành trừ phi có mình Thiên Chúa"
Chúng ta hiểu thế nào về câu đó?
Người giàu có gọi Chúa Giêsu là Thầy tốt lành: cách xưng hô như thế trái với thông lệ của người Do Thái. Đối với một nhân vật đáng kính, một bậc thầy như một Rabbi chẳng hạn, họ chỉ sử dụng tên gọi didaskale. Vì chưng, trong truyền thống của họ, ngữ vựng tốt lành dành riêng cho duy mình Thiên Chúa thánh thiện: "Hãy cảm tạ Giavê vì Ngài tốt lành vì ơn Ngài miên man vạn đại" (Tv 118,1).
Thế nhưng, Chúa Giêsu không phải là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa sao?
Như đã nhiều lần ghi nhận và ở đây cũng thế, chúng ta không được quên lối hành văn riêng biệt và độc đáo của Marcô nhằm mang chở một sứ điệp thần học nổi bật nơi từng mạch văn. Vậy ý nhắm thần học của Maccô ở đây là gì?
Như trong lối hành văn quen thuộc của thánh ký, Chúa Giêsu đã hơn một lần đưa ra vấn nạn khởi từ ý nghĩ của những kẻ nghĩ về Người. Đây cũng là ghi nhận mà Victorê Antiôkia từ xa xưa đã gợi nhắc. Chúa Giêsu sử dụng chính những lời của kẻ đối thoại nhằm đưa họ lên một sứ điệp cao vượt hơn. Trong mạch văn ở đây, người giàu có đã đến với Chúa Giêsu như đến với một Rabbi nhân loại. Chắc hẳn ông ta muốn tìm kiếm sự giải đáp nơi Chúa Giêsu theo như cách thế nơi các Rabbi Do Thái khác. Bởi vậy, khi phủ nhận lời ca tụng thái quá của ông, không phải Người muốn phủ nhận bản tính thần linh của Người. Song le, Người muốn lưu ý thính giả phải biết hướng đôi mắt nhìn lên xa hơn vượt trên một thứ tốt lành nhân loại thuần túy, phải hướng nhìn về sự tốt lành tuyệt đối là Thiên Chúa. Chỉ có Thiên Chúa tốt lành mới ban cho họ hạnh phúc vĩnh cửu làm gia nghiệp.
Ngươi thiếu một điều:
Đối với Chúa Giêsu, anh ta thiếu một điều gì để có một kho tàng trên trời, nghĩa là để có được hạnh phúc vĩnh cửu.
Khi Chúa Giêsu mời gọi một ai theo Người, Người muốn điều gì ở họ? Có phải đó là sự tốt lành của họ hay là ước muốn hạnh phúc của họ không? Người muốn con người toàn diện. Đó là điều mà Người đòi hỏi khi mời gọi các môn đệ vác khổ giá theo Người, và cũng là điều duy nhất mà Người đòi hỏi bất cứ ai, như trường hợp kẻ giàu có này. Trong nhãn quan thần học Maccô, yêu sách này ngõ cho tất cả mọi Kitô hữu không trừ ai dù ở hoàn cảnh nào. Vì chưng, những ai muốn trở thành môn đệ của Người, họ phải hiến dâng toàn vẹn con người của họ cho Người, họ phải lựa chọn dứt khoát Người là bậc thang giá trị tuyệt đối vược trên các thứ hấp dẫn khác như của cải, danh vọng dù họ ở trong hoàn cảnh hay bậc sống nào. Nếu không, họ cũng sẽ rơi vào thảm trạng của người giàu có đang được nói tới ở đây, là "buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của" (c. 22). Anh ta đã quay lưng lại với Chúa Giêsu và đã lựa chọn của cải. Anh ta đã trân trọng của cải hơn Người, mà lý ra anh ta phải biết lựa chọn, vì chỉ có người mới đem lại cho anh sự sống vĩnh cửu làm gia nghiệp. Chỉ có Người là thực sự kho tàng vô tận của hạnh phúc, của ơn cứu độ cho con người.
Qua bài học của người giàu có, người môn đệ của Chúa Giêsu được mời gọi dứt khoát lựa chọn Người vượt trên mọi giá trị khác. Người môn đệ theo Chúa Giêsu không thể làm tôi 2 chủ: hoặc Người hoặc Manmon (x. Mt 6,24; Lc 16,13).
Trên thực tế, như trường hợp người giàu có cũng cho thấy người ta có nguy cơ lựa chọn sự giàu sang, của cải và gạt bỏ Thiên Chúa. Tiền bạc dễ làm cho người ta thành ích kỷ, kiêu căng và bất công. Đối với Do Thái giáo, những cám dỗ đó không phải là chuyện xa lạ. Lồng kết vào trong nhãn quan thần học Maccô, tiền bạc giàu sang có thể tạo nguy cơ cho ơn cứu độ mà Chúa Giêsu muốn trao ban, khiến họ tích trữ cho mình những kho tàng và không biết làm giàu nơi Thiên Chúa (Lc 16,21). Như người giàu có kia, vì lầm tưởng giàu sang là hạnh phúc đích thực, nên họ lựa chọn của cải và quay lưng lại với Chúa Giêsu, với lời mời gọi theo Người.
Những ai chọn theo Đức Kitô sẽ không quên rằng: bao lâu còn sống trong cuộc đời trần thế, họ còn phải vác khổ giá theo Người. Phần thưởng đích thực, hạnh phúc vĩnh cửu chỉ đạt được một cách vẹn toàn ở đời sau. Đó cũng chính là lúc có sự đổi thay căn gốc: bỏ cái sự nghiệp chóng qua mà tìm lấy cái cơ nghiệp đời đời.
8. Sự giầu có đích thực – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận đã có một lần nói với nhà tỷ phú Bill Gatte rằng: “Sự văn minh đích thực là không để ai ở lại phía sau”. Nhà tỷ phú trả lời rằng: “Sẽ có một ngày tôi trả lại cho thế giới những gì mà tôi đã thu lại hôm nay”. Câu trả lời này xem ra có sự tiến bộ hơn chàng thanh niên trong đoạn Tin mừng hôm nay. Anh thanh niên nghe Chúa nói liền buồn rầu bỏ đi. Nhà tỷ phú khôn ngoan trả lời rồi để đó. Ngày mai sẽ làm nhưng không phải là ngày hôm nay. Ngày mai có thể là một ngày không xa nhưng cũng có thể là một ngày rất xa, xa lắm. Điểm chung của cả hai là: đều “lắm tiền, nhiều của”. Cả hai đều làm ra tiền bằng chính mồ hôi công sức của mình. Có thể nói cả hai đều hoàn hảo về mặt đạo đức. Họ đều thành đạt trong cuộc sống. Họ đều có một vị trí tốt trong xã hội. Họ đều có cố gắng vươn lên bằng chính sức lực, trí tuệ của mình. Thế nhưng, tại sao Chúa Giêsu lại đề nghị anh thanh niên phải bỏ tiền ra cho người nghèo? Tại sao Đức Hồng Y lại nhắc nhở Bill Gatte phải quan tâm tới những người kém cỏi hơn mình? Họ đâu có lỗi với người nghèo? Họ đâu cản trở sự tiến bộ của người khác? Họ đâu lấy chiếc bánh của người nghèo, họ cũng không cản bước con đường thành công của người nghèo hay được lợi từ sự thiếu may mắn của người bất hạnh. Họ đâu phải chịu trách nhiệm về sự nghèo đói của những người chung quanh? Vậy đâu là điểm then chốt mà Chúa muốn nói với chúng ta hôm nay?
Thưa, bởi vì cả hai đều thiếu sự chia sẻ. Họ có tất cả nhưng không có lòng quảng đại. Họ giầu có về vật chất nhưng không giầu có về tấm lòng. Sống ở đời cần có tình có nghĩa. Nghĩa và tình đều là hoa trái của sự trao ban. Tình yêu cần có sự trao ban. Ân nghĩa cần có sự đền đáp. Dòng sông luôn có bên lở bên bồi mới cải tạo lại ruộng đất, làm phong phú hoa màu. Con người sống ở đời cũng cần có tình có nghĩa mới làm phong phú cho cuộc đời và hữu ích cho tha nhân. Chính Chúa Giêsu đã nói với người thanh niên: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.”
Nhưng tiếc thay, sự ích kỷ đã bóp chết con tim của anh. Anh không thể trao ban vì lòng ích kỷ của anh lớn hơn lòng quảng đại. Núi tiền của anh chất quá cao nên anh không thể nhìn thấy sự khốn cùng của tha nhân. Lòng tham của anh quá sâu nên không thể lấy ra để trao ban. Chúa đã đau xót nhìn anh bước đi trong vùng tối của cõi lòng. Anh đã tự đi vào trong sự cô đơn đầy chán chường. Con người sinh ra là để sống với đồng loại. Không ai sống một mình. Cuộc sống chung đòi hỏi phải chia sẻ, phải trao ban mới mang lại những giây phút hạnh phúc trong cuộc đời. Cuộc sống mới thi vị và đầy ý nghĩa. Anh thanh niên giàu có đã không có niềm vui của sự trao ban. Anh có tiền nhưng đồng tiền không sinh lời cho cuộc đời của anh. Anh lo cất giấu đồng tiền như cất giấu cuộc đời anh trong một thế giới rộng lớn bao la mà lòng anh vẫn cô đơn chán chường, bởi thiếu tình liên đới, chia sẻ với tha nhân. Anh không dám dùng đồng tiền mua lấy lòng nhân. Anh đã đánh mất cơ hội dùng của cải Chúa ban để mua lấy bạn hữu nước trời. Cuộc đời anh đã chết bởi thiếu giá trị sự hiện diện hữu ích cho tha nhân.
Đó chính là thảm cảnh của cuộc sống hôm nay. Người ta có tiền nhiều nhưng lại có rất ít bạn thân. Người ta dùng nhiều thời gian cho việc kiếm tiền nhưng lại rất thiếu thời gian cho thân nhân bạn bè. Người ta tìm cách sở hữu thật nhiều của cải nhưng lại ít khi trau dồi nhân cách cho bản thân. Người thời nay giỏi tìm cách mưu sinh nhưng lại không biết tạo dựng cuộc sống cho có giá trị và ý nghĩa. Người thời nay sống thọ hơn nhưng tình người lại mong manh dễ tan vỡ. Con người dường như đang vong thân, đang đánh mất ý nghĩa của cuộc đời, đang giảm dần giá trị sự hiện diện của mình giữa tha nhân, bạn bè.
Vâng, có thể khi nghe đoạn tin mừng hôm nay, nhiều người cho rằng Chúa không nói với tôi, vì tôi vẫn còn nghèo lắm! Tôi đâu có gì để cho! Chúa đang nói với người hàng xóm ích kỷ gần cạnh nhà tôi. Chúa đang nhắc nhở những người giầu có ở trong xứ đạo của tôi. Thế nên, tôi an tâm. Vì Chúa không trách cứ những người nghèo đói như tôi. Vâng, có lẽ nhiều người đã nghĩ như vậy. Có những người cả một đời chưa một lần bố thí cho một ai đó. dù chỉ là một chén cơm, một chút mắm muối gọi là “tối lửa tắt đèn có nhau”. Có những người cả một đời chỉ biết dùng đôi tay để nhận lãnh mà quên rằng đôi tay còn có khả năng để trao ban. Có những người chỉ chờ mong anh em nói tốt về mình, nhưng bản thân lại chưa một lần nói tốt cho anh em. Cuộc đời họ vẫn còn thiếu. Thiếu lòng quảng đại. Thiếu tấm lòng chia sẻ, trao ban. Họ cần phải bán đi cái tôi ích kỷ của mình để mở rộng trái tim đến với anh em. Họ cần bán đi một chút nhu cầu của bản thân để chắt chiu từng nghĩa cử tốt với tha nhân. Họ cần bán đi bản tính tự cao tự đại của mình để sống khiêm nhường với tha nhân. Có như vậy, cuộc đời họ mới thực sự có ý nghĩa. Vì giá trị sống ở đời là trở nên có ích cho đồng loại, nếu cuộc đời của chúng ta thực sự không mang lại ích lợi gì cho gia đình, cho xã hội thì cuộc sống đó có dài đến trăm năm vẫn là con số không, hay chỉ là một đời sống thực vật, vì trái tim đã không đủ cung cấp nhựa sống cho cơ thể của mình.
Ước gì mỗi nguời chúng ta luôn cảm nhận được niềm vui của sự trao ban để luôn trở nên có ích cho gia đình và xã hội. Vì sự khôn ngoan đích thực là hãy Dùng của cải cách quảng đại, trọng của cải cách tế nhị, xa của cải cách anh hùng. Amen.
9. Thanh niên giàu có – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Vũ Khắc Nghiêm)
Hình ảnh nổi bật nhất trong Tin mừng hôm nay là anh thanh niên giàu có. Anh rất thán phục Đức Giêsu, nên anh đã chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và thưa nhiều điều:
Điều thứ nhất anh thưa: Thầy là người nhân hậu. Chắc hẳn anh vừa thấy Chúa thương mến các trẻ em rất đặc biệt, và nhiều lần anh đã thấy Chúa cứu chữa bao nhiêu người tàn tật, đau ốm. Lòng nhân hậu của Người khiến anh xúc động cảm phục.
Điều thứ hai anh thưa với Đức Giêsu: Tôi phải làm gì để hưởng sự sống đời đời làm gia nghiệp? Đây là vấn đề làm anh quan tâm lo lắng rất nhiều. Nỗi khắc khoải này, không phải của riêng anh mà của chung cả nhân loại. Trước những cái chết của ông bà, cha mẹ, những người thân yêu, nhất là những cái chết của những bạn trẻ như anh, không ai có thể cầm được nước mắt. Con người đành chịu bó tay, và người ta lo sao cho mau chóng bó xác lại, đóng quan tài cho chặt, đào hố cho sâu, chôn dưới lòng đất cho chắc để khỏi phải ngửi những mùi hôi tanh thối tha. Cuộc đời con người chỉ có thế là hết ư? Thật vô lý bao nhiêu người đã kêu lên: Vô lý! Anh thanh niên đang tuổi thắc mắc, đã không chịu nổi cái vô lý đó, nên anh tìm đến với Đức Giêsu. Anh tin Người sẽ giúp anh thoát khỏi cơn khủng hoảng vô lý này. Người hỏi anh có giữ các điều răn không? Anh mau lẹ dứt khoát đáp: “Thưa, tất cả những điều đó tôi đã giữ từ nhỏ”. Anh nghĩ chắc ăn rồi: mình sẽ được sống đời đời và anh vui mừng nhìn cặp mắt đầy yêu thương của Đức Giêsu.
Không ngờ, Người lại bảo: “Anh chỉ còn thiếu một điều là hãy về bán những gì anh có mà bố thí cho người nghèo, anh sẽ được kho tàng trên trời. Sau đó, hãy đến theo Tôi”.
Nghe thế, niềm vui phựt tắt “Anh buồn rầu bỏ đi vì anh có nhiều của cải”.
Thật sững sờ: các môn đệ sững sờ, dân chúng sững sờ. Họ tiếc: Sao Người không chiêu mộ chàng thanh niên giàu đó làm môn đệ có phải sướng không? Còn Đức Giêsu, Người thương tiếc anh và những kẻ giàu có: “Người rảo mắt nhìn chung quanh và nói: Những người có của mà vào nước Thiên Chúa, thật khó biết bao!… Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Thiên Chúa”.
Đức Giêsu đã nhiều lần ví những người giàu như ông phú hộ tích trữ thóc lúa để ăn chơi thỏa thích. Hay như ông phú hộ ngày ngày yến tiệc linh đình, không để ý đến Lagiarô đói khổ thèm được mấy thứ rơi từ bàn ăn rơi xuống, vẫn không được (Lc. 12, 16-21. 16, 19-26).
Những hạng phú hộ như thế ngày nay xuất hiện khắp nơi: như Onessis nhà tỷ phú Hy lạp nổi tiếng nhất thế giới, chỉ lo ăn chơi, cưới hai bà vợ, có hai con, cả gia đình sống bất hòa, bất chính, ly dị nhau. Đứa con trai chết vì tai nạn máy bay, con gái ghen ghét bà mẹ ghẻ Jacqueline.
Ông Khasuri, nhà tỷ phú Nhật nổi tiếng thứ nhì thế giới, mỗi ngày tiêu xài 300.000 đôla. Ông mua một bức họa của Van Goh có 7 bông hoa hướng dương với giá 35 triệu đôla. Báo chí thế giới cho là một bỉ ổi đối với người nghèo. Còn bà vợ đã ly dị đòi bồi thường 2 tỷ 500 triệu đôla.
Thiên Chúa bảo các ông phú hộ đó: “Đồ ngốc, nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng sống ngươi” (Lc. 12, 20). Khi các ông ấy ở dưới âm phủ, đã ngước mắt lên kêu: “Ở đây con bị thiêu đốt khổ lắm” thì Abraham cũng chỉ đáp lại: “Con ơi, hãy nhớ lại, suốt đời con đã được sướng rồi, bây giờ, phải chịu cực khổ thế là phải rồi” (Lc. 16, 23-25).
Tiếc thay, nếu các ông phú hộ và tỷ phú đó, khi còn sống đã biết chia sẻ cuộc sống giàu có của các ông cho những người nghèo, những người đau khổ, thì khi chết, chắc chắn các ông sẽ được những người hưởng hạnh phúc ngàn thu chia sẻ hạnh phúc của họ cho các ông rồi, đâu còn để các ông cực khổ rên xiết như vậy.
Đoạn Tin mừng Chúa nhật này chỉ cho chúng ta thấy rõ ba điều để được sống đời đời: một là giữ giới răn Chúa, hai là chia sẻ những gì ta có cho người nghèo khổ, ba là hãy đến theo Đức Giêsu.
Chàng thanh niên Phanxicô con nhà thương gia tơ lụa nổi tiếng thành Assisiô nước Ý, đã được Chúa soi sáng và cảm nghiệm sâu xa lời Chúa nói với chàng thanh niên giàu có trong Tin mừng: “Anh chỉ còn thiếu một điều: Hãy về bán những gì anh có mà bố thí cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Sau đó, hãy đến theo Tôi”. Phanxicô đã bán hết những gì mình có bố thí cho người nghèo và bắt đầu một đời sống theo Chúa: Ăn mặc rách rưới, rảo quanh các đường phố vừa rung chuông vừa rao giảng Tin mừng tình thương của Chúa.
Phanxicô lìa trần ngày 04/10/1226, trên môi thì thầm: khó nghèo, hòa bình, tình thương và hát bài Thánh thi ca tụng Chúa: Xin chúc tụng Ngài, Chúa con ơi, với tất cả tạo vật của Ngài …” (Những người lữ hành trên đường hy vọng, số 23.3)
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chỉ dẫn con đường hạnh phúc đời đời, xin cho chúng con trung thành theo đường lối khôn ngoan thánh thiện Chúa dạy, luôn giữ giới răn Chúa, thương yêu chia sẻ cho người nghèo khổ hơn con và nhiệt tâm loan báo Tin mừng.
10. Người tự do - Lm. Hồng Phúc
“Vì anh có nhiều của cải”
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đề cập đến hai điều. Đó là tình và tiền; tình yêu phụng sự Thiên Chúa và tiền bạc nhiều khi phản lại lý tưởng Chúa.
Một thanh niên được Chúa chú ý và kêu gọi đáp lại tình yêu của Ngài. Anh vốn là người đạo đức từ thuở nhỏ. Anh nói: “Những giới răn ấy, con đã giữ từ thuở nhỏ”. Nhưng hôm nay, Chúa kêu gọi anh tiến lên một bậc nữa, để đáp lại tình yêu của Ngài, là “bỏ, bán, bố thí” của cải và theo Ngài. Tình yêu đòi hỏi cởi bỏ để đi theo, như người vợ thương chồng, bỏ tất cả để theo chồng, “chồng đi hang rắn hang rồng cũng theo”. Nhưng người thanh niên này bỏ không đành, “bỏ thì thương vương thì tội”, anh bị chi phối quá nhiều. Phúc Âm nói: “Vì anh có nhiều của cải”. Tiền đã thắng anh.
Nhân cơ hội này Chúa Giêsu đã nói về tiền của. Ngài không lên án người có của. Ngài biết “đồng tiền nối liền khúc ruột”, cần có tiền để sống, để giữ đạo nữa, “có thực mới vực được đạo”. Nhưng Ngài lên án sự ham mê tiền bạc. Tiền của hay làm người ta ham mê dính bén. Tiền bạc hay làm cho lòng người ta đen bạc, khó vào Nước Thiên Đàng. Chúa phán: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa”. Câu nói ấy có nghĩa làm sao? Đây là một từ ngữ Á đông để chỉ một việc làm rất khó. Sách Talmud của Do thái cũng có một thành ngữ tương tự: “Khó như con voi chui qua lỗ kim!”
Thật ra Chúa Giêsu không lên án người giàu cũng không chúc lành cho người nghèo. Những người “đàn bà thánh thiện” đi theo Chúa, họ là những người giàu có, đem tiền của trợ giúp Ngài và các môn đệ trong công việc truyền giáo, họ đâu bị kết án. Cũng như khi Maria, em của Martha và chị của Lagiarô, đem bình thuốc thơm mà Giuđa đánh giá đến 300 đồng (công nhật một người thợ thời ấy là một đồng), Ngài không chối bỏ cử chỉ yêu mến đó. Cũng như nhiều lần, Ngài đi dự những bữa ăn sang trọng của người biệt phái giầu có (Lc 7,36-38; Mc 14,3-9), hay những người thâu thuế có tiền (Lc 19,1-10). Vậy, Chúa lên án sự gì?
Ngài lên án những người không biết dùng tiền của, làm nô lệ tiền của. Thật khó cho người giầu, có thể trở nên một Kitô hữu chân thật khi họ coi đồng tiền là chúa tể. Điển hình là người thanh niên hôm nay, anh không dám hay không đành dấn thân theo chân Chúa, như Phêrô và các bạn ông đã làm.
Chỉ có những người có tinh thần nghèo khó Phúc Âm mới là những người tự do, những chứng chân thật sự và quả cảm. Phaolô nói: “Chúng tôi là những kẻ được coi là không mảy may, nhưng lại được mọi sự làm sở hữu” (IICor 6,10). Và chị Thánh Têrêxa nói: “Từ khi tôi từ bỏ mọi sự, tôi sống thật hạnh phúc, tôi như được sống lại”.
Người từ bỏ tất cả được Chúa cho tất cả.
Thánh Giuse Corrodengo (1786-1842) là gương mẫu từ bỏ mọi sự, sống phó thác vào tình yêu và sự quan phòng của Chúa. Mỗi ngày, tiền của người ta bố thí, còn dư bao nhiêu, người dạy đem chia sẻ cho người nghèo. Người điều khiển một cô nhi viện với 700 trẻ ở Turin (Ý). Một hôm giờ cơm đã gần đến mà nhà bếp xem ra chưa “động tĩnh” gì cả. vả lại túi tiền đã cạn. Chị nữ tu quản lý chạy vào báo động. Thánh nhân bảo: “Cứ cho các em sắp hàng vào nhà cơm như thường lệ”. Rồi ngài chạy vào nhà thờ cầu nguyện. Bỗng dưng có tiếng chuông nhà khách vang reo. Một tiểu đội lính hớt hải chạy vào thưa: “Lạy cha, tiểu đoàn chúng con đi hành quân, gọi về cho ban ẩm thực biết sẽ không về kịp... Vậy xin cha nhận của ăn chúng con đã nấu sẵn, cho các em cô nhi!”
Thánh nhân qua đời lúc 56 tuổi, sau khi đã lập hai dòng nữ Bác Ái và hai dòng nam để tiếp tục công việc. Ngài được Đức Piô XI tôn phong hiển thánh ngày 19-5-1934.
“Thầy bảo thật các con, chẳng ai bỏ nhà cửa, anh em chị em, cha mẹ, con cái, đồng ruộng vì Thầy và vì Phúc Âm... mà không được gấp trăm ở đời này và đời sau được sự sống vĩnh cửu” (Mc 10,29-30).
11. Nguy hiểm của tiền bạc của cải
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
"Những người giàu có khó vào Nước Thiên Chúa biết bao" (Mc 10,23)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Chúng ta thường nghe nói "Có tiền mua tiên cũng được". Và có lẽ bận tâm lớn nhất của chúng ta trong cuộc sống là kiếm tiền. Quả thực tiền bạc rất cần cho cuộc sống. Tuy nhiên Ðức Giêsu cũng khuyến cáo chúng ta rằng tiền bạc rất nguy hiểm, có thể làm cho chúng ta mất Nước thiên đường.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa dạy xem chúng ta phải có thái độ nào đối với tiền bạc.
II. Gợi ý sám hối
Lạy Chúa, lắm khi vì tiền mà chúng con phạm tội làm mất lòng Chúa.
Lạy Chúa, lắm khi cũng vì tiền mà chúng con làm hại anh em chúng con.
Lạy Chúa, lắm khi vì mãi lo kiếm tiền mà chúng con quên tìm kiếm Nước Chúa.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Kn 7,7-11)
Trong khi người thường quý chuộng tiền bạc và sự giàu sang thì Người Công chính coi Ðức Khôn Ngoan là điều quý trọng hơn cả: (1) Khôn ngoan quý trọng hơn tiền bạc, ngọc ngà, châu báu; (2) Khôn ngoan quý hơn sức khoẻ và sắc đẹp; (3) Cùng với Ðức Khôn ngoan, mọi sự tốt lành đến với người công chính.
2. Ðáp ca (Tv 89)
Thánh vịnh này thuộc loại Thánh vịnh minh triết. Mở đầu đoạn này, tác giả nhận định rằng cuộc sống của con người có giới hạn và lại đầy dẫy những ưu phiền. Từ nhận định đó, tác giả không xin Chúa cho mình sống lâu, cũng không xin cho được giàu có, mà chỉ xin cho được no say tình Chúa và vui hưởng lòng nhân hậu của Ngài.
3. Tin Mừng (Mc 10,17-30)
1. Nhân vật của câu chuyện này đã gây ra hai tình cảm của Ðức Giêsu đối với anh, biểu lộ qua hai ánh mắt Ngài nhìn:
Khi biết anh đã giữ trọn các điều răn, Ngài "Chăm chú nhìn anh và đem lòng thương". Ngài còn mời gọi anh tiến cao thêm một bước nữa là đem hết tài sản bố thí cho người nghèo rồi đi theo làm môn đệ Ngài.
Khi anh tiếc của bỏ đi, Ngài cũng tiếc anh, Ngài "nhìn chung quanh" (một cái nhìn tiếc rẽ) và thốt lên một chân lý "Những kẻ cậy dựa vào của cải thật khó vào Nước Thiên Chúa biết bao"
2. Sau đó Ðức Giêsu dạy về sự từ bỏ:
Muốn làm môn đệ Ðức Giêsu thì phải từ bỏ mọi sự để đi theo Ngài. Phần thưởng cho kẻ từ bỏ là:
được lại gấp trăm ở đời này
cùng với sự bắt bớ: nghĩa là được chia xẻ số phận của Ðức Giêsu. và hạnh phúc vĩnh cửu đời sau.
* Cần chú ý trong bản văn
So sánh lời Ðức Giêsu kể ra những thứ phải từ bỏ (câu 29) với lời Ngài kể ra những thứ sẽ được lại gấp trăm (câu 30), ta thấy có hai điểm khác nhau:
- c 29 nói bỏ cha, mẹ; câu 30 nói được gấp trăm về mẹ mà không kể Cha ra. Chỉ có một Cha trên trời là đủ tất cả.
- c 30 có kể thêm "cùng với sự bắt bớ"... Cộng đoàn Marcô đang bị bách hại. Trong hoàn cảnh bị bách hại như thế, người môn đệ phải bỏ rất nhiều. Nhưng bù lại họ cảm nghiệm lời Chúa nói rất đúng: dù không có nhà nhưng họ đi đến đâu cũng được đón tiếp như là nhà của mình; họ xa cách anh chị em và con cái nhưng đi đến đâu cũng được đối xử như anh chị em
4. Bài đọc II (Dt 4,12-13) (Chủ đề phụ)
Tác giả giải thích giá trị soi sáng của Lời Chúa: "xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tuỷ; phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của loài người; phơi bày tất cả mọi sự.
IV. Gợi ý giảng
1. Thập giá và vinh quang
Hai người con ông Zêbêđê, tức là tông đồ Giacôbê và Gioan, đoán rằng CG sắp hoàn thành sự nghiệm của Ngài, nên đã nhờ mẹ mình dẫn đến CG để xin Chúa cho họ được 2 chỗ ưu tiên trong Chính Phủ mà họ tưởng CG sắp thành lập. Ðiểm đáng lưu ý là họ đến xin như thế ngay sau khi CG loan báo rằng Ngài sắp bước vào con đường Thập Giá, mà đây là lần loan báo thứ ba. Họ cũng nghe những lời loan báo ấy chứ, nhưng họ không thèm hiểu ý nghĩa của Thập Giá là gì. Ðầu óc họ cứ bị thôi thúc bởi ham muốn dành cho được những ghế ưu tiên trong Nước Chúa. Thành thử CG phải nhắc họ: "Các con chẳng hiểu điều các con xin. Các con có uống nổi chén đắng Thầy sắp uống và chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?" Họ đáp bừa: "Thưa được". Họ có nghĩ gì đến chén đắng và đến phép rửa gì đâu. Chỉ vì mong Thầy mau chấp thuận cho nên cứ đáp bừa là Thưa được. Tóm lại họ chỉ muốn Vinh Quang chứ không hiểu Thập Giá. Thái độ ấy của 3 mẹ con khiến cho các tông đồ khác phải bực bội.
Nhưng chúng ta chớ vội trách 3 mẹ con nhà Zêbêđê ấy, bởi vì nhiều khi chúng ta cũng giống như họ thôi:
Thí dụ như anh chàng trong câu chuyện ở trên đó, chẳng chịu khó học hành mà chỉ muốn có địa vị, có chức quyền trong xã hội, chẳng chịu khó làm việc mà chỉ muốn ăn lương như bộ trưởng.
Nhiều người trong chúng ta không thích cần cù lao động, không cố gắng tiết kiệm, mà chỉ mơ được trúng số độc đắc. Nhiều người thèm muốn và phân bì với cảnh giàu sang của người khác, nhưng không nhớ rằng trước khi được giàu sang như vậy người ta đã phải cần cù làm ăn biết bao nhiêu năm trời.
Ðó là về việc làm ăn. Còn trong chuyện gia đình cũng vậy. Nhiều người chỉ muốn con mình ngoan, con mình giỏi, con mình tốt nhưng chẳng chịu khó giáo dục con, nhất là chẳng bao giờ để ý làm gương tốt cho con. Thế rồi khi thấy con mình hư, không được như con người khác thì rầy, thì chửi, thì đánh đập. Hết chửi mắng đánh đập con cái rồi quay ra than thân trách phận, than rằng mình vô phước.
Và trong chuyện đạo cũng vậy. Nhiều người chỉ biết cầu xin Chúa cho mình khá giả nhưng lại không chịu khó làm ăn. Bởi vậy mà có những người ngoại đạo đã mỉa mai rằng mấy người có đạo cứ cắm đầu đọc kinh Lạy Cha xin cho chúng con lương thực hằng ngày mãi, nhưng chờ xem Chúa có cho họ hay không! Có người chỉ biết có khoanh tay cầu xin như vậy, rồi khi túng thiếu thì cằn nhằn trách móc Chúa sao mình xin mãi mà Chúa không nhậm lời.
Những ước muốn của chúng ta cũng giống như những ước muốn của 3 mẹ con Zêbêđê: những lời cầu nguyện của chúng ta cũng giống như những lời xin của họ. Ước muốn suông, cầu nguyện suông thì không bao giờ đạt được. CG đã từ chối với 3 mẹ con ấy, rằng "Việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy thì Thầy không có quyền cho". Nghĩa là CG không muốn ban ơn cho những kẻ làm biếng, những người không dám chịu gian khổ. Ơn Chúa và vinh quang Chúa chỉ ban cho những kẻ trước đó đã can đảm trải qua gian nan thử thách. Chính bản thân của CG, để có thể đến với vinh quang phục sinh thì trước phải trải qua con đường gian khổ của Thánh giá. Chúa mà còn như thế thì huống chi là loài người chúng ta: không bao giờ có con đường tắt để đến vinh quang, cũng như không bao giờ có phép lạ cho những kẻ không chịu khó vác Thánh Giá, nói cách bình dân hơn: không trồng cây thì đừng hòng ăn trái.
Bài Tin Mừng hôm nay gồm vào một bài học chính: Phải qua Thập Giá thì mới có thể đến Vinh Quang, không thể đốt giai đoạn, không có con đường tắt. Bài Tin Mừng này khiến chúng ta phải xét lại đôi điều trong cuộc sống chúng ta.
Thứ nhất về lời cầu nguyện của chúng ta: Là người có đạo, chắc chắn chúng ta đã cầu nguyện rất nhiều. Trong khi cầu nguyện chúng ta xin Chúa rất nhiều thứ: xin cho hằng ngày dùng đủ, xin cho gia đình hạnh phúc, xin cho con cái ngoan ngoãn, xin được khỏi cảnh túng thiếu, xin cho được qua một cơn tai nạn... Những lời cầu xin ấy chắc chắn là rất thành thực, rất tha thiết. Nhưng thành thật và tha thiết lắm thì cũng chỉ bằng lời cầu xin của 3 mẹ con nhà Zêbêđê là cùng. Nhưng Chúa đâu có nhận lời cầu xin của 3 mẹ con ấy. Tại sao vậy? Ðó cũng là thắc mắc mà một vài người đã đặt với tôi. Họ nói: Nhiều người không có đạo chẳng cầu xin gì hết mà vẫn giàu có, vẫn hạnh phúc, vẫn thành công; trong khi nhiều người có đạo cầu nguyện cầu xin hoài mà cũng chẳng được gì! Trước khi phàn nàn, trước khi bất mãn, chúng ta phải tự hỏi lại mình: phải chăng mình cũng giống như 3 mẹ con nhà Zêbêđê chỉ muốn vinh quang mà chẳng muốn gian khổ? Phải chăng mình đã không chịu cố gắng mà chỉ mong Chúa làm phép lạ? Phải chăng mình không trông cậy mà chỉ muốn ăn trái. Chúa không phải là một Ðấng chỉ biết ban ơn, chỉ làm phép lạ, mà Chúa là Ðấng vạch đường chỉ lối, đường lối đúng, đường lối tốt để ai biết đi theo thì sẽ đến được hạnh phúc vinh quang.
Và điểm thứ hai: đường lối ấy là gì? Ðó là con đường Thập giá dẫn đến vinh quang. Như vừa nói trên, chúng ta cầu nguyện nhiều, trước mỗi lần cầu nguyện chúng ta đều làm dấu Thánh Giá. Thì xin hãy nhớ trước tiên ý nghĩa của cây Thánh Giá. Trước khi mở miệng xin Chúa một điều gì thì chúng ta hãy xét mình xem chúng ta đã vách Thánh Giá chưa: thánh giá là những nỗ lực làm việc, thánh giá là trách nhiệm hằng ngày, thánh giá là phấn đấu, là mồ hôi, là gian lao cực khổ... Tay chúng ta làm dấu Thánh giá trước khi miệng chúng ta mở lời cầu xin. Nhưng nếu xét thấy chúng ta đã chưa chịu vác Thánh giá thì chúng ta cũng không nên mong những lời cầu xin của chúng ta được chấp nhận.
Hãy cố gắng vác Thánh giá trước đi, nghĩa là hãy cố gắng trước đi với những khả năng của mình - sau đó mới cầu xin, để Chúa thêm ơn bù cho những gì mà sức cố gắng của chúng ta không vươn tới được. Như vậy, mọi việc chúng ta làm đều là hợp tác giữa cố gắng của mình với ơn Chúa giúp. Và có như vậy thì mới có thể thành công.
2. Kho báu trên trời
Kagawa là một tín hữu Kitô Nhật Bản, khi nghe Lời Chúa phán: "Hãy đem bán hết gia tài, bố thí cho người nghèo, và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta", ông liền bán căn nhà tiện nghi sang trọng của mình, đến khu nhà ổ chuột tồi tàn vùng Tokyo. Nơi đây ông chia sẻ của cải cho bất cứ ai cần trợ giúp, ông đi thăm nuôi tù nhân, an ủi giúp đỡ người bệnh, cấp dưỡng cho kẻ nghèo đói... Có một lần, dù lâm bệnh, ông vẫn tiếp tục rao giảng dưới cơn mưa, miệng không ngừng thốt lên: "Thiên Chúa là tình yêu. Ở đâu có tình yêu ở đấy có Thiên Chúa".
Nhà thần học Wiliam Barclay đã trích dẫn những lời đầy sắc bén của Kagawa như sau: "Chúa ở trong tâm hồn những người hèn mọn nhất. Người hiện diện giữa những kẻ ăn xin. Người nằm chung với những ai bệnh hoạn. Người đứng về phía những kẻ thất nghiệp. Vì thế, ai muốn gặp Thiên Chúa hãy đến thăm tù ngục trước khi tới đền thờ, hãy đến thăm bệnh viện trước khi dự lễ, hãy giúp đỡ người nghèo khổ trước khi đọc Kinh Thánh".
****
Người thanh niên trong bài Tin mừng hôm nay là một con người đạo đức. Anh đã thưa với Ðức Giêsu: "Những giới răn ấy, con đã giữ từ thuở nhỏ" (Mc.10,20). Người đã chăm chú nhìn anh và đem lòng thương mến. Người mời gọi anh tiến thêm một bước nữa: "Hãy đem bán hết gia tài, bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta" (Mc.10,21) Trong khi người tín hữu Nhật Bản Kagawa mau mắn, vui tươi thực hiện ngay Lời Chúa thì người thanh niên lại sụ nét mặt, buồn rầu bỏ đi vì anh ta có nhiều của cải.
Quả thật: "Ðồng tiền đi liền khúc ruột". Có thể nói: "Tiền đã thắng tình". Lòng ham mê của cải đã thắng tình yêu dành cho Thiên Chúa và tha nhân. Lòng tham đã bóp nghẹt con tim. Tình yêu của anh chưa đủ mạnh để thúc đẩy anh làm điều nên làm và phải làm. Thánh Phaolô cũng có cảm nghiệm ấy khi ngài viết: "Ðiều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm". (Rm.7,16). Ngài cho đó là tội lỗi trong ta đã hành động, và chỉ có tin tưởng vào Ðức Kitô mới giải thoát ta khỏi tình trạng ù lì đó.
Tình yêu phát sinh sức mạnh. Thánh Augustinô quả quyết: "Cứ yêu rồi làm điều gì mình muốn". Tình yêu sẽ thúc đẩy chúng ta phải làm một cái gì đó cụ thể cho anh em, một cái gì đó anh em đang thực sự mong đợi. Chúng ta không thể nói yêu mến Chúa mà lại làm ngơ trước nhu cầu cấp bách của anh em.
"Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa" (Mc.10,25).
Ðây là một kiểu nói Á Ðông, diễn tả một việc làm rất khó. Ðức Giêsu đã từng tham dự những bữa tiệc sang trọng của người biệt phái giàu có, từng ăn uống tại nhà những người thu thuế lắm tiền, từng chịu ơn những phụ nữ nhân đức nhiều của. Vậy Người chỉ lên án những ai ham mê của cải, coi đồng tiền là chúa tể, làm nô lệ cho nó, để không dám mở tay ra với anh em và quảng đại với công việc của Thiên Chúa.
****
Lạy Chúa,
Có những lần lẽ ra phải cứu giúp người khác, nhưng vì ích kỷ, nên chúng con đã không làm.
Có những lần lẽ ra phải hy sinh cho anh em, nhưng vì sợ phiền hà, nên chúng con đã làm ngơ.
Có những lần lẽ ra phải bỏ tiền trợ giúp một ai đó, nhưng vì so đo tính toán, nên chúng con lại thôi.
Xin tha thứ cho chúng con, và xin đổ tràn tình yêu Chúa vào lòng chúng con, để chúng con có đủ can đảm bán tất cả những gì mình có mà mua được viên ngọc quý là Nước Trời. Amen.
(Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
3. Chuyện minh họa
a/ Ðạo một mắt
Bác sĩ A.J. Gordon kể: ngày nọ, có một ông nhà giầu nhưng keo kiệt đến xin chữa mắt. Sau khi khám nghiệm, bác sĩ cho biết phải chữa cả hai mắt, nếu không có nguy cơ bị mù. Ông hỏi:
- Nhưng giá bao nhiêu?
- Chữa mỗi mắt là 100 đô.
Ông nhà giầu phân vân giữa tiền bạc và mù loà. Rồi ông nói với bác sĩ: "Tôi chỉ chữa một mắt thôi, vì một mắt cũng đủ thấy tiền và đếm tiền. Lại đỡ tốn!"
Nhiều người vẫn cầu nguyện: "Xin mở mắt con để thấy kì công của Chúa..." Nhưng xem ra nhiều Kitô-hữu chỉ muốn Chúa mở cho mình một mắt để thấy công trình của Chúa mà thôi, một mắt còn phải để mà trông coi gia sản!
b/ Những thứ tiền không mua được
George Horace Lorimer, chủ bút tờ Saturday Evening Post trong nhiều năm, có lần viết: "Có tiền và có những cái mua bằng tiền là tốt. Nhưng biết dùng tiền và đừng để mất những thứ tiền không mua được còn tốt hơn."
Có thể kể những thứ sau đây tiền không mua được:
Tiền không mua được tình bạn chân thực.
Tiền không mua được lương tâm trong sạch.
Tiền không mua được niềm vui mạnh khoẻ.
c/ Ðổi tiền
Ðến nước khác, việc đầu tiên mà du khách phải làm là đổi tiền của mình thành tiền đang lưu hành tại nước đó. Tiền của ta trên trái đất chẳng có giá trị gì trên trời, nếu nó không đổi thành việc lành. Ðó là ý nghĩa Lời Chúa nói với chàng thanh niên giầu có: cho đi gia sản của anh để mua Nước Trời.
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Ðức Giêsu đã có nhận xét rằng: những người có của cải mà vào được nước Thiên Chúa, thật khó biết bao. Tin tưởng vào trợ giúp của Thiên Chúa, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện:
1. Xin cho mọi thành phần trong Hội thánh đừng để mình bị tiền bạc và giàu sang lôi cuốn / mà bỏ quên nhiệm vụ Tin mừng hóa mọi người nhất là những người nghèo.
2. Xin cho các nhà cầm quyền trong xã hội / biết dùng tiền của do dân chúng đóng góp / để ưu tiên lo nâng cao đời sống cho phần đa số là dân nghèo.
3. Xin cho những người đang lo âu hằng ngày vì phải sống trong nghèo khó túng thiếu / biết làm ăn sinh sống lương thiện / và gặp được người an ủi giúp đỡ.
4. Xin cho mọi người trong họ đạo chúng ta, dù giàu có hay không được giàu có / cũng luôn sẵn sàng chia sẻ ít nhiều cho những người cần đến sự giúp đỡ của mình.
Chủ tế: Lạy Chúa, chúng con biết rằng sống đúng theo Lời Chúa dạy là rất khó, nhưng tin tưởng rằng nếu loài người không thể được, thì Chúa lại làm được mọi sự: xin Chúa giúp chúng con luôn sống theo tinh thần nghèo khó của Tin mừng. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Giêsu Kitô...
VI. Trong Thánh lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Khi Ðức Giêsu dạy chúng ta xin cho có lương thực hằng ngày, điều Ngài nhắm tới không phải là chữ "lương thực", mà là chữ "hằng ngày". Nghĩa là chúng ta không xin lương thực cho bằng xin có tâm tình phó thác để Chúa lo cho cuộc sống vật chất của chúng ta.
- Sau Kinh Lạy Cha: "Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin giải thoát chúng con khỏi tính quá ham mê tiền bạc của cải đến nỗi sao lãng bổn phận với Chúa và với anh chị em..."
VII. Giải tán
Chúng ta sắp trở về với cuộc sống bình thường. Mặc dù chúng ta phải làm lụng vất vả để kiếm tiền lo cho gia đình, tuy nhiên chúng ta hãy nhớ Lời Chúa dạy hôm nay, đừng để đồng tiền làm mê muội lương tâm chúng ta khiến chúng ta bị mất hạnh phúc Nước Trời.
12. Hãy theo Thầy Giêsu
Người ta ở đời có đủ mọi thứ lo toan và họ vất vả vì những thứ lo toan đó. Những mối lo có thể giúp con người đi đến một quyết định sáng suốt làm hạnh phúc vững bền cho cuộc đời mình nhưng ngược lại có những mối lo làm cho người ta không được như thế. Chàng thanh niên trong bài Phúc âm hôm nay cho chúng ta thấy, anh có đủ mọi thứ vì anh là người giàu có. Những thứ anh có không làm cho anh hạnh phúc nên anh đang lo toan và chạy đến van xin Chúa Giêsu chỉ cho bí quyết sống đời đời. Như thế, anh có đủ mọi thứ nhưng chỉ thiếu sự sống đời đời. Chúa Giêsu đã chỉ cho anh bí quyết như anh mong muốn nhưng anh không thể làm theo lời chỉ dạy này.
Thật thế, anh thanh niên này được các tác giả Phúc âm nhất lãm đề cập đến (Mt 19, 16 -22; Lc 18, 18 -23). Anh ta là người giàu có, không thiếu thứ chi. Giàu có từ của cải đến giàu có từ những việc anh giữ lề luật của Thiên Chúa đầy đủ, anh đã giữ giới răn Thiên Chúa thật kỹ lưỡng, giữ cẩn thận từ thuở nhỏ. Anh chưa hề làm sai luật. Anh chưa hề làm thiệt hại cho ai điều gì. Có thể nói anh là người hoàn hảo. Vật chất, của cải là những phương tiện giúp anh ta tiến thân trong xã hội. Những thứ lề luật luân lý Do Thái bảo vệ anh ta trong tôn giáo Do Thái lúc bấy giờ. Thế nhưng những thứ đó không làm cho anh ta an tâm, không làm cho hạnh phúc. Trong anh ta còn khát khao một điều gì đó ngoài những thứ kia, một cuộc sống tâm linh, một sự sống thần linh, một sự sống đời đời. Anh ta đang đi tìm nó. Anh mong được điều đó dù phải tốn công sức. Vì thế, khi hay biết Chúa Giêsu là người khôn ngoan chỉ dạy điều hay lẽ phải nên anh ta mong được gặp Ngài, mong Ngài chỉ cho biết làm cách nào để được sống đời đời: "Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?" (Mc 10, 17)
Đây là một câu hỏi khá thú vị mà Chúa Giêsu nhận được. Chúa Giêsu biết anh ta, Ngài quý mến anh. Ngài trân trọng anh. Ngài ban cho anh một mệnh lệnh là một điều rất lý tưởng: "hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi." (Mc 10, 21). Nếu những gì anh có được mà không làm cho mình hạnh phúc thì nó còn ích lợi gì mà chẳng phải bán nó đi để bước theo Ngài như lời mời gọi đáp trả. Chúa Giêsu muốn anh sẵn sàng hy sinh của cải, chấp nhận thiệt thòi, đi theo Chúa Giêsu để được sống đời đời. Anh hãy bán, hãy bỏ mà cương quyết bước theo Thầy.
Còn phần anh, anh nghe những lời trên thấy hay lắm, anh cũng muốn đi theo Thầy nhưng làm sao anh có thể chấp nhận hy sinh của cải, chấp nhận thiệt thòi. Thế là anh ta đành từ chối lời mời gọi của Chúa Giêsu, anh ta bỏ đi: "Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải." (Mc 10, 22). Anh ta phải đối diện với thực tế, đối điện với sự chọn lựa: đi theo Ngài mà phải từ bỏ của cải sao? Nó phiêu lưu quá! Khó chấp nhận quá! Việc sử dụng của cải ngoài mục đích lo riêng cho bản thân và gia đình xem ra là một hy sinh quá lớn đối với anh. Cuối cùng anh ta quyết định không nghe theo Chúa Giêsu nữa, chẳng cần sự sống đời đời đâu.
Khi đọc bài Phúc âm này chúng ta thấy được nỗi buồn của Chúa Giêsu và của anh nhà giàu. Chúa Giêsu buồn vì bị từ chối bởi người mà mình yêu mến. Anh ta buồn vì có sự rạn nứt nơi bản thân. Anh đã phấn khởi gặp Chúa, rồi ra đi đầy muộn phiền. Chúa Giêsu đòi anh đúng cái điều mà anh muốn giữ lại. Của cải vốn là chỗ dựa của đời anh. Anh sẵn sàng làm mọi điều Thầy đòi hỏi, trừ việc bỏ chỗ dựa này. Bây giờ anh thấy rõ hơn mình nô lệ cho điều gì. Tiếc thay anh không có can đảm bước ra khỏi sự nô lệ này dù anh vẫn khát khao sự sống đời đời.
Có lẽ chúng ta từng bị giằng co như thế. Của cải vật chất, chức quyền và danh vọng có sức hấp dẫn mãnh liệt. Của cải vật chất cần thiết cho cuộc sống con người nhưng nó dễ làm cho chúng ta thành kẻ nô lệ nếu không biết sử dụng chúng. Tiền của là đầy tớ đắc lực nhưng cũng là ông Vua thống trị ác liệt nhất, nó dễ dàng sai khiến chúng ta. Tôi làm chủ nó, nhưng sau đó nó lại làm chủ tôi. Hạnh phúc chỉ đến với người dám sống theo ý Chúa.
Chúa Giêsu đòi hỏi kẻ theo Chúa phải từ bỏ của cải vật chất để đi theo Ngài (Lc 14, 33). Ngài và các môn đệ đã sống nghèo, sống như người lữ hành, không chỗ cậy dựa, "không nơi gối đầu" để tín thác vào Cha và dễ dàng đến với người ta. Theo Chúa Giêsu là chấp nhận một con đường. Theo Chúa là chọn theo một lối đi. Trên lối đi đó, người môn đệ làm theo lời mời gọi của Thầy Giêsu, dám từ bỏ tất cả, chấp nhận sống bấp bênh. Theo Ngài bằng tim, bằng tâm, bằng tình yêu thì sẽ dễ dàng và sẽ bình an hạnh phúc. Theo Thầy là đạt nguồn hạnh phúc nhất, nơi của cải chưa thể có được. Hơn nữa theo Ngài cũng là trở nên giàu có. Không phải sự giàu có do ích kỷ giữ lại, nhưng là sự giàu có do mở ra trao hiến, trao tặng, trao ban. Không phải sự giàu có do chiếm đoạt, nhưng là sự giàu có đến như một quà tặng biếu không.
Theo Ngài không phải chỉ là bỏ nhà cửa, ruộng vườn, bỏ người thân yêu, bỏ đến cả mạng sống. Theo Ngài còn là được gấp trăm ngay từ đời này, và nhất là đời sống vĩnh cửu mai hậu. Theo Chúa Giêsu, ta sẽ được lại cả những điều đã mất. Cái được quan trọng nhất là được Chúa Giêsu (x. Pl 3,8). Theo Ngài là được sự sống tình yêu và niềm hạnh phúc vững bền.
Lạy Chúa Giêsu, giàu sang, danh vọng, của cải vật chất... hấp dẫn chúng con. Nhưng chúng trói buộc chúng con và không cho chúng con tự do ngước lên cao để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn. Xin giải phóng chúng con khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất, nhờ cảm nghiệm được phần nào sự phong phú của kho tàng trên trời. Xin cho chúng con can đảm bước theo Chúa, tin tưởng, phó thác nơi Ngài. Amen.
13. Tiền bạc là phân bón của ma quỷ
(Suy niệm của Lm. G.B. Văn Hào SDB)
Đã có một thời, người dân Philippines hết lời ca tụng ông Joseph Estrada. Ông là vị tổng thống thứ 9 của một đất nước có rất đông người công giáo. Bản thân ông cũng là một tín hữu sùng đạo nên đông đảo dân chúng quý mến và ngưỡng mộ ông. Trong con mắt người dân, ông là một vị lãnh đạo liêm chính, sống giản dị và rất quảng đại. Lễ tuyên thệ nhậm chức của ông không ồn ào rình rang và quá tốn kém. Ông lưu tâm đến người nghèo, đặc biệt các cư dân vùng nông thôn hẻo lánh, và ông tuyên bố: “Tôi là vị tổng thống của người nghèo”. Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau khi ông lên cầm quyền, niềm tin của dân chúng đặt để nơi ông đã hoàn toàn sụp đổ. Ông Estrada bị báo chí phanh phui vì hàng tháng ông vẫn nhận một khoản tiền lớn từ các sòng bài phi pháp, để nhắm mắt làm ngơ cho họ kiếm chác. Đồng tiền đã làm tối mắt ông và làm sói mòn niềm tin dân chúng nơi ông. Thậm chí, Đức Hồng Y James Sheen Tổng Giám mục giáo phận Manila đã mạnh mẽ lên tiếng đòi ông phải từ chức, vì sự nhơ bẩn ông tạo ra khiến ông không còn xứng đáng là người cầm quyền. Chính đồng tiền đã biến một vị lãnh đạo mẫu mực trở nên một con người đầy tai tiếng, một nhân vật được mọi người nể trọng trở nên đối tượng khiến dân chúng khinh ghét.
Đây chỉ là một trong muôn vàn ví dụ liên quan đến tham nhũng đang xảy ra nhan nhản trong xã hội hiện nay. Đồng tiền dù ở bất cứ thời đại nào, xã hội nào vẫn luôn là tên cám dỗ khủng khiếp nhất gặm nhấm phẩm chất đạo đức và tư cách của con người.
Hình ảnh chàng thanh niên mà bài Tin mừng hôm nay thuật lại, lột tả bức chân dung hiện sinh của các Kitô hữu chúng ta ngày hôm nay. Anh ta ao ước muốn nên trọn lành. Anh đã sống tử tế và nghiêm túc, tuân thủ các luật lệ từ nhỏ. Khi đến trình diện Đức Giêsu và bày tỏ ao ước của mình, Chúa Giêsu đã đặt ra cho anh một thách đố: “ Nếu muốn nên trọn lành, anh hãy về bán hết của cải, phân phát cho người nghèo, rồi đến theo tôi”. Người thanh niên sa sầm nét mặt và lặng lẽ bỏ đi (Mc 10, 22). Tiền bạc và của cải vật chất đã trở nên như một rào chắn khổng lồ cản che, khiến anh không thể bước tới và thực hiện ước muốn tốt lành của mình.
Tiền bạc là phân bón của ma quỷ
Đây là câu nói của thánh Phanxicô Assisi. Ma quỷ đã dùng loại phân bón độc chiêu này gây ra biết bao sự dữ trên trần gian. Những cuộc chiến tranh tàn khốc xảy ra khắp nơi trên thế giới, cũng chỉ vì tranh chấp những nguồn tài nguyên béo bở giữa các quốc gia. Sự đổ vỡ trong các gia đình đa phần cũng chỉ vì đồng tiền bát gạo. Chúng ta không lạ lẫm gì khi thấy cảnh những anh em ruột thịt, hoặc ngay cả cha mẹ và con cái đưa nhau ra tòa kiện cáo cũng chỉ vì tranh giành vài ba thước đất. Một ông chồng không có khả năng làm ra tiền, ngày nào cũng phải ngửa tay xin vợ, chắc chắn sẽ rơi vào mặc cảm và chẳng còn gì là khí phách nam nhi để điều khiển gia đình. Dân gian vẫn nói: “Tiền là tiên là phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của cụ già, là cái đà danh vọng, là cái lọng che thân, là cán cân công lý…” Nói chung, tiền là tất cả, đồng thời nó cũng chính là bóng ma vô hình đang phủ bóng trên tất cả mọi ngõ ngách của cuộc sống đời thường chúng ta. Khi Đức Giêsu đến trần gian, Ngài đã mạnh mẽ tuyên chiến với tiền bạc. Ngài nói “ Không ai có thể làm tôi hai chủ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được” (Mt 6, 24). Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu còn mạnh mẽ khẳng quyết: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Thiên Chúa” (Mc 10, 25). Lời tuyên bố của Đức Giêsu mang chở sứ điệp gì đối với chúng ta hôm nay khi đang sống giữa một xã hội luôn đề cao sự giầu có?
Mối phúc đầu tiên
Nghèo khó chính là mối phúc dẫn đầu trong tám mối phúc: “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó vì nước trời là của họ”. Đây là mối phúc quan trọng nhất và cũng là điều kiện đầu tiên Chúa đặt ra cho những ai muốn trở nên môn đệ Ngài. “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng con người không có chỗ gối đầu” (Lc 10, 58). Trong ba năm rao giảng, Chúa Giêsu đã nêu gương cho chúng ta một cách cụ thể. Ngài không phải là lý thuyết gia, cũng không phải là một nhà mô phạm chỉ nói suông trên đầu môi cửa miệng. Ngài đã sống tận căn lối sống khó nghèo, như Thánh Phaolô đã xác quyết: “Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự nguyện trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình làm cho anh em nên giàu có” (2C 8, 9) .
Khi còn sống ẩn dật tại Nazareth, Đức Giêsu cũng phải lao động, phải mướt mồ hôi để kiếm sống. “Ngài sống giống hệt như chúng ta ngoại trừ tội lỗi” (Dt 4, 15). Trong những năm rao giảng, Ngài đã thể hiện một lối sống xem ra có vẻ khá bấp bênh: “Con chồn có hang, chim trời có tổ nhưng con người không có nơi gối đầu”. Đức Giêsu còn là một ‘chuyên gia’ đi vay mượn. Ngài mượn một chiếc thuyền chèo ra xa để giảng dạy dân chúng. Tiến vào Giêrusalem, Ngài cũng sai học trò đi mượn một con lừa. Tổ chức bữa tiệc vượt qua trước khi đi thụ nạn, Ngài cũng mượn ngôi nhà của một người giàu có. Thậm chí sau khi chết, Ngài cũng được mai táng trong phần mộ mượn đỡ của một người khác chứ không phải của mình. Về tài sản vật chất, Đức Giêsu hoàn toàn không sở đắc bất cứ thứ gì.
Tuy nhiên, Đức Giêsu cũng đã vui vẻ nhận sự trợ giúp của những phụ nữ giàu có và đạo đức. Ngài còn cắt đặt Giuđa quản lý túi tiền để chi dùng cho cả nhóm 12. Ngài vẫn đến dùng bữa tại nhà những người nhiều tiền lắm của như Giakêu hay những người biệt phái. Ngài còn chọn hai người con ông Giêbêđê làm môn đệ, những người không phải thuộc thành phần bần cố nông, nhưng ít ra cũng thuộc dạng tiểu tư sản, vì nhà có thuyền, có lưới, có cả những người làm công. Thế thì tại sao Chúa lại kết án những người giàu một cách đanh thép như trong bài Tin mừng hôm nay.
Chắc chắn tiêu chí đầu tiên để trở thành môn đệ Chúa Giêsu là phải từ bỏ tất cả: cha mẹ, vợ con, ruộng vườn, từ bỏ hết không chừa lại cái gì. Khi sai các học trò đi thực tập truyền giáo, Ngài chỉ trang bị cho các ông món hành trang duy nhất là ‘năng quyền để trừ quỷ và chữa trị các bệnh tật’, ngoài ra không có gì hết: không tiền bạc, không mặc hai áo, không bao bị, giầy dép... Các thánh ký diễn tả với một vài chi tiết thay đổi, tùy theo não trạng văn hóa của từng loại độc giả, nhưng những chi tiết đó không quan trọng. Điểm nhấn duy nhất Chúa nhắm đến chính là sự thanh thoát, cắt đứt mọi dính bén nơi của cải vật chất. Đây là cốt lõi của tinh thần nghèo khó phúc âm mà Chúa nhấn mạnh.
Có nhiều hiền sĩ hay những bậc thánh hiền đời xưa sống một cuộc sống rất thanh bạch. Hoặc có những vị quan thời trước đã rũ bỏ quyền cao chức trọng và cuộc sống vương giả nơi triều đình để rút lui về ở ẩn, sống một cuộc sống giản dị và khiêm tốn. Nhưng những lối sống ấy chưa phải là tinh thần khó nghèo mà Chúa mời gọi. Đối với nhiều người, cái nghèo đến với họ chỉ là một tình trạng kinh tế bất đắc dĩ mà họ phải gánh chịu, và chắc chắn đó không phải là nghèo khó phúc âm mà họ tự nguyện dấn bước vào. Có thể họ đã từ bỏ mọi sự thế gian, nhưng còn thiếu một điều rất quan trọng, đó là điều mà các tông đồ đã thưa với Chúa trong bài Tin mừng hôm nay: “Thưa Thầy chúng con đã bỏ mọi sự và theo Thầy, chúng con sẽ được những gì?” Bỏ mọi sự thì tốt, nhưng chưa đủ. Còn phải tiếp bước dấu chân của Chúa để trở nên môn đệ Ngài. Đây cũng là điều Đức Giêsu nói với chàng thanh niên hôm nay: “Hãy bán đi những gì anh có cho người nghèo, rồi đến theo tôi”. Người môn đệ phải sao chép lại phong thái nghèo khó nơi Đức Giêsu. Không phải chỉ là từ bỏ của cải vật chất, nhưng là khước từ tất cả những gì chúng ta đang có, đang chiếm hữu, thậm chí ngay cả mạng sống: “Ai theo tôi hãy bỏ mình vác thập giá mình hằng ngày và theo tôi”. Đó là căn gốc của tinh thần nghèo khó mà Chúa nói đến, và đây cũng chính là linh đạo Thập giá mà chúng ta phải Suy niệm để sống mỗi ngày.
Nếp sống trưởng giả
Đức Thánh Cha Phanxicô trong hơn hai năm trên cương vị Giáo hoàng đã khá nhiều lần cảnh báo về một lối sống trưởng giả, đặc biệt nơi các linh mục, các Giám mục, và cả các Hồng y. Sau khi đắc cử Giáo hoàng, Ngài đến quầy tiếp tân của khu nhà nghỉ trong Vatican để lấy tiền túi trả tiền phòng giống như mọi người. Khi còn là Hồng y tại Argentina, Ngài vẫn sử dụng chiếc xe hơi cũ kỹ như một người nghèo. Trong bất cứ cuộc tông du nào, Ngài luôn xếp chương trình để đến thăm các khu ổ chuột, đến các nhà tù hoặc những vùng dân cư nghèo khổ nhất, và Ngài gọi đó là vùng ven (periphery). Trong chuyến tông du tại Mỹ, Ngài đã từ chối bữa ăn sang trọng mà các nghị viên khoản đãi để đến dùng bữa với những người vô gia cư, những kiều dân khố rách áo ôm lang thang lếch thếch. Không phải chỉ một lần, Ngài đã nói thẳng thừng về hiện tượng các vị mục tử rất đáng kính, sử dụng những chiếc xe hơi quá sang trọng và xa xỉ, những thứ chỉ dành cho giới thượng lưu. Đây là lối sống trưởng giả mà Ngài nói khá nhiều lần. Nhiều bậc vị vọng đã chột dạ, đổi xe khác rẻ tiền hơn, hoặc có một Giám mục ở Hoa Kỳ đã phải bán dinh thự Giám mục xa xỉ của mình để mua lại một tòa nhà khác khiêm tốn hơn, giản dị hơn. Chắc chắn, Đức Thánh Cha không cổ vũ một lối sống bần cùng hay cơ cực, nhưng Ngài nhìn thấy nguy cơ của một phong thái thích sống hưởng thụ (consumerism), làm lu mờ căn gốc nghèo khó và làm mất đi chứng tá những giá trị Tin mừng nơi các vị mục tử trong Giáo hội.
Kết luận: Ngẫu tượng tiền bạc
Nhà văn Anderson viết một câu chuyện rất ngắn khá ý nghĩa. Một người hành khất đói khổ đến gõ cửa nhà một người giàu có để ăn xin. Anh chàng nhà giàu nứt khố đổ vách nhưng lại rất keo kiệt, nhất định không cho cái gì. Nhìn quần áo lôi thôi lếch thếch và khuôn mặt lem luốc của người ăn mày, tên nhà giầu đã không bố thí còn từ trong nhà mỉa mai nói vọng ra: “ Hình như anh vừa mới từ dưới hỏa ngục chui lên thì phải. Nhìn bộ mặt và quần áo của anh, tôi đoán thế”. Người hành khất nuốt nhục trả lời: “Thưa ông, đúng vậy. Ông nói quả không sai chút nào, tôi mới ở dưới hỏa ngục chui lên đây. Ở dưới đó hết chỗ rồi. Những người giầu có và keo kiệt như ông đã đầu tư tiền bạc mua hết đất rồi. Đất ở dưới đó ngày càng mắc, nhất là đất mặt tiền. Không còn chỗ để ở, tôi phải chui lên đây.”
Sự giàu có mà Chúa kết án trong bài Tin mừng hôm nay chính là sự keo kiệt, cứ mãi bấu víu vào của cải vật chất một cách ích kỷ. Khi con người thượng tôn tiền bạc, lấy tiền bạc làm thước đo mọi giá trị, họ sẽ dần dần gạt bỏ Thiên Chúa ra bên ngoài. Đây chính là cách sống vô thần trong thực hành. Điều đó chẳng khác gì việc tôn thờ ngẫu tượng (idolatry), giống như dân Do Thái tôn thờ con bò vàng năm xưa. Đây cũng là lời cảnh báo mà Chúa Giêsu đã nói trong bài Tin mừng hôm nay. Cũng tương tự, thánh Augustinô dạy chúng ta: “Bạn hãy mở to mắt nhìn xem một người giàu có keo kiệt đang giẫy chết. Tôi cam đoan rằng đó là cái chết thảm khốc và ghê sợ nhất, bởi vì họ sẽ ra đi mà chẳng mang theo được cái gì họ vẫn đeo bám.”
14. Trăn trở - Lm. Minh Anh
Trong tác phẩm văn học Le Petit Prince, Saint Exupéry kể rằng: "Khi Hoàng Tử Bé đến trái đất, người đầu tiên mà cậu gặp là một cụ già làm nghề đốt đèn. Một công việc thật ý nghĩa và dễ thương, cụ đốt đèn thắp sáng địa cầu mỗi tối và tắt đèn mỗi sớm mai khi mặt trời lên. Thế nhưng, vừa gặp cậu bé hoàng tử, cụ thở dài: "Công việc của tôi nay thật kinh khủng. Ngày trước mọi việc hợp lý hơn. Mỗi tối tôi đốt đèn và suốt đêm được ngủ nghỉ, mỗi sáng tôi thắp đèn và cả ngày được thư thái. Ngày trước trái đất quay chậm, bây giờ nó quay ngày một nhanh". Cậu bé hỏi: "Yêu cầu của công việc vẫn không thay đổi sao?". Cụ đáp: "Đó là bi kịch, hành tinh này quay ngày càng nhanh mà yêu cầu của công việc vẫn không thay đổi. Sự việc trở nên tồi tệ, đến nỗi cứ nửa giờ, hành tinh quay hết một vòng và như thế, ngày cũng như đêm, tôi không có một chốc nghỉ ngơi,...tôi phải đốt đèn và tắt đèn liên lỉ".
Các bạn trẻ thân mến,
Phải, bất cứ nơi đâu, nhịp sống hôm nay xem ra quá vội vã. Những bước chân bách bộ ngày càng trở nên hiếm hoi và dường như mỗi khi ra đường, người ta đâm đầu chạy. Vậy thử hỏi, có bao giờ chúng ta dừng lại để đặt một câu hỏi tương tự như câu hỏi của người thanh niên trong bài Tin Mừng hôm nay?
"Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?".
Trăn trở của người thanh niên có phải là trăn trở của mỗi chúng ta không? Cái thao thức mang chiều kích vĩnh cửu nơi anh có bao giờ xuất hiện trong ngày sống của chúng ta không? Vì rằng, ngày mỗi ngày, dù ở đấng bậc nào, là cha mẹ, là giáo viên, là công chức, là mục tử, là sinh viên, học sinh... tất cả chúng ta đều được mời gọi vươn lên, hướng lên, và tiến lên ở một cấp độ cao hơn, nhanh hơn và xa hơn trong tình yêu.
"Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?".
Để có thể đặt ra câu hỏi ấy, hẳn người thanh niên kia phải suy nghĩ, phải trằn trọc nhiều đêm. Để có thể thốt lên cái thao thức mang tính vĩnh cửu ấy, hẳn người bạn trẻ đó phải lặng yên khắc khoải nhiều ngày. Anh phải nhiều lần rút lui khỏi cái huyên náo động đạc thường ngày để đắm mình trong tĩnh mịch hầu có thể gặp gỡ chính mình, gặp gỡ Thiên Chúa, Đấng mà anh tin khả dĩ có thể cho anh cái khả năng hướng thượng đó, một khả năng hướng tới tận sự sống đời đời. "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?"
Đức Giêsu trả lời anh: "chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ làm chứng gian, hãy thảo kính cha mẹ". Người bạn trẻ chân thành trả lời: "Những điều đó tôi đã giữ từ tấm bé". Và Đức Giêsu đem lòng yêu mến, thỏ thẻ cùng anh, "anh chỉ còn thiếu một điều..." "chỉ một điều mà thôi", nghĩa là Ngài muốn anh tiến xa hơn.
Vâng, nếu có những lối đi yên tỉnh thì cũng có những ngõ vắng xôn xao, nếu có những đường làng quạnh hiu thì cũng có những đại lộ rộn rã. Trong việc cầu tiến, đúng hơn, trong tình yêu cũng thế, tình yêu có cả những đại lộ thênh thang lẫn những lối mòn chật hẹp.
"Chớ giết người, chớ ngoại tỉnh, chớ làm chứng gian", đó là những luật cũ. Đó là những đại lộ thênh thang, ai cũng thấy, ai cũng biết và dễ chấp nhận. Nhưng tế nhị hơn, đòi hỏi hơn, khi ai giận anh em, ai bảo anh em mình là "Bờm", thì đáng bị tòa án luận phạt; hay ai nhìn người nữ mà ước ao phạm tội, đã phạm tội trong lòng rồi... đó là những lối mòn chật hẹp, những lối mòn tình yêu để bất cứ ai muốn vươn lên cao hơn, nhanh hơn, xa hơn, hãy cố mà giữ lấy.
Đức Giêsu đề nghị cho anh một lối hẹp: "Anh chỉ còn thiếu một điều là hãy về bán tất cả những gì anh có rồi đến mà theo tôi". Ôi, chỉ có Ngài mới có khả năng nhìn thấy sợi tơ hồng nghiệt ngã vốn đang cuốn chặt đôi cánh đời anh khiến anh không thể bay lên. Sợi tơ đó chính là của cải.
Với người thanh niên là của cải, với chúng ta, có thể là một điều gì khác. Có thể đó là những cơn khát quyền lực, danh vọng, tiền tài. Có thể đó là những đam mê xác thịt đang kéo chúng ta lệt đệt sát đất. Có thể đó là những tham sân si, những xung năng nung nấu tiềm ẩn bên trong khiến chúng ta chỉ biết sống cho mình mà quên mất tất cả, quên mất đạo làm người, quên mất đạo làm con, quên cả nhân phẩm, quên cả linh hồn... Cũng có thể đó là những mối hiềm khích chúng ta chưa thể vượt qua, chưa thể tha thứ... Đó chính là những sợi tơ hồng buộc chặt không cho chim bằng chắp cánh bay cao.
Vậy thì phải làm sao?
Thưa, chúng ta phải khôn ngoan chọn lựa mỗi ngày, khôn ngoan như bài đọc thứ nhất nói, "Cùng với Đức Khôn Ngoan, mọi sự tốt lành đã đến với tôi". Vì sống là chọn lựa, chọn lựa là hy sinh, hy sinh là chết đi. Chọn lựa điều này tức là chết đi cho điều kia. Chọn lựa vươn cao, chọn lựa chết đi cho la đà lệt đệt. Vậy, hãy để cho Lời Chúa, Lời của Đấng Khôn Ngoan soi dọi mỗi ngày, dẫu Lời Chúa sắc bén như gươm hai lưỡi thấu suốt tâm hồn và dò xét tâm can như bài đọc Do Thái nhắc nhở. Và nhất là hãy biết lặng thinh để lắng nghe tiếng của Đấng Khôn Ngoan trong cầu nguyện và chiêm ngắm. Lặng thinh đích thực không phải là vắng tiếng động nhưng là tràn đầy sự hiện diện yêu thương của Thiên Chúa, qua đó chúng ta biết được đâu là sợi tơ hồng đang trói buộc mình. Lặng thinh chính là một khoảng trời hạ xuống với con người và chỉ ở đó, người ta mới nghe đựợc điều cốt yếu, vì lời nói thuộc về thời gian, lặng thinh mới thuộc vĩnh cửu, cho nên, ai không biết lắng nghe, sẽ không biết mình mất mát những gì.
"Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?".
Chúng ta có thể cầu nguyện: Lạy Chúa, là Đấng biết rõ cái gót Achille của con, tức là cái điểm yếu nhất nơi mỗi chúng con, xin cho con ngày hôm nay, biết đặt cho mình câu hỏi quan trọng đó và nghe được tiếng Chúa đáp lại. Chớ gì Chúa sẽ chỉ cho con biết được ít nữa một điều mà con đang thiếu. Và lạy Chúa, chỉ có Chúa mới có khả năng cởi bỏ sợi hồng oan nghiệt đang siết chặt đôi cánh tuổi xuân, để con có thể chắp cánh bay cao hơn, nhanh hơn và xa hơn. Amen.
15. Người giầu khó vào Nước Trời
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Hơn gì nhau giữa một người có 30 tỷ dollars và một người có 1 tỷ dollars, khi mỗi người đều chỉ có một bụng để ăn, chỉ có 24 giờ để ăn chơi, cũng không thể ngủ quá 24 giờ một ngày, cũng chẳng thể sống quá 100 năm! “Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” Người hỏi Đức Giêsu câu này quả là người có đầu óc, và cũng có thể được coi là người khôn ngoan.
I. Khôn ngoan qúy hơn vàng bạc
Đã có thời người Do Thái tự hào với lề luật của mình: thập giới là 10 lời Thiên Chúa ban cho dân, là những lời giúp dân thấy được điều hay lẽ phải để theo, điều dữ phải tránh. Thập giới đã mang lại cho dân bình an. Quả vậy, ba giới răn đầu tiên về bổn phận đối với Thiên Chúa, giúp con người không tin vào bất cứ thần linh nào khác; và điều này giúp con người được tự do không phải sợ hãi bất cứ uy quyền nào, vì Thiên Chúa là Đấng tối cao trổi vượt tất cả thần thánh. Thờ phượng Ngài, được Ngài yêu thương và bảo vệ, thì còn sợ ai nữa?
Tuân giữ ba giới răn về bổn phận đối với Thiên Chúa, giúp người ta sống an bình. Những giới răn tiếp sau, từ giới răn thứ tư đến thứ mười, giúp người ta đối xử công bình với tha nhân: bảo vệ quyền lợi của tha nhân, cũng là bảo vệ quyền lợi của chính mình, cũng là bảo vệ quyền lợi của tất cả mọi người. Con người có một số quyền căn bản mà người khác không được phép tước đoạt, cho dù nhân danh bất cứ điều gì chăng nữa, vì nó gắn liền với phẩm giá con người. Tôn trọng quyền lợi của người khác, và người khác tôn trọng quyền lợi của mình, làm cho xã hội an ninh, và con người sống an bình. Khôn ngoan là tuân giữ luật Thiên Chúa.
Đức Giêsu xuất hiện như một giá trị. Tin Mừng cho thấy người giầu có này truy tìm sự sống đời đời làm gia nghiệp; anh ta mong muốn điều trường tồn tuy dù anh ta giầu sang nhiều của. Anh ta có mong ước tốt lành; điều này đã làm Đức Giêsu rung động. Ngài nhìn anh đem lòng yêu mến! Ngài nói: anh chỉ thiếu một điều. Đi và bán tất cả những gì anh có mà cho kẻ nghèo, rồi đến theo tôi. Đi theo Đức Giêsu, là điều khôn ngoan và giá trị hơn cả giầu sang.
II. Bán hết của cải mà cho người nghèo
Để có thể đi theo Đức Giêsu, phải bán những gì mình có mà cho kẻ nghèo. Nếu không dứt khoát đi theo Chúa bằng bán tất cả, thì e rằng sẽ quay đầu trở lại. Nếu không bán tất cả, khi gặp cảnh túng nghèo không có gì để ăn, phải tuốt lúa dọc đường mà ăn cho đỡ đói, anh ta sẽ quay về. Đức Giêsu cũng có lúc đói lúc khát, cũng mong cây vả bên đường cho một trái để ăn mà cũng không có. Bao nhiêu lần trong đời, Đức Giêsu đã ngủ ngoài trời. Đã bao nhiêu lần Đức Giêsu và các tông đồ đã qua đêm ở trên vườn dầu! Nếu không từ bỏ tất cả, nếu không từ bỏ tiền của, làm sao có thể theo Đức Giêsu cho được! Đức Giêsu đã sống nghèo, vì Ngài thấy giá trị của cái nghèo. Ngài cũng muốn người khác chọn lựa như Ngài. Hãy bán hết những gì anh có mà cho kẻ khó, anh sẽ có một kho tàng trên trời, rồi đến theo tôi.
Theo Đức Giêsu là một điều gì quý hơn cả vàng bạc, mà anh thanh niên giầu có và nhiều người không hiểu được. Người ta thích tiền, nghĩ rằng tiền của có thể mang lại cho người ta nhiều điều nếu không muốn nói là tất cả: “đồng tiền là tiên là Phật, là sức bật của tuổi trẻ, sức khỏe của tuổi già, cái đà của danh vọng, cái lọng để che thân, cán cân của công lý”. Đức Giêsu không nghĩ như vậy, Ngài lại cho rằng tiền của làm người ta khó vào Nước Trời.
Với Đức Giêsu, điều gì quý hơn tiền của? Tiền của, là điều người ta sở hữu, điều người ta có; còn nghèo là tình trạng một người không có tiền của, không coi tiền của là quan trọng. Không có gì, cũng có thể là tình trạng của một người tự do. Một người đeo đầy vàng trên tay, và một người không có gì trên tay, bàn tay nào thanh thoát và nhanh nhẹn hơn, bàn tay nào tự do hơn? Một người có của, coi trọng tiền của, phải lo giữ tiền, bất quá cũng “thủ tài chi lỗ”. Một người nghèo có cái thú và tự do của người nghèo mà người giầu không thể có được. Nếu người giầu luôn có những người ham tiền mà nghèo đeo bám để xin xỏ, cách này hay cách khác, thì người nghèo quả thật là người có cái thú tự do mà người giầu không có được.
III. Hãy đến theo tôi
Theo Đức Giêsu, là điều quý: không chỉ là không có gì như một lối sống thanh thoát, mà chính yếu là trở thành một thực tại cao quý hơn. Sống theo Đức Giêsu là một giá trị. Các tông đồ khi theo Chúa vẫn còn ham danh lợi, còn tranh nhau ngồi bên phải bên trái, tranh nhau “làm lớn” ngay khi thầy mới báo tin Ngài sẽ bị bắt bị giết; nhưng các tông đồ đã ra khác vì các ngài được diễm phúc sống với Đức Giêsu, sống bên một người thanh thoát với tất cả, tự do với tất cả, và phó thác tất cả cho Thiên Chúa.
Các tông đồ nhận ra thầy mình thực sự là ai, một khi các ông biết Đức Giêsu đã thực sự sống lại. Ngài là Đấng rất đặc biệt của Thiên Chúa, người thuộc hoàn toàn về Thiên Chúa, người được siêu tôn ngự bên hữu Thiên Chúa. Ngôn từ diễn tả về chân tướng của Đức Giêsu thời các tông đồ chưa rõ ràng; từ ngữ thông dụng để chỉ một người rất đặc biệt là tiên tri, Đấng Kitô (Đấng được xức dầu); cũng có một vài từ ngữ đặc biệt khác như con người, con người ngự bên hữu Thiên Chúa, người tôi tớ của Thiên Chúa, con chí ái của Thiên Chúa; và mãi trễ sau, công đồng chung Nicea (325) dùng từ ngữ triết học diễn tả chân tướng của Đức Giêsu: đồng bản tính với Thiên Chúa: “Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng thật bởi ánh sáng thật, được sinh ra mà không phải tạo thành, đồng bản tính với Đức Chúa Cha, nhờ Người mà muôn vật được tạo thành”.
Thời Đức Giêsu đang tại thế, người ta khó hiểu tại sao Đức Giêsu lại đòi người nhà giầu này bỏ tất cả để theo Ngài, mặc dù thực tế các tông đồ cũng là những người đã bỏ tất cả mà theo Đức Giêsu. Với các tín hữu ngày nay, điều này dễ hiểu hơn khi người ta biết Ngài là Thiên Chúa nhập thể, Thiên Chúa làm người. Nếu Đức Giêsu thực là Người từ cõi trên, có nguồn gốc thần linh, thì việc đòi người ta bỏ tất cả để đi theo Ngài là điều có thể hiểu được. Các tông đồ cũng chỉ hiểu về chân tướng của Đức Giêsu khi Ngài đã từ cõi chết sống lại, khi các ngài đã được ơn Thánh Thần, và được dẫn vào sự thật trọn vẹn.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Tại sao con người của mọi thời đại ham thích có nhiều tiền của?
2. Tiền của quan trọng đến mức nào để giúp con người hạnh phúc?
3. Tại sao theo Đức Giêsu lại có thể giúp con người sống hạnh phúc?
16. Cách kiếm tiền và cách sử dụng tiền
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay chủ yếu xoay quanh vấn đề tiền bạc. Bài đọc I, tác giả cho chúng ta biết Đức Khôn Ngoan giá trị hơn sự giàu sang: "Ðem so sánh sự giàu sang với sự Khôn Ngoan, tôi kể sự giàu sang như không". Bài Tin mừng, Chúa Giêsu mời gọi chàng thanh niên giàu có: đổi sự giàu sang để lấy nước trời: “Bán hết của cải bố thí cho người nghèo sẽ có sự sống đời đời”. Nhưng chàng thanh niên không chấp nhận lời đề nghị của Chúa Giêsu. Anh buồn rầu bỏ đi. Vì vậy, Chúa Giêsu khuyến cáo rằng: "Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao"(Mc 10, 23). Từ nội dung của hai bài đọc trên, xin được gợi ý Suy niệm ba điểm sau đây:
1. Đồng tiền có hai mặt:
Tiền bạc là phương tiện thanh toán và tích luỹ trong giao dịch giữa con người với nhau. Nó luôn có hai mặt: mặt phải, mặt trái.
Mặt phải của đồng tiền: Chúng ta thường nghe nói: “Có tiền mua tiên cũng được”. Quả thật, tiền bạc rất cần cho cuộc sống. Tiền bạc để sinh sồng, học hành, mua sắm, chữa bệnh, giúp đỡ tha nhân, xây dựng Giáo hội và xã hội… Trên thế giới có khoảng 25.000 người chết đói mỗi ngày, 2,2 tỷ người nghèo và cận nghèo, 1,2 tỷ người đang sống với mức 1,25 đô-la mỗi ngày, thậm chí còn thấp hơn. Rất nhiều người đang ở bên bờ vực thẳm của sự nghèo đói. Rất nhiều người ước mơ có một cuộc sống bình thường: đủ ăn, đủ mặc mà không được. Vì vậy, không ai phủ nhận sự cần thiết của đồng tiền. Cần tiền bạc để giúp mình và giúp người. Những người ở trong hoàn cảnh thiếu thốn mới thấy quý trọng đồng tiền.
Mặt trái của đồng tiền: Biết sử dụng, tiền bạc trở thành phương tiện giúp mình, giúp người. Ngược lại, tiền bạc sẽ trở thành ông chủ khó tính, làm thay đổi luân thường đạo lý, thay đổi các bậc thang giá trị trong xã hội. Tác giả Quốc Nghệ đã ghi lại bài thơ sau đây, diễn tả phần nào những mặt trái của đồng tiền:
“Độc ác chi mi lắm rứa tiền,
Mi làm nhân loại hóa ra điên,
Mi tô mặt nạ đen thành trắng,
Mi khiến nhân tình thẳng hóa xiên,
Mi đạp luân thường vô một xó,
Mi xua nhân nghĩa dẹp đôi bên
Mi lùa thế giới đâm nhau mãi,
Ác nghiệt chi mi lắm rứa tiền”.
Quốc-Nghệ
2. Cách kiếm tiền:
Trong 33 năm sống trên trần gian này, Chúa Giêsu đã từng tìm kiếm tiền bạc. Ngài đã làm nghề thợ mộc để có điều kiện giúp đỡ gia đình. Ngài bảo Thánh Phêrô đi câu cá để lấy tiền nộp thuế. Ngài đã làm phép lạ hoá bánh ra nhiều cho hàng ngàn người đói được ăn no. Ngài đã chấp nhận sự giúp đỡ của những người giàu có trong công tác loan báo Tin mừng. Như vậy, Chúa Giêsu đã tự tìm kiếm tiền bạc và nhận sự giúp đỡ của những nhà hảo tâm. Sau này, thánh Phaolô cũng cho biết Ngài đã tự làm việc để có của nuôi sống mình và nhiều lần Ngài đã kêu mời sự quyên góp của các tín hữu để xây dựng Giáo hội và có điều kiện để làm việc bác ái. Đó là cách kiếm tiền của Chúa Giêsu và Thánh Phaolô.
Còn cách kiếm tiền của chàng thanh niên trong bài tin mừng hôm nay? Chắc chắc không phải do gian lận, lừa lọc, trộm cướp mà có, vì từ nhỏ anh ta đã giữ trọn các giới răn: “Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ"(Mc 10,19). Vậy, do đâu? Có thể do thừa kế của tổ tiên ông bà cha mẹ. Cũng có thể do anh ta vất vả làm ăn.
Cách kiếm tiền của con người qua mọi thời đại: Ít người may mắn được thừa kế từ cha mẹ, ông bà. Đa số phải “Làm việc vất vả” mới có. Có người làm việc bằng chân tay. Có người làm việc bằng trí óc. Có người tìm kiếm tiền bạc do làm ăn chân chính, vất vả hy sinh mà có: nghề nghiệp hợp pháp, buôn bán thật thà. Nhưng cũng có những người kiếm tiền bằng những phương pháp bất công, gian lận, lừa lọc, chèn ép bóc lột người khác. Vì tiền bạc mà vợ chồng, cha mẹ, con cái đưa nhau ra toà. Vì tiền bạc mà không còn tình làng nghĩa xóm. Đúng như lời Kinh Thánh dạy: "Lòng ham mê tiền bạc là mẹ sinh ra muôn vàn tính hư nết xấu khác”. Chúa Giêsu cũng đã cảnh giác chúng ta: "Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu"(Lc 12,15).
3. Cách sử dụng tiền:
Tiền bạc không phải là sự dữ. Tiền bạc không xấu. Xấu tốt là do người tìm kiếm và sử dụng nó. Kinh thánh cho biết giàu có là một sự chúc lành của Thiên Chúa (x. Cn 10,22; 1 Sm 2,7). Chúa Giêsu cũng không lên án tiền bạc. Ngài đã từng lui tới, gặp gỡ và ăn uống với những người giàu có như Giakêu, Mathêu. Nhờ gặp gỡ Chúa, các ông đã thay đổi thái độ sống, biết cách tiêu tiền: Giakêu đã lấy một phần ba bố thí cho người nghèo. Làm thiệt hại ai thì đền gấp bốn. Mathêu đã bỏ bàn thu thuế đi theo Chúa, tức là từ bỏ cách thu tiền bất chính.
Và hôm nay, khi người thanh niên giàu có đến với Chúa Giêsu để hỏi Ngài “Phải làm gì để được sống đời đời”(x. Mc 10,17). Ngài không xua đuổi, không lên án anh ta có nhiều tiền bạc. Nhưng trái lại, Ngài ân cần chỉ dạy cho anh cách sử dụng tiền bạc: “Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo Tôi." (Mc 10,21). Chúa chỉ cho anh ta biết cách tiêu tiền: Đổi tiền bạc để lấy nước trời. Đổi cái tạm thời để lấy cái vĩnh cửu. Chúa làm như vậy là muốn điều tốt cho anh ta. Nhưng đáng tiếc là anh ta không vượt qua được rào cản đó. Tin mừng cho biết “Anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải”(Mc 10,22). Anh ta biết kiếm tiền, nhưng không biết sử dụng tiền. Chỉ thu tích chứ không biết chia sẻ. Do anh ta hà tiện, ích kỷ, keo kiệt. Thái độ chàng thanh niên cũng là thái độ của nhiều người trong chúng ta: Lo kiếm tiền, lo tích trữ tiền, nhưng không biết sử dụng tiền, không biết chia sẻ. Chắc chắn anh ta cũng chết và những người tích trữ nhiều tiền của cũng sẽ chết. Hãy nhớ câu ca dao này: “Vua Ngô ba sáu tấn vàng, chết xuống âm phủ chẳng mang được gì”. Chính Chúa Giêsu cũng đã cảnh giác người phú hộ tích trữ tiền bạc rằng: "Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó" (Lc 12, 20-21). Nơi khác Ngài nói: “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, nơi kẻ trộm khoét vách và lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, nơi trộm cắp không đào ngạch và lấy đi được. Vì kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó. (Mt 6,19-21)
Ngược lại với thái độ trên là những người tiêu tiền phung phí. Thừa tiền bạc, thường dẫn người ta tới một lỗi sống hưởng thụ, sa đoạ, thiếu đạo đức: bài bạc, trai gái, ăn uống quá hoang phí: “Hằng ngày người ta vẫn thường thấy những người ngồi ăn uống thỏa thuê với hết thùng bia này đến hết thùng bia khác, thậm chí có người nôn mửa hoặc phải móc họng cho nôn mửa bớt để vào ăn uống tiếp” (x. Hành trình vào đời, lm. Trần Quý Thiện). Nếu biết cân bằng của cải, những người giàu biết chia sẻ cho người nghèo thì có lẽ thế giới này không còn có trẻ em chết đói mỗi ngày nữa. Nếu các nước biết dùng tiền bạc mua lương thực, thuốc men cho người dân thay vì bom đạn, khí giới thì chắc chắn sẽ không còn người chết đói nữa.
Tóm lại, tiền bạc rất cần thiết, nhưng không phải là tuyệt đối, không phải là trên hết. Người ta nói: “Tiền có thể mua ngôi nhà, nhưng không mua được tổ ấm. Tiền có thế mua được chiếc giường, nhưng không mua được giấc ngủ. Tiền mua được chiếc đồng hồ, nhưng không mua được thời gian. Tiền có thể mua được thuốc, nhưng không mua được sức khỏe…”. Thật vậy, có rất nhiều thứ quý hơn tiền bạc. Bài đọc I, cho chúng ta biết: Trên tiền bạc còn có Đức Khôn Ngoan “Trân châu ngọc chẳng sánh được Đức Khôn Ngoan, vì vàng trên thế giới, so với Đức Khôn Ngoan, cũng chỉ là cát bụi, và bạc so với Đức Khôn Ngoan, cũng kể là bùn đất…có Đức Khôn Ngoan là có của cải”. Nên phải biết kiếm tiền cách hợp pháp, không lỗi phạm luật Chúa. Hãy biết cách tiêu tiền, dùng tiền bạc như là “đầy tớ” chứ không như “ông chủ”. Đặc biệt, khi có điều kiện cần biết quảng đại dùng tiền để giúp đỡ những người nghèo khổ, thiếu thốn.
Lạy Chúa, xin cho con biết kiếm tiền bằng những con đường chân chính, không trộm cắp, gian tham, lừa dối. Và xin cho con biết dùng tiền bạc để giúp đỡ cho anh chị em mình. Amen.
17. Cuộc gặp gỡ giữa người thanh niên với Chúa Giêsu
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Thành Long)
Tin mừng thuật lại nhiều cuộc gặp gỡ đặc biệt giữa Chúa Giêsu với một số người; nhưng có lẽ cuộc gặp gỡ với người thanh niên trong Tin Mừng hôm nay để lại nhiều ấn tượng nhất nơi lòng các môn đệ và đám đông dân chúng. Vì gắn liền với lời mời gọi nên hoàn thiện của Chúa Giêsu, lời mời gọi vốn làm nên linh đạo cho nhiều dòng khổ tu và đan tu sau này.
Vậy người thanh niên trong Tin mừng là ai? Là một người giàu có, nói theo ngôn ngữ ngày hôm nay thì anh ta là một đại gia. Là một đại gia nhưng có lối sống gương mẫu, không bồ bịch lăng nhăng, không đua đòi chưng diện. Anh rất thành tâm thiện chí tuân giữ cả 10 Giới Răn một cách nghiêm túc, không ai chê trách được điều gì. Tắt một lời, anh là người hết sức gương mẫu trong việc chu toàn các đòi hỏi của luân lý Thập Giới. Hơn thế, anh còn là một người nhiệt huyết và cầu tiến, không bằng lòng với cuộc sống hiện tại nên anh thao thức đi tìm kiếm con đường trọn lành, con đường hoàn thiện. Chính vì những đức tính đó mà anh được Chúa Giêsu đem lòng thương mến. Ngài còn muốn mời gọi anh tiến xa thêm một bước nữa trên đường hoàn thiện. Đó là đem bán tất cả của cải và đem bố thí cho người nghèo để được kho tàng trên trời, rồi đến theo Chúa Giêsu làm môn đệ của Ngài. Một lời đề nghị kép.
Thái độ đáp trả của anh trước lời mời gọi của Chúa Giêsu ra sao? Tin Mừng cho biết: "Anh sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi". Nếu Chúa Giêsu chỉ đề nghị anh vế sau, tức là chỉ đi theo Chúa, có lẽ anh dễ dàng quyết định được ngay. Thế nhưng vế trước mới là vấn đề đối với anh, nếu không muốn nói là vấn đề quá khó đối với anh, khó hơn cả việc giữ 10 Giới Răn. Phải chi Chúa bảo bán gia tài đem gởi ngân hàng, hoặc mua cổ phần cổ phiếu hoặc kinh doanh, hoặc là cho Chúa Giêsu mượn, hoặc là bán từ từ; hay chỉ bố thí cho người nghèo 1 phần 10 thôi như những người đạo đức Do thái, hoặc là 1 phần 2 như Giakêu, như ông bà Gioakim và Anna... rất có thể anh ta còn thực hiện được. Đàng này Chúa Giêsu lại bảo anh bán tất cả tài sản mà cha mẹ anh và chính anh đã vất vả tích lũy một đời bằng mồ hôi nước mắt, đã thế còn đem cho người nghèo hết. Một lời mời gọi mới khó làm sao!
Bởi thế, trước lời đề nghị đó, lòng nhiệt huyết và cầu tiến của anh dường như đã hoàn toàn biến mất. Và anh đã bỏ lỡ cơ hội trở thành môn đệ Chúa Giêsu, cơ hội để nên hoàn thiện. Cũng lời mời gọi đó nhưng các Tông Đồ dễ dàng bỏ mọi sự để đi theo Chúa, vì các ông thanh thoát hơn đối với những thực tại đời này. Nguyên nhân khiến anh chấp nhận mãi mãi "thiếu một điều", đó là do chính của cải, tài sản mà anh đang có. Nói cách khác của cải vật chất đã là cản trở lớn đối với anh trên đường nên hoàn thiện. Sự cậy dựa, bám víu của anh vào của cải đã làm cho anh không dám từ bỏ để đi theo Chúa.
Chàng thanh niên ngày xưa là thế, còn con người ngày hôm nay thì sao? Giả như ngày hôm nay Chúa Giêsu đi một vòng và ngõ với các nhà tỉ phú, triệu phú, hay các đại gia một lời mời gọi tương tự như lời mà ngài đã ngõ với người thanh niên ngày xưa, có lẽ Chúa Giêsu cũng sẽ phải hát bài "cô đơn một cõi đi về" thôi. Vì chẳng ai dám mạo hiểm làm theo lời đề nghị của Chúa đâu. Bởi lẽ chủ nghĩa hưởng thụ ngày nay còn trói buộc con người ghê gớm hơn ngày xưa nhiều nhiều lần. Từ bỏ là cả một hy sinh vô cùng khó cho con người thời đại ngày hôm nay. Thế mới hay người "giàu có" (giàu có ở đây thiết nghĩ nên hiểu là quá "ham hố", quá "dính bén" với của cải thì đúng hơn) lọt được vào vòng chung kết trong cuộc đua dành chiếc cúp "sự sống đời đời" thì khó biết bao, như lời quả quyết của Chúa Giêsu.
Chúa biết khó, nhưng Ngài vẫn mời gọi chúng ta từ bỏ, vì Nước Trời có giá trị lớn lao vô cùng, đòi hỏi con người phải trả giá. Ngài muốn chúng ta mỗi ngày hãy sống triệt để hơn đòi hỏi của Tin mừng.
Vì chưng giữ đạo không chỉ dừng lại ở chỗ ăn ngay ở lành, chu toàn các đòi hỏi của luân lý, không làm điều xấu này điều xấu kia...mà quan trọng hơn, đó còn là tin nhận và dấn bước theo một con người, người đó là Đức Giêsu Kitô. Nói khác đi, sự hoàn thiện theo Tin Mừng hệ tại ở điều này: bước theo Chúa Kitô để làm môn đệ của Ngài. Mà để theo Chúa, thì cần phải dứt khoát sống tinh thần từ bỏ, nhất là từ bỏ cái tôi ích kỷ hẹp hòi, cái tôi dính bén của mình.
Vậy câu hỏi đặt ra thay cho lời kết đó là, sự thành tâm thiện chí và lòng nhiệt huyết cầu tiến sống đời hoàn thiện nơi tôi thế nào? Đâu là những trở ngại chính khiến tôi chưa sống từ bỏ và phó thác hoàn toàn để đi theo Chúa? Người thanh niên trong Tin mừng chỉ còn thiếu một điều; còn tôi, tôi còn thiếu bao nhiêu điều nữa trên đường hoàn thiện?
18. Hãy theo Tôi – Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
Tiền bạc có một sức mạnh kinh hồn. “Có tiền mua tiên cũng được.” Ai có thể thoát được ma lực của đồng tiền? Nhưng Đức Giêsu sẽ cho thấy có những giá trị không thể mua bằng tiền. Những giá trị cao vượt đó chỉ có thể tạo được khi thoát khỏi mọi ma lực của đồng tiền. Đó là điều rất khó hiểu. Nhưng đó cũng là sự thật.
Đồng tiền liền khúc ruột
Một hôm, có chàng thanh niên con nhà giàu đến gặp Đức Giêsu. Chàng có nhiều đức tính thật dễ thương. Khác với những bạn đồng lứa ăn chơi xa xỉ, chàng cố giữ những điều luật luân lý nghiêm nhặt. Mọi người đều nhìn vào anh như mẫu người lý tưởng. Chính Đức Giêsu cũng “đem lòng yêu mến.”(Mc 10,21) Anh chẳng thiếu thứ gì trên đời. Nhưng anh vẫn không hoàn toàn hạnh phúc. Anh thấy còn thiếu một cái gì trong cuộc đời. Anh ưu tư, khắc khoải. Bởi đó nêu thắc mắc với Đức Giêsu: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” (Mc 10,17) Có mấy công tử bột có thể nêu được câu hỏi sâu sắc đó? Anh đã bị dằn vặt rất nhiều vì không thấy thỏa mãn hoàn toàn với những hứa hẹn vật chất. Anh tin Đức Giêsu sẽ trả lời dứt khoát và rõ ràng về vấn đề quan trọng cho cuộc đời anh.
Xưa nay anh cứ tưởng một đời sống luân lý hoàn hảo đã đủ bảo đảm về mặt đạo đức. Tiền bạc dư thừa bảo đảm về mặt vật chất. Đời sống như thế đã quá đủ tiêu chuẩn đạt hạnh phúc. Nhưng anh không thể ngờ hạnh phúc lại vượt lên trên những tiêu chuẩn tầm thường đó. Hạnh phúc là quan tâm tới người nghèo. Quan tâm tới độ “bán những gì anh có mà cho người nghèo.” (Mc 10,21) Bán sạch. Trở nên nghèo vì người nghèo. Chính lúc nghèo như thế, “anh sẽ được một kho tàng trên trời.” (Mc 10,21) Kho tàng đó đang hiện diện ngay trước mặt anh. Bởi đó Đức Giêsu mới nói: “Rồi hãy đến theo tôi.” (Mc 10,21) Đức Giêsu là một giá trị vượt trên tất cả những của cải trần gian, vì Người là “sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa.” (1 Cr 1,24) “Trong Người có cất giấu mọi kho tàng của sự khôn ngoan và hiểu biết.” (Cl 2,3) Gia tài của chàng thanh niên đó là cái gì so với Đức Khôn Ngoan? Nếu biết Đức Giêsu là Đức Khôn Ngoan hiện thân, có lẽ anh sẽ nói: “Tôi coi của cải chẳng là gì so với Đức Khôn Ngoan.” (Kn 7,8)
Chàng thanh niên là người có thiện chí, nhưng vì chưa ý thức được kho tàng khôn ngoan nơi Đức Giêsu, nên đã không thể có một lựa chọn đúng. Có lẽ anh kinh ngạc về đề nghị và mời gọi của Đức Giêsu. Anh không thể tưởng tượng có một thứ hạnh phúc ngoài tiền bạc. Để theo đuổi hạnh phúc đó, Đức Giêsu đề nghị anh dấn thân cho ngươì nghèo và mạo hiểm theo Người đi rao giảng Tin Mừng. Nhưng “nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi,” (Mc 10,22) vì trong anh đang nổi lên một cơn thất vọng và cuộc xung đột giữa hai tiêu chuẩn hạnh phúc: hạnh phúc do tiền bạc và bổn phận, hạnh phúc do từ bỏ và dấn thân.
Trước khi nói tới lời mời gọi tin tưởng nơi Thiên Chúa, Đức Giêsu muốn cho mọi người thấy mối nguy hiểm của tiền bạc hay của cải: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!” (Mc 10,23) Thực ra, tiền bạc không phải là một sự dữ. “Có của” không đương nhiên là xấu. Thái độ khi “có của” mới xác định giá trị con người. Giáo Hội từng có những vị thánh xuất thân tự ngai vàng như vua Louis nước Pháp, vua Stephan nước Hung. Giữa đống tiền của, họ vẫn lắng nghe tiếng Chúa và dấn thân cho ngươì nghèo.
Của cải chính một phúc lành của Thiên Chúa. Thực vậy, “chính phúc lành của ĐỨC CHÚA cho ta được giàu sang.” (Cn 10,22) “ĐỨC CHÚA bắt phải nghèo và cho giàu có.” (1 Sm 2,7) Người giàu cũng không bị kết án vì có nhiều tiền của. Chính Đức Giêsu cũng giao du với những người giàu sang quyền quí, như Giakêu, Nicôđêmô, Máthêu v.v. Như vậy cả tiền bạc lẫn người giầu có đều không phải là đối tượng của lời nguyền rủa. Đức Giêsu muốn cho thấy cái đáng quan tâm là mối tương quan giữa con người và tiền bạc. Ưu tư quá về tiền của đến nỗi không thể dấn thân cho người nghèo và Tin Mừng là đánh mất cơ hội lớn nhất cuộc đời: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!” (Mc 10,23)
Đòi hỏi gắt gao
Đầu óc bình thường coi đạo nào cũng như đạo nào. Nhưng Đức Giêsu muốn môn đệ phải sống trên mức đạo đức bình thường, không thể thỏa mãn với những đòi hỏi luân lý mà thôi. Chính khi vượt lên trên hạnh phúc bình thường, họ mới thấy rõ giá trị tiền bạc. Chính tiền bạc sẽ trở thành phương tiện giúp đỡ và cứu thoát những người anh em nghèo khổ khỏi cơn túng quẫn. Nếu “từ bỏ mọi sự” một cách tuyệt đối, sẽ chẳng còn phương tiện nào để làm việc bác ái. Bởi đó, đúng hơn phải nói về “tinh thần khó nghèo,” (Mt 5,3) một tinh thần cần thiết để sẵn sàng lên đường với Đức Giêsu, chấp nhận mọi thử thách thương đau vì hạnh phúc đồng loại. Đó là con đường làm vinh danh Thiên Chúa.
Mặc dù đã “bỏ mọi sự” theo Chúa, Phêrô cũng không chấm dứt mọi tương quan với bên nhà vợ. Chính ông đã mời Đức Giêsu vào nhà mình và xin Người chữa bà mẹ vợ mình khỏi cơn sốt (Lc 4,38-39; Mt 8,14; Mc 1,30). Mối liên hệ vẫn còn đó. Phải chăng Phêrô chưa “bỏ mọi sự”? Vậy làm sao hưởng gấp trăm? Phải chăng lời Chúa mâu thuẫn với thực tế? Mâu thuẫn vì có nhiều nhà truyền giáo sống rất nghèo khổ, bị tù đầy, đói khát, chết chóc vì Chúa thì sao? Suốt đời họ chẳng được gấp trăm, mà chỉ toàn bị “ngược đãi” (Mc 10,30). Lời Chúa được thực hiện ở đâu? Vả lại có những người không hề biết đến từ bỏ, lại được hưởng gấp trăm ngàn lần những người đã hiến thân theo Chúa.
Đúng hơn, Đức Giêsu muốn so sánh hạnh phúc tự nhiên với siêu nhiên. Thực vậy, “đời sống cộng đoàn Kitô hữu sẽ thay thế cho sự hỗ trợ và hạnh phúc gia đình cũng như của cải đã từ bỏ. Đời sống Kitô hữu “ở đời này” tràn đầy niềm vui.” (Faley 1994,661) Ngay trong bắt bớ, niềm vui đó vẫn không chấm dứt, vì phát xuất tự Thiên Chúa. Niềm vui từ của cải hay huyết tộc làm sao so sánh với niềm vui là chính Chúa? Cuộc sống hôm nay đang thiếu vắng niềm vui chân thật đó. Vì thế gian không chịu nổi sự phân rẽ của lời Chúa. “Lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người.” (Dt 4,12) Lời Chúa gây nhức nhối và thách đố cho lương tâm thời đại. Đúng như Chúa nói: “Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo.” (Mt 10,34) Lời Chúa vẫn còn đó như một tra vấn liên tục, khiến họ không thể ngủ yên. Quả thực, “lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy,” (Dt 4,12) nghĩa là vào chỗ sâu kín nhất: lương tâm con người. Không ai có thể trốn chạy Lời Chúa. “Vì không có loài thọ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời Chúa.” (Dt 4,13)
Lời Chúa hôm nay đang thúc bách chúng ta dấn thân hơn nữa vào việc xây dựng Nước Chúa, tức là đem cả nhân loại vào “sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần.” (Rm 14,17) Không còn con đường nào khác ngoài việc hiến thân, từ bỏ và mạo hiểm vì Nước Trời. Cuộc mạo hiểm đầy thú vị, nhưng cũng chan chứa niềm hi vọng, vì Đức Giêsu đã quả quyết: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.” (Mt 28,18)
19. Tin và theo Chúa Giêsu
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Báo Tuổi Trẻ Cười có bài thơ:
“Ông Tiền, ông Phật, ông Tiên,
Ba ông đứng lại, ông Tiền cao hơn.
Tiền nhiều: mặc kệ... vẫn hơn,
Dẫu cho nhân sự ngã nghiêng tứ bề.
Tiền nhiều chẳng ngán chẳng lo,
Phất tay một cái nhằm nhò gì ông”.
Con người dù sở hữu nhiều “ông tiền” và “mua tiên cũng được”, nhưng chắc gì đã hạnh phúc?
Ngày 06.6.1976, tỷ phú Paul Getty qua đời, để lại một gia sản từ hai đến bốn tỷ đôla. Sau năm lần ly dị, ông đã tuyên bố với báo chí: Tôi mong dùng tất cả gia tài của tôi để xây dựng một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Tôi thất bại. Tôi không đạt được hạnh phúc gia đình. Tiền bạc không thể mua được hạnh phúc. Trái lại, nó còn có họ hàng bà con với những nỗi bất hạnh nữa.
Cơ quan vũ trụ Nasa của Mỹ đã từng tiết lộ: khi phi hành gia lần đầu tiên trên trái đất đặt chân lên mặt trăng, nhìn cảnh vật, ông ấy đã thốt lên “ Ôi, yên bình quá, ở đây không có tiền”.
Một cuộc sống đầy đủ không thể không có tiền, nhưng nhiều tiền chưa hẳn đã có hạnh phúc. Sự giàu sang không đương nhiên mang lại hạnh phúc cho con người.
Trang Tin mừng hôm nay kể chuyện một thanh niên đạo đức và có nhiều tiền của và vẫn thao thức đi tìm hạnh phúc với lý tưởng hằng ấp ủ từ thuở nhỏ.
Một thanh niên công chính, ngay thẳng, không dối gian. Một người trẻ tuổi tốt có thiện chí, giữ trọn các giới răn của Thiên Chúa và còn muốn làm điều tốt hơn nữa để được sự sống đời đời. Chàng trai thật dễ thương, khao khát muốn vươn lên, băn khoăn muốn làm thêm gì đó để nên tốt hơn, thao thức hướng tới trọn lành. Một thiếu gia có của mà không tìm hưởng thụ, nhưng lại nuôi ước vọng cao xa hơn. Chàng trai trẻ ước mơ một vùng trời lý tưởng. Ước mơ ấy cất tiếng gọi anh đi tìm bậc “Thầy nhân lành”. Gặp Chúa Giêsu, anh quỳ xuống và thưa: Thưa Thầy, tôi phải làm gì để đạt được ước mơ mà tôi hằng ấp ủ? Người thanh niên hỏi Chúa Giêsu với cả tấm lòng chân thành. Người hỏi “anh có giữ các giới răn không?”. Anh đáp dứt khoát và mau lẹ: “Thưa, tất cả những điều đó tôi đã giữ từ nhỏ”.
Chúa Giêsu nhìn anh với ánh mắt trìu mến. Khi biết anh đã giữ trọn các giới răn, Chúa “Chăm chú nhìn anh và đem lòng thương”. Chúa thương vì thấy chàng trai trẻ thành tâm thiện chí. Chúa muốn giúp anh đi xa hơn trên con đường trọn lành, con đường tìm kiếm, con đường đòi hỏi từ bỏ và quảng đại. Chúa chỉ cho anh thấy con đường: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo Tôi” (Mc 10, 21). Đây là điều duy nhất, căn bản và cốt yếu để anh được hạnh phúc, được sự sống đời đời.
Thánh Máccô kể chuyện cách dí dỏm: “Nghe lời đó, anh ta sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải” (Mc 10, 22). Niềm vui lịm tắt, người thanh niên buồn bả bỏ đi (Mt 19,20-21). Và từ đó ước mơ của anh héo úa theo dòng đời. Anh muốn hạnh phúc, muốn được sự sống đời đời nhưng lòng gắn bó với của cải vật chất đã chặn bước đường đi tới.
Có lẽ các môn đệ tiếc nuối: sao Thầy không chiêu mộ người thanh niên giàu có này làm môn đệ nhỉ?
Chàng trai trẻ tiếc của bỏ đi. Chúa cũng tiếc thanh niên thiện chí. Chúa “nhìn chung quanh” và nói: “Những kẻ cậy dựa vào của cải, thật khó vào Nước Thiên Chúa biết bao”. Theo Chúa Giêsu, người ta không thể thờ hai chủ cùng một lúc. Kẻ có nhiều của cải thì để tâm vào của cải “kho tàng ở đâu thì lòng trí ở đó” (Lc 12,34), cho nên phải chọn: một là Thiên Chúa, hai là tiền tài (x. Lc 16,13). Lời Chúa thật “sắc bén như gươm hai lưỡi”. Người giàu thiện chí cần phải cắt những ràng buộc vật chất để vươn cao lên.
Chàng trai trẻ vui mừng và hy vọng đi tìm con đường trọn lành. Phấn khởi gặp Chúa nhưng trở về với nổi buồn.Chàng trai trẻ không muốn trả giá, không muốn mạo hiểm làm môn đệ. Anh ta chỉ muốn giữ của cải đảm bảo cho cuộc sống vật chất. Muốn theo Chúa Giêsu nhưng anh ta vấp phải một chướng ngại, một sức khống chế, đó là lòng gắn bó với của cải. Của cải như tấm kính mờ che lấp ánh sáng khi mà ánh sáng muốn soi vào lòng anh. Người thanh niên này có tất cả để được hạnh phúc nhưng chỉ còn thiếu một điều là khả năng theo Chúa.
Những thanh niên tốt như vậy thời nào cũng có. Người trẻ sùng đạo và khao khát sự sống đời đời. Anh có duyên may gặp được Chúa Giêsu, một bậc thầy có lòng nhân hậu. Nhưng tiếc thay! Anh không đủ can đảm, không đủ quãng đại bác ái để đáp ứng đòi hỏi của Chúa Giêsu là từ bỏ những gì mình có để theo Người.
Chúa đòi hỏi nơi anh điều anh muốn giữ lại vì của cải là chỗ dựa của đời anh. Anh sẵn sàng làm mọi điều Chúa đòi hỏi trừ việc bỏ chỗ dựa này. Nô lệ cho của cải, người thanh niên không đủ can đảm để ra khỏi ràng buộc.
Người giàu có không được cứu độ chẳng phải vì họ giàu, nhưng sự trói chặt của vật chất làm họ nô lệ cho của cải và lãng quên Thiên Chúa. Của cải có thể là cạm bẫy che mất lương tâm, cản trở bước đường đến trọn lành. Người ta thường nói: Người giàu lấy của che thân. Người nghèo lấy thân che của. Đồng tiền liền với khúc ruột. Giàu không phải là tội, nghèo chẳng phải là nhân đức. Điều quan trọng theo tinh thần Phúc âm là thái độ con người trước của cải vật chất. Chúa Giêsu đã nhiều lần ví những người giàu có như ông phú hộ tích trữ thóc lúa ăn chơi thỏa thích. Hay như ông phú hộ ngày ngày yến tiệc linh đình, không để ý đến Lagiarô đói khổ thèm được mấy thứ rơi từ bàn ăn rơi xuống mà vẫn không được (Lc 12, 16-21; 16, 19-26). Thiên Chúa bảo các ông phú hộ đó: “Đồ ngốc, nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng sống ngươi” (Lc 12, 20). Khi các phú hộ ở dưới âm phủ, ngước mắt lên kêu: “Ở đây con bị thiêu đốt khổ lắm”, Tổ phụ Abraham đáp lại: “Con ơi, hãy nhớ lại, suốt đời con đã được sướng rồi, bây giờ, phải chịu cực khổ thế là phải rồi” (Lc 16, 23-25).
Con người thường bị giằng co giữa ước mơ bay cao và sự kéo gì của vật chất. Của cải vật chất có sức hấp dẫn mãnh liệt. Con người làm chủ nó và dần dần để nó làm chủ mình. Của cải trở thành lẽ sống mà con người không thể dứt bỏ.Những tiêu chuẩn mà con người hôm nay đang đặt ra để trói buộc nhau như là tiền tài, địa vị, danh vọng; thực tế, nó không thể làm cho con người đạt tới hạnh phúc đích thực.
Chúa Giêsu mang đến cho chúng ta một tin vui. Có những niềm hạnh phúc lớn lao mà Thiên Chúa ban cho chúng ta qua từng phút giây đang sống. Biêt dừng lại để thưởng thức những niềm vui nhẹ nhàng trong cuộc sống. Gặp một nụ cười, ngắm một bông hoa. Thực thi một cử chỉ yêu thương, một việc làm bác ái. Đọc một cuốn sách hay. Một cuộc trò chuyện thân mật. Một buổi tối đọc kinh chung trong gia đình, trong khu xóm. Dâng một thánh lễ sốt sắng. Dự một giờ chầu sốt mến... Biết bao niềm vui an hòa mang đến hạnh phúc trong cái bình thường của đời thường. Có những người, giàu tiền bạc mà không biết vui cười, lắm của cải mà không biết yêu thương, sang trọng bề ngoài mà không có niềm vui nội tâm, thì cũng chỉ là bất hạnh. Con người không chỉ dừng lại nơi cơm áo gạo tiền. Con người còn có rất nhiều niềm vui tinh thần, biết bao hạnh phúc thiêng liêng.
Chúa Giêsu không chọn những thanh niên “học giỏi, đẹp trai, con nhà giàu”. Chúa chọn những thanh niên, những người lao động xem ra chẳng bảnh trai hay học thức, nhưng Chúa cần nơi họ là có “tấm lòng”, vì “chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”.
Người trẻ luôn ước mơ, luôn khao khát, luôn tìm kiếm và luôn có đủ nghị lực để vươn tới Chân Thiện Mỹ. Nhân loại sẽ không tìm thấy giải đáp nào thoả đáng hơn ngoài Chúa Giêsu Kitô, Đấng “là Con Đường, là Chân Lý và là Sự Sống” (Ga 14,6). Trong xã hội ngày nay, có biết bao cuộc vui chơi giải trí, có biết bao phong cách hào hoa, có biết bao chủ thuyết hứa hẹn một tương lai tươi sáng... đang lôi cuốn giới trẻ. Tuy nhiên, chúng ta phải thừa nhận một sự thật là: con người đứng trước một thế giới tương đối, hữu hạn nhưng tâm hồn lại luôn hướng về những giá trị tuyệt đối, vô biên. Đó là một mâu thuẫn lớn nhất trong con người, đặc biệt là nơi giới trẻ. Nếu không có một đời sống tâm linh vững vàng thì người trẻ dễ rơi vào tình trạng chán chường, thất vọng và phản ứng nổi loạn. Ý tưởng đó được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, trong sứ điệp ngày Quốc Tế Giới Trẻ 1993 xác nhận: “Chỉ có Đấng tạo dựng nên tâm hồn con người mới có thể đáp ứng cách thích đáng những mong chờ mà con người mang trong mình”.
Vì thế, cần phải cầu xin cho có được sự hiểu biết để “coi của cải chẳng là gì so với Đức Khôn Ngoan”; “Đức Khôn Ngoan hơn vương trượng, ngai vàng... của cải bằng không. So với Đức Khôn Ngoan, vàng trân châu bảo ngọc chẳng qua là một chút cát, bạc chẳng qua như chút bùn”. (Bài đọc 1). Khôn ngoan là sự giàu sang, là sự hiệp thông với ân sủng của Thiên Chúa. Người đời thường quý chuộng tiền bạc và sự giàu có, còn người Công chính coi Đức Khôn Ngoan là điều quý trọng hơn cả. Khôn ngoan quý trọng hơn tiền bạc, ngọc ngà, châu báu. Khôn ngoan quý hơn sức khoẻ và sắc đẹp. Cùng với Đức Khôn ngoan, mọi sự tốt lành đến với người công chính.
Người thanh niên trong Tin mừng hôm nay là người trẻ đàng hoàng và lương thiện, sống một cuộc sống không có gì đáng chê trách, không có tội lỗi gì đáng phàn nàn, không có tật xấu để sửa sai. Anh là hình ảnh người Công chính Cựu ước chu toàn lề luật. Chúa Giêsu âu yếm nhìn anh và muốn anh tiến thêm một bước nữa để nên người Công Chính Tân Ước: bán gia tài đem bố thí cho người nghèo, sẽ có một kho báu trên trời và hãy theo Người. Đó là điều kiện nên người Công chính Tân ước.
Không ngoại tình, không giết người, không trộm cắp, không làm chứng gian, không lường gạt ai, không bất hiếu với cha mẹ. Đó mới là điều kiện thứ nhất sống tốt lành về mặt luân lý. Điều kiện thứ hai là tin và theo Chúa Giêsu.
Giá trị của con người không hệ tại ở cái mình có, mà ở tại chính cái mình làm. Tất cả sự khôn ngoan và minh triết được đúc kết nới Chúa Giêsu. Tin vào Chúa Giêsu và sống theo giáo huấn của Người là sự khôn ngoan của người Kitô hữu.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chỉ dẫn con đường hạnh phúc đời đời. Xin cho chúng con trung thành theo đường lối khôn ngoan thánh thiện Chúa dạy, luôn giữ các giới răn, chia sẽ tình thương với tha nhân, tin và bước theo Chúa mỗi ngày. Amen.
20. Chúa Nhật 28 Thường Niên.
Anh chị em thân mến.
Trong những ngày vừa qua, những người Việt Nam chịu biết bao cảnh vất vả do thiên tai. Nào là những trận mưa bảo ở miền trung, còn miền nam thì đặt biệt những tỉnh miền tây có một số người ngày ngày phải lênh đênh trên giòng nước, vì không nhìn thấy đất nơi đâu. Họ phải từ bỏ nhà cửa ruộng vườn, cả những gì là tài sản, là phương tiện sinh sống của đời người để ra đi. Họ từ bỏ tất cả không mang theo được gì. Họ ra đi để tìm sự sống. Nếu họ không ra đi, cứ bám vào nhà cửa, tài sản của mình thì có lẽ cả mạng sống của họ cũng không được bảo đảm, đừng nói chi đến tài sản. Chính vì thế họ quyết định từ bỏ tất cả để tìm sự sống, đi tìm cái mà họ biết mai nầy đây họ cũng sẽ mất nó. Cuộc đời của con người được bao nhiêu năm. Thế mà họ vẫn đánh đỗi bằng cả tài sản mình có.
Chàng thanh niên đến với Chúa Giêsu để tìm sự sống. Anh ta tự hào vì mình đã giữ những điều theo lề luật từ thuở bé. Anh ta tự hào vì mình không làm điều gì sai lỗi; điều đó cũng đồng nghĩa với việc anh ta không làm được điều gì tốt. Chúa Giêsu động lòng thương, nói với anh ta. "Anh chỉ còn thiếu một điều, là bán đi tất cả những gì anh đang có, bố thí cho kẻ khó và đến mà theo Ta". Anh buồn bả bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải. Những thứ đó đã nhận chìm cuộc đời anh, những thứ đó đã cướp đi sự sống mà anh đang và đã cố công tìm kiếm bấy lâu nay. Những thứ đó đã lôi kéo, làm cho anh không thể bước đi nỗi để tìm sự sống. Những thứ đó đã giết chết cuộc đời của anh, trong khi anh ở kề bên nguồn sống đích thực. Chúa Giêsu đành thất vọng đưa mắt nhìn anh ta ra đi, với những cơn lũ lụt của cuộc đời sẽ nhận chìm anh ta.
Ngày nay những cơn lũ lụt ngày càng nhiều và mỗi ngày một tàn phá cách mãnh liệt hơn. Những ai không biết thoát ra khỏi, sẽ bị nó nhận chìm không thương tiếc. Mỗi người trong chúng ta cũng đang ngụp lặn dưới dòng nước của cơn lũ. Những cơn lũ của tiện nghi vật chất, những cơn lũ của danh vọng giàu sang, cơn lũ của sự tham lam tranh chấp, của sự kiêu căng tự phụ, của sự ích kỷ hẹp hòi....
Chúa Giêsu cũng đưa mắt nhìn mỗi người chúng ta và động lòng thương, Ngài cũng nói với chúng ta: "Con chỉ còn thiếu một điều". Cũng biết bao lần chúng ta buồn bả bỏ đi như chàng thanh niên kia, vì chúng ta có nhiều của cải. Những thứ đã bao vây cả cuộc đời đã nhận chìm không cho chúng ta bước đi thoải mái, vì nó làm nặng nề những bước chân muốn thăng tiến. Nhiều khi chúng ta cũng bàu chữa rằng mình đâu có nhiều của cải vật chất. Đúng đấy, không có nhiều của cải vật chất, nhưng chúng ta có nhiều thứ không thể bỏ đi được. Ai cũng mơ ước đạt đến sự sống đời đời, nhưng không thể bước lên nổi, vì những dòng nước của sợ sệt đã nhận chìm chúng ta. Đó là những lần đáng lẽ phải ra tay cứu gíúp người khác trong cơn hoạn nạn mà chúng ta đã không làm, chúng ta sợ mất mát thiệt thòi, sợ bị phiền hà đến bản thân. Những dòng nước của sự ích kỷ cũng nhận chìm không biết bao nhiêu người vì sự bủn xỉn tính toán lợi lộc bản thân. Đó là những lúc chúng ta làm ngơ trước những sự bất công, đôi khi chúng ta còn cộng tác trực tiếp hay gián tiếp vào đó nữa. Chúa Giêsu bảo chúng ta hãy bán những thứ đó đi cho ngưới nghèo khó để có thể nhẹ nhàng mà bước đi theo Ngài. Bao nhiêu lần chúng ta quay lưng lại, bao nhiêu lần chúng ta không muốn tìm đến sự sống, mặc dù rất nhiều lần chúng ta ở kề cận bên ngồn sống của Thiên Chúa. Nhiều lần chúng ta vẫn thích ngụp lặn dưới những cơn nước lũ của cuộc đời hơn là bỏ đi một chút của cải riêng tư, bỏ đi một chút tính toán, bỏ đi một chút nóng nảy ganh tỵ, để cho con người chúng ta nhẹ nhàn mà tìm đến sự sống. Chúng ta càng không dám tự hào như chàng thanh niên là đã giữ trọn các điều răn từ thuở bé. Vậy thì có gì để bám víu mà không chịu bước đi theo lời mời gọi của Chúa Giêsu nói với từng người chúng ta qua bài Phúc Âm hôm nay.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta biết từ bỏ những gì làm vướng bận, để tìm được nguồn sống đích thực.
21. Tiền bạc
Tiền bạc có phải là một cản trở trên con đường đi vào Nước Trời hay không? Chàng thanh niên với tất cả thiện chí đã đến xin Chúa Giêsu chỉ bảo con đường dẫn tới sự sống đời đời. Để đáp lại thiện chí ấy, Chúa Giêsu đã dạy anh ta tuân giữ những giới luật của Thiên Chúa. Chàng thanh niên trả lời rằng mình đã tuân giữ những điều đó từ thuở nhỏ. Nghe vậy, Chúa Giêsu động lòng thương, và từ tình thương này, Ngài khuyên anh ta bán tất cả gia tài, bố thí cho người nghèo rồi đến mà theo Ngài.
Đó là điều duy nhất anh ta còn thiếu để được sống đời đời. Nhưng cái còn thiếu này lại là cái chàng thanh niên giàu có không làm nổi. Ý chí muốn vươn lên của anh ta bị tắc nghẽn tại đây. Trước đòi hỏi của Chúa Giêsu, anh ta đã buồn sầu, cúi mặt bỏ đi. Vì anh ta không muốn bán tất cả của cải, không muốn bố thí cho kẻ nghèo và không muốn đi theo Chúa. Phúc Âm đã đưa ra lời giải thích sở dĩ như vậy là vì anh ta có nhiều của cải. Vì có nhiều của cải nên bán đi không được. Mà bán đi không được thì cũng chẳng bố thí cho người nghèo được, và do đó cũng không thể theo Chúa được.
Thực ra thì cả ba lý do đều dính chùm với nhau, đều có liên hệ mật thiết với nhau. Của cải tự nó không phải là một cái gì xấu, làm cản trở chúng ta đi vào Nước Trời. Bởi vì nếu tự nó đã xấu thì hẳn Chúa Giêsu đã chẳng khuyên chàng thanh niên bố thí cho kẻ nghèo, vì như thế là đem gieo rắc cái xấu cho người khác. Nhưng của cải đã thực sự trở nên một cản trở trên con đường đi vào Nước Trời, khi nó được tích luỹ để trở thành của cải riêng của một người và biến người đó thành kẻ giàu có. Tiền bạc lúc bấy giờ sẽ là một chỗ dựa trong cuộc sống của kẻ giàu có. Nó sẽ là một cản trở không thể nào vượt nổi.
Chàng thanh niên được mô tả là có một đời sống không thể chê trách, nhưng anh ta lại không vào được Nước Trời vì anh ta đã không dứt nổi với những của cải anh ta có. Hay nói cách khác, từ của cải của mình, anh đã không thể biến nó trở thành của cải cho những kẻ thiếu thốn. Và một khi không làm nổi đòi hỏi này, thì việc giữ các giới răn của anh cũng không ích lợi gì cho việc tìm kiếm cuộc sống đời đời.
Đòi hỏi Chúa Giêsu ở đây mang một tính cách quyết liệt, bởi vì chính Ngài đã kết luận: Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa. Vậy thì chúng ta đã có thái độ nào đối với tiền bạc và chúng ta đã sử dụng tiền bạc của chúng ta ra làm sao?
22. Tốt lành và nhân lành
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Chàng thanh niên (Mt 19:20) hay một thủ lãnh (Lc 18:18) được nói tới trong giai thoại này chắc hẳn là một người tốt và gương mẫu theo tiêu chuẩn Do Thái, điển hình là từ thuở nhỏ anh/ông đã giữ trọn mọi giới răn. Nếu thế, anh thực sự kiếm tìm gì khi tới gặp Đức Giêsu; nói cách khác, điều gì anh muốn diễn đạt qua câu nói: “được sự sống đời đời làm gia nghiệp”? Trong thâm tâm có thể anh đã ngờ ngợ rằng: tốt lành mà thôi có lẽ là chưa đủ; vì anh là người đầu tiên đã chủ động thân thưa với Đức Giêsu như người ‘Thầy nhân lành’.
Theo dõi cuộc dối thoại giữa Đức Giêsu với chàng thanh niên nọ, Kitô hữu chúng ta nhận ra một điều rất căn bản: ‘tốt / lương thiện’ và ‘nhân lành’ là hai điều hoàn toàn khác nhau; ‘tốt lành’ thuộc lãnh vực con người, lãnh vực Cựu Ước nhờ nắm giữ trọn các điều răn, còn ‘nhân lành’ hoàn toàn thuộc lãnh vực thần linh, “Không ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa” như Đức Giêsu đã minh định. Biện phân này giúp ta hiểu được cái mới mẻ rất mực độc đáo của Tin Mừng.
Tất cả tùy thuộc vào việc ta hiểu ‘được sự sống đời đời làm gia nghiệp’ là thế nào: phải chăng là được lên thiêng đàng, khỏi phải sa hỏa ngục vì đã sống tốt, sống lương thiện, đạo đức hay là một điều gì khác?
‘Được sự sống đời đời làm gia nghiệp’ có nghĩa là được lên Thiên Đàng; phần thứ nhất trong lời giải đáp của Đức Giêsu có vẻ như tập trung vào quan niệm phổ thông này: thiên đàng được hiểu như phần thưởng dành cho kẻ tốt / người lương thiện. Do đó chỉ cần không phạm tội là đủ để được vào thiên đàng, còn kẻ xấu sẽ không được vào; thế nhưng phân biệt xấu / tốt là lãnh vực thuần luân lý; xã hội nào thì cũng phân loại người tốt kẻ xấu, tùy vào tiêu chuần xã hội đó đề ra. Trong xã hội Do Thái thời Cựu Ước, kẻ tốt rõ ràng là người tuân giữ căn kẽ các giới răn và lề luật. Hiểu như thế thì vào thời buổi nào và ở bất cứ nơi đâu cũng đều có những người đáng lên thiên đàng cả! Nếu căn cứ theo tiêu chuẩn này, thì chàng thanh niên trong câu chuyện chắc chắn sẽ được lên thiên đàng thôi! Hơn nữa hệ luận của lối suy nghĩ này sẽ là: Tin Mừng không nhất thiết là cần, và ơn cứu chuộc của Đức Kitô là không mấy thiết yếu, và chỉ đóng vai trò hỗ trợ người ta trở nên tốt mà thôi.
‘Được sự sống đời đời làm gia nghiệp’ có nghĩa là: được vào Nước Thiên Chúa; trong phần hai của câu giải đáp, hình như Đức Giêsu lại muốn triển khai khái niệm này. Người khảng định: chỉ một mình Thiên Chúa, chứ không ai khác, là ‘nhân lành’. Điều đó có nghĩa là: tự mình không một ai, dầu có tốt lành tới mấy, có thể vào được Nước Thiên Chúa. Nhân lành không thuộc lãnh vực tự nhiên, mà phải thuộc lãnh vực thần linh! Dĩ nhiên Thiên Chúa là vô cùng tốt lành, vì Ngài là chân - thiện - mỹ; điều này thì nhờ suy luận triết học con người cũng có thể biết được: Deus bonum est… Đức Giêsu đã đến trần gian không để nói về sự tốt lành hay thánh thiện này của Thiên Chúa. Điều Ngưởi muốn mạc khải là Thiên Chúa nhân ái và cứu độ! Theo Người, Nước Thiên Chúa trước hết phải là vương quốc của nhân ái thần linh; nói cách khác, sự thánh thiện đạo đức của vương quốc đó hệ tại ở ‘nhân lành của từ ái xót thương’, chứ không phải ‘tốt lành của luân lý’.
Chàng thanh niên tuy có tốt lành thánh thiện theo tiêu chuẩn Do Thái, nhưng chưa có lòng nhân ái của Tin Mừng. Để có thể trở nên nhân lành, Đức Giêsu đã mời gọi anh: “Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo… rồi hãy đến theo tôi”. Hai tiêu chuẩn chính của nhân lành Đức Giêsu đề ra là: chấp nhận Tin Mừng Đức Kitô và sống chan hòa với tha nhân; và vì thấy mình không thể đạt được hai chuẩn đó nên ‘chàng buồn rầu bỏ đi’. Các môn đệ Đức Giêsu sẽ phải học biết nhân ái Tin Mừng nhờ đi vào con đường Thập Giá theo Thầy và từ bỏ mọi sự. Như vậy ơn gọi Kitô hữu của chúng ta sẽ hệ tại ở sống Tin Mừng bác ái theo Người Thầy nhân ái, hơn là chỉ lo sống tốt - lương thiện qua việc giữ trọn các giới răn, cho dầu đó có là các điều luật thánh của Thiên Chúa hay của Hội Thánh đi nữa.
Trong tư cách linh mục, chính tôi phải sống thế nào để tất cả sẽ bảo đảm ‘được sự sống đời đời làm gia nghiệp’, đồng thời phải dạy giáo dân sống như thế. Đó quả là vấn đề mục vụ có tầm quan trọng bậc nhất đấy!
Lạy Cha là Đấng chân thiện mỹ, hôm nay Cha dạy cho con biết nhân ái là điều còn cao quí hơn chân thiện mỹ tới cả ngàn lần; chính nhờ Lời mạc khải của Con Một Cha con mới biết được điều quan trọng này. Xin cho con biết sống lòng nhân ái như giá trị lớn hơn hết thảy, có khả năng làm cho con nên giống Đức Kitô Con Cha. Cũng xin cho con sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh để trở nên nhân ái như Chúa Cha trên trời. Amen.
23. Khôn ngoan
"Những người có của thì khó vào nước Thiên Chúa biết bao" (Mc 10,23).
Sách "Dụ ngôn đời thường" của linh mục Frank Mihalie - SDV kể câu chuyện "Khôn một xu, ngu một pound" như sau: Một con mọt báo chí keo kiệt có thói quen để dành tất cả những tờ ghi chú mới chỉ viết một mặt giấy. Tự nhiên việc làm kinh tế ấy đã để dành cho ông một ít tiền... nhưng cũng đốt đi rất nhiều thời gian của ông... cuối năm, ông ngồi lại tính toán.
Để dành được được 30 xu tiền giấy vụn.
Đánh mất 1 dollar thời giờ.
Nếu nói thời gian là vàng thì con mọt trên không chỉ mất 1 dollar. Một công việc tưởng rất khôn ngoan hóa ra lại quá dại.
Khôn ngoan là điều ai cũng muốn, cũng mong. Bởi nhờ khôn ngoan mà con người nhận được nhiều thành công trong những chọn lựa của mình.
Phúc âm Chúa Nhật 28 này kể chuyện một thanh niên giàu có tìm đường vào Nước Trời nhưng cuối cùng đã chẳng vào được do một quyết định thiếu khôn ngoan. Mà anh thanh niên này thiếu ngoan thật. Bởi anh đã chọn cái chóng qua thay cho cái vĩnh cửu. Anh biết Thiên Chúa là nhân lành nhưng anh không làm theo hướng dẫn của Đấng nhân lành. Anh khao khát Thiên Chúa nhưng anh không với được Thiên Chúa bởi hai tay anh đang bận ôm kho tàng của của cải của mình. Anh hiểu thiên đàng là tuyệt đối nhưng anh không dám bỏ những cái tương đối để đạt được thiên đàng. Anh có thiện chí nhưng lòng đam mê thế tục đã dập tắt ý chí phấn đấu. Anh giữ nghiêm nhặt lề luật nhưng anh không biết được cái tâm của lề luật. Giá mà anh dám bám hết tài sản để bố thí cho người nghèo thì thiên đàng đã có tên anh rồi. Anh đi sai nước cờ khi cho rằng mấy đồng tiền lớn hơn hạnh phúc Nước Trời. Anh đã hiểu mọi thứ lề luật nhưng có một điều anh không hiểu là Nước Trời mới là tài sản quý nhất, dù phải đổi lấy mạng sống để đạt được thì cũng quá rẽ nói gì là tiền của.
Thói thường chúng ta hay chọn những gì mà thấy kết quả ngay trước mắt hay những gì làm thỏa mãn sở thích của mình. Tiền của chính là thứ mà ai cũng lao vào tìm kiếm.Thế nhưng, cũng chính tiền làm con người mất mát nhiều nhất. Mấy ai ôm được tiền để lên trời? Mấy ai giữ được tiền mãi suốt đời. Biết bao kẻ chết vì tiền, tan nhà nát cửa cũng vì tiền. Chỉ trong một cái nháy mắt một đại gia trở thành kẻ ăn mày, một tỉ phú trở thành con nợ, một thư sinh thành một tên cướp. Đúng là tiền mua tiên cũng được nhưng tiền cũng mua được địa ngục nữa. Chúng ta phải biết rằng tiền của chỉ là phương tiện chứ không là cùng đích của cuộc đời. "Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào có ít gì". Thánh Phanxicô Assisi đã rất khôn ngoan khi chọn Chúa làm gia nghiệp đời mình.
Ở đây ta cũng thấy anh thanh niên này thiếu kiên nhẫn. Nếu anh nán lại ít giây nữa chắc anh đã không u sầu bởi những mối lợi quá lớn khi theo Chúa. Ở đây không phải bỏ một được mười mà được trăm. "Chẳng ai bỏ nhà cửa, ruộng đất... vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ ở đời này lại không nhận được nhà cửa, ruộng đất... cùng với sự bắt bớ gắp trăm và sự sống vĩnh cửu ở đời sau" (Mc 10, 29-30).
Kể về giai thoại các thánh tử đạo việt Nam thì không ai có thể quên được câu nói đầy niềm tin của thánh Phanxicô Nguyễn Cần (1803 - 1837) một thầy giảng quê ở tỉnh Hà Đông, Hà Nội. Trước những lời dụ dỗ, đe dọa cho thầy bỏ đạo. Thầy đã khẳng khái trả lời: "Dù Thiên Thần xuống bảo tôi bỏ đạo, tôi cũng không tin". Còn Thánh Gioan Maria Vianney thì xuống hỏa ngục cũng được miễn là nơi đó có Chúa. Ước gì chúng biết bắt chước Vua Salômon trong Cựu Ước. Ông đã không xin gì ngoài sự khôn ngoan để dẫn dắt dân Chúa. Ông đã được sự khôn ngoan mà trước và sau ông không ai bằng ông, cùng tất cả những sự giàu sang khác.
Ước chi cúng ta cũng biết quý chuộng Sự Khôn Ngoan trên tất cả mọi sự (x. Kn 7,7-11). Và Sự Khôn Ngoan ở đây không gì khác chính là Thiên Chúa.
Tóm lại, "Tiền bạc dẫu sinh năm đẻ bảy, lòng chẳng nên gắn bó làm chi". "Tiên vàng hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước đã, mọi sự khác Người sẽ ban cho".
Xin Thánh Thần Chúa ban cho con đức khôn ngoan của Ngài để con luôn biết chọn Chủa là vĩnh cửu của đời con.
24. Khôn ngoan đích thực – Huệ Minh
Ta vừa được nghe lại câu chuyện khá thú vị về cuộc gặp gỡ hay nói đúng hơn là cuộc trao đổi giữa Chúa Giêsu và chàng thanh niên.
Thánh Máccô ghi lại rằng đây là chàng thanh niên nhưng có lẽ chàng thanh niên này lại là chàng rất đặc biệt. Đặc biệt bởi lẽ ở tuổi xuân thôi nhưng anh lại nghĩ đến đời sau. Chính vì thế, anh ta không ngần ngại hỏi Chúa Giêsu: "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?"
Nghe câu hỏi thật lý thú, Chúa Giêsu không trả lời ngay câu hỏi của anh nhưng Chúa Giêsu trả lời khác đi một tí: "Sao ngươi gọi Ta là nhân lành? Chẳng có ai là nhân lành, trừ một mình Thiên Chúa. Ngươi đã biết các giới răn: đừng ngoại tình, đừng giết người, đừng trộm cắp, đừng làm chứng gian, đừng lường gạt; hãy thảo kính cha mẹ".
Nghe như vậy, chàng trai cũng hết sức thẳng thắn, chàng bộc bạch: "Lạy Thầy, những điều đó tôi đã giữ từ thuở nhỏ".
Phải nói rằng, có lẽ Chúa Giêsu cũng khá sốc bới lẽ dường như chưa bao giờ trong đời mà Chúa lại gặp một chàng trai trẻ mà lại ngoan ngoãn đạo đức đến như vậy. Nhìn thấy anh và nhất là câu trả lời của anh để rồi ta nhìn thấy ánh mắt của Chúa Giêsu thật dễ thương. Thánh Máccô kể tiếp: Bấy giờ Chúa Giêsu chăm chú nhìn người ấy và đem lòng thương mà bảo rằng: "Ngươi chỉ thiếu một điều, là ngươi hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta".
Câu chuyện đang hay bỗng dưng kết thúc và theo như ngôn ngữ bình thường là kết thúc không có hậu bởi lẽ chàng thanh niên đã bỏ đi vì buồn. Không buồn sao được khi anh ta có quá nhiều của cải.
Thoạt đầu ta thấy anh ta khôn để hỏi về sự sống đời đời nhưng rồi sau đó xem chừng ra anh ta dại.
Ở đời, cần lắm sự khôn ngoan để minh định về cuộc đời, để định hướng cho mình một lối sống.
Trang sách Khôn ngoan mà chúng ta nghe ở bài đọc thứ nhất đó chính là lời của Salomon. Ông nổi tiếng thông minh nhất đời, ít là theo ý kiến người Dothái. Không phải tự ông có sự khôn ngoan vượt bực ấy. Ông đã xin cùng Thiên Chúa và Người đã thương ban cho ông vì ông biết quý nó hơn hết mọi sự ở đời.
Nói về điểm này, ta thấy ông đã nói đúng. Sách Các Vua quyển I còn kể (3,4-14): khi mới lên ngôi, Salomon đã đến Gabaon, một thánh điện nổi tiếng thời bấy giờ. Ông dâng có cả hàng nghìn tế vật lên Thiên Chúa. Người đã hiện ra với ông và hỏi ông xin gì? Ông khiêm tốn thú nhận mình còn trẻ trung mà phải cai trị một dân tộc "đông đúc"; nên ông không xin điều gì khác ngoài một lòng trí biết nghe lời Chúa để trị dân và phân biệt phải trái mà thôi.
Có thể nói rằng may mắn cho ông vì điều ông xin đã đẹp ý Chúa và Salomon đã nhận được ơn khôn ngoan.
Câu đầu của đoạn sách hôm nay nhắc lại câu chuyện ấy. Và những câu sau làm chứng Salomon đã nhớ kỹ những lời Chúa phán hôm ở Gabaon. Người bảo: vì ngươi đã xin sự khôn ngoan chứ không xin được sống lâu giàu bền hay là chiến thắng trên quân thù nên Ta se cho ngươi một lòng trí khôn ngoan đến nỗi trước và sau ngươi không có ai trong thiên hạ khôn ngoan bằng ngươi. Salomon đã nhớ lời này. Ông hằng suy niệm. Và hôm nay trong đoạn sách Khôn ngoan chúng ta vừa nghe, ông lặp đi nói lại rằng ông quý sự khôn ngoan hơn hết. Sức khỏe và sắc đẹp, vàng bạc và ánh sáng, tất cả đều như cát mạt sánh với sự khôn ngoan. Ðược nó là có mọi sự vì nó nắm giữ mọi sự trong tay.
Ðối với Salomon, khôn ngoan là một sự gì rõ rệt. Ðó là tài cai trị dân theo đúng ý Chúa. Nói đúng hơn đó là ơn trung thành biết lắng nghe lời Chúa và hiểu ý Người để lãnh đạo dân. Sự khôn ngoan đó chắc chắn không dành cho mọi người. Và không phải ai ai cũng cần cầu xin ơn ấy. Khôn ngoan khuyên bảo hết thảy chúng ta ao ước sự khôn ngoan, thì nó muốn nói đến sự khôn ngoan nào?
Đây là câu hỏi không dễ trả lời chút nào cả. Theo dõi sách Khôn ngoan từ đầu tới cuối, chúng ta thấy tác giả không bao giờ định nghĩa sự khôn ngoan bằng những công thức cụ thể. Dường như khôn ngoan là một huyền nhiệm. Người ta phải cố gắng mon men tới gần. Và tùy như mức cải tạo thực hiện được khi tiến lên với đức khôn ngoan, người ta mới hiểu thêm được và lãnh nhận dần được ơn cao cả này.
Và cuối, ta có thể nói, khôn ngoan chính là Thiên Chúa, là thần trí của Người, là sự sống của Người, không phải như một thực tại ở xa chúng ta, nhưng đang muốn đến với chúng ta để làm cho chúng ta nên khôn ngoan hơn, tức là thánh thiện hơn và do đó hạnh phúc hơn.
Qua đây, ta lại có cơ hội để nhìn lại mình để xem ta khôn ngoan ở mức độ nào và khôn ngoan như thế nào? Ta khôn ngoan theo kiểu thế gian hay khôn ngoan theo kiểu người đời.
Tính tuổi thọ, trong ngoài bảy chục,
mạnh giỏi chăng là được tám mươi,
mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ,
cuộc đời thấm thoát, chúng con đã khuất rồi.
Cơn giận Ngài, ai lường được sức mạnh,
trận lôi đình, ai hiểu thấu căn nguyên?
Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống,
ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan. (Tv 89, 10-12)
Cuộc đời con người là như vậy. Dù giàu dù nghèo và gia tài kếch xù như chàng thanh niên đi chăng nữa cũng sẽ phải ra đi, sẽ phải khuất chứ không thể nào lột da sống đời để hưởng thụ. Chính vì thế, ta lại cần đi tìm sự khôn ngoan theo kiểu của Thiên Chúa. Khôn ngoan theo kiểu của Thiên Chúa đó là ta được mời gọi bán mọi sự để theo Chúa.
Vẫn là con người, vẫn mang trong mình những bám víu của trần gian. Ta lại xin Chúa thêm ơn cho ta để ta từ bỏ những gì làm cho ta không thanh thoát, những gì làm ta không đến gần Chúa được.
25. Của cải.
Hãy bán tất cả những gì anh có mà cho người nghèo anh sẽ được một kho tàng trên trời, rồi hãy đến mà theo Ta.
Đó là đòi hỏi Chúa Giêsu đã đưa ra cho chàng thanh niên giàu có, sau khi biết chàng đã tuân giữ những giới luật từ thuở còn nhỏ. Đó là điều anh ta phải làm để được sống đời đời. Và đó cũng là điều anh ta còn thiếu. Đòi hỏi của Chúa Giêsu là một đòi hỏi đặc biệt dành riêng cho cá nhân anh ta. Đòi hỏi ấy đụng tới con người anh ta thật sâu, bởi vì nó đụng tới sự an toàn, chỗ dựa và lòng gắn bó của anh ta đối với của cải.
Dĩ nhiên Chúa Giêsu không đòi hỏi mọi người phải bán tất cả của cải để rồi tay trắng mà bước theo Ngài. Ladarô, bạn thân của Ngài vẫn sống cuộc đời bình thường bên hai bà chị là Martha và Maria. Giakêu đã tự nguyện cho người nghèo phân nửa tài sản, chứ không do đòi hỏi của Chúa Giêsu. Vậy hẳn Ngài phải có lý do khi đưa ra một đòi hỏi quyết liệt như thế đối với chàng thanh niên. Ngài thấy anh có nhiều mặt tốt, nhưng Ngài cũng thấy anh bị trói buộc, bị cản trở, bị mất tự do bởi một điều, đó là sản nghiệp của anh. Ngài thấy rõ kho tàng dưới đất thực sự là một mối nguy hiểm cho anh, khiến anh có thể vuột mất kho tàng trên trời. Tình trạng hiện nay của anh chưa có gì đáng ngại, nhưng đam mê cứ lớn thêm mãi với thời gian.
Đối với trường hợp của anh, Ngài nhận thấy con đường tốt hơn hết để anh được sống đời đời, đó là bán tất cả, làm phúc cho người nghèo, rồi bước theo Ngài. Đề nghị của Chúa Giêsu giúp anh chắp cánh bay cao, không còn bị sợi dây nào ràng buộc. Tuy nhiên anh vẫn còn tự do để đáp lại lời mời gọi đó. Anh có sẵn sàng trả giá để chiếm được kho báu là sự sống đời đời hay không?
Trước lời đề nghị của Chúa Giêsu, anh đã buồn sầu cúi mặt và bỏ đi. Phải chăng sự buồn sầu của anh bắt nguồn từ việc anh thấy mình không đủ quảng đại và liều lĩnh để đáp lại một lời mời gọi tốt đẹp như vậy. Một mặt anh bị hấp dẫn bởi lời đề nghị của Chúa Giêsu mà anh biết đó là con đường tốt nhất để đạt đến ước mơ của anh. Mặt khác anh lại quá gắn bó với của cải trần gian đến nỗi không thể rời bỏ chúng dễ dàng. Có lẽ lòng yêu mến sự sống đời đời nơi anh chưa đủ mạnh để anh dám hy sinh điều cần phải hy sinh. Anh đã chọn điều anh yêu hơn, nhưng chọn lựa đó đưa anh vào nỗi ray rứt buồn phiền. Không phải anh sở hữu của cải, nhưng của cải đã sở hữu anh. Anh không có được niềm vui của Giakêu, niềm vui của người bắt đầu được siêu thoát với tiền của. Anh cũng chẳng có được niềm vui của người thương gia đi tìm ngọc quý. Bởi vì Nước Trời đáng cho chúng ta hy sinh tất cả.
Nếu Chúa Giêsu gặp tôi hôm nay. Nếu tôi hỏi Ngài về con đường dẫn tới sự sống đời đời, chắc hẳn câu trả lời của Ngài cũng khiến tôi chới với, bởi vì ai cũng giàu có về một mặt nào đó: Uy tín, tiếng tăm, quyền lực, kiêu căng, sức khoẻ, chức tước, bè bạn và ngay cả lòng đạo đức. Ai cũng muốn cậy dựa vào sự giàu có của mình và xây dựng đời mình trên đó. Thế nhưng Thiên Chúa chỉ muốn chúng ta cậy dựa vào một mình Ngài. Sống trước nhan Ngài như một người nghèo và chờ đợi tất cả từ tay Ngài. Vì Nước Trời thuộc về những ai có tinh thần nghèo khó.
26. Đứt ruột – Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Đói thì đầu gối phải bò. Hết gạo chạy rong, nhất nông nhì sĩ. Có thực mới vực được đạo. Nhiều câu thơ, nhiều ngạn ngữ dân gian như muốn khẳng định rằng cuộc sống con người như mãi long đong, vất vả vì các nhu cầu căn bản để sinh tồn xét như là một sinh vật. Chuyện cơm áo, gạo tiền nó nhũng nhiễu con người mãi không ngơi. Chưa hết, bên cạnh cái trí khôn ý thức về sự cao quý của phận làm người thì cái ý chí tự do lại thúc bách con người tìm kiếm, thủ đắc các như cầu ngày càng cao và đa dạng. Ăn no, mặc ấm vẫn chưa đủ, còn phải ăn ngon và mặc đẹp. Trong cuộc sống, người ta không chỉ trông mặt mà bắt hình dong mà còn thường hành xứ theo kiểu đồng tiến đi trước, mực thước theo sau. Cảnh đời tréo nghoe mà không hiếm: "Bần cư náo thị vô nhân vấn. Phú tại sơn lâm hữu khách tầm".
Không giới hạn trong tương quan giữa người với người, ngày nay, khi có những chuyện bất bình giữa các quốc gia hay tập thể, người ta cũng lại sử dụng đòn chiêu: trừng phạt kinh tế. Đồng tiền dính liền khúc ruột. Để có được sự tự do với tiền của, thì quả là không mấy dễ, ngay cả với những người thường lên tiếng trong các lãnh vực đạo đức, tôn giáo. Xin chớ vội trách người thanh niên có nhiều của cải mà Tin Mừng tường thuật. Nếu như giờ này Chúa Giêsu nói với chúng ta: "Hãy về bán đi tất cả những gì người có mà cho người nghèo, rồi đến mà theo Ta", thử hỏi có được bao nhiêu người đáp trả dứt khoát và triệt đễ như thánh Phanxicô thành Axidi năm nào?
Người ta dễ dàng chấp nhận với nhau rằng tiền của chỉ là cái góp phần xây dựng hạnh phúc chứ không phải chính là sự hạnh phúc. Người ta cũng dễ dàng đồng thuận với nhau rằng tiền bạc chỉ là tên nô lệ chứ không phải là ông chủ. Người ta không chối cãi sự thật là tiền của mang tính "phù hoa" và nhất là nó không thể theo chúng ta vào huyệt lạnh. Thế nhưng, nói thì dễ nhưng sống thì không dễ chút nào. Không ai muốn tự chặt đứt khúc ruột của mình cả. Chẳng ai muốn từ bỏ một thứ sức mạnh vốn rất hiệu nghiệm trong rất nhiều trường hợp đó là đồng tiền, vì "tiền là tiên là Phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già, là cái đà của danh vọng, là cái lọng che thân...".
Dù là một kiểu nói ngoa ngữ, phóng đại để muốn nhấn mạnh, nhưng chúng ta không thể không giật mình trước lời khẳng định của Chúa Giêsu: "Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Đàng" (x.Mc 10,23-26). Ngay các tông đồ cũng sửng sốt và nói với nhau: Thế thì ai có thể được cứu rỗi, nghĩa là hưởng phúc Thiên đàng? Khi giải đáp thắc mắc cho các tông đồ rằng đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể được, thì Chúa Giêsu muốn khẳng định với chúng ta nhận ra sự thật này: hạnh phúc Nước Trời tiên vàn là quà tặng Chúa trao ban chứ không phải do công sức của loài người chúng ta.
Đã hơn một lần Chúa Giêsu cảnh báo chúng ta về mối nguy cơ của tiền bạc khi nó được phong làm thần thánh: "Không được làm tôi hai chủ..."(x.Mt 6,24; Lc 16,13). Chước cám dỗ xem tiền là tiên là phật tuy có đó nhưng xem ra không bằng chước cám dỗ xem đồng tiền có sức mạnh vạn năng kiểu có tiền mua tiên cũng được, có tiền là mua được cả nước thiên đàng. Khi chiều theo chước cám dỗ đề cao sức mạnh của đồng tiền thì người giàu có bị cám dỗ xem hạnh phúc nước trời là điều mình có thể mua, có thể trao đổi bằng công sức hay tiền bạc.
Hẳn chúng ta đồng thuận với nội hàm một ngạn ngữ Trung Quốc rằng tiền bạc có thể mua được đồng hồ quý nhưng không mua được thời gian; tiền bạc có thể mua được giường sang, nệm êm, chăn ấm, nhưng không mua được giấc ngủ ngon; tiền bạc có thể mua được cao lương mỷ vị nhưng không mua được sự ngon miệng... Thế nhưng trong thực tế chúng ta lại hành xử theo kiểu như tiền bạc là nền tảng, là nguyên nhân đem lại hạnh phúc. Nếu đã xác tín rằng hạnh phúc đích thật là hạnh phúc nước trời, tiên vàn là ân ban của Thiên Chúa, thì những gì chúng ta thu được mà chủ yếu bằng việc trao đổi, mua bán bằng của cải, tiền bạc chắc chắn không phải là hạnh phúc vĩnh cửu. Với luận lý này, chúng ta mới hiểu lời khẳng định của Đấng Cứu độ: "người giàu có khó vào Nước Trời hơn cả con lạc đà chui qua lỗ kim". Lời Chúa thật săc bén hơn cả thanh gươm hai lưỡi ! (x. Dt 4,12).
Ngoài ra chúng ta cần chân nhận hiện thực này: khi đã đủ đầy, sung túc của tiền thì con người rất dễ bị biến tướng, bị tha hóa, bị thoái hóa. Vốn là một trong những thiện hảo tự nhiên Chúa dựng nên và ban tặng, nhưng của cải, tiền bạc rất dễ trở thành miếng mồi nhữ của thần dữ như trái táo trong vườn địa đàng khiến chúng ta đi trệch hay đi ngược với huấn lệnh Chúa truyền. Không chỉ có chuyện "no cơm ấm cật, dậm dật khắp nơi" mà các mối tương quan cũng dễ bị sứt mẻ do bời của cải tiền bạc. Tình bác cháu như Abraham với Lót, tình anh em ruột thịt như Êsau và Giacóp cũng khó bền vì của cải. Thánh Kinh ghi cùng một câu trong cả hai trường hợp: "họ có quá nhiều tài sản nên không thể ở chung với nhau được" (St 13,6; 36,7). Một khi đã không thể "ở chung" với nhau được thì làm sao có thể ở cùng Thiên Chúa, Đấng là Cha của hết mọi người? Và biết bao nhiêu chuyện chẳng hay, làm nứt vỡ tình mẹ cha, nghĩa huynh đệ... vẫn xảy ra trước mắt chúng ta mà nguyên nhân chính là vì tranh chấp của cải. Thánh Tông đồ dân ngoại đã nói với môn đệ Timôtê rằng: "Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé" (Tim 6,10).
Trong kiếp lữ thứ này, chúng ta không thể sống như thiên thần, không màng gì đến chuyện vật chất của tiền, vì không chừng sẽ rơi xuống thành loài vật (Pascal). Vấn đề đặt ra đó là phải biết làm chủ vật chất, tiền bạc cũng như phải biết tự do với nó. Một mẫu gương đáng cho chúng ta noi theo mà Tin Mừng hôm nay ghi lại đó là Phêrô. " Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy". Chúa Giêsu không phản bác nghĩa là Người chân nhận điều ấy. Không phải Phêrô đã vất bỏ mọi sự, của cải vật chất. Nhà của ngài còn đó, thuyền của ngài còn đó...nhưng ngài sẵn sàng trao dâng cho Chúa khi Chúa cần dùng vì lợi ích của tha nhân, sẵn sàng gác nó một bên để lên đường đi rao giảng tin mừng.
Biết rằng đồng tiền dính liền khúc ruột, tuy nhiên khi khúc ruột ấy là khúc ruột thừa đã bị viêm hay là khúc ruột non dính ung bướu thì không thể không cắt bỏ đi. Nhiều thánh giáo phụ như Hiêrônimô, Âugustinô khẳng định rằng những gì chúng ta đang sở hữu trên mức cần thiết đều là của người nghèo. Ước gì thỉnh thoảng chúng ta biết tập sống anh hùng một chút khi sẵn sàng dâng trao vài trăm ngàn, dăm bảy triệu vì một việc từ thiện nào đó hay vì công cuộc truyền giáo nào đó. Quả là không dễ, nhưng không cái khó nào là không thể vượt qua, nhờ ơn Chúa giúp và quyết tâm của chính chúng ta.
27. Sử dụng tiền của cách khôn ngoan
"Có tiền mua tiên cũng được" hay "Có tiền mới có quyền ăn, quyền nói". Dường như đây là châm ngôn sống của nhiều người. Bởi lẽ, trong cuộc sống người ta thường đánh giá nhau trên những gì mình có. Từ đó, người ta tìm mọi cách để làm sao có được thật nhiều tiền bạc của cải cho dù kiếm được bằng những cách bất chính.
Khi có được nhiều tiền của, người ta sẽ tự khẳng định mình trước người khác để rồi xem thường hay sai khiến người khác. Ðó là cái nhìn bình thường của người thế gian hay nói rõ hơn là của những người không có đức tin.
Hôm nay, Chúa Giêsu dạy cho chúng ta cách sử dụng tiền của sao cho thật khôn ngoan theo cái nhìn của người có đức tin. Sử dụng tiền của như thế để đổi lấy kho tàng bền vững trên trời.
Ngày nọ, có một người thưa với Chúa Giêsu: "Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp? " Chúa Giêsu đáp: "Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa. Hẳn anh biết các điều răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ."Anh ta nói: "Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ." Chúa Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta: "Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi." Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải. (Mc 10, 17 - 22)
Phản ứng của người này có thể là phản ứng của nhiều người trong chúng ta. Ðúng như người ta thường nói: "Ðồng tiền dính liền khúc ruột" hay "người đâu của đó". Chúng ta cảm thấy xót xa khi phải bỏ tiền của mình ra cho dù là cộng tác vào những chuyện có ích lợi cho người khác. Chính những cơ hội đó sẽ giúp chúng ta tích trữ cho kho tàng trên trời.
Người này đã tuân giữ tốt các giới răn từ thuở nhỏ. Thế nhưng, anh vẫn còn ích kỉ. Chúa Giêsu muốn người này biết sống mở ra cho người khác theo đúng bản chất của con người. Người muốn giúp cho người này chuẩn bị cho kho tàng trên trời.
Chúng ta nhớ dụ ngôn người quản lý khi hay tin mình sẽ bị cất chức anh ta đã biết lo xa để khi rớt chức anh sẽ được nhiều người đón nhận (Lc 16, 1-13). Chúa Giêsu đã khen anh biết lo xa cho tương lai. Cũng thế, hôm nay Người cũng muốn chúng ta sống với tầm nhìn xa như thế. Ðó là biết sử dụng tiền của cách khôn ngoan bằng cách quan tâm chia sẻ cho những người kem may mắn hơn mình. Ðó cũng là những cơ hội cho chúng ta tích trữ cho kho tàng trên trời.
28. Không thể vào Nước Trời ư? – Yvon Daigneault.
Giới thiệu.
Sau khi nghe đọc Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, nhiều vấn nạn có thể nổi lên. Ta không thể đọc lời Chúa Giêsu mà không đặt câu hỏi hoặc không bị Lời Chúa chất vấn. Thí dụ, tại sao sau khi loan báo Nước Trời sắp đến và mời gọi mọi người đón nhận như là Tin Mừng tuyệt vời nhất, Lời Chúa lại giới hạn con số những người vào nước đó khi nhấn mạnh đến việc khó mà vào được và đến con số ít ỏi những người có thể vào? Tại sao lại mời gọi làm một điều mà rất ít người trong chúng ta có thể làm được? Khi người ta kiếm được một việc làm khó kiếm, một mái nhà và những nguồn thu nhập cho gia đình mình, thì không thể có vấn đề từ bỏ mọi sự và bắt những kẻ chúng ta thương yêu phải nghèo xơ nghèo xác để đi tìm kiếm Nước Trời…
Câu hỏi thứ nhất.
Phải làm gì để vào Nước Trời, nghĩa là sở hữu những của cải mà Chúa Giêsu đến loan báo nhân danh Chúa Cha? Chúa Giêsu trả lời hết sức khách quan: Giữ các giới răn. Câu trả lời của Ngài không bảo ta phải tuân theo các luật lệ tế tự hoặc những điều đặc biệt về tôn giáo, nhưng là tuân theo những ý muốn của Chúa về con người, những nguyên tắc công bằng, sự thật và lòng trung tín, là nên tảng cho cuộc sống con người. Khi biết rõ chúng ta, Thiên Chúa cũng biết rằng không phải tự nhiên mà ta sống được như vậy. Vì thế Ngài luôn nhắc nhở và xem đó là điều kiện tiên quyết để đạt được những thiện hảo của Nước Trời.
Chúa Giêsu không dạy một con đường khác. Tuy nhiên Ngài đề nghị một cách thức mới mẻ để tôn trọng những giới răn này, khi Ngài mời gọi chúng ta đi theo Ngài. Giữ những giới răn này cách chân thành, liên tục và kính cẩn vẫn chưa đủ. Còn phải sống như chính Chúa Giêsu đã sống và đã dạy chúng ta sống: Với tấm lòng hiếu thảo, một sự trung thành tràn đầy tình yêu để muốn tôn vinh Chúa Cha bằng tất cả cuộc đời mình.
Câu hỏi thứ hai.
Vậy, tại sao đòi phải bán hết tài sản, một điều không thể làm được đối với đa số các môn đệ?
Ta hãy hiểu rằng vấn đề không phải là tính của cải mình có bằng tiền bạc rồi đem cống hiến vào các việc từ thiện, nhưng còn ám chỉ những gì được tượng trưng bởi những của cải này. Lớn hoặc nhỏ, những của cải này gợi lên sự thành công, an ninh, sự kính trọng của những người chung quanh mình, quyền bính, sự tự do. Dù ta có ý thức hay không, của cải bao giờ cũng có thể tạo nên nơi ta một thái độ tinh thần nào đó, chủ yếu là sự kiêu hãnh về cuộc sống của mình và sự tự phụ cá nhân. Của cải tạo cho chúng ta cảm giác phấn khởi vì không còn cần đến ai nữa.
Chính thái độ tinh thần này cản trở ta vào Nước Trời, một sự cản trở hầu như không thể thắng vượt được, một thứ ngõ cụt không còn lối vào Nước Trời nữa. Nước Trời là một ân huệ, không thể mua được, không mặc cả được. Để nhận được nó, phải siêu thoát mọi cản trở. Đây là trung tâm giáo huấn của Chúa Giêsu. Nước Trời là sự thiện hảo. Ta không thể yêu chuộng gì hơn nó được. Và ta không thể cùng một lúc vừa đón nhận Nước Trời vừa sở hữu mọi thứ của cải vật chất xâm chiếm lòng chúng ta và cản trở chúng ta sở hữu thụ hưởng những điều tốt đẹp mà Thiên Chúa hứa. Ta không thể vừa tạo cho mình một vương quốc riêng lại vừa đồng thời nhắm tới vương quốc và Chúa Cha đã hứa.
Ta hãy lưu ý là có nhiều cách trở nên giàu có và điều này sẽ làm ta phân tâm và không còn tha thiết với vương quốc của Thiên Chúa nữa. Mỗi người có những cách làm giầu riêng. Mỗi người có những của dự trữ, những của cải và những chứng khoán, chúng như những thứ hành trang cồng kềnh khiến ta không thể tự dó đón nhận những gì Thiên Chúa ban nữa. Chính những của cải đó là những thứ ta phải dứt bỏ. Và cách tốt nhất để dứt bỏ bao giờ cũng là chia sẻ với những ai không có gì.
Kết luận.
Tin Mừng bao giờ cũng hợp thời. Để đón nhận của cải lớn hơn tất cả mọi thứ của cải, tức là sự sống mà Chúa Kitô ban, Tin Mừng mời gọi chúng ta tự giải phóng khỏi tất cả những gì chúng ta gắn bó, vì chúng ngăn cản chúng ta vào Nước Trời. Và chúng ta không thể làm điều đó ngay bây giờ hay sao?
29. Lướt thắng nghịch cảnh – Charles E. Miller.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
Nhiều năm trước ở tiểu bang California phải đối đầu với một quyết định quan trọng. Trong việc khuếch trương đường cao tốc 101 thành một đường xa lộ tốc hành về Los Angeles xuyên qua Ventura County, những người hoạch định dự án đã phải đối đầu với dãy núi chắn ngang trên con đường của họ. Một quyết định phải được thực hiện, hoặc là tiếp tục con đường xa lộ đi thẳng lên phía bắc vòng theo sườn để lên trên đỉnh núi. Và một quyết định khác là đi thẳng phía trước, đặt mìn phá một con đường xuyên qua thung lũng Conejo và tiếp tục con đường xa lộ trên con đường thẳng. Kế hoạch thứ hai đã được chọn, đó là một chọn lựa đúng.
Chúa Giêsu mời gọi người đàn ông giàu có trong Phúc Âm làm một chọn lựa. Chúa Giêsu đã yêu cầu anh ta bán tất cả những gì mình có mà bố thí cho người nghèo khó và đi theo Người. Người giàu có đã làm một quyết định sai. Ông ta đã quá dính bén đến của cải khiến ông ta không thể từ bỏ. Của cải của ông ta thì giống như một dãy núi, tách riêng ông ta với Chúa Giêsu. Ông ta thấy chướng ngại đó quá lớn và không thể vượt qua. Chúng ta cũng không biết điều gì xảy ra cho ông ta. Có thể dần dần ông ta tìm thấy một con đường đi vòng để theo Chúa Giêsu nhưng để trở thành môn đệ, ông đã bỏ lỡ cơ hội đầu tiên.
Một số người nam và người nữ qua lịch sử của Giáo Hội đã đáp trả lại lời mời gọi của Chúa Giêsu theo cách trên đây. Họ đã thật sự từ bỏ tất cả mọi của cải, vật chất để bước theo một đời sống ẩn tu hay tu sĩ hoặc là những nữ tu. Hầu hết mọi người chúng ta thì không nồng nhiệt cho lắm theo gương của họ, sự thật là Giáo Hội và xã hội sẽ không hiện hữu nếu tất cả mọi người chúng ta đều làm như thế. Không phải mọi người trong Giáo Hội đều có cùng một ơn gọi hoặc cùng một lời kêu gọi như nhau, và chúng ta không thể đơn giản giảm nhẹ lời mời gọi của Chúa Giêsu như là không liên quan hoặc là một điều không thể.
Thật là thích hợp để kết luận rằng Chúa Giêsu không xem của cải như là một chướng ngại, Chúa Giêsu đã nói với người đàn ông giàu có bỏ của cải, bởi vì của cải của ông ta đã là một vấn đề, một mối bận tâm và là sự hấp dẫn đối với ông. Chúa Giêsu qua Phúc Âm đã nói với chúng ta về những gì trong cuộc sống đã ngăn cản chúng ta thành người môn đệ tốt hơn hoặc là để cho những thành phần nên tốt hơn hoặc trở nên những phần tử tận tụy của Giáo Hội. Khi chúng ta xem xét những lời của Chúa Giêsu một cách nghiêm chỉnh, chúng ta thấy rằng những lời đó sắc như dao hai lưỡi. Nó xuyên qua cuộc sống của chúng ta, cắt ngang những hấp dẫn, tội lỗi, những thất bại, và những chướng ngại của chúng ta để chấp nhận ân sủng làm môn đệ.
Chúng ta phải làm gì? Đó là câu hỏi mà mỗi người chúng ta phải trả lời. Có lẽ chướng ngại là sự ích kỷ hoặc chán nản trong đời sống hôn nhân, chúng luôn muốn cho con đường của chúng ta bị phá vỡ khi chúng ta không tiếp tục. Nó có thể là khuynh hướng ngồi lê đôi mách, tìm sự sung sướng trong khi hạ những người khác xuống hoặc lan truyền những câu chuyện khủng khiếp về họ. Chúng ta có thể thuộc típ người coi thường những kẻ không nhà, khinh bỉ những kẻ lãnh trợ cấp và cảm thấy oán ghét đối với dân nhập cư. Chúng ta phải tìm kiếm trong lương tâm của chúng ta. Không phải là tuyệt diệu sao khi Chúa Giêsu đã đứng trước chúng ta, cho chúng ta một câu trả lời? Có thể là lời của Người sẽ làm đau giống như con dao hai lưỡi, có thể chúng ta sẽ quay đi giống như người đàn ông giàu có. Trong Thánh Lễ này ân sủng Thiên Chúa thì ở với chúng ta, câu chuyện trong Phúc Âm giúp chúng ta sẵn sàng chấp nhận thách đố này. Ngày hôm nay con đường cao tốc 101 được như thế vì đã quyết định đúng khi băng qua bình nguyên Conejo vào trong những gì được biết như là thung lũng Pleasant Valley. Khi có thể làm một quyết định đúng, chúng ta đã vượt qua chướng ngại để trở nên môn đệ, chúng ta sẽ tìm thấy điều đó trong cuộc sống của chúng ta, không phải luôn luôn dễ dàng, để sống trong thung lũng Pleasant Valley tình yêu của Đức Kitô dành cho chúng ta.
30. Ưu tiên chọn Nước Chúa
"Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Thiên Chúa."(Mc 10, 25).
Của cải vật chất là phương tiện cần thiết trong cuộc sống. Vì thế người ta dễ coi trọng tiền bạc và có xu hướng đánh giá người khác qua túi tiền, người ta thường tôn trọng người giàu hơn người nghèo khó! Còn Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa bảo người thanh niên giàu có: hãy về bán hết của cải, cho người nghèo rồi hãy theo Chúa.
Xem ra, người thanh niên này xưa nay vẫn coi của cải là chỗ dựa cho mình. Vậy mà bây giờ Chúa bảo bỏ chỗ dựa đó. Chúa muốn anh dứt khoát mọi của cải vật chất thế gian và đặt hết niềm tin tưởng vào Chúa, nhưng anh đã từ chối làm theo lời chỉ bảo của Ngài.
Chúng ta hôm nay có tiếc cho người thanh niên giàu có lúc đó không? Nếu Chúa mời gọi chúng ta với điều kiện đó, chúng ta có mau mắn đáp trả hơn người thanh niên giàu có đó không? Của cải vật chất là cái có giá trị cho phần xác: và người ta đề cao nó 'có tiền mua tiên cũng được". Tiền bạc là một thứ bảo đảm tạm bợ trước mắt và người đời hay bám chặt vào như cái neo của họ, để không bị người ta khinh khi, để sống ổn định. Bây giờ Chúa bảo người thanh niên hãy buông cái neo đó, bám vào neo mới là Chúa Giêsu: một người rày đây mai đó, không có hòn đá gối đầu và sẽ bị treo trên thập giá.
Vậy thì môn đệ Chúa sẽ dựa vào đâu bảo đảm cho cuộc sống của mình. Chỉ có duy nhất một niềm tin.
Tin và bước theo dù cho cuộc đời phiêu bạt đến nơi đâu đi nữa. Tuy nhiên, ai cảm nhận được tình thương của Thiên Chúa sẽ không phải lo sợ vì cho dù có phong ba bão tố, thì vẫn có Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Vấn đề là chúng ta có tin hay không?
Người thanh niên giàu có tin tưởng vào của cải vật chất hơn nên đã từ chối làm theo lời đề nghị của Chúa Giêsu, và vì thế Chúa Giêsu đã nói: "Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Trời" Không biết người thanh niên đó sau này sẽ làm gì, nhưng khi còn bám víu và đặt tin tưởng nơi của cải hơn là bám vào Chúa thì không thể làm môn đệ Chúa được.
Mỗi người chúng ta khi theo Chúa, chúng ta coi trọng Chúa hơn thế gian hay chưa? Có khi nào chúng ta coi trọng của cải, sự nghiệp, thời giờ, bạn bè, gia đình hơn Chúa.
Các bạn học sinh coi chừng có lúc nào đó có coi trọng việc học hơn Chúa nên lo đi học thêm mà bỏ lễ Chúa Nhật hoặc đi lễ trễ. Hoặc có khi các bạn sinh viên coi trọng bạn bè hơn, sẵn sàng theo bạn bè đi chơi, đi ăn uống mà quên bổn phận đối với Chúa.
Một số người lớn coi trọng việc kiếm tiền hơn Chúa và xao lãng việc cầu nguyện, đi lễ.
Tất cả những trường hợp đó đều tương tự như trường hợp người thanh niên giàu có trong Tin Mừng: coi của cải vật chất hơn Chúa. Và như vậy làm sao chúng ta làm đẹp lòng Chúa, và xứng đáng là con cái Chúa.
Chúa thương yêu chúng ta, Chúa thông cảm với những yếu đuối của chúng ta nên Ngài đã một phen xuống thế, chịu đau khổ để sửa lại những sai lầm của con người, dạy dỗ và ban lề luật, chỉ rõ con đường về nước trời. Cho nên, phần chúng ta là đi theo con đường Chúa chỉ, đi theo con đường Chúa Giêsu đã đi thì bảo đảm sẽ không lạc đường về nhà Cha.
Con đường về nhà cha không phải con đường của thế gian, không phải con đường tìm về giàu sang vật chất và những đam mê xác thịt. Con đường đó là con đường từ bỏ. Con đường phục vụ anh em mình, con đường thập giá. Có một điều chắc là thập giá của chúng ta nhẹ hơn thập giá của Chúa Giêsu vì Ngài đã vác phần nặng mà để phần nhẹ cho ta. Và nhứt là có Chúa cùng đi ta không ngại gì gian khó. Hãy vững lòng tin, vì Thầy đã thắng thế gian.
Nói chung, Chúa không buộc mỗi người chúng ta phải bán hết của cải tài sản, nhưng Chúa muốn chúng ta biết dụng của cải đúng đắn, cư xử tốt với nhau, và ưu tiên cho Chúa, cho phần rỗi linh hồn. Chúng ta hãy nhớ: cuộc sống này là tạm bợ, cuộc đời này chóng qua. Tài sản của mình dù có tích trữ nhiều cũng chưa chắc mình được hưởng, vì không biết ngày mai mình còn sống chăng!
Vậy hãy làm việc vì Chúa, vì người khác, và hãy bám vào Chúa là Đấng ban cho ta cuộc sống vĩnh cửu thiên đàng mai sau.
31. Ai là kẻ ‘giàu có’? – Achille Degeest.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’).
Thánh Marcô thuật về Chúa Giêsu trong một hoàn cảnh đáng nhớ trong cuộc đời làm sứ giả Nước của Cha Người. Chúa vừa lấy một đứa trẻ làm gương cho thái độ con người phải có trước mặt Thiên Chúa. Lời giảng dạy và lòng tốt lành của Chúa chắc hẳn đã cảm kích một thính giả. Người này chạy theo để gặp Chúa lúc đó vừa lên đường y hỏi Chúa: phải làm gì để có được sự sống thật, sự sống bên Thiên Chúa. Ta đã biết cuộc đối thoại như thế nào, kết thúc ra sao. Con người được đặt trước một sự chọn lựa, hoặc bằng lòng với nếp sống tuân giữ đúng Lề luật hoặc gắn bó theo Chúa Giêsu. Ta nhớ lại rằng nếu Chúa không ý thức rõ rệt Người là Con Thiên Chúa thì đã chẳng bao giờ Người đề nghị một sự lựa chọn như vậy, vì lẽ chỉ Thiên Chúa mới có quyền đòi hỏi con người gắn bó theo Thiên Chúa. Toàn thể đoạn Phúc âm của thánh Marcô cho phép ta nhận xét như thế, bởi lẽ Chúa Giêsu được thánh chép sử kể lại Người là một Thày khác hẳn một Thày khác hẳn một thày Rabbi thường.
Sự thoái thác rút lui của ‘cậu con nhà giàu’, làm cho Chúa phán dạy những lời nghiêm trọng về nguy cơ do sự giàu có đem đến cho con người. Đã có nhiều sự khai thác theo nhiều lối về đoạn Phúc âm này. Chúng ta chỉ giữ lại điểm suy niệm:
1) Chúa không lên án của cải vật chất vì cớ chúng biểu lộ sự giàu có. Chúa cảnh giác về của cải vật chất dễ khiến cho con người thành nô lệ tiền bạc. Ở đây, là vấn đề tự do để tâm hồn sẵn sàng đáp ứng Thiên Chúa.
Bằng tấm gương đời mình, Chúa cho thấy Người không có mặc cảm khi sử dụng của cải vật chất. Của cải là tốt vì do Chúa Cha tạo nên. Nhưng Chúa Giêsu không lụy vào của cải. Ngoại trừ những đoạn thuật lại thuở thơ ấu của Chúa, người ta không bao giờ thấy Chúa lựa chon sự nghèo túng. Là công nhân, Chúa làm việc để hằng ngày được dùng đủ. Rồi tới thời kỳ làm sứ giả loan Tin mừng, nay đây mai đó, Chúa đã chấp nhận để cho người khác lo cho Chúa đầy đủ. Trong cả hai trường hợp, Chúa không chịu một ràng buộc nào do của cải thế gian.
Một ngạn ngữ, ngay ở thời Chúa đã thuộc loại rất cổ xưa, nói rằng một sự an lạc tối thiểu cần thiết cho việc thực thi nhân đức. Chúa không đứng ra làm lý thuyất gia cho sự thật hiên nhiên đó. Cách cụ thể, Chúa sống với một sự an lạc tối thiểu, ở cái mức mà tâm hồn Chúa được tự do để phụng thờ và phục vụ, để tận hiến cho Chúa Cha và cho nhân loại.
Cho nên Chúa cảnh giác đừng để cho của cải vật chất nô lệ hóa, hoặc là của cải đang sở hữu, hoặc là thứ của cải người ta mong ước được sở hữu. Sự giàu có trở thành xấu từ lúc, hoặc trong thực tế, hoặc trong mơ ước, nó vật chất hóa tâm trí, lý tưởng, ước vọng, nghĩa là từ lúc sự giàu có lấy mất đi tự do của trái tim.
2) Theo quan điểm này, những kẻ giàu có không nhất thiết là những kẻ như ta tưởng. Những kẻ bị Chúa tuyên bố là để có nguy cơ bị trục xuất khỏi Nước Trời, chính là những kẻ tôn thờ ngẫu tượng giàu có vật chất, nó khiến cho họ xa cách Thiên Chúa. Chúa Giêsu cũng từng có những người bạn vào bậc giàu có trong xã hội và nếu họ cư xử bất công, thì ân sủng thân hữu và mãnh liệt của Chúa đã làm cho họ trở lại. Trong Chúa, người ta không đấu tranh gây hấn chống nhà giàu. Chúa vượt lên rất cao khỏi những hố sâu xã hội. Chúa không đấu tranh chống một tình trạng xã hội hầu đưa người nghèo từ giai đoạn nghèo tiến lên giai đoạn giầu. Sự lầm than xã hội chỉ là một diện của sự lầm than mênh mông của nhân loại và ở tầm cỡ đó, Chúa không suy tính, Chúa đến với tất cả mọi người nghèo. Trước lối nhìn của Chúa, nguy cơ có thật của sự giàu có chính là quyền lực của chúng khiến người ta xa lánh Thiên Chúa. Sự bi đát của thanh niên giàu có là ở chỗ anh ta xa Chúa chỉ vì còn quyến luyến tài sản của mình. Ở đây, hay ở đàng kia, chúng ta có chăng một ‘tư sản’ nào cần bỏ lại để theo sát Chúa hơn?
32. Tiền của
Tiền của đã làm cho chàng thanh niên phải bỏ cuộc, không còn đủ sức đi theo Chúa. Chàng đành phải sống một nếp sống bình thường. Bởi sức ràng buộc của nó, tiền của là một trở ngại lớn để vào Nước Trời. Vì thế Chúa Giêsu khuyên chúng ta phải từ bỏ. Sự từ bỏ này mang nhiều hình thức và mức độ khác nhau tuỳ hoàn cảnh mỗi người. Nhưng trong mọi trường hợp, điều không thể thiếu vắng đó là lòng siêu thoát. Vậy thì chúng ta phải sống tinh thần siêu thoát ấy như thế nào?
Trong một thế giới mà sức mạnh của đồng tiền được khẳng định và sự thịnh vượng vật chất đang nổi lên hàng đầu. Đất nước nào cũng mơ ước sẽ trở thành những con rồng kinh tế. Liệu chúng ta có phải quay lưng lại với sự giàu sang để ca tụng tinh thần nghèo khó hay không? Thực ra chẳng có ai chống lại sự thịnh vượng giàu có và cũng chẳng có ai tìm kiếm sự nghèo khổ. Kitô giáo lại càng không làm như vậy. Chính Thiên Chúa đã truyền cho con người phải tiếp tục công trình sáng tạo của Ngài, nghĩa là phải làm chủ và khai thác tối đa tài nguyên của thế giới này để nâng cao mức sống. Kitô giáo không phải là kẻ thù của sự phát triển và là đồng minh với sự nghèo đói. Tuy nhiên, không phải lúc nào tiền của cũng phục vụ con người.
Trước hết là phương thức kiếm tiền. Người ta đã kiếm tiền bằng những phương thức bất công, chèn ép bóc lột kẻ khác. Tiếp đến là cách thức tiêu tiền. Thừa tiền dư của, thường dẫn tới một lối sống hưởng thụ, phi đạo đức, sa đoạ. Vì chạy theo lợi nhuận và tiền của người ta đã giết chết lương tâm, bán rẻ nhân phẩm, bằng những hành động lường gạt, giả dối. Tiền của nhiều khi còn là nguyên nhân gây nên tàn ác, bất công, bạo lực, đàn áp và chiến tranh. Đam mê và lòng tham vốn tiềm ẩn nơi con người, dễ bị tiền của thổi bùng lên. Chính vì những cạm bẫy khéo nguỵ trang đó mà Chúa Giêsu đã phải cảnh cáo: Những người giàu có khó vào Nước Thiên Chúa. Cho nên vấn đề được đặt ra cho người Kitô hữu không phải là chính tiền của mà là cách thức tìm kiếm và sử dụng cũng như thái độ đối với tiền của.
Tinh thần nghèo khó luôn được Tin Mừng đề cao và sự từ bỏ được coi là thái độ không thể thiếu vắng của người môn đệ Chúa. Tuy nhiên, chúng ta cần phân biệt rõ ràng tinh thần nghèo khó khác với tình trạng nghèo khó. Nghèo khó chẳng những là điều không dám mơ ước mà còn phải tìm cách chống lại, bởi vì sự nghèo khó sinh ra không biết bao nhiêu hậu quả tai hại, tệ đoan, bất ổn, tội ác, con người thiếu điều kiện điều kiện sống xứng đáng với phẩm giá của mình, như tục ngữ cũng đã nói: Bần cùng sinh đạo tặc. Trong khi đó, thực hiện tinh thần nghèo khó của Tin Mừng thì khác. Người nghèo khó trong tinh thần luôn giữ lòng siêu thoát, kể cả khi tiền của dư dật, không lấy của cải làm chủ đích đời mình nhưng sử dụng của cải đúng mức, theo nhu cầu chính đáng của mình và trong tinh thần liên đới, chia sẻ với anh em. Tột đỉnh của tinh thần nghèo khó là sự từ bỏ.
Từ bỏ là mức độ siêu thoát cao nhất, là thái độ chọn lựa Thiên Chúa và Nước Trời làm ưu tiên hàng đầu. Đó là một thái độ tích cực chứ không phải là tiêu cực. Nó không bao hàm sự khinh chê những giá trị vật chất và nhân bản, nhưng biểu thị nỗ lực tìm kiếm những giá trị tâm linh thiết yếu mà nếu thiếu thì ngay cả những giá trị vật chất và nhân bản ấy sẽ bị sụp đổ, bởi vì: Người ta không sống chỉ bằng cơm bánh.
33. Lựa chọn hai kho tàng.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một bác nông dân người Anh có dịp nghe John Wesley giảng thuyết. John Wesley là một nhà giảng thuyết nổi tiếng: hôm ấy ông giảng về việc sử dụng tiền của. Wesley bắt đầu bài giảng bằng tư tưởng; Phải ra công tích luỹ tối đa, phải dùng hết khả năng tìm cách làm giàu. Bác nông dân gật gù bảo người bạn ngồi bên cạnh: Đúng lắm! Rồi wesley triển khai điểm thứ hai: Phải tiết kiệm tối đa. Ông lên án thói phung phí tiêu xài quá đáng. Bác nông dân xuýt xoa: bài giảng tuyệt vời! Cám ơn Chúa, mình vẫn sống tiết kiệm. Cuối cùng, nhà giảng thuyết đi tới điểm thứ ba: Phải chia sẻ tối đa. Hãy coi hoàn cảnh thiếu thốn của người chung quanh là thuộc trách nhiệm của mình. Nghe đến đây, bác nông dân lắc đầu rồi bỏ nhà thờ đi ra…
Anh chị em thân mến
Chàng thanh niên giàu có trong Tin Mừng hôm nay cũng thế. Anh muốn theo Chúa Giêsu để được sống đời đời. Nhưng khi nghe Chúa Giêsu bảo: “Hãy về bán những gì anh có mà bố thí cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Sau đó, hãy đến theo tôi”. “Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải”. Chúa Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng thương tiếc, vì anh ta vốn là một người rất tốt. Anh đã tuân giữ các điều răn của Chúa từ thuở nhỏ. Chúa Giêsu tỏ ra thán phục anh ta, nhưng đồng thời Ngài lại cho anh ta thấy rõ: Kitô Giáo không phải chỉ là việc tuân giữ các điều răn một cách tiêu cực: “Không giết người, không ngoại tình, không trộm cắp, không làm chứng gian, không làm hại ai…”. Kitô giáo mang tính tích cực hơn nhiều. Chúa Giêsu nói thẳng với anh chàng giàu có: anh chưa bao giờ làm gì gây thiệt hại cho ai, vì anh có nhiều tiền của, có vợ đẹp con khôn, đâu cần phải đi ăn trộm, ăn cướp hay ngoại tình… nhưng anh đã làm gì để giúp đỡ ai chưa? Anh đã dùng tiền của để cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho người trần trụi ăn mặc, cho kẻ vô gia cư có nơi trú ngụ chưa? Chính khi nghe điều này, anh chàng giàu có kia đã nhận ra mình vẫn còn nhiều khiếm khuyết biết bao. Vì vậy, Chúa Giêsu mới thách thức anh: Nếu muốn theo Tôi, anh hãy thay đổi cách nhìn đi. Đừng chỉ nhắm đến sự tốt lành một cách tiêu cực, chẳng hạn như không gây thiệt hại cho ai. Anh hãy nhắm sống tốt lành một cách tích cực hơn, chẳng hạn như giúp đỡ những người nghèo đói. Cứ thực hành điều này, anh sẽ tìm thấy hạnh phúc ngay trong cuộc sống này và cả trong cuộc sống mai sau. Thách đố Chúa Giêsu đặt ra cho chàng thanh niên giàu có có thể tóm lược như sau: Anh có dám chấp nhận mọi thiệt thòi để đạt được cuộc sống vĩnh cửu mà anh mong muốn không? Anh có quan niệm bước theo Tôi là bị thiệt thòi không? Nghĩa là anh có sẵn sàng hy sinh của cải của anh để được sống đời đời không? Anh chàng giàu có trả lời: Thưa Thầy, tôi cũng muốn theo Thầy lắm, nhưng tôi không muốn chấp nhận sự thiệt thòi kia! Thế là chàng thanh niên giàu có đành từ chối lời mời gọi của Chúa Giêsu. Việc sử dụng của cải ngoài mục đích lo riêng cho bản thân và gia đình xem ra là một hy sinh quá lớn đối với anh.
Nhiều người trong chúng ta có lẽ cũng giống như chàng thanh niên giàu có kia. Chúng ta biết rõ mình có thể trở thành một Kitô hữu tốt hơn, nhưng chúng ta vẫn thiếu nhiệt tình để sống tích cực Tin Mừng của Chúa. Chúng ta đã tuân giữ các điều răn, nhưng chúng ta vẫn chưa đủ quảng đại đối với những người túng thiếu, trần trụi, đói khát. Vì việc đó đòi hỏi chúng ta phải hy sinh, phải chấp nhận thiệt thòi, đau khổ, phải can đảm và phải khôn ngoan sáng suốt để nhận ra rằng sự hy sinh đó là cần thiết để đem lại bình an và niềm vui trong tâm hồn. Và để có thể hy sinh và chấp nhận những thiệt thòi đau khổ đó, điều hết sức quan trọng là phải có một động lực mạnh để thúc đẩy ta, và động lực đó chính là tình yêu: yêu Chúa và yêu người. Tình yêu đó sẽ thúc đẩy chúng ta làm nhiều hơn những đòi hỏi tiêu cực của các điều răn: không hại người, không gian dối, không trộm cắp… Một thanh niên yêu một thiếu nữ sẽ không chỉ hài lòng với việc không làm hại nàng, không nói dối, không xúc phạm đến nàng. Tình yêu khiến anh phải làm tích cực hơn như thế rất nhiều, vì nếu không làm hơn được như thế, chắc chắn đó không phải là tình yêu. Cũng vậy, nếu chúng ta chỉ hài lòng với những điều răn Chúa dạy, chúng ta chỉ là người “quen biết” Chúa chứ chưa phải là người yêu Chúa. Nếu chúng ta không muốn làm điều gì tích cực hơn nữa, chính là vì chúng ta thiếu tình yêu. Chúng ta chưa yêu Chúa và chưa yêu tha nhân.
Rất nhiều người trong chúng ta có tâm trạng hài lòng vì đã được biết Chúa, tự mãn vì mình đã giữ các điều răn của Ngài từ thuở nhỏ, giống như chàng thanh niên giàu có trong Tin Mừng. Đó là một điều rất đáng khen, vì Thiên Chúa cũng rất hài lòng vì chúng ta đã sống được như vậy. Chính Chúa Giêsu cũng đã nhìn chàng thanh niên đó một cách thiện cảm và đem lòng yêu thương. Nhưng qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu còn kêu mời chúng ta đi xa hơn một bước nữa, đó là sẵn sàng hy sinh nhiều hơn nữa cho Chúa và cho anh em. Đang khi bên cạnh chúng ta còn biết bao nhiêu người nghèo khổ túng thiếu, cần đến sự giúp đỡ cụ thể của chúng ta. Chúng ta không thể nói mình yêu Chúa mà lại làm ngơ hay phớt lờ những nhu cầu của họ. Tình yêu thúc đẩy chúng ta phải làm một cái gì cụ thể để thoả mãn phần nào những nhu cầu thiết yếu của anh em. Và chúng ta cũng cần có con mắt nhận xét và tâm hồn nhạy bén để nhận ra những nhu cầu ấy nơi những người sống gần mình nhất.
Chàng thanh niên nghe Chúa Giêsu nói phải phân phát tiền của cho người nghèo, anh đã buồn rầu bỏ đi, vì anh quá thiết tha với tiền của. Từ đó Chúa Giêsu đưa ra nhận định: “Người giàu có khó vào được Nước Trời”. “Khó vào” chứ không phải là không vào được, nếu không biết chia sẻ, giúp đỡ những người túng thiếu, nghèo đói, để được một kho tàng trên trời. Dĩ nhiên, tiền của cần cho cuộc sống, nhưng tiền của dễ làm cho con người trở nên mù quáng và ích kỷ. “Tiền của là đầy tớ tốt nhưng là ông chủ xấu”. Tiền của là đầy tớ đắc lực cho mọi người, nhưng khi chúng ta coi tiền của như một ông chủ, thì lúc đó nó sẽ trở thành ông vua thống trị với những luật lệ ác nghiệt của nó, nó hành hạ, sai khiến chúng ta như tên nô lệ. Vì thế, Chúa đã nói: “Không ai vừa làm tôi Thiên Chúa lại vừa làm tôi tiền của” (Lc 16,13). Phải lựa chọn một.
Chúa Giêsu đã tỏ ra tuyệt đối trong đòi hỏi của Ngài: “Ai trong anh em không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Thầy” (Lc 14,33). Từ bỏ của cải không nhất thiết là từ bỏ quyền sở hữu. Từ bỏ đây, đối với đa số Kitô hữu là có của mà lòng không tham lam, không nô lệ cho tiền của. Có của mà biết dùng của để mua sắm kho tàng không bao giờ hư nát trên trời. Có của mà biết quan tâm đến nhu cầu của người khác, coi hoàn cảnh thiếu thốn của người chung quanh là thộc trách nhiệm của mình. Đó phải là cách sống của tất cả những ai muốn thực sự là môn đệ của Chúa Kitô.
34. Con đường sự sống
Chắc ai trong chúng ta cũng phải công nhận rằng tiền bạc có một sức hút và một sức mạnh lạ lùng, đến độ một số người phải tôn sùng nó là vị thần (thần tài) của mình để đi theo làm tôi cho vị thần ấy. Một số người khác dù không tôn sùng tiền bạc như vị thần, nhưng lại coi nó là "khúc ruột" của mình: "đồng tiền đi liền khúc ruột". Cho nên, khi phải bỏ tiền ra, hoặc tốn hao tiền thì đau khi ruột mình bị cắt vậy! Nhưng rồi chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy rằng thần tài rất là bạc bẽo với con người. Chúng ta sẽ thấy rõ điều này khi chúng ta nằm xuôi tay nhắm mắt. Nghịch lý ở tiền bạc là khi còn sống chúng ta nghĩ tưởng đến tiền nhiều nhất và trước nhất nhưng khi chúng ta vừa nằm xuống thì nó là người bỏ chúng ta trước nhất: bỏ một cách vô tư, lạnh lùng và tàn nhẫn. Nó không hề khóc thương ta, không hề đưa tiễn ta ra đến mộ phần dù chỉ một bước cũng không.
Người có suy tư một chút thì đều nhận ra rằng: tiền bạc chỉ là phương tiện. Nói cách khác, tiền bạc là một đầy tớ rất tốt, nhưng sẽ là một ông chủ rất xấu. Người khôn ngoan là người biết sử dụng và làm chủ Tiền của mình. Họ thực sự là người giàu có trước mặt Thiên Chúa. Nhưng khốn cho ai tôn sùng Tiền của và để nó làm chủ cuộc đời của mình, vì đó là Con Đường SựChết. Con đường dẫn tới diệt vong. Có lẽ ai trong chúng ta cũng đã hơn một lần chứng kiến cảnh tượng "huynh đệ tương tàn" cũng chỉ vì vấn đề tranh giành Tiền của.
Có một chuyện kể rằng: Ở nơi một vùng núi xa xôi hẻo lánh nọ, có một vị ẩn tu thánh thiện đang. Một ngày kia, ngài đi dạo và phát hiện có một kho báo trong vùng núi đó. Vừa thấy kho báo, ngài vội vàng bỏ chạy ra và hô to: "thần chết, thần chết, tôi nhìn thấy thần chết". Thình lình có 3 người đàn ông trong bộ dạng rất là hung tợn đi tới. Nghe vị ẩn tu vừa chạy và la thét như vậy thì hỏi có cớ sự gì. Vị ẩn tu đã chỉ vào chỗ có kho báo cho 3 người đàn ông và cũng nói một lời như trước. Tôi đã thấy thần chết. Ba người đàn ông đó đã đi vào hang đá và phát hiện một thùng to chứa đầy vàng ngọc. Họ vui mừng không thể tưởng. Nhưng để lấy kho báo đó ra, họ phải đào bới cửa hang cho rộng mới có thể đi vào được. Sau một thời gian đào bới, họ thấy đói bụng nên cử một người đi mua thức ăn về, còn 2 người ở lại tiếp tục làm công việc đào bới cửa hang. Chuyện xảy ra là khi đi dọc đang, người được ủy nhiệm đi mua thức ăn sinh ra ý định sẽ chiếm đoạt số báo vật đó cho riêng mình nên dự tính khi mua thức ăn sẽ bỏ thuốc độc vào trong đồ ăn để khi hai người bạn của hắn ăn xong sẽ ngã chết để hắn tự do sử dụng số báo vật đó một mình. Đang khi đó thì hai người ở lại đào bới cửa hang cũng dự tính với nhau sẽ tìm cách hạ sát người anh em của mình khi mua thức ăn trở về để số kho báo được chia hai mà thôi thay vì chia ba. Và họ đã hành động đúng như đã dự tính với nhau. Sau khi giết người anh em của mình và ném xác xuống sườn núi, họ chia nhau thức ăn và ăn ngấu nghiến vì đói. Vừa ăn xong thì cả hai đau đớn giãy giụa vì thuốc độc đã thấm vào người. Sau một vài phút, cả hai người đó cũng tắt thở. Thế là kho báo vẫn còn đó, mà 3 người đàn ông tham lam đã chết cách thảm thiết! Và lời cảnh báo của vị ẩn tu đã thành sự thật: Tôi đã thấy thần chết (= thấy con đường của sự chết).
Cái nguy hiểm của vấn đề Tiền của là như thế đấy! Chúa Giêsu đã nhiều lần cảnh giác con người về sự nguy hiểm của Tiền Của. Dĩ nhiên, chúng ta cũng hiểu là Chúa Giêsu không có ý định lên án sự giàu có hay những người giàu có. Ngài chỉ nói và giúp người ta nhận thấy rằng: giàu có có thể là một cản trở lớn cho con người tiến vào đời sống vĩnh cửu. Khi con người ta mải mê và lo đi kiếm tìm chỗ dựa của mình nơi Tiền Của thì lòng họ sẽ gắn bó với Tiền Của và không còn dành chỗ xứng hợp cho Thiên Chúa tình yêu trong cuộc đời của mình nữa. Chúa Giêsu cũng mạnh mẽ nói cho con người biết rằng: "Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được".
Nghe câu chuyện trong Tin mừng hôm nay, chắc ai trong chúng ta cảm thấy tiếc cho anh thanh niên giàu có. Không chỉ có chúng ta tiếc cho anh mà chính Chúa Giêsu ngày xưa cũng quá tiếc nuối về anh. Anh đã đã tìm và đã gặp được "chiếc thang" Sự Sống, nhưng tiếc là anh ta không đủ can đảm vứt bỏ những gói hành lý cồng kềnh trên vai để leo lên đó, mà chỉ đứng nhìn rồi buồn bã bỏ đi, vì sức mạnh và sức nặng của Tiền của đã kéo ghì anh ta xuống. Từ đây, chắc cuộc đời của anh ta sẽ buồn lắm sau lần gặp Chúa hôm nay, vì anh ta sẽ phải sống trong sự giằng co dữ dội giữa Thiên Chúa và Tiền Của trong lòng mà anh ta không có sức chiến đấu và chiến thắng nổi. Thật đáng tiếc làm sao! Anh đã dừng lại trước CON ĐƯỜNG SỰ SỐNG.
Hãy nhìn hình ảnh của người thanh niên giàu có đó mà suy nghĩ và xét lại chính mình! Chắc chắc, nhiều người trong chúng ta đây còn thua anh thanh niên này về nhiều mặt lắm, thua anh ta về đời sống đạo đức (vì anh này giữ rất kỷ các giới răn của Chúa từ thưở nhỏ), thua cả về đời sống vật chất nữa (vì chúng ta đâu được gọi là người giàu có đâu). Rồi chúng ta hãy xét xem, chúng ta thường có thái độ nào trước vấn đề Tiền Của đây? Quyến luyến cách lệch lạc với nó hay sử dụng nó cách khôn ngoan và đúng đắn. Bao lâu chúng ta còn vì Tiền của mà xem nhẹ hoặc bê trễ việc thờ phượng Thiên Chúa cũng như việc đạo đức là chúng ta đã đặt thần tài lên trên Thiên Chúa rồi đấy. Bao lâu chúng ta còn xem nặng đồng tiền mà làm mất tình nghĩa với anh em, hà tiện, ích kỷ... là chúng ta đã không biết cách sử dụng Tiền của và đang làm có nguy cơ để Tiền của làm chủ cuộc đời của mình tồi đấy! Bao lâu, chúng ta thấy vui trong việc hưởng thụ và kiếm tiền mà thấy nặng nề hay không tìm thấy niềm vui trong việc dự lễ, đọc kinh, làm việc phước đức, bố thí... Là chúng ta chưa sống tinh thần nghèo khó mà Phúc Aâm kêu mời! Chưa tìm thấy con đường sống. Xin Chúa giúp chúng ta biến đổi đời sống để chúng ta biết cách sử dụng Tiền của theo đúng ý Thiên Chúa và cũng để tìm ra cho mình CON ĐƯỜNG SỰ SỐNG. Amen.
35. Suy niệm của Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
SỰ CHỌN LỰA KHÔN NGOAN
Một đám cưới sang trọng tiêu tốn hết ba triệu rưỡi đô la để chỉ tồn tại không quá 15 năm là đám cưới của công nương Diana và hoàng tử Charles. Một chiếc nhẫn trị giá đến 205 ngàn đô la để chỉ ngự trị trên bàn tay quí phái của Diana không quá năm tiếng đồng hồ là chiếc nhẫn mà nhà triệu phú Dodi Fayer đã tặng cho công nương trong đêm định mệnh. Tai nạn bất ngờ sảy ra. Diana đi về thế giới bên kia. Không mang theo được đồng đô la nào. Chiếc nhẫn kim cương đắt giá cũng được tháo ra trao lại cho gia đình Spencer.
Nằm trong quan tài, Diana với đôi tay không nhẫn cưới và cũng chẳng có nhẫn kim cương. Điều kỳ lạ là trên đôi tay ấy người ta có thấy một cỗ tràng hạt do Mẹ Têrêsa trao tặng trong một lần tiếp xúc. Phải chăng:
Kiếp ngắn dài, một mộ bia
Xoay vần cát bụi ngày lìa dương gian
Dừng chân đếm túi hành trang
Những gì còn lại, chuỗi vàng lời kinh?
(Lm. Trần Cao Tường)
Phải chăng những người có trách nhiệm sau cùng trên thi hài của công nương đã muốn nói với mọi người: tiền bạc, kim cương, danh dự, vật chất, sang giàu, thế gian… không phải là hành trang cho một cuộc sống hạnh phúc đời đời, nhưng là những mầm sống yêu thương và những giá trị thiêng liêng mà Mẹ Têrêsa, qua bộ tràng hạt, đã trao lại cho Diana và thế giới như một lời nhắn nhủ?
Hạnh phúc sung mãn và trường tồn không thể tìm thấy trong sự sang giàu của thế gian. Thánh kinh đã khẳng định điều đó. Cả ba Phúc âm Nhất lãm đều ghi nhận: một ngày kia khi Chúa Giêsu đang trên đường đi về Giêrusalem để bước vào cuộc khổ nạn hầu mang lại ơn cứu độ và hạnh phúc cho muôn người, thì một chàng thanh niên giàu có “chạy” đến. Anh ta quì xuống trước mặt Đức Giêsu và thưa: “Lạy thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời làm cơ nghiệp.” Chắc hẳn câu hỏi của anh thanh niên đã làm bối rối và sửng sốt cho không ít người: cứ tưởng “có tiền mua tiên cũng được,” đàng này trong con người còn có một thứ mắc hơn tiên đến nỗi có tiền chưa chắc đã mua được. Đấy chính là một khát vọng vô biên.
Vì là khát vọng vô biên nên chắc chắn không một thực tại hữu biên nào trên thế gian này có thể lấp đầy. Dù đó là xác thịt, kiến thức, giàu sang hay bất cứ thứ gì… ngoại trừ Thiên Chúa. Chỉ có Thiên Chúa, Đấng Vô Biên, mới có thể thoả mãn cái khát vọng vô biên nơi lòng con người. Chính Thánh Augustinô, sau khi trải qua biết bao kinh nghiệm tìm kiếm đối tượng cho khát vọng vô biên nơi lòng mình, đã thốt lên:
Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi
Hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn.
Trước những trăn trở không câu trả lời, người thanh niên giàu có thấy được Đức Giêsu như một cứu cánh. Anh đã “chạy” đến với Ngài. Chạy là thái độ của khao khát, nôn nóng kiếm tìm chân lý, trái nghịch với thái độ thẫn thờ, bàng quang, chẳng thiết tha.
Trước tâm tình và ước nguyện của chàng thanh niên, Đức Giêsu đã làm một cuộc phỏng vấn liên quan đến các giới răn: ngươi không được giết người, không được ngoại tình, không được trộm cắp, không làm chứng gian, không…. Và người đó đáp lại: “Thưa Thầy, những điều đó tôi đã giữ từ thuở còn thơ.” Nghe thế Đức Giêsu bảo anh ta: “Ngươi còn thiếu một điều. Có gì thì hãy đem bán mà cho kẻ nghèo. Đoạn hãy đến theo Ta” (Mc 10:21).
Thật kỳ lạ! Sống không giết người, không trộm cắp, không ngoại tình, không bất công, không gian dối, ấy thế mà Chúa Giêsu còn bảo là chưa đủ. Chàng thanh niên giữ các giới răn khá là trọn vẹn mà còn bị cho là thiếu. Không biết đời tôi từng phạm điều này, lỗi nghịch điều kia, chắc là còn thiếu nhiều lắm!
Thế nên không thể cho rằng tôi sống đàng hoàng, không phạm 10 điều răn Đức Chúa Trời, chẳng để sót sáu điều răn Hội Thánh, tôi không làm hại ai, không gây tổn thương cho người nào là bảo đảm vào thiên đàng 100% rồi đâu. Nếu chỉ không điều này, không điều kia mà đủ tiêu chuẩn để sống hạnh phúc đời đời thì cần gì theo Chúa. Theo vô vi cũng được vậy. Song người ta cần phải có. Đó là có yêu thương, có quảng đại, có trao ban, có thứ tha, có cho đi chính mình như Đức Giêsu.
“Hãy đến mà theo Ta” cũng có nghĩa là bước theo Ngài trên nẻo đường dâng hiến đời mình cho sự sống tha nhân. Và chỉ khi trao ban dâng hiến như thế con người mới tìm thấy ý nghĩa và hạnh phúc thật sự cho cuộc đời.
Nong nả đi tìm câu trả lời cho đâu là ý nghĩa của cuộc sống, ấy thế mà khi nhận được lời giải đáp, chàng thanh niên lại sa sầm nét mặt, bỏ đi buồn rầu. Thánh kinh cho biết “vì anh ta có nhiều của” (Mc 10:22).
Bước theo Đức Giêsu đòi hỏi một thái độ vươn mình trên những gì là của cải vật chất. Bởi vì “không ai có thể làm tôi hai chủ: hoặc nó sẽ ghét người này mà mến người kia, hoặc tha thiết với chủ này mà khinh màng chủ nọ. Các ngươi không thể làm tôi Thiên Chúa và Tiền của được.” Ấy thế mà, nếu thành tâm xét lại, thì hình như trong đời tôi vẫn còn đó những khoảnh khắc vừa mang danh Kitô hữu lại vừa xem tiền bạc như lẽ sống. Phải chăng vừa theo Chúa, tôi vừa tự biến mình làm “con vật kinh tế,” thậm chí có khi còn giành giật, lừa gạt, chà đạp, sát phạt kẻ khác… vì đồng tiền.
Bao lâu chỉ biết thu về mà không hề trao ban, người ta sẽ cứ mãi “sầm mặt xuống, buồn rầu.” Khi nào biết san sẻ cho kẻ nghèo khó, người ta sẽ lớn lên trong tình yêu và tiếng cười. Đã có một thời nhà tỉ phú George Soros than thở: “Tôi không biết mình đang giàu hay đang nghèo; đang làm chủ số phận hay nô lệ cho thành công. Bởi vì để thành công tôi phải làm việc như một con chó. Để giàu có tôi phải chịu cảnh bất an liên tục.” Nhưng rồi sau những công việc từ thiện bác ái, George đã tươi cười chia sẻ: “Chỉ từ khi biết yêu thương, đời tôi mới bắt đầu nếm được mùi hạnh phúc và sung túc thật sự.”
Cha Albert Marie thuộc dòng khổ tu Soligay ở Bỉ cũng có một kinh nghiệm tương tự. Trước khi vào dòng, ngài từng là một chính khách triệu phú với danh xưng Van Cruyssen. Trong đại chiến thế giới, ngài là một sĩ quan mang cấp bậc đại úy, với sáu huy chương và đệ nhất Bắc đẩu Bội tinh chói ngời trên ngực áo. Nhưng giờ đây những huy chương và bội tinh ấy lại được đặt trước bàn thờ kính Trái Tim Chúa Giêsu trong tu viện.
Trong dịp ngài tuyên khấn, có rất nhiều vị dân biểu, chủ tịch và phó chủ tịch thượng viện, cũng như chủ tịch hiệp hội giới trẻ Công giáo Bỉ quốc đến tham dự. Sau lễ nghi, vị tân khấn đã chia sẽ tâm tình với những người hiện diện: “Cha Albert Marie sung sướng và hạnh phúc hơn nhà triệu phú Van Cruyssen nhiều.”
Yêu thương và san sẻ cuộc đời cho kẻ khó nghèo chính là điều kiện tất yếu mà những ai muốn trở thành môn đệ chân chính của Đức Kitô đều phải thực thi. Yêu thương san sẻ không hệ tại nơi tiền bạc của cải, song là ở tất cả những gì mình có. Đức Giêsu đã bảo: “Hãy đi bán tất cả những gì ngươi có mà cho kẻ nghèo.” Người nghèo là người túng thiếu-không chỉ thiếu về của cải, nhưng còn có thể thiếu về giáo lý, kiến thức, sức lực, cảm thông, tha thứ, tiếng ca, nụ cười….
Vậy nếu trong gia đình, nơi giáo xứ, cộng đoàn, hay tại sở làm của tôi vẫn còn những người thiếu thốn như thế, liệu tôi có can đảm đáp trả lời mời gọi của Đức Kitô-“Hãy cho, và ngươi sẽ có một kho tàng trên trời”-hay tôi sẽ cúi mặt, bỏ đi, buồn rầu.
Chọn lựa bước theo Đức Kitô là một chọn lựa quyết liệt và rướm máu. Nhưng đó lại chính là một lựa chọn khôn ngoan và đáng giá vô cùng.
36. Giàu: tốt hay xấu - Gm. Arthur Tonne.
Ngày 6 tháng 6 năm 1976. Một người giàu nhất xưa nay đã qua đời, thọ 83 tuổi; ông I. Paul Getty để lại từ khoảng 2 đến 7 tỷ đôla. Sau năm lần ly dị, mấy năm trước đây ông tuyên bố với một người phỏng vấn: “Tôi mong dùng tất cả gia tài của tôi để xây dựng một hôn nhân hạnh phúc. Tôi sợ thất bại. Tôi sợ không thể tạo được hạnh phúc hôn nhân”. Có lần một phóng viên làm ông phải thú nhận là ông đã không đạt được hạnh phúc gia đình. Suy nghĩ vài giây, ông trả lời: “Vâng, thật đáng buồn”. Một lần khác ông xác nhận: Tiền bạc không thể mua hạnh phúc, hơn nữa ông còn tin rằng tiền bạc có bà con với bất hạnh nữa.
Chúng ta nhớ đến nhà tỷ phú này khi đọc câu chuyện người thanh niên giàu có trong bài Tin Mừng hôm nay. Người thanh niên giàu có này sống đời luân lý tốt đẹp, nhưng anh cảm thấy thiếu một cái gì. Chúa Giêsu đã nói cho anh điều anh thiếu: “Bạn về và bán những gì bạn có. Giúp người nghèo và bạn sẽ có một kho tàng ở trên trời. Rồi đến theo tôi”. Chàng thanh niên bỏ đi, vì anh giàu có.
Điều này áp dụng cho bạn và tôi làm sao? Trước khi trả lời, chúng ta lưu ý hai sự kiện: Một là từng người một trong chúng ta, không kể giàu nghèo. Chúng ta phải làm điều Chúa Giêsu đòi hỏi người thanh niên: Chúng ta sẽ phải từ bỏ mọi sự chúng ta có – Cái chết.
Hai là có hàng ngàn người nam, nữ trong suốt dòng lịch sử và trong thời đại chúng ta, tình nguyện bỏ mọi sự để làm linh mục, làm tu sĩ nam nữ. Cả một số giáo dân cũng làm như vậy để phụng sự Chúa tự do hơn.
Chúa Giêsu có truyền tất cả chúng ta phải bỏ mọi sự mình có không? Người có mong tất cả chúng ta là tu sĩ không?
Không, hoàn toàn không. Nhưng người truyền chúng ta biết dùng của cải một cách nào đó để đừng quên Cha trên trời, Đấng ban cho chúng ta những cái đó.
Có phải tiện tặn là là sai? Phải chung góp vốn là sai? Để dành tiền phòng khi già yếu? Hay xây dựng gia đình là sai? Không, hoàn toàn không. Cái sai của sự giàu có là tôn thờ, phục vụ và tin tưởng vào đồng đôla vạn năng thay thế cho Thiên Chúa quyền phép.
Khi các Tông đồ hỏi Chúa: “Vậy ai có thể được cứu rỗi?”. Chúa tuyên bố: “Với người ta thì không thể được, nhưng không phải với Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa làm được mọi sự”.
Như thế người giàu cũng có thể được cứu rỗi, nhưng phải nhờ ơn Chúa giúp. Tôi đề nghị chúng ta hãy xin Cha trên trời giúp chúng ta sử dụng của cải đúng cách, giúp chúng ta ý thức rằng của cải vật chất cũng là hồng ân và ơn huệ của Chúa. Tôi xin được phép giới thiệu một lời kinh:
“Lạy Cha trên trời, con cảm tạ Cha vì gia đình con đầy đủ và và quá đầy đủ nữa, xin giúp con biết sử dụng của cải theo ý Chúa. Xin giúp con biết chia sẻ cho những người ít hơn hoặc không có. Xin giúp con tiếp tay trong công cuộc của Chúa trên trần gian. Xin giúp con tin tưởng nơi Chúa chứ không phải nơi tiền bạc. Xin giúp con sống rộng rãi với mọi người như Chúa hằng quảng đại với con”.
Bạn đọc kinh này khi dâng bánh và rượu trong Thánh Lễ.
Xin Chúa chúc lành bạn.
37. Suy niệm của Noel Quesson.
NGƯỜI GIÀU KHÓ VÀO NƯỚC THIÊN CHÚA.
Một bác nông dân người Anh có dịp nghe Dôn Oets-lây (John Wesley) giảng. Oets-lây là một nhà giảng thuyết nổi tiếng. Hôm đó ông giảng về việc sử dụng tiền của.
Oets-lây bắt đầu bài giảng bằng tư tưởng, phải ra công tích lũy tối đa, phải dùng hết khả năng tìm cách làm giàu. Bác nông dân gật gù bảo người bạn ngồi bên cạnh: Hay lắm.
Rồi Oets-lây khai triển điểm thứ hai: phải tiết kiệm tối đa. Ông lên án thói phung phí xa xỉ, tiêu xài quá đáng. Bác nông dân suýt xoa: Bài giảng tuyệt vời. Cám ơn Chúa, mình vẫn sống tiết kiệm.
Cuối cùng nhà giảng thuyết đi tới điểm thứ ba: Hãy chia sẻ tối đa. Phải quan niệm sự thiếu thốn của người chung quanh là thuộc trách nhiệm của mình. Nghe thế, bác nông dân lắc đầu bỏ nhà thờ đi ra.
Người thanh niên mà Tin Mừng kể hôm nay, anh cũng có nhiều đức tính, vốn thi hành luật Chúa từ nhỏ, nhưng khi nói tới tiền của, phải hy sinh tiền của cho người khác thì anh không chấp nhận.
Khi người thanh niên hỏi Chúa: Phải làm gì để được sống đời đời. Chúa đã kể ra những việc phải làm. Chúa chỉ kể ra những việc mà Chúa cho là quan trọng: đừng giết người, đừng ngoại tình, đừng trộm cướp, đừng làm chứng gian, đừng lừa dối ai, hãy thảo kính cha mẹ. Nói tới điều quan trọng nhất trong việc giữ đạo, ta thường nghĩ tới việc thờ phượng, đọc kinh xem lễ. Nhưng trong cách diễn tả của Chúa Giêsu thì quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người, mà hai điều đó giống nhau (Mt 22,39). Hay đúng hơn phải bắt đầu bằng biểu lộ bác ái yêu thương với anh chị em đồng loại, vì chính đó là dấu hiệu của lòng mến Chúa.
Nhưng những việc luật đòi giữ đây mới là phần tiêu cực, và Chúa Giêsu chưa cho thế là đủ. Chúa đòi ta chia sẻ với anh chị em những gì mà ta quý trọng nhất, những gì tha thiết nhất với chúng ta. Chúa bảo ta yêu thương nhau như Chúa đã yêu, và chúng ta biết Chúa yêu thương cho tới cùng, cho tới hiến cả mạng sống mình. Chúng ta phải sẵn sàng chia sẻ những gì thiết thực nhất, trong đó có tiền của và có thể coi tiền của là một thước đo mức độ bác ái của ta với anh em.
Anh thanh niên nghe Chúa nói phải phân phát tiền của cho người nghèo, anh đã buồn rầu bỏ đi, có nghĩa là anh quá thiết tha với tiền của. Và từ đó Chúa đưa ra nhận định: Người giàu khó vào Nước Thiên Chúa. Tiền của cần cho cuộc sống. Tiền của là đầy tớ đắc lực cho mọi người. Những ý niệm này rất đúng, và Chúa Giêsu hoàn toàn tán đồng. Nhưng khi chúng ta coi tiền như một ông chủ, thì lúc đó nó sẽ là một ông chủ khắc nghiệt, nó hành hạ, sai khiến chúng ta. Và khi đó Chúa không chấp nhận, “Không ai vừa làm tôi Thiên Chúa lại vừa làm tôi tiền của” (Lc 16,13), phải chọn một.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết quan tâm đến những người anh chị em nghèo khó, sẵn sàng chia sẻ cho họ những gì chúng con có, để chúng con xứng đáng làm môn đệ Chúa và được thừa hưởng sự sống muôn đời.
38. Giàu.
Ngày 06.6.1976, một nhà tỷ phú, giàu có và hạnh phúc nhất trên thế giới, là ông Paul Getty, đã qua đời, để lại một gia sản từ hai đến bốn tỷ đôla. Sau năm lần ly dị, ông đã tuyên bố với một phóng viên báo chí: Tôi mong dùng tất cả gia tài của tôi để xây dựng một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Tôi sợ thất bại. Tôi lo không thể tạo được hạnh phúc hôn nhân. Có lần ông cũng đã thú nhận rằng mình đã không đạt được hạnh phúc trong gia đình. Và ông đã kết luận: Tiền bạc không thể mua được hạnh phúc. Trái lại, nó còn có họ hàng bà con với những nỗi bất hạnh nữa.
Từ hình ảnh nhà tỷ phú Paul Getty chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Chàng thanh niên giàu có, sống một đời sống luân lý tốt đẹp, nhưng chàng vẫn cảm thấy còn thiếu vắng một cái gì đó. Và rồi Chúa Giêsu đã tỏ lộ cho chàng biết điều thiếu vắng ấy: Ngươi hãy về, bán tất cả những gì ngươi có, làm phúc bố thí cho kẻ nghèo túng, rồi hãy đến và theo Ta. Thế nhưng chàng thanh niên đã buồn bã, cúi mặt bỏ đi vì chàng là một người giàu có.
Câu chuyện về chàng thanh niên giàu có sẽ đem lại cho chúng ta những kết luận cụ thể nào? Trước khi trả lời, chúng ta hãy lưu ý tới hai sự kiện:
Sự kiện thứ nhất, đó là từng người một, bất luận giàu sang hay nghèo túng, chúng ta đều phải thực hiện điều Chúa Giêsu đòi hỏi, là từ bỏ mọi sự chúng ta đang có, nhất là khi chúng ta phải đối đầu với cái chết. Thực vậy, khi thần chết đã lên tiếng gọi, thì chúng ta không thể mang theo bất cứ tiền bạc của cải vật chất nào sang thế giới bên kia, vì đó là một chuyến đi, một cuộc hành trình cô đơn nhất.
Sự kiện thứ hai, đó là trong dòng thời gian, có biết bao nhiêu người, nam cũng như nữ, đã từ bỏ mọi sự để dâng hiến trọn vẹn cho Chúa, sống trong những dòng tu cũng như sống giữa lòng cuộc đời, để nhờ đó được tự do phụng sự Chúa.
Vậy Chúa Giêsu có truyền cho tất cả chúng ta phải từ bỏ mọi sự mình có và Ngài có mong cho tất cả chúng ta đều trở thành linh mục, tu sĩ hay không? Dĩ nhiên là không, hoàn toàn không. Thế nhưng Ngài truyền cho chúng ta phải biết dùng của cải một cách nào đó, để sinh ích cho linh hồn chúng ta, cũng như đừng bao giờ quên rằng Thiên Chúa, là Cha trên trời, Đấng đã ban cho chúng ta tất cả những cái đó.
Ngoài ra sự tiết kiệm, góp vốn, phòng xa có phải là điều sai quấy hay không? Dĩ nhiên là không, hoàn toàn không. Cái sai quấy của sự giàu có là tôn thờ tiền bạc, phục vụ tiền bạc, tin tưởng vào tiền bạc như một đấng vạn năng thay cho Thiên Chúa.
Trước những khó khăn là như thế, các tông đồ đã hỏi Chúa Giêsu: Vậy thì ai có thể được cứu rỗi? Chúa Giêsu đã tuyên bố: Đối với người ta thì không thể được, nhưng không phải là đối với Thiên Chúa vì Ngài làm được mọi sự. Như thế người giàu cũng có thể được cứu rỗi nhưng phải cậy nhờ vào ơn Chúa giúp.
Bởi đó, hãy biết tìm kiếm tiền bạc một cách công bằng và hãy biết xử dụng tiền bạc một cách chính đáng, vì của cải vật chất cũng là một thứ hồng ân của Thiên Chúa. Cái khó là đừng để cõi lòng mình quá quyến luyến, quá dính bén, quá đam mê chạy theo tiền bạc, để rồi bỏ quên Chúa và bóc lột những người anh em của chúng ta.
39. Làm nhiều hơn.
Có một thanh niên làm nghề bán sách rong. Ngày kia anh vào nhà một bác nông dân và giới thiệu:
- Thưa bác, cháu có bán một cuốn sách chỉ cách canh tác sinh lợi gấp mười cách bác đang làm.
Bác nông dân yên lặng, bắn một điếu thuốc lào rồi nói:
- Này anh bạn, chẳng cần sách của anh, nhưng tôi cũng đã biết phải làm thế nào để canh tác sinh lợi gấp mười lần cách thức hiện nay tôi đang làm.
Câu chuyện trên giúp chúng ta hiểu rõ hơn đoạn Tin Mừng hôm nay. Thực vậy, bác nông dân biết cách canh tác tốt hơn nhưng bác lại thiếu nhiệt tình để cố gắng làm điều ấy.
Cũng như chàng thanh niên giàu có, dư sức làm nhiều hơn việc tuân giữ các giới luật, nhưng anh ta đã không đủ nhiệt tình để thực hiện những yêu cầu của Chúa. Sau khi anh ta cho biết mình đã tuân giữ các giới luật từ thuở nhỏ, Chúa Giêsu đã tỏ ra thán phục, nhưng đồng thời Ngài lại cho anh ta thấy rõ: Kitô giáo không chỉ là việc tuân thủ các huấn lệnh tiêu cực ấy như đừng trộm cắp, lừa đảo… nhưng phải mang tính cách tích cực hơn nhiều. Và Ngài đã nói với anh ta:
- Con chưa hề gây thương tổn cho ai, điều đó quả là đáng khen. Nhưng con đã làm gì để giúp đỡ người khác. Con đã biết dùng của cải để cho kẻ đói được ăn, kẻ khát được uống và người trần trụi được mặc?
Chính khi nghe những điều ấy, anh ta đã nhận ra mình vẫn còn nhiều khuyết điểm.
Rồi Chúa đề nghị cùng anh:
- Nếu muốn theo Ta, con hãy thay đổi cách nhìn. Đừng chỉ nhắm đến sự tốt lành một cách tiêu cực, nhưng phải nhắm sống tốt lành một cách tích cực hơn, chẳng hạn như giúp đỡ người khác. Vì thế, hãy bán mọi sản nghiệp, bố thí cho người khác, rồi hảy đến và theo Ta. Cứ thực hành điều như vậy, thì con sẽ tìm thấy hạnh phúc đời này và đời sau.
Thế nhưng, anh ta đã không có đủ can đảm để chấp nhận những thiệt thòi trên con đường bước theo Chúa, trên con đường trở nên trọn lành. Và anh ta đã buồn sầu cúi mặt bỏ đi.
Nhiều người trong chúng ta cũng giống như bác nông dân. Chúng ta biết rõ mình có thể trở thành một Kitô hữu tốt lành gấp mười lần tình trạng hiện nay, nhưng chúng ta lại thiếu nhiệt tình để làm điều ấy.
Cũng giống như chàng thanh niên giàu có. Chúng ta đã tuân giữ những giới luật của Chúa, nhưng lại chưa tỏ ra rộng lượng đối với những kẻ túng thiếu, khổ đau và bất hạnh. Bởi vì công việc đó đòi hỏi chúng ta phải hy sinh, phải chấp nhận những thiệt thòi. Và cốt lõi của vấn đề, đó là vì chúng ta còn thiếu tình yêu đối với Chúa và đối với anh em.
Đúng thế, tình yêu sẽ thúc đẩy chúng ta làm nhiều hơn những đòi hỏi tiêu cực của lề luật: không gian dối, không trộm cắp… Một thanh niên yêu một thiếu nữ, sẽ không chỉ hài lòng với việc không làm hại cô ấy, không xúc phạm đến cô ấy, nhưng hơn thế nữa, tình yêu thúc đẩy anh phải làm cho cô ấy được hài lòng, được vui mừng, được hạnh phúc. Bằng không thì đó chưa phải là tình yêu đích thực.
Cũng vậy, nếu chúng ta chỉ hài lòng với những giới luật Chúa dạy, thì chúng ta mới chỉ là những người “quen biết” với Chúa, chứ chưa phải là người yêu Chúa.
Nếu chúng ta không muốn làm những điều tích cực hơn nữa, thì đó chính là vì chúng ta thiếu tình yêu. Chúng ta chưa thực sự yêu Chúa cũng như chưa thương người.
40. Tiền của.
Một bác nông dân người Anh đang ngồi nghe một nhà giảng thuyết tài ba tên là Dôn Oét-lây (John Wesley) rao giảng Tin Mừng. Hôm đó, nhà giảng thuyết đề cập đến vấn đề tiền bạc của cải, đầu tiên, nhà giảng thuyết nói đến việc “phải ra công tích lũy tiền bạc tối đa, phải dùng hết khả năng để kiếm tiền và làm giàu”. Bác nông dân gật đầu và nói nhỏ vào tai ông bạn thân đang ngồi bên cạnh: “Thật là một tư tưởng hay”. Rồi nhà giảng thuyết khai triển điểm thứ hai của bài giảng: “Phải tiết kiệm tối đa, ông lên án những thói ăn chơi xa xỉ, quăng tiền qua cửa sổ”. Bác nông dân một lần nữa lại xuýt xoa: “Bài giảng thật là tuyệt vời, cám ơn Chúa, từ trước đến giờ ta vẫn luôn làm như ta vẫn luôn làm như lời ông ta nói là tiết kiệm”. Cuối cùng, nhà giảng thuyết đề cập đến điểm then chốt của bài giảng: “Hãy đem những của cải đã thu gom được chia sẻ cho những Đức Kitô hiện thân nơi những người nghèo chung quanh, vì của cải vật chất là của Thiên Chúa ban chung cho nhân loại, chúng ta chỉ là những người quản lý. Do đó, chúng ta phải tích cực làm việc bác ái xã hội, phải dạy người nghèo một nghề để tự kiếm sống, phải tạo ra nhiều việc làm, đừng để xảy ra tình trạng người thì ăn sung mặc sướng, trong khi nhiều người khác lại bị đói khát, bất hạnh…”. Nghe vậy, bác nông dân sụ nét mặt lại, lắc đầu tỏ ý không bằng lòng và bỏ ra về, ông vừa đi vừa lẩm bẩm: “Cái lão thầy tu này giảng không thực tế chút nào, tại sao lại phải đem tiền của kiếm được do công lao mồ hôi nước mắt của mình mà chia sẻ cho kẻ khác?”
Bác nông dân trên đây đã phản ứng trước đòi hỏi của Tin Mừng về vấn đề tiền của rất giống với chàng thanh niên trong bài Tin Mừng hôm nay. Anh thành tâm thiện chí xin Chúa Giêsu một lời khuyên để đạt sự sống đời đời. Có lẽ ít có thanh niên nào lại bận tâm đến cuộc sống đời đời như anh thanh niên này, vì thường họ chỉ nghĩ sống cho hiện tại. Chúa âu yếm nhìn anh và nói: “Hãy giữ các điều răn”, đó là phương thế rất phổ thông và truyền thống trong đạo Do Thái. Có thể nói anh rất hài lòng về câu trả lời của Chúa, và hãnh diện vì mình đã tuân giữ các điều răn ngay từ nhỏ. Vậy tại sao anh còn tìm kiếm thêm? vì đó chỉ là mức tối thiểu đối với đa số người Do Thái. Vì thế, Chúa Giêsu mời gọi anh bước thêm bước nữa: “Bán của cải và chia sẻ cho người nghèo để theo Ngài”. Nhưng anh đã chùn bước.
Giả như Chúa Giêsu bảo anh giữ thêm một điều răn nữa, dù có khắt khe hơn, chắc anh sẵn sàng nhận ngay, nhưng Chúa lại mời gọi anh chia sẻ cái anh có cho người nghèo, nên anh khó chấp nhận và buồn rầu bỏ đi, vì anh có nhiều của cải. Quả thật, giữ thì không khó khăn lắm, nhưng cho thì không dễ dàng gì. Người ta có thể dễ dàng theo Chúa khi họ không phải từ bỏ của cải mình có, nhưng khi đòi phải từ bỏ những đồng tiền thì họ không dứt được, vì “đồng tiền liền khúc ruột”. Con đường giữ đạo và con đường hoàn hảo còn cách xa nhau lắm, vì con đường hoàn hảo là con đường từ bỏ, kể cả mạng sống mình. Chúng ta thấy Chúa Giêsu đã đảo lộn mọi dự đoán của chàng thanh niên ấy: vấn đề không phải là làm việc gì hay giữ điều gì, nhưng là từ bỏ những cái thân thiết, gần gũi, quý giá để thong dong và dễ dàng đón nhận Chúa là nguồn gốc và đích điểm của cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu.
Chúng ta thấy bác nông dân trong câu chuyện trên và anh thanh niên trong bài Tin Mừng, cả hai đều có thiện chí muốn nên tốt hơn nên đã đi tìm và hỏi ý kiến Chúa Giêsu, cả hai đều hài lòng về những điều mình đã làm là tuân giữ các điều răn. Nhưng khi Chúa đòi phải từ bỏ bằng việc bán gia sản mà chia sẻ cho những người nghèo khổ, thì cả hai đều sụ nét mặt và buồn rầu thất vọng bỏ đi.
Liền sau đó Chúa đề cập đến vấn đề tiền của và sự giàu có: Đối với phần đông chúng ta, Chúa không đòi chúng ta phải từ bỏ tiền của, như mọi người khác, chúng ta cũng cần có tiền của, và có tiền của mới sống được “ chúng ta cần có một căn nhà để tránh “ăn nhờ ở đậu” gây phiền hà cho người khác. Chúng ta cần có đủ áo mặc, có đủ cơm ăn để khỏi nên gánh nặng cho tha nhân, không đánh mất phẩm giá của mình và tránh lệ thuộc vào người khác. Ngoài ra, nhiều người đã biết khởi điểm của mọi sự là “thủ tục đầu tiên”, không có “thủ tục đầu tiên” này thì mọi việc khó mà êm xuôi. Hơn nữa, không có tiền có lẽ khó mà lấy vợ có chồng, một tiệc cưới cũng tốn kém từ vài triệu đến vài chục triệu. Ở Hàn Quốc, họ nói như sau: “muốn cưới vợ thì chàng phải có ba chìa khóa: chìa khóa xe hơi, chìa khóa nhà, và chìa khóa hòm tiền ở ngân hàng”. Nhưng đối với chúng ta, cần phải có chìa khóa thứ tư nữa, ba chìa khóa kia mở cửa “tiền”, còn chìa khóa thứ tư mở cửa “lòng”.
Bởi lẽ: tiền có thể mua nhà cửa nhưng không mua được tổ ấm, tiền có thể mua giường nệm nhưng không mua được giấc ngủ yên, tiền có thể mua lạc thú nhưng không mua được hạnh phúc, tiền có thể mua thế gian nhưng không mua được thiên đàng. Cửa lòng mà chìa khóa thứ tư mở ra, đó là lòng bác ái, lòng yêu thương của chúng ta.
Tóm lại, điều Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta phải sống là đừng coi tiền bạc là ông chủ, nhưng hãy coi nó là đầy tớ. Tiền của là ông chủ xấu, nhưng lại là một đầy tớ tốt. Một khi trở thành phương tiện, thì tiền của sẽ là một trợ thủ đắc lực, giúp chúng ta làm được nhiều việc lớn lao và chu toàn được sứ mệnh làm vinh danh Chúa và góp phần cứu rỗi anh em.
41. Dâng hiến.
“Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”.
Lời tuyên bố trên đây của Chúa Giêsu có bao gồm và đụng chạm đến những người đang sống trong các khu vực sang trọng giàu có ở Manila như Forbes Park, Corinthian Gardens và Ayala Alabang hay không? Lời tuyên bố này có đánh động những người đang làm chủ các tập đoàn thương mại khổng lồ ở Philippies hay không?
Trên thực tế, tiền bạc hay sự giàu có không phải là một sự dữ tất yếu. Ngay cả Chúa Giêsu cũng đã hưởng những thực phẩm, những bữa tiệc và cả nơi nghỉ ngơi do những người bạn giàu có của Ngài cung cấp. Cũng vậy, với tiền bạc, bạn có thể làm được nhiều việc tốt, chẳng hạn như lo việc ăn học cho con cái, mua những vật nhu yếu phẩm, làm những việc từ thiện bác ái. Nhưng với tiền bạc, bạn cũng có thể làm nhiều điều ác. Với tiền bạc, bạn có thể hối lộ, mua các lá phiếu trong các cuộc bầu cử, thuê những tên khủng bố và làm những hành động bất lương khác. Sống như vậy, con người thay vì làm chủ tiền bạc thì lại trở nên nô lệ cho nó.
Mặt khác, nghèo khó hay sống trong nghèo khó cũng không phải đương nhiên là một nhân đức. Lấy ví dụ: một người nghèo luôn miệng nguyền rủa thân phận nghèo khổ của mình. Anh ta bị ám ảnh muốn trở nên giàu có như người hàng xóm. Nhưng thực tế anh vẫn phải sống trong cảnh nghèo. Và một người nghèo khác, mặc dù nghèo khổ nhưng anh vẫn hướng về Thiên Chúa, chuyên chăm cầu nguyện và tham gia vào các hoạt động truyền giáo của Giáo hội, giúp đỡ những người khác. Lúc đó, nghèo khó trở thành một nhân đức Kitô giáo, vì giúp ta sống gắn bó với Thiên Chúa và không dính bén với của cải thế gian.
Chúa Giêsu muốn mỗi người chúng ta sống một cuộc đời dâng hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa đúng với căn tính của mình là Kitô hữu. Vì thế, nếu bạn là một người đã kết hôn, hãy là một người chồng hay một người vợ tốt, đừng tìm kiếm một người khác xinh đẹp hơn người phối ngẫu của mình. Nếu bạn là một người làm công, hãy làm việc chu đáo. Nếu bạn là một người chủ, hãy ở công bằng. Cuối cùng, chúng ta hãy suy nghĩ về bốn hướng dẫn quan trọng sau đây:
- Hãy nhớ rằng vào một thời điểm nào đó, bạn sẽ phải ra đi.
- Hãy tìm niềm vui trong sự trao ban hơn là khi thu góp.
- Sống gắn bó với thánh giá hơn là dính chặt vào đồng pêsô.
- Hãy nhớ rằng tiền bạc thì mau qua, và bạn chỉ có một bảo đảm chắc chắn ở nơi Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp con nhớ rằng không dính bén với của cải thế gian là một phương thế giúp sống gắn bó với Chúa.
42. Chúa Nhật 28 Thường Niên
"Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời làm gia nghiệp?" (Mc 10,36)
Một câu hỏi quan trọng dành cho mọi người nhưng đặc biệt hơn đối với người kitô hữu. Mọi người đều nổ lực để có một cuộc sống tốt đẹp ở giây phút hiện tại và có những dự định tốt đẹp cho tương lai của cuộc đời mình. Nhưng cái quan trọng hơn hết đó là ngoài cuộc sống ở trần gian này còn có một cuộc sống bền vững và vĩnh cửu. Có mấy ai quan tâm đến cuộc sống vĩnh cửu này?
Mọi người vất vả chỉ mong muốn mình có một đời sống đầy đủ, sung túc và dư đầy; tất cả lo tích trữ cho mình của cải, danh vọng, các mối tương quan có lợi, uy tín...có khi con người đã đạt được những thứ đó nhưng khát vọng cuối cùng vẫn là làm sao được sự sống đời đời. Có người vì cuộc sống nghèo đói, đau khổ muốn sớm chấm dứt cuộc sống hiện tại và mơ tưởng về sự sống đời sau sẽ hạnh phúc và an toàn hơn. Có người thì cuộc sống này đang tràn đầy hạnh phúc, mãn nguyện thì mong sao cho cuộc đời này kéo dài để tận hưởng và qua cuộc sống trần gian này nó vẫn còn kéo dài đến đời sau để tận hưởng hạnh phúc đó. Có rất nhiều lí do con người trăn trở về cuộc đời của mình. Hạnh phúc có rồi đau khổ đó, vui đó rồi buồn đó, có đó rồi mất đó.
Chúa Giêsu sẽ cho mọi người thấy giá trị đích thực của kiếp người đó là gì? Hạnh phúc không phụ thuộc vào của cải, không phải có đời sống hoàn hảo không một chút tì vết nào cũng không phải sở hữu nhiều thứ mà đó chính là "sự sống đời đời làm gia nghiệp". Muốn có được sự sống này thì phải có lòng nhân từ, khiêm tốn, sống trong sự khôn ngoan của Thiên Chúa và cuối cùng là tin tưởng phó thác hoàn toàn vào thánh ý của Ngài.
Mỗi người kitô hữu cũng đang sống từng ngày với những bổn phận và trách nhiệm, chu toàn bổn phận với Chúa, với mọi người cũng để có được sự sống đời đời. Đó là mục đích cuối cùng của đời người và những gì muốn thể hiện trong cuộc sống hôm nay. Điều quan trọng đối với Chúa Giêsu là biết phó thác tin tưởng hoàn vào Chúa còn những điều đằng sau đó Chúa sẽ lo liệu và điều chắc chắn khi con người hoàn toàn phụ thuộc vào Chúa, con người sẽ được sự sống đời đời.
Lạy Chúa xin cho con biết sống khiêm tốn, tin tưởng vào Chúa và cho con luôn ý thức rằng không phải vì sức riêng của mình làm được mọi sự nhưng tất cả là do Chúa. Xin cho con biết sống cuộc sống ở trần gian này theo thánh ý Chúa để có được sự sống đời đời.
43. Suy niệm của Lm. Nguyễn Hưng Lợi.
NGƯỜI THANH NIÊN GIẦU CÓ VÀ NƯỚC TRỜI
Đọc Tin mừng của Chúa Giêsu người ta bắt gặp nhiều cảnh nửa khóc nửa cười: có những câu chuyện xem ra ứa nước mắt, có những vụ việc ngộ nghĩnh và nực cười. Chúa Giêsu luôn dạy dỗ con người bằng chính những câu chuyện, những dụ ngôn, những sự việc xẩy ra trong xã hội thực tế bao quanh con người. Đoạn Tin Mừng Giáo Hội trích đọc trong thánh lễ sáng nay: “Tiền của là một cản trở cho con người đi vào Nước Trời”. Đây là một bài học thực tế của cuộc sống con người.
CÁI TRỚ TRÊU CỦA CÂU CHUYỆN:
Người thanh niên tin vào Chúa, nên anh ta mới tới xin Chúa chỉ bảo cho anh biết anh phải làm gì để đạt được đời sống viên mãn, đời sống trường cửu. Đây là câu vấn nạn hết sức chân thành của anh, chứ không phải để bắt bẻ, để giăng bẫy Chúa Giêsu. Một câu hỏi phát xuất từ đáy tâm hồn của người thanh niên giầu có vì anh đã dùng một danh xưng chỉ dành riêng cho Thiên Chúa. Biết được lòng thành và thiện chí của anh, Chúa Giêsu đã đưa anh ta về các giới răn như chớ giết người, cớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thảo kính cha mẹ (Mc 10, 19). Người thanh niên giầu có qủa thực đã thực hiện những qui luật thông thường dành cho mọi người. Anh trả lời hết sức thành thật với Chúa rằng anh ta đã giữ tất cả những điều ấy ngay từ hồi anh ta còn nhỏ tuổi.Chính vì thế, sau khi anh ta trả lời với Chúa như trên, Tin Mừng thánh Marcô viết:Chúa Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và chạnh lòng thương. Anh ta quả đã nói rất thật với Chúa và nếu giả như anh ta nói dối, giả hình, giả bộ, hẳn Đức Giêsu đã không có thái độ như trên. Chúa yêu anh, thương tấm lòng thành của anh ta, nên Chúa nói với anh, khuyên anh muốn nên trọn lành, muốn đạt được nước Thiên Chúa, anh ta hãy về bán tất cả những gì anh đang có, phân phát cho người nghèo khó và rồi đi theo Đức Giêsu (Mc 10, 21). Và đây là điều duy nhất, căn bản, cốt thiết anh ta còn thiếu để được hạnh phúc đời đời. Nhưng cái trớ trêu ở đây là người thanh niên giầu có đã không làm nổi, đã không có can đảm để bán gia tài anh đang có để được sống đời đời.Tin Mừng viết một cách dí dỏm và ứa nước mắt cho những ai có lòng tin, có lòng quảng đại: “Anh ta sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi” (Mc 10, 22). Anh thanh niên đã không muốn mất gia tài, không muốn chia sẻ với người nghèo. Thánh Marcô nhấn mạnh: “Vì anh ta có nhiều của cải” (Mc 10, 22).
QUAN NIỆM CỦA CHÚA GIÊSU VỀ CỦA CẢI:
Qua cuộc đối thoại của Chúa với người thanh niên giầu có. Chúa Giêsu muốn chỉ ra rằng việc tuân giữ lề luật không thôi, chưa đủ đảm bảo cho ơn phần rỗi của con người. Muốn được ơn cứu rỗi phải chia sẻ với những người nghèo khó để được phần thưởng trên trời và bước theo Chúa Giêsu. Nói cách khác, đối với Chúa phải sống tin yêu, phó thác hoàn toàn vào quyền năng của Thiên Chúa và yêu thương tha nhân, yêu thương người nghèo bằng cách cho đi những gì mình có cho dù vật chất hay tinh thần. Chúa Giêsu không khuyên chúng ta coi thường của cải, nhưng Ngài khuyến cáo vật chất, của cải có thể là một cản trở trên con đường đi vào nước Thiên Chúa nếu nó không được dùng để phục vụ tha nhân. Dùng của cải không đúng, nó sẽ trở thành ích kỷ, nguồn gốc của mọi bất chính, phô trương, khoe khoang. Tiền tài, của cải có thể trở thành sự dữ khi nó khi nó làm cho con người khép kín con tim lại để hưởng thụ, hẹp hòi, thiển cận và ích kỷ. Của cải không dùng đúng cách, nó sẽ ngăn cản ta sống yêu thương và quảng đại. Chúa mời gọi người giầu có về bán của cải, chia sẻ cho người nghèo và đi theo Chúa. Đây là lời mời có tính cách mạng, biến đổi con tim, biến đổi lòng người, biến đổi nhân loại. Muốn theo Chúa Giêsu, con người phải có can đảm từ bỏ: tội lỗi, tính ích kỷ, lối sống phản Tin Mừng, sống gắn bó, phó thác vào Chúa và từ bỏ ngay chính cả mạng sống mình. “Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình, vác thập giá của mình mà theo Ta”. Khôn ngoan đích thực (bài đọc I) chính là tin Chúa và đi theo Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết từ bỏ tất cả mà sống quảng đại, tin tưởng vào Chúa và quyết tâm chọn Chúa, đi theo Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ:
1. Bạn nghĩ sao về câu nói của người thanh niên giầu có: “Những điều ấy con đã giữ ngay từ hồi còn nhỏ?”.
2. Bạn cảm nghiệm thế nào về câu nói của thánh Marcô: “Vì anh ta có nhiều của cải?”.
44. Hãy tìm kiếm Nước Trời
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Câu chuyện chàng thanh niên giầu có mà thánh Máccô thánh sử thuật nay hôm nay thật sự đã làm cho nhiều người suy nghĩ. Đây là một dụ ngôn rất ấn tượng, làm động não nhiều người. Chàng thanh niên giầu có này cứ tưởng đã giữ moi điều luật các ngôn sứ nói và các giới răn Chúa truyền là đã hoàn thành trách nhiệm và đã đạt được Nước Thiên Chúa.Tuy nhiên, có một điều chàng thanh niên này không dám làm hay nói cách nôm na hơn, chàng ta còn bám víu lấy của cải, danh vọng, giầu sang phú quí mà không dám làm theo đề nghị của Chúa Giêsu là đi về bán hết của cải phân chia cho người nghèo khó và đi theo Chúa…
Đọc câu chuyện này, chúng ta rất thương tình đối với chàng thanh niên này, nhưng chúng ta cũng rất ngạc nhiên, xem ra khó chịu, khó hiểu vì chàng thanh niên chỉ còn có một bước nữa: thắng lòng ham muốn của mình, vượt lên cao hơn của cải chóng qua ở đời này để làm một điều là để hai bàn tay mình trong trắng, trơn tru, với con tim mở rộng để lắng nghe lời của Chúa và thực thi ý Chúa…Đúng, chàng thành niên giầu có ở đây đã làm được những điều thật đáng khen ngợi mà rất ít người đã làm được như chàng ta, nhưng có điều lòng tham tiền bạc, của cải vật chất đã bóp nghẹt con tim của chàng, bởi vì tình yêu của chàng thanh niên chưa đủ mạnh để làm được điều Chúa Giêsu đề nghị, hướng dẫn …Thực tế, chàng thanh niên giầu này chưa cảm nghiệm sâu xa lời thánh Phaolô gửi tín hữu Roma 7, 15 khi Ngài viết:” Điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm “. Thánh Phaolô giải thích, đó là tội lỗi, sự dữ trong ta, thúc đẩy ta làm điều không nên làm, còn nếu ta tin tưởng phó thác vào Chúa thì chính Ngài sẽ giải thoát chúng ta…Thánh Gioan định nghĩa Thiên Chúa là Tình Yêu. Tình yêu thúc bách chúng ta làm điều thiện, điều tốt. Yêu Chúa sẽ khiến chúng ta yêu mến anh em và không làm ngơ trước những nhu cầu khẩn thiết của anh chị em, của đồng bào mình.
Vâng, theo Chúa là trở nên tay không, trở nên trong trắng nhưng thực tế lại trở nên giầu có vì con người biết chia sẻ, biết cảm thông với những khó khăn, thử thách của con người. Theo Chúa lại trở nên giầu có vì coi anh em là huynh đệ, là con chung một Cha, là ra khỏi sự ích kỷ, tự mãn của lòng tham con người để đi vào bốn bể là anh em. Theo Chúa là mở ra lòng trao hiến, để biết phân chia những gì mình có, những gì mình coi là của cải mong manh, chóng qua ở đời này. Theo Chúa là mở toang cánh cửa cõi lòng, con tim để đón nhận anh em, đặc biêt là đón nhận những anh chị em nghèo, để chia sẻ, giúp đỡ họ với tấm lòng quảng đại của mình. Chúa Giêsu đã nói:” Con lạc đà chui qua lỗ kim, còn dễ hơn người giầu có vào Nước Trời “. Câu nói xem ra mỉa mai, nhưng thực tế là để diễn tả việc làm rất khó khăn, đòi hỏi con người phải có sức mạnh ở trên cao như lời thánh Phaolô đã viết:” Tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi “. Phải có ơn Chúa, Phaolô mới vượt thắng được những cam go thử thách đã làm Ngài hầu như không thể chịu đựng nổi. Theo Chúa để mất đi những gì thế gian coi là quí hóa như vợ con, ruộng vườn, nhà cửa, vật chất, của cải theo như thế gian đong đếm, coi trọng. Theo Chúa để được lại gấp trăm ngay từ đời này, và nhất là được sự sống đời đời.
Phaolô đã bỏ tất cả sự nghiệp cùng với danh vọng khi bị ngã ngựa ở Đamas, tuy nhiên Phaolô đã trở nên tông đồ kiên cường và nhiệt tâm cho dân ngoại, đã được Chúa cho lãnh triều thiên Nước Trời.Phêrô cũng vậy, khi Ông bỏ nghề đánh cả ở biển hô Galilê, Chúa lại cho Ông trở nên ngư phủ đánh lưới người. Khi Ông bỏ vợ, gia đình, con cái để đi theo Chúa, Chúa đã đặt Ngài làm đầu Hội Thánh,. Các Tông đồ khác cũng vậy, theo Chúa,các Ông đã được gấp trăm ở đời và được Chúa làm gia nghiệp. Do đó, theo Chúa chúng ta được lại rất nhiều và được Nước Trời, được chính Đức Giêsu (Pl 3, 8).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết vươn cao hơn để chúng con biết nhạy cảm trước nỗi đau khổ của kẻ khác và biết chia sẻ, cảm thông với những kẻ khó nghèo vv…Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Anh nhà giầu đã thưa với Chúa Giêsu thế nào?
2. Chúa Giêsu có buồn khi anh nhà giầu không dám làm theo đề nghị của Chúa không?
3. Theo Chúa là gì?
4. Của cải, vật chất có tồn tại không?
5. Theo Chúa sẽ được những gì?
45. Đồng tiền liền khúc ruột
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Chúa nhật 28 thường niên, năm B trình bầy cho mọi người về một câu chuyện hết sức thực tế, một chàng thanh niên đạo đức, muốn theo Chúa nhưng lại không muốn từ bỏ. Đồng tiền làm anh hoa mắt, của cải làm anh mù tối, do đó, dù anh đã giữ mọi giới răn, xem ra con đường của anh đã rộng mở thênh thang, nhưng để bước một bước tốt đẹp hơn nữa, Chúa nói: " Anh hãy về bán hết những gì anh có, phân chia cho người nghèo khó và đi theo Ngài ". Chàng thanh niên đâu có làm theo lời Chúa, anh tiu ngỉu, cúi xầm mặt và bỏ đi...
Tin mừng cho thấy nỗi buồn của Chúa Giêsu và chàng thanh niên con nhà giầu. Chúa Giêsu rất yêu thương người thanh niên, Ngài rất vui khi gặp anh ta và ngược lại anh ta cũng rất sung sướng vì gặp Chúa Giêsu. Bởi vì khi gặp Chúa, anh ta thưa Ngài là: “Thầy nhân lành” mà!. Chàng thanh niên nói trúng phóc điều lề luật đòi buộc: "Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ làm chứng gian, chớ trộm cắp, chớ làm hại ai, hãy thờ kính cha mẹ". Toàn là những chuyện lớn, quan trọng nhưng anh đều giữ cẩn thận từ bé. Điều đó thực đáng khen. Tuy nhiên, Chúa muốn hơn thế nữa, Chúa muốn anh phải hy sinh, từ bỏ, cắt bỏ những gì là dính bén, mới có thể thanh thản đi theo Ngài được và quả thực anh đã lúng túng, không dám từ bỏ, không dám tiến tới, anh chỉ dừng lại nơi vật chất, nơi của cải của anh mà thôi. Anh không dám ra khỏi con người, ra khỏi nô lệ tiền của. Anh muốn ước ao sự sống đời đời, nhưng thực tế, anh không dám cắt bỏ, không dám ra khỏi cái giằng co của tiền của và cái hạnh phúc đời đời. Chúa Giêsu còn nói người có của khó vào nước Thiên Chúa biết bao. Chúa nói điều ấy dù rằng vào thời của Ngài, giàu có được coi là một phúc lành của Thiên Chúa. Tuy nhiên, Chúa vẫn coi của cải là một trở ngại nguy hiểm bởi vì của cải dễ khiến con người khép kín lòng mình trước mặt Thiên Chúa và dễ dàng chà đạp lên quyền lợi của anh em, của tha nhân. Chúa Giêsu và các tông đồ, môn đệ của Ngài đã sống nghèo khó, sống như những người bơ vơ vất vưởng để dễ đặt lòng tin vào bàn tay của Thiên Chúa Cha.Theo Chúa Giêsu là chấp nhận tay trắng bấp bênh, chấp nhận đời sống khó nghèo. Nhưng chúng ta đừng quên theo Ngài cũng là để trở nên giầu có. Theo Chúa không phải để được giầu có theo sự khôn ngoan, theo sự suy nghĩ của con người, của trần gian. Theo Chúa không phải là bỏ nhà cửa, ruộng vườn, vợ con, cha mẹ, những người thân thương, ngay cả đến mạng sống của chính mình. Theo Chúa là được gấp trăm ngay cả ở đời này và nhất là đời sống vĩnh cửu sau này.Bằng chứng là các tông đồ khi họ bỏ cha mẹ, vợ con, nghề nghiệp lập tức họ đạt được chính Chúa và có nhiều người làm anh em. Phêrô được đứng đầu Hội Thánh khi ông từ bỏ vợ con, gia đình bé nhỏ của mình. Theo Chúa Giêsu, điều quan trọng nhất là chúng ta có được chính Chúa Giêsu.
Vâng, cái bi kịch của người thanh niên giầu có cũng là bi kịch của chúng ta. Chúng ta luôn có ước mơ chiếm được nước Trời nhưng đồng thời chúng ta vẫn bị ghì chặt bởi những của cải vật chất và tiền tài danh vọng. Của cải vật chất, tiền tài luôn có sức hấp dẫn thu hút chúng ta. Một đàng chúng ta muốn bỏ nó để bay cao, bay xa, nhưng đàng khác nó vẫn níu kéo chúng ta lại. Lòng ham mê của cải đã thắng con người, đã thắng tình yêu Thiên Chúa và tha nhân. Lòng tham lam đã bóp nghẹt con tim của mình đến nỗi thánh Phaolô đã nói: "Điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm" (Rm 7, 15). Đây là tội lỗi gây nên cho con người. Chỉ có Đức Kitô mới giải thoát chúng ta ra khỏi tội lỗi. Chúa Giêsu đã từng ngồi đồng bàn với những người giầu có, những người biệt phái, những người thu thuế. Ngài đã từng chịu ơn những người phụ nữ đạo đức giúp đỡ Ngài và các tông đồ. Chúa chỉ lến án những ai dùng tiền của như mục đích, coi của cải như chúa tể của mình mà tự đóng lòng không dám mở ra và sống quảng đại với tha nhân, với Thiên Chúa.
Mọi Kitô hữu muốn sống đúng theo Tin Mừng, thì điều quan trọng là phải biết từ bỏ. Từ bỏ không có nghĩa là khinh chê của cải, bần cùng hóa xã hội, nhưng biết hòa mình, chia sẻ, quảng đại với mọi người. Đồng thời luôn ý thức đồng tiền, vật chất không thể nào mua được nước Trời.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con luôn có con tim biết nhạy cảm để mở ra, chia sẻ và quảng đại đối với tha nhân.
46. Chọn tiền của hay Thiên Chúa?
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)
Trong một thế giới vật chất, văn minh: các phương tiện kỹ thuật càng lúc càng đi đến chỗ tinh vi, kinh tế, vật chất, tiền của luôn là những vấn đề sôi bỏng, luôn là những điểm nóng trong sinh hoạt hằng ngày, liệu nói về Thiên Chúa có còn hợp thời nữa không? Bài đọc thứ I trích trong sách khôn ngoan 7, 7-11 sẽ trả lời cho mọi người, cho mỗi người vấn nạn thời sự ấy. Khôn ngoan là kho tàng vô giá, là sự giầu sang thật. Khôn ngoan vừa là đặc tính siêu việt của Thiên Chúa, vừa là hồng ân Ngài trao tặng cho nhân loại, cho con người.
Đọan sách khôn ngoan hôm nay cho ta một bài học thật quí hoá vì trước mặt Thiên Chúa: “Đức khôn ngoan hơn vương trượng, ngai vàng...của cải bằng không. So với đức khôn ngoan, vàng chân châu bảo ngọc chẳng qua là một chút cát, bạc chẳng qua như chút bùn". Khôn ngoan là sự giầu sang, là sự hiệp thông với ân sủng của Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn con người có tinh thần nghèo khó khi phải đương đầu với thế lực của Mammôn, Satan, tiền bạc. Dù rằng trong cuộc đời rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu, Ngôi Lời của Thiên Chúa đã có lúc tham dự những bữa tiệc thịnh soạn, linh đình của những gia đình giầu có, những gia đình của những người biệt phái, từng ăn uống tại gia đình của những người thu thuế lắm tiền, từng nhận lãnh những ân huệ của những người phụ nữ tốt bụng, đạo hạnh nuôi dưỡng Chúa và các tông đồ. Chúa đã từng nói: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu có vào Nước Thiên Chúa" (Mc 10, 25). Chúa nói câu nói ấy để minh chứng: “thực hiện được như sách khôn ngoan đối với của cải vật chất là điều thật kho". Đoạn sách khôn ngoan hôm nay muốn làm nổi bật ý nghĩa của sự từ bỏ, đừng ham hố tiền của quá sức, coi bạc vàng, châu báu, của cải là cùng đích, là thần tượng của đời mình, coi Mammôn, Satan như là cứu cánh của cuộc đời con người, mà quên đi cốt lõi của đời là bác ái, chia sẻ để đạt được Nước Trời. Chàng thanh niên trong Tin Mừng Mc 10, 17-30 là một người tỏ ra hết sức đạo đức. Chàng đã thưa với Chúa Giêsu: “Những giới răn như chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ kính cha mẹ, chàng đã giữ từ hồi còn nhỏ" (Mc 10, 20). Chúa Giêsu khi nghe chàng thanh niên giầu có trả lời như thế, Ngài đã chạnh lòng thương chàng và muốn chàng đi xa thêm một bước nữa để có thể đạt đươc Nước Thiên Chúa. Do đó, Chúa âu yếm nói với chàng: "Hãy đem bán hết gia tài ngươi có, đem bố thí cho người nghèo khó, rồi hãy đi theo Ta" (Mc 10, 21). Câu nói của Chúa Giêsu đòi hỏi chàng thanh niên từ bỏ dính bén tiền của là thứ làm cản ngăn đường tới Nước Trời. Chàng thanh niên chỉ muốn sống mức độ bình thường của đời mình mà thiếu sự cảm thông, chia sẻ, bác ái đối với người khác. Chàng thiếu thật sự sự siêu thoát về tiền của, thiếu lòng thành đi theo Chúa vì Chúa: “Không có nơi nương tựa, không đá gối đầu ". Chúa đã sống sự siêu thoát, Ngài cũng muốn các môn đệ của Ngài hãy sống siêu thoát như Ngài. Đây là sự từ bỏ, siêu thoát mà người môn của Chúa phải có để có thể nối gót bước chân của Ngài. Chàng thanh niên đã để cho lòng ham muốn của cải níu kéo và bóp chết con tim của mình. Chàng đã để cho Mammôn, Satan và tiền của đã thắng tình yêu dành cho Thiên Chúa.
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta thấy nhiều đoạn Chúa Giêsu nói về những điều kiện để theo Ngài. "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá của mình mỗi ngày mà theo Ta" "Ai đã cầm cầy mà còn ngoái lui, không xứng đáng làm môn đệ của Ta". Thật vậy, Chúa đòi hỏi các môn đệ của Ngài một sự dứt khoát tận căn, đến nỗi khi sai các môn đệ đi truyền giáo, Ngài đã căn dặn các ông: "Đừng mang tiền, đừng mang bao bị...". Đây là sự từ bỏ tột đỉnh mà các môn đệ phải có khi các Ngài ra đi loan báo Tin mừng. Sự siêu thoát tiền bạc, của cải sẽ giúp các môn đệ của Chúa thanh thoát trong công việc loan báo Nước Trời. Không phải Chúa Giêsu muốn các môn đệ của mình bần cùng hoá thế giới, hoặc sống đời sống bần cùng mà Ngài muốn các môn đệ phải có con tim nhạy cảm, lòng bác ái chân thành. Do đó, sự siêu thoát là đòi hỏi căn bản của Chúa Giêsu đối với các môn đệ. Chúa muốn các môn đệ "có tinh thần nghèo khó". Tinh thần nghèo khó khác với tình trạng nghèo khổ. Sống tình trạng nghèo khổ, chắc không ai dám mong ước vì tinh thần nghèo khổ biến thế giới thành khốn khổ, khó nghèo. Tình trạng nghèo khó gây ra những tệ nạn xã hội, còn tinh thần nghèo khó là sự siêu thoát và từ bỏ mà Tin Mừng đề cao.
Tinh thần nghèo khó luôn giúp các môn đệ Chúa giữ được thế quân bình, siêu thoát với của cải cho dù mình dư ăn, dư của để dành nhưng họ biết dùng của cải đúng mục đích và biết liên đới, chia sẻ và bác ái với người khác. Chính vì thế có "tinh thần nghèo khó" là biết sống phó thác, cậy trông, yêu mến dù rằng mình giầu có, dư của, dư tiền, dư vật chất. Siêu thoát là tột đỉnh của từ bỏ. Nên, Chúa Giêsu đã từng nói: "Người ta sống nguyên bởi bánh mà còn bởi Lời Thiên Chúa phán ra".
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con biết sống từ bỏ mà phục vụ Chúa trong sự chia sẻ, cảm thông, bác ái với anh em chúng con. Amen.
47. Sự lựa chọn.
Cách đây một vài năm, Sir Kenneth Clark người Anh làm đầu chương trình trên TV “Nền Văn Hóa” nổi danh khắp thế giới. Clark theo chủ nghĩa nhân bản, không cho tôn giáo là việc quan trọng. Điều này không có nghĩa rằng ông khinh khi việc theo đạo hoặc lãnh đạm việc thờ phượng. Ngược lại, ông còn nói một vài nét đặc biệt của việc theo đạo. Một hôm, tại nhà thờ San Lorenzo ông đã lãnh nhận được một cảm nghiệm. Ông viết: “Trong một vài phút, cả người tôi như được soi sáng với một niềm vui thiên đàng mà còn hơn tất cả những cảm giác mà tôi đã từng trải qua.”
Khi nói về cảm tưởng đó, Clark đối diện với một câu hỏi: “Tôi phải làm gì với cái ơn đó?” Công khai, ông không phải là người theo đạo. Nếu ông tự nhiên trở thành một người theo đạo, thì gia đình ông và bạn bè ông sẽ nghĩ rằng ông đã dẫm vào chỗ lầm lạc. Và như thế, Clark đã lựa chọn không làm một cái gì hết với cảm tưởng mà ông đã lãnh nhận được. Ông hoàn toàn quay lưng lại trong vấn đề đó.
Câu truyện của Sir Kenneth Clark mang một ý nghĩa giống như câu truyện về người thanh niên giàu có trong bài Phúc Âm hôm nay.
Giống như người thanh niên giàu có, Kenneth là một người rất tốt, Kenneth tìm thấy một hấp dẫn ở nơi Chúa Giêsu một cách không thể ngờ được, Kenneth đã phải đương đầu với câu hỏi thật khó khăn để tìm được câu trả lời: Tôi phải làm gì?
Giống như người thanh niên giàu có, Sir Kenneth đã nghĩ đến cái giá phải trả nếu ông chọn theo Chúa Giêsu, nhưng ông đã từ chối ơn Chúa..
Sự hưởng ứng của người thanh niên giàu có và Sir Kenneth nhắc nhớ chúng ta dụ ngôn người gieo hạt giống. Đặc biệt là phần những hạt giống rơi trên vệ đường.
Chúa Giêsu đã giải thích rằng những hạt giống rơi trên vệ đường tượng trưng cho những người đón nhận lời Chúa, nhưng để cho quỉ dữ lấy đi trước khi nó đâm rễ vào cuộc đời của họ (Mc 4,15).
Hai câu truyện trên rất thích hợp với chúng ta bởi vì nó rất thực tế. Chúng diễn tả con người ngày nay cũng đang phải chiến đấu giữa những sự lựa chọn.
Người thanh niên giàu có trong Phúc Âm đã bị của cải thế gian làm cho lù mờ lời mời gọi của Chúa Giêsu. Cũng như thế, Sir Kenneth đã lựa chọn làm hài lòng gia đình và bạn bè hơn là theo Chúa. Cả hai người đều chạy theo vui thú thế gian thay vì kho tàng trên trời.
Điều này dẫn chúng ta đến con người của chúng ta. Sự ưu tiên của chúng ta là cái gì? Kho tàng thế gian quan trọng hơn hay là kho tàng đời sau?
Nếu sự ưu tiên của chúng ta là thế gian, thì chúng ta phải làm thế nào để đổi mới? Chúng ta phải làm sao để không đưa đến hậu quả giống như người thanh niên trong Phúc Âm? Vậy, chúng ta hãy cầu nguyện và nài xin ơn khôn ngoan để có thể nhìn ra những sự giả trá của thế gian mà không chạy theo chúng.
Bài đọc thứ hai nhắc nhở chúng ta rằng một ngày nào đó, chúng ta sẽ phải tính sổ về cuộc đời của chúng ta với Chúa. Thiên Chúa sẽ bắt chúng ta phải chịu trách nhiệm về những quyết định mà chúng ta làm. Ngài sẽ bắt chúng ta trả lời về những hành vi của quyết định của chúng ta.
Nói một cách khác, sự lựa chọn mà người thanh niên đã đương đầu thì chúng ta cũng vậy. Giống như họ, chúng ta phải làm một quyết định. Quyết định này sẽ giúp chúng ta định rõ không phải sự hạnh phúc thế gian mà thôi, nhưng là hạnh phúc vĩnh cửu.
48. Suy niệm của Lm. Bênađô Nguyễn Tiến Huân
Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó
Chúng ta chú ý đoạn đầu bài Phúc Âm hôm nay là "cái ông giàu có" tới hỏi Chúa Giêsu xem phải làm gì để được sống đời đời này, đã thực hiện cặn kẽ từ nhỏ tất cả những việc tiêu cực phải giữ như: không giết người, không ngoại tình, không trộm cắp, không chứng gian, không quịt người khác... Nhưng về phương diện tích cực chỉ có một điều duy nhất phải làm là "bán hết của cải giúp người nghèo khó rồi tới theo Chúa" (Mc 10,21) thì người ấy đã và vẫn không muốn làm. Do đó Chúa Giêsu mới tiếc cho ông ta: "Người giàu có khó vào nước thiên đàng biết bao" (Mc 10,23). Sau đó Ngài còn nói mạnh thêm: "Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước thiên đàng" (Mc 10,25).
Vậy kể như là người giàu có thì không thể vào nước thiên đàng được. Điều đó đúng. Nhưng phải hiểu thế nào là giàu có? Giàu có là những người có nhiều của cải tài sản vật chất, đó là dĩ nhiên. Nhưng điều quan trọng Chúa Giêsu có ý nhấn mạnh là lòng ham ước của cải. Nói khác là sự ham hố say mê vật chất mà quên phụng sự Chúa, là sự nô lệ của cải, coi của cải vật chất là cùng đích là chúa tể. Chính tinh thần nô lệ và coi của cải vật chất là chúa tể này làm ta không còn tìm Chúa, không còn tìm hạnh phúc thiên đàng thì làm sao ta có thể được Chúa, được hạnh phúc thiên đàng. Không thể vào nước thiên đàng được, như vậy là tất nhiên, bởi không tìm không muốn chứ không phải tại Chúa không muốn cho họ vào.
Vì thế không phải chỉ những ai giàu có mà cả những kẻ nghèo xác xơ nhưng để tinh thần ham mê của cải vật chất làm quên Chúa, quên hạnh phúc thiên đàng thì cũng vẫn không thể vào nước thiên đàng được. Trái lại những ai tuy giàu có vật chất nhưng không để lòng ham hố của cải cản trở việc tìm Chúa, tìm hạnh phúc thiên đàng mà chỉ dùng của cải như phương tiện để làm những việc đó thì vẫn vào thiên đàng được. Đó chính là cái chìa khóa để người giàu vào thiên đàng. Đó chính là bí quyết làm cho người giàu có thành nghèo khó trước mặt Chúa. Đó cũng chính là điều mà Chúa Giêsu nói: "Điều loài người không làm được thì Thiên Chúa làm được" (c. 27): Sự giàu có mà trong đó con người làm chủ thì không thể, nhưng để Thiên Chúa làm chủ thì lại có thể được. Vì thế Chúa mới nói "Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó vì nước Trời là của họ" (Mt 5,3).
Ở đây chúng ta cũng lại cần lưu ý: Việc từ bỏ của cải, nếu cần, luôn là một chứng minh của tinh thần nghèo khó bên trong. Đó cũng là cái trắc nghiệm mà Chúa Giêsu đã thử đối với cái ông giàu có trên kia: ông ta không muốn bỏ của cải gia tài mình, vậy ông không có tinh thần nghèo khó thực. Của cải giàu sang vật chất tự nó không xấu, không đáng trách. Cái xấu, cái đáng trách chính là tính ham mê, đến nô lệ của cải mà quên Chúa.
Lạy Chúa, con quyết dùng của cải vật chất mà, "mua lấy nước thiên đàng" (Lc 16,9) vì "Được lợi lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì ích gì!" (Mt 16,26)
49. Từ bỏ
Từ ngàn xưa qua các thời vua chúa đã có rất nhiều người phải tốn công sức thời gian, thậm chí cả tính mạng để tìm loại thuốc có thể làm cho mình được sống trường sinh bất tử. Nhưng cuối cùng thì cũng với chữ thất vọng và thất vọng. Vì đã là người thì không thể tránh khỏi sinh - lão- bệnh - tử. Người thanh niên trong bài Tin Mừng hôm nay cũng thế, anh ta nhận ra được sự sống tạm bợ, thời gian ngắn ngủi ở đời này. Vì vậy cần "phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp". Ai cũng có thể thấy được anh thanh niên hôm nay thật là rất may mắn, anh đã tìm được đúng người có thể chỉ cho anh biết cách tìm đến sự sống đời đời. Và cũng chính người này đã đưa ra cho anh hai điều kiện để được sự sống đó:
1. Giữ các điều răn.
Giữ các điều răn là một phương thế rất phổ thông và truyền thống trong đạo Do Thái, nó vốn là một nền tảng của đời sống đạo đức. Vì thế chàng thanh niên đã không chút do dự đáp ngay rằng mình đã giữ trọn tất cả. Nhưng suy cho cùng chàng thanh niên mới giữ những điều trên một cách rất tiêu cực, mới chỉ giữ được trong phạm vi gia đình, mới giữ luật để đừng bị phạm luật, chứ chưa giữ luật cách tiêu cực, chẳng hạn như qua việc anh ta khẳng định từ nhỏ đến giờ chưa làm hại ai. Nghĩa là anh ta chỉ làm việc bổn phận trong cá nhân mình, anh còn vo tròn trong ốc đảo bản thân. Nếu mà Đức Giêsu hỏi: "Ngươi đã làm được việc tốt lành nào cho tha nhân?" hoặc "với tài sản tiền của và tất cả những gì của ngươi bỏ ra thì người đã làm được việc tích cực nào cho tha nhân? Ngươi đã bỏ ra những gì để an ủi khích lệ kẻ khác như điều ngươi đáng phải làm?". Thì anh ta sẽ khó mà trả lời được. Nhìn chung người thanh niên này chỉ mới giữ luật vì luật mà thôi, và chỉ mới giữ cho bản thân chứ chưa hướng đến tha nhân và cho tha nhân. Đó cũng là cách giữ luật mà ngay nay ta thấy nhan nhãn trong cuộc sống. Nhất là trong giới trẻ và xã hội thời nay; một tuần người ta chỉ đi lễ ngày Chúa Nhật để khỏi bị mắc tội, để giữ đúng luật, khi đi dự lễ thì lại không có tâm tình gì, cũng chẳng có con tim nên khi đi tham dự thánh lễ thì cắt xén đứng ngoài, cầu cho mau hết giờ để đi về. Đó chính là cách giữ luật của người thanh niên hộm nay.
2. Bố thí của cải cho người nghèo
Sau khi đưa ra điều kiện thứ nhất, người thanh niên đã giữ thì "Đức Giêsu đem lòng yêu mến", Ngài muốn anh thực hành một điều nữa hoàn troàn anh có thể làm được, là chia sẻ cái anh có cho người nghèo, nhưng anh ta lại sa sầm nét mặt buồn rầu và bỏ đi. Vì anh ta có nhiều tài sản. Đức Giêsu đã kêu anh ta làm một công việc mà anh ta không hề muốn, nên khi được gợi ý anh ta đã không thể làm được vì trong đầu anh không bao giờ suy nghĩ là phải hy sinh những gì mình đang có. Như vậy lời Chúa kếu gọi đối với người khác thì bình thường, nhưng đối với anh ta là một thử thách quá lớn. Vì anh còn quá xem trọng giá trị vật chất khi đặt lên bàn cân thì tài sản hiện tại nặng hơn kho tàng vĩnh cữu, làm cho anh không thể theo Đức Giêsu nữa.. Đó cũng là căn bệnh mà phần đông chúng ta đều mắc phải, ai cũng muốn sống tôt lành thánh thiện, nhưng có ít người tha thiết muốn được nó đến mực phải chịu trả giá cho nó. Tuy nhiên cũng có nhiều mẫu gương cho chúng ta noi theo; như các thánh tử đạo, các ngài không những từ bỏ của cải vợ con mà còn chính mạng sống của mình. Khi mà người ta biết được gia trị của cuộc sống đời sau, biết được gia tài Chúa sẽ dành cho mình. Nhất là khi họ đã cảm nhận bằng tình yêu thì việc từ bỏ không những không nặng nề mà nó còn là một niềm vinh hạnh cho bản thân, họ xem đó như một ơn ban mà không phải ai cũng có được.
Cũng có những người dễ dàng theo Chúa khi họ không phải từ bỏ, không phải hy sinh, nhưng khi có công chuyện, nhà thờ họ đạo cần đóng góp, cần giúp đỡ cho người nghèo thị họ phàn nàn không muốn giúp đỡ, không muốn từ bỏ vì "đồng tiền liền khúc ruột". Cũng chính đồng tiền mà người ta có thể đánh mất lý tưởng của cuộc đời, vì đồng tiền mà người ta có thể đáng mất chính phẩm giá của mình và sẵn sàng chà đạp lên phẩm giá của người khác, vì tiền bạc của cải người ta có thể chối bỏ cả niềm tin. Nếu mối bận tâm chính của một người là của cải vật chất, thì người đó chỉ mới biết đến giá cả, mà không biết gì đến giá trị, chỉ nghĩ đến những gì người ta có thể mua bán bằng tiền bạc, mà quên đi còn cò những cái mà người ta không thể nào mua được bằng tiền bạc. Đó chính là cuộc sống vĩnh cữu, là sự sống đời đời.
Lạy Chúa, của cải vật chất có thể làm cho con lạc hướng, làm cho con không còn mạnh dạn bước theo Chúa. Xin cho con biết sử dụng của cải vật chất đời này như một phương tiện làm giàu cho cuộc sống mai sau. Amen.
50. Chúa nhìn chàng.
Qua đoạn Tin mừng hôm nay, có một chi tiết đáng cho chúng ta ghi nhận, đó là sau khi chàng thanh niên đến hỏi Chúa Giêsu:
- Thưa Thày nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?
Chúa Giêsu trả lời:
- Hẳn anh đã biết các điều răn: chờ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ ám hại ai, hãy thảo kính cha mẹ.
Anh ta nói:
- Thưa Thày, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ.
Bấy giờ, Chúa Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến.
Phải, Chúa Giêsu nhìn chàng và yêu mến chàng. Thế nhưng, đâu là điều đã làm cho Chúa Giêsu yêu mến?
Theo tôi nghĩ, điều làm cho Chúa Giêsu yêu mến không phải là sự trọn lành tương đối mà chàng đã đạt được ngay từ hồi còn nhỏ, đó là tuân giữ các điều răn của Ngài, nhưng là sự khắc khoải muốn được vươn lên, là sự cầu tiến của một tâm hồn thấy mình chưa được trọn lành, và chưa được thỏa mãn, là sự băn khoăn trước nhu cầu cần phải làm thêm hơn nữa.
Đó là một tâm hồn cởi mở tự nhận thấy, ít nữa là một cách lu mờ, rằng mình chưa làm gì hết, bao lâu còn có sự phải làm, mình chưa cho gì cả bao lâu còn có sự phải cho.
Thế nhưng, sau khi nghe Chúa Giêsu chỉ cho biết điều kiện cần thiết, điều kiện ắt có và đủ để được trở nên trọn lành, đó là hãy trở về, bán hết mọi của cải, làm phúc bố thí cho người nghèo khổ, rồi hãy đến mà theo Chúa…thì chàng đã hoang mang suy nghĩ, vì đó là một điều kiện cân não đòi buộc chàng phải từ bỏ. Sau đó, chàng đã lưỡng lự phân vân, để rồi cuối cùng chàng đã cúi mặt bỏ đi. Chàng đã không dám liều, không dám đánh đổi tất cả để được theo Chúa, chàng đã không có can đảm để hiến dâng trọn vẹn cho Chúa.
Phúc âm còn ghi rõ: sở dĩ như vậy vì chàng có nhiều sản nghiệp. Tiền bạc đã cản ngăn bước chân của chàng. Chúng ta cảm thấy tiếc xót cho chàng và cho Giáo hội vì đã mất đi một vị tông đồ nhiều thiện chí.
Rất có thể trong một giờ cầu nguyện sốt sắng nào đó, chúng ta cũng đã cảm thấy khắc khoải như chàng thanh niên. Chúng ta muốn thoát khỏi sự tầm thường, chúng ta muốn vươn lên, muốn ra khỏi tình trạng nọa lực thiêng liêng và chúng ta đã thành thực thưa lên cùng Chúa:
- Lạy Chúa, xin dạy cho con đường nẻo trọn lành.
Rất có thể trong thinh lặng, Chúa Giêsu cũng đã nhìn chúng ta và đem lòng yêu mến chúng ta. Và rồi sau cùng, Ngài cũng đưa ra một điều kiện cân não. Dĩ nhiên, Ngài không bảo chúng ta phải bán hết mọi của cải, nhưng Ngài bảo chúng ta phải từ bỏ ý riêng để theo ý Ngài:
- Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình.
Ý riêng ấy có thể là một mơ ước, một đam mê hão huyền. Ý riêng ấy có thể là cái chúng ta ưa thích nhưng không được đẹp lòng Chúa…
Rất có thể chúng ta cũng đã phân vân và lưỡng lự, chúng ta cũng đã hoang mang suy nghĩ và rồi cuối cùng chúng ta cũng đã buồn sầu bỏ đi vì cõi lòng chúng ta đã quá quyến luyến với những thực tại trần gian hay với những ước mơ hão huyền. Chính những cái đó đã cảm bước chân chúng ta tiến đến cùng Chúa.
Vì vậy, muốn theo Chúa, muốn đáp trả lời mời gọi của Ngài, chúng ta phải có can đảm, dám liều, dám đánh đổi tất cả những gì mình đang có và yêu thích để dấn thân vào một cuộc phiêu lưu.
Theo Chúa là phải từ bỏ. Không phải chỉ từ bỏ những của cải vật chất mà thôi, trái lại nhiều khi còn phải từ bỏ cả những khắc khoải của con tim như lời Chúa đã phán dạy:
- Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình,vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.
Xin cho con biết quảng đại và trung thành theo Chúa dù có gặp phải những gian nan thử thách trên bước đường tiến đến cùng Chúa.
51. Tiền của - Chia sẻ
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Có một người giàu có kia thường đến xưng tội với thánh Phi-líp-phê Nê-ri. Ông có nhiều tiển của, có thiện chí, nhưng ông vẫn cảm thấy mình không đạt được sự tiến bộ nào trên đường thiêng liêng. Từ chán nản đến thất vọng, cuối cùng ông bỏ cuộc và không trở lại xưng tội với thánh nhân nữa. Thấy ông đã lâu không đến xưng tội, thánh nhân tìm đến nhà ông để gặp ông. Sau một hồi trò chuyện, ngài nhìn lên cây Thánh giá treo trên tường, ngài cân nhắc độ cao của Thánh giá rồi đề nghị với người đàn ông giàu có: "Ông là người cao lớn, ông thử với coi có tới Thánh giá không?". Ông đứng dậy giơ cánh tay lên cố với nhưng không thể nào chạm tới Chúa Giêsu trên Thánh giá. Bấy giờ thánh Phi-lip-phê dùng hết sức đẩy cái hòm tiền của người giàu đến bên cạnh ông và bảo ông hãy đứng lên trên cái hòm tiền để với tới cây Thánh giá. Ông làm theo ý thánh nhân và sờ được Chúa Giêsu trên Thánh giá. Sau đó ngài nói với ông: "Để có thể nắm lấy được Chúa Giêsu, để có thể tiến bộ trên đường thiêng liêng, chúng ta cần phải đứng trên tiền bạc của cải".
Câu truyện trên phần nào tương tự như câu truyện trong bài Tin Mừng. Một thanh niên giàu có đến hỏi Chúa Giêsu: làm sao vừa có được đời sống giàu sang sung sướng lại vừa được sống đời đời? Chúa thông cảm, nhìn anh một cách trìu mến, vì thấy anh là một thanh niên mà đã biết nghĩ đến đời sống trọn lành, đã biết lo lắng cho cuộc đời mai sau.
Sở dĩ anh hỏi Chúa Giêsu như vậy là vì anh muốn làm môn đệ của Chúa. Anh nghĩ anh đã giữ được sáu điều răn của Chúa rồi: không giết người, không ngoại tình, không trộm cắp, không làm chứng gian, không lường gạt ai, không bất hiếu với cha mẹ. Vậy anh còn thiếu điều gì nữa? Chúa bảo anh hãy về bán hết của cải, không phải để cất giấu dành dụm, nhưng là đem chia sẻ cho người nghèo. Đối với Chúa, đó là điều kiện cho riêng anh để được trọn lành và làm môn đệ của Ngài. Nhưng điều kiện này anh lại không chấp nhận được vì anh có nhiều của cải, nên anh buồn bã rút lui. Đại bàng muốn cất cánh lên mây xanh, nhưng đã bị xiềng xích. Của cải vật chất đã xiềng anh ta lại mất rồi. Rõ ràng giữa Chúa và của cải, giữa đời sống trọn lành và tiền của, anh đã chọn của cải, chọn tiền của.
Qua trường hợp anh thanh niên này, Chúa Giêsu nghĩ tới tất cả những người bị xiềng xích như anh, nên Chúa nói với các môn đệ: "Các con ơi, vào được nước Thiên Chúa thật khó biết bao ! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa". Chúa nói đến nỗi khó chung của mọi người để vào nước Thiên Chúa rồi mới nói đến nỗi khó đặc biệt của người giàu. Đây chỉ là một kiểu nói sánh ví thôi, để chỉ một việc rất khó thực hiện, như những câu nói của Việt nam: "Lấy đá vá trời", "Tát bể đông cũng cạn". Đây là kiểu nói nhấn mạnh để in sâu vào tâm trí người nghe và làm nổi bật nỗi khó của người giàu. Tại sao có nhiều của cải, có nhiều tiền của lại khó vào nước trời?
Ai ai cũng công nhận rằng: của cải cần thiết cho đời sống con người. Của cải sẽ đem lại cho con người nhiều hạnh phúc hơn. Cả tây phương lẫn đông phương đều có chung quan niệm: bao tử đi trước, đầu óc theo sau; có thực mới vực được đạo; hoặc cần phải ăn trước đã, kế đến mới suy tư, triết lý. Tiền của cần thiết như thế nên Chúa Giêsu không bao giờ lên án tiền của hay người có tiền của, tức là người giàu. Ngài biết con người cần phải có tiền của để sống xứng đáng với cuộc sống của mình. Ngài biết "đồng liền liền khúc ruột", cần có tiền để sống, để giữ đạo nữa. Sự túng thiều, bần cùng là một sự dữ, loài người không ai muốn, thì Chúa cũng không muốn con cái Ngài phải vướng mắc vào. Tuy nhiên, tiền bạc của cải vẫn luôn là con dao hai lưỡi: được sử dụng như một phương tiện, tiền của sẽ giúp cho chúng ta sống đúng với phẩm giá của mình hơn. Trái lại, khi chúng ta chạy theo tiền của như cứu cánh cho cuộc đời mà quên đi những giá trị khác trong cuộc sống, nhất là những giá trị thiêng liêng, tinh thần thì nó sẽ làm cho chúng ta bị phá sản về vật chất cũng như tinh thần. Sự ham mê tiền của dễ làm cho người ta ra đen bạc, khó vào nước trời.
Nói rõ hơn, tiền của tự nó tốt và giúp ích cho con người. Nó chỉ xấu và có hại khi đem sử dụng vào những mục tiêu xấu. Đúng vậy, vì tiền của, người ta có thể đánh mất lý tưởng cuộc đời. Vì tiền của, người ta có thể chà đạp phẩm giá của mình cũng như của người khác. Vì tiền của, người ta có thể chối bỏ niềm tin. Vì tiền của, người ta có thể phớt lờ luôn cả tiếng lương tâm. Vì tiền của, người ta có thể làm những điều bất chính, tội lỗi... Đó là nguy cơ mà bất cứ ai cũng có thể rơi vào. Và người nào ham mê tiền của đến quên cả Chúa và quên cả anh em, thì đó chính là thứ lạc đà đứng trước lỗ kim, đó chính là người khó vào nước trời.
Anh thanh niên giàu có đã từ chối lời mời gọi của Chúa Giêsu. Anh không dám từ bỏ mọi sự để đi theo làm môn đệ Chúa. Tin Mừng lại cho biết: các tông đồ chính là những người đã đáp lại lời mời gọi ấy. Ông Phêrô đã nói lên điều đó như một niềm hãnh diện: "Còn chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy". Theo bản văn Tin Mừng Mác-cô thì ông Phêrô chỉ nêu lên thực trạng đó thôi, ông không đòi hỏi gì và cũng không xin xỏ gì. Nhưng trong Tin Mừng Mát-thêu thì lại cho biết ý của ông Phêrô muốn hỏi: "Vậy chúng con sẽ được cái gì?". Vì thế, nhân dịp này Chúa đã giải đáp một thắc mắc ngấm ngầm trong lòng các môn đệ. Việc các ông tranh giành ngôi thứ với nhau chứng tỏ các ông vẫn băn khoăn về chuyện các ông sẽ được cái gì. Không riêng gì ông Phêrô hay các môn đệ mà người tín hữu nào cũng có lúc thắc mắc như thế: chúng ta đi đạo, chúng ta tin Chúa, chúng ta sẽ được cái gì?
Chúa Giêsu bảo chúng ta: hãy dùng tiền của và cư xử cách nào để đem lại ích lợi cho cuộc sống hôm nay và đồng thời cũng đầu tư cho cuộc sống vĩnh cữu mai sau nữa. Một phương thế Chúa dạy là: hãy chia sẻ. Chúa không đòi chúng ta phải từ bỏ tất cả để theo Chúa, nhưng Chúa đòi chúng ta phải biết chia sẻ: chúng ta chia sẻ cho người khác một, Chúa sẽ trả lại cho chúng ta gấp nhiều lần hơn. Bởi vì một đồng tiền kinh doanh là một đồng tiền sinh lợi. Một ánh lửa chia sẻ là một ánh lửa tỏa lan. Một vết dầu thả lỏng là một vết dầu loang. Đôi môi có hé mở mới thu nhận được nhiều nụ cười. Bàn tay có mở rộng trao ban, tâm hồn mới tràn ngập vui sướng. Về mặt thiêng liêng cũng thế, chúng ta cho đi chúng ta sẽ được nhận lại. Chúng ta càng chia sẻ, chúng ta càng nhận lãnh trở lại nhiều hơn, nhất là Chúa sẻ trả lại nhiều hơn cho chúng ta ở đời sau.
52. Phần thưởng – Lm. Vũ Đình Tường
Ngày nay làm bất cứ công việc gì cũng có thưởng, kể cả đi mua hàng hóa ngoài chợ cũng có thưởng. Phần thưởng núp bóng dưới nhiều hình thức khác nhau. Ở trường đơn giản đóng dấu vào tay học sinh, ở nhà thưởng cái kẹo, cuối năm tên trên bảng danh dự. Ngoài xã hội thưởng cho vé bớt giá xăng dầu, mua đủ số lần được bớt dăm ba phần trăm. Phần thưởng đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống. Người ta làm vì thưởng, vui nhờ được thưởng. Phần thưởng khuyến khích làm việc tích cực hơn với mục đích rõ ràng. Chúng ảnh hưởng đến tâm lí con người và thúc đẩy con người làm công việc đó. Thành công thì vui, thất bại thì buồn như thế phần hưởng ảnh hưởng đến tình cảm vui buồn của cuộc sống hàng ngày. Người giầu có trong bài Phúc Âm hôm nay cũng mong được thưởng. Anh giầu có trọng luật lệ nên anh giữ trọn lề luật và hãnh diện về việc không phạm luật của mình.
Giầu có trần thế anh cảm thấy không yên tâm, vẫn thấy thiếu sao đó nên anh đến gặp Đức Kitô hỏi Ngài làm cách nào để anh được cảm thấy ấm lòng, bình yên trong tâm hồn. Đức Kitô vạch cho anh con đường bảo đảm phần thưởng trường sinh. Nghe xong anh không vui, buồn rầu bỏ đi. Đối với anh cái giá cho phần thưởng trường sinh quá lớn, lớn hơn cả gia tài. Chúng ta không biết rõ gia tài của anh giá trị ra sao, Phúc âm cho biết anh rất giầu và không muốn mất cái giầu có đó nên anh buồn rầu bỏ đi. Trọng luật cùng nghĩa với trọng tình nghĩa. Đức Kitô có lần cho biết tất cả mọi lề luật tóm gọn trong hai điều răn đó là mến Chúa và yêu người. Người ta có thể giữ kĩ các luật, mến Chúa hết lòng nhưng lại coi thường anh em, coi nhẹ luật yêu thương. Trọng Thiên Chúa nhưng lại khinh người có khác nào tử tế với cha và xử tệ với con. Đối với Thiên Chúa ngoài mến Chúa ra luật yêu thương là luật quan trọng nhất, con người lại bỏ qua hay coi nhẹ. Anh nhà giầu coi trọng luật lệ nhưng coi nhẹ việc giúp người nghèo túng. Đức Kitô nhắc anh cần làm tốt điều đó, luật yêu thương.
Ngày nay nhiều thương gia sống theo cách thức anh nhà giầu. Thành công, nổi tiếng, tự làm chủ, không bị lệ thuộc ai là điều các thương gia đang nhắm đến. Thành công và thành danh thì cứ tiếp tục tiến bước, dại gì mà thay đổi. Con người kinh tế muốn hoàn toàn tự lập và độc lập, không muốn dưới quyền ai và không muốn bắt chước ai và cũng không cho ai bắt chước cách thức dẫn họ đến thành công. Họ có thể gia nhập nhóm thành công để tạo thêm thế lực, nhưng họ vẫn độc lập làm ăn riêng rẽ và sống cho mình. Lối suy nghĩ này trái với đường lối Phúc Âm là chung sống, chia sẽ và hỗ trợ nhau. Phúc âm kêu gọi sinh hoạt cộng đồng, cùng hy sinh, cùng nhau phục vụ bởi tất cả đều là anh chị em, đều là con cái Thiên Chúa.
Cuộc sống ảnh hưởng bởi văn hoá ta đang sống và văn hoá đó thể hiện qua cuộc sống. Anh nhà giầu sống trong văn hoá của người giầu và anh quen với lối sống đó. Bán cả gia tài phân phát cho người nghèo để sống cuộc sống nay đói, mai khát là điều anh không thể làm, không hiểu. Anh thiếu văn hoá Phúc Âm trong cuộc sống bởi văn hoá đó kêu gọi đặt trọn niềm tin vào Chúa, sống hy sinh và phục vụ. Bởi thiếu văn hoá này mà anh không thể đáp lại điều Đức Kitô mời gọi. Muốn có loại văn hoá này anh cần để Phúc âm thấm nhập vào tâm hồn và muốn được thấm nhập thì phải từ bỏ văn hoá giầu sang để chung sống, cảm thông và hiểu như cầu người mình đang phục vụ.
Đức Kitô cho biết ai trọng của cải hơn con người thì không thể làm môn đệ Ngài. Ai trọng của cải hơn sự sống thì chưa sẵn sàng phục vụ nước Trời.
53. Bán trời – Lm. Vũ Đình Tường
Kitô hữu đôi khi khuyến khích nhau tích trữ ân sủng nước trời qua các câu "mua nước trời; mua thiên đàng; sắm gia tài bất diệt; ngân hàng thiên quốc".
Trên đời hễ có kẻ bán là có người mua, mại cả nước trời. Cách ví von dễ hiểu nhưng rất tai hại, gây hiểu lầm nguy hiểm cho đức tin. Kitô giáo có nhiều từ diễn tả tâm linh, tu đức và bác ái tốt hơn là các câu nêu trên. Dùng từ đơn giản diễn tả Nước Trời một sự thật cao quý, trọng đại là một nghệ thuật. Dùng sai mất nghệ thuật, sai ý muốn diễn tả, đưa tới hiểu lầm cho cả tín hữu lẫn kẻ tìm hiểu đạo. Những câu thắc mắc có thể của cải, vật chất mua nước trời kẻ nghèo lấy gì mua vì không có của. Vật chất mua được nước trời thì giải thích thế nào về mầu nhiệm thập giá. Đức Kitô có cần xuống thế để cứu chuộc nhân loại. Thiên đàng cho kẻ giầu; hỏa ngục cho kẻ nghèo. Hỏa ngục ồn ào hơn vì kẻ nghèo nhiều hơn kẻ giầu. Cần tránh cách ví von nguy hiểm đó.
Nước trời không thể mua sắm, không sang nhượng, không ai có để bán, cũng chẳng ai đủ xứng đáng để mua. Không thể bán thứ mình không làm chủ. Nước trời là vô giá nên không thể buôn, bán. Giá trị nước trời vô biên, không thể đo lường. Vật chất, tiền tài, con người làm chủ, mỗi thứ có giá trị riêng của nó. Mọi giá trị vật chất đều giới hạn nên không thể dùng để so sánh, chưa nói đến buôn bán. Khi so sánh của cải, vật chất lời khuyên thường là: hãy coi thường của cải vì chúng mau hư, chóng mục; khi nói về nước trời thì lại ví von mua nước trời. Dùng vật tầm thường mua của cao trọng là điều không thể xảy ra.
Nói đến buôn bán con người nghĩ đến của cải, vật chất. Ngôn từ dùng cho việc buôn bán, thương mại, trao đổi hàng hóa. Ngôn từ thương mại không thích hợp để diễn tả nước trời, thiên đàng, vĩnh cửu.
Phúc Âm xác quyết một điều là không thể dùng của cải để mua nước trời. Chuyện anh thanh niên giầu có lại coi trọng luật lệ trả lời cho vấn đề đang bàn thảo. Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?'
Chúa đưa mắt nhìn anh trìu mến nhắc khéo. 'Anh chỉ thiếu có một điều'. Thoáng nghe thấy nhẹ nhàng. Thiếu có một điều mà cần bán hết gia tài. Khó tin. Chúa nhìn anh bằng cái nhìn trìu mến. Đúng thế vì anh quỳ trước mặt Chúa, nơi công cộng, đông người. Điều này mấy ai làm được. Chúa mến anh vì anh chân thành, anh hiểu lầm giữa giữ đạo và hành đạo. Trong anh có niềm tự hào vì tuân giữ các lề luật, không phải mới đây mà là từ nhỏ. Đáng tự hào lắm chứ.
Anh thiếu một điều. Anh giữ đạo có phân nửa. Để thành tông đồ anh cần thực thi nửa kia. Giữ đạo là điều một; hành đạo là điều hai. Người thanh niên có điều một; thiếu điều hai. Nói rõ hơn anh thiếu hẳn phân nửa lề luật Chúa truyền tức là phần hành đạo. Tất cả lề luật trong đạo tóm gọn trong hai điều "mến Chúa, yêu người" (Mc 12,34). Anh mến Chúa nhưng chưa yêu người. Chúa nhắc mến Chúa suông chưa đủ; phải thực hành giới răn yêu người như thế mới giữ trọn lề luật. Chúa đề nghị anh bán tài sản cho người nghèo là một trong nhiều cách thực hiện lòng bác ái.
Bán hết gia tài chia cho người nghèo. Chúa kêu gọi người thanh niên giầu có hãy sống chung với anh em, đừng phân biệt giai cấp giầu nghèo. Môn đăng hộ đối không phải là lối sống Tin Mừng, tinh thần Phúc Âm.
Chúng ta trở lại câu: Lậy Thầy nhân lành. Ý tưởng con người dù tốt lành đến mấy cũng bất toàn. Anh thanh niên giầu có kia giữ trọn lề luật từ tấm bé. Lầm tưởng như thế là nhân lành. Chúa nhìn anh trìu mến vì tấm lòng chân thành của anh.
Anh thành thật, ngây thơ đáng thương hơn đáng trách. Với anh, giữ trọn lề luật là trở nên trọn lành, có được sự sống đời đời. Nghĩ và tin như thế. Chúa nhắc anh giữ trọn lề luật từ tấm bé rất tốt nhưng chưa trọn lành đâu. Vì thế Chúa nói: không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa. Có nhiều của, giữ lề luật anh thấy an tâm cho là như thế là đủ. Chúa dậy như thế chưa đủ vì còn thiếu tình thương. Giữ luật là sống cho riêng anh. Chúa gọi anh sống cho tha nhân. Anh từ chối lời mời đó. Anh đâu biết chu toàn lề luật chưa chắc có tự do. Lề luật không cứu được con người.
Khi Chúa sửa sai hẳn phải có vấn đề. Chúa hỏi sao anh nói Tôi là nhân lành. Dường như có ẩn ý trong câu nói của người thanh niên. Nếu không nằm trong câu hỏi thì tiềm ẩn trong câu đáp. Có thể anh hiểu giữ trọn lề luật là trở nên nhân lành nên anh hãnh diện thưa cùng Chúa tôi tuân giữ từ thuở nhỏ. Chúa cho biết không ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa.
Liền sau đó Chúa dậy anh về giới luật yêu thương. Bán những gì anh có mà cho người nghèo. Thực hành điều đó anh sẽ được một kho tàng trên trời. Kho tàng trên trời không mua bằng vật chất, của cải mà là tình thương và lòng mến trong thời gian sống tại thế.
Điểm cuối, người thanh niên giầu có kia coi Chúa như một vị thầy. Có lẽ điều anh muốn là Chúa xác nhận công việc anh đang làm là đúng, con đường anh đang đi là phải, đường đó giúp anh trở nên 'nhân lành'. Trở nên nhân lành vịn vào lề luật. Chúa không xác định điều đó lại còn cho biết anh còn thiếu, chưa giữ đúng luật. Điều anh mong đợi không toại nguyện, việc anh làm không được ca khen, chỉ nhận được cái nhìn trìu mến. Hẳn nhiên mặt anh xìu xuống, không còn tươi tỉnh như khi đến. Anh buồn rầu bỏ đi. Không tin Chúa nên không đáp lại lời Chúa. Anh đâu biết có những luật để giữ nhưng có những luật để thực hành. Luật thực hành Chúa muốn nói đến là luật yêu thương và luật bác ái. Luật này không phải để giữ mà phải thực hành, sống bác ái.
Ai muốn trở thành môn đệ Chúa người đó phải sống tinh thần yêu thương, thực hành đức ái trong đời sống hàng ngày. Luật lệ làm cho ta sống yên ổn nhưng luật không ban sự sống.
54. Lòng nhân từ.
Tại sao người thanh niên đã đến với Đức Giêsu? Một người thanh niên ở vào địa vị của anh ta hẳn sẽ hạnh phúc nhiều hơn với số phận của mình. Điều gì vẫn còn làm anh phải thắc mắc? Điều gì còn làm cho tâm hồn anh chưa chai cứng vì của cải? Chúng ta không biết. Nhưng chúng ta biết chắc người ta có thể trở thành tự mãn đến nỗi họ không còn nghe được sự kêu gọi của một đời sống tốt đẹp hơn. Anh ta hỏi: “Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?” Là một thanh niên, anh khao khát hành động. Anh đã nhận thức rằng chỉ có công việc mới đáng kể. Điều này hẳn đã làm Đức Giêsu yêu mến anh ta. Vì khi chúng ta càng già, chúng ta càng kiên định trong công việc.
Và anh đã có một nền tảng vững chắc dưới chân mình. Anh ta có thể nói: “Tôi đã giữ mọi giới răn. Tôi không giết người. Tôi không ăn cắp của ai, hoặc lừa đảo ai. Tôi không phạm tội ngoại tình. Tôi không làm mất danh dự của cha mẹ tôi”.
Ở đây không chút nghi ngờ, anh có một cuộc sống tốt và là một thanh niên đáng kính – một người con mà bất cứ cha mẹ nào cũng phải tự hào. Một kiểu mẫu chăng? Phải – đến một mức độ nào đó. Khi chúng ta xem xét yêu sách của anh ta về sự cao cả, người ta ít bị thuyết phục hơn. Vậy anh ta không giết người, không trộm cắp, không phạm tội ngoại tình… hay tóm gọn lại, điều anh thanh niên nói là: “Tôi không làm cho ai bị tổn hại” – đây là một tiêu chuẩn phủ định. Và thật ngạc nhiên khi có nhiều người nghĩ rằng đó là tiêu chuẩn cao nhất của đức hạnh.
Chắc chắn chúng ta đang đối diện với một thanh niên tốt, một người có cuốn vở bài học sạch sẽ. Nhưng có phải là một người nổi bật không? Có phải là một thanh niên đã trải qua gian khổ và đã chứng tỏ được chính mình? Không, anh ta chỉ đơn giản là không bị thử thách. Nhưng sắp được thử thách. Đức Giêsu nhìn anh với lòng yêu mến. Người đã nhìn thấy những tiềm năng lớn trong anh. Rồi Người đề nghị với anh một quan điểm mới về nhân từ – một quan điểm tích cực – chủ yếu không phải chỉ là tránh điều xấu mà là làm điều tốt. Người nói: “Nếu anh muốn làm điều trọn hảo, anh hãy bán hết những gì anh có mà cho người nghèo – rồi hãy đến theo tôi, và anh sẽ có được một kho tàng trên trời”.
Đức Giêsu muốn giải phóng người thanh niên ấy khỏi lòng ham mê sở hữu và chỉ cho anh con đường chia sẻ thương xót. Nhưng người thanh niên không vươn lên nổi. Vì thế, anh bỏ đi lòng buồn bã.
Tại sao anh ta buồn? Bởi vì thách đố mà Đức Giêsu xuất phát từ anh ta đã tạo thành một quan điểm về sự cao cả thật lóe sáng trong tâm hồn trẻ trung và quảng đại của anh. Tuy nhiên, cái giá đó quá cao. Vì thế anh ta trở về với đời sống cũ và với những tiện nghi và an toàn cũ. Chắc chắn anh ta sẽ còn tiếp tục mơ đến việc làm một điều gì thật sự đáng giá với cuộc đời mình. Nhưng trong thời gian, giấc mơ ấy sẽ phai nhạt dần.Thật thú vị khi Đức Giêsu để anh ta đi. Người ta từ bỏ của cải rất khó khăn, bởi vì điều ấy có nghĩa là tước đoạt họ khỏi mọi tài sản mà họ phải dựa vào đó như thân thế, sự an toàn và thụ hưởng đời sống. Nhưng đó chính là lý do tại sao các môn đệ của Đức Giêsu phải từ bỏ của cải. Cốt lõi của đức tin Kitô giáo là đặt sự tín thác của con người vào Thiên Chúa và trông cậy vào Thiên Chúa như là suối nguồn duy nhất cho sự an toàn và hạnh phúc. Khi Đức Giêsu nói: “Hãy đi bán những gì anh có…” Người không có ý nói rằng các môn đệ phải túng thiếu. Đời sống của người nghèo, với khó khăn và đau khổ không được đưa ra như một lý tưởng cho các môn đệ của Đức Kitô. Nhưng mặt khác ước muốn chiếm hữu và tích lũy của cải cũng không được chấp nhận. Giống như người thanh niên, một đôi khi chúng ta cũng mơ đến đời sống của một Kitô hữu chân chính. Chúng ta mơ – nhưng có sẵn sàng hành động không? Chúng ta chỉ mơ ước những điều ấy mà không nỗ lực thực hiện. Đối với những người nỗ lực thực hiện, phần thưởng sẽ to lớn ngay cả trong đời này bằng những từ ngữ đầy ý nghĩa, tràn đầy và vui mừng – mặc dù phải trải qua những nỗi gian nan và khó khăn. Ngay khi nói với người thanh niên, Đức Giêsu không cho phép chúng ta bằng lòng với một lời giải đáp không đòi hỏi điều tốt nhất trong chúng ta. Một người bạn chân thành là một người bạn buộc chúng ta phải thực hiện giấc mơ đẹp nhất của tuổi thanh xuân. Người bạn ấy thách thức và kéo căng chúng ta đến giới hạn của khả năng chúng ta và vượt qua nó, để sau đó, chúng ta sẽ có những tiêu chuẩn mới qua đó tự phán đoán chính mình.
55. Quan trọng.
Người thanh niên hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để thừa hưởng sự sống đời đời?” Rõ ràng là anh ta đã hỏi một câu hỏi khác, nếu không hỏi Đức Giêsu thì cũng đã hỏi một người khác. Câu hỏi đó là: Mục đích của đời này là gì? Câu trả lời là: để có được sự sống đời đời.
Đấy là hai câu hỏi quan trọng nhất trong cuộc đời. hầu hết chúng ta cũng đã hỏi như thế khi chúng ta còn trẻ. Có lẽ chúng ta không còn hỏi những câu hỏi đó nữa? Hiện nay chúng ta đang ở trên chuyến tàu hỏa của đời sống, được nó đưa về phía trước không thể lay chuyển được, và dường như với một tốc độ ngày càng tăng dần, nhưng nơi mà con tàu hướng về không còn là giải pháp mà chúng ta muốn biết.
Tại sao lại như thế? Có thể vì chúng ta quá vướng bận với hành lý, hoặc với những trò chơi hay sự tiêu khiển đến nỗi chúng ta không còn thời gian dành cho những vấn đề như thế? Hoặc có thể giống như người thanh niên đã đến với Đức Giêsu, chúng ta thấy rằng đặt những câu hỏi như thế quả là nguy hiểm.
Bầu khí chúng ta đang sống không khuyến khích kiểu đặt câu hỏi và suy tư đó. Những vấn đề về tinh thần hiếm khi là chủ đề trong các câu chuyện ở bàn ăn hoặc trong các câu chuyện thân mật giữa bạn bè. Người ta chú trọng nhiều hơn đến việc làm, những vấn đề gia đình, và những giải pháp chính trị và kinh tế trong ngày. Những cuộc tranh luận về các giá trị đạo đức và niềm tin về tâm linh hiếm khi xảy ra. Thật vậy, những đề tài này dù ít hay nhiều cũng là điều cấm kỵ.
Chúng ta là những con người thực tiễn. Chúng ta muốn có những lời giải đáp mà không muốn có vấn đề. Những vấn đề đạo đức và tinh thần là những giải pháp khó khăn. Một nhà phân tâm học người Mỹ đã nói:
“Ở một tầm mức rộng lớn, đời sống chúng ta được dùng để tránh đối đầu với chính mình. Hầu hết những hoạt động hàng ngày của chúng ta làm cho điều đó được dễ dàng. Chúng làm chúng ta xao lãng chính mình và việc suy tư. Chúng ta được trấn an bởi những sự tầm thường”.
Đức Giêsu đã trả lời người thanh niên: “Anh hãy giữ các giới răn”. Và người thanh niên nói: “Tôi đã giữ các giới răn”.
Đối với Đức Giêsu giữ các giới răn chỉ là mức tối thiểu. Người biết rằng người thanh niên này có khả năng nhiều hơn. Thật vậy, anh có khả năng đạt được điều cao cả. Vì thế Người nói với anh: “Nếu anh muốn nên trọn lành, anh hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo rồi hãy đến theo tôi”.
Người thanh niên đã đứng trên bờ vực của một thế giới mới mẻ và lôi cuốn. Tuy nhiên, anh lập tức nhận ra rằng anh không thể bước vào thế giới mới này mà không nói lời giã từ thế giới cũ của anh. Anh ngần ngại. Anh phân vân. Anh nhìn về thế giới cũ ấy và bắt đầu cân nhắc những gì anh đang bỏ lại phía sau. Thình lình anh đã nhận ra rằng anh không thể làm được điều đó. Có quá nhiều điều trong thế giới cũ mà anh yêu thích và thèm muốn, chính vì thế mà anh từ khước lời mời gọi của Đức Giêsu.
Một số người không muốn bỏ mất dù chỉ một giá trị cũ của họ để có được một giá trị mới. Nếu chúng ta sợ mất đi những lạc thú của thế giới cũ, chúng ta sẽ không bao giờ nếm hưởng những niềm vui của thế giới mới.
Đức Giêsu đòi hỏi nỗ lực tối đa của chúng ta khi Người đòi hỏi người thanh niên. Người không muốn chúng ta bằng lòng với bất kỳ điều gì kém cỏi. Lời thách thức: “Nếu anh muốn nên trọn hảo”, cũng xuất phát từ chính chúng ta. Tuy nhiên, để đảm nhiệm thách thức đó, chúng ta được kêu gọi phải hy sinh. Hy sinh điều gì còn tùy vào mỗi người chúng ta. Chúng ta phải nhìn kỹ tâm hồn mình để biết chúng ta phải từ bỏ điều gì để đáp lại lời kêu gọi ấy.
Sự hiện diện của chúng ta ở đây mỗi Chúa nhật bắt chúng ta phải suy nghĩ về những câu hỏi cao cả ấy. Chúng ta được nhắc nhở đời sống là một cuộc hành hương đến nước trời vĩnh cửu. Chúng ta nghe Lời Chúa và đón tiếp Thánh Thể. Nhưng chúng ta phải nhớ lại rằng sự cứu chuộc luôn luôn là sự thành tựu của Thiên Chúa. Người nào tin vào chính mình sẽ không bao giờ được cứu. Người nào tin vào quyền năng cứu độ và tình yêu cứu thoát của Thiên Chúa mới có thể bước vào ơn cứu độ một cách tự do.
56. Hy sinh.
Một ngày nọ, một cậu thiếu niên đến gặp ông nội cậu và xin ông đi câu cá với cậu. Ông nội cậu là một người thợ rèn, liền nói: “Ngay sau khi ông đóng móng cho cặp ngựa này, ông sẽ đi với cháu”.
Cậu bé bắt đầu đi thơ thẩn xung quanh lò rèn. Ông nội báo cho cậu biết đừng sờ vào các móng ngựa bởi vì nó có mấy cái còn rất nóng. Nhưng khi ông vừa quay lưng đi, thì đứa cháu đã cầm lấy một cái. Thấy nóng quá, cậu lập tức buông cho móng ngựa rơi ra và kêu lên một tiếng. Ông nội cậu nghe được tiếng kêu liền hỏi: “Con có bị sao không?”.
“Không”, cậu bé nói dối.
“Chắc không?”
“Nhưng nếu cháu đau thì ông có thể giúp cháu”
“Không cháu không sao mà”
“Vậy cháu không bị phỏng chứ?”
“Không”
“Nếu cháu không sao thì tốt, vậy sao cháu lại buông cái móng ngựa nhanh thế”.
“Cháu đâu cần nhiều thời gian để xem nó.” Cậu bé đáp.
Không cần nhiều thời gian để xem và rồi buông bỏ như câu chuyện của Đức Giêsu cho chúng ta thấy.
Rõ ràng, người thanh niên đến gặp Đức Giêsu vì anh ta thán phục Người – anh ta gọi Người là “Thầy nhân lành”. Có được người thán phục là chuyện dễ nhưng tìm được người muốn hy sinh là chuyện khó. Khi Đức Giêsu yêu cầu anh đem cho mọi người của cải và trở thành môn đệ của Người thì xem ra đó là một hy sinh quá lớn đối với anh. Anh buồn bã bỏ đi. Tại sao buồn? Bởi vì thách đố mà Đức Giêsu đưa ra cho anh đã tạo thành một quan điểm về sự cao cả thật lóe sáng lên trong tâm trí trẻ trung của anh ta. Anh ta thấy quan điểm này thật hấp dẫn nhưng phải trả giá quá đắt. Anh ta biết điều đó khi quay lưng lại với Đức Giêsu, đồng thời cũng khước từ quan điểm đó. Vì thế anh bỏ đi lòng buồn bã.
Đức Giêsu đã để cho anh đi. Người đã tôn trọng tự do của anh. Không có ích gì khi bắt buộc người ta phải hy sinh. Nếu họ không hy sinh, họ sẽ trở nên nghèo nàn. Nhưng nếu họ tự do đón nhận hy sinh, họ sẽ được phong phú. Con người chủ yếu tốt lành. Nhưng sự tốt lành phải được thức tỉnh và được phát huy nếu họ muốn bước vào vương quốc của tình yêu.
Không phải cái chúng ta nhận làm chúng ta trở nên cao cả mà là cái chúng ta cho đi. Bởi cho đi, chúng ta trưởng thành. Có một nguy cơ là tôn giáo có thể trở thành quá dễ dãi. Mọi tôn giáo lớn đều dạy rằng không có phần thưởng nào không đòi từ bỏ hay trả giá.
Một câu hỏi có lần được gởi đi khắp các trường trung học ở New York hỏi rằng: Bạn thích được như thế nào? Hai phần ba học sinh đều đáp: “Được nổi tiếng”. Họ không có ý tưởng nào về việc phải cống hiến mình để hoàn thành một công việc.
Trong thâm tâm, mọi người chúng ta khao khát sự tốt lành. Chúng ta có một giấc mơ phải làm một điều gì thật sự có giá trị với cuộc đời mình. Chúng ta biết rằng theo đuổi giấc mơ ấy bao hàm sự hy sinh nhưng cũng đem lại niềm vui to lớn. Chính Thiên Chúa đã đặt khát vọng ấy trong tâm hồn chúng ta.
Đức Giêsu hứa ban một phần thưởng ngay trên đời này cho những ai đi theo Người – phần thưởng của tình bằng hữu, và của một đời sống có mục đích và ý nghĩa. Và thật nghịch lý, không phải là một đời sống dễ dãi dẫn đến sự viên mãn và niềm vui mà là một đời sống của sự hy sinh.
57. Suy niệm của Lm Vincent Âu Quốc Thanh.
Người đời thường dùng tiền để đo lường mức độ tình yêu hoặc sự thân thiết với nhau. Ví dụ, nếu có người bạn quen sơ lập gia đình và lịch sự gửi thiệp hồng thì người được mời cũng phải lịch sự gửi thiệp chúc mừng với ngân phiếu khoảng 50 Mỹ kim. Nếu đi ăn tiệc ở California, thì tấm ngân phiếu nầy chỉ gỡ huề cho Anh Chị mới cưới thôi. Nếu cô dâu hoặc chú rể là người bạn thân thì người đi dự tiệc cưới sẽ phải mừng ít là một hình cụ Tổng Thống Adam (100 đô). Nếu Chú bác, ông và, cha mẹ thì phải cho đi mấy cụ mới hợp tình nghĩa.
Qua thí dụ trên, chúng ta thấy rằng tình thân thiết giữa người đi dự tiệc cưới và cô dâu chú rễ càng mạnh mẽ thì người ta càng dễ thoát ly tiền của, càng dễ cho tiền của cách quãng đại
Trong bài Phúc âm hôm nay Chúa Giêsu cũng muốn dùng tiền để đo lòng chàng thanh hiên giầu có. Dựa trên những lời của chàng thanh niên, chúng ta thấy tình thân thiết của chàng và Thiên Chúa thuộc vào hàng trên trung bình. Là một người Israel đạo hạnh biết kính sợ Thiên Chúa từ tấm bé, chàng không phạm tội tà dâm, không giết người, không làm chứng gian và không lường gạt. Có lẽ chàng cũng đã dâng cúng cho Thiên Chúa 10% những hoa lợi hàng năm. Tuy nhiên, khi Chúa Giêsu đòi chàng phải bán hết gia tài và phân phát cho người nghèo và theo Ngài với hai bàn tay trắng thì chàng đã buồn rầu bỏ đi. Đồng tiền liền khúc ruột; thật khó cắt bỏ lòng quyến luyến tiền của.
Nhưng khước từ tiền của lại là một điều kiện không có không được để theo Chúa. Khi theo Chúa, người môn đệ không dựa vào tiền của nhưng phải tin tưởng sức mạnh tuyệt đối của Thiên Chúa. Môn đệ của Chúa Kitô không chủ trương - có tiền chẳng mạnh thì bạo, hay - có tiền chán vạn người hầu, có bấc có dầu chán vạn kẻ khêu. Người chủ trương mạnh vì tiền sẽ khó vào nước Trời vì lòng họ khó có thể hiền lành và khiêm nhượng. Lời Chúa hôm nay cảnh tỉnh chúng ta: lòng mê man tiền của là một chướng ngại vật rất to lớn cho những người muốn làm môn đệ đích thực của Chúa Giêsu. Lòng yêu chuộng tiền của càng lớn lên thì lòng yêu Chúa càng kém đi.
Có nhiều người môn đệ của Chúa Kitô đang phải đấm ngực ăn năn vì lòng mê tham tiền của. Có lẽ chúng ta không can đảm bỏ đi như chàng thanh niên vì sợ người đời chê cười là hèn nhát. Chúng ta vẫn theo bước Chúa Kitô và vẫn mang danh là Kitô hữu, nhưng cuộc sống thực tế của chúng ta có lẽ cũng đáng làm cho chúng ta phải buồn rầu vì đã không dám bán hết của cải để theo Chúa Giêsu với một trái tim không chia sẻ.
Nhiều bạn trẻ sẵn lòng bỏ ra mấy chụd Mỹ kim để dẫn bồ đi coi xinê, nghe nhạc, hay ăn tại Red Lobster nhưng lại thấy tiếc khi bỏ cho nhà thờ mấy đô la. Vì thế mới có câu: Some people pay tithes to the waitress but tip to God (Một số người đóng tiền thập phân cho cô chạy bàn nhưng cho Chúa tiền lẻ (tiền tip). Còn những bậc người lớn đã theo Chúa Kitô lâu năm, thử hỏi lòng ta đã thoát ly tiền của được bao nhiêu. Hay lại mắc phải tật càng già càng thích tích trữ mọi thứ đồ dùng. Lỡ nói nói luôn kẻo mang tiếng kỳ thị từng lớp người. Ngay cả những tu sĩ và linh mục là những người hứa sống đời sống nghèo của Phúc âm cũng cần phải buồn rầu, ăn năn vì đã không sống xứng đáng với những ơn Chúa đã ban. Tu sĩ mà lại thích giầy Nike hay Addidas quá đáng; linh mục mà thích chơi xe xì-bo (sport car) loại mới nhất; thất khó hiểu và khó coi làm sao. Có lẽ có đấng sẽ chữa rằng Chúa ban lại gấp trăm ở đời này lẫn đời sau mà. Xin Chúa là Đấng thấu suốt và đo lường mọi tình cảm trong tâm hồn minh xét cho chúng con. Lòng ta tôn thờ kính yêu Thiên Chúa hay thần tài?
58. Bước theo Chúa Giêsu - Lm Nguyễn Hữu An.
Các bạn trẻ thân mến!
Tôi xin được chia sẻ một đôi Suy niệm của mình về người thanh niên trong trang Tin Mừng hôm nay.
- Đây là một người trẻ rất giàu có.
Tin Mừng không nói cho ta hay nguồn gốc về tài sản của anh, nhưng qua cuộc sống đạo hạnh của mình, chứng tỏ rằng anh là người dễ thành công trong cuộc sống và thực sự anh thành công trong cuộc sống trần thế. Anh ta có nhiều của cải
- Anh cũng là một người trẻ Do Thái công chính, ngay thẳng, không dối gian.
Bằng chứng qua việc anh tuân giữ các giới răn của Chúa thật tốt ngay từ lúc còn bé và dĩ nhiên đến hôm nay “chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ”. Thật là một người trẻ tuyệt vời trong đời sống niềm tin và xã hội của người Do Thái. Chính Chúa Giêsu cũng nhìn anh với ánh mắt yêu thương và trìu mến.
- Anh là người biết cầu tiến.
Sự cầu tiến ở đây không chỉ ở phương diện thế trần mà còn thể hiện trong đời sống tâm linh của anh “ Lạy Thầy nhân lành! Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”. Sự giàu có về vật chất, lòng đạo tinh tuyền của một người Do Thái, không làm cho anh tự kiêu tự mãn như anh biệt phái trong câu chuyện “người thu thuế và anh biệt phái lên đền thờ cầu nguyện”, trái lại anh vẫn luôn nghe được tiếng réo gọi trong tâm hồn anh về khát vọng sống đời đời. Anh khao khát và anh kiếm tìm. Anh kiếm tìm và anh đã gặp Chúa Giêsu là nguồn mạch sự sống đời đời. Thánh Luca ghi lại “khi ấy Đức Giêsu vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người “. Đây là một cử chỉ mang tính phụng vụ, cử chỉ của con người trước thần linh và như thế, người thanh niên này đã bước từ Do Thái giáo sang Kitô giáo. Thật là một quyết định sáng suốt, can đảm và khôn ngoan. Anh muốn được Đức Giêsu chỉ dạy như một vị Thầy.
- Nhưng tiếc thay! Anh không thể hoàn tất khởi đầu thuận lợi ấy. Anh thiếu một điều cơ bản là “ bỏ mọi sự để thuộc về Đức Kitô”
Thật vậy! Trang Tin Mừng cho ta thấy một khởi đầu thuận lợi nơi cuộc gặp gỡ và đối thoại giữa Chúa Giêsu và người thanh niên. Ai trong chúng ta và có lẽ chính anh cũng nghĩ rằng anh đầy đủ điều kiện để đón lấy sự sống đời đời mà không cần phải làm gì hơn nữa. Chính lúc ấy, và lần đầu tiên anh phải đối diện với Lời là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Lời mà thư Do Thái đã diễn tả thật hay “ Lời Thiên Chúa là lời hằng sống, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tuỷ, lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người …” (Dt 4,12-13). Lời đã hoá thành xác phàm và đang đứng trước mặt anh: Đức Giêsu thành Nagiaret. Lời muốn anh đón tiếp Người để trao cho anh quyền làm Con Thiên Chúa, đây là ân huệ tuyệt đỉnh nhất mà Thiên Chúa muốn ban cho con người, đó cũng là sự sống đời đời mà anh khao khát kiếm tìm. Đón tiếp Ngài bằng một sự khó nghèo, một sự từ bỏ “anh chỉ thiếu có một điều, là hãy về bán hết những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời rồi hãy đến theo tôi.”.
Nghe lời trên anh sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi vì anh ta có nhiều tiền của. Anh sáng của Lời Hằng Sống tưởng sẽ xuyên thấu và đổi mới tâm hồn chàng trai trẻ bỗng khựng lại bởi bức tường của tiền bạc đang bao phủ vây kín cuộc đời anh, níu chặt lấy anh không cho anh bước theo Đức Giêsu. “ tim anh phút chốc bừng nắng hạ, nhưng tiếc thay mặt trời là lời chân lý không thể chói qua tim anh bởi anh đã khép tim mình lại trong bóng tối của tham sân si”.
Các bạn trẻ thân thương!
Qua câu chuyện của người thanh niên trong Tin Mừng, tôi rút ra mấy xác tín cho người trẻ chúng mình:
+ Thiên Chúa mới chính là gia nghiệp và là hạnh phúc đích thực cuộc đời của chúng ta chứ không phải tiền bạc, danh vọng, địa vị hay bất cứ một thế lực nào đó trên trần gian này. Người trẻ trong trang Tin Mừng là một minh chứng hùng hồn về nhận định “tiền không phải là tất cả”. Sự giàu sang không thể khoả lấp cơn đói khát nằm sâu trong tâm hồn con người. Trái lại sự giàu có dễ trở biến thành rào cản ta lãnh nhận hạnh phúc đích thực từ Thiên Chúa. Thánh Augustinô sau những tháng năm tìm kiếm sự thoả mãn cơn đói khát trong tâm hồn mình bằng danh - lợi - thú trần gian, cuối cùng Ngài mới nhận ra rằng “ Lạy Chúa! Chúa dựng nên chúng con là để cho Chúa, và vì thế tâm hồn chúng con khát khao cho đến khi nào được an nghỉ trong Ngài”. Sống và được no thoả trong Thiên Chúa thánh nhân đã nức nở “ ôi con yêu Chúa quá muộn màng, Ngài đã chiến thắng, con mù loà Ngài đã chiếu sáng, Ngài toả ngát hương và làm con say mến, Ngài là dịu êm và lòng con thao thức ngày đêm”. Mong thay, bạn sẽ không phải hối hận thốt lên như Augustiô “ôi! Con yêu Chúa quá muộn màng”. Nhưng nếu đã thấy đã muộn thì mau quay về với Ngài. Ngài vẫn chờ bạn như người cha ngóng chờ đứa con hoang đàng trở về. Bạn ơi! Hãy cho Chúa một cơ hội, một niềm vui, một lễ hội trên thiên đàng qua sự trở về của bạn. Bạn ơi với Chúa “ một ngày ví tựa ngàn năm”. Bởi đó, đối với Chúa không bao giờ là trễ cả.
+ Chúa Giêsu là vị Thầy duy nhất hướng dẫn ta đến cùng Thiên Chúa. Chính Ngài đã khẳng định “ không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”. Thánh Phêrô cũng đã tuyên xưng” bỏ Thầy con biết đi theo ai. Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Bởi Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Và như vậy hạnh phúc và ý nghĩa đời ta tuỳ thuộc vào thái độ và tương quan của ta với Đức Kitô. Anh Charles de Foucaul xác tín “ biết Đức Kitô đó là tất cả, phần còn lại chẳng là gì hết”. Biết Đức Kitô là biết, yêu mến và nên một với Người.
+ Bước theo Đức Kitô đòi ta phải từ bỏ không phải một lần nhưng là mọi ngày trong suốt đời ta. “ Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập gía mình hàng ngày mà theo tôi”. Sự đòi hỏi của Đức Kitô có tính triệt để hiến dâng “không có tình yêu nào cao hơn tình yêu của người hiến mạng sống mình vì người mình yêu”. Bạn và tôi được mời gọi từ bỏ những gì mình có, từ bỏ những gì làm thành cuộc đời mình, để thuộc về Đức Kitô cách trọn vẹn hơn. Cụ thể, người trẻ chúng mình phải bỏ qua lối sống đạo hời hợt bên ngoài, sống đạo cách tiêu cực, sống đạo theo thói quen mà thiếu hẳn xác tín, thiếu hẳn tình yêu và nhất là thiếu tính dấn thân trong việc sống, làm chứng và loan báo Chúa Kitô cho những người xung quanh
Cầu chúc các bạn hạnh phúc và làm cho mọi người và Thiên Chúa hạnh phúc.
59. Người công chính Tân Ước - Lm Nguyễn Hữu An.
Một thanh niên tốt có thiện chí,giữ trọn các giới răn của Chúa và còn muốn làm điều tốt hơn nữa để được sự sống đời đời.Chúa Giêsu đem lòng yêu mến người thanh niên này. Chàng trai thật dễ thương, khắc khoải muốn vươn lên,băn khoăn muốn làm thêm gì đó để nên tốt hơn, thao thức hướng tới trọn lành,có tinh thần cầu tiến. Anh ước mơ một vùng trời lý tưởng,ước mơ ấy cất tiếng gọi anh đi tìm “Thầy nhân lành”.”Thưa Thầy, tôi phải làm gì để đạt được ước mơ mà tôi hằng ấp ủ? Người thanh niên hỏi Chúa Giêsu với tất cả tấm lòng chân thành.”Hãy từ bỏ hết tất cả những gì con có rồi theo Ta.”. Nghe xong, người thanh niên buồn bả bỏ đi (Mt 19,20-21).Và từ đó ước mơ của anh héo úa theo dòng đời.Các môn đệ tiếc nuối: sao Thầy không chiêu mộ người thanh niên giàu có này làm môn đệ nhỉ? Còn Chúa Giêsu thì thương tiếc anh và những người giàu: “Những người giàu có mà vaò Nước Chúa thật khó biết bao,! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Chúa”
Niềm hy vọng có một con đường dẫn thẳng đến Thiên Chúa đã khơi dậy niềm vui lớn lao thế nào thì giờ đây lại là một nổi buồn thất vọng chua chát. Phấn khởi gặp Chúa nhưng lại ra đi đầy phiền muộn, chàng trai trẻ không muốn trả giá, không muốn mạo hiểm làm môn đệ,anh chỉ muốn giũ của cải đảm bảo cho cuộc sống vật chất, phòng thân, dưỡng già. Muốn theo Chúa Giêsu nhưng nhưng anh vấp phải một chướng ngại, một sức khống chế, đó là lòng gắn bó với của cải. Của cải như tấm kính mờ che lấp ánh sáng khi mà ánh sáng muốn soi vào lòng anh. Người thanh niên này có tất cả để được hạnh phúc nhưng chỉ còn thiếu một điều là khả năng theo Chúa.
Những thanh niên tốt như vậy thời nào cũng có nhưng hiếm có những thanh niên thiết tha đến việc trở nên tốt hơn và lại càng hiếm hoi những người trẻ nhân hậu xứng đáng nên mẫu gương thu hút kẻ khác.
Người thanh niên Do thái này là người tốt,sùng đạo và khao khát sự sống đời đời. Anh có duyên may gặp được Chúa Giêsu, một bậc thầy có lòng nhân hậu.Nhưng tiếc thay! Anh không đủ can đảm, không đủ quãng đại bác ái để đáp ứng đòi hỏi của Chúa Giêsu là từ bỏ những gì mình có để theo Ngài.
Chúa đòi hỏi nơi anh điều anh muốn giữ lại vì của cải là chỗ dựa của đời anh. Anh sẵn sàng làm mọi điều Chúa đòi hỏi trừ việc bỏ chỗ dựa này. Nô lệ cho của cải, người thanh niên không đủ can đảm để ra khỏi ràng buộc. Người giàu có không được cứu độ chẳng phải vì họ giàu, nhưng sự trói chặt của vật chất của cải làm cho họ nô lệ và lãng quên Thiên Chúa. Của cải có thể là cạm bẫy che mất lương tâm, cản trở bước đường đến trọn lành. Người giàu lấy của che thân. Người nghèo lấy thân che của. Giàu không phải là tội, nghèo chẳng phải là nhân đức. Điều quan trọng theo tinh thần Phúc âm là thái độ con người trước của cải vật chất.
Bi kịch của người thanh niên cũng là của chúng ta. Ai trong chúng ta cũng đã từng bị giằng co giữa ước mơ bay cao và sự kéo gì của vật chất. Của cải vật chất có sức hấp dẫn mãnh liệt. Con người làm chủ nó và dần dần nó làm chủ con người, trở thành lẽ sống mà con người không thể dứt bỏ.
Những tiêu chuẩn con người đang đặt ra để trói buộc nhau như tiền tài, địa vị, danh vọng không thật sự làm cho mình sống thảnh thơi hạnh phúc. Chúa Giêsu mang đến cho chúng ta một tin vui. Có những niềm hạnh phúc lớn lao mà Thiên Chúa ban cho chúng ta qua từng phút giây đang sống. Biết dừng lại đề thưởng thức một nụ cười, một bông hoa, một cử chỉ yêu thương, một việc làm bác ái, đọc một cuốn sách hay, một cuộc trò chuyện, một buổi tối đọc kinh chung trong gia đình, trong khu xóm, dâng một thánh lể sốt sắng, dự một giờ chầu sốt mến… Giàu tiền mà không biết cười, không biết yêu thương, không có niềm vui nội tâm thì cũng chỉ là bất hạnh. Con người con có những giá trị tinh thần, những giá trị thiêng liêng chứ không chỉ dừng lại nơi cơm áo gạo tiền.
Người thanh niên trong Tin mừng hôm nay là người trẻ đàng hoàng và lương thiện, sống một cuộc sống không có gì đáng chê trách, không có tội lỗi gì đáng phàn nàn, không có tật xấu để sửa sai. Anh là hình ảnh người công chính Cựu ước chu toàn lề luật. Chúa Giêsu âu yếm nhìn anh và muốn anh tiến thêm một bước nữa để nên người Công Chính Tân Ước: bán gia tài bố thí cho người nghèo, sẽ có một kho báu trên trời và hãy theo Ngài. Đó là điều kiện nên người công chính Tân ước.
Không ngoại tình, không giết người, không trộm cắp, không làm chứng gian, không lường gạt ai, không bất hiếu với cha mẹ, đó mới là điều kiện thứ nhất sống tốt lành về mặt luân lý. Điều kiện thứ hai là tin và theo Đức Giêsu. Không phải chỉ cần không làm việc này, việc nọ đã là nhân lành, thiện hảo, người Kitô hữu được mời gọi sống cao hơn, đó là chia sẽ tình thương với tha nhân, tin và bước theo Chúa mỗi ngày.
60. Nguy cơ làm nô lệ cho tiền của
(Suy niệm của Lm. Ngô Tôn Huấn)
Sống trên đời này, không ai có thể ngây thơ nói rằng tiền bạc không cần thiết. Thực tế, về một phương diện và đến một mức độ nhất định, thì phải nói ngược lại là tiền bạc rất quan trọng và cần thiết. Cụ thể sống ở đất Mỹ này, không có tiền thì làm sao trả "bills" hàng tháng? Không trả bills thì điện nước trong nhà sẽ bị cúp, xe đang chậy, nhà đang ở sẽ bị ngân hàng lấy lại để bán cho người khác.v.v. Nhà thờ, nhà xứ không có đủ tiền chi phí thì Điạ phận sẽ đóng cửa hoặc sáp nhập (consolidate) với giáo xứ khác.
Đây là thực tế không ai có thể phủ nhận được. Cho nên, trong giới hạn cần thiết này, tiền bạc trở thành yếu tố rất quan trọng cho đời sống cá nhân, gia đình và cho cả việc thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội điạ phương và hoàn vũ.
Chính trong giới hạn cần thiết này mà Thánh Gia-cô-bê đã phải nói: " Giả sử có người anh em hay chị em không có aó che thân và không có đủ của ăn hàng ngày mà có ai trong anh em lại nói với họ rằng: Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích gì?" (Gc 2:15-16)
Nghĩa là phải cho họ ăn no đã rồi hãy nói đến chuyên tinh thần hay giảng đạo cho họ. Câu "có thực mới vực được đạo" rất đúng để áp dụng trong trường hợp này.
Tuy nhiên, cũng không vì lý do thực tế này mà quá đề cao hay lệ thuộc vào tiền của đến nỗi coi nhẹ mục đích tối thượng của đời mình với tư cách là người tín hữu Chúa Kitô sống trong trần thế. Mục đích tối thượng đó chính là Thiên Chúa và Vương Quốc của Người.
Thật vậy, bài Tin Mừng Chúa nhật 28 thường niên hôm nay chỉ cho chúng ta thấy rõ nguy cơ của sự nô lệ cho tiền của, giầu sang vật chất đến độ coi phần rỗi là thứ yếu. Chàng thanh niên giầu có kia đã tuân giữ mọi điều răn căn bản Chúa dạy như không trộm cắp, giết người, gian dâm, làm chứng dối v,v. Như thế anh ta đã hơn rất nhiều người khác về phương diện rất quan trọng này và đáng được khen ngợi, đề cao.Tuy nhiên chỉ còn một điều nữa mà anh còn thiếu để trở nên hoàn hảo trọn vẹn, đó là đem bán mọi thứ anh đang có và dùng tiền ấy để bố thí cho người nghèo như Chúa Giêsu bảo anh. Nhưng anh ta đã buồn rầu khi nghe lời khuyên này của Chúa, và đã quay đi chỉ vì " anh có nhiều của cải" (x Mc 10:17-22). Anh không thể chấp nhận lời khuyên của Chúa để "được một kho tàng trên trời" vì anh lòng anh quá bám chặt vào kho tàng ở đời này là tiền bạc và của cải vật chất. Như vậy, trước hết, anh đã không có được cái khôn ngoan của bài đọc 1 trong đó tác giả đã viết:
"... vàng trên cả thế giới, so với đức Khôn Ngoan, cũng chỉ là cát bụi, và bạc, so với đức Khôn Ngoan, cũng kể như bùn đất." (x Wis 7: 9)
Đức Khôn Ngoan dạy cho ta biết dùng của cải vật chất trong đúng giới hạn cần thiết của nó mà thôi.Nếu không có đức Khôn Ngoan này, thì chúng ta cũng không hơn gì người thanh niên giầu có kia, không thể hy sinh của cải đời này để đổi lấy "kho tàng vô giá trên trời" là chính Thiên Chúa và Vương Quốc bình an của Người. Chính vì thiếu đức Khôn Ngoan này cho nên con người ở khắp nơi trên thế giới ngày nay, trong đó không thiếu gì những người có đức tin Kitô Giáo, đã chậy theo những quyến rũ của chủ nghiã vật chất tiêu thụ (materiarism and consumerism) đang lao đầu vào việc tìm kiếm tiền của bất chấp mọi nguyên tác đạo đức và công bằng. Người ta mặc sức làm giầu bằng mọi phương thế, kể cả lừa đảo, bọc lột nhau và dửng dưng trước sự nghèo đói, khốn cùng của biết bao anh chị em đồng loại ở khắp nơi trên khắp thế giới.
Những người này cần nghe lời cảnh giác sau đây của Chúa Giêsu: "Đồ ngốc, nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?. Kẻ nào thu tích của cải cho mình mà không lo làm giầu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như vậy." (Lc 12:20-21).
Thử hỏi: chúng ta có đang học lấy đức Khôn Ngoan để biết dùng tiền của cho đúng với mục đích của nó hầu mưu ích cho phần rỗi của mình và giúp ích cho kẻ khác, hay đang tôn thờ tiền của, phương hại cho mục đích tối thượng của đời mình?
61. Suy niệm của Chiara Lubich.
“Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”
Lời này là mấu chốt giúp ta hiểu lập trường của Đức Giêsu đối với của cải. Hình ảnh thật mạnh mẽ, nghịch lý, theo kiểu văn phong Xê-mít. Của cải và Nước Thiên Chúa là không tương thích, và có muốn tìm cách giảm nhẹ một giáo huấn xuất hiện nhiều lần trong lời giảng của Đức Giêsu cũng vô ích. Chẳng hạn, Người nói không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Mam-mon (nghĩa là tiền của) được. Người dường như đòi hỏi nơi chàng thanh niên con nhà giàu những từ bỏ mà đối với con người là không thể được nhưng đối với Thiên Chúa thì có thể.
Nhưng ta hãy cố gắng tìm hiểu ý nghĩa đích thực của lời này từ chính Đức Giêsu, từ mối quan hệ của Người với những người nhà giàu.
Người cũng giao du với những người khá giả. Với Da-kêu, là người đã cho đi chỉ có phân nửa tài sản của mình, Người nói: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này”. Ngoài ra, Sách Công Vụ Tông Đồ cho thấy việc các Kitô hữu để của cải làm tài sản chung trong Hội Thánh tiên khởi chỉ là sự tự phát, tự nguyện thôi.
Bởi thế, Đức Giêsu đã không có ý định chỉ thành lập một cộng đoàn gồm những người được kêu gọi theo Người, từ bỏ toàn bộ tài sản của mình.
Ấy thế mà Người phán: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”
Vậy Đức Giêsu lên án điều gì? Chắc chắn không phải của cải trên trái đất này, nhưng là việc ta gắn bó với nó.
Tại sao vậy?
Thật rõ ràng: vì mọi sự đều thuộc về Thiên Chúa, thế mà người giàu có lại xử sự như thể của cải thuộc riêng bản thân mình.
Sự thật là của cải dễ dàng chiếm chỗ của Thiên Chúa trong tâm hồn con người; của cải làm ta mù quáng và giúp mọi tật xấu sinh sôi nảy nở. Tông đồ Phao-lô viết: “Còn những kẻ muốn làm giàu, thì sa chước cám dỗ, sa vào cạm bẫy và nhiều ước muốn ngu xuẩn độc hại; đó là những thứ làm cho con người chìm đắm trong cảnh hủy diệt tiêu vong. Thật thế, cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé”.
Vậy thì người có của nên có thái độ nào? Họ cần giữ cho tâm hồn của mình được tự do, hoàn toàn bỏ ngỏ cho Thiên Chúa. Họ nên nhận thức rằng mình là người quản lý những của cải của họ, và như Đức Gio-an Phao-lô II nói, họ nên biết rằng những của cải này là “tài sản cầm cố của xã hội”.
Vì của cải trên thế gian này tự bản chất không xấu, cho nên không được khinh chê của cải, mà phải sử dụng nó cho tốt.
Tâm hồn ta, chứ không phải bàn tay ta, mới phải lánh xa của cải. Vấn đề là phải biết sử dụng nó để làm ích cho tha nhân.
Ai giàu có là giàu có vì lợi ích của tha nhân.
“Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”
Có người sẽ nói: tôi đâu có giàu, nghèo rớt mùng tơi thì có, thành thử những lời này không áp dụng đối với tôi.
Ta phải thận trọng. Câu hỏi mà các môn đệ đã sửng sốt hỏi Đức Kitô ngay sau khi nghe lời tuyên bố ấy là: “Thế thì ai có thể được cứu độ?” Câu này rõ ràng hàm ý một cách nào đó lời ấy ngỏ với mọi người.
Ngay cả người đã từ bỏ mọi sự để theo Đức Kitô cũng có thể dính bén, vấn vương hàng nghìn thứ. Ngay cả người nghèo, trong bị thì chỉ có mỗi một mẩu bánh mà ngoài miệng sẵn sàng rủa sả bất kỳ ai đụng tới mẩu bánh vụn ấy cũng có thể là người giàu có trước mắt Thiên Chúa.
Ấy vậy mà, trong lịch sử Hội Thánh, có nhiều người giàu có đã chẳng bỏ đi. Họ đã đi theo Đức Giêsu trên con đường nghèo khó một cách triệt để nhất. Đó là trường hợp của Eletto, mà tôi biết rõ: một thanh niên cao to, đẹp trai, thông minh và giàu có. Khi nghe tiếng Thiên Chúa gọi hãy theo Người, anh không chút do dự. Anh đã chẳng ngoảnh mặt đi. Của cải dường như không tồn tại đối với anh. Anh đã cho đi toàn bộ tài sản và ngay cả mạng sống của mình. Anh đã chết đuối trong một cái hồ đang khi thực hiện một hành vi bác ái đối với một bé trai; năm đó anh mới 33 tuổi. Tại chính nơi đó, bên bờ hồ, những lời sau đây đã được viết lên một bia tưởng niệm: “Tôi đã chọn duy chỉ Thiên Chúa, chỉ Thiên Chúa mà thôi, không gì khác”.
Khi xuất hiện trước Đức Giêsu, chắc chắn Eletto đã chẳng nghe những lời này: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”.
62. Suy niệm của Lm Mark Link.
VÌ TÌNH YÊU CHÚNG TA PHẢI LÀM NHIỀU HƠN NỮA
“Chỉ cần chúng ta tiến về phía Chúa một bước, thì Ngài sẽ chạy về phía chúng ta mừơi bước”
James Kallam kể lại một mẩu chuyện vui trong các bài viết của ông như sau: Cách đây nhiều năm, có một thanh niên làm nghề bán sách rong từ nhà này đến nhà kia, anh đến hành nghề tại một vùng quê nọ. Một hôm, anh vào nhà một nông gia, ông này đang ngồi trên chiếc ghế xích đu ở cổng trước. Chàng thanh niên đến gần người nông dân nhiệt tình ngỏ lời: “Thưa ông, tôi có bán một cuốn sách chỉ cách canh tác sinh lợi gấp 10 lần cách ông đang làm”.
Người nông dân chẳng thèm ngước lên. Ông tiếp tục đong đưa chiếc ghế đu. Cuối cùng, sau vài phút, ông ta liếc mắt nhìn chàng thanh niên rồi nói; “Này anh bạn trẻ, tôi chả cần sách của anh, tôi cũng biết làm thế nào để canh tác sinh lợi gấp 10 lần cách thức tôi hiện đang làm”.
***
Câu chuyện trên giúp ta hiểu rõ điều Chúa Giêsu đang nói trong bài Phúc Âm hôm nay. Người nông dân có khả năng canh tác tốt hơn nhưng ông ta lại thiếu nhiệt tình để dấn thân làm điều ấy. Chàng thanh niên giàu có trong bài Tin Mừng cũng dư sức làm nhiều hơn là chỉ tuân giữ các giới luật, nhưng anh ta chả có nhiệt tình để làm điều ấy. Bài Phúc Âm hôm nay nói thẳng cho ta thấy Kitô giáo không chỉ hệ tại việc tuân giữ các lệnh truyền. Chúa Giêsu tra vấn anh chàng giàu có về sự tuân giữ lệnh truyền như là khởi điểm cho đời sống Kitô hữu. Chàng trả lời là đã tuân giữ tất cả lệnh truyền ấy, tức là chưa hề làm gì thương tổn ai… Về điểm này Chúa Giêsu tỏ ra thán phục anh ta. Nhưng đồng thời Ngài lại cho chàng ta thấy rõ Kitô giáo không chỉ là việc tuân giữ các huấn lệnh tiêu cực ấy như đừng trộm cắp hay lừa đảo…. Kitô giáo mang tính tích cực hơn nhiều: Ngài nói thẳng với anh chàng giàu có:
“Anh chưa bao giờ gây thương tổn cho ai quả là đáng khen, nhưng anh đã làm gì để giúp đỡ ai chưa? Anh đã biết dùng của cải để cho kẻ đói ăn, cho kẻ trần truồng mặc, cho kẻ vô gia cư trú ngụ chưa?”
Chính khi nghe điều này anh chàng giàu có kia nhận ra mình vẫn còn khiếm khuyết biết bao. Vì vậy Chúa Giêsu bèn thách thức anh: 'Nếu muốn theo tôi thì anh hãy thay đổi cách nhìn đi, đừng chỉ nhắm đến sự tốt lành một cách tiêu cực, tỉ như không gây thiệt hại cho ai – và anh hãy nhắm sống tốt lành một cách tích cực hơn, chẳng hạn như giúp đỡ người khác. Cứ thực hành điều này, anh sẽ tìm thấy hạnh phúc ngay trong cuộc sống này và cả trong cuộc sống mai sau”
Thách đố Chúa Giêsu đặt ra cho anh chàng giàu có thể tóm lược như sau; Anh có dám chấp nhận mọi thiệt thòi để đạt được cuộc sống vĩnh cửu mà anh mong muốn không? Anh có quan niệm bước theo tôi là bị thiệt thòi không? Nghĩa là anh có sẵn sàng hy sinh của cải của anh để được sống vĩnh cửu, cũng như để theo tôi không?
Anh chàng giàu có trả lời:
- Thưa thầy, tôi cũng muốn theo Ngài lắm, nhưng tôi không muốn chấp nhận sự thiệt thòi kia;
Thế là anh chàng thanh niên giàu có đành từ chối lời mời gọi của Chúa Giêsu. Việc dùng của cải không chỉ cho bản thân và gia đình xem ra là một hy sinh quá lớn đối với anh.
Điều này bày ra trước mắt mỗi người chúng ta ngay bây giờ hình ảnh sau: Nhiều người trong chúng ta giống như anh nông dân ngồi chơi trước cổng nhà. Chúng ta biết rõ chính mình có thể trở thành một Kitô hữu, tốt hơn gấp mười lần tình trạng hiện nay nhưng chúng ta vẫn thiếu nhiệt tình để làm điều ấy.
Chúng ta khác nào anh chàng giàu có trong Phúc Âm hôm nay. Chúng ta cũng đã tuân giữ những luật truyền, nhưng chúng ta vẫn chưa đủ quảng đại hết sức có thể đối với những người túng thiếu, kẻ trần trụi và người đói khát.
Vì công việc đó đòi hỏi chúng ta phải hy sinh, phải chấp nhận thiệt thòi, đau khổ, phải can đảm và phải khôn ngoan sáng suốt để nhận ra rằng sự hy đó là cần thiết để đem lại an bình và vui tươi trong tâm hồn. Và để có thể hy sinh và chấp nhận những thiệt thòi đau khổ đó, điều hết sức quan trọng là phải có một động lực mạnh để thúc đẩy ta, và động lực đó chính là tình yêu: yêu Thiên Chúa và thương tha nhân. Tình yêu đó sẽ thúc đẩy chúng ta làm nhiều hơn những đòi hỏi tiêu cực của lề luật: cấm hại người, cấm gian dối, cấm trộm cắp… Một thanh niên yêu một thiếu nữ sẽ không chỉ hài lòng với việc không làm hại cô ấy, không nói dối, không xúc phạm đến cô ấy.. Tình yêu khiến anh phải làm hơn như thế rất nhiều, và nếu không làm hơn được như thế, chắc chắn đó không phải là tình yêu. Cũng vậy, nếu chúng ta chỉ hài lòng với những giới luật Chúa dạy, chúng ta mới chỉ là người “quen biết” với Chúa, chưa phải là người yêu Chúa. Nếu chúng ta không muốn làm điều gì tích cực hơn nữa, chính là vì chúng ta thiếu tình yêu, chúng ta chưa yêu Chúa và thương tha nhân.
Chắc chắn nhiều người trong chúng ta đã biết mình phải làm gì để trở thành một Kitô hữu tốt hơn gấp mười lần hiện nay, nhưng chúng ta đã không làm, vì chúng ta thiếu tình yêu, thiếu nhiệt tình. Cũng như anh chàng nông dân ngồi trên ghế xích đu kia, anh đã biết rõ phải làm gì để canh tác có hiệu quả gấp mười lần phương pháp anh đang làm, nhưng anh đã không thèm làm. Lý do có thể là anh ngại ngùng phải bỏ vốn ra nhiều hơn, phải bỏ ra nhiều công sức hơn, phải mệt mỏi hơn. Lý do sâu xa hơn khiến anh ngại là vì anh chưa thấy nhu cầu của vợ con anh đang càng ngày càng tăng lên, hay anh chưa đủ quan tâm đến những nhu cầu ấy, hay nói cách khác đi là tình yêu của anh đối với những người thân của mình chưa đủ mạnh để thúc đẩy anh hoạt động, làm những gì phải làm và nên làm.
Tình trạng đó Thánh Phaolô cũng đã cảm nghiệm được nơi con người của ngài. Ngài viết: “Quả thực ngay những gì điều tôi làm tôi cũng không hiểu được nữa, vì những gì tôi muốn thì tôi lại không làm, còn những gì tôi không muốn thì tôi lại cứ làm” (Rm 7:15). Và ngài đã giải thích tình trạng đó như sau: không phải là tôi hành động, mà là tội lỗi ở trong tôi đã hành động (Rm 7:20). Và theo ngài chỉ có Đức Kitô mới có thể cứu ta ra khỏi tình trạng ấy. (Rm 7:24). Do đó, muốn thoát khỏi tình trạng ù lỳ không chịu làm những gì cần phải làm, ta phải tin tưởng vào ngài đã đến để giải phóng ta khỏi tình trạng đó, và ta cũng phải hết lòng yêu mến ngài qua những người sống bên cạnh ta, chung quanh ta. Chỉ có tình yêu mới giải phóng ta khỏi tình trạng ù lỳ đó. Tình yêu phát sinh sức mạnh.
Rất nhiều người trong chúng ta có tâm trạng hài lòng vì mình đã theo được chính đạo, và tự mãn vì mình đã giữ luật Chúa một cách trọn vẹn từ hồi nhỏ, giống như anh chàng thanh niên giàu có trong bài Tin Mừng hôm nay. Đó là một điều rất đáng khen, và Thiên Chúa cũng rất hài lòng vì ta đã sống được như vậy. Chính Chúa Giêsu cũng đã nhìn chàng thanh niên đó một cách thiện cảm và đem lòng yêu thương. Nhưng qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu còn kêu mời chúng ta đi xa hơn một bước kia, là sẵn sàng hy sinh nhiều hơn nữa cho Thiên Chúa và tha nhân. Đang khi bên cạnh chúng ta còn biết bao nhiêu người nghèo khổ túng thiếu, hay cần tới sự giúp đỡ cụ thể của chúng ta, chúng ta không thể vừa nói mình yêu Chúa lại vừa làm ngơ hay phớt lờ những nhu cầu của họ. Tình yêu thúc đẩy ta phải làm một cái gì cụ thể để thoả mãn phần nào những nhu cầu đó của anh em. Và chúng ta cũng cần phải có con mắt nhận xét và tâm hồn nhạy bén để nhận ra những nhu cầu ấy nơi những người sống gần mình nhất. Để đi vào cụ thể, tôi xin đề nghị với anh chị em là mỗi ngày chúng ta dành ra ít phút suy nghĩ để xét xem những người ở gần ta có nhu cầu gì mà ta có thể giúp đỡ cụ thể được, và chúng ta quyết định mỗi ngày làm một hai việc cụ thể giúp ích cho người khác, việc đó càng buộc ta phải hy sinh, thiệt thòi, mất mát thì càng tốt, và tối đến ta xét lại xem mình đã thực hành quyết định đó thế nào. Làm được như thế, chính là đã áp dụng phần nào tinh thần của bài Tin Mừng hôm nay.
Để kết thúc, tôi xin nhắc lại lời kinh Cáo Mình mà chúng ta đọc mỗi khi chuẩn bị dâng Thánh Lễ, trong đó có câu; “tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm, và những điều thiếu sót”. Tôi xin nhấn mạnh đến “những điều thiếu sót”, là những gì mà chúng ta đáng lẽ phải làm, nên làm, mà chúng ta đã không làm. Là những lần đáng lẽ chúng ta phải ra tay cứu giúp người khác mà ta đã không ra tay. Là những lần đáng lẽ chúng ta phải hy sinh cho người khác mà ta đã không hy sinh, vì chúng ta không muốn bị thiệt thòi, bị mất mát, bị phiền hà, là những lần đáng lẽ chúng ta phải bỏ tiền bạc ra để cứu giúp ai đó, nhưng vì tính bỏn xẻn, tính toán, khiến chúng ta lại thôi. Là những lần đáng lẽ chúng ta phải can đảm đứng ra bênh vực lẽ phải, nhưng vì sợ bị liên lụy, sợ bị lôi thôi, mà chúng ta đành làm ngơ để cho bất công được tự do hoành hoành. Mỗi lần đọc kinh Cáo Mình khi dâng Thánh lễ, chúng ta phải nghĩ đến những thiếu sót đó.
63. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux.
KÊU GỌI NGƯỜI ĐÀN ÔNG GIÀU CÓ (10,17-22)
Một khung cảnh khá thi vị đã đưa đoạn Phúc Âm mới mẻ này vào mục bàn về cách thức để trở nên môn đệ CHúa Giêsu. Một người đàn ông chợt xuất hiện cản lối Chúa Giêsu (c.17a). như ta sẽ thấy, người Do Thái này biểu lộ lòng kính trong hiếm có đối với Chúa. Cử chỉ quỳ gối của anh ta nằm trong nghi thức phụng vụ (chúng ta đã thấy cử chỉ này nơi người phong hủi: 1,40). Con người vô danh nọ khen tặng Chúa Giêsu bằng cách gọi Ngài là “Thầy nhân hậu” (c.17b). Tuy nhiên, Chúa Giêsu thoái thác lời ca tụng này. Ngài tuyên bố: “Không có ai nhân hậu cả trừ mình Thiên Chúa” (c.18). Hẳn người ta ngạc nhiên về lối đối đáp này. Đứng trước kẻ lạ mặt tượng trưng cho “dân Chúa chọn” trước hết Chúa Giêsu muốn tái xác định điều cốt lõi trong đức tin Do Thái. Chỉ mỗi Thiên Chúa, trong sự siêu vượt tuyệt đối của Ngài mới thủ đắc: “Sự nhân hậu”. Sau khi tán dương Chúa Giêsu người nọ liền đưa ra một câu hỏi thích đáng: “Tôi phải làm gì để được sống đời đời?” (c.17c). Lo tìm hạnh phúc tương lai là điều đáng khái niệm nơi những người Do Thái đạo đức, dẫn đầu là đám biệt phái. Chắc hẳn Chúa Giêsu tán đồng câu hỏi này. Và rồi như bất cứ vị giáo sĩ đương thời nào Chúa Giêsu bắt đầu nêu lên rõ ràng những gì theo truyền thống Do Thái cũng như tư tưởng riêng cá nhân Ngài cho là cốt lõi của luật Môsê. Với tư cách sành sỏi lề luật, trước hết Chúa Giêsu trưng dẫn cho anh ta những đoạn rút từ Mười giới luật (Xh 20,1-17) tức những giới luật Chúa truyền dạy liên quan đến tình yêu đồng loại. Câu “chớ làm hại ai” được thêm vào bản văn Kinh Thánh nhưng tóm tắt được tinh thần toàn bộ văn bản.
Như thế trước con mắt Chúa Giêsu, thực thi giới luật của Chúa là con đường bình thường và đầy đủ để đạt đến “cuộc sống đời đời”. Là người thân thiết với bộ luật Torah, anh nọ liền mau mắn trả lời với Chúa Giêsu anh đã “giữ” tất cả các giới luật này từ thời niên thiếu (c.20). Điều ấy chứng tỏ sự ngay thẳng và ngoan đạo của người Do Thái này. Chúa Giêsu lấy làm phấn khởi, và Maccô thích thú ghi nhận điều đó (c.21a). Nơi tác giả Phúc Âm này, cái nhìn của Chúa Giêsu luôn chứa đựng một điều gì đó khó quên được. Đa số thường là cái nhìn giận dữ (3,5; 10,14) hoặc dò xét (3,34; 5,32; 10,23); thế mà ở đây lại là cái nhìn đầy trìu mến, quý chuộng sâu xa. Thành ngữ kế tiếp: “Ngài đem lòng yêu mến” diễn ta một sự phong phú bất ngờ. Trong Cựu ước, tình yêu Thiên Chúa đã khiến Ngài chọn Israel làm dân riêng Ngài (x.Đnl 7,7-8). Cũng chính tình yêu Thiên Chúa thôi thúc Chúa Giêsu chọn lựa người Do Thái tín trung này. Sự chọn lựa được biểu lộ bằng một lời kêu gọi có tính cách đòi hỏi khác thường (c.21b).
Lời kêu gọi ấy đã nhận được một âm hưởng sâu xa trong Giáo Hội. Trong Giáo Hội sơ khai một trong những dấu chỉ của sự “hoán cải về với Chúa Kitô” và thuộc về cộng đồng Kitô hữu chính là sự chia sẻ của cải để phục vụ những kẻ nghèo khó nhất (Cv 2,44; 4,32-35). Tuy nhiên, ở đây trước hết phải nhớ rằng lời kêu gọi của Chúa Giêsu đang ngỏ với một trường hợp riêng biệt, tức ngỏ với người đàn ông đang đứng trước mặt Ngài. Ngài yêu cầu anh ta bỏ tất cả mọi sự để theo Ngài. Đây là lời yêu cầu không phải được nói với tất cả mọi người. Vào đầu Phúc Âm, người ta tìm thấy lời yêu cầu này khi Chúa kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên (1,16-20). Chỉ với một số người, chứ không phải với tất cả mọi người, Chúa Giêsu đề nghị họ giải thoát mọi vướng bận để bước theo Ngài. Trước hết, chính kiểu sống này đã được Chúa Giêsu chọn cho mình trong khi thi hành sứ vụ: Ngài là một thừa sai lang thang, hy sinh tối đa những điều kiện của một cuộc sống bình thường, chẳng hạn một mái ấm gia đình và của cải. Hiện nay, Chúa Giêsu vẫn còn đưa ra lời kêu gọi kiểu ấy. Tuy nhiên tất cả ý nghĩa lời mời gọi Ngài nói với người Do Thái trung tín đang chất vấn Ngài hệ tại những từ ngữ này: “Hãy đến và theo tôi” (c. 21d), nghĩa là hãy “đi xa hơn đức tin của cha ông anh” và hãy khởi sự một hành vi hoàn toàn mới mẻ là trở nên “môn đệ của” Đấng Mêsia là chính tôi đây (x.1,17; 2,l4). Sự vượt qua này quả không dễ dàng đúng như sự từ chối của người nọ chứng tỏ (c.22) chỉ mãi đến lúc này chúng ta mới biết được người ấy rất giàu và chính sự giàu có đã ngăn cản không cho anh ta tích cực đáp lại tiếng gọi của Chúa Giêsu. Trong cuộc trò chuyện tiếp theo sau đó với các môn đệ, Chúa Giêsu đã nhấn mạnh điều ấy: Chiếm hữu của cải là một chướng ngại lớn lao ngăn cản người ta bước theo Ngài, bởi vì điều này đòi hỏi sự siêu thoát tự nguyện (x.10,23-31). Ngay lúc đó, chỉ cần người đàn ông được Chúa Giêsu ngỏ lời biết rằng sau khi siêu thoát mọi của cải trần thế của mình, anh ta sẽ được “một kho tàng trên trời” (c.21c)!
Đoạn Phúc Âm này cho chúng ta tham dự vào một ơn kêu gọi bất thành. Tuy nhiên vượt qua trường hợp cá biệt được nêu ra đây, toàn thể truyền thống Phúc Âm đều xem đó là một “bài học kiểu mẫu” (Mt 19,16-22 và Lc 18,18-23). Đằng sau khuôn mặt người Do Thái tín trung với lề luật Môsê từ tấm bé diễn ra lịch sử dân tộc Israel, một dân tộc lấy Thập giới làm quy luật sống để hướng tới “cuộc sống vĩnh cửu” là kho tàng Thiên Chúa hứa cho dân Ngài. Còn ở đây Chúa Giêsu được trình bày như là Đấng Mêsia đến để mặc khải một đòi hỏi cao hơn tôn giáo của người Do Thái. Ngài đòi hỏi đám dân biết tuân giữ luật Thiên Chúa một điều “cao hơn nữa” (x. “Anh chỉ còn thiếu có một điều...” (c.21a). Tin Mừng Chúa Giêsu đề nghị là lời kêu gọi vượt cao hơn. Trung thành với giới luật của Thiên Chúa thì chưa đủ, còn phải bước “theo” chính Đấng Mêsia nữa. Điểm chính yếu trong trình thuật này không phải hệ tại việc từ bỏ của cải mà hệ tại việc gắn bó với chính Chúa Giêsu; đức tin Kinh Thánh vừa kiện toàn vừa hoàn tất đức tin Do Thái giáo. Chúng ta đừng quên rằng câu chuyện người đàn ông giàu có này được kể lại ngay giữa cuộc hành trình quyết liệt của Chúa Giêsu tiến về cuộc khổ nạn của Ngài (từ 9,30-31). Không thể theo Chúa Giêsu, tức không thể trở thành Kitô hữu, nếu không biết tự thoát.
NƯỚC THIÊN CHÚA VÀ CỦA CẢI (10, 23-31)
Lời từ chối vừa rồi của người đàn ông giàu có (10,17-22) là dịp để Chúa Giêsu giúp các môn đệ hiểu biết thêm. Giữa Nước Thiên Chúa và của cải có sự tương hợp nào chăng? Một lần nữa Chúa Giêsu đảo mắt nhìn các môn đệ (x. 3,34-35) điều này dự báo Ngài sắp sửa đưa ra một lời dạy quan trọng (c.23a). Và đây là lời dạy đó: “ Những người có của mà vào được trong Nước Thiên Chúa thật khó biết bao!” (c.23b). Phản ứng của đám bạn hữu Chúa Giêsu cho thấy rõ tâm trí họ phản đối không muốn tiếp nhận một sứ điệp như thế (c.24a). Chúa Giêsu buộc phải nhấn mạnh lần nữa lời cảnh giác của Ngài (c24b). Và để minh họa rõ sự khó khăn này, Ngài đã sử dụng một hình ảnh mà sau này đã trở nên phổ biến: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa” (c.25). Ở đây rõ ràng Chúa Giêsu sử dụng phép khuyếch đại. Người Đông phương rất thích dùng những kiểu nói khoa trương như thế để kích thích sự chú ý. Và vào thời đó, hình ảnh con lạc đà chở nặng trên mình diễn đạt tuyệt hảo hình ảnh người giàu bị vướng tay vướng chân vì của cải.
Chúa Giêsu rất rành nghệ thuật kích thích cho kẻ khác phải suy nghĩ. Các môn đệ cực kỳ chưng hửng đã đạt ra cho Ngài câu hỏi sau: “Thế thì ai có thể được cứu?” (c.26). Ai cũng biết Maccô thường có thói quen nêu bật “sự ngu muội” của các môn đệ trước lời giảng dạy khó hiểu của Thầy mình. Lần này, họ cũng ráng hỏi xem cho biết có kẻ nào, ở vào những điều kiện giàu có này, được cơ may cứu độ chăng. “Chúa Giêsu nhìn họ (một lần nữa Ngài muốn khắc ghi vào đầu óc họ tư tưởng của Ngài) và trả lời: “Đối với loài người thì không thể được nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được” (c.27). Lời quả quyết này rất rõ ràng. Ơn cứu độ hoàn toàn vượt qua những khả năng của loài người. Đó là một ơn nhưng không của Thiên Chúa vì chỉ mình Thiên Chúa mới “có thể” cứu độ loài người.
Chắc chắn quan điểm này còn khiến các môn đệ hoang mang hơn lời cảnh giác trước đó nữa. Bằng chứng là phản ứng của Phêrô người đứng đầu trong nhóm họ (c. 28). Nhân danh nhom Mười Hai, Phêrô thắc mắc muốn biết sự dấn thân của toàn nhóm họ theo Chúa Giêsu có được thưởng gì không? Người ta còn nhớ rõ Maccô đã đánh giá cao việc các môn đệ đầu tiên khi vừa nghe Chúa gọi đã bỏ gia đình và của cải để trở thành môn đệ Ngài (1,16-20). Không lẽ lòng quảng đại lớn lao của họ lại vô ích sao? Nếu đám người giàu có, mặc dù lắm của cải vẫn không thể vào Nước Thiên Chúa thì đã dành, còn những kẻ từ bỏ cả những của cải hợp pháp nhất liệu không có cơ may được vào nơi đó? Những kẻ từ khước các người thân yêu và của cải quý giá để gắn bó với Chúa Giêsu thì chắc chắn sẽ lãnh được một phần thưởng không nhỏ. Và lần này Chúa Giêsu lại dùng phép khoa đại theo lối Đông phương. Họ sẽ nhận “gấp trăm”: trăm lần nhiều hơn những gì họ đã từ khước.
Maccô rất ý thức rằng những gì ông viết ra đây tác động mạnh đến tâm hồn các Kitô hữu Rôma của ông. Để hoán cải về với Chúa Giêsu và Tin Mừng của Ngài (“vì Thầy và vì Tin Mừng”) một số người trong họ đã phải chịu những chia lìa đớn đau với cha mẹ cũng như phải từ bỏ quyền tài sản của mình. Phúc Âm gia nhấn mạnh: theo gương Chúa Giêsu Đấng đã từng hứng chịu những sự chia lìa này, các Kitô hữu đã tìm thấy được trong cộng đoàn Kitô hữu một gia đình mới và những của cải mới (x, 3,31-35). Ngay từ bây giờ, Chúa Giêsu đã cho họ nếm được chút ít hương vị của diễm phúc tương lai tức “cuộc sống vĩnh cửu”. Tuy nhiên Maccô vẫn nhận thức rõ hiện trạng của các Kitô hữu này không phải là không đen tối. Là người thực tế, Maccô đã chêm “những cuộc bách hại” vào trong chuỗi “phần thưởng” được hứa hẹn! Ông đã đọc lại bằng những từ ngữ tương tự những gì trước đó Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Kẻ nào đánh mất mạng sống vì Thầy và vì Phúc Âm thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (8,35). Đoạn Phúc Âm này kết thúc bằng một câu nói mang dáng dấp ngạn ngữ: “Nhiều người trước hết sẽ thành rốt hết, và những người rốt hết sẽ thành trước hết” (c. 31). Câu này xem ra chẳng liên hệ gì đến những điều Chúa Giêsu vừa mới nói về trở ngại của sự giàu có ngăn cản người ta vào Nước Trời. Đây hẳn là một câu nói “trôi nổi” đâu đó của Chúa Giêsu mà các Phúc Âm gia đã quên mất là Chúa đã nói câu ấy chính xác vào dịp nào. Mỗi người tháp nhập câu nói ấy vào một mạch văn khác nhau (x. Mt 19,30 và 20,16). Khởi đầu, câu ấy có thể nhắm đến việc thay đổi tình trạng. Những “kẻ trước hết” tức những người Do Thái, thành viên của dân được Chúa chọn, đã không đáp lại lời kêu gọi của Chúa Giêsu. Họ đã đánh mất đi hồng ân được Chúa chọn. Còn “những kẻ rốt hết” tức đám dân ngoại thay thế chỗ của dân Do Thái, đang ào ạt gia nhập Giáo Hội. Tuy nhiên ở đây đối với Maccô, câu nói lẻ loi này mang một ý nghĩa khác, khá phù hợp với tình cảnh hiện thời. Các Kitô hữu bị bách hại được xếp vào hạng người rốt hết trong nhân lọai! Và họ được hứa hẹn sẽ hoàn toàn thoát ra khỏi tình cảnh hiện tại của họ.
Toàn bộ những gì chúng ta vừa đọc nơi Maccô (10,23-31) hầu như cũng thấy ghi lại trong Phúc Âm Matthêu (19,23-30) và Phúc Âm Luca (18,18-30). Điều đó chứng tỏ đây là một giáo lý rất lâu đời nói về “những cám dỗ của sự giàu có” rất dễ bóp nghẹt Lời Chúa trong trái tim các tín hữu. Tư tưởng Chúa Giêsu khởi từ những của cải vật chất (c. 23-27) để lan rộng đến những mối dây liên hệ gia đình (c. 28-31). Chắc chắn tư tưởng này đáp ứng được những vấn đề đặt ra cho Giáo Hội sơ khai một khi nó bành trướng đến những vùng dễ sống hơn. Cộng đoàn Kitô giáo đầu tiên đã cố gắng nêu gương bằng cách phân chia của cải chung với nhau đến nỗi ở đó không còn người nghèo nữa (x. Cv 4, 32-34).
Cùng đọc song song ba Phúc Âm Maccô, Matthêu và Luca, chúng ta sẽ thấy các vấn đề liên quan đến “đời sống cộng đoàn” đều được mỗi tác giả gom chung vào với nhau. Chính vì thế mà trong ba Phúc Âm nhất lãm, các ý kiến sau đây về các vấn đề của Chúa Giêsu được xếp chung theo cùng một trật tự – Vấn đề hôn nhân và ly dị (Mc 10,1-12) – Trẻ em và những và những kẻ giống như chúng (Mc 10,13-16) – Kêu gọi người đàn ông giàu có (Mc 10,17-22) – Nước Thiên Chúa và của cải (Mc 10,23-31).
Khuôn khổ mà các chủ đề này được đề cập đến thích hợp thật diệu kỳ với chúng ta. Đây là dịp Chúa Giêsu tiến về Giêrusalem để Ngài cảm nhận ở đó sự từ bỏ chua cay nhất là tức là cái chết. Giữa lần loan báo thứ hai về cuộc khổ nạn (9,30-31) và lần thứ ba sắp xảy ra (10, 32-34), chủ đề “Con đường đạo” đương nhiên cho phép chúng ta xem xét đến những điều kiện để theo Chúa Giêsu và để được vào Nước Thiên Chúa: đó là sẵn sàng mở lòng tiếp nhận đồng thời sẵn lòng siêu thoát mọi sự để theo Chúa.
64. Đức Giêsu giáo huấn về của cải.
(Giải thích và Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Trong chuỗi các sự cố xảy ra liên can đến dân chúng và giáo huấn ban cho các môn đệ, phân đoạn này phù hợp với Mc 10,1-12. Cũng như trong trường hợp ấy, ở đây, phần giáo huấn cho các môn đệ đã được thêm vào sau, bởi vì ta thấy truyện người giàu có (cc. 17-22) tự nó đã kết thúc và được khoanh vùng rõ ràng.
2.- Bố cục
Bản văn này có thể chia thành ba phần:
1) Cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với người giàu có (10,17-22);
2) Gíáo huấn các môn đệ về sự khó khăn của việc từ bỏ (10,23-27);
3) Giáo huấn về phần thưởng dành cho người môn đệ (10,28-30).
3.- Vài điểm chú giải
- Đức Giêsu vừa lên đường (17): Ekporeuomenon autou eis hodon, ở dạng “thuộc-cách tuyệt đối” (absolute genitive), một lối hành văn rất quen thuộc của Mc.
- có một người chạy đến: Chỉ khi đến cuối câu truyện, ta mới biết anh này là một người giàu (10,22). Không có một ghi chú nào về tuổi của anh (x. Mt 19,20).
- quỳ xuống: Cử chỉ này cho thấy người này hết sức kính trọng Đức Giêsu (x. 1,40).
- Thưa Thầy nhân lành: Lời xưng hô kiểu này rất hiếm trong Do Thái giáo thời Đức Giêsu, cho dù từ “nhân lành” thường được áp dụng cho Thiên Chúa ở trong Cựu Ước (x. Tv 117/118,1; 1 Sb 16,34; 2 Sb 5,13). Nói chung, người Do Thái cho rằng chỉ có Thiên Chúa mới xứng đáng được coi là “nhân lành”, còn không ai khác là “tốt” cả (x. Rm 7,18). Tuy vậy, khẳng định này cũng không tuyệt đối, bởi vì thọ tạo cũng được mô tả là “tốt” (St 1,31). Phaolô cũng nói như thế về Lề Luật trong Rm 7,12.16. Đức Giêsu cũng có nói đến người “tốt” và kẻ “xấu”.
- tôi phải làm gì: Người này lấy mình làm điểm chuẩn: “tôi cần làm gì để thủ đắc sự sống đời đời”.
- sự sống đời đời (x. 10,30): Đây là công thức của Đn 12,2 (LXX), có thể hiểu là sự sống sau khi sống lại, không nhất thiết hàm ý “bất tử”. Có thể coi như đồng nghĩa với “Nước Thiên Chúa” (x. 9,43-47).
- Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa (18): Không thể giải thích là có một vực thẳm giữa Đức Giêsu và Thiên Chúa, vì như thế thì quá mâu thuẫn với truyền thống Tin Mừng. Có thể coi đây là một phản ứng của Đức Giêsu nhằm trắc nghiệm người ấy hoặc một phương thức sư phạm nhằm gián tiếp giới thiệu về mình như là Con Người.
- anh biết các điều răn (19): Loạt các điều răn trong bài phần lớn được rút từ phần hai của Thập Điều (Xh 20,12-17; Đnl 5,16-21), là phần nói về những quan hệ giữa người với người.
- đem lòng yêu mến (21; thì quá khứ aorist của agapaô): Hẳn là Đức Giêsu thấy anh này đơn sơ chân thành nỗ lực tìm cách quan hệ với Thiên Chúa nên đã tận tình giữ các điều răn; Người “đem lòng yêu mến” anh. Tình thương này đi đến chỗ gọi anh làm môn đệ.
- Anh chỉ thiếu có một điều: Dù anh đã cam đoan là giữ tất cả các điều răn từ thuở bé, Đức Giêsu bảo rằng anh vẫn “còn thiếu” (hystereô).
- hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo: Câu này nên hiểu như một thách đố Đức Giêsu đề ra cho anh này hơn là một nguyên tắc chung của đời sống Kitô hữu hoặc thậm chí, nền tảng của một bậc sống đạo cao hơn. Người ấy không được hiểu rằng mình chỉ cần làm một điều tốt hơn, là được thừa hưởng sự sống đời đời! Đức Giêsu yêu cầu anh bỏ hết mọi điểm tựa an toàn để tín nhiệm vào bản thân và sứ vụ của Người: “Rồi hãy đến theo tôi”.
- anh ta có quá nhiều của cải (22): Anh đã hỏi, nhưng câu trả lời của Đức Giêsu thật quá khó đối với anh.
- các môn đệ sững sờ (24): Các ông sững sờ kinh ngạc bởi vì Đức Giêsu vừa nhận định rất tiêu cực về của cải, trong khi các ông trung thành với truyền thống Do Thái giáo, coi của cải là một dấu chỉ về phúc lành của Thiên Chúa, với điều kiện là bố thí cho người nghèo. Thật ra, cái khó không nằm ở chính của cải, nhưng những cám dỗ chúng gây ra.
- con lạc đà …. lỗ kim (25): Mặc dù trong quá khứ, các nhà giảng thuyết và chú giải đã tìm ra một cái cửa nhỏ bên cạnh một cái cổng lớn ở tường thành Giêrusalem, mà một con lạc đà không thể đi qua, và mặc dù có một vài thủ bản nhỏ đọc là kamilos (sợi dây thừng) thay vì kamêlos (con lạc đà), chúng ta phải kết luận rằng đây là một ví dụ về lối nói ngoa, thậm xưng (x. Mt 23,24; Lc 6,41-42).
- đối với Thiên Chúa, mọi sự đều có thể được (27): Trước khi nói câu này, Đức Giêsu “nhìn thẳng vào các ông”, một công thức riêng của Mc để nêu bật tầm quan trọng của câu nói sau. Đức Giêsu nhấn mạnh tới quyền năng của Thiên Chúa và sự ký thác cậy dựa vào Thiên Chúa để được cứu độ.
- chúng con đã lìa bỏ mọi sự mà theo Thầy (28): “Lìa bỏ” (aphêkamen) ở thì quá khứ aorist, diễn tả một hành vi đã hoàn tất, còn “theo” (ekolouthêkamen) ở thì vị hoàn, để diễn tả một hành vi còn đang thực hiện.
- vì Tin Mừng (29): Chi tiết của riêng Mc, nhằm đồng hoá Đức Giêsu với Tin Mừng.
- sự ngược đãi (“bách hại”, 30): Đây cũng là một xác định riêng của Mc, để nói rằng bước theo Đức Kitô, là phải chấp nhận bị bách hại như Thầy mình đã từng bị bách hại.
- mà bây giờ, ngay ở đời này… và sự sống đời đời ở đời sau (30): Đức Giêsu hứa ban phần thưởng không chỉ vào đời sau nhưng ngay vào lúc này, khi các môn đệ được hưởng một tình bằng hữu phong phú về mặt xã hội và về mặt tôn giáo.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với người giàu có (17-22)
Điều gì thật sự có giá trị? Điều gì thạt sự có ý nghĩa? Cuộc sống hiện tại kết thúc với cái chết. Người giàu đến găp Đức Giêsu xác tín rằng có một sự sống đời đời. Anh có nhiều của cải, anh biết cách lo liệu cho cuộc sống trần thế, nhưng cảm thấy có trách nhiệm đối với cuộc sống tương lai. Anh muốn sống cuộc sống trần gian thế nào để không mất chỗ trong cuộc sống vĩnh cửu. Anh rất tin tưởng đến gặp Đức Giêsu, và chờ đợi nhận được những lời khuyên tốt. Đức Giêsu chỉ cho anh các điều răn: ai muốn tôn trọng ý muốn của Thiên Chúa, thì đang ở trên đường dẫn tới sự sống đời đời. Người đến gặp Đức Giêsu đây đang đi đúng đường: anh đã giữ các điều răn từ thuở nhỏ. Lạ lùng là Đức Giêsu không cổ võ cách sống của anh mà bảo anh về, Người lại bảo anh tự giải thoát khỏi mọi của cải và đến đi theo Người. Người chỉ cho anh thấy một nôi dung và một lối sống hoàn toàn mới: anh phải đi theo Người mãi mãi, lắng nghe lời Người nói, nhìn xem các công việc Người làm, có đầy Thần Khí của Người, ở lại mãi mãi với Người, chia sẻ lối sống của Người. Sự hiệp thông liên tục với Người đưa anh đến chỗ hiểu thế giới và đời sống của Đức Giêsu và chuẩn bị cho anh đi vào trong cuộc sống đời đời, nghĩa là cuộc sống trong Nước Thiên Chúa, trong sự hiệp thông với Thiên Chúa.
Ở đây Đức Giêsu khẳng định rằng con đường mà Người đang theo được hướng dẫn bởi thánh ý Thiên Chúa cũng một cách trực tiếp và đảm bảo như các điều răn. Và Người cũng khẳng định rằng chính Người có khả năng dẫn đưa tuyệt đối chắc chắn đến sự sống đời đời. Và Đức Giêsu mời gọi anh làm cử chỉ như các môn đệ đầu tiên (x. 1,16-20; 10,28-30). Nhưng người giàu đã không hiểu lời mời gọi của Đức Giêsu là Tin Mừng; anh muốn vừa bám vào của cải vừa đi theo Đức Giêsu. Sự kiện phải chọn lựa làm cho anh buồn rầu.
* Giáo huấn các môn đệ về sự khó khăn của việc từ bỏ (23-27)
Đức Giêsu không nói ỡm ờ về sự khó khăn trong việc từ bỏ của cải. Thái độ sửng sốt của các môn đệ là dịp để Người nhắc lại giáo huấn: đến được Nước Thiên Chúa là chuyện khó khăn. Sự kiện các môn đệ được gọi là “con” (chỉ có ở đây trong TM Mc) cho hiểu rằng lời khẳng định được nhắm trực tiếp cho họ. Nhưng Đức Giêsu cất đi cho họ nỗi lo âu về tương lai khi qui hướng họ về Thiên Chúa. Trong Cựu Ước, có những câu với nọi dung như thế: G 42,2; x. St 18,14; Dcr 18,6.
* Giáo huấn về phần thưởng dành cho người môn đệ (28-30)
Trong câu trả lời cho Phêrô, Đức Giêsu cho thấy là người ta có thể đạt được sự sống này nếu liên kết với bản thân Người. Người nào siêu thoát với những liên hệ với của cải và với gia đình mình, mà gắn bó với Đức Giêsu, thì sẽ thấy mở ra trước mắt một chân trời các quan hệ bao la hơn. Một người đi vào trong gia đình những người đã liên kết với Đức Giêsu, thì gặp lại những của cải và các người thân thuộc của mình, nhờ đó đạt được một cuộc sống mới mẻ và phong phú hơn; đồng thời người ấy lại đang ở trên con đường chắc chắn đưa tới sự sống đời đời. Câu trả lời của Đức Giêsu hàm chứa Tin Mừng. Người cho thấy rằng nhờ trung gian là bản thân Người, người ta có thể đạt được sự sống hoàn toàn mới mẻ, một sự sống có giá trị không thể triệt tiêu.
+ Kết luận
Khuôn khổ trong đó bản văn hôm nay được đặt vào khiến chúng ta phải lưu ý: đây là những điều xảy ra trong cuộc hành trình Đức Giêsu tiến về Giêrusalem để ở đó, Người cảm nhận sự từ bỏ đau đớn nhất, tức là cái chết. Giữa lần loan báo Thương Khó lần hai (9,30-31) và lần ba (10,32-34), chủ đề “Con đường” thúc bách chúng ta xem xét những điều kiện để theo Đức Giêsu và để được vào Nước Thiên Chúa: đó là sẵn sàng mở lòng ra đón tiếp, đồng thời sẵn lòng siêu thoát mọi sự để đi theo Chúa.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa có thể đưa đến những thiệt thòi trong cuộc sống hiện tại, nhưng nối kết chúng ta với ý muốn của Thiên Chúa, tức là với chính Thiên Chúa. Như thế, nền móng của sự sống vĩnh cửu đã được củng cố. Quả thật, chỉ từ sự kết hợp với Thiên Chúa, là Đấng Sống vĩnh cửu và tuyệt đối, mới trào vọt ra sự sống đời đời.
2. Mọi người được yêu cầu đặt việc bước theo Đức Giêsu, vì Người và vì Tin Mừng, trước tất cả mọi sự, thậm chí trước chính bản thân mình và sự trọng kính của người đương thời (x. 8,34-38). Tính mới mẻ triệt để của lời Đức Giêsu kêu gọi đi theo Người không hệ tại lời mời từ bỏ, nhưng hệ tại khả năng kết dệt một liên hệ mới, có được một nội dung mới cho cuộc sống.
3. Lời kêu gọi của Đức Giêsu là Tin Mừng và thật ra là một đặc quyền cao cả: bởi vì, chẳng hạn, đặc quyền này đã không được ban cho người ở Ghêrasa sau khi đã được giải thoát khỏi ma quỷ (5,18t). Đức Giêsu mời gọi chúng ta tách mình khỏi của cải không phải để rồi chỉ còn hai bàn tay trắng, nhưng để chúng ta trở nên tự do và có khả năng liên kết với Người.
4. Ta chỉ có thể đạt tới sự sống đời đời nhờ đức tin, nhờ liên kết vô điều kiện và đầy tin tưởng vào Người. Nhờ hiệp thông với Đức Giêsu và với gia đình Người, ta nhận được sự sống đời đời như một ân huệ. Dây liên kết với Đức Giêsu không bị hủy diệt bởi cái chết.
65. Chú giải của Noel Quesson.
Đức Giêsu vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và hỏi: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”
Đây là một cảnh sống động. Một người đầy ham muốn: Người ấy chạy đến và sụp quỳ dưới chân Đức Giêsu, vừa thở hổn hển, người ấy vừa đặt câu hỏi.
Khi ta biết người này là ai (nhờ đoạn tiếp sau của trình thuật ta sẽ ngạc nhiên, vì đây là một người có đầy đủ mọi thứ để được hạnh phúc theo tiêu chuẩn thông thường: Anh ta giàu sang, có nhiều “của cải lớn”, hơn nữa, cuộc sống anh ta ngay thẳng, anh tuân giữ những giới răn từ thuở còn nhỏ. Trong mọi tương quan với người khác. Chắc hẳn anh ta được kính nể. Vậy anh ta còn thiếu điều gì? Anh ta còn cần gì nữa? Tại sao anh ta lại mong ước điều gì khác?
Đức Giêsu đáp: “Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa”.
Đó là câu trả lời sắc bén như dao. Con người giàu có này đã quen với những “tước vị”. Vì quá hâm mộ, anh ta nói thêm. Thường thường người ta chỉ gọi Đức Giêsu bằng “Thầy”, còn anh ta quen giao thiệp rộng nên đã thêm từ “nhân lành”. Đức Giêsu không thích những kiểu nói tâng bốc đó. Người thích sự đơn giản hơn, Người khước từ những tước vị mang tính khoe khoang. Hơn nữa, Đức Giêsu là Người luôn nói về Thiên Chúa. Người luôn hướng về Chúa. Ở đây chúng ta nghe người thốt lên một lời dễ gây ngạc nhiên: Dường như Đức Giêsu không biết Người là Thiên Chúa! Người khước từ chữ “nhân lành”. Đây không phải là trường hợp - duy nhất mà Đức Giêsu khiêm tốn tự cho mình là “thấp kém” hơn Chúa Cha, hơn Thiên Chúa: Một hôm khác người còn dám quả quyết, Người “không biết ngày chung thẩm, mà chỉ có mình Chúa Cha mới biết” (Mc 13,32).
Đức Giêsu nói chỉ có một mình Thiên Chúa mà thôi. Tôi cầu nguyện từ lời quả quyết triệt để này.
“Hẳn anh biết các điều răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ”.
Danh sách và thứ tự các giới răn làm cho ta ngạc nhiên. Trước tiên, Đức Giêsu không nêu những giới răn “đối với Thiên Chúa” như là giới răn đầu tiên. Hình như qua tình yêu tha nhân, ta chứng tỏ tình yêu đối với Thiên Chúa. Thông thường tự nhiên ta dễ nghĩ đến những “bổn phận” về tôn giáo hơn, để đạt đến sự sống đời đời. Một lần nữa, Đức Giêsu hướng chúng ta thiết thân gắn bó với những người anh em của mình, với những mối tương quan nhân bản.
Hơn nữa, Đức Giêsu đã thêm một điều răn mới rất ý nghĩa vào mười giới răn cố hữu: “Chớ làm thiệt hại ai” như thể điều răn này tóm tắt các điều khác. Chúng ta cũng nên để ý rằng, “bổn phận đối với cha mẹ” được kể cuối cùng. “Điều răn thứ bốn” được đời ra sau chót, như Đức Giêsu đã muốn đặt lên hàng đầu những cám dỗ đối với người có tiền của: Lấy của kẻ khác, làm thiệt hại kẻ khác, làm giàu cách bất chính...
Anh ta nói: “Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ”.
Quả thật đây là một người ngay thẳng, có hướng tâm.
Anh ta tuân giữ lề luật. Anh ta sống có kỷ cương. Đức Giêsu không phủ nhận sự thành thực của những lời anh ta nói. Người ta tưởng câu chuyện sẽ kết thúc ở đây. Đây là một người có quyền hưởng sự sống đời đời! Chúng ta hãy nghe đoạn sau.
Đức Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến.
Đó là cái nhìn của Đức Giêsu. Tôi cố tưởng tượng lại: Một cái nhìn đầy thương yêu. Đức Giêsu tỏ vẻ trìu mến. Người đang yêu thương. Người cảm động.
Người bảo anh ta: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo Tôi.”
Vậy sống lương thiện và tuân giữ mọi giới răn cũng chưa đủ sao?
Ta tưởng rằng con người này trung thành không có gì chê trách được, thế mà bây giờ lại gặp một đòi hỏi mới, sẽ rọi chiếu vào tận đáy lòng anh: Anh có tự do không hay chỉ là nô lệ? Thái độ của anh đứng trước tiền bạc của cải vật chất như thế nào?
Thật lạ lùng và đáng ngạc nhiên khi ta liên tục gặp thấy đòi hỏi trên đây của Đức Giêsu. Người không ngớt nhắc lại điều này. Đó là lời kêu gọi đầu tiên của Người: “Hãy theo Ta”, tức khắc họ bỏ lưới và cha của mình dưới thuyền... (Mc 1,18-19). Đó cũng là chỉ thị đầu tiên của Đức Giêsu đối với các môn đệ Người sai các ông đi thi hành sứ vụ,Người truyền cho họ không được đem gì đi đường, không bánh, không bị, không tiền trong thắt lưng! (Mc 6,8).
Đó còn là hệ luận đầu tiên phải rút ra từ lời loan báo cuộc thương khó của Chúa: “Kẻ nào muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình” (Mc 8,34). Đức Giêsu đã không bao giờ nói khác Người có những ý nghĩ theo nhau rõ ràng. Người yêu cầu một sự lựa chọn dứt khoát. Người đòi hỏi “trọn vẹn”. Muốn theo Người, phải bỏ tất cả. Đây là một đòi hỏi vô biên. Tin Mừng không phải là một cách giải quyết dễ dàng cho mọi vấn đề, mà là một cuộc phiêu lưu vĩ đại, đầy nguy cơ liều lĩnh tối đa. Thật là một tham vọng quá lớn.
Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải
Đây là một người cũng giống chúng ta thôi. Chúng ta chớ nên lên án anh ta. Chúng ta cũng không thường mong muốn nếp sống hoàn hảo và sự sống đời đời sao?
Thế mà lại không nhất quyết trả giá cho những điều đó Trình thuật về ơn gọi lúc này, nhắc chúng ta rằng chính chúng ta cũng đã từng khước từ những lời mời gọi của Thiên Chúa tới hưởng nguồn vui, mặc dầu bề ngoài chúng ta phải dứt bỏ nhiều thứ sự “buồn bã” của người này rất có ý nghĩa: Anh ta có nhiều tiền, có nhiều của cải lớn, và với sự sung túc này anh ta vẫn không được hạnh phúc. Đó không phải là hình ảnh của phương Tây quá tràn đầy của cải vật chất sao? Nhưng chúng ta hãy đi xa hơn, và hãy can đảm nhìn nỗi đau buồn đang làm tối sắm khuôn mặt của anh. Đấy phải chăng là dấu hiệu hồng ân đầu tiên đã bắt đầu đến với anh sao? Cho đến lúc đó, anh không ý thức được điều cốt yếu mà anh còn thiếu. Anh vẫn tưởng rằng, của cải là đủ. Bây giờ anh mới biết, anh còn có một định mệnh khác.
Lạy Chúa xin biến những nỗi buồn của chúng con trở nên tích cực, có thể đánh thức chúng con ra khỏi không ảo ảnh và ngủ mê. Chúng con đã được tạo dựng cho Chúa. Tâm hồn chúng con, ước muốn của chúng con quá cao không thể chỉ thỏa mãn những của cải hữu hạn trần gian: “Lạy Chúa, xin hãy đến, vì chỉ có Chúa mới làm cho chúng con được no thỏa”.
Đức Giêsu rảo mắt nhìn chung quanh, rồi nói với các môn đệ
Một lần nữa, Thánh sử Máccô ghi nhận ánh mắt của Đức Giêsu. Chúa nhìn tôi. Chúa nhìn những người mà tôi thương yêu. Chúa nhìn thế giới của chúng ta. Chúa nhìn những đám đông ở những siêu thị. Chúa nhìn dân chúng trong những nước thuộc thế giới thứ ba. Và cái nhìn này không thể lãnh đạm Người bắt đầu nói:
Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!
Một lần nữa Đức Giêsu tố cáo quyền lực ghê gớm của tiền tài. Đây là một sự cảnh giác thường xuyên trong suốt thời gian rao giảng của Đức Giêsu: “Các ngươi không thể phục vụ Thiên Chúa và Mammon cùng một lúc” (Lc 16, 13).
Người giàu trở nên điên rồ và phi lý. Người ấy tưởng mình không cần gì đến Thiên Chúa nữa (Lc 12,16-20). Người giàu từ từ đóng cửa con tim và không còn thấy người anh em của mình đang đau khổ bên cạnh mình (Lc 16,19-31). Sự giàu sang bóp nghẹt Lời Chúa (Mt 13,22).
Một lần nữa, chúng ta không nên lên án kẻ khác. Hãy nhận mình cũng là những người giàu: Số tiền trợ cấp thất nghiệp của một người Pháp là cả một sản nghiệp đối với một người châu Phi hay châu Á.
Nghe Người nói thế, các môn đệ sững sờ.
Sự kinh ngạc của những môn đệ không phải là không có ý nghĩa. Tâm trạng người Do Thái đinh ninh rằng, sự giàu sang là một ân huệ của Thiên Chúa, ý định của Thiên Chúa sáng tạo không phải là để giao cho con người quyền sở hữu và thống trị thế gian này, nhằm xây dựng và làm cho thế gian thêm giá trị sao? (St 1,27-31). Nhưng phải thú nhận rằng, chính chúng ta cũng không chấp nhận lời này của Chúa Kitô. Thế kỷ 20 càng sẵn sàng hơn để đón nhận luân lý cách mạng sau đây:
- Phải chăng chúng ta làm việc để “kiếm tiền”, càng nhiều càng tốt.
- Phải chăng chúng ta mong cho con cái chúng ta làm một nghề “có nhiều tiền”.
- Phải chăng hàng ngày chúng ta thường bị sự quảng cáo tấn công, thúc đẩy chúng ta tiêu thụ ngày càng nhiều hơn và ám chỉ rằng, càng có nhiều, càng hạnh phúc.
Nhưng Người lại tiếp: “Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”
Thay vì rút lại sự cứng rắn trong lời vừa nói, Đức Giêsu lại tăng cường một hình ảnh không thể quên được. Đức Giêsu nhà thuyết giảng nổi tiếng, đã có nghệ thuật dùng những kiểu nói gây ấn tượng mạnh và dễ nhớ: Chúng ta không nên làm nhẹ những câu nói này, nại cớ là chúng nghịch lý. Thực sự, chúng nói lên mạnh mẽ rằng, giữa giàu sang và sự cứu rỗi, luôn có tình trạng xung khắc nhau: Chúng ta phải chọn lựa giữa hai kho tàng này, kho tàng trần gian, kho tàng trên trời. Tiền của là cần thiết. Đức Giêsu không phủ nhận điều đó. Tiền của phục vụ chúng ta, Đức Giêsu đồng ý. Nhưng nếu tiền của thống trị chúng ta, và chúng ta trở nên nô lệ của nó, thì Đức Giêsu không thể chịu đựng nổi.
Các ông lại càng sửng sốt hơn nữa và nói với nhau: “Thế thì ai có thể được cứu?” Đức Giêsu nhìn thẳng vào các ông và nói: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được”
Lại một lần nữa, cái nhìn của Đức Giêsu, được ghi nhận lần thứ ba trong cùng một trang Tin Mừng. Ở đây Đức Giêsu trích một lời trong Thánh Kinh dành cho Abraham (St 15,14). Mặc dầu tuổi cao, không đủ điều kiện thể lý. Bà Xara sẽ sinh ra một con trai, vì tất cả có thể được đối với Thiên Chúa. Thiên Thần Gabriel cũng đã nói điều này với Mẹ Maria (Lc 1,37). Vậy sau khi lên án khắt khe thái độ chiếm hữu của chúng ta, Đức Giêsu đã mở ra cho chúng ta một niềm hy vọng.
Lạy Chúa, là Chúa tể càn khôn, Chúa đòi hỏi điều không thể làm được. Xin hãy đến giải thoát chúng con! Và tay chúng con sẽ mở ra trước Chúa, để đón nhận những gì còn thiếu trong tình thương của chúng con.
66. Điều cần phải bỏ trên đường theo Giêsu
(Giải thích và Suy niệm của Lm. Nguyễn Ngọc Thế)
Vài hàng sơ lược
- Đoạn phúc âm này là bài giáo huấn thứ 3 trong chương 10, sau lời giáo huấn về hôn nhân (10,2-12) và về tinh thần của trẻ em (10, 13-16). Đề tài chính của đoạn này là câu hỏi về sự sống đời đời làm gia nghiệp trên nước Trời, và tinh thần theo Giêsu.
- Đoạn này có thể chia làm 3 phần: (1) từ câu 17-22 là cuộc gặp gỡ và trao đổi giữa Giêsu và người thanh niên giàu có đi tìm sự sống đời đời làm gia nghiệp. (2) Từ câu 23-27, Đức Giêsu giáo huấn tinh thần nghèo khó cần có trên đường theo Chúa, và cần có để được vào nước Trời. Và (3) từ 28-31, câu hỏi của Phêrô về phần thưởng khi theo Giêsu, và câu trả lời của Giêsu.
Suy niệm
“17 Đức Giêsu vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và hỏi: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”
- “Giêsu lên đường” trong câu này, là đi tới Giê-ru-salem (ss. Mc 10,32), để Ngài sẵn sàng chịu đau khổ, chịu bắt hại và chịu chết. Và trên đường đó, có một người chạy đến gặp Giêsu. Người này, theo Mt 19,22, là người thanh niên. Theo Adolf Pohl, trong xã hội Do-thái, đàn ông đến 40 tuổi vẫn có thể được gọi là thanh niên. Ngoài ra, so sánh với Lc 18,18-23, thì người hỏi Giêsu là một thủ lãnh. Người này có thể là trưởng hội đường, là quan tòa, hay một thành viên trong hội đường. Vì thế, không biết người anh em trong đoạn phúc âm của chúng ta có phải là một thanh niên hay không? Tuy nhiên, thuận theo Mát-thêu chúng ta cứ coi là một thanh niên.
- Anh ta chạy đến và quỳ xuống trước mặt Giêsu và hỏi. Thái độ quỳ xuống ở đây nhắc nhớ chúng ta đến hình ảnh của người phong hủi quỳ xuống xin Giêsu: “Có người bị phong hủi đến gặp Người, anh ta quỳ xuống van xin rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” (Mc 1,40) Thái độ này còn có ý nghĩa công nhận Giêsu là một vị Thầy. Vì thế, trong câu hỏi, anh ta đã nói rằng: “Thưa Thầy nhân lành”. Tính từ “nhân lành” hay “tốt lành” ở đây được thêm vào, có ý nghĩa chỉ về vị thầy được nhắc trong Mc 12, 14, mà các người Pha-ri-sêu nói về Giêsu: “Thầy là người chân thật. Thầy chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa.” Và “tốt lành” ở đây chỉ vị Thầy khiêm nhường, như Gioan Tẩy Giả nhỏ đi, để Thiên Chúa lớn lên: “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi.” (Ga 3, 30). Vâng, quên chính bản thân mình, để tất cả chỉ vì vinh danh Thiên Chúa mà thôi.
- “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp? Câu hỏi của chàng trai trẻ đặt ra cho vị Thầy tốt lành, trở nên một câu hỏi quan trọng cho mỗi con người trong từng thời đại. Một câu hỏi nói lên lòng khao khát của con người về kho tàng quý giá nhất, về hạnh phúc tuyệt vời và vĩnh cửu, hạnh phúc mà con người không thể tìm thấy trong cuộc sống trên trái đất này. Sự khao khát về sự sống vĩnh cửu, sự sống không bao giờ quen tới chữ “hết” và chữ “chết”. Nhưng để cho cuốn phim cuộc đời không “hết” và sự sống con người không “chết”, thì cần phải làm gì đây? Vấn nạn của chàng thanh niên thuở xa xưa cũng là vấn nạn của từng người trẻ thời nay. Trước vấn nạn này, chúng ta hãy lắng nghe Giêsu trả lời.
“18 Đức Giêsu đáp: “Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa.”
- Đúng theo kiểu của Giêsu, Ngài trả lời bằng cách đặt một câu hỏi cho người đã hỏi. (ss. Mc 10,3). “Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa.” Ở đây, chúng ta cũng có thể thắc mắc, tại sao Giêsu lại đặt ra câu hỏi đó. Và tiếp đến tại sao Giêsu lại từ chối tính từ “nhân lành hay tốt lành”?
Câu hỏi Giêsu đặt ra và sự từ chối của Ngài như là một cách thức và “phương tiện” Giêsu dùng để hướng về một điều quan trọng trong câu chuyện này. Điều quan trọng đó nằm trong câu trả lời: “Chỉ một mình Thiên Chúa tốt lành” (ss. Mc 12, 29). Câu trả lời này, theo R. Pesch, có ý nghĩa là, Giêsu qua câu hỏi của người thanh niên về điều cần làm, muốn hướng mọi người về giới răn chính yếu của Thiên Chúa tốt lành. Chỉ có giới răn này là quan trọng, là cần được thực thi. Đó chính là giới răn được nhắc trong Đnl 6,4-5: “ Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, là ĐỨC CHÚA duy nhất. Hãy yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng hết dạ, hết sức anh (em).” Điều răn chính yếu này hướng về điều răn khác cũng quan trọng không kém. Đó là: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.” Và “chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó.” (Mc 12, 31).
19 Hẳn anh biết các điều răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ.”
Tiếp đến Giêsu hướng anh chàng thanh niên về các giới răn mang tính cách xã hội, trong tương quan giữa ngưới với người: “Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ.” Đây là những giới răn quan trọng được nhắc tới trong Mười điều răn căn bản của Đức Chúa Trời dạy. Mười điều răn này tựu trung lại chính là giới răn: “Yêu người thân cận như chính mình.” Ai thực thi những điều răn này thì đang đi trên con đường công chính, và sự sống đời đời thuộc về người đó. Như vậy, anh chàng thanh niên của chúng ta có sống theo các giới răn đó không?
20 Anh ta nói: “Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ.”
Thật tuyệt vời! Còn gì bằng nữa. Từ năm 13 tuổi anh thanh niên đã sống theo các giới răn. Vâng, như các trẻ em Do-thái khác, khi được 13 tuổi anh đã đón nhận trách nhiệm sống tương hợp với những điều Gia-vê truyền. Theo Billebeck, thì Do-thái giáo coi những người, dù ở trong một xã hội sô bồ và tội lỗi, vẫn sống theo lề luật mà Mô-sê truyền là những người công chính. Đó là 365 điều răn cần làm và 248 điều răn cần tránh trong các sách của Mô-sê.
Cuộc gặp gỡ giữa Giêsu và chàng thanh niên có thể chấm dứt ở đây, và anh ta có thể ra về trong hân hoan. Nhưng không, chính Đức Kitô không để cho anh đi dễ dàng như vậy. Ngài lên tiếng và thêm vào một điều quan trọng khác kế bên các giới răn trên. Điều đó người thanh niên cần có để có thể đạt được sự sống đời đời làm gia nghiệp.
21 Đức Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.”
Trước câu trả lời của chàng thanh niên, Giêsu hướng nhìn anh và đem lòng yêu mến. Ở đây, theo R. Pesch, thì đó không phải là kiểu Giêsu biểu lộ cảm tình của mình với anh thanh niên, mà là một thái độ cao thượng của người Thầy có quyền dạy dỗ về giới răn và quyết định giới răn. Sau đó, Giêsu đã chỉ ra một điều thiếu thốn, kế bên những giới răn mà anh thanh niên đã hiểu và sống theo. Đó là: “hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” Trong Mát-thêu 19, 29 thì: ““Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” Điều Giêsu đòi hỏi liên hệ đến chính sự sống và và vệnh mạng của anh thanh niên. Một sự đòi hỏi tận căn cho những con người muốn sống hoàn thiện.
Thực ra, nếu so sánh với kho tàng trên trời mà Giêsu hứa ban, thì của cải tài sản trên trái đất này có là gì đâu. Nói vậy, nhưng thực tế lại hoàn toàn khác. Có biết bao người đã coi của cải trần gian như ông chủ của mình, và bị lệ thuộc vào nó hoàn toàn. Hơn nữa, cái mình đang có trong tay bao giờ cũng quý, và cái mà mình được hứa ban cũng thật quý. Nhưng ai dám đánh đổi hay bỏ hết cái mình đang có trên tay, đề rồi nhận cái mà mình được hứa trong tương lai? Rồi còn cái “lòng tham vô đáy” của con người nữa chứ.
Dù vậy, vẫn có rất nhiều anh chị em trong lịch sử đã thấu hiểu cái giá trị cao quý của Nước Trời, nên chẳng màng tới của cải trần gian. Đó là Phan-xi-cô A-si-si, là Ê-li-sa-bét miền Thue-ring-gen, là I-nhã thành Lô-giô-la, và một vị thánh khác rất gần gũi với người Châu Á, Phan-xi-cô Xa-vi-ê. Tất cả đều là những con nhà quyền quý và giàu sang, nhưng đã rũ bỏ tất cả những vật hồng trần, để trở nên con người tự do thực sự. Đây chính là điều Giêsu muốn nói trong đoạn phúc âm này. Bỏ hết của cải để được tự do cho Nước Chúa, tự do cho Tin Mừng, tư do theo Đức Kitô, và cùng với Ngài sống hoàn toàn cho tình yêu thương. Chắc chắn phần thưởng của họ không gì khác hơn là kho tàng lớn nhất. Đó là Nước Trời. Về điều này, R. Pesch đã giúp cho chúng ta đọc những tâm tình của các thầy Ráp-bi Do-thái giáo. Dưới đây là một trích dẫn mang suy nghĩ “công trạng và phần thưởng”: “Người công chính rất thích chờ đợi giây phút cuối cùng, họ chẳng sợ gì khi lìa bỏ cuộc đời này. Vì ở nơi Thiên Chúa, họ có một kho tàng từ chính những công trình của mình. Kho tàng đang được giữ gìn cho họ trong phòng cất giữ đồ quý.” Tuy nhiên, kho tàng ở trên trời không phải là thước đo, bắt người có niềm tin phải sống sao cho có hiệu quả, phải sinh ra lợi ích này hoa trái kia. Suy nghĩ của Giêsu không theo suy nghĩ của các Ráp-bi, “công trạng và phần thưởng”. Kho tàng trên trời là một hướng đích, giúp cho người có niềm tin định hướng cho hành động của mình sao cho được tốt, có thái độ hợp tình hợp lý với anh chị em bên cạnh, từ chối những gì mang mùi vị của sự dữ, không làm cho người bên cạnh bị tổn thương. Kho tàng trên trời giúp biết ý thức sống công chính với người nghèo, sẵn sàng chia sẻ và nâng đỡ họ, ... Tóm lại, có thể nhắc đến nguyên tắc vàng trong Mt 7,12: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta.”
Như vậy, ai nhận ra được giá trị cao quý của Nước Trời, và sống theo tinh thần đó, thì giống như những người được nhắc trong dụ ngôn kho báu và viên ngọc quý ở Mt 13, 44-46: “Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy. “Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp.Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy.”
Và người đó đang bắt chước Đức Kitô, Đấng
“vốn dĩ là Thiên Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,
nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân
sống như người trần thế.
Người lại còn hạ mình,
vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,
chết trên cây thập tự.” (Pl 2, 6-8).
- Cùng với Đức Kitô, người sống tinh thần từ bỏ tất cả của cải, và chỉ hướng về Nước Trời, đang sống chứng tá giữa lòng thế giới đầy phức tạp, với chủ nghĩa hưởng thụ, đề cao của cải vật chất, tiện nghi hiện đại, đến nỗi chẳng còn màng gì đến nhân phẩm con người, đến lòng bác ái cần có trong xã hội. Trong thế giới này thiếu vắng văn minh của tình thương. Theo Carlo Maria Martini, tinh thần nghèo khó của Kitô giáo cần trở nên dấu chỉ sống động cho sự đoàn kết và tương trợ giữa con người với nhau. Đàng khác, tinh thần sống nghèo khó của người Kitô hữu cần mang một “khuôn mặt” khác nữa. Sự nghèo khó của chúng ta cần phải tự tách biệt ra khỏi thế giới này, trở nên lời phê bình đối với thế giới xung quanh chúng ta. Sự nghèo khó của Kitô giáo cần phải đem lại thước đo giá trị khác về con người và vật chất. Nghĩa là, phẩm giá con người không thể được đo và đánh giá theo chuẩn mực của danh vọng địa vị, của tiền bạc vật chất. Kinh nghiệm đã chỉ ra rằng, con đường nghèo khó cũng chính là con đường giải phóng, con đường của niềm vui và mừng rỡ. Kinh nghiệm này nối kết chúng ta với Đức Giêsu Kitô. Con đường nghèo khó này giúp cho chúng ta thấu hiểu và cảm nhận được sức mạnh của Thánh Giá.
Ai đã cảm nhận được phần nào niềm vui này, ai đã tập sống chú ý và sống thật giản dị đơn sơ, sống khiêm nhường và ý thức thân phận yếu đuối tội lỗi của mình, thì người đó sẽ khám phá nhiều điều mới trong những trang của Tin Mừng. Không có sự cố gắng sống tinh thần nghèo khó này, các trang giấy Tin Mừng luôn là những trang giấy “câm lặng”.
Ai cất bước đi trên con đường nghèo khó của Đức Kitô, thì lời của Đức Kitô sẽ trở nên sống động đối với người đó. Lời của Đức Kitô sẽ bắt đầu ngân vang lên những khúc nhạc thật tuyệt vời, đem lại cho cuộc đời nhiều niềm vui, bình an và cuộc đời thật đáng sống, vì cuộc đời đẹp lắm thay.
- Ngoài ra, liên quan đến câu nói của Đức Kitô, Anselm Grun, một tu sĩ người Đức thuộc tu viện Biển Đức Muensterschwarzach, đã có những Suy niệm khá lý thú. Trước hết cha đã trích dẫn lời của Evagrius (346-400), một vị ẩn sĩ khắc khổ, và một nhà văn người Hy-lạp: “Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, hãy vác lấy thánh giá của anh trên vai anh, để anh có thể cầu nguyện sốt sắng, mà không bị chia trí gì cả.” Tiếp đến, cha Grun đã giải thích lời này như sau.
Evagrius đã thay đổi câu nói của Đức Kitô theo một ý nhất định. Trong phúc âmcủa Mát-thêu Chúa Giêsu nói với người thanh niên: “Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” (Mt 19,21) Evagrius đã đồng nhất sự theo chân Đức Kitô với việc cầu nguyện thật sốt sắng. Thật là táo bạo, khi thay đổi ý nghĩa lời của Giêsu. Và như vậy, việc theo chân Đức Kitô được hoàn thiện trong cầu nguyện, trong chiêm niệm.
Nhưng điều kiện cho việc cầu nguyện sốt sắng không chia trí là, chúng ta phải bán tất cả những gì mà chúng ta đang bám vào và lệ thuộc vào, và cho người nghèo. Chúng ta cần phải trở nên tự do hoàn toàn, tự do với tất cả những gì chúng ta đang sở hữu. Không chỉ là những vật chất bên ngoài, mà là tất cả những gì mà chúng ta đã đồng nhất hóa với chúng: như thói quen của chúng ta, suy nghĩ của chúng ta, công việc của chúng ta, lo toan của chúng ta, kết quả tốt đẹp và cả tiếng tốt của chúng ta. Sự tự do nội tâm là điều kiện cho việc cầu nguyện, mà trong đó chúng ta được trở nên một với Thiên Chúa.
Evagrius cũng nêu lên một điều kiện khác. Đó là chiêm niệm (contemplation). Chúng ta cần phải đón nhận thánh giá và vác trên vai mình. Thánh giá là sự hiệp nhất của tất cả mọi sự đối lập tương phản. Chúng ta cần phải đón nhận vào trong mình tất cả mọi tương phản, cả cái bóng của chúng ta, cái bóng làm cho hình ảnh lý tưởng của chúng ta bị lu mờ. Đón nhận Thánh Giá cũng còn có ý nghĩa là nói «Vâng» với tất cả những gì đi ngang qua chúng ta, nói «vâng» với đau khổ đến với chúng ta, nói « vâng » với thất bại, nói «vâng» với tương quan đổ vỡ, nói «vâng» với những «vết rách» trong cuốn sách lịch sử cuộc đời của chúng ta.
Chỉ khi chúng ta hòa giải với Thánh Giá đang ở trên cuộc sống của chúng ta, thì chúng ta mới có khả năng cầu nguyện sốt sắng và không chia trí. Chỉ có những người đón nhận tất cả một cách vô điều kiện, thì mới có thể cầu nguyện thực sự. Còn không, thì người đó sẽ bị quấy rầy thường xuyên, bởi những gì khó chịu ở bên trong mà người đó đang chống lại.
22 Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.
- Khi nghe lời của Đức Kitô, anh chàng thanh niên của chúng ta sầm nét mắt lại. Thái độ hăng say đầu tiên đã biến mất. Vâng, đụng tới tiền bạc là thế! Tiền bạc đã làm cho Anh không thể tìm thấy nơi Giêsu ách êm ái và gánh nhẹ nhàng được (ss. Mt 11,30). Vì vậy, anh ta bỏ đi, trở về lại với kho tàng của mình, để tiếp tục gánh cái gánh nặng nề đang đè trên vai mình. Không chỉ thế, bỏ đi nhưng bỏ đi một cách buồn rầu nữa chứ. Anh ta buồn rầu vì suy nghĩ của anh ta về “công trạng và phần thưởng” không được phê chuẩn hoàn toàn? Hay anh ta buồn rầu, vì phải lìa xa Giêsu, sau khi đã nhận được một chút “hơi thở” tốt lành, nhân ái của Giêsu? Nhưng anh ta còn thiếu cái gì để có thể từ bỏ được của cải vật chất? Chắc chắn rằng, anh ta chưa yêu Chúa hơn yêu của cải của mình. Của cải của anh ta nhiều quá, đến nỗi che mắt anh ta, làm cho anh ta không còn thấy Chúa nữa, không còn sáng suốt để nhận định giá trị đích thực của vật chất là gì. Vâng, thật tiếc vì anh ta chưa hiểu được điều: “Anh em hãy biết rằng không phải nhờ những của chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại.” (1 P 1,18) Hơn nữa, con người như một bình sành dễ vỡ. Một lúc nào đó, bỗng chợt anh ta bị một tai nạn gì hay mang cơn bệnh gì, thì thử hỏi rằng, của cải nhiều vô kể có đi theo với anh ta xuống hầm mộ không? Tất cả những của cải dù có lớn kếch sù đến mấy cũng không thể “mua được chiếc hỏa tiễn chở” anh ta lên Trời.
- Ngoài ra, anh ta còn thiếu thái độ bình tâm. Thái độ bình tâm coi Chúa và thánh ý Chúa là trên hết, đến nỗi: “chúng ta không ước muốn sức khỏe hơn bệnh tật, giàu sang hơn nghèo khổ, danh vọng hơn nhục nhã, sống lâu hơn chết yểu và tương tự thế đối với mọi sự khác, nhưng chỉ ước muốn và lựa chọn cái gì dẫn đưa chúng ta tới cứu cánh của mình hơn cả.” (Linh Thao số 23)
- Thái độ bình tâm này giúp chúng ta biết hướng con tim của mình về trời. Hướng con tim về trời nghĩa là chúng ta biết lo lắng những điều lớn hơn cả sự sống của mình, lớn hơn cả của cải, sự nghiệp, gia đình và bạn vè, lớn hơn cả những lời hứa hẹn và dự định tương lai. Theo Henri J. M. Nouwen, các điều đó là những điều thuộc về Thiên Chúa: Sự thật, tình yêu, niềm tin, ánh sáng và thánh ý của Chúa. Chừng nào chúng ta còn hướng con tim mình về những điều này, thì lý trí của chúng ta sẽ không còn nghĩ đến những “chuyện vớ vẩn”, những sự vật hấp dẫn chúng ta, đến nỗi chúng ta luôn muốn có, nhưng thực sự thì chúng ta chẳng cần đến chúng. Chừng nào chúng ta còn hướng về chân lý, ánh sáng và sự sống của Thiên Chúa là tình yêu, cũng như đi tìm thánh ý Ngài, thì chúng ta còn tham dự vào trong cộng đoàn của Thiên Chúa. Đấng luôn hiện diện ở đó ngay trong lúc này. Chính Ngài sẽ ban tặng cho chúng ta những gì chúng ta thực sự cần tới. Như thế, thì những lo lắng cuộc đời của chúng ta trở thành lời cầu nguyện, và những cảm giác bất lực của chúng ta sẽ được biến đổi và thánh hóa trong sức mạnh của Thần Khí Thiên Chúa.
- Thực thế, nếu chúng ta hướng lòng mình vào của cải, vào những lo toan làm sao được sung sướng tiện nghi hơn, nhiều tiền của hơn để hưởng thụ, thì chúng ta vẫn không thể làm cho cuộc sống của mình dài thêm một gang tấc nào cả. Vì thế, điều khôn ngoan cần có ở đây, là không chỉ mong sao cho được sống sung sướng trên nhung lụa, mà còn dám bỏ nhung lụa để chạy đến và nép vào lòng của Thiên Chúa; dám bỏ tất cả, để tự do hoàn toàn trên đường làm con trai con gái của Thiên Chúa, Đấng sẽ đem lại cho chúng ta sự sống đời đời làm gia nghiệp.
- Nói thế, nhưng không phải như vậy là chúng ta không còn “tham lam” của cải, và bám chặt vào chúng, và ngày ngày lo toan sao có thêm nhiều hơn nữa. Khuynh hướng này vẫn ở đó trong chúng ta. Như vậy, chúng ta sống trong tình trạng “què quặt”. Một đàng là vậy, đàng khác thì lại mong ước điều khác hẳn. Vâng, chúng ta không bao giờ thoát khỏi cái ước muốn của chúng ta, và thoát khỏi lòng tham muốn có thêm của cải, để trở nên con người tự do thực sự. Có lẽ hiểu được điều đó mà Tagore đã lên tiếng: “Ước muốn trong tôi nhiều vô kể và tiếng nói tôi than nghe não nuột, thảm thương.” (Lời dâng, 14)
Trong tình trạng “què quặt” này, Henri J. M. Nouwen đã khuyên chúng ta biết luôn trở về và biết ý thức hướng trọn tâm hồn mình về với Chúa, Đấng Tốt Lành vô cùng. Ở bên Ngài chứ không phải ở bên cạnh “đống của cải”, chúng ta có thể thảnh thơi và mỉm cười về chính cái ích kỷ của mình, lòng tham vô đáy của mình, và song song luôn mở đôi mắt mình và đôi tai mình cho sự bắt đầu mới, bắt đầu tập sống tinh thần từ bỏ, tinh thần làm con cái Thiên Chúa, những người con thực sự tự do trên đường theo Thầy, và sống tinh thần của Thầy. Và khi đi trên con đường của Đức Kitô, chúng ta không cần phải lo lắng quá đỗi cho chính mình. Vì “Ngày lại ngày người làm tôi xứng đáng với tặng vật lớn lao giản đơn người ban, mà chẳng cần để tôi xin hỏi – này bầu trời, ánh sáng, này xác thần, này trí tuệ, này cuộc đời – cứu tôi khỏi những hiểm nguy của vũng lầy ước muốn.” (Lời dâng, 14)
23 Đức Giêsu rảo mắt nhìn chung quanh, rồi nói với các môn đệ: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao! “24 Nghe Người nói thế, các môn đệ sững sờ. Nhưng Người lại tiếp: “Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao!25 Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa.” 26 Các ông lại càng sửng sốt hơn nữa và nói với nhau: “Thế thì ai có thể được cứu?”
- Khi anh chàng thanh niên bỏ đi, Giêsu liền rao mắt nhìn chung quanh và nói với các môn đệ. Cái nhìn chung quanh của Giêsu chính là cái nhìn giáo dục, cái nhìn dạy bảo những môn đệ gần gũi với Ngài nhất. Ngài dạy bảo điều gì? “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!” Chắc chắn rằng, việc vào Nước Trời là một quà tặng của Thiên Chúa ban, nhưng không vì thế mà có nghĩa là sẽ dễ dàng nhận được món quà này. Trở về lại với Mc 9, 43.45.47, chúng ta sẽ thấy Giêsu đã nói mạnh bạo như thế nào. Vâng, “thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hoả ngục.” (Mc 9,47)
Trước những lời của Giêsu, các môn đệ sững sờ. Vâng, không ngạc nhiên sờ sững sao được, khi hiểu được cửa vào Nước Thiên Chúa đâu phải là cánh cửa rộng thênh thang, mà chính là cánh cửa hẹp: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy.” (Mt 7,13-14)
Trở về với Mác-cô, chúng ta thấy cánh cửa hẹp của Nước Trời Giêsu đã so sánh với cánh cửa “lỗ kim”. Cánh cửa rất nhỏ tại bức tường vào thành Giê-ru-sa-lem. Thật là tương phản biết bao, khi con lạc đà đứng trước “lỗ kim” này.
Nghe tới hình ảnh so sánh rất tương phản của Giêsu, các môn đệ lại sững sỡ hơn nữa, và các ông đã hỏi nhau: “Thế thì ai có thể được cứu?” Câu hỏi này của các môn đệ được Giêsu trả lời như sau:
27 Đức Giêsu nhìn thẳng vào các ông và nói: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được.”
Câu trả lời của Giêsu có hai vế. Vế đầu tiên là: ““Đối với loài người thì không thể được.” Vế này chỉ là phần phụ. Vế thứ hai chính là điều mà Giêsu muốn nói rõ: “nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được.” Ở đây, chúng ta nhớ lại câu chuyện của bà Sa-ra, đã không tin vào lời của Chúa hứa cho bà sẽ sinh con dù tuổi đã cao. Sau đó, Chúa đã hiện ra với bà và ông Áp-ra-ham, và Ngài đã nói rằng: “Nào có điều gì kỳ diệu vượt sức ĐỨC CHÚA?” (St 18,14). Còn Gióp, dù bị rơi vào trong hoàn cảnh đau khổ, nhưng ông vẫn tin tưởng vào Chúa, Đấng sẽ cứu thoát. Ông đã cầu nguyện như sau: “Con biết rằng việc gì Ngài cũng làm được, không có gì Ngài đã định trước mà lại không thành tựu.” (G 42,2). Thực vậy, cuối cùng “ ĐỨC CHÚA đã khôi phục tài sản cho ông Gióp...ĐỨC CHÚA đã tăng gấp đôi những gì ông Gióp đã có trước kia.” (G 42, 10)
Chữ “nhưng” nổi tiếng mà Đức Giêsu nhắc đến ở đây thật có ý nghĩa sâu sa. Chữ “nhưng” đó Thiên Chúa đã nói với Sa-ra, khi bà thầm cười, như cười hình ảnh con lạc đà với lỗ kim. Chữ “nhưng” đó Gióp đã hiểu rõ ràng, nên đã không thầm cười, mà đầy tin tưởng cầu nguyện với Gia-vê Thiên Chúa, Đấng chắc chắn sẽ cứu độ ông. Và chữ “nhưng” này còn được làm nổi bật nơi Áp-ra-ham, chồng của bà Sa-ra: “ Mặc dầu không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin, do đó ông đã trở thành tổ phụ nhiều dân tộc, như lời Thiên Chúa phán: Dòng dõi ngươi sẽ đông đảo như thế. Ông đã gần một trăm tuổi, nhưng ông vẫn vững tin không nao núng, khi nghĩ rằng thân xác ông cũng như dạ bà Xa-ra đều đã chết. Ông đã chẳng mất niềm tin, chẳng chút nghi ngờ lời Thiên Chúa hứa; trái lại, nhờ niềm tin, ông đã nên vững mạnh và tôn vinh Thiên Chúa, vì ông hoàn toàn xác tín rằng: điều gì Thiên Chúa đã hứa thì Người cũng có đủ quyền năng thực hiện. Bởi thế, ông được kể là người công chính.” (Rm 4, 18-22)
Trở về lại với cuộc đời thường ngày, nhiều lần tôi cũng đọc được chữ “nhưng” này trong một số cuộc đời. Vâng, có cuộc đời bị thế lực sữ dữ đe dọa và hãm hiếp, nhưng dù vậy người anh chị em đó vẫn luôn bám vào Chúa, vì tin rằng, sự dữ dù lớn đến thế nào, nhưng vẫn không lớn bằng tình yêu của Chúa. Còn cuộc đời khác, bị đồng tiền hãm hại, bóc lột, nhấn chìm xuống vực sâu, nhưng vẫn can đảm vươn lên, không nằm chết dưới bóng đêm trong hố sâu thăm thẳm kia, vì người anh chị em đó tin rằng, đồng tiền dù có giá, dù con người ai ai cũng cần đến, nhưng nó không là ông chủ của mình, mà Ông Chủ đích thực của đời người là Thiên Chúa, đấng mạnh mẽ hơn đồng tiền nhiều lắm. Vâng, dù một số người cứ tưởng rằng: “Có tiền mua tiên cũng được”, nhưng họ đã lầm to, dù trả giá cao đến mấy, họ vẫn không bao giờ mua Chúa được đâu. Còn cuộc đời khác thì đang quằn quại đau đớn, vì bị người thân yêu nhất của mình bỏ rơi, cái đau thê thảm nhất, nhưng dù sao thì người anh chị em đó trong cơn đau vẫn không đánh mất niềm hy vọng, không đánh mất niềm tin tưởng vào Thiên Chúa, vào Thần Khí của Ngài, Đấng có thể thúc đẩy một tâm ác phải lên đường trở về với chính lộ, với chánh niệm, trở về lại với tình yêu nhân từ của Chúa, và từ đó trở về với mái ấm mà mình đã lỡ dại một lần bỏ rơi và đi hoang.
Thực, dù con người và thế giới này có bất lực hoàn toàn, “nhưng” đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể được.
28 Ông Phê-rô lên tiếng thưa Người: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy!”
Câu 28 này nối tiếp với câu chuyện anh chàng thanh niên hỏi Chúa, và ở đây Phêrô xuất hiện như là người đại diện cho các anh em. Ông lên tiếng hỏi Giêsu: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy!” Một cách nào đó, Mác-cô đã đặt câu chuyện của Phêrô ở đây tương phản với câu chuyện của người thanh niên, đã không dám bỏ mọi sự theo Chúa. Song song với Mác-cô, câu hỏi của Phêrô trong phúc âm Mát-thêu rõ hơn một chút: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?” Đây là câu hỏi mà các nhà chú giải thường giải thích theo cái nhìn “công trạng và phần thưởng”, tương hợp với suy nghĩ của các Ráp-bi. Theo Adolf Pohl, thì Giêsu đã đón nhận câu hỏi của Phêrô một cách bao dung. Ngài cũng đã trả lời Phêrô rõ ràng, nhưng câu trả lời này không theo suy nghĩ của các thầy Ráp-bi, cũng theo suy nghĩ mang tính cách luân lý, mà là một lời hứa:
29 Đức Giêsu đáp: “Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, 30 mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau.
- Trước hết, đọc kỹ hai câu này, chúng ta thấy Mác-cô trong câu 30, đề cập đến những gì các môn đệ nhận được ngay bây giờ, thì lại không nhắc đến cha, mà chỉ là mẹ và anh chị em. Theo Pesch, thì ở đây trong cái nhìn của Giêsu, chỉ có một cha trên trời mà thôi, và Ngài muốn hướng mọi người về Cha: “Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời.” (Mt 23,9). Cha trên trời chình là “nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất.” (Ep 3,15) Và trong câu 30, Giêsu nhắc đến sự ngược đãi, có nghĩa là Giêsu hướng về sự bắt bớ mà các môn đệ sẽ hứng chịu, khi thi hành sứ vụ truyền giáo trong thời giáo hội tiên khởi
- Ngoài ra, câu trả lời của Giêsu nhắc nhớ đến sự đòi hỏi của Ngài giành cho những ai muốn theo Ngài: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.” (Mc 1, 16), và “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.” (Mc 8, 34b-35) Như vậy, động lực đầu tiên thúc đẩy các môn đệ từ bỏ là theo Giêsu, và động lực thứ hai là vì Tin Mừng, Tin Mừng mà Giêsu rao giảng: “Đức Giêsu đến miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa.” Người nói: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.” (Mc 1,14-15)
Những gì các môn đệ bỏ lại đàng sau đều là những con người gần gũi, và những nhu cầu rất cần thiết cho đời sống thường ngày. Đó là nhà cửa, là gia đình... Nhưng đâu phải vậy mà các ông phải sống vất vưởng nơi đầu đường xó chợ. Cuộc đời của các ông giờ đây là cuộc đời của Đức Kitô, một cuộc đời của người gieo giống đem hạt giống Tin Mừng rải khắp mọi nơi, một cuộc đời đến với những anh chị em nghèo khổ, là cuộc đời luôn cất lời để rao giảng về Thiên Chúa là tình yêu, là Đấng cứu độ tất cả mọi người. Chính trong sứ vụ cao quý này, mà các ông đã nhận lại được biết bao nhiêu. Vâng, lời nói của Giêsu: “ngay bây giờ” là lời nói rất đúng. Nếu ngồi chiêm ngắm cuộc đời của những người chân tu theo Chúa thực sự, và sống hoàn toàn cho Tin Mừng, chúng ta sẽ nhận ra ngay ở đời này họ đã nhận được biết bao nhiêu là nhà cửa, là ruộng đất. Rồi cả cha mẹ, lẫn anh chị em, con cái nữa. Mà tất cả lại là “gấp trăm” nữa chứ! Cái “gấp trăm” này tương hợp với con số tăng trưởng 30, 60 và 100 của dụ ngôn người gieo giống (ss. Mc 4, 1-20)
Những người từ bỏ hoàn toàn giờ đã được lại tất cả và còn nhiều hơn thế nữa. Đó là mẹ Tê-rê-sa, người mẹ có biết bao nhiêu con cái nghèo nàn. Là Frere Roger có biết bao người trẻ là môn đệ, và con mình. Và điều quý báu nhất là Mẹ Tê-rê-sa và Frère Roger trở nên những người anh chị em của Đức Kitô: “Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.” (Mc 3,35).
Cả hai chẳng thiếu thốn nhà cửa và ruộng đất. Nhà cửa ở khắp mọi nơi trên thế giới, ruộng đất tại mọi ngõ nghách của trái đất này. Không chỉ thế, món quà lớn nhất mà Giêsu hứa ban đó là “sự sống vĩnh cửu ở đời sau.” Sự sống mà anh chàng thanh niên đã ao ước. Sự sống ở bên Thiên Chúa, trong tương quan gần gũi với Người, tương quan như cha với con vậy. Sự sống thông hiệp với tất cả các thiên thần, các thánh và các anh chị em, những người con yêu dấu của Chúa ở trên thiên quốc.
Một cách nào đó, Thiên Quốc đã được bắt đầu ngay từ bây giờ, nơi các môn đệ của Đức Kitô đang sống vì Chúa và vì Tin Mừng. Nơi đó, các ông đã trở nên những người anh em ở bên Đức Kitô.
31 Quả thật, nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, còn những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu.”
Câu này thường xuất hiện trong phúc âm nhất lãm. Lúc thì trong bối cảnh này, lúc thì trong bối cảnh khác, và có những chủ đích khác nhau. Như trong dụ ngôn thợ làm vườn nho trong Mt 20, 1-6 hay trong Lc 13,30, khi Đức Giêsu khi lên Giê-ru-salem, đã rao giảng trên đường, và Ngài đã nhắc đến điều này: “Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót.”
Còn trong đoạn Tin Mừng của chúng ta, thì lời của Đức Kitô mang âm thanh thật an ủi. Trong sự sụp đổ của ngày cánh chung, tất cả kẻ chết sẽ chỗi dậy, người nghèo khó sẽ được tặng ban, kẻ đói khát sẽ được no thỏa, người buồn sầu sẽ được ủi an, ké bé nhỏ sẽ trở thành “người lớn”, người đau yếu sẽ mạnh khỏe, kẻ bị tù đày sẽ được giải thoát, và người rốt hết sẽ nên trước hết.
Ngoài ra, với câu 31 này, Mác-cô muốn nêu bật chủ đề mà ông muốn nói trong đoạn 10, 17-31. Đó là chủ đề trở về và theo chân Chúa. Vâng, những ai nhờ giàu có, địa vị, và quyền lực mà trở nên những người trước hết, thì họ sẽ trở nên người cuối hết trong ngày cánh chung, vì họ đã không từ bỏ được của cải, địa vị và quyền lực. Còn những ai trong cuộc sống này chẳng có gì cả, và cũng không là ai nổi tiếng và danh giá cả, mà chỉ là người môn đệ đơn sơ của Đức Kitô, những người ngồi ở chỗ cuối cùng trong “căn phòng thế giới” này, thì họ sẽ trở thành những người trước hết trong “căn phòng Thiên Quốc”, với sự sống vĩnh cữu.
Tham khảo
- Rudolf Pesch, Das Markusevangelium, Herder Verlarg, Freiburg 2000. Sonderausgabe, Band II/2, S.135-147
- Adolf Pohl, Das Evangelium des Markus, R. Brockhaus Verlag Wuppertal 2005, Wuppertaler Studienbibel NT 1, S. 376-386
- Hermann L. Strack und Paul Billerbeck, Kommentar zum NT aus Talmud und Midrasch, C.H.Beck Munchen, 8. Aufl., Band III, S. 161.
- Carlo Maria Martini, Mein spirituelles Worterbuch, Pattloch Verlag, Ausburg 1998, Begriff: “Armut”
- Henri J. M. Nouwen, Dem vertrauen, der mich halt. Das Gebet ins Leben nehmen. Herder Verlag, Freiburg Basel Wien 2003
- Anselm Grun, Der Weg durch die Wuste. Vier-Turme-Verlag, Munsterschwarzach 2001.
- Gitanjali RABINDRANATH TAGORE, LỜI DÂNG, Đình Khoan chuyển ngữ, nguồn
- Hình về cửa “lỗ kim” từ: http://www.godsplan-today.com/0_Images/ISNeedlesEye.jpg
67. Chú giải mục vụ của William Barclay.
PHẢI THÁNH THIỆN ĐẾN MỨC ĐỘ NÀO (10,17-22)
Đây là một trong những bức tranh sinh động nhất trong các sách Phúc Âm.
1/ Chúng ta cần ghi nhận người này đến với Chúa như thế nào, và Chúa Giêsu tiếp người ấy làm sao. Người ấy đã chạy đến rồi quỳ dưới chân Chúa Giêsu. Thật đáng ngạc nhiên khi chàng thanh niên giàu có, quý phái này lại quỳ xuống trước mặt vị ngôn sứ người Nazaret không một xu dính túi, sắp bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Anh ta bắt đầu nói: “Thưa Thầy tốt lành”. Chúa Giêsu trả lời ngay “Thôi, đừng nịnh hót như vậy, đừng nói tôi là tốt lành, hãy dành tiếng đó cho Thiên Chúa”. Thoạt nhìn dường như Chúa Giêsu đang cố làm cho người này cụt hứng, và dội nước lạnh, dập tắt lòng nhiệt thành của anh ta. Ở đây có một bài học. Rõ ràng chàng thanh niên này đã vội vàng đến với Chúa Giêsu trong lúc bị xúc động mạnh mẽ. Tất nhiên là Chúa Giêsu như có sức thu hút và thôi miên người ấy. Chúa Giêsu đã làm hai việc mà bất kỳ một nhà truyền giáo, một thầy dạy nào cùng phải nhớ đến bắt chước. Trước hết, Chúa Giêsu có ý muốn nói: Hãy dừng lại và suy nghĩ đi, vì ngươi đang mất bình tĩnh, xúc động mạnh! Ta không muốn ngươi chạy đến với Ta trong lúc đang cảm xúc mạnh như vậy. Bình tĩnh lại và suy nghĩ xem người đang làm gì đây? Chúa Giêsu không hề làm người ấy phải cụt hứng. Ngài đang nhắc người ấy phải nghĩ đến cái giá mình phải trả ngay lúc chưa nhập cuộc. Thứ hai là Chúa Giêsu muốn bảo “Người không thể trở thành Kitô hữu vì xúc động mạnh khi thấy Ta. Ngươi phải nhìn vào Thiên Chúa”. Giảng dạy bao giờ cũng có nghĩa là truyền đạt một chân lý qua trung gian một nhân cách đây là chỗ có nguy cơ to lớn của các vị giảng dạy. Cơ nguy đó là người học trò non trẻ có thể quá chú ý đến ông thầy hoặc nhà truyền giáo mà lầm tưởng rằng mình đang chú ý gắn bó với Thiên Chúa. Thầy dạy và nhà truyền giáo đừng bao giờ chỉ vào chính mình, mà phải luôn luôn chỉ vào Thiên Chúa. Trong việc dạy dỗ thật sự bao gồm cả việc giấu mình. Thật vậy, chúng ta không thể nào bảo tồn nhân cách đồng thời chứng tỏ sự trung thành cá nhân đầm ấm được, nếu có thể chúng ta cũng không muốn làm như thế. Nhưng vấn đề vẫn chưa dừng ở đó. Nói cho cùng thầy dạy và nhà truyền giáo chỉ là những ngón tay chỉ Thiên Chúa cho người ta mà thôi.
2/ Câu chuyện này đã cho ta thấy rõ chân lý thiết yếu của Kitô giáo không phải chỉ kính trọng là đủ. Chúa Giêsu đã nêu ra các điều răn vốn là nền tảng của một đời sống đạo đức, đáng kính trọng. Chàng thanh niên nọ không chút do dự đáp ngay rằng mình đã giữ trọn tất cả. Tuy nhiên, cần ghi nhận điều này, ngoại trừ một điều còn tất cả các điều kia đều là những mệnh lệnh tiêu cực, và điều răn ngoại lệ đó chỉ được thực thi trong phạm vi gia đình. Thật ra chàng thanh niên đã nói “Cả đời tôi chưa hề làm thiệt hại ai bao giờ”. Đúng vậy, nhưng vấn đề thật ra là “Ngươi đã làm được việc tốt lành gì cho tha nhân? Ngươi đã tỏ ra những gì để nâng đỡ, an ủi, khích lệ kẻ khác như điều ngươi đáng phải làm”. Nói chung, coi trọng tôn kính chỉ là không làm điều nay, điều nọ. Kitô giáo đòi phải hành động. Đây chính là chỗ thất bại của chàng thanh niên này, cũng như nhiều người trong chúng ta.
3/ Chúa Giêsu đã tiếp đón chàng thanh niên này bằng một thách đố. Ngài muốn nói “Hãy vượt khỏi thái độ tôn kính về mặt luân lý đạo đức ấy đi. Đừng tưởng chỉ cần không làm việc này, việc nọ như thế thì đã là nhân lành, thiện hảo. Hãy đem bản thân, đem tất cả những gì ngươi có, và dùng mọi sự cho người khác. Rồi sẽ tìm thấy chân hạnh phúc cả ở đời này lẫn đời sau”. Nhưng chàng thanh niên đó không làm được điều ấy, anh có nhiều tài sản lắm, điều mà anh ta đã không thể làm nổi. Anh không hề trộm cắp hoặc lường gạt ai, nhưng anh chưa bao giờ ép buộc mình trở nên một người nhân từ cách tích cực và hy sinh.có thể con người khả kính này không bao giờ tham lam của ai, nhưng Kitô hữu phải cho kẻ khác điều mình có. Thật ra, Chúa Giêsu đã buộc chàng thanh niên phải đối diện với một vấn đề thiết yếu và cơ bản “Ngươi có được bao nhiêu tính chất Kitô giáo đích thực? Ngươi sẵn sàng bỏ hết tài sản mình đang có để được nó hay không?” và chàng thanh niên ấy đã trả lời rằng “Tôi rất muốn được mang bản chất Kitô giáo, nhưng tôi không muốn được nó nhiều đến mức đó”. Trong “The Master of Ballantrae”. Robert Louis Stevenson có mô tả một ông chủ phải bỏ ngôi nhà thừa tự của tổ phụ mình để ra đi lần cuối cùng. Ông ta rất buồn và nói với người quản gia trung thành của gia đình mình “Anh Kellar này, bộ anh tưởng tôi không bao giờ hối tiếc sao?” Kellar đáp “Tôi không nghĩ là ông lại có thể tệ đến mức đó, trừ khi ông có đủ cả mọi sự để trở thành một người tốt”. Người chủ nói “Không phải là tất cả đâu, anh lầm rồi đó, đó là căn bệnh không thiết có”. Chính căn bệnh không muốn có là tấm thảm kịch của chàng thanh niên này. Đó cũng là căn bệnh mà phần đông chúng ta đều mắc phải. Mọi người đều muốn sống tốt lành thánh thiện, nhưng lại có quá ít người tha thiết muốn được nó đến mức chịu trả giá cho nó.
Chúa Giêsu nhìn anh ta trìu mến. Trong cái nhìn của Chúa Giêsu có khá nhiều điều. (a) có tiếng gọi của tình yêu Chúa Giêsu không giận anh ta, nhưng lại yêu mến anh rất nhiều. Đây không phải là một cái nhìn giận dữ, nhưng là tiếng gọi của tình thương. (b) có lời thách thức hãy hy sinh. Đây là cái nhìn để tìm cách kéo anh ta ra khỏi đời sống dư dả, ổn định để sống phiêu lưu mạo hiểm của việc làm một Kitô hữu chân chính. (c) đây là cái nhìn buồn rầu. Sự buồn rầu này là nỗi buồn khiến người ta đau lòng hơn khi thấy một người tự ý chọn sự thất bại trong khi đáng lý ra người ấy có thể đã và đang trở thành người xứng đáng. Chúa Giêsu đã nhìn chúng ta bằng tiếng gọi của tình thương, bằng sự thách thức, hãy dũng cảm tiến trên đường cao thượng của Kitô giáo. Thiên Chúa chẳng bao giờ muốn nhìn chúng ta một cách đau buồn như nhìn theo một người thân yêu đã ngoan cố không chịu sống như một con người xứng đáng.
NGUY CƠ CỦA GIÀU CÓ (10,23-27)
Người trẻ tuổi ấy không chấp nhận lời thách thức của Chúa Giêsu đã buồn bã bỏ đi. Chắc chắn lúc anh bỏ đi, cả Chúa Giêsu lẫn các tông đồ đều nhìn theo anh cho đến khi khuất hẳn. Rồi Chúa Giêsu quay sang các môn đệ Ngài và nói “Những người có của sẽ khó vào Nước Thiên Chúa biết bao?” Chữ Chúa Giêsu dùng để chỉ tiền bạc là chremata đã được Aristote định nghĩa là “mọi vật mà giá trị được cho bằng tiền đúc”. Chúng ta ngạc nhiên tại sao câu nói ấy lại khiến các môn đệ sững sờ. Sự kinh ngạc của họ được nhấn mạnh hai lần. Họ tin thật giản dị rằng sự hưng thịnh là dấu hiệu chứng tỏ một người tốt. Nếu ai giàu có, phát tài, thì người ấy đã được Thiên Chúa tôn trọng và chúc phúc. Giàu có là bằng chứng người làm chủ nó là người có đức hạnh, được Thiên Chúa ban ơn. Tác giả Kinh Thánh đã tóm tắt như sau “Trước tôi trẻ, rầy đã già, nhưng chẳng hề thấy người công chính bị bỏ, hay là dòng dõi họ đi ăn mày” (Tv 37,25). Chẳng trách tại sao các môn đệ lại ngạc nhiên. Họ có thể lý luận một người càng hưng thịnh thì càng chắc chắn vào được Nước Thiên Chúa. Vì thế Chúa Giêsu đã lập lại câu nói của Ngài bằng cách hơi khác đôi chút để làm sáng tỏ hơn điều Ngài ngụ ý “Ngài phán”: kẻ trông cậy ý lại vào sự giàu có của mình, sẽ rất khó vào được thiên đàng.
Chưa hề có ai thấy nguy cơ sự thịnh vượng và tài sản vật chất rõ ràng hơn Chúa Giêsu. Các cơ nguy đó là gì?
1/ Của cải vật chất dễ làm người ta gắn bó vào đời này. Người ấy sẽ bám chặt lấy đời này, quan tâm quá nhiều vào đời này đến nỗi khó nghĩ đến điều gì vượt ra khỏi đó, đặc biệt là khó nghĩ tới chuyện có thể rời bỏ. Có lần tiến sĩ Johnson được đưa đi xem một tòa lâu đài nổi tiếng và khu đất đẹp đẽ. Khi xem xong, ông quay sang các bạn và nói “đây là những điều làm cho người ta khó mà muốn chết được”. Sự nguy hiểm của tài sản, là nó buộc chặt các tư tưởng và sự quan tâm của con người vào thế gian này.
2/ Nếu mối bận tâm chính yếu của con người là việc chiếm hữu của cải vật chất thì nó khiến người ta có khuynh hướng nghĩ về mọi sự bằng cách lượng định giá cả. Cách đây ít lâu,vợ một người nuôi cừu trên núi có gửi môt thư hết sức lý thú cho một nhật báo nọ. Con cái họ vốn được nuôi dưỡng trong cảnh yên tịnh của vùng núi, chúng đều chất phác, ngay thật. Sau đó, chồng bà ta trở thành một người đó địa vị trong thành phố, bọn trẻ đã từng sống trong miền núi ấy được đưa vào thành phố. Chúng đổi thay rất nhiều nhưng lại thay đổi để trở thành tệ hại hơn. Đoạn chót bức thư ấy được viết như sau “…cái gì là tốt hơn cho việc dưỡng dục một đứa trẻ; một chỗ thiếu xa hoa trần thế, nhưng có cách cư xử tốt hơn, với những tư tưởng thật thà, giản dị hay một nơi đô hội với các thói quen đương thời chỉ biết giá của mọi vật mà chẳng biết gì về giá trị đích thực của bất kỳ một vật nào cả”. Nếu mối bận tâm chính của một người là của cải vật chất, thì người ấy chỉ biết có giá cả mà không biết gì đến giá trị. Người ấy chỉ nghĩ đến những gì người ta chúng ta mua bán bằng tiền bạc và người sẽ quên phứt đi rằng có những giá trị ở đời mà người ta không thể nào mua bán bằng tiền bạc. Có những điều vốn vô giá, quý báu mà tiền bạc không thể nào mua được. Thật là tai hại khi một người bắt đầu nghĩ tất cả mọi điều đáng có đều có thể mua bằng tiền bạc.
3/ Chúa Giêsu muốn nói rằng của cải vật chất có hai tác dụng. (a) đó là một trắc nghiệm khó vượt qua cho con người. Trong khi có một trăm người chịu nổi và vượt được nghịch cảnh thì chỉ có một người vượt được sự giàu có. Của cải rất dễ khiến người ta trở nên khoe khoang, kiêu căng, tự mãn, phàm tục. Phải là một vĩ nhân, một người thánh thiện đích thực mới xứng đáng được giàu sang. (b) nó là một trách nhiệm. Con người luôn luôn bị phê phán căn cứ trên hai tiêu chuẩn, người ấy thâu góp tài sản như thế nào và sử dụng của cải ấy làm sao. Càng có nhiều bao nhiêu, người ấy càng có trách nhiệm bấy nhiêu. Anh ta sẽ sử dụng nó cách ích kỷ hay hào hiệp? Anh ta sẽ sử dụng nó như đó là tài sản thuộc riêng về mình chẳng có ai tranh chấp được hay sẽ dụng nó mà luôn nhớ mình chỉ tạm giữ nó trong tay như người quản lý của Chúa?
Phản ứng của các môn đệ với câu nói của Chúa Giêsu là nếu đó là sự thật thì hầu như được cứu là chuyện không thể nào có được. Chúa Giêsu đã khẳng định trọn vẹn giáo lý về sự cứu rỗi trong một câu ngắn gọn. Ngài phán “Nếu sự cứu rỗi tùy thuộc các nỗ lực của con người, chẳng hề có ai nhờ cố công ra sức mà được cứu cả. Nhưng sự cứu rỗi vốn là một ân huệ của Chúa, vì Ngài có thể làm được mọi sự”. Người nào tin cậy vào chính mình hoặc của cải mình có, chẳng bao giờ được cứu. Người nào tin cậy vào quyền năng cứu rỗi và tình yêu thương của Chúa, sẽ được cứu rỗi. Đó là tư tưởng mà Phaolô viết từ bức thư này sang bức thư khác. Và đó cũng còn là tư tưởng dành cho chúng ta để làm nền tảng cho đức tin.
CHÚA KITÔ CHẲNG MẮC NỢ AI (10,28-31)
Tâm trí Phêrô đang suy nghĩ và ông không thể im lặng. Ông vừa chứng kiến một người từ chối không chịu đi theo tiếng gọi “Hãy theo Ta” của Chúa Giêsu. Thật vậy, chính ông vừa nghe Chúa Giêsu bảo như vậy là, người nọ đã tự mình đóng cửa Nước Thiên Chúa lại đối với chính mình. Vì thế Phêrô đã không thể không nêu lên nét tương phản giữa người ấy và chính ông cùng các bạn ông. Người nọ đã từ chối tiếng gọi “Hãy theo Ta” của Chúa Giêsu, nhưng ông và các bạn ông đã chấp nhận và với lòng thành thật, hết sức bộc trực, Phêrô muốn biết khi đi theo Chúa như vậy, ông và các bạn ông sẽ được gì. Câu trả lời của Chúa Giêsu gồm ba phần.
1/ Chúa Giêsu bảo chẳng hề có ai vì danh Ngài và vì Phúc Âm của Ngài, từ bỏ bất cứ điều gì mà không nhận lại được gấp trăm. Việc xảy ra ngay trong Hội Thánh, điều đó đã nghiệm đúng theo nghĩa đen của nó. Người theo Kitô giáo có thể bị mất hết nhà cửa, bạn bè, những người thân yêu của mình, nhưng việc người ấy gia nhập Hội Thánh Chúa đưa người ấy vào một gia đình gồm toàn bà con thuộc linh rộng lớn hơn nhiều so với gia đình mình vừa lìa bỏ. Việc ấy đã thực sự xảy ra với Phaolô, chắc chắn khi Phaolô trở thành Kitô hữu, cánh cửa nhà ông và nhà bà con đóng lại ngay trước mặt ông. Nhưng điều chắc chắn là khi đi từ thành phố này sang thành phố khác, thị trấn này sang thị trấn khác, làng này qua làng khác tại cả Âu Châu lẫn Tiểu Á. Phaolô tìm thấy một nhà đang mong chờ ông, một gia đình Chúa Kitô tiếp rước ông. Điều lạ lùng là ông thường dùng những từ có tính cách gia đình. Trong Roma 16,13, ông bảo mẹ của Raphô cũng là mẹ ông. Trong Philêmon câu 10, ông bảo Ônêximô là con ông đã sanh ra trong lúc bị tù. Đối với các Kitô hữu thời Hội Thánh sơ khai, mọi việc đều là thế, khi bị chính gia đình từ bỏ, người ấy gia nhập vào đại gia đình rộng lớn của Chúa Giêsu.
Khi Egerton Young rao giảng Tin Mừng lần đầu tiên cho người da đỏ ở Saskatchewan, ý niệm về Thiên Chúa là Cha mọi người đã thu hút những con người mà từ trước đến bây giờ chỉ thấy Chúa trong sấm sét giông bão. Một tù trưởng cao niên hỏi Young “Có phải ông đã thưa với Chúa rằng “Lạy Cha của chúng con không?”. Young đáp “Phải” vị tù trưởng tiếp tục hỏi “Vậy thì Ngài cũng là cha của tôi phải không?” Young đáp “Chắc chắn như vậy”. Gương mặt vị tù trưởng bỗng sáng rực lên cách khác thường, ông ta vung tay lên và nói như người mới khám phá được một điều gì khác thường, ông bảo “Vậy thì tôi với ông là anh em”. Có người phải hy sinh nhiều mối dây ràng buộc với những người thân yêu để trở thành Kitô hữu. Nhưng khi làm như vậy, người ấy đã trở thành một thành viên và anh em trong một gia đình rộng lớn bằng cả thế gian này với thiên đàng.
2/ Thêm vào đó, Chúa Giêsu còn nêu lên hai điểm này nữa. Một là Ngài thêm những từ thật đơn giản: với sự ngược đãi. Mấy chữ này làm cho vấn đề trở thành hết sức sáng tỏ, chẳng úp mở gì cả. Chúng cất đi ý niệm về phần thưởng vật chất cho những hy sinh vật chất. Chúng nói với chúng ta hai điều. Trước hết là lòng thành thật của Chúa Giêsu. Ngài không hề đề nghị một con đường dễ đi. Ngài nói thẳng với người ta răng làm Kitô hữu thì phải trả giá đắt. Thứ hai chúng cho ta thấy Chúa Giêsu chẳng bao giờ dùng của hối lộ, đút lót người ta theo Ngài. Ngài dùng thách thức. Ngài phán “Chắc chắn là các ngươi sẽ được phần thưởng, nhưng các ngươi phải chứng tỏ mình là một con người xứng đáng, một nhà thám hiểm dũng cảm, đủ điều kiện để được lãnh phần thưởng ấy”. Điều thứ hai Chúa Giêsu thêm vào là ý niệm về đời sau. Ngài không hề hứa sẽ tính sổ sòng phẳng, thiết lập quân bình trên cán cân thấu xuất của thời gian và không gian hiện có. Ngài không kêu gọi người ta đến lãnh nhận các phcu1 lộc của cõi đời đời. Thiên Chúa không phải chỉ có một cõi đời này để trả công cho chúng ta thôi đâu.
3/ Rồi Chúa Giêsu thêm một câu cảnh cáo có tính cách dí dỏm “Đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, còn những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu”. Thật ra đây là lời cảnh cáo Phêrô. Có thể chính lúc đó Phêrô đang tự đánh giá mình, tự định đoạt lấy phần thưởng dành cho mình, ông đang đánh giá chúng rất cao. Điều Chúa Giêsu ngụ ý là “Tiêu chuẩn để phán xét tối hậu vốn ở nơi Chúa, nhiều người có thể được người ta coi là tốt, là hay; nhưng đối với phán xét của Chúa có thể trái ngược với phê phán của loài người. Hơn nữa nhiều người có thể tự phê cho mình là tốt, là hay, nhưng cuối cùng sẽ thấy Chúa đánh giá mình cách trái ngược hẳn lại”. Đây là một lời cảnh cáo đối với mọi thái độ kiêu ngạo. Đây là lời cảnh báo phán xét chung thẩm vốn thuộc về Thiên Chúa là Đấng duy nhất biết rõ mọi động cơ thúc đẩy trong lòng người ta. Đây là lời cảnh báo phán xét trên thiên đàng sẽ trái ngược với danh tiếng dưới thế gian này.
09/10 Ưu tiên là tuân giữ lời Chúa
- Viết bởi Lc 11, 27-28
Ưu tiên là tuân giữ lời Chúa.
Thứ Bảy tuần 27 thường niên.
"Phúc cho dạ đã cưu mang Thầy".
Lời Chúa: Lc 11, 27-28
Khi ấy, Chúa Giêsu đang giảng cho dân chúng, thì từ giữa đám dân chúng, có một phụ nữ cất tiếng nói rằng: "Phúc cho dạ đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú!"
Nhưng Người phán rằng: "Những ai nghe và giữ lời Thiên Chúa thì có phúc hơn".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Phúc thay lòng dạ
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Thánh Luca hẳn đã dựa vào một nguồn tài liệu riêng
để viết nên đoạn Tin Mừng rất ngắn này.
Khung cảnh có vẻ diễn ra ở ngoài trời, có đám đông dân chúng.
Đức Giêsu đang giảng dạy, còn dân chúng thì nghe.
Bất ngờ có một phụ nữ cất cao giọng mà nói với Ngài rằng:
“Phúc cho lòng dạ đã cưu mang Thầy, và vú đã cho Thầy bú mớm.”
Đây là một lời ca ngợi thân mẫu của Thầy Giêsu.
Người phụ nữ chắc đã rất tâm đắc với những lời Thầy giảng,
nên từ lòng ngưỡng mộ đối với Thầy,
bà đã bật lên lời ngợi khen đối với người mẹ của Thầy.
Bà không ngại nói đến những nét đặc trưng và kín đáo của một người mẹ,
những gì nơi thân xác mẹ cần cho sự sống của con.
Lòng dạ của thân mẫu Thầy đã cưu mang Thầy chín tháng.
Chín tháng đủ để một thai nhi cứng cáp mà nhìn thấy ánh mặt trời.
Chín tháng ấp ủ, mẹ và con gần gũi nhau như là một.
“Và vú đã cho Thầy bú mớm.”
Không phải chỉ chín tháng cưu mang, mà còn ba năm bú mớm.
Mẹ nuôi con bằng chính dòng sữa của mình, sự sống của mình.
để con được lớn lên, có thể đứng đây mà giảng thuyết.
Rõ ràng thân xác mẹ là cái nôi ru cho con lớn lên.
Mẹ vừa lo sinh, vừa lo dưỡng.
Lời khen ngợi của người phụ nữ vang ra cả đám đông.
Khen mẹ chính là khen con một cách gián tiếp.
Phải là một người mẹ tuyệt vời
mới sinh được một người con tuyệt vời đến thế!
Maria có phúc vì Mẹ được chọn để sinh dưỡng Đấng cứu độ.
Bà Êlisabét đã từng lớn tiếng kêu lên mối phúc này (Lc 1, 42):
“Em có phúc hơn mọi phụ nữ, và phúc cho hoa trái của bụng dạ em.”
Như thế Mẹ có phúc vì Con có phúc.
Đức Giêsu không phản đối hay phủ nhận câu nói của người phụ nữ
đang đứng nghe giảng cùng với đám đông.
Ngài chỉ muốn điều chỉnh cho hợp với bầu khí hiện tại,
khi những người trong đám đông đang ở tư thế lắng nghe.
“Phúc cho những ai lắng nghe và giữ lời của Thiên Chúa.”
Một mối phúc mới tưởng như không liên hệ gì với mối phúc trước,
kỳ thực đó là điều Mẹ Maria đã sống từ lâu.
Ai lắng nghe tiếng Chúa bằng Mẹ? Ai giữ lời Chúa bằng Mẹ?
Trước khi cưu mang Ngôi Lời nơi thân xác,
Mẹ Maria đã đón lấy Lời Chúa vào cuộc đời mình.
Đám đông đang lắng nghe lời Thầy Giêsu.
Họ cần tuân giữ lời đó nữa mới được hưởng mối phúc thật sự.
Chúng ta không được ban mối phúc sinh dưỡng Đức Giêsu như Mẹ,
nhưng vẫn được chia sẻ mối phúc nghe và giữ lời Chúa của đám đông.
Cầu nguyện:
Lạy Mẹ Maria,
khi đọc Phúc Âm,
lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu.
Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ.
Mẹ tìm con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana.
Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng.
Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi
âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong,
từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu
trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa.
Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con
đừng sợ lên đường mỗi ngày,
đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa
dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu
để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ
đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.
Suy niệm 2: Phúc thật
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Người phụ nữ ngợi khen Đức Mẹ cũng nói “Phúc thay”. Chúa Giê-su cũng nói “Phúc thay”. Nhưng ở chiều kích và mức độ khác nhau. Người phụ nữ nói về hạnh phúc được làm mẹ. Chúa Giê-su nói về hạnh phúc được làm con. Ai sinh ra thì làm mẹ. Ai tuân giữ thì làm con. Người phụ nữ nói về người mẹ dưới thế. Chúa Giê-su nói về người con của Cha trên trời. Sinh ra theo xác thịt sẽ trở thành mẹ theo cách nhìn trần gian. Tuân giữ lời Cha trên trời sẽ trở thành con của Cha trên trời. Người phụ nữ nói về hữu hạn. Chúa Giê-su nói về vô hạn. Con chỉ có một mẹ. Nhưng Cha thì có vô số con cái. Người phụ nữ nói về liên hệ huyết thống. Chúa Giê-su nói về liên hệ thiêng liêng. Liên hệ huyết thống xác thịt thì chật hẹp, giới hạn. Liên hệ thiêng liêng thì bao la mênh mông vô hạn. Người phụ nữ nói về liên hệ bề mặt. Chúa Giê-su nói về liên hệ chiều sâu. Sinh ra là liên hệ bề mặt. Nhưng nghe và tuân giữ tạo nên một liên hệ gắn bó sâu xa hơn nhiều. Thành ra lời “Phúc thay” của người phụ nữ chỉ ở phương diện trần gian chóng qua. Lời “Phúc thay” của Chúa Giê-su mới thật cao cả, sâu xa và vĩnh cửu. Đó là “Phúc Thật”. Đức Mẹ ứng nghiệm cả ở hai chiều kích. Người phụ nữ thực sự muốn ca ngợi Đức Mẹ. Nhưng chưa xứng tầm. Chúa Giê-su phải sửa chữa lại. Vừa nâng Đức Mẹ lên xứng tầm. Vừa mở rộng tới muôn người. Để ai nghe và tuân giữ Lời Chúa cũng sẽ được hạnh phúc như Đức Mẹ.
Đó chính là điều thư Ga-lát khẳng định. Khi lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa ta có đức tin. “Nhờ đức tin, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô”. Chúng ta trở thành con vì “bất cứ ai trong anh em được thành tẩy để thuộc về Đức Ki-tô, đều mặc lấy Đức Ki-tô”. Là con chúng ta sẽ đồng thừa tự với Chúa Giê-su. Được hưởng gia tài vinh quang thiên quốc. Đó là phúc thật của chúng ta. (năm chẵn).
Điều đó không những ứng nghiệm cho mọi cá nhân. Mà còn cho mọi đất nước, mọi dân tộc. Rồi sẽ đến những ngày của Chúa. Ngày ấy trở nên cuộc phán xét khủng khiếp cho những dân tộc không nghe và không tuân giữ Lời Chúa. Họ sẽ bị kết án. Bị tàn lụi; “Ai cập sẽ nên chốn hoang tàn. Ê-đôm sẽ trở thành sa mạc hoang vu, vì chúng đã dung bạo lực sát hại con cái Giu-đa; chúng đã đổ máu người vô tội trên đất của họ”. Còn những ai nghe và tuân giữ Lời Chúa sẽ trở thành Dân của Chúa. Sẽ được hưởng hạnh phúc. “Giê-ru-sa-lem sẽ là nơi thánh, người ngoại quốc sẽ chẳng còn qua đó nữa. Ngày ấy, núi non sẽ tiết ra nước nho, đồi nương sẽ chảy sữa tràn trề, từ mọi khe suối Giu-đa, nước sẽ tuôn trào cuồn cuộn”. Họ trở thành con cái Chúa. Trở thành một dân tộc. Đó là phúc thật (năm lẻ).
Suy niệm 3: Cưu Mang Lời Chúa
Chúa Giêsu đã đến để đem Tin Mừng cứu độ cho nhân loại. Nơi nào Ngài đặt chân đến, thì nơi đó Vương quyền và Nước Thiên Chúa xuất hiện.
Nhận thấy quyền năng và sự khôn ngoan nơi các phép lạ cũng như lời nói và việc làm của Chúa Giêsu, một người phụ nữ trong đám đông không thể cầm mình được. Bà đã lên tiếng ca ngợi Chúa Giêsu cách gián tiếp bằng cách ca ngợi người mẹ đã cưu mang Ngài: "Hạnh phúc thay bà mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm". Nhưng Chúa Giêsu đáp lại: "Ðúng hơn phải nói rằng: "Hạnh phúc thay kẻ lắng nghe và giữ Lời Thiên Chúa".
Chúa Giêsu không có ý phủ nhận vai trò của Mẹ Maria trong việc cưu mang, sinh hạ và nuôi dưỡng Ngài; nhưng qua những lời trên đây, Ngài mạc khải mối tương quan sâu xa giữa Ngài và Mẹ Maria; mối tương quan ấy không chỉ dừng lại ở huyết nhục, nhưng hơn ai hết, Mẹ là người đã triệt để lắng nghe và giữ Lời Thiên Chúa: cả cuộc đời Mẹ, từ biến cố Truyền tin cho đến khi đứng dưới chân Thập giá, Mẹ đã đón nhận Lời Chúa, qua tiếng Xin Vâng.
Một đời sống đạo đức gương mẫu vẫn luôn là một hấp lực và tác động người khác hơn cả những gì được viết trong sách vở. Mẹ Maria đã nêu gương cho chúng ta trong việc lắng nghe và thực thi Lời Chúa. Ðó là mối phúc mà ai trong chúng ta cũng có thể đạt được. Ước gì chúng ta tìm được hạnh phúc trong việc cưu mang Lời Chúa: cưu mang bằng cách lắng nghe, đón nhận và tuân giữ, để rồi một khi Lời Chúa đã trở thành sức sống, chúng ta có thể đem sự sống đó đến cho những người xung quanh.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Lắng Nghe Và Sống Thực Hành Lời Chúa
"Phúc cho những ai lắng nghe lời Chúa và đem ra thực hành".
Chúng ta gặp thấy nơi đây một mối phúc khác nữa, ngoài tám mối phúc đã được Chúa Giêsu công bố trong bài giảng trên núi, và chúng ta có thể gọi mối phúc được nhắc đến nơi đây là mối phúc "lắng nghe Lời Chúa và sống thực hành Lời Chúa". Ðây là lời chúc phúc Chúa Giêsu nói không những cho Mẹ Maria mà còn cho tất cả mọi người. Ðáp lại lời của người nữ, đám đông dân chúng chúc tụng Mẹ Maria vì lý do tự nhiên phàm trần là cưu mang và nuôi dưỡng Chúa Giêsu: "Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm", thì Chúa Giêsu mạc khải lý do sâu xa hơn: mối phúc được xây dựng trên nền tảng siêu nhiên là lắng nghe lời Chúa và đem ra thực hành. Khi trả lời như vậy, Chúa Giêsu không phải là không muốn làm vinh danh Mẹ Maria nhưng Chúa muốn nêu chỉ cho dân chúng thời đó biết và cho chúng ta hôm nay thấy rõ nền tảng của mối phúc mà Mẹ Maria đang vui hưởng, đó là lắng nghe lời Chúa và đem ra thực hành.
Hơn ai hết, Mẹ Maria là kẻ đầu tiên đã lắng nghe lời Chúa và đem ra thực hành khi Mẹ thưa: "Vâng, này tôi đây là nữ tỳ của Thiên Chúa, xin hãy thực hiện nơi tôi điều Ngài truyền". Lời thưa "Xin vâng" của Mẹ Maria khai mở một thế giới mới của ơn cứu rỗi và của sự sống mới. Mẹ đã trở nên gương mẫu cho mọi người Kitô để lắng nghe và thực hành lời Chúa dạy, và mối phúc lắng nghe lời Chúa và sống thực hành cũng được mở ra cho tất cả mọi người thuộc mọi thời đại.
Mọi người, mọi thời đại, đều có thể hưởng được mối phúc thật khi họ biết khiêm tốn lắng nghe lời Chúa và đem ra thực hành. Mối phúc lời Chúa này không phải là độc quyền Mẹ Maria, nhưng Mẹ đã đi trước nêu gương và muốn cho chúng ta sống như Mẹ đã sống. Nơi tiệc cưới Cana, Mẹ đã nói với các gia nhân hãy làm theo lời Chúa Giêsu truyền. Và hành động vâng phục của họ đối với lệnh Mẹ Maria "hãy làm theo lời Ngài truyền", hành động đó đã dọn sẵn mọi sự để Chúa làm phép lạ mang đến niềm vui cho những người chung quanh.
Lạy Cha.
Nhờ qua Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu, chúng con xin chúc tụng Cha vì đã trao ban cho chúng con một mẫu gương lắng nghe lời Chúa và sống thực hành. Xin Cha giúp chúng con noi gương Mẹ Maria sống trọn vẹn lời thưa: "Này con là tôi tớ Chúa, xin vâng theo như lời Ngài truyền, chúng con nguyện Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, vâng Ý Cha dưới đất cũng như trên trời".
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 5: Lời Chúa hơn mối dây ruột thịt
Khi Đức Giêsu đang giảng dạy, thì giữa đám đông có mộtng phụ nữ lên tiếng thưa với Người: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm!”Nhưng Người đáp lại: Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa.” (Lc. 11, 27-28)
Một lần nữa, Đức Kitô thiết lập những ưu tiên. Người không đối lập lời Chúa với những mối dây liên hệ ruột thịt. Người dạy lời Chúa phải vượt lên trên liên hệ ruột thịt. Này, một phụ nữ vô danh được Người cho một bài học. Chị đã không thể kìm hãm được sự cảm phục tinh tế của chị đối vời Người, nên chị đã thốt lên những lời, không dám trực tiếp nói với Người như lòng chị muốn tung hô: “Lạy Thầy, Thầy thật sáng chói vinh hiển, không ai nói được như vậy. Không ai có kiến thức, có lòng nhân hậu, có tình yêu cao quý là lùng như Thầy”. Chị chỉ gián tiếp theo bản năng phụ nữ ca ngợi Mẹ Đức Giêsu, Ngài đã sinh cho thế gian một người con số một, một người Thầy độc đáo!: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm”.
Nhưng Đức Kitô đã đáp lại đối ứng từng chữ từng chữ như câu đối: “Phúc hơn kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Chúa”.
Đức Kitô không chê bỏ dây ruột thịt đã kết hợp Người với Mẹ Maria. Người biết phải cần đến bản tính nhân loại của Mẹ Người, nhờ đó, Người cứu độ loài người. Nhưng Người muốn cho chị này hiểu về hạnh phúc thật trước mặt Thiên Chúa, không hệ ở con ruột thịt dù nó có trong sáng cao thượng. Cũng thế, Chúa không đánh giá chúng ta theo phẩm chất trí thức dù có chói sáng, theo địa vị trong Giáo Hội, theo chức vụ lãnh nhận và theo vinh quang rạng rỡ của ta.
Đối với Người, chúng ta có giá trị nhờ chúng ta có biết lắng nghe lời Chúa, biết hăng say lãnh nhận sứ điệp của Người với lòng yêu mến chân thành, biết quảng đại thực thi lời Chúa hằng ngày, biết sốt sắng làm cho mọi người cảm nhận lời Chúa, biết trung thành tuân giữ lời Chúa dù gặp những lúc gian lao khó khăn cũng như những lúc được vui mừng thuận lợi. Chúng ta có giá trị nhờ ở thiện chí vững chắc và không ngừng bước theo con đường thánh giá của Chúa luôn luôn mở ra trước mắt của chúng ta ánh sáng phục sinh cho ta ở đời này cũng như ở trời cao. Chúng ta có giá trị nhờ thực thi bác ái với người thân cận, nhờ ở hiến thân phục vụ những đại nghĩa công chính, phục vụ người nghèo và người cùng khổ thuộc mọi giới.
Đó là hạnh phúc thật, không còn ở đâu nữa.
GF
Suy niệm 6: Hạnh phúc thật ở đâu?
Xem CN 10 TN B (Mc 3,20-35)
Trong cuộc sống, không ai là người lại không muốn cho mình được hạnh phúc! Người thì cho rằng: vợ đẹp con khôn là hạnh phúc; người khác lại nghĩ có được nhà lầu xe hơi mới là hạnh phúc; lại có người nghĩ mình phải phấn đấu để được giữ chức nọ việc kia thì sẽ hạnh phúc, nhưng có người lại chỉ hy vọng rất đơn giản là làm sao có cơm ba bữa, quần áo mặc cả ngày cũng là hạnh phúc lắm rồi!
Như vậy, mỗi người đều mong cho mình được hạnh phúc, tuy nhiên quan niệm về hạnh phúc thì lại khác nhau.
Hôm nay, Đức Giêsu cho chúng ta thấy: hạnh phúc của người Tín hữu Kitô chính là việc được đón nhận hồng ân đức tin. Có được đức tin là chúng ta được sống trong tình yêu của Thiên Chúa. Đây là những người hạnh phúc đích thực.
Vì thế, Đức Giêsu rất quan tâm đến mối liên hệ trong đức tin hơn là sự liên hệ tình cảm thuần túy.
Vì thế, khi thấy được những điều kỳ diệu Đức Giêsu làm và những lời giảng dạy tuyệt vời của Ngài, một người đã thốt lên lời khen ngợi, hay nói đúng hơn là lời chúc mừng Đức Maria là người đã sinh ra và nuôi dưỡng Ngài: "Phúc cho dạ đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú!". Tuy nhiên, Đức Giêsu lại nói: "Những ai nghe và giữ lời Thiên Chúa thì có phúc hơn".
Khi nói như thế, Ngài không có ý hạ thấp vai trò của Đức Maria, nhưng một cách gián tiếp, Ngài đang đề cao Mẹ Maria hơn bao giờ hết, bởi vì trong số những người lắng nghe lời Thiên Chúa, hẳn Mẹ là người trung thành và trọn vẹn nhất. Vì thế, Đức Giêsu muốn đưa Đức Maria ra làm mẫu gương về việc lắng nghe Lời Chúa.
Lời Chúa hôm nay gióng lên một hồi chuông cảnh tỉnh mỗi người chúng ta, vì: ngày nay, trong cuộc sống có quá nhiều sự bon chen, con người phải chạy đua với chúng như trò chơi đuổi nhau của bọn trẻ. Họ phỏng chiếu hạnh phúc qua lăng kính của tiền, tài, tình, quyền... Còn đứng trước lời mời gọi của Chúa qua chính Lời Ngài thì hẳn chúng ta không muốn nghe, nói gì đến việc tuân giữ!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người: hãy xin Chúa ban đức tin cho ta, từ đức tin đó, chúng ta cộng tác với ơn Chúa để làm cho đức tin ngày càng lớn mạnh. Dấu hiệu của người có một đức tin trưởng thành là yêu mến và tuân giữ Lời Chúa, suy đi nghĩ lại và đem ra thực hành. Được như thế, chúng ta sẽ là những người hạnh phúc.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con. Xin cho chúng con được yêu mến và tuân giữ Lời Chúa cách trung thành như Mẹ Maria khi xưa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Hạnh phúc đích thực
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Hạnh phúc đích thực cho những ai biết cưu mang Chúa trong tâm hồn, để Chúa hiện diện trong cõi lòng, để tinh thần Chúa biểu lộ qua cách ăn nết ở, đó mới là người thực sự liên hệ với Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con hình dung cảnh đám đông người Do thái vây quanh Chúa. Họ đang trầm trồ thán phục vì được chứng kiến những phép lạ phi thường và được nghe những lời giảng dạy khôn ngoan của Chúa. Những người phụ nữ mơ ước có một người con tài giỏi như Chúa. Người mẹ sinh ra Chúa thật phúc đức. Một trong số những phụ nữ đó đã không kìm được lòng ngưỡng mộ chợt thốt lên: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang Thầy và cho Thầy bú”. Và Chúa đáp lại: “Đúng ra là: phúc thay ai nghe và giữ Lời Thiên Chúa”. Con nhận ra câu trả lời của Chúa ẩn chứa một bài học dạy con. Mẹ Maria là người được chúc phúc không phải chỉ vì Mẹ được phúc cưu mang Chúa, nhưng nhất là vì suốt đời Mẹ đã cưu mang Chúa trong tâm hồn. Mẹ kết hợp với Chúa trong kinh nguyện, Mẹ gặp gỡ Chúa trong Thánh Kinh. Mẹ đã hòa hợp ý mình với Thánh Ý Chúa. Mẹ đã mong chờ điều Chúa chờ mong: Mong ơn cứu độ sớm được thực hiện. Mẹ đáng được chúc phúc vì Mẹ chuyên tâm lắng nghe Thánh Ý Chúa và hết lòng thực hiện.
Lạy Chúa, Chúa không muốn giới hạn người thân trong mối dây huyết tộc mà thôi, nhưng đã mở rộng sang mối dây thiêng liêng. Mối dây thiêng liêng của đức tin đã liên kết mọi người trên thế giới trở thành anh chị em và thành con Thiên Chúa. Phần con, dù chẳng là mẹ hay là anh em họ hàng với Chúa, nhưng xin cho con biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa, để con trở nên người thân của Chúa và xứng đáng được Chúa chúc phúc. Amen.
Ghi nhớ: “Phúc cho dạ đã cưu mang Thầy”.
Suy niệm 8: Nền tảng của mối phúc làm mẹ Chúa
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Có người hỏi thi sĩ François Coppée, người Pháp: “Ai làm cho ông nên tốt lành như thế ?”. Ông trả lời ngay, không chút do dự: “Đó là mẹ tôi!”.
Mẹ Maria khi được sứ thần loan tin cho biết Mẹ sẽ là Mẹ của Con Đức Chúa Trời, Mẹ xưng mình là tôi tớ của Đức Chúa Trời và luôn làm theo thánh ý Ngài.
Suy niệm
Ðức Giêsu giảng dạy khôn ngoan, làm phép lạ và những việc phi thường. Nghe dạy và thấy những việc Ngài làm, đám đông dân chúng ngưỡng mộ và chúc tụng Mẹ Ngài vì đã cưu mang và nuôi dưỡng một người con vĩ đại: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm”. Tuy nhiên trước lời ca tụng đó, Chúa Giêsu khẳng định: “Những ai nghe và giữ lời Thiên Chúa thì có phúc hơn”. Ngài muốn mạc khải về hạnh phúc siêu nhiên hơn tự nhiên, hạnh phúc đó được xây dựng trên nền tảng lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành.
Qua khẳng định này, Chúa Giêsu không phải là không muốn làm vinh danh Đức Maria, người Mẹ yêu dấu của mình, Chúa muốn nhấn mạnh nền tảng của mối phúc là lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành, mà chính Mẹ Maria đang vui hưởng.
Thật thế, Mẹ Maria là người đầu tiên đã lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành khi được sứ thần loan báo thánh ý Thiên Chúa về chương trình cứu độ, Mẹ thưa: “Vâng, này tôi đây là nữ tỳ của Thiên Chúa, xin hãy thực hiện nơi tôi điều Ngài truyền”.
Bằng việc lắng nghe và thực hành Lời Chúa, Mẹ Maria cộng tác với Chúa Giêsu, Con Mẹ khai mở một thế giới mới của ơn cứu rỗi và sự sống mới. Với lời thưa “xin vâng”, Mẹ đã trở nên gương mẫu cho chúng ta: Lắng nghe và thực hành Lời Chúa dạy, đem lại hạnh phúc...
Xin cho chúng con noi gương Mẹ biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa trong cuộc sống. Ðể chúng con trở nên như Mẹ, người có phúc.
Ý lực sống:
“Điều đẹp ý Ngài, xin dạy con thực hiện” (Tv 143,10).
Suy niệm 9: Thế nào là hạnh phúc thực sự
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Giữa đám đông đang nghe Đức Giêsu giảng, có một phụ nữ, vì cảm phục trước việc Chúa làm phép lạ trừ quỳ câm, ngây thơ không biết khen ngợi Chúa thế nào, đã thốt ra câu khen ngợi Mẹ Ngài :”Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm”. Nhưng Chúa nói :”Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Chúa”. Chúa nói thế không phải là Ngài coi rẻ Đức Maria, trái lại còn gián tiếp ca tụng Người : Người vừa là Mẹ ruột đã sinh ra Ngài, vừa là một người luôn lắng nghe và thực hiện lời Thiên Chúa.
2. Dân gian có câu : ”Một ngươi làm nên cả họ thơm lây...” Khi thấy sự thành công của Chúa Giêsu đầy quyền năng trên quỷ thần, giảng dạy hay, chữa nhiều bệnh tật, dân dân lũ lượt theo Người... thì một người phụ nữ trong đám đông kêu lên: ”Phúc cho lòng dạ đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú mớm”. Xét theo phương diện này, thì Mẹ Maria là Đấng Đầy Ơn Phúc đã cưu mang Chúa Giêsu và cho Người bú mớm. Tuy nhiên, hiểu rộng ra, đây cũng là cái phúc chung cho mọi người chúng ta. Bởi vì Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Lời Thiên Chúa, và cũng được hiểu Lời Chúa là chính Chúa. Cho nên, khi chúng ta yêu mến Lời Chúa, năng đọc và suy gẫm Lời Chúa, chính chúng ta đang làm mẹ cưu mang Chúa trong tâm hồn, và đang làm cho Chúa được lớn lên trong ta (Hiền Lâm).
3. Diễm phúc thứ nhất là Đức Mẹ đã sinh ra Chúa Cứu Thế, và hạnh phúc thứ hai là Mẹ đã thực hành Lời Chúa. Trong Tin Mừng hôm nay chính Chúa Giêsu đã dành cho mẹ Ngài một lời ca tụng đẹp đẽ nhất: đã nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa. Phúc cho mẹ không phải chỉ vì mẹ đã cho Chúa bú mớm, nhưng còn vì Mẹ đã ân cần đón nhận lời Chúa, mẹ đã Suy niệm và để lời Chúa thành chính sự sống của mẹ. Quả thực, không có ai đã nghe lời Chúa và thực hành lời Chúa bằng Đức Mẹ. Tóm lại, Đức Maria là Mẹ Chúa Giêsu, vừa sống đời sống của Chúa, vừa sống đúng lời Chúa, nên mẹ đã được hai diễm phúc: một là đã sinh ra Chúa, dưỡng dục Chúa, hai là đã thực hành Lời Chúa, nên mẹ là người hoàn hảo nhất. (Phạm Văn Phượng).
4. Trong cuộc sống, có nhiều điều làm cho chúng ta được vui vẻ, hạnh phúc : một lời khen chân thành, một bản nhạc du dương, một bức tranh tuyệt đẹp, một trận bóng hấp dẫn, một gia đình ấm êm... Khi nghe Đức Giêsu giảng, một người phụ nữ đã cất tiếng khen ngợi Mẹ Maria là người hạnh phúc, vì Mẹ đã cưu mang, sinh hạ và dưỡng nuôi Đức Giêsu. Đáp lại, Đức Giêsu đã mạc khải một chân lý quan trọng : Đức Maria là người diễm phúc nhưng không phải chỉ vì tương quan huyết nhục với Đức Giêsu, mà trên hết, vì Mẹ luôn lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa. Lắng nghe và thực hành Lời Chúa làm cho chúng ta được hạnh phúc, vì được trở nên người thân thuộc trong gia đình của Người. Gắn bó mật thiết với Lời Chúa giúp chúng ta xây căn nhà cuộc đời trên nền đá vững chắc, không một sức mạnh nào có thể tàn phá được.
5. Chúa Giêsu đáp rằng :”Đúng hơn phải nói rằng : Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa”. Nói như thế, Chúa Giêsu không có ý phủ nhận vai trò của Mẹ Maria trong việc cưu mang, sinh hạ và nuôi dưỡng, nhưng qua những lời trên đây, Ngài mạc khải mối tương quan sâu xa giữa Ngài và Mẹ Maria; mối tương quan ấy không chỉ dừng lại ở huyết nhục, nhưng hơn ai hết, Mẹ là người đã triệt để lắng nghe và giữ lời Thiên Chúa; cả cuộc đời Mẹ, từ biến cố truyền tin cho đến khi đứng dưới chân Thập giá, Mẹ đã đón nhận Lời Chúa, qua tiếng Xin Vâng.
6. Một đời sống đạo đức gương mẫu vẫn luôn là một hấp lực và tác động người khác hơn cả những gì được viết trong sách vở. Mẹ Maria đã nêu gương cho chúng ta trong việc lắng nghe và thực thi Lời Chúa. Đó là mối phúc mà ai trong chúng ta cũng có thể đạt được. Ước gì chúng ta tìm được hạnh phúc trong việc cưu mang Lời Chúa; cưu mang bằng cách lắng nghe, đón nhận và tuân giữ, để rồi một khi Lời Chúa đã trở nên sức sống, chúng ta có thể đem sự sống đó đến cho những người chung quanh chúng ta.
7. Truyện : Thực hành Lời Chúa dạy.
Có người nô lệ da đen kia đạo đức và trung thành, do được chủ mến chuộng, mỗi khi cần có thêm đầy tớ trong nhà, chủ thường dẫn theo người nữ tì da đen này để cô chọn cho chủ.
Một hôm, cô đã chọn một ông già có tật. Chủ nhất định không chịu mua vì nghĩ rằng hắn chẳng được việc và chẳng đáng giá. Nhưng vì cô nữ tì cứ nài nỉ mãi nên buộc lòng ông chủ phải mua người nô lệ già này bị bệnh nặng. Cô nữ tì săn sóc ông với tất cả tình của người con hiếu thảo. Ông chủ ngạc nhiên hỏi :
- Bộ ông ấy là cha mày, sao mày chăm sóc ông ấy kỹ như thế ?
Người nữ tì trả lời :
- Thưa ông, người kia không phải là bố cháu, cũng không phải là bà con của cháu, trái lại còn là kẻ thù của cháu nữa. Bởi vì khi cháu con nhỏ, hắn đã bắt cóc cháu khỏi vòng tay cha mẹ của cháu, bán cháu như một đứa nô lệ. Nhưng vì cháu là người Công giáo nên cháu luôn thực hành lời dạy của Chúa Giêsu :”Hãy tha thứ thì sẽ được thứ tha”.
Suy niệm 10: Hạnh phúc làm Mẹ Chúa Giêsu
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Vâng! Lời tặng khen hồn nhiên của một phụ nữ trước hình ảnh phi thường của Chúa Giêsu: "Phúc thay lòng dạ đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú" (Lc 11,27) đã là lời khen tặng rất tuyệt vời đối với Mẹ Maria, Đấng đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Ngôi Hai Thiên Chúa Nhập Thể.
Chúa Giêsu đã vui nhận những lời tặng khen dành cho Mẹ của Ngài. Nhưng Ngài lại nói thêm: "Những ai nghe và giữ lời Thiên Chúa lại phúc hơn nữa" (Lc 11,28). Khi nói thế không phải Chúa muốn hạ giá người Mẹ đã cưu mang và cho Ngài bú mớm, mà có lẽ phải nói ngược lại, mới đúng vì hơn ai hết, Đức Mẹ đã nghe và giữ lời Thiên Chúa cách trọn vẹn nhất.
Đúng như thế, hơn ai hết, Mẹ là người đầu tiên lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành Lời Chúa một cách hoàn hảo nhất qua Lời Fiat "Xin Vâng" (Lc 1,38). Vâng! Sau lời Fiat "Xin Vâng", thì toàn bộ cuộc đời Mẹ đã thuộc trọn về Chúa. Mẹ xin vâng trong biến cố Truyền tin; Mẹ xin vâng trên những nẻo đường Chúa đi truyền giáo và nhất là Mẹ đã xin vâng khi đứng kề bên Thập Giá Chúa Giêsu con Mẹ.
Như thế, trong đại gia đình của Đức Giêsu Kitô, tức là cộng đồng Nước Trời, Đức Maria là Mẹ Chúa Giêsu một cách vô cùng tuyệt hảo, vì Mẹ có liên hệ với Chúa đến hai lần: Về huyết nhục, thì Mẹ đã sinh ra Chúa, và về tinh thần, thì Mẹ đã nghe và tuân giữ Lời Chúa.
2. Lắng nghe và thực hành Lời Chúa là một việc rất quan trọng.
Chúa Giêsu luôn đề cao những kẻ lắng nghe và giữ lời Ngài, thậm chí còn coi họ trọng hơn liên hệ ruột thịt nữa.
Trong kho tàng chuyện cổ dân gian Đức, người ta đọc được câu chuyện này.
Truyện kể rằng, khi ông Ađam và bà Evà bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, họ phải dựng lấy nhà để ở trên mặt đất khô cằn và phải đổ mồ hôi sôi nước mắt làm lụng mới kiếm ra miếng ăn. Ađam làm rẫy và Evà dệt vải. Mỗi năm họ cho ra chào đời một đứa con.
Năm tháng trôi qua, lũ trẻ mười bốn đứa lớn dần. Một hôm, chợt nghe tiếng gõ cửa, Ađam mở then gài cho một cụ già quắc thước bước vào. Với con mắt tinh đời, Evà nhận ra ngay cụ già đó chính là Đức Chúa. Bà vội vàng mời Chúa ngồi. Bà lấy nước ra mời Ngài dùng. Ngài cám ơn và hỏi:
- Lũ trẻ có nhà không ?
Ađam vội gọi các con ra và bảy đứa trẻ tiến đến trước mặt Chúa, lễ phép chào Ngài. Chúa đứng lên, mỉm cười và nói với chúng: - Ta sẽ ban cho các con mỗi đứa một ơn.
Lũ trẻ quỳ xuống để Ngài đặt tay trên đầu. Ngài phán bảo với đứa đầu tiên:
- Con sẽ trở nên một vị hoàng đế đầy quyền thế.
Quay sang đứa kế bên, Ngài phán: - Con sẽ là công Chúa.
Đứa thứ ba nghe Ngài truyền: - Con sẽ làm quận công.
Và bốn đứa còn lại cũng được ban cho làm học giả và nhà buôn giàu có.
Sau khi nghe những lời chúc phúc tuyệt diệu của Thiên Chúa ban cho con mình, ông Ađam và bà Evà vội vàng chạy đi tìm những đứa con khác đang làm việc ở bên ngoài. Cả lũ bảy đứa bé còn lại cũng hớt ha hớt hả chạy về trình diện Chúa. Ngài lại mỉm cười hiền từ và phán bảo:
- Ta cũng sẽ ban phúc lành cho chúng con.
Ađam và Evà tươi cười trông chờ và lắng nghe Lời Chúa.
Thiên Chúa phán bảo đứa thứ nhất: - Con sẽ trở nên một người giúp việc mẫn cán.
Ngài nói với đứa thứ hai: - Con sẽ là người nông dân.
Và đến đứa thứ ba, Ngài cho nó làm bác thợ giày. Những đứa còn lại trở thành thợ rèn, thợ thuộc da và thợ may.
Vừa nghe dứt lời chúc lành của Thiên Chúa ban cho những đứa về sau, Evà khóc oà lên:
- Lạy Chúa, Ngài thật là bất công. Ngài ban phát những lời chúc lành không công bằng chút nào. Chúng đều là những đứa con do vợ chồng con sinh ra, sao Ngài lại cho chúng đứa được làm vua làm quan, còn đứa thì lại làm kẻ hầu người hạ.
Thiên Chúa nghe xong, bèn giải thích rằng:
- Evà, con chẳng hiểu gì cả. Ta cần phải ban phát mọi ngành nghề cho thế giới này thông qua con cái của con. Giả sử tất cả bọn chúng đều là vua thì ai sẽ là người nông dân làm ra lương thực. Giả như tất cả đều làm quan thì ai sẽ làm ra y phục ? Mỗi người phục vụ ở những vị trí và giữ vai trò khác nhau, và trong mắt Ta mọi ngành nghề đều quan trọng như nhau. Giống như những bộ phận trong cùng một thân thể, chúng kết hợp lại để hỗ trợ lẫn nhau.
Lúc đó, Evà mới hiểu ra và thành khẩn xin Chúa tha thứ: - Lạy Chúa, xin tha tội cho con. Con đã vội vàng cãi lại Ngài. Con cầu xin cho ơn Ngài được thực thi trên con cái chúng con.
Chúng ta hãy bắt chước Samuen thuở xưa mà thưa: "Lạy Chúa, xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đã sẵn sàng lắng nghe" (1Sm 3,9). Amen.
Suy niệm 11: Hạnh phúc kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
1. Trong đoạn này, Chúa Giêsu muốn đề cao những người “lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa”. Chúa Giêsu đã đề cao họ bằng cách coi họ còn trọng hơn mẹ ruột của Ngài.
2. Nhưng nói thề không phải là Chúa Giêsu coi rẻ Đức Maria, trái lại còn gián tiếp ca tụng Người: Người vừa là mẹ ruột đã sinh ra Ngài, vừa là một người luôn lắng nghe và thực hiện lời Thiên Chúa.
B.... nẩy mầm.
1. Lắng nghe và giữ lời Chúa: Trong Tin Mừng Luca, rất nhiều lần Chúa Giêsu đề cao việc lắng nghe và giữ lời Chúa (Thí dụ chuyện Mác-ta và Maria). Hôm nay một lần nữa Chúa Giêsu đề cao những kẻ lắng nghe và giữ lời Ngài, thậm chí coi họ còn trọng hơn mẹ ruột của Ngài nữa.
2. Diễm phúc của Đức Mẹ: “Phúc cho Mẹ không phải vì đã cho Chúa bú mớm, nhưng vì đã để lời Ngài biến thành xương thịt của mình. Trong thinh lặng, Mẹ đã nghiền ngẫm và để lời Chúa thành chính sự sống của Mẹ” (Trích “Mỗi ngày một tin vui)
3. Có 3 cách đọc Lời Chúa:
- Coi Lời Chúa như dầu gió: Khi bạn nhức đầu nóng lạnh, bạn xức dầu vì biết nó tốt cho sức khoẻ của bạn.
- Coi Lời Chúa như chiếc bánh bông lan: tuy khô khan khó nuốt nhưng cũng ngon và bổ.
- Coi Lời Chúa như quả đào, vừa mát vừa ngọt vừa bổ dưỡng.
Bạn đã đạt tới mức độ thứ ba chưa ?
4. Một bà kia rất thường đọc Sách Thánh và đọc rất sốt sắng. Khi được hỏi tại sao thì bà dùng một thí dụ để giải thích:
Hôm qua tôi nhận được một bức thư của một người tôi rất quý mến. Tôi đã đọc rất chăm chú và đọc đi đọc lại tới 5 lần. Không phải vì tôi không hiểu lời lẽ trong thư vốn đã quá rõ, nhưng vì tôi biết đó là những lời của một người rất thương tôi và tôi cũng rất thương người đó (United Presbyterian).
5. Bài Tin Mừng hôm nay bổ túc ý nghĩa cho bài hôm Thứ Ba (Lc 10,38-42: chuyện Mác-ta và Maria): phải dùng cả đôi tay phục vụ lẫn đôi tai lắng nghe Lời Chúa. Nói cách khác, phải thống nhất đời sống.
6. “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11,28)
“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”. Thiên sứ đã cất lời ngợi khen ấy với người trinh nữ được Thiên Chúa tuyển chọn. Mẹ không chỉ là người cưu mang và cho Chúa Giêsu bú mớm mà còn là người tôi tớ trung thành nhất của Thiên Chúa. Từng giây từng phút, Mẹ sẵn lòng đón đợi và thực thi Thánh Ý. Gương sống khiêm nhường và trung thành của Mẹ đã là một bằng chứng chân thật cho các bài giảng của Chúa Giêsu.
Mỗi ngày tôi vẫn ca vang Mẹ là người đầy ơn phúc. Nhưng tôi biết chắc Mẹ chưa hài lòng với những câu chúc tụng suông. Người muốn tôi thắng vượt thói xấu, mỗi ngài lại trở nên tốt đẹp hơn.
Con cầu nguyện với Mẹ qua chuỗi Mân Côi mỗi ngày, để chuẩn bị tâm hồn lãnh nhận và tuân giữ lời Thiên Chúa. (Hosanna)
08/10 Quyền năng của Chúa.
- Viết bởi Lc 11, 15-26
Quyền năng của Chúa.
Thứ Sáu tuần 27 thường niên.
"Nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi".
Lời Chúa: Lc 11, 15-26
Khi ấy, (lúc Chúa Giêsu trừ quỷ), thì có mấy người trong dân chúng nói rằng: "Ông ta nhờ tướng quỷ Bêelgiêbút mà trừ quỷ". Mấy kẻ khác muốn thử Người, nên xin Người một dấu lạ từ trời xuống.
Nhưng Người biết ý của họ, liền phán: "Nước nào tự chia rẽ, sẽ diệt vong, và nhà cửa sẽ sụp đổ chồng chất lên nhau. Vậy nếu Satan cũng tự chia rẽ, thì nước nó làm sao đứng vững được? Bởi các ngươi bảo Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, vậy nếu Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, thì con cái các ngươi nhờ ai mà trừ? Bởi đó chính con cái các ngươi sẽ xét xử các ngươi. Nhưng nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi.
"Khi có người khoẻ mạnh và võ trang đầy đủ canh giữ nhà mình, thì của cải người đó được an toàn. Nhưng nếu có người mạnh hơn xông đến đánh bại hắn, thì sẽ tước hết khí giới hắn tin tưởng, và làm tiêu tán hết những gì đã tước đoạt. Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta, và ai không thu góp với Ta là phân tán.
"Khi thần ô uế ra khỏi người nào, thì nó đi dông dài những nơi khô ráo, tìm chỗ nghỉ ngơi, nhưng không tìm được, nên nó nói rằng: "Ta sẽ trở lại nhà ta, nơi ta đã ra đi". Khi đến nơi, nó thấy nhà đó đã được quét sạch và sắp đặt ngăn nắp. Bấy giờ nó đi rủ bảy tà thần khác hung ác hơn nó, chúng vào cư ngụ ở đó. Và tình trạng sau cùng của người ấy trở nên tệ hại hơn trước".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Ngón tay Thiên Chúa
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Nếu đời người là một cuộc chiến đấu không ngừng
thì Đức Giêsu khi sống ở đời, cũng không tránh khỏi cuộc chiến ấy.
Cha sai Ngài đến để khai mở Nước Thiên Chúa trên trần gian.
Để làm việc đó, Nước của Xatan cần bị triệt tiêu.
Cuộc đối đầu giữa Đức Giêsu và Xatan là điều không tránh khỏi.
Ngay trước khi bắt đầu sứ vụ,
Đức Giêsu đã phải đối diện với những mồi chài khôn khéo của Xatan.
Và Ngài đã thắng, đã bắt Xatan phải xéo đi cho khuất mắt (Mt 4, 10).
Khi làm việc Cha giao, khi gần gũi với con người,
Đức Giêsu thấy rất rõ sự hiện diện đầy quyền lực của tên tướng quỷ.
Xatan và Nước của nó chi phối và tác động trên con người.
Đức Giêsu là Đấng giải phóng con người khỏi nô lệ bởi Xatan.
Một công việc không ai chối cãi được của Ngài là trừ quỷ.
Nhưng có nhiều cách giải thích chuyện trừ quỷ của Ngài.
Có người coi Đức Giêsu đã trừ quỷ dựa vào thế lực của Bêendêbun.
Bêendêbun là một vị thần xứ Canaan, ở đây được coi là Xatan.
Không thể nào tướng quỷ lại giúp Ngài diệt các quỷ nhỏ của hắn.
Nếu thế Nước của Xatan chẳng thể nào tồn tại đến nay (c. 18).
Đức Giêsu khẳng định mình dùng ngón tay Thiên Chúa để trừ quỷ (c. 20).
Chỉ cần chút quyền năng Thiên Chúa cũng đủ để xua đuổi ác thần,
và khai mở Nước Thiên Chúa giữa lòng thế giới.
Chúng ta thường quên Xatan là nhân vật có thật và hùng mạnh,
có vũ trang đầy đủ để canh giữ lâu đài của hắn cho an toàn (c. 21).
Nhưng Đức Giêsu chính là người hùng mạnh hơn và thắng được hắn.
Ngài có khả năng tước vũ khí và phân chia chiến lợi phẩm (cc. 21-22).
Cuộc chiến của Đức Giêsu chống lại Ác thần vẫn còn kéo dài đến tận thế.
Có những lúc chúng ta tưởng Xatan là kẻ hùng mạnh hơn,
và dường như thế giới nằm dưới móng vuốt của hắn.
Nhưng chiến thắng cuối cùng thuộc về Đức Giêsu, khi Ngài quang lâm.
Chúng ta không đứng ngoài cuộc chiến giữa Đức Giêsu với Xatan.
Chúng ta cùng chiến đấu với Giêsu cho một thế giới không còn tội ác,
một thế giới không còn bạo lực, bất công, thất vọng, muộn phiền,
một thế giới không còn khổ đau, bệnh tật, đói nghèo, mất hướng.
Đứng hẳn về phía Giêsu, đi với Giêsu, thu góp với Giêsu:
đó là chọn lựa của người Kitô hữu (c. 23).
Ngay cả khi đã trục xuất được quỷ dữ khỏi đời mình,
và khi ngôi nhà đời mình đã được quét tước, dọn dẹp hẳn hoi,
ta cũng phải hết sức cảnh giác, vì có nguy cơ quỷ trở lại.
Sự trở lại này có thể còn kinh khủng hơn trước (c. 26).
Có vẻ quỷ thích ở lại với con người hơn là lang thang nơi hoang mạc,
nên căn nhà tâm hồn của chúng ta cần được bảo vệ bằng lũy hào Lời Chúa.
Xin Đức Giêsu dạy chúng ta biết cách nhận diện kẻ thù,
biết cách đuổi Xatan ra khỏi đời mình và ngăn không cho nó trở lại.
Cầu nguyện:
Lạy Cha từ ái,
đây là niềm tin của con.
Con tin Cha là Tình yêu,
và mọi sự Cha làm đều vì yêu chúng con.
Cả những khi Cha mạnh tay cắt tỉa,
cả những khi Cha thinh lặng hay vắng mặt,
cả những khi Cha như chịu thua sức mạnh của ác nhân,
con vẫn tin Cha là Cha toàn năng nhân ái.
Con tin Cha không chịu thua con về lòng quảng đại,
chẳng để con thiệt thòi khi dám sống cho Cha.
Con tin rằng nơi lòng những người cứng cỏi nhất
cũng có một đốm lửa của sự thiện,
được vùi sâu dưới những lớp tro.
Chỉ một ngọn gió của tình yêu chân thành
cũng đủ làm đốm lửa ấy bừng lên rạng rỡ.
Con tin rằng chẳng có giọt nước mắt nào vô ích,
thế giới vẫn tồn tại nhờ hy sinh thầm lặng của bao người.
Con tin rằng chiến thắng cuối cùng thuộc về Ánh sáng.
Sự Sống và Tình yêu sẽ chiếm ngự địa cầu.
Con tin rằng dòng lịch sử của loài người và vũ trụ
đang chuyển mình tiến về với Cha,
qua trung gian tuyệt vời của Chúa Giêsu
và sức tác động mãnh liệt của Thánh Thần.
Con tin rằng dần dần mỗi người sẽ gặp nhau,
vượt qua mọi tranh chấp, bất đồng,
mọi dị biệt, thành kiến,
để cùng nắm tay nhau đi qua sa mạc cuộc đời
mà về nhà Cha là nơi hạnh phúc viên mãn.
Lạy Cha, đó là niềm tin của con.
Xin Cha cho con dám sống niềm tin ấy. Amen.
Suy niệm 2 : Dọn cỗ cho ma
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Đổi đời là ước vọng ngàn đời của con người. Ai cũng mong ước được đổi mới cuộc đời. Gio-en tiên báo sẽ có cuộc đổi đời quyết liệt, triệt để, toàn diện. Đó là ngày thế giới cũ, con người cũ bị tận diệt. “Ôi ngày đáng sợ thay! Ngày của Đức Chúa quả đã gần kề! Ngày sẽ đến tựa cơn tàn phá do lệnh Đấng Toàn Năng”. Đó là ngày tận số cho những kẻ làm điều ác. “Run lên đi, mọi cư dân trong xứ, vì Ngày của Đức Chúa đến rồi, Ngày ấy đã kề bên. Ngày tối tăm u ám, Ngày mây mù tối đen”. Nhưng thế hệ xấu qua đi để có một thế hệ tốt mới xuất hiện. Thần dân của bóng tối qua đi, để Dân Thiên Chúa, dân của ánh sáng xuất hiện: “Một dân đông đúc và hùng mạnh đang tràn ngập núi đồi như thể ánh bình minh. Một dân như vậy xưa nay chưa hề có và muôn năm muôn đời cũng sẽ chẳng bao giờ có nữa” (năm lẻ).
Lời tiên báo đó ứng nghiệm nơi Chúa Giê-su. Chúa đến tiêu diệt vương quốc bóng tối của ma quỉ. Giải phóng con người khỏi ách nô lệ ma quỉ. Xua đuổi chúng về miền tăm tối. Ma quỉ không còn phải là kẻ mạnh nhất nữa. Chính Chúa Giê-su, Đấng Cứu Thế mới là Đấng Toàn Năng, mạnh mẽ: “Khi một người mạnh được vũ trang đầy đủ canh giữ lâu đài của mình, thì của cải người ấy được an toàn. Nhưng nếu co người mạnh thế hơn đột nhập và thắng được người ấy thì sẽ tước lấy vũ khí mà người ấy vẫn tin tưởng và sẽ đem phân phát những gì đã lấy được”. Chúa đã chiếm lại được sự sống và tự do từ tay ma quỉ. Chúa đem sự sống và tự do trả lại cho con người.
Tuy nhiên lại có một vấn đề. Con người có tự do, có đón nhận Chúa không? Những người không tin Chúa cho rằng Chúa là tướng quỉ đến trừ quỉ. Họ dọn cỗ cho ma. Vì không chấp nhận Chúa thì họ sẽ như căn nhà bỏ hoang sau khi được Chúa quét dọn sạch sẽ. Ma quỉ sẽ quay trở lại. Không có Chúa, số phận họ sẽ khốn khổ hơn trước.
Muốn đón nhận Chúa phải có đức tin. Chính đức tin làm cho con người nên công chính. Chính đức tin làm nên sức mạnh. Vì sống bằng sức sống và sức mạnh của Chúa. Chính đức tin vào Chúa Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh giải phóng ta khỏi bị nguyền rủa. “Khi vì chúng ta chính Người trở nên đồ bị nguyền rủa”. Chịu chết Chúa qui tụ một dân đông đúc và hùng mạnh. “Các dân ngoại cũng được hưởng phúc lành dành cho ông Áp-ra-ham”. Đó là dân hùng mạnh vì thoát khỏi ách quỉ thần. Và sống bằng Thần Khí nhờ đức tin như thánh Phao-lô dạy: “nhờ đức tin, chúng ta nhận được ơn Thiên Chúa đã hứa tức là Thần Khí” (năm chẵn).
Suy niệm 3: Nương Tựa Vào Chúa
Dù với công thức dài như ở Tin Mừng Matthêu hay ngắn gọn nơi Tin Mừng Luca, Kinh Lạy Cha được kết thúc bằng câu: "Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ". Nhắc nhở các môn đệ cầu xin cho khỏi sa chước cám dỗ, Chúa Giêsu cũng muốn nói đến một thực tại luôn có mặt trong thế giới này để làm hại con người, đó là sự dữ hay ma quỉ. Ở bên cạnh con người, nhưng ma quỉ không hiện nguyên hình, mà lại mượn chính hình dạng con người để quyến rũ và lôi kéo con người đến điều ác.
Ðó cũng là sự kiện đã xảy ra như được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay: sau khi Chúa Giêsu chữa cho một người bị quỉ ám được khỏi, trong đám đông có mấy người nói rằng Ngài đã nhờ thế của quỉ vương Beelzebul mà trừ quỉ. Chúa Giêsu đã nhân cơ hội này để mạc khải về Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa đã đến và trong đó có bóng dáng của ma quỉ. Một Phêrô vừa được khen thưởng vì đã tuyên xưng đúng tước hiện của Chúa Kitô, thì lập tức đã bị khiển trách là Satan khi ông căn ngăn Chúa Giêsu lên Yêrusalem để chịu khổ nạn.
Chúa Giêsu đã đến để chiến thắng ma quỉ và tội lỗi, đồng thời Ngài cũng đòi hỏi những kẻ theo Ngài phải có một thái độ dứt khoát: "Ai không theo tôi, là chống tôi, và ai không cùng tôi thu góp, là phân tán". Hình ảnh người võ trang canh giữ nhà của mình là một lời mời gọi những kẻ theo Chúa biết hoàn toàn đặt tin tưởng, phó thác vào Ngài. Tìm một người hùng mạnh để canh giữ cho mình được an toàn thì có ai bằng Thiên Chúa; kiếm một nơi ẩn náu trước những tấn công của kẻ thù, thì có đâu vững chắc cho bằng núp bóng dưới cánh tay Ngài.
Chúng ta phải tìm nơi nương tựa mạnh mẽ, vững chắc, vì ma quỉ như sư tử luôn gầm thét rảo quanh tìm mồi cắn xé, làm hại chúng ta. Một lần thất bại, nó không nản lòng, nó sẽ trở lại với một lực lượng hùng mạnh hơn. Bởi đó, chúng ta phải kiên trì trong lời cầu nguyện: "Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ". Cám dỗ là vũ khí ma quỉ dùng để đánh bại chúng ta, nhưng chúng ta vẫn không nao núng, nếu biết đứng vững trong đức tin để chống cự và biết ẩn núp dưới sự che chở của Chúa.
Nguyện xin Chúa gìn giữ chúng ta luôn kiên vững trong niềm xác tín đó.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Quyền Năng Trên Quỉ Dữ
Phép lạ Chúa Giêsu thực hiện là một dấu chỉ để mạc khải nước Thiên Chúa và tình thương giải phóng của Thiên Chúa đối với con người. Nhưng mọi dấu chỉ đều lưỡng vị, hai nghĩa và người ta có thể giải thích cách này hay cách khác, tùy theo tâm hồn họ như thế nào. Thiên Chúa chấp nhận để cho con người làm như vậy là vì Ngài kính trọng tự do của người chứng kiến và giải thích dấu chỉ. Ðó là điều đã xảy ra và được kể lại trong đoạn Phúc Âm chúng ta vừa đọc lại trên đây.
Nhiều người kính phục quyền năng giải phóng và tình thương nhân từ của Thiên Chúa được thể hiện nơi và qua hành động của Chúa Giêsu. Tuy nhiên, vài người khác thì giải thích xấu đi, cho rằng Chúa Giêsu cấu kết với quyền lực của quỷ vương để trừ quỷ con. Nhưng giải thích như vậy không hợp lý gì cả. Lòng gian tà và ý xấu muốn bôi nhọ Chúa Giêsu làm cho họ ra mù quáng và lý luận không còn hợp lý nữa. Chúa Giêsu chỉ cho họ thấy khuyết điểm này với những lời như sau: "Vương quốc nào chia rẽ thì sẽ bị tan rã. Giờ đây, nếu Satan cũng chia rẽ thì làm sao chúng đứng vững được". Giải thích duy nhất đúng là qua dấu lạ đó mà nhìn nhận Ðấng thực hiện dấu lạ có quyền năng trên quỷ dữ và như thế là Nước Thiên Chúa và hành động giải phóng của Ngài đã đến giữa con người trước mặt họ.
Ðể chấp nhận lời mạc khải của Chúa và trong trường hợp này, lời giải thích của Chúa Giêsu về ý nghĩa của dấu lạ Chúa vừa thực hiện, con người cần nhờ đến ánh sáng siêu nhiên hướng dẫn, cần có đức tin, cần có sự soi sáng của Chúa Thánh Thần. Ðây là điều mà những kẻ thù của Chúa Giêsu không có được đức tin là hồng ân của Thiên Chúa, chứ không phải là kết luận của suy tư. Vì thế, trước dấu lạ Chúa Giêsu thực hiện, con người không nhất thiết có thể nhìn nhận ý nghĩa của dấu lạ đó và tuyên xưng đức tin. Nếu đức tin là kết luận của suy tư lý trí thì trước dấu lạ Chúa thực hiện, mọi người đều đã tin Chúa hết cả rồi.
Con người cần khiêm tốn cầu xin Thiên Chúa ban cho ơn đức tin, để có thể nhận ra ý nghĩa của dấu lạ và được củng cố trong đức tin. Trước dấu lạ của Chúa, con người chỉ có một trong hai thái độ: tin hay không tin; chấp nhận hay chối từ mà thôi. Và một khi đã tin rồi, người đồ đệ cần phải góp phần của mình để bồi dưỡng thêm cho đức tin, góp phần làm cho đức tin được phát triển, được vững mạnh hơn. Nếu không, tình trạng bị mất đức tin sau đó sẽ trở thành tồi tệ hơn trước khi tin Chúa, ma quỷ tấn công trở lại mạnh mẽ hơn muôn vạn cho đến bảy lần hơn.
Ðể hiểu rõ một ai thì cần phải yêu mến người đó và thường xuyên trao đổi với người đó. Ðối với Chúa Giêsu cũng vậy, để biết Chúa nhiều hơn, thì cần phải yêu mến Ngài và có những trao đổi thường xuyên với Ngài qua việc cầu nguyện, lắng nghe lời Chúa. Ðể có thể luôn luôn đứng về phe Chúa, luôn luôn trung thành theo Chúa thì không có cách nào tốt hơn là hữu hiệu hơn là sống thân mật kết hiệp với Chúa qua việc cầu nguyện và lắng nghe lời Ngài. Ðiều này đòi hỏi chúng ta phải luôn sám hối, hoán cải, để có thể cùng với Chúa mà chiến thắng sức mạnh thần dữ muốn chiếm đoạt chúng ta theo phe chúng.
Lạy Chúa là Cha chúng con.
Chúng con cảm tạ Chúa vì đã ban cho chúng con đức tin. Xin thương ban xuống tràn đầy Chúa Thánh Thần trên chúng con để chúng con được củng cố mỗi ngày một thêm trong đức tin.
Lạy Chúa.
Xin gia tăng đức tin cho chúng con.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 5: Không thuận là chống
“Ai không đi với tôi là chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu góp là phân tán.” (Lc. 11, 23)
Đó là lý luận đơn giản. Người ta không thể vừa thuận vừa chống cùng một lúc. Người ta tố cáo Đức Kitô lấy quyền quỷ mà trừ quỷ! Thưa quý vị, quý vị nếu có một chút thông minh, quý vị sẽ thấy rõ đó là cuộc nội chiến ghê gớm của Satan. Thiên Chúa nhân lành đã làm rất nhiều để chống lại Satan và bè lũ của nó. Muốn diệt chúng hoàn toàn, Chúa chỉ để chúng đánh nhau từ trong nội bộ là xong. Nhưng khốn nỗi, không bao giờ Ngài làm thế.
Không, không phải Đức Kitô nhờ tướng quỷ Bendêbút mà trừ quỷ. Người Aramê đã gọi Bendêbút là “chúa phân bớn” “chúa ruồi nhặng”. Những tiếng khinh bỉ đó không bao giờ dám gán cho Đức Kitô. Nhưng những kẻ dám gán cho Người rất quỷ quyệt, tuy nhiên họ lại ngu dốt đến nỗi cho thấy họ đã tự mâu thuẫn với chính mình!
Chính nhờ ngón tay Thiên Chúa có ý nghĩa là sức mạnh của Thiên Chúa mà Đức Kitô hành động. Vì từ nay đi, nhờ Người triều đại Thiên Chúa đã tiếp tục trị đến trong thế gian. Satan không thể nào chống được Con Thiên Chúa. Nó đã rình mò thám thính thử đến thuê mướn Người lúc ăn chay 40 ngày trong sa mạc. Người mạnh hơn nó trên thế gian, từ nay chính Người là Đấng Thiên Sai Cứu Thế! Người đến cứu độ nhân loại. Người ở lại đây, không bỏ đi nữa. Ai ở với Người và không chống lại Người thì được bảo vệ và được nâng đỡ mãi mãi trong tình yêu của Người.
Nhưng xin chú ý, chú ý! Người ta có thể thuận theo Người, thành thật chọn Người, muốn theo Người tới cùng, bằng mọi giá, tin cậy núp bóng Người luôn luôn! Nhưng đừng tưởng Satan không còn nữa, thời của nó đã trôi vào quá khứ, nó không còn thể chống lại loài người nữa; chối quyền lực của nó thì liều mình đi đến sa ngã thất bại. Nó còn hoạt động hơn bao giờ hết! nó biết lừa cơ hội để khai thác những yếu đuối sâu sa của chúng ta một cách đáng sợ! những làn sóng ngầm của sự dữ lôi cuốn thế giới chúng ta là chứng cớ rõ ràng có bàn tay lầm ngầm của ma quỷ. Sự đánh thức những bản năng hạ đẳng nhất của nhân loại là dấu chỉ chắc chắn quỷ đang có mặt giữa chúng ta! đừng sợ, đừng đánh thức những thú hạ đẳng đó, dù thần dữ không bao giờ đầu hàng, nhưng hãy tin cậy vững mạnh vào Đức Kitô vì Người đã chiến thắng thế gian; Phần chúng ta phải sáng suốt đi theo Người.
GF
Suy niệm 6: Không được vu khống
Xem CN 10 TN B (Mc 3,20-35) thứ Hai tuần 8 TN, thứ Năm tuần 3 MC và thứ Ba tuần 14 TN
Có một thời người ta đổ xô đi mua cuốn sách: “Cơn cám dỗ cuối cùng” của tác giả Nikos Kazantzakis, và trong những năm gần đây, đạo diễn Martin Scoresse đã hiện thực hóa trong bộ phim cùng tên. Khi phim được trình chiếu, nhiều người đã tỏ ra bức xúc vì những lời lẽ và hành động được tác giả gán cho Đức Giêsu xem ra có vẻ tầm thường và đôi khi không được tốt đẹp cho lắm!
Đó là câu chuyện thời nay, còn thời xưa, những người Pharisêu đã không ngần ngại gán cho Đức Giêsu rằng: Ngài đã nhờ Tướng Quỉ để mà trừ quỉ. Đây là một sự xúc phạm nặng nề đến bản tính của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, họ đã bị phản pháo, khi Đức Giêsu đưa ra hai luận chứng nhằm lý giải cho họ biết rằng những lời họ vu cáo không có căn cứ:
- Trước tiên, Ngài không thể lấy danh của Tướng Quỷ mà trừ quỷ được. Lý do: một là Tướng Quỷ không đời nào cho như vậy; hai là nếu chúng đồng ý thì hẳn nước của chúng tới hồi kết thúc.
- Tiếp theo, Đức Giêsu dùng biện pháp lấy “độc trị độc” hay “gậy ông đập chính lưng ông” khi nói: “Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, thì con cái các ngươi nhờ ai mà trừ?”
Nghe đến đây, họ đã câm miệng vì những lời lẽ khôn ngoan được thốt lên từ miệng Đức Giêsu.
Với những lời phi bác ấy, Đức Giêsu đã vô hiệu hóa việc vu khống của những người Pharisêu.
Khi đánh tan sự xuyên tạc của chúng, Đức Giêsu vạch trần mục đích đen tối của họ là xấu xa, gian ác, nhằm mục đích hại người.
Trong thực trạng xã hội hiện nay, vẫn còn đó những Pharisêu kiểu hiện đại với những lời lẽ vu khống hết sức xảo quyệt. Họ luôn dùng chiêu thức: “Cả vú lấp miệng em” để đè ép, vu khống và cướp bóc nơi những người thấp cổ bé họng không có tiếng nói.
Còn về phía chính chúng ta, nhiều khi chúng ta không phỉ báng Chúa như những người Pharisêu, nhưng không chừng, chúng ta đang phỉ báng Chúa cách nặng nề hơn họ khi mỗi lần chúng ta rước Chúa vào lòng cách bất xứng với đầy tội lỗi; hay mỗi khi chúng ta khước từ Giáo Huấn của Chúa. Sống ích kỷ, kiêu ngạo, bất nhân và ác ý...
Như vậy, sự tốt - xấu; bóng đêm - ánh sáng vẫn luôn hiện diện trong mọi thời, và người công chính vẫn phải chịu cảnh thua thiệt.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy đấu tranh cho lẽ phải bằng cách lựa chọn điều tốt, tránh điều xấu làm phương hại đến đời sống tâm linh của ta cũng như mọi người. Không bao giờ được sống kiểu lập lờ; bắt cá hai tay... Tránh cho xa cái thói đê tiện làm cho ta ghen tức mà tìm cách hại người khác như triệt hạ uy tín của họ cách này hay cách khác. Cần có sự tha thứ cho anh chị em mình.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con tin tưởng vào quyền năng của Chúa. Luôn biết sống trong sự khiêm tốn và yêu thương mọi người. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Quyền năng Chúa xua trừ ma quỷ
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu dùng quyền năng Thiên Chúa xua trừ ma quỷ và thực hiện triều đại Thiên Chúa. Ai thuộc về Thiên Chúa phải xa lánh tội lỗi và ma quỷ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dùng uy quyền Thiên Chúa cứu chữa bao kẻ bệnh tật, xua trừ ma quỷ. Con xác tín rằng Chúa đến khai mở một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên Thiên Chúa cứu độ loài người. Chúa đến thiết lập một triều đại mới và vĩnh tồn, triều đại Thiên Chúa. Từng việc Chúa làm, từng lời Chúa nói, đều tỏ lộ quyền năng và tình thương cứu độ Chúa dành cho con. Lạy Chúa, con xin dâng lời cảm tạ và chúc tụng Chúa đến muôn đời.
Lạy Chúa, khi Chúa khai mở thời đại cứu độ cũng là lúc Chúa chấm dứt thời kỳ của ma quỷ. Nhưng chúng vẫn chưa hoàn toàn chịu khuất phục quyền uy Chúa. Chúng vẫn còn muốn khuấy động và gieo rắc vào lòng mọi người sự thù hằn, chống đối và phản nghịch Chúa. Có người đã coi Chúa như một thầy ma thuật, lấy quyền tướng quỷ để trừ quỷ, có kẻ đã đòi những dấu lạ như thách thức quyền năng Chúa. Ma quỷ vẫn còn đó, chúng ghen tức với hạnh phúc và ơn cứu độ dành cho chúng con. Chúng vẫn luôn tiếp tục gây chia rẽ, thù hằn, chống đối giữa chúng con với Thiên Chúa, giữa chúng con với nhau ngay trong thế giới hôm nay.
Lạy Chúa, xin biểu lộ quyền năng giúp con thắng vượt mọi mưu chước ma quỷ. Xin cho con ơn thức tỉnh ngay với bản thân để đừng khi nào con cố tình phạm tội, hay đồng lõa với cơn cám dỗ. Xin cứu con khỏi mọi sự dữ. Amen.
Ghi nhớ: “Nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi”.
Suy niệm 8: Quyền năng Thiên Chúa trên quỷ ma
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Sách Khải Huyền nói đến ma quỷ như con mãng xà có nhiều quyền năng: “Từ miệng, con rắn phun nước ra đằng sau bà như một dòng sông, để cuốn bà đi” (Kh 12,15).
Tác giả sách Khải Huyền tố cáo ma quỷ bắt bớ những người Kitô hữu: “Đừng sợ các nỗi đau khổ ngươi sắp phải chịu: Này ma quỷ sắp tống một số người trong các ngươi vào ngục để thử thách các ngươi” (Kh 2,10). “Con mãng xà nổi giận với người phụ nữ và đi giao chiến với những người còn lại trong dòng dõi bà, là những người tuân theo các điều răn của Thiên Chúa và giữ lời chứng của Đức Giêsu” (Kh 12,17).
Ma quỷ luôn hiện hữu và quyền năng mạnh mẽ...
Suy niệm
Chúa Giêsu đã rao giảng và đã thực hiện những dấu lạ khắp nẻo đường Palestine: Ngài đã chữa người bại liệt để chứng minh Ngài có quyền tha tội; Chúa Giêsu chữa lành cho người bị quỷ ám… Tất cả chứng tỏ quyền năng thần linh của Ngài. Một số người, họ là những người đã nghe Chúa giảng, đã thấy phép lạ tỏ tường, cho rằng: Chúa lấy quyền của tướng quỷ Belgiêbút mà trừ quỷ. Nhưng Ðức Giêsu đã khẳng định: Ngài lấy quyền từ Thiên Chúa. Ngài mạc khải rõ sứ mệnh của Ngài khi Ngài dùng quyền năng Thiên Chúa mà trừ quỷ, bảo vệ bênh vực chúng ta, cứu chúng ta thoát khỏi ách thống trị của ma quỷ và tội lỗi.
Chúa Giêsu chỉ cho họ thấy khuyết điểm của những giải thích như vậy là không hợp lý khi Ngài khẳng định: “Vương quốc nào chia rẽ thì sẽ bị tan rã. Giờ đây, nếu Satan cũng chia rẽ thì làm sao chúng đứng vững được”.
Ðức Giêsu còn cho ta biết thêm: Ma quỷ là kẻ thù rất mạnh, chúng luôn tìm cách lôi kéo trói buộc chúng ta bằng đủ mọi mưu chước, đặc biệt là cám dỗ: Chúng như sư tử luôn gầm thét rảo quanh tìm mồi cắn xé, làm hại chúng ta (x. 1Pr 5,8). Một lần thất bại, nó không chịu bại trận, nó chỉ tạm rút lui và sẽ trở lại với một lực lượng hùng mạnh hơn. Vì thế, chúng ta cần tỉnh táo và sáng suốt trước những thử thách, cám dỗ của chúng.
Hình ảnh người đầy đủ võ trang canh giữ nhà của mình là một lời mời gọi những kẻ theo Chúa biết hoàn toàn đặt tin tưởng, phó thác và núp bóng dưới cánh tay Ngài, Đấng chiến thắng trên ma quỷ là nơi ẩn náu và sự an toàn vững chắc cho chúng ta.
Thật thế, hãy tin vào Ðấng thực hiện quyền năng trên quỷ dữ…
Ý lực sống:
“Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ” (Mt 6,7).
Suy niệm 9: Đức Giêsu trừ một quỷ câm
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Bài Tin Mừng hôm nay trình bầy cho chúng ta về việc Đức Giêsu thì hành sứ vụ cứu thế của Ngài qua việc trừ một quỷ câm, để mời gọi chúng ta phải có thái độ dứt khoát trong việc lựa chọn Ngài. Bởi vì, sau khi Đức Giêsu trừ một quỷ câm thì dân chúng có ba thái độ : Đa số thì ngạc nhiên và cảm phục, một nhóm xuyên tạc rằng Ngài dựa thế quỷ vương Bendêbun để trừ quỉ nhỏ, còn nhóm thứ ba thì nửa tin nửa ngờ nên muốn có một dấu lạ “từ trời” để chứng nhận Đức Giêsu chính là người mà trời sai xuống.
2. Phép lạ Chúa Giêsu thực hiện là một dấu chỉ để mạc khải Nước Thiên Chúa và tình thương giải phóng của Thiên Chúa đối với con người. Nhưng mọi dấu chỉ đều lưỡng vị, hai nghĩa và người ta có thể giải thích cách này hay cách khác, tùy theo tâm hồn họ như thế nào. Thiên Chúa chấp nhận để cho con người làm như vậy là vì Ngài tôn trọng tự do của người chứng kiến và giải thích dấu chỉ. Đó là điều đã xẩy ra và được kể lại trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa đọc.
2. Trước phép lạ Chúa Giêsu trừ một quỷ câm, nhiều người kính phục quyền năng và tình thương nhân từ của Thiên Chúa được thực hiện nơi và qua hành động của Chúa Giêsu. Tuy nhiên, vài người khác thì giải thích xấu đi, cho rằng Chúa Giêsu cấu kết với quyền lực của quỷ cả để trừ quỷ con. Nhưng giải thích như vậy không hợp lý gì cả. Lòng gian tà và ý xấu muốn bôi nhọ Chúa Giêsu làm cho họ ra mù quáng và lý luận không còn hợp lý nữa. Chúa Giêsu chỉ cho họ thấy khuyết điểm này với những lời như sau: ”Vương quốc nào chia rẽ thì sẽ bị tan rã. Giờ đây, nếu satan cũng chia rẽ thì làm sao chúng đứng vững được”? Giải thích duy nhất đúng là qua dấu lạ đó mà nhìn nhận Đấng thực hiện dấu lạ có quyền năng trên quỷ dữ, và như thế Nước Thiên Chúa và hành động giải phóng của Ngài đã đến giữa con người trước mặt họ (R.Veritas).
3. Chúa Giêsu đã đến để chiến thắng ma quỷ và tội lỗi, đồng thời Ngài cũng đòi hỏi những kẻ theo Ngài phải có một thái độ dứt khoát : ”Ai không theo tôi, là chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu góp, là phân tán”(Lc 11,23). Hình ảnh người võ trang canh giữ nhà của mình là một lời mời gọi những kẻ theo Chúa biết hoàn toàn đặt tin tưởng, phó thác vào Ngài. Tìm một người hùng mạnh để canh giữ cho mình được an toàn thì có ai bằng Thiên Chúa; kiếm một nơi ẩn náu trước những tấn công của kẻ thù, thì có đâu vững chắc cho bằng núp bóng dưới cánh tay Ngài (Mỗi ngày một tin vui).
4. Vào tháng 2 năm 2014, cầu treo Chu Va 6 bị lật khiến 8 người thiệt mạng và hơn 20 người bị thương nặng. Các chuyên gia cho rằng, lỗi kỹ thuật không nằm ở trụ cầu hay cáp treo mà ở một con ốc neo. Một sai lầm nhỏ cũng đủ làm lật cây cầu treo dài hơn 50 mét. Cũng thế, chỉ một sự chia rẽ nhỏ trong tập thể cũng có thể đem lại hậu quả khôn lường. Vì thế, hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta giá trị cần thiết của sự đoàn kết: ”Nước nào tự chia rẽ thì sẽ điêu tàn, nhà nọ đổ xuống nhà kia”; ngược lại, đoàn kết làm cho một tập thể thêm huynh đệ, yêu thương, tha thứ.
Đức Giáo hoàng Phanxicô cũng mạnh mẽ lên án việc chia rẻ bên trong các cộng đoàn. Ngài phê phán bệnh xầm xì nói xấu nhau. Căn bệnh này có thể phá hủy tình thân hữu trong bất kỳ cộng đoàn nào. Đó là thứ tội lỗi xấu xa, phát xuất từ lòng ghen tị, thù hận, và là hoạt động trực tiếp của ma quỷ, nhằm phá hoại sự hiệp nhất của cộng đoàn.
5. Vì thế, con người cần khiêm tốn cầu xin Thiên Chúa ban cho ơn đức tin, để có thể nhận ra ý nghĩa của dấu lạ và được củng cố trong đức tin. Trước dấu lạ của Chúa con người chỉ có một trong hai thái độ : tin hay không tin, chấp nhận hay chối từ mà thôi. Và một khi đã tin rồi, người môn đệ cần phải góp phần làm cho đức tin được phát triển, được vững mạnh hơn. Nếu không, tình trạng bị mất đức tin sau đó sẽ trở thành tồi tệ hơn trước khi tin Chúa, ma quỉ tấn công trở lại mạnh mẽ hơn.
6. Truyện : Phải biết chọn lựa.
Ngày kia, trong khi đến rao giảng cho các tù nhân tại trại tù nọ, cha Gioan nhìn thấy trong số cử tọa một người với gương mặt có vẻ quen quen.
Sau khi kết thúc bài giảng, cha liền tìm đến gặp người đó tại xà lim nơi giam giữ anh ta. Gặp lại người quen của mình từ nhỏ, người tù nhân đó nói :
- Thưa linh mục, tôi còn nhớ rất rõ về ông. Cả hai chúng ta đều lớn lên ở cùng một khu phố, chúng ta cùng đi học với nhau tại một ngôi trường; ngồi cùng một bàn bên cạnh nhau; và tôi cũng có những triển vọng tươi sáng giống như ông. Nhưng đến khi lớn lên, ông chọn lựa con đường làm linh mục, phục vụ Thiên Chúa. Còn tôi, tôi lại khước từ việc đến với Đức Kitô, và đã chọn đi theo thế gian và tội lỗi. Hiện nay, ông là một người rao giảng Tin Mừng, có cuộc sống hạnh phúc và được mọi người kính trọng, trong khi tôi lại là một con người tồi tệ, bị gạt ra ngoài lề xã hội. Tôi đã sống trong trại tù này từ 10 năm nay, và tôi sẽ con phải sống ở đây cho đến mãn đời !
Vâng ! Hãy biết chọn cho mình một hướng đi. Hãy tìm cho mình một lý tưởng sống. Xin Chúa luôn trợ giúp chúng ta.
Suy niệm 10: Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Chắc anh chị em còn nhớ trong bài Tin Mừng cách đây hai hôm, trong phần kết thúc Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu đã dạy phải cầu xin “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ” (Lc 11,4). Khi dạy các môn đệ như thế, Chúa Giêsu đã muốn nói đến một thực tại luôn có mặt trong thế giới này để làm hại con người, đó là sự dữ hay ma quỉ. Ma quỉ luôn ở bên cạnh con người, nhưng chúng không hiện nguyên hình, mà lại mượn chính hình dạng con người để quyến rũ và xúi giục con người làm điều ác. Chúa Giêsu bảo chúng ta phải biết luôn cảnh giác.
Trong lịch sử của thánh Martino, giám mục thành Tour (Pháp) có chép:
Một hôm, ma quỉ muốn cám dỗ thánh nhân đi vào con đường trụy lạc. Hắn liền hiện hình một vị vua oai phong huy hoàng đến với thánh nhân: - Martino hỡi con, cha cám ơn con về lòng tin của con đối với cha. Con cũng phải biết rằng, cha luôn thành tín đối với con. Từ nay, con sẽ mãi mãi cảm thấy ở bên cạnh cha, con có thể hoàn toàn tín nhiệm ở cha.
Thánh nhân chăm chú nhìn ông vua kia hồi lâu rồi ngài hỏi: - Nhưng thưa ngài, ngài là ai vậy ?
Tên quỉ đội lốt vua đáp: - Ta là Giêsu Kitô đây.
Thánh nhân lại hỏi: - Vậy thì vết thương bị đóng đinh ở chân tay ngài đâu ?
Tên quỉ trả lời: - Ta từ vinh quang trên trời xuống, nơi đó chẳng còn có thương tích nữa.
Thánh nhân đáp lại ngay: - Tôi không muốn nhìn Đức Kitô không thương tích. Tôi không thể tín nhiệm Đức Kitô không qua dấu hiệu Thập Giá.
Thấy mưu đồ bại lộ, tên quỷ lủi mất.
2. Chúa Giêsu đã đến để chiến thắng ma quỉ và tội lỗi, đồng thời Ngài cũng đòi hỏi những kẻ theo Ngài phải có một thái độ dứt khoát: “Ai không theo tôi, là chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu góp, là phân tán” (Lc 11,23). Hình ảnh người võ trang canh giữ nhà của mình là một lời mời gọi những kẻ theo Chúa biết hoàn toàn đặt tin tưởng, phó thác vào Ngài. Tìm một người hùng mạnh để canh giữ cho mình được an toàn thì có ai bằng Thiên Chúa; kiếm một nơi ẩn náu trước những tấn công của kẻ thù, thì có đâu vững chắc cho bằng núp bóng dưới cánh tay Ngài.
Vâng! Chúng ta phải tìm cho mình một nơi nương tựa mạnh mẽ, vững chắc. Thánh Phêrô bảo: ma quỉ như sư tử luôn gầm thét rảo quanh tìm mồi cắn xé, làm hại chúng ta. Một lần thất bại, nó không nản lòng, nó sẽ trở lại với một lực lượng hùng mạnh hơn. Bởi đó, chúng ta phải kiên trì trong lời cầu nguyện.
Đọc lại lịch sử cuộc đời mẹ Têrêsa thành Calcutta, tôi thấy có lần mẹ cũng bị cám dỗ muốn bỏ cuộc trên con đường theo Chúa. Một con người thánh thiện như thế mà nhiều khi cũng bị cám dỗ huống chi chúng ta. Đây là tâm sự về giây phút đầu tiên trong cuộc đời phục vụ người nghèo của Mẹ:
- Tôi cần có một nơi để làm nhà tạm trú cho những con người bị bỏ rơi và bất hạnh nhất trong xã hội. Để tìm ra một ngôi nhà cần thiết đó, tôi đã phải đi rảo qua hết đường này đến phố nọ. Đi mãi cho đến lúc không còn sức để đi nữa, tôi mới hiểu thêm cảnh khổ cực của những người nghèo phải đi lang thang để tìm thức ăn khi đói, tìm thuốc khi đau, tìm bất cứ điều gì có thể giúp mình sống qua ngày. Rồi bỗng nhiên tôi cũng bị cám dỗ nhớ lại và muốn quay về với cuộc sống tiện nghi ngày trước.
Tôi bị cám dỗ và muốn quay về với cuộc sống tiện nghi ngày trước.
Có lẽ rất nhiều lần trong cuộc sống chúng ta cũng bị cám dỗ như vậy. Cám dỗ bỏ qua những việc tốt lành mà chúng ta muốn làm. Cám dỗ lao vào những việc tội lỗi mà chúng ta biết rằng, làm như thế là mất lòng Chúa.
Gặp những lúc như thế, chúng ta phải ứng xử thế nào ? Hãy noi gương Mẹ Têrêsa: tìm về và cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, con đã tự nguyện sống như thế này, chỉ vỉ tình yêu Chúa mà thôi, con muốn sống như thế này để chu toàn ý Chúa. Không, con không muốn quay lại với đời sống tiện nghi ngày trước. Cộng đoàn tu trì mới của con là những người nghèo, sự an ninh của họ cũng là sự an ninh của con. Sức khỏe của họ là sức khỏe của con. Nhà của con là bất cứ nơi nào con sống với người nghèo. Và không phải chỉ nghèo mà thôi, mà là nghèo nhất trong số những người nghèo. Đó là những người mình đầy ghẻ lở, bệnh tật, là những con người không còn can đảm để đi ăn xin trên các đường phố, vì họ không còn quần áo để che thân, là những người không còn có thể ăn uống được nữa chỉ đơn giản là họ không còn có sức đủ để ăn uống, những kẻ đang hấp hối gần chết. Chúa muốn giúp cho con sống cuộc sống phục vụ này, chắc chắn Chúa sẽ giúp con chu toàn điều Chúa muốn”.
Lạy Chúa, xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ. Amen.
Suy niệm 11: Phó thác vào Chúa, không sợ quỷ ma
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
1. Các câu 14-16: Sau khi Chúa Giêsu làm phép lạ trừ một quỷ câm, dân chúng phản ứng 3 cách khác nhau: a/ Đa số “ngạc nhiên”, nghĩa là thán phục; b/ Một nhóm xuyên tạc rằng Ngài đã dựa thể quỷ vương Bê-en-dê-bun để trừ quỷ nhỏ; c/ Nhóm thứ ba nửa tin nửa ngờ nên muốn có một dấu lạ “từ trời” để chứng nhận Chúa Giêsu chính là người mà trời sai xuống.
2. Các câu 17-23: Để trả lời cho những kẻ không tin (nhóm thứ hai), Chúa Giêsu lý luận rằng: ma quỷ không ngu dại gì mà làm hại thuộc hạ của nó. Bởi thế việc Chúa Giêsu trừ quỷ không phải là dựa vào thế của quỷ vương. Nếu việc đó không do quỷ vương thì do đâu ? Thưa do một quyền lực mạnh hơn ma quỷ, tức là Thiên Chúa. Như thế phép lạ này là dấu chỉ rằng Nước Thiên Chúa đã đến gần.
3. Các câu 24-26: Đây là của lời khuyến cáo các môn đệ Chúa Giêsu. Đành rằng ma quỷ đã bị Chúa Giêsu đánh bại, nhưng các môn đệ chớ có lơ là cảnh giác. Ma quỷ tìm cách quay trở lại và có thể làm hại họ nặng hơn trước nữa.
B.... nẩy mầm.
1. Thực tại về ma quỷ: “Nhiều người ngày nay không còn tin vào ma quỷ. Tội lỗi được biện minh bằng sự yếu đuối và thiếu tự do nơi con người. Quỷ ám được giải thích như những chuyện thần thoại mà khoa tâm lý chiều sâu tìm cách giải thích. Những cám dỗ chỉ còn là sản phẩm của óc tưởng tượng. Chiến thuật của ma quỷ trong thế giới xem ra không phải là sự đe dọa con người bằng những ám hại, mà chính là thuyết phục con người tin rằng nó không có mặt trên trần gian này” (Trích “Mỗi ngày một tin vui”).
2. Người hạnh phúc nhất mà tôi từng được biết, đó là một người Ái nhĩ Lan tên Dundee. Ông bị té gãy lưng từ năm 15 tuổi, sau đó phải nằm trên giường bệnh rất đau đớn trong suốt 40 năm. Nhưng lúc nào ông cũng tươi cười. Tôi hỏi:
- Có khi nào ông bị quỷ cám dỗ không, chẳng hạn nó nói với ông rằng nếu Chúa thương ông thì chẳng để ông phải liệt giường như vậy ?
- Có chứ, rất nhiều lần. Nó thường dẫn trí óc tôi nhìn đến cảnh sung sướng của người khác và nói với tôi như thế. Nhưng tôi cũng dẫn nó tới đồi Canvê, chỉ cho nó thấy Chúa Giêsu đang chết trên Thập giá. Và tôi hỏi lại nó “Thế Chúa không thương tôi sao ?”. Kết quả là lần nào nó cũng vội vàng rút lui. (Moody’s story)
3. Sự mù quáng do ganh tị: Vì ganh ghét Chúa Giêsu nên các kẻ thù của Ngài đã bị mù quáng. Chẳng những họ không nhận ra ý nghĩa việc Ngài trừ quỷ, mà còn xuyên tạc rằng Ngài làm như thế là dựa vào sức quỷ vương.
4. Có một con đại bàng ganh tị với một con đại bàng khác vì con này bay cao hơn nó. Một hôm con đại bàng ganh tị gặp một xạ thủ. Nó xúi anh bắn hạ đối thủ của nó. Chàng xạ thủ đáp: “Được. Nhưng tôi không có tên”. Con đại bàng nhổ một cọng lông cánh đưa cho chàng xạ thủ làm tên. Nhưng chàng bắn hụt. Vì quyết tâm hại đối thủ của mình, con đại bàng ganh tị lại nhổ thêm một cọng nữa, rồi một cọng nữa... cho tới khi hai cánh nhỏ trụi nhẵn. Nó không bay được nữa. Chàng xạ thủ không bắn được con kia nên bắt lấy con đại bàng trụi cánh về làm thịt. Nếu bạn ganh tị muốn hại ai thì rốt cuộc bạn chỉ tổ hại chính bản thân mình (D.L. Moody).
5. “Kẻ khác lại muốn thử Chúa Giêsu nên đã đòi Ngài một dấu lạ từ trời” (Lc 11,16)
Lạy Chúa, Tại sao Ngài cho con sinh ra trong gia đình này với người cha “pharisêu” và các anh chị “giả hình” ? Tại sao Ngài không cho con tài năng như anh kia ? đạo đức như chị nọ ? Tại sao con không có một mái tóc óng mượt, không có một khuôn mặt xinh xắn hơn ? Tại sao ?... Tại sao ?... Nhiều lần con đã chất vấn Ngài, con thử thách Ngài, con đòi Ngài phải cho con cái của người khác, có như thế thì Chúa mới thực là một Thiên Chúa yêu thương.
Lạy Chúa, xin cho con tâm hồn đơn sơ để con nhận ra tất cả những quà tặng Ngài mang đến cho con. Và tin rằng đó là món quà tốt nhất đối với con, là dấu chứng rõ nhất về một Thiên Chúa yêu thương. (Hosanna)
- 07/10 Xin vâng.
- 05/10 Con đường yêu Chúa
- 04/10 Người Samaritanô nhân hậu.
- 03/10 Tôi tớ Chúa xin vâng.
- 02/10 Thiên thần bảo trợ
- 01/10 Con đường thơ ấu thiêng liêng
- 30/09 Sai bảy mươi hai người rao giảng
- 29/09 Bước vào Nước Trời
- 28/09 Người cương quyết lên đường đi Giêrusalem
- 27/09 Người cao trọng nhất