Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
24/07 Dấu lạ Giô-na
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Dấu lạ Giô-na.
Thứ hai tuần 16 thường niên.
"Nữ hoàng phương nam sẽ chỗi dậy lên án thế hệ này".
Lời Chúa: Mt 12, 38-42
Khi ấy, có mấy luật sĩ và biệt phái thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng tôi muốn thấy Thầy làm một dấu lạ". Người trả lời: "Thế hệ hung ác gian dâm đòi một dấu lạ! Nhưng sẽ không cho dấu lạ nào, trừ dấu lạ tiên tri Giona. Cũng như xưa tiên tri Giona ở trong bụng cá ba đêm ngày thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba đêm ngày như vậy. Tới ngày phán xét, dân thành Ninivê sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và lên án nó, vì họ đã nghe lời tiên tri Giona mà sám hối tội lỗi, nhưng đây có Ðấng cao trọng hơn Giona. Ðến ngày phán xét, nữ hoàng phương nam sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và lên án nó: vì bà từ biên thuỳ trái đất đã đến nghe lời khôn ngoan của vua Salomon, nhưng đây có Ðấng cao trọng hơn Salomon".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Dấu Chỉ Yêu Thương
Trong quyển tự thuật "Vì Danh Ta", một Mục sư người Hungari đã kể lại kinh nghiệm của ông. Bị bắt và bị chuyển từ trại này sang trại khác, vị Mục sư vẫn âm thầm rao giảng Lời Chúa cho các bạn tù. Trong 13 năm tù, ông đã giúp cho rất nhiều bạn tù được gặp gỡ Chúa. Ông đã kết thúc quyển tự thuật cũng là bài ca tuyên xưng đức tin của ông như sau:
"Trong suốt thời gian bị tù đày, tôi đã hiểu được rằng Lời Chúa đi vào tâm hồn con người dễ dàng hơn giữa những đau khổ và bách hại. Ðó là lý do cho thấy mùa gặt thiêng liêng trong các ngục tù luôn luôn dồi dào. Tôi không tự cho mình là người anh hùng, lại càng không phải là vị tử đạo. Nhưng vào lúc sống tự do, nhìn lại đằng sau, tôi có thể nói với tất cả thành thật rằng 13 năm bị tra tấn đánh đập, đói khát, 13 năm đau khổ và xa gia đình để làm mục sư cho hàng ngàn tù nhân trong các trại giam, 13 năm như thế quả thật đáng giá".
Những dòng trên đây quả là một phấn khởi cho tất cả những ai đang vì niềm tin của mình mà phải chịu bách hại và đau khổ. Những đau khổ thử thách mà các Kitô hữu phải trải qua thường là dấu chỉ cao đẹp nhất, qua đó Thiên Chúa tỏ mình cho con người.
Chúa Giêsu như muốn nói đến điều đó, khi Ngài mượn hình ảnh tiên tri Yôna để loan báo về chính cái chết của Ngài. Cũng như Yôna đã vâng phục Thiên Chúa đến rao giảng sự sám hối cho dân thành Ninivê, thì Chúa Giêsu cũng vâng phục Chúa Cha để sống kiếp con người và trở thành dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa cho con người. Qua hình ảnh Yôna để loan báo sự vâng phục cho đến chết của Ngài, Chúa Giêsu muốn nói đến con đường mạc khải của Thiên Chúa, đó là con đường tình yêu. Ngài đã tạo dựng con người theo hình ảnh Ngài, nghĩa là có tự do và biết yêu thương, cho nên Thiên Chúa đã chọn con đường yêu thương để đến với con người. Ngài đã hóa thân làm người, sống trọn vẹn kiếp người, và cuối cùng chịu chết treo trên Thập giá, tất cả để trở thành lời mời gọi đối thoại yêu thương.
Mãi mãi Thiên Chúa chỉ đến với con người qua dấu chỉ của tình yêu. Người Kitô hữu luôn được mời gọi để nhận ra những dấu chỉ yêu thương ấy trong cuộc sống của mình, không những qua những chúc lành và may mắn, mà còn qua những mất mát, khổ đau thua thiệt nữa. Nhận ra những dấu chỉ yêu thương của Thiên Chúa trong cuộc sống, người Kitô hữu cũng được mời gọi để trở thành những dấu chỉ yêu thương của Ngài cho mọi người chung quanh. Trở thành dấu chỉ yêu thương có nghĩa là chấp nhận sống vâng phục và vâng phục cho đến chết như Chúa Giêsu. Trở thành dấu chỉ yêu thương giữa tăm tối của cuộc sống, giữa đọa đày bách hại, người Kitô hữu vẫn tiếp tục chiếu sáng trong tín thác, yêu thương, phục vụ, tha thứ.
Xin cho lý tưởng chứng nhân luôn bừng sáng trong chúng ta, để dù sống trong đau khổ, thử thách, chúng ta vẫn trung thành với tình yêu Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Phép Lạ Trong Cuộc Ðời (Mt 12,38-42)
Tại sao những người kinh sư và pharisiêu cứ một mực đòi Chúa làm một dấu lạ đặc biệt, cho dẫu những phép lạ Ngài đã thực hiện trong thời đó không phải là hiếm có? Chính vì họ không có tâm hồn trong sạch và ngay thẳng. Họ đến với Chúa với thái độ ganh tỵ, quá khích, tranh giành ảnh hưởng. Vì thế, họ đã không nhận ra những phép lạ Chúa Giêsu đã làm cũng như không hiểu được ý nghĩa và giá trị của phép lạ. Những phép lạ Ngài làm chỉ nhằm ích lợi cho và vì con người, để con người nhận ra tình thương cứu độ Thiên Chúa đã và đang hoạt động, đang hiện hữu nơi một con người cụ thể với tên là Giêsu. Chính Chúa Giêsu, Ðấng cứu độ, làm cho con người được cùng nhau sống hạnh phúc và sung mãn trong Nước của Ngài.
Trong cuốn sách nổi tiếng rất quen thuộc với chúng ta có tựa đề Phép Lạ Trong Những Cái Thường Ngày, tác giả đã đưa ra những tư tưởng, những lời khuyên rất sâu sắc và thiết thực, làm mẫu mực cho những suy tư và tâm tình sống của chúng ta. Có lẽ trong chúng ta ai cũng đồng ý với ý tưởng của tác giả. Một khi chúng ta nhìn tha nhân và thế giới quanh ta với cái nhìn trong sạch, một khi đã cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời của ta, thì không có gì là không giúp chúng ta nhận ra sự quan phòng của Chúa. Chúa luôn can thiệp trong mọi giây phút của cuộc đời chúng ta. Phần chúng ta, chúng ta có sẵn sàng hay có đủ kiên nhẫn và khiêm nhường để nhận ra sự can thiệp của Ngài không. Hãy nhắm mắt lại và để tâm quan sát mọi cơ phận của ta cũng như mọi hoạt động, những chuyển động đang diễn ra trong ta và trong thế giới chúng ta đang sống, với sức sống của muôn loài thụ tạo. Từ cái to lớn vĩ đại nhất cho đến cái vi phân tử, rồi niềm tin, tư tưởng, ý nghĩ, tâm tư, tình cảm của con người, đâu đâu chúng ta cũng gặp thấy quyền năng và sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa. Tất cả những điều kỳ diệu đó là gì nếu không phải là những phép lạ trong cuộc đời ta.
Cảm tạ Chúa đã cho chúng con có phước được biết Chúa và được làm con Chúa. Chúng con biết rằng đức tin sẽ trở nên án phạt cho con nếu con để sự kiêu ngạo, tính ích kỷ thống trị con. Xin củng cố đức tin và xin ban sức mạnh của tình yêu Chúa cho chúng con, nhờ đó đức tin mà chúng con đã lãnh nhận được trổ sinh nhiều hoa trái, đem lại ơn cứu độ cho chúng con và cho tất cả mọi người, đó là phép lạ lớn nhất của cuộc đời con.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Ngài là ai?
Người đáp: “Thế hệ gian ác và ngoại tình này đòi dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ngôn sứ Gio-na. Quả vậy, ông Gio-na đã ở trong bụng kình ngư ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày đêm như vậy.” (Mt. 12, 39-40)
Những kẻ thù của Chúa Giêsu giả bộ muốn biết rõ về những bằng chứng Người có thể đưa ra để mình chứng cho sứ mạng của mình: “Thưa Thầy, chúng tôi muốn thấy Thầy làm một dấu lạ nhãn tiền trên trời.” Vẻ lịch sự của họ là hoàn toàn giả dối. Họ không đòi bằng chứng để được thuyết phục, bởi họ đã nghĩ bụng rằng Chúa Giêsu sẽ không thể làm dấu lạ ấy.
“Dấu lạ … trên trời!”
Nhóm Pha-ri-sêu hiểu “Dấu lạ” là một sự lạ lùng nhãn tiền khẳng định rõ ràng Chúa Giêsu có quyền nằng siêu việt; họ đòi phải xảy ra ở “trên trời” nơi mà mọi người ở trần gian này không thể nhìn xem mà bắt chước được. Làm như vậy họ có ý nói xa nói gần rằng những phép lạ thực hiện ở Nagiarét trước đây như cho khỏi bệnh tật, làm sống lại v.v… Vì xảy ra ở trên mặt đất nên đã có thể là do những phù phép mà có. Khi Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều lần thứ nhất, họ cũng có mặt để nêu lên sự khác biệt giữa ân huệ do Chúa Giêsu ban tặng và man na của Mô-sê “Từ trời ban xuống”
Khoa học có thể giải thích hết.
Nhóm Pha-ri-sêu lầm lạc ở chỗ là dù Chúa Giêsu có đưa ra bằng chứng về sứ mệnh của mình, thì họ vẫn có lý do trước để chống đối Người: Họ không muốn nhìn nhận Người là Đấng Mê-si-a (Thiên sai): Chẳng đời nào họ sẽ chấp nhận gia nhập “Nước Thiên Chúa” mà Người rao giảng. Họ có một quan niệm về đạo giáo hoàn toàn khác biệt: Phụng thờ Thiên Chúa Ít-ra-en là công việc của họ, nên Chúa Giêsu phải xoay quanh lợi ích tức thời của họ. Chẳng ai sẽ được là ngôn sứ nếu họ không ưng thuận. Thần trí cứng lòng tin đã không thay đổi. Thời đại chúng ta hôm nay là hôm nay cũng vậy, khoa hoc mệnh danh là độc lập thì tống trát đòi Thiên Chúa ra trước phiên họp khoáng đại của các thành viên; tại đây và chỉ ở đây, người ta mới công nhận cho Chúa được làm phép lạ mà thôi. Người ta không tìm kiếm những lý do đủ dễ tin, nghĩa là “chịu nhận đó là dấu lạ của Chúa.” Người ta thích lên án Chúa để bắt Người phải chịu nhận là bất lực bất toàn, hoặc (và đây là phán quyết biệt đãi nhất mà người ta có thể trông chờ ở những vị thẩm phán tốt) tuyên bố rằng chúng tôi còn chưa biết thiên nhiên có sức mạnh tới đâu nữa.
Chúa Giêsu không muốn cho người ta nhìn nhận Người qua những dấu lạ không phải là dấu lạ mà thường ngày Người ban cho ta trong Mầu Nhiệm Phục Sinh của Người.
Ta đón nhận Đức Giêsu là bởi chính con người của Người vậy!
J.M
Suy niệm 4
Sinh trong một gia đình người Pháp giàu có, quý phái và đạo đức,
Anh Charles de Foucauld mất đức tin từ năm 16 tuổi.
Hai năm sau Anh học ở trường sĩ quan Saint-Cyr nổi tiếng của Pháp,
đã đi thám hiểm nước Ma-rốc ở châu Phi và được huy chương vàng.
Sau thời gian đó anh đã muốn suy nghĩ về đời mình.
Đời sống đạo đức của người chị em họ đánh động Anh nhiều.
Anh đi nhà thờ dù chẳng tin gì, chỉ thích lặp đi lặp lại lời nguyện này :
“Lạy Chúa, nếu Chúa hiện hữu, thì xin làm cho con nhận biết Chúa.”
Chúa đã làm cho Anh nhận biết Ngài vào một ngày cuối tháng 10-1886.
Khi được chị họ giới thiệu với cha sở Huvelin ở Paris, anh đã xin học đạo.
Nhưng cha lại bảo anh vào tòa giải tội và xưng tội.
Anh ngần ngại, nhưng đã chấp nhận quỳ xuống,
và bất ngờ nếm được niềm vui khôn tả của người con lưu lạc trở về.
Đời Anh đã bắt đầu sang trang từ giây phút ấy.
Chúa đưa Anh trở lại không bằng những dấu lạ lùng,
nhưng qua bà chị họ đạo đức, qua cha sở Huvelin nhiều kinh nghiệm.
Ơn hoán cải của Anh không dựa trên những dấu lạ làm Anh ngất ngây,
nhưng đến từ khiêm nhường tìm kiếm và quỳ xuống đón nhận.
Chỉ ai biết quỳ xuống mới nhận ra dấu bình thường là dấu lạ.
Đức Giêsu không vui khi người Pharisêu và những người đương thời
muốn thấy dấu lạ và tìm kiếm dấu lạ (cc. 38-39).
Họ chờ mong một dấu lạ làm họ lóa mắt, gây ấn tượng mạnh,
khiến họ không thể chối cãi và buộc họ phải tin.
Tiếc rằng Đức Giêsu không bao giờ có ý muốn làm thứ dấu lạ như vậy.
Ngài không làm dấu lạ để biểu diễn quyền năng của mình trước con người.
Ngài chỉ làm dấu lạ để phục vụ nhu cầu con người và loan báo Nước Chúa.
Dấu lạ là dấu chỉ mời gọi chứ không cưỡng bức người xem phải tin.
Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ, nhưng họ vẫn không tin, vẫn đòi dấu lạ mới,
và còn bảo dấu lạ của Ngài là nhờ dựa vào tướng quỷ (Mt 12, 24).
Khăng khăng đòi dấu lạ cho thấy lòng họ dứt khoát từ chối Đức Giêsu.
Chẳng có dấu lạ nào làm họ thay đổi được cái nhìn về Ngài.
Đức Giêsu đã từng trách các thành vùng Galilê vì họ không sám hối (Mt 11,20).
Nay Ngài cũng quở trách một số người Pharisêu như vậy.
Vào ngày phán xét, chính dân Ninivê và Nữ Hoàng Phương Nam sẽ kết án họ,
vì họ đã cứng lòng không tin Đức Giêsu (cc. 41-42).
Làm thế nào chúng ta nhận ra những dấu lạ Chúa vẫn làm cho đời ta,
để ta không đòi hỏi thêm dấu lạ nữa,
nhưng mãn nguyện với những gì mình nhận được?
Làm thế nào để chúng ta hạnh phúc
vì vẫn được nghe giảng bởi chính Đấng còn hơn Giôna nữa,
vẫn được tiếp xúc với Đấng còn khôn ngoan hơn vua Salômôn nữa?
Lời nguyện
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,
những ơn con thấy được,
và những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng
con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng,
biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những gì
Cha không ban cho con,
và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì
Cha cương quyết không ban
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha
dù con không hiểu hết những gì Cha làm cho đời con.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
23/07 Dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng lúa
- Viết bởi Mt 13, 24-43
Dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng lúa.
Nhật 16 thường niên năm A.
"Hãy cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt".
Lời Chúa: Mt 13, 24-43
Khi ấy, Chúa Giêsu phán một dụ ngôn khác cùng dân chúng rằng: "Nước trời giống như người kia gieo giống tốt trong ruộng mình. Trong lúc mọi người ngủ, thì kẻ thù của ông đến gieo cỏ lùng vào ngay giữa lúa, rồi đi mất. Khi lúa lớn lên và trổ bông thì cỏ lùng cũng lộ ra. Đầy tớ chủ nhà đến nói với ông rằng: "Thưa ông, thế ông đã không gieo giống tốt trong ruộng ông sao? Vậy cỏ lùng từ đâu mà có?" Ông đáp: "Người thù của ta đã làm như thế". Đầy tớ nói với chủ: "Nếu ông bằng lòng, chúng tôi xin đi nhổ cỏ". Chủ nhà đáp: "Không được, kẻo khi nhổ cỏ lùng, các anh lại nhổ luôn cả lúa chăng. Hãy cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt. Và đến mùa, ta sẽ dặn thợ gặt: "Các anh hãy nhổ cỏ lùng trước, rồi bó lại từng bó mà đốt đi, sau mới thu lúa lại chất vào lẫm cho ta".
Người lại nói với họ dụ ngôn khác mà rằng: "Nước trời giống như hạt cải người kia gieo trong ruộng mình. Hạt đó bé nhỏ hơn mọi thứ hạt giống, nhưng khi mọc lên, thì lớn hơn mọi thứ rau cỏ, rồi thành cây, đến nỗi chim trời đến nương náu nơi ngành nó".
Người lại nói với họ một dụ ngôn khác nữa mà rằng: "Nước trời giống như men người đàn bà kia lấy đem trộn vào ba đấu bột, cho đến khi bột dậy men".
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn mà phán những điều ấy với dân chúng. Người không phán điều gì với họ mà không dùng dụ ngôn, để ứng nghiệm lời tiên tri đã chép rằng: "Ta sẽ mở miệng nói lời dụ ngôn, Ta sẽ tỏ ra những điều bí nhiệm từ lúc dựng nên thế gian". Sau khi giải tán dân chúng, Người trở về nhà.
Các môn đệ đến gặp Người và thưa rằng: "Xin Thầy giải thích dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng cho chúng con nghe". Người đáp rằng: "Kẻ gieo giống tốt là Con Người. Ruộng là thế gian. Còn hạt giống tốt là con cái Nước trời. Cỏ lùng là con cái gian ác. Kẻ thù gieo cỏ lùng là ma quỷ. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên thần. Cũng như người ta thu lấy cỏ lùng, rồi thiêu đốt trong lửa thế nào, thì ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy: Con Người sẽ sai các thiên thần đi thu tất cả gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác khỏi nước Chúa, rồi ném tất cả chúng vào lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng. Bấy giờ kẻ lành sẽ sáng chói như mặt trời trong Nước của Cha mình. Ai có tai để nghe thì hãy nghe".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 16 THƯỜNG NIÊN - A
Lời Chúa: Kn. 12, 13.16-19; Rm. 8, 26-27; Mt. 13, 24-43
1. Truyền giáo
Hạt cải ở đây là một thứ hạt người ta quen dùng làm đồ gia vị. Nó tuy nhỏ nhưng lại có một sức sống dồi dào và mau lớn. Đôi khi nó có thể trở thành cây cao trên 2m, chim trời có thể đến đậu. Chúa muốn áp dụng ở đây một bài học: Giáo Hội Chúa khởi đầu rất nhỏ bé với mấy vị tông đồ vô danh tiểu tốt khác nào một hạt cải nhỏ bé. Nhưng rồi Giáo Hội ấy dần dần mở rộng, quy tụ muôn dân nước và bao trùm cả thế giới. Ngày nay chỗ nào cũng có bóng cây của Giáo Hội.
Mấy vị tông đồ như chúng ta đã biết chỉ là những ngu phủ quê mùa dốt nát, thế mà đã tạo nên nền văn minh Kitô giáo thay thế cho nền văn minh Hy Lạp và Lamã cổ xưa. Dưới bóng mát của Giáo Hội, có đủ mọi hạng người không phân biệt giàu nghèo, có đủ mọi dân tộc mọi màu da, không phân biệt ngôn ngữ và văn hoá. Cái mấu chốt của dụ ngôn nằm ở trong việc mở mang Nước Chúa, nằm ở trong sự tương phản giữa cái bé nhỏ lúc ban đầu và sự to lớn lúc phát triển. Tiếp đến là dụ ngôn nem bột. Nếu dụ ngôn hạt cải nói lên sự phát triển rộng rãi của Nước Trời thì dụ ngôn men bột nói đến sức biến đổi, thâm nhập của Tin Mừng Phúc Âm. Đúng thế, một dúm men có thể làm cho cả đấu bột dậy lên để bánh có hương vị thơm ngon thì cũng thế, giáo lý của Chúa sẽ thấm nhập và làm cho thế giới trở nên tốt đẹp hơn. Nhưng đối với chúng ta thì hai dụ ngôn trên có ý nghĩa gì?
Theo tinh thần bác ái Công giáo, chúng ta không được nghĩ tới việc tiêu diệt, nhưng phải nghĩ đến việc hoán cải. Một chút men làm cho cả đấu bột dậy lên. Chúng ta cũng là men của Chúa, chúng ta phải ảnh hưởng đến gia đình và xã hội, phải làm cho môi trường chúng ta sống trở nên tốt đẹp hơn. Tuy nhiên nếu men mà xấu thì thật là tai hại, nó sẽ làm cho bột bị chua và làm hỏng cả bánh. Bổn phận của chúng ta là phải đem tinh thần Phúc Âm vào mọi cơ cấu gia đình cũng như xã hội. Mỗi người chúng ta phải là men biến đổi thế giới trong môi trường sống của mình.
Người ta kể lại trong trận thế giới đại chiến lần thứ hai. Những binh sĩ người Anh bị quân đội Nhật bắt giữ. Họ phải làm việc khổ cực và bị đối xử tàn nhẫn. Lúc đầu những người Anh còn giữ được lòng cao thượng và tinh thần tương trợ. Nhưng dần dần vì miếng ăn, vì cực nhọc, họ đã trở nên hung dữ, đối xử với nhau theo luật rừng. Nhưng trong số đó có hai người Công giáo, với đức tin mạnh mẽ, với đức ái sâu xa, họ đã là men của Phúc Âm, là ánh sáng của Thiên Chúa. Họ đã yêu thương tất cả. Tình yêu đó không gì làm phai mờ được. Họ đã sống phần nào câu nói của một thi sĩ: Tôi đi tìm một tâm hồn mà không thấy. Tôi đi tìm Thiên Chúa mà cũng chẳng có tiếng trả lời. Tôi đi tìm người anh em và với người anh em đó, tôi đã thấy tất cả. Gương bác ái yêu thương của hai người Công giáo này đã cảm hoá được cả đám tù nhân. Để rồi họ đã yêu thương nhau, giúp đỡ nhau như anh em một nhà.
Để góp phần vào công cuộc truyền bá Phúc Âm, để góp phần vào việc làm cho Giáo Hội được lớn mạnh, thì mỗi người chúng ta phải là men của Phúc Âm, làm dậy lên vẻ bác ái và thánh thiện cho cả một thôn ấp, cho cả một khu phố, cho cả một phiên chợ, cho cả một lớp học, cho cả một công sở. Hãy là men của Chúa.
2. Tốt và xấu
Thế giới hôm nay vẫn còn là như một thửa ruộng, trong đó có cỏ lùng xen lẫn với lúa. Cái tốt xen lẫn với cái xấu. Chúng ta chỉ cần để ý một chút là có thể nhận ra trong giáo xứ, trong khu xóm, trong gia đình có những người tốt và những người xấu. Hơn nữa, cùng một con người, nhưng có lúc hành động tốt và có lúc hành động xấu.
Chọn cái tốt và làm điều tốt cũng như ghét cái xấu và tiêu diệt cái xấu, đó là bài học luân lý phổ thông nhất cho mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc. Bài học này nói thì dễ nhưng áp dụng vào thực hành lại chẳng dễ chút nào. Vì thế, chúng ta cần phải cố gắng liên tục, cố gắng không ngừng.
Tuy nhiên cái đích mà Chúa Giêsu nhắm tới không phải chỉ là những kẻ khô khan nguội lạnh mà còn là những người sốt sắng nóng nảy, bởi vì dụ ngôn trên kêu gọi sự nhẫn nại. Nhẫn nại với lịch sử, với người chung quanh và với chính bản thân mình. Đừng vội kết án như thể mọi sự đã xong xuôi, chẳng còn gì để mà nói, để mà trông chờ. Nó đã hư đã hỏng, chỉ còn việc nhổ lên và vất đi. Các nhãn hiệu tốt và xấu như được gắn chặt nơi mỗi con người một cách vĩnh viễn.
Nền tảng của sự nhẫn nại chính là tính chất của giai đoạn chúng ta đang sống. Giai đoạn hiện tại là một giao thời và sự hiện diện của Giáo Hội là một lời mời gọi chứ chưa phải là một lời kết án. Giai đoạn hiện tại còn là thời rao giảng Tin Mừng. Các môn đệ của Chúa được sai đi để đem đến ơn cứu độ. Nhưng đồng thời lòng ham muốn sai trái và tội lỗi vẫn còn được phép hoạt động. Sẽ tới một thời được gọi là mùa gặt, tức là cuộc phán xét trong ngày sau hết. Bấy giờ Chúa Giêsu sẽ đứng lên để làm công việc phải làm: phân định vĩnh viễn người lành kẻ dữ, người tốt kẻ xấu. Người lành thì sáng chói trong Nước Chúa còn kẻ dữ thì bị ném vào lửa, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng.
Nhẫn nại đi đôi với lạc quan và hy vọng. Dụ ngôn còn là một lời mơi gọi chúng ta phải biết nhìn về tương lai. Căn bệnh rồi sẽ khỏi, chiến tranh rồi sẽ hết, bất công không thể kéo dài một cách vĩnh viễn, kẻ phạm tội có thể hối cải và kẻ thất vọng sẽ tìm thấy chốn cậy trông.
Nhưng tin vào tương lai cũng là hoạt động cho niềm tin trở thành sự thật. Nhẫn nại không có nghĩa là khoanh tay ngồi im chờ đợi trong trạng thái thụ động. Người tín hữu tin ở sự chiến thắng của cái tốt, tin ở một tương lai tươi đẹp, tin ở công trình cứu chuộc của Thiên Chúa, cũng phải là người hành động một cách tích cực để huỷ diện cái xấu và làm phát sinh những cái tốt.
3. Nụ cười.
Theo yêu cầu, một nhà đạo đức đã kể lại kinh nghiệm đời mình như sau:
- Giai đoạn đầu tiên, tôi được Thiên Chúa cầm tay, dẫn tới xứ sở của hoạt động và tôi đã ở lại đó nhiều năm. Tiếp đó, Ngài trở lại đưa tôi đến xứ sở của niềm đau, tại đây, trái tim tôi được thanh luyện khỏi mọi dính bén với của cải trần gian. Sau đó, Ngài dẫn tôi đến miền đất của cô đơn, ở đó mọi ti tiện nhỏ bé của bản thân đều bị thiêu rụi. Và rồi tôi có thể đi vào xứ sở của thinh lặng, trước mặt tôi, mầu nhiệm của sự sống và sự chết đều được bày tỏ.
Nghe thế, người ta liền hỏi:
- Phải chăng ngài đã đạt tới giai đoạn cuối cùng của cuộc tìm kiếm.
Nhà đạo đức trả lời:
- Chưa đâu, ngày nọ, Thiên Chúa nói với tôi: Lần này Ta đưa con vào thẳm cung của đền thánh để con được đi vào cõi lòng Ta.
Thế là tôi đã đến xứ sở của nụ cười.
Người Tây phương thường bảo: Một vị thánh buồn là một vị thánh đáng buồn vậy. Niềm vui phải chăng là nét chính yếu trên khuôn mặt của một vị thánh.
Cựu Ước đã nói: Thiên Chúa là Đấng làm hoan lạc tuổi xuân con. Sở dĩ như vậy vì Ngài là niềm vui. Đi vào cõi lòng của Ngài là tìm được nụ cười muôn thuở của Ngài. Nụ cười không chỉ là thể hiện của niềm vui, mà còn là một thách thức trong những hoàn cảnh bi đát. Đó là nụ cười của Sara giữa cảnh già nua con sẻ. Thực vậy, khi Thiên Chúa cho biết bà sẽ thụ thai, mặc dù tuổi đã cao, thì bà đã bật cười.
Thiên Chúa thường khơi dậy những nụ cười như thế, bởi vì tư tưởng và lối của Ngài là những nghịch lý đối với con người. Thực vậy, cả cuộc sống cùng với lời rao giảng cái chết và sự phục sinh của Ngài là một chuỗi những nghịch lý trước mắt thế gian. Đang khi người đời chạy theo tiền bạc, địa vị và danh vọng thì Ngài lại tuyên bố: Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó. Đang khi người đời thích gây bạo động và hận thù, thì Ngài lại truyền dạy: Phúc cho những ai ăn ở thuận hoà. Đang khi người đời cho rằng cái chết là một bất hạnh tột cùng, thì Ngài lại dạy đó là khởi đầu của ơn phúc, là cửa ngõ dẫn vào sự sống.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta cũng thấy được những điều nghịch lý về Nước Trời. Nhỏ bé như hạt cải nhưng khi mọc lên sẽ trở thành cây to. Ít ỏi như nhúm men nhưng sẽ làm dậy cả đấu bột. Cả hai hình ảnh này đều nói lên sức mạnh của Nước Trời Chúa Giêsu muốn thể hiện qua Giáo Hội của Ngài. Khởi đầu từ một nhóm người nhỏ bé, Giáo Hội dần dần quy tụ mọi dân nước trên thế giới. Xây dựng từ một đám dân chài dốt nát, Giáo Hội đã trở thành phổ quát. Và trải qua bao nhiêu bách hại, Giáo Hội ấy vẫn tiếp tục đứng vững.
Là con cái Giáo Hội, chúng ta được mời gọi đặt tất cả niềm tin tưởng vào Chúa. Tiến bước trong tình yêu quan phòng của Ngài luôn phù trợ chúng ta, dù trải qua gian nan thử thách, chúng ta luôn xác tín rằng: Với những ai yêu mến Chúa, thì Ngài sẽ làm cho mọi sự đều quy về sự thiện hảo. Với niềm tin tưởng ấy, chúng ta quả thực đang tìm được nụ cười muôn thuở của Thiên Chúa.
4. Thiên Chúa luôn tôn trọng tự do con người
(Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Một số người cứ thắc mắc: tại sao Chúa không quét sạch những phường tội lỗi và hung ác khỏi mặt đất nầy? Tại sao Thiên Chúa cứ để họ ung dung sống trong tội ác và tiếp tục gây ra chiến tranh, khủng bố, áp bức, bất công? Ai làm ác, ai gây rối, Chúa cứ việc quét sạch chúng đi là thế giới sẽ được hoà bình và mọi người sẽ được sống trong hạnh phúc. Đó chẳng phải là một giải pháp đơn giản để tái lập hoà bình ổn định cho thế giới đó sao?
Để trả lời cho vấn nạn đó, Chúa Giêsu kể dụ ngôn sau:
"Nước Trời ví như chuyện người kia gieo giống tốt trong ruộng mình. Khi mọi người đang ngủ, thì kẻ thù của ông đến gieo thêm cỏ lùng vào giữa lúa, rồi đi mất. Khi lúa mọc lên và trổ bông, thì cỏ lùng cũng xuất hiện. Đầy tớ mới đến thưa chủ nhà rằng: "Thưa ông, không phải ông đã gieo giống tốt trong ruộng ông sao? Thế thì cỏ lùng ở đâu mà ra vậy?" Ông đáp: "Kẻ thù đã làm đó!" Đầy tớ nói: "Vậy ông có muốn chúng tôi ra đi gom lại không?" Ông đáp: "Đừng, sợ rằng khi gom cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa. Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt. Đến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt: hãy gom cỏ lùng lại, bó thành bó mà đốt đi, còn lúa, thì hãy thu vào kho lẫm cho tôi."
Qua dụ ngôn trên, Chúa Giêsu tỏ cho chúng ta biết rằng kẻ nghịch của Thiên Chúa là ma quỷ tìm cách gieo mầm giống xấu vào lòng dạ con người và từ mầm giống xấu xa ấy, sự dữ lan tràn khắp thế gian. "Người kia gieo giống tốt trong ruộng mình, nhưng khi mọi người đang ngủ thì kẻ thù của ông đến gieo thêm cỏ lùng vào giữa lúa."
Cỏ lùng trong ruộng mọc lên lấn lướt lúa non thế nào thì mầm giống xấu do ma quỷ gieo vào lòng người cũng bùng lên cách đáng sợ như thế.
Như những người tôi tớ, sau khi thấy cỏ lùng mọc lên lấn át lúa non, đã nài xin chủ ruộng cho đi nhổ cỏ để bảo vệ lúa, nhiều người trong chúng ta cũng ước mong Thiên Chúa dùng quyền lực của mình để quét sạch phường gian ác khỏi thế giới nầy, để nhân loại được sống trong hoà bình an lạc.
Nhưng làm như thế là 'khủng bố' kẻ gian ác, là tước đoạt tự do con người. Thiên Chúa nhân lành và cao cả nên Người không hề 'khủng bố' ai và Người cũng không bao giờ tước đoạt tự do mà Người đã thông ban cho loài người, vì nếu Thiên Chúa tước đoạt tự do con người, thì Người sẽ biến họ thành robot hoặc thành thú vật là loài không có tự do.
Con vật không có tự do để lựa chọn điều tốt hay tránh điều xấu, chúng chỉ thực hiện mệnh lệnh của bản năng và hoàn toàn bị bản năng khống chế.
Nơi con người, dù bản năng cũng mãnh liệt không khác chi nơi con vật, nhưng con người có thể dùng tự do của mình để khước từ những mệnh lệnh của bản năng, sống vượt lên bản năng cũng như những lôi cuốn đê hèn. Con người có thể tuyệt thực bên cạnh mâm cỗ thịnh soạn được dọn ra cho mình, nhưng thú vật không thể làm được điều đó vì bản năng sinh tồn đòi buộc chúng phải ăn khi đói.
Con người có thể tuyệt dục dù có thừa cơ hội để thực hiện bản năng truyền sinh; nhưng nơi con vật, bản năng truyền sinh hoàn toàn chế ngự chúng.
Khi con người biết dùng tự do của mình để chế ngự bản năng, làm chủ bản thân và thực hành điều thiện, thì con người trở nên cao cả và đáng kính. Nhưng khi con người để cho bản năng lấn lướt tự do, cam thân làm nô lệ cho bản năng hư hèn hoặc dùng tự do để chọn làm điều xấu, con người đánh mất phẩm giá cao cả của mình.
Nếu con người bị tước đoạt tự do, con người chẳng hơn gì người máy; người máy chỉ biết làm theo những gì mà nhà chế tạo đã cài đặt vào bộ nhớ của nó. Nếu con người không có tự do, con người chẳng hơn gì thú vật; thú vật chỉ biết hành động theo bản năng, theo thú tính mà chẳng có tự do để chọn làm điều tốt. Vì thế, Thiên Chúa không bao giờ tước đoạt tự do con người cho dù con người dùng tự do của mình để gây ra điều ác đối với đồng loại cũng như để phỉ báng Thiên Chúa là Đấng tạo dựng và thông ban tự do cho mình.
Nhưng nói thế không có nghĩa là Thiên Chúa làm ngơ để mặc loài người đi vào con đường lầm lạc. Thực ra, Người luôn dùng Tin Mừng và giáo huấn để soi sáng, để cảm hoá, để cảnh tỉnh con người và Người luôn kiên nhẫn, rất kiên nhẫn chờ đợi họ hồi tâm quay lại đường lành: "Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt. Đến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt: hãy gom cỏ lùng lại, bó thành bó mà đốt đi, còn lúa, thì hãy thu vào kho lẫm cho tôi."
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho chúng con tự do vì chỉ khi có tự do, chúng con mới thật sự là người, mới xứng đáng là hình ảnh của Chúa.
Chúa cũng không bao giờ tước đoạt tự do mà Chúa đã thông ban cho chúng con vì không muốn chúng con sống như người máy hay như thú vật.
Xin cho chúng con biết sử dụng tự do của mình mà tránh dữ làm lành để nhờ đó, chúng con làm cho mình trở thành người thật sự tự do, có phẩm chất cao đẹp và thánh thiện.
5. Không gì là quá muộn
(‘Như Thầy Đã Yêu’ – Thiên Phúc)
Mục sư Martin Luther King, người đấu tranh giành tự do cho nô lệ da đen tại Hoa Kỳ bằng phương pháp bất bạo động đã kể lại một câu chuyện như sau:
Chúng tôi đã có dịp viếng thăm bang Kerela ở cực Nam Ấn Độ. Một buổi chiều cuối tuần, chúng toi đến bãi biển Cap-Comorin, thường được gọi là “nơi tận cùng của thế giới”, vì đây là mũi đất cuối cùng của lục địa Ấn Độ tiếp giáp Ấn Độ Dương.
Trước mắt chúng toi là đại dương mênh mông, với các đợt sóng nhấp nhô. Nơi đây được gọi là “điểm hẹn” của ba biển cả: Ấn Độ dương, Biển Ả Rập và vịnh Bengal. Ngồi trên tảng đá nhô ra trên mặt nước, chúng tôi cảm thấy mình bị cuốn hút vào biển cả mênh mông. Trong khi các đợt sóng dồn dập vào mỏm đá, tạo nên một bản nhạc nhịp nhàng, thì về phía tây, chúng tôi nhìn thấy mặt trời đỏ chói đang dần dần đi vào biển cả. Khi mặt trời gần khuất, vợ tôi đánh động tôi và nói: “Xem kìa, Martin, thật là tuyệt vời, phải không?” Tôi đưa mắt nhìn chung quanh và kìa mặt trăng đang từ từ lên khỏi lòng biển trong khi mặt trời chậm chạp đi xuống biển sâu. Khi mặt trời lặn, bóng tối bao trùm mặt đất, nhưng từ phía đông, mặt trăng mọc lên, rực rỡ, chói sáng.
***
Khi ánh sáng mặt trời tắt dần và dìm chúng ta vào trong bóng tối dày dặc, có thể ví như thời điểm của cái ác và sự dữ lộng hành, biến chúng ta thành nạn nhân của thế lực đen tối. Nhưng hãy nhìn về phía đông, chúng ta sẽ thấy một ánh sáng rực rỡ huy hoàng ngay trong đêm tối. Và đêm đen lại sáng tỏ như ban ngày. Đó là lúc điều thiện và cái tốt đang vươn lên mạnh mẽ. Nếu đã có ánh sáng ban ngày hướng dẫn chúng ta lúc thuận buồm xuôi gió, thì cũng có ánh sáng ban đêm dẫn đưa chúng ta khi bão tố phong ba. Cả hai phải cùng tồn tại để đồng hành với chúng ta đến với nguồn sáng vĩnh cửu là Thiên Chúa.
Đức Giêsu, trong bài Tin Mừng hôm nay đã khẳng định lập trường của Thiên Chúa qua dụ ngôn “Cỏ lung và lúc tốt”. Đầy tớ muốn nhổ cỏ lùng đi, nhưng ông chủ lại bảo: “Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt” (Mt 13,30). Kể từ khi nguyên tổ nuối lấy trái cấm thì sự dữ và cái ác như con bạch tuộc vươn vòi đến mọi mặt của cuộc sống con người. Nó dai dẳng, ngoan cố, lì lợm, không dễ dàng buông tha nếu chúng ta không chống cự lại một cách mãnh liệt, dứt khoát. Chẳng thế mà Kinh thánh đã dùng biểu tượng con rắn để mô tả hành động xảo trá của sự dữ luôn gieo rắc bất hoà trong bản hòa tấu nhịp nhàng của đời sống con người.
Trong dụ ngôn Cỏ lùng, Đức Giêsu khẳng định về sự xuất hiện của cỏ lùng là do “kẻ thù đã gieo chúng vào ruộng lúa”.
Cho dù kẻ thù đó là Satan hay bởi chính sự lạm dụng tự do của con người, thì cỏ lùng luôn mang đến tai họa và chết chóc.
Cho dù cỏ lùng có bóp nghẹt lúa tốt trong một thời gian, nhưng mùa gặt đến nó sẽ bị gom lại và đốt đi. Còn lúa tốt lại được cất vào kho lẫm.
Cho dù cứ để cỏ lùng và lúa tốt cùng lớn lên cho đến mùa gặt, nhưng không phải là để dung túng cho cái ác và để sự dữ lộng hành.
Thiên Chúa có chương trình hành động của Người: Trong hành trình của mỗi con người, vẫn có cỏ lùng mọc chung với lúa tốt, vẫn có cái ác sống chung với cái thiện, vẫn có bóng tối chen lẫn cùng ánh sáng. Đó là cuộc chiến đấu trường kỳ giữa sự lành và sự dữ. Trong lòng người tín hữu rễ cỏ lùng và lúa tốt vẫn đan xen lẫn nhau. Thánh Phaolo đã diễn tả chân lý ấy khi viết: “Điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi cứ làm” (Rm 7,15). Người tín hữu hay bị cám dỗ ở trong tình trạng chưa là tội nhân mà cũng chưa muốn tìm về thánh thiện.
Khi chiến đấu chống lại sự dữ, chúng ta không chiến đấu đơn độc, có Chúa cùng chiến đấu với chúng ta, như một người Cha đầy yêu thương. Nhưng Người không can thiệp để tiêu diệt sự dữ một cách vũ bão, vì Người đã ban cho chúng ta sự tự do, và bởi chúng ta là những con người có trách nhiệm. Sự dữ nào cũng có phần cộng tác của con ngưồi, tội lỗi nào cũng mang dấu tay của những kẻ đồng lõa. Eva đã chẳng phạm tội nếu bà đừng đưa tay ra hái trái cấm. Để cứu lấy con người luôn luôn sa ngã, Thiên Chúa đã phải nhẫn nại, chờ đợi sự hoán cải tuy rất chậm chạp của họ.
Thiên Chúa yêu thương con người, và không hề quên sót một ai, cho dù họ là những tội nhân:
Nếu Thiên Chúa tỏ ra chậm chạp trong việc chống lại tội lỗi, là để chúng ta có thời gian mà sám hối canh tân.
Nếu chúng ta yếu đuối lầm lỗi, thì Người sẽ ban cho chúng ta sức mạnh để can đảm trỗi dậy sau những lần vấp ngã.
Nếu phải bước đi trong bóng đêm tối tăm vì mất niềm hy vọng, thì Người sẽ là ánh sáng dẫn đường để chúng ta đến với niềm tin.
Thiên Chúa khinh ghét tội lỗi nhưng lại yêu mến tội nhân, vì Người chờ đợi nơi họ lòng thống hối để được Người thứ tha (x. Rm 2,4). Thiên Chúa khoan dung, độ lượng không phải để dung túng cho các tội nhân, nhưng là để cho họ thời gian thức tỉnh mà quay trở về.
Chúa đã bao dung nhẫn nại với chúng ta. Lẽ nào chúng ta lại thiếu nhân hậu khoan dung với kẻ tội lỗi? Chúa đã yêu thương chúng ta, lẽ nào chúng ta không dùng tình yêu của Người mà hóan cải anh em? Lòng thương xót Chúa muốn kéo chúng ta vào quê hương vĩnh cửu. Nhưng không phải là một cuộc hành trình đơn độc. Trái lại, phải là một ngày hội thấm đẫm tình yêu, đầy ắp tiếng cười.
***
Lạy Chúa, dù tội lỗi có ngập tràn Chúa cũng không bao giờ thất vọng về chúng con. Với tình yêu thương xót của Chúa thì không có gì là quá muộn.
Xin cho chúng con luôn biết bắt đầu lại trong tin yêu và hy vọng nơi Chúa. Amen.
6. Tự do của con người
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Nét nổi trội nơi con người hơn muôn loài muôn vật chính là được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa. Và dấu hiệu của sự trổi vượt ấy chính là sự tự do giống như thần linh mà các tạo vật khác không thể có được. Chính nhờ sự tự do mà con người có khả năng làm chủ mình, đồng thời cũng phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Đây là điểm mạnh và cũng là yếu điểm của con người. Con người có thể sử dụng tự do để đi theo lề luật Thiên Chúa hay đi theo những đòi hỏi của tính xác thịt và theo ý riêng của mình.
Quả thực, con người hơn mọi tạo vật khác là có khả năng biết phân biệt điều thiện điều ác, biết chọn lựa điều nào nên làm hay không nên làm, và vì thế chỉ có con người mới phải nhận lãnh trách nhiệm về việc làm của mình. Có một chuyện ngụ ngôn kể rằng:
Một hôm Satan ra lệnh cho một người kia phải thi hành một trong ba điều nó yêu cầu, nếu không nó sẽ cướp linh hồn người đó. Ba điều đó là: giết cha, hành hạ người em, uống rượu. Người đó ngẫm nghĩ: giết cha, đánh đập người em là điều trái với đạo lý làm người, còn uống rượu thì dễ quá, ai mà không làm được. Thế là anh ta quyết định đi uống rượu. Lúc đầu anh ta còn làm chủ được, nhưng về sau không còn làm chủ được mình nữa, anh đã say lúy túy và kết quả đã diễn ra đúng như qủy mong đợi. Anh ta đã giết cha, hành hạ người em và còn làm nhiều điều tội lỗi khác.
Câu chuyện trên đây có lẽ không chỉ là chuyện ngụ ngôn mà là thực tế xảy ra hằng ngày trước mắt chúng ta. Tội ác luôn tiềm ẩn trong tâm hồn chúng ta. Rơi vào một hoàn cảnh nào đó, nếu không biết tự chủ bản năng, ai cũng có thể là một tên sát nhân. Thế nhưng câu chuyện này không chỉ nêu lên mặt trái của con người, nó còn nói lên nét cao qúy trong lòng con người nữa. Thật thì người đàn ông trong câu chuyện đã không lao vào tội ác như một phản ứng bình thường. Đạo lý và lẽ phải đã đến với anh ta trước tiên. Từ thâm sâu lòng mình, con người luôn hướng về điều thiện. Con thú cắn xé mồi rồi lăn ra ngủ yên, nhưng con người thì không như thế. Thử hỏi có kẻ sát nhân nào mà không cảm thấy bị cắn rứt trong lương tâm, có hành động xấu nào mà không dày vò lòng dạ con người? Con người sinh ra vốn hướng về điều thiện, nhưng ma qủy lại luôn lôi kéo con người vào sự dữ. Thực vậy, con người luôn bị giằng co giữa thiện và ác, giữa phúc và tội. Tại sao vậy?
Thưa, bởi vì Thiên Chúa đã tạo dựng mọi sự đều tốt đẹp, thế nhưng, ma quỷ lại gieo những điều xấu vào thế gian. Nó còn gieo điều gian ác vào trong chính tâm hồn con người. Hạt giống của sự dữ đó được ấp ủ, được nuông chiều nuôi nấng bởi tâm hồn thiếu cương quyết tránh xa sự dữ, thiếu tự chủ trước những tư tưởng bất chính nên hạt giống xấu luôn có cơ hội bùng phát và một khi có cơ hội nó sẽ triển nở làm cho con người ra băng hoại.
Theo giáo lý Kitô giáo, Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta theo hình ảnh Ngài, vì thế, khát vọng sâu thẳm nhất trong lòng ta chính là Thiên Chúa. Chọn tuân phục Chúa, chúng ta có được sự tự do đích thực, được bình an, hạnh phúc. Còn khi chúng ta bất tuân Thiên Chúa, là đánh mất ý nghĩa đời mình, là đặt cuộc sống mình dưới sự điều khiển của sự ác và sẽ bị buông mình trong hố sâu của tội lỗi, tựa như cánh diều chỉ có thể tự do bay bổng khi còn được ràng buộc với sợi dây, con người chỉ có thể được tự do sống trong hạnh phúc khi tự ràng buộc đời mình theo lề luật của Chúa mà thôi.
Tuy nhiên, vì bản tính con người đã bị thương tích do tội nguyên tổ trở nên yếu đuối, dễ sa vào những cám dỗ tội lỗi, như lời thánh Phaolô đã nói: "sự lành tôi muốn làm nhưng tôi lại không làm, còn sự dữ tôi không muốn làm nhưng tôi lại cứ làm". Đó chính là sự giới hạn của mình, chúng ta cần phải nhờ ơn Chúa qua việc cầu nguyện, năng lãnh nhận các bí tích để xin Thiên Chúa gia tăng ơn cần thiết mà biết làm điều lành tránh điều dữ, và gìn giữ ta trong ơn thánh của Người, mà trong giáo lý chúng ta gọi là ơn thánh hoá và ơn trợ giúp. Vì vậy, để gìn giữ vẻ đẹp linh hồn mình luôn là hình ảnh sống động của Thiên Chúa, chúng ta cần thường xuyên cầu nguyện, siêng năng tham dự thánh lễ và nếu chúng ta lỡ phạm tội chúng ta cần can đảm đến với bí tích giải tội để được ơn tha thứ và qua đó, Chúa sẽ ban ơn soi sáng để chúng ta biết sống đúng với phẩm giá làm người của mình hơn.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn can đảm nói không với sự dữ, luôn kiên trường tránh xa những mưu chước cám dỗ của Sa-tan và luôn trung thành theo giáo huấn của Chúa, ngõ hầu chúng ta luôn trở thành con cái của Thiên Chúa, con cái của tự do không lệ thuộc bởi đam mê tội lỗi. Amen.
7. Diệt cỏ lùng bằng nhân đức
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Một nhà hiền triết dẫn các học trò đến trên bãi cỏ hoang và hỏi các học trò: Làm thế nào để diệt trừ hết cỏ hoang này?
Một học trò thưa: “Dạ thưa thầy, chỉ cần có một cái xẻng thôi là xong hết ạ!”Nhà hiền triết khe khẽ gật đầu. Một người học trò khác như phát hiện ra điều gì mới, nói tiếp: “Dạ thưa thầy, đốt lửa để diệt cỏ cũng là một cách rất hay đấy ạ!”Nhà hiền triết im lặng mỉm cười, ra hiệu gọi một người khác. Người học trò thứ ba nó: “Thưa thầy, rắc vôi lên cũng có thể diệt được hết tất cả các giống cỏ đấy ạ!”. Tiếp ngay sau đó là người học trò thứ tư anh ta nói: “Diệt cỏ phải trừ tận gốc, chỉ cần nhổ được rễ lớn là xong hết!”. Các học trò đã lần lượt nói hết suy nghĩ của mình, nhà hiền triết mới nói: “Muốn diệt hết cỏ dại ở bãi hoang, chỉ có một cách hay nhất, đó là hãy trồng cấy mùa màng lên đấy. Cũng như vậy, muốn để linh hồn không phải buồn lo tản mạn, thì cách duy nhất là hãy chiếm cứ nó bằng những đức tính tốt”.
Đây là một câu chuyện thật ý nghĩa. Ý nghĩa vì nó rút cho chúng ta một bài học làm người thật giản dị. Muốn trở nên người tốt thì không phải chỉ bỏ tật xấu mà quan yếu là tập thói quen tốt mới có thể giảm dần tính xấu.
Con người chúng ta mặc dầu được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa nhưng lại được đặt giữa thế gian nên ma qủy cũng gieo vào hồn ta những cỏ dại là tính hư nết xấu. Có đôi lúc chúng ta ngủ mê trong đam mê nên để cỏ dại mọc kín tâm hồn chúng ta. Có đôi lúc chúng ta mải mê trong danh vọng nên để cho tính hư nết xấu, cùng thói kiêu căng giả hình phát triển mạnh mẽ nơi chúng ta.
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn lúa và cỏ lùng như muốn nhắc nhở chúng ta sự phát triển rất nhanh của tính hư nết xấu trong con người chúng ta. Chỉ một chút thờ ơ thì cỏ lùng đã lấn lướt cây lúa. Cũng vậy, chỉ một chút mất cảnh giác cũng đủ chúng ta lây nhiễm biết bao thói đời xấu xa. Cỏ thì dễ mọc. Lúa thì phải chăm bón. Thói xấu thì dễ nhiễm, nhưng nhân đức phải tập luyện mới thành. Đó là nỗi khổ mà thánh Phaolô đã từng thốt lên: “việc lành tôi muốn làm mà tôi lại không làm. Việc dữ tôi không muốn làm mà tôi lại làm”. Đó là lý do mà có biết bao người đang hiền lành bổng dưng làm chuyện ác, đang sống tốt bỗng trở thành kẻ sát nhân. Đó cũng là mâu thuẫn tự nội tâm con người và vượt ngoài tầm kiểm soát của chúng ta. Nhưng hôm nay Chúa bảo chúng ta đừng lo lắng hay thất vọng. Hãy tin tưởng vào sức mạnh của ân sủng Chúa. Chính Chúa sẽ hoàn tất những điều tốt đẹp nơi chúng ta. Tựa như một cây cải nhỏ bé tưởng chừng như bị nuốt chửng giữa cỏ dại um tùm nhưng một lúc nào đó nó sẽ trở thành cây cao bóng cả. Hay việc tốt chúng ta làm tuy nhỏ bé như nắm men được ủ vào ba thúng bột, thế mà nó làm cho tất cả đều phải dạy men. Hãy kiên nhẫn rèn luyện nhân đức. Hãy kiên nhẫn sửa lại lỗi lầm bằng những việc cao thượng hơn hầu khống chế những tính hư nết xấu trong ta.
Cuộc sống con người có cái tốt, cái xấu. Nó có thể biến chúng ta thành thiên thần hay ác quỷ trong một khoảng cách rất gần. Điều quan yếu là chúng ta đừng bao giờ mất cảnh giác với lời mời gọi đi vào đường xấu. Hãy tỉnh thức kẻo sa vào cám dỗ. Hãy nói không với tội lỗi. Hãy tránh xa môi trường xấu để giữ mình khỏi quyến luyến tội lỗi.
Người xưa nói rằng: “biết mình yếu thì đừng ra gió”. Hãy tự biết sự yếu đuối của mình để phòng tránh những cám dỗ tội lỗi. Hãy nhìn nhận sự yếu đuối của mình để cậy dựa vào ân sủng Chúa. Hãy để cho Chúa dẫn dắt chúng ta đi trong ánh sáng Lời Chúa. Hãy rèn luyện các nhân đức tốt để đẩy lùi những thói xấu ra khỏi con người chúng ta. Hãy nuôi dưỡng những mầm sống lương thiện thay cho những ý đồ bất chính. Hãy làm cho tâm hồn mình trở thành miền đất màu mỡ cho Tin Mừng của Chúa được vươn lên thành những nhân đức cao đẹp.
Ước gì chúng ta hãy làm đẹp cuộc đời mình thành những cánh đồng lúa xanh tươi bằng những việc lành phúc đức. Xin đừng để tính lười biếng mà biến hồn ta thành nơi chất chứa những điều xấu xa. Xin cho chúng ta biết chiến thắng cỏ lùng bằng việc rèn luyện những nhân đức tốt thay cho những cái xấu làm mất vẻ đẹp cuộc đời chúng ta. Ước gì chúng ta luôn biết cậy dựa vào ơn Chúa để hoàn thiện đời mình nên hoàn hảo như Cha chúng ta ở trên trời là Đấng hoàn hảo. Amen.
8. Như hạt giống tốt
(Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Bài tin mừng Chúa nhật nầy gồm ba dụ ngôn về Nước Trời: Dụ ngôn lúa và cỏ lùng (13:24-30), dụ ngôn hạt cải (13:31-32); dụ ngôn men trong bột (13:33); lý do dùng dụ ngôn (13:34-35) và giải thích dụ ngôn lúa và cỏ lùng (13:36-43). Ba dụ ngôn nầy có nhiều điểm chung: - Tất cả đều hướng về “ngày thu hoạch”, chứ không phải tình trạng hiện thời; - Phương thức làm là hạt giống/men được gieo vào trong một môi trường; - Các dụ ngôn nhấn mạnh kết quả mà hạt giống/men mang lại cho môi trường (cc. 30b.32.33).
Dụ ngôn lúa và cỏ lùng (13:24-30)
Liên hệ với dụ ngôn trước, dụ ngôn nầy tiếp tục nói về Nước Trời bằng câu chuyện hạt giống. Khác với dụ ngôn trước, dụ ngôn nầy không nói về các loại đất trong đó các hạt giống được gieo vào, mà nói về hạt giống. Dụ ngôn trước nói về đất tốt (13,8.23) giúp cho hạt giống trổ sinh nhiều bông hạt. Dụ ngôn nầy đề cập đến hạt giống tốt (c. 24), không bị cỏ lùng làm chết đi, mà sẽ sinh nhiều hạt và được thu vào kho lẫm (c. 30). Điểm khác biệt nữa trong dụ ngôn nầy là sự can thiệp bởi các yếu tố bên ngoài: một đàng là kẻ thù gieo cỏ lùng vào ruộng lúa (c. 25); đàng khác là quyết định của chủ ruộng để cho lúa và cỏ lùng mọc chung với nhau cho đến ngày gặt, bởi ông biết phẩm tính của hạt giống (c. 30). Có thể phân chia bố cục của đoạn nầy như sau: - Khởi điểm về hạt giống tốt (c. 24); - Hạt giống lớn lên chung với cỏ lùng (cc. 25-26); - Lúa tốt được tách ra khỏi cỏ lùng trong mùa gặt (cc. 27-30)
Khởi điểm về hạt giống tốt (c. 24)
Matthêô dùng tĩnh từ kalos, “tốt” trong một số hình ảnh ẩn dụ như trái tốt (3,10; 7,19), công việc tốt (5,16), cây tốt (12,33), hạt giống tốt (13,24), hạt ngọc tốt (13,45), cá tốt (13,48). Các hình ảnh nầy đều nằm trong văn mạch của trình thuật về ngày cánh chung. Đến thời sau cùng, cây nào sinh trái tốt thì được giữ lại, cây nào không sinh trái hoặc sinh trái xấu sẽ bị chặt đi và vất vào lửa; cá tốt sẽ được bỏ vào giỏ, còn cá xấu thì bị quăng ra ngoài. Cũng thế hạt giống tốt sẽ được cất vào kho lẫm, trong khi cỏ lùng sẽ bị gom góp lại thành bó và bị đốt đi.
Hạt giống lớn lên chung với cỏ lùng (cc. 25-26)
Trong đoạn nầy dưới hình thức trình bày, Matthêô nói đến sự xuất hiện của cỏ lùng và lớn lên chung của nó với hạt giống trong cùng một thửa ruộng. “Kẻ thù”, echthros, là người gieo cỏ lùng vào đó, cũng là ma quỉ, diabolos (c. 39), là kẻ đối nghịch với “ông chủ”, kyrios (c. 28). Kẻ thù gieo cỏ lùng lên trên hạt giống tốt nhằm phá hoại hạt giống tốt và ngăn cản hạt giống sinh trái.
Câu 25 mô tả các hành động liên tiếp và hoàn thành của kẻ thù: èlthen, “đã đến”, epespeiren, “đã gieo lên trên” và apèthen, “đã ra đi”. Các hành động diễn ra rất nhanh trong khung cảnh thoi gian là “lúc mọi người đang ngủ”, en tò katheudein. Matthêô thường mô tả một biến cố “sự dữ” diễn ra trong khi một người đang ngủ: Chúa Giêsu đang ngủ trên thuyền thì giông bão ập đến (8,24), trong khi các môn đệ đang ngủ, Chúa Giêsu chiến đấu với cám dỗ trong Vườn Cây Dầu, và người tội lỗi đang đến bắt Ngài (x. 26,40-45). Ở đây Matthêô chỉ nhắm mô tả sự kiện là ma qủi lợi dụng lúc người ta đang ngủ để gieo cỏ lùng vào.
Cỏ lùng được kẻ thù gieo vào giữa hạt giống tốt và lớn lên cùng hạt giống (c. 26). Trong 10,16 Matthêô nói đến việc chiên được sai đến giữa đàn sói. Trong cả hai trường hợp Matthêô đều cho thấy là hạt giống và chiên không bị biến dạng hay hư hỏng bởi việc sống chung nầy. Cỏ lùng và hạt giống tốt cùng lớn lên và chúng phát triển theo cách của chúng. Ở đây cả hai được mô tả là lớn lên cùng thời. Trong 13,30, có sự quyết định của gia chủ nữa, “Hãy để chúng cùng lớn lên”. Hạt giống tốt kết trái, cỏ lùng cũng phơi bày mình ra. Tỏ hiện, phainò, ở đây là tự phơi bày mình ra cho người khác thấy (x. 9,33; 24,30); khi còn là hạt, khó phân biệt được đâu là cỏ lùng và hạt giống.
Chủ đề chính của dụ ngôn là hạt giống. Chủ ruộng đã gieo hạt giống, speirò, vào ruộng của mình. Kẻ thù đến và gieo thêm cỏ lùng “giữa hạt giống”; động từ epi-speirò chỉ việc gieo lên trên. Cách mô tả nầy cho thấy mục đích xấu của kẻ thù. Tuy nhiên, hạt giống vẫn mọc lên và kết trái. Matthêo nói đến việc kết trái, karpos, như trong dụ ngôn trước (13,8). Việc kết trái chứng tỏ là hạt giống tốt, nên mới sinh trái tốt (7,18.20), và không bị ảnh hưởng bởi việc lớn lên chung với cỏ lùng.
Lúa tốt được tách ra khỏi cỏ lùng trong mùa gặt (cc. 27-30)
Đoạn nầy ở hình thức đối thoại giữa chủ ruộng và các tôi tớ. Các tôi tớ đặt các câu hỏi, và gia chủ trả lời và ra mệnh lệnh. Kẻ thù ra đi, các tôi tớ đến với gia chủ trình bày về sự hiện diện của hạt giống xấu trong ruộng (c. 27). “Người gieo hạt giống tốt” trong câu nhập đề, bây giờ được xác định chính là gia chủ, oikodespotès. Gia chủ nầy chính là hình ảnh của Thiên Chúa (20,1; 21,33); bởi đó kyrie cũng hiểu theo nghĩa nầy. Các tôi tớ đặt vấn đề về nguồn gốc hạt giống xấu giữa ruộng của ông chủ: “Ông đã chẳng gieo hạt giống tốt hay sao?” Câu trả lời chờ đợi khẳng định “Vâng, tôi đã gieo hạt giống tốt”. Câu hỏi tiếp theo về nguồn gốc cỏ lùng “Bởi đâu lại có cỏ lùng?” Trong Matthêô, khi đặt vấn đề về nguồn gốc một sự kiện, thường cho thấy sự kiện ấy vượt qua trí hiểu của con người, và cả sự bất lực của con người trong giải quyết vấn đề (13,27; 13,54.56; 15,33; 21,25). Bởi đó, ông chủ không để cho các tôi tớ làm theo cách suy nghĩ của họ là đi nhổ ngay cỏ lùng ra khỏi ruộng.
Chỉ gia chủ mới biết nguồn gốc của cỏ lùng, còn tôi tớ không biết điều nầy, nên họ phải chờ đến ngày gặt (c. 28). Ông gọi đó là kẻ thù của ông, vì cỏ lùng đã được gieo vào trong ruộng của ông. Chính ông quyết định thời hạn để cho cỏ lùng lớn lên chung với hạt giống, và khi nào thì chúng sẽ bị đốt trong lửa. Động từ syllegò, “thu góp” (cc. 28.29.30) được dùng đến 3 lần trong đoạn ngắn nầy. Các tôi tớ muốn thu góp ngay cỏ lùng (c.28), nhưng gia chủ lo ngại việc thu góp nầy sẽ ảnh hưởng đến hạt giống tốt (c. 29). Bởi đó ông để cỏ lùng mọc chung trong ruộng của ông cho đến ngày gặt (c. 30). “Mùa gặt” và “thời gian” gắn liền với nhau và mang ý nghĩa cánh chung. Chính “thời gian”, kaipos, xác định tính chất của mùa gặt. Đó là mùa gặt của thời cánh chung (8,29; 21,34). Chính đợi đến ngày cánh chung, mọi sự mới tỏ lộ ra và được giải quyết (13,47-50; 22,1-14; 25,31-46). Hạt giống tốt thì sinh hạt, còn cỏ lùng thì không; như thế ông chủ dùng nguyên tắc “xem quả thì biết cây” (7,18) để chỉ cho tôi tớ biết cách phân biệt và hành động trong ngày gặt. Cỏ lùng thì bó lại và đốt đi, còn lúa tốt cất vào trong kho lẫm của gia chủ (13,30b.40; 3, 12).
Thiên Chúa gieo hạt giống tốt xuống, và Ngài thu gặt hoa trái. Trên mảnh ruộng của Thiên Chúa ở trần gian, hạt giống tốt và cỏ lùng sống chung. Hạt giống tốt phải sinh hoa trái tốt, vì chỉ như thế nó mới được thu hoạch và cất vào kho lẫm của Thiên Chúa.
Dụ Ngôn Hạt Cải (13,31-32)
Lần nữa Chúa Giêsu nói về dụ ngôn một hạt giống khác. Đó là hạt cải. Dụ ngôn nầy được thuật lại trong Mc 4,30-32 và Lc 13,18-19. Hạt cải mọc dọc theo vùng Biển Galilêa. Chiều cao loại cây một năm nầy thay đổi từ 0,6096 m - 1,8288m. Lá mọc từ gốc mà lên. Đến mùa cây trổ sinh rất nhiều bông nhỏ màu vàng. Hạt cải dùng làm dầu, một thứ hương liệu (ABD 2,812).
Khác với dụ ngôn hạt giống tốt, dụ ngôn nầy nhấn mạnh đến kết quả cuối cùng của hạt cải, rất tương phản với tình trạng khởi đầu. Tính cách tương phản nầy được diễn tả bởi hai tính từ mikroteron, “nhỏ nhất” và meizon, “lớn nhất” (c.32). Sự tương phản nầy nhấn mạnh sự sống lớn mạnh và năng động của Nước Trời. Hạt cải lớn lên thành “cây”, devdron, nghĩa là nó có hình dáng và kích thước như một thân cây.
Hình ảnh ẩn dụ “chim trời đến ẩn náu trong cành của nó” lấy từ Cựu ước. Sách Đaniel 4 và Ezekiel 31 so sánh vua Aicập như một cây to lớn, “thân nó cao lớn hơn mọi cây cối trong cánh đồng, chồi lộc ra nhiều, cành lá vươn rộng” (Ezk 31,5), mà các chư hầu như chim trời tìm đến ẩn náu và làm tổ, “Trên cành cây, mọi giống chim trời đến làm tổ, dưới bóng lá cành, mọi dã thú nẩy nở sinh sôi, và dưới bóng nó, vô số dân tộc đến cư ngụ” (Ezk 31,6; Đaniel 4,9.18). Bởi đó, hình ảnh nầy được dùng trong dụ ngôn ám chỉ việc các dân tộc tìm đến Nước Trời vào thời cánh chung, để được cư ngụ và hưởng sự sống trong đó.
Cây cải của Nước Trời thay thế cây sự sống trong vườn Eđen, bởi Nước Trời ban sự sống cho mọi dân tộc và mọi người.
Dụ Ngôn Men Trong Bột (13,33)
Dụ ngôn nầy không dùng hình ảnh hạt giống nữa, mà một nhúm men, zymè. Giống như dụ ngôn trước, dụ ngôn nầy nói đến sự nhỏ bé lúc ban đầu và lớn mạnh vào lúc cuối. Tuy nhiên dụ ngôn nầy còn nhấn mạnh một khía cạnh khác. Đó là sự sống của Nước Trời làm biến đổi cả môi trường nơi men Nước Trời được bỏ vào.
Kết luận: Nước Trời là Chúa Giêsu Kitô. Ngài đến trần gian như hạt giống chịu chôn vùi trong lòng đất. Không để tỏ lộ công khai một dáng vẻ to lớn và huy hoàng nào; trái lại nhỏ bé và thầm lặng. Tuy nhiên Ngài đã làm dậy lên trần gian và khi đã hoàn thành sứ mạng, Ngài trở nên nơi ơn cứu độ duy nhất cho mọi người.
9. Nước Trời được ví như...
(Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Đoạn Tin Mừng dài hôm nay chỉ có một chủ đề duy nhất: qua một số hình ảnh dễ hiểu Nước Trời được phác lên những nét đặc thù mà, thoạt tiên xem ra rời rạc nhưng nhìn kĩ chúng bổ sung cho nhau cách hết sức chặt chẽ. Tuy nhiên để hiểu sâu rộng hơn, tôi thiết nghĩ cần phải đầu tư đội chút suy nghĩ. Hai dụ ngôn đầu chẳng hạn, nhiều lần ta được giải thích: sức mạnh của Nước Trời được ví như hạt cải, tuy nhỏ bé nhưng lại mọc thành cây lớn, như dúm men ít ỏi mà làm cho cả ba thúng bột dậy men, vì đó là sức mạnh của chân thiện mỹ, mà chân thiện mỹ thì không gì có thể cưỡng lại được. Điều này nếu có đúng thì chỉ trên suy luận lô-gic, thực tế cho thấy: ngay cả giữa các tu sĩ nhiều người còn nghi ngại về sức mạnh của gương mù gương xấu hơn là tin tưởng vào sức mạnh của gương lành hay nhân đức. Ngay cả một Giáo Hội rất tự hào về các chân lý mình sở đắc mà nhiều khi cũng còn run sợ, lép vế trước các thói đời, lạc thuyết… Sức mạnh vô địch của Nước Trời, theo Đức Giêsu, chắc phải hệ tại ở một điều gì khác lắm…
Dụ ngôn thứ ba thì Đức Giêsu kể, rồi lại được chính Người giải thích nhằm đáp ứng yêu cầu của các môn đệ. Nhiều người cho rằng dụ ngôn này nói về tình trạng chịu vậy của người lành phải sống chung với kẻ dữ chờ ngày phán xét; nếu quả thật là thế thì ý nghĩa của nó đi ngược hẳn lại, và triệt tiêu hai dụ ngôn trên. Chắc chắn không thể thế được! Hơn nữa nhiều người trong chúng ta vẫn hiểu là Đức Giêsu ví von Nước Trời giống như hạt cải, như nhúm men…, thậm chí nhiều cuốn Kinh Thánh còn đặt tiêu đề ‘dụ ngôn cỏ lùng’ dễ gây hiểu lầm (Nước Trời giống như cỏ lùng?). Thực ra các dụ ngôn đều là những câu chuyện, và ở đây Nước Trời được ví như ba hành động chứ không phải ba vật thể. Riêng dụ ngôn thứ ba (lúa tốt và cỏ lùng) Nước Trời được ví với thái độ của chủ ruộng: ông chấp nhận tình trạng sống chung tốt xấu vì một mục đích nào đó cao cả hơn. Nếu ta đọc cả ba dụ ngôn và hiểu ba hành động trong thế liên hoàn, có thể ý nghĩa sẽ hiện rõ hơn chăng? Tôi thử suy diễn:
Nước trời chính là lòng từ nhân của Thiên Chúa và thực tại trong đó lòng thương xót của Ngài ngự trị và hành động. Lòng nhân này chấp nhận, và thực tế còn như ‘mong’ cho có sự dữ, ‘đòi’ phải có sự tội trên trần gian này, mọi nơi và qua mọi thời đại (kể cả trong Hội Thánh, trong đời tu… và đương nhiên nơi từng tâm hồn…) Felix culpa là thế!; ‘Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt!’ Yếu đuối và tội lỗi không hề làm cho tình yêu thương xót này bị giảm sút hay thu hẹp lại. Thoạt nhìn lòng nhân ái có vẻ âm thầm và rất mực khiêm tốn, nhưng chính trước tội lỗi và sự dữ nó lại có cơ càng lớn mạnh và bùng nổ mạnh mẽ hơn. ‘Nước Trời cũng giống như chuyện hạt cải (nhỏ bé) người nọ lấy gieo trong ruộng mình…như nắm men vùi vào ba thúng bột…’ Và trong chính cái môi trường tội lỗi và thấp kém đó (thửa đất đen hay mấy thúng bột chai lì) lòng thương xót càng chứng tỏ được cái sức mạnh cải tạo và biến đổi vô địch của nó, ‘cho đến khi tất cả bột dậy men’.
Lấy trường hợp thầy thuốc chẳng hạn, một hình ảnh mà Đức Giêsu đã từng sử dụng để nói về chính mình. Nghề của thầy thuốc cần, và gần như đòi, phải có người đau yếu bệnh tật. Người ta không gởi bác sĩ tới nơi toàn người khỏe mạnh, lành lặn. Bệnh càng nhiều và con bệnh càng hiểm nghèo thì tay nghề của bác sĩ, không những không mai một, mà ngược lại còn phát huy và nổi danh hơn. Một bác sĩ được gởi tới bệnh viện chính là để chữa bệnh cho thật nhiều bệnh nhân, nhất là các ca bệnh nặng nhất… cho tới khi họ hoàn toàn bình phục có thể về nhà. Nước Trời của Đức Kitô là như thế đó và kế hoạch của Thiên Chúa là như vậy!
Cụ thể hơn, ta thử nhìn vào trường hợp cha sở họ Ars - thánh Gioan Vi-a-nê, một hình ảnh mà tôi đã nhiều lần chiêm ngắm trong sứ vụ linh mục của mình. Sứ mệnh mục tử tìm chiên lạc của ngài gần như đòi ngài phải được phái tới một họ đạo hẻo lánh, khô khan, nguội lạnh như cái họ đạo Ars thời đó. Và chính vì được gởi tới cái họ đạo tội lỗi bê tha này mà từ một linh mục tầm thường vô danh, Gio-an Ma-ri-a đã trở nên lừng danh thánh thiện; và vì ngài đã trung thành ở lại phục vụ chứ không trốn chạy (như ngài đã từng muốn làm) mà họ đạo Ars và cả vùng lân cận dần dần được cải hóa. Có như thế, Gioan Maria Vi-a-nê mới nối bước theo chân Thầy Giêsu, mới xứng danh là linh mục của Nước Trời - linh mục của Giêsu cứu độ, của Thiên Chúa nhân hậu và xót thương. Chính vì thế mà, nếu muốn trở thành một linh mục (hay Kitô hữu) của Nước Trời, tôi không thể khác hơn… là chấp nhận sống giữa một trần gian tội lỗi, để có nhiều người nhận ra rằng: ‘Nước Trời đang ở giữa anh em’.
Lạy Thiên Chúa là chủ của Nước Trời đang được thể hiện nơi trần gian, xin biến đổi con nên linh mục của Nước Trời, để con không phàn nàn kêu trách tội lỗi của người đời, không khó chịu, chán nản trước các lầm lỗi của chính mình, cũng như của các anh em con. Ngược lại xin cho con biết dâng lời cảm tạ vì nhờ đó con càng được đồng hành với lòng thương xót Chúa, được tiến bộ và lớn mạnh lên trong sức mạnh yêu thương, và được tham gia vào hiệu năng cải hóa và biến đổi mà chỉ có lòng thương xót thập giá mới có thể thực sự mang lại. Amen.
10. Con người, không phải cỏ cây
(John. W. Martens – Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
Mt 13, 28: “Vậy ông có muốn chúng tôi ra đi để gom cỏ lùng lại không?”
Dụ ngôn cỏ dại giữa ruộng lúa chỉ có trong tin mừng Matthêu. Đó là dụ ngôn về cánh chung, về ngày phán xét sau cùng. Đối với những người làm vườn, dụ ngôn gợi nhắc chúng ta nhớ lại những kinh nghiệm vườn tược. Kinh nghiệm cho thấy, ta có thể phân biệt giữa lúa tốt và cỏ dại. Nói thì dễ nhưng bắt tay vào làm thì rất khó, nhất là đối với những ai mới tập sự công việc ruộng rẫy. Ở đây chúng ta đặt ra một câu hỏi khác: Cỏ dại từ đâu mà ra?
Gia đình tôi đã mua một căn hộ 10 năm về trước, và chúng tôi đã chuyển đến căn hộ này vào mùa xuân. Tôi nhận thấy có một giống cỏ lạ trong vườn nhà mình. Khi loại cỏ này lớn lên vào mùa hè, tôi khám phá ra chúng không còn giống một loại cỏ dại nữa. Đó là loại rau ăn được, tên khoa học là Antium lappa. Rễ của nó màu trắng, dài đến 1 mét khi nó lớn và rất khó để nhổ lên. Rễ của giống cây này sẽ bị gãy và tự phân hủy, trước khi tôi có thể bứng nó đi. Tôi còn khám phá ra một điều thú vị về loại cây Antium lappa này. Nhiều người đã dùng nó như một vị thuốc để chữa bệnh. Đó cũng là một loại thảo mộc mà bông của nó có thể được dùng để dệt vải. Khi người ta lấy sợi bông này dính vào lông cừu, thì rất khó để gỡ ra. Đây là loại cỏ dại đối với tôi và gia đình, những đối với những người biết công năng của nó, thì nó chẳng còn là một loại cỏ dại nữa. Phân biệt cỏ dại với một loại thảo mộc hữu ích, tùy thuộc vào sự hiểu biết của từng người.
Trong dụ ngôn về lúa tốt và cỏ dại, dường như không có sự phân định ró ràng giữa hai thể loại này. Một bên là lúa, để làm ra cơm bánh, một bên là cỏ dại, tiếng Hy Lạp là Zizania, và tên khoa học nó thuộc chủng loại Lolium Temulentum. Các bản dịch cổ trong Kinh Thánh vẫn gọi là cỏ lùng, hay cỏ dại. Zizania trông khá giống cây lúa khi nó mới mọc lên, nhưng khi nó lớn lên, người ta dễ phân biệt nó với cây lúa. Dụ ngôn của Chúa Giê-Su khai sáng cho chúng ta thấy loại cỏ Zizania này cuối cùng không thể được sử dụng, không giống như loại cỏ bông, cây thuốc chúng ta nói ở trên. Khi người làm vườn phát hiện ra nó, nó sẽ bị đốn bỏ. Tuy vậy, để phân định lúa tốt với cỏ dại, phải chờ đợi ngày cánh chung, eschaton, khi nhũng người thợ gặt, là các thiên thần sẽ đến thu gom lúa tốt cho vào kho lẫm và gom đốt cỏ dại, như một cuộc phân định chung thẩm.
Đôi khi có một vài sinh viên hỏi tôi có phải dụ ngôn ám chỉ việc tiền định, tức là có một số người đã là lúa tốt, và một số khác đã là cỏ dại ngay từ lúc ban đầu. Vấn nạn đó chống lại gay gắt ý nghĩ ẩn dụ của dụ ngôn. Cây cỏ chỉ là cây cỏ, và con nguời vẫn là con người. Điểm nhấn của Chúa Giê-Su nơi dụ ngôn, là Ngài không chủ trương nói rằng có những người vốn xấu xa ngay từ ban đầu, từ căn rễ. Nhưng Giáo hội là một thân thể mầu nhiệm pha trộn cả những vị thánh và những tội nhân. Chúng ta không thể nói ai là những người biểu trưng cho lúa tốt, và ai là những cỏ dại, vì bản tính bất toàn của con người chúng ta. Những hiểu biết và những quyết định của chúng ta khi xét đoán người khác không thể nào chính xác, khi chúng ta muốn tiếm quyền Thiên Chúa trong công việc này.
Dương như trong dụ ngôn này, Giáo hội được khuyến mời hãy luôn có thái độ kiên nhẫn và khoan nhượng đối với những con người mà chúng ta dễ kết án.Tất cả chúng ta hợp thành một nhiệm thể. Chúng ta được dựng nên tốt lành theo họa ảnh của Thiên Chúa, nhưng ai cũng có khuynh hướng chiều theo tội lỗi. Không ai trong chúng ta trở thành lúa tốt nếu Chúa không trợ giúp. Chúng ta dễ có khuynh hướng sai lạc là muốn làm tinh sạch giáo hội bằng cách loại trừ những ai phạm tội không theo kiểu cách của chúng ta, hoặc không suy nghĩ giống như chúng ta. Khuynh hướng này cần phải được loại bỏ. Chúng ta phải kiên nhẫn để cho Thiên Chúa làm việc, khi chúng ta đang chuẩn bị cho ngày cánh chung sau cùng. Matthêu không hổ thẹn khi nói về Ngày Chung Thẩm (Ngày Chung Thẩm viết hoa). “Sẽ có nhiều người bị ném vào nơi khóc lóc nghiến răng, và một số nguời công chính sẽ sáng chói như ánh mặt trời trong vương quốc của Chúa Cha”. Trong khi Giáo Hội vẫn sử dụng quyền bính để thẩm xét những hành vi của con người như trong Mt 18, và những ai còn sống trong sự hiệp thông với Giáo hội, thì với sự hiểu biết hạn hẹp của chúng ta, chúng ta không thể kết luận ai là lúa tốt, ai là cỏ dại. Về điều này chúng ta cần phải nhấn thật mạnh một lần nữa, dụ ngôn với ý nghĩa ẩn dụ thì vẫn chỉ là ẩn dụ mà thôi. Chúng ta không phải là cây cỏ, nhưng chúng ta là những con người. Khác với cây cỏ, vì nó chỉ là cỏ cây, thế thôi. Chúng ta là con nguời, và chúng ta vẫn có thể lớn lên theo cách thức mà Chúa muốn chúng ta phải là, để phục vụ vương quốc với hoa trái mà chúng ta không bao giờ biết đến, và hoa trái đó ở ngay chính trong tâm hồn chúng ta.
11. Nhẫn nại đợi chờ!
(Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Nước Trời là một mầu nhiệm, Chúa Giêsu đã mạc khải và thiết lập trong lịch sử nhân loại. Qua những hình ảnh đơn sơ, bình dị, gần gũi với cuộc sống, Chúa Giêsu đã dùng nhiều dụ ngôn để giảng dạy về Nước Trời.
Chúa nhật trước với dụ ngôn “người gieo giống”,Chúa Giêsu cho thấy Nước Trời đã khai mạc. Cũng như người gieo giống đi gieo hạt trên khắp cánh đồng, Chúa Giêsu cũng gieo hạt giống Lời Chúa. Hạt giống ấy tăng trưởng trổ sinh hoa trái nơi mỗi người ra sao là tùy thái độ đón nhận của từng người ấy.
Chúa nhật hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục giảng dạy về Nước Trời bằng dụ ngôn “lúa và cỏ lùng”. Như vậy, sau khi nói đến việc khai mạc Nước Trời, Người nói đến sự phát triển của Nước Trời trong lịch sử trần thế.
Chúa Giêsu đã khởi đầu công trình của Người với một nhóm nhỏ Mười Hai Tông Đồ. Sự khiêm tốn của “hạt cải bé nhỏ được gieo vào lòng đất bao la”. Sự khiêm tốn của “một nắm men bị vùi sâu vào ba đấu bột”. Điều kỳ diệu là “hạt bé hơn mọi thứ hạt giống” lại “trở thành cây cao bóng cả đến nỗi chim trời có thể đến nương náu nơi ngành nó”. Nắm men ít ỏi kia lại có khả năng làm dậy lên cả ba đấu bột chôn vùi nó. Cũng như vậy, Nước Trời sẽ vươn xa vươn rộng cho muôn dân nước đến nương nhờ. Hạt giống Nước Trời đã làm dậy lên cả thế giới bằng một tinh thần mới của Tin Mừng,biến đổi lịch sử trong tình thương và hòa bình.
Một vấn nạn luôn được đặt ra: Nếu Nước Trời đã được Chúa Giêsu thiết lập cách đây hơn 20 thế kỷ và nếu Thiên Chúa là Đấng nhân hậu giàu lòng xót thương thì tại sao cho đến nay, cuộc sống con người vẫn đầy dẫy bất công,bạo lực,khổ đau,chiến tranh tương tàn, và xem ra sự dữ có chiều hướng gia tăng? Đôi khi những người xấu xa tội lỗi gian manh, lại giàu có sung túc trong đời sống vật chất hơn những người lành? Vấn nạn này vẫn luôn là trăn trở khôn nguôi người Kitô hữu ở mọi thời đại! Dụ ngôn “lúa và cỏ lùng” giải thích vấn nạn ấy.
Cánh đồng được gieo toàn hạt giống tốt. Thiên Chúa đã gieo vào trần thế những con cái Nước Trời. Ban đêm, kẻ thù xuất hiện. Satan tới gieo cỏ lùng. Thế là có cảnh lẫn lộn trên trần gian. Người lành kẻ dữ cùng chung nhau một mảnh đất. Đang khi hạt giống được gieo giữa ban ngày thì Satan lại lợi dụng đêm tối khi mọi người đã mất cảnh giác, để gieo rắc tội lỗi. Hành động thấp hèn. “Xấu” chưa chắc đã “hèn”, nhưng “hèn” thì chắc chắn là “xấu”, bởi lẽ nhiều tay “giang hồ”, bặm trợn, vẫn rất ghét thói “ném đá dấu tay”, trong khi động cơ, phương tiện và mục đích của những hành động lén lút, luôn là bỉ ổi, xấu xa và hại người.
Thế giới này giống như cánh đồng lúa đầy cỏ lùng xen vào. Những ông thánh sống lẫn lộn với những thằng quỷ, tốt xen lẫn với xấu. Tốt như những tổ chức nhân đạo, nhân quyền, hoà bình thế giới: Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên Hiệp Quốc – UNESCO (United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization), Quỹ Cứu trợ Nhi đồng Quốc tế của Liên Hiệp Quốc – UNICEP (United Nations International Children’s Emergency Fund), Tổ chức Lương thục và Nông nghiệp của Liên Hiệp Quốc – FAO (United Nations Food anf Agricultural Organization), OLYMPIC (Thế vận hội), WORLD CUP (Túc cầu Thế giới) là những tổ chức xây dựng văn hoá, giáo dục tình thương, bảo vệ sức khoẻ trẻ em, phát triển lương thực thế giới, thăng tiến những tài năng, chăm lo y tế. Nhưng lại có rất nhiều những tổ chức xấu xen vào như Mafia, buôn lậu, ma tuý, vũ khí, khủng bố, trộm cướp, du đãng, buôn bán trẻ em, phim ảnh sách báo đồi truỵ… Đồ thật, hàng tốt bị xen lẫn hàng xấu, đồ giả. Người lương thiện, chân chính bị lẫn lộn với kẻ tham ô, móc ngoặc, bất lương. Những thứ cỏ lùng gai góc đó không bao giờ hết, chỉ đến mùa gặt tận thế, chúng mới bị quét sạch, đốt sạch. Tận thế sẽ thiêu đốt tất cả những thứ cỏ lùng đó, những kẻ xấu, kẻ dữ đó. Còn lúa thì được gánh về, chở về kho. Những thánh nhân, những người lương thiện, công chính sẽ sáng chói trong ngày vinh quang đó, họ được rước vào nước hạnh phúc đời đời.
Thấy cỏ lùng xuất hiện với lúa, các đầy tớ đến hỏi ông chủ: “Thưa ông, không phải ông đã gieo giống tốt trong ruộng ông sao? Thế thì cỏ lùng ở đâu ra vậy?” Thấy sự dữ tràn lan trên thế giới, bao nhiêu người thắc mắc: sự dữ, sự ác bởi đâu ra? Chúng ta nhiều lần thấy gian tà thắng ngay lành, bất công thắng công chính, kẻ ác thắng kẻ thiện, nên cũng thất vọng kêu trách: Sao Chúa để kẻ dữ sống lâu, mạnh khoẻ, giàu sang, may mắn, còn kẻ lành phải khổ cực trăm chiều?
Trước những thắc mắc đó, Chúa đáp: “Kẻ thù đã làm đó!” Kẻ thù là ai? Thánh kinh cho biết có hai thứ kẻ thù: kẻ thù ở trong ta và kẻ thù ở ngoài ta.
Kẻ thù ở ngoài ta có những tên khác nhau: con rắn cám dỗ phỉnh gạt (x. St 3,2.13), con rồng, rắn xưa, quỷ, satan (x. Kh 12,9), con thuồng luồng Leviathan (x. Is 27,1), kẻ thù, kẻ chống đối (x. Mt 13,25; Lc 10,19; 2Cr 6,15). Những kẻ thù này ở ngoài con người, nhưng chúng xâm nhập vào con người sâu hiểm tới độ đồng hoá với bản tính nhân loại. Nhưng chúng sẽ bị “Thiên Thần Chúa từ trời xuống, tay cầm chìa khoá vực thẳm và một dây xích lớn, bắt lấy con rồng, tức là con rắn xưa cũng là ma quỷ satan xích nó… quăng vào vực thẳm, rồi đóng cửa niêm phong lại” (Kh 20, 2-3).
Nhưng một mình quỷ thôi, chúng sẽ bất lực như bất lực đối với Thánh Gióp. Chỉ khi có sự tiếp tay của ta như Eva tiếp nó, nó mới thành kẻ thù trong ta: nó trở nên kẻ nội thù ghê gớm. Nó mọc lên những cỏ lùng, bụi gai, đá sỏi, quỷ dữ (x. Mt 13,18-22). “Vì tự lòng phát xuất ra những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cướp, chứng gian, vu khống” (Mt 15, 19). Khi chủ cho biết kẻ thù làm đó, thì đầy tớ xin nhổ đi, chủ sợ hại đến lúa, nên ông đáp: “Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt”. Thái độ của chủ thật khôn ngoan, ông kiên nhẫn chờ đợi đến mùa gặt, mới nhặt cỏ lùng đốt đi.
Có thể trong tâm tưởng nhiều người lại quy gán cho Thiên Chúa trách nhiệm về tình trạng khổ đau đó, chẳng khác gì câu hỏi ngày xưa: “Thưa ông, không phải ông đã gieo giống tốt trong ruộng ông sao? Vậy cỏ lùng ở đâu mà ra?” Một câu hỏi không lên án, nhưng chứa đựng sự nghi ngờ.
Để trả lời cho vấn nạn đó, Chúa Giêsu đã lấy lại giáo huấn của sách Sáng Thế: Sự ác không đến từ Thiên Chúa. Ngài chỉ gieo hạt giống tốt lành vào mảnh đất người đời. Sự ác cũng không chỉ đến từ tâm trí con người, nhưng nó đã có trước đó. Sự dữ cũng là một mầu nhiệm. Đối với Chúa Giêsu, con người là nạn nhân của sức mạnh mà Người gọi là ”Kẻ thù”, là ”Quỹ dữ” như cách diễn tả trong dụ ngôn: “Khi mọi người đang ngũ, thì kẻ thù của ông đến gieo thêm cỏ lùng rồi đi mất”. Ở cội nguồn tội lỗi của con người, còn có một sức mạnh luôn tìm cách phá hoại công trình của Thiên Chúa và hành tung của nó rất bí mật. Đó là quỷ dữ lợi dụng đêm tối để gieo rắc tội lỗi rồi trốn đi.Thánh Phaolô đã nói về sự dữ trong thư Rôma: Công cuộc tạo dựng của Thiên Chúa tốt lành. Satan đã cám dỗ Adam, Eva, Nguyên Tổ sa ngã, tội lỗi sinh ra đau khổ và sự chết rồi nó như con bạch tuộc vươn vòi vào trần thế, con người nô lệ cho tội lỗi và nhận lấy án phạt là sự chết (x.Rm 1,20 -31;15,12). Ma quỷ luôn có mặt để gieo rắc sự xấu.
Thiên Chúa gieo vào thế giới hạt giống khát vọng hòa bình. Đẹp biết bao khi mọi dân tộc nắm tay nhau xây dựng một thế giới huynh đệ tươi thắm tình người. Nhưng thực tế lại đáng buồn thay! Cánh đồng hòa bình tươi xanh đã bị những cỏ dại của tham vọng, ích kỷ, ác độc làm hoen ố. Lịch sử thế giới được ghi bằng những trang buồn đau vì không lúc nào mà không có chiến tranh.
Thế giới này sẽ tươi đẹp biết bao nếu tất cả trí thông minh, tất cả tài nguyên, tất cả năng lực đều góp phần chung tay xây dựng! Nhưng thật đáng tiếc, rất nhiều trí thông minh, rất nhiều tài nguyên, rất nhiều năng lực đã tiêu tốn trong việc hủy hoại, tha hóa, nô lệ hóa con người. Đó là những hạt cỏ xấu do ma quỷ lén lút gieo vào ruộng lúa tốt. Lúa tốt và cỏ lùng lẫn lộn trên cùng ruộng lúa. Cái tốt, cái xấu đan xen trong cuộc sống hàng ngày, nhất là trong tâm hồn mỗi người. Ở đó, hạt mầm sự sống và nọc độc sự chết, cùng sống chung. Mỗi con người chắc chắn đều có kinh nghiệm bản thân như Thánh Phaolô đã từng kinh nghiệm “Điều lành tôi muốn làm, tôi lại không làm, còn điều dữ tôi không muốn làm, nhưng tôi lại cứ làm (Rm 7,19).
Con người có tự do để chọn lựa cái đúng, cái sai, chọn cái tốt, cái xấu. Nước Trời cũng gồm những con người có tự do, thì cũng có những người xấu do chọn lựa sai lầm. Cảm nhận được sự thật ấy trong tâm hồn mình để chúng ta biết khoan dung trong cách nhìn về người khác. Sự khoan dung không đồng nghĩa với đầu hàng cái ác, nhưng phát xuất từ niềm tin vững chắc vào sự tất thắng của Nước Trời: “Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt. Đến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt: hãy gom cỏ lùng lại, bó thành bó mà đốt đi, còn lúa thì hãy thu vào kho lẫm cho tôi”. Cho dù cỏ lùng có bóp nghẹt lúa tốt trong một thời gian dài, nhưng mùa gặt đến, cỏ lùng sẽ bị gom lại và đốt đi, còn lúa tốt được cất vào kho lẫm.
Cỏ lùng chẳng bao giờ thành lúa tốt được,nhưng người xấu có thể hoán cải để nên người tốt. Thiên Chúa ghét tội lỗi, nhưng lại yêu mến tội nhân vì Người chờ nơi họ lòng thống hối để được thứ tha (x.Rm 2,4). Chính vì thế mà Thiên Chúa kiên tâm chờ đợi. Chờ đợi vì Thiên Chúa tin vào sự hoán cải của con người. Chờ đợi vì Thiên Chúa tôn trọng tự do lựa chọn của con người. Chờ đợi vì Thiên Chúa nuôi một niềm hy vọng lớn lao.Thiên Chúa vẫn luôn nhẫn nại đợi chờ cho đến ngày tận thế “ cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt”.
Cỏ lùng và lúa tốt nằm ở trong tim con người. Mỗi người đong đưa giữa cỏ lùng và lúa tốt, giữa cái thiện và cái ác, giữa Thiên Thần và Satan.Tự do chọn lựa là quyền mỗi người.Thiên Chúa vẫn chấp nhận cỏ lùng trong con người. Thiên Chúa nhẫn nại đợi chờ con người thanh luyện dần dần và hy vọng mọi sự trong họ sẽ thành lúa tốt.
Lạy Chúa, xin cho con nhẫn nại và can đảm cùng đi với Chúa và với tha nhân trên những nẻo đường ghập ghềnh cuộc đời, trong thác dốc tâm hồn với tất cả niềm tin và hy vọng. Amen.
12. Giống tốt
(Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
Tác giả Sách Khôn Ngoan diễn tả lòng thương xót của Thiên Chúa với dân Do-thái trong cuộc xuất Ai-cập như là biểu tượng của niềm hy vọng tràn dầy. Sự khôn ngoan thúc đẩy con người tìm hiểu về Thiên Chúa và vai trò của con người trong chương trình sáng tạo. Sách Khôn Ngoan luận bàn đến nguyên lý nhân qủa, nguyên nhân và hậu qủa để phân biệt giữa tốt và xấu. Mọi sự xuất hiện trên đời đều có lý do riêng để được tồn tại. Thời gian là ân huệ giúp mọi loài phát triển theo ý định nhiệm mầu. Sự khôn ngoan diễn tả sự liên hệ thiết yếu giữa Thiên Chúa và loài người. Thiên Chúa là Đấng tạo dựng muôn loài trong vũ trụ và con người có trách nhiệm trong việc bảo trì và làm cho sinh xôi nẩy nở về mọi phương diện. Đời sống con người là một lời mời gọi tích cực hướng tới sự viên mãn tích cực. Đau khổ của đời sống mang một ý nghĩa riêng biệt. Chương trình quan phòng của Thiên Chúa vượt trên sự điều khiển của con người. Trung tín với mạc khải về luật tự nhiên là sự khôn ngoan đích thực cao quí hơn sự hiểu biết nông cạn của trí khôn con người.
Thiên Chúa tạo dựng và điều khiển vũ trụ muôn loài. Thiên Chúa là tình yêu. Người muốn chia sẻ tình yêu với các loài thụ tạo, nhất là loài người. Người quan tâm cách đặc biệt tới con người. Người ban cho con người có hồn xác, tự do, trí khôn, ý chí và sự thông minh để con người nhận biết Thiên Chúa và đồng chủng. Thiên Chúa là Cha nhân từ đối xử đại lượng với mọi người: Vì chưng, sức mạnh của Chúa là nguồn gốc sự công minh và vì Người là Chúa mọi sự, nên tỏ ra khoan dung với mọi người (Kn 12, 16). Người tạo dựng con người để chung phần sự sống và hưởng hạnh phúc đời này lẫn đời sau. Cuộc sống có thử thách và được tự do chọn lựa. Chúa tạo cơ hội cho con người nhận biết chân lý và đường nẻo ngay chính để sống an lạc: Người dậy dỗ dân Người rằng: Người công chính, phải ăn ở nhân đạo, và Người làm cho con cái Người đầy hy vọng rằng: Người ban cho kẻ tội lỗi ơn ăn năn sám hối (Kn 12, 19).
Vì thân xác nặng nề và yếu đuối mỏng dòn nên con người dễ sa ngã vào đường lầm. Từ bẩm sinh, con người tốt lành. Nhân chi sơ, tính bản thiện. Khi sống chung đụng với người khác trong xã hội, mầm mống sự dữ và thói xấu nẩy sinh. Sự khao khát thèm muốn trong con người không có cùng. Khi có cơ hội đến là những hạt giống xấu trong tâm sẽ đua nhau phát triển. Hạt giống của sự tham lam, bất công, kiêu căng, hà tiện, giận dữ, ghen tương và thù ghét giống như cỏ lùng tự do sinh xôi nẩy nở. Đôi khi còn lớn mạnh hơn, bởi vì được tưới gội bằng ước muốn và lòng tham vô đáy. Từ đó sinh ra biết bao chứng hư tật xấu. Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn về lúa và cỏ lùng để diễn tả về tình trạng của đời sống con người. Lúa là hạt giống tốt như các nhân đức và việc tốt lành. Cỏ lùng là hạt giống xấu được gieo vào chen lẫn giữa lúa để dành sống. Người chủ ruộng kiên tâm chờ đợi cho đến mùa thu hoạch mới diệt trừ. Trong dụ ngôn, khi đầy tớ xin ông chủ nhổ cỏ lùng, Chủ nhà đáp: Không được, kẻo khi nhổ cỏ lùng, các anh lại nhổ luôn cả lúa chăng (Mt 13, 29).
Trong thực tế của việc cầy bừa ruộng rẫy, thường các chủ gia chăm bón ruộng lúa rất cẩn thận. Vào mùa lúa, để bảo vệ cây lúa phát triển tốt, các chủ gia phải chuẩn bị ruộng đất cẩn thận, rồi bơm nước, bỏ phân, diệt rầy, giết ốc và xịt thuốc cỏ. Vì nếu để cỏ mọc um tùm, lúa sẽ bị chen lấn còi cọt không thể sinh hoa kết qủa tốt. Nhưng theo cách nhìn của chủ ruộng trong dụ ngôn, mang một ý nghĩa khác sâu xa hơn. Lúa và cỏ lùng được ví như nhân đức và tính hư tật xấu của con người. Người xấu hay người tốt luôn có cơ hội sống để phát triển và hoàn thành sứ mệnh. Không ai bị cắt đứt dọc đường. Biết rằng không có ai hoàn toàn thánh thiện và cũng không có ai hoàn toàn xấu xa tội lỗi. Mỗi con người đều ẩn dấu cái tốt, cái xấu trong người. Mỗi ngày sống là một kinh nghiệm giúp con người nên tốt hơn. Vì thế, chủ nói: Hãy cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt. Và đến mùa, ta sẽ dặn thợ gặt: Các anh hãy nhổ cỏ lùng trước, rồi bó lại từng bó mà đốt đi, sau mới thu lúa lại chất vào lẫm cho ta (Mt 13, 30).
Sự kiên nhẫn mong chờ của chủ gia là phút cuối cùng. Chúng ta biết cỏ lồng vực sẽ sinh hạt lồng vực, không thể thay đổi, nhưng tâm con người có thể thay đổi để trở nên tốt hơn. Môi trường cuộc sống rất quan trọng để giúp cải hóa. Người ta thường nói: Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng. Đúng vậy, khi chúng ta kết bạn với những kẻ xấu, nhóm băng đảng, người nghiện ngập, hút sách, bài bạc, nhậu nhoẹt, trước hay sau, chúng ta cũng bị nhiễm độc. Người ta thường nói rằng: Bạn có thể cho biết rằng bạn thường chơi với ai, tôi sẽ cho biết, bạn là người thế nào. Con người chúng ta rất dễ thay đổi, tập sống sung xướng tiện nghi dễ hơn là sống kham khổ. Thay đổi để trở nên tốt và hoàn thiện thì khó hơn đổi thay để trở nên tầm thường và buông thả. Hằng ngày chúng ta chứng kiến biết bao nhiêu bạn trẻ đã đang bị thất bại trong cuộc sống bởi chạy đua theo thói hư tật xấu như hút sách, cá độ, chơi bời lêu lổng và ngại phấn đấu. Họ ưa thích đua đòi một cuộc sống hưởng thụ, an nhàn và hoang phí. Chúng ta không ngồi đây để than phiền trách móc hay chán nản. Những vị hữu trách cần tỉnh thức lên tiếng cảnh báo và đề phòng giúp các bạn trẻ có cơ hội đổi mới cuộc đời.
Nước Trời giống như hạt cải bé nhỏ hay giống như men trong đấu bột. Bột làm chất xúc tác để dậy men: Nước trời giống như men người đàn bà kia lấy đem trộn vào ba đấu bột, cho đến khi bột dậy men (Mt 13, 33). Trong cuộc sống xã hội hôm nay, cần nhiều nhân chứng chân thật và thánh thiện. Chúng ta, các Kitô hữu, phải luôn là muối, là men và là ánh sáng soi đường cho những người cùng đồng hành. Ai trong chúng ta cũng đều có ẩn chứa trong mình chất lúa và cỏ lùng. Có nghĩa là đức tính tốt và xấu lẫn lộn, chúng ta cần ý thức nhận biết đâu là lẽ phải, điều tốt để đi theo và đâu là sự sai trái để tránh xa. Sự nhắc nhở của các vị có trách nhiệm rất quan trọng cho những ai còn đang mê ngủ hay say đắm chôn vùi trong lầm lạc. Lời Chúa và sự khuyên dậy sẽ giúp tỉnh thức và có thể tìm đường giác ngộ.
Chúng ta đang trải nghiệm cuộc sống qua muôn hình vạn trạng. Có rất nhiều điều thật khó mà đánh giá đúng sai, phải trái, vì nó vừa thật vừa ảo. Có thể nói là ‘ba phải’. Mục đích của cuộc sống là đi tìm kiếm niềm vui, sự hoan lạc và thỏa mãn. Mỗi người có kinh nghiệm trong hoàn cảnh đời sống riêng tư của mình. Kinh nghiệm mục vụ, có nhiều các cha mẹ vào xin rửa tội cho con. Khi hỏi về vấn đề gia đình, hôn thú, hôn phối và cưới xin, phần lớn các anh chị chỉ trả lời quanh quanh và hứa xuông. Các anh chị ấy sống chung nhưng không có hôn phối, có khi tách biệt nhau hoặc độc thân nuôi con. Khi đặt vấn đề niềm tin đạo giáo, tín lý, luân lý đạo đức, luật lệ, thói tục, phong tục và tập quán, để hướng dẫn tâm linh, thì hình như các thầy dậy đạo giáo đang bị lạc lõng vào thế giới không tưởng và không còn thực tế. Quan sát cuộc sống chung quanh, người già, kẻ trẻ sống cả như vậy, sự liện hệ chằng chịt, họ vẫn sống vui vẻ và sinh hoạt tốt, có sao đâu! Lúa và cỏ lùng cứ mọc cho tới mùa gặt. Có thể lạc quan khi chúng ta nhìn cuộc sống là một tiến trình (progress) từ giai đoạn này tới giai đoạn kia nhưng sẽ kéo theo nhiều hệ lụy trong đời sống. Chúng ta biết mọi sự ở đời phải có lúc kết thúc. Sau cùng thì cỏ lùng sẽ bị đốt và lúa được chất vào kho lẫm.
Là Kitô hữu, chúng ta luôn chăm chỉ cầu nguyện hằng ngày. Cầu nguyện là linh hồn của cuộc sống đức tin. Với sức lực riêng, chúng ta rất khó thắng vượt những cám dỗ và những mời gọi hưởng thụ nhất thời. Cầu ơn Chúa Thánh Thần soi sáng trong mọi tư tưởng, lời nói và việc làm cho xứng hợp với danh nghĩa là Con Chúa: Mà Đấng thấu suốt tâm hồn, thì biết điều Thánh Thần ước muốn. Bởi vì Thánh Thần cầu xin cho các thánh theo ý Thiên Chúa (Rm 8, 27). Xin Thiên Chúa chúng lành cho chúng ta mọi ngày trong đời sống.
13. Thiện ác song hành
(Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
Mọi sự trong thế gian đều tương đối. Thế giới thay đổi. Cuộc sống thay đổi. Sự vật đổi thay. Chế độ chính trị thay đổi. Con người cũng luôn thay đổi. Không có gì tồn tại mãi.
Không có gì tốt hay xấu tuyệt đối ở trần gian này. Con người sinh ra tính bản thiện, nhưng xác phàm yếu đuối hướng về đàng xấu. Trong con người có cả thiện lẫn ác. Thiện và ác gắn chặt với bản tính con người.
Trong xã hội, có người tốt người xấu, nhưng chẳng có ai tốt hay xấu toàn diện. Thánh Phaolô có kinh nghiệm về sự tốt và xấu: “Tôi biết rằng sự thiện không ở trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi. Thật vậy, muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không” (Rm 7,18).
Sự thiện và sự ác như đồng tiền hai mặt. Sự thiện, sự ác có thể tráo đổi và hỗ tương vì trong thiện, có ác, và trong ác, có thiện.
Người ta nói trong rủi, có cái may, và trong cái may, có cái rủi. Thiện ác song hành trong cuộc sống đời tạm này, nhưng ngày sau hết, sự thiện và sự ác sẽ được tách biệt muôn đời.
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn “Cỏ Lùng” để diễn tả về Nước Trời. Những ai có kinh nghiệm về cấy cầy, gieo vãi và trồng trọt nơi đồng ruộng sẽ hiểu dụ ngôn cách dễ dàng. Và đây là dụ ngôn dạy bảo về Nước Trời, nên so sánh với thực tế thì có vài điểm khác biệt.
Trong thửa ruộng trồng lúa, thường thì các nhà nông sẽ phải ra công diệt trừ cỏ dại trước. Cây lúa và cây cỏ lùng rất giống nhau. Cỏ lùng phát triển rất nhanh và ăn hại đất mầu. Nhà nông phải nhổ cỏ và xịt thuốc diệt trừ cỏ dại. Dụ ngôn dạy ý nghĩa ám chỉ về lòng khoan dung nhẫn nại của người chủ và sự thiện ác trong lòng người và cuộc đời.
Hình ảnh cuộc đời con người thật rõ ràng. Môi trường sống ảnh hưởng đến toàn diện con người từ cách suy tư, cách xử trí, cách sống và cách ăn nết ở. Luân lý đạo đức có một, nhưng có nhiều cấp bậc và nhiều cách áp dụng.
Nói về Nước Trời, mỗi người khi được lãnh nhận bí tích Rửa Tội là họ được tháp nhập vào Nhiệm Thể của Chúa Kitô. Chúa Kitô gieo mầm sống tốt: Người đáp rằng: "Kẻ gieo giống tốt, là Con Người” (Mt 13,37).
Con người sống và phát triển trong môi trường cụ thể của xã hội. Con người dễ nhiễm mùi tục lụy thế gian qua tất cả các ngõ ngách của cuộc sống. Môi trường cuộc sống nơi trần gian có rất nhiều cám dỗ hướng về đàng xấu. Chúa Giêsu giải thích: Ruộng là thế gian. Còn hạt giống tốt là con cái Nước trời. Cỏ lùng là con cái gian ác (x. Mt 13,38)
Kẻ thù gieo cỏ lùng là ma quỷ (x. Mt 13,39). Kẻ thù đây, chính là những gương mù gương xấu của con người. Chúa gọi kẻ thù là ma quỷ. Chúng ta phải chóng mặt khi nhìn vào cuộc sống đổi thay về luân thường đạo lý. Con người thời nay đang muốn thay đổi tận gốc rễ những giá trị về tinh thần. Các làn sóng chủ trương Duy Nhân Bản ở Âu Châu đang muốn tước đoạt mọi quyền tự do tôn giáo và cá nhân. Họ chủ trương một cuộc sống duy vật vô thần. Các phong trào nổi dậy đòi tự do luyến ái, hôn nhân đồng tính, ngừa thai phá thai, trợ tử, thụ thai trong ống nghiệm và dùng tế bào gốc nơi phôi thai. Văn hóa sự chết đang lan tràn khắp nơi. Nền luân lý bị xói mòn băng hoại qua những chủ trương quá cấp tiến. Nhiều người không còn muốn sống theo nền đạo đức truyền thống và những giá trị nhân bản nữa.
Nhiều nhóm chủ trương đặt cá nhân chủ nghĩa trên niềm tin tôn giáo, luân lý đạo đức và kỷ cương xã hội. Ảnh hưởng mặt trái của xã hội cứ thấm dần và réo gọi con người trở về thời hoang sơ. Những đức tính cao quý ảnh hưởng của Khổng Giáo như Tam cương ngũ thường, Tam tòng tứ đức, Tu thân tích đức, thấy sao mà xa lạ. Giới trẻ thời nay không còn chú ý nhiều đến sự rèn luyện về nhân cách và đạo đức như: Công, dung, ngôn, hạnh. Bóng tối sự dữ cứ đẩy lui con người vào cuộc sống hưởng thụ. Con người bị vòng quay xã hội cuốn hút theo chiều. Văn minh kỹ thuật góp phần đẩy con người đi xa hơn vào sự chạy đua không ngừng. Cái xấu, cái tốt khó có thể phân biệt. Hình như cái tốt nó đi theo với cái tôi thích. Cái tôi thích và tôi muốn, là tôi thực hiện đúng. Tôi không muốn người khác phải dạy đời hay chỉ dẫn, ngay cả cha mẹ và thầy cô. Đây là cuộc đời của tôi mà!
Nếu quan sát, chúng ta sẽ nhận ra ngay những ảnh hưởng của truyền thông rất lớn. Những phương tiện truyền tin hằng ngay qua sách báo, phim ảnh, truyền hình, báo đài, talk show…hay qua kỹ thuật cao như cellphone, itunes, iphone, ipod và ipad. Chúng ta đã đầu tư quá nhiều thời giờ vào những phương tiện và dụng cụ kỹ thuật tân tiến này. Tình người bị đánh cắp. Ngồi bên nhau đấy, nhưng mỗi người một theo một trò chơi và một ý thích khác nhau. Nguồn kiến thức nơi các trang mạng thật dồi dào và đa dạng. Có những kiến thức rất bổ ích mà chúng ta cần học hỏi và trau dồi, nhưng cũng không tránh khỏi những loại văn hóa đồi trụy và tư tưởng đầu độc. Thánh Phaolô nhận ra sự song hành của sự thiện và sự ác: Bởi đó tôi khám phá ra luật này: khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay (x. Rm 7,21).
Cái gì sẽ giúp chúng ta nhận định và chọn lựa cho đúng. Chúng ta có thể dựa vào tiếng nói lương tâm, nhưng nếu lương tâm chúng ta bị ô nhiễm và trì độn, làm sao chúng ta có thể sáng suốt để quyết định?
Có muôn vàn loại cỏ lùng từ từ được gieo vào lòng người mọi nơi và mọi thời. Qua các cửa ngõ giác quan như cảm giác, thính giác và thị giác, chúng ta nhìn thấy biết bao hình ảnh, sự cố và nghe được biết bao tin tức, chuyện trong nhà ngoài ngõ và chuyện ba xu. Tất cả những sản phẩm xô bồ vàng thau lẫn lộn như mẻ cá vừa bắt được, chúng ta để chúng tự do xâm nhập vào trong đáy tâm hồn của chúng ta. Nhiều khi chúng ta không có giờ để loại bỏ và chọn lựa cái tốt khỏi cái xấu. Chúng ta đón nhận biết bao nhiêu những hình ảnh bạo lực, chém giết, chết chóc, trả thù, trộm cướp, hãm hiếp, gian xảo, khêu gợi lõa lồ, dục tình, hút sách, những lời thô tục, báng bổ, xỉ vả, gian dối…Điều tốt bon chen với điều xấu. Tội lỗi chen lẫn với nhân đức. Sự sai trái chung vai sát cánh với sự thật. Chúng cứ tự nhiên đồng hành bên nhau. Thánh Matthêô ghi chú giải thích: Chủ nhà đáp: 'Không được, kẻo khi nhổ cỏ lùng, các anh lại nhổ luôn cả lúa chăng (Mt.13,29).
Làm sao chúng ta có thể nhổ bỏ và dứt khoát với các thói hư tật xấu? Chúng ta sẽ rất dễ dàng bị ô nhiễm bởi môi trường sống. Vì gần mực thì đen, gần đèn thị rạng. Chúng ta phải biết chọn bạn mà chơi, chọn bài mà đọc và chọn điều tốt mà làm.
Sự giằng co giữa thiện và ác sẽ không ngừng nghỉ. Sự phấn đấu để vươn lên luôn là một thúc bách khẩn thiết. Thân xác và ước muốn của con người cứ bị kéo lôi vào con đường thênh thang rộng rãi. Xác thân muốn thỏa mãn mọi ước mơ và khao khát cứ nổi dậy đòi được đáp ứng. Thánh Phaolô đã chia sẻ kinh nghiệm: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7,19).
Như thế, thiện và ác cứ song hành như cánh đồng lúa chen lẫn cỏ lùng. Chính Chúa Giêsu không muốn cho thợ nhổ cỏ lùng ngay. Như vậy, thói xấu ở đời cũng cần có, để như lửa thử vàng, gian nan thử đức. Chúa không cất chúng ta ra khỏi thế gian. Cạm bẫy tội lỗi vẫn có đó, nhưng Chúa dạy chúng ta hãy cầu nguyện: “Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.” Có nghĩa là chúng ta phải phấn đấu không ngừng để thắng các chước cám dỗ của ma quỷ. Chúa Giêsu dùng dụ ngôn để chỉ dậy: Hãy cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt. Và đến mùa, ta sẽ dặn thợ gặt: "Các anh hãy nhổ cỏ lùng trước, rồi bó lại từng bó mà đốt đi, sau mới thu lúa lại chất vào lẫm cho ta" (Mt 13,30).
Chúng ta cần học hỏi đạo lý và trau dồi nhân đức để không bị những đám cỏ lùng phát triển um tùm lấn át. Sự thật mà nói, căn bản giáo lý của chúng ta quả thật là qúa khiêm nhường so với kho tàng hiểu biết về khoa học, xã hội và cuộc sống. Chúng ta tự vấn xem sự học hỏi về Kinh Thánh, hiểu biết về Giáo Lý và sự nhuần nhuyễn về giáo huấn của Giáo Hội được bao nhiêu. Là người công giáo, cơ may mỗi tuần một lần khi tham dự thánh lễ, chúng ta được nghe lời Chúa, bài giảng và kinh nguyện, đó là số vốn liếng hạt giống lãnh hội được. Có một số trong chúng ta còn bị thiệt thòi vì khả năng ngôn ngữ và văn hóa giới hạn, mà phải tham dự các buổi phụng vụ bằng tiếng ngoại quốc. Suốt tuần, chúng ta chẳng có giờ để học hỏi, nghiên cứu hay tìm hiểu lẽ đạo, chúng ta sẽ dễ dàng bị cỏ lùng trần thế lấn át và bao trùm.
Mang danh Kitô hữu, mà trong lòng chúng ta đầy áp cỏ lùng. Đối diện với cuộc sống, chúng ta dựa trên những kiến thức đã bị tục hóa để phân tích, phán đoán và chọn lựa. Chúng ta nghĩ rằng những chọn lựa đó là đúng và thích hợp, nhưng sự thật này chỉ là chủ quan. Thánh Phaolô nhắc nhở: “Vậy thật ra không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi” (Rm 7,17).
Chúng ta hãy rà soát lại thửa ruộng tâm hồn của mình. Hạt giống tốt được gieo vào cung lòng, nhưng có hạt đã rơi vào bụi gai, có hạt rơi bên vệ đường, có hạt rơi trên đá sỏi và có số ít hạt rơi vào vùng đất tốt đang chờ ngày để sinh hoa kết trái. Trong khi hạt giống cỏ lùng được gieo vãi tràn lan, được ấp ủ canh chừng, phát triển xanh tươi chen lấn và làm hạt giống tốt bị ngột ngạt.
Chúng ta không thể nhổ hết cỏ lùng chung quanh, nhưng chúng ta cần vun xới cho hạt giống tốt lời Chúa để có thể sinh hoa trái.
Điều quan trọng là hạt giống đức tin của chúng ta không thể bị vùi tắt, mà phải luôn cháy sáng trong đêm tối. Chúng ta phải phấn đấu và giữ đức tin cho đến cùng như thánh Phaôlô dạy: “Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin” (2 Tm 4,7). Dù có phải bước đi trong đêm tối, chúng ta không lo mắc nạn vì Chúa ở cùng chúng ta.
Mỗi người hãy chu toàn ơn gọi và chức vụ của mình để nhắm đến cùng đích. Chúng ta không nên trì hoãn hay bỏ cuộc dọc đường. Dù hành trình có gian nan, cuộc sống có đau thương và niềm tin có chao đảo, chúng ta cứ nhắm đích mà hướng tới. Chúa Giêsu hứa ban phần thưởng cho những ai trung tín tới cùng. Sau cuộc lữ hành chạy đua trong niềm tin, thánh Phaolô đã tâm sự: “Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy, và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện” (2 Tm 4,8).
14. Hãy cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt
(Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục dùng các dụ ngôn để giúp các môn đệ cũng như dân chúng hiểu về "Nước Trời". Người so sánh " Nước Trời như một người đã gieo giống tốt trong ruộng mình; Nước Trời giống như hạt cải; Nước Trời giống như nắm men" (x. Mt 13, 24-43), nước ấy ở ngay "trên mặt đất" chứ không phải nơi xa lạ.
Thật vậy, chỉ trên mặt đất mới có chỗ cho lúa và cỏ lùng mọc lên, chỉ trong cuộc sống nhân trần mới có bột cần chất men, nên ở trên Thiên Đàng, chỉ có Thiên Chúa là tất cả mọi sự trong mọi người.
Chúa Giêsu lấy dụ ngôn hạt cải, mô tả nó "bé nhỏ hơn mọi thứ hạt giống, nhưng khi mọc lên, thì lớn hơn mọi thứ rau cỏ, rồi thành cây" (Mt 13, 32) … "cũng như men người đàn bà kia lấy đem trộn vào ba đấu bột, cho đến khi bột dậy men" (Mt 13, 33), ngoài ám chỉ sự lớn lên âm thầm nhưng hùng mạnh của Nước Chúa trong lịch sử, Chúa Giêsu muốn nói đến sự nhập thể làm người của chính mình và sức thánh hóa của Chúa Thánh Thần.
Nếu ai đó không lấy men trộn vào bột làm cho bột dậy men, thì bột đó không thể sử dụng làm thực phẩm được. Nhưng nếu trộn bột vào men, bột sẽ dậy men, đó là cách Chúa Giêsu áp dụng cho Nước Trời... Cũng như thịt: để giữ gìn thịt khỏi hư, chúng ta phải tra muối vào để bảo quản... nếu không thịt sẽ hư và trở nên không phù hợp cho tiêu dùng. Một cách tương tự, nhân loại đại diện cho thịt hoặc bột, Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần là muối và men. Nếu men Thánh Thần và muối Giêsu không xuống thế gian, không mặc lấy bản tính con người, nghĩa là nhào trộn với con người, con người sẽ không bao giờ mất đi mùi hôi thối của tội lỗi, không "tẩy trừ men cũ, để nên bột mới, là bánh không men" (1Cr 5,7) thì không thể được cứu độ.
Nếu con người chỉ dựa vào sức riêng mình, không cần Thánh Thần trợ giúp, thì thật sai lầm; bởi con người không được tạo dựng để ở trên Trời... Nếu người tội lỗi không gặp gỡ Thiên Chúa, không từ bỏ tội lỗi, không được thấm nhuần sức sống thần linh của Thiên Chúa, người ấy sẽ không bao giờ được nếm hưởng cuộc sống đích thực... Trái lại, nếu đón nhận được ân sủng của Chúa Thánh Thần, không "gây phiền muộn cho Thánh Thần" (Eph 4,30), người ấy sẽ hạnh phúc và được sống đời đời.
Dụ ngôn hạt cải và nắm men có lẽ dễ hiểu nên các môn đệ không cần phải giải thích, các ông chỉ xin Chúa Giêsu: "giải thích dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng" (Mt 13, 36) sau khi đã về nhà. Và Người đã giải thích: "Người là kẻ gieo giống. Ruộng là thế gian. Hạt giống tốt là con cái Nước Trời. Cỏ lùng là con cái gian ác. Kẻ thù gieo cỏ lùng là ma quỷ. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên thần" (Mt 13, 37-39).
Ở những thế kỷ đầu của Kitô giáo, giáo phái Đô nát cho rằng Giáo hội là tất cả những người lành, còn thế gian thì đầy dẫy con cái sự ác không có hy vọng được cứu độ. Thánh Augustinô quan niệm: "Chính Giáo Hội là một cánh đồng có lúa và cỏ lùng, có kẻ xấu và người tốt đều chung sống với nhau, là nơi để chúng ta bắt chước gương nhẫn nại của Chúa. Những kẻ dữ hiện hữu trong thế gian này hoặc là để được cải hóa hay là nhờ họ mà những kẻ lành có thể luyện tập đức nhẫn nại".
Vì thế chúng ta có thể rút ra những bài học sau:
1. Cần phải có hành động khôn ngoan, thận trọng, nhẹ nhàng và đúng đắn của người gieo giống tốt, để đề phòng "kẻ thù của ông đến gieo cỏ lùng vào ngay giữa lúa, rồi đi mất" (Mt 13, 25). Thậm chí người gieo giống tốt có thể bị cám dỗ phản ứng với bạo lực khi áp dụng lời van xin của đầy tớ, "nếu ông bằng lòng, chúng tôi xin đi nhổ cỏ" (Mt 13, 27). Ông chủ thật tuyệt vời, bởi ông thận trọng thẳng thừng nói: "Không được, kẻo khi nhổ cỏ lùng, các anh lại nhổ luôn cả lúa chăng. Hãy cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt. Và đến mùa, ta sẽ dặn thợ gặt: "Các anh hãy nhổ cỏ lùng trước, rồi bó lại từng bó mà đốt đi, sau mới thu lúa lại chất vào lẫm cho ta" (Mt 13, 29-30).
2. Chúa Giêsu, lúc sinh thời, Người đã phải đối mặt với sự hiện diện của sự dữ, các môn đệ Người cũng thế. Theo Matthêu thì cuộc đối đầu của Chúa Giêsu với sự dữ đã bắt đầu với câu chuyện thời thơ ấu lúc thánh Giuse đưa Đức Maria cùng Người trốn sáng Ai Cập để tránh cuộc thảm sát của Hêrôđê (Mt 2, 1-14). Người sẽ tiếp tục đối đầu khi bị cám dỗ trong hoang địa (Mt 4, 1-11), cũng như trong suốt cuộc đời sứ vụ công khai, và sẽ phải chiến đấu chống lại cái ác cho đến giờ phút cuối cùng của cuộc đời (Mt 26; 27). Tuy nhiên, Người sẽ chiến thắng khi sống lại bởi Đức Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần (Mt 28).
Cũng giống như Thầy mình, các môn đệ Chúa Kitô cũng phải đối mặt với sự hiện diện của cái ác. Sau đó họ phải bắt chước Thầy mình nhẫn nại cho đến thời gian thu hoạch.
3. Trước sự hiện hữu của cái ác, thái độ của các môn đệ Chúa Kitô là gì nếu không phải là chấp nhận. Chúa Giêsu dùng dụ ngôn cỏ lùng để mời gọi chúng ta áp dụng một số thái độ cần phải có đối với sự hiện hữu của cái ác trên thế giới.
Trước hết cần phải gieo trong chúng ta và xung quanh chúng ta thật nhiều hạt tốt và đặc biệt là thực hiện từng bước để gìn giữ các hạt giống tốt cho đến mùa thu hoạch như là (cầu nguyện, tĩnh tâm, làm việc lành phúc đức, giúp đỡ tha nhân...)
Tiếp đến là phải hành động với sự khôn ngoan, thận trọng khi đối đầu với sự ác, đồng thời cầu xin Chúa Thánh Thần giúp sức cho, vì: "Thánh Thần nâng đỡ sự yếu hèn của chúng ta " (Rm 8, 26).
Cần phải đứng vững trong đức tin, hy vọng và bác ái; nghĩa là chinh phục cái ác bằng việc làm tốt, theo lời khuyên của thánh Tông đồ Phaolô: "Chớ để sự dữ thắng được ngươi, nhưng hãy lấy lành mà thắng dữ" (Rm 12, 21).
Chúng ta hãy hướng tới Mẹ Maria với lòng tin tưởng, để Mẹ giúp chúng ta trung thành theo Chúa Giêsu, và sống như con cái của Thiên Chúa.
15. Lòng kiên nhẫn
(Lm Đam. Nguyễn Ngọc Long)
Xưa nay con người thường hay bị cám dỗ nhìn phân chia đời sống trong xã hội cách đơn giản ra làm hai ranh giới: trắng và đen, tốt và xấu... Căn cứ theo đó mà xét định phê phán.
Nhưng trong thực tế đời sống đâu có đơn giản như thế.
Thực tế đời sống con người không chỉ có hai lằn ranh như ta nghĩ tưởng trắng và đen, tốt và xấu. Nhưng còn có lằn ranh ở giữa, ở tầng trên hay ở bên dưới những yêu tố đó nữa. Những lằn ranh này ẩn hiện khó nhận ra, và lại thường ăn sâu ảnh hưởng trong đời sống nhiều hơn, dù là đời sống cá nhân một ai, hay đời sống chung cộng đoàn xã hội, tôn giáo.
Đó là những bề không hẳn là tối đen, cũng không hẳn là sáng tỏ. Chúng như bóng rợp của một tàn cây ngả đổ xuống trên đường che khuất ánh sáng mặt trời một bên. Thông thường trong đời sống cây càng cao, càng rậm rạp nhiều cành lá, bóng rợp của nó đổ ngả xuống càng lan rộng, như ngạn ngữ có câu: Cây cao bóng cả!
Hình ảnh này Chúa Giêsu dùng trong bài giảng nói về Nước Trời: trên đồng lúa có cả cây lúa cùng cỏ hoang dại cùng mọc bên nhau, như trong cánh đồng thực tế đời sống có sự tốt và sự xấu cùng nẩy sinh song hành nơi mỗi người.
Nếu người làm ruộng vườn khi vừa phát hiện ra cỏ dại hoang mọc lên, mà vội nhổ hay cắt cỏ đi, thì vô tình làm cho cây lúa, cây giống tốt nằm sát bên cạnh cũng bị bật rễ, bị động, hay bị cắt ngọn theo. Như thế sự sống tích cực cũng bị chặn đứng thiệt hại.
Cung cách sống kinh nghiệm của người làm ruộng là kiên nhẫn chờ cho cỏ dại cùng cây lúa mọc lên cứng cáp, lúc đó sẽ dễ phân biệt hơn và lúc nhổ cỏ dại, cây lúa đã bén rễ sâu ít bị ảnh hưởng giao động làm lung lay gốc rễ.
Với đời sống con người cũng tương tự như thế, nơi mỗi người đều có mầm sống sự tốt lành. Sự xấu, sự dữ nẩy sinh trong đời sống là điều cần phải ngăn chặn xa tránh. Nhưng không vì thế mà phải phá đổ hoàn toàn bức tượng khi thấy một dấu vết hòn sỏi đá nào lẫn trong bức tượng.
Với đời sống tinh thần con người, ngày hôm nay có thể là chưa tốt. Nhưng ngày mai có thể sẽ trở nên tốt. Đời sống con người cần luật lệ, cần kỷ luật, chính những điều này giúp nhắc nhớ con người trở nên công chính tốt lành.
Cha mẹ nào cũng đều mong muốn con cháu mình sống nên người tốt. Nhưng rất nhiều khi thực tế đời sống của họ lại có những giai đoạn, những khúc quanh không như thế. Và đâu có cha mẹ nào, vì thế, mà chối bỏ con cháu mình đâu. Trái lại họ tỏ tấm lòng bao dung kiên nhẫn chờ đợi con cái mình sẽ có ngày thay đổi nếp sống trở nên lành mạnh tốt đẹp.
Lòng kiên nhẫn là một nhân đức bác ái. Nhân đức này thể hiện tấm lòng đạo đức kính trọng Thiên Chúa, Đấng là nguồn đời sống, cùng là lòng đạo đức tình người với nhau.
Lòng kiên nhẫn cũng là ân đức khôn ngoan Đức Chúa Thánh Thần ban xuống tâm hồn mỗi tín hữu ngày lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức.
Trong đời sống, dù sự dữ nhiều khi lấn lướt sự tốt lành ngay chính. Nhưng Thiên Chúa, Đấng tạo dựng, cùng gìn giữ hướng dẫn đời sống con người luôn kiên nhẫn chờ đợi, ban ơn trợ giúp họ trở về con đường sống tốt lành, con đường mang lại hoa trái sự sống.
16. Lúa tốt và cỏ lùng
(Lm. Nguyễn Ngọc Long - Bài giảng cho Thiếu Nhi)
Các con thiếu nhi thương mến,
Ai trong các con nhớ Tin mừng Chúa nhật tuần trước, Chúa Giêsu đã dạy chúng ta qua dụ ngôn gì? Đó là dụ ngôn người gieo giống. Chính Chúa Giêsu là người gieo giống, hạt giống chính là Lời Chúa và tâm hồn mỗi chúng ta là những thửa đất. Nếu chúng ta biết chăm chú lắng nghe lời Chúa và thi hành thì kết quả sẽ sinh gấp trăm hạt.
Các con thương,
Tiếp nối lời giảng dạy bằng các dụ ngôn, hôm nay Chúa Giêsu dùng dụ ngôn nào để dạy chúng ta? – Câu chuyện tuần này là dụ ngôn lúa tốt và cỏ lùng; hạt cải và nắm men.
Trong dụ ngôn lúa tốt và cỏ lùng, các con cho cha biết ai là người gieo giống? - Người đi gieo giống tốt là Thiên Chúa.
Hạt giống là ai? - Hạt giống là người ta, là con người, là con cái Chúa.
Thửa ruộng là gì? -Thửa ruộng là thế gian, là nơi sinh sống, làm việc, phục vụ.
Cỏ lùng là ai? - Cỏ lùng là người xấu, kẻ dữ.
Còn mùa gặt nghĩa là gì? - Mùa gặt là ngày chết hay ngày tận thế, thợ gặt là các thiên thần, lúa tốt thì được thu vào kho lẫm, tức là những người tốt lành, công chính, thánh thiện thì được thưởng, còn cỏ lùng là những người xấu, kẻ dữ thì bị tống vào hỏa ngục.
Các con thấy thái độ của các đầy tớ trong dụ ngôn như thế nào? - Muốn tiêu diệt kẻ xấu, muốn nhổ hết cỏ lùng ra khỏi lúa tốt: “Thưa ông, ông có muốn chúng tôi cắt hết cỏ lùng ngay bây giờ không?”. Hơn một lần, các con cũng có thái độ tương tự như thế khi thấy người khác không tốt: “Lạy Chúa, xin Chúa hãy phạt nhãn tiền những kẻ xấu…”.
Thái độ ấy không thể chấp nhận được vì quyền xét xử cuối cùng là của Thiên Chúa chứ không phải của chúng ta. Người không muốn một ai trong chúng ta phải hư mất. Chúa Giêsu đã nói: “Ta không đến để kêu gọi người công chính nhưng kêu gọi người tội lỗi”. Thiên Chúa yêu thương con người, và không quên sót một ai, cho dù họ là những tội nhân. Ngài chờ họ có lòng sám hối để được người tha thứ.
Nếu Thiên Chúa chậm chạp trong việc chống lại tội lỗi, là để chúng ta có thời gian mà sám hối ăn năng. Nhưng con người thường hay phạm lỗi lầm, sa ngã vì quỷ dữ luôn tìm cách gieo cỏ dại vào tâm hồn mỗi người. Vậy nếu chúng ta yếu đuối lầm lỗi, thì Ngài sẽ ban cho chúng ta sức mạnh để ta can đảm chổi dậy sau những lần vấp ngã. Chúa ước mong đời sống chúng ta hãy là những hạt cải, là men làm dậy lên tình yêu con người.
Chúa khoan dung độ lượng với chúng ta, lẽ nào chúng ta lại thiếu nhân hậu, khoan dung với kẻ tội lỗi? Chúa đã yêu thương chúng ta, lẽ nào chúng ta không dùng tình yêu của Người mà hoán cải anh chị em mình?
Các con có nhớ trường hợp người trộm lành không? - Trong khoảnh khắc cuối cùng của cuộc đời còn lại chính là thời điểm anh ta đón nhận ơn cứu độ của Chúa; hay là trường hợp của Âugustinô, một thanh niên ăn chơi trác táng lại trở thành người phục vụ Giáo hội cách tích cực nhất và đã nên thánh…
Vậy ta phải có thái độ nào trong thời hiện tại?
- Chúa Giêsu mong muốn các con nỗ lực và bền bĩ trong việc đạo đức và học tập. Vấn đề không phải là ngồi đó mà than trách cánh đồng nhiều cỏ lùng quá. Hãy sống Lời Chúa bằng hành động của mình. Những vất vả trong việc đạo đức và học tập hôm nay sẽ trổ sinh hoa trái tốt lành cho ngày mai.
- Giúp bạn mình khi thấy họ sai lỗi, tạo cơ hội cho họ sửa đổi đời sống…
- Luôn ý nhớ rằng mỗi khi các con làm việc lành, chính lúc các con vượt khó, chuyên chăm học tập là khi các con cùng Chúa gieo vãi những hạt giống tốt trong thế gian này.
- Sự nhẫn nại của ông chủ ruộng trong Tin mừng hôm nay là gương mẫu cho chúng ta. Chúa mời gọi chúng ta sống khiêm tốn và nhân hậu đặc biệt là kiên nhẫn trước mọi người. Chỉ có một đồng ruộng cần thiết để nhổ ngay cỏ lùng, đó là từ chính lòng của mình, bằng cách từ bỏ tình xấu mỗi ngày, và không ngừng nỗ lực sống tốt mỗi ngày!
Nguyện chúc các con luôn là những hạt giống tốt của Chúa và Giáo hội hôm nay và ngày mai.
17. Hãy chờ đã
Tội lỗi và sự dữ là một thực tại thiêng liêng. Chúng đang ngự trị và tồn tại khắp mọi nơi, len lõi vào mọi tâm hồn. Vấn đề đặt ra là làm cách nào để tận diệt chúng và bao giờ Thiên Chúa mới chấm dứt những điều ấy? Tin mừng hôm nay sẽ cho chúng ta lời giải đáp đó.
Có nhiều người cảm thấy bất mãn, thất vọng và đặt vấn đề là tại sao Giáo hội Chúa vẫn có những con người xấu? Đâu rồi một Giáo hội thánh thiện của Thiên Chúa? Bản chất Giáo hội là thánh, nhưng Giáo hội đang cưu mang trong lòng những con người tốt lẫn những con người chưa tốt và tội lỗi. Giáo hội chính là thửa ruộng có cả lúa và cỏ lùng đang mọc lên. Chúa là người chủ ruộng không muốn sai người tiêu diệt cỏ lùng ra khỏi lúa, vì ông sợ khi làm như thế sẽ có sự lầm lẫn! Nhưng thật ra là Thiên Chúa kiên nhẫn và chờ đợi những người tội lỗi hồi tâm trở về với Ngài. Cỏ lùn không bao giờ trở thành lúa được nhưng người xấu có thể trở nên tốt, người tội lỗi có thể trở nên thánh thiện. Đó chính là lý do tại sao Chúa lại kiên nhẫn chờ đợi con người! Sự kiên nhẫn, lòng khoan dung và nhân từ không phải là cử chỉ của sự yếu đuối, nhưng là biểu lộ một sức mạnh, sức mạnh của tình yêu.
Con người dù cho có tội lỗi hay hung ác đến đâu đi nữa thì nơi tận đáy lòng của họ vẫn có những điều tốt đẹp và thánh thiện khi nó được khơi lên. Văn hào người Nga Dostoieveski, với tác phẩm nổi tiếng như "Tội ác và hình phạt", "anh em nhà Karamazov"... là người đã trải qua một cuộc đời đầy sóng gió. Sau một thời gian dài bị giam cầm vì lý do chính trị, ông bị kết án tử hình. Nhưng như một phép lạ, vào giữa lúc bị hành quyết, ông bỗng nhận được lệnh được tha. Người viết tiểu sử của ông đã kể lại như sau: "thời gian ngồi tù đã in đậm nét trên quảng đời còn lại của ông. Từ trên chiếc máy chém nhìn xuống đám người đang đứng dưới chân mình, ông chỉ còn thấy họ là những người bị áp bức, những người nô lệ đáng thương, dù họ có phạm tội những tội ác tày trời đi nữa, thì tâm hồn của họ vẫn là tâm hồn của những con người vô tội. Do đó, họ đáng được tha thứ hơn là đáng kết tội.
Khi bước xuống khỏi máy chém, Dostoievski thấy mọi sự như vô nghĩa. Điều duy nhất còn ý nghĩa đối với ông chính là tình yêu, và cho dù trong suốt 30 năm sau, cộng đoàn của ông có đắm chìm trong bùn nhơ của tội lỗi, của khốn khổ, của ô nhục, ông luôn nhìn mọi sự qua lăng kính của yêu thương. Một lần bị đưa lên máy chém cho ông hiểu rằng: con người đau khổ, tất cả mọi người đều đáng cảm thông và thương mến.
Tất cả cuộc đời của ông là một cố gắng không ngừng để diễn đạt câu nói: "Hỡi người anh em, không gì có thể ngăn cản tôi yêu thương bạn"
Nếu có những lúc chúng ta cảm thấy thất vọng về con người đốn mạt của chúng ta, nếu có những lúc chúng ta không còn tin tưởng ở tình người nữa, chúng ta hãy nhìn lên Chúa Giêsu, chúng ta sẽ cảm thấy ngay ánh mắt nhân từ và cảm thông của Ngài. Hãy nhớ lại Ngài đã làm gì đối với Giakêu, với Malađana, với Phêrô khi chối bỏ Ngài, với tên trộm bị đóng đinh bên phải Ngài.
Tình yêu của Thiên Chúa mạnh hơn tội lỗi, mạnh hơn sự ác. Thiên Chúa ghét bỏ tội lỗi nhưng Ngài yêu thương tội nhân. Chính vì thế mà Ngài muốn cho Con của Ngài xuống thế làm người, một con người nghèo khó để có thể liên kết với hết mọi người, với những ai được gọi là người. Cái chết của Đức Giêsu trên Thánh giá là ngôn ngữ không lời của tình yêu, diễn tả tình yêu tột cùng của Thiên Chúa dành cho con người.
"Đừng nhổ cỏ lùn ra khỏi ruộng, cứ chờ cho đến mùa gặt". Thái độ của Thiên Chúa luôn là kiên nhẫn. Ngài kiên nhẫn vì yêu thương con người. Ngài nhận thấy thấu tận con tim và tấm lòng của con người. Nên dù khi con người hành động chống lại Ngài đi nữa, Ngài vẫn yêu thương họ, vì họ "lầm không biết".
Thiên Chúa thì luôn kiên nhẫn "chờ đợi", còn con người thì nóng vội, muốn hành động mọi sự nhằm thoả mãn tính kiêu căng và ích kỷ của mình. Rất nhiều lần chúng ta có thái độ giống như hai anh em Giacôbê và Gioan ngày xưa khi Chúa Giêsu và các ông đi ngang qua làng Samaria mà người ta không đón tiếp Chúa: "Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu đốt họ không?". Chắc chắn là khi ta hành động nóng nảy với anh em mình, muốn trả thù anh em mình, muốn loại trừ anh em mình ra khỏi cộng đoàn... là chúng ta hành động trái ngược với ý muốn của Thiên Chúa. Con người vốn phức tạp lắm. Chúng ta không thể hiểu được lòng của ai khác ngoài chính bản thân của ta đâu. Do đó, thái độ khôn ngoan là đừng xét đoán ai và cũng đừng kết án ai. Trái lại, ta hãy có cái nhìn như Đức Giêsu khi đối diện với những sai lỗi của anh em mình "họ lầm không biết" đó thôi; hay ta hãy có tâm tình như văn hào Dostoievesk: "dù họ có phạm những tội ác tày trời đi nữa, tâm hồn của họ vẫn là tâm hồn của những con người vô tội. Do đó, họ đáng được tha thứ."
Muốn tha thứ được cho người khác, chúng ta hãy tập yêu thương mọi người, nhất là những người đang sống bên cạnh chúng ta, tập nghĩ tốt về họ, nói tốt về họ, tập quên đi những sai lỗi của họ. Nước Trời chỉ dành cho những người biết chiếm lấy bằng sức mạnh. Sức mạnh đó chính là sự kiên nhẫn, tha thứ, yêu thương, chờ đợi... Những thứ mà loài người vẫn cho là yếu kém và nhu nhược. Chúng ta hãy tập "lấy hoa thơm lấn dần cỏ dại" trong cuộc sống vốn phức tạp và ô hợp này.
Xin Chúa ban cho chúng ta sức mạnh của Chúa Thánh Thần để chúng ta biết hành động, suy nghĩ và phát ngôn những điều mang lại niềm vui, hạnh phúc và an vui cho mọi người, hầu góp phần làm cho Nước Cha được thể hiện từng ngày trong cuộc sống của chúng ta. Amen.
18. Suy niệm của Lm Ignatiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật này, đặc biệt bài đọc I và Tin Mừng, mời gọi chúng ta gẫm suy về việc Thiên Chúa kiên nhẫn đối với những người tội lỗi.
Chúng ta tiếp tục đọc chương 13 Tin Mừng Mátthêu: ba dụ ngôn về cỏ lùng, hạt giống và men trong bột gợi lên sự phát triển của Nước Trời.
1. Dụ ngôn cỏ lùng:
Dụ ngôn cỏ lùng là dụ ngôn làm các môn đệ rối trí nhất; đây là dụ ngôn duy nhất mà họ hỏi Đức Giêsu. Quả thật, dụ ngôn này đặt ra một vấn đề nghiêm trọng: cuộc sống chung của Cái Thiện và Cái Ác, ở giữa lòng công trình của Thiên Chúa.
Các ngôn sứ định vị kỷ nguyên Mê-si-a và kỷ nguyên cánh chung vào cùng một viễn cảnh, cả hai được trộn lẫn dưới những từ ngữ “Ngày của Chúa” hay “Ngày Chung Thẩm”. Thánh Gioan Tẩy Giả được nuôi dưỡng bởi niềm hy vọng này: Đấng Mê-si-a sẽ là vị Thẩm Phán, Ngài sẽ chọn lựa sàn lọc: “Tay cầm cái nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi” (Mt 3: 12; Lc 9: 52-55). Thế mà Đức Giêsu đã không đến để thu hoạch, Ngài đến để gieo giống. Chính bằng hình ảnh người gieo giống mà Ngài diễn tả sứ mạng của mình.
Dụ ngôn cỏ lùng cho hiểu rằng ông chủ ruộng có một kẻ thù bí nhiệm, hắn hành động lén lút ban đêm như một người có quyền năng giới hạn. Ông chủ không hề xao động; ông bình thản chờ đợi thời vụ; ông biết rằng ông sẽ có lời phán quyết sau cùng. Cỏ lùng sẽ không ngăn cản được vụ mùa bội thu: công trình của Thiên Chúa sẽ không bao giờ thất bại cả.
Nếu cây lúa và cỏ lùng trộn lẫn vào nhau đến mức không thể phân biệt được, đó không phải là dấu chỉ cho thấy rằng cỏ lùng ở trong lòng quân vô đạo sao? Thật ra, khó mà phân biệt rạch ròi giữa “người tốt” và “kẻ xấu”. Không ai hoàn toàn xấu, cũng như không ai hoàn toàn tốt về mọi mặt cả.
Thiên Chúa chờ đợi; Ngài chờ đợi mỗi người phô bày hết khả năng của mình; có thể có những người thợ của giờ sau cùng…Thời gian của Thiên Chúa chưa chấm dứt và những kỳ hạn của Ngài là những trì hoãn vì lòng xót thương.
2. Dụ ngôn hạt cải:
“Nước Trời cũng giống như chuyện hạt cải người nọ lấy gieo trong ruộng mình”. Hạt cải là một hạt giống nhỏ bé nhất trong các loại giống. Xét theo lý, từ hạt giống nhỏ bé ấy sinh ra một cây nhỏ theo một kích thước chừng mực nào đó. Ấy vậy, Chúa Giêsu miêu tả một sự phát triển thần kỳ: cây nhỏ trở thành một cây lớn đến nỗi chim trời đến làm tổ trên cành được. Sự tăng trưởng Nước Trời rồi sẽ cũng như vậy đó.
Lối phóng dụ của Đức Giêsu chứa đựng một ám chỉ Kinh Thánh rõ ràng. Các ngôn sứ đã biểu tượng quyền năng của các đế quốc ngoại giáo (Ai-cập, Ba-by-lon) bằng hình ảnh về một cây hương bá, thân cao lớn hơn mọi cây trong cánh đồng, đâm chồi nẩy lộc, cành lá vươn rộng. Trên cành, mọi giống chim trời đến làm tổ, dưới bóng mát của nó, mọi dã thú sinh sôi nẩy nở và vô số dân tộc đến lập cư (Ed 31, 1-13).
Êdêkien gợi ra tương lai của Giêrusalem theo cùng một cách như vậy. Đức Chúa ngắt một chồi non trên ngọn cây hương bá đem về trồng trên núi Israel. Chồi non này trở thành một cây hương bá tuyệt diệu, nơi ẩn náu của đủ loài chim muôn (Ed 17). Bản văn Ê-dê-ki-en này là một trong những bản văn thiết lập niềm hy vọng về quyền thống trị của dân Chúa chọn.
Đức Giêsu cũng rất ý tứ khi lấy lại những hình ảnh tự hào tự phụ này. Một cây cải không thể đánh thức trong tâm trí khán thính giả của Ngài bất kỳ hậu ý nào về quyền lực trần thế. Một lần nữa, Đức Giêsu bày tỏ chủ nghĩa phi chính trị của sứ điệp Ngài. Vóc dáng biểu tượng của cây cải là một sự so sánh thuộc trật tự tinh thần: vóc dáng này nhấn mạnh sự tương phản giữa khởi đầu bé nhỏ của Nước Trời và sự phát triển phi thường của nó.
3. Dụ ngôn men trong bột:
Dụ ngôn men trong bột đưa ra một bài học tương tự với dụ ngôn hạt cải trên. Không gì nhỏ bé và ẩn kín hơn nắm men, tuy nhiên nó đã làm dậy lên cả đống bột. Công việc âm thầm, tương tự như sự tăng trưởng của một cây, nhưng thành quả của nó thì đáng kinh ngạc.
Nước Trời cũng như vậy. Bị vùi sâu trong đống bột nhân loại, Nước Trời sẽ âm thầm biến đổi đống bột nhân loại này dần dần cho đến ngày tận thế. Đức Giêsu không là một nhà cách mạng: Ngài không tìm kiếm một thành quả bất ngờ và ngoạn mục; vương quốc của Ngài khởi đi từ những bước khởi đầu khiêm tốn và rồi âm thầm phát triển mà không ai hay biết, nhưng một cách sâu xa trong nhân loại được đổi mới.
Ở nơi đoạn văn này, chúng ta ghi nhận đây là trường hợp duy nhất trong các sách Tin Mừng ở đó men được nhắm đến một cách tích cực. Ở những nơi khác, kể cả các thư của thánh Phaolô, men là hình ảnh về việc dậy men, tức là sự suy đồi hư hỏng, thế nên men bị loại trừ khỏi những ngày lễ Vượt Qua.
4. Đức Giêsu giảng dạy đám đông bằng dụ ngôn:
Như trước đây, Chúa Giêsu giảng dạy đám đông chỉ bằng dụ ngôn: “Tất cả các điều ấy, Đức Giêsu dùng dụ ngôn mà nói với đám đông; và Ngài không nói gì với họ mà không dùng dụ ngôn”. Thánh Mátthêu viện dẫn sự kiện này bằng cách trích dẫn Tv 78. Thánh vịnh gia này loan báo rằng ông sẽ giải mã những điều bí nhiệm của thời quá khứ qua lịch sử Israel. Cũng vậy, tác giả Tin Mừng muốn nói rằng Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn để vén mở những điều bí ẩn của Nước Trời.
5. Đức Giêsu giải thích cho các môn đệ:
Nhưng lối nói dụ ngôn này các môn đệ của Ngài xem ra không nắm bắt được, vì thế khi trở về nhà, họ xin Chúa Giêsu giải thích cho họ. Câu hỏi của họ nhắm đến dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng, dụ ngôn này làm họ bối rối: “Xin Thầy giải nghĩa dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng cho chúng con”.
Đức Giêsu giúp cho họ hiểu rằng tất cả lịch sử nhân loại sẽ diễn tiến cho đến tận thế, theo đó nhân loại sẽ phải chấp nhận sống chung với những “con cái Ác Thần”, những kẻ tìm cách bóp nghẹt vụ mùa. Sự chọn lọc phân định người lành kẻ ác sẽ được thực hiện vào mùa gặt.
“Thợ gặt là các thiên thần”. Việc các thiên thần được gán cho vai trò thợ gặt vào ngày tận thế đến từ các ngôn sứ, nhưng nhất là các sách khải huyền. Sách Khải Huyền của thánh Gioan lấy lại đề tài này (Kh 15, 17-19).
6. Nước của Chúa Cha:
Điều gợi lên sau cùng rất đáng chú ý. Vào ngày tận thế, “mọi kẻ làm gương mù gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác” sẽ bị quăng vào lò lửa, trong khi những người công chính “sẽ chói lọi như mặt trời, trong Nước của Cha họ”.
Triều đại của Chúa Con là thời kỳ cứu độ nhân loại. Vào ngày tận thế, Chúa Giêsu trao vương quyền lại cho Cha Ngài. Trong thư thứ nhất gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phaolô phác họa cùng một viễn cảnh hùng vĩ như vậy: “Sau đó mọi sự điều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha. Thật vậy, Đức Giêsu phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Ngài” (1Cr 15, 24-25).
19. Lúa và cỏ
(Jos. Nguyễn Văn Thuần)
Bài Tin Mừng kể lại ba dụ ngôn của Chúa Giêsu: dụ ngôn cỏ lùng, dụ ngôn hạt cải và dụ ngôn nắm men. Cả ba dụ ngôn này đều có ý nghĩa rất hay và dạy chúng ta những bài học rất hữu ích. Ở đây ta chỉ tìm hiểu một dụ ngôn cỏ lùng thôi.
Trước hết, chúng ta hãy hình dung lại câu chuyện cỏ lùng và cây lúa: có một người chủ ruộng kia đi gieo lúa trong ruộng mình. Chiều đến, ông trở về nhà, mệt nhọc nhưng vui vì đã hoàn tất công việc. Ông và cả gia đình có thể yên tâm nghỉ ngơi, chờ đợi lúa mọc lên. Nhưng có một người hàng xóm ma giáo, xấu bụng. Người này đã từ lâu ghen tỵ với ông khi thấy trang trại của ông càng ngày càng rộng lớn, trù phú. Anh ghen tỵ và không ngừng tìm mưu kế để hại ông, nên khi thấy ông gieo mạ, anh nảy ra ý định gieo hạt cỏ lùng vào ruộng của ông để phá hoại. Không lâu sau đó, ý định gian ác kia được anh đem ra thi hành. Vào một đêm tối, khi mọi người đang ngủ say, anh mò ra ruộng, vội vàng gieo hạt cỏ lùng vào trong ruộng của ông chủ kia, rồi nhanh nhẹn tẩu thoát, không ai nhìn thấy.
Kết quả, khi lúa mọc lên thì cỏ lùng cũng xuất hiện. Tôi tớ của ông chủ đã sớm phát hiện ra điều này và đề nghị với ông cho họ đi nhổ cỏ lùng, nhưng ông bảo họ hãy chờ đến mùa gặt. Tại sao ông chủ không cho nhổ cỏ lùng ngay? Chúng ta biết: cỏ lùng là một thứ cỏ dại, giống hệt như cây lúa. Người nông dân khó mà phân biệt được lúa và cỏ lùng khi chúng còn non và chưa đâm bông. Nhưng khi lúa đã đâm bông rồi, thì một em bé thiếu kinh nghiệm, cũng phân biệt được đâu là cây lúa, đâu là cỏ lùng. Cỏ lùng thường mọc khi lúa đã lớn, nhưng lại giỗ và chín sớm hơn lúa, thành thử đó là cái phiền cho nhà nông: không biết nhổ lúc nào cho tiện. Nhổ lúc còn non thì e nhổ lầm cả lúa, vì nó rất giống cây lúa. Không những thế, rễ cỏ lùng thường mọc chằng chịt quấn bó vào rễ lúa, nên nếu nhổ cỏ cũng có thể kéo luôn cả lúa lên. Mà nếu như để đến ngày mùa, thì nó ăn hại hoa màu của lúa. Nhưng dù sao thì cũng phải chấp nhận một giải pháp nào tương đối bớt hại hơn, như ông chủ trong dụ ngôn đã làm, là chờ tới ngày mùa, gặt cả hai một trật. Như thế, chúng ta thấy cỏ lùng là thứ cỏ dại có hại cho lúa và là kẻ thù của nhà nông.
Dụ ngôn này có ý nghĩa thế nào? Chính Chúa Giêsu đã giải thích: người gieo giống tốt là chính Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn luôn tốt lành, vì bản tính Ngài là chân thiện mỹ, mọi vật do Ngài tạo dựng đều tốt đẹp. Ngài dựng nên mặt trời, mặt trăng để chiếu sáng cho mọi người, Ngài làm mưa làm nắng trên mọi người, kẻ lành cũng như kẻ dữ. Thiên Chúa gieo giống tốt vào ruộng. Hạt giống là người ta, là con cái Chúa, là những người tốt lành. Thửa ruộng là thế gian, là nơi sinh sống, làm việc và phục vụ. Cỏ lùng là người xấu, kẻ ác, kẻ dữ do ma quỷ cám dỗ, chiếm đoạt. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là thiên thần. Khi ấy thiên thần sẽ phân loại người lành người dữ, kẻ tốt kẻ xấu để Thiên Chúa thưởng phạt: kẻ lành được đưa vào Nước Trời, kẻ dữ bị tống vào hỏa ngục.
Qua những điều giải thích trên, chúng ta đã hiểu ý nghĩa của dụ ngôn và có thể suy luận được những bài học Chúa Giêsu muốn dạy. Thực vậy, chúng ta có thể rút ra được ba bài học: Thứ nhất, nơi trần gian này, bất cứ ở đâu, bất cứ ở thời đại nào, cũng có lành có dữ, có tốt có xấu, có phải có trái, có sáng có tối, có đen có trắng, có vàng thau lẫn lộn, có trứng gà trứng ếch,… Và như vậy, ở trần gian này, luôn luôn có người lành kẻ dữ, người tốt kẻ xấu sống bên nhau, sống chung với nhau như lúa và cỏ lùng ở trong một thửa ruộng. Đó là chuyện thường và chúng ta phải công nhận đời là thế. Chúng ta thường quá lý tưởng mong muốn chỉ có người lành người tốt, chúng ta không thể nóng tính đòi Chúa hủy diệt ngay những kẻ dữ kẻ xấu. Chuyện này chỉ xảy ra vào ngày tận thế mà thôi, lúc ấy sẽ được phân định rõ ràng: kẻ lành kẻ dữ sẽ vĩnh viễn xa nhau: kẻ lành sẽ được trọng thưởng trong Nước Trời, còn kẻ dữ sẽ bị trừng phạt trong hỏa ngục.
Thứ hai, chúng ta biết: cỏ lùng là cỏ dại đem lại những hat có chất độc và sự chết, cây lúa đem lại những hạt lúa hạt thóc bổ dưỡng và nuôi sống con người. Vậy mỗi người hãy kiểm điểm: chúng ta là cỏ lùng hay là lúa? Chúng ta đang đem lại sự sống hay sự chết cho nhau? Chúng ta hãy suy nghĩ: sự sống, tài năng, sức khỏe, tiền của chúng ta đang có, đã được sử dụng thế nào? Sử dụng đúng hay sai? Đem lại ích lợi cho mình và gia đình, hay là gây hại cho mình và gia đình? Có bao giờ chúng ta ngồi bóp trán suy nghĩ về những lần chúng ta đã gây khổ đau cho người khác không?
Thứ ba, chúng ta hãy nhớ: đời này là đời tạm, đời sau mới là vĩnh viễn. Nhưng cuộc sống đời này lại có giá trị quyết định cho số phận đời sau của chúng ta, nghĩa là Thiên Chúa sẽ căn cứ vào những năm tháng chúng ta sống ở trần gian mà thưởng phạt chúng ta. Vì thế, đòi hỏi chúng ta phải biết lựa chọn giữa tốt và xấu, phải làm lành lánh dữ, không thể sống lửng lơ con cá vàng, sống nửa nạc nửa mỡ, sống ương ương dở dở, sống kiểu vàng thau lẫn lộn được, nghĩa là không thể vừa làm lành vừa làm dữ được. Chúng ta phải cố gắng lập công, để khi ra khỏi đời này, chúng ta được Thiên Chúa đưa vào Nước Trời.
Hôm nay chúng ta hãy cầu xin Chúa: Lạy Chúa, biết bao lần chúng con đã là cỏ lùng, gây hại cho mình và thiệt hại cho những người khác. Xin cho chúng con trở thành những cây lúa đem lại ích lợi cho mọi người. Xin cho những người xấu được trở nên những người tốt và cho những người tốt được tốt thêm và tốt thật.
20. Thiên Chúa kiên nhẫn và bao dung
(Lm. Phêrô Nguyễn Hương)
Nếu Chúa Nhật vừa rồi dụ ngôn "người gieo giống" diễn tả hình ảnh về một Thiên Chúa yêu thương và quảng đại trong việc phân phát Lời và Ơn Cứu độ của Người cho hết mọi người, thì Chúa Nhật XVI này phụng vụ Lời Chúa lại giới thiệu với chúng ta về một Thiên Chúa kiên nhẫn và bao dung trước sự dữ và tội lỗi của chúng ta.
1. Lúa và cỏ lùng, thực tại của cuộc sống
Khởi đầu dụ ngôn Chúa Giêsu ví Nước Trời như một thửa ruộng trong đó "lúa và cỏ lùng" mọc chung với nhau. Nếu lúa tượng trưng cho những con người tốt và những việc tốt, những điều thiện hảo, thì cỏ lùng lại tượng trưng cho những người xấu, những việc xấu, và tội lỗi. Lúa mọc với cỏ lùng, sự thiện ở bên cạnh sự dữ, người tốt sống với kẻ xấu. Sự lẫn lộn giữa "lúa và cỏ lùng" này chúng ta gặp bất cứ ở đâu: trong gia đình, ngoài xã hội, trong cộng đoàn, nơi công cộng, và ngay cả trong chính lòng của mỗi người.
Dụ ngôn của Chúa Giêsu cũng chỉ cho chúng ta thấy nguồn gốc của sự lành và sự dữ. Tất cả mọi sự tốt lành trong thế giới này đều đến từ Thiên Chúa, Người là nguồn gốc của mọi sự thiện hảo. Còn sự dữ là do Ma quỷ gieo vào. Ma quỷ là kẻ thù luôn chống lại chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Và Chúng tìm cách dụ dỗ con người làm những điều xấu và gây đau khổ cho người khác. Chúng ta phải tĩnh thức vì ngày hôm nay Ma quỷ hoạt động càng tinh vi để gieo rắc cỏ lùng sự dữ vào trong cuộc sống chúng ta!
2. Tại sao Thiên Chúa lại để như thế?
Trước "cỏ lùng", sự dữ và người tội lỗi, thái độ của chúng ta thường giống như những người đầy tớ chủ ruộng: là muốn nhổ đi, loại trừ, nổi loạn, hoặc bất bao dung. Nhưng thái độ của Thiên Chúa được dụ ngôn nói tới thì hoàn toàn khác hẳn. Thiên Chúa kiên nhẫn và bao dung trước sự dữ, nhất là trước tội nhân. Bởi vì Thiên Chúa biết rằng: từ sự dữ có thể đưa tới sự lành! Từ một người tội lỗi có thể trở thành một vị thánh. Hay nói như Đức HY Nguyễn Văn Thuận: "Thiên Chúa biết vẽ những đường thẳng trên những đường cong". Thiên Chúa luôn hy vọng và cho chúng ta những cơ hội để hoán cải, để thay đổi đời sống, để trở thành điều mình phải là. Nói như sách Khôn Ngoan: "Khi hành động như thế, Người dạy dỗ dân Người rằng: Người công chính phải ăn ở nhân đạo... Người ban cho kẻ tội lỗi ơn ăn năn sám hối" (Kn 12,19). Hay nói như Thánh Vịnh hôm nay: "Lạy Chúa, vì Chúa nhân hậu và khoan dung, giàu lượng từ bi với ai kêu cầu Chúa" (Tv 85,5). Và Thánh Phaolô nói cách tuyệt với rằng: "Có Chúa Thánh Thần nâng đỡ sự yếu hèn của chúng ta" (Rm 8,26).
Thời gian chúng ta sống là thời gian kiên nhẫn của Thiên Chúa, thời gian của sám hối, thời gian để làm điều thiện. Cỏ lùng thì mãi mãi là cỏ lùng, còn con người thì khác, con người có thể cải tà qui chính, có thể từ một thằng quỷ biến thành một vị thánh. Trong cái nhìn đó, Đức Thánh Cha Benedetto XVI trong lễ khai mạc sứ mạng giáo hoàng của Ngài, đã có câu nói rất hay: “Chúng ta chịu đựng vì sự kiên nhẫn của Thiên Chúa, thế nhưng chúng ta tất cả cần sự kiên nhẫn của Thiên Chúa. Thiên Chúa, Đấng đã trở thành con chiên, nói với chúng ta rằng thế giới được cứu độ bởi Đấng Chịu đóng đinh chứ không phải những kẻ đóng đinh. Thế giới này được cứu độ nhờ sự kiên nhẫn của Thiên Chúa và bị phá hũy bởi sự bất kiên nhẫn của con người”. (Benedetto XVI, Omelia nell'inizio solenne del Pontificato, Roma, 24 aprile 2005)
Nếu Thiên Chúa hành xử cách thẳng tay và ngay lập tức thì sẽ không có: một Phaolô bắt bớ Giáo hội, lại trở thành một người Tông đồ dân ngoại đi khắp nơi hăng say rao giảng Tin Mừng Đức Kitô; một Augustinô tội lội và phóng túng, đã trở thành một vị đại thánh, bậc tiến sỹ của Giáo hội; một Charles de Foucauld lêu lỗng lại trở thành người sống nghèo khó và khiêm tốn; một Ève Lavallìere cô đào nỗi tiếng của Pháp đã từ bỏ vinh quang và phú quí để sống cuộc đời hoàn toàn cho Chúa trong tu viện vv..vvv. Rất nhiều những chứng tích khác đã là những vị thánh lừng danh nhờ sự kiên nhẫn và bao dung của Thiên Chúa.
21. Cỏ lùng và lúa tốt
(Lm Bùi Quang Tuấn)
Tuần trước, Dụ ngôn “Người Gieo Giống” trình bày Thiên Chúa như một nông gia tung gieo Lời Ngài vào các tâm hồn. Có tâm hồn như đường đi, hạt giống rơi xuống bị người ta giẫm đạp, không ngóc đầu lên được. Có tâm hồn như sỏi đá, khô khan cứng cỏi, hạt tuy có nẩy mầm nhưng rồi bị nắng trời thiêu cháy vì thiếu nước. Có tâm hồn như bụi gai um tùm, bóp nghẹt cây lúa đang lên, nên cũng chẳng sinh được bông trái nào. Nhưng có tâm hồn như vùng đất phong phú, hạt giống mọc lên tươi tốt, hy vọng mang lại cho nhà nông một mùa gặt thành công rạng rỡ.
Tuần này, Dụ ngôn “Cỏ Lùng” lại trình bày Thiên Chúa như người vãi gieo giống tốt vào mảnh đất hứa hẹn, nhưng sau đó Satan đã lén lút gieo hạt giống xấu là cỏ lùng vào ban đêm. Thành ra trên cùng một mảnh đất màu mỡ, lúa non và cỏ lùng mọc lên chen nhau, rễ cây này xoắn gốc cây kia.
Người tôi tớ chân thành không khỏi nhức nhối lắng lo, muốn xin chủ ruộng giải quyết tức thì tình trạng vàng thau lẫn lộn. Nhưng chủ nhân e rằng khi nhổ cỏ người ta bứng luôn cả lúa nên quyết định đợi đến mùa gặt. Lúc đó cây lúa sinh hạt sẽ được bó lại đưa về sân phơi, còn cỏ lùng hoang dại sẽ bị cắt xuống ném vào lửa thiêu.
Dụ ngôn “Cỏ Lùng” bộc lộ hình ảnh thế giới, giáo hội, gia đình, con người như những vùng đất mang tính hỗn hợp. Thiện và ác, tốt và xấu, ân sủng và tội lỗi như “đan cài” với nhau. Không thể có một xã hội toàn là người tốt hoặc người xấu, cũng chẳng thể có một cộng đoàn toàn là thánh nhân hay tội nhân. Sự kiên nhẫn đầy tình thương xót của chủ ruộng như một cơ may cho những biến đổi và hoàn thiện. Thiên Chúa luôn mở ngỏ cho hoán cải và trổ sinh hoa trái tốt lành.
Dụ ngôn trên thúc đẩy tôi đi vào một hành trình tự vấn: tôi là một cây lúa xanh tươi đang nảy sinh bông hạt thơm ngát cho cuộc đời, hay tôi là cụm cỏ lùng đang ăn hại bao chất màu tươi tốt của cuộc sống?
Chắc hẳn tâm hồn tôi có mang nhiều loại giống tốt do Chúa gieo vào và cũng không ít giống xấu do Satan và tôi tớ của nó thảy vô, nhưng loại giống nào đang được chăm sóc và thứ nào đang bị vùi xuống? Tôi đang nhổ cỏ lùng trong đời mình hay tôi đang gắng công nhổ cỏ và nhổ luôn cuộc đời người khác?
Tôi đang cộng tác với Thiên Chúa để gieo giống tốt vào thế giới hôm nay hay tôi đang tiếp tay với ma quỉ để gieo bao giống xấu vào tâm hồn tha nhân?
Có một chi tiết rất đáng chú ý trong bài Dụ ngôn: khi mọi người đang ngủ, một kẻ xấu lòng đến rải cỏ lùng vào ruộng rồi đi mất. Kẻ thù ra tay mà không ai hay biết. Mầm mống sự ác đột nhập thế giới trong cách thế bất ngờ. Người ta chỉ nhận ra khi nó mọc lên và bắt đầu phá hoại hoa màu.
Như thế Lời Chúa mời gọi một thái độ tỉnh thức. Nếu quên mất rằng: sống là một cuộc tranh đấu không ngừng cho điều tốt vươn lên, tôi sẽ bị cái ác đè bẹp. Nếu chủ quan thiếu canh phòng trước những bóng đêm của cuộc sống, tôi sẽ bị ma quỉ khống chế cuộc đời.
Khi người ta nói: “đâu có sao” trong việc xem phim ảnh sách báo không nết na để giải trí một chút; khi người ta nghĩ: “đâu có sao” nếu nghe bạn bè rủ rê hút một chút cocain cho biết mùi đời; khi người ta tưởng: “đâu có sao” chuyện bỏ đọc kinh đi lễ một hôm..., đều là những mầm giống cỏ lùng Satan gieo vào cuộc đời, chờ ngày bùng phát và hủy hoại.
Không phải chỉ có ma quỉ mới gieo cấy cỏ lùng. Nếu không tỉnh thức, coi chừng chính ta là người tiếp tay tung rắc cỏ lùng vào đời kẻ khác. Có cha mẹ gieo gian dối, tham lam vào lòng con cái mà không biết. Chẳng hạn, có người đi chợ về khoe với cả nhà: “Cô bán hàng hôm nay mất trí hay sao mà thối tiền sai nên dư mấy đồng, mừng quá!” Đáng lẽ nên nói với nhau: “Ồ, mẹ đã trả lại cho cô bán hàng số tiền dư vì phép công bằng”, hay “vì sợ cô ấy phải bỏ tiền túi ra để bù vào chỗ mất,” hoặc “e cô ấy sẽ gặp khó khăn với chủ tiệm,” đàng này người ta lại sung sướng thu cái lợi trước mắt mà không ngờ đã gieo vào lòng con cái mầm mống ích kỷ, gian tham; sau này lớn lên, chúng chỉ mong người ta dốt nát, lầm lẫn, mất trí để có lợi.
Thế đấy, hành động, lời nói, thái độ cư xử của một người có tầm ảnh hưởng như những hạt giống. Nếu là hạt tốt, gia đình, xã hội được nhờ biết bao. Trái lại, nếu là loại xấu, thương đau tất đang chờ ngày phát tán.
Trên một tờ báo nọ có câu chuyện tếu lâm đáng suy nghĩ: Một bé trai được mẹ cho ghé chơi nhà ông nội trong dịp cuối tuần. Ông thấy cháu mình chơi với bạn rất hăng say, nhưng hễ mở miệng ra là có những lời không thanh lịch cho lắm. Nội mới gọi cháu cưng lại trách:
- “Cháu học kiểu ăn nói du côn của đứa nào vậy? Từ nay trở đi ông cấm không được chơi với những thứ đó nữa nghe chưa.”
Đứa cháu vừa thở dài vừa nói:
- “Nếu thế thì từ nay cháu phải nghỉ chơi với bố cháu hay sao?
Ông nội:!!! (Thì ra nó học được từ bố nó.)
Hỡi bạn, Thiên Chúa đang cần chúng ta tiếp tay với Ngài để gieo vào gia đình, cộng đoàn, và lòng người những hạt giống tốt. Có thể là những hạt rất bé như hạt cải, nhưng hiệu năng vô cùng lớn lao. Có thể là những hạt đơn sơ âm thầm, nhưng lại như nắm men làm dậy biết bao đấu bột. Hãy gieo đi những hạt giống yêu thương, chân thật, trung tín, nhẫn nại, quảng đại, thứ tha... Chắc chắn hoa trái mai ngày sẽ là một mùa hân hoan và hạnh phúc tràn đầy.
22. Cứ để cả hai cùng mọc lên
(Văn Chính, SDB chuyển ngữ)
Một điểm nổi bật của Dụ ngôn Cỏ Lùng mà chúng ta dễ nhận thấy, đó là sự quân bình và trưởng thành của các đầy tớ. Nếu không có sự quân bình và trưởng thành này của các đầy tớ, thì dụ ngôn có thể có một kết cục khác như sau:
Đầy tớ mới đến thưa chủ nhà rằng: “Thưa ông, không phải ông đã gieo giống tốt trong ruộng ông sao? Thế thì cỏ lùng ở đâu mà ra vậy?” Ông đáp: “Kẻ thù đã làm đó!” Đầy tớ nói: “Vậy ông có muốn chúng tôi ra đi gom lại không?” Ông đáp: “Đừng, sợ rằng khi gom cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa. Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt. Thế rồi, một trong số đầy tớ liền nói: “Cứ để tôi, thưa ông chủ. Vì tôi có thể phân biệt rõ lúa và cỏ lùng”. Rồi anh ta đi làm, và khi nhổ cỏ lùng, anh ta đã làm bật rễ những gốc lúa như ông chủ đã nói trước.
Ngày nay, có nhiều Kitô hữu cũng giống như những người đầy tớ quá nhiệt thành kia, không chấp nhận sự bao dung đối với những loại cỏ lùng xấu. Với sự nhiệt thành phục vụ Thiên Chúa, họ sẵn sàng làm một cuộc thánh chiến với những ai họ nhận thấy là xấu, với ý định loại trừ họ ra khỏi Giáo hội, quốc gia, hay thế giới này. Rốt cuộc, họ mới nhận ra rằng mình đã mắc phải lỗi lầm nghiêm trọng.
Bạn cứ tưởng tượng các đầy tớ ngạc nhiên và bị “sốc” thế nào khi họ trở về nhà báo cho ông chủ biết chuyện cỏ lùng đang mọc trong ruộng lúa của ông, và xin phép để đi nhổ cỏ lùng. Như những người nông dân tốt, họ muốn làm chuyện đó. Thế nhưng tại sao ông chủ lại cản họ không nhổ cỏ lùng trong ruộng? Có thể vì 2 lý do:
Trước hết, ông chủ biết rằng lúa đang sống và mọc lên cùng với cỏ lùng. Cỏ lùng có thể gây bất tiện tạm thời nào đó trong lúc này, nhưng chúng không thể làm lúa chết được. Thứ đến, đây là chuyện quan trọng, ông chủ biết thật khó để phân biệt giữa lúa và cỏ lùng. Chúng trông rất giống nhau. Chỉ khi mùa gặt đến, các đầy tớ mới có thể phân biệt được rõ ràng nhờ vào hoa trái của chúng. Cho dẫu các đầy tớ có thể phân biệt được chính xác cỏ lùng và lúa, thì ông cũng ngăn cản họ, vì lý do “sợ rằng khi gom cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa” (Mt 13,29).
Sau đó, Đức Giêsu tiếp tục giải thích cho các môn đệ rằng “Ruộng là thế gian. Hạt giống tốt, đó là con cái Nước Trời. Cỏ lùng là con cái ác thần” (c 38). Lối giải thích này của Đức Giêsu làm sáng tỏ quan điểm của dụ ngôn: các người Kitô hữu không nên tìm cách loại trừ những kẻ xấu ra khỏi thế gian này. Họ cứ để kẻ tốt và người xấu sống bên cạnh nhau trong thế giới cho đến Ngày Thu Hoạch. Khi đó mọi sự sẽ dựa vào kết quả của họ. Chúng ta nên để kẻ tốt, người xấu sống chung trong một nhà, một căn hộ, một tòa nhà, một khu vực, một quốc gia, một thế giới, vì lý do đơn giản: chúng ta là những con người tốt nhưng cũng có thể phạm phải sai lầm. Một cách tự nhiên, chúng ta cũng có thể có ý tưởng giống như các đầy tớ trong dụ ngôn, thế nhưng ý tưởng đó không đúng. Các đầy tớ trung tín là những người biết nhận ra rằng họ có thể sai lầm. Sự bất khoan dung, ước muốn loại trừ người xấu quanh chúng ta, sẽ biến chúng ta trở thành những người đầy tớ bất trung đối với Thiên Chúa, Đấng “cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5,45)
Những người đầy tớ quá nhiệt thành muốn loại trừ những người mà họ nhận thấy là xấu, rốt cuộc họ cũng đang đi tới ý định chống lại chính Thiên Chúa. Chúng ta hãy nghĩ tới trường hợp của chàng thanh niên Sao-lô mà sau này trở thành Thánh Phao-lô. Ngài đã từng một thời nhiệt thành ruồng bắt những người Kitô hữu, vì ngài đã mang nơi mình một quan điểm xấu. Chúng ta cũng có thể nghĩ đến những người “Kitô hữu nhiệt thành” muốn săn đuổi những kẻ phá thai, đồng tính, những người tín hữu da trắng với đầu óc kỳ thị chủng tộc, chủ nghĩa duy quốc gia, nòi giống...
Sứ điệp Tin mừng ngày hôm nay thật rõ ràng. Nếu bạn muốn trở thành người đầy tớ trung tín của Thiên Chúa, bạn cần được chuẩn bị để biết đón nhận những kẻ mà bạn nhận thấy là xấu xa. Chúng ta phải nhớ lời của Thày Giêsu: “Cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt” (câu 30).
23. Lúa hay cỏ lùng?
Chủ ruộng không bao giờ mong cỏ lên trong ruộng lúa nhưng thửa ruộng nào cũng có cỏ. Đó là điều khó tránh khỏi. Trong thửa ruộng Chúa đã gieo hạt và sai các Thiên thần coi sóc cũng có lúa và cỏ cùng mọc lên. Tuy Chúa không muốn có cỏ mọc chen vào nhưng Ngài cũng không muốn nhổ nhầm lúa của Ngài: cứ để chúng cùng mọc lên cho đến ngày thu hoạch.
Điều khác biệt trong ruộng lúa này là: lúa xấu có thể dần dần trở thành cỏ và cỏ tốt có thể trở thành lúa. Điều lạ thứ hai là chủ ruộng vẫn đối xử với cỏ và lúa như nhau. Những đợt phân, nước, thuốc được trao cho lúa và cỏ như nhau. Thiên Chúa vẫn luôn chăm sóc, ban ơn và tỏ mình ra bằng những cách khác nhau cho thửa ruộng qua các đầy tớ, qua những ơn lành... Còn việc biến đổi bên trong tùy vào mỗi người.
Trong cuộc đời tôi có khi nào tôi trở thành cỏ lùng không? Khi tôi phạm tội trọng và từ chối trở lại với Chúa, khi tôi giận hờn, ghen ghét một ai đó và từ chối Thiên Chúa, khi tôi để cho những dục vọng hay bản năng điều khiển cuộc đời mình... Liệu Thiên Chúa có phạt tôi ngay không? Thiên Chúa vẫn chờ đợi cho tới một ngày, tôi không biết là ngày nào, một ngày nào đó tôi một mình đối diện với thiên Chúa. Đó là ngày phán xét. Liệu tôi có đứng vững trước mặt Ngài và được Ngài cho vào Thiên đàng không? Nghĩ tới điều này, tôi thấy mình cần quan tâm chăm sóc cho phần linh hồn của mình hơn, biết tôi luyện chính mình, biết tập những đức tính tốt, từ bỏ những thói xấu, năng cầu nguyện với Chúa, dùng những phương thế Chúa ban để trở nên xứng đáng là người con Chúa cũng như giúp cho những người xung quanh, nhất là những người tôi có trách nhiệm quan tâm đến.
Nước Thiên Chúa đến cách âm thầm khiêm tốn. Qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa kêu gọi những kẻ người chọn. Nước Trời được thiết lập cách bí ẩn, nhiệm mầu. Tôi nghĩ mình đã thuộc về Nước Thiên Chúa nhưng biết đâu một lúc nào đó tôi thiếu tỉnh thức hay cậy sức mình, mềm lòng để ma quỷ lừa gạt được tôi và biến tôi thành cỏ lùng. Tuy nhiên, tôi tin là: nếu tôi biết khiêm tốn sám hối thì Chúa sẽ lại đón nhận tôi về làm con Chúa như người Cha Nhân Hậu tiếp nhận đứa con hoang trở về. Bổn phận của tôi là sống trung thành với luật yêu thương của Nước trời và nếu có lỗi phạm thì biết sớm quay về chính lộ. Tôi sẽ không nói suông, nhưng thực hành việc kính Chúa hết lòng, bác ái vớI tha nhân và vác thánh giá hàng ngày bước theo chân Chúa. Chúng ta thấy rằng, từ những gian khó hàng ngày nơi những người theo Chúa, từ cái có vẻ như không là gì trước mặt thế gian, Chúa có thể dùng làm chuyện to tát. Ngài đã thiết lập một vương quyền hùng mạnh của Ngài từ 12 tông đồ và một ít môn đệ, đa số là những người ít học, không có danh vọng gì trong xã hội, đã được Chúa huấn luyện và biến đổi nên những người dũng cảm, làm chứng cho chân lý đến tận cùng trái đất. Đây là điều kỳ diệu trước mắt chúng ta.
Hạt giống tốt gieo ở mọi nơi thì kết quả hạt lúa tốt dồi dào. Tuy nhiên, cỏ lùng có thể chen vào giữa ruộng lúa hoặc ảnh hưởng đến chúng ta bằng những cám dỗ: vật chất giàu sang, danh dự, tiện nghi... Nếu chúng ta biết canh tân chính mình mỗI ngày, chúng ta sẽ không bị biến chất. Ai quyết tâm trung thành giữ vững Đức Tin và sống cho Chúa, cố gắng không ngừng vì yêu mến Chúa thì Người sẽ không bỏ rơi nhưng luôn trợ giúp để chúng ta luôn là men muối ướp đời mà không nhiễm thói đời.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa cho chúng con đừng chiều theo những cám dỗ, nhưng biết làm chủ lấy mình. Mỗi ngày con sẽ chú ý tập luyện một tính tốt và loại trừ tật xấu để trở nên con chiên gương mẫu, nên lúa tốt và có thể giúp cỏ lùng biến đổi thành lúa trong thửa ruộng của Ngài.
24. Dụ ngôn lúa và cỏ lùng
Bài Phúc âm hôm nay Chúa Giêsu nói về Nước Trời qua ba dụ ngôn: cỏ lùng xen lẫn lúa tốt, hạt cải bé nhỏ và nắm men trong bột. Cả ba đều rất hữu ích cho chúng ta vì những ý nghĩa và bài học mà Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta. Tuy nhiên chúng ta chỉ tìm hiểu dụ ngôn cỏ lùng mọc xen lẫn với lúa tốt và rút ra bài học hữu ích cho chúng ta hôm nay.
Dụ ngôn này rất sống động. Có thể xem đây là một vở kịch nhỏ, diễn ra nhanh và đầy ý nghĩa. Các vai trong vở kịch gồm có: ông chủ ruộng, kẻ xấu (người hàng xóm xấu bụng) và các tôi tớ của ông chủ ruộng. Ông chủ đã cẩn thận chọn giống tốt, kỹ lưỡng loại bỏ những hạt kém chất lượng, giữ lại những hạt có phẩm chất tốt. Ông đợi đúng vào thời điểm mà đi gieo trồng. Khi công việc hoàn tất ông vui mừng trở về nhà, hài lòng với những gì mình đã bỏ công khó nhọc làm ra. Ông chờ đợi ngày lúa nẩy mầm và lớn lên, hy vọng vào vụ mùa bội thu, chờ đợi thành quả xứng với công sức mà ông đã bỏ ra. Người hàng xóm xấu bụng luôn ganh tỵ với công việc của ông và tìm mọi cách để làm hại. Người hàng xóm xấu bụng nghĩ ra nhiều cách, trải qua thời gian dài suy nghĩ và cuối cùng hắn đã chọn phương án cho những ý nghĩ xấu xa của mình. Hắn chờ cơ hội để hành động. Khi mọi người chìm vào giấc ngủ say sau một ngày vất vả, hắn đã âm thầm ra ruộng của ông và gieo vào đó cỏ lùng. Việc hoàn tất anh tươi cười với thái độ thoả mãn lòng dạ thâm độc kia. Hắn đi về trong đêm tối một cách nhanh chóng, rồi cũng âm thầm chờ ngày cỏ lùng mọc lên.
Ông chủ vẫn để mắt chăm nom ruộng lúa của mình. Mắt ông luôn theo dõi. Lòng ông luôn gắn bó với ruộng lúa. Ông biết ruộng của mình. Ông biết có kẻ thù gieo cỏ lùng vào trong đó... Khi lúa mọc lên cũng là lúc cỏ lùng bắt đầu tươi tốt. Các tôi tớ của ông chủ đã phát hiện ra cỏ lùng. Họ muốn ông chủ cho họ ra đồng nhổ cỏ lùng để nó đừng làm hại ruộng lúa. Nhưng ông bảo họ đợi đến mùa gặt. Ông chủ không muốn các đầy tớ của mình ra đồng nhổ cỏ ngay tức khắc. Ông tế nhị, sợ khi nhổ cỏ lùng thì sẽ nhổ luôn cả lúa tốt. Hơn nữa, ông muốn các đầy tớ phải nhớ bổn phận của mình vì: cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt. Lúc đó ông chủ sẽ căn dặn người thợ gặt chỉ gặt lúa còn cỏ lùng thì tách ra mà đốt trong lò lửa.
Qua đoạn Phúc Âm này, chúng ta có thể nhận ra rằng vấn đề lành dữ, tốt xấu, phải trái, sáng tối, đen trắng luôn luôn hiện diện trong trần gian, nó hiện diện trong Giáo Hội, trong xã hội, trong gia đình và chính trong bản thân chúng ta nữa. Như vậy trần gian luôn có người lành kẻ dữ, người tốt kẻ xấu, lúa tốt và cỏ lùng sống chung với nhau. Thiên Chúa là ông chủ ruộng không gieo vào trong thế gian là thửa ruộng điều xấu và sự dữ. Thiên Chúa tốt lành gieo điều tốt lành vào trong cuộc sống. Nhưng kẻ thù của Thiên Chúa, nguyên nhân gây ra điều xấu là ma quỷ, và những kẻ nghe theo lời cám dỗ, xúi dục của ma quỷ đã gieo cỏ lùng vào trong thế gian.
Chúng ta thường quá lý tưởng, mong muốn thế giới chỉ có người tốt, mong ước một xã hội hoàn hảo, xã hội chỉ có những người tài giỏi tồn tại, mong chỉ có những người tuyệt vời sống mà thôi. Thậm chí chúng ta mong muốn Thiên Chúa tiêu diệt người xấu và kẻ ác khỏi cuộc đời này ngay như những người đầy tớ của ông chủ ruộng kia. Thế nhưng như ông chủ ruộng kiên nhẫn chờ cho đến mùa gặt mới tách biệt lúa tốt và cỏ lùng. Thiên Chúa cũng kiên nhẫn và bao dung như thế. Chúa đợi cho đến ngày tận thế mới tách cỏ lùng ra khỏi lúa tốt. Chúa hy vọng những người xấu và tội lỗi ăn năn sám hối để được ơn tha thứ. Chúa không trừng phạt ngay tức khắc những người tội lỗi vì Chúa là Thiên Chúa bao dung và nhân ái. Chúa yêu thương và tin tưởng có một ngày nào đó người xấu và tội lỗi sẽ quay trở về và trở nên người tốt. Ngài là người cha nhân hậu đang hằng ngày chờ đợi đứa con trai hoang đàng trở về. Và chính lòng bao dung ấy mà Giáo Hội có những vị thánh như: tên trộm lành, thánh nữ Maria Madalenna, thánh Augustino, thánh Phaolô... Nếu Chúa chấp tội thì có lẽ chính bản thân chúng ta là người bị phạt đầu tiên, vì trong chúng ta cũng đầy dẫy tội lỗi và sự xấu. Tâm hồn chúng ta cũng mọc đầy cỏ lùng xen lẫn vào trong lúa tốt.
Thiên Chúa không thích tội nhưng bao dung cho người tội lỗi. Chính vì bao dung nên người đã kiên nhẫn đợi chờ. Thiên Chúa không tiêu diệt sự xấu vì Thiên Chúa vẫn để cho chúng ta có cơ hội lớn lên trong thử thách, giữa những ảnh hưởng của tội lỗi và ma quỷ. Lúa phải chống chọi để lớn lên bên cạnh cỏ lùng thế nào, thì cuộc đời của người kitô hữu cũng phải trưởng thành về đời sống đức tin và đức mến giữa một thế giới đầy sự xấu và sự dữ như vậy. Con cái Thiên Chúa cần phải lớn lên qua những chiến đấu mà họ đương đầu với cám dỗ và tội lỗi.
Lạy Chúa Giêsu, xin tha thứ cho chúng ta vì biết biết bao lần chúng con đã là cỏ lùng, gây hại cho mình và cho biết bao người khác. Xin Chúa cho chúng con trở thành những cây lúa tốt đem lại lợi ích cho mọi người. Và xin cho những người tội lỗi biết nhận ra tình thương của Chúa mà ăn năn trở về với Chúa và những người sống tốt được tốt thêm và tốt thật. Amen.
25. Nhổ đi hay sống chung
(Lm. Trịnh Ngọc Danh)
“Đừng, sợ rằng khi gom cỏ lùng, các anh lại làm bật luôn rễ lúa”.
Bài Tin Mừng Chúa nhật 16, mùa Thường niên, năm A, theo Thánh Matthêu (Mt 13,24-43) ghi lại việc Chúa Giêsu dùng Dụ ngôn cỏ lùng, Dụ ngôn hạt cải và Dụ ngôn men bột để nói về Nước Trời. Trong buổi chia sẻ này, chúng ta chỉ bàn về Dụ ngôn cỏ lùng.
Các nhân vật trong Dụ ngôn cỏ lùng gồm có: Người gieo giống và hạt giống tốt, kẻ thù của người gieo giống và cỏ lùng, đầy tớ của người gieo giống và thợ gặt.
Chúng ta hãy nghe Chúa Giêsu giải nghĩa Dụ ngôn cỏ lùng như sau: “ Kẻ gieo hạt giống là Con Người. Ruộng là thế gian. Hạt giống tốt, đó là con cái Nước Trời. Cỏ lùng là con cái Ác Thần. Kẻ thù đã gieo cỏ lùng là ma quỷ. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên thần. Vậy, như người ta nhặt cỏ lùng rồi lấy lửa đốt đi thế nào, thì đến ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy. Con Người sẽ sai các thiên thần của Người tập trung mọi kẻ làm gương mù gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác, mà tống ra khỏi Nước của Người, rồi quăng chúng vào lửa; ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng. Bấy giờ người công chính sẽ chói lọi như mặt trời trong Nước của Cha họ”.
Ý nghĩa của Dụ ngôn cỏ lùng như thế đã rõ. Biểu tượng của cỏ lùng là điều xấu, điều ác, là mọi kẻ làm gương mù guơng xấu và mọi kẻ làm điều ác; khác với biểu tượng của hạt giống tốt là điều tốt, điều thiện, là con cái Nước Trời.
Sau đây, chúng ta thử nhìn đến cách ứng xử và thái độ của những người đầy tớ và ông chủ gieo giống tốt đối với cỏ lùng ra sao.
Khi lúa lớn lên và trổ bông thì cỏ lùng cũng lộ ra. Những người đầy tớ thắc mắc: “ Thưa ông, không phải ông đã gieo giống tốt trong ruộng ông sao? Thế thì cỏ lùng ở đâu mà ra vậy?” Và họ đã đề nghị: “ Nếâu ông bằng lòng, chúng tôi xin đi nhổ cỏ”. Và ông chủ thì bảo: “ Đừng, sợ rằng khi gom cỏ lùng, các anh lại làm bật luôn rễ lúa”.
Cũng như các đấy tớ, có lẽ chúng ta cũng thắc mắc: Chúa là Đấng quyền năng, thông biết mọi sự, Chúa biết kẻ thù là ma qủy đã gieo cỏ lùng vào ruộng lúa thế gian, nhưng sao Chúa không ra tay hành động, không cho đầy tớ nhổ cỏ đi, sao Chúa không diệt cỏ lùng, không diệt kẻ làm gương mù gương xấu, kẻ làm điều ác; nhưng lại để cho chúng cùng nẩy nở và sống chung với hạt giống tốt là những điều tốt, điều thiện, là con cái Nước trời?
NHỔ! Tại sao không?
NHỔ cỏ lùng là một gợi ý hay, một việc làm tốt và cần thiết; nhưng lại là một việc rất khó. Khó bởi vì một khi rễ lúa và rễ cỏ lùng đã đan chen vào với nhau rồi, thay vì nhổ cỏ lùng, chúng ta lại làm bật rễ lúa, làm cho cây lúa héo đi và chết. Nhổ được cỏ lùng nơi chính bản thân mình đã khó, nói chi đến nhổ cỏ lùng nơi người khác!
Cái xấu, cái tốt, điều thiện điều ác, gương mù gương xấu do đâu mà có? Chúa thì gieo điều thiện, ma qủy lén lút gieo điều xấu. Cổ nhân cũng có nói: “ Nhân chi sơ tính bản thiện”. Con người sinh ra vốn thiện, nhưng môi trường sống, xã hội… đã đẩy đưa con người xã hội của chúng ta vào những khúc quanh đi ngược lại lương tri, lương tâm của mình. Cỏ lùng và cây lúa cứ như thế mà sống chung, mà tồn tại. Nếu không có con rắn cám dỗ, nếu bà Evà không nghe theo những thôi thúc của dục vọng, thì bà đâu bị Chúa đuổi ra khỏi vườn Địa đàng!
Tốt xấu, thiện ác, bạn thù, ánh sáng bóng tối, hòa bình chiến tranh… là hai gương mặt của một con người, của xã hội, của cuộc đời…
Con người luôn phúc tạp. Chúng ta không thể phân chia hay vạch được một ranh giới rạch ròi giữa tốt và xấu nơi con người. Trong tâm hồn mỗi người, đều có điều tốt lẫn điều xấu. Biết đường thẳng ngắn hơn đường cong, thế mà chúng ta vẫn cứ chọn đường quanh co mà đi. Biết ganh ghét là sinh ra hận thù, thế mà chúng ta vẫn cứ một mực chỉ trích chê bai.
Tất cả chúng ta là một hỗn hợp giữa điều tốt và điều xấu. Người mà chúng ta coi là tốt, thì lại tiềm ẩn trong lòng những đố kỵ, gian ngoa, kiêu ngạo…và người mà chúng ta cho là xấu, thì lại chất đầy lòng vị tha, yêu thương và phục vụ…
Một số người tỏ ra bất mãn trước những thiếu sót, bất toàn của Giáo hội. Họ không muốn chấp nhận Giáo hội có những thiếu sót, sai lầm, không muốn chấp nhận sự cộng sinh giữa người người lành và kẻ dữ.
Trong con người thánh nhân, có con người thánh thiện và con người tội lỗi…
Như thế biện pháp NHỔ gương mù gương xấu, nhổ cái gian ác nơi ruộng lúa thế gian thật không phải dễ mà còn nguy hại vì nhổ lầm.
Không NHỔ nhưng để cho cây lúa và cỏ lùng SỐNG CHUNG, đó là biện pháp, cách thức người gieo giống muốn áp dụng. Vì Chúa sợ rằng: “ Khi gom cỏ lùng, anh em lại làm bật luôn rễ lúa”.
Rễ lúa và rễ cỏ lùng đan chen với nhau trong lòng đất cũng như thiện ác đan chen với nhau trong tâm hồn chúng ta. Nhổ cỏ lùng vô tình chúng ta làm bật rễ những cái thiện đang tiềm ẩn nơi chúng ta.
Gốc rễ cây lúa tốt, mạnh sẽ lấn át gốc rễ cỏ lùng. Một khi thiện tâm chúng ta có nội lực mạnh, có gốc rễ sum xuê, sẽ có thể cải hóa được cái ác nơi cỏ lùng. Tin Mừng và lịch sử Giáo hội đã chứng minh cho thấy đã có vô số người tội lỗi trở thành những thánh nhân.
Nếu không có cỏ lùng, có lẽ người ta sẽ quên hoặc không bận tâm gì lắm đến cây lúa! Sống chung với cỏ lùng là cơ hội cho cây lúa thăng tiến…
26. Nhận diện sự dữ.
Thái độ ông chủ trong dụ ngôn của đoạn Tin Mừng vừa nghe xem ra không được hợp tình và hợp lý. Thực vậy, có anh nông dân nào mà lại không chịu khó đi xịt thuốc, hay đi nhổ, mà cứ để cho cỏ dại mọc xả láng trên đồng ruộng của mình.
Thế nhưng, nếu chúng ta hiểu rằng ông chủ ấy là chính Thiên Chúa và cỏ dại là những kẻ tội lỗi, thì chúng ta lại thấy cách cư xử này thật tuyệt vời, vừa hợp tình, lại vừa hợp lý.
Đúng thế, Ngài không đồng lõa và dung túng kẻ tội lỗi, nhưng đã đối xử với họ theo lòng khoan dung và nhân ái. Ngài kiên nhẫn đời chờ kẻ tội lỗn sám hối và hoán cải.
Nếu Thiên Chúa tiêu diệt sự ác ngay bây giờ, thì chắc chắn không ai trong chúng ta có thể sống sót, bởi vì như lời Thánh Vịnh đã diễn tả: Từ trong lòng mẹ, tôi đã là tội nhân, thoạt sinh ra, tôi đã mắc tội rồi.
Và như chúng ta đã biết: Tình thương thì nhẫn nại, nên Thiên Chúa luôn chờ đợi thiện chí hoán cải của từng người, đồng thời Ngài còn ban ơn nâng đỡ họ trên mọi bước đường đời, để rồi cuối cùng, ngày thầm phán mới tới, ngày xét xử tuyệt đối công mình và không ai có thể trách cứ Ngài là đã không dủ lòng thương xót.
Nếu như Thiên Chúa không dung túng và đồng lõa với sự ác, thì chúng ta cũng không được phép thở dài và chán ngán, thất vọng và buông xuôi, nhưng phải cố gắng trở thành người cộng tác vào việc xây dựng Nước Trời.
Thực vậy, ông chủ đã xác quyết:
- Kẻ thù của ta đã làm như vậy.
Vì thế, bước khởi đầu của chúng ta cũng phải là nhận diện sự ác. Tiêu chuẩn để nhận diện sự ác không phải là bản thân chúng ta với những sở thích riêng tư, nhưng phải là Tin Mừng, với những đòi hỏi của Chúa.
Dưới ánh sáng của Tin Mừng, liệu chúng ta có nhận ra đâu là những dấu chỉ của sự ác đang hoành hành trong tâm hồn mỗi người chúng ta, cũng như trong thế giới hôm nay hay không?
Sau khi xem xong cuốn phim “Dưới ánh mặt trời của Satan”, trong một cuộc phỏng vấn, cha Bourgeois đã đưa ra những dấu chỉ của sự ác hôm nay, đó là sự khinh rẻ con người và cướp đi quyền sống của họ; thái độ tôn thờ ngẫu tượng như tiền bạc, quyền lực, lạc thú; sống trong ảo tưởng vì cho rằng khoa học có thể giải quyết được mọi sự; đánh mất niềm hy vọng, không còn nhìn tới tương lai và sau cùng là đánh mất chính mình, không còn biết rõ con người mình là như thế nào nữa.
Như vậy, sự ác có thể ẩn hiện dưới nhiều khuôn mặt, đôi khi lại là những khuôn mặt thật dễ thương, đầy quyến rũ và rất hấp dẫn.
Thế nhưng, sự dữ không phải chỉ hiện diện trên bình diện thế giới và cộng đồng nhân loại, mà còn hiện diện ngày trong chính cõi lòng chúng ta. Bởi vì cõi lòng chúng ta là như một thửa ruộng trong đó cỏ lùng xen lẫn với lúa tốt.
Vấn đề là làm thế nào để hạt giống Nước Trời đã được Thiên Chúa gieo vãi vào cõi lòng chúng ta được nảy mầm, lớn lên, đâm bông và kết trái. Chính vì thế, chúng ta phải cố gắng kiện toàn bản thân và thể hiện những giá trị của Tin Mừng trong chính cuộc sống chúng ta, bởi vì sự góp phần vào công cuộc kiến tạo Nước Trời phải được khởi đi từ chính bản thân mỗi người chúng ta.
27. Tất cả là hồng ân
(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Dụ ngôn cỏ lùng là một trong những dụ ngôn hiếm hoi được chính Chúa giải thích rõ ràng. Giải thích của Chúa giúp ta có những hiểu biết hữu ích cho đời sống đạo.
Dụ ngôn nhắc nhớ ta về sư hiện diện của ma quỷ. Ma qui hiện hữu. Chúng luôn có mặt để gieo rắc sự xấu. Chúa đã chuần bị những thửa ruộng tốt. Những thửa ruộng đó là thế giới, là Giáo hội, là tâm hồn mỗi người. Chúa đã gieo những hạt giống tốt. Hạt giống đó là Lời Chúa, là ơn Chúa, là những thiện chí, những ý hướng cao đẹp trong tâm hồn con người. Nhưng ma quỷ lén gieo vào những hạt cỏ xấu.
Chúa gieo vào thế giới hạt giống khát vọng hoà bình. Đẹp biết bao nếu mọi dân tộc nắm tay nhau xây dựng một thế giới huynh đệ tươi thắm tình người. Nhưng buồn thay, cánh đồng hoà bình tươi xanh đã bị những ngọn cỏ tham vọng, ích kỷ, ác độc làm hoen ố. Lịch sự thế giới được ghi bằng những trang buồn vì không ngày nào không có chiến tranh.
Thế giới sẽ đẹp biết bao nếu tất cả trí thông minh, tất cả tài nguyên, tất cả năng lực đều góp phần xây dựng. Nhưng buồn thay, rất nhiều trí thông minh, rất nhiều tài nguyên, rất nhiều năng lực đã tiêu tốn trong việc huỷ hoại, tha hoá, nô lệ hoá con người.
Ngay trong bản thân mỗi người, không thiếu những sáng kiến, những hoạt động ban đầu xem ra tốt đẹp, nhưng dần dà vị vẩn đục vì những biến tướng nặng mùi trần tục như khoe khoang, tìm hư danh, tìm lợi lộc.
Đó là những hạt cỏ xấu ma quỷ lén lút gieo vào ruộng lúa tốt.
Tuy nhiên, dụ ngôn cho thấy sự kiên nhẫn và lòng bao dung của Chúa. Chúa đợi cho đến ngày tận thế mới thu lúa cùng với cỏ lùng. Chúa kiên nhẫn đợi chờ vì hi vọng những người tội lỗi ăn năn sám hối. Chúa bao dung tha thứ không nỡ phạt người tội lỗi tức khắc. Chúa yêu thương, tin tưởng người xấu sẽ có ngày nên tốt. Nếu phạt ngay nhưng người tội lỗi thì ta đâu còn cơ may được chiêm ngưỡng ông thánh trộm lành. Nếu Chúa thẳng tay thì ta đâu có thánh nữ Madalêna, Tông đồ của các Tông đồ, thánh Augustinô, Tiến sĩ lừng danh, thánh Phaolô, vị Tông đồ dân ngoại. Nếu Chúa chấp tội thì bản thân ta sẽ là người bị phạt đầu tiên, vì trong ta cũng đầy những tội lỗi, những sự xấu. Trong tâm hồn ta cỏ lùng vẫn mọc xen với lúa tốt.
Sau cùng, dụ ngôn cho ta hiểu tất cả là hồng ân của Chúa. Có sự lành để ta hiểu biết và yêu mến sự tốt lành của Thiên Chúa. Có sự dữ để ta gớm ghét tránh xa và càng thêm gắn bó với sự lành. Có sự lành để ta được hưởng niềm an ủi ngọt ngào của Chúa. Có sự dữ để ta phấn đấu vượt qua, chứng minh lòng trung tín của ta với Chúa. Có thuận lợi tiến bước trên đường thánh thiện. Có khó khăn để ta rèn luyện thêm đức.
Mọi sự đều nên tốt cho kẻ lành. Thật vậy, việc cấm đạo là sự dữ. Nhưng nhờ đó mà Giáo hội có được những chứng nhân anh hùng. Đau khổ và bệnh tật là những khiếm khuyết trong cuộc sống, nhưng lại giúp con người được thông phần đau khổ với Chúa. Thánh Nữ Têrêsa đã nhìn thấy tất cả là hồng ân của Chúa. Sự lành cũng như sự dữ. Hạnh phúc cũng như đau khổ. Thành công cũng như thất bại. Tất cả đều góp phần rèn luyện, vun đắp và thăng tiến người lành.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Khi gặp những người xấu trong xứ đạo, trong hội đoàn, bạn có muốn khai trừ người đó ngay tức khắc không?
2) Trong con người bạn có những khuyết điểm, những bệnh tật, bạn có phấn đấu khắc phục những khuyết điểm, vượt qua bệnh tật để thăng tiến bản thân không?
3) Chúa đã khoan dung, kiên nhẫn đợi chờ bạn ăn năn hối cải. Bạn có biết kiên nhẫn với người khác?
28. Không được loại trừ
Anh chị em thân mến.
Hiện tại, thế giới đang rối loạn lên vì tình trạng khủng bố đang lan rộng khắp nơi. Vừa qua ở tại Anh Quốc bốn quả bom đã phát nỗ nơi giao thông công cộng, khiến cho 52 người chết và rất nhiều người bị thương còn đang trong tình trạng nguy kịch. Những nạn nhân là ai? Họ chỉ là những người dân bình thường, vậy mà họ phải nhận lấy hậu quả của những người bất đồng với nhau vì một lý do nào đó. Chính vì thế mà mọi người trên thế ở trong tình trạng báo động và được kêu mời chống khủng bố.
Tại sao lại có tình trạng khủng bố và có người chống khủng bố? Bởi vì họ không chấp nhận việc làm của người khác, họ bất mãn với cách làm của người khác vì người đó không thuộc về phe của họ. Nếu cả hai chịu ngồi lại để tìm tiếng nói chung, tìm con đường tốt nhất để thực hiện, thì sẽ không có tình trạng khủng bố càng không có tình trạng báo động chống khủng bố. Nếu cả hai biết kiên nhẫn chờ đợi một kết quả tốt, và nếu cả hai bên biết kiên nhẫn cách quảng đại để chấp nhận nhau trong tinh thần xây dựng chứ không loại trừ thì mọi việc sẽ khác đi nhiều. Nhưng có tình trạng hỗn loạn và bất ổn như thế nầy, vì con người luôn tìm cách khẳng định mình để rồi loại trừ người khác, không chấp nhận người khác cùng đồng hành với mình.
Trong bài Phúc Âm chúng ta vừa nghe, ông chủ ngăn cản những người muốn vội vàng có hành động loại trừ. Những người đó cũng có ý hướng hoàn toàn ngay chính, họ nhìn thấy những điều không thích hợp và muốn loại trừ ngay, để cho điều mà họ cho là tốt được hoàn toàn tốt đẹp theo như ý họ muốn. Nhưng họ giật mình khi nghe chủ không cho họ hành động. Không phải chủ muốn bao che cho sự xấu, càng không phải ủng hộ cho điều không tốt, nhưng người chủ muốn cho tốt xấu được phân biệt rõ ràng khi đến thời đến lúc của nó. Nếu sớm hơn thời kỳ hạn định thì sẽ có sự lầm lẫn. Người chủ chỉ sợ khi ý tốt của những người muốn tiêu diệt cái xấu là cỏ lùng, lại vô tình làm nguy hại đến cái mà gọi là lúa tốt, khi đó cỏ lùng không bị tiêu diệt hết mà vô tình lúa tốt lại bị tiêu diệt và không có cơ hội phát triển.
Thiên Chúa muốn cho điều tốt được phát triển mạnh mẽ lên, có sức mạnh bao phủ và lôi cuốn để cho mọi sự mỗi ngày trở nên tốt hơn, mạnh mẽ hơn.
Nhưng con người, chỉ là những người thợ nóng vội, chỉ hành động theo bản năng mà không cần biết đến hậu quả như thế nào. Con người chỉ biết hành động theo như những gì mình muốn, mình thấy và không cần phải suy tư tìm hiểu cho lợi ích chung.
Mỗi người trong chúng ta nhìn vào chính mình, xem giờ này đây chúng ta đang nghĩ gì và muốn gì? Chúng ta đang nhìn thấy một xã hội bất công, chúng ta cũng đang nhìn thấy những ý tưởng tốt đẹp của mình và chúng ta đang mong muốn thực hiện những ý tưởng đó. Chúng ta muốn loại trừ bất công, để những gì chúng ta cho là tốt đẹp càng tốt đẹp hơn. Chính những ý nghĩ như thế, chính những lúc chúng ta hành động mà chúng ta cho là tốt như thế, thì cũng chính những lúc đó chúng ta là những người khủng bố, chúng ta đang gieo kinh hoàng khắp nơi, chung quanh cuộc sống của mình.
Những lúc chúng ta khó chịu, bất mãn với cuộc sống, nên chỉ trích phê bình, hay hành động nông nổi khi chúng ta không chấp nhận ý kiến người khác, mà chỉ biết có chính mình. Khi đó chúng ta có nhìn thấy hậu quả của sự việc như thế nào không? Nếu những lúc đó chúng ta kiên nhẫn, lắng nghe với một tâm hồn quảng đại, với một con tim biết yêu thương, tha thứ và thông cảm, chắc chắn chúng ta cũng sẽ nhận được một kết quả mà chúng ta không ngờ được. Lúc đó chúng ta đang thực hiện lời Chúa: hãy chờ đợi. . . , coi chừng sẽ lầm lẫn.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết lắng nghe lời Chúa, để trong đời sống hằng ngày chúng biết kiên nhẫn tìm hiểu thánh ý Chúa mà thực hiện.
29. Đừng nhổ cỏ lùng.
(‘Manna’)
Cỏ lùng ở đâu mà ra vậy? Cỏ lùng trong ruộng khiến các đầy tớ ngỡ ngàng.
Thửa ruộng vốn chỉ được gieo giống tốt. Vậy mà khi lúa mọc lên và trổ bông. cỏ lùng lại xuất đầu lộ diện.
Bởi đâu mà có cỏ lùng, có người xấu? Bởi đâu mà ở nơi ta tưởng là trong ngần lại bất ngờ có dấu hiệu của sự vẩn đục?
Có tác động xấu xa nào của Thần Dữ đẩy đưa? Có sự ưng thuận chiều theo nào của con người?
Ông có muốn chúng tôi nhổ đi không? Chúa có muốn chúng tôi tiêu diệt mọi kẻ xấu không? Ngài có muốn chúng tôi xây dựng một Giáo Hội toàn bích, một xã hội chỉ gồm toàn những người tốt không?
Lắm khi chúng ta nóng nảy như Gioan và Giacôbê, đòi đốt cả làng người Samari, vì họ không tiếp Chúa.
Đừng, sợ rằng khi nhổ cỏ lùng, lại làm hư rễ lúa. Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt.
Như thế Thiên Chúa để cho cỏ mọc chung với lúa. Ngài chấp nhận tình trạng vàng thau lẫn lộn. Ngài nhẫn nại với tội nhân, với cỏ lùng.
Cỏ lùng chẳng bao giờ thành lúa được. Nhưng người xấu có thể hoán cải nên người tốt. Chính vì thế Thiên Chúa cứ kiên tâm chờ đợi.
Chờ đợi vì tin vào sự hoán cải của con người. Chờ đợi vì tôn trọng tự do lựa chọn của họ. Chờ đợi vì nuôi một niềm hy vọng lớn lao.
Sự thánh thiện của Thiên Chúa ở nơi sự chờ đợi. Ngài còn chờ đợi cho đến ngày tận thế.
Trong thế giới và Giáo Hội không có hai hạng người: hạng cỏ lùng và hạng lúa tốt.
Cỏ lùng và lúa tốt nằm ở nơi tim mỗi người.
Mỗi người đong đưa giữa cỏ lùng và lúa tốt, giữa cái thiện và cái ác, giữa thiên thần và Satan.
Ngay trong những hành vi tốt đẹp nhất của tôi, tôi vẫn thấy có chút vị kỷ, chiếm đoạt.
Thiên Chúa vẫn chấp nhận cỏ lùng ở trong tôi. Ngài chờ tôi được thanh luyện dần dần, để rồi mọi sự trong tôi thành lúa tốt.
Kitô hữu không dung túng sự dữ, họ dám hy sinh để xây dựng một thế giới yêu thương. Nhưng họ không dùng bạo lực để chống lại ác nhân. Họ nhẫn nại biến đổi trái tim kẻ thù, vì họ tin vào sức mạnh của tình yêu, tin vào Đức Giêsu, Đấng đã bị sự dữ nuốt chửng nhưng cuối cùng là Đấng toàn thắng.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có khi nào bạn bị "sốc" trước một gương xấu xảy ra trong Giáo Hội hay giáo xứ của bạn không? Bạn đã làm gì để vượt qua cú sốc đó?
Bạn có thấy mình ít nhẫn nại trước cỏ lùng của người khác, nhưng lại không thấy cỏ lùng nơi mình? Có khi nào bạn đòi khai trừ người khác vì họ lầm lỗi không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con, xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.
Mỗi lần con thấy Chúa, xin biến đổi ánh mắt con.
Mỗi lần con rước Chúa, xin biến đổi môi miệng con.
Mỗi lần con nghe lời Chúa, xin biến đổi tai con.
Xin làm cho khuôn mặt con ngời sáng hơn sau mỗi lần gặp Chúa.
Ước chi mọi người thấy nét tươi tắn của Chúa trong nụ cười của con, thấy sự dịu dàng của Chúa trong lời nói của con.
Thế giới hôm nay không cần những Kitô hữu có bộ mặt chán nản và thất vọng.
Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm cùng đi với Chúa và với tha nhân trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen.
30. Thiên Chúa luôn cho ta cơ hội để hoán cải
(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Có một câu ngạn ngữ nói rằng: Khi cuộc đời đóng lại cánh cửa trước mặt chúng ta, thì Thiên Chúa luôn mở cho ta cánh cửa khác. Có thể nói rằng, câu ngạn ngữ này thật đúng. Khi mỗi người bình tâm nhìn lại cuộc đời của mình sẽ thấy Thiên Chúa luôn cho chúng ta những cơ hội. Có những lúc trước mặt ta là cả một bầu trời đen tối, thì Thiên Chúa luôn cho ta một tia hy vọng; có những khi ta tưởng rằng với tội lỗi mình gây ra, đáng lẽ mình đã phải trả giá, thế nhưng Thiên Chúa vẫn độ lượng cho chúng ta thời gian và cơ hội sửa chữa sai lầm.
Nhân từ và khoan dung là “đặc tính” trong cách hành xử của Thiên Chúa. Nhìn lại lịch sử của dân Israel, chúng ta thấy Thiên Chúa đã yêu thương chăm sóc họ như một người cha lo cho con cái; vậy mà rất nhiều lần, Israel từ chối tình yêu và sự chăm sóc của Ngài. Những lúc như thế, Thiên Chúa như một người cha, vừa giận lại vừa thương. Cũng nhiều lần, với sự công thẳng, Ngài như muốn để cho Israel bị tiêu diệt khỏi mặt đất, nhưng tấm lòng người cha không cho phép Ngài làm như thế. Ngài lại tha thứ, yêu thương và đón nhận họ khi họ sám hối trở về.
Bài đọc một, tác giả sách Khôn Ngoan đã suy gẫm về Thiên Chúa và nhận ra rằng: Thiên Chúa luôn phải chịu sự giằng co giữa nhân từ và lỗi phạm, giữa công thẳng với khoan dung. Tác giả giải thích: Chính do sức mạnh của Chúa, mà Chúa hành động công minh- vì Chúa làm bá chủ vạn vật nên Chúa lại nương tay với muôn loài. Thiên Chúa luôn xử khoan hồng, lấy lượng từ bi cao cả mà cai quản con ngươi, chỉ những ai cố tình, cố chấp thì Ngài mới xử tội. Tác giả sách Khôn Ngoan còn nghiệm ra rằng, Thiên Chúa làm như thế là để dạy chúng ta: Người công chính phải có lòng nhân ái, vì Thiên Chúa luôn cho con cái niềm hy vọng và cho người có tội có cơ hội để sám hối.
Dụ ngôn Chúa Giêsu kể hôm nay về câu chuyện cỏ lùng trong ruộng, cho thấy sự khác biệt về cách hành xử giữa Thiên Chúa và con người. Trước hết, câu chuyện trả lời cho thắc mắc muôn thuở của con người: Tại sao Thiên Chúa là Đấng quyền năng, nhân từ sao lại để cho nhiều sự xấu, sự ác xảy ra trong thế giới như thế? Thiên Chúa không tạo nên sự xấu, Ngài càng không tạo nên sự ác. Giống như người chủ trong câu chuyện, ông đã không hề gieo cỏ lùng, nhưng ông gieo giống lúa tốt trong ruộng của ông và ông hết sức chăm lo cho mảnh ruộng của mình. Tuy nhiên, khi mọi người đang ngủ, kẻ thù của ông đã gieo cỏ lùng vào ruộng lúa rồi đi mất. Kẻ thù của Thiên Chúa chính là ma quỷ. Nó không muốn nhìn thấy con cái Chúa được hạnh phúc. Nó ghen tỵ vì con người được Chúa yêu thương. Vì thế, nó lén lút, đợi khi con người say ngủ trong lối sống và thói quen của mình, thì đã gieo những hạt cỏ dại vào trong tâm hồn mỗi người. Những hạt cỏ này cứ âm thầm mọc lên, đến một lúc nào đó, nó lấn lướt hết những việc tốt lành và biến mảnh ruộng tâm hồn chúng ta trở nên vườn hoang cỏ dại.
Nhìn thấy sự xấu, sự ác cùng với những bất công đang xảy ra trong xã hội, nhiều người đã giống như những đầy tớ trong câu chuyện hôm nay, họ muốn quay lại trách Thiên Chúa và nghi ngờ về quyền năng của Ngài: Thưa ông, không phải ông đã gieo giống tốt trong ruộng của ông sao? Thế thì cỏ lùng ở đâu mà ra vậy? Không chỉ trách Thiên Chúa, mà họ còn muốn Thiên Chúa hành xử theo cách của họ, khi đề nghị với ông chủ: Vậy ông có muốn cho chúng tôi đi gom chúng lại không? Với đề nghị này, những người đầy tớ trong câu chuyện muốn nhân danh Thiên Chúa và sự công thẳng của Ngài để loại trừ những người xấu, những kẻ bị xem là cỏ lùng. Như thế, những người này tự cho mình là những người tốt, những người xứng đáng có quyền để kết án người khác.
Thiên Chúa có quyền trừng phạt ngay lập tức kẻ có tội, những kẻ xấu và những người gây ra sự ác, nhưng Thiên Chúa đã không làm như vậy, Ngài có cách hành xử riêng của Ngài. Trước lời đề nghị đi nhổ cỏ lùng của những người đầy tớ, ông chủ đã trả lời: Đừng, vì sợ rằng khi đi nhổ cỏ, các anh lại làm bật luôn rễ lúa. Hãy cứ để cả hai cùng mọc lên cho đến mùa gặt. Đến mùa gặt, tôi sẽ cho thợ gom cỏ lùng lại và đốt đi, còn lúa thì cho vào kho lẫm. Câu trả lời này cho thấy sự nhẫn nại của Thiên Chúa đối với những kẻ có tội và những người làm điều xấu. Thiên Chúa luôn cho con người có thời gian và cơ hội để hoán cải, để làm lại cuộc đời. Dĩ nhiên, Thiên Chúa không mong cỏ lùng biến thành lúa, nhưng Ngài lại mong người xấu biến thành người tốt, kẻ gian ác biến đổi nên người lương thiện, và đến ngày xét xử, Thiên Chúa sẽ xử công minh với mỗi người tùy theo việc họ đã làm.
Hãy cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt. Điều đó cho thấy rằng, Thiên Chúa không hề nóng vội, cũng không hề mất kiên nhẫn với con người. Ngài là một người Cha luôn chờ đợi chúng ta là những người con sám hối trở về để Ngài tha thứ. Ngài không hề kể tội chúng ta khi chúng ta quay về. Trái lại, Ngài luôn mở rộng vòng tay ôm chúng ta vào lòng và cho chúng ta được ngụp lặn trong biển yêu thương của Ngài. Tuy nhiên, đến thời hạn sau cùng, nếu người nào còn cố chấp trong sự sai trái của mình, từ chối tình yêu, bỏ mất cơ hội hoán cải, không chấp nhận quay trở lại thì kẻ ấy sẽ biến mình trở thành thù nghịch với Thiên Chúa và sẽ bị hủy diệt trong lò lửa.
Tuy nhiên, không dễ để mỗi người nhận ra thực trạng của mình: Hiện nay, tôi đang là cỏ lùng hay là lúa? Hiện nay, mảnh ruộng tâm hồn tôi đang là ruộng lúa hay đang là ruộng cỏ? Để có thể nhận ra được tình trạng tâm hồn của mình là cỏ hay là lúa, ruộng lúa hay là ruộng cỏ, chúng ta cần phải có sự trợ giúp của Thánh Thần. Đó là điều Thánh Phaolô chỉ cho chúng ta trong thư Roma: Thần Khí sẽ giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải. Điều đó có nghĩa là qua việc cầu nguyện cùng với sự soi sáng của Thánh Thần, chúng ta sẽ nhìn rõ về con người và tình trạng tâm hồn của mình. Chỉ khi dám nhìn vào tâm hồn mình và khiêm tốn nhìn nhận sự sai trái của mình, chúng ta mới có thể khắc phục được những sai lầm trong cuộc sống, và cùng với ơn Chúa và sức mạnh của Thánh Thần, chúng ta mới có thể tận dụng được cơ hội và thời gian Chúa ban để hoán cải.
Thưa quý OBACE, Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người nhìn lại tình trạng tâm hồn của mình và biết học nơi Chúa sự nhẫn nại và quảng đại bao dung với anh chị em chung quanh, đừng vội kết án, nhưng luôn cho anh chị em mình cơ hội để làm lại cuộc đời.
Các bậc làm cha mẹ luôn muốn mảnh ruộng gia đình là một mảnh ruộng tốt và muốn con cái mình là những giống lúa tốt. Tuy nhiên, vì sức ép của đời sống kinh tế, vì cám dỗ chạy theo vật chất và danh vọng, nhiều người đã ngủ quên trong công việc, trong việc tìm kiếm cơm áo nên đã bỏ quên ruộng lúa là gia đình, bỏ quên con cái, để cho ma quỷ và sự xấu len lỏi vào trong gia đình, trong tâm hồn của mình và của con cái. Vì vậy, các bậc cha mẹ cần điều chỉnh lại cuộc sống của mình, cần biến tâm hôn mình thành mảnh đất tốt, dành nhiều thời gian hơn nữa cho gia đình, cho con cái để chuyện trò, để hiểu nhau hơn và thông cảm với nhau hơn. Hãy gieo vào gia đình và tâm hồn con cái nhiều việc tốt, nhiều gương sáng, hãy đem Chúa vào trong gia đình qua những giờ kinh, giờ cầu nguyện và hãy gieo vào tâm hồn mình và con cái những hạt giống của Tin Mùng. Khi tỉnh thức như thế, thì ma quỷ và sự xấu sẽ không thể lẻn vào gia đình chúng ta được.
Lời Chúa cũng muốn chúng ta học nơi Chúa sự kiên nhẫn và quảng đại với anh chị em. Đừng vội kết án hay loại trừ khi anh em mình sai lỗi, nhưng hãy ân cần nâng đỡ và tạo cơ hội cho anh chị em làm lại cuộc đời. Thiên Chúa không bao giờ dập tắt hy vọng của chúng ta, Ngài cũng không bao giờ khóa chặt cánh cửa tương lai của chúng ta. Vì thế, chúng ta đừng bao giờ đóng chặt cửa tương lai, đừng bao giờ dập tắt hy vọng của mình và của anh chị em mình. Amen.
31. Giáo Hội thánh thiện gồm những người có tội.
(‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Dụ ngôn hạt giống tốt và cỏ dại, là cơ hội tốt để chúng ta suy niệm về sự thánh thiện của Giáo Hội. Thực vậy Giáo Hội giống như một thửa ruộng lớn nơi đó chủ đã gieo hạt giống tốt, là sự thánh thiện, nhưng người ta cũng thấy mọc cỏ dại là tội lỗi. Chúa giải thích dụ ngôn bằng cách ứng dụng trực tiếp hơn vào thế giới. Hạt giống tốt là thần dân Vương quốc và cỏ dại là những kẻ theo kẻ dữ. Chủ không muốn hành động mạnh chống lại những kẻ làm dữ, vì muốn tránh gây thương tổn cho những ai cố gắng trung thành với điều thiện, nhưng dụ ngôn cũng gợi ra câu hỏi khác mà chúng ta dùng làm đề tài suy niệm: làm sao trong Giáo hội của Thiên Chúa có lẫn lộn thánh thiện với tội lỗi?
1) Giáo Hội thánh thiện tự bản thể, trong cội rễ, trong nhựa sống, trong sự tăng trưởng. Nhưng Giáo Hội được tạo bởi những người có tội. Giáo Hội bắt rễ nơi Đức Kitô, nhựa sống là sự sống của Đức Kitô. Qua Giáo Hội, chính Đức Kitô lớn lên trong nhân loại. Nhưng nhân loại ấy làm bằng những con người yếu đuối. Một đàng những con người ấy giống như gié lụa mà không có cái nào chín ngay được, không có ai hoàn thiện trong tình trạng hiện thời. Đàng khác có những người tuỳ thuộc số hạt giống tốt của Thiên Chúa, nhưng vì có tự do, nên có thể biến đổi thành hạt giống của ma quỷ. Giáo Hội chịu sự giằng co bên trong, khi vừa thánh thiện nhờ tất cả động lực của nguồn gốc mình, vừa khổ vì tội lỗi của những người họp thành mình. Bởi đó mới có sự kiện lạ lùng: không ai có thể bắt bỏ Đức Kitô được một tội nào trong khi Giáo Hội Đức Kitô gồm bằng những tội nhân. Nhưng cũng phải nói luôn rằng Đức Kitô cấu tạo Giáo Hội thánh thiện bởi sức mạnh thánh hoá của Ngài. Trong tư cách Giáo Hội, Giáo Hội thánh thiện nhờ sự kết hiệp với Đức Kitô nhờ Giáo lyý của mình, nhờ ác phép bí tích và cũng nhờ lưu lực thánh thiện đang biến cải các người tội lỗi. Giáo Hội như một linh hồn thánh, không ngừng hồi sinh một thân thể bệnh tật và thương tích. Điều nên kinh ngạc không phải là việc Giáo Hội đang sự khốn cùng của tội lỗi, nhưng là nghị lực của Giáo Hội để thúc đẩy sự thánh thiện.
2) Thực tại của Giáo Hội vượt ra ngoài các giới hạn của hiện tại chúng ta và của lịch sử quá khứ. Khi nói đến tội lỗi bên trong Giáo Hội (các lầm lỡ, các lạm dụng, các sai lầm…) người ta nghĩ đến Giáo Hội thời quá khứ, hay nghĩ đến Giáo Hội hiện đại. Tuy nhiên, phải nghĩ đến Giáo Hội toàn diện, từ khởi sự sẽ tiến tới hoàn thành, Giêrusalem trên trờ mà thánh Gioan nói đến. Khi sống thời hiện tại của Giáo Hội, chúng ta hãy sống viễn tượng và trong niềm kiêu hãnh chính đáng về Giáo Hội bất tử. Hãy tránh một thứ tâm trạng khổ dục, ưa thích một cách bệnh hoạn vạch rõ những gì yếu đuối và tội lỗi trong Giáo Hội hiện đại. Trái lại hãy dựa cách suy tư và cảm nhận của chúng ta trên hành động tích cực của Đức Kitô hằng sống. Trong Giáo Hội, từ Đức Giáo Hoàng cho đến người tín hữu khiêm nhường nhất, Ngài gợi lên lòng quảng đại, tăng cường lòng tin tưởng, thúc đẩy các sáng kiến, nâng đỡ lòng can đảm và ban cho các Kitô hữu chân chính khuôn mặt của những kẻ chiến thắng, những người sống mạnh, những người được giải cứu.
32. Cánh đồng truyền giáo
Mầu nhiệm Giáo Hội phong phú và phức tạp đến nỗi không thể tóm gọn vào trong một công thức. Hơn nữa, vì một mầu nhiệm trong khi ngôn ngữ loài người lại phát nguyên từ kinh nghiệm giác quan, nên không thể nào có khả năng để diễn tả cho thoả đáng được. Vì thế, Kinh Thánh và truyền thống phải nhờ đến những biểu tượng để diễn tả một nội dung vượt hẳn lên trên khả năng diễn đạt của lời nói. Chính Chúa Giêsu cũng đã dùng đến phương pháp này trong các dụ ngôn của Ngài. Quả thật, Thánh Tôma Aquirô nhận định là: Chính qua trung gian của cảm giới mà chúng ta có thể vượt tới thần giới. Trong Kinh Thánh, các nhà chú giải đếm được hơn 80 hình ảnh chỉ về Giáo Hội. Hôm nay, Đức Giêsu liên tiếp dùng ba dụ ngôn cỏ lùng , dụ ngôn hạt cải và dụ ngôn men trong bột để diễn tả những khía cạnh khác nhau của Nước Trời, của Giáo Hội chúng ta.
Vốn suất thân từ Vùng thôn dã, Đức Giêsu đã dùng nhiều ví dụ đượm sắc thái nông thôn . "Về nước trời cũng tựa như người kia gieo giống tốt vào ruộng mình'' (Mt 13,24). Điều này chỉ nhằm diễn tả Giáo Hội là một thực tại trãi rộng trong không gian và thời gian, trong đó có những mảnh lực thù nghịch chống đối nhau nguyên do là "kẻ thù của ông đến gieo cỏ lung vào ngay giữa lúa''. Và thực tế cho thấy bao giờ Giáo Hội cũng có cỏ lùng chen lẫn và thật khó nhận diện đâu là cỏ lùng, đâu là lúa, ai là kẻ dữ, ai là người lành. Thiên Chúa vẫn có thể dùng những biện pháp cứng rắn, khắt khe, cường bạo như nhổ cỏ lùng từ ngay lúc này, ngay lúc còn nhỏ. Nhưng Ngài không làm thế, vì có thể khi nhổ cỏ "Các anh lại nhổ luôn cả lúa chăng". Bất cứ ai đã làm ruộng thì thấy điều này rất rõ, cây cỏ trong lúa mà chúng ta thường gọi là bông cỏ, lúc bé chẳng khác gì là lúa. Cho dù những người tinh mắt , những nông dân " thâm niên'' thì họ mới biết đâu là cỏ đâu là lúa. Nhưng cho dù hay đến đâu thỉnh thoảng nhổ cỏ vẫn bị nhầm lẫn giữa cỏ và lúa. Cho nên, hay nhất là đợi đến ngày cả hai cây lớn lên thì sẽ lộ ra nguyên hình đâu là cỏ, đâu là lúa . Ở đây, Đức Giêsu không muốn chỉ phương pháp nào diệt cỏ có lợi nhất, hay phương pháp diệt nào loại trừ người tội lỗi nhanh nhất, hữu hiệu nhất, cho bằng nói lên tình yêu của Thiên Chúa với tội nhân qua việc người chờ đợi "Người cho mặt trời của người mọc lên soi sáng kẻ xấu như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính'' (Mt 5, 45), mong cho họ được hoán cải được cứu thoát .
Lịch sử Giáo Hội cho thấy có rất nhiều bè phái cỏ lùng chống phá Giáo Hội cách có tổ chức và hệ thống. Tiêu biểu là các lạc giáo đã cố chấp lập ra nhiều loại Giáo Hội khác. Cùng vì điều này mà Thánh PhaoLô đã mạnh dạn lên án những bè phái gây chia rẽ trong cộng đoàn Côrintô "họ chẳng hơn lương dân" (x 1 cr3). Những thế lực ấy luôn tìm ẩn chống phá thật nguy hiểm. Nó có thể phá hoại ngay trong nội bộ, phá hoại từ những đầu não cốt yều nhất. Chúng là con cái của bóng tối, thích làm việc và hoạt động trong bóng tối "Thích làm trong lúc mọi người ngủ", nó làm cách vụn trộm xấu xa. Nhưng cho dù kín đáo đến đâu thì Thiên Chúa vẫn biết mọi hành vi của hắn .Chỉ vì Ngài muốn chờ đợi, chờ đợi sự ăn năn, chờ đợi sự sám hối và thức tỉnh . Những cỏ lùng mà chúng ta biết, chúng ta thấy chỉ là những cây cỏ bình thường, sức chống phá vẫn chưa nguy hại cho bằng những cọng cỏ mọc âm thầm đang lớn lên từng ngày nơi tâm hồn mỗi người. Những tính hư nết xấu, những giận hờn chia rẽ, và muôn vạn âm mưu xảo huyệt trong tâm trí... đó là những cỏ lùng nguy hiểm mà chúng ta cần loại ngay. Chỉ khi chúng ta diệt được cây cỏ ngay bên trong mình thì mới giúp người khác được. Khi nhổ được một cây cỏ nơi mình chính là lúc mình đang chăm sóc vào cánh đồng của Chúa.
Lạy Chúa! Chúa ghét tội nhưng yêu tội nhân, thể hiện qua việc Ngài luôn kiên nhẫn chờ đợi để tha thứ cho họ. Xin cho con cũng có cái nhìn của Chúa mà sống bao dung với hết mọi người. Amen.
33. Thiên Chúa nhẫn nại với cỏ dại
(‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)
Đôi khi có vẻ như Thiên Chúa sẽ dùng cái lưỡi hái của Người để cắt đi tất cả những cỏ dại mọc trong xã hội của chúng ta. Điều đó sẽ là một điều may phúc lớn lao nếu Thiên Chúa loại trừ khỏi chúng ta những kẻ phá thai, những đứa trẻ vô giáo dục, mấy tay nát rượu, những trùm du đãng, những kẻ giết người hàng loạt, những nhà độc tài… và tất cả những người lạm dụng sự tốt lành và giá trị nhân bản. Nhưng điều đó đã không xảy ra. Vì sao nó đã không xảy ra? Sách Khôn ngoan nói với chúng ta rằng Thiên Chúa cho con người niềm hy vọng. Người sẽ cho phép họ thống hối tội lỗi của họ. Nói cách khác, Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi. Thiên Chúa tôn trọng sự tự do của chúng ta. Người coi sự tự do của chúng ta là một tặng ân quý giá khiến Người phải chịu đựng sự dữ, ít nhất là cho đến ngày phán xét. Thiên Chúa sẽ không cưỡng bách bất cứ ai tránh sự dữ và làm điều lành nhưng Người muốn cho tất cả mọi người chúng ta có đủ thời giờ để thống hối và thay đổi cuộc sống của chúng ta.
Loại lúa mì được trồng nhiều ở miền Palestina, lúc còn nhỏ rất khó phân biệt với cây cỏ. Đây là sự thật ẩn trong câu căn dặn: “Khi nhổ cỏ, các anh sẽ nhổ cả lúa mì lẫn trong cỏ”. Người Anh khi chuyển dịch dụ ngôn này đã dùng những từ ngữ giúp minh họa được ý nghĩa của dụ ngôn, nhưng khi lắng nghe tiếng Anh thì rất khó phân biệt giữa hai từ “Wheat và Weed”.
Chúng ta có thể dễ dàng xét đoán một người nào hay một điều gì là sự xấu mà chịu đựng nó thì không thể chấp nhận được theo quan điểm của chúng ta. Đó có thể là một sai lầm nghiêm trọng. Sự thật là chúng ta không có quyền xét đoán tội lỗi của bất cứ ai. Quyền này thuộc về một mình Thiên Chúa. Phá thai là một tội trọng, tội mà Công đồng Vaticano II gọi là “tội không thể nói gì hơn nữa”. Tuy vậy, nhưng có những người phá thai vẫn chưa dứt khoát, mù mờ, lẫn lộn hoặc bị ép buộc, trong trường hợp đó tội của họ được giảm nhẹ cách nào đó. Mặc dầu xã hội của chúng ta đã bị đầu độc bởi một tai họa, là từ chối nhận lãnh trách nhiệm và những dự định bào chữa cho mọi loại xấu xa. Chúng ta không có quyền kết án một người nào, chỉ có hành động là xấu mà thôi.
Thực tế thì rắc rối lắm. Ngay trong Giáo hội dù Giáo hội được xác định là thánh thiện, chúng ta đã kinh nghiệm những gương mù, gương xấu rồi. Có những cỏ dại ngay trong cánh đồng của Giáo hội. Chúng ta đau buồn khi nghe những gương mù trong Giáo hội nhưng những điều xấu xa ấy không làm cho chúng ta ngạc nhiên vì ngay mười hai tông đồ chính Chúa Giêsu đã chọn, cũng có một người phản bội. Chúa Giêsu không loại trừ Giuđa trong khi phát giác ra những hành động gian dối hay những tư tưởng xấu của ông. Người không nhổ cỏ, cỏ đó là Giuđa, khỏi những cây lúa mì là những tông đồ khác.
Những người lãnh đạo quân đội hay cầm đầu chính trị sẽ loại trừ kẻ thù của mình ngay khi vừa phát giác ra họ. Nhưng Thiên Chúa thì không như thế. Cách thế của Thiên Chúa được diễn tả trong bài ca Thánh Vịnh của chúng ta: “Lạy Chúa, Chúa là Đấng nhân từ và hay tha thứ”. Chính chúng ta may mắn khi Chúa thì nhân từ và hay tha thứ. Ai ở trong thế giới này là người vô tội? Ai là lúa mì trong sạch mà không pha trộn một chút cỏ dại? Chúng ta có muốn Thiên Chúa đem chúng ta ra khỏi thế gian này để diện đối diện với Người trong công minh khi mà cánh đồng đời sống của chúng ta vẫn còn những cỏ dại không? Chúng ta không nhận biết rằng sự mời gọi chúng ta đến dự tiệc Thánh Thể là dấu hiệu sự kiên nhẫn của Thiên Chúa dành cho chúng ta ư? Người không đòi hỏi chúng ta phải hoàn hảo trước khi nhận lãnh Mình và Máu Con của Người, hiệp lễ chúng ta sẽ ý thức rằng đó không phải là một phần thưởng cho người đã tốt nhưng có nghĩa là để trở nên tốt.
Thiên Chúa thì kiên nhẫn với mỗi người trong chúng ta nơi cuộc sống đầy đấu tranh này, và Người kiên nhẫn với hết mọi người sống trong thế giới này. Chỉ đến ngày Tận thế. Người mới sai các thiên thần nhặt lấy cỏ mà đốt đi và thu lúa mì vào kho lẫm của Người.
34. Thế chỗ Chúa Giêsu trên thập giá.
( ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Truyện kể rằng có thầy ẩn tu nọ tên là Cébastien thường đến cầu nguyện tại một nhà nguyện vắng vẻ trên núi. Trong nhà nguyện này dân chúng tôn kính một tượng thánh giá với tước hiệu là “Tượng Chúa ban ơn”.
Thấy dân chúng có lòng tin thường tới cầu xin ơn lành, thầy Cébastien cũng thêm lòng tin cậy. Một hôm, nhân lúc vắng người, thầy đến quỳ gối trước tượng thánh giá và đơn thành khẩn nguyện:
- “Lạy Chúa, con ước ao được chia sẻ đau khổ với Chúa, xin cho con được thế chỗ Chúa trên thập giá”.
Rồi thầy quỳ yên lặng, mắt đăm đăm nhìn lên thánh giá mong được đáp lời. Một lúc sau thầy nghe như từ trên thánh giá có tiếng phán bảo:
- “Được, Ta bằng lòng để con thế chỗ Tqa trên thập giá, nhưng với một điều kiện duy nhất là bất cứ điều gì xảy ra, tai con nghe gì, mắt con thấy gì, con đều phải giữ im lặng không được nói năng gì hết”.
Thầy Cébastien đã hứa, và được Chúa Giêsu cho lên thế chỗ Ngài trên thập giá. Ngày qua ngày, dân chúng vẫn đến quỳ trước tượng thánh giá cầu nguyện. Nhưng không ai hay biết về việc thế chỗ đổi ngôi giữa Chúa Giêsu và thầy Cébastien.
Một hôm có người đến quỳ cầu nguyện. Xong, ông đứng dậy ra về bỏ quên lại dưới ghế cái túi đầy những đồng tiền vàng. Thấy vậy, thầy vẫn yên lặng. Một lúc sau có người nghèo đói vào nhà nguyện. Ông ta vui mừng trố mắt nhìn túi tiền tưởng là của Chúa ban cho, rồi xách túi tiền ra đi. Kế đó có chàng thanh niên vào quỳ gối khẩn nguyện xin ơn che chở vì phải xuống tàu đi xa. Chàng thanh niên vừa ra khỏi nhà nguyện thì gặp người phú hộ trở lại tìm túi tiền. Không thấy đâu, ông nghĩ là chàng thanh niên đã lấy trộm, nên điệu chàng đến trình cảnh sát. Không cầm lòng được nữa, từ trên thập giá, thầy Cébastien hô lớn tiếng:
- “Đứng lại!”;
Mọi người ngạc nhiên dừng lại, và thầy phân trần sự việc. Sau đó người phú hộ ra đi tìm người nghèo đói để lấy lại túi tiền và chàng thanh niên cũng vội vã ra đi cho kịp chuyến tàu. Khi không còn ai trong nhà nguyện, Chúa Giêsu lên tiếng phán bảo thầy Cébastien:
- Con hãy xuống ngay khỏi thập giá! Con không xứng đáng thế chỗ cho Ta, vì con đã không biết giữ im lặng như lời con hứa.
Thầy Cébastien vội vã phân trần:
- Nhưng lạy Chúa, làm sao con có thể chịu đựng được cảnh bất công đó?
Thưa anh chị em, nhiều khi chúng ta cũng nóng vội không chịu đựng nổi trước hiện tượng người tốt kẻ xấu chung sống lẫn lộn, cỏ dại và lúa tốt mọc chen nhau trong cánh đồng thế giới. Chúng ta đặt câu hỏi: “Chúa có muốn chúng con nhổ cỏ vứt đi không? Chúa có muốn chúng con tiêu diệt hay trục xuất những người gian ác, tội lỗi ra khỏi cộng đoàn không?”. Chúa trả lời: “Cứ để đấy, đợi đến mùa gặt sẽ hay ”. Dụ ngôn cỏ dại trong ruộng lúa đã đánh trúng vào điểm thắc mắc của người Do Thái và các môn đệ Chúa Giêsu: Làm sao trong Nước Trời, Nước của Thiên Chúa lại có thể lẫn lộn lúa tốt với cỏ dại được? Làm sao chính Chúa Giêsu rao giảng Nước Trời đang đến rồi mà chẳng thấy hiện tượng tiên báo là những người gian ác, tội lỗi phải bị tiêu diệt. Ngôn sứ Isaia cũng mơ ước và loan báo một “Dân Chúa chỉ gồm những người công chính” (Is 60,31). Và ngay cả Gioan Tẩy Giả, những ngày chuẩn bị cho Chúa Giêsu xuất hiện cũng rao giảng: “Ngài đang cầm sẵn chiếc nia trong tay, để rê sạch lúa trong sân: lúa tốt Ngài thu vào kho lẫm, còn lúa lép, trấu rác, Ngài sẽ đốt bằng lửa không bao giờ tắt” (Mt 3,12).
Vậy mà Ngài, Đấng Thiên Sai Cứu Thế lại làm trật lất hết trọi; Chả có tiêu diệt người tội lỗi, lại còn lo cứu gỡ họ. Cứu gỡ cả những thứ phụ nữ ngoại tình bị bắt tại trận, cả thứ mà người ta cho là trời phạt nhãn tiền, đến độ mang án tật nguyền từ lòng mẹ: đui mù, què quặt, cùi hủi, mọi người đều ghê tởm xa tránh… Thay vì đáng lẽ chỉ cho phép một ít người có chức vị cao cấp nhất mới được hầu tiệc với mình, thì Ngài lại đi lân la nhậu nhẹt với những người tội lỗi và bất lương. Đối với kẻ thù, đáng lẽ ra phải không đội trời chung và tiêu diệt tận gốc rễ mới phải, mới khôn và mới đúng đạo, đàng này Ngài lại còn đòi phải cầu nguyện cho nó, thậm chí phải yêu thương nó.
Hôm nay, với dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng lúa, Chúa Giêsu đã giải đáp những thắc mắc sâu sắc đó và đã mặc khải tâm tình của Thiên Chúa: ngoại trừ Đấng thấu suốt tâm can con người, không ai được quyền tự phong chức vụ quan toà để xét xử hay xếp hạng anh em ai là lúa tốt, ai là cỏ lùng. Bao lâu còn đang sống, còn đang lựa chọn và hành động, con người vẫn chưa đạt tới mức độ cố định đã hết hẳn tật xấu hay dứt khoát trở thành gian ác. Nóng vội kết án anh em là hành động trái ngược với tấm lòng và chương trình cứu độ của Thiên Chúa: đòi nhổ cỏ lùng giữa mùa lúa đâm bông là đòi dạy không Thiên Chúa và phá hoại cả đồng lúa và mùa gặt của Ngài.
Tiếp theo là hai dụ ngôn hạt cải và men trong bột, hai dụ ngôn song sinh cùng mang một ý nghĩa: Hạt cải trong dụ ngôn này là thứ cải cay, dùng làm gia vị (moutarde): Tương hạt cải vừa thơm vừa nồng, là một gia vị quen thuộc ở nhiều nơi trên thế giới. Trong thực tế, cây cải này chỉ phát triển thật giới hạn, nhưng Chúa Giêsu lại diễn giải như một thứ cây có khả năng phát triển kỳ diệu đến độ trở thành cây lớn cho chim trời về xây tổ, để nói về chiều kích tương lai kỳ diệu của Nước Trời.
Dụ ngôn men trong bột cũng bao hàm một ý nghĩa tương tự. Một chút men, không đáng kể so với số lượng bột trộn chung, đủ cho cả trăm người ăn no. Số lượng men thật khiêm tốn, tác dụng thật thầm lặng, nhưng hiệu quả lại vô cùng kỳ diệu, mãnh liệt.
Cả hai dụ ngôn vẫn là một đường lối, một chủ trương: nhỏ bé ở bước thầm lặng, nhưng tiềm ẩn một mầm sống mãnh liệt, vượt xa mọi ước lượng và chiến thắng mọi sức cản thù địch. Yếu tố quan trọng vẫn là thời gian và tình thương của Thiên Chúa. Thiên Chúa kiên trì chờ đợi đến mùa gặt lúa mới nhổ cỏ lùng. Đó là vì tình thương của Thiên Chúa kiên trì chờ đợi con người tội lỗi trở về. Thời gian Ngài kiên trì chờ đợi là để tích cực tạo điều kiện tối ưu cho cây lúa nuôi hạt, cho hạt cải thành cây, cho mầm sống nhân lên gấp bội, và cho men biến bột thành men, cho bột dậy lên làm nên bánh nuôi con người.
Nói chung, cả ba dụ ngôn hôm nay là một lời mời gọi chúng ta phải biết nhìn về tương lai, biết tin vào tương lai; kiên nhẫn chờ đợi gắn liền với tin tưởng vào tương lai. Căn bệnh rồi sẽ khỏi, chiến tranh có thể chấm dứt. Bất công và kỳ thị sẽ không thể kéo dài vĩnh viễn. Bất công sẽ có thể nhổ đi được, kẻ phạm tội có thể hối cải, người thất vọng sẽ tìm lại được hy vọng.
Nhưng, thưa anh chị em,
Tin vào tương lai cũng là hoạt động cho niềm tin trở thành hiện thực. Nhẫn nại kiên trì không có nghĩa là khoanh tay ngồi im chờ đợi trong thái độ thụ động. Người Kitô hữu tin ở sự thắng thế của cái tốt, tin ở một tương lai tốt đẹp, tin ở công trình cứu chuộc của Thiên Chúa, cũng phải là người hoạt động một cách tích cực trong công cuộc xây dựng một xã hội trong đó cái xấu mất dần khả năng gieo rắc nọc độc của nó. Nước Trời đang trổ bông hạt nơi những nỗ lực của nhân loại không ngừng giành lấy từng tấc đất chống lại cỏ lùng. Và bổn phận của chúng ta là liên đới với mọi người anh em để cùng nhau chen vai thích cánh nỗ lực làm tăng trưởng cây lúa, hạt cải và tấm men của Nước Trời.
35. Sống với cỏ lùng.
Đây là một bài học thực tiễn; chấp nhận sống trong một thế giới mà nơi nào cũng có kẻ tốt người xấu, lúa và cỏ lùng.
Dầu sao thì cũng khó chịu đến nỗi chúng ta hăng hái muốn nhổ cỏ lùng! Chúa Giêsu nói với những người không kiên nhẫn này: tại sao có nhiều kẻ bất lương đến thế? Thiên Chúa chờ đợi gì mà không loại trừ họ? Đúng như Gioan Tẩy giả nghĩ về Đấng Cứu Thế như là một vị đầy quyền năng quét sạch mọi sự ác: “Các ngươi sẽ thấy! Ngài cầm nia trong tay mà sẩy sạch sân lúa của Ngài, Ngài thu vén lúa vào kho còn rơm rạ Ngài ném vào lửa” (Mt 3,12).
Chúa Giêsu phải làm dịu những người không kiên nhẫn. Và chúng ta nữa! Phải, sẽ có sự chọn lọc vào ngày tận thế, và chỉ một mình Thiên Chúa thực hiện sự chọn lọc này.
Có lúc chúng ta làm như mình là Thiên Chúa: “Đây là những người tốt! Còn đây là những người xấu, bỏ vào lửa! Luôn luôn có sự cám dỗ này nơi những người Kitô hữu tốt nhất: cùng nhau tạo nên một đồng lúa tươi đẹp. Đáng tiếc là có nhiều cỏ lùng trên thế giới nhưng ít nhất chúng ta làm sạch đồng lúa của chúng ta, sống giữa những tín hữu đích thực, giữa những người trong sạch và có giáo dục. Chúng ta mơ ước về một Giáo hội gồm những người trong sạch, một giáo xứ trong sạch, một cộng đoàn trong sạch, một gia đình trong sạch. Chúng ta hãy nhổ cỏ lùng!
Ở đây chúng ta đứng trước một khuynh hướng bè phái nguy hiểm: chỉ có những người thiện nguyện và những người được chọn, những người được đào tạo, không có những người xử sự sai lầm, không có những người yếu đuối, không có những người tin nửa vời. Chắc chắn có những nhóm người đồng nhất rất sùng tín, anh hùng. Đây là trường hợp điển hình của bước đầu trong các dòng tu. Nhưng biết bao thế giơí nhỏ được chọn đang rình mò do tính kiêu ngạo cho mình là cây lúa tốt: chúng ta đang ghét cỏ lùng ở trong đó.
Chúa Giêsu nhìn Giáo hội theo một cách hoàn toàn khác. Đó là một dân tộc rộng mở và kiên nhẫn, một dân tộc bao gồm những người tốt và những kẻ gàn dở, một dân tộc của sự khiêm nhu và sự hy vọng.
Khiêm nhu. Bạn là ai mà muốn chọn lọc cỏ lùng! Bạn tin rằng mình là đồng lúa chăng? Có thể lắm chứ, nhưng đó là một cánh đồng pha trộn. Bạn hãy xét con tim và những hành vi của bạn, bạn sẽ chịu đựng tốt trong thế giới và quanh bạn hơn là những người khác cũng là một sự pha trộn thánh.
Hy vọng. Sự pha trộn này là một niềm hy vọng. Không có ai hoàn toàn xấu. May thay, tất cả mọi ngươì đều có thể thăng tiến cho tốt hơn! Khi người ta kiên nhẫn chấp nhận chúng ta cùng với cái xấu của chúng ta, chúng ta có cơ may thăng tiến cho tốt hơn. Và khi chúng ta chấp nhận cỏ lùng nơi người khác, thì chúng ta tiếp xúc với họ và có thể giúp họ trở thành cây lúa. Dụ ngôn về sự nhẫn nại này là một dụ ngôn tuyệt vời về sự tiến bộ.
36. Tội lỗi nào được tha thứ
(R. Veritas)
Có tội ác nào tày trời đến độ không thể tha thứ được không? Tap chí Times đã nêu ra câu hỏi trên đây khi trích dẫn câu trả lời của một vị luật sư người Capuchia.
Cách đây ba năm, một Mục sư đã rửa tội cho một giáo viên ở một vùng sình lầy thuộc tỉnh Battanapan, ở mạn TÂy Campuchia. Mới đây người giáo viên này tiết lộ mình đã từng làm giám đốc cơ quan mật vụ của Khờ-me đỏ. Sau 20 năm lẩn trốn, nay ông thú nhận là ông đã trực tiếp nhúng tay vào vụ thảm sát ít nhất là 12.000 người Khờ-me.
Người Mục sư mà cha mẹ và với gần 2.000.000 đồng bào ruột thịt bị người Khờ-me đỏ sát tế trong giai đoạn từ năm 1975 – 1979, đã nhận định về cuộc trở lại của người giáo viên này như sau:
Thật là kỳ diệu, Kitô giáo có thể thay đổi cuộc sống con người. Nếu Chúa Giêsu đã thay đổi người giáo viên này, thì Người cũng có thể thay đổi tất cả mọi người.
Ông Duo tức người giáo viên này, một hôm đã đến nghe vị Mục sư thuyết giảng, sau đó ông đã xin chịu phép rửa, ông nói rằng, trong suốt thời thơ ấu và ngay cả khi lớn lên ông không bao giờ được yêu thương. Giờ đây tin nhận Chúa Kitô, ông cảm thấy tâm hồn được tràn ngập yêu thương.
Mục sư ghi nhận rằng, cuộc thay đổi nội tâm đã ảnh hưởng đến toàn diện con người của ông. Trước kia ông lầm lỳ ít nói, nay ông vui vẻ và cởi mở với tất cả mọi người. Trước kia quần áo ông xốc xếch, thì nay ông ăn mặc chỉnh tề. Sau khi đón nhận phép rửa và tiết lộ tông tích của mình, ông Duo đã bị chính quyền Campuchia bắt giữ hồi tháng 5.1998, hiện nay ông đang bị giam tại một nhà từ gần trung tâm Tollen, tức là nơi trước đây ông đã từng tham vấn, hành hạ và sát hại hàng trăm ngàn người đồng bào ruột thịt của mình.
Nhận định về tay đồ tể khát máu Khờ-me, người luật sư Lobin đã nói như sau: một câu chuyện mang lại niềm hy vọng cho nhân dân Campuchia, họ đã trải qua quá nhiều năm trong tăm tối. Khi đón nhận Chúa Giêsu, họ đã được mang lại ánh sáng trong cuộc sống của họ. Thật vậy, đã đến lúc người Campuchia cần phải từ bỏ thù hận để sống yêu thương.
Anh chị em thân mến,
Chứng từ sống động trên đây đưa chúng ta vào cốt lõi của đạo chúng ta là yêu thương và tha thứ mà hôm nay qua bài dụ ngôn cỏ lùng Giáo Hội muốn nhắc lại cho chúng ta. Dụ ngôn là một câu trả lời của Chúa Giêsu và thắc mắc mà các môn đệ thường nêu lên, là tại sao Thiên Chúa không trừng phạt nhãn tiền những kẻ làm điều gian ác?
Với hình ảnh của ruộng lúa tốt và cỏ lùng, Chúa Giêsu mạc khải lòng nhân từ và sự tha thứ vô biên của Thiên Chúa, đối với Thiên Chúa không có tội ác nào, dù cho có tày trời đến đâu mà không thể tha thứ được. Như một người cha ngày ngày ra đứng trước cửa trông ngóng người con hoang đàng trở về, thì Thiên Chúa cũng có một thái độ chờ đợi kiên nhẫn như thế đối với tất cả mọi tội nhân, dù cho con người có đốn mạt xấu xa đến đâu thì Chúa vẫn luôn dành cho một cơ may mới để trở về với Ngài. Nơi tâm hồn con người dù có tăm tối đến đâu, Thiên Chúa vẫn nhận ra được ánh sáng mà chính ngài đã đặt để trong trái tim con người. Chính vì tin tưởng nơi khảnăng có thể cải thiện của con người mà Thiên Chúa không ngừng tha thứ cho con người và kiên nhẫn chờ đợi con người trở về.
“Thức khuya mới thấy đêm dài, sống lâu mới thấy dạ người có nhân”. Dụ ngôn về cỏ lùng được Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, mời gọi các Kitô hữu mặc lấy tâm tình khoan dung nhân hậu và cảm thông của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu không khoan nhượng, không dung tha cho bất cứ tội ác nào, Ngài gay gắt lên án thói giả hình và thái độ mù quáng của con người, nhưng Ngài lại tỏ ra cảm thông và tha thứ cho những người yếu đuối tội lỗi, Ngài không những cảm thông với những người tội lỗi, mà còn tha thứ cho chính những kẻ hành hạ Ngài.
Tòa nhà giáo huấn của Chúa Giêsu sẽ sụp đổ nếu từ trên thập giá Ngài không tha thứ cho những lý hình của Ngài. Cuộc sống của Ngài cũng sẽ vô giá trị nếu khi bị treo trên thập giá Chúa Giêsu vẫn còn mang theo hận thù trong lòng Ngài.
Tha thứ là vẻ đẹp cao quý nhất trong tâm hồn con người. Nhân cách của con người sẽ bị đánh mất nếu nó không thể làm được hành động tha thứ. Người tín hữu Kitô chúng ta cũng sẽ mất căn tính của mình nếu chúng ta chỉ sống theo đố kỵ, hận thù. Tha thứ là vẻ đẹp cao quý nhất trong tâm hồn con người, do đó cũng chính là điều khó thực hiện nhất, vì thế mà chúng ta không ngừng cầu xin Chúa cho chúng ta luôn được sống ơn tha thứ, đó là điều chúng ta cầu xin trong Thánh Lễ mỗi ngày.
Kinh Lạy Cha nhắc nhớ chúng ta rằng, chúng ta chỉ có thể cảm nhận được ơn tha thứ của Chúa nếu chúng ta cũng tha thứ cho người anh em chúng ta mà thôi.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn được lớn lên trong niềm xác tín ấy. Amen.
37. Cỏ dại.
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta cùng nhau giữ lại một ý tưởng chính của Chúa Giêsu. Thực vậy, Ngài nói về ơn cứu độ vĩnh cửu. Đứng trước ơn trọng đại ấy, chúng ta phải có một lập trường dứt khoát và phải có một chọn lựa rõ rệt: Đi với Chúa hay đi với ma quỷ, chúng ta không thể nào đi nước đôi, bắt cá hai tay, lửng lơ và trung lập.
Tuy nhiên, trong khi chờ đợi được đón nhận vào hạnh phúc nước trời, chúng ta phải sống với người khác, chia sẻ những băn khoăn lo lắng với họ. Và ngay cả đối với những kẻ đã chạy theo ma quỷ, chúng ta vẫn phải tỏ ra một thái độ nhân từ và khoan dung.
Đây không phải là một điều dễ dàng thực hiện, vì chúng ta thường hay nóng giận và tức tối. Chúng ta cũng giống như hai tông đồ Giacôbê và Gioan, được Chúa sai đi vào một làng xứ Samaria, nhưng dân làng này đã không tiếp nhận các ông.
Trước thái độ thờ ơ và lạnh nhạt ấy, các ông đã bực bội và thưa lên cùng Chúa:
- Xin cho lửa trời đổ xuống và thiêu huỷ họ.
Nhưng Chúa Giêsu đã không chiều theo sự bốc đồng của các ông và Ngài đã trách cứ:
- Các con không biết động cơ nào đã thúc đẩy các con hay sao? Con Người đến không phải huỷ diệt mà để cứu thoát.
Chúng ta cũng vậy, đừng phê bình chỉ trích và gay gắt kết án những người anh em không cùng một đường lối với chúng ta.
Khi nhìn thấy sự dữ và tội ác tràn lan khắp nơi, chúng ta thường hay nghĩ rằng:
- Chúa ngủ hay Ngài nhắm mắt làm ngơ cho những sự kiện đáng tiếc ấy xảy ra.
Trên thế giới, những hạt giống tốt thì hiếm hoi, và cỏ dại thì mọc đầy trong cánh đồng của Chúa. Tại sao Chúa lại để cho như thế?
Còn phần chúng ta, chúng ta là hạng người như thế nào: lúa tốt hay cỏ dại.
Nếu là lúa tốt thì liệu chúng ta có thực sự trong sạch và yêu thương hay không. Chúng ta có thực sự là bạn hữu nghĩa thiết của Chúa hay không? Chúng ta có những sai lỗi và yếu đuối nào không? Liệu có thể chắc chắn được rằng chúng ta sẽ không sa ngã hay không?
Nếu chúng ta tỏ ra nghiêm khắc với kẻ tội lỗi, chúng ta sẽ trở nên những người biệt phái đã bị Chúa Giêsu kết án về sự giả hình của họ. Nếu không ý thức về những sai lỗi của mình, chúng ta dễ dàng đi tới chỗ phản bội Chúa mà không hay biết. Càng là những người con ngoan của Chúa, chúng ta càng phải cư xử độ lượng với người khác.
Tuy nhiên, trong thực tế, đang khi chúng ta mong muốn kẻ tội lỗi bị trừng trị thì Chúa lại không muốn như vậy, bởi vì như Kinh Thánh đã nói:
- Ta không muốn cho kẻ có tội phải chết, nhưng muốn nó ăn năn và được sống.
Ngài đã chết trên thập giá để cứu độ tội nhân. Ngài theo đuổi kẻ tội lỗi bằng tình thương và ân sủng. Niềm vui của Ngài là dẫn đưa những con chiên lầm lạc trở về với đàn của Ngài.
Hẳn chúng ta sẽ ngạc nhiên khi nghe Ngài phán:
- Cả thiên đàng sẽ vui mừng vì một kẻ tội lỗi hoán cải hơn là chín mươi chí người công chính không cần sám hối ăn năn.
Và Ngài đã kết luận bằng một hình ảnh cảm động, hình ảnh người cha đón tiếp cậu con hoang đàng trở về. Chúng ta đừng thất vọng và mất lòng cậy trông như Giuđa. Nhưng với một chút thiện chí và dưới tác động của ơn Chúa, rất có thể chúng ta cũng sẽ trở thành như người trộm lành trên thập giá, đã lấy trộm cả Nước Trời cho mình vào giây phút sau hết của cuộc đời.
Trên thiên đàng có những vị thánh đã bắt đầu từ một điểm tăm tối, không đáng ca tụng là mấy. Tuy nhiên với một điều kiện đó là các ngài đã biết trỗi dậy và trở về cùng Chúa, đã làm lại cuộc đời và trung thành với Chúa mãi mãi.
38. Lúa và cỏ.
Ở Scotland, nghề canh nông đã được hiện đại hoá với kỹ thuật máy móc tối tân, nhưng còn một công việc cần phải được làm cẩn thận bởi bàn tay con người. Vài ngày trước khi mùa thu hoạch lúa mạch, bạn sẽ thấy một số đông dân chúng đi bộ băng qua cánh đồng lúa để nhổ những cây lúa dại. Lúa mạch là nguồn nông sản chính yếu cung cấp lương thực cho người dân Scotland. Một món ăn thông dụng được ưa thích khắp nơi trong nước làm từ lúa mạch là món cháo đặc, ở Mỹ gọi là oat meal, một món ăn điểm tâm vừa dễ nấu, vừa bổ dưỡng lành mạnh, không gây gia tăng chất béo, cholesterol, trong động mạch. Do đó mùa gặt lúa mạch là một sinh hoạt rất quan trọng.
Điều rất đơn giản mà những người nông dân phải làm là nhổ những cây lúa mạch dại ra khỏi ruộng lúa trước khi thu hoạch. Nếu để những cây lúa dại này trong lúc gặt, những hạt giống của nó sẽ rớt xuống và mọc lên tràn ngập cánh đồng trong mùa sắp tới. Sự khác biệt giữa lúa dại và lúa mạch thật rất tinh tế. Chỉ sau một hai ngày làm việc, bạn sẽ biết phân biệt rõ ràng. Điều lạ lùng là cây lúa dại thường lớn hơn và khoẻ mạnh hơn lúa thật làm bạn nghĩ rằng phải giữ chúng lại. Tuy nhiên, nếu quan sát kỹ lưỡng sẽ thấy rằng nhánh và hạt lúa dại dài hơn, nhưng lại lép. Điều này giúp ta hiểu tại sao những người nông dân phải chờ đợi cho đến khi mùa thu hoạch đến mới nhổ những cây lúa dại đi, vì chỉ khi đó bạn mới phân biệt được rõ ràng.
Bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu đã dùng những hình ảnh của nghề nông để diễn tả về thế giới, Giáo Hội, Nước Trời hay Vương quốc Thiên Chúa, qua dụ ngôn cỏ lùng, dụ ngôn hạt cải, và dụ ngôn men trong bột. Mỗi dụ ngôn nói lên một khía cạnh khác nhau, đọc lên ai cũng hiểu dễ dàng.
Những người phụ trách các show hài hước kể chuyện vui thường có thói quen bắt đầu vào câu chuyện như sau: “Kính thưa quý vị, tôi có vài tin vui và vài tin buồn xin gửi đến quý vị”. Có một cuộc đối thoại tưởng tượng xảy ra như sau: “Một ông kia gặp người bạn và nói: “Tôi đã trúng số mấy chục ngàn đô la”. Người bạn trả lời: “Tốt quá”. “Không, khi đến Thuỵ Sĩ chơi trượt tuyết tôi đã xài hết rồi, và còn bị gãy chân nữa chứ”. “Xấu quá”. “Không, trong thời gian nằm bệnh viện, tôi gặp và yêu một cô y tá rất xinh đẹp, rồi tôi đã cưới cô ta”. “Tốt quá”. “Không, nhưng chẳng may cô ấy lại không thích ở Mỹ, và đòi chúng tôi phải ở lại Âu Châu”. “Xấu quá”. “Không, chúng tôi mua nhà ở Paris và kiếm được một việc làm cho hãng xuất khẩu”. “Tốt quá”. “Không, hãng bị phá sản, và chúng tôi bị mất nhà”. “Xấu quá”. “Không, trong hoàn cảnh túng quẫn, tôi đã xem lại mục đích, giá trị của đời mình và thấy rằng tôi đang sống lầm lạc”. “Tốt quá”. “Không, vợ tôi đã không chấp nhận quan điểm của tôi, và chúng tôi dần dần xa cách nhau”. “Xấu quá”. “Không, trong lúc hôn nhân bị khủng hoảng, chúng tôi đến với người cố vấn hôn nhân giúp chúng tôi nhận ra sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa”. “Tốt quá”. “Không, vì chúng tôi quá tập trung vào Thiên Chúa nên đã mất hầu hết bạn bè ở Paris và gây ra đụng chạm với cha mẹ vợ”. “Xấu quá”. Cứ thế mà tiếp tục. Lúc tốt, lúc xấu. Đời là thế! Tốt và xấu đi đôi với nhau: “Vì Người làm cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính”.
Chúng ta thường nói “Nhân vô thập toàn”. Không có ai hoàn hảo cả. Không có ai là một vị thánh cho đến khi lên thiên đàng. Mỗi người chúng ta đều mang đủ thất tình: hỉ (vui), nộ (giận), ai (buồn), cụ (sợ), ái (yêu), ố (ghét), dục (muốn). Với bấy nhiêu thứ tình cảm xô bồ trong con người thì khó lòng mà hoàn hảo được. Tâm hồn và tính tình của mỗi người là một sự pha trộn giữa lúa mì và cỏ lùng. Theo cha Tommy Lane, trên cửa một nhà thờ ở phía tây của Ireland, đã viết câu sau đây: “Giáo Hội không phải là một câu lạc bộ dành cho những vị thánh nhưng còn là một bệnh viện dành cho những người tội lỗi”. Câu nói này rất phù hợp với lời giảng dạy của Chúa Giêsu trong dụ ngôn cỏ lùng. Giáo Hội là một sự pha trộn giữa lúa mạch và cỏ lùng, giữa những người thánh thiện và tội lỗi. Hãy kiên nhẫn với những tội nhân. Đừng vội phán đoán người khác. Hãy để Thiên Chúa phán đoán. Lời Chúa cảnh giác chúng ta: “Đừng xét đoán, để khỏi bị xét đoán... Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi anh sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em”.
39. Lúa và cỏ.
Có một câu chuyện cổ kể về một ông vua ở Ba Tư muốn dạy cho bốn người con trai một bài học về sự phán đoán. Bốn người con phải lên đường đi tìm một cây đào trong những thời điểm khác nhau. Trước tiên, vào mùa đông nhà vua ra lệnh cho người con trai lớn nhất phải lên đường. Vào mùa xuân, người con kế tiếp phải ra đi. Đến mùa hè, người con thứ ba ra đi. Cuối cùng, khi mùa thu về người con út phải ra đi. Sau đó nhà vua đã gọi tất cả bốn anh em lại để hỏi xem họ diễn tả cây đào như thế nào.
Người con cả nói cây đào giống như một gốc cây khẳng khiu trơ trụi. Người con thứ cãi lại, cây đào nở đầy hoa mầu hồng rực rỡ. Người con thứ ba không đồng ý, cây đào cành lá xanh tươi. Người con thứ tư nói tất cả các anh đều sai. Đối với anh, nó đeo đầy trái trên cành!
“Này các con”, nhà vua nói, “mỗi người đều đúng cả”. Trong khi nhìn vào những cặp mắt lúng túng của các con, nhà vua giải thích. “Các con thấy đó, mỗi người đã nhìn thấy cây đào trong mỗi mùa khác nhau, do đó tất cả các con đã diễn tả rất đúng điều đã nhìn thấy. Bài học cho các con là phải từ bỏ sự phán đoán của mình cho tới khi các con nhìn thấy cây đào trong bốn mùa của nó”.
Đây chính là bài học Chúa Giêsu đã dạy chúng ta qua dụ ngôn cỏ lùng: “Hãy cứ để cả hai, lúa và cỏ lùng, mọc lên cho đến mùa gặt”. Đến mùa gặt là ngày tận thế, sẽ biết được ai xấu ai tốt, và Thiên Chúa sẽ phán đoán và xét xử họ.
Chúa Giêsu đã so sánh những người Kitô hữu chân chính của Nước Trời giống như hạt cải bé nhỏ, như men trong bột. Khi so sánh như thế Chúa muốn chúng ta là những con người năng động, tích cực vì Nước Trời. Hãy nhìn vào lịch sử của Kitô giáo, lúc ban đầu chỉ là một nhóm nhỏ Kitô hữu ở Giêrusalem, đến nay đã ảnh hưởng trên toàn thế giới. Hãy nhớ rằng 1 ounce men, khoảng 28.35 grams, có thể làm 17 pound bột, khoảng 7.718kg, dậy men.
Trong phần chú giải về dụ ngôn men trong bột, William Barclay đã nói lên cái thành quả của men Kitô giáo trong việc biến đổi thế giới trần gian này như sau:
1. Kitô giáo đã biến đổi đời sống các cá nhân. Trong I Cor 6, 9-10 thánh Phaolô đã liệt kê ra một danh sách những điều ghê tởm của con người tội lỗi, rồi ngài nói: “Trước kia, có vài người trong anh em đã là như thế. Nhưng anh em đã được tẩy rửa, được thánh hoá, được nên công chính...” Sự biến đổi của Kitô giáo bắt đầu từ đời sống cá nhân, vì qua Chúa Kitô, nạn nhân của cám dỗ có thể trở thành người chiến thắng.
2. Kitô giáo đã biến đổi đời sống của phụ nữ. Lời cầu nguyện của một người đàn ông Do Thái vào ban sáng là tạ ơn Thiên Chúa vì đã không tạo dựng nên ông là một người ngoại đạo, một nô lệ hay một người phụ nữ! Trong văn hóa Hy Lạp, người phụ nữ phải sống ẩn dật, làm việc nội trợ... Trong những vùng đất ở phương đông, nhất là một gia đình du mục: người cha được ngồi trên lưng lừa; người mẹ phải đi bộ, và có thể còn phải mang vác một gánh nặng. Lịch sử chứng tỏ rằng Kitô giáo đã biến đổi thân phận và đời sống của phụ nữ.
3. Kitô giáo đã biến đổi đời sống của người yếu đuối và bệnh nhân. Trong cuộc sống chưa văn minh, họ bị coi là một mối phiền muộn. Ở Sparta, một trẻ thơ khi vừa sinh ra, phải nộp để khám xét; nếu khoẻ mạnh, nó được phép sống; nếu yếu đuối hay dị dạng, sẽ bị phơi nắng cho đến chết ở bên sườn núi... Kitô giáo là đức tin đầu tiên chú ý vào những sự đau khổ của cuộc sống.
4. Kitô giáo đã biến đổi đời sống cho người già. Giống như người yếu, người già là một sự quấy rầy... Người già, sau thời gian làm việc đã hoàn tất, không còn thích hợp với bất cứ điều gì hơn là bị loại trừ ra trên đống rác của cuộc sống. Kitô giáo là đức tin đầu tiên coi con người như là những ngôi vị chứ không phải là những dụng cụ có khả năng làm việc càng nhiều càng tốt.
5. Kitô giáo biến đổi đời sống cho trẻ thơ. Trong thời Chúa Giêsu những vụ ly dị xảy ra lan tràn. Con cái là mối phiền muộn; và theo thói quen thường xảy ra là cứ để mặc cho trẻ em chết một cách bi thảm. Trong thời xa xưa trẻ em có nhiều dịp để chết trước khi bắt đầu sống. Chỉ một nhóm nhỏ những người Kitô giáo đã làm thay đổi tất cả vấn đề này.
Ảnh hưởng của Kitô giáo được chứng minh bằng sức mạnh mang tính chất giống như men trong bột của một số nhỏ những người theo Chúa Kitô. Điều này giúp ta hiểu tại sao sách Công vụ Tông đồ đã ghi rằng khi Kitô giáo đến Thessalonica, những người Do Thái phải kêu la lên: “Những người đã làm điên đảo thế giới nay đã có mặt ở đây”.
Bất cứ ai hỏi rằng “Kitô giáo đã làm gì cho thế giới”? Cũng phải nhìn nhận một sức mạnh biến đổi nơi các Kitô hữu trong mọi thời đại. Lịch sử đã chứng minh điều này. Chúng ta có quyền lạc quan, tin tưởng, và hy vọng vào tương lai. Lời Chúa nói trong các dụ ngôn cỏ lùng. Dụ ngôn hạt cải và dụ ngôn men trong bột không bao giờ sai. Và câu hỏi được đặt ra cho chúng ta là liệu chúng ta có dám tiếp tục đứng chung với những người Kitô hữu sơ khởi đấu tranh cho sự sống của con người, nhất là bênh vực cho các trẻ em chưa sinh ra, còn trong bụng mẹ không?
40. Cỏ và lúa.
Bài Tin Mừng thuật lại ba dụ ngôn của Chúa Giêsu: cỏ lùng, hạt cải và men. Nghe Chúa nói ba dụ ngôn, nhưng các môn đệ lại chỉ xin Chúa giải thích một dụ ngôn cỏ lùng, và Chúa đã giải thích: người đi gieo giống tốt là Thiên Chúa, hạt giống là người ta, là con người, là con cái Chúa, thửa ruộng là thế gian, là nơi sinh sống, làm việc, phục vụ, cỏ lùng là người xấu, người dữ, mùa gặt là ngày chết hay ngày tận thế, thợ gặt là các thiên thần, lúa tốt thì được thu vào kho lẫm, tức là những người tốt lành, công chính, thánh thiện, thì được thưởng, còn cỏ lùng là những người xấu, người dữ thì bị tống vào hoả ngục.
Nghe hay đọc dụ ngôn này cùng với sự giải thích của Chúa, chúng ta thấy dễ hiểu và hợp tình hợp lý. Thế gian này có người tốt người xấu, người lành người dữ sống bên nhau, sống cùng nhau là chuyện bình thường. Chẳng có nơi nào toàn là những người tốt và cũng chẳng có nơi nào toàn là những người xấu. Nhưng có một điều khác biệt: cỏ lùng, vì bản chất của nó là cỏ dại, cỏ xấu, cho nên vạn đại nó cũng không thể nào biến thành lúa tốt được. Cũng thế, cây lúa thì lúc nào nó cũng là cây lúa, chỉ có điều là nó cho nhiều hay ít hạt lúa, chứ không bao giờ biến thành cỏ lùng được.
Đối với con người thì không như vậy: bản tính con người được Chúa tạo dựng là tốt lành: “Nhân chi sơ tính bản thiện”: khi sinh ra, con người vốn tốt lành, nhưng với thời gian lớn khôn, con người vẫn tốt hay trở thành xấu, nghĩa là con người tốt hay xấu là do thêm vào hay mất đi. Có người trước kia là lúa tốt, bây giờ là cỏ lùng, ngược lại, có người trước kia là cỏ lùng, bây giờ là lúa tốt. Dĩ nhiên cũng có những người luôn luôn là lúa tốt và những người lúc nào cũng là cỏ lùng, hoặc có những người khi thì là lúa tốt khi thì là cỏ lùng hoặc ngược lại. Điều quan trọng là tới khi chết, người ta đang ở trong tình trạng nào: cỏ lùng hay lúa tốt? Đó là trách nhiệm của mỗi người.
Chính vì yếu tố trách nhiệm này, vì khả năng biến đổi tốt thành xấu và xấu thành tốt nên chúng ta phải cố gắng làm giảm bớt đến mức tối đa, tức là mức thấp nhất những gì là xấu xa, tội lỗi, tức là cỏ lùng, và gia tăng đến mức tối đa, tức là mức cao nhất, nhiều nhất những gì là tốt lành, thánh thiện, tức là lúa tốt. Hơn nữa, trong đời sống hằng ngày, ngoài việc cố gắng bớt cỏ lùng, thêm lúa tốt, tức là bớt tư tưởng, lời nói, việc làm xấu và gia tăng những việc phúc đức, mỗi người còn phải cố gắng làm sao để được nhắm mắt xuôi tay, kết thúc cuộc đời trong tình trạng đang kể là lúa tốt.
Ở đời này, thường chúng ta ít thấy công lý thắng gian tà, nhưng ở đời sau, thì tất cả mọi nợ nần đều phải trang trải, mọi bất công sẽ được san phẳng: lúa tốt, tức là người tốt, sẽ được nâng niu thu góp vào kho lẫm, tức là được thưởng công xứng đáng. Còn cỏ lùng, tức là người xấu, sẽ bị ném vào lửa để thiêu huỷ. Câu chuyện cỏ lùng giữa lúa tốt quả quyết với chúng ta về sự báo oán công minh ở đời sau: người tốt sẽ được thưởng, người xấu sẽ bị phạt muôn đời. Như vậy, tốt hay xấu, được thưởng hay bị phạt là do chính mỗi người chúng ta. Vì thế khi kết thúc dụ ngôn Chúa nói: “Ai có tai thì nghe:, nghĩa là Chúa muốn nhắc chúng ta rằng: chúng ta là đầu óc, có trí khôn, chúng ta biết phân biệt phải quấy, chân giả, đúng sai, tốt xấu thì đừng có sống đóng kịch hay sống bất chính, chúng ta phải biết sống đúng là con Chúa, chúng ta phải sử dụng đầu óc, trí khôn để sống theo luật Chúa. Chúng ta sống làm sao Chúa sẽ căn cứ vào đó để thưởng hay phạt chúng ta.
Tóm lại, trong cánh đồng mầu mỡ là con người yếu đuối của chúng ta, lúa tốt và cỏ lùng, tức là nhân đức và tội lỗi, đức tính và tật xấu... luôn luôn chèn ép nhau, giành giật nhau. Vì thế, chúng ta phải luôn tỉnh thức và chiến đấu để loại trừ cỏ lùng, tội lỗi và tật xấu, đồng thời bảo vệ lúa tốt, nhân đức và công phúc của chúng ta. Có như thế đến mùa gặt, tức là khi chúng ta nhắm mắt xuôi tay, chúng ta sẽ được Chúa nhân từ âu yếm nói với chúng ta: “Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, hãy vào hưởng sự vui mừng với Chúa ngươi”. Xin Chúa cho chúng ta biết sống theo lời Chúa để chúng ta đều được nghe những lời đầy thân thương trên đây của Chúa.
41. Cuộc biến đổi thái độ.
Trong những ngày đầu của thời đại kỹ thuật, một khẩu hiệu nổi tiếng cam đoan với chúng ta rằng: "Mọi ngày và trong mọi cách thức, tình hình sẽ một tốt và một tốt hơn." Thực tế là sự tiến triển của kỹ thuật không hẳn luôn luôn đưa chúng ta đến một thế giới tốt hơn. Chúng ta biết rằng sự tiến triển này không chắc chắn xảy ra. Kinh Thánh nói cho chúng ta biết rằng lịch sử chính là cuộc tranh chấp mà trong đó "các quản thần và quyền thần" của thời đại hiện tại thường cảm thấy như nhập lại chiến thắng trên các nhân đức tin, cậy và mến. Lời công bố của Chúa Giêsu về Nước Thiên Chúa đang gần đến không phải là lời mời gọi để lướt với làn sóng của sự tiến triển không thể tránh được. Nhưng, nó chính là lời kêu mời gia nhập vào cuộc chiến tranh, biết rằng bất chấp sự mẫu thuẫn và thất bại, lời hứa của Thiên Chúa về lòng thoả mãn tột bực của chúng ta sẽ không làm tròn. Cho đến khi Nước đến trong sự hoàn tất mỹ mãn của nó, con đường Kitô giáo vẫn là con đường của Thập Giá.
Có yếu tố của sự sợ hãi trong những thời kỳ biến đổi này và với một lý do chính đáng. Biến đổi có thể trở nên "xấu hơn" cũng như trở nên "tốt hơn." Thế nhưng con người mà đã gặp Chúa Giêsu đều học biết phân biệt những gì là mới và những gì đang hứa cho từ những gì là mới cũng như những gì đang đe doạ. Họ đang được nếm trước về Nước Thiên Chúa đang đến -- một "Thiên Đàng và Trần Gian Mới" và họ tín nhiệm hoàn toàn vào Chúa Giêsu là Đấng làm mọi sự trở nên mới. Do đó, họ không còn nhìn Kitô giáo như là một siêu thị nơi mà họ có thể chọn và lựa những gì họ ưa thích. Họ không nhặt lấy ý tưởng này tại đây, hay yếu tố kia chỗ nọ; kinh nghiệm tinh thần nhỏ bé tốt lành tại bàn này, hay nguyên tắc luân lý tại chỗ khác; và sau cùng, tiêu chuẩn của sự bình an tâm hồn tại nơi tính tiền. Không, loại đường lối này chính là những gì Chúa Giêsu đã cảnh cáo cho chúng ta. Loại đường lối chính là giống như "đổ rượu mới và bình cũ," Chúa Giêsu nói. Cuộc gặp gỡ Chúa Giêsu làm mọi sự trở nên mới mẻ, Thánh Tông Đồ Phaolô nói cho chúng ta biết: "Do đó, nếu ai ở trong Đức Kitô, người đó trở nên một tạo vật mới; thật vậy, sự cũ đã qua đi và sự mới đã đang đến!"
Khi một người quyết định theo Chúa Giêsu, khi một người quyết định tìm kiếm Nước Tình Yêu trước, người đó trải qua một cuộc đổi mới về phẩm chất. Nó không phải chỉ là cộng thêm một sự gì vào. Có sự mới về phẩm chất đã xảy ra. Khi các bạn chấp nhận ân sủng của Đức Kitô về cuộc sống mới, thì mỗi giây phút các bạn sống không còn chỉ lại là phần nối thêm của giây phút quá khứ nữa, nhưng một tạo vật mới; mỗi nhịp thở các bạn hít thở không còn chỉ là những chức năng của thân thể mà chính là hành vi đón nhận ân sủng của cuộc sống mới. Và tất cả những sự kiện này chính là kết quả của cuộc thay đổi về phẩm chất, cuộc thay đổi thái độ.
Quan điểm ngược lại thuộc về những kẻ chỉ thấy biến đổi như là một nối kết kéo dài không thể tránh được của quá khứ mà thôi. Tác phẩm Macbeth của Shakespeare đã than vãn: "...Cuộc sống như hình bóng biết đi, và không biết nghe; nó chính là chuyện tào lao được kể bởi một kẻ ngu dại, chỉ là những âm thanh nhưng không biểu tượng gì cả."
Đây chính là âm thanh của quan điểm thế giới về thuyết nhạo báng và thất vọng. Đây chính là quan điểm của những người khiếp sợ và cưỡng lại tương lai đến độ buộc cho sự dữ mà được biết trên sự thay đổi rằng không biết được. Người ta nói rằng có nhiều người quá khiếp sợ đến sự thay đổi mà nếu họ được hiện diện tại lúc tạo đựng, thì họ sẽ cố biểu quyết cho sự hỗn độn hư vô.
Trong bài học Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói rằng "Nước Trời thì giống như hạt cải người kia lấy gieo trong ruộng mình; nó là hạt giống bé nhỏ nhất, song khi mọc lên thì lớn hơn các thứ rau và thành một cây, chim trời có thể tới đậu trên cành" (Mt 13:31). Hạt cải nhỏ bé không phải là mọc lên thành hạt cải khổng lồ. Nó trở nên một vật mới. Một cuộc thay đổi về phẩm chất đã xảy ra.
Tại đây và lúc này, trong cuộc kinh nghiệm tôn thờ này, giống như chúng ta tưởng nhớ lại trong quá khứ chúng ta thật sự đang nhắm đến tương lai: Nước Đang Đến. Tại đây và lúc này, trong cùng một nghĩa, chúng ta là những người đi trước thời gian. Tại đây và lúc này chúng ta đang mong đợi ngày mà khi, tất cả mọi vật đã đang được làm trở nên mới, "mọi đầu gối sẽ phải bái quỳ và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng rằng Đức Giêsu Kitô là Chúa." Tại đây và lúc này chúng ta đang chuẩn bị cho thời kỳ mà toàn thể thế giới sẽ tụ họp lại trong một cộng đồng thân mến -- Nước Tình Yêu.
"Tất cả mọi vật đều mới mẻ trong Đức Kitô" không phải chỉ là viễn cảnh dại dột thay thế cho viễn cảnh dại dột của hiện tại. Nó không phải là cuộc cộng thêm dại dột vào sự tiến triển của kỹ thuật. Nó chính là niềm hy vọng được thực hiện. Nó chính là sự công bình được thoả mãn. Nó chính là chân lý được toàn thắng. Nó chính là tình yêu được mãn nguyện. Nước Trời đã gần đến. Qua thái độ cởi mở cho triển vọng bất tận của thiên tài tạo dựng của Thiên Chúa, "tất cả mọi sự trở nên mới trong Đức Kitô" có thể là của các bạn. Hãy học biết mong đợi sự bất ngờ từ Thiên Chúa, và mọi sự trở nên Mới trong Đức Kitô sẽ là của các bạn.
42. Một nửa ánh sáng – một nửa bóng tối.
Thiện Ác cùng hiện diện trong mỗi con người, mỗi cộng đồng cũng như trong thế giới:
Trong các tài liệu của Giáo Hội chúng ta thường thấy tựa đề này: "Ánh sáng và bóng tối trong... ví dụ: trong thế giới loài người hôm nay, trong gia đình hiện nay, trong giới trẻ hiện nay". Đó chính là vấn đề mà dụ ngôn cỏ lùng trong Tin Mừng theo thánh Matthêu muốn nêu lên.
Trong cuộc sống, chúng ta luôn chứng kiến một thực tại là Thiện và Ác luôn có mặt cùng lúc, cùng nơi, bên cạnh nhau và tranh giành nhau. Thực tại ấy xẩy ra nơi mỗi tâm hồn, mỗi cộng đồng, mỗi xã hội. Mỗi người mỗi cộng đồng và thế giới luôn bị giằng co, lôi kéo bởi hai lực, hai khuynh hướng, hai trào lưu nội tâm trái nghịch nhau, một kéo về hướng tốt, một kéo về phía xấu. Thánh Phaolô đã diễn tả thực tại ấy như thế này: "Những điều (tốt) tôi muốn làm thì tôi không làm, trong khi những điều (xấu) tôi không muốn làm thì tôi lại làm".
Một nhạc sĩ trẻ đã sáng tác một bài hát rất hay mang tựa đề "Một nửa ánh sáng, một nửa bóng tối trong tôi" để diễn tả thực tại ấy. Nội dung bài hát đại khái như vầy: Trong tôi, trong mỗi người chúng ta có một nửa là ánh sáng (tức là phần tốt lành, vị tha, thánh thiện) và một nửa là bóng tối (tức là phần xấu xa, vị kỷ, tội lỗi). Làm sao để nửa phần ánh sáng bừng cháy lên, đánh tan hoặc che phủ hoàn toàn nửa phần bóng tối kia đi.
Kinh nghiệm cho chúng ta thấy: chẳng có ai hoàn toàn tốt lành, vị tha, thánh thiện; mà cũng chẳng có ai hoàn toàn xấu xa, vị kỷ, tội lỗi. Vấn đề là làm sao đề phần tốt lành, vị tha, thánh thiện hiện rõ và thắng thế. Trong mỗi cộng đoàn đức tin cũng thế. Trong trong thế giới loài người cũng thế. Ngày nay có biết bao người dám xả thân vì tha nhân, vì công lý và hoà bình thì cũng có không ít người chỉ biết huỷ diệt, tìm mọi cách để huỷ diệt. Giữa ánh sáng và bóng tối luôn luôn có sự đấu tranh giành giật loại trừ nhau một cách quyết liệt. Ánh sáng càng lan toả thì bóng tối càng bị thu hẹp và ngược lại. Chính vì thế mà Đức Thánh Cha Gio-an Phaolô II luôn kêu gọi mọi người thành tâm thiện chí và nhất là các Kitô hữu hãy tích cực xây dựng một nền văn minh sự sống, chiến đấu chống lại nền văn minh sự chết đang hoành hành trong các quốc gia.
Thiện xuất phát từ Thiên Chúa, Ác là do ma quỷ:
Đứng trước sự kiện hiển nhiên "một nửa ánh sáng, một nửa bóng tối" ấy, con người không ngừng thắc mắc như các đầy tớ của dụ ngôn cỏ lùng trong Phúc Âm: "Thưa ông, không phải ông đã gieo giống tốt trong ruộng ông sao? Thế thì cỏ lùng ở đâu mà ra vậy?"
Đối với những người tin rằng thế giới này do nhiều thần linh cai trị thì những điều tốt lành là do các thần tốt lành mà ra; còn các điều xấu, điều ác thì tất nhiên phải xuất phát từ những ác thần. Còn đối với chúng ta là những kẻ tin rằng Thiên Chúa là Chủ duy nhất của vũ trụ vạn vật và là Đấng toàn thiện, vậy thì sự ác, sự dữ do đâu mà có?
Thánh Kinh cho biết: ngay từ thuở ban đầu Thiên Chúa tạo dựng nên vũ trụ vạn vật và Ngài đã đánh giá công trình ấy là tốt đẹp. Nhưng Thánh Kinh cũng cho chúng ta biết ngay từ buổi đầu, chính Sa-tan đã lôi cuốn tổ tông loài người bất tuân lệnh Chúa mà ăn trái cấm trong vườn địa đàng và gây tai hoạ cho con cái loài người. Giáo huấn trên ăn khớp với điều Đức Giêsu giải thích về dụ ngôn: "Kẻ gieo hạt giống tốt là Con Người. Ruộng là thế gian. Hạt giống tốt, đó là con cái Nước Trời. Cỏ lùng là con cái Ác Thần. Kẻ thù đã gieo cỏ lùng là ma quỷ". Thế giới vũ trụ vạn vất là công trình tốt đẹp do quyền năng và tình thương của Thiên Chúa dựng nên; còn mầm mống sự ác là cỏ lùng đã được gieo vào lòng con người và lòng xã hội là do ma quỷ, do ác thần. Cỏ lùng mọc xen với lúa và cùng lớn lên với lúa. Lúa tốt và cỏ lùng tranh giành nhau đất sống. Đó là cuộc chiến tranh khốc liệt xảy ra hằng ngày trong mỗi tâm hồn, trong mỗi cộng đồng.
Tại sao Thiên Chúa không huỷ diệt sự ác ngay lập tức?
Một thắc mắc nữa là tại sao Thiên Chúa không huỷ diệt sự Ác ngay lập tức mà lại để cho sự ác hiện hữu, tác động xấu trên con người và xã hội? Trong dụ ngôn cỏ lùng, ông chủ không nghe theo đề nghị của các đầy tớ là cho nhỏ hết cỏ lùng khỏi ruộng lúa, mà cứ để cho cỏ lùng phát triển song song với lúa tốt. Lý do ông nêu lên là nếu cho nhổ hết cỏ lùng thì "sợ rằng khi gom cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa. Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt". Sẽ đến giờ, đến lúc cỏ lùng và lúa tốt được tách riêng ra.
Thiên Chúa có nhiều lý do để hành động như thế. Trước hết vì Thiên Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, không nỡ bẻ gẫy cây sậy đã dập, không dập tắt tim đèn còn khói. Ông chủ ruộng không ra lệnh nhổ hết cỏ lùng cũng là vị mục tử bỏ chín mươi chín con chiền lành để đi tìm một con chiên lạc, cũng là người cha ngày ngày đứng ngóng đợi đứa con hoang trở về.
Thứ đến là vì Thiên Chúa tin rằng người xấu có thể thay đổi thành người tốt, người tội lỗi có thể trở nên người công chính, nhờ hồng ân của Thiên Chúa và sức mạnh của Thánh Thần. Kinh nghiệm cho chúng ta thấy rằng khi một người ý thức mình là người có tội và phải vất vả lắm mới thoát ra khỏi cảnh tội thì người ấy sẽ sống khiêm tốn và yêu thương hơn.
Chúng ta có nhiều ví dụ trong Phúc Âm: Phêrô phút trước vẫn còn là người đánh cá, phút sau đã trở thành môn đệ Đức Giêsu. Cũng Phêrô phút trước còn là kẻ hèn nhát chối Thày trước mặt một người tớ gái, phút sau đã trở thành người sám hối vĩ đại, quyết sống chết với Thày Giêsu. Phaolô phút trước còn là kẻ bách hại các Kitô hữu, phút sau đã trở thành vị tông đồ dân ngoại. Matthêu và Da-kêu phút trước còn là một nhân viên thu thuế, phút sau đã trở thành môn đệ Chúa. Madalêna phút trước còn là một phụ nữ bán mình mua vui cho thiên hạ, phút sau đã trở thành người gắn bó chặt chẽ với Đức Giêsu. Người trộm lành phút trước còn là tên trộm dữ, phút sau đã là người được Đức Giêsu đưa vào thiên đàng hưởng hạnh phúc bên Chúa v.v.. Chúng ta cũng có thể tìm ở chung quanh mình những ví dụ khác mới mẻ hơn.
Lý do sau cùng là Thiên Chúa muốn con người đóng góp vào việc phát triển sự Thiện và tiêu diệt sự Ác nơi mình, nơi tha nhân và trong thế giới.
Làm thế nào để phát triển sự Thiện và tiêu diệt sự Ác nơi mình, nơi tha nhân và trong xã hội?
Chúng ta phát triển sự Thiện và tiêu diệt sự Ác nơi mình, nơi tha nhân và trong xã hội bằng cách làm cho một nửa ánh sáng bừng sáng lên và nửa bóng tối thu hẹp lại tức là tạo điều kiện cho các khuynh hướng tốt, các ước vọng tốt, các nỗ lực tốt thành hiện thực và đồng thời làm cho các khuynh hướng xấu, ước vọng xấu, hành động xấu không có cơ hội hình thành.
Nửa ánh sáng là lòng yêu thương, bác ái, nhân hậu, từ bi, quan tâm giúp người. Nửa bóng tối là ích kỷ, hận thù, khắt khe, sống thờ ơ với người bên cạnh. Nửa ánh sáng là khiêm nhường, hiền lành. Nửa bóng tối là kiêu căng, tự mãn, coi thường tất cả. Nửa ánh sáng là trong sạch, khiết tịnh, điều độ, siêu thoát. Nửa bóng tối là tham sân si, chạy theo lạc thú, ham hố của cải, chức quyền, địa vị. Nửa ánh sáng là công lý và hoà bình. Nửa bóng tối là bất công và chiến tranh... Mỗi lần chúng ta chọn phần nửa ánh sáng và từ khước phần nửa bóng tối là chúng ta phát triển sự Thiện và tiêu diệt sứ Ác nơi mình, nơi tha nhân và trong xã hội.
Lạy Thiên Chúa là Cha từ bi nhân hậu, Cha đã tạo dựng vũ trụ vạn vật và con người. Cha lại còn giao phó cho con người sứ mệnh gìn giữ, cai quản và làm chủ công trình tốt đẹp ấy, để loài người cộng tác với Cha làm cho công trình ấy luôn luôn tốt đẹp và hữu ích. Xin Cha giúp chúng con biết quý trọng thiên nhiên và tôn trọng những định luật tự nhiên mà Cha đã đặt để trong đó. Xin Cha giúp chúng con biết tích cực bảo vệ và phát triển sự Thiện và đấu tranh tiêu diệt sự Ác nơi mình, nơi tha nhân và trong xã hội chúng con đang sống.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã được Cha sai đến trần gian để gieo vãi hạt giống tốt trong cánh đồng thế gian và làm cho hạt giống ấy phát triển thành cánh đồng cao sản. Chúa đã chiến đấu hết sức mình, chiến đấu đến nỗi bị kẻ thù giết hại để thực hiện Ý Cha và đem lại chiến thắng cho Vương quốc của Cha. Xin Chúa giúp chúng con biết cách đấu tranh bênh vực sự Thiện trong chúng con, trong cộng đồng và xã hội chúng con và đẩy lùi sự Ác ra khỏi lòng chúng con, khỏi cộng đồng và xã hội chúng con.
Lạy Chúa Thánh Thần là sức mạnh Thiên Chúa, xin Chúa luôn ở cùng chúng con, luôn chiến đấu với chúng con để đem lại chiến thắng cho Nước Thiên Chúa.
43. Xin Thầy giải nghĩa thí dụ.
Một em bé lúc 13 tuổi bị mọi người xua đuổi, vì em mắc bệnh phong cùi nên mất quyền sinh sống với cộng đoàn. Một nhà truyền giáo bật chợt đi ngang qua nhìn thấy vậy, ông cảm thấy thật đau lòng nên vội vàng xuống xe bênh vực cho em. Không những nhà truyền giáo này chỉ bênh vực cho em bé bất hạnh. Mà còn đem em về trung tâm của mình để săn sóc.
Vừa khóc vừa cảm động, em hỏi nhà truyền giáo:
- Lại sao ông tốt với tôi như vậy?
Em bé gọi nhà truyền giáo bằng ông, vì đây là một linh mục Công giáo đang công tác mục vụ cho bệnh nhân ở làng bên cạnh.
- Lại sao ông tốt và lo lắng cho tôi như vậy?
Nhà truyền giáo trả lời:
- Bởi vì Thiên Chúa là Cha đã dựng nên tôi và dựng nên con.
Tất cả chúng ta được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh của Ngài, và được Ngài yêu thương cách trọn vẹn, Ngài cũng muốn chúng ta yêu thương liên đới với nhau. Vì chính Ngài đã sai Con Một mình xuống trần gian là Đức Kitô để giúp cho mỗi người chúng ta sống xứng đáng với phẩm vị của mình là con cái Thiên Chúa. Vì thế, vâng lời Ngài dạy, cha săn sóc cho con. Và từ đó em bé 13 tuổi bị bệnh phong cùi này không những không quên được những cử chỉ của nhà truyền giáo, mà còn xin được làm đồ đệ của Chúa Giêsu và dùng những năm tháng còn lại của đời em để săn sóc cho các người phong cùi khác nặng hơn em lại trung tâm người phong cùi của nhà truyền giáo.
"Vâng lời Ngài, cha xin săn sóc cho con. Vâng lời Chúa dạy, tôi phục vụ anh chị em". Đó là điều Thiên Chúa Cha qua hình ảnh người gieo giống trong Phúc âm hôm nay mong đợi nơi những đồ đệ của Chúa Giêsu Kitô, những kẻ đã lãnh hạt giống ân sủng và Lời Chúa trong cuộc đời của mình.
Câu chuyện về nhà truyền giáo vô danh và em bé phong cùi kia là một trong muôn vàn thí dụ cụ thể và cũng là một trong muôn vàn những sự kiện cụ thể để chứng minh rằng, qua bao thế hệ lời Chúa vẫn còn trổ sinh những chứng nhân của tình yêu, những hoa trái tốt đẹp trong lịch sử nhân loại cũng như trong lịch sử của mỗi người. Phải chăng Lời Chúa không trổ sinh bông trái là do chính con người là kẻ làm ngơ, thù ghét, muốn bóp chết hạt giống Lời Chúa trong tâm hồn của mình hay trong tâm hồn của anh chị em, chứ không phải Thiên Chúa ngưng không gieo giống, không ban xuống những ơn lành của Ngài, không phân phát Lời Ngài cho con người.
Thật thế, Thiên Chúa vẫn luôn tiếp tục thực hiện những công việc của Ngài để đổ tràn ân phúc và Lời Ngài xuống trên con người, nhưng chính con người từ chối không chấp nhận Ngài. Môi trường chúng ta sinh sống có thể còn nhiều thách thức, nhiều cám dỗ và nhiều trở ngại khác không cho Lời Chúa trổ sinh hoa trái được. Nhưng nếu trong những môi trường như vậy mà đồ đệ của Chúa cương quyết dấn thân sống Lời Ngài dạy, biến đổi cuộc sống của mình trước để trở nên thửa ruộng tốt cho Lời Chúa trổ sinh hoa trái, thì chắc chắn môi trường chúng ta sống sẽ được biến đổi cách tốt đẹp.
Với sức mạnh của ân sủng Lời Chúa, người Kitô hữu có thể biến cánh đồng xã hội thành đồng ruộng tốt tươi đầy bông lúa chín vàng mang lại cơm ăn áo mặc và hạnh phúc ấm no cho con người, cho anh chị em xung quanh. Nhưng nếu Lời chúa không được ăn rễ sâu vào trong tâm hồn của người Kitô hữu, có thể chính lúc đó họ đã làm cho những cánh đồng xã hội thành những đám ruộng hoang, cỏ lác mọc um tùm, bạo lực hận thù khắp nơi gây hoang mang và bất hạnh cho anh chị em.
Chúng ta là những người Kitô hữu đã lãnh nhận hạt giống Lời Chúa, cho nên mỗi người Kitô hữu chúng ta phải có trách nhiệm làm cho Lời Chúa được trổ sinh hoa trái. Bởi vậy, xin đừng ngồi than, đừng trách xã hội lịch sử con người của mình, nhưng hãy biết lợi dụng mọi biến cố, mọi ân sủng của Lời Chúa để làm cho Lời Chúa trổ sinh hoa trái tốt đẹp, biến đổi cuộc sống của mình, biến đổi cuộc sống của anh chị em và làm chứng cho tình thương của Chúa. Xin Chúa gìn giữ chúng ta trong tình thương và đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
44. Cỏ lùng - lúa tốt
(Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
Bài Tin Mừng thuật lại ba dụ ngôn của Chúa Giêsu : cỏ lùng, hạt cải và men. Nghe Chúa nói ba dụ ngôn, nhưng các môn đệ lại chỉ xin Chúa giải thích một dụ ngôn cỏ lùng, và Chúa đã giải thích : người đi gieo giống tốt là Thiên Chúa, hạt giống là người ta, là con người, là con cái Chúa, thửa ruộng là thế gian, là nơi sinh sống, làm việc, phục vụ, cỏ lùng là người xấu, người dữ, mùa gặt là ngày chết hay ngày tận thế, thợ gặt là các thiên thần, lúa tốt thì được thu vào kho lẫm, tức là những người tốt lành, công chính, thánh thiện thì được thưởng, còn cỏ lùng là những người xấu, người dữ thì bị tống vào hỏa ngục.
Nghe hay đọc dụ ngôn này cùng với sự giải thích của Chúa, chúng ta thấy dễ hiểu và hợp tình hợp lý. Thế gian này có người tốt người xấu, người lành người dữ sống bên nhau, sống cùng nhau là chuyện bình thường. Chẳng có nơi nào toàn là những người tốt và cũng chẳng có nơi nào toàn là những người xấu. Nhưng có một điều khác biệt : cỏ lùng, vì bản chất của nó là cỏ dại, cỏ xấu, cho nên vạn đại nó cũng không thể nào biến thành lúa tốt được. Cũng thế, cây lúa thì lúc nào nó cũng là cây lúa, chỉ có điều là nó cho nhiều hay ít hạt lúa, chứ không bao giờ biến thành cỏ lùng được.
Đối với con người thì không như vậy : bản tính con người được Chúa tạo dựng là tốt lành : "Nhân chi sơ tính bản thiện" : khi sinh ra, con người vốn tốt lành, nhưng với thời gian lớn khôn, con người vẫn tốt hay trở thành xấu, nghĩa là con người tốt hay xấu là do thêm vào hay mất đi. Có người trước kia là lúa tốt, bây giờ là cỏ lùng, ngược lại, có người trước kia là cỏ lùng, bây giờ là lúa tốt. Dĩ nhiên cũng có những người luôn luôn là lúa tốt và những người lúc nào cũng là cỏ lùng, hoặc có những người khi thì là lúa tốt khi thì là cỏ lùng hoặc ngược lại. Điều quan trọng là tới khi chết, người ta đang ở trong tình trạng nào : cỏ lùng hay lúa tốt ? Đó là trách nhiệm của mỗi người.
Chính vì yếu tố trách nhiệm này, vì khả năng biến đổi tốt thành xấu và xấu thành tốt nên chúng ta phải cố gắng làm giảm bớt đến mức tối đa, tức là mức thấp nhất những gì là xấu xa, tội lỗi, tức là cỏ lùng, và gia tăng đến mức tối đa, tức là mức cao nhất, nhiều nhất những gì tốt lành, thánh thiện, tức là lúa tốt. Hơn nữa, trong đời sống hằng ngày, ngoài việc cố gắng bớt cỏ lùng, thêm lúa tốt, tức là bớt tư tưởng, lời nói, việc làm xấu và gia tăng những việc phúc đức, mỗi người còn phải cố gắng làm sao để được nhắm mắt xuôi tay, kết thúc cuộc đời trong tình trạng đang là lúa tốt.
Ở đời này, thường chúng ta ít thấy công lý thắng gian tà, nhưng ở đời sau, thì tất cả mọi nợ nần đều phải trang trải, mọi bất công sẽ được san phẳng : lúa tốt, tức là người tốt, sẽ được nâng niu thu góp vào kho lẫm, tức là được thưởng công xứng đáng. Còn cỏ lùng, tức là người xấu, sẽ bị ném vào lửa để thiêu hủy. Câu chuyện cỏ lùng giữa lúa tốt quả quyết với chúng ta về sự báo oán công minh ở đời sau : người tốt sẽ được thưởng, người xấu sẽ bị phạt muôn đời. Như vậy, tốt hay xấu, được thưởng hay bị phạt là do chính mỗi người chúng ta. Vì thế khi kết thúc dụ ngôn Chúa nói : "Ai có tai thì nghe", nghĩa là Chúa muốn nhắc chúng ta rằng : chúng ta có đầu óc, có trí khôn, chúng ta biết phân biệt phải quấy, chân giả, đúng sai, tốt xấu thì đừng có sống đóng kịch hay sống bất chính, chúng ta phải biết sống đúng là con Chúa, chúng ta phải sử dụng đầu óc, trí khôn để sống theo luật Chúa. Chúng ta sống làm sao Chúa sẽ căn cứ vào đó để thưởng hay phạt chúng ta.
Tóm lại, trong cánh đồng màu mỡ là con người yếu đuối của chúng ta, lúa tốt và cỏ lùng, tức là nhân đức và tội lỗi, đức tính và tật xấu ... luôn luôn chèn ép nhau, giành giật nhau. Vì thế, chúng ta phải luôn tỉnh thức và chiến đấu để loại trừ cỏ lùng, tội lỗi và tật xấu, đồng thời bảo vệ lúa tốt, nhân đức và công phúc của chúng ta. Có như thế đến mùa gặt, tức là khi chúng ta nhắm mắt xuôi tay, chúng ta sẽ được Chúa nhân từ âu yếm nói với chúng ta : "Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, hãy vào hưởng sự vui mừng với Chúa ngươi". Xin Chúa cho chúng ta biết sống theo lời Chúa để chúng ta đều được nghe những lời đầy thân thương trên đây của Chúa.
45. Cứ để cả hai mọc lên.
Nước Trời là một mầu nhiệm, Chúa Giêsu đã mạc khải và thiết lập trong lịch sử nhân loại. Qua những hình ảnh đơn sơ, bình dị, gần gũi với cuộc sống, Chúa Giêsu đã dùng nhiều dụ ngôn để giảng dạy về Nước Trời.
Chúa nhật trước với dụ ngôn “người gieo giống”, Chúa Giêsu cho thấy Nước Trời đã khai mạc. Cũng như người gieo giống đi gieo hạt trên khắp cánh đồng, Chúa Giêsu cũng gieo hạt giống Lời Chúa. Hạt giống ấy tăng trưởng trổ sinh hoa trái nơi mỗi người ra sao là tùy thái độ đón nhận của từng người ấy.
Chúa nhật hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục giảng dạy về Nước Trời bằng dụ ngôn “lúa và cỏ lùng”. Như vậy, sau khi nói đến việc khai mạc Nước Trời, Người nói đến sự phát triển của Nước Trời trong lịch sử trần thế.
Chúa Giêsu đã khởi đầu công trình của Người với một nhóm nhỏ Mười Hai Tông Đồ. Sự khiêm tốn của “hạt cải bé nhỏ được gieo vào lòng đất bao la”. Sự khiêm tốn của “một nắm men bị vùi sâu vào ba đấu bột”. Điều kỳ diệu là “hạt bé hơn mọi thứ hạt giống” lại “trở thành cây cao bóng cả đến nỗi chim trời có thể đến nương náu nơi ngành nó”. Nắm men ít ỏi kia lại có khả năng làm dậy lên cả ba đấu bột chôn vùi nó. Cũng như vậy, Nước Trời sẽ vươn xa vươn rộng cho muôn dân nước đến nương nhờ. Hạt giống Nước Trời đã làm dậy lên cả thế giới bằng một tinh thần mới của Tin Mừng,biến đổi lịch sử trong tình thương và hòa bình.
Một vấn nạn luôn được đặt ra: Nếu Nước Trời đã được Chúa Giêsu thiết lập cách đây hơn 20 thế kỷ và nếu Thiên Chúa là Đấng nhân hậu giàu lòng xót thương thì tại sao cho đến nay cuộc sống con người vẫn đầy dẫy bất công, bạo lực, khổ đau, chiến tranh tương tàn, và xem ra sự dữ có chiều hướng gia tăng? Đôi khi những người xấu xa tội lỗi gian manh lại giàu có sung túc trong đời sống vật chất hơn những người lành? Vấn nạn này vẫn luôn là trăn trở khôn nguôi người Kitô hữu ở mọi thời đại! Dụ ngôn “lúa và cỏ lùng” giải thích vấn nạn ấy.
Cánh đồng được gieo toàn hạt giống tốt.Thiên Chúa đã gieo vào trần thế những con cái Nước Trời. Ban đêm kẻ thù xuất hiện. Satan tới gieo cỏ lùng. Thế là có cảnh lẫn lộn trên trần gian. Người lành kẻ dữ cùng chung nhau một mảnh đất. Đang khi hạt giống được gieo giữa ban ngày thì Satan lại lợi dụng đêm tối khi mọi người đã mất cảnh giác để gieo rắc tội lỗi. Hành động thấp hèn. “Xấu” chưa chắc đã “hèn”, nhưng “hèn” thì chắc chắn là “xấu”, bởi lẽ nhiều tay “giang hồ”, bặm trợn, vẫn rất ghét thói “ném đá dấu tay”, trong khi động cơ, phương tiện và mục đích của những hành động lén lút, luôn là bỉ ổi, xấu xa và hại người.
Thế giới này giống như cánh đồng lúa đầy cỏ lùng xen vào. Những ông thánh sống lẫn lộn với những thằng quỷ, tốt xen lẫn với xấu. Tốt như những tổ chức nhân đạo, nhân quyền, hoà bình thế giới: UNESCO, UNICEP, FAO, OLYMPIC, WORLD CUP là những tổ chức xây dựng văn hoá, giáo dục tình thương bảo vệ sức khoẻ trẻ em, phát triển lương thực thế giới, thăng tiến những tài năng, chăm lo y tế. Nhưng lại có rất nhiều những tổ chức xấu xen vào như Mafia, buôn lậu, ma tuý, vũ khí, khủng bố, trộm cướp, du đãng, buôn bán trẻ em, phim ảnh sách báo đồi truỵ… Đồ thật, hàng tốt bị xen lẫn hàng xấu, đồ giả. Người lương thiện, chân chính bị lẫn lộn với kẻ tham ô, móc ngoặc, bất lương. Những thứ cỏ lùng gai góc đó không bao giờ hết, chỉ đến mùa gặt tận thế chúng mới bị quét sạch, đốt sạch. Tận thế sẽ thiêu đốt tất cả những thứ cỏ lùng đó, những kẻ xấu, kẻ dữ đó. Còn lúa thì được gánh về, chở về kho. Những thánh nhân, những người lương thiện, công chính sẽ sáng chói trong ngày vinh quang đó, họ được rước vào nước hạnh phúc đời đời.
Thấy cỏ lùng xuất hiện với lúa, các đầy tớ đến hỏi ông chủ: “Thưa ông, không phải ông đã gieo giống tốt trong ruộng ông sao? Thế thì cỏ lùng ở đâu ra vậy?”.Thấy sự dữ tràn lan trên thế giới, bao nhiêu người thắc mắc: sự dữ, sự ác bởi đâu ra? Chúng ta nhiều lần thấy gian tà thắng ngay lành, bất công thắng công chính. Kẻ ác thắng kẻ thiện, cũng thất vọng kêu trách: Sao Chúa để kẻ dữ sống lâu, mạnh khoẻ, giàu sang, may mắn, còn kẻ lành phải khổ cực trăm chiều?
Trước những thắc mắc đó, Chúa đáp: “Kẻ thù đã làm đó!” Kẻ thù là ai? Thánh kinh cho biết có hai thứ kẻ thù: kẻ thù ở trong ta và kẻ thù ở ngoài ta. Kẻ thù ở ngoài ta có những tên khác nhau: con rắn cám dỗ phỉnh gạt (St 3,2.13), con rồng, rắn xưa, quỷ, satan (Kh 12,9), con thuồng luồng Leviathan (Is 27,1), kẻ thù, kẻ chống đối (Mt 13,25; Lc 10,19; 2Cr 6,15). Những kẻ thù này ở ngoài con người, nhưng chúng xâm nhập vào con người sâu hiểm tới độ đồng hoá với bản tính nhân loại. Nhưng chúng sẽ bị “Thiên Thần Chúa từ trời xuống, tay cầm chìa khoá vực thẳm và một dây xích lớn, bắt lấy con rồng, tức là con rắn xưa cũng là ma quỷ satan xích nó… quăng vào vực thẳm, rồi đóng cửa niêm phong lại” (Kh 20, 2-3). Nhưng một mình quỷ thôi, chúng sẽ bất lực như bất lực đối với Thánh Gióp. Chỉ khi có sự tiếp tay của ta như Eva tiếp nó, nó mới thành kẻ thù trong ta: nó trở nên kẻ nội thù ghê gớm. Nó mọc lên những cỏ lùng, bụi gai, đá sỏi, quỷ dữ (Mt 13,18-22). “Vì tự lòng phát xuất ra những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cướp, chứng gian, vu khống” (Mt 15, 19). Khi chủ cho biết kẻ thù làm đó, thì đầy tớ xin nhổ đi, chủ sợ hại đến lúa, nên ông đáp: “Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt”. Thái độ của chủ thật khôn ngoan, ông kiên nhẫn chờ đợi đến mùa gặt, mới nhặt cỏ lùng đốt đi.
Có thể trong tâm tưởng nhiều người lại quy gán cho Thiên Chúa trách nhiệm về tình trạng khổ đau đó chẳng khác gì câu hỏi ngày xưa: “Thưa ông, không phải ông đã gieo giống tốt trong ruộng ông sao? Vậy cỏ lùng ở đâu mà ra?” Một câu hỏi không lên án nhưng chứa đựng sự nghi ngờ.
Để trả lời cho vấn nạn đó, Chúa Giêsu đã lấy lại giáo huấn của sách Sáng Thế: Sự ác không đến từ Thiên Chúa. Ngài chỉ gieo hạt giống tốt lành vào mảnh đất người đời. Sự ác cũng không chỉ đến từ tâm trí con người nhưng nó đã có trước đó.Sự dữ cũng là một mầu nhiệm. Đối với Chúa Giêsu, con người là nạn nhân của sức mạnh mà Người gọi là ”Kẻ thù”, là ”Quỷ dữ” như cách diễn tả trong dụ ngôn: “Khi mọi người đang ngũ, thì kẻ thù của ông đến gieo thêm cỏ lùng rồi đi mất”. Ở cội nguồn tội lỗi của con người,còn có một sức mạnh luôn tìm cách phá hoại công trình của Thiên Chúa và hành tung của nó rất bí mật. Đó là quỷ dữ lợi dụng đêm tối để gieo rắc tội lỗi rồi trốn đi.Thánh Phaolô đã nói về sự dữ trong thư Rôma: Công cuộc tạo dựng của Thiên Chúa tốt lành.Satan đã cám dỗ Adam, Eva, Nguyên Tổ sa ngã, tội lỗi sinh ra đau khổ và sự chết rồi nó như con bạch tuộc vươn vòi vào trần thế, con người nô lệ cho tội lỗi và nhận lấy án phạt là sự chết (x.Rm 1,20 -31;15,12).Ma quỷ luôn có mặt để gieo rắc sự xấu.
Thiên Chúa gieo vào thế giới hạt giống khát vọng hòa bình. Đẹp biết bao khi mọi dân tộc nắm tay nhau xây dựng một thế giới huynh đệ tươi thắm tình người. Nhưng thực tế lại đáng buồn thay! Cánh đồng hòa bình tươi xanh đã bị những cỏ dại của tham vọng, ích kỷ, ác độc làm hoen ố. Lịch sử thế giới được ghi bằng những trang buồn đau vì không lúc nào mà không có chiến tranh.
Thế giới này sẽ tươi đẹp biết bao nếu tất cả trí thông minh, tất cả tài nguyên, tất cả năng lực đều góp phần chung tay xây dựng! Nhưng thật đáng tiếc,rất nhiều trí thông minh, rất nhiều tài nguyên, rất nhiều năng lực đã tiêu tốn trong việc hủy hoại, tha hóa, nô lệ hóa con người. Đó là những hạt cỏ xấu ma quỷ lén lút gieo vào ruộng lúa tốt. Lúa tốt và cỏ lùng lẫn lộn trên cùng ruộng lúa. Cái tốt, cái xấu đan xen trong cuộc sống hàng ngày,nhất là trong tâm hồn mỗi người. Ở đó, hạt mầm sự sống và nọc độc sự chết cùng sống chung. Mỗi con người chắc chắn đều có kinh nghiệm bản thân như Thánh Phaolô đã từng kinh nghiệm “Điều lành tôi muốn làm tôi lại không làm, còn điều dữ tôi không muốn làm nhưng tôi lại cứ làm ( Rm 7,19). Con người có tự do để chọn lựa cái đúng cái sai, chọn cái tốt cái xấu. Nước Trời cũng gồm những con người có tự do, thì cũng có những người xấu do chọn lựa sai lầm. Cảm nhận được sự thật ấy trong tâm hồn mình để chúng ta biết khoan dung trong cách nhìn về người khác. Sự khoan dung không đồng nghĩa với đầu hàng cái ác nhưng phát xuất từ niềm tin vững chắc vào sự tất thắng của Nước Trời: “Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt. Đến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt: hãy gom cỏ lùng lại, bó thành bó mà đốt đi, còn lúa thì hãy thu vào kho lẫm cho tôi”. Cho dù cỏ lùng có bóp nghẹt lúa tốt trong một thời gian dài, nhưng mùa gặt đến, cỏ lùng sẽ bị gom lại và đốt đi, còn lúa tốt được cất vào kho lẫm.
Cỏ lùng chẳng bao giờ thành lúa tốt được,nhưng người xấu có thể hoán cải để nên người tốt.Thiên Chúa ghét tội lỗi nhưng lại yêu mến tội nhân vì Người chờ nơi họ lòng thống hối để được thứ tha (x.Rm 2,4). Chính vì thế mà Thiên Chúa kiên tâm chờ đợi. Chờ đợi vì Thiên Chúa tin vào sự hoán cải của con người. Chờ đợi vì Thiên Chúa tôn trọng tự do lựa chọn của con người. Chờ đợi vì Thiên Chúa nuôi một niềm hy vọng lớn lao.Thiên Chúa vẫn luôn nhẫn nại đợi chờ cho đến ngày tận thế “ cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt”.
Cỏ lùng và lúa tốt nằm ở trong tim con người. Mỗi người đong đưa giữa cỏ lùng và lúa tốt, giữa cái thiện và cái ác, giữa Thiên Thần và Satan.Tự do chọn lựa là quyền mỗi người.Thiên Chúa vẫn chấp nhận cỏ lùng trong con người. Thiên Chúa nhẫn nại đợi chờ con người thanh luyện dần dần và hy vọng mọi sự trong họ sẽ thành lúa tốt.
Lạy Chúa, xin cho con nhẫn nại và can đảm cùng đi với Chúa và với tha nhân trên những nẻo đường ghập ghềnh cuộc đời, trong thác dốc tâm hồn với tất cả niềm tin và hy vọng. Amen.
46. Quyền năng Thiên Chúa
Ngay từ lúc tạo dựng vũ trụ, Thiên Chúa đã dùng quyền năng của Người mà làm nên mọi sự. Trong sự quan phòng của Thiên Chúa cũng vậy, Người đã dùng quyền năng của mình mà làm cho muôn loài muôn vật được phát triển. Cho dù con người có nhìn nhận sự hiện diện cũng như quyền năng của Thiên Chúa hay không thì Thiên Chúa vẫn có đó và quyền năng của Người vẫn bao trùm trên mọi loài thụ tạo.
Trong bài Tin mừng chúng ta được mời gọi suy niệm hôm nay, Chúa Giêsu đã kể ba dụ ngôn để cho thấy quyền năng thật sự của Thiên Chúa trên mọi loài. Tuy nhiên, quyền năng Thiên Chúa là để thực thi tình yêu của Người trên muôn loài, để tha thứ và để mời gọi trở về chứ không phải là để đánh phạt hay tiêu diệt.
Trong ba dụ ngôn, chúng ta thấy nổi lên tư tưởng chủ đạo đó là: Quyền năng của Thiên Chúa tuy ẩn tàng khó thấy nhưng mạnh mẽ như hạt cải, như nắm men đã làm cho cả khối bột dậy men, đã sinh trưởng thành những cây cải thật to... nhưng quyền năng ấy lại được thể hiện trong thầm lặng trong đợi chờ như người chủ đợi chờ ngày thu hoạch, đợi chờ ngày có sự phân biệt rõ ràng giữa lúa và cỏ lùng để không làm hại lúa cũng như chờ cỏ lùng có thể biến đổi để trở thành lúa. Ông chủ ruộng vẫn biết nếu để cỏ lùng trong ruộng lúa của mình có thể nó làm hại cho lúa, làm cho lúa có thể khó phát triển. Ông biết rằng mình có đủ sức mạnh để làm cho ruộng lúa của ông sạch bon cỏ lùng nhưng vì lòng ưu ái ông dành cho lúa, lòng nhân từ ông dành cho cỏ lùng nên ông chờ cho đến cơ hội cuối cùng.
Thiên Chúa là chủ ruộng đầy lòng nhân từ, vẫn biết rằng mảnh đất ven đường, mảnh đất sỏi đá, mảnh đất gai góc không thể nào làm cho hạt giống phát triển nhưng chủ ruộng là Thiên Chúa vẫn gieo Lời của Người vào tâm hồn của tất cả mọi người, Người không chọn lựa cũng không kỳ thị một ai. Bài tin mừng hôm nay cũng thế, vẫn biết rằng cỏ lùng khó có thể biến đổi trở thành lúa thế mà chủ ruộng này vẫn kiên trì chờ đợi, cho cơ hội đến phút cuối cùng... Thiên Chúa cũng đối xử như thế đối với những người tội lỗi.
Nhìn vào lịch sử dân Israel chúng ta có thể dễ dàng thấy được lòng nhân từ của Thiên Chúa được biểu lộ. Bốn chữ "Tội - Phạt - Hối - Cứu" vẫn luôn đồng hành với dân Israel. Thiên Chúa dùng quyền năng của Người để biểu lộ tình yêu, để thông chia tình yêu, nhưng khi dân từ chối tình yêu này thì họ đã đi vào con đường lầm lạc, họ tự nhận lấy án phạt do chính họ mang đến. Nhưng khi họ quay trở lại với Chúa thì Người vẫn không từ chối họ, cho họ được trở lại làm con cái Chúa. Quả là Thiên Chúa vẫn một lòng xót thương.
Suy niệm bài tin mừng hôm nay xin Chúa cho chúng con nhận biết được quyền năng của Thiên Chúa vẫn luôn ấp ủ chúng con, hướng dẫn và làm cho cuộc đời chúng con nên tươi sáng, xin Chúa cũng cho chúng con luôn biết quy hướng về Chúa để cái đổi đời sống và luôn chạy về trong vòng tay đầy tình thương của Chúa.
47. Không muộn.
Mục sư Martin Luther King, người đấu tranh giành tự do cho nô lệ da đen tại Hoa Kỳ bằng phương pháp bất bạo động đã kể lại câu chuyện như sau:
Chúng tôi đã có dịp viếng thăm bang Kerela ở cực Nam Ấn Độ. Một buổi chiều cuối tuần, chúng tôi đến bãi biển Cap-Comorin, thường được gọi là “nơi tận cùng của thế giới”, vì đây là mũi đất cuối cùng của lục địa Ấn Độ tiếp giáp Ấn Độ Dương.
Trước mắt chúng tôi là đại dương mênh mông, với các đợt sóng nhấp nhô. Nơi đây được gọi là điểm hẹn của ba biển cả: Ấn Độ Dương, biển Ả Rập và vịnh Bengal. Ngồi trên tảng đá nhô ra trên mặt nước, chúng tôi cảm thấy mình bị cuốn hút vào biển cả mênh mông. Trong khi các đợt sóng dồn dập vào mỏm đá, tạo nên một bản nhạc nhịp nhàng, thì về phía tây, chúng tôi nhìn thấy mặt trời đỏ chói đang dần dần đi vào biển cả. Khi mặt trời gần khuất, vợ tôi đánh động tôi và nói: “Xem kìa, Martin, thật là tuyệt vời, phải không?” Tôi đưa mắt nhìn chung quanh và kìa mặt trăng đang từ từ lên khỏi lòng biển trong khi mặt trời chậm chạp đi xuống biển sâu. Khi mặt trời lặn, bóng tối bao trùm mặt đất, nhưng từ phía đông, mặt trăng mọc lên, rực rỡ, chói sáng.
Khi ánh sáng mặt trời tắt dần và dìm chúng ta vào trong bóng tối dày đặc, có thể ví như thời điểm của cái ác và sự dữ lộng hành, biến chúng ta thành nạn nhân của thế lực đen tối. Nhưng hãy nhìn về phía đông, chúng ta sẽ thấy một ánh sáng rực rỡ huy hoàng ngay trong đêm tối. Và đêm đen lại sáng tỏ như ban ngày. Đó là lúc điều thiện và cái tốt đang vươn lên mạnh mẽ. Nếu đã có ánh sáng ban ngày hướng dẫn chúng ta lúc thuận buồm xuôi gió, thì cũng có ánh sáng ban đêm dẫn đưa chúng ta khi bão tố phong ba. Cả hai phải cùng tồn tại để đồng hành với chúng ta đến với nguồn sáng vĩnh cửu là Thiên Chúa.
Đức Giêsu, trong bài Tin mừng hôm nay đã khẳng định lập trường của Thiên Chúa qua dụ ngôn cỏ lùng và lúa tốt. Đầy tớ muốn nhổ cỏ lùng đi, nhưng ông chủ lại bảo: “Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt”. Kể từ khi nguyên tổ nuốt lấy trái cấm thì sự dữ và cái ác như con bạch tuộc vươn vòi đến mọi mặt của cuộc sống con người. Nó dai dẳng, ngoan cố, lì lợm, không dễ dàng buông tha nếu chúng ta không chống cự lại một cách mãnh liệt, dứt khoát. Chẳng thế mà Kinh thánh đã dùng biểu tượng con rắn để mô tả hành động xảo trá của sự dữ luôn gieo rắc bất hoà trong bản hoà tấu nhịp nhàng của đời sống con người.
Trong dụ ngôn cỏ lùng, Đức Giêsu khẳng định về sự xuất hiện của cỏ lùng là do kẻ thù đã gieo chúng vào ruộng lúa.
Cho dù kẻ thù đó là Satan hay bởi chính sự lạm dụng tự do của con người, thì cỏ lùng luôn mang đến tai hoạ và chết chóc.
Cho dù cỏ lùng có bóp nghẹt lúa tốt trong một thời gian, nhưng mùa gặt đến, nó sẽ bị gom lại và đốt đi. Còn lúa tốt lại được cất vào kho lẫm.
Cho dù cứ để cỏ lùng và lúa tốt cùng lớn lên cho đến mùa gặt, nhưng không phải là để dung túng cho cái ác và để sự dữ lộng hành.
Thiên Chúa có chương trình hành động của Người: Trong hành trình của mỗi con người, vẫn có cỏ lùng mọc chung với lúa tốt, vẫn có cái ác sống chung với cái thiện, vẫn có bóng tối chen lẫn cùng ánh sáng. Đó là cuộc chiến đấu trường kỳ giữa sự lành và sự dữ. Trong lòng người tín hữu rễ cỏ lùng và lúa tốt vẫn đan xen lẫn nhau. Thánh Phaolô đã diễn tả chân lý ấy khi viết: “Điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi cứ làm”. Người tín hữu hay bị cám dỗ ở trong tình trạng chưa là tội nhân mà cũng chưa muốn tìm về thánh thiện.
Khi chiến đấu chống lại sự dữ, chúng ta không chiến đấu đơn độc, có Chúa cùng chiến đấu với chúng ta, như một người Cha đầy yêu thương. Nhưng người không can thiệp để tiêu diệt sự dữ một cách vũ bão, vì Người đã ban cho chúng ta sự tự do, và bởi chúng ta là những con người có trách nhiệm. Sự dữ nào cũng có phần cộng tác của con người, tội lỗi nào cũng mang dấu tay của những kẻ đồng loã. Evà đã chẳng phạm tội nếu bà đừng đưa tay ra hái trái cấm. Để cứu lấy con người luôn luôn sa ngã, Thiên Chúa đã phải nhẫn nại, chờ đợi sự hoán cải tuy rất chậm chạp của họ.
Thiên Chúa yêu thương con người, và không hề quên sót một ai, cho dù họ là những tội nhân:
Nếu Thiên Chúa tỏ ra chậm chạp trong việc chống lại tội lỗi, là để chúng ta có thời gian mà sám hối canh tân.
Nếu chúng ta yếu đuối lầm lỗi, thì Người sẽ ban cho chúng ta sức mạnh để can đảm trỗi dậy sau những lần vấp ngã.
Nếu phải bước đi trong bóng đêm tăm tối vì mất niềm hy vọng, thì Người sẽ là ánh sáng dẫn đường để chúng ta đến với niềm tin.
Thiên Chúa khinh ghét tội lỗi nhưng lại yêu mến tội nhân, vì Nười chờ đợi nơi họ lòng thống hối để được Người thứ tha. Thiên Chúa khoan dung, độ lượng không phải để dung túng cho các tội nhân, nhưng là để cho họ thời gian thức tỉnh mà quay trở về.
Chúa đã bao dung nhẫn nại với chúng ta. Lẽ nào chúng ta lại thiếu nhân hậu khoan dung với kẻ tội lỗi? Chúa đã yêu thương chúng ta, lẽ nào chúng ta không dùng tình yêu của Người mà hoán cải anh em? Lòng tương xót Chúa muốn kéo chúng ta vào quê hương vĩnh cửu. Nhưng không phải là một cuộc hành trình đơn độc. Trái lại, phải là một ngày hội thắm đẫm tình yêu, đầy ắp tiếng cười.
48. Sức mạnh ẩn tàng
Anh chị em thân mến,
Hôm nay, tôi muốn nói về cây cỏ lùng trong cánh đồng lúa tại Việt Nam chúng ta. Hai mươi năm nay, ai là nông dân, và có làm lúa ngắn ngày, chắc hẳn sẽ biết cây cỏ lùn khá rõ. Trước năm 1975, nói tới cỏ lùng, người công giáo hầu như chỉ biết cỏ lùng qua bài dụ ngôn trong Phúc âm mà thôi. Thực tế, người ta không biết cây cỏ lùng ra sao cả. Như trên đã nói, chỉ sau năm 75, khi làm lúa ngắn ngày, người ta mới biết cỏ lùng là gì. Đặc điểm của cỏ lùng chính là vì nó rất giống cây lúa - chỉ khác là nó xanh đen, mướt hơn, và lá dài hơn. Chỉ khi cây lúa đã già, sắp trổ bông, người ta mới phân biệt được cỏ lùng và lúa. Chúng ta cũng không biết cây cỏ lùng trong ruộng lúa ở Việt Nam hôm nay, có phải là cây cỏ lùng thời Chúa Giêsu không? Dầu sao xem ra, cỏ lùng này cũng có những đặc điểm khá giống những gì Chúa Giêsu muốn nói. Bài Tin Mừng hôm nay kể lại dụ ngôn kẻ thù đã gieo cỏ lùng vào ruộng lúa của ông chủ.... Kính mời anh chị em cùng suy niệm.
a/. Chúng ta thử nghe lại cách giải thích của Chúa Giêsu về dụ ngôn cỏ lùng gieo trong ruộng: Chúa nói: hạt giống tốt là con cái Nước Trời - Người gieo giống chính là Con Người (Chúa Giêsu) - ruộng là thế gian - cỏ lùng là con cái ác thần - kẻ thù gieo cỏ lùng là ma quỷ - mùa gặt là ngày tận thế - thợ gặt là các thiên thần.
Chúa nói tiếp: Khi đến mùa gặt, sẽ không gặt lúa trước, nhưng ông chủ bảo thợ gặt lo nhổ cỏ lùng trước, rồi đốt đi. Hình ảnh Nước Trời ngày tận thế cũng vậy, Chúa sẽ sai thiên thần tập trung mọi kẻ xấu tống ra khỏi Nước Trời, cho họ vào lò lửa... còn kẻ lành sẽ được vinh quang trong Nước Trời...
b/. Có hai điều rút ra từ bài học Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay:
* Hình ảnh Nước Trời: được ví như hạt giống tốt được gieo trong ruộng là tâm hồn chúng ta. Hạt giống lúc đầu rất bé nhỏ âm thầm, như hình ảnh hạt cải, chỉ bé xíu thôi; nhưng hạt giống Nước Trời có sức mạnh vô biên, có thể sinh hoa kết quả.... Hình ảnh của một viên men, chỉ có 28grs, có thể làm cho một thúng bột độ 7 kg 500, đều dậy men... cũng chính là hình ảnh nói lên sức mạnh Nước Trời. Dỉ nhiên Nước Trời không phải là hạt giống, cũng không phải là viên men; đó chỉ là hình ảnh tượng trưng mà thôi...
Hình ảnh Nước Trời: ta thử nhìn vào lịch sử Kitô giáo, lúc đầu vào thời Giáo hội sơ khai, chỉ là một nhóm nhỏ gồm 12 tông đồ, một số môn đệ và ít người tin Chúa. Ngay thời đó, Giáo hội bị bắt bớ đủ điều. Rồi trải qua 20 thế kỷ, hầu như không lúc nào Giáo Hội không bị bắt bớ, có lúc hầu như người ta tưởng sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn. Vậy mà ngày nay trên thế giới, có lối 1 tỷ người Kitô hữu. Hầu như cứ 8 người thì có một người tin vào Thiên Chúa. Chúng ta không nói đến sức mạnh của tổ chức xã hội Kitô giáo, nhưng là nói đến sức mạnh của Hạt giống Lời Chúa, là ân sủng Chúa. Sức mạnh này có giá trị vô biên, mạnh hơn cả sự chết...
* Chúa muốn con người cộng tác vào việc phát triển Hạt giống Nước Trời: Hạt giống Nước Trời tuy có sức mạnh vô biên, nhưng hạt giống đó phải được gieo trên đất tốt. Hạt giống được gieo trong bụi gai, bên vệ đường sẽ không sinh hoa kết trái được. Viên men muốn làm cho thúng bột dậy lên, phải được người đàn bà trộn trong bột. Hạt cải muốn thành cây, phải được con người gieo trồng cẩn thận, và phải được chăm sóc chu đáo....
Qua lịch sử của Hội thánh, các thánh hiển tu, cũng như các vị tử đạo, họ là những con người đã hết lòng vì Nước Trời. Chính vì thế, họ cộng tác hết sức chặt chẻ để mong cho Hạt giống Nước Trời lớn lên; họ luôn tỉnh thức cầu nguyện, lấy Lời Chúa và Thánh Thể làm sức sống. Họ cũng là nhân chứng của Tin mừng, luôn xây đắp yêu thương và tha thứ...
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Qua những điều suy niệm kể trên, ta thấy được sức mạnh vô biên của Hạt giống Lời Chúa, vậy ta có sẵn sàng cộng tác vào việc xây dựng Nước Trời bằng cách như Chúa mong muốn không?
49. Sự nhẫn nại thật sự
(Lm. Cantalamessa)
Cha Capuchin Raniero Cantalamessa, người giảng Phủ Giáo Hoàng đã giải thích về dụ ngôn cỏ lùng và hột giống tốt.
* * *
Hột giống và cỏ lùng
Nước Trời có thể sánh với một người đã gieo giống tốt trong ruộng mình; nước Trời giống như một hột cải; nước trời giống như chất men. Ba câu đầu này của những dụ ngôn đủ cho chúng ta hiểu rằng Chúa Giêsu đang nói với chúng ta về một nước "Trời", nhưng nước đó được tìm thấy "trên mặt đất."
Thật vậy, chỉ trên mặt đất mới có một chỗ cho cỏ lùng và sự mọc lên, chỉ trên mặt đất mới có bột cần chất men. Trong nước cuối cùng, không có cái gì trong tất cả những thứ đó, nhưng duy nhất chỉ có Chúa, đấng sẽ là tất cả trong tất cả mọi người. Dụ ngôn hột cải biến thành một cây chỉ rõ sự lớn lên của nước Chúa trong lịch sử.
Dụ ngôn chất men cũng chỉ sự lớn lên của nước Chúa, nhưng không phải một sự lớn lên trong sự trải rộng cho bằng trong sự hùng mạnh; nó chỉ sức mạnh biến đổi Người có sức mạnh đó có thể đổi mới mọi sự. Hai dụ ngôn sau cùng này được các môn đệ hiểu dễ dàng. Nhưng dụ ngôn thứ nhất không được hiểu dễ dàng như thế đó là dụ ngôn cỏ lùng.
Sau khi bỏ những đám đông, và khi vào đến nhà, các môn đệ hỏi Chúa Giêsu về sự đó: "Xin Thầy giải nghĩa dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng cho chúng con nghe".. Chúa Giêsu đã giải nghĩa dụ ngôn. Người nói Người là kẻ gieo giống, hột giống tốt là con cái nước trời, những cỏ lùng là những con cái kẻ dữ, và đồng ruộng là thế gian và mùa gặt là ngày tận thế.
Đồng ruộng là thế gian. Trong thời cổ Kitô giáo, các người Donatists đã giải quyết vấn đề một cách đơn giản và nói rằng Giáo Hội là tất cả những kẻ lành, và thế gian thì đầy dẩy những con cái kẻ dữ, không có hy vọng gì được cứu độ. Nhưng tư tưởng của Thánh Augustinô trổi bật hơn, tư tưởng đó là tư tưởng về Giáo Hội phổ quát.
Chính Giáo Hội là một cánh đồng, trong đó những hột giống và những cỏ lùng, những kẻ tốt và những người xấu, đều mọc lên chung, là một nơi có chỗ để mọc, để được cải thiện và hơn hết để bắt chước gương nhẫn nại của Chúa. "Những kẻ dữ hiện hữu trong thế gian này hoặc là để được cải thiện hay là nhờ họ mà những kẻ lành có thể luyện tập đức nhẫn nại" (Th.Augustine).
Bài đọc thứ nhất, trích từ Sách Khôn Ngoan, cũng nói về sự nhẫn nại của Chúa, với thánh thi ca ngợi sức mạnh của Chúa: "Nhưng dầu Chúa là chủ tể sức mạnh, Chúa xét xử nhân hậu, và Chúa cai trị chúng con với nhiều khoan dung,... Và Chúa đã dạy dân Chúa, bằng những việc làm này, là những kẻ công chính phải ở hiền lành, và Chúa ban cho con cái Chúa điều kiện tốt để hy vọng Chúa cho phép sám hối vì tôi lỗi của họ."
Hơn nữa, sự nhẫn nại của Chúa, không phải là một sự nhẫn nại đơn giản, nghĩa là chờ tới Ngày Phán Xét và lúc đó phạt theo thoả thích. Đó là sự nhẫn nhục, lòng thương xót và ý muốn cứu vớt. Do đó, trong Nước Chúa, không có chỗ cho những tôi tớ không biết nhẫn nại, cho những người không làm gì hơn là kêu xin Chúa phạt và thỉnh thoảng chỉ cho Chúa con người Chúa phải đánh.
Một ngày kia Chúa Giêsu quở trách hai môn đệ của Người muốn lửa mưa từ trời xuống trên những kẻ đã không tiếp rước Người (Lc 9:55). Có lẽ cũng phải quở trách như vậy đến một số người quá sốt sắng đòi công lý, hình phạt và báo oán những kẻ giữ cỏ lùng của thế gian.
Sự nhẫn nại của ông chủ ruộng cũng được chỉ như một gương mẫu cho chúng ta. Chúng ta phải chờ mùa gặt, nhưng không phải như những đầy tớ khó kiềm hảm, giữ chặt cái liềm, dường như nóng lòng thấy gương mặt của những kẻ dữ trong Ngày Phán xét. Ngược lại, chúng ta phải chờ như những người coi ý muốn của Chúa là của mình, là "tất cả mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý " (1 Tim. 2:4).
Do đó, một lời kêu gọi sống khiêm tốn và nhân hậu, là điều được gặt hái từ dụ ngôn hột giống và cỏ lùng. Chỉ có một đồng ruộng đúng đắn và cần thiết để nhổ ngay cỏ lùng, đó là từ chính lòng của mình!
50. Nước Trời được xây dựng trên lòng kiên nhẫn
Tiếp theo dụ ngôn người gieo giống, Chúa nhật hôm nay chúng ta được tiếp tục suy niệm các dụ ngôn về Nước Trời. Chúng ta cùng nhau dừng lại nơi dụ ngôn lúa và cỏ lùng. Ngày nay, người ta muốn diệt cỏ thì rất dễ dàng. Chỉ cần một bình xịt thì không bao lâu cỏ mà ta muốn diệt sẽ chết hết. Ngày xưa và nhất là nơi vùng đất Do thái không được như thế. Do đó, khi phát hiện trong ruộng có nhiều cỏ lùng người đầy tớ đã tức tốc chạy báo cho ông chủ. Đồng thời, anh cũng xin chủ cho mình ra ruộng nhổ và gom đi những cỏ lùng đó. Thế nhưng, ông chủ với thái độ bình thản và kiên nhẫn trả lời: "Đừng, sợ rằng khi gom cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa. Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt. Đến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt: hãy gom cỏ lùng lại, bó thành bó mà đốt đi, còn lúa, thì hãy thu vào kho lẫm cho tôi." (Mt 13, 29 - 30)
Thiên Chúa của chúng ta là Đấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và rất mực khoan dung (Tv 103, 8 ). Người không muốn một ai trong chúng ta phải hư mất. Chúa Giêsu đã nói: "Ta không đến để kêu gọi người công chính nhưng kêu gọi người tội lỗi" ( Mt 9, 13 ). Thiên Chúa không dung túng cho tội lỗi nhưng Người rất thông cảm cho sự yếu đuối và mỏng dòn của con người.
Chúng ta nhớ thời Cựu ước, dân Do thái không biết bao nhiêu lần bội nghĩa thất trung nhưng Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi họ. Những Tông đồ đầu tiên được Chúa Giêsu kêu gọi cũng là những người thất học, thậm chí có người tội lỗi công khai. Dù vậy, chính những người đó lại là nền tảng để xây dựng Giáo hội. Đúng như lời của một ai đã nói: "Không thánh nhân nào mà không có một quá khứ tội lỗi. Cũng như không có một tội nhân nào mà không có một tương lai rực sáng".
Có lẽ nhiều lúc chúng ta tự hỏi tại sao còn nhiều kẻ ác vẫn còn sống thoải mái. Thậm chí họ còn làm hại nhiều người lành nữa. Trời đất sao tiêu diệt những hạng người đó cho xong. Suy niệm dụ ngôn hôm nay chắc phần nào chúng ta sẽ tìm được câu trả lời. Thiên Chúa không bao giờ muốn ai trong chúng ta bị hư mất. Hãy cám ơn Chúa vì biết đâu có lúc chính ta lại là những cỏ lùng. Thiên Chúa vẫn luôn kiên nhẫn trông chờ chúng ta có thể trở thành cây lúa tốt.
51. Hiểu biết và kiên nhẫn
(Lm FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Câu dẫn nhập ngắn (c. 24a) liên kết dụ ngôn Cỏ lùng (13,24b-30) với hai dụ ngôn tiếp theo (cc. 31a.33a). Chủ đề “gieo giống” cũng là chủ đề của dụ ngôn trước; các từ móc là “gieo” (speirô), “giống” (sperma) và “ruộng” (agros).
Hai dụ ngôn ngắn, Hạt cải và Men (cc. 31-33), đưa chúng ta tới với diễn từ về các dụ ngôn Đức Giêsu giảng cho công chúng. Dụ ngôn Hạt cải, với một câu mở tương tự 13,24, được liên kết với dụ ngôn trước bằng những từ móc “con người” (anthrôpos), “gieo” (speirô), “ruộng” (agros) và “giống” (sperma). Dụ ngôn Men có nhiều điểm khác biệt hơn. Hai dụ ngôn này có bố cục song song trong phần thứ nhất, còn kết luận thì khác nhau.
Các câu 34-35 đưa tới một kết luận cho bài Diễn từ công cộng. Tác giả Mt đưa độc giả trở lại với cc. 2-3 và cc. 10.13. Câu 35b tương ứng với Tv 78,2 LXX, vì có số phức en parabolais (“Mở miệng ra, tôi sẽ kể các dụ ngôn); còn c. 35c không tương ứng với một bản văn Kinh Thánh nào cả và cũng không thuộc ngôn ngữ Mt.
Với c. 36a, chúng ta được đưa trở lại với Mt 13,1-2: thể văn đóng khung. Câu hỏi của các môn đệ kèm theo câu trả lời của Đức Giêsu được đối lại ở c. 51, với câu hỏi của Đức Giêsu và câu trả lời của các môn đệ.
2.- Bố cục
Nếu xác định cấu trúc theo kiểu quen thuộc của Mt, chúng ta có thể cho rằng đoạn văn đọc hôm nay có ba phần A, B và C, với một câu mở và một câu kết như sau:
Mở (13,24a)
A. Các dụ ngôn:
(1) Dụ ngôn 1: “Cỏ lùng” (13,24b-30):
a) Trình bày sự việc (cc. 24b-26),
b) Mẩu đối thoại giữa chủ nhà và các đầy tớ (cc. 27-30);
(2) Dụ ngôn 2: “Hạt cải” (13,31-32),
(3) Dụ ngôn 3: “Men” (13,33);
B. Lý do nói bằng Dụ ngôn (13,34-35);
C. Dụ ngôn Cỏ lùng được giải thích (13,36-42; c. 36 là câu dẫn nhập):
a) Giải thích bài dụ ngôn từng từ một (cc. 37-39),
b) “Bài khải huyền nhỏ” (cc. 40-43);
Kết (13,43).
3.- Vài điểm chú giải
- Cỏ lùng (zizania, 25): Đây là một loại cỏ ăn bám, độc hại. Khắp vùng Trung Đông đầy loại cỏ này. Nó bị coi là một dạng thoái hóa, biến chất, của lúa mì. Trong thân nó, có một thứ nấm thường tiết ra một chất độc.
- Hạt cải (31): Tiếng Hy Lạp là kokkos sinapeôs. Cây sinapi (ta tạm dịch là “cây cải”) là một loại cây rau thông dụng bên Paléttina, có thể cao tới ba hoặc bốn thước, dạng mộc với các cành tỏa rộng. Lá của nó có thể làm rau. Hạt của nó không phải là nhỏ nhất trong các loại hạt (đường kính khoảng 1mm), nhưng nhỏ nhất trong các loại hạt được người ta gieo trồng, được dùng làm mù-tạc, thuốc và thức ăn cho chim. Tục ngữ Do Thái dùng hạt này mà chỉ những gì nhỏ nhất. Sách Mishna coi cây cải đen (brassica nigra) là loại cây trồng ngoài cánh đồng. Nhưng tại Paléttina và nhiều nơi khác, người ta trồng trong vườn nhà.
- Nó trở thành cây to (32): Trong Cựu Ước, cây cho đàn chim trú ngụ là một hình ảnh quen thuộc để diễn tả một vương quốc hùng mạnh đảm bảo che chở các thần dân (x. Ed 17,23; 31,6; Đn 4,9; 11,18). Trong nền văn chương khải huyền, kinh sư hoặc targum, “chim” tượng trưng các dân ngoại đang kéo đến thật đông. Ở đây, Mt nêu bật đặc tính cánh chung của dụ ngôn khi phóng đại kích thước của cây rau thành “một cây to”.
- chim trời tới làm tổ trên cành (32): Chi tiết này không phải là không thể xảy ra, bởi vì chim chóc thích ăn hạt cải.
- vùi vào (33): dịch sát là “giấu trong” (enekrypsen). Động từ này đi với văn cảnh (x. cc. 35.44)
- ba thúng bột (33): “Thúng” là từ được chọn để dịch từ saton Hy Lạp. Saton là một đơn vị đo lường ngũ cốc và bột, tương đương với 13-15 lít. Đây là một lượng bột lớn, khi đã dậy men thì có thể làm ra bánh cho khoảng 150 người ăn. Mt nhấn mạnh đến tính hữu hiệu của men.
- công bố (35): Động từ “công bố”, ereugomai, hiếm khi được dùng. Nghĩa chữ là “mạc khải”, nhưng cũng có thể là “gây ồn ào”, “thốt ra”, “diễn tả”.
- các gương mù gương xấu (40): Trong Kinh Thánh, skandala nhắm đến những sự vật chứ không nhắm đến những con người (x. Mt 18,6-7). Đây là những điều làm cho người khác “vấp”, nghĩa là không đi vững vàng trong đường lối Thiên Chúa.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Nhìn vào cuộc sống, ta thấy Thiên Chúa ở trong tình trạng ẩn mình, Ngài không can thiệp cách rõ ràng hiển nhiên. Người ta có thể sống không cần và còn chống lại Ngài mà dường như chẳng phải chịu hậu quả gì. Ngài biến mất hoàn toàn đàng sau các thế lực và các quyền hành đang thống trị sân khấu thế giới và đang can thiệp vào trong đời sống chúng ta cách quyết liệt. Tất cả tình trạng này vẫn là một chướng kỳ khiến con người khó mà coi trọng Thiên Chúa và tin cậy nơi Ngài. Điều này cũng đúng cho bản thân và công trình của Đức Giêsu, đúng cho cả cộng đoàn các tín hữu là Hội Thánh. Do bản tính, chúng ta hướng về sự to lớn, sức mạnh, sự hào nhoáng, sự hiển nhiên, sự cao cả, chứ chúng ta không nghiêng về sự chờ đợi, sự kiên trì nhẫn nại. Các giáo huấn của Đức Giêsu hôm nay giúp chúng ta suy nghĩ lại cách suy tưởng và xử sự của chúng ta.
Đức Giêsu đến không như một nhà chiến thắng oai hùng, có sức thuyết phục và thống trị mọi người. Con đường Người theo và công trình của Người gây nhiều mệt nhọc. Cái chết của Người trong tình trạng bất lực và bị bỏ rơi dường như cung cấp một dấu chỉ rõ ràng cho thấy Người không đáng giá gì và ta không thể tin cậy nơi Người.
Đức Giêsu biết hoàn cảnh khó chịu này, nhưng Người không thay đổi cách xử sự: Người là và vẫn là Ngôi Lời Thiên Chúa đã làm người (x. Ga 1,14), Người đã đi vào trong tình trạng lệ thuộc, yếu đuối và mỏng dòn của cuộc sống con người. Người vẫn là Người Tôi Tớ của Thiên Chúa, không gây ồn ào, không tỏ ra hào nhoáng (x. Mt 12,15-21).
* Dụ ngôn 1: “Cỏ lùng” (24-30)
Tuy nhiên, Đức Giêsu cũng muốn giúp chúng ta hiểu đúng đắn hoàn cảnh này và ngăn cản chúng ta rút ra những kết luận vội vã. Chúng ta không được chỉ nhìn vào ngày hôm nay, và khép mình lại trong khoảnh khắc hiện tại. Dụ ngôn Cỏ lùng có mục đích ấy.
Dụ ngôn Cỏ lùng là một tấn kịch có hai cảnh. Cảnh thứ nhất diễn ra hai nhân vật và hành động đối lập: Trên cùng một mảnh đất, ông chủ và kẻ thù đã gieo hai loại giống khác nhau, lúa tốt và cỏ lùng là loại cỏ ăn hại. Cảnh thứ hai mở ra với sự can thiệp của các đầy tớ: Họ hỏi một câu hỏi thừa là chẳng lẽ ông chủ lại không gieo giống tốt, mà như vậy thì do đâu có cỏ lùng. Câu hỏi không cần thiết, nhất là bởi vì họ không hỏi vì sao có quá nhiều cỏ lùng như thế. Có ai lại ngạc nhiên khi thấy trong một thửa ruộng xuất hiện thứ cỏ không thể tránh được?
Câu trả lời của ông chủ thật đáng ngạc nhiên. Ông biết rõ ràng là kẻ thù đã làm điều đó. Tuy nhiên, có kẻ thù nào lại có ý tưởng đó và lại có đủ hạt giống cỏ lùng mà gieo ngay trong đêm như thế! Nếu họ lén lút gặt lúa chín hoặc đốt cánh đồng, thì còn dễ hiểu hơn. Đàng khác, gợi ý của các đầy tớ là nhổ cỏ lùng cũng dễ hiểu, vì người ta vẫn làm như thế. Vậy mà ông chủ lại không đồng ý, ông bảo: “Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt” (c. 30). Như thế, bài dụ ngôn không muốn mô tả cách làm ruộng thông thường.
Mọi chuyện trở nên rõ ràng khi đến cuối. Các thợ gặt, chứ không phải là các đầy tớ đã đến hỏi, trước tiên sẽ thu gom cỏ lùng, bó thành bó mà đốt đi. Thông thường người ta làm cách khác: cỏ lùng chưa được nhổ đi sẽ bị thợ gặt quẳng trên đất, sau đó được thu gom lại cho gà ăn hoặc để đốt đi.
* Dụ ngôn 2: “Hạt cải” (31-32)
Bằng dụ ngôn tiếp theo, Đức Giêsu mời độc giả quan tâm đến sự tương phản giữa hạt cải lúc đầu và cây to ở hồi kết thúc. Hạt cải là một thứ bé nhỏ và không đáng ai để ý, nhưng sẽ không cứ ở trong tình trạng nhỏ bé mãi; nó sẽ phát triển nhiều và mọi người phải nhìn nhận nó. Một chi tiết lạ: người nọ gieo “(chỉ) một” hạt cải trong ruộng/cánh đồng. Hẳn chúng ta nhớ lại bài dụ ngôn trước (13,24), nhưng ở đây rõ ràng không phải là vấn đề gieo và gặt, mà là vấn đề đặc tính của cây cải mà Đức Giêsu muốn vận dụng để giới thiệu Nước Trời.
Chuyện xảy ra cho Nước Trời cũng như vậy: khởi đầu trong tình trạng bé nhỏ, khiêm tốn; nhưng kết cuộc sẽ là một kết quả đầy sức thuyết phục. Dụ ngôn này là một lời “loan báo” đầy sức an ủi và khích lệ cho những ai chưa thấy các nỗi niềm chờ mong thiên sai được thể hiện nơi công trình của Đức Kitô.
* Dụ ngôn 3: “Men” (33)
Dụ ngôn về men lấy lại bài học của dụ ngôn trên. Hình ảnh “men” lấy từ nhà bếp. Bà nội trợ có thể mua men hoặc tự làm lấy. Đây là sự tương phản giữa phần khởi đầu nhỏ bé và khối lượng bột to lớn ở cuối. Khởi đầu với một chút men, không mấy ai để ý; nhưng trong đó đã chứa đựng tất cả sức bung mở trong tương lai. Như men đã được “giấu ẩn” trong bột, Nước Thiên Chúa lúc khởi đầu là một thực tại không ai thấy; chỉ sang giai đoạn thứ hai, ta mới thấy được sức mạnh của chút men ấy. Sự nhỏ nhoi khiêm tốn của chút men khiến làm ta không ngờ tới tác động của nó trên khối bột; đó cũng sẽ là tác động của Nước Thiên Chúa trong lòng nhân loại. Cũng như tình trạng nhỏ bé là một điều kiện quan trọng để hạt cải phát triển (c. 31), tình trạng giấu ẩn, hòa trộn với bột là điều kiện thiết yếu để cho men có thể tác động.
Động tác “vùi” (“giấu”) men vào trong bột hẳn muốn gợi ý đến tình trạng ẩn giấu của chân lý. Tình trạng ẩn giấu của sự thật trong các dụ ngôn (c. 35) và tình trạng ẩn giấu của kho báu trong ruộng (c. 44) tương ứng với men bị “vùi/giấu”. Hội Thánh có nhiệm vụ vén mở cho thấy chân lý giấu ẩn bằng lời nói và việc làm (10,26-27; x. 5,13-16). Khi làm như thế, Hội Thánh làm cho thế giới “dậy men”.
* Tại sao nói bằng Dụ ngôn? (34-35)
Tác giả Mt cắt ngang diễn từ các dụ ngôn bằng cách đưa vào một “bản tóm tắt” hoạt động rao giảng của Đức Giêsu. “Người không nói gì với họ mà không dùng dụ ngôn” (c. 34). Câu văn này được TM Mc dùng để kết thúc “phân đoạn” các dụ ngôn (x. Mc 4,33-34); được đưa vào trong văn cảnh Mt, ta không hiểu rõ lý do bao nhiêu. Rất có thể tác giả Mt đưa câu ấy vào đây để ngưng một chút trong diễn từ dài về các dụ ngôn và để đào sâu những nguyên do thần học đã đưa Đức Giêsu đến chỗ chuộng ngôn ngữ dụ ngôn hơn là ngôn ngữ thông thường (x. c. 11). Sau đó, câu 35 với hai vế song song (c. 35b và 35c) giúp hiểu rằng mục đích của Đức Giêsu là trình bày những gì dược giấu kín. Cũng như ở 13,14-15, ở đây lại xuất hiện mối bận tâm biện giáo của Mt, đó là xác nhận thể văn dụ ngôn bằng một chứng từ Kinh Thánh. Lần này ngài trích Tv 78,2, trong đó mầu nhiệm tạo dựng được kể dưới dạng các câu bí hiểm. Tác giả Mt coi mọi bản văn Kinh Thánh Cựu Ước có một giá trị ngôn sứ. Rõ ràng Kinh Thánh đã tiên báo là Đấng Mêsia sẽ nói bằng dụ ngôn! Tuy nhiên, dân chúng lại không hiểu những gì Người đã nói. Chỉ các môn đệ mới hiểu, nên bây giờ Người rút về nhà với các ông. Thật ra, dụ ngôn Men là dụ ngôn cuối cùng Đức Giêsu công bố từ trên thuyền cho dân chúng, rồi sau đó Người về nhà và tiếp tục bài giảng với các môn đệ (c. 36).
Vậy dân chúng ở lại bên ngoài. Họ đã làm điều gì xấu khiến Đức Giêsu phải quay lưng lại với họ như thế? Dựa theo ngữ cảnh của Mt 13, thì chúng ta phải nói: họ không làm gì xấu cả. Đây là cách tác giả báo trước những điều sẽ xảy ra trong cuộc sống tương lai của Đức Giêsu. Dân chúng sẽ đưa Đức Giêsu đến thập giá, có nghĩa là họ sẽ liên tục loại trừ các sứ giả cho đến khi loại được cả vị Sứ Giả tối cao.
* Dụ ngôn Cỏ lùng được giải thích (36-43)
Đức Giêsu bỏ đám đông đang nghe Người tại điểm này và cùng với các môn đệ về nhà, nơi xuất phát (x. 13,1). Nay Người giảng dạy cho các môn đệ. Đời môn đệ là như vậy: suốt đời, họ phải học với “vị thầy duy nhất” là Đức Giêsu (x. 23,8). Tác giả gọi bài này là “dụ ngôn các Cỏ lùng trong ruộng” (hê parabolê tôn zizaniôn tou agrou) vì bài học nhắm vào điểm này.
Đức Giêsu đã giải nghĩa từng hình ảnh một. Danh mục ở cc. 37-39 chuẩn bị cho phần áp dụng ở cc. 40-43. Kẻ gieo hạt giống tốt là Con Người. Đến c. 41, ta thấy Con Người chính là vị Thẩm phán trần gian. Người nắm trong tay không những công việc gieo giống, mà cả việc thu hoạch và như thế là toàn thể lịch sử thế giới. Trong TM Mt, Con Người là Chúa tể xét xử, Người tháp tùng Hội Thánh suốt hành trình xuyên qua tình trạng cô đơn, đau khổ, để đi đến sự sống lại. Ruộng là thế gian (chứ không phải là Hội Thánh; Hội Thánh luôn hiện hữu chỉ trong sứ mạng truyền giáo cho thế gian). Hạt giống tốt là con cái Nước Trời (x. 8,12). Chúng ta không biết chính xác “con cái Nước Trời” là ai, nhưng toàn thể TM I cho thấy làm thế nào, thay vì dân Israel, “Dân ngoại” (ethnê) mang hoa trái (x. 21,43) sẽ trở thành “con cái Nước Trời”. Các cỏ lùng là “con cái Ác Thần”. Kẻ thù là ma quỷ, nó vẫn đang hoạt động, như ở 13,19, trong lúc này. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên thần của cuộc phán xét.
Sau những giải thích chuẩn bị, bây giờ tác giả Mt diễn tả mối quan tâm của ngài; ngài nhấn mạnh trên khía cạnh tiêu cực. Cũng như chủ nhà sẽ thu gom cỏ lùng lại vào lúc gặt và “lấy lửa đốt đi” (x. 3,12), chuyện cũng sẽ xảy ra như thế cho các con cái Ác Thần vào lúc tận thế. Ở đây, trên mặt đất này, các sự việc “trộn lẫn” với nhau: bên cạnh những người tốt, có những kẻ xấu. Sự gần kề này là một chướng kỳ. Các môn đệ trong nhà phải để ý đừng thuộc về “những kẻ làm gương mù gương xấu” (skandala) và “những kẻ làm điều gian ác” (anomia), đang có cả ở bên trong lẫn bên ngoài Hội Thánh.
Thiên Chúa lại không phải can thiệp, ngăn cản những kẻ xấu hành động và chặn đứng tất cả những lối xử sự bất công của họ sao? Đây lại không phải là nhiệm vụ của Đấng Mêsia: tách biệt người lành kẻ dữ và thiết lập những tương quan vĩnh viễn trong sáng sao (x. 3,12)? Chúng ta nhớ đến phản ứng của Giacôbê và Gioan khi cả nhóm không được một làng Samari tiếp đón: “Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không?” (Lc 9,54). Đức Giêsu dùng dụ ngôn để dạy cho loài người chúng ta biết chấp nhận hoàn cảnh pha trộn này. Người không có nhiệm vụ chia cắt rõ ràng và vĩnh viễn người lành với người dữ. Người quy tụ các môn đệ quanh Người và dạy cho họ biết con đường của Người; như Người, cả họ nữa, họ cũng phải rảo qua con đường ấy trong thế giới này.
Nếu trong cuộc sống trần thế này, vẫn còn tình trạng gần kề, chưa tách biệt, điều đó không có nghĩa là hoàn cảnh này sẽ kéo dài mãi, là làm tốt làm xấu thì cũng như nhau! Đức Giêsu cho biết, số phận của người lành kẻ dữ sau này sẽ hoàn toàn khác nhau. Những người tốt, vì đã ra sức thi hành ý muốn của Thiên Chúa, sẽ được đón vào trong Nước Trời và thuộc về gia đình Thiên Chúa, sẽ được Ngài nhìn nhận là con cái (x. 5,9). Họ sẽ được sống trong ánh sáng và niềm vui chan hòa; chính họ cũng sẽ chói chan hạnh phúc. Những kẻ khác, vì đã không quan tâm đến thánh ý Thiên Chúa, đã đi theo tính ích kỷ và còn muốn lôi kéo người thân cận theo, sẽ bị loại khỏi cộng đoàn này.
+ Kết luận
Xuyên qua hình ảnh cỏ lùng, Đức Giêsu nói lên sự kiên nhẫn của Thiên Chúa đối với loài người: về phương diện thực vật, cỏ lùng không thể biến thành lúa tốt, nhưng trên bình diện thiêng liêng, kẻ xấu có thể trở thành người tốt, nếu họ được người khác nêu gương sáng, tác động để họ biết vận dụng những ơn lành Thiên Chúa vẫn ban cho họ.
Xuyên qua hình ảnh hạt cải và nắm men, Đức Giêsu cho thấy rằng một tình trạng khởi đầu không nổi rõ không có nghĩa là kết thúc cũng như thế. Chỉ đến cuối, khi cây cải đã lớn lên và bột đã dậy men, người ta mới biết có cái gì ẩn giấu trong hạt cải và men. Cũng thế, Nước Trời (Thiên Chúa) trên mặt đất đang hiện diện, không viên mãn và xán lạn, nhưng trong sức mạnh dồi dào, và sẽ tỏ rõ ra vào lúc kết thúc. Vậy, ai ước ao thuộc về Đức Kitô, cần phải có một tầm nhìn rộng rãi và kiên nhẫn.
Như vậy, Nước Thiên Chúa đã khởi sự với công việc loan báo Tin Mừng, nhưng tình trạng hiện nay còn rất khiêm tốn (chưa đủ thuyết phục) và không rõ ràng (người tốt kẻ xấu đang lớn lên với nhau). Chỉ sau khi đã trải qua một hành trình dài, trong tình trạng tranh tối tranh sáng, Nước Thiên Chúa mới tỏ hiện rõ ràng là một cuộc quy tụ toàn thể vũ trụ vào sống trong bình an của Thiên Chúa.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Phương pháp làm việc của con người và Thiên Chúa thật khác nhau. Tiêu chuẩn các đầy tớ nêu ra diễn tả một khát vọng vẫn dày vò các người của Thiên Chúa, như Giêrêmia, Gióp, những người nghèo của Đức Chúa. Gioan Tẩy Giả cũng đã chia sẻ mối bận tâm ấy khi giới thiệu Đấng Mêsia đến sẽ làm việc quyết liệt: như rìu đã đặt sẵn nơi gốc cây (x. Mt 3,10), như nia đã sẵn sàng để rê lúa (x. Mt 3,11; Lc 3,17); một phép rửa trong lửa đang chờ đợi mọi người (x. Mt 3,11; Lc 3,16). Người ta cũng tạo lập những nhóm “những người hoàn hảo” tách khỏi những người khác: đó là những người Pharisêu, “những người tách biệt”, và những người Exêni ở Qumrân, “các con cái ánh sáng”, “những người công chính”. Đây chính là những đầy tớ của ông chủ trong dụ ngôn. Tuy nhiên, vì có hiểu biết và kiên nhẫn vô biên, Thiên Chúa đã và vẫn xử sự cách khác.
2. Thiên Chúa không muốn triệt tiêu sự dữ, nghĩa là những kẻ dữ, nhưng muốn họ sống còn và sống chung với những người tốt. Hẳn là Ngài hiểu tính hợp lý trong đề nghị của các đầy tớ, nhưng Ngài đã phải xử sự ngược đời, là vì cỏ lùng sống đan quyện với lúa tốt, nên nếu nhổ cỏ lùng, thì khó tránh được chuyện nhổ cả lúa tốt. Với lại, nếu cỏ lùng không thể thành lúa tốt (về thực vật học), kẻ xấu lại có thể trở thành người tốt (trong đời sống thiêng liêng). Sự hiểu biết và kiên nhẫn của Thiên Chúa là nhằm cứu độ mọi người. Đàng khác, sự xấu và sự thiện đan quyện với nhau tinh vi đến nỗi không dễ gì mà phân tách ra. Thật ra không phải là với những cuộc tiêu diệt mà người ta xây dựng được Nước Thiên Chúa, nhưng là với sự kiên nhẫn và tin tưởng.
3. Những gì mà loài người thấy như là một chướng kỳ thật ra lại là một điều bí nhiệm nằm trong chương trình Thiên Chúa: sự bé bỏng và yếu đuối không gây phương hại mà đúng hơn lại tạo điều kiện cho thành công tương lai. Nếu Nước Thiên Chúa trở thành một định chế tự thỏa mãn về mình và hết là một hạt cải, thì Nước ấy thiếu mất điều kiện tăng trưởng. Chỉ khi biết mình yếu đuối, con người cậy dựa vào Thiên Chúa, con người mới nên mạnh mẽ (x. 2 Cr 12,9). Các tín hữu cần phải bỏ các điểm tựa và các duyên cớ trần tục, trở thành nghèo khó, khiêm nhường, yếu đuối, để Họi Thánh có được những đặc tính như Đấng Sáng Lập thần linh muốn cho có.
4. Dụ ngôn Men trong bột khiến chúng ta nhớ đến một phương pháp mục vụ mà các sứ giả Tin Mừng đều nhớ: họ được đề nghị sống âm thầm, khiêm tốn, nhỏ bé, để có thể chuyển sức mạnh Tin Mừng vào trong lòng thế giới và biến đổi thế giới từ bên trong. Một tư tưởng khác đến từ thư 1 Pr 1,1: “Tôi là Phêrô, Tông Đồ của Đức Giêsu Kitô, kính gửi những người được Thiên Chúa kén chọn, những khách lữ hành đang sống tản mác trong các xứ”. Các Kitô hữu sống tản mác, sống tình trạng diaspora. Trong tiếng Hy Lạp, diaspora là hành động gieo hạt: Vậy các Kitô hữu là hạt giống Thiên Chúa gieo vào trong thế giới, để cuối cùng toàn thế giới trở thành một cánh đồng của Thiên Chúa, mang những hoa quả tốt lành.
52. Sự kiên nhẫn và bao dung của Thiên Chúa
(Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Trong cuộc sống, chúng ta thường xuyên đặt ra cho mình thắc mắc hay được nghe những chất vấn của rất nhiều người như: “Tại sao Thiên Chúa lại để cho người dữ sống chung với người lành mà không tiêu diệt nó đi?”; hay “Tại sao kẻ ác lại gặp được may mắn, còn nhiều khi người tốt lại gặp phải thất bại?”; và “Trước thực trạng đó, chúng ta cần phải có thái độ nào? Có được phép tiêu diệt kẻ dữ để làm cho Giáo Hội được trong sạch không?”.
Hôm nay, chúng ta sẽ tìm thấy câu trả lời cho những vấn nạn trên qua ý nghĩa của ba dụ ngôn, đó là: dụ ngôn hạt giống và cỏ lùng, dụ ngôn hạt cải và dụ ngôn men bánh.
Qua ba dụ ngôn trên, ta thấy rất rõ cách hành xử của con người và Thiên Chúa hoàn toàn khác nhau. Cũng qua bài học của ba dụ ngôn trên, mỗi người chúng ta cần phải có thái độ sao cho phù hợp với thánh ý Thiên Chúa.
Trước tiên, chúng ta cùng xem cách hành xử của con người như thế nào?
1. Cách hành xử của con người
Vì mang trong mình sự hữu hạn của loài thụ tạo, nên chúng ta không thể thoát ra khỏi sự yếu đuối, bất toàn của kiếp nhân sinh. Tuy nhiên, thay vì cần có thái độ khiêm nhường như Đức Mẹ, thánh Phêrô, Phaolô, Âu tinh..., để tạ ơn Chúa và sửa sai hầu được tốt lành hơn, hay sẵn sàng cảm thông cũng như chia sẻ, nắm lấy tay nhau, dìu nhau đứng dạy và hướng tới sự thánh thiện, thì chúng ta nhiều khi chẳng khác gì những đầy tớ của ông chủ trong “dụ ngôn cỏ lùng”, luôn tìm cách triệt hạ những kẻ yếu đuối và bất toàn, để muốn giải quyết cho nhanh hầu được yên thân, xong chuyện: “Vậy ông có muốn chúng tôi nhổ cỏ đi không?”.
Thật vậy, đã nhiều lần chúng ta không đứng về phía bao dung để tha thứ, mà lại cảm thấy khó chịu và đòi hỏi mọi người phải thánh thiện, tốt lành, trong khi đó, chúng ta không hề xắn tay áo lên để cùng nhau giải quyết.
Thái độ của chúng ta là như thế đó. Luôn muốn loại bỏ cái xấu cũng như cả con người xấu cùng lúc. Tuy nhiên, xem ra thái độ này không được đảm bảo, bởi lẽ không hợp với thánh ý Thiên Chúa muốn.
Vậy ý muốn và cách hành xử của Thiên Chúa là gì?
2. Cách hành xử của Thiên Chúa
Qua dụ ngôn cỏ lùng, Đức Giêsu muốn giới thiệu cho chúng ta về bản chất của Thiên Chúa là: “Ðấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương” (Tv 103, 8).
Vì bản chất của Thiên Chúa là yêu thương, tha thứ và kiên nhẫn, nên trong mọi hoàn cảnh, biến cố, dù chúng ta suy nghĩ cách nào, tiêu cực hay tích cực, Ngài luôn tìm cách và dịp thuận tiện để hướng dẫn, dạy dỗ nhằm thể hiện tình yêu thương của Ngài và mong muốn chúng ta quay về để được tha thứ, yêu thương. Bởi vì “Ngài ghét tội chứ không ghét kẻ có tội”. Nên khi nghe đầy tớ đến xin cho phép được nhổ cỏ lùng ngay lập tức, thay vì thái độ ưng thuận, ông chủ đã ngăn chặn ngay và nói: “Đừng, cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt... sợ rằng khi nhổ cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa”. Cách hành xử này hoàn toàn khác với cách hành xử của con người mà chúng ta đã tìm hiểu ở trên.
Thật vậy, Nước Thiên Chúa đã đến nơi hành động của người gieo hạt. Tuy nhiên, Nước ấy được lớn lên ngay trong những thử thách qua hình ảnh cỏ lùng và lúa ở cùng với nhau, trà trộn vào nhau. Thời gian từ lúc gieo cho đến lúc gặt chính là thời gian kiên nhẫn chờ đợi của Thiên Chúa trong sự bao dung, nhẫn nại, để chờ đợi con người sám hối, ăn năn.
3. Sứ điệp Lời chúa và thái độ của chúng ta
Lời Chúa hôm nay muốn mời gọi chúng ta cần phải có thái độ như Thiên Chúa là: hiền từ, nhân hậu, bao dung và kiên nhẫn, để chịu đựng những điều xấu của người khác và dần dần tìm cách để hoán cải họ nhờ ơn Chúa Thánh Thần. Đồng thời cảnh tỉnh chúng ta tránh cho xa thái độ của những đầy tớ là ích kỷ, nóng vội, bảo thủ và bất bao dung.
Tại sao vậy? Thưa, vì chúng ta cần phải nhìn nhận rằng: “Kẻ dữ người lành đều là con cái Chúa, được Chúa thương yêu tất cả, chúng ta cũng phải thương yêu nhau và phải có thái độ khoan dung” (thánh Augustinô).
Thật vậy, Thiên Chúa là Đấng: “... cho mặt trời chiếu soi kẻ dữ cũng như người lành, và cho mưa trên người công chính cũng như kẻ bất lương”.
Khi Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở nên hiền từ, nhân hậu và kiên nhẫn, ấy là lúc Ngài muốn chúng ta có sự bình tâm để được thanh thản ngay trong những thử thách do người anh chị em chúng ta gây nên, đồng thời đợi chờ để kẻ tội lỗi có cơ may quay trở lại. Thật vậy, "Nước trời giống như hạt cải người kia gieo trong ruộng mình. Hạt đó bé nhỏ hơn mọi thứ hạt giống, nhưng khi mọc lên, thì lớn hơn mọi thứ rau cỏ, rồi thành cây, đến nỗi chim trời đến nương náu nơi ngành nó"; hay "Nước trời giống như men người đàn bà kia lấy đem trộn vào ba đấu bột, cho đến khi bột dậy men" là bằng chứng cho thấy thành công của sự kiên trì và chờ đợi trong hy vọng.
Mặt khác, Lời Chúa hôm nay cũng cho chúng ta thấy rằng: không vinh quang nào mà không có thánh giá. Không thành không nào lại thiếu mồ hôi và nước mắt. Vì thế, chúng ta phải luôn tỉnh thức và chiến đấu, nếu không kẻ thù là ma quỷ sẽ tiến lại và thỏa sức gieo cỏ lùng là tội lỗi... vào trong mảnh đất tâm hồn, hầu làm cho lương tâm chúng ta nhuốm màu đen tối của sự ác...
Làm được điều đó, chúng ta phải trở nên khiêm tốn để lắng nghe Lời Chúa hướng dẫn chứ đừng có tai mà không nghe, có mắt mà không thấy.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con đừng rơi vào thái độ khó chịu, bất mãn về những khuyết điểm nơi anh chị em. Xin cho chúng con nhận ra sự nhẫn nại của Thiên Chúa. Đồng thời biết phản ánh tình yêu của Thiên Chúa qua hành động, lời nói và thái độ của chúng con. Amen.
53. Chung đụng với lúa miến và cỏ lùng
(Lm Trần Bình Trọng)
Để giúp người nghe hiểu về sự phát triển của nước Trời, Chúa Giêsu dùng ba dụ ngôn để chuyển đạt ý niệm. Dụ ngôn về hạt cải ám chỉ nước Trời bắt đầu rất nhỏ bé như hạt cải với việc chọn có mười hai tông đồ. Dụ ngôn nắm bột dậy men ám chỉ việc bành trướng của nước Chúa lúc đầu cũng nhỏ bé. Và nước Trời được ví như một thửa ruộng được gieo hạt giống. Trong khi người gieo giống thiếp ngủ, thì kẻ thù đến gieo vãi cỏ lùng vực vào ruộng lúa của chủ như Phúc âm hôm nay ghi lại: Khi mọi người đang ngủ, thì kẻ thù của ông đến gieo thêm cỏ lùng vào ruộng lúa, rồi đi mất (Mt 13:25).
Theo ý nghĩa dụ ngôn thì lúa miến và cỏ lùng tượng trưng cho thiện và ác, sự lành và sự dữ. Thánh kinh dạy ta có sự hiện diện của sự dữ trong thế gian. Theo thần học và Thánh kinh công giáo thì thần dữ không chịu tuân phục Thiên Chúa. Như vậy sự dữ là sản phẩm của tự do mà Thiên Chúa đã ban cho loài thụ tạo: cho thiên thần cũng như loài người. Lucifer vì bất tuân phục Thiên Chúa, nên đã trở thành thần dữ. Ađam vì không vâng lệnh Thiên Chúa nên đã để cho tội lỗi lọt vào thế gian..
Vì thế bao lâu con người còn tại thế, thì thiện ác, tốt xấu, vẫn xen lẫn nhau như lúa miến và cỏ lùng và gây xung đột trong lòng người. Kẻ thù của nước Trời hằng rình chực lúc con cái sự sáng ngủ mê, không tỉnh thức cầu nguyện, không sống và thực hành lời Chúa, để gieo vãi cỏ dại là tội lỗi và các thứ tính mê nết xấu vào tâm hồn loài người. Dưới chiêu bài tự do: tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do tư tưởng và tôn trọng quan điểm cá nhân, người ta tự do gieo vãi hạt giống cỏ lùng vào thế gian, trong xã hội ta đang sống bằng đủ mọi phương tiện truyền thông xã hội như sách vở, báo chí, truyền thanh, truyền hình, phim ảnh, mạng tin tức hầu làm tắc nghẽn lời Chúa, làm sa đoạ lòng người, làm lũng đoạn vườn nho của Giáo hội. Tội ác phạm đến Chúa, đến tha nhân và đến chính mình xẩy ra hằng phút trên thế giới.
Loài người thường có khuynh hướng hay đổ lỗi cho quỉ. Hễ cái gì xấu xa, dơ bẩn hay tội lỗi, thì cho là tại quỉ. Vì thế mà người ta ví nghịch như quỉ, xấu như quỉ, ác như quỉ.. Có lẽ người ta ví nghịch như quỉ cho nên hoạ sĩ mới hay vẽ hình thằng quỉ có cái đuôi dài? Mà thực vậy, hễ con vật gì có đuôi dài là nó thường nghịch, chẳng hạn như con khỉ. Về phương diện này thì kể ra cũng tội nghiệp cho thằng quỉ. Không biết còn gì giống như quỉ nữa không? Có một linh mục Việt Nam kia, trước khi qua Mỹ tu nghiệp có gặp một linh mục Mỹ, học làm linh mục cho giáo phận Đà nẵng, sau khi mãn lính Mỹ ở Việt Nam. Linh mục người Mỹ nói với linh mục người Việt: 'Cha cứ sang đó mà coi. Nó lạnh như quỉ vậy!' Ông cha Việt nam nghĩ bụng từ trước tới nay đọc sách nói về hoả ngục với lửa sinh lửa diêm, thì phải nóng chứ. Sao bây giờ ông cha Mĩ lại ví: nó lạnh như quỉ vậy?
Hôm nay mỗi người cần nhận thức rằng nhiều cám dỗ để làm bậy là do khuynh hướng xấu trong con người chứ không hẳn là do ma quỉ bầy đặt. Đó chính là điều mà Thánh Phaolô đã nhận ra là có hai khuynh hướng hay hai lề luật phản nghịch nhau nơi loài người: Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì luật của Thiên Chúa; nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: luật này chiến đấu chống lại luật của lí trí và giam hãm tôi trong luật của tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể tôi (Rm 7:22-23). Thánh Phaolô muốn nói là thần trí ta muốn vươn lên, nhưng xác thịt cứ kéo ghì ta xuống.
Gương xấu và sự dữ trong thế gian giống như cỏ lùng, có thể gây ảnh hưởng xấu và làm hại ta bất cứ lúc nào. Và hậu quả của sự dữ có ảnh hưởng đến người xung quanh, tốt cũng như xấu. Để bảo vệ mùa gặt lúa trong Phúc âm hôm nay, đầy tớ đề nghị với chủ phải nhổ cỏ lùng. Tuy nhiên chủ lại bảo phải để cỏ lùng mọc chung với lúa miến, cho tới mùa gặt là lúc mà người ta mới có thể dễ dàng tách biệt lúa ra khỏi cỏ. Chủ trương để cỏ lùng mọc chung với lúa miến cho tới mùa gặt nói lên lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa và lòng khoan dung của Người mà ta cần phải học. Biết đâu người gian ác được ơn sám hối để trở lại cùng Chúa như sách Khôn Ngoan hôm nay ghi lại: Ngài đã cho con cái niềm hi vọng tràn trề là người có tội được Ngài ban ơn sám hối (Kn 12:19). Có những người có thể phản đối giải pháp trì hoãn này. Lý do họ đưa ra là nếu Giáo hội hay nước Chúa ở trần gian là phương tiện cứu rỗi thì phải diệt cội rễ của sự dữ và nết xấu. Tuy nhiên thời giờ tách biệt thiện hảo ra khỏi gian ác một cách hiệu quả và toàn diện thì chưa tới lúc. Bài học thứ hai ta cần học là thời giờ phán xét cũng là của Chúa và thuộc về Chúa.
Còn bài học thứ ba ta có thể rút tỉa trong Phúc âm hôm nay là việc thiện cũng như thói xấu đều bắt đầu bằng những việc nhỏ bé, nảy mầm từ những cám dỗ phạm những lỗi nhỏ, rồi đưa đến tội tầy đình. Việc luyện tập nhân đức cũng phải bắt đầu bằng những việc nhỏ bé dễ dàng. Vì thế mà ta cần luyện tập để thắng lướt những cám dỗ nhỏ trước để lấy đà hầu có thế thắng vượt cám dỗ lớn. Muốn được như vậy, ta phải tỉnh thức cầu nguyện, luyện tập nhân đức để có thể chống trả cám dỗ. Bao lâu còn tại thế, ta phải chung đụng với lúa miến và cỏ lùng: chung đụng với sự lành và sự dữ, tốt xấu và thiện ác. Vì thế ta phải canh chừng kẻo bị cỏ lùng lấn át.
Lời nguyện xin cho được ơn đứng vững trước cỏ lùng:
Lạy Chúa, mọi công trình Chúa tạo dựng đều là tốt đẹp.
Mà tội lỗi của thần dữ và ông bà nguyên tổ đã làm ra xấu.
Xin cho con được nhận thức rằng bao lâu còn tại thế
con phải chung đụng giữa cỏ lùng và lúa miến
trong xã hội loài ngưòi cũng như trong chính bản thân con.
Xin cho những người đang gieo vãi cỏ lùng vào thế gian
có được tâm hồn biết kính sợ Chúa.
Và xin cho con được đứng vững, khỏi bị cỏ lùng lấn át. Amen.
54. Cỏ lùng - hạt cải - men
Thiên Chúa tốt lành, yêu thương , nhân hậu, ban cho con ngưòi món quà lớn lao là tự do. Ngưòi còn nhẫn nại, chờ đợi và mong mỏi nguời tội lỗi hối cải để được sống. Vì Thiên Chúa có ơn cứu độ. Cuối cùng mới phán xét và thưởng phạt công minh.
*Thiên Chúa thưởng công việc lành cách bội hậu nhất là đời sau "phần thưởng đời đời". Đời đời sánh với đời nầy thì như hạt cải tí xíu mà lớn thành cây to đến nổi chim trời đến làm tổ được. Việc làm của đức tin. (đức tin bằng hạt cải). Có gieo thì mới có gặt dù chỉ gieo hạt cải. Không gieo thì lấy gì mà gặt.(không làm việc lành mà muốn Chúa ban nhiều ơn ).
*Men làm cho bột dậy men nhiều hơn và ngon hơn: Gương lành lôi cuốn những người xung quanh cũng tốt hơn.
CHÚ GIẢI
Là dụ ngôn về Nước Trời. Nói chuyện nước Trời.
- Nước trời ví như ngưòi kia gieo giống tốt trong ruộng mình: Thiên Chúa gieo Lời vào thế gian. Thế gian là tạo vật đã xuống cấp tệ hại. Xấu cùng khắp. Thiên Chúa gieo Lời là gieo giữa cỏ lùng.
- Kẻ thù đã làm đó: Từ xưa coi ma quỉ là kẻ thù. Mọi sự xấu đều dổ trên đầu nó. Đức Giêsu nói cái xấu là "tự lòng ta". Thiên Chúa ban trí khôn để con ngưòi biết lành biết dữ mà "làm lành lánh dữ" chứ đâu phải để làm dữ lánh lành. Ban cho tự do để dùng trí "khôn" chọn cái tốt mà làm cho mình tốt hơn (đâu phải để làm cái xấu mà thành xấu hơn). Ngưòi ta đã làm trái ý Thiên Chúa nên cái xấu đã tràn lan. Cỏ lùng cùng khắp. Ngay cả trong lòng Hội Thánh.
- Ông có muốn chúng tôi đi nhổ cỏ lùng không?: Có đen mới rõ trắng. Có cỏ mới thấy lúa quí. Kẻ lành phải lập công mới có công nghiệp. Cỏ lùng là thử thách của lúa. Kẻ dữ thử thách kẻ lành. Lữa thử vàng gian nan thử đức.
- Hãy để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt: Thiên Chúa tốt lành, yêu thương, nhân hậu thì nhẫn nại chờ đợi "người tội lỗi hối cải" để được sống. Thiên Chúa không muốn nó phải chết. Nhưng có mùa gặt. Có loại lúa 100 ngày, có thứ 120 ngày, có lúa mùa 6 tháng. Không có lúa 2509 ( hai năm không chín). Thiên Chúa chờ đợi nhưng tuỳ theo "khả năng hối cải " của mỗi người. Lúa mùa 6 tháng phải cho gạo ngon hơn. Mùa gặt cho cá nhân. Mùa gặt cho cả thế gian.
- Đến ngày mùa ta sẽ cho gom cỏ lùng mà đốt đi còn lúa tốt thì thu vào lẩm: Lạnh lùng! Lúa tốt mới thu vào lẫm. Không có van xin thương xót. Mà là phán xét và thưỏng phạt công minh.
- Hạt cải là hạt giống nhỏ nhất nhưng khi lớn lên lại là thứ lớn nhất: Không có hạt cải tự nhiên nào như vậy. Chỉ có hạt cải trong Nước Trời "Đức tin bằng hạt cải". Đó là việc lành tự nguyện do đức tin. Đời nầy thì gấp trăm ( ai bỏ cha mẹ...vì Thầy thì được lại gấp trăm ở đời nầy) đời sau thì đời đời. Được một chút đời đời thì cũng không thể tính nổi..
- Men làm cho bột dậy men: Làm bánh phải có men (bánh chai ăn không ngon). Bột dậy men sẽ nhiều hơn, bánh ăn ngon hơn. Ngưòi làm việc lành, gương lành sẽ làm cho xung quanh dậy men, xã hội tốt hơn. Hỡi ôi! Xã hội ngày càng xấu hơn vì cái xấu, gương xấu đầy dẩy, tràn lan.
Nhìn sơ thì thấy ba dụ ngôn rời rạc. Nhưng rất liên kết.
Thế gian - tạo vật- con người- xuống cấp tệ hại. Đâu đâu cũng chỉ thấy cỏ lùng.
Thiên Chúa là Đấng tốt lành, đầy lòng thương xót nên nhẫn nại chờ đợi "chậm bất bình và rất mực khoan dung". Chờ đợi người tội lỗi hối cải, gieo những hạt cải "đức tin", làm gương lành giúp cải tạo xã hội. Đường lối của Thiên Chúa tích cực. Không phải cứ phạm tội rồi xưng tội, Chúa tha, hết tội. Hay thậm chí đợi giờ chót rồi sám hối!Hoặc người ta rước cha giùm, Cha giải tội lòng lành, ban ơn toàn xá tha hết mọi phần phạt tạm, lên thiên đàng cái ục. Giữ đạo dễ lắm! Đã có ơn cứu độ "phổ quát" lên thiên đàng hết. Xin lỗi! lúa tốt mới được thu vào lẫm. Cỏ lùng thì đốt đi. Không có cọng cỏ nào được thu vào lẫm đâu.
Là cây lúa chưa đủ mà phải cho những hạt lúa tốt. Ngưòi tốt phải có việc lành, phải làm gương tốt. Phải làm lúa tốt cho tới mùa gặt nữa. Phải gieo những hạt cải đức tin. Một đời sống tốt Cho một ly nước với tư cách là môn đệ. Cho Chúa ăn cho Chúa uống, mặc, uống thuốc...
Có nhiều người gieo hạt cải, thì ruộng thế gian sẽ có lúa tốt, có bột, có men nữa thì có bánh ăn ngon.
Có nhiều đời sống "gương lành" giúp cải tạo môi trường xã hội thành Nước Thiên Chúa. Một vị thánh cải tạo thời đại mình rất nhiều. Hãy là thánh. Là Hội Thánh. Là Nước Trời đến.
Xin cho Nước Cha trị đến.
22/07 Hãy báo tin cho anh em Ta hay
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Hãy báo tin cho anh em Ta hay.
Thứ bảy tuần 15 thường niên – Thánh nữ Maria Mađalêna. Lễ KÍNH.
"Bà kia, sao mà khóc? Bà tìm ai?"
* Vốn là người phụ nữ tội lỗi đã được Chúa Giêsu ban ơn tha thứ, Maria Mađalêna đã hết tình phục vụ Người. Trong cuộc thương khó, khi các Tông Đồ mạnh ai nấy chạy thì thánh nữ đã can đảm đứng dưới chân thập giá Đức Giêsu, cùng với Đức Maria, tông đồ Gioan và một số phụ nữ khác. Đức Giêsu đã tưởng thưởng lòng trung thành đơn sơ của thánh nữ khi hiện ra với thánh nữ sáng ngày phục sinh và trao cho thánh nữ trách nhiệm loan báo Tin Mừng phục sinh cho các môn đệ của Người. Chẳng phải vô cớ mà phụng vụ Đông phương đã gọi thánh nữ là “tông đồ của các tông đồ”.
Lời Chúa: Ga 20, 1. 11-18
Ngày đầu tuần, Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm khi trời còn tối, và bà thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mồ.
(Bà liền chạy về tìm Simon Phêrô và người môn đệ khác được Chúa Giêsu yêu mến, bà nói với các ông rằng: "Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta để Thầy ở đâu".)
Bà Maria đang còn đứng gần mồ Chúa mà than khóc, nhìn vào trong mồ, bà thấy hai thiên thần mặc áo trắng đang ngồi nơi đã đặt xác Chúa Giêsu, một vị ngồi phía đàng đầu, một vị ngồi phía đàng chân. Hai vị hỏi: "Tại sao bà khóc?" Bà trả lời: "Người ta đã lấy mất xác Chúa tôi, và tôi không biết người ta đã để Người ở đâu?" Vừa nói xong, bà quay mặt lại, thì thấy Chúa Giêsu đã đứng đó. Nhưng bà chưa biết là Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu hỏi: "Bà kia, sao mà khóc? Bà tìm ai?" Tưởng là người giữ vườn, Maria thưa: "Thưa ông, nếu ông đã mang xác Người đi, thì xin cho tôi biết ông đã đặt Người ở đâu, để tôi đến lấy xác Người". Chúa Giêsu gọi: "Maria". Quay mặt lại, bà thưa Người: "Rabboni", nghĩa là "Lạy Thầy". Chúa Giêsu bảo bà: "Đừng động đến Ta, vì Ta chưa về cùng Cha Ta. Nhưng hãy báo tin cho các anh em Ta hay và bảo họ rằng: "Ta về cùng Cha Ta, cũng là Cha các con; về cùng Thiên Chúa Ta, cũng là Thiên Chúa các con".
Maria Mađalêna đi báo tin cho các môn đệ rằng: "Tôi đã trông thấy Chúa, và Chúa đã phán với tôi những điều ấy".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Người Bị Mạo Nhận
Ngoại trừ Mẹ Của Chúa Giêsu, trong các Phúc Âm ít có phụ nữ nào được viét đến nhiều và với đầy sự tôn kính bằng thánh nữ Maria Madalena mà Giáo Hội mừng lễ hôm nay.
Tuy nhiên, người ta có thể gọi Maria Madalena là thánh nữ của sự vu oan vì tuy các Phúc Âm nói đến ba phụ nữ cùng mang tên Maria, nhưng truyền thống trong Giáo hội Tây phương đồng hóa cả ba thành một người phụ nữ duy nhất. Bởi lẽ đó, Maria Madalena cũng được cho là người phụ nữ tội lỗi không được nêu tên trong đoạn 7 của Phúc Âm thánh Luca, người đã bất chợt đem bình dầu thơm xức chân Chúa Giêsu rồi lấy tóc lau và sau đó được Chúa Giêsu tha thứ mọi tội lỗi, vì bà đã yêu mến nhiều.
Ngày nay, người ta phân biệt ba thánh nữ mang cùng một tên Maria, mà từ lâu lịch phụng vụ của Giáo Hội Hy Lạp đã kính riêng rẽ. Ðó là Maria làng Bêtania, chị bà Martha và ông Lazarô. Rồi người phụ nữ đã được tha nhiều vì yêu mến nhiều và sau cùng là bà Maria Madalena, hoặc Maria làng Madala, người được Chúa chữa khỏi "7 quỷ dữ". Cách nói "7 quỷ dữ" này không thể hiểu là Maria Madalena đã sống một cuộc đời vô luân, nhưng chỉ có nghĩa là bà bị quỷ ám nặng nề.
Ðoạn 8 của Phúc Âm thánh Luca thuật lại hoạt động của thánh nữ Maria Madalena và một ít phụ nữ khác như sau: "Sau đó, Chúa rảo qua các thành, các làng mà rao giảng... Có nhóm Mười Hai đi với Ngài và ít phụ nữ đã được chữa lành khỏi quỷ dữ cùng bệnh hoạn: Maria gọi là người Madala, đã được đuổi khỏi 7 quỷ dữ và Gioanna... cùng nhiều bà khác: Họ đã lấy của cải mình mà trợ giúp Ngài".
Và con đường nối gót theo thầy Giêsu đã dẫn Maria Madalena từ Galilêa đến Giuđêa, cho tới chân thập giá và chính Marian Madalena cũng là người trước tiên tìm đến mộ Thầy, vào sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, để được thấy Chúa Giêsu Phục Sinh và được trao cho nhiệm vụ đi báo cho các tông đồ: "Hãy đi gặp anh em Ta và nói với họ: Ta lên cùng Cha ta và cũng là Cha anh em, Thiên Chúa của ta và Thiên Chúa của anh em".
Theo truyền thống Hy Lạp, sau này Maria Madalena đến sống tại Êphêsô cho đến khi qua đời.
Trải qua nhiều thế kỷ, thánh nữ Maria Madalena bị mạo nhận là người đàn bà tội lỗi. Nhưng thiết nghĩ: Thánh nữ chỉ mỉm cười và xác quyết rằng: "Sự mạo nhận này cũng không có gì là quá đáng, vì chúng ta tất cả là những người tội lỗi, cần thống hối ăn năn và cần ơn tha thứ của Thiên Chúa. Nhưng quan trọng hơn là chúng ta hãy chấp nhận sứ mệnh rao truyền Tin Mừng Phục Sinh qua cuộc sống chứng tá của chúng ta".
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Nồng Nhiệt Ði Tìm Chúa
Maria Mađalêna là mẫu gương cho chúng ta, mẫu gương với tình yêu nồng nhiệt đi tìm Chúa, một tình yêu luôn thao thức muốn được sống gần bên Chúa. Và vì thế mà sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, Maria vội vàng lên đường đi tìm Chúa. Ðây là quan tâm đầu tiên, quan tâm có ưu tiên trong cuộc sống của Maria, và khi chưa tìm được đối tượng là Chúa Giêsu trong ngôi mộ đã an táng Chúa, Maria đứng ngoài và khóc.
Chúa Giêsu phục sinh đã không để cho Maria gặp thử thách lâu. Chúa đến với Maria và gọi đích danh bà, rồi biến đổi cuộc đời từ bên trong để sai bà đi làm người chứng đầu tiên cho Ðấng phục sinh nơi các môn đệ Chúa. Trong biến cố được ghi lại trong đoạn Phúc Âm chúng ta vừa đọc lại trên đây, chúng ta thấy rằng để gặp được Chúa Giêsu, những cố gắng riêng của con người không mà thôi thì chưa đủ. Chính Chúa Giêsu phục sinh là người đi bước đầu, Chúa hiện ra và gọi: Maria. Chúa đáp lại thiện ý và cố gắng của Maria. Chúa luôn làm như vậy với tất cả những ai thành tâm tìm Chúa.
Chúng ta hãy noi gương Maria luôn đi tìm Chúa. Tìm Chúa trong lời cầu nguyện ngõ hầu cuối cùng chính Chúa mạc khải chính mình ra cho kẻ tìm Ngài, ngõ hầu chúng ta có thể nhận ra Ngài và loan báo cho anh chị em chung quanh: tôi đã gặp Chúa, tôi đã nhìn thấy Chúa.
Lạy Chúa,
Xin cho con được gặp Chúa. Xin đừng để con phải rời xa Chúa là Thiên Chúa mãi mãi.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Thánh Maria Madalena
Các Giáo phụ đã tranh luận và các nhà chú giải vẫn còn tìm hiểu xem Giáo hội có kính nhớ ba thánh nữ dưới cùng một danh xưng Maria Madalena hay không.
Người thứ nhất là một người nữ tội lỗi. Khi Chúa Giêsu vào nhà ông biệt phái Simon, một tội nhân vô danh đã được ơn tha tội, nhờ tình yêu bà bày tỏ trong việc xức dầu thơm vào chân Chúa rồi lấy tóc mà lau (Lc VII, 36-39).
Đàng khác, cũng chính việc thánh sử Luca (Lc VIII, 43-48) đã nói đến Maria Madalêna được Chúa Giêsu trừ quỉ cho. Thánh nữ là một trong số phụ nữ đã theo Chúa trong các cuộc hành trình của Người. Hiện diện trên đồi Calvê, Ngài cũng thuộc vào số các bà đem dầu thơm đến mồ xức xác Chúa. Ngài là người đầu tiên báo tin cho các môn đệ biết ngôi mộ trống. Trở lại mộ ngay sau đó, Ngài đã thấy và nói truyện với các thiên thần. Sau cùng, Ngài đã nhận ra Đâng Phục sinh mà thoạt đầu Ngài tưởng là một bác làm vườn (Ga 20, 1-18).
Maria Bêtania, là chị em của Matta và Lazarô đã ngồi dưới chân Chúa Giêsu mà nghe lời Người, trong khi Matta bận rộn chuẩn bị bữa ăn. Thế mà Ngài là người đã chọn phần tốt nhất, phần chiêm niệm (Lc 10,38-42). Khi Chúa Giêsu đến cứu sống Lazarô, thánh nữ vẫn giữ một phần tương tự. Ngài ngồi tại nhà cho tới khi Matta kêu Ngài tới gặp “thầy”. Ít ngày sau, Ngài đã xức dầu Chúa Giêsu (Mt 26,6-13).
Mặc dầu các sách Tin Mừng không bảo đảm đồng nhất ba khuôn mặt này thành một người và ý kiến các giáo phụ còn trái nghịch, nhưng Giáo hội Tây phương từ thế kỷ thứ VI đã đồng hóa thành một người. Sự đồng hóa này được diễn tả trong phụng vụ.
Với sự đồng hóa ấy, lòng đạo đức thường diễn tả thánh Maria Madalena như một phụ nữ có mái tóc dài, được Chúa Giêsu tha thứ nao nức đón nghe Lời Người. Bà đã được chứng kiến Laxarô sống lại. Tiên cảm được về thảm kịch khổ nạn, bà đã đổ dầu thơm quí giá lên chân Chúa Giêsu như một cuộc xức dầu cao cả. Hiện diện dưới chân thánh giá, bà sẽ được Chúa Giêsu thân ái gọi tên “Maria” buổi sáng phục sinh.
Sau đó, người ta không nghe nói gì về Maria Madalena nữa. Theo truyền thuyết, Ngài đã từ trần và được mai táng ở Ephêsô. Năm 889, hoàng đế Lêô VI đã chuyển thi hài thánh nữ về một tu viện ở Constantinople.
Suy niệm 4:
Mối tương quan thân thiết giữa Đức Giêsu và Maria Mađalêna
đã được một vài tác giả khai thác và dựng thành truyện.
Từ tiếng nức nở của Maria Mađalêna bày tỏ tình yêu với Thầy Giêsu
trong vở nhạc kịch nổi tiếng Jesus Christ Superstar của thập niên 70,
đến chuyện Đức Giêsu bị đóng đinh mà còn mơ lấy Maria làm vợ, đẻ con,
trong truyện Cơn Cám Dỗ Cuối Cùng của Nikos Kazantzakis.
Gần đây nhất là cuốn Mật mã Da Vinci đã hấp dẫn cả triệu người,
dù câu chuyện giữa Đức Giêsu và Maria Mađalêna hoàn toàn hư cấu.
Theo các sách Tin Mừng, Maria Mađalêna không hề là gái gọi.
Chị không phải là cô Maria ngồi dưới chân Chúa mà nghe (Lc 10, 39),
hay là cô Maria xức chân Chúa ở Bêtania bằng dầu thơm hảo hạng (Ga 12, 3).
Chị cũng không phải là người phụ nữ tội lỗi ở nhà ông Pharisêu (Lc 7, 36).
Maria Mađalêna là người quê ở vùng Mácđala, gần bên hồ Galilê.
Chị đã được Đức Giêsu trừ bảy quỷ,
và đã đi theo Thầy từ Galilê cùng các bà khác (Lc 8, 1-3; 23, 49. 55).
Chị đã theo Thầy đến tận Núi Sọ và đứng bên Thầy bị đóng đinh (Ga 19, 25).
Chị là người đầu tiên ra viếng mộ buổi sáng ngày thứ nhất (c. 1).
Không thấy xác Thầy, chị hốt hoảng chạy về báo cho hai môn đệ khác (c. 2).
Sau đó chị lại đến mộ lần nữa để tìm xác Thầy (c. 11).
Nếu không mến Thầy, chị chẳng thể can đảm theo đến cùng như vậy.
Ngôi mộ tự nó là nơi buồn, buồn hơn vì xác Thầy cũng không còn đó.
Những giọt nước mắt của chị làm ai cũng phải mủi lòng.
Thiên thần và Đấng phục sinh đều hỏi một câu giống nhau: Sao chị khóc?
Maria khóc vì thấy mình mất đi một điều quý báu.
Bận tâm duy nhất ám ảnh chị là tìm lại được xác Thầy.
“Chúng tôi không biết họ để Người ở đâu?”
Ba lần chị đã nói lời tương tự như thế (cc. 2.13.15).
Đấng Phục sinh đến với chị với dáng dấp của một ông làm vườn.
Ngài chạm đến nỗi đau của chị: Sao chị khóc?
Ngài chạm đến khát vọng của chị: Chị tìm ai?
Ngài gọi tên của chị bằng tiếng gọi quen thuộc: Maria.
Với giọng nói ấy, chị nhận ngay ra Thầy và reo lên: Rabbouni.
Đức Giêsu đã lau khô những giọt lệ của chị và cho tim chị vui trở lại.
Chị chỉ mong tìm được xác Thầy, thì lại gặp được chính Thầy đang sống.
Maria Mađalêna là người phụ nữ được thấy Chúa đầu tiên (c. 18),
và được Chúa sai đi loan Tin Mừng phục sinh cho chính các tông đồ (c. 17).
Đời chúng ta nhiều khi như ngôi mộ, mất mát và trống vắng.
Chúng ta đau đớn vì mất Chúa, mất những gì mình yêu quý xưa nay.
Nhưng nếu ngôi mộ không trống thì làm sao có Tin Mừng phục sinh?
Chỉ mong chúng ta tìm kiếm Chúa với rất nhiều tình yêu như chị Maria,
vì biết mình sẽ gặp được điều quý hơn cái mình đã mất.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa, Chúa đã chịu chết và sống lại,
xin dạy chúng con biết chiến đấu
trong cuộc chiến mỗi ngày
để được sống dồi dào hơn.
Chúa đã khiêm tốn và kiên trì
nhận lấy những thất bại trong cuộc đời
cũng như mọi đau khổ của thập giá,
xin biến mọi đau khổ cũng như mọi thử thách
chúng con phải gánh chịu mỗi ngày,
thành cơ hội giúp chúng con thăng tiến
và trở nên giống Chúa hơn.
Xin dạy chúng con biết rằng
chúng con không thể nên hoàn thiện
nếu như không biết từ bỏ chính mình
và những ước muốn ích kỷ.
Ước chi từ nay,
không gì có thể làm cho chúng con
khổ đau và khóc lóc
chỉ vì quên đi niềm vui ngày Chúa phục sinh.
Chúa là mặt trời tỏa sáng Tình Yêu Chúa Cha,
là hy vọng hạnh phúc bất diệt,
là ngọn lửa tình yêu nồng nàn;
xin lấy niềm vui của Người
mà làm cho chúng con nên mạnh mẽ
và trở thành mối dây yêu thương,
bình an và hiệp nhất giữa chúng con. Amen.
(Chân phước Têrêxa Calcutta)
Lm Nguyễn Cao Siêu SJ.
21/07 Con Người là chủ ngày Sabbat
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Con Người là chủ ngày Sabbat.
Thứ sáu tuần 15 thường niên.
"Con Người cũng là chủ ngày sabbat".
Lời Chúa: Mt 12, 1-8
Khi ấy, vào ngày Sabbat, Chúa Giêsu đi ngang cánh đồng lúa. Các môn đệ của Người đói, liền bứt bông lúa mà ăn. Thấy vậy, các người biệt phái thưa với Người rằng: "Kìa, các môn đệ của Ngài làm điều không được phép làm trong ngày Sabbat". Người nói với các ông rằng: "Các ông không đọc thấy Đavít và những người đi với ông đã làm gì khi đói lả sao? Các ông cũng không đọc thấy Đavít vào đền thờ Chúa ăn bánh trưng hiến, bánh mà ông và các kẻ theo ông không được phép ăn, chỉ trừ các tư tế được ăn mà thôi sao? Hay các ông không đọc thấy trong luật rằng: Ngày Sabbat, các tư tế trong đền thờ vi phạm ngày Sabbat mà không mắc tội đó sao? Tôi bảo cho các ông biết, đây có Đấng còn trọng hơn đền thờ nữa. Vì nếu các ông biết được điều này là, "Ta muốn lòng nhân từ, chứ không muốn hy lễ", chắc các ông không bao giờ lên án những người vô tội, vì chưng Con Người cũng là chủ ngày Sabbat".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Ngày Hưu Lễ
Chương 12 Tin Mừng Mátthêu qui tụ những tranh luận giữa Chúa Giêsu và các vị lãnh đạo Do thái giáo thời Chúa Giêsu về những đặc tính của nếp sống tôn giáo. Cuộc tranh luận hôm nay liên quan đến việc thực hành đạo đức căn bản của người Do thái, đó là việc giữ ngày Hưu lễ. Ðây là một thực hành quan trọng đến độ người Biệt Phái đã dùng việc Chúa Giêsu không tuân giữ luật Hưu lễ để lý luận và nói với dân chúng rằng Chúa Giêsu không phải là Ðấng đến từ Thiên Chúa, không phải là Ðấng Mêsia.
Việc dành riêng một ngày nghỉ cho Thiên Chúa đã bị lạm dụng đến mức việc tuân giữ ngày Hưu lễ không còn là do tình yêu mến tôn thờ đối với Thiên Chúa, nhưng là một hình thức ràng buộc con người. Qua cuộc tranh luận với những người Biệt Phái về việc giữ ngày Hưu lễ, Chúa Giêsu mở rộng cho chúng ta thấy giá trị tôn giáo đích thực của ngày Hưu lễ, và do đó phải sống tinh thần ngày Hưu lễ đó như thế nào?
Cuộc tranh luận của Chúa Giêsu đều được trình thuật đầy đủ trong các Tin Mừng Nhất Lãm, nhưng nơi Tin Mừng Mátthêu, tác giả lưu ý hai điểm: thứ nhất, quyền hành của Chúa Giêsu trên các việc thực hành đạo đức; thứ hai, lòng nhân từ có ưu tiên trên việc thực hành đạo đức. Trả lời cho thắc mắc của những người Biệt Phái tại sao các môn đệ Ngài không giữ luật Hưu lễ, Chúa Giêsu nhắc lại việc xẩy ra trong Cựu Ước liên quan đến Ðavít và những người tùy tùng khi đói, tức khi khẩn thiết, đã làm điều không được phép làm, hoặc việc các tư tế trong Ðền thờ không nghỉ ngày Hưu lễ mà cũng không mắc tội. Rồi Chúa kết luận: "Nếu các ông hiểu được ý nghĩa của câu này: "Ta muốn lòng nhân từ, chứ đâu cần lễ tế, ắt các ông sẽ chẳng lên án kẻ vô tội". Lòng nhân từ phải là căn bản cho những phán đoán của chúng ta đối với anh em; cần phải hành xử theo lòng nhân từ này hơn là chỉ xét đoán anh em theo những việc bên ngoài.
Vả lại, những việc đạo đức và việc nghỉ ngày Hưu lễ, là để con người đến gần Thiên Chúa, thế mà Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa đã hiện diện giữa họ, thì lòng đạo đức không còn là một cái gì tuyệt đối phải thi hành nữa. Các tư tế làm việc trong Ðền thờ ngày Hưu lễ mà không lỗi luật, thì các môn đệ Chúa Giêsu lỗi luật thế nào được, vì đã có Chúa Giêsu bên cạnh họ. Ngài là Con Thiên Chúa cao trọng hơn Ðền thờ. Chúa Giêsu muốn nhân dịp này để mạc khải chính Ngài là Ðấng Mêsia cao trọng hơn Ðền thờ và làm chủ cả ngày Hưu lễ; nhưng các người Biệt Phái không nhìn nhận điều này.
Xin Chúa giúp chúng ta vượt qua tinh thần vụ hình thức trong đời sống đức tin. Xin cho chúng ta tâm hồn nhân từ như Chúa để biết đối xử với người khác mỗi ngày một tốt đẹp hơn.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 2: Tinh Thần Vụ Hình Thức (Mt 12,1-8)
Cuộc tranh luận trên của Chúa Giêsu với những người biệt phái được tường thuật cách đầy đủ trong cả bốn Phúc Âm, nhưng nơi Phúc Âm thánh Mátthêu này thì tác giả xem ra muốn lưu ý độc giả hai điểm: thứ nhất là lòng nhân từ ưu tiên trên việc thực hành những việc đạo đức và thứ hai là quyền hành của Chúa Giêsu vượt lên trên những việc đạo đức.
"Ta ưa thích lòng nhân từ chứ không ưa thích của lễ". Lòng nhân từ phải là căn bản cho những phán đoán của ta đối với anh chị em. Cần hành xử theo lòng nhân từ này hơn là chỉ lo xét đoán anh chị em theo những việc bề ngoài. Hơn nữa, những việc đạo đức trong đó có việc nghỉ ngày sabát là để con người đến gần Thiên Chúa. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, đang hiện diện giữa các tông đồ, Người làm cho những việc đạo đức khác trở thành thứ yếu, bởi vì một khi đã đạt đến mục tiêu là sống hiện diện với Chúa rồi, thì những phương tiện, những việc đạo đức phải nhường chỗ. Nếu các biệt phái chấp nhận rằng các thầy tư tế làm việc trong đền thờ vào ngày nghỉ sabát sẽ không lỗi luật nghỉ sabát, thì những đồ đệ của Chúa Giêsu lỗi luật ngày sabát sao được vì đã có Chúa bên cạnh họ rồi.
"Ðây có Ðấng cao trọng hơn đền thờ". Chúa Giêsu dùng việc tranh luận để mạc khải về chính mình là Ðấng cao trọng hơn đền thờ, là Ðấng Thiên Sai, Ðấng dĩ nhiên có quyền trên ngày sabát. Ước chi chúng ta đừng xét xử anh chị em qua những việc đạo đức bên ngoài. Những việc làm này là điều tốt, đáng làm, nhưng không phải là tiêu chuẩn tuyệt đối để ta dựa vào mà xét xử anh chị em. Lòng nhân từ thì quan trọng hơn.
Lạy Chúa, Xin giúp con vượt qua được tinh thần vụ hình thức trong đời sống đức tin. Xin thương ban cho con tâm hồn nhân từ yêu thương như Chúa, để biết cảm thông và đối xử với anh chị em chung quanh mỗi ngày một tốt đẹp hơn.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 3: Những Luật Phải Vi Phạm.
Khi ấy vào ngày sa bát, Đức Giêsu đi băng qua một cánh đồng lúa; các môn đệ thấy đói và bắt đầu bứt lúa ăn. Những người Pha-ri-sêu thấy vậy, mới nói với Đức Giêsu: “Ông coi, các môn đệ ông làm điều không được phép làm trong ngày sa bát!” (Mt. 12, 1-2)
Các môn đệ đói.
Các môn đệ Chúa bị cơn đói dày vò. Luật ngày sa bát không cho phép các ông bứt lúa mà ăn trong ngày ấy. Các môn đệ vẫn cứ bứt lúa ăn. Các người Pha-ri-sêu cho đó là xì-căng-đan. Đức Giêsu dùng sự cố này để bày tỏ quan điểm của Người về ngày sa bát.
Quan điểm đó của Chúa, chúng ta biết rõ rồi. Ngày sa bát phải phục vụ con người… ngày sa bát được phép làm điều lành. Nếu những luật chi phối ngày sa bát đã nén cản trở yêu thương, ta không được làm nô lệ cho những luật ấy và ngần ngại vi phạm. Nhưng thực tế không phải là phạm luật, bởi lẽ có môt luật được đặt lên hàng ưu tiên và làm lu mờ mọi luật khác: Luật tình yêu. Để yêu thương để giúp người đang túng đói, ta đừng phải sợ thay đổi nội quy, tập tục và luật lệ.
Có những người đang đói.
Theo thói quen ta vốn nghĩ là mình không còn nô lệ cho những luật lệ bất công vốn ngăn trở ta phục vụ tha nhân. Ta lầm rồi đấy. Những luật ấy tuy không áp dụng cho việc tuân giữa này sa bát hoặc ngày chúa nhật, nhưhg nó vẫn tồn tại.
Trên thế giới có những người đang đói ăn. Có nhiều người đang đói ăn. Cónhững người đang chết đói. Cần phải cho họ ăn. Cần phải có đủ trí tưởng tượng và con tim mới giúp họ sống được. Những điều gì đang xảy ra. Có những luật ngăn cản người ta chừng nào hay chừng ấy trong công việc cứu giúp những con người đói khổ kia.
Những luật này, chính các nước giầu tự ấn định cho mình, không những để cho mình vẫn là những nước giầu có mà muốn khuếch trương thêm sự giầu có của họ. Những luật ấy chính chúng ta tự đặt ra cho mình để tiếp tục sống trong tiện nhgi xa hoa.
Ngày nào chúng ta mới dám vi phạm tất cả những luật lệ này để có được một con tim rộng mở biết yêu thương hơn nữa.
J.Y.G
Suy niệm 4:
Đức Khổng Tử đòi người quân tử phải có năm đức tính gọi là ngũ thường.
Đứng đầu của ngũ thường là lòng nhân.
Ngài viết: “Người quân tử mà bỏ đức nhân thì làm sao được gọi là quân tử?
Người quân tử dù trong một bữa ăn cũng không làm trái điều nhân,
dù trong lúc vội vàng cũng theo điều nhân (Luận Ngữ, IV, 5).
Trong giáo huấn của Đức Giêsu, lòng nhân có một chỗ đứng đặc biệt.
Hai lần câu này của ngôn sứ Hôsê được trích dẫn trong Mátthêu:
“Ta muốn lòng nhân, chứ đâu cần lễ tế” (9, 13; 12, 7).
Xem ra câu này không dễ hiểu, nên Ngài khuyên ta học cho biết ý nghĩa.
Giữ ngày sabát là điều rất quan trọng trong Do thái giáo.
Theo Luật Chúa, đó là ngày nghỉ ngơi, ngừng mọi công việc.
Đối với người Pharisêu, bứt lúa được xem như gặt lúa, nên là việc bị cấm làm.
Hành vi bứt lúa của các môn đệ bị coi là vi phạm ngày sabát.
Thay vì trách họ theo lời người Pharisêu, Thầy Giêsu lại bênh vực họ.
Ngài trưng dẫn trường hợp Đavít và các thuộc hạ khi đói bụng
đã ăn bánh thánh hiến vốn dành riêng cho các tư tế (Lv 24,5-9; 1 Sm 21,1-6).
Hiển nhiên đây là chuyện vi phạm Lề Luật vì có nhu cầu chính đáng.
Nếu chấp nhận chuyện Đavít thì càng phải chấp nhận chuyện của các môn đệ,
vì họ đi theo một Đấng mà Đavít phải gọi là Chúa (Mt 22, 43).
Luật giữ ngày sabát thật ra không phải là một đòi buộc luân lý tuyệt đối.
Các tư tế phải làm việc phụng sự Chúa, chuẩn bị các lễ vật vào ngày sabát.
Nếu họ được phép vi phạm ngày sabát mà không mắc tội (c. 5),
thì huống hồ là Thầy Giêsu và các môn đệ của Ngài,
những người làm việc cho Nước Trời, nhưng lại phải chịu đói nên mới bứt lúa.
Đức Giêsu không có thái độ bất kính với ngày sabát.
Nhưng Ngài là chủ ngày sabát, Ngài có quyền xác định điều gì được phép làm.
Ngài thấy gánh nặng đè lên con người bởi những cấm đoán chi li,
khiến con người ngột ngạt, mệt mỏi.
Giữ Luật phải đem lại cho con người hạnh phúc,
phải đi với lòng nhân.
Giữ Luật mà cứng nhắc, thiếu lòng nhân, lòng bao dung,
thì đó là thứ hy lễ Chúa không cần (Hs 6, 6).
Thật ra không có sự đối nghịch giữa luật lệ với lòng nhân.
Giữ luật là cách biểu lộ lòng nhân, vì luật trên hết là luật yêu thương.
Người giữ luật thực sự là người có khuôn mặt vui tươi và trái tim rộng mở.
Khi yêu thì người ta trở nên chi li.
Không phải chi li để xét đoán người khác.
Nhưng chi li vì thấy những nhu cầu nhỏ bé của tha nhân.
Chỉ xin giữ mọi luật lệ nhỏ bé thật chi li, chỉ vì yêu bằng tình yêu quá lớn.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu, vì con bé nhỏ,
nên xin yêu ngài bằng khả năng bé nhỏ của con.
Cho con biết yêu
những công việc bé nhỏ mỗi ngày,
những công việc âm thầm,
những bổn phận mà con làm vì yêu mến.
Cho con biết yêu những hy sinh bé nhỏ mỗi ngày,
vui lòng đón nhận những thánh giá tuy nhỏ,
nhưng làm tim con đau đớn.
Cho con biết yêu tinh thần bé nhỏ của trẻ thơ,
đơn sơ thú nhận mình yếu đuối và bất lực,
sung sướng nương tựa vào duy một mình Chúa.
Hơn nữa, xin cho con can đảm,
dám chọn những gì giúp con trở nên bé nhỏ hơn,
nhờ đó con vui tuoi phục vụ mọi người
và hạnh phúc khi thấy Chúa lớn lên trong con.
Mỗi lần bị cám dỗ tự cao,
xin cho con biết ngắm nhìn con đường Chúa đã đi,
con đường bé nhỏ và khiêm hạ.
Ước gì con được làm bạn của Chúa
trên đường từ Bêlem đến Núi Sọ,
và được ở bên Chúa trong Nước Trời. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
20/07 Ách của Ta êm ái
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Ách của Ta êm ái.
Thứ năm tuần 15 thường niên.
"Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng".
Lời Chúa: Mt 11, 28-30
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Hãy đến với Ta tất cả, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Hãy Ðến Với Chúa
Những kẻ vất vả mang gánh nặng mà Tin Mừng hôm nay nhắc đến được các nhà chú giải hiểu là những con người đơn sơ khiêm tốn, sẵn sàng để Thiên Chúa dạy dỗ hướng dẫn, như được nói đến trong đoạn Tin Mừng trước đó. Tâm hồn họ đã sẵn sàng, giờ đây, Chúa Giêsu mời gọi họ đến với Ngài để được Ngài nâng đỡ bổ sức cho; hay nói theo một bản dịch Kinh Thánh khác: để được Ngài giải thoát khỏi gánh nặng. Gánh nặng nào? Ðó là gánh nặng của lề luật mà các nhà thông thái chất trên vai những con người đơn sơ, hèn mọn. Họ bó gánh nặng đặt lên vai người khác, còn chính họ thì không muốn động ngón tay vào, như lời Chúa trách cứ thái độ giả hình của những người Biệt Phái. Tinh thần vụ luật, vụ hình thức đã làm cho những vị lãnh đạo Do Thái giáo không còn quả tim để thông cảm nữa.
Chúa Giêsu mời gọi dân chúng đến với Ngài để được Ngài giải thoát khỏi gánh nặng và được nâng đỡ bổ sức. Chống lại những người Biệt Phái, Chúa Giêsu đề ra một cái ách mới cho những ai chấp nhận Ngài. Ðây chẳng phải là không còn lề luật, bởi vì giáo huấn của Chúa Giêsu đòi hỏi không thua gì lề luật của Môsê. Nhưng đối với Chúa Giêsu, những kẻ tuân giữ luật Chúa được sức mạnh tinh thần nâng đỡ ủi an, đó là sức mạnh của Thánh Thần mà Ngài đã ban cho các môn đệ để họ tuân giữ luật Chúa, và như vậy luật Chúa trở nên nhẹ nhàng, dễ chu toàn.
Người Kitô hữu không lẻ loi một mình, không tự sức mình tuân giữ luật Chúa. Hằng ngày họ được Chúa nuôi dưỡng bằng chính Mình Máu Thánh Ngài và được ban cho tràn đầy Thánh Thần. Sống theo ơn soi sáng của Thánh Thần, họ sẽ cảm nghiệm được rằng đời sống đức tin với tất cả những hệ lụy, những đòi buộc của nó, sẽ không còn là gánh nặng, mà là niềm vui và sức mạnh trong mọi biến cố, mọi hoàn cảnh cuộc đời.
Xin cho chúng ta biết lắng nghe lời mời gọi đến với Chúa, tin tưởng vào Chúa và lấy tình yêu đáp trả tình yêu để "ách Chúa trở nên êm ái và gánh Chúa trở nên nhẹ nhàng" cho chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 2: Gánh Nặng Cuộc Ðời (Mt 11,28-30)
Theo các nhà chú giải thì những kẻ mệt mỏi và vất vả mà đoạn Phúc Âm nhắc đến là những kẻ đã được nói đến trước đó như là những con người đơn sơ, khiêm tốn, sẵn sàng để cho Chúa dạy bảo, hướng dẫn. Tâm hồn họ đã được chuẩn bị sẵn sàng. Giờ đây, Chúa mời gọi họ một cách tha thiết hơn. Hãy đến với Ngài để được Ngài nâng đỡ, an ủi. Nơi bản văn Kinh Thánh khác, câu quả quyết của Chúa Giêsu: "Ta sẽ nâng đỡ, an ủi" được chuyển dịch là: "Ta sẽ giải phóng họ khỏi gánh nặng". Và gánh nặng nào đây? Thưa, đó là gánh nặng phức tạp mà các nhà thông luật đặt ra đè năng trên vai những con người đơn sơ bé nhỏ, bắt buộc họ phải tuân giữ hết điều này tới điều khác.
Chúa Giêsu đã trách những người biệt phái, thông luật và giả hình như sau: "Họ bó những gánh nặng đặt trên vai dân chúng. Còn họ thì không muốn đụng ngón tay". Tinh thần vụ hình thức, vụ Lề Luật Môsê, đã làm cho những vị lãnh đạo dân Do Thái không còn có một quả tim để thông cảm nữa. Chúa Giêsu mời gọi dân chúng đến với Ngài để được giải thoát khỏi những gánh nặng của cuộc đời, khỏi những gánh nặng của luật lệ, vụ hình thức.
"Hãy mang lấy ách của Ta, ách êm ái, gánh nhẹ nhàng". Chống lại những người Pharisiêu, Chúa Giêsu đề ra cho những ai chấp nhận Ngài một ách mới, nhưng đây không có nghĩa là không còn luật lệ gì nữa cả. Không phải vậy, giáo huấn của Chúa Giêsu rất đòi hỏi không thua gì những đòi hỏi của luật Môsê. Nhưng kẻ tuân giữ Luật Chúa thì còn được sức mạnh Chúa nâng đỡ an ủi, đó là Thánh Thần sự thật mà Chúa Giêsu hứa sẽ ban cho các đồ đệ, để giúp các ngài tuân giữ Luật Chúa và như vậy khiến Luật Chúa trở nên nhẹ nhàng, dễ chu toàn.
Người đồ đệ Chúa không lẻ loi, không tự sức mình mà tuân giữ các giới răn, có Chúa Thánh Thần ngự trong họ, giúp họ hướng về Thiên Chúa mà họ gọi là Cha "Abba". Sống theo sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, người đồ đệ sẽ cảm nghiệm được rằng đời sống đức tin với tất cả những hệ luận của nó sẽ không còn là gánh nặng nữa, nhưng là niềm vui, sự ủi an và cả những thử thách.
Lạy Chúa,
Con hết lòng cảm tạ Chúa, vì tình thương bao la Chúa không ngừng nâng đỡ con. Con cảm tạ Chúa vì đã ban cho con hồng ân của Chúa Thánh Thần, để soi sáng, nâng đỡ con trong những lúc gian nan thử thách. Xin cho con được tin tưởng đến với Chúa, lấy tình yêu đáp lại tình yêu.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 3: Luật Đè Nặng, Luật Giải Thoát
“Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.” (Mt. 11, 28-30)
Ách lề luật
Chúa Giêsu hay ngỏ lời với đám người bình dân, Người thường gặp trên các nẻo đường. Họ là những con người nghèo khổ, bé mọn mà Phúc Âm rất hay nói đến. Cuộc sống của đám người này chẳng có gì là sung sướng. Một trong những lý do thực tế là họ đã phải tuân thủ quá nhiều luật lệ mà giới chức sắc thời đó đã áp đặt lên họ. Và bởi không sao giữ nổi hết những luật lệ tỉ mỉ đó, lên lương tâm họ đâm ra bối rối. Họ đâu có biết rằng trong nhiều trường hợp người ta đã lợi dụng họ.
Thời ấy luật lệ thường quá tỉ mỉ và thường bất công. Những người thấp cổ bé họng cứ phải lầm lũi phục lụy. Còn kẻ có địa vị ăn trên ngồi trước lại khôn khéo tìm kẽ hở để được miễn trừ luật. Gánh nặng quả đã đè năng lên vai những người bé mọn ấy.
Ách tình yêu.
Chúa Giêsu muốn giải thoát họ, người mời gọi họ đổi cái ách ngăn cản họ sống lấy cái ách mới sẽ làm họ sống. Ách đó chỉ gồm có một luật mà thôi: Luật tình yêu.
Nếu Chúa Giêsu bảo người ta phải mang ách là vì điều Người kêu gọi là đòi hỏi cấp bách phải thi hành. Con đường Người đặt cho ta đi quả là gay go, cánh cửa Ngài mở ra cho ai sẽ đi theo Người là cánh cửa hẹp. Thế nhưng Chúa bảo đó là ách êm ái nhẹ nhàng. Tất nhiên là người ta mang ách đó bởi vì tình yêu.
Khi ta cảm thấy ngột ngạt vì phải chu toàn những bổn phận, phải giữ những điều trung tín, phải tôn trọng những lời nói, phải thực hành những điều Phúc Âm truyền buộc thì chỉ có một lý do: Là vì không có tình yêu ở đấy. Khi không có tình yêu, chẳng có gì ý nghĩa. Khi có tình yêu trong công việc, mọi việc đều mang ý nghĩa. Và điều gì có thể coi như nặng nề, bỗng nhiên hóa ra nhẹ nhàng hơn nhiều.
J.Y.G
Suy niệm 4:
Sống làm người ở đời ai tránh được gánh nặng.
Chẳng phải chỉ những người bốc vác ở cảng mới mang gánh nặng.
Gánh nặng gắn liền với phận người.
Có gánh nặng gia đình, gánh nặng nghề nghiệp, gánh nặng tuổi tác.
Có gánh nặng buồn đau của quá khứ, gánh nặng lo âu cho tương lai.
Xem ra mỗi người không vác nổi gánh nặng của mình.
Ai cũng thấy có lúc cần đến người khác.
Đức Giêsu nhìn thấy những ai đang mang gánh nặng vào thời của Ngài.
Đặc biệt những kẻ phải giữ chi li hơn 600 điều luật của phái Pharisêu.
Luật Chúa lẽ ra phải đem đến niềm vui hạnh phúc,
thì lại trở thành “những gánh nặng chất lên vai người ta” (Mt 23, 4).
Đức Giêsu mời đến với Ngài tất cả những ai đang vất vả,
tất cả những ai chưa là môn đệ của Ngài.
Ngài hứa sẽ cho họ được nghỉ ngơi trong tâm hồn (cc. 28. 29).
Sự nghỉ ngơi ở đây chính là sự bình an sâu xa của người được cứu độ,
được hưởng các mối phúc ngay từ bây giờ,
và bắt đầu được sống trong ngày Sabát vĩnh cửu với Thiên Chúa.
“Hãy đến với tôi; hãy mang ách của tôi; hãy học với tôi.”
Lời mời của Đức Giêsu lôi kéo những ai vất vả đến với Ngài.
Ngài mời họ làm môn đệ và sống theo giáo huấn của Ngài.
Trong Cựu Ước, ách tượng trưng cho Luật Thiên Chúa ban cho Môsê
Đi theo làm học trò Đức Giêsu, không phải là không có ách.
Ách của Đức Giêsu chính là lời giáo huấn của Ngài.
Lời giáo huấn ấy chúng ta đã được nghe trong Bài Giảng trên núi.
“Ách của tôi êm ái và gánh của tôi nhẹ nhàng” (c. 30).
Nhiều người không hiểu tại sao Đức Giêsu lại bảo ách mình êm ái,
khi mà Ngài đưa ra những đòi hỏi triệt để hơn,
tận căn hơn những đòi hỏi của Luật được giải thích bởi Môsê.
Thật ra sự êm ái nhẹ nhàng không bắt nguồn từ việc được đòi hỏi ít hơn,
nhưng đến từ tình yêu của tôi đối với Đức Giêsu.
Bài Tin Mừng hôm nay có 7 chữ tôi.
Cái tôi hiền hậu và khiêm nhường của Đức Giêsu thu hút tôi mến Ngài
Chính tình yêu làm cho ách và gánh của Ngài trở nên êm nhẹ.
Người ta thấy nặng nề khi bị áp lực phải giữ các luật lệ bên ngoài,
nhưng lại dễ làm theo sự thúc đẩy của một tình yêu bên trong.
Tự do hơn và vui tươi hơn, đó là điều ta cảm thấy khi sống cho Giêsu.
Làm sao để việc giữ đạo, theo đạo, sống đạo,
không trở thành một gánh nặng đè trên người Kitô hữu?
Làm sao để chúng ta tự do hơn và vui tươi hơn khi đến gặp Giêsu
và tìm được sự nghỉ ngơi cho tâm hồn mình?
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã yêu trái đất này,
và đã sống trọn phận người ở đó.
Chúa đã nếm biết
nỗi khổ đau và hạnh phúc,
sự bi đát và cao cả của phận người.
Xin dạy chúng con biết đường lên trời,
nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.
Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu,
chúng con thấy mình được thêm sức mạnh
để xây dựng trái đất này,
và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.
Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa,
xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời
không làm chúng con quên trời cao;
và những vẻ đẹp của trần gian
không ngăn bước chân con tiến về bên Chúa.
Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con,
mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
19/07 Mạc khải cho kẻ bé mọn
- Viết bởi 19/07 Mac khai cho ke be mon
Mạc khải cho kẻ bé mọn.
Thứ tư tuần 15 thường niên.
"Chúa đã giấu không cho những người khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn".
Lời Chúa: Mt 11, 25-27
Khi ấy, Chúa Giêsu thưa rằng: "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy. Mọi sự đã được Cha Ta trao phó cho Ta. Và không ai biết Con trừ ra Cha; và cũng không ai biết Cha trừ ra Con và kẻ Con muốn mạc khải cho".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Cần Trở Nên Bé Mọn
Con người có thể khước từ Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa thì không bao giờ từ bỏ con người; Ngài luôn mời gọi con người trở về để lãnh nhận ân sủng và sự thật của Ngài. Thiên Chúa mời gọi mọi người, không phân biệt, nhưng từ phía con người có thể có một trong hai thái độ: thái độ của những kẻ bé mọn khiêm tốn để cho Chúa dạy dỗ; và thái độ của những kẻ thông thái, tự cao, cho mình thuộc một nhóm nhỏ tách rời khỏi đại đa số dân chúng.
Những kẻ thông thái được Chúa Giêsu trực tiếp nhắm đến trong Tin Mừng hôm nay là nhóm Biệt Phái đang đứng trong hành lãnh đạo sinh hoạt tôn giáo và chống đối Chúa. Họ đến với Chúa bằng con đường của sự thông hiểu về luật Môsê; họ cho rằng chỉ cần am tường lề luật Môsê trong Kinh Thánh cũng như trong truyền khẩu là con người có thể đến với Chúa: họ tự phụ mình biết Thiên Chúa, nhưng thực ra họ lìa xa Ngài.
Con đường Chúa Giêsu mạc khải để giúp con người đến với Thiên Chúa chính là Ngài, mà mỗi người chúng ta được mời gọi đón nhận với tâm hồn đơn sơ khiêm tốn: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy". Nếu cậy dựa vào sự khôn ngoan của mình, con người sẽ không gặp được Thiên Chúa, nhưng nếu để Chúa Thánh Thần hướng dẫn và nhờ qua Chúa Giêsu Kitô, con người có thể đạt tới sự thông hiệp với Thiên Chúa và được cứu rỗi: "Lạy Cha, con chúc tụng Cha, vì điều Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết, thì Cha lại mạc khải cho những người bé mọn".
Chúng ta cần trở nên những người bé mọn theo tinh thần Phúc Âm, để cảm nếm và sống hòa hiệp với Thiên Chúa. Ðức tin Kitô giáo hướng dẫn chúng ta đến một con người cụ thể, một vị Thiên Chúa chấp nhận sống với con người, chứ không phải những lý lẽ thần học cao siêu. Một con người khiêm tốn có thể có đức tin sâu xa hơn một nhà thông thái. Ðức tin là một hồng ân cần được lãnh nhận hơn là kết quả của sưu tầm trí thức của con người. Thánh Têrêsa Avila, tuy không học hành nhiều, nhưng đã có kinh nghiệm sống động về Thiên Chúa và đã trình bày kinh nghiệm thiêng liêng của mình một cách tốt đẹp, đến nỗi đã được đặt làm tiến sĩ Hội Thánh, vì giáo huấn của thánh nữ để lại là kho tàng thiêng liêng quý báu giúp mọi thành phần Giáo Hội đến với mầu nhiệm Thiên Chúa.
Dĩ nhiên, Chúa Giêsu không có ý loại bỏ những bậc thông thái, nhưng chỉ có ý cảnh tỉnh những ai cậy dựa vào sự thông thái rằng họ sẽ không đến được với Chúa, không có đủ điều kiện để lãnh nhận mạc khải của Chúa. Tuy nhiên, không thiếu những trường hợp có sự hòa hợp giữa thông thái và đức tin Kitô giáo. Thánh Tôma Tiến sĩ là một điển hình. Nói chung, thái độ khiêm tốn để Chúa soi sáng hướng dẫn là điều căn bản cần phải có luôn.
Xin Chúa mở rộng tâm hồn chúng ta để lắng nghe Lời Chúa với tâm hồn khiêm tốn, mến yêu. Xin cho chúng ta biết sống theo sự soi sáng của Thánh Thần để đến với Chúa và anh em.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 2: Kinh Nghiệm Thiêng Liêng (Mt 11,25-27)
Con người có thể khước từ Thiên Chúa nhưng Thiên Chúa thì không bao giờ từ bỏ con người, không bao giờ ngưng mời gọi con người trở về lãnh nhận ân sủng và sự thật Người ban cho nhưng không: "Hết thảy những ai mệt mỏi và vất vả hãy đến với Ta, Ta sẽ nâng đỡ, ủi an". Thiên Chúa mời gọi tất cả mọi người, không phân biệt một ai, nhưng từ phiá con người, khi đáp lại lời mời gọi của Chúa, mỗi người chúng ta có thể có một trong hai thái độ: thái độ đơn sơ, khiêm tốn đón nhận Chúa để cho Ngài hướng dẫn dạy dỗ; hoặc ngược lại, thái độ tự cao của kẻ cho mình là khôn ngoan, không cần đến Thiên Chúa.
Những kẻ khôn ngoan thông thái mà Chúa Giêsu nhắm đến trong đoạn Tin Mừng trên đây là những người biệt phái tinh thông Lề Luật và lãnh đạo sinh hoạt tôn giáo của dân Israel. Có thể nói, những kẻ khôn ngoan thông thái này đến với Chúa bằng con đường hiểu biết, nhất là sự thông thái Lề Luật Môsê. Họ nghĩ rằng chỉ cần am tường những Lề Luật của Môsê là họ có thể đến với Thiên Chúa. Họ ỷ lại vào sự hiểu biết và sự tự phụ cho mình biết rõ Thiên Chúa, nhưng thật ra, họ đang xa lìa Ngài.
"Lạy Cha, con chúc tụng Cha là Chúa trời đất, vì Cha đã giấu những điều đó ngoài những kẻ khôn ngoan thông thái, nhưng lại mạc khải cho chúng con, những kẻ bé mọn". Mỗi người chúng ta cần trở nên bé nhỏ đơn sơ theo tinh thần Phúc Âm để cảm mến và sống mầu nhiệm Thiên Chúa. Ðức tin Kitô hướng ta đến gặp một con người cụ thể, một vì Thiên Chúa chấp nhận đến với con người. Ðức tin Kitô không dựa trên những lý lẽ thần học cao siêu. Ðức tin là một hồng ân cần được khiêm tốn đón nhận hơn là kết quả của cuộc sống sưu tầm trí thức.
Thánh Têrêsa Avila tuy không được học hành nhiều nhưng có kinh nghiệm sống động về Thiên Chúa. Thánh nữ đã trình bày những kinh nghiệm thiêng liêng của mình cách tốt đẹp đến độ Ðức Thánh Cha Phaolô VI đã tuyên bố thánh nữ là tiến sĩ của Giáo Hội, bởi vì giáo huấn của thánh nữ để lại là kho tàng thiêng liêng quý báu giúp các thành phần Giáo Hội đến với mầu nhiệm Thiên Chúa. Dĩ nhiên, đoạn Tin Mừng hôm nay không có ý nói là Chúa Giêsu hoàn toàn loại bỏ những nhà thông thái, nhưng chỉ có ý cảnh tỉnh rằng những ai ỷ lại vào sự hiểu biết thông thái của mình, thì sẽ không đến được với Thiên Chúa. Không thiếu những trường hợp có sự hài hòa giữa sự thông thái và đức tin Kitô như thánh Thomaso thành Aquino. Trong mọi trường hợp, thái độ khiêm tốn chấp nhận để cho Thiên Chúa soi sáng hướng dẫn là điều căn bản cần phải có luôn.
Lạy Chúa,
Xin thương mở rộng tâm hồn cho con được lắng nghe Lời Chúa với hết lòng khiêm tốn và biết ơn. Xin thương giúp con sống theo sự soi sáng của Chúa Thánh Thần để đến với Chúa và anh chị em một cách dễ dàng và sâu xa hơn.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 3: Đường Lối Cư Xử Của Chúa
Vào lúc ấy, Đức Giêsu cất tiếng nói: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết điều này, nhưng lại mắc khải cho những người bé mọn.” (Mt. 11, 25)
Không giống như mọi người
Thiên Chúa không hành động như phần đông người ta, không suy nghĩ như họ, không xét đoán theo cùng tiêu chuẩn như họ.
Đối với phần đông, quy luật chung vẫn là: “Mạnh được yếu thua.” Người giầu có nhiều cơ may thăng tiến, kẻ nghèo thì họa chăng mới được, người khôn ngoan thông thái được mọi người kính trọng, hạng thứ dân ít học vốn bị coi thường. Kẻ có tiền, có quyền giống như: “Miệng quan có gang có thép.” Kẻ trắng tay lý lẽ cũng không. Ai có địa vị, người ấy có quyền ăn quyền nói, kẻ thấp hèn lên tiếng chẳng ai nghe.
Nhưng đối với Chúa lại khác hẳn, kẻ làm đầu phải trở lên người rốt hết, người rốt hết sẽ lên kẻ đứng đầu. Người mạnh trở lên yếu, kẻ yếu được lên mạnh, những bậc khôn ngoan thông thái đã bị giấú không cho biết những mầu nhiệm Nước Trời, trong khi những kẻ bé mọn lại được Chúa mặc khải cho những thực tại tuyệt vời ấy.
Lời tiên báo cho những kẻ bé mọn.
Khi thấy những người khôn ngoan thông thái bịt tai không nghe những lời giáo huấn của Chúa, còn những kẻ bé mọn lại dễ dàng tiếp nhận, Chúa Giêsu trong trạng thái hứng khởi, liền cất tiếng ngợi khen Cha.
Những kẻ bé mọn mà Phúc Âm nói đến ở đây, ta có thể gặp họ ở khắp nơi. Đó là những con người ít được học hành. Những người chẳng có địa vị cao trong xã hội, những người không thành đạt mấy trong cuộc đời, những người sống khiêm tốn. Họ có được sự nhạy bén để mở lòng ra đón nhận những sự thuộc về Chúa, một sự nhạy bén mà những người khác không có.
Nhưng những kẻ bé mọn của Phúc Âm cũng có thể là những người khôn ngoan và thông thái chân thật. Tuy nhiên không phải bất cứ người khôn ngoan thông thái nào cũng là chân thật cả. Mà chỉ có những ai không vênh vang kiêu hãnh về sự hiểu biết và khôn ngoan của mình mới là những người khôn ngoan thông thái chân thật. Chỉ có những người ấy mới có được tâm hồn của những kẻ bé mọn vậy.
J.Y.G
Suy niệm 4:
Bài Tin Mừng hôm nay là một lời nguyện tự phát của Đức Giêsu.
Đó là một lời tạ ơn, một lời ngợi khen của Con dâng lên Cha.
Đức Giêsu gọi Thiên Chúa bằng từ Abba thân thương gần gũi,
nhưng Thiên Chúa ấy cũng là Đấng siêu việt ngàn trùng,
Đấng quyền uy tối thượng, Chúa Tể cả trời đất (c. 25).
Đức Giêsu ca ngợi Cha vì hành vi mặc khải của Cha cho con người.
Cha có một kế hoạch cứu độ nhân loại qua Con của Cha là Đức Giêsu.
Và Cha muốn vén mở kế hoạch đó cho con người biết.
Có những người đã thành tâm đón nhận, và có những người cố ý từ chối.
Nhưng tất cả đều không nằm ngoài chương trình của Cha (c. 26).
Lối nói kiểu Do thái của Đức Giêsu có thể khó hiểu đối với ta ngày nay:
“Cha đã giấu các điều này trước những người khôn ngoan thông thái.”
Thật ra, chẳng phải Thiên Chúa ghét bỏ hay phân biệt đối xử,
vì Ngài muốn cho mọi người được cứu độ (1 Tm 2, 4).
Chẳng phải Cha ghét bỏ các người khôn ngoan và cổ võ sự ngu dốt.
Ngài cũng không che giấu mầu nhiệm Nước Trời trước một ai.
Nhưng quả thật ai tự hào, tự mãn với hiểu biết khôn ngoan của mình,
và khép lại trước những gì vượt quá trí hiểu nông cạn của họ,
người ấy sẽ không có cơ may đón nhận được mặc khải của Thiên Chúa.
Một số kinh sư và người Pharisêu giỏi giang về Sách Thánh và truyền thống,
đã không thể đón nhận được cái hoàn toàn mới mẻ nơi giáo lý Đức Kitô,
vì họ quá bám víu vào cái biết cũ mà họ coi là tuyệt đối.
Nhưng các người bé mọn, ít tri thức và sách vở, lại dễ dàng đón nhận hơn.
Họ hồn nhiên mở ra trước mặc khải của Thiên Chúa qua Đức Giêsu.
Chính vì thế họ biết được những điều sức người không thể nào đạt tới.
Câu cuối (c. 27) là một mặc khải lớn của Đức Giêsu trong tư cách là Con.
Ngài cho thấy giữa Cha và Con có sự hiểu biết nhau cách độc nhất vô nhị.
“Không ai biết rõ Con trừ ra Cha và không ai biết rõ Cha trừ ra Con…”
Sự hiểu biết nhau thân tình và sâu xa này
như thể tạo ra một thế giới riêng giữa Cha và Con.
Muốn biết Cha phải nhờ Con, Đấng duy nhất có đủ thẩm quyền mặc khải.
Hơn nữa, muốn biết Con cũng phải nhờ Cha mặc khải.
Phêrô phải nhờ Cha mới biết được Đức Giêsu là ai (Mt 16, 17).
Nói chung Cha và Con làm nên một thế giới riêng tư, nồng ấm.
Nhưng thế giới ấy lại không khép kín, mà mở ra để mời con người vào.
Cha và Con đều muốn mặc khải thế giới ấy cho con người.
Cha đưa ta gặp Con, Con đưa ta gặp Cha.
Chỉ cần gặp Con hay Cha là có thể bước vào thế giới đó, để gặp cả Cha và Con.
Chị Edit Stein là một phụ nữ Do thái được coi là thông thái, trí tuệ.
Chị đậu tiến sĩ triết học với hạng tối danh dự tại Đức.
và là người cộng tác với ông tổ của Hiện tượng luận là triết gia Husserl.
Việc tìm kiếm Chân Lý đã dẫn chị đến với đạo Công giáo.
Chị đã đi tu Dòng Kín Cát Minh và đã bị giết tại trại giam của Đức quốc xã.
Chị Bênêđícta Thánh Giá được phong thánh năm 1998 bởi Đức Gioan Phaolô II.
Sự thông thái khiêm tốn đã giúp Chị gặp được Nước Trời như một kẻ bé mọn.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện
và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,
khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu
để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
18/07 Đón nhận và sám hối
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Đón nhận và sám hối.
Thứ Ba tuần 15 thường niên.
"Trong ngày phán xét, Tyrô và Siđon sẽ được xét xử khoan dung hơn các ngươi".
Lời Chúa: Mt 11, 20-24
Khi ấy, Chúa Giêsu quở trách các thành đã chứng kiến nhiều phép lạ Người làm mà không chịu sám hối: "Hỡi Côrôzain, khốn cho ngươi! Hỡi Bethsaiđa, khốn cho ngươi! Vì nếu đã xảy ra tại Tyrô và Siđon các phép lạ diễn ra nơi các ngươi, thì họ đã mặc áo nhặm, rắc tro mà ăn năn hối cải từ lâu rồi. Nên Ta bảo các ngươi: Trong ngày phán xét, Tyrô và Siđon sẽ được xét xử khoan dung hơn các ngươi.
"Còn ngươi, hỡi Capharnaum, chớ thì ngươi nhắc mình lên tận trời sao? Ngươi sẽ phải rơi xuống địa ngục, vì nếu các phép lạ diễn ra giữa ngươi mà xảy ra tại Sôđôma, thì thành ấy đã tồn tại cho đến ngày nay. Vậy Ta bảo thật các ngươi: Trong ngày phán xét, Sôđôma sẽ được xét xử khoan dung hơn ngươi".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Lắng Nghe Lời Chúa
Văn minh càng tiến bộ, càng lôi kéo con người đến sa đọa và hủy hoại nền tảng gia đình và xã hội. Ngay từ thời xa xưa, các Tiên Tri trong Cựu Ước đã thấy được hiểm họa ấy. Việc chúc dữ các đô thị là một trong những đề tài nổi bật trong lời rao giảng của các ngài. Sôđôma, Gômôra, Babylon, Tyrô, Siđôn là đối tượng của những lời rủa xả nặng nề nhất của các tiên tri. Những đô thị này không những là nơi phát sinh những sa đọa luân lý, mà còn là biểu tượng của óc tự mãn, sự tôn thờ ngẫu tượng của con người.
Chúa Giêsu cũng tiếp tục truyền thống tiên tri ấy khi Ngài lên tiếng chúc dữ một số thành phố như Corazin, Betsaida. Cuộc sống vật chất sung túc làm cho con người sa đọa, đồng thời chối bỏ tương quan với Ðấng Tạo Hóa. Con người được tạo dựng không phải để sống đơn độc một mình; chính trong tương quan với tha nhân mà con người nên thành toàn hơn, do đó gia đình và xã hội là nhân tố thiết yếu cho sự phát triển toàn diện con người.
Làng mạc, thành phố, đô thị, tự nó là những xã hội cần thiết để con người xây dựng các tương quan và nhờ đó phát triển nhân cách. Tuy nhiên, thay vì giúp con người phát triển, các đô thi thường lại đày đọa con người vào nỗi cô đơn và chối bỏ mối tương quan với Thiên Chúa. Sự trống rỗng trong lòng người dân đô thị cũng là dấu chỉ sự vắng bóng Thiên Chúa. Kinh Thánh không ngừng nhắc nhở con người biết rằng chỉ trong Thiên Chúa, con người mới có thể tạo được tương quan đích thực giữa người với người. Loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, con người không những rơi vào sa đọa, mà còn cắt đứt mọi tương quan với tha nhân.
Lắng nghe Lời Chúa, đó là bí quyết để xây dựng cuộc sống xã hội, thắt chặt quan hệ với tha nhân và trở nên thành toàn. Ðó là điều Chúa Giêsu muốn nhắn nhủ chúng ta trong Tin Mừng hôm nay: con người không thể xây dựng một xã hội tốt đẹp, nếu loại bỏ Thiên Chúa và những giá trị thiêng liêng ra khỏi cuộc sống.
Nguyện cho Lời Chúa soi sáng và hướng dẫn chúng ta trong cuộc sống, để khi mưu sinh và xây dựng xã hội, chúng ta biết đặt Thiên Chúa vào trọng tâm cuộc sống, đeo đuổi những giá trị thiêng liêng và xây dựng tình người.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Ăn Năn Thống Hối (Mt 11,20-24)
Bài Tin Mừng hôm nay là lời khiển trách của Chúa Giêsu đối với cư dân thuộc các thành phố tại miền Galilêa, nằm gần bờ hồ Tibêria. Ba thành phố đó là Khôradin, Bétxaiđa và Caphácnaum. Thành phố Khôradin nằm cách ba cây số về hướng đông bắc của Caphácnaum. Thành Bétxaiđa là quê hương của tông đồ Philiphê, Phêrô, Andrê - em ông Phêrô. Thành Caphácnaum được đặc biệt gọi tên là thành của Chúa Giêsu, nơi Chúa thường hay lui tới, sau những lần rao giảng Tin Mừng qua vùng phụ cận. Tắt một lời, đây là những nơi mà dân chúng ít nhiều đã chứng kiến tận mắt, và được hưởng phúc lành những phép lạ của Chúa, đã được nghe những lời giảng dạy của Người. Thế nhưng, không phải tất cả đều tin nhận Chúa.
Chúa Giêsu đã dành cho dân chúng tại ba thành phố nhiều ơn lành. Thế nhưng, họ không ý thức, không biết quý trọng lắng nghe, không thay đổi đời sống, trở lại với Người. Mục tiêu Chúa nhắm đến là sự ăn năn thống hối của những ai nghe lời Chúa, để lãnh nhận ơn cứu rỗi. Hơn nữa, sự tự phụ, kiêu ngạo của dân thành Capharnaum càng cao, thì sự hủy diệt họ càng nặng nề. Ân huệ được trao ban cho ai nhiều, thì người đó sẽ phải trả lẽ, phải chịu trách nhiệm nhiều hơn.
Những lời khiển trách của Chúa Giêsu có thể được xem như là những lời tổng kết về kết quả của các vụ rao giảng của Chúa tại miền Galilêa. Chúa Giêsu đã thu nhập những môn đệ tại vùng này, nhưng đây chỉ là sự đáp trả của một thiểu số, còn đa số thì vẫn lơ là, không màng chi, dù được chứng kiến những phép lạ Chúa đã thực hiện. Những phép lạ này là dấu chỉ trên Nước Chúa,là lời cảnh tỉnh và thôi thúc con người ăn năn trở lại cùng Thiên Chúa: "Hãy ăn năn thống hối, vì Nước Trời đã gần bên". Chuyện xưa còn mang tính thời sự cho ngày hôm nay, Lời Chúa và những việc kỳ diệu Thiên Chúa vẫn còn tiếp tục thực hiện trong lịch sử con người, cách riêng trong cuộc đời mỗi người chúng ta. Lòng ăn năn thống hối phải là bước đầu tiên chuẩn bị chúng ta tin nhận Chúa. Xin hãy thương ban cho con một quả tim mới, một tinh thần mới, để con đừng hoang phí hồng ân Chúa ban cho con.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Chúa Giêsu Đe Dọa
Bấy giờ Người bắt đầu quả trách các thành đã chứng kiến phần lớn các phép lạ Người làm mà không sám hối:
“Khốn cho các ngươi, hỡi Khô-ra-din! Khốn cho ngươi, hỡi Bét-xai-đa! Vì nhiều phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Xi-đon,thì họ đã mặc vải thô, rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối.” (Mt. 11, 20-21)
Khi Thiên Chúa tỏ mình ra cho người ta cùng một cách. Người hiện diện với những người này hơn với những người kia. Người nói rất rõ ràng cho người này, tối tăm khó hiểu cho người khác. Người luôn sử sự như vậy đó.
Khi Chúa Giêsu chưa đến ở giữa chúng ta, Thiên Chúa duy trì mối liên hệ đặc biệt với dân Ít-ra-en. Chẳng một dân tộc nào mà được Chúa dùng các ngôn sứ mà nói với họ, như đã nói với dân tộc này. Chẳng một dân tộc nào đã được nhìn xem kỳ công của Chúa, như Chúa đã dùng mà tỏ mình ra cho dân tộc này vậy. Đường lối ấy, Chúa vẫn tiếp tục. Khi Đức Giêsu đã sinh ra-Xứ Pa-lét-tin lại được Chúa ưu đãi. Nhưng Chúa Giêsu cũng không tỏ mình đồng đều ở khắp nơi. Chúa đã làm nhiều phép lạ hơn, và giảng dạy rõ ràng hơn ở những miền này hơn là những miền kia.
Chúa làm như vậy để gây hiệu quả. Đến ngày phán xét, những ai đã lãnh nhiều, sẽ bị đối xử nghiêm nhặt hơn. Chỉ là công bình thôi. Cho ai nhiều hơn thì đòi người ấy nhiều hơn.
Chúng ta hãy coi chừng
“Khốn cho ngươi, hỡi Kho-ra-din! Chúa phán, khốn cho ngươi hỡi Bét-xai-đa! Khốn cho ngươi, hỡi Ca-phác-na-um!…vì đến ngày phán xét, đất Xơ-đôm còn được xử khoan hồng hơn các ngươi” Lời đe dọa này thật dễ hiểu. Những thành phố này đã lãnh nhận nhiều hơn từ nơi Chúa Kitô. Nhưng chính họ lại tỏ ra lì lợm và cứng lòng tin hơn. Họ phải gánh lấy hậu quả vì không đón nhận Người và tin vào Người.
Chúng ta đang sống trong một đất nước mà đức tin Kitô giáo đã phát triển tứ lâu năm và sâu xa. Những cơ may cho ta gặp gỡ Đức Kitô và nhận biết Phúc âm đã và vẫn còn rất nhiều. Có thể là lời đe doạ của Đức Kitô cũng nói cho chúng ta hôm nay chăng?
J.Y.G
Suy niệm 4:
Lời giảng đầu tiên của Đức Giêsu là một lời mời sám hối (Mt 4, 17).
Những phép lạ Ngài làm cũng là một lời mời tương tự.
Phép lạ không phải chỉ là những biểu lộ của uy quyền và tình thương.
nhằm vén mở khuôn mặt của Thiên Chúa và của Con Ngài.
Phép lạ còn là lời mời gọi đổi đời, vì Nước Trời đã gần đến.
Đức Giêsu quở trách các thành đã lần lữa không chịu sám hối,
dù họ đã được chứng kiến phần lớn các phép lạ Ngài làm (c. 20).
“Khốn cho ngươi, hỡi Khoradin ! Khốn cho ngươi, hỡi Bếtxaiđa!”
Đức Giêsu đã kêu than như một ngôn sứ, buồn phiền và đau đớn,
trước sự cứng lòng của những nơi mà Ngài đã đặt chân và thi ân.
Khoradin là một vùng ở tây bắc của Hồ Galilê (Mc 10, 13).
Nay chỉ còn là cánh đồng gạch vụn, với dấu tích của một hội đường.
Bếtxaiđa nghĩa là “nhà của cá”, nằm nơi sông Giođan đổ vào Hồ nói trên.
Thành này ngày nay cũng biến mất, có lẽ vì bị tràn ngập bởi phù sa.
Đức Giêsu đã so sánh hai thành này với hai thành dân ngoại Tia và Xiđôn.
Nếu Tia và Xiđôn nhận được sự hiện diện của Đức Giêsu,
hẳn họ đã ăn năn sám hối từ lâu rồi (c. 21).
Caphácnaum được coi là trụ sở của Đức Giêsu khi thi hành sứ vụ.
Nơi đây Ngài đã làm bao điều tốt lành (Mt 4, 13; 8, 5; 9, 1; 17, 24).
Vậy mà có vẻ nó lại không muốn đón nhận Đấng mang ơn cứu độ.
Phải chăng vì nó đã tự hào, tự cao trước những ơn Chúa ban?
“Ngươi sẽ được đưa lên tới tận trời sao? Ngươi sẽ bị tống xuống âm phủ.”
Đức Giêsu dám so sánh Caphácnaum với Xơđôm.
Xơđôm là một thành phố trụy lạc, đã bị thiêu hủy hoàn toàn (St 19, 25).
Ngài cho rằng Xơđôm mà được thấy những điều kỳ diệu Ngài làm,
hẳn nó đã hoán cải và còn tồn tại đến nay (c. 23).
Đến ngày phán xét, con người sẽ bị xét xử theo điều mình đã lãnh nhận.
Lãnh ít thì sẽ được khoan hồng nhiều hơn.
Mỗi người chúng ta thật sự chẳng rõ mình đã nhận được bao nhiêu.
Chúng ta dễ có thái độ tự cao của những người được gần gũi Chúa.
“Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt Ngài,
và Ngài cũng đã từng dạy dỗ trên các đường phố của chúng tôi” (Lc 13,26).
Nhưng điều quan trọng không phải là đã nghe giảng và đã thấy phép lạ.
Điều quan trọng là sám hối.
Những ơn lộc Chúa ban cho đời Kitô hữu lại đòi ta phải hoán cải nhiều hơn.
Chúng ta không thể coi mình là Caphácnaum để khinh Xơđôm được.
Thiên Chúa xét xử theo điều Ngài ban cho từng con người,
từng nền văn hóa hay văn minh, từng vùng đất hay từng tôn giáo.
Làm sao tôi có thể thấy được những phép lạ Chúa làm cho tôi mỗi ngày?
Có những phép lạ xảy ra đều đặn và bình thường nên tôi không nhận ra.
Mỗi cử chỉ yêu thương tôi nhận được cũng là phép lạ.
Mong tôi đáp lại phép lạ đó bằng một cử chỉ yêu thương.
Cầu nguyện :
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,
những ơn con thấy được,
và những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng
con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng,
biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những gì
Cha không ban cho con,
và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì
Cha cương quyết không ban
bởi lẽ điều đó có hại cho con,
hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha
dù con không hiểu hết những gì
Cha làm cho đời con.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
17/07 Phần thưởng môn đệ Chúa
- Viết bởi Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
Phần thưởng môn đệ Chúa.
Thứ Hai tuần 15 thường niên.
"Thầy không đến để đem hòa bình, nhưng đem gươm giáo".
Lời Chúa: Mt 10,34 - 11,1
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: "Các con chớ tưởng rằng Thầy đến để mang hoà bình cho thế gian: Thầy không đến để đem hoà bình, nhưng đem gươm giáo. Vì chưng, Thầy đến để gây chia rẽ con trai với cha mình, con gái với mẹ mình, nàng dâu với mẹ chồng mình: và thù địch của người ta lại là chính người nhà mình. Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy. Kẻ nào yêu con trai con gái hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy. Kẻ nào không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó.
Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy, và kẻ nào đón tiếp Thầy, là đón tiếp Đấng đã sai Thầy. Kẻ nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của tiên tri; và kẻ nào đón tiếp người công chính với danh nghĩa người công chính, thì sẽ lãnh phần thưởng của người công chính. Kẻ nào cho một trong những người bé mọn này uống chỉ một bát nước lã mà thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, Thầy nói với các con: người ấy không mất phần thưởng đâu".
Sau khi Chúa Giêsu truyền dạy xong các điều ấy cho mười hai tông đồ, Người rời khỏi đó để đi dạy dỗ và rao giảng trong các thành phố của các ông.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Chúa Sẽ Ðền Bù
Có thể nói, bài Tin Mừng hôm nay cho hệ quả của bước đường theo Chúa. Theo Chúa, người môn đệ phải chấp nhận nhiều thua thiệt: họ có thể bị chống đối từ ngoài xã hội đến trong gia đình, và một cách nào đó, Chúa Giêsu cũng bị xem là nguyên cớ của các tranh chấp, chống đối. Thật thế, làm sao không có đối nghịch giữa ánh sáng và bóng tối, giữa Chúa Giêsu và thế gian, giữa quyền lực Thiên Chúa và quyền lực thế gian. Bước theo Chúa, người môn đệ phải chọn lựa, và chỉ chọn lựa tình yêu Chúa mới cho họ xứng đáng được gọi là môn đệ Ngài.
Chắc chắn, khi chọn lựa như vậy, người môn đệ không tránh khỏi những mất mát, thua thiệt. Tuy nhiên, Thiên Chúa sẽ không để họ phải thất vọng, Ngài sẽ đền bù vượt quá sự chờ đợi của họ. "Ðón tiếp một tiên tri, sẽ nhận được phần thưởng dành cho một tiên tri; đón tiếp người công chính, sẽ nhận được phần thưởng dành cho người công chính; đón tiếp kẻ rao giảng, sẽ nhận được phần thưởng dành cho kẻ rao giảng". Người môn đệ của Chúa đừng sợ mất phần thưởng, nhưng hãy sợ mình chưa trung thành trong bổn phận của mình mà thôi.
Với Thiên Chúa, dù công khai hay âm thầm, sứ mệnh kẻ rao giảng bao giờ cũng cần thiết. Thiên Chúa luôn cần đến những người ngày đêm nhiệt thành rao giảng và làm chứng cho Ngài bằng đời sống hoạt động tông đồ, nhưng Ngài cũng cần đến những người hỗ trợ cho công việc tông đồ bằng đời sống âm thầm cầu nguyện và hy sinh. Lịch sử chỉ nhớ đến những vĩ nhân, chứ lịch sử không đủ giấy bút để ghi lại hết những khuôn mặt đã góp phần vào đời sống của các vĩ nhân. Lịch sử không nhớ, nhưng Thiên Chúa lại ghi nhớ tất cả, Ngài không bỏ sót một khuôn mặt nào, và phần thưởng của họ cũng có giá trị như của các vĩ nhân.
Xin Chúa cho chúng ta biết biểu lộ lòng trung thành với Chúa và Giáo Hội bằng những đóng góp nhỏ bé trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Dù chỉ là những việc nhỏ bé, âm thầm, không được ai biết đến, nhưng chúng ta hãy tin rằng chúng vẫn hiện diện và có giá trị trước mặt Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Thực hành giới răn của Chúa (Mt 10,34-11,1)
Với cái nhìn trần tục, chúng ta có thể cho rằng những lời dạy của Chúa Giêsu cho các đồ đệ xem ra thật chói tai: "Thầy đến để đem chia rẽ con trai với cha, con gái với mẹ. Ai yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì không đáng làm môn đệ Thầy. Ai không vác thập giá mình hàng ngày mà theo Thầy, thì cũng không xứng đáng làm môn đệ Thầy".
Thử hỏi, trên trần gian này có ai dám yêu cầu những điều như vậy nơi những kẻ theo họ không? Nhưng Chúa Giêsu đã không ngần ngại dùng ngôn ngữ như vậy, để khắc ghi mạnh mẽ vào tâm trí những người nghe điều Người muốn nói trong cách thức phù hợp với tâm thức của những người đương thời.
Thật vậy, để nhấn mạnh điều gì đó người ta thường dùng cách nói táo bạo, nghịch lý thường tình như những lời chúng ta vừa đọc lại trên: "Ai yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì không đáng làm môn đệ Thầy". Chúa muốn chỗ ưu tiên trên hết mọi người và mọi sự. Chính vì vậy mà sự hiện diện của Chúa là dấu gây nên mâu thuẫn, gây chia rẽ: "Thầy không đến mang sự bình an, nhưng chia rẽ. Thầy đến để chia rẽ con trai với cha, con gái với mẹ".
Sự trung thành với Chúa, việc sống thực hành những giới răn Chúa làm cho mỗi người Kitô trở thành như kẻ thù của chính người thân thuộc, vì nếp sống mới mẻ của người Kitô không phù hợp với nếp sống trần gian, tinh thần Phúc Âm không phù hợp với tinh thần phàm tục. Luật Chúa luôn luôn dạy điều nghịch lại những ước mơ ích kỷ của con người. Giáo huấn Phúc Âm không bao giờ là điều tiện lợi dễ dàng. Thánh giá hy sinh là chiều kích không thể nào tách rời ra khỏi cuộc đời của người theo Chúa. Thánh giá là dấu chỉ, là bằng chứng của tình yêu.
Nhìn vào Chúa Giêsu, Thầy chúng ta, bị treo trên thập giá, chúng ta hiểu được mức tận cùng của tình yêu đích thực. Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi trao nộp Con Một của Ngài cho thế gian giết chết trên thập giá. Hy sinh mạng sống mình cho Chúa và anh chị em, đó là vận mệnh không thể tránh được của người Kitô. Ðể theo Ngài trọn vẹn, trung thành cho đến cùng, người đồ đệ cần nhiều can đảm, hy sinh và ơn soi sáng hướng dẫn Chúa.
Lạy Chúa, Xin đổ tràn tình yêu Chúa xuống trên chúng con, để chúng con sống trung kiên với Chúa và quảng đại với anh chị em chung quanh.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Chúa Giêsu không đem đến bình an
“Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo.”
Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì sẽ không xứng với Thầy. Ai giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được.” (Mt. 10, 34. 38-39)
Những lời gây kinh ngạc
Nếu có ai hỏi ta Chúa Giêsu đến mang lại và dạy dỗ cho con người cái gì, ta sẽ trả lời rằng Chúa đến dạy người ta biết sống yêu thương nhau; Người đem hòa bình, Người hiệp nhất những ai chia rẽ. Và chúng ta sẽ có thể trưng ta nhiều câu Phúc Âm minh chứng rằng vì những mục đích trên, mà Chúa Giêsu đã làm người ở giữa chúng ta, đã chết và sống ại vì hạnh phúc loài người.
Vậy thì những lời của Phúc Âm vừa nghe, quả làm ta ngạc nhiên Chúa Giêsu khẳng định rằng Người “Không đến đem bình an cho trái đất, nhưng để đem gươm giáo”. Người dám nói rằng Người đến: “Để gây chia rẽ giữa con trai với cha mình, giữa con gái với mẹ…” Chúa Giêsu Người gieo rắc chia rẽ! Chúa Giêsu gây chia rẽ hơn là tạo hiệp nhất! Có ai dám nghĩ như vậy không? Ai mà cho rằng những lời đó là từ môi miệng Chúa? Vậy mà đúng như thế đó.
Những sự kiện minh chứng.
Ta nên lưu ý rằng Chúa Giêsu không khẳng định là Người có chủ tâm gây chia rẽ người ta. Người chỉ nhìn nhận sự kiện xảy ra. Người ta sẽ bất đồng ý kiến với nhau về Người. Có những người sẽ ủng hộ Người, người khác lại chống đối Người. Sẽ có những hiểu lầm, những cắt đứt quan hệ, những xung đột ở khắp nơi trên thế giới và ngay cả trong các gia đình, là vì Người và vì giáo huấn của Người.
Đó chính là điều vẫn xảy ra, mãi mãi những kẻ tin và những kẻ không tin Chúa Kitô vẫn xung khắc với nhau. Mãi mãi chồng và vợ, cha và con chia rẽ nhau và gây khổ cho nhau vì đôi bên không cùng một lập trường khi phải đối mặt với giáo huấn của Chúa Kitô.
Chúa Giêsu lúc nào cũng vẫn muốn gieo sự bình an, nhưng Người cũng là con người thực tế, vì biết rằng trên trần gian Người sẽ mãi mãi là chủ đề gây trang cãi, chống đối và chia rẽ vậy.
J.Y.G
Suy niệm 4
Bình an hay gươm giáo?
Một trong những lời khó hiểu và dường như mâu thuẫn nhất của Đức Giê-su chính là lời sau đây, được thánh Mát-thêu kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay:
Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo. Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa con trai với cha, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. Kẻ thù của mình chính là người nhà (c. 34-36).
Thật vậy, lời này của Đức Giê-su dường như mâu thuẫn với tất cả những lời còn lại của Ngài, với sứ điệp hòa giải, hòa bình và hiệp thông của Nước Trời mà Ngài rao giảng và làm cho hiện diện giữa chúng ta. Như khi các thiên thần cất tiếng hát trong biến cố Giáng Sinh: “Vinh Danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2, 13-14).
Một trong những nguyên tắc giúp cho việc đọc hiểu và cầu nguyện với một bản văn Kinh Thánh, đó là điểm tối tăm sẽ được soi sáng khởi đi từ điểm sáng tỏ. Và nguyên tắc này rất thích hợp với bài Tin Mừng của chúng ta. Ngọn lửa tình yêu mà Đức Giêsu đem đến và muốn cho bùng cháy (x. Lc 12, 49-50) tất yếu sẽ đốt cháy, loại bỏ, và nói theo trình thuật “Sáng Tạo Bảy Ngày”, sẽ phân rẽ (x. St 1, 4.6.7.14.18). Giống như một thủa đất, để trở thành đất tốt, thì phải được mổ xẻ, phân chia, vun xới; chúng ta hãy đặt mình trong vị trí của đất, thật đau đớn biết bao, khi được đào xới và cày bừa để loại bỏ sỏi đá, gai góc, cây cỏ… Nhưng tiến trình mổ xẻ, phân chia, vun xới, chính là để chữa lành, để làm cho chúng ta trở nên “đất tốt”.
Và để sống theo lửa tình yêu của Đức Giêsu, chúng ta không chỉ gặp nhưng xung khắc nội tâm, nhưng còn có nhưng xung khắc trong tương quan với người khác, đôi khi với những người thân yêu, mỗi khi chúng ta muốn sống sự đơn sơ, nghèo khó và khiêm tốn theo Tin Mừng của Đức Giê-su. Khi chúng ta cầu nguyện với Lời Chúa, hẳn chúng ta sẽ có kinh nghiệm này: Lời Chúa có thể “xâu xé”, “cắt tỉa” chúng ta, nhưng là để chữa lành và làm cho chúng ta sinh nhiều hoa trái, như chính Đức Giê-su đã nói, khi dùng hình ảnh cây nho (x. Ga 15, 1-8): Hình ảnh rau sa-lát phải được quấy nát để thấm nước sốt, diễn tả phần nào kinh nghiệm này.
Chính Đức Giê-su cũng sẽ đối diện với những xung khắc, mà Ngài gọi là “Phép Rửa”. Phép Rửa Ngài phải chịu là cuộc thương khó và cái chết trên thập gía. Thập giá là điên rồ và sỉ nhục, nhưng đối với Thiên Chúa và nhưng ai đặt niềm tin nơi Ngài, thì đó lại là sức mạnh và khôn ngoan, dẫn đến bình an và niềm vui vô hạn.
Trong sách Xuất Hành, có một hình ảnh rất tuyệt vời nói lên Ngọn Lửa Tình Yêu thần linh, đó là hình ảnh bụi gai bừng cháy, nhưng không bị thiêu rụi (x. Xh 3,2). Hình ảnh bụi gai bừng cháy diễn tả rất tuyệt vời hai đặc tính trái ngược nhau của tình yêu: vừa mạnh mẽ và vừa hiền lành, không loại trừ hay hủy diệt. Thiên Chúa là tình yêu, và tình yêu Thiên Chúa là ngọn lửa bừng cháy, lan tràn, thanh tẩy, nhưng không thiêu rụi.
Dứt bỏ điều không thể
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su không chỉ nói những lời khó hiểu và mâu thuẫn, những còn có những lời khó chấp nhận:
Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy.
(c. 37)
Trong sách Tin Mừng theo thánh Luca, Đức Giê-su còn nói mạnh hơn: “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14, 26-27). Để trở thành môn đệ của ngài, Đức Giê-su đưa ra một đòi hỏi quá khó khăn. Vì thế, chúng ta thường hiểu đòi hỏi này chỉ dành cho một số ít người thôi, đó là các tông đồ, và bây giờ là những người đi tu. Hiểu như vậy là không đúng, vì như chúng ta vừa nghe trong bài Tin Mừng, Đức Giê-su nói lời này với đám người rất đông đang cùng đi đường với Ngài; và trong Giáo Hội, dù lập gia đình hay đi tu, chúng ta đều là Ki-tô hữu, nghĩa là thuộc về Đức Ki-tô, chúng ta đều là môn đệ của Đức Ki-tô theo những cách thế khác nhau, trong đời sống hôn nhân hay đời sống tu trì. Hơn nữa, Đức Giê-su còn mời gọi người ta dứt bỏ “vợ con”, nghĩa là Ngài ngỏ lời với cả người đã có gia đình, đã có vợ có chồng và đã cả con cái!
Vậy thì phải làm sao đây trước đòi hỏi quá rõ ràng và khó khăn của Đức Giê-su, ngỏ với từng người trong chúng ta, không phân biệt? Chúng ta được mời gọi dành thời gian để tìm cách hiểu Lời Chúa theo khả năng của mình, trước khi nghĩ đến việc phải thực hành làm sao. Trong nhiều trường hợp, nếu chúng ta “nhắm mắt” thực hành ngay, sẽ đi đến bế tắc, làm khổ thậm chí làm hại mình và làm hại nhau, như trong trường hợp đòi hỏi phải từ bỏ này. Thế thì, chúng ta phải hiểu như thế nào đòi hỏi quá lớn lao đến độ phi lí này của Đức Giê-su? Trước hết, chúng ta cần nhận ra rằng đòi hỏi này thật là lạ lùng, nếu không muốn nói là khó chấp nhận. Khó chấp nhận, vì Đức Giê-su không đòi chúng ta dứt bỏ của cải, tiện nghi, nhà cửa, ruộng đất, nhưng là dứt bỏ những con người cụ thể.
Và khó chấp nhận, nhất là vì Đức Giê-su không đòi hỏi chúng ta dứt bà con họ hàng, bạn bè hay là người yêu. Dứt bỏ những người này cũng không phải dễ, nhưng không phải là không làm được. Như chúng ta đã biết, có nhiều người trẻ nam nữ đã phải chia tay với người yêu để trở thành môn đệ Đức Ki-tô trong đời tu. Và dĩ nhiên là cũng có những người không chia tay được!
Nhưng, ở đây, Đức Giê-su đòi hỏi chúng ta dứt bỏ những người ruột thịt: đó là cha mẹ, vợ con, anh em, chị em. Và ruột thịt hơn nữa là chính sự sống của mình, bởi vì chúng ta phải đối diện vởi chính mình hằng ngày: phải ăn phải mặc, phải chăm sóc sức khỏe, và còn phải chú ý đến ngoại hình nữa. Có thể nói, Đức Giê-su đòi hỏi chúng ta dứt bỏ điều không thể dứt bỏ, bởi vì đó là ruột là thịt của mình. Ví dụ, dù chúng ta đi đâu, làm gì, sống ơn gọi nào, thì khi làm tờ khai, chúng ta vẫn phải khai mình là con của ai, khai vợ khai chồng nếu có, khai tất cả anh chị em ruột. Hơn nữa, người Việt Nam chúng ta rất coi trọng đạo hiếu với cha mẹ và tình nghĩa anh chị em và bà con thân thuộc.
Vậy “dứt bỏ” Chúa nói ở đây có nghĩa là gì? Dứt bỏ những người thân yêu, chính là để nhận lại như một quà tặng Thiên Chúa ban. Nếu không, chúng ta sẽ coi những người thân yêu là của riêng mình, và tự coi mình là chủ có quyền định đoạt theo ý riêng. Kinh nghiệm cho thấy, làm như thế chúng ta sẽ đánh mất mình và đánh mất nhau.
Tổ phụ Abraham vì tình yêu đối với Chúa, đã dứt bỏ người con trai duy nhất, nhưng cuối cùng đã nhận lại như một ơn huệ Thiên Chúa ban, và cùng với người con ơn huệ Isaac là cả một dân tộc đông như sao trên trời, nhiều như cát dưới biển.
Có thể nói, chính Thiên Chúa Cha cũng dứt bỏ người Con duy nhất, là Đức Giê-su Ki-tô trong cuộc Thương Khó, nhưng để nhận lại Ngài trong sự sống Phục Sinh và cùng với Ngài, là cả một đoàn con đông đúc, là nhân loại mới, là Giáo Hội, là chúng ta, được cứu chuộc bỏi cái chết trên Thập Giá của Đức Ki-tô.
Vỉ thế, chúng ta được mời gọi trở thành môn đệ của Đức Giê-su, ngang qua việc nghe Lời của Ngài và đón nhận mình và máu ngài trong Thánh Lễ, để nghiệm được tình yêu của Chúa dành cho mỗi người chúng ta. Và cách Đức Giêsu yêu mến chúng ta, cũng chính là cách thức chúng ta yêu mến nhau. Như Chúa nói: “Anh em hãy yêu mến nhau như Thầy yêu mến anh em”.
Nếu chúng ta yêu nhau như Chúa yêu chúng ta, tương quan tình yêu giữa chúng ta, sẽ không bị lệc lạch, không bị biến dạng thành tương quan ham muốn, chiếm hữu hay độc quyền, nhưng trở thành tương quan hiệp thông trong sự tôn trọng, chia sẻ cho nhau và chia sẻ cho nhau đến tận cùng. Và Ngài hứa với chúng ta là chúng ta sẽ nhận lại gấp trăm. Bởi vì tất cả những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành sẽ trở thành người thân của Chúa và vì thế, trở thành người thân của nhau. Lời hứa này không chỉ được ứng nghiệm trong cộng đoàn đời tu, nhưng trong Giáo Hội, trong cả trong cộng đoàn giáo xứ của chúng ta nữa.
Dứt bỏ mọi sự để trở thành môn đệ của Đức Giê-su bằng mọi giá, để yêu mến và đi theo Ngài, chúng ta sẽ không “đánh mất nhau”, nhưng ngược lại, chúng ta sẽ “tìm lại được nhau” trong tương quan tình yêu đích thật và muôn đời. Bởi vì Thiên Chúa là Tình Yêu.
Lời Chúa trong Thánh Lễ hôm nay, mời gọi chúng ta phải hi sinh từ bỏ rất lớn để trở nên môn đệ đích thật của Chúa. Nhưng đó chính là để chúng ta đón nhận tình yêu bao dung và thương xót của Chúa, và để chúng ta nhận lại nhau như hồng ân Chúa ban và yêu thương nhau; và không phải yêu thương nhau theo kiểu của chúng ta, nhưng là yêu thương nhau như Chúa yêu thương chúng ta.
Phần thưởng
Nếu những lời trên đây của Đức Giê-su gây ra nhiều khó khăn, thì những lời tiếp theo lại mang lại cho chúng ta sự bình an và hi vọng. Thật vậy, một ơn rất nhỏ, là một « chén nước », mà chúng ta trao ban cho những người thuộc về Đức Ki-tô, cũng được Chúa ghi nhận, coi trọng, và sẽ làm cho sinh hoa trái kết quả, như Người nói : « Người đó sẽ không mất phần thưởng đâu ». Và vì đó là « phần thưởng » đến từ Đức Ki-tô, con Thiên Chúa, nên sẽ tồn tại mãi mãi.
Chắc chắn ai trong chúng ta cũng trao ban hơn thế nhiều, cho những người thuộc về Chúa, hay rộng hơn, cho những gì thuộc về Chúa và cho chính Chúa. Vậy, dựa vào lời của Chúa, một đàng, chúng ta hãy xác tín về « phần thưởng », nghĩa là những hoa trái Chúa sẽ ban cho chúng ta, cho sự sống hôm nay và mai sau, cho dù chúng ta còn đầy thiếu sót, yếu đuối và tội lỗi ; và đàng khác, chúng ta được mời gọi trao ban hơn nữa.
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
16/07 Dụ ngôn hạt giống Lời Chúa
- Viết bởi Mt 13, 1-23
Dụ ngôn hạt giống Lời Chúa.
Chúa Nhật 15 thường niên năm A.
"Kìa, có người gieo giống đi gieo lúa".
Lời Chúa: Mt 13, 1-23
Ngày ấy, Chúa Giêsu ra khỏi nhà và đi đến ngồi ở ven bờ biển. Dân chúng tụ tập quanh Người đông đảo đến nỗi Người phải xuống thuyền mà ngồi, còn tất cả dân chúng thì đứng trên bờ. Và Người dùng dụ ngôn mà nói với họ nhiều điều.
Người nói: "Này đây, có người gieo giống đi gieo lúa. Trong khi gieo, có hạt rơi xuống vệ đường, chim trời bay đến ăn mất. Có hạt rơi xuống trên đá sỏi, chỗ có ít đất, nó liền mọc lên, vì không có nhiều đất. Khi mặt trời mọc lên, bị nắng gắt, và vì không đâm rễ sâu, nên liền khô héo. Có hạt rơi vào bụi gai, gai mọc um tùm, nên nó chết nghẹt. Có hạt rơi xuống đất tốt và sinh hoa kết quả, có hạt được một trăm, có hạt sáu mươi, có hạt ba mươi. Ai có tai thì hãy nghe".
Các môn đệ đến gần thưa Người rằng: "Tại sao Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ?" Người đáp lại: "Về phần các con, đã cho biết những mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không cho biết. Vì ai đã có, thì ban thêm cho họ được dư dật; còn kẻ không có, thì cái họ có cũng bị lấy đi. Bởi thế, Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ: vì họ nhìn mà không thấy, lắng tai mà không nghe và không hiểu chi hết. Thế mới ứng nghiệm lời tiên tri Isaia nói về họ rằng: "Các ngươi lắng tai nghe mà chẳng hiểu, trố mắt nhìn mà chẳng thấy gì. Vì lòng dân này đã ra chai đá, họ đã bịt tai nhắm mắt lại, kẻo mắt thấy được, tai nghe được, và lòng chúng hiểu được mà hối cải, và Ta lại chữa chúng cho lành". Phần các con, phúc cho mắt các con vì được thấy; và phúc cho tai các con vì được nghe. Quả thật, Thầy bảo các con: Nhiều vị tiên tri và nhiều đấng công chính đã ao ước trông thấy điều các con thấy, mà không được thấy; mong ước nghe điều các con nghe, mà không được nghe.
"Vậy, các con hãy nghe dụ ngôn về người gieo giống: Kẻ nào nghe lời giảng về Nước Trời mà không hiểu, thì quỷ dữ đến cướp lấy điều đã gieo trong lòng nó: đó là kẻ thuộc hạng gieo dọc đường.
Hạt rơi trên đá sỏi là kẻ khi nghe lời giảng, thì tức khắc vui lòng chấp nhận, nhưng không đâm rễ sâu trong lòng nó, đó là kẻ nông nổi nhất thời, nên khi cuộc bách hại, gian nan xảy đến vì lời Chúa, thì lập tức nó vấp ngã.
Hạt rơi vào bụi gai, là kẻ nghe lời giảng, nhưng lòng lo lắng việc đời, ham mê của cải, khiến lời giảng bị chết nghẹt mà không sinh hoa kết quả được.
Hạt gieo trên đất tốt, là kẻ nghe lời giảng mà hiểu được, nên sinh hoa kết quả đến nỗi có hạt được một trăm, có hạt sáu mươi, có hạt ba mươi".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 15 THƯỜNG NIÊN - A
Lời Chúa: Is. 55, 10-11; Rm. 8, 18-23; Mt. 13, 1-23
1. Đất tốt
Hãy trở thành một mảnh đất tốt để hạt giống được gieo xuống sinh nhiều hoa trái. Như chúng ta đã biết Lời Chúa được ví như hạt giống mà người nông phu mang đi gieo. Để hạt giống có thể nẩy mầm lớn lên, đâm bông và kết trái, thì trước hết nó phải mục nát hoà tan vào với đất. Chúa Giêsu chính là lời của Thiên Chúa, một thứ hạt giống được gieo vào lòng nhân loại. Để có thể đến với lòng người, tạo được một niềm tin và một tình mến, từ đó làm phát sinh cuộc sống mới, Chúa Giêsu đã phải trải qua những khổ đau nhất là cái chết nhục nhã trên thập giá. Với cái chết này, Ngài và những kẻ tin nơi Ngài, mỗi ngày một đông, được dẫn đến vinh quang của Thiên Chúa.
Giáo Hội có thể thực hiện sứ mạng Chúa Giêsu trao phó một cách có hiệu quả cao, không thể không đi theo con đường của Chúa Giêsu. Giáo Hội là như một hạt giống được gieo vào lòng thế giới, thế nhưng hạt giống chỉ đâm bông kết trái khi Giáo Hội thực sự chia sẻ không chỉ những vui mừng và hy vọng, mà cả những lo âu, những khắc khoải, những khó khăn của thế giới. Đồng thời Giáo Hội cũng như mỗi người chúng ta đều được kêu gọi để trở thành những mảnh đất tốt cho Lời Chúa thực sự đem lại kết quả. Chúa Giêsu đã rao giảng Tin Mừng cứu độ của Ngài hầu như ở khắp nơi. Số người nghe Ngài giảng dạy thật nhiều. Nhưng không phải tất cả những ai nghe Ngài đều tin Ngài, trái lại có những người nghe Ngài rồi bỏ đi, vì họ thấy lời Ngài khó nghe hay khó thực hiện.
Có những người càng nghe Ngài lại càng thêm căm phẫn đối với Ngài để rồi cuối cùng bày mưu tính kế để thủ tiêu Ngài. Cũng có những người nghe lời Ngài nhưng lại chẳng hiểu gì hay chẳng có được một hiệu quả nào. Sở dĩ như vậy là vì lòng trí họ còn đuổi theo những mưu đồ những toan tính, hay đã ra chai đá và xơ cứng vì những giáo điều, hay vì những đam mê dục vọng. Lời Chúa và con người cũng như cuộc đời họ là những khối khác nhau, không thể hoà vào được với nhau. Mảnh đất tốt đối với Lời Chúa là những ai nghe lời Ngài, đem lòng suy nghĩ, tìm hiểu, nhào nặn cuộc đời mình theo những đòi hỏi của Chúa, và cuối cùng thực thi Tin Mừng của Ngài trong chính cuộc đời thường ngày của mình. Mảnh đất tốt chính là những tâm hồn bé mọn, những con ngườikhông có những kho lẫm quyền lực để bám víu, và do đó luôn sẵn sàng mở rộng lòng trước lời mời gọi của Chúa. Còn chúng ta thì sao. Chúng ta đã thực sự trở nên những mảnh đất tốt cho Lời Chúa được lớn lên và đem lại nhiều hoa trái hay chưa?
2. Gieo giống
Bác nông phu đi ra ruộng và gieo hạt giống. Đây là một hình ảnh đẹp và quen thuộc. Bác nông phu đi với dáng bộ nghiêm trang và thận trọng, vai đeo thúng lúa. Ông thọc tay phải vào thúng, bốc hạt giống xạ xuống trên ruộng đồng theo nhịp chân bước. Người gieo giống đi gieo và đã xảy ra là có những hạt rơi trên vệ đường và chim trời đến ăn mất. Những hạt khác rơi trên sỏi đá, chúng mọc lên nhưng vì không đủ đất, cho nên bị ánh nắng mặt trời làm cho khô héo. Còn những hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm cho chúng chết ngạt. Và sau cùng, những hạt khác rơi vào đất tốt, chúng sinh hoa kết quả, có hạt được 100, hạt 60, hạt 30.
Chúng ta có thể nghĩ rằng: gieo giống gì mà kỳ lạ quá vậy. Tại sao không gieo trên đất tốt, mà còn gieo cả trên vệ đường, trên đất xấu và cả vào trong bụi gai. Gieo như thế vì đó là phương pháp làm ruộng của người dân miền Palestina. Họ có cách gieo giống khác với chúng ta. Họ gieo giống trước rồi mới cày úp sau. Vì vậy, ông bạn gieo giống trong dụ ngôn, đi gieo trong ruộng chưa cày bừa chi cả. Suốt thời gian đất nghỉ, dân làng thường đi tắt qua những thửa ruộng đã gặt hái chỉ còn lại những gốc rạ. Vậy khi gieo, ông ta đã tung hạt giống trên cả thửa ruộng, trên cả những con đường tắt này với ý định là sẽ cày cả con đường này lên, nhưng chim trời đã nhìn thấy những hạt giống đó và đã ăn mất trước khi chúng nẩy mầm. Ông cũng chủ ý gieo vào cả bụi gai khô héo vì ông cũng định cày cả đám gai này nữa. Nhưng hạt gai đã rụng xuống đất, lại được cày úp lẫn lộn với những hạt lúa, do đó gai mọc lên và làm cây lúa non chết ngạt. Chúng ta cũng không ngạc nhiên khi thấy những hạt rơi trên sỏi đá. Đó là lớp sỏi đá cứng nằm ngầm dưới mặt đất, chỉ có một lớp đất mỏng phủ trên, người ta không trông thấy và chỉ khám phá ra khi lưỡi cày đụng phải. Nếu gặp lớp sỏi đá này, rễ lúa không thể đâm sâu xuống được và ánh nắng mặt trời sẽ làm cho chúng khô héo. Hình như người gieo giống không mấy lạc quan với công việc của mình. Nhưng may thay, phần lúa giống còn lại rơi trên đất tốt và đã sinh hoa kết quả tốt đẹp, hạt được 30, 60 hay 100.
Dĩ nhiên chúng ta phải nhớ rằng Chúa Giêsu đang giảng bằng dụ ngôn, và chân lý tôn giáo được núp sau hình ảnh của dụ ngôn đó. Điều này thực sự muốn nói là kết quả của lời Chúa. Lời ấy có khả năng phát triển và sinh hoa kết trái cách phi thường trong lòng người. Chính thánh Marcô đã cắt nghĩa dụ ngôn này một cách vắn tắt: Người gieo giống là chính Thiên Chúa và hạt giống là Tin Mừng, hay nói một cách khác, chính Chúa Giêsu là người gieo giống và hạt giống là những lời Ngài giảng dạy, còn tâm hồn chúng ta là những thửa đất. Thế nhưng những thửa đất ấy giờ đây như thế nào?
Lời Chúa nơi chúng ta không phải là những hạt giống rơi trên vệ đường, rơi giữa bụi gai hay ở trên sỏi đá. Nhưng lời đó phải được thâm nhập vào tận đáy lòng chúng ta để rồi sinh hoa kết trái một cách tốt đẹp. Lời Chúa luôn có một sức sống làm nẩy sinh hoa trái, nhưng lời ấy có thực sự đem lại kết quả tốt cho tâm hồn chúng ta hay không, thì còn tuỳ thái độ đón nhận và cộng tác của chúng ta đối với lời Chúa.
3. Gieo giống
Nói về việc rao giảng lời Chúa, chúng ta thấy có hai thực tại đối kháng nhau. Trước hết chúng ta xác tín lời Chúa là lời hiệu nghiệm, một khi đã gieo trồng thì chắc chắn sẽ đem lại mùa xuân với hoa trái dồi dào. Đàng khác là sự chai cứng của những tâm hồn, khiến cho cuộc sống cứ chìm trong tội lỗi và mùa đông ảm đạm cứ kéo dài tưởng chừng như vô tận.
Thực vậy, giữa lòng cuộc đời ồn ào và náo nhiệt này, nhiều khi lời rao giảng chỉ là một tiếng kêu trong sa mạc và người nói chỉ thấy vọng lại chính âm điệu của mình và không có một người đáp trả. Cuộc sống hình như vẫn bước đi theo nhịp điệu riêng của nó, vẫn được lượng giá bằng cái thước đo quen thuộc của nó. Cảm giác ấy gắn liền với sự cô đơn của người rao giảng. Cô đơn vì không một ai chia sẻ nỗi thao thức với mình. Từ nỗi cô đơn ấy, người ta dễ dàng buông xuôi, chán nản và tuyệt vọng.
Thế nhưng, lời Chúa lại không cho phép chúng ta được đánh mất niềm tin. Bởi vì đánh mất niềm tin là đánh mất sứ vụ gieo rắc Tin Mừng, là đánh mất sự sống đem lại niềm vui và sự hăng say cho những bước chân truyền giáo. Đánh mất đức tin là đánh mất cả cái lý do hiện hữu của Giáo Hội trong lòng thế giới.
Trong một cuộc phỏng vấn dành cho báo Figaro, Đức Hồng Y Paul Poupard, chủ tịch văn phòng đối thoại với những người không tin, đã nhìn nhận cuộc hành hương của 500.000 người trẻ về quảng trường Compostellos như biểu tượng cho nỗi khát vọng và sự tìm kiếm những giá trị tâm linh. Con người không thể sống mà lại không nhìn nhận một chiều kích tâm linh siêu việt trong đời mình. Người ta loan báo Thượng Đế đã chết, nhưng hôm nay người ta lại nhìn nhận sự hiện diện sống động của Ngài ngay giữa lòng những xã hội tục hoá hay vô tín ngưỡng. Đồng thời ĐHY cũng nhìn vào sự xuất hiện của nhiều giáo phái huyền bí hiện nay như một thách đố cho Giáo Hội. Khi những khát vọng tôn giáo hay không tìm được lời giải đáp nơi Giáo Hội thì người ta sẽ lần đến những giáo phái khác. Vì thế, sau thách đố của chủ nghĩa vô thần, là thách đố về mục vụ đối với Giáo Hội hôm nay. Chính Công đồng Vat. II cũng đã xác quyết: Người tín hữu phải chịu trách nhiệm không nhỏ trong việc khai sinh ra chủ nghĩa vô thần. Phải nói rằng họ che giấu hơn là bày tỏ khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa và tôn giáo.
Chúng ta có thể than phiền vì người đời không đón nhận Tin Mừng. Thế nhưng trước khi than phiền, chúng ta cũng cần phải tự hỏi: Tôi đã thực sự rao giảng lời Chúa, hay mới chỉ là rao giảng những suy nghĩ, những lập trường của cá nhân tôi. Hay chỉ cố thuyết phục bằng sự khôn ngoan theo cái thước đo thiếu hụt của thế gian chứ chưa phải là những chân lý Phúc Âm ngàn đời dịu mát. Chúng ta nên nhớ sức mạnh đích thực là sức mạnh của lời Chúa chứ không phải là sức mạnh của chúng ta. Nếu không, cả những lúc xem ra thành công, thì cũng chỉ nhất thời, hời hợt mà thôi.
Đồng thời lời Chúa là lời sống động. Lời đó không phải chỉ là ngôn từ mà còn phải trở thành những hành động. Vì thế, trước khi than phiền về sự lãnh đạm của người đời đối với lời Chúa, chúng ta cần phải tự hỏi xem: Chính bản thân chúng ta đã đón nhận lời Chúa ra sao? Và lời Chúa đã phát sinh những hậu quả nào trong mảnh đất là cuộc đời chúng ta? Khi cuộc sống chúng ta đã thấm nhuần tinh thần lời Chúa, thì tự bản chất, cuộc sống ấy đã là một bằng chứng hùng hồn về hậu quả của lời Chúa và trở nên một sự rao giảng sống động, một cách tay tung gieo hạt giống Nước Trời trong lòng trần thế.
4. Hạt giống Lời Chúa
(Radio Veritas Asia)
Một cầu thủ đấu bóng rổ đã tâm sự với các phóng viên báo chí như sau:
Quan niệm của tôi về cuộc sống nay đã thay đổi hẳn, tôi nghĩ rằng điều quan trọng hơn trong lúc này là dành nhiều thời giờ hơn để sống gần gũi với con cái tôi và biết thưởng thức, quí trọng những điều khác nữa, chứ không phải chỉ có môn thể thao bóng rổ mà thôi. Dù gặp bất hạnh, nhưng anh Colin đã là người có phúc hơn những người khác, bởi vì anh đã nghe được điều mà nhiều người muốn nghe mà không được nghe, đó là nghe được tiếng Chúa nói với anh trong các biến cố cuộc đời. Anh Colin khám phá ra được rằng, cuộc sống của anh còn có nhiều điều hay ho và quan trọng khác nữa.
Anh chị em thân mến,
Thiên Chúa dùng mọi tình huống để thức tỉnh chúng ta lắng nghe và sống Lời Ngài. Dụ ngôn về người gieo giống hôm nay cần được chúng ta dành nhiều thời gian trong ngày sống để suy niệm nhiều hơn, để lĩnh hội các ý nghĩa mà chính Chúa đã giải nghĩa cho các môn đệ.
Thiên Chúa đã luôn luôn gieo vãi Lời Ngài khắp nơi, với mọi hạng người, với mọi hoàn cảnh. Chúng ta đáp lại Lời Chúa như thế nào? Chúng ta có cần Chúa mở mắt chúng ta qua một biến cố đau thương như biến cố đã xảy ra với anh Colin hay không? Có cần Thiên Chúa thiêu đốt tất cả những gì chúng ta đang mù quáng bám víu vào như là giá trị duy nhất của đời mình, để giúp chúng ta trở về với Lời Chúa và sống thực hành Lời Chúa hay không?
Bằng cách nào đó không thể nói là tự nhiên tốt được. Tâm hồn con người cũng thế, tự nó không phải tự nhiên tốt, nhưng cần được ân sủng Chúa thánh hóa, thanh luyện mới có thể trở nên tốt, và mỗi người chúng ta cần cộng tác với ơn Chúa để tâm hồn chúng ta được trở nên mảnh đất tốt và trổ sinh nhiều hoa trái.
Thiên Chúa rất thường đến viếng thăm chúng ta qua các biến cố lớn nhỏ, vui buồn, nhưng rất nhiều khi hay là hầu hết nhiều khi, hầu hết mỗi lần Chúa đến thăm để nói với chúng ta một điều gì đó, mạc khải cho chúng ta một điều gì đó thì chúng ta lại vắng mặt, chúng ta lại lo ra. Nhiều lần chúng ta được tiếp xúc với Lời Chúa nhưng chúng ta lại lơ là không màng chi đến Lời Chúa nữa.
Ước chi hôm nay, trong giây phút này, chúng ta hãy trở về ngồi lại nơi căn nhà tâm hồn của chúng ta trong thinh lặng để kiểm điểm lại những gì mình đã làm hư hỏng, để được kín múc lấy sức mạnh của Chúa mà giúp ta canh tân trong cuộc sống.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con hồi tâm trở về, lắng nghe Lời Chúa và sống thực hành Lời Chúa, xin Chúa giúp chúng con biết cộng tác với ơn Chúa, để mảnh đất tâm hồn chúng con trở nên mảnh đất tốt, để chúng con luôn biết đón nhận Lời Chúa và để cho Lời Chúa trổ sinh hoa trái trong tâm hồn chúng con mỗi ngày một hơn. Amen.
5. Tôn giáo có ích gì?
Có một lần người thợ làm xà bông và một vị giáo trưởng đi dạo và chuyện trò với nhau. Người thợ làm xà bông đã nói: - Tôn giáo có ích gì? Tôn giáo nào cũng rao giảng chân lý, bình an, lòng thiện hảo. Nhưng ngài hãy nhìn vào thực trạng của thế giới: chiến tranh, đói khổ, và bao nhiêu hệ lụy khác xem ra sẽ chẳng bao giờ chấm dứt. Tôn giáo đâu có giúp được gì cho nhân loại?
Vị giáo trưởng im lặng và hai người tiếp tục đi qua một khu phố nghèo. Tại một con hẻm lầy lội, vị giáo trưởng chỉ vào một em bé ăn mặc bẩn thỉu, và nói:
- Ông hãy nhìn đứa bé kia. Ông cho rằng xà bông để tẩy xóa nhơ bẩn trên thân thể và quần áo của con người. Vậy ông hãy thử nhìn đứa bé kia. Xà bông của ông để làm gì? Với tất cả mọi thứ xà bông hiện có trên thế giới, đứa bé nhơ bẩn này vẫn cứ nhơ bẩn. Tôi chẳng biết xà bông dùng để làm gì?
Nghe lời ấy, người thợ làm xà bông cãi lại:
- Nó dơ bẩn là tại nó. Xà bông sẽ không có ích gì, nếu người ta không sử dụng nó.
Bấy giờ vị giáo trưởng mới nhỏ nhẹ nói:
- Đúng thế, xà bông sẽ vô ích, nếu người ta không sử dụng nó. Tôn giáo cũng vậy. Tôn giáo sẽ vô ích nếu con người không sống theo tôn giáo của mình.
Lời Chúa hôm nay được diễn ta qua dụ ngôn người đi gieo giống. Thiên Chúa là người đi gieo giống. Ngài đã gieo lời Ngài xuống thế gian. Trải qua suốt dọc dài lịch sử cứu độ. Ngài đã gieo qua các tổ phụ, các tiên tri và thời sau hết qua Con Một Chí ái là Đức Giêsu Kytô. Thế nhưng số phận của những hạt giống đó thật đáng thương: bị quên lãng, khước từ và bỏ ngoài tai,...
Chúa Giêsu đã khéo léo đưa ra nguyên do sự hư hại của hạt giống. Đó là do sự chai cứng trên lối mòn hay bởi gai góc, đá sỏi cằn khô. Chỉ một phần tư số hạt gieo vãi được may mắn rơi vào đất tốt, đủ điều kiện để hạt giống nảy mầm, đơm bông kết trái.
Đó cũng là lý do đưa đến sự ác nhiều hơn sự thiện. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến sự bất công và sa đọa vẫn đầy dẫy trên mặt địa cầu. Cho dù giáo huấn và lề luật của Chúa đã được ban ra, được gieo vãi khắp nhân gian, nhưng mấy ai đã đón nhận và đem ra thực hành?
Nhìn vào thế giới hôm nay, còn quá nhiều lề thói xa hoa trụy lạc, lề thói vô lương tâm và vô liêm sỉ. Đó chính là những lối mòn mà kẻ qua người lại tấp lập khiến nhiều người đánh mất ý thức về tội. "Người ta làm mình cũng làm. Người ta làm bậy mình cũng làm theo". Như hiện trạng phá thai, nghiện ngập sì ke ma túy và bây giờ là thuốc lắc tổng hợp của Việt Nam hôm nay. Mỗi năm ở Việt Nam có khoảng gần 2 triệu thai nhi bị sát hại. Chốn ăn chơi sa đọa nhan nhản khắp nơi, dẫn đến con số nhiễm HIV đã lên đến hơn 400 ngàn người, và không biết bao nhiêu con người khác nữa đã và đang lao vào.
Một thế giới có quá nhiều đá sỏi của những trào lưu văn hóa đồi trụy hay những phong trào tha hóa con người đã và đang gây nên cớ vấp phạm cho nhiều người. Một xã hội quá phức tạp tựa như những gai góc, cứ quốn quanh lấy đời người bởi những đam mê thấp hèn. Thực vậy, có nhiều người đã thiếu cương quyết để xa tránh cám dỗ, và nói không với tội lỗi. Họ để cho tính xác thịt và lòng tham nổi loạn và thống trị họ, khiến họ không thể tự kiềm chế bản tính của mình và dễ dàng ngã theo những đam mê bất chính.
Con người ngày nay thực sự có mắt cũng như mù, có tai cũng không nghe. Họ đều biết rằng với lối sống trụy lạc sẽ dẫn đến tử vong thế nhưng họ vẫn lao đầu vào. Họ biết rằng văn hóa đồi trụy là mần mống đưa đến tha hóa con người, nhưng vì đồng tiền, vì đam mê họ vẫn mua bán, trao đổi khiến cho sự xấu cứ xum xuê và bao trùm ở mọi nơi, mọi chốn. Họ biết rằng một đời sống nông cạn, hời hợt, thiếu chuẩn mực đạo đức, thiếu đời sống cầu nguyện là nguyên nhân dẫn đến sa ngã phạm tội, thế nhưng có biết bao cha mẹ lại quá thờ ơ, hay thiếu trách nhiệm giáo dục con cái nên người.
Phải chăng lời tiên tri Isaia đang ứng nghiệm cho con người hôm nay. "Các ngươi lắng tai mà chẳng hiểu, trố mắt nhìn mà chẳng thấy gì"?
Lời Chúa là lời ban sự sống, nhưng sẽ vô ích cho người có tâm địa xấu, cho lòng chai dạ đá. Lời Chúa đến với họ như "đàn gảy tai trâu" hay như "nước đổ lá môn". Đời sống họ sẽ không có biến đổi, vì họ nghe tai này sang tai kia và điều tệ hại nhất là họ đã để ngoài tai những lời vàng ngọc, lời ban sự sống của Chúa.
Chúa Giêsu đã chúc phúc cho những ai biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Xin Chúa giúp chúng ta biết chuyên tâm lắng nghe, học hỏi, suy niệm và thực thi Lời Chúa như Mẹ Maria, như các thánh, để Lời Chúa sinh hoa kết trái trong tâm hồn chúng ta.
Lạy Chúa, Lời Chúa là lời ban sự sống, xin giúp chúng con biết cúi xuống nhặt những hạt giống Tin mừng bên vệ đường để đặt vào trong cuộc sống hằng ngày của mình, và biết quăng đi những sỏi đá, là những dịp tội gây cớ vấp phạm cho tha nhân, đồng thời luôn can đảm nhổ đi những gai góc là những đam mê bất chính, là nguyên do đưa đến sự tha hóa con người. Xin cho con biết noi gương Mẹ Maria luôn biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa trong cuộc sống hằng ngày của chúng con. Amen.
6. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
THÁI ĐỘ CỦA NGƯỜI ĐÓN NHẬN HAY LÀ TẤM LÒNG CỦA NGƯỜI GIEO
Thoạt nghe bài Tin Mừng vốn đã quen tai là dụ ngôn người gieo giống, chúng ta không khỏi nghĩ ngay đến những thái độ khác nhau của người nghe Lời Chúa. Cũng là lắng nghe Lời, nhưng tùy thuộc vào thái độ tiếp nhận thì mới có những hiệu quả tốt xấu, ít nhiều, khác nhau. Một số nhà nghiên cứu Tin Mừng cho rằng có lẻ xuất phát bởi nhu cầu của Hội Thánh sơ khai trong việc đón nhận Lời Chúa nên các tác giả Tin Mừng đã thêm vào phần giải thích bài dụ ngôn (parabole) theo kiểu văn phong thể phóng dụ (allégorie), tức là áp dụng từng chi tiết của câu chuyện, một thể văn mà các giáo phụ thường dùng, khác với thể văn dụ ngôn, một thể văn thông dụng thời Chúa Giêsu, là thường chỉ nhắm đến một điều muốn nói.
Dù sao đi nữa thì Lời Chúa vẫn nguồn sống cho mọi người, mọi hoàn cảnh. Việc thiên về thái độ của người đón nhận Lời đã, đang và mãi còn chân giá trị. Ân sủng không loại bỏ tự nhiên, một chân lý mà Hội Thánh luôn khẳng định cách chắc chắn. Tuy nhiên, xin được chia sẻ một vài ý tưởng nhỏ khi nhìn ngắm tấm lòng của người gieo giống.
1. Thiên Chúa muốn mọi người nhận biết chân lý (x.1Tim 2,3-4): Đây là một sự thật cần khẳng định mà không sợ sai lầm. Đấng Toàn Thiện sẵn sàng cho mưa rơi đều trên người lành lẫn kẻ dữ, cho mặt trời mọc lên soi sáng người công chính lẫn tội nhân hẳn là Đấng không muốn bất cứ một ai phải hư mất. Chính vì thế Thiên Chúa không chỉ muốn mà còn tìm đủ cách thế, giúp mọi người nhận biết chân lý, để được sống trong hạnh phúc viên mãn (x. Mt 5,45; Ga 6,39).
Có lẽ hình thức “cấy mạ” chưa hình thành và phát triển trong nghề nông vào thời bấy giờ. Ngay cả với ngành nông nghiệp hiện đại hôm nay thì cách thức gieo hạt, người Việt Nam ta gọi là “sạ lúa” vẫn còn phổ biến. Nhìn người nông phu vung tay sạ lúa giữa trời trưa, nhiều gió, chúng ta thoáng thấy một nét đẹp của sự hào phóng.
Từng nắm lúa được tung gieo theo chiều gió. Có nhiều hạt rơi trên mảnh đất đã cày xới, cũng có nhiều hạt vung vải trên bờ giường, bờ thuở…Bác nông phu chẳng tiếc, chẳng nao. Làm sao tránh được những hao hụt. Nhưng không sao, mùa vụ trước mắt sẽ dư đầy. Trở lại với dụ ngôn Chúa Giêsu kể năm nào. Người chỉ nêu có bốn loại hạt rơi ở bốn mảnh đất khác nhau. Giả như số hạt ấy được chia đều cho bốn loại đất, ta thử làm con tính xem sao. Mất ba, chỉ được một. Tưởng chừng như thua lỗ, nhưng vẫn còn dư lãi. Chỉ với một loại hạt rơi trên đất tốt, đã có hạt sinh một trăm, hạt sinh sáu mươi, hạt sinh ba mươi. Thế là sinh lợi bình quân trên sáu mươi. Khấu trừ cho ba loại hạt có vẻ như đã mất thì vẫn còn lãi dư nhiều.
Tấm lòng của Thiên Chúa, Đấng gieo hạt Lời từ trên, thật bao la khôn xiết. Người đã gieo Lời Người khắp cả vũ hoàn. Mỗi kỳ công tay Người tác tạo, dù chẳng một âm thanh, nhưng là mỗi Lời của Người được tung gieo (x.Tv 18,2-5). Thiên Chúa gieo Lời của Người vào tận đáy lòng mỗi con người. Chẳng máy móc tân kỳ nào có thể ghi âm, nhưng hiệu quả của “tiếng lòng” ấy không ai là không chân nhận, mỗi khi lý trí đã biết xét suy. Thiên Chúa gieo Lời của Người qua các biến cố lịch sử, đặc biệt qua lịch sử một dân được tuyển chọn và đến thời kỳ viên mãn Người đã gieo Lời trọn hảo của Người qua chính Con Một làm người (x.Dt 1,1-2). Rất có thể bị hao hụt phần nào, nhưng “cũng như mưa với tuyết sa từ trời không trở về trời mà không sinh hiệu quả thì Lời của Thiên Chúa sẽ không trở về với với Người nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Người, chưa chu toàn sứ mạng Người giao phó” (x. Is 55,10-11).
2. Dù đối với loài người là không thể, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể (x. Lc 1,37; Mt 19,26):
Vệ đường, đất sỏi đá hay đất đầy gai góc, tất cả đều có thể mọc cây, đơm bông, kết hạt. Đây là chuyện không còn viễn vông đối với khoa học công nghệ hiện đại. Sa mạc biến thành vườn rau hay thành cánh đồng cây ăn trái, không còn là chuyện xưa nay hiếm. Nhiều thứ cỏ dại như cỏ cú, cỏ chỉ, cỏ tranh không còn là nan trị đối với nông gia ngày nay. Không chỉ ở thôn quê mà ngay cả ở thành thị, những con đường đã phủ đầy cây xanh. Nhưng sự khả thể ngày càng mở ra trước mắt chúng ta. Cây sẽ mọc và đơm hoa kết trái, nếu có đủ nước và khí trời.
Với quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa thì mọi sự đều là có thể. Thiên Chúa đã ban tất cả cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô. “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta?” (Rm 8,32).
Vấn đề còn lại là ở mảnh đất có “sâu” đủ và “thoáng” đủ, để đón nhận nước và khí trời. Đây chính là sự khiêm nhu và lòng thành hướng thiện của mỗi người chúng ta. Nếu có sự hướng thiện và khiêm nhu chân thành thì dù cho cuộc đời ta, hoàn cảnh sống của ta như mảnh đất đầy sỏi đá hay nhiều gai góc cũng sẽ trở thành mảnh đất tốt để cho hạt giống Lời nẩy mầm, thành cây, đơm bông và kết hạt.
3. Hãy mặc lấy tấm lòng của Người gieo giống: Chúng ta cần có chút cẩn trọng để đừng “ném ngọc trai cho heo”. Đừng làm cớ cho người ta xúc phạm đến những gì thánh thiêng một khi đã suy xét và lường trước sự việc. Tuy nhiên, việc tích cực gieo rắc Lời Chúa bằng nhiều hình thức một cách nào đó nói lên tấm lòng của ta với tha nhân và nói lên niềm tin của ta vào quyền năng của Chúa và vào sức mạnh của Lời. Thánh Tông đồ dân ngoại dạy ta: Hãy rao giảng Tin mừng khi thuận lợi cũng như lúc không thuận lợi. Kitô hữu chúng ta hẳn không quên câu Lời Chúa: “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn nào có ích gì” (Mt 16,26), đã làm trổ sinh cho nhân loại, cho Hội Thánh một Phanxicô Xavie, vị thánh nhiệt tình rao giảng Tin mừng cho lương dân. Đoạn Tin Mừng Mt 10,7-10 đã góp phần dệt xây nên một “người nghèo của Thiên Chúa là Phanxicô khó khăn cùng với Hội Dòng anh em hèn mọn…
Người gieo, kẻ gặt, nhưng chính Thiên Chúa là Người cho mọc lên. Không ai thắp đèn rồi lấy thùng úp lên. Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, hãy lên mái nhà mà rao giảng (x. Mc 4,21-24; Mt 10,27). Dù mệt nhọc, muốn nghỉ ngơi cùng với các môn đệ, nhưng khi thấy đoàn người đông đảo, Chúa Giêsu động lòng xót thương, Người lại tiếp tục rao giảng (x. Mc 6,34). Hãy có tấm lòng với anh chị em đồng loại, đồng thời tin tưởng vào sức mạnh của Lời, để nhiệt thành gieo rắc hạt giống. Vì đêm hay ngày, ta ngủ hay thức thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, trổ bông, đơm hạt (x. Mc 4,26-29).
7. Sứ mạng thực hiện Thiên Ý
(Lm. Hồng Phúc)
Dưới hình ảnh mưa tuyết từ trời rơi xuống làm cho đồng ruộng phì nhiêu, cây cối sinh hoa mầu người ta có lương thực, Tiên tri Isaia đã hình dung Lời của Chúa phán ra.
Lời nói phát ra từ miệng nhưng bắt nguồn từ con tim, từ cõi lòng, nhờ đó con người bạch lộ nội tâm của mình. Lời nói càng phong phú khi nội tâm càng suy tư càng nghiền ngẫm nhiều. Huống hồ lời đó là Lời của Thiên Chúa, mang sứ mạng thực hiện Thiên Ý của Người.
Qua bài Phúc Âm, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn “người gieo giống” để mô tả số phận Lời Chúa được tung ra giữa các linh hồn và đem lại kết quả như thế nào.
Người phán: “Này đây, có người gieo giống đi gieo lúa”. Có hạt rơi xuống bên vệ đường, chim trời ăn mất. Có hạt rơi xuống trên sỏi đá, không đâm rễ sâu, bị khô héo. Có hạt rơi vào bụi gai bị chết ngạt. Chúa không chú trọng đến phần mất mát đó cho bằng đến sự phát triển mạnh mẽ của hạt giống khi rơi vào phần đất tốt. Nó sẽ bừng lên một mùa gặt phong phú, một thành trăm.
Vậy đừng ai ngã lòng vì thấy Nước Trời chậm chạp. Mọi sự xem ra chống lại việc triển nở nhưng hãy chờ mùa gặt đến. Kết quả sẽ vượt mức tưởng tượng vì đây là công việc của Thiên Chúa.
Bổn phận của mỗi người là lắng nghe Lời Chúa và cố gắng thi hành trong việc làm. Không phải chỉ nghe, mà cố tìm hiểu cho biết Chúa muốn ta phải làm gì. Có bao nhiêu chướng ngại vật chống lại việc tìm hiểu Lời Chúa. Trước hết là ma quỉ như chim trời đến cướp lấy hạt vừa rơi xuống. Vì thế, Chúa dạy chúng ta cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ của ma quỉ. Rồi đừng quá “lo lắng việc đời, ham mê của cải”, như những bụi gai bóp nghẹt Lời Chúa.
Tóm lại, dụ ngôn người gieo giống là dụ ngôn Đức Tin, với một lối diễn tả đầy tâm lý. Chúa phác họa cuộc sống hằng ngày của chúng ta theo tinh thần Đức Tin. Tin là chấp nhận Chúa, đem Lời Chúa thực thi trong đời sống và quảng bá cho người chung quanh.
Thánh Justinô tử đạo vào năm 150 đã suy niệm về dụ ngôn người gieo giống này và người khuyên bảo những người rao giảng Tin Mừng đừng bao giờ ngã lòng.
Thật đáng buồn khi thấy đạo thánh càng ngày càng sa sút. Điển hình như nước Ý có truyền thống Công giáo lâu đời, có bao nhiêu đấng thánh, thế mà số người giữ đạo thực sự hiện nay chỉ còn 15% tổng số dân có đạo. Số còn lại toàn thuộc lại dửng dưng. Lời Chúa như rơi vào sỏi đá, vào bụi gai hay ngoài mặt lộ. Tuy nhiên, như lời thánh Justinô, người rao giảng Lời Chúa như hạt giống rơi vào ruộng tốt sẽ triển nở một thành trăm. Bổn phận ta là thành tâm đón nhận Lời Chúa.
Lạy Chúa, xin kết nạp con vào đoàn người đi gieo giống của Chúa.
8. Nghe và hiểu mầu nhiệm Nước Trời
(Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Mỗi khi tiến lên bục giảng, tôi muốn mọi thính giả để tai lắng nghe các lời tôi nói, vì lúc đó tôi đinh ninh rằng mình đang công bố Lời Chúa, đang rao giảng về Nước Thiên Chúa. Dụ ngôn được kể hôm nay nhắc nhở tôi rằng, linh mục rao giảng Lời Chúa phải là người đầu tiên đặt ra cho chính mình câu hỏi: tôi có thật sự biết Nước Trời là gì không? và tôi đã từng nghe và hiểu mầu nhiệm Nước Trời chưa? Câu hỏi không thừa thãi chút nào, kể cả sau 40 năm đời linh mục, vì vẫn có nguy cơ tôi hiểu sai, hoặc chưa hề thực sự nghe Lời và hiểu thấu.
‘Con hãy chỉ cho cha con đường tới nhà thờ, và cha sẽ chỉ cho con đường về trời.’ câu nói danh tiếng đó của cha sở họ Ars - thánh Jean Marie Vianey thì mọi linh mục đều biết; có điều, rất thường khi ta lại hiểu ‘chỉ đường về trời’ là dạy bảo điều tốt lành để được rỗi linh hồn, lên thiên đàng. Và vì hiểu như thế nên linh mục về phần mình cố gắng sống đời thánh thiện gương mẫu, và rồi cho rằng việc mục vụ mà mình phải chu toàn chính yếu hệ tại ở việc giảng dạy cho giáo dân bổn đạo ăn ngay ở lành và nắm giữ các luật Chúa và luật Hội Thánh, nhất là các qui định về đạo giáo và luân lý.
Người Việt Nam chúng ta (giống người Do Thái) dùng chữ ‘trời’ để chỉ Thiên Chúa, vì thế Nước Trời là Nước Thiên Chúa. Trong ngôn ngữ bình dân, chúng ta cũng hiểu ‘trời’ là nơi xa xôi trên cao, ‘về quê trời’ là lên thiên đàng gặp gỡ Thiên Chúa sau khi chết v.v… Công việc giữ đạo vì thế hệ tại ở sống làm sao để sau khi chết được rỗi linh hồn, được về quê trời, được lên thiên đàng. Do đó trách nhiệm bổn phận chính yếu của linh mục là giúp bổn đạo đạt được điều đó… Chính vì thế mà… câu chuyện dụ ngôn hôm nay cũng dễ dàng được suy đoán và giải thích theo chiều hướng đó…
Nếu Lời là chính Đức Giêsu, và nếu rao giảng Nước Trời là chính công bố cuộc sống và cái chết thập giá của Người, thì đúng là hạt giống Nước Trời yêu thương và tha thứ đã được gieo vào trần gian. Nghe Lời và hiểu là chấp nhận Đức Giêsu, là chấp nhận ơn cứu rỗi của Người, là đi vào vương quốc tinh yêu tha thứ của Thiên Chúa. Người môn đệ của Đức Giêsu trước hết phải là ‘anh em được hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời’ vì đã tin và chấp nhận Giêsu là tình yêu tha thứ của Thiên Chúa. Bí tích rửa tội đã thực sự đưa họ vào Nước Trời và còn tiếp tục đưa vào ngày càng sâu hơn, miễn là họ còn luôn sẵn sàng đón lấy như thửa đất tốt được hạt giống gieo xuống. Thửa đất tốt khi đó không phải là những người ngay lành về mặt luân lý, cũng không phải là người học cao hiểu rộng về mặt tri thức, không phải là người chăm chú lắng tai nghe về mặt tâm lý. Đơn giản đó là những tâm hồn, trong tác động của Thần Khí và ân sủng, đang trong tư thế sẵn sàng lắng nghe, hiểu và chấp nhận Tình Yêu tha thứ hay Tình Yêu thương xót. Và hạt giống Tình Yêu đó sẽ tự động ‘sinh hoa kết quả, hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục’. Điều duy nhất con người cần làm để thửa đất được nên tốt là nhìn nhận thân phận tội lỗi, thấp hèn và đáng thương của mình, nhờ thế chân thành khao khát đón lấy Giêsu Cứu Chúa. Hiệu năng của hạt giống Lời gieo xuống lệ thuộc rất nhiều vào chiều sâu của cầy sâu cuốc bẫm này.
Nếu như thế, trước khi bước lên bục giảng để gieo Lời Tình Yêu cứu độ, tôi – linh mục của Lời – sẽ phải đi sâu vào con người bất toàn yếu đuối của chính mình. Câu kinh ngắn, ‘Xin Chúa thanh tẩy tâm hồn và môi miệng con…’ mà linh mục hay phó tế cúi mình thầm đọc trước công bố Tin Mừng là gợi nhớ cho chính tôi một thái độ chân thành và khiêm tốn. Và rồi hạt giống tôi gieo qua bài giảng của mình, bất kể lúc nào và trong hoàn cảnh nào, ngay cả trong các tình huống tệ hại và bi quan hơn hết, vẫn đích thực phải là Đức Kitô Giêsu – tình yêu Thiên Chúa thứ tha, chứ không phải một Đức Chúa công thẳng luận phạt gieo sợ hãi, hầu ép người nghe nắm giữ các giới răn hay luật buộc để mong được lên thiên đàng. Trong khi dọn bài giảng, chính tôi sẽ phải tự tra vấn: có thực sự tôi ‘nghe Lời và hiểu’ hay không; và chính tôi có phải là thửa đất tốt được cầy sới đang khiên tốn đón nhận hạt giống Nước Trời của lòng thương xót Chúa, và đang sinh bông hạt của cùng một tình yêu xót thương tha thứ hay không?
Lạy Đức Giêsu là chính hạt giống và người gieo giống Nước Trời, xin cho con, linh mục của Lời Chúa, trở thành thửa đất tốt sẵn sàng nhất đón nhận hạt giống của Tình Yêu xót thương. Và một khi đã đón nhận và làm cho hạt giống này sinh hoa kết trái (ít là được vài chục hạt), chính con sẽ tiếp tục cùng Chúa gieo vãi vào các thửa đất khác là tâm hồn các tín hữu. Xin liệt con vào số những ‘ai đã có thì được cho thêm, và sẽ có dư dật’, không phải chỉ vì lợi ích riêng tư của mình, nhưng vì công tác gieo giống Chúa đã trao phó cho con, linh mục của Lời. Amen.
9. Bài học thiết thực từ Thầy Giêsu
(Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Trong những năm gần đây, một trong những vấn đề được xã hội cũng như Giáo hội quan tâm nhiều đó là vấn đề giáo dục. Và điều khiến cho nhiều người bức xúc nhất đó là chương trình dạy và học quá tải. Càng cải cách thì chương trình càng nặng. Số môn học và lượng bài tập, bài học cứ thế mỗi năm mỗi tăng. Chiếc cặp học sinh càng ngày càng to càng nặng, có khi nặng hơn cả trọng lượng của các em. Hậu quả là cả thầy và trò, cả người học lẫn người dạy đều phải vật vả thương đau.
Trong cuộc họp báo đầu tiên của Bộ trưởng Giáo dục Trung Quốc, Chu Tế, phóng viên nhí Lý Gia Hy, 12 tuổi, của kênh thiếu nhi Đài CCTV, đã chất vấn ông Bộ trưởng của mình: "Cháu được biết ngành giáo dục đã có nhiều cố gắng trong việc giảm nhẹ cặp sách đến trường cho học sinh, nhưng tại sao đến nay cặp của chúng cháu vẫn còn rất nặng? Câu hỏi thứ hai là các bạn đều nói không đủ thời gian để ngủ, bác bộ trưởng có cách nào để chúng cháu được ngủ nhiều hơn không?". Một câu cật vấn nhẹ nhàng, nhưng làm cho người nghe nhói lòng! Trong một lá thư gởi Chúa Hài đồng nhân dịp Giáng sinh, một em học lớp 4 đã than thở với Chúa Hài Đồng: “Con ước mong sao chương trình học ở trường nhẹ hơn, dễ hơi để con có thời gian học Giáo Lý và sinh hoạt Phong trào Thiếu Nhi”. Là những người có trách nhiệm, khi đọc lá thư, chúng tôi không khỏi chạnh lòng.
Quả đúng như vậy, vì đa phần các em phải học sáng học chiều. Chưa đủ các em còn phải tranh thủ học đêm; học chính khoá, học phụ đạo, học thêm, học bồi dưỡng, học nâng cao…. Cả thời gian nghỉ hè cũng bị bớt trước xén sau. Tệ hại hơn nữa là nhiều em Thiếu nhi Công giáo bỏ cả việc học Giáo lý, bỏ cả lễ ngày Chúa Nhật để đi học thêm cho kịp chương trình ở trường. Tất cả chỉ vì chương trình học ở trường quá nặng, quá ôm đồm.
Tuy nhiên, có một trường mà ở đó chương trình học rất nhẹ nhàng, rất thoải mái, trường đó mang tên là Trường Dạy Đức Tin. Vị Thầy Số Một làm hiệu trưởng ngôi trường đó là Thầy Giêsu. Ai học ở trường này chẳng phải đóng một khoản học phí hay lệ phí nào hết. Vả lại những bài học mà Thầy Giêsu đưa ra lại rất thiết thực và sống động, chứ không nặng tính lý thuyết, và từ chương như ở các trường học khác. Cụ thể hôm nay một trong những bài học rất dễ thuộc mà Chúa Giêsu dạy các môn sinh của Ngài đó là bài học hiền lành và khiêm nhường: “Hãy học với Ta, vì TA hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29). Một bài học hoàn toàn không mang tính lý thuyết tí nào. Vì chính Chúa Giêsu đã sống, đã thực hành một cách trọn hảo trước khi Ngài dạy chúng ta.
Thật vậy, trong suốt cuộc đời của mình, từ khi nhập thể làm người cho đến khi chết thân treo thập giá, Chúa Giêsu đã nêu gương hiền lành khiêm nhường sâu thẳm. Thánh Phaolô đã tóm tắt gương sống này trong một đoạn thư ngắn gọn: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2, 7-8).
Như thế lòng hiền lành khiêm nhường của Chúa Giêsu, Đấng đã “không nỡ lòng bẻ gãy cây sậy bị dập và dập tắt tim đèn còn khói”, đã trở thành nguồn ơn cứu độ cho nhân loại. Bởi vì nếu Chúa Giêsu chỉ là một vị Thiên Chúa muôn đời muốn cao sang thì Ngài khó có thể biết cảm thông với những đau khổ của phận người. Ngài đã tự hạ để nâng con người tội lỗi lên địa vị làm con cái Thiên Chúa và được thừa hưởng phần gia nghiệp Nước trời mai sau.
Người ta vẫn thường nói: “Thầy nào trò nấy”. Là người học trò, người môn đệ của Thầy Giêsu, chúng ta đã nên giống Thầy mình chút nào chưa? Nếu Vị Thầy của chúng ta là Đấng hiền lành khiêm nhường, thì chúng ta, người môn sinh của Ngài, phải trở nên thế nào, hiền lành hay dữ tợn; khiêm nhường hay kiêu căng tự mãn? Bài học đã có sẵn, nhưng chúng ta đã đem ra thực hành chưa? Và thực hành đến mức độ nào?
10. Suy niệm của Lm. Nguyễn Thành Long
“Hãy đến với Ta, hỡi những ai mang gánh nặng nề”
Có thể nói rằng cuộc đời là một gánh nặng, có khi là quá nặng đối với nhiều người, nặng đến nỗi dường như người ta không thể nào kham nổi.
Gánh nặng ở người này có thể là bệnh tật. Hết bệnh này đến tật khác. Bệnh nào cũng khó chịu, tật nào cũng khó ưa. Hôm nọ, tôi vào tiệm thuốc tây mua hộp thuốc. Trong khi chờ đợi, tôi nghe bà chủ tiệm than thở với một người khách: “Sống mà lành lặn, chứ lưng thì đau, tay chân thì nhức buốt thế này, chết còn sướng hơn”. Hỏi ra thì biết bà bị bệnh thấp khớp và thần kinh toạ. Là thầy thuốc, trong nhà lại đầy thuốc, mà đau vẫn cứ đau. Bệnh tật quả thật là một gánh nặng đối với rất nhiều người, đặc biệt trong thời đại hôm nay!
Gánh nặng ở người kia có thể là tai ương hoạn nạn. Đùng một cái tai nạn ập đến, người thì chết, người thì phải nằm nhà thương. Tiền bạc cứ thế một đi không trở lại đi… Mới trưa nay có một xơ quen ở dòng Đaminh nhắn tin cho tôi: “Xin cha cầu nguyện cho con với. Con bị xe tung, 3 tuần nay rồi mà vẫn chưa đi lại được. Huhu”.
Gánh nặng ở người khác có thể là tuổi già sức yếu. Chân chậm, mắt mờ răng long, đau nhức toàn thân, đi đứng khó khăn, ăn rồi thì nói chưa ăn…, Nên suốt ngày phải làm phiền đến con cháu… Gánh nặng của thời gian, của tuổi tác!
Gánh nặng ở người khác nữa có thể là việc giáo dục con cái. Đứa thì ngang tàng ương ngạnh, đứa thì ù lì bỏ học vì ham chơi, đứa thì khô khan nguội lạnh chuyện đạo nghĩa. Hôm trước, có người than vãn: “Cha ơi, ba đứa con nhà con, hai thằng em thì không cần phải nhắc; nhưng thằng anh thì trong mùa World Cup này, sáng Chúa Nhật nào con cũng phải khổ sở vì nó. Con đánh thức nó dậy đi lễ: đánh thức ở phòng này, nó ôm mền sang phòng khác nó ngủ (ăn bóng đá, ngủ bóng đá mà). Con gọi điện thoại, nó cúp máy để khỏi phải nghe mẹ gọi dậy đi lễ. Hỏi lẽ thì nó bảo rằng mẹ tha cho con khỏi đi lễ lúc này đi. Hết kỳ World Cup, con sẽ đi lễ lại”. Mẹ botay.com!
Và rồi gánh nặng ở người này có thể là chuyện chồng, chuyện con. Có ông thì đam mê rượu chè, sáng xỉn chiều say, hành hạ vợ con quanh năm suốt sáng, khiến cho gia đình tựa một hoả ngục trần gian. Có ông thì máu me cờ bạc, số đề, lại thêm nạn cá độ mỗi khi có Eurô hay World Cup đến. Làm được bao nhiêu nướng hết cho thần đỏ đen bấy nhiêu, thậm chí các vật dụng trong nhà cũng lần lượt đội nón ra tiệm cầm đồ. Gia đình vì thế mà lụn bại, không sao ngước mặt lên được.
Gánh nặng ở người kia có thể là nợ nần. Nợ nần bao vây, do làm ăn thất bát, hay do bị bạo bệnh. Cứ phải sống trong thấp thỏm lo âu vì cái khổ thứ 3: nợ đòi. Đêm nằm thậm chí còn mơ thấy con nợ tới xiết nhà. Thật là khổ.
Gánh nặng ở người khác có thể là trách nhiệm bổn phận. Bổn phận làm cha làm mẹ với đủ thứ cái lo, nhất là chuyện cơm áo gạo tiền; trách nhiệm làm chồng làm vợ trước nhiều chước cám dỗ làm cho người ta dễ dàng sống bất trung; trách nhiệm làm thầy cô, làm người học trò, với đống giáo án, đống bài vở từ chương vô bổ; trách nhiệm làm xếp, làm chủ, làm người lãnh đạo chỉ huy với vô vàn thách đố của thời cuộc, v.v…
Gánh nặng ở người khác nữa có thể là sự nghi kị và hiểu lầm của người thân. Hôm rồi có một người giáo dân vào nói: “Thưa cha, cách đây khoảng 10 năm, ông già con bị mất 1000 USD và ông đổ thừa cho con lấy. Không sao thanh minh được, tức quá, con không nhìn mặt ông già con nữa, và con cũng quyết định bỏ đạo luôn”. Hỏi tại sao tức ông già mà lại bỏ đạo, anh ta bảo: “Tại vì nhà ông già con ngay trước mặt nhà thờ, mỗi lần đi nhà thờ là phải đi ngang nhà ổng. Con không muốn nhìn mặt ổng, nên con không đi nhà thờ luôn”. Chỉ vì hiểu lầm, nghi kị nhau mà trở thành gánh nặng cho nhau trong suốt 10 năm dài.
Muôn kiểu của gánh nặng cuộc đời! Gánh nào cũng nặng nề khó chịu. Gánh nào cũng có khả năng đè bẹp người ta, làm cho người ta quỵ ngã và té nhào đớn đau. Nhất là cái gánh của tội lỗi. Nó không những đè nặng thân xác, mà còn đè bẹp cả phần linh hồn, khiến cho người ta không thể ngẩng cao đầu được.
Vậy khi phải “gồng” những gánh nặng nề đó, Chúa Giêsu mời gọi ta điều gì? Chúa Giêsu mời gọi ta đến với Chúa.
Chúa Giêsu mời ta đến với Chúa, không phải để Chúa cất đi gánh nặng đó cho ta, vì khi xuống trần gian Chúa cũng đã phải mang lấy cái gánh nặng nề. Gánh nặng đó chính là gánh tội lỗi của toàn thể nhân gian. Chúa cũng không gánh thay giùm ta! Chúa mời ta đến với Chúa để được nâng đỡ và bổ sức cho. Chúa nâng ta bằng ơn thánh của Chúa, Chúa đỡ ta bằng sức mạnh của Ngài. Chúa còn bổ sức cho ta bằng phúc lành và tình thương tha thứ của Chúa.
Có Chúa nâng đỡ và bổ sức, chắc chắn gánh nặng đời ta sẽ bớt nặng, bớt nề; và cuộc đời ta, vì thế, mà sẽ tươi sáng hơn lên.
Tuy nhiên, một thực tế đáng buồn đó là có nhiều người khi đối mặt với những gánh nặng cuộc đời, thay vì tìm đến với Chúa thì lại tìm đến với những thứ khác.
Có người thì tìm đến với thầy nọ bà kia, hoặc tìm đến với phù chú, bùa ngải. Hậu quả là gia cảnh càng thêm trầm trọng.
Có người thì tìm đến với với rượu với bia, tự nhủ nhờ rượu nhờ bia mà bớt sầu buồn. Kết cục là cả cuộc đời ngả nghiêng xiêu vẹo theo men rượu men bia.
Có người lại tìm đến số đề, số đóm với ước mong có tiền trả nợ, thoát nghèo. Nào ngờ nợ càng chồng chất, gia đình vì thế mà tan nát te tua.
Có người lại tìm đến với thuốc, không phải là thuốc bổ, mà là thuốc sâu để giải sầu vĩnh viễn và để quên đi gánh nặng cuộc đời. Để lại một gánh nặng nề hơn cho những người thân thương, v.v…
“Hỡi những ai mang gánh nặng nề, hãy đến với Ta”, thiết nghĩ đó là lời mời gọi thân thương và ngọt ngào nhất của Thầy Giêsu Chí Thánh. Hãy mau mắn đáp lại lời mời gọi ấy. Có Chúa cùng đi, có Chúa cùng nâng đỡ và giúp sức, không có gánh nào có sức đè bẹp ta, không có gánh nào làm ta quỵ ngã. Có khi gánh ấy lại trở thành chiếc cầu đưa ta đến gần Chúa hơn và gần anh em hơn. Amen.
11. Gieo và Gặt
(Anmai)
Trang Tin Mừng theo Thánh Matthêu mà chúng ta vừa nghe là trang Tin Mừng quá quen thuộc với mỗi người chúng ta nhưng ngày hôm nay nghe lại nó vẫn có một giá trị nhất định trong cuộc đời của mỗi người chúng ta, cách riêng là đời sống thường nhật đang, đã và sẽ diễn ra trong xã hội ngày hôm nay.
Chúa Giêsu thường dùng các dụ ngôn để giảng dạy cho các môn đệ, cho dân chúng. Dụ ngôn ngày hôm nay thật là dễ thương, Chúa đã lấy hình ảnh hết sức thực tế, hết sức gần gũi trong đời sống con người để nói với mỗi người chúng ta. Chúa nói là gieo giống chứ Chúa chẳng hề nói là gieo cây nào cả, Chúa chẳng hề nói đó là lúa hay bắp, hay đậu … Nói như thế hết sức gần gũi vì lẽ ai ai cũng có thể hiểu được vì có vùng thì trồng lúa, có vùng thì trồng đậu, có vùng thì trồng cà phê, có vùng thì trồng tiêu … Bất cứ nghề nào chứ không phải riêng gì về nghề nông, ai ai cũng mong cho mình có lợi sau mùa thu hoạch chứ chẳng ai mong mình bị thất mùa hay bị thất thu.
Như một người gieo giống bình thường, Chúa cũng mong gặt được những hoa quả thật tốt nhưng rồi cuộc đời vẫn có điều gì đó bất thường là thi thoảng Chúa thất thu. Chúa thất thu vì lẽ người ta đã khép lòng mình lại, khép mảnh đất cuộc đời của mình lại không để cho Lời Chúa sinh sôi nẩy nở trong đời của họ. Thiên Chúa luôn luôn yêu thương, sẵn sàng cứu độ con người nhưng còn phần con người, con người có mở lòng mình ra để cho Chúa cứu hay không là chuyện khác. Chúa gieo giống tốt nhưng con người lại cố tình làm cho hạt giống đó bị hư đi đó chính là quyết định của mỗi người.
Ta có thể hiểu một cách đơn giản về dụ ngôn này : người gieo hạt là Chúa, hạt là Lời Chúa, đất chính là mỗi người chúng ta.
Hoa quả của bất cứ cây, hạt nào cũng cần có 3 yếu tố : người gieo, giống gieo và đất để gieo.
Người gieo thì khỏi phải bàn, vì Ngài là chính Thiên Chúa, Ngài là Đấng giàu lòng thương xót, đầy từ bi và nhân hậu để rồi chúng ta an tâm và tin tưởng rằng Ngài là người gieo tuyệt vời. Ngài gieo những hạt mầm tốt để cho con người được phát triển, để được sống trong vòng tay yêu thương, trong sự quan phòng kỳ diệu của Ngài.
Hạt: Lời Chúa. Chúng ta vẫn thường hát với nhau: “Halleluia, Lời Chúa sáng soi con đường đi, Halleluia, Lời Chúa khác chi như giòng suối, Hallelui, Lời Chúa bánh thiêng ban nguồn sống, phúc cho người vui nghe, yêu mến gẫm suy lời luôn”
Hát thật là hay, hát thật là to, hát thật là hoành tráng nhưng hình như Lời Chúa ngày hôm nay nó cứ mờ dần, nhạt dần trong đời sống người kitô hữu thì phải. Thánh vịnh nhắc nhở chúng ta: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước” thế nhưng mấy ai trong chúng ta đã dùng lời Chúa để chiếu soi cuộc đời của mình.
Ngày hôm nay, giữa một đời sống quá phát triển, Lời Chúa dần dần bị người ta đẩy ra khỏi cuộc đời.
Thử hỏi các bậc làm cha làm mẹ xem, ngày hôm nay, cha mẹ, con cái trong gia đình mấy khi đụng đến quyển Thánh Kinh? Trong khi đó Thánh Kinh chính là nguồn sống, nguồn hạnh phúc, của ăn tinh thần cho gia đình.
Nhìn lại chương trình học của một đứa bé chúng ta thấy rất rõ.
Chập chững biết đi một chút thì vào nhà trẻ, sau đó vào cấp 1 và từ từ tiến vào đại học. Bên cạnh đó cha mẹ chúng lo lắng cho chúng quá nhiều về các kỹ năng như đàn, vi tính, học bơi. .. học ngày không đủ và tranh thủ cả học đêm nữa. Đành biết những môn đấy rất cần cho cuộc đời nhưng nó chỉ là cần chứ không phải là đủ, là căn cốt của cuộc đời này. Một thực trạng đau lòng ngày hôm nay là số lượng giáo lý viên trong các giáo xứ cứ vơi dần. Không chỉ giáo lý viên vơi dần mà các em nhỏ học giáo lý cũng vắng dần trong các lớp giáo lý. Khi hỏi đến thì cha mẹ và ngay như chính các em cũng tìm hết mọi cách để lý giải cho mình về chuyện bỏ bê học Lời Chúa mà chỉ mãi đi tìm cho mình tri thức của xã hội.
Cũng buồn cười ! Chắc có lẽ đi học cái gì càng đóng tiền cao họ càng thích đi chứ đi học Giáo lý miễn phí nên chẳng ai thèm đi học cả. Cũng nực cười hơn nữa khi chính cái học miễn phí ngày hôm nay, ngày các cháu còn trẻ chính lại là cái kho tàng vô giá, là hành trang các cháu mang theo khi vào đời. Học cao hiểu rộng biết nhiều là tốt đấy nhưng thực ra không ít người đang phải trả một giá quá đắt cho chuyện đầu tư tri thức chứ không đầu tư cho Lời Chúa.
Lời Chúa cứ theo năm tháng mờ nhạt dần trong đời sống kitô hữu.
Mảnh đất: mảnh đất để mà Lời Chúa có thể sống và phát triển chính là cuộc đời của mỗi người chúng ta. Vì ham chạy theo sức hút của cuộc đời, ngày hôm nay con người ta không còn dành cho Lời Chúa phát triển trong đời mình nữa. Các kiến thức về khoa học, về tin học, về xã hội nó đã chiếm hết mảnh đất của đời ta rồi thì còn gì chỗ để mà cho Lời Chúa phát triển nữa.
Mới đây, một người quen nhờ tôi giúp cho hai đứa con của chị khi chị thấy chúng dường như nói quá đáng là bỏ đạo! Nghe chị nói xong tôi cảm thấy ngao ngán làm sao đấy! Gia đình chị thuộc dạng khá giả, chồng chị là một người có tiếng trong giới hội họa – mỹ thuật nhưng gia đình chị đang đứng trên bờ vực của sự dữ, sự mất lòng tin, dự đánh mất Thiên Chúa ra khỏi gia đình.
Chẳng dám trách ai, chẳng dám trách chị, chẳng dám lên án ai và cũng chẳng dám lên án chị.
Có lẽ cái hậu quả, sự bi đát mà gia đình chị đang chịu lấy không phải ngẫu nhiên mà đến với gia đình chị. Nó chính là hậu quả của nhiều tháng nhiều năm mà gia đình chị chính là tác giả. Là một gia đình Công giáo hẳn hoi nhưng Lời Chúa chẳng bao giờ có cơ hội để mà sống trong gia đình của chị. Vợ chồng con cái cứ mãi miết đi tìm con chữ, đi tìm tri thức mà không tìm Lời Chúa. Chúa nhật vẫn tham dự Thánh lễ tạm gọi là cho có với người ta chứ vợ chồng con cái có để cho Lời Chúa thấm nhập vào gia đình chị đâu mà con cái chị có đời sống đạo tốt! Tôi khẳng định một điều rằng chính vợ chồng con cái chị là người đã tạo nên hậu quả ngày hôm nay. Ngày hôm nay, dẫu rằng anh chị sống trên một đống tiền mà có thể nói là tiền tỷ đấy nhưng có hạnh phúc thật hay không hay nó chỉ là cái giả tạo ở bên ngoài về mặt xã hội thôi còn về tôn giáo, về lòng tin, về Thiên Chúa hình như chỉ là vá víu tạm bợ mà thôi.
Nếu như khi các cháu còn bé, anh chị biết dạy dỗ, hướng dẫn các cháu sống Lời Chúa cùng với các anh chị thì ngày hôm nay anh chị không phải lo lắng gì cả. Thử hỏi một ngày Chúa ban cho anh chị và các cháu được 24 giờ đồng hồ nhưng anh chị và các cháu dành được bao nhiêu phút để ngồi lại với nhau đọc kinh chung với nhau thôi chứ đừng nói là đọc lời Chúa và suy niệm Lời Chúa?
Lo đi tìm thế gian thì thế gian sẽ tràn ngập gia đình, đó là quy luật tất yếu của cuộc đời chứ có gì đâu mà chị phải lo âu và thắc mắc. Nếu như anh chị và các cháu đi tìm Lời của Chúa thì chắc chắn Chúa sẽ là vua, là Chúa là chủ của gia đình anh chị.
Nhớ đến hình ảnh gia đình của chị tôi trộm nghĩ rằng Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, Ngài cho chúng ta tự do lựa chọn thái độ sống với Ngài. Ngài không hề ép buộc chúng ta bất cứ điều gì cả. Lời Chúa vẫn có đó, Lời Chúa vẫn còn đó nhưng còn đón nhận, làm cho phát triển lại tùy thuộc vào mỗi người chúng ta. Chúng ta có để cho Lời Chúa trở nên nguồn sống, nguồn ánh sáng, nguồn suối cho cuộc đời chúng ta hay không chính là cách đáp trả của mỗi người chúng ta.
Nguyện xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết mở lòng mình ra để đón nhận Lời Chúa và để cho Lời Chúa sinh hoa kết quả trong cuộc đời mỗi người chúng ta để ngày sau Chúa gặt được những cây “lúa”, những cây “đậu”, những cây “cà phê” đầy hoa và trĩu quả.
12. Ngài dạy họ nhiều điều
(Giải thích Bản văn Tin Mừng – Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Giải thích
Bắt đầu từ chương 13, Chúa Giêsu ra khỏi khung cảnh hội đường và các cuộc tranh luận. Ngài giảng dạy dân chúng trên bờ biển qua các dụ ngôn. Sau khi Chúa Giêsu nói về việc “thi hành ý muốn của Cha trên trời” (12:50), Ngài chuyển sang dụ ngôn Người gieo giống. Hạt giống sẽ được giải thích là lời của Nước Trời (13:19), cũng có nghĩa là ý muốn của Thiên Chúa được trình bày trong lời nầy. Tiếp sau dụ ngôn nầy là các dụ ngôn về Nước Trời. Như thế, Chúa Giêsu trình bày ý muốn của Thiên Chúa trong các dụ ngôn. Dụ ngôn đầu tiên “Người gieo giống” sẽ cho thấy các cách thức khác nhau đón nhận lời Chúa và thi hành ý muốn của Thiên Chúa.
Dụ ngôn Người Gieo Giống là dụ ngôn đầu tiên trong loạt 7 dụ ngôn. Sáu dụ ngôn còn lại chia thành hai nhóm ba, phân cách nhau bởi giải thích dụ ngôn cỏ lùng. Mỗi trong sáu dụ ngôn đều bắt đầu bằng câu: “Nước Trời giống như”. Phần dành cho các dụ ngôn kết thúc ở câu 13:53.
Phân đoạn các dụ ngôn trong chương 13 nầy như sau:
1- Dụ ngôn người gieo giống (13:1-9); Mục đích của dụ ngôn (13:10-17) và giải thích dụ ngôn (13:18-23); 2- Dụ ngôn lúa và cỏ lùng (13:24-30); 3- Dụ ngôn hạt cải (13:31-32); 4- Dụ ngôn men trong bột (13:33); Lý do dùng dụ ngôn (13:34-35); Giải thích dụ ngôn lúa và cỏ lùng (13:36-43); 5- Dụ ngôn kho tàng ẩn dấu (13:44); 6- Dụ ngôn viên ngọc quý (13:45-46); 7- Dụ ngôn lưới cá (và giải thích) (13:47-50); Kết luận (13:51-52).
Bố cục của dụ ngôn người gieo giống (13:1-9) có thể được phân chia như sau:
- Dẫn nhập (c. 1-3a);
- Các loại đất đón nhận hạt giống (cc. 3b-8);
- Kết luận (c. 9).
Giảng Dạy Trên Bờ Biển (cc. 1-3a)
Không gian trình thuật thay đổi. “Căn nhà” mà Ngài đi ra khỏi là căn nhà trong đó Ngài sẽ giải thích cho các môn đệ ý nghĩa dụ ngôn người gieo giống (13:36). “Ngài ngồi xuống” và “đám đông đến bên Ngài” ám chỉ Ngài sắp sửa giảng dạy họ như một vị Thầy (5:1). Những người nghe Ngài giảng dạy vẫn là “đám đông” đã theo Ngài ngay lời đầu tiên của Bài Giảng Trên Núi (5:1; 7:28; 8:1; 12:46; 13:2).
Các Loại Đất Đón Nhận Hạt Giống (cc. 3b-8)
Ý nghĩa của dụ ngôn sẽ được Chúa Giêsu giải thích trong 13:18-23. Ở đây chúng ta cố gắng tìm hiểu ý nghĩa các hình ảnh của dụ ngôn. Người gieo giống, chứ không phải là “một người gieo giống vì có mạo từ, được giới thiệu ở đầu dụ ngôn (c. 3b) chính là Chúa Giêsu, Đấng mang lời Chúa đến cho trần gian. Tuy nhiên trong dụ ngôn không nhắc đến người gieo giống nữa, mà chỉ nói đến “hạt giống”, chủ ngữ thật của dụ ngôn, “Có hạt rơi trên…”. Matthêu mô tả bốn nơi hạt giống rơi xuống (cc. 4-8), trong đó hai lần thánh sử mô tả tính chất của đất: “không có nhiều đất” (c. 5) và “đất tốt” (c. 8), như là điều kiện chính làm cho hạt giống lớn lên và sinh hạt hay không. Hai lần khác thánh sử không nói đến tính chất của đất, mà nói đến môi trường không thuận lợi cho hạt giống: “vệ đường” (c. 4), và “bụi gai” (c. 7); trong các môi trường đó, hạt giống chịu tác hại do chim trời đến ăn, và cây gai bóp nghẹt; do đó hạt giống không thể sinh trưởng được.
Hạt giống rơi trên vệ đường (c. 4). Vệ đường ở đây là những mảnh đất hẹp chạy dọc theo bờ ruộng hoặc giữa ruộng (x. 12:1). Chim trời đến ăn đi những hạt rơi trên đó. “Chim trời” không mang một ý niệm tiêu cực. Trong Matthêu, peteinon, chỉ “chim trời” được Thiên Chúa chăm sóc và nuôi nấng (6:26; 8:20; 13:32); do đó không thể giải thích “chim trời” là hình ảnh của “kẻ xấu”, ponèros (13:19). Động từ katesthiò, có nghĩa là “nuốt chững”.
Hạt rơi trên đá, không có nhiều đất (cc. 5-6). Đồi núi nhiều nơi tại Palestina chỉ toàn là đá sỏi. Loại đá trong dụ ngôn nầy là petròdès, “đất đá”, trên loại đá nầy có một lớp đất mỏng (13:5.20); khác với petra, “đá tảng” (7:24tt). Trong lớp đất mỏng hạt giống mau ấm hơn nên cũng mọc lên nhanh hơn; nhưng dưới ánh mặt trời nóng bức, nó sẽ khô héo ngay nếu thiếu nước (x. Giê. 17:8).
Bụi gai (c. 7). Cây gai không phải là cây hữu ích. Nơi cây gai không thể hái được trái nho (7:16; 13:22). Hạt giống rơi vào trong bụi gai thì không thể sinh trưởng được (x. 7:16). Động từ “bọp nghẹt” , pnigò, “làm cho nghẹt thở” (18:28) không sống nổi.
Đất tốt (c. 9). Hạt giống lthành cây và kết hạt được tính theo con số tăng dần, từ ba mươi lên dần đến một trăm. Cách tính tăng dần nầy cũng thấy trong đoạn tin mừng nầy. Từ hạt giống rơi bên vệ đường bị ăn mất ngay từ đầu, đến hạt giống mọc lên được một chút rồi bị cháy khô, đến hạt giống lớn lên nhưng không sinh hạt, và sau cùng là hạt giống sinh hạt. “Trái/hạt”, karpos, còn có nghĩa thiêng liêng: đó là lòng sám hối. Muốn biết đất tốt hay xấu thì hãy nhìn xem cây sinh hạt, giống như nhìn quả thì biết cây (x. 7:16; 12:33).
“Ai có tai để nghe thì hãy nghe” (c. 9). Cụm từ nầy được dùng trong hai lần khác nữa trong văn mạch khác (11:15; 13:43). Nó thường được dùng trong kết luận, và nhằm gây chú ý trước một vấn đề hệ trọng đã được bàn đến. Ở đây câu nầy hướng về dân chúng là những người đang nghe Chúa Giêsu giảng dạy. Ngài làm cho họ chú ý và cho họ thấy họ có thể là một trong các loại đất vừa nói trên.
+++
Hạt giống Lời Chúa được gieo xuống trần gian không bao giờ thiếu.
Mảnh đất đón nhận hạt giống, mới là quan trọng.
Chúa Giêsu đã rao giảng lời Thiên Chúa cho dân chúng, và Ngài trông chờ những mảnh đất tốt.
Ai là mảnh đất tốt, nghĩa là đón nhận Lời Chúa cách có hiệu quả, sẽ trở nên mẹ và anh chị em của Chúa Giêsu.
13. Sức sống của hạt giống
(Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Vào một đêm nọ, người phụ nữ nằm mơ. Chị thấy mình bước vào một siêu thị. Khách hàng tấp nập. Có một quày hàng đặc biệt, người ta chen chân không lọt. Chị ngạc nhiên thấy Chúa Giêsu đứng bán ở quày hàng này.
Chờ đợi đến phiên mình, chị hỏi: Chúa mà cũng bán hàng sao? Chúa bán cái gì ở đây vậy?
Chúa trả lời: Ta bán mọi sự con đang ước muốn trong trái tim con.
Chị nói liền một hồi: Thưa Chúa, con muốn có bình an, có tình yêu, có hạnh phúc, có khôn ngoan và tự do không sợ hãi. Suy nghĩ một lúc, chị lại thêm: không chỉ cho con mà thôi nhưng còn cho chồng, cho con và cho những người thân yêu của con nữa.
Chúa mỉm cười và nói: hỡi con yêu dấu, ở đây,Ta không bán hoa trái mà chỉ bán hạt giống thôi. (Anthony de Mello).
Tin mừng Chúa nhật hôm nay (Mt 13,1-23) có tên gọi là “Dụ ngôn người gieo giống”. Thiên Chúa là người gieo giống. Chúng ta là đất. Hạt giống là lời giảng dạy của Chúa Giêsu. Tùy vào thái độ của mỗi người, chân thành đón nhận hay lười biếng khước từ, Lời Chúa sẽ sinh những hiệu quả khác nhau.
Hạt giống được gieo trên bốn loại đất, đất vệ đường, đất lẫn sỏi đá, đất có nhiều gai góc và đất tốt. Đất nào cho năng suất nấy. Làm sao bên lề đường khô cằn sỏi đá, hạt giống có thể sinh hoa kết trái được? Trong bụi gai chằng chịt cỏ rác không mọc nổi, hạt giống làm sao vươn lên để thánh cây xanh tốt được? Chúa Giêsu ví lời giảng dạy của Ngài như hạt giống trong tay người nông dân. Hạt giống gieo trên những loại đất khác nhau, số phận các hạt giống khác nhau. Lời Chúa cũng có nhiều số phận khác biệt. Có lời sinh lợi muôn vàn lời. Có lời sống èo uột bị bóp nghẹt. Có lời làm tròn sứ mạng được uỷ thác. Có lời biến mất như rơi vào cõi hư không. Khác biệt về thành quả không hệ tại bởi hạt giống tốt xấu mà bởi phẩm chất ruộng đất. Thửa ruộng mà Chúa Giêsu nói đến không phải ruộng trên mặt đất mà là cõi lòng con người. Vì thế, dụ ngôn hạt giống gieo trên các loại đất khác nhau gợi lên những ý nghĩa.
Tấm lòng quảng đại của người đi gieo.
Người đi gieo đã gieo hạt giống trên những mảnh đất phì nhiêu màu mỡ. Những mảnh đất sỏi đá, gai góc, lối mòn có bước chân người cũng không bị lãng quên. Người gieo hạt không bỏ rơi một mảnh đất nào vì tấm lòng quãng đại của ông, chỉ muốn cho hạt giống được gieo vãi khắp chốn. Thiên Chúa quảng đại nhìn mọi người với chính phẩm giá của họ trong niềm hy vọng của Ngài. Vì thế, mảnh đất nào cũng nhận được hạt giống đồng đều. Ai cũng có cơ may nhận được ân sủng cứu độ Tin Mừng nếu như họ thành tâm thiên chí. Lòng quảng đại không phân biệt đối xử, không ưu tiên ai mà cũng chẳng loại trừ ai, không thất vọng về hiện tại của người khác mà biết kiên tâm đợi chờ hy vọng vào tương lai tươi sáng hơn.
Không ai hoàn toàn là “lề đường”, là “sỏi đá” hay là “bụi gai”. Trong mỗi con người luôn có một mảnh đất tốt cho dù nó chỉ nhỏ bé thôi. Có thiện chí đón nhận hạt giống cũng sẽ có một mùa gặt bội thu “đến nỗi có hạt được một trăm, có hạt sáu mươi, có hạt ba mươi” (Mt 13, 23). Thiên Chúa vẫn gieo Lời Ngài vào lòng chúng ta, vì Ngài chắc chắn rằng: “Lời từ miệng Ta phán ra sẽ không trở lại với Ta mà không sinh kết quả, nhưng nó thực hiện ý muốn của Ta và làm tròn sứ mạng Ta uỷ thác” (Is 55, 11).
Thánh Phêrô đã ba lần chối Chúa, nhưng trong ngài vẫn còn một mảnh đất tốt của lòng sám hối. Thánh Phaolô hăng say bách hại các kitô hữu, nhưng trong ngài vẫn còn đó một mảnh đất tốt của lòng nhiệt thành và khiêm tốn. Thánh Augustinô bị những bụi gai của tri thức, kiêu căng và dục vọng vây bủa, nhưng vẫn còn có một mảnh đất tốt hướng tìm chân lý, chỉ chờ hạt giống gieo trồng là nở rộ mùa gặt phong nhiêu… Còn nhiều lắm những mảnh đất tốt như thế trong Giáo Hội và trong cuộc sống thường ngày của chúng ta. Tất cả những mảnh đất tốt đó, cho dù có nhỏ nhoi đi chăng nữa, nhưng một khi đã được đón nhận Lời Chân Lý thì đúng như lời Chúa nói, đã sinh lợi “hạt một trăm, hạt sáu mươi, hạt ba mươi”.
Hạt giống tiềm ẩn sự sống.
Hạt giống có vỏ cứng bảo vệ, khi được gieo vào lòng đất vỏ sẽ vỡ ra cho mầm đâm chồi. Chồi non lên xanh là hình ảnh của sự sống mới. Sự sống vào đời mới bằng một cuộc phiêu lưu, bằng niềm phó thác cho tương lai.
Hạt giống là ánh sáng, là Tin mừng, là thiện hảo tốt lành, là giá trị Nước Trời. Tự nó, hạt giống có một sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Trong hạt giống có mầm sự sống, hễ cứ gặp điều kiện thuận lợi là mọc lên. Trong mầm sống có sự sống tiếp nguồn từ sự sống của Thiên Chúa. Nếu “Hạt lúa âm thầm mọc lên” (x. Mc 4,26-29) là hình ảnh sức sống tiềm tàng thì “Hạt lúa mục nát đi” (x. Ga 12,24) lại là một hình ảnh khác nói lên niềm hy vọng một mùa gặt mới sau khi chịu ‘mục nát”. Hạt giống là hồng ân Thiên Chúa, phong phú bao la và vô cùng mạnh mẽ. Điều quan trọng là hãy cho hạt giống một cơ hội để mọc lên.
Niềm hy vọng mùa gặt phong phú
Nếu người gieo hạt đã đặt hy vọng vào từng mảnh đất bất kể mức độ tốt xấu thì bổn phận của đất là không được phụ lòng người quảng đại gieo hạt. Thiên Chúa làm được mọi sự nhưng Ngài cần con người cộng tác.Thiên Chúa vẫn luôn tin tưởng và hy vọng nơi con người.
Trong các hoạt động tông đồ, không cần phải phân tích người nào là lề đường, là sỏi đá hay bụi gai. Hạt giống cứ gieo vào đất, chúng ta hãy làm việc tốt cho người khác. Chính Thiên Chúa mới là Đấng làm cho hạt giống mọc lên và sinh hoa kết quả (x. 1 Cr 3, 5-9).
Niềm hy vọng phải là một đặc trưng của đời sống người kitô hữu. Chính niềm hy vọng đó sẽ giúp chúng ta vượt qua những khó khăn, thử thách trong cuộc sống hiện tại, hướng tới một tương lai tươi sáng và một cuộc sống vĩnh cửu của người được làm con cái Thiên Chúa.
Mầu nhiệm Nước Trời còn ẩn chứa nhiều điều huyền diệu và chỉ cõi lòng nào chân thành, khiêm nhường đón nhận mới có cơ duyên thưởng thức những huyền diệu của Lời Hằng Sống. Nhận lấy hạt giống Lời Chúa trong mình, chúng ta từ từ sinh hoa trái trong Giáo Hội cho vinh quang của Thiên Chúa ( GLCG # 1724).
Người nông dân có câu: “nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”. Giống là cần thiết, nhưng nước, phân bón và công chăm sóc thật là quan trọng. Giống tốt, gieo xạ đúng quy trình kỹ thuật, nhưng để đất khô hạn thì lúa không lên xanh. Có giống, có nước mà không có phân bón thuốc trừ sâu, thì lúa sẽ èo uột không kết quả. Có được giống tốt, nước bảo đảm, phân thuốc đầy đủ, nhưng chẳng chăm sóc thì không thu lợi được bao nhiêu.
Người sáng, người mù hay người câm điếc cũng đều có thể nghe Lời Chúa, đón nhận hạt giống Lời Chúa gieo vào lòng, nhưng quan trọng là đem ra thực hành.
Có một mảnh đất hoang cỏ mọc um tùm. Ông Tư mua lại thửa đất ấy rồi cày xới, làm sạch cỏ, rồi ông trồng cây, trồng hoa, trồng rau. Một thời gian sau, mảnh đất trở thành một khu vườn thật đẹp. Một hôm, ông Tư đang làm việc trong vườn, cha xứ đi qua và nói: "Khu vườn thật là đẹp! Ông Tư thấy không, khi ông biết cộng tác với Thiên Chúa thì kết quả như thế đó". Ông Tư trả lời: "Vâng, cha cứ thử nghĩ lại xem, miếng đất này như thế nào khi chỉ có một mình Chúa làm việc ở đây".
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay. Chúng con thường xây nhà trên cát, vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy, nhưng lại không dám đem ra thực hành. Chính vì thế Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con.
Xin cho chúng con đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa, đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.
Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình, để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng trưởng.
Ước gì ngôi nhà đời chúng con được xây trên nền tảng vững chắc, đó là Lời Chúa, Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con. (Mana)
14. Đường đi phải đến
(Lm. Giuse Trương Đình Hiền)
Nhà văn quá cố Xuân Vũ (1930-2004), một văn sĩ bộ đội hồi chánh năm 1971 đã viết một cuốn trường thiên hồi ký mang tựa đề “ĐƯỜNG ĐI KHÔNG ĐẾN” mà nội dung cốt yếu là làm sống lại những nổi bi đát, thống khổ, man rợ tột cùng mà những người cán binh cọng sản, trong đó có Xuân Vũ, đã trải qua trên con đường mòn mang tên Hồ Chí Minh. Trên cuộc hành trình “giải phóng miền Nam” cay nghiệt đó, biết bao thanh niên, thiếu nữ đã vĩnh viễn nằm lại giữa núi rừng heo hút, bao nhiêu cái chết tức tửi đắng cay khi tuổi đời còn thênh thang mộng ước, bao mối tình say đắm ngọt ngào đành chia ly đứt gánh vì một “rừng mơ” của ảo tưởng và lầm lạc. Cho dù trong số ra đi đó có đến được Miền Nam, thì tâm hồn họ, cuộc đời họ cũng gần như tan nát, mất hướng và thất vọng khi nhận ra một lý tưởng bị đánh lừa, một cuộc đời bị lãng phí. Và vì thế, đối với Xuân Vũ, con đường giải phóng đó, con đường cách mạng đó lại là “ĐƯỜNG ĐI KHÔNG ĐẾN”.
Thế nhưng hôm nay, Lời Chúa lại mách bảo chúng ta rằng: có một con đường khác mang tên LỜI CHÚA là một “ĐƯỜNG ĐI PHẢI ĐẾN”.
Trước hết, Lời Chúa phải được chúng ta tin nhận đó là Lời Hành Động, Lời hiệu quả, Lời mang lại ơn cứu độ, chứ không bao giờ là một lời của gió thoảng mây bay, lời của hoang vu trống rỗng.
Để khẳng định chân lý nầy, chúng ta hãy nhớ lại lời của sứ ngôn Isaia trong Bài đọc 1 vừa được công bố:
“Cũng như mưa tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đât, chưa làm cho đất…đâm chồi nẩy lộc…thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không về với Ta, nếu chưa đạt kết quả, …”.
Và không chỉ “xuất phát từ miệng Ta” như một âm thanh, như một tiếng nói, cho dù là tiếng nói sáng tạo: “Thiên Chúa phán: - Phải có ánh sáng. Liền có ánh sáng” (St 1,3), hay tiếng nói tình tự vỗ về của người yêu: "Bởi thế, nầy Ta sẽ quyến rũ nó, đưa nó vào sa mạc để cùng nó thổ lộ tâm tình" (Hs 2,16), mà là một sự “xuất phát” để “trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta...” (Ga 1,14).
Với cuộc mặc khải tối hậu nầy, quả thật Lời Chúa đã cô đọng thành xương, thành thịt, thành người, thành “ngôi vị” và là Đấng tái tạo, cứu độ thế giới.
Đức Kitô chính là Ngôi Lời Nhập Thể, là Lời vâng lệnh Chúa Cha xuống thế làm người, là Lời loan báo tin Mừng bình an, là Lời Chân lý, là Lời đem lại sự sống đời đời. Ngài là Lời nhưng Ngài cũng chính là người đi rao giảng Lời, là Người công bố Tin Mừng Nước Thiên Chúa, là Người mang hạt giống chân lý tình yêu và cứu độ gieo vào mảnh đất trần gian. Ý nghĩa đầu tiên mà Chúa Giêsu muốn nhắm tới trong dụ ngôn “Gieo Giống” phải chăng là muốn cho dân Ít-ra-en ngày xưa và chúng ta hôm nay xác tín rằng: Nước trời chắc chắn sẽ đến và “Lời loan báo về Nước Trời” chắc chắn sẽ sinh hoa kết trái, cho dù phải kinh qua khó khăn thử thách, vất vả hiểm nguy, chẳng khác nào người gieo giống phải đối diện với những “sỏi đá khô cằn, những bụi bờ gai góc, tưởng đâu hạt giống sẽ bị vùi dập, nghiền nát, và người gieo phải thất bại trắng tay. Nhưng rồi, mùa gặt bội thu lại đến mang theo vỡ lỡ vui mừng, “hạt một trăm, hạt sáu mươi, hạt ba mươi…”
Phải chăng, Chúa Giêsu muốn ngụ ý trong dụ ngôn nầy là chính cuộc đời và sứ vụ của mình? Cũng có thể lắm đấy chứ! Ngay từ phút giây Nhập Thể vào mảnh đất trần gian, Lời Thiên Chúa đã chẳng đụng ngay con đường Bêlem sỏi đá, khô chồi đến độ, mọi cánh cửa nơi đó đều khép chặt để Ngài phải sinh hạ trong chuồng lừa máng cỏ đó sao! và rồi, trái tim nhân loại đâu có phải lúc nào cũng trổ hoa để mĩm cười đón đợi Đấng Cứu Thế. Hêrôđê, Philatô, những người biệt phái, các ông tư tế của đền thờ không chỉ là những thế lực có thể bóp nát chính bản thân Ngài, nhưng còn có đủ quyền uy để bóp ngặt không để cho một mầm mống nào của chân lý do Ngài rao giảng được tồn tại, phát sinh. Trong suốt ba năm dãi dầu sương gió, từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây, từ duyên hải Biển Hồ đế giữa lòng hoang mạc…Ngài đã cất công tung gieo hạt giống Lời Chúa. Nhưng kìa, tất cả gần như sụp đổ tan tành vào buổi trưa thứ Sáu: “Đóng đinh nó đi, đóng đinh nó đi…Xin tha Baraba, đóng đinh Giêsu vào thập giá…”. Vâng, có lẽ do áp lực của miếng cơm manh áo, của vị thế chính trị, của nhưng “lo toan vặt vãnh đời thường”, mà gai góc đã phủ kín mảnh đất tâm hồn của đám dân vô tội ấy để Lời chân lý họ đã nghe và thán phục hôm nào “Người nầy dạy như Đấng có uy quyền”, đã “đội nón ra đi”, đã bị bóp nghẹt từ trong trứng nước! Phải chăng bi kịch thập giá là điểm hội tụ của tất cả những gì bi đát nhất của thân phận người gieo giống, của cuộc đời làm ngôn sứ của Chúa Giêsu.
Nhưng tiếng nói cuối cùng lại không là sự chết và đích điểm của Nước Trời lại không phải nấm mồ. Hạt giống Nước trời mà Chúa Giêsu gieo vào giữa lòng thế giới đã mục nát đi cùng với 33 năm cuộc đời nhập thể, cùng với cái chết đau thương của Ngài, đã không luống công vô ích. Vào bình minh ngày Thứ Nhất Trong tuần, hạt giống bị vùi dập Kitô đã oai hùng chỗi dậy đánh bại thần chết và tội lỗi để mang nhân loại đi lên một lộ trình mới: lộ trình của phục sinh, tin yêu và hy vọng. Tất cả đã từ từ vươn dậy. Để rồi xuyên qua bao thăng trầm dâu bể của lịch sử, hôm nay đã có một mùa lúa tốt tươi trên cánh đồng thế giới và hứa hẹn sẽ vàng đồng đầy kho nứt lẫm trong ngày thế mạt.
Và đó là con đường của Lời suốt 2000 năm nay, kể từ khi Hạt Giống Ngôi Lời chấp nhận chịu mục nát trên đồi Can-vê và muôn thế hệ Tông Đồ, chứng nhân nối tiếp cùng chấp nhận theo Đức Ki-tô làm “hạt lúa mì” mục nát đi trên cánh đồng thế giới.
Để đức tin, để ơn cứu độ được đến với muôn người, muôn dân tộc, cần có những con người gieo giống và những hạt giống tốt được gieo.
Vì thế, nếu Lời Chúa hôm nay không cho phép chúng ta đánh mất niềm tin yêu và hy vọng trong sứ vụ loan báo Tin Mừng ; thì đồng thời, Lời Chúa cũng tra vấn chúng ta, thách thức chúng ta: Chính bản thân tôi đã đón nhận Lời Chúa thế nào? Lời Chúa đã thật sự phát sinh hiệu quả ra sao trong mảnh đất của đời tôi? Bởi vì Lời Thiên Chúa là Lời sống động kia mà! Lời không chỉ là ngôn từ mà còn phải trở thành ngôn ngữ của cuộc sống.
Nói cách khác, phải biến cuộc sống trở nên lời chứng sống động của Lời Chúa. Phải cất đi những góc gai sỏi đá và cày xới liên tục bằng hy sinh nguyện cầu để biến cuộc đời thành mảnh đất mở màu cho Lời Chúa kết trái đơm hoa.
Nếu Phêrô, Gioan không can đảm “nghe Lời Thiên Chúa hơn lời người phàm” (Cv 4,18), cho dù phải đối diện với đòn vọt ngục tù và cả cái chết thì làm sao có được Hội Thánh hôm nay? Nếu Phaolô không xác tín mạnh mẽ rằng: “khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”, thì làm sao một phần ban nhân loại hôm nay biết được Đức Kitô là ai và Tin Mừng cứu rỗi là gì? Cũng thế, nếu không có những Augustinô, Phanxicô Xavie, những Têrêsa hài đồng, những Anrê Phú Yên…; hay mới đây, trong thời đại nầy, những người như Mẹ Têrêsa Calcutta, những vị giáo hàng thánh thiện như hai Thánh giáo hoàng Gioan 23 và Gioan-Phaolô 2, thì làm sao vườn hoa Giáo Hội có được mùa lúa bội thu như hôm nay? Bên cạnh những tượng đài vĩ đại đó, trong Hội Thánh hôm qua và hôm nay còn có bao nhiêu “mảnh đất tâm hồn” âm thầm nhưng vĩ đại, như cô gái Vêrônica phung cùi người Camêrun, cho dù mù mắt, cùi tay, cụt giò, vẫn vui tươi biến cuộc đời thành hy lễ để Lời Chúa kết trái đơm bông nơi bao nhiêu anh chị em thương tật cùi hủi khác.
Và như thế chúng ta xác tín rằng, một khi đã mang Lời Chúa lên đường, một khi đã trở thành người gieo giống, .và một khi đã đón nhận hạt giống Lời Chúa với một cỏi lòng “đất tốt”, thì dứt khóa đường đi của Lời Chúa là “đường đi phải đến”, phải đến để mảnh đất trần gian nầy bớt đi những cỏ lùng hoang dại và trổ sinh những hoa trái tốt lành.
15. Hạt giống
(Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
Lạy Chúa, xin ban ơn cho chúng con biết biến đổi mảnh đất khô cằn, sỏi đá và hoang dại của tâm hồn, thành miền đất mầu mỡ phì nhiêu để hạt giống loiừ Chúa triển nở tốt tươi và sinh nhiều bông hạt.
*******
Khi người ta tìm cách phủ nhận sự hiện hữu và sự sáng tạo của Đấng Tạo Hóa là khi họ bị lạc vào hư vô. Sự chối bỏ quyền của Tạo Hóa là chối bỏ chính mình. Một số người không tìm hiểu tường tận mà đã chối bỏ nguồn cội và ngụy trang bằng một kết luận là mọi sự tự nhiên mà có. Kết luận mà chẳng có luận kết chút nào. Khi không hiểu hay chưa hiểu về nguyên nhân cùng cốt của vũ trụ vạn vật, chúng ta phải mở lòng mở trí để đón nhận và nghiên cứu một cách sâu xa. Đừng phủ nhận và chối bỏ sự gì khi trí chưa kịp suy, lòng chưa kịp cảm và giác quan chưa được thấu tỏ. Khi quan sát mọi sự hiện hữu nhiệm mầu chung quanh, chúng ta hãy mở mắt ngắm nhìn và dừng lại đôi phút để chiêm niệm và vui hưởng. Vũ trụ vạn vần, mây tầng kết hợp, gió lộng tuyết rơi, nắng sớm mưa chiều và nguồn sinh phát lộc. Đây Chúa phán: Như mưa tuyết từ trời rơi xuống và không trở lên trời nữa, nhưng chúng thấm xuống đất, làm cho đất phì nhiêu, cây cối sinh mầm, cho người gieo có hạt giống, cho người ta có cơm bánh ăn ((Is 55, 10). Ôi bao la nhiệm mầu công trình tay Chúa đã dựng nên.
Ngay từ khởi nguyên, Thiên Chúa phán: Đất phải sinh thảo mộc xanh tươi, cỏ mang hạt giống và cây trên mặt đất có trái, ra trái tùy theo loại, trong có hạt giống (Stk 1, 11). Một trí khôn siêu việt đã đặt để an bài mọi sự trong trật tự lạ lùng. Trong tất cả mọi loài từ thực vật đơn sơ bé nhỏ cho tới những loài sinh vật phức tạp đều có khả năng truyền sinh giống nòi. Một hạt giống nhỏ li ti của mỗi loài đã tiềm ẩn một sự sống phát triển không ngừng cho tới khi chấm dứt. Tạo Hóa đã quan phòng đặt để nơi mỗi loại có muôn vàn hạt giống tiềm năng có thể phát triển trong những điều kiện cần có. Nói chung, mọi loài đều hưởng nhờ sự sống qua môi trường không gian, thời gian, dưỡng khí, đất đai, mưa nguồn và nguồn sống.
Chúa Giêsu đã giảng một dụ ngôn về hình ảnh người đi gieo giống rất tuyệt vời. Người gieo giống tung gieo hạt giống một cách quảng đại. Số phận mỗi hạt mỗi khác, có hạt rơi xuống vệ đường, hạt rơi vào bụi gai, hạt rơi trên đá sỏi và hạt rơi vào đất tốt. Hạt giống nào cũng có khả năng nẩy mầm sinh cây. Môi trường chung quanh rất quan trọng làm cho hạt giống được phát triển và sinh hoa kết quả. Cánh đồng bao la bát ngát: Trong khi người ấy gieo, thì có những hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất (Mt 13, 4). Hạt giống tung bay khắp nẻo gần xa. Có hạt rơi vào bụi gai, gai mọc um tùm, nên nó chết ngạt (Mt 13, 7). Nội dung ý nghĩa của dụ ngôn qúa thâm sâu đều áp dụng cho cả thân và tâm. Hạt giống thật là chính lời Chúa. Lời của Chúa luôn luôn là hạt giống tốt lành và có sức biến đổi tâm hồn.
Kho tàng hạt giống lời Chúa được linh ứng ghi chép trong Kinh Thánh. Đặc biệt Chúa Giêsu đã rao giảng và phân phát mầu nhiệm nước trời. Lời Chúa như mưa tuyết trên trời rơi xuống sẽ không trở lại trời nữa mà thấm nhập vào lòng con người để sinh hoa kết trái. Chúa Giêsu đã trao ban cho các tông đồ, môn đệ và mọi Kitô hữu quyền tiếp tục tung gieo lời Chúa qua muôn thế hệ. Tin vui Lời Chúa được gieo vãi không ngừng qua tất cả các phương tiện truyền thông và nhân chứng. Lời Chúa được gieo đi gieo lại cho tới lúc hạt gieo vào lòng đất tốt. Lời Chúa là lời hằng sống có năng lực cải biến tâm linh. Thiên Chúa cho chúng ta có đủ phương tiện của giác quan để tiếp nhận: Tai nghe, mắt nhìn, miệng đọc, tâm suy và tứ chi thực hành. Tùy thuộc chúng ta có dám mở lòng đón nhận và ươm mầm hạt giống hay không.
Hạt giống cây cỏ thì bị giới hạn trong không gian và thời gian, nhưng hạt giống lời Chúa có nội lực vượt khó và đi vào tận thâm tâm của lòng người. Ai nghe và thực hành lời Chúa thì có phúc. Những hạt giống tốt rơi xuống đất mầu mỡ sẽ sinh hoa kết qủa gấp trăm gấp ngàn. Có những hạt rơi xuống đất tốt, nên sinh hoa kết qủa, có hạt được một trăm, có hạt sáu mươi, có hạt ba mươi (Mt 13, 8). Qua mọi thời, Giáo Hội đã minh chứng rõ ràng có biết bao nhiêu thành viên đã lãnh nhận hạt giống tốt và đã sinh hoa kết trái. Ai trong chúng ta cũng được mời gọi để đón nhận lời Chúa và làm sinh lợi. Chúa mở rộng cửa nước trời bằng Tám mối phúc thật, bằng con đường đơn bé nhỏ, bằng đời sống khiêm tốn, bằng cách yêu thương tha thứ, bằng sự khó nghèo thanh sạch, bằng sự tin tưởng nguyện cầu và qua con đường khổ đau thập giá. Mỗi cá nhân tự chọn cho mình lối nhỏ vào quê hằng sống.
Đường nào hay lối nào cũng đòi hỏi sự gắng công phấn đấu. Chúng ta không thể nằm đó chờ sung rụng. Cửa hẹp là lối dẫn vào nước trời. Không ai có thể lên trời một mình. Chúng ta phải sống hỗ tương với nhau trong gia đình, cộng đoàn hay giáo hội. Giống như cây rừng dựa nhau để vươn lên và nương nhau để sống còn. Con người sống trong xã hội cũng thế, chúng ta cần có nhau để vươn tới đích cùng. Thiên Chúa trao ban cho con người có trí khôn và có trái tim. Để điều khiển chính mình, chúng ta dùng lý trí và ý chí. Để đối xử với người khác, chúng ta dùng trái tim. Thượng Đế chăm sóc ban thức ăn cho từng con chim, nhưng Ngài không ném thức ăn vào trong tổ của nó. Con người phải bươn chải và phấn đấu với cuộc sống. Phần thưởng nào cũng có cái giá phải trả. Muốn thành qủa bội thu, chúng ta phải bỏ vốn liếng, công sức, gieo hạt, vun xới, chăm dẵm và kiên trì chờ đợi hoa trái.
Một hạt giống tốt được gieo trồng vào vùng đất tốt sẽ sinh nhiều hoa qủa. Một việc tốt dù bé nhỏ luôn sinh hoa trái tốt. Hạt giống lời Chúa là hạt giống tin mừng sẽ đem lại niềm an vui cho tâm hồn. Chúng ta cần chuẩn bị thửa ruộng tâm hồn qua việc lãnh nhận các ân xá bí tích, qua việc siêng năng cầu nguyện, tham dự thánh lễ và làm việc lành phúc đức. Giống như thửa đất được cầy bừa, phơi ải, san bằng, nước non và phân bón đầy đủ sẽ giúp hạt giống phát triển tốt. Mỗi ngày chúng ta hãy dành đôi phút để bồi dưỡng nhu cầu tâm linh. Hãy cùng đọc, cùng lắng nghe, suy gẫm và đem lời Chúa thực hành trong đời sống. Chắc chắn lời Chúa sẽ mang lại niềm vui ơn cứu độ.
Thánh Phaolô nhắn nhủ: Anh em thân mến, tôi nghĩ rằng những đau khổ ở đời này không thể sánh với vinh quang sắp tới sẽ được mạc khải cho chúng ta (Rm 8, 18). Trong tất cả mọi sự sinh động đều có diễn tiến qua thời gian. Chúng ta không thể rút vắn, cắt bớt hay chối từ thực tại sống. Biết rằng bản tính của con người chúng ta thì yếu đuối và dễ chán nản. Cần có sự bền tâm nhẫn nại trải qua mọi thử thách để đạt triều thiên vinh quang. Muốn thực hành nhân đức chúng ta phải tu thân tích đức mỗi ngày. Có những đổi đời trở về trong nhu cầu cuộc sống nội tâm. Thật hiếm có những bước nhảy vọt trên con đường trọn lành. Có nghĩa là mỗi người phải khổ luyện, tập tành và tu thân. Đòi hỏi phải có sự hy sinh, từ bỏ và hãm mình. Chúng ta nên tận dụng mọi năng lực để biến đổi cả điều tốt lẫn xấu, cả vui xướng lẫn khổ đau trở thành bước thang dẫn lối tiến lên. Những khổ ải ở đời này sẽ mau qua và vinh quang bất diệt đang chờ đón. Đây là con đường Chúa đã đi qua.
Lạy Chúa, đã biết bao lần hạt giống lời Chúa đã được gieo vào thửa đất tâm hồn chúng con. Nhiều mầm sống non nớt trong tâm của chúng con bị thui chột, còi cọt, héo khô và chết ngạt. Xin ban ơn cho chúng con biết biến đổi mảnh đất khô cằn, sỏi đá và hoang dại của tâm hồn, thành miền đất mầu mỡ phì nhiêu để hạt giống Lời Chúa triển nở tốt tươi và sinh nhiều bông hạt.
16. Sa mạc trở thành vườn xanh
(Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con loại bỏ mọi thứ “sỏi đá gai góc” ra khỏi tâm hồn, tích cực vun xới cho hạt giống Tin Mừng đâm chồi và tăng trưởng để làm cho cuộc đời nở hoa.
*******
Vào chiều 29 tết cách đây khá lâu, một phụ nữ không quen biết từ một thôn kế cận gọi điện thoại gặp tôi và tuôn ra hàng loạt những lời kết án gay gắt. Bà tố cáo một số thiếu niên trong giáo xứ tôi có hành vi côn đồ, ném đá vào khu xóm của bà ở làng lân cận. Bà quy trách nhiệm cho tôi về những hành vi quậy phá đó, rồi bà cho rằng đạo công giáo là xấu vì có một số người công giáo thuộc hạng côn đồ.
Sau khi nghe bà hằn học tuôn ra những lời trách móc, tôi khẩn khoản yêu cầu bà nhẫn nại nghe tôi thuật lại sơ lược dụ ngôn Tin Mừng về người gieo giống mà chúng ta vừa nghe hôm nay: “Có người nông dân mang thóc đi gieo trên đồng ruộng của mình. “Trong khi người ấy gieo, thì có những hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất. Có những hạt rơi trên nơi sỏi đá, chỗ đất không có nhiều; nó mọc ngay nhưng vì đất không sâu nên khi nắng lên, nó liền bị cháy, và vì thiếu rễ nên bị chết khô. Có những hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm nó chết nghẹt. Có những hạt lại rơi nhằm đất tốt, nên sinh hoa kết quả: hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục” (Mt 13, 4-8)
Rồi tôi kết luận: Những hạt thóc trong dụ ngôn trên đây tượng trưng cho những lời giáo huấn của Chúa Giêsu và Hội Thánh. Cho dù giáo huấn của Thiên Chúa và Giáo Hội là những hạt giống rất tốt, nhưng nếu những hạt giống ấy bị rơi xuống vệ đường, rơi trên sỏi đá hay rơi vào bụi gai, tượng trưng cho người tâm hồn chai đá, cứng cõi, vô tâm… thì không thể bén rễ được nên phải chết khô chết héo; còn những hạt rơi vào đất tốt, tượng trưng cho những tâm hồn biết phục thiện, thì sẽ vươn lên mạnh mẽ và sẽ trổ hoa kết hạt dồi dào.
Những hạt lúa rơi vào nơi gai góc sỏi đá không tăng trưởng được không phải vì do hạt giống xấu nhưng do đất có vấn đề. Tương tự như thế, một số kitô hữu đón nhận Lời Chúa mà không được biến đổi thành người tốt lành thánh thiện, không phải vì giáo lý của Chúa và Hội Thánh không tốt, nhưng vì nhiều thứ “gai góc sỏi đá” trong lòng họ làm cho Lời Chúa chết ngạt đi.
Sa mạc nở hoa
Lãnh thổ Do-thái với diện tích 22.000 cây số vuông mà chỉ có một phần ba đất đai ở miền Galilê là có thể trồng trọt được, phần còn lại gồm sa mạc và đồi núi cằn cỗi, đặc biệt sa mạc Negev ở miền nam, chiếm hơn một nửa diện tích đất nước, là một trong những vùng khô cằn với khí hậu cực kỳ khắc nghiệt. Vậy mà hiện nay, người Do-thái đã biến những vùng đất chết nầy trở thành những vườn hoa, vườn rau và vườn cây ăn trái nổi tiếng; nhờ đó Do-thái được xếp vào một trong những nước đứng đầu về xuất khẩu hoa quả hàng đầu thế giới. Thành quả nầy khiến thế giới hết sức ngưỡng mộ và xem đây là một phép mầu.
Samạc Negev khô cằn sỏi đá với khí hậu khắc nghiệt đến thế mà vẫn được cải tạo thành vườn cây ăn trái tốt tươi, trù phú… không lẽ tâm hồn chúng ta vẫn cứ ở mãi trong tình trạng khô khan cằn cỗi và suốt đời chẳng sinh được chút hoa trái nào hay sao!
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho chúng con biết nhìn vào công cuộc khắc phục thiên nhiên khắc nghiệt để làm cho sa mạc nở hoa của người Do-thái, để quyết tâm cải tạo lại đời mình. Xin giúp chúng con loại bỏ mọi thứ “sỏi đá gai góc” ra khỏi tâm hồn, tích cực vun xới cho hạt giống Tin Mừng đâm chồi và tăng trưởng để làm cho cuộc đời nở hoa, tức làm cho mình trở thành người có văn hoá, có đạo đức, có phẩm chất cao đẹp, nhờ đó Hội Thánh Chúa cũng được toả ngát hương thơm thánh thiện khắp nơi.
17. Sạ lúa
(Lm Vũ Đình Tường)
Người gieo giống đi xạ lúa trên ruộng. Đất sau khi cầy vỡ ra, nước mưa làm cho đất mềm, ẩm. Đất đó gần như sẵn sàng cho mùa gieo giống. Chỉ cần đón một vài cơn mưa lớn là nhà nông mang lúa ra xạ. Gọi là xạ vì người nông dân, trước ngực đeo thúng lúa, chân bước đều hai tay nhịp nhàng vung lúa sang hai bên. Các hạt lúa văng đều trên ruộng mới cầy, đất còn tươi, trước khi rơi vào kẽ đất, chờ mọc lên. Hạt rơi trên mặt đất hy vọng được nước mưa chôn vùi trong đất. Trường hợp mưa nhiều hạt úng, thối. Trái lại, thiếu mưa hạt lúa đó nếu không làm mồi cho chim trời ăn mất, cũng là nạn nhân của nắng hạn làm thui chột mộng lúa. Nhà nông không sợ chim trời bằng chuột vì chuột ngày đêm đào bới hạt giống. Ngay cả hạt đã chôn vùi trong đất vẫn bị chúng mò mẫm ăn đi.
Tương tự như hạt mưa từ trời xuống đất, hạt mưa không về trời bằng hình ảnh hạt mưa, giọt nước, nhưng về trời bằng hình ảnh mới, từ thể lỏng sang thể hơi. Một khi hạt giống rơi khỏi tay nông dân, hạt giống đó hoàn toàn lệ thuộc vào thiên nhiên, biến thể hoặc thành bụi lúa xanh tốt, hoặc bị tiêu hủy, tan rã thành phân tro.
Đức Kitô ví lời Ngài rao giảng như hạt lúa trong tay nông dân. Số phận từng Lời Chúa cũng rất khác biệt. Có Lời sinh lời muôn vàn lời. Có lời sống èo ọt, nửa sống, nửa chết. Có lời làm tròn sứ mạng được uỷ thác. Có lời biến mất như rơi vào cõi hư không. Khác biệt về thành quả không hệ tại bởi hạt giống tốt xấu mà bởi phẩm chất ruộng đất. Thửa ruộng mà Đức Kitô nói đến không phải ruộng trên mặt đất mà là cõi lòng con người. Có ai ngờ được tấm lòng con người có thể là tấm lòng vàng và cũng có thể là chòi vắng, hoang tàn.
Tương tự như thỏi vàng, vàng ba mươi, năm mươi hay vàng ròng. Cõi lòng con người là tấm lòng vàng khi cõi lòng đó làm cho Lời Chúa sinh hoa kế trái. Hạt ba mươi, hạt năm mươi, hạt bảy mươi, hạt chẵn trăm. Trong sáng óng ánh như vàng ròng.
Tương tự chòi vắng, hoang tàn. Mỗi lần phải ngang qua, ngày cũng như đêm, đều thấy ớn lạnh. Rợn tóc gáy, nổi da gà vì nơi đó chứa nhiều ám khí, ảm đạm, thê lương. Một cõi lòng như thế sao thích hợp với Lời hằng sống.
Lời Chúa ví như hạt mưa. Khí hậu dù khắc nghiệt mấy cũng không triệt tiêu được hạt mưa. Quá lạnh hạt mưa biến thành tuyết. Gió to hạt mưa biến thành bụi sương. Nóng cháy da người hạt mưa biến thành thể khí bay là là trên cát nóng. Rơi xuống sông biển hạt mưa hoà mình trong nước, trên đất khô hạt mưa thẩm thấu vào lòng đất.
Lời hằng sống không thể chết. Nếu chết thì lời đó sao có thể mang lại sự sống cho tâm linh. Chết ở đây không thể hiểu là lời hằng sống chết. Chết có nghĩa cõi lòng người nào đó đã chết để đón nhận lời hằng sống. Lời hằng sống có sức sống biến đổi mọi cõi lòng miễn là cõi lòng đó mở ra đón nhận. Cõi lòng khô cằn, cõi lòng gai góc, cõi lòng vệ đường, cõi lòng tốt lành. Không cõi lòng nào có thể giết chết được Lời Chúa là lời hằng sống. Chỉ có hai loại cõi lòng. Một cõi lòng vui mừng đón nhận và cõi lòng xua đuổi lời hằng sống. Đón nhận lời hằng sống làm trổ sinh hoa trái ít nhiều tuỳ theo mức đón nhận.
Cánh đồng lúa mang lợi nhuận cho nông dân. Giúp họ ấm no. Cánh đồng lúa tốt tươi mang lại cho nông dân nụ cười, niềm hy vọng dạt dào. Cánh đồng lúa vừa cung cấp thực phẩm cho con người, gia súc, thú hoang, vừa làm tăng vẻ đẹp thiên nhiên, làm cho đất sinh mầu mỡ, cung cấp thực phẩm và là công viên cho ong bướm vui chơi sáng sớm, chiều tàn.
Hạt lúa vỏ vỡ ra cho mầm đâm chồi. Vỏ lúa vỡ ra hẳn là hình ảnh của đau thương. Chồi non nảy mầm là hình ảnh của sự sống mới. Sự sống bắt đầu vào đời mới bằng một cuộc phiêu lưu, phó thác an toàn cho tương lai. Mầm sống bọc kín trong vỏ hẳn an toàn hơn nhưng như thế làm chi có cây lúa mới. Muốn có cây lúa mới, cuộc đời mới, mầm sống phải thay đổi, chịu đau khổ vỡ ra, liều, dấn thân vào đời. Tấm lòng đón nhận lời hằng sống mà từ chối thay đổi, đau khổ và dấn thân chính là muốn điều không tưởng. Thánh Phaolô diễn tả đó là cảnh hư ảo (Rom 8, 20). Không có đổi mới nếu từ chối thay đổi. Không có mới mẻ nếu khư khư bảo thủ lối sống cũ. Muốn phiêu lưu cần mạo hiểm. Từ chối sáng tạo sao có đổi mới.
Lời Chúa sinh động như cánh đồng lúa trổ bông, mang hương thơm ngạt ngào sớm tối. Làm thay đổi cõi lòng con người và mang lại bình an trong tâm hồn. Mầu nhiệm nước trời còn ẩn chứa nhiều điều huyền diệu và chỉ cõi lòng nào chân thành, khiêm nhường đón nhận, mới có cơ duyên thưởng thức điều kì ảo, huyền diệu của lời hằng sống.
18. Gieo và gặt
(Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Nhạc sĩ Thông Vi Vu viết ca khúc “Gieo và Gặt” với giai điệu vui tươi, ca từ đậm chất thơ và có ý nghĩa sâu sắc.
Gieo thành thật, gặt được niềm tin.
Gieo lòng tốt, gặt về thân tình.
Gieo kiên nhẫn, sẽ gặt quang vinh.
Gieo tha thứ, sẽ gặt được an bình.
Gieo dối trá, sẽ ra ngờ vực.
Gieo ích kỷ, sẽ chỉ cô đơn.
Gieo kiêu hãnh, sẽ lãnh đau thương.
Gieo đố kỵ, là ky cóp muộn phiền.
Gieo cay đắng, sẽ tăng hủy diệt.
Gieo biếng lười, ra người buông trôi.
Gieo lo lắng, tay trắng âu lo.
Gieo tội lỗi, suốt đời gặt tội lỗi.
Có gieo thì mới có gặt. Gieo giống nào thì gặt giống đó.Thánh Phaolô viết: “Ai gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy. Ai theo tính xác thịt mà gieo điều xấu thì sẽ gặt được hậu quả của tính xác thịt là sự hư nát. Còn ai theo Thần Khí mà gieo điều tốt thì sẽ gặt được kết quả của Thần Khí là sự sống đời đời. Khi làm điều thiện, chúng ta đừng nản chí, vì đến mùa chúng ta sẽ được gặt, nếu không sờn lòng” (Gl 6,7-9).
Hạt giống tốt mới có thể nảy mầm tốt, lớn thành cây tốt và sinh hoa trái tốt. Chúa Giêsu xác định: “Xem quả thì biết cây” (Mt 12,33; Lc 6,44). Cây tốt không thể sinh trái xấu, cây sâu không thể sinh trái ngọt. Đời sống tinh thần cần có “hạt giống tâm hồn”. Đời sống tâm linh rất cần “hạt giống Lời Chúa”.
Tin mừng hôm nay có tên gọi là “Dụ ngôn người gieo giống”. Thiên Chúa là người gieo giống. Chúng ta là đất. Hạt giống là lời giảng dạy của Chúa Giêsu. Tùy vào thái độ của mỗi người, chân thành đón nhận hay lười biếng khước từ, Lời Chúa sẽ sinh những hiệu quả khác nhau.Hạt giống được gieo trên bốn loại đất, đất vệ đường, đất lẫn sỏi đá, đất có nhiều gai góc và đất tốt. Đất nào cho năng suất nấy.
Làm sao bên lề đường khô cằn sỏi đá, hạt giống có thể sinh hoa kết trái được? Trong bụi gai chằng chịt cỏ rác không mọc nổi, hạt giống làm sao vươn lên để thành cây xanh tốt được?
Chúa Giêsu ví lời giảng dạy của Ngài như hạt giống trong tay người nông dân. Hạt giống gieo trên những loại đất khác nhau, số phận các hạt giống khác nhau. Lời Chúa cũng có nhiều số phận khác biệt. Có lời sinh lợi muôn vàn lời. Có lời sống èo uột bị bóp nghẹt. Có lời làm tròn sứ mạng được uỷ thác. Có lời biến mất như rơi vào cõi hư không. Khác biệt về thành quả không hệ tại bởi hạt giống mà bởi phẩm chất ruộng đất. Thửa ruộng mà Chúa Giêsu nói đến không phải ruộng trên mặt đất mà là cõi lòng con người. Vì thế, dụ ngôn hạt giống gieo trên các loại đất khác nhau gợi lên những ý nghĩa.
1. Tấm lòng quảng đại của người đi gieo.
Người đi gieo đã gieo hạt giống trên những mảnh đất phì nhiêu màu mỡ. Những mảnh đất sỏi đá, gai góc, lối mòn có bước chân người cũng không bị lãng quên. Người gieo hạt không bỏ rơi một mảnh đất nào, ông quảng đại muốn cho hạt giống được gieo vãi khắp chốn. Thiên Chúa quảng đại nhìn mọi người với chính phẩm giá của họ trong niềm hy vọng của Ngài. Vì thế, mảnh đất nào cũng nhận được hạt giống đồng đều. Ai cũng có cơ may nhận được ân sủng cứu độ Tin Mừng nếu như họ thành tâm thiện chí. Lòng quảng đại không phân biệt đối xử, không ưu tiên ai mà cũng chẳng loại trừ ai, không thất vọng về hiện tại của người khác mà biết kiên tâm đợi chờ hy vọng vào tương lai tươi sáng hơn.
Không ai hoàn toàn là “lề đường”, là “sỏi đá” hay là “bụi gai”. Trong mỗi con người luôn có một mảnh đất tốt cho dù nó chỉ nhỏ bé thôi. Có thiện chí đón nhận hạt giống cũng sẽ có một mùa gặt bội thu “đến nỗi có hạt được một trăm, có hạt sáu mươi, có hạt ba mươi” (Mt 13, 23). Thiên Chúa vẫn gieo Lời Ngài vào lòng chúng ta, vì Ngài chắc chắn rằng: “Lời từ miệng Ta phán ra sẽ không trở lại với Ta mà không sinh kết quả, nhưng nó thực hiện ý muốn của Ta và làm tròn sứ mạng Ta uỷ thác” (Is 55, 11). Tác giả Thánh Vịnh cảm nghiệm hồng ân Thiên Chúa chan hòa như mưa móc: “Thăm trái đất, Ngài tuôn mưa móc, cho ngập tràn phú túc giàu sang, suối trời trữ nước mênh mang, dọn đất sẵn sàng đón lúa trổ bông. Tưới từng luống, san từng mô đất, khiến dầm mưa cho hạt nẩy mầm, bốn mùa Chúa đổ hồng ân, Ngài gieo màu mỡ ngập tràn lối đi” (Tv 65,10-12).
Thánh Phêrô đã ba lần chối Chúa, nhưng trong ngài vẫn còn một mảnh đất tốt của lòng sám hối. Thánh Phaolô hăng say bách hại các kitô hữu, nhưng trong ngài vẫn còn đó một mảnh đất tốt của lòng nhiệt thành và khiêm tốn. Thánh Augustinô bị những bụi gai của tri thức, kiêu căng và dục vọng vây bủa, nhưng vẫn còn có một mảnh đất tốt hướng tìm chân lý, chỉ chờ hạt giống gieo trồng là nở rộ mùa gặt phong nhiêu… Còn nhiều lắm những mảnh đất tốt như thế trong Giáo Hội và trong cuộc sống thường ngày của chúng ta. Tất cả những mảnh đất tốt đó, cho dù có nhỏ nhoi đi chăng nữa, nhưng một khi đã được đón nhận Lời Chân Lý thì đúng như lời Chúa nói, đã sinh lợi “hạt một trăm, hạt sáu mươi, hạt ba mươi”.
2. Hạt giống tiềm ẩn sự sống.
Hạt giống có vỏ cứng bảo vệ, khi được gieo vào lòng đất vỏ sẽ vỡ ra cho mầm đâm chồi. Chồi non lên xanh là hình ảnh của sự sống mới. Sự sống vào đời mới bằng một cuộc phiêu lưu, bằng niềm phó thác cho tương lai.
Hạt giống là ánh sáng, là Tin mừng, là thiện hảo tốt lành, là giá trị Nước Trời. Tự nó, hạt giống có một sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Trong hạt giống có mầm sự sống, hễ cứ gặp điều kiện thuận lợi là mọc lên. Trong mầm sống có sự sống tiếp nguồn từ sự sống của Thiên Chúa. Nếu “Hạt lúa âm thầm mọc lên” (x. Mc 4,26-29) là hình ảnh sức sống tiềm tàng thì “Hạt lúa mục nát đi” (x. Ga 12,24) lại là một hình ảnh khác nói lên niềm hy vọng một mùa gặt mới sau khi chịu ‘mục nát”. Hạt giống là hồng ân Thiên Chúa, phong phú bao la và vô cùng mạnh mẽ. Điều quan trọng là hãy cho hạt giống một cơ hội để mọc lên.
3. Niềm hy vọng mùa gặt phong phú
Nếu người gieo hạt đã đặt hy vọng vào từng mảnh đất bất kể mức độ tốt xấu thì bổn phận của đất là không được phụ lòng người quảng đại gieo hạt. Thiên Chúa làm được mọi sự nhưng Ngài cần con người cộng tác.Thiên Chúa vẫn luôn tin tưởng và hy vọng nơi con người.
Trong các hoạt động tông đồ, không cần phải phân tích người nào là lề đường, là sỏi đá hay bụi gai. Hạt giống cứ gieo vào đất, chúng ta hãy làm việc tốt cho người khác. Chính Thiên Chúa mới là Đấng làm cho hạt giống mọc lên và sinh hoa kết quả (x. 1 Cr 3, 5-9).
Niềm hy vọng phải là một đặc trưng của đời sống người kitô hữu. Chính niềm hy vọng đó sẽ giúp chúng ta vượt qua những khó khăn, thử thách trong cuộc sống hiện tại, hướng tới một tương lai tươi sáng và một cuộc sống vĩnh cửu của người được làm con cái Thiên Chúa.
Mầu nhiệm Nước Trời còn ẩn chứa nhiều điều huyền diệu và chỉ cõi lòng nào chân thành, khiêm nhường đón nhận mới có cơ duyên thưởng thức những huyền diệu của Lời Hằng Sống. Nhận lấy hạt giống Lời Chúa trong mình, chúng ta từ từ sinh hoa trái trong Giáo Hội cho vinh quang của Thiên Chúa ( GLCG # 1724).
Người nông dân có câu: “nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”. Giống là cần thiết, nhưng nước, phân bón và công chăm sóc thật là quan trọng. Giống tốt, gieo xạ đúng quy trình kỹ thuật, nhưng để đất khô hạn thì lúa không lên xanh. Có giống, có nước mà không có phân bón thuốc trừ sâu, thì lúa sẽ èo uột không kết quả. Có được giống tốt, nước bảo đảm, phân thuốc đầy đủ, nhưng chẳng chăm sóc thì không thu lợi được bao nhiêu.
Người sáng, người mù hay người câm điếc cũng đều có thể nghe Lời Chúa, đón nhận hạt giống Lời Chúa gieo vào lòng, nhưng quan trọng là đem ra thực hành.
Có một mảnh đất hoang cỏ mọc um tùm. Ông Tư mua lại thửa đất ấy rồi cày xới, làm sạch cỏ, rồi ông trồng cây, trồng hoa, trồng rau. Một thời gian sau, mảnh đất trở thành một khu vườn thật đẹp. Một hôm, ông Tư đang làm việc trong vườn, cha xứ đi qua và nói: "Khu vườn thật là đẹp! Ông Tư thấy không, khi ông biết cộng tác với Thiên Chúa thì kết quả như thế đó". Ông Tư trả lời: "Vâng, cha cứ thử nghĩ lại xem, miếng đất này như thế nào khi chỉ có một mình Chúa làm việc ở đây".
Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta đi gieo hạt giống Lời Chúa, gieo hào phóng, gieo kiên trì, gieo hy vọng và nhất là gieo yêu thương. Gieo gì gặt nấy. Gieo bác ái chúng ta sẽ gặt được yêu thương, một mùa yêu thương tràn ngập đời sống hàng ngày.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay. Chúng con thường xây nhà trên cát, vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy, nhưng lại không dám đem ra thực hành. Chính vì thế Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con.
Xin cho chúng con đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa, đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.
Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình, để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng trưởng.
Ước gì ngôi nhà cuộc đời chúng con được xây trên nền tảng vững chắc, đó là Lời Chúa, Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con. (Manna)
19. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Hãy là đất tốt, để hạt giống Lời Chúa sinh nhiều bông hạt
Cho đến bây giờ, "mọi tạo vật đều rên siết và đau đớn như người đàn bà trong lúc sinh con. Nhưng không phải chỉ có các tạo vật, mà cả chúng ta là những kẻ hưởng ơn đầu mùa của Thánh Thần, chúng ta cũng rên siết trong khi ngóng chờ phúc làm nghĩa tử và ơn cứu độ thân xác chúng ta" (Rm 8, 22-23). Hỏi ai trong chúng ta lại không có kinh nghiệm sống ở đời về tương phản giữa khổ đau trong đời sống thường ngày và vinh quang cũng như hy vọng mà Thánh Phaolô nói đến trong thư gửi giáo đoàn Rôma (Rm 8 18-23)? Giữa "những đau khổ trong hiện tại" chúng ta mang trên mình, và "vinh quang mà Thiên Chúa sẽ tỏ lộ trong tương lai" (Rm 8,18). Hiện tại chúng ta chưa có kinh nghiệm nhiều, nên chúng ta muốn nói như Đức Maria: "Việc đó xảy ra thế nào được?" (Lc 1, 34) Phụng vụ hôm nay sẽ cho chúng ta câu trả lời.
Mặc khải cho biết, khổ đau đi vào thế giới như là hậu quả của tội lỗi "không thể tránh khỏi"; cũng như trái cấm trong vườn Êđen, vì một lời nói dối, khiến con người chống lại Lời sáng tạo, gây nên sự hỗn loạn, sau cùng cả và nhân loại bị hủy diệt. Chỉ có Thiên Chúa, Lời sáng tạo, mới có thể can thiệp để cứu chuộc con người (x. Rm 8) và tái lập trật tự hài hòa đã được thiết lập ngay từ thuở ban đầu. Chúa phán: "Lời từ miệng Ta phán ra sẽ không trở lại với Ta mà không sinh kết quả, nhưng nó thực hiện ý muốn của Ta, và làm tròn sứ mạng Ta uỷ thác" (Is 55, 11).
Hỏi: Lời từ miệng Thiên Chúa phán ra là gì vậy?
Thưa: Là chính Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Con một Ngài, Thiên Chúa như người gieo giống gieo Lời ( Con Ngài) vào thế giới chúng ta, "Người cho ứ nước luống cày, Mô đất đặt xuống phẳng phiu, Người cho mưa rào đảo nhuyễn, chúc lành cho giống trổ mầm" (Tv 64, 11) ; "Như mưa tuyết từ trời rơi xuống … làm cho đất phì nhiêu, cây cối sinh mầm, cho người gieo có hạt giống, cho người ta có cơm bánh ăn" (Is 55, 10). Nước ở đây là nước Thánh Thần tưới lên chúng ta để chúng ta sinh được gấp trăm. Chính nơi Chúa Giêsu phục sinh mà nhân loại được cứu, Người là "Đấng cứu chuộc thế gian! nơi Ngài đã được mạc khải một cách mới mẻ và kỳ diệu hơn chân lý căn bản về thế giới thụ tạo, điều mà sách Sáng thế xác nhận khi lặp đi lặp lại nhiều lần: "Thiên Chúa thấy như thế là tốt lành" (Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Đấng Cứu Chuộc con người, số 8. Ngày 4/3/1979).
Nhưng nếu Chúa Giêsu là Đầu đã đạt đến chặng cuối của hành trình, thì Thân mình là " mọi tạo vật rên siết và đau đớn như người đàn bà trong lúc sinh con " (Rm 8, 22) cũng được như vậy. Tuy nhiên, tiền đề sự phục sinh của Chúa Giêsu đã được trao ban: hạt giống sự sống đời đời đã ẩn tàng trong tâm hồn các tín hữu từ ngày họ chịu phép Rửa tội ; Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, Lời tái tạo và biến đổi chúng ta. Thật hạnh phúc biết bao khi có Thiên Chúa là Cha vô cùng nhân hậu ; Ngài biết lòng dạ con người phức tạp và yếu đuối. Vì thế, Ngài gieo cách hào phóng, kể cả vệ đường, nơi bụi gai và sỏi đá. Chim trời sẽ đến ăn mất, nhưng đặt hy vọng vào hạt rơi vào đất tốt sinh hoa kết quả dồi dào, "có hạt được một trăm"(Mt 13, 23).
Thiên Chúa rất đỗi khoan dung, không những mạc khải cho chúng ta tình yêu của Ngài bằng cách hòa giải với chúng ta nhờ sự chết của Con Ngài khi chúng ta còn là kẻ thù (x. Rm 5, 10), Ngài gieo Lời cứu độ là chính Con Ngài xuống trên chúng ta, bất kể chúng ta thờ ơ, từ chối, nhưng chắc chắn sẽ có hạt đâm rễ và mọc lên.
Dụ ngôn này thật an ủi cho những kẻ cứng đầu cứng cổ như chúng ta, và cũng là lời khuyên an ủi những ai đang chịu trách nhiệm dạy giáo lý cho thiếu nhi và giới thành niên.
Còn nỗi khổ nào hơn đối với các bậc làm cha mẹ khi thấy con cái mình từ bỏ đức tin! Nhưng đức tin không thể được truyền theo nhiễm sắc thể hay dòng sữa của mẹ nuôi con, chúng ta có thể trình bày cho trẻ em về tình bạn của Chúa Giêsu, nhưng không thể áp đặt đức tin cho chúng.
Thiên Chúa không đòi hỏi nơi chúng ta những điều không thể: chúng ta hãy vui lòng làm như Ngài, gieo cách hào phóng bằng lời nói và gương sáng, ngay cả trong sự khác biệt; hãy tin rằng sẽ luôn có cái gì đó thúc đẩy hạt giống mọc lên đúng thời vụ; bởi vì Lời từ miệng Chúa phán ra sẽ không trở lại với Chúa nhưng theo ý Chúa mà sinh kết quả (x. Is 55, 10-11).
Chúng ta cần chuẩn bị một thửa đất tốt để đón nhận hạt giống, và chăm sóc để nó có thể đơm hoa kết trái. Có người không muốn mình bị thử thách hay gặp khó khăn, người ấy sẽ có ngàn lý do để từ chối. Nhưng ai "nghe lời giảng mà hiểu được, nên sinh hoa kết quả" (Mt 13, 23).
Tất cả đều nghe dụ ngôn, nhưng người hiểu được là người mang nó về nhà, trân trọng như một tài sản quý giá. Chúng ta sẽ hạnh phúc nếu chúng ta nghe những gì Chúa nói và nghiêm túc hoán cải theo tiếng Chúa gọi: Ngài sẽ chữa lành và làm cho chúng ta được sống, "giải thoát khỏi vòng nô lệ sự hư nát, để được thông phần vào sự tự do vinh hiển của con cái Thiên Chúa" (Rm 8, 21), chúng ta sẽ đơm hoa kết trái.
Trong năm Phúc Âm gia đình, chúng ta cùng nghe lời vị cha chung dạy: "Tất cả việc Phúc Âm hóa được thiết lập dựa trên sự lắng nghe, suy niệm, sống, cử hành Lời Chúa và làm chứng cho Lời Chúa. Thánh Kinh là nguồn mạch của việc Phúc Âm hóa. Vì vậy, chúng ta phải liên tục được đào luyện trong việc lắng nghe Lời Chúa. Hội Thánh không rao giảng Tin Mừng nếu không liên tục để cho mình được Phúc Âm hóa…
Việc Phúc Âm hóa đòi hỏi chúng ta phải làm quen với Lời Chúa, và điều này đòi buộc các giáo phận, các giáo xứ và các nhóm Công Giáo đề ra một chương trình học hỏi Thánh Kinh nghiêm túc và kiên trì, cũng như thúc đẩy việc đọc Thánh Kinh trong cầu nguyện của cá nhân và cộng đồng… " (Đức Phanxicô, Niềm Vui Phúc Âm §174-175).
Dưới ánh sáng của Lời Chúa, chúng ta hãy nhìn lên Mẹ Maria như bậc thầy của việc lắng nghe Lời Thiên Chúa cách sâu đậm và kiên trì. Xin Mẹ giúp chúng ta theo gương Mẹ, là "đất tốt", nơi hạt gống Lời Chúa có thể đem lại nhiều bông hạt. Amen.
20. Tâm tình người đi gieo
(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Bài dụ ngôn thật đẹp. Đẹp về hình ảnh phong phú. Đẹp về ý nghĩa sâu xa. Nhưng đẹp nhất vẫn là thái độ của người đi gieo. Người đi gieo đã có thái độ vừa hào phóng vừa kiên trì, vừa hy vọng vừa yêu thương.
Người đi gieo đã gieo một cách hào phóng. Hãy nhìn kìa: ông vốc từng vốc lớn hạt giống và rộng tay vung vãi. Ông gieo không tiếc xót. Ông gieo không tính toán. Ông gieo không loại trừ. Những mảnh đất phì nhiêu màu mỡ nhận được hạt giống đã đành. Cả đến những mảnh đất sỏi đá, gai góc cũng được hưởng ơn mưa móc. Cả đến lối mòn có bước chân người cũng không bị lãng quên. Người đi gieo không bỏ rơi một mảnh đất nào, một ngõ ngách nào. Ông muốn cho hạt giống được gieo vãi khắp chốn.
Người đi gieo đã gieo một cách kiên trì, ông gieo bất kể ngày đêm. Ông gieo bất kể mưa nắng. Ông gieo bất kể những thất bại. Đợt gieo giống đầu tiên đã thất bại vì chim chóc tha đi, ông liền gieo tiếp đợt hai. Bị sỏi đá nắng hạn, cây lúa mất mùa, ông lại đi gieo tiếp đợt thứ ba. Bị gai góc bóp nghẹt, cây lúa bị lụi tàn, ông vẫn không nản, cứ gieo đợt thứ tư. Ông đúng là người đi gieo hạt không biết mỏi mệt.
Người đi gieo đã gieo trong niềm hy vọng. Niềm hy vọng của ông thật lớn lao. Chính với niềm hy vọng ấy, ông đã dám đầu tư tất cả tiền bạc, sức khỏe, thời giờ vào việc gieo hạt. Chính niềm hy vọng ấy đã giúp ông đủ sức mạnh vượt qua những khó khăn, đứng vững trước những thất bại. Vì hy vọng, ông gieo cả trên lối đi, trên đá sỏi, trong cỏ gai. Ông tin rằng có gieo thì có gặt. Chính niềm hy vọng ấy đã giúp ông kiên trì và sau cùng đi đến thành công.
Người đi gieo đã gieo trong tình thương yêu. Tình thương yêu của ông dạt dào lắm. Nên ông đã không ngại hao tốn tiền của, tâm trí, sức lực. Tình thương ấy bao la lắm. Nên ông động lòng thương đến cả những mảnh đất chai cứng, đá sỏi, gai góc. Tình yêu thương ấy mãnh liệt lắm. Nên ông mong sẽ cảm hoá được cả gai góc, sỏi đá, biến chúng thành đất màu mỡ phì nhiêu. Ông đã có thể chỉ chọn đất tốt mà gieo. Nhưng tình thương yêu mãnh liệt không cho phép ông làm thế. Vì ông không muốn loại trừ những miền đất chai cứng chứa đầy sỏi đá, cỏ gai.
Người đi gieo chính là Thiên Chúa hiện thân trong Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã gieo trong yêu thương. Yêu thương đến độ chính Người lại trở nên một hạt giống,chịu vùi chôn, chịu mục nát để biến cải những mảnh ruộng gai góc, sỏi đá thành màu mỡ phì nhiêu, mong một mùa gặt đầy những bông lúa chín vàng trĩu nặng.
Thiên Chúa là người đi gieo không biết mệt mỏi. Chúa Giêsu là người đi gieo say mê đến quên chính cả bản thân mình. Người muốn cho các môn đệ của Người tiếp tục công việc gieo Tin Mừng đi khắp mọi nơi.
Hôm nay Người muốn ta gieo một cách hào phóng. Hãy gieo không xẻn xo. Hãy gieo không tính toán. Hãy gieo không loại trừ. Hãy biết dùng mọi phương tiện hiện đại nhất để chuyên chở Tin Mừng. H ãy đem Tin Mừng tới mọi lãnh vực của đời sống. Hãy đem Tin Mừng tới tất cả mọi hạng người không loại trừ một ai.
Người cũng muốn ta kiên trì gieo hạt Tin Mừng. Hãy kiên trì như thánh Phaolô, cứ gieo dù gặp “thời thuận lợi hay không thuận lợi”. Hãy cứ gieo dù đá sỏi, chông gai. Hãy cứ gieo dù những thất bại, nhọc nhằn.
Nhưng điều Người mong chờ nhất là các môn đệ của Người hãy đi gieo yêu thương. Yêu thương không chỉ những mảnh đất phì nhiêu, nhưng yêu thương cả những mảnh đất sỏi đá, gai góc. Yêu thương không chỉ những người mình thương và những người thương mình mà còn yêu thương cả những người không ưa mình và mình không ưa: vì một tình yêu thương đích thực thì không loại trừ ai. Chỉ có tình yêu thương mãnh liệt như thế mới cảm hoá được cỏ gai, làm mềm được đá sỏi, biến tất cả thành màu mỡ phì nhiêu.
Đáp lời Chúa mời gọi, biết bao lớp người đã hăng hái ra đi gieo Tin Mừng tại vùng đất Lạng Sơn này.
Trong số đó phải kể đến Đức cố Giám mục Vinh Sơn Phaolô của chúng ta. Người đã là một người đi gieo không biết mệt mỏi. Qua bao ngày tháng, Ngài vẫn kiên trì không bao giờ chồn chân mỏi gối. Hôm nay Ngài đã trở thành một hạt giống vùi sâu trong lòng đất. Hạt giống ấy, tình thương ấy, sẽ làm mềm sỏi đá, hứa hẹn cho ta một mùa gặt bội thu.
Ta cũng không thể nào quên được công ơn của Đức Hồng Y Phaolô Giuse, cũng là một người đi gieo không biết mệt mỏi. Dù tuổi cao sức yếu với gánh nặng của Giáo phận Hà Nội và của Giáo hội Việt Nam, Ngài vẫn sẵn sàng ghé vai gánh đỡ Lạng Sơn trong những lúc cần thiết. Ngài đã gieo mồ hôi nước mắt làm phì nhiêu cánh đồng này. Công khó ấy chắc chắn sẽ góp phần rất lớn cho một mùa gặt mai sau.
Hôm nay, Chúa gởi tôi đến cánh đồng Lạng Sơn này. Lạng Sơn là quê hương tôi. Anh chị em đã đón nhận tôi như đón một người thân. Chúng ta thuộc về một gia đình. Hôm nay Chúa mời gọi tất cả chúng ta vào làm việc trong cánh đồng của Chúa. Chúng ta hãy hăng hái bắt tay vào việc đi gieo Lời Chúa. Hãy noi gương Chúa Giêsu, hào phóng, gieo kiên trì, gieo hy vọng và nhất là hãy gieo yêu thương. Gieo gì gặt nấy. Nếu ta gieo bác ái chắc chắn ta sẽ gặt được yêu thương, một mùa yêu thương tràn ngập trên núi đồi Lạng sơn- Cao bằng này.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Thiên Chúa không ngừng gieo Lời Chúa vào tâm hồn bạn. Bạn đã đón nhận Lời Chúa thế nào?
2- Thái độ của người đi gieo cho bạn cảm nghiệm gì về Thiên Chúa?
3- Chúa mời gọi bạn đi gieo Tin Mừng. Bạn phải có thái độ nào?
21. Nghe và hiểu
(‘Manna’)
Dụ ngôn người gieo giống đầy tính lạc quan, hy vọng.
Đức Giêsu gieo hạt giống Lời Chúa khắp nơi.
Có hạt bị chim trời ăn mất, khi chưa kịp nảy mầm. Có hạt bị khô cháy khi chưa bám rễ. Có hạt đã thành cây, nhưng bị gai làm chết ngạt.
Thực tế đau buồn ấy làm nản lòng nhiều người.
Đức Giêsu đã gặp biết bao chống đối và thất bại.
Ngài có thật là Đấng được Thiên Chúa sai đến để thiết lập Nước Trời trên trần gian không?
May thay có những hạt rơi vào đất tốt, và đem lại kết quả gấp bội.
Nhìn vào khuôn mặt của Giáo Hội hôm nay, nhiều người thất vọng trước những khó khăn, khủng hoảng. Đức Giêsu khuyên ta hãy vững lòng. Lời Chúa vẫn còn gặp được mảnh đất phì nhiêu.
Dụ ngôn người gieo giống đòi chúng ta phải xét mình:
Có bao hạt Lời Chúa được gieo vào lòng tôi? Đâu là số phận của chúng?
Có hạt rơi vào lòng tôi như rơi trên mặt đường. Tôi nghe mà không hiểu. Không hiểu vì không muốn hiểu, vì cố tình né tránh, bởi lẽ Lời Chúa đòi tôi hoán cải và từ bỏ mình. Thế là Lời Chúa trượt đi như nước đổ lá khoai.
Có hạt rơi vào lòng tôi như rơi trên đất đá. Tôi vội vã, hớn hở đón lấy ngay, nhưng chỉ dừng lại ở bề mặt hời hợt. Lời Chúa không đâm rễ sâu trong mảnh đất đời tôi. Khi thử thách gay gắt của cuộc sống ập đến, tôi té nhào và bỏ cuộc, chẳng dám sống Lời Ngài.
Có hạt rơi vào lòng tôi như rơi trong bụi gai. Bụi gai là nỗi lo âu chuyện đời, là đam mê của cải. Bụi gai bóp nghẹt, làm cây Lời Chúa không sinh trái.
Có hạt rơi vào long tôi như rơi vào đất tốt. Tôi nghe và hiểu. Tôi hiểu được là nhờ dám sống Lời Chúa trong đời. Chỉ ai hiểu nhờ sống mới đem lại mùa bội thu.
Dụ ngôn trên đòi tôi xét lại thái độ nghe Lời Chúa, đòi tôi cải tạo lại mảnh đất lòng mình.
Có biết bao gai góc, đá sỏi trong mảnh đất đời tôi. Có bao hạt giống bị mất mát vì tôi từ khước.
Nếu tôi dám để cho một câu Lời Chúa tự do lớn lên thì đời tôi sẽ hoàn toàn thay đổi.
Hôm nay, tôi được mời gọi đi gieo hạt. Nhưng trước hết, tôi cần được Lời Chúa biến đổi, cần hiểu sâu nhờ dám sống Lời Chúa tận căn. Xin Chúa giúp tôi tìm ra những lối gieo mới, để Lời Chúa sai trái hơn trong thế giới hôm nay.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, đâu là những trở ngại, từ bên ngoài cũng như từ bên trong, khiến hạt giống Lời Chúa khó nẩy mầm và lớn lên trong bạn?
Có khi nào bạn mê một câu Lời Chúa không? Có khi nào bạn dám sống một câu Lời Chúa không? Có khi nào đời bạn đã hoàn toàn đổi khác, vì bạn gặp được một câu Lời Chúa không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay.
Chúng con thường xây nhà trên cát, vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy, nhưng lại không dám đem ra thực hành. Chính vì thế Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con.
Xin cho chúng con đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa, đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.
Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình, để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng trưởng.
Ước gì ngôi nhà đời chúng con được xây trên nền tảng vững chắc, đó là Lời Chúa, Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con.
22. Kho báu đã mở
(‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)
Không một nông dân nào thích thú bởi cảnh gieo giống lãng phí hạt giống như người nông phu trong bài Phúc âm hôm nay. Một nông dân cần cù thì sẽ gieo cẩn thận ở những nơi mà ông bảo đảm sẽ gặt hái được vụ mùa bội thu. Nhưng người nông dân trong Phúc âm thì phung phí những hạt giống, nhờ đó ông giới thiệu Thiên Chúa là Đấng luôn luôn quảng đại ban phát những hồng ân của Người.
Những hạt giống được giới thiệu đây là Lời Chúa, Lời ấy được tìm thấy trong những trang được linh ứng trong Thánh Kinh. Có bốn mươi sáu cuốn trong Cựu ước và hai mươi bảy cuốn trong Tân ước. Thiên Chúa gieo những hạt giống của Người vào trong tâm trí chúng ta và trong lòng của chúng ta trước, bởi ý nghĩa của Phụng vụ Lời Chúa trong khi cử hành thánh lễ.
Theo phụng vụ trước đây, những bài đọc thường được dùng hàng năm và thế là không thể giới thiệu được kho tàng phong phú của Thánh Kinh. Một hậu quả của việc xếp đặt như thế là một số lớn những đoạn súc tích rất hay không bao giờ được những người công giáo nghe vào những ngày chúa nhật. Dụ ngôn người con hoang đàng không có phần nào trong nghi thức phụng vụ ngày chúa nhật và câu chuyện người Samaritanô tốt lành cũng như thế. Những bài Thánh Thư cung cấp cho bài đọc đầu tiên như một danh sách dài đang chờ được chấp nhận để biên soạn sách Tông đồ công vụ, câu chuyện của Giáo hội tiên khởi được chọn một lần trong năm vào Chúa nhật Hiện Xuống. Không có bài đọc nào được lấy từ Cựu ước và sách Khải Huyền cũng chẳng bao giờ đọc trong thánh lễ ngày chúa nhật.
Công đồng Vaticano II, dùng một hình ảnh phong phú đã quyết định rằng: “Kho tàng Thánh Kinh đã khai mở cách dư thừa và phong phú để cung cấp cho các tín hữu” (Hiến chế về phụng vụ, số 51). Việc tu sửa phụng vụ đã làm viên mãn quyết định này bằng cách chọn lựa những đoạn Thánh Kinh được chia làm ba thời kỳ vào các chúa nhật chứ không còn là một thời kỳ như trước bằng việc cung cấp thêm bài đọc trước Phúc âm chứ không phải là một như trước.
Năm nay tính theo chu kỳ phụng vụ là năm A, những bài Phúc âm sẽ theo thánh Mathêu. Chu kỳ phụng vụ năm B giới thiệu Phúc âm theo thánh Marcô và chu kỳ phụng vụ năm Chúa theo thánh Luca. Phúc âm theo thánh Gioan trước hết được dùng vào các chúa nhật năm A trong suốt mùa chay, suốt mùa Phục Sinh và điền vào chu kỳ phụng vụ năm B. Suốt mùa Phục Sinh, bài đọc I được lấy từ sách Tông đồ công vụ, những mùa khác thì trái lại, bài đọc I luôn luôn lấy từ Cựu ước, bài đọc II thì luôn luôn lấy từ Tân ước. Sách Khải huyền là bài đọc II trong suốt mùa Phục sinh trong chu kỳ phụng vụ năm C.
Để thu được nhiều lợi ích qua việc giới thiệu cách dồi dào kho tàng Thánh Kinh, tất cả chúng ta phải làm cho mình nhiệt tình hơn trong việc tham dự thánh lễ. Quả thật, chúng ta phải công nhận rằng chúng ta có đến nhà thờ với nhiều thời gian nhưng chú ý đến các bài đọc thì không có mấy. Chúng ta phải lắng nghe trong tinh thần đức tin, đó là Đức Kitô đang nói với chúng ta khi Thánh Kinh được tuyên đọc (Hiến chế Phụng Vụ, số 56-57)
Cho Lời Chúa một vị trí quan trọng như thế, còn tiệc Thánh Thể thì sao? Một cách nhìn sự hiệp lễ là xem Mình và Máu của Chúa giống như mưa và tuyết đổ xuống từ trời cao và làm cho đất phì nhiêu. Sự hiệp lễ cho chúng ta ý nghĩa chúng ta cần, để khi nghe đọc Thánh Kinh chúng ta được những chân lý trong ấy hướng dẫn để sống theo ý muốn của Thiên Chúa. Thánh Thần không chỉ linh ứng cho những trang Thánh Kinh, Thánh Thần còn chúc phúc cho chúng ta qua công trình của Công đồng Vaticano II.
23. Sức mạnh của Lời Chúa
(Lm. Phêrô Nguyễn Hương)
Với dụ ngôn “người gieo giống” rất quen thuộc, phụng vụ Lời Chúa hôm nay đưa chúng ta tới một chủ đề nền tảng, đó là: Sức Mạnh của Lời.
Chúng ta sẽ tập trung suy nghĩ ba điểm chính yếu của dụ ngôn: người gieo giống, hạt giống và những thửa ruộng khác nhau.
1. Thiên Chúa, Người gieo trong hy vọng
Trước hết, dụ ngôn nói về người gieo làm ta ngạc nhiên bởi vì sự phung phí của ông. Ông hành động như kẻ không chuyên nghiệp, vung vãi hạt giống khắp nơi, và hầu như không để ý tới chúng sẽ rơi vào đâu: trên vệ đường, trên sỏi đá, trên bụi gai, cuối cùng là trên đất tốt. Người gieo giống là biểu tượng về một Thiên Chúa của hy vọng: spes in semine (gieo trong hy vọng), của sự quảng đại quá mức đến độ “phung phí” trong việc ban phát các ân sủng và Lời của Người cho chúng ta. Một Thiên Chúa yêu hết mọi người và muốn Lời của Ngài đến với tất cả. Hay nói như Thánh Phaolô: «Thiên Chúa muốn mọi người được cứu độ và đạt tới sư nhận biết chân lý» (1 Tim 2,3-4). Và như thế trong thế giới này và trong các nền văn hóa dù chưa được được tin mừng hóa, người ta vẫn tìm thấy những chân lý và những giá trị mà chúng có nguồn gốc và sự viên mãn trong Thiên Chúa là Cha của tất cả và cũng là Người ban phát mọi sự thiện hảo. Thiên Chúa đó ban cho chúng ta Lời Chân Lý, Lời Sự Sống. Lời đó là kim chỉ nam và là luật sống của chúng ta. Lời đó cũng là hạt giống gieo vào lòng chúng ta.
2. Hạt giống
Hạt giống biểu tượng những gì là nhỏ bé nhưng lại chứa đựng một sức mạnh, một mần sống kỳ lạ nhiều lúc không thể tin được! Hạt giống cũng là biểu tượng của Lời Chúa, Lời được viết ra trong Sách Thánh. Nhưng hạt giống cũng chính là Đức Kitô Giêsu, vì Người là Lời sống động của Thiên Chúa, Lời nhập thể làm người, và là Lời viên mãn của Nước Trời. Lời đó làm tăng trưởng các giá trị hiện có trong các nền văn hóa, thanh tẩy chúng và đưa chúng tới sự hoàn hảo. Bởi thế, Giáo Phụ Giustino (+165) gọi những giá trị trong các tôn giáo và trong các nền văn hóa là “semi Verbi”, các hạt giống của Lời. Người, Lời hiệu quả của Cha, như mưa xuống trên đất đai (Bài đọc I), tưới gội đất đai, làm cho đất đai màu mỡ, và làm mọc lên những hoa quả tốt tươi tô đẹp cho đời. Hạt Giống thần linh này có một sức mạnh vô tận: là ban tặng ơn cứu độ cho tất cả, bất kỳ nơi đâu, bất kỳ ai, kể cả những lúc thất vọng nhất, sức mạnh đó không có hàng rào nào có khả năng ngăn cản được. Thế giới này là cánh đồng của Chúa Cha, luôn đẹp đẽ, đáng chiêm ngắm như Thánh vịnh hôm nay nói tới, không có những con người hay những thực tại mà không thể không cứu rỗi được. Đó là nền tảng của niềm hy vọng về ơn cứu độ kitôgiáo (Spes salvi, như ĐHG Benedetto XVI nhấn mạnh). Hãy cam đảm vươn tới những chân trời bao la của hy vọng, vượt trên cả mồ hôi, nước mắt và tuyệt vọng của kiếp người!
3. Những thửa ruộng khác nhau
Dụ ngôn nói tới những thửa ruộng khác nhau, ám chỉ những thực tại của thế giới và lòng mỗi người chúng ta. Thiên Chúa ban Lời và ân sủng cách quãng đại cho hết mọi người. Nhưng Người không có ép ai phải theo. Ai có tai để nghe thì hãy nghe. Thiên Chúa tôn trọng sự tự do của chúng ta. Hay nói đúng hơn, Thiên Chúa mời gọi chúng ta cộng tác với Người. Những mãnh đất khác nhau là lòng chúng ta có khả năng đón nhận hoặc từ chối hạt giống Lời và Ân sủng. Con người có khả năng chọn cho mình là vệ đường, là rỏi đá, là bụi gai, hay là mãnh đất tốt trước Lời Chúa. Và kết quả của hạt giống được gieo vào đất tốt làm chúng ta ngạc nhiên: hạt 30, hạt 60 và hạt 100! Sự khác nhau này không tùy thuộc vào người gieo mà lại tùy thuộc vào phẩm chất của đất, chính là thái độ đón tiếp Lời và thực hành Lời của mỗi người chúng ta.
Bài học áp dụng
- Hãy yêu mến Kinh Thánh và siêng năng đọc, tìm hiểu và áp dụng Lời Chúa vào trong cuộc sống hằng ngày.
- Hãy chuẩn bị cho lòng mình là mãnh đất tốt để Lời Chúa dễ bắt rễ, và thấm sâu vào tâm hồn, và hãy để cho Lời đó uốn nắn và biến đổi suy nghĩ, phán đoán và hành động của chúng ta.
- Hãy quảng đại và rao giảng Lời Chúa khi thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện, ngay cả những hoàn cảnh xem ra không còn hy vọng gì nữa vì Lời đó là Lời cứu độ con người. Amen!
24. Mở tai, mở mắt
(‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Ý nghĩa đại cương của dụ ngôn người gieo giống được chính Chúa giải thích. Nhiều bài bình giảng đã quảng diễn về sau lời giải thích ấy. Ở đây chúng ta dừng lại mầu nhiệm đáng sợ: cách thức người ta tiếp nhận lời Chúa. Quả thật trong dụ ngôn có thuật lại 1 lời Chúa dạy rằng, nhiều kẻ bịt tai nhắm mắt lại để khỏi nghe khỏi thấy. Nhiều người được gọi là có phúc vì họ thấy và nghe.
1) Làm sao người ta có thể bịt tai nhắm mắt trước lời của Chúa? Việc ấy tuỳ thuộc vào sự chọn lựa thâm sâu dấu kín tận đáy lòng, bằng vào đó mà người ta quyết định về cuộc sống của mình. Vượt ngoài mọi luật tất định, sở dĩ lời Chúa dược đề ra cho người ta tin theo, là vì nơi con người có một hạt nhân tự do có thể quyết định đón nhận một cách hữu trách. Xét đoán theo nhân loại mỗi trường hợp riêng là việc không thể làm được. Điều quan trong là biết rằng con người có trách nhiệm khi đối diện lời Chúa. Do đó một con người có thể đã quyết định thâm sâu trong lòng khiến anh đui và điếc trước Chân Lý đang đến gặp anh. Nêu Chân Lý nhằm vào chỗ thâm sâu, quyết định ấy lại càng mãnh liệt dứt khoát. Thực vậy, khi con người cảm thấy liên luỵ đến cả định mệnh, anh sẽ hung dữ và bảo vệ các chọn lựa của mình và không chịu để cho người khác để lay chuyển. Một hiện tượng như thế đã xảy ra nơi những người Do thái gặp Đức Kitô. Hiện tượng ấy ngày nay vẫn còn xảy ra. Chúng ta không thể xét đoán trách nhiệm của những người từ khước TC và Đức Kitô. Nhưng bí ẩn của trách nhiệm ấy chất vấn chúng ta, vì nó đặt chúng ta vào một con đường đi không bao giờ cùng. Nếu quả thật chúng ta có đón nhận Lời Chúa thì vẫn chưa đón nhận hoàn hảo và chúng ta vẫn còn phải từ bỏ mình để theo những gì TC mời. Có thể mắt và tai chúng ta đã mở, nhưng chúng ta vẫn còn luôn luôn phải dọn sạch và tẩy rửa. Chúng ta có nghĩ đến việc ấy chăng.
2) Làm sao để đáng được lời Chúa phán với các môn đệ: phúc cho mắt các con vì được thấy, phúc cho tai các con vì được nghe? Bằng cách nỗ lực tiến đến một trạng thái tâm hồn. Các môn đệ là những người đơn sơ, ngay thẳng, không có hệ thống trí thức cứng ngắt, nghèo hèn, không có đặc quyền để bảo vệ, không có ích kỷ để chống giữ, gần gũi với cuộc sống thực và họ có trái tim trong sạch, đặc ân của những người ngay thẳng và giản đơn. Ngày nay để giữ cho mắt và tai luôn mở ra đón nhận Phúc âm, chúng ta phải được kháng nhiễm chống lại một bầu không khí tinh thần và luân lý, nó xác trộn tâm trí và làm vẩn đục trái tim. Có một thế giới ra sức biện minh cho bất cứ lý thuyết nào, bất cứ thói hư nào, lo âu duy nhất là tiền tài và danh vọng. Nhiều tờ báo, nhiều đài truyền thanh truyền hình đổ ra suốt ngày thỉnh thoảng được vài điều thât hay còn ngoài ra từng đống nguỵ biện, khiêu dâm, bạo hạnh, những cuộc trình diễn người ta nói đã được nghệ thuật thanh tẩy, nhưng làm vẩn đục tâm trí người xem. Câu hỏi là như thế này: chúng ta chọn để cho cái gì thấm nhập vào mình để cho những gì thế gian mời chào, hay để cho những gì Phúc âm đề nghị? Khả năng chăm chú nghe lời Chúa tuỳ thuộc vào câu trả lời.
25. Hạt giống Lời Chúa
(‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Ông Chirgwin, trong quyển sách mang tựa đề: “Thánh Kinh trong thế giới truyền giáo”đã kể câu chuyện sau đây:
Tokichi Ishi-I, một tên giết người không gớm tay, đã đạt được kỷ lục hạ sát nhiều nạn nhân nhất bằng những phương thế không thể tưởng tượng nổi.
Hắn ta tàn nhẫn hạ sát đàn ông, đàn bà, kể cả trẻ con. Với bàn tay khát máu, hắn đã thủ tiêu bất cứ người nào tình cờ hắn gặp và muốn giết. Nhưng cuối cùng, hắn cũng bị bắt và bị kết án tử hình.
Lúc ở nhà tù chờ ngày hành quyết, hai phụ nữ đi công tác tông đồ thử khuyên nhủ hắn, nhưng tất cả những câu hỏi han, trò chuyện của họ không làm cho hắn mảy may cảm lòng, trái lại hắn nhìn thẳng vào họ với cặp mắt dữ tợn như một hung thủ.
Cuối cùng, mất hết kiên nhẫn, hai phụ nữ ra về. Hai bà chỉ để lại cho hắn quyển Thánh Kinh Tân Ước, với một hy vọng mỏng manh là hắn sẽ đọc và Lời Chúa sẽ hoạt động nơi mà tiếng nói con người trở nên hoàn toàn bất lực.
Niềm hy vọng của họ đã trở thành hiện thực, Ishi-I đã đọc những câu chuyện trong Tân Ước hình như có một sự thu hút mãnh liệt, khiến hắn cứ tiếp tục đọc, đọc mãi và cuối cùng hắn đọc đến câu chuyện diễn tả cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Lời Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha trên thập giá: “Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”. Lời ấy đã thắng sự chống trả cuối cùng trong tâm hồn của hắn. Sau đó Ishi-I thuật lại:
“Đọc đến lời ấy “Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”, tôi mới dừng lại. Con tim tôi hình như bị đánh động, bị đâm thâu bằng một con dao dài. Tôi có thể gọi đó là lòng thương xót của Ngài? Tôi không biết, nhưng điều duy nhất tôi biết là sự hung dữ, tàn bạo nơi tôi đã tan biến và tôi đã tin”.
Cuối cùng, ông Chirgwin, tác giả câu chuyện này, kết thúc câu chuyện bằng sự ngạc nhiên tột độ của những nhân viên nhà giam có phận sự đến dẫn Ishi-I đi hành quyết. Họ đã không gặp một tên sát nhân hung bạo như họ chờ đợi, nhưng là một con người hoà nhã, lễ độ. Ishi-I, tên sát nhân đã được Lời Chúa tái sinh.
(Câu chuyện này khiến tôi liên tưởng đến một chuyện phim video mới đây được giải thưởng Oscar, mang tựa đề: “Dead man walking” (Người chết biết đi). Ở các quầy cho thuê băng video, mang tựa đề: “Tên tử tội”).
Anh chị em thân mến,
Lời Chúa có sức mạnh vạn năng. Lời Chúa có thể biến đổi tâm hồn một tên giết người không gớm tay như anh Tokichi Kshi-I và bao tâm hồn sa ngã khác. Lời Chúa có thể là động lực cho bao công tác bác ái của các tu sĩ nam nữ và giáo dân đang dấn thân phục vụ những trẻ em bị bỏ rơi, những người già nua hấp hối không ai chăm sóc, những kẻ phải sống bên lề xã hội. Đúng như Chúa Giêsu đã nói trong Tin Mừng hôm nay: “Lời Chúa như hạt giống được gieo vào đất tốt. Nó sẽ nẩy sinh một mùa gặt phong phú, một thành một trăm”.
Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn “Người gieo giống”để mô tả số phận Lời Chúa được tung ra giữa nhân loại và đem lại kết quả như thế nào: Có hạt rơi xuống bên vệ đường, chim trời ăn mất. Có hạt rơi xuống trên sỏi đá, không đâm rễ được, bị khô héo. Có hạt rơi vào bụi gai, bị chết nghẹt. Chúa không chú trọng đến phần mất mát đó cho bằng đến sự phát triển mạnh mẽ của hạt giống khi rơi vào phần đất tốt. Nó sẽ nẩy sinh một mùa gặt phong phú, một thành ba mươi, sáu mươi hay một trăm. Vậy thì chúng ta đừng ai nản lòng vì mất mát, thiệt thòi. Người gieo giống cứ thẳng tay tung vãi khắp nơi một cách quảng đại, không dè xẻn. Bên ngoài xem ra như mọi sự chống lại việc triển nở của hạt giống Lời Chúa. Nhưng hãy chờ mùa gặt đến, kết quả sẽ vượt mức tưởng tượng, vì đây là công việc của Thiên Chúa. (Một tên giết người không gớm tay như Ishi-I, thế mà Lời Chúa đã từ từ thấm nhập vào tâm hồn, đã cải hoá anh thành một con người mới, một người hoà nhã, lễ độ, sám hối và đã tin).
Thánh Justinô tử đạo vào năm 150, khi suy niệm về dụ ngôn người gieo giống này đã khuyên bảo những người rao giảng Tin Mừng, đừng bao giờ thất vọng: “Chính Chúa Giêsu là Lời Thiên Chúa đã được gieo vào cánh đồng thế giới chúng ta. Ngài cũng đã bị hiểu lầm, bị chống đối, đã gặp bao thất bại… Nhưng sau khi bị chôn vùi vào lòng đất như hạt giống, Ngài đã nẩy sinh bao hoa trái sự sống dồi dào”.
Thưa anh chị em,
Ngày nay Giáo Hội không ngừng rao giảng Lời Chúa qua các thế hệ trên khắp thế giới. Giáo Hội cũng gặp nhiều khó khăn, thất bại như: thiếu phương tiện, bị bách hại, đời sống kém cỏi của một số giáo sĩ và giáo dân, số người rửa tội ngày càng ít đi trong một thế giới duy vật và trần tục hoá. Thật đáng buồn khi thấy đời sống đạo ngày càng sa sút. Lời Chúa như rơi vào sỏi đá, vào bụi gai hay ngoài đường lộ. Tuy nhiên, như lời Thánh Justinô: đứng thất vọng, người gieo cứ việc gieo và để cho Lời Chúa âm thầm hoạt động. Không có gì được phép làm cho chúng ta phải nghi ngờ hay chán nản. Hạt giống Lời Chúa có thể là bé nhỏ, có thể bị đối xử tàn tệ, bị chà đạp, bị lấn át, nhưng năng lực của nó là vô hạn (x. Bđ: Is 55,10-11).
Bổn phận của chúng ta là thành tâm đón nhận Lời Chúa, lắng nghe Lời Chúa và thực thi Lời Chúa trong cuộc sống giữa lòng đời. Không phải chỉ nghe suông mà còn tìm hiểu ý Chúa muốn chúng ta phải làm gì. Có bao nhiêu chướng ngại chống lại việc tìm hiểu và thực thi Lời Chúa: nào là những quyến rũ của đời sống trần tục, nào là những lo lắng việc đời, ham mê của cái. Chúng như chim trời sà xuống cướp lấy hạt giống vừa rơi xuống, hoặc như sỏi đá, như bụi gai cản trở, bóp nghẹt Lời Chúa.
Anh chị em thân mến,
Mỗi Chúa Nhật, chúng ta họp nhau dự Tiệc Thánh, gồm có Lời Chúa và Thánh Thể của Chúa. Hãy đón nhận với niềm tin yêu để Lời Chúa và Thánh Thể trở nên sức sống và ánh sáng, niềm vui và hy vọng cho cuộc đời chúng ta. Rồi đến lượt chúng ta lại trở thành người ra đi gieo giống, người Tông đồ rao giảng Lời Chúa, góp phần vào mùa thu hoạch của Giáo Hội cho Nước Trời vào ngày sau hết.
26. Luôn luôn gặt hái kết quả
Sách lễ cho chúng ta chọn giữa một bài đọc ngắn chỉ kể lại dụ ngôn người gieo giống và một bài đọc dài có thêm câu trả lời của Chúa Giêsu đáp lại câu hỏi “Tại sao Thầy dùng dụ ngôn để nói?” và lời giải thích dụ ngôn người gieo giống. Tôi chọn bài đọc ngắn, đúng như nó mô tả câu chuyện những hạt gieo của Chúa Giêsu.
Đọc đến chương 13 này của Matthêu, “chương của những dụ ngôn”, chúng ta biết được gì? Chúa Giêsu đã gieo nhiều trên tất cả các mảnh đất. Ngài đụng phải những cái đầu cứng rắn của những luật sĩ và người Pharisêu. Ngài đã thấy những người phấn khởi nhưng bỏ Ngài rất nhanh. Ngài đã cảm nhận những thái độ ngập ngừng nơi các môn đệ của Gioan Tẩy giả và sự bối rối nơi chính Gioan Tẩy giả: “Thầy có phải là Đấng- phải -đến hay không?” Sự dửng dưng của một số thành phố đã tác động mạnh đến Ngài: “Khốn cho người hỡi thành Côrô! Khốn cho người hỡi thành Bétsai!” Tất cả những điều đó tạo nên một bức tranh khá đen tối. Nước Trời dường như khó khởi động.
Chính trong bối cảnh này mà dụ ngôn người gieo giống có tầm quan trọng rất lớn. Dụ ngôn này nói lên nhận xét sáng suốt nhưng không thất vọng của Chúa Giêsu. Ngài mời gọi chúng ta can đảm bằng cách nhìn vào điều quan trọng nhất: người gieo giống ra đi để gieo lúa. Nhưng thật là một người gieo giống kỳ lạ!
Người đó ra đi từ nơi Thiên Chúa và đến với chúng ta để gieo Thiên Chúa. Đây là một biến cố bất ngờ, không phải là một giai đoạn của lịch sử mà là sự đảo lộn lịch sử: “Các ngươi hãy mau ăn năn hối cải, vì Nước Trời đã gần kề!”
Tin Mừng này đã làm cho mọi người phấn khởi. Sau đó, khi lời rao giảng tỏ ra có yêu cầu một số thính giả bén rễ vào lời rao giảng đó, nhưng một số khác rơi vào trong cuộc sống hời hợt hoặc ngổn ngang trăm bề và thậm chí trong sự chống đối, những con đường, những hòn đá, những bụi gai, những mảnh đất tốt, đất đai thật khác nhau! Mặc kệ, người gieo giống kỳ lạ này đã thấy được kết quả rồi: hạt được ba mươi, hạt được bốn mươi, hạt được một trăm. “Ai có tai nghe, hãy nghe!”
Nghe lời kêu gọi tin tưởng khi việc gieo giống có vẻ như thất bại. Trường hợp này đã xảy ra cho các nhà truyền giáo. Đây cũng là trường hợp xảy ra cho mọi tông đồ hiện nay, cho mọi Kitô hữu xem truyền hình và những người qua lại trên đường: “Đâu là những cây lúa đang mọc lên?”
Đây là câu trả lời. Đấng biết rõ những mảnh đất con người khẳng định với chúng ta rằng có những mảnh đất khô cằn thì cũng có những mảnh đất tốt tươi và do đó luôn luôn có kết quả.
Chúa Giêsu đã nói điều này với nhũng đám đông bối rối, với những môn đệ bị dao động. Ngài nói điều đó với chúng ta bây giờ là những người đo lường sự bỏ rơi việc hành đạo, sự dửng dưng của con cái chúng ta, sự gia tăng những người vô tín ngưỡng-Đấng kể dụ ngôn này hiện vẫn sống, dụ ngôn này được dành cho chúng ta. Đấng gieo giống đang có mặt ở đó, cho nên không có ai, không nơi nào, có quyền đoán xét rằng mọi hạt giống đều bị mất đi. Bao lâu chúng ta gieo Tin Mừng, chúng ta sẽ có kết quả là hạt được một trăm, hạt được sáu mươi, hạt được ba mươi.
27. Nghe giảng
Benjamin Franklin là một vị tổng thống nổi tiếng của nước Mỹ. Ngày kia, ông nhân được món quà, đó là một cái chổi từ Ấn Độ. Ông nhìn thấy mấy hạt giống còn dính vào cái chổi, và thế là ông bứt ra và đem gieo những hạt giống ấy.
Sau lần thu hoạch đầu tiên, ông đem phân phát tất cả những hạt giống mình có cho bà con lối xóm. Và vu thu hoạch của họ cũng thành công tốt đẹp. Bằng cách này, ông trở nên người đầu tiên đưa rơm vào Hoa Kỳ và khởi đầu cho kỹ nghệ sản xuất chổi.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng vừa nghe. Thực vậy, tất cả chúng ta đều được mời gọi phải hành động như thế. Chúa Giêsu ban cho chúng ta những chân lý của Người, đó là như những hạt giống chúng ta cần phải gieo trồng trong tâm trí chúng ta đã đành, mà còn phải đem gieo trồng trong tâm trí những người khác nữa.
Những hạt giống này, những chân lý này, Người ban cho chúng ta qua Thánh Kinh, qua sự giáo huấn của Hội Thánh, cụ thể là qua sự giảng dạy của các linh mục.
Như vị tổng thống nước Mỹ, chúng ta hãy đón nhận những chân lý ấy, hãy gieo trồng trong cõi lòng chúng ta, đồng thời cũng hãy chia sẻ những chân lý ấy cho những người chung quanh.
Bổn phận của tôi là nói nói về những chân lý ấy cho anh chị em. Còn bổn phận của anh chị em là lắng nghe và làm cho những chân lý ấy được nảy mầm và lớn lên, như lời Chúa Giêsu đã phán: Ai có tai để nghe, thì hãy nghe.
Tôi xin đưa ra một vài việc gợi ý cần làm ngay để chúng ta thâu lượm được những thành quả tốt đẹp khi nghe giảng.
Như một bác nông phải, trước khi xạ lúa cân phải chuẩn bị ruộng đất. Chúng ta cũng thế. Thật là hữu ích nếu như trên đường tới nhà thờ tham dự thánh lễ, chúng ta biết tự chuẩn bị đón nhận chân lý. Chúng ta đừng nói: Lạy Chúa, hôm nay xin đừng để cha giảng quá dài. Trái lại hãy thân thưa: Lạy Chúa, xin giúp con đón nhận những chân lý để nuôi sống đời sống thiêng liêng của con. Chính người giảng cũng phải cầu nguyện như thế, để những người nghe mình giảng sẽ lợi dụng được những điều mình trình bày, và sẽ cung cấp được những mảnh đất phì nhiêu cho những chân lý mình đang cố gắng gieo trồng. Chúng ta không phải chỉ cầu nguyện cho mình, mà còn phải cầu nguyện cho người giảng nữa. Đó quả thực là một việc làm quí giá biết bao.
Tiếp đến, khi bước chân vào trong nhà thờ, chúng ta hãy làm dấu thánh giá trên mình, như để rũ sạch những lo âu trần thế và mở rộng tâm hồn cho hạt giống chân lý. Chúng ta hãy chăm chú lắng nghe những lời cầu nguyện, những bài đọc Thánh Kinh, nhất là bài Tin Mừng, đồng thời cũng hãy chú ý tới bài giảng, bằng cách cố gắng hiểu và nhớ.
Đức Kitô nói với chúng ta qua môi miệng của vị linh mục, thế nhưng, vị linh mục cũng chỉ là một con người, nên cũng có những giới hạn của mình. Con người đứng trên bục giảng có thể là một dụng cụ hữu hiệu, nhưng cũng có thể là một dụng cụ vô tích sự. Sứ điệp có thể được quảng diễn một cách trong sáng hay mù mờ, thế nhưng, nội sung của sứ điệp mới là điều quan trọng, còn cách diễn tả chỉ lả điều thứ yếu.
Hãy lắng nghe và thực thi trong cuộc sống những điều đã đón nhận, để Lời Chúa thực sự nảy mầm, đâm bông và kết trái trong cuộc sống chúng ta.
28. Hạt giống và người gieo giống
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về hạt giống và người gieo giống, cũng như về thửa đất đón nhận hạt giống.
Trước hết, hạt giống và người gieo giống chính là Đức Kitô.
Thực vậy, Ngài đã đến trong cánh đồng trần gian. Thế nhưng, Ngài đã bị hiểu lầm, đã gặp biết bao nhiêu khó khăn và thất bại. Nhưng sau khi bị chôn vùi vào lòng đất như một hạt giống, Ngài đã nảy mầm đâm bông và kết trái.
Tiếp đến, hạt giống và người gieo giống còn là Giáo Hội.
Thực vậy, như Chúa Giêsu, Giáo Hội trải qua giòng thời gian cũng đã gặp phải biết bao nhiêu thất bại và cấm cách. Tuy nhiên, tất cả không thể làm cho Giáo Hội nghi ngờ hay thất vọng về sứ mạng của mình.
Hạt giống lời Chúa cũng như bản chất của Giáo Hội, có thể là rất nhỏ bé. Nhỏ bé như một hạt cải, nhỏ bé như một dúm men, nhưng năng lực của lời Chúa cũng như của Giáo Hội là vô hạn.
Không phải là qua những thành công rực rỡ bên ngoài mà Chúa Giêsu đã cứu độ nhân loại. Trái lại, Ngài đã bước vào chặng đường thập giá, bước vào tiến trình của một hạt giống được gieo vào lòng đất cần phải mục nát.
Bởi đó, Ngài đã trách cứ hai môn đệ trên đường về Emmaus:
- Hỡi những kẻ kém trí và chậm tin, Đức Kitô há không phải chịu thương khó rồi mới được vào chốn vinh quang hay sao?
Cũng vậy, Giáo Hội cần phải bước vào chặng đường thập giá, cần phải bước vào tiến trình mục nát của một hạt giống. Những thời Giáo Hội được huy hoàng nhất chưa hẳn đã là những thời mà Nước Chúa được mở rộng hơn cả.
Còn thửa đất thì sao?
Trước tiên, thửa đất là thế gian này.
Thực vậy, Đức Kitô đã đến trong thế gian và gieo vào đó hạt giống lời của Ngài. Thế gian trước kia đang khô cằn và chờ mong ơn cứu độ. Thế nhưng, kể từ đây có thể trở nên phì nhiêu cho lời Chúa sinh hoa kết trái.
Thế nhưng quan trọng hơn cả, mảnh đất phì nhiêu ấy phải là chính cõi lòng chúng ta. Đúng thế, mặc dù lời Chúa đầy hiệu năng, nhưng tự nó lời Chúa cũng không đủ để đảm bảo một mùa gặt tốt đẹp, bởi vì lời Chúa còn cần phải gặp được những thửa đất tốt.
Thiên Chúa tiếp tục gieo vãi hạt giống lời Ngài vào cõi lòng chúng ta. Nhiều người nghe nhưng ít người hiểu. Nhưng hiểu mà thôi cũng chưa đủ, chúng ta còn phải sống lời Chúa. Bởi vì, không phải chỉ nghe, chỉ hiểu là lời Chúa tự động nảy nở trong cõi lòng chúng ta và đem lại những hoa trái.
Mặc dù lời Chúa có đủ sức để đảo lộn cuộc đời chúng ta, nhưng hiệu năng của lời Chúa không phải là tự động, không phải là máy móc. Sự tăng trưởng của lời Chúa hoàn toàn tùy thuộc vào mỗi người chúng ta.
Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta sự tự do và Ngài luôn tôn trọng sự tự do ấy cho tới cùng. Ngài đề nghị mà không ép buộc:
- Này Ta đứng ngoài cửa mà gõ, nếu ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào và dùng bữa với kẻ ấy.
Chúng ta có tự do để trở nên một đám sỏi đá, một bụi gai, một lối đi cằn cỗi, nhưng đồng thời cũng có thể là một thửa đất tốt. Tất cả mọi loại đất đều tùy thuộc ở cõi lòng chúng ta.
Vậy chúng ta sẽ là thửa đất nào? Chúng ta đã nghe và đã hiểu, nhưng liệu chúng có dám sống lời Chúa và thực thi những điều Ngài truyền dạy hay không?
29. Hạt giống tốt
Lớn lên ở thôn quê, đi rao giảng phần lớn thời gian ở thôn quê, Chúa Giêsu đã thường xuyên được chứng kiến cảnh gieo trồng của người nông dân, nên Ngài đã mượn những hình ảnh của những sinh hoạt thôn dã ấy để nói về nước trời, một trong những dụ ngôn đầu tiên của Chúa là dụ ngôn người gieo giống.
Người gieo trồng nào cũng có niềm tin và sự lạc quan. Gieo hạt giống vào lòng đất là đặt tất cả tin tưởng phó thác của mình vào thiên nhiên. Có hạt rơi xuống đất tốt, có hạt rơi bên vệ đường, có hạt rơi trong bụi gai, nhưng kết quả cuối cùng vẫn là vụ mùa tươi tốt. Nước trời cũng giống như người ra đi gieo giống vậy.
Thái độ lạ đời của người gieo giống khiến chúng ta hiểu được phần nào tình yêu thương phổ quát của Thiên Chúa. Không có người nông dân nào có đầu óc bình thường hiểu biết, lại đi phung phí hạt giống trên mọi mảnh đất, ngay cả những chỗ gai góc hay những mảnh đất sỏi đá, nhưng họ gieo vãi hạt giống của mình trên thửa đất đã được cày bừa cẩn thận để hạt giống có thể mọc lên thật dễ dàng. Ở đây Chúa Giêsu cho chúng ta biết: Ngài muốn cứu rỗi tất cả mọi người, không phân biệt ai, Ngài muốn thông truyền chân lý cho mọi hạng người. Nhưng cũng như các mảnh đất được kể trong Tin Mừng, tiếp nhận hạt giống và sinh hoa kết trái khác nhau, mỗi người cũng có thái độ khác nhau khi đón nhận lời Chúa, tiếp nhận ân sủng của Ngài, họ có quyền tự do chấp nhận hay từ chối. Nếu chấp nhận thì lời Chúa sẽ đem lại cho họ nhiều lợi ích, nếu chối từ thì họ sẽ chẳng được gì. Như vậy, hoa trái tốt lành là tùy ở sự chấp nhận của con người.
Chính mỗi người phải cố gắng làm cho tâm hồn mình thành mảnh đất tốt, phì nhiêu tiếp nhận lời Chúa một cách thành khẩn, để hạt giống có thể phát triển và đơm bông kết trái. Trong các hoạt động hay sinh hoạt hằng ngày, dù công khai hay âm thầm, dù to lớn hay nhỏ bé, kể cả những khó khăn và đau khổ của cuộc sống, tất cả mọi người đều được mời gọi để gieo rắc niềm hy vọng. Trên những mảnh đất khô cằn tình người, chúng ta được Đức Kitô kêu mời trồng tỉa từng hạt giống của yêu thương. Trên những vùng đất khô sạn tin yêu, chúng ta được Đức Kitô kêu mời gieo rắc niềm hy vọng. Từng giây, từng phút, từng ngày, từng năm, chúng ta tin tưởng rằng sức sống sẽ bừng dậy, yêu thương sẽ trổ bông.
Người ta kể rằng: Một người cha kia có ba đứa con trai, tuy sinh ra trong nghèo khổ, nhưng nhờ chuyên cần làm việc và tiết kiệm, ông đã trở nên một điền chủ giầu có. Lúc cuối đời, tuổi già sức yếu, ông tính việc chia gia tài cho các con, ông muốn biết đứa con nào thông minh nhất để giao phó phần lớn gia tài của ông cho nó. Ông gọi cả ba người con tới bên giường bệnh, trao cho mỗi đứa năm đồng và bảo hãy đi mua cái gì có thể lấp đầy căn phòng trống trải và u tối của ông.
Ba người con vâng lời cha cầm tiền ra chợ. Người anh cả nghĩ rằng việc này quá dễ dàng, anh mua một bó rơm lớn đem về, người con thứ hai nghĩ kỹ hơn, anh mua những bao lông vịt rất đẹp mắt, người con út lo nghĩ: biết mua gì với năm đồng này để có thể lấp đầy căn phòng lớn của cha? Cuối cùng anh đã nghĩ ra, anh mua một cây nến và một bao diêm.
Ngày hôm sau, cả ba người con đều tụ họp trong phòng cha già. Người con cả mang rơm ra trải, nhưng phòng quá rộng, chỉ phủ được một góc, người con thứ đổ lông vịt ra, nhưng cũng chỉ phủ được hai góc của căn phòng. Người cha tỏ vẻ thất vọng. Người con út từ từ rút trong túi ra một cây nến và một hộp diêm, thoáng một cái căn phòng đầy ánh sáng. Mọi người ngạc nhiên, người cha già rất sung sướng vì quà tặng của người con út, ông quyết định trao phần lớn ruộng đất và gia sản cho anh ta, vì ông thấy anh ta đủ thông minh để quản trị gia sản của mình và nhờ đấy cũng có thể giúp đỡ các người anh nữa.
Cuộc sống mỗi người chúng ta, cuộc sống những người chung quanh chúng ta, cuộc sống của xã hội chúng ta, có lẽ nhiều khi cũng giống như một căn phòng tối, chỉ cần một người nào đó thắp lên một tia sáng nhỏ là những người chung quanh sẽ cảm thấy ấm áp và phấn khởi hơn: một tia sáng nhỏ của cái mỉm cười, một tia sáng nhỏ của lời chào hỏi thăm nom, một tia sáng nhỏ của tình yêu san sẻ, một tia sáng nhỏ của cảm thông, tha thứ, một tia sáng nhỏ của niềm tin giải tỏa qua sự hân hoan chấp nhận cuộc đời.
Chúng ta hãy tạ ơn Chúa đã cho chúng ta nhận được tình yêu của Chúa. Xin cho cả cuộc sống chúng ta trở thành chứng tích của tình yêu Chúa đối với mọi người. Xin cho tất cả những ai gặp gỡ chúng ta đều có thể nhận ra được tình yêu của Chúa.
30. Gieo giống
Bài Phúc âm hôm nay, mang tên “Dụ ngôn người gieo giống”. Thiên Chúa là người gieo giống. Chúng ta là đất. Hạt giống là lời giảng dạy của Chúa Giêsu. Vấn đề của chúng ta là làm sao trở nên đất tốt?
Để hiểu dụ ngôn dễ dàng hơn, William Barclay đã giải thích cách gieo hạt giống của người nông dân và sự phức tạp của những mảnh đất khác nhau ở Palestine vào thời Chúa Giêsu như sau:
“Ở Palestine có hai cách gieo hạt giống. Nó có thể được tung vãi lên không khi người gieo giống bước tới bước lui trên cánh đồng. Dĩ nhiên, nếu gió thổi, một số hạt giống có thể bị thổi vào tất cả mọi chỗ, đôi khi bay ra khỏi cánh đồng. Cách thứ hai là cách lười biếng, nhưng không phải là không được sử dụng thường xuyên. Đó là đặt một cái túi hạt giống trên lưng một con lừa, cắt hay xé một cái lỗ ở góc túi, rồi để con lừa đi lại trên cánh đồng trong khi hạt giống chảy ra. Trong trường hợp này một số hạt giống có thể chảy xuống đang khi con vật băng ngang qua lối đi hoặc trước khi nó đi tới cánh đồng.
Ở Palestine, những cánh đồng là những dải đất dài và hẹp; ở bên phải có lối đi. Lối đi được nện chắc chắn như mặt đường bởi vô số những vết chân của những người bộ hành qua lại. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu nói đến “có hạt rơi xuống vệ đường”, đã không có cơ hội cho hạt giống thâm nhập xuống đất.
“Có hạt rơi trên đá sỏi…” Đất sỏi đá, không phải là đất đầy những đá; nhưng là đất bình thường ở Palestine, một lớp đất mỏng trên mặt của một tảng đá nằm ở dưới. Lớp đất có lẽ chỉ sâu chừng 4 hay 5 cm trước khi tới phần đá vôi. Hạt giống nằm trên phần đất như vậy sẽ nẩy mộng nhanh chóng do sức nóng của mặt trời và đất ẩm. Nhưng vì không có chiều sâu của đất nên khi rễ đâm xuống để đi tìm chất dinh dưỡng và nước, nó chỉ gặp đá, liền bị chết, và hoàn toàn không thể nào chịu đựng nổi sức nóng mặt trời.
“Có hạt rơi vào bụi gai…” Đất có gai, dễ tạo nên lầm lẫn. Khi người gieo hạt giống xuống, mặt đất có vẻ được dọn sạch sẽ; nhưng ở trong đất vẫn còn những gốc rễ của cỏ dại, cây hoang, và gai góc sẵn sàng mọc trở lại. Mỗi người làm vườn đều biết rằng các loại cỏ dại mọc lên với một tốc độ nhanh chóng mà ít có hạt giống tốt nào có thể theo kịp. Hậu quả là hạt giống và cỏ dại mọc lên chung với nhau; nhưng cỏ dại mạnh mẽ hơn làm chết ngộp sự phát triển của hạt giống.
“Có hạt rơi xuống đất tốt…” Đất tốt, ở dưới sâu, thuần túy là đất mềm; hạt giống có thể đâm rễ sâu xuống tìm được dinh dưỡng, lớn lên nhanh chóng; và trong đất tốt nó sẽ phát sinh một mùa huê lợi phong phú.
Tâm hồn mỗi người cũng giống như thửa ruộng ở Palestine thời Chúa Giêsu, gồm đủ mọi loại đất như William Barclay đã diễn tả. Trong cuốn “A Kind of Praying”, của Rex Chapman, có lời cầu nguyện dựa theo đoạn Thánh Kinh của dụ ngôn người gieo giống đã diễn tả rằng có những loại đất khác nhau ở ngay bên trong mỗi người:
“Lạy Chúa, điều lạ lùng là làm thế nào con người đã phản ứng rất khác biệt ở những giây phút khác nhau đối với cùng một tình huống. Đôi khi con có được sự phấn khởi của trẻ thơ. Con nhìn thấy tương lai rõ ràng. Con hiểu được những vấn đề. Con biết đường phải đi. Đôi mắt của con tập trung lại một cách rất bén nhậy. Hạt giống mọc lên và sinh hoa trái.
Nhưng lạy Chúa, tại sao con lại không thể nào luôn như vậy được? Đôi khi con thấy mình đang vật lộn với một vấn đề. Tuy nhiên, chỉ vì những chiếc cây mà con không thể nào thấy được cả khu rừng, vì những chi tiết nhỏ mà con không thể nhìn thấy toàn bộ bức tranh. Rồi chẳng có sự gì đi đúng đường cả. Dường như con chẳng làm được gì, như thể những cây gai cỏ dại đang bóp chết sự sống của hạt giống.
Đôi khi sự thích thú hăng say ở trong con bùng dậy. Con bắt đầu nắm bắt được công việc. Bỗng nhiên tính tình thay đổi. Sự biếng nhác ngự trị bỏ lại lòng nhiệt thành trong quá khứ. Sự thích thú phai nhạt dần vì thiếu nước. Đôi khi con đi lang thang chẳng biết phải làm gì. Cuộc đời là những khoảng thời gian trôi qua vô vị…”
Chúng ta đã biết được sự phức tạp và hay thay đổi của tâm hồn mình. Vậy làm thế nào để tâm hồn chúng ta luôn luôn là những mảnh đất tốt?
31. Gieo giống
Jerry Anderson khi còn trẻ rất thích đi săn vịt, và qua hình ảnh của những con vịt đi kiếm mồi, ông đã diễn tả đời sống của các Kitô hữu như sau: Vào mùa thu, khi gió lạnh từ hướng bắc thổi về, ông lấy những con vịt mồi bằng gỗ ra, lau chùi sạch sẽ, và móc những cái mỏ neo mới vào những con vịt mồi này. Khi mùa săn vịt đến, ông đã sẵn sàng. Theo ông Anderson hiện nay, những con vịt trời là những con vịt hoang sống ở các đầm lầy. Chúng bơi lội xung quanh chỗ nước cạn và kiếm ăn ngay trên những đám cỏ mọc lên ở đầm lầy. Chúng chỉ ăn những lương thực kiếm được trên mặt nước mà thôi. Dù vậy, thỉnh thoảng, ông cũng đã nhìn thấy những con vịt lặn lỏn vào trong những con vịt mồi. Chúng lặn sâu xuống đáy ao để tìm mồi, kiếm ăn trên những thảo mộc, rong rêu mọc lên từ dưới đáy hồ.
Ngày nay, trong những cách thức nào đó, Anderson nói, những người Kitô hữu giống như những con vịt đó. Một số là những con vịt cạn ở đầm lầy, thỏa mãn với phần lương thực họ kiếm được trong những chỗ cạn của đời sống Kitô hữu. Những người khác là những con vịt lặn. Họ lặn rất sâu vào trong Lời Chúa qua sự học hỏi nghiên cứu Thánh Kinh, suy niệm, và tham gia vào trong đời sống và công việc mục vụ của Giáo Hội. Lời Chúa phát sinh hoa trái phong phú trong đời sống của họ.
Ngày 6 tháng 7 năm 2002, kỷ niệm một trăm năm ngày vị thánh nữ trẻ Maria Goretti tuyên xưng tình yêu và lòng can đảm trung thành với Chúa Giêsu. Lên mười tuổi thánh nữ rước lễ lần đầu với tất cả lòng yêu mến Chúa Giêsu. Ba tháng trước khi mừng sinh nhật thứ 12, một người hàng xóm tên là Alessandro Serenelli đã cố hãm hiếp thánh nữ. Maria từ chối và kháng cự quyết liệt. Alessandro đã dùng dao đâm nhiều nhát vào người Maria. Ngày hôm sau, ngày 6 tháng 7 năm 1902, thánh nữ đã qua đời trước khi tha thứ cho kẻ đã cố tình hãm hiếp và giết người. “Phải, vì tình yêu của Chúa Giêsu tôi tha tội cho anh và tôi muốn anh cùng ở với tôi trên thiên đàng”. Mang đầy tủi nhục, đớn đau và bị mọi người xa lánh, Alessandro đã bị kết án vào tù. Tuy nhiên, hạt giống tha thứ và yêu thương Maria đã gieo vào tâm hồn anh đã dần dần phát sinh hoa trái. Anh đã cảm nghiệm được ơn trở lại. Sau 27 năm tù, ngay sau khi được thả ra anh đi thẳng đến nhà mẹ của Maria để xin lỗi, đồng thời cùng với bà đi tham dự lễ Giáng sinh, anh đã bước lên trước mặt cộng đoàn, xác nhận tội lỗi của mình, và van xin sự tha thứ của Thiên Chúa, cũng như của cộng đoàn. Chính anh đã đứng ra làm chứng để phong thánh cho Maria Goretti. Ngày 24 tháng 6 năm 1950 anh đã đứng ở quảng trường thánh Phêrô khi Đức Giáo Hoàng Piô XII công bố Maria Goretti là một vị thánh. Sau cùng, Alessandro Serenelli đã chết vào ngày 6 tháng 5 năm 1970 trong tu viện Capuchin nơi anh đã xin vào làm vườn để ăn năn đền tội và cầu nguyện.
Xưa kia Mẹ têrêsa thành Calcutta đã phải làm sự lựa chọn như vậy. Lúc mới bước vào đời sống tu trì, Mẹ Têrêsa chưa bắt đầu giúp đỡ người nghèo khổ ngay. Khoảng trên 20 năm Mẹ đã dạy học cho con cái của những người giầu có nhất ở Calcutta, An Độ. Mỗi ngày Mẹ nhìn xuống xóm nhà nghèo bẩn thỉu và dân chúng sống chen chúc ngoài đường phố xung quanh những người giầu có nơi Mẹ làm việc. Mẹ hài lòng với cuộc sống của mình. Cho đến một đêm, Mẹ phải đi bộ về nhà và nghe thấy tiếng rên rỉ của một người phụ nữ kêu xin giúp đỡ. Nhận ra tình trạng nguy kịch của bà, Mẹ Têrêsa vội vã đưa bà vào một nhà thương gần nhất. Đến nhà thương, người ta bảo mẹ phải ngồi chờ. Mẹ biết rằng người phụ nữ có thể chết nếu không được săn sóc thuốc thang ngay lập tức, do đó Mẹ lại đưa bà vào một nhà thương khác. Một lần nữa Mẹ lại bị từ chối. Người phụ nữ thuộc về giai cấp bị bỏ quên trong xã hội. Trong tuyệt vọng, Mẹ đã đưa bà về nhà. Đến khuya bà đã ra đi êm ái trong cánh tay yêu thương của Mẹ Têrêsa. Đêm hôm đó, Mẹ Têrêsa đã khẳng định rằng từ nay trở đi điều này sẽ không còn bao giờ xảy ra nữa cho bất cứ ai Mẹ đã gặp, Mẹ đã quyết định dâng hiến đời mình để thoa dịu vết thương của những người đang chịu đau khổ xung quang Mẹ. Dù sống hay chết, họ phải được cư xử xứng đáng với phẩm giá của con người. Mẹ sẽ làm mọi sự trong quyền hạn của mình để họ phải được cư xử tốt đẹp hơn với tình yêu và sự kính trọng mà tất cả mọi người đáng được hưởng.
Nói tóm lại, để trở nên đất tốt, Giáo Hội khuyên chúng ta hãy sống xứng đáng với đời sống Kitô hữu bằng việc tuân giữ: “Mười điều răn, Bài giảng trên núi và giáo lý của các tông đồ vạch ra cho chúng ta những con đường dẫn tới nước trời. Chúng ta tiến từng bước trên con đường này, bằng những hành vi thường nhật, được nâng đỡ bởi ân sủng của Chúa Thánh Thần. Nhận lấy hạt giống lời Chúa trong mình, chúng ta từ từ sinh hoa trái trong Giáo Hội, cho vinh quang của Thiên Chúa”.
32. Lời Chúa với đời người
(Lm. Kiều công Tùng)
"Con lớn lên bằng lời ru của bà cùng với sự êm ái dịu dàng của Kymdan". Một câu quảng cáo đầy ấn tượng nhằm đạt đến mục đích cuối cùng của nhà sản xuất nệm Kymdan. Điều đáng nói ở đây là câu quảng cáo ấy đã vô tình nói với mọi người một sự thật: Người ta lớn lên không chỉ bằng cơm bánh mà còn bằng lời nữa. Từ lời ru êm khi còn nằm nôi cho đến lời dạy bảo nhắc nhở răn đe lúc đã lớn khôn. Rồi trưởng thành bước vào đời, người ta vẫn cần lắm những lời khen tặng, động viên hay an ủi... Thử hỏi, cuộc sống con người sẽ ra sao, nếu như những lời lẽ kia không được gieo vãi.
Thế nhưng trong thực tế, nhiều khi chúng ta nghiệm ra rằng cho dù lời người phàm cần thiết đến đâu thì cũng không làm cho người ta no thỏa. Người ta cần một thứ lời có thể đáp ứng mọi tâm trạng và trong mọi hoàn cảnh, không phải chỉ là "2 trong 1" hay "3 trong 1" mà là "nhiều trong 1". Một thứ lời có thể hướng dẫn ta trong lúc nghi nan, trấn an khi gặp khó khăn, nâng đỡ khi sầu khổ, sửa dạy khi nông nổi, hối thúc khi lười biếng, cảnh giác trong nguy hiểm và đem lại hy vọng những lúc ta chán nản tuyệt vọng. Chỉ có Lời Chúa mới thỏa mãn những điều kiện ấy, mà Lời Chúa thì đã được gieo vãi trong tâm hồn và cuộc sống mỗi người từ lâu rồi.
1. Lời được gieo cách hào phóng
Trước hết, Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy Thiên Chúa là một người gieo giống đầy hào phóng và lạc quan. Kinh nghiệm của một nhà nông không cho phép người ta phí phạm hạt giống lẫn công sức trên những mảnh đất cằn cỗi sỏi đá bởi kết quả thu được chắc chắn không thể bù lại những gì bỏ ra. Thế nhưng, đường lối của Thiên Chúa lại hoàn toàn khác với cách suy nghĩ của con người. Hạt giống Lời Chúa không chỉ dành cho những mảnh đất mầu mỡ mà được tung vãi khắp nơi, cả bên vệ đường, trên sỏi đá hay giữa bụi gai. Lời Chúa không chỉ nói cho các thầy tư tế hay kinh sư, cho người lành người tốt.
Thiên Chúa đã tung gieo Lời của Ngài một cách hào phóng trên mọi mảnh đất, đến mọi hạng người, mọi tâm hồn bất kể là thu thuế hay gái điếm. Nếu tính tỉ lệ thì ta thấy giữa đất xấu và đất tốt là 3/1. Một tỉ lệ khá cao: cứ ba hạt bị mất mát mới có một hạt đem lại kết quả. Thế nhưng, người gieo giống vẫn cứ ra đi, vẫn cứ gieo vãi. Sẽ có người cho rằng người gieo giống quá phung phí và dở hơi; nhưng nếu nhìn xa hơn, nghĩ sâu hơn thì người gieo giống cực kỳ quảng đại, ông ta muốn mọi nơi trên cánh đồng đều có cơ hội sản sinh mùa màng thật tốt và đem lại thật nhiều hoa lợi.
Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót như thế đó. Ngài không bao giờ nghi ngờ thiện chí của bất kỳ một tâm hồn nào. Ngài đã quảng đại trao ban Lời của Ngài, trao ban chính Con của Ngài cho nhân loại và Ngài luôn chờ đợi hiệu quả phát sinh nơi tâm hồn và cuộc sống của chúng ta. Tâm hồn nào cũng có thể trở nên mảnh đất mầu mỡ khi biết mở rộng lắng nghe và đón nhận Lời Chúa, suy gẫm và làm cho phong phú cụ thể qua từng suy nghĩ, lời nói hay cử chỉ.
2. Lời mọc lên đầy hy vọng
Chúa Giêsu giảng dụ ngôn "Người Gieo Giống" trong bối cảnh những người trí thức có địa vị đang ra sức chống đối Ngài, còn những kẻ bình dân và các môn đệ thì đã bắt đầu ngã lòng hoài nghi trước những kết quả ít ỏi của lời Ngài giảng dạy. Như thế, có thể nói đây là dụ ngôn tuyệt vời của niềm hy vọng dành cho những con người đang thất vọng.
Dụ ngôn "Người Gieo Giống" cho chúng ta thấy rằng hành trình Đức Tin của chúng ta phải là một hành trình trong tin yêu hy vọng: dù huê lợi không đồng đều nhưng đất mầu mỡ vẫn có đó, dù hạt giống có mất mát nhưng mùa gặt vẫn bội thu, dù vẫn có đó những chướng ngại nhưng Nước Thiên Chúa cũng sẽ đạt đến viên mãn. "Cuộc đời chỉ là thời kỳ gieo hạt, mà mùa gặt không ở tại thế này" (Danh họa Van Gogh). Chính niềm hy vọng là nguồn sinh lực dồi dào cho cuộc lữ hành của chúng ta.
Nhiều khi chúng ta thấy đường đi phía trước thật mịt mờ. Hiện tại thì đầy khó khăn thử thách. Tương lai càng tối tăm dầy đặc. Chúng ta bị cám dỗ hoài nghi và mất hết niềm hy vọng. Lời Chúa hôm nay mở ra cho chúng ta một con đường đầy ánh sáng. Đau khổ khó khăn hiện tại chính là liều thuốc kích thích Niềm Tin tưởng chờ đợi Ơn Cứu Độ. Tin tưởng trong nỗ lực phấn đấu chứ không phải Niềm Tin lười biếng bạc nhược. Số phận người đi gieo có hẩm hiu bạc bẽo, nhưng mùa thu hoạch thì đầy hứa hẹn huy hoàng.
3. Lời sinh sôi thật bất ngờ
Từ những khởi đầu ít hứa hẹn, điều kỳ diệu của hạt giống rơi trên đất tốt đã có thể bù đắp gấp bội những thất bại mất mát. Tỉ lệ mất mát là 3/1, nhưng số thu lại không chỉ gấp ba mà là 30, 60 và thậm chí 100 lần. Thiên Chúa không ngừng mời gọi chúng ta vươn tới sự thiện hảo và trổ sinh ngày càng nhiều hoa trái hơn trong cuộc sống. Chỉ cần một câu Lời Chúa được tự do lớn lên trong lòng người ta thì cũng đủ để đời người hoàn toàn thay đổi.
Lịch sử Giáo hội và cuộc đời của nhiều vị thánh đã chứng minh điều này. Chỉ một câu: "Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời, rồi hãy đến theo tôi" (Mc 10, 21) đã làm thay đổi cả cuộc đời thánh Phanxicô Át-xi-di, đến nỗi một kẻ vô thần độc tài cũng phải nhìn nhận rằng chỉ cần mười người như ngài là có thể thay đổi cả thế giới. Rồi cuộc đời và thành quả truyền giáo của Thánh Phanxicô Xa-vi-ê cũng là hoa trái của câu Lời Chúa: "Được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì người ta nào có lợi gì?" (Mc 8, 36). Cũng thế, tâm hồn và cuộc đời của Mẹ Têrêsa thành Calcutta cũng chính là mảnh đất mầu mỡ đã để cho Lời Chúa lớn lên và sinh sôi đem lại mùa bội thu cho cả thế giới.
Thửa đất không thể sinh hoa trái nếu không có hạt giống. Cũng vậy, cuộc sống chúng ta sẽ cằn cỗi nếu không có Lời Chúa gieo trong tâm hồn. Thiên Chúa không chỉ nói với chúng ta qua Thánh Kinh, Ngài còn nói với chúng ta qua các biến cố của đời mình. Dụ ngôn "Người Gieo Giống" đòi chúng ta phải xét lại thái độ nghe Lời Chúa, đòi ta phải cải tạo lại mảnh đất lòng mình, và tăng thêm sinh lực giúp chúng ta sống Lời Chúa. Lời Thiên Chúa đã phán ra chỉ trở về khi đã đạt được kết quả. Bổn phận của chúng ta là phải nỗ lực làm cho hạt giống Lời Chúa mọc lên tươi tốt, đâm rễ sâu trong tâm hồn, phát sinh những công việc phù hợp với Đức Tin và đem lại những kết quả tốt đẹp.
33. Mảnh đất cuộc đời
(‘Như Thầy Đã Yêu’ – Thiên Phúc)
Tại Úc Châu có dân tộc Chimbu thuộc đảo Tân Ghinê. Hàng ngàn năm qua họ sống khép kín trong những bộ tộc riêng tại vùng núi hiểm trở. Các bộ tộc này không quan hệ với nhau họ sống hoàn toàn biệt lập. vì thế, chỉ có 3 tiệu người mà họ nói tới 700 ngôn ngữ.
Các vị thừa sai cố học, đọc một ngôn ngữ, và họ dựa vào đó mà dịch ra một thứ tiếng chung gọi là Esperanto, có nghĩa là niềm Hy vọng. Tiếng này được rút ra từ các nhóm ngôn ngữ khác nhau để làm nên một thổ ngữ Melanesien.
Khi chị nữ tu Mary Claude Đem Lời Chúa Đến rao giảng thì được họ đón nhận rất dễ dàng. Dường như lịch sử truyền khẩu của họ qua các thế hệ đều nói tới một Vị nào đó sẽ đến.
Chị Mary Claude kể: “Có một bà góa trẻ làm công cho địa điểm truyền giáo để kiếm tiền nuôi ba đứa con. Xảy ra có những người thuộc bọ lạc của bà đến xin tiền. Tôi khuyên chị nên tiết kiệm tiền để lo cho các con. Nhưng chị ấy đã nói một câu làm tôi bất ngờ: Chúa Giêsu dạy rằng ai cho người thân cận đang túng thiếu là cho chính Chúa, nên con phải có bổn phận giúp đỡ họ”.
***
“Cho đi” đã trở thành nét văn hóa truyền thông của người Chimbu và “chia sẻ” đã đi vào bản sắc dân tộc của họ. Được như thế, chính là nhờ Lời Chúa đã thấm nhập vào máu thịt của họ, vào từng suy nghĩ, hành vi của họ. Lời Chúa đã đưa họ thoát ra khỏi tình trạng biệt lập, và qui tụ họ lại thành một cộng đoàn yêu thương.
Tin mừng hôm nay đức Giêsu dùng dụ ngôn “Người gieo giống” để dạy chúng ta về giá trị của Lời Chúa, nhờ đó chúng ta biết lắng nghe, suy niệm và đem ra thực hành, để có thể trổ sinh nhiều bông hạt.
Tâm hồn chúng ta có thể ví như vệ đường: Nghe mà không hiểu hay cố tình không hiểu, vì Lời Chúa bắt ta phải thay đổi nếp sống.
Tâm hồn chúng ta có thể ví như đá sỏi: Nghe thì mau mắn đón nhận nhưng hời hợt nhất thời, khi thử thách đến thì cao bay xa chạy.
Tâm hồn chúng ta cũng có thể vì như gai góc: Những lo lắng sự đời với danh vọng của cải, là nỗi đam mê đã bóp nghẹt Lời Chúa.
Nhưng nếu tâm hồn chúng ta là mảnh đất tốt: Lắng nghe và thấu hiểu, tin cậy và khiêm tốn sống Lời Người, thì ngày mai phía trước sẽ là một vụ lúa bội thu.
Như thế, chỉ có thái độ thành tâm lắng nghe Lời Chúa mới là quan trọng, chỉ có sự mau mắm đáp trả Lời Người mới có giá trị. Ai nghĩ và hiểu được đều có mới thật có phúc. Đức Giêsu nói: “Còn anh em, mắt an hem thật có phúc vì được thấy, tai an hem thật có phúc, vì được nghe” (Mt 13,16). Nhưng nghe và hiểu được những đòi hỏi gắt gao của Lời Chúa, quả thật cũng không phải dễ dàng. Và càng khó khăn hơn khi ta dám can đảm thực thi Lời Người.
Đã hơn hai ngàn năm qua, hạt giống Lời Chúa không ngừng gieo vãi trên các tâm hồn thiện chí. Kinh Thánh đã được dịch ra 2123 ngôn ngữ. Kể từ khi cuốn sách in đầu tiền trên thế giới ra đời cách đây 550 năm, tì Kinh Thánh vẫn liên tiếp là cuốn sách được dịch ra thêm nhiều ngôn ngữ mới, kể cả các thổ ngữ của dân tộc Yami ở Đài Loan, thổ dân da đỏ ở Paraquay, Kenya v.v… chưa kể hàng triệu băng cassette, video và CD Rom không ngừng phát hành.
Chúng ta không thiếu các phương tiện thông tin hiện đại để gieo vãi Lời Chúa.
Chúng ta cũng chẳng thiếu các nhà truyền giáo nhiệt tâm rao giảng Lời Người.
Chúng ta chỉ thiếu nhưũng mảnh đất tốt, những tâm hồn ngoan ngùy để cho hạt giống Lời Chúa gieo xuống, nẩy mầm, vươn lên, và trổ bong: hạt được 30, hạt được 60 và hạt được 100.
Để chuẩn bị luống cầy cho những hạt giống tốt. Người Kitô hữu không chỉ thán phục khi nghe Lời Chúa, không chỉ xúc động khi đón nhận Lời Người. Nhưng phải can đảm và nhiệt âm thực thi Lời yêu thương của Người.
***
Lạy Chúa, xin giúp chúng con thoát ra khỏi vỏ trấu của ích kỷ, ươn hèn, để nẩy mầm vươn lên và trổ sinh thật nhiều bông hạt của nhân ái và yêu thương.
Xin chỉ cho chúng con biết dọn dẹp mảnh đất cuộc đời cho phì nhiêu màu mỡ, để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng trưởng đến mức viên mãn trong cuộc sống chúng con. Amen.
34. Bội thu
Đa số quí ông bà và anh chị em ở đây sống bằng nghề nông. Vì thế, hẳn chúng ta có nhiều kinh nghiệm trong việc cấy trồng.
Qua dụ ngôn “Người gieo giống”, Chúa Giêsu đã chia sẻ với chúng ta những hiểu biết và kinh ngiệm về việc đồng áng tại quê hương của Người. Tất nhiên, Người không có ý dạy ta về việc cấy trồng. Nhưng từ công việc cụ thể và quen thuộc ấy, Người dẫn chúng ta tới một lãnh vực khác, đó là lãnh vực tâm linh. Trong lãnh vực này, tâm hồn mỗi người được ví như một thửa đất có những điều kiện khác nhau để tiếp nhận hạt giống. Hạt giống được gieo vào tâm hồn mỗi người không phải là hạt lúa hay hạt cây ăn trái mà là Lời Chúa. Lời Chúa sẽ đem lại sự sống cho tâm hồn ta giống như hạt lúa, hạt gạo cho ta sự sống phần xác. Và hạt giống Lời Chúa được gieo vãi một cách rộng rãi không loại trừ một mảnh đất tâm hồn nào. Người đạo đức thánh thiện cũng như người khô khan nguội lạnh, người lương thiện cũng như người bất lương… tất cả đều được đón nhận hạt giống Lời Chúa. Rồi kinh nghiệm cho thấy rằng: việc cấy trồng không luôn dễ dàng bởi có nhiều kẻ thù phá hoại. Kẻ thù của nông dân và hạt giống là giông bão, là nắng hạn, là đá sỏi, là gai góc, là cỏ dại, là muông thú, là sâu rầy… Hạt giống Lời Chúa cũng có nhiều kẻ thù. Kẻ thù của Lời Chúa là não trạng hưởng thụ, là sự dửng dưng nguội lạnh, là sự lười biếng, ngại khó ngại khổ, là lòng tham và ích kỷ, là sự gian dối và lừa đảo, là những sự xấu, sự ác, là những tệ đoan xã hội… Tất cả những kẻ thù ấy sẽ bóp nghẹt hạt giống Lời Chúa làm cho hạt giống ấy không thể mọc lên và sinh hoa kết quả.
Chính từ những điều nói trên mà ta có thể tự đặt câu hỏi cho mình:
- Tâm hồn tôi thuộc loại đất nào? Đất có sỏi đá, đất đầy gai góc hay đất phì nhiêu? Và thế nào là đất có sỏi đá, đất đầy gai góc, đất phì nhiêu thì Chúa Giêsu đã giải thích cho chúng ta rồi. Chỉ khi xác định được mình thuộc loại đất nào ta mới có thể cải tạo, mới có thể dọn dẹp mảnh đất ấy để nó có thể đón nhận hạt giống Lời Chúa hầu hạt giống này cho ta một mùa gặt bội thu.
- Hạt giống Lời Chúa đã được gieo vãi trong mảnh đất tâm hồn của tôi, nhưng tôi có sẵn sàng tiếp nhận và chăm sóc cho hạt giống ấy không?
- Đứng trước những kẻ thù của hạt giống Lời Chúa tôi đã làm gì? Tôi có nỗ lực khử trừ hay để mặc nó hủy diệt hạt giống ấy?
Muốn có được một mùa gặt bội thu, người nông dân phải dọn ruộng, dọn đất, phải chăm sóc cho hạt giống nảy mầm và lớn lên, phải ngăn ngừa và đẩy lùi mọi yếu tố, mọi tác nhân gây thiệt hại cho hạt giống và cây trồng. Mùa gặt thiêng liêng cũng phải vậy thôi. Tuy nhiên, bên cạnh việc dọn dẹp và chăm sóc cho mảnh đất tâm hồn của riêng mình bằng cách cải tà qui chánh, bằng cách đổi mới đời sống, ta còn cần hợp tác với nhau để dọn dẹp và chăm sóc cho mảnh đất xã hội, nơi mà chúng ta đang sống, sao cho mảnh đất ấy mỗi ngày được sạch sẽ hơn, quang đãng hơn và mầu mỡ hơn. Lý do là môi trường xã hội có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của mỗi người. Dọn dẹp mảnh đất xã hội nghĩa là mỗi người cần dấn thân để xây dựng một nếp sống công bình, lành mạnh, thấm đẫm tình yêu thương. Đồng thời nỗ lực đẩy lui cái nghèo, cái khổ, cái dốt, khử trừ những tệ đoan xã hội như cờ bạc, say sưa, đĩ điếm và những hình thức mãi dâm trá hình… Đó chính là những cỏ dại, là gai góc, là sỏi đá, là những côn trùng có hại cho mùa màng thiêng liêng không chỉ của riêng ta mà còn của mọi người.
Nếu mỗi người biết dọn dẹp và chăm sóc cho mảnh đất tâm hồn của mình cũng như mảnh đất xã hội, thì Lời Chúa khi được gieo vào mới có hy vọng sinh hạt 30, hạt 60 và hạt 100 như lòng Chúa mong ước.
35. Gieo giống
Bài Tin mừng là dụ ngôn người gieo giống. Đây là dụ ngôn đầu tiên trong một loạt các dụ ngôn Chúa Giêsu giảng dạy. Trước hết, chúng ta có thể thắc mắc: Một kiểu gieo giống gì mà kỳ lạ thế? Tại sao không chỉ gieo trên đất tốt thôi mà lại gieo cả trên chỗ đá sỏi, đường đi và cả chỗ gai góc nữa? Thưa, gieo như thế, vì đây là cách làm ruộng của người dân miền thánh địa, xứ Palestin, họ có cách gieo giống khác với người Việt Nam chúng ta. Họ gieo trước rồi mới cày sau, nghĩa là họ dọn đất xong thì gieo hạt rồi cày lấp đi. Như vậy, người gieo giống trong dụ ngôn này đi gieo trong thửa ruộng chưa cày bừa gì cả.
Đàng khác, đất đai ở đây nhiều đá. Người Do thái thường nói khôi hài rằng: “Khi Thiên Chúa tạo dựng trời đất, có ba túi đá thì Chúa đã làm rớt hết hai túi xuống đất Palestin”. Vì thế, trong việc làm ruộng của dân Do thái, việc lượm đá là một việc làm quen thuộc cũng như việc làm cỏ. Đá lượm ra xếp thành bờ ngăn các thửa ruộng, do đó mép bờ cũng là nơi gai mọc. Ở những vùng đất thiếu nước, thì gai là loại cây dại phổ biến nhất, vì nó có sức chịu khô lâu nhất.
Biết qua khung cảnh địa dư và cách làm ruộng của người Do thái xưa kia như thế, chúng ta mới dễ hiểu bốn vị trí mà hạt giống có thể rơi xuống khi người nông dân gieo lúa: đất đá, lối đi, bụi gai và đất tốt. Muốn gieo cho kín ruộng, người nông dân phải chấp nhận có sự hao hụt, vì khi vung tay gieo hạt, một số nào đó sẽ rơi vào ba loại vị trí không kết quả.
Tuy nhiên, chúng ta nên nhớ, đây là một dụ ngôn của Chúa Giêsu, và chân lý về tôn giáo đang núp sau bức màn dụ ngôn đó. Điều Ngài thực sự muốn giảng dạy là kết quả của Lời Chúa: Hạt giống tượng trưng cho lời Thiên Chúa gieo vào lòng người, và tùy theo đất, tức là tùy theo lòng người, mà có những kết quả khác nhau, như Chúa đã giải thích rõ ràng. Vì thế, ở đây chúng ta không giải thích nữa mà chú ý đến một điều khác, đó là cử chỉ tung hạt thật quảng đại của người gieo giống, và đây chính là thái độ quảng đại của Thiên Chúa đối với chúng ta.
Quả thật, Thiên Chúa vô cùng quãng đại. Mặc dầu Chúa biết chúng ta sẽ lãng phí thật nhiều ân huệ của Ngài, nhưng Ngài vẫn cứ vung tay phân phát thật rộng rãi. Chúng ta thử tưởng tượng: Nếu Chúa tính toán để không uổng phí chút nào thì tình cảnh chúng ta sẽ ra sao? Nhưng sự quảng đại của Chúa trong việc ban phát mọi ơn lành cho chúng ta, làm cho chúng ta an tâm và tin tưởng vào tình yêu của Ngài. Ngài chẳng bao giờ rút lại tình yêu ấy, chỉ có chúng ta có thể từ chối hoặc bóp nghẹt, không cho tình yêu của Ngài triển nở trong chúng ta thôi.
Tình yêu được biểu lộ bằng quà tặng, bằng sự hiện diện, bằng hành động, và cuối cùng bằng sự trao cho nhau bản thân mình hoặc trong tình yêu hôn nhân, hoặc bằng sự tận hiến trong đời sống tu trì. Thiên Chúa bộc lộ tình yêu của Ngài bằng tất cả những cách thức đó, bằng quà tặng, bằng sự hiện diện và hành động không ngừng của Ngài trong mọi sự đối với mỗi người chúng ta. Ngài cho chúng ta cả chính mình Ngài, Ngài cho chúng ta cả người con một yêu dấu của Ngài. Và Con của Ngài đã cho chúng ta đến giọt máu cuối cùng đọng lại trong tim.
Khi yêu chúng ta Thiên Chúa muốn chúng ta đáp lại tình yêu của Ngài, bởi vì tình yêu mời gọi tình yêu và tình yêu đáp lại tình yêu. Khi chúng ta đã đón nhận tình yêu của Chúa như thế, thì trái tim chúng ta đập cùng nhịp với trái tim Ngài và cùng mở rộng như trái tim Ngài, và chúng ta sẽ rộng tay để cho tình yêu của Ngài đến với mọi người bằng cuộc sống của chúng ta, dù người ta có biết đón nhận hay không. Bởi vì có những hạt lúa sẽ chết đi, sẽ mất không, do rơi vào sỏi đá, do chim trời lượm mất, hay do gai góc đè chết. Nhưng số hạt rơi vào đất tốt vẫn nhiều hơn, và sẽ sinh hoa kết quả ba mươi, sáu mươi hay một trăm. Bởi vì mỗi hành động yêu thương được đón nhận sẽ làm nảy sinh những hành động yêu thương khác.
Nói rõ hơn, mỗi hành động yêu thương chúng ta làm cho người khác, là một hạt giống chúng ta gieo, không phải chỉ gieo vào chính người thụ hưởng, mà gieo vào cả những người chứng kiến nữa. hạt giống ấy sinh hoa kết trái khi chính người thụ hưởng hoặc người chứng kiến lại để cho tình thương thúc đẩy họ phục vụ người khác. Cứ thế mà tình yêu được nhân lên mãi, và cuộc sống này, xã hội này, thế giới này sẽ tốt đẹp hơn.
Tóm lại, những hạt giống yêu thương chúng ta gieo vào bất cứ nơi đâu, cho bất cứ người nào, cũng đều có hiệu quả tốt đẹp, chúng ta hãy bắt chước người gieo giống có thái độ hào phóng, quảng đại trong dụ ngôn, là Thiên Chúa, để tất cả những hạt giống chúng ta gieo vãi, là những cử chỉ, thái độ, việc làm yêu thương của chúng ta đều đâm bông kết trái, và như thế cuộc sống này, xã hội này, thế giới này càng ngày càng tốt đẹp hơn.
36. Dụ ngôn người gieo giống – Lm FX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Sau khi giới thiệu Đức Giêsu là Đấng có quyền giải thích Luật (ch. 5–7), rồi minh họa quyền đó bằng một vài truyện về phép lạ (ch. 8–9), tác giả Mátthêu đã cho thấy Đức Giêsu sai phái và ban "bài sai" cho các sứ giả của Nước Thiên Chúa (ch. 10). Nhưng chẳng mấy chốc vương quyền này đã bị đặt thành vấn đề, hoặc bởi chính Gioan Tẩy Giả, hoặc bởi các thành miền Galilê (ch. 11). Từ khước Đức Giêsu là Đấng thiết lập Triều Đại của Thiên Chúa, đây là đề tài của ch. 12: đề tài này đi tới đỉnh cao khi những người Pharisêu tố giác là Đức Giêsu bị quỷ ám (x. 12,22-24) và Đức Giêsu tuyên bố về Gia đình thật của Người (x. 12,46-50): Đức Giêsu đoạn tuyệt với môi trường tinh thần của Người. Trên nền tảng của bài tường thuật nói về sự đoạn tuyệt bi đát này với Do Thái giáo, ch. 13 đề cập tới "mầu nhiệm" Nước Thiên Chúa, giải thích làm thế nào mà Triều Đại Thiên Chúa lại vừa có thể được khai mạc trên mặt đất vừa bị loài người phản đối hoặc không được biết đến. Nối tiếp các bài tường thuật về các xung đột ở ch. 12, các dụ ngôn ở ch. 13 có hai ý nghĩa:
- đối với các môn đệ, các dụ ngôn này giải thích vì sao Nước Thiên Chúa, đã được Đức Giêsu khai mào, lại chưa được biểu lộ ra trong vinh quang, đặc biệt tại sao những bước đầu của Nước Thiên Chúa trong sứ vụ của Đức Giêsu lại thiếu vẻ huy hoàng và oai phong đến thế;
- đối với những người ở ngoài (c. 11), sau cuộc đoạn tuyệt được nói đến ở ch. 12, các dụ ngôn này trước tiên phải khẳng định rằng những gì họ có thể thấy từ bên ngoài về Nước Thiên Chúa, là được ban cho họ để xác nhận thái độ không tin của họ; và điều thuộc về Mầu nhiệm, nghĩa là thuộc về chương trình của Thiên Chúa đối với Vương quốc của Ngài.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Giới thiệu chương các dụ ngôn (13,1-3a);
2) Dụ ngôn Người gieo giống (13,3b-9);
3) Lý do khiến Đức Giêsu nói bằng dụ ngôn (13,10-17: hai phần nho a- cc. 11-12; b- cc. 13-17 theo cấu trúc chuyển hoán);
4) Giải thích dụ ngôn Người gieo giống (13,18-23).
3.- Vài điểm chú giải
- dụ ngôn (3): Trong hy ngữ, có đọng từ paraballô có nghĩa là "so sánh, đối chiếu". Kể một dụ ngôn (parabolê, hầu như tương đương với từ Híp-ri mâshâl), là kể một tình huống nhằm lưu ý về một thực tại ít được chú ý hơn, nhưng tác giả muốn các thính giả biết. Tác giả dụ ngôn không phải là một sử gia, nhưng là một nhà thần học và một nhà luân lý; ông có thể sáng tác ra các hoạt cảnh tùy theo sứ điệp hoặc bài học ông muốn truyền đạt. Một dụ ngôn không phải là một ẩn dụ: trong một ẩn dụ, mọi chi tiết đều có ý nghĩa, còn trong một dụ ngôn, người ta chỉ nhắm đến sứ điệp tổng quát (Tuy nhiên, dụ ngôn Người gieo giống được giải thích ra lại có vẻ là một ẩn dụ). Trong dụ ngôn, cần đặc biệt ghi nhận các nét "khác thường" thì mới hiểu được bài học căn bản.
- có những hạt rơi xuống vệ đường (4): Hẳn là người nông phu có điên thì mới gieo hạt giống lên mặt đường đã chai lì, hoăc lên vùng sỏi đá hay vào các bụi gai (x. cc. 5.7)! Tuy nhiên, theo J. Jeremias, tập tục trồng lúa của Paléttina là gieo giống trước khi cày xới đất cho hạt giống lọt xuống lớp đất sâu. Thật ra lối giải thích này tuy hấp dẫn nhưng không phù hợp với những gì đã xảy ra thật sự trong bài dụ ngôn. Vì vậy thay vì ra sức bảo vệ tính xác thực của dụ ngôn, ta nên lưu ý đến khía cạnh "khác thường" của lối xử sự của người gieo giống.
- hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục (8): Có những nhà chú giải như Jeremias cho rằng dụ ngôn này là một bài khuyến khích cổ võ tin vào thành công cuối cùng. Tuy nhiên, có một số khó khăn: (1) Một sử gia kinh tế (K.D. White) cho biết rằng năng suất 1 gấp 100, thậm chí 1 gấp 400, không phải là lạ lùng, chẳng hạn nếu trồng lúa trong vùng Giléad, gần Gađara. (2) Nếu Mt đã muốn nêu bật mùa màng bội thu, hẳn là ngài đã dùng chuỗi số đi lên như Mc (30, 60, 100) thay vì chuỗi số đi xuống (100, 60, 30), bởi vì như thế sẽ làm yếu đi bài học về tính lạc quan. (3) Trong năm câu của bài dụ ngôn, có tới bốn câu mô tả sự thất bại của vụ gieo (và trong phần giải thích, cũng có một tỷ lệ như thế). (4) Nhấn mạnh đến các thất bại của người gieo giống dường như lại phù hợp hơn nhiều với ngữ cảnh tổng quát của các chương này trong TM Mt, vì các ch. 11–12 mô tả sức chống đối ngày một gia tăng để đáp lại những hành vi quyền lực trong các ch. 8–9.
Vậy không nhất thiết phải loại bỏ lối giải thích "lạc quan" (Jeremias), bởi vì quả thất Đấng Mêsia sẽ vẫn chiến thắng. Nhưng bởi vì những người đương thời với Đức Giêsu vẫn đương nhiên liên kết Đấng Mêsia với sự thành công, có lẽ Đức Giêsu không muốn nhấn mạnh đến phương diện này đâu. Điều làm nên "mầu nhiệm Nước Trời", mầu nhiệm mà chỉ một nhóm giới hạn "những kẻ bé mọn" mới có thể hiểu được, đó là cuối cùng Đấng Mêsia chỉ có thể thành công xuyên qua thất bại.
Tuy nhiên, viễn tượng của phần giải thích lại theo hướng của cuộc phán xét: Lúc đầu, bài dụ ngôn nhắm nhiều hơn đến các loại đất khác nhau và vụ thu hoạch cuối cùng, nhưng sang phần giải thích, Mt đã thay đổi Mc mà đặt cho dụ ngôn nhan đề "Người gieo giống" (Mt 13,18). Thật ra người gieo giống chỉ đóng một vai trò nhỏ bé trong truyện, vì bài đã trở thành dụ ngôn về "Lời rao giảng Nước Trời". Tuy nhiên, tác giả Mt làm như thế là để sau này ngài có thể đồng hóa người gieo giống với Đức Kitô (x. 13,37). Bởi vì đối với ngài, Đức Giêsu tháp tùng Hội Thánh qua dòng lịch sử (x. 28,18). Người chính là Đấng đang hiện diện và tích cực hoạt động trong công việc gieo rắc Lời (x. 13,37). Người tự đồng hóa với các thừa sai của Người (x. 10,40). Chính Người xây dựng Hội Thánh (x. 16,18), tích cực hỗ trợ Hội Thánh trong việc duy trì kỷ luật (x. 18,18-20). Và cuối cùng Người sẽ là vị Thẩm phán tách các môn đệ trung thành khỏi những đồ đệ bất trung (x. 13,41-43). Quả thật, Mt đã muốn đọc tất cả các dụ ngôn của ch. 13 này dưới ánh sáng của cuộc phán xét cuối cùng. Vì thế, tác giả nhấn mạnh đến trách nhiệm cá nhân là phải sinh "hoa quả", tức là các hành vi tốt lành, và ngài đã đảo lộn thứ tự của Mc là 30-60-100 thành 100-60-30 cho phù hợp với các truyện của ngài về phán xét: bắt đầu với việc ca ngợi những người thu hoạch nhiều hoa quả nhất, để đi đến chỗ phê phán những người không sinh hoa quả (x. 25,14-30). Vậy một truyện về sức mạnh của Lời Chúa đã trở thành truyện về phán xét.
- các mầu nhiệm Nước Trời (11): Công thức này được lấy từ nền văn chương khải huyền. Công thức nhắc lại những bí mật tối hậu của Thiên Chúa, cụ thể là kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa tập trung nơi các hoạt động cứu chữa của Đức Kitô.
- Hễ ai nghe lời ... đó là kẻ đã được gieo (19): Dụ ngôn "Người gieo giống" đã được chuyển thành dụ ngôn "Lời rao giảng về Nước Trời". Trọng tâm đã chuyển từ một giáo huấn về mầu nhiệm Đấng Mêsia phải thất bại về mặt nhân loại sang việc lưu ý, khuyến khích, là hãy sẵn lòng đón nhận sứ điệp Tin Mừng. Dù vậy, giữa hai bài dụ ngôn và phần giải thích không có mâu thuẫn, mà chỉ có khác biệt về điểm nhấn mạnh thôi. Mt đã sửa nhẹ khi viết lại Mc 4,14 để tránh sự đụng chạm trực tiếp giữa hạt giống là lời (Mc 4,14) và hạt giống là người nghe (x. Mc 4,16.18.20), nhưng cũng không thành công bao nhiêu, vì ở Mt 13,19b, "điều đã được gieo trong lòng" hẳn là lời, thì ở cc. 20tt, "điều (CGKPV: "kẻ") được gieo" là "kẻ nghe". Ở c. 19, Mt lại xác định lời được gieo là "Lời rao giảng về Nước Trời".
Rõ ràng Mt nhấn mạnh rằng người môn đệ là người hiểu lời: ở c. 19, ngài xác định rằng vấn đề với loại hạt giống/đất thứ nhất là thiếu hiểu biết, và đến c. 23, ngài xác định rằng hạt giống tốt/đất tốt thì nghe và hiểu. Đây là hành văn đóng khung (x. thêm 13,13.15.51). Và Mt đã thay đổi chủ từ số phức của Mc (x. Mc 4,16tt) thành số đơn (x. Mt 13,20tt) để nhấn mạnh trách nhiệm cá nhân. Câu 13,23 tóm bằng cách mô tả dung mạo của hạt giống tốt/đất tốt với các cặp động từ bổ nghĩa cho nhau: nghe và hiểu, sinh hoa kết quả và làm ra (so với Mc 4,20).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Giới thiệu chương các dụ ngôn (1-3a)
Toàn chương 13 của TM I có một cụm từ dẫn nhập ngắn về thời gian, "hôm ấy" (en tê hêmera ekeinê) nhằm tạo một liên kết với cảnh trước, nhưng lại đưa Đức Giêsu sang một cảnh mới. Những người nghe, là "dân chúng", lại được nhắc lại. Đức Giêsu ra khỏi "nhà" và đi đến bờ hồ (c. 1). Đám đông lại kéo đến với Người (c. 2). Đây là lần duy nhất tác giả ghi nhận Đức Giêsu "rời bỏ nhà". Chi tiết lạ, bởi vì ngay khi Người chuyển từ Nadarét đến Caphácnaum, tác giả cũng không hề lưu ý. Rất có thể chi tiết này đã có sẵn trong nguồn Mt dùng và là một từ để mở vào một hành trình truyền giáo. Nhưng cũng rất có thể là trong ý Mt, là tác giả quen loại bỏ các chi tiết miêu tả, từ ngữ ấy có một ý nghĩa ngôn sứ và mục vụ. Sau bài Diễn từ truyền giáo, từ này nhắc nhớ các đòi hỏi của nhiệm vụ truyền giáo. Tất cả những ai đã được mời bước theo Đức Giêsu (4,18-22) và đã được sai phái đi nhân danh Người, đều phải chấp nhận "bỏ nhà" (10,35-36; 19,21).
Nới chốn là "Biển Hồ" (Ghennêsarét): đây là nơi xảy ra việc kêu gọi các môn đệ đầu tiên (4,18) và cũng là nơi mà nhóm các môn đệ có một kinh nghiệm đầu về Đức Giêsu (8,24-27). Đức Giêsu lên một "chiếc thuyền", mà ta có thể coi là biểu tượng của Hội Thánh (x. 8,23), nhưng trong TM Mt, con thuyền hàm ý một sự xa cách nào đó với các đám đông (x. 14,13; 15,39). Cũng như khi bắt đầu Bài Giảng trên núi, ở đây Người cũng "ngồi" (2 lần; x. 5,1; 7,29; 15,29; 23,2; 24,3); đây là dấu chứng tỏ tư cách của một vị thầy. Đám đông thì "đứng": đi theo ngữ cảnh của TM I, có lẽ ta không nghĩ tới tư thế đứng trong một đền thờ hay một hội đường, mà là tư thế của gia đình Đức Giêsu "đứng bên ngoài" (12,46-47). Chương 13 sẽ cho thấy làm thế nào dân chúng chiến chỗ của những người đứng bên ngoài.
Đức Giêsu bắt đầu nói với dân chúng. Tác giả Mt không dùng từ "didaskeô, "dạy" của TM Mc, mà dùng động từ "nói" (laleô, "to speak"), bởi vì ngài thường dùng động từ "dạy" cho việc giải nghĩa Lề Luật và công bố cung cách sống luân lý, thường ở trong hội đường (4,23; 5,2; 7,29; 9,35; 11,1; 13,54; 21,23; 26,55; 28,20). Bài diễn từ sẽ tập trung vào mầu nhiệm Nước Trời (c. 11), nhưng được diễn tả bằng một ngôn ngữ tiêu biểu, bằng "dụ ngôn" (x. cc. 3.10.13). Chi tiết này tương ứng với cc. 10,13,34 và 53.
* Dụ ngôn Người gieo giống (3b-9)
Đọc bài dụ ngôn, ta ghi nhận: Ta không thấy nói là đất mầu mỡ hay cằn cỗi, bùn lầy hay khô cứng, bằng phẳng hay mấp mô. Ta cũng không biết là vụ gieo giống được thực hiện vào mùa thu hay đầu mùa đông. Cũng khôn có một lời nào về khí hậu. Như vậy, chỉ những điều được nói tới trong bài mới quan trọng thôi. Nhân vật chính là "người gieo giống" (ho speirôn) mà ta có thể thêm vào tính từ "siêu đẳng". Ông đi vào sân khấu một mình; ông làm một công việc lâu giờ và mệt nhọc, mà không hé một lời, hoặc để than trách hoặc để nói lên sự thỏa mãn. Ở đây, chỉ có các sự kiện. Ta có thể gọi đây là một "hành động biểu tượng" được minh họa bởi một nhà bình luận giấu mặt.
Có nhiều yếu tố của bài dụ ngôn được nêu ra: hành vi gieo giống, hạt giống, các loại đất, chim trời, ...; nhưng có thể nói độc giả được mời chú ý tối đa đến người gieo giống, công việc của ông, sự cần mẫn, sự can đảm, sự cương quyết của ông, cũng như các kết quả. Ông là một nông dân lạc quan, tin tưởng rằng cả "các con đường" khô cứng, những nơi sỏi đá, các bụi gai cũng có thể làm cho hạt giống sinh hoa kết quả. Không phải là ông thiếu kinh nghiệm, vì bất cứ người nào ít kinh nghiệm nhất cũng hiểu rằng hạt giống không thể tăng trưởng trên những mảnh đất loại đó, nhưng ông là người cải tổ các kỹ thuât truyền thống.
Thật ra công việc gieo giống chỉ là khởi điểm để đưa tới điểm khác. Tác giả đang nghĩ tới hoạt động của một người thợ khác, là nhà rao giảng Tin Mừng, hay chính xác hơn, đó là chính Đức Kitô. Chính Người đã cách mạng các tiêu chuẩn của việc giảng dạy quen thuộc (của người Pharisêu) khi chuyển sứ điệp của Thiên Chúa cho mọi hạng người, không phải chỉ cho những người "tốt", nhưng cho mọi người. Sứ mạng của Người không được bù đắp bởi những thành công tức thời (trái lại, thập giá đang chờ Người!), nhưng Người không đầu hàng trước các thất bại, Người tiếp tục đi tới và gieo vãi. Ông đã tưởng rằng luôn có trước mặt một đám đất tốt, nếu không, ông đã chẳng phí phạm hạt giống. Thế nhưng cũng một loại hạt giống lại đạt được bốn loại kết quả: những nỗ lực đầu tiên đã thất bại, chỉ những nỗ lực cuối cùng mới có kết quả. Đức Giêsu cũng đã ở trong hoàn cảnh tương tự. Người đã thường xuyên ra đi, ngay từ buổi đầu, để gieo Lời trên khắp các nẻo đường Paléttina, nhưng mặc dù lao nhọc, Người không thâu đạt được các kết quả tốt. Sự hăng hái ban đầu nay đã tan biến nơi các thính giả và nhiều người đã rút lui, không bước theo Người nữa. Dụ ngôn đang đương đầu với phương diện chướng kỳ nhất của sứ vụ Nước Trời: dường như phần lớn công việc tông đồ, giống như phần lớn hạt giống, đã bị phí đi. Nhưng Đức Giêsu không nản chí, Người không nhìn tới thời giờ và sự mệt nhọc; Người không khựng lại trước các thất bại; Người đã tiếp xúc gặp gỡ (x. 11,19), để cho thấy rằng cả mảnh đất khô chồi nhất vẫn có thể trở thành đất "tốt".
Trong khi biện minh cho các kết quả của công việc của Đức Giêsu, Đấng Mêsia, dụ ngôn cũng trả lời cho các đòi hỏi biện giáo và thần học của cộng đoàn tiên khởi. Nhiệm cuộc cứu độ mới này phải chấp nhận nguyên tắc là thành công chỉ đến xuyên qua thất bại. Vậy có thể tóm tắt ý nghĩa dụ ngôn như sau: Cũng y như người gieo giống đã làm công việc của mình xuyên qua vô số khó khăn thì mới đạt thành công, Nước Thiên Chúa được Đức Giêsu khai mào sẽ chỉ được thiết lập xuyên qua vô số những thất bại đáng kể. Và đó lại chính là điều mà cả người Pharisêu lẫn các đám dông không thể "hiểu" được. Nhưng thành công được nêu ra trong bài dụ ngôn cũng là một lời khuyến cáo: có hạt được gấp trăm, nhưng có hạt chỉ được sáu chục, và có hạt lại chỉ được ba chục mà thôi. Kết quả có đó vẫn không được làm cho người môn đệ rơi vào tình trạng lạc quan ngây thơ mà không tiếp tục cố gắng nữa.
* Lý do khiến Đức Giêsu nói bằng dụ ngôn (10-17)
Đức Giêsu vẫn còn ở trên thuyền (c. 2), nhưng các môn đệ vẫn cứ đến gần Người mà hỏi, mà cho đến nay ta cũng chẳng thấy các ông đâu cả! Các ông trao đổi với Người một câu chuyện (x. cc. 10.18.241.31) kéo dài khá lâu trong khi đám đông thinh lặng chứng kiến (c. 36). Đây những chỗ thiếu mạch lạc do công việc soạn thảo.
Giảng dạy bằng dụ ngôn là một cách mới, do đó, cần biện minh. Ở đây tác giả thu gom lại các câu thuộc nhiều xuất xứ có tầm mức khác nhau dường như không đáp ứng mục tiêu chờ đợi. Chúng giúp "giải thích" vì sao các môn đệ đón nhận, còn người Do-thái thì không đón nhận lời rao giảng của Đức Giêsu. Điều này, chúng ta đã thấy ở 11,19.25-26. Ở tại nguồn, có sự quảng đại vô biên của Thiên Chúa, Đấng tùy nghi "cho" (didômi) những người này mà không cho những người kia được hiểu các mầu nhiệm Nước Trời (c. 11). Theo văn mạch, "anh em" là các môn đệ, còn "họ" là dân chúng (c. 2). Sự cứng tin của người Do-thái, Hội Thánh sơ khai thấy là không hiểu được, nên đã gán thái độ tiêu cực này cho một hành động (trừng phạt) của Thiên Chúa. Trước đó, Đức Giêsu đã giải thích đây là ý muốn của Thiên Chúa (x. 11,25-27). Lịch sử được giải thích, hoặc đúng hơn, được bẻ lại theo thần học, nhưng làm như thế là gây ra những trục trặc trầm trọng hơn những trục trặc người ta muốn giải quyết.
Lời khẳng định hàm hồ ở c. 12 được làm sáng tỏ bởi một lời khác còn tăm tối hơn. Lời này minh họa sự tự do của Thiên Chúa nhưng che mất sự công minh của Người. Động từ "ban/cho" nêu bật sự quảng đại của Đấng Tối Cao, nhưng chỉ cho một số người, là những người đã được ưu đãi, khiến cho họ thêm dồi dào, còn những kẻ không có gì, thì còn bị tước mất cả những gì họ có thể có (c. 13).
Sau những lời "tâm sự" này, Đức Giêsu giải thích lý do dùng ngôn ngữ dụ ngôn bằng cách nại đến một bản văn của Isaia (6,9-10). Đây không phải là lần đầu tiên trong lịch sử cứu độ, người ta thấy những thất bại như Đức Giêsu. Dường như đây là thân phận của các ngôn sứ. Nhưng trước khi trích dẫn đoạn dài (cc. 14b-15), Mt tóm tắt đoạn văn một cách rõ ràng (c. 13b). Đức Giêsu đã chọn ngôn ngữ ẩn dụ, một kiểu nói thường thấy nơi các ngôn sứ, "bởi vì" (hoti nguyên nhân) các người đồng hương đã không muốn "thấy và nghe" những gì Người đã loan báo và đề nghị cho họ bằng ngôn ngữ thông thường. Đây là một sự thay đổi trong chiến thuật do sự cứng cỏi ương bướng của các thính giả, chứ không phải do một phương pháp mục vụ mới. Ai đã từ chối đề nghị đầu tiên, thì sẽ nhận được một đề nghị khác không phải dễ hơn, nhưng tối tăm hơn, che phủ hơn, huyền bí hơn. Sự từ khước của con người là nguyên do khiến Thiên Chúa, Đức Giêsu co lại. Mc còn cứng rắn hơn nữa vì ngài gán cho Đấng Cứu thế ý định trừng phạt: "để [hina mục đích] họ có nhìn mãi nhìn hoài cũng chẳng thấy" (Mc 4,11)2.
Mt rút bản văn Is 6,9-10 từ Bản dịch LXX; so với bản Híp-ri, trong Bản dịch Hy Lạp này, mọi nét phi lý về thần học đã bị loại đi. Vị ngôn sứ tiên liệu sứ mạng của ông sẽ thất bại ngay bước đầu, do các thính giả cứng lòng. Ông vẫn mạnh mẽ can đảm làm việc để mong hoán cải toàn thể Israel. Như thế, nếu công việc của ông không đạt được kết quả mong ước, lỗi thuộc về con cái Israel. Đức Giêsu cũng thấy sứ mạng của Người đang đi vào con đường đó. Nhưng khi họ từ chối Đấng Mêsia, họ đã làm cho lời sấm ngôn nên trọn (c. 14). Ngôn sứ Isaia dĩ nhiên không nghĩ tới lời giảng của Đức Giêsu, nhưng điều này không ngăn cản Mt thấy rằng vị ngôn sứ cũng đã báo trước về số phận của lời rao giảng này.
Tác giả đang "cay cú" với hội đường, nhưng ngài còn tỏ ra bận tâm với cộng đoàn hơn (cc. 16-17). Mối phúc của các môn đệ đã được công bố ngay trong phần mở của Bài Giảng trên núi (5,12). Bây giờ Mt cảm thấy cần nhắc lại để nâng đỡ đức tin vẫn còn yếu ớt của các tín hữu. Mối phúc này hệ tại việc lắng nghe Lời Chúa, chấp nhận bản thân và công việc của Đức Kitô. Đây chính là vinh dự họ có, còn lớn lao hơn vinh sự của các vị Tổ phụ Cựu Ước. Bằng móc nối này, Mt cũng cho thấy cộng đoàn Do Thái – Kitô hữu này mới là sự nối dài của Israel chân chính (chứ không phải là hội đường).
* Giải thích dụ ngôn Người gieo giống (18-23)
Phần "giải thích" lại tách khỏi chính bài dụ ngôn (cc. 3-9) về mặt nội dung và hình thức. Câu truyện đầu được thêm vào nhiều chi tiết mới. Các chi tiết mô tả là hạt giống, gai góc, chim trời, ... đã có một ý nghĩa biểu tượng mà trước đây không có. Dụ ngôn đã biến thành hầu như một ẩn dụ và đã thay đổi cả chủ đề. Bài gốc là một loan báo về những chiến thắng tương lai của Nước thiên sai; đề tài của "phần giải thích" lại nhìn đến số phận của lời nơi mỗi thính giả. "Dụ ngôn Người gieo giống" đã chuyển thành dụ ngôn về "Lời rao giảng Nước Trời" (c. 19); từ ngữ logos được dùng 5 lần, trong khi không xuất hiện trong phần đầu. Các dạng đất khác nhau không tượng trưng các thính giả nghe lời Đức Giêsu rao giảng, nhưng các loại Kitô hữu khác nhau, các tâm trạng khác nhau họ có khi nghe sứ điệp Tin Mừng. Người giải thích đã quên mất cử tọa Do Thái đang được Đức Giêsu ngỏ lời với, để nói với một cử tọa đã và đang trải nghiệm những khó khăn mà đức tin Kitô giáo gặp phải. Trong bản văn đầu, tác giả nhắm vào sự tương phản và hướng về bài học chung kết phát xuất từ kết quả phong phú do đất tốt; ngược lại, phần giải thích quan tâm đến cả các mưu toan không thành công. Trong bản văn này, các nguyên do ngăn cản hoặc làm chậm sự phát triển của hạt giống là gian nan (thlipsis) và ngược đãi (diôgmos); các nghịch cảnh này liên hệ đến hoàn cảnh của Hội Thánh sơ khai (tương tự trong Lc 8,15: hypomonê hiểu là "sự kiên trì" khi gặp các nguy hiểm đối với đức tin).
Bản văn mới này cho thấy rằng mọi sự tùy thuộc thiện chí của mỗi một tín hữu. Tác giả đã thay từ ngữ số phức ha men, "có những [hạt]", alla, "có những [hạt] khác" (cc. 4-8) bằng từ số đơn ("ai nghe": cc. 20.22.23). Lời đến tai mọi người (đám đông và các môn đệ) nhưng không phải mọi người đều quan tâm đến và vâng lời như nhau ("nghe" theo nghĩa Kinh Thánh là "hiểu", tức là gắn bó về trí thức, và "vâng lời", tức gắn bó bằng đời sống. Đây chính là thần học kinh Shema (Đnl 6,4-5) được vào cho các Kitô hữu.
+ Kết luận
Bài Giảng trên núi và bài Diễn từ về truyền giáo nhắm trực tiếp đến chính tư cách môn đệ; còn các dụ ngôn lại nhắm đến cách thi hành sứ mạng truyền giáo, hoàn cảnh của Hội Thánh. Vào lúc tác giả viết, Hội Thánh đã trở nên vững vàng ở khắp nơi. Dù vậy, sự cứng lòng của người Do Thái vẫn là một cái gai làm cho các tín hữu phải đau đớn (cc. 10-17). Cần phải nêu bật tất cả các cố gắng của Đức Giêsu nhằm đưa sứ điệp Phúc Âm đến cho người đồng hương của Người.
Tuy nhiên, sứ điệp cũng được gửi đến cho các môn đệ của Đức Giêsu. Họ phải thấy mình vừa được nhắc nhở vừa được trấn an: được nhắc nhở hãy trở nên đất tốt và sinh hoa quả tối đa; được trấn an do biết Đức Giêsu hoàn toàn làm chủ tình thế: Người có gặp thất bại, nhưng các thất bại này được tiên liệu trong chương trình của Thiên Chúa.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Quả thật, thành công đến từ thất bại. Thất bại, như tấn bi kịch thập giá sẽ cho thấy, là đảm bảo cho thành công. Do đó, bài dụ ngôn là một sứ điệp chiến thắng gửi đến cho các tông đồ và các tín hữu, là một lời khuyến khích và trấn an. Hiểu như thế, bài dụ ngôn là một lời loan báo mang tính ngôn sứ báo trước các chiến thắng của Đức Kitô và của Hội Thánh.
2. Hoạt động của Đức Giêsu chỉ đâm chồi và kết trái tại nơi nào có đất tốt, nghĩa là tại nơi nào Người gặp được những tư thế sẵn sàng. Như thế, người tín hữu phải trở thành "đất tốt" nếu muốn làm cho hạt giống thần linh nhanh chóng đâm chồi và kết quả nơi mình và nơi người khác. Phải mở trái tim ra, phải san bằng con đường mà đón sứ điệp Kitô giáo. Bài dụ ngôn đang muốn lay động tình trạng tê cóng, lưỡng lự hoạc cứng cỏi của các thính giả.
3. Trong Bài giảng trên núi, Đức Giêsu đã cho biết rằng người môn đệ không chỉ được đánh giá theo những gì đã biết, nhưng còn theo những gì đã làm (7,13-27). Tiêu chuẩn này được nhắc lại trong phần giải thích dụ ngôn. Không phải chỉ cần nghe lời giảng là đã được cứu, nhưng còn phải diễn tả ra bằng những việc tốt lành, tức là làm cho lời rao giảng đã nghe sinh hoa kết quả. Tiêu chuẩn này đã được nhắc lại nhiều lần (x. 3,8.10; 7,17-19; 12,33). Các quả chứng tỏ phẩm chất của cây; không có hoa quả, mọi sự chỉ là chuyện bì phu.
4. Đời sống Kitô hữu sẽ gặp vô số nguy hiểm (Satan, gian nan, thử thách, bách hại, các lo lắng sự đời, và bả vinh hoa phú quý). Cần phải có sức mạnh và sự can đảm mà thắng vượt chúng. Bài dụ ngôn về Lời là bài dụ ngôn về đức tin: bài này minh họa tấn bi kịch của người phải hằng ngày chiến đấu để giữ vững sự ưng thuận đối với sứ điệp của Đức Kitô.
37. Suy niệm của Noel Quesson
Trong ba Chúa nhật của mùa hè đang đến, chúng ta sẽ đọc bảy bài dụ ngôn mà Thánh Matthêu đã tập họp trong bài giảng dài thứ ba của Đức Giêsu. Giờ đây, Đức Giêsu đi qua một khúc quanh trong sứ vụ của Người: Người đụng phải sự thù ghét công khai của các thủ lãnh tôn giáo. Họ quyết định loại trừ Người (Mt 12,14)... Những đám đông, sau nhiệt tình dễ dàng lúc ban đầu, đã thất vọng bởi vì Đấng Mêsia ấy từ chối bước qua hành động chính trị.
Hôm ấy, Đức Giêsu từ trong nhà đi ra ngồi ở ven biển hồ. Dân chúng tụ họp bên Người rất đông, nên Người phải xuống thuyền mà ngồi, còn toàn thể đám đông thì đứng trên bờ. Người dùng dụ ngôn mà nói với họ nhiều điều.
"Dụ ngôn" dịch từ "mâchâl" của tiếng Do Thái, có nghĩa là "một chuyện kể tượng trưng dùng để làm cho người ta khám phá một ý nghĩa ẩn giấu": Thế giới tạo vật đầy những biểu tượng. Khi quan sát những thực tại tầm thường của cuộc sống hàng ngày. Đức Giêsu nhìn qua chúng, những thực tại thánh thiêng. Ví dụ như công việc của những nông dân làm Người nghĩ đến một sự việc khác... Các bạn thử đoán việc gì nào?
Người nói: "Kìa người gieo giống đi ra gieo giống. Trong khi người ấy gieo, thì có những hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất. Có những hạt rơi trên sỏi đá chỗ đất không có nhiều; nó mọc ngay vì đất không sâu nhưng khi nắng lên, nó liền bị cháy, và vì thiếu rễ nên bị chết khô. Có những hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm nó chết nghẹt...”
Những hạt giống tội nghiệp! Và người gieo hạt đáng thương! Tại sao Đức Giêsu kể cho chúng ta nghe một loạt những thất bại ấy? Cho đến bây giờ công việc của người gieo hạt hoàn toàn vô ích.
Chúng ta cũng thế, thường trong những thực tế nào đó của cuộc sống, chúng ta có ấn tượng đã thất bại thảm hại... ngay từ đầu, và sau một thời gian ngắn nẩy mầm hoặc sau một thời dài hơn thành công. Tất cả những thất bại này, Đức Giêsu đã gặp. Trong lúc kể lại dụ ngôn này, Người nghĩ đến những thất bại trong việc tông đồ của chính mình. Không che giấu mọi sự thất bại đó Đức Giêsu phân tích chúng một cách sáng suốt...
Nhưng Người muốn đi tới đâu? Người gieo hạt phải chăng đã mất thời gian vô ích?
Có những hạt lại rơi nhằm đất tốt, nên sinh hoa, kết quả: hạt dược gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục. Ai có tai thì nghe.
Vậy đây là một bài học phi thường về lòng trông cậy mà Đức Giêsu đem lại cho chúng ta. Khi bạn nhìn đời sống đáng thương của bạn, khi bạn nhìn Giáo Hội, hoặc thế giới bạn chớ ở lại trong những nhận định bi quan và nản chí: bất chấp mọi thất bại, một mùa gặt sẽ đến. Các bậc cha mẹ gặp nhiều khó khăn với con cái mình, xin các ông bà chớ từ chối gieo hạt. Giới trẻ chưa thành công trong công việc của mình, các bạn hãy lắng nghe sứ điệp lạc quan và thực tế của Đức Giêsu. Mặc dù sứ điệp đã được công bố hai ngàn năm nay, nó vẫn giữ được mọi sự mới mẻ hợp thời đại. Thế giới ngày nay luôn cần đến sứ điệp ấy.
Lạy Chúa, xin hãy dạy chúng con biết phân biệt các hạt giống nào... hứa hẹn những mùa gặt... bất chấp mọi vẻ bề ngoài trái ngược.
Các môn đệ đến gần hỏi Đức Giêsu rằng: “Sao Thầy lại dùng dụ ngôn mà nói với họ, Người đáp: "Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không Ai đã có thì được cho thêm, và sẽ có dư thừa! còn ai không có, thì ngay cái đang có cũng sẽ bị lấy mất. Bởi thế nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không nhìn, nghe mà không nghe không hiểu.
Không đi vào việc giải thích chuyên môn đoạn văn khó hiểu này, ít nhất chúng ta hãy nhận ra chân lý rất hiện đại của nhận định ấy... Có những thời kỳ người ta có sự nhất trí trong đức tin và toàn thể những người được dạy giáo lý xem ra đều gắn đức tin ấy với đức tin được giảng dạy. Ngày nay, chúng ta tìm thấy tình hình mà Đức Giêsu gợi ra: người ta có thể "tiếp nhận" hoặc "từ khước” lời đề nghị của đức tin. Đức Giêsu phân biệt rõ ràng hai loại thính giả: những người nhìn, nghe và hiểu... và những người không nhìn, không nghe. Đức Giêsu đã không chọn lựa để Người trở nên khó hiểu? Người không nói: "bằng dụ ngôn" để che giấu một số chân lý cho lột số người.
Thật ra, Đức Giêsu không thể nói về Thiên Chúa cách nào khác với dụ ngôn. Sự thuyết giáo của Người mạc khải những "mầu nhiệm” vượt quá con người một cách vô cùng tận, và một phần lớn vẫn còn bị "che giấu”... Chính trong phần không rõ ràng này mà tự do của con người được kêu gọi. Người ta không “tự do" trước điều gì đã hiển nhiên. Mầu nhiệm của Nước Thiên Chúa, trong tất cả sự phong phú của nó, không phải là một chân lý được áp đặt. Đó là một bí mật chỉ được bày tỏ cho những tấm lòng sẵn sàng lắng nghe. Một dụ ngôn không rõ ràng... Phải tìm kiếm... Phải ước muốn.
Thế là đối với họ đã ứng nghiệm lời sấm của ngôn sứ Isaia: "Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy. Và lòng dân này đã ra đần độn, chúng đã nặng tai, còn mắt thì chúng nhắm lại, kẻo mắt chúng thấy, tai chúng nghe và lòng hiểu được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành”.
Chúng ta cảm thấy sự đau khổ của Đức Giêsu nhiều dường nào trước những sự từ khước ấy! Người đã đến để đem lại cho họ ánh sáng, để mở mắt họ ra... để chữa cho họ bệnh mù lòa. Nhưng Người không thể cũng không muốn “ép buộc” họ. Người tôn trọng tự do của họ.
Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc vì được nghe. Vậy anh em hãy nghe dụ ngôn người gieo giống.
Vâng, Lạy Chúa, con muốn lắng nghe. Xin Chúa cho con đôi tai tinh tế và đôi mắt mới mẻ.
Hễ ai nghe lời rao giảng Nước Trời mà không hiểu, thì quỷ dữ đến cướp đi điều đã gieo trong lòng người ấy: đó là kẻ được gieo bên vệ đường.
Trong việc giải thích dụ ngôn, điểm nhấn mạnh không được đặt trên khả năng của hạt giống hay niềm hy vọng không gì thắng nổi của người gieo hạt (như chúng ta đã ghi nhận)… nhưng đặt trên sự khác nhau của đất, nghĩa là trên những thiên hướng của những người đón nhận "lời Thiên Chúa"... Trong nhóm người thứ nhất đức tin không bám, không đâm rễ, hạt giống cũng không nẩy mầm... bởi vì chim chóc đã đến ăn mất hạt trên đường.
Bên trên những hình ảnh cụ thể. Đức Giêsu còn nhìn rất xa: người lắng nghe Lời Chúa có một kẻ thù. Chúng ta đã quên điều đó sao? Một kẻ thù đáng ngại mà Đức Giêsu gọi là "quỷ dữ". Đàng sau con người không đạt được đức tin, có một thứ vực thẳm mầu nhiệm, và cũng như chính đức tin nó không hoàn toàn trở thành hợp lý được: nó là một quyền lực ẩn giấu mà con người không làm chủ được. Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi quỷ dữ!
Còn kẻ được gieo trên nơi sỏi đá, đó là kẻ nghe Lời và liền vui vẻ đón nhận. Nhưng nó không đâm rễ mà là kẻ nhất thời khi gặp gian nan hay bị ngược đãi vì Lời, nó vấp ngã ngay...
Sau kẻ không tin vì đức tin chưa được nẩy mầm, giờ đây cũng theo Đức Giêsu, là người tín hữu “bỏ ngũ”, người ấy bỏ đạo như cách nói rõ ràng của Thánh Luca trong đoạn văn song song (Lc 8,18). Thiếu rễ cây? Người ấy nhiệt tình theo Đức Kitô khi mọi sự dễ dàng xuôi chảy, và bỏ Người khi khó khăn, thử thách, đau khổ; ngược đãi ập đến. Than ôi! Chúng ta biết rõ hoàn cảnh này thường xảy đến. Lạy Chúa, xin cho con được bám rễ trong Chúa!
Còn kẻ được gieo vào bụi gai, đó là kẻ nghe Lời, nhưng nỗi lo lắng sự đời và bả vinh hoa phú quý bóp nghẹt khiến Lời không sinh hoa kết quả gì…
Giờ đây là "người tín hữu không đạt đến sự chín muồi của đức tin"... bởi vì người ấy bị tinh thần của thế gian giữ lại bị bối cảnh vô tín xung quanh bao vây. Chúng ta cảm thấy rõ ràng đối với Đức Giêsu đức tin là một công việc phát triển lâu dài, và phải chiến đấu chống lại mọi thứ trở ngại. Đức Giêsu đã thường xuyên cảnh báo các môn đệ chống lại ảnh hưởng của thế gian (Lc 9,57-62; 14,28-33; 16,19-31; Ga 15,19; 12,6).
Đức tin bị bóp nghẹt? Đức tin dần dần xanh xao vì thiếu hơi thở và một ngày kia bị chết nghẹt. Phần còn lại, tất cả đã chiếm quá nhiều chỗ trong đời sống: "Các bạn biết đấy? Làm sao tôi có thể đi nghe Lời Chúa ngày Chúa nhật! Tôi còn đi xem đá banh, đi chơi lướt ván... và vì tôi quá mệt với tuần lễ của tôi, vậy thì tôi phải tranh thủ ngày nghỉ “cuối tuần"... Và chính điều chủ yếu phải vượt qua mọi thứ khác!
Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi sự quyến rũ của thế gian và bả vinh hoa phú quý.
Còn kẻ được gieo trên đất tốt, đó là kẻ nghe Lời và hiểu thì tất nhiên sinh hoa kết quả và làm ra kẻ được sáu chục, kẻ được ba chục.
Sinh hoa kết quả!
Đó là điều mong ước mà Đức Giêsu muốn chúng ta thực hiện (Mt 3,10; 12,33; 13,23-26; 12,43). Một đời sống tràn đầy, phong phú. Đối với Đức Giêsu, điều kiện chủ yếu để đời sống chúng ta sinh hoa, kết quả là Lời Thiên Chúa được lắng nghe và hiểu lâu dài. Thông qua sự phân tích về các mức độ lác nhau của đức tin chúng ta đoán ra rằng không có gì vĩnh viễn là chung cuộc. Đó là điều mà ngày hôm nay chúng ta nhận định xung quanh chúng ta và ở trong chúng ta. Đức tin là một "đời sống", một ngày nào đó được gieo xuống, lớn lên và sinh hoa quả... nhưng là một đời sống mong manh phải được phát triển ở giữa nhiều nghịch cảnh đang tấn công nó…
Nếu chúng ta cần làm cho đức tin phát triển... thì chúng ta cũng phải trở thành những "người gieo vãi Phúc Âm", và chuẩn bị đất đai, ngõ hầu tấm lòng của anh em mình trở thành một mảnh đất tốt sinh ra gấp trăm. Chúng ta quan tâm đến chính hạnh phúc của họ: "Phúc thay ai lắng nghe Lời và đem ra thực hành!”
38. Hãy mặc lấy tâm tình của người gieo giống
(Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Trong quá trình loan báo Tin Mừng, Đức Giêsu đã dùng nhiều dụ ngôn khác nhau để giúp cho người Dothái cùng thời thay đổi thái độ và cách sống sao cho phù hợp với Tin Mừng.
Hôm nay, Đức Giêsu dùng dụ ngôn “người gieo giống” để giúp cho người nghe hiểu ý nghĩa của nội dung lời giảng.
1. Cách gieo hạt và thửa ruộng của người Dothái
Người Dothái xưa không có những cánh đồng bằng phẳng như ở đồng bằng của Việt Nam, mà thửa ruộng của họ thuộc loại bậc thang trên sườn đồi như những vùng núi Trung du và thượng du gồm sơn địa và bán sơn địa như ở miền Bắc Việt Nam. Như vậy, thửa ruộng của họ thường có sỏi đá, gai góc và thiếu nước.
Cách thức gieo hạt của họ rất giống với cách sạ lúa của người Nam Bộ chúng ta. Tức là họ không cấy từng cụm như đồng bằng, mà họ rắc hạt trên thửa đất của mình.
Sau khi quan sát và thấy hình ảnh của người gieo hạt cũng như những thửa đất khác nhau, Đức Giêsu đã rất tinh tế khi dùng dụ ngôn này để nói về thái độ của dân chúng khi lắng nghe Lời Chúa và sự quảng đại, hào phóng của Thiên Chúa khi gieo giống.
2. Tâm tình người đi gieo giống
Đức Giêsu đưa ra hình ảnh của người gieo giống thật kỳ lạ: ông là người hào phóng. Chỗ nào cũng gieo. Gieo vung vãi không tiếc hạt, tiếc công. Gieo một cách quảng đại, không phân biệt bất cứ loại đất nào. Gieo cả nơi sỏi đá, vệ đường, bụi gai. Ông gieo trong thái độ kiên trì và trung thành, không tính toán thiệt hơn, không biết mỏi mệt và không hề thất vọng.
Ông đầu tư hết tất cả những gì mình có như: tiền tài, vốn liếng, sức khỏe và cả ngày lẫn đêm. Ông gieo mọi nơi mọi chốn.
Có được điều ấy, hẳn ông là người có tham vọng lớn, một trái tim rộng mở để vượt qua mọi rào cản, khó khăn, để tung gieo từng hạt giống, bất chất mọi sự ngỗ nghịch. Ông có một tình yêu bao la, vượt lên trên tất cả, miễn sao hạt giống được tung ra và rơi vào mọi môi trường.
Nói như thế, không có nghĩa ông là người vô trách nhiệm, không chuyên nghiệp, nhưng muốn diễn tả hình ảnh một người nông dân cần cù, chịu khó, kiên trì và quảng đại. Hình ảnh đó không ai khác ngoài Thiên Chúa, mà hiện thân chính là Đức Giêsu, người đang nói qua dụ ngôn.
Thật vậy, Thiên Chúa say mê con người, không ngừng tìm mọi cách để mong sao con người nhận ra chân lý, tình thương để mà cải hóa bản thân cho tốt hơn. Vì thế, tình yêu của Thiên Chúa là một tình yêu phổ quát, không phân biệt giàu nghèo, giai cấp, địa vị, màu da, sắc tộc..., vì “Người làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, làm cho mưa xuống trên kẻ lành cũng như người bất lương…”
3. Thái độ của mỗi chúng ta trong vai trò của người gieo và nhận
Khi dùng dụ ngôn “người gieo giống” và nhiều loại đất khác nhau, Đức Giêsu mong muốn mỗi người chúng ta cũng mang trong mình tâm tình của người gieo giống. Tức là gieo trong hy sinh, vất vả, không tính toán hơn thiệt, không ích kỷ nhỏ nhen. Bổn phận của người môn đệ chính là mau mắn lên đường, tung hoành khắp nơi, biết tận dụng mọi thời gian, phương tiện để miễn sao Lời Chúa được loan xa tới mọi nơi, mọi chốn, không phân biệt họ là ai, cuộc sống và địa vị của họ như thế nào...
Thật vậy, chúng ta cứ trung thành và quảng đại, còn thành công là do Chúa chứ không phải hoàn toàn ở khả năng của chúng ta. Tinh thần này đã được thánh Phaolô nói đến khi ngài xác định: “Tôi trồng, anh Apôlô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên. Vì thế, kẻ trồng hay người tưới chẳng là gì cả, nhưng Thiên Chúa, Ðấng làm cho lớn lên, mới đáng kể” (1 Cr 3,6-7).
Làm được điều đó, chúng ta cần có một trái tim đủ lớn để yêu thương, kiên trì và trung thành.
Là kitô hữu, chúng ta được hạt giống là chính Lời của Chúa gieo vào lòng chúng ta từ ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Rồi tiếp tục trải qua dòng thời gian, chúng ta có nhiều điều kiện để cho Hạt Giống ấy nẩy mầm và sinh hoa kết trái dồi dào. Nhưng thử hỏi, mỗi chúng ta có sẵn sàng để trở thành thửa đất tốt tươi hay chỉ là sỏi đá, ven đường và gai góc?
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi chúng ta hãy có tấm lòng bao dung, độ lượng như người gieo giống, đồng thời cũng phải có thái độ cởi mở, hân hoan, đơn sơ và yêu mến để cho hạt giống được nảy mầm, trổ sinh hoa trái dồi dào như những thửa đất tốt.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được mặc lấy tâm tình của người gieo giống, đồng thời cũng trở nên những thửa đất tốt để hạt giống Lời Chúa được trổ sinh hoa trái dồi dào nơi tâm hồn chúng con. Amen.
15/07 Đừng sợ…, nhưng hãy sợ
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Đừng sợ…, nhưng hãy sợ ….
Thứ Bảy tuần 14 thường niên – Thánh Bônaventura, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
"Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác".
Lời Chúa: Mt 10, 24-33
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Môn đệ không hơn thầy, và tôi tớ không hơn chủ mình. Môn đệ được bằng thầy, tôi tớ được bằng chủ mình thì đã là khá rồi. Nếu họ đã gọi chủ nhà là Bêelgiêbul thì huống hồ là người nhà của Ngài. Vậy các con đừng sợ những người đó, vì không có gì che giấu mà không bị thố lộ; và không có gì kín nhiệm mà không hề hay biết. Điều Thầy nói với các con trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng; và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên mái nhà.
"Các con đừng sợ kẻ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn. Các con hãy sợ Đấng có thể ném cả xác lẫn hồn xuống địa ngục. Nào người ta không bán hai chim sẻ với một đồng tiền đó sao? Thế mà không con nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi. Vậy các con đừng sợ: các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần.
"Vậy ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Thầy là Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ chối nó trước mặt Cha Thầy là Đấng ngự trên trời".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Ðừng sợ người đời
Mahatma Gandhi, nhà tranh đấu bất bạo động cho quyền con người và nền độc lập của Ấn Ðộ, đã có lần nhắn nhủ các môn sinh như sau: "Sự thật và tình thương sẽ chiến thắng. Hãy suy nghĩ điều đó và hành động theo sự thật và tình thương. Ðừng bao giờ dùng bạo lực đáp trả bạo lực, vì làm như thế là bắt chước lối sống man rợ của những người dùng bạo lực. Khi dùng bạo lực, những người đó cho thấy nỗi thất vọng và trạng thái thú hóa của họ. Chúng ta hãy sống như con người. Những người dùng bạo lực có thể đánh đập và giết chết thân xác chúng ta, nhưng không thể giết được tinh thần và quyền lợi của chúng ta, họ không thể giết được sự thật. Sự thật và tình thương sẽ chiến thắng. Hãy suy nghĩ kỹ và hãy sống theo sự thật và tình thương, bởi vì nếu sống theo bạo lực và hận thù, thì thế giới sẽ trở thành mù lòa".
Ðã từng vào tù ra khám, đã từng bị đánh đập hành hung, con người đã nói những lời trên đây chưa một lần tỏ ra sợ sệt. Ngày 30/01/1948, ông ngã gục vì nhát gươm của một người quá khích. Cái chết của ông là một cụ thể hóa của chính chủ trương bất bạo động mà ông đã đề ra.
Sẵn sàng chết để làm chứng cho sự thật và tình thương với niềm tin vào sự bất tử của linh hồn con người, Mahatma Gandhi dù chưa phải là Kitô hữu, nhưng đã sống theo lời Chúa dạy trong Tin Mừng hôm nay, đó là sống hiên ngang, không sợ hãi trước các cường lực sự dữ, không sợ hãi những người chỉ giết được thân xác, nhưng không làm gì được linh hồn; sống trung thực với phẩm giá của con cái Chúa, không để mình rơi vào tình trạng hóa thú và nô lệ cho bạo lực: "Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác, mà không giết được linh hồn".
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn vào thực tế cuộc sống và tỏ ra thái độ phù hợp với người có lòng tin. Từ chuyện phải vất vả kiếm sống đến chuyện tương lai của con cái và những khó khăn trong việc sống đạo, chúng ta được mời gọi để múc lấy ánh sáng của Tin Mừng và chiếu dọi vào những thực tế ấy. Là người Kitô hữu, tôi phải sống những thực tại ấy thế nào? Lý tưởng của tôi là tìm mọi cách để có nhiều của cải vật chất hay là tìm kiếm Nước Chúa và sự công chính trước?
"Môn đệ không hơn Thầy, tôi tớ không hơn chủ". Chúa Giêsu đã đi con đường của nghèo khó, thua thiệt, bách hại, thập giá, tha thứ và tha thứ cho đến cùng. Nhưng Chúa Giêsu không chỉ đề ra cho chúng ta một lý tưởng, một con đường để đi theo, Ngài chính là con đường, là sự thật và là sự sống. Chúng ta tin rằng nếu chúng ta kết hiệp với Ngài, chúng ta sẽ được sức mạnh của Ngài để thắng vượt mọi gian nan thử thách. Chúng ta cũng tin rằng bên kia những hao mòn và chết chóc trong thân xác, tâm hồn chúng ta sẽ được mãi mãi kết hiệp với Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Những sợ hãi không đâu
“Anh em đừng sợ những kẻ giết được thân xác mà không thể giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt được cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục.”
Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. (Mt. 10, 28. 32-33)
Chúng ta sợ hãi cái gì?
Bạn hãi hỏi xem người ta sợ hãi cái gì? Hầu như ai nấy cùng có một câu trả lời. Người ta sợ bị ốm đau, tật nguyền sợ mất của cải hay công ăn việc làm, sợ phải sống cô đơn, sợ mất danh thơm, tiếng tốt, sợ bị kẻ bất lương tấn công ngoài đường phố, sợ phải xa cách người thân yêu, sợ chết…
Điều ta lo sợ trong cuộc sống ấy, bởi chính nó gây tổn thương, mất mát, thiệt thòi hay tàn tật cho ta. Ta không khinh chê coi thường những xao xuyến, sợ hãi kia. Nhưng chỉ có nguyên những lo âu xao xuyến này thôi sao, và đó phải chăng là những điều quan trọng nhất? còn biết bao điều lẽ ra khiến ta phải bàng hoàng lo sợ, thế mà ta lại bình chân như vại.
Những điều đáng sợ mà người ta lại không nghĩ đến.
Bạn hỏi xem người ta có lo sợ vì không kính mến Thiên Chúa và yêu thương người ta đủ không? Hãy hỏi xem người ta có sợ vì chỉ biết sống bo bo mà không biết chia sớt với anh em mình không. Người ta có run sợ vì đã không coi trọng Phúc Âm, không sống đời cầu nguyện và nói về Chúa Giêsu đủ không? Những người mà bạn đặt những câu hỏi trên đây cho họ, có lẽ đều bỡ ngỡ. Vì phần lớn thời giờ, có bao giờ tâm trí họ màng đến những điều như trên đây.
Chúng ta thường sợ hãi vì những chuyện chẳng đáng gì, còn những điều lẽ ra lòng ta phải xao xuyến âu lo, thì ta lại chẳng màng chi đến. Ta hãy biết sợ. Kiểu nói đó, nghe không suôi. Bởi vì Chúa đâu có muốn cho ta phải sống trong nơm nớp sợ hãi; nhưng Người muốn ta luôn được sống trong yêu thương an bình. Điều Chúa mang đợi ở ta là luôn hướng về Người và các anh em ta. Người mong muốn cho ta chẳng phải sợ gì, chẳng sợ ai cả, nhưng vững tin rằng Chúa Thánh Thần hằng ngự trong ta che chở và dẫn dắt ta đến cùng Cha.
Lạy Chúa, xin cho con biết xao xuyến và sợ hãi những khi con thấy mình xa Chúa. Xin giúp con biết đem lại niềm hy vọng mới cho những ai đang hao mòn vì những xao xuyến sợ hãi đủ thứ trong cuộc đời.
J.Y.G
Suy niệm 3:
Sự chết
Khi thi hành sứ mạng phục vụ cho sự sống của con người, người môn đệ có nguy cơ mất đi chính sự sống của mình. Bởi vì con người không chỉ đau khổ vì thân phận sinh lão bệnh tử, nhưng còn bị chi phối nặng nề bởi Sự Dữ, vốn gây ra bầu khí chết chóc và chính cái chết cho con người (x. St 3, 1-7: Con Rắn gieo nọc độc vô ơn, ham muốn và ghen tị gây chết chóc trong lòng con người và trong tương quan giữa người với người).
Phục vụ cho sự sống đến độ đánh liều chính sự sống của mình. Nhưng đó lại là con đường nhận lại sự sống trong Chúa, giải phóng sự sống hôm nay khỏi Sự Dữ và tất cả những gì liên quan đến Sự Dữ, vì thế làm cho sự sống trở nên đích thật và hướng về sự sống viên mãn mai sau, theo khuôn mẫu của mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Ki-tô.
Chính vì thế, Đức Giê-su nói, Ngài sai các môn đệ đi như “chiên vào giữa bầy sói”. Như thế, sự chống đối, thậm chí bách hại, là tất yếu; như hình ảnh “chiên và sói” gợi ra: một bên là hiền lành và một bên là bạo lực, muốn hủy diệt. Nhưng lí do của sự chống đối không phải là chính bản thân các môn đệ, nhưng là “vì Thầy”, “vì danh Thầy”, bởi vì Thầy mới là “Con Chiên” đích thật của Thiên Chúa, là Đấng mà các môn đệ rao giảng và được mời gọi trở nên một với Ngài. Người môn đệ được mời gọi trở nên một với Đấng mình rao giảng, vì Ngài đã trở nên một với môn đệ trước.
“Người đời” đã bách hại Thầy và Đức Giê-su nói: “Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi. Chủ nhà mà người ta còn gọi là Bê-en-dê-bun, huống chi là người nhà”. Và “Người đời” tiếp tục bách hại Thầy nơi các môn đệ, bởi vì Thầy là “Chiên lành”, “Sự Thiện”, “Thiên Tính”, “Ánh Sáng”, “Sự Sống, “Sự Thật”. Vì thế, một cách tương ứng, kẻ bách hại không phải là những con người cụ thể, nhưng là “Sói Dữ”, “Sự Dữ”, “Thú Tính”, “Gian Dối”, “Bóng Tối”, “Sự Chết” hành động nơi những con người cụ thể. Thế mà, Sự Dữ và những gì thuộc về Sự Dữ có mặt ở khắp nơi và nơi mọi người, và có nơi chính các môn đệ! Vì thế, sự chống đối của Sự Dữ có thể bùng lên từ những nơi và những người thiết thân nhất: “Anh sẽ nộp em, em sẽ nộp anh cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết.” “Sói Dữ” không phải là con người, những là thú tính hiện diện và chi phối con người chống lại “Chiên Lành”.
Sự Sống
Nhưng lời loan báo của Đức Giê-su về sự bách hại thậm chí giết hại, lại chứa đựng Sự Sống của Thiên Chúa và hướng đến Sự Sống viên mãn của Người, theo khuôn mẫu của “Hạt Lúa Mì”, nghĩa là của mầu nhiệm Vượt Qua. Thật vậy, bách hại, nhưng lại là cơ hội “để làm chứng cho họ và cho dân ngoại được biết”; và bởi vì đây là chứng từ tận cùng, nghĩa là “chứng từ sự sống”, như Đức Ki-tô trong cuộc Thương Khó, người môn đệ được dẫn vào kinh nghiệm “thần nhiệm” về Thiên Chúa Ba Ngôi: người môn đệ bị bách hại vì Chúa Con, nên được Chúa Cha ban Chúa Thánh Thần để Người lên tiếng và hành động nơi các môn đệ, như Đức Giê-su nói: “Vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì: thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em.”
Và sự bách hại không phải là vô tận, nhưng sẽ kết thúc với biến cố “Con Người đến” một cách bất chợt. Đó là hướng đi tất yếu của lịch sử cứu độ, bởi vì Đức Ki-tô đã vượt qua sự bách hại và chính sự chết, và Ngài sẽ lại đến để dẫn đưa sáng tạo và lịch sử đi vào một chiều kích vừa vĩnh cửu và vừa mới mẻ. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể hiểu, chính sự bách hại khiến người môn đệ phải trốn chạy: “Khi người ta bách hại anh em trong thành này, thì hãy trốn sang thành khác”, sẽ làm cho người môn đệ trở nên giống với Đức Ki-tô và mau đến với Người. Con Người đến với chúng ta, hay chúng ta đến với Con Người, còn nhắc nhớ Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người: Người đã bị giết chết, nhưng Người đã phục sinh, để trở nên sức mạnh và niềm hi vọng cho người môn đệ thuộc mọi thời.
“Đừng sợ”
Tuy nhiên, đứng trước viễn tượng chống đối tất yếu và tận căn như thế, không ai có thể tránh được sự sợ hãi ; và chính Đức Ki-tô cũng có kinh nghiệm này trong Vườn Dầu. Vì thế, khi Người mời gọi người môn đệ nhiều lần « đừng sợ » (ba lần ở những câu 26, 28 và 31 trong bài Tin Mừng ngày mai : Mt 19, 24-33), thì đó không phải là sự sợ hãi thuộc bình diện tâm lí, vì ở bình diện này, con người không thể không sợ, nhưng Người gọi người môn đệ « đừng sợ », đừng lung lạc, đừng để ma quỉ làm cho nghi hoặc, ở bình diện tín thác, mà người môn đệ đặt để nơi Sự Thật, quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa.
Tín thác nơi chân lí của sứ điệp Tin Mừng, của chính Đức Ki-tô, bởi vì Người là Chân Lý ; và Chân Lý này hôm nay được rao giảng bởi các môn đệ, nhưng một ngày kia sẽ được tỏ bày cho tất cả mọi người : « Thật ra, không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng.” Và tín thác nơi quyền năng mạnh hơn sự chết của Thiên Chúa : « Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục »
Và nhất là người môn đệ được mời gọi tín thác nơi tình yêu quan phòng của Người : « Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ ». Khi nói về tình yêu quan phòng của Thiên Chúa Cha, ngang qua hình ảnh « con chim sẻ », Đức Giê-su đã làm cho lời nguyện Thánh Vịnh được hoàn tất (x. Lc 24, 44) ; thật vậy, theo con đường thiêng liêng của lời nguyện Thánh Vịnh, Người mời gọi chúng ta nhận ra tình yêu đặc biệt của Thiên Chúa dành cho con người khởi đi từ công trình sáng tạo của Người :
Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo
muôn trăng sao Chúa đã an bài,
thì con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến,
phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm?
(Tv 8, 4-5)
Chim sẻ rẻ tiền như thế, nhưng vẫn không bị loại bỏ khỏi sự quan tâm yêu thương của Chúa Cha, trong khi chúng ta được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và được tái sinh trong Máu Đức Ki-tô để trở nên con Thiên Chúa, vì thế, Người quí trọng từng « sợi tóc » trên đầu của chúng ta. Chứng kiến từng sợi tóc rụng theo năm tháng, nhất là khi đến tuổi trung niên, thay vì sợ hãi, chúng ta được mời gọi tín thác nơi Thiên Chúa « muôn ngàn đời vẫn trọn tình thương ».
Vì thế, không có gì tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa, được thể hiện nơi Đức Ki-tô, dù cho đó là “gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?… là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác” (Rm 8, 35-39). Chính tình yêu Thiên Chúa cuốn hút con tim và làm cho người môn đệ “tuyên bố Thầy trước mặt thiên hạ”, nghĩa là sống tương quan thiết thân với Người trong mọi nơi mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh.
Khi bắt đầu nói về sự bách hại, Đức Giê-su mời gọi người môn đệ: “Vậy anh em phải khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu” (c. 16). Chúng ta chỉ có thể hiểu đúng lời mời gọi này khi chiêm ngắm Mầu Nhiệm Thương Khó của Đức Ki-tô, để nhận ra Khuôn Mặt của Đức Ki-tô chịu đóng, rạng ngời sự đơn sơ và khôn ngoan của Thiên Chúa và để cho con tim chúng ta được chinh phục.
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
Suy niệm 4:
Trong bài Tin Mừng hôm qua, Đức Giêsu nhắc chúng ta đừng lo (c.19).
Hôm nay ba lần Ngài nhắc chúng ta đừng sợ kẻ bách hại (cc. 26. 28.31).
Cuộc sống con người bị trói buộc bởi những nỗi sợ,
có lý và vô lý, đến từ bên ngoài hay từ bên trong trái tim.
Càng văn minh con người càng có nhiều nỗi sợ mới.
Nỗi sợ làm người ta mất tự do, mất bình an, mất vui…
“Đừng sợ” là điệp khúc trấn an được Đức Giêsu nhắc lại nhiều lần.
Đừng sợ, Simon, khi Thầy gọi anh đi theo (Lc 5, 10).
Đừng sợ khi Thầy đi trên mặt nước mà đến (Mt 14, 27).
Đừng sợ sau khi thấy Thầy được biến hình (Mt 17, 7).
Đừng sợ, Giairô, dù con gái ông đã chết (Mc 5, 36).
Đừng sợ, hỡi các phụ nữ, khi gặp Thầy phục sinh (Mt 28, 10).
Nỗi sợ có vẻ gắn liền với phận người mong manh.
Nhưng Đức Giêsu muốn giải phóng chúng ta khỏi mọi nỗi sợ.
Có người môn đệ sợ bị mất mạng, đến nỗi không dám rao giảng,
không dám tuyên nhận Thầy trước mặt người đời.
Đức Giêsu mời các môn đệ nói công khai giữa ban ngày, trên mái nhà,
điều mình nghe Thầy thì thầm trong đêm khuya (c. 27).
Họ không được giữ riêng cho mình điều đã lãnh nhận.
Đừng sợ cái giá phải trả cho việc rao giảng, làm chứng cho Thầy,
vì có điều gì còn quý hơn cả sự sống thân xác nữa (c. 28).
Trong Vườn Dầu, Đức Giêsu cũng sợ chết, vì Ngài còn quá trẻ.
Nhưng Ngài đã không để cho nỗi sợ thắng mình,
khi dám nói tiếng xin vâng, buông đời mình trong tay Cha.
Cha lo cho cả những sinh vật bé nhỏ, tưởng như vô giá trị.
Chim sẻ là thức ăn rẻ tiền nhất vào thời Đức Giêsu.
Tiền lương một ngày mua được ba chục con chim sẻ.
“Thế mà không một con nào rơi xuống đất ngoài ý Cha” (c. 29).
Cả đến sợi tóc của trên đầu chúng ta cũng được Thiên Chúa đếm (c. 30).
Dù một sợi cũng được Thiên Chúa giữ gìn (Lc 21, 18).
Chính vì thế người Kitô hữu được giải phóng khỏi những nỗi sợ đeo đẳng.
Họ chẳng còn sợ ai, ngoài Thiên Chúa.
Vấn đề không phải là trở nên vô cảm, không biết sợ là gì.
Nhưng là biết sợ ai.
“Mày cùng chịu một án phạt mà không biết sợ Thiên Chúa ư?”
Anh trộm lành đã nói với người kia như vậy (Lc 23, 40).
Xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi những nỗi sợ vu vơ,
để chúng ta được tự do, biết lo điều phải lo, biết sợ điều phải sợ.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con dám hành động
theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.
Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện,
vì xác tín rằng
Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con,
Chúa ngàn lần quảng đại hơn con,
và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.
Lạy Chúa Giêsu trên thập giá,
xin cho con dám liều theo Chúa
mà không tính toán thiệt hơn,
anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ,
can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim,
và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.
Ước gì khi dâng lên Chúa
những hy sinh làm cho tim con rướm máu,
con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt
của người một lòng theo Chúa.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
- 14/07 Số phận người môn đệ Chúa
- 13/07 Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không
- 12/07 Chọn gọi 12 tông đồ
- 11/07 Cánh đồng truyền giáo
- 10/07 Lòng tin chữa lành
- 09/07 Mang lấy ách của Chúa
- 08/07 Ăn chay đẹp lòng Chúa
- 07/07 Kêu gọi người thu thuế Mátthêu
- 06/07 Con Người có quyền tha tội
- 05/07 Chúa chữa 2 người bị quỉ ám