Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
14/06 Kiện toàn lề luật
- Viết bởi Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Kiện toàn lề luật.
Thứ Tư tuần 10 thường niên.
"Thầy không đến để huỷ bỏ, nhưng để kiện toàn".
Lời Chúa: Mt 5, 17-19
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đừng tưởng Thầy đến để huỷ bỏ lề luật hay các tiên tri: Thầy không đến để huỷ bỏ, nhưng để kiện toàn. Vì Thầy bảo thật các con: Cho dù trời đất có qua đi, thì một chấm, một phẩy trong bộ luật cũng không bỏ sót, cho đến khi mọi sự hoàn thành. Bởi vậy, ai huỷ bỏ một trong những điều luật nhỏ mọn nhất, và dạy người khác làm như vậy, sẽ kể là người nhỏ nhất trong Nước Trời; trái lại, ai giữ và dạy người ta giữ những điều đó, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Kiện toàn lề luật
Luật cơ bản nhất trong đời sống tu trì vốn là luật bác ái và nền tảng của luật này là sự tôn trọng và tin tưởng lẫn nhau. Sự kiện này tiêu biểu cho chính sự tuân hành luật lệ trong Giáo Hội. Giáo Hội có luật lệ, nhưng không bao giờ dùng sức mạnh đe dọa để cưỡng bách người tín hữu tuân hành. Tinh thần đích thực của việc tuân hành luật lệ trong Giáo Hội chính là tình mến; không có tình mến, thì một bộ luật, dù hoàn hảo đến đâu, cũng không khác gì một cây khô héo.
Ý nghĩa và tinh thần ấy của luật lệ, chúng ta có thể đọc được trong Tin Mừng hôm nay. Những người Biệt phái, nhất là các Luật sĩ, vốn là những người rất trung thành với lề luật, họ tuân giữ luật lệ không thiếu một chấm, một phết. Nhưng đàng sau sự trung thành ấy có hàm ẩn tự mãn: họ cho rằng trung thành với lề luật là đương nhiên trở thành người công chính, và vì nghĩ mình là người công chính, nên họ lên mặt khinh dễ những người không tuân giữ luật lệ một cách nghiêm chỉnh như họ.
Chúa Giêsu không phải là người vô kỷ cương và luật pháp. Ngài đã sống như một người Do thái, nghĩa là tuân giữ luật lệ của Môsê truyền lại. Chỉ có điều khác biệt giữa Ngài và các người Biệt phái, đó là tinh thần: nếu những người Biệt phái tự cho mình là người công chính nhờ tuân giữ lề luật, thì Chúa Giêsu lại khẳng định rằng chỉ nhờ ơn Chúa, con người mới có thể nên công chính. Chúa Giêsu tuân giữ lề luật để kiện toàn nó, kiện toàn theo nghĩa thực hiện chính những lời loan báo của các tiên tri liên quan đến Ngài, kiện toàn đến độ mặc cho lề luật một tinh thần mới, tức là tình mến.
Luật lệ vốn là lời loan báo của các tiên tri về Ðấng Cứu thế, do đó luật lệ có tính tiên tri. Khi chu toàn lề luật, Giáo Hội chứng tỏ cho mọi người thấy rằng Ngài chính là Ðấng các tiên tri đã loan báo. Như vậy, một cách nào đó, khi người Kitô hữu tuân hành lề luật, họ cũng loan báo chính Chúa Kitô, nhưng dĩ nhiên, họ chỉ có thể loan báo về Ngài khi việc tuân giữ của họ thể hiện được chính tinh thần của Ngài. Xét cho cùng, đối với người Kitô hữu, tuân giữ lề luật là mặc lấy tâm tình của Chúa Kitô, là sống như Ngài, là trở thành hiện thân của Ngài.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn ý thức sự hiện diện của Ngài trong cuộc sống của chúng ta và ban sức mạnh để chúng ta chu toàn lề luật của Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Rắc rối yêu thương
“Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ. Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn.” (Mt. 5, 17)
Quá nhiều luật lệ!
Hai mươi hoặc ba mươi năm vè trước, người Kitô hữu phải tuân giữ nhiều luật lệ và điều răn hơn hôm nay. Điều gì phải làm hay không được làm đều đã được phân định rạch ròi đến từng chi tiết. Thời ấy người ta rất tỉ mỉ, phải nói là quá tỉ mỉ nữa.
Khoảng mấy năm gần đây, nhiều sự đã thay đổi. Hôm nay người ta thường nghe nói rằng chẳng còn luật lệ gì nữa. Có người tiếc rẻ, người khác lại vui mừng. Những người luyến tiếc mạnh miệng nói rằng Giáo hội bây giờ dễ dãi quá, để mặc cho ai nấy muốn làm gì thì làm.
Đức Giêsu với lề luật
Chúa Giêsu bảo ta rằng “dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, cũng không được bãi bỏ”. Nói được rằng Chúa Giêsu ủng hộ việc có nhiều luật lệ và điều răn chăng? Chắc chắn là không.
Như ta biết, đối với Chúa Giêsu chỉ có một điều răn thâu tóm mọi điều răn khác. Đó là điều răn dạy phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương tha nhân như chính mình. Nhưng bởi chỉ có một điều răn nền tảng, thì không có nghĩa là không có điều răn nào khác cũng quan trọng.
Để yêu thương như Chúa muốn, người ta không thể giữ mực chung chung, mà phải đi vào cụ thể, phải chú ý đến cả những điều nhỏ nhặt. Tình yêu được hình thành từ vô vàn những sự chăm chú, từ vô số những cái tế nhị, từ ngàn lẻ một những chuyện nhỏ nhặt. Ta đừng tin những ai nói mình yêu Chúa yêu anh em mà lại bất chấp mọi điều khác.
Những điều răn nhỏ nhất phải tuân giữ mà Chúa nói đến ở đây, chính là những điều tế nhị phải có trong khi yêu thương vậy.
Suy niệm 3:
Đã có thời người ta nghĩ rằng theo Công giáo là bất hiếu,
vì phải từ bỏ việc cúng giỗ cha mẹ tổ tiên.
Nếu người chết cũng có nhu cầu ăn uống tiêu dùng như người sống,
thì hiếu thảo đòi phải lo cho người đã khuất được đầy đủ, ấm no.
Nhiều người không dám theo đạo,
vì sợ theo đạo thì không được cúng giỗ tổ tiên, phải bỏ ông bà.
Vào thời thánh Mátthêu, một số người Do thái cũng có nỗi sợ tương tự.
Họ tin vào Đức Giêsu và muốn trở thành môn đệ của Ngài,
nhưng họ lại sợ làm thế là bỏ đạo của cha ông, bỏ Do thái giáo.
Họ sợ giáo huấn mới mẻ của Đức Giêsu làm họ bỏ Luật Môsê,
và không còn thuộc về dân Thiên Chúa nữa.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu khẳng định :
“Đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hay lời các Ngôn sứ.
Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (c. 17).
Luật Môsê thật ra là Luật của Thiên Chúa trao qua trung gian ông Môsê.
Môsê đã làm nhiệm vụ trao lại cho dân Do thái và giải thích Luật ấy.
Người Do thái từ bao đời đã giữ Luật theo lời giải thích của Môsê.
Bây giờ có một Đấng mới xuất hiện, là Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa.
Ngài biết rõ ý định của Thiên Chúa mà Ngài âu yếm gọi là Cha.
Đức Giêsu không gạt bỏ Luật của Thiên Chúa được trao cho Môsê.
Nhưng Ngài sẽ giải thích lại Luật ấy cho đúng với ý Thiên Chúa,
vì chẳng ai biết rõ ý Cha bằng Con.
Trong Bài Giảng trên núi mà ta sắp nghe trong những ngày tới,
ta sẽ thấy Đức Giêsu giải thích lại Luật Môsê như thế nào.
Hành vi đó được gọi là kiện toàn hay hoàn chỉnh.
Một giai đoạn mới trong lịch sử cứu độ đã được mở ra với Đức Giêsu.
Giai đoạn chung cục này vừa liên tục, vừa vượt quá giai đoạn cũ.
Đức Giêsu mời chúng ta tuân giữ nghiêm túc Luật Thiên Chúa đã ban,
nhưng theo cách giải thích mới mẻ, hoàn chỉnh và có thẩm quyền của Ngài.
Muốn trở nên hoàn thiện, muốn đón nhận Nước Trời do Ngài khai mở,
cần sống Luật Tôra đã được Ngài giải thích lại.
Người Kitô hữu gốc Do thái khi theo Đức Giêsu thì chẳng sợ mình bỏ đạo,
bỏ Lề Luật, bỏ các Ngôn sứ hay truyền thống của cha ông
Giáo huấn của Đức Giêsu đã chứa đựng cốt lõi tinh túy của Luật ấy rồi.
Làm thế nào để các Kitô hữu Á Châu cảm thấy đức tin của mình
không tạo ra sự xung đột hay đoạn tuyệt
với những giá trị của nền văn hóa mình đã lãnh nhận và đã sống?
Làm sao để mình sống viên mãn là một Kitô hữu, một người Công Giáo Rôma,
mà vẫn chẳng mất căn tính là người Việt Nam hay người Châu Á?
Chỉ cần một điều kiện, đó là thấy Kitô giáo không phá bỏ, nhưng kiện toàn
tất cả mọi giá trị cao quý có trong các nền văn hóa và tôn giáo khác.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa,
Chúa đã muốn trở nên con của loài người,
con của trái đất, con của một dân tộc.
Chúa vẫn yêu mến dân tộc của Chúa
dù họ từ khước Tin Mừng
và đóng đinh Chúa vào thập giá.
Xin cho chúng con biết yêu mến quê hương,
một quê hương còn nghèo nàn lạc hậu
sau những năm dài chiến tranh,
một quê hương đang mở ra trước thế giới
nhưng lại muốn giữ gìn bản sắc dân tộc
và bảo vệ nền đạo lý của cha ông.
Xin cho chúng con đừng nhắm mắt ngủ yên
trong sự an toàn và tiện nghi vật chất,
nhưng biết trăn trở trước nỗi khổ đau,
và làm một điều gì đó thật cụ thể
cho những đồng bào quanh chúng con.
Ước gì chúng con biết phục vụ đất nước
bằng khối óc, quả tim và đôi tay.
Và ước gì chúng con biết khiêm tốn
cộng tác với muôn người thiện chí. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
13/06 Muối và Ánh Sáng
- Viết bởi Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Muối và Ánh Sáng.
Thứ Ba tuần 10 thường niên - Thánh Antôn Pađôva, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
"Các con là sự sáng thế gian".
* Chào đời khoảng cuối thế kỷ 12, tại Lít-bon, Bồ-đào-Nha, nhập hội kinh sĩ thánh Augustinô, nhưng sau khi làm linh mục được ít lâu, thánh Antôn hâm mộ lý tưởng sống Tin Mừng của thánh Phanxicô. Người đã đến Át-xi-di, sống bên cạnh thánh Phanxicô (năm 1221).
Với tài năng giảng thuyết ngoại thường, người được phái qua Pháp là nơi các giáo thuyết của phái Ca-tha đang hoành hành. Người lập một tu viện ở Bơ-ri-vơ La Gai-ác. Thánh nhân là người đầu tiên trong dòng dạy thần học cho anh em. Người qua đời tại Pađôva sau khi giảng tĩnh tâm mùa Chay tại đó (năm 1231).
Lời Chúa: Mt 5, 13-16
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con là muối đất. Nếu muối đã lạt, người ta biết lấy gì mà ướp cho mặn lại? Muối đó không còn xử dụng vào việc chi nữa, chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó. Các con là sự sáng thế gian. Một thành phố xây dựng trên núi, không thể che giấu được. Và người ta cũng không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt nó trên giá đèn, hầu soi sáng cho mọi người trong nhà. Sự sáng của các con cũng phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con trên trời".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Muối và Ánh Sáng
Muối là để làm gia vị, đèn là để soi sáng. Với hai hình ảnh này, Chúa Giêsu muốn nói lên sứ mệnh của Giáo Hội trong trần thế. Ngay từ đầu lịch sử của mình, Giáo Hội đã ý thức về sứ mệnh ấy. Giáo Hội là muối và ánh sáng của thế giới, bởi vì là Thân Thể của Ðấng là Ðường, là Sự Thật và là Sự Sống. Giáo Hội luôn xác tín rằng tất cả chân lý về Thiên Chúa và về con người đã được Chúa Giêsu mạc khải và ủy thác cho Giáo Hội. Qua cuộc sống của mình, Giáo Hội bày tỏ cho nhân loại biết con người là ai? Con người bởi đâu mà đến? Con người sẽ đi về đâu? Qua cuộc sống của mình, Giáo Hội chứng tỏ cho con người cùng đích của cuộc sống, đó là sống với Thiên Chúa.
Các tín hữu tiên khởi đã xác tín về điều đó, cuộc sống bác ái yêu thương của họ đã là muối và ánh sáng cho nhiều người. Những tiến bộ về khoa học, văn hóa, kinh tế và ngay cả chính trị tại Âu Châu thời Trung Cổ quả là thể hiện vai trò muối và ánh sáng của Giáo Hội. Không ai có thể vai trò hạt nhân về phát triển của các Tu viện Công giáo. Văn minh Tây phương, dù muốn hay không, vẫn là văn minh Kitô giáo. Những giá trị tinh thần mà nhân loại đạt được ngày nay, như tự do, dân chủ, nhân quyền, đều là những giá trị xuất phát từ Kitô giáo. Qua những giá trị tinh thần ấy, chúng ta có thể nói rằng muối của Giáo Hội đã ướp được phần lớn trái đất, ánh sáng của Giáo Hội đã chiếu soi vào những góc tối tăm của tâm hồn.
Tuy nhiên, hình ảnh muối và ánh sáng vẫn luôn gợi lên cho chúng ta cái tư thế nhỏ bé của Giáo Hội. Người ta chỉ cần một lượng nhỏ muối để ướp một lượng lớn thực phẩm, một cái đèn nhỏ cũng đủ để chiếu dọi một khoảng không gian lớn. Phải chăng với hình ảnh của muối và ánh sáng, Chúa Giêsu không muốn ám chỉ tới cái vị thế đàn chiên nhỏ bé là Giáo Hội? Ðã qua hơn 2,000 năm lịch sử, các môn đệ Chúa Giêsu đã đi khắp thế giới để rao giảng cho mọi dân tộc. Nếu xét về con số, thì thực tế không thể chối cãi là hơn 2/3 nhân loại vẫn chưa trở thành môn đệ Chúa Giêsu, và càng ngày xem chừng những người mang danh hiệu Kitô càng nhỏ lại, nếu so với những người ngoài Kitô giáo.
Muối và đèn soi vốn là những hình ảnh gợi lên cho chúng ta cái tư thế thiểu số của Giáo Hội trong trần thế, nhưng lại mời gọi chúng ta xác tín về sứ mệnh vô cùng to tát của Giáo Hội. Bằng mọi giá, Giáo Hội phải ướp mặn thế giới, phải chiếu soi trần gian bằng chính chân lý cao cả mà Chúa Giêsu đã mạc khải và ủy thác cho mình. Cả vận mệnh nhân loại tùy thuộc sứ mệnh của Giáo Hội, do đó không có lý do nào cho phép Giáo Hội xao lãng sứ mệnh ấy. Thánh Phaolô đã nói lên sự khẩn thiết của sứ mệnh ấy như sau: "Gặp thời thuận tiện hay không thuận tiện, cũng phải luôn luôn rao giảng Tin Mừng của Chúa".
Ðã có một lúc Giáo Hội gặp nhiều dễ dàng và thuận tiện trong việc thực thi sứ mệnh: cả một quốc gia, cả một lục địa đón nhận sứ điệp Tin Mừng. Thế nhưng, cũng có biết bao thời kỳ Giáo Hội bị khước từ, bị bách hại, đây chính là lúc không thuận tiện mà thánh Phaolô nói đến và cũng là lúc Giáo Hội càng phải rao giảng mạnh mẽ và kiên quyết hơn. Chính vì là thiểu số, và là một thiểu số bị loại trừ và bách hại, Giáo Hội lại càng phải ý thức hơn về vai trò là muối và ánh sáng của mình.
Một trong những nguy cơ lớn nhất đối với Giáo Hội chính là thỏa hiệp: thỏa hiệp để được một chút dễ dãi, thỏa hiệp để được một chút đặc quyền đặc lợi. Thực ra, đã là thỏa hiệp tức là đánh mất một phần căn tính của mình: thay vì muối để ướp cho mặn, thì muối lại đánh mất chất mặn của mình đi; đã là đèn dùng để soi sáng thì đèn lại bị đặt dưới đáy thùng; thay vì rao giảng lời chân lý, Giáo Hội thỏa hiệp để chỉ còn rao giảng lời của những sức mạnh đang khống chế mình. Xét cho cùng, sứ mệnh của muối và ánh sáng cũng chính là sứ mệnh của tiên tri. Số phận của tiên tri là số phận của thiểu số, nhưng là thiểu số dám lên tiếng rao giảng chân lý, sẵn sàng tố cáo bất công, và dĩ nhiên sẵn sàng hy sinh, ngay cả mạng sống mình.
Giáo Hội là muối và ánh sáng thế gian. Mỗi Kitô hữu tự bản chất cũng là muối và ánh sáng của thế gian. Họ sẽ đánh mất bản chất mặn của muối và tia sáng của ánh sáng, nếu chỉ vì một chút lợi lộc vật chất, một chút dễ dãi, mà họ thỏa hiệp với những gì đi ngược chân lý của Chúa Giêsu. Một cách cụ thể, người Kitô hữu sẽ không còn là muối và ánh sáng, nếu theo dòng chảy của xã hội, họ cũng lọc lừa, móc ngoặc, dối trá.
Nguyện xin Chúa ban thêm sức mạnh, để dù chỉ là một thiểu số, chúng ta vẫn luôn là muối có sức ướp mặn xã hội, là đèn có sức chiếu soi xã hội.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Muối và Ánh Sáng
Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà đã nhạt đi, thì lấy gì muối cho nó mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi.
Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. (Mt. 5, 13-14)
Thế giới chẳng đẹp gì
Thế giới chẳng đẹp đẽ cho lắm. Nào là chiến tranh, bất công, bạo lực và hận thù tràn lan. Bạn cứ đọc báo là thấy ngay! Chỗ này chỗ kia, người ta đâm chém nhau, ăn cắp của nhau, đánh lộn nhau, sâu xé nhau. Đâu đâu người ta cũng thấy phô ra cái chẳng đẹp, chẳng tốt, chẳng sạch. Xa xa thì ở nơi nhà hàng xóm, mà cần gì phải đâu xa ngay tại nhà mình cũng có nữa.
Người ta không yêu nhau nhiều. Chắc chắn là không đủ. Có nhiều những người bất hạnh hơn là phải có. Có quá nhiều phụ nữ bị bỏ rơi đang khóc. Quá nhiều trẻ em bị hành hạ. Quá nhiều người nghèo khổ chẳng ai thèm chú ý tới. Có quá nhiều mảnh đời đủ mọi hạng tuổi mà thật ra chẳng được bao nhiêu thú vui để sống.
Lãnh đạm đủ rồi!
Trước những thảm cảnh đó, ta phải làm gì? Có thể làm gì? Có người lên tiếng! Thì đã có chính phủ để mắt tới! Thì đã có những nghiệp đoàn họ lo! Thì đã có những cơ quan cứu trợ xã hội để họ làm tốt công việc của họ!” Chỉ có giải pháp đó thôi sao?”
Chúa Giêsu có những lời mà người nghe phải hiểu rằng có một giải pháp khác. Chúa nói với chúng ta: “Anh em là muối đất. Anh em là ánh sáng trần gian”. Người còn phán: “Chính anh em phải làm cái gì đó. Chính anh em phải động đậy lên, phải nhúng tay vào. Chính anh em phải thay đổi thế giới một chút. Chính anh em phải giúp đỡ người ta được hạnh phúc hơn một chút, được tốt hơn một chút, được có tình huynh đệ hơn nữa”.
Chúng ta có là muối mặn không? Là ánh sáng chiếu soi không? Nếu chúng ta là những kẻ chẳng soi sáng cho ai, chẳng khích lệ ai, chẳng nâng dỡ ủi an ai, chẳng đem đến cho ai nụ cười; nếu chúng ta là những người lãnh đạm ơ hờ. Chà!…Một phần nào đó chính là vì chúng ta mà thế giới không khá hơn đó.
Suy niệm 3 :
Người ta thường định nghĩa Kitô hữu là người tin vào Đức Kitô,
là người sống mầu nhiệm Vượt Qua với Đức Kitô, Con Một Thiên Chúa,
hay đơn giản là người bạn của Ngài.
Chẳng thể nào nói đến Kitô hữu mà không nói đến mối dây với Đức Kitô.
Nhưng trong bài Tin Mừng hôm nay, khi nói chuyện với các môn đệ,
những người vừa được nghe các Mối Phúc,
Đức Giêsu lại đưa ra một định nghĩa khác về họ.
“Các con là muối cho trái đất” (c. 13).
“Các con là ánh sáng cho thế giới” (c. 14).
Thế giới này, trái đất này, nằm trong định nghĩa về người Kitô hữu.
Không có Kitô hữu sống lơ lửng giữa trời và đất.
Họ thuộc về trời và thuộc về đất, về thế giới hiện tại và thế giới mai sau.
Họ được sai vào thế giới này để phục vụ bằng cách biến đổi.
Muối có nhiều công dụng.
Muối dùng để bảo quản cho khỏi hư, để nêm nếm cho đậm đà, để bón phân.
Muối cần cho sự sống thường ngày con người.
Đức Giêsu dùng hình ảnh muối để áp dụng cho các môn đệ.
Họ cần cho trái đất này,
Như muối thấm vào đồ ăn, họ phải có ảnh hưởng tích cực trên trái đất.
Điều làm cho muối là muối, đó là vị mặn.
Muối trở nên nhạt thì đánh mất chính mình rồi, chẳng đáng gọi là muối nữa.
Đức Giêsu tự nhận mình là Ánh sáng cho thế giới (Ga 8, 12; 9,5; 12, 46).
Bây giờ Ngài mạnh dạn gọi các môn đệ là ánh sáng cho thế giới.
Thế giới hôm nay đã được điện khí hóa khắp nơi.
Nhưng bóng tối và bóng mờ thì chỗ nào cũng có.
Cả bên ngoài lẫn bên trong tim con người.
Bóng tối thật là một quyền lực đáng sợ mà con người phải đối diện.
Chỉ khi môn đệ mang Ánh sáng của Đức Giêsu, và trở nên ánh sáng,
khi ấy họ mới có thể giúp thế giới này bừng sáng.
Thành thánh Giêrusalem ở trên núi, không sao giấu được.
Ngọn đèn được thắp lên cũng không để lấy thùng che lại.
Căn tính của người Kitô hữu cũng vậy.
Tự nó bừng sáng, tự nó quyến rũ, tự nó hồn nhiên tỏa hương.
Đừng sợ để người khác thấy điều tốt nơi mình,
nếu điều đó đưa người ta đến chỗ nhận biết và tôn vinh Thiên Chúa.
Một phần ba thế giới là Kitô hữu,
bẩy phần trăm người Việt Nam là Công Giáo.
Chúng ta có thể làm được nhiều điều cho thế giới hôm nay.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu, Vua vũ trụ,
nếu Chúa là vua của hơn bốn trăm ngàn linh mục,
nếu Chúa là vua của hơn tám trăm ngàn nữ tu,
nếu Chúa là vua của một tỉ người công giáo,
thì thế giới này sẽ đổi khác,
Hội Thánh sẽ đổi khác.
Chúng con không phải là một lượng men quá nhỏ.
Nếu khối bột chẳng được dậy lên,
thì là vì men đã mất phẩm chất.
Chúng con phải chịu trách nhiệm
về sự dữ trên địa cầu :
có nhiều sự dữ do chính chúng con gây ra.
Chúng con chỉ kêu cầu cho Nước Chúa mau đến,
nhưng lại không chịu xây dựng Nước ấy trên trần gian.
Lạy Chúa Giêsu Vua vũ trụ,
chúng con thường cố ý thu hẹp vũ trụ của Chúa,
giữ chặt Chúa ở trong nhà thờ,
nên nhiều nơi vẫn vắng bóng Chúa,
dù Chúa đã đến trái đất này từ 2000 năm.
Chúng con sợ Chúa đến làm phiền chúng con,
và không cho chúng con được yên ổn.
Ước gì một tỉ người công giáo
chịu để Chúa chi phối đời mình
và đưa Chúa đi vào những nơi Chúa chưa hề đến.
Như thế vũ trụ này
trở thành vũ trụ của Thiên Chúa. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
12/06 Phúc thay!!!.
- Viết bởi Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Phúc thay !!!.
Thứ Hai tuần 10 thường niên.
"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó".
Lời Chúa: Mt. 5, 1-12
Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng: "Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. - Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Nước làm cơ nghiệp. - Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an. - Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả. - Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương. - Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa. - Phúc cho những ai ăn ở thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. - Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ".
"Phúc cho các con khi người ta ghen ghét, bách hại các con, và bởi ghét Thầy, họ vu khống cho các con mọi điều gian ác. Các con hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng của các con sẽ trọng đại ở trên trời. Người ta cũng đã từng bắt bớ các tiên tri trước các con như vậy".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Tám mối phúc thật
Có lẽ người Công giáo nào cũng thuộc nằm lòng Tám Mối Phúc Thật, và có lẽ nhiều người ngoài Kitô giáo cũng đã ít hay nhiều nghe nói đến bản Hiến Chương này. Cũng giống như bản thân Chúa Giêsu, Tám Mối Phúc Thật là dấu chỉ của sự mâu thuẫn. Nếu đối với người Công giáo và nhiều bậc vĩ nhân của nhân loại, Tám Mối Phúc Thật là nguồn cảm hứng cho cuộc sống cao thượng; thì đối với một số người khác, như triết gia Nietzsch chẳng hạn, Tám Mối Phúc Thật chỉ là một lô những đức tính của loài vật, bởi vì chỉ có loài vật mới cúi đầu khuất phục và nhẫn nhục chịu đựng; đối với một số khác nữa, Tám Mối Phúc Thật chỉ là những lời hứa hão về một thứ thiên đàng ảo tưởng, hay nói theo ngôn ngữ của Karl Marx, đó chỉ là thuốc phiện ru ngủ quần chúng. Vậy đâu là tinh thần đích thực của Tám Mối Phúc Thật?
Bản văn Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay là của thánh Mátthêu. Chúa Giêsu chỉ công bố Tám Mối Phúc Thật một lần duy nhất, nhưng được hai tác giả ghi lại; dĩ nhiên, với hai cái nhìn khác nhau nhưng bổ túc cho nhau. Cái nhìn của Luca có tính xã hội: Luca giải thích các mối phúc thật dưới ánh sáng giáo huấn của Chúa Giêsu về nghèo khó và việc sử dụng của cải trần thế, để từ đó đề cao giai cấp những người nghèo khổ trong xã hội; với Luca, những người nghèo thật sự là những tín hữu tiên khởi của Giáo Hội. Trái lại, Mátthêu quan tâm đến khía cạnh luân lý nhiều hơn: nếu Luca đề cao giai cấp cùng khổ, thì Mátthêu nhấn mạnh đến tinh thần nghèo khó: "Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó", do đó theo Mátthêu, con người vào được Nước Trời không đương nhiên vì tình trạng nghèo khó, mà vì thái độ tinh thần của họ; cũng trong cái nhìn ấy, Mátthêu đáng giá về sự đói khát: nếu Luca nói đến những nạn nhân của bất công, tức những người đói khát cơm bánh thực sự, thì Mátthêu lại nhấn mạnh đến sự đói khát công lý nơi con người.
Tổng hợp hai cái nhìn khác nhau của Luca và Mátthêu, chúng ta có thể đưa ra bài học về sứ mệnh của Giáo Hội trong trần thế. Nước Chúa mà Giáo Hội loan báo không chỉ là Thiên Ðàng trong thế giới mai hậu, nhưng đang đến trong cuộc sống tại thế này, qua những giá trị như công bình bác ái, huynh đệ, liên đới. Chính trong những thực tại trần thế mà con người phải tìm kiếm và xây dựng những thực tại Nước Trời.
Niềm tin của người Kitô hữu thiết yếu hướng về cuộc sống mai hậu: mọi nỗ lực của người Kitô hữu nhằm minh chứng cho mọi người về tính cách siêu việt của cuộc sống và định mệnh của con người. Sống trong thế gian, nhưng không thuộc về thế gian, sống giữa thế gian, nhưng con người phải nhìn về Quê hương đích thực là Thiên Quốc. Tuy nhiên, niềm tin hướng về cuộc sống mai hậu ấy không thể làm cho người Kitô hữu xao lãng với những nhiệm vụ trần thế của họ. Họ phải xác tín rằng chính qua những thực tại trần thế, họ mới có thể gặp được những giá trị của Nước Trời; chính qua những thực tại trần thế, họ mới đạt được cứu cánh vĩnh cửu của họ. Ðây quả là một thách đố lớn lao cho người Kitô hữu ở mọi thời.
Một trong những nguyên nhân khiến người Kitô hữu bị bách hại là bởi vì con người không hiểu được sứ điệp của Tin Mừng. Chúa Giêsu đã bị chống đối và cuối cùng bị treo trên Thập giá là bởi vì những người đương thời không hiểu được sứ điệp và con người của Ngài. Ðó cũng chính là thân phận của người Kitô hữu trong trần thế, nhưng chính khi bị bách hại mà vẫn kiên trì trong niềm tin của mình, người Kitô hữu mới thể hiện được ý nghĩa sứ điệp của Tin Mừng.
Chúa Giêsu đã chẳng nói: khi nào Ta bị giương cao, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta sao? Ðó là sức mạnh và nét hấp dẫn của Tám Mối Phúc Thật mà Chúa Giêsu không chỉ rao giảng, mà còn thể hiện cho đến cùng. Chết để cho sứ điệp Tin Mừng được đón nhận, đó là nghịch lý của Tám Mối Phúc Thật. Cái chết ấy được thể hiện trong cuộc sống hàng ngày của người Kitô hữu, nghĩa là hăng say phục vụ, sống quảng đại, liêm khiết, sống bác ái yêu thương, ngay cả chấp nhận những thua thiệt miễn là không đánh mất niềm tin của mình.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Phúc thay!
Thấy đám đông, Đức Giêsu lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên. Người mở miệng dạy họ rằng:
“Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó,
Vì Nước Trời là của họ.
Phúc thay ai hiền lành,
Vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp. (Mt. 5, 1-4)
Những lời đầy hy vọng
Phúc thay, ai có tâm hồn nghèo khó! Phúc thay ai hiền lành! Phúc thay ai sầu khổ! Phúc thay ai xây dựng hòa bình! Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính!
Người ta thuộc lòng những lời này. Đó là cốt lõi của Phúc âm. Có lẽ Chúa Giêsu đã không bao giờ nói lời đẹp hơn. Chưa có người nào trước Người đã nói những lời chứa chan hy vọng như thế cho những ai phải sống vất vả, chiến đấu, đau khổ, đi tìm sự thiện.
Quả là những lời đầy hy vọng! Một ngày nào đây tẩt cả những ai khốn khổ hằng tin cậy vào Chúa sẽ được hạnh phúc. Một ngày nào đây công bình sẽ được thực thi. Một ngày nào đây đau khổ sẽ biến mất, tiếng khóc sẽ đổi thành niềm vui cho những kẻ tin. Mọi sự sẽ đẹp, sẽ tốt, sẽ ngon lành. Những ai rồi đây sẽ phải vất vả, chiến đấu và đau khổ mà vẫn phó thác ngả mình vào vòng tay yêu thương của Chúa, sẽ hân hoan sống bên Người.
Những lời để sống ngay bây giờ
Nhưng hạnh phúc, phải chăng chỉ ngày mai mới có? Phải chăng đến tận cùng thời gian lời Chúa hứa cho ta hạnh phúc mới được thực hiện? Mà đã là người, ai lại chẳng ước mong khi chết rồi sẽ được hưởng niềm vui và hạnh phúc? Chính ngay bây giờ, hôm nay, ngay lập tức mà chúng ta muốn được hạnh phúc.
Hạnh phúc dù phải vất vả, dù bị người ta hiểu lầm và giễu cợt, dù bị ốm đau, dù cuộc sống vất vưởng, có thể được chăng?
Chúa Giêsu trả lời: được chứ. Ngay bây giờ, chính những ai sống theo tinh thần của tám mối phúc, người ấy sẽ hạnh phúc. Nhưng mai ngày họ sẽ hạnh phúc hơn. Và niềm hy vọng này là nguồn vui cho những kẻ ấy ngay từ hôm nay.
Suy niệm 3:
Đức Đạt-lai Lạt-ma, vào mùa thu năm 1994 tại thủ đô nước Anh,
đã được mời chia sẻ về giáo huấn của Chúa Giêsu trong các sách Tin Mừng.
Một trong những bài chia sẻ đầu tiên là về các Mối Phúc.
Theo ngài các Mối Phúc dường như nói về nghiệp (karma), về nhân quả.
“Nếu bạn hành động như thế, thì bạn sẽ chịu hậu quả như thế.
Nếu bạn không hành động như thế, thì bạn cũng chẳng chịu hậu quả như thế.
Vậy rõ ràng nguyên lý nhân quả nằm ở trong giáo huấn của các Mối Phúc.”
Thật ra các Mối Phúc của Kitô giáo lại không bắt nguồn từ nguyên lý nhân quả,
dù mới đọc ta có cảm tưởng như vậy.
Các Mối Phúc bắt đầu bằng chữ “Phúc thay”,
kế đến nói lên ai là người được hưởng phúc ấy,
cuối cùng nêu lên lý do hay nền tảng của hạnh phúc ấy bằng chữ “vì”.
Hạnh phúc đích thật của người Kitô hữu không phải là “quả” tự nhiên
do “nhân” là việc lành phúc đức của họ.
Dù sống tốt đến mấy đi nữa, thì “nhân” ấy cũng không thể sinh “quả” ấy được.
“Quả” hạnh phúc của Kitô giáo là quà tặng lớn của Thiên Chúa cho con người.
Điều này được diễn tả qua những lối dùng động từ ở thể thụ động:
“sẽ được ủi an, sẽ được no thỏa, sẽ được xót thương, sẽ được gọi.”
Trước khi giảng về các Mối Phúc, Đức Giêsu đã loan báo:
“Hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần bên” (Mt 4, 17).
Nước Trời người Do thái mong đợi đã đến với sự hiện diện của Đức Giêsu.
Quà tặng nhưng không của Thiên Chúa đã được trao ban,
chẳng phải do công sức của con người.
Hãy mở lòng ra đón lấy Nước ấy bằng cách hối cải, bỏ đời sống cũ.
Nhưng hơn thế nữa, còn phải đón nhận một lối sống mới cho phù hợp.
Bài giảng trên Núi, và các Mối Phúc, cho thấy hướng sống
của những ai muốn đón nhận quà tặng Nước Trời với bao hạnh phúc kèm theo.
Để nhận được quà tặng vô giá ấy, để được hưởng hạnh phúc vô bờ ấy,
cần cung kính đưa hai tay để đón lấy với lòng khiêm hạ và biết ơn.
Sống theo các Mối Phúc là có thái độ trân trọng cung kính ấy.
Không đưa tay thì cũng chẳng được quà.
Nhưng không phải cứ đưa tay là có quà,
nếu Thiên Chúa không muốn cho trước khi ta xin.
Kitô giáo không dựa trên nguyên lý nhân quả.
Cung kính đưa tay là sống nghèo khó, cậy dựa vào Thiên Chúa,
là hiền lành, là chịu sầu khổ, chịu bách hại vì Đức Kitô.
Cung kính đưa tay là có lòng thương xót, có tinh thần xây dựng hòa bình,
là làm tất cả mọi sự với quả tim trong sáng, không chút vẩn đục.
Khi làm như thế chúng ta hy vọng được chạm đến Thiên Chúa,
thậm chí được nếm biết Nước Trời ngay từ đời này (cc. 3. 10).
Chúng ta có thể viết thêm những mối phúc mới
qua những kinh nghiệm trong cuộc đời Kitô hữu.
Có bao niềm vui lớn nhỏ mỗi ngày mà ta cảm nhận khi sống lời dạy của Giêsu.
Chỉ khi ấy ta mói thấy thật sự lời của Ngài là Tin Mừng.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu thương mến,
xin ban cho chúng con
tỏa lan hương thơm của Chúa
đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con
bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.
Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con
để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con,
để những người chúng con tiếp xúc
cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa,
không phải bằng lời nói suông,
nhưng bằng cuộc sống chứng tá,
và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa. Amen.
(Mẹ Têrêxa Calcutta)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
11/06 Thiên Chúa đã sai Chúa Con đến thế gian
- Viết bởi Ga 3, 16-18
Thiên Chúa đã sai Chúa Con đến thế gian.
Chúa Nhật tuần 10 thường niên năm A – Chúa Ba Ngôi. Lễ trọng.
"Thiên Chúa đã sai Chúa Con đến để thế gian nhờ Người mà được cứu độ".
Lời Chúa: Ga 3, 16-18
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người để tất cả những ai tin ở Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ.
Ai tin Người Con ấy, thì không bị luận phạt.
Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào danh Con Một Thiên Chúa".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM LỄ CHÚA BA NGÔI A
Lời Chúa: Xh 34,4b-6.8-9; 2Cr 13,11-13; Ga 3,16-18
1. Đoàn kết
Ai trong chúng ta cũng biết: Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết. Thế nhưng tâm lý muốn sống riêng, muốn làm riêng, muốn hưởng riêng hình như đã ăn sâu vào tiềm thức của người Việt Nam. Không hiểu có phải vì 1000 năm nô lệ giặc Tàu và 100 nô lệ giặc Tây mà phát sinh ra cái tình trạng đó hay không? Quả thực, kẻ xâm lăng bao giờ cũng dùng chính sách chia để trị, để dân bị áp bức không thể đoàn kết lại mà lật đổ ách thống trị. Chiến lược tâm lý này đã chia đất nước chúng ta thành từng miền, từng tỉnh, khiến người dân Bắc Trung Nam trở nên xa lạ với nhau. Người Kinh coi thường người Thượng. Người giáo khinh miệt người lương. Tầm mắt chúng ta chỉ biết có làng xóm với lũy tre xanh bao bọc, đến nỗi phép vua còn thua cả lệ làng. Rồi làng mạc lại chia nhỏ thành từng gia đình với những căn nhà riêng biệt có rào giậu vây quanh. Mỗi nhà chỉ biết có mảnh vườn riêng trồng đủ mọi loại cây mình thích, chứ không theo một hướng chung để phát triển thành những vùng cây công nghieệp. Vì thế mà dân ta cứ nghèo, cứ khổ mãi. Chỉ khi nào chúng ta thoát ra khỏi cách làm ăn nhỏ nhen riêng lẻ ấy, thì mới có cơ may làm cho đất nước giàu mạnh hơn.
Xét về trí khôn, cá nhân người Việt Nam thì học hành rất giỏi, làm việc rất khá, vượt lên trên nhiều người ở các nước khác. Chúng ta đã nhiều lần đoạt giải nhất, giải nhì trong các cuộc thi quốc tế, nhưng những con người Việt Nam tài giỏi ấy chẳng thể làm việc chung lâu dài với nhau, nên Việt Nam vẫn là một trong những nước nghèo nhất thế giới theo báo cáo của Liên Hiệp Quốc. Vì thế, hơn lúc nào hết, trong tinh thần đổi mới, chúng ta phải phát huy tinh thần đoàn kết, biết làm việc chung với nhau.
Và Chúa Ba Ngôi chính là một biểu tượng, một mẫu gương cho sự hợp nhất của chúng ta. Thực vậy, Thiên Chúa không bao giờ hoạt động riêng lẻ. Bất cứ công việc nào cũng đều có sự thông dự của cả Ba Ngôi. Trước hết, trong công trình tạo dựng vũ trụ, Chúa Cha đã dựng nên tất cả bằng Lời khôn ngoan Ngài phán từ miêng mình và nhờ Thần khí bay là là trên mặt nước như luồng gió huyền diệu. Tiếp đến trong công trình cứu độ của Chúa Con cũng thế. Chúa Cha luôn hành động trong Đức Kitô để Ngài rao giảng và làm các phép lạ. Và Chúa Thánh Thần đã cộng tác ngay từ lúc Mẹ Maria thụ thai cho đến khi Đức Kitô sống lại, thổi hơi trên các môn đệ để họ nhận lấy thần khí của Ngài. Và sau cùng trong công trình thánh hoá của Ngôi Ba cũng vậy. Các ơn Chúa Thánh Thần phân phát cho từng người đều do Chúa Cha ban cho chúng ta qua Đức Kitô. Vì thế mà trong Phúc Âm Chúa Giêsu đã xác quyết: Mọi sự Chúa Cha đều là của Thầy và Thánh Thần sẽ lấy những gì của Thầy mà ban cho các con.
Sự hiệp nhất giữa Ba ngôi nhắc cho chúng ta hiểu rằng: Con người cũng là những nhân vị, có tự do, có ý thức, có tình cảm riêng tư cần được tôn trọng. Đó không phải là sự gắn bó của những chiếc đũa vật chất, mà ta có thể dùng sức lực để bó chặt lại, rồi cưa đầu chặt đuổi cho bằng nhau. Muốn tạo sự hợp nhất thì các ngôi vị phải gặp gỡ, thông cảm và yêu thương nhau.
Để kết luận, chúng ta hãy tự vấn lương tâm xem chúng ta có biết cộng tác với nhau hay chúng ta lại là đầu mối gây bất hoà và chia rẽ.
2. Chúa Ba Ngôi
Trong cuộc đời, có nhiều điều lạ lùng mà trí khôn hạn hẹp của người không bao giờ có thể hiểu thấu. Để diễn tả những thực tại lạ lùng ấy, cha ông chúng ta ngày xưa đã thách: Đố ai biết núi mấy cây, biết sông mấy khúc, biết mây mấy tầng. Đố ai quét sạch lá rừng, để ta khuyên gió, gió đừng rung cây. Đố ai biết đá mấy hòn, tua rua mấy chiếc, trăng tròn mấy đêm. Đố ai tát bể Đông khô, tất sông Bồ Đề, nhổ mạ cấy trên.
Trong tất cả mọi thực tại tuyệt diệu khó hiểu của cuộc sống con người, có lẽ tình yêu là khó hiểu nhất: Đố ai cắt nghĩa được tình yêu, có nghĩa gì đâu một buổi chiều…Tình yêu của con người mà còn khó hiểu, thì tình yêu của Thiên Chúa lại càng khó hiểu hơn gấp ngàn vạn lần. Bởi vì, Thiên Chúa được gì khi tạo dựng nên chúng? Tại sao Chúa lại phải chịu chết để cứu chuộc chúng ta? Chỉ có tình yêu đích thực vô biên và vô vị lợi mới trao ban sự sống và tận hiến tất cả.
Lễ Chúa Ba Ngôi hôm nay cho chúng ta thấy được mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa. Và theo sự diễn tả của thánh Gioan, thì từ nguyên thủy đã có tình yêu và tình yêu qui hướng về Thiên Chúa, bởi vì Thiên Chúa chính là tình yêu. Và tình yêu đã nhập thể, đến sống giữa chúng ta. Chính Chúa Giêsu đã tỏ lộ ra cho loài người, như là Con Thiên Chúa. Đồng thời, trong Ngài chúng ta nhận Thiên Chúa là Cha và Chúa Thánh Thần như là người mẹ trao ban sự sống. Tuy chỉ là một, nhưng Ngài lại có Ba Ngôi, đó là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Chúa Cha là Đấng hướng dẫn toàn bộ cuộc sống con người và lịch sử thế giới. Chính Ngài đã trao ban cho Chúa Con sức mạnh dẫn đưa con người và thế giới trở về với Ngài, theo chương trình tình yêu nguyên thủy của thời tạo dựng.
Khi vâng lời Chúa Cha trong mọi sự, Chúa Con sửa chữa cho nhân loại khỏi án phạt sự chết và khỏi một cuộc sống xa lìa Thiên Chúa, cũng như nổi loạn chống lại thánh ý Ngài. Đồng thời, Chúa Cha còn hướng dẫn cuộc sống của các Kitô hữu và của Giáo Hội, dân riêng mới của Ngài, qua sự hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần, Đấng trợ giúp con người hiểu biết sự thật toàn vẹn. Nghĩa là hiểu biết và chấp nhận chương trình yêu thương và cứu độ mà Thiên Chúa đã có đối với con người và thế giới.
Tuy nhiên, ở đây cũng như trong thời tạo dựng, Thiên Chúa hoàn toàn tôn trọng sự tự do của mỗi người chúng ta. Ngài để cho chúng ta được tự do quyết định chấp nhận hay khước từ chương trình cứu độ đầy yêu thương ấy. Chính vì thế, như một câu danh ngôn đã bảo: Hãy tự cứu lấy mình, rồi trời sẽ cứu. Con người nắm giữ vận mạng trong chính lòng bàn tay của mình. Hay như lời thánh Augustinô đã nói: Khi tạo dựng nên chúng ta, Thiên Chúa không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu độ chúng ta, Ngài cần chúng ta ưng thuận và cộng tác với Ngài, bởi vì Ngài sẽ không thể cứu độ chúng ta, nếu như chính bản thân chúng ta lại không muốn.
3. Mặt trời ban sự sống
Một vị linh mục đang chờ máy bay ở phi trường Tân Sơn Nhất, thì một người đàn ông đến ngồi bên cạnh và bắt đầu đề cập tới vấn đề tôn giáo, ông nói:
- Tôi không thể nào chấp nhận được những điều tôi không hiểu, chẳng hạn như vấn đề Chúa Ba Ngôi hay bất cứ vấn đề nào giống như thế. Chẳng ai có thể cắt nghĩa cho tôi, nên tôi sẽ không bao giờ tin.
Chỉ vào một luồng ánh sáng chiếu qua khung cửa kính, vị linh mục hỏi:
- Ông có tin mặt trời không nhỉ?
Ông ta trả lời:
- Dĩ nhiên là có.
Vị linh mục nói tiếp:
- Phải, ánh sáng ông thấy qua cửa sổ, xuất phát từ mặt trời cách đây 150 triệu cây số. Sức nóng chúng ta cảm nhận được cũng xuất phát từ mặt trời. Đối với Chúa Ba Ngôi, một phần nào cũng tương tự như thế. Mặt trời là Chúa Cha. Từ mặt trời mà có ánh sáng, cũng như từ Chúa Cha mà có Chúa Con. Rồi từ Chúa Cha, Chúa Con mà có Chúa Thánh Thần, cũng như từ mặt trời, từ ánh sáng mà có sức nóng. Ông hiểu thế nào về mặt trời, ánh sáng và sức nóng. Thì một phần nào tương tự như thế, ông hiểu về Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Hôm nay chúng ta tụ hợp nơi đây để chúc tụng và tôn vinh Chúa Ba Ngôi. Trước hết chúng ta phải chấp nhận, đó là một chân lý, một mầu nhiệm không ai có thể hiểu thấu. Sở dĩ chúng ta biết được phần nào là do Chúa Giêsu đã nói với chúng ta, như lời Ngài đã phán trong Tin Mừng: “Các con hãy rửa tội cho họ nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần”.
Mặt trời là nguồn năng lượng vật chất thế nào thì Chúa Ba Ngôi cũng là nguồn sống thiêng liêng cho chúng ta như vậy. Mặt trời chiếu toả ánh sáng thế nào, thì Chúa Ba Ngôi cũng soi sáng tâm hồn chúng ta như vậy. Mặt trời đem đến sức nóng để sưởi ấm vạn vật thế nào, thì Chúa Ba Ngôi cũng sẽ đem lại sức nóng thiêng liêng để sưởi ấm, đó là tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với anh em đồng loại. Mặt trời tiêu diệt vi khuẩn chữa lành bệnh tật thế nào, thì Chúa Ba Ngôi cũng sẽ khử trừ những thói hư tật xấu và loại trừ tội lỗi ra khỏi tâm hồn và cuộc đời chúng ta như thế. Mặt trời đem lại cho chúng ta niềm vui cho chúng ta thế nào, thì Chúa Ba Ngôi cũng đem lại cho chúng ta niềm hạnh phúc vĩnh cửu như thế.
Tuy nhiên chúng ta cần lưu ý: Chúa Ba Ngôi không phải là một nguồn năng lượng vô hồn nhưng là những ngôi vị sống động, thông biết và yêu thương. Với Ngài, chúng ta có thể kêu cầu như chúng ta vốn đã thường làm, mỗi khi chúng ta làm dấu thánh giá, đọc kinh Sáng Danh, hay như lát nữa đây, chúng ta cùng nhau hát kinh Tin Kính...
Cùng với lời tuyên xưng chúng ta hãy sống gắn bó mật thiết với các Ngài, để rồi các Ngài sẽ ra tay nâng đỡ phù trợ cho chúng ta trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.
4. Lễ Chúa Ba Ngôi
(An Mai)
Thiên Chúa tỏ cho chúng ta biết Ngài là Thiên Chúa duy nhất, ngoài Ngài ra không có Thiên Chúa nào khác. Thiên Chúa duy nhất đó chính là Đấng đã dựng nên chúng ta, chính Ngài là hạnh phúc của ta, chính Ngài yêu thương ta và ta đã chối từ tình thương của Ngài. Ta biết Thiên Chúa hứa ban Con Một Ngài đến cứu chuộc ta và suốt lịch sử Ngài dọn đường cho Con của Ngài ra đời. Ta biết Đức Giêsu người Nagiarét chính là Con Thiên Chúa đã làm người, Ngài đồng bản tính với Đức Chúa Cha và cũng là Thiên Chúa như Chúa Cha, Kinh thánh cho ta biết về Chúa Thánh Thần mà Cha và Con gởi đến cho ta để ta được thánh hóa. Chính Chúa Giêsu còn dạy ta rõ hơn nữa: Chúa Thánh Thần cũng là Thiên Chúa như Cha và Con, Ngài là Ngôi Ba Thiên Chúa, Ngài bởi Cha và Con mà ra.
Trong chương trình cứu độ đã học, ta thấy rõ trong mỗi công việc của chương trình đó, đều có sự hiện diện của Cha, Con và Thiên Chúa, từ việc mạc khải và sáng tạo đến việc cứu chuộc và thánh hóa.
Khi công cuộc sáng tạo bị tội lỗi phá vỡ, Thiên Chúa đã khai trương một cuộc sáng tạo mới trong?ức Kitô, đã khôi phục lại con người theo hình ảnh Tạo Hóa (Cl 3,10). Để thực hiện cuộc sáng tạo mới này, Thiên Chúa đã chuẩn bị bằng một lịch sử cứu độ cũng do cả Ba Ngôi điều động. Chính Thánh Thần thúc đẩy dân Chúa trung thành với giao ước Chúa Cha đã ký kết, dọn tâm hồn đón đợi Đức Kitô Con Thiên Chúa.
Khi đã đến giờ định, Thiên Chúa sai Con Duy nhất của Ngài xuống thế làm người. Chúa Con vâng theo ý muốn của Chúa Cha, là vào đời nhập thể và Thánh Thần làm cho Chúa Con thụ thai trong lòng một trinh nữ như lời thiên sứ nói với Đức Trinh nữ Maria: “Thánh Thần sẽ đến trên ngươi, và quyền năng của Đấng Tối Cao sẽ ngợp bóng trên ngươi, bởi thế mà trẻ sắp sinh ra sẽ được gọi là Thánh, là Con Thiên Chúa” (Lc 1, 35). Như vậy, công việc nhập thể cũng là tác động của cả Ba Ngôi.
Trong công cuộc cứu chuộc, cả Ba Ngôi cùng kéo chúng ta vào cuộc sống thần linh: Chính Chúa Cha trao phó Đức Giêsu, Con Một Ngài cho chúng ta. Chính Đức Giêsu khi được treo lên khỏi đất, Ngài đã kéo chúng ta lại với Ngài, Ngài chết để qui tụ muôn dân về một mối. Còn Thánh Thần thì giục giã để chúng ta tin nhận Đức Giêsu Kitô là Chúa, và thốt lên “Abba” để sống tình con thảo với Chúa Cha.
Sau cùng, cả Ba Ngôi Thiên Chúa đều hiện diện trong những người đã được cứu chuộc, như lời Chúa Giêsu nói: “Ta sẽ xin Cha và Người sẽ ban cho các ngươi một Đấng Bầu Chữa khác, để Ngài ở với các ngươi luôn mãi... Ai yêu mến Ta thì sẽ giữ Lời Ta và Cha Ta sẽ yêu mến nó, và Chúng Ta sẽ đến với nó và đặt chỗ ở nơi mình nó” (Ga 14,16 và 23).
Nơi tất cả những công trình, ta thấy Ba Ngôi xoắn xuýt với nhau, nên một với nhau. Ba Ngôi cùng chung một lòng yêu thương ta, chung một ý muốn và chương trình cứu vớt ta, chung một quyền năng để hành động cho ta. Trong tất cả, Ba Ngôi là một.
Nơi Thiên Chúa, tình yêu giữa Cha, Con và Thánh Thần không hề có một giới hạn nào. Ba Ngôi cùng chung một ý muốn, cùng một tình yêu thương, một vinh quang, một uy quyền. Ba Ngôi cùng một bản tính. Ba Ngôi cùng trao ban và cùng nhận lãnh. Không có gì là phân chia hoặc riêng rẽ: “Mọi sự của Con đều là của Cha và sự gì của Cha cũng là của Con” (Ga 17,10).
Và Thánh Thần cũng chia sẻ như vậy: “Mọi sự Cha có hết thảy đều là của Ta, vì thế mà Ta nói:Ngài (Thánh Thần) sẽ lấy của Ta mà thông báo cho các ngươi”. Cũng thế, điều Con muốn chính là điều Cha muốn (Ga 4,34), vinh quang của Con cũng là vinh quang của Cha (Ga 13,31).
Tất cả những điều ấy cho thấy Ba Ngôi kết hợp với nhau thật mầu nhiệm: Cả Ba Ngôi cùng ở trong nhau. “Cha ở trong Ta và Ta ở trong Cha” (Ga 10,38), Thánh Thần ở trong Cha và Con vì Ngài từ Cha và Con mà đến, mà chính Con cũng lại ở trong Thánh Thần”
Nơi mầu nhiệm Ba Ngôi, một nét rõ nhất như chúng ta thấy ở trên đó chính là sự hiệp nhất. Ba Ngôi luôn luôn hiệp nhất với nhau. Còn chúng ta, là những người mang danh Kitô hữu, chúng ta sống thái độ hiệp nhất đó như thế nào trong đời sống thực tại? Chúng ta có hiệp nhất với anh chị em chúng ta hay chúng ta cứ cố thủ một mình trong vỏ ốc ích kỷ của chúng ta?
Một câu chuyện mà tôi được nghe từ ngày còn bé:
Ngày xưa, có một người nhà giàu, sinh được năm người con. Vì giàu có nên những người con của ông có một đời sống sung sướng thừa thãi về vật chất. Nhưng chuyện đời thường vốn vô cùng. Vì thế, có một, các con ông muốn có hai và cứ thế tánh đua đòi lâu dần thành thói quen, đến lúc không tự chủ được thì đã trở thành lòng tham vọng. Càng ngày, lòng tham vọng của con người càng nhiều và lan ra trên mọi bình diện. Do đó, họ không biết thế nào là đủ nên lúc nào cũng khổ tâm vì luôn nghĩ đến sự hơn thua và ganh tỵ lẫn nhau. Đến khi khôn lớn, cả năm người con nhờ tiền của cha mẹ nên đều giàu có. Tuy mỗi người một cơ ngơi, nhưng vẫn giữ thói ganh ghét tị hiềm cãi cọ nhau về những của cải mà họ có. Nhìn cảnh các con không hòa thuận, người cha buồn lắm. Ông cố gắng khuyên bảo nhưng dù ông có cố gắng thế nào, các con ông cũng không bỏ được lòng hiềm kỵ lẫn nhau làm ông rất đau lòng.
Sau một thời gian ngã bịnh, ông biết rằng mình không còn sống được bao lâu nữa. Ông cho gọi các con đến bên giường và bảo gia nhân đem đến cho ông hai bó đũạ Các con ông còn đang nhìn nhau ngơ ngác không hiểu người cha có ý định gì thì ông lấy một bó đũa, đưa cho mỗi người một chiếc và bảo:
- Các con mỗi đứa lần lượt bẻ chiếc đũa này và cho cha biết kinh nghiệm về việc các con làm dễ hay là khó.
Ông vừa dứt lời, trong chớp mắt, năm người con bẻ năm chiếc đũa thật dễ dàng.
Nhìn những chiếc đũa gãy đôi, gãy ba, ông im lặng và các con ông cũng yên lặng đợi chờ. Một lát sau, ông đưa nguyên bó đũa cho người con cả và dịu dàng nói:
Tốt. Các con đã thành công trong việc bẻ một chiếc đũa. Bây giờ, các con lại thay phiên nhau bẻ nguyên cả bó đũa này cho cha xem.
- Người con trưởng cầm bó đũa ra sức bẻ. Anh vận dụng sức mạnh đến nỗi mặt mũi đỏ gay nhưng không làm cho bó đũa gẫy được dễ dàng. Chờ đến lúc anh chịu thua, người cha bảo người con thứ hai tiếp tục. Cũng như người con lớn, người con thứ hai không bẻ được và chịu thua. Ông kiên nhẫn chờ đến khi người con thứ năm bỏ cuộc mới ôn tồn nói:
- Đó, các con xem, thế nào là sức mạnh của sự đoàn kết. Nếu các con cứ tiếp tục hiềm tị chia rẽ nhau thì các con cũng lẻ loi và yếu đuối không khác gì một chiếc đũa và các con sẽ bị kẻ thù bẻ gãy dễ dàng. Nhưng nếu các con biết thương yêu đoàn kết lại với nhau như bó đũa thì không một sức mạnh nào bẻ gãy được các con.
Năm người con ông hiểu ý cha và bài học ông vừa dạy. Cảm động và hối hận vì ăn ở với nhau không phải rồi còn làm cha buồn, các con ông ôm lấy ông vừa khóc, vừa hứa là từ nay về sau sẽ bỏ thói tị hiềm ích kỷ để yêu thương đoàn kết với nhau.
Sau đó người cha mất đi. Năm người con vâng lời cha dạy. Họ rất đoàn kết và thương mến lẫn nhau. Đời sống gia đình họ rất hoà thuận và không một ai có thể cạnh tranh được với sự giàu mạnh trong việc làm ăn buôn bán của gia đình họ.
Kinh nghiệm, bài học của người cha trong câu chuyện để lại cho các con cũng chính là kinh nghiệm cho mỗi người chúng ta. Chúng ta vẫn thường mang trong mình cái tính tự cao tự đại để rồi chẳng có ai có thể cộng tác với chúng ta.
Nhiều người lớn từ lâu vẫn đùa chơi với một phép tính như thế này: ba người Nga thì bằng một người Do Thái, ba người Do Thái thì bằng một người Việt Nam, nhưng ba người Việt Nam thì... cái phép tính cuối cùng này mỗi người tính một cách, chỉ có chữ "nhưng" là vẫn giữ nguyên ý nghĩa cho phép người tiếp nhận dù không thể cân đo vẫn hiểu được thâm ý của phép so sánh. Lại còn một hình ảnh ví von khác, cũng chẳng biết là từ đâu ra: một người Việt Nam rớt xuống hồ thì tự leo lên được, nhưng ba người thì không, vì người này lên thì người kia kéo xuống...
... Những câu chuyện truyền miệng có tính phóng đại, ai cũng biết thế nhưng giải thích nguyên nhân thì thật khó khăn và thật khó hiểu nổi vì sao.
Cái tính thiếu hiệp nhất và manh mún, nhiều người còn nói nặng lời là tính đố kỵ nhau, rõ ràng đã là mâu thuẫn với tinh thần hiệp nhất đã gây khổ cho không biết bao nhiêu người.
Là kitô hữu, đứng trước căn tính hiệp nhất của Ba Ngôi chúng ta phải làm sao? Chúng ta phải chiêm ngưỡng, bắt chước và sống tình yêu thương với nhau như Ba Ngôi Thiên Chúa thì chúng ta mới có thể hiệp nhất được.
Phải nhìn nhận thẳng với nhau một điều rằng đời sống cộng đoàn, đời sống gia đình ngày hôm nay đang phải đối diện với một thách đố lớn giữa một xã hội phát triển. Ngày hôm nay người ta dường như tôn sùng chủ nghĩa cá nhân và đã tìm mọi cách sống cái chủ nghĩa cá nhân đấy một cách triệt để nhất.
Gia đình: Ngày hôm nay khó mà tìm được gia đình hiệp nhất. Vì lẽ chồng, vợ, con cái không nhìn nhận ra đúng vai trò của mình để rồi gây ra không biết bao nhiêu là rạn nứt cho chính người thân yêu của mình. Ngày hôm nay tình trạng ly dị quá cao, tình trạng trẻ em bỏ đi bụi đời càng nhiều. Con người ngày nay đã không khiêm tốn đủ để sống vai trò mà Thiên Chúa mời gọi họ.
Cộng đoàn tu trì: Cộng đoàn tu trì cũng thế thôi. Khó mà tìm ra được cộng đoàn hiệp nhất. Cũng giống như câu chuyện về người Nga, người Do Thái và người Việt ở trên. Người Việt chỉ giỏi làm việc độc lập để rồi trong cộng đoàn, chúng ta thấy được sự khập khiễng rất lớn. Có những người có chút tài và họ đã phát triển biệt tài mà Thiên Chúa phú ban cho họ. Đáng tiếc là họ đã quên đi những người nhỏ bé trong cộng đoàn mà họ đang sống. Dẫu là nhỏ bé đi chăng nữa nhưng rất cần sự nâng đỡ, sự cầu nguyện, sự hợp tác của những người nhỏ bé trong cộng đoàn.
Lời của thánh Phaolô tông đồ khuyên mỗi người chúng ta rất thiết thực trong thư thứ 2 của Ngài: “Thưa anh em, anh em hãy vui mừng và gắng nên hoàn thiện. Hãy khuyến khích nhau, hãy đồng tâm nhất trí và ăn ở thuận hoà. Như vậy, Thiên Chúa là nguồn yêu thương và là bình an, sẽ ở cùng anh em”.
Ngài khuyên chúng ta nhất trí nhưng xem lại chúng ta có nhất trí hay không? Hay là chúng ta chính là nguyên nhân gây chia rẽ, gây rạn nứt trong cộng đoàn?
Thiên Chúa, trong tin mừng theo Thánh Gioan đã xác tín với chúng ta rằng qua Nicôđêmô: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời...”
Nguyện xin Ba Ngôi Thiên Chúa tuôn đổ muôn ơn lành và nhất là ban thêm niềm tin cho chúng ta để dẫu rằng trải qua thế sự thăng trầm này chúng ta luôn luôn tín thác cuộc đời của chúng ta trong sự quan phòng của Thiên Chúa.
Nguyện xin Ba Ngôi Thiên Chúa là nguồn mạch của tình yêu thương, của sự hiệp nhất ban cho chúng ta thêm tình yêu, ban thêm cho chúng ta tình hiệp nhất để chúng ta xây dựng gia đình, cộng đoàn chúng ta ngày mỗi ngày tốt hơn theo như lòng Chúa mong muốn.
5. Con đường yêu thương
Hôm nay chúng ta mừng lễ kính Ba Ngôi Thiên Chúa: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Hoạt động của Ba Ngôi tuy khác biệt nhưng luôn thể hiện trong một tình yêu thương: tình yêu của Chúa Cha đối với Chúa Con, tình yêu của Chúa Con đối với Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần. Qua bài Phúc Âm chúng ta vừa nghe, tôi xin chia sẻ về chủ đề: Con đường yêu thương:
1. Con đường yêu thương của Chúa Cha
Với đoạn Thánh Kinh ngắn vừa rồi, chỉ có 3 câu, Thánh Gioan đã cho chúng ta biết Thiên Chúa đã yêu thế gian như thề nào. Người đã yêu thế gian bằng một tình yêu cao vời nhất, một tình yêu trọn vẹn nhất, một tình yêu "hy sinh đến cùng tận" khi Người đã ban chính Con Một của mình để cứu thế gian và để thế gian nhờ Con Một đó mà được cứu sống. Quả là một tình yêu cao vời khôn ví mà Thiên Chúa đã dành cho nhân loại!
Mục đích Thiên Chúa đến với nhân loại qua Con Một không phải để lên án, nhưng để cứu vớt; không phải để xét xử, nhưng để mời gọi con người trở về trong tình yêu của Thiên Chúa. Con đường trở về đó chính là Đức Giêsu Kitô, đường dẫn nhân loại đến với Chúa Cha. Sứ mạng đó được Chúa Giêsu thực hiện như thế nào?
2. Con đường yêu thương của Đức Giêsu trong Chúa Thánh Thần
Thánh Phaolô đã cho chúng ta thấy điều đó qua thư gửi Philipphê:
Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập tự.
Vâng, Chúa Giêsu đã đến với nhân loại bằng con đường tự huỷ. Sự tự huỷ tột cùng nhất. Từ địa vị là Thiên Chúa lại nhập thể làm người, trở nên là một người như mọi người, sống như bao con người khác ngoại trừ tội lỗi. Đó, chúng ta thấy con đường của Chúa Giêsu là một con đường chẳng giống ai, đang ở địa vị cao sang, lại hạ mình xuống thành một người cùng khổ, và chết cách nhục nhã nhất. Con đường này chỉ có một không hai trong lịch sử nhân loại. Vâng, đó là con đường mà Chúa đã đến với nhân loại và đã dành trọn cho nhân loại.
Trong một lần tĩnh tâm, cha giảng phòng đã cho chúng tôi một cách so sánh về sự từ bỏ. Ngài nói:
Người ta thường dùng từ "đồ súc sinh" để lăng mạ nhau, để sỉ nhục nhau. Đó là điều là một sự xỉ nhục rất nặng phải không. Một con người có lý trí, có tự do và trách nhiệm, vậy mà lại bị hạ nhục bằng một con vật. Còn Thiên Chúa, Người là Chúa muôn loài, Người là Đấng tạo thành mọi sự, Người cao vời khôn ví ấy vậy mà lại hạ mình, mặc lấy thân phận con người là thụ tạo của mình, trở nên người như mọi người. Như vậy, việc Chúa xuống thế làm người đó, Người đã hạ mình xuống thấp nhơn một con vật để cứu lấy chúng ta và để nâng chúng ta lên làm con của Người.
3. Con đường yêu thương của người con Chúa
Con đường yêu thương của Chúa Giêsu là để thực hiện ý của Chúa Cha, thi hành một kế hoạch cứu độ nhiệm mầu của Thiên Chúa dành cho quý ông bà, cho quý anh chị, cho tôi, cho mọi người. Vậy chúng ta phải làm gì để đáp lại tình yêu đó, chúng ta phải làm gì để đáp lại con đường yêu thương mà Thiên Chúa đã, đang và còn tiếp tục thực hiện cho mỗi người, cho mỗi gia đình và cho giáo xứ chúng ta?
Đó là cầu hỏi mà mỗi người chúng ta phải tự trả lời.
Qua việc tự huỷ, Thiên Chúa đã tự thực hiện con đường yêu thương của Người. Vậy đến lượt chúng ta, chúng ta đáp lại tình yêu đó bằng việc hy sinh, bằng việc từ bỏ những gì là ý riêng của ta để tìm và thực hiện ý Chúa. Ý riêng của ta là gì? Thưa, đó là cái tôi của con người tôi. Cái tôi ích kỷ-hẹp hòi, cài tôi tự tôn-tự ti, cái tôi độc đoán-cục bộ... mà mỗi người đã bị chúng đóng băng mình lại và làm cho mình không có thể đến được với nhau và sống hiệp thông với nhau.
Nhìn lên Chúa Cha để học lấy tinh thần yêu thương và cho đi. Yêu thương để xoá bỏ hận thù. Yêu thương để xoá bỏ ngăn cách giữa người với người. Yêu thương để xây dựng và kiến tạo sự hiệp nhất. Yêu thương để cho đi và đón nhận. Nhìn lên Chúa Giêsu để học nơi Người việc trút bỏ tất cả những ý riêng để tìm và thực hiện ý Chúa, trút bỏ những gì đã đóng băng trong con người cũ của tôi để tôi biết mở lòng ra với mọi người và nhất là để tôi có thể đến với Chúa là cội nguồn tình yêu.
Tôi thiết nghĩ có như thế, mỗi người chúng ta mới "thiết kế" được một con đường yêu thương cho riêng mình, cho gia đình mình, cho cộng đoàn mình và cho giáo xứ chúng ta.
Lạy Ba Ngôi Thiên Chúa là cội nguồn yêu thương và là nguồn mạch của sự hiệp nhất, xin hoạt động trong cuộc sống của mỗi người chúng con và giúp chúng con sống con đường yêu thương như Thiên Chúa đã sống và còn tiếp tục thực hiện con đường đó trong cuộc sống của chúng con và trong giáo xứ chúng con. Amen.
6. Thiên Chúa tình yêu
(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Một bạn trẻ hỏi tôi: “Thưa Cha, tại sao đạo Phật khi xây chùa thì chọn những nơi rừng núi thâm u, xa hẳn thị thành, còn đạo Công Giáo khi xây nhà thờ lại chọn những nơi dân cư đông đúc, phồn hoa đô hội?” Tôi trả lời: “Bạn quả là có con mắt nhận xét. Việc xây cất chùa chiền, nhà thờ như vậy, thực ra, phát xuất từ quan niệm nền tảng của đạo. Đạo Phật là đạo xuất thế. Đức Phật vì thấy những cảnh khổ ở đời trong sinh, lão, bệnh, tử nên đã tìm môt con đường mong giải thoát chính mình và nhân loại khỏi cảnh khổ não ở đời. Vì thế Ngài đã từ giã cung đình, rũ sạch bụi trần, xa lánh phồn hoa. Trái lại đạo Công Giáo là đạo nhập thế. Thiên Chúa thấy con người trầm luân khổ ải nên chạnh lòng thương, đã sai Con Một là Chúa Giêsu xuống trần để cứu độ chúng sinh. Chúa Giêsu xuống trần không chỉ là nhập thế, mà còn hoá thân một người nghèo sống giữa người nghèo, người tội lỗi để đưa mọi người về với Chúa, đó là nhập thể. Có thể nói đạo Công Giáo diễn tả việc Thiên Chúa đi tìm con người.
Thiên Chúa đi tìm con người vì Thiên Chúa yêu thương con người. Không yêu thương thì chẳng việc gì phải đi tìm. Đi tìm tức là có quan tâm. Xa vắng thì nhớ. Thấy khổ vì thương. Vì thương, vì yêu nên phải cất bước đi tìm.
Không phải Thiên Chúa chỉ yêu thương khi con người gặp đau khổ. Thực ra Thiên Chúa đã yêu thương con người từ trước, từ khi chưa có con người. Vì Thiên Chúa là tình yêu thương.
Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu thì không thể sống đơn độc nên phải có Ba Ngôi. Vì yêu thương không chỉ là cho đi nhưng còn là nhận lãnh. Muốn cho đi, phải có đối tượng để nhận lãnh. Muốn nhận lãnh cũng đòi phải có người sẵn sàng cho đi. Vì Thiên Chúa là tình yêu, nên Thiên Chúa là Ba Ngôi để có thể cho đi và nhận lãnh.
Thiên Chúa là tình yêu tuyệt hảo nên sự cho đi và nhận lãnh ở nơi Ba Ngôi Thiên Chúa cũng đạt đến mức tuyệt hảo. Thiên Chúa Cha trao ban cho Chúa Con tất cả những gì mình có, nên Chúa Con là hình ảnh hoàn hảo của Chúa Cha, đến nỗi Chúa Giêsu có thể nói: “Ai thấy Thầy là xem thấy Cha Thầy, Thầy và Cha là một”. Vì yêu, Chúa con dâng lại cho Chúa tất cả những gì mình nhận lãnh. Việc hiến dâng này ta thấy rõ trong thái độ khiêm tốn, tự hạ, vâng phục vô biên của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha. Chúa Giêsu đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Chúa Giêsu đã quả quyết: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống vì bạn hữu”. Và Người đã vì Chúa Cha mà hiến mạng sống.
Thiên Chúa là tình yêu tuyệt đối. Tình yêu ấy không chỉ đóng kín nơi bản thân mình. Cũng không chỉ dừng lại ở một đối tượng hạn hẹp. Nhưng vượt mọi ranh giới, lan toả đến mọi góc biển chân trời. Ba Ngôi Thiên Chúa là một bầu trời tình yêu hạnh phúc. Nhưng tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa không chỉ thu gọn trong cộng đoàn Ba Ngôi, mà lan toả đến khắp vũ trụ, ấp ủ cả thế giới, nâng niu cả sinh linh vạn vật. Ba Ngôi là một lò lửa tình yêu. Lò lửa tinh luyện tình yêu càng ngày càng phong phú, là nguồn mạch của mọi tình yêu trên đời.
Mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi như thế không xa vời. Trái lại rất gần gũi, thiết thân với đời sống chúng ta, là nguồn mạch sự sống của ta, là khuôn mẫu ta phải noi theo, là cùng đích ta phải đạt tới.
Ta ra đời là do tình yêu của Thiên Chúa. Có thể nói nhân loại là kết tinh của tình yêu Thiên Chúa. Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã nói: “Ta hãy tạo dựng con người giống hình ảnh Ta”. Thiên Chúa là tình yêu. Con người giống Thiên Chúa vì có trái tim biết yêu thương. Cây cỏ không có trái tim biết yêu thương. Cầm thú không có khả năng yêu thương. Chỉ có con người mới có khả năng yêu thương vì con người giống Thiên Chúa.
Nhưng tình yêu ở nơi con người chưa hoàn hảo vì còn chen lẫn nhiều ích kỷ, hận thù, ghen ghét. Vì thế con người còn phải thanh luyện cho tình yêu ngày càng thêm tinh tuyền, thêm quảng đại, thêm phong phú. Càng yêu thương con người càng nên giống Thiên Chúa. Càng quảng đại con người càng gần với trái tim Thiên Chúa. Càng quên mình con người càng tham dự vào sự sống Thiên Chúa.
Được sinh ra trong tình yêu nên con người phải sống bằng tình yêu. Như thế con người mới sống trọn định mệnh đời mình. Như thế con người mới đạt được cùng đích đời mình là sống hạnh phúc trong tình yêu muôn đời của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Lạy Ba Ngôi Thiên Chúa, là nguồn mạch tình yêu, là sự sống sung mãn, là thiên đàng hạnh phúc, con đã được sinh ra trong tình yêu của Chúa. Xin cho con biết sống tình yêu hy sinh theo gương Chúa Giêsu Kitô, để con được kết hợp với Chúa, sống chan hoà hạnh phúc trong tình yêu muôn đời của Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Thiên Chúa là tình yêu. Bạn cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa thế nào?
2) Bạn có là hình ảnh tình yêu của Thiên Chúa chưa?
3) Bạn làm gì để sống mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi?
7. Mầu nhiệm tình yêu
(Lm. Jos. Quốc Phong SDB)
Lễ Chúa Ba Ngôi bắt đầu đưa chúng ta vào mùa Thường Niên, không phải vì mùa thường niên là mùa ít quan trọng hơn trong các mùa phụng vụ. Nhưng chúng ta có thể nói rằng Lễ Chúa Ba Ngôi bao trùm và chiếu sáng trên tất cả hành trình của con người. Quả thật mọi hành động của Chúa Cha, Chúa Con và của Chúa Thánh Thần luôn luôn hiện diện từ thời tạo dựng vũ trụ, nghĩa là trong thời khắc của sự tạo dựng, ta luôn nhìn thấy dấu ấn của sự hiệp thông giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Chúng ta có thể nói rằng, mỗi một thực tại con người chúng ta luôn được tạo ra bởi sự hiệp thông và cho sự hiệp thông. Sau khi sáng tạo ra con người, Thiên Chúa phán: “con người ở một mình thì không tốt”. Đúng vậy, chính Thiên Chúa không bao giờ ở một mình. Thiên Chúa không phải là một hữu thể cô độc, mà là một “Gia Đình” gồm ba nhân vị. Ba Ngôi yêu thương và hiệp thông với nhau đến mức trở nên “Một”.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm của “Tình Yêu” không bị giới hạn chỉ trong Ba Ngôi, không giữ lại cho chính mình, mà đổ tràn xuống trên con người. Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến mức ban Con Một, để bất cứ ai tin vào Ngài, sẽ không phải chết, nhưng có được sự sống đời đời” (Gioan 3,16). Chúa Cha không buộc phải ban Con Một, nhưng vì yêu thương thế gian quá đỗi, nên Ngài đã ban Con Một cho thế gian, để thế gian được sống. Thiên Chúa Ba Ngôi không có gì khác hơn chính là “Mầu Nhiệm Tình Yêu” tràn đầy từ trời đổ xuống cho thế gian, vượt qua tất cả mọi rào cản, mọi ranh giới. Tình yêu ấy như là một nguồn năng lượng đầy tràn không thể hãm lại được đối với người biết mở lòng mình ra đón nhận.
“Gia Đình” của Thiên Chúa Ba Ngôi, mọi thành viên đã chọn lựa đi vào lịch sử của loài người để mời gọi tất cả chúng ta, từng người một, trở nên người nhà của Gia đình đặc biệt này, trở nên một với Ngài. Đó chính là viễn tượng cuối cùng, là mong muốn duy nhất mà Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi biểu lộ và mạc khải cho con người. Và viễn tượng này quả thật trở nên một sự “thách đố” đối với tất cả những giáo hội tin vào Chúa Kitô, đối với tất cả các tôn giáo và đối với tất cả loài người. “Sống hòa hợp trong tình yêu” quả thật là một thách đố lớn lao trong xã hội ngày hôm nay, khi mà con người ngày hôm nay đang tăng cường và cổ võ cho các chủ nghĩa ích kỷ và cá nhân. Thiên Chúa Ba Ngôi mời gọi và thúc đẩy chúng ta vượt qua tất cả các rào cản, và Ngài luôn hiện diện và nâng đỡ chúng ta vì “Ở đâu có tình yêu thương, ở đấy có Thiên Chúa”.
Thánh Augustino diễn tả mầu nhiệm Ba Ngôi bằng một ý niệm rất là thực tế, đó là ý niệm về một “Cộng Đoàn”. Ba Ngôi Thiên Chúa tạo ra giữa các Ngài một “Cộng Đoàn cuả Tình Yêu”, trong đó, chính Tình yêu là nền tảng cốt yếu của sự tương quan và của sự hiện hữu Thiên Chúa. Thiên Chúa chính là Tình Yêu, và Tình yêu này đã, đang và sẽ mãi mạc khải cho con người. Mối liên hệ tình yêu luôn luôn đòi hỏi một chủ thể yêu và một đối tượng được yêu và ngược lại. Giữa hai người, hiện diện tình yêu, và chính “tình yêu này” nối kết họ lại với nhau, cũng vậy trong Chúa Ba Ngôi, mối liên hệ này đã trở nên nhân vị. Chúa Cha yêu thương Chúa Con, và ngược lại, Chúa Con được Chúa Cha yêu thương: Tình yêu đã liên kết Cha – Con chính là Chúa Thánh Thần, và Chúa Thánh Thần được yêu từ Chúa Cha và Chúa Con.
“Cộng Đoàn Tình Yêu” là Thiên Chúa Ba Ngôi không thể được hiểu và đón nhận bởi con người chúng ta, nếu con người chúng ta không cảm thấy mình được yêu mến từ Thiên Chúa. Chính vì vậy, việc cử hành Thánh Lễ Trọng Thiên Chúa Ba Ngôi hôm nay, không chỉ là để ca ngợi và tán tụng Thiên Chúa Ba Ngôi, mà điều quan trọng đối với chúng ta đó là “Tình Yêu” của Thiên Chúa đổ trên chúng ta. Thiên Chúa Ba Ngôi thật sự trở nên “Kiểu Mẫu” cho mọi tương quan tình yêu của chúng ta trong chính cuộc sống chúng ta. Trong những mối tương quan cảm xúc, tình yêu đối với tha nhân, nếu như chúng ta không có đủ khả năng để tạo ra những mối liên hệ ngang bằng: không kỳ thị, không phân cấp trên dưới, chúng ta có đang làm chứng cho thế giới “sức mạnh” của Tình Yêu Thiên Chúa chăng? Hay trong phạm vi gia đình nhỏ bé, trong đời sống của vợ chồng, hai người yêu nhau mà lại hiện diện một sự “cao hơn” ở bên một phía chồng hay vợ, chúng ta có thật là đang thực thi tình yêu mà Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta không?
Không hiện hữu một tình yêu đích thật, đối với chúng ta là những kitô hữu, mà không phải mang hình ảnh và giống với tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi: một tình yêu không phân biệt, không cấp bậc, một tình yêu bởi sự tôn trọng sâu thẳm lẫn nhau, và tình yêu luôn rộng mở đến mỗi người và mọi người. Vì thế Thánh Lễ hôm nay giúp chúng ta nhận biết Thiên Chúa và tình yêu bao la của Ngài luôn tuôn đổ dồi dào trên chúng ta, và đặc biệt hơn là giúp chúng ta hiểu và xích lại gần nhau hơn để yêu nhau hơn, trong gia đình, trong giáo xứ, trong sở làm việc, và trong xã hội, … nhờ vào Tình Yêu mà trong Đức Kitô, qua ơn của Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa đổ tràn đầy xuống trong trái tim của mỗi người chúng ta. “Ý nghĩa ở đâu, nếu chúng ta biết Thiên Chúa là ai, mà rồi chúng ta không biết yêu thương anh chị em mình”?
8. Thiên Chúa tình yêu
( “Như Thầy Đã Yêu” – Thiên Phúc)
Một người cha hứa cho đứa con gái 12 tuổi một số tiền nếu cô bé xén sạch đám cỏ trước nhà.
Cô bé vui vẻ mang máy cắt cỏ ra làm việc. Đến chiều, cả đám cỏ đã được cắt xén gọn gang – ngoại trừ một mảng có tí tẹo còn sót trong góc sân.
Ông bố nói rằng ông không thể trả số tiền đã thỏa thuận, bởi vì đám cỏ chưa được cắt xong. Cô bé cho biết cô sẵn sàng chịu mất số tiền đó và cô nhất định không cắt nốt mảng cỏ còn sót kia.
Tò mò muốn biết lý do tại sao, ông bố kiểm tra chỗ cỏ chừa lại. Hóa ra, ở giữa chòm cỏ ấy, một chú cóc đang ung dung ngồi ngắm cảnh hoàng hôn! Cô bé quá thương con cóc, đã không đành đưa lưỡi dao của máy cắt vào chòm cỏ ấy.
***
Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4,8). Người đã dựng nên con người cao trọng hơn các loài thụ tạo. Nhưng con người lại bất trung phản bội. Vì yêu thương Thiên Chúa đã không nỡ hủy diệt, lại sai con Một là Đức Giêsu Kitô xuống thế để cứu chuộc con người. Người lại gởi Thánh Thần đến để thánh hóa cho nên tạo vật mới, dẫn đưa họ về hưởng vinh quang Nước Trời. Đó là mầu nhiệm Tình yêu mà Ba Ngôi Thiên Chúa đã thương dành cho con người. Vì thế, lễ Chúa Ba Ngôi cũng là lễ của tình yêu.
Chỉ những ai sống yêu thương mới được ở trong Thiên Chúa Ba Ngôi.
Chỉ những ai thực thi đức ái mới sống trọng ơn gọi làm con Thiên Chúa.
Chỉ những ai biết sống trao ban mới tìm được nguồn vui đích thực trong Thiên Chúa tình yêu.
Nếu Thiên Chúa đã hiến trao Con Một của Người để người Con ấy phải chết và để nhân loại được sống, lẽ nào người tín hữu còn sống ích kỷ để giữ lại cho riêng mình những hạnh phúc nhỏ nhoi, tầm thường.
Nếu Thiên Chúa đã muốn chia sẻ hạnh phúc của Ba Ngôi, là không muốn cho con người phải chết nhưng được sống hạnh phúc muôn đời, lẽ nào chúng ta đành khép lại con tim để chối từ chia sẻ trao ban.
Được dựng nên theo và giống hình ảnh của Thiên Chúa Tình yêu, nên ơn gọi đích thực của con người chính ta ơn gọi sống yêu thương.
Được cứu độ bằng giá máu của Đức Kitô, nên lẽ sống của người Kitô hữu chính là tha thứ trong yêu thương.
Được thánh hóa bằng sức sống của Thánh Thần, nên cứu cánh của người tín hữu là phải nên thánh nhờ sống yêu thương.
Nhìn mầu nhiệm Ba Ngôi từ góc cạnh của đức mến, tức là nhìn từ lăng kính của tình yêu. Người tín hữu không biết đến yêu thương thì cũng hoàn toàn xa lạ với Thiên Chúa. Vì “Ai không yêu thì không biết Thiên Chúa” (1Ga 4,8). Chỉ những ai dám sống và dám chết cho tình yêu, mới được ở lại trong Thiên Chúa. Chỉ những ai dám tự hiến và trao ban cho anh em mới là những chứng nhân của một Thiên Chúa Tình yêu.
***
Lạy Chúa Ba Ngôi, xin cho chúng con nhận ra được sự hiện diện của Chúa tận thẳm sâu tâm hồn chúng con và của từng nười chứng con gặp gỡ, để chúng con biết quảng đại trao ban và yêu thương chúng con đời đời. Amen.
9. Lễ Chúa Ba Ngôi - Ngày Lễ Tình Yêu
Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi luôn là chân lý vượt quá sự hiểu biết của con người. Câu chuyện của thánh Augustine với cậu bé bên bờ biển năm nào khiến không ít người trong chúng ta nghĩ rằng tín điều này sao mà khô khan khó hiểu, quanh đi quẫn lại cũng chỉ “Một - Ba”, “Ba- Một”. Thế nhưng sự thật lại không phải như vậy. Tin mừng hôm nay giúp chúng ta cảm nghiệm về một Thiên Chúa không quá khô khan, không quá khó hiểu và rắc rối như chúng ta vẫn nghĩ.
Thánh sử Gioan trong tác phẩm của mình có nhắc đến một khái niệm về Thiên Chúa khi ngài định nghĩa “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1, Ga 4, 8). Đây là một khái niệm rất rõ ràng và được cụ thể hoá trong câu đầu tiên của Tin mừng hôm nay, diễn tả Thiên Chúa tình yêu trong việc sai Con của Người xuống thế gian, làm của lễ dâng hiến hầu đem lại sự sống cho con người. “Thiên Chúa yêu thế gian, đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (x. 1Ga 4, 9).
Chúng ta thấy tình yêu có sức mạnh phi thường mà hiệu quả của nó chính là việc làm cho con người khỏi phải chết và sống đời đời nếu họ tin vào Đấng là Tình yêu. Thiên Chúa yêu thương thế gian không bằng những lời nói suông, nhưng bằng hành động cụ thể. Vì yêu thương con người, muốn cho họ được hưởng tình yêu cứu độ, Chúa Cha đã không tiếc ngay cả người Con Một dấu yêu của mình. Tình yêu của Chúa Con đối với Cha cũng vậy. Vì tình yêu đối với Cha cũng như với thế gian mà Chúa Con đã vâng lời, chấp nhận thân phận con người, hoà mình trọn vẹn vào thân phận kiếp người để sẻ chia kiếp “sinh- lão- bệnh- tử” mỏng giòn của họ. Chúa Thánh Thần luôn âm thầm làm công việc hướng dẫn, thánh hoá con người để họ ngày một nên hoàn thiện trong tình yêu với Thiên Chúa.
Lẽ dĩ nhiên Thiên Chúa không tự mình vẽ hay phác hoạ ra một mô hình về tình yêu để rồi bắt chúng ta áp dụng, còn Người thì ngồi đó để đúc kết hay báo cáo thành tích. Chính Thiên Chúa Ba Ngôi đã đi bước trước, nghĩa là các Ngài đã sống, đã cảm nghiệm, đã chia sẻ cho nhau từ trước muôn đời và giờ đây các Ngài vì muốn cho con người cũng được chiêm ngưỡng, được sống và chia sẻ tình yêu ấy nên đã sai Con Một và Chúa Thánh Thần xuống thế để làm mẫu gương sống động cho con người noi theo.
Thiên Chúa là Tình yêu. Tình yêu đó chân chính và đích thực. Tình yêu đích thực đòi buộc cần phải có nhiều thành phần. Lý do là bởi vì một con người cô độc, luôn tự mãn thì không thể nào có tình yêu được, vì anh ta không có “đối tác” để yêu thương. Tình yêu đích thực cần đuợc đón nhận và trao ban qua “đối tác”, tức qua tha nhân. Chúng ta còn thấy một tình yêu trao ban thực sự khi nó loại bỏ được sự chiếm đoạt, tính ích kỷ và mưu đồ. Tình yêu trao ban đích thực chỉ xảy ra khi và chỉ khi cả hai đều hướng về nhau, cùng lãnh nhận và trao ban, cùng yêu và được yêu. Tình yêu đó không làm cho bên nào phải nghèo đi, phải mất mát nhưng nhờ thế cả hai đều thực sự phong phú và có ích cho nhau. Trong mầu nhiệm Ba Ngôi, chúng ta thấy một bản tính Thiên Chúa và Ba ngôi vị phân biệt nhau là thực sự cần thiết, bởi nhờ đó, tình yêu đích thực trao ban và lãnh nhận giữa Ba ngôi thực sự sống động, thực sự hiệu quả và phong phú mà nếu mất đi một trong ba, chỉ sẽ dẫn đến tình trạng ích kỷ, chiếm hữu và tự mãn mà thôi.
Lễ Chúa Ba Ngôi là dịp để mỗi người chúng ta chiêm ngưỡng Một Thiên Chúa tình yêu, đào sâu thêm về tình yêu giữa Ba Ngôi cũng như tình yêu mà Ba Ngôi đã trao ban cho chúng ta. Đồng thời cũng là dịp để chúng ta tự vấn lương tâm về các mối quan hệ của chúng ta giữa vợ chồng, bố mẹ con cái, gia đình, xã hội, Giáo hội cũng như những mối tương quan khác,… để xem đó có thực sự là mối quan hệ dựa trên tình yêu vô vị lợi mà Ba Ngôi Thiên Chúa đã yêu thương cũng như tình yêu mà Chúa Giêsu đã tỏ bày cách cụ thể nhất khi Người xuống thế, chịu chết và sống lại vì nhân loại.
Ước mong đây là dịp thuận lợi để chúng ta xin Ba Ngôi Thiên Chúa tiếp tục dạy dỗ và hướng dẫn ngõ hầu mỗi người chúng ta được nên hoàn thiện trong tình yêu và ân sủng của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
10. Thiên Chúa yêu thế gian
(‘Manna’ – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)
Có một điều thường khiến các bạn trẻ băn khoăn, đó là làm sao nhận ra một tình yêu chân thực, làm sao không bị chóa mắt bởi những ảo ảnh, không bị lừa dối bởi những ngọt ngào, để rồi vỡ mộng.
Bài Tin Mừng hôm nay gợi cho ta một số tiêu chuẩn, khi mời ta nhìn vào tình yêu của Thiên Chúa.
Tình yêu chân thực là tình yêu hiến trao: "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một của Người..."
Không phải chỉ là trao một quà tặng, hay một cái gì ở ngoài mình, nhưng là trao đi một điều thiết thân và quý báu.
Điều quý báu nhất của Thiên Chúa Cha là người Con Một của Ngài, Đức Giêsu Kitô.
Khi trao cho chúng ta Đấng bị treo trên thập giá, Thiên Chúa đã trao cho ta chính bản thân Ngài.
Ngài chấp nhận Con Ngài phải chết để nhân loại được sống.
Tình yêu chân thực chẳng hề biết giữ lại cho mình.
Tình yêu chân thực là tình yêu chia sẻ, tình yêu mong hạnh phúc cho người mình yêu: "... để bất cứ ai tin vào Người Con ấy thì không phải chết, nhưng được sống muôn đời."
Sự sống muôn đời đã bắt đầu từ đời này.
Được sống là được đưa vào thế giới thần linh, được chia sẻ hạnh phúc của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Thiên Chúa không muốn cho ai phải trầm luân. Nếu có ai hư mất hay bị luận phạt thì không phải là vì Thiên Chúa độc ác, nhưng chỉ vì Ngài tôn trọng tự do con người.
Con người có thể tin hay từ chối, mở ra hay khép lại trước sự sống được trao ban.
Thánh Gioan đã dám định nghĩa Thiên Chúa là Tình Yêu.
Một Tình Yêu chia sẻ chan hoà giữa Ba Ngôi: Cha trao tất cả cho Con, Con dâng tất cả cho Cha. Thánh Thần là sự thông hiệp giữa Cha và Con.
Một Tình Yêu tràn ngập cả vũ trụ: Thiên Chúa là Tình Yêu sáng tạo khi Ngài dựng nên con người theo hình ảnh Ngài; Ngài là Tình Yêu cứu độ khi Ngài muốn thứ tha cho ta qua Đức Giêsu; Ngài là Tình Yêu thánh hóa khi Ngài muốn ban cho ta sức sống mới trong Thánh Thần.
Chúng ta sẽ mãi mãi xa lạ với Thiên Chúa nếu chúng ta xa lạ với tình yêu.
"Ai không yêu thì không biết Thiên Chúa" (1Ga 4,8). Ai không ở lại trong tình yêu thì cũng không ở lại trong Thiên Chúa (x. 1Ga 4,16).
Ước gì đời ta được tưới gội bởi Tình yêu, để mọi việc chúng ta làm đều bắt nguồn từ Tình yêu và quy hướng về Tình yêu.
Ước gì chúng ta làm chứng cho Thiên Chúa Tình yêu bằng một đời sống hiến trao và chia sẻ.
Gợi Ý Chia Sẻ
Tình yêu là hai từ được sử dụng khắp nơi. Điều mà người ta thường gọi là tình yêu, thực ra chỉ là sự chiếm đoạt của bản năng ích kỷ. Theo bạn, thế nào là tình yêu thực sự đáng tin? Làm sao nhận ra tình yêu đó?
Có khi nào bạn cầu nguyện với từng Ngôi Cha, Con và Thánh Thần không? Bạn biết gì về Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần?
Cầu Nguyện
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận, xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt, xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ, xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị, xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi,
Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng.
Xin cho các Kitô hữu chúng con trở thành tình yêu cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài, biết sống nhờ và sống cho tha nhân, biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh,
Xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa ở sâu thẳm lòng chúng con và trong lòng từng con người bé nhỏ.
11. Con đường sống
Chính Chúa Giêsu Kitô đã nhiều lần trong dạy chúng ta biết có Một Chúa Ba Ngôi như khi Ngài nói: “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả; nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha,chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1,18). Và về Chúa Thánh Thần: “Khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy” (Ga 15,26).
Mọi giáo huấn về Thiên Chúa đều chứa đựng nơi con người của Đức Giêsu Kitô, vì thế, tin vào Chúa Kitô cũng có nghĩa là tin vào Chúa Ba Ngôi. Ai đến với Chúa Kitô thì cũng đến với Chúa Cha, nhờ ơn Chúa Thánh Thần. Thật vậy, kẻ nào tin vào Đức Giêsu Kitô thì gắn bó cuộc đời mình với Người, là chia sẻ số phận tử nạn và phục sinh của Người, là bước vào đời sống của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Là Kitô hữu, chúng ta chỉ có một con đường để chọn lựa: tin hoặc không tin. Tin chính là đáp trả lại lời mời gọi của Thiên Chúa trong yêu thương. Trong khi mỗi người chúng ta không có khả năng tin Thiên Chúa, nếu Chúa Cha không lôi kéo chúng ta đến với Đức Giêsu Kitô, qua ơn trợ lực của Chúa Thánh Thần. Cần luôn cầu xin Chúa Thánh Thần ban ơn giúp sức cho chúng ta, trong mỗi quyết định được lập đi lập lại hằng ngày trong cuộc đời, vì sự yếu đuối của chúng ta. Quyết định nào cũng đòi hỏi phải có tự do mà đây chính là một sự chọn lựa sống còn của mỗi người. Và hệ luận của của sự chọn lựa nầy dẫn đến hạnh phúc hay án phạt muôn đời. Bởi vì Chúa Giêsu nói: “Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3,18). Tin vào Chúa Giêsu Kitô, qua Hội Thánh của Người, đó chính là con đường sống cho mỗi người chúng ta.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta được ngoan ngùy theo ơn Chúa Thánh Thần soi sáng, để chọn cho mình con đường sống, là tin vào Đức Giêsu Kitô, sống gắn bó với Người, để được kết hợp bây giờ và mãi mãi với Chúa Ba Ngôi là Tình Yêu, là Nguồn Sống, là Bình an đích thực cho cuộc đời chúng ta. Amen.
12. Suối nguồn tình yêu
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có người nói rằng: Nếu có ai nói với tôi “xin hãy cho biết Thiên Chúa là thế nào?”, tôi sẽ bảo người đó: “Hãy yêu thương anh em nhiều hơn. Tình yêu sẽ nói cho bạn biết Thiên Chúa là thế nào?”
Thực vậy, Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu của Ngài được tỏ bày qua Ba Ngôi Vị: Ngôi Cha – Ngôi Con – Và Thánh Thần. Ba Ngôi trong một Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu ấy được tuôn chảy đến con người qua tạo dựng – cứu chuộc và thánh hóa con người. Tình yêu ấy mãi chung thủy với con người dù cho con người có yếu đuối, phản bội hay quay lưng lại với tình yêu của Ngài. Vì bản chất của Ngài là tình yêu. Bởi thế ai yêu thương thì có thể biết Thiên Chúa, có thể sống trong Nước Thiên Chúa và hưởng được hạnh phúc của Thiên Chúa. Càng yêu thương thì càng giống Thiên Chúa ; ngược lại càng ít yêu thương thì càng khác với Thiên Chúa.
Câu chuyện về thánh Maximilien Kolbe như là chứng tích cho tình yêu Thiên Chúa vẫn đang được hiện tại hóa qua các nhân chứng của Ngài.
Cha thánh Maximilien Kolbe thụ phong linh mục năm 1918 Cha bị Đức Quốc Xã bắt ngày 17.2.1941 và bị giam tại trại tập trung Auschwitz.
Đây là một nhà tù hãi hùng nhất bao gồm mọi hình phạt và kỷ luật sắt ghê gớm, độc ác dành cho các tù nhân. Mỗi tù nhân không còn được mang tên mình, thay vào đó là những con số. Cha Maximilien Kolbe mang số tù binh là 16.670. Tại nhà tù này, Đức quốc xã đưa ra một quy định hết sức oan nghiệt: Nếu có một tù nhân trốn trại, thì mười người khác phải chết thay. Rất nhiều tù nhân là nạn nhân của thứ luật lệ hãi hùng này. Cha Maximilien Kolbe cũng trở thành một trong những nạn nhân ấy.
Đó là một buổi chiều tháng 8.1941, một người tù đã vượt ngục thành công. Thế là mười người khác bị chỉ định chết thay cho anh. Trong số mười người này có anh lính Gajowniczek. Anh kêu khóc thảm thiết vì anh còn mẹ già, còn vợ, còn con thơ không ai nuôi dưỡng.
Trước thảm cảnh đó, vì lòng yêu mến Chúa, yêu thương con người, Cha Maximilien Kolbe đứng ra xin được chết thế cho anh lính tội nghiệp kia. Được chấp nhận, Cha cùng đoàn tử tù bước vào phòng hơi ngạt số 14.
Hôm sau, người ta mở cửa phòng để lôi xác ra ngoài, nhưng Cha Maximilien Kolbe còn thoi thóp, người ta chích cho Cha một mũi thuốc ân huệ. Cha tắt thở đúng vào chiều ngày áp lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời 14.8.1941.
Trong buổi đại lễ, Đức Thánh Cha Phaolô VI tôn phong chân phước Maximilien Kolbe lên bậc hiển thánh, có một cụ già đáng kính trong đoàn người dâng lễ vật, được Đấng đại diện Chúa ôm hôn. Đó chính là người tù được cha thánh chết thay. Trong giây phút trang trọng ấy, toàn thể cộng đoàn sốt sắng hát vang khúc tình ca: “không có tình yêu nào trọng đại cho bằng chết vì yêu”. Đây là một chứng tích tình yêu cao vời khiến mọi người hiện diện đều xúc động và rơi lệ.
Tình yêu sẽ làm nên muôn điều kỳ diệu. Tình yêu sẽ thúc bách con người thi thố cho nhau những nghĩa cử cao thượng. Nhất là tình yêu trong Thiên Chúa sẽ giúp con người đi đến cùng của yêu thương. Vì yêu Thiên Chúa mà con người đón nhận nhau trong tôn trọng và yêu thương. Vì yêu Thiên Chúa mà con người chẳng quản ngại hy sinh để chia sẻ buồn vui với nhau, để nâng đỡ và cảm thông với nhau. Vì yêu Thiên Chúa mà con người chấp nhận chung sống hòa bình với nhau.
Chấp nhận sống trong tình yêu là con người đang họa lại chân dung tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa cho anh em. Chấp nhận để cho tình yêu Thiên Chúa dẫn dắt là con người đang sống liên kết với tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa như cành liền cây để có thể đơm hoa kết trái.
Xin Chúa giúp chúng ta sau khi đã nhận ra tình yêu cả Ba Ngôi Thiên Chúa thì cũng biết sống tình yêu ấy cho anh em trong thế giới hôm nay. Amen.
13. Huyền nhiệm tình yêu
(Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Thiên Chúa là tình yêu. Đó là chân lý, là lời khẳng định của thánh Gioan Tông đồ được ghi lại trong sách Tin Mừng. Thực vậy, sách Tin mừng được xem là lá thư mà Thiên Chúa đã tỏ tình với con người qua suốt dọc dài lịch sử của ơn cứu độ. Tình yêu đó được tỏ bày qua từng biến cố của dòng đời để dần dà với thời gian con người mới khám phá ra tình yêu của một vì Thiên Chúa nhưng được thực hiện qua 3 cách thức khác nhau. Ngài đã tỏ mình là một vì Thiên Chúa là Cha qua công trình sáng tạo vũ trụ vạn vật và Ngài còn tiếp tục thi thố tình thương đó qua sự quan phòng đầy kỳ diệu của quyền năng Thiên Chúa. Ngài đã tỏ tình yêu của mình qua Ngôi Hai Thiên Chúa mang lấy thân phận con người để có thể cùng chia sẻ những thăng trầm nổi trôi của cuộc sống con người. Ngôi Hai Thiên Chúa đã ghi dấu tình yêu vĩnh cửu của mình qua cái chết thập tự giá để nói lên một tình yêu vô bờ bến mà Ngài dành cho con người. Vì "không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người dám thí mạng sống vì người mình yêu". Với Ngôi Ba Thiên Chúa, tình yêu của Ngài luôn đầy tràn trong cuộc đời các tín hữu để thánh hoá con người làm con cái Thiên Chúa và trở thành đền thờ cho Ba Ngôi Thiên Chúa ngự trị.
Mừng lễ Chúa Ba Ngôi, là dịp để chúng ta tạ ơn tình thương của Chúa vẫn luôn bao phủ trên cuộc đời chúng ta. Chúa cho chúng ta được sinh ra làm người và làm con cái Thiên Chúa. Chúa luôn quan phòng gìn giữ chở che cuộc đời chúng ta "như con ngươi trong mắt Ngài". Chúa biết rõ từng cuộc đời chúng ta như mục tử biết từng con chiên. Chúa vẫn ngàn đời tín trung với tình yêu ban đầu, vì cho dầu "như người cha người mẹ có bỏ con cái, còn Ta cũng không bao giờ bỏ các ngươi". Tình thương đó Chúa muốn mời gọi chúng ta đón nhận với lòng tri ân và cũng biết trao lại tình yêu đó cho tha nhân. Vâng, có lẽ, điều Chúa muốn nơi chúng ta chính là hãy hoạ lại chân dung tình yêu của Chúa cho anh em. Vì con người là "hoạ ảnh của Chúa", nên con người phải biết sống yêu thương. Yêu thương sẽ làm chúng ta giống Chúa hơn. Yêu thương sẽ giúp chúng ta sống hoàn thiện con người mình hơn. Chính tình yêu phục vụ tha nhân sẽ là cách chúng ta đáp đền tình yêu mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta.
Người ta kể rằng: Ngày kia, tại một ngôi làng nhỏ ở Miền Nam Trung Quốc, một em bé gái tiều tụy, đói rách và mang bệnh phong hủi bị dân làng dùng gậy gộc và gạch đá xua đuổi ra khỏi nơi chôn nhau cắt rốn của em.
Giữa cảnh hỗn loạn ấy, một nhà truyền giáo xông ra ẵm em bé trên tay để bảo vệ em khỏi những trận đòn và những viên gạch đá ném bừa bãi vào tấm thân bé bỏng của em.
Thấy có người mang em bé đi, dân làng mới chịu rút lui, nhưng miệng vẫn còn gào thét: "Phong hủi! Phong hủi!"
Với những giọt nước mắt lăn tròn trên đôi má, lần này là những giọt nước mắt vui mừng chứ không phải là những giọt lệ sầu đau, em bé hỏi vị cứu tinh của mình:
- Tại sao ông lại lo lắng cho con?
Nhà truyền giáo đáp:
- Vì Ông Trời đã tạo dựng nên cả hai chúng ta. Và cũng vì thế em sẽ là em bé gái của ta và ta sẽ là người anh lớn của em bé.
Suy nghĩ hồi lâu, em bé cất tiếng hỏi:
- Con có thể làm gì để tỏ lòng biết ơn sự cứu giúp của ông?
Nhà truyền giáo mỉm cười đáp:
- Con hãy trao tặng cho những người khác tình yêu của con, càng nhiều càng tốt.
Kể từ ngày ấy cho đến ba năm sau, khi em bé gái tắt hơi thở cuối cùng, em đã vui vẻ băng bó các vết thương cho những bệnh nhân khác, ân cần đút cơm cho họ, nhất là em luôn tỏ ra dễ thương và yêu mến tất cả mọi người trong trại.
Lúc từ giã cõi đời, em bé chỉ mới tròn mười một tuổi. Các bệnh nhân đã từng chung sống với em kháo láo với nhau rằng:
- "Bầu trời nhỏ bé của chúng ta đã về trời!"
Vâng, con hãy trao tặng cho người khác tình yêu của con phải chăng cũng là sứ điệp mà lễ Chúa Ba Ngôi mời gọi chúng ta? Hãy sống cho tha nhân. Hãy trao tặng cho nhau một nụ cười cảm thông. Một cái bắt tay thân mật. Một nghĩa cử bác ái đầy tình người. Hãy sống cho anh em của mình một cách quảng đại. Hãy là chứng nhân cho tình yêu của Chúa giữa một thế giới mà con người đang xa dần nhau vì quyền lợi bản thân, vì bon chen và hưởng thụ. Hãy giới thiệu cho nhân thế một tình yêu tinh ròng không bị hoen ố bởi những toan tính ích kỷ, tầm thường. Hãy giới thiệu cho thế giới một tình yêu hy sinh đến quên cả chính mình cho người mình yêu được hạnh phúc.
Nguyện xin Chúa Ba Ngôi là suối nguồn tình yêu dẫn chúng ta đi sâu vào huyền nhiệm tình yêu của Chúa để chính chúng ta cũng biết thở ra hơi ấm tình thương cho anh em của mình. Amen.
14. Thiên Chúa Ba Ngôi: Mầu Nhiệm Tình Yêu
(Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
"Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín" (Xh 34,6)
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm nền tảng của Kitô giáo. Có thể nói rằng tất cả các văn kiện trình bày các chủ đề lớn của Đức tin đều khởi đầu bằng mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi và kết thúc cũng thường hướng đến việc tôn vinh Ba Ngôi Thiên Chúa. Những buổi kinh nguyện hay các buổi cử hành Phụng vụ không đi ra khỏi quỷ đạo này. Khởi đầu và kết thúc bằng Dấu Thánh Giá là một cách thức tuyên xưng mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Thế nhưng để trình bày mầu nhiệm nền tảng này cho đoàn tín hữu thì không mấy dễ dàng, nhất là với não trạng thiên duy lý của người hôm nay. Với người chưa có niềm tin hay người khác niềm tin thì vấn đề còn nan giải hơn nhiều.
Một sự thật của kiếp người: hữu hạn, đặc biệt trong lãnh vực siêu hình.
Làm sao để lý giải rằng chỉ có một Thiên Chúa duy nhất mà là Ba Ngôi Vị riêng biệt và khác biệt là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần? Thật là ngô nghê khi quá ỷ lại vào những hình ảnh cụ thể để so sánh và diễn tả thực tại siêu linh. Một ngón tay có ba lóng; ngọn lửa tỏa ánh sáng và sức nóng; một dòng sông với đôi bờ...tất thảy đều bất cập và có khi làm biến dạng thực tại. Khôn khéo hơn như Kinh sĩ Vih khi thấy chuyện khó thuyết phục bởi công thức cộng 1+1+1=1 thì chuyển sang công thức nhân 1x1x1 =1 cũng vẫn hoài công. Câu chuyện kể vè thánh Augustinô gặp cậu bé muốn tát cạn nước biển bằng cái vỏ sò năm xưa là một minh họa cho sự bất lực của trí khôn con người trong việc tìm hiểu lý lẽ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, nghĩa là tại sao một Chúa mà là Ba Ngôi; tại sao có Ba Ngôi mà chỉ là một Chúa.
Trước mầu nhiệm cao cả khôn dò là mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, thiết tưởng không gì hơn thái độ của Môsê qua bài đọc thứ nhất (Xh 34,4b-6.8-9) là phủ phục tôn thờ và dâng lời ngợi khen. Lời ngợi khen của Kitô hữu chúng ta lại ắp đầy tình cảm tạ vì Chúa Kitô Giêsu, Đấng làm người đã mạc khải cho chúng ta huyền nhiệm Chúa Ba Ngôi. Tin vào tình yêu vô bờ của Đấng đã hiến thân vì chúng ta, tin vào quyền năng của Đấng làm chủ vũ trụ thiên nhiên, làm chủ cả sự sống lẫn sự chết là Đức Giêsu Kitô, chúng ta đón nhận lời mạc khải của Người về Chúa Ba Ngôi. Dựa vào lời mạc khải, đặc biệt lời mạc khải của Chúa Giêsu, chúng ta có thể biết và diễn tả phần nào nội hàm mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi và dĩ nhiên là bằng khái niệm và ngôn ngữ phàm nhân.
Thiên Chúa Ba Ngôi là Tình Yêu năng động - hướng tha.
Thiên Chúa là Tình Yêu (1Ga 4,8). Tình yêu giả thiết phải có thực tại ở số nhiều đồng thời bao hàm số một là sự hiệp thông, hiệp nhất nên một. Tình yêu không đơn thuần là một trạng thái của tình cảm mà là một động thái liên lỉ hướng về một đối tượng nào đó. Chúa Cha thực sự là Chúa Cha trong tương quan với Chúa Con. Chúa Cha sinh ra Chúa Con và trao ban mọi sự cho Chúa Con (x. Ga 5,26). Chúa Con là mình khi không ngừng hướng về Chúa Cha để kín múc nguồn sống (x.Ga 4,34), để biết cách hành động (x.Ga 5,30; 10,37). Chúa Thánh Thần là Đấng phát xuất từ Chúa Cha và Chúa Con. Người luôn hướng về Chúa Cha và Chúa Con bằng việc làm vinh danh Hai Ngôi cực trọng ấy mãi đến muôn đời (x. Ga 15,26-27;16,12-15).
Tình Yêu năng động - hướng tha là sự sống Ba Ngôi Thiên Chúa đã tỏa lan cho các loài thọ tạo, cách riêng cho loài người là loài được dựng nên giống hình ảnh và họa ảnh của Thiên Chúa. Chính vì thế, các loài thọ tạo, đặc biệt loài người chỉ có thể tồn tại và phát triển khi biết sống và hoạt động theo nguyên lý năng động - hướng tha của Tình Yêu Ba Ngôi Thiên Chúa là nguồn mạch và là cứu cánh của mọi hiện hữu. Thánh Phaolô tông đồ nói với tín hữu Côrintô: "Anh em hãy vui mừng và gắng nên hoàn thiện. Hãy khuyến khích nhau, hãy đồng tâm nhất trí và ăn ở thuận hòa. Như vậy, Thiên Chúa là nguồn yêu thương và bình an, sẽ ở cùng anh em...Cầu chúc toàn thể anh em được đầy tràn ân sủng của Chúa Giêsu Kitô, đầy tình thương của Thiên Chúa, và ơn hiệp thông của Thánh Thần" (2Cor 13,11-13).
Thiên Chúa Ba Ngôi là Tình Yêu kiên vững và tín trung:
Con số ba là con số tượng trưng cho sự tròn đầy và bền vững. Đã ba mặt một lời là như hiển nhiên và không thể chối cãi hay đổi thay. Tuy nhiên niềm tin của chúng ta không hệ tại ở việc loại suy từ ý nghĩa các con số. Lời mạc khải mới là nền tảng của đức tin chúng ta. Giavê đã tỏ bày cho Môsê danh tính của Người: "Đức Chúa! Đức Chúa! Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín" (Xh 34,6). Tình yêu của Thiên Chúa vững bền như đá tảng. Dù cho có người mẹ nào có bỏ con mình đi nữa thì Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi loài người chúng ta. Dù ta phản bội, dù ta vong tình, thì Chúa mãi vẫn luôn thành tín.
Chính trên nền tảng kiên vững của tình yêu Thiên Chúa mà mọi sự mọi loài được tồn tại và phát triển. Thánh Phaolô khẳng định rằng Thiên Chúa bày tỏ sự công chính của Người bằng việc luôn tín trung với lời đã hứa (x. Rm 3,21-26). Thiên Chúa đã thực hiện lời hứa của Người bằng nhập thể, nhập thế của Ngôi Hai để thực thi công trình cứu độ và bằng việc trao ban Thánh Thần để hoàn thành các kỳ công của Người. Thiên Chúa bày tỏ tình yêu kiên vững và tín trung của Người cho chúng ta bằng việc sai Con Một của Người đến thế gian chịu chết vì chúng ta vốn là những tội nhân, đồng thời đổ tràn tình yêu của Người vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta (x. Rm 5,5-8).
Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là nguồn lực và là kim chỉ nam để ta tồn tại và phát triển cách hoàn hảo:
Tìm hiểu mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi như thế nào dưới ánh sáng lời mạc khải không phải là để thỏa mãn một đặc tính của trí khôn là sự hữu lý, nhưng trên hết là để ta biết nguồn gốc và căn tính của mình vốn là hình ảnh của Thiên Chúa. Biết được nguồn gốc của mình thì ta sẽ có thể biết cách thế hiện hữu, nghĩa là sống và hoạt động cách chính danh và chính hiệu. Kiên vững và tín trung trong tình yêu, một tình yêu năng động và hướng tha là động thái duy nhất hữu hiệu để con người tồn tại và phát triển cách hoàn hảo. "Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì: Đó là Đức Kitô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em... Đây là điều răn của Thiên Chúa: chúng ta phải tin vào danh Đức Giêsu Kitô, Con của Người và phải yêu thương nhau, theo điều răn của Người đã ban cho chúng ta. Ai tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, đó là nhờ Thần Khí, Thần Khí Người đã ban cho chúng ta" (1 Ga 3,16.23-24).
Hãy yêu đi rồi ta sẽ hiểu:
"Sự sống đời đời là chúng nhận biết Cha là Thiên Chúa duy nhất và Đức Giêsu Kitô mà Cha sai đến" (Ga 17,3). Làm sao để nhận biết sự thật này nếu không được Thánh Thần Ngôi Ba Thiên Chúa tác động. Vì không ai có thể tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa nếu không được Thánh Thần thúc đẩy. Chúng ta đã được nhận làm con trong Đức Giêsu. "Vì là con, nên Thiên Chúa sai Thánh Thần của Con Ngài ngự vào lòng chúng ta và kêu lên: Abba, Cha ơi!" (Gl 4,6). Thánh Thần chính là nguồn tình yêu. Vì thế chỉ những ai ở trong tình yêu mới có thể hiểu biết sự thật. Và khi hiểu biết sự thật thì chính sự thật sẽ giải thoát chúng ta và đưa chúng ta vào sự sống đời đời.
Làm sao ta có thể biết nghĩa phu thê là gì khi ta chưa sống hết tình với người phối ngẫu? Làm sao ta có thể biết được thế nào là quê hương khi ta chưa hết lòng hết tâm với vận mệnh quốc gia dân tộc? Làm sao ta có thể biết được con người trong cõi nhân sinh này khi ta chưa trãi rộng com tim với người đồng loại, với người anh chị em cận kề, nhất là với những người cô thế cô thân?...
Hãy yêu đi rồi bạn sẽ biết. Một cái lẽ biết theo nghĩa Thánh Kinh là không chỉ nhìn thấy thực tại, thấy vấn đề mà còn gắn bó thiết thân, chung lưng đấu cật, khi sầu buồn lẫn khi hoan lạc, lúc thuận lợi cũng như lúc gặp phải nghịch cảnh, gian truân.
Ngay trong cuộc sống này, có nhiều điều mà lý trí phải chào thua. Sự khôn ngoan đích thực không hệ tại ở trí óc, nhưng là ở trái tim. Có thể có trường hợp người ta đâm ra mù quáng vì yêu. Nhưng đó chỉ là thứ tình yêu vị kỷ, nghiêng chiều đam mê vụ lợi hoặc bất chính. Khi đã biết yêu với tình yêu trong sáng, quảng đại quên mình, với một tình yêu bắt nguồn từ tinh yêu Ba Ngôi Thiên Chúa thì không một ai là không ở trong ánh sáng. Và chính ánh sáng sẽ soi dẫn chúng ta đến cùng chân lý.
Là kitô hữu, không gì hơn là biết quy chiếu về Tình Yêu Thiên Chúa Ba Ngôi để rồi biết yêu thương nhau bằng:
1. Một tình yêu thúc đẩy ta không chỉ muốn mà còn biết chủ động, tích cực làm cho người mình yêu phát triển và nên hoàn thiện.
2. Một tình yêu thúc đẩy ta tìm mọi cách để cho người mình yêu nên đáng yêu và được nhiều người yêu mến.
3. Một tình yêu thúc đẩy ta nỗ lực hết mình làm cho người mình yêu có đủ khả năng và sự nhiệt tình để yêu mến kẻ khác.
15. Thiên Chúa Ba Ngôi
Hôm nay là lễ Chúa Ba Ngôi. Bài Phúc Âm hôm nay cũng nói cho chúng ta biết về hoạt động của Chúa Ba Ngôi. Qua đó, chúng ta biết gì về Chúa Ba Ngôi? Và chúng ta có thể diễn tả về Chúa Ba Ngôi như thế nào?
Trong cùng một đơn vị, một tổ chức hay một cơ chế của con người, thì chức vị cao cấp nhất như tổng thống, tổng thư ký, quốc vương, chủ tịch nước… chỉ dành cho một người duy nhất đương nhiệm mà thôi.
Còn xét trong toàn thể vũ trụ, toàn thể sự sống hữu hình và vô hình, thì Đấng có quyền trên hết, chỉ là một mà thôi. Chúng ta gọi Đấng ấy là Thiên Chúa. Người Do thái gọi Đấng ấy là Giavê. Người Hồi giáo gọi Đấng ấy là Alla. Người Trung quốc gọi Đấng ấy là Hoàng Thiên. Người bình dân Việt Nam gọi Đấng ấy là Ông trời. Và Đấng ấy được hiểu như là một “người”, một đấng, một cá thể, một ngôi vị đơn độc duy nhất.
Đó là cách hiểu của loài người. Bất kỳ người có trí khôn bình thường nào cũng có thể hiểu và chấp nhận được. Tuy nhiên, trí khôn con người chỉ có thể hiểu có bấy nhiêu về một ngôi vị Thiên Chúa mà thôi.
Thế nhưng, chính Thiên Chúa thì lại không muốn chúng ta chỉ biết có bấy nhiêu về Ngài. Ngài nói cho chúng ta biết, Ngài không phải là Thiên Chúa một ngôi vị đơn độc. Ngài vẫn là Một Thiên Chúa duy nhất, nhưng Thiên Chúa duy nhất ấy có tới Ba Ngôi Vị, hiệp nhất với nhau trong một bản tính và không thể tách rời nhau được.
Nếu chúng ta tiếp cận được với Ngôi Thứ Nhất, thì chúng ta cũng gặp được Ngôi Thứ Hai và Ngôi Thứ Ba. Nếu chúng ta tiếp cận được với Ngôi Thứ Hai, thì chúng ta cũng gặp được Ngôi Thứ Nhất và Ngôi Thứ Ba. Nếu chúng ta tiếp cận được Ngôi Thứ Ba, chì chúng ta cũng gặp được Ngôi Thứ Nhất và Ngôi Thứ Hai. Ba Ngôi tuy riêng biệt trong tương quan với nhau, nhưng chỉ là một trong bản tính.
Chúng ta gọi Ngôi Vị Thứ Nhất ấy là Chúa Cha, Ngôi Vị Thứ Hai là Chúa Con hay Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Vị Thứ Ba là Chúa Thánh Thần.
Chính Ngôi Thứ Hai Chúa Con đã nói cho chúng ta biết rằng Chúa Cha rất yêu thương chúng ta. Chúa Con nói cho chúng ta biết về tình thương của Chúa Cha dành cho chúng ta không phải bằng lý thuyết suông, nhưng Ngài đã diễn tả ra bằng hành động, bằng chính cuộc sống đầy yêu thương của Ngài, đến nỗi phải trả giá bằng máu, bằng chính mạng sống của Ngài. Ngài diễn tả tình thương của Chúa Cha bằng chính tình thương của Ngài một cách đầy đủ và sung mãn đến nỗi, nếu chúng ta biết được Ngài yêu thương chúng ta như thế nào, thì chúng ta cũng biết được Chúa Cha cũng yêu thương chúng ta như thế ấy.
Nhưng chỉ dựa vào trí khôn và sức lực của riêng mình thì chúng ta không có khả năng để biết được tình yêu mà Chúa Giêsu và Chúa Cha đã dành cho chúng ta. Chính Chúa Thánh Thần là Đấng đã làm cho chúng ta biết được. Cũng vậy, cái biết mà Chúa Thánh Thần đã giúp chúng ta biết về tình thương của Chúa Con và Chúa Cha không phải là một cái biết được diễn tả trong lời nói suông, nhưng là cái biết được diễn tả ra trong hành động, trong cuộc sống của mình. Đó là khi chúng ta sống theo Lời Chúa dạy, nghĩa là chúng ta sống đạo và hành đạo trong tinh thần và tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con.
Trong ngày lễ Chúa Ba Ngôi hôm nay, chúng ta nên nhớ rằng, Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi chính là Mầu nhiệm Tình Yêu.
Vì quá yêu thương chúng ta nên Chúa Cha mới sai Chúa Con đến nói cho chúng ta biết về Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi bằng chính cuộc sống đầy yêu thương của Chúa Con. Và chính Chúa Con đã ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta để Chúa Thánh Thần giúp chúng ta nhận biết Tình Yêu ấy.
Cái biết về Tình Yêu của Chúa Cha và Chúa Con mà Chúa Thánh Thần đã giúp chúng ta biết, không phải là cái biết suông trên phương diện lý thuyết mà là cái biết được diễn tả ra trong cuộc sống đầy yêu thương của chúng ta, đặc biệt là đối với những người đang sống cùng chúng ta.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết sống yêu thương người khác vì đó là cách diễn tả hay nhất về Mầu Nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, là Mầu Nhiệm cao cả nhất trong Đạo của chúng ta.
16. Lễ Chúa Ba Ngôi
Hôm nay Hội thánh Công Giáo mừng kính mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Đây là mầu nhiệm quan trọng của Kitô giáo. Một Thiên Chúa duy nhất nhưng có Ba Ngôi là Ngôi Cha, Ngôi Con và Thánh Thần. Ba ngôi một Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu. Nhờ đó mà ta hưởng được vô vàn ân sủng từ suối nguồn Tình yêu này.
Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm lớn trong đạo Công Giáo chúng ta. Mầu nhiệm này rất thiết thực trong đời sống của người Kitô hữu, thiết thực và gần gũi vì hầu như mỗi ngày chúng ta đều tuyên xưng mầu nhiệm ấy. Mỗi khi chúng ta dùng công thức làm dấu thánh giá, mỗi khi đọc kinh sáng danh, hay mỗi khi chúng ta sống yêu thương như Chúa muốn thì đó chính là lúc chúng ta tuyên xưng mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Nhưng có lẽ ít khi chúng ta để ý điều đó.
Đối với mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, chúng ta không thể tìm được một hình ảnh, một ngôn từ nào để diễn tả cách chính xác, rõ ràng và đầy đủ được. Tuy nhiên chúng ta có thể tạm dùng hình ảnh một dòng sông để diễn tả ảnh hưởng của mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Con sông mang dòng nước phù sa đến cho các cánh đồng của mình, cho các vườn cây được tươi tốt và sinh hoa thơm trái ngọt. Dòng sông cũng mang sự sống đến cho con người và mọi loài. Nếu không có nước để dùng thì cuộc sống sẽ ra sao? Thiên Chúa Cha chính là cội nguồn của dòng sông, Người đổ vào dòng sông nguồn nước phù sa mầu mỡ là tình yêu và ân sủng của Người. Chúa Giêsu chính là dòng sông chứa đựng nguồn nước tình yêu và ân sủng ấy. Và Chúa Thánh Thần là sức đẩy để nguồn nước tình yêu chảy đến các tâm hồn.
Như con cá sẽ không sống được nếu nó không có nước; cây cối sẽ không thể tươi tốt nếu không có nước. Cũng vậy, con người sẽ không thể sống được nếu tách ra khỏi dòng sông tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa Ba Ngôi. Càng xa rời tình yêu của Thiên Chúa bao nhiêu, con người càng cằn cỗi bấy nhiêu và rồi sẽ chết khô. Bởi đó, sống mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi chính là biết mở lòng mình ra để đón lấy nguồn nước tình yêu và ân sủng của Người, để ta có thể sống và được sống dồi dào. Đón nhận dòng nước là đón nhận Chúa Kitô và tin vào Người: "Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Mình, để những ai tin vào Người sẽ không phải chết, nhưng được sống muôn đời". Mà tin vào Chúa Kitô thì phải suy nghĩ, nói năng, hành động và cư xử giống như Người. Sống giống như Chúa Kitô là sống yêu thương. Yêu Chúa và yêu tha nhân.
Yêu Chúa và yêu tha nhân là ta đang sống mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi vậy. Thế nên, mừng lễ Chúa Ba Ngôi hôm nay, chúng ta không chỉ mong dùng lý trí hiểu rõ mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, nhưng chúng ta hãy đi đến một thái độ cụ thể bằng một con tim yêu thương Thiên Chúa và tha nhân hết mình, sống một thái độ yêu thương chân thành đối với hết mọi người trong bất cứ hoàn cảnh nào để tất cả mọi việc làm của chúng ta đều thể hiện tình yêu Chúa Kitô như Thánh Phaolô đã nói: "Dù ăn, dù uống, dù làm việc gì, anh em hãy làm mọi sự để tôn vinh Thiên Chúa". Chúng ta thể hiện tình yêu bằng những việc đó là mình đã sống cho tình Thiên Chúa Ba Ngôi nơi chính mình.
Mừng Lễ Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta được nhắc nhớ rằng, Thiên Chúa Cha, Con, Thánh Thần đã yêu thương chúng ta hết mình và chúng ta được mời gọi để đáp lại tình yêu thương ấy bằng một đời sống trổ sinh nhiều hoa trái tốt, xứng đáng con yêu quí của Thiên Chúa: "Chúng con hãy nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là Đấng trọn lành".
Lạy Chúa Ba Ngôi, xin đốt lên trong lòng chúng con ngọn lửa tình yêu Thiên Chúa, để chúng con dám sống yêu thương, dám thể hiện mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi yêu thương trong cuộc đời chúng con. Amen.
17. Thiên Chúa là nguồn yêu thương
(Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP.
Chúng ta có thể tuyên xưng với người Do thái giáo và Hồi giáo rằng: Chúng tôi tin một Thiên Chúa duy nhất, Đấng Tạo Hóa, Chủ Tể vũ trụ. Nhưng là người Kitô hữu, được Chúa Kitô soi sáng, chúng ta còn tin Thiên Chúa duy nhất có Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Đó là mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm nền tảng của đức tin chúng ta.
Không ai biết được Thiên Chúa nếu Ngài không mạc khải cho. Trong thời Cựu ước, loài người chỉ được biết có sự hiện hữu của một Thiên Chúa Giavê, Ngài là Đấng hằng hữu, nhưng còn Thiên Chúa Ba Ngôi thì chính Chúa Giêsu mạc khải cho trong thời Tân ước này. Theo mạc khải đó, chúng ta biết được có sự hiện hữu của Thiên Chúa Ba Ngôi là Cha và Con và Thánh Thần. Ngài là nguồn yêu thương và bình an, là gương mẫu tuyệt hảo của sự hiệp nhất. Chúng ta hân hạnh được làm con Chúa Ba Ngôi để dám gọi Ngài là Cha: “Cha ơi”. Đáp lại vinh dự đó, chúng ta phải yêu mến Ngài hết lòng và tuyên xưng danh Ngài cho đến tận cùng thế giới.
Giáo hội muốn dành riêng một ngày Chúa nhật trong năm Phụng vụ để đặc biệt tôn kính và tim hiểu mầu nhiệm lớn lao này. Chúng ta sẽ không bao giờ thấu hiểu được Chúa Ba Ngôi như thánh Augustinô đã làm, nhưng chúng ta biết Chúa Ba Ngôi là khuôn mẫu của sự yêu thương và hiệp nhất. Trong cuộc sống hằng ngày Chúa Ba Ngôi vẫn ngự trị và hành động trong chúng ta, do đó, chúng ta phải tôn kính Ngài, học đòi bắt chước Ngài mà sống yêu thương và phục vụ.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
1. Bài đọc 1: Xh 34, 4-6.8-9.
Qua đoạn sách Xuất hành hôm nay, chúng ta biết, Thiên Chúa là Đấng giầu lòng thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan dung. Chính Thiên Chúa đã giải thoát Israel khỏi ách nô lệ Ai cập, nhưng dân Chúa lại phản bội Ngài, đi thờ con bò vàng thay Chúa. Tuy thế, qua lời cầu xin của ông Maisen, Thiên Chúa đã tha thứ cho họ và vẫn trung thành thi hành giao ước đối với họ.
Ngay từ thời Cựu ước, Thiên Chúa đã mạc khải cho thấy Ngài là một vì Thiên Chúa của tình yêu. Trong thời Tân ước, việc mạc khải được sáng tỏ hơn với việc Thiên Chúa sai Con Một của Ngài đến cứu độ trần gian là Đức Giêsu Kitô.
2. Bài đọc 2: 2Cr 13,11-13.
Thánh Phaolô, dựa vào niềm tin: Thiên Chúa là nguồn tình yêu và bình an, đã mời gọi các tín hữu Côrintô hãy vui lên vì mọi người đã được cứu chuộc và được làm con Chúa để mọi người không còn sợ sệt mà dám gọi Thiên Chúa là Cha:”Cha ơi”.
Vì trong cộng đoàn Côrintô có sự lộn xộn bất hoà với nhau, nên thánh Phaolô đã viết thư cảnh cáo và khuyên bảo họ hãy sống đoàn kết thương yêu nhau; đồng thời cũng cầu chúc họ được tràn đầy ân sủng của Chúa Ba Ngôi.
3. Bài Tin mừng: Ga 3,16-18.
Bài Tin mừng hôm nay nhắc lại tư tưởng đã được đề cập trong bài Cựu ước ở trên: Thiên Chúa là tình yêu, là Đấng giầu lòng thương xót. Tình yêu Thiên Chúa được diễn tả cách cụ thể trong Tân ước: Thiên Chúa tỏ ra là Thiên Chúa yêu thương đã ban Người Con duy nhất cho trần gian, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Điều đó buộc mọi người phải tin vào Con Thiên Chúa, ai không tin thì sẽ bị lên án.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Ba Ngôi yêu thương và hiệp nhất.
1. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.
Đã là mầu nhiệm thì không thể hiểu thấu được, nhất là mầu nhiệâm Thiên Chúa Ba Ngôi, một mầu nhiệm lớn trong Đạo. Câu chuyện của thánh Augustinô sẽ soi sáng thêm cho chúng ta về vấn đề này: Sau một đời ăn chơi trụy lạc và chạy theo tà thuyết, Augustinô đãõ tìm về với Kitô giáo. Ngài được xem là điển hình của một sự khao khát và tìm kiếm không ngừng. Điều đó được thể hiện qua một giai thoại như sau:
Augustinô thuộc khuynh hướng của những người cho rằng với kiến thức và nỗ lực tìm kiếm, con người có thể múc cạn chân lý về Thiên Chúa. Một hôm, đi dọc theo bờ biển, đầu óc miên man nghĩ đến những bí ẩn về Thiên Chúa, tình cờ Ngài gặp một cậu bé đang ngồi chơi trên cát. Nó dùng một mảnh sò để đào một lỗ nhỏ trên cát, rồi dùng vỏ sò# ấy múc nước biển đổ vào.
Nhưng dã tràng xe cát Biển đông, nó cứ đổ nước vào cái lỗ mà vẫn không bao giờ đầy. Ngạc nhiên về cử chỉ của đứa bé, thánh nhân nấn ná gợi chuyện. Ngài hỏi nó đang làm gì, đứa bé trả lời không chút do dự:
- Thưa ông, cháu đang dùng vỏ sò này để tát cho cạn nước bể đại dương.
Thánh nhân lắc đầu bảo nó:
- Cháu không thể làm được chuyện đó đâu.
Đứa bé ngước lên và mỉm cười nói:
- Múc cạn nước đại dương để đổ đầy cái lỗ này còn dễ hơn múc cạn mầu nhiệm về Thiên Chúa.
Thánh Augustinô chợt hiểu được một chân lý: Thiên Chúa là một mầu nhiệm mà con người không thể nào thấu hiểu được.
(D.Wahrheit, Tìm về cõi phúc, tr 68).
* Thiên Chúa là một mầu nhiệm. Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm vĩ đại. Khi học giáo lý, ta đã học thuộc lòng về các mầu nhiệm, trong đó có 3 mầu nhiệm lớn nhất trong Đạo:
. Mầu nhiệm Ngôi Hai nhập thể.
. Mầâu nhiệm Ngôi Hai cứu chuộc.
. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.
* Ta không thể biết mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi mà hoàn toàn do Chúa Giêsu mạc khải cho trước khi Ngài về trời, khi Ngài phán:”Mọi quyền năng trên trời dưới đất đều được ban cho Thầy. Vậy anh em hãy đi giảng dạy cho muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,18-19)
* Đây quả là một mầu nhiệm thẳm sâu, chúng ta không thể nào diễn tả được mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, nhưng trong vũ trụ thiên nhiên chúng ta có thể lấy được nhiều hình ảnh cụ thể dùng lối loại suy để hiểu về Chúa Ba Ngôi: Khi thuyết giảng tại công viên Hyde Park, Frank Sheed đã dùng mưa rơi để cố gắng giúp người ta hiểu được sự vừa đơn nhất vừa đa dạng của Ba Ngôi. Ông thường nói:”Nước đang rơi đây thực là nuớc nhưng nó có thể hiện hữu dưới ba dạng: thể hơi, thể rắn và thể lỏng – nghĩa là dạng hơi nước, dạng băng và dạng nước mưa đang rơi đây”.
Dĩ nhiên tất cả mọi cách loại suy đều không thể nói lên tất cả thực tại, tuy nhiên chúng ta có thể thấy được chủ ý của Frank muốn nói là không phải có ba loại nước, mà chỉ có một loại nước nhưng nó hiện hữu trong ba dạng khác nhau. Chúng ta có thể nghĩ về Thiên Chúa một cách tương tự như thế.
Một phương pháp khác giúp ta hiểu được sự vừa đơn nhất vừa đa dạng của Ba Ngôi là ví dụ mà thánh Ignatiô Loyola thường dùng. Có lần trong lúc cầu nguyện, Ngài bỗng nhận ra Ba Ngôi dưới hình dạng ba nốt nhạc tạo nên một hợp âm duy nhất.
Và cuối cùng, chúng ta cũng thấy thánh Patrick thường dùng ba lá của loại xa trục thảo (3 lá ghép thành một) để diễn tả ý niệm Ba Ngôi.
Làm thế nào chúng ta có thể áp dụng tất cả những điều nói trên vào hành động cụ thể? Chúng ta có thể làm gì để Ba Ngôi sống động hơn trong cuộc sống riêng tư của chúng ta? Có phương pháp mà một số người cho là hữu ích đó là cầu nguyện mỗi tối trước khi đi ngủ. Họ dùng ba phút để hồi tâm về một ngày vừa chấm dứt...
(M. Link. Giảng lễ Chúa nhật, năm A, tr 179-180)
2. Bài học rút ra từ Chúa Ba Ngôi.
Nói về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi thì không bao giờ cùng. Các nhà thần học có nghiên cứu, có tìm hiểu đến đâu, có tranh luận đến khô bọt mép đi nữa thì cuối cùng cũng chỉ đi đến một kết luận chung: TÔI TIN”, vì đây là một mầu nhiệm cao cả trong Đạo mà! Ngay trong thế giới tâm linh của con người cũng còn có biết bao điều bí ẩn lớn lao mà không khám phá ra như người ta vẫn nói:
Dò sông dò biển dễ dò,
Nào ai lấy thước mà đo lòng người. (Ca dao)
Có ai dám tự phụ cho rằng mình hoàn toàn hiểu được chính mình không? Khi hai người khác phái được kết hợp với nhau trong hôn nhân, tình vợ chồng dù có thâm sâu đến đâu, cũng không bao giờ con người có thể hiểu được tường tận người phối ngẫu của mình. Mãi mãi cho đến bên kia cõi chết, mỗi người vẫn là một mầu nhiệm đối với nhau.
Nếu những bí ẩn của đời sống con người còn chưa hiểu hết được, làm sao ta có thể hiểu tường tận mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi? Ta chỉ có thể rút ra được vài bài học từ mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi để áp dụng vào cuộc sống của ta.
a) Bài học về yêu thương.
Thánh Gioan tông đồ đã khẳng định:”Thiên Chúa là Tình thương” (1Ga 4,8). Thánh Grêgôriô Cả nói:”Để giữ vững cương vị thì tình thương phải lan tràn sang người khác”. Nói khác đi, tình thương phải bắt nguồn nơi mình và phải kết thúc nơi người khác, chẳng vậy nó chỉ còn là ích kỷ chứ không còn là tình thương nữa.
Bài Tin mừng hôm nay bắt đầu bằng câu:”Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một cho thế gian, để những ai tin vào Con Một Người sẽ không phải chết mà còn được sống đời đời “(Ga 3,16). Yếu tính của tình thương là CHO ĐI và KẾT HỢP. Yêu tức là CHO tất cả. Thiên Chúa yêu thương loài người và đã cho loài người tất cả: trời đất, núi non, sông biển cùng với muôn vàn tạo vật. Thiên Chúa còn cho loài người sự sống – một thứ chỉ có Người mới cho được. Thiên Chúa cho loài người một linh hồn – một thứ làm cho loài người nên giống Thiên Chúa (Rm 8,17).
Thiên Chúa đã ban cho loài người tất cả rồi. Còn một điều cao qúi nhất mà Thiên Chúa cũng ban, đó là ban chính Con Một Người:”Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một Người cho thế gian”.
Chúng ta biết do đức tin: Thiên Chúa là Đấng duy nhất nghĩa là chỉ có một bản thể, trong bản thể ấy lại có Ba Ngôi – Ba Ngôi đúc lại thành một Thiên Chúa duy nhất. Thiên Chúa yêu thương thế gian... cho nên đã phó Con Một Người cho thế gian, nghĩa là đã ban trót mình cho thế gian. Không những ban Chúa Con là ngôi thứ Hai mà là ban chính mình, trong đó gồm cả bản tính Thiên Chúa ở trong Ba Ngôi, cho nên ban Con Một Người tức là đã ban tất cả Thiên Chúa – tất cả mình – và chính mình cho thế gian. Và như vậy là Thiên Chúa đã THƯƠNG thế gian, và đã giữ đúng nghĩa chữ THƯƠNG là cho TẤT CẢ.
(Lm Nguyễn duy Tôn, Lời Chúa, năm A, t II, tr 9)
Truyện: Tình yêu hiến thân.
Ngày 20.06.1980, chị Brown, một người mẹ trẻ vừa từ trần vì chứng bệnh ung thư khi mới 25 tuổi. Các bác sĩ đề nghị chữa trị bằng quang tuyến, nhưng vì chị muốn cho bào thai đang mang trong bụng không bị nhiễm chất phóng xạ, nên chị từ chối, thà chết còn hơn để cho bác sĩ chữa trị ung thư bằng quang tuyến.
Cuối cùng, chỉ 5 giờ trước khi chết, chị đã sinh được một cháu trai mạnh khỏe, kháu khỉnh. Bản tin của hãng AP nói rằng:”Vào mấy ngày cuối cùng của cuộc đời, chị Brown biết mình bị tử thần đánh bại, nhưng chị vẫn tin tưởng thế nào chị cũng thành công và sinh được một đứa con không bị nhiễm phóng xạ”.
Bác sĩ Ronald Lapin gọi cái chết của chị Brown là “Cái chết của tình mẫu tử, dám hy sinh mạng sống cho đứa con chưa một lần thấy mặt”.
b) Bài học về Hiệp nhất.
Theo Tân ước, chúng ta thấy có một trường hợp hy hữu mà Ba Ngôi Thiên Chúa cùng hiện diện và cùng hoạt động. Đó là khi Chúa Giêsu xin ông Gioan làm phép rửa cho mình: lúc Ngài ở dưới sông lên thì trời tự nhiên mở ra, và từ trên không trung có tiếng phán ra rằng:”Đây là Con Ta yêu dấu”. Cùng một trật đó, thấy hiện đến và đỗ trên đầu Chúa Con một chim bồ câu. Đó là lần thứ nhất từ khi có lịch sử loài người, Ba Ngôi hiện diện và hành động trong một lúc: Trước hết là Ngôi Con chịu phép rửa, rồi Ngôi Cha từ trời phán ra, và sau hết Ngôi Thánh Thần dưới hình chim bồ câu hiện đến.
Về niềm tin vào Chúa Ba Ngôi, Hội thánh đã tóm tắt lại trong kinh Tin kính của thánh Athanasiô đại khái như sau: Có một Đức Chúa Trời mà Người có Ba Ngôi: Ngôi nhất khác, Ngôi hai khác, Ngôi ba khác... Đức Chuá Cha là Đức Chúa Trời, Đức Chúa Con là Đức Chúa Trời, Đức Chúa Thánh Thần là Đức Chúa Trời, nhưng là một Đức Chúa Trời, chứ không phải là ba Đức Chúa Trời... Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng và có từ trước đời đời; Đức Chúa Con phép tắc vô cùng và có từ trước đời đời; Đức Chúa Thánh Thần phép tắc vô cùng và có từ trước đời đời... Không có Ngôi nào hơn, Ngôi nào kém, Ba Ngôi đều bằng nhau, như nhau về tất cả mọi phương diện... Đức Chúa Cha không bởi ai sinh ra, Đức Chúa Con bởi Đức Chúa Cha sinh ra. Đức Chúa Thánh Thần bởi Ngôi Cha và Ngôi Con mà ra.
Đó là tất cả những điều về Chúa Ba Ngôi do Chúa Giêsu dạy, các tông đồ trối lại và các thánh Giáo phụ để lại cho chúng ta.
Trong các câu mở đầu của kinh cầu, Hội thánh luôn xưng hô và ca tụng Ba Ngôi Thiên Chúa mà trong kinh cầu chữ (bằng chữ Hán của ông Cử Thiện ở Bùi chu) được giáo dân đọc trong các ngày giỗ, được dịch là:”Tam vị nhất thể Thiên Chúa giả”: Ba Ngôi cũng là một Đức Chúa Trời, thương xót chúng con. Câu dịch rất vắn gọn và đúng ý nghĩa: Ba Ngôi vị chỉ có một bản tính Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật.
Hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi cùng hoạt động trong Hội thánh và nơi từng người nói lên sự hiệp nhất bền chặt giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. Đây là một mô hình tuyệt vời về sự hiệp nhất mà Chúa ban cho ta để ta cũng phải củng cố sự hiệp nhất trong Hội thánh và trong cộng đoàn chúng ta. Sự hiệp nhất sẽ đem lại cho chúng ta rất nhiều lợi ích trong đời sống tự nhiên và siêu nhiên.
Truyện: Bài học từ loài ngỗng.
Vào mùa thu, khi bạn thấy bầy ngỗng bay về phương Nam để tránh đông theo hình chữ V, bạn có tự hỏi những lý lẽ khoa học nào có thể rút ra từ đó. Mỗi khi một con ngỗng vỗ đôi cánh của mình, nó tạo ra một lực đẩy cho con ngỗng bay ngay sau nó. Bằng cách bay theo hình chữ V, đàn ngỗng tiết kiệm được 71% sức lực so với khi chúng bay từng con một.
Mỗi khi một con ngỗng bay lạc khỏi hình chữ V của đàn, nó nhanh chóng cảm thấy sức trì kéo và những khó khăn của việc bay một mình. Nó sẽ nhanh chóng trở lại đàn để bay theo hình chữ V như cũ, và được hưởng những ưu thế của sức mạnh từ bầy.
Khi con ngỗng đầu đàn mỏi mệt, nó sẽ chuyển sang vị trí bên cạnh và một con ngỗng khác sẽ dẫn đầu.
Tiếng kêu của bầy ngỗng từ đàng sau sẽ động viên những con đi đầu giữ được tốc độ của chúng.
Cuối cùng, khi một con ngỗng bị bệnh hay bị thương và rơi xuống, hai con ngỗng khác sẽ rời khỏi bầy để cùng xuống với con ngỗng bị thương và bảo vệ nó. Chúng sẽ ở lại cho đến chừng nào con bị thương lại có thể bay hoặc là chết, và khi đó chúng sẽ nhập vào một đàn khác để tiếp tục bay về phương nam (Lấy từ internet theo Thùy Trang forward)
c) Một vài thực hành.
* Kinh Sáng danh: Khi đọc kinh Nhật tụng, mỗi khi đọc kinh Sáng Danh, ta hãy tỏ lòng cung kính, cúi đầu, để ca tụng và tôn vinh Chúa Ba Ngôi trong đời sống ta. Mỗi chục kinh Mân côi, chúng ta cũng đọc một kinh Sáng danh và còn nhiều dịp khác chúng ta có thể đọc được kinh đó.
* Dấu Thánh giá: một trong những kinh nguyện mà người công giáo chúng ta học, là dấu Thánh giá, thật đơn sơ và tốt đẹp. Chúng ta đưa bàn tay phải lên trán, lên ngực, vai trái và vai phải khi chúng ta cầu nguyện:”Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần”. Hành động thánh đó nhắc nhở chúng ta rằng: có Chúa Ba Ngôi trong một Thiên Chúa, và Ngôi Hai đã chết trên thập gíá vì tất cả chúng ta.
Lạy Cha là Thiên Chúa của con, bây giờ con mới hiểu sâu sắc câu nĩi của Đức Giêsu: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho họ". Thì ra sự cơng bằng vơ biên của Cha khơng cho phép Cha làm một cái gì đơn giản hơn để cứu chuộc nhân loại. Và bây giờ con mới hiểu được tình Cha yêu thương nhân loại, trong đĩ cĩ con, như thế nào! Xin cho con biết sống xứng đáng với tình yêu ấy! Cho con biết đáp lại tình yêu vơ biên ấy bằng trọn tình yêu của con. Đồng thời cũng cho chúng con được biết thể hiện tình yêu ấy trong cuộc sống hằng ngày bằng cách yêu thương, phục vụ mọi người và hiệp nhất với nhau để xây dựng Hội thánh.
Truyện: Tình yêu của Thiên Chúa
Một bà kia không biết đến sự yêu thương của đồng lọai. Bà là một người không tôn giáo, nghèo khổ bị bỏ quên, bị ngược đãi, bị đối xử bất công lâu ngày đến nỗi bà thù ghét tất cả mọi người mà mọi người dường như nghịch cùng bà. Một lần kia, cha sở đến gặp bà để nói về tình yêu thương của Thiên Chúa, song bà chẳng hiểu tình yêu là gì cả. Bà bảo: - Tôi không hiểu ông nói gì. Chưa hề có ai yêu thương tôi và đối với tôi, tôi cũng không hiểu yêu thương là gì cả.
Cha sở về lại nhà xứ mà lòng vẫn canh cánh ray rứt về câu chuyện với người phụ nữ nọ. Ngài cầu nguyện liền mấy ngày rồi chợt nảy ra một ý, ngài cho mời nhóm bạn trẻ Tông đồ trong xứ lại và kể cho các bạn ấy nghe đầu đuôi sự thể. Rồi ngài đề nghị mọi người hãy giúp cho bà ấy biết được tình yêu của Chúa bằng cách mỗi người trong nhóm sẽ lần lượt từng người đến thăm bà, chân thành tỏ cho bà biết trên đời này vẫn có người yêu thương, thăm viếng, an ủi và giúp đỡ bà.
Mấy tháng trôi qua, một ngày kia, khi cha sở lại thăm bà, bà xúc động đến rướm nước mắt: - Thưa cha, bây giờ thì tôi đã hiểu, đã biết yêu thương là gì rồi, và bây giờ tôi đã có thể xin cha cho tôi được đón nhận tình yêu của Thiên Chúa.
18. Tình Yêu Ba Ngôi
Tôi nhớ lại cách đây không lâu, khi học học về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, tôi và những người bạn cùng lớp ai cũng ngao ngán khi nghe nói đến từ “Mầu nhiệm”, vì với sức con người không thể hiểu tận tường mà phải nhờ đến mạc khải. Vì thế, đã thật sự là mầu nhiệm thì trí khôn loài người hiểu sao được. Nhưng chính Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta mầu nhiệm này, để chúng ta hiểu một phần nào tình thương vô bờ bến của Chúa Ba Ngôi đối với con người:
1. Thiên Chúa là Đấng tạo dựng.
Hàng ngày chúng ta vẫn tuyên xưng đức tin: “Tôi tin kính Đức Chúa Trời là Cha phép tắc vô cùng dựng nên trời đất”, không những thế Ngài còn gìn giữ, cai trị. Đặc biệt là con người, Ngài đã ban cho ơn làm con Chúa, được nâng lên đời sống siêu nhiên, được tự do. Nhưng con người vì lạm dụng tự do đã phản bội, nhưng Ngài không ghét bỏ mà lại yêu thương “đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Khi Chúa Cứu Thế đến, đem sự sáng, đem ân sủng đến cho loài người, nhắc nhủ họ nhớ đến tình thương của Chúa là Cha, thì loài người lại không chịu nhận biết và nghe lời Người; Một hành động cố chấp được xem như Chúa Thánh Thần sẽ phải lãnh hậu quả do chính mình chọn lấy là “bị lên án”. Trong cuốc sống với nhiều lo toan dễ làm cho chúng ta quên hẳn Thiên Chúa là Cha, là Đấng dựng nên và ban cho chúng ta sự sống, là Đấng lúc nào chúng ta cũng có thể trông cậy.
2. Chúa là Đấng Cứu Chuộc.
Vì tình yêu mà Thiên Chúa là Cha đã “sai Con Ngài đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Người, mà được cứu độ”. Chúng ta không thể nào hiểu được tình thương vô cùng của Ngôi Hai, Ngài đã mặc lấy thân thể loài người, như con người và đã chấp nhận chịu cho con người được sống. Nhưng khốn thay, con người được Chúa ban cho tự do lại dùng chính tự do này để từ chối Chúa. Dĩ nhiên sự cứu rỗi của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô không phải như một món quà vật chất nuôi sống con người trong lúc khốn cùng, hay một cái gì vượt thời gian, nhưng là một công trình tình yêu của Ba Ngôi, một lời mời gọi, một sự cứu vớt mà chúng ta sẽ được sống qua niềm tin vào Đức Kitô. Vì “Ai tin vào Con Một của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”.
3. Chúa là Đấng Thánh Hoá.
Có một điều cần lưu ý là đoạn Tin Mừng hôm nay được phụng vụ chọn vào lễ Chúa Ba Ngôi, lại không trực tiếp nói đến Chúa Thánh Thần, nhưng nhờ những chỗ khác, ta biết rằng Thiên Chúa Cha và Chúa Giêsu cứu rỗi trần gian bằng cách ban Thánh Thần cho trần gian. Hơn nữa, đoạn Tin Mừng này nối tiếp câu chuyện đối thoại giữa Đức Giêsu và Nicôđêmô về ơn tái sinh, mà ơn tái sinh này lại do Chúa Thánh Thần "không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí. Cái bởi xác thịt sinh ra là xác thịt; cái bởi Thần Khí sinh ra là thần khí”.(Ga 3,5-6). Vì thế, qua ý nghĩa của đoạn Tin Mừng này, chúng ta nhận ra rằng Thiên Chúa sai con một Người đến thế gian để cứu rỗi thế gian bằng cách thông ban Thánh Thần. Ngài là ngôi Ba đã thánh hoá, soi sáng mở đường cho chúng ta biết đường ngay nẻo chính, biết làm điều lành tránh điều dữ. Tuy nhiên trong con người chúng ta vẫn luôn có hai khuynh hướng lối kéo. Một là Thánh Thần, hai là tà thần. Nhưng thân xác yếu hèn của ta lại dễ bị sự quyến rũ cám dỗ của tà thần. Vì vậy, chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần soi sáng, để ta biết chọn Ngài và đi theo sự hướng dẫn của Ngài.
Lạy Chúa Ba Ngôi, xin biến đổi chúng con để chúng con ngày một sống xứng đáng hơn với tình yêu mà Thiên Chúa Ba Ngôi đã dành cho chúng con. Amen.
19. Chịu trách nhiệm về sự hiện diện của Đức Kitô
(‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – của Achille Degeest)
Đức tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi đi qua đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Mọi giáo huấn về Thiên Chúa chất chứa nơi con người của Chúa. Do đó sự liên kết đức tin vào Chúa Con đã chứa đựng hành vi tin vào Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Bởi thế Phúc Âm có thể nói: “Mọi người tin vào Ngài không phải chết, nhưng có được sự sống đời đời”. Việc Giáo Hội chọn một đoạn có chủ ý nhấn mạnh tầm quan trọng của đức tin vào Chúa Giêsu Kitô trong ngày lễ Chúa Ba Ngôi, chứng tỏ rằng khởi điểm, tiến trình và đích điểm của tác động tin toàn diện chứa đựng trong việc liên kết toàn diện với Đức Kitô. Ai đến cùng Đức Kitô là đến cùng Chúa Cha, nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần. Nhưng đây là một câu hỏi khác mà Phúc Âm mang lại câu trả lời: Thiên Chúa cứu độ thế gian bằng cách nào? Bằng cách sai Con Người đến. Thế ngày nay Đức Kitô đến trong thế gian bằng đường lối ưu tiên nào? Qua Giáo Hội. Do đó Giáo Hội có sứ mạng làm cho Đức Kitô hiện diện với thế gian. Giáo Hội phải thông truyền một sự hiện diện chứ không phải chỉ giảng dạy những lời nói, một giáo thuyết, một huấn giới. Thiên Chúa Ba Ngôi đã tự hạ xuống ngang tầm con người nơi ngôi vị Đức Giêsu Kitô, được tỏ lộ bởi và trong Giáo Hội. Người đặt lòng tin tưởng nơi Đức Giêsu cho đến mức chia xẻ định mệnh chết và sống lại với Ngài, được tham dự vào mầu nhiệm linh động của Thiên Chúa. Điều này giải thích tại sao lời giảng của các tông đồ lúc khai nguyên Giáo Hội không phải là một sách giáo lý về Ba Ngôi chí thánh nhưng là lời loan báo Đức Giêsu Kitô. Qua giòng lịch sử của mình, nhất là qua các Công Đồng, Giáo Hội cố gắng diễn tả gẫy gọn một sự suy tư về mầu nhiệm Tam Vị. Nhưng công trình chính yếu của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội (và trong mỗi người chúng ta) là làm sao cho Giáo Hội tin và tiếp tục tin vào Chúa Giêsu Kitô. Hai câu hỏi:
1) Đâu là trung tâm đức tin của chúng ta?
Chúng ta có thể tự đặt câu hỏi ấy đối diện với một số người đương thời đang dấn thân vào những hy vọng nhân loại dựa trên những ý thức hệ. Phúc Âm có phải là một ý thức hệ như bao nhiêu cái khác và các Kitô hữu có phải là những người ủng hộ một phong trào nhằm tạo một nhân loại hạnh phúc hơn về mặt trần thế? Không có gì xa lạ với đức tin chân thật hơn điều đó. Trung tâm đức tin là con người Đức Giêsu Kitô. Ước vọng một thế giới tốt đẹp hơn nơi người Kitô hữu được gọi là lòng khao khát ơn cứu độ, khao khát được giải thoát khỏi sự dữ và sự chết, về mặt vật chất và tinh thần. Việc này chỉ có thể thực hiện được bằng sự liên kết hồn xác với Chúa Con, nhờ Ngài mà thế gian được cứu. Đức tin của chúng ta chỉ hữu hiệu cho việc cứu độ thế gian trong mức chúng ta thông hiệp với Chúa Giêsu, trung tâm đức tin của chúng ta.
2) Sứ điệp của chúng ta là gì?
Người ta chỉ truyền bá có giá trị những gì người ta sống. Để Chúa Giêsu trở thành nguyên cực ơn cứu độ, nghĩa là gặp gỡ Thiên Chúa trong tự do, chân lý, cuộc sống hằng cửu. Giáo Hội cần phải tỏ bày Ngài ra cho mọi người. Giáo Hội là chính mỗi người chúng ta. Mọi tín hữu đều mang trách nhiệm phần mình làm cho Đức Kitô hiện diện với người ta, bằng lời cầu nguyện hay bằng hành động, bằng việc dâng hiến một đau khổ hay bằng ảnh hưởng của hoạt động, bằng sự hy sinh thầm kín hay bằng việc loan báo lời Chúa. Mỗi tín hữu có sứ mạng làm sao cho Giáo Hội thông đạt tới thế giới sứ điệp ơn cứu độ nơi Chúa Giêsu Kitô.
20. Con búp bê và biển cả
(‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Trong quyển sách tựa đề: “Sức thu hút của Thiên Chúa”, tác giả người Italia, ông A-léc-xan-drô Phong-xa-tô đã kể lại câu chuyện vui sau đây về con búp bê bằng muối:
Muốn tìm hiểu thế nào là biển cả để thỏa mãn tính tò mò của mình, con búp bê một mình tiến ra bờ biển và hỏi:
- “Biển cả ơi, bản chất của biển cả là như thế nào?”
Và biển cả đã trả lời:
- “Biển cả là biển cả. Nếu ngươi muốn biết ta là như thế nào thì hãy xuống đây, hãy để cho toàn thân ngươi thấm nhập vào biển cả”.
Con búp bê bằng muối do dự. Nhưng rồi vì tính tò mò thúc đẩy, nó tiến gần ra mặt nước rồi đưa hai chân thấm vào nước biển. Trong nháy mắt sóng biển đánh mạnh vào đôi chân bằng muối của nó làm cho đôi chân tan thành nước biển. Con búp bê kinh hãi lùi lại, nhưng đôi chân đã mất. Tiếng biển cả dịu dàng mời gọi:
- “Này con búp bê nhỏ kia ơi, biển cả là biển cả. Ngươi muốn biết biển cả như thế nào thì đừng sợ. Hãy tiến vào đây với ta. Ta sẽ bảo vệ ngươi. Ngươi sẽ được hòa nhịp với ta và hiểu ta như thế nào. Hãy can đảm lên! Nếu bỏ cuộc nửa chừng thì không bao giờ ngươi sẽ hiểu biển cả như thế nào đâu, và phải sống những năm tháng còn lại với đôi chân đã mất”.
Tính tò mò thúc đẩy, con búp bê ngâm mình xuống biển. Chỉ một lát sau con búp bê bằng muối đã hòa tan trong nước biển và hiểu được thế nào là biển cả.
Anh chị em thân mến, giữa con búp bê bằng muối và biển cả có một căn bản giống nhau. Cũng thế, giữa con người và Thiên Chúa cũng có một sự giống nhau. Con người đã được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh của Ngài. Tâm hồn con người hướng về Thiên Chúa, muốn hiểu biết Thiên Chúa, muốn được kết hợp với Ngài ngày càng khăng khít hơn, giống như con búp bê bằng muối kia muốn hiểu biển cả là thế nào.
Như con búp bê được biển cả mời gọi dìm mình vào trong lòng biển cho mình hòa tan trong biển để hiểu được biển cả, thì mỗi người chúng ta cũng được mời gọi dìm mình vào trong Thiên Chúa. Cần để cho cái tôi của mình được hòa tan đi, biến mất đi trong Thiên Chúa để có thể hiểu biết Thiên Chúa, sống kết hợp với Ngài. Bởi vì Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm. Lý trí loài người khó mà hiểu biết cho tường tận được. Chúng ta không hiểu biết Thiên Chúa bằng lý trí cho bằng tình yêu. Thật vậy, chỉ khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa thì chúng ta mới hiểu và biết Chúa. Chỉ có sự hiểu biết như vậy mới làm cho ta thỏa lòng thỏa trí. Vì Thiên Chúa là Tình Yêu. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm hiệp thông và tình yêu.
Thiên Chúa là Tình Yêu, nghĩa là Ngài không đơn độc một mình. Nếu như Ngài đơn độc một mình thì Ngài sẽ yêu một mình Ngài một cách ích kỷ vô cùng. Nhưng Ngài là 3: Cha, Con và Thánh Thần. Là ba, nhưng cả ba hoàn toàn yêu thương hiến tặng sự sống, hoàn toàn tương quan với nhau, hiệp nhất với nhau: Cha hoàn toàn là của Con, Con hoàn toàn là của Cha và mối tương quan tình yêu và sự sống này giữa Cha và Con là Chúa Thánh Thần.
Tình yêu Thiên Chúa không khép kín lại nơi cộng đồng Ba Ngôi mà còn lan tỏa ra bên ngoài, trên khắp vũ trụ: Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban cho thế gian quà tặng quý giá nhất của người Con Chí Ái của Ngài, nghĩa là chính sự sống của Ngài. Rồi đến lượt Người Con ấy cũng trao ban Thánh Thần, nghĩa là chính sự sống của Ngài cho thế gian. Chính nơi Người Con ấy, nơi bản thân, cuộc sống, cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu mà chúng ta nhận ra được Thiên Chúa là tình yêu và thế nào là sống như con người được tạo dựng giống hình ảnh của Thiên Chúa: “Ai không yêu thương anh em là không biết Thiên Chúa” (1Ga 4,8). Còn ai đã biết Thiên Chúa thì phải yêu thương anh em như Ngài đã yêu thương, vì Thiên Chúa là Tình Yêu.
Thưa anh chị em, với mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, Thiên Chúa muốn vạch ra cho chúng ta con đường của yêu thương và hiệp nhất. Chúng ta chỉ có thể yêu thương và hiệp nhất với nhau khi mỗi người thực sự phải là mình, và chấp nhận đồng hành gắn bó với tha nhân, coi tha nhân là thành phần của chính hiện hữu của mình, đồng thời ý thức rằng mình chỉ có thể sống nhờ tha nhân, sống với tha nhân và sống cho tha nhân; bởi vì tự chính trong nguyên lý, sự sống không phải là một thực tại đơn độc, khép kín, mà là chia sẻ, hiệp thông: sự sống thần linh của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Cái độc đáo mà mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi muốn nói lên đó là Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của sự khác biệt. Ngài yêu thích sự khác biệt. Ngài tạo ra sự khác biệt và Ngài bao hàm chính sự khác biệt đó trong bản tính của Ngài. Nhưng Ngài cũng là Thiên Chúa của sự hiệp nhất. Ngài hiệp nhất những gì khác biệt. Phải có cái khác biệt thì mới có thể nói tới hiệp nhất. Phải có Ba Ngôi mới có thể hiệp nhất thành một Thiên Chúa. chỉ khi nào chúng ta chấp nhận và tôn trọng cái khác biệt: khác biệt về hiện hữu, về chủng tộc, văn hóa, tôn giáo, địa vị, phái tính, tuổi tác v.v… và sống với những khác biệt đó, hiệp nhất những cái khác biệt đó. Chỉ khi đó, chúng ta mới đi đúng con đường mà ánh sáng của mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi soi dẫn chúng ta. Sự hiệp nhất ấy không làm cho chúng ta phong phú hơn và sống đúng bản chất là cộng đoàn của Thiên Chúa yêu thương, là hình ảnh của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Anh chị em thân mến, trong Thánh lễ hôm nay, cũng như trong các Thánh lễ, chúng ta dâng lên Chúa Cha của lễ cuộc đời chúng ta, nhờ Đức Kitô, cùng với Đức Kitô và trong Đức Kitô, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, để chúc tụng vinh quang Thiên Chúa Ba Ngôi muôn đời.
21. Nguồn tình yêu
Từ tấm bé, chúng ta đã được cha mẹ dạy làm Dấu Thánh Giá: “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Lớn lên, chúng ta lại được học những bài giáo lý về Chúa Ba Ngôi. Tuy nhiên, bài học về Chúa Ba Ngôi thật là khô khan và khó hiểu, chỉ có thể dùng một vài hình ảnh tương tự để cắt nghĩa cho dễ hiểu như: một tam giác đều có ba cạnh bằng nhau, ba dạng của nước là rắn - lỏng - khí, bật quẹt thì cùng lúc phát sinh ra ngọn lửa - ánh sáng và sức nóng...
Mầu nhiệm về Chúa Ba Ngôi thật cao cả, lý trí loài người khó mà hiểu cho tường tận được. Lời Chúa hôm nay cho chúng ta một hình ảnh sống động về Chúa Ba Ngôi mà không cần lý luận, không cần hình ảnh so sánh: “Thiên Chúa yêu thương thế gian” (Gn 3,16). Như thế, tìm hiểu Chúa Ba Ngôi là như thế nào không hệ trọng cho bằng nhận biết Chúa Ba Ngôi là gì, và Lời Chúa đã cho ta lời giải đáp: “Thiên Chúa là tình yêu” (1Gn 4,16).
Vì yêu, Thiên Chúa đã bỏ qua mọi lỗi lầm của dân Do thái. Khi Môsê lên núi nhận Bia Giao ước, dân Do thái dưới chân núi đã tạc tượng bò vàng mà thờ lạy. Đây là một sự xúc phạm nặng nề đến Thiên Chúa vô hình. Ngài đã chỉ cho Môsê thấy, rồi nói sẽ tiêu diệt dân và đặt Môsê làm tổ phụ một dân tộc khác biết vâng lời hơn. Nhưng Môsê đã sấp mình van xin cho dân. Thiên Chúa ghét tội nhưng luôn thương kẻ có tội. Ngài sẵn lòng bỏ qua tất cả, tha thứ tất cả nếu con người biết quay trở lại đường ngay nẻo chính (Bài đọc 1).
Vì yêu, Thiên Chúa đã gìn giữ ba thanh niên Do thái trước hiểm nguy. Thời dân Do thái bị ách thống trị của vua Nabucôđônôzor, vua sai chọn lọc trong dân Do thái bị lưu đày một số đứa trẻ để đem vào triều dạy dỗ. Trong số những thanh niên được dạy dỗ từ bé đó, có ba thanh niên, nhờ bạn là Đaniel giúp đỡ, được cất nhắc. Bọn gian tà Canđê thấy ba chàng được cất nhắc thì ghen tức nên tìm cách hãm hại. Họ tố cái ba chàng đã chống lệnh vua không chịu lạy tượng thần. Vì thế, vua cho bỏ ba chàng vào lò lửa, nhưng Thiên Chúa đã gìn giữ ba thanh niên vững tin nầy. Do đó, ba chàng đã cất lời ca tụng tình yêu Chúa mà chúng ta nghe ở bài đáp ca.
Vì yêu, Thiên Chúa đã “ban Con Một để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời” (Gn 3,16). Thiên Chúa đã bày tỏ tình yêu tột cùng của Ngài, bằng cách trao ban cho con người món quà vô giá là Con Một của Ngài. Tình yêu Thiên Chúa, qua Ngôi Con nhập thể, dưới tác động của Thánh Thần, đã phát sinh nguồn ơn cứu độ cho những ai đặt niềm tin vào công trình sáng tạo mới nầy.
Như thế, các bài đọc hôm nay cùng đưa ra một thông điệp: Thiên Chúa là Chúa của tình yêu. Đó cũng là điều trên hết và trước hết mỗi người cần nhận ra khi nghĩ về Chúa Ba Ngôi: Chúng ta nghĩ đến Thiên Chúa như một người Cha hằng yêu thương ta bằng tình yêu tín trung, nồng cháy. Chúng ta nghĩ đến Chúa Giêsu như một người Anh đã hiến tặng cho chúng ta chính cuộc đời của Người. Và chúng ta nghĩ đến Chúa Thánh Thần như một người Bạn đồng hành, để trợ giúp chúng ta sống theo gương Đức Giêsu và liên kết chúng ta với nhau trong cùng một lòng tin, một tình yêu.
Mỗi người, qua Bí tích Rửa tội, đã được dẫn đưa vào sống trong tình yêu của Chúa Ba Ngôi. Thiên Chúa yêu thương ta, không phải vì ta tốt lành, nhưng vì Thiên Chúa là Đấng nhân hậu và từ bi. Chính sự hiện hữu của chúng ta đã là dấu hiệu rõ nét về tình yêu Chúa. Do đó, sự đáp trả của chúng ta chỉ có thể là tin tưởng vào tình yêu Chúa và sống yêu thương nhau mà thôi. Mỗi ngày sống, chúng ta cần ý thức tuyên xưng Chúa Ba Ngôi bằng chính hành động đậm nét yêu thương của mình. Điều mà Thánh Phaolô khuyên nhủ các tín hữu thành Côrintô cũng là lời khuyên cho chúng ta: “Anh em hãy vui mừng và gắng nên hoàn thiện. Hãy khuyến khích nhau, hãy đồng tâm nhất trí và ăn ở thuận hoà. Như vậy, Thiên Chúa là nguồn yêu thương và bình an, sẽ ở cùng anh em” (2Cr 13,11).
22. Một Thiên Chúa của tình yêu
Ngày nọ, có hai người đàn ông trí thức đi dạo trên bãi biển. Họ vừa đi vừa thảo luận với nhau về mầu nhiệm Thiên Chúa. Tuy nhiên, cuộc thảo luận của họ vẫn không có gì tiến triển. Thình lình, họ thấy một trẻ nhỏ đang chơi trên bờ biển. Nó đào một cái lỗ trên cát và chạy xuống biển lấy cái thùng đồ chơi trẻ em, lấy nước biển, chạy lên đổ vào cái lỗ nó đã đào.
Hai nhà trí thức thấy nó chạy lên chạy xuống nhiều lần lấy nước biển và đổ vào cái lỗ. Họ thấy cảnh buồn cười. Bèn đến gần thằng bé để hỏi xem nó tại sao nó lại làm chuyện ngốc nghếch như vậy. Họ hoàn toàn ngạc nhiên khi nghe nó nói, nó muốn tát cạn đại dương với cái lỗ nó đào trên cát.
Hai người đàn ông trí thức mỉm cười, bỏ đi và tiếp tục thảo luận về mầu nhiệm Thiên Chúa. Sau một lúc, một trong hai người dừng lại và nói với người kia: "anh có biết không, việc làm của chúng ta thật đáng buồn cười như chuyện thằngbé nói, nó muốn tát cạn đại dương vào một cái lỗ trên cát vậy đó". Chuyện chúng ta đang thảo luận về Thiên Chúa cũng giống như thế. Chúng ta thật không thể hiểu hết được mầu nhiệm của Thiên Chúa cũng như đứa bé không thể dồn hết nước của đại dương vào một cái lỗ. Trí khôn của chúng ta quá nhỏ như cái lổ trên cát, còn Thiên Chúa như là đại dương mêng mông, làm sao có thể đặt vào được.
Câu chuyện trên muốn nói với chúng ta rằng: Thật khó có thể hiểu hết về Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa là mầu nhiệm. Nhưng mầu nhiệm ấy không phải là cái gì không thể hoàn toàn không thể hiểu được gì hết. Mầu nhiệm Thiên Chúa là một cái gì đó chứa đầy ý nghĩa, cho dù cố gắng đến đâu, con người cũng không thể hiểu thấu đến ngọn nguồn. Tuy nhiên, câu chuyện trên không nhằm bào chữa cho sự lười biếng hoặc cho sự nông cạn của chúng ta không cố gắng để hiểu một chút gì đó về mầu nhiệm Thiên Chúa.
Cũng như chúng ta hoàn toàn có thể biết được sự hiện hữu của Thiên Chúa bằng lý trí của mình. Ở khía cạnh này hay khía cạnh khác, một người có thể biết được mọi vật không phải tự nó mà có, vì chỉ có một mình Chúa mới là Đấng tự hữu.
Nhưng chúng ta sẽ biết rất ít về Thiên Chúa nếu như chúng ta không được Ngài mạc khải. Đặc biệt qua Thánh Kinh, chúng ta có thể biết về Thiên Chúa cách rõ ràng nhất. Và cũng từ Thánh Kinh, chúng ta biết được Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần.
Và cũng nhờ Thánh Kinh, chúng ta học biết được Thiên Chúa là Đấng như thế nào. Như qua bài đọc I, chúng ta biết được Thiên Chúa là Đấng quảng đại, hay thương xót, chậm giận và giàu lòng tình thương và trung tín. Còn Tin Mừng thì nói cho chúng ta biết: "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian, đền nỗi đã ban Con Một Ngài cho thế gian để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ".
Tất cả các bài Thánh Kinh hôm nay đều có chung một sứ điệp: "Thiên Chúa là Thiên Chúa của tình yêu". Đây là một trong những điều quan trọng nhất mà chúng ta có thể biết được về Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương chúng ta không phải vì chúng ta tốt lành nhưng vì Ngài tốt lành. Sự hiên diện của chúng ta trong cuộc đời này là một dấu chỉ về tình yêu của Thiên Chúa. Và điều mà chúng ta gọi làTin Mừng chính là tình yêu không điều kiện mà Chúa đã dành cho chúng ta.
Và điều chúng ta có thể đáp trả với Ngài chính là biết đặt niềm tin vào Ngài và yêu thương anh em. Do đó, những gì mà thánh Phaolô đã nhắn nhủ với Tín hữu thành Côrintô cũng vẫn còn ý nghĩa đối với chúng ta hôm nay: "Hãy giúp đỡ nhau, hiệp nhất với nhau, hãy sống trong bình an. Vì như thế, tình yêu và sự bình an của Thiên Chúa sẽ luôn ở cùng bạn".
23. Huyền nhiệm tình yêu
Người ta thường hiểu một cách tiêu cực về chữ “mầu nhiệm”. Bất cứ điều gì người ta không hiểu, không vươn tới được thì cho rằng đó là mầu nhiệm. Thật ra điều đó cũng đúng được phần nào đó, nhưng đúng ra đó chỉ là hiện tượng của Mầu nhiệm. Chúng ta nên có cái nhìn và cách hiểu tích cực hơn về 2 chữ mầu nhiệm này nhân dịp chúng ta mừng lễ Chúa Ba Ngôi, một mầu nhiệm lớn lao và vĩ đại nhất đối với con người.
Mầu nhiệm được hiểu là một thực tại thuộc về Thiên Chúa, mà Thiên Chúa thì cao siêu vượt trên con người, nên con người không thể nào hiểu được hay nắm bắt được về Thiên Chúa. Nhưng chính Chúa Thánh Thần đến giúp cho con người phá vỡ hạn hẹp của mình và nâng cấp con người lên để họ có thể hiểu biết và tiếp cận cách nào đó với Thiên Chúa theo khả năng mà Chúa Thánh Thần ban cho họ.
Khi nói về mầu nhiệm về Chúa Ba Ngôi, người ta thường nhắc về một giai thoại của thánh Augustinô khi ngài cố gắng tìm hiểu mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Chuyện kể rằng: Khi thánh Augustinô đi dọc theo một bờ biển để suy nghĩ và tìm hiểu về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, thì ngài gặp một em bé đang lấy vỏ sò múc nước biển đổ vào một cái hang trên bờ biển. Thánh nhân hỏi em bé rằng: “Em làm gì thế?” Em bé thản nhiên trả lời rằng:”Em đang múc hết nước biển đổ vào trong cái hang này!” Thánh nhân cười nhạo và nói với em bé rằng: “Em không bị tâm thần chứ? Làm sao em có thể dùng cái vỏ sò này để múc được hết nước biển chứ?”. Em bé trả lời: “có lẽ chuyện tôi làm sẽ dễ dàng hơn chuyện ông đang cố hiểu về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi đó ông ạ”. Thánh nhân liền được giác ngộ.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi tuy rất cao sâu nhưng cũng rất gần gũi với cuộc sống con người, cuộc sống của từng người chúng ta. Nói cách khác, Thiên Chúa Ba Ngôi chính là cuộc sống của con người. Bất cứ hoạt động nào của con người cũng chính là hoạt động của Thiên Chúa Ba Ngôi. Thiên Chúa Ba Ngôi luôn là nguyên nhân tác thành chính yếu trong mọi hành vi, mọi cử động, mọi suy tư của con người.
Linh mục Maurice Zundel đã nói về Thiên Chúa như sau: “Thiên Chúa là khi bạn tốt”. Như thế bất cứ khi nào chúng ta hành động ngay chính và thể hiện tình bác ái yêu thương thì lúc đó chúng ta trở thành phản ảnh trong suốt về Thiên Chúa Ba Ngôi.
Chúng ta có thể nói rằng: một vị Thiên Chúa đích thực chỉ có thể và phải là một Thiên Chúa Ba Ngôi. Thánh Gioan tông đồ đã định nghĩa: “Thiên Chúa là Tình yêu”. Một tình yêu trọn hảo và tròn đầy khi tình yêu đó hướng về người khác, trao ban trọn vẹn cho người khác... Thiên Chúa là Tình yêu vì Ngài là Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúa Cha yêu Chúa Con, hướng về Chúa Con và trao ban trọn vẹn cho Chúa Con; Chúa Thánh Thần chính là nụ hôn tình yêu bền chặt và trọn hảo đó.
Trong cuộc sống hằng ngày, có một điều luôn khiến các bạn trẻ băn khoăn, đó là làm sao để không bị choá mắt bởi những ảo ảnh của tình yêu, làm cách nào để khỏi bị lừa dối bởi những ngọt ngào giả tạo để rồi phải vỡ mộng ôm lấy thương đau trong trường tình? Bài Tin mừng hôm nay sẽ gợi lên chúng ta một số tiêu chuẩn khi về những điều đó khi chúng ta cùng nhau ngắm nhìn vào tình yêu của Thiên Chúa.
1. Tình yêu đích thực là tình yêu hiến trao:
Thánh Gioan đã viết: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một của Ngài”. Đây không phải chỉ là việc trao tặng một món quà hay một cái gì đó ở ngoài mình, nhưng là việc cho đi một điều thiết thân và quí báu. Điều quí báu nhất của Thiên Chúa Cha chính là Người Con Một của Ngài, là Đức Giêsu Kitô. Khi trao ban cho chúng ta Đấng bị treo trên Thập giá là Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta chính bản thân của Ngài. Ngài chấp nhận cho Ngài chịu chết để cho nhân loại được sống. Tình yêu chân thật chẳng hề biết giữ lại điều gì cho mình, nhưng là chia sẻ, là cho đi, là mong muốn cho người mình yêu được hạnh phúc.
2. Tình yêu đích thực làm phát sinh và khơi mào sự sống:
“Bất cứ ai tin vào Người Con ấy thì không phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Sự sống đời đời đã bắt đầu ngay ở đời này. Con người đã được Thiên Chúa tình yêu đưa vào thế giới thần linh khi con người tháp nhập vào Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người. Con người được chia sẻ hạnh phúc của Ba Ngôi Thiên Chúa. Thiên Chúa không muốn cho bất cứ ai phải hư mất hay bị trầm luân đời đời. Chính Chúa đã phán: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống” (Ed 33,11). Nhưng nếu có ai phải chết hay bị hư mất thì không phải là vì Thiên Chúa độc ác hay không muốn cứu sống họ nhưng vì họ đã dùng tự do của Thiên Chúa ban cho họ mà từ chối Thiên Chúa là nguồn sống muôn đời. Con người có thể dùng tự do của mình để mở ra hay khép lại trước sự sống được trao ban từ Thiên Chúa tình yêu.
3. Tình yêu đích thực còn phải là tình yêu chia sẻ:
“Thiên Chúa là Tình yêu ”, một tình yêu chia sẻ chan hoà giữa Ba Ngôi Thiên Chúa: Cha trao tất cả cho Con, Con dâng tất cả cho Cha và chỉ sống vì Cha, Thánh Thần là sự hiệp thông giữa Cha và Con. Tình yêu ấy đã tràn ngập khắp cả vũ trụ nhân loại này. Thiên Chúa cũng chính là tình yêu sáng tạo khi Ngài dựng nên con người theo hình ảnh Ngài. Ngài là tình yêu cứu độ khi Ngài tha thứ tất cả cho chúng ta qua Đức Giêsu Kitô. Ngài cũng chính là tình yêu thánh hoá khi Ngài muốn ban cho chúng ta sự sống mới trong Chúa Thánh Thần. Chúng ta sẽ mãi mãi xa lạ với Thiên Chúa nếu chúng ta xa lạ với tình yêu và khép chặt lòng mình trước tình yêu của Thiên Chúa. “Ai không yêu thì không biết Thiên Chúa” (1 Ga 4,8), và ai không ở lại trong tình yêu thì cũng không ở lại trong Thiên Chúa (x. Ga 4,16).
Ước gì cuộc đời của chúng ta được tới gội bởi tình yêu để mọi chúng ta làm đều bắt nguồn từ tình yêu và qui hướng về Tình yêu. Ước gì chúng ta làm chứng về Thiên Chúa tình yêu bằng một đời sống trao ban và chia sẻ. Amen.
24. Chúc tụng Thiên Chúa Ba Ngôi
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’ – R. Veritas)
"Chúc tụng Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, vì Chúa đã tỏ lòng từ bi đối với chúng ta". Đó là lời mở đầu của thánh lễ mừng kính Thiên Chúa Ba Ngôi. Các bản văn phụng vụ không nhằm giải thích tại sao một Thiên Chúa duy nhất mà lại có ba ngôi: Cha, Con và Thánh Thần. Mạc khải trọn vẹn về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi đã được hoàn tất nơi Chúa Giêsu Kitô. Nhưng cả khi mạc khải cho các môn đệ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, Chúa Giêsu cũng không dạy tại sao Thiên Chúa duy nhất phải có ba ngôi. Chúa Giêsu đã mạc khải cho các tông đồ, nhất là trong bài diễn văn về việc hiện hình trong bữa tiệc ly vì sự hiện diện và tác động của từng ngôi Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần, và về mối tương quan hiệp nhất giữa ba ngôi mà không giải thích lý do tại sao. Các tông đồ lúc đó cũng không thắc mắc tại sao như vậy, nhưng các ngài đã yêu mến chấp nhận và sống mầu nhiệm với hết lòng chân thành: "Ta và Cha Ta, chúng ta chỉ là một. Ai tuân giữa giới răn Ta truyền, thì chúng ta sẽ đến ngự trong người đó". Và nơi Phúc Âm thánh Gioan chương 16,12-15 được dùng trong thánh lễ kính Đức Chúa Trời Ba Ngôi là những lời Chúa Giêsu mạc khải về mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần.
Vấn đề quan trọng nhất không phải là biết hết tất cả mọi sự về Thiên Chúa, mà là sống mầu nhiệm về Thiên Chúa. Sự hiểu biết của con người tuy có thể đạt được phần nào về Thiên Chúa, nhưng không thể nào biết trọn được cả. Sự việc đã xảy ra cho thánh Augustinô khi thánh nhân suy nghĩ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi còn là một lời dạy cho chúng ta ngày hôm nay. Trí khôn con người hữu hạn, làm sao có thể hiểu hoàn toàn về Thiên Chúa vô cùng. Nếu muốn hiểu thì chẳng khác nào muốn đem nước của đại dương mênh mông mà đổ vào trong một lỗ nhỏ, như một trò đùa của em bé mà thánh Augustinô gặp nơi bờ biển. "Thầy còn nhiều điều phải nói với các con, nhưng bây giờ các con không thể lãnh hội được. Khi Thần Chân Lý đến, Người sẽ dạy các con biết tất cả sự thật. Người sẽ đưa các con vào trọn cả trong sự thật."
Mỗi ngày, chúng ta cần lớn lên trong tương quan với Thiên Chúa, cần được Chúa Thánh Thần soi sáng hướng dẫn chúng ta tiến sâu vào trong mầu nhiệm Ba Ngôi của Thiên Chúa. Đây là một sự khám phá vô cùng và mãi mãi không bao giờ ngừng cả khi chúng ta được đối diện với Thiên Chúa trong cõi đời đời.
Mỗi ngày, chúng ta càng được hướng dẫn hay để cho mình được hướng dẫn tiến sâu vào trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi thì chúng ta càng trưởng thành trong đức tin, đức cậy và đức mến, càng được thần thiêng hóa và trở nên giống Thiên Chúa hơn và đối xử với anh chị em chung quanh như chính Thiên Chúa muốn, càng được thấm nhuần trong mầu nhiệm Thiên Chúa bằng đời sống cầu nguyện, kết hiệp thân tình với Thiên Chúa, thì chúng ta càng có tâm hồn quảng đại, mở rộng đón nhận anh chị em chung quanh và mời gọi họ trong mọi hoàn cảnh cụ thể. Đây là kinh nghiệm sống đức tin của những vị thánh mà không sự chứng minh hay giải thích nào của lý trí có thể đủ sức trình bày.
Nguyện xin Thiên Chúa Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần, mà dấu Thánh Giá chúng ta mang lấy trên thân mình hàng ngày trước mỗi công việc quan trọng ban cho chúng ta được mỗi ngày một tiến sâu vào trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, được ẩn mình trong Thiên Chúa, được biến đổi trong Thiên Chúa để sống trọn cuộc sống con người của mình trên trần gian này và mãi mãi trong cõi vĩnh phúc mai sau.
25. Ba Ngôi Hiệp Nhất
Anh chị em thân mến.
Một con tàu rời bến, nó đã được định hướng để đi đến một nơi nào đó. Nó muốn đi đến nơi an toàn, con tàu đó phải còn vững chắc, chiếc máy bên trong con tàu cũng phải được bảo đảm để làm lực đẩy cho con tàu. Nhưng nếu chỉ bao nhiêu đó thôi, thì con tàu vẫn nằm yên bất động và trở nên vô dụng vì nó không được sự hướng dẫn. Người hoa tiêu chính là linh hồn của con tàu, điều khiển cho con tàu đi đúng hướng cần thiết để đem lại lợi ích cho nhiều người. Nếu chỉ có người hoa tiêu mà không có con tàu, thì lấy gì mà điều khiển. Nếu chỉ có con tàu với cổ máy, cho dù có tốt như thế nào đi nữa thì nó cũng không hoạt động được. Nhưng nếu có con tàu, cổ máy và cả người hoa tiêu, mà người hoa tiêu lại không điều khiển nổi khi con tàu vận hành, để nó muốn đến đâu thì đến thì thật là một tai hoạ. Con tàu, cổ máy và người hoa tiêu cùng đồng nhất với nhau thì mới cho kết quả tốt.
"Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài, để những ai tin vào Con của Ngài thì không phải hư mất nhưng được sống đời đời". Thiên Chúa yêu thương con người, ban cho họ làm chủ vũ trụ này, ban cho con người những gì cần thiết cho đời sống của họ. Nhưng con người không chịu vâng phục Thánh ý Chúa, con người muốn tách rời khỏi Thiên Chúa, nên con người đã đi mà không biết mình đi đâu. Thiên chúa không bỏ con người, nên sai con của Ngài đến trần gian, để những ai tin vào Con của Ngài thì đến được sự sống.
Tin là vâng nghe và hành động theo như những gì đã biết và đã được chỉ dạy. Tin là hành động theo sự hướng dẫn, chứ không phải ngồi yên mà chờ đợi.
Mừng lễ Đức Chúa Trời Ba Ngôi, chúng ta nhận biết một điều: Ba Ngôi nhưng chỉ có một Chúa duy nhất, chính vì Ba mà là Một, nên Ba Ngôi chính là sự hoàn hảo và tốt đẹp mà con người được tận hưởng biết bao nhiêu điều tốt đẹp từ Ba Ngôi Thiên Chúa.
Mỗi người trong chúng ta, đã nhận được biết bao nhiêu điều tốt đẹp, từ con người đến cuộc sống. Nhưng người hoa tiêu trên con tàu đời người của chúng ta, có điều khiển được con tàu cho đi đúng hướng, hay người hoa tiêu đanh phải chịu thua.
Mỗi người trong chúng ta nhìn lại chính mình, Thiên Chúa ban cho mỗi người một hoàn cảnh và những điều kiện thích hợp, để chúng ta được sống đến ngày hôm nay. Có những lúc chúng ta rất hài lòng về cuộc sống hiện tại, nhưng cũng có những lúc không hài lòng. Có những lúc chúng ta tự hào vì mình làm được nhiều việc tốt, nhưng nếu giờ này đây bình tâm nhìn lại, chúng ta cũng sẽ xấu hổ về những việc làm của mình. Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta thành công, được hạnh phúc, được lợi lộc, được mọi người ca tụng, những lúc đó, chúng ta chỉ biết tự hào về chính mình, nhưng được bao nhiêu lần chúng ta biết cảm tạ hồng ân Chúa, để tìm hiểu Thánh Ý Chúa và làm việc cho tốt hơn. Rất nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta kêu ca, phiền trách người khác sống không công bằng, không tốt, không xứng đáng; chỉ vì lý do họ không chịu đáp ứng nhu cầu mà chúng ta đòi hỏi. Có khi chúng ta phiền trách cả Thiên Chúa mà mình tôn thờ, vì Ngài không chịu nghe lời đòi hỏi của chúng ta.
Nếu trong cuộc sống đời thường, chúng ta biết suy nghĩ và tìm hiểu thánh ý Chúa, sau đó mới nói và hành động, thì thật hạnh phúc cho chúng ta. Khi đó, chúng ta đang sống trong mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi mà chúng ta mừng lễ hôm nay, Thiên Chúa đang hành động với chúng ta, Thiên Chúa là người hoa tiêu tài tình đang đưa con tàu chúng ta đến bến bình an.
Có những lúc, chúng ta không cần biết đến ai, chỉ cần thoả mãn chính mình, thoả mãn những ước muốn, cho dù ngay chính hay bất chính, chúng ta không cần biết. Chính vì thế, chúng ta rơi vào tình trạng cô đơn, trống rỗng, chới với giữa dòng đời, như con thuyền không định hướng. Những lúc đó, con tàu cuộc đời của chúng ta đã không theo sự hướng dẫn của người hoa tiêu, nên con tàu không biết đâu là bến bờ. Nếu những lúc đó, chúng ta biết chợt giật mình và để cho Chúa hướng dẫn thì thật là hạnh phúc cho chúng ta.
Chúng ta cùng cầu xin Chúa Ba Ngôi hướng dẫn cuộc đời chúng ta biết luôn hiệp nhất trong Chúa, để những việc làm của chúng ta đem lại những kết quả tốt đẹp.
26. Trao ban tất cả vì yêu thương
(Lm. Trần Ngà)
Kinh thánh (St 22, 1-18) cho biết: Sau nhiều tháng năm chờ đợi mỏi mòn, mãi cho đến trăm tuổi, Cụ Áp-ra-ham mới được diễm phúc sinh đứa con nối dõi tông đường. I-xa-ác chào đời đem lại niềm vui chan hoà cho Cụ Áp-ra-ham. I-xa-ác là lẽ sống, là cây gậy chống đỡ tuổi già, là tương lai cho giống nòi và là tất cả của Cụ già trăm tuổi.
Thế mà Thiên Chúa truyền cho Cụ phải sát tế đứa con yêu để tế lễ cho Ngài.
Trời đất như quay cuồng sụp đổ khi Cụ Áp-ra-ham nghe lệnh truyền của Thiên Chúa.
Phải ở trong hoàn cảnh của Cụ già trăm tuổi như Áp-ra-ham mới cảm nhận thấm thía nỗi đau thương và mất mát vô cùng lớn lao của một người cha phải sát tế đứa con một rất đỗi yêu quý của mình. Nếu không vì tình thương lớn lao đối với Thiên Chúa, Cụ Áp-ra-ham không thể nào thực hiện được sự hiến dâng đau lòng đó.
Cụ Áp-ra-ham sẵn sàng hi sinh tất cả vì Thiên Chúa là Đấng mà Cụ thần phục và mến yêu.
Nhưng Thiên Chúa chỉ thử lòng Cụ Áp-ra-ham thôi. Ngài không nỡ để cho một người cha phải gánh chịu nỗi đau thương lớn lao đến thế.
Trích đoạn Tin Mừng trong ngày lễ hôm nay cũng đề cập đến một người Cha khác đã thực hiện một sự trao ban triệu lần cao cả hơn.
Vì quá yêu thương nhân loại lỗi lầm, vì không muốn cho muôn người phải lâm vào cảnh đau khổ trầm luân vì tội lỗi ngút ngàn của họ, Thiên Chúa Cha đã trao ban Con Một vô cùng yêu quý của Ngài, để Con của Ngài chết thay cho nhân loại, để cho những ai tin vào Con Ngài thì được cứu sống và được sống muôn đời:
"Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ". (Gioan 3, 16-17)
Xưa kia, Thiên Chúa không nỡ để cho I-xa-ác phải chết dưới lưỡi dao run rẩy của Cụ Áp-ra-ham, không để cho thân xác của I-xa-ác phải chịu thiêu đốt trên bàn thờ để làm hy lễ cho Ngài, nhưng đã đến một thời, Thiên Chúa Cha lại để cho Con Một Ngài, là Ngôi Hai Thiên Chúa, phải chịu đóng đinh, chịu quằn quại đau thương và chịu chết trên thập giá để đền cho hết tội lỗi chúng ta và ban lại cho chúng ta sự sống đời đời.
Tôi tớ thấp hèn liều mình chết thay cho chủ nhân quyền quý, dân đen cùng khốn chết cho hàng vua chúa cao sang hay con chó trung thành liều chết để cứu mạng chủ cũng còn là điều dễ hiểu. Đằng nầy Ngôi Hai Thiên Chúa là Chúa Tể đất trời lại hiến thân chết thay cho loài người hèn mọn thì quả là điều vượt quá trí tưởng tượng con người.
"Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hiến mạng vì bạn hữu mình" (Gioan 15, 13) và không có tình yêu nào sánh ví được với tình yêu khôn vời của Thiên Chúa dành cho nhân loại.
* * *
Khi được người khác biếu tặng một món quà, ai trong chúng ta cũng đều nhớ ơn ân nhân và tìm cách đền đáp lại bằng món quà tương xứng.
Khi được Chúa Trời cao cả ban tặng chính Con Một Ngài để cứu mạng cho chúng ta, khi được Chúa Giêsu hiến thân chịu chết để cứu ta khỏi chết muôn đời, có bao giờ chúng ta nghĩ đến việc đền đáp công ơn cao dày đó?
Để đền đáp phần nào tình thương trời bể của Thiên Chúa Cha, Đấng đã trao ban Con Một mình cho nhân loại, để đền đáp sinh mạng của Chúa Giêsu đã trao hiến cho bạn và cho tôi, chúng ta hãy dâng cho Ngài một hiến lễ tương tự, dù vạn lần nhỏ bé hơn. Đó là "hiến dâng thân mình chúng ta làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa" (Rôma 12, 1). Đó cũng là nguyện ước của chân phước An-rê Phú Yên hôm xưa: "đem cuộc sống báo đền cuộc sống; lấy tình yêu đáp trả tình yêu".
27. Lễ Chúa Ba Ngôi
(‘Sống Tin Mừng’ – R. Veritas)
Tại vùng Texas Hoa Kỳ, không ai lại không nghe lòng hào hùng của anh Biên, chủ một nông trại nuôi bò to lớn. Người ta gọi anh bằng một tên riêng đầy lòng kính trọng là ông Biên quảng đại, đến nỗi nhiều người không còn nhớ tên thật của anh là gì, mà chỉ biết tên anh là ông Biên quảng đại. Dù là người giàu có nhất vùng nhưng nếp sống của ông lại rất gần gũi với mọi người, từ người giúp việc cho tới những người láng giềng chung quanh.
Ông có một người con duy nhất, nhưng rủi thay trong một chuyến đi nghỉ cuối tuần, ông bị một tai nạn xe hơi làm cho vợ và người con duy nhất bị chết. Sau những ngày u buồn, một hôm đi dạo chơi gần nông trại, ông chợt gặp một đứa trẻ rách rưới và có vẻ đang bơ vơ. Ông gọi lại và hỏi thăm về gia đình, đứa bé không trả lời chi được về những câu hỏi của ông. Bé mồ côi cha mẹ từ nhỏ. Mới sinh ra đã bị cha mẹ bỏ rơi, nên từ đó em bé nay sống với người này, mai sống với người khác, lang thang đây đó. Em chỉ còn biết một điều là tên gọi của em: ai ai cũng gọi em là Jimmi, nên em biết tên mình là Jimmi. Ông Biên liền nhận đứa trẻ về nhà làm con nuôi và làm chúc thư, nếu ông qua đời thì tài sản ông sẽ dành cho Jimmi, người con nuôi mới nhận được.
Nhiều người bạn thân ngạc nhiên hỏi, tại sao ông làm như vậy?
Ông Biên trả lời: với một lý do duy nhất, là Jimmi giống hệt đứa con của tôi đã chết. Tôi thương nó vì nó giống con tôi, tôi nhìn thấy con tôi nơi nó.
Anh chị em thân mến,
"Tôi thương nó, vì nó giống hệt con tôi, tôi nhìn thấy con tôi nơi nó". Câu nói này của ông Biên gợi lại cho chúng ta mối tương quan giữa tình thương của Thiên Chúa Cha với mỗi người chúng ta là đồ đệ của Chúa Giêsu Kitô. Thiên Chúa Cha đã yêu thương mỗi người, vì chúng ta đã lãnh nhận ơn cứu rỗi, được tái tạo giống hệt như Chúa Kitô, Con Một Ngài. Thiên Chúa Cha yêu chúng ta, vì Ngài thấy Con Một Ngài nơi mỗi người chúng ta.
Mừng Lễ Chúa Ba Ngôi, chúng ta không mừng với lý trí muốn hiểu cho thấu đáo mầu nhiệm của mọi mầu nhiệm, là mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, một Thiên Chúa duy nhất có Ba Ngôi là Ngôi Cha, Ngôi Con và Ngôi Thánh Thần; nhưng hãy mừng với một con tim tin yêu chân thành, vì đã cảm nghiệm được Thiên Chúa Ba Ngôi nơi chính mình.
Tình thương của Thiên Chúa Cha, Đấng Tạo Hóa đã an bài vũ trụ, nâng đỡ cuộc sống con người và ban cho chúng ta sự sống. Tình thương của Chúa Giêsu Kitô, Đấng mặc lấy thân phận con người đến cứu chuộc chúng ta, để làm sáng tỏ lại hình ảnh Thiên Chúa nơi chúng ta, giúp chúng ta trở về nhà Cha an toàn. Tình thương của Chúa Thánh Thần, Đấng hằng ban ơn soi sáng, nâng đỡ, an ủi, giúp chúng ta sống trọn kiếp sống trần gian.
Mừng Lễ Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta được nhắc nhớ rằng, Thiên Chúa Cha, Con, Thánh Thần đã yêu chúng ta và chúng ta được mời gọi để đáp lại tình yêu thương ấy bằng một đời sống trổ sinh nhiều hoa trái tốt, xứng đáng con yêu quí của Thiên Chúa: "Chúng con hãy nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là Đấng trọn lành" (Mt 5,48).
Chúa Giêsu đã mạc khải cho Nicôđêmô: "Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài cho thế gian, để tất cả những ai tin vào Người thì khỏi phải chết. Quả vậy, Thiên Chúa đã đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng nhờ Con của Ngài mà thế gian được cứu độ, ai tin sẽ được cứu; ai không tin thì đã bị lên án rồi" (Jn 3,16-18).
Lạy Chúa, xin ban thêm Đức Tin cho con để chúng con mỗi ngày được trở nên giống Chúa nhiều hơn. Amen.
28. Chúa Ba Ngôi
Người Đông phương chúng ta thường thích giữ im lặng trước những mầu nhiệm của vũ trụ, của con người và nhất là của Thượng Đế.
Thực vậy, người Trung Hoa rất ít nói về trời, bởi vì họ cho rằng ngay cả những thực tại trần thế này, chúng ta còn chưa hiểu biết được cho thấu đáo, phương chi là những thực tại vô hình.
Người Ấn Độ thì có lẽ thích nói về Thượng Đế thật đấy, nhưng họ luôn tự nhắc nhở cho mình rằng những điều chúng ta biết được về Thượng Đế, thì cũng chỉ là như một chiếc lá giữa rừng cây bao la.
Trong khi đó, người Tây Phương, nhất là người Kitô hữu, có lẽ ít khiêm tốn hơn những người Ấn Độ và Trung Hoa, trong vấn đề này. Thực vậy, chúng ta có biết bao nhiêu sách vở viết về Thiên Chúa, biết bao nhiêu bài giảng bàn về Thiên Chúa và biết bao nhiêu định nghĩa về những tín điều.
Thế nhưng, phải thành thật mà nói: Kể từ thời thánh Augustino cho đến ngày hôm nay, chúng ta đã hiểu thêm được những gì về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi? Hay chúng ta cũng giống như những người lạc vào rừng, càng đi xa, càng vào sâu, thì lại càng cảm thấy mịt mù và tăm tối. Hoặc giống như người trong sa mạc, càng đi thì lại càng cảm thấy chỉ có cát và cát mà thôi.
Bởi thế hôm nay, khi mừng kính mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, thái độ thích hợp nhất đối với mỗi người chúng ta, đó là im lặng, khiêm tốn và thờ lạy.
Từ thái độ khiêm tốn và thờ lạy này, chúng ta đưa ra một cách thế để cảm nghiện được mầu nhiệm này, đó là tình yêu. Thực vậy, chúng ta không thể biết rừng, nếu đã chẳng biết cây. Cũng vậy, chúng ta không thể nào biết Thiên Chúa, Đấng chúng ta hằng kính mến, nếu chúng ta không yêu thương anh em đồng loại.
Và thật may mắn cho chúng ta vì không cần biết hết mọi thứ cây, thì mới hiểu được rừng. Cũng vậy, không cần phải nếm hết tất cả nước biển mới biết nước biển mặn, nhưng chỉ cần nếm một vài giọt mà thôi cũng đã đủ.
Cũng vậy, chúng ta không cần phải yêu thương tất cả mọi người trên thế gian, mới hiểu được tình yêu là gì? Và hiểu được chân lý Đức Kitô đã mạc khải cho chúng ta: Thiên Chúa là tình yêu. Đã hẳn Đức Kitô mời gọi chúng ta yêu thương tất cả mọi người, nhưng tất cả ở đây không có nghĩa về số lượng, bởi vì điều đó không thể nào thự c hiện được đối với chúng ta, nhưng Chúa chỉ đòi hỏi chúng ta yêu thương những người chúng ta gặp gỡ trong cuộc sống của mình, không ghét bỏ một ai, cũng chẳng loại trừ một ai.
Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa. Có lẽ nhiều người trong chúng ta nghĩ rằng mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là điều quá cao vời, quá rắc rối. Chuyện hiểu biết mầu nhiệm này nằm ở trong lãnh vực chuyên môn của các nhà thần học, của các giám mục, linh mục và tu sĩ…Còn mình làm sao có thời giờ để mà học hỏi, có trình độ đâu mà dám múa rìu qua mắt thợ.
Nhưng chúng ta đâu có ngờ rằng: Trong lãnh vực này, có khi nhà thần học, cũng như giám mục, linh mục hay tu sĩ vẫn còn thua xa một bà già nhà quê, nếu như bà ấy biết yêu thương hết thảy mọi người.
Bởi vì, chuyện yêu thương không nhất thiết đòi hỏi một trí rộng tài cao, mà chỉ đòi hỏi một sự nhiệt tâm và chân thành mà thôi.
29. Thiên Chúa Ba Ngôi: tình yêu tuyệt hảo
“Biết làm sao định nghĩa được tình yêu?”. Có lẽ đây không chỉ là câu hát đầy thi vị trong lãnh vực tình yêu, mà còn là khắc khoải của từng người trong chúng ta. Thật thế, ai trong chúng ta cũng yêu và muốn được yêu. Tuy nhiên, không gì khiến chúng ta phải lúng túng cho bằng định nghĩa thế nào là tình yêu. Tình yêu quả thật là một mầu nhiệm. Tại sao chỉ có con người mới biết yêu? Có lẽ chúng ta chỉ có thể trả lời câu hỏi này bằng chính mầu nhiệm của Thiên Chúa mà thôi.
Vào cuối đời mình, khi suy niệm về cuộc sống, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu, thánh Gioan Tông Đồ đã phát biểu như sau: “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Đây quả là công thức độc nhất vô nhị của Kitô giáo; trước và sau Kitô giáo, có lẽ không một tôn giáo hay một triết thuyết nào đã gọi Thiên Chúa là Tình Yêu. “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho thế gian”. Gọi Thiên Chúa là Tình Yêu, bởi vì Thiên Chúa vừa tỏ mình cho chúng ta một cách gần gũi, thân thiết, lại vừa là một mầu nhiệm mà chúng ta không bao giờ hiểu thấu được. Vì yêu thương chúng ta, Thiên Chúa đã tỏ mình qua người Con Một của Ngài, Người Con ấy đã sống kiếp sống của con người và đã chết một cách đau thương nhục nhã để nói với chúng ta rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Tình yêu nào cũng muốn được bộc lộ, người yêu nào cũng muốn tỏ tình. Bằng cuộc sống và cái chết của Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã thực sự tỏ tình với con người: Ngài đã tỏ tình và yêu thương cho đến cùng. Chính vì thế, Ngài đã sai phái Thánh Thần đến để khai sinh Giáo Hội. Thánh Thần chính là Tình yêu nối kết Chúa Cha và Chúa Con. Thiên Chúa thông ban tình yêu của Ngài cho Giáo Hội, để Giáo Hội hiện diện như một dấu chứng tình yêu của Ngài đối với nhân loại. Giáo Hội là tiếng tỏ tình của Thiên Chúa đối với con người.
Mừng kính Chúa Ba Ngôi hôm nay, Giáo Hội muốn nhắc nhớ chúng ta chân lý ấy. Tỏ mình cho chúng ta, Thiên Chúa muốn nói với chúng ta rằng Ngài là Ba Ngôi Vị, Ngài là Tình Yêu. Đó là mầu nhiệm cơ bản nhất, từ đó Giáo Hội được xuất phát và xây dựng; Giáo Hội vừa là hình ảnh vừa là thể hiện Chúa Ba Ngôi. Nhưng mầu nhiệm Ba Ngôi không chỉ là nền tảng của Giáo Hội, mà còn là ánh sáng chiếu dọi vào bí ẩn của con người. Thật thế, chỉ trong Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta mới hiểu rõ được ơn gọi và định mệnh của con người. Nếu Thiên Chúa là tình yêu và nếu con người được tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, thì một cách tất yếu, con người chỉ thực sự là người khi biết yêu thương. Phẩm giá của con người được xây dựng trên chính tình yêu. Ai chối bỏ tình yêu, ai gieo rắc hận thù, người đó cũng chối bỏ con người và chối bỏ chính Thiên Chúa; trái lại ai sống trong tình yêu, người đó cũng sống trong Thiên Chúa.
Lễ Chúa Ba Ngôi không chỉ là một lời ca tụng tình yêu Thiên Chúa, mà còn là một tuyên xưng về phẩm giá con người. Thiên Chúa phú bẩm cho con người khả năng yêu thương; Ngài tỏ mình cho con người để con người cũng nhận ra được phẩm giá cao cả của mình. Mỗi ngày, từ lúc khởi đầu một ngày mới cho đến lúc trở lại giường ngủ, chúng ta không ngừng tuyên xưng mầu nhiệm của tình yêu Thiên Chúa và phẩm giá cao cả của con người. Mầu nhiệm ấy gắn liền với Thập Giá Chúa Giêsu mà chúng ta vẽ trên người. Qua cái chết trên Thập Giá, không những Chúa Giêsu tỏ bày cho chúng ta mầu nhiệm của Thiên Chúa, Ngài còn vạch ra cho chúng ta con đường đi vào mầu nhiệm ấy, đó là con đường của yêu thương. Chúa Giêsu đã yêu thương và yêu thương cho đến giọt máu cuối cùng; Ngài đã tỏ cho chúng ta thấy bộ mặt của Thiên Chúa; Ngài đã dạy cho chúng ta biết thế nào là yêu thương.
30. Trí khôn và ý muốn
Cách đây hàng ngàn năm, có một nhà hiền triết tài giỏi tên là Simonide. Ngày kia, nhà vua cho vời ông ta đến và hỏi:
- Thượng đế là gì?
Ông ta xin nhà vua cho mình một ngày để suy nghĩ. Sáng hôm sau, khi nhà vua gọi tới, thì ông ta lại xin thêm hai ngày nữa để suy nghĩ.
Và khi hai ngày đã trôi qua, ông ta lại xin thêm bốn ngày nữa. Rồi sau đó, ông ta lại xin thêm tám ngày nữa. Cứ mỗi lần nhà vua truyền cho ông ta đến, thì ông ta lại xin hoãn với số ngày gấp đôi. Sau cùng, nhà vua bực bội, cho triệu ông ta đến và giận dữ hỏi:
- Cho tới bao giờ, nhà ngươi mới trả lời câu hỏi của ta? Thượng đế là gì?
Bấy giờ ông ta mới ôn tồn trả lời:
- Xin nhà vua đừng hối thúc tôi. Vấn đề thật khó khăn và tôi nghĩ rằng sẽ chẳng bao giờ tìm thấy được câu trả lời. Bởi vì càng suy nghĩ, tôi lại càng cảm thấy bối rối. Vấn đề dường như đã vượt ra ngoài khả năng của tôi.
Kể lại câu chuyện này, tôi cũng muốn nói lên sự bất lực của chúng ta khi phải trình bày về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, mà chúng ta mừng kính hôm nay. Mặc dù chúng ta đã học hỏi, đã tìm tòi, nhưng không bao giờ được quên rằng: Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm. Sở dĩ chúng ta biết được là vì chính Chúa đã tỏ lộ cho chúng ta.
Tất cả những gì chúng ta biết về mầu nhiệm này được gồm tóm như sau: Nơi Thiên Chúa có ba ngôi: Cha, Con và Thánh Thần. Cả Ba Ngôi cực thánh này đều có chung một bản tính, nên bằng nhau về mọi phương diện và chỉ làm thành một Thiên Chúa duy nhất.
Trong giây phút này, tôi chỉ xin chia sẻ một vài ý nghĩ đơn sơ, đó là đứng trước mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, trí khôn chúng ta lại quá nhỏ bé đề mà hiểu thấu, nhưng con tim chúng ta lại đủ to lớn để yêu mến.
Thực vậy, trí khôn chúng ta quá nhỏ bé để mà hiểu thấu. Tôi xin đưa ra một thí dụ: trước mặt chúng ta đây có ba cô, cô Quít, cô Mít, cô Cam. Đó là ba ngôi vị. Mỗi người có một bản tính khác nhau và làm thành ba con người riêng biệt. Đối với Chúa Ba Ngôi thì khác. Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, mặc dù là ba ngôi riêng biệt, những chỉ là một Thiên Chúa duy nhất. Đó là một mầu nhiệm không thể nào hiểu thấu, bởi vì trí khôn chúng ta quá nhỏ bé.
Hẳn rằng đã nhiều lần chúng ta được nghe mẩu chuyện về thánh Augustinô. Ngài là một vị thánh tiến sĩ trong Giáo Hội, đã viết nhiều cuốn sách có giá trị. Ngày kia, để bắt đầu viết một thiên khảo luận về Chúa Ba Ngôi, ngài đã đi dạo trên bờ biển để suy nghĩ và cầu nguyện. Bỗng chốc ngài nhìn thấy một em bé đang dùng một chiếc vỏ sò múc nước và đổ vào một chiếc lỗ nhỏ trên bãi cát. Ngài dừng chân và hỏi:
- Em làm gì thế?
Em bé bèn trả lời:
- Tôi muốn tát hết nước biển vào trong chiếc lỗ này.
Thánh nhân mỉm cười và nói:
- Làm sao tát hết được?
Nhưng em bé nghiêm nét mặt và nói:
- Tôi làm việc này còn dễ hơn cái ảo vọng của ngài là muốn trình bày cặn kẽ về Chúa Ba Ngôi.
Nói đoạn, em bé biến mất. Thánh nhân hiểu rằng đó chính là một thiên thần được Chúa sai đến để nhắc nhở: trí khôn con người thì quá nhỏ bé để hiểu về mầu nhiệm này.
Thế nhưng, con tim của chúng ta lại đủ to lớn để yêu mến Ngài. Thực vậy, Chúa Giêsu đã tỏ lộ không phải để chúng ta hiểu thấu, nhưng để chúng ta yêu mến.
Trước hết, con tim chúng ta đủ to lớn để ca tụng ngài. Mỗi khi hát: Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời. Mỗi khi đọc: Sáng danh Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần. Môi khi làm dấu thánh giá, là chúng ta ca tụng và thờ lạy Chúa Ba Ngôi.
Hơn thế nữa, con tim chúng ta cũng đủ to lớn để cảm tạ Chúa Ba Ngôi. Vậy Ngài đã làm gì cho chúng ta? Chúa Cha đã tạo dựng nên chúng ta ngay khi chúng ta còn chưa cất tiếng khóc chào đời. Chúa Con đã dùng cái chết trên Thập giá để cứu chuộc chúng ta. Và Chúa Thánh Thần luôn thánh háo chúng ta. Nhờ bí tích Rửa tội, chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa. Nhờ bí tích Thêm sức, chúng ta trở nên những người lính chiến của Chúa Thánh Thần. Nhờ bí tích Giải tội, chúng ta được tẩy sạch mọi tội lỗi. Vì thế, chúng ta phải cảm tạ và yêu mến Chúa Ba Ngôi.
Sau cùng, trái tim chúng ta cũng đủ to lớn để cho Chúa Ba Ngôi ngự trị. Thiên Chúa không ngự trên chốn trời cao, xa cách ngàn trùng. Trái lại, Ngài sống trong chúng ta, Ngài ở cùng chúng ta và chúng ta là đền thờ sống động của Ngài. Mỗi khi tâm hồn chúng ta sạch tội trọng, Chúa Ba Ngôi sẽ ngự trị và trao ban cho chúng ta sự sống thầm linh, sự sống ân sủng, nhờ đó, chúng ta thuộc về gia đình của Thiên Chúa.
Hãy yêu mến Chúa Ba Ngôi, để rồi chúng ta sẽ được chiêm ngắm Ngài nhãn tiền, mắt đối mặt trong niềm hạnh phúc đời đời.
31. Dấu Thánh Giá
“Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Chúng ta mở đầu như thế có nghĩa là chúng ta nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi để bắt đầu bài chia sẻ này. Không phải riêng tôi mà tất cả mọi Kitô hữu đích thực, khi làm một việc gì đều muốn làm trong ý nghĩa đó, tức là mỗi khi bắt đầu một công việc gì chúng ta luôn làm dấu thánh giá. Một nhà văn Kitô giáo ở thế kỷ thứ hai, Ông Tertulianô đã viết: “Dù khi thức dậy hay đi ngủ, dù khi ăn hay khi làm một việc gì quan trọng, hãy bắt đầu bằng dấu thánh giá”. Lời khuyên đó cho thấy việc làm dấu thánh giá đã có ngay từ những ngày đầu của Giáo Hội. Thánh Phaolô cũng thường mở đầu và kết thúc các thư của ngài một cách tương tự: “Nguyện xin ân sủng của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, và tình yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng anh chị em”.
Người Kitô hữu biểu lộ thánh giá ra bên ngoài để tuyên xưng đức tin và tôn vinh Chúa. Cũng có trường hợp vì tôn trọng thái độ tôn giáo của người khác, chúng ta chỉ thầm nguyện ở trong lòng mà không làm dấu thánh giá bên ngoài. Nhưng cách này hay cách kia, chúng ta đều ý thức rằng chúng ta đang làm mọi việc nhân danh Thiên Chúa để tôn vinh Ngài, như lời Kinh Thánh dạy: “Dù ăn, dù uống, dù làm việc gì, anh em hãy làm mọi sự để tôn vinh Thiên Chúa”. Đặc biệt hôm nay chúng ta đề cập đến dấu thánh giá để nói về Chúa Ba Ngôi, để nói lên lòng chúng ta tin nhận một Thiên Chúa độc nhất có Ba ngôi là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Trước hết, chúng ta phải nói ngay: Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm quan trọng vĩ đại nhất của đạo Công giáo: một mầu nhiệm thuộc đời sống thâm sâu của Thiên Chúa mà con người không có quyền cũng như không có khả năng đạt tới, chỉ có Con Thiên Chúa mới có thể cho chúng ta biết mà thôi. Bởi vì mầu nhiệm Ba Ngôi là mầu nhiệm về đời sống thâm sâu của Thiên Chúa, tức đời sống yêu mến của Thiên Chúa, cho nên chỉ được mặc khải trong thời Tân Ước, là thời yêu mến, và do chính Con Một Thiên Chúa là hình ảnh, là tình yêu của Đức Chúa Cha.
Đại khái mầu nhiệm ấy được diễn tả như sau: Chúa Cha chiêm ngưỡng chính mình thì có một hình ảnh, một ý nghĩ, một tâm tình, một lời về mình. Hình ảnh, ý nghĩa, hay kiến thức hoặc tâm tình ấy là Ngôi Hai hay Ngôi Lời. Thế rồi hai ngôi chiêm ngưỡng và yêu nhau làm phát xuất ra một mối tình hay một tình yêu. Tình yêu đó là chính Ngôi Ba: Chúa Thánh Thần.
Khó hiểu quá phải không? Đúng vậy, mầu nhiệm Ba Ngôi rất khó hiểu và mãi mãi vẫn là khó hiểu. Chúng ta biết được như thế là do chính Chúa Giêsu đã mặc khải, các tông đồ đã truyền dạy và cả Giáo Hội không ngừng tuyên xưng như vậy. Giáo Hội toàn cầu đã nhóm họp nhiều công đồng để xác định rõ đức tin của mình về Thiên Chúa Ba Ngôi. Các Công Đồng quan trọng nhất đã định tín về chân lý này là công đồng Ni-xê-a năm 325, Công Đồng Constantinopoli năm 381, công đồng Latran IV năm 1215, công đồng Lion II năm 1274, công đồng Floren năm 1439.
Mầu nhiệm Ba Ngôi được coi như một công thức mà Giáo Hội sử dụng trong tất cả mọi sinh hoạt: từ một dấu thánh giá, một phép lành cho đến một lời thề long trọng hay một bí tích. Tất cả đều bắt nguồn ở công thức duy nhất Chúa Kitô đã dùng để ban truyền mệnh lệnh rửa tội cho muôn dân trước khi Ngài lên trời. Trong đời sống một người tín hữu, ngay từ khi chưa chào đời cho đến khi chết rồi, biết bao nhiêu lần công thức ấy đã được đọc trên mình chúng ta kèm với dấu thánh giá hay một nghi thức hoặc cử chỉ nào khác. Nhưng vì là một công thức, cho nên khi nghe đến hay đọc lên, nhất là sau khi đã lặp đi lặp lại nhiều lần, chúng ta không còn cảm thấy gì nữa, công thức ấy đã được nhắc tới một cách máy móc, vô ý thức, đôi khi còn thiếu tôn kính nữa. Vì vậy, chúng ta cần sửa chữa lại điều không tốt đẹp ấy và quyết tâm từ nay mỗi khi làm dấu thánh giá chúng ta sẽ làm một cách ý thức và tôn kính.
32. Ba Ngôi
Trong thánh lễ ban phép Bí tích Thêm sức, Đức Tổng Giám mục hỏi một ứng viên định nghĩa Ba Ngôi Thiên Chúa là gì. Một bé gái 14 tuổi nhỏ nhẹ trả lời: “Thưa Ba Ngôi Thiên Chúa là Ba Ngôi trong một Thiên Chúa”. Đức Tổng giám mục đã lớn tuổi, nặng tai, nghe không rõ, bèn hỏi lại: “Cha không hiểu con nói gì?” Vị linh mục giúp lễ cho ngài là một nhà thần học bèn trả lời: “Thưa Đức cha, Đức cha không cần phải hiểu. Ba Ngôi là một mầu nhiệm!”
Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Chúa Ba Ngôi, chúng ta biết rằng mình không thể hiểu được, vì đó là một mầu nhiệm. Nhưng cũng biết chắc rằng chúng ta đang sống mầu nhiệm đó. Ai cũng sống trong dòng đời, nhưng mấy ai đã hiểu được cuộc đời. Ai cũng cảm được dòng nhạc hay, nhưng lại không thể lấy được cái hay đó ra cho người khác xem!
Tách ra khỏi dòng sông, con cá sẽ chết. Biệt lập ra khỏi dòng đời, con người sẽ không tìm thấy hạnh phúc. Lẩy ra một nốt nhạc, nó chỉ là một âm thanh trơ trọi, không còn là một bài ca. Một vũ khúc được liên kết bởi các cử điệu trong sự liên tục trôi chảy và nhịp nhàng. Đó chính là những hình ảnh sống động giúp ta hiểu phần nào về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.
Có một cuốn sách tuyệt hay với tựa đề “Flow” – “Sự Trôi Chảy” của Mihaly Csikzentmihalyi, giáo sư tâm lý học trường Đại học Chicago. Tác giả đã trình bày những kết quả của việc nghiên cứu nhằm xác định một cách chính xác câu hỏi: “Điều gì làm cho con người hạnh phúc?” Sau khi thử nghiệm và phỏng vấn hàng trăm người trong nhiều năm, giáo sư đã đi đến kết luận rằng con người cảm thấy hạnh phúc nhất khi chúng ta sống “trong sự trôi chảy”.
Qua lời khẳng định này, tác giả muốn nói đến khả năng tự làm mất đi cái bản ngã của mình để hòa điệu vào cái khác hay người khác, hy sinh cuộc đời mình cho một người, một công trình, hay một hoạt động, nhẩy ra khỏi sự hạn hẹp của cái tôi chủ quan để hòa mình vào dòng suối cảm nghiệm của cuộc đời.
Sống “trong sự trôi chảy” có thể thực hiện dưới vô số những hình thức: leo núi, đánh cờ, nghe nhạc, hàn huyên trong câu chuyện gẫu, đắm chìm vào trong cuốn tiểu thuyết trinh thám, hay hăng say làm việc giúp đỡ người nghèo. Bất cứ cái gì thúc đẩy chúng ta ra khỏi bản thân mình, bất cứ cái gì làm cho chúng ta ngây ngất, hay tạo nên hoan lạc có thể được coi như “trong sự trôi chảy”. Đồng thời, khi chúng ta bị ngã bật ngửa ra, qua sự chán chường hay lo âu, khi chúng ta tê cóng lại thay vì chuyển động trôi chảy, chúng ta trở nên bất mãn, không hạnh phúc.
Đối với người Công giáo thì chẳng có gì ngạc nhiên, vì chúng ta ngầm khẳng định cái kinh nghiệm nội tâm này và biểu tỏ ra một cách sâu xa mỗi khi làm dấu thánh giá. Tôi tự hỏi chúng ta có thường ý thức rằng Thiên Chúa mà chúng ta thờ phượng không phải là một tĩnh vật bất động nhưng là một tập thể của những ngôi vị linh hoạt và năng động: Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần.
Từ nguyên thủy, Đức Chúa Cha, nguồn thần tính vô tận và phong phú, biểu tỏ qua Chúa Con, một cuộc hành trình đi ra khỏi chính mình trong kiến thức và tình yêu. Và Đức Chúa Con, từ nguyên thủy tự cho phép mình được phát biểu và rồi trở về với Đức Chúa Cha trong hoan lạc. Trong tình yêu hỗ tương, sự chia sẻ thân mật sâu xa của Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con là Đức Chúa Thánh Thần.
Diễn tả theo ngôn ngữ gợi cảm của thánh Bernard of Clairvaux: Đức Chúa Cha là người hôn, Đức Chúa Con là người được hôn, và Đức Chúa Thánh Thần chính là nụ hôn mà Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con chia sẻ với nhau. Thiên Chúa của chúng ta là một sự nhịp nhàng, một vũ khúc, một dòng sông, một dòng đời. Bản chất của Đức Chúa Cha là hướng về người khác, là đi ra khỏi chính Ngài. Bản tính của Đức Chúa Con là quên mình, trong khi bản tính của Đức Chúa Thánh Thần là yêu thương và được thương yêu.
33. Ba Ngôi
Thiên Chúa không phải là Đấng cực kỳ cao cả đến nỗi Ngài “cứ để” mình biệt lập trong sự cao cả. Nhà thần bí học Pseudo Dionysius đã nói rằng sự tốt lành có tính cách lan truyền ra khỏi nó. Sự tốt lành không có khuynh hướng tự nghỉ yên nơi chính mình, nhưng tuôn tràn ra với những cảm giác vui sướng. Khi một người nào đó đang hân hoan vui sướng, họ không rút vào phòng để chiêm niệm cho riêng mình. Trái lại, họ thường có khuynh hướng đi ra ngoài, nói cười nhẩy nhót và vui mừng hân hoan với người khác, để chia sẻ cái họ đã tìm thấy. Do đó, Thiên Chúa của chúng ta đầy đủ sự tốt lành, không thể chỉ giữ lại cho riêng Ngài.
Xưa kia thánh Tôma Aquino cũng đã được hỏi rằng Thiên Chúa làm gì suốt ngày, và vị tiến sĩ Hội Thánh đã trả lời: “Ngài vui thích với chính Ngài”. Dĩ nhiên, câu trả lời vắn tắt gọn gàng này hoàn toàn phù hợp với những kết quả tìm kiếm được của Csikzentmihalyi: “Thiên Chúa Ba Ngôi luôn luôn trong sự trôi chảy nhịp nhàng”.
Vũ khúc tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa quá mãnh liệt và tốt lành đến độ đã tuôn chảy tràn lan qua hành động sáng tạo vĩ đại của Ngài. Công đồng Vatican I đã diễn tả rằng Thiên Chúa đang làm chính mình trở nên khác để chia sẻ nguồn vui và sự hoàn thiện của Ngài. Vũ trụ lạ lùng là một bằng chứng cho thấy cái khuynh hướng về người khác của Đấng tạo Hóa, một khuynh hướng không thể nghỉ yên nơi Chính Mình. Thế nhưng, ngọn lửa hoan lạc của Ba Ngôi vẫn chưa được diễn tả một cách đầy đủ chỉ trong sự sáng tạo. Thay vào đó, một hình thức đẹp đẽ với vẻ rực rỡ vinh quang của nó đã được ban cho trong một hành động chưa từng nghe đến của Sự Nhập Thể, một bước nhảy vọt, qua đó Thiên Chúa trở nên một tạo vật. Trong Chúa Giêsu, chúng ta thấy trước mắt một chuỗi những biến cố về sự tuôn tràn của Ba Ngôi Thiên Chúa được trình bày:
Đức Chúa Cha sai Đức Chúa Con đi vào hữu hạn, xác phàm, tội lỗi và sự chết, vào tất cả những cái đang đe dọa và làm chúng ta khinh khiếp, bằng cách mở trái tim của Thiên Chúa ra qua một sự vươn tới của tình yêu. Rồi, trong Đức Chúa Thánh Thần, Đức Chúa Con lại trở về với Đức Chúa Cha, mang theo với Người tất cả thụ tạo. Vũ khúc đã xảy ra từ nguyên thủy, trong niềm hoan lạc đó thế giới đã được tạo dựng, hình thành trong Đức Kitô, với thịt và máu của Người.
Đây là Thiên Chúa mà chúng ta biết. Đây là Thiên Chúa tạo dựng và duy trì chúng ta trong hiện hữu. Đây là Thiên Chúa chúng ta cử hành khi làm dấu thánh giá. Do đấy, chúng ta không ngạc nhiên rằng nguồn vui sâu xa nhất của chúng ta đến từ việc sống “trong sự trôi chảy nhịp nhàng”, vì trong tình yêu hoan lạc mà chúng ta trở nên giống với “Vũ Khúc của Ba Ngôi” nhất.
34. Tình yêu
Một người cha hứa cho đứa con gái 12 tuổi một số tiền nếu cô bé xén sạch đám cỏ trước nhà.
Cô bé vui vẻ mang máy cắt cỏ ra làm việc. Đến chiều, cả đám cỏ đã được cắt xén gọn gàng – ngoại trừ một mảng cỏ tí tẹo còn sót trong góc sân.
Ông bố nói rằng ông không thể trả số tiền đã thỏa thuận, bởi vì đám cỏ chưa được cắt xong. Cô bé cho biết cô sẵn sàng chịu mất số tiền đó và cô nhất định không cắt nốt mảng cỏ còn sót kia.
Tò mò muốn biết lý do tại sao, ông bố kiểm tra chỗ cỏ chừa lại. Hóa ra, ở giữa chòm cỏ ấy, một chú cóc đang ung dung ngồi ngắm cảnh hoàng hôn! Cô bé quá thương con cóc, đã không đành đưa lưỡi dao của máy cắt vào chòm cỏ ấy.
Thiên Chúa là tình yêu. Người đã dựng nên con người cao trọng hơn các loài thụ tạo. Nhưng con người lại bất trung phản bội. Vì yêu thương Thiên Chúa đã không nỡ hủy diệt, lại sai con Một là Đức Giêsu Kitô xuống thế để cứu chuộc con người. Người lại gởi Thánh Thần đến để thánh hóa cho nên tạo vật mới, dẫn đưa họ về hưởng vinh quang Nước Trời. Đó là mầu nhiệm tình yêu mà Ba Ngôi Thiên Chúa đã thương dành cho con người. Vì thế, lễ Chúa Ba Ngôi cũng là lễ của Tình Yêu.
Chỉ những ai sống yêu thương mới được ở trong Thiên Chúa Ba Ngôi.
Chỉ những ai thực thi đức ái mới sống trọn ơn gọi làm con Thiên Chúa.
Chỉ những ai biết sống trao ban mới tìm được nguồn vui đích thực trong Thiên Chúa Tình Yêu.
Nếu Thiên Chúa đã hiến trao con Một của Người để người Con ấy phải chết và để nhân loại được sống, lẽ nào người tín hữu còn sống ích kỷ để giữ lại cho riêng mình những hạnh phúc nhỏ nhoi, tầm thường.
Nếu Thiên Chúa đã muốn chia sẻ hạnh phúc của Ba ngôi, là không muốn cho con người phải chết nhưng được sống hạnh phúc muôn đời, lẽ nào chúng ta đành khép lại con tim để chối từ chia sẻ trao ban.
Được dựng nên theo và giống hình ảnh của Thiên Chúa Tình Yêu, nên ơn gọi đích thực của con người chính là ơn gọi sống yêu thương.
Được cứu độ bằng giá máu của Đức Kitô, nên lẽ sống của người Kitô hữu chính là tha thứ trong yêu thương.
Được thánh hóa bằng sức sống của Thánh Thần, nên cứu cánh của người tín hữu là phải nên thánh nhờ sống yêu thương.
Nhìn mầu nhiệm Ba Ngôi từ góc cạnh của đức mến, tức là nhìn từ lăng kính của tình yêu. Người tín hữu không biết đến yêu thương thì cũng hoàn toàn xa lạ với Thiên Chúa. Vì “Ai không yêu thì không biết Thiên Chúa”. Chỉ những ai dám sống và dám chết cho tình yêu, mới được ở lại trong Thiên Chúa. Chỉ những ai dám tự hiến và trao ban cho anh em mới là những chứng nhân của một Thiên Chúa Tình Yêu.
35. Dòng sông
Hôm nay toàn thể Hội thánh mừng kính trọng thể mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Đây là mầu nhiệm quan trọng nhất của Kitô giáo. Không một ngày nào Hội thánh và mỗi người chúng ta lại không tuyên xưng mầu nhiệm ấy, bởi vì mỗi khi chúng ta làm dấu thánh giá, mỗi khi đọc kinh sáng danh thì đó là lúc chúng ta tuyên xưng mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Nhưng có lẽ chẳng mấy khi ta quan tâm để tìm hiểu xem mầu nhiệm này có ảnh hưởng như thế nào đối với cuộc đời của chúng ta. Bởi vì nói tới các mầu nhiệm, đặc biệt là mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, chúng ta dễ có cảm tưởng đó là những chuyện xa vời và chẳng liên hệ gì tới đời sống của mình. Nhưng không phải thế. Mầu nhiệm nào cũng rất gần gũi và liên hệ mật thiết với đời sống của con người, bởi mầu nhiệm nào cũng là một luồng ánh sáng soi cho chúng ta hiểu rõ thân phận mình và dẫn lối để chúng ta đi tới bến bờ hạnh phúc.
Đối với mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, chúng ta không thể tìm được một hình ảnh, một ngôn từ nào để diễn tả cách chính xác, rõ ràng và đầy đủ được. Tuy nhiên chúng ta có thể tạm dùng hình ảnh một dòng sông để diễn tả ảnh hưởng của mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi trong cuộc đời mình.
Con sông mang dòng nước phù sa đến tưới cho các cánh đồng, cho các vườn cây được tươi tốt và đơm bông kết trái. Dòng sông cũng mang sự sống đến cho con người và mọi loài. Chúng ta thử tưởng tượng nếu một ngày nào đó mình không có chút nước nào để dùng thì cuộc sống sẽ ra sao?
Thiên Chúa Cha chính là cội nguồn của dòng sông, và Người đổ vào dòng sông nguồn nước phù sa mầu mỡ là tình yêu và ân sủng của Người. Chúa Giêsu chính là dòng sông chứa đựng nguồn nước tình yêu và ân sủng ấy. Và Chúa Thánh Thần là sức đẩy để nguồn nước tình yêu chảy đến các tâm hồn.
Như con cá sẽ không sống được nếu nó nhảy ra khỏi dòng sông. Như cây cối sẽ không thể tươi tốt và đơm bông kết trái nếu nó không hút lấy sự sống từ dòng sông mang lại. Càng ở xa dòng sông, cánh đồng càng dễ nứt nẻ và khô cháy. Cũng vậy, con người sẽ không thể sống được nếu tách ra khỏi dòng sông tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa Ba Ngôi. Càng xa rời tình yêu của Thiên Chúa bao nhiêu, con người càng cằn cỗi bấy nhiêu và rồi sẽ chết khô. Bởi đó, sống mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi chính là biết mở lòng mình ra để đón lấy nguồn nước tình yêu và ân sủng của Người, để ta có thể sống và được sống dồi dào. Đón nhận dòng nước là đón nhận Chúa Kitô và tin vào Người. Lời Tin Mừng trong thánh lễ hôm nay dạy ta như thế. “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Mình, để những ai tin vào Người sẽ không phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Mà tin vào Chúa Kitô chính là thể hiện trong đời mình cuộc sống của Người, nghĩa là suy nghĩ, nói năng, hành động và cư xử như Người. Điều Chúa Kitô quan tâm nhiều nhất và đã sống triệt để nhất chính là tình yêu thương. Người yêu Chúa Cha nên thi hành mọi sự theo ý Cha. Người yêu con người nên chấp nhận chết để cho con người được sống.
Yêu Chúa và yêu người, đó chính là ta đang sống mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi vậy.
36. Sống hoà nhịp
Ngày kia, có một người nông dân đi lên thành phố. Khi đang đi bộ trên một con đường đông đúc, thì đột nhiên, anh ta nói với một người bạn cùng đi với mình: “Tôi có thể nghe được tiếng kêu rúc rích của một con dế”. Người bạn của anh ngạc nhiên và hỏi: “Làm sao mà anh lại có thể nghe được tiếng dế, giữa tất cả những tiếng động ồn ào này?”
Người nông dân đáp lại: “Bởi vì hai tai của tôi hòa nhịp được với tiếng dế”.
Thế rồi anh ta lại càng cố tình lắng nghe nhiều hơn, và dõi theo âm thanh đó, anh đã tìm ra được một con dế đang bò trên bờ cửa sổ. Người bạn của anh không thể nào làm được điều này. Nhưng người nông dân không hề tỏ ra ngạc nhiên. Thay vào đó, anh móc vài đồng xu từ trong túi áo ra, và ném chúng xuống lề đường. Khi nghe được tiếng leng keng của mấy đồng xu, những người qua đường liền ngừng lại nhìn theo dấu vết của chúng.
Người nông dân nói: “Bạn hiểu ý tôi chứ: Không có ai trong số những người này có thể nghe được tiếng dế, nhưng tất cả bọn họ đều có thể nghe được âm thanh của tiền bạc. Người ta nghe được cái gì hòa nhịp với hai tai của họ, và không thể nghe được tất cả những thứ còn lại”.
Điểm cần ghi chú ở đây khá rõ ràng: Nếu ít bị lo lắng phiền muộn, chúng ta có thể hòa nhịp với Thiên Chúa. Voltaire đã nói: “Ngay khi mở đôi mắt của mình ra, thì tự nhiên, người ta thừa nhận được sự hiện hữu của Thiên Chúa”. Và Abraham Lincoln đã nói: “Tôi có thể nhận thấy con người có thể nhìn xuống mặt đất, và trở nên một người vô thần ra sao, nhưng tôi không thể tưởng tượng được làm thế nào mà người ta có thể nhìn lên bầu trời, và nói rằng không hề có Thiên Chúa”.
Khi nhìn vào sự vật nào đó hoặc người khác, người ta sẽ nhận biết ngay rằng những sự vật này không tự hiện hữu được, mà chính là nhờ Thiên Chúa. Tương tự như một căn nhà phải có người xây dựng ra nó, một cái áo do người may, một cánh cửa do thợ mộc. Như vậy, thế giới chứng tỏ rằng phải có Thiên Chúa, Đấng Tạo hóa.
Khi nhìn vào một công trình nghệ thuật, không thể nào bạn không nghĩ đến người nghệ sĩ. Nhìn vào thế giới tạo vật, mà không nhận thấy Đấng Tạo hóa, chính là mù quáng, không thấy được ý nghĩa của toàn thể công việc sáng tạo, và ý nghĩa sự hiện hữu của bản thân mình. Tuy nhiên, thật đáng buồn là có nhiều người nhìn, mà vẫn không thấy gì. Họ lắng nghe, mà vẫn không nghe được gì. Đức Giêsu đã nói về Thiên Chúa, như là một người Cha đầy lòng xót thương và khoan dung. Người nói về chính mình, với tư cách là Con của Cha, và Người gửi Chúa Thánh Thần đến với chúng ta, để trợ giúp chúng ta sống tư cách người môn đệ và con cái của Thiên Chúa.
Chúng ta đang trực diện với một mầu niệm vĩ đại. Tuy nhiên, bất cứ người con nào cũng đều có thể thấu hiểu, bằng cách cầu nguyện và sống mầu nhiệm này. Chúng ta nghĩ đến Thiên Chúa như là một người Cha (và người Mẹ), một người Cha yêu thương chúng ta một cách sâu sắc. Chúng ta nghĩ đến Đức Giêsu như là một người Anh, Đấng hiến tặng cho chúng ta chính cuộc đời của Người. Và chúng ta nghĩ đến Chúa Thánh Thần như là một người Bạn. Đấng trợ giúp chúng ta sống theo Đức Giêsu, và liên kết chúng ta với nhau, như là anh chị em trong một cộng đoàn của lòng tin và tình yêu thương. Với tư cách là những người Kitô hữu, đây là bầu khí mà trong đó chúng ta sinh sống, di chuyển và hiện hữu.
37. Đủ ánh sáng chưa?
Bà Rose đã viết thư cho bà Abby như sau, "Chào bà Abby, năm nay tôi đã 40 tuổi và tôi mong muốn tìm được một người đàn ông chạc tuổi của tôi, nhưng ông ấy không được có những tất xấu." Sau đó, bà Abby đã trả lời cho bà Rose như sau, "Kính thưa bà Rose, đó là người đàn ông mà tôi cũng mong muốn để tìm." Một điều hiển nhiên là cả hai bà Rose và Abby sẽ không bao giờ tìm được người đàn ông hoàn hảo mà họ hằng luôn mong muốn bởi vì người đàn ông hoàn hảo đó không hiện hữu trên thế gian này. Tất cả loài người chúng ta đều có những khuyết điểm. Nói theo tiếng của Thánh Kinh là chúng ta là kẻ có tội
Vậy thì chúng ta đi đâu để mà tìm được một con người hoàn hảo? Hôm nay Giáo Hội giới thiệu cho chúng ta một Đấng hoàn hảo mà tất cả chúng ta có thể tin tưởng, cậy trông, và phó thác trót cả cuộc đời chúng ta cho Ngài. Đó là Thiên Chúa Ba Ngôi.
Giáo Hội đặt bài đọc Phúc Âm hôm nay vào ngày Lễ này thật là có ý nghĩa bởi nó nhắc đến cả Ba Ngôi Thiên Chúa. Bài Phúc Âm hôm nay kể cho chúng ta mẩu đổi thoại giữa Chúa Giêsu và ông Nicôđêmô. Ông Nicôđêmô là một trong đám người Pharisiêu đã nhận ra sự siêu nhiên ở con người Chúa Giêsu. Ông đã đến với Chúa Giêsu để tìm câu trả lời cho những thắc mắc của mình. Bắt đầu cuộc đối thoại, Chúa Giêsu đã khuyên Nicôđêmô rằng nếu ông muốn chiếm được Nước Trời ông phải được sinh lại trong nước và Thần Khí. Chúa Giêsu còn nói với Nicôđêmô, "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài... Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ" (Jn 3:16-17).
Qua bài Phúc Âm này, chúng ta thấy sự hiện diện của cả Ba Ngôi Thiên Chúa: Chúa Cha yêu thương thế gian nên đã sai Con Ngài xuống thế gian, Chúa Con xuống thế gian để cứu chuộc nó, và Chúa Thánh Thần là Thần Khí ban sự sống. Nhận xét một cách kỹ lưỡng, chúng ta thấy sứ mệnh của Ba Ngôi Thiên Chúa đều qui về một điểm đó là: yêu thương loài người chúng ta và muốn ban ơn cứu độ chúng ta để chúng ta có thể hưởng vinh quang Nước Trời.
Suy niệm về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta rút ra được bài học mà Chúa Giêsu đã nói với ông Nicôđêmô trong bài Phúc Âm hôm nay: "Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian không phải để lên án, nhưng để nhờ Con của Người, mà được cứu độ". Chúa Giêsu đến không phải để lên án thế gian nhưng để thể hiện tình thương của Thiên Chúa đối với thế gian. Ngài đã trở nên giá chuộc thế gian. Chúng ta phải tránh không lên án bất cứ ai nhưng hãy yêu thương người khác.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã kết thúc với câu, "Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ là: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa" (Jn 3:21).
Ánh sáng ở đây phải hiểu như thế nào? Một Thầy Rabbi đã hỏi các học sinh của mình câu hỏi này, "Trong đêm tối, thế nào mới là có đủ ánh sáng?" Một học sinh trả lời, "Khi có thể nhìn thấy và phân biệt được rõ ràng được con vật đang ở trước mặt con là con chó hay con chó sói". Một học sinh khác trả lời, "Khi con có thể phân biệt được cái cây ở trước mặt con là cái cây gì." Một học sinh khác trả lời, "Khi con gần bước tới một cái hố mà con bất chợt nhận ra nó và ngừng bước". Sau đó, Thầy Rabbi mới nói, "Đây là câu trả lời đúng nhất mà Thiên Chúa đã nói với chúng ta: Có đủ ánh sáng có nghĩa là khi chúng ta có thể nhìn thấy khuôn mặt của người khác là những khuôn mặt của người anh em chúng ta."
Xin cho chúng con biết sống trong sự yêu thương bác ái. Chúng con xin tuyên xưng đức tin một Chúa Ba Ngôi: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen.
38. Chúa Nhật Lễ Chúa Ba Ngôi
(Giảng lễ thiếu nhi – Lm. Giuse Nguyễn Quốc Việt CSsR)
Hôm nay chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội long trọng mừng lễ Chúa Ba Ngôi, nhưng Chúa Ba Ngôi là sao? Ai có thể trả lời được?... Là Một Thiên Chúa có Ba Ngôi, Ngôi thứ nhất là Cha, Ngôi thứ hai là Con, Ngôi thứ ba là Thánh Thần. "Chúa Cha là gì thì Chúa Con là thế ấy, Chúa Con là gì thì Chúa Cha là thế ấy, và Chúa Cha và Chúa Con là gì thì Chúa Thánh Thần là thế ấy." (GLCG số 253). Vì sao có Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần mà không phải là ba Thiên Chúa nhưng chỉ một Thiên Chúa? Phải giải thích thế nào đây, có bạn nào giúp cha không?...
Tèo và Tí là đôi bạn thân học chung lớp tại trường Nguyễn Trường Tộ. Tí là người Công Giáo, còn nhà Tèo thờ Phật. Có lần Tèo đến chơi ngay lúc Tí đang học bài giáo lý "Chúa Ba Ngôi", chuẩn bị cho cuộc thi "Em hiểu Lời Chúa" do cha xứ tổ chức trong trại hè năm ấy. Tèo vừa nghe liền thắc mắc hỏi Tí: "Làm sao mà một có ba, mà ba lại chỉ có một được hả Tí?" Nếu có bạn nào đó hỏi chúng con về mầu nhiện Chúa Ba Ngôi như Tèo hỏi Tí, chúng con có trả lời được không?... Tí trả lời với Tèo là "được". Tí nói: "Cũng như một tam giác đều có ba cạnh bằng nhau nhưng chỉ có một tam giác thôi. Hay bạn xem ngón tay của mình nè. Một ngón có ba đốt, ba đốt nhưng chỉ có một ngón tay thôi." Tí trả lời như thế tốt lắm nhưng không cho biết gì về ý nghĩa của mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm trọng tâm của đức tin Kitô giáo.
Có truyền thuyết kể rằng thánh Augustinô, một vị thánh lớn của Giáo Hội, sống vào thế kỷ thứ tư. Ngài rất thông thái, đã viết nhiều cuốn sách về Đạo, đặc biệt là cuốn "Tự Thuật". Ngài đã cố gắng suy nghĩ để tìm cách giải thích tại sao một Thiên Chúa có Ba Ngôi, mà Ba Ngôi lại chỉ có một Thiên Chúa chứ không phải là ba Thiên Chúa. Một hôm, ngài đi dạo trên bờ biển đẹp. Ngài thấy một em nhỏ đào cái lỗ trên bãi cát dài bị những cơn sóng xô lên đập xuống phẳng lì một màu trắng ngà rất xinh. Em cầm chiếc vỏ sò liên tục múc nước biển đổ vào lổ. Nước thấm nhanh xuống cát chẳng để lại dấu vết gì. Em bé cứ mãi miết làm chẳng để ý chung quanh. Có cái gì đó thúc đẩy, thánh Augustino bước tới hỏi em bé: “Con đang làm gì vậy?” Em bé ngước mặt lên nhìn thánh Augustino và nói: “Con có thể múc hết nước biển đổ vào cái lỗ này, còn ngài, ngài không thể hiểu hết về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi." Thánh Augustinô sững sờ! Tại sao một em thiếu nhi lại biết được mình đang nghĩ gì? Đến khi thánh nhân bình tĩnh trở lại thì không còn thấy em bé nữa, và người ta coi đó như là thiên thần đến nhắc nhở thánh Augustino về sự siêu vời vượt quá trí tuệ con người của mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.
Tìm cách giải thích mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi có cái hay, là qua đó cho thấy, niềm tin vào Mầu nhiệm không mù quáng; xét về phương diện lý trí, cuộc sống có rất nhiều hình ảnh cho chúng ta hiểu được phần nào. Tuy nhiên, điều quan trọng không phải là tìm cách giải thích: “Một mà Ba, Ba mà Một”, nhưng là lắng nghe Lời Chúa để biết Thiên Chúa Ba Ngôi đối với chúng ta thế nào.
Các con có nhớ bài đọc thứ nhất trích từ sách gì không?... "Sách Xuất Hành." Đúng rồi. Con giỏi lắm! Tác giả sách thánh kể, có một hôm, ông Mô-sê thức dậy lên núi Xinai theo lệnh của Đức Chúa. Chúa hiện ra với ông. Chúa nói gì?... Chúa giới thiệu về Chúa, Chúa đi qua trước mặt ông Môsê và nói to: “Đức Chúa! Đức Chúa! Thiên Chúa nhân hậu, từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín.”
Còn bài đọc hai trích từ sách nào?... "Từ thứ hai của thánh Phaolô Tông Đồ gởi tín hữu Côrintô". Con giỏi!... Trong đó, thánh Phaolô nói cho chúng ta biết như thế này: “Thiên Chúa là nguồn yêu thương và bình an, sẽ ở cùng anh em.” Khi gần kết thúc bài đọc, chúng ta nghe thánh Phaolô nói thêm: “Cầu chúc toàn thể anh em được đầy tràn ân sủng của Chúa Kitô, đầy tình thương của Thiên Chúa và ơn hiệp thông của Chúa Thánh Thần." Nếu trong bài đọc một, chúng ta chỉ được biết về Đức Chúa là Thiên Chúa "nhân hậu, từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín” thì trong bài đọc hai, chúng ta được thấy một cách rõ ràng về Ba Ngôi Thiên Chúa. Chúa Cha là nguồn tình thương và bình an, Chúa Giêsu là nguồn ân sủng tức là nguồn ơn cứu độ vô tận ban cho con người, Chúa Thánh Thần là ơn hiệp thông có nghĩa là nối kết chúng ta lại với nhau và với Chúa. Như thế, mỗi Ngôi mỗi cách nhưng đều chung một điểm là yêu thương ta. Do đó, trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe công bố, thánh Gioan Tông Đồ đã nói: “Thiên Chúa yêu....” Ai nhớ đọc tiếp giúp cha?... “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời."
Như vậy, cả 3 bài đọc trong Thánh lễ hôm nay đều nói cho chúng ta biết: Chúa Cha thương chúng ta, Chúa Con tức là Chúa Giêsu thương chúng ta và Chúa Thánh Thần thương chúng ta, Ba Ngôi Thiên Chúa cùng thương chúng ta. Nhưng cha hỏi thật các con nhé: các con có thấy Chúa thương mình không? Con thấy Chúa thương con thế nào?... Cha thấy Chúa thương cha, vì hồi đó cha thích đi tu mà cha cứ sợ cha tu không được. Vậy là cha cầu nguyện, cha đi, cuối cùng cha tu được. Chúa nhậm lời cha nên cha thấy Chúa thương cha. Hay như bạn Thảo chia sẻ, bạn ấy thấy Chúa thương bạn vì nhờ ơn của Chúa mà kỳ thi vừa rồi bạn được điểm cao. Bạn Tuấn thì cảm nhận Chúa thương gia đình mình khi mẹ được ơn Chúa thoát qua cơn bệnh hiểm nghèo. Tất cả những cảm nhận đó rất quí, nhưng thấy Chúa thương mình khi mình được ơn là bình thường. Độc đáo hơn làthế này: cách đây không lâu cha vào bệnh viện thăm một bệnh nhân. Người ấy kể cho cha nghe cơn đau của bệnh ung thư khủng khiếp như thế nào, đến độ cha nghe cũng cảm thấy sợ! Nhưng có điều rất lạ; người ấy vừa kể mà cứ nói cám ơn Chúa, Chúa thương cho mình sức chịu đựng. Cha khâm phục một đức tin như thế!... Tuy nhiên, đó cũng chưa phải là ơn quí nhất mà Chúa Ba Ngôi dành cho chúng ta.
Ơn quí nhất, tình thương lớn nhất mà Chúa Ba Ngôi dành cho chúng ta là gì các con biết không?... Là Ba Ngôi Thiên Chúa bao bộc cuộc sống của ta. Con người khi mới sinh bé xíu, rồi lớn lên thành người lớn, thêm tuổi nữa thì già và cuối cùng là chết. Chết là hết phải không chúng con?... Không! Chết là về với Chúa. Vậy cuộc đời của người Kitô hữu là con đường về nhà Cha trên Trời. Nói một cách chính xác thì mỗi ngày trong cuộc sống Chúa Giêsu dẫn ta về, Chúa Cha đang đứng đợi, Chúa Thánh Thần ban sức để ta đi. Đây chính là ơn quí nhất Thiên Chúa ban cho chúng ta, và đây cũng chính là ý nghĩa của mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi trong đời sống chúng ta.
Quí ÔBACE, và các em thiếu nhi thân mến. Tạ ơn Chúa đã mạc khải cho chúng ta biết mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, một khi hiểu về ý nghĩa của Mầu Nhiệm dựa trên Lời Chúa thì thái độ sống của chúng ta cần thiết thế này: Vì Chúa Cha đang đợi nên em luôn cầu nguyện. Vì Chúa Giêsu dẫn đường nên phải theo Ngài sát, đừng làm gì khác với Ngài. Vì Chúa Thánh Thần ban sức nên em luôn xin Ngài sức mạnh để thực hiện lời Chúa Giêsu. Amen.
39. Ba Ngôi: Tình Yêu Trao Ban
(Bm. Minh Trân)
Dịp lễ giới trẻ, Tony và mấy người bạn xin đóng góp một nhạc phẩm cho tiết mục văn nghệ với tựa đề: "Greatest love of all" của ca sĩ Whitney Houston. Tuy hay nhưng thiệt là xui vì lời nhạc đã không được các thầy đồng ý. Bản nhạc định nghĩa tình yêu cao cả nhất là học sao cho biết để yêu mình (learning to love yourself, it is the greatest love of all). Ngược hẳn với lời Chúa dạy: "Tình yêu cao cả nhất là chết cho người mình yêu."
Thật thế, trao ban chính là yêu sách của tình yêu. Càng yêu thì càng trao ban. Và bao lâu ngừng trao ban là bấy lâu ngừng yêu. Thánh Gioan trong bài Phúc Âm hôm nay đã khẳng định với chúng ta điều đó. Rằng yêu là trao ban; và chính Thiên Chúa là Tình Yêu; ngài đã trao ban chính Con Một Người cho chúng ta, để chúng ta được sống đời đời. Ở đây chúng ta thấy có 2 điểm:
Điểm thứ nhất là về việc Chúa trao ban. Chúng ta thấy mặc dù Phúc Âm thánh Gioan không qui hướng vào cái chết của Chúa Giêsu như một việc hiến tế như Phúc Âm nhất lãm (Mát-thêu, Mát-cô, và Luca). Tuy nhiên, việc diễn tả "Thiên Chúa đã ban Con Một Ngài" (3:16) có thể hiểu được như nói đến việc hy hiến của Chúa Giêsu vậy (xem Gal 1:4; 2:20; Rom 8:32). Thiên Chúa đã cho chúng ta hết tất cả khi Ngài trao ban Con Một Ngài hay đúng ra là trao ban chính Ngài. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi mà Giáo Hội hôm nay long trọng mừng kính đã minh chứng điều đó.
Lý do nào đã thúc đẩy tình Chúa yêu ta đến thế? Thánh Gioan đã nói rõ. Đó là, để chúng ta được sống đời đời. Và đó là điểm thứ hai mà chúng ta cần xét đến. Theo thần học thánh Gioan, ngày cánh chung được trình bày rõ ràng nơi sự liên hệ giữa việc tin vào Con Một Thiên Chúa và sự sống đời đời. Để được sống đời đời, điều kiện cần có là tin vào Con Một Thiên Chúa. Ai không tin thì bị hư mất.
Càng yêu thì càng cho, càng thích cho, càng muốn cho, và càng xoay dở tìm đủ mọi cách để cho. Mặc dù cho là mất, nhưng khi đã yêu rồi thì mất cũng chẳng thấy tiếc. Nếu không dám nói là càng cảm thấy sung sướng khi được mất đi. Cái này thì có lẽ quí anh chị đang ở trong lứa tuổi mắt có khói cảm nghiệm rõ hơn ai hết. Leo lên mạng Internet cả đêm mà vẫn thấy còn sung sức. Thẻ điện thoại quăng vào sọt rác hết cái này đến cái khác mà cũng chẳng tiếc xót... ngày quên ăn, hay đúng ra là cố quên ăn để giữ eo... đêm thì cứ thổn thức bóng hình ai... rồi lại nhớ nhung mơ mộng suốt đêm dài... ai da...
Sống cho tha nhân và chết cho tha nhân không phải là điều dễ. Đây là một ơn Chúa ban. Đây là một ơn gọi cao quí mà Chúa vẫn hằng luôn kêu mời chúng ta đáp trả. Ba Ngôi Thiên Chúa đã yêu, đã trao ban chính Ngài cho chúng ta, và muốn chúng ta cũng dâng hiến chính mình cho Ngài và trao ban cho tha nhân.
Mẹ Têrêsa Calcutta tâm niệm: "Khi tôi chia sẻ, khi tôi trao ban cho tha nhân một cái gì làm tôi cảm thấy mất mát, đau khổ thì sự chia sẻ của tôi mới có giá trị. Tôi không chia sẻ và trao ban những cái dư thừa, ba cái lẻ tẻ, mà chính là trao ban chính tôi, con người và tâm hồn tôi."
40. Mầu nhiệm hiệp thông
Anh chị em thân mến,
Hôm nay chúng ta mừng kính một mầu nhiệm cao cả, cũng là một mầu nhiệm thách đố trí tuệ loài người. Chúng ta biết rằng mầu nhiệm là một điều con người không thể đạt thấu bằng trí tuệ, nhưng lại có thể cảm nghiệm bằng đức tin, bằng lòng mến, bằng sự hiệp thông chân thành yêu mến với Thiên Chúa, nhất là khi Chúa muốn ban cho ta hồng ân đó. Xin được chia sẻ một vài suy niệm hết sức thô thiển, nhân ngày đại lễ hôm nay. Kính mời cùng suy niệm….
a/. Câu hỏi ta sẽ nêu trước hết, Thiên Chúa Ba Ngôi là gì? Thưa đó chính là một mầu nhiệm; vì thế qua bao thế kỷ, đây vẫn còn là một câu hỏi thách thức trí tuệ con người; và cho đến ngày tận thế cũng vẫn luôn là một dấu hỏi lớn. Dù vậy con người biết chắc rằng mình đang sống trong mầu nhiệm đó. Ai cũng sống trong dòng đời, nhưng mấy ai hiểu rõ được dòng đời? Ai cũng cảm nghe được điệu nhạc, nhưng không thể lấy ra cho người ta xem được. Con cá đang sống trong nước, nếu bắt nó ra khỏi nước, nó sẽ chết. Tách biệt con người khỏi dòng đời, con người sẽ không tìm thấy hạnh phúc. Mỗi nốt nhạc khi đánh lên riêng rẻ, chỉ là một âm thanh trơ trọi, không thành bài ca. Một ca khúc sống động chính là một sự kết hợp các nốt nhạc trôi chảy, nhịp nhàng. Mầu nhiệm Thiên Chúa không phải là một vấn đề để con người nghiên cứu, cân đo bằng trí tuệ giới hạn. Nếu ta chỉ học về Thiên Chúa để làm giàu thêm kiến thức, thì Thiên Chúa vẫn luôn là một vị thần xa lạ. Nếu niềm tin của ta chỉ dựa vào những công thức máy móc, những cách cầu nguyện vô hồn, Thiên Chúa vẫn luôn xa lạ với con người chúng ta. Mầu nhiệm Ba Ngôi chính là lời mời gọi hiệp thông trong tình yêu, là tham dự vào sức sống thần linh của Thiên Chúa. Hiểu được điều này, có làm cho chúng ta kinh ngạc không?
b/. Ba Ngôi Thiên Chúa có phải là một mầu nhiệm tình yêu, và luôn muốn đồng hành với con người không? Thưa phải. Ngay từ khi tạo dựng con người, Thiên Chúa luôn yêu thương, vẫn ở bên họ, luôn muốn đồng hành với họ. Kinh thánh thuật lại: chiều chiều Thiên Chúa đi dạo trong vườn và đàm đạo với Adam, Evà. Thiên Chúa cũng ban cho con người quyền làm chủ cá biển chim trời, vì Chúa luôn muốn con người được hạnh phúc như Chúa….Khi Môisen dẫn dân Do Thái ra khỏi đất Ai cập, Thiên Chúa vẫn luôn ở với họ: ban ngày là cột mây, ban đêm là cột lữa trên đầu họ…Sau đó, bao nhiêu lần dân chúng phản bội, bị phạt; rồi họ ăn năn chạy tới cầu khẩn Môisen, cầu khẩn Chúa, Chúa vẫn luôn tỏ ra dung mạo Người là Đấng đầy lòng yêu thương, luôn đồng hành với họ…Dù vậy, những bí ẩn muôn đời của Thiên Chúa chỉ được bày tỏ trọn vẹn qua Con Người và cuộc đời của Đức Kitô làm người. Với Đức Kitô, Ba Ngôi Thiên Chúa được gọi là Tình Yêu, Đấng luôn yêu thương và muốn đồng hành với con người. Với Đức Kitô, mầu nhiệm sâu thẳm về Ba Ngôi không còn là bức tường thành kiên cố, bất khả xâm phạm, nhưng lại là nhịp cầu nối liền trời với đất. Mấu nhiệm Ba Ngôi khi xưa là Thiên Chúa vô hình, nay trở nên bằng xương bằng thịt, nay trở nên là Đấng Cứu thế đầy lòng yêu thương, luôn cảm thông và đồng hành với con người, sẵn sàng cùng vui với tiệc cưới Cana, cảm thấy đau xót trước bệnh tật, trước nạn ma quỉ ám ảnh của dân chúng, và cũng khóc thương với Ladarô bạn thân, vì anh này đã chết. Với Đức Kitô, Thiên Chúa đó sẵn sàng cảm thông ngay cả tội lỗi, yếu đuối của con người, đã dang rộng cánh tay trên thánh giá để mở rộng cửa trời, ôm ấp cả nhân loại về cho Thiên Chúa.
c/. Mầu nhiệm của Ba Ngôi có phải còn là lời mời gọi hiệp thông giữa Thiên Chúa và con người? Có phải cũng là lời mời gọi con người sống bằng sức sống của Thiên Chúa sáng tạo và đổi mới không? Thưa phải. Đức Kitô đã nói: “Thầy là cây nho, chúng con là cành, là nhánh..” Người Kitô hữu khi được tham dự vào sự hiệp thông, vào sức sống của Thiên Chúa, họ phải sẵn sàng bỏ qua tính ganh tị, tính loại trừ, chia rẻ nhau để xây dựng tình huynh đệ trong Thiên Chúa, y như hình ảnh nhánh nho, muốn được tháp chặt vào Thân Nho, nó phải loại bỏ nhựa của chính mình, để chỉ hút nhựa từ Thân Nho mà thôi. Ngược lại, nhánh nào không hút nhựa từ Thân Nho, nó phải khô héo và phải chết…
Người đời có nói: “Đừng phàn nàn cà phê đắng, có thể tại vì đường của bạn chưa đủ ngọt”. Nếu đường chúng ta đã đủ ngọt và cà phê không còn đắng nữa, đó là lúc ta khám phá ra dung mạo rạng ngời của Ba Ngôi Thiên Chúa, cũng là lúc Thiên Chúa ban cho ta được tham dự vào sự hiệp thông thần thánh, đầy yêu thương, cũng là lúc ta sống bằng chính sức sống của Thiên Chúa Ba Ngôi sáng tạo và đổi mới trong một nền văn minh tình thương.
d/. Gợi ý sống và chia sẻ: nhân ngày mừng kính Thiên Chúa Ba Ngôi, ta có nhận ra rằng: lời mời gọi sống hiệp thông của Ba Ngôi Thiên Chúa, thúc bách chúng ta mở rộng tâm hồn mình ra với thế giới và với mọi người chung quanh, để cố gắng xây dựng xã hội, gia đình chúng ta hôm nay, thành nền Văn minh Tình thương như ý Ba Ngôi mong muốn không?
41. Chúa Ba Ngôi
(Lm. Quang Diệm)
Thánh Augustinô, một hôm ra bãi biển đi đi lại lại suy gẫm miên man về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Bỗng thánh nhân thấy một em bé lấy vỏ sò rồi cứ múc nước biển đổ vào lỗ cáy. Thánh nhân ngạc nhiên nói với em nhỏ đó: "Này em, sao em làm việc gì kỳ vậy, làm sao em có thể đổ hết nước biển vào lỗ cáy này được?" Em bé trả lời: "Múc hết nước biển đổ vào lỗ cáy còn dễ hơn việc Ngài đang suy để hiểu về màu nhiệm Chúa Ba Ngôi." Nghe vậy, thánh nhân chưng hửng và hiểu ra rằng, Chúa đã sai một thiên thần hiện ra thành một em nhỏ để giúp thánh nhân hiểu rằng tự sức con người không thể dùng trí khôn riêng mình để suy và hiểu rõ về màu nhiệm Chúa Ba Ngôi.
Màu nhiệm Chúa Ba Ngôi được bày tỏ dần dần theo thời gian. Ngôi Cha được bày tỏ cho Dân Do Thái trong Cựu Ước. Trong thời gian này, Chúa tỏ cho Dân Chúa biết Ngài là "Cha chúng ta" và cũng là "Cha tôi". Do đó mọi người Do Thái đều tin rằng họ là con cái Chúa. Nhưng từ khi Đức Kitô là Ngôi Con đến, thì ý nghĩa đầy đủ về Thiên Chúa là Cha mới được rõ ràng. Ngài tỏ cho thấy Ngài là Con Một của Chúa Cha. Sự thân tình giữa Ngài và Chúa Cha được diễn tả dưới danh hiệu Abba: Nghĩa là "Lạy Cha." Từ Abba theo tiếng Do Thái là từ mà trẻ con dùng để nói với ba nó một cách thân tình; giống như tiếng "daddy" của tiếng Anh vậy.
Trong mối thân tình với Chúa Cha, Chúa Kitô cho chúng ta thấy Ngài và Chúa Cha là một. Ngôi Cha không có tuổi tác, và Ngôi Con cũng không lớn lên hay phụ thuộc. Đấng Bằng Nhau sinh ra Đấng Bằng Nhau giống như ngọn lửa sinh ra ánh sáng. Nhưng ngọn lửa lại khác với ánh sáng sinh ra nó. Thực vậy, ngọn lửa tác sinh không sinh ra bởi ánh sáng được tác sinh. Cả hai cùng bằng nhau, cùng hiện hữu, nhưng ánh sáng sinh ra khác với ngọn lửa.
Nói về Chúa Thánh Thần trong Ngôi Ba Thiên Chúa thì được Chúa Kitô cho thấy là Ngài là Thần Chân Lý, là Đấng yên ủi. Trong tương quan của Ngài với Chúa Cha và Chúa Con, chúng ta có thể dùng hình ảnh về hơi ấm phát sinh từ ngọn lửa và ánh sáng. Không hề có ngọn lửa mà không kèm theo ánh sáng và hơi ấm. Sự ấm áp khác với ngọn lửa và ánh sáng, nhưng nó lại cùng hiện hữu với ngọn lửa và ánh sáng. Không có chuyện ngọn lửa hay ánh sáng, hay hơi ấm sinh ra bởi nhau. Vì chúng đều đồng hành với nhau. Hình ảnh này cho thấy Ngôi Cha, Ngôi Con, và Ngôi Thánh Thần luôn bằng nhau, không ngôi nào hơn, không ngôi nào kém.
Sự hiệp thông thân thương giữa Ba Ngôi Thiên Chúa còn có tính cách lan toả. Tự bên trong bản tính thần linh Chúa chiếu toả và đổ tràn tình thương của Ngài qua việc sáng tạo muôn loài, trong đó có chúng ta. Do tình thương yêu Chúa đã dựng nên chúng ta qua trung gian thụ tạo của Ngài là cha mẹ chúng ta. Đó là nói về việc Chúa sáng tạo bởi lan toả.
Còn nói về việc tái tạo chúng ta thì như thế nào? Từ khi Chúa Kitô làm người, chịu nạn, chịu chết và sống lại, chúng ta được tái tạo nên giống hình ảnh Thiên Chúa ngày càng rực rỡ hơn nhờ tác động của Chúa Thánh Thần. Qua tác động của Chúa Thánh Thần, chúng ta được biến tan trong Chúa như người yêu biến thành Đấng được yêu. Chúng ta sẽ trở nên thần linh, trở nên Chúa do sự tham phần vào bản tính của Ngài. Sự hợp nhất này hoàn hảo đến nỗi tất cả những gì Thiên Chúa có thì linh hồn chúng ta có. Nghĩa là chúng ta được biến hoá để đạt tới sự sung mãn cuối cùng là sự thánh thiện.
Nhưng con đường duy nhất để trở nên trọn lành thánh thiện và hạnh phúc với Chúa Ba Ngôi là sự từ bỏ mình. Đó là con đường Chúa Kitô đã đi qua trước khi sống lại và lên trời vinh hiển. Chúa Kitô đã từ bỏ mình, bằng cách nhận lấy bản tính loài người và làm cho bản tính ấy dần dần biến cải trong bản tính Thiên Chúa của Người. Sự biến cải đó đạt tới tuyệt đỉnh qua cái chết của Ngài. Nhờ đó Ngài đã trở thành hoàn toàn là Thiên Chúa và hoàn toàn là loài người.
Ở trần gian này mỗi người chúng ta cũng phải trải qua con đường từ bỏ để đạt được vinh quang sau này trên trời. Đức Kitô đã từ bỏ mình, đã sống lại và lên trời vinh hiển thì chúng ta cũng phải giống như Người trong việc từ bỏ những gì chưa biến cải thành Thiên Chúa. Xin Mẹ Maria là cung thánh của Chúa Ba Ngôi giúp chúng ta biết sống cuộc đời quên mình trong các việc bổn phận hằng ngày để trở nên giống Chúa hơn. Nhờ đó chúng ta càng ngày càng biến đổi và đạt được cùng đích cuối cùng đời người là kết hợp với Chúa Ba Ngôi sau này trên thiên đàng.
42. Kẻ nội thù
Trong một gia đình gồm bảy hay tám người, thế nhưng chỉ có một người cha là gia trưởng. Trong một nhà máy gồm hàng trăm thợ thuyền, thế nhưng, chỉ có một ông giám đốc để điều hành. Trong một sư đoàn gồm cả ngàn binh lính, thế nhưng, chỉ vó một vị tướng để chỉ huy. Trong một quốc gia gồm hàng triệu người dân, thế nhưng, chỉ có một ông tổng thống để cai trị.
Cũng vậy, chỉ có một Thiên Chúa là chủ tể, là vị vua tối cao, đã an bài và sắp xếp mọi sự. Ngoài Ngài ra, không còn một thần minh nào khác. Đó là một sự thật tương đối dễ hiểu và dễ tin. Tuy nhiên đã từ lâu, mỗi khi làm dấu thánh giá hay đọc kinh Sáng danh. chúng ta vốn hằng tuyện xưng: Thiên Chúa ấy lại có Ba Ngôi. Chúa Cha là Thiên Chúa. Chúa Con cũng là Thiên Chúa và Chúa Thánh Thần cũng lại là Thiên Chúa. Thế nhưng, cả ba chỉ là một Thiên Chúa vì cùng chung một bản tính. Đó là một màu nhiệm vượt ngoài khả năng hiểu biết của chúng ta.
Người ta đã cố gắng đưa ra những hình ảnh để sánh ví. Chẳng hạn hình ảnh về mặt trời. Phải, mặt trời là một khối lửa, vừa tỏa sáng vừa đem lại sức nóng. Lửa, sáng và nóng, ba đặc tính này cũng chỉ làm nên một mặt trời mà thôi. Chẳng hạn một cây hồng gồm rễ, thân và hoa. Thế nhưng, cả ba phần nay cũng chỉ làm thành một cây hồng mà thôi. Chẳng hạn như nước, có thể ở ba trạng thái khác nhau, lỏng như nước lã, đặc như nước đá, khí như hơi nước. Thế nhưng, cả ba trạng thái này cũng chỉ là nước mà thôi.
Tuy nhiên, những so sánh trên chỉ là những hình ảnh quá mờ nhạt, nếu không muốn nói là què quặt và lệch lạc, khã dĩ bóp méo cả sự thật mà chúng ta đã tin theo. Trí khôn và ngôn ngữ của con người thì quá nghèo nàn, không thể nào hiểu thấu và diễn tả nổi về màu nhiệm cao cả này, như trường hợp của thánh Augustinô: Múc cả nước biển mà đổ vào chiếc lỗ nhỏ còn dễ hơn là suy nghĩ về Chúa Ba Ngôi.
Sởi dĩ chúng ta tin, đó là vì chính Chúa Giêsu đã tỏ lộ và truyền dạy. Thực vậy, khi Ngài chịu phép rửa của Gioan ở sông Giócđan, Phúc âm đã kể lại: Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên Ngài và từ trời có tiếng phán: Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng. Qua đó, chúng ta thấy có đủ Ba Ngôi: Chúa Cha qua tiếng nói từ trời cao, Chúa con đang chịu phép rửa và Chúa Thánh Thần qua hình chim bồ câu.
Khi Chúa Giêsu biến hình trên đỉnh Taborê, Phúc âm cũng ghi nhận: Lúc Phêrô còn đang nói, thì bỗng có một đám mây bao phủ và từ trong đám mây có tiếng phán: Này là Con Ta yêu dấu, hãy vâng lời Ngài. Qua đó, chúng ta cũng thấy có đủ Ba Ngôi: Chúa Cha qua tiếng nói, Chúa Con đang biến hình và Chúa Thánh Thần qua đám mây chói lòa.
Sau cùng, trước khi về trời, Chúa Giêsu đã truyền cho các môn đệ: Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, Rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh thần.
Tuy nhiên, điều quan trong chúng ta cần tìm hiểu, đó là Chúa Ba ngôi đã làm gì cho chúng ta?
Trước hết, Chúa Cha đã yêu thương chúng ta bằng cách dựng nên chúng ta, nhận chúng ta làm con để rồi trao ban cho chúng ta quyền thừa kế Nước trời.
Ông vua kia nuôi một con chim hoàng yến. Nó hót rất hay khiến ông thích nó lắm. Ông mua những thức ăn hảo hạng và làm cho nó một chiếc lồng bằng vàng. Trong lúc quá say mê, ông đã nói với nó: Ta sẽ nhận ngươi làm con để ngươi thừa kế gia tai và vương quốc của ta. Chắc hẳn chúng ta sẽ bảo ông vua này điên khùng hay sao mà lại nói với một con chim như vậy. Tuy nhiên, Thiên Chúa còn yêu thương chúng ta bằng một tình yêu điên khùng hơn thế nữa.
Báo chí cách đây đã lâu có đăng tải tin một công chúa nước Anh sẵn sàng từ bỏ tất cả để kết hôn với một anh chàng phó nhòm. Người ta cho rằng cô công chúa này đã yêu một cách cuồng si. Tuy nhiên, Thiên Chúa còn yêu thương chúng ta bằng một tình yêu cuồng si hơn thế nữa. Chúng ta là gì mà lại được diễm phúc gọi Thiên Chúa là Cha?
Thứ đến, Chúa Con đã yêu thương chúng ta bằng cách xuống thế làm người và chịu chết trên thập giá để cứu chuộc chúng ta. Nếu chúng ta ca ngợi cha Đamiêng, người đã tình nguyện đến sống chung với những người cùi ở Molokai, một hòn đảo xa xôi và hẻo lánh, để rồi đã chết đi giữa những người cùi bất hạnh ấy, thì chúng ta lại càng phải ca ngợi Chúa Giêsu hơn nữa, bởi vì Ngài đã đến ở với chúng ta, những kẻ đang mắc phải chứng phong cùi thiêng liêng là tội lỗi.
Nếu chúng ta ca ngợi cha Maximilanô Kolbê, người đã tình nguyện chết thay cho một bạn tù trong trại tập trung của Đức quốc xã, thì chúng ta lại càng phải ca ngợi Chúa Giêsu hơn thế nữa bởi vì Ngài cũng đã tình nguyện chết thay cho chúng ta để nhờ đó chúng ta được sống muôn đời.
Sau cùng, Chúa Thánh Thần đã yêu thương chúng ta bằng cách cư ngụ trong tâm hồn chúng ta và trao ban cho chúng ta sự sống thần linh cùng với những ơn sủng do công nghiệp của Chúa Giêsu để nhờ đó chúng ta được trở thành con cái Thiên Chúa và xứng đáng lãnh nhận phần sản nghiệp Nước trời.
Để đáp lại tình yêu cao cả đó, chúng ta sẽ làm gì? Tôi xin đề nghị hai việc.
Việc thứ nhất đó là mỗi khi làm dấu thánh giá hay mỗi khi đọc kinh Sáng danh, chúng ta hãy làm và hãy đọc cho trang nghiêm và sốt sắng, để nhờ đó tuyên xưng niềm tin vào Chúa Ba Ngôi.
Việc thứ hai đó là trong đời sống thường ngày, chúng ta hãy ra sức khử trừ tội lỗi, bởi vì tội lỗi chính là kẻ nội thù, làm cho chúng ta quay lưng chống lại tình yêu mà Ba Ngôi Thiên Chúa đã dành cho chúng ta. Bởi vì mỗi khi phạm tội, chúng ta không còn vâng phục Chúa Cha, chúng ta đóng đanh Chúa Con một lần nữa và chúng ta xua đuổi Chúa Thánh Thần ra khỏi cõi lòng chúng ta.
43. Một Tình Yêu không thể tin được
(Lm Px. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh và Bố cục
Sách các Dấu lạ của TM IV (2,1–12,50) nói về các dấu lạ lồng vào một cái khung thời gian nhằm giới thiệu chân tính của Đức Giêsu, là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa. Cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu với Nicôđêmô (3,1-21) nằm trong phần đầu (2,1–4,54), phần này có bố cục như sau:
A (2,1-11.12): Khởi đầu các dấu lạ tại Cana miền Galilê: biến nước thành rượu (c. 12 là câu chuyển tiếp [nói về thời gian và không gian]sang đoạn sau).
B (2,13-22.23-25 +): Thanh tẩy Đền Thờ Giêrusalem và đối thoại với người Do-thái về Đền Thờ mới (cc. 23-25 là những câu “làm cầu” nối 2,13-22 với 3,1-21).
C (2,23-25; 3,1-21): Đối thoại với Nicôđêmô về việc sinh bởi trên cao và diễn từ về việc có sự sống vĩnh cửu.
C’(3,22-36; 4,1-3 +): Đối thoại của Gioan Tẩy Giả với các môn đệ ông về chú rể đến từ trên cao và diễn từ về sự sống (Đoạn 3,22-24 là dẫn nhập chuyển tiếp. Đoạn 4,1-3 là những câu “làm cầu” nối [vì kết] 3,22-36 với [vì chuẩn bị cho] 4,4-42; đoạn này minh nhiên quy chiếu về 3,22-23 và hướng tới 4,43-45).
B’(4,1-3.4-42): Đối thoại với người phụ nữ Samari về việc có nước hằng sống và việc phụng tự đích thật.
A’(4,43-45.46-54): Dấu lạ thứ hai tại Cana miền Galilê: chữa con trai một quan chức nhà vua (cc. 43-45 là đoạn chuyển tiếp [nói về thời gian và không gian] từ 4,4-42 sang 4,46-54).
Chúng ta thử xác định cấu trúc của phân đoạn 3,1-21 (nhờ đó, có thể biết vị trí của cc. 14-21). Về hình thức bản văn, chúng ta ghi nhận rằng Nicôđêmô có nói ba lần ở cc. 2, 4 và 9. Đáp lại ba câu nói của ông, Đức Giêsu trả lời bằng công thức long trọng, “Thật, tôi bảo thật ông” (cc. 3, 5 và 11; đi trước c. 11 là một nhận xét đối-thủ-luận [ad hominem]). Ba câu trả lời của Đức Giêsu cứ mỗi lần mỗi dài hơn. Về phương diện tư tưởng, có những liên hệ đến Ba Ngôi: các lời Đức Giêsu nói ở cc. 3-8 liên hệ đến vai trò của Thần Khí; những lời ở cc. 11-15 liên hệ đến Con Người; những lời ở cc. 16-21 liên hệ đến Thiên Chúa Cha. Nếu tổng hợp hai phương diện hình thức và tư tưởng, chúng ta có thể xác định bố cục của 3,1-21 như sau:
* Câu 3,1: Dẫn nhập cho toàn bài (nối 2,23-25 với ch. 3).
1. Phân đoạn 1 (cc. 2-8): Sinh ra bởi trên cao nhờ bởi Thần Khí là điều cần thiết để được đi vào trong Nước Thiên Chúa; sinh ra bởi tự nhiên thì không đủ.
(a) cc. 2-3: Câu hỏi và câu trả lời đầu tiên: sự kiện sinh ra bởi trên cao.
(b) cc. 4-8: Câu hỏi và câu trả lời thứ hai: cách thức sinh ra – nhờ bởi Thần Khí.
2. Phân đoạn 2 (cc. 9-21): Tất cả những điều này chỉ có thể có được khi Con đã lên cùng Cha, và điều này chỉ được ban cho những ai tin vào Đức Giêsu.
- cc. 9-10: Câu hỏi và câu trả lời thứ ba dẫn nhập vào toàn phân đoạn.
(a) cc. 11-15: Con phải lên cùng Cha (để ban Thần Khí).
(b) cc. 16-21: Tin vào Đức Giêsu là điều cần thiết để được hưởng nhờ ân huệ này.
Theo R.E. Brown, tác giả TM IV đã để lại một vài dấu chỉ giúp khám phá ra lược đồ ngài theo để tổ chức bản văn.
Phân đoạn 1 bắt đầu với lời khẳng định của Nicôđêmô: “Chúng tôi biết Thầy là một vị tôn sư” (c. 2); câu này được đặt trong thế cân bằng với mở đầu của Phân đoạn 2 với lời Đức Giêsu, “Ông là bậc thầy (tôn sư) trong dân Israel, … chúng tôi nói những điều chúng tôi biết” (cc. 10-11).
Ngoài cách bố cục thành hai phân đoạn, dường như toàn bài được viết theo kỹ thuật đóng khung (bằng các ý tưởng cùng một trường ngữ nghĩa):
(a) Bản văn bắt đầu với việc Nicôđêmô đến với Đức Giêsu ban đêm; bản văn kết thúc với đề tài người ta phải bỏ bóng tối để đến với ánh sáng.
(b) Nicôđêmô mở đầu cuộc đối thoại bằng cách chào Đức Giêsu là vị tôn sư từ Thiên Chúa mà đến; phần cuối của bản văn cho thấy rằng Đức Giêsu là Con Một Thiên Chúa (c. 16) mà Thiên Chúa đã sai đi vào trong thế gian (c. 17) như là ánh sáng cho thế gian (c. 19).
(c) Nếu chúng ta coi 2,23-25 như là phần mở đưa vào “xen” Nicôđêmô, chúng ta lại có một bản văn đóng khung khác: ở 2,23, chúng ta đã nghe nói đến những người “đã tin vào danh Người”, nhưng niềm tin của họ không thỏa đáng vì họ không đến để thấy Người là ai; ở 3,18, chúng ta thấy lời Đức Giêsu nhấn mạnh rằng ơn cứu độ chỉ được ban cho những ai “tin vào danh của Con Một Thiên Chúa”.
2.- Vài điểm chú giải
- Như ông Môsê đã giương cao con rắn (14): Câu này nhắc đến Ds 21,9tt.
- ai tin vào Người thì được sống muôn đời (15): Câu này tương ứng với Ds 21,8: “Ai nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống”.
- Thiên Chúa yêu thế gian (16): Động từ agapaô ở thì quá khứ aorist (êgapêsen) nhắm diễn tả hành vi yêu thương tuyệt đỉnh của Thiên Chúa. Có thể nói ở đây chúng ta có một ví dụ tuyệt hảo về động từ agapaô được diễn tả ra thành hành động, bởi vì c. 16 nói đến tình yêu Thiên Chúa được bày tỏ ra trong cuộc Nhập Thể và cái chết của Chúa Con.
- đã ban (16): Đông từ didomi không chỉ nhắm đến cuộc Nhập thể (Thiên Chúa gửi Con vào trần gian; c. 17), nhưng nhắm đến cả cuộc đóng đinh (trao nộp cho chết: “giương cao” trong cc. 14-15). Như thế, động từ này tương tự với paradidomi, “trao nộp”, ở Rm 8,32; Gl 2,20; và didomi ở Gl 1,4.
- Thiên Chúa sai Con (17): Động từ apostellô này song song với “ban” (didomi) ở c. 16. Khi nói về Đấng Bảo Trợ, cũng có cặp động từ này, “sai” và “ban” ở 14,16.26. Gioan dùng hai động từ có nghĩa là “sai phái” có vẻ không phân biệt: pempô (26 lần) và apostelô (18 lần).
- Con (17): Từ “Con” ở dạng tuyệt đối (không có túc từ đi theo) trong Ga thì hầu như song song với cụm từ “Con Người” theo truyền thống Nhất Lãm.
- không phải để lên án thế gian (17): Câu này xác định mục tiêu của sứ mạng Chúa Con đảm nhận khi được gửi vào trần gian: không phải để lên án, nhưng để cứu độ (x. Ga 4,42; 1 Ga 4,14). Thế nhưng ở 9,39, Đức Giêsu lại khẳng định: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử”. Điều duy nhất Thiên Chúa muốn, đó là cứu độ thế gian; nhưng biến cố Con của Ngài đến cũng nhất thiết đưa loài người đến chỗ phải lấy quyết định; quyết định trọng yếu nhất của đời người, là gắn bó với Con Một Thiên Chúa (c. 18) bằng đức tin, hoặc ngược lại, từ chối tin vào Người.
- được cứu độ (17): So sánh với c. 16, ta hiểu “được cứu độ” ở đây có nghĩa là “được sống muôn đời” (x. 1 Ga 4,14; Ga 12,47).
- vì đã không tin (18): Mê pepisteuken ở thì hoàn thành (perfect) có nghĩa là “đã và vẫn không tin”, một thái độ cứng lòng tin kéo dài.
- tin vào danh (18): “Danh” chính là bản thân Đức Giêsu.
- làm điều ác (20): Kiểu dùng động từ “làm” với “điều tốt”, “sự thật”, hoặc “điều xấu” (xem cc. 20.21) là một kiểu nói Sê-mít.
3.- Ý nghĩa của bản văn
* Con phải lên cùng Cha (11-15)
Qua những lời đối thoại giữa Đức Giêsu và Nicôđêmô, ta biết rằng để được tham dự vào Nước Thiên Chúa, phải có một khởi đầu hoàn toàn mới, do Thiên Chúa ban trong bí tích Rửa Tội, nhờ quyền năng sáng tạo của Thiên Chúa. Ở trong khởi đầu mới này, chúng ta không được thụ động, trái lại phải tin vào Con Thiên Chúa (x. 1 Ga 5,1). Thế nhưng đức tin chẳng phải là chuyện của con người. Đức Giêsu cho thấy rằng đức tin phải dựa trên bằng chứng tình yêu mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta khi sai phái Con của Ngài đến. Cuộc tái sinh bởi Thiên Chúa và lòng tin vào Con Thiên Chúa đưa chúng ta đạt tới ý nghĩa và sự viên mãn của cuộc sống chúng ta, đưa đến sự sống đích thực không qua đi. Không có hai điều này, chúng ta sẽ sai lầm về ý nghĩa của chính bản thân chúng ta.
Làm thế nào để tránh khỏi cái chết thảm thương và bảo đảm cho cuộc sống chúng ta? Israel đã đứng trước những câu hỏi này khi mà trên đường băng qua sa mạc, họ bị rắn độc đe dọa (x. Ds 21,4-9). Thiên Chúa đã ra tay cứu trợ Dân Ngài. Ngài đã bảo Môsê đúc một con rắn đồng và treo vào cán cờ; ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng ấy thì được sống. Thiên Chúa vẫn trợ giúp chúng ta. Khi con người phạm tội, Thiên Chúa đã đặt định rằng Đấng Chịu Đóng Đinh là biểu tượng của ơn cứu độ, là nguồn mạch đưa tới sự sống. Đàng sau Đấng Chịu Đóng Đinh là chính Thiên Chúa. Ngài đã ban và sai Con của Ngài đến vì yêu thương toàn thể nhân loại, để họ được cứu độ. Tình yêu của Thiên Chúa có một cường độ và một chiều kích to lớn đến nỗi, nếu có thể, hẳn ta phải nói: Thiên Chúa yêu thương thế gian, yêu thương chúng ta, hơn chính Con của Ngài. Ngài không bỏ mặc thế gian, mà lại còn ban cho chúng ta món quà là Người Con vẫn sống trong một tương quan duy nhất với Ngài.
* Tin vào Đức Giêsu là điều cần thiết (16-21)
Thiên Chúa bày tỏ một sự ân cần lạ lùng đối với loài người chúng ta, Ngài quan tâm giúp chúng ta thành công trong cuộc sống. Tuy nhiên, chúng ta vẫn ở trong tình trạng bấp bênh: Thiên Chúa không cung cấp ơn cứu độ không cần chúng ta, hoặc là ngược lại với ý muốn của chúng ta. Chúng ta phải mở ra với sự ân cần của Thiên Chúa, phải trân trọng tình yêu lạ lùng ấy, phải tin vào Con Thiên Chúa chịu đóng đinh. Chỉ khi chúng ta xác tín rằng Đấng chịu đóng đinh là Con Một, Con yêu dấu của Thiên Chúa, thì quyền năng của tình yêu này của Thiên Chúa mới có thể thực sự đến với chúng ta và chúng ta mới có thể hoàn toàn mở ra với ánh sáng và sức nóng của Người. Đời sống chúng ta tùy thuộc đức tin của chúng ta.
Điều cần thiết này có vẻ hiển nhiên. Tuy thế, có một hiện tượng lạ lùng, đó là loài người lại ưa thích bóng tối hơn ánh sáng (c. 19). Có những lý do để trốn tránh ánh sáng và tìm lá chắn là bóng tối; những lý do này nằm nơi lối sống của con người. Ai làm điều ác thì tự nhiên tránh ánh sáng; ai làm điều thiện thì mới dám ra trước ánh sáng, người ấy không có gì phải che giấu. Chúng ta không thể coi nhẹ tầm quan trọng của hành động để bày tỏ đức tin. “Điều thiện”, đó là những gì chúng ta làm theo ý Thiên Chúa (c. 21), bằng cách lắng nghe Ngài, chân thành tìm cách thi hành ý muốn của Ngài. “Điều ác” là những gì chúng ta làm không theo các tiêu chí đó, khi chúng ta không tìm Thiên Chúa, nhưng ích kỷ tìm cách thực hiện các chương trình và ý muốn của riêng mình, thậm chí ngược lại với ý Thiên Chúa. Ai chỉ tìm chính mình, thì khép lại với Thiên Chúa và gặp nguy cơ là cũng cứ khép lại không nhận được mạc khải xán lạn về tình yêu của Ngài. Không nghiêm túc quan tâm đến ý muốn của Thiên Chúa, làm sao có thể tin vào tình yêu của Ngài? Chính tình yêu ấy lại càng đưa người ấy xa rời khuynh hướng ích kỷ và làm cho người ấy càng cảm nhận rằng mình hoàn toàn lệ thuộc Thiên Chúa! Ai luôn duy trì một dây liên kết với Thiên Chúa, thì mở ra với ánh sáng của tình yêu Ngài.
+ Kết luận
Chỉ trong mấy câu Ga 3,14-21, tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi đối với loài người được khẳng định với sự tha thiết lạ lùng và điều kiện phải theo để được hưởng nhờ tình yêu đó cũng được xác nhận hết sức rõ ràng. Đứng trước mạc khải vĩ đại và trực tiếp này về Thiên Chúa, chúng ta không còn có thể tránh né mà nói rằng Thiên Chúa chỉ là một sức mạnh mơ hồ và xa cách với chúng ta. Đức Giêsu, Đấng Chịu Đóng Đinh, cũng không phải chỉ là một tư tưởng hay một lý thuyết, một giả thuyết hoặc một chuyện hão huyền trên mây trên gió, mà là một thực tại lịch sử đích thực. Do đó, tình yêu của Thiên Chúa rất thực hữu!
4.- Gợi ý suy niệm
1. Nói đến tình yêu là nói đến sự quan tâm, sự thông dự, sự ân cần, chăm sóc, nỗ lực, vận dụng mọi sự. Tình yêu muốn điều hay điều tốt cho người mình thương. Người ấy không dửng dưng với con đường và định mệnh của người yêu, nhưng ra sức làm cho người kia được sống trong niềm vui và sự viên mãn. Đối với Thiên Chúa thì sao? Phải chăng Ngài đã tạo thành thế giới rồi bỏ mặc nó? Ngài có quan tâm đến chúng ta và đến định mệnh chúng ta không, Ngài có để ý xem chúng ta thế nào và chúng ta đi đến đâu không? Thiên Chúa đã tạo thành chúng ta, đã quan tâm đến số phận của chúng ta, đã ban Người Con Một để chúng ta được sống viên mãn ngay từ bây giờ. Chúng ta có giá đối với Thiên Chúa đến mức Ngài sẵn sàng hy sinh Con vì chúng ta (x. Rm 8,32).
2. Sau cuộc tạo dựng, sau Lề Luật, các Ngôn sứ và tất cả những hình thái ân cần săn sóc khác, Chúa Con là tiếng nói cuối cùng và ân huệ có giá trị tối cao được Thiên Chúa ban cho chúng ta. Người Con sẽ quan tâm đến chúng ta riêng tư từng người, sẽ chỉ cho từng người biết con đường đưa tới ơn cứu độ, sẽ đưa ta đến chỗ hiệp thông với Người và đi đến cuộc sống muôn đời. Đức Giêsu, Đấng Chịu Đóng Đinh, không phải là một tư tưởng hay là một lý thuyết, một giả thuyết hay một chuyện tưởng tượng, nhưng là một thực tại lịch sử đích thực. Từ đó, chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng tình yêu của Thiên Chúa cũng hết sức hiện thực.
3. Thiên Chúa, “một” (độc thần) mà cũng là “ba” (ngôi), là một mầu nhiệm rất lớn lao, mà chúng ta chẳng bao giờ ngờ tới, nếu chính Thiên Chúa không mạc khải cho chúng ta nhờ trung gian Đức Kitô. Chúng ta phải tuyên xưng các dữ kiện của mầu nhiệm này, và tiếp cận bằng những bước rất giới hạn và phiến diện, đồng thời tin tưởng tuyệt đối vào giáo huấn của Đức Giêsu Kitô.
4. Bản văn không nói trực tiếp đến Chúa Thánh Thần, nhưng chúng ta đã được mạc khải rằng Thiên Chúa và Đức Giêsu cứu độ chúng ta bằng cách ban Thánh Thần cho chúng ta (Ga 7,37-39; x. Gl 4,4-7). Dù sao mẩu đối thoại với Nicôđêmô cũng đã cho thấy những cái mốc: não trạng thiêng liêng do Thánh Thần ban cho. Thánh Thần đối nghịch lại với xác thịt (Ga 3,6), với những cái nhìn trần tục (3,12). Thiên Chúa Cha gửi Con Một của Ngài đến với chúng ta, để Người Con cứu chúng ta bằng cách thông ban Thần Khí. Và chính Thần Khí giúp ta đi lên với Chúa Cha nhờ trung gian Đức Kitô (x. Gl 4,4-7; Rm 8,15-17).
44. Chú giải của Noel Quesson
Phải mất ba thế kỷ, các Công đồng của Giáo Hội mới định nghĩa chính xác Ba Ngôi. Nhưng ngay từ lúc khởi đầu, mọi sự đã được đem đến trong Tin Mừng, đặc biệt là Tin Mừng của Thánh Gioan. Cuộc đàm thoại với Nicôđêmô mà chúng ta đọc hôm nay là một đoạn trích ngắn, thật sự đã làm cho chúng ta khám phá một điều gì đó chủ yếu: “tranh luận" hẳn là không đi tới đâu, phải đi theo Đức Giêsu và dấn thân với Người. ông Nicôđêmô đại diện cho các môi trường trí thức Do Thái ông là bậc thầy trong dân Israel (Ga 3,10)... Tuy nhiên ông không hiểu! trước tiên Ba Ngôi không phải là một vấn đề hóc búa của trí tuệ mà một thực tại đơn giản: Thiên Chúa là tình yêu! Và tình yêu này mang một khuôn mặt: Đức Giêsu trên thập giá. Gioan là tông đồ duy nhất đã dám đối mặt với cảnh tượng ấy của tình yêu điên rồ của Thiên Chúa, khi tham dự vào bi kịch trên đồi Golgotha, cả cuộc đời Ngài, thánh Gioan đã suy niệm trước Đức Giêsu “được gương cao” khỏi mặt đất trước mắt Ngài. Thánh Gioan đã nói với chúng ta sự suy niệm ấy. Đồng thời nó cũng là chân lý sâu xa nhất về căn tính của Đức Giêsu.
“Thiên Chúa yêu đến nỗi..."
Trước khi đi xa hơn trong câu này, tôi để cho những chữ ấy thấm vào người tôi.
Vậy ra đây là vấn đề tình yêu. Và một tình yêu sẽ làm những chuyện điên rồ người ta đã đoán ra điều đó trong trạng từ "đến nỗi"...
Israel biết rằng Thiên Chúa yêu thương. Toàn bộ Cựu ước là một chung cư về điều đó. Bài đọc đầu tiên cho chúng ta nghe lại mặc khải với Môsê trong sa mạc Sinai:"Ta là Đức Chúa Giavê, Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín" (Xh 34,4-9). Vâng, toàn bộ Kinh Thánh đều biết tình yêu của Thiên Chúa nhưng không một ai có thể đoán được tình yêu ấy đi tới mức nào?
"Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi..."
Từ thế gian mà trong tiếng Hy Lạp là “kosmos", trong Tin Mừng Thánh Gioan thường có nghĩa xấu, ở đây cần biết rằng thế gian, toàn vũ trụ được Thiên Chúa yêu thương. Thiên Chúa yêu thương thế gian mà Người đã làm ra. Người ta thương yêu cái gì mình đã làm ra. Nhưng cần biết rằng Thiên Chúa yêu thương mọi người. Thiên Chúa đã yêu thương một ‘anh nọ’ và một ‘chị kia’. Và tôi đặt những khuôn mặt cụ thể được yêu thương hoặc không... trên những từ ấy. Thiên Chúa đã yêu thương anh X. đến nỗi... Thiên Chúa yêu thương chị Y đến nỗi.
'Thiên Chúa yêu thế gian đến nối đã ban..."
Hai động từ này: ‘yêu’ ‘ban’ ở thì quá khứ bất định trong ngôn ngữ Hy lạp và dịch thì quá khứ trong tiếng Pháp (trong tiếng Việt là “đã yêu” và “đã ban”). Thiên Chúa đã yêu và đã ban. Đây là một hành động chính xác, có ngày giờ nơi chốn. Quả thật! Đức Giêsu Nagiaret con của Bà Maria, con người thật đã can thiệp vào lịch sử cách nay hai mươi thế kỷ trong một xã hội của Đế quốc La mã đồng thời đó cũng là một biến cố của hoàn vũ đã biến đổi triệt để lịch sử của nhân loại. Kinh Tin Kính của chúng ta không phải là một chuỗi các ý tưởng, nhưng là một chuỗi "sự kiện": Thiên Chúa đã sáng thế, Đức Giêsu đã được trinh thai bởi Chúa Thánh Thần; Người đã đau khổ, đã chết đã sống lại...
Phụng vụ của chúng ta không phải là những ngày lễ các ý tưởng: Chúng ta không mừng lễ công lý, tình huynh đệ và cả đức tin. Cách nói: "lễ đức tin tạo ra sự lẫn lộn. Tin Mừng không phải là sách bàn về học thuyết, là một "tường thuật kể lại các biến cố... mà tác giả là Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa là "chủ thể" của hành động: Người yêu... Người ban...
“Người đã ban Con Một...”
Nếu đọc lướt qua nhanh câu này, người ta có thể chỉ nghĩ đến sự Nhập Thể: Thiên Chúa đã ban cho chúng ta Con của Người! Nhưng có một tính từ nhỏ: Con "Một" tính từ ấy xem ra có thể tầm thường với bất cứ người nào không biết Kinh Thánh. Vả lại, đối với thính giả Do Thái, hai từ ấy (Con, Con Một) nhắc đến một đoạn văn của Cựu Ước trong trí nhớ của mọi người: vị đại tổ phụ sáng lập đức tin, Abraham đã chấp nhận hiến tế con trai, con duy nhất của ông (St 22,2-22,16). Đối với Gioan điều này ám chỉ đến sự “tận hiến” trên đồi Golgotha, chứng tá cao cả nhất của tình yêu. Trong một câu trước, Gioan đã nói với chúng ta rằng: “Con Người phải được giương lên như con rắn đồng trong sa mạc” (Ga 3,14). Thánh Phaolô cũng đã viết: ‘Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” (Rm 8,32). Tình yêu ấy là vô cùng tận! sự điên rồ của tình yêu.
“Để ai tin vào con của người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”.
Thiên Chúa đã khởi xướng trước, Người đã “yêu thương đầu tiên”. Mọi sáng kiến đến từ phía Người. Nhưng như chúng ta biết rõ, để có tình yêu, nếu chỉ có lời tuyên bố, bày tỏ, trước những bước, dấu chỉ từ một trong hai phía chưa đủ … mà phải có sự tương ứng, đón nhận, đáp trả, … đức tin là lời đáp lại của con người đối với lời tỏ bày tình yêu của Thiên Chúa: người ta trao đức tin cho người khác, người ta làm cho người ấy tin tưởng, tín thác cho nhau, người ta được “đính hôn”!
Cái được mất của đức tin ấy vô cùng quan trọng: vấn đề là chết hay sống: “ai tin thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời”. Đó là một song luận khắc nghiệt: hoặc là …hoặc là.. đó là một chọn lựa quyết định: trong trường hợp này người ta không sống, trong trường hợp kia người ta được sống… không có con đường trung bình mà là sự phân đôi triệt để khốc liệt. Hoặc người ta chấp nhận “sự ban cho của Thiên Chúa” và đi đến sự sống muôn đời là đặc tính của Thiên Chúa hoặc người ta ở lại với nhân tính của mình và dĩ nhiên là phải chết. Không thể có thái độ nghiêng ngả quanh co. Phải nói “có” hoặc “không” trước sự ban cho của Thiên Chúa. Và theo nhà văn Bernanos, Xatan muốn làm chúng ta trở thành “Ông Ouinn”… là ông vừa nói “có” (oui) và “không” (nn.. non) ông nước đôi đó nói “có” khi bắt đầu nói “không”.
“Quả vậy Thiên Chúa sai con của Người đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ con của Người mà được cứu độ”.
Tư tưởng này của Đức Giêsu rất cách mạng. Trong đạo Do Thái cùng thời với Đức Giêsu, người ta thường loan báo rằng Thiên Chúa sẽ đến tiêu diệt thế giới tội lỗi. Các thủ bản ở Qumran chứa đầy quan niệm ấy của phái Manikêu: con cái của ánh sáng sẽ tiêu diệt con cái của bóng tối trong một cuộc chiến đấu một mất một còn, không khoang nhượng. Gioan Tẩy Giả gần với tâm thức đó, cũng chờ đợi một Đấng Mêsia trả thù và xét xử (Mt 3,10-12).
Nhưng quan điểm của Kitô giáo về thế gian thì hoàn toàn quân bình hơn. Không phải là một quan điểm lạc quan, bịt mắt trước sự xấu ác và không nghe thấy khát vọng bao la về một “thế giới tốt đẹp hơn”… cũng không phải là quan điểm bi quan luôn luôn lặp lại rằng thế giới thì xấu xa… nhưng là một quan điểm “cứu độ” thừa nhận sự xấu ác của thế gian nhưng không phải lên án nó, nhưng để cứu nó! Đức Giêsu cứu thế thật tuyệt vời!
Còn chúng ta thì sao? có phải chúng ta là những môn đệ của Đức Giêsu ấy không? chúng ta có yêu thương thế gian như Thiên Chúa không? nghĩa là bằng sự đấu tranh chống lại điều ác và tội lỗi của thế gian để cứu độ nó. Tình yêu thương của chúng ta có tính “cứu chuộc” không? nghĩa là trước hết phải thực hiện và sáng suốt trên những khuyết điểm và tội lỗi của anh em chúng ta (cả chúng ta nữa) bị lệch lạc méo mó nhưng chúng ta cũng phải có đủ lòng nhân hậu để cứu giúp họ ra khỏi tình trạng ấy và ban cho họ cơ hội để đổi mới…
Tôi còn phải cầu nguyện nhiều về hai từ: ‘không nên đoán xét’ mà hãy ‘cứu’.
“Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án…”
Đối với Đức Giêsu, đức tin thoát khỏi sự phán xét. Như thể sự phán xét đã “hiện đại hoá” vào ngày hôm nay, và đặt vào đôi tay của con người: chính con người tự phán xét mình. Và Đức Giêsu nói rằng đức tin là sự phán xét ấy: “ai tin là người được cứu, còn ai không muốn tin đã bị lên án rồi…”
“Nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi”.
Chúng ta thấy những lời này rất nghiêm khắc, bởi vì chúng ta nghĩ đến bao nhiêu người không tin, trong vòng bà con hoặc trong chính gia đình chúng ta, và trong thế giới bao la đó những nền văn minh lớn hoàn toàn không có được khả năng biết Đức Giêsu. Tuy nhiên chúng ta không thể loại trừ ra khỏi Tin Mừng các công thức căn bản ở đó con người bị thúc bách phải chọn lựa “theo” hoặc “chống”…”có” hoặc “không”…tuy nhiên phải có sự phân biệt chủ yếu:
1. Khi gởi đến các Kitô hữu đã thật sự tuyên xưng đức tin, thì lời cảnh báo nghiêm khắc ấy tức là không được chối bỏ đức tin mà mình đã tuyên xưng là một lời mời gọi không ngừng lặp lại sự tuyên xưng ấy bằng cách mỗi ngày canh tân sự chọn lựa sống theo Đức Giêsu Kitô của mình: nghĩa là "phó dâng đời sống mình bởi tình yêu như Người!".
2. Về phần mọi người khác, chưa bao giờ có cơ hội chọn lựa Đức Giêsu một cách thật sự có ý thức, cá nhân là trưởng thành... thì điều mà chúng ta biết về tình yêu Thiên Chúa (Đấng đã sai Con của Người đến thế gian không phải để lên án thế gian mà để cứu độ nó), cho phép chúng ta hy vọng rằng nhiều người trong số những người thực tế 'không theo Đức Giêsu cũng đã theo Người dù họ không biết điều đó (và quả là thiệt thòi cho họ) bằng cách sống làm người của họ "theo Đức Giêsu Kitô" nghĩa là "phó dâng đời sống mình bởi tình yêu như Người!"
"Vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa"
Và một lần nữa chúng ta biết chọn lựa ấy khẩn thiết như thế nào... ngay từ bây giờ. Nhưng trong một đoạn văn song song khác, Đức Giêsu sẽ nói rằng một "kỳ hạn của ân sủng" sẽ được ban cho con người, bởi vì chỉ đến ngày sau hết mà "lời của Đức Giêsu sẽ xét xử những kẻ từ chối Người (Ga 12,47-50). Điều đó không loại bỏ sự khẩn thiết của ngày hôm nay... nhưng tất cả đời sống của chúng ta mỗi ngày là sự phán xét của chúng ta...
Để kết thúc sự suy niệm này, chúng ta biết rõ hơn tại sao trang Tin Mừng này được chọn cho ngày lễ Chúa Ba Ngôi. Trong Tin Mừng, Thiên Chúa Ba Ngôi không phải là một vấn đề mà người ta đề cập như một sự trình bày lý thuyết và trừu tượng... đó là một thực tại của tình yêu người ta bước vào thực tại ấy để sống tình yêu ngay từ HÔM NAY bởi đức tin trong Đức Giêsu.
45. Dấu Thánh nhiệm mầu.
(Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Ca khúc “Làm Dấu” với giai điệu nhẹ nhàng mang tâm tình cầu nguyện, lời ca tuyên xưng niềm tin Ba Ngôi Thiên Chúa mỗi khi làm dấu thánh giá. Có lẽ nhiều người thuộc lòng và ngân nga bài ca này hàng ngày.
1. Con đặt tay lên trán tôn vinh Chúa Cha toàn năng.
Con đưa tay xuống ngực chúc tụng Chúa Con tình yêu.
Đưa tay sang trái phải, vinh danh Chúa Thánh Thần nguồn ơn thánh thiên hồng phúc đời con.
Mỗi lần làm dấu thánh xin ngự đến trong tâm hồn con, mỗi khi con cầu nguyện xin hãy biến đổi tâm hồn con, xin cho con giống Ngài trong lời nói việc làm, ước mong đời con nên dấu chỉ yêu thương của Ngài giữa đời.
ĐK: Con làm dấu hằng ngày. Con làm dấu một đời, khắc ghi tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa trong trái tim con. Ôi dấu thánh nhiệm mầu, dấu ấn tình yêu nhắc nhở con luôn hướng lòng lên Chúa.
Con làm dấu hằng ngày. Con làm dấu một đời, khắc ghi tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa trong trái tim con. Ôi dấu thánh nhiệm mầu, dấu ấn tình yêu Chúa mãi ở trong con con ở trong Chúa.
2. Bao lần con quên Chúa khi vô ý hay khi thờ ơ.
Bao phen con ngại ngần lúc làm dấu tuyên xưng niềm tin.
Đã có lúc yếu hèn, không làm dấu giữa đời, Ngài ơi giúp con bừng cháy niềm tin.
Giữa hiểm nguy khốn khó con làm dấu xin ơn bình an, trong an vui ngập tràn con làm dấu hân hoan tạ ơn. Khi cô đơn thất vọng, khi mệt mỏi chán chường, Chúa ơi ở bên con nhé vì con đây luôn cần tới Ngài.
Làm dấu Thánh Giá là lời tuyên xưng đức tin, tôn vinh Chúa Ba Ngôi của người Kitô hữu, là dấu chỉ phân biệt những người môn đệ của Chúa Giêsu và những người theo đạo khác.
Mùa Phục Sinh kết thúc với đại lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Giáo hội nhìn lại chương trình cứu độ được Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử nhân loại và nhận ra rằng: nguồn ơn cứu độ chính là Thiên Chúa Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần. Vì thế, chúng ta hiểu tại sao ngày Chúa nhật mùa Thường niên tiếp ngay sau lễ Hiện Xuống, luôn luôn được Giáo hội mừng kính và suy niệm về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.
Giáo Hội là công trình của tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi. Từ Ngài, Giáo Hội sinh ra; nhờ Ngài, Giáo Hội hoạt động; và hướng tới Ngài, Giáo Hội dấn bước. Chỉ một mình Thiên Chúa mới nắn đúc nên Giáo Hội theo lòng Ngài mong ước. (Thư Chung 2011, Số 19).
Giáo hội được Chúa Cha tập hợp chung quanh Chúa Giêsu dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Là dân tộc lữ hành, Giáo hội phát xuất từ Chúa Cha, sẽ trở về với Chúa Cha, nhờ trung gian của Chúa Kitô, dưới hơi thở của Chúa Thánh Thần. Chính từ mầu nhiệm Ba Ngôi mà Giáo hội được sinh ra và cũng từ Thiên Chúa mà Giáo hội lãnh nhận sứ mạng để tất cả nhân loại làm thành một Dân Thiên Chúa, tập họp thành Thân Thể Chúa Kitô, được xây dựng thành Đền Thờ Chúa Thánh Thần. Giáo hội như là hình ảnh của mầu nhiệm hiệp thông giữa Ba Ngôi Thần Linh và Giáo hội là dấu chỉ của sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và nhân loại (x.GH1; GLCG số 772). Ba Ngôi là cội nguồn và là cùng đích của Giáo hội. Giáo hội là công trình của Ba Ngôi. Giáo hội nuôi sống con cái mình bằng thần lương Ba Ngôi ban tặng qua các bí tích.
1. Mầu nhiệm Ba Ngôi là mầu nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo.
Đây là một mầu nhiệm thâm sâu nhất, cao cả nhất mà lý trí con người, ngay cả óc tưởng tượng của con người, cũng không thể nào thấu hiểu hay hình dung được. Bởi vì Thiên Chúa Ba Ngôi không phải là một vấn đề, càng không phải là một vấn đề toán học. Mầu nhiệm không phải là vấn đề hay bài toán: 3 là 3; 1 là 1. Không tính với bài toán nào mà 1 là 3 hay 3 thành 1 được. Thiên Chúa không phải là những con số. Không thể làm trò ảo thuật hay lý luận đưa ngón tay ba đốt hay hình tam giác mà ví von được.
Vậy ai đã cho chúng ta biết mầu nhiệm này? Chính Chúa Giêsu Kitô. Nếu Chúa không dạy bảo thì loài người không thể nào biết được. Cho tới trước khi Chúa Kitô đến, loài người không có một ý niệm nào. Dân Do thái, dân riêng của Chúa, cũng không biết gì về mầu nhiệm Ba Ngôi. Cựu Ước chỉ nói tới một Thiên Chúa duy nhất, tạo dựng và làm chủ vũ trụ. Chính Chúa Giêsu, trong đời sống công khai giảng dạy đã mạc khải dần dần. Ngài đã từng bước vén lên bức màn của mầu nhiệm Ba Ngôi.
Ngài cho biết: Chúa Cha là Thiên Chúa, còn Ngài là Con Một của Chúa Cha. Ngài và Chúa Cha là một. Ngài ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Ngài, cùng bản tính với Chúa Cha. Ngài cũng là Thiên Chúa. Ngài với Chúa Cha là một Thiên Chúa.
Ngài cũng cho biết: Chúa Thánh Thần là Đấng mà Chúa Cha sai đến, cũng là Thiên Chúa. Như vậy, chỉ là một Thiên Chúa duy nhất nhưng có Ba Ngôi riêng biệt nhau chứ không phải là ba Chúa.
2. Mầu nhiệm Ba Ngôi là mầu nhiệm Tình Yêu.
Tại sao Chúa Giêsu lại mạc khải cho chúng ta một mầu nhiệm quá cao siêu như thế? Chắc chắn không phải là để thử thách thiện chí của con người, hoặc để xây lên bức tường chặn đứng suy luận và óc tưởng tượng của con người. Nhưng vì Chúa muốn chúng ta hiểu biết đời sống nội tại của Thiên Chúa, đó là tình yêu. Thiên Chúa là Tình yêu. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi nói lên điều đó.
Thiên Chúa là Tình yêu. Thiên Chúa yêu thương con người. Đó là một công thức khác để nói về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Vì tình yêu thương, Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa, ban cho con người được hạnh phúc như Chúa. Nhưng con người đã phạm tội phản nghịch đánh mất hạnh phúc. Thiên Chúa không từ bỏ con người. Ngài đã quyết định ban Con Một yêu dấu để cứu chuộc. Và vì yêu thương con người, Đức Kitô đã vâng lời Chúa Cha đến trần gian thực hiện sứ mệnh yêu thương đó. Và khi hoàn tất, Ngài về trời. Chúa Thánh Thần đến để tiếp tục công việc của Ngài, công việc yêu thương. Nhờ Chúa Thánh Thần, tình yêu của Thiên Chúa tiếp tục được bày tỏ mãi cho tới chúng ta hôm nay và mãi về sau nữa.
Vì thế, khi mừng kính mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, Giáo Hội không chỉ nhắc nhở chúng ta xác tín lại tín điều quan trọng này, nhưng còn mời gọi chúng ta hãy sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, là sống yêu thương và hiệp nhất. Như tình yêu thương giữa Ba Ngôi Thiên Chúa đã trào tràn trên mọi thụ tạo, thì tình yêu thương của người Kitô hữu cũng vậy, phải mở ra cho hết mọi người. Sống yêu thương là cách diễn tả đúng và đầy đủ ý nghĩa cuộc sống làm người và làm con Chúa; đồng thời cũng diễn tả cuộc sống của Chúa Ba Ngôi: yêu thương và hiệp nhất.
3. Mầu nhiệm Ba Ngôi là mầu nhiệm gần gũi nhất trong đời sống đạo.
Mầu nhiệm Ba Ngôi thật cao cả và cũng thật gần gũi. Thánh Augustinô đã nói: “Nếu bạn thấy tình yêu, bạn sẽ thấy Chúa Ba Ngôi”. Tình yêu gắn liền với đời sống con người.
Chúng ta có thấy tình yêu không, và thấy như thế nào? Tình yêu được nhìn thấy qua những hành vi yêu thương.
- Yêu thương là ban tặng: khi yêu người ta trái tim của mình cho người yêu. Yêu thương sâu đậm là cho đi điều quý báu nhất cho người mình yêu, như trường hợp của Chúa Cha mà Chúa Giêsu nói tới trong Tin mừng Gioan: “ Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình cho thế gian” (Ga 3, 16). Hay chính trường hợp của Chúa Giêsu: “Không có tình thương nào lớn hơn tình thương của người dám thí mạng sống vì bạn hữu” (Ga 15, 13). Yêu thương là cho đi chính mình, là tự hiến chính mình. Vợ chồng yêu thương nhau, dâng hiến bản thân cho nhau, kể cả thân xác mà không chút e dè, trái lại còn hạnh phúc nữa. Cha mẹ và con cái yêu thương nhau có thể hy sinh mạng sống mình cho nhau.
- Yêu thương là chia sẻ: yêu nhiều, người ta chia sẻ cho nhau nhiều, yêu nhau hết mức thì người ta chia sẻ cho nhau tất cả. Vợ chồng yêu nhau chia sẻ cho nhau tất cả, từ của cải vật chất đến gia sản tinh thần, đến cả tình gia đình. Ông bà cha mẹ của chồng trở thành ông bà cha mẹ của vợ và ngược lại. Trong Thiên Chúa cũng thế, Ba Ngôi Thiên Chúa chia sẻ cùng một sự sống thần linh. Và chính sự sống thần linh duy nhất làm cho Ba Ngôi là một. Chúa Cha đã sai Chúa Con mang sự sống thần linh ấy xuống trần gian chia sẻ cho nhân loại. Sự sống ấy là Bánh bởi trời mà chúng ta nhận lãnh trong bí tích Thánh Thể.
- Yêu nhau là đón nhận nhau. Đón nhận tình yêu và ý muốn của người mình yêu, đón nhận tất cả, đón nhận chính bản thân của người yêu. Người được yêu có vị trí quan trọng trong trái tim của người yêu. Suy nghĩ về tình yêu giữa Chúa Con và Chúa Cha, chúng ta sẽ thấy ở trần gian này, không có sự đón nhận nào trọn vẹn như thế. Chúa Con đón nhận tất cả từ Chúa Cha: giáo lý, ý muốn, lời nói, hành động. Chúa Con đón nhận chính bản thân Chúa Cha làm bản thân của mình, vì vậy mà đồng bản thể với Chúa Cha.
- Yêu nhau còn là gắn bó với nhau. Càng yêu nhau càng gắn bó mật thiết đến nỗi là một với nhau. Hai vợ chồng yêu nhau ở mức độ cao nhất thì trở nên một: một xương thịt, một thân mình. Bấy giờ tình yêu vợ chồng không những là dấu chỉ hữu hình của tình yêu Chúa Giêsu đối với Giáo Hội, mà còn là dấu chỉ của tình yêu Ba Ngôi. Ba Ngôi gắn bó với nhau đến nỗi là Một với nhau. Và chỉ có một Thiên Chúa mà thôi, Thiên Chúa là Tình Yêu nguồn suối, mẫu mực cho mọi tình yêu của con người (ĐTGM Phaolô Bùi Văn Đọc).
Hôm nay chúng ta mừng mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Gọi là mầu nhiệm vì đó là điều vượt quá trí hiểu của loài người. Tuy không thể hiểu thấu mầu nhiệm đó, nhưng may thay qua Chúa Giêsu, chúng ta thấy được biểu hiện của mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi chính là mầu nhiệm của tình yêu.
Chúng ta được tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu. Đời sống của chúng ta chỉ có ý nghĩa khi biết yêu thương. Chúng ta chỉ được hạnh phúc khi tham dự vào tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Nhưng tội lỗi làm cho chúng ta xa lìa tình yêu của Chúa. Sự ghen ghét hận thù làm cho khuôn mặt chúng ta lem luốc méo mó, không còn giống khuôn mặt Thiên Chúa.
Hôm nay ta hãy biết sống theo khuôn mẫu của Chúa Ba Ngôi. Biết sống hiệp nhất với nhau. Biết dâng hiến bản thân mình, biết cho đi, biết chia sẻ, biết sống chan hoà tình bác ái. Để thực hiện những điều ấy, ta phải biết bỏ mình, bỏ sở thích riêng, bỏ của cải và nhất là phải biết bỏ ý riêng, hoàn toàn sống theo thánh ý Thiên Chúa. Khi biết bỏ mình như thế, ta sẽ nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Khi hoàn toàn quên mình để sống cho tình yêu ta sẽ được kết hiệp với tình yêu của Thiên Chúa. Đó chính là hạnh phúc thiên đàng. Đó chính là đích điểm của đời chúng ta.
Trước khi dùng cơm, phần lớn trong chúng ta đều làm dấu thánh giá và đọc nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Khi đọc kinh trong nhà thờ hay tại nhà, chúng ta đều bắt đầu bằng nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Có những người có thói quen tốt là trước khi làm bất cứ việc gì, họ đều làm dấu thánh giá. Qua đài truyền hình, thỉnh thoảng chúng ta thấy, có những cầu thủ bóng đá quốc tế làm dấu thánh giá sau khi đá lọt lưới đối phương, hoặc trước khi đá phạt đền.
Làm dấu trên trán, chúng ta tuyên xưng Chúa Cha là Đấng tạo dựng trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình. Làm dấu trên ngực, chúng ta tuyên Chúa Con là Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã từ trời xuống thế nhập thể trong lòng trinh nữ Maria và đã làm người. Làm dấu trên hai vai chúng ta tuyên xưng Chúa Thánh Thần là Chúa và Đấng ban sự sống, Người bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra, Người được phụng thờ và tôn vinh cùng với Chúa Cha và Chúa Con. Dấu chữ thập mà chúng ta làm chỉ thánh giá của Chúa Giêsu, nơi mạc khải trọn vẹn tình yêu của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần đối với nhân loại.
Dấu Thánh Giá là lời tuyên xưng đức tin vắn tắt nhất của người Kitô hữu, là dấu chỉ phân biệt những người môn đệ của Chúa Giêsu và những người theo đạo khác. Lời kinh nhân danh Cha và Con và Thánh Thần tóm tắt đức tin mà chúng ta đã nhận lãnh khi chịu phép rửa tội, mà nội dung là ba điều khoản lớn của đức tin công giáo, điều khoản thứ nhất tuyên xưng Chúa Cha, điều khoản thứ hai tuyên xưng Chúa Con, điều khoản thứ ba tuyên xưng Chúa Thánh Thần và Hội thánh.
Dấu Thánh Gía là một công thức ngắn gọn nhất, nhưng lại đầy đủ nhất về đức tin vào Một Thiên Chúa Ba Ngôi.
Như vậy cách thực tế và đơn giản nhất để tôn vinh Chúa Ba Ngôi là chúng ta hãy làm dấu Thánh Giá cách sốt sắng và ý thức, với tất cả lòng yêu mến và kính trọng.
Lạy Chúa, khi làm dấu Thánh Giá, xin cho con biết khắc ghi tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa trong trái tim con. Ôi dấu thánh nhiệm mầu, dấu ấn tình yêu, Chúa mãi ở trong con, con ở trong Chúa. Amen.
46. Dấu Thánh Giá
(Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
“Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Chúng ta mở đầu như thế có nghĩa là chúng ta nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi để bắt đầu bài chia sẻ này. Không phải riêng tôi mà tất cả mọi Kitô hữu đích thực, khi làm một việc gì đều muốn làm trong ý nghĩa đó, tức là mỗi khi bắt đầu một công việc gì chúng ta luôn làm dấu thánh giá. Một nhà văn Kitô giáo ở thế kỷ thứ hai, Ông Te-tu-li-a-nô, đã viết: “Dù khi thức dậy hay đi ngủ, dù khi ăn hay khi làm một việc gì quan trọng, hãy bắt đầu bằng dấu thánh giá”. Lời khuyên đó cho thấy việc làm dấu thánh giá đã có ngay từ những ngày đầu của Giáo Hội. Thánh Phao-lô cũng thường mở đầu và kết thúc các thư của ngài một cách tương tự: “Nguyện xin ân sủng của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, và tình yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng anh chị em”.
Người Kitô hữu biểu lộ thánh giá ra bên ngoài để tuyên xưng đức tin và tôn vinh Chúa. Cũng có trường hợp vì tôn trọng thái độ tôn giáo của người khác, chúng ta chỉ thầm nguyện ở trong lòng mà không làm dấu Thánh giábên ngoài. Nhưng cách này hay cách kia, chúng ta đều ý thức rằng chúng ta đang làm mọi việc nhân danh Thiên Chúa để tôn vinh Ngài, như lời Kinh Thánh dạy: “Dù ăn, dù uống, dù làm việc gì, anh em hãy làm mọi sự để tôn vinh Thiên Chúa”. Đặc biệt hôm nay chúng ta đề cập đến dấu thánh giá để nói về Chúa Ba Ngôi, để nói lên lòng chúng ta tin nhận một Thiên Chúa độc nhất có ba ngôi là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Trước hết, chúng ta phải nói ngay: Thiên Chúa Ba ngôi là một mầu nhiệm quan trọng vĩ đại nhất của đạo Công giáo: một mầu nhiệm thuộc đời sống thâm sâu của Thiên Chúa mà con người không có quyền cũng như không có khả năng đạt tới, chỉ có Con Thiên Chúa mới có thể cho chúng ta biết mà thôi. Bởi vì mầu nhiệm Ba Ngôi là mầu nhiệmvề đời sống thấm sâu của Thiên Chúa, tức đời sống yêu mến của Thiên Chúa, cho nên chỉ được mặc khải trong thời Tân Ước, là thời yêu mến, và do chính Con Một Thiên Chúa là hình ảnh, là tình yêu của Đức Chúa Cha.
Đại khái mầu nhiệm ấy được diễn tả như sau: Chúa Cha chiêm ngưỡng chính mình thì có một hình ảnh, một ý nghĩ, một tâm tình, một lời về mình. Hình ảnh, ý nghĩ, hay kiến thức hoặc tâm tình ấy là Ngôi Hai hay Ngôi Lời. Thế rồi hai ngôi chiêm ngưỡng và yêu nhau làm phát xuất ra một mối tình hay một tình yêu. Tình yêu đó là chính Ngôi Ba: Chúa Thánh Thần.
Khó hiểu quá phải không? Đúng vậy, mầu nhiệm Ba ngôi rất khó hiểu và mãi mãi vẫn là khó hiểu. Chúng ta biết được như thế là do chính Chúa Giêsu đã mặc khải, các tông đồ đã truyền dạy và cả Giáo Hội không ngừng tuyên xưng như vậy. Giáo Hội toàn cầu đã nhóm họp nhiều công đồng để xác định rõ đức tin của mình về Thiên Chúa Ba Ngôi. Các công đồng quan trọng nhất đã định tín về chân lý này là công đồng Ni-xê-a năm 325, công đồng Côn-tăng-ti-nốp năm 381, công đồng La-trăng IV năm 1215, công đồng Li-ông II năm 1274, công đồng Fơ-lo-ren năm 1439.
Mầu nhiệm Ba ngôi được coi như một công thức mà Giáo Hội sử dụng trong tất cả mọi sinh hoạt: từ một dấu thánh giá, một phép lành cho đến một lời thề long trọng hay một bí tích. Tất cả đều bắt nguồn ở công thức duy nhất Chúa Kitô đã dùng để ban truyền mệnh lệnh rửa tội cho muôn dân trước khi Ngài lên trời. Trong đời sống một người tín hữu, ngay từ khi chưa chào đời cho đến khi chết rồi, biết bao nhiêu lần công thức ấy đã được đọc trên mình chúng ta kèm với dấu thánh giá hay một nghi thức hoặc cử chỉ nào khác. Nhưng vì là một công thức, cho nên khi nghe đến hay đọc lên, nhất là sau khi đã lặp đi lặp lại nhiều lần, chúng ta không còn cảm thấy gì nữa, công thức ấy đã được nhắc tới một cách máy móc, vô ý thức, đôi khi còn thiếu tôn kính nữa. Vì vậy, chúng ta cần sửa chữa lại điều không tốt đẹp ấy và quyết tâm từ nay mỗi khi làm dấu thánh giá chúng ta sẽ làm một cách ý thức và tôn kính.
10/06 Ðồng xu bà góa nghèo
- Viết bởi Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Ðồng xu bà góa nghèo.
Thứ Bảy tuần 9 thường niên.
"Bà goá nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết".
Lời Chúa: Mc 12, 38-44
Khi ấy, Chúa Giêsu nói cùng dân chúng trong khi giảng dạy rằng: "Các ngươi hãy coi chừng bọn luật sĩ. Họ thích đi lại trong bộ áo thụng, ưa được bái chào ngoài công trường, chiếm những ghế nhất trong hội đường và trong đám tiệc. Họ giả bộ đọc những kinh dài để nuốt hết tài sản của các bà goá: Họ sẽ bị kết án nghiêm nhặt hơn". Chúa Giêsu ngồi đối diện với hòm tiền, quan sát dân chúng bỏ tiền vào hòm, và có lắm người giàu bỏ nhiều tiền. Chợt có một bà goá nghèo đến bỏ hai đồng tiền là một phần tư xu. Người liền gọi các môn đệ và bảo: "Thầy nói thật với các con: Trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bá goá nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết. Vì tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa, còn bà này đang túng thiếu, đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Tín thác vào Chúa
Một văn sĩ Mỹ kể lại giai thoại như sau: Hôm đó là Chúa Nhật, ông đi tham dự buổi nói chuyện của một nhà truyền giáo. Nhà truyền giáo nói năng rất hùng hồn, những nỗi thống khổ của người dân bản xứ mà nhà truyền giáo kể lại đã khiến cử tọa cảm động sâu xa. Văn sĩ kể về mình thế này: Khi nhà truyền giáo kêu gọi sự giúp đỡ, tôi định bỏ vào giỏ một đôla; nhưng giọng nói của ông cảm động đến độ tôi định tăng lên năm đôla, và ngay cả ký một chi phiếu. Thế rồi, nhà truyền giáo tiếp tục phóng đại nỗi thống khổ của người bản xứ; ông cứ nói mãi, nói mãi, đến nỗi mọi người không còn muốn nghe nữa. Tự nhiên tôi có ý định rút lại việc ký ngân phiếu, rồi từ từ giảm xuống năm rồi còn một đôla, và cuối cùng khi nhà truyền giáo chấm dứt bài thuyết trình và cái giỏ tiền được chuyền đến tay tôi, thì tôi chỉ bỏ vào đó có mười xu.
Giai thoại trên đây có thể gợi cho chúng ta thái độ cầu nguyện của các luật sĩ và biệt phái mà Chúa Giêsu đã không ngừng lên án. Họ nới rộng thẻ kinh và làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Thái độ cầu nguyện này phát xuất từ một quan niệm có tính cách bùa chú về Thiên Chúa. Họ tưởng rằng Thiên Chúa là một vị Thần mà người ta có thể hối lộ hoặc kích thích lòng quảng đại bằng những việc đạo đức của họ. Họ áp dụng cho Thiên Chúa sự tính toán hơn thiệt dựa trên sự công bình: có vay có trả, có qua có lại của con người. Chính quan niệm ấy đã khiến nhiều người xem sự giàu sang phú quý là một chúc lành của Thiên Chúa, còn tai họa rủi ro là một trừng phạt vì tội lỗi; từ đó người ta tự phụ về những công đức của mình và khinh bỉ những người nghèo hèn và những người tội lỗi.
Chúa Giêsu đến để mạc khải cho con người một Thiên Chúa khác biệt. Thiên Chúa của Chúa Giêsu là Thiên Chúa yêu thương mọi người, ngay cả và nhất là những người kém may mắn nhất trong xã hội. Thiên Chúa của Chúa Giêsu là Thiên Chúa mà người ta không thể giới hạn vào một số công thức bùa chú. Thiên Chúa mà lòng quảng đại vượt trên mọi tính toán cân lường của con người.
Mạc khải cho chúng ta một Thiên Chúa như thế, Chúa Giêsu muốn chỉ cho chúng ta một thái độ đúng đắn phải có, đó là lòng tín thác tuyệt đối vào tình yêu của Thiên Chúa. Lòng tín thác ấy luôn luôn mời gọi chúng ta nhìn vào mọi biến cố cuộc sống với tất cả tin tưởng lạc quan. Khi có một cánh cửa nào đó trong căn nhà của cuộc sống chúng ta bị đóng lại, thì Thiên Chúa lại mở ra những cánh cửa khác. Thiên Chúa không bao giờ bỏ cuộc và bỏ rơi chúng ta; ngay cả khi đứng trước tội lỗi chúng ta, Ngài cũng không thất vọng, nhưng vẫn luôn luôn tìm một lối thoát tốt đẹp hơn cho chúng ta.
Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta bằng một tình yêu không thể đo lường, tính toán. Xin cho từng tâm tư và suy nghĩ của chúng ta là một lời tri ân cảm tạ Chúa vì xác tín rằng bàn tay quan phòng của Chúa đang làm những điều kỳ diệu cho chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Những đồng xu nhỏ của bà góa nghèo
Đức Giêsu ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho đền thờ. Người quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao. Có lắm người giầu bỏ thật nhiều tiền. Cũng có một bà góa nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng bạc Rô-ma. Đức Giêsu liền gọi các môn đệ lại và nói: “Thầy bảo thật anh em: bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết.” (Mc. 12, 41-43)
Chính sau khi đã nặng lời chỉ trích các ông kinh sư luật sĩ vì họ kiêu ngạo và bất công, mà Chúa Giêsu tán dương lòng quảng đại của một bà góa nghèo. Rõ ràng là ý Chúa muốn dùng câu chuyện nhỏ này để tạo nên một nét tương phản hùng hồn với tính phô trương giả hình của các kinh sư, luật sĩ. Tuy nhiên sẽ là lầm lạc khi đưa ra kết luận rằng, trong tâm trí của Đức Kitô, những người nghèo nhất thiết là những người quảng đại, còn những người giầu có thì không thiếu những kẻ bủn xỉn; ta có thể đưa ra biết bao nhiêu gương tốt xấu về phía này cũng như về phía kia. Người ta không phân chia thế giới thành hai loại người: những người nghèo tốt và những kẻ giầu xấu; xác định lập trường quá đơn giản như vậy quả là một sự trái lẽ và nếu ta lại gán cho Chúa cũng có lập trường như vậy thì quá bất công.
Những kẻ bênh vực cho cảnh bần hàn đã hoài công xử dụng những lý chứng trên đây. Giả như có ai cho họ nhiều đồ, thì họ vẫn cứ thích nhận, hơn là nhận món quà ít oi bé nhỏ của những người túng thiếu, mặc dầu họ đã rào trước đón sau khi nói với bạn rằng của cho không quan trọng cho bằng tấm lòng người cho. Dầu sao, ai mà không cảm động khi thấy một người nghèo đã chắt chiu bòn hết tiền nhà để nâng đỡ một người khốn khổ hơn mình..
Đàng sau cái dư thừa
Vượt qua bức tường của cái dư thừa, khó hơn là vượt qua bức tường âm thanh. Khi cho cái bạn thừa rồi, cái bạn không cần đến, bạn vẫn được xếp vào hàng người lương thiện; Chắc hẳn, người ta không thể trách móc bạn điều gì, nhưng bạn đừng hy vọng người ta khen bạn. Bạn chỉ bước vào lãnh vực của tình yêu, chỉ chiếm được con tim khi bạn đi xa hơn, khi cho cái thiết thân của bạn, khi cho chính bản thân mình, khi bạn dấn thân. Vì thế bạn có nhiều hay chẳng có gì, điều ấy chẳng mấy quan trọng; điều quan trọng là bạn có một trái tim biết yêu.
Điều Chúa Giêsu lặp đi lặp lại cho chúng ta bằng vô vàn thí dụ, chính là Nước Trời là của những ai hiến mạng sống mình cho tha nhân, chứ không phải là của những ai quăng đi những miếng bánh thừa.
Khi đạt tới việc chia sẻ cái cần thiết, con người không còn phân chia thành kẻ giầu, người nghèo nữa; họ bình đẳng với nhau. Thực ra những trái tim của con người, tim nào cũng đập, chỉ có môi trường là thay đổi thôi. Khi trần trụi, đó chính là lúc con người tỏ ra ích kỷ hay quảng đại đấy.
Suy niệm 3:
Bài Tin Mừng hôm nay đặt bên nhau hai hình ảnh trái ngược.
Một bên là các kinh sư, một bên là một bà góa.
Chúng ta được mời gọi nhìn cách hành xử bên ngoài của họ,
từ đó thấy được thái độ nội tâm của mỗi bên.
Các kinh sư thuộc về giới lãnh đạo cấp cao của Do thái giáo.
Trong một xã hội được chi phối toàn diện bởi Luật Môsê,
thì những người giỏi Luật như các kinh sư đóng vai trò rất quan trọng.
Họ có nhiều uy tín và ảnh hưởng trên đời sống tinh thần của dân.
Chính vì thế không lạ gì nếu có một số kinh sư đã vấp ngã.
Một người vừa có tri thức, vừa có quyền lực, dễ bị vấp vào thói háo danh.
Đức Giêsu nêu lên một vài nét chấm phá về họ.
Trong hội đường, nơi công cộng hay đám tiệc,
họ thích mặc áo thụng, thích được chào, thích chỗ cao.
Nói chung, họ thích mình trở nên trung tâm chú ý của người khác.
Hiểu biết của họ về Lời Chúa sau bao năm học tập
lại trở nên phương tiện để họ tìm vinh danh cho mình thay vì cho Chúa.
Tệ hơn nữa, họ lại mang bộ mặt đạo đức khi giả vờ đọc kinh dài.
Với uy tín và sự giả hình khéo léo, họ nuốt chửng nhà của các bà góa.
Ngược với hình ảnh của một vị kinh sư cao trọng, quyền uy
là chuyện một bà góa nghèo bỏ tiền vào hòm dâng cúng.
Đức Giêsu cố ý ngồi gần để quan sát người giàu kẻ nghèo bỏ tiền.
Ngài muốn dạy các môn đệ một bài học lớn khi gọi họ lại
và khẳng định rằng bà góa này đã bỏ nhiều hơn mọi người khác,
mặc dù bà chỉ bỏ vào thùng số tiền rất nhỏ.
Nhưng cái rất nhỏ này lại là tất cả những gì bà có, tất cả của nuôi thân.
Hẳn các môn đệ ngỡ ngàng vì cách đánh giá ấy của Thầy,
cũng là cách đánh giá con người của Thiên Chúa.
Ngài đánh giá theo tấm lòng, chứ không theo lễ vật.
Ngài không mãn nguyện với của dư thừa, nhưng Ngài đòi tất cả.
Tất cả của bà góa là hai đồng kẽm, thuộc đơn vị tiền tệ thấp nhất.
Hóa ra người túng thiếu cũng có thể dâng chính cái nghèo của mình.
Một kinh sư có học thức, có vai vế và bề ngoài có vẻ đạo đức
khác với bà góa cô thân cô thế và túng nghèo,
ở chỗ ông quay vào mình, loay hoay với tiếng tăm và lợi nhuận của mình.
Còn bà thì quay về phía Thiên Chúa,
với thái độ quảng đại, tin tưởng, phó thác và liều lĩnh.
Chúng ta ai cũng có hai đồng kẽm.
Đừng mặc cảm khi phải bỏ đồng tiền nhỏ nhoi vào hòm tiền,
nếu quả thực chúng ta chỉ có hai đồng kẽm.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa,
xin cho con quả tim của Chúa.
Xin cho con đừng khép lại trên chính mình,
nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa
vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường
để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen,
mọi trả thù ti tiện.
Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng,
không một biến cố nào làm xáo trộn,
không một đam mê nào khuấy động hồn con.
Xin cho con đừng quá vui khi thành công,
cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.
Xin cho quả tim con đủ lớn
để yêu người con không ưa.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở
để có thể ôm cả những người thù ghét con. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ
09/06 Con vua Ðavít?
- Viết bởi Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Con vua Ðavít??.
Thứ Sáu tuần 9 thường niên.
"Sao họ có thể bảo Ðức Kitô là Con vua Ðavít?"
Lời Chúa: Mc 12, 35-37
Khi ấy, Chúa Giêsu cất tiếng giảng dạy trong đền thờ rằng: "Sao các luật sĩ lại nói Ðấng Cứu Thế là con vua Ðavít? Vì chính Ðavít được Chúa Thánh Thần soi sáng đã nói: Thiên Chúa đã phán cùng Chúa tôi rằng: "Con hãy ngồi bên hữu Cha, cho đến khi Cha đặt các kẻ thù con làm bệ dưới chân con". Chính Ðavít gọi Người là Chúa, thì sao Người lại có thể là Con Ðavít được?" Và đám dân chúng thích thú nghe Người nói.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Ðấng Kitô là Chúa
Cuộc đối đầu trực diện giữa Chúa Giêsu và các đối thủ qua đi với việc họ không còn chất vấn Ngài nữa. Lúc này, tác giả Marcô lại nhớ thêm một cảnh, trong đó chính Chúa Giêsu là người chất vấn. Marcô không xác định rõ kẻ bị hỏi, chỉ ở cuối đoạn ông mới cho biết đông đảo dân chúng lắng nghe Ngài cách thích thú.
Trong lần chất vấn này, Chúa Giêsu đề cập đến tước hiệu mà các luật sĩ gán cho Ngài: con vua Ðavít. Một truyền thống Do thái xa xưa vẫn cho rằng Ðấng Kitô phải thuộc dòng dõi vua Ðavít (2V 7,14-17). Người ta cũng thường gọi Chúa Giêsu là "con vua Ðavít" (x. 10,48; 11,10). Nhưng chắc chắn Chúa Giêsu không tự xưng mình bằng tước hiệu này, vì nó quá hàm hồ, Ngài muốn tránh xa quan niệm về Ðấng Kitô theo kiểu chính trị. Ngài trưng dẫn Thánh vịnh 110, theo đó Ðấng Kitô vừa là con vua Ðavít, vừa được Ðavít gọi bằng "Chúa tôi". Chính Kinh Thánh đã gán cho Ðấng Kitô một phẩm tính cao cả hơn con vua Ðavít và gọi bằng tước hiệu "Chúa". Sau biến cố Phục Sinh, các Kitô hữu đã sử dụng Thánh vịnh 110 để tìm ra các tước hiệu bao hàm trọn vẹn tính cách của Chúa Giêsu: họ tuyên xưng Ngài thực sự thuộc đẳng cấp thần thánh: Ngài đã sống lại và được Thiên Chúa phong làm "Chúa". Ngài lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa (Cv 2,34-36).
Ðức Kitô là Thiên Chúa thật và cũng là người thật. Ðó là lòng tin kiên vững của Kitô giáo. Quá nhấn mạnh tới thiên tính mà bỏ quên nhân tính, hoặc ngược lại, đều là những sai lầm tai hại. Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật, như lời thánh Gioan: "Từ khởi thủy đã có Lời, và Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Lời là Thiên Chúa". Nhưng Lời đã thành xác phàm và sống giữa nhân loại để cứu độ con người và nâng con người lên địa vị con cái Thiên Chúa. Nói theo thánh Irênê: Thiên Chúa đã làm người để con người được trở thành Thiên Chúa.
Ước gì đó là niềm xác tín mà chúng ta mang trong lòng, diễn tả ra cuộc sống và sẵn sàng bảo vệ đến cùng.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Thánh Mác-cô hớn hở
Khi giảng trong đền thờ. Đức Giêsu lên tiếng hỏi: “Sao các kinh sư lại nói Đấng Kitô là con vua Đa-vít? Chính vua Đa-vít được Thánh Thần soi sáng đã nói:
Đức Chúa phán cùng Chúa Thượng tôi:
Bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị,
Để rồi bao địch thù,
Cha sẽ đặt dưới chân Con.
Chính vua Đa-vít gọi Đấng Kitô là Chúa Thượng, thì do đâu Đức Kitô lại là con vua ấy được?” Đám người đông đảo nghe Đức Giêsu cách thích thú. (Mc. 12, 35-37)
Thánh Maccô có vẻ rất vui sướng dùng câu hỏi của Chúa Giêsu để kết thúc chương sách đầy những cuộc tranh cãi gay cấn này. Câu hỏi của Chúa không những là lời khẳng định thần tính của Người mà cũng là một kiệt tác “đốn ngã” trong môn võ hagada, môn karaté chính cống. Hai câu của Sách thánh bề ngoài có vẻ mâu thuẫn nhau, nhưng xét cho cùng lại chẳng có gì là mâu thúẫn cả. Hai câu đều đúng, nhưng nói tới những chủ đề khác nhau: con vua Davít theo dòng tộc, nên phải là đấng Mêsia được trông đợi, nhưng đồng thời cũng là Chúa thượng của chính Đavít, người được Thánh Thần soi sáng đã nói:
“ Đức Chúa phán cùng Chúa Thượng tôi: bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt dưới chân Con”.
Có nghĩa là trong Truyền thống Do thái, Chúa Giêsu đã là Con Thiên Chúa theo quyền năng. Tiếc rằng chúng ta ít quen với những cuộc tranh biện thuộc loại này, tranh biện của các bậc kinh sư. Trong những cuộc tranh biện này, Chúa Giêsu tỏ ra trổi vượt. Tuy nó làm chúng ta ngạc nhiên, nhưng cũng giúp chúng ta thấy rằng Chúa quên mình để chiều theo những đòi hỏi của người đương thời. Qua cuộc tranh biện này và theo kiểu văn chương đông phương, chúng ta có ở đây lời tuyên bố sáng sủa và rành mạch về thần tính của Chúa Giêsu.
Tập trung vào Đức Kitô
Suốt một tiếng đồng hồ, sau khi đã giải thích rằng Chúa Giêsu là nhân vật mang trọn thân phận con người như ta có thể hình dung ra, một linh mục đã kết thúc bài nói truyện của mình rằng: “Dẫu sao ta cũng đừng quên rằng Chúa Giêsu cũng là Con Thiên Chúa”.
Thế kỷ ta sống đã khắc ghi vào tâm trí chúng ta cách nhìn này, không phải là không có lý bởi vì chúng ta đã đến muộn, nhưng phản ứng không phải là chối bỏ. Nói rằng Chúa Giêsu là siêu sao, là hippi, là nhà xã hội, cũng tốt thôi, nhưng nói Đúc Giêsu là Con Thiên Chúa nhập thể thì tôi càng thích hơn.
Điều làm nên cái tôi sâu xa của Đức Kitô, làm cho Người trở nên con người duy nhất và rất cần thiết cho mọi người sinh ra trên trần gian này, chính bởi Người là Thiên Chúa ở với chúng tôi. Sứ mệnh của Người không phải là phàm tục hóa vũ trụ, nhưng là lôi kéo vũ trụ đi vào dòng chảy tràn sự sống Thiên Chúa. Thiết tưởng chẳng cần ai phải suy tôn Người là bậc vĩ nhân, anh hùng, là những con người chúng ta sẽ luôn luôn có; Người đã đến trần gian này chỉ để đưa chúng ta nhập vào gia đình của Người mà thôi. Bởi ta chỉ muốn cho Người nên giống ta, nên như người của chúng ta, mà ta thường quên trở nên Người. Thế mà xem ra chính đó lại là lý do đưa Người đến với ta vậy.
Suy niệm 3:
Sau khi đã bị chất vấn về nhiều vấn đề bởi các nhà lãnh đạo tôn giáo,
bây giờ đến lượt Đức Giêsu đặt vấn đề với họ, cụ thể là các kinh sư.
Khung cảnh vẫn là Đền thờ với đám đông thính giả.
Có vẻ đây là một đám đông có cảm tình với Đức Giêsu (c. 37).
Câu chuyện khởi đi từ câu đầu tiên của thánh vịnh 110.
Thánh vịnh này là thánh vịnh được các Kitô hữu sơ khai yêu thích,
và được trích dẫn nhiều lần trong các sách Tân Ước,
bởi lẽ họ nhận ra khuôn mặt của Đức Giêsu vinh quang trong đó.
Đối với các kinh sư, cũng như đối với Đức Giêsu,
thánh vịnh này được vua Đavít viết ra, dưới ơn linh hứng của Thánh Thần.
Ông viết về Đấng Mêsia được Đức Chúa cho toàn thắng.
“Đức Chúa phán cùng Chúa của tôi rằng: bên hữu Ta đây, con lên ngự trị,
để rồi bao địch thù Ta đặt làm bệ dưới chân con” (c.36).
Trong thánh vịnh này, Đavít đã gọi Đấng Mêsia một cách long trọng,
bằng tước hiệu “Chúa của tôi”.
Thế mà theo quan niệm của các kinh sư, Đấng Mêsia (còn gọi là Đấng Kitô)
là con vua Đavít, là người thuộc dòng dõi vua Đavít.
Câu hỏi Đức Giêsu đặt cho các kinh sư như sau:
Nếu Đavít gọi Đấng Mêsia là Chúa của tôi
thì làm sao Đấng Mêsia lại là Con của Đavít?
Mới nghe câu hỏi của Đức Giêsu,
ta có cảm tưởng Ngài không nhìn nhận mình là Con vua Đavít.
Thật ra Ngài không bảo rằng Đấng Mêsia không thể là Con Đavít được.
Nhưng Ngài chỉ đặt một câu hỏi lơ lửng để mời họ suy nghĩ.
“Bởi đâu (pothen) mà Đấng Mêsia lại là con vua Đavít?” (c. 37).
Bởi đâu Đấng Mêsia vừa là Con, vừa là Chúa của Đavít?
Đối với Kitô hữu chúng ta, mầu nhiệm này đã được hiển lộ.
Đức Giêsu là Con vua Đavít, thuộc dòng dõi Đavít theo xác thịt (Rm 1,3),
nhưng Ngài được siêu tôn làm Chúa nhờ trải qua cái chết thập giá,
nhờ sự hạ mình vâng phục, và nhờ được phục sinh.
“Chính vì thế Ngài được ban cho một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu,”
khiến mọi loài phải tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Chúa (Ph 2, 9-11).
Hôm nay chúng ta vẫn phải làm việc vất vả
để thế giới nhìn nhận quyền làm Chúa của Đức Giêsu Kitô.
Vì kẻ thù cuối cùng vẫn chưa bị khuất phục trọn vẹn (1 Cr 15, 25).
Chúng ta mong mọi sự quy phục Đức Kitô, để tất cả thuộc về Thiên Chúa.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã yêu trái đất này,
và đã sống trọn phận người ở đó.
Chúa đã nếm biết
nỗi khổ đau và hạnh phúc,
sự bi đát và cao cả của phận người.
Xin dạy chúng con biết đường lên trời,
nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.
Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu,
chúng con thấy mình được thêm sức mạnh
để xây dựng trái đất này,
và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.
Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa,
xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời
không làm chúng con quên trời cao;
và những vẻ đẹp của trần gian
không ngăn bước chân con tiến về bên Chúa.
Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con,
mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
08/06 Giới răn trọng nhất
- Viết bởi Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Giới răn trọng nhất.
Thứ Năm tuần 9 thường niên.
"Thiên Chúa của ngươi là Thiên Chúa duy nhất và ngươi hãy kính mến Người".
Lời Chúa: Mc 12, 28b-34
Khi ấy, có người trong nhóm Luật sĩ tiến đến Chúa Giêsu và hỏi Người rằng: "Trong các giới răn, điều nào trọng nhất?" Chúa Giêsu đáp: "Giới răn trọng nhất chính là: "Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Chúa, Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi". Còn đây là giới răn thứ hai: "Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi". Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó". Luật sĩ thưa Người: "Thưa Thầy, đúng lắm! Thầy dạy phải lẽ khi nói Thiên Chúa là Chúa duy nhất, và ngoài Người, chẳng có Chúa nào khác. Yêu mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình, và yêu tha nhân như chính mình thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ vật hy sinh". Thấy người ấy tỏ ý kiến khôn ngoan, Chúa Giêsu bảo: "Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu". Và không ai dám hỏi Người thêm điều gì nữa.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Mối quan tâm hàng đầu
Văn hào Léon Tolstoi có kể câu chuyện như sau: Hai người đàn ông nọ quyết tâm hành hương về Yêrusalem để dự Ðại lễ Phục Sinh ở đó. Một người đặt mối quan tâm hàng đầu là đích điểm của cuộc hành trình, vì thế ông cương quyết không dừng lại bất cứ nơi đâu, và trong suốt cuộc hành trình, tâm trí ông chỉ nghĩ đến thành thánh. Còn người thứ hai, trên mọi nẻo đường, nhìn thấy nhiều người cần được giúp đỡ và ông đã tốn nhiều tiền bạc và thời giờ, đến nỗi ông không đến được đích điểm như đã dự định; thế nhưng, một cái gì đó từ Thiên Chúa đến với tâm hồn ông mà người hành hương kia không nhận được, cũng như một cái gì đó từ Thiên Chúa qua đôi tay ông, ảnh hưởng cuộc đời của nhiều người mà người kia không có được qua những nghi lễ ông tham dự tại thành thánh kéo dài suốt mùa Phục Sinh.
Mối quan tâm hàng đầu là một danh từ thời đại. Nhà nước đặt mối quan tâm hàng đầu vào chính sách kinh tế; một học sinh đặt mối quan tâm hàng đầu vào đèn sách để thi đậu vào đại học... Ðâu là mối quan tâm hàng đầu của tôi, đó là câu hỏi hợp lý có thể áp dụng vào mọi sinh hoạt cuộc sống, nhưng thiết nghĩ quan trọng hơn cả là câu hỏi: Ðâu là mối quan tâm hàng đầu của tôi đối với cuộc sống của một người Kitô hữu?
Ðó cũng là vấn nạn mà một luật sĩ đặt ra cho Chúa trong Tin Mừng hôm nay, khi ông ta hỏi: "Thưa Thầy, trong các giới răn, giới răn nào đứng hàng đầu?" Câu trả lời của Chúa Giêsu rất rõ ràng và đơn sơ, giới răn đứng đầu, mối quan tâm hàng đầu của người Kitô hữu chính là tình yêu.
Nếu tình cờ chúng ta được một người nào đó đặt câu hỏi như trên, liệu chúng ta sẽ trả lời như thế nào? Chúng ta có phát biểu được câu trả lời tuyệt diệu, nghe êm tai và nêu bật giá trị cao đẹp của con người chúng ta không? Và thành thật với lương tâm, liệu câu trả lời đó có phản ánh chính cuộc sống chúng ta không, bởi lẽ khi cho một câu trả lời đúng, chúng ta có thể lừa dối người khác và tự lừa dối mình? Thành thật với lòng mình có lẽ nhiều người trong chúng ta sẽ phải ngạc nhiên khi khám phá ra rằng cho đến nay mối quan tâm hàng đầu của chúng ta là tiền bạc, sức khỏe, danh vọng.
Như vậy, điều trước tiên chúng ta phải làm để hoán cải và canh tân là thành thật thú nhận rằng cho đến nay chúng ta đã đặt sai mối quan tâm hàng đầu của cuộc sống, kể cả mối quan tâm hàng đầu trong cách thức chúng ta biểu lộ niềm tin qua việc đọc kinh, dự lễ, bởi vì những cách thức này thường được sử dụng như những phương thế giúp chúng ta giữ đạo, chứ không dẫn chúng ta đi xa hơn trong việc sống đạo, nhất là giúp chúng ta tìm gặp được Thiên Chúa và tha nhân.
Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta đổi hướng cuộc sống và đặt lại bậc thang giá trị của mối quan tâm hàng đầu của chúng ta. Xin cho tình yêu mến là nguồn mạch và sức mạnh để chúng ta thực sự gặp gỡ Thiên Chúa và yêu thương tha nhân như chính mình.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Giói luật yêu thương
Đức Giêsu trả lời: “Điều răn đứng đầu là: nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó.” (Mc. 12, 29-31)
Chương mười hai Phúc âm thánh Maccô giống như cái thời gian một diễn giả khi thuyết trình xong dành cho thính giả đặt câu hỏi vậy. Có bao nhiêu quan điểm, có bấy nhiêu người đặt ra vấn đề; những bận tâm lo lắng của những người đặt câu hỏi thì đa dạng, còn quan niệm của Chúa lúc nào cũng vậy. Ông kinh sư vì muốn biết điều răn đứng đầu, nên khiến Chúa phải lặp đi lặp lại như một điệp khúc bằng tất cả đời sống cũng như trong lơì giảng dạy, lời “hãy yêu thương”.
Người ta thường nói sai rằng Chúa Giêsu là người đầu tiên dạy yêu mến người thân cận trái ngược với những người Do thái vốn dạy phải kính sợ Thiên Chúa và giữ đức công bình. Luật Cựu ước cũng là luật của tình yêu, bằng chứng là ở đây Chúa Giêsu trưng dẫn hai câu trong sách Nhị Luật. Nét đặc sắc của sứ điệp Kitô giáo là tình yêu đối với người thân cận là bí tích tình yêu của Thiên Chúa. Xưa nếu có vài người giải thích Luật cho rằng điều răn dạy yêu mến người thân cận chỉ giới hạn vào những người Ít-ra-en mà thôi, thì đa số vẫn chủ trương một tình yêu phổ quát. Ở đây cũng như ở bất cứ nơi nào, Chúa Giêsu không phá hủy Luật, Người làm cho Luật nên hoàn hảo.
Yêu thương những người không đáng yêu
Khác với con người, Thiên Chúa không trông mong gì chúng ta là những người dễ thương. Tình yêu của Chúa là tình yêu tạo nên tính dễ thương, và đó hẳn là điều Chúa muốn diễn tả khi dạy ta yêu thương những kẻ thù địch của ta.
Ta không yêu mến anh em ta như yêu những trái táo. Tình yêu Kitô giáo không phải là bộ phận rung làm cho trái tim hay thân xác ta rung động lên trước người hay vật nào đó hấp dẫn ta. Thứ tình yêu bản năng này chẳng có gì là phong phú, bởi lẽ đó không phải là tình yêu tự do.
Người ta sẽ nhận ra bạn yêu mến anh em bạn thực bằng một tình yêu phổ quát khi tình yêu ấy sẽ là tình yêu nhưng không, chẳng màng biết ơn, khi những người được yêu mến đó sẽ không phải là những kẻ dễ thương. Chúa Giêsu đã hiến mạng sống Người vì ta, đang khi ta là những tội nhân, giáo huấn của Chúa là thế đó. Yêu mến người khác dựa trên nền tảng là vẻ hấp dẫn, chẳng cần phải có điều răn, nhưng đúng là cần phải có Mạc khải của Chúa để ta nhận ra tình yêu nhưng không của Chúa đối với ta và Thần khí của Người ở trong ta để thực hiện tình yêu ấy.
Suy niệm 3:
Trong những ngày cuối tại Giêrusalem,
Đức Giêsu bị kéo vào những cuộc tranh luận với nhiều nhóm
về quyền, về chuyện nộp thuế, về sự sống lại (Mc 11, 27- 12, 27).
Ít có một cuộc đối thoại đúng nghĩa khi người ta chỉ muốn giăng bẫy,
và không thực sự muốn kiếm tìm chân lý.
Chính vì thế bài Tin Mừng hôm nay là một bất ngờ thú vị.
Một kinh sư nghe Đức Giêsu trả lời các đối thủ của mình
thì ông có cảm tình và muốn hỏi Ngài câu hỏi mà ông bận tâm.
“Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu ?” (c. 28).
Đức Giêsu thấy thiện tâm của ông, và Ngài đã trả lời nghiêm túc.
Ông kinh sư như reo lên khi nghe câu trả lời của Ngài.
“Thưa Thầy hay lắm, Thầy nói rất đúng.”
Câu trả lời của Đức Giêsu chạm đến điều dường như đã có nơi ông.
Ông thích thú lặp lại những lời Ngài đã nói (cc. 32-33).
Theo ông, những điều răn đó còn quý hơn hy lễ và lễ toàn thiêu (c. 33).
Đức Giêsu vui sướng khi đứng trước một vị kinh sư khôn ngoan và cởi mở.
Ngài nói với ông một câu mà chúng ta thèm muốn :
“Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” (c. 34).
Vị kinh sư hỏi Đức Giêsu về một điều răn đứng đầu.
Ngài đã trả lời tới hai điều răn (c. 31).
Hai điều răn này gắn kết với nhau chặt chẽ, nhưng vẫn là hai.
Cả hai đều đòi hỏi một thái độ, một chọn lựa diễn tả qua động từ “yêu”.
Yêu Thiên Chúa bằng tất cả con người mình
bằng trọn cả trái tim, linh hồn, trí khôn và sức lực,
và yêu tha nhân như yêu chính mình (cc. 29-31).
Tình yêu đối với tha nhân không thay thế được tình yêu đối với Thiên Chúa.
Tình yêu đối với Thiên Chúa như thanh dọc của thập giá
đỡ lấy thanh ngang là tình yêu tha nhân.
Sống trọn tình yêu là chấp nhận cả hai thanh gỗ làm nên cây thập giá.
Nếu lễ toàn thiêu đòi đốt hoàn toàn lễ vật, và hy lễ đòi giết chết con vật,
thì tình yêu đối với Chúa và tha nhân
cũng đòi thiêu rụi và giết chết cái tôi kiêu ngạo, ích kỷ của mình.
Chẳng thể nào yêu mà đòi giữ nguyên cái tôi khép kín.
Người Kitô hữu hôm nay cũng có thể hỏi Chúa câu hỏi tương tự :
Điều răn nào quan trọng hơn cả chi phối mọi lề luật trong Giáo Hội?
Chúa cũng sẽ giữ nguyên câu trả lời như ngày xưa.
Ngài vẫn tóm mọi điều răn và giới răn trong một động từ đơn giản: yêu.
Xin để tình yêu chiếm lấy trái tim của tôi, chi phối mọi chọn lựa,
và biến đời tôi thành tình yêu.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu, Tình Yêu của con,
nếu Hội Thánh được ví như một thân thể
gồm nhiều chi thể khác nhau,
thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu
một chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất.
Đó là Trái Tim, một Trái Tim bừng cháy tình yêu.
Chính tình yêu làm cho Hội Thánh hoạt động.
Nếu trái tim Hội Thánh vắng bóng tình yêu,
thì các tông đồ sẽ ngừng rao giảng,
các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình...
Lạy Chúa Giêsu,
cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con,
ơn gọi của con chính là tình yêu.
Con đã tìm thấy
chỗ đứng của con trong Hội Thánh :
nơi Trái tim Hội Thánh, con sẽ là tình yêu,
và như thế con sẽ là tất cả,
vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong Hội Thánh.
Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho con,
mọi ước mơ của con được thực hiện. Amen.
(dựa theo lời của thánh Têrêxa)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
07/06 Người chết sống lại
- Viết bởi Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Người chết sống lại.
Thứ Tư tuần 9 thường niên.
"Người không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống".
Lời Chúa: Mc 12, 18-27
Khi ấy, có ít người phái Sađốc đến cùng Chúa Giêsu; phái này không tin có sự sống lại và họ hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, luật Môsê đã truyền cho chúng tôi thế này: Nếu ai có anh em chết đi, để lại một người vợ không con, thì hãy cưới lấy người vợ goá đó để gây dòng dõi cho anh em mình. Vậy có bảy anh em: người thứ nhất cưới vợ rồi chết không con. Người thứ hai lấy người vợ goá và cũng chết không con, và người thứ ba cũng vậy, và cả bảy người không ai có con. Sau cùng người đàn bà ấy cũng chết. Vậy ngày sống lại, khi họ cùng sống lại, thì người đàn bà đó sẽ là vợ của người nào? Vì cả bảy anh em đã cưới người đó làm vợ". Chúa Giêsu trả lời rằng: "Các ông không hiểu biết Kinh Thánh, cũng chẳng hiểu biết quyền phép của Thiên Chúa, như vậy các ông chẳng lầm lắm sao? Bởi khi người chết sống lại, thì không lấy vợ lấy chồng, nhưng sống như các thiên thần ở trên trời. Còn về sự kẻ chết sống lại, nào các ông đã chẳng đọc trong sách Môsê chỗ nói về bụi gai, lời Thiên Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ta là Chúa Abraham, Chúa Isaac và Chúa Giacóp". Người không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống. Vậy các ông thật lầm lạc".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Có sự sống lại
Tin Mừng hôm nay mô tả cuộc đụng độ đầu tiên giữa Chúa Giêsu và nhóm người Sađốc. Những người Sađốc thuộc về hàng tư tế quý tộc. Về mặt chính kiến, họ theo bọn xâm lược. Về mặt tôn giáo, họ rất bảo thủ. Ðối với họ, lề luật phải tuân theo chỉ có trong năm cuốn sách đầu tiên của Bộ Kinh Thánh. Họ phi bác mọi giáo thuyết xuất hiện sau này do các tiên tri và các bậc trí giả giảng dạy, chẳng hạn việc kẻ chết sống lại. Do đó chẳng có gì ngạc nhiên khi họ tấn công Chúa Giêsu về vấn đề này.
Thật thế, dựa vào niềm tin mà họ cho là đúng đắn, những người Sađốc bắt đầu hỏi Chúa Giêsu bằng bộ luật Môsê, theo đó khi người chồng chết, nếu người vợ anh ta chưa có con, thì người anh (hoặc em) chồng phải cưới bà này để nối dõi tông đường.
Họ đặt ra trường hợp một người đàn bà có bảy đời chồng, vào lúc sống lại, bà ấy sẽ là vợ của ai trong bảy người anh em vì tất cả đã lấy bà làm vợ? Những người Sađốc hỏi thế, không phải vì thành tâm tìm kiếm để sống theo sự thật, mà chỉ để đùa giỡn với sự thật mà thôi.
Chúa Giêsu biết rõ họ ngoan cố và cố ý thử thách Ngài, nhưng Ngài vẫn điềm tĩnh và chỉ cho họ thấy sự dốt nát lầm lẫn của họ: Thứ nhất, họ thiếu hiểu biết Kinh Thánh và quyền năng của Thiên Chúa; thứ hai, hoàn cảnh con người sau khi sống lại hoàn toàn thay đổi, không giống như lúc còn sống ở trần gian này. Chúa Giêsu nói rõ có sự sống lại, nhưng sở dĩ họ không tin là vì họ thiếu hiểu biết Kinh Thánh. Thật thế, trong sách Môsê, đoạn nói về bụi gai, Thiên Chúa phán: "Ta là Chúa của Abraham, Chúa của Isaac, Chúa của Yacob", Ngài không là Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống. Hơn nữa, nếu Thiên Chúa đã phán một lời liền có mọi sự, chẳng lẽ Ngài không thể làm cho kẻ chết sống lại sao? Sự sống và sự chết đều do Thiên Chúa, vì thế sự sống lại cũng thuộc về Thiên Chúa. Lại nữa, khi sống lại từ cõi chết, thân xác con người được biến đổi hoàn toàn, nó sẽ giống như các thiên thần, giống như Chúa Kitô Phục Sinh, nên không còn phải chết và cũng chẳng phải dựng vợ gả chồng nữa.
Từ khi Chúa Giêsu mạc khải về sự thật này, biết bao người đã tin vào Thiên Chúa và đã sống trọn vẹn với niềm tin đó; biết bao người đã can đảm sống sự thật được mạc khải, dù phải hy sinh mạng sống, dù phải từ bỏ mọi danh lợi trần gian. Ðó là gương của những vị anh hùng tử đạo qua bao thế hệ nơi các dân tộc.
Nguyện xin Chúa soi lòng mở trí chúng ta hiểu biết và mộ mến Lời Chúa dạy trong sách Kinh Thánh, để chúng ta am tường các mầu nhiệm của Chúa và thực thi thánh ý Chúa. Xin cho chúng ta trân trọng sự sống, trau dồi cuộc sống tại thế tốt đẹp để được sống đời đời với Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Góa phụ của những người thuộc nhóm Sa-đốc
Quả vậy, khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời. Còn về vấn đề kẻ chết sống lại, các ông đã không đọc trong sách Mô-sê đoạn nói về bụi gai sao? Thiên Chúa phán với ông ấy thế nào? Người phán: “Ta là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-sa-ác, và Thiên Chúa của Gia-cóp. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống. Các ông lầm to!” (Mc. 12, 25-27)
Lòng tin vào sự sống lại đến muộn màng trong Do thái giáo, nhưng vào thời Chúa Giêsu nói chung người ta đã chấp nhận và nhóm những người thuộc phe Xađốc không tin có sự sống lại chỉ là thiểu số. Theo họ thì linh hồn hư nát cùng với thân xác. Phần đông các thành viên nhóm này thuộc giới tư tế và được người ta coi như có tài trong những cuộc tranh cãi lắt léo, nếu không nói là rối rắm như mớ bòng bong, như trường hợp Phúc âm hôm nay, họ đặt ra một vấn đề có một không hai. Vấn đề có vẻ nực cười, nhưng không có ý giễu cợt đức tin. Vấn đề muốn cho thấy sự sống lại là điều khó và phi lý, vì tạo nên những hoàn cảnh phức tạp và khó gỡ ở bên kia thế giới, chẳng hạn như trường hợp người góa phụ của bảy đời chồng này sẽ không biết cuối cùng mình sẽ là vợ của ai trong số họ. Chắc chắn bà ta sẽ không có thể được hưởng niềm vui trọn vẹn, bởi vì trong dân Do thái, người ta coi niềm an vui phu thê là phần thưởng lớn lao. Câu trả lời của Chúa Giêsu phải được đặt trong bối cảnh này: “Khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời.” Nói cách khác, sự sống của những người đã sống lại không cùng bình diện và tầm vóc với sự sống ở đời này.
Người được phục sinh không phải là một xác chết được sống lại
Nỗi bận tâm của những người thuộc phe Xađốc ở thời nào cũng có, dẫu rằng ngày nay người ta diễn tả không y như trước. “Chúng ta sẽ sống với những người thân của chúng ta sao? Tuổi đời đời là bao nhiêu? Có sẽ thoát khỏi những dị hình dị tật, những khuyết điểm của ta không?” Bảng liệt kê sẽ có thể dài dài đến vô tận. Đã thấy có những người lên mặt mô phạm dám đưa ra những câu trả lời cho tất cả những âu lo này, đang khi tự khởi đầu người ta đã đặt vấn đề không đúng; chúng ta sẽ không phải là những xác chết được sống lại để sẽ tiếp tục sống trên trái đất được sửa sang lại, nhưng là những con người mới trong một thế giới mới.
Phải nhận rằng chính Chúa Giêsu không cho ta biết mấy về tình trạng những người đã được phục sinh. Kiểu nói “giống như các thiên thần trên trời” chỉ có ý nói đến một cách thức hiện hữu khác biệt mà thôi. Nếu Thiên Chúa đã cho là tốt việc giữ yên lặng gần như hoàn toàn về tình trạng của đời sống hưởng phúc mai sau, thì thiết tưởng con người vì không đủ tư cách nên cũng đừng nói gì về đời sống xã hội ở đời sau. Những người đã được tuyển chọn hưởng phúc kia có thăm viếng ta hay không, điều đó chẳng ai biết được hay sẽ biết.
Suy niệm 3 :
Khi được hỏi về cuộc sống mai hậu,
Đức Khổng Tử đã trả lời đại khái như sau:
chuyện đời này còn chưa nắm hết, nói gì đến chuyện đời sau.
Nhưng chuyện đời sau vẫn là thao thức muôn thuở của con người.
Con người muốn biết sau cuộc sống ngắn ngủi này, mình sẽ đi về đâu.
Đi mà không rõ đích đến thì sẽ đi lông bông vô định.
Tiếc là có người đã tin rằng chẳng có gì sau cái chết!
Nhóm Xađốc cũng thuộc hạng người trên.
Họ là những tư tế Do thái giáo bảo thủ, không chấp nhận các ý tưởng mới
như chuyện người chết sống lại hay sự hiện hữu của các thiên thần.
Trong Kinh Thánh, họ chỉ dựa vào Ngũ Thư, trong đó có sách Đệ nhị luật.
Sách này có nói đến chuyện một người trong họ hàng gần (Đnl 25, 5-10),
phải lấy bà vợ góa không con của anh em mình, để có người nối dõi.
Nhóm Xađốc đã đưa ra một trường hợp hãn hữu và buồn cười (cc. 20-23),
để cho thấy chuyện sống lại là vô lý, và Môsê cũng chẳng tin chuyện đó.
“Khi sống lại, bà ấy sẽ là vợ của ai? Vì cả bảy người đều đã lấy bà làm vợ.”
Đức Giêsu đã nặng lời chê các tư tế trong nhóm này (c. 24).
Họ đã hiểu cuộc sống đời sau như một thứ kéo dài cuộc sống hiện tại,
nơi đó người ta vẫn cưới vợ, lấy chồng, vẫn sinh con đẻ cái.
Đức Giêsu cho thấy một bộ mặt khác hẳn của đời sau.
Người được sống lại là người bước vào cuộc sống hoàn toàn mới.
Họ sống “như các thiên thần trên trời” (c. 25),
nghĩa là sống trọn vẹn cho việc phụng sự Thiên Chúa,
với một thân xác đã được biến đổi nên giống thân xác Đấng phục sinh.
Nhưng đừng hiểu thiên đàng là nơi mất đi sự ấm áp của tình người.
“Hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng” (Lc 23, 43).
“Thầy đi dọn chỗ cho anh em, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14,3).
Tình yêu với Thầy Giêsu và những mối dây thân ái giữa người với người,
chẳng có gì bị phá vỡ, nhưng trở nên hoàn hảo vững bền.
Người ta sẽ không cưới hỏi hay sinh con,
nhưng tình nghĩa vợ chồng được nâng lên một bình diện mới.
Đức Giêsu trưng dẫn sách Xuất hành để minh chứng có sự sống lại.
Thiên Chúa nhận mình là Thiên Chúa của các tổ phụ Ítraen (Xh 3,15).
Mà người Do thái tin là Ngài không gắn mình với các anh hùng đã chết.
Vậy Abraham, Ixaác và Giacóp phải là những người đang sống,
nghĩa là những người đã chết và đã được phục sinh.
Chúng ta tuyên xưng có sự sống đời sau qua kinh Tin Kính.
Nhưng sống niềm tin ấy giữa thế giới vật chất và vô tín là điều không dễ.
Chỉ xin cho vất vả lo toan đời này không làm ta quên đời sau.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
giàu sang, danh vọng, khoái lạc
là những điều hấp dẫn chúng con.
Chúng trói buộc chúng con
và không cho chúng con tự do ngước lên cao
để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con
khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,
nhờ cảm nghiệm được phần nào
sự phong phú của kho tàng trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi
bán tất cả những gì chúng con có,
để mua được viên ngọc quý là Nước Trời.
Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng
trước những lời mời gọi của Chúa,
không bao giờ ngoảnh mặt
để tránh cái nhìn yêu thương
Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
06/06 Bổn phận với Thiên Chúa và với trần thế
- Viết bởi Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Bổn phận với Thiên Chúa và với trần thế.
Thứ Ba tuần 9 thường niên.
"Các ông hãy trả cho Cêsarê cái gì thuộc về Cêsarê, và trả cho Thiên Chúa cái gì thuộc về Thiên Chúa".
Lời Chúa: Mc. 12, 13-17
Khi ấy, người ta sai mấy người thuộc nhóm biệt phái và đảng Hêrôđê đến Chúa Giêsu để lập mưu bắt lỗi Người trong lời nói. Họ đến thưa Người rằng: "Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật không vị nể ai, vì Thầy chẳng xem diện mạo, một giảng dạy đường lối Thiên Chúa cách rất ngay thẳng. Vậy chúng tôi có nên nộp thuế cho Cêsarê không? Chúng tôi phải nộp hay là không?" Nhưng Người biết họ giả hình, nên bảo rằng: "Sao các ông lại thử Ta? Hãy đưa Ta xem một đồng tiền". Họ đưa cho Người một đồng tiền và Người hỏi: "Hình và ký hiệu này là của ai?" Họ thưa: "Của Cêsarê". Người liền bảo họ: "Vậy thì của Cêsarê, hãy trả cho Cêsarê; của Thiên Chúa, hãy trả cho Thiên Chúa". Và họ rất đỗi kinh ngạc về Người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Một qui luật sống
Tin Mừng hôm nay ghi lại một cuộc tranh luận khác giữa Chúa Giêsu và các vị lãnh đạo Do thái. Ở đây, chúng ta lại thấy hai nhóm liên kết lại, kể từ khi họ bắt hụt Chúa Giêsu khi Ngài rao giảng ở Capharnaum (3,6). Phái Hêrôđê ủng hộ Hêrôđê Antipa, thủ hiến xứ Galilê thì dựa vào thế lực của Rôma, còn nhóm Biệt phái cũng khá hòa hoãn với giới thống trị.
Thái độ sống giả hình là thái độ của những kẻ đóng kịch, cố gắng làm sao cho người khác thấy sự tốt nơi mình, mà thực ra mình không có. Những người Biệt phái và những người thuộc phái Hêrôđê là những kẻ giả hình, bởi vì họ làm ra vẻ muốn tìm biết sự thật, mà kỳ thực chỉ là để tìm dịp bắt bẻ Chúa. Họ đến với Chúa, khen Ngài là người chân thật, cứ theo sự thật mà giảng dạy đường lối của Thiên Chúa. Nhưng rất tiếc lời nói khéo léo của họ lại che đậy một thủ đoạn, một âm mưu trả thù. Ðó là đường lối của con người, nhất là của hạng người vụ lợi, ích kỷ, tham quyền.
Thật thế, sau khi giả vờ khen Chúa, họ liền chất vấn Ngài: "Có được phép nộp thuế cho César không?". Vấn đề xem ra đơn giản, nhưng thực ra là một cạm bẫy. Theo họ, Chúa Giêsu là nhà cách mạng thuộc dòng tộc Ðavít, chắc hẳn Ngài sẽ bảo họ không nộp thuế cho César, và thế là sa bẫy họ, lúc đó, họ sẽ có lý do để bắt bớ, giải nộp và giết Ngài. Nhưng đối với Chúa Giêsu, cái bẫy của họ không có gì là nan giải, vì khôn ngoan của loài người chỉ là dại khờ trước mặt Thiên Chúa. Mặc dù biết rõ ý đồ của họ, Chúa Giêsu vẫn tỏ ra hết sức chân thật; Ngài còn nhân cơ hội này để đưa ra một bài học: Ngài bảo họ cho xem đồng tiền và sau khi được biết hình và dấu trên đồng tiền là của César, Ngài nói tiếp: "Của César, trả về César; của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa". Nói khác đi, một khi đã được hưởng nhờ ơn lộc của ai, thì phải đền ơn đúng nghĩa, họ đã nhờ bổng lộc của César, thì có bổn phận đền đáp cho César; nhưng Chúa cũng nhắc thêm bổn phận của con người đối với Thiên Chúa: con người đã nhận lãnh nhiều ơn huệ của Thiên Chúa, nên cũng phải đền đáp ơn Ngài. Chúa Giêsu nhìn nhận vai trò đúng đắn của của quyền bính trần thế: "Của César, trả về César", nhưng Ngài thêm: "Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa". Chúa nhắc nhở rằng quyền bính trần thế không phải là quyền bính duy nhất trên con người, mà còn có quyền bính của Thiên Chúa nữa. Có những điều con người phải trả cho Thiên Chúa, vì con người đã được tạo dựng theo và giống hình ảnh Ngài; con người mắc nợ Thiên Chúa sự sống, nên con người buộc phải dâng hiến mạng sống cho Ngài và để Ngài chiếm chỗ ưu tiên trong cuộc sống của mình.
Xin Chúa soi sáng để chúng ta biết phân biệt điều gì thuộc César, điều gì thuộc Thiên Chúa, để chu toàn bổn phận đối với trần thế và đối với Thiên Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Của Xê-da
Họ cử mấy người Pha-ri-sêu và mấy người thuộc phe Hê-rô-đê đến cùng Người để gài bẫy cho Người lỡ lời. Những người này đến và nói: “Thưa Thầy chúng tôi biết Thầy là người chân thật, Thầy chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Vậy có được phép nộp thuế cho Xê-da không? chúng tôi phải nộp hay không phải nộp?” Nhưng Đức Giêsu biết họ giả hình, nên Người nói: “Tại sao các người lại thử Tôi? đem một quan tiền cho Tôi coi!” Đức Giêsu bảo họ: “Của Xê-da, trả về Xê-da; Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.” Và họ hết sức ngạc nhiên về Người. (Mc. 12, 13-15, 17)
Chúa không phán: “Của Xêda trả về Xêda miễn là nó phục tùng luật Chúa” nhưng “Của Xêda, trả về Xêda; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” Chúng ta thường có khuynh hướng giảm thiểu vế đầu của câu và coi như chỉ mình Chúa là có quyền. Nghĩ Chúa xử sự như vậy là điều bất công. Ta phải chú ý, người ta không biểu dương những quyền lợi của Chúa bằng cách chối bỏ quyền lợi của con người. Những kẻ trong sạch của mọi thời đại không để cho mình hoen ố vì bàn tay lấy cớ rằng họ phụng sự Thiên Chúa thì cũng là những kẻ lừa dối như những kẻ nói quá trong chiều hướng kia vậy. Péguy đã có lý để mạ lị “những người nghĩ rằng mình yêu mến Chúa bởi vì họ không thương yêu ai cả.”
Dứt khoát mà nói, những quyền lợi của con người cũng quan trọng như những quyền lợi của Thiên Chúa và khẳng định như vậy không phải là phạm thượng. Trái lại, thừa nhận trong chốc lát rằng Người đòi hỏi ta phải dành cho Người một tình yêu khác biệt, thiết tưởng sẽ là khinh miệt Chúa. Người Kitô hữu không có một trái tim hai tầng. Những tội ác chống với nhân loại cũng ghê tởm như những tội chối đạo vậy. Có những lời Phúc âm bị quên đi tỉ như “Ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga. 4,20).
Lễ phong vương
Có một thời việc xức dầu cho các vua được coi như một bí tích. Những tranh cãi thần học nảy sinh từ một sự giải thích như vậy chẳng mấy quan trọng, có điều là đó là ý tưởng đẹp và nó bắt nguồn tư lòng ngưỡng mộ lớn lao đối với con người được tạo dựng để cai trị. Vả lại những quyền lón lao dành cho con người đều là những tiêu đề cao quý: quyền sống, quyền được đối xử công bình, quyền được yêu thương, bình đẳng…
Nếu Thiên Chúa đòi hỏi được yêu mến trên hết mọi sự, thì tuyệt nhiên không phải là con người được hưởng một nửa tình yêu đâu, mà vỏn vẹn chỉ có nghĩa là với tất cả khả năng yêu mến của ta dành cho Người. Những anh em ta, dù có tuyệt vời đến đâu, thì vẫn có giới hạn và tận cùng. Khi những người anh em ấy đã nhận được trọn tình yêu dành cho họ rồi, thì trái tim ta vẫn còn có khả năng vươn lên tới vô hạn.
Một trong những việc làm làm vẻ vang cho thời đại của ta là việc lập ra những hội nhân quyền. Ngày nào công việc của những hiệp hội hay liên minh này sẽ thành công, ngày ấy Nước Thiên Chúa sẽ ở giữa chúng ta.
Suy niệm 3 :
Nhóm Pharisêu và nhóm Hêrôđê không phải là hai nhóm hợp nhau.
Nhưng họ lại rất hợp nhất trong việc muốn trừ khử Đức Giêsu (Mc 3, 6).
Ngài đã từng nhắc các môn đệ đề phòng “men” của hai nhóm này (Mc 8, 15).
Trong bài Tin Mừng hôm nay, họ lại liên minh với nhau để giăng bẫy.
Trước khi đưa Đức Giêsu vào bẫy, họ đã lấy lòng bằng những lời ca ngợi.
Rồi cái bẫy được giăng ra, sắc như một con dao hai lưỡi.
“Có được phép nộp thuế cho Xêda hay không?” (c. 14).
Đã từng có những câu hỏi như thế.
“Có được phép chữa bệnh trong ngày sa bát không?” (Mt 12, 10).
“Có được phép rẫy vợ vì bất cứ lý do nào không?” (Mt 19, 3).
Được phép có nghĩa là không đi ngược với Luật Môsê.
Từ năm thứ sáu sau công nguyên,
khi Giuđê và Samari trở thành một tỉnh của đế quốc Rôma,
mỗi người dân Do thái phải nộp một thứ thuế thân cho những kẻ xâm lược.
Đã có những phong trào đứng lên chống lại thứ thuế này.
“Có được phép nộp thuế cho Xêda không?”
Nếu Đức Giêsu nói rõ là được phép nộp thì đụng đến lòng ái quốc của dân,
và cũng đụng đến nhóm Pharisêu là những người không chấp nhận
sự thống trị nhơ nhớp của ngoại bang trên phần đất của Thiên Chúa.
Nếu Ngài nói rõ là không được phép nộp thì Ngài sẽ gặp khó khăn với Rôma,
và sẽ đụng đến nhóm Hêrốt là nhóm lãnh đạo dựa dẫm vào thế của đế quốc.
Dĩ nhiên Đức Giêsu đã khôn ngoan không trực tiếp trả lời câu hỏi này.
Ngài không rơi vào bẫy, ngược lại, có thể nói, Ngài giăng một cái bẫy khác.
“Đem cho tôi một đồng bạc để tôi xem” (c. 15).
Đức Giêsu không mang trong mình thứ tiền này, dùng để nộp thuế cho Rôma.
Nhưng kẻ thù của Ngài thì mang, và đưa cho Ngài một đồng bạc.
Đồng bạc này mang hình của Xêda và mang dòng chữ:
“Tibêriô Xêda, con của Augúttô thần linh, Augúttô.”
Khi biết đó là đồng tiền bằng bạc của Xêda, Đức Giêsu đã nói:
“Những thứ của Xêda, hãy trả lại cho Xêda,
những thứ của Thiên Chúa, hãy trả lại cho Thiên Chúa” (c. 17).
Câu trả lời này đã làm họ sững sờ, không thể nào bắt bẻ được.
Đức Giêsu có vẻ không chống lại chuyện nộp thuế thân cho Xêda.
Nhưng Ngài quan tâm đến một chuyện quan trọng hơn nhiều.
Chuyện đối xử công bằng với Thiên Chúa.
Trả lại cho Thiên Chúa mọi sự thuộc về Thiên Chúa: đó là bổn phận.
Đồng tiền mang hình Xêda, nên chúng ta phải trả cho Xêda.
Còn chúng ta là người mang hình ảnh Thiên Chúa,
nên chúng ta phải dâng trả chính bản thân mình cho Thiên Chúa.
Tên của Giêsu đã được ghi khắc trong tim ta,
nên chúng ta không được quên mình đã thuộc trọn về Giêsu.
Còn bao điều trong đời ta thuộc về Thiên Chúa mà ta vẫn giữ cho mình!
Cầu nguyện :
Lạy Chúa,
xin nhận lấy trọn cả tự do, trí nhớ, trí hiểu,
và trọn cả ý muốn của con,
cùng hết thảy những gì con có,
và những gì thuộc về con.
Mọi sự ấy, Chúa đã ban cho con,
lạy Chúa, nay con xin dâng lại cho Chúa.
Tất cả là của Chúa,
xin Chúa sử dụng hoàn toàn theo ý Chúa.
Chỉ xin ban cho con lòng mến Chúa và ân sủng.
Được như thế, con hoàn toàn mãn nguyện. Amen.
(Kinh dâng hiến của thánh I-Nhã)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
05/06 Dụ ngôn tá điền sát nhân
- Viết bởi Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Dụ ngôn tá điền sát nhân.
Thứ Hai tuần 9 thường niên - Thánh Bôniphát, giám mục, tử đạo. Lễ nhớ.
"Chúng bắt cậu con trai giết đi và quăng xác ra vườn nho".
* Thánh nhân sinh tại Anh quốc quãng năm 673. Người nhập đan viện I-xơ-te và được Đức Giáo Hoàng Ghê-gô-ri-ô II đổi tên Uyn-phơ-rít thành Bô-ni-pha-xi-ô. Người là tông đồ của nước Đức và là người tổ chức lại Hội Thánh nhiều miền. Sau khi được Đức Giáo Hoàng tấn phong giám mục (năm 722), người rảo khắp nước Đức, thành lập các giáo phận và các đan viện trong đó có đan viện Phun-đa. Người bị sát hại ở Đốc-cum (Hà Lan) cùng với năm mươi hai đồng bạn năm 754.
Lời Chúa: Mc 12, 1-12
Khi ấy, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn mà nói với các thượng tế, luật sĩ và kỳ lão rằng: "Có người trồng một vườn nho, rào dậu xung quanh, đào bồn đạp nho và xây một tháp, đoạn cho tá điền thuê vườn nho và trẩy đi phương xa.
"Ðến kỳ hạn, ông sai đầy tớ đến với tá điền thu phần hoa lợi vườn nho. Nhưng những người này bắt tên đầy tớ đánh đập và đuổi về tay không. Ông lại sai đầy tớ khác đến với họ. Người này cũng bị chúng đánh vào đầu và làm sỉ nhục. Nhưng người thứ ba thì bị chúng giết. Ông còn sai nhiều người khác nữa, nhưng kẻ thì bị chúng đánh đập, người thì bị chúng giết chết.
"Ông chỉ còn lại một cậu con trai yêu quý cuối cùng, ông cũng sai đến với họ, (vì) ông nghĩ rằng: "Chúng sẽ kiêng nể con trai ta". Nhưng những tá điền nói với nhau rằng: "Người thừa tự đây rồi, nào ta hãy giết nó và cơ nghiệp sẽ về ta". Ðoạn chúng bắt cậu giết đi và quăng xác ra ngoài vườn nho. Chủ vườn nho sẽ xử thế nào? Ông sẽ đến tiêu diệt bọn tá điền và giao vườn nho cho người khác. Các ông đã chẳng đọc đoạn Thánh Kinh này sao: "Tảng đá những người thợ xây loại ra, trở thành đá góc tường. Ðó là việc Chúa làm, thật lạ lùng trước mắt chúng ta".
Họ tìm bắt Người, nhưng họ lại sợ dân chúng. Vì họ đã quá hiểu Người nói dụ ngôn đó ám chỉ họ. Rồi họ bỏ Người mà đi.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Ðá tảng góc tường
Tin Mừng hôm nay nói về vườn nho của Chúa được trao cho các tá điền để làm sinh lợi thêm những hoa trái mới. Vườn nho cũ là Israel đã được Thiên Chúa chọn làm dân riêng, nhưng những kẻ có trách nhiệm chăm sóc vườn nho ấy đã không chu toàn bổn phận của mình; còn vườn nho mới chính là Israel mới, tức Giáo Hội đã được Chúa Giêsu thiết lập và trao cho những tá điền mới. Qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn các vị lãnh đạo Do thái thời đó hiểu rằng giai đoạn mới trong lịch sử cứu độ đã bắt đầu và không còn ngược lại được nữa; lòng độc ác của những tá điền không thể phá hủy chương trình hành động của Thiên Chúa, Ðấng nhân từ, kiên nhẫn, nhưng cũng rất công bằng và đòi hỏi sự cộng tác của con người.
Những chi tiết trong dụ ngôn vườn nho gợi lên những giai đoạn của lịch sử cứu độ Thiên Chúa thực hiện cho nhân loại. Cái chết của người con của ông chủ vườn nho thoạt xem ra là kết quả của lòng thù ghét của con người đối với Thiên Chúa. Như những tá điền muốn giết người con được sai đến để cướp vườn nho khỏi tay ông chủ, những kẻ thù nghịch Thiên Chúa cũng muốn loại bỏ Chúa Giêsu, Con Một Thiên Chúa, để tự do làm chủ vận mệnh nhân loại. Qua hình ảnh tảng đá xây đã trở nên đá tảng góc tường, Chúa Giêsu mở ra chìa khóa để con người có thể hiểu được ý nghĩa sâu xa liên hệ đến việc cứu chuộc của Ngài.
Chúa Giêsu Phục Sinh sau biến cố Vượt Qua của Ngài đã trở thành nền tảng cho vườn nho mới là Giáo Hội. Giáo Hội và mỗi thành phần Giáo Hội đều thuộc về Chúa Kitô. Mỗi người phải xây dựng và phát triển đời sống mình trên nền tảng duy nhất là Chúa Kitô. "Tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi", đó là bí quyết của mỗi môn đệ Chúa Kitô ở mọi thời và mọi hoàn cảnh, đó là bí quyết duy nhất để Chúa Kitô trở thành đá tảng nâng đỡ đời sống người Kitô hữu.
Lời của Chúa hôm nay cảnh tỉnh chúng ta trước trách nhiệm phải làm sao để dung mạo của Chúa được chiếu tỏa trong đời sống chúng ta và trong Giáo Hội. Chúa Giêsu là Ðá Tảng góc tường, là nền tảng và là sức sống cho cuộc đời chúng ta, xin cho chúng ta đừng bao giờ lìa xa Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Dụ ngôn lớn lao
Đức Giêsu bắt đầu dùng dụ ngôn mà nói với họ rằng: “Có người kia trồng được một vườn nho; ông rào giậu chung quanh, đào bồn đạp nho và xây một tháp canh. Ông cho tá điền canh tác rồi trẩy đi xa. Đến mùa, ông sai một đầy tớ đến gặp các tá điền để thu hoa lợi vườn nho mà họ phải nộp. Nhưng họ bắt người đầy tớ, đánh đập và đuổi về tay không.” (Mc. 12, 1-3)
Nếu chúng ta coi dụ ngôn những tá điền sát nhân là một câu truyện vĩ đại, một câu truyện rất vĩ đại có nhiều điều khó tin, thì đối với những người Do thái được nuôi dường trong văn hóa Kinh thánh, nó là một lời tiên tri trong sáng. Đối với chúng ta, vườn nho là vườn nho cho dù có rộng mênh mông đến thế nào, thì thái độ khờ khạo của ông chủ vườn nho cũng vượt xa giới hạn của vườn. Còn đối với những người đầy tớ cũng như người con trai cứ ngoan ngõan tới cho người ta lần lượt giết chết, thiết tưởng cũng cảm động, nếu như họ không phải là những người quá điên khùng. Đối với thính giả Do thái, dù là người ít thông thạo nhất về thể văn, thì vườn nho đáng thèm khát biết bao kia chính là Israel và họ chẳng cần phải giải thích chút nào mới nhận ra được các ngôn sứ là những người đầy tớ bị hành hạ và Đức Giêsu là người Con yêu dấu.
Những dụ ngôn rất thường là những chứng cứ Kinh thánh vốn không có gì bí ẩn đối với những người đương thời của Chúa Giêsu. Đó là tranh ảnh riêng của họ, không cần đến lời giải thích. Hiển nhiên khi chúng ta buộc phải soạn ra ít lời giải thích giá trị của những hình ảnh hay họa phẩm của ta, thì điều khó nói, khó diễn tả vẫn là nét truyền cảm toát ra từ tranh ảnh hay bức họa đó. Đó chính là trường hợp những dụ ngôn của Chúa Giêsu, những dụ ngôn đó là ngôn ngữ gia đình, là tiếng nói thân thương của họ, đang khi đối với chúng ta nó là những ẩn ngữ hay trò chơi tìm ô chữ vậy.
Chúa Giêsu với lai lịch của Người
Mục sư Bonhoeffer viết: “Ai muốn đi vào và cảm nghiệm quá vội vã và quá trực tiếp cái hồn của Tân ước, thì người đó, theo ý kiến tôi không phải là Kitô hữu…Người ta không thể cũng không nói ra được tiếng cuối cùng trước khi nói ra tiếng áp chót.” Để có thể cảm nhận được Chúa và sứ điệp của Người, ta phải nhận biết không những nguồn gốc thần linh của Người mà cả những gốc rễ nhân loại từ đó Người cũng hoàn toàn được sinh ra như được sinh ra từ Cha Người Đấng ngự trên trời. Cũng vậy, Cựu ước được Chúa mạc khải như Tân ước, và Cựu ước cũng là Lời Chúa như Phúc âm, thiết tưởng không phải là điều để ta không quan tâm.
Chúa Giêsu không phải từ trời rơi xuống, Người sinh ra trong một dân tộc, Người đã có những tổ tiên mà người ta gọi là các tổ phụ và các tiền hô là những ngôn sứ vậy.
Suy niệm 3:
Dụ ngôn Đức Giêsu kể trong bài Tin Mừng hôm nay làm ta khó chịu.
Chúng ta không chấp nhận được sự độc ác của những tá điền,
những người làm công cho ông chủ,
và có bổn phận phải nộp hoa lợi vườn nho cho ông khi đến mùa.
Tại sao họ lại đánh đập người đầy tớ đầu tiên do ông chủ sai đến?
Tại sao họ lại tiếp tục đánh đập và làm nhục người đầy tớ thứ hai?
Tại sao họ dám cả gan giết người thứ ba
và tiếp tục làm như thế với nhiều đầy tớ khác? (cc. 2-5).
Cuối cùng, ông chủ đã sai đến với các tá điền người con yêu dấu của mình,
người cuối cùng trong số những người được ông sai.
Ông nghĩ người con của ông sẽ có đủ uy tín để khiến các tá điền phải vị nể.
Nhưng đáng thương thay, cậu con thừa tự dấu yêu đã bị bắt,
bị giết và bị quăng xác ra ngoài vườn nho.
Chúng ta không hiểu được sự độc ác tàn nhẫn của các tá điền.
Nhưng chúng ta lại càng không hiểu được
sự cam chịu kiên trì và sự ngây thơ lạ lùng của ông chủ.
Tại sao ông lại không phản ứng mạnh mẽ ngay từ tội ác đầu tiên?
Tại sao ông lại thiếu cương quyết khiến cho nhiều đầy tớ,
và chính con yêu dấu của mình phải chết như vậy?
Dụ ngôn Đức Giêsu kể nhắm vào các nhà lãnh đạo Do thái giáo,
những thượng tế, kinh sư và kỳ mục (Mc 11,27; 12,12).
Các đầy tớ trong dụ ngôn là những ngôn sứ đã được sai đến với dân Ítraen.
Các tá điền chính là những nhà lãnh đạo dân Ítraen từ bao đời.
Người con yêu dấu chính là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa,
người đã được Thiên Chúa gọi là Con yêu dấu khi chịu phép rửa
và khi được biến hình (Mc 1, 11; 9, 7).
Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu báo trước cuộc khổ nạn và cái chết sắp đến
bởi tay các nhà lãnh đạo đang đứng trước mặt Ngài đây.
Thiên Chúa như ông chủ vườn nho đau khổ,
có sức chịu đựng vô bờ dù bao lần dân Ítraen quay lưng từ chối.
Nhưng cuối cùng ông sẽ tiêu diệt các tá điền và giao vườn nho cho người khác.
Như thế dụ ngôn này vẫn mang nét tươi,
vì mọi sự không chấm dứt với cái chết của người con.
Tảng đá bị thợ xây loại bỏ đã trở nên tảng đá góc (c. 10).
Đức Giêsu phục sinh chính là tảng đá góc cho một tòa nhà mới.
Đó là cộng đoàn mới gồm những kẻ tin vào Ngài,
thuộc cả dân Do thái và dân ngoại.
Cả một lịch sử cứu độ nằm trong một dụ ngôn, mới nhìn có vẻ buồn.
Nhưng nơi đây ta bắt gặp tình yêu Thiên Chúa làm chủ suốt dòng lịch sử.
Một tình yêu kiên nhẫn chịu đựng, có vẻ dại dột và ngây thơ.
Một tình yêu bị bẽ bàng và làm nhục qua cái chết của Người Con yêu dấu.
Nhưng cuối cùng tình yêu ấy đã chiến thắng vẻ vang nơi sự phục sinh,
và nơi công trình kỳ diệu là Giáo Hội (c.11).
Cầu nguyện:
Lạy Cha từ ái,
đây là niềm tin của con.
Con tin Cha là Tình yêu,
và mọi sự Cha làm đều vì yêu chúng con.
Cả những khi Cha mạnh tay cắt tỉa,
cả những khi Cha thinh lặng hay vắng mặt,
cả những khi Cha như chịu thua sức mạnh của ác nhân,
con vẫn tin Cha là Cha toàn năng nhân ái.
Con tin Cha không chịu thua con về lòng quảng đại,
chẳng để con thiệt thòi khi dám sống cho Cha.
Con tin rằng nơi lòng những người cứng cỏi nhất
cũng có một đốm lửa của sự thiện,
được vùi sâu dưới những lớp tro.
Chỉ một ngọn gió của tình yêu chân thành
cũng đủ làm đốm lửa ấy bừng lên rạng rỡ.
Con tin rằng chẳng có giọt nước mắt nào vô ích,
thế giới vẫn tồn tại nhờ hy sinh thầm lặng của bao người.
Con tin rằng chiến thắng cuối cùng thuộc về Ánh sáng.
Sự Sống và Tình yêu sẽ chiếm ngự địa cầu.
Con tin rằng dòng lịch sử của loài người và vũ trụ
đang chuyển mình tiến về với Cha,
qua trung gian tuyệt vời của Chúa Giêsu
và sức tác động mãnh liệt của Thánh Thần.
Con tin rằng dần dần mỗi người sẽ gặp nhau,
vượt qua mọi tranh chấp, bất đồng,
mọi dị biệt, thành kiến,
để cùng nắm tay nhau đi qua sa mạc cuộc đời
mà về nhà Cha là nơi hạnh phúc viên mãn.
Lạy Cha, đó là niềm tin của con.
Xin Cha cho con dám sống niềm tin ấy. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.