Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
25/05 Thầy trò ly biệt
- Viết bởi Ga 16, 16-20
Thầy trò ly biệt
Thứ Năm tuần 6 Phục Sinh.
"Các con sẽ buồn sầu, nhưng nỗi buồn của các con sẽ trở thành niềm vui".
Lời Chúa: Ga 16, 16-20
Khi ấy Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Một ít nữa các con sẽ không thấy Thầy, rồi lại một ít nữa các con sẽ thấy Thầy, vì Thầy về cùng Cha".
Bấy giờ trong các môn đệ có mấy người hỏi nhau: "Điều Người nói với chúng ta: 'Một ít nữa các con sẽ không thấy Thầy, rồi lại một ít nữa các con sẽ thấy Thầy', và 'Vì Thầy về cùng Cha', như thế có ý nghĩa gì?" Họ nói: "Lời Người nói 'Một ít nữa' có ý nghĩa gì? Chúng ta không biết Người muốn nói gì?"
Chúa Giêsu nhận thấy họ muốn hỏi Người, nên Người bảo họ: "Các con hỏi nhau vì Thầy đã nói: Một ít nữa các con sẽ không thấy Thầy, rồi lại một ít nữa các con sẽ thấy Thầy. Thật, Thầy bảo thật với các con: các con sẽ than van khóc lóc, còn thế gian sẽ vui mừng. Các con sẽ buồn sầu; nhưng nỗi buồn của các con sẽ trở thành niềm vui".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Thầy trò ly biệt
Kinh điển Phật Giáo có ghi lại câu chuyện: một người đàn bà nọ có đứa con độc nhất qua đời, trong niềm đau tột cùng, người đàn bà đến hàng xóm và khẩn cầu: "Xin vui lòng chỉ cho tôi bất cứ thuốc nào để làm cho nó sống lại". Nhưng ai cũng chỉ biết lắc đầu mà thôi. Cuối cùng có người mách cho người đàn bà biết có một người lương y có thể cải tử hoàn sinh đứa bé đó chính là Ðức Phật Thích Ca (Sakya: Thuỷ tổ Phật Giáo, ông sinh ở miền Bắc Ấn Ðộ, đã có vợ con, sau đi tu hành tại Tuyết Sơn).
Người đàn bà mang đứa bé đến cầu khẩn với ngài và xin ban cho đứa bé một liều thuốc. Ðức Phật Thích Ca liền nói: Ta cần một ít hạt cải. Người đàn bà liền tìm ít hạt cải mang lại cho Ðức Phật. Nhưng vừa thấy, Ðức Phật nói với người đàn bà: "Hãy đi mời nhà nào không có tang chế và hãy mời họ uống lấy những hạt cải này".
Tin lời Ðức Phật, người đàn bà đi gõ cửa từng nhà mời uống lấy những hạt cải này, nhưng tất cả đều từ chối vì thật ra không có nhà nào lại không có một người đã ra đi. Khi người đàn bà trở về nhà trời đêm đã buông xuống, bà đến ngồi bên xác con và nhìn ra phố phường đang lên đèn, càng về khuya màn đêm càng tối và đêm đen bao trùm vạn vật. Lúc ấy, người đàn bà mới bắt đầu nghĩ: đời là thế, sinh ra đau khổ rồi chết, vì thế bà đứng dậy mang xác con vào rừng chôn cất.
Như vậy, con người sinh ra rồi đến chịu đau khổ và tận cùng là cái chết. Ðó là phận số của kiếp người mà khi Nhập Thể Con Thiên Chúa cũng không thoát khỏi. Chúa Giêsu đã ba lần chính thức loan báo về cuộc khổ nạn mà Ngài đã trải qua, nhưng xem ra các môn đệ của Ngài không hiểu được và cũng không chấp nhận được, vì tại sao số phận nghiệt ngã như thế lại có thể xảy ra cho Thầy mình, một người có quyền phép trên tất cả sự chết và đang trên đường tiến tới một tương lai sáng lạn. Trong những giờ phút cuối cùng ngồi bên các ông, Chúa Giêsu nói đến cái chết một lần nữa, nhưng lần này Ngài nói đến cuộc tử nạn ấy như là cuộc ra đi mà không vĩnh biệt. Do đó, Chúa Giêsu đã nói: "Thầy ra đi, anh em sẽ buồn rầu, nhưng niềm vui của họ gấp bội khi Ngài sống lại" (Ga 16,20).
Cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu gắn liền với sự đau khổ và niềm vui của các môn đệ, đúng hơn cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu chiếu dọi ánh sáng vào mọi khổ đau của con người. Kitô giáo không chối bỏ cái chết và sự đau khổ, nhưng qua cái chết và sự Phục Sinh của Ðức Kitô, Kitô giáo không còn nhìn cái chết và khổ đau như một ngõ cụt của cuộc sống. Trái lại, trong ánh sáng Phục Sinh của Chúa Kitô, cuộc sống con người mang một ý nghĩa thật tuyệt vời, mặc cho bao đau khổ mà con người vẫn phải trải qua "một ít nữa các con sẽ không xem thấy Thầy, rồi một ít nữa các con sẽ xem thấy Thầy" (Ga 16,16).
Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ tham dự vào mầu nhiệm vượt qua của Ngài, có nghĩa là cả những lúc tăm tối nhất của cuộc đời, họ vẫn nhận thấy được Ngài, bám chặt lấy Ngài để tiến bước, cho dẫu khổ đau như thế nào đi chăng nữa, con người vẫn tìm được ý nghĩa đích thực cho cuộc sống. Tham dự vào mầu nhiệm của Ngài cũng có nghĩa là nhìn thấy người anh em đang đau khổ ở xung quanh chúng ta. Sự cảm thông phục vụ đối với người đau khổ sẽ cho chúng ta tham dự vào cuộc tử nạn của Chúa Giêsu và niềm vui Phục Sinh tràn ngập tâm hồn chúng ta.
(Trích “Suy Niệm Hằng Ngày” – Radio Veritas Asia)
SUY NIỆM 2: Suy niệm của Giuse Nguyễn Hồ Điệp SDB
"Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui" (Ga 16,20)
Trong cuộc sống, chắc ai trong chúng ta cũng cảm nhận được đôi chút về sự mất mát, chia ly, đặc biệt là sự ra đi của người thân yêu.
Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu hiểu tâm lý của các môn đệ nếu như Ngài chịu chết nên trước khi chịu khổ hình, chịu chết, Chúa Giêsu đã báo trước để các ông chuẩn bị tâm lý khi nói "ít lâu nữa anh em sẽ không trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa anh em sẽ lại thấy Thầy". Nếu đặt tôi vào hoàn cảnh của các tông đồ năm xưa, tôi cũng giống như các ông chẳng hiểu gì, thậm chí có thể cho đó là một câu nói đùa, nói chơi của Chúa mà thôi. Nhưng mà nói đùa gì mà nghiêm túc quá vậy? Vì thế, các ông mới xầm xì với nhau xem thử ý Thầy là gì?
Qua câu nói "ít lâu nữa không thấy, rồi ít lâu nữa lại thấy" của Chúa Giêsu không chỉ nói cho các ông biết rằng Ngài sẽ đi vắng một thời gian, hay thậm chí là đi chịu chết để cứu nhân loại... nhưng sâu xa hơn, Chúa Giêsu tiên báo Ngài sẽ sống lại sau khi chết đi. Vì thế, các ông mới lại thấy được Ngài. Câu nói này ẩn ý Ngài sẽ chịu chết và sẽ sống lại nhưng chẳng ai hiểu. Ngài nói thêm cho các ông biết rằng các ông sẽ khóc lóc và than van nhưng nỗi buồn đó sẽ trở thành niềm vui. Lúc đó, các ông cũng vẫn chưa hiểu, chỉ sau khi Chúa Giêsu sống lại, các ông mới nhớ lại những lời Chúa Giêsu đã nói và các ông cảm thấy vui mừng. Niềm vui mừng đó đã đánh tan nỗi lo buồn, sợ hãi của các tông đồ. Để giờ đây, các ông ra đi loan truyền Tin Mừng Phục Sinh đó cho mọi người. Niềm tin và vui mừng đó giúp các tông đồ vượt mọi khó khăn, thử thách của những kẻ chống đối, điều cao cả hơn khi các ông dám hy sinh tính mạng để minh chứng cho một niềm tin.
Lạy Chúa Giêsu, những ngày tháng lo buồn, sầu khổ đã qua rồi. Giờ đây, chúng con đang sống trong niềm vui phục sinh của Chúa. Ngài đã làm cho ma quỷ phải sợ hãi, kinh hoàng con chúng con thì vui mừng trong niềm vui chiến thắng. Lạy Chúa, chúng con tin chắc rằng khi cậy dựa và bước theo Chúa, chúng con cũng sẽ chiến thắng ma quỷ, chiến thắng con người ích kỷ của chúng con để chúng con sống là một con người mới, con người hạnh phúc và yêu thương. Amen.
SUY NIỆM 3: Không thấy rồi lại thấy
Nhiều mâu thuẫn nảy sinh trong đoạn Tin mừng này. Đức Giê-su nói: “Ít lâu nữa anh em sẽ không thấy Thầy, rồi ít lâu nữa anh em sẽ lại thấy Thầy. Thầy về cùng Chúa Cha”. Phải nghĩ gì về ẩn ngữ này ? Đức Giê-su đi du lịch một thời gian ngắn ư ? Sự vắng mặt của Người giống như một cuộc hành trình đến miền nhiệt đới ư ? Hay lời Người như trò chơi hú tim của trẻ em, lúc ẩn, lúc hiện bất ngờ ư ? Những lời này tàng chứa một mặc khải phong phú. Hôm nay, chúng ta nghe biết sự mặc khải trọn vẹn về sinh lực của Đức Ki-tô: Thầy về cùng Cha. Đức Ki-tô đang chuẩn bị sẵn sàng khởi hành về Đấng là nguồn sự sống, nguồn sinh lực.
Cuộc sống của Đức Ki-tô không ngừng ra đi và trở về. Không đi bằng con đường đất đá, nhưng bằng con đường huyền diệu sâu thẳm và gắn bó mộ mến. Đức Giê-su càng ngày càng hiệp thông sâu xa vào kế hoạch của Cha Người. Đó là con đường hiệp thông thực hiện cứu độ để lật ngược lại sức nặng bất phục tùng của con người.
Tuy nhiên, trở về cùng Cha, Đức Giê-su vẫn không xa lìa chúng ta. Càng hiệp thông với Chúa Cha sâu thẳm bao nhiêu, Đức Giê-su càng ban tặng sự sống dồi dào. Vì Chúa Cha là nguồn sự sống, đã ban sự sống lại và sự sống vinh quang cho Chúa Con để Chúa Con làm cho mọi người được sống và sống lại với Người.
Chúng ta cũng được mời trở về cùng Chúa Cha để tham dự vào chính nguồn sống đó. Nhờ đó, chúng ta càng ngày càng thực hiện được sứ vụ từ Chúa Cha trao cho để trở nên người thông truyền sự sống của Chúa Cha và ra đi hiệp thông với người khác trong Chúa Con.
Thánh lễ lôi cuốn chúng ta vào dòng sống trở về này. Trong dòng sống này chúng ta được liên kết với Đức Ki-tô, để thấy được nguồn vui về cùng Chúa Cha đang chờ đợi chúng ta ở tột đỉnh con đường trở về của Chúa Con.
C.G
SUY NIỆM 4: Ý nghĩa của thời gian
Ngày sống của mỗi người đều có 24 giờ. Thế nhưng thời gian có ý nghĩa và độ dài khác nhau tùy từng người: người đang chờ đợi sẽ thấy thời gian trôi quá chậm, còn kẻ đang sợ hãi thì thời gian lại đến quá nhanh. Cũng vậy, người đang trĩu nặng buồn phiền, thời gian dài lê thê, còn kẻ đang hưởng niềm vui, thời gian lại ngắn ngủi mau qua.
“Một ít nữa, anh em sẽ không thấy Ta, và một ít nữa, anh em sẽ thấy Ta”. Chúa Giê-su cho các môn đệ biết sẽ có một khoảng thời gian, họ sẽ không thấy Ngài vì Ngài về cùng Cha. Cũng chung một thời gian, nhưng các môn đệ sẽ khóc sẽ than, còn thế gian sẽ vui mừng. Thật ra, thời gian tự nó chẳng có ý nghĩa gì, nó chỉ là thước đo của lịch sử. Thời gian chỉ có ý nghĩa và giá trị khi con người đặt tình cảm vào đó. Quá khứ qua rồi nhưng có thể sống lại trong tình cảm, tương lai chưa đến nhưng đã thành tựu trong dự kiến bằng các hy vọng hoài bão. Bởi thế thời gian có thể là linh dược hay độc dược: một kỷ niệm đẹp, một viễn ảnh xán lạn vẫn luôn là liều thuốc làm phấn khởi lòng người.
Chúa Giê-su có thời gian của Ngài. Ngài kêu gọi các môn đệ đến với Ngài. Nhưng tới lúc Ngài phải từ giã các ông, các ông sẽ buồn sầu, tuy nhiên đó cũng là lúc để các ông nhớ lại những gì Chúa Giê-su đã nói, và nỗi buồn sẽ trở thành niềm vui, khi Ngài trở lại. Như thế, Chúa Giê-su đã trở thành ý nghĩa của thời gian: thiếu vắng Ngài, các môn đệ u sầu, nhưng có Ngài, các ông mừng vui.
Chúa Giê-su vẫn hiện diện trong thời gian, và tình yêu của Ngài trải dài trong lịch sử. Con người sở dĩ chưa gặp được Ngài vì còn chạy theo thú vui chóng qua mà chưa sống cho vĩnh cửu. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tìm kiếm Chúa Giê-su để Ngài trở thành ý nghĩa cho cuộc sống chúng ta. Có Ngài, mọi u buồn sẽ trở thành niềm vui, được sống trong tình yêu của Ngài, chúng ta sẽ quên đi mọi nhọc nhằn của thời gian.
SUY NIỆM 5: Suy niệm của Lm. Trọng Hương
A. Hạt giống...
Đề tài giáo lý thứ 14: Về những buồn vui của đời kitô hữu:
Chúa Giêsu nói tới lúc Ngài ra đi: “Một ít nữa chúng con sẽ không thấy Thầy, rồi lại một ít nữa chúng con sẽ thấy Thầy”
Ngài cũng nói tâm trạng các môn đệ sau khi Ngài ra đi: “Các con sẽ buồn sầu, nhưng nỗi buồn của các con sẽ trở thành niềm vui”
B. ... nẩy mầm.
1. “Chúng con sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn chúng con sẽ biến thành niềm vui”: Chỉ khi nào ở trên trời thì chúng ta mới có thể hoàn toàn vui thôi, còn bao lâu còn ở trần gian thì vui buồn lẫn lộn. Và những vui buồn ở đời nay có những tính chất khác nhau và những hậu quả khác nhau.
- có nhiều cái vui không trọn vẹn, như lời một bản thánh ca lấy ý từ sách Giảng viên: “Hoa nào không phai tàn, trăng nào không khuyết, ngày nào mà không có đêm, yến tiệc nào không có lúc tàn ?”
- có những niềm vui chẳng mấy chốc lại biến thành nỗi buồn. Đó là những thứ vui tội lỗi. Thí dụ cái vui của thằng con hoang đàng trong sách Tin Mừng: Khi nó đang ngụp lặn trong những cuộc trụy lạc thì nó vui, khi nó còn tiền thì nó vui, nhưng sau khi cuộc trụy lạc đã tàn và khi tiền hết, nó rơi vào một sự trống rỗng, một nỗi buồn mênh mông.
- có những cái buồn cứ càng ngày càng buồn thêm, không dứt. Đó là cái buồn do hậu quả của một việc làm sai quấy. Thí dụ như cái buồn của Giuđa vì đã phản bội, đã bán đứng Thầy mình. Giuđa buồn đến nỗi phải đi thắt cổ chết. Hay như nỗi buồn của những người ở trong hỏa ngục: họ phải buồn muôn đời muôn kiếp vì họ biết rằng họ đã mất Chúa muôn kiếp muôn đời.
- Nhưng điều đáng chú ý hơn cả trong bài Tin Mừng này, là Chúa Giêsu nói đến thứ buồn sẽ biến thành niềm vui. “Ít lâu nữa chúng con sẽ không trông thấy Thầy”. Đó là cái buồn vì không được thấy Chúa. Ngày xưa các môn đệ suốt ba năm được ở gần bên Chúa, thế rồi Chúa ra đi về với Chúa Cha, các ông không thấy Chúa nữa nên các ông buồn. Còn đối với chúng ta, đó là cái buồn sám hối: khi chúng ta phạm tội mà còn biết sám hối thì chúng ta buồn bởi vì biết rằng tội làm mình mất Chúa, làm mình xa Chúa. “Nhưng rồi ít lâu nữa chúng con sẽ lại thấy Thầy... Chúng con sẽ buồn nhưng nỗi buồn của chúng con sẽ biến thành niềm vui”: Trong trường hợp các môn đệ, nỗi buồn xa Chúa đã biến thành niềm vui khi các ông gặp lại Chúa phục sinh. Còn đôi với chúng ta, nỗi buồn sám hối sau khi chúng ta phạm tội sẽ biến thành niềm vui được tha thứ. Như phần sau của chuyện đứa con hoang đàng lúc nó trở về: cha nó vui mừng vì, như ông nói, “con ta đã mất nay lại tìm thấy, đã chết nay sống lại”; chính nó vui mừng vì được cha tha thứ, được Cha cho trở lại mái ấm gia đình, trả lại cho nó thân phận làm con, cho nó đeo nhẫn, mang giày, mặc áo tốt.
Không phải cái vui nào ta cũng nên tìm kiếm, và không phải cái buồn nào ta cũng tránh xa:
. Đối với những thứ vui chóng tàn, chúng ta đừng quá bám víu vào, để khi nó tàn thì chúng ta không bị thất vọng.
. Đối với những thứ vui mà chẳng mấy chốc sẽ biến thành nỗi buồn, ta cũng đừng nên mất công tìm kiếm.
. Có những việc làm sẽ để lại hậu quả là một nỗi buồn dai dẳng, chúng ta đừng bao giờ làm.
. Nhưng chúng ta hãy biết buồn khi lỡ phạm tội, buồn đề sám hối ăn năn, buồn để quay gót trở về với Chúa. Có thể nói đây là nỗi buồn thánh vì nỗi buồn này sẽ biến thành niềm vui.
2. “Anh em sẽ lo buồn. nhưng nỗi buồn anh em sẽ trở thành niềm vui”
Đã hơn 3 tháng rồi mà những đứa trẻ của tôi vẫn không tiếp thu gì; chúng chỉ biết được mỗi chữ “o” và chữ “e”. Nhưng làm sao trách được khi cả ngày chúng phải lao vào những đống rác để nhặt từng bao nilon, những mảnh nhựa hay chai lọ bể; chúng đâu còn giờ để nghĩ đến bài học nữa.
Tôi nản quá và muốn bỏ dạy, cứ theo đà này thì tốn mất vài ba năm chúng mới biết đọc chữ. Tôi lại phí sức đổ thời gian vào một việc mà tôi không làm được. Tôi xuôi tay, và không biết cách giải quyết.
Tôi không thể nghỉ được, những đôi mắt háo hức đang chờ đợi tôi, những bàn tay đen đứa đang níu áo tôi. Chúng thương tôi và cần nơi tôi một Tình Yêu, cái mà chúng thiếu thốn nhất.
Lạy Chúa, Giê-su Phục Sinh xin ở lại trong con để niềm vui Phục Sinh của Ngài làm động lực giúp con chu toàn nhiệm vụ của mình, hăng hái tiếp tục con đường đã chọn. (Epphata)
*****************************************************
Một khởi đầu mới
20/05 – Thứ Năm tuần 6 PS. – LỄ CHÚA THĂNG THIÊN
"Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy".
Lời Chúa: Mt 28, 16-20
Khi ấy, mười một môn đệ đi về Galilêa, đến núi Chúa Giêsu đã chỉ trước.
Khi thấy Người, các ông thờ lạy Người, nhưng có ít kẻ còn hoài nghi. Chúa Giêsu tiến lại nói với các ông rằng: "Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy. Vậy các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con.
Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Ước mơ về trời
Hôm nay Chúa về trời đó là niềm vui và là niềm hy vọng cho hành trình cuộc đời chúng ta. Một hành trình không vô định nhưng có điểm tới là quê Cha trên trời. Chính Chúa Ky-tô đã soi lối mở đường cho chúng ta. Chính Ngài đã đi trước để dọn chỗ cho những ai tin theo Người. Từ nay u sầu sẽ gặp niềm vui. Từ nay những đau khổ đời này không làm cho con người thất vọng, nhưng ánh vinh quang Phục Sinh của Chúa đã mang lại niềm hy vọng và lạc quan cho kiếp người chúng ta.
Người ta kể rằng: có một bác nông dân đã tình cờ nhặt được một tượng chịu nạn đã bị sứt mẻ đang nằm chơ vơ vì không có thập giá. Bác cầm tượng chịu nạn lên và đi vào trong làng. Bác đến từng nhà. Bác hỏi han từng người. Từ người già đến người trẻ. Bác nghĩ thầm rằng: "Không chừng ở đâu đây! Có ai đó đang có thập giá trơ trụi mà không có Ðức Ky-tô nằm trên. Ðức Ky-tô của bác không có nơi ngơi nghỉ, còn thập giá của ai đó không có Ðức Ky-tô. Bác muốn trao Ðức ky-tô cho ai đang đang phải vác thập giá một mình, để nhờ Ðức Ky-tô họ vượt qua những gian nguy của dòng đời. Bởi vì, một thập giá không có Ðức Ky-tô là tra tấn, là hoả ngục, là thất vọng. Thế nên, bác đã cố gắng tìm đến những ai đang thất vọng vì gánh nặng hai vai, đang ui sầu vì lầm than cơ cực, bác trao gởi cho họ Ðức Ky-tô để họ nhận ra họ đang được thông phần đau khổ với Ðức Ky-tô. Hy vọng rằng cuộc đời họ sẽ vui hơn vì họ đang làm việc, đang đón nhận đau khổ vì Ðức Ky-tô, nhờ đó họ cũng được chung phần vinh phúc với Chúa trên trời.
Vâng, cuộc đời chúng ta sẽ ngụp lặn trong đau khổ cùng cực nếu không có Ðức Ky-tô hiện diện. Nếu cuộc đời không có Ðức Ky-tô thì những hy sinh, những đau khổ, những gánh nặng trong cuộc đời này sẽ là một mất mát, một nỗi đau của kiếp người. Ðây cũng là tin mừng mà Ðức Ky-tô đã và đang trao phó cho giáo hội, cho mỗi người chúng ta: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ , loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo". Hãy loan tin vui đến cho những ai đang gặp u sầu, đang thất vọng, đang trải qua những ngày tháng bất hạnh, khổ đau. Hãy nói cho họ biết sau đêm dài là ánh bình minh. Cuộc đời này là một hành trình đi về thiên quốc. Một con đường có thập giá. Thập giá trong bổn phận. Thập giá trong hy sinh từ bỏ những tham sân si của dòng đời. Thập giá trong những dâng hiến cuộc đời để phục vụ cho lợi ích tha nhân. Ðó chính là thập giá mà chúng ta đón nhận vì Ðức Ky-tô sẽ biến thành Thánh Giá của hồng ân cứu độ.
Người nông dân đang cố gắng mang Chúa đến cho những mảnh đời bất hạnh, là sứ vụ mà Chúa đã trao cho giáo hội và cho mỗi người chúng ta. Chúng ta hãy cùng nhau mang Ðức Ky-tô đến muôn nẻo đường đời. Hãy mang Ðức Ky-tô đến cho những ai đang thất vọng u sầu, đang nặng trĩu những buồn đau. Hãy mời gọi họ biết đón nhận mọi biến cố đang diễn ra trong cuộc đời mình vì Ðức Ky-tô và trong Ðức Ky-tô.
Hôm nay, Chúa về trời. Chúa vẫn mang theo những dấu vết của thương tích trong cuộc khổ nạn. Không có vết thương nào đắt giá cho bằng sự chết. Như thể, Chúa về trời với những chứng tích đau thương, với những chống đối mà Ngài phải gánh chịu trong cuộc sống, với cơn hấp hối nơi vườn Cây Dầu, với những đau đớn của roi đòn, lỗ đinh. Ngài đã mang theo tất cả những giai đoạn đau thương đẫm máu như dấu tích cho lời xin vâng trọn vẹn vâng theo thánh ý Chúa. Và hôm nay, Chúa Giê-su muốn các môn đệ cũng như những ai muốn đi theo Ngài phải đi con đường này để lên trời. "Anh em hãy làm chứng cho Thầy. Khởi từ Giê-rusalem cho đến tận cùng thế giới". Làm chứng không chỉ bằng lời nói mà bằng cả cuộc sống theo gương Chúa Giê-su. Một cuộc sống luôn tìm kiếm ý Chúa và thực thi trong cuộc sống hằng ngày. Một cuộc sống yêu thương và phục vụ tha nhân để qua đó muôn dân sẽ ngợi ca Thiên Chúa. Một cuộc sống làm chứng không nhất thiết phải đổ máu, nhưng quan yếu là phải thể hiện tình yêu bằng những nghĩa cử cụ thể trong lời nói, trong việc làm: luôn bao dung, luôn kính trọng lẫn nhau, luôn bác ái và sống công bình với nhau. Một cuộc đời làm chứng không nhất thiết phải có một bản án để người đời khinh chê, ghét bỏ, nhưng chỉ cần biết hy sinh từ bỏ ý riêng của mình trong từng giây, từng phút để thánh ý Chúa luôn được thi hành trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta.
Kính thưa, quý Ông Bà Anh Chị Em,
Hôm nay nhìn Chúa về trời. Các tông đồ cảm thấy lòng trào dâng niềm vui. Xa xăm nơi cuối chân trời chỉ còn vang vọng lời Thầy chí Thánh Giê-su: "Anh em hãy làm chứng nhân cho Thầy. Khởi từ Giê-rusalem cho đến tận cùng thế giới". Xin cho mỗi người chúng ta đang khi hướng lòng về trời cao cũng biết chu toàn sứ vụ trần thế trong niềm hân hoan, ngõ hầu "Ra đi tay ôm bó lúa đi gieo - Ngày trở về miệng reo vang câu hát mừng. Xin Chúa Giê-su vinh thắng về trời giúp chúng ta luôn ước ao những sự trên trời và tìm kiếm Nước Chúa trong cuộc sống hôm nay. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
SUY NIỆM 2: Một khởi đầu mới – Bài giảng của Đức Cha Giuse Vũ Văn Thiên
Một thời đại mới đã khai mở, đó là thời của các chứng nhân, cũng là thời của Giáo Hội. Qua các ông, mọi người nhận ra Đức Giêsu đang sống và đang hiện diện trong các cộng đoàn Đức tin.
Khi nói đến lễ Chúa Giêsu lên trời hay lễ Thăng Thiên, chúng ta thường chỉ nghĩ đó là thời điểm kết thúc sứ mạng cứu chuộc của Chúa Giêsu. Phụng vụ hôm nay, nhất là bài Tin Mừng, lại quy hướng chúng ta về với một khởi đầu mới, trong lạc quan và hy vọng. Không phải vô cớ mà cả ba bài Tin Mừng cho chu kỳ ba năm A,B,C đều là những đoạn kết của các Tin Mừng nhất lãm. Đây là những kết "mở", dẫn chúng ta sang một khởi đầu mới.
Trước hết, đó là khởi đầu của sứ mạng truyền giáo được Chúa Giêsu uỷ thác cho các môn đệ. Sứ mạng này có điểm xuất phát là Giêrusalem, là thành thánh và là trung tâm của Do Thái giáo. Sứ điệp mà các môn đệ được trao phó là lời kêu gọi sám hối. Chúng ta hãy nhớ lại, đây cũng là nội dung lời rao giảng đầu tiên khi Chúa Giêsu khởi sự loan báo Tin Mừng: "Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng!". Có điều khác biệt là bây giờ Chúa Giêsu không còn hiện diện hữu hình nữa, mà Người hiện diện qua các chứng nhân. "Chính anh em là chứng nhân về những điều này". Một thời đại mới đã khai mở, đó là thời của các chứng nhân, cũng là thời của Giáo Hội. Qua các ông, mọi người nhận ra Đức Giêsu đang sống và đang hiện diện trong các cộng đoàn Đức tin.
Tuy Chúa Giêsu không hiện diện thể lý giữa các môn đệ, Người lại hứa ban cho các ông "quyền năng từ trời cao ban xuống". Quyền năng này là Chúa Thánh Thần. Vậy, đây là khởi đầu của một thời đại mà Thiên Chúa tuôn đổ Thần Khí của Ngài trên mọi tạo vật, để hướng dẫn và thánh hoá mọi xác phàm, nhất là những môn đệ. Điều này đã được thực hiện vào ngày lễ Ngũ Tuần, khi các môn đệ đang cầu nguyện xung quanh Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu. "Quyền năng từ trời cao" đã biến đổi các ông, ban cho các ông sức mạnh và nghị lực, nhờ đó, các ông không còn sợ hãi, mạnh dạn mở tung các cửa và can đảm rao giảng về Chúa Giêsu phục sinh.
Được trang bị bằng sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các ông đã lên đường. Đây là cuộc chia tay với Thày, đồng thời cũng là khởi đầu một cuộc lên đường mới. Tác giả Tin Mừng Luca diễn tả: "Các ông trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỉ, và hằng ở trong Đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa". Sứ điệp mà các ông lãnh nhận để rao giảng phát xuất từ Giêrusalem, nơi có Thiên Chúa hiện diện theo quan niệm của người Do Thái. Từ nơi này, ánh sáng Lời Chúa lên đường cùng với các ông, với tư cách là nhân chứng của Đấng Phục sinh, để chiếu toả đến tận cùng thế giới. Lời căn dặn của Chúa được ghi trong sách Tông đồ Công vụ còn cho thấy "không gian" của sứ vụ tông đồ rất rộng lớn bao la: "Anh em sẽ là chứng nhân của Thày tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samaria và cho đến tận cùng trái đất" (Cv 1,8).
Tác giả sách Công vụ Tông đồ, cũng là Thánh Luca, là một nhân chứng mắt thấy tai nghe, giờ phút chia tay giữa Chúa Giêsu và các môn đệ. Sau những lời căn dặn, Chúa Giêsu đã lìa họ mà về trời cao. Tác giả dùng chữ "được cất lên", cùng với chi tiết đám mây bao phủ. Trong truyền thống Cựu ước, đám mây là yếu tố diễn tả các cuộc "thần hiện" của Đức Giavê (x. Xh 13,21-22); của Con Người (x. Dn7,13). Đức Giêsu, mặc dù vắng bóng, vẫn luôn luôn hiện diện trong Giáo Hội. Như vậy, cuộc "lại đến" của Chúa được các sứ thần áo trắng diễn tả, không phải là một cuộc trở lại, nhưng đúng hơn, là sự tỏ mình lần cuối để minh chứng sự hiện diện ấy.
Xem ra có mấy vị trong số các tông đồ vẫn còn quan niệm lệnh lạc về sứ vụ thiên sai của Đức Giêsu. Vì vậy mà họ hỏi Chúa: "Thưa Thày, có phải bây giờ là lúc Thày khôi phục vương quốc Israen không?". Xưa cũng như nay, độc giả không khỏi ngỡ ngàng trước câu hỏi đó. Thế mới thấy rằng để canh tân tư duy và quan niệm của con người không phải là điều dễ dàng. Bốn mươi ngày sau biến cố Phục sinh, các ông đã nhiều lần gặp Chúa, mà quan niệm về Đấng Thiên sai của các ông vẫn chưa thay đổi. Trước sự tăm tối của lòng trí con người, tác giả Thư Do Thái khích lệ chúng ta "Hãy tiến lại gần Thiên Chúa với một lòng chân thành và một đức tin trọn vẹn, vì trong lòng thì đã được tẩy sạch mọi vết nhơ của lương tâm, còn ngoài xác thì đã được tắm rửa bằng nước tinh tuyền. Chúng ta hãy tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng, vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín" (Bài đọc II).
Mười ngày sau lễ Thăng Thiên, Mùa Phục sinh sẽ khép lai. Như đã nói ở trên, Lễ Thăng Thiên không phải hồi kết thúc nhưng là một khởi đầu mới cho sứ mạng làm chứng nhân cho Chúa của mỗi chúng ta, với tư cách là tín hữu. "Không ai cho người khác cái mình không có", chúng ta chỉ có thể trở thành chứng nhân can đảm của Chúa Giêsu, một khi chúng ta vững niềm xác tín nơi Người, nhận ra sự hiện diện của Người trong đời sống chúng ta. Lễ Thăng Thiên cũng nhắc cho chúng ta, quê hương đích thật của chúng ta là trên trời. Chúa Giêsu đã đi trước để dọn chỗ cho chúng ta. Tin yêu và gắn bó với Người ở đời này, chắc chắn chúng ta sẽ được hưởng hạnh phúc với Người ở đời sau.
Hãy cùng nhau lên đường trong hân hoan hy vọng, vì Chúa Phục sinh ở cùng với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế!
SUY NIỆM 3: Hành trình về Trời
Lễ Thăng Thiên không chỉ là lễ kính mừng Chúa Giêsu lên trời mà còn là dịp tái khẳng định tín điều mà chúng ta vẫn tuyên xưng: “Ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại, LÊN TRỜI ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng”. Nếu Đức Kitô không sống lại, niềm tin của chúng ta vô ích, và chúng ta chỉ là những người hoang tưởng, nhưng Ngài đã thực sự sống lại và lên trời.
Chúa Giêsu lên trời là để minh chứng và xác định lời hứa Ngài đã nói trước: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14:3). Đối với phàm nhân chúng ta, chắc chắn không còn niềm hạnh phúc nào lớn lao hơn nữa!
Thật là kỳ diệu, Thiên Chúa mà hóa thành Con Người, Con Người mà là Thiên Chúa, vừa hữu hình vừa vô hình. Chắc chắn chẳng một thần linh nào như vậy. Chỉ có Thiên Chúa của chúng ta như vậy mà thôi, độc nhất vô nhị. Thánh Phaolô đã nói: “Phải công nhận rằng: mầu nhiệm của đạo thánh thật là cao cả, đó là: Đức Kitô xuất hiện trong thân phận người phàm, được Chúa Thánh Thần chứng thực là công chính; Người được các thiên thần chiêm ngưỡng, và được loan truyền giữa muôn dân; Người được cả hoàn cầu tin kính, được siêu thăng cõi trời vinh hiển” (1 Tm 3:16).
Người ta chỉ nói LÊN trời, TỚI trời, hoặc VÀO trời, vì người ta không xuất phát từ trời. Nhưng Chúa Giêsu nói VỀ trời, vì Ngài xuất phát từ Trời, từ Chúa Cha: “Nếu anh em yêu mến Thầy thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy” (Ga 14:28). Người ta chỉ có thể VỀ nơi mà mình đã từng ở, còn nơi mình chưa ở thì không thể dùng động từ VỀ. Thế mà chúng ta cũng được Ngài cho phép VỀ trời với Ngài, dù chúng ta không xuất phát từ trời, chỉ là bụi tro xuất phát từ đất. Thật kỳ diệu quá đỗi!
Thánh Luca viết trong sách Công Vụ: “Thưa ngài Thê-ô-phi-lô, trong quyển thứ nhất, tôi đã tường thuật tất cả những việc Đức Giêsu làm và những điều Người dạy, kể từ đầu cho tới ngàyNgười được rước lên trời. Trước ngày ấy, Người đã dạy bảo các Tông Đồ mà Người đã tuyển chọn nhờ Thánh Thần. Người lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: trong bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa. Một hôm, đang khi dùng bữa với các Tông Đồ, Đức Giêsu truyền cho các ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, đó là: ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần” (Cv 1:1-5). Chúa Giêsu về trời, nhưng rồi Ngài lại gởi Chúa Thánh Thần đến với chúng ta, đồng hành và hoạt động với chúng ta mọi nơi, mọi lúc.
Tư tưởng loài người không cao hơn mặt đất, tầm nhìn không vượt qua cái bóng của mình, thế nên khi nghe Đức Giêsu nói vậy, những người đang tụ họp ở đó tưởng rằng Ngài sắp sửa khôi phục vương quốc Ít-ra-en. Nhưng Ngài đáp: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:7-8). Nói xong, Ngài được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Ngài, khiến các ông không còn thấy Ngài nữa. Họ ngơ ngẩn nhìn nhau rồi nhìn theo hút Ngài, chẳng hiểu thế là thế nào.
Đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Ngài đi, bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1:11). Lời giải thích này cho chúng ta biết chắc rằng Chúa Giêsu sẽ đến thế gian lần thứ hai vào một lúc nào đó, bất kỳ thời điểm nào mà chúng ta không thể biết được, thậm chí có thể là ngày mai hoặc hôm nay. Vì thế mà ai cũng phải sẵn sàng và tỉnh thức. Không chỉ vậy, với mỗi người còn là cái chết, vì tử thần có thể đến bất cứ lúc nào, không ai có thể ngờ được!
Cuộc đời Kitô hữu là cuộc lữ hành trần gian, là hành trình đức tin, là hành trình về trời. Đức Kitô đã về trời trước, đó là bảo chứng cho chúng ta. Tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi! Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo! Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả uý, là Vua Cả thống trị khắp địa cầu” (Tv 47:2-3).
Niềm vui quá lớn, nỗi mừng khôn tả. Nhưng chúng ta hữu hạn, chỉ biết thể hiện bằng tất cả khả năng phàm nhân: “Thiên Chúa ngự lên, rộn rã tiếng hò reo, Chúa ngự lên, vang dội tiếng tù và. Hãy đàn ca, đàn ca lên mừng Thiên Chúa, đàn ca lên nào, đàn ca nữa kính Vua ta! Thiên Chúa là Vua toàn cõi địa cầu, hãy dâng Người khúc đàn ca tuyệt mỹ. Thiên Chúa là Vua thống trị chư dân, Thiên Chúa ngự trên toà uy linh cao cả” (Tv 47:6-9). Thiên Chúa không đòi hỏi quá sức chúng ta, Ngài chỉ muốn chúng ta chân thành với khả năng riêng của mỗi người.
Thánh Phaolô cho biết: “Tôi cầu xin Chúa Cha vinh hiển là Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ban cho anh em thần khí khôn ngoan để mặc khải cho anh em nhận biết Người. Xin Người soi lòng mở trí cho anh em thấy rõ, đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh, đâu là quyền lực vô cùng lớn lao Người đã thi thố cho chúng ta là những tín hữu” (Ep 1:17-19a). Nhận biết Thiên Chúa là niềm hạnh phúc lớn lao, nhận biết Ý Ngài và vui mừng làm theo là niềm hạnh phúc lớn lao hơn. Quả thật, chấp nhận và làm theo Ý Chúa là điều không dễ chút nào, vì chúng ta thường chỉ muốn “được như ý” mà thôi!
Thánh Phaolô giải thích: “Đó chính là sức mạnh toàn năng đầy hiệu lực, mà Người đã biểu dương nơi Đức Kitô, khi làm cho Đức Kitô trỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người trên trời. Như vậy, Người đã tôn Đức Kitô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai. Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh; mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (Ep 1:19b-23). Đức Kitô được Chúa Cha trao ban mọi thứ, nhưng Ngài không giữ riêng cho Ngài, mà Ngài lại muốn chia sẻ với chúng ta, làm cho chúng ta được viên mãn với Ngài, dù chúng ta không chỉ là phàm nhân mà còn là những tội nhân hoàn toàn bất xứng.
Niềm hạnh phúc như điệp khúc cứ lặp đi lặp lại trong cuộc đời chúng ta, trên suốt hành trình về trời. Không hạnh phúc sao được, vì chúng ta được Thiên Chúa ưu đãi quá nhiều, minh nhiên nhất là chúng ta được xóa án tử và được khôi phục cương vị làm con, đặc biệt là cũng sẽ được về trời.
Một hôm, mười một môn đệ đi tới miền Galilê, đến ngọn núi Đức Giêsu đã truyền cho các ông đến. Khi thấy Ngài, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. Bản tính nhân loại là thế, tận mắt thấy bao phép lạ mà vẫn chưa đủ tin. Vả lại, họ cứ tưởng Đức Giêsu là chính khách, Ngài sẽ giành quyền cai trị Ít-ra-en từ bọn thực dân Rôma. Khi đó, Đức Giêsu đến gần họ và nói: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28:18). Có lẽ nghe Ngài nói vậy thì họ càng cho rằng Chúa Giêsu đang làm chính trị thật, điều họ nghĩ không sai. Thế nhưng lại không phải vậy, Chúa Giêsu không bao giờ làm chính trị, và Phúc Âm cũng không là bản cương lĩnh chính trị.
Chúa Giêsu nói với họ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28:19-20a). Ngài biết Ngài sắp đến giờ về cùng Chúa Cha, nên Ngài căn dặn kỹ lưỡng. Ngài về trời nên Ngài bảo chúng ta vào đời làm chứng nhân về Ngài. Đó vừa là một tặng phẩm vừa là một mệnh lệnh, vừa là một đặc ân vừa là một trọng trách.
Trước khi về trời, lời cuối của Chúa Giêsu trên thế gian là một lời hứa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20b). Lời hứa đó đã được chứng tỏ rõ ràng nhất là Bí tích Thánh Thể, một phép lạ vĩ đại vẫn xảy ra hằng ngày ở khắp nơi trên thế giới. Biết rõ chúng ta yếu đuối nên Chúa Giêsu rất “tội nghiệp” chúng ta, Ngài cũng đã hứa: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi” (Ga 14:8). Và lời hứa đó lại được thực hiện ngay lập tức: Ngài về trời rồi gởi Đấng Bảo Trợ đến ở với chúng ta (Ga 14:16). Thánh Thể và Thánh Thần luôn đồng hành với chúng ta trên suốt Hành Trình Về Trời.
Cái gì cũng có “mở” và “kết”. Cũng vậy, Hành Trình Về Trời được khởi đầu từ điểm SINH và kết thúc ở điểm TỬ. Hành trình đó có thể là “con đường” dài hoặc ngắn, không ai biết; “con đường” đó cũng có thể rộng hoặc hẹp, nhưng ai chọn đường hẹp thì tốt hơn đường rộng, càng thênh thang càng “dễ chết”, có thể “chết yểu”, “chết” trước kỳ hạn, “chết” ngay khi mình đang sống. Chết như vậy thì thật là nguy hiểm! Vì thế, chính Chúa Giêsu đã khuyên những ai thực sự muốn được trường sinh vĩnh phúc: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” (Mt 7:13-14). Không chỉ đơn giản như vậy, người ta còn phải “chiến đấu để qua được cửa hẹp” (Lc 13:24). Rất “ngược đời”, nhưng phải dám “ngược” như vậy thì mới mong “xuôi” về vĩnh cửu.
Thánh nữ Faustina so sánh: “Như bệnh tật được đo bằng nhiệt kế, sốt cao cho chúng ta biết là bệnh nặng, đời sống tâm linh cũng vậy, đau khổ là nhiệt kế đo tình yêu Chúa trong linh hồn”(Nhật Ký, số 774). Đây là điều rất khó đối với bản chất phàm nhân, nhưng người ta có thể chấp nhận nếu cố gắng hiểu theo cách hiểu của Chúa và nhìn theo cách nhìn của Chúa.
Lạy Thiên Chúa, Con Chúa về trời là dấu bảo đảm về sự sống vĩnh hằng mà chúng con đang cố gắng chiến đấu để đạt được. Xin mau ban Chúa Thánh Thần để đổi mới chúng con, làm cho chúng con can đảm làm chứng về Chúa Ba Ngôi. Xin giúp chúng con đủ sức vượt qua chính mình để xứng đáng lãnh nhận những gì Ngài đã hứa ban. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
SUY NIỆM 4: Suy niệm của Lm. Dom. Trần Quang Hiền SDB
Câu hỏi thắc mắc mà con người ngày nay luôn phải đối diện đó là: Tôi sinh ra ở đời này để làm gì? tôi sẽ về đâu sau cái chết? chắc hẵn ai trong chúng ta cũng muốn mình được bình an, hạnh phúc, được chết lành và được phần thưởng thiên đàng sau khi chết. Nhưng ai có thể bảo đảm cho ta rằng có thiên đàng, có sự sống đời sau? Lời Chúa tuần này Chúa Nhật Lễ Chúa Thăng Thiên tường thuật lại việc Chúa Giêsu lên trời, đây là một minh chứng cho thấy rằng có thiên đàng, có sự sống đời sau. Nhưng lên trời không phải là một di chuyển từ nơi chốn này đến nơi chốn khác. Trời ở đây không phải là nơi chốn có thể đụng chạm, sờ mó được nhưng sâu xa hơn đó là một trạng thái. Chúa Giêsu lên trời có nghĩa là Ngài về cùng với Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần là nơi Ngài đã xuất phát. Trời ở đây có nghĩa là sống trong tình yêu tròn đầy của Thiên Chúa Ba Ngôi. Vì thế, việc Chúa Giêsu lên trời không phải giã từ thế giới đi vào cõi xa vắng mịt mù, nhưng Ngài đi về thế giới của Thiên Chúa Ba Ngôi, sống với Thiên Chúa Ba Ngôi.
Chúa Giêsu lên trời không có nghĩa là Ngài không còn hiện diện với chúng ta nữa, trái lại Ngài sẽ ở lại cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Để có thể lên trời như Chúa Giêsu mỗi người chúng ta cần phải hoàn thành hành trình dưới thế của mình như chính Ngài. Dù phải sống ở trần thế này với muôn ngàn thánh giá, thử thách, khó khăn... nhưng chúng ta không quên mục đích tối hậu của chúng ta đó là về quê trời, nơi ấy chúng ta sẽ sống trong tình yêu viên mãn của Chúa Ba Ngôi. Nếu như cuộc đời của người kitô hữu chúng ta thiếu đi cùng đích của đời mình là hướng về sự sống đời sau thì chắc chắn những nỗ lực, cố gắng của chúng ta sẽ trở nên vô nghĩa. Chúa Thăng Thiên cũng cố đức tin của mỗi người chúng ta vào niềm hy vọng tràn trề trong đó mỗi người chúng ta sẽ nếm cảm hạnh phúc thiên đàng sau này.
Trước khi Chúa Giêsu lên trời Ngài đã nhắn nhủ các môn đệ rằng “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo". Đây là lệnh truyền của Chúa Giêsu và trở thành căn tính của mỗi người kitô hữu chúng ta , đó là làm chứng nhân tin mừng phục sinh, niềm vui của Chúa Giêsu cho tất cả mọi người không phân biệt màu da, sắc tộc, tôn giáo. Mỗi người chúng ta có trách nhiệm mang Đức Kitô đến với thế giới hôm nay đang sống trong đau khổ, chiến tranh, bất an, tội lỗi.... để xoa dịu hết tất cả những vết thương của họ.
Lễ Chúa Thăng Thiên muốn nhắn gởi cho chúng ta một thông điệp nữa đó là hãy xây dựng thiên đàng tại trần thế này, khi tất cả chúng ta đều xem nhau như là anh em cùng một Cha trên trời. Khi mỗi người chúng ta biết sống từ bỏ, hy sinh và phục vụ nhau.
Người ta kể rằng: có một bác nông dân đã tình cờ nhặt được một tượng chịu nạn đã bị sứt mẻ đang nằm chơ vơ vì không có thập giá. Bác cầm tượng chịu nạn lên và đi vào trong làng. Bác đến từng nhà. Bác hỏi han từng người. Từ người già đến người trẻ. Bác nghĩ thầm rằng: "Không chừng ở đâu đây! Có ai đó đang có thập giá trơ trụi mà không có Đức Kitô nằm trên. Đức Kitô của bác không có nơi ngơi nghỉ, còn thập giá của ai đó không có Đức Kitô. Bác muốn trao Đức Kitô cho ai đang đang phải vác thập giá một mình, để nhờ Đức Kitô họ vượt qua những gian nguy của dòng đời. Bởi vì, một thập giá không có Đức Kitô là tra tấn, là hoả ngục, là thất vọng. Thế nên, bác đã cố gắng tìm đến những ai đang thất vọng vì gánh nặng hai vai, đang ui sầu vì lầm than cơ cực, bác trao gởi cho họ Đức Kitô để họ nhận ra họ đang được thông phần đau khổ với Đức Kitô. Hy vọng rằng cuộc đời họ sẽ vui hơn vì họ đang làm việc, đang đón nhận đau khổ vì Đức Kitô, nhờ đó họ cũng được chung phần vinh phúc với Chúa trên trời.
Vâng, cuộc đời chúng ta sẽ ngụp lặn trong đau khổ cùng cực nếu không có Đức Kitô hiện diện. Xin cho mỗi người chúng ta luôn biết sống và đem Đức Kitô đến với hết tất cả mọi người đang vác thập giá để họ cũng biết biến thập giá thành thánh giá như Đức Kitô, để mai sau cũng được lãnh nhận phần thưởng vinh phúc đời sau mà Chúa hứa ban cho những ai trung tín bước theo Ngài. Amen.
SUY NIỆM 5: Khai mở trang sử mới của Giáo hội
(Suy niệm của Keith Witfield – Lm. GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ)
“Các tông đồ ra đi rao giảng khắp nơi” (Mc 16,20)
Theo Thánh Luca, biến cố Chúa về trời mang chở một ý nghĩa sâu xa, nhằm biến đổi các tông đồ và khởi sự sứ vụ rao giảng Tin mừng của toàn thể Hội Thánh. Thánh Luca thuật lại biến cố này để kết thúc Tin mừng và cũng để khởi đầu sách Tông đồ Công vụ.
Việc Chúa Thăng Thiên mang lại một âm hưởng sâu xa nơi các môn đệ. Đối diện trước biến cố này, các ông ngỡ ngàng, mắt vẫn còn đăm đăm ngước lên trời cao (Cv 1,10), và chưa thể hình dung sự việc xảy ra như thế nào. Nhưng sau đó, các ông đã hiểu. Chính xác hơn, là các tông đồ đã dần dần hiểu ra và tiến sâu vào thế giới của huyền nhiệm khi nhớ lại những lời Đức Giêsu đã căn dặn. Cuối cùng, “Các ông bái lạy Người. Các ông trở về Giêrusalem lòng đầy hân hoan và họ ở trong đền thờ, ngày đêm chúc tụng Chúa. (Lc 24,52-53).
Thoạt đầu, phản ứng của các tông đồ khiến chúng ta dễ đặt nghi vấn. Đức Giêsu vừa “rời bỏ” các ông. Sự ra đi nào cũng để lại biết bao sầu thương và nỗi nhớ. Các ông buồn, nhưng sau đó các ông lại “ngập tràn niềm vui”. Tại sao các tông đồ lại có phản ứng trái chiều mau lẹ đến thế? Chúng ta nhớ lại trong diễn từ ly biệt, ở phần cuối chương 13 của Tin mừng Gioan, Đức Giêsu báo trước là Ngài sẽ bỏ lại các ông, và tâm hồn các ông sẽ xao xuyến. Nhưng sau đó Ngài trấn an và nói về Thánh Thần, là nguyên lý chữa trị những sầu buồn và tuyệt vọng (Ga 14-17). Ngài nói với các học trò của mình đừng lo lắng, các ông sẽ không mất Ngài, những Ngài vẫn ở với các ông mọi ngày cho đến tận thế qua một dạng thức khác, nhờ Thánh Thần.
Việc Chúa về trời khơi dậy niềm vui. Các tông đồ sớm nhận ra rằng khi Đức Giêsu trở về với Chúa Cha, họ sẽ lãnh nhận được nhiều đặc phúc. Trước hết, đó là quà tặng Thánh Thần. Lời hứa về Chúa Thánh Thần sẽ được thực hiện tròn đầy. Các tông đồ nhìn xem Chúa lên trời, nhưng lòng đầy vui mừng bởi vì các ông nhớ lại lời hứa của Chúa về “ Đấng sẽ đến”. Những nghi ngại và sợ hãi dần tan biến. Các tông đồ thâm tín rằng Ngài đã trỗi dậy từ cõi chết và vẫn đang sống. Qua sự phục sinh của Đức Kitô, các tông đồ trải nghiệm niềm vui và hy vọng về sự chiến thắng trước mãnh lực tử thần. Họ tín thác vào Chúa. Vì thế, sự ra đi của Đức Giêsu để trở về với Chúa Cha đem lại cho họ niềm vui. Niềm vui đó được cắt nghĩa với những lý do sau:
1. Đức Giêsu lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha. Chính Chúa Cha đã sai Ngài đến trần gian. Ngài đã tiến nhận cái chết một cách bi thương và đã được quyền năng Chúa Cha làm cho sống lại. Cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu là bằng chứng chắc chắn về ơn cứu độ và sự tha thứ tội lỗi (Do Thái 10,22-24). Đây là căn nguyên niềm vui nơi các môn đệ cũng như nơi chúng ta.
2. Khi Chúa Giêsu về trời, Ngài đảm nhận vai trò trung gian giữa con người với Chúa Cha. Nhờ Ngài và với Ngài, chúng ta được thông dự vào thế giới thần linh cùng Chúa Cha (1Ga 2,1).
3. Khi Chúa lên trời, vương quốc vĩnh cửu của Ngài bắt đầu khai mở. Đó là vương quốc đánh bại kẻ thù là Satan và ác thần. Thánh Phêrô đã viết: “ Đấng đang ngự bên hữu Thiên Chúa sau khi đã lên trời, đã bắt các thiên sứ và toàn thể thần minh phải phục quyền (1P 3,22).
4. Cuối cùng, Khi Đức Giêsu lên trời, Hội thánh được phú ban năng quyền để thực thi sứ mệnh Chúa trao phó. Khi nói về việc Đức Giêsu sống lại và lên trời, Thánh Phaolô trong thơ gửi giáo đoàn Êphêsô đã khẳng quyết : “ Thiên Chúa đã đặt tất cả mọi sự dưới chân Đức Giêsu và đặt Người làm đầu toàn thể hội Thánh, mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn (Eph 1,22-23).
Đức Giêsu được đưa về trời, khai mở vương quốc bất diệt. Ngài là Vua, là Chúa tể hoàn vũ và Satan không thể làm được gì đối với vương quốc ấy. Satan cám dỗ con người để chúng ta quên đi Đức Kitô là Vua vũ trụ. Ma quỷ làm mọi cách để cắt đứt sự liên lạc giữa chúng ta với Ngài. Sách Tông đồ Công vụ thuật lại, trước khi bị ném đá đến chết, Thánh Stêphanô đã ngước mắt lên trời và thấy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Chúa Cha. Các sách tân ước đều khải thị cho chúng ta hình ảnh Đức Giêsu Đấng Cứu thế, là Vua hoàn vũ, là Vua chiến thắng, để gọi mời chúng ta tin vào Ngài.
Trước sự kiện Chúa lên trời, tâm hồn các tông đồ ngập tràn niềm vui, chứa chan niềm hy vọng và sẵn lòng rộng mở để thực thi sứ mạng mà Đức Giêsu đã chuyển giao. Đây là ba nét căn bản đã làm đổi thay các tông đồ một cách toàn diện: Niềm vui, niềm hy vọng, và việc thực thi sứ mạng rao giảng.
Chớ gì mỗi người chúng ta hôm nay, cũng như các tông đồ năm xưa, có thể trải nghiệm niềm vui và niềm hy vọng. Đồng thời, tiếp nối dấu chân của các tông đồ, chúng ta hân hoan lên đường thực thi sứ mạng cứu thế mà Chúa Giêsu đã chuyển giao cho chúng ta trước khi Ngài trở về với Chúa Cha.
24/05 Công việc Thánh Linh
- Viết bởi Ga 16, 12-15
Công việc Thánh Linh
Thứ Tư tuần 6 Phục Sinh.
"Thần Chân lý sẽ dạy các con biết tất cả sự thật".
Lời Chúa: Ga 16, 12-15
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy còn nhiều điều phải nói với các con, nhưng bây giờ các con không thể lĩnh hội được. Khi Thần Chân lý đến, Người sẽ dạy các con biết tất cả sự thật, vì Người không tự mình mà nói, nhưng Người nghe gì thì sẽ nói vậy, và Người sẽ bảo cho các con biết những việc tương lai.
Người sẽ làm vinh danh Thầy, vì Người sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con.
Tất cả những gì Cha có, đều là của Thầy, vì thế Thầy đã nói: "Người sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Công việc Thánh Linh
Có một thanh niên nọ, trong thời gian còn trai trẻ, anh ta là một tín đồ Ấn Giáo. Anh lại có tính tò mò ưa tìm hiểu các tôn giáo khác. Sự tò mò nay đã thay đổi người thanh niên đến một bước ngoặc biến đổi cuộc đời. Anh ta đã gặp một chủng sinh Công giáo trong một khóa Kinh Thánh học về bài giảng trên núi. Chẳng bao lâu họ trở thành đôi bạn tâm đắc. Anh đã tâm sự với chủng sinh nọ như sau: "Tôi biết bài giảng trên núi đã ảnh hưởng trên thánh Gandhi như thế. Và tôi cũng muốn sống theo lời dạy trong bài giảng, nhưng tôi sợ rằng nó quá cao, quá khó đói với một người bình thường như tôi. Người chủng sinh không nói gì, anh chỉ lấy diễn từ của Chúa Giêsu trước khi ly biệt các tông đồ trao cho người thanh niên.
Thời gian cứ trôi qua theo năm tháng, và đến cuối khóa học, người thanh niên đã hớn hở chia sẻ như sau: "Quả thật, những lời dạy trong bài giảng trên núi đòi hỏi thật nhiều, có thể nói là rất khó thực thi. Tuy nhiên, tôi đã gặp được lời hứa của Chúa Giêsu. Ngài hứa ban Chúa Thánh Thần để hướng dẫn và thêm sức mạnh cho những ai muốn sống theo Ngài. Bây giờ chẳng còn gì làm cho tôi phải bận tâm suy nghĩ, lo lắng nữa". Và hôm nay người thanh niên ấy đã trở thành tư tế muôn đời của Thiên Chúa.
Anh chị em thân mến!
Khi trao cho anh thanh niên người Ấn Giáo diễn từ của Chúa Giêsu, người chủng sinh đã gởi cho anh sự bình an tâm hồn. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Giáo Hội cũng muốn gởi đến chúng ta một phần nữa của sự bình an của Chúa Thánh Thần.
Có thể nói được rằng, hiểu biết là chìa khóa mở của sức mạnh. Tuy nhiên, không phải hiểu biết nào cũng tạo cho con người sức mạnh, một hiểu biết chủ quan chỉ đưa con người đến mù lòa; mù lòa trong phán đoán, mù lòa trong hành động. Và có những hiểu biết giả hiệu khác bằng các danh xưng thật hào nhoáng, nhưng thực chất lại trống rỗng, chẳng đưa con người tới đâu.
Ba năm chung sống với Thầy, biết bao dịp để tiếp cận với lời Thầy giảng dạy, với những công việc Thầy làm, nhưng các môn đệ cũng chẳng hiểu gì nhiều về Thầy mình. Mỗi lần Ngài loan báo cuộc tử nạn là mỗi lần các ông lại rơi vào lầm lẫn và thất vọng. Bởi thế, Chúa Giêsu đã phải hứa là ban Thánh Thần Chân Lý đến để phù trợ cho các ông. Khi Ngài đến, Ngài sẽ dạy dỗ các ông biết tất cả sự thật, sẽ cho các ông hiểu biết trọn vẹn về Ðức Giêsu, Ðấng là Ðường, là Sự Thật và là Sự Sống.
Ðón nhận hiểu biết từ Thánh Thần đối với các môn đệ là một khám phá lại về Chúa Giêsu, vì Thánh Thần loan truyền những gì đã lãnh nhận từ Ngài. Ðây chẳng phải là một vòng luẩn quẩn hay dư thừa, vì dù cho đã sống ba năm hay hơn nữa, các môn đệ vẫn chưa hiểu về Thầy, nếu không được Thánh Thần hướng dẫn.
Biến cố hiện xuống của Chúa Thánh Thần là lật lại trang sử cuộc đời của Chúa Giêsu. Nếu trước đây các tông đồ đã sống trong những trang sử ấy và đã không hiểu gì thì bây giờ nhờ sự trợ giúp của Thánh Thần, các ông sẽ đọc được ý nghĩa của các dấu chỉ. Bây giờ Phêrô sẽ không còn khó chịu khi thấy hai bàn tay đã làm nhiều phép lạ lại sẵn sàng đưa ra cho người ta bắt trói. Ông cũng sẽ không còn trốn chạy trước khổ hình Thập Giá. Nhờ Thánh Thần, Phêrô và các tông đồ đã thực sự hiểu biết. Sự hiểu biết đã mang lại cho các ông sức mạnh, vì hiểu biết giúp các ông sáp nhập vào Ðức Kitô. Họ sống nhưng không còn là họ sống nữa mà là chính Ðức Kitô sống trong họ. Và cũng chẳng có một sự thật, một con đường và một sự sống nào khác ngoài Chúa Kitô, nên người tín hữu hôm nay cũng được mời gọi hướng về Ngài. Như các tông đồ xưa, họ đã chẳng khám phá ra Ðức Kitô, nếu không được Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Thiếu vắng Thánh Thần, cái nhìn của tín hữu chỉ là cái nhìn chủ quan, hiểu biết cũng hạn hẹp, mù lòa. Chính khi đã khám phá ra sự thật, họ mới vững niềm tin và mạnh dạn bước theo tiếng gọi của Ngài.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, ước mong rằng nhờ sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, mỗi người trong chúng ta sẽ biết khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa trong các điều quen thuộc của cuộc sống. Có thể hằng ngày chúng ta vẫn tiếp cận với tình yêu Ngài, vẫn hưởng nhận tình yêu Ngài, nhưng rồi chẳng bao giờ nhận ra để dâng lời cảm tạ Ngài. Nguyện xin Thánh Thần Chân Lý chiếu tỏa trên chúng ta ánh sáng của Ngài. Amen.
(Trích “Suy Niệm Hằng Ngày” – Radio Veritas Asia)
SUY NIỆM 2: Hiểu biết của chúng ta về Thiên Chúa
Một đồ đệ luôn khao khát tìm Chúa hỏi thầy mình: "Thưa thầy, con đã theo thầy bấy lâu trên con đường tu đạo, nhưng đến nay vẫn chưa một lần được nhìn thấy Chúa và hiểu được Ngài. Vậy xin thầy chỉ cho con cách để nhìn thấy Chúa?"
Thầy nói với trò: "Hãy nhìn thẳng vào mặt trời ngay giữa trưa! Con có thấy gì không?"
Đồ đệ đáp: "Mặt trời chói sáng quá, con không thể nhìn được!"
Thầy đáp: "Mặt trời phát sinh từ vật chất như bao vật khác, vậy mà con không thể nhìn nó cách rõ ràng. Thế thì đối với Thiên Chúa là Đấng Cực Thánh thì làm sao với mắt phàm con có thể hiểu và thấy rõ Ngài được!"
Bài Tin Mừng hôm nay Chính Chúa Giêsu đã xác nhận rằng "Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi. Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em đến sự thật toàn vẹn". Đúng là mỗi người chúng ta luôn có khát khao, ước vọng được gặp Chúa một lần trong đời, hoặc thấu hiểu tất cả về Thiên Chúa. Thế nhưng sự thật là con người chúng ta vẫn có những giới hạn, chúng ta chịu sự chi phối của những quy luật vật lý, sinh lý. Vì vậy sự hiểu biết của chúng ta không thể bao trùm toàn bộ vũ trụ, chúng ta không thể hành động với sự tự do tuyệt đối nhưng cần phải đặt ra những giới hạn cho mình. Đi ngược lại với những điều này, tất yếu sẽ dẫn chúng ta tới con đường diệt vong. Nhận ra sự giới hạn của con người chúng ta cũng chính là phương thế để chúng ta hoàn thiện mình trên con đường dẫn tới Thiên Chúa.
Cuộc đời của mỗi người Kitô hữu chúng ta trên hiển nhiên sẽ có những khúc mắc, những băn khoăn về sự hiện diện của Thiên Chúa. Câu trả lời về Ngài trong một thời điểm, một giai đoạn không thể nào làm chúng ta thỏa mãn được. Đó là thân phận tất yếu của sự giới hạn của con người nhân loại chúng ta. Cũng như một đứa trẻ học lớp 5 không thể nào giải được bài toán lớp 9, nhưng không thể nói rằng nó suốt đời không giải được bài toán lớp 9. Đúng hơn khi đến giai đoạn học lớp 9, khi cả thân xác và trí khôn của nó đủ điều kiện thì nó sẽ hiểu được những điều mà trước đây hoàn toàn mù mịt đối với nó. Nếu Chúa có hiện ra cho chúng ta, nói với chúng ta mọi điều về Ngài thì liệu rằng với sự giới hạn của con người, hay chúng ta thiếu những điều kiện cần thiết để hiểu về ngài thì việc đó cũng chẳng có ích lợi gì cho chúng ta cả!
Điều gì đúng vẫn luôn là đúng, hay cái gì thật thì không thể nào là giả được. Thiên Chúa là sự thật và là sự sống, Ngài không thể là giả dối. Chính khi chúng ta hành động trong sự thật, dấn thân cho sự thật thì không có điều gì bảo rằng đó là giả. Thiên Chúa ngự trị trong sự thật, lương tâm là tiếng nói của Ngài cho con người. Chúng ta lắng nghe và làm theo tiếng lương tâm, dấn thân quyết liệt cho những đòi hỏi của giá trị Tin Mừng cũng là cách thức để Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn chúng ta đến sự thật toàn vẹn!
(Suy niệm của Giuse Đinh Thành Đạt SDB)
SUY NIỆM 3: Đấng Mặc Khải
Đức Giê-su Ki-tô, khi tiếp xúc với các tông đồ đã biết rõ sự yếu đuối của con người và sự khó hiểu của loài người về mặc khải của Thiên Chúa. Vì thế, ngày hôm nay, Đức Giê-su loan báo cho chúng ta về Tin mừng này là “Thánh Thần sẽ đến dẫn đưa anh em đến sự thật toàn vẹn … Ngài sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em”.
Đức Giê-su đã hứa với chúng ta rằng chúng ta sẽ được dẫn tới sự thật toàn vẹn có phải để chúng ta biết được mọi bí mật trong vũ trụ ? Có phải cho chúng ta một kiến thức bách khoa không ? Có phải không có chi vượt ra ngoài sự hiểu biết của chúng ta không ? Tôi không tưởng như vậy. Bài Tin mừng hôm nay giới thiệu cho chúng ta một chiều kích khác, đó là sự thật toàn vẹn về một người. Chân lý của giáo lý Công giáo chỉ cho chúng ta biết, người đó chính là Đức Giê-su, Đấng làm chứng về Thiên Chúa yêu thương và cứu độ. Đức Giê-su còn làm chứng rằng đời sống của chúng ta được mời gọi đến sự sống đời đời sau cái chết. Người lấy chính bản thân mình làm chứng rằng hiến mạng sống mình cho người khác là phương thế biến đổi đời sống diệt vong này ra đời sống trường sinh bất diệt. Theo giáo lý, tin là tin vào một người chân thật, lời chứng của họ mới chân thật. Người ta không tin những nguyên lý, những mầu nhiệm, những chân lý suông. Tin là tin vào một người. Mặc khải của Thiên Chúa chính là mặc khải về một người đã hành động đầy nhân ái đối với con người.
Điều quan trọng là chúng ta gắn bó liên kết nhiều với Đấng của công thức đức tin, chứ không phải công thức tín lý làm cho có đức tin như chúng ta tưởng. Chúng ta không bao giờ tới được Đấng mà các nhà thần học chôn vùi trong hàng ngàn từ ngữ.
Trong Thánh lễ, chúng ta hãy chúc tụng Thiên Chúa đã cho chúng ta được tới với Ngài trong đức tin, và hãy cảm tạ Ngài vì đã ban tặng Thần khí của Ngài mặc khải cho chúng ta Đấng lạ lùng này là Đức Giê-su Ki-tô. Người là chân lý, là sự thật. Trong người chúng ta có thể hãnh diện biết bao.
C.G
SUY NIỆM 4: CHÌA KHÓA CỦA SỨC MẠNH
Có thể nói hiểu biết là chìa khóa của sức mạnh. Tuy nhiên, không phải hiểu biết nào cũng tạo nên sức mạnh. Một sự hiểu biết chủ quan chỉ đưa con người đến mù lòa: mù lòa trong phán đoán, mù lòa trong hành động; lại có sự hiểu biết giả hiệu được gán cho những danh xưng hào nhoáng, nhưng thực chất trống rỗng chẳng đưa con người tới đâu cả. Ba năm chung sống với Chúa Giê-su, biết bao lần được tiếp cận với lời Ngài giảng, việc Ngài làm, nhưng các môn đệ cũng chẳng hiểu gì nhiều về Ngài. Mỗi lần Ngài loan báo cuộc tử nạn của Ngài là mỗi lần các ông rơi vào lầm lẫn, thất vọng. Chính vì thế, Chúa Giê-su hứa ban Thần Chân lý, để khi Ngài đến, Ngài sẽ đưa các ông vào tất cả sự thật, sẽ hiểu biết trọn vẹn về Chúa Giê-su, Đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Đón nhận hiểu biết từ Thánh Thần đối với các môn đệ là khám phá lại về Chúa Giê-su, vì Thánh Thần sẽ dạy dỗ những điều đã lãnh nhận từ Ngài. Đây không phải là cái vòng luẩn quẩn hoặc dư thừa, bởi vì cho dù đã sống với Chúa Giê-su ba năm, các ông vẫn chưa hiểu về Ngài.
Biến cố Hiện xuống lật lại trang sử cuộc đời Chúa Giê-su. Nếu trước đây các môn đệ đã sống trong những trang sử ấy và đã chẳng hiểu gì, thì giờ đây nhờ sự trợ giúp của Thánh Thần, các ông sẽ đọc được ý nghĩa của các dấu chỉ. Phê-rô sẽ không còn khó chịu khi thấy hai bàn tay đã từng làm phép lạ lại sẵn sàng đưa ra cho người ta bắt trói, ông cũng không hổ thẹn đến trốn chạy trước khổ hình Thập giá nữa. Nhờ Thánh Thần, Phê-rô và Phao-lô cũng như các môn đệ khác đã thực sự hiểu biết, một sự hiểu biết đem lại sức mạnh vì đã làm cho các ông được sát nhập vào Đức Ki-tô.
Người Ki-tô hữu chúng ta cũng được mời gọi hướng về Thánh Thần, bởi vì không có Ngài, chúng ta sẽ chẳng khám phá ra Đức Ki-tô. Không có Ngài, cái nhìn của chúng ta chỉ là cái nhìn chủ quan, và sự hiểu biết của chúng ta chỉ là sự hiểu biết hạn hẹp, nông cạn.
Nguyện xin Thần Chân Lý chiếu tỏa trên chúng ta ánh sáng của Ngài.
SUY NIỆM 5: Suy niệm của Lm. Trọng Hương
A. Hạt giống...
Tiếp bài giáo lý về Chúa Thánh Thần: Chúa Thánh Thần là Thầy dạy kitô hữu. Ngài sẽ dạy kitô hữu biết sự thật, sự thật toàn vẹn
B. ... nẩy mầm.
1. “Thầy còn nhiều điều muốn nói với chúng con nhưng bây giờ chúng con không chịu nổi. Khi nào Thần Chân lý đến, Ngài sẽ dẫn chúng con tới sự thật toàn vẹn”. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục dạy chúng ta biết về Chúa Thánh Thần: Sau khi vạch cho chúng ta thấy những sai lầm của mình, Chúa Thánh Thần còn hướng dẫn chúng ta đến sự thật, sự thật toàn vẹn:
- Xã hội mà chúng ta đang sống là một xã hội nhiều gian dối, ngay cả mỗi người đối với bản thân mình mà cũng thường tự dối gạt mình: mình xấu mà mình nghĩ mình tốt, mình sai mà mình nghĩ mình đúng. Tất cả những sự dối trá đều gây hại, ngược lại, sự thật thì có lợi, như lời Chúa nói “Sự thật sẽ giải thoát chúng con”. Bởi thế mỗi người chúng ta đều cần biết sự thật, nhờ sự soi sáng của Chúa Thánh Thần: thỉnh thoảng chúng ta nên xét mình thành thật trong ánh sáng Chúa Thánh Thần, xin Ngài cho ta hiểu rõ con người mình như thế nào, còn những gì yếu kém cần sửa đổi.
2. Chúa Thánh Thần là Đấng dẫn ta đến sự thật, không phải chỉ là sự thật về bản thân mình như vừa nói trên, mà còn là sự thật toàn vẹn. Sự thật toàn vẹn là gì ? Đó chính là điều Chúa Giêsu ngụ ý trong câu đầu bài Tin Mừng hôm nay “Thầy còn nhiều điều muốn nói với chúng con, nhưng bây giờ chúng con không có sức chịu nổi”. Trong khoảng thời gian Chúa Giêsu sống cạnh các môn đệ, có nhiều điều Chúa Giêsu vừa mới nói hé một chút thì các môn đệ đã không chịu nổi nên Chúa Giêsu thôi không nói nữa. Thí dụ khi hai người con của bà Giêbêđê đến xin Chúa cho họ được ngồi hai bên tả hữu Ngài, Chúa Giêsu hỏi lại “Nhưng chúng con có uống nổi chén đắng của Thầy không ?” Hai ông tuy đáp liều là nổi nhưng sau đó không dám xin nữa và Chúa Giêsu cũng không nói thêm gì nữa. Trong câu chuyện ấy, sự thật toàn vẹn mà Chúa Giêsu chưa nói rõ chính là chén đắng. Một lần khác Chúa Giêsu vừa mở miệng báo tin Ngài sẽ bị bắt bị hành hạ và bị giết chết, thì Phêrô cũng không chịu nổi nên vội lên tiếng can ngăn. Trong chuyện này, sự thật toàn vẹn mà Chúa Giêsu chưa thể nói rõ chính là mầu nhiệm đau khổ của Thập giá. Trong đêm thứ năm trước khi ra đi chịu chết, Chúa Giêsu quỳ trước các môn đệ và rửa chân cho họ, Phêrô lại một lần nữa không chịu nổi nên cự nự “Không đời nào con để Thầy rửa chân cho con”. Ở đây sự thật toàn vẹn mà Chúa Giêsu cũng chưa tiện nói hết là sự hạ mình của Ngài và của các môn đệ. Tóm lại sự thật toàn vẹn là các môn đệ phải chấp nhận số phận của Thầy mình, phải tự khiêm tự hạ, phải chịu đau khổ chịu bắt bớ và có thể chịu chết giống như Thầy. Nhưng trong tất cả những lần kể trên Chúa Giêsu không nói hết ý nghĩ của mình được vì các môn đệ đã không chịu nổi. Về sau khi Chúa Giêsu đã sống lại và lên trời, Chúa Thánh Thần đã dẫn các môn đệ đến sự thật toàn vẹn ấy, và khi đó, nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, các ông đã chịu nổi, chẳng những chịu nổi mà còn vui lòng chịu: một lần kia vì đã rao giảng về Chúa Giêsu, các tông đồ bị bắt giam trong tù hết một đêm, sau đó bị điệu ra Thượng Hội đồng, bị đánh đòn một trận rồi mới được thả ra. Sách Công vụ viết khi ấy các ông lòng đầy hân hoan vì được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Chúa Giêsu. Thánh Phaolô cũng thế, sau biết bao gian truân nguy hiểm vì loan báo Tin Mừng, ngài nói “Tôi sung sướng vì được thông phần cuộc khổ nạn của Đức Giêsu Kitô trong thân xác tôi”. Ngài còn nói “Vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô”, cái thập giá mà những người trí thức hy lạp coi là điên rồ và những người do thái sùng đạo coi là cớ vấp phạm.
3. “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi. Khi nào thần khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn”
“Giê-su, ông là ai ?”. Đó là câu hỏi của nhân vật Giuđa Iscariot trong tác phẩm “Giê-su, ông là ai ?” của nhà văn Dominico Donrio. Câu chuyện được mở ra với bầu khí chờ đợi Đấng Mêssia của dân Israel . Khi Đức Giê su đến chịu phép rửa, Gioan đã loan báo về Người; lúc đó, Đức Giê su biến mất. Mọi người đổ xô đi tìm Người. Chính quyền thì lùng bắt để giết đi. Quân cách mạng thì tìm để tôn vinh. Trong khi ấy, Đức Giê su lại âm thầm đến với cộng đoàn Esseniens, nơi Giuđa Iscariot làm thủ lãnh.
Họ hiểu Ngài, đón Ngài, nhưng họ lại không thể chấp nhận Ngài, vì không chịu nổi những gì Ngài nói, cách Ngài sử thế và Giáo lý Ngài truyền dạy.
“Giê-su, Ngài là ai ?” là câu hỏi của các môn đệ và người đương thời.“ Giê-su, Ngài là ai?” cũng là câu hỏi cho tôi khi đối chất với lời Ngài, nhất là khi giáo lý của Ngài đòi tôi phải lội ngược dòng.
Lạy Chúa, chỉ trong Chúa Thánh Thần, các muôn đệ mới hiểu và tin vào lời Ngài, một hiểu biết mang lại sức mạnh cho các ông đón nhận mầu nhiệm tử nạn và Phục Sinh của Ngài. Và con cũng thế, sẽ chẳng hiểu được lời Ngài dạy trong cuộc sống, nếu không có thần khí của Ngài hướng dẫn Nguyện xin Thánh Thần Chúa toả trên chúng con. (Epphata)
23/05 Thầy đi sẽ ích lợi cho các con
- Viết bởi Ga 16, 5b-11
Thầy đi sẽ ích lợi cho các con
Thứ Ba tuần 6 Phục Sinh.
"Nếu Thầy không đi, thì Đấng Phù Trợ sẽ không đến với các con".
Lời Chúa: Ga 16, 5b-11
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Bây giờ Thầy về với Đấng đã sai Thầy, mà các con không ai hỏi Thầy: Thầy đi đâu? Nhưng vì Thầy đã nói với các con điều đó, nên lòng các con tràn ngập u sầu. Dầu vậy Thầy phải nói sự thật cho các con: Thầy đi thì ích lợi cho các con, vì nếu Thầy không đi, thì Đấng Phù Trợ sẽ không đến với các con, nhưng nếu Thầy ra đi, Thầy sẽ sai Người đến với các con.
Khi Người đến, Người sẽ tố cáo thế gian về tội lỗi, về sự công chính và về án phạt. Về tội lỗi vì họ đã không tin vào Thầy. Về sự công chính, vì Thầy về cùng Cha, và các con sẽ không còn thấy Thầy. Về án phạt, vì thủ lãnh thế gian này đã bị xét xử".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Thầy đi sẽ ích lợi cho các con
Trong sách Tông Ðồ Công Vụ có kể lại rằng: Trong dịp lễ Ngũ Tuần, khi người Do Thái từ khắp nơi tuốn về Giêrusalem để mừng lễ, các môn đệ quá sợ hãi nên đã đóng kín cửa lại. Bỗng từ trời có tiếng ào ào như thể cuồng phong thổi đến lùa vào nhà. Hết thảy họ đều được đầy Thánh Thần, không còn sợ hãi và nói được nhiều thứ tiếng khác nhau, tùy theo Thần Khí ban cho họ. Phêrô đã mạnh dạn cất tiếng rao giảng về Ðức Kitô thành Nazareth, Người vừa bị hội đường Do Thái kế án và chết treo trên Thập Giá. Và sự việc vừa xảy ra trong lễ Vượt Qua và trong số người nghe lúc ấy cũng có lắm kẻ lớn tiếng kết án người. Vậy mà sau khi Phêrô giảng, khoảng 3,000 người thành tâm thống hối về việc làm của mình. Họ xin Phêrô và các tông đồ chỉ dạy cho biết phải làm gì để đền bù những lỗi lầm ấy.
Anh chị em thân mến!
Lời giảng của Phêrô và các tông đồ thu được kết quả như vậy là nhờ Chúa Thánh Thần, Ðấng đã tác động trên người giảng lẫn người nghe. Ðây là một công việc đã được Chúa Giêsu tiên báo trước khi Ngài từ giã các môn đệ như tường thuật của thánh sử Gioan trong bài Tin Mừng hôm nay.
"Khi Ðấng phù trợ đến, Ngài sẽ tố cáo thế gian về tội ác, về sự công chính và về án phạt".
Lời tiên báo của Chúa Giêsu đã thực hiện nơi người Do Thái. Trong dịp lễ Ngũ Tuần, việc làm của họ một lần nữa được tông đồ nhắc lại, và nhờ vào Thánh Thần họ đã hiểu thế nào là tội, là sự công chính và án phạt. Việc làm ngày hôm trước lễ Vượt Qua họ tưởng là việc phụng sự Thiên Chúa, kỳ thực họ đã lầm. Họ đã giết chết Ðấng Thánh của Thiên Chúa, người được Thiên Chúa sai đến để cứu dân.
Về phần Chúa Giêsu, Ngài bị giết chết, nhưng Ngài không chết. Ngài đã sống lại và hiện đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Khi bị treo trên Thập Giá, lúc con người của Chúa Giêsu đi đến tột cùng cũng là lúc con người nhận ra sự công chính ở nơi Ngài. Viên bách quan đã tuyên xưng: "Ông này thật là Con Thiên Chúa", trông xem cảnh tượng đấm ngực về cái chết của Chúa Giêsu là khởi đầu cho việc công chính hóa. Ðồng thời tội lỗi và quyền lực sự dữ bị kết án.
Sự Phục Sinh của Ngài là chiến thắng quyền lực của thần chết để có ai bước theo Ngài không còn lo buồn thất vọng, nhưng phấn khởi vui mừng vì một ngày kia cũng sẽ được thông phần vinh quang với Ngài. Tất cả biến cố Tử nạn và Phục Sinh này dù đã được Chúa Giêsu giảng giải, các tông đồ vẫn chìm trong tăm tối. Chỉ khi Chúa Thánh Thần hiện xuống ban sức mạnh cho họ thì họ mới vững mạnh tuyên xưng lòng tin và đám đông dân chúng nghe theo họ cũng được Thánh Thần soi sáng và thúc đẩy họ hành động. Các tông đồ mạnh dạn rao giảng về Ðức Kitô, đám đông âu lo tìm kiếm xem họ phải làm gì và họ thực hành đúng điều Thiên Chúa muốn.
Anh chị em thân mến!
Kitô hữu ngày nay cũng đã được lãnh nhận Ðấng Phù Trợ, Ngài đã cho họ biết về tội lỗi, về sự công chính và về án phạt. Tuy nhiên, chỉ đơn thuần là hiểu biết mà thôi thì chưa đủ, mà hiểu biết phải dẫn đến hành động và chính hành động sẽ dẫn họ đến miền đất của sự công chính hay án phạt. Ba ngàn người Do Thái đã trở lại vào dịp lễ Ngũ Tuần chẳng phải là những người vô tội, trong nhóm họ lắm kẻ trước đây đã lên tiếng kết án Chúa Giêsu, nhưng không vì thế mà bây giờ họ không còn lối thoát, phải nhận chịu án phạt. Thánh Thần đã mở lối cho họ hiểu biết thì Ngài cũng vạch đường cho họ bước theo.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin soi sáng cho chúng con biết đâu là tội lỗi, đâu là sự công chính và đâu là án phạt. Như người Do Thái, không ít lần con đã nhiệt tâm hành động vì cứ tưởng như thế là tôn vinh Thiên Chúa. Chỉ khi được đối diện với Thánh Thần Chân Lý con mới hiểu được rằng, tất cả đều sai lầm và một khi đã lãnh nhận ra sự sai lầm, xin Ngài giúp chúng con mau mắn tìm về nẻo chính đường ngay. Amen.
(Trích “Suy Niệm Hằng Ngày” – Radio Veritas Asia)
SUY NIỆM 2: Suy niệm của Giuse Vũ Viết Hướng SDB
Chỉ còn ít ngày nữa thôi, Chúa Giê-su đã chính thức rời bỏ các Tông đồ mà trở về bên cạnh Chúa Cha. Vì thế, hôm nay Người đã hứa ban Đấng Bảo Trợ đến với các môn đệ. Người không để các ông buồn phiền, day dứt. Người không để các ông mồ côi, nhưng Người ra đi để Chúa Thánh Thần đến và ở lại với các ông luôn mãi.
Sự xuất hiện của Chúa Thánh Thần sẽ minh chứng thế gian sai lầm ở ba điểm. Thứ nhất, họ đã sai lầm về tội lỗi, tức là họ đã cứng lòng không tin vào Người Con Chí Ái mà Thiên Chúa đã gửi xuống trần gian để cứu chuộc họ; họ đã chống đối và đặc biệt là giết chết Người. Thứ đến, họ đã sai lầm về sự công chính, tức là họ đã không thừa nhận Thầy đến từ Chúa Cha, Thầy và Chúa Cha là một. Sau cùng là họ đã sai lầm về việc xét xử, Thánh Thần sẽ chỉ cho họ thấy vị Thủ lãnh của thế gian này là Sa-tan đã bị xét xử rồi. Sa-tan đã bị Thiên Chúa xét xử vì không vâng nghe lời Thiên Chúa, chống đối lại quyền năng của Ngài. Qủa thật, trong bối cảnh hiện tại, sự xuất hiện của Chúa Thánh Thần là điều rất cần thiết để vực dậy tinh thần các Tông đồ. Chính Ngài sẽ đến và chỉ cho thế gian thấy rõ những sai lầm của họ.
Bởi vì, thế gian đã có những sai lầm nghiêm trọng như thế, nên chúng ta hãy làm cho thế giới này nhận ra sai lầm của họ bằng chính đời sống chứng tá đức tin của chúng ta. Vẫn còn đó quá nhiều người không tin vào Đức Giê-su Ki-tô, vẫn còn đó quá nhiều người không tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi, còn quá nhiều người sai lầm trong việc xét xử, chúng ta hãy vực dậy đức tin của họ, giúp họ canh tân đời sống và sống đúng với trách nhiệm lương tâm luân lý của mình để không bị Thiên Chúa kết án. Chúng ta, hãy tin tưởng vào sự che chở của Chúa Thánh Thần, Ngài đang đồng hành cùng chúng ta trên cuộc sống dương thế này. Có Ngài, chúng ta sẽ thật sự cảm thấy bình an và vững tin vào tình yêu của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Thánh Thần, Ngài đang hiện diện từng giây phút trong đời sống con. Thế mà, lắm lúc con đã quên mất sự hiện diện của Ngài, con rất ít khi thưa chuyện với Ngài. Tuy nhiên con biết, Chúa vẫn rất yêu thương con, Ngài không rời bỏ con ngay cả lúc con lãng quên Ngài. Con thật lòng xin lỗi Chúa. Xin Chúa tiếp tục ban sức mạnh Thánh Thần của Chúa cho con, để con có đủ nghị lực bước tiếp trên dòng đời mà không hề vấp phải những lỗi phạm trên đường nhân đức. Xin Chúa sửa dạy những lỗi phạm của thế gian, đừng xét xử họ nhưng soi sáng cho họ, để họ nhận ra lầm lỗi của mình mà trở về với Chúa. Amen!
SUY NIỆM 3: Công việc của Thánh Thần
Công việc của Thánh Thần, được Đức Ki-tô sai đến, khá khó hiểu: “Ngài đến chứng minh rằng thế gian sai lầm vềtội lỗi,về sự công chính và việc xét xử”. Có nghĩa là Ngài chiến thắng gian tà, giả dối, còn làm cho nó phải chấp nhận và không thể chối cãi. Thánh Thần là Đấng tố cáo kẻ mà sức chúng ta không thể tố cáo nó, và nó cũng không thể tự biện hộ trước Thánh Thần.
Chứng minh rằng kẻ đó có tội vì xét xử nghĩa bất chính là gì ? Nghĩa là Thánh Thần sẽ tỏ cho biết ý nghĩa về tội, về sự công chính, về sự xét xử, lột mặt nạ những tri giác sai lầm của thế gian về ba điều đó.
Thánh Thần cho chúng ta thấy ý nghĩa của tội lỗi. Tội là từ chối tin, từ chối không nhận lời chứng của Đức Ki-tô, không liên kết với Người. Đời sống chúng ta không có gì đáng trách xét theo luật Chúa và luật tự nhiên, nhưng chúng ta còn có tội nếu chúng ta không đón nhận lời chứng của Đức Ki-tô. Thánh Phao-lô đã cho thấy điều đó khi nói: “Nếu Đức Ki-tô không sống lại, thì anh em còn sống trong tội lỗi”, “Luật không ích gì, chỉ có đức tin mới được cứu độ”.
Thánh Thần cho chúng ta hiểu về sự công chính, sự công chính không chỉ có nghĩa là công bằng, nhưng ở đây có nghĩa là sự thánh thiện. Đức Giê-su là Đấng công chính vì Người chia sẻ và ban phát sự thánh thiện của Chúa Cha, làm cho ta được tới gần Ngài, trở về với Ngài. Công chính của loài người không đủ để được tham dự vào đời sống của Thiên Chúa, phải là thánh mới được.
Sau cùng, Thánh Thần cho chúng ta thấy ý nghĩa việc xét xử. Việc xét xử đã được loan báo, không phải ở tương lai, mà ngay hiện tại này, tùy theo sự từ chối của chúng ta. Tự chúng ta thấy chính mình tùy theo hành động và công việc của mình, thuộc về ánh sáng hay tối tăm. Ý nghĩa việc xét xử không phải là sự tuyên án tương lai và một lần đâu, nhưng là suốt cuộc đời và mọi lúc.
Công việc của Thánh Thần là tỏ cho chúng ta biết ý nghĩa thật của tội lỗi. Tội là từ chối đức tin, sự công chính mới là sự thánh thiện, việc xét xử mới là xét xử tại hiện trường, tùy theo sự trung thành hay bất trung hàng ngày.
C.G
SUY NIỆM 4: Nơi hò hẹn với Chúa
Thời trung cổ, có hai tu sĩ tình cờ đọc thấy trong một cuốn sách cổ rằng ở tận cùng trái đất sẽ có một nơi mà trời đất gặp nhau. Họ quyết định ra đi tìm cho bằng được điểm gặp nhau ấy và thề quyết sẽ không trở về nhà nếu không tìm ra nơi ấy. Họ vượt thác băng rừng, không quản ngại hy sinh, vì họ đã đọc được trong quyển sách cổ rằng tại điểm giao nhau giữa trời và đất, một cánh cửa sẽ mở ra và họ sẽ nhìn thấy Thiên Chúa tỏ tường. Cuối cùng thì họ cũng đứng trước điểm giao nhau ấy. Với tất cả xúc động, họ đưa tay gõ vào cánh cửa hẹn hò, cánh cửa mở ra và họ bỡ ngỡ nhận ra đó chính là căn phòng của họ. Họ chợt hiểu rằng nơi gặp gỡ giữa trời và đất, nơi hẹn hò giữa Thiên Chúa và con người không gì khác hơn là chính cuộc sống hằng ngày của họ.
Trong Tin mừng hôm nay, qua những lời của Chúa Giê-su, có lẽ chúng ta cũng đọc được chân lý ấy: cuộc sống hằng ngày chính là nơi hẹn hò và gặp gỡ giữa Chúa Giê-su và con người. Trong giờ phút ly biệt, khi Chúa Giê-su loan báo về cuộc ra đi của Ngài, các môn đệ xao xuyến bồn chồn; niềm tin của các ông còn gắn chặt vào sự hiện diện hữu hình và khả giác của Chúa Giê-su, nhưng Ngài khẳng định với các ông: “Ta đi thì ích lợi hơn cho anh em”. Thật thế, Chúa Giê-su không ra đi vĩnh viễn, cái chết và phục sinh mang lại cho Ngài một cách thế hiện diện mới, một sự hiện diện không còn gắn chặt với không gian và thời gian nhất định nữa. Một sự hiện diện như thế không những có ích cho các môn đệ, vì niềm tin của các ông sẽ được thanh luyện và trưởng thành hơn, mà còn đạt tới mọi người trong mọi tình huống cuộc sống. Nhờ Thánh Thần của Ngài, từ nay con người gặp gỡ Chúa Giê-su ngay trong mọi sinh hoạt và biến cố cuộc sống và cả nơi tha nhân nữa.
“Ta ra đi thì có lợi hơn cho anh em”. Quả thật, cái chết và phục sinh của Chúa Giê-su đã mang lại cho thế giới này một chiều kích mới: thế giới này đã trở thành nơi hẹn hò giữa Thiên Chúa và con người, chính trong cuộc sống này mà con người gặp gỡ Thiên Chúa. Nhưng sự hiện diện mới mẻ của Chúa Giê-su cũng là một thách đố cho môn đệ Ngài: họ không những tìm gặp Chúa Giê-su trong cuộc sống của họ, mà còn phải biến cả cuộc sống của họ thành một tín hiệu cho sự hiện diện của Ngài. Như dân Do thái tiến bước theo cột lửa giữa sa mạc và cư xử như thấy Đấng vô hình, thì người Ki-tô hữu cũng phải sống như thế nào để trở thành một mời gọi về sự hiện diện của Đấng Phục sinh
Đáp lại sự sinh động của Chúa Thánh Thần, người Ki-tô hữu cũng biến đổi cuộc sống thành một nối dài của chính sự xét xử đối với thế gian mà Chúa Giê-su đã thể hiện qua cái chết của Ngài. Quả thật, cái chết của Chúa Giê-su là một lời kết án đối với tội ác của thế gian. Ngày nay, qua những cử chỉ quảng đại phục vụ, yêu thương, tha thứ, cuộc sống của người Ki-tô hữu cũng là một nối tiếp việc xét xử của chính Chúa Giê-su đối với sức mạnh của sự dữ là ích kỷ, hận thù.
Nguyện xin Thánh Thần của Chúa Giê-su thúc đẩy và hướng dẫn chúng ta, để chúng ta luôn cảm nhận được sự hiện diện của Ngài trong cuộc sống và biến cuộc sống này thành một tín hiệu của sự hiện diện ấy cho mọi người chung quanh.
SUY NIỆM 5: Suy niệm của Lm. Trọng Hương
A. Hạt giống...
Tiếp bài giáo lý về Chúa Thánh Thần: Chúa Thánh Thần là Đấng tố cáo thế gian
Vì là Thần Chân lý, Chúa Thánh Thần sẽ tố cáo thề gian về tất cả những sự sai lầm của nó:
- “Về tội lỗi”: Thế gian tội lỗi vì đã không tin vào Chúa Giêsu.
- “Về sự công chính”: người do thái coi Chúa Giêsu là kẻ lộng ngôn phạm thượng, Chúa Thánh Thần sẽ chứng minh Chúa Giêsu là Đấng Công chính của Thiên Chúa.
- “Về án phạt”: Thượng Hội đồng do thái đã xử án chết cho Chúa Giêsu và nhiều người do thái cho rằng án xử ấy là đúng bởi vì được xử bởi một cơ quan có thẩm quyền. Chúa Thánh Thần sẽ chứng minh án xử đó là bất công.
B. ... nẩy mầm.
1. - Trong bài Tin Mừng hôm qua, Chúa Giêsu nói Chúa Thánh Thần là Perakletos của các tông đồ và của chúng ta. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho biết tiếp một vai trò nữa của Chúa Thánh Thần: Ngài là “kẻ chứng minh thế gian sai lầm”, nghĩa là vạch cho con người thấy những sai lầm của mình.
Chúa Thánh Thần sẽ vạch cho thấy 3 thứ sai lầm:
- Sai lầm thứ nhất là “về tội lỗi”: đối với người do thái xưa, đó là tội đã không tin Chúa Giêsu; còn đối với chúng ta ngày nay, chúng ta đã tin Chúa nhưng nhiều khi chúng ta không sống xứng đáng là môn đệ Chúa. Mỗi người đều có tội, có nhiều tội. Nhưng lắm khi tự mình không thấy tội mình, do đó cần phải có người vạch cho ta thấy, người đó là Chúa Thánh Thần.
- Sai lầm thứ 2 là “về sự công chính”: đối với người do thái, ho đã không nhìn nhận Chúa Giêsu là Đấng công chính nên đã giết Ngài. Đối với chúng ta ngày nay, đây là thứ sai lầm khi nhận định về Chúa. Rất nhiều khi chúng ta nhận định sai về Chúa: bóp méo hình ảnh Thiên Chúa theo sở thích chủ quan của mình. Td kẻ cố chấp miệt mài trong tội thì dựa vào quan niệm Thiên Chúa là Đấng nhân từ vô cùng; kẻ khắt khe hay lên án người khác thì bám vào quan niệm Thiên Chúa là Đấng xét xử công minh nhất định sẽ trừng phạt người tội lỗi; kẻ đang dan díu trong tình yêu ngang trái thì cái phao của họ là “Thiên Chúa là tình yêu” để tự an ủi: Yêu nhau thì có tội gì đâu v.v.
- Sai lầm thứ 3 là “về việc xét xử”: ngày xưa Thượng Hội đồng do thái đã xử án chết cho Chúa Giêsu và nhiều người do thái cho rằng án xử ấy là đúng bởi vì được xử bởi một cơ quan có thẩm quyền. Đây là thứ sai lầm do dựa vào dư luận. Chúng ta ngày nay nhiều khi cũng dựa vào dư luận để có thành kiến không đúng về người khác.
2. Một nguyên tắc triết lý rất cơ bản là “Errare humanum est”, nghĩa là đã là người thì thế nào cũng có sai lầm. Cho nên nhận ra những sai lầm của mình là một điều cần thiết và rất hữu ích để còn có thể sửa sai, để ngày càng hoàn thiện chính mình. Từ đó lời khuyên thứ nhất của đoạn Tin Mừng này là mỗi người chúng ta hãy khiêm tốn ý thức mình không phải là hoàn hảo, mình còn nhiều sai lầm, mình cần tự nhận ra những sai lầm ấy.
Trong bài hát về Chúa Thánh Thần, có câu: “Thánh Thần khấn xin ngự đến, hồn con đang mong chờ Ngài... Ngài ơi xin Ngài hãy đến chiếu sáng tối tăm u mê sai lầm Ngài ơi xin Ngài mau đến hiển linh Ngài ơi”. Lời khuyên thứ hai của bài Tin Mừng hôm nay là chúng ta phải nhờ Chúa Thánh Thần soi sáng thì mới thấy rõ và đúng những sai lầm của mình.
3. Chú bé bị mù tử bẩm sinh. Nhờ cuộc giải phẫu, mắt chú dần dần sáng ra. Ngày nọ, mẹ chú dẫn chú ra đường và mở màn che, chú say sưa ngắm nhìn trời đất. Chú kêu lên: “Mẹ ơi, sao bao lâu nay mẹ không nói cho con hay đất trời đẹp thế !”Bà mẹ bật khóc nói: “Con ạ, mẹ đã cố gắng nói cho con hay đấy chứ, nhưng lúc đó con làm sao hiểu được !"
Nếu Thánh Linh không gỡ màn che, mở con mắt tâm linh cho ta, thì ta cũng chẳng thấy sự hiện diện của Chúa. (Góp nhặt)
22/05 Ðấng An Ủi đến
- Viết bởi Ga 15,26 – 16,4
Ðấng An Ủi đến.
Thứ Hai tuần 6 Phục Sinh.
"Thần Chân lý sẽ làm chứng về Thầy".
Lời Chúa: Ga 15,26 – 16,4
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Khi Đấng Phù Trợ đến, Đấng Thầy sẽ từ nơi Cha Thầy sai đến với các con, Người là Thần Chân lý bởi Cha mà ra, Người sẽ làm chứng về Thầy. Và các con cũng sẽ làm chứng, vì các con đã ở với Thầy từ ban đầu.
Thầy đã nói với các con điều đó để các con khỏi vấp ngã. Người ta sẽ loại các con ra khỏi hội đường. Đã đến giờ kẻ giết các con tưởng làm thế là phụng sự Thiên Chúa. Họ sẽ làm những điều đó cho các con, vì họ không biết Cha, cũng không biết Thầy. Nhưng Thầy đã nói với các con như vậy, để khi đến giờ của họ, các con nhớ lại là Thầy đã bảo các con".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Ðấng An Ủi đến.
Trong bài Tin Mừng hôm nay nhắc đến việc Chúa Giêsu sắp từ giã thế gian để về cùng Cha. Vì thế, các môn đệ lo lắng sẽ không biết theo hướng nào một khi không còn Thầy bên cạnh mình. Ðứng trước sự lo lắng ấy, Chúa Giêsu đã gởi Ðấng Phù Trợ đến, nhưng công việc của Ðấng Phù Trợ cũng không gì khác ngoài việc làm chứng về Ðức Giêsu, để rồi một khi lòng tin vào Ðức Giêsu được vững mạnh, các tông đồ sẽ là nhân chứng về Thầy.
Họ phải làm chứng không chỉ về hành động và cuộc đời của Ðức Kitô, nhưng luôn cả ý nghĩa các việc làm của Ngài. Ðấng Phù Trợ là Thần Chân Lý từ Cha đến sẽ cho họ thấy công việc phải làm và con đường phải đi, và chắc chắn các tông đồ sẽ không tránh khỏi sự bách hại.
Người ta đã hành hạ họ một cách không thương tiếc vì tưởng rằng làm như thế là đẹp lòng Thiên Chúa. Như Saolô đã hăng hái xin phép lên đường để bắt bớ giết các Kitô hữu. Chúa Giêsu biết trước điều này, Ngài không ra tay ngăn cản mà chỉ tiên báo cho các tông đồ vì đã có Ðấng Phù Trợ ở với họ và sự bách hại sẽ là lời chứng hùng hồn nhất.
Trong bách hại, người môn đệ sẽ tỏ lộ lòng trung thành hoàn toàn đối với Thầy. Nhờ bách hại, họ sẽ trở nên giống Thầy, Ðấng đã chịu bắt bớ và bị giết chết trên Thập Giá. Qua thái độ người môn đệ đón nhận sự bách hại, thế gian sẽ nhận ra vẫn còn một nguồn hạnh phúc khác giá trị hơn những gì đang có trước mắt nhiều, và bách hại thể hiện một đường lối chiến đấu khác, đó là tình yêu thắng vượt hận thù. Người bách hại tưởng là họ chiến thắng chứ thật ra không phải vậy. Giọt máu của người bị bách hại dù có đổ ra một cách âm thầm nó sẽ chẳng bao giờ bị quên lãng nơi chính người bách hại hoặc trong lịch sử.
Chúa Thánh Thần đến để làm chứng cho Chúa Giêsu, nhưng Ngài không cất đi vai trò chứng nhân của các tông đồ. Bởi thế, khi tiên báo sự bách hại, Chúa Giêsu muốn các ông sống trọn vẹn vai trò làm chứng nhân của mình, và Chúa Thánh Thần, Ðấng phù trợ sẽ đến giúp các ông: "Thánh Thần của Cha sẽ nói với các ông".
Kitô hữu, người môn đệ của Chúa Giêsu ngày nay cũng nhận sứ mạng làm chứng về Thầy. Họ đã được trao ban Thánh Thần để hiểu biết về sự thật. Có thể con đường trước mắt nhiều chông gai, thử thách và còn nhiều con đường khác dễ dàng thoải mái đang mời gọi họ. Tất cả các con đường sẽ dẫn đến đâu? Chưa một ai có kinh nghiệm, nhưng tin nhận vào con người Ðức Giêsu và nhất là được Thánh Thần Chân Lý làm chứng, họ sẵn sàng bước theo Ngài, chấp nhận con đường chông gai của Ngài.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, ước mong rằng ngày sống của mỗi người trong chúng ta sẽ là một diễn tả của lời chứng về Ðức Giêsu. Dù cho ngày sống có thêu dệt bằng những an hòa tươi đẹp thì cũng không thể nào tránh được những chông gai nhọc nhằn, nhưng nếu biết lợi dụng thì đó là những cơ hội để chúng ta làm chứng về tình yêu đối với Ngài.
(Trích “Suy Niệm Hằng Ngày” – Radio Veritas Asia)
SUY NIỆM 2: Suy niệm của Đaminh Phạm Thế Hiển SDB
Trong đời sống thường nhật của người Kitô hữu, Chúa Thánh Thần là Đấng ít được mọi người chạy đến cầu khẩn so với Chúa Cha và Chúa Con. Ngày hôm nay, Chúa Giêsu lại một lần nữa giới thiệu Ngài cho chúng ta: "Khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy." (Ga 15,26). Thật vậy, Chúa Thánh Thần có một tầm quan đặc biệt trong đời sống Hội Thánh và người Kitô hữu. Thời kỳ này, người ta gọi là thời kỳ hoạt động của Chúa Thánh Thần, vì thời kỳ tạo dựng của Chúa Cha và cứu độ của Chúa Con đã qua. Trong sách Công vụ Tông đồ cho thấy tác động của Chúa Thánh Thần nơi các môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu. Chính Ngài đã hướng dẫn những vị này mạnh dạn ra đi loan báo Tin mừng, ban cho họ sức mạnh và những đặc sủng. Còn những ai hoán cải thì Ngài ban cho họ ơn nhận biết Thiên Chúa, nhiều khả năng mới mẻ để làm việc, chữa lành bệnh tật, phục vụ và lay chuyển một thế giới ngái ngủ. Suốt dòng lịch sử, Thánh Thần sẽ cho xuất hiện những người đầy đức tin, những vị tử đạo, những ngôn sú, và nhờ họ, sẽ biến đổi thế giới. Qua đây mà Chúa Cứu thế, bề ngoài có vẻ là kẻ chiến bại, sẽ được minh chứng là công chính; và kẻ thua cuộc rõ ràng sẽ là Xa-tan vốn đã bị xét xử rồi. Tên đạo diễn đầu sỏ của tấm kịch loài người, là Ác-Thần, đã bị truất bỏ và ảnh hưởng của hắn bị hạn chế. Một lực lượng mới là Thánh Thần sẽ định hướng cho lịch sử và hướng dẫn chúng ta đến chân lý toàn diện. (Trích trong phần chú giải sách Lời Chúa Cho Mọi Người, Kinh thánh Tân ước và Cựu ước, NXB Tôn giáo, tr 1852). Bên cạnh đó, chúng ta cũng thấy tầm mức quan trọng của Chúa Thánh Thần khi Hội Thánh bắt buộc mọi người Kitô hữu đến tuổi khôn phải lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức là lãnh nhận bảy ơn của Chúa Thánh Thần dể kiện toàn đức tin đã được lãnh nhận, đồng thời có sức mạnh mà chứng về Đức Kitô.
Với thế giới ngày nay đang có rất nhiều những thay đổi hay gọi một cách nôm la là đang có những bước chuyển mình đầy tích cực và văn minh. Tuy nhiên, bên cạnh những nét tích cực đó thì cũng có những mặt tiêu cực và những hậu quả khôn lường của những nét tích cực đó. Một sự phát triển chóng mặt của khoa học kỹ thuật, một sự sáng tạo năng động với rất hình thức giải trí mang lại sự thoải mái về mặt tinh thần... Tuy vậy, dường như những thứ đó đang ngày làm cho con người xa Chúa, mất cảm giác linh thánh, đặt các mức giá tri sai lệch. Ngay nay, chúng ta không lạ gì với cảnh tượng dự lễ ngày Chúa Nhật của rất nhiều các bạn trẻ thuộc nhiều giáo xứ, nhất là các giáo xứ ở các thành phố lớn, là ở những gốc cây, những quan café bên kia nhà thờ, hay ngồi trên xe nói chuyên với người yêu, với bạn bè. Ngoài ra, nhiều bạn trẻ còn đăt tiền bạc, công việc hay những cuộc vui chơi chóng qua hơn là Thiên Chúa. Họ thích gặp bạn bè, người yêu hơn là gặp Chúa. Họ thích sự ồn ào, náo động và nhộn nhịp hơn là thích có những giây phút thinh lặng bên Chúa.
Ngày hôm nay, Chúa Giêsu đã nhắc nhở chúng ta hãy năng chạy đến với Chúa Thánh Thần, cầu xin Ngài để Ngài ban cho chúng ta sức mạnh mà chiến thắng những cạm bẫy đang có rất nhiều nơi thế gian này. Chỉ bằng việc năng tham dự Thánh lễ và siêng năng xưng tội mới là cách thức tốt nhận để ta nhận ra sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong đời sống. Và chỉ có như vậy, chúng ta mới có đủ sức mạnh, có đủ lòng can đảm mà làm vinh danh Chúa nơi trần gian này và làm cho mọi người nhận biết Chúa qua chúng ta.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy xuống ngự trong tâm hồn con, ban cho con hồng ân của Ngài để tâm hồn con trở thành đền thờ xứng đáng cho Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị. Amen.
SUY NIỆM 3: Thập Giá và Đức Kitô
Tại một trung tâm truyền giáo ở Ý, người ta đọc thấy một bài thơ với nội dung như sau:
Bạn thân mến,
Tôi đã đi tìm một Thập giá.
Một hôm tại tiệm bán đồ cổ, tôi đã mua được một tượng Đức Ki-tô, đây là Đức Ki-tô tuyệt đẹp nhưng sứt mẻ và bơ vơ vì bị tách lìa khỏi Thập giá. Tôi chợt nghĩ không chừng bạn đang có một Thập giá, nhưng là một Thập giá trơ trụi không có Đức Ki-tô. Đức Ki-tô của tôi không có nơi ngơi nghỉ vì thiếu Thập giá, còn Thập giá của bạn thì lại thiếu Đức Ki-tô. Đức Ki-tô không Thập giá và Thập giá không có Đức Ki-tô. Tôi xin đề nghị với bạn: Tại sao chúng ta không liên kết cả hai lại? Tại sao bạn không trao Thập giá trống trơn của bạn cho Đức Ki-tô? Bạn chỉ có một Thập giá đơn độc, trống rỗng, lạnh giá, vô nghĩa, một Thập giá không có Đức Ki-tô. Hẳn bạn đã hiểu đau khổ như thế là vô lý, tôi không hiểu được tại sao bạn lại chịu đau khổ như thế từ bao lâu nay. Một Thập giá không có Đức Ki-tô là một tra tấn, là nguyên nhân dẫn đến thất vọng. Giờ đây bạn đã có liều thuốc trong tay, bạn sẽ không còn đơn phương chịu đau khổ nữa. Bạn hãy trao cho tôi Thập giá trống không của bạn. Tôi sẽ trao cho bạn Đức Ki-tô sứt mẻ của tôi. Bạn hãy trao Thập giá và hãy đón nhận Đức Ki-tô, rồi bạn sẽ thấy mọi sự đổi thay, bạn sẽ không còn đơn độc trong đau khổ, bởi vì trong Thập giá của bạn có Đức Ki-tô.
Bách hại, khổ đau là phần số gắn liền với ơn gọi Ki-tô hữu. Trong những giây phút cuối cùng ngồi bên các môn đệ, Chúa Giê-su không những loan báo cuộc tử nạn của Ngài, mà còn báo trước những khổ đau mà họ sẽ trải qua vì mang Danh Ngài. Ngài sẽ tiếp tục hiện diện trong các môn đệ của Ngài và sự hiện diện ấy càng rõ nét hơn qua chính những khổ đau mà các môn đệ Ngài sẽ trải qua. Một cách nào đó, vụ án của Chúa Giê-su sẽ tiếp tục trong chính các môn đệ của Ngài. Thế gian đã kết án Chúa Giê-su và do đó trút hận thù lên các môn đệ của Ngài. Thật ra, không phải thế gian xét xử Chúa Giê-su, mà chính Ngài xét xử thế gian. Cuộc tử nạn và cái chết của Chúa Giê-su là một tố cáo về chính tội ác của thế gian. Qua cuộc tử nạn dưới nhiều hình thức mà các môn đệ Đức Ki-tô phải trải qua trên khắp thế giới và suốt lịch sử nhân loại, sự xét xử của Chúa Giê-su đang tiếp diễn. Tội ác của con người được tiếp tục phơi bày qua những khổ đau mà các môn đệ Đức Ki-tô phải gánh chịu vì niềm tin của họ.
Nhưng Chúa Giê-su không đến để luận phạt thế gian. Ngài đến để bày tỏ tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Cuộc tử nạn và cái chết của Ngài mạc khải cho nhân loại gương mặt yêu thương của Thiên Chúa, và ngày nay qua cuộc tử nạn của các môn đệ Ngài, gương mặt yêu thương của Thiên Chúa lại tiếp tục được sáng tỏ. Qua cuộc tử nạn ấy, con người mới nhận thấy rằng chỉ có tình yêu mới thắng được hận thù, chỉ có tình yêu mới mang lại ý nghĩa cho cuộc sống. Tình yêu chiến thắng hận thù, tình yêu mang lại ý nghĩa cho cuộc sống, tình yêu ấy người môn đệ chỉ có thể múc lấy từ Đức Ki-tô mà thôi. Ngài là Đấng Phục sinh, Ngài đang hiện diện trong tâm hồn các môn đệ Ngài. Hãy để cho Ngài được hiện diện và đồng hành với ta. Hãy để cho Ngài được tiếp tục dự phần vào Thập giá của ta mỗi ngày. Khi ấy cuộc sống sẽ mãi mãi có ý nghĩa, khổ đau sẽ có sức thanh luyện, và tình yêu sẽ chiến thắng hận thù.
SUY NIỆM 4: Trách nhiệm với Đức Kitô
Toàn bộ Tin mừng thánh Gio-an được coi như một vở kịch trình bày một phiên tòa với những ngôn từ: Chứng nhân, quan án, trạng sư, bảo trợ, bào chữa, tố cáo, chiến thắng … Đấng Bảo trợ đến tố cáo và xét xử thế gian vì họ tố cáo và xét xử sai lầm về Đức Giê-su. Thần chân lý đến với những dấu chỉ và công việc đầy nhân ái, nhưng người Do thái không biết đón nhận Ngài. Họ từ khước ánh sáng và họ bị kết án ở trong tối tăm. Chính họ đã kết án Đức Giê-su là sự sáng, nhưng Thánh Thần, Đấng bào chữa cho Đức Giê-su sẽ chỉ cho Giáo hội biết đến cùng Đấng có lý.
Nhờ Ngài làm chứng và soi sáng cho chúng ta, là những Ki-tô hữu, biết nhận ra trách nhiệm của mình đối với Đức Ki-tô, để trở nên giống hình ảnh Đức Ki-tô đi loan báo Tin mừng cho thế giới. Mỗi Ki-tô hữu phải là hình ảnh của Đức Ki-tô hiện diện trong thế giới, vì Đức Ki-tô sống lại không còn là Đức Giê-su đi lại cô độc ở Ga-li-lê và cầu nguyện cô đơn trong nơi thanh vắng của núi rừng hoang địa. Người chỉ hiện diện nơi các chứng nhân của Người. Đức Ki-tô cần nhờ các tín hữu để nói với thế gian như Người đã nói với Phao-lô: “Sao ngươi bắt Ta ?”. Đức Giê-su sẽ không làm được gì nếu Người chỉ ở trên trời ngự trên ngai tòa bên hữu Đức Chúa Cha. Vì thế, cần phải thêm rằng Người đang hoạt động trên trái đất cùng với những ai đi rao giảng lời Ngài (Mc. 16, 19-20). Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế, Người cần có những kẻ được cứu chuộc. Đức Giê-su đã sai Thánh Thần đến như đã hứa ở bài này, cần có nhiều người đón nhận Ngài và với Ngài trở nên những chứng nhân làm chứng cho Đức Giê-su trước mặt loài người (Cv. 5, 32).
Như thế Tin mừng thánh Gio-an thúc đẩy chúng ta hiện tại hóa lời luận chứng xưa thành lời chứng mãi mãi, để làm sống lại vở kịch đầy xung đột giữa ánh sáng và tối tăm, sự sống và sự chết, chân lý và giả dối, đồng thời không ngừng đặt chúng ta trước giờ Đức Ki-tô bị kết án, bị giết chết, này trở nên Đấng phán xét và sống lại, trở nên Đấng Ki-tô đang hiện diện trong các kẻ tin nhờ Thánh Thần.
LP.
SUY NIỆM 5: Suy niệm của Lm Trọng Hương
A. Hạt giống...
Đề tài giáo lý thứ 13: Về Chúa Thánh Thần
Do thái giáo coi Đức Giêsu là một kẻ lộng ngôn phạm thượng và các kitô hữu là những người phản bội Do thái giáo. Do đó họ giết Chúa Giêsu bắt bớ các kitô hữu. Chúa Giêsu đã báo trước điều đó cho các môn đệ biết: “Người ta sẽ loại các con ra khỏi hội đường. Đã đến giờ kẻ giết các con tưởng làm thế là phụng sự Thiên Chúa”
Nhưng đồng thời Chúa Giêsu trấn an họ: Chúa Cha sẽ sai Chúa Thánh Thần đến.
- Chúa Thánh Thần là Đấng phù trợ: Ngài sẽ che chở và bênh vực các môn đệ trong cơn bắt bớ
- Ngài là Thần chân lý: Ngài sẽ soi sáng giúp các môn đệ vạch cho những người do thái biết Chúa Giêsu là Đấng làm theo đúng ý Chúa Cha.
B. ... nẩy mầm.
1. “Đấng phù trợ” là dịch từ chữ hy lạp Parakletos, chỉ một nhân vật thế giá đến đứng bên cạnh người bị cáo trong một phiên tòa. Khi nhân vật thế giá đến đứng bên cạnh người bị cáo thì tình hình đổi khác rất nhiều: đối với người bị cáo thì người này bớt sợ và an tâm hơn vì đã có người hỗ trợ tinh thần mình, đồng minh với mình, giúp mình biết trả lời cho khéo, và khi cần thì đích thân lên tiếng bênh vực mình. Đối với các quan tòa thì sự hiện diện của Parakletos bên cạnh bị cáo cũng khiến họ phải nể nang hơn, xét xử khoan hồng hơn.
Thánh Kinh dùng chữ này theo nghĩa rộng, vượt khỏi khung cảnh tòa án, áp dụng cho nhiều hoàn cảnh khác trong cuộc đời. Thí dụ ngôn sứ Đanien là Parakletos của Bà Susanna khi bà bị 2 ông già dê âm mưu kết án oan; Chúa Giêsu là Parakletos của người phụ nữ ngoại tình khi chị bị lôi ra xử án ném đá vì phạm tội ngoại tình.
Còn trong bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu dùng chữ Parakletos để chỉ Chúa Thánh Thần. Các môn đệ của Ngài sẽ bơ vơ giữa thế gian, như những con chiên giữa bầy sói dữ. Thế gian sẽ thù ghét họ, gài bẫy hại họ, làm khó dễ họ, thậm chí còn bắt bớ họ. Nhưng thực ra các môn đệ không bơ vơ vì đã có Chúa Thánh Thần đứng bên cạnh, để:
- hỗ trợ tinh thần khi họ cảm thấy cô đơn
- an ủi họ trong những lúc thua buồn
- che chở họ trong những khi nguy hiểm
- vạch cho họ thấy những cạm bẫy xảo quyệt mà thế gian giăng ra hại họ
- dạy họ cách làm cách nói để khỏi bị thế gian bắt bẻ
- đích thân bênh vực họ.
Và chúng ta đã thấy, Chúa Thánh Thần đã đóng vai Parakletos một cách hữu hiệu thế nào đôi với các tông đồ khi các ngài sống và hoạt động giữa thế gian.
Bài Tin Mừng này nhắc cho chúng ta nhớ đến một Đấng Parakletos mà chúng ta vẫn hằng có sát bên cạnh mình thế mà chúng ta thường quên, đó là Chúa Thánh Thần. Chúng ta quên Ngài đến nỗi nhiều khi chúng ta đọc hay hát kinh Chúa Thánh Thần mà vẫn không nghĩ tới Ngài. Và bởi vì quên Ngài, không nghĩ tới Ngài nên chúng ta thường bị rơi vào tâm trạng cô đơn, buồn chán, lo âu, sợ sệt, ngã lòng...
2. “Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng về Thầy, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu”
Sau những năm làm đầy tớ cho một gia đình qúi tộc, Sophie Berdanska phải thất nghiệp, đói rách, lang thang. Nàng được một gia đình Do thái thuê về chăm sóc cho mấy đứa con nhỏ của họ. Nhưng ngay hôm đầu tiên, khi biết nàng là người Công giáo, ông chủ đặt điều kiện là “nàng không được giảng đạo” cho con cái ông. Nàng nhận lời và bắt đầu công việc của mình bằng hết khả năng. Có điều trên cổ nàng luôn đeo một chiếc huy chương của cha nàng để lại, bên trong có nhét một mảnh giấy nhỏ, mà nàng nhất định không cho ai coi. rồi đến khi lũ trẻ lâm bệnh, nàng ra sức chăm sóc, phục vụ. Lúc chúng được lành bệnh thì cũng là lúc nàng ngã bệnh và từ trần. Giờ đây người ta có thể đọc được mảnh giấy nhỏ trong tấm huy chương: ”Khi người ta cấm tôi nói về đạo của tôi, tôi quyết sống đạo trước mắt họ như một chứng từ hùng hồn nhất”. Bàng hoàng rồi cảm phục, gia đình người chủ Do thái xin nhận bí tích thánh tẩy.
Lạy Chúa, xin giúp sức cho con can đảm sống đạo trước mặt mọi người như một chứng từ hùng hồn. (Epphata)
21/05 Thầy sẽ xin Cha và Người sẽ ban cho các con một Đấng Phù Trợ khác
- Viết bởi Ga 14, 15-21
Chúa Nhật 6 PHỤC SINH năm A.
"Thầy sẽ xin Cha và Người sẽ ban cho các con một Đấng Phù Trợ khác".
Lời Chúa: Ga 14, 15-21
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ giới răn Thầy. Và Thầy sẽ xin Cha, và Người sẽ ban cho các con một Đấng Phù Trợ khác, để Ngài ở với các con luôn mãi.
Ngài là Thần Chân Lý mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết được Ngài; còn các con, các con biết Ngài, vì Ngài sẽ ở nơi các con và ở trong các con.
Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi: Thầy sẽ đến với các con. Một ít nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần các con, các con thấy Thầy vì Thầy sống và các con cũng sẽ sống. Trong ngày đó, các con sẽ hiểu biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, và các con ở trong Thầy, và Thầy ở trong các con.
Ai nhận các luật Thầy truyền và giữ các luật đó, thì người ấy là kẻ mến Thầy. Và ai mến Thầy sẽ được Cha Thầy yêu mến, và Thầy sẽ yêu nó, và sẽ tỏ mình ra cho nó".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH – Năm A
Lời Chúa: Cv. 8, 5-8. 14-17; 1Pr. 3, 15-18; Ga. 14, 15-21
1. Con mắt của trái tim
Một ít nữa thế gian sẽ không còn thấy Thầy, phần các con, các con thấy Thầy.
Chúng ta cảm thấy dường như có một cái gì mâu thuẫn trong lời tuyên bố của Chúa Giêsu. Cùng một sự hiện diện mà người thì thấy còn kẻ khác lại không thấy. Cùng một Chúa Giêsu, mà có người thì xác tín Người vẫn hiện diện, trong khi kẻ khác lại nói: Người thuộc về dĩ vãng và đã qua rồi. Ngay trong cuộc sống hiện tại, chúng ta cũng có thể bắt gặp những trường hợp tương tự. Chẳng hạn một người đã ra đi hay đã chết, nhưng những kẻ còn lại vẫn cảm thấy người ấy đang còn ở đâu đây, thật gần gũi. Một bà mẹ có thể nhìn thấy đứa con bà mới chôn cất nơi từng sự vật, nơi từng căn phòng, nơi từng lối đi. Vậy thì đâu là nguyên nhân tạo nên cái tình cảm tuy xa mà lại gần như thế?
Tôi xin thưa chính tình yêu thương đã tạo nên cái điều lạ lùng ấy. Giữa những người thân thiết, cái chết nơi thân xác không phải là điều quyết định tạo nên sự chia cách, sự vắng mặt. Cái thấy mà Chúa Giêsu muốn nói ở đây, không còn là cái thấy bằng cặp mắt của thân xác vốn có những giới hạn của nó, mà là cái thấy bằng con tim, bằng yêu thương, bằng cảm thông. Chính vì thế, mà qua đoạn Tin Mừng ngắn ngủi chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu luôn nhắc đi nhắc lại hai chữ yêu mến. Đồng thời hai chữ yêu mến đã trở thành mối quan hệ giữa môn đệ và Thầy mình, cũng như giữa người môn đệ và Thiên Chúa Cha.
Ngoài ra cũng chính tình yêu mến ấy đã đưa tới sự hoà nhập: Các con ở trong Thầy và Thầy ở trong các con. Chính việc thấy bằng cặp mắt của con tim này sẽ giúp chúng ta thấy được cái ý nghĩa, cái vai trò và mối quan hệ mật thiết giữa sự hiện diện của Chúa Giêsu với cuộc đời của người Kitô hữu, điều mà con mắt của thân xác không thể nào nhìn thấy.
Lòng yêu mến không thể không dẫn tới hành động. Người môn đệ yêu mến Thầy cũng có nghĩa là người môn đệ tuân giữ các giới răn, các lệnh truyền của Thầy. Thế nhưng các giới răn và lệnh truyền của Chúa Giêsu không phải là những giới răn, những lệnh truyền cũ của Cựu Ước, cho dù đã được diễn tả bằng những công thức mới, nhưng là chính con người của Người.
Đúng thế, chính Chúa Giêsu và cuộc sống của Người đã trở thành những khuôn mẫu tuyệt vời nhất cho cuộc sống người tín hữu noi theo và bắt chước. Rất nhiều khi chúng ta chỉ dừng lạ nơi những giới răn và những lệnh truyền. Đồng thời những giới răn và những lệnh truyền cũng thường dừng lại ở những cái tối thiểu. Vì thế, việc sống đạo trở thành một bài toán khô khan và nghèo nàn. Người Kitô hữu đích thực phải sống đạo bằng con tim, bằng tình yêu mến. Bởi vì chính tình yêu mến này sẽ giúp chúng ta nhận ra sự hiện diện thật gần gũi của Chúa Giêsu trong lòng cuộc sống chúng ta.
2. Thiên Chúa Ở Cùng
Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi. Qua giòng thời gian, chúng ta thấy Thiên Chúa đã thực hiện điều Ngài đã phán hứa là ở cùng nhân loại chúng ta.
Thực vậy, với ông Giôsuê, Ngài phán: Đừng sợ, vì Thiên Chúa ở cùng ngươi. Với Ghiđêon, Ngài bảo: Hỡi người dững cảm, Thiên Chúa ở cùng ngươi. Với Maisen, Ngài nói: Ta luôn ở với ngươi. Với Mẹ Maria, thiên thần loan báo: Thiên Chúa ở cùng bà, bà có phúc lạ hơn mọi phụ nữ và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ. Và ngày hôm nay, với các môn đệ, Ngài đã hứa: Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.
Còn chúng ta thì sao? Có lẽ nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta đã than phiền: Nếu Thiên Chúa thực sự hiện diện, thì Ngài ở đâu bây giờ? Tại sao Ngài lại xa cách và dường như lại còn đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ trước những nhu cầu cần thiết của chúng ta?
Cũng như hai môn đệ trên đường đi Emmaus, Chúa ở bên cạnh chúng ta, nhưng chúng ta lại chẳng nhận ra Ngài. Nhất là trong những giây phút buồn sầu và thất vọng, chúng ta cảm thấy Thiên Chúa dường như vắng bóng và chẳng đoái hoài đến những lời chúng ta kêu xin. Nhưng thật ra, đó lại là những giây phút Ngài ở gần chúng ta hơn bao giờ hết.
Sau khi đã thoát khỏi một cơn cám dỗ nặng nề, và được Chúa hiện ra, thánh nữ Catarina đã thân thưa với Chúa: Lạy Chúa, giữa lúc con đang phải chiến đấu, thì Chúa ở đâu? Và Chúa đã trả lời: Cha ở trong trái tim con, vì nếu cha không ở bên con để giúp đỡ, thì con đã sa ngã, đã vấp phạm từ lâu.
Sở dĩ chúng ta không nhận ra Ngài là vì chúng ta đã không nhớ đến Ngài. Ngài đứng đó, giơ bàn tay nâng đỡ, mà chúng ta lại cho rằng không và chẳng chạy đến xin Ngài phú trợ. Chúng ta nên nhớ rằng: Ngài đã trao ban cho chúng ta sự tự do, nên Ngài sẽ không bao giờ bắt ép chúng ta, ngay cả với ơn cứu độ, nếu như chính bản thân chúng ta lại không muốn. Có lẽ con mắt đức tin của chúng ta đã khép lại, đề rồi chúng ta không còn nhận ra Ngài.
Nhiều lúc chúng ta quá chú trọng đến bản thân và những nhu cầu của mình, nên khi gặp phải khổ đau và thử thách, chúng ta thường than thân trách phận.
Chúng ta hãy nhớ lại những hậu quả kỳ diệu của ơn Chúa trợ giúp. Các tông đồ đánh cá ở biển hồ Tibêriade, suốt đêm vất vả mà chẳng bắt được một con cá nào, nhưng vâng lời Chúa, các ông đã thả lưới và lập tức các ông có được một mẻ cá ngoài sự mong muốn của mình. Khi gặp phải sóng gió, nhưng với uy quyền của Chúa, thì lập tức sóng liền yên và biển liền lặng. Giữa tiệc cưới tại Cana, mọi người đang lúng túng vì thiếu rượu, Chúa Giêsu đã làm phép lại cho nước lã biến thành rượu ngon. Giữa hoang địa cằn cỗi, Ngài đã làm phép lạ cho bánh hóa nhiều, để nuôi sống đám đông dân chúng đang đói mệt. Bà góa thành Naim, cũng như hai chị em Martha và Maria, đang than khóc tuyệt vọng vì người thân yêu của mình không còn nữa, nhưng Chúa đã làm phép lạ cho người đã chết được sống lại, hầu xoa dịu nỗi đớn đau tang tóc.
Chúng ta hôm nay là những người đã bước theo Chúa trên một chặng đường đời, nhưng con đường sắp tới chắc chắn sẽ có những chông gai, những khúc quanh, những triền dốc, chúng ta nên nhớ rằng: Điều đó không quan trọng cho bằng việc ý thức Chúa luôn ở bên cạnh chúng ta. Và một khi đã có Chúa cùng đi, chắc chắn thuyền đời chúng ta sẽ cặp bến hạnh phúc. Có Chúa cùng đi, chúng ta sẽ tìm ra được sức mạnh và ánh sáng, để vượt thắng mọi trở ngại, bởi vì như lời Ngài đã phán: Không có Thầy, các con chẳng làm được gì. Hay như lời Thánh Vịnh: Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cùng là uổng công.
3. Điều răn Chúa dạy
Ai yêu mến Thầy, thì tuân giữ những điều răn của Thầy. Bên cạnh trung tâm huấn luyện của quân đội, có một người giáo dân rất hăng say với việc tông đồ. Anh muốn giới thiệu Tin Mừng Đức Kitô cho hàng ngàn tân binh quân dịch. Thế nhưng các vị chỉ huy lại không cho phép anh được ra vào trung tâm. Bởi đó, anh đã nghĩ ra một sáng kiến truyền giáo thật hay. Anh đặt làm hàng ngàn chiếc gương nhỏ với một giá rẻ. Mặt sau chiếc gương, thay vì hình một cô gái hay một bông hoa, anh cho in những lời Chúa phán trong Phúc Âm. Chẳng hạn: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài, để những ai tin vào Con của Ngài thì sẽ không phải chết”. Bên dưới lời Chúa là hàng chữ chỉ dẫn như sau: “Nếu bạn muốn biết người được Chúa yêu, thì hãy nhìn ở mặt kia”. Thật là tuyệt vời, mỗi quân nhân khi nhìn ngắm mình trong gương, họ sẽ thấy chính bản thân họ là người được Chúa yêu thương.
Mặt sau chiếc gương khác, có in lời Chúa phán quan đoạn Tin Mừng chiều hôm nay: “Ai yêu mến thầy, thì tuân giữ những điều răn của Thầy”. Và khi soi gương, những quân nhân sẽ tự hỏi: “Mình đã tuân giữ những giới răn của Chúa để được Chúa yêu thương hay chưa?”
Thực vậy, chúng ta chứng minh tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa bằng sự tuân giữ những điều răn của Ngài bởi vì lề luật của Ngài là những chỉ dẫn yêu thương tuyệt hảo nhất. Chúng nói cho chúng ta biết những gì Thiên Chúa muốn và không muốn. Nhưng đồng thời cũng chỉ cho chúng ta hay đâu là điều tốt lành nhất cho bản thân, gia đình và xã hội.
Chẳng hạn điều răn thứ I: “Thờ phượng và kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự”, sẽ giúp chúng ta chu toàn những bổn phận đối với Đấng Tối Cao đã đành, mà còn giúp chúng ta tránh đi được những mê tín dị đoan và những sự thờ phượng nhảm nhí làm giảm giá trị con người, như thờ con bò, con rắn, thờ tiền tài, danh vọng, lạc thú.
Chẳng hạn điều răn thứ IV: “Hãy hảo kính cha mẹ”, sẽ giúp chúng ta chu toàn những bổn phận đối với cha mẹ, là những người đã có công sinh thành dưỡng dục chúng ta đã đành, mà còn nhờ đó đem lại cho gia đình chúng ta một bầu khí hoà thuận, cảm thông và hạnh phúc.
Chẳng hạn điều răn thứ V: “Tôn trọng thân xác và mạng sống của mình cũng như của người khác”. Rồi điều răn thứ VII và thứ X: “Tôn trọng đức công bằng, không được lấy hay giữ của người ta một cách trái phép”. Tất cả những điều răn này không phải chỉ đem lại cho cá nhân một sự bảo đảm an toàn, mà hơn thế nữa còn đem lại cho xã hội một sự ổn định và trật tự.
Và như chúng ta đã nói, bên trên những lợi ích cá nhân, gia đình và xã hội, việc tuân giữ những điều răn của Chúa sẽ là một phương thế giúp chúng ta biểu lộ tình yêu mến và gắn bó của chúng ta đối với Chúa, vì tình yêu mà không có việc làm thì chỉ là một tình yêu chết mà thôi. Hơn nữa, chính Chúa Giêsu đã phán dạy chúng ta: Ai yêu mến Thầy thì tuân giữ những điều răn của Thầy.
4. Sự sống mới – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Nếu các Tin mừng Matthêu, Marcô và Luca mời gọi ta vào Vương quốc Thiên Chúa, thì Tin Mừng Gioan mời gọi ta vào tình yêu Chúa Giêsu Kitô. Thánh Gioan là người sống sau cùng. Sau khi đã nghiền ngẫm tất cả cuộc đời và những lời giảng dạy của Chúa Giêsu, thánh nhân nghiệm ra cái cốt lõi của cuộc sống người môn đệ là tình yêu chúa Giêsu Kitô, là kết hiệp với Chúa Giêsu Kitô, là sống sự sống của Thiên Chúa.
Tình yêu đó không phải là thứ tình yêu mơ mộng lãng mạn nhưng là một tình yêu sàng suốt của lý trí.Tình yêu đó không phải là chuyện đuổi bướm, hái hoa, rung động, xúc cảm, nhưng là một tình yêu với những việc làm cụ thể. Việc làm cụ thể đó là tuân giữ những điều Chúa Giêsu truyền dạy.
Đó chính là bí quyết Chúa Giêsu truyền lại cho các môn đệ, trước khi người giã từ các ông để đi vào thế giới đức tin. Từ nay để gặp gỡ Người, để yêu mến Người, để sống với Người, cần phải có đức tin và tình yêu.
Tin và Yêu là đôi mắt giúp ta nhìn thấy những sự thực siêu nhiên. Người không tin và không yêu sẽ không nhìn thấy như lời Chúa Giêsu nói trong Tin Mừng hôm nay: “Thầy ban cho anh em Thần chân lý, Đấng mà thế gian không thể đón nhận được vì thế gian không thấy và không biết Người”. Cũng như kiến thức ý khoa là khả năng chuyên môn giúp người bác sĩ nhận dạng được các loại vi trùng, định đúng được bệnh trạng của bệnh nhân; hoặc như kiến thức về thảo mộc củanhà thực vật học giúp họ nhận dạng phân loại và biết rõ đặc tính của những loải cây cỏ, tin và yêu cũng phải là khả năng chuyên môn giúp người môn đệ Chúa nhận ra những sự thực siêu nhiên, nhìn thấy, nhận biết và đón nhận Thiên Chúa.
Tin và Yêu, như vậy, là con đường dẫn đưa ta tới gặp gỡ Thiên Chúa.
Với đức tin và tình yêu, người môn đệ Chúa không còn thấy Thiên Chúa là một Đấng xa vời, mơ hồ, nhưng là một Đấng gần gũi, rất thật. Với đức tin và tình yêu ta sẽ gặp được Đức Chúa Cha, Đấng thương yêu, luôn chăm sóc cho ta, luôn mời gọi ta, luôn muốn ấp ủ ta, luôn muốn tha thứ cho ta.
Với đức tin và tình yêu, ta sẽ gặp được Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, trong Sách Thánh, trong những lời giáo huấn của Giáo hội và trong những anh em sống quanh ta.
Với đức tin và tình yêu, ta sẽ cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Thánh Thần khi Người đốt lên trong tim ta ngọn lửa yêu mến, khi Người thúc đẩy ta dẫn thân phục vụ, khi Người soi sáng cho ta những sáng kiến trong những hoạt động mới.
Nhưng quan trọng nhất là: Tin và Yêu là hai cánh cửa mở vào sự sống thần linh. Tin và Yêu không chỉ cho ta nhìn thấy Chúa, gặp gỡ Chúa mà còn cho ta được tham dự vào sự sống của Chúa. Sự sống đó là hiệp thông, như lời Chúa Giêsu nói: “Ai có và giữ các giới răn của Thầy, người ấy là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến”.
Chúa Cha ở trong Chúa Con và như Chúa Con ở trong Chúa Cha, ta sẽ được ở trong sự sống mầu nhiệm của Thiên Chúa Ba Ngôi và thật kỳ diệu, Ba Ngôi đến ở trong ta. Ở trong người nào tức là được người ấy yêu thương. Hiệp thông trong yêu thương là một thái độ cởi mở: mở tâm hồn ra để cho đi và nhận lãnh sự sống. Nhờ Tin và Yêu, ta mở lòng ra đón nhận Thiên Chúa, sự sống mới, sự sống sung mãn, sự sống vĩnh cửu.
Đúng như lời Chúa Giêsu nói: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi”. Ai nhắm mắt đức tin, sẽ không nhìn thấy Chúa, sẽ trở thành mồ côi. Ai đóng cửa tình yêu, sẽ không gặp được Chúa, sẽ sống trong cô độc. Nhưng người môn đệ Chúa, nhờ có đức tin và tình yêu sẽ gặp được Thiên Chúa Ba Ngôi. Và như thế việc ta đi của Chúa Giêsu không những không thiệt hại mà còn ích lợi cho ta. Sự ra đi của Người dẫn ta đi đến kết hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi trong sự sung mãn, sự sống dồi dào.
Nhưng để đạt tới điều Chúa Giêsu đã hứa, ta hãy nhớ lại một lần nữa lời Người căn dặn: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em hãy giữ các giới răn của Thầy”. Đức tin được thể hiện bằng tình yêu. Tình yêu được chứng minh qua hành động. Đó là chìa khoá của đời sống Kitô hữu.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Theo bạn, tình yêu mến Chúa là những tình cảm bồng bột hay những việc làm cụ thể theo lý trí?
2- Có bao giờ bạn cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời sống không?
3- Bạn có cố gắng làm chứng cho người khác về sự hiện diện của Thiên Chúa qua đời sống cầu nguyện và bác ái của bạn không?
5. Yêu thương và vâng phục
Tin Mừng hôm nay ghi lại những lời Chúa Giêsu giáo huấn cho các môn đệ trong bữa tiệc ly. Trong những giờ phút sau cùng này, Ngài đã nói với các môn đệ những lời căn bản nhất. Những điều ấy như là những chỉ dẫn thiết yếu cho các môn đệ trong tương lai, và đó cũng chính là những gì Ngài muốn họ sống trong khi không có Ngài hiện diện bên cạnh cách hữu hình. Một trong những điều ấy là: "nếu các con yêu mến Thầy, các con hãy giữ các giới răn của Thầy".
Chúa không nói với chúng ta đến việc tuân giữ các giới răn một cách lý thuyết mà nói bằng chính cuộc sống của Ngài. Điều gì thật sự có sức ảnh hưởng mạnh mẽ và chứng tỏ chúng ta là Kitô hữu? Không thể gọi chúng ta là môn đệ của Chúa Giêsu cách đúng nghĩa, nếu chúng ta không lắng nghe và cố gắng thực hiện lời của Ngài. Chúng ta càng không là Kitô hữu nếu chúng ta không nỗ lực sống những gì Chúa Giêsu dạy.
Nhưng chúng ta cần phải xác tín một điều. Chúng ta không phải giữ giới răn của Chúa để được Ngài yêu mến, mà chúng ta giữ giới răn Chúa bởi gì Ngài đã yêu mến ta trước. Trong suốt bữa tiệc ly, Chúa Giêsu không ngừng nhắc nhở: "hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương". Điều đó cho chúng ta thấy, chính Ngài đã yêu thương chúng ta trước, và yêu thương chúng ta cách nhưng không, vô điều kiện.
Một sự thật quan trọng chúng ta cần phải nhận ra là chúng ta đã được yêu thương cách nhưng không. Nhiều khi chính chúng ta cũng không tin rằng tại sao chúng ta lại được Chúa yêu thương như thế. Vì chúng thường nghĩ, hay để ý: Chúa chỉ yêu thương chúng ta khi chúng ta tốt. Nhưng thật ra Chúa không thương yêu chúng ta vì chúng ta tốt lành, thánh thiện nhưng bởi vì Chúa tốt lành, thánh thiện. Vì ngay cả sự hiện hữu của chúng ta trên đời đã là dấu chỉ tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Chính tình yêu nhưng không mà Thiên Chúa dành cho chúng ta là Tin Mừng cho nhân loại. Bổn phận của chúng ta là nỗ lực, cố gắng đáp lại tình yêu ấy.
Chúa Giêsu biết rằng, Chúa Cha đã yêu thương Ngài và Ngài đã đáp lại bằng cách yêu thương Chúa Cha. Và Ngài đã chứng tỏ tình yêu đối với Chúa Cha qua thái độ vâng phục, thậm chí vâng phục đến nỗi dâng hiến cả cuộc sống mình. Cũng chính nhờ sự vâng phục mà chúng ta chứng tỏ tình yêu của mình đối với Chúa Giêsu. Như thế có ý nghĩa là gì? Nghĩa là chúng ta phải biết lắng nghe lời Ngài và mang ra thực hành trong cuộc sống. Yêu thương là vâng phục, và vâng phục là yêu thương.
Có nhiều người chỉ biết tuyên bố yêu Chúa Giêsu trong lời nói, nhưng lại chối bỏ Ngài trong đời sống họ. Tình yêu thật sự phải được minh chứng bằng việc làm cụ thể. Người ta chỉ biết chúng ta qua hành động chứ không phải bằng những lời nói ngoài môi miệng.
Nhưng thật sự không phải dễ sống như người môn đệ của Chúa Giêsu trong thế giới hiện đại hôm nay. Đó cũng chính là lý do mà Chúa Giêsu đã ban Thánh Thần cho chúng ta. Để khi chúng ta yếu đuối, chúng ta cầu nguyện với Ngài. Chính Thánh Thần sẽ an ủi khi ta buồn, soi sáng lúc ta lâm vào tăm tối và làm cho chúng ta trở nên mạnh mẽ, dũng cảm khi chúng ta yếu đuối.
Danh từ mà Chúa Giêsu gọi Thánh Thần là "Đấng An Ủi", Ngài chính là Đấng nâng đỡ, bào chữa khi chúng ta gặp thử thách gian nan. Chính Ngài đã ban sức mạnh để nâng đỡ các môn đệ trong lúc gặp thử thách. Cũng chính nhờ Người mà các môn đệ Chúa Giêsu có thể đón nhận những đau khổ như thập giá phát sinh ơn cứu độ. Như thánh Phêrô tông đồ nhắc nhỡ trong bài đọc II: "thà chịu đau khổ vì làm những việc lành còn hơn là làm điều dữ". Chính khi thi hành điều thiện mà gặp đau khổ thì đời sống đức tin chúng ta sẽ lớn lên và mạnh mẽ hơn. Bên cạnh đó, chúng ta còn có một gương mẫu là Đức Kitô, Đấng dù vô tội nhưng vẫn chịu đau khỗ và chết vì tội lỗi chúng ta.
Các tông đồ biết rằng chính Chúa Giêsu yêu thương họ. Và chúng ta biết Ngài cũng yêu thương chúng ta. Không có một tình yêu nào lại mang bóng dáng của sự lầm lỗi, vì đã là tình yêu thì không phải là tội lỗi. Bạn chỉ có thể cảm nhận điều này ngay trong trái tim bạn. Nó như một ngọn lửa sưởi ấm tâm hồn bạn, thêm sức mạnh để bạn có thể vượt qua những giây phút tăm tối trong cuộc đời. Tình yêu làm cho chúng ta gắn bó, hiệp thông mật thiết với Thiên Chúa và nối kết chúng ta lại với nhau. Đời sống người Kitô hữu chỉ có thể lớn lên khi được nuôi dưỡng trong môi trường, bầu khí yêu thương, thánh thiện.
"Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em". Điều đó đã thâu tóm lại tất cả những gì lề luật dạy.
6. Anh em cũng sẽ sống
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Marina Picasso là cháu của họa sĩ nổi tiếng Pablo Picasso. Từ năm 73-75, bà phải chịu nhiều cái tang lớn: ông nội mất, anh ruột tự tử, cha đột ngột qua đời. Đây thật là những mất mát không sao bù đắp, dù bà năm trong tay một gia sản khổng lồ.
Năm 1990, bà nhận các em bé Việt Nam làm con nuôi, và giúp cho các trẻ mồ côi được có nơi ăn học. Từ lúc ấy, bà thấy một sự thay đổi nơi nội tâm: “Nhờ giúp đỡ con em của nước này mà tôi đã tìm lại được chính mình. Giờ đây tôi cảm thấy mình như sống lại, và tôi muốn phân phát sự sống đó cho các em.”
Hẳn có những Kitô hữu đã trải qua kinh nghiệm của Marina, kinh nghiệm thấy mình được sống lại nhờ biết ra khỏi nỗi đau của mình để cúi xuống trên nỗi đau của người khác. Kinh nghiệm tìm lại được chính mình trong bình an, khi không còn bận tâm lo cho mình nữa, kinh nghiệm thấy sự sống được nhân lên gấp bội khi được đem chia sẻ tận tình.
Kitô giáo là tôn giáo của Đấng đã sống lại, Đấng đang sống sự sống tràn trề của Thiên Chúa.
Đức Giêsu phục sinh không chỉ hiện ra một đôi lần, Ngài muốn ở mãi bên chúng ta cho đến tận thế. Một sự hiện diện hai chiều, thâm sâu và mới mẻ: “Anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em” (c.20) Một sự hiện diện đem lại sức sống dồi dào: “Vì Thầy sống và anh em cũng sẽ sống” (c.19).
Kitô hữu tự bản chất là người đã được phục sinh, nhờ thông hiệp với Đấng đang sống là Đức Kitô. “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).
Mùa Phục sinh nhắc ta nhìn lại sự sống nơi mình.
Lắm khi tôi sống èo uột, chỉ vì không dám yêu thương. Bắt đầu yêu thương là bắt đầu thấy Chúa tỏ mình, thấy sự sống Chúa bùng lên mạnh mẽ.
Thế giới hôm nay cố làm cho cuộc sống được bảo đảm hơn, tiện nghi hơn và kéo dài hơn. Nhưng thế giới hôm nay vẫn đầy nguy hiểm. Mạng sống bi đe dọa bởi chiến tranh, tội ác, đói nghèo... Cuộc sống bị héo úa vì không tìm thấy ý nghĩa. Thế giới đói khát sự sống đích thực.
Nếu chúng ta thật sự là người đang sống trong Đức Kitô, chúng ta có thể trao cho thế giới sự sống đó qua việc phục vụ trong yêu thương.
Gợi Ý Chia Sẻ
1. Để cảm nghiệm được Thiên Chúa, cần phải can đảm sống theo lời Ngài dạy, dù phải từ bỏ và chịu thua thiệt trước mắt. Có khi nào bạn thấy Chúa thật gần gũi, vì bạn đã dám sống cho tha nhân không?
2. Khi tinh thần bạn sa sút vì những nỗi đau riêng tư, bạn thường làm gì để ra khỏisự sa sút đó?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
Xin ban cho con sự sống của Chúa, sự sống làm đời con mãi mãi xanh tươi.
Xin ban cho con bình an của Chúa, bình an làm con vững tâm giữa sóng gió cuộc đời.
Xin ban cho con niềm vui của Chúa, niềm vui làm khuôn mặt con luôn tươi tắn.
Xin ban cho con hy vọng của Chúa, hy vọng làm con lại hăng hái lên đường.
Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa, Thánh Thần mỗi ngày làm mới lại đời con.
7. Giữ lời Chúa truyền
Yêu và được yêu là khát vọng thiết yếu của con người. Một ai đó đã từng nói: "không ai có thể sống mà không yêu". Như thế sống yêu thương là yếu tố hàng đầu và cần thiết của con người. Thầy Giêsu muốn các môn đệ yêu mến Thầy. yêu mến Thầy thì phải giữ Lời Thầy, thực hiện theo ý muốn của Thầy. Mà ý muốn của Thầy là làm theo Đấng đã sai Thầy. Người Kitô hữu được mời gọi giữ Lời Chúa Kitô truyền, thực thi ý muốn của Người.
Thật thế, Thiên Chúa là tình yêu. Đức Giêsu Kitô là hình ảnh hữu hình của tình yêu ấy. Tình yêu đã thúc bách Đức Giêsu Kitô mang thân phận con người, sống như con người và chết tủi nhục vì con người nhăm mang lại cho con người sự sống và tình yêu cứu độ như Thiên Chúa đã dựng nên thuở ban đầu.
Con người được dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa, sống cho và sống vì Thiên Chúa. Con người hiện hữu trong vũ trụ do Thiên Chúa yêu thương và được mời gọi để sống yêu thương cho Thiên Chúa tình yêu. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết sức lực, hết linh hồn và hết trí khôn và cũng yêu tha nhân như chính mình là điều đẹp lòng Thiên Chúa nhất. Đó là giới răn quan trọng nhất. Yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân là bổn phận của con người, đặc biệt nó làm nên yếu tính của người Kitô hữu, những người tin và bước theo Chúa Giêsu trên con đường sống đạo. Giữ lời Chúa Kitô nghĩa là yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân phải là kim chỉ nam cho người Kitô hữu. Đó còn phải là lẽ sống, là linh hồn của mọi hoạt động của con người. Yêu mến Thiên Chúa là tìm được nguồn sống đích thực. Yêu thương tha nhân chính là sống giây phút hạnh phúc ở thì hiện tại. Và như thế, giữ Chúa truyền là thướt đo lòng mến của người môn đệ, là dấu chỉ nhận biết môn đệ đích thực của Thầy Giêsu.
Khi người ta đã hết lòng yêu thương ai thì họ sẽ sống như chính mình đang sống với chính người mình yêu. Dù cho người được yêu vắng mặt nhưng khuôn mặt, lời nói, cử chỉ, ước muốn của người yêu vẫn luôn hiện diện canh cánh bên lòng người yêu. Từng cử chỉ, thái độ và ước muốn của lý trí, ý chí và con tim cũng được thể hiện rõ nét trong người yêu. Như thế, tình yêu không chỉ diễn tả bằng việc thấy, nghe, biết mà còn là hiểu bằng con tim và còn là thể hiện bằng những hành động cụ thể trong đời sống của mình. Do đó, dù có "xa mặt nhưng không thể cách lòng". Dù có xa cách thể lý nhưng vẫn hiện diện trong sự gần gũi tấm lòng và của toàn diện con người đang yêu bằng việc giữ lời của người yêu muốn.
Con người được hiện hữu vì yêu thương nên tình yêu là động lực, là ánh sáng chỉ đường, là phương thế để con người thực thi sự yêu thương ấy. Con người còn có có bản chỉ đường là tiếng nói lương tâm yêu mến Chân, Thiện, Mỹ hay chính lương tâm làm lành lánh dữ, lương tâm sống bác ái vô vị lợi. Hơn nữa, người Kitô hữu còn có tiếng nói của Lời Chúa, giáo huấn của Giáo Hội, giới răn của Thiên Chúa... để làm tiêu chuẩn, để con người có thể dựa vào đó mà kiểm điểm mỗi khi sai lệch phương hướng và là con đường để tiến bước trong an bình theo Chúa Kitô.
Chính vì muốn thực thi Lời Chúa, giữ Lời Chúa truyền, muốn sống yêu thương mà biết bao người trẻ hiến thân cho nhau để sống gương mẫu trong bậc gia đình, để làm tăng thêm người yêu thương trong Đạo Thánh Chúa. Cũng chính vì muốn giữ lời Chúa truyền mà hằng ngày, hằng giờ có biết bao tâm hồn của người trẻ thiện chí lắng nghe tiếng gọi để đáp lại tình yêu tận hiến cho Chúa Giêsu yêu dấu, họ đã tự nguyện tham gia trong bậc sống tu trì, giáo sĩ và tu sĩ... và còn nhiều tâm hồn thành tâm thiện chí khác đang sống an bình trong yêu thương tuân giữ luật Chúa truyền dù phải vất vả sống cho tình yêu mà mình được mời gọi, sống yêu mến Thiên Chúa và sống yêu thương, tha thứ, chia sẻ bác ái cho than nhân.
Như thế, giữ Lời Chúa truyền là điều thiết yếu đối với người Kitô hữu chúng ta. Yêu thương giúp người ta nhận biết ta là môn đệ Thầy Giêsu. Yêu thương là cánh cửa dẫn đến sự sống: sống cho, sống vì và sống với, sự sống ấy chính là sự sống Thiên Đàng, là hạnh phúc và an bình mà con người đã, đang và sẽ đạt tới.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết giữ giới răn Chúa truyền là thực thi điều Chúa muốn đó là sống yêu thương như Chúa đã làm gương và mời gọi. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương tha nhân như chính mình. Amen.
8. Giữ giới răn vì yêu mến
Làm bất cứ điều gì nếu ta thực hiện với cả tấm lòng và nhất là khi ta đặt vào đó tình yêu thì cho dù vất vả cách mấy cũng trở nên nhẹ nhàng, thoải mái. Hơn thế, hiệu quả đem lại có giá trị cao và phi thường. Một anh thanh niên và một cô thiếu nữ thật lòng yêu thương nhau sẽ tự cam kết sống với nhau cho đến răng long đầu bạc. Mặc dù trước cam kết đó sẽ là không biết bao nhiêu vất vả, khó khăn. Cha mẹ dầm sương dãi nắng, đổ mồ hôi sôi nước mắt hay bán mặt cho đất bán lưng cho trời chỉ vì yêu thương lo cho con cái mình. Cho dù điều đó không ai buộc họ phải làm. Cũng thế, hôm nay Chúa Giêsu mời gọi ta tuân giữ giới răn của Người vì yêu mến.
Mở đầu đoạn Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu nói: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ tuân giữ các điều răn của Thầy” (Ga, 14, 15). Thông thường khi được kêu gọi tuân giữ điều gì ta hay tự hỏi nó sẽ đem lại lợi ích gì cho tôi. Chẳng hạn khi được kêu gọi đội nón bảo hiểm khi tham gia giao thông thì tôi được an toàn hơn nếu lỡ có xảy ra tai nạn. Tôi được kêu gọi ăn chín uống sôi, ăn sạch uống sạch để bảo vệ khỏi mắc bệnh tiêu chảy cấp nguy hiểm đến tính mạng... Do đó, có lẽ chúng ta cũng sẽ tự hỏi tuân giữ giới răn Chúa tôi sẽ được gì. Chắc chắn có lợi ích nên Người mới mời gọi ta. “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi” (Ga 14, 16); “Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy đến cùng anh em” (Ga 14, 18) và “...sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy." (Ga 14, 21). Thật là những lợi ích hết sức thiêng liêng quý giá. Chỉ trong cái nhìn đức tin chúng ta mới có thể cảm nhận được những lợi ích đó.
Hơn thế nữa, tuân giữ những giới răn của Chúa vì để đáp đền tình yêu Thiên Chúa sẽ lý do cao cả và quý nhất. Điều răn quan trọng nhất mà Chúa Giêsu đã có lần nói chính là mến Chúa yêu người (Mc 12, 24 - 38)
Làm sao ta có thể mến Chúa yêu người nếu như ta chưa thật sự cảm nhận được tình yêu mà Chúa dành cho mình. Được sinh ra làm người và được làm con Chúa đó là ơn ban nhưng không mà Thiên Chúa đã ban cho ta. Vì thương mà Thiên Chúa đã chẳng tiếc gì kể cả Con Một của Ngài. Bấy nhiêu cũng quá đủ để ta thấy Thiên Chúa yêu thương ta như thế nào. Đặc biệt, những ngày trong mùa Phục sinh này càng làm cho tưởng nhớ tình thương Chúa dành cho ta. Chúa Giêsu đã được phục sinh vinh quang sau khi đi trọn con đường trần thế này. Đó là điều bảo đảm nhất để ta thêm nghị lực mà tuân giữ giới răn của Người.
Xin bình an và tình yêu của Chúa Giêsu phục sinh cho ta tiếp tục cảm nhận được nhiều hơn tình yêu bao la Chúa dành cho mình. Để rồi vì đền đáp tình yêu Chúa mà ta tuân giữ giới răn mà Người truyền dạy.
9. Thuộc về Chúa
Kitô giáo là tôn giáo của Đấng đã sống lại, Đấng đang sống sự sống tràn trề của Thiên Chúa. Có lẽ, hơn ai hết, Thánh Phaolô đã cảm nếm hương vị tuyệt vời về biến cố sống lại của Đức Giêsu Kitô. Thánh Phaolô đã bị cuốn hút bởi Đấng Phục sinh sau biến cố lạ lùng xảy ra với ông trên con đường Đamas. Rồi sau khi được Đấng Phục sinh chinh phục, ông cảm thấy được Ngài là tất cả của ông. Không còn gì đáng mơ ước hơn nữa nếu đã có được Ngài ở bên và được thuộc về Ngài. Thánh Phaolô đã dùng bao nhiêu là từ ngữ và lời nói phát xuất từ con tim của Ngài để nói lên hạnh phúc được thuộc về Chúa: “Không có gì có thể tách tôi ra khỏi lòng yêu mến của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô”. Đó là tâm tình và sức sống của một kẻ cảm nghiệm mình được yêu và đang yêu.
Tất cả niềm hạnh phúc và sức mạnh dấn thân của Phaolô được khởi đi từ cảm nghiệm Đức Giêsu Kitô đang sống và đang đồng hành với ông trong cuộc đời này. Thánh Phaolô đã thốt lên: “ Nếu Đức Ki-tô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng... Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Ki-tô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người. Nhưng không phải thế! Đức Ki-tô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu” (1Cr 15,14.19-20), để từ đây, ai thuộc về Đức Giêsu Kitô là thuộc về thế giới của sự sống, của kẻ sống và sống vĩnh cửu.
Trong cuộc đời này, có những khi ta cảm tưởng mình như đang bước đi trong bóng đêm dày đặc, đang rơi xuống vực thẳm đen tối khi bao nhiêu những dự định hay những mối quan hệ tình cảm bỗng nhiên bị đổ vỡ và tan biến. Đó phải chăng là một cuộc chết đi cho những dự tính nông cạn, thiển cận của con người được mời gọi tham dự vào cuộc sống mới, cuộc sống của Đấng Phục sinh.
Marian Picasso là cháu của hoạ sĩ Picasso. Từ năm 1973 đến năm 1975, bà phải chịu nhiều cái tang lớn: ông nội mất, anh ruột tự tử, cha của bà đột ngột qua đời. Đây thật là những mất mát không sao bù đắp được, dù bà nắm trong tay một gia sản khổng lồ. Năm 1990, bà đến Việt Nam và nhận các bé mồ côi hay bị bỏ rơi về làm con nuôi và giúp các trẻ em có hoàn cảnh khó khăn được nơi ăn học. Từ lúc ấy, bà cảm nhận được một sự thay đổi nơi nội tâm “nhờ giúp đỡ những trẻ em này, tôi tìm lại được chính mình. Giờ đây, tôi cảm thấy mình như sống lại, và tôi muốn phân phát sự sống đó cho các em”.
Hẳn đã có những người Kitô hữu đã trải qua kinh nghiệm của Marina, kinh nghiệm thấy mình được sống lại nhờ biết ra khỏi nổi đau của mình để chia sẻ niềm hạnh phúc cho những ai đang cần đến chúng ta. Kinh nghiệm tìm lại được chính mình bình an khi không còn bận tâm lo cho mình nữa. Kinh nghiệm thấy sự sống được nhân lên gấp bội khi biết chia sẻ tận tình.
Thuộc về Chúa Giêsu Kitô là sống theo gương mẫu của Ngài và sống như Ngài đã sống. “hy sinh mạng sống của mình vì người mình yêu”. Sống thật là biết cho đi. Khi biết trao ban tận tình là thuộc về Đấng hằng sống. Đức Giêsu Phục sinh không chỉ hiện ra một vài lần nhưng Ngài muốn ở mãi bên chúng ta cho đến tận thế, một sự hiện diện 2 chiều, mới mẻ và thâm sâu “anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em”, một sự hiện diện tràn đầy sức sống “Thầy sống và anh em cũng sống”. Nhờ qua Bí tích Rửa tội, người Kitô hữu tự bản chất đã được Phục sinh và sự Phục sinh ấy không ngừng lớn mạnh nhờ thông hiệp với Đấng đang sống là Đức Giêsu Kitô.
Mùa Phục sinh là mùa nhắc chúng ta nhìn lại sự sống nơi mình. Lắm khi chúng ta sống èo uột chỉ vì không dám yêu thương, không dám hy sinh và không dám cho đi. Bắt đầu ra khỏi chính mình để sống yêu thương là bắt đầu thấy Chúa tỏ mình, thấy sự sống của Thiên Chúa bùng lên mạnh mẽ nơi chúng ta. Thế giới hôm nay đang cố làm cho cuộc sống được đảm bảo hơn, tiện nghi hơn và kéo dài hơn, nhưng con người vẫn sống trong lo sợ, nguy hiểm và may rủi rất cao do chiến tranh, khủng bố, tội ác, đói nghèo... cuộc sống bị héo úa vì không tìm thấy ý nghĩa. Thế giới đang đói khát sự sống đích thực. Nếu chúng ta thật sự là người đang sống trong Đức Giêsu Kitô, chúng ta có thể trao ban cho thế giới sự sống đó qua việc phục vụ trong tình yêu.
10. Đời không đơn côi
Trước khi bước vào con đường tử nạn và phục sinh vinh quang, Chúa Giêsu đã để lại di huấn cho các tông đồ: Ngài ra đi, nhưng Ngài không bỏ các ông mồ côi (x. Ga 14,18). Ngài cũng đảm bảo với các ông, trước khi về trời, khi sai các ông đi loan báo tin mừng cứu độ cho muôn dân: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Đồng thời, để củng cố niềm tin của các ông, Chúa Giêsu còn hứa ban cho các ông một Đấng Bảo Trợ khác, đó là Chúa Thánh Thần.
Thật ra chính Chúa Giêsu cũng là Đấng Bàu Chữa cho tội nhân bên cạnh Chúa Cha (x.1ga 2,1), nhưng khi Ngài phục sinh vinh quang, không còn hiện diện hữu hình bên cạnh các tông đồ nữa, thì Thánh Thần được Chúa Cha sai đến giúp chúng ta sống tâm tình nghĩa tử, mà chính Chúa Giêsu, qua công cuộc nhập thể của người đã mang lại thân phận ấy cho chúng ta. Là Thần Khí Sự Thật (x.ga 14,17), Chúa Thánh Thần giúp chúng ta hiểu biết sâu sắc hơn về mầu nhiệm Chúa Giêsu, cử chỉ, lời nói, cách sống của ngài, để giúp chúng ta can đảm sống đức tin trong hoàn cảnh hiện tại của mỗi người. như vậy, dù chỉ có một Đấng Trung Gian duy nhất là Chúa Giêsu Kitô (1tm 2,5), nhưng có hai Đấng Bàu Chữa: Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần.
Chúa Giêsu về trời, nhưng không bỏ các tông đồ mồ côi. Ngài đã xa cách các ông về mặt thể lý, khiến các ông không còn sờ đụng, xem thấy hoặc nghe tiếng nói từ chính miệng Ngài nữa, nhưng thực ra Ngài vẫn hiện diện bên các ông, trong các ông. Bởi vì thân xác Chúa phục sinh đã được biến đổi trở nên thiêng liêng, không còn bị lệ thuộc bởi vật chất, không gian và thời gian, nên giờ đây, Ngài hiện diện một cách sâu xa hơn, gần gủi, gắn bó hơn trong Hội Thánh, nơi nhà tạm, trong tâm hồn mọi tín hữu có ơn thánh hoá và ở khắp mọi nơi.
Là Kitô hữu, chúng ta có Chúa Giêsu trong tâm hồn. mà ở đâu có Chúa Giêsu thì ở đó có Chúa Ba Ngôi và chính Chúa Thánh Thần, Đấng Bàu Chữa sẽ chứng thực, soi sáng, làm cho chúng ta nhận ra sự kết hiệp mật thiết nầy. Như vậy, đường đời các tông đồ và chúng ta, những kẻ tin vào Chúa Giêsu Kitô đâu có đơn côi!
Chúa Giêsu vừa là Chúa Cứu Độ, vừa là Thầy, vừa là bạn đồng hành của những kẻ tin vào người. được Chúa yêu thương ban ơn cứu rỗi, được Thầy dẫn dắt trên nẻo đường đời gian nan bất trắc, được có bạn đường chung thủy không bao giờ bỏ rơi chúng ta, ngay cả lúc chết… như thế còn hạnh phúc nào lớn hơn cho chúng ta! đời Kitô hữu chính là sống trong niềm hy vọng, phó thác, buông mình vào tay Thiên Chúa tình thương, không chỉ một lần, mà là sự chọn lựa hằng ngày của mỗi người.
Đâu đó vang lên bài thánh ca: “Đường đi có Chúa gian nguy con có lo chi…”
11. Trở nên hình ảnh Chúa Giêsu
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Ignatiô Trần Ngà)
Nhiều lần Chúa Giêsu nói về Chúa Cha khiến các môn đệ đâm ra tò mò. Chúa Cha là Ai? Ngài ở đâu? Ngài là Đấng thế nào?
Thế nên Philípphê mới đề nghị với Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện."
Dùng ngôn ngữ vốn rất hạn hẹp của con người để diễn tả mầu nhiệm cao vời về Chúa Cha thì khác chi lấy gang tay đo chín tầng trời. Vì vậy, thay vì dùng lời để diễn giải, Chúa Giêsu dùng phương pháp trực quan. Ngài chỉ cho Phi-líp-phê cũng như các môn đệ xem chân dung, xem hình ảnh đích thực của Thiên Chúa Cha. Chân dung đó, hình ảnh đó chính là Ngài: "Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha".
Tiếp theo, Chúa Giêsu cũng tỏ cho các môn đệ biết giữa Ngài và Chúa Cha có một mối hiệp thông hết sức mật thiết. Những lời Chúa Giêsu nói chính là những lời của Chúa Cha được phát ra qua môi miệng Chúa Giêsu: "Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. (Ga 14,10). Những gì Chúa Giêsu thực hiện trong cuộc đời đều cũng là những hành động của Chúa Cha...
Thế là Chúa Cha tự tỏ mình qua Chúa Giêsu. Nhìn vào Chúa Giêsu, nhân loại sẽ biết được Thiên Chúa Cha.
* * *
Thánh Athanasiô đã diễn tả chân lý nầy như sau: "Chúa Cha được bày tỏ qua Chúa Con và Chúa Con được bày tỏ qua Giáo Hội." Nói khác đi, Chúa Con là hình ảnh trung thực của Chúa Cha, còn Giáo Hội là hình ảnh trung thực của Chúa Con, và chúng ta, vì là thành phần của Giáo Hội, nên cũng phải là hình ảnh trung thực của Chúa Giêsu.
Theo nhật báo Chứng Nhân kitô hữu (Témoignage Chrétien), vào năm 1941 có một vị linh mục bị Đức Quốc Xã giam trong trại tập trung dành cho người gốc Do thái. Như bao tù nhân khác, ngài cũng bị hành hạ và ngược đãi thậm tệ. Tuy nhiên ngài vẫn vui vẻ và luôn sẵn sàng giúp đỡ anh em đồng cảnh ngộ đang lâm vào tình trạng khủng hoảng và tuyệt vọng.
Trong cảnh tù đày đói khát, một vụn bánh còn quý hơn vàng, vậy mà ngài dám chia sớt phần ăn ít ỏi của mình cho những bạn tù yếu sức hơn.
Những lúc trời rét buốt xương, tấm áo len được xem là kho tàng vô giá, thế mà có lần ngài tặng không chiếc áo len đang mặc cho bạn tù đang lâm trọng bệnh nằm run cầm cập trong xó nhà.
Ngài là nhịp cầu yêu thương giữa những kẻ bất hoà, đem sự khích lệ tinh thần cho những tâm hồn sầu muộn... Ngài đã cứu được mấy bạn tù tuyệt vọng khỏi tự huỷ mình nhờ những khuyên lơn an ủi... Vì thế, các tù nhân trong trại rất yêu quý và xem ngài như người cha thứ hai. Họ đều gọi ngài cách thân thương là... Bố.
Trong trại tù còn có một thanh niên bụi đời, lớn lên nơi đầu đường xó chợ, căm hờn mọi người, không ngần ngại phạm bất kỳ tội ác nào.
Vị linh mục khả ái từng bước tiếp cận, trò chuyện, giúp đỡ, khuyên răn, và cuối cùng đã cảm hoá được chàng thanh niên chai đá và tưởng chừng như vô phương cứu chữa nầy. Ngài cũng mong ước dần dần dẫn dắt cậu về với đạo thánh Chúa.
Thế rồi, một hôm, có lệnh chuyển cha sang trại Ao-sơ-vích (Auschwitz), một trại tập trung mà chỉ mới nghe danh xưng, mọi trại viên đều phải kinh hoàng. Đó là lò hủy diệt con người bằng những hầm hơi ngạt và lò thiêu xác.
Trước khi chia tay với các bạn tù và đặc biệt với cậu thanh niên mới hoàn lương, ngài quyết định phải giới thiệu đôi nét về Chúa Giêsu cho cậu với hy vọng cậu sẽ trở thành người con Chúa.
Ngài vỗ vai cậu và ôn tồn nói "Này, con yêu của Bố, đã từ lâu Bố rất mong con nhận biết và trở thành môn đệ Chúa Giêsu."
Cậu thanh niên thưa lại: "Nhưng con chưa biết gì về Chúa Giêsu cả. Bố có thể kể sơ lược về Ngài cho con biết được không?"
Biết mình không còn thời gian để giới thiệu dông dài vì giờ chuyển trại sắp đến, vị linh mục già thinh lặng cúi đầu, cầu nguyện giây lát, rồi ngài ngẩng lên khiêm tốn đáp: "Chúa Giêsu mà Bố muốn cho con tin và yêu mến, Ngài giống như Bố đây!"
Bấy giờ cậu thanh niên nhìn thẳng vào mắt ngài cách trìu mến và chân thành đáp lại: "Nếu Chúa Giêsu mà giống Bố thì có thể một ngày nào đó, con sẽ tin và yêu mến Chúa Giêsu!"
Sau thế chiến thứ hai, người ta không còn gặp lại vị linh mục nầy nữa. Còn cậu thanh niên thì được sống sót qua các trại tập trung trở về với gia đình và đã thuật lại câu chuyện trên đây về một mục tử đã thực sự trở thành hình ảnh trung thực của Chúa Cứu Thế. Cũng chính nhờ hình ảnh Chúa Giêsu ngời sáng lên nơi con người và cuộc đời của vị mục tử tốt lành nầy, chàng thanh niên được cảm hoá và trở thành người con Chúa.
Lạy Chúa Giêsu,
Đã bao lần chúng con làm cho khuôn mặt Chúa trở méo mó, biến dạng và có thể là rất khó thương vì đời sống không đẹp của chúng con.
Xin cho chúng con biết nhìn lên Chúa như một khuôn mẫu tuyệt vời để đào tạo bản thân mình thành con người mới, có phẩm chất cao đẹp, có đạo đức và văn hoá để nhờ đó, chúng con trở thành hình ảnh trung thực về Chúa cho thế giới hôm nay.
12. Mối tình Châu Long
(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Chuyện cổ tích Việt Nam kể rằng: Có đôi bạn chí thân là Lưu Bình và Dương Lễ. Lưu Bình cùng họ với Lưu Linh. Ham chơi hơn ham học. Dòng dõi giầu sang phú quý nhưng lêu lổng ăn chơi trác táng. Dương Lễ nhà nghèo nhưng ham học. Lấy đèn sách làm thú vui. Nhờ chí thú học hành mà Dương Lễ đã đỗ trạng nguyên làm quan lớn triều đình. Ngược lại, Lưu Bình vì ham chơi nên công không thành và danh thì bại. Thân xác tiều tuỵ và đói khổ bần hàn. Dương Lễ nhìn cảnh bạn sa cơ thất thế nên động lòng trắc ẩn, dầu vậy, bên ngoài ông vẫn làm như không nhìn nhận tình bạn. Ông đã ngầm cho vợ là Châu Long giả dạng là người con gái đến giúp Lưu Bình làm lại cuộc đời. Châu Long đã theo lời chồng đến ở với Lưu Bình để động viên, giúp đỡ Lưu Bình. Nhờ đó mà Lưu Bình đã cố gắng ăn học và sau này cũng thành tài. Về phần Châu Long tuy sống với Lưu Bình nhưng lại không thuộc về Lưu Bình. Nàng vẫn thuộc về Dương Lễ. Nàng vẫn phải trung thành tuyệt đối với Dương Lễ. Cho dù Lưu Bình đã nhiều lần đề nghị nàng kết mối duyên tình, nhưng nàng đã khéo léo từ chối. Nàng khuyên nhủ Lưu Bình hãy chuyên chăm học hành để công thành danh toại mới tính đến chuyện trăm năm. Cho đến khi Lưu Bình thi đỗ mới vỡ lẽ ra: Châu Long chính là vợ của bạn được gởi đến để giúp đỡ mình.
Cuộc đời ky-tô hữu chúng ta cũng giống như nàng Châu Long. Sống giữa thế gian để canh tân đổi mới thế gian nhưng không thuộc về thế gian. Sống giữa thế gian nhưng phải trung thành với thầy Chí Thánh Giêsu. Không để lòng mình buông theo những cám dỗ tội lỗi, những thói đời điêu ngoa, những đam mê thấp hèn. Trong kinh lạy Cha, Chúa Giêsu cũng dạy chúng ta: Hãy xin cùng Chúa Cha gìn giữ chúng ta khỏi sa chước cám dỗ và gìn giữ chúng ta khỏi mọi sự dữ. Chúa không bảo chúng ta xin cùng Chúa Cha cất nhắc chúng ta ra khỏi thế gian, nhưng vẫn ở giữa thế gian, đồng thời vẫn phải trung tín với Chúa. Như Châu Long sống với Lưu Bình để hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Dương Lễ đã trao.
Có thể nói, Châu Long phải có một tình yêu thật cao cả, thật thuỷ chung lắm mới có thể sống với Lưu Bình mà vẫn giữ trọn giao ước với Dương Lễ. Người ky-tô hữu cũng phải có một tình yêu thật thâm sâu với Thiên Chúa mới có thể tuân giữ giới răn Chúa khi sống giữa thế gian đầy mời mọc hấp dẫn luôn lôi kéo con người bất trung, phản bội với Chúa. Vâng, chúng ta đang ở giữa một thế gian đầy gian tà, một thế gian sa đoạ, tội lỗi, người ky-tô hữu phải có một tình yêu sắt son trung kiên mới có thể giữ lòng thanh khiết như đoá sen "Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn".
Lời Chúa hôm nay cũng căn dặn chúng ta: "Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hãy giữ lời Thầy". Như thế, tuân giữ giới răn Chúa là dấu chỉ cho lòng yêu mến Chúa. Tuân giữ giới răn Chúa còn là dấu chỉ sự trung tín và chu toàn bổn phận của Chúa giữa thế gian. Không thể nói rằng mình yêu mến Chúa mà lại không dám thực thi lời Chúa. Nếu chúng ta nói yêu mến Chúa mà không dám sống đạo và giữ đạo, đó chỉ là sự giả tạo vì Chúa đã từng trách rằng: "Dân này chỉ thờ Ta bằng môi bằng miệng mà lòng chúng lại xa cách Ta". Tuân hứa giới răn Chúa không chỉ dừng lại trên môi miệng mà còn là một dấn thân để ý Chúa được thể diện trong cuộc đời chúng ta. Như Chúa Giêsu, ngài đã vâng phục thánh ý Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập tự. Người ky-tô hữu cũng phải vâng phục theo giáo huấn của Chúa, cho dẫu có phải chịu thiệt thòi, mất mát hay phải hy sinh cả tính mạng vì lòng yêu mến Chúa.
Nhìn vào thế gian hôm nay với bao nhiêu cám dỗ mời mọc, bao nhiêu cạm bẫy rình chờ, khiến đức tin của chúng ta đã nhiều lần chao đảo, muốn buông xuôi theo cám dỗ của tiền tài, danh vọng và thú vui thể xác. Giữa một thế giới có quá nhiều cám dỗ hưởng thụ, làm sao chúng ta có thể trung thành với Chúa? Có lẽ vì nguyên nhân đó, mà Chúa Giêsu đã hứa ở cùng chúng ta, đồng thời, ngài còn ban Thần Khí đến cho chúng ta. Ngài sẽ an ủi khi chúng ta gặp u buồn. Ngài sẽ soi sáng khi lòng trí chúng ta gặp hoang mang, lo lắng. Ngài sẽ nâng đỡ khi bước đường chúng ta gặp gian nan. Ngài sẽ ban sức mạnh khi chúng ta cần sức mạnh để vượt qua cám dỗ tội lỗi và làm lại cuộc đời. Ngài sẽ ban cho chúng ta những ơn cần thiết để chúng ta hoàn thành sứ mạng cuộc đời như một tôi tớ trung tín và khôn ngoan, vì Chúa đã hứa hằng: "Ơn Ta đủ cho người và quyền năng Ta hiển trị nơi sự yếu hèn của con".
Nguyện xin Chúa Kytô Phục sinh luôn đồng hành với chúng ta và chúc lành cho cuộc đời chúng ta luôn bình an để chúng ta mãi trung thành với Chúa. Amen.
13. Chúa Giêsu không để các đồ đệ mồ côi
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)
Bài Tin Mừng Chúa Nhật tuần trước (Ga 14, 1-12) nói về cộng đoàn các đồ đệ của Đức Giêsu trong hành trình đi đến cùng Chúa Cha. Bài Tin Mừng hôm nay (Ga 14, 15-21) sẽ nói về sự gắn bó nên một của cộng đoàn và của từng thành viên trong cộng đoàn với Thiên Chúa.
1. Thần Khí sự thật luôn ở giữa cộng đoàn (cc.15-17)
Sự hiện diện thể lý và thế tạm của Đức Giêsu giữa cộng đoàn các đồ đệ sẽ chấm dứt. Nhưng Thần Khí sự thật sẽ được Chúa Cha sai đến, để Người ở mãi với các đồ đệ, ở bên cạnh và ở trong các đồ đệ.
Trước khi nói đến việc Thần Khí sự thật đến, Đức Giêsu nói đến tình yêu của các đồ đệ đối với Người, và về sự cần thiết phải tuân giữ các điều răn của Người: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (c.15). Tình yêu đối với Đức Giêsu là điều kiện để giữ các điều răn của Người (nếu A thì B), và đàng khác, việc thực hiện những lệnh truyền của Đức Giêsu sẽ là bằng chứng của tình yêu đối với Người (c. 21: Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy).
Đây là lần đầu tiên Đức Giêsu nói về tình yêu của các đồ đệ đối với Người. Lòng tin vào Chúa Giêsu đạt đến đỉnh cao trong sự gắn bó thiết thân và đầy tình yêu mến đối với Người. Sự gắn bó ấy được thể hiện trong việc thực hiện những điều răn của Người. Ở 13,34 Đức Giêsu nói về điều răn mới của Người, và bây giờ, Người nói về “các điều răn” của Người (14,15.21; 15,10). Điều răn mới (“Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”) là mẫu gộp tóm tất cả mọi điều răn khác. Và tuân giữ các điều răn là đón nhận trong lòng tin toàn bộ Lời của Đức Giêsu và ký thác bản thân cho Người (x. 14, 23-24).
Với các đồ đệ yêu mến Đức Giêsu như thế, Người hứa: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật” (cc.16-17a). Đức Giêsu thực hiện vai trò trung gian bên Chúa Cha để Chúa Cha ban Thánh Thần cho những kẻ thuộc về Người, và cộng đoàn những kẻ thuộc về Đức Giêsu sẽ lãnh nhận được Thánh Thần nhờ Người.
Thánh Thần được gọi là Đấng Bảo Trợ. Người sẽ thực hiện một vai trò kép: trong cộng đoàn đồ đệ và trong cuộc đối diện của cộng đoàn với thế gian. Bên trong cộng đoàn, Người dạy dỗ các đồ đệ mọi điều và làm cho các đồ đệ nhớ lại mọi điều Đức Giêsu đã truyền dạy (14,26). Người dẫn họ đến sự thật toàn vẹn (16,13). Người làm chứng về Đức Giêsu trước các đồ đệ (15,26). Người tôn vinh Đức Giêsu và loan báo cho các đồ đệ những gì là của Đức Giêsu (16,14). Còn trong cuộc đối diện của cộng đoàn với thế gian, Người soi sáng hướng dẫn các đồ đệ và làm cho các đồ đệ biết rằng thế gian sai lầm (16,9-11).
Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ khác. Khi còn ở với các đồ đệ, Đức Giêsu gìn giữ, bảo vệ và dạy dỗ họ (17,12). Từ nay, Thánh Thần sẽ đảm nhận vai trò đó.
Người là Thần Khí sự thật. Có hai cách hiểu danh ngữ “Thần Khí sự thật” (to pneuma tês alêtheias): (1) Thần Khí là sự thật; và (2) Thần Khí thông ban sự thật. Cũng có thể hiểu theo nghĩa Thần Khí là sự thật, thông ban sự thật và làm cho sống trong sự thật. Trong tư cách là Thần Khí sự thật, Người cũng là Thần Khí giải thoát, vì sự thật đem đến sự giải thoát (8,31-32).
Thế gian không biết Thần Khí sự thật. Người là “Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người” (c.17b). Hạn từ “thế gian” ở đây được sử dụng theo nghĩa xấu, chỉ trật tự bất chính, đối nghịch với Thiên Chúa. Thế gian này tin tưởng vào sự dối trá và kềm hãm con người trong bóng tối của sự dối trá. Nó phục tùng ma quỷ. “Ngay từ đầu, ma quỷ đã là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thật, vì sự thật không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó nói theo bản tính của nó, bởi vì nó là kẻ nói dối, và là cha sự gian dối” (8,44). Vì vậy, thế gian không thể biết Thần Khí sự thật và càng không thể đón nhận Thần Khí sự thật.
“Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em” (c.17c). Các đồ đệ biết Thần Khí sự thật là nhờ sự hiện diện của Đức Giêsu, Đấng ở trong Chúa Cha (14,10). Một khi được Đức Giêsu sai đến (7,39), Thần Khí sẽ luôn ở giữa các đồ đệ và ở trong mỗi đồ đệ.
2. Chúa Giêsu trở lại và cộng đoàn được Chúa Cha yêu mến (cc.18-21)
Đứng trước sự ra đi của Đức Giêsu, các đồ đệ xao xuyến (x. 14,1). Vì thế, khi chuẩn bị cho các đồ đệ đối diện với thực tại là sự vắng mặt của Người, Đức Giêsu muốn giúp các ông tránh khỏi sự xao xuyến ấy. Người tuyên bố: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy đến cùng anh em. Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống” (cc.18-19).
Đức Giêsu sẽ không bỏ các đồ đệ mồ côi. Hạn từ “mồ côi” mang một sắc thái nghĩa khá đặc biệt trong Cựu Ước. Kẻ mồ côi được hình dung như là một dạng điển hình cho những người không có ai bảo vệ và luôn phải đối diện với nguy cơ bị đối xử một cách bất công (x. Is 1,17-23; 10,2; Gr 5,28; 7,6; 22,3; Ed 22,7; Hs 14,4). Đức Giêsu hứa rằng Người sẽ không để các đồ đệ rơi vào tình trạng bi đát đó.
Đức Giêsu đang đi đến cái chết. Nhưng sự vắng mặt của Người sẽ không phải là một tình trạng vĩnh viễn. Người hứa sẽ đến cùng các đồ đệ. Có lẽ nên hiểu cặp đối lập “thấy – không thấy” ở đây trong liên kết với cắp “tỏ mình ra – không tỏ mình ra” trong 14, 21-22. Thế gian sẽ không còn được thấy Đức Giêsu sau khi Người đi vào cõi chết là bởi vì Người không tỏ mình ra cho thế gian. Nhưng các đồ đệ sẽ được thấy Người, vì Người yêu mến họ và tỏ mình cho họ, như lời Người sẽ nói ở cuối bài Tin MỪng: “Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (c.21c).
Thực tại “thấy” Đức Giêsu lại được miêu tả như là sự hiệp thông sự sống với Người. “Anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống” (c.19). “Thấy” ở đây, như thế, là tham dự vào sự sống của chính Đức Giêsu.
“Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha của Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em” (c.20). Đó là kết quả của sự tình các độ đệ được tham dự vào sự sống của Đức Giêsu. Đó cũng chính là hiệu quả của việc Đức Giêsu ban Thần Khí cho các đồ đệ. Thần Khí, Đấng phát xuất từ Chúa Cha và làm chứng về Chúa Giêsu (15,26) sẽ làm cho các đồ đệ biết rằng Đức Giêsu và Chúa Cha là một (10,30), tức là biết rằng “Thầy ở trong Cha của Thầy”. Và các đồ đệ, trong Thần Khí sự thật, sẽ nên một với Đức Giêsu. Khi ấy, “anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em”.
Sự gắn bó nên một như thế với Chúa Giêsu chính là điều kiện để các đồ đệ tuân giữ các điều răn của Người, như đã được khẳng định từ câu đầu tiên của bài Tin Mừng: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (c.15). Và đàng khác, “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy” (c.21a). Tình yêu đối với Đức Giêsu hệ tại ở chỗ người đồ đệ sống chính những giá trị của Đức Giêsu và hành xử như chính Người đã hành xử.
Khi ấy, chính người đồ đệ sẽ được Chúa Cha yêu mến: “Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến” (c.21b). Chúa Cha yêu mến họ bằng chính tình yêu mà Ngài yêu mến Đức Giêsu. Trong lời cầu nguyện ở Ga 17, Đức Giêsu thưa với Chúa Cha như sau về các đồ đệ của Người: “Con ở trong họ và Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một; như vậy, thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu thương con” (17,23).
Gợi ý suy niệm và chia sẻ
1. Tình yêu đích thực đối với Đức Giêsu hệ tại ở sự thi hành ý muốn của Đức Giêsu. Ý muốn ấy được thể hiện trong Lời của Người và trong các điều răn của Người. Ai yêu mến Đức Giêsu thì thực hiện các lệnh truyền của Người (x. c.21). Và đàng khác, chính trong lòng yêu mến đối với Đức Giêsu mà chúng ta mới có thể sống chính những giá trị của Đức Giêsu và hành xử như chính Người đã hành xử (x.c.15). Hai yếu tố “yêu mến Đức Giêsu” và “tuân giữ lời Đức Giêsu” có mối tương quan biện chứng.
2. Thần Khí sự thật được Chúa Cha ban cho các đồ đệ yêu mến Chúa Giêsu. Người là sự thật và Người thông ban sự thật, giúp các đồ đệ sống trong sự thật của Chúa Giêsu. Người là Đấng Bảo Trợ, sẽ dạy dỗ, bảo vệ, hướng dẫn… các đồ đệ của Chúa Giêsu.
3. Chúa Giêsu hứa không để các đồ đệ mồ côi. Ở giữa thế gian, họ có thể sẽ phải hiện diện như là đối tượng của những cách hành xử bất công, bạo tàn. Nhưng Chúa Giêsu luôn đến với họ và cho họ được hiệp thông với chính sự sống thần linh của Người. Chính nhờ đức tin mà các đồ đệ sẽ cảm nghiệm sâu xa sự hiện diện của Chúa Kitô Phục Sinh và sẽ được hưởng sự sống của Người.
14. Bừng lên sự sống mới
(Trích “Như Thầy Đã Yêu” của Thiên Phúc)
Câu lạc bộ “bạn giúp bạn” hình thành tại Sài gòn năm 1996, do bác sĩ Nguyễn Bửu Hiền điều hành với 6 thành viên đều đã nhiễm HIV. Những “người bạn” này tự suy nghĩ: Cuộc đời mình dù đã tới dấu chấm hết, nhưng vẫn còn có thể có ích cho xã hội, họ đã dấn thân phục vụ bằng những việc đơn giản như an ủi, động viên và chăm sóc các bệnh nhân khác để chính họ cũng sẽ tìm thấy ý nghĩa cuộc đời.
Hiện nay, câu lạc bộ “bạn gíup bạn” đã có khoảng 500 thành viên tỏa mạng lưới ở khắp quận huyện. Ban điều hành gồm 12 người, trong đó có 3 người Công giáo, riêng nữ tu Trần Thị Kim Loan, dòng Đa minh Tam Hiệp là phó chủ nhiệm phụ trách hoạt động xã hội và tham vấn cho người nhiễm HIV. Trụ sở đặt tại 43 đường Lam Sơn, quận Bình Thạnh.
Chị Kim Loan kể lại một kỷ niệm về một nhạc sĩ mất vào tháng 8 năm 1998. Trước đó, anh đã xin được chịu Bí tích Thánh Tẩy với một Đức Tin mạnh mẽ: “Mỗi lần cùng với tôi ra vào bệnh viện Nhiệt Đới ở Chợ Quán, khi ngang qua tượng đài Đức Mẹ, anh thường đề nghị dừng lại cầu nguyện. Khi trước, mỗi đêm chơi nhạc, được bao nhiêu tiền anh đều phung phí hết. Bây giờ, anh đưa hết cho tôi vì muốn góp một phần khiêm tốn cho những bệnh nhân nghèo. Chính việc này đã giúp anh tìm thấy ý nghĩa cuộc đời còn lại, và anh đã ra đi bình an trong tình yêu của Chúa”.
***
Đứng trước căn bệnh thế kỷ đầy nghiệt ngã, người nhạc sĩ này vẫn mang một phong thái an nhiên tự tại, chính là vì anh đã biết thoát ra khỏi nỗi đau của mình để hôn lên nỗi đau của kẻ khác. Anh dường như đã chết đi mà nay được sống lại, chỉ vì anh không còn loay hoay với nỗi bận tâm về mình, nhưng lại biết chia sẻ với nỗi đau của những con người bất hạnh hơn anh.
Kitô hữu là người tin vào Đấng đã chết và đã sống lại. Đấng đang sống sự sống tràn đầy sung mãn của Thiên Chúa, và Người mời gọi các tín hữu hãy ở lại trong Người cũng là ở trong Cha: “Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em” (Ga 4,20). Chính khi hiện diện một cách thâm sâu trong cung lòng của Thiên Chúa mà người tín hữu nhận được sự sống mãnh liệt phong phú của Đấng Phục sinh: “Vì Thầy sống và anh em cũng sẽ sống” (Ga 14,19). Thánh Phaolo đã cảm nghiệm rất sâu sắc về sự sống mới này khi Người viết: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).
Sức sống dồi dào ấy chỉ có thể phát huy và tăng trưởng đến mức sung mãn, là khi người tín hữu dám bước ra khỏi cuộc sống co cụm, ích kỷ của mình, để ôm lấy bao nỗi khốn khổ bất hạnh của anh em. Có yêu thương là có Chúa tỏ mình, có Chúa tỏ mình là có sức sống mới sẽ bùng lên, tuôn trào: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (Ga 14,21).
Nếu con người ngày nay muốn kéo dài sự sống, thì người tín hữu phải cho họ thấy đời sống trường thọ chỉ có ý nghĩa khi người ta biết sống đời phục vụ trong yêu thương.
Nếu con người ngày nay thích tiện nghi sung túc, thì người tín hữu hãy chứng minh cho họ rằng cuộc sống càng bớt hưởng thụ thì đời sống càng lành mạnh, thanh thoát.
Nếu con người ngày nay lo bảo đảm cho cuộc sống, thì người tín hữu hãy giới thiệu cho họ cái bảo hiểm an toàn nhất là sự sống Nước Trời.
***
Lạy Chúa xin tỏ mình ra cho chúng con, để chúng con được kiên vững giữa sóng gió cuộc đời. Xin ban sự sống Chúa cho chúng con, để cây đời chúng con mãi xanh tươi. Xin ban Thánh Thần cho chúng con, để cuộc đời chúng con bùng lên sự sống mới. Amen.
15. Tình yêu và Thánh Thần
(Suy niệm của Daniel J. Harrington – Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Nếu anh em yêu mến Thầy, hãy giữ các giới răn của Thầy” (Ga 14,15).
Lưu giữ những kỷ niệm về Đức Giêsu thật sống động và tiếp nối những công việc Ngài đã khởi sự, là hai công việc chủ yếu đối với mọi Kitô hữu. Các bài đọc Lời Chúa của phụng vụ hôm nay, Chủ nhật 6 Phục sinh, mô tả cách thế giúp chúng ta, cá nhân cũng như cả Hội Thánh, thực hiện những bổn phận quan hệ và cao quý này. Bài diễn từ biệt ly của Chúa Giêsu được thánh Gioan ghi lại (Ga,14) mà chúng ta nghe trong phụng vụ, đề cập đến cả 2 công việc đó. Việc thứ nhất liên quan đến tình yêu, và việc thứ hai đề cập đến Thánh Thần, đồng thời cũng liên đới với tình yêu. Cả hai phạm trù này gắn kết chặt chẽ với nhau và không thể tách rời nhau.
Những ai yêu mến Đức Giêsu sẽ tuân giữ giới răn Ngài. Các giới răn của đức Giêsu dường như không phải là 613 điều luật của cựu ước được tóm kết trong thập giới. Nhưng những giới lệnh Đức Giêsu đã ban bố thì giản đơn hơn, đồng thời mang tính thách đố cao hơn. Tất cả mọi điều răn Ngài gửi trao cho các môn đệ, xoay quanh việc tin vào Thiên Chúa và tin vào Đức Giêsu, đấng khải thị về Chúa Cha, đồng thời cũng nói về việc yêu mến Thiên Chúa, yêu mến Đức Giêsu và yêu thương nhau. Nếu chúng ta tin và yêu mến, chúng ta sẽ đắc thủ được các nhân đức khác, và các việc lành thánh sẽ nảy sinh. Vì vậy, chúng ta phải đặt mình vào trong chuỗi dây tình yêu liên hoàn, trải rộng từ Chúa Cha đến Chúa Con và đến những kẻ tin. Cũng tương tự, những ai biết yêu thương nhau, họ cũng sẽ yêu mến Chúa Cha và Chúa Con.
Cộng đoàn đức tin do Chúa Giêsu hình thành đã xác tín rằng sức mạnh của tình yêu sẽ luôn trổi vượt và phá đổ sức mạnh của hận thù. Họ hiến thân cho lý tưởng của tình yêu, như một năng động lực vĩ đại, vươn tới cả những kẻ thù của mình. Họ phục vụ cho lý tưởng tự hiến, yêu thương, với một trái tim vị tha, bởi lẽ đây chính là mô thức căn bản của tình yêu mà Đức Giêsu đã vạch dẫn, mời gọi thực hiện. Trong thơ thứ nhất gửi giáo đoàn Côrintô (1 Cor 13), Thánh Phaolô đã mô tả tình yêu đó như sau:“Đức ái thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tuông, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả”.
Những lý tưởng cao cả này vượt xa khả năng giới hạn nơi con người mỏng dòn chúng ta. Vì vậy, Đức Giêsu trước lúc ra đi, đã hứa gửi ban sự trợ giúp linh thánh cho các học trò mình qua dạng thức “ một Đấng Bào Chữa” khác. Đó chính là Thánh Thần. Hạn từ Hy Lạp Parakletos (Đấng Bào Chữa) hàm ngậm ý nghĩa về một người nào đó sẽ nâng đỡ và ủi an những ai cần trợ giúp. Từ ngữ này cũng ám chỉ về một vị luật sư nơi tòa án, sẽ đứng ra bảo vệ thân chủ và đấu tranh cho quyền lợi của họ, là chính chúng ta. Khi nói Chúa Thánh Thần là Đấng Bầu Chữa, Đức Giêsu muốn minh định rằng Thánh Thần sẽ thực hiện phần vụ của Ngài giống như Đức Giêsu đã thi hành khi Người còn tại thế.
Tình yêu và hoạt động của Thánh Thần là hai phương cách giúp cho những kỷ niệm về Đức Giêsu được lưu giữ cách sống động, và để những hoạt động mà Người đã khởi sự được tiếp nối. Chúng ta cần phải luôn gợi nhớ rằng Thiên Chúa là đấng khởi xướng, Thiên Chúa là đấng đã tuôn đổ tình yêu của Ngài xuống trên chúng ta qua Đức Giêsu, và qua những giáo huấn cũng như gương mẫu của Người, chúng ta sẽ học được cách yêu thương lẫn nhau. Thánh Thần của Thiên Chúa được trao ban cho ta qua phép rửa, chúng ta cần phải cộng tác với Ngài, mở lòng cho những sức mạnh thần thiêng đang tác động trong chúng ta và giữa chúng ta.
Sách Công Vụ Tông Đồ đã mô tả sức mạnh Thần khí được tỏ hiện thế nào qua việc trải rộng đức tin Kitô giáo xuyên suốt thế giới địa trung hải thời cổ đại. Những vị tông đồ kiệt xuất như Phêrô và Phaolô và những vị khác, chẳng hạn Philiphê, cũng góp phần lớn lao trong sứ vụ truyền giáo của Hội Thánh đến với muôn dân. Bài đọc trong sách Công vụ chương 8 hôm nay cho thấy, sứ điệp Tin Mừng đã được truyền tải, khởi đầu từ Giêsusalem, đến Juđêa và đến cả địa hạt Samaria. Ở đó Philip đã làm những công việc mà Đức Giêsu khi còn tại thế đã làm. Vị tông đồ cũng đã dạy dỗ dân chúng, cũng thực hiện những phép lạ để chữa lành. Sự thành công đó được tiếp nối với những tông đồ ở Giêsusalem, tức Phêrô và Gioan. Hai ông đã đến vùng Samaria, cử hành phép rửa ban Thần khí cho dân chúng vùng này.
Trong khi hai vị tông đồ lớn đã đảm nhận vai trò quan trọng trong việc lưu giữ những kỷ niệm về đức Giêsu được sống động và trải rộng những công việc đi khắp nơi, thì những tín hữu khác, những con người rất bình thường, mà ngày nay chúng ta gọi là những tín hữu buổi sơ khai, cũng có nhiều đóng góp đáng kể. Thơ thứ nhất của Thánh Phêrô nói về họ. Họ là những Kitô hữu gốc dân ngoại, có lẽ là những lao động di dân, và có thể là những khách lạ hay người ngoại quốc trong bối cảnh văn hóa xã hội bấy giờ. Họ tìm đường đến với Giáo hội qua gương sáng của các anh em Kitô hữu khác. Bài đọc hôm nay, trong 1P 3, Thánh Phêrô khuyên mời họ hãy chia sẻ những công việc tốt lành và hãy có một nhãn quan thần học dựa trên khuôn mẫu của Đức Giêsu. Ngài khởi xướng cho họ một kế hoạch truyền giáo, quảng diễn đức tin bằng việc sẵn sàng chia sẻ, bằng thái độ ân cần và kính phục đối với nhau, tôn trọng lẫn nhau, can đảm chấp nhận những chống đối, ngay cả có thể bị hành quyết, tất cả để theo gương Đức Giêsu. Phương sách truyền giáo như thế, luôn luôn là cách thế hữu hiệu nhất để lưu giữ những kỷ niệm về Đức Giêsu được sống động, và để những công việc Đức Giêsu đã khởi sự được tiếp nối thực hiện.
16. Đấng Bảo Trợ – R. Veritas
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)
Cuốn phim có tựa đề: “Đời Vẫn Đẹp” do Roberto đạo diễn và thủ diễn. Cuốn phim đã nêu lên câu truyện của người Do Thái cùng với vợ và đứa con trai nhỏ bị Đức Quốc Xã đưa vào trại. Nhờ tài khôi hài, ông đã giữ vững được tinh thần của đứa con khi quân đội đồng minh đến giải thoát.
Cuốn phim hẳn gợi lại kinh nghiệm của bác sĩ Victo Rey, ba năm lưu đày tại Ba-Lan và nhiều trại tập trung khác của Đức Quốc Xã, đã giúp cho vị bác sĩ chuyên gia tâm lý này khám phá được một chân lý quan trọng trong cuộc sống của con người, chân lý đó là, trong những hoàn cảnh nghiệt ngã đau thương nhất con người vẫn có thể tồn tại nếu họ có niềm tin và tìm được ý nghĩa của cuộc sống.
Bác sĩ Brand đã quan sát những phản ứng khác nhau của các bạn tù của ông, có những người trước khi vào tù thì được mọi người trọng vọng, ngưỡng mộ, thế nhưng bỗng chốc lộ nguyên hình của những kẻ hèn hạ có thể bán đứng anh em vì một chút lợi lộc nhỏ mọn. Một số khác thoạt tiên thể hiện bản lĩnh của những nhà lãnh đạo, thế nhưng liền sau đó thất vọng và ngã gục chỉ trong vài ngày. Trái lại, cũng không thiếu những người rất ít được mọi người chú ý đến, họ đã âm thầm chịu đựng cho đến cùng và được sống còn.
Tìm hiểu sự khác biệt giữa những hạng người trên đây, bác sĩ Brand khám phá ra rằng, chính mục đích và ý nghĩa của cuộc sống là sức mạnh làm cho con người tồn tại trong những điều kiện tột cùng khốn khổ của cuộc sống. Trong kinh nghiệm bản thân, bác sĩ Brand cho biết, chính tình yêu đối với vợ ông đã giúp cho ông tiếp tục tìm thấy ý nghĩa và lẽ sống trong tận đáy của hỏa ngục. Mặc dù không biết vợ mình bị giam giữ ở đâu, còn sống hay đã chết, bác sĩ Brand đã chia sẻ kinh nghiệm như sau:
Không có gì có thể tách tôi ra khỏi tình yêu, những ý nghĩ và hình ảnh người vợ yêu dấu của tôi, cho dẫu người ta có báo tin rằng vợ tôi đã chết thì tôi sẽ không bao giờ ngưng chiêm ngắm hình ảnh của nàng và thôi không chuyện vãn với nàng nữa. Càng lúc tôi càng cảm nghiệm được hình ảnh của vợ tôi; vợ tôi vẫn luôn ở bên cạnh tôi. Chính tình yêu đối với vợ đã mang lại hy vọng và sức mạnh giúp cho bác sĩ Brand chịu đựng mọi nghịch cảnh và tồn tại cho đến ngày được giải cứu khỏi các trại tập trung. Khám phá được ý nghĩa của cuộc sống, đây hẳn không phải là một điều xa xỉ hay phụ thuộc trong cuộc sống con người, mà là một nhu cầu hiện sinh còn quan trọng hơn cả các ăn thức uống của con người.
Ý nghĩa lẽ sống của người Kitô chúng ta chính là Chúa Giêsu Kitô, đây là điều một lần nữa hôm nay Giáo Hội muốn nhắc nhở chúng ta. Kitô giáo chúng ta không phải là một ý thức hệ; cũng không phải là một hệ thống luân lý chỉ gồm những điều luật phải tuân giữ; lại càng không phải là một xã hội theo thể chế chính trị nào đó. Kitô giáo thiết yếu là một con Người, con Người đó hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một, Ngài đã hiện diện trong giáo hội và trong cuộc sống của mỗi người chúng ta, Ngài là sức sống của mỗi người Kitô chúng ta. Thường thì một vị thánh hiền, một bậc vĩ nhân đi qua trong lịch sử nhân loại và để lại sự nghiệp của mình, nhưng với Chúa Kitô lại khác, Ngài không hiện diện như một xác chết được tẩm liệm, Ngài cũng chẳng hiện diện qua những di tích Ngài để lại, Ngài cũng chẳng để lại sự nghiệp nào, Ngài đã chết và Ngài đã sống lại, chính vì đã sống lại cho nên Ngài vẫn có đó, Ngài hiện diện một cách sống động nơi đây, trong giây phút này đây, đó là niềm tin, là sức sống, là lịch sử của Giáo Hội từ hơn 2,000 năm qua, đó cũng là lẽ sống của không biết bao nhiêu người tín hữu đã đi trước chúng ta, trong Ngài họ đã tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống và để có thể vui sống, nhất là kiên trì cho đến cùng giữa những thử thách và bách hại, tất cả đều sống niềm xác tín của thánh Phaolô như ngài đã viết trong thư gởi cho giáo đoàn Rôma: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Chúa Kitô, phải chăng là gian truân, khắc khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?”
Đây là niềm xác tín mà Giáo Hội mời gọi chúng ta hâm nóng lại khi cho chúng ta lắng nghe Tin Mừng hôm nay. Trong bài diễn văn tự thuật với các môn đệ trước khi đi vào cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu, họ được mời gọi để chuẩn bị tinh thần đón nhận cách thế hiện diện mới của Ngài, Ngài nói với các ông: “Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi, Thầy sẽ đến với các con.” Quả thật, sau khi đón nhận Chúa Thánh Thần, các môn đệ đã cảm nhận được sự hiện diện của Chúa Giêsu, từ những con người quê mùa, dốt nát và nhát đảm, các môn đệ đã được Chúa Thánh Thần biến thành những nhà rao giảng không biết mỏi mệt và nhất là dùng chính cái chết của mình để làm chứng cho sự hiện diện ấy của Chúa Giêsu.
Hơn hai ngàn năm qua, sức sống được Chúa Thánh Thần thông ban cho các môn đệ đã tràn ngập thế giới, đã trở thành lẽ sống của không biết bao nhiêu người. Chính nhờ sức sống ấy mà các tín hữu Kitô tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống và sống đúng ơn gọi làm người của mình. Sống công bình, sống bác ái, sống phục vụ, sống quên mình không phải là độc quyền của người Kitô giáo. Tôn giáo nào cũng đề cao những giá trị ấy; giới răn yêu thương cũng không phải là giới răn riêng của các tín hữu Kitô chúng ta. Thế nhưng Chúa Giêsu đã ban bố giới răn ấy như một giới răn mới mẻ và là riêng của Ngài, bởi vì Ngài ban chính sức sống và tình yêu của Ngài cho các tín hữu để họ yêu thương bằng chính tình yêu của Ngài.
Chúa Giêsu chính là tình yêu, Chúa Giêsu chính là sức sống của các tín hữu. Chúng ta họp nhau cử hành thánh lễ của mỗi ngày Chúa Nhật để xin Chúa Kitô bổ sức cho chúng ta, để chúng ta tiếp tục sống, để cho mọi người thấy rằng, Ngài thật sự là Đấng đang hiện diện và tác động trong chúng ta, Ngài chính là lẽ sống mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của chúng ta, Ngài là sức mạnh để chúng ta tiếp tục chiến đấu, Ngài là niềm hy vọng để chúng ta tiếp tục tiến bước.
17. Hoa quả của tình yêu
Trong bữa tiệc ly Chúa Giêsu tuyên bố Ngài sẽ ra đi, nhưng Ngài sẽ cho anh em một “Đấng Bảo Trợ” và “không để anh em mồ côi” và “Ngài ở trong các con”. Hơn nữa là sẽ được “Cha Ta yêu mến”. Để được điều đó đòi hỏi phải có hai điều kiện cần là “yêu mến” và “tuân giữ” các điều răn của Thầy. Hôm nay ta lại thấy rõ đặc điểm trong Tin Mừng Gioan mời gọi con người đi vào tình yêu của Chúa Kitô, tình yêu trọn hảo làm phát sinh hiệu quả:
1. Nhờ tình yêu mà con người được Đấng Bào Chữa.
Danh từ “Đấng Bầu Chữa”, do tiếng Hy Lạp là “Paracletos” chỉ người được mời đến bên cạnh bị cáo, để giúp đỡ và bênh vực cho đương sự, giống như trạng sư được mời đến để bầu chữa. Khi Chúa Giêsu nói đến “Đấng Bầu Chữa khác”, nghĩa là sẽ có hai Đấng Phù Trợ luôn nâng đỡ và không bao giờ để cho chúng ta mồ côi. Nhất là khi gặp những người buồn phiền lo sợ thử thách trong cuộc sống, chúng ta không bao giờ cô đơn, vì có Chúa Thánh Thần hằng hướng dẫn và ban sức mạnh cho ta.
2. Nhờ tình yêu con người không bị mồ côi.
Đức Giêsu đã quả quyết với các tông đồ trước khi ra đi “Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi”. Câu nói đó ngầm hiểu sẽ có Ngài ở bên khi không có Ngài. Nghĩa là người sẽ trở lại không phải trong thân xác này, nhưng là thân xác sau khi Phục Sinh. Chắc chắc lúc đó các tông đồ không thể hiểu được lời Đức Giêsu, chỉ khi được ánh sáng Phục Sinh chiếu soi thì họ mới hiểu rõ: Thầy mình đã đi thật, thế gian không còn thấy Người nữa, vì Người đã chết theo xác thịt; nhưng Người đã trở lại với các môn đệ trong những lần tỏ mình ra. Và nhất là sau khi được lãnh nhận Thần Khí, họ cảm thấy như Người đang ở gần họ, Hơn thế, ta thấy thời Giáo Hội sơ khai đã trải qua bao bắt bớ thử thách, phải sống trong gông cùm xiềng xích, sống trong cảnh đầu rơi máu chảy dưới tay bạo chúa. Nhưng “Thân thể Chúa Kitô” vẫn sống và phát triển mạnh mẽ, vì luôn có “Đầu” là Đức Kitô bên cạnh. Điều này giúp ta luôn xác tín Ngài luôn ở với ta, và trong ta cả khi ta không thấy Ngài.
3. Nhờ tình yêu con người được tình yêu.
Chúng ta có thể định nghĩa hạnh phúc của một người là biết yêu và được yêu. Qua câu nói của Đức Giêsu như kết quả của tình yêu cao cả “Ai mến Thầy sẽ được Cha Thầy yêu mến,và Thầy sẽ yêu nó và sẽ tỏ mình ra cho nó”. Nhưng một sai lầm thường gặp của con người là cứ ngỡ mình được Chúa yêu đó là công trạng của mình, nhưng thực ra không phải. Vì khi ta chưa yêu Ngài hay thậm chí khi còn mang tội thì Ngài đã đã yêu ta và yêu từ ngàn xưa rồi. Chúng ta biết yêu chính là nhờ ơn ban như không của Ngài. Một tình yêu có sự liên đới hiệp thông như Chúa Cha đã yêu Chúa Con thế nào thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau như vậy, vì tình yêu Chúa Ban Ngôi hiện diện trong ta, trong gia đình và trong cộng đoàn của ta, lòng ta sẽ cảm thấy hoan lạc và bình an can đảm dấn thân mang tình yêu Ba Ngôi ấy mà trao tặng cho nhau. Chỉ khi nào mang có tình yêu Ba Ngôi, khi ấy lòng ta mới không còn nổi loạn, không còn nghi nan, không còn ích kỷ, không còn để bụng giận hờn ghen ghét… Chỉ khi nào tất cả mọi người đều được lãnh nhận tình yêu Ba Ngôi khi đó cộng đoàn, gia đình mới có tình yêu Chúa Kitô, chỉ khi nào cộng đoàn gia đình có tình yêu Chúa Kitô thì cộng đoàn gia đình mới là cộng đoàn đúng nghĩa; sinh động đầy sức sống và hiệp thông, vì cộng đoàn đó biết yêu như chính Chúa đã yêu.
Lạy Chúa, chỉ có tình yêu mới giúp cho con người xoá bỏ được hận thù, chỉ có tình yêu mới làm cho đất nước được hoà bình, con người được ấm no, và có tình yêu đó mới làm cho con người được hiệp thông với Chúa Ba Ngôi, vì Chúa là tình yêu. Amen.
18. Một cuộc đàm thoại liên hệ đến chúng ta
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Bài đọc này được trích từ một đoạn dài Phúc Âm theo thánh Gioan, chương 13 đến 17, được gọi là diễn từ trong bữa Tiệc Ly. Thánh Gioan thuật lại cuộc đàm thoại của Chúa Giêsu với các môn đệ trong khoảng một vài giờ trước khi chịu nạn. Một không khí thân ái mật thiết ở cường độ phi thường đã khiến đoạn Phúc Âm này thành 1 trong những bài văn tuyệt mỹ. Điều khiến chúng ta lưu ý hơn hết là giá trị, một sứ điệp liên quan đến chúng ta, vì chúng ta quả hiện diện trong tâm tưởng Chúa Giêsu khi Ngài nói chuyện với các môn đồ. Những điều Ngài nói về sự liên kết giữa họ với nhau, về việc gặp gỡ Chúa Cha, về việc Chúa Thánh Thần đến, tất cả trực tiếp liên hệ đến chúng ta và bắt chúng ta tỏ thái độ. Mỗi câu đều đáng dừng lại suy niệm. Hãy để mỗi người tìm ra câu đáp ứng, nguyện vọng và ơn nhận được. Ở đây, người ta ghi nhận các ý sau:
1) Nếu các con yêu mến Ta, các con sẽ giữ các giới răn Ta.
Mạch văn toàn thể Phúc Âm thánh Gioan cho chúng ta biết hai giới răn (mà thực chỉ là một) là kính mến Thiên Chúa như cha và yêu mến mọi người như anh em. Chính cho các môn đệ của tình yêu ấy mà Chúa Giêsu cầu xin Chúa Cha để họ được nhận lãnh Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần được gọi là Đấng bầu chữa, vị trạng sư, Đấng trợ lực. Chúa Giêsu đã báo cho các môn đệ hay Ngài sẽ không còn hiện diện với các ông trong hình thể khả giác và vật lý như những ngày chung sống. Nhưng Ngài sẽ không bỏ các ông, Ngài sẽ hiện diện bằng một cách sâu kín hơn trước đặc biệt bằng Thần Khí của Ngài. Thần Khí sẽ bảo vệ, trợ lực, gìn giữ họ. Cả với chúng ta là những khi không được biết Chúa Giêsu trong lịch sử. Hôm nay chúng ta cũng được nghe dạy rằng, Chúa Thánh Thần trợ lực và gìn giữ chúng ta. Chúng ta có nghĩ rằng Lời Chúa phán ở một thời nhất định có giá trị sống động hiện thời đối với chúng ta hay không?
2) Thánh Thần… mà thế gian không thể lãnh nhận.
Chữ “thế gian” ở đây phải hiểu theo nghĩa chung các quyền lực phản nghịch Thiên Chúa và Đấng Kitô của Ngài. Tinh thần thế gian này chính yếu là một tâm trạng bất ổn; một không khí nhiễm độc vì sai lầm và ngu dại vì kiêu ngạo thâm căn và tự mãn ngây ngô, một khuynh hướng tâm lý và tinh thần khép kín con người tại chính mình. Thế gian ấy không tin được cả đến việc có thể có thần tính của Đức Kitô, và do đó có thể có việc Chúa Thánh Thần đến. Đàng khác, Chúa Giêsu Ngài cầu xin Cha Ngài gìn giữ các môn đệ khỏi thế gian, nghĩa là gìn giữ chúng ta hôm nay đây.
3) Ai yêu mến Ta sẽ được Cha Ta yêu mến.
Chúng ta gặp lại ở đây một trong những chân lý căn bản thường được diễn tả trong Tân Ước nhất, trình bày một cách dễ lưu ý. Tương quan của chúng ta với Chúa Giêsu, cấu tạo tương quan của chúng ta với Chúa Cha. Tuân theo các giới răn của Chúa Giêsu, tức là tuân theo Chúa Cha, cầu khấn với Chúa Giêsu là cầu khấn với Chúa Cha; ca tụng tôn vinh Chúa Giêsu, nhìn nhận trong thán phục và vui mừng địa vị của Ngài tức là ca tụng tôn vinh Thiên Chúa; tin tưởng nơi Chúa Giêsu là tin tưởng nơi Chúa Cha. Các con sẽ chịu gian nan, nhưng hãy vững lòng, Ta đã thắng thế gian (Ga 16,33).
20/05 Các con không thuộc về thế gian
- Viết bởi Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Thứ Bảy tuần 5 Phục Sinh.
"Các con không thuộc về thế gian, vì chính Thầy đã chọn các con khỏi thế gian".
Lời Chúa: Ga 15, 18-21
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu thế gian ghét các con, các con hãy biết rằng họ đã ghét Thầy trước. Nếu các con thuộc về thế gian, thế gian sẽ yêu những gì thuộc về nó, nhưng các con không thuộc về thế gian, vì chính Thầy đã chọn các con khỏi thế gian, nên thế gian ghét các con. Các con hãy nhớ lại lời Thầy đã nói với các con: Tôi tớ không trọng hơn chủ. Nếu họ đã bắt Thầy, thì họ cũng sẽ bắt bớ các con; nếu họ tuân giữ lời Thầy, thì họ cũng tuân giữ lời các con. Tại vì danh Thầy mà họ sẽ làm cho các con tất cả những điều đó, bởi vì họ không biết Đấng đã sai Thầy".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV)
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Chấp nhận lội ngược dòng.
Với cuộc thăm viếng các nước Hy Lạp, Siri và Malta (từ ngày 4 đến 5/05/2001), Ðức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã muốn đi lại cuộc hành trình của thánh Phaolô tông đồ. Ðặc biệt tại Siri, Ðức Thánh Cha đã sống lại một trong những cảnh sống động nhất trong lịch sử Giáo Hội là cuộc trở lại của thánh Phaolô.
Sách Tông Ðồ Công Vụ thuật lại rằng: "Lúc ấy, Saolô vẫn còn hằm hằm giết các môn đệ của Chúa, nên đã tới gặp thượng tế xin thư giới thiệu đến các hội đường ở Damasco để, nếu thấy những người theo đạo, bất luận đàn ông hay đàn bà, thì bắt trói giải về Giêrusalem. Vậy, đang khi ông đi đường đến gần Damasco, thì bỗng nhiên có một luồng sáng từ trời chiếu xuống bao phủ lấy ông. Ông ngã xuống đất và nghe có tiếng nói với ông: "Saolô, Saolô, tại sao ngươi bách hại ta?" Ông hỏi: "Thưa Ngài, Ngài là ai?" Người đáp: "Ta là Giêsu mà ngươi đang bách hại". Kinh nghiệm này cho thánh Phaolô xác tín lại chính vì Chúa Kitô mà các tín hữu Kitô bị bách hại. "Nếu thế gian có ghét các con, thì hãy biết ra họ đã ghét Thầy trước". Nếu Chúa Giêsu là đối tượng của những chống đối, loại trừ, và cuối cùng là thập giá, thì bị bách hại là phần số tất yếu của các tín hữu Kitô. Những hình thức và cường độ bách hại có khác nhau qua những thời đại và xã hội, nhưng lý do bị bách hại vẫn không thay đổi. Chính vì Chúa Kitô mà các tín hữu bị bách hại. Nơi họ, mầu nhiệm bách hại của Chúa Kitô vẫn tiếp tục tái diễn. Nếu các thủ lãnh Do Thái Giáo nhân danh đạo giáo và cấu kết quyền lực của đế quốc để loại trừ Chúa Giêsu, thì qua các thời đại và ở bất cứ nơi đâu Giáo Hội có mặt, bản án dành cho Giáo Hội vẫn luôn mang tính tôn giáo. Hoàng đế Nêron của đế quốc Lamã đã ra lệnh tàn sát các tín hữu Kitô bởi vì niềm tin của họ là một đối đầu và thách thức cho thứ tôn giáo đang được áp đặt trên toàn đế quốc.
Nếu giáo huấn và cuộc sống của Chúa Giêsu là một đe dọa cho trật tự mà Do Thái Giáo đã thiết lập, thì niềm tin của các tín hữu tiên khởi cũng là một đe dọa không kém cho quốc giáo của đế quốc Lamã. Nhìn vào lịch sử của Giáo Hội tại Việt Nam, người ta thấy rằng lý do của những cuộc bách hại cũng tương tự. Những vua chúa Việt Nam cũng ban hành các dấu chỉ cấm đạo và bách hại các tín hữu Kitô, là bởi vì họ xem Kitô giáo như một tà đạo, nguy hại cho đạo giáo vốn đang được thực hành trên đất nước.
Tựu trung, nếu các tín hữu Kitô có bị bách hại là bởi vì niềm tin Kitô luôn là thách đố và tra vấn cho lương tâm con người. Nhìn lại các cuộc bách hại đã và đang diễn ra trong các chế độ toàn trị, người ta cũng thấy rằng chính vì chủ trương duy vật vô thần mà các chế độ độc tài bách hại Giáo Hội. Chính vì đến để làm chứng và nói lên sự thật mà Chúa Giêsu đã bị chống đối, khước từ và loại trừ. Ngày nay, bất cứ ai sống cho sứ mạng ấy, dù đang sống trong xã hội nào cũng đều bị bách hại cách này hay cách khác. Năm 1968, khi Ðức Phaolô VI công bố thông điệp Sự Sống Con Người, trong đó ngài lên án não trạng chống lại sự sống của con ngườ thời đại, người ta đã có lý để gọi ngài là một người dám chống lại cả thế giới.
Sống cho sự thật, làm chứng cho sự thật, dám nói lên sự thật là chấp nhận bị tẩy chay, bị loại trừ, bị bách hại. Một số phận như thế lại càng rõ nét hơn trong một chế độ xây dựng trên dối trá, lừa bịp. Trong một chế độ như thế, những ai trung thành với Chúa Giêsu, Ðấng đã bị bách hại vì sự thật, chắc chắn không thể không bị bách hại.
Xét cho cùng, sống đạo, dù trong xã hội và hoàn cảnh nào cũng đều chấp nhận lội ngược dòng. Và lội ngược dòng có nghĩa là sẵn sàng mất tất cả, ngay cả mạng sống của mình để không đánh mất chính bản thân.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Thuộc về đâu.
Tin mừng Đức Giêsu Kitô gây ra nhiều chia rẽ, nhiều xâu xé. Người đã loan báo sự chia rẽ trong cùng một gia đình như anh sẽ nộp em vì danh Ngài. Nhưng sự xâu xé sâu xa nhất ở trong nội tâm mỗi người chúng ta khi chúng ta cảm xúc trước lời Ngài. Lời Ngài gây ra sự chia rẽ giữa những thành phần yêu đương nhất trong gia đình, nghề nghiệp, xã hội, đức tin, chúng ta thử cố gắng giải quyết để duy trì quân bình giữa các thành phần này.
Nhưng có lúc dù cố gắng giải mã thế nào, chúng ta vẫn có thể phản bội đối với phe này hoặc phe kia. Lời Chúa tuyên bố hôm nay cảnh giác chúng ta và mời gọi chúng ta biết phán đoán sáng suốt về tương quan của chúng ta với thế gian.
Một điều làm tôi càng ngày càng bức xúc là: Làm thế nào những Kitô hữu không khó chịu về mình không còn là Kitô hữu nữa? Sao những người Kitô hữu không biết hàn gắn sự đổ vỡ trong xã hội.
Có thể do hoàn cảnh của chúng ta quá lệ thuộc vào thế gian hơn vào Đức Giêsu Kitô, quá chú ý theo lối suy nghĩ của xã hội hơn những chân lý của lời Chúa.
Chúng ta là hạng người bị quay theo chiều gió, trôi theo giòng nước. Chúng ta để bao nhiêu giờ đi tìm kiếm những lệ thuộc và những cổ động ủng hộ của những người khác. Đây có lẽ có một cơn khủng hoảng tôn giáo tận gốc mà Giáo hội phải vượt qua do những tín hữu chủ trương lối sống vô thưởng vô phạt. Ai cũng biết rằng chính lẽ ra Kitô hữu mỗi ngày phải nên mới: “Nhật nhật tân, hựu nhật tân”.
Chúng ta cần cân nhắc những giá trị này: Nếu tôi thuộc về thế gian, tôi được thế gian yêu thích, tôi sẽ không là kiểu người ngoại lệ. Trái lại, nếu tôi thuộc về Đức Kitô, thì ngay lập tức, lời Đức Kitô sẽ áp dụng cho tôi: “Tôi tớ không lớn hơn chủ nhà. Họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em”, vì anh em đảo ngược những tư tưởng và lối sống thế gian của họ.
C.G
SUY NIỆM 3: Thế gian thù ghét
Tác giả Tacitus của Đế quốc Rôma vào thế kỷ thứ nhất, trong tập sử ký của ông có ghi lại cuộc bách hại đầu tiên mà Giáo Hội phải trải qua như sau: “Rôma năm 64, Hoàng đế Néron, để dẹp bỏ tiếng đồn tố cáo ông là người đã nổi lửa đốt thành Rôma, đã ra lệnh lùng bắt những người mà dân chúng gọi là Kitô hữu. Một đám đông vô kể bị bắt giữ vì bị tố cáo không những đã gây ra cuộc hỏa hoạn, mà lại còn thù nghịch với các thần minh và nhân loại. Tất cả đã bị đem ra chế diễu và bị hành hạ cho đến chết: một số bị gói trong những mảnh da thú và quăng cho chó cắn xé; một số khác bị thiêu sống, như thế khi màn đêm vừa buông xuống, người ta dùng họ như những bó đuốc để soi sáng ban đêm; nhiều người khác bị đóng đinh cách dã man. Cảnh tượng ấy diễn ra trong các vườn thượng uyển cuả Néron cũng như tại Hí trường, nó dã man đến nỗi đã làm cho dân chúng xúc động và thêm bất mãn.
Trên đây là trang sử đầu tiên trong lịch sử các cuộc bách hại Giáo Hội đã trải qua từ 2.000 năm nay. Ở đâu có Giáo Hội, ở đó có bách hại. Thánh Gioan khi ghi lại đoạn Tin mừng hôm nay cũng nhìn thấy trước mắt cảnh tàn sát dã man mà các tín hữu tiên khởi đã trải qua dưới thời Néron. Cũng như các tín hữu tiên khởi, chúng ta được Giáo Hội cho lắng nghe chính những lời loan báo của Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu đã bị bách hại cho đến chết, do đó tất cả những ai làm môn đệ Ngài cũng không thể không đi con đường ấy. Đó là một tất yếu: dù sống trong hoàn cảnh hay xã hội nào, bị thế gian thù ghét là phần số của người Kitô hữu. Điều đó không nên làm cho người Kitô hữu phải ngạc nhiên, bởi vì cuộc sống của họ là một cuộc sống đi ngược dòng. Bị thế gian thù ghét không phải là điều bất thường đối với thân phận làm kitô hữu; cái bất thường trong thân phận Kitô hữu chính là cuộc sống dễ dãi, thỏa hiệp, chạy theo dòng thác của thế tục.
Một sử gia khác của Đế quốc Rôma vào thế kỷ 1 là Plinus cũng phải ngạc nhiên không hiểu tại sao các Kitô hữu phải bị ghen ghét và bách hại. Trong một lá thư thỉnh ý trình lên Hoàng đế Trajanus, với tư cách là toàn quyền Bithinia, ông đã viết: “Tâu bệ hạ, thần thấy có nhiệm vụ phải thỉnh ý bệ hạ, bởi vì vấn đề của các người Kitô hữu đang lan rộng, thần phải xử trí thế nào. Cho đến nay thần tưởng đã làm đúng khi tha bổng những người đã chối bỏ mình là Kitô hữu, nếu sau khi được xét xử, họ cầu khẩn với các thần mình, dâng hương và rượu trước ảnh của bệ hạ mà thần cho đặt vào giữa các thần minh, và nhất là phỉ báng ông Kitô. Không thể cưỡng bách những người Kitô hữu đích thực làm một điều như thế. Qua những cuộc tra hỏi, sai lầm duy nhất của các Kitô hữu là tụ họp lại trong một ngày nào đó khi mặt trời vừa lên để ca hát chúc tụng ông Kitô như một Thiên Chúa. Trong những cuộc tụ họp như thế dường như họ thề quyết không làm điều ác, mà trái lại trở thành những công dân tốt, thanh liêm và đáng trọng nể”.
Quả là “cây muốn lặng mà gió chẳng đừng”. Chứng từ trên đây của Plinus cho thấy cho dẫu có quyết tâm sống như những công dân tốt, các Kitô hữu vẫn bị nghi ngờ và bị bách hại. Tình trạng này dường như xảy ra trong bất cứ thời đại và xã hội nào. Lý do duy nhất để các Kitô hữu hiểu được tại sao họ bị bách hại chính là lời của Chúa Giêsu: “Nếu thế gian ghét các con, các con hãy biết rằng nó đã ghét Ta trước”. Đó là chìa khóa để chúng ta hiểu được vị thế của Giáo Hội trong thế gian, một thế gian được Thiên Chúa yêu thương đến nỗi đã ban Con Một Ngài, nhưng cũng là một thế gian đang bị sức mạnh của tăm tối lôi kéo. Sứ mệnh của Giaó Hội và của mỗi kitô hữu là chống lại sức mạnh tăm tối ấy và do đó bị ghen ghét, bách hại là điều không thể tránh khỏi.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta ý thức sâu sắc về danh hiệu Kitô của chúng ta. Mang danh hiệu Kitô là tham dự vào mầu nhiệm Tử nạn và Thập giá của Chúa Kitô, nhưng chúng ta tin chắc rằng nhờ tham dự vào mầu nhiệm khổ nạn và Thập giá ấy mà chúng ta góp phần vào việc cứu rỗi và canh tân thế giới. Khổ đau mà các Kitô hữu đang phải gánh chịu vì Danh Chúa Giêsu là hạt giống trổ sinh những hoa trái của niềm tin.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4:
Khi Đức Giêsu còn sống bên các môn đệ,
chưa xảy ra chuyện các môn đệ bị thù ghét một cách nghiêm trọng.
Nhưng khi Tin Mừng Gioan được viết gần xong, thì chuyện đó đã xảy ra rồi.
Các Kitô hữu gốc Do thái đã bị trục xuất ra khỏi hội đường,
và người Rôma đã bách hại các Kitô hữu không nương tay.
Bài Tin Mừng hôm nay là một lời tiên báo của Đức Giêsu
về số phận của các Kitô hữu, trong mọi thời đại.
Đức Giêsu đã nói đến việc mình tự nguyện hy sinh mạng sống,
vì Ngài là Mục tử nhân lành muốn bảo vệ đàn chiên (Ga 10, 11. 17-18).
Ngài sẽ phải chiến đấu gay gắt để chống lại sói dữ hay kẻ trộm.
Đức Giêsu cũng nói đến việc Ngài sẽ hy sinh mạng sống
cho bạn hữu của mình là các môn đệ (Ga 15, 12-13).
Ngài sẽ xung đột với tên Thủ lãnh thế gian (Ga 14, 30).
Thế gian là một thế lực thù ghét và âm mưu chống lại Ngài.
Một số nhà lãnh đạo Do thái giáo đã đứng hẳn về phía thế gian ấy.
Cái chết của Đức Giêsu trên thập giá là đỉnh điểm của sự thù ghét.
Thủ lãnh thế gian đã có được một chiến thắng tạm thời.
Nhưng chính sự thua cuộc của Đức Giêsu lại vén mở tình yêu Thiên Chúa,
và là khởi đầu cho một chiến thắng vẻ vang hơn, chiến thắng chính Tử thần.
Những môn đệ Đức Giêsu cũng phải chia sẻ số phận của Thầy.
Không phải các môn đệ luôn luôn được thế gian đón nhận.
“Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em.” (c. 20).
“Nếu thế gian ghét anh em,
hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước khi nó ghét anh em” (c. 18).
Bị ghét bỏ, bị bắt bớ, bị giết hại: đó là thân phận của Thầy Giêsu,
và của những học trò đi theo Thầy, mãi đến tận thế.
Nếu thế gian có thái độ thù nghịch với các Kitô hữu,
lý do là vì họ không thuộc về thế gian, và đã được tách khỏi thế gian (c. 19).
Tuy nhiên, họ vẫn không bị cất khỏi thế gian (Ga 17, 15),
mà còn được sai vào trong thế gian để biến đổi thế gian đó (Ga 17, 18).
Chính cái thế giằng co thuộc về bản chất của người Kitô hữu:
vừa ở trong thế gian, lại vừa không thuộc về nó,
vừa được chọn ra khỏi thế gian, lại vừa được sai vào trong nó,
đã đưa người môn đệ vào những thách đố khôn lường.
Theo một nghiên cứu năm 2002 của nhà báo người Ý, ông Antonio Socci,
có khoảng 70 triệu người Kitô hữu chết vì đức tin trong 20 thế kỷ qua.
Nhưng chỉ riêng trong thế kỷ 20, đã có hơn 45 triệu người bị chết.
Chúng ta không kiểm chứng được nghiên cứu của ông này,
nhưng chúng ta biết cuộc bách hại các Kitô hữu vẫn xảy ra ở nhiều nơi.
Xin được ơn thuộc trọn về Giêsu dù phải lội ngược dòng với thế gian.
Cầu nguyện :
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận,
xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,
xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ,
xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,
xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi,
Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng,
xin cho các kitô hữu chúng con
trở thành tình yêu
cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài,
biết sống nhờ và sống cho tha nhân,
biết quảng đại cho đi
và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh,
xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa
ở sâu thẳm lòng chúng con,
và trong lòng từng con người bé nhỏ. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
19/05 Các con hãy yêu mến nhau
- Viết bởi Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Thứ Sáu tuần 5 Phục Sinh.
"Đây là lệnh truyền của Thầy: Các con hãy yêu mến nhau".
Lời Chúa: Ga 15, 12-17
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Đây là lệnh truyền của Thầy: Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con. Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình. Các con là bạn hữu của Thầy, nếu các con thi hành những điều Thầy truyền.
Thầy không còn gọi các con là tôi tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ làm; Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết. Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con, và đã cắt đặt, để các con đi, và mang lại hoa trái, và để hoa trái các con tồn tại, để những gì các con xin Cha nhân danh Thầy, Người sẽ ban cho các con.
Thầy truyền cho các con điều này là: các con hãy yêu mến nhau".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV)
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Yêu thương và phục vụ.
Hôm qua, lời Chúa đã mặc khải cho chúng ta thấy Thiên Chúa yêu thương chúng ta và chúng ta phải trung thành với Đấng đã đặt hy vọng nơi chúng ta.
Hôm nay, Đức Giêsu dạy cho chúng ta biết rõ phải đáp trả tình yêu của Chúa: “Đây là điều răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Phẩm chất của tình yêu Kitô hữu là nên giống tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu của chúng ta phải đối chiếu với cách thức của Đức Giêsu yêu thương chúng ta: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”.
Tình yêu của Kitô hữu là tặng ban sự sống, thời giờ và công việc, tình cảm và lợi ích của mình cho người khác. Tình yêu Kitô hữu hoàn thành trong sự hy sinh trọn vẹn đời mình cho người khác.
Chúng ta có thể thực hành tình thương người dần dần theo từng giai đoạn. Bắt đầu chúng ta thử thực hiện giúp đỡ người chung quanh chúng ta mỗi ngày mỗi tốt hơn. Thứ đến chúng ta tìm hiểu và liệt kê những điều họ cần thiết để tìm cách giúp đỡ họ mạnh sức hơn. Rồi sẽ đến ngày chúng ta hy sinh cả những lúc nghỉ ngơi, những việc riêng tư.
Tới ngày đó, chúng ta sẽ thực hiện được lời thánh Phao-lô: “Chúng tôi hoàn tất trong thân xác chúng tôi điều còn thiếu trong đau khổ của Đức Kitô”. Chúng tôi thực hiện hình ảnh của Đức Kitô đã khẳng định mình là tôi tớ mọi người.
Trong Thánh lễ tạ ơn này, chúng ta cử hành cuộc tưởng niệm tình yêu của Chúa để làm sống lại những cử chỉ trong bữa tiệc ly, những cử chỉ đó bầy tỏ rõ rằng phẩm chất tình yêu của Đấng cứu độ đã ban cho chúng ta: “Này là Mình Thầy, này là Máu Thầy đã bị nộp vì anh em”.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Hãy sống yêu thương
Cách đây không lâu, Soko Asara, thủ lãnh giáo phái “Chân lý tối thượng” đã bị bắt giữ vì can tội chủ mưu phóng hơi ngạt giết hại 11 người và làm bị thương trên 5.000 người trong một hệ thống đường ngầm tại Tokyo, Nhật Bản. Vị thủ lãnh giáo phái này thường xuất hiện trong một chiếc xe mầu trắng sang trọng. Mười ngàn tín hữu tại Nhật Bản và một số nước khác đã sụp lạy khi ông đi qua, họ uống cả nước tắm gội của ông. Tại một trung tâm của giáo phái nằm dưới chân núi Phú Sĩ vốn là biểu trưng của thanh bình, cảnh sát đã khám phá cả một kho vũ khí hóa học có khả năng sát hại hàng chục triệu người. Đó là sự thật mà cảnh sát Nhật đã nắm bắt được từ giáo phái vốn tự xưng là “Chân lý tối thượng”. Tựu trung, sát hại là khẩu hiệu hàng đầu do vị thủ lãnh giáo phái này truyền đi và được các tín đồ của ông răm rắp tuân theo.
Con người vốn khao khát đi tìm chân lý: nơi nào có người dấy lên tự xưng được giác ngộ và tìm thấy chân lý, nơi đó có những tín đồ chạy theo. Trong lịch sử nhân loại đã có biết bao người tự xưng là bậc thày như thế. Đã có những bậc thày xoa dịu được nỗi khổ đau của nhân loại, nhưng cũng không thiếu những bậc thầy mà sự xuất hiện chỉ là cơn ác mộng cho nhiều người.
Chúa Giêsu cũng xuất hiện như một bậc thày. Ngài cũng quy tụ một số môn đệ. Thế nhưng trong lịch sử nhân loại chưa từng có một bậc thày nào đã có cuộc sống và cung cách hành xử như Ngài, cũng như chưa từng có một bậc thày nào đã tự xưng mình là chân lý như Ngài; chân lý ấy được mạc khải qua cuộc sống và nhất là cái chết của Ngài chính là tình yêu.
Tin mừng hôm nay cũng như bao trang Tin mừng khác bộc bạch một cách trong suốt trái tim của bậc thày này. Điệp khúc gói trọn lời trăn trối của Ngài là: “Hãy yêu thương nhau như Ta đã yêu thương các con”. Như Ta đã yêu thương các con, đó là mức độ của một tình yêu đích thực và đặc điểm của một giáo huấn chân thật. Chúa Giêsu quả thật đã yêu thương các môn đệ và yêu thương đến cùng, đó là tình yêu cao cả nhất của người thí mạng sống mình vì bạn hữu.
Cái chết của Chua Giêsu trên Thập giá là mạc khải tối thượng về Thiên Chúa và về con người. Qua cái chết ấy Chúa Giêsu mạc khải cho nhân loại rằng chỉ có một Thiên Chúa và Thiên Chúa đó yêu thương con người. Qua cái chết ấy Chúa Giêsu cũng đồng thời mạc khải cho nhân loại rằng con người chỉ có một ơn gọi, đó là sống yêu thương, càng sống yêu thương, con người càng đến gần chân lý và càng trở thành bạn hữu của Thiên Chúa.
Chân lý không phải chỉ để tin nhận, mà thiết yếu là để được thực thi, và như Chúa Giêsu đã nói với Nicôđêmô: “Ai thực thi chân lý thì đến cùng ánh sáng”. Thật thế, ai sống yêu thương, người đó sẽ hiểu được ý nghĩa của cuộc sống, phẩm giá của con người và chắc chắn sẽ cảm nhận được sự hiện diện và tình yêu của Thiên Chúa. Trái lại, ai nuôi dưỡng hận thù, xúc phạm đến tha nhân, người đó cũng chối bỏ chân lý về con người và về Thiên CHúa, đồng thời cũng giam hãm mình trong tăm tối của cô đơn.
Nguyện xin Đấng là chân lý ban cho chúng ta ánh sáng và sức sống thần linh của Ngài, để chúng ta luôn tiến bước trong cuộc sống với niềm tin tưởng lạc quan. Xin cho các Kitô hữu xác tín rằng chỉ bằng cuộc sống yêu thương, chúng ta mới thực sự làm chứng cho chân lý.
Suy niệm 3:
Tôn giáo nào cũng dạy người ta phải yêu nhau.
Từ bi hỷ xả của Phật giáo hay tứ hải giai huynh đệ của Khổng giáo.
Đức Giêsu đã coi việc yêu thương nhau là một điều răn, một lệnh truyền.
Nhưng lệnh truyền này có nét mới mẻ:
“Anh em hãy yêu nhau như Thầy đã yêu anh em” (c. 12).
Nét mới mẻ và đáng sợ nằm ở chữ như.
Chính chữ này làm nên nét đặc trưng của Kitô giáo.
Đức Giêsu soi sáng ý nghĩa của chữ như trong câu sau,
khi Ngài nói đến tình yêu của mình đối với các môn đệ:
“Không ai có tình yêu lớn hơn
tình yêu của người hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình” (c. 13).
Chết cho các bạn của mình là hành vi lớn nhất của tình yêu.
Thập giá là biểu hiện của tình yêu lớn nhất, tình yêu hiến mạng.
Đức Giêsu đòi buộc các môn đệ phải yêu nhau đến mức đó.
Người Kitô hữu được mời gọi yêu nhau đến mức đó.
“Như Cha đã yêu Thầy thế nào, Thầy cũng yêu anh em như vậy.
Anh em hãy ở lại trong tình yêu của của Thầy” (c. 9).
Có một dòng suối tình yêu chảy tràn từ Cha đến Thầy Giêsu,
và từ Thầy Giêsu đến với các môn đệ.
Ở lại trong tình yêu của Thầy chính là để cho dòng suối đó tiếp tục chảy,
qua tình yêu giữa các môn đệ với nhau.
Dòng suối ngừng chảy sẽ trở nên ao tù nhơ nhớp.
Giữa Thầy Giêsu và các môn đệ không phải chỉ có tình Thầy trò,
mà còn có tình bạn thân thiết (c. 14).
Một đặc tính của tình bạn là dám chia sẻ cho nhau những điều riêng tư.
Thầy Giêsu cho các môn đệ biết việc mình làm,
và biết những gì Thầy đã nghe được từ nơi cung lòng Cha (c. 15).
Như thế đời sống thầm kín giữa Thầy với Cha, Thầy đã vén mở.
Thầy Giêsu sống như một người bạn bên cạnh các môn đệ.
Và Ngài cũng muốn họ sống như những người bạn bên nhau.
Dám sống cho nhau và dám chết cho nhau.
Chỉ khi họ sống với nhau như những người bạn đích thực,
các môn đệ mới thật là bạn của Giêsu (c. 14).
Tình bạn đối với Giêsu khiến ta có tình bạn đối với nhau.
Tình bạn ta có đối với nhau minh chứng về tình bạn ta đang có với Giêsu.
Trong đời thường, chúng ta ít có cơ hội hy sinh mạng sống cho nhau.
Nhưng chúng ta lại có rất nhiều cơ hội hy sinh những điều đáng quý khác,
như thời giờ, tiền bạc, sức khỏe, uy tín, quyền lợi, dự tính, ảnh hưởng…
Những hy sinh này đụng đến cái tôi của ta và làm ta đau nhói.
Mong các Kitô hữu biết yêu nhau để người ta biết chúng ta là ai (Ga 13, 35).
Cầu nguyện :
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng
tấm bánh để dành của con thuộc về người đói,
chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi,
tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.
Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng,
có bao điều con lãng phí
bên cạnh những Ladarô túng quẫn,
có bao điều con hưởng lợi
dựa trên nỗi đau của người khác,
có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu.
Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công
chẳng ở đâu xa.
Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con.
Con phải chịu trách nhiệm
về cảnh nghèo trong xã hội.
Lạy Cha chí nhân,
vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó
là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.
Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt,
vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.
Thế giới còn nhiều người đói nghèo
là vì chúng con giữ quá điều cần giữ.
Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu,
nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
18/05 Các con hãy ở trong tình yêu của Thầy
- Viết bởi Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Thứ Năm tuần 5 Phục Sinh.
"Các con hãy ở trong tình yêu của Thầy, để niềm vui của các con được trọn vẹn".
Lời Chúa: Ga 15, 9-11
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến các con. Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy. Nếu các con tuân giữ lệnh Thầy truyền, các con sẽ ở trong tình yêu của Thầy, cũng như Thầy đã giữ lệnh truyền của Cha Thầy, nên Thầy ở lại trong tình yêu của Người. Thầy nói với các con điều đó, để niềm vui của Thầy ở trong các con, và niềm vui của các con được trọn vẹn".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV)
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Niềm vui được trọn vẹn
Chúng ta tiếp tục những tâm sự của Chúa Giêsu trao gửi cho chúng ta sau khi đã cùng nhau suy nghĩ về hình ảnh cây nho và cành nho mà Ngài đã dùng để kêu gọi chúng ta gắn bó với Ngài nơi Tin Mừng hôm qua. Hôm nay cũng vậy, Chúa Giêsu muốn chúng ta noi gương Ngài như Ngài đã giữ luật truyền của Chúa Cha và ở lại trong Chúa Cha, thì chúng ta cũng hãy giữ luật truyền của Ngài để được ở trong Ngài. Chính vì được ở trong nhau như thế đã làm nên niềm vui và niềm vui của chúng ta được trọn vẹn vì tất cả chúng ta đều có Thiên Chúa ở với mình. Thiên Chúa có niềm vui hoàn hảo, niềm vui viên mãn, niềm vui tràn đầy cho tất cả những ai yêu mến và ở trong Ngài.
Những lời của Chúa Giêsu mời gọi các đồ đệ hãy suy nghĩ nghiêm chỉnh về thái độ sống của mình. Mỗi đồ đệ Chúa đã được chọn, được huấn luyện sống tình thương theo mẫu gương của Chúa. Từ thế hệ này sang thế hệ khác, lời Chúa luôn mời gọi, khuyến khích, và ân sủng không thiếu cho những ai cầu xin để được nâng đỡ.
Lạy Chúa, xin thương giúp mỗi người chúng con chừa bỏ khuyết điểm của mình. Xin cho chúng con mỗi ngày một sống tình yêu thương của Chúa nhiều hơn. Xin thương ban cho toàn thể Giáo Hội Chúa ơn hiệp nhất và bình an.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Yêu mến và vâng phục
Mới đây, nhân kỷ niệm 50 năm ngày thế chiến thứ II chấm dứt, Đức Gioan Phaolô đã mạnh mẽ kết án các ý thức hệ độc tài và kêu gọi thế giới rút ra bài học từ cuộc chiến dã man ấy. Ngài mời gọi mọi người hướng nhìn về bao nhiêu trại tập trung trên thế giới, đó là biểu trưng của những hậu quả tàn khốc do các ý thức hệ độc tài.
Nhân loại có lẽ vẫn chưa học được bài học từ thế chiến thứ hai. Ngày nay nhiều cuộc xung đột đẫm máu vẫn còn xâu xé nhiều miền trên thế giới. Đức thánh cha đặc biệt kêu gọi giới trẻ hãy từ bỏ những ý thức hệ bạo động, những hình thức chủ nghĩa quốc gia quá khích và những hình thức bất khoan dung, vì đó là con đường dẫn đến chiến tranh. Lời kêu gọi của Đức Thánh Cha tựu trung là một lời kêu gọi học sống yêu thương.
Tin mừng hôm nay là một bài học về yêu thương. Lý luận của Chúa Giêsu thật rõ ràng: Chúa Cha đã yêu mến Chúa Con, Chúa Con đã ở trong tình yêu này bằng cách tuân giữ giới răn của Chúa Cha. Nhưng Chúa Con cũng đã yêu thương các môn đệ bằng chính tình yêu này và các môn đệ cũng có thể ở lại trong tình yêu này bằng cách tuân giữ giới răn của Chúa Con. Như vậy đối với Chúa Con: yêu thương và vâng phục là một. Chúa Con yêu mến Chúa Cha bằng cách tuân giữ giới răn của Ngài, các môn đệ cũng phải yêu mến Chua Con bằng cách tuân giữ giới răn của Ngài. Do đó yêu thương thật sự và trọn hảo là sẵn sàng hy sinh quan điểm của mình để tin tưởng người khác, nhưng không phải do sợ hãi hoặc tính toán, mà là để làm theo ý muốn và ước nguyện của người mình yêu. Không có sự kết hợp của hai ý muốn, tình yêu sẽ không bao giờ được trọn vẹn. Sự tuân phục lẫn nhau là tiêu chuẩn đích thực của một tình yêu trưởng thành.
Xét cho cùng, một tình yêu đích thực đòi hỏi phải chấp nhận và tôn trọng sự khác biệt của người khác. Đó cũng là nền tảng của một xã hội tốt đẹp. Giềng mối của mọi đố kỵ, chia rẽ dẫn đến bạo động, hận thù và chiến tranh chính là thái độ bất khoan dung. Khi không chấp nhận để người khác có một suy nghĩ khác với mình, một niềm tin và một cách sống khác với mình, người ta sẽ tìm cách hạn chế tự do hoặc loại trừ người khác.
Hãy thay đổi tâm lòng, hãy mang lấy một quả tim mới, một quả tim biết yêu thương, biết tôn trọng phẩm giá và tự do của người khác, đó là điều mà chúng ta phải cầu xin trong cuộc sống mỗi ngày.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Vui lên: Thiên Chúa yêu anh em
Những lời của Đức Giêsu là một mặc khải đem lại vui mừng cho chúng ta: “Thầy đã nói với anh em để niềm vui của Thầy ở trong anh em, và niềm vui của anh em được đầy tràn”. Thường thường mặc khải cho thấy chúng ta là bạn của Thiên Chúa, được Thiên Chúa yêu thương, không phải để mang hạnh phúc đến cho chúng ta. Tin mừng chỉ trao cho ta một tấm vé nhỏ in câu: “Cười đi Chúa yêu bạn đấy”, rồi lại để cho chúng ta rơi vào buồn chán, buồn tủi.
Thế là khiến ta mỉm cười … một nụ cười chế diễu, ngây ngô, vô hạn. Tình yêu Thiên Chúa đem lại cho chúng ta có vẻ vô ích, hư thực, dường như tình yêu trong tiểu thuyết nực mùi nước hoa hồng.
Chúng ta bị cản trở khi tìm hiểu thực chất của tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta, bởi vì chúng ta không thấu triệt được, không kết hợp được với tình yêu Thiên Chúa, dù có cố gắng tìm tòi với bao mồ hôi, với những lý sự vụn vặt và công sức mạo hiểm. Cho dù có những ông bác học, ông Mỹ, ông Pháp tài giỏi đến đâu muốn giúp chúng ta hiểu thấu tình yêu Thiên Chúa, thì tình yêu đó vẫn quá xa ta, vẫn vô nghĩa và chẳng giúp được gì.
Tình yêu của Thiên Chúa được thấu hiểu tường tận, tình yêu mà Chúa Cha ban cho ta, sẽ trở nên nguồn vui vô tận. Bởi vì đây là tình yêu bác ái giúp chúng ta đi tới kết hợp với Thiên Chúa trong sự toàn thiện bản tính loài người chúng ta, dẫn chúng ta đến kết quả mỹ mãn, làm chúng ta hoàn hảo trọn vẹn.
Nếu chúng ta hiểu được mặc khải mà Thiên Chúa đã kêu gọi chúng ta nên bạn hữu của Ngài, tham dự vào gia nghiệp của Ngài, chúng ta sẽ càng hy vọng trở nên tốt hơn, hạnh phúc hơn, lúc đó chúng ta sẽ trung thành hơn với tình yêu của Thiên Chúa.
Tới lúc đó, những khô khan và nghi ngờ sẽ chấm dứt và chúng ta sẽ vui mừng xưng hô lên rằng: Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Tình yêu này trở thành sinh lực dồi dào và gắn bó chặt chẽ Thiên Chúa với chúng ta. Lúc đó niềm vui của chúng ta được trọn vẹn.
C.G
Suy niệm 4:
Kitô giáo gắn liền với thánh giá.
Kitô hữu suy tôn thánh giá, hôn kính thánh giá.
Thánh giá không chỉ có mặt trong nhà thờ hay trên các đồ thánh,
mà còn đi suốt hành trình cuộc đời của một tín hữu,
từ giếng nước rửa tội đến khi ra nghĩa trang.
Thánh giá nhắc cho ta về một cái chết khủng khiếp và bi đát,
nhưng đời Kitô hữu lại không bao giờ là cuộc đời buồn.
Ngược lại, niềm vui tươi tắn là nét đặc trưng của Kitô giáo.
Trước khi bước vào cái chết, Đức Giêsu đã nói về niềm vui của mình:
“Thầy đã nói với anh em những điều ấy,
để niềm vui của Thầy ở trong anh em,
và để niềm vui của anh em được trọn vẹn” (c. 11).
Trong Tin Mừng Gioan ba lần Thầy Giêsu nói đến niềm vui trọn vẹn.
“Con nói những điều này lúc còn ở thế gian
để họ được hưởng niềm vui trọn vẹn của con” (Ga 17,13).
Thầy Giêsu còn thúc giục các môn đệ hãy xin Cha nhân danh Thầy:
“Cứ xin đi, anh em sẽ được,
để niềm vui của anh em nên trọn vẹn” (Ga 16, 24).
Rõ ràng Thầy Giêsu quan tâm đến niềm vui nơi tâm hồn người môn đệ.
Niềm vui của họ bắt nguồn từ niềm vui sâu kín trong lòng Thầy.
Thầy Giêsu tặng cho họ niềm vui của chính mình,
và Ngài muốn niềm vui đó phải được trọn vẹn ngay từ đời này,
bất chấp mọi đe dọa, bách hại, hiểm nguy, thống khổ.
Nỗi buồn và khóc than của thập giá rồi sẽ đến,
“nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui” (Ga 16, 20).
Thầy Giêsu là người có niềm vui trong tâm hồn,
vì Thầy luôn ở lại trong tình yêu của Chúa Cha, Đấng sai Thầy.
Để được ở lại trong hạnh phúc của tình yêu ấy,
Thầy đã một mực tuân giữ các lệnh truyền của Cha (c. 10b).
Thầy Giêsu cũng mong các môn đệ giữ các lệnh truyền của Thầy,
để họ được ở lại trong tình yêu của Thầy (c. 10a).
Vì lệnh truyền của Thầy Giêsu là lệnh truyền Thầy nhận từ Cha,
nên ai giữ lệnh Thầy truyền
cũng được hạnh phúc ở lại trong tình yêu của Cha và Con.
Con người hôm nay khao khát một niềm vui trọn vẹn.
Và con người tưởng mình có thể tìm được
bằng việc thỏa mãn những đòi hỏi ích kỷ của mình.
Nhưng tiếc thay khoái lạc vô độ chỉ đem lại sự buồn chán và nô lệ.
Chỉ tình yêu biết trao đi mới đem lại niềm vui chân thật và lâu bền.
Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy Giêsu!
Hãy tuân giữ các lệnh truyền của Thầy!
Lệnh truyền lớn nhất là yêu thương như Thầy đã yêu.
Rồi chúng ta sẽ nếm được thứ niềm vui khôn tả của thiên quốc
ngay trong cuộc sống đầy nước mắt ở đời này.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
các sách Tin Mừng chẳng khi nào nói Chúa cười,
nhưng chúng con tin Chúa vẫn cười
khi thấy các trẻ em quấn quýt bên Chúa.
Chúa vẫn cười khi hồn nhiên ăn uống với các tội nhân.
Chúa đã cố giấu nụ cười trước hai môn đệ Emmau
khi Chúa giả vờ muốn đi xa hơn nữa.
Nụ cười của Chúa đi đôi với Tin Mừng Chúa giảng.
Nụ cười ấy hòa với niềm vui
của người được lành bệnh.
Lạy Chúa Giêsu,
có những niềm vui
Chúa muốn trao cho chúng con hôm nay,
có sự bình an sâu lắng Chúa muốn để lại.
Xin dạy chúng con biết tươi cười,
cả khi cuộc đời chẳng mỉm cười với chúng con.
Xin cho chúng con biết mến yêu cuộc sống,
dù không phải tất cả đều màu hồng.
Chúng con luôn có lý do để lo âu và chán nản,
nhưng xin đừng để nụ cười tắt trên môi chúng con.
Ước gì chúng con cảm thấy hạnh phúc,
vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương
và được sai đi thông truyền tình thương ấy. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
17/05 Sự kết hiệp thâm sâu
- Viết bởi Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Sự kết hiệp thâm sâu.
Thứ Tư tuần 5 Phục Sinh.
"Ai ở trong Thầy, và Thầy ở trong người ấy, kẻ ấy sẽ sinh nhiều trái".
Lời Chúa: Ga 15, 1-8
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho. Nhành nào trong Thầy không sinh trái thì Người chặt đi, còn nhành nào trong Thầy không sinh trái thì Người chặt đi, còn nhành nào sinh trái thì Người tỉa sạch để nó sai trái hơn. Các con đã được tỉa sạch nhờ lời Thầy đã nói với các con. Các con ở trong Thầy, và Thầy ở trong các con. Cũng như nhành nho tự nó không thể sinh trái được, nếu không dính liền với cây nho; các con cũng vậy, nếu không ở trong Thầy.
"Thầy là cây nho, các con là nhành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, kẻ ấy sẽ sinh nhiều trái, vì không có Thầy, các con không thể làm được gì. Ai không ở trong Thầy, thì bị vứt ra ngoài như nhành nho, và sẽ khô héo, người ta sẽ thu lại, quăng vào lửa cho nó cháy đi.
"Nếu các con ở trong Thầy, và lời Thầy ở trong các con, thì các con muốn gì, cứ xin, và sẽ được. Đây là điều làm Cha Thầy được vinh hiển là các con sinh nhiều trái, và như thế các con trở nên môn đệ của Thầy".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV)
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Sự kết hiệp thâm sâu
Nền văn minh kỹ thuật làm phát sinh nơi con người một não trạng kiện toàn duy vật. Người ta đánh giá con người với những tiêu chuẩn của sự sản xuất và hiệu năng. Con người được nhìn qua lăng kính của những sản xuất và chiếm hữu vật chất, như đồng lương, cái nhà, chiếc xe. Não trạng ấy không chừng áp dụng vào việc đánh giá sự sống còn của xã hội. Hình ảnh của những cành nho phải sinh trái trong Tin Mừng hôm nay phải chăng không củng cố cho cái nhìn ấy. Phải chăng một Giáo Hội có sức sống không là một giáo hội có nhiều tín hữu, có nhiều cơ sở vật chất, có nhiều hội dòng, có nhiều phong trào, có nhiều hoạt động và nhất là có nhiều quan hệ tốt với thế quyền.
Thật ra, người ta không thể đánh giá về sự sống bằng số lượng. Những con số không thể nói hết về một thực tại vô cùng thâm sâu về huyền nhiệm và sự sống, nhất là sự sống của Giáo Hội. Người ta không thể đo lường sự sống của Giáo Hội bằng hiệu năng và những con số. Trong Giáo Hội, không ai có thể đi tìm hiệu năng bằng những phương pháp và các phương tiện riêng của mình. Ðể trở nên phong phú trong Giáo Hội, cần phải chấp nhận hai điều kiện được chính Chúa Giêsu đưa ra: một là ở lại trong Ngài, hai là chịu cắt tỉa. Ở lại trong Ngài, với kiểu nói này, Chúa Giêsu muốn nói đến sự kết hiệp thâm sâu giữa Ngài và Giáo Hội.
Nếu Giáo Hội tìm cách thay thế sự kết hiệp thâm sâu này bằng những cố gắng liên kết với quyền bính thế trần, Giáo Hội có thể có một chỗ đứng thế giá trong trần thế, Giáo Hội có thể mua được nhiều đặc ân đặc quyền hay bất cứ một dễ dãi nào mà thế quyền có thể ban tặng. Nhưng một khi đã sống bên ngoài sự sống của Chúa Giêsu, Giáo Hội chỉ còn là những cành nho khô héo. Những thành quả đạt được bằng sự liên kết, thỏa hiệp với quyền bính sẽ chỉ là những trái trăng héo úa, nếu ở lại trong Chúa Giêsu, Giáo Hội cũng phải chấp nhận bị cắt tỉa. Sức sống và sự phong phú đích thực của Giáo Hội lúc đó sẽ không phải là những con số của những gì có thể đếm được mà chính là những mất mát, thử thách, bách hại, những chướng ngại thập giá. Sức sống của Giáo Hội được thể hiện trước tiên qua những cắt tỉa ấy.
Thánh Phaolô là hiện thân của một sức sống như thế, Ngài đã phải chịu cắt tỉa ngay trong cộng đoàn Giêrusalem. Ngài bị cô lập và nhìn với con mắt nghi ngờ. Ngài bị xem như một con người nguy hiểm gieo rắc những tư tưởng đe dọa những giá trị được củng cố, đảo lộn những cái khoen đã cắm rễ sâu, phá hoại sự an toàn có sẵn. Suốt một cuộc đời ra đi không ngừng, thánh nhân là đối tượng của không biết bao nhiêu bách hại, nhưng Ngài không sống theo luận lý của con người. Thập giá là một hiếu kỳ đối với người Do Thái và là một điều ngu xuẩn đối với người Hy Lạp, nhưng với ngài, nó sẽ là khôn ngoan và sức mạnh của Thiên Chúa. Với ngài, người chỉ biết có một Chúa Kitô chịu đóng đinh, "sống" là chính Chúa Kitô. Mất mát, khổ đau, thử thách, thập giá là chìa khóa để đọc được ý nghĩa và sự phong phú đích thực của Giáo Hội, nó cũng là chìa khóa để nhìn vào những bách hại và thử thách mà một số tín hữu Kitô đang phải trải qua trong cuộc sống của mình.
Nguyện xin Chúa Kitô Phục Sinh nâng đỡ các tín hữu Kitô để họ trở thành đuốc sáng cho mọi người trong giai đoạn hiện nay.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Để sinh nhiều hoa trái
Dụ ngôn cây nho là một phần của bài nói sau bữa tiệc ly. Tin mừng thánh Gio-an đã ngăn chặn sự xa lìa của những kẻ theo Người, có thể vì cái chết trên thập giá của Người hay khi Người lên trời. Người cho họ thấy về sự sống của Người là sự sống cho những kẻ còn hiệp thông với Người, như nhựa cây là sức sống từ thân cây tới những cành, sự sống đó sinh nhiều hoa trái. Điều kiện “ở lại trong Thầy” không phải hiểu như trong hộp kín, dưới sự che chở cô độc, nhưng ở trong một năng lực lớn mạnh. Những cành từ chối không tiếp nhận phát triển, không đáp ứng với nhựa sống vươn lên, sẽ gặp nguy cơ chết khô. Cuộc tranh đấu để sống chỉ nguy hiểm đối với những cành tự tách mình lìa khỏi cây. Người ta gọi nó là tội.
Bao lâu còn nhựa sống lưu thông, bấy lâu sự chết vẫn không đột nhập được.
Trong thời đại chúng ta, thuyết đa dạng là một gương mù thường xuyên. Người ta dễ dàng theo lối sống khô khan, tà giáo và cả vô tín ngưỡng. Phụng vụ khác nhau biết bao từ xứ này qua xứ khác, một linh mục tự diễn cách tự do một số công thức đã xưa rồi. Biết bao tín hữu cố chấp phản đối những cơ cấu tổ chức, đi tới chỗ chỉ trích gay gắt và bi quan, như nói: “Giáo hội đi theo quỷ”.
Không, Giáo hội sẽ tiến theo đường lối của mình băng qua một thế giới và một thời đại đầy khó khăn, như cành cây nho bò leo xoắn xít để đeo bám những đường quanh co của lâu đài và phát sinh ra những đường nét trang trí cho ngôi nhà khô khan bằng những mầu sắc xanh tươi sống động. Đức tin không bảo thủ như những chùm nho đông đặc khô cứng, nhưng sống động nhờ giá trị chiến đấu, nơi người quyết chí hiệp nhất với Đức Kitô. “Ở lại trong Thầy” không phải ẩn mình, khép kín, che thân, nhưng chính là biểu dương sức sống Người đã thông ban cho chúng ta để sinh nhiều hoa trái. Những cây nho sẽ bị ném vào lửa là những cành sợ khô không tiến lên, không leo lên …
Cây nho dẫn chúng ta đến trước chén rượu nho mà linh mục dâng lên và thánh hiến trên bàn thờ. Nó đã bằng lòng đổ nước ra khi chịu gieo xuống đất, chịu cắt tỉa, chịu gặt hái, chịu ép nén đến cùng cực để cho chúng ta có rượu lễ hôm nay. Người tín hữu chúng ta đã sẵn sàng mạo hiểm bắt tay vào việc, liều mạng tới đâu? Chúng ta xum họp quanh bàn thờ để uống với tâm tình ích kỷ hay đón nhận nhựa sống làm cho mình và mọi người lớn lên trong nước trời không?
L.P
SUY NIỆM 3: Hệ quả của sự cắt tỉa
Có một dạo phong trào trồng nho đã nở rộ tại một số tỉnh dọc theo duyên hải miền Trung. Cây nho không còn là một thứ cây xa lạ đối với nhiều người Việt Nam nữa. Cây có trái là chuyện thường, nhưng cây phải bị cắt tỉa mới có thể đâm chồi, trổ hoa và sinh trái, đó là hình ảnh đặc trưng của cây nho. Thật thế, với đôi mắt không chuyên môn, khi nhìn vào thân nho bị cắt tỉa, có lẽ ai cũng phải xót xa, có lẽ người ta sẽ nhìn vào người trồng nho như một con người nhẫn tâm, vì người trồng nho xem ra cắt tỉa cây nho không chút tiếc xót. Nhưng chỉ trong một thời gian ngắn sau đó, người ta sẽ ngạc nhiên khi nhìn thấy từ những cành trơ trụi những mần non nhú ra và hoa cũng bắt đầu xuất hiện.
Chúa Giêsu đã dùng rất nhiều hình ảnh để nói về những thực tại Nước Trời. Nhưng trong các hình ảnh ấy, cây nho hẳn phải chiếm một chỗ ưu việt: ưu việt vì cây nho là giống cây phổ thông nhất của miền Palestina, ưu việt vì trong Cựu ước cây nho vốn được xem là biểu trưng của dân riêng. Nhưng như các tiên tri đã nhiều lần lên tiếng tố cáo: thay vì sản xuất rượu ngon, cây nho Israel chỉ mang lại thứ rượu đắng của bất trung và phản bội. Tiếp tục truyền thống tiên tri, Chua Giêsu cũng lấy lại hình ảnh cây nho, nhưng cây nho chính là Ngài. Lòng tín trung mà Thiên Chúa hằng chờ đợi nơi Israel nay Ngài đã tìm thấy nơi cây nho đích thực là Chúa Giêsu. Một giao ước mới phát sinh, bởi vì lòng trung tín của Chua Giêsu được diễn ta trong sự vâng phục và vâng phục cho đến chết trên Thập giá, không phải là cố gắng thuần túy của con người, mà chính là lòng thủy chung của Con Thiên Chúa trong chừng mực của con người. Cây nho của giao ước mới mang lại những trái trăng xum xuê có tên là tình yêu. Đó là kết quả của sự cắt tỉa: cây nho không thể sinh hoa kết trái nếu không bị cắt tỉa, tình yêu sẽ không là tình yêu đích thực và phong phú nếu không được cắt tỉa khỏi những ngọn ngành thừa thãi của ích kỷ.
Giáo Hội – Israel mới chính là cây nho của Chúa. Lịch sử cho thấy có lúc xem ra Giáo Hội bị cắt tỉa một cách tàn nhẫn, nhưng cũng chính những lúc đó Giáo Hội mang lại nhiều hoa trái hơn cả. Những cuộc bách hại đẫm máu lại là những cắt tỉa làm cho Giáo Hội sinh được nhiều hoa trái nhất. Đó là cái nhìn chúng ta phải có để nhìn vào Giáo Hội: sức sống của Giáo Hội có khi không chỉ được nhìn thấy và đánh giá qua những biểu giương bên ngoài, hoa trái của Giáo Hội có khi không phải là một chút dễ dãi đạt được do một sự thỏa hiệp nào đó. Giáo Hội chỉ có thể mang lại hoa trái đích thực khi chấp nhận được cắt tỉa khỏi những phù phiếm rườm rà của thế tục. Cơ cấu hữu hình có thể bị phá vỡ, cơ sở vật chất có thể bị cướp mất, những quyền cơ bản nhất gắn liền với tư do tôn giáo có thể bị tước đoạt, đôi tay hoạt động có thể bị khóa chặt: đó có thể là những cắt tỉa cần thiết để cây nho Giáo Hội trổ sinh hoa trái dồi dào.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn vào Giáo Hội và cuộc sống đức tin của chúng ta với một cái nhìn bình thản và tin tưởng. Mỗi kitô hữu là một ngành nho gắn liền với cây nho là chính Chua Giêsu. Để được gắn liền với Ngài và trổ sinh hoa trái chúng ta không thể không chịu cắt tỉa khỏi những gì nghịch với Tin mừng và cốt lõi của Tin mừng là tình yêu. Sự cắt tỉa nào cũng làm chúng ta đau đớn, mất mát nào cũng làm chúng ta tiếc xót, nhưng vì đã được sống theo Tin mừng, chúng ta hãy xem như một lợi lộc cao quí nhất khi bị cắt tỉa và mất mát. Hoa trái phát sinh từ những cắt tỉa và mất mát ấy sẽ mãi mãi tồn tại. Vả lại ngay trong cuộc sống này, giá trị của con người không được đo lường bằng những gì nó thu tích, mà bằng chính những gì nó hy sinh và cho đi.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4:
Cây nho là một cây quen thuộc trên đất Palestin.
Người ta trồng nho để ăn trái hay làm rượu.
Đức Giêsu đã từng thấy những cây nho với những cành nho trĩu quả.
Ngài muốn dùng hình ảnh này để nói lên tương quan giữa Ngài với môn đệ.
“Thầy là cây nho, anh em là cành” (c. 5).
Cành sống được, sinh trái được, là nhờ còn gắn liền với cây.
Dòng nhựa nguyên từ cây sẽ nuôi sống cành.
Như cành không tự mình sinh trái được (c. 4),
người môn đệ cũng chẳng làm gì được nếu không gắn bó với Thầy (c. 5).
Có một lối nói đặc biệt để diễn tả sự gắn bó này: ở lại trong.
Cụm từ này được nhắc lại sáu lần như một điệp khúc (cc. 4-7).
“Anh em hãy ở lại trong Thầy”: một lời kêu mời tha thiết của trái tim.
Thầy Giêsu như xin các môn đệ đừng quay lưng trước tình yêu,
vì tình yêu cần được đáp trả mới nên trọn vẹn.
“Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em” (c. 4).
Cành nho không có tự do để chọn ở lại hay không ở lại.
Chỉ con người mới có thể tự nguyện ở lại hay cố tình từ chối.
Nhưng ở lại trong Thầy cũng có nhiều cấp độ.
Chắc chúng ta đã ở lại trong Chúa Giêsu phục sinh đến một mức nào đó.
Và cây đời của chúng ta đã sinh hoa trái ít nhiều.
Nhưng chúng ta vẫn cần ở lại hơn để có trái nhiều hơn.
Càng ở lại sâu, càng có trái nhiều, trái ngon, trái tồn tại mãi (cc. 5.8.16).
Trái tỷ lệ thuận với việc chúng ta ở lại trong Chúa.
Nét đặc sắc làm nên đời người Kitô hữu chính là chuyện của cây và cành.
Cây và cành cùng sẻ chia một dòng nhựa sống.
Kitô hữu không chỉ sống với Giêsu, sống như Giêsu, sống cho Giêsu,
mà còn sống trong Giêsu, sống sự sống của Chúa Giêsu phục sinh.
Chưa sống trong Giêsu, chưa thực sự là Kitô hữu.
Chúng ta cũng không quên vai trò của Thiên Chúa Cha người trồng nho.
Cây nho Giêsu được Cha vun trồng chăm bón.
Các cành nho không sinh trái thì bị Cha chặt đi.
Các cành đã sinh trái thì được Cha cắt tỉa để sinh trái hơn (c. 2).
Cha cắt tỉa không vì độc ác, nhưng vì yêu, vì muốn điều tốt hơn cho cành nho.
Chữ hơn giúp chúng ta hiểu được những cắt tỉa đau đớn trong đời mình.
Có thể nói chính Đức Giêsu cũng đã được Cha cắt tỉa
qua khổ đau, nhục nhã và cái chết kinh hoàng.
Không phải vì Ngài chưa thanh sạch, nhưng để Ngài giống và gần ta hơn.
“Điều làm Cha được tôn vinh là anh em sinh trái nhiều” (c. 8).
Vinh quang của Cha không nghịch với sự triển nở thật sự của con người.
Sự èo uột, cằn cỗi của chúng ta mới là nỗi nhục cho Thiên Chúa.
Hãy sinh trái nhiều nhờ chấp nhận những cắt tỉa của Cha qua lời của Giêsu.
Cầu nguyện :
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con cần có Chúa hiện diện
để con khỏi quên Chúa.
Chúa thấy con dễ bỏ Chúa biết chừng nào.
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con yếu đuối,
con cần Chúa đỡ nâng để con khỏi ngã quỵ.
Không có Chúa,
con đâu còn nồng nhiệt hăng say.
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn,
cuộc đời qua đi, vĩnh cửu gần đến.
Con cần được thêm sức mạnh
để khỏi ngừng lại dọc đường.
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con cần Chúa trong đêm tối cuộc đời.
Con không dám xin những ơn siêu phàm,
chỉ xin ơn được Ngài hiện diện.
Xin ở lại với con
vì con chỉ tìm Chúa, yêu Chúa
và không đòi phần thưởng nào khác
ngoài việc được yêu Chúa hơn. Amen.
(Cha Piô)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
16/05 Thầy ban bình an của Thầy cho các con
- Viết bởi Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Thứ Ba tuần 5 Phục Sinh.
"Thầy ban bình an của Thầy cho các con".
Lời Chúa: Ga 14, 27-31a
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng. Lòng các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi. Các con đã nghe Thầy nói với các con rằng: Thầy đi, rồi Thầy sẽ trở lại với các con. Nếu các con yêu mến Thầy, thì các con hãy vui mừng vì Thầy về với Cha, bởi lẽ Cha trọng hơn Thầy. Giờ đây Thầy nói với các con trước khi việc xảy ra, để khi việc xảy ra, thì các con tin. Thầy không còn nói nhiều với các con nữa, vì thủ lãnh thế gian đã đến. Nó không có quyền lực gì đối với Thầy. Nhưng để cho thế gian biết rằng Thầy yêu mến Cha, thì Thầy làm như Cha đã truyền dạy".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV)
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Hiệp nhất và bình an
Các môn đệ ngày xưa đã được nghe Chúa Giêsu chia sẻ tâm tình của Ngài khi Ngài cùng với các ông ngồi bên cạnh nhau trong bữa tiệc ly. Chúng ta cũng đã nghe lại những lời thân thương đó mỗi khi chúng ta cùng với Ngài và với nhau dâng Thánh Lễ. Giáo Hội đặt để những lời thân thương ấy sau kinh Lạy Cha và trước khi chúng ta đón nhận Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Chúng ta chứng minh được bao bọc trong bình an của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, nhất là chúng ta đã dọn lòng mình đủ để có Chúa ngự trong lòng chúng ta.
Dĩ nhiên, Chúa Giêsu thực sự tin rằng Thiên Chúa qua Chúa Giêsu Kitô không chấp nhất gì tội lỗi của chúng ta mà dựa trên đức tin của Giáo Hội, của cộng đoàn dân Chúa đã ban cho chúng ta, cho Giáo Hội được ơn hiệp nhất và bình an. Chắc chắn là Giáo Hội rất rõ điều Chúa Giêsu nói với các môn đệ: "Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng". Và chúng ta cũng phải hiểu được điều đó để hân hoan với bình an mà Chúa ban cho chúng ta. Thế gian là gì trong nhãn quan của thánh Gioan.
Thế gian là ma quỉ, là mãnh lực của ma quỉ, là thế giới của ma quỉ, là tất cả những con người và những sinh hoạt đồng lõa với ma quỉ. Bình an của thế gian này ban tặng là bình an có được do vũ lực, do đàn áp, do chiến tranh, do mưu mô xảo quyệt, do tội ác, do chiếm đoạt và đe dọa, mong manh biết bao sự bình an tạm bợ này, chỉ cần một vài thay đổi rất ư là đơn giản thì cũng đủ để cho người ta mất đi bình an và lại rơi vào hoảng sợ, vào dằn vặt. Ma quỉ và đồng lõa của ma quỉ vốn dĩ rất quen thuộc với chiến lược trở mặt như trở bàn tay, và vì thế không ít những người trở thành nạn nhân của sự bình an do chúng tạo nên. Còn bình an của Chúa ban cho lại là sự bình an của những người được tha thứ tất cả. Bình an của một con người thấy thanh thản trong thân xác và nhẹ nhàng trong tâm hồn. Bình an của một cuộc đời có Thiên Chúa. Sự bình an bất chấp những khó khăn, bất chấp mọi thử thách. Sự bình an của một con người không thấy hổ thẹn gì khi ngước mắt nhìn lên trời, đưa mắt nhìn chung quanh và nhắm mắt lại nhìn vào chính mình.
Lạy Cha chí thánh, là con người ai cũng khao khát bình an và có rất nhiều người thấy hãnh diện vì sự an toàn nhất thời họ có được ở trần gian này, khi họ dựa cậy vào quyền lực hoặc là do một con người hay của một nhóm người, thực tế cho thấy bình an ấy quá mong manh. Các con cảm tạ Cha vì sự bình an ban cho chúng con qua Chúa Giêsu và với tác động của Chúa Thánh Thần. Sự bình an của Ðấng bị bắt, bị tra tấn, bị bỏ mặc, bị coi là điên khùng và bị treo lên giữa những tử tội trộm cướp, ngày thứ ba Ngài đã sống lại. Chúng ta thật hạnh phúc vì có được sự bình an ấy.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Thầy để lại bình an
“Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban bình an cho anh em”. Các bạn hãy suy nghĩ xem những lời chúc đó có ý nghĩa gì? Có phải như những lời chúc đầu năm mới, chúc Giáng sinh, chúc Phục sinh hay những ngày lễ kỷ niệm? Đó là kiểu chào, không còn gì hơn nữa sao? Nếu như thế, chúng ta chưa hiểu rõ những lời của Chúa. Ơn bình an của Chúa không phải như món quà gói gọn im lìm. Ơn bình an là sức mạnh hoạt động mạnh mẽ, nghĩa là: Thầy ban cho anh em sức mạnh bình an của Thầy, Thầy ban cho anh em sức hoạt động bình an của Thầy. Anh em sẽ làm chứng và sống thực hiện sự hòa giải, hòa hợp để đem lại bình an. “Phúc cho ai hoạt động cho bình an”.
Nhưng người ta có thể trách Chúa rằng: Ngài trao trách nhiệm hòa bình cho chúng tôi, Ngài bắt chúng tôi thừa kế và ban phát hòa bình, còn Ngài lại ra đi, Ngài để lại cho chúng tôi lời cam kết ban hòa bình. “Thầy sẽ ra đi”.
Sự ra đi của Đức Giêsu, sự xa cách của Người là để thực hiện một sự hiện diện thiêng liêng có mặt ở khắp mọi nơi, cho hết mọi người. Ơn bình an của Người là một cách Đức Giêsu tiếp tục với chúng ta thực hiện công cuộc cứu độ của Người.
Ngài ở với chúng ta bằng cách hiện diện thiêng liêng này, còn có ý tôn trọng tự do của chúng ta. Người hành động nơi chúng ta như cha mẹ đối với con cái, từ từ trao trách nhiệm và tự do cho con cái. Chúng xa cha mẹ mà vẫn được cha mẹ nâng đỡ, chở che và yêu mến.
Mỗi buổi họp các tín hữu, mỗi lúc dự Thánh lễ, Đức Giêsu đều ban bình an cho chúng ta. Người không áp đặt chúng ta nhận bình an, nhưng Người chỉ cho chúng ta thấy rằng sự hiện diện của Người ở trần gian tùy thuộc vào sự nhiệt tâm hăng hái của chúng ta, ra công xây đắp hòa bình. Sự biểu dương của hoàng tử hòa bình được chiếu sáng qua những cuộc hòa giải tốt của chúng ta, và qua những tấm lòng khoan dung tha thứ mau lẹ của chúng ta.
C.G
SUY NIỆM 3: Hòa bình của Đức Kitô
“Bất thần tôi cảm thấy xao xuyến lo âu khi nghĩ đến những người Công giáo Đức. Tôi không biết họ cảm nghĩ thế nào, khi chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh. Tôi cảm thấy nhu cầu cần phải dâng việc rước lễ để cầu nguyện cho nước Đức. Tôi hiểu rằng chúng ta cần phải cầu nguyện cho sự canh tân luân lý và tinh thần của xứ sở đã từng sống dưới sự cai trị của Đức Quốc Xã”.
Những dòng tâm sự trên đây được trích từ Nhật ký thiêng liêng của một người đàn bà Pháp được xem là người đã khởi xướng phong trào Pax christi – Hòa bình của Chúa Kitô. Sinh trưởng trong một gia đình trưởng giả, nhưng bà Marc đã có một đức tin sốn động và nhiệt thành. Trong thời Đức Quốc Xã chiếm đóng Pháp, dưới sự hướng dẫn của cha linh hướng, bà đã bắt đầu viết nhật ký thiêng liêng và chính những trang nhật ký này đã làm phát sinh một phong trào về sau được gọi là “Hòa bình của Chúa Kitô”. Cuối năm 1944, vào giữa lúc thế chiến thứ hai còn sôi động, bà xác tín rằng cần phải cầu nguyện cho sự hoán cải của nước Đức. Ý tưởng này không được nhiều người đón nhận, bởi vì chiến tranh vẫn còn sôi sục và người ta khó chấp nhận tinh thần hòa giải. Tuy nhiên, bà vẫn kiên trì trong việc thành lập một phong trào cầu nguyện cho nước Đức được ơn trở lại. Sau khi nước Đức đầu hàng, phong trào đã lan rộng tại nhiều nước Âu châu. Ngoài mục đích cầu nguyện và gây ý thức về hòa bình, phong trào còn đưa ra những sáng kiến về hòa bình. Từ 50 năm qua, đóng góp lớn lao nhất của phong trào này không chỉ là cổ võ cho hòa bình thế giới, mà thiết yếu là làm cho thế giới hiểu được hòa bình mà Chúa Kitô mang lại cho con người.
“Hòa bình của Chúa Kitô”. Quả thực chỉ có Chua Kitô mới đem lại hòa bình đích thực cho con người. “Ta để lại bình an cho các con, Ta ban bình an của Ta cho các con”. Sự bình an mà Chua Kitô đem lại cho con người không giống như bình an hay hòa bình mà thế gian hứa hẹn. Sau thế chiến thứ II quả thực ở quy mô thế giới tiếng súng đã hầu như im bặt. Tuy nhiên lịch sử cho thấy: sau thế chiến thứ II, nhân loại vẫn chưa có hòa bình đích thực, lò thuốc súng vẫn còn đó, chiến tranh bằng những súng đạn không diễn ra giữa hai khối kình chống nhau nhưng lửa hận thù lại bùng nổ ở những nơi khác.
Hòa bình mà Chúa Kitô đem lại cho con người trước tiên và thiết yếu là bình an trong tâm hồn. Hòa bình đó, bình an đó chỉ có khi con người chiến thắng được kẻ thù khủng khiếp nhất là tính tham lam, ích kỷ, hận thù. Bom đạn có im tiếng, nhưng bao lâu lòng tham lam, ích kỷ, hận thù vẫn còn sôi sục trong tâm hồn con người, thì bấy lâu chiến tranh vẫn còn đó.
Chúa Giêsu là nguyên ủy của hòa bình. Ngài đã thực sự chiến thắng được kẻ thù căn cội và khủng khiếp ấy bằng cả cuộc sống hiến thân và hy sinh đến giọt máu cuối cùng. Chỉ Ngài mới có thể đem lại hòa bình đích thực cho nhân loại. Người kitô hữu tin như thế và họ đón nhận sức sống thần linh của Ngài để nhờ đó cũng chiến thắng được kẻ thù căn cội của hòa bình là ích kỷ, tham lam, hận thù.
Hòa bình của Chúa Kitô, đó là hồng ân cao cả mà chúng ta phải không ngừng cầu xin và đó là hòa bình mà chúng ta luôn được mời gọi thể hiện bằng cuộc sống quảng đại, yêu thương và tha thứ.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4:
Con người thời nay gần như có mọi sự.
Nhưng tiếc thay nhiều người lại không có một điều rất quan trọng,
đó là bình an ở nơi tâm hồn.
Nhiều người bị mất ngủ, căng thẳng, suy sụp, chán đời, tự tử.
Có người rơi vào tình trạng nghiện ngập, bạo hành hay trụy lạc.
Gia đình cũng chẳng bình an khi gặp cảnh xung đột, ly dị, ngoại tình.
Con người nôn nóng đi tìm bình an.
Có người tìm đến những giáo phái, liệu pháp tâm lý hay đơn giản là tập thở.
Bình an phải chăng chỉ là kết quả của cố gắng từ phía con người?
Tự sức con người có thể tạo ra bình an cho mình, gia đình và thế giới không?
Khi thấy các môn đệ xao xuyến và sợ hãi trước việc Thầy sắp ra đi,
Đức Giêsu đã nói câu mà chúng ta không ngừng lặp lại trong mỗi Thánh lễ.
“Thầy để lại bình an cho anh em.
Thầy ban cho anh em bình an của Thầy” (c. 27).
Bình an là quà tặng cao quý của Thầy Giêsu
khi Thầy sắp trở về với Cha qua cái chết thập giá (c. 28).
Bình an cũng là quà tặng của Chúa Giêsu phục sinh
khi Ngài hiện ra cho các môn đệ đang đóng cửa vì sợ hãi:
“Bình an cho anh em” (Ga 20, 19.21.26).
Như thế các môn đệ vẫn phải luôn bình an trước và sau cái chết của Thầy.
Đời sống Kitô hữu được bình an không phải vì không gặp sóng gió,
nhưng là bình an giữa những sóng gió.
“Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an.
Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó.
Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16, 33).
Bình an của chúng ta dựa trên chiến thắng của Đức Giêsu.
“Trong mọi thử thách, chúng ta toàn thắng
nhờ Đấng đã yêu chúng ta” (Rm 8, 37).
Đức Giêsu nhìn nhận thế gian có khả năng ban cho chúng ta bình an.
Nhưng Ngài phân biệt thứ bình an ấy với thứ bình an của Ngài.
Chúng ta tự hỏi mình có tìm bình an dựa trên sự vững bền mong manh
của tiền bạc, sắc đẹp, chức quyền, tài năng, tri thức không?
Sự bình an mà chúng ta nhận được và trao cho nhau trong mỗi Thánh lễ
có thật sự gây âm vang trong cuộc sống đời thường của ta không?
Cầu nguyện :
Giữa những ồn ào của đám đông,
giữa những sôi nổi của thành công
và ê chề của thất bại,
xin dành một cõi rất riêng cho Giêsu.
Giữa những đam mê quay cuồng,
giữa những khát khao thèm muốn
và những trói buộc của sợ hãi, âu lo,
xin giữ một cõi rất riêng cho Giêsu.
Giữa lúc bị cuộc đời từ khước,
giữa lúc bơ vơ đi trong đêm mênh mông,
chẳng có ai để cậy dựa,
xin trở về với cõi riêng bên Giêsu,
để một mình ở đó,
trầm lắng và bình an. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.