Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
31/07 Hạt cải và nắm men
- Viết bởi Mt 13, 31-35
Hạt cải và nắm men.
Thứ hai tuần 17 thường niên – Thánh I-nha-xi-ô Lôi-ô-la, linh mục. Lễ nhớ.
"Nước trời giống như hạt cải người kia gieo trong ruộng mình”
* Sinh năm 1491 tại Lôiôla miền Can-ta-bơ-ri-a. Lúc còn thanh niên, Inhaxiô theo binh nghiệp, phục vụ trong triều đình. Khi đã trở lại, người học thần học ở Pari. Tại đây, cùng với mấy người bạn, người đã sáng lập dòng Chúa Giêsu, thường gọi tắt là Dòng Tên (1534). Nhưng chính tại Rôma, người nỗ lực làm cho dòng lan rộng khắp châu Âu và hăng hái truyền giáo, nêu gương phục vụ Hội Thánh, hết lòng tuân phục Đức Giáo Hoàng. Phương pháp linh thao của người vạch ra một con đường cho ai muốn hiến thân để làm cho vinh quang Thiên Chúa ngày một sáng ngời hơn. Người qua đời ở Rôma năm 1556.
Thánh Phêrô Đoàn Công Quý và Emmanuel Lê Văn Phụng (Giáo Phận Long Xuyên được mừng trọng thể)
Trong tù hai đấng đã chịu nhiều cực hình với một đức tin sắt đá. Ngày 30/7/1859, án tử hình của các ngài được gửi từ kinh về tới Châu Đốc. Hai ngài đã hiên ngang đổ máu đào để nên chứng nhân nước Trời vào ngày 31/7/1859.
Đức Thánh Cha Piô X đã tôn phong ngài lên bậc Chân Phước ngày 02/5/1909. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tôn phong Hiển Thánh ngày 19/6/1988.
Lời Chúa: Mt 13, 31-35
Khi ấy, Chúa Giêsu phán một dụ ngôn khác cùng dân chúng rằng: "Nước trời giống như hạt cải người kia gieo trong ruộng mình. Hạt ấy bé nhỏ hơn mọi thứ hạt giống, nhưng khi mọc lên, thì lớn hơn mọi thứ rau cỏ, rồi thành cây, đến nỗi chim trời đến nương náu nơi ngành nó".
Người lại nói với họ một dụ ngôn khác nữa mà rằng: "Nước trời giống như nắm men người đàn bà kia lấy đem trộn vào ba đấu bột, cho đến khi bột dậy men".
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn mà phán những điều ấy với dân chúng. Người không phán điều gì với họ mà không dùng dụ ngôn, để ứng nghiệm lời tiên tri đã chép rằng: "Ta sẽ mở miệng nói lời dụ ngôn: Ta sẽ tỏ ra những điều bí nhiệm từ lúc dựng nên thế gian".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Hạt Cải, Nắm Men
Dụ ngôn hạt cải và nắm men trong Tin Mừng hôm nay đều nhấn mạnh đến sự bất tương xứng của thời kỳ đầu của Nước Trời và của thời kỳ kết thúc. Dụ ngôn hạt cải nói đến sự tăng trưởng của Nước Trời theo chiều rộng, còn dụ ngôn nắm men trong bột ám chỉ chiều sâu, tức là sự biến đổi bên trong. Cũng như cây cải nhỏ bé thường thấy ở miền giáp hồ Tibêria có thể cao tới ba thước, Nước Trời cũng bắt đầu hiện diện từ thời kỳ truyền giáo của Chúa Giêsu và của Giáo Hội tiên khởi trong sự khó nghèo và thiếu thốn. Và đó là giáo huấn nền tảng của dụ ngôn hạt cải và nắm men.
Dựa vào những hình ảnh này, Chúa Giêsu cho thấy kiểu cách truyền giáo của Ngài không phù hợp với những chờ đợi của người Do thái, nghĩa là Nước Trời đến trong thầm lặng, như Chúa Giêsu đã nói: "Nước Thiên Chúa ở giữa các ngươi". Bởi vì thánh sử viết Phúc Âm sau thời kỳ truyền giáo của Chúa Giêsu trên đất Palestin, chúng ta có thể thấy ngay sự bành trướng đầu của Nước Trời và của Tin Mừng nơi các cộng đoàn Kitô tiên khởi. Thánh sử nói rõ: trên cành cây cải, chim trời có thể đến trú ngụ, điều này ám chỉ các dân ngoại được kết nạp vào Giáo Hội do Chúa Giêsu sáng lập.
Dụ ngôn men trong bột, một nắm men có thể làm dậy cả khối bột. Ý nghĩa và bài học của dụ ngôn này đi song song với dụ ngôn hạt cải. Men Nước Trời tức ơn thánh, dù ngấm ngầm, nhưng hiệu nghiệm nơi tâm hồn con người và trong sứ điệp của Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu đã nói rõ về sức mạnh của men Nước Trời. Ngài không đến theo kiểu cách lôi kéo sự chú ý của con người. "Nước Thiên Chúa ở giữa các ngươi". Trong cử hành Thánh Lễ, Lời Chúa và Mình Chúa như men có sức làm lớn lên và biến đổi tâm hồn con người. Ai biết lãnh nhận với tâm hồn ngay thẳng, người đó sẽ được biến đổi nên giống Chúa Giêsu.
Chúng ta hãy cầu xin cho Dân Chúa tức là Giáo Hội trở nên dấu chỉ của hạt giống và men của Nước Trời trong thế gian này, cho tới ngày Nước Chúa được hoàn tất trong vinh quang.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Một thân thể có tầm vóc Thiên Chúa.
Đức Giêsu còn trình bày cho họ nghe một dụ ngôn khác. Người nói: “Nước Trời cũng giống như chuyện hạt cải người nọ lấy gieo vào ruộng mình. Tuy nó là loại nhỏ nhất trong tất cả hạt giống, nhưng khi lớn lên, thì lại là thứ lớn nhất; nó trở thành cây, đến nỗi chim trời tới làm tổ trên cành được.” (Mt. 13, 31-33)
Hai dụ ngôn này (dụ ngôn hạt cải và nắm men) tóm tắt tất cả lịch sử cuộc đời và sứ điệp Đức Giêsu! sẽ là lầm lạc khi kêu gào cho chủ nghĩa chiến thắng, hoặc hiểu rằng dụ ngôn này chỉ áp dụng cho đời sống thiêng liêng của ta thôi. Khi nói về “Nước Thiên Chúa” Chúa Giêsu không nghĩ đến cá nhân nào, mà chỉ nhìn thân thể mầu nhiệm của Người trong tất cả quá trình khổ nạn và phục sinh, một thân thể ấy không ngừng lớn lên và phát triển.
Thân thể mầu nhiệm.
Thân thể ấy sẽ trải qua những cơn khủng hoảng, tất cả những cơn khủng hoảng của sự phát triển như những nổi loạn để tỏ tính độc lập tự chủ, những cơn bừng dậy của tuổi trưởng thành mà lại phủ nhận mình trưởng thành, không dám nhận trách nhiệm, từ chối cả những niềm vui của tuổi ấy.
Một thoáng nhớ lại lịch sử Giáo hội như thế, cho ta thấy rõ rằng tất cả chúng ta là Nước Thiên Chúa. Khi khẳng định như vậy, thiết tưởng ta không nên kết án lời cự tuyệt mạnh mẽ của những người khác, là tự kiêu tự đại về ưu thế, về chủng tộc được tuyển chọn của họ. Có lẽ đó chỉ là thái độ của một số cá nhân thôi, chứ không phải là giáo huấn của Chúa Giêsu.
Cây mà “Chim trời tới làm tổ trên cành được” Cây ấy đón nhận mọi loài chim chóc, không hề có sự phân biệt, vì cây không loại trừ một con chim nào, nhưng che chở tất cả, là nơi có muôn mầu muôn vẻ thanh bình.
Hạt giống Phúc Âm ấy, nắm men bé nhỏ kia là Đức Kitô và Nước Trời chính là lẽ sống của ta, là nguyên lý cho ta tìm được hạnh phúc và tình yêu.
Hãy làm thành những tế bào của con người.
Một người hoàn toàn hiến thân cho Nước Thiên Chúa, để cho Nước ấy biến đổi, tái tạo mình, thì đúng là tấm men vùi trong môi trường người ấy sống và ảnh hưởng tốt đến môi trường ấy. Sức sống nơi người ấy tác động đến tất cả những người chung quanh. Không phải những biến cố lịch sử lớn lao mới có tác động mạnh mẽ đến đời sống con người, nhưng cả đến những sinh hoạt rất đời thường vẫn diễn ra hằng ngày cũng khiến chúng ta cảm nhận được sức sống này. Khi một người có trái tim đầy tràn yêu thương thì tình yêu của người ấy luôn bộc lộ và tỏa làn sang người khác vậy.
Suy niệm 2
Hội nhập văn hóa là việc mà nhà truyền giáo thời nay quan tâm.
Làm sao đưa Tin Mừng vào nền văn hóa của người bản xứ ?
Làm sao đưa những nét đẹp của nền văn hóa bản xứ vào việc sống Tin Mừng?
Làm sao để Kitô giáo vừa mang nét mới mẻ của ơn cứu độ có tính phổ quát,
vừa mang tinh túy của từng vùng, từng nền văn hóa, tôn giáo, xã hội ?
Đó là một nỗ lực đòi hỏi nhiều thời gian, trí tuệ và tình yêu.
Nhân dịp kỷ niệm 400 năm ngày qua đời của cha Matteo Ricci (1552-1610),
Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI đã đề cao gương của vị tu sĩ Dòng Tên này.
Với thiện cảm sâu xa đối với văn hóa và tôn giáo của người Trung Hoa,
cha Matteo đã đem Tin Mừng đến để bổ sung những truyền thống tốt đẹp.
Cha hiểu biết về Khổng giáo như một nho gia uyên thâm,
và chấp nhận việc cúi mình để tôn kính Khổng Tử và các bậc tổ tiên.
Dùng kiến thức về khoa học của mình để phục vụ,
Cha là người vẽ bản đồ thế giới đầu tiên với nước Trung Hoa nằm ở giữa.
Mười năm cuối đời sống ở Bắc Kinh, cha viết sách biện giáo,
quen biết với nhiều học giả trong triều đình và đưa họ vào Kitô giáo.
Cách truyền giáo của cha Matteo khiến ta nghĩ đến dụ ngôn men và bột.
Người phụ nữ đã trộn men vào một lượng bột rất lớn.
Ba đấu bột bằng khoảng 50 ký bột, làm bánh đủ cho cả trăm người ăn.
Điều đáng ta để ý ở đây là chuyện trộn men vào bột.
Một lượng men nhỏ được người phụ nữ trộn đều với khối bột lớn.
Đây là một công việc vất vả, làm bằng tay.
Khi được trộn nhuyễn, ta không còn phân biệt được men với bột
ui trình lên men đòi hỏi thời gian.
Men phát huy sức mạnh tiềm ẩn của nó, khi làm cả khối bột lên men, nở ra.
Bấy giờ ta mới nhận ra sự hiện diện ẩn dấu và tác động của men trong bột.
Khi ăn những tấm bánh thơm, chẳng ai thấy men, vì men đã thành bánh rồi.
Nhưng không có men thì cũng chẳng có bánh.
Đức Giêsu dùng dụ ngôn này để nói về Nước Trời.
Khởi đầu chỉ là một số lượng nhỏ bé,
nhưng với thời gian sẽ gây được một ảnh hưởng lớn lao và tốt lành.
Tỷ lệ người Công giáo tại Việt Nam không đông, một lượng men nhỏ.
Nhưng nếu chúng ta khiêm tốn có mặt và phục vụ giữa lòng dân tộc,
tôn trọng những giá trị văn hóa và tâm linh của đồng bào,
chúng ta có hy vọng làm cho khuôn mặt của Công giáo
trở nên phong phú hơn, dễ mến hơn và hấp dẫn hơn.
Phải chấp nhận như men bị chôn vùi, biến mất trong đống bột.
Phải có mặt ở mọi nơi, mọi ngành nghề, mọi lãnh vực nghiên cứu.
Nếu chúng ta chẳng làm cho đất nước này thành tấm bánh thơm ngon,
nếu môi trường chúng ta đang sống, đang làm việc chẳng có gì tiến bộ,
chẳng công bằng hơn, huynh đệ hơn, hạnh phúc hơn, trong sạch hơn…
thì có khi chúng ta phải tự hỏi xem mình có còn là thứ men tốt không.
Lời nguyện
Lạy Chúa GiêSu, vị tử đạo tuyệt vời
Chúa đưa chúng con vào thế giằng co liên tục.
Chúa vừa chọn chúng on ra khỏi trần gian
lại vừa sai chúng con vào trong thế gian đó
Thế gian này vàng thau lẫn lộn
Có khi vàng chỉ là lớp mạ bên ngoài
Xin cho chúng con giữ được bản lãnh của mình,
giữ được vị mặn của muối,
và sức tác động của men,
để đem đến cho thế gian
một linh hồn, một sức sống.
Chúng con chẳng sợ mình bỏ đạo,
chỉ sợ mình bỏ sống đạo
vì bị quyến rũ bởi bao thú vui trần thế.
Xin cho chúng con đừng bao giờ quên rằng
chúng con mang dòng máu của các vị tử đạo,
những người đã đặt Chúa lên trên mạng sống.
Lạy Chúa GiêSu, nếu thế gian ghét chúng con,
thì xin cho chúng con cảm thấy nềim vui
của người được diễm phúc nên giống Chúa. Amen
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Tinh thần đồng trách nhiệm.
31/07 – Thứ hai tuần 17 thường niên – Thánh Phêrô Đoàn Công Quí và thánh Emmanuel Lê Văn Phụng. Lễ nhớ.
"Ai mất mạng sống mình vì Ta, sẽ được sống".
* Thánh Phêrô Đoàn Công Quí
Ngài là con của ông Antôn Đoàn Công Miêng và bà Anê Nguyễn Thị Trường, sinh năm 1826, tại họ đạo Búng, Thủ Dầu Một ( Bình Dương).
Ngay từ nhỏ, cậu Phêrô đã có lòng ước ao dâng mình cho Chúa. Sau khi đã nhập vào Đại Chủng Viện Thánh Giuse (Thị Nghè), Thầy Phêrô được gởi đi tu học tại đại chủng viện Thừa Sai Paris ở Pénang (Malaysia), năm 1848; hoàn tất chương trình đào tạo, trở về quê hương vào ngày 11/04/1855. Lúc bấy giờ các vua triều Nguyễn, nhất là vua Tự Đức, đang cấm đạo rất gắt gao. Vào tháng 9 năm 1858, Thầy được chịu chức một cách âm thầm tại Thủ Dầu Một; sau đó, được cử đi phục vụ tại các giáo xứ Lái Thiêu, Gia Định, Kiến Hòa, làm Cha Phó họ đạo Cái Mơn (Vĩnh Long), và là Cha Sở họ đạo Đầu Nước (Cù Lao Giêng, An Giang), từ ngày 27/12/1858, trú ngụ tại nhà ông câu Emmanuel Lê Văn Phụng.
Cùng với lòng nhiệt thành tông đồ, hăng hái phục vụ bổn đạo, Cha còn có lòng yêu mến Đức Mẹ một cách đặc biệt. Nhờ có tài hát xướng, Cha đã sáng tác những bài thánh ca để phổ biến lòng tôn sùng Đức Mẹ. Ngoài ra, Cha luôn khao khát tử đạo để làm chứng cho Chúa. Bất cứ khi nào, bất cứ nơi đâu, khi có dịp là cha sẵn sàng dâng hiến mạng sống, để làm chứng cho Chúa. Và Cha đã thực hiện được ý nguyện khi được Bề Trên cử về Cù Lao Giêng làm Cha Sở.
Về nhiệm sở mới được 10 ngày, Cha bị bắt cùng với ông Câu Emmanuel Lê Văn Phụng, và 32 giáo dân khác, vào ngày 07/01/1859 và bị giam giữ tại nhà tù Châu Đốc cho đến ngày 31/07/1859.
Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng
Ngài sinh năm 1796, tại họ đạo Đầu Nước (Cù Lao Giêng), làng Tấn Đức, tổng An Bình, tỉnh An Giang, thuộc Trấn Châu Đốc.
Là một gia đình gương mẫu, cùng với vợ là bà Anna Của, ông đã nuôi dạy 9 người con và 2 người con nuôi nên những người đạo đức, tốt lành. Với lòng bác ái cao quý, ông thường chia sẻ, giúp đỡ những người nghèo khổ, túng thiếu,… nhất là trong thời dịch bệnh và ngay cả khi bị giam tù ở Châu Đốc.
Với tinh thần tông đồ cao, ông hăng say hy sinh, phụng sự Chúa và phục vụ anh em. Trong thời gian cấm đạo rất gắt gao, ông vẫn âm thầm dâng đất cất nhà thờ, chủng viện và nhà các dì phước. Trong nhà ông, thường xuyên có các linh mục trú ngụ. Có thời gian, có 5 linh mục cùng một lúc; trong đó có các vị thừa sai nước ngoài (Tây dương đạo trưởng).
Ngoài ra, ông còn có tài ngoại giao rất đặc biệt. Ông có mối quan hệ rất tốt với chính quyền địa phương, cụ thể là Quan Huyện. Nhờ đó, mà giáo dân Cù Lao Giêng vẫn được an bình trong thời điểm cấm đạo rất khó khăn.
Vì có người tố cáo, ngày 07 tháng 01 năm 1859, Ông bị bắt cùng với cha Phêrô Đoàn Công Quí và 32 giáo dân khác. Các ngài bị điệu về Châu Đốc giam giữ.
Gương sáng tử đạo
Trong suốt 7 tháng trời, Tổng trấn và quan quân Triều đình ra sức dụ dỗ Cha Phêrô và ông Emmanuel bỏ đạo, để được thăng quan, tiến chức và tưởng thưởng. Nhưng các ngài vẫn một mực yêu mến Đức Kitô, nhiệt tình với Tin Mừng Phúc âm và trung thành với Giáo Hội.
Không thuyết phục được, Tổng Trấn gởi sớ về triều đình xin án lệnh. Vua Tự Đức châu phê và gởi về Châu Đốc ngày 30/07/1859. Ngày hôm sau, 31/07/1859, tại Bến Chà Và (Bến Cây Mét), các ngài đã hiến dâng mạng sống để làm chứng cho Đức Kitô và Tin Mừng Phúc âm.
Để tuyên dương công trạng, nhân đức và tinh thần tông đồ đầy nhiệt huyết, vào ngày 02/05/1909, Đức Giáo Hoàng Piô X đã tôn phong các ngài lên bậc Chân phước (Á thánh).
Sau đó, vào ngày 19/06/1988, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nâng các ngài lên bậc Hiển Thánh cùng với 115 vị tử đạo khác tại Việt Nam.
Các ngài đã nêu gương sáng về Đức Tin kiên vững, Đức Mến nồng nàn, Đức Cậy vững vàng, nhất là lòng nhiệt thành loan báo cho mọi người Tin Mừng tình yêu và ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Đây còn là mẫu gương sống động về tinh thần đồng trách nhiệm giữa linh mục và giáo dân, giữa Cha sở và Hội Đồng mục vụ giáo xứ mọi thời và mọi nơi.
Cũng còn đúng với đường hướng xây dựng giáo phận theo mô hình của một Hội Thánh tham gia và hiệp thông trong tinh thần đồng trách nhiệm.
Lời Chúa: Lc 9, 23-26
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng mọi người rằng: "Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày và theo Ta. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất nó; còn ai mất mạng sống mình vì Ta, sẽ được sống. Vậy nếu con người được lời lãi cả thế gian mà phải thua thiệt và mất mạng sống mình, thì được ích gì? Bởi lẽ kẻ nào hổ thẹn vì Ta và vì lời Ta, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn khi họ đến trước tôn nhan Ngài, tôn nhan Chúa Cha và các Thiên Thần".
Suy Niệm 1: Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng: chứng nhân đời thường của Đức Kitô
Lúc sinh thời, thánh Emmanuel Lê Văn Phụng giữ chức Lý trưởng, là chức thứ nhì trong làng. Vì thế, ngài được gọi là ông Lý Phụng. Đồng thời, ngài coi sóc việc đạo cho cả phủ nội tỉnh An Giang (Châu Đốc), gọi là Câu Phủ; cho nên, người đương thời cũng quen gọi ngài là Ông Câu Phụng. Với những chức vụ đạo, đời khá quan trọng như thế, ngài đã làm việc hết mình để đem lại hạnh phúc cho mọi người. Cuộc đời của thánh nhân có những nét đặc biệt sau đây.
Trước hết, là một tín hữu ngoan đạo, ngài luôn luôn tỏ ra là một gia trưởng gương mẫu. Dù rất bận chuyện làng-xã và họ đạo, thế nhưng, cùng với người vợ rất đảm đang là bà Anna Của, ngài đã nỗ lực sinh dưỡng, dạy dỗ một cách tốt đẹp tất cả 9 người con, năm trai, bốn gái, ngoài ra còn có hai người con nuôi cũng được ngài đùm bọc, cưu mang, giáo dục đầy đủ. Ngài quan tâm đặc biệt đến vấn đề giáo lý, đạo đức, học hành của con cái. Ngài lưu ý chỉ dạy cách ăn nết ở theo luân thường, đạo lý từ ngàn xưa. Thật là gia đình đầm ấm, hạnh phúc. Điều đó đã được các linh mục lưu trú trong nhà khẳng định và ca ngợi.
Thứ đến, ngài có một tinh thần tông đồ rất nhiệt thành, hăng hái. Với tư cách là người đứng đầu trong họ đạo, ngài luôn luôn sống hết mình với Thiên Chúa, với Hội Thánh và với bà con bổn đạo, ngài rất hăng say trong việc mở mang Nước Chúa, cho dù phải gặp nhiều khó khăn, gian nan, thử thách.
Trong thời gian cấm đạo gắt gao nhất, ngài vẫn âm thầm dâng hiến đất đai, xây dựng nhà thờ, nhà xứ và nhà các nữ tu. Mái ấm của ngài là nơi lưu trú thường xuyên của các linh mục, kể cả các vị thừa sai nước ngoài.. sinh hoạt đạo đức của họ đạo, với các lễ nghi phụng vụ, với các bí tích được trao ban đều đặn, hầu như luôn luôn được diễn biến bình thường, là nhờ ở sự khôn khéo và tài đức của ngài.
Đồng thời, nhờ lòng đạo đức sâu sắc và sự am hiểu giáo lý một cách vững vàng, ngài đã được Bề trên chọn làm giảng viên giáo lý của họ đạo Cù Lao Giêng, và sau đó, của cả tỉnh An Giang. Với vai trò đặc biệt này, ngài ra sức dạy giáo lý cho các thiếu nhi, thanh niên và cả những người lớn tuổi. Ngài thường xuyên thăm hỏi, khuyên nhủ, giải thích và giúp đỡ những người khô khan, nguội lạnh trở về với Chúa. Ngài nhiệt tình lo lắng cho những người hấp hối, nguy tử được lãnh nhận các bí tích sau cùng, chuẩn bị chu đáo trước khi ra trình diện với Chúa.
Ngoài ra, lòng bác ái của ngài cũng là một nhân đức nổi trội. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, ngài vẫn tỏ ra tâm hồn nhân ái đặc biệt. Gặp thời dịch bệnh hoành hành, ngài đã sắm ghe, mua thuốc, phân phát, cứu giúp những người bệnh, cách riêng là những người nghèo khổ… trong thời gian tù đày, ngài cũng sẵn lòng chia sẻ những gì mình có cho các bạn tù, cho lính canh và cai tù… Ngay cả với kẻ thù, ngài cũng tỏ ra tấm lòng quảng đại, bao dung. Sở dĩ ngài bị bắt và bị giam giữ, cùng với cha sở Phêrô Quí là do hai tên bất lương tố cáo, hãm hại. thế nhưng, khi hai tên này đến xin bà vợ của ngài giúp đỡ tiền bạc, từ trong tù, ngài đã khuyến khích và yêu cầu bà thực hiện… Nhìn vào cung cách sống đó, tất cả mọi người đều thán phục người tông đồ của Chúa.
Sau cùng, với sự khôn khéo, tế nhị đặc biệt, với tinh thần trách nhiệm cao độ của người đứng đầu với những phương tiện vật chất mà Chúa trao ban, ngài đã xây dựng được những mối quan hệ tốt đẹp với tất cả những người chung quanh, kể cả quan quyền lúc bấy giờ. Ngài sẵn sàng hy sinh, dâng hiến những gì mình có để làm sáng danh Chúa, để loan báo Tin Mừng cho mọi người. Nhờ đó, mà ngài đã giúp cho họ đạo được bình yên, ngay cả trong thời buổi khó khăn nhất.
Và như thế, với tình yêu son sắt với Chúa và anh em, với sự trung tín kiên vững của người môn đệ, với niềm xác tín vào ơn cứu độ của thiên chúa, ngài đã hiến dâng mạng sống, để xứng đáng là sứ giả của Chúa Kitô tại quê hương thân yêu của ngài. Ngài đã trở nên một mẫu gương chứng nhân tiêu biểu của Đấng Cứu Thế cho đồng bào của ngài.
Noi gương của Thánh nhân, chúng ta hãy nỗ lực sống tin Mừng mỗi ngày trong cuộc sống đời thường, một cách cụ thể, thiết thực và hiệu quả.
Hãy sống trọn vẹn ơn gọi mà Chúa trao ban trong gia đình. Hãy là những người cha có trách nhiệm, người mẹ đảm đang, người con hiếu thảo để tạo bầu khí yêu thương, hạnh phúc trong mái ấm. những lời nói, cử chỉ, việc làm thắm đượm tình bác ái sẽ giúp đem lại bình an, niềm vui và hy vọng. Sự quan tâm, chăm sóc cho nhau sẽ đan dệt nên những tâm tình yêu thương, liên đới, chia sẻ, hy sinh và phục vụ…
Nên nhớ rằng, qua bí tích rửa tội, mỗi người đã lãnh nhận sứ mạng loan báo Tin Mừng cứu độ của Đức Ki-tô cho những anh em chung quanh. Trong hoàn cảnh hiện tại, chúng ta có thể chu toàn sứ mạng đó bằng đời sống gương mẫu của chúng ta qua nhữn việc làm cụ thể. Chính nhờ đời sống đầy tình yêu thương bác ái của chúng ta mà người ta có thể nhận ra Chúa, yêu mến Chúa, tin Chúa và đến với Chúa.
Ngoài ra, tinh thần tông đồ cũng mời gọi chúng ta nhiệt tình cộng tác với Đức Giám Mục giáo phận, với các linh mục phụ trách giáo xứ, với các thành phần dân Chúa, để giúp mọi người thăng tiến về mọi mặt, nhất là trưởng thành trong đức tin, đức cậy và đức mến. Hãy dùng tất cả những phương tiện mà Chúa trao ban, hãy biết chia sẻ những gì mình có, như: tài năng, thời giờ, sức khỏe, công ăn việc làm, tiền của vật chất… để làm vơi nhẹ những khổ đau, đem lại niềm an ủi, nâng đỡ tinh thần, tạo nên sự phấn khởi, lạc quan… cho những người đang gặp khó khăn, thử thách. Không ai nghèo túng đến nỗi không có gì để chia sẻ cho người khác. Một nụ cười tươi tắn, một sự đón tiếp niềm nở, một lời nói động viên hay một lời khen ngợi chân thành, một cái bắt tay thân tình, một sự giúp đỡ nho nhỏ… tất cả đều có một giá trị vô cùng lớn lao và cao quí. Tất cả đều là dấu chỉ chắc chắn loan báo hạnh phúc đích thực, sung mãn và vĩnh viễn của Nước trời. Sống được như thế, chúng ta sẽ là những chứng nhân đời thường của Đức Kitô, theo gương của thánh Emmanuel Lê Văn Phụng, và sẽ được chung hưởng hạnh phúc viên mãn với ngài, trong vinh quang Thiên Chúa.
Suy Niệm 2: Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng & thánh Phêrô Đoàn Công Quí: Tinh thần đồng trách nhiệm trong sứ mạng của Hội Thánh
(Đức cha Giuse Trần Xuân Tiếu 31-07-2010)
Thật tự hào cho giáo phận Long Xuyên, khi mô hình Hội thánh tham gia và hiệp thông trong tinh thần đồng trách nhiệm đã được thực hiện trước công đồng Vaticanô II cả trên 100 năm tại họ Đầu Nước, nay là Cù Lao Giêng, một trong những họ đạo cổ kính và điển hình của giáo phận, do cha sở họ đạo là linh mục Phêrô Đoàn Công Quí, và đại diện giáo dân là ông câu Emmanuel Lê Văn Phụng.
Thật vậy, cha sở Phêrô và ông câu Phụng đã thể hiện tinh thần đồng trách nhiệm trong sự cộng tác với nhau để điều hành sinh họat của họ Đầu Nước - Cù Lao Giêng. Đặc biệt là ông câu Phụng đã dâng hiến tài sản của gia đình mình cho Giáo Hội, để xây cất cơ sở vật chất như chủng viện, nhà dòng. Hơn nữa, cha sở Phêrô và ông câu Phụng đã thể hiện tinh thần đồng trách nhiệm bằng sự đoàn kết với nhau trong chức linh mục của Chúa Kitô, để mỗi người theo sứ mạng của mình, phục vụ nhiệm thể Chúa Kitô. Riêng ông câu Phụng đã biến gia đình mình trở thành một Hội thánh tại gia, nơi mà trong thời bách hại, hàng giáo sĩ thường lui tới để trú ngụ, để ẩn náu và thi hành tác vụ linh mục, cụ thể là cử hành các bí tích cho giáo dân trong vùng. Nhất là cha sở Phêrô cùng với ông câu Phụng đã thể hiện tinh thần đồng trách nhiệm bằng sự hiệp thông với cuộc khổ nạn của Chúa Kitô trong cuộc tử đạo của mình. Máu của hai thánh đã hòa trộn với Máu Thánh của Chúa Kitô, cùng thấm đẫm tại phần đất của vùng Châu Đốc, An Giang. Như vậy, sự cộng tác, sự đoàn kết và hiệp thông là những bài học cho giáo phận Long Xuyên, cho hàng giáo sĩ cũng như giáo dân, về tinh thần đồng trách nhiệm được biểu hiện từ cuộc đời và cuộc khổ nạn của hai thánh Quí - Phụng.
Thực ra, không phải là do hai thánh Quí - Phụng, cũng không phải là do công đồng Vaticanô II đưa ra những bài học về tinh thần đồng trách nhiệm trong cộng đoàn Kitô hữu. Chính Chúa Kitô đã sống và đã dạy bài học này cho những người theo Chúa trong bầu khí của cộng đoàn các Tông đồ. Chúa đã muốn các ông cộng tác với nhau và với mọi người nên sai các ông đi từng hai người một. Chúa muốn các ông đoàn kết với nhau và với mọi người nên đề ra chương trình hành động chung là làm chứng và loan báo Tin mừng bình an. Và Chúa muốn các ông hiệp thông với nhau và với mọi người trong lý tưởng của Mầu nhiệm Nước Thiên Chúa.
Chúa Kitô đã dạy bài học tinh thần đồng trách nhiệm. Công đồng Vaticanô II và Liên Hội đồng Giám mục Á Châu trở về nguồn với tinh thần tham gia và hiệp thông. Như vậy, giáo phận Long Xuyên không có con đường nào khác ngoài con đường trở về xây dựng giáo phận thành một Hội thánh tham gia và hiệp thông trong tinh thần đồng trách nhiệm.
Sẽ rất hài lòng cho hai thánh tử đạo nếu giữa anh chị em và cha sở đã có những hợp tác chặt chẽ trong mục vụ, và đã có những nỗ lực giải quyết những chia rẽ, những bất hòa, để tránh tình trạng kình chống nhau trong họ đạo. Và ước mơ rằng họ đạo Cù Lao Giêng sẽ là nơi hành hương cấp giáo phận để tinh thần đồng trách nhiệm của hai đấng Thánh được suy tư, chiêm ngưỡng và được tiếp tục học hỏi như bài học cho các cộng đoàn Kitô hữu trong và ngoài giáo phận.
Xin hai thánh tử đạo là cha sở Phêrô và ông câu Phụng chúc lành cho chúng con, và tiếp tục giúp chúng con biết học bài học xây dựng Nước Thiên Chúa bằng tinh thần đồng trách nhiệm. Amen.
30/07 Kho tàng – Viên ngọc quý – Lưới cá
- Viết bởi Mt 13, 44-52
Kho tàng – Viên ngọc quý – Lưới cá.
Chúa Nhật 17 thường niên năm A.
"Anh bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng đó".
Lời Chúa: Mt 13, 44-52
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Nước trời giống như kho tàng chôn giấu trong ruộng, người kia tìm được, vội chôn vùi xuống, vui mừng trở về bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng ấy.
Nước trời cũng giống như người buôn nọ đi tìm ngọc quý. Tìm được một viên ngọc quý, anh về bán mọi của cải mà mua viên ngọc ấy.
"Nước trời lại giống như lưới thả dưới biển, bắt được mọi thứ cá. Lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi đó mà lựa chọn: cá tốt thì bỏ vào giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài. Trong ngày tận thế cũng vậy: các thiên thần sẽ đến mà tách biệt kẻ dữ ra khỏi người lành, rồi ném những kẻ dữ vào lò lửa, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng. Các ngươi có hiểu những điều đó không?" Họ thưa rằng: "Có".
Người liền bảo họ: "Bởi thế, những thầy thông giáo am tường về Nước trời cũng giống như chủ nhà kia, hay lợi dụng những cái mới, cũ trong kho mình".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 17 THƯỜNG NIÊN - A
Lời Chúa: 1V. 3, 5.7-12; Rm. 8, 28-30; Mt. 13, 44-52
1. Kho tàng
Có một cha phó tại một họ đạo hẻo lánh rất say mê việc thám hiểm và nghiên cứu những di tích cổ còn sót lại trong các hang núi. Ngày kia, ngài đi với một em bé chăn cừu vào trong một hang núi, với chiếc đèn pin và mấy cây nến. Len lỏi giữa những vách đá, ngài đi vào, đi vào xa hơn nữa. Rồi bất chợt dưới ánh nến lung linh, ngài nhìn thấy những nét vẽ trên thành hang. Rồi xa hơn nữa, ngài thấy được những mảnh xương, dấu vết của con người đã sống tại đây hàng ngàn năm về trước. Bốn giờ sáng chuông nhất. Giáo dân chờ đợi và lo lắng. Rốt cuộc ngài đã trở về vào ban chiều. Cả một đêm thích thú và kinh ngạc giữa sự thinh lặng của hàng ngàn năm. Nhưng đây mới chỉ là một bước đầu. Suốt 50 năm kế tiếp, ngài đã hăng say theo đuổi công trình nghiên cứu, sao lại những bức tranh trên đá. Ngài đã trở thành một nhà chuyên môn về cổ sinh vật học, được mời dạy tại nhiều viện đại học. Từ tìm tòi này đến tìm tòi khác, ngài luôn luôn đi xa hơn.
Từ câu chuyện này, chúng ta đi vào dụ ngôn của lời Chúa. Có một bác nông phu nghèo, được chủ sai đi cày ruộng, trong lúc cày thì đất nẻ ra, con bò bị sụp xuống và gẫy mất một chân. Bác muốn kéo chân con bò lên thì chính lúc bấy giờ, mắt bác mở ra, bác đã nhìn thấy một kho tàng quý giá. Bác vui mừng lấp lại kho tàng rồi hối hả về nhà bán tất cả những gì bác có để mua thửa ruộng.
Cái tâm tình mà chúng ta dừng lại để suy nghĩ, đó là cái tâm tình vui mừng. Bác nông phu thực sự bị chấn động rụng rời tay chân vì sự khám phá của mình. Chúng ta thử tưởng tượng một chút, đây là một kho tàng quý giá. Cái tài sản nhỏ bé của bác sẽ chẳng thấm thía vào đâu. Bác sẽ bán hết, bác không có cảm tưởng nghèo đi, từ bỏ và mất mát, song trái lại là đàng khác, bác sẽ được cả kho tàng. Điều quan trọng của câu chuyện đó là cái bỡ ngỡ, mê man và sửng sốt của người gặp được kho tàng.
Thế nhưng, đối với chúng ta kho tàng quý giá ấy là gì? Tôi xin thưa đó là Tin Mừng Phúc Âm, hay nói cách khác đó chính là Đức Kitô. Chúng ta có vui mừng vì đã khám phá ra Ngài, vì đã tưởng nhớ đến Ngài hay không? Chúng ta có cố gắng để chiếm lấy Ngài, để được sống gắn bó mật thiết trong tình thương yêu của Ngài hay không? Chúng ta phải luôn mơ ước mua được thửa ruộng với sự ngạc nhiên khác thường và không ngừng làm tăng giá trị kho tàng có một không hai ấy. Không gì làm nản chí. Không gì làm chúng ta thoả mãn bởi vì chúng ta chờ đợi và mong muốn được gặp gỡ với Ngài. Cũng như cha phó tìm thấy cái hang núi bí mật. Cũng như bác nông phu khám phá ra kho tàng quý giá, đã dám đánh đổi cuộc đời và sản nghiệp của mình. Chúng ta cũng vậy. Đức Kitô, kho tàng quý giá như luôn hối thúc và lôi cuốn chúng ta ra khỏi cuộc sống tầm thường và nghèo nàn của mình. Thế nhưng chúng ta có đủ can đảm để dám liều, dám hy sinh, dám đánh đổi tất cả cho Ngài hay không?
2. Kho báu
Có một vị đạo sĩ Ấn Độ đang ngồi tịnh niệm bên bờ sông, thì một người đàn ông giàu sang đến xin làm đệ tử. Ông rón rén đến bên vị đạo sĩ và đặt dưới chân nhà tu hành hai viên ngọc quý nhất để làm lễ ra mắt. Vị đạo sĩ không cần nhìn kỹ vào món quà, cầm lấy một viên ngọc và ném xuống dòng sông. Vì tiếc của, người đàn ông bèn lặn xuống để tìm lại cho bằng được viên ngọc. Nhưng lặn suốt cả một ngày mà cũng không tài nào tìm thấy.
Chiều đến, vừa mệt mỏi vừa chán chường, người đàn ông mon men đến gần vị đạo sĩ và năn nỉ: Ngài là người ném viên ngọc xuống dòng sông, xin ngài hãy chỉ cho biết chỗ nào để tôi lặn xuống hầu tìm lại. Vị đạo sĩ liền cầm lấy viên ngọc thứ hai và ném xuống dòng sông rồi nói: Đó, ta ném vào chỗ đó. Ngươi hãy lặn xuống mà tìm.
Cử chỉ của vị đạo sĩ biểu lộ một đòi hỏi gắt gao đối với những ai muốn xuất gia tu hành, đó là họ phải từ bỏ tất cả. Chúa Giêsu cũng đòi hỏi chúng ta một sự từ bỏ như vậy. Và chính Ngài đã thực hiện trước để chúng ta noi gương Ngài mà bắt chước. Con đường Ngài đi cũng là con đường của chúng ta, những người muốn bước theo Ngài. Chỉ có con đường ấy, chỉ có cuộc sống ấy và chỉ có cái chết ấy mới dẫn chúng ta tới cõi phúc trường sinh. Tất cả những ý tưởng trên đã được Ngài gói ghém qua đoạn Tin Mừng hôm nay với hai hình ảnh: kho tàng, viên ngọc. Hai hình ảnh trên có chung một kết luận, đó là anh lái buôn và bác nông phu, cả hai đều bán mọi sự mình có để mua thửa ruộng và viên ngọc.
Người đón nhận Nước Trời cũng cần phải từ bỏ nếp sống cũ để sống đời sống mới trong sự kết hợp với Chúa, cũng cần phải dấn thân để chiếm lấy Nước Trời, bởi vì được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích lợi chi. Còn đối với chúng ta thì sao. Liệu chúng ta có dám liều, dám hy sinh tất cả để chiếm lấy Nước Trời? Hay chúng ta lại phản ứng như chàng thanh niên giàu có: chần chừ, so đo tính toán rồi lầm lũi cúi mặt bỏ đi. Anh không dám bán những gì anh sở hữu mà làm phúc bố thí cho người nghèo rồi bước theo Chúa. Anh không dám từ bỏ sự ổn định của cuộc sống hiện tại để đi theo Đấng mà không có lấy được một chỗ tựa đầu. Một cuộc phiêu lưu mạo hiểm hoàn toàn bấp bênh và vô định. Anh sợ rằng mình sẽ mất cả chì lẫn chài, cả vốn lẫn lãi.
Làm sao chúng ta có thể tin rằng Nước Trời là kho báu, là viên ngọc quý khi chúng ta vẫn còn bị giam hãm trong cái thế giới vật chất này, khi chúng ta còn quá quyến luyến và mắc míu vào tiền bạc, địa vị và lạc thú. Làm sao chúng ta có thể thoát ra khỏi cái cách thức đánh giá của người đời để cảm nghiệm được sự quý giá và siêu việt của Nước Trời.
3. Thế vận hội
Giả như Chúa Giêsu sống vào thời buổi hiện giờ, thì có lẽ đoạn Tin Mừng sáng hôm nay đã có những hình ảnh khác. Thay vì nói về tay lái buôn đã hy sinh tất cả để mua cho được viên ngọc quý, hay bác nông dân bán cả gia sản để mua miếng đất cất giấu kho tàng, thì Ngài sẽ nói về một lực sĩ bơi lội, đang tham dự thế vận hội, bởi vì anh ta cũng đã phải sẵn sàng hy sinh tất cả, chấp nhận một chế độ kiêng khem và tập luyện nghiêm khắc, với hy vọng chiếm được tấm huy chương vàng.
Tại sao tôi đưa ra hình ảnh của anh chàng lực sĩ, bởi vì anh ta cũng có một điểm chung với tay buôn ngọc hay bác nông dân; đó là cả ba đã sẵn sàng hy sinh tất cả cho một mục đích mà họ đã đặt ra ở phía trước.
Điểm chung này dẫn chúng ta tới ý muốn của Chúa. Đó là muốn trở nên công dân Nước Trời, chúng ta phải dấn thân triệt để, chứ không thể thực hiện mục đích ấy như một việc ngoài giờ, như một việc phụ thuộc hay như một việc có tính cách tiêu khiển. Chúng ta phải đầu tư, phải dấn thân vào đó 100%, phải xem đó như nỗi ưu tư số một của cuộc đời chúng ta. Người Kitô hữu phải giống như tay buôn ngọc, bác nông dân hay anh chàng lực sĩ, bởi vì nó đòi hỏi một sự dấn thân trọn vẹn.
Tuy nhiên, có một điểm khác biệt giữa người Kitô hữu và ba người kia, như thánh Phaolô đã diễn tả: Một vận động viên trong thời kỳ tập luyện phải tuân theo kỷ luật nghiêm khắc, chỉ để được khoác lên đầu một vòng hoa vinh quang chóng tàn lụi, còn chúng ta chịu gian khổ là để đoạt được vinh quang tồn tại muôn đời. Đó là điểm khác biệt chính yếu.
Viên ngọc của tay lái buôn, kho tàng của bác nông dân, tấm huy chương của anh chàng lực sĩ, chỉ có giá trị trong một thời gian ngắn, bởi vì khi giờ chết đến, tất cả sẽ chẳng còn giá trị gì nữa. Có chăng thì chỉ là một phần di sản, một vật lưu niệm cho người còn sống. Nhưng chúng ta, những Kitô hữu thì khác, khi chết đi thì cửa Nước Trời sẽ mở rộng để chờ đón chúng ta.
Như thế, chủ đích của đoạn Tin Mừng hôm nay thật là quan trọng, bởi vì không gì trên thế gian có thể chiếm vai trò ưu tiên hơn Nước Chúa và sự theo đuổi của chúng ta để đạt cho được nước ấy. Bởi vì khi chết, thì điều đáng kể không phải là chúng ta đã mua sắm được những gì khi còn sống, mà là chúng ta đã trở nên một con người như thế nào. Chúng ta đã yêu thương nhau chưa? Chúng ta đã tha thứ cho nhau chưa? Chúng ta đã giúp đỡ kẻ túng thiếu chưa. Chúng ta đã an ủi kẻ đau khổ chưa? Chúng ta đã dấn thân và trung thành với Chúa và với nhau hay chưa? Với sự trợ giúp của ơn Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ làm được điều ấy. Bởi vì nếu không làm được điều ấy, chúng ta sẽ làm cho Chúa, cho gia đình và những người thân yêu thất vọng. Còn bản thân chúng ta kể như đã thất bại, đã thua lỗ trắng tay mất rồi.
4. Hạnh phúc trong tầm tay
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Người ta kể rằng khi thư viện lớn nhất tại thành phố Alexandre bên Ai Cập bị đốt cháy, chỉ có một quyển sách còn nguyên vẹn. Nhìn bên ngoài thì đây chỉ là một quyển sách tầm thường như bao quyển sách khác. Nhưng có lẽ đây là quyển sách quí giá nhất thế giới, vì bìa lưng của nó chứa đựng bí mật về một viên đá quí. Viên đá này chạm đến đâu thì tất cả đều biến thành vàng. Hàng chữ viết trên bìa lưng của quyển sách cho biết thêm viên đá quí này nằm lẫn lộn trong muôn nghìn viên đá khác tại bờ Bắc Hải. Về hình thù nó giống như mọi viên đá khác. Chỉ khác có điều là trong khi những viên đá khác sờ vào thấy lạnh, thì viên đá quí này lại nóng. Một nông dân nghèo đã tình cờ mua được quyển sách và khám phá ra bí mật ấy. Ông ta bán tất cả tài sản và lên đường đi tìm cho bằng được viên đá quí. Ông cắm lều bên bờ biển Bắc Hải và ngày ngày ông nhặt từng viên đá lên xem. Cầm lên viên đá nào là ông ném xuống biển. Nguyên một năm ròng rã, mỗi ngày ông lặp đi lặp lại cùng một động tác ấy. Nhặt một viên đá rồi ném xuống biển. Nhưng ông vẫn chưa tìm được viên đá nóng. Viên đá nào cũng lạnh cả. Ông lại tiếp tục công việc ấy một năm nữa, nhưng vẫn chưa tìm được viên đá quí, thế rồi một buổi chiều nọ, bàn tay của ông bỗng rực nóng lên khi chạm đến viên đá. Nhưng thói quen nhặt đá để ném xuống biển đã trở thành một thứ bản năng, không chống lại nỗi nữa. Vì thế người nông dân cũng ném luôn viên đá ấy xuống biển. Ông đã để kho tàng tuột khỏi tay ông.
Có một lúc nào đó chúng ta sẽ tự hỏi mình sống để làm gì? Cuộc sống này có ý nghĩa gì với tôi? Có lẽ câu trả lời hoàn chỉnh nhất đó là sống để đi tìm hạnh phúc. Hạnh phúc là gia tài quý báu nhất mà cả nhân loại này hằng khao khát tìm kiếm hằng ngày, hằng giờ. Cả nhân loại hằng đổ xô đi tìm. Có những người mất cả đời để đi tìm hạnh phúc nhưng vẫn không bao giờ toại nguyện. Có những người dám đánh mất cả tiền tài, công sức để đạt cho bằng được hạnh phúc mình mong đợi, thế rồi lại thất vọng chán chường và lại tiếp tục tìm kiếm.
Hạnh phúc chính là viên ngọc quý, là gia tài mà bằng mọi giá mình phải đạt cho bằng được, mình phải bằng mọi cách để bảo vệ, để gìn giữ nó mãi trong cuộc đời của mình.
Nhưng kho tàng hạnh phúc đó ở đâu? Làm sao ta có thể đạt được nó? Có người cho rằng hạnh phúc chỉ có khi người ta có lắm của nhiều tiền. Có người cho rằng hạnh phúc ở trong công danh, sự nghiệp. Điều đó đúng không sai. Nhưng nếu chỉ vì tiền, vì tình, vì công danh sự nghiệp mình bán rẻ lương tâm, đánh mất phẩm giá làm người liệu rằng ta có hạnh phúc hay không? Nếu phải chọn lựa giũa hạnh phúc tạm thời và hạnh phúc vĩnh cửu ta sẽ chọn điều gì?
Có những người vì chỉ muốn có tiền nên gian tham, trộm cắp, lừa đảo. Họ có niềm vui khi có được đồng tiền bất chính nhưng liệu rằng niềm vui đó sẽ tồn tại bao lâu?
Có những người vì tình mà ăn ở bất chính, vụng trộm, chồng chung vợ chạ, liệu rằng có còn xứng đáng vói nhân phẩm của một con người hay không?
Có những người vì địa vị mà chà đạp, hạ bệ, vùi dập người khác liệu rằng họ có được một tâm hồn an bình hay đầy lo âu sợ hãi?
Hôm nay Chúa mời gọi chúng ta phải có một chọn lựa. Chọn lựa giữa cái vĩnh cửu và cái tạm thời. Chọn lựa trần gian mau qua hay nước trời vĩnh cửu. Chọn lựa một cách dứt khoát không nửa chừng. Vì thà mất một mắt, một tay, một chân mà vào nước trời còn hơn là nguyên vẹn mà phải sa hỏa ngục. Chọn lựa phải có sự đánh đổi. Đánh đổi cả gia tài, những gì mình có để mua lấy nước trời. Như trường hợp người thanh niên giầu có muốn có hạnh phúc, Chúa đã bảo anh: "Hãy bán hết của cải mà cho người nghèo, rồi đi theo tôi". Chọn lựa phải có sự thiệt hơn như Phêrô đã từng hỏi: "Chúng con bỏ mọi sự theo Thầy, chúng con sẽ được gì?". Chọn lựa phải có sự liều lĩnh, một ăn cả hai ngã về không. Đem bán hết gia tài để mua thuở ruộng, để mua viên ngọc. Tóm lại, nếu phải đánh đổi vì hạnh phúc nước trời mà mình phải nghèo đói, mất công ăn việc làm, mất cả địa vị xã hội mình vẫn phải đánh đổi. Vì suy cho cùng tiền tài danh vọng chỉ là của đồng lần, nay người mai ta. Nó không dành riêng cho mình, và mình cũng không chiếm hữu nó trọn đời.
Thế nên, người Kitô hữu phải có sự khôn ngoan như Salômôn. Ông không xin cho giầu có hay có đủ tài năng để đánh bại quân thù. Ông xin sự khôn ngoan. Sự khôn ngoan của con cái Thiên Chúa. Không phải là khôn ngoan thế gian. Khôn ngoan biết chọn lựa theo thánh ý Chúa. Khôn ngoan biết phân định đâu là thiện đâu là ác. Khôn ngoan để hành động theo đúng với luân thường đạo lý, đúng với lẽ phải, đúng với nhân phẩm một con người là "nhân linh hơn vạn vật". Một con người có lý trí, ý chí, tự do chứ không phải hành động theo bản năng và thiếu trách nhiệm về hành vi của mình.
Xin Chúa cho chúng ta sự khôn ngoan để chúng ta đi tìm Nước Trời. Vì Nước trời là một kho tàng quý giá, chúng ta phải bằng mọi cách để đổi lấy cho bằng được. Vì nước trời là viên ngọc quý, chúng ta phải trân trọng và bằng mọi giá gìn giữ và bảo vệ. Xin Chúa cho chúng ta luôn biết chọn lựa gia tài vĩnh cửu Nước Trời hơn là những của cải trần gian mau qua. Vì "được lời lãi cả thế gian, chết mất linh hồn nào được ích gì? Amen.
5. Đầu tư Nước Trời
(Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Cuộc sống con người như đi vào cơn lốc của tiền tài và danh vọng. Con người thật vất vả cạnh tranh để dành giựt từng hạt gạo, từng miếng cơm. Xem ra điều mà con người quan tâm, chính là những nhu cầu của đời sống như: cơm, áo, gạo tiền, và những phương tiện phục vụ cho nhu cầu đời sống. Vì tất cả những điều đó mà con người dám làm mọi sự để có được những thứ ấy. Đây là điều không phải là tội hay có thể nói là rất chính đáng.
Là người chúng ta cũng rất cần những thứ ấy. Chúng ta cũng rất cần tìm cho mình những phương tiện thiết thực ấy. Thế nhưng, là người ky-tô hữu, chúng ta còn có một giá trị cao hơn những danh lợi thú ấy, chính là Nước Trời. Danh lợi thú rồi sẽ qua đi, nhưng Nước Trời thì tồn tại mãi mãi.
Hôm nay, Chúa Giê-su ví Nước Trời như một kho tàng, như viên ngọc quý, đến nỗi để đạt được, thì mọi hy sinh, mọi của cải, kể cả mạng sống, cũng phải đổi lấy cho bằng được viên ngọc Nước Trời.
Trên mạng Internet, người ta đang truyền nhau lời tâm sự của một bác sĩ trẻ bị ung thư. Anh đã viết trên dòng thời gian mình, những lời trần tình để lại cho bạn bè và đặc biệt, là cho giới trẻ. Đó là Bác sĩ Richard Teo Keng Siang, 40 tuổi. Một triệu phú ngành giải phẫu thẩm mỹ ở Singapore. Anh đã phát hiện bị ung thư phổi giai đoạn cuối khi ở đỉnh cao nhất của tiền tài, danh vọng.
Richard Teo qua đời ngày 18/10/2012. Những chia sẻ của anh khi đưa lên mạng, đã gây một xúc động rất lớn.
- “Chào tất cả các em. Giọng tôi hơi bị khàn một chút, mong các em chịu khó nghe. Tôi xin tự giới thiêu, tôi tên là Richard và là một bác sĩ. Từ lúc trẻ, tôi là một sản phẩm đặc trưng của xã hội ngày nay, một sản phẩm khá thành công mà xã hội đòi hỏi. Hồi nhỏ, tôi lớn lên trong một gia đình có mức sống dưới mức trung bình. Tôi được bảo ban bởi người chung quanh và môi trường rằng thành công thì hạnh phúc. Thành công có nghĩa là giàu có. Với suy nghĩ này, tôi trở nên cực kỳ ganh đua ngay từ nhỏ. Nhưng thật trái ngược, chỉ khi sắp chết thì mình mới biết nên sống như thế nào. Tôi biết điều này nghe qua thật mơ hồ, nhưng đó là sự thật và tôi đang trải qua.
Sự thành công, xe cộ, nhà cửa, những thứ mà tôi nghĩ đã đem hạnh phúc đến cho tôi, khi tôi xuống tinh thần, tuyệt vọng, không mang đến cho tôi niềm vui. Mà nếu được chọn lựa, tôi sẽ sống, là làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn, đó là tôn chỉ cao nhất.”
Đây không chỉ là lối sống thực dụng của Richard Teo, mà dường như của hầu hết chúng ta. Con người đã quá vất vả lao vào cuộc cạnh tranh tiền tài, mà quên đi một giá trị cao cả hơn tiền tài, chính là sự sống đời đời. Con người đã đầu tư quá nhiều vào những thứ mau qua, mà bỏ qua cơ hội tích lũy gia tài trên trời.
Hôm nay Chúa mời gọi chúng ta hãy can đảm thực hiện một cuộc chọn lựa. Chọn lựa cái vĩnh cửu hơn là những cái mau qua trần gian. Tựa như người nông dân khi ông tìm thấy kho tàng đã can đảm đánh đổi mọi gia sản của mình để chiếm lấy kho tàng dưới lòng đất. Hay như người buôn đá quý, ông đã nhìn thấy giá trị thực sự của viên ngọc đến nỗi ông đã bán đi tất cả để mua được viên ngọc ấy.
Người nông dân hay nhà buôn kia đã nhìn thấy mối lợi rất lớn nơi kho tàng và viên ngọc nên đã không ngần ngại đánh đổi tất cả để có được nó.
Chúa Giê-su cũng cũng ví Nước Trời là những kho tàng, hay viên ngọc rất quý. Chúa cũng bảo chúng ta bằng mọi giá phải chiếm cho được Nước Trời. Vì mọi sự rồi cũng qua đi. Công danh sự nghiệp cũng không kéo dài sự sống của chúng ta. Chúa bảo với chúng ta rằng Nước trời quý hơn và giá trị hơn bất cứ thứ gì chúng ta đang có hay có thể có trong cuộc sống, và Nước Trời sẽ ban cho chúng ta nhiều hơn bất cứ cái gì cuộc sống có thể mang lại cho chúng ta. Nước trời là phần rỗi, là sự sống đời đời của chúng ta, quý giá vô cùng, đòi hỏi chúng ta phải quan tâm trước hết, tuyệt đối ưu tiên, sẵn sàng hy sinh tất cả để chiếm đoạt cho bằng được, dù phải hy sinh bao nhiêu cũng chưa đủ, chưa xong. Chỉ với một mảnh ruộng, một viên ngọc vật chất, mà người nông dân và nhà thương gia trong Tin Mừng đã bán tất cả gia tài để mua nó. Chúng ta có dám làm như thế đối với viên ngọc Nước Trời không?
Xin cho chúng ta nhận ra giá trị thực sự của Nước Trời là hạnh phúc vô biên để chúng ta can đảm chọn lựa Nước Trời, cho dù có phải hy sinh tiền tài, gia sản, nhưng chúng ta chiếm hữu được một kho tàng vô tận trên quê Trời. Amen.
6. Viên ngọc quý
(‘Như Thầy Đã Yêu’ – Thiên Phúc)
Chuyện kể rằng có một thầy khổ tu vào rừng để hành xác, mong được lên cõi thiên đàng. Ngày ngày có một cô gái nhân đức tới để cung cấp trái cây và nước suối cho thầy.
Nhiều năm trôi qua, đã đến lúc thầy phải rời bỏ khu rừng vào hang núi sâu, hoàn thành cuộc hành xác khắc nghiệt. Người con gái chặt củi nước mắt lưng tròng van xin:
- Tại sao thầy không cho con được diễm phúc hầu hạ thầy?
Và thầy tu đã ngồi lại, ở nguyên chỗ cũ.
Thầy ngồi một mình, tháng này qua năm nọ, cho đến khi cuộc hành xác hoàn thành. Vị chúa tể của những con người bất tử xuống báo cho thầy biết rằng thầy đã được lên cõi thiên đàng. Nhưng thầy tu nói:
- Đã lâu rồi tôi không cần thiên đàng nữa!
Vị chúa tể kia liền hỏi:
- Vậy thầy muốn được phần thưởng nào quí giá hơn thiên đàng?
Thầy tu chắp tay nhắm mắt điềm nhiên trả lời:
- Tôi muốn được cô gái chặt củi?
***
“Nước Trời giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy” (Mt 13,45-46). Người thương gia rất am tường về ngọc, ông biết rõ viên ngọc quý này là vô giá, mà người bán không hề biết, nên ông đã đánh đổi cả gia tài của mình để mua viên ngọc ấy, vì tất cả những gì ông có so với viên ngọc quý ấy cũng chẳng là gì, chẳng đáng giá chi.
Nước Trời đáng quí, đáng trọng, đáng mơ ước là thế, vậy mà thày tu trong câu chuyện trên đây lại bỏ thiên đàng để ở lại với cô gái chặt củi. Viên ngọc quý của ông sau bao nhiêu năm hành xác mới có được lại không phải là thiên đàng vĩnh cửu, mà là một xác phàm hay chết, một thụ tạo nay còn mãi đã biến tan. Thật là ngu lắm thay, dại khờ lắm thay!
Chợt nghĩ lại, đâu chỉ mình thày tu này dại khờ, ngu ngơ! Đâu chỉ mình ông mới “Bỏ hình bắt bóng”.
Những kẻ xem danh vọng, chức quyền là viên ngọc quý, cả đời săn lùng tìm kiếm cho đến hao tâm tổn sức, để rồi nó vỡ tan như bong bóng xà phòng, lại không dại khờ lắm sao?
Những kẻ coi tiền bạc, của cải là kho báu duy nhất trên đời, để bôn ba vất vả thu tích cho thật nhiều mà chẳng nghĩ đến ai, và khi nhắm mắt xuôi tay cũng chẳng mang được một xu về bên kia thế giới, lại chẳng dại khờ lắm sao?
Những kẻ đam mê khoái lạc, ăn chơi cho thỏa thích, họ xem thế gian này là kho báu, là viên ngọc quý, phải thụ hưởng tối đa cho thỏa mãn, cho tràn trề, để rồi khi kết thúc cuộc đời ngắn ngủi, sẽ phải khóc lóc nghiến răng muôn kiếp, lại không phải là kẻ dại khờ lắm sao?
Hãy bỏ đi những chiếc phao thủng mà một lúc nào đó, giữa biển đời lênh đênh chúng ta đã bám víu như một vật cứu sinh an toàn.
Chỉ có những ai sáng suốt nhận ra Đức Giêsu chính là viên ngọc quý, lấp lánh ngời sáng như sao mai trên bầu trời, mới dám bán đi những viên ngọc giả là của cải, danh vọng và khoái lạc trần gian, mà mua lấy mối tình thâm sâu với Người trong cõi đời đời.
Chỉ có những ai xác tín rằng Nước Trời chính là kho báu vô giá, tồn tại đến miên trường, mới “vui mừng bán đi tất cả” những kho tàng phù vân đời này, mà mua lấy kho báu bất diệt trên nơi vĩnh phúc.
Đức Giêsu nói với người thanh niên giàu có: “Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Mc 10,21). Nếu Đức Giêsu là viên ngọc quý, là hiện thân của nước Trời, thì người tín hữu phải bán đi tất cả, phải chấp nhận mất mát tất cả, phải từ bỏ mọi sự để được sống với Người, để chọn Người làm lẽ sống, và để được Người, là được tất cả.
Đó là cái nghịch lý chạy xuyên suốt toàn bộ Tin Mừng: mất đi để được lại, cho đi để được nhận lãnh, chết đi để được sống mãi.
Baeteman có viết: “Cái đáng giá, không luôn là cái chúng ta hiến dâng cho chúa, nhưng luôn là cái gì chúng ta nhân danh Người mà từ chối”.
***
Lạy Chúa, nếu có lần nào chúng con cảm nghiệm được hạnh phúc giả tạo mau qua của kho tàng dưới đất, thì xin cho chúng con một chút ngất ngây hạnh phúc của kho báu trên trời.
Xin dạy chúng con biết luôn chọn chúa là gia nghiệp, là cùng đích và là lẽ sống của cuộc đời chúng con. Amen.
7. Suy niệm của Lm. Ignatiô Hồ Thông
Từ thuở đời đời, vì yêu thương Thiên Chúa tiền định cho con nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài.
Chúng ta có thể dựa vào lời khẩn nguyện tuyệt vời của vua Sa-lô-môn để đưa ra chủ đề của Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay: xin ban cho con “một tâm hồn biết lắng nghe” và “biết biệt phân phải trái” để nhận ra rằng ngay từ thuở đời đời, vì yêu thương Thiên Chúa tiền định cho con nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài. Đó là giá trị khôn sánh mà mỗi người Kitô hữu phải đạt cho bằng được.
1V 3: 5, 7-12
Để có đủ sức cai trị dân Thiên Chúa, vua Sa-lô-mon khẩn cầu Thiên Chúa cho ông có được “một tâm hồn biết lắng nghe” và “biết biệt phân phải trái”.
Rm 8: 28-30
Trong thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phaolô nhắc nhở các tín hữu biết rằng Thiên Chúa tiền định cho họ trở nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài và làm cho mọi sự đều sinh ơn ích cho những ai yêu mến Ngài.
Mt 13: 44-52
Trong Tin Mừng, Đức Giêsu mời gọi mỗi người chúng ta biết nhận ra giá trị khôn sánh của Nước Trời và sẵn sàng hy sinh mọi sự để sở hữu cho bằng được Nước Trời.
BÀI ĐỌC I 1V 3: 5, 7-12
Vào năm 970 trước Công Nguyên, vua Sa-lô-mon lên ngôi kế vị cha mình là vua Đa-vít. Lúc đó, ông chỉ là “một thanh niên bé nhỏ”, như chính ông thân thưa với Chúa về mình trong lời cầu nguyện của ông. Theo sử gia Giô-sê-phút, khi lên ngôi, vua Sa-lô-mon ở độ tuổi mười bốn; còn theo truyền thống kinh thánh, vua ở độ tuổi mười hai.
1. Giấc mộng của vua Sa-lô-mon:
Vua đến thánh địa Ghíp-ôn, cách Giê-ru-sa-lem khoảng chín cây số về hướng tây-bắc, để tế lễ Thiên Chúa, vì lúc đó Đền Thờ Giê-ru-sa-lem chưa được xây dựng, vì thế đây là nơi cao trọng nhất. Đêm sau đó, vua có một giấc mộng.
Giấc mộng đóng một vai trò quan trọng tại các dân tộc thời xưa. Các Pha-ra-ô Ai-cập và các vua miền Lưỡng Hà Địa đều có bên cạnh mình những nhà giải điềm mộng báo. Ở Hy-lạp, các tín đồ ngủ trong các đền thánh với hy vọng là mình nhận được một sứ điệp từ thần linh trong khi ngủ. Dân Ít-ra-en chắc hẳn cũng đã biết những mặc khải thần linh được truyền đạt trong những giấc mơ. Chúng ta đọc thấy nhiều ví dụ như vậy trong thời các tổ phụ như tổ phục Gia-cóp hay nhất là tổ phụ Giu-se. Thật đáng cho chúng ta ghi nhận rằng cách thức mặc khải này rất hiếm trong thời kỳ trào lưu ngôn sứ và chỉ tái xuất hiện trong các sách khải huyền vào những thế kỷ muộn thời hơn.
2. Lời khẩn nguyện của vua Sa-lô-mon:
Sa-lô-mon bày tỏ một sự khôn ngoan trước tuổi. Vua không cầu xin cho mình được trường thọ, được giàu sang hay được quyền lực, nhưng “một tâm hồn biết lắng nghe” và “biết biệt phân phải trái” để vua có đủ sức cai trị dân Ngài, “một dân đông đúc, không kể xiết, cũng không đếm nổi”.
Như người cày thuê gặp được kho báu trong ruộng hay một thương gia bất ngờ tìm được ngọc quý trong Tin Mừng hôm nay, vị vua trẻ biết nhận ra đâu là những giá trị đích thật. Đức Chúa đã nhận lời cầu xin của vua, vì thế, vua đã cai trị dân Ngài một cách khôn ngoan (ít ra trong giai đoạn đầu của triều đại mình). Trong giấc mộng, nếu vua không xin sự giàu sang phú quý, hay quyền lực, tuy nhiên, Thiên Chúa cũng ban cho vua những điều đó.
3. Tính chất thần học của chuyện tích:
Chuyện tích không có tính chất lịch sử theo nghĩa nhặt. Quả vậy, các nhà biên soạn hai sách Các Vua đã tra cứu những tài liệu và đã thu thập những truyền thống miệng, suốt thời gian làm việc nghiêm túc; nhưng nỗi bận lòng hàng đầu của họ là vấn đề thần học. Vì thế, chuyện tích về giấc mộng của vua Sa-lô-mon cho thấy hai khía cạnh quan trọng.
Trước tiên, chuyện tích này nhấn mạnh tính chất đặc biệt của vương quyền Ít-ra-en. Vương quyền này thuộc trật tự “ân sủng”. Chúng ta biết rằng dân Thiên Chúa đã từ lâu không muốn tôn một người trần thế lên làm vua của mình. Đối với họ, chỉ duy một mình Đức Chúa là vua của họ. Tuy nhiên, vì những hoàn cảnh đã dẫn họ đến thể chế quân chủ; nhưng để thể chế quân chủ này được tín nhiệm, điều quan trọng là vị quân vương phải nhận ra mình chỉ là người trung gian giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Chúng ta nên lưu ý rằng trong lời khẩn nguyện của mình, vua Sa-lô-mon không nói “dân của tôi”, nhưng “dân của Ngài”. Về vấn đề này, giấc mộng ở Ghíp-ôn đáp ứng mọi thỏa mãn và mặc lấy tinh cách của việc Thiên Chúa trao quyền.
Thứ nữa, tước vị con vua Đa-vít cao quý được ban tặng cho vua Sa-lô-mon cũng như triều đại vinh quang của vua hiển nhiên là lời đáp trả của Thiên Chúa, Đấng, ngay từ khởi đầu triều đại của vua này, cầm tay vị vua bé nhỏ để hướng dẫn vận mệnh của vua. Như vậy, khi đọc lại lịch sử này, người thuật chuyện có thể phát hiện ở đây là Lịch Sử Thánh.
BÀI ĐỌC II Rm 8: 28-30
Đoạn văn này là phần kết của chương 8 thư gởi tín hữu Rô-ma. Phần này được kết thúc với lời ca ngợi về tình yêu của Thiên Chúa. Đây là bản văn khó vì tự nguồn gốc nó là những suy luận thần học về tiền định.
1. Vấn đề:
Phải hiểu những lời này của thánh Phaolô: “Những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, Con của Người, để Đức Kitô làm trưởng tử giữa một đoàn em đông đúc” như thế nào?
Trước tiên, chúng ta nên đặt đoạn văn này trở lại mạch văn của nó. Trong một cái nhìn khái quát, thánh Phaolô lấy lại sự phát triển của mình trên ơn công chính hóa nhờ đức tin và trên sự vinh quang của những người được tuyển chọn. Khởi điểm lập luận của thánh nhân là ý định rộng lớn của Thiên Chúa về nhân loại. Từ ngữ “ý định” (prothesis) luôn luôn được thánh Phaolô dùng theo nghĩa phổ quát chứ không hạn định. Một mặt, vị tông đồ nhấn mạnh Thiên Chúa gọi và con người được gọi. Đằng khác, về phía Thiên Chúa, Ngài “biết trước”, còn về phía con người, họ có “ơn gọi”; giữa Thiên Chúa và con người, có “sự tự do”. Cứu cánh của con người là ơn gọi, chứ không là tiền định. Không có bất kỳ chỗ nào dành cho việc tiền định phải chịu kết án cả.
2. Tình yêu của Thiên Chúa:
Đây là đề tài chủ đạo. Tiếng gọi của Thiên Chúa là tiếng gọi phát xuất từ tình yêu. Con người đáp trả tiếng gọi của Ngài, tức là “những ai yêu mến Người”, sẽ thấy rằng “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ơn ích cho họ”. Ơn ích hiển nhiên là ơn cứu độ chung cuộc, nhưng chắc chắn cũng là ơn ích tinh thần đối với thời hiện tại. Từ ngữ “mọi sự”, đối lập với “ơn ích”, chỉ những thăng trầm của thế giới, cũng như những gian nan thử thách mà mỗi người phải chịu. Khi hướng dẫn các biến cố, Thiên Chúa muốn cứu độ những ai yêu mến Ngài, đôi khi Ngài dùng những phương cách gây sửng sốt.
Ngay cả khái niệm yêu mến ở nơi những lời: “Những ai Người đã biết từ trước” luôn luôn có một âm vang của việc tuyển chọn phát xuất từ tình yêu. Sự kiện Thiên Chúa biết từ trước này không là một sự chọn lựa cho bằng cái nhìn của Thiên Chúa. Qua thời gian, Ngài phân định những ai đáp trả tiếng gọi của Ngài nhờ đức tin.
3. Nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài:
Một lần nữa, thánh Phaolô đặt sự lạc quan của mình rõ ràng trên chương thứ nhất của sách Sáng Thế. Thiên Chúa đã sáng tạo con người theo hình ảnh và họa ảnh của Ngài; người Kitô hữu, trở nên con cái của Ngài, được ân sủng nhào nắn, được tiền định trở nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài, cũng như Chúa Con đồng hình đồng dạng với Chúa Cha. Khi hiệp nhất với Đức Kitô, con người được “phục hồi hình ảnh và họa ảnh nguyên thủy” của mình.
Tiếp đó, thánh Phaolô trở về khởi điểm của mình (kỹ thuật văn chương bao hàm). Thánh nhân vạch lại những giai đoạn cứu độ: tiếng gọi của Thiên Chúa, câu trả lời của con người nhờ đức tin, ơn công chính hóa và vinh quang. Chúng ta lưu ý rằng thánh Phaolô đặt vinh quang tương lai ở thì quá khứ: “Người đã cho hưởng vinh quang” để diễn tả một điều chắc chắn. Về việc dùng thì quá khứ để diễn tả điều chắc chắn trong tương lai này, chúng ta gặp thấy một ví dụ khác trong Tin Mừng Mác-cô về việc cầu nguyện, ở đó Đức Giêsu nói: “Tất cả những gì anh em cầu xin, anh em cứ tin là mình đã được rồi, thì sẽ được như ý” (Mc 11: 24).
Vì thế, theo thánh Phaolô, nếu có tiền định, thì không gì khác hơn là Thiên Chúa yêu mến chúng ta từ muôn thuở. Niềm hy vọng này đem lại cung giọng đầy lạc quan cho toàn bộ chương 8 này: ý định của Thiên Chúa chính là hướng dẫn con người đến vinh quang, đó là cho Con của Ngài trở nên “trưởng tử giữa một đoàn em đông đúc”.
TIN MỪNG Mt 13: 44-52
Vào Chúa Nhật này, chúng ta hoàn tất bài diễn từ dài về các dụ ngôn của Đức Giêsu.
Đoạn Tin Mừng hôm nay thuật lại ba dụ ngôn mới: dụ ngôn kho báu và dụ ngôn ngọc quý rất gần giống nhau, còn dụ ngôn chiếc lưới rất gần với dụ ngôn người gieo giống và dụ ngôn cỏ lùng.
1. Dụ ngôn kho báu và dụ ngôn ngọc quý:
Hai dụ ngôn này được biệt phân rất rõ nét với các dụ ngôn trước đó. Các dụ ngôn trước liên quan đến việc loan báo Nước Trời và sự phát triển thần kỳ của nó. Các dụ ngôn đó chủ yếu là thể văn “miêu tả”. Còn Dụ ngôn kho báu và dụ ngôn ngọc quý là những “lời khuyến dụ” được gởi đến cho từng cá nhân, mang tính khẩn trương và quyết liệt, nhằm biến đổi đời sống. Nếu chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa mời gọi chúng ta vào vương quốc của Ngài và Đức Giêsu là con đường duy nhất dẫn chúng ta đến đó, lúc đó việc chúng ta kết hiệp với Đức Kitô là ngay tức khắc, không thể nào chần chừ được nữa. Vì thế, việc chúng ta từ bỏ mọi sự cho điều cốt yếu duy nhất này, là chuyện dể hiểu. Với sự hiện diện của Đức Kitô, Nước Trời có mặt ở đây rồi. Kho báu hay ngọc quý này ở trong tầm tay của chúng ta. Việc từ bỏ mọi sự để sở hữu cho được kho báu hay ngọc quý này là niềm vui lớn lao, niềm vui của sự tự do vì được giải thoát khỏi những điều bất tất.
2. Dụ ngôn chiếc lưới:
Dụ ngôn chiếc lưới mô tả rất thực nghề đánh cá. Đây cũng là là dịp, là cơ hội để các môn đệ sống lại những kỷ niệm xưa kia của mình khi họ còn là những ngư phủ trên biển hồ Ga-li-lê. Dụ ngôn này lập lại những chủ đề của dụ ngôn cỏ lùng. Ngư phủ thả chiếc lưới xuống biển, như người nông dân gieo những hạt giống trên cánh đồng. Lưới dần dần đầy cá, nhưng phải đợi mẽ cá hoàn tất để chọn lựa cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vất đi. Cũng như người gieo giống chờ đợi mùa gặt để thu những hạt lúa tốt vào kho lẫm, còn cỏ lùng thì nhổ, bó thành bó mà đốt đi. Các Tông Đồ đã là những ngư phủ lưới người – và Giáo Hội nối tiếp bước chân của các ngài. Giáo Hội phải biết kiên nhẫn. Trong phần kết của dụ ngôn này, số phận dành bọn ác nhân được diễn tả theo cùng những ngôn từ như trong phần kết dụ ngôn cỏ lùng.
Để kết luận, thánh Mátthêu gợi lên một kinh sư trở thành môn đệ của Đức Giêsu. Vì có được một kiến thức Kinh Thánh rất phong phú, người kinh sư biết giá trị của những thiện hảo mà Luật Mới đem đến. Lý tưởng này biểu thị rất rõ nét lý tưởng của Tin Mừng Mátthêu đến mức chúng ta có thể nhận ra ở đây chữ ký kín đáo của thánh nhân.
8. Cái cũ và cái mới
(John. W. Marteus - Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
Trong các câu chuyện thần thoại và cổ tích, người ta thường nhắc đến 3 điều ước. Ước muốn sở đắc một cái gì hoặc ước muốn được toại nguyện một công việc gì, là mong ước chung của con người ngày xưa cũng như ngày nay. Trong chuyện thần thoại, sau khi lựa chọn những điều mình ước, sự thật sẽ phơi bày ra. Bài học cho thấy, đạt được ước nguyện không dễ dàng gì. Sách các vua quyển thứ nhất giới thiệu với chúng ta một trạng huống gần giống như trong truyện cổ tích, nhưng nhân vật chính là vua Salomon, một vị vua trẻ rất khôn ngoan. Thiên Chúa hiện ra với Salomon trong một giấc mơ giữa đêm khuya và nói với ông “Hãy xin ta một điều ước, và ta sẽ ban cho”. Bởi lẽ, Salomon là một con người khiêm tốn thẳm sâu, và có lòng yêu mến Thiên Chúa, nên ông ta tuyên bố mình chỉ là tôi tớ của Chúa. Ông chỉ xin cho mình một điều ước giản đơn, đó là được khôn ngoan để lãnh đạo dân, và để biết phân định đâu là tốt, đâu là xấu. Vị vua Israel này chỉ có một ước muốn duy nhất là có được khả năng để phục vụ Chúa và dân của Ngài.
Vua Salomon đã phân định, không phải chỉ là những ước mơ hời hợt và nông nổi, nhưng là một mong ước sâu xa tận đáy lòng để biết quy thuận ý Chúa. Ông được ban sự khôn ngoan để có thể thấy được điều gì là tốt nhất cho đất nước của ông, cho dân của ông, cũng như đó là điều tốt nhất cho chính ông. Salomon đã không cảm nghiệm trước được niềm vui do ân ban này, và ông chỉ nếm trải khi niềm vui đó đã đã tròn đầy. Đứng trước lời cầu xin của Salomon, Thiên Chúa đã ban cho ông một “đầu óc khôn ngoan và biết phân định tốt xấu”. Ngài còn ban cho ông ấy 2 điều khác “Ta sẽ ban cho con cả những điều con không xin, đó là sự thịnh vượng và được kính phục trong suốt cả đời”, và “Nếu con bước đi trong đường lối của Ta, tuân giữ những thánh chỉ và nhưng huấn lệnh của Ta, như Đavid thân phụ ngươi đã tuân hành, thì Ta sẽ cho con được trường thọ” (1V 3,13).
Salomon đã biết nhận ra những giá trị khác cao quý hơn của cải trần thế. Khi gặp cảnh huống tương tự, có lẽ chúng ta vẫn thích cầu xin cho mình được giầu sang, được phú quý, được sống lâu, và khi đã trải nghiệm cuộc đời với những suy nghĩ chín chắn hơn, chúng ta mới tìm kiếm sự khôn ngoan và sự minh mẫn. Vương quốc của Salomon, tuy giàu của cải, nhiều sự kính phục dành cho ông và ông sẽ được sống lâu, vẫn là một vương quốc thuộc trần thế và qua mau, sớm muộn cũng sẽ lụi tàn. Vì vậy việc Salomon tìm kiếm sự khôn ngoan khai mở cho chúng ta một hướng đích khác để nhắm đến. Nếu sự khôn ngoan trần thế là một điều đáng mơ ước, thì tại sao chúng ta lại không ước mơ đến một sự khôn ngoan khác - Sự khôn ngoan trong vương quốc vĩnh cửu?
Trong hai dụ ngôn mà Thánh Matthêu nói tới hôm nay, Đức Giêsu giới thiệu cho chúng ta sự khôn ngoan mới mẻ này “ Nước Trời giống như một kho tàng được chôn giấu trong ruộng. Có người đã tìm thấy và đem giấu đi. Rồi anh ta vui mừng đem bán tất cả của cải anh có để mua cho được khu ruộng ấy. Thế rồi, Chúa Giêsu lại nói tiếp “ Nước Trời giống như một thương gia đi tìm ngọc quý, khi đã tìm được, anh ta đã bán tất cả tài sản để mua viên ngọc quý đó”.
Hai dụ ngôn này đề cập đến hai khía cạnh: Một là giá trị lớn lao của kho tàng chôn trong ruộng hay giá trị của viên ngọc quý, mà Nước Trời được sánh ví, hai là ước muốn của những con người tìm ra kho báu hoặc viên ngọc đã dám bán tất cả để mua cho được cái mình đã tìm thấy. Cả hai khía cạnh này đều rất quan trọng. Điều đầu tiên, chúng ta có nhận ra vương quốc nước trời vượt trên những giá trị trần thế hay không, và thứ đến, chúng ta có dám bán mọi sự để tậu cho được điều chúng ta đã khám phá ra không.
Cũng giống như sự khôn ngoan, không phải giàu sang, danh vọng hay trường thọ, Vương quốc Nước Trời có thể được chia sẻ cho người khác mà không bị mất đi hay bị suy giảm. Luôn luôn, sự khôn ngoan lúc nào cũng dồi dào để ta có thể sẻ chia, có thể ban tặng, có thể đổi trao. Đó là lý do tại sao, anh thương gia và người phú hộ dám liều bán tất cả để mua điều quý giá đã tìm thấy. Đó là một hình ảnh xem ra có vẻ khôi hài và cũng rất táo bạo, cũng như bạn bán một cái gì đó để có thể tậu lại, làm sở hữu cho riêng mình. Tuy nhiên, Vương quốc Nước Trời vẫn không bị suy giảm hoặc mất đi, sau khi bạn bán mọi thứ để tậu nó lại, đồng thời người khác vẫn có thể mua nó. Điều lạ lùng nhất, là sau khi bạn mua lấy Nước Trời, niềm vui của việc mua bán vẫn không bị vơi mất. Người mua sẽ chẳng bao giờ phải hối hận.
Đức Giêsu đã kết thúc hai dụ ngôn bằng câu hỏi, xem những học trò của Ngài có hiểu những điều Ngài giảng dạy hay không. Họ trả lời rằng có. Tuy nhiên, Ngài đã tóm kết 2 dụ ngôn bằng 1 dụ ngôn ngắn khác. Ngài nói “ Bất cứ kinh sư nào đã được học hỏi về Nước Trời, cũng giống như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ.”
Quả vậy, Đức Giêsu đã hướng dẫn các môn đệ của mình vào trong kỷ luật. Lời giáo huấn của Ngài tự nó là một kho tàng, nhưng cái gì là mới và cái gì là cũ? Đa phần các học giả đồng ý cho rằng sự khôn ngoan theo Kinh Thánh Cựu ước là cái cũ, còn sự khôn ngoan của Đức Giêsu thì mới. Còn chúng ta, chúng ta được mời gọi hãy khám phá ra kho tàng quý giá từ cả hai.
9. Suy niệm của Lm. Gioan B. Phan Kế Sự
“Rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có” (Mt 13,44-52)
“Anh em có hiểu tất cả những điều ấy không?”
“Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng; tựa như thương gia đi tìm hạt ngọc quý và cũng giống như chuyện chiếc lưới cá thả xuống biển… Và đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy.”Những dụ ngôn tiếp nối những dụ ngôn mà chúng ta được Chúa Giêsu giảng giải. Chuyện Nước Trời thật đơn giản và dễ hiểu như những chuyện đời thường, nhưng quan trọng là chúng ta có hiểu hay có muốn hiểu hay không.
Nhiều người “thưa hiểu” nhưng thực sự chẳng hiểu, chẳng biết cái gì cả…
Vì họ cũng chỉ trả lời như cái máy, “theo phong trào”, cho nó vui, cho có bè có bạn. Bởi cách sống của họ là cái vỏ bề ngoài, là cái hình thức hấp dẫn “không đụng hàng” chứ không cần cái nội dung, cái chất lượng.Cái gật đầu của họ cũng chẳng qua là cho nó “có” với chúng bạn.
Vì họ hiểu theo “kiểu của họ”: Chúa phải là người phục vụ họ, làm theo ý muốn của họ và Chúa trở thành “con rối”của lòng tham.Rốt cục “họ nói hiểu mà thực chất chẳng hiểu gì!”.
Vì họ chỉ hiểu theo “nghĩa đen” và cuộc đời của họ là những chuyện quanh quẩn của những hành động “vơ, vét, vào”: là mong đạt được những gía trị trần thế,là có được của cải mối mọt xông đến được,để rồi ngày tận thế là một sự thất vọng và trở thành “kẻ bị loại trừ”.
Nhiều người “thưa hiểu” và quả thực họ hiểu được ý nghĩa sâu xa của những dụ ngôn về Nước Trời và dám can đảm đầu tư tất cả để tìm được những kho tàng vô gía và sự tồn tại của mình. Người đời vẫn thường dạy “có gan thì làm giàu”.Họ vui mừng ra về và bán hết tất cả những gì mình có để được Nước Trời.
Khôn ngoan của người hiểu biết là sự chọn lựa giữa những cái vô gía và cái “có giới hạn”.
Khôn ngoan của người thương gia là dám can đảm bán hết tất cả, đánh đổi tất cả để chiếm hữu cả kho báu.
Khôn ngoan của người hiền lành là biết đứng về phía cá tốt để “được chọn lựa” và “không bị vứt ra ngoài” trong ngày tận thế.
“Và đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy…. Họ đáp lại: thưa hiểu”
Chẳng ai dại mà nhặt cá xấu để bỏ vào giỏ, nhưng ngược lại.
Thiên sứ sẽ tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính.
Như chủ nhà lấy ra từ kho của mình cả cái xấu lẫn cái cũ,để lọai trừ.
Và sẽ chẳng bao giờ có cơ hội lần thứ hai, cho bất kỳ ai và cho cả chính chúng ta.
Người đời vẫn thường nói “Khôn chết, dại chết, biết sống”. Qủa thế,người hiểu biết là người khôn ngoan hơn cả.Biết, vì không ai chết hoặc chịu thưởng phạt cho ai cả. Biết, vì mọi người phải tự quyết định đời mình mà không ai có thể giúp gì cho ai được. Biết, vì tốt xấu sẽ được phân định một cách rõ ràng mà chẳng ai đứng ra biện hộ hoặc phân bua cho ai được cả. Chúa đã ban cho chúng ta sự tự do và mỗi người phải chịu trách nhiệm về chính sự tự do của mình.
Họ đáp “thưa hiểu” và Chúa đã dạy “hãy biết tận dụng cả cái mới cái cũ trong kho của mình” để đầu tư cho sự chọn lựa của chính đời mình. Cái khôn của người hiểu biết là can đảm “bán hết tất cả” để có được cái vĩnh cửu,cái đời đời, không mối mọt và hư họai.
Lời cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết sáng suốt chọn lựa cứu cánh cho cuộc đời mình và xin cho chúng con “biết liều” với sự chọn lựa đúng đắn để trở thành “cá tốt” được bỏ vào giỏ. Xin giúp mỗi người chúng con luôn can đảm, kiên trì sống với chính sự chọn lựa của mình trong tin tưởng, tín thác vào tình thương Chúa. Amen.
10. Kho báu - Viên ngọc quý
(Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
Một hôm, có một người kia gặp một nhà tu hành đi qua làng, ông vội chạy theo kêu lên: "Xin ông cho tôi viên ngọc quý trong cái bị của ông". Nhà tu hành ngạc nhiên hỏi "Viên ngọc quý nào?". Ông ta nói: "Đêm qua tôi nằm mơ thấy có ông tiên bảo là nếu tôi được viên ngọc quý của nhà tu hành sẽ đi qua làng hôm nay, tôi sẽ là người giàu có nhất trên đời. Vậy xin ông cho tôi viên ngọc quý đó". Nhà tu hành tốt bụng móc trong bị ra và nói: "Có phải cái này không? Tôi mới nhặt được ở cánh đồng bên kia bờ suối. Nếu ông muốn thì tôi biếu ông".
Người ấy sung sướng cầm lấy viên ngọc quý, cám ơn rồi đi ngay về nhà, trong bụng nghĩ thầm: "Từ nay mình sẽ là người giàu có, không phải vất vả gì nữa". Thế nhưng tối hôm ấy tâm trí ông áy náy, tâm hồn ông bồn chồn, trằn trọc không sao ngủ được. Sáng hôm sau, ông cầm viên ngọc đi tìm nhà tu hành và gặp thấy nhà tu hành ấy đang ngủ ngon lành dưới gốc cây. Ông rón rén đến gần đánh thức dậy và nói: "Thưa ông, tôi xin trả lại ông viên ngọc quý này, xin ông ban cho tôi viên ngọc quý khác, tức là sự phong phú của tâm hồn, đã làm ông có đủ can đảm cho tôi viên ngọc quý này mà không tiếc xót".
Viên ngọc quý thực sự của tâm hồn là gì để cho nhà tu hành kia có được nghị lực khước từ mọi giàu sang thế trần mà không biết tiếc xót chi cả? Đó là điều Chúa Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay.
Bài Tin Mừng là hai dụ ngôn "kho báu" và "viên ngọc quý". Kho báu và viên ngọc quý ấy Chúa Giêsu đưa ra ở đây để tiêu biểu cho cái gì? Thưa, đó là nước trời. Đứng vậy, cả hai dụ ngôn đều muốn nói tới sự cao quý tột bực của nước trời, không của cải nào sánh bằng. Cao quý đến nỗi khiến mọi thứ khác đều lu mờ đi, và mọi giá trị người ta từng theo đuổi từ trước đều phải nhường chỗ.
Hai hình ảnh "kho báu" và "viên ngọc quý" vừa rõ ràng vừa huyền bí. Rõ ràng ở chỗ ai biết gía trị của chúng thì quý hóa, còn huyền bí ở chỗ có nhiều người không biết giá trị tiềm ẩn đó, chính vì vậy mà nhiều người bị lầm. Cũng như người kia có kho báu ở ngay trong thửa ruộng của mình mà không biết, hay người có viên ngọc quý giá kia cũng thế, họ nắm trong tay mà không hay, nên họ đã để vuột mất kho báu và viên ngọc quý.
Câu chuyện này cũng giống như câu chuyện "Ông già xứ Ba Tư", xứ ngàn năm lẻ một hay ngàn lẻ một năm. Câu chuyện như sau: ông già ấy có một nông trại rộng lớn, vườn rộng ao sâu, nhiều hoa quả và cá quý, ông ta nghe lời một vị đạo sĩ bán hết ruộng vườn để đi tìm kim cương. Ông lặn lội đi tìm hết nước nầy sang nước khác, nhưng không tìm thấy kim cương đâu cả, cuối cùng, hết tiền, đói khổ, quần áo rách rưới, cùng đường, ông đâm đầu xuống sông tự tử. Trong khi đó, người mua lại nông trại của ông đã tìm ra một mỏ kim cương khổng lồ ngay trong nông trại đó. Chúng ta thấy ông già Ba Tư ấy ngồi ngay trên mỏ kim cương, sở hữu mỏ kim cương kia mà không hề hay biết gì.
Nhiều người chúng ta cũng ở trong tình trạng đó chăng? Rất có thể chúng ta đang gần kề hạnh phúc nước trời và những hồng ân của nước ấy mà chúng ta không biết chăng? Đây không phải là hạnh phúc vật chất, ngắn hạn, được thực hiện ngay ở trần thế này, nhưng là hạnh phúc tâm linh, vĩnh cữu, chỉ được thực hiện trọn vẹn trong cõi sống đời đời. Đó chính là nước trời mà Chúa Giêsu muốn giảng dạy cho chúng ta biết. Nước trời như kho báu, như viên ngọc quý mà chúng ta phải cố gắng tối đa để chiếm hữu. Quả thực, mọi người Kitô chúng ta đều được mời gọi tìm kiếm nước trời. Công việc tìm kiếm này không chỉ giới hạn trong một quãng thời gian hay trong một số công việc nào, nhưng suốt cả cuộc đời và trong mọi sinh hoạt. Bởi vì nước trời là cái giá trị nhất chúng ta phải tìm kiếm và chiếm hữu. Nước trời quý hơn và giá trị hơn bất cứ thứ gì chúng ta đang có hay có thể có trong cuộc sống, và nước trời sẽ ban cho chúng ta nhiều hơn bất cứ cái gì cuộc sống có thể mang lại cho chúng ta. Vì thế, chúng ta phải không ngừng tìm kiếm và sẵn sàng đánh đổi tất cả những gì chúng ta có, kể cả mạng sống, để chiếm được kho báu hay viên ngọc quý này.
Nói cụ thể hơn, nước trời đây là phần rỗi, là sự sống đời đời của chúng ta, quý giá vô cùng, đòi hỏi chúng ta phải quan tâm trước hết, tuyệt đối ưu tiên, sẵn sàng hy sinh tất cả để chiếm đoạt cho bằng được, dù phải hy sinh bao nhiêu cũng chưa đủ và chưa xong. Quả thực, khi bước vào trần thế này, chúng ta muốn mở rộng bàn tay để chiếm lấy mọi sự, nhưng khi nhắm mắt xuôi tay, chúng ta đành phải ra đi với hai bàn tay trắng. Xuất thân từ bụi đất chúng ta sẽ trở về với bụi đất mà thôi, chỉ có sự sống vĩnh cửu mới tồn tại muôn đời. Chính điều đó mới đáng cho chúng ta lao nhọc để tìm kiếm và sẵn sàng hy sinh tất cả để chiếm hữu.
Vì vậy, chúng ta đang sống giữa những xoay chuyển của vật chất, chúng ta phải vất vả làm ăn, chúng ta phải quan tâm đến những nhu cầu cần thiết của đời sống...đó là điều chính đáng, nhưng chúng ta đừng quên: đời là tạm bợ, chúng ta cần và rất cần tìm ra giá trị vĩnh cửu ngay trong cuộc đời này kẻo quá muộn. Chúng ta hãy nhớ: đời là một dịp tiện, mỗi ngày sống là một dịp may, chúng ta có tự do và ý chí để quyết định phần giá trị cho mình. Chiếm đoạt được nước trời, tức là đạt được đời sống vĩnh cửu hay không là do chính mình. Chúng ta hãy có thái độ khôn ngoan của người tìm được kho báu và viên ngọc quý trong Tin Mừng hôm nay.
11. Ăn xin
(Lm Vũ Đình Tường)
Ngay từ nhỏ những dịp đi xa, mỗi lần xe đậu tại bến xe đò, bến phà hay ga tầu hoả, nhiều lần được nghe câu.
Ông bà cô bác làm ơn cho xin đồng tiền, bát gạo.
Người ăn xin bao giờ cũng nhắm đến xin người giầu có hơn mình, không xin người nghèo khổ hơn. Thực ra xin người nghèo khó hơn mình họ có gì để cho. Vì thế câu xin nhắm đến đối tượng ông bà, cô bác. Đây là bậc trưởng thượng trong xã hội, mới có dư giả để cho. Họ cũng xin rõ ràng mạch lạc. Không xin gì khác ngoài đồng tiền, bát gạo. Thực ra mấy ai đi đường mang theo gạo để sẵn có gạo mà cho. Vì thế hầu hết người ta cho tiền để người ăn xin tự đi mua gạo và nhu yếu phẩm cần thiết cho cuộc sống. Người làm việc bác ái dọc đường không cần biết người ăn xin tiêu tiền như thế nào, với mục đích gì. Họ đáp lại theo yêu cầu xin cho cơm ăn, áo mặc của kẻ nghèo khó. Người ăn xin hoàn toàn tự do chi tiêu số tiền đó theo hoàn cảnh riêng từng người.
Nên nhớ không phải tất cả những người xin ăn đều phung phí, tay trắng cả đâu. Họ cũng biết tích trữ chứ. Người ăn xin không nhà cửa ngoại trừ chỗ ngủ qua đêm, tránh mưa gió. Hẳn nhiên chỗ đó không an toàn nên có lẽ tiền xin dư hay để dành được họ phải tìm cách chôn giấu quanh đâu đó. Chỗ giấu hay nhất chính là chôn dưới đất. Chẳng may người đó mất đi nếu chủ ruộng tìm được, đương nhiên hưởng gia tài chôn dấu đó.
Phúc âm nhắc đến dụ ngôn người tìm được kho tàng chôn dấu anh ta bán hết mọi sự tìm mua thửa ruộng đó. Kho tàng đây không phải của người mù chôn dấu. Kho tàng Đức Kitô muốn nói tới là kho tàng ai cũng nhìn thấy nhưng người tham của cải thế gian sẽ mù quáng không nhận ra. Chỉ những ai dám bán hết gia tài để mua mới nhận ra. Bán hết gia tài để được giầu hơn. Nghe có vẻ nghịch lí. Người ngoài nhận xét anh là chủ ruộng nghèo vì đã bán hết mọi sự. Ngoài ruộng ra anh còn chi. Thực tế anh giầu hơn không phải vì đất ruộng tăng giá. Anh giầu hơn vì anh có thửa ruộng cộng thêm kho tàng chôn dấu trong ruộng.
Người xưa dùng hình ảnh viên ngọc quí và hình ảnh chủ ruộng là hình ảnh của khôn ngoan. Chỉ người khôn ngoan mới có khả năng tậu viên ngọc và có tiền làm chủ ruộng. Đại đa số đều làm thuê, công nhân. Viên ngọc quí và kho tàng chôn trong ruộng là hai hình ảnh Đức Kitô dùng chỉ về nước trời. Người giầu có là người có Lời Chúa làm chủ cuộc đời. Người khôn ngoan là người được Lời Chúa soi sáng trong đời. Muốn được Lời Chúa làm chủ cuộc đời người đó cần bán bỏ tất cả những chủ khác để chọn một chủ duy nhất. Chọn như thế anh sẽ một lòng trung thành với chủ. Đầy tớ trung thành với chủ là đầy tớ khôn ngoan. Khôn ngoan không phải do anh học được mà do giáo huấn chủ giáo dục, hướng dẫn biến anh trở thành người đầy tớ khôn ngoan. Nói cách khác khôn ngoan anh có được là do chủ ban cho. Anh giầu có không phải vì miếng ruộng, mảnh vườn. Anh giầu có vì gia tài anh có không bị mối mọt đục khoét, không hư hao, mất giá vì thời gian.
Chọn Chúa là Đấng duy nhất làm chủ đời mình và chọn lời Chúa làm kim chỉ nam soi đường là người sống có mục đích, biết rõ con đường mình đang đi tới, mục đích mình muốn đạt. Từ đó mọi suy nghĩ hành động đều qui hướng về mục đích cao cả đó. Đây chính là trường hợp của vua Salomon trong bài đọc một hôm nay.
Cựu ước ghi lại ơn khôn ngoan của vua Salomon khi ông biết ông non dại, thiếu kinh nghiệm lãnh đạo, không thể làm tròn trách nhiệm Chúa trao nên ông xin.
Chúa khiến tôi tớ Chúa cai trị kế vị Đavít thân phụ con. Nhưng con chỉ là một trẻ nhỏ, không biết đường đi nước bước. Tôi tớ Chúa đang sống giữa dân Chúa chọn.... Vậy xin Chúa ban cho tôi tớ Chúa tâm hồn khôn ngoan để đoán xét dân Chúa, và phân biệt lành dữ... 1V3,7-12
Chúa ban cho điều Salomon xin và còn cho hơn cả những điều ông không biết để xin. Lý do nào Chúa làm thế? Vì Salomon không xin lợi riêng cho mình nhưng xin ơn làm tròn sứ vụ Chúa trao. Vì thế Chúa ban cho dư đầy. Xin như thế là xin Chúa làm chủ đời mình nên Chúa ban cho Solomon nhiều sự lành. Ngài cho ông trở nên công chính và khôn ngoan. Người lãnh đạo khôn ngoan và công chính mang lợi ích cho muôn dân, làm sáng Danh Thánh Chúa.
Muốn trở nên giầu có phải biết học cho đi. Muốn trở nên khôn ngoan phải biết học khôn từ lời Chúa.
12. Phải bán đi những gì để mua Nước Trời?
(Lm. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn)
Chúng ta đang sống trong một thế giới điên loạn vì vô luân vô đạo, với đầy rẫy ở khắp nơi những sụ dữ như hận thù,dâm ô, chém giết nhau từ trong gia đình ra đến bên ngoài xã hội và cộng đồng thế giới.. Bọn khủng bố cuồng tín, núp dưới danh nghĩa tôn giáo, ngày một trở nên nguy hiểm cho sự an toàn của người dân lương thiện vô tội ở khắp nơi, vì lo sợ sẽ là nạn nhân của những cuộc khủng bố, bách hại của bọn cuồng tín kia. Trong khi đó, nạn bóc lột và cai trị hà khắc vẫn tiếp diễn ở các nước độc tài, nơi nghèo túng, lạc hậu và thiếu tình người, thiếu đạo đức và vô luân, đã khiến cho nhiều cha mẹ đem bán con cái cho bọn buôn người để cung cấp cho kỹ nghệ mãi dâm và ấu dâm rất khốn nạn và tội lỗi.
Trên bình diện khác, bọn tư bản ở khắp nơi - đặc biệt ở Mỹ- ngày càng làm giầu với những xảo thuật về kinh tài mà giới cầm quyền cai trị cũng phải bó tay để mặc chúng thao túng thị trường chứng khoán và lèo lái kinh tế theo ý muốn có lợi cho chúng. Cụ thể, tại sao Nước Mỹ có trữ lượng dầu hỏa và khí đốt phong phú không thua gì các nước dầu hỏa Á Rập mà dân Mỹ vẫn phải mua săng với giá cao, khiến đời sống của đa số người lao động ngày càng khó khăn vì giá săng dầu không thể hạ xuống thấp được nữa? lý do là bọn tư bản, làm chủ các hãng săng dầu muốn vơ vét cho đầy túi tham, bất chấp hậu quả tai hại cho người dân lao động có mức lợi tức thấp.
Khi xã hội và cộng đồng thế giới không được chỉ huy, lãnh đạo bởi những nguyên tắc công bằng và đạo lý thì người dân sống trong đó cũng bị chao đảo về mặt tinh thần, coi thường luân lý đạo đức, là nền móng cho một đời sống tinh thần lành mạnh và hướng thượng. Hậu quả trông thấy là có biết bao người đang dửng dưng với mọi tôn giáo để chậy theo những quyến rũ về tiền bạc, của cải vật chất, danh vọng trần thế và tôn thờ khoái lạc (hedonism) với những thú vui vô luân vô đạo, như bộ mặt của thế giới tục hóa ngày nay.
Đứng trước thực trạng nói trên của con người thời đại hôm nay, là người tín hữu Chúa Kitô, chúng ta nghĩ gì về niềm tin của mình? phải chăng chúng ta đang đi tìm Thiên Chúa và sự giầu sang phú quí của Nước Trời, hay đang chạy theo những trào lưu tục hóa của thời đại?
Để trả lời cho câu hỏi này, bài đọc thứ nhất và bài Phúc Âm Chúa nhật 17 mùa thường niên hôm nay cống hiến cho chúng ta giải đáp thỏa đáng để suy nghĩ và áp dụng trong đời sống đức tin của mỗi người chúng ta
Thật vậy, bài đọc thứ nhất, trích trong sách các Vua, kể cho chúng ta nghe sự kiện Vua Salômon, con Vua Đavid, được gặp Chúa trong giấc mơ. Chúa hỏi ông muốn xin gì, ông đã đáp như sau:
“Xin ban cho tôi tớ Chúa đây một tâm hồn biết lắng nghe để cai trị dân Chúa và biết phân biệt phải trái,.. Thiên Chúa hài lòng vì Salômon xin điều đó, nên đã nói với nhà vua như sau: “Bởi vì ngươi đã xin điều đó. Ngươi đã không xin cho được sống lâu, hay được của cải; cũng không xin cho kẻ thù ngươi phải chết, nhưng đã xin cho được tài phân biệt để xét xử, thì này Ta làm theo như lời ngươi: Ta ban cho ngươi một tâm hồn khôn ngoan minh mẫn đến nỗi trước ngươi, chẳng một ai sánh bằng và sau ngươi cũng chẳng có ai bì kịp. (1V 3, 9-12)
Đây là món quà quí giá mà Chúa đã ban riêng cho vua Salômon để giúp cho nhà vua biết khôn ngoan khi cai trị dân Chúa và biết phải trái khi phán đoán họ.
Như vậy, mỗi người tín hữu chúng ta hãy noi gương vua Salômon để xin Chúa ban ơn hiểu biết và khôn ngoan để biết đâu là gian tà và tội lỗi phải tránh và đâu là điều thiện hảo phải làm để được chúc phúc và nhất là được cứu rỗi để vào Nước trời vui hưởng hạnh phúc bất diệt với Chúa, sau khi kết thúc hành trình đức tin trên trần thế này
Thật vậy, sống trong một thế giới tôn thờ tiền bạc,của cải vật chất và những thú vui vô luân vô đạo, vô lương tâm và dửng dưng trước sự nghèo đói và đau khổ của đồng loại, người tín hữu chúng ta cần thiết phải xin Chúa ban cho ơn khôn ngoan,và can đảm sống theo đường lối của Chúa để không đi vào con đường đưa đến hư mất đời, vì “người nào được cả thế giới mà mất sự sống ( mất linh hồn) thì nào có lợi ích gì?” như Chúa Giê su đã nói với các môn đệ và những người đến nghe Chúa giảng dạy xưa kia. (Lc 9,25) Nói khác đi, chúng ta phải noi gương vua Salômon đã không xin Chúa cho được giầu sang, được sung sướng vật chất, mà chỉ xin Chúa cho được khôn ngoan để biết phân biệt điều hay việc tốt phải làm, và sự xấu sự dữ phải tránh để không chạy theo những quyến rũ về tiền tài danh vọng chóng qua ở đời này khiến quên lãng điều cần thiết và quan trọng hơn là tìm Chúa và hạnh phúc sang giầu của Nước Trời.
Mặt khác, cũng chính trong mục đích tìm sự khôn ngoan, ơn hiểu biết để sống giữa thế gian với biết bao người chỉ biết đi tìm những lợi lãi chóng qua ở đời này, và không thắc mắc gì đến tương lai ngày mai sau cái chết mà không ai có thể tránh được, Bài tin Mừng thánh Matthêu Chúa Nhật 17 mùa thường niên hôm nay cũng mời gọi chúng ta suy nghĩ sâu xa về ba dụ ngôn Chúa Giêsu kể cho các môn đệ về Nước Trời.
Trước hết là dụ ngôn về kho báu chôn dấu ngoài thửa ruộng kia. Có người tìm được và đã về bán tất cả gia sản của mình để mua lấy thửa ruộng có kho báu chôn dấu trong đó.Cũng vậy, một thương gia đi tìm ngọc quí, khi tìm được đã về bán tất cả những gì mình có để mua viên ngọc quí đó.
Nước Trời cũng được ví như kho báu và viên ngọc quí mà nhờ đức tin chúng ta tìm được. Nhưng tìm được rồi, chúng ta có về bán đi tất cả những gì mình có để mua kho báu và viên ngọc quí đó hay không?
Nói khác đi, nếu đức tin cho ta biết có Thiên Chúa là Cha cực tốt cực lành, có hạnh phúc Nước Trời mà “mắt chưa từng xem thấy, tai chưa hề nghe, lòng trí chưa từng nghĩ đến” (1Cr 2,9), thì chúng ta phải bán đi những gì mình có để mua lấy Nước trời hầu được chiêm ngưỡng Thánh Nhan Chúa là cội nguồn của mọi vinh phúc giầu sang.
Câu chuyện người thanh niên giầu có trong tin Mừng Thánh Máccô đủ cho ta thấy ham mê của cải, tiền bạc ở đời này là một trở ngại lớn cho ai muốn vào Nước Trời. Cụ thể, anh thanh niên giầu có kia, mặc dù đã thực hành tốt mọi điều răn của Chúa, nhưng khi Chúa Giêsu bảo anh hãy về bán hết tài sản và bố thí cho người nghèo rồi trở lại đi theo Chúa, thì anh đã buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải khiến không thể hy sinh được. Vì thế Chúa đã nói với các môn đệ như sau: Những người giầu có khó vào Nước Thiên Chúa biết bao. Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu vào Nước Thiên Chúa” (Mc 10, 23-24)
Như thế đủ cho thấy là ham mê của cải, làm nô lệ cho tiền bạc là một trở ngại lớn cho những ai muốn vào Nước Thiên Chúa.
Và để tìm kiếm Nước Trời, qua ba dụ ngôn trong bài Tin Mừng Chúa nhật này, Chúa Giêsu cũng có ý cho ta hiểu rằng Nước Trời còn quí giá hơn cả kho báu chôn kín trong thửa ruộng hay viên ngọc quí mà thương gia kia tìm được.Kho báu ấy chính là Thiên Chúa và Vương Quốc bình an và hạnh phức của Người.
Vậy, ta phải bán đi những gì để mua Kho Báu ấy?
Những gì người ta có là lòng ham mê tiền bạc và của cải cùng danh vọng ở đời này.Thêm vào đó, là lòng ham muốn những vui thú bất chính,dâm ô thác loạn, hận thù nghen nghét, bất công chèn ép, bóc lột người khác và dửng dưng trước sự nghèo đói, đau khổ của biết bao người xấu số trong xã hội. Tất cả đây là những trở ngại cho ai muốn được vào Nước Trời để hưởng hạnh phúc giầu sang phú quí vinh cửu mà Thiên Chúa, Cha chúng ta, đã dành sẵn cho nhưng ai yêu mến Người, hơn yêu mến tiền bạc, danh vọng và mọi thú vui vô luân vô đạo ở đời này
Như vậy, nếu muốn mua Nước Trời, thì mỗi người chúng ta phải bán đi những gì mình đang có – hay nói khác đi- phải từ bỏ những trở ngại để có thể vươn tâm hồn lên cùng Chúa là cội nguồn của mọi vinh phúc giầu sang. Nếu lòng trí ta còn nặng chĩu những tham sân si ở đời này, thì chắc chắn không thể đến gần được Chúa và không có hy vọng gì mua được sự giầu sang phú quí của Nước Trời.
Thực trạng đáng buồn trong cách sống đạo của rất nhiều người tín hữu ở khắp nơi ngày nay đã chứng minh điều này: có những người thường xuyên bỏ lễ ngày Chúa Nhật và những ngày lễ trọng, hoặc không bao giờ đi xưng tội hay bỏ giờ ra cầu nguyện, nhưng lại luôn luôn có mặt ở những cuộc hội họp ăn uống và nhẩy nhót cuồng loạn. Có những người đã bỏ -hay li dị vợ già- để về Vietnam cưới những cô gái trẻ đáng con cháu của mình, bắt chấp sự cười chê và phỉ nhổ của dư luận quần chúng.
Lại nữa, có biết bao người đã và đang thi nhau về VN để ăn chơi tội lỗi, vì hoàn cảnh xã hội suy đồi về đao đức và khó khăn về kinh tế ở bên nhà, đã khiến cho nhiều phụ nữ phải bất đắc đi làm các nghề mua vui cho người khác để kiếm của nuôi thân.
Nếu người tín hữu Chúa Kitô mà cũng lăn mình vào nếp sống của những người vô luân, vô đạo kia, thì làm sao có thể mua được Nước trời với giá phải loại bỏ những đam mê trần thế để sống theo đường lối của Chúa, vì “ nếu được mọi lợi lãi ở đời này mà mất linh hồn thì được ích gì”?
Sau hết, qua dụ ngôn chiếc lưới thả xuống biển để bắt nhiều loại cá tôm. Nhưng người thả lưới sẽ chỉ lựa loại cá tôm tốt bỏ vào giỏ, còn loại xấu thì sẽ quăng đi.Hình ảnh này cũng cho ta biết là Thiên Chúa, trong ngày sau hết, sẽ sai các thiên thần đi gom những người thực tâm mến Chúa, yêu người và chê ghét mọi sự dữ, mọi quyến rũ về của cải và vui thú vô luân vô đạo ở đời này và đưa họ vào Thiên đàng vui hưởng thánh nhan Chúa. Còn những kẻ đã mê mãi chạy theo và làm những sự dữ ở trần gian này, bắt chấp lương tâm và lòng kính sợ Chúa, thì sẽ bị ném vào hỏa ngục để bị thiêu đốt như người ta đốt cỏ dại, quăng cá tôm xấu xuống biển, và chỉ lấy lúa chin bỏ vào kho và tôm cá tốt vào giỏ. Chúa nói: ai có tai nghe thì nghe. (Mt 13,43; Mc 7,16; Lc 8,8)
Ước chi ba dụ ngôn Chúa Giêsu kể trong Tin Mừng Chúa nhật này đủ đánh động tâm hồn mỗi người chúng ta để giúp chúng ta nhìn lại đời sống đức tin của mình. Xem thực sự mình có lòng yếu mến Chúa và quyết tâm sống theo đường lối của Người, hay đang chạy theo những vui thú tội lỗi, những ham mê về của cải và danh vọng hư hão trong trần thế này, đến coi nhẹ hay quên mất mục đích tối cao là tìm kiếm Thiên Chúa và hạnh phúc giầu sang của Nước Trời.
Xin Chúa Thánh Linh ban cho ta ơn hiểu biết và khôn ngoan như vua Salô mon đã xin Chúa xưa kia để giúp chúng ta biết lựa chọn và sống đức tin cách vững chắc để được gặp Chúa và vui hưởng hạnh phúc vinh cửu trên Nước Trời mai sau.
13. Kho báu ẩn dấu và viên ngọc quý
(Lm. Pietro Nguyễn Hương)
Sống là một hành trình tìm kiếm và chọn lựa liên lỉ. Tìm kiếm chân thiện mỹ, chọn lựa tốt xấu, lành dữ.
Trong tác phẩm nổi tiếng "la Pensées", Pascal (triết gia Công Giáo Pháp) cho rằng có ba thứ bậc của sự cao trọng. Bậc thứ nhất liên quan đến vật chất hay con người: nó đề cao những ai giàu có, những ai có sức khoẻ hay dung nhan xinh đẹp. Bậc này có một giá trị không thể xem thường, nhưng nó chỉ ở cấp thứ nhất.
Bậc thứ hai cao trọng hơn là bậc của tài năng siêu việt mà các triết gia, khoa học gia, nghệ sĩ và các nhà thơ nắm giữ. Đây là một bậc có một phẩm chất khác. Giàu hay nghèo, đẹp hay xấu, không thêm không bớt điều gì từ những thiên tài. Trước họ chúng ta phải ngưỡng mộ, nhưng nó chưa phải là bậc cao nhất.
Còn có một thứ bậc cao hơn, đó là thứ bậc của tình yêu, của lòng tốt mà Pascal gọi đó là thứ bậc của thánh thiện và ơn sủng. Gounod cho rằng: "Một giọt thánh thiện đáng giá hơn một đại dương tài năng". Đẹp hay xấu, học thức hay dốt nát không thêm hay bớt đi điều gì khỏi một người thánh thiện, một vị thánh. Sự cao cả của ngài thuộc về một thứ bậc khác, vượt trên cả hai bậc kia. Điều này rất phù hợp với quan niệm của người Việt Nam: "Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài" (Nguyễn Du, Truyện Kiều).
Có thể nói rằng đức tin Kitô giáo thuộc về bậc thứ ba này, bởi lẽ cốt lõi của Đạo chúng ta là Tình Yêu, và mời gọi đạt tới sự Thánh Thiện. Hay nói đúng hơn, những ai đã được rửa tội, là kitô hữu đều được mời gọi sống cho Tình Yêu và sự Thánh Thiện này, ngay trong chính đời sống của mình.
Lời Chúa hôm nay cũng nói tới sự cao cả và lời mời gọi này: Vua Salômon trong bài đọc I không xin Chúa cho được giàu có, sống lâu, nhưng ông chỉ xin cho tâm hồn khôn ngoan để lãnh đạo dân Chúa và phân biệt lành dữ. Điều ông xin đẹp lòng Chúa và Chúa ban cho ông được khôn ngoan và có tất cả.
Dụ ngôn "kho báu giấu ở thửa ruộng" và "viên ngọc quí" diễn tả sự cao trọng, sự vô giá của Nước Trời, mà không có cái gì, không có vàng bạc hay tài năng nào sánh được. "Kho báo" và 'viên ngọc quý" ở đây là chính Đức Giêsu Kitô, Ngài là đối tượng lớn nhất, là niềm vui, là hạnh phúc để chúng ta tìm kiếm và sở hữu. Không có gì đẹp hơn, bởi được tìm biết Đức Kitô, có Ngài chúng ta có tất cả! Nói như Thánh Phaolô hôm nay là: trong Người, chúng ta "những người theo dự định của Chúa, được kêu gọi nên thánh", trở nên giống với hình ảnh Chúa Con, trở nên giống Đức Kitô. Như thế, lời mời gọi nên thánh chính là trở nên giống Đức Kitô, sống theo Đức Kitô.
Khủng hoảng lớn nhất của con người hôm nay là khủng hoảng về các giá trị, các bậc sống bị đảo lộn. Tiền bạc lên ngôi, trở thành tiên, thành phật; sự thánh thiện và tình yêu trở thành một thứ secondhand, "hàng ế"! Thiên Chúa bị loại ra khỏi đời sống. Đức Giáo Hoàng Benedetto XVI nói rất chính xác rằng: "Trong lòng nhiều người sống trong xã hội chúng ta, bên cạnh sự thịnh vượng vật chất là sự lan rộng của sa mạc tâm linh, một sự trống rỗng nội tâm, nỗi sợ không tên, và một cảm thức lặng lẽ của tuyệt vọng" (Bài giảng ở Sydney 2008). Nếu cuộc sống chúng ta vắng bóng Thiên Chúa, nếu Thiên Chúa không được tìm kiếm và quy chiếu như sự thiện tuyệt đối, như là mục đích tối hậu của đời người, thì chúng ta sẽ bị vong thân, cuộc sống đánh mất nền tảng căn bản.
Như hai người trong Tin Mừng tìm kiếm kho báu và viên ngọc quí, tất cả chúng ta đều được mời gọi tìm kiếm Thiên Chúa như là kho báu, là viên ngọc quí, là mục đích tối hậu trong cuộc đời mình. Trong gia đình, chúng ta đừng đánh giá nhau chỉ dựa trên tiền bạc của cải. Các bạn trẻ đừng bao giờ nghĩ rằng, tình dục là tất cả để tìm kiếm, để hưởng thụ. Có một sự bận tâm cao hơn đó là "tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Trời"; có những giá trị còn lơn lao hơn, đó là hãy sống thánh thiện và tìm kiếm Thiên Chúa là chân thiện mỹ của đời ta. Amen!
14. Quyết định khôn ngoan
(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Trong kinh doanh, một quyết định đúng lúc và phù hợp sẽ đem lại lợi ích và thành công cho doanh nghiệp; với những người lãnh đạo, một quyết định đúng, khôn ngoan có thể cứu cả một dân tộc, một đất nước thoát khỏi nghèo đói và lệ thuộc, ngược lại một quyết định vội vã, thiếu cân nhắc, thiếu khôn ngoan, có thể là một tai họa cho nhiều thế hệ con cháu. Trong đời sống cá nhân, một quyết định chọn lựa khôn ngoan sáng suốt, có thể đem niềm vui và hạnh phúc đến cho bản thân, cho gia đình, ngược lại nếu đưa ra một quyết định chọn lựa sai lầm sẽ có thể để lại sự ân hận cho con người suốt cả đời.
Nếu trong đời sống thường ngày cần phải có những quyết định dứt khoát, khôn ngoan cho mình, thì Lời Chúa hôm nay cũng nhắc cho chúng ta cho chúng ta cũng cần phải có những chọn lựa khôn ngoan, dứt khoát có thể đem lại hạnh phúc và ơn cứu độ cho bản thân cho gia đình ngay lúc này. Thiên Chúa hết sức tôn trọng tự do của con người, và Ngài luôn để cho con người tự do chọn cho mình một tương lai, đồng thời cũng phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Nhưng vấn đề là: Quyết định nào là quyết định khôn ngoan, và chọn lựa nào là chọn lựa dai dột?
Vua Salomon là một vị vua nổi tiếng về sự khôn ngoan trong việc điều hành và cai trị dân Chúa. Danh tiếng về sự khôn ngoan của ông đã lan truyền ra khắp vùng, dân chúng trong nước vâng phục, các vua lân bang kính nể, và nữ hoàng ở thận Phương Nam xa xôi phải tìm đến để học sự khôn ngoan của vua Salomon. Tại sao ông lại có được sư khôn ngoan như thế? Sách Các Vua hôm nay đã kể lại: Trước khi lên ngôi, Thiên Chúa đã cho ông một chọn lựa: Ngươi muốn gì, cứ xin, Ta sẽ ban cho. Khác với lẽ thông thường của nhiều người khi được một điều ước như vậy, người đời sẽ xin sự giàu sang phú quý, nhà cửa sang trọng, nhưng vua Salomon lại không màng những thứ ấy, trái lại ông xin cùng Thiên Chúa: Chính Chúa đã đặt tôi tớ Chúa lên kế vị Đavít, thân phụ con, mặc dầu còn trẻ người non dạ… con lại ở giữa một đám dân đông đúc không kể xiết: Xin ban cho tôi tới Chúa đây một tâm hồn biết lắng nghe để cai trị dân Chúa và phân xử một cách khôn ngoan. Lời cầu xin này đẹp lòng Chúa, ông không xin của cải, không xin sống lâu, cũng không xin chiến thắng quân thù, nên Chúa đã ban cho ông sự khôn ngoan vượt bậc, và còn ban cho ông tất cả những gì mà ông không xin: Ta ban cho ngươi một tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi không một ai được như ngươi, và sau ngươi không ai được bằng ngươi. Salomon đã không xin gì cho riêng mình, mà ông chỉ xin một điều là làm sao để ích lợi cho dân Chúa, cho người khác. Đối với Thiên Chúa, quyết định và chọn lựa như Salomon là một chọn lựa khôn ngoan, chứ không phải là lo tìm kiếm sự giàu sang danh vọng cho mình.
Chúa Giêsu đã giải thích rõ hơn như thế nào là quyết định chọn lựa khôn ngoan khi Ngài kể cho dân chúng nghe những dụ ngôn về Nước Trời mà Ngài so sánh như một người chuyên săn tìm kho báu, như một thương gia, hoặc như một ngư phủ chọn cá. Những người này khôn ngoan ở chỗ nào? Trước hết người săn tìm kho báu gặp được kho tàng chôn giấu trong ruộng, khi gặp được rồi, anh quyết định về bán tất cả những gì mình có để mua cả thửa ruộng lẫn kho báu. Anh ta có điên không? Trong mắt nhiều người quyết định như thế là điên khùng, vì đã liều mình đánh đổi cả sự nghiệp gia tài và cuộc đời vì kho báu ấy. Nhưng đối với người này, thì việc tìm được kho báu đã là hạnh phúc và là mục đích sự tìm kiếm cả đời ông. Ông này không chỉ cố gắng để giành cho được kho báu, mà con giành cả mảnh ruộng có kho báu đó. Cũng vậy có những người đã phải mất rất nhiều thời gian công sức không phải để tìm kiếm kho báu vật chất mà là tìm cho mình một lối đi, một hướng sống một mục đích của cuộc đời. Chính vì thế, biết được Nước Trời là hạnh phúc thật, là cùng đích cuộc đời, thì người tín hữu cũng phải có một quyết định giống như người săn tìm kho báu, đó là dám đánh đổi tất cả sự nghiệp tài sản và cả cuộc sống của mình vì hạnh phúc mai sau. Đó mới là quyết định khôn ngoan, sáng suốt.
Nếu như câu chuyện về người săn tìm kho báu hoặc thương gia đi tìm ngọc quý, khi tìm được, họ đã quyết định đánh đổi cả gia nghiệp để có được kho báu hay viên ngọc quý, thì hình ảnh người ngư phủ chọn cá tốt thì cho vào giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài, muốn nói đến sự chọn lựa trong cuộc sống thường ngày. Người Do Thái chỉ được phép ăn một số cá mà thôi, có một vài loại cá họ không được phép ăn, vì bị cho là những con vật dơ bẩn. Vì thế với công việc thường ngày của một ngư phủ, khi kéo lưới lên, anh ta sẽ phải cần mẫn để chọn lựa loại cá nào có thể ăn được, và loại bỏ những loại cá nào mà luật không cho phép ăn. Cá ăn được sẽ bỏ vào giỏ, còn cá dơ thì ném ra ngoài. Với hình ảnh này Chúa Giêsu cho thấy: Thiên Chúa sẽ là người chọn lựa, những người trong sạch thì được để riêng vào nơi hạnh phúc, con người xấu, kẻ từ chối Thiên Chúa và Tin Mừng của Ngài thì sẽ bị ném vào lò lửa; Người tốt, việc tốt thì được chọn vào “giỏ Nước Trời” còn người xấu việc xấu thì bị ném ra ngoài. Kế đến, cuộc đời của người theo Chúa cũng phải là một cuộc chọn lựa liên tục, chọn điều tốt, và loại trừ điều xấu. Những ai biết chọn đứng về phía Thiên Chúa và chọn mang lấy Tin Mừng của ngài và làm những việc tốt lành thì được cứu độ, còn những ai đứng về phía ma quỷ và những kẻ chống đối Thiên Chúa, từ chối Đức Kitô và Tin Mừng thì bị loại ra ngoài.
Bài đọc hai cho thấy chọn lựa của Thánh Phaolô: là một thanh niên giỏi giang xuất chúng, Phaolô có thể có một tương lai rạng rỡ trong con mắt của người đời và được mọi người kính phục cũng như ước ao, tuy nhiên Phaolô đã không chọn con đường của thế gian, mà trái lại ông đã được chọn và ông vui với việc được trở thành môn đệ Chúa Kitô. Cũng vì quyết định đáp lại lời mời gọi của chúa Kitô mà Phaolô đã rơi vào cảnh tù đày, dù bị tù đày, ông không hề hối tiếc song vẫn khuyên nhủ mọi người hãy sống xứng với ơn gọi mà Thiên Chúa ban cho mỗi người. Đồng thời Thánh phaolô cũng mời gọi mọi người hãy dám chọn sống theo tinh thần và lề luật của Tin Mừng đó là ăn ở khiêm tốn hiền từ nhẫn nại, lấy tình bác ái mà cư xử với nhau.
Thưa quý OBACE, một khi quyết định chọn lựa thì cũng đồng thời phải chấp nhật sự mất mát từ bỏ, chọn Đức Kitô thì phải chấp nhận những gì không phù hợp với Đức Kitô. Một khi đã nhận ra Đức Kitô và Tin Mừng của Người là đường đưa tới sự sống đời đời, là kho tàng quý giá nhất trên đời, chúng ta cần phải quyết định dứt khoát và dám đánh đổi mọi sự để có được hạnh phúc đời đời đó.
Người đời sẽ không thể hiểu được tại sao lại có những chàng trai cô gái đang căng tràn sức sống, tương lai mở rộng, lại quyết định trở thành những linh mục tu sĩ, dành cuộc đời mình trong nhà dòng; người đời cũng sẽ không thể hiểu được tại sao giữa một xã hội cổ võ cho một lối sống tự do buông thả, thì những người tin theo Đức Kitô lại quyết định bước theo con đường hẹp của Tin Mừng, của thập giá. Thưa vì những người này đã nhận ra được kho tàng vô giá là đời sống phục vụ theo gương Đức Kitô, và nhận ra hạnh phúc Nước Trời mới là hạnh phúc đích thật cho con người, nên những người này đã dám bỏ lại đàng sau tất cả để sống theo lời mời gọi của Đức Kitô.
Kho tàng là hạnh phúc cũng đang được vùi trong các gia đình, mà mỗi thành viên, đặc biệt là các bậc làm cha mẹ cần phải tìm kiếm và bảo vệ bằng mọi giá, và phải chấp nhận đánh đổi tất cả những cái phụ thuộc để có thể đạt được hạnh phúc cho gia đình mình. Kho báu còn là vợ chồng là con cái, mà mỗi thành viên trong gia đình phải gìn giữ trân trọng và dám hy sinh tất cả những thứ khác để bảo vệ. Nhiều người đã quên mất điều đó, nên đã đem tình yêu và hạnh phúc của gia đình mình ra để đổi chác hoặc cầm cố, có người lại mải mê đi tìm một niềm vui nào đó nơi công việc hoặc tìm ở ngoài gia đình, mà quên rằng chỉ có gia đình mới thực sự là tổ ấm là cái nôi hạnh phúc cho mỗi người.
Một cám dỗ nguy hiểm cho nhiều người trẻ hôm nay, đó là cuộc sống xã hội đang tạo ra nhiều giá trị ảo, mục tiêu ảo, hạnh phúc ảo, thế giới ảo và nhiều thứ ảo giác khác khiến cho nhiều người trẻ đã lạc đường, mất hướng không còn biết mục đích cuộc đời của mình là gì, và hạnh phúc thật là gì. Chính vì thế đã có nhiều bạn trẻ thay vì đánh đổi cuộc đời mình để đạt được hạnh phúc Nước Trời, trái lại họ đang đốt cháy cuộc đời mình trong nghiện ngập, đam mê chơi bời, cờ bạc, buông thả. Nhiều người trẻ đang bị cám dỗ để lao vào tìm kiếm các giá trị ảo trong xã hội như tìm kiếm sự nổi danh, nổi tiếng, tìm đẳng cấp ăn chơi đua đòi hưởng thụ, và tiêu phí cuộc đời mình trong những thứ đó.
Chúng ta cùng cầu nguyện cho nhau, biết nhận ra Đức Giêsu là nguồn hạnh phúc đích thực của cuộc đời và Tin Mừng của Ngài là một bảo đảm để đạt được hạnh phúc ấy, để chúng ta dám đánh đổi tất cả những sự tạm bợ của thế gian này, để đạt được hạnh phúc vĩnh cửu mà Chúa đem đến cho chúng ta. Amen.
15. Hãy làm mọi sự để có được Nước Trời
(Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Một điều vô tiền khoáng hậu như thế được ký kết trong một giấc mộng tại Gabaon giữa một bên là Thiên Chúa, bên kia là Salomon, Thiên Chúa phán: "Đây Ta ban cho ngươi điều ngươi xin … đến nỗi trước ngươi không có ai giống ngươi, và sau ngươi không có ai bằng ngươi" (1V 3, 12).
Thiên Chúa muốn thông ban người vinh quang đã có tự đời đời cho con người. Vinh quang này được sánh như một kho báu hay một viên ngọc quí trong Tin Mừng hôm nay. Con người luôn luôn tìm kiếm hạnh phúc, và Đấng là nguồn mạch mọi ơn phúc. Thiên Chúa muốn chia sẻ vinh quang ấy cho con người. Chính con người cũng không biết mình được dựng nên để vui hưởng vinh quang với Thiên Chúa. Theo thánh Phaolô thì Thiên Chúa biết chúng ta từ thủa đời đời; khi được tạo thành, Ngài đã gọi tên ta. Theo nghĩa Thánh Kinh, Thiên Chúa biết chúng ta bằng cả tấm lòng, Ngài cưu mang chúng ta trong lòng Ngài, như một người mẹ biết con mình khi cưu mang con trong dạ.
Kế hoạch của Thiên Chúa là Ngài muốn chúng ta trở nên giống hình ảnh của Chúa Giêsu, Con Ngài, vì Chúa Giêsu là hình của Thiên Chúa, như Chúa Giêsu nói với Philiphê "Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha" (Ga 14,9). Nói cách khác, Thiên Chúa muốn chúng ta là một thành viên trong gia đình Ba Ngôi Thiên Chúa. Đây là một đại ân huệ Thiên Chúa dành cho chúng ta! Nên Ngài mời gọi chúng ta trở nên hình ảnh của Con Chúa, nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu, nhất là mang trên mình danh hiệu là Kitô hữu “Đức Giêsu Kitô: làm sao giàu có như Ngài, mà vì anh em, Ngài đã nên nghèo khó, ngõ hầu anh em được nên giàu có nhờ sự nghèo khó của Ngài " (2Cr 8,9).
Nếu chúng ta nghe và đáp lời Chúa, Thiên Chúa sẽ biện hộ cho chúng ta; Ngài sẽ làm cho chúng ta trở nên thánh thiện, hoan lạc, hạnh phúc và chiếu tỏa rạng ngời vinh quang Chúa phù hợp với Thiên Chúa. Vì kế hoạch của Thiên Chúa là " Những kẻ Chúa đã biết trước, thì Người đã tiền định cho họ nên giống hình ảnh Con Người, để Ngài trở nên trưởng tử giữa đoàn anh em đông đúc. Những ai Người đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi, thì Người cũng làm cho nên công chính; mà những ai Người đã làm cho nên công chính, thì Người cũng cho họ được vinh quang " (Rm 8, 29-30).
Trong khi đó, kế hoạch của con người, là đi tìm hạnh phúc. Việc tìm kiếm này đòi phải phân định. Như chiếc lưới kéo lên tất cả các loại cá, nên hạnh phúc cũng có tất cả các loại. Có những thứ hạnh phúc đích thực, có những thứ hạnh phúc rẻ tiền, hão huyền, trống rỗng và giả dối.
Vua Solomon đã xin Chúa ban cho một “tâm hồn khôn ngoan để đoán xét dân Chúa, và phân biệt lành dữ” (1V 3, 9).
Để có hạnh phúc thực sự, cần phải cầu xin Chúa như Salomon: cho được ơn làm chủ bản thân, biết phân biệt tốt xấu, chọn lựa điều tốt, bỏ điều xấu. Vì tất cả những gì chúng ta hài lòng chưa hẳn đã là tốt.
Có ơn phân định, để nhận ra tiếng Chúa, làm theo kế hoạch của Chúa, như tác giả Thánh Vịnh đã hát: " Bởi thế nên con yêu quý chỉ thị Ngài hơn vàng, và hơn cả vàng ròng tinh khiết. Bởi thế nên con tự chọn tất cả huấn lệnh của Ngài; hết thảy đường lối gian tà con đều ghét bỏ " (118, 127-128). Cần phải có tâm hồn tỉnh thức, sẵn sàng không hời hợt, bốc đồng.
Tỉnh thức, thì dễ vâng phục và lắng nghe Chúa hơn, như thế mới có hạnh phúc. Hạnh phúc ở đây chính là điều Chúa Giêsu áp dụng cho Nước Trời, khi Người sánh ví như một kho báu hay một thương gia đi tìm ngọc quí.
Nước Trời, là chủ để hạnh phúc chúng ta tìm kiếm, đôi khi có thể được tìm thấy một cách tình cờ, như người kia tìm được kho tàng khi cày ruộng. Nó cũng có thể là kết quả của cuộc tìm kiếm lâu dài, như người buôn nọ đi tìm ngọc quý (Mt 13, 45). Và khi đã tìm được kho tàng, hay viên ngọc quý rồi, điều trước tiên như Chúa Giêsu nói là bán hết những gì đang có, để mua bằng được kho tàng và viên ngọc.
Kho tàng hay viên ngọc quí ấy là chính Đức Kitô, là tình yêu của Người. Tiên vàn hãy tìm kiếm Chúa Kitô trước đã. Ôi thật là khó, vì chung quanh chúng ta có quá nhiều ràng buộc, ngăn cản chúng ta gắn bó với Đức Kitô. Chúa Giêsu hỏi chúng ta dành cho Người tình yêu trên hết, chúng ta phải là kitô hữu 100%.
Chúa Giêsu tuyên bố: "Không ai có thể làm tôi hai chủ” (Mt 6,24). Chỉ có “kho tàng trên trời" chúng ta mới có thể lựa chọn để gửi gắm lòng mình: "Vì kho tàng ngươi ở đâu, thì lòng ngươi cũng ở đó" (Mt 6, 20s). Thánh Phaolô nói rõ: "Nước quê ta là trời cao" (Ph 3,20).
Để có Đức Kitô, hay để có được Nước Trời cần phải dứt bỏ tất cả như Chúa Giêsu gọi mời: "Nếu ai muốn đi sau Ta, thì hãy chối bỏ chính mình, hãy vác lấy khổ giá của mình và hãy theo Ta" (Mt 16,24)… Và chỗ khác Người nói: "Nếu ngươi muốn được trọn lành, thì hãy đi bán những gì ngươi có mà cho kẻ khó", sau cùng Người thêm: "đoạn hãy đến theo" (Mt 19,21). Không những thế còn phải phấn đấu, "giống như người buôn nọ đi tìm ngọc quý. Tìm được một viên ngọc quý, anh về bán mọi của cải mà mua viên ngọc ấy". Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta rằng không thể có được Nước Trời, nếu chúng ta không từ bỏ tất cả những gì chúng ta đang có: vinh quang, giầu có, địa vị và tất cả những sự tìm kiếm khác.
Qua dụ ngôn chiếc lưới thả dưới biển, bắt được mọi thứ cá, (Mt 13, 47) Chúa Giêsu cảnh báo. Đừng có lựa chọn và hành động nửa vời: cần phải hoán cải và tách mình ra khỏi tội lỗi là những thứ ngăn cản chúng ta với Thiên Chúa và Nước Trời.
Chúng ta hãy nài xin Chúa Giêsu, nhờ lời Đức Mẹ, dủ lòng thương xót, để mỗi người chúng ta có nghị lực vứt bỏ tội lỗi, như chúng ta vẫn tuyên xưng vào Đêm Vọng Phục Sinh, và cam kết chọn Chúa Giêsu là lẽ sống của chúng ta. Amen.
16. Kho báu Nước Trời là Đức Kitô
(Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Xuyên suốt trong các Chúa Nhật vừa qua, hình ảnh nổi bật trong các bài Tin mừng là ruộng đất. Từ hạt lúa gieo trên ruộng đồng đến lúa tốt và cỏ lùng chen vai mọc lên trên ruộng đất, và Chúa nhật hôm nay là kho báu chôn giấu trong ruộng lúa.
Palestine là miền đất có nhiều tranh chấp và nguy hiểm rình rập: chiến tranh, bệnh tật, nạn dịch, đói khát, cướp bóc, nô lệ…hay bất cứ một sự bất hạnh nào cũng có thể lấy mất tài sản và cuộc sống của người dân. Nhiều người đã chôn giấu của cải dưới đất, hy vọng rằng một ngày nào đó sẽ trở lại, nhưng có nhiều người ra đi vĩnh viễn. Do đó, người ta thường tìm thấy kho tàng.
Dụ ngôn “Kho báu chôn dấu trong thửa ruộng” là một câu chuyện không có gì xa lạ với dân chúng Do Thái, bởi vì họ vẫn thường kể cho nhau nghe về một câu chuyện cổ tích tương tự như thế.
Ngày hôm ấy, Abba Giuđa đang cố gắng cày nốt thửa ruộng còn lại, thì bỗng con bò của anh ta bị ngã qụy và gãy mất một chân vì gặp phải một cái hố nhỏ. Bực mình, anh ta dừng lại vuốt những giọt mồ hôi trên trán, rồi qùy xuống nâng chân con bò lên. Đột nhiên, Đức Giavê mở mắt cho anh ta và anh ta đã nhìn thấy một kho tàng quí giá ngay trong cái hố nhỏ ấy. Anh ta tự nhủ: - Chính vì chú bò này mà mình được lợi đây.
Kho tàng ấy là của một ai đó đã chôn dấu, có lẽ từ lâu lắm, vì sợ trộm cắp, giặc giã hay chiến tranh. Anh ta cẩn thận vùi đất lại, trở về nhà, thu góp tiền bạc, bán tất cả những đồ đạc, để gom cho đủ số tiền hầu mua thửa ruộng đó, bởi vì anh ta chỉ là một nông dân nghèo đi cày thuê cuốc mướn mà thôi.
Dĩ nhiên, anh ta mua được thửa ruộng ấy, dù với một giá hơi mắc, nhưng anh ta trở thành triệu phú, bởi vì luật pháp đã qui định: kể từ ngày làm chủ mảnh đất, anh ta cũng làm chủ tất cả những gì có trong mảnh đất ấy.
Có lẽ Chúa Giêsu đã lấy chính câu chuyện bình dân này để nói về Nước Trời.
Ý nghĩa của dụ ngôn, chính là thái độ của người nông dân: tìm được kho tàng, anh ta rất vui mừng, vội chạy về nhà, tìm đủ mọi cách như bán tất cả đồ đạc, thậm chí kể cả việc vay mượn bà con lối xóm, để có đủ tiền mua thửa ruộng ấy. Hành động của anh ta thật khôn ngoan, nhanh nhẹn và hợp lý. Anh đã dám liều, dám hy sinh tất cả vì kho tàng quí giá ấy.
Dụ ngôn “Viên ngọc quý”: thương gia khi đã khám phá ra viên ngọc quý, đã bán tất cả những gì mình có để mua cho được viên ngọc ấy. Đây là một sự lựa chọn đáng ca ngợi và khích lệ.
Dụ ngôn “Kho báu chôn trong ruộng” và “Viên ngọc quí” diễn tả sự cao trọng, sự vô giá của Nước Trời, không có cái gì, không có vàng bạc hay tài năng nào sánh được. “Kho báu” và “Viên ngọc quý” ở đây, là chính Đức Giêsu Kitô, Ngài là đối tượng lớn nhất, là niềm vui, là hạnh phúc để chúng ta tìm kiếm và sở hữu. Không có gì đẹp hơn là tìm biết Đức Kitô. Có Ngài, chúng ta có tất cả! Nói như Thánh Phaolô hôm nay là: trong Người, chúng ta “những người theo dự định của Chúa, được kêu gọi nên thánh”, trở nên giống với hình ảnh Chúa Con, trở nên giống Đức Kitô. Như thế, lời mời gọi nên thánh, chính là trở nên giống Đức Kitô, sống theo Đức Kitô, là đạt đến Nước Trời.
1. Nước Trời có một giá trị tối thượng
Chúa Giêsu nói về kho báu và viên ngọc mà người cày ruộng và thương gia dám bán tất cả những gì họ có để mua lấy. Bởi đó là giá trị tối hậu mang lại hạnh phúc và ý nghĩa cho cuộc đời họ. Đó là điều làm cho họ hân hoan vui sướng, dám đánh đổi tất cả mọi sự trên trần gian để có nó (GLCG # 546).
Tính chất cao quý nầy được các bài đọc Sách Thánh hôm nay làm nổi bật bằng cách đưa ra những so sánh ví von.
Cao quý như sự khôn ngoan được vua Salômon coi trọng hơn phúc lộc thọ của ngai vàng (bài đọc 1). Salômon kế vị Vua cha là Đavít. Salômon nhận rõ mình “trẻ người non dạ” và những hạn chế của bản thân trước trọng trách làm vua. Salômon được Thiên Chúa yêu thương, ân ban cho ông được quyền xin ơn gì ông cần. Salômon không xin giàu có, không xin vinh quang và cũng không xin trường thọ. Salômon xin ơn khôn ngoan để hướng dẫn dân được tuyển chọn đúng theo đường lối của Chúa. Điều ông xin làm hài lòng Thiên Chúa và ông được nhậm lời. Salômon trở nên một vị vua tài trí bậc nhất trong thiên hạ. Sự khôn ngoan của ông vượt ra khỏi biên giới Israel. Trước ông, không ai như ông và sau ông, không ai bằng ông.
Cao quý như lề luật được Dân Chúa coi trọng tựa Nguồn Sáng dẫn lối (bài đọc 2). Cao quý như “Kho báu chôn trong ruộng” như “Viên ngọc quý”.
Nước Trời là một ân ban cao quý Thiên Chúa dành cho mọi kẻ kiếm tìm.
2. Chọn lựa và quyết định.
Sau khi đã nhận ra kho báu, người cày ruộng lẫn người buôn ngọc đều đã biết cái gì quan trọng, họ phải chọn lựa và đi đến một quyết định.
Là Kitô hữu, môn đệ Chúa Giêsu, chúng ta tìm kiếm cái gì?
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta phải biết chọn lựa giữa những cám dỗ mời mọc của trần thế: ‘Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm…Trước hết, hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho.” (Mt 6,31-33).
Sách Giáo lý Công giáo cũng khuyên dạy: “Chúa Giêsu kêu gọi mọi người vào Nước Trời qua những bài dụ ngôn của Ngài, nét đặc trưng của việc giảng dạy của Ngài. Qua các dụ ngôn này, Ngài mời người ta tới dự tiệc của Nước Trời, nhưng Ngài cũng đòi hỏi người ta một sự chọn lựa triệt để: để được nước Trời, người ta phải cho tất cả, và lời nói không đủ, còn cần phải có những hành vi” (GLCG # 546).
Nước Trời đòi buộc phải hy sinh, một khi đã khám phá ra, phải bán tất cả những gì mình có. Đây là một chọn lựa dứt khoát, quyết liệt, không dễ dàng. Sự từ bỏ theo Chúa Giêsu, chính là thái độ dấn thân vì Nước Trời. Tìm thấy Nước Trời, thấy được giá trị cao quí của Nước Trời, cho nên mới can đảm hy sinh từ bỏ tất cả để có được. Người nông dân bán tất cả để mua cho được mảnh ruộng có kho báu; vị thương gia bán tất cả tài sản để mua cho bằng được viên ngọc qu, là hình ảnh nói lên việc phải dứt khoát chọn lựa Nước Trời.
3.Tìm được Nước Trời là niềm vui cuộc đời
Người nông dân, vị thương gia, đều vui mừng khi tìm được kho báu hay viên ngọc quí. Cũng vậy, thái độ của người đã gặp Chúa, đã khám phá ra Nước Trời trong cuộc sống, là thái độ hân hoan vui mừng. Tìm kiếm được niềm vui này mới làm cho con người có khả năng dứt bỏ mọi sự để theo Chúa. Bấy giờ, tất cả những gì trước nay ta cho là quí giá thì mất hết giá trị so với niềm vui mừng có được Thiên Chúa. Có Chúa là có tất cả. Đây là kinh nghiệm không dễ có được một khi thờ ơ không dám lên đường tìm kiếm Chúa và hạnh phúc Nước Trời. Nếu chỉ biết loanh quanh trong việc tìm kiếm của cải trần thế, thú vui xác thịt, thì sẽ không bao giờ khám phá được niềm vui Nước Trời, niềm vui trong Chúa.
Tìm kiếm Nước Trời và từ bỏ tất cả để đạt cho bằng được là niềm vui của đời Kitô hữu, chính là thái độ chọn lựa khôn ngoan. Trong Chúa, mới làm nên ý nghĩa đích thực của đời sống, nơi Chúa, mới tìm kiếm được nguồn mạch thỏa mãn mọi nỗi khát khao hạnh phúc.
Thái độ “vui mừng bán tất cả”, không phải ai cũng dễ dàng có được. Câu chuyện Phúc âm “Người thanh niên giàu có” là một ví dụ. Anh ta đã sụ mặt xuống và quay đi vì anh ta có nhiều của cải khi nghe Chúa Giêsu bảo: “Anh hãy về bán hết của cải, phân chia cho người nghèo, rồi hãy đến theo Ta…”.
Làm sao bán hết Chúa ơi khi con đã một đời vất vả tảo tần để có được cơ nghiệp như ngày hôm nay? Làm sao vui mừng để từ chối một mối tình vụng trộm mà con mới cất công xây nên? Làm sao con từ bỏ một thói đã đem lại cho con nhiều thích thú và thỏa mãn sự biếng lười? Làm sao con có thể bỏ lỡ một cơ hội kiếm tiền chỉ để giữ luật Ngày Chúa Nhật? Làm sao con có thể bố thí nhiều đến thế, cho dù con sẵn sàng bỏ ra gấp trăm ngàn lần để nhậu nhẹt mua vui? Làm sao con có thể hạ mình xuống trong khi con là đấng bậc vị vọng? Làm sao con có thể bỏ học thêm để dành cho việc học giáo lý?...Và cuối cùng, chắc con cũng sẽ sụ mặt xuống quay đi, vì con có quá nhiều tham vọng và của cải…
Cuộc đời vẫn luôn có những “chàng thu thuế Lêvi” sẵn sàng bỏ cả địa vị hái ra tiền để đi theo Đấng không có viên đá gối đầu. Vẫn còn những Giakêu, sẵn sàng chia nửa gia tài cho kẻ nghèo và đền gấp bốn những ai bị thiệt hại. Vẫn còn những Phanxicô Xaviê, Phanxicô Asissi, vẫn còn những Têrêxa Calcutta… bỏ cả cuộc đời để ra đi rao giảng Tin Mừng và phục vụ người nghèo; vẫn còn những Maximilien Kolbe, Anrê Phú Yên dám bỏ cả mạng sống để đáp đền mạng sống...
Điều quan nhất, là phải biết khám phá, trong bản thân mình, ai cũng có một kho báu quí giá. Kho báu ấy được Kinh Thánh mạc khải: Con người là “hình ảnh của Thiên Chúa”, được dựng nên “giống Thiên Chúa” (St 1,26.27; 9,6), là “con cái Thiên Chúa” (Lc 20,36; Ga 11,52; Rm 8,14.16.21; Gl 3,26; 1Ga 3,1.2.10), “được thông phần bản tính Thiên Chúa” (2 Pr 1,4).
Ý thức và xác tín những điều ấy, ta sẽ thấy phẩm giá con người hết sức cao quí. Đó là niềm vui và là hạnh phúc. Phẩm giá ấy cao quí hơn tất cả những gì mà ta có thể có được ở trần gian. Với bản chất cao cả ấy như một chìa khóa, một bí quyết, một nền tảng cần thiết, con người có thể có tất cả, nhất là có hạnh phúc đích thực ở trần gian này, và hạnh phúc vĩnh cửu mà Thiên Chúa dành cho con cái Ngài.
Trong Đức Kitô, sự khôn ngoan Thiên Chúa đã được tỏ bày qua sự yếu đuối nhân loại.
Ai chân thành với Đức Kitô, sẽ gặp thấy Ngài chính là kho báu.
Ai trung thành làm theo lời Đức Kitô, sẽ sở hữu trọn vẹn kho báu ấy.
Ai nhiệt thành gắn bó với Đức Kitô, sẽ được chia sẽ cùng Ngài kho báu hạnh phúc Thiên đàng.
17. Khôn ngoan đích thực
(Lm Đam Trần Văn Điều)
Saigon sau biến cố 1975, có nhiều chuyện bất ngờ xảy ra:
* Thập niên 1990, nền kinh tế thị trường nở rộ, dân miền quê ùn ùn kéo về thành phố với hy vọng mưu sinh kiếm sống bớt cơ cực hơn. Vành đai thành phố Saigon được quy hoạch lại, chính phủ quyết định mở rộng thành phố đến vùng Thủ Đức, Củ Chi, Duyên Hải, Cần Giờ. Các nhà đầu tư liền bỏ tiền mua đất ruộng khu vực Giồng Ông Tố, ngã ba Cát Lái, xây nhiều biệt thự cao tầng. Giá đất tăng lên vùn vụt, các nông gia phút chốc trở thành những triệu phú bất đắc dĩ nhờ việc sở hữu chủ đất vàng, “kho tàng” thửa ruộng mình.
* Sau đó một thời gian, nghe nói có dự án chính phủ sẽ xây dựng một phi trường quốc tế rộng lớn ở vùng lân cận Saigon, khu Long Thành: nhằm thay thế phi trường Tân Sơn Nhất hiện tại vốn quá nhỏ bé, chỉ đáp ứng giải quyết được các chuyến bay quốc nội. Thế là giá đất đai từ ngã ba Vũng Tàu đi về Bà Rịa đột ngột tăng cao. Nhiều cư dân sống trong vòng đai qui hoạch của phi trường mới, vô tình chiếm hữu được “viên ngọc qúi” ngay trên thổ cư bất động sản của mình.
Ngày 10/3/2008, báo chí quốc tế lại đưa tin: bà Stead, một phụ nữ 49 tuổi ở New Abbot, hạt Devon nước Anh, khi đang ăn chiếc bánh bích quy giúp tiêu hoá của hãng Mc. Vitie’s, bất ngờ cắn phải một vật lạ, nhìn kỹ ra thì đó là một viên kim cương bé tí xíu. Người phụ nữ một con thật sự ngạc nhiên nhưng tỏ ra thích thú với món quà bất ngờ này. Bà Stead đâu ngờ mình may mắn làm chủ được “viên ngọc qúi” vô tình ấy.
Những câu chuyện thời sự trên giúp ta liên tưởng đến hình ảnh người nông gia tìm thấy kho tàng được chôn giấu trong ruộng và hình ảnh người lái buôn nhận ra giá trị viên ngọc qúi trong Phúc âm hôm nay. Họ sẵn sàng bán hết tất cả những gì mình có để mua cho được viên ngọc hoặc làm chủ được thửa đất ấy. Đầu óc khôn ngoan tính toán “một vốn bốn lời” khiến họ nhạy bén được vấn đề, nhận thức được giá trị vô cùng to lớn của những sản phẩm đó.
A. Óc khôn ngoan của người đời:
1. Sách Các Vua quyển thứ nhất (1V.3:5.7-12) cho ta thấy: Salomon lên nối nghiệp Cha là David làm Vua dân Israel. Trẻ người, non kinh nghiệm, cai trị một vương quốc rộng lớn bao quát cả 12 chi tộc, Salomon đã cầu khẩn Giavê Thiên Chúa trợ giúp mình. Chúa hứa Vua muốn xin gì, Ngài sẽ ban cho.
Salomon không xin Chúa ban cho vợ đẹp con khôn, tiền rừng bạc biển, danh vọng nhiều năm, sống lâu trăm tuổi… vốn là những ước mơ chung con người. Ông chỉ xin Chúa một điều cần thiết là Ơn Khôn Ngoan để biết phân biệt phải trái, đúng sai, tội phúc…mà hành xử dân Chúa cách hợp lý.
Quả thật, điều ông xin rất đẹp lòng Chúa. Chúa đã ban cho Salomon một trí khôn ngoan minh mẫn, phân xử chính xác trong vụ án Con Của Ai (1V. 3,16-28). Vua lại xây một đền thờ Giêrusalem lộng lẫy để kính Chúa, tiếc rằng nó bị sụp đổ thời Israel lưu đày.
2. Tài liệu lịch sử cũng ghi lại: Từ Hi Thái Hậu vốn là người yêu thích các loại đồ vàng ngọc, trân châu đá qúi. Năm 1895, bà đã khôn ngoan khéo léo cho xây một công trình lăng tẩm ở Đông Lăng, thuộc thành phố Tuân Hoá, tỉnh Hà Bắc, Trung Hoa. Từ Hi đã kín đáo cất tất cả vàng bạc châu báu vào trong lăng tẩm ấy, đề phòng khi chết, chúng vẫn thuộc quyền sở hữu của bà. Sau 13 năm xây dựng, ngày 18/10/1908, lăng được hoàn tất: điều độc đáo là 4 ngày sau đó, Từ Hi Thái Hậu cũng qua đời, thọ 74 tuổi. Mọi vòng vàng được chôn theo với bà. Kho tàng trong lăng tẩm tưởng rằng được ẩn giấu mãi với thời gian.
Nào ngờ 10 năm sau đó, tháng 7 năm 1928, Tôn Điện Anh, một sĩ quan quân đoàn 12 của Quốc Dân Đảng đã dùng pháo binh mở đường khai quật lăng mộ Từ Hi Thái Hậu. Khi nắp quan tài được mở ra, ánh sáng chói loà, binh sĩ thấy vàng vòng ngọc qúi đầy dẫy. Cấp lớn đua nhau lấy thứ lớn, quân lính mon men lấy thứ nhỏ. Ai cũng giàu to, thậm chí Tôn Điện Anh còn hạ lệnh lột long bào của Từ Hi, lấy sạch châu báu trên người bà.
Tin đồn binh lính Tôn Điện Anh trộm báu vật của Tứ Hi Thái Hậu đến tai Thống chế Tưởng Giới Thạch. Ông ban lệnh điều tra kẻ chủ mưu, Tôn Điện Anh khôn ngoan nhờ cấp trên đi đêm với phu nhân Tống Mỹ Linh: tặng cho vợ Tưởng Giới Thạch nhiều báu vật, trong đó có chiếc mũ phụng quán gắn viên trân châu cực lớn của Từ Hi Thái Hậu. Tôn Điện Anh còn biếu riêng Tưởng Giới Thạch một thanh Cửu Long bảo kiếm cùng nhiều báu vật khác của các bậc vua chúa triều đình Trung Hoa. Nhờ đó, ông bình an vô sự thoát khỏi án phạt hình sự.
Có người dùng khôn ngoan để đoán xét công minh chính trực, ích dân lợi nước như Vua Salomon, nhưng cũng không thiếu những kẻ sử dụng khôn ngoan như một thủ đoạn gian lận, chiếm hữu như Tứ Hi Thái Hậu, như viên sĩ quan Tôn Điện Anh của vệ binh Quốc Dân Đảng Trung Hoa.
B. Những khôn ngoan ấy có giá trị lâu dài chăng?
1. Salomon nổi tiếng là vị Vua khôn ngoan hơn các Vua trước ông và sau ông (1V. 3,12). Qủa thật, suốt triều đại Ngài, vương quốc Israel được thanh bình, thịnh vượng. Nữ hoàng Saba từ phương Nam tìm đến Saolomon để học hỏi. Vua xây dựng đền thờ cho Chúa ngự trị giữa muôn dân. Óc khôn ngoan giúp Saolomon lãnh đạo thành công trong việc trị nước.
Thế nhưng sử liệu còn ghi: lúc về già, nhà vua yêu nhiều phụ nữ ngoại bang, nghe theo họ mà thờ các thần ngoại, mất lòng chung thủy với Chúa (1V.11:1-8). Rõ là khôn ba năm dại một giờ. Óc khôn ngoan sáng suốt thời trai tráng nay đã nên mê muội lúc xế chiều. Salomon đã chết trong sự dại khờ say đắm, lòng Vua xa rời Chúa.
2. Người nông dân khéo thăm dò địa chất tốt, biết rõ kho tàng chôn giấu trong ruộng. Bằng mọi cách, ông khôn ngoan thuyết phục chủ ruộng bán lại cho ông mảnh đất vàng đó. Có được kho tàng trong tay, ông nghĩ rằng cuộc đời ông từ nay sẽ giàu có, sung sướng lâu dài.
Thế nhưng cái chết đến bất thình lình, ông ra đi với hai bàn tay trắng, kho tàng ông chiếm hữu nay cũng xa lìa ông. Óc khôn ngoan tính toán đã chịu thua lưỡi hái tử thần.
3. Người thương gia biết thẩm định giá trị viên ngọc chính xác, ông sẵn sàng hy sinh mọi của cải đang có, để mua cho được viên ngọc qúi báu. Óc khôn ngoan định mức giúp ông tự tin, luôn cho rằng mình đang đầu tư một món hàng chắc chắn sẽ có lời sau này.
Thế nhưng phải đến ngày ông từ bỏ cuộc chơi thế trần, viên ngọc qúi mà ông trân trọng gìn giữ lâu nay bây giờ cũng trở nên vô nghĩa. Cái chết đã chấm dứt mọi lo toan.
4. Salomon, người nông dân và anh lái buôn: có lẽ cả 3 đều nghĩ rằng mình đã khôn ngoan đắc thủ được món quà giá trị nhất (sự thông minh sáng suốt, kho tàng vô giá, viên ngọc qúi báu).
Thực tế, những chiếm hữu ấy đều tạm thời vì họ chỉ sở hữu chúng một thời gian. Và như thế, óc khôn ngoan mà họ đã suy tính đâu có mang lại cho họ một giá trị vĩnh cửu.
C. Đâu là sự khôn ngoan đích thực?
Thiên Chúa, Đấng tạo dựng muôn loài, là nguồn mọi sự hiểu biết, là nền tảng mọi thông minh thượng trí. Giữa mọi nghiên cứu thiên văn, nhà khoa học Isaac Newton đã khiêm nhường xác tín: “Tôi nhận ra Thiên Chúa ngay trên đầu viễn vọng kính của tôi”. Như thế, Thiên Chúa là nguồn mọi khôn ngoan. Đi tìm sự khôn ngoan đích thực chỉ có ở nơi Ngài và trong Ngài.
1. Chính Thiên Chúa đã ban cho ta thửa ruộng vàng, đất vàng, có kho tàng cao qúi ẩn giấu trong đó.
* Thửa ruộng vàng, đất vàng ấy chính là Nước Trời.
* Trong Nước Trời ấy có kho tàng cao qúi là Đức Tin Công Giáo, là Giáo Hội.
Chúa Giêsu phán với các bệnh nhân: “Đức tin của con đã cứu chữa con”. Trong đức Tin, ta học hỏi Giáo Lý Giáo Hội, sống tuân giữ giới răn Chúa, nuôi dưỡng ta nên tốt lành, xứng đáng hưởng hạnh phúc Nước Trời.
Trong Giáo Hội, ta nhận được Ơn Cứu Rỗi, được kín múc Ơn Thánh Chúa mỗi ngày qua cầu nguyện, qua việc lãnh nhận các Bí tích…là những hành trang đưa ta vào Nước Trời.
2. Chính Thiên Chúa cũng đã ban cho ta một viên ngọc qúi là chính Đức Giêsu Kitô.
* Qua bí tích Thánh Thể, ta có được Đức Giêsu ở trong mình.
* Chúa Giêsu phải là viên ngọc qúy giá nhất mà ta luôn trân trọng bảo trì tốt.
“Có Chúa đi với con, con nào sợ thiếu thốn chi? Có Chúa ở bên con, con nào lo lắng gì?”
“Có Chúa trong lòng, địch thù tan nát hết. Chúa trong lòng ta, lo lắng gì hồn tôi ơi!”
Lạy Chúa! Xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con.
biết Chúa là viên ngọc qúy thật sang giàu,
biết con chỉ là thụ tạo thấp bé, thật nghèo hèn,
để suốt đời, con chỉ say sưa đi tìm Chúa là hạnh phúc đích thực đời con. Amen.
18. Nước Trời giống như kho báu
(Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)
Tiếp nối bài Tin Mừng của Chúa Nhật trước, bài Tin Mừng hôm nay (Mt 13,44-52) gồm ba dụ ngôn về Nước Trời: dụ ngôn kho báu (c.44), dụ ngôn viên ngọc (cc.45-46) và dụ ngôn chiếc lưới (cc. 47-50). Kết thúc là một lời kết luận chung về các dụ ngôn (cc.51-52).
1. Hai dụ ngôn kho báu và viên ngọc quý (cc.44-46)
"Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy. Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy” (cc.44-46).
Hai dụ ngôn kho báu và viên ngọc có chung một điểm nhấn quan trọng về nội dung giáo huấn: Nước Trời không phải chỉ là chuyện của ước muốn hay ý chí, mà chính yếu là niềm vui của một cuộc tìm kiếm thành công bất ngờ ngoài sự mong đợi, và đặc biệt, là kết quả của một cuộc dấn thân đòi phải dám phiêu lưu. Sự từ bỏ tất cả những gì mình đang có không phải là một hành động tu đức, hy sinh hay hãm mình, mà là một chọn lựa tự nguyện cùng với niềm vui lớn lao.
Sứ điệp và trải nghiệm về mầu nhiệm Nước Trời làm cho mọi giá trị đã được biết từ trước tới nay bỗng trở nên tương đối. Tất nhiên những thực tại tốt lành khác vẫn là những thực tại có giá trị, như sức khoẻ, gia đình, nghề nghiệp, danh dự, học vấn, sự thành công, tình bạn, tình yêu đôi lứa… Nhưng chúng sẽ là tương đối trong so sánh với mầu nhiệm Nước Thiên Chúa.
Nước Thiên Chúa ẩn mình nơi những sứ điệp và hoạt động của Chúa Giêsu. Ai hiểu những sứ điệp và mầu nhiệm đó sẽ khám phá nơi chúng những giá trị tuyệt đối, quý hơn tất cả những gì khác trong cuộc đời. Người đó sẽ dám bỏ đi tất cả mọi sự, ngay cả mạng sống mình, vì Nước Thiên Chúa, bởi lẽ anh ta đã biết rằng đó là kho tàng quý giá duy nhất có khả năng làm cho sự sống của anh ta trở nên thực chất và giàu có vô cùng. Đó cũng là kinh nghiệm của Thánh Phaolô: “Những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Kitô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, vì mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô và được thuộc về Người” (Pl 3,7-9)
Cuối cùng, hai dụ ngôn kho báu và viên ngọc, một lần nữa, đề nghị người nghe chọn lựa sự nghèo khó như được nói trong 5,3 (“Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó”), khi lặp đi lặp lại: “bán tất cả những gì mình có” (cc.44.46). Kho báu và viên ngọc quý, như thế, chính là kinh nghiệm về tình yêu của Thiên Chúa (“Nước Trời là của họ”). Kinh nghiệm đó tạo nên niềm vui sâu xa trong tâm hồn. “Kho tàng anh ở đâu thì lòng anh ở đó” (6,20).
2. Dụ ngôn chiếc lưới (cc.47-50)
"Nước Trời lại còn giống như chuyện chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ thứ cá. Khi lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vứt ra ngoài. Đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy. Các thiên thần sẽ xuất hiện và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính, rồi quăng chúng vào lò lửa. Ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng” (cc.47-50).
Đây là dụ ngôn cuối cùng trong một loạt 7 dụ ngôn ven biển hồ về Nước Trời, được ghi lại trong Mt 13. Dụ ngôn cuối cùng này có kèm lời giải thích. Về nội dung, chúng ta gặp lại sứ điệp của các dụ ngôn hạt giống và cỏ lùng, nhưng nhấn mạnh hơn về ngày chung thẩm.
Như đàn cá bơi dưới biển, gồm đủ mọi thứ cá tốt xấu khác nhau, cộng đoàn Hội Thánh cũng gồm những người tốt kẻ xấu. Nhìn bề ngoài, không có chuyện gì khác biệt, nhưng khi chiếc lưới đã được kéo lên bờ, sự phân biệt sẽ xảy đến: cá tốt và cá xấu sẽ có số phận khác nhau hoàn toàn.
Sự đối lập “cá tốt” và “cá xấu” tương ứng với sự đối lập giữa cây tốt với cây xấu trong 7,15-19. Vậy những “cá xấu” ở đây chính là các ngôn sứ giả, những đồ đệ giả, những con sói đội lốt chiên, những kẻ chỉ có vẻ bề ngoài theo Chúa Kitô còn thực chất là chạy theo những giá trị giả trá và không thực… Trong lời giải thích ở câu 48, họ bị gọi là những “kẻ xấu”.
Số phận của họ sẽ là bị quăng vào lò lửa (c.50). Nỗi đau đớn kinh hoàng và không bao giờ chấm dứt trong số phận chung cuộc của họ được miêu tả bằng những hình ảnh đáng sợ: “khóc lóc” và “nghiến răng”. Điều căn bản làm nên nỗi đau đó chính là sự vĩnh viễn mất đi sự sống đích thật. Nhưng dụ ngôn đề cập đến số phận chung cục như thế là nhằm giúp các môn đệ xác định hướng đi đúng đắn trong những quyết định hiện tại. Chỉ những ai sinh hoa quả tốt mới được đạt tới sự sống đời đời.
3. Kết luận về các dụ ngôn (cc.51-52)
Kết thúc các dụ ngôn, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: "Anh em có hiểu tất cả những điều ấy không?" Họ đáp: "Thưa hiểu."52 Người bảo họ: "Bởi vậy, bất cứ kinh sư nào đã được học hỏi về Nước Trời, thì cũng giống như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ" (cc.51-52).
Giáo huấn dành cho các môn đệ được kết thúc trong khung cảnh mang tính riêng tư giữa Chúa Giêsu với các ông mà thôi. Tác giả Tin Mừng quay lại với chủ đề “hiểu”, vốn là chủ đề xuyên suốt Mt 13 (cc.13.14.15.19.23.51). Đã được hiểu biết về mầu nhiệm Nước Trời, các môn đệ phải trình bày mầu nhiệm đó cho những người khác. Tác giả Mt muốn nhấn mạnh một sự khác biệt lớn giữa các “bậc thầy” trong cộng đoàn Kitô giáo với các bậc thầy trong cộng đồng Do Thái giáo. Các kinh sư Israel mang trên vai gánh nặng của cả một truyền thống giải thích lớn lao vốn không cho phép mọi sự vượt quá giới hạn cổ xưa. Các “kinh sư đã được học hỏi về Nước Trời”, tức là các bậc thầy trong cộng đoàn Kitô hữu, thì không bị lệ thuộc vào truyền thống cổ xưa ấy. Đối với họ, ưu tiên số một sẽ là “cái mới” trong kho tàng mầu nhiệm mà họ đã được học hỏi; “cái cũ” phải lệ thuộc cái mới đó. Nói cách khác, họ không đặt đạo lý của mình trước hết trên nền tảng là những gì ông Môsê và các ngôn sứ đã nói, mà là trên chính mầu nhiệm của Chúa Giêsu. Họ bắt đầu bằng sứ điệp cứu độ của Chúa Giêsu và đó chính là chìa khoá giúp họ đọc toàn bộ kho tàng Cựu Ước.
Không ít học giả hiểu rằng có lẽ tác giả Tin Mừng Mt muốn kín đáo tự nói về chính mình trong câu này.
Gợi ý suy niệm và chia sẻ:
1. Tác giả Mt không có ý nói về tính cách luân lý trong quyết định và cách hành xử của người đi tìm kho tàng và người đi tìm viên ngọc quý trong hai dụ ngôn ở đầu bài Tin Mừng hôm nay. Vì vậy, sẽ không chính xác nếu chúng ta buộc ông phải trả lời về vấn đề này. Điểm nhấn mà ông nhắm tới là niềm vui của con người gặp được mầu nhiệm Nước Trời, vốn là thực tại tuyệt hảo, cao quý hơn tất cả mọi giá trị khác.
2. Điều quan trọng không phải là ao ước Nước Trời, mà phải tìm kiếm, và nhất là phải quyết định, phải chọn lựa và phải nỗ lực suốt đời để chiếm lấy Nước Trời. Kho tàng quý và viên ngọc quý sẽ không thuộc về chúng ta nếu chúng ta không dám quyết định bán tất cả những gì mình đang có.
3. Một trong những yếu tố đáng lưu ý là niềm vui tràn ngập tâm hồn các nhân vật trong hai dụ ngôn kho tàng quý và viên ngọc quý. Niềm vui đó vừa diễn tả độ lớn của niềm khao khát vừa là yếu tố thúc đẩy người ta mau mắn quyết định bán tất cả những gì mình đang có. Chúng ta đón nhận mầu nhiệm Nước Trời trong hân hoan hay miễn cưỡng? Chúng ta sống các mầu nhiệm thánh trong Đạo với niềm vui hay với sự chán nản mệt mỏi? Sứ điệp mà chúng ta công bố với thế giới có là tin mừng hay không?
4. Số phận thật của những con cá khi mẻ lưới được kéo lên sẽ hoàn toàn tuỳ thuộc vào chất lượng của những con cá ấy. Những con cá xấu sẽ bị ném ra ngoài. Vì thế, trước khi tấm lưới được kéo lên trong ngày chung thẩm, chúng ta cần phải trở thành những con cá tốt. Số phận đời đời của chúng ta tuỳ thuộc vào chất lượng của cuộc sống hiện tại này.
5. Điểm quy chiếu chính yếu, nền tảng căn bản và đầu tiên, có tính quyết định, phải là chính Đức Giêsu và đạo lý của Ngài, chứ không phải là những truyền thống cổ xưa của con người, cho dù là những truyền thống tốt lành. Chính Đức Giêsu sẽ là tiêu chuẩn đánh giá những truyền thống ấy, những thực tại “cũ” ấy. Người kinh sư đã được hiểu biết mầu nhiệm Nước Trời sẽ không còn lệ thuộc hoàn toàn vào các truyền thống Do Thái cũ như các kinh sư Do Thái nữa. Điểm quy chiếu có tính quyết định luôn luôn là chính Chúa Giêsu, Đấng là chính thực tại Nước Trời giữa chúng ta.
19. Nước Trời được ví như chuyện....
(Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Phúc âm Matthêu cuối chương 13 lại kể ba câu chuyện khác nữa để ví von về Nước Trời. Nếu ba dụ ngôn tuần trước (hạt cải, cỏ lùng, nhúm men), như cho thấy Nước Trời từ bên trong với sức mạnh kiên trì nội tại, thì hình như những dụ ngôn lần này lại như muốn trình bày một khía cạnh khác, Nước Trời nhìn từ góc độ được ‘đón nhận’. “Nước Trời giống như câu chuyện” kho báu.., viên ngọc.., chiếc lưới.., vẫn là ba câu chuyện nhưng lại qui về một nội dung duy nhất.
Nếu Nước Trời là việc đón nhận tình yêu thương xót của Thiên Chúa, thì việc đón nhận đó, cách này hay cách khác, phải đạt tới độ tuyệt đối, tức là tiếp nhận tình yêu thương xót này như một điều quan trọng bậc nhất trong đời sống. Nói tới lòng thương xót, ít khi người ta cho rằng nó cần phải được đón lấy cách tuyệt đối; nói khác đi, mấy ai cho rằng mình thật sự cần tới lòng thương xót như mộtg lẽ sống? Thái độ này phổ biến vì hiếm khi nào con người cho rằng mình đang rơi vào cùng cực và vô vọng. Cho dầu biết mình vốn hèn hạ thấp kém, người ta vẫn luôn cho rằng mình còn có thể tự lo tự liệu. Con người đề cao sự tự trọng là vậy. Chính vì thế mà, đứng trước tình yêu xót thương của Thiên Chúa, có mấy ai cảm thấy mình thật sự cần, cần như một nhu cầu sống còn, cần như bám vào một cái phao cứu sinh? Các dụ ngôn hôm nay tập chung nhấn mạnh điểm này: tình yêu cứu độ của Thiên Chúa không chỉ là kho báu hay viên ngọc quí bất kỳ, nhưng là cái kho báu và viên ngọc quí đáng cho người nào khám phá ra hay tìm thấy nó phải “bán tất cả những gì mình có mà mua… lấy”.
Đối với một báu vật, tìm thấy và khám phá ra giá trị thật của nó là hai điều khác nhau. Lấy một thí dụ nhỏ: nhà sưu tầm tem phát hiện một con tem cổ nằm trong cuốn sách cũ, ông có thể vui mừng vì con tem "quí’ đó sẽ bổ sung cho bộ sưu tập vốn đã rất phong phú của ông. Nhưng sau khi tra cứu, ông phát hiện ra, đó là con tem duy nhất còn sót lại của một thời đại. Con tem này có giá trị tới độ, nếu sở đắc được nó, ông sẽ được thiên hạ coi là nhà sưu tập vĩ đại nhất trần gian. Ta có thể hiểu được thái độ của ông sẽ thế nào đối với bộ sưu tập vốn đã rất quí của mình.
Tương tự như thế, vấn đề tiếp nhận Tin Mừng không chỉ đơn thuần biết Chúa thương yêu mình mà còn phải biết biết Chúa yêu như thế nào và mình cần tới lòng thương xót Chúa bao nhiêu. Đức Giêsu khảng định Nước Trời chính là khám phá và đón nhận điều này tới độ thấy cần phải “bán tất cả những gì mình có để mua lấy”. Niềm tin Kitô hữu chính hệ tại ở điều này. Niềm tin đó trưởng thành hay không, cao hay thấp tùy vào mức độ khám phá ra tình yêu xót thương của Thiên Chúa đã được thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, để rồi đón nhận lấy nó như một kho tàng vô giá, một lẽ sống giữa cuộc đời ô trọc, một suối mát giữa sa mạc nóng bỏng, một viên thuốc hồi sinh giữa cơn bệnh thập tử nhất sinh. Niềm tin vào Tin Mừng của chúng ta chỉ thật sự lớn mạnh khi coi niềm cậy trông vào ơn cứu độ mà Đức Kitô mang lại, nhờ cái chết thập giá của Người, còn lớn hơn, cao trọng hơn, cần thiết hơn cả kho báu của khôn ngoan, của tu thân tích đức, của đạo hạnh… hay gì gì đi nữa.
Như vậy, nếu Nước Trời chính là sự đón nhận tình yêu cứu độ của Thiên Chúa đã được Đức Kitô thực hiện trên thập giá, thì quả thật một khi nó được quảng bá… sẽ ‘giống như chiếc lưới thả xuống biển’. Dưới nước thì con cá nào cũng là cá, chỉ khi lưới được kéo lên bãi (ngày tận thế, hay thế tận đối với từng người khi chết) người ta mới phân biệt được hai loại cá tốt - xấu. Cá được đánh giá là tốt hay xấu dựa theo tiêu chuẩn người bủa lưới đề ra. Tiêu chuẩn lưới Tin Mừng của Đức Kitô sẽ rất khác với tiêu chuẩn lưới luân lý của người đời hay Cựu Ước. Đối với lưới ‘đón nhận’ Tin Mừng, cá tốt phải là những ai đã khám phá ra tình yêu cứu độ và đón nhận nó cách thiết thân tới độ sẵn sàng “bán tất cả những gì mình có…”, cá xấu là ai không đón nhận, hoặc vì không khám phá ra, hoặc đã khám phá nhưng chưa đủ lực tới độ sẵn sàng bán hết… Quả vậy đối với Tin Mừng, Nước Trời chính là niềm tin tuyệt đối vào tình Chúa yêu thương được biểu lộ nơi Đức Kitô Giêsu, do đó kẻ nào có niềm tin đó sẽ ‘được nhặt cho vào giỏ’, vì “ai tin vào Con của Người thì không bị kết án”; còn ai không có thì ‘bị vứt ra ngoài’ vì ‘kẻ không tin thì bị lên án rồi’ (Ga 3,18). Ngay cả một người, vì lý do nào đó đã không tin truyệt đối ơn cứu độ chỉ có nơi Đức Kitô Giêsu, để rồi tiếp tục bám vứu vào bất cứ giá trị nào khác, chẳng hạn như thần thánh, công nghiệp, khôn ngoan, đạo hạnh hay nhân đức… tiền của hay chức quyền… hầu mong nhờ đó mà được cứu thoát, thì chắc chắn sẽ phải qua cửa ải xét xử mà thôi. Mà một khi đã bị xét xử thì thử hỏi mấy ai, kể cả những kẻ được người đời coi là đạo đức thánh thiện nhất, lại không tồn tại nơi mình một khiếm khuyết nào đó đáng để bị lên án? Như vậy là đã rõ: ‘hàng ngũ người công chính’ hay ‘cá tốt được nhặt vào giỏ’ khi lưới Tin Mừng được kéo lên, sẽ chỉ còn là những con người mà, trong thẳm sâu cõi lòng mình, đã khẩn thiết thốt lên: “Lạy Ngài, xin thương xót con!” Họ đúng là những người “đã giặt và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên” (Kh 7,14; cf. 22,14).
Lạy Chúa, xin cho con tin thật rằng, ơn cứu độ chỉ có thể có nơi Đức Kitô Giêsu; và khi nhìn lên thập giá con biết nhận ra rằng, đón lấy tình yêu cứu độ là điều hệ trọng hơn hết mọi sự. Xin cho con không bao giờ ỷ vào bất cứ điều gì, bất cứ giá trị nào khác hầu mong được cứu thoát, cho dầu đó là bậc tu sĩ linh mục, cho dầu là khôn ngoan thánh thiện, hay nhiệt tình tông đồ… Điều duy nhất con cầu xin Chúa là được khiêm nhường hơn, biết nhìn nhận các yếu hèn của mình hơn, hầu ngày càng thâm tín đón lấy lòng thương xót vô điều kiện của Chúa. Con mong sẽ được là con cá chính Chúa nhặt cho vào giỏ cứu độ, chứ không phải là con cá cố tự mình lách vào. Amen.
20. Nước Trời
(Lm Giuse Trần Việt Hùng)
Thiên Chúa đã yêu thương và ưu đãi vua Salômôn qúa nhiều. Thiên Chúa đã giáng phúc và ban mọi phước lành cho đời của ông. Vua cha Đavid đã chọn Salômôn lên kế vị ngôi vua. Chúa đã rộng ban cho ông những ơn cần thiết tùy ông cầu xin. Vua Salômôn đã thưa: Vậy xin Chúa ban cho tôi tớ Chúa tâm hồn khôn ngoan để đoán xét dân Chúa và phân biệt lành dữ, vì ai có thể xét xử dân này, một dân của Chúa đông đảo thế này (1Vua 3, 9). Salômôn đã không xin cho được giầu sang phú quý hay sống lâu. Vua chỉ xin Chúa ban ơn khôn ngoan. Ơn khôn ngoan là đầu mối của tất cả các niềm an vui và thành công trong đời. Khôn ngoan để biết phân biệt lành dữ và biết xét xử đúng sai trước mặt Chúa.
Ơn khôn ngoan là một trong bảy ơn của Chúa Thánh Thần, giúp chúng ta sống theo thánh ý của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã ban cho vua Salômôn ân sủng theo ý sở nguyện. Vua đã dùng ơn khôn ngoan để cai quản dân chúng và điều hành quốc gia dân tộc một cách an bình thịnh vượng. Chúa chấp nhận lời cầu: Thì đây Ta ban cho ngươi điều ngươi xin và ban cho ngươi tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi không có ai giống ngươi và sau ngươi không có ai bằng ngươi (1Vua 3, 12). Đây là sự khôn ngoan đích thực. Chúng ta biết ở đời có rất nhiều người khôn, nhưng chưa chắc đã ngoan. Thiên Chúa ban cho con người có khả năng và trí thông minh, nhưng họ lại dùng sự hiểu biết nông cạn của mình để phủ nhận và chống đối lại Thượng Đế. Có nhiều người tuy tài giỏi lỗi lạc về các môn khoa học đời, nhưng lại chối bỏ sự khôn ngoan thượng trí của Tạo Hóa. Nhiều người tự mãn rằng họ có trí tuệ nhưng đã tỏ vẻ huênh hoang và kiêu ngạo không chấp nhận sự quan phòng của Thiên Chúa trong vũ trụ và đời sống của các loài thụ tạo. Hãy nhớ rằng con người chúng ta chỉ là một loài thụ tạo giới hạn trong thời gian và không gian. Có đó rồi biến đó.
Vua Salômôn là một bậc minh quân. Ông biết phân biệt trời cao đất thấp. Quy phục quyền năng của Thiên Chúa. Tuy nhiên, vì con người yếu đuối lầm lỗi, Salômôn cũng không tránh khỏi những cám dỗ cả về danh, lợi và thú. Cuối đời, đã có lần ông rời xa Chúa, chạy theo các thần dân ngoại của các bà vợ và lập đền thờ cúng. Tuy nhiên, vì tình thương, Thiên Chúa vẫn chúc lành cho đời của ông lập được nhiều thành qủa tốt đẹp. Ông đã hoàn tất công trình của Vua Đavid là xây dựng đền thờ nơi Chúa ẩn ngự. Ông khéo léo cai quản gìn giữ quê hương xứ sở bình an trong suốt thời kỳ dựng xây nhà Chúa. Chúa ban cho ông ân lộc dư tràn và đất nước thịnh vượng một thời. Danh tiếng của ông vang khắp miền.
Trong bài phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta một vài hình ảnh về Nước Trời. Nước Trời được ví như một kho tàng, một viên ngọc quý và một mẻ lưới đầy cá. Nước Trời ở ngay tại thế, nếu chúng ta cố công đi tìm, sẽ gặp. Nước Trời không phải là một số kiến thức, một triết thuyết hay một chủ trương sống, mà là một kho tàng được chôn giấu cần ơn giác ngộ: Nước trời giống như kho tàng chôn giấu trong ruộng, người kia tìm được, vội chôn vùi xuống, vui mừng trở về bán tất cả những gì anh ta có mà mua thửa ruộng ấy (Mt 13, 44). Kho tàng này là một món qùa qúy, không phải vàng bạc châu báu, nhưng là lời khôn ngoan. Kho tàng nằm trong Lời Chúa và Tám Mối Phúc Thật mà Chúa Giêsu đã giảng trên núi. Thật hạnh phúc cho ai giác ngộ sống theo Bát Phúc này.
Nước Trời được ví như viên ngọc quý, khi tìm thấy, người ta bán mọi sự để mua được viên ngọc đó. Ngọc quý là chính ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã ban cho nhân loại. Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một hạ thân cứu độ chúng sinh. Viên Ngọc quý từ trời ban xuống là Đức Kitô đã hy sinh hiến mình để cứu độ nhân loại. Qua bao đời, có biết bao nhiêu người đã nghe giảng, học biết và tin nhận Chúa Kitô là Con Thiên Chúa giáng trần. Họ đã tìm được viên ngọc qua đời sống đức tin trong Giáo Hội. Cửa Nước Trời đã mở ra thâu nhận những ai muốn kiếm tìm và sống niềm tin. Mọi người đều có thể sở hữu viên ngọc quý của Nước Trời. Viên ngọc của ân sủng, của tin yêu và hy vọng. Chúa Giêsu đã sắm sẵn cho mọi người.
Ai tin vào Chúa thì sẽ được lãnh nhận ơn cứu độ.
Một hình ảnh rất cụ thể: Nước trời giống như chiếc lưới thả xuống biển, bắt được mọi thứ cá (Mt 13, 47). Nước Trời khởi sự tại trần gian nhưng qui hướng về trời. Chiếc lưới có đủ mọi thứ cá, có nghĩa là Nước Trời nơi trần thế bao gồm tất cả mọi thành phần cần biến đổi. Trong đời sống Giáo Hội, có nhiều thành viên thánh thiện, tốt lành, đạo đức và cũng bao gồm nhiều người bình thường, chuộng danh nghĩa, sống hình thức, chỉ mang danh Kitô hữu, nhưng không sống đạo hoặc gồm cả những thành phần sa chìm tội lỗi, sống bê bối và lãnh đạm thờ ơ. Hình ảnh một Giáo Hội đang trên đường lữ thứ trần gian cần sự kiên nhẫn thanh lọc, canh tân đổi mới và tinh luyện con người nên tốt hơn và thánh thiện hơn. Vì Đạo chính là đường dẫn chúng ta tới quê thật là Nước Trời.
Chúa Giêsu dậy rằng am tường sự khôn ngoan là biết lợi dụng mọi môi trường và hoàn cảnh để dẫn lối vào Nước Trời. Trong kho tàng của Giáo Hội chất chứa mọi thứ cũ mới như những viên ngọc quý: Bởi thế, những thầy thông giáo am tường về Nước Trời cũng giống như chủ nhà kia, hay lợi dụng những cái mới cũ trong kho mình (Mt 13, 53). Mọi lời khôn ngoan đã được mạc khải trong Sách Thánh. Chính Ngôi Lời của Thiên Chúa đã hóa thành nhục thể và cư ngụ giữa chúng ta. Ngôi Lời đã tỏ cho chúng ta biết về chương trình cứu độ và mở cửa Nước Trời đón nhận chúng ta. Học biết lịch sử của ơn cứu độ, chúng ta có thể hiểu biết về sự liên hệ giữa Thiên Chúa và thụ tạo của Ngài. Thiên Chúa đã ký kết giao ước với các cha ông và các tổ phụ trong thời Cựu Ước. Giáo ước đã dẫn bước dân của Chúa tới giao ước mới được ký kết bằng Máu châu báu của chính Chúa Kitô. Muốn hiểu được ý nghĩa của Nước Trời, chúng ta cần phải tìm hiểu kho tàng ơn cứu độ trong Thánh Kinh và Thánh Truyền.
Thiên Chúa tạo dựng muôn loài trong vũ trụ. Mỗi loài đều có một cùng đích để nhắm tới. Không có vật gì, sự gì hay sự sống nào là vô ích. Sự liên kết chằng chịt giữa các phần tử trong vũ trụ đều liên đới và bổ túc cho nhau để hiện hữu. Khoa học con người chưa thể khám phá ra tất cả ý nghĩa cao sâu của mầu nhiệm sáng tạo. Sự an bài và quan phòng của Thiên Chúa cho mỗi loại và mỗi loài theo ý định của Người. Riêng con người mang hình ảnh của Thiên Chúa được chia phần vinh quang cách đặc biệt. Trong thơ gởi tín hữu thành Rôma, thánh Phaolô viết: Những ai Người đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi họ, và những ai Người đã kêu gọi, thì Người cho họ được vinh quang (Rm 8, 30). Thiên Chúa tiền định thế nào, chúng ta không biết, nhưng tin rằng chúng ta sẽ được chung phần hưởng vinh quang với Đức Kitô. Chúa đã gọi chúng ta vào đời và tái sinh chúng ta làm con Chúa qua Bí tích Rửa Tội. Niềm hy vọng của chúng ta là cùng được sống lại với Chúa Kitô trong ngày sau hết.
Lạy Chúa, Chúa đã mở cửa Nước Trời đón nhận những ai tin vào Chúa. Xin cho chúng con biết dõi theo lối bước của Chúa và trung thành thực thi lời Chúa, để canh tân cải biến đời sống mỗi ngày. Xin giúp chúng con biết gìn giữ kho tàng ngọc quý mà Chúa đã trao ban để sinh hoa kết quả tốt lành và thánh thiện.
21. Nước Thiên Chúa
Nước Thiên Chúa là vương quốc hạnh phúc, ai được vào là có phúc lớn vì Nước Thiên Chúa quý hơn mọi kho báu. Thật diễm phúc cho loài người vì Chúa sẵn sàng ban cho Nước Trời, không giới hạn số lượng, không phân biệt màu da, sắc tộc, thời đại, ai đủ điều kiện đều được nhận vào. Tất cả những ai sống đúng lệnh truyền của Chúa đều được ban cho hạnh phúc vô cùng vô tận bên Ngài.
Thiên Chúa quả là hào phóng và quãng đại với loài người biết bao. Ngài là Đấng quãng đại, giàu lòng thương xót và không tiếc gì với chúng ta: hạnh phúc của Ngài, Ngài cho chúng ta được thông phần vào; tình yêu của Ngài, Ngài thông ban cho, người ngay được Chúa phù trì che chở, thanh luyện cho giống Chúa hơn, ngườI tội lỗi được Chúa bảo ban, cho nhiều cơ hội để ăn năn thống hối...
Thiên Chúa không tính toán với loài người, để đáp lại ơn ấy, chúng ta cũng không tính toán với Chúa. Chúng ta hãy đổi lấy của cải vật chất đời này để Chúa ban cho thửa ruộng có ngọc quý. Nước Trời như ngọc quý thượng thặng, đáng cho chúng ta bỏ hết công sức, của cải để đón lấy. Như vậy, để được Nước Chúa, chúng ta phải biết chọn lựa và từ bỏ. chúng ta không kiệt sức, vì Chúa luôn tìm cách trợ giúp, Chúa đòi tấm lòng chân thành tìm kiếm và tin theo, ai thành tâm tìm thì sẽ gặp được kho báu Chúa chuẩn bị để ban cho. Chúng ta có một niềm hy vọng lớn lao vì không phải chỉ có vài người tìm được Nước Trời nhưng tất cả đều có thể tìm thấy nhờ ơn soi dẫn và sự trợ giúp của Ngài.
Đối với một kho báu nay còn mai có thể mất vì trộm cắp mà còn đáng cho chúng ta bán hết những gì mình có để chiếm lấy, huống chi là Nước Trời. Nếu vào được Nước Chúa, nơi hạnh phúc vô biên và vĩnh tồn thì hy sinh của cải đời này, hy sinh những tham vọng trần thế để đổi lấy cũng là quá lời. Do đó, chúng ta phải lưu ý về cách sống của chúng ta: chúng ta mong Nước Trời nhưng lại muốn tất cả mọi thứ ở đời này: tiền bạc, danh vọng, quyền lực trần thế... chúng ta vừa muốn sở hữu vật chất trần gian vừa muốn có Nước Trời. Tôi có sống phù hợp với Nước Chúa không, tôi có tìm những sự thuộc về Thiên Chúa chưa hay chỉ để lòng tìm của cải vật chất, tôi có tập cho trái tim mình có được tình yêu Agape giống Chúa hay còn ích kỷ, thù ghét, giận hờn, kiêu căng... Nước Chúa mở sẵn rồi nhưng ai mong thực hành niềm vui thanh cao mới xứng đáng sống trong nước hạnh phúc ấy.
Nếu tôi theo Chúa mà lòng còn nặng nề, lệ thuộc vật chất thì làm sao vào ở với Chúa là Đấng Cao Sang siêu vượt thời gian, vượt xa thế giới trần tục này. Như vậy, chúng ta phải biết khôn ngoan, hàng ngày gạt bỏ những cái xấu ra khỏi con người mình và tập tính tốt, làm điều tốt, phục vụ cho Chúa và mọi người. Khi đã thanh lọc con người mình nên giống Chúa ngày một hơn thì việc lên ở với Chúa là điều ở trong tầm tay, nhờ ơn Chúa.
Nếu chúng ta mỗi ngày mỗi khác Chúa, xa Chúa thì mai sau vương quốc của chúng ta sẽ là nơi khóc lóc, hổ ngươi.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết bỏ những thói hư tật xấu mỗi ngày và tập những tính tốt bù vào để ngày một xứng đáng là môn đệ Chúa hơn và ngày sau được gia nhập vào hàng ngũ các thánh như Chúa đã hứa.
22. Kho báu-ngọc quý-chiếc lưới hãy bán tất cả mà mua
Đức Giêsu rao giảng Nước Trời bằng dụ ngôn: 7 (số 7 ưa dùng của Mt). Chia làm 3 cặp. Số 7 là kết. Chủ ý tượng trưng.
Hai dụ ngôn "Lúa và cỏ lùng" là mới nói kết quả của Lời được gieo vào thế gian. Chỉ nói thoáng về kết cục "mùa gặt".Cỏ lùng thì gom lại và đốt trong lửa. Lúa mới thu vào kho. Hạt cải và men là chỉ kết quả nhiều và tốt. "Kho báu và ngọc quí" trực tiếp chỉ Nước Trời đáng giá "tất cả những gì" con người có, phải "bán tất cả mà mua", không cụ thể cái gì nên có thể hiểu là "gồm cả mạng sống". Số 7 kết là phán xét: chiếc lưới thả xuống biển, gom tất cả mọi thứ cá rồi mới lựa ra: xấu thì bị quăng vào lò lửa, ở đó mà khóc lóc nghiến răng. Không nói tốt. Chủ ý là ngưòi xấu không có cửa nào khác Đừng suy nghĩ vớ vẩn lung tung mà phải hối đời đời..
CHÚ GIẢI
* Nước Trời giống như kho báu chôn giấu trong ruộng: không dễ tìm thấy. Đức Giêsu dùng dụ ngôn để giảng, không dễ hiểu. Nước Trời bị "ẩn giấu" bí ẩn.
- Có người tim được thì liền chôn giấu lại: Mỗi người phải tự bỏ công mà tìm.
- Rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua: Tìm được thì vui mừng. Chỉ kẻ tìm được Nước Trời, khám phá ra giá trị liên thành của nó thì mới vui mừng và vui mừng đến nổi bán tất cả những gì mình có mà mua. Tất cả những gì mình có: không kể nhiều ít bao nhiêu mà tuyệt đối là tất cả, bao nhiêu cũng được miễn là tất cả, kể cả mạng sống, dù chỉ là đồng xu bé tí xíu của bà goá nghèo nhưng là tât cả những gì bà có để nuôi thân. Người thanh niên giàu có không dám bán tất cả nên buồn bã bỏ đi. Và người giàu có khó vào Nước Trời biết bao! Chỉ kẻ khám phá được giá trị đích thực vô song của Nước Trời mời "vui mừng" đến nổi dám bán tất cả những gì mình có mà "mua". Phải mua. Còn những kẻ bàng quang, bịt tai nhắm mắt trước lời giảng của Đức Giêsu thì như "thằng bườm có cái quạt mo" dù phú ông dụ đổi ba bò chín trâu, nào ao sâu cá mè, hoặc bè gổ lim hay con chim đồi mồi bườm cũng chẳng màng, mà đổi "nắm xôi bườm cười".
* Nước Trời còn giống chuyện một người thương gia đi tìm ngọc đẹp: Ngọc có đẹp mới cao giá. Chỉ những người có mắt nhìn thấy và biết rõ giá trị của ngọc quí mới thấy quí. Còn như heo chó mà có ném hột xoàng hột trai trước mặt thì chúng cũng chẳng ham. Thằng bườm là hình ảnh chỉ rất nhiều người như con nít thích cục kẹo ăn được còn hột xoàng ngọc quí ăn liền không được nên không ham tí nào. Hay như những người Âu Châu đi thám hiểm Phi Châu đem bi hột chai đổi hột xoàng của mấy đứa trẻ Phi Châu vì chúng thấy hột chai đẹp, tròn bắn đạn ngon còn những cục hột xoàng chưa tròn bắn đạn không ngon. Chúng còn bán khai chưa biết giá trị của hột xoàng nên không quí cũng như những ngưòi không biết Nước Trời thì không quí.
- Tìm được một viên ngọc quí ông liền đi bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy: Cũng là "đi bán tất cả"...gồm chất và lượng, chiều dài và cả mạng sống. Đức Giêsu bảo ngưòi thanh niên "đi bán tất cả" rồi trở lại "theo Ta". Không hiểu giá trị đích thực của Nước Trời thì không ai dám đi bán tất cả những gì mình có mà bám chặc lấy bằng cả mạng sống "ít ỏi"của mình. Có gan mới làm giàu. Không liều một phen thì không đổi đời được đâu.
Hai dụ ngôn như là lập lại để nhấn mạnh và nhất là câu "liền đi bán tất cả những gì mình có mà mua" thì rõ là nhấn mạnh, cho đủ mạnh.
* Nước Trời còn giống như chiếc lưới thả dưới biển bắt được đủ thứ cá: Lưới trời thưa mà khó lọt. Đừng hòng trốn tránh. Các thiên sứ sẽ đi khắp tứ phương mà gom......
Ngày tận thế, các thiên thần sẽ tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ những người tốt: Không để vàng thau lẫn lộn nữa. Không để kẻ xấu cũng kể là tốt. Tốt ra tốt xấu ra xấu.
Rồi quăng chúng vào lò lửa ở đó mà khóc lóc nghiến răng: Hoả ngục. Đau khổ. Hối hận.
Kết phần rao giảng bằng dụ ngôn: Chung cuộc "mỗi người và mọi người sẽ là như là đã là".
Nước Trời không những phải mua mà còn phải mua bằng "tất cả những gì mình có".
Ngưòi ta chỉ muốn xin "không". Một cắt, một xu cũng không chi. Nước trời chẳng bằng một chút vui vẻ, một chút lạc thú, một chút hưỏng thụ.....
Chịu khó một chút cũng không. Bây giờ không muốn nước trời đâu. Chết mới muốn. Người ta rước cha đến giải tội "lòng lành"(sic) (tha hết mọi tội) và ban ơn toàn xá (xá hết mọi phần phạt tạm) thì lên trời một cái ục! Thiên Chúa tốt lành, nhân từ vô cùng. Lời Chúa đâu có nói như vậy hồi nào.Coi chừng mắc lừa.
Rõ ràng: lúa tốt thì mới thu vào kho, cá tốt mới bỏ vào giỏ. Tách biệt kẻ lành ngưòi dữ. Kẻ xấu thì quăng vào lò lửa. Đừng ảo tưởng. Phải tin Lời Đức Giêsu nói vì chính Người và chỉ Người mới phán xét và Người là Đấng phán xét chí công.
23. Nước Trời quý giá
(Đam. Lê Đức Thiện)
Bài Tin Mừng thuật lại ba dụ ngôn của Chúa Giêsu: dụ ngôn kho báu giấu trong ruộng, dụ ngôn viên ngọc quý và dụ ngôn cái lưới đánh cá. Dụ ngôn cái lưới đánh cá, ý nghĩa gần giống như dụ ngôn cỏ lùng, đã được nói tới vào Chúa Nhật tuần trước. Vì thế, ở đây chúng ta chỉ tìm hiểu hai dụ ngôn kho báu và viên ngọc quý. Hai dụ ngôn này có ý nghĩa tương tự nhau.
Trước hết, chúng ta thấy hai dụ ngôn này đều nhằm mục đích diễn tả sự quý giá tột bậc của Nước Trời, không một thứ gì ở trần gian quý giá bằng hay có thể sánh ví được. Tuy nhiên, trong dụ ngôn thứ nhất, Nước Trời quý giá vì đem lại lợi ích vô cùng to lớn, là được hạnh phúc đời đời, còn dụ ngôn thứ hai, Nước Trời quý vì vẻ vinh quang tuyệt vời của nó. Trong dụ ngôn trước, kho báu đến với người nông dân một cách ngẫu nhiên, tình cờ, tức là nhấn mạnh đến hạnh phúc Nước Trời do tình yêu Thiên Chúa ban nhưng không. Còn trong dụ ngôn sau cho biết ông thương gia phải vất vả tìm kiếm viên ngọc quý tức là muốn nói đến thái độ phải cộng tác tích cực vào việc chiếm hữu Nước Trời. Nhưng trong bất cứ trường hợp nào, Nước Trời luôn luôn là điều quý giá nhất, đòi hỏi người ta phải hy sinh tất cả để chiếm đoạt cho bằng được.
Đàng khác, hai dụ ngôn này còn cho chúng ta thấy thái độ khôn ngoan của người tìm được kho báu cũng như của người tìm được viên ngọc quý. Họ bán hết gia tài sản nghiệp để mua, vì họ biết chắc rằng: kho báu kia, viên ngọc quý kia đáng giá hơn gia tài sản nghiệp họ đang có. Và đây cũng chính là bài học Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta: người nào biết đi tìm Nước Trời trước nhất, dám hy sinh tất cả những gì mình có, kể cả mạng sống, để chiếm đoạt cho bằng được, đó là người khôn ngoan. Chúng ta biết, khôn ngoan là một ân huệ, một đức tính cao quý, làm cho trí khôn chúng ta, trong mọi hoàn cảnh, mọi công việc, biết lựa chọn những phương cách tốt hơn để thực hiện, đồng thời biết quy hướng tất cả về mục đích sau cùng.
Tuy nhiên, khôn ngoan cũng có nhiều thứ: khôn ngoan xác thịt, khôn ngoan tự nhiên và khôn ngoan siêu nhiên. Khôn ngoan xác thịt là cái khôn chỉ biết khéo léo tìm mọi cách để thực hiện những ước muốn tội lỗi, để thỏa mãn những khát khao của dục vọng, danh giá và tiền tài. Chẳng hạn vua Đa-vít, sau khi phải lòng và sa ngã với bà Bét-sa-bê, ông đã khôn khéo biết bao: nhà vua đã bày mưu tính kế để cho U-ri-a, chồng bà Bét-sa-bê về thăm nhà và ép ông uống rượu để giấu nhẹm tội ngoại tình của mình. Không thành công ông lại khôn khéo làm cho U-ri-a chết ngoài mặt trận để được tự do thoải mái kết hôn với bà Bét-sa-bê. Chúng ta có thể nói: bao nhiêu mánh lới, bao nhiêu thủ đoạn, bao nhiêu cách thức để đạt được mục đích chơi bời, thỏa mãn bản năng,… bấy nhiêu trường hợp đều cần đến trí óc suy nghĩ, xếp đặt, lừa dối, trá hình khôn ngoan. Nhưng khôn ngoan ấy là khôn ngoan xác thịt. Cái khôn mang lại những thiệt thòi, đổ vỡ, hối hận. Cái khôn mà người liêm khiết khinh chê, miệng đời đàm tiếu, mai mỉa. Cái khôn mà thánh Phao-lô đã kết án, vì nó đối nghịch lại Thiên Chúa và thiệt hại cho linh hồn.
Tiếp đến, khôn ngoan tự nhiên là cái khôn chỉ khéo léo lựa chọn những phương thế tốt đẹp để đạt mục đích tự nhiên mà không quy về mục đích sau cùng. Chẳng hạn tài khéo trong việc buôn bán, tính toán giỏi trong công việc làm ăn, bặt thiệp trong việc giao tế với mọi người. Đó là sự khôn ngoan để dùng người, khôn ngoan để được vật chất, lợi lộc trần gian. Người phú hộ trong Tin Mừng đã khôn ngoan kiểu này: thấy mùa màng bội thu, không đủ chỗ chứa hoa lợi, nên ông tính toán: phá kho lẫm cũ, xây kho lẫm mới rộng lớn hơn. Bảo đảm rồi, yên chí lớn nghỉ ngơi, hưởng thụ. Nhưng Chúa đã bảo: “Người khờ dại, chính đêm nay ngươi chết, thì của cải ngươi thu tích để lại cho ai?”. Thánh Mátthêu cũng ghi lại lời Chúa Giêsu kết án thứ khôn ngoan này: “Được lời lãi cả thế gian, mà không được Nước Trời thì ích gì?”.
Sau hết, khôn ngoan đích thực là cái khôn của những người, trong mọi hoàn cảnh, biết lựa chọn những phương cách tốt hơn để thực hiện, đồng thời biết quy hướng tất cả về mục đích sau cùng. Người có khôn ngoan này biết khước từ những khoái cảm chốc lát, vì biết rằng nó sẽ khuấy động lương tâm, làm mất bình an, làm phai nhạt hình ảnh Thiên Chúa trong tâm hồn. Họ biết lánh xa nếp sống dễ dãi, đua đòi, vì sợ xác thịt được voi sẽ đòi tiên, sợ lời cảnh cáo: “Ai gieo trong nguy hiểm, sẽ ngã trong hiểm nguy”. Người có thứ khôn ngoan này biết suy rằng: không phải bất cứ cái gì thiên hạ làm được là mình cũng có thể làm được. Họ biết rằng: có nhường nhịn đôi chút thì cũng chẳng mất mát gì, nhưng chắc chắn sẽ được đền bù. Họ biết rằng: có phải ép mình cầu nguyện nửa giờ, dự thánh lễ một tiếng, chỉ là cách đổi công khó nhọc chóng qua để lấy những công phúc to lớn hơn. Người có thứ khôn ngoan này, biết lợi dụng những cái trước mắt để sinh ích lợi sau này, nhưng luôn cảnh giác: không vì cái lợi trước mắt mà quên cái hại sau lưng.
Như vậy, bài Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta: Nước Trời là kho báu vĩ đại nhất, là viên ngọc quý giá nhất, chúng ta phải cố gắng, phải hy sinh để kiếm cho bằng được. Bởi vì đời là một dịp tiện, moi ngày sống là một dịp may, chúng ta có ý chí, tự do và khôn ngoan để lựa chọn. Vì thế, chiếm đoạt được Nước Trời hay không là do chính chúng ta.
24. Bán tất cả để mua viên ngọc quý
(Đỗ Lực)
Hành trình của đời người là một hành trình đi tìm kho báu, nghĩa là đi tìm hạnh phúc. Đó là một mục tiêu chính đáng. Tuy nhiên, như Đức Giêsu đã nói: “Kho tàng anh em ở đâu thì lòng anh em ở đó” (Lc 12,34), chúng ta hãy tự hỏi xem hạnh phúc mà chúng ta đang tìm kiếm thực sự là gì? Có phải chăng đó là tiền bạc, là quyền uy, danh vọng và khoái lạc? Chúng có đem lại cho chúng ta bình an và hạnh phúc thật sự không, hay sự giàu có về của cải vật chất chỉ làm cho con người thêm lo âu, và lối sống hưởng thụ chỉ khiến người ta thêm trống rỗng?
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã cho chúng ta biết rằng, kho báu thật sự, hạnh phúc thật sự mà con người cần tìm kiếm chính là Nước Trời. Thật vậy, Nước Trời là một viên ngọc quý, một kho tàng vô giá mà bất cứ ai có được quả là may mắn và hạnh phúc. Đối với Thiên Chúa, họ là những người khôn ngoan và giàu có, cho dù trong con mắt của thế gian, họ có vẻ điên rồ và nghèo khó.
Nước Trời không phải là một ảo tưởng. Nước Trời đem lại cho con người sự bình an trong tâm hồn, niềm vui trong trí tuệ và vẻ đẹp trong cuộc sống này, vì nó giải phóng chúng ta khỏi mọi sự mê hoặc của những kho tàng dưới đất, nhờ một niềm xác tín về tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta, cũng như nhờ cảm nghiệm được phần nào sự phong phú của kho tàng trọn vẹn trên Quê Trời.
Đời sống chúng ta sẽ trở nên vô nghĩa nếu không có Thiên Chúa. Mối liên hệ chặt chẽ với Thiên Chúa chính là một kho tàng thật sự. Nhờ đó chúng ta biết mình sẽ đi về đâu, cùng đích của đời sống chúng ta là gì. Vì chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban cho chúng ta điều chúng ta hằng khao khát kiếm tìm. Có Thiên Chúa là có tất cả, nếu chúng ta tin (Mc 9,23; 10,27).
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, giống như người nông dân và người buôn ngọc, khi phát hiện được viên ngọc quý giá, họ đã ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua cho bằng được viên ngọc, xin cho chúng con cũng biết can đảm và vui tươi, sẵn sàng ra đi, bán tất cả nhửng gì mình có để mua lấy hạnh phúc Nước Trời.
Xin cho lòng chúng con luôn thanh thoát trước những kho báu phù phiếm ở đời này, biến “bán” đi những đam mê, ích kỷ của mình mà mua lấy kho báu bất diệt trên trời.
Lạy Chúa, xin cho chúng con đừng bao giờ quay lưng lại trước những lời mời gọi của Chúa; không bao giờ ngoảnh mặt làm ngơ, tránh cái nhìn yêu thương mà Chúa luôn dành cho chúng con. Amen.
25. Chọn lựa
Người ta thường nói: "con người hơn nhau ở cái đầu". Quả đúng là như vậy. Cái đầu giúp ta biết tính toán, biết lên chương trình hành động, biết rào trước cản sau, biết có những mưu kế và diệu kế... Đó là sự khôn ngoan thông thường và tự nhiên của con người.
Lời Chúa trong các bài đọc hôm nay cho chúng ta một cái nhìn khác hơn về sự khôn ngoan: sự khôn ngoan đến từ Thiên Chúa và được thông ban cho con người. Khôn Ngoan đích thực là biết chọn lựa. Bài đọc 1 được trích từ sách các vua quyền thứ nhất cho chúng ta thấy rằng: Chúa hứa là sẽ ban cho Salômôn bất cứ những gì ông xin, và Chúa bảo ông cứ xin đi. Salômôn suy nghĩ và cân nhắc. Cuối cùng ông xin cho mình được khôn ngoan để phân biệt được phải trái mà cai trị dân Chúa. Điều ông xin đã làm đẹp lòng Thiên Chúa, bởi đó là điều đáng quí trước mặt Chúa. Ông đã biết chọn lựa cái đáng chọn lựa.
Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy giá trị cao quý của Nước Trời. Đó chính là kho báu, là viên ngọc quí mà con người nếu biết chọn lựa sẽ không thể bỏ qua. Dụ ngôn chiếc lưới được quăng xuống biết cho chúng ta thấy cách thức Thiên Chúa sẽ hành động trong ngày sau hết. Trong ngày phán xét, Thiên Chúa sẽ tách biệt kẻ lành ra khỏi kẻ dữ. Người lành sẽ được Thiên Chúa đón nhận và ân thưởng Nước Trời cho họ như một hạnh phúc viên mãn và vĩnh cửu cho họ; còn kẻ dữ sẽ phải lui vào bóng tối để chịu khổ hình muôn kiếp.
Hạnh phúc là điều ai cũng mơ ước và khao khát sở hữu nó. Cách này hay cách khác, tất cả chúng ta là những người đi tìm kho báu, đi tìm điều gì đó mang lại cho chúng ta hạnh phúc lâu dài và trọn hảo. Khát vọng đó hoàn toàn chính đáng. Nhưng vấn đề là hạnh phúc chân thật đó ở đâu? Làm cách nào để có được nó? Đó là vấn đề chúng ta cùng nhau suy gẫm.
Hạnh phúc khởi đi với những người biết tìm kiếm. Đi tìm là thoát ra khỏi chính mình để hướng tới một mục tiêu mà mình đã chọn. Đức Giêsu luôn khuyến khích chúng ta đi tìm hạnh phúc chân thật.Chính Đức Giêsu đã kêu mời anh thanh niên giàu có đi tìm hạnh phúc đích thực mà anh cũng có ý định kiếm tìm ấy. Nhưng cuối cùng anh đã không vượt qua khỏi chính mình được. Ngài luôn yêu mến những con người biết tìm kiếm hạnh phúc và luôn đồng hành với họ để soi dẫn họ: "phúc cho ai biết khao khát điều chính trực, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng" (Mt5,6).
Như vậy hạnh phúc là có định hướng đúng đắn cho cuộc đời này, là biết được ý nghĩa của cuộc đời này và sống ý nghĩa đó cách tròn đầy. Hạnh phúc thật không phải là thành đạt điều này điều nọ, cũng không phải là có được mọi thứ của cải vật chất ở đời này. Nhưng hạnh phúc là sống tròn đầy giây phút hiện tại, sống đúng mực và vui tươi với những chọn lựa cơ bản của mình. Chọn lựa then chốt và nền tảng chính là chọn lựa Thiên Chúa, chọn lựa Nước Trời.
Nước Trời được trình bày như một kho tàng, một viên ngọc quí mà tình cờ người đi tìm tìm thấy được nó. Nhưng khi tìm kiếm được rồi thì cần phải biết khôn ngoan để làm sao có được nó và sở hữu nó mãi. Có rất nhiều người đã tới được ngưỡng cửa của hạnh phúc thật nhưng rồi không thể vượt qua nổi. Những phương thế mà chúng ta có thể dùng để sở hữu Nước Trời đôi khi rất khờ khạo đối với người đời nhưng chúng ta đừng sợ miệng đời và dự luận,. Chúng ta chỉ cần tìm kiếm những gì hợp với thánh ý của Thiên Chúa và đẹp lòng Thiên Chúa là đủ cho chúng ta. Những phương thế để sở hữu Nước Trời là tha thứ, là cho đi, là yêu thương, là nhân hậu với mọi người, là hiền hoà, chấp nhận anh em mình, là cậy trông vào Thiên Chúa tình yêu...
Tại Chùa Tô Châu bên Tàu có một nhà sư tên gọi là Viên Thủ Trung, nổi tiếng là nhà tu hành đắc đạo. Nhà sư thường bày trên trên án thư, trước chỗ ngồi, một cái quan tài nhỏ làm bằng gỗ bạch đàn, dài độ 3 tấc, có nắp đậy, mở ra được. Khách đến chơi trông thấy thường tò mò tra hỏi, nhà sư trả lời: "người ta sống tất có chết, mà chết là vào ngay cái này. Tôi thật lấy làm lạ, người đời ai cũng chỉ biết phú quí, công danh, tài sắc, thị hiếu, lo buồn, vất vả suốt đời, chẳng biết đến cái chết là gì... Mỗi khi có việc không được như ý, tôi liền lấy cái quan tài này mà ngắm, tức khắc tôi cảm thấy được yên ổn ngay.
Con người sở dĩ chạy theo tiền tài danh vọng đến độ chà đạp lên người khác là bởi vì con người không nghĩ đến cái chết đang rình rập sau lưng mình. Khi Thần chết xuất hiện, thì con người không còn kịp mang theo bất cứ tài sản nào. Cái chết chỉ trở thành đáng sợ khi con người còn quá nhiều dính bén đối với thế trần này. Trái lại, được ôm ấp mỗi ngày, cái chết sẽ trở thành bạn đồng hành giúp con người vượt qua được mọi chán chường, bận tâm thái quá... Trong tất cả mọi sự, người khôn ngoan đích thực luôn nghĩ đến cùng đích.
Có nhiều chọn lựa xem ra rất ngớ ngẩn đối với người đời. Nhưng chính những chọn lựa ấy làm cho tâm hồn con người được thanh thoát và bình an để dần dần có thể tiến đến nguồn của mọi hạnh phúc chính là Thiên Chúa. Chọn lựa khôn ngoan là chọn Chúa, là sống thân tình với Ngài, lấy Ngài làm niềm vui. Chính Ngài là chỗ ẩn náu an toàn nhất cho ta. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể đong đầy những gì chúng ta còn thiếu thốn và khao khát trong cuộc tràn này. Tìm gặp Thiên Chúa là tìm gặp tất cả.
Ước gì chúng ta biết dùng mọi khả năng Chúa ban để biết chọn lựa những điều khôn ngoan và hoàn hảo, những điều mang tính vĩnh cửu à vững bền. Xin Thánh Thần Chúa ban cho chúng ta có được sự khôn ngoan của Ngài để chúng ta biết chọ chính Chúa là gia nghiệp của đời sống chúng ta hôm nay và mãi mãi. Amen.
26. Vui mừng bán tất cả
(‘Manna’)
Tất cả bắt đầu từ một sự tình cờ may mắn.
Người nông dân nghèo phải làm thuê cho điền chủ tình cờ gặp được kho báu chôn trong ruộng.
Người buôn ngọc tình cờ gặp được viên ngọc tuyệt vời, có giá trị lớn lao mà người bán không hề biết.
Sau đó phản ứng của cả hai rất giống nhau: ra đi, bán tất cả những gì mình có và mua... Không thấy có dấu vết của sự nuối tiếc hay ngần ngại giằng co. Tất cả diễn ra thật nhanh và tràn ngập niềm vui thanh thản. Ai cũng rõ họ hạnh phúc biết chừng nào khi chiếm được kho báu và viên ngọc. Cuộc đời họ chuyển sang một giai đoạn mới.
Thái độ của hai người trên được coi là bình thường. Ở địa vị ta, ta cũng làm như thế.
Kho báu và viên ngọc là những thứ thấy được, có giá trị hiển nhiên và hết sức hấp dẫn. Chúng hứa hẹn một sự giàu sang mà ai cũng thèm thuồng, nên người ta dễ bán tất cả để mua được chúng.
Bị ảnh hưởng bởi não trạng hưởng thụ vật chất, chúng ta thường coi kho báu duy nhất ở đời này là tiền bạc, quyền uy và khoái lạc. Khi nói Nước Trời là kho báu bền vững, Đức Giêsu là viên ngọc quý đích thực, chúng ta lại thấy đó là cái gì mơ hồ, xa xôi, ít lôi cuốn, thậm chí không có thật. Chính vì thế chúng ta thường ngần ngại khi từ bỏ, dè sẻ, nuối tiếc khi phải hy sinh cho Chúa.
Vậy vấn đề là khả năng thấy, nhờ lòng tin.
Bản thân tôi có thấy Đức Giêsu là viên ngọc quý, và Nước Trời là kho báu không?
Chỉ ai thấy được những thực tại vô hình và ngây ngất trước giá trị của chúng, người ấy mới hồn nhiên và vui tươi đánh đổi tất cả kho báu phù phiếm của đời này để lấy kho báu bất diệt trên trời (x.Mt 6,20).
Có khi tình cờ, qua một biến cố, một người bạn, qua một cuốn sách, một đoạn Lời Chúa, một kỳ tĩnh tâm, tôi chợt gặp Đức Giêsu như viên ngọc ngời sáng, hấp dẫn, mời gọi tôi bay lên khỏi cái tôi tầm thường: tôi có dám bán nỗi đam mê ích kỷ của mình để mua lấy tình bạn với Ngài không?
Nếu ta còn ngần ngại khi phải bán đi tất cả thì chỉ vì ta chưa thấy. Nhưng nếu ta cứ can đảm bán đi, ắt ta sẽ thấy.
Niềm vui chỉ đến với người dám bán tất cả.
Gợi Ý Chia Sẻ
Các tu sĩ thường được coi là những người đã bỏ mọi sự mà theo Chúa. Theo ý bạn, giáo dân có phải từ bỏ mọi sự để theo Ngài không?
Nước Trời ai cũng mua được, dù bạn nghèo đến mấy đi nữa. Chỉ cần bạn bán đi tất cả những gì bạn có. Có khi nào bạn bán tất cả mà lòng vẫn vui không? Có khi nào bạn hy sinh mà ngại ngần, tiếc nuối?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Giàu sang, danh vọng, khoái lạc là những điều hấp dẫn chúng con. Chúng trói buộc chúng con và không cho chúng con tự do ngước lên cao để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất, nhờ cảm nghiệm được phần nào sự phong phú của kho tàng trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi bán tất cả những gì chúng con có, để mua được viên ngọc quý là Nước Trời.
Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng trước những lời mời gọi của Chúa, không bao giờ ngoảnh mặt để tránh cái nhìn yêu thương Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen.
27. Chọn Nước Trời
Con người hiện hữu là một hồng ân. Mang thân phận con người, mỗi người cần phải có những sự chọn lựa. Có thể nói chọn lựa là một thách đố. Học sinh muốn lên lớp và muốn có phần thưởng thì phải chọn việc siêng năng chăm chỉ học tập, thức khuya dậy sớm miệt mài đèn sách. Còn vận động viên thì phải chọn việc tập luyện kỹ càng và chế độ luyện tập khít khao. Cũng vậy, người ta muốn sống bằng chính đồng tiền lương thiện thì phải chọn việc siêng năng lao động, khước từ lười biếng, chấp nhận vất vả làm việc, thậm chí "đổ mồ hôi, sót con mắt"...Kết quả của những sự chọn lựa như trên là người ta được niềm vui vì thành quả đạt được của mình, người ta được bình an ngủ ngon và được hạnh phúc. Từ những sự chọn lựa đó cho ta thấy việc định hướng trong cuộc đời rất quan trọng. Muốn thành công thì phải hy sinh. Muốn được bình an thư thái thì người ta phải từ bỏ những điều bất chính để chọn những điều mang giá trị cao hơn. Tuy nhiên dù con người có đạt được những giá trị vật chất thì nó cũng chóng qua. Thấu hiểu điều đó, Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta một sự chọn lựa, một sự theo đuổi mà kết quả của nó là hạnh phúc chân thật, hạnh phúc vững bền, hạnh phúc viên mãn, hạnh phúc thoả lòng khát khao, hạnh phúc đời đời. Đó chính là tìm kiếm, chọn và theo đuổi những giá trị thuộc Nước Trời.
Thật thế, bài Phúc âm hôm nay (Mt 13, 44 - 52) Chúa Giêsu đã đưa ra những dụ ngôn từ đời sống thực tế để minh hoạ cho hình ảnh và giá trị của Nước Trời: "Nước Trời giống như kho tàng chôn giấu trong ruộng, người kia tìm được, vội chôn vùi xuống, vui mừng trở về bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng ấy. Nước trời cũng giống như người buôn nọ, đi tìm ngọc quý. Tìm được một viên ngọc quý, anh về bán mọi của cải mà mua viên ngọc ấy.."
Rõ ràng người mua thửa ruộng này là người biết giá trị của thửa ruộng đó. Người buôn ngọc quý cũng biết được giá trị của viên ngọc. Anh ta biết đâu là giá trị phải theo đuổi, từ đó tập trung hết nguồn lực, sẵn sàng hy sinh, đánh đổi tất cả để mua cho bằng được thửa ruộng đó, sẳn sàng mua cho được viên ngọc. Chắc hẳn, anh ta không thể đắn đo, không do dự, không muốn bỏ lỡ cơ hội nên phải nhanh chóng quyết định mua ngay cho bằng được.Đây là cơ hội quý nhất "đáng giá ngàn vàng". Nghĩ thế rồi anh ta mua ngay lập tức, anh ta bỏ hết những toan tính, dự định về những của cải mà mình đang có, chỉ tập trung mua thửa ruộng này thôi. Như thế, kho tàng chôn giấu trong ruộng và viên ngọc kia phải có giá trị hơn nhà cửa, tài sản. Kho tàng và viên ngọc có một sức hấp dẫn diệu kỳ. Bán tất cả "cái cũ" để mua "cái mới". Việc bán cái cũ không diễn ra trong nuối tiếc nhưng trong niềm vui.
Vấn đề ở đây, dụ ngôn này muốn nói với chúng ta "Nước Trời" là viên ngọc quý, là kho tàng trong thửa ruộng hay nói cách khác Chúa Giêsu chính là kho tàng, là viên ngọc quý mà ta phải đánh đổi tất cả để có được. Chúng ta thật sự xác tín như vậy thì việc chúng ta dám từ bỏ tất cả để theo đuổi, để chiếm lấy Chúa Giêsu sẽ trở nên dễ dàng hơn. Ngược lại, khi chúng ta không thấy được Chúa Giêsu chính là kho tàng, là viên ngọc quý thì chúng ta khó có thể bước theo Ngài, chiếm Ngài và không can đảm bước theo Ngài. Tuy nhiên làm sao có thể thấy Chúa Giêsu là kho tàng, là viên ngọc quý được khi ta vẫn còn mãi ở trong sự giam hãm, bị lệ thuộc trong những định kiến, bị lấp lửng, bị do dự mãi...bởi chúng ta còn quá bám víu của cải vật chất, của cải, quyền lực, danh vọng,...làm sao chúng ta thoát khỏi những vướng bận ấy còn đang lôi kéo, trì trệ chúng ta. Nó không làm cho chúng ta vươn lên, bước tới Chúa Giêsu được.
Thánh Phaolô đã nói: "Tôi coi tất cả thiệt thòi so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi, vì Ngài, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ để được Đức Kitô và được kết hợp với Ngài" (Pl 3, 8 - 9). Do đó, Nước Trời hay Chúa Giêsu mới thật là kho tàng, là viên ngọc quý mà người ta đáng bỏ công đi tìm kiếm và sẵn sàng từ bỏ tất cả để chiếm lấy cho bằng được. Đây mới thật là khôn ngoan đích thật đem lại hạnh phúc vĩnh cửu (1V 3, 4-14) "được lời lãi cả và thế gian mà mất sự sống đời đời thì được ích chi?"
Anh thanh niên giàu có đã hỏi Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?". Chúa Giêsu bảo anh: "hãy về bán của cải anh có mà theo Ta". Chúa Giêsu là tất cả. Ngài chính là hạnh phúc vững bền. Ngài chính là sự sống đời đời của mỗi người chúng ta.
Nhìn lại mình, có thể chúng ta đã hớn hở theo Chúa, nhưng khi Ngài đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ, phải hy sinh, thì chúng ta lại cúi mặt xuống, rồi buồn bã bỏ đi, không đáp trả lời mời gọi của Ngài, như chàng thanh niên giàu có kia. Vì thế, tìm gặp Chúa không phải chỉ là biết mặt rồi thôi. Nghe lời Chúa không phải chỉ là ghi nhận rồi làm ngơ và quên lãng. Điều quan trọng là phải đáp trả với tất cả con người, có nghĩa là phải sống và thực thi hết mình những điều Ngài truyền dạy. Tin Chúa không phải chỉ là chấp nhận Ngài, mà còn phải gắn bó mật thiết với Ngài. Phải dám can đảm, dám dấn thân, dám hy sinh bằng tất cả cuộc sống, vì gặp gỡ cũng có nghĩa là yêu thương. Đã tin Chúa, đã gặp Chúa, thì cũng phải có can đảm đổi thay cuộc sống, bắt đầu bằng thái độ từ bỏ: từ bỏ danh vọng, vui thú và tiền bạc. Lúc đó, vui thú trở thành vô nghĩa, tiền bạc trở thành tro bụi và danh vọng trở thành mây khói trước vẻ huy hòang của kho tàng vừa tìm thấy. Chúa Kitô chính là kho tàng quý giá, mà mối mọt không thể đục khoét và trộm cướp không thể lấy đi. Hãy can đảm đánh đổi tất cả để có được kho tàng quý giá ấy. Chúa Kitô là có tất cả.
Như thế, phần còn lại lại tuỳ mỗi người chúng ta chọn lựa, theo Chúa hay không. Ước gì chúng ta chọn đúng. Chúng ta chọn thứ thiệt! Chúng ta chọn kịp lúc.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa chính là Nước Trời, là niềm hạnh phúc thật, là hạnh phúc đời đời. Xin cho chúng con chỉ biết chọn Chúa, theo Chúa và làm điều đẹp lòng Chúa để biết từ bỏ tất cả mà dấn thân cho Nước Trời, cho Chúa chúng con. Amen.
28. Khôn ngoan tìm Nước Trới
(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Vua Salomon nổi tiếng là vị vua khôn ngoan sáng suốt. Ông đã xử những vụ án rất khó khăn một cách khéo léo không khác gì Bao Công. Bà hoàng hậu Saba ở mãi tận phương nam cũng phải đến nghe sự khôn ngoan của ông. Nhưng khôn ngoan nhất là khi được Chúa cho chọn lựa, ông đã không xin được trường thọ hay được giàu sang, mà chỉ xin được ơn khôn ngoan. Lời cầu xin của ông rất đẹp lòng Chúa. Nên Chúa đã khen ngợi và ban cho ông mọi điều mong muốn. Chúa muốn tôi bắt chước vua Salomon, biết xin ơn khôn ngoan và biết khôn ngoan trong những lựa chọn. Nhất là biết khôn ngoan lựa chọn Nước Trời như những người trong bài Tin Mừng hôm nay.
Những người trong bài Tin Mừng hôm nay khôn ngoan vì thao thức đi tìm. Sự thao thức đi tìm được thấy trong thái độ bôn ba đây đó, khảo sát đất đai. Chắc phải đào bới nhiều mới thấy kho tàng chôn giấu trong ruộng. Sự thao thức đi tìm cũng thấy trong việc ra khơi thả lưới. Vất vả chài lưới rồi còn phải lựa chọn. Dù vất vả, họ quyết tìm cho ra Nước Trời.
Họ khôn ngoan vì biết phân định. Đời sống đem đến cho ta đủ mọi loại giá trị thượng vàng hạ cám, như chiếc lưới đánh bắt đủ mọi loại tôm cá. Giữa những giá trị ấy ta phải biết phân định. Lựa chọn những giá trị cao quý, tốt đẹp. Biết chọn lựa cá tốt, vứt bỏ cá xấu. Biết giá trị của viên ngọc dù nó còn đang nằm giữa khối đá sù sì dơ bẩn. Biết giá trị của kho tàng dù nó còn đang bị chôn giấu dưới lòng đất sâu. Biết giá trị của Nước Trời dù Nước Trời chưa tỏ hiện rõ ràng trên thế gian.
Họ khôn ngoan vì dám dấn thân. Khi đã biết được giá trị Nước Trời, họ dấn thân theo đuổi đến cùng. Dấn thân trọn vẹn nên bán tất cả những gì mình có để đổi lấy kho tàng, viên ngọc quý. Dấn thân quyết liệt vì bán hết nhà cửa rồi thì không thể quay về chốn cũ, chỉ còn gắn bó với quê hương mới mà thôi. Dấn thân tuyệt đối, bỏ hết tất cả chỉ vì một viên ngọc. Dấn thân như thế là thái độ của tình yêu, sự say mê, sự khao khát mãnh liệt. Đó chính là thái độ phải có khi đi tìm Nước Trời.
Họ khôn ngoan vì biết từ bỏ. Bán tất cả những gì mình có là một từ bỏ lớn lao. Dứt lìa những gì mình gắn bó còn đau đớn hơn nữa. Bỏ một nơi yên thân chắc chắn để dấn thân vào một tương lai bấp bênh thì thật là phiêu lưu đến tận cùng. Nhưng không có cách nào khác. Phải bán tất cả mới đủ sức mua viên ngọc Nước Trời. Phải đầu tư trọn vẹn con người với tất cả tài năng trí tuệ, sức lực, thời giờ mới mong chiếm đoạt được Nước Trời. Luyến tiếc một chút là bất thành. Chần chừ một chút là hỏng việc. Nấn ná một chút là bị lỡ cơ hội.
Họ từ bỏ một cách nhẹ nhàng thanh thoát. Nên từ bỏ rồi họ cảm thấy vui tươi. Họ từ bỏ một cách mau mắn vì họ đã dứt khoát với những gì xưa cũ. Lòng trí của họ chỉ gắn bó tha thiết với kho tàng mới tìm thấy.
Đó là những thái độ khôn ngoan đáng cho ta noi theo trên con đường đi tìm Nước Trời. Biết thao thức đi tìm. Biết phân định giá trị. Biết mau mắn từ bỏ. Biết hăng hái dấn thân đến cùng.
Lạy Chúa, xin ban cho con ơn khôn ngoan để con biết chọn Chúa là nguồn mạch hạnh phúc.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Bạn có thực sự coi Nước Trời là kho tàng quý giá nhất không?
2) Bạn đã thực sự bán hết mọi sự để mua Nước Trời chưa? Còn những gì bạn còn luyến tiếc chưa muốn bán?
3) Bạn nghĩ thế nào về sự khôn ngoan. Bạn muốn trở thành người khôn ngoan thực sự không?
29. Kho báu Nước Trời
(‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Aman là một làng chài lưới. Không có dấu hiệu vật chất bên ngoài chứng tỏ dân làng Aman giàu có. Nhưng niềm vui tươi nở trên mặt, chứng tỏ cái nghèo vật chất không ngăn cản họ sống hạnh phúc thật sự.
Phải, tất cả mọi người trong làng đánh cá này đều sống trong an vui.
Nhưng rồi một ngày kia, hai anh em đánh cá trong làng là Sô-Pốt và Sô-Pa lưới lên một thùng rất nặng. Khi thuyền về đến bờ, họ tò mò mở nhanh thùng ra và rất đổi ngạc nhiên, khi thấy thùng chứa đầy những viên ngọc quý. Hai anh em không biết làm gì với kho tàng, bèn bàn nhau đến hỏi ý kiến nhà hiền triết A-ki-an sống gần bên.
Sô-pốt hỏi:
- “Thưa ngài, chúng tôi phải làm gì với những hạt ngọc này?”. Số lượng đủ để phân phát cho dân trong làng chúng tôi, mỗi người một hạt và như thế mỗi người chúng tôi sẽ trở thành giàu có.
Nghe thế nhà hiền triết liền trả lời cách khô khan:
- Hãy đem đổ lại xuống biển!
Anh chị em thân mến,
“Thưa ngài chúng tôi phải làm gì với những hạt ngọc quý này?”. Câu hỏi của hai anh em Sô-pốt và Sô-pa làm cho chúng ta nghĩ ngay đến câu hỏi của chàng thanh niên giàu có trong Tin Mừng: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sống đời đời?”. Giống như câu trả lời của nhà hiền triết trong câu chuyện, Chúa Giêsu không đề nghị với chàng thanh niên hãy lo tích chứa của cải thêm để được hạnh phúc, nhưng Ngài bảo phải về bán đi tất cả những gì anh có rồi đến theo Ngài. Ngài là tất cả. Có Ngài là có được tất cả. Ngài là hạnh phúc.
Chàng thanh niên giàu có không dám bán những gì anh sở hữu mà cho người nghèo, rồi theo Đức Giêsu. Anh chưa hiểu được rằng tình bạn với Đức Giêsu chính là viên ngọc quý, chính Ngài là sự sống đời đời mà anh đang mong mỏi kiếm tìm (Mt 19,16-22). Bởi vậy, anh không dám bỏ sự an toàn hiện tại của mình để đi theo một Đấng không có chỗ ngả đầu (Mt 8,20). Anh sợ mình “thả mồi bắt bóng”.
Trong dụ ngôn Chúa Giêsu vừa kể cho chúng ta hôm nay, chúng ta thấy người nông dân nghèo tình cờ tìm được kho báu trong ruộng cũng như người buôn ngọc bất ngờ tìm được một viên ngọc quý, cả hai lật đật hối hả trở về nhà, trong đầu chỉ mang một ý nghĩ duy nhất là phải mua ngay, nếu không sẽ lỡ cơ hội ngàn vàng. Và để mua ngay thì phải bán ngay lập tức những gì mình đang có. Như thế, kho báu thật có giá trị hơn gấp bội nhà cửa, tài sản của anh nông dân; viên ngọc quý làm át đi vẻ ngời sáng của những viên ngọc người thương gia hiện có. Kho báu và viên ngọc có một sức hấp dẫn kỳ diệu. Từ ngày gặp được, cả hai thấy mình phải hciêm1 lấy, dù phải đánh đổi bắng tất cả tài sản của mình.
Cả hai người bán tất cả những gì mình có, người buôn ngọc chắc chắn phải bán nhiều hơn anh nông dân nghèo, nhưng cả hai đều phải bán tất cả. Bán “cái tất cả cũ”để mua được kho báu và ngọc quý là “cái tất cả mới”. Chỉ cần được “cái tất cả mới”này là cả hai người được mãn nguyện, cuộc đời không còn như xưa nữa. Chính vì thế, việc bán cái cũ không diễn ra trong nuối tiếc và dằn vặt, nhưng trong niềm vui chan chứa. Tuy nhiên, người ngoài có thể không hiểu nổi thái độ của hai người. Một thửa đất, một viên ngọc: có cần mất tất cả để mua được không? Cuối cùng, chỉ ai thấy mới hiểu được.
Đức Hồng Y Martini thường hay kể câu chuyện sau đây mà Ngài lấy làm tâm đắc: Có người đến gặp vị ẩn tu trong sa mạc và hỏi: “Thưa cha, cha là người có nhiều kinh nghiệm, xin cha giải thích cho con rõ, tại sao có nhiều người trẻ vào tu trong sa mạc này, nhưng sau đó lắm người bỏ về, và có ít người bền đỗ?”. Khi ấy, vị ẩn tu trả lời: “Chuyện này giống như một con chó đuổi theo một con thỏ, vừa đuổi vừa sủa inh ỏi. Nhiều con chó khác nghe nó sủa và thấy nó chạy, liền chạy theo. Chẳng bao lâu, những con sau này đều mệt lả và ngừng lại. Chỉ có con chó đầu tiên, lúc nào cũng tiếp tục chạy cho đến khi bắt được con thỏ, còn những con chó kia không thấy! Vị ẩn tu muốn nói rằng, chỉ có người nào thấy được Đấng mình theo đuổi, người ấy mới dám theo Đấng ấy tới cùng, dù phải chịu nhiều hy sinh từ bỏ”. Vậy vấn đề chủ yếu ở đây là: chúng ta có thấy Nước Trời, là kho báu hay có thấy Đức Kitô là viên ngọc quý không? Nếu chúng ta thực sự thấy và xác tín như vậy, thì việc từ bỏ mọi sự chúng ta có, sẽ dễ dàng hơn.
Nhưng, thưa anh chị em, làm sao chúng ta có thể thấy Nước Trời là kho báu khi chúng ta vẫn bị giam hãm trong cái thế giới khả giác này, khi thế gian hằng dạy cho chúng ta biết kho báu duy nhất là tiền của, quyền lực và khoái lạc? Làm sao chúng ta có thể thoát ra khỏi lối đánh giá của người đời và cảm nếm được tính ưu việt của Nước Trời?
Có một người đã sẵn sàng bán tất cả của cải, vật chất cũng như tinh thần, để được Đức Kitô: Thánh Phaolô. Ngài đã nói: “Tôi coi tất cả thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi, vì Ngài, tôi đánh mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức Kitô và được kết hợp với Ngài” (Pl 3,8-9). Thánh Phaolô đã từ bỏ mọi sự vì đã cảm nghiệm được kho báu lớn lao và quý giá mà ngài lãnh nhận.
Thì ra Nước Trời mới thật là kho báu, là viên ngọc mà con người đáng bỏ công đi tìm kiếm và sẵn sàng từ bỏ tất cả để chiếm cho bằng được. Đây mới là sự khôn ngoan đích thực đem lại hạnh phúc vĩnh cửu (x. 1V 3,4-14) “Được lời lãi cả thế gian mà mất sự sống đời đời thì được ích gì?”. Vấn đề đã rõ ràng. Công việc quyết định lựa chọn dứt khoát chỉ còn tuỳ ở mỗi người chúng ta. Hãy chọn cho đúng thứ thiệt. Hãy chọn cho kịp thời, kẻo trễ mà “mất cả chì lẫn chài”khi mẻ lưới đã được kéo lên bờ và số phận của những con cá đã được quyết định, không thể thay đổi được nữa, như trong dụ ngôn kết thúc Tin Mừng hôm nay.
30. Viên ngọc
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay đưa ra ba hình ảnh: Đó là kho tàng, viên ngọc và mẻ lưới. Cả ba đều có chung một lý tưởng: Nước trời là một cái gì quý giá, và muốn chiếm hữu, chúng ta phải sẵn sàng hy sinh tất cả.
Trong cuộc sống, chúng ta thấy có những thành công sáng chói, nhưng rất có thể đó chỉ là một lớp sơn hào nhoáng bên ngoài, để rồi khi đứng trước ngưỡng cửa vĩnh cửu, tâm hồn họ đã bị mục rữa từ lâu.
Trái lại, có những người âm thầm chịu đựng và làm việc. Cuộc sống của họ thì tăm tối, còn bản thân họ thì nhiều khi bị ghét bỏ và khinh chê, nhưng thực sự họ là những người được Chúa yêu thương và chúc phúc.
Tới đây tôi xin kể lại một mẫu gương của ông hoàng Vladimir Ghyka. Ong là một người thuộc hoàng tộc, được ăn học đến nơi đến chốn và được thừa hưởng nhiều của cải vật chất. Ông có thể sống một cuộc sống nhàn hạ và sung sướng, cũng như có một địa vị cao sang ngoài xã hội.
Thế nhưng, ông đã từ chối những quyến rũ trần gian, những vui thú mà cuộc sống vương giả đem lại. Ông đã chọn cho mình viên ngọc quý của Phúc Âm. Ông sẵn sàng từ bỏ tất cả để chiếm lấy viên ngọc quý ấy.
Từ bỏ tất cả, ông đã sống một cuộc sống nghèo túng giữa những kẻ nghèo túng. Đời ông kể từ nay thuộc hẳn về Thiên Chúa và những người bất hạnh. Ông đã qua đời vào năm 80 tuổi trong ngục thất, nơi mà kẻ thù đã giam giữ ông.
Dưới cặp mắt của người đời, thì ông đã thất bại hoàn toàn, cũng như Chúa Giêsu đã thất bại hoàn toàn khi bị treo trên thập giá. Thế nhưng, chính cái kết thúc bi thương ấy lại mở ra con đường vinh quang mà chúng ta không thể nào mường tượng nổi.
Như người lái buôn khi đã khám phá ra viên ngọc quý, đã bán tất cả những gì mình có để mua cho được viên ngọc ấy. Đây là một sự lựa chọn đáng ca ngợi và khích lệ.
Với chúng ta cũng thế, nếu chúng ta hiểu được hồng ân của Thiên Chúa, chúng ta cũng phải hành động như vậy. Thế nhưng có biết bao nhiêu người khao khát hạnh phúc, đã lầm lẫn một cách tệ hại khi chọn lựa cho mình những sự chóng qua, để rồi ngay từ đời này họ đã cảm nghiệm được sự bẽ bàng và cay đắng.
Chính Chúa Giêsu cũng đã khuyên nhủ chúng ta:
- Các con hãy thu tích cho mình những kho tàng trên trời, nơi mà mối mọt không phá hủy và kẻ trộm không đục tường khoét vách mà lấy đi. Bởi vì kho tàng các con ở đâu thì lòng các con cũng ở đó.
Trên con đường dẫn tới nước trời, chúng ta rất dễ dàng bị lạc lối, bởi vì chúng ta tìm hạnh phúc nơi không có bóng dáng của nó. Trái tim chúng ta thật lớn lao, nhưng chúng ta lại chất đầy nó bằng những ảo ảnh phù du. Chúng ta như những con thiêu thân lao mình vào lửa để rồi, để rồi lửa của đam mê và dục vọng sai trái đã đốt cháy bản thân và cuộc đời chúng ta.
Bởi đó, mỗi người chúng ta hãy tự kiểm điểm xem: chúng ta có dám hy sinh để chiếm lấy nước trời và chúng ta có dám từ bỏ để bước theo Chúa hay không?
31. Đổi lấy kho tàng
Anh chị em thân mến,
Thánh Phanxicô Xavier, (1506-1552) là con gia đình quí tộc Xavier thành Pamplune, nước Tây Ban Nha. Lớn lên được theo học bên Pháp, là bạn cùng lớp với thánh Ignatiô Loyola. Một hôm đi tham dự thánh lễ, Phanxicô nghe đọc Lời Chúa: "Lời lãi cả và thế gian mà mất linh hồn, nào được ích gì?" Câu Kinh thánh này đã ảnh hưởng sâu xa suốt cuộc đời trai trẻ của thánh nhân, cũng như sau này nữa. Cũng chính vì câu nói đó thánh nhân đã bỏ hết mọi sự, để chỉ tìm một mình Chúa. Ngài đã gia nhập dòng Tên do thánh Ignatiô mới thành lập, đã vâng lời thánh Ignatiô đi truyền giáo ở Ấn độ. Sau đó, ngài dự định đi Trung Hoa, nhưng chưa kịp, ngài đã chết trên hòn đảo Sancian, mặt quay nhìn lên đất Trung Hoa.. Câu chuyện của bài Tin mừng hôm nay cũng một chủ đề tương tự như thế...
a/. Sau đây, chúng ta tìm hiểu vài câu nói trong bài Tin mừng:
Nước Trời được ví như người đi tìm kho báu, như người buôn ngọc quí: anh này khi gặp được ngọc quí, đã sẵn sàng bán tất cả gia sản để mua cho bằng được viên ngọc quí đó. Hay như người tìm kho báu, khi được rồi, ông ta cũng làm một cách tương tự như người buôn ngọc quí ở trên.
Nước Trời cũng giống như chiếc lưới bắt cá...Khi kéo lên bờ người ta sẽ chọn cá tốt, cá xấu thì bỏ đi: người Kitô hữu cũng phải biết chọn lựa Nước Trời hay trần gian tương tự như thế. Dĩ nhiên không được bắt cá hai tay, mà chỉ được chọn một mà thôi....
b/. Giá trị Nước Trời là vô song: chính vì thế Chúa dạy ta phải hi sinh tất cả để chiếm hữu cho được. Nước Trời, với người không hiểu, sẽ chẳng giá trị gì, nhưng với người tìm ra điều bí nhiệm của Nước Trời, họ thấy quí giá vô cùng và họ bị thôi thúc chiếm cho bằng được để làm sở hữu. Hai anh buôn ngọc và tìm kho báu trong Phúc âm, đã dám liều mình bán tất cả để mua được ngọc, để chiếm cho được kho báu. Người ta thường nói: trên đời, không liều, sẽ không làm giàu. Trong đạo cũng có thể nói: không liều, cũng không làm thánh được...
Trong một ngôi chùa nọ bên nước Nhật, lúc nửa đêm, vị thiền sư đang tụng giờ kinh đêm một mình. Bỗng ông thoáng thấy một bóng người vụt qua, vừa lúc nghe có tiếng sau lưng: - Tiền đâu? Đưa đây? Nhà sư định thần ra là tên trộm, ông thong thả trả lời: - Thiện tai thiện tai; chùa nghèo làm gì có tiền! - Chùa lớn thế này mà không có tiền à? Nhà sư vẫn tụng kinh, vừa trả lời: À mà quên! Trong hộc tủ bên trái, ta còn ít tiền. Nếu muốn cứ lấy; nhưng nhớ chừa lại cho ta ít trăm để mai ta còn tiền đi đóng thuế cho nhà nước. Rồi nhà sư tiếp tục tụng kinh. Tên trộm thấy ít tiền quá, nên cởi luôn chiếc cà sa nhà sư đang mặc. Ông chỉ còn độc chiếc quần xà lỏn mà vẫn tụng kinh. Khi tên trộm bỏ đi, ông nhìn theo mỉm cười: nghiệp chướng nặng quá! Nghiệp chướng!.
Câu chuyện trên đây muốn nói: vị thiền sư đã dám liều bỏ tất cả vinh hoa trần gian, để được giác ngộ, để tu cho đắc đạo. Nói một cách vắn tắt, ông đã coi thường của cải, phù vân trần gian, chỉ vì đạo. Nhìn lại lịch sử Hội thánh công giáo, ta thấy các thánh cũng đã sống tương tự như thế. Mẹ Têrêsa Calcutta đã dám liều bỏ cộng đoàn Loretta Mẹ đang tu ở đó, để đi theo ơn gọi mình vừa nhận được, là lo cho người nghèo khổ và sống chung với họ. Kết quả thế nào, ngày hôm nay thế giới dư biết việc Mẹ đã làm.
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: là người Kitô hữu, khi hiểu được Nước Trời là quý giá, ta có dám liều bỏ mọi sự để mua cho bằng được không? Ta có dám làm theo lời Chúa Giêsu dạy? Ta có dám theo gương hai người đi tìm ngọc, tìm kho báu, vì nghỉ rằng chỉ có Nước Trời là quý giá? Hay ta vẫn còn bắt cá hai tay, vừa theo Chúa vừa chạy theo tiền của, danh vọng trần gian? Ta chọn cách nào?
32. Viên ngọc quý
Trong thời gian gần đây, hai câu lạc bộ hàng đầu thế giới Man United và Real Marid không ngừng đưa ra muôn vàn phương kế để chiêu dụ "Viên ngọc quý" bóng đá Cristiano Ronaldo. Cầu thủ 23 tuổi này hiện đang là ngôi sao của Man United, nhưng Real Marid không ngừng lôi kéo bằng nhiều hình thức, hứa hẹn với mức lương kỷ lục, khuyến mãi xe con... Tất cả những điều họ làm chỉ nhằm kiếm được "viên ngọc quý" của bóng đá về cho mình. Cả hai câu lạc bộ đều đủ biết để làm được điều đó họ phải ép mình thực hành đủ những điều kiện mà trước đây họ vẫn chưa làm.
Hôm nay Đức Giêsu cũng nói về một viên ngọc quý, mà để chiêu mộ viên ngọc quý này không thể dùng tiền hay quyền lực, nhưng bất cứ người nào cũng có thể mua được khi họ đáp ứng đủ những điều kiện sau:
Để đạt được Nước Trời tôi phải có lựa chọn, lựa chọn là một sự thách đố, đòi hỏi phải có một suy nghĩ thật kỹ, một sự khẳng định dứt khoát. Thiên Chúa không bao giờ chấp nhận một sự lựa chọn nửa vời "dở dở ương ương Ta sẽ ói ngươi ra". Giống người lái buôn hôm nay khi đã quyết định mua viên ngọc, thì quyết tâm mua cho bằng được, vì anh ta đã chọn, đã lựa đó cũng là điều anh muốn. Từ ban đầu khi tạo thành vũ trụ Thiên Chúa đã cho con người được tự do, qua việc đặt con người trước "cây biết lành biết dữ". Sự lựa chọn là một thử thách cam go đòi hỏi con người phải chọn dứt khoát: tốt hoặc xấu. Là người Kitô hữu chúng ta phải biết lựa chon những giá trị tốt, vứt bỏ cái xấu, phải có cái nhìn sâu xa biết cả những giá trị thực của viên ngọc còn tiềm ẩn sâu bên trong mà thực chất với cái nhìn hiện nay ta không thể biết đến.
Để đạt được Nước Trời đòi hỏi ta phải đáp trả trọn vẹn. Trong tục ngữ Việt Nam có câu "lửa thử vàng, gian nan thử sức". Điều kiện đáp trả lời mời gọi đó chính là "lửa" để xem sự nhiệt thành sự khao khát tìm viên ngọc quý của ta thế nào. Qua giòng lịch sử Giáo Hội có rất nhiều người đi tìm nhưng không phải ai cũng tìm thấy, vì họ chưa thật sự đáp trả trọn vẹn, chưa dấn thân nhiệt tình. Sự đáp trả không phải chỉ bằng lời nói suôn, nhưng phải được thể hiện qua hành động cụ thể. Mỗi người có môt sự đáp trả khác nhau Thiên Chúa không cào bằng tất cả mọi người, cũng không đòi buộc mọi người phải đáp trả như nhau.Vì có người thì được ban cho năm nén, có người ba nén. Nhưng đạt được viên ngọc quý đòi hỏi mỗi người phải đáp trả hết khả năng mình có ba nén phải làm lời ba nén, có năm nén phải là lời cho được năm nén khác.
Để đạt được Nước Trời đòi buộc tôi phải dấn thân hoàn toàn. Muốn chiến thắng thì phải nhảy vào cuộc chiến, có thể cuộc chiến đó một còn một mất, nhưng khi đã chiến đấu vì Nước Trời cộng với ơn Chúa thì ta không bao giờ là người chiến bại mà luôn là người chiến thắng. Giống như người buôn hôm nay chắc chắn gia tài của ông ta rất nhiều, rất giàu có, bao nhiêu năm ra công buôn bán chỉ nhằm vun đắp cho gia tài đó. Nhưng gia tài đó chẳng là gì khi biết được giá trị Nước Trời, ông quyết tâm theo đuổi đến cùng, bằng mọi cách kể cả bán gia tài mình đang có bán hết chứ không phải chỉ bán một phần. Điều đó thể hiện sự dấn thân trọn vẹn, một sự ham mê tuyệt vời, một sự khao khát, một nỗ lực tuyệt diệu cho người ra công tìm kiếm Nước Trời.
Để đạt Nước Trời đòi hỏi tôi phải trưng dụng tất cả, gia tài có thể là mồ hôi nước mắt của người, đó có thể là công sức của cả đời. Nhưng để mua được viên ngọc quý đòi hỏi ông ta phải hy sinh. Tuy dẫu biết rằng hy sinh là chấp nhận mất mát nhưng hy sinh cái tạm thời lại mua được cái vĩnh cữu, thì mất mát có đáng chi. Vĩnh cữu thì rất xứng đáng. Người lái buôn hy sinh gia tài chỉ là một góc của muôn vàn sự hy sinh. Có những sự hy sinh còn cao cả hơn nhiều. Họ hy sinh cả bản thân, chấp nhận đau khổ để mua viên ngoc qúy bằng con đường dâng hiến phục vụ tha nhân, phục vụ người nghèo, người đau khổ bệnh tật...
Giá trị của Nước Trời rất quý và đòi hỏi của nước ấy rất quyết liệt do đó tôi phải nỗ lực hết mình đáp trả bằng những điều kiện và ơn Chúa ban chắc chắn tôi sẽ làm được. và dụ ngôn hôm nay như một động lực thúc đẩy tôi hãy đi tìm kiếm Nước Chúa bằng con tim, bằng sự chân thành và lòng quyết tâm.
33. Đức Kitô quấy rầy nhân loại
(‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Một trong những đặc điểm của Thiên Chúa hằng sống là Ngài quấy rầy mọi thái độ cầu an, mọi nguyên trạng, mọi ổn định. Lịch sử dân Israel cống hiến những thí dụ thường trực. Hết mọi trang của Phúc Âm thúc đẩy không cho con người an cư trong cuộc sống trần thế; dĩ nhiên, hai chân đạp đất vững chắc, con người ấy được mời gọi tiến bước về một mục tiêu siêu việt. Thiên Chúa hiện diện kề cận nhân loại đến nỗi Ngài xáo trộn con người, cách nhìn và đánh giá sự vật, cách định hướng cuộc đời của nó. Một người sống cuộc đời bình thường, ngăn nắp, bảo đảm, danh giá, rồi bỗng chốc một ơn lạ thường đảo lộn tâm trí, óc phán đoán, lòng dạ anh ta, như thể anh vừa mới khám phá một kho tàng quý giá dưới chân mình. Đó là thánh Phanxicô người Assisi, từ bỏ mọi của cải để đi theo Đức Kitô. Đó là người thanh niên hay người thiếu nữ hy sinh một tương lai nhân loại thấy trước được là bảo đảm để bước vào một cuộc phiêu lưu tự hiến cho Thiên Chúa trong việc phục vụ con người. Phúc Âm đưa vào trong lòng nhân loại một cách phán đoán giá trị sự vật mới.
1) Phúc Âm xét lại giá trị của tất cả mọi sự. Sự phê phán nhân loại về cuộc sống tự nhiên thiên về việc an định trong trật tự, trong hoà hợp các tương giao. Rồi bỗng trong cái trật tự và hoà hợp ấy, Phúc Âm đem vào một yếu tố thay đổi tất cả, gây nên căng thẳng và cả chống đối nữa. Người ta có được sung túc vật chất, được tiện nghi gia đình, được ích gì nếu phải mất linh hồn? Phúc Âm đem vào một trật tự mới và một quy luật tương giao nhân loại mới, dựa trước hết vào Thiên Chúa; lập tức mọi sự mang một chiều hướng mới, một giá trị mới. Việc này đương nhiên gặp sự kháng cự của con người và do đó có nhiều trường hợp xung đột. Quả thực, Đức Kitô gây xáo trộn sâu xa cho mọi tầng lớp nhân loại.
2) Kho tàng tìm thấy trong ruộng đáng cho người ta bán tất cả của cải để mua lấy nó. Phúc Âm xét lại giá trị của tất cả vì đối lại với những gì chóng qua, Phúc Âm đề ra cái tuyệt đối. Không phải chỉ có việc thay đổi 1 mức giàu sang để lấy một mức cao hơn. Đây là việc đặt của cải chóng qua bên dưới của cải tối cao, của cải chóng tàn bên dưới của cải vĩnh cửu. Một thí dụ: trong xã hội tiêu thụ, phải chăng không cần bắt các động lực sản xuất lệ thuộc các luật lệ công bằng, làm sao cho lo âu chính của những người có trách nhiệm không phải là lợi tức trên hết nhưng, là con người và nhân phẩm. Nhiều người Kitô hữu xác tính như vậy và tìm tòi cách thức hành động. Điều chính yếu là xác tính vì chứng tỏ rằng đã bắt đầu tìm thấy kho tàng ẩn dấu trong ruộng. Làm sao để đào lấy kho tàng ấy? Mỗi người hết sức theo cách mình cộng tác với người khác để gia tăng hiệu năng. Ước gì các Kitô hữu là những kẻ trong thế giới ngày nay biết đặt thái độ duy vật tiêu thụ xuống hàng dưới để đào lấy được các kho tàng công lý và tình thương.
34. Khôn ngoan là đặc ân cao cả đến từ Thiên Chúa.
(‘Mở Ra Những Kho Tàng’ của Charles E. Miller)
Khi chúng ta suy nghĩ về sự khôn ngoan, chúng ta có thể liên tưởng đến một ông lão với bộ râu dài bạc trắng như cước, miệng phì phèo điếu tẩu, nằm ngả lưng trên chiếc ghế bố và một sự khôn ngoan có thể nói được là: “Một xu để dành là một xu được hưởng”. Nhưng sự khôn ngoan theo Thánh Kinh thì không có nghĩa như thế. Trong Thánh Kinh sự khôn ngoan không phải là lý thuyết suông hay trừu tượng. Nó thì rất thực tiễn. Đó là sự thực hành theo lẽ phải, khôn ngoan con đường sống.
Vua Salomon đã cầu xin sự khôn ngoan, không phải để ông ngồi yên vị nơi hoàng cung và suy tư về những chân lý trong vũ trụ. Ông xin Thiên Chúa ban cho mình sự khôn ngoan, một trái tim hiểu biết để ông có thể trị vì vương quốc cách đúng đắn đem lại hạnh phúc cho dân tộc.
Chúng ta cầu xin Thiên Chúa ban cho chúng ta tặng ân này hay chính xác hơn là tăng thêm sự khôn ngoan cho chúng ta, bởi vì chúng ta đã lãnh nhận sự khôn ngoan rồi, là linh ân của Chúa Thánh Thần khi chúng lãnh nhận phép Thêm sức. Khôn ngoan hướng dẫn chúng ta, giúp chúng ta chu toàn những trách nhiệm của mình. Các bậc cha mẹ có bổn phận chăm sóc dưỡng dục con cái. Họ là những nhà giáo dục đầu tiên và trước hết của con cái họ, ngay cả trong vấn đề tôn giáo. Kế tiếp chúng ta mới nghĩ đến các linh mục, thầy cô giáo, bác sĩ, cảnh sát và nhiều ngành nghề khác đã phục vụ cho con người. Tất cả chúng ta có trách nhiệm hướng đến ta nhân khi chúng ta sống trong cùng một xã hội. Mặc dù chúng ta không nghĩ đến vấn đề này một cách thường xuyên, chúng ta cũng có trách nhiệm với chính bản thân của mình nữa.
Có lẽ cách khôn ngoan nhất để xem những trách nhiệm của chúng ta là suy nghĩ xem những giá trị thực tiễn trong đời sống này là gì? Những mục đích của chúng ta là gì? Những tham vọng của chúng ta là gì? Chúng ta thật sự muốn gì trong đời sống?
Năm 1849 nhiều người nghĩ rằng họ biết những gì họ muốn trong đời sống. Vàng đã được khám phá ở California. Những nhà chăn nuôi và những trại chủ đã đua nhau cách điên cuồng trên những chiếc xe ngựa và những toa xe kéo theo băng qua lục địa với một nỗ lực lớn lao nhằm thu hoạch một mùa gặt kim loạt vàng.
Một chủ nông trại ở Kansas, không bằng lòng với những mùa nho hết năm này đến năm khác, ông nghĩ rằng chắc mình phải xa rời gia đình và nông trại để tìm kiếm một cơ hội may mắn. Vợ của ông đã lo lắng vì chuyện đó. Bà có bốn đứa con nhỏ phải chăm sóc và bà nghi ngờ cái biến cố mà chồng bà luôn mơ tưởng là có thể thành công. Miễn cưỡng, người trại chủ ở lại nhà. Một đêm, ông nằm mơ thấy mình ở trong một căn phòng đầy vàng. Sau khi quá sung sướng để cho những miếng vàng rơi xuống qua tay mình, ông nhận ra mình đang đói lắm. Khi đó ông liền tìm kiếm xem có gì để ăn không, những ông chỉ thấy có vàng thôi. Ông gọi vợ ông, hy vọng sẽ được an ủi bởi tình yêu nồng ấm của vợ, nhưng chỉ có sự lạnh lùng của những thỏi kim loại màu vàng. Ông ước ao nhìn thấy những đôi mắt lấp lánh của những đứa con nhưng chỉ có vàng lấp lánh, ông liền thấy sự giàu có vô hồn biết bao đối với ông. Ông chợt tỉnh dậy. Sau một lúc suy nghĩ, ông nhận ra những giá trị thật mà ông đang có. Qua giấc mơ, ông đã trở nên một người khôn ngoan, một người hiểu biết và chấp nhận những trách nhiệm của mình.
Những trách nhiệm, ngay đối với một người khôn ngoan, có thể là một gánh nặng. Thánh Phaolô, chắc chắn là một trong những người khôn ngoan, đã viết: “Chúng ta biết rằng Thiên Chúa thực hiện tất cả công trình này là để mưu ích lợi cho những kẻ yêu mến Người”. Đó là một phần sống động của sự khôn ngoan là tùy thuộc vào Thiên Chúa, hãy đặt tất cả những gì chúng ta có ở trong tay Người, hãy cầu xin sự trợ giúp của Người, hãy nhận biết rằng tất cả mọi sự ngay lành đều đến từ Thiên Chúa. Những điều này sẽ là tâm tình của chúng ta khi chúng ta hợp với Đức Kitô để hiến dâng trong hy tế Thánh Thể là một dấu chắc chắn chúng ta biết điều gì là những giá trị thật trong đời sống chúng ta, rằng chúng ta hành động theo đặc ân cao cả là sự khôn ngoan.
35. Bán hết tất cả?
Chúa Giêsu có vẻ như người bán hàng rong của Thiên Chúa! “Hỡi các ông bà, hãy dừng lại, hãy lắng nghe lời tôi, đây là ngày may mắn của quý vị, tôi đem đến cho quý vị một cơ hội duy nhất, một viên ngọc và một kho tàng. Đừng để tuột mất khỏi tay quý vị. Tôi sẽ kể cho quý vị câu chuyện một người kia tìm được một kho tàng và câu chuyện người nọ mua lại của anh ta viên ngọc đẹp nhất trong số các viên ngọc”.
Cơ may lớn chăng? Đó là khám phá ra rằng Chúa Giêsu là viên ngọc và là kho tàng. Một bài đọc, một cuộc gặp gỡ, một cuộc tĩnh tâm, một niềm vui rất lớn hoặc một nỗi khổ, và rồi chúng ta hiểu rằng sự sống, chính là Chúa Giêsu. Trong ánh sáng này tất cả đều được đơn giản hoá, tất cả đều có ý nghĩa, từ nay chúng ta hiểu tại sao chúng ta sống và sống như thế nào.
Chúng ta có nắm lấy cơ may này hay không? Hai dụ ngôn đẹp là những quan toà của chúng ta. Bạn muốn có kho tàng, bạn muốn có viên ngọc! Nhưng bạn bỏ đi không quyết định bán tất cả để mua chúng.
Bởi vì cơ may này thật tuyệt vời, nhưng đắt quá. Người nông dân bán “tất cả những gì anh ta có”, người lái buôn bán “tất cả những gì anh ta có”. Nếu không phải bán gì cả thì có lẽ tất cả chúng ta sẽ là những người mua Chúa Kitô.
Bán cái gì đây? Tôi không thể trả lời thay bạn. Tôi thấy cái mà tôi ngần ngại bán, và tôi nghĩ rằng nếu bạn nhìn một chút vào cuộc sống của bạn vào lúc này đây, bạn cũng sẽ thấy cái gì ngăn cản bạn mua viên ngọc và kho tàng.
Hai dụ ngôn nhỏ này cuối cùng là những lời kêu gọi gay go nhất trong các lời kêu gọi từ bỏ. “Bán tất cả” nếu tôi muốn mua sự sống. Nói rõ hơn, điều này có nghĩa là: từ bỏ cái gì ngăn cản tôi chọn lựa Chúa Giêsu. Do đó tôi phải bán sự an toàn, sự ích kỷ, tính hợm hĩnh, tính lười biếng, lòng tự kiêu của tôi. Mỗi lần đọc các dụ ngôn này, có một sự nhiệt tình chiếm lấy chúng ta. Để chiếm được Chúa Giêsu, chúng ta sẽ từ bỏ cái nầy và cái kia, tất nhiên rồi! Không, than ôi, không phải thế đâu! Chúng ta tránh mất mặt bằng cách nghĩ rằng dầu sao thì chúng ta cũng không đóng vai trò các thánh Phanxicô.
Cho nên việc từ bỏ vì viên ngọc có thể mang những hình thức cùng cực theo kiểu thánh Phanxicô Atxidi nhưng Tin Mừng là vì tất cả mọi người. Chúa Giêsu không chỉ rao giảng cho một vài vị tiên tri nổi tiếng về sự từ bỏ, và Ngài cũng không rao giảng điều hão huyền. Lời “bán tất cả” của Ngài thật khó theo nhưng phải có thể được cho bất cứ người nào, trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Đơn giản là phải ý thức rằng người ta không theo Chúa Giêsu với hàng tấn tiện nghi hoặc hàng núi ngập ngừng trước một trong những bó buộc nhất định, chẳng hạn như việc bó buộc tha thứ. “Bán tất cả” có thể có nghĩa là sự lột bỏ lòng tự ái, hoặc sự chọn lựa anh hùng đó là tin tưởng trước khi chịu đựng một căn bệnh, và chắc chắn cũng có nghĩa là chấp nhận một ơn gọi.
Trong hai dụ ngôn này mà mỗi dụ ngôn đều được cân nhắc, có một tiếng cho chúng ta biết việc chọn Chúa Giêsu là một cơ may lớn lao như thế nào mặc dầu phải ra giá: “Trong niềm vui... Điên lên vì vui mừng, người đó đi bán tất cả. Cơ may của cuộc đời của chúng ta đó là khi nào tiếng “bán tất cả” bị thiêu đốt bằng ngọn lửa niềm vui.
36. Kho báu và ngọc quý
(‘Sống Tin Mừng’ – R. Veritas)
Một em học sinh thuộc câu lạc bộ bơi lội Saint Clara, Hoa Kỳ, mỗi ngày thức dậy lúc 5 giờ 30 sáng, rồi em ra hồ bơi luyện tập suốt hai tiếng đồng hồ, sau đó vội vàng lo đi học. Sau suốt ngày học ở trường, chiều về em lại ra hồ bơi luyện tập thêm hai tiếng đồng hồ nữa rồi mới về nhà làm bài và ngủ đúng chín giờ tối. Ngày nào cũng vậy, em luôn luôn trung thành với chương trình luyện tập, và chỉ nhận sinh hoạt khi nào sinh hoạt đó không cản trở chương trình học và luyện tập bơi lội của em.
Có người tò mò hỏi, tại sao em dám làm như vậy?
Em trả lời cách xác quyết, vì em muốn đoạt giải vô địch trong kỳ thi thế vận hội sắp tới.
Trên đời có nhiều người dám hy sinh tất cả cho mục đích, hay lý tưởng mà họ đã chọn. Phần chúng ta thì sao? Nước Trời, ơn cứu rỗi đã được Chúa ban cho chúng ta, chúng ta những người Kitô hữu hôm nay có hiểu, đánh giá và chấp nhận như là mục đích cuối cùng của chúng ta hay chưa? Chúng ta có chấp nhận hy sinh những điều khác để chiếm đoạt được Nước Thiên Chúa hay không?
Người Kitô hữu theo Chúa có một thái độ dấn thân, quyết chọn Chúa và những gì thuộc về Ngài như là mục tiêu duy nhất của lòng trí, của mọi hành động và lời nói của mình, sao cho hành động và lời nói của mình được hòa hợp với những gì mà Chúa dạy. Nhiều khi con cái thế gian dấn thân hy sinh cho những lợi lộc vật chất, cho những mục đích trần thế như đoạt giải thể thao trong thế vận hội, đạt được một địa vị xã hội nào đó, v.v... nhiều hơn là chúng ta thực hiện giới răn của Chúa.
Thánh Phaolô tông đồ nơi thư thứ nhất Corintô đã nói như sau: "Mọi lực sĩ sống trong thời gian luyện tập, chấp nhận theo một kỷ luật nghiêm khắc đến độ để đạt tới phần thưởng có thể bị hư nát. Nhưng chúng ta thì khác, chúng ta luyện tập những điều không hư nát" (1Cr 9,25).
Vào giây phút cuối cùng cuộc đời, khi chúng ta đối diện với cái chết của chính mình thì chỉ cần một điều cần thiết mà thôi, đó không phải là chúng ta có lãnh được nhiều giải thưởng này nọ hay không, có đạt được hạt ngọc này, hạt ngọc khác hay không, nhưng điều quan trọng là chúng ta đã trở nên như thế nào để đạt được viên ngọc quí hay kho tàng là chính Nước Chúa, là chính ân sủng Chúa ban cho chúng ta. Chúng ta cần xác tín điều này, và khi đã xác tín thì sẽ được biểu lộ trong đời sống rằng, trên đời này không có gì cao quí đối với chúng ta hơn là Nước Chúa và chúng ta càng phải cố gắng làm sao để đạt được Nước này.
Nói thì dễ, nhưng làm thì khó. Thánh Phaolô đã ý thức điều đó trong chính kinh nghiệm sống của ngài khi ngài tâm sự với các tín hữu Corintô như sau: "Kho tàng ấy, kho tàng Thiên Chúa ban cho mỗi người chúng ta, chúng ta lại chứa trong những bình sành dễ vỡ, để chứng tỏ quyền năng phát xuất từ Thiên Chúa chứ không phải từ chúng ta. Chúng ta bị dồn ép tư bề nhưng không bị đè bẹp, hoang mang nhưng không bị tuyệt vọng, bị bạc đãi nhưng không bị bỏ rơi, bị quật ngã nhưng không bị tiêu diệt. Chúng ta luôn luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Chúa Giêsu, để Chúa Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân phận chúng ta. Thật vậy, đang sống nhưng tôi hằng bị cái chết đe dọa vì Chúa Giêsu, để cái của Chúa Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân xác hay chết của chúng ta".
Thiên Chúa ban cho chúng ta kho tàng ân sủng của Ngài, và để chiếm đoạt được kho tàng ấy, chúng ta cần phải chiến đấu chống lại những cám dỗ, chống lại những tội lỗi, chống lại với tinh thần trần tục hóa của thế gian để được trung thành với ơn Chúa. Đây là điều mà thánh Phaolô gọi là: "Chúng ta luôn luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Chúa Giêsu, để Chúa Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân phận mỏng giòn của chúng ta. Thật vậy, đang sống nhưng tôi hằng bị cái chết đe dọa vì Chúa Giêsu, để cái của Chúa Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân xác hay chết của chúng ta".
Để sống trung thành với kho tàng đức tin, với kho tàng ân sủng mà Chúa ban cho chúng ta trong thế giới có nhiều cám dỗ này, chúng ta cần phải cố gắng hy sinh, cần phải cầu xin ơn Chúa ban cho mỗi người chúng ta, giúp chúng ta luôn trung thành với kho tàng đức tin, kho tàng ân sủng mà làm cho kho tàng đức tin đó, kho tàng ân sủng đó phát triển đến mức độ hoàn hảo nơi mỗi người chúng ta. Amen.
37. Khôn ngoan để chọn lựa những giá trị Nước Trời
Ngày nọ tôi đến thăm người bạn thân đã lâu không gặp. Sau một lúc trò chuyện, người bạn ấy mới buông tiếng thở dài than về người vợ của mình. Anh ta nói mình đã lầm khi lấy cô ta. Sự thật là lúc cưới nhau do anh tưởng rằng tài sản, của cải có thể làm cho gia đình hạnh phúc. Cho nên anh đã nhắm mắt làm liều để cưới cô ta. Không ngờ rằng sau khi lấy nhau, những người trong gia đình bên vợ và thậm chí cả người vợ cũng xem anh không hơn gì một đứa ở!!! Chỉ vì thiếu khôn ngoan trong lựa chọn nên bạn tôi đã chuốc lấy hậu quả hết sức ê chề.
Phụng vụ Lời Chúa Chúa nhật hôm nay, Giáo hội muốn cho chúng ta biết khôn ngoan là điều quý nhất của con người. Vua Salomon đã không xin Chúa cho mình được sang giàu hay sống lâu. Ông chỉ xin cho mình được khôn ngoan sáng suốt. Chính vì được khôn ngoan nên ông đã biết khôn phân xử những vụ án thật khéo léo cũng như xây dựng đất nước thật phồn thịnh.
Nhờ có khôn ngoan người tín hữu chúng ta mới có thể biết chọn lựa đâu là những giá trị của nước trời. Những giá trị của nước trời thì vĩnh cửu và chắc chắn. Ngoài ra các giá trị khác như tiền bạc, quyền lực, danh vọng chỉ là hư vô, chóng qua, tạm bợ.
Bởi lẽ: "Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy. "Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy" (Mt 13, 44 - 46).
Vậy đâu là những giá trị của nước trời? Đó là gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu và sống theo những gì Người dạy. Muốn được như thế đòi hỏi mỗi người chúng ta cần phải nỗ lực hết sức mình. Đồng thời, chúng ta cũng được mời gọi can đảm dứt khoát để từ bỏ những gì không thích hợp với giá trị của Nước Trời. Đây chính là sự lựa chọn khôn ngoan nhất. Cái lầm của người bạn tôi sẽ qua đi nhưng cái lầm vì thiếu khôn ngoan để chọn lựa các giá trị của Nước Trời sẽ không thể nào có cơ hội làm lại.
38. Kho tàng
Dụ ngôn kho tàng chôn dấu trong thửa ruộng là một câu chuyện không có gì xa lạ với dân chúng Do Thái, bởi vì họ vẫn thường kể cho nhau nghe về một câu chuyện cổ tích tương tự như thế.
Ngày hôm ấy Abba Giuđa đang cố gắng cày nốt thửa ruộng còn lại, thì bỗng con bò của anh ta bị ngã quị và gẫy mất một chân vì gặp phải một cái hố nhỏ. Bực mình, anh ta dừng lại vuốt những giọt mồ hôi trên trán, rồi qùy xuống nâng chân con bò lên.
Đột nhiên, Đức Giavê mở mắt cho anh ta và anh ta đã nhìn thấy một kho tàng quí giá ngay trong cái hố nhỏ ấy. Anh ta tự nhủ:
- Chính vì chú bò này mà mình được lợi đây.
Kho tàng ấy là của một ai đó đã chôn dấu, có lẽ từ lâu lắm, vì sợ trộm cắp, giặc giã hay chiến tranh. Anh ta cẩn thận vùi đất lại, trở về nhà, thu góp tiền bạc, bán tất cả những đồ đạc, để gom cho đủ số tiền, hầu tậu lại thửa ruộng, bởi vì anh ta chỉ là một nông dân nghèo đi cày thuê cuốc mướn mà thôi.
Dĩ nhiên, anh ta mua được thửa ruộng ấy, dù với một giá hơi mắc, nhưng anh ta trở thành triệu phú, bởi vì luật pháp đã qui định: kể từ ngày anh ta làm chủ mảnh đất, thì anh ta cũng làm chủ tất cả những gì có trong mảnh đất ấy.
Có lẽ Chúa Giêsu đã lấy chính câu chuyện bình dân này để nói về Nước Trời. Việc chôn dấu vàng bạc cũng là một việc thông thường ở xã hội Việt Nam nơi những người giàu có, nhất là trong thời buổi loạn lạc.
Rất có thể một tai nạn bất ngờ xảy ra, người chủ của kho tàng đã phải ra đi, hay đã chết một cách đột ngột mà không có người thừa kế. Kho tàng trở thành vô chủ, bị vùi dưới ba tấc đất mà chẳng một ai hay biết.
Mặc dù câu chuyện không đưa ra một kết luận hiển nhiên, nhưng ai cũng biết rằng kể từ nay anh nông dân may mắn ấy đã có được một cuộc sống an nhàn.
Tuy nhiên đều quan trọng đối với chúng ta chính là thái độ của anh ta: tìm được kho tàng, anh ta rất vui mừng, tuy nhiên anh ta cũng không quên cẩn thận: bới đất và vùi lại cho kỹ hơn, rồi vội chạy về nhà, tìm đủ mọi cách như bán tất cả đồ đạc, thậm chí kể cả việc vay mượn bà con lối xóm, để có đủ số tiền tậu thửa ruộng ấy.
Hành động của anh ta thật khôn ngoan, nhanh nhẹn và hợp lý. Anh đã dám liều, dám hy sinh tất cả chỉ vì kho tàng quí giá ấy.
Hình ảnh anh nông dân cũng là hình ảnh của mỗi người chúng ta. Kho tàng của chúng ta là Nước Trời, là Tin Mừng, hay nói một cách mạnh mẽ hơn, là chính Đức Kitô. Tuy nhiên thái độ của chúng ta là như thế nào?
Rất có thể chúng ta đã háo hấc về Chúa, nhưng khi Ngài đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ, phải hy sinh, thì chúng ta lại cúi mặt xuống, rồi buồn bã bỏ đi, không đáp trả lời mời gọi của Ngài, như chàng thanh niên giàu có trong Phúc Âm.
Tìm gặp Chúa không phải chỉ là biết mặt rồi để đấy. Nghe lời Chúa không phải chỉ là ghi nhận rồi làm ngơ và quên lãng. Điều quan trọng là phải đáp trả với tất cả con người, có nghĩa là phải sống và thực thi những điều Ngài truyền dạy.
Tin Chúa không phải chỉ là chấp nhận Ngài, mà còn phải gắn bó mật thiết với Ngài. Phải dám liều, dám dấn thân, dám hy sinh bằng tất cả cuộc sống, vì gặp gỡ cũng có nghĩa là yêu thương.
Đã tin Chúa, đã gặp Chúa, thì cũng phải có can đảm đổi thay cuộc sống và xoay ngược dòng đời, bắt đầu bằng thái độ từ bỏ: từ bỏ danh vọng, vui thú và tiền bạc. Lúc đó, vui thú trở thành vô nghĩa, tiền bạc trở thành tro bụi và danh vọng trở thành mây khói trước vẻ huy hòang của kho tàng vừa tìm thấy.
Đức Kitô chính là kho tàng quí giá, mà mối mọt không thể đục khoét và trộm cướp không thể lấy đi. Hãy dám đánh đổi tất cả để có được kho tàng quí giá ấy. Bởi vì, có Đức Kitô là có tình yêu và hạnh phúc bất diệt. Như vậy, có Đức Kitô là có tất cả.
39. Kho tàng
Vào thế kỷ thứ 18, vua Charles IV nước Tây Ban Nha đã đoán trước sự xâm lược của hoàng đế Napoleon, nên quyết định đem dấu toàn bộ sưu tầm những chiếc đồng hồ cổ và những ngọc thạch trang sức quí giá trên chiếc vương miện của chánh thể quân chủ Tây Ban Nha. Nhà vua đã yêu cầu một người đầy tớ trung tín chôn giấu bộ sưu tầm đồng hồ vào một vách tường của một căn phòng trong 365 căn phòng nơi triều đình. Nhà vua cũng đã ra lệnh cho ông chôn cất kho tàng ngọc thạch trong một bức tường khác. Người đầy tớ khôn ngoan và trung tín đã cẩn thận đánh dấu căn phòng chôn giấu kho tàng bằng cách cắt một miếng vải nhỏ trên bức màn của mỗi căn phòng chứa kho tàng, để khi chánh thể quân chủ Tây Ban Nha nắm chính quyền trở lại, họ có thể tìm thấy dễ dàng.
Năm 1814, vua Ferdinand VII, con của vua Charles IV, lên ngôi phục quyền cho nền quân chủ. Dĩ nhiên là ông muốn tìm lại kho tàng của mình, nhưng có một vấn đề. Ông vua bù nhìn mà hoàng đế Napoleon đã đặt lên cai trị hoàng cung Tây Ban Nha trong thời gian ngoại xâm lại rất thích việc trang trí nội cung. Ông đã thay đổi toàn bộ tất cả những bức màn trong mỗi căn phòng! Do đó vua Ferdinand phải đối diện với một sự chọn lựa hoặc là phải gỡ tất cả gạch trên mỗi bức tường xuống, hay là để y như vậy. Nhà vua đã chịu mất kho tàng và để y như vậy. Mọi người đã nghĩ rằng đây chỉ là một câu chuyện hoang đường của người Âu Châu, cho đến thời gian gần đây, khi người thợ phải sửa lại những ống dẫn nước trong một căn phòng của hoàng cung, đã khám phá ra bộ sưu tầm những chiếc đồng hồ cổ. Có lẽ, một ngày nào, sẽ có người lại tìm thấy một kho tàng khác gồm những đồ trang sức bằng ngọc thạch trên vương miện còn đang bị mất ở hoàng cung trong một căn phòng nào đó.
Bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ra một loạt những dụ ngôn từ đời sống cụ thể để minh họa cho ý nghĩa và hình ảnh của nước trời. “Nước trời giống như kho tàng chôn giấu trong ruộng, người kia tìm được, vội chôn vùi xuống, vui mừng trở về bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng ấy. Nước Trời cũng giống như người buôn nọ, đi tìm ngọc quý. Tìm được một viên ngọc quý, anh về bán mọi của cải mà mua viên ngọc ấy…” Tôi muốn tập trung vào ý nghĩa của hai dụ ngôn, kho tàng chôn giấu trong ruộng và viên ngọc quý. Vì hai dụ ngôn này cho chúng ta một sự trái ngược hữu ích, lại được xếp đặt kề bên nhau. Sự trái ngược đó là anh nông dân đã tình cờ bắt gặp kho tàng trong công việc cày bừa; còn người buôn ngọc trai phải vất vả đi tìm ngọc quý qua tiền bạc bỏ ra và kinh nghiệm của tay nghề.
Palestine là vùng đất giao thông. Không ai thực sự muốn có đất trừ khi miếng đất đó là một phương tiện để di chuyển từ chỗ này sang chỗ khác, và nó thường bị tranh giành qua lại. Vào những thế kỷ trước Chúa Giêsu, cuộc sống rất bất ổn và mong manh. Không có ngân hàng để cất giữ của cải. Chiến tranh, bệnh tật, nạn dịch, đói khát, cướp bóc, nô lệ… hay bất cứ một sự bất hạnh nào cũng có thể lấy mất cuộc sống. Nhiều người đã chôn giấu của cải dưới đất, hy vọng rằng một ngày nào sẽ trở lại, nhưng nhiều người đã ra đi vĩnh viễn. Do đó, người ta thường tìm thấy kho tàng.
Có rất nhiều người cày ruộng mướn, nhưng rất ít người buôn bán ngọc. Đó là một nghề đòi hỏi phải có vốn và có sự hiểu biết rộng rãi. Người buôn ngọc là kẻ đổi chác những viên ngọc bình thường để tìm lấy những viên ngọc quý, có giá trị hơn. Ông ta biết đường đi đến những khu chợ trời của vùng Vịnh, Persion Gulf, và An Độ dương để buôn bán.
Thời Chúa Giêsu, ngọc là những loại đá quý. Kim cương còn rất hiếm, hầu như chưa có. Pliny, một người đương thời với Chúa Giêsu, đã viết về nữ hoàng Cleopatra của Ai cập, sống từ năm 69 – 30 trước Chúa Giêsu Kitô, đã mua 2 viên ngọc với giá tương đương là 4 triệu đôla. Hoàng đế Julius (100 – 44 trước công nguyên) của đế quốc Rôma đã mua cho mẹ một viên ngọc trị giá 350.000 đôla. Trong dụ ngôn này, người buôn ngọc phải biết rất rõ cấu trúc, hình thù, loại đá, và giá trị của viên ngọc để trao đổi tất cả mọi sự.
Trong các loại ngọc, có loại ngọc trai. Một viên ngọc trai được thành hình khi một vật lạ xâm nhập vào trong lớp nhuyễn mạc ở bên dưới vỏ sò, gây đau đớn cho con sò. Hệ thống phòng vệ tự nhiên của con sò tiết ra một chất lỏng, được gọi là mẹ của ngọc, bao vây lấy vật lạ bằng một cái túi, rồi cô lập nó khỏi phần cơ thể và biến nó thành một viên ngọc lộng lẫy. Viên ngọc được tạo ra bởi chính con sò. Cũng như thế, đối với con người chúng ta, những hoàn cảnh đau khổ có thể trở nên những cơ hội cho những biến đổi nội tâm.
40. Kho tàng
Sau khi dùng những dụ ngôn nói về Nước Trời, Chúa Giêsu hỏi dân chúng: “Các ngươi có hiểu những điều đó không?” Ngài muốn chúng ta hiểu điều gì?
1. Chúa Giêsu nói về kho tàng và viên ngọc mà người cày ruộng và buôn ngọc dám bán tất cả những gì họ có để mua lấy nó. Bởi đó là giá trị tối hậu mang lại hạnh phúc và ý nghĩa cho cuộc đời họ. Đó là điều làm cho họ hân hoan vui sướng, dám đánh đổi tất cả mọi sự trên trần gian để có nó.
Có một tu sĩ nổi tiếng là khôn ngoan đi đến một làng quê và ngồi nghỉ qua đêm dưới một gốc cây. Một người dân làng đi qua thấy ngài bèn hỏi: “Hòn đá! Hòn đá! Xin ngài hãy cho tôi hòn đá quý!” “Hòn đá gì?” tu sĩ hỏi. “Đêm hôm qua Thiên Chúa đã hiện ra với tôi trong giấc mơ”, ông dân làng nói, “Và bảo với tôi rằng nếu tôi đi ra ngoài làng vào lúc ban tối, tôi sẽ gặp một vị khôn ngoan cho tôi một hòn đá quý. Nó sẽ làm cho tôi giầu có vĩnh viễn”. Vị tu sĩ lục lọi trong túi sách, lấy ra một hòn đá. “Có lẽ ông muốn hòn đá này phải không?” vừa hỏi ngài vừa đưa cho ông dân làng hòn đá, “Tôi đã thấy nó trên lối đi vào rừng cách đây mấy ngày. Ông có thể cầm lấy nó đi”. Người đàn ông ngạc nhiên nhìn hòn đá. Đó là cục kim cương. Có lẽ là cục kim cương lớn nhất trên thế giới, vì nó to bằng cái đầu người. Ông ôm lấy cục kim cương và bước đi. Suốt đêm hôm ấy, ông lăn lộn trên giường, không cách nào ngủ được. Ngày hôm sau, ngay lúc tảng sáng, ông đi ra đánh thức vị tu sĩ đang ngủ dưới gốc cây thức dậy và nói, “Xin trả lại cho ngài cục kim cương này, tôi muốn xin ngài cái điều đã làm cho ngài có thể cho đi cục kim cương này một cách dễ dàng”.
Điều gì là giá trị nhất mang lại nguồn vui trong cuộc sống của chúng ta? Nếu bạn phải vứt bỏ tất cả mọi sự trên đời, cái gì khó nhất cho bạn phải khước từ: gia đình, sức khỏe, nghề nghiệp, hay của cải? Cái mà bạn không thể sống mà không có đó sẽ rất khác nhau đối với từng người, và sự chọn lựa cái giá trị tối thượng của người này xem ra lại rất phi lý đối với người khác!
2. Đức tin là món quà được ban nhưng không của Thiên Chúa, nhưng cũng có thể là kết quả của sự kiếm tìm thao thức lâu dài của con người. Có người may mắn giống như anh nông dân cày ruộng, họ tìm thấy và đón nhận đức tin một cách dễ dàng ngay những biến cố hằng ngày của cuộc sống. Có người lại giống như anh buôn ngọc, phải vất vả, lao nhọc, và trăn trở cả đời trên cuộc hành trình trí thức và tinh thần mới gặp gỡ được đức tin. Lại có người đã được mời gọi đến với đức tin rồi, nhưng những thiệt thòi, khó khăn và thử thách do chính đức tin gây ra lại làm họ bị mất đức tin!
Trong cuốn tiểu thuyết The Pearl, John Steinbeck đã viết lại nội dung của dụ ngôn viên ngọc quý qua câu chuyện kể về cuộc đời của Kino, một người Mễ Tây Cơ nghèo khổ làm nghề thợ lặn kiếm tìm ngọc trai dưới biển để nuôi vợ con sống qua ngày. Rồi bỗng một ngày anh tìm được viên ngọc sáng ngời tên là “Viên ngọc của thế giới”. Thoạt tiên, anh rất phấn khởi, nhưng sau đó anh bị bao vây bởi những kẻ buôn bán ngọc trai bất lương, và những người hàng xóm ghen tức. Ngay cả đến bác sĩ cũng đòi trao đổi việc chữa trị cho đứa con của anh bị bọ cạp cắn để chiếm lấy viên ngọc. Sau hàng loạt những tai ương xảy ra, Kino đã ra biển và ném viên ngọc quý giá trở về đáy biển. Có những điều đắt giá tới độ phải trả bằng giá máu của cuộc sống.
3. Sau khi đã nhận ra kho tàng, cả anh thợ cày ruộng lẫn người buôn ngọc đều đã biết cái gì là quan trọng, họ phải chọn lựa và đi đến một quyết định. Là một Kitô hữu, môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta tìm kiếm cái gì? Chúa Giêsu luôn kêu gọi chúng ta phải biết chọn lựa giữa những cám dỗ mời mọc của trần thế: “Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó dân ngoại vẫn tìm kiếm… Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho.
Vào thế kỷ thứ 18, một người Ý tên là Alessandra Mazoni, đã viết một cuốn sách nghiên cứu về những điều kiện xã hội của dân chúng sống trong vùng Lombardy, phía bắc nước Ý ở thế kỷ thứ 17 như sau:
“Bao lâu còn sống trên trần gian, con người ta giống như một người bệnh nằm trên một cái giường, dù ít hay nhiều gì cũng đều không cảm thấy thoải mái, đang khi nhìn sang những cái giường khác có vẻ đẹp đẽ, và êm ái với những mơ tưởng rằng ắt hẳn hắn sẽ thoải mái hơn nếu nằm nghỉ trên những cái giường đó. Rồi hắn đồng ý trao đổi cái giường đang nằm; nhưng khi đặt lưng xuống giường khác hắn lại lo sợ, trước khi bắt đầu nằm, hắn đè xuống thật sâu, cảm thấy chỗ này có một điểm nhọn đâm vào mình hắn, chỗ kia có một cục u lớn quá cứng. Tóm lại, chúng ta tiến đến cùng một câu chuyện kể đi kể lại. Và vì lý do này… chúng ta nên nhắm vào việc hành động tốt hơn là sống ở đâu tốt…
Sách Giáo lý Công giáo cũng đã khuyên dạy chúng ta rằng: Chúa Giêsu kêu gọi mọi người vào Nước Trời qua những bài dụ ngôn của Ngài, nét đặc trưng của việc giảng dạy của Ngài. Qua các dụ ngôn này, Ngài mời người ta tới dự tiệc của Nước Trời, nhưng Ngài cũng đòi hỏi người ta một sự chọn lựa triệt để: để được Nước Trời, người ta phải cho tất cả, và lời nói không đủ, còn cần phải có những hành vi”.
41. Khôn và dại
Dân gian Việt Nam có câu "một người tính bằng chín người làm" để nói lên sự cần thiết của sự khôn ngoan trong hành động, người khôn ngoan là người được đánh giá cao trong mối quan hệ của cuộc sống. Nhưng khôn ngoan là thế nào? Người như thế nào được gọi là người khôn ngoan?
Khôn ngoan thật, theo định nghĩa của Thánh Kinh là biết xử sự ở đời. Khôn ngoan thật không phải là ta biết bao nhiêu nhưng là ta áp dụng những hiểu biết của mình vào đời sống như thế nào. Khôn ngoan là biết áp dụng vào trong đời sống của mình đúng lúc, đúng thời điểm, đúng hoàn cảnh, đúng tâm trạng... vào trong hành động cũng như cách cử xử của mình trong xã hội. Người khôn ngoan trong kinh doanh là người biết chọn lựa việc đầu tư, biết chọn đúng thời điểm, biết chọn đúng địa điểm để kinh doanh và biết chọn đúng ngành nghề để kinh doanh...đặc biệt là biết "bỏ con tép bắt con tôm".
Trong bài Tin Mừng Giáo hội cho chúng ta suy niệm hôm nay Chúa Giêsu cho chúng ta thấy hình ảnh của một con người khôn ngoan. Người khôn ngoan trong dụ ngôn là người khi tìm thấy được kho báu trong ruộng thì sẳn sàng bán lấy tất cả để mua thửa ruộng ấy, hay cũng giống như người đi buôn ngọc, tìm được viên ngọc quý thì ông cũng sẳn sàng bán lấy tất cả tài sản mình để mua cho bằng được viên ngọc quý.
Đối với những người không hiểu biết thì có thể cho rằng những con người này là dại. Dại vì đánh đổi tất cả những gì mình có chỉ để mua một mảnh ruộng, dại vì đánh đổi tất cả để mua một viên ngọc mà đôi khi bên ngoài nó không được bóng đẹp như bao viên ngọc khác. Nhưng với những ai hiểu được giá trị của mảnh ruộng, của viên ngọc thì chắc hẳn sẽ không cho rằng những con người này là dại mà họ thật là những người khôn ngoan, biết là tất cả để được kho báu, để được viên ngọc quý.
Mầu nhiệm Nước trời được Chúa Giêsu sánh ví như thế. Những ai sống hết lòng vì nước trời có thể bị cho là dại trong trần gian này bởi vì theo trần gian "nhịn là nhục", "thẳng thắn thật thà thường thua thiệt, lương lẹo lắc léo lại lên lương". Nên ai sống theo sự công chính của Thiên Chúa là những con người ngu dại. Lại nữa, mầu nhiệm nước trời ngay tại thế này thường không được đánh bóng bằng những mỹ từ "đao to búa lớn", không được làm đẹp bằng những sự kiện giật gân... như viên ngọc quý mặc vẻ bên ngoài không được đẹp.
Nhưng thực tế mầu nhiệm Nước Thiên Chúa thật là cao cả, chỉ những ai khôn ngoan mới có thế nhận ra, và khi nhận ra thì sẳn sàng đánh đổi. Bởi tất cả những gì mà con người ta giành giật nhau ở trần gian này đều tạm bợ và chóng qua. Chỉ có Chúa và ơn của Người là vĩnh cửu. Chọn Người và hành động theo Lời Người thì thật là khôn ngoan vì đã chọn giá trị trường cửu, là chọn Đấng là nguồn mạch mọi ơn lành. Thật ra, Chúa không đòi hỏi chúng ta quá khắt khe đến độ quá sức chúng ta đâu, nhưng Chúa muốn dạy chúng ta phải biết chọn lựa đâu là chính yếu đâu là thứ yếu. Khi đã có sự lựa chọn thì ta phải chọn cái chính yếu và bỏ đi cái thứ yếu. Đó mới đích thực là khôn ngoan.
Nhưng sự khôn ngoan có được là do đâu? Trong bài đọc I bài Trích sách các Vua quyển thứ nhất dạy ta sự khôn ngoan có từ đâu. Thưa có từ nơi Thiên Chúa. Chúa chính là Đấng khôn ngoan toàn mỹ. Chọn Chúa là nhận ra được giá trị vĩnh cửu, chọn Chúa là nhận được sự khôn ngoan từ nơi Chúa, chọn Chúa là múc lấy được kho tàng mà chỉ có những ai thành tâm tìm kiếm trong ơn Chúa mới có thể nhận được. Kho tàng đó là chính Chúa, được kết hợp trong Chúa.
42. Kho báu
Một hôm, có một người kia gặp một nhà tu hành đi qua làng, ông vội chạy theo kêu lên: “Xin ông cho tôi viên ngọc quý trong cái bị của ông”. Nhà tu hành ngạc nhiên hỏi: “Viên ngọc quý nào?”. Ông ta nói: “Đêm qua tôi nằm mơ thấy có ông tiên bảo là nếu tôi được viên ngọc quý của nhà tu hành sẽ đi qua làng hôm nay, tôi sẽ là người giầu có nhất trên đời. Vậy xin ông cho tôi viên ngọc quý đó”. Nhà tu hành tốt bụng móc trong bị ra và nói: “Có phải cái này không? Tôi mới nhặt được ở cánh đồng bên kia bờ suối. Nếu ông muốn thì tôi biếu ông”.
Người ấy sung sướng cầm lấy viên ngọc quý, cám ơn rồi đi ngay về nhà, trong bụng nghĩ thầm: “Từ nay mình sẽ là người giầu có, không phải vất vả gì nữa”. Thế nhưng tối hôm ấy tâm trí ông áy náy, tâm hồn ông bồn chồn, trằn trọc không sao ngủ được. Sáng hôm sau, ông cầm viên ngọc đi tìm nhà tu hành và gặp thấy nhà tu hành ấy đang ngủ ngon lành dưới gốc cây. Ông rón rén đến gần đánh thức dậy và nói: “Thưa ông, tôi xin trả lại ông viên ngọc quý này, xin ông ban cho tôi viên ngọc quý khác, tức là sự phong phú của tâm hồn, đã làm ông có đủ can đảm cho tôi viên ngọc quý này mà không tiếc xót”.
Viên ngọc quý thực sự của tâm hồn là gì để cho nhà tu hành kia có được nghị lực khước từ mọi giầu sang thế trần mà không biết tiếc xót chi cả? Đó là điều Chúa Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay. Bài Tin Mừng là hai dụ ngôn “kho báu” và “viên ngọc quý”. Kho báu và viên ngọc quý ấy Chúa Giêsu đưa ra ở đây để tiêu biểu cho cái gì? Thưa, đó là nước trời. Đúng vậy, cả hai dụ ngôn đều muốn nói tới sự cao quý tột bực của nước trời, không của cải nào sánh bằng. Cao quý đến nỗi khiến mọi thứ khác đều lu mờ đi, và mọi giá trị người ta từng theo đuổi từ trước đều phải nhường chỗ.
Hai hình ảnh “kho báu” và “viên ngọc quý” vừa rõ ràng vừa huyền bí. Rõ ràng ở chỗ ai biết giá trị của chúng thì quý hóa, còn huyền bí ở chỗ có nhiều người không biết giá trị tiềm ẩn đó, chính vì vậy mà nhiều người bị lầm. Cũng như người kia có kho báu ở ngay trong thửa ruộng của mình mà không biết, hay người có viên ngọc quý kia cũng thế, họ nắm trong tay mà không hay, nên họ đã để vuột mất kho báu và viên ngọc quý.
Câu chuyện này cũng giống như câu chuyện “Ông già xứ Ba Tư”, xứ ngàn năm lẻ một hay ngàn lẻ một năm. Câu chuyện như sau: ông già ấy có một nông trại rộng lớn, vườn rộng ao sâu, nhiều hoa quả và cá quý, ông ta nghe lời một vị đạo sĩ bán hết ruộng vườn để đi tìm kim cương. Ông lặn lội đi tìm hết nước này sang nước khác, nhưng không tìm thấy kim cương đâu cả, cuối cùng, hết tiền, đói khổ, quần áo rách rưới, cùng đường, ông đâm đầu xuống sông tự tử. Trong khi đó, người mua lại nông trại của ông đã tìm ra một mỏ kim cương khổng lồ ngay trong nông trại đó. Chúng ta thấy ông già Ba Tư ấy ngồi ngay trên mỏ kim cương, sở hữu mỏ kim cương kia mà không hề hay biết gì.
Nhiều người chúng ta cũng ở trong tình trạng đó chăng? Rất có thể chúng ta đang gần kề hạnh phúc nước trời và những hồng ân của nước ấy mà chúng ta không biết chăng? Đây không phải là hạnh phúc vật chất, ngắn hạn, được thực hiện ngay ở trần thế này, nhưng là hạnh phúc tâm linh, vĩnh cửu, chỉ được thực hiện trọn vẹn trong cõi sống đời đời. Đó chính là nước trời mà Chúa Giêsu muốn giảng dạy cho chúng ta biết. Nước trời như kho báu, như viên ngọc quý mà chúng ta phải cố gắng tối đa để chiếm hữu. Quả thực, mọi người Kitô hữu chúng ta đều được mời gọi tìm kiếm nước trời. Công việc tìm kiếm này không chỉ giới hạn trong một quãng thời gian hay trong một số công việc nào, nhưng suốt cả cuộc đời và trong mọi sinh hoạt. Bởi vì nước trời là cái giá trị nhất chúng ta phải tìm kiếm và chiếm hữu. Nước trời quý hơn và giá trị hơn bất cứ thứ gì chúng ta đang có hay có thể có trong cuộc sống, và nước trời sẽ ban cho chúng ta nhiều hơn bất cứ cái gì cuộc sống có thể mang lại cho chúng ta. Vì thế, chúng ta phải không ngừng tìm kiếm và sẵn sàng đánh đổi tất cả những gì chúng ta có, kể cả mạng sống, để chiếm được kho báu hay viên ngọc quý này.
Nói cụ thể hơn, nước trời đây là phần rỗi, là sự sống đời đời của chúng ta, quý giá vô cùng, đòi hỏi chúng ta phải quan tâm trước hết, tuyệt đối ưu tiên, sẵn sàng hy sinh tất cả để chiếm đoạt cho bằng được, dù phải hy sinh bao nhiêu cũng chưa đủ và chưa xong. Quả thực, khi bước vào trần thế này, chúng ta muốn mở rộng bàn tay để chiếm lấy mọi sự, nhưng khi nhắm mắt xuôi tay, chúng ta đành phải ra đi với hai bàn tay trắng. Xuất thân từ bụi đất chúng ta sẽ trở về với bụi đất mà thôi, chỉ có sự sống vĩnh cửu mới tồn tại muôn đời. Chính điều đó mới đáng cho chúng ta lao nhọc để tìm kiếm và sẵn sàng hy sinh tất cả để chiếm hữu.
Vì vậy, chúng ta đang sống giữa những xoay chuyển của vật chất, chúng ta phải vất vả làm ăn, chúng ta phải quan tâm đến những nhu cầu cần thiết của đời sống… đó là điều chính đáng, nhưng chúng ta đừng quên: đời là tạm bợ, chúng ta cần và rất cần tìm ra giá trị vĩnh cửu ngay trong cuộc đời này kẻo quá muộn. Chúng ta hãy nhớ: đời là một dịp tiện, mỗi ngày sống là một dịp may, chúng ta có tự do và ý chí để quyết định phần giá trị cho mình. Chiếm đoạt được nước trời, tức là đạt được đời sống vĩnh cửu hay không là do chính mình. Chúng ta hãy có thái độ khôn ngoan của người tìm được kho báu và viên ngọc quý trong Tin Mừng hôm nay.
43. Tìm kiếm kho tàng hạnh phúc
(Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Trần Ngà)
Một học giả uyên thâm đã già, sau khi nhìn lại quãng đời quá khứ, đã chia sẻ kinh nghiệm về hành trình tìm kiếm kho tàng của ông như sau:
Giai đoạn thứ nhất: tìm kiếm kho tàng tri thức
Hồi còn niên thiếu, tôi nhận thấy tri thức là tối cần và trong tôi có một khao khát cháy bỏng là được học nhiều, biết nhiều, tích luỹ thật nhiều kiến thức để trở thành nhà thông thái. Thế là tôi đam mê việc đèn sách hơn mọi thứ trên đời. Tôi cho đó là phương thế tốt nhất để trở nên thông thái và thành đạt. Tôi đã đem hết nghị lực của tuổi thanh xuân và tiêu tốn gần hết gia tài cho việc học tập nghiên cứu. Cuối cùng tôi cũng đạt được thành quả mong muốn: được nhìn nhận là bậc thức giả của xã hội đương thời.
Thế nhưng khi đến tuổi sáu mươi, tôi mới nhận ra một thực tế phũ phàng là bao nhiêu kiến thức mình thu thập được suốt gần cả đời người, giờ đây gom góp lại không bằng mớ dữ liệu được lưu trữ trong ổ đĩa máy vi tính.
Và điều làm cho tôi ngỡ ngàng là đứa cháu nhỏ mới mười lăm tuổi của tôi chỉ cần ngồi vào máy tính có nối mạng và chỉ mất mươi phút là có thể truy xuất được nhiều kiến thức chính xác và phong phú về mọi lãnh vực, mà chính tôi, người đã dày công nghiên cứu học tập hơn nửa đời người, cũng chưa nắm bắt được một cách chính xác và đầy đủ như thế.
Điều nầy làm tôi liên tưởng đến câu chuyện một đạo sĩ phải mất năm mươi năm khổ luyện mới đạt được một thành tích thượng thặng là có khả năng đi trên mặt nước. Với khả năng nầy, ông ta có thể rảo bước trên mặt nước như đi dạo trong vườn, có thể vượt qua con sông rộng mà không cần đến thuyền bè. Thế nhưng sau đó, khi nhìn thấy một em bé nhà quê chẳng học tập tu luyện gì ráo, chỉ cần bỏ ra mươi đồng để trả tiền đò là có thể qua mặt ông để lướt qua sông, ông cảm thấy trong người hụt hẫng: giá như ông tận dụng thời gian năm mươi năm khổ luyện ấy để đổi lấy điều gì đem lại lợi ích thiết thực hơn. Đó cũng là tâm trạng lúc nầy của tôi.
Rồi thỉnh thoảng đọc báo, xem truyền hình, tôi được biết có những nông dân thất học lại có thể xây dựng được hàng chục chiếc cầu treo, chế tạo được hàng trăm máy hút bùn, máy cắt lúa, xén cỏ... lại có cả những những người thuộc dân tộc thiểu số tạo ra được máy lảy bắp, máy gieo hạt... Những nông dân mù chữ nầy đã cống hiến nhiều tiện ích cho những người lao động chân tay, còn tôi với bao nhiêu kiến thức được tích luỹ hơn nửa đời người, mà chưa có phát minh hay sáng chế nào đem lại ích lợi cho làng xóm của tôi.
Thế là từ đó, tôi cảm thấy nỗ lực chiếm hữu kho tàng tri thức của mình trong suốt nửa thế kỷ qua là một đầu tư không đúng hướng. Và bấy giờ tôi nghĩ rằng giá như mình có thể phát minh sáng tạo được chút gì tương tự như những nhà 'khoa học chân đất' nói trên thì mới bỏ công miệt mài đèn sách suốt bao năm qua.
Giai đoạn thứ hai: tìm kiếm kho tàng đem lại hạnh phúc
Sau đó, tôi lại nhận ra rằng nhân loại hôm nay tuy có nhiều máy bay, nhiều xe hơi, nhiều tiện nghi hơn những thế kỷ trước, nhưng số người bất hạnh lại nhiều hơn, số người tự tử cao hơn, số người mắc bệnh tâm thần đông đảo hơn, số gia đình tan vỡ vượt trội, số phạm pháp gia tăng...
Thế là cuối cùng khi cuộc đời đã về chiều, tôi mới học được bài học thứ hai: dồn mọi nỗ lực vào việc phát minh và sáng chế chưa hẳn là điều tốt cho nhân loại, vì con người hôm nay, cho dù được sở hữu nhiều máy móc hiện đại, được hưởng nhiều tiện nghi tuyệt vời nhưng đời sống có phần bất hạnh hơn, và do đó, lòng khao khát hạnh phúc của con người hôm nay càng mãnh liệt hơn.
Quả vậy, không có gì quý bằng hạnh phúc nên điều tốt nhất là cống hiến cho nhân loại phương thế đem lại hạnh phúc. Đó là điều mà nhân loại hôm nay đang mong đợi một cách khẩn thiết. Từ đó, tôi cất bước kiếm tìm một vị tôn sư có thể chỉ giáo cho tôi phương cách đem lại hạnh phúc cho đời mình và cho nhân loại. May thay, cuối cùng tôi đã tìm được điều tôi mong đợi nơi Chúa Giêsu và kho báu Tin Mừng.
* * *
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy cho chúng ta biết có một kho tàng, một viên ngọc vô cùng quý báu mà mọi người nên đánh đổi tất cả để sở hữu cho bằng được, đó chính là Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người. (Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người chỉ là một).
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô là kho tàng chứa đựng sự khôn ngoan của Ba Ngôi Thiên Chúa, đã được Chúa Giêsu mang từ trời xuống ban tặng cho thế gian.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô là kho tàng quý báu vì có sức đem lại sự sống đời đời cho nhân loại như lời tuyên xưng của thánh Phêrô: "Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời" (Ga 6,68)
Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người là ánh sáng cho thế gian: "Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống." (Ga 8, 12)
Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người là con đường dẫn đến sự thật, bình an và hạnh phúc. "Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy." (Ga 14,6)
Chỉ trong Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người, con người mới có thể tìm thấy hạnh phúc đích thực. Đó là khám phá của thánh Augustino: "Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Ngài, và hồn con khắc khoải cho đến khi được an nghỉ trong Ngài."
* * *
Lạy Chúa Thánh Thần,
Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người là kho báu cao quý và cần thiết nhất cho toàn nhân loại, nhưng tiếc thay, phần đông nhân loại đã bị bức màn vật chất và dục vọng che chắn nên đã không nhận ra giá trị của Kho Báu nầy.
Xin thương chiếu dọi ánh sáng của Chúa vào tâm trí con người, để họ nhận ra giá trị cao quý của Tin Mừng và quyết tâm chiếm hữu cho bằng được.
Và xin cho chúng con luôn kiên trì tiếp tay với Chúa Giêsu trong sứ mạng giới thiệu kho báu nầy cho thế giới. Amen.
44. Đâu là sự lựa chọn
Anh chị em thân mến.
Trong cuộc sống đời người, mọi người lo tìm kiếm, nhưng không biết tìm kiếm điều gì, nhưng thỉnh thoảng lại nghe thông báo, toà án xét xử và kết án: có bản án tử hình, án tù chung thân và cũng có những người lãnh án nhiều năm bị giam trong nhà giam.
Họ tìm kiếm điều gì mà đánh đổi cả mạng sống mình, hay đánh đổi một cuộc đời như thế. Có phải họ tìm được được cái gì quý giá hơn mạng sống mình, hơn cả cuộc đời, nên họ hy sinh như thế?
Hay họ vẫn biết điều họ tìm kiếm là không chính đáng. Họ cũng biết điều gì nên tìm và điều gì không nên, nhưng họ bỏ ngoài tai tất cả, họ lao vào những cuộc tìm kiếm để rồi họ phải đứng trước toà án và nhận lãnh lời phán quyết nghiêm khắc mà chính họ cũng không muốn như thế. Sự hối hận của họ giờ đây đã muộn mất rồi.
Nước Trời giống như kho báu được chôn giấu trong ruộng, người kia tìm được, anh ta bán đi tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng đó. Cũng thế đối với viên ngọc quý, anh ta cũng bán đi tất cả để có thể chiếm được viên ngọc quý đó. Những người tìm được cái quý báu thì không còn ngần ngại hy sinh những gì mình có để chiếm cho được cái mà mình tìm kiếm. Bán đi tất cả những gì mình có, nghĩa là những gì mình có thì không đáng gì so với kho báu hay ngọc quý mà anh ta tìm được, nên không ngần ngại để trao đổi. Người tìm được kho báu sẵn sàng hành động và ngay tức khắc, thời gian không chờ đợi họ. Sẵn sàng trao đổi để có cái quý giá nhất mà họ tìm đựơc.
Đời sống của một người công giáo, điều gì quý giá nhất? Đó là sự sống đời đời. Tất cả những gì của hiện tại, đều hướng đến cuộc sống mai sau. Nhưng có khi con người chỉ dừng lại ở hiện tại mà quên đi mục đích của mình. Con người đang chọn lựa, nhưng có khi không biết mình chọn lựa điều gì. Con người đang tìm kiếm, nhưng không biết mình đang tìm kiếm điều gì. Mặc dù đang sống nhưng con người cũng không biết là mình đang sống, vì con người mãi lao vào những cuộc tranh chấp hơn thua để rồi khi nhìn lại thì không biết mình đang làm gì.
Chúng ta thì sao, là những người công giáo, những người đang lắng nghe lời Chúa, chúng ta đang chọn lựa điều quý giá nhất cho mình, chúng ta cũng đang tìm kiếm sự sống cho mình như thế nào? Mỗi người chúng ta nhìn vào chính mình, nhìn vào những việc làm, những lời nói và kể cả những toan tính, chúng ta dễ dàng nhận ra điều quý giá nhất mà mình đang tìm kiếm.
Có người nhìn thấy tiền bạc là quý nhất, nên cố làm sao để cho có thật nhiều tiền. Suốt cuộc đời họ chỉ biết có tiền, còn mọi thứ khác không có giá trị gì cho họ: những cái đẹp, cái danh dự, những người thân yêu, bạn bè kể cả cha mẹ và con cái, họ không biết yêu thương là gì, nếu tình yêu không mang tiền đến cho họ thì họ cũng không cần biết. Họ chỉ biết cố kiếm thật nhiều và chỉ có thế. Họ quên đi sự sống của hiện tại và cả tương lai. Vô phúc thay.
Có người chỉ biết có danh dự chức quyền, nên họ giẫm bừa lên người khác mà bước đi trên con đường danh vọng. Họ bất chấp những thủ đoạn, để ngoài tai những lời kêu than thống thiết, bất chấp những lời ngay thẳng khuyên can, họ chỉ cần biết làm sao để thoả mãn khát vọng của họ mà thôi. Họ cũng quên đi mục đích sống của một con người.
Có người chỉ biết có hiện tại, họ chỉ biết làm ăn và hưởng thụ mà không biết đến mai sau sẽ ra sao?
Còn chúng ta nếu chúng ta nhận ra được mục đích của cuộc đời, nếu chúng ta biết lắng nghe lời Chúa, để chu toàn trách nhiệm của mình trong hiện tại, trách nhiệm trong gia đình, trách nhiệm của một người trong xã hội. Nếu chúng ta nhìn thấy được những việc cần thiết phải làm và không ngần ngại, nếu chúng ta lắng nghe được những lời van xin và đáp ứng kiệp thời với tấm lòng quảng đại và con tim yêu thương, nếu chúng ta nhìn thấy những người khốn khó, con tim chúng ta thổn thức và hành động để đem niềm vui cho người khác; những lúc đó, chúng ta đang bán đi những gì mình có mà mua lấy viên ngọc quý và kho báu. Nhưng còn hơn cả kho báu nữa mà là sự sống đời đời. Như thế thật hạnh phúc cho chúng ta.
Xin Chúa soi sáng cho chúng ta nhận ra được điếu quý giá nhất của cuộc đời để biết chọn lựa cho xứng đáng.
45. Hãy trở về những khái niệm cơ bản
Vài năm về trước, một trong những công ty xe hơi đã làm một bảng quảng cáo quy mô xoay quanh chủ đề đơn giản "trở về với những điều thiết yếu." Các bạn có thể nhớ lại đã được nghe trên đài truyền hình và phát thanh: "Khi người ta trở về với những điều thiết yếu, họ sẽ đến với xe hơi của chúng tôi". Sứ điệp của bài Phúc Âm hôm nay được xoay quanh cùng một chủ đề: "Khi người ta trở về với những điều thiết yếu, họ sẽ đến cùng Thiên Chúa."
Chúa Giêsu nói với chúng ta trong sứ điệp của bài Phúc Âm hôm nay, "Nước Trời giống như kho tàng được chôn giấu trong khu ruộng..." (Mt 33:44-45). Người mà tìm thấy kho tàng đó, Chúa Giêsu nói, ra đi vui mừng, bán hết những gì người đó có, và mua lấy khu ruộng đấy. Và người tìm thấy viên ngọc quí cũng vậy ra đi và bán hết những gì họ có mà mua lấy nó.
Tất cả ai trong chúng ta cũng muốn tìm ra ý nghĩa cho sự hiện hữu của chúng ta: "kho báu ẩn tàng," "viên ngọc quí." Và Chúa Giêsu đã làm rõ ràng rằng con đường duy nhất chúng ta có thể tìm thấy ý nghĩa cho đời sống chúng ta chính là qua Thiên Chúa. Vì lý do này chúng ta mới nói thật nhiều về Thiên Chúa. Chúng ta cố muốn hiểu rằng Ngài là ai. Chúng ta chia sẻ với nhau về Thiên Chúa hành động như thế nào, cầu nguyện với Thiên Chúa như thế nào, và tất cả những gì nói về sự sống, đau khổ, chết chóc và những mối liên hệ giữa con người. Thế nhưng nói thì dễ, và nói thì rẻ rề. Đến lúc chúng ta cần phải có phương thức rõ ràng để bày tỏ những gì mà chúng ta cố ý muốn nói. Và từ những thời kỳ xa xưa nhất của Kinh Thánh, người ta đã dùng những sự vật hữu hình để biểu lộ chỗ đứng của họ trong mối liên hệ với Thiên Chúa. Trong Kinh Thánh, một người nông dân chăm chỉ, vào thời kỳ thu hoạch, sẽ phải dâng tiến ít là 10% thóc lúa của họ như là phương thế của họ nói rằng: "Đây chính là tôi cảm nghiệm như thế nào về những gì Thiên Chúa đã làm cho tôi, gia đình tôi và mùa thu hoạch của tôi." Sau đó, kinh tế biến chuyển, các tín đồ bắt đầu mang tiền đến. Mỗi tuần khi các bạn đi Nhà Thờ, các bạn có thể cho Thiên Chúa một phần của chính các bạn cũng trong cách thức này. Toàn thể và từng người chúng ta được ban cho những cơ hội để đi xa hơn việc chỉ nói về Thiên Chúa và chỉ trao cho Thiên Chúa một phần những cảm nghiệm của chúng ta.
Nhiều người trong chúng ta đã đọc câu chuyện say mê của Mark Twain về chiếc tàu thủy chạy hơi nước trên sông Mississippi. Các chủ thuyền quyết định rằng nó sẽ là chiếc tàu tuyệt nhất trên sông bởi thế họ đã không quản ngại tốn phí khi chế nó. Họ quyết định rằng chiếc tàu hơi nước tuyệt đẹp này phải có cái còi lớn nhất và bóng nhất hơn bất cứ chiếc tàu nào trên sông Mississippi. Họ đã hoàn tất nó và hãnh diện cho nó chạy tuyến đường đầu tiên xuôi dòng sông. Ý định rằng sẽ kéo còi suốt cả đường để mọi người biết rằng nó đang đến. Họ đã kéo còi và người ta nghe thấy từ nhiều dặm xa thì họ đến chiêm ngắm nó khi nó đi qua. Nhưng, chủ tàu khám phá ra họ gặp một trục trặc. Chiếc còi hùng vĩ lấy quá nhiều năng lực hơi nước bởi thế mỗi lần nó hú, máy tàu bị ngừng lại. Mark Twain đã hoạ thật đẹp về chiếc tàu hơi nước tráng lệ đó chạy trên sông Mississippi, ngừng và hú còi và chạy tiếp, rồi lại ngừng và hú còi rồi chạy tiếp -- suốt cuộc đường về New Orleans.
Thật là tuyệt khi nói về Thiên Chúa và cũng thật là tuyệt khi nói về Nước Thiên Chúa trong ngôn từ hạt ngọc quí giá và kho báu ẩn tàng tráng lệ. Thật là tuyệt khi nói về từ bỏ tiền của và vật chất, và phần thưởng thiên quốc chắc chắn tiếp theo đó. Thật là tuyệt khi nói về đức tin, cậy và khoan dung. Đúng thế, thật là tuyệt khi hú còi lâu lâu một lần. Thế nhưng, có những lúc khi các bạn cần phải trở về với những điều thiết yếu. Có những lúc khi các bạn ngừng không hú còi nữa và tăng năng lực cho máy chạy.
Các ký giả Tân Ước hằng luôn thách đố chúng ta "hãy trở về với những điều thiết yếu". Nước Trời có đáng hơn mọi sự tôi có không? Tôi có rất cần nó đến nỗi từ bỏ tất cả mọi sự không? Đó chính là những điều Chúa Giêsu đòi chúng ta phải trả giá để vào Nước Thiên Chúa. Các bạn phải từ bỏ của cải hầu giành được một chỗ trong Nước đó, thế nhưng việc từ bỏ có phần thưởng của nó. Nó thật đáng hơn tất cả những gì các bạn có, ngay cả chính mạng sống của các bạn nữa.
Tại sao chúng ta lại quá say mê Chủ Thuyết Duy Vật? Tại sao chúng ta dường như say mê những sự chỉ có tiền của mới mua được hơn là những giá trị và những cảm nghiệm làm phong phú hơn của cuộc sống mà tiền của không thể mua được?
46. Chọn lựa Nước Trời là khôn ngoan.
(Lm. Nguyễn Minh Hùng)
Ngọc là quí, là cái đáng giá. Nhưng người kitô hữu có một thứ Ngọc đáng giá hơn nhiều: NGỌC NƯỚC TRỜI. Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn người lái buôn đi tìm và mua ngọc quí để nói về Ngọc Nước Trời ấy. Người lái buôn đi tìm và mua viên ngọc như thế nào? Anh ta đánh đổi tất cả, bán mọi của cải để chỉ mua lấy viên ngọc quí ấy. Hóa ra khi chọn lấy viên ngọc Nước Trời, cuộc sống người Kitô hữu hàm chứa cả một thái độ chọn lựa lớn lao: đánh đổi tất cả những gì thuộc về cuộc đời này để giữ lấy Nước Trời. Mà chọn lựa bao giờ cũng đòi hy sinh. Bởi đó một chọn lựa dứt khoát như thế là cả một hy sinh quyết liệt của người tìm ngọc.
Thế nhưng thái độ chọn lựa và hy sinh ấy lại là thái độ của người khôn ngoan. Sự khôn ngoan ấy đã được bài đọc một trích sách Samuel quyển thứ nhất diễn tả như một bằng chứng sống, tích tụ nơi một con người: vua Salomon. Sau khi Đavit đã về già, Chúa chọn một người con của Đavít là Salomon đặt lên ngai vàng để thay thế ông. Là vua, cứ như một ông vua trần thế bình thường khác, Salomon có quyền đòi cho mình sự sung túc, được cung phụng và uy quyền. Nhưng không, lời cầu nguyện của ông trước mặt Chúa, cho thấy ông rất đơn sơ, khiêm nhường: Ông xưng mình là tôi tớ của Chúa và ý thức mình chỉ là một trẻ nhỏ, không biết đường đi nước bước, vậy mà Chúa đã đưa ông tới địa vị quá to lớn. Bởi đó ông xin Chúa ban cho tôi tớ Chúa tâm hồn khôn ngoan. Chính khi nhận ra mình nhỏ bé, và cầu xin sự khôn ngoan, Salomon đã là một ông vua khôn ngoan. Thái độ khôn ngoan và lời cầu xin rất khôn ngoan của vua Salomon chẳng những đã được Chúa nhận lời, còn hơn nưã, Chúa khen ngợi ông: Vì ngươi đã xin điều đó, mà không xin sống lâu, được giàu có, của cải, mạng sống quân thù, lại xin cho được khôn ngoan để biết xét đoán, thì đây, Ta ban cho ngươi điều ngươi xin, và ban cho ngươi tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi không có ai giống ngươi, và sau ngươi không có ai bằng ngươi.
Bạn thân mến, khôn ngoan mà Thiên Chúa muốn là vậy đó. Nó không dừng ở sự sống thân xác, không là sự giàu có, không là hạ nhục kẻ thù nhưng là khước từ, là đánh đổi tất cả những thứ đó để có được Nước Trời, có được viên ngọc cao quí.
Nước Trời mà Chúa hứa, Người đã ban tặng, đã trao cho mỗi người chúng ta. Trong ơn cứu chuộc của Chúa Kitô, ta đã lãnh lấy viên ngọc quí giá ấy. Vấn đề còn lại là thái độ sống của ta: khước từ hay đón nhận viên ngọc ấy. Nghĩa là đón nhận hay khước từ lời mời gọi hưởng vinh quang Nước Trời. Sự đón nhận hay khước từ đều là những chọn lựa. Nếu chọn lựa đòi hy sinh, thì lãnh lấy viên ngọc Nước Trời buộc ta phải đi những bước quyết định và can đảm trong sự từ bỏ: từ bỏ những thú vui bất chính, những thú vui nhục dục, từ bỏ những thói quen xúc phạm đức trong sạch, những thói quen cản bước ta tiến về sự thánh thiện, có khi là những thói quen tội lỗi, từ bỏ nỗi đam mê tiền bạc đến mức làm ta bất chấp sự lương thiện, ngược lại cứ mải mê trong lừa lọc, trộm cắp, mải mê trong tính toán, vụ lợi cho bản thân, cho gia đình mình
Chỉ với một viên ngọc vật chất, nhà thương gia trong Tin Mừng đã bán tất cả gia tài để mua nó. Chúng ta có dám làm như thế đối với viên ngọc Nước Trời không? Nếu vua Salomon đã không kể đến lợi lọc riêng tư của bản thân, của gia đình, của hoàng triều, đã được Chúa khen ngợi không tiếc lời, thì thái độ sống khôn ngoan chọn lấy Nước Trời của bạn và tôi chắc chắn được Chúa thương nhìn đến.
47. Chọn Chúa
"Thiên đàng, hoả ngục hai quê. Ai khôn thì về, ai vụng thì sa. Đem nằm nhớ Chúa, tưởng Cha. Đọc kinh lần hột, kẻo sa linh hồn". Trò chơi thuở nhỏ, chọn thiên đàng hay hoả ngục, trong khi đọc những câu thơ có vần dễ nhớ như trên, khiến chúng ta không khỏi thán phục những ai đã có sáng kiến nghĩ ra trò chơi cho con trẻ có nội dung đạo đức và đầy tính giáo dục như vậy.
Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta phải có một chọn lựa dứt khoát, giống như khi Chúa bảo người thanh niên giàu có: "Hãy đi bán những gì anh có mà cho kẻ nghèo và anh sẽ được một kho tàng trên trời, đoạn hãy đến theo Ta" (Mt 19, 21). Nước Trời ở đây là chính Chúa Kitô, được diễn tả như kho báu, như viên ngọc quý mà khi tìm gặp thì thái độ của chúng ta phải dứt khoát, hoặc là chọn Chúa hoặc là không và kết quả là ngày tận thế, kết cục sẽ tỏ tường chúng ta được Thiên Chúa đón nhận hay bị loại bỏ.
Chọn lựa nào cũng đòi hy sinh. Chọn lựa dứt khoát, thì hy sinh quyết liệt. Nước Trời là một kho báu đòi ta phải bỏ tất cả những gì mình có, kể cả bản thân để tậu cho được. Điều đó cũng chứng tỏ ta đã yêu thương Nước Trời hơn bất cứ điều gì khác trên đời. Thật vậy, ai có Thiên Chúa là có tất cả, vì chỉ mình Ngài là đủ. Người ấy nghiệm ra rằng sự bình an và niêm vui chân chính, sự mãn nguyện trong tâm hồn chỉ có được, khi có Thiên Chúa và như thế là đủ cho họ rồi!
Không gì có thể níu chân thời gian. Vạn vật rồi sẽ qua đi, con người cũng thế. Ai là là bạn hữu của Chúa, thuộc về Chúa, ngay từ đời nầy, thì cũng sẽ thuộc về Chúa trong cõi đời đời. Và thuộc về Chúa thì thật hạnh phúc vì luôn được sống trong tình yêu, được tình yêu Thiên Chúa chiếm hữu, lấp đầy.
Xin cho chúng con biết quên đi những đam mê trần thế, hy sinh thân mình, quyết tâm sống theo đòi hỏi của Tin Mừng, để thuộc trọn về Chúa bây giờ và mãi mãi. Amen.
48. Phải dấn thân để chiếm đoạt Nước Trời
(Đỗ Bá Công)
Cha Mark Link, thuộc Dòng Tên, nổi tiếng ngày nay vì những bài giảng thức thời và thiết thực, có nói: "Nếu Đức Giêsu sống giữa chúng ta ngày nay, trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài sẽ nói rất khác: thay vì chuyện người buôn ngọc đã hy sinh tất cả, để đi mua một hạt ngọc quý, hay là chuyện một nông dân đã bán tất cả để mua thửa đất trong đó có chôn giấu một kho tàng, thì Chúa sẽ nêu lên một lực sĩ chạy marathon, kiêng khem tất cả, để đoạt chiếc huy chương vàng."
Vì sao Ngài nói thế? Có gì liên hệ giữa người buôn ngọc, người đi tìm kho báu, với người chạy marathon? Ba người ấy có gì giống nhau? Thưa chỉ vì một điều họ giống nhau: là họ cùng dấn thân vào một giấc mơ. Cả ba đều muốn hy sinh tất cả cho một mục đích mà họ đặt trước mắt họ.
Trong trường hợp người buôn ngọc là làm sao thủ đắc một viên ngọc thượng hặng. Trong trường hợp người đi tìm kho báu thì làm sao gặp được một kho tàng hiếm lạ. Trong trường hợp người đi tìm chạy marathon là làm sao được huy chương vàng. Sự kiện ấy dẫn chúng ta vào một điểm cốt yếu mà Chúa Giêsu muốn đề ra cho chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay. Điểm ấy là: công dân Nước Trời phải dấn thân toàn diện con người. Chúng ta không thể theo đuổi mục đích ấy cách hờ hững. Nhưng chúng ta phải dốc toàn lực trăm phần trăm. Chúng ta phải coi đó như là một ưu tiên trên hết của đời sống chúng ta.
Làm người Kitô hữu giống như là làm người đi buôn ngọc.
Làm người Kitô hữu như là một người đi tìm kho báu.
Làm người Kitô hữu là như một tay chạy marathon, phải cần có một cuộc dấn thân và tận hiến. Tuy nhiên vẫn có một sự khác biệt lớn lao giữa người Kitô hữu và ba hạng người kia. Thánh Phaolô nhắc lại điều ấy trong Thư thứ nhất gởi Tín hữu Corinthô: "Phàm là tay đua, thì phải kiêng khem đủ điều: Vậy mà họ, là để đoạt một triều thiên hư nát. Còn ta, ta trông một triều thiên bất hoại" (1 Cor 9,25).
Sự khác biệt là ở đó. Cái giá vô song của người buôn ngọc, kho tàng hiếm lạ của người nông, chiếc huy chương vàng cao quý của lực sĩ marathon đều phải hư nát. Khi người buôn chết, viên ngọc quý kia không còn giá trị gì cho người ấy. Khi người nông chết, kho tàng trở nên vô dụng chỉ như một cái hộp mà ông ta đã tìm hồi ấy. Khi người lực sĩ marathon chết, huy chương vàng kia chỉ là một lưu niệm cho gia đình hay bạn bè mà thôi. Nhưng khi người Kitô hữu chết, Nước của Thiên Chúa sẽ sáng lên rực rỡ, và càng lâu càng rực rỡ hơn. Đến giờ chết, chỉ còn một điều đáng kể, đó không phải điều mà chúng ta đã chiếm đoạt: một viên ngọc quý, một kho tàng lạ, hay một huy chương vàng. Chỉ một điều có giá là chúng ta đã biến đổi ra sao qua những điểm tiến của cố gắng chúng ta khi đi tìm ngọc, khi đoạt được khi báu, khi thắng được huy chương vàng.
Bài Tin Mừng hôm nay đặt lên một điểm đáng ghê sợ và cốt lõi. Không có gì trong thế gian có quyền uy tiên hơn trên Nước Chúa và trên những phương sách chúng ta theo đuổi cho được chiếm đoạt Nước ấy.
Bài Tin Mừng hôm nay nói cho chúng ta hay, điều còn đáng kể khi chúng ta chết, không phải là điều chúng ta đã dành được trong cuộc sống, mà là điều là biến đổi đời chúng ta.
Chúng ta đã học để thương yêu nhau không?
Chúng ta đã học để tha thứ cho nhau không?
Chúng ta đã học để giúp đỡ người nghèo khó không?
Chúng ta đã học để động viên những người nhút nhát không?
Chúng ta đã học để đi với tha nhân thêm dặm thứ hai không?
Chúng ta đã học để đưa má kia nữa cho người ta vả không?
Chúng ta đã học để đi dấn thân không? Và biết chân thành với Chúa và với nhau không?
Tôi hy vọng chúng ta đang chân thành với Chúa.
Tôi đang cầu xin với Chúa cho chúng ta được chân thành. Vì nếu chúng ta không chân thành, chúng ta đã phản bội với Chúa, với gia đình chúng ta, với bạn bè chúng ta. Và cuối cùng chúng ta cũng đã phản bội với chính mình chúng ta nữa.
49. Kho tàng trong lòng đất
(Lm Bùi Quang Tuấn)
Người Do thái thời Chúa Giêsu hẳn không xa lạ gì với khái niệm một kho tàng chôn trong lòng đất. Lịch sử nước Palestine từng ghi nhận nhiều bước xăm lăng của các đế quốc Babylon, Assyria, Ba tư, Hy lạp, Rôma và nhiều sắc tộc khác. Không những thế, nội chiến cũng thường xuyên xảy ra. Trên dải đất từng bị mất đi chiếm lại nhiều lần như thế, chuyện chôn giấu tài sản, khi không thể đem theo trên đường di tản, là việc đương nhiên đối với dân thời loạn.
Thế nhưng làm sao tránh khỏi trường hợp chủ nhân không may mất mạng trên đường tản cư, hay có người không thể nhớ ra chỗ mình chôn giấu, hoặc vùng đất bị giặc chiếm đóng lâu năm lâu tháng không thể trở về. Điều này khiến cho không ít người tình cờ đào được những kho tàng quí báu ngay trên mảnh đất nhà mình. Và theo luật thời ấy, ai làm chủ vùng đất nào sẽ được quyền thủ đắc mọi thứ nằm trong vùng đất đó.
Đức Giêsu đã dùng chính khái niệm thông thường này để nói với người ta về Nước Trời. Ngài kể: “Có người kia may mắn đào trúng một kho tàng trên một hửa đất nọ; anh ta vội chôn dấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả thứ gì mình có để mua cho bằng được miếng đất ấy.”
Có lẽ anh này là một tay thợ làm công, đang cày thuê cuốc mướn để kiếm miếng ăn. Cũng có thể anh đang lang thang đào cua bắt rắn để sinh sống qua ngày. Như vậy, anh ta không phải là người giàu có gì.
Kho tàng anh gặp thấy phải là lớnlắm, khó lòng di chuyển mà không bị phát giác, chẳng vậy anh đã âm thầm mang về nhà chứ hơi đâu lấp đất che kín. Giá trị của tất cả những gì anh có cũng quá bé nhỏ so với kho tàng anh bắt gặp, nếu không anh đã chẳng dại gì bán hết mọi thứ để mua cho bằng được.
Phải chăng Chúa Giêsu muốn nhắn bảo với nhân loại rằng: không gì sánh được với giá trị của Nước Trời. Nó đáng vạn lần lớn hơn những gì người ta có. Nếu phải đánh đổi tất cả để chiếm Nước Trời cũng không đáng cho người ta phân vân hay lo buồn. Vì đó là một nguồn lợi vô cùng lớn, nguồn lợi làm nên nỗi vui mừng hân hoan khiến “anh vui mừng đi bán tất cả những gì mình có để mua thửa ruộng đó” (Mt 13,44).
Một thửa ruộng có kho báu, và kho báu ấy được chôn sâu trong đất. Như thế, không phải chỉ có đi qua bước lại mà thấy được kho báu. Đúng hơn, nhờ vất vả lao nhọc mưu sinh mà rồi người ta tình cờ khám phá. Đây cũng là một thách đố cho ai đang khao khát Nước Tròi. Bởi vì không phải dễ dàng mà thấy được dưới lớp đất sinh lầy hay nức nẻ kia có một kho tàng vô giá. Lắm khi người ta phải tận lực đào bới, bền chí thi hành bổn phận hàng ngày mới có thể gặp được Nước Trời.
Nhưng Nước Trời là gì?
Nước Trời kông chỉ khác hơn chính là Thiên Chúa trong Đức Giêsu. Thế nên “tìm kiếm Nước Trời", “gặp thấy” Nước Trời, và “mua được” Nước Trời, cũng chính là việc “chiếm hữu” được Đức Giêsu.
Nếu nói kho báu là Chúa Giêsu thì thửa ruộng chứa kho báu ấy sẽ là Giáo Hội. Nơi đó, khi chịu khó lao công, bạn sẽ khám phá kho tàng. Nhưng trước hết, cần phải mua thửa ruộng ấy, tức là phải sở hữu Giáo hội bằng niềm tin và trung thành lao công trên mảnh đất Giáo hội, lúc ấy bạn mới có thể chiếm hữu trọn vẹn kho tàng Giêsu.
Thiên Chúa là Đấng quảng đại. Ngài biết “thửa ruộng” có “kho báu", nhưng Ngài vẫn sẵn lòng “bán” cho ai khát khao. Trong cuộc mua bán này, giá cả chênh lệch vô cùng, nhưng phần lời bao giờ cũng nghiêng về người mua.
Chuyện kể một phú ông kia chẳng may bị chết vợ trong ngày bà sinh hạ đứa con đầu lòng. Ông buồn phiền quá sức nhưng cũng phải kiếm vội người vú nuôi để chăm nom đứa bé và coi sóc cửa nhà.
Rủi thay, đứa bé kia cũng thiệt mạng trong một tai nạn giao thông khi chưa tới tuổi trưởng thành. Người giàu có cũng chết sau đó vài năm vì một cơn đau tim bất ngờ.
Vì không có ai là họ hàng thân thích và bởi không tìm thấy một tờ di chúc nào nên người ta chẳng biết gia tài khổng lồ sẽ đi về đâu. Cuối cùng, toàn bộ gia sản được giao cho chính quyền giải quyết.
Theo lệ thường, người ta cho trưng bày và đấu giá trứơc một số vật dụng. Sau đó vài tháng sẽ cho đấu giá toàn bộ.
Ngày đấu giá sơ khởi diễn ra. Các con buôn tụ tập rất đông. Người vú nuôi ngày xưa cũng đến tham dự, không phải để được mua sắm với giá lời, nhưng vì lòng thương nhớ gia đình chủ xưa khiến bà tìm đến để nhìn lại lần cuối các vật chứa đầy kỷ niệm.
Trong số các thứ được đem ra đấu giá, người vú nuôi chợt thấy tấm hình con ông chủ được lồng trong một khung kính đơn sơ. Bà chợt thương nhớ da diết cậu bé ngày xưa! Nước mắt bà rơi xuống. Thế rồi khi thấy chẳng ai thèm chú ý đến tấm hình, người vú nuôi liền giơ tay mua nó với giá sơ khởi là một đồng.
Bà mang tấm hình về, tháo khung ra, dự tính đặt ba tấm hình vợ chồng và đứa con của gia đình chủ xưa vào chung một chiếc khung. Nhưng lúc vừa gỡ mặt sau tấm hình cậu bé, bà thấy có mấy tờ giấy rơi ra. Xem có vẻ quan trọng, bà bèn mang chúng đến một luật sự nhờ xem giúp.
Vị luật sư sau khi quan sát kỹ các giấy tờ đã tươi cười nói với bà: “Xin chúc mừng bà! Người chủ của bà đã viết rằng: ông ta muốn giao lại toàn bộ tài sản cho người nào yêu mến đứa con của ông đến nỗi chịu mua bức hình đó, và như thế, bà được quyền thừa hưởng di chúc này.”
Thật hạnh phúc muôn lần hơn cho những ai yêu mến Đức Giêsu, Con Thiên Chúa!
Yêu mến Đức Giêsu cũng có nghĩa là yêu mến Thánh Thể, yêu mến Thánh Kinh, và yêu mến Thánh Mẫu. Điều thứ ba này nghe có vẻ hơi lạ. Thế nhưng đâu có gì thái quá khi nói: trong “thửa ruộng Maria” có “kho tàng Giêsu” - trong cung lòng Đức Mẹ có Con Thiên Chúa. Muốn có kho tàng lại phải đi mua miếng đất, Chúa dạy vậy mà.
Chắc chắn khi có lòng mến yêu như thế, bạn và tôi sẽ được Chúa Cha tặng ban cho cả thiên đàng.
50. Kho tàng đích thực
Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp (Mt 13,45)
Suy niệm:
Thương thì cho: thương ít cho ít, thương nhiều cho nhiều. Nếu muốn biết người nào đó thương mình thật không thì hãy xem người đó có cho mình cái gì không.
Nhưng nói như trên cũng chưa đúng lắm, vì còn tuỳ của cho là tốt hay xấu, có ích hay có hại đối với người nhận nữa. Người ta nuôi chim bồ nông, hằng ngày cho chúng ngửi thuốc phiện. Rồi người ta tròng vào cổ chúng một cái vòng, xong thả chúng đi kiếm cá trên mặt biển.
Vì có cái vòng trên cổ nên những chú bồ nông này chỉ nuốt được những con cá nhỏ. Còn cá lớn thì chúng cứ ngậm trong miệng. Tới lúc cơn ghiền thuốc phiện hành, chúng bó buộc phải trở về tàu; nhả cá lớn ra. Những người nuôi chim này cũng cho, nhưng không phải vì thương các chú chim bồ nông kia đâu. Thương thật thì phải cho những thứ tốt, những thứ có ích cho người nhận.
Thiên Chúa yêu thương loài người, và thương thật tình. Chính vì thương nên có nhiều điều tuy chúng ta cứ nằng nặc xin Ngài nhưng Ngài biết có hại cho chúng ta nên Ngài không cho. Ngài cho chúng ta những điều mà Ngài biết là tốt nhất có ích cho chúng ta nhất. Đó là những điều mà các bài đọc hôm nay kể cho ta biết: sự khôn ngoan, luật Chúa, ơn làm con Chúa và nhất là Nước Trời.
Trong 7 ơn của Chúa Thánh Thần, đứng đầu là ơn Khôn ngoan.
Người khôn ngoan là người có khả năng nhận biết đúng-sai, chính-phụ,quan trọng-thứ yếu, bền vững-chóng qua. Sách Thánh còn chỉ cho chúng ta biết: "Kính sợ Chúa là đầu mối sự khôn ngoan". Chúng ta hãy tự kiểm điểm xem chúng ta có khôn ngoan hay không:
Nhiều người ham tiền. Đối với họ, tiền là trên hết, hay nói cách khác, không có gì trọng bằng tiền. Nhưng thử hỏi tiền có bền vững mãi mãi không? Dĩ nhiên là không. Rất nhiều bằng chứng về điều này... Vậy, người suốt đời lo kiếm tiền và chạy theo tiền là người dại.
Nhiều người hám danh. Họ ham được khen, họ thích địa vị. Họ bỏ tiền ra để mua danh. Nhưng thử hỏi danh có bền vững mãi không? Cũng không. Và cũng có rất nhiều bằng chứng... Cho nên hám danh cũng là dại.
Nhiều người mê tình: tình yêu trai gái, tình bạn, tình dục v.v. Cũng thế thôi.
Bỏ ít để được nhiều là khôn. Bỏ cái tầm thường để được cái quý giá là khôn. Hai người trong bài Tin Mừng hôm nay rất khôn ngoan: người thứ nhất khám phá một kho tàng dấu trong một thửa ruộng. Anh vội về nhà bán hết tài sản rồi trở lại mua thửa ruộng đó. Người thứ hai thấy được một viên ngọc quý, cũng về nhà bán hết tài sản để trở lại mua viên ngọc quý đó. Ai trong chúng ta khám phá một kho tàng hay một viên ngọc quý mà không làm như hai người ấy! Đương nhiên chúng ta sẽ làm như họ thôi. Chúng ta dám bỏ tất cả vì chúng ta biết mình sẽ được lại cái còn quý giá hơn nhiều.
Qua bài Tin Mừng này, Đức Giêsu không dạy chúng ta cách kiếm thêm nhiều tiền bạc của cải, mà dạy chúng ta kiếm một thứ còn quý hơn tiền bạc của cải vô cùng, đó là Nước Trời: Tiền bạc của cải mang lại sung sướng về vật chất, Nước Trời mang hạnh phúc cả vật chất lẫn tinh thần, cả tự nhiên lẫn siêu nhiên. Tiền bạc của cải giúp ta sung sướng đời này, Nước Trời làm ta hạnh phúc mãi mãi.
Chúng ta dám bỏ tất cả để được một kho tàng, để được một viên ngọc quý. Tại sao chúng ta không dám bỏ tất cả để được Nước Trời?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, kho báu mà Ngài dành cho mỗi người chúng con được chôn dấu không phải ở đâu xa, mà ngay trong con tim trong lòng mỗi người chúng con. Đặc biệt Ngài cũng tặng cho chúng con một kho tàng vô giá là phẩm vị làm con của Ngài. Xin cho chúng con đủ khôn ngoan để chọn lựa những điều cao quý Chúa dành tặng chúng con. Để chúng con biết xây dựng Nước Trời nơi mỗi tâm hồn. Và để ơn Chúa được lớn mãi, là niềm vui trọn vẹn cho chúng con.
Lạy Chúa, Chúa ban cho chúng con kho tàng ân sủng của Ngài, chúng con cần phải chiến đấu chống lại những cám dỗ, tội lỗi, chống lại tinh thần trần tục và của cải thế gian, chống lại những khoái thú xác thịt, thì lúc đó chúng con mới hy vọng trung thành được với ơn Chúa. Và lạy Chúa, con vẫn biết để sống trung thành với kho tàng đức tin, với kho tàng ân sủng mà Chúa ban cho chúng con trong một thế giới có nhiều cám dỗ, chúng con cần phải cố gắng hy sinh thật nhiều. Xin Chúa tiếp sức và ban ơn kiên nhẫn để chúng con đủ sức chiến đấu với những thế lực xấu. Đồng thời biết gìn giữ kho báu Chúa ban để kho tàng đức tin và ân sủng được phát triển cho tới mức thành toàn viên mãn nơi Chúa Giêsu Kitô. Amen.
51. Giá trị vô song
(Lm. PX. Vũ Phan Long)
Tất cả các dụ ngôn đều ưu tiên mạc khải về Đức Giêsu, là biến cố trung tâm của lịch sử, biến cố đánh dấu cuộc gặp gỡ chung kết giữa trời với đất.
1.- Ngữ cảnh
Diễn từ của Đức Giêsu bằng các dụ ngôn liên hệ đến các khó khăn và những ngờ vực xuất phát từ tình trạng tương phản giữa hoàn cảnh hiện tại và các nỗi chờ mong nhắm đến Nước Trời và Đấng Mêsia. Nếu khi Đức Giêsu xuất hiện, quyền chúa tể của Thiên Chúa cũng bắt đầu được khẳng định, thì tại sao sứ điệp của Người không được mọi người vui mừng đón nhận? Tại sao Thiên Chúa không buộc người ta phải nhìn nhận Ngài bằng một loạt những chiến thắng lẫy lừng? Tại sao Ngài không thiết lập những phân biệt rõ ràng? Trong dụ ngôn Người gieo giống, Đức Giêsu đã cho thấy rằng hạt giống tốt chỉ có thể sinh hoa kết quả trên một mảnh đất tốt, tức là tính hữu hiệu của sứ điệp cốt yếu tùy thuộc những người đón nhận sứ điệp và tùy thuộc cách sống của họ. Với các dụ ngôn Hạt cải và Men, Người cho thấy rằng một khởi đầu bé nhỏ không loại trừ một sức phát triển to lớn và một khả năng đạt hiệu quả lớn lao. Các dụ ngôn Cỏ lùng giữa lúa tốt và Lưới cá cho thấy rằng vẫn còn tình trạng người tốt kẻ xấu ở bên nhau, nhưng không kéo dài vĩnh viễn. Giá trị cao vời của Nước Trời, niềm vui vô biên đi liền với việc khám phá ra giá trị ấy và sự dấn thân phải có khi đã thuộc về Nước Trời, tất cả những điểm này đều được làm sáng tỏ xuyên qua các dụ ngôn Kho báu và Ngọc quý. Đức Giêsu muốn loại bỏ các hiểu lầm và giúp các thính giả có lối sống thanh thoát thích hợp.
2.- Bố cục
Có thể chia bản văn thành ba phần:
1) Ba Dụ ngôn
a) Dụ ngôn 1: Kho báu chôn giấu (13,44),
b) Dụ ngôn 2: Ngọc quý (13,45-46),
c) Dụ ngôn 3: Chiếc lưới (13,47-48).
2) Dụ ngôn Chiếc lưới được giải thích (13,49-50).
3) Hiểu các Dụ ngôn: Dụ ngôn 8 kết luận các Dụ ngôn (13,51-52).
Hoặc cũng có thể cho rằng bản văn có năm đơn vị:
1) Dụ ngôn 1: Kho báu chôn giấu (13,44);
2) Dụ ngôn 2: Ngọc quý (13,45-46);
3) Dụ ngôn 3: Chiếc lưới (13,47-48);
4) Dụ ngôn Chiếc lưới được giải thích (13,49-50);
5) Hiểu các Dụ ngôn: Dụ ngôn 8 kết luận các Dụ ngôn (13,51-52)
3.- Vài điểm chú giải
– Nước Trời giống như một kho báu (44): Không phải là Nước Trời được ví với một kho báu, nhưng là “những gì xảy ra” khi một người khám phá ra một kho báu được so sánh với “những gì xảy ra” (hoặc phải xảy ra) khi một người khám phá ra Nước Trời.
- kho báu chôn giấu trong ruộng (44): Vào thời Thượng Cổ, vì không có hoặc có rất ít nhà băng, hơn nữa Paléttina lại phải chịu nhiều cuộc chiến tranh do vị trí ở giữa Ai Cập và Mêsôpôtamia, người ta giữ của cải an toàn bằng cách chôn xuống đất. Do đó, thỉnh thoảng, có người khám phá ra một khối của cải chôn dưới đất, chẳng hạn một cái chum chứa những đồng tiền vàng hay các loại đá quý.
- thương gia (45): Emporos là người buôn bán sỉ, vừa xuất vừa nhập hàng. Vào thời Đức Giêsu, ngọc quý thường được nhập từ Ấn Độ.
- chiếc lưới (47): Sagênê, “chiếc lưới”, có kích thước dài khoảng 250 đến 450m và rộng khoảng 2m; mỗi đầu có thắt một sợi dây.
- thả xuống biển (47): Blêtheisê, động từ ballô ở dạng participe aoriste passif để nói quanh thay tên Thiên Chúa. Động từ với dạng ấy có nghĩa là chiếc lưới đã được thả xuống biển rồi, và do chính Thiên Chúa thả.
– Anh em có hiểu (51): Trong dụ ngôn Người gieo giống, chúng ta đã thấy tầm quan trọng tác giả gán cho động từ “hiểu”. Ở đây, Đức Giêsu hỏi về tất cả những gì Người đã nói bằng dụ ngôn cho đám đông. Câu trả lời thật gọn: “Thưa hiểu (Nai)”. Ngữ cảnh cho thấy là những người trả lời là những môn đệ đã hỏi Đức Giêsu trước đây (x. c. 36). Nhưng khi không nêu ra chủ từ minh nhiên, tác giả Mt muốn ám chỉ bất cứ độc giả nào, bất cứ Kitô hữu nào. Chính câu trả lời này đưa người ta đi từ tình trạng “đám đông” sang tình trạng “môn đệ”.
- kinh sư (52): Cộng đoàn Mt đã có những định chế (“Nhóm Mười Hai”: 10,1; Phêrô: 16,18-19). Dựa theo bản văn ở đây, rất có thể trong lòng cộng đoàn cũng có các “thầy dạy” được gọi là “kinh sư” vì cộng đoàn vẫn tôn trọng cái gốc Do Thái của mình.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Các câu dẫn nhập 31, 33, 44 và 45 của các dụ ngôn Hạt cải, Men, Kho báu và Ngọc quý và cấu trúc các dụ ngôn rất giống nhau.
* Dụ ngôn 1 và 2: Kho báu chôn giấu và Dụ ngôn Ngọc quý (44-46)
Những gì Đức Giêsu kể về việc khám phá ra kho báu và ngọc quý thật đơn giản và rõ ràng. Rất có thể
đây là một người thợ đi cày trong ruộng của người khác và đã khám phá ra một kho tàng gồm các đồng tiền và vật trang sức được chôn trong ruộng. Dĩ nhiên là ông rất vui mừng, vì ông không bao giờ dám mơ tới khối của cải này. Cũng lưu ý là ông tìm ra kho báu không phải như một phần thưởng cho công lao khó nhọc hay do bác ái. Quan trọng là việc ông sẽ làm bây giờ.
Ông sẵn sàng hy sinh tất cả mọi nguyện vọng và dự phóng cũng như mọi lo toan để thủ đắc cho được thửa ruộng. Cách xử sự của nhân vật này không lương thiện về mặt luân lý, nhưng điều này không làm tác giả bài dụ ngôn phải bận tâm. Đức Giêsu kể lại một hoạt cảnh của đời thường, như sau này Người kể truyện người quản lý bất lương, những người làm vườn nho sát nhân: Người không nhắm tới tính luân lý. Điều này ta thấy rõ nơi truyện người đi săn ngọc quý: không hề có bận tâm gì đến tính luân lý. Trong cả hai trường hợp (khám phá kho báu và tìm được viên ngọc quý), vấn đề được đề cập là khám phá ra và nhận biết ý nghĩa của một thứ có giá trị lớn lao và tuyệt mỹ, và đây là chuyện một người hết sức vui sướng hy sinh tất cả những lợi lộc và vận dụng mọi phương tiện mà thủ đắc một điều gì; “ông bán tất cả những gì mình có” (cc. 44.46). Điểm nhắm của tác giả các dụ ngôn là điểm ấy. Đấy chính là Nước Trời; Nước Trời cao trọng hơn bất cứ tài sản nào.
Trong sứ điệp về Nước Trời, Đức Giêsu loan báo rằng Thiên Chúa Cha đứng về phía chúng ta. Với quyền năng trổi vượt của Ngài, Chúa Cha là Chúa tể độc nhất, Ngài nắm mọi sự trong tay. Mặc dù thế giới đang có những vô trật tự, những sự dữ và những tai họa, Ngài vẫn tốt lành với tất cả chúng ta và muốn ban cho chúng ta được thành công trọn vẹn và hạnh phúc viên mãn trong sự hiệp thông với Ngài. Thực tại này trước tiên phải được khám phá ra và hiểu đúng. Thực tại này chính là một kho báu được chôn giấu; tự nó, nó không buộc ai nhận biết nó cả. Có nhiều thứ khác lôi cuốn hơn nhiều, dường như quan trọng và hứa hẹn hơn nhiều. Chúng ta phải mở lòng mình ra và để mình bị chinh phục bởi sự kiện Thiên Chúa, tình yêu của Ngài đối với chúng ta và sự hiệp thông của chúng ta với Ngài có một giá trị vô song và không bao giờ bị vượt quá. Với sự hiểu biết này, niềm vui gia tăng và đồng thời cũng gia tăng ước muốn được đi vào làm chủ một giá trị như thế.
Kho báu ấy không phải là phần thưởng cho chúng ta. Chúng ta chỉ có thể thủ đắc nó bằng cách vận dụng tất cả sức lực chúng ta. Không phải để tự nhiên mà có sự kiện chúng ta thuộc về Thiên Chúa. Có biết bao ước muốn, mục tiêu, giá trị, nhiệm vụ trong đời sống chúng ta, nhưng chúng ta phải đặt chúng đàng sau để thuộc về Thiên Chúa. Trên tất cả mọi sự, cần phải có sự quy hướng về Thiên Chúa, liên kết với Ngài và chịu trách nhiệm trước mặt Ngài. Tất cả các giá trị khác, như gia đình, nghề nghiệp, địa vị xã hội, của cải, tiện nghi, sức khỏe, lợi lộc, những thú vui… không phải là những giá trị và tiêu chuẩn tối hậu, nhưng phải được đưa vào trong dây liên kết với Thiên Chúa và được cứu xét trước nhan Ngài và theo ý muốn của Ngài. Tất cả tùy thuộc việc thuộc về Thiên Chúa, mà chúng ta chỉ thuộc về Thiên Chúa nhờ luôn ý thức sống trước nhan Ngài. Càng hiểu giá trị của việc thuộc về Thiên Chúa, ta càng sống vui, cho dù có những mệt nhọc, bề bộn với công việc và phải từ bỏ nhiều điều.
* Dụ ngôn 3: Chiếc lưới và Dụ ngôn Chiếc lưới được giải thích (47-50)
Dụ ngôn Chiếc lưới song song với dụ ngôn Lúa tốt vả Cỏ lùng (cc. 24-30.36-43), và nêu lên cũng những vấn đề như nhau. Trong dụ ngôn trước, “cánh đồng” tượng trưng Nước Trời; trong dụ ngôn sau là “chiếc lưới”.
Tại hồ Ghennêxarét, có hơn hai mươi loại cá. Bao lâu cá còn ở trong hồ hoặc ở trong lưới, chúng bơi loạn xạ, lớn nhỏ lẫn lộn, có thứ cá ăn được, có thứ không. Nhưng điều này không có nghĩa là chúng luôn luôn như thế. Khi lưới được kéo lên bờ, các người dân chài ngồi lựa: cá tốt thì được gom lại, cá xấu thì bị quăng đi. Tư thế “ngồi” của các dân chài có thể khiến nhớ tới tư thế “ngồi” Con Người thẩm phán thế gian (19,28; 25,31; 26,64). Các tính từ “tốt” (kalos) và “xấu” (sapros, “vô ích”) khiến ta nhớ tới hình ảnh các cây với trái của chúng (x. 7,16-20; 12,33), hiểu là các việc làm hoặc lời nói. Bằng dụ ngôn này, Đức Giêsu lại hướng mắt nhìn về cuộc phán xét cuối cùng và về số phận hoàn toàn khác nhau của người tốt và người xấu. Ở đây, trên mặt đất này, dường như chúng ta có quan tâm đến Thiên Chúa hay không, cũng không quan trọng gì; giữa người tốt và người xấu, không hề có sự phân biệt nào. Dường như tốt xấu cũng như nhau. Cộng đoàn Kitô hữu, tượng trưng Nước Trời, là một cộng đoàn đa tạp. Nhưng Đức Giêsu lưu ý chúng ta: Anh em đừng để mình bị lừa! Anh em đừng tưởng rằng mọi sự sẽ cứ như thế mãi! Anh em hãy biết chắc rằng sẽ có một cuộc phân biệt rõ ràng, nên hãy sống hôm nay thế nào để khi đến cuối, anh em được Thiên Chúa đón nhận!
Thật ra, việc Người giảng dạy đã là một tiên báo về phán xét: Người đang ở tại “hồ” (13,1-2), có một đám đông “đã tụ họp lại” (“gom cá”) trên bờ, trong khi Đức Giêsu “ngồi” trên thuyền và nói bằng dụ ngôn. Lời nói của Người đã gây ra sự phân biệt giữa dân chúng và các môn đệ. Cuộc phân biệt này báo trước cuộc phán xét sau này. Những gì Đức Giêsu đã gây ra lúc này sẽ được lặp lại vào ngày phán xét.
Kết luận dụ ngôn Chiếc lưới, tác giả TM I nêu lên một chi tiết tương tự trong dụ ngôn Cỏ lùng: “các thiên sứ sẽ … quăng kẻ xấu vào lò lửa” (x. 13,31). Các Kitô hữu đang đau khổ vì sự hiện diện của những kẻ xấu, tác giả an ủi họ bằng cách cho biết rằng cuộc phán xét cánh chung đã gần kề; cuộc phán xét này sẽ tái lập thế quân bình cho cuộc sống của họ.
* Hiểu các Dụ ngôn: Dụ ngôn 8 kết luận các Dụ ngôn (51-52)
Dụ ngôn Vị kinh sư này là một câu trả lời cho câu hỏi và lời xin của các môn đệ (cc. 10.36). Họ là những người đã hiểu sứ điệp hàm chứa trong bài giảng của Đức Giêsu. “Hiểu” không chỉ có nghĩa là “nắm được ý nghĩa” mà còn là “chấp nhận”, “làm cho nên hiện thực trong đời sống mình”. Nếu đúng như thế, các môn đệ đã trở thành những người thực sự bước theo Đức Giêsu, họ đã là “con cái Nước Trời” (c. 38). Do đó, họ cũng là những kinh sư mới, những thầy dạy mới trong Nước Trời. Kinh sư Kitô hữu đề nghị cả các chân lý cũ (palaia) lẫn các chân lý mới (kaina) trong giáo huấn của mình. Cũng rất có thể đây là cách tác giả tự giới thiệu về mình.
+ Kết luận
Tất cả các dụ ngôn đều nói với chúng ta về Nước Trời. Chúng đều ưu tiên mạc khải về Đức Giêsu, là biến cố trung tâm của lịch sử, biến cố đánh dấu cuộc gặp gỡ chung kết giữa trời với đất: nơi Đức Giêsu, Nước Trời vĩnh viễn đến gần con người. Các bài dụ ngôn cũng cho thấy rằng việc từ bỏ theo Tin Mừng không phải là phương tiện để đạt tới Nước Trời, nhưng là hậu quả của việc khám phá ra Nước Trời.
Sự lộn xộn và rối loạn thật đáng kể. Có biết bao giá trị và mục tiêu xuất hiện ra như là quan trọng và hứa hẹn cho ta được hạnh phúc. Đức Giêsu đánh tan mây mù và làm sáng tỏ. Người cho thấy điều gì là quan trọng, chúng ta phải vận dụng sức lực quá giới hạn của mình vào chuyện gì. Điều quan trọng là luôn luôn sống với tinh thần trách nhiệm và đặt quan hệ với Thiên Chúa tại trung tâm đời ta. Như thế, chúng ta có thể nhìn về kết cuộc không hề nao núng.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Vấn đề không phải chỉ là dời các giá trị khác ra phía sau để nhường bước cho giá trị lớn là Nước Trời, nhưng là coi mọi sự khác không còn giá trị nữa trước giá trị duy nhất là Nước Trời. Người ta chỉ thật sự là Kitô hữu nếu hiểu rằng Nước Trời là “tất cả” trong cuộc đời, cần thiết hơn cả cơm bánh mỗi ngày. Suy biết như thế là “hoán cải”, thay đổi lòng trí. Nhưng chỉ dừng lại mà chiêm ngắm sự cao cả của Nước Trời thì không đủ, còn cần phải quyết định, phải chọn lựa, phải nỗ lực suốt đời để chiếm lấy giá trị này. Truyện người thanh niên giàu có minh họa rất rõ điểm này (Mt 19,21.27.29).
2. Nước Trời là một điều thiện hảo được đặt vừa tầm tay mọi người, nhưng không phải là mọi người đều “tìm thấy” Nước Trời bởi vì không phải là mọi người đều đi tìm kiếm Nước Trời. Tìm kiếm là điều kiện thiết yếu để có thể gặp được Nước Trời (x. Mt 10,39; 12,29; 17,14; 18,13). Điều này đúng ngay cho cả bình diện trí thức: khi nghiên cứu, nếu chúng ta không có ý tìm điều gì, thì chúng ta sẽ không thấy các trang sách nói gì cả; chỉ khi nào cố ý tìm một điểm gì đó, chúng ta mới thấy sách có vô vàn gợi ý về điểm đó. Dù vậy, Nước Trời không phải là kết quả đương nhiên của cuộc tìm kiếm, Nước Trời vẫn là một ân ban.
3. Niềm vui là tiêu chuẩn cho thấy người ta đang kinh nghiệm về các giá trị cách sâu sắc. Tôi có thể tự hỏi về niềm vui tôi đã cảm nhận khi nghe được sứ điệp về Nước Trời: tôi có vui mừng không? Các giá trị Nước Trời đã đi vào đời tôi, tôi có cảm thấy vui không? Ai có Thiên Chúa thì có tất cả; Thiên Chúa đủ cho tôi rồi. Tôi có xác tín về điều này chăng? Do đang còn mang não trạng “thế gian”, do đang lo lắng sợ mất điều gì đó hoặc thiếu điều gì đó, do cứ muốn nắm được mọi sự trong tay, do muốn lên chương trình sống hoàn toàn theo ý mình, chúng ta có thể đang còn vấp phải dữ kiện căn bản này: một mình Thiên Chúa có thể lấp đầy một con tim hiến dâng trọn vẹn cho Ngài.
4. Cuộc sống con người ở trần gian còn đang ở trong tình trạng tranh tối tranh sáng. Một ngày nào đó, khi đến ngày phán xét, mọi sự sẽ trở nên sáng tỏ. Rất có thể hôm nay cuộc sống thật của người ta còn đang được che giấu dưới một cái mặt nạ đạo đức, nhưng đến ngày đó, “mặt thật” của con người sẽ lộ rõ: người ta chỉ hoàn toàn là “xấu” nếu tận đáy lòng, người ta chỉ tìm kiếm chính mình, thay vì tìm kiếm một mình Thiên Chúa.
52. Suy niệm của Noel Quesson
Đức Giêsu nói với đám đông các "dụ ngôn" sau đây.
Đức Giêsu như mọi người kể chuyện ở phương Đông, không giảng dạy một cách trừu tượng, người đưa ra những hình ảnh đẹp những từ ngữ chứa đựng những biểu tượng phổ quát mà mọi người có thể hiểu gợi ra nhiều ý nghĩa hơn định nghĩa của các từ ngữ và do đó thường có thể có nhiều cách giải thích khác nhau. Cũng như trong văn nói, những sự lặp lại, những điệp khúc cho phép khắc ghi một bài học vào trong trí nhớ.
Những dụ ngôn của Đức Giêsu, dù được đọc chỉ một lần, không thể nào quên được. Người ta cũng nghĩ rằng Đức Giêsu cũng như những kinh sư của thời đại Người thực tế là đã dạy cho các thính giả của Người thuộc lòng những bản văn ngắn. Nhưng như thế thì rất dễ. Vậy chính các bạn hãy thử lại xem-! Các bạn hãy đọc một dụ ngôn và sau đó đọc lại bằng trí nhớ của mình.
Nước trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy.
Một "kho báu”! Mỗi người có thể hiểu điều đó theo cách hiểu của mình. Trên khắp trái đất, trong mọi nền văn minh, con người đều có những đồ vật mà họ coi như những "kho báu': một vật gì đó đáng được ao ước làm người ta thèm muốn, ở Palestin, vào thời của Đức Giêsu, không có nhiều ngân hàng để gởi những món tiết kiệm mà một gia đình dành dụm cho được an toàn. Vậy, người ta chôn món tiền ấy trong một góc của cánh đồng. Và có khi chủ sở hữu chết di mà không thể tiết lộ nơi giấu kho báu cho ai. Khi làm ruộng, một nông dân sau này có thể tình cờ khám phá ra.
Người nào đã khám phá ra... liền chôn giấu lại!
Thái độ này kỳ lạ... kích thích sự tò mò. Người ấy sắp làm gì?
Rồi vui mừng, đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy.
Rõ ràng đây là cao điểm của bài dụ ngôn mà Đức Giêsu muốn gợi ý cho chúng ta. Các bạn có đồng ý với cách làm đó không? Nếu các bạn gặp được một sự may mắn như thế, một cơ hội tương tự, bạn có làm giống vậy không. Phải, trong đời sống của chúng ta, chúng ta có thể thực hiện những hy sinh to lớn vì một điều mà chúng ta ấp ủ ở trong lòng: các sinh viên làm việc không nghỉ ngơi khi kỳ thi và một kỳ thi tuyển mà họ mơ ước một cách mãnh liệt sắp đến... các vận động viên kiêng cữ đủ thứ để tiến hơn trong bộ môn thi đấu và phá kỷ lục... cha mẹ trong gia đinh hy sinh cho con cái họ... các chính khách trong lãnh vực chính trị và công đoàn bỏ qua các thú vui và sự thư giãn vì chính nghĩa mà họ đang chiến đấu... Đối với Đức Giêsu, Nước Thiên Chúa là một thực tại rất cao quý đến nỗi đáng để hy sinh tất cả, để khám phá, và để sống. Ở đây chúng ta ghi nhận rằng Đức Giêsu nói về "niềm vui chúng ta đoán được niềm vui ngây ngất của Người thấy một kho báu”. Trong sự vui mừng, người ấy bán tất cả những gì mình có..." Đối với Đức Giêsu, sự hy sinh không phải là một việc đau buồn:
Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy.
Rõ ràng ở đây có cùng một bài học, với cùng một điệp khúc. Nhưng thêm một khía cạnh quan trọng. Người làm thuê tình cờ khám phá được kho báu... còn người bán kim hoàn "tìm kiếm" như một người sưu tập tìm một món đồ quý hiếm. Chúng ta cũng thế, chúng ta đều đi tìm hạnh phúc. Nhưng, than ôi; nhiều người trong chúng ta đã lầm lẫn khi tìm những hạnh phúc không giá trị gì, những viên ngọc giả cũng sáng như những viên ngọc thật, nhưng không giá trị như những viên ngọc thật... và chỉ đánh lừa người dốt nát… Đức Giêsu, Người biết hạnh phúc thật của chúng ta là gì. Người đề nghị chúng ta phải trả giá và phải làm tất cả để có được hạnh phúc ấy. Không có niềm vui chân thật và lâu dài bên ngoài sự hiệp nhất với Thiên Chúa… điều mà Người: gọi là Nước Trời!
Để sống hạnh phúc vô giá, tuyệt vời ấy, hãy mua cho được viên ngọc đó... phải làm gì đây?
Ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy.
Chúng ta hãy thử tưởng tượng trong thực tế cảnh tượng mà Đức Giêsu kể lại. Xung quanh con người "bán tất cả những gì mình có", hẳn người ta phải nói: “Thằng cha này điên! Vậy sao? Chính vì những người khác không biết. Khi bán tất cả tài sản của mình, người ấy biết rằng mình không mất gì cả... bởi vì người ấy biết giá trị của viên ngọc! Và tôi cố tưởng tượng Đức Giêsu đang kể lại câu chuyện lôi cuốn này. Không chút lưỡng lợ. Đức Giêsu quả là con người có những quyết định cao cả, có vẻ điên rồ. Trong thực tế Người đã cho tất cả, đã đặt vào đó cái giá tối đa. Ngày hôm nay, thật là tốt đẹp khi có những con người, nam cũng như nữ nghe được tiếng gọi "hiến dâng tất cả" một cách triệt để lập tức thánh hiến cả cuộc đời mình cho Nước Trời qua đời sống linh mục và tu trì.
Nước Trời lại còn giống như chuyện chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ thứ cá. Khi lưới đầy người ta kéo lên bãi, rồi ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vứt ra ngoài.
Đức Giêsu có lẽ đang nói về các thủy thủ ở bờ hồ Tibêria. Người nói về Thiên Chúa xuyên qua ngôn ngữ và những hoàn cảnh người ta đang sống. Đó là một biểu mẫu tốt nhất cho những cách dạy giáo lý về mầu nhiệm của Thiên Chúa, nếu chúng ta cũng quan tâm một cách cụ thể đến cuộc sống hàng ngày của anh em.
Nước Trời! Matthêu sử dụng công thức này để tránh nói ra từ ngữ về Thiên Chúa đối với dân Do Thái. Cách diễn tả này cũng có ý nghĩa như "Nước" của những con người hoàn hảo về mọi phương diện, là một sự quy tụ đủ mọi hạng người... tốt và ít tốt hơn! Chúng ta đã thấy tư tưởng này có trong dụ ngôn cỏ lùng và lúa mì: Thiên Chúa nhẫn nại chờ đợi những kẻ tội lỗi và... cho họ có thời gian.
Trước hết, Thiên Chúa chịu đựng tôi và cho tôi một thời gian. Nhưng hãy coi chừng! Sự nhẫn nại của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi không thể được giải thích như một sự "bỏ mặc" khiến chúng ta sống thụ động, sống chờ thời và sống dửng dưng. Chúng ta hãy nghe phần tiếp theo…
Đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy. Các thiên thần sẽ xuất hiện và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính rồi quăng chúng vào lò lửa, ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng.
Một lời cảnh báo hết sức nặng nề! Lòng nhân từ của Thiên Chúa không phải là sự đồng lõa với điều xấu. Vừa rồi, Đức Giêsu nói về niềm vui! Giờ đây Người nói về khóc lóc và nghiến răng… sáu lần công thức đe dọa này trở lại trong Matthêu (8,12; 13,12; 13,50; 22,13; 24,51; 25,50). Chúng ta thường có xu hướng quên rằng sẽ có một sự phán xét. Thái độ của chúng ta không trung lập: chúng chuẩn bị cho sự sống vĩnh cửu của chúng ta, Đức Giêsu nói. Và chúng ta phải mau lẹ hoán cải. Bởi sự nghiêm khắc này, Đức Giêsu muốn thức tỉnh chúng ta.
Không có gì là sự thích thú đày đọa trong những công thức ấy nhưng là tình yêu của một người sáng suốt muốn làm cho ta hiểu rõ cái được cái mất của đời sống. Khi bác sĩ phẫu thuật đưa con dao mổ vào vết thương mưng mủ, đó không phải vì ông dữ tợn mà vì ông muốn cứu người bệnh. Ngay cả khi dùng đến ngôn ngữ khải huyền (“khóc lóc và nghiến răng” là một phần của văn phong thời đại đó) rõ ràng là Đức Giêsu muốn tạo ra trong chúng ta một cú sốc sinh ơn cứu độ.
Anh em có hiểu tất cả những điều ấy không?
Thiên Chúa không áp đặt. Người tra hỏi chúng ta. Người tôn trọng tự do của chúng ta. Nhưng Người hỏi chúng ta "hiểu” không? Anh em có hiểu không? Từ "hiểu” là một từ được Matthêu lặp lại: Mt 12,7; 13,13; 13,14-15-19-23-51; 15,10-17; 16,9-11-12; 17,13; 19,11-12;21,45-46; 24,15-32-33-43. Đây là câu hỏi nền tảng.
Chẳng phải là trong lòng tôi có nhiều ngõ ngách của cuộc đời mà tôi không muốn hiểu đó sao? Chẳng phải là có những hoàn cảnh mà tôi không muốn đối chiếu với Tin Mừng đó sao? Lạy Chúa, xin thương nhắc con câu hỏi của Người: "Con có hiểu không?"
Họ đáp: "Thưa hiểu”.
Trong sự ngay thẳng, con cũng muốn nói rằng "con hiểu” những dự án của Thiên Chúa trong đời con. Nhưng con xin Chúa sức mạnh để hoàn thành chúng cho đến cùng, cho đến sự lựa chọn cao cả sau cùng, khi Chúa đưa ra ánh sáng “điều gì tốt" và "điều gì không có giá trị” trong cuộc sống.
Người bảo họ: "Bởi vậy, bất cứ kinh sư nào đã được học hỏi về Nước Trời, thì cũng giống như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ".
Đức Giêsu không khinh thường khoa học của các "kinh sư” các học giả về Luật, cho dù nhiều người trong bọn họ thực ra đã chống lại cái mới của Tin Mừng. Chính Matthêu soạn ra Tin Mừng, ngài tự giới thiệu như một "kinh sư” một người hiểu biết sâu xa Truyền thống của Cựu ước... nhưng có khả năng rút ra từ truyền thống ấy điều mới mẻ!
Dụ ngôn nhỏ này và cũng là sau cùng làm kết luận cho một loạt các dụ ngôn mà chúng ta đọc từ ba Chúa nhật và mang đầy tính thời sự. Cuộc tranh luận của những người theo xưa và theo nay. Sự đối lập giữa những người bảo thủ và những người cấp tiến. Đối với Đức Giêsu, người "theo truyền thống" thật sự không thể chỉ là người lặp lại cứng ngắc. Để không phản bội tư tưởng của Đức Giêsu, phải hiểu biết tư tưởng ấy từ nền văn hóa và ngôn ngữ của thời đại mình và vì thế, làm sáng tỏ tư tưởng ấy và thích ứng nó với thời đại của chúng ta mà vẫn tôn trọng ý nghĩa sâu xa của nó. Đức Giêsu hầu như không mã hóa gì cả. Bởi vì 'Thiên Chúa là người cùng thời với chúng ta": Người nói với chúng ta ngày hôm nay. Truyền thống (cái cũ) là chân chính nếu nó sống động, đầy những chồi nụ (cái mới). Cái mới chân chính không hủy hoại truyền thống: đối với những vấn đề mới, nó rút ra những lời giải đáp mới phù hợp. Với sự khôn ngoan của mọi thời đại. Lạy Chúa, xin cho chúng con biết chú ý đến mọi "cái mới" trong Giáo Hội "cũ xưa" của Chúa. Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn trung tín với Người.
53. Khôn ngoan là biết chọn Chúa làm gia nghiệp
(Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Chúng ta thường đọc thấy trên trác phương tiện truyền thông hay báo chí rất nhiều những tin đồn như ở nơi này, nơi kia có kho báu gồm: vàng, bạc, kim cương cũng như cổ vật. Khi nghe tin đồn như thế, không ít người đã làm mọi cách và dùng mọi chiến thuật để mong sao đạt được điều mà họ đang hy vọng. Còn đại đa số con người ngày nay thì kho báu của họ có lẽ là: tiền, tài, tình. Vì thế, cũng đã không ít người hăng say, lăn xả để chiếm đoạt cho kỳ được.
Với người kitô hữu chúng ta, kho tàng là gì? Làm thế nào để chiếm hữu?
1. Ý nghĩa của các dụ ngôn
Dụ ngôn “kho tàng” và “viên ngọc quý” là một trong hàng loạt dụ ngôn Đức Giêsu dùng mặc khải về Nước Trời. Bên cạnh đó, dụ ngôn “chiếc lưới” cũng giúp cho chúng ta hiểu thêm về sự kiên trì của Thiên Chúa và giá trị của những người được chọn trong ngày sau hết.
Qua ba dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn ám chỉ “kho tàng” trong thửa ruộng chính là Nước Trời, còn Đức Giêsu chính là “viên ngọc quý”.
Người lái buôn đi tìm ngọc và anh thanh niên tìm kho tàng chính là những người có đức tin, khao khát chân lý và hạnh phúc thật.
Trong công cuộc tìm kiếm này, không phải chuyện dễ dàng để gặp được. Vì thế, người tìm kiếm phải có tài, có đức và phải kiên trì, trung thành.
“Kho tàng” và “ngọc quý” vẫn có đó, nhưng có khi có người tìm thấy sớm, có người thấy muộn và cũng có kẻ đến giờ phút chót không thấy được.
Thật vậy, con người khi đã có khát khao, nhất là sự khao khát đó lại được nuôi dưỡng trong sự chờ đợi, hy vọng, thì khi tìm được, người ta đã phải bán hết mọi sự mình đang có để mua, với ý thức rằng có “kho tàng” và “ngọc quý” là có tất cả.
Khi mua được rồi, họ đâu còn tiếc nuối công khó với mồ hôi và nước mắt mà họ đã đổ ra trên hành trình tìm kiếm.
2. Sự khôn ngoan của con cái Chúa
Anh thanh niên và người lái buôn quả là người khôn ngoan. Sự khôn ngoan của họ rất giống với vua Salomon mà bài đọc I đã đề cập đến. Ông đã không xin Chúa sức khỏe, tiền tài và danh vọng, cũng như những thứ có giá trị ở đời, nhưng ông đã xin Chúa sự khôn ngoan. Lòng chân thành của ông đã được Chúa nhận lời và người đã ban cho ông gấp trăm ngàn lần. Như vậy, có sự khôn ngoan, ông có tất cả.
Đức tin là quà tặng vô giá mà Thiên Chúa trao ban cho con người. Biết xử dụng đức tin trong đời sống qua các mối tương quan với Thiên Chúa và tha nhân là người khôn ngoan. Bởi vì nhờ có đức tin, chúng ta biết mình và biết Chúa. Biết mình giới hạn và biết Chúa quyền năng. Biết sự sống đời này là hữu hạn và sự sống đời sau sẽ trường tồn. Người khôn ngoan theo Kinh Thánh là người sẵn sàng để cho Lời Chúa hướng dẫn cuộc đời mình.
Tuy nhiên, con người ngày nay, mấy ai để cho Lời Chúa được lớn lên, sinh hoa kết trái như ý Chúa???
Họ là những con người lầm lạc, sự khôn ngoan của họ là sự ngu đần trước mặt Thiên Chúa. Khôn ngoan của những người này chính là “Khôn ngoan của con cái tối tăm” họ thực hiện điều họ cho là khôn ngoan trong tội lỗi, và như một hệ lụy, họ không nhìn ra đâu là sự thiện, sự ác, không biết lo cho phần rỗi đời đời, nên đến cuối đời, họ như những con cá bị loại ra ngoài, không được cho vào giỏ của ông chủ.
Thật vậy, người khôn ngoan theo ý muốn của Thiên Chúa là người biết xác định rõ: “Khôn thế gian làm quan địa ngục"; "Dại thế gian làm quan Thiên Đàng” và “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào có ích gì?” (Mt 16, 26).
Người khôn ngoan theo Kinh Thánh chính là người sống hôm nay mà biết lo cho tương lai. Phải chu toàn bổn phận trần thế, nhưng không phải vì thế mà quên thực tại Nước Trời mai hậu. Sống trên trần gian nhưng không thuộc về trần gian.
3. Sống sứ điệp Lời Chúa
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta phải khước từ những thứ được coi là thấp hèn. Không quá coi trọng vật chất. Khước từ tính kiêu ngạo, thích ăn trên ngồi trước. Phải sống chan hòa tình nghĩa với nhau.
Phải tin tưởng vào Chúa tuyệt đối, không thể tin nửa vời để rồi dẫn đến tình trạng mê tín dị đoan như tin thầy bùa, thầy ngải, thổ địa...
Hãy mau mắn thi hành Lời Chúa dạy. Trung thành với Giáo Huấn của Giáo Hội.
Sẵn sàng hy sinh tất cả, để chỉ còn “... mối lợi truyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, của tôi, vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức Kitô (9) và được kết hợp với Người”(Pl 3, 8-9).
Nước trời không thể đến với những người: “Bắt cá hai tay”; vì: “Không ai có thể làm tôi hai chủ”; và hạnh phúc không thể có đối với người chỉ biết “há miệng chờ sung rụng”.
Lạy Chúa Giêsu, Xin Chúa ban Thánh Thần của Ngài xuống giúp chúng con biết nhận ra đâu là điều tốt, đâu là điều xấu để chúng con lựa chọn. Xin cho chúng con ơn can đảm và trung thành vì Nước Trời. Amen.
29/07 Chiêm Niệm Và Hoạt Ðộng
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Chiêm Niệm Và Hoạt Ðộng.
Thứ bảy tuần 16 thường niên – Thánh nữ Mácta. Lễ nhớ.
"Con đã tin Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống".
* Mácta là chị của cô Maria và ông Lagiarô ở Bêtania. Trong sách Tin Mừng, thánh nữ xuất hiện ba lần: lần thứ nhất trong bữa ăn ở Bêtania, khi cùng với cô em là Maria tiếp đãi Đức Giêsu; lần thứ hai khi ông Lagiarô được Chúa cho phục sinh, lúc đó thánh nữ đã tuyên xưng lòng tin vào Chúa Giêsu; và lần cuối trong bữa tiệc đãi Chúa Giêsu sáu ngày trước lễ Vượt Qua. Trong cả ba câu chuyện, ta luôn thấy thánh nữ đóng vai trò chủ nhà.
Lời Chúa: Ga 11, 19-27
Khi ấy, nhiều người Do-thái đến nhà Martha và Maria để an ủi hai bà vì người em đã chết. Khi hay tin Chúa Giêsu đến, Martha đi đón Người, còn Maria vẫn ngồi nhà. Martha thưa Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Tuy nhiên, ngay cả bây giờ, con biết Thầy xin gì cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng sẽ ban cho Thầy". Chúa Giêsu nói: "Em con sẽ sống lại". Martha thưa: "Con biết ngày tận thế, khi kẻ chết sống lại, thì em con sẽ sống lại". Chúa Giêsu nói: "Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ. Con có tin điều đó không?" Bà thưa: "Thưa Thầy: vâng, con đã tin Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian".
Hoặc đọc:
Lời Chúa: Lc 10, 38-42
"Martha đã đón Chúa vào nhà mình, Maria đã chọn phần tốt nhất".
Khi ấy, Chúa Giêsu vào một làng kia, và có một phụ nữ tên là Martha rước Người vào nhà mình. Bà có người em gái tên là Maria ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người. Martha bận rộn với việc thết đãi khách. Bà đứng lại thưa Người rằng: "Lạy Thầy, em con để con hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm sao? Xin Thầy bảo em con giúp con với". Nhưng Chúa đáp: "Martha, Martha, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện. Chỉ có một sự cần mà thôi: Maria đã chọn phần tốt nhất, và sẽ không bị ai lấy mất".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Chiêm Niệm Và Hoạt Ðộng
"Mácta, con lo lắng chi nhiều việc chỉ có một điều cần mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất rồi". Câu trả lời của Chúa Giêsu cho Mácta đáng cho chúng ta suy nghĩ thêm. Các nhà chú giải đề ra hai điểm:
Trước hết Chúa Giêsu không có ý định giảm giá trị của việc đón rước Chúa mà Mácta đang làm, nhưng Ngài trực tỉnh Mácta về nguy hiểm mà chị đang lao vào đó là thái độ ganh tị. Kế đến Chúa Giêsu làm nổi bật một điểm tốt mà Maria đã rút ra từ hoàn cảnh, đó là đến ngồi bên chân Chúa, lắng nghe Người nói.
Việc lắng nghe có ưu tiên hơn "vì con người không chỉ sống nguyên bởi bánh mà thôi nhưng còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. Vì thế hãy tìm Nước Thiên Chúa trước, rồi mọi sự khác sẽ được ban cho dư đầy" (Mt 4,4). Tuy nhiên, Chúa Giêsu không đề ra một sự chọn lựa giữa một trong hai điều hoặc thái độ làm việc của Mácta hoặc thái độ chiêm niệm của Maria để rồi chỉ chấp nhận có một thái độ duy nhất của Maria thôi.
Không có sự đối nghịch giữa hoạt động và chiêm niệm trong đời sống của người Kitô, bởi vì cả hai đều phát xuất từ một nguồn mạch là Lời Chúa và cùng hướng đến một việc, một mục tiêu là phục vụ Nước Chúa. Việc lắng nghe Lời Chúa được hướng đến hành động và hành động cần được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa. Ðây là hai khía cạnh của mối phúc thật "lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa". Ðó là khi trả lời cho người phụ nữ trong dân chúng cất tiếng chúc tụng Mẹ Chúa cũng như khi trả lời cho những kẻ báo tin cho Chúa biết là có Mẹ và anh em Chúa đang chờ, nhưng Chúa trả lời "những kẻ nghe Lời Chúa mà đem ra thực hành, kẻ đó mới là Mẹ Ta và anh em Ta" (Mt 12, 50).
Hai chị em Mácta và Maria nhắc nhở cho cộng đoàn Kitô cũng như cho mọi người Kitô qua mọi thời đại về hai thái độ luôn bổ túc cho nhau. Ðể tiếp nhận Lời Chúa hiện diện nơi chính Chúa Giêsu Kitô không phải chỉ cầu nguyện chiêm niệm mà thôi, cũng không phải chỉ có hoạt động vì hoạt động. Nhưng chiêm niệm và hoạt động phải là hai chiều kích luôn được kết hợp với nhau của cùng một chức vụ, đây là hai yếu tố không thể nào thiếu vắng đi được trong việc theo Chúa.
Trong những hoàn cảnh cụ thể và tùy theo hoàn cảnh ấy, người đồ đệ Chúa có thể hòa hợp việc làm một cách cụ thể giữa cầu nguyện và hoạt động theo một chương trình riêng. Nhưng thật là sai lầm nếu chúng ta muốn canh tân Giáo Hội mà không cầu nguyện, nghĩa là không lắng nghe Lời Chúa, không đối thoại với Ngài, ngõ hầu để hoạt động của chúng ta có thể trổ sinh kết quả. Người đồ đệ của Chúa cần dành thời giờ im lặng để lắng nghe Lời Chúa và đối thoại với Ngài. Trong ý nghĩa này chiêm niệm là phần tốt nhất mà Maria đã chọn, nhưng không phải tách rời ra khỏi việc làm. Ðức tin phải có sức tác động qua đức bái ái. Ðàng khác, cầu nguyện không làm cho người đồ đệ xa lạ với cuộc sống và những vấn đề của con người, nhưng ngược lại cầu nguyện làm cho người đồ đệ có thêm sức mạnh hoạt động biến đổi xã hội, ngõ hầu Thiên Chúa được tôn vinh và con người được hạnh phúc.
Lạy Chúa,
Xin giúp chúng con hiểu và thành công hòa hợp được hai yếu tố không thể tách rời của đời sống Kitô đích thực là làm việc và cầu nguyện. Ước chi việc chúng con làm đều phát xuất từ lời cầu nguyện là việc lắng nghe Lời Chúa và được nâng đỡ bởi sức mạnh của Chúa, sức mạnh trao ban trong những giây phúc chúng con trở về lắng nghe Chúa nói.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Thánh Martha
“Đức Giêsu yêu quý Mácta, Maria và Lagiarô”. Câu nói độc đáo này trong Phúc Âm của Thánh Gioan cho chúng ta biết về sự tương giao đặc biệt giữa Ðức Giêsu và Mácta, người em Maria, và người anh Lagiarô của thánh nữ.
Hiển nhiên, Ðức Giêsu là người khách thường xuyên đến nhà Mácta ở Bêtania, một ngôi làng nhỏ bé cách Giêrusalem chừng hai dặm. Chúng ta thấy ba lần đến thăm của Ðức Giêsu được nhắc đến trong Phúc Âm Luca 10,38-42, Gioan 11,1-53, và Gioan 12,1-9.
Nhiều người dễ nhận ra Mácta qua câu chuyện của Thánh Luca. Khi ấy, Mácta chào đón Ðức Giêsu và các môn đệ vào nhà của mình, và ngay sau đó Mácta chuẩn bị cơm nước. Sự hiếu khách là điều rất quan trọng trong vùng Trung Ðông và Mácta là điển hình. Thử tưởng tượng xem ngài bực mình biết chừng nào khi cô em Maria không chịu lo giúp chị tiếp khách mà cứ ngồi nghe Ðức Giêsu. Thay vì nói với cô em, Mácta xin Ðức Giêsu can thiệp. Câu trả lời ôn tồn của Ðức Giêsu giúp chúng ta biết Người rất quý mến Mácta. Ðức Giêsu thấy Mácta lo lắng nhiều quá khiến cô không còn thực sự biết đến Người. Ðức Giêsu nhắc cho Mácta biết, chỉ có một điều thực sự quan trọng là lắng nghe Người. Và đó là điều Maria đã làm. Nơi Mácta, chúng ta nhận ra chính chúng ta -- thường lo lắng và bị sao nhãng bởi những gì của thế gian và quên dành thời giờ cho Ðức Giêsu. Tuy nhiên, thật an ủi khi thấy rằng Ðức Giêsu cũng yêu quý Mácta như Maria.
Lần thăm viếng thứ hai cho thấy Mácta đã thấm nhuần bài học trước. Khi ngài đang than khóc về cái chết của anh mình và nhà đang đầy khách đến chia buồn thì ngài nghe biết Ðức Giêsu đang có mặt ở trong vùng. Ngay lập tức, ngài bỏ những người khách ấy cũng như gạt đi mọi thương tiếc để chạy đến với Ðức Giêsu.
Cuộc đối thoại của ngài với Ðức Giêsu chứng tỏ đức tin và sự can đảm của ngài. Trong cuộc đối thoại, Mácta khẳng định rõ ràng là ngài tin vào quyền năng của Ðức Giêsu, tin vào sự phục sinh, và nhất là tin Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa. Và sau đó Ðức Giêsu đã cho Lagiarô sống lại từ cõi chết.
Hình ảnh sau cùng của Mácta trong Phúc Âm đã nói lên toàn thể con người của ngài. Lúc ấy, Ðức Giêsu trở lại Bêtania để ăn uống với các bạn thân của Người. Trong căn nhà ấy có ba người đặc biệt. Lagiarô là người mà ai cũng biết khi được sống lại. Còn Maria là người gây nên cuộc tranh luận trong bữa tiệc khi cô dùng dầu thơm đắt tiền mà xức lên chân Ðức Giêsu. Về phần Mácta, chúng ta chỉ được nghe một câu rất đơn giản: "Mácta lo hầu hạ." Ngài không nổi bật, ngài không thi hành những việc có tính cách phô trương, ngài không được hưởng phép lạ kỳ diệu. Ngài chỉ hầu hạ Ðức Giêsu.
Thánh Mácta được đặt làm quan thầy của các người hầu hạ và đầu bếp.
Lời Bàn
Các nhà chú giải Kinh Thánh nói rằng trong đoạn văn diễn tả việc Lagiarô sống lại, Thánh Gioan có ý nhắn nhủ chúng ta phải coi lời của Mácta nói với Maria (trước khi Lagiarô sống lại) như tóm lược những gì một Kitô Hữu phải vâng theo. "Thầy có mặt ở đây và đang hỏi đến em." Chúa Giêsu kêu gọi mọi người chúng ta đến sự phục sinh -- mà sự phục sinh ấy hiện có trong đức tin khi rửa tội, được chia sẻ vĩnh viễn sự chiến thắng của Người đối với sự chết. Và tất cả chúng ta, cũng như ba người bạn của Chúa Giêsu, được mời gọi kết tình bằng hữu với Chúa trong một phương cách độc đáo.
(Trích trong nguoitinhuu.com)
Suy niệm 3:
Trong bài Tin Mừng hôm nay, khuôn mặt Maria khá nổi bật.
Chúng ta dễ thấy là Thầy Giêsu nghiêng về cô em hơn.
Mácta đón Thầy vào nhà trong tư cách là chị.
Còn Maria sau đó là người tiếp Đức Giêsu.
Maria thanh thản, lặng lẽ ngồi bên chân Thầy để lắng nghe.
Còn chị Mácta thì ngược lại.
Hẳn là chị phải xuống bếp ngay để lo bữa ăn.
Cuộc viếng thăm của Thầy Giêsu và các môn đệ là khá bất ngờ.
Làm sao để đãi một số vị khách như thế?
Đó là mối lo chính đáng của chị Mácta.
Mácta là người đảm đang, thạo việc, nhanh nhẹn.
Nhưng trong tình thế này, chị thấy rất cần sự giúp đỡ của cô em.
Rõ ràng là Mácta bị cuống lên vì thấy mình có nhiều việc phải làm gấp.
Chị không muốn khách phải chờ đợi lâu,
và chị cũng muốn đãi khách một bữa ăn tương đối thịnh soạn.
“Xin Thầy bảo em giúp con một tay !”
Đó là ước mơ của Mácta, rất đỗi bình thường.
Tiếc thay, Thầy Giêsu lại đang kể chuyện cho Maria,
và cô này đang lắng nghe một cách thích thú (c. 39).
Nhờ Thầy kêu em xuống bếp là phá vỡ câu chuyện còn dang dở của Thầy.
Mácta bị mối lo về bữa ăn chi phối khiến chị quên cả lịch sự cần có.
Chị quên rằng Thầy Giêsu không chỉ cần bữa ăn, mà còn cần tình bạn.
Và tiếp khách cũng là một cách phục vụ không kém giá trị.
Thầy Giêsu nhìn thấy sự căng thẳng, lúng túng của Mácta.
và nhận ra lòng tốt của chị, khi chị muốn dọn một bữa ăn xứng đáng.
Thầy gọi tên chị hai lần cách trìu mến: Mácta, Mácta.
Ngài nhẹ nhàng trách chị vì đã lo lắng băn khoăn về nhiều chuyện quá.
“Chỉ cần một chuyện thôi. Maria đã chọn phần tốt hơn” (c. 42).
Thầy Giêsu không bảo rằng điều Mácta làm là điều không tốt.
Chắc chắn Thầy và trò đều cần bữa ăn ngon sau những ngày rong ruổi.
Nhưng ngồi nghe Thầy vẫn là điều tốt hơn, cần hơn.
Vì thế Thầy sẽ không kêu cô em xuống bếp để phụ giúp cô chị.
Điều mà Maria đã chọn, chẳng ai có thể lấy đi.
Chị Mácta là thánh nữ được tôn kính trong Giáo Hội.
Chúng ta phải bắt chước chị qua công việc tận tụy và đầy trách nhiệm.
Nhưng chúng ta phải làm một cách an bình, khiêm tốn, vui tươi,
không coi việc mình làm là quan trọng hơn việc người khác.
Cuộc sống hôm nay dễ làm ta trở nên Mácta, bị đè nặng bởi công việc.
Nhưng phải cố dành giờ để làm Maria mỗi ngày.
Phải thu xếp để khỏi phải ở dưới bếp quá lâu, để có người thay mình.
Đời sống của người Kitô hữu là kết hợp của Mácta và Maria.
Vừa đón, vừa tiếp; vừa làm việc của Chúa, vừa gặp gỡ chính Chúa;
nhưng dù hoạt động hay cầu nguyện, lúc nào cũng hướng về Chúa.
Cầu nguyện :
Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào,
xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc,
xin cho con quý chuộng những lúc
được an nghỉ trước nhan Chúa.
Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo,
xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa
để nghe lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng,
xin cho con thoát được lên cao
nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.
Lạy Chúa,
ước gì tinh thần cầu nguyện
thấm nhuần vào cả đời con.
Nhờ cầu nguyện,
xin cho con gặp được con người thật của con
và khuôn mặt thật của Chúa.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
28/07 Hạt được một trăm, hạt được ba mươi
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Hạt được một trăm, hạt được ba mươi...
Thứ sáu tuần 16 thường niên.
"Kẻ nghe lời giảng mà hiểu được, nên sinh hoa kết quả".
Lời Chúa: Mt 13, 18-23
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Vậy các con hãy nghe dụ ngôn về người gieo giống: Kẻ nào nghe lời giảng về Nước Trời mà không hiểu, thì quỷ dữ đến cướp lấy điều đã gieo trong lòng nó: đó là kẻ thuộc hạng gieo dọc đường.
Hạt rơi trên đá sỏi là kẻ khi nghe lời giảng, thì tức khắc vui lòng chấp nhận, nhưng không đâm rễ sâu trong lòng nó: đó là kẻ nông nổi nhất thời, nên khi cuộc bách hại, gian nan xảy đến vì lời Chúa, thì lập tức nó vấp ngã.
Hạt rơi vào bụi gai, là kẻ nghe lời giảng, nhưng lòng lo lắng việc đời, ham mê của cải, khiến lời giảng bị chết ngạt mà không sinh hoa kết quả được.
Hạt gieo trên đất tốt, là kẻ nghe lời giảng mà hiểu được, nên sinh hoa kết quả, đến nỗi có hạt được một trăm, có hạt sáu mươi, có hạt ba mươi".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Tinh thần lạc quan
Sự gieo trồng nào cũng mang niềm hy vọng. Chúa Giêsu đã đọc được tinh thần lạc quan ấy của nhà nông, cho nên Ngài đã mượn hình ảnh gieo trồng để nói lên mầu nhiệm Nước Trời. Nhưng xem chừng những hình ảnh gieo trồng mà Chúa Giêsu dùng trong Tin Mừng hôm nay không giống với kỹ thuật canh tác hiện nay. Thật thế, vào thời Chúa Giêsu, đất Palestin vốn khô cằn, người nông dân thời Chúa Giêsu không cày bừa dọn đất trước khi gieo trồng, nhưng gieo vãi trước, rồi sau đó mới cày đất xới bón. Thành ra, có hạt rơi xuống đất tốt, có hạt rơi trên vệ đường, có hạt rơi vào bụi gai. Dù kỹ thuật có khác, dù tiến trình canh tác có khác, người nông dân ở bất cứ thời đại nào cũng giống nhau ở chỗ họ có tinh thần lạc quan. Ðất đai có tươi tốt hay khô cằn, thiên nhiên có ngược đãi hay thuận lợi, mùa gặt tươi tốt vẫn luôn là niềm hy vọng của kẻ gieo trồng.
Chúa Giêsu dường như muốn gieo chính niềm lạc quan ấy vào tâm hồn các môn đệ khi đưa ra dụ ngôn người gieo giống: có hạt rơi bên vệ đường, có hạt rơi trên đá sỏi, có hạt rơi vào bụi gai, nhưng kết quả của mùa gặt vẫn gấp trăm, gấp ngàn. Qua muôn thế hệ, hạt giống Nước Trời vẫn được gieo vãi: có hạt rơi vào vệ đường, sỏi đá, bụi gai của những chống đối và bách hại, hạt giống ấy vẫn nẩy mầm tươi tốt sinh nhiều bông hạt. Người môn đệ Chúa Giêsu luôn tiếp tục gieo vãi hạt giống Lời Chúa, họ luôn được mời gọi đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa và kiên trì, dù thành công hay thất bại. Trong thư 1Cor. thánh Phaolô đã diễn tả đúng tinh thần lạc quan và kiên trì của người gieo giống: "Tôi trồng, Apollô tưới, nhưng Thiên Chúa cho mọc lên".
Vệ đường, sỏi đá, bụi gai vẫn tiếp tục cản trở công việc gieo trồng, nhưng người nông dân của Nước Trời không vì thế mà bỏ cuộc. Có những gieo vãi qui mô ồ ạt, nhưng cũng có những gieo vãi âm thầm: âm thầm trong thinh lặng hằng ngày, âm thầm trong những khước từ, âm thầm trong những bách hại dưới mọi hình thức, nhưng đó vẫn là sự âm thầm cơ bản nhất trong bất cứ sự gieo vãi nào, hay nói theo Ðức Phaolô VI trong Tông huấn Loan Báo Tin Mừng: đó là một sự công bố thinh lặng Tin Mừng, nhưng rất hiệu nghiệm.
Ước gì Lời Chúa hôm nay đem lại niềm tin và lạc quan hy vọng cho chúng ta. Xin cho Lời Chúa củng cố chúng ta trong niềm xác tín rằng những gì chúng ta gieo trong đau thương và nước mắt sẽ được trổ bông chín vàng trong mùa gặt của Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Biến đổi tâm hồn
Những lời giải thích của Chúa Giêsu thức tỉnh những đồ đệ của Chúa mọi thời đại. Có bốn thái độ đối với Lời Chúa: thái độ của mảnh đất bên vệ đường, thái độ của mảnh đất sỏi đá, thái độ của mảnh đất có bụi gai, thái độ của mảnh đất tốt đón nhận hạt giống để cho hại giống sinh hoa kết quả gấp trăm, gấp sáu mươi, gấp ba mươi.
Hôm nay Thiên Chúa vẫn còn gieo vãi hạt giống Ngài xuống trần gian trong nhiều cảnh huống khác nhau. Chúa Giêsu là Lời Thiên Chúa đến với mỗi người chúng ta trong nhiều hoàn cảnh và Chúa gặp phải nhiều phản ứng khác nhau, Giáo Hội không ngừng mang Lời Chúa đến với con người mọi thời đại, nhưng con người đáp lại như thế nào và chính mỗi người chúng ta đây đáp lại như thế nào?
Thần dữ có thể cám dỗ làm ta lạc hướng; những thử thách, những khó khăn có thể làm ta thối chí ngã lòng; những bận tâm lo lắng chuyện trần tục, những ham muốn hưởng thụ làm cho ta quên mất Chúa và Lời Ngài. Mỗi người chúng ta cần xin Chúa biến đổi tâm hồn trở thành như đất tốt, một tâm hồn khiêm tốn quảng đại sẵn sàng lắng nghe Lời Chúa và yêu mến Lời Chúa. Càng được yêu mến thì Lời Chúa mới trở nên tác động và trở nên hữu hiệu làm cho cuộc sống trở nên những hoa trái tốt.
Lạy Chúa, Ngày hôm nay Chúa vẫn còn nói với mỗi người chúng con, ngày hôm nay Chúa đến với chúng con qua chính Lời Chúa, qua lời rao giảng của Giáo Hội và qua những tiếng kêu cầu trợ giúp của anh chị em. Xin cho chúng con đừng nhắm mắt làm ngơ, đừng bịt tai giả điếc, đừng đóng kín con tim, nhưng khiêm tốn lắng nghe và quảng đại đáp trả.
Lạy Chúa, Này con đây xin hãy phán và con xin lắng nghe.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Người gieo và hạt giống
Hễ ai nghe lời rao giảng Nước Trời mà không hiểu, thì quỷ dữ đến cướp đi điều đã gieo trong lòng người ấy: đó là kẻ đã được gieo bên vệ đường.
Còn kẻ được gieo trên đất tốt, đó là kẻ nghe Lời và hiểu, thì tất nhiên sinh hoa kết quả và làm ra, kẻ được gấp trăm, kẻ được sáu chục, kẻ được ba chục.” (Mt. 13, 19-23)
Chúa giảng về dụ ngôn người gieo giống, nhưng hầu như chỉ chú ý đến hạt giống, dẫu rằng người gieo giống ở đây đúng là “Con Người”. Chúa đã giải thích cho biết hạt giống là Lời Chúa; Lời mặc khải những mầu nhiệm “Nước Trời”, khi con người đón nhận và gắn bó với Lời Người, thì lời thiết lập Nước Trời giữa mọi người.
Ta không áp dụng trực tiếp cho chính lời Chúa, nhưng áp dụng cho những người nghe qua hình ảnh những mảnh đất khác nhau mà hạt giống được vãi xuống. Điểm nổi cộm của dụ ngôn là những mảnh đất khác nhau: Người gieo và hạt giống không thay đổi, nhưng đất gieo không cống hiến những thành công như nhau. Tóm lại lời Chúa phải chịu số phận rủi ro, đó mới là đối tượng thực sự của dụ ngôn. Chúa đã chỉ có thể nói giản dị rằng: Hạt giống tốt và người gieo hào phóng; còn anh em, hãy làm phần còn lại là mảnh đất gieo để có chắc được mùa lúa tốt.
Nước Trời.
Vì hay nói và nói quá nhiều về Nước Trời, nên người ta không còn thấy bận tâm về chuyện này nữa. Nước Trời trở thành một sáo ngữ đạo đức, trống rỗng. Thế nhưng, chúng ta hiện là những người có trách nhiệm đối với Nước Trời. một Nước Trời không thuộc thế gian này, điều mà ta hằng nhắc nhở mình, để không làm việc luống công, hoặc không thoái thác công việc, vì Giáo Hội chúng ta là của những người nghèo.
Đúng là khi ta nói về Nước Trời, lời ấy dù vẫn là một mà đã được hiểu một cách rất khác nhau tùy như ta quan niệm này hay ta quan niệm kia, bênh vực cho nhóm này hay nhóm kia mà ta hiểu lời Chúa (Nói) về Nước Trời một cách khác nhau. Điều quan trọng ta cần biết không phải là xem chúng ta hoặc người khác thuộc về nhóm nào, mà là cách ta đón nhận Lời Chúa trong đời sống của ta ra sao.
Lời Chúa cho tất cả mọi người, và mọi người phải sống Lời Chúa.
Cùng một Lời Chúa ấy được nói cho hết thảy mọi người. Lời ấy là sức sống, là tình yêu phải được mọi người đón nhận để mà sống. Khi ta có những thái độ kỳ thị loại trừ, hoặc từ chối gieo lời Chúa trong mảnh đất này hay mảnh đất kia, chúng ta không làm giống như Đức Giêsu là người gieo yêu thương chỉ những mảnh đất phì nhiêu, nhưng trên cả những mảnh đất sỏi đá gai góc. Làm như vậy là chúng ta không muốn, không để cho Lời Chúa được nảy nở và triển vậy.
J.M
Suy niệm 4:
Dụ ngôn người gieo giống của Đức Giêsu là một dụ ngôn đầy nét hy vọng.
Nếu có một lúc nào đó người môn đệ chán nản
vì thấy có bao hạt giống được gieo vãi mà chẳng thu lại được gì,
bao điều cản trở sự lớn lên của Nước Thiên Chúa,
thì dụ ngôn này nhắc cho họ thấy rằng có những hạt lúa được bội thu.
Kết quả của những hạt lúa bội thu thì gấp nhiều hơn số lúa đã gieo vãi.
Bài Tin Mừng hôm nay là một lời giải thích dụ ngôn trên của Đức Giêsu.
“Anh em hãy nghe dụ ngôn người gieo giống” (c. 18).
Đức Giêsu mời gọi như thế với các môn đệ của thời Ngài và của mọi thời đại.
Cả bốn hạng môn đệ sắp được Ngài kể ra đều là những người đã nghe Lời.
Lời đây là lời Tin Mừng, lời giảng dạy của Đức Giêsu về Nước Thiên Chúa.
Lời này được ví như hạt giống mà Đức Giêsu gieo vãi trong tim môn đệ (c. 19).
Trái tim người môn đệ là một thửa đất nhận hạt giống ấy.
Chỉ có một loại hạt giống như nhau, cũng như chỉ có một người gieo.
Kết quả khác nhau là tùy vào chất lượng của đất, chất lượng của trái tim.
Có bốn loại đất, bốn loại môn đệ với tâm hồn khác nhau.
Loại đất vệ đường, đất cứng, khiến hạt giống chỉ nằm ở bên trên.
Lời Chúa chỉ được nghe suông ngoài tai, nhưng không được đón nhận vào tim.
Chính vì thế loại môn đệ này được coi là không hiểu (c. 19).
Không hiểu không phải vì trí khôn kém cỏi hay vì người truyền đạt yếu.
Không hiểu chỉ vì không muốn hiểu, lòng không muốn đón nhận.
Khi lòng không ưng thì quỷ đến và cướp mất hạt giống đã gieo.
Loại đất sỏi đá là loại đất chỉ có một lớp đất mỏng thôi.
Hạt giống được gieo thì mọc lên ngay,
nhưng vì không có rễ sâu nên chỉ sống được một thời gian ngắn (c. 21).
Loại môn đệ thứ hai này chẳng những nghe mà còn vui vẻ đón nhận ngay (c. 20).
Nhưng sự đón nhận vội vã này rất hời hợt, và niềm vui cũng không sâu.
Họ tưởng làm môn đệ chỉ gặp toàn niềm vui và an bình.
Chính vì thế khi phải trả giá để sống Lời Chúa, thì họ vấp ngã ngay và bỏ cuộc.
Loại đất có bụi gai là đất có thể làm hạt giống lớn lên thành cây,
nhưng cây lại bị gai lấn át làm chết ngạt (c. 22).
Bụi gai của loại môn đệ này là nỗi lo lắng chuyện đời và lòng ham mê giàu có.
Bụi gai nằm ngay giữa thửa đất trái tim, lớn mạnh đến nỗi làm cây lúa úa vàng.
Cuối cùng là đất tốt, đất chẳng như vệ đường, chẳng có sỏi đá hay bụi gai.
Hạt giống gặp đất tốt này thì sinh hạt, hạt được một trăm, sáu chục hay ba chục.
Loại môn đệ cuối này khác hẳn với loại thứ nhất vì nghe và hiểu Lời Chúa (c. 23).
Tuy nhiên, kết quả đem lại nhiều hay ít còn tùy mức độ mở ra của từng người.
Lời Chúa hôm nay mời ta nhìn lại thửa đất của trái tim mình.
Những cứng cỏi, những hời hợt thiếu rễ sâu, những chi phối của đam mê vật chất.
Bao hạt giống được gieo mà chưa sinh hoa trái.
Xin Chúa giúp ta dọn dẹp, cải tạo lại thửa đất của tâm hồn
để tim ta có ít chỗ cho thế gian và nhiều chỗ hơn cho Thiên Chúa.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay.
Chúng con thường xây nhà trên cát,
vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy,
nhưng lại không dám đem ra thực hành.
Chính vì thế
Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con.
Xin cho chúng con
đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa,
đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.
Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình,
để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng truởng.
Ước gì ngôi nhà đời chúng con
được xây trên nền tảng vững chắc,
đó là Lời Chúa,
Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
27/07 Lý do dùng Dụ Ngôn
- Viết bởi Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc, S.J
Lý do dùng Dụ Ngôn.
Thứ năm tuần 16 thường niên.
"Về phần các con, đã cho biết những mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không cho biết".
Lời Chúa: Mt 13, 10-17
Khi ấy, các môn đệ đến gần thưa Chúa Giêsu rằng: "Tại sao Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ?" Người đáp lại: "Về phần các con, đã cho biết những mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không cho biết. Vì ai đã có, thì ban thêm cho họ được dư dật; còn kẻ không có, thì cái họ có cũng bị lấy đi.
Bởi thế, Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ: vì họ nhìn mà không thấy, lắng tai mà không nghe và không hiểu chi hết. Thế mới ứng nghiệm lời tiên tri Isaia nói về họ rằng: "Các ngươi lắng tai nghe mà chẳng hiểu, trố mắt nhìn mà chẳng thấy gì. Vì lòng dân này đã ra chai đá, họ đã bịt tai, và nhắm mắt lại, kẻo mắt thấy được, tai nghe được, và lòng chúng hiểu được mà hối cải, và Ta lại chữa chúng cho lành".
"Phần các con, phúc cho mắt các con vì được thấy; và phúc cho tai các con vì được nghe. Quả thật, Thầy bảo các con: Nhiều vị tiên tri và nhiều đấng công chính đã ao ước trông thấy điều các con thấy, mà không được thấy; mong ước nghe điều các con nghe, mà không được nghe".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Tại Sao Dùng Dụ Ngôn
Kitô giáo là đạo từ trời xuống, vì những giáo lý và niềm tin Kitô do chính Thiên Chúa truyền xuống. Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời Thiên Chúa chính là mạc khải về Thiên Chúa cho con người.
Trong lời rao giảng của Ngài, Chúa Giêsu thường dùng dụ ngôn để nói về Nước Trời, một thực tại không thể diễn tả được bằng ngôn ngữ loài người, và nếu có diễn tả được, thì con người cũng không thể hiểu nổi vì nó vượt khỏi thế giới khả giác này, hay nói như thánh Phaolô, đó là thực tại mà mắt con người chưa từng thấy, tai chưa từng nghe, lòng người chưa từng cảm nghiệm được. Thực tại ấy không thể thu hẹp trong một vài câu định nghĩa, mà phải diễn tả bằng dụ ngôn, vì cách diễn tả này không giới hạn, nhưng tạo thuận lợi cho việc tìm hiểu sâu xa hơn.
Dụ ngôn là một thứ ngôn ngữ nói với những người trong cuộc, những người sống trong tình thân với nhau. Ðể hiểu được dụ ngôn, cần phải có hai đức tính quan trọng, đó là tâm hồn rộng mở và ước muốn tìm hiểu. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: "Về phần các con đã được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không". Nói khác đi, các môn đệ đã được chấp nhận vào cộng đoàn của những kẻ tin vào Chúa Giêsu, vì thế, các ông có thể hiểu rõ những mầu nhiệm. Còn những kẻ ở bên ngoài, nhất là những kẻ ở bên ngoài vì kiêu hãnh, vì khép kín, vì định kiến, như các Luật sĩ và Biệt phái, thì khi nhìn vào các mầu nhiệm họ chỉ thấy bí ẩn và khó hiểu. Chính cách trả lời của Chúa là tiêu chuẩn để biết được ai là người thuộc về Chúa và ai là người ngoài cuộc: "Nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không thấy, lắng tai mà không nghe. Còn các con, mắt các con thật có phúc vì được thấy, tai các con có phúc vì được nghe".
Ước gì chúng ta được vào số những người mà Chúa Giêsu cho là có phúc, tức là những người thấy, nghe và hiểu được Lời Chúa cũng như nhận ra ý Chúa trong mọi biến cố cuộc sống.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Cứng Đầu
Người đáp: “Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không. Ai đã có thì được cho thêm, và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng bị lấy mất. Bởi thế, nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìm mà không nhìn, nghe mà không nghe không hiểu.” (Mt. 13, 11-13)
Nếu những người Pha-ri-sêu không hiểu biết gì (về mầu nhiệm Nước Trời) thì không phải lỗi tại Thiên Chúa, hay tại Đức Kitô. Chính họ không muốn hiểu, không muốn thấy. Chính họ không không ưa Đức Kitô, cũng chẳng thích giáo huấn của Người. Sự “họ không muốn” ấy là điều rất quan trọng, bởi đó là vấn đề con người hoàn toàn tự do đối với Thiên Chúa, vấn đề mà chúng ta đều có kinh nghiệm.
Luôn luôn vịn cớ.
Đây là một sự kiện: Khi ta nhất định cóthái độ cố chấp người khác có thể nói hoài, cũng chẳng làm thay đổi được quyết định của ta. Dù trong trường hợp bình thường hoặc trong những lúc quan trọng của đời sống, ta cởi mở khá được bao lâu để thực sự lắng nghe người khác. Nhất là khi người khác ấy là người yêu thương ta. Nhưng ta sẽ chẳng nhìn thấy gì, chẳng nghe được gì, bởi lẽ ta dã để cho dục vọng làm mù quáng, tiếng mời gọi xôn xao của cám dỗ lấn át, bất kể cám dỗ nào, vì cám dỗ thì vô vàn vô số…
Ta hãy thành thực với chính mình! Biết bao lần ta đã có thể trở thành kẻ mù lòa, điếc lác, bởi vì dục vọng và cám dỗ đã điều đình với ta, đã thỏa mãn cái tôi của ta. Sau đó, ta sẽ chẳng bao giờ tố cáo mình, vì đã không cố gắng lắng nghe (người ta). Ta đổ cho người khác đã gây lên thất bại cho ta. Hoặc giả nếu ai ngăn cản ta làm những chuyện điên rồ, thì ta nổi khùng la ó là bất công.
Còn Chúa thì …
Vì những người Pha-ri-sêu không khá hơn ta, họ đã làm y hệt như ta, họ đã không muốn nghe lời Đức Kitô, vì lời Người không làm cho hứng thú. Không phải Thiên Chúa không chịu cho họ yêu mến, hiểu biết Lời Người, mà chính họ từ chối đó thôi.
Phần chúng ta cũng vậy. Kìa Chúa đã dùng miệng ngôn sứ I-sai-a mà phán:
“Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu,
Trố mắt nhìn cũng chẳng thấy.
Vì lòng dân này đã ra đần độn…”
Thiên Chúa không có dính líu gì trong chuyện này, mà bởi chúng ta không muốn mà thôi.
Chúng ta đã tố cáo Chúa đã ban bố mười điều răn để đè nén tự do của ta. Nhưng vì lạm dụng tự do mà ta phải chuốc lấy tai họa, thì ta cũng lại tố cáo Người đã đổ những tai họa lên đầu ta, mà không nghĩ rằng chính ta đã tự gây nên cho mình, chứ đâu phải Chúa.
Suy niệm 3:
Tiền định là một trong những vấn đề gây tranh cãi trong thần học.
Có người nhấn mạnh quá đến tác động của ơn Chúa cần để được cứu độ,
đến nỗi coi nhẹ tự do và trách nhiệm của con người.
Có người còn dám cho rằng Chúa đã định sẵn từ vĩnh cửu
những ai phải vào hỏa ngục hay được lên thiên đàng.
Thật ra Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ (1 Tm 2, 4; 4, 10).
Kế hoạch của Ngài là cứu độ toàn thế giới, chẳng trừ một ai.
Muốn được cứu thoát, con người phải dùng tự do mình mà đón lấy ơn Chúa.
Ơn Chúa có tác động trên tự do con người,
nhưng lại không áp đặt hay cưỡng ép nó, vì nếu thế sẽ chẳng còn tự do.
Chính Thiên Chúa ban tự do cho con người, và chính Ngài tôn trọng tự do ấy.
Thiên Chúa không thể tiền định lời đáp của con người trước lời mời của ân sủng.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, có những câu cần được soi sáng.
“Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các màu nhiệm Nước Trời,
còn họ thì không” (c. 11).
Câu này có thể bị hiểu lầm là Thiên Chúa có sự phân biệt đối xử.
Các môn đệ thì được ơn hiểu biết, còn đám đông thì không.
Thật ra Đức Giêsu chỉ muốn nói lên sự kiện này,
các môn đệ là những người đã đáp lại tiếng gọi của Ngài,
nên họ được ơn hiểu biết, ơn nắm bắt được mầu nhiệm Nước Trời.
Còn đám đông những người từ chối thì khó lòng hiểu được.
Một câu khác cũng cần được hiểu đúng : “Người đã có lại được cho thêm,
còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi” (c. 12).
Ở đây Đức Giêsu chỉ muốn nói rằng những ai đã mở lòng đón nhận
thì càng được Thiên Chúa ban cho sự hiểu biết đức tin sâu xa hơn.
Còn những người đã khép lòng trí lại, thì về mặt thiêng liêng sẽ bị nghèo đi.
Vào buổi ban đầu, các môn đệ tin theo Đức Giêsu chỉ là nhóm nhỏ.
Còn một đám đông lớn người Do-thái không tin nhận Ngài.
Đức Giêsu giảng cho họ bằng những dụ ngôn đơn sơ gần gũi.
Ngôn ngữ của dụ ngôn vừa dễ hiểu đối với người mở lòng đón nhận,
vừa khó hiểu đối với những ai từ chối và khép kín (c. 13).
Đức Giêsu không chơi khăm con người khi giảng bằng dụ ngôn,
để khiến họ trố mắt nhìn mà không thấy, lắng tai nghe mà không hiểu.
Nếu họ không hiểu được dụ ngôn, thì không phải lỗi tại Ngài,
mà do quả tim họ đã ra chai đá, do họ nhắm mắt, bịt tai .
Họ không hiểu vì không muốn hoán cải và được chữa lành (c. 15).
Như các môn đệ xưa, các kitô hữu ngày nay cũng là người có phúc.
Chúng ta được thấy, được nghe nhiều điều mà người khác không được.
Ước gì chúng ta tìm được thứ ngôn ngữ thích hợp
để ai cũng có thể nghe được và hiểu được sứ điệp cứu độ của Chúa.
Lời nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện
và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,
khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu
để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Suy niệm 4
Ơn gọi của đôi mắt và đôi tai
(Mt 13, 10-17)
1. Giảng dạy bằng dụ ngôn
Khi lắng nghe các dụ ngôn, chúng ta nên hình dung ra cung cách giảng dạy rất gần gũi của Đức Giê-su. Ngài là Ngôi Lời Thiên Chúa và Ngài đến để nói Lời Thiên Chúa cho chúng ta, nhưng, như thánh sử Mát-thêu tường thuật, Ngài ra khỏi nhà và đến ngồi ở ven Biển Hồ; rồi người ta đến với Ngài rất đông. Đứng ở bờ hồ và có rất đông người đến với mình, thì sẽ có nguy cơ bị xô đẩy té xuống hồ. Chính vì thế, Ngài phải xuống thuyền mà ngồi (x. 13, 1-2). Đức Giê-su thích hiện diện ở giữa chúng ta như thế đó: ngay trong môi trường sống của chúng ta, ngay trong cuộc sống bình thường của chúng ta, ngay trong cộng đoàn của chúng ta, ngay gia đình của chúng ta, ngay ở giữa những vấn đề cuộc sống của chúng ta, và thậm chí, ngay trong lòng của chúng ta, qua Lời của Ngài và bí tích Thánh Thể, được ban cho chúng ta hằng ngày.
Ngoài ra, Đức Giê-su còn trở nên gần gũi với chúng ta trong lời giảng dạy nữa, bởi vì Ngài dùng dụ ngôn mà giảng dạy; như bài Tin Mừng hôm nay kể lại, các môn đệ đến gần Đức Giê-su và hỏi: “Sao Thầy lại dùng dụ ngôn mà nói với dân chúng?” (c. 10) Như thế, nói về Thiên Chúa bằng dụ ngôn là cách thức giảng dạy đặc trưng nhất của Đức Giêsu, đến độ theo các tác giả Tin Mừng: “Người không nói gì với họ mà không dùng dụ ngôn” (Mt 13, 34; Mc 4, 34).
Như chúng ta đều đã biết, những dụ ngôn mà Đức Giêsu kể luôn là một câu chuyện đến từ kinh nghiệm cuộc sống, chẳng hạn dụ ngôn muời cô mang đèn đi đón chàng rể, dụ ngôn những yến bạc, dụ ngôn chiên và dê, dụ ngôn người cha nhân hậu, dụ ngôn nắm men, dụ ngôn hạt cải, và nhất là dụ ngôn “Hạt Giống và Người Gieo Giống”. Dụ ngôn là những câu chuyện đến từ kinh nghiệm đời thường, nhưng khi được Đức Giê-su kể, lại nói cho chúng ta những điều kín ẩn: kín ẩn về Thiên Chúa, kín ẩn về con người, kín ẩn về mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người và giữa con người với nhau, kín ẩn về chương trình cứu độ của Thiên Chúa, kín ẩn về Nước Trời, như lời Thánh Vịnh loan báo:
Mở miệng ra, tôi sẽ kể dụ ngôn,
công bố những điều được giữ kín từ tạo thiên lập địa.”
(Tv 78, 2; Mt 13, 35)
3. Tại sao dùng dụ ngôn?
Đức Giê-su giảng dạy bằng dụ ngôn, đó là vì dụ ngôn có nhiều nghĩa, giống như một bức tranh; và vì thế, dụ ngôn rất tôn trọng ngôi vị và tự do của người nghe, như chính Đức Giê-su hay kết thúc dụ ngôn bằng câu nói: “Ai có tai thì nghe” (c. 9). Người nghe có thể tự do chú ý đến bất cứ chi tiết nào, hay tự do đặt mình vào bất cứ yếu tố biểu tượng (chẳng hạn hình ảnh mảnh đất sỏi đá, đất không nhiều) hay nhân vật nào trong dụ ngôn, và tự mìmh khám phá ra ý nghĩa tùy theo kinh nghiệm sống, vấn đề và tâm trạng hiện có của mình. Đức Giê-su thích dùng dụ ngôn là vì vậy, Ngài tôn trọng ngôi vị và tự do của chúng ta, dù chúng ta là ai và đang ở trong tình trạng nào.
Ngoài ra, khi các môn đệ hỏi Người: “Sao Thầy lại dùng dụ ngôn mà nói với dân chúng?” Đức Giê-su trả lời rằng, đó là ngôn ngữ dành riêng cho những người có ơn hiểu biết, là các môn đệ:
Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không.
Vì thế, khi nghe các dụ ngôn, các môn đệ với ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, họ sẽ được hiểu mầu nhiệm này sâu rộng hơn nữa, như Người nói: “Ai đã có thì được cho thêm và sẽ có dư thừa”. Trong khi đó, dân chúng, vì không có ơn hiểu biết, họ giống như người “nhìn mà không nhìn, nghe mà không nghe không hiểu”! Vậy, để hiểu các dụ ngôn, chúng ta phải có ơn “hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời”; và các mầu nhiệm Nước Trời là các mầu nhiệm liên quan đến chính ngôi vị của Đức Giê-su, bởi vì Người rao giảng Nước Trời và làm cho Nước Trời hiện diện bằng chính ngôi vị của mình. Vì thế, để đón nhận ơn “hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời”, chúng ta không có con đường nào khác, là con đường đi theo Đức Giê-su như người môn đệ.
Chúng ta là Ki-tô hữu, nghĩa là người môn đệ của Đức Ki-tô, người đi theo Đức Ki-tô trong một ơn gọi, ơn gọi gia đình hay dâng hiến, chúng ta hãy khát khao và xin Người ban cho chúng ta ơn “hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời”, để chúng ta biết lắng nghe các dụ ngôn nói về Nước Trời. Và một khi biết lắng nghe các dụ ngôn, chúng ta cũng sẽ “lắng nghe” đời mình như là một dụ ngôn nói về Thiên Chúa và Nước của Người, bởi lẽ dụ ngôn là kinh nghiệm sống được hiểu dưới ánh của Đức Giê-su Ki-tô, Con TC, Ngôi Lời nhập thể.
Và xin Chúa đừng để chúng ta tự đặt mình vào phía “dân chúng” hay đám đông, nghĩa là nhóm người lòng đã ra chai đá, khiến họ “bịt tai nhắm mắt”, hoặc “có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy”. Bởi vì, ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời có liên quan đến đối mắt và đôi tai.
3. Đôi mắt và đôi tai
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su nói: “Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc, vì được nghe.” Lời này của Đức Giê-su cũng liên quan đến đôi mắt và đôi tai của chúng ta. Thực vậy, qua kinh nghiệm cuộc sống, nhất là khi chúng ta có dịp đến phục vụ những người tàn tật, những người mù, những người câm điếc, chúng ta mới nhận ra rằng sự kiện chúng ta thấy được và nghe được, là một ơn huệ; và khi nhận ra đôi mắt và đôi tai của chúng ta là một ơn huệ, chúng ta được mời nhận ra Đấng ban ơn để tạ ơn và ca tụng, và chia sẻ ơn huệ mà chúng ta có cho người khác, nhất là cho những người tàn tật, không có cùng một ơn huệ như chúng ta.
Tuy nhiên, ngay trước đó, Đức Giê-su còn nói tới một bệnh mù khác, một bệnh điếc khác: “họ nhìn mà không nhìn, nghe mà không nghe, không hiểu” (c. 13). Như thế, mối phúc mà Đức Giê-su nói tới, không chỉ là khả năng nhìn thấy sự vật và nghe được âm thanh. Bởi vì, đôi mắt của chúng ta được dựng nên, có “ơn gọi” không phải là nhìn thấy những điều hữu hình, nhưng qua những điều hữu hình, nhận ra những thực tại vô hình. Thực vậy, chúng ta được mời gọi nhìn thấy sự vật không chỉ như là sự vật, nhưng còn là những quà tặng, những ơn huệ, những dấu chỉ, nói lên sự hiện diện của ai đó, của tình thương, nói lên Đấng ban ơn, nói lên chính Đấng tạo dựng.
Và nhất là khi nhìn thấy một người, đôi mắt của chúng ta không được dừng lại ở vẻ bề ngoài, ở ngoại hình, ở trang phục, không được coi người người này là đối tượng để mình thỏa mãn nhu cầu, thỏa mãn lòng ham muốn; nhưng đôi mắt của chúng ta được mời gọi nhìn người khác trong sự thật, nghĩa là người đó là một ngôi vị tự do và có lòng ước ao, có ơn gọi riêng, có quá khứ và những vấn đề riêng, có hành trình riêng cần tôn trọng; nếu sự thật là người ấy có những hành vi phạm lỗi đáng lên án, thì chúng ta được mời gọi nhận ra một sự thật khác lớn hơn: người ấy còn là một ngôi vị bất hạnh đang đau khổ, và có khi người này ở trong bất hạnh mà không biết. Đó cái nhìn của Người Cha nhân hậu đối với người con hoang đàng, đó là cái nhìn của Đức Giê-su về người phụ nữ ngoại tình, đó là cái nhìn của Ba Ngôi Thiên Chúa đối với loài người chúng ta, với từng người chúng ta.
Cũng vậy đối với đôi tai của chúng ta: đôi tai của chúng ta được ban cho, có ơn gọi không phải là nghe tiếng động hay âm thanh, nhưng là nghe ra sự hài hòa của âm thanh, nghe được giai điệu, kết cấu của âm thanh, truyền đạt cho chúng ta một ý nghĩa, một sứ điệp, truyền đạt cho chúng ta Ngôi Lời, bởi vì « Nhờ Ngôi Lời vạn vật được tạo thành » (Ga 1, 3 và St 1). Đó là kinh nghiệm thiêng liêng mà Tv 19 diễn tả:
Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa,
không trung loan báo việc tay Người làm.
(Tv 19, 2).
Thế mà ý nghĩa và sứ điệp, được tạo ra bởi sự liên kết hài hòa theo qui luật giữa các âm thanh, thì hoàn toàn thinh lặng, không có tiếng động. Thiên Chúa nói với con người qua rất nhiều lời nói: lời trong Kinh Thánh, lời từ các chứng nhân của Thiên Chúa, nhưng chính Đức Giê-su Nazareth, Ngôi Lời Thiên Chúa làm nên sự hợp nhất của những lời nói cụ thể này. Như thế, Ngôi Lời không làm cho bất cứ đôi tai nào rung lên, Ngôi Lời chỉ được thốt lên và chỉ được nghe trong thinh lặng. Thiên Chúa ngỏ sự thinh lặng của Ngôi Lời cho người biết lắng nghe:
Không trung loan báo việc tay Người làm.
Ngày qua mách bảo cho ngày tới,
đêm này kể lại với đêm kia.
Chẳng một lời một lẽ, chẳng nghe thấy âm thanh,
mà tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu
và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển.
(Tv 19, 4-5)
* * *
Vì thế, khi cầu nguyện với các dụ ngôn mà Đức Giê-su kể cho chúng ta, chẳng hạn những dụ ngôn trong chương 13 của Tin Mừng theo thánh Mát-thêu, mà Giáo Hội cho chúng ta nghe lại trong những ngày này, chúng ta được mời gọi:
Nhìn ra mình nơi hình ảnh người con, nhìn ra Thiên Chúa nơi hình ảnh người cha, nhìn ra Đức Giê-su Ngôi Lời Thiên Chúa, nơi hình ảnh hạt giống, hạt lúa mì.
Và nghe được sứ điệp về Nước Trời, về tình yêu và lòng thương của Thiên Chúa dành cho chúng ta nơi Đức Giê-su Ki-tô.
Và chúng ta được mời gọi đọc lại cuộc đời của chúng ta không chỉ như những sự kiện nối tiếp nhau, như là những dụ ngôn nói lên tình yêu và lòng thương xót của Chúa, nói lên chính Thiên Chúa.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc, S.J
26/07 Ðền thờ tâm hồn
- Viết bởi Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc, S.J
Ðền thờ tâm hồn.
Thứ tư tuần 16 thường niên – Thánh Gioakim và thánh Anna. Lễ nhớ.
"Nhiều vị tiên tri và nhiều đấng công chính đã ao ước trông thấy điều các con thấy".
* Theo một truyền thống cổ xưa, có thể vào thế kỷ 2. Thánh Gioakim và thánh Anna là song thân của Đức Trinh Nữ Maria. Lòng sùng kính thánh Anna được phổ biến ở phương Đông vào thế kỷ 6, và ở phương Tây vào thế kỷ 10.
Còn thánh Gioakim cũng được tôn kính như thế, nhưng muộn hơn, lối thế kỷ 17.
Lời Chúa: Mt 13, 16-17
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Phúc cho mắt các con vì được thấy; và phúc cho tai các con vì được nghe. Quả thật, Thầy bảo các con: Nhiều vị tiên tri và nhiều đấng công chính đã ao ước trông thấy điều các con thấy, mà không được thấy; mong ước nghe điều các con nghe, mà không được nghe".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Cha Mẹ Đức Maria: Thánh Gioakim Và Anna
Trong Tin Mừng không thấy tên các Ngài. Truyền thống cho chúng ta biết cha mẹ Đức Ma-ri-a gọi tên là Gioakim và Anna.
Thánh Gioakim không được sùng kính, nhưng thánh Anna thì khác.
Sùng kính quảng đại quần chúng.
Lòng sùng kính thánh Anna rất phổ thông trên đất Mỹ Châu ngay thời kỳ di dân. Lòng sùng kính Thánh Anna có từ lâu đời ở Bretagne. Với số nhà thờ kể không xiết.
Với niềm tin mạnh mẽ, đơn sơ, đẹp đẽ của chúng ta. Chúng ta tin rằng Thánh Anna là mẹ Đức Ma-ri-a. Niềm tin đó càng dễ dàng, mạnh mẽ đón nhận vì Đức Ma-ri-a được sinh ra bởi một người cha và một bà mẹ như bao nhiêu xác phàm khác.
Đôi cha mẹ.
Dù cha mẹ Ngài có tên này hay tên khác, không cần bàn đến. Chúng ta tôn kính các Ngài chỉ vì các Ngài đã ban cho chúng ta Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Đó là lần độc nhất trong lịch sử các thánh mà chúng ta tôn kính các Ngài. Dù các Ngài không có tên trong danh sách chính thức các thánh. Công phúc độc nhất của các Ngài mà không thánh nào có được là các Ngài làm cha làm mẹ Đức Ma-ri-a.
Thật là mầu nhiệm đức tin! Thánh Anna và Gioakim không hồ nghi gì về con các Ngài lớn lên là tôi tớ khiêm nhường của Thiên Chúa, Mẹ Thiên Chúa ! các Ngài không thể đoán biết danh tiếng các Ngài sẽ vượt mọi biên giới thời gian, nhưng danh đó như hoa nở, vì các Ngài đã gieo hạt hoa hồng mầu nhiệm, gieo hạt hoa huệ tinh tuyền.
“Lạy Chúa, chúc tụng Ngài đã vinh thăng Đức Trinh Nữ Ma-ri-a”.
SUY NIỆM 2: Cha mẹ tuyệt vời
(Suy niệm của Lm Nguyễn Hưng Lợi)
Cây thấy xanh tươi chưa chắc là đã tốt, nhưng phải là cây cho sinh nhiều hoa trái xinh tươi. Mẹ Maria là hoa trái quí hóa, tuyệt vời của ông bà thánh Gio-a-kim và Anna…
Dù rằng Tin Mừng không ghi lại điều gì về cha mẹ của Đức Trinh Nữ Maria, nhưng thánh truyền đã đề cập đến vai trò của hai ông bà Gio-a-kim và Anna. Ta đi ngược dòng lịch sử cứu độ để hiểu hơn vai trò của thánh Gio-a-kim và thánh Anna. Thánh Gio-a-kim và thánh Anna có thể là cầu nối giữa Cựu Ước và Tân ước, giữa Israen cũ và Israen mới. Hai vị thánh này đã được Thiên Chúa tuyển chọn, chúc phúc và ban nhiều ân huệ quí giá, qua đó, các Ngài sinh ra Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Đức Giêsu…
Tin Mừng trong thánh lễ hôm nay đề cập đến người gieo giống. Gieo giống là dấu hiệu của hy vọng. Nước Trời như mầm non đang chồi lên từ mặt đất khắp đó đây mà hạt giống ở dưới đất ta đâu có thấy được chúng, ta đâu có nghe được tiếng khi chúng đang tí tách vươn mình lên khỏi đất. Đức Hồng y Etchaygaray đã nói một câu rất chí lý:” Người ta dễ nghe tiếng cây đổ, nhưng có hàng triệu triệu hạt mầm đang tí tách vươn mình khỏi đất, nào ta có nghe được tiếng kêu. Thánh Gio-akim và thánh Anna là những cây tươi tốt, đã từng là những hạt giống tốt xinh, đã hiện diện ở cuộc đời này và sinh ra hoa trái rất tốt tươi là Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Con Thiên Chúa. Quả thực, chính hạt giống là hai thánh Gio-a-kim và Anna đã chịu thối đi trong lòng đất, nên đã sinh ra hoa trái xinh tươi là Đức Giêsu Kitô.
Thánh Gio-a-kim tượng trưng cho người gia trưởng mẫu mực đạo đức, thánh thiện và luôn sẵn sàng bảo vệ, nâng đỡ bà thánh Anna, còn bà thánh Anna được tôn sùng như mẫu gương của các bà mẹ, đồng thời Hội Thánh tặng cho bà danh hiệu Mẹ của Đức Trinh Nữ Maria. Sách ngụy thư của thánh Giacôbê có ghi: “ Hai ông bà đã già mà không có con, đây là một thử thách lớn lao của hai ông bà, nhưng cuối cùng thiên thần Chúa đã hiện ra loan báo cho hai ông bà một tin vui mừng: bà sẽ thụ thai và sinh ra Đức Trinh Nữ Maria và hai ông bà đã dâng Đức Mẹ trong đền thờ cho Thiên Chúa “.
Hội Thánh đã chọn ngày 26/7 hằng năm kính nhớ hai thánh Gio-a-kim và Anna. Lòng sùng hai vị thánh này đã có từ cổ xưa và ngày nay đã lan tràn khắp thế giới.
« Lạy thánh Gioakim và thánh Anna, đôi bạn hạnh phúc, tất cả mọi tạo vật đều mang ơn các Ngài, vì nhờ các Ngài mà tạo vật đã dâng lên cho Đấng Hóa Công một lễ vật cao trọng, đó chính là Đức Mẹ, Mẹ Thiên Chúa “ (lời cầu của thánh Đamascênô).
Xin cho mỗi người chúng con luôn noi gương bắt chứoc hai thánh Gioakim và thánh Anna luôn hết lòng tôn vinh tình yêu tuyệt vời của Thiên Chúa. Amen.
SUY NIỆM 3: Thánh Gioakim và Thánh Anna, Song Thân Đức Maria
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hưng Lợi)
Gia đình là nền tảng của xã hội, là Hội Thánh thu hẹp trong đó đức tin được toả sáng khắp nơi. Chính vì hiểu rõ vai trò của đời sống gia đình. Chúa Giêsu khi tới trần gian theo ý Đức Chúa Cha, Ngài cũng chọn một gia đình để sinh ra. Khi có một gia đình, có cha có mẹ, Chúa Giêsu muốn nâng cao phẩm giá của gia đình... Ngài chỉ ra rằng gia đình luôn có vai trò đặc biệt trong lịch sử cứu rỗi. Mẹ của Chúa Giêsu là Maria và Cha của Ngài là thánh Giuse. Maria cũng đã xuất thân trong một gia đình đạo đức, thánh thiện. Cha của Người là thánh Gio-a-kim và Mẹ của Người là bà thánh An-na. Hai ông bà Gioakim và Anna đã một mực tuân theo ý Chúa, một mực làm mọi sự theo khuôn mẫu của Chúa.
THÁNH GIO-A-KIM VÀ THÁNH AN-NA LUÔN TRUNG TÍN VỚI CHÚA:
Đức Maria là hoa quả của hai thánh Gioakim và thánh Anna. Cây tốt sinh trái tốt. Cha mẹ hiền lành để đức cho con. Xem quả biết cây. Tất cả những điều ấy muốn nói lên rằng Chúa luôn yêu thương những người biết tin tưởng, phó thác, cậy trông vào Ngài. Đọc lại Kinh Thánh, ta không thấy Thánh Kinh thuật lại lai lịch, và cuộc sống của hai thánh Gioakim va Anna là song thân của Mẹ Maria. Nhưng các Thánh Truyền cho ta hiểu rõ rằng hai ông bà Gioakim và Anna luôn phó thác, cậy trông và tin tưởng vào Chúa. Hai ông bà đã già nua tuổi tác mà vẫn không có con, nhưng Thiên Chúa đã yêu thương, chấp nhận lời khẩn nguyện, cầu xin của hai ông bà và cho hai ông bà cưu mang, hạ sinh người con yêu quý là Maria. Đây là hồng ân cao cả Thiên Chúa dành cho ông bà Gioakim và Anna. Cái phúc mà song thân của mẹ Maria đã lãnh nhận từ Thiên Chúa biến đổi cả cuộc đời của hai ông bà như lời Tv 23, 5 đã viết:” Các Ngài được Chúa ban phúc lành, và được Thiên Chúa cứu độ hằng xót thương”. Thiên Chúa đã chúc phúc cho hai ông bà bằng tình yêu vĩnh cửu, tình yêu không bao giờ tàn lụi, phai mờ, tình yêu hiến trọn cho người khác. Vì luôn trung tín với Thiên Chúa, hai ông bà được Thiên Chúa yêu thương một cách đặc biệt và Maria là con hai ông bà đã được Thiên Chúa cất nhắc, để ý và tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Chính nhờ phúc lành Hai ông bà lãnh nhận nơi Thiên Chúa, qua các Ngài, phúc lành ấy cũng được đổ xuống cho muôn dân, muôn nước và từng người.
NHÂN LOẠI ĐƯỢC HẠNH PHÚC:
Ngay trong ca nhập lễ, lễ hai thánh Gioakim và thánh Anna, Hội Thánh đã ca rằng: ”Chúng ta hãy ngợi khen thánh Gioakim và thánh Anna nơi con cháu các Ngài, vì qua các Ngài, Chúa đã ban phúc lành cho muôn dân“. Hai thánh Gioakim và Anna đã cảm nghiệm sâu xa lời của Chúa: “Phúc cho mắt các con vì được thấy; và phúc cho tai các con, vì được nghe. Quả thực Thầy bảo các con: nhiều vị ngôn sứ và nhiều Đấng công chính đã ao ước trông thấy điều các con thấy; mong ước nghe điều các con nghe, mà không được nghe (Mt 13, 16-17). Thánh Gioakim và thánh Anna đã có phúc thật sự, các Ngài đã lãnh nhận biến cố làm Cha làm Mẹ của Đức Trinh nữ Maria như một ân sủng tuyệt vời và các Ngài đã biến giây phút ân sủng ấy như một hồng ân cứu độ mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban tặng cho các Ngài và qua các Ngài trao ban cho nhân loại. Các Ngài hạnh phúc vì đã xem thấy những điều và đón nhận điều quí trọng vô giá mà không người nào trên trần gian đã có thể lãnh nhận: hồng ân làm mẹ làm cha của người nữ tử Sion: Maria.
Mừng lễ hai thánh Gioakim và thánh Anna, nhân loại phải biết ơn các Ngài vì qua hai Ngài mà nhân loại lãnh nhận được ơn cứu độ qua cháu của hai Ngài là Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế mà muôn dân hằng mong đợi.
Lạy Thiên Chúa là Đấng tổ phụ chúng con tôn thờ, Chúa đã ban cho thánh Gioakim và thánh Anna được diễm phúc sinh hạ Đức Maria là Thánh mẫu của Đức Kitô, Con Chúa nhập thể. Xin nhận lời hai thánh chuyển cầu cho chúng con được hưởng ơn cứu độ, Chúa đã hứa ban cho dân riêng của Chúa” (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Gioakim và Anna song thân Đức Maria).
SUY NIỆM 4: Thánh Gioakim và Thánh Anna, Song Thân Đức Maria
Truyền thống cổ xưa từ thế kỷ II kể rằng song thân của Đức Trinh Nữ Maria là thánh Gioakim và thánh nữ Anna. Lòng sùng kính hai vị là hiệu quả tất yếu của lòng đạo đức các tín hữu vẫn dành cho ái nữ của các vị là Đức Maria. Đức Lêô XIII đã thiết lập một lễ kính chung thánh Gioakim và thánh nữ Anna, vì trước kia hai ngài được kính riêng, cho đến khi có cuộc canh tân phụng vụ mới đây.
Mái nhà song thân Đức Trinh Nữ.
Phúc thay thánh Gioakim và thánh nữ Anna vì người con các ngài đã sinh ra. Chúa đã ban cho các ngài phúc lành của mọi quốc gia.
Truyền thống rất cổ xưa đã lưu truyền cho chúng ta quí danh của song thân Đức Maria. Trong thời đại và những hoàn cảnh lịch sử, các ngài đã là tảng đá nền quí báu trong việc hoàn tất chương trình cứu độ nhân loại. Qua hai ngài, phúc lành Thiên Chúa đã hứa ban cho tổ phụ Abraham và dòng dõi đã truyền đến chúng ta, và chúng ta được tiếp nhận Đấng Cứu Thế nhờ sự cộng tác của các ngài.
Thánh Gioan Damascene đã khẳng định chúng ta nhận biết hai đấng thánh diễm phúc này qua hoa quả của các ngài: Đức Trinh Nữ Maria là hoa quả tuyệt vời các ngài đã trao cho nhân loại. Thánh Anna cưu mang Đức Maria rất tinh tuyền vô nhiễm trong cung lòng. Ôi hài nhi rất xinh đẹp, rất khả ái! – Thánh Tiến Sĩ đã reo lên – Ôi, nữ tử của Ađam và Mẹ Thiên Chúa, phúc thay lòng đã cưu mang Mẹ! Và phúc thay cánh tay đã bồng ẵm Mẹ, đôi môi đã được đặc ân hôn yêu Mẹ… Thánh Gioakim và thánh nữ Anna đã được đặc ân chăm sóc Mẹ Thiên Chúa trong mái nhà của các ngài. Thiên Chúa chắc chắn đã trào đổ nhiều ân sủng xuống cho các ngài trong suốt thời kỳ ấy.
Thánh nữ Têrêxa Avila thường đặt các đan viện ngài thành lập dưới sự bảo trợ của thánh Giuse và thánh Anna, vì lý luận rằng: Lòng nhân lành Thiên Chúa rất lớn lao đến độ Người nhất định sẽ ưu đãi những ngôi nhà của bà ngoại tôn quí của Người. Chúng ta biết Chúa Giêsu đã xuống thế trực tiếp từ họ ngoại.
Chúng ta có thể giao phó cho song thân Mẹ Maria tất cả những nhu cầu, nhất là những nhu cầu liên quan đến đời sống thánh trong gia đình chúng ta. Chúng ta cầu nguyện trong phụng vụ thánh lễ hôm nay, Lạy Chúa là Thiên Chúa các tổ phụ của chúng con, Chúa đã ban cho hai thánh Gioakim và Anna đặc ân làm song thân của Đức Maria, Thánh Mẫu Con Nhập Thể của Chúa. Ước chi những lời cầu xin của các ngài giúp chúng con đạt được phần rỗi mà Chúa đã hứa ban cho dân Chúa. Xin giúp chúng con biết tỉnh thức vì lợi ích của những người Chúa đã ủy thác cho chúng con chăm sóc. Xin dạy chúng con biết tạo lập một sắc thái nhân đạo và siêu nhiên trong những môi trường của chúng con, những nơi chúng con dễ dàng tìm thấy Chúa, vì Chúa là mục tiêu tối hậu, là kho tàng của chúng con.
Đời sống Kitô hữu.
Theo Đức Gioan Phaolô II, thánh Gioakim và thánh nữ Anna là một cảm hứng bất tận cho cuộc sống gia đình và xã hội thường nhật. Đức Thánh Cha kêu gọi: Hãy loan truyền cho nhau, từ thế hệ này sang thế hệ khác, toàn bộ gia sản tinh thần của đời sống Kitô Giáo, gồm cả việc cầu nguyện. Đức Maria tiếp nhận từ song thân của Mẹ những gia sản truyền thống của nhà Đavít, một di sản đã được truyền tụng qua nhiều thế hệ. Ở đó, Mẹ học biết thân thưa cùng Thiên Chúa Cha bằng thái độ cung kính sâu xa. Cũng tại mái nhà ấy, Mẹ đã học biết những lời tiên tri nói về ngày đến của Đức Messiah – về nơi sinh của Con Mẹ…
Khi đến giờ phải tạo lập một mái nhà riêng cho Chúa Giêsu sinh ra đời, Đức Maria chắc chắn đã nhớ lại mái nhà của song thân. Và rồi Chúa Giêsu cũng học biết từ nơi Mẹ những cách thế để thân thưa và những lời đầy khôn ngoan mà sau đó Người đã sử dụng trong thời kỳ rao giảng. Hài nhi Giêsu đã thảo hiếu lắng nghe từ môi miệng Đức Maria những lời cầu nguyện đầu tiên, giống như những con trẻ Do Thái ngay khi vừa bập bẹ biết nói đã được nghe cha mẹ dạy cho. Đức Maria chắc hẳn là một người thầy rất mực tốt lành! Mẹ đã phản chiếu sự phong phú nơi linh hồn đầy ân sủng của Mẹ một cách dịu hiền. Chúng ta được tiếp nhận tặng ân đức tin vô giá và vô số tập tục tốt lành từ tổ tiên, những người đã giữ gìn và truyền lại cho chúng ta kho tàng quí giá ấy. Đồng thời, chúng ta cũng có bổn phận phải bảo tồn gia sản sinh động này để truyền lại cho người khác.
Hiện nay có những cuộc tấn công mãnh liệt đang chống lại các gia đình, chúng ta phải can đảm để bảo tồn di sản chúng ta đã được lãnh nhận. Chúng ta được mời gọi để làm giàu thêm những di sản ấy bằng đức tin và sự chiến đấu để sống các nhân đức nhân bản. Bổn phận chúng ta là phải làm cho Thiên Chúa hiện diện trong mái nhà của chúng ta bằng những phương thế truyền thống Kitô Giáo, chẳng hạn đọc kinh trước và sau khi dùng bữa, đọc kinh tối trong gia đình…, đọc Lời Chúa với người cao niên, đọc một lời kinh ngắn cho những người qua đời, nhắc nhớ những ý nguyện của gia đình và của Đức Thánh Cha, cùng tham dự thánh lễ Chúa Nhật, cùng lần chuỗi Mân Côi, kinh nguyện được các Đức Thánh Cha thường xuyên cổ võ cho các gia đình. Kinh Mân Côi rất phù hợp với thời biểu gia đình, kể cả những chuyến du lịch… Không cần dồn nén quá nhiều việc đạo đức trong các gia đình, tuy nhiên, phải có một số nào đó. Các bậc cha mẹ cùng cầu nguyện với con cái sẽ dễ dàng tìm thấy con đường để hiểu biết tâm hồn chúng. Hơn nữa, những người trẻ sẽ không bao giờ quên được gương sáng của cha mẹ vì đã giúp họ cầu nguyện và đến với Đức Mẹ trong những nhu cầu cần thiết. Chúng ta mang ơn cha mẹ vì các ngài đã đưa chúng ta đến với Chúa Giêsu Thánh Thể… Chắc chắn, những bài học này là di sản lớn lao mà chúng ta được thừa hưởng.
Những hoàn cảnh xã hội hiện nay đòi các gia đình phải gắn bó với những niềm tin và quảng đại trong cách sống. Việc chúng ta khẳng định quyết tâm của mình sẽ rất đẹp lòng Đức Mẹ. Chúng ta quyết tâm trở nên những khí cụ liên kết các thành phần trong gia đình, nhất là qua các hành động phục vụ vui tươi và những hy sinh nhỏ mọn hằng ngày để giúp đỡ người khác. Một quyết tâm như thế sẽ đưa chúng ta đến việc cầu nguyện cho thành phần nào cần được cầu nguyện nhiều nhất trong gia đình, giúp đỡ thành viên nào yếu đuối hoặc thành viên nào đang sa sút, và đặc biệt là sống yêu thương đối với thành viên nào đang yếu bệnh hoặc gặp gian truân.
Giáo dục con cái. Việc cầu nguyện trong gia đình.
Chắc chắn hai thánh Gioakim và Anna luôn ý thức Thiên Chúa đang yêu sách ái nữ của các ngài một điều gì đó thật vĩ đại, bởi vì trẻ Maria đã biểu lộ những đặc ân tuyệt vời trên phương diện nhân bản cũng như siêu nhiên. Các ngài đã dâng ái nữ cho Thiên Chúa, như những bậc cha mẹ Do Thái thường làm. Các bậc cha mẹ củng cố tình yêu cho nhau bằng việc cầu nguyện sẽ biết tôn trọng thánh ý Thiên Chúa đối với con cái của họ. Tình yêu giữa cha mẹ càng được củng cố hơn nữa nếu như con cái họ được ơn tận hiến cho Thiên Chúa. Các bậc cha mẹ thường ước ao và kêu xin Thiên Chúa ơn này, bởi vì như thánh Josemaría Escrivá nói: Dâng con cái để phụng sự Chúa không phải là một hy sinh: đó là một vinh dự và một niềm vui, một vinh dự cao cả và một niềm vui lớn lao. Con cái sẽ nghiệm thấy vẻ đẹp của hành vi hiến dâng những năng lực của chúng cho Nước Chúa, bởi vì bằng nhiều cách, chúng đã học biết thực hiện điều ấy ngay trong nếp sống ở gia đình.
Tình yêu dẫn đến hôn nhân cũng là một con đường thánh thiện, một ơn gọi, một con đường để hiến dâng toàn diện cho Thiên Chúa. Tình yêu này phải hiệu quả và hoạt động nơi hoa trái, tức là con cái. Tình yêu chân thực sẽ biểu hiện trong việc nỗ lực dạy dỗ con cái biết sống chuyên cần, tiết độ, và có giáo dục, theo đúng ý nghĩa của từ ngữ… và trở nên những tín hữu tốt lành. Ước chi các nhân đức nhân bản được phát triển nơi gia đình: nhân cách mạnh mẽ, điều độ trong việc sử dụng vật chất, có tinh thần trách nhiệm, quảng đại, siêng năng… và ước chi mọi người đều biết tiêu dùng một cách kiệm ước, luôn nhớ đến nhiều người trên thế giới vẫn còn đang túng thiếu.
Tình yêu thương con cái đích thực sẽ đưa cha mẹ đến chỗ quan tâm chọn trường học cho con cái, bởi vì điều này ảnh hưởng đến phần rỗi của chúng. Cũng tình yêu ấy sẽ thúc đẩy cha mẹ lo tìm nơi nghỉ ngơi và giải trí lành mạnh cho con cái – thường họ phải hy sinh sở thích và quyền lợi khi tránh những môi trường có thể làm cho việc sống đạo trở nên khó khăn. Cha mẹ đừng bao giờ quên rằng mình là người quản lý một kho tàng quí báu của Thiên Chúa. Là những tín hữu, họ phải tạo lập một gia đình, nơi có Chúa Kitô hiện diện.
Hôm nay, chúng ta nài xin hai thánh Gioakim và Anna giúp chúng ta làm cho mái nhà của chúng ta trở thành một nơi dễ dàng gặp được Thiên Chúa. Chúng ta hãy cậy nhờ sự cầu bầu của Đức Mẹ. Đức Gioan Phaolô II đã khuyến khích: Hợp nhất cùng nhau, chúng ta hãy hướng tâm hồn về Mẹ Maria. Xin Mẹ hãy tỏ ra là Từ Mẫu của chúng ta hết thảy. Xin Mẹ hãy dâng lời cầu nguyện của chúng ta lên Chúa Kitô, Đấng đã trở nên Con của Mẹ, để Người thương tình chấp nhận.
Hạt giống Lời Chúa
(Mt 13, 1-9)
1. Dụ ngôn đầu tiên
Đức Giêsu kể nhiều dụ ngôn, nhưng dụ ngôn “Người Gieo Giống” là dụ ngôn đầu tiên. Vì thế, dụ ngôn này có tầm quan trọng đặc biệt; thực vậy, Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Anh em không hiểu dụ ngôn này, thì làm sao hiểu được tất cả các dụ ngôn” (Mc 4, 13). Có thể nói, đây là “dụ ngôn mẹ” nói cho chúng ta về “những điều được giữ kín từ tạo thiên lập địa”; đó là:
Mầu nhiệm sáng tạo, bởi vì Thiên Chúa Ba Ngôi ra khỏi chính mình để sáng tạo và Thiên Chúa sáng tạo bằng Lời (St 1 và Ga 1, 3).
Mầu nhiệm cứu độ, bởi vì dụ ngôn nói đến tội lỗi và Sự Dữ làm cản trở Lời Thiên Chúa sinh hoa kết quả.
Mầu nhiệm nhập thể, bởi vì Ngôi Lời Thiên Chúa ra khỏi cung lòng Ba Ngôi Thiên Chúa đích thân đến với thế giới loài người chúng ta để ban Lời hằng sống của Thiên Chúa.
Và về mầu nhiệm Thánh Thể và mầu nhiệm Vượt Qua, bởi vì Đức Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời Thiên Chúa, gieo lời và gieo luôn chính mình, như tấm bánh trong bí tích Thánh Thể và như hạt lúa mì, trong cuộc Thương Khó.
Trong dụ ngôn, có một sự so sánh mang nhiều ý nghĩa, nhưng chúng ta thường không để ý vì đã quá quen thuộc, đó là Lời Chúa không được ví như điều gì to lớn hùng mạnh, nhưng như hạt giống nhỏ bé đơn sơ, như chính Đức Giê-su giải thích: “Còn kẻ được gieo trên đất tốt, đó là kẻ nghe Lời và hiểu, thì tất nhiên sinh hoa kết quả và làm ra, kẻ được gấp trăm, kẻ được sáu chục, kẻ được ba chục.” (c. 23) Theo lời kể của thánh sử Mác-cô, Đức Giê-su còn nói rõ hơn nữa: “Người gieo giống đây là người gieo lời” (Mc 4, 14). Như chính kinh nghiệm sống Lời Chúa của chúng ta cho thấy, Lời Chúa theo vẻ bề ngoài thật nhỏ bé, đơn sơ và kín ẩn, nhưng mang trong mình sức mạnh thần linh mạnh hơn sự chết và làm phát sinh sự sống dồi dào; như lời của một bài hát diễn tả: “Lời Chúa là hạt giống nhỏ, hứa hẹn cả mùa gặt bao la”
2. Dụ ngôn “Người Gieo Giống”
Có lẽ đa số chúng ta đều xuất thân từ gia đình làm nông nghiệp, nghĩa là làm vườn hay làm ruộng; hoặc chúng ta có kinh nghiệm ít nhiều về nghề này; nếu không, chúng ta cũng biết được những hoạt động này qua chương trình học phổ thông hay các phương tiện truyền thông. Đối với chúng ta, “người gieo giống ra đi gieo giống” là sự kiện quá đỗi bình thường và lập đi lập lại. Nhưng lời này, vì xuất phát từ miệng Đức Giêsu, nên diễn tả một biến cố thật lớn lao: Ngôi Lời Thiên Chúa, ra khỏi cung lòng Thiên Chúa, đi gieo Lời của mình (trong sáng tạo, trong lịch sử loài người và lịch sử cứu độ. và nhất là nơi Đức Giêsu-Kitô); và Ngài không chỉ gieo Lời của mình, mà còn gieo chính mình, gieo sự sống của mình, vì lời nói của Ngài và ngôi vị của Ngài là một. Như chính Đức Giê-su nói về cuộc Thương Khó của Ngài: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12, 24).
Trong dụ ngôn, có bốn trường hợp: trường hợp đầu là mất trắng, vì những con chim ăn mất hạt giống; trường hợp sau khá hơn một chút: hạt giống mọc lên ngay vì đất không sâu, nhưng vì nắng gắt và thiếu rễ sâu nên bị cháy và chết khô; trường hợp thứ ba khá hơn nữa: hạt giống nẩy mầm, mọc thành cây, nhưng vì sống ở giữa bụi gai, gai cũng lớn lên và mạnh hơn nên làm cây chết ghẹt. Chúng ta hãy nhìn vào bản thân mình, vào cuộc đời mình, và tự hỏi: đâu là số phận của hạt giống Lời Chúa? Và tuy hạt giống Lời Chúa vẫn chưa sinh hoa kết quả dồi dào, những chắc chắn, cũng có những tiến bộ nào đó. Và chúng ta cũng tự hỏi: Đâu là “những chim chóc, nắng gắt, vấn đề thiếu gốc rễ và gai góc” ở nơi bản thân chúng ta, đã làm cho hạt giống không sinh hoa kết quả?
Dụ ngôn Người Gieo Giống chất vấn chúng ta, nhưng cũng mang lại cho chúng ta bình an và hi vọng. Bởi vì, trái với kinh nghiệm sống, Người Gieo Giống trong dụ ngôn của Đức Giê-su, có thể nói, gieo hạt giống quí báu của mình “tùm lum”, gieo đại trà, gieo quảng đại, gieo không phân biệt, không xét đoán. Và Lời Chúa vẫn được gieo quảng đại vào lòng chúng ta như thế hàng ngày trong Thánh Lễ.
Lời Chúa được gieo cách quảng đại vào lòng chúng ta, bởi vì Chúa tin rằng, dù sao đi chăng nữa, trong lòng chúng ta chắc chắn có phần đất tốt, hơn nữa, tự bản chất chúng ta là đất tốt, vì chúng ta được dựng nên bởi Lời Chúa và theo hình ảnh Thiên Chúa; và Chúa hi vọng rằng, có một ngày đẹp trời nào đó, Lời của Ngài sẽ rơi vào phần đất tốt này, rồi mọc lên và lớn mạnh, và sinh hoa kết quả gấp trăm, gấp sáu mươi, gấp ba mươi, nghĩa là bội thu và nhiều đến độ có thể bù lại tất cả những hạt đã mất, xét cho cùng không đáng bao nhiêu! Và đó là điểm tới tất yếu của Nước Trời.
3. Lời ban sự sống
Lời Chúa được ví như hạt giống trong dụ ngôn “Người gieo giống”, nhưng với lời của ngôn sứ Isaia (x. Is 55, 10-11), Lời Chúa còn được ví như mưa, như tuyết vốn là những điều kiện thiết yếu cho hạt giống lớn lên. Ngoài ra, để nẩy mầm, lớn lên và sinh hoa kết trái, hạt giống còn cần ánh sáng nữa. Và Chúa cũng là ánh sáng. Như vậy, Lời Chúa là tất cả: vừa hạt, vừa điều kiện thiết yếu làm cho hạt nầy mầm; bởi lẽ Lời Chúa là chính Sự Sống.
Ước ao của Thiên Chúa, điều mà Lời được sai đi thực hiện là gì? Hình ảnh mưa và tuyết nói rõ: tưới gội mặt đất, làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói của bánh ăn. Thật là đẹp! Những hình ảnh thật sống động và rất gần gũi này diễn tả cho chúng ta Lời Chúa phục vụ sự sống như thế nào; bởi vì Lời Chúa là Sự Sống, hôm nay và mãi muôn đời.
Lời của ngôn sứ Isaia giúp chúng ta hiểu đúng hướng dụ ngôn Người Gieo Giống: hoa trái, và hoa trái bội thu tất yếu của Lời Chúa, bất chấp những trở ngại, thập chí bất chấp điều tưởng là thất bại. Thay vì chỉ hiểu dụ ngôn theo hướng luân lí.
Thật vậy, nơi mầu nhiệm Thập Giá, trở ngại lớn nhất là sự dữ, và sự dữ được để cho đi đến cùng: hủy diệt Hạt Giống, vốn cũng là Người Gieo Giống. Nhưng điều kì diệu đã xẩy ra: đó lại là con đường thần linh, nhưng cũng rất nhân linh và thiên nhiên, để cho Hạt Giống nảy mầm, lớn lên sinh hoa kết quả “gấp trăm” cho sự sống của con người, hôm nay và mãi mãi.
Đó chính là công trình của Thiên Chúa,
công trình kì diệu trước mắt chúng ta.
* * *
Xin Chúa, bằng Lời của Người, vun xới, chăm sóc, thanh tẩy tâm hồn chúng ta, và nhất là loại bỏ những ngăn trở làm cho hạt giống Lời Chúa không sinh hoa kết quả, đó là quỉ dữ, sự nông nổi nhất thời, những lo lắng sự đời và bả vinh hoa phú quí (x. Mt 13, 18-23), để cho lòng chúng ta, gia đình, cộng đoàn của chúng ta, trở thành những mảnh đất tốt, đón nhận Lời Chúa và làm cho Lời Chúa sinh hoa kết quả gấp một trăm, gấp sáu mươi, gấp ba mươi cho sự sống hôm nay và mãi mãi.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc, S.J
25/07 Chén đắng theo Chúa
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Chén đắng theo Chúa.
Thứ ba tuần 16 thường niên – THÁNH GIACÔBÊ, TÔNG ĐỒ. Lễ kính.
"Các con sẽ uống chén của Ta".
* Giacôbê là con ông Dêbêđê, là anh của thánh Gioan và là bạn của thánh Phêrô. Đây là những người dân chài ở hồ Ghen-nê-xa-rét đã đi theo tiếng gọi của ông Gioan Tẩy Giả trước khi theo Đức Giêsu, làm môn đệ của Người. Thánh Giacôbê đã có mặt trong hầu hết các phép lạ Chúa Giêsu làm, nhất là khi Chúa hiển dung trên núi và khi Người hấp hối ở vườn Cây Dầu. Vua Hêrôđê Ácríppa I cho chém đầu thánh nhân khoảng năm 43 hoặc 44. Thánh nhân được đặc biệt tôn kính ở Compốttela (Tây Ban Nha), nơi có một thánh đường danh tiếng kính người.
Lời Chúa: Mt 20, 20-28
Khi ấy, bà mẹ các con ông Giêbêđê cùng với hai con đến gặp Chúa Giêsu. Bà sấp mình xuống lạy Người, có ý xin Người điều chi đó. Người hỏi: "Bà muốn gì?" Bà ta thưa lại: "Xin Ngài hãy truyền cho hai con tôi đây được ngồi một đứa bên hữu, một đứa bên tả Ngài, trong Nước Ngài".
Chúa Giêsu đáp lại: "Các ngươi không biết điều các ngươi xin. Các ngươi có thể uống chén mà ít nữa đây ta sắp uống chăng?" Họ nói với Người: "Thưa được". Người bảo họ: "Vậy các ngươi sẽ uống chén của Ta, còn việc ngồi bên hữu hay bên tả, thì không thuộc quyền Ta ban, nhưng Cha Ta đã chuẩn bị cho ai thì người ấy mới được". Nghe vậy, mười người kia tỏ ra bất bình với hai anh em.
Chúa Giêsu gọi họ lại mà bảo: "Các con biết thủ lãnh của các dân tộc thì thống trị họ và những người làm lớn thì hành quyền trên họ. Giữa các con thì không được thế. Trong các con, ai muốn làm lớn, thì hãy phục vụ các con, và ai muốn cầm đầu các con, thì hãy làm tôi tớ các con. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và phó mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Hạt giống rơi xuống đất có thối đi...
Giacôbê, vị thánh mà Giáo Hội kính nhớ hôm nay là con ông Giêbêđê và bà Salomê và là anh của thánh Gioan tông đồ. Người ta quen gọi thánh Giacôbê Tiền để phân biệt với thánh Giacôbê, giám mục đầu tiên của Giêrusalem, được gọi là Giacôbê Hậu, kính ngày 03/5 cùng với thánh Philipphê.
Giacôbê và Gioan là hai anh em được Chúa Giêsu kêu gọi sau khi Ngài đã chiêu mộ hai anh em Phêrô và Anrê. Phúc Âm thánh Matthêu thuật lại: Hai anh em ông được Chúa gọi ở bờ hồ Genezareth, trong lúc đang ở trong thuyền vá lưới với cha. Ðược Chúa gọi, hai ông bỏ thuyền và người cha để theo Chúa ngay lập tức. Ðiều này chứng tỏ lòng hăng hái nhiệt thành của hai anh em, nên hai người được Ngài cho biệt hiệu là "con cái của sấm chớp" như chúng ta thấy xảy ra ít là trong hai trường hợp sau đây:
Trường hợp thứ nhất khi người xứ Samaria ngăn cản không cho Chúa Giêsu và đoàn môn đệ đi qua lãnh thổ của họ để tiến về Giêrusalem, hai anh em Giacôbê đã hỏi Thầy: "Thưa Thầy, Thầy có bằng lòng để chúng tôi khiến lửa trên trời xuống thiêu hủy họ không?".
Sau đó, trong chuyến đi Giêrusalem lần cuối cùng, cả hai đã đến xin ngồi bên phải và bên trái Thầy, khi Chúa Giêsu sẽ thống trị trong vinh quang. Và khi không hiểu hoàn toàn ý nghĩa câu hỏi của Chúa: "Anh em có uống được chén Ta sẽ uống không?", hai ông đã nhất quyết thưa: "Chúng tôi uống được". Vì thế, sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, như các môn đệ khác, Giacôbê cũng can đảm làm chứng những điều mắt thấy tai nghe về Thầy Giêsu, dầu bị cầm tù, đòn vọt, nhưng đã vui mừng vì được đau khổ vì Chúa Giêsu.
Năm 42, vua Hêrôđê, cháu của Hêrôđê cả, người đã âm mưu giết con trẻ Giêsu, đã bách hại một số thủ lĩnh của các tín hữu Kitô, trong số đó có cả thánh Giacôbê, như sách Tông Ðồ Công Vụ ghi: "Cùng thời kỳ ấy, vua Hêrôđê ra tay bắt bớ và làm khổ mấy người trong Giáo Hội, vua đã truyền chém ông Giacôbê, anh của ông Gioan. Thấy điều này làm vừa lòng người Do Thái, ông lại bắt cả ông Phêrô nữa".
Với nguồn tin này, chúng ta biết thánh Giacôbê là vị tông đồ đầu tiên đã đổ máu đào minh chứng cho niềm tin của mình.
Trong thời nội chiến 1936-1939 tại Tây Ban Nha, các quân phiến loạn đốt nhà thờ, nhà thương, tu viện và giết hại nhiều linh mục cũng như nữ tu. Ngày nọ, một vị linh mục già nua bị phiến quân bắt và bị kết án tử hình. Khi bị trói và dẫn đến trước mặt đội lính hành quyết, cha nói với tên trưởng toán: "Xin anh làm ơn cắt dây trói này, để tôi có thể giơ tay chúc lành cho anh và xin Thiên Chúa cũng tha thứ và chúc lành cho các anh".
Lịch sử ghi nhận đa số các tông đồ đã kết thúc cuộc đời chứng tá cho niềm tn bằng những cái chết đau thương, khởi đầu cho những lớp người chứng tá khác trải qua bao thế hệ. Và cũng như vị linh mục trong câu chuyện trên, hàng trăm, hàng ngàn chứng nhân của niềm tin vẫn còn đang bị giam cầm, tra vấn, đày đọa vì niềm tin. Họ chấp nhận những khổ hình một cách bình thản, không oán hận, trái lại, noi gương Chúa Giêsu, họ sẵn sàng tha thứ cho những ngươi làm khổ họ.
"Hạt giống rơi xuống đất có mục nát và chết đi, mới nảy mầm và phát sinh hoa trái". Không gì minh chứng hùng hồn cho lời tuyên bố này của Chúa Giêsu bằng những cuộc sống chứng tá của các tín hữu Kitô đang chịu đau khổ, giam cầm và tử hình vì niềm tin.
Tử đạo là một ơn gọi đặc biệt, nhưng mọi tín hữu Kitô đều được kêu gọi dâng những ốm đau, bệnh tật, những hy sinh nho nhỏ hằng ngày để cầu cho Nước Cha được trị đến.
SUY NIỆM 2: Thánh Giacôbê Tông Đồ
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Đọc lại ơn gọi của các thánh tông đồ, nhân loại không khỏi ngạc nhiên vì tính cách huyền nhiệm và diệu kỳ của Thiên Chúa trên từng con người, trên từng cá nhân. Tin Mừng của thánh Matthêu viết: ”Đang đi dọc theo biển hồ Galilê, Chúa Giêsu thấy ông Giacôbê, con ông Dê-bê-đê, và ngươi em là ông Gio-an, cả hai đang vá lưới” (Mt 4,18.21).
ƠN GỌI CỦA THÁNH GIACÔBÊ:
Chúa muốn gọi ai là tùy ý Chúa, không ai có quyền buộc Chúa phải làm thế này, phải làm thế khác. Ơn gọi là một ơn huệ nhưng không của Chúa. Thánh Giacôbê là anh của thánh Gioan, con của ông Dêbêđê. Thánh nhân là bạn đồng nghiệp với thánh Phêrô và thánh Anrê, tất cả đều làm nghề chài lưới và là những tay chài thiện nghệ. Các Ngài đã làm nghề cổ truyền này từ đời cha ông và nay họ vẫn tiếp tục sống bằng nghề đánh cá ở biển hồ Giênêsarét. Thánh Matthêu đã tường thuật lại việc Chúa Giêsu kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên như sau:” Người đang đi dọc theo biển hồ Galilê, thì thấy hai anh em kia, là ông Simon, cũng gọi là Phêrô, và người anh là ông Anrê, đang quăng chài xuống biển, vì các ông làm nghề đánh cá. Người bảo các ông: ”Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá. Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo người. Đi một quãng nữa, Người thấy hai anh em khác con ông Dêbêđê, là ông Giacôbê và người em là ông Gioan. Hai ông này đang cùng với cha là ông Dêbêđê vá lưới ở trong thuyền. Người gọi các ông. Lập tức, các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người” (Mt 4,18-22). Tin Mừng nói: Chúa gọi và lập tức họ bỏ tất cả mà theo Chúa Giêsu. Đó là một sự lạ lùng vì chỉ một tiếng gọi, các môn đệ đã bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu. Thánh Giacôbê dù rằng có bị mang tiếng vì bà mẹ của hai người con ông Dêbêđê đã suy nghĩ theo ý trần gian xin cho một ông ngồi bên tả, một ông ngồi bên hữu Chúa trong vương quốc của Ngài, nhưng với sự tác động của Chúa Thánh Thần và với sự thay đổi của ơn Chúa, thánh Giacôbê và thánh Gioan đã hy sinh đến giọt máu cuối cùng để làm chứng cho Chúa.
THÁNH GIACÔBÊ TRỞ THÀNH NGƯỜI THÂN THIẾT CỦA CHÚA:
Được Chúa yêu thương, cải hóa, biến đổi, thánh Giacôbê đã trở nên người thân cận của Chúa, cùng với thánh Phêrô và thánh Gioan. Thánh nhân đã được chứng kiến con ông Zairô Chúa làm cho sống lại, việc chúa biến hình trên núi Tabôrê, và cơn hấp hối của Chúa Giêsu trong vườn cây dầu. Tất cả những điều đó nói lên con người đặc biệt và vô cùng thân tín của Ngài đối với Chúa Giêsu. Chính vì được yêu mến tin tưởng, thánh Giacôbê đã được phước trở thành người tử đạo tông đồ đầu tiên đã đổ máu ra để minh chứng cho Chúa Giêsu phục sinh dưới thời vua Hêrôđê Agrippa I năm 43 hoặc 44 trước lễ phục sinh. Chúa đã trao chén đắng cho Ngài và Ngài đã chấp nhận uống chén đắng Thầy trao. Chúa đã thưởng công và trao mũ triều thiên cho Ngài. Thánh nhân đã được tôn kính đặc biệt trên thế giới từ thế kỷ IX và lòng tôn kính thánh nhân toả lan khắp thế giới.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã ban cho thánh Giacôbê vinh dự là tông đồ đầu tiên đã chết để làm chứng cho Tin Mừng. Xin cho Hội Thánh tìm được sức mạnh nhờ gương tử đạo của thánh nhân, và nhờ Người cầu thay nguyện giúp, Hội Thánh được luôn nâng đỡ phù trì (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Giacô-bê tông đồ).
Suy niệm 4:
“Con Người đến là để phục vụ và hiến dâng mạng sống”
(Mt 20, 20-28)
Để hiểu hết mức độ nghiêm trọng của câu chuyện mà bài Tin Mừng thuật lại, chúng ta được mời gọi khởi đi từ khung cảnh (c. 17-19). Khung cảnh của câu chuyện là một lời loan báo : Đức Giê-su loan báo cuộc thương khó lần thứ ba và cũng là lần cuối. Trong lần loan báo này, Người nói về cuộc Thương Khó với nhiều chi tiết nhất. Dường như, với thời gian, Người cũng nhận ra từ từ mỗi lúc mỗi rõ hơn những gì sẽ chờ đợi mình ở phía trước.
Này chúng ta lên Giê-ru-sa-lem, và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ kết án xử tử Người, sẽ nộp Người cho dân ngoại nhạo báng, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá và, ngày thứ ba, Người sẽ trỗi dậy.
(c. 18-19)
Qua lời loan báo này, chúng ta hiểu rõ nữa rằng, thương khó là hành động của con người : người ta bắt, xét xử, kết án xử tử, nộp cho dân ngoại, họ nhạo báng, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá. Như thế, thập giá hoàn toàn không phải là hành động của Thiên Chúa, nhưng là kết quả, là điểm tới của một tổng thể hành động vừa lớn lao vừa phức tạp của những con người cụ thể ; và chính những con người này cũng không làm chủ được mình, vì Sa-tan làm chủ và hành động nơi họ. Vì thế, trong cuộc Thương Khó, Đức Giê-su, và qua Ngài là chính Thiên Chúa, chủ động để cho Sự Dữ hành động, sao cho Sự Thiện tuyệt đối diện đối diện với chính Sự Dữ.
Như thế, một đàng Đức Giê-su đang hướng tới con đường Thập Giá để trở nên nhỏ bé, để tự xóa mình đi, để dâng hiến và phục vụ. Đàng khác, nơi các môn đệ, lại tồn tại một giấc mơ quyền bính, và điều này tất yếu kéo theo sự ganh tị, tranh chấp và loại trừ. Có lẽ chúng ta không có « giấc mơ quyền bính » như thế, nhưng chắc chắn chúng ta có những gắn bó và quyến luyến đi ngược với con đường Thập Giá của Đức Ki-tô. Vì thế, chúng ta được mời gọi luôn luôn soi mình vào Đức Giê-su chịu đóng đinh, cá nhân cũng như cộng đoàn, và để được Người biến đổi.
1. Người mẹ và hai người con
Ít ai trong Tin Mừng được nói đến cả cha lẫn mẹ, như hai người môn đệ này : hai người là con của ông Dêbêdê, và mang tên Giacôbê và Gioan (Mt 10, 2) và ở đây đích thân mẹ dẫn hai ông đến trước mặt Đức Giêsu và nói thay cho hai ông !
Chúng ta hãy nhìn ngắm ba mẹ con : mẹ đi trước các con theo sau. Kể cũng lạ, người ta đã được kêu gọi đi theo Đức Giêsu rồi mà vẫn còn đi theo mẹ ! Dù sao chúng ta cũng phải cảm phục bà mẹ. Điều này làm chúng ta nhớ đến bà mẹ của Giuse trong phim « Ông thánh bất đắc dĩ » ; trong phim, Giuse khờ khạo và quá đơn sơ, nên mẹ phải lo liệu hết. Nhưng hai ông Giacôbê và Gioan chắc chắn không quá đơn sơ và khờ khạo : hai người đã nghe tiếng gọi, tự do từ bỏ lưới, thuyền, gia đình để đáp lại tiếng gọi (x. Mt 4, 21-22) ; họ đã đi theo Đức Giê-su được một thời gian đáng kể (chúng ta đang ở chương 20 của sách Tin Mừng theo thánh Mát-thêu), và Đức Giêsu đã loan báo cuộc thương khó của Người đến lần thứ ba với nhiều chi tiết nhất. Như thế, hai ông thực sự có ý muốn, có suy tính và có cả một kế hoạch để thực hiện : hình ảnh lẽo đẽo theo mẹ minh hoạ điều này ; hơn nữa, mười người còn lại sẽ tức tối với hai anh này, chứ không tức tối với người mẹ. Như thế, tham vọng kiểu này có thể xẩy ra bất cứ lúc nào trong hành trình người môn đệ theo Thầy Giê-su ; chúng ta được mời gọi nhận ra mình ở hình ảnh này, vì « đi theo mẹ » cũng có nhiều cách thể hiện.
Người mẹ đến bái lạy và kêu xin người một điều. Chúng ta hãy nhìn ngắm bà và cảm phục bà ; bà thực sự quên mình để lo cho hai người con. Đức Giêsu hỏi bà : « Bà muốn gì ? » Bà thưa : « Xin Thầy truyền cho hai con tôi đây, một người ngồi bên hữu, một người bên tả Thầy trong Nước Thầy ». Điều bà xin cho hai con là những người đầu tiên được chia sẻ quyền bính của Đức Giêsu khi ngài thiết lập Vương Quốc của Ngài. Như thế, dường như hai môn đệ đi theo Đức Giêsu chỉ là một con đường, một cách thức để có quyền bính ! Và khi có quyền bính thì có tất cả, trong xã hội cũng như trong Giáo Hội ; ai trong chúng ta cũng thấy hoặc có kinh nghiệm về điều này.
Ngày nay, các bà mẹ (có thể hiểu rộng hơn là gia đình và họ hàng) đều muốn con mình được ngồi trên cao ; và bản thân người đi tu cũng muốn như thế ; và nhiều khi chức thánh cũng được hiểu như là một thứ quyền bính : quyền thánh hoá, quyền giáo huấn, quyền quản trị. Vì thế, đời sống thánh hiến của các nữ tu diễn tả tốt hơn những giá trị của Tin Mừng, nhất là mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Ki-tô : âm thầm, hi sinh, phục vụ quên mình, tuỳ thuộc, bé nhỏ….
2. Đức Giê-su và hai môn đệ
Chúng ta cần lắng nghe và suy gẫm từng chữ lời đáp của Đức Giêsu :
Đức Giê-su bảo: “Các người không biết các người xin gì! Các người có uống nổi chén Thầy sắp uống không?” Họ đáp: “Thưa uống nổi.” Đức Giê-su bảo: “Chén của Thầy, các người sẽ uống; còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Cha Thầy đã chuẩn bị cho ai, thì kẻ ấy mới được.”
(c. 22-23)
Như thế, Đức Giê-su không quan tâm đến điều họ xin, thậm chí Người cũng không có quyền. Ngài chỉ quan tâm đến chén Người sắp uống. Có lẽ hai vị tông đồ tưởng là chén rượu nho thơm ngon, nên trả lời mau mắn : « Thưa uống nổi ». Nhưng chén Người sắp uống là chén nộp mình cho sự dữ ; và khi biến cố xẩy ra, tất cả sẽ bỏ chạy !
Đức Giêsu không có quyền bính kiểu này : thống trị, lãnh đạo, điều khiển, áp đặt… Đúng là Ngài có quyền bính, nhưng quyền bính của ngài không như kiểu quyền bính thế gian : « thủ lãnh thế gian thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền cai quản dân » (c. 25). Quyền bính của Đức Giê-su là quyền bính của ánh sáng, của sự thật và của sự sống ; và ánh sáng, sự thật và sự sống được diễn tả tốt nhất bởi sự hiền lành, khiêm nhường, phục vụ, bởi hy sinh và dâng hiến mạng sống.
3. Muời môn đệ còn lại và Đức Giê-su
Các môn đệ khác tỏ ra tức tối, điều này có nghĩa là các ông có cùng một tham vọng. Lòng ham muốn lây lan, sinh sôi nẩy nở từ thủa ban đầu của sự sống con người (x. St 3) ; và chỉ có cây Thập Giá mới chữa lành được thôi. Trình thuật Tin Mừng kể lại chỉ trong vài dòng chữ, nhưng nói lên biết bao điều sâu kín. Chúng ta hãy nhìn ra lòng ham muốn đã tác hại như thế nào trong tương quan với Chúa và với nhau. Nhưng trước hết, chúng ta có thể so sánh hai ý muốn, hai cung cách và hai con đường : con đường của hai môn đệ và của mười ông còn lại một bên, và bên kia là con đường của Đức Giêsu. Sự tương phản lớn biết bao, và có bất cứ đâu, nơi nhóm, cộng đoàn, Dòng tu, Giáo Hội, xã hội và cả ở những nơi sâu kín, hay tôn nghiêm nhất.
Vì thế, tương quan của chúng ta trong cộng đoàn, Nhà Dòng, và trong Giáo Hội phải đặt nền tảng trên sự hiểu biết thâm sâu Đức Kitô, như thánh Phao-lô khuyên bảo : « Vậy như anh em đã nhận Đức Ki-tô Giê-su làm Chúa, thì hãy tiếp tục sống kết hợp với Người.Anh em hãy bén rễ sâu và xây dựng đời mình trên nền tảng là Đức Ki-tô Giê-su, hãy dựa vào đức tin mà anh em đã được thụ huấn, và để cho lòng chan chứa niềm tri ân cảm tạ » (Col 2, 6-7).
Chúng ta hãy cảm nếm sự hiền lành trong cách Đức Giêsu đối diện vấn đề rất nghiêm trọng nơi các môn đệ. Thực vậy, Người gọi các ông lại và nói :
Anh em biết: thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em.
(c. 25-27)
Ngài nêu ra một cách thức thi hành quyền bính giữa các môn đệ hoàn toàn ngược hẳn với cách thức bình thường. Nếu để ý, chúng ta sẽ nhận ra rằng lời của Ngài rất triệt để : « ai muốn làm lớn… » ; « ai muốn làm đầu… ». Ngài không nói : « ai được đặt làm lớn ; ai được đặt làm đầu ». Nhưng Đức Giêsu nói đến ý muốn, và ý muốn này đang có nơi tất cả các môn đệ và cũng đang có nơi tất cả chúng ta. Đức Giêsu không nêu ra một nguyên tắc xuông, nhưng Ngài luôn luôn nói điều Ngài là, tương tự như những lời Ngài nói trong Bài Giảng Trên núi :
Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.
(c. 28)
« Cũng như » thường được hiểu là các môn đệ và chúng ta được mời gọi bắt chước Đức Giê-su, bắt chước cung cách của Ngài. Nhưng thực tế cho thấy, bắt chước một hồi là chúng ta đuối ! Đức Giê-su ở đây muốn nói tới chính lẽ sống của Ngài ; phục vụ đối với Ngài không phải là một công trình phải cố thực hiện, nhưng phục vụ là lý do hiện hữu của Ngài. Vì thế, phục vụ và hiến dâng cũng phải là lẽ sống của chúng ta, theo gương của thánh Gia-cô-bê Tông Đồ mà chúng ta mừng kính hôm nay. Phục vụ và hiến dâng cũng phải là lẽ sống của chúng ta, bởi vì chính chúng ta đã được Chúa phục vụ trước và Ngài vẫn phục vụ chúng ta hằng ngày trong cuộc sống và trong Thánh Lễ. Hơn nữa, trong đời sống phục vụ, chính Chúa thúc đẩy chúng ta phục vụ, Ngài phục vụ với chúng ta và Ngài phục vụ trong chúng ta, như chúng ta vẫn tuyên xưng hằng ngày : « Chính nhờ Đức Ki-tô, trong Đức Ki-tô và với Đức Ki-tô » ; và như lời thánh Phao-lô xác tín : « Tôi sống, nhưng không còn là tôi sống, nhưng Đức Ki-tô sống trong tôi » (Gl 2, 20).
* * *
Để làm phát sinh sự sống, phục vụ cho sự sống, thì phải hy sinh mạng sống, có thể nói đó là « qui luật của muôn đời của sự sống ». Đức Giê-su không đến để sống cái gì quá siêu nhân hay ngoại nhân, nhưng Người đến để sống và sống đến tận cùng con đường của « hạt lúa mì », để qua đó, nói cho chúng ta rằng, đó là con đường của sự sống, của niềm vui, của hạnh phúc trong sự hiệp thông trọn vẹn và mãi mãi với Chúa và với nhau. Thánh Gia-cô-bê đã đi đến cùng con đường này và chúng ta được mời gọi tiếp bước theo ngài hôm nay.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc, S.J
Suy niệm 5:
Xem ra chức quyền vẫn là nỗi thèm thuồng của con người.
Từ những cuộc xung đột giữa con người sống bầy đàn thời nguyên thủy,
đến cảnh chiếu trên, chiếu dưới ở làng xã
và cảnh chạy chức chạy quyền thời bây giờ.
Ngay các môn đệ thân cận của Thầy Giêsu là Nhóm Mười Hai
cũng không thoát khỏi sức hút của quyền lực.
Họ đã từng cãi nhau xem ai là người lớn nhất trong Nước Trời (Mt 18, 1).
Bây giờ, ngay sau khi Thầy Giêsu loan báo lần thứ ba về cuộc Khổ Nạn,
họ lại có chuyện xích mích với nhau cũng về chuyện chức quyền.
Hai con ông Dêbêđê là hai môn đệ được Đức Giêsu yêu quý hơn.
Chẳng rõ có phải vì thế mà họ nuôi tham vọng
chiếm được chỗ hai bên tả hữu của Thầy trong Nước Thầy (x. Mt 19, 28).
Họ khéo léo nhờ mẹ của mình xin Thầy Giêsu ban cho ơn lớn đó (cc. 20-21).
Đức Giêsu chắc không vui vì môn đệ vẫn chưa được giải thoát khỏi cái trần tục,
“Các người không biết các người xin gì !” (c. 22).
Các môn đệ quá xa lạ với nẻo đường Thầy sắp đi,
dù Thầy vừa mới cho họ biết con đường ấy,
con đường bị chế diễu, bị đánh đòn và bị đóng đinh cho đến chết (Mt 20, 18-19).
Trong khi hai môn đệ thân tín còn loay hoay với những tham vọng thế gian
thì Ngài kéo họ vào hiệp thông với cuộc Khổ nạn gần đến của mình.
Thầy Giêsu mời họ chia sẻ với Thầy cùng một chén đắng:
“Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống không?” (c. 22).
“Thưa uống nổi”, đó là câu trả lời đầy tự tin và mạnh dạn của Giacôbê,
Và ông đã thực hiện lời hứa này bằng cái chết (x. Cv 12, 2).
Nhưng Thầy cũng khiêm tốn cho biết Cha mới có quyền sắp chỗ ngồi (c. 23).
Sự bực tức của mười môn đệ kia khi câu chuyện vỡ lở
cho thấy họ cũng thích được ngồi hai bên tả hữu, tuy không tiện nói ra (c. 24).
Thầy Giêsu cho thấy cách sử dụng quyền lực của các nhà lãnh đạo ngoài đời.
Quyền lực là để thống trị người dân, tìm cách bành trướng cái tôi của mình.
Thầy Giêsu khẳng định dứt khoát không có chuyện đó trong Giáo hội của Thầy.
“Giữa anh em thì không được làm như vậy” (c. 26).
Quyền lực và phẩm trật trong Giáo hội là để phục vụ dân Thiên Chúa.
Những người làm lớn, làm đầu trong Giáo hội
lại là người hầu bàn, người tôi tớ, noi gương Đức Giêsu, Người Tôi Trung.
Chính Ngài đã đưa việc phục vụ đến mức cao nhất là hy sinh tính mạng (c. 28).
Cơn cám dỗ về quyền uy, chức tước là cám dỗ muôn thuở cho mọi người.
Các cộng đoàn Kitô hữu cứ phải xét mình mãi
để khỏi rơi vào thói đời mà Đức Giêsu đã long trọng cảnh báo.
Cầu nguyện:
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận,
xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,
xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ,
xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,
xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi,
Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng,
xin cho các kitô hữu chúng con
trở thành tình yêu
cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài,
biết sống nhờ và sống cho tha nhân,
biết quảng đại cho đi
và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh,
xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa
ở sâu thẳm lòng chúng con,
và trong lòng từng con người bé nhỏ.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
24/07 Dấu lạ Giô-na
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Dấu lạ Giô-na.
Thứ hai tuần 16 thường niên.
"Nữ hoàng phương nam sẽ chỗi dậy lên án thế hệ này".
Lời Chúa: Mt 12, 38-42
Khi ấy, có mấy luật sĩ và biệt phái thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng tôi muốn thấy Thầy làm một dấu lạ". Người trả lời: "Thế hệ hung ác gian dâm đòi một dấu lạ! Nhưng sẽ không cho dấu lạ nào, trừ dấu lạ tiên tri Giona. Cũng như xưa tiên tri Giona ở trong bụng cá ba đêm ngày thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba đêm ngày như vậy. Tới ngày phán xét, dân thành Ninivê sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và lên án nó, vì họ đã nghe lời tiên tri Giona mà sám hối tội lỗi, nhưng đây có Ðấng cao trọng hơn Giona. Ðến ngày phán xét, nữ hoàng phương nam sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và lên án nó: vì bà từ biên thuỳ trái đất đã đến nghe lời khôn ngoan của vua Salomon, nhưng đây có Ðấng cao trọng hơn Salomon".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Dấu Chỉ Yêu Thương
Trong quyển tự thuật "Vì Danh Ta", một Mục sư người Hungari đã kể lại kinh nghiệm của ông. Bị bắt và bị chuyển từ trại này sang trại khác, vị Mục sư vẫn âm thầm rao giảng Lời Chúa cho các bạn tù. Trong 13 năm tù, ông đã giúp cho rất nhiều bạn tù được gặp gỡ Chúa. Ông đã kết thúc quyển tự thuật cũng là bài ca tuyên xưng đức tin của ông như sau:
"Trong suốt thời gian bị tù đày, tôi đã hiểu được rằng Lời Chúa đi vào tâm hồn con người dễ dàng hơn giữa những đau khổ và bách hại. Ðó là lý do cho thấy mùa gặt thiêng liêng trong các ngục tù luôn luôn dồi dào. Tôi không tự cho mình là người anh hùng, lại càng không phải là vị tử đạo. Nhưng vào lúc sống tự do, nhìn lại đằng sau, tôi có thể nói với tất cả thành thật rằng 13 năm bị tra tấn đánh đập, đói khát, 13 năm đau khổ và xa gia đình để làm mục sư cho hàng ngàn tù nhân trong các trại giam, 13 năm như thế quả thật đáng giá".
Những dòng trên đây quả là một phấn khởi cho tất cả những ai đang vì niềm tin của mình mà phải chịu bách hại và đau khổ. Những đau khổ thử thách mà các Kitô hữu phải trải qua thường là dấu chỉ cao đẹp nhất, qua đó Thiên Chúa tỏ mình cho con người.
Chúa Giêsu như muốn nói đến điều đó, khi Ngài mượn hình ảnh tiên tri Yôna để loan báo về chính cái chết của Ngài. Cũng như Yôna đã vâng phục Thiên Chúa đến rao giảng sự sám hối cho dân thành Ninivê, thì Chúa Giêsu cũng vâng phục Chúa Cha để sống kiếp con người và trở thành dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa cho con người. Qua hình ảnh Yôna để loan báo sự vâng phục cho đến chết của Ngài, Chúa Giêsu muốn nói đến con đường mạc khải của Thiên Chúa, đó là con đường tình yêu. Ngài đã tạo dựng con người theo hình ảnh Ngài, nghĩa là có tự do và biết yêu thương, cho nên Thiên Chúa đã chọn con đường yêu thương để đến với con người. Ngài đã hóa thân làm người, sống trọn vẹn kiếp người, và cuối cùng chịu chết treo trên Thập giá, tất cả để trở thành lời mời gọi đối thoại yêu thương.
Mãi mãi Thiên Chúa chỉ đến với con người qua dấu chỉ của tình yêu. Người Kitô hữu luôn được mời gọi để nhận ra những dấu chỉ yêu thương ấy trong cuộc sống của mình, không những qua những chúc lành và may mắn, mà còn qua những mất mát, khổ đau thua thiệt nữa. Nhận ra những dấu chỉ yêu thương của Thiên Chúa trong cuộc sống, người Kitô hữu cũng được mời gọi để trở thành những dấu chỉ yêu thương của Ngài cho mọi người chung quanh. Trở thành dấu chỉ yêu thương có nghĩa là chấp nhận sống vâng phục và vâng phục cho đến chết như Chúa Giêsu. Trở thành dấu chỉ yêu thương giữa tăm tối của cuộc sống, giữa đọa đày bách hại, người Kitô hữu vẫn tiếp tục chiếu sáng trong tín thác, yêu thương, phục vụ, tha thứ.
Xin cho lý tưởng chứng nhân luôn bừng sáng trong chúng ta, để dù sống trong đau khổ, thử thách, chúng ta vẫn trung thành với tình yêu Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Phép Lạ Trong Cuộc Ðời (Mt 12,38-42)
Tại sao những người kinh sư và pharisiêu cứ một mực đòi Chúa làm một dấu lạ đặc biệt, cho dẫu những phép lạ Ngài đã thực hiện trong thời đó không phải là hiếm có? Chính vì họ không có tâm hồn trong sạch và ngay thẳng. Họ đến với Chúa với thái độ ganh tỵ, quá khích, tranh giành ảnh hưởng. Vì thế, họ đã không nhận ra những phép lạ Chúa Giêsu đã làm cũng như không hiểu được ý nghĩa và giá trị của phép lạ. Những phép lạ Ngài làm chỉ nhằm ích lợi cho và vì con người, để con người nhận ra tình thương cứu độ Thiên Chúa đã và đang hoạt động, đang hiện hữu nơi một con người cụ thể với tên là Giêsu. Chính Chúa Giêsu, Ðấng cứu độ, làm cho con người được cùng nhau sống hạnh phúc và sung mãn trong Nước của Ngài.
Trong cuốn sách nổi tiếng rất quen thuộc với chúng ta có tựa đề Phép Lạ Trong Những Cái Thường Ngày, tác giả đã đưa ra những tư tưởng, những lời khuyên rất sâu sắc và thiết thực, làm mẫu mực cho những suy tư và tâm tình sống của chúng ta. Có lẽ trong chúng ta ai cũng đồng ý với ý tưởng của tác giả. Một khi chúng ta nhìn tha nhân và thế giới quanh ta với cái nhìn trong sạch, một khi đã cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời của ta, thì không có gì là không giúp chúng ta nhận ra sự quan phòng của Chúa. Chúa luôn can thiệp trong mọi giây phút của cuộc đời chúng ta. Phần chúng ta, chúng ta có sẵn sàng hay có đủ kiên nhẫn và khiêm nhường để nhận ra sự can thiệp của Ngài không. Hãy nhắm mắt lại và để tâm quan sát mọi cơ phận của ta cũng như mọi hoạt động, những chuyển động đang diễn ra trong ta và trong thế giới chúng ta đang sống, với sức sống của muôn loài thụ tạo. Từ cái to lớn vĩ đại nhất cho đến cái vi phân tử, rồi niềm tin, tư tưởng, ý nghĩ, tâm tư, tình cảm của con người, đâu đâu chúng ta cũng gặp thấy quyền năng và sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa. Tất cả những điều kỳ diệu đó là gì nếu không phải là những phép lạ trong cuộc đời ta.
Cảm tạ Chúa đã cho chúng con có phước được biết Chúa và được làm con Chúa. Chúng con biết rằng đức tin sẽ trở nên án phạt cho con nếu con để sự kiêu ngạo, tính ích kỷ thống trị con. Xin củng cố đức tin và xin ban sức mạnh của tình yêu Chúa cho chúng con, nhờ đó đức tin mà chúng con đã lãnh nhận được trổ sinh nhiều hoa trái, đem lại ơn cứu độ cho chúng con và cho tất cả mọi người, đó là phép lạ lớn nhất của cuộc đời con.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Ngài là ai?
Người đáp: “Thế hệ gian ác và ngoại tình này đòi dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ngôn sứ Gio-na. Quả vậy, ông Gio-na đã ở trong bụng kình ngư ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày đêm như vậy.” (Mt. 12, 39-40)
Những kẻ thù của Chúa Giêsu giả bộ muốn biết rõ về những bằng chứng Người có thể đưa ra để mình chứng cho sứ mạng của mình: “Thưa Thầy, chúng tôi muốn thấy Thầy làm một dấu lạ nhãn tiền trên trời.” Vẻ lịch sự của họ là hoàn toàn giả dối. Họ không đòi bằng chứng để được thuyết phục, bởi họ đã nghĩ bụng rằng Chúa Giêsu sẽ không thể làm dấu lạ ấy.
“Dấu lạ … trên trời!”
Nhóm Pha-ri-sêu hiểu “Dấu lạ” là một sự lạ lùng nhãn tiền khẳng định rõ ràng Chúa Giêsu có quyền nằng siêu việt; họ đòi phải xảy ra ở “trên trời” nơi mà mọi người ở trần gian này không thể nhìn xem mà bắt chước được. Làm như vậy họ có ý nói xa nói gần rằng những phép lạ thực hiện ở Nagiarét trước đây như cho khỏi bệnh tật, làm sống lại v.v… Vì xảy ra ở trên mặt đất nên đã có thể là do những phù phép mà có. Khi Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều lần thứ nhất, họ cũng có mặt để nêu lên sự khác biệt giữa ân huệ do Chúa Giêsu ban tặng và man na của Mô-sê “Từ trời ban xuống”
Khoa học có thể giải thích hết.
Nhóm Pha-ri-sêu lầm lạc ở chỗ là dù Chúa Giêsu có đưa ra bằng chứng về sứ mệnh của mình, thì họ vẫn có lý do trước để chống đối Người: Họ không muốn nhìn nhận Người là Đấng Mê-si-a (Thiên sai): Chẳng đời nào họ sẽ chấp nhận gia nhập “Nước Thiên Chúa” mà Người rao giảng. Họ có một quan niệm về đạo giáo hoàn toàn khác biệt: Phụng thờ Thiên Chúa Ít-ra-en là công việc của họ, nên Chúa Giêsu phải xoay quanh lợi ích tức thời của họ. Chẳng ai sẽ được là ngôn sứ nếu họ không ưng thuận. Thần trí cứng lòng tin đã không thay đổi. Thời đại chúng ta hôm nay là hôm nay cũng vậy, khoa hoc mệnh danh là độc lập thì tống trát đòi Thiên Chúa ra trước phiên họp khoáng đại của các thành viên; tại đây và chỉ ở đây, người ta mới công nhận cho Chúa được làm phép lạ mà thôi. Người ta không tìm kiếm những lý do đủ dễ tin, nghĩa là “chịu nhận đó là dấu lạ của Chúa.” Người ta thích lên án Chúa để bắt Người phải chịu nhận là bất lực bất toàn, hoặc (và đây là phán quyết biệt đãi nhất mà người ta có thể trông chờ ở những vị thẩm phán tốt) tuyên bố rằng chúng tôi còn chưa biết thiên nhiên có sức mạnh tới đâu nữa.
Chúa Giêsu không muốn cho người ta nhìn nhận Người qua những dấu lạ không phải là dấu lạ mà thường ngày Người ban cho ta trong Mầu Nhiệm Phục Sinh của Người.
Ta đón nhận Đức Giêsu là bởi chính con người của Người vậy!
J.M
Suy niệm 4
Sinh trong một gia đình người Pháp giàu có, quý phái và đạo đức,
Anh Charles de Foucauld mất đức tin từ năm 16 tuổi.
Hai năm sau Anh học ở trường sĩ quan Saint-Cyr nổi tiếng của Pháp,
đã đi thám hiểm nước Ma-rốc ở châu Phi và được huy chương vàng.
Sau thời gian đó anh đã muốn suy nghĩ về đời mình.
Đời sống đạo đức của người chị em họ đánh động Anh nhiều.
Anh đi nhà thờ dù chẳng tin gì, chỉ thích lặp đi lặp lại lời nguyện này :
“Lạy Chúa, nếu Chúa hiện hữu, thì xin làm cho con nhận biết Chúa.”
Chúa đã làm cho Anh nhận biết Ngài vào một ngày cuối tháng 10-1886.
Khi được chị họ giới thiệu với cha sở Huvelin ở Paris, anh đã xin học đạo.
Nhưng cha lại bảo anh vào tòa giải tội và xưng tội.
Anh ngần ngại, nhưng đã chấp nhận quỳ xuống,
và bất ngờ nếm được niềm vui khôn tả của người con lưu lạc trở về.
Đời Anh đã bắt đầu sang trang từ giây phút ấy.
Chúa đưa Anh trở lại không bằng những dấu lạ lùng,
nhưng qua bà chị họ đạo đức, qua cha sở Huvelin nhiều kinh nghiệm.
Ơn hoán cải của Anh không dựa trên những dấu lạ làm Anh ngất ngây,
nhưng đến từ khiêm nhường tìm kiếm và quỳ xuống đón nhận.
Chỉ ai biết quỳ xuống mới nhận ra dấu bình thường là dấu lạ.
Đức Giêsu không vui khi người Pharisêu và những người đương thời
muốn thấy dấu lạ và tìm kiếm dấu lạ (cc. 38-39).
Họ chờ mong một dấu lạ làm họ lóa mắt, gây ấn tượng mạnh,
khiến họ không thể chối cãi và buộc họ phải tin.
Tiếc rằng Đức Giêsu không bao giờ có ý muốn làm thứ dấu lạ như vậy.
Ngài không làm dấu lạ để biểu diễn quyền năng của mình trước con người.
Ngài chỉ làm dấu lạ để phục vụ nhu cầu con người và loan báo Nước Chúa.
Dấu lạ là dấu chỉ mời gọi chứ không cưỡng bức người xem phải tin.
Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ, nhưng họ vẫn không tin, vẫn đòi dấu lạ mới,
và còn bảo dấu lạ của Ngài là nhờ dựa vào tướng quỷ (Mt 12, 24).
Khăng khăng đòi dấu lạ cho thấy lòng họ dứt khoát từ chối Đức Giêsu.
Chẳng có dấu lạ nào làm họ thay đổi được cái nhìn về Ngài.
Đức Giêsu đã từng trách các thành vùng Galilê vì họ không sám hối (Mt 11,20).
Nay Ngài cũng quở trách một số người Pharisêu như vậy.
Vào ngày phán xét, chính dân Ninivê và Nữ Hoàng Phương Nam sẽ kết án họ,
vì họ đã cứng lòng không tin Đức Giêsu (cc. 41-42).
Làm thế nào chúng ta nhận ra những dấu lạ Chúa vẫn làm cho đời ta,
để ta không đòi hỏi thêm dấu lạ nữa,
nhưng mãn nguyện với những gì mình nhận được?
Làm thế nào để chúng ta hạnh phúc
vì vẫn được nghe giảng bởi chính Đấng còn hơn Giôna nữa,
vẫn được tiếp xúc với Đấng còn khôn ngoan hơn vua Salômôn nữa?
Lời nguyện
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,
những ơn con thấy được,
và những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng
con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng,
biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những gì
Cha không ban cho con,
và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì
Cha cương quyết không ban
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha
dù con không hiểu hết những gì Cha làm cho đời con.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
23/07 Dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng lúa
- Viết bởi Mt 13, 24-43
Dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng lúa.
Nhật 16 thường niên năm A.
"Hãy cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt".
Lời Chúa: Mt 13, 24-43
Khi ấy, Chúa Giêsu phán một dụ ngôn khác cùng dân chúng rằng: "Nước trời giống như người kia gieo giống tốt trong ruộng mình. Trong lúc mọi người ngủ, thì kẻ thù của ông đến gieo cỏ lùng vào ngay giữa lúa, rồi đi mất. Khi lúa lớn lên và trổ bông thì cỏ lùng cũng lộ ra. Đầy tớ chủ nhà đến nói với ông rằng: "Thưa ông, thế ông đã không gieo giống tốt trong ruộng ông sao? Vậy cỏ lùng từ đâu mà có?" Ông đáp: "Người thù của ta đã làm như thế". Đầy tớ nói với chủ: "Nếu ông bằng lòng, chúng tôi xin đi nhổ cỏ". Chủ nhà đáp: "Không được, kẻo khi nhổ cỏ lùng, các anh lại nhổ luôn cả lúa chăng. Hãy cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt. Và đến mùa, ta sẽ dặn thợ gặt: "Các anh hãy nhổ cỏ lùng trước, rồi bó lại từng bó mà đốt đi, sau mới thu lúa lại chất vào lẫm cho ta".
Người lại nói với họ dụ ngôn khác mà rằng: "Nước trời giống như hạt cải người kia gieo trong ruộng mình. Hạt đó bé nhỏ hơn mọi thứ hạt giống, nhưng khi mọc lên, thì lớn hơn mọi thứ rau cỏ, rồi thành cây, đến nỗi chim trời đến nương náu nơi ngành nó".
Người lại nói với họ một dụ ngôn khác nữa mà rằng: "Nước trời giống như men người đàn bà kia lấy đem trộn vào ba đấu bột, cho đến khi bột dậy men".
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn mà phán những điều ấy với dân chúng. Người không phán điều gì với họ mà không dùng dụ ngôn, để ứng nghiệm lời tiên tri đã chép rằng: "Ta sẽ mở miệng nói lời dụ ngôn, Ta sẽ tỏ ra những điều bí nhiệm từ lúc dựng nên thế gian". Sau khi giải tán dân chúng, Người trở về nhà.
Các môn đệ đến gặp Người và thưa rằng: "Xin Thầy giải thích dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng cho chúng con nghe". Người đáp rằng: "Kẻ gieo giống tốt là Con Người. Ruộng là thế gian. Còn hạt giống tốt là con cái Nước trời. Cỏ lùng là con cái gian ác. Kẻ thù gieo cỏ lùng là ma quỷ. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên thần. Cũng như người ta thu lấy cỏ lùng, rồi thiêu đốt trong lửa thế nào, thì ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy: Con Người sẽ sai các thiên thần đi thu tất cả gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác khỏi nước Chúa, rồi ném tất cả chúng vào lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng. Bấy giờ kẻ lành sẽ sáng chói như mặt trời trong Nước của Cha mình. Ai có tai để nghe thì hãy nghe".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 16 THƯỜNG NIÊN - A
Lời Chúa: Kn. 12, 13.16-19; Rm. 8, 26-27; Mt. 13, 24-43
1. Truyền giáo
Hạt cải ở đây là một thứ hạt người ta quen dùng làm đồ gia vị. Nó tuy nhỏ nhưng lại có một sức sống dồi dào và mau lớn. Đôi khi nó có thể trở thành cây cao trên 2m, chim trời có thể đến đậu. Chúa muốn áp dụng ở đây một bài học: Giáo Hội Chúa khởi đầu rất nhỏ bé với mấy vị tông đồ vô danh tiểu tốt khác nào một hạt cải nhỏ bé. Nhưng rồi Giáo Hội ấy dần dần mở rộng, quy tụ muôn dân nước và bao trùm cả thế giới. Ngày nay chỗ nào cũng có bóng cây của Giáo Hội.
Mấy vị tông đồ như chúng ta đã biết chỉ là những ngu phủ quê mùa dốt nát, thế mà đã tạo nên nền văn minh Kitô giáo thay thế cho nền văn minh Hy Lạp và Lamã cổ xưa. Dưới bóng mát của Giáo Hội, có đủ mọi hạng người không phân biệt giàu nghèo, có đủ mọi dân tộc mọi màu da, không phân biệt ngôn ngữ và văn hoá. Cái mấu chốt của dụ ngôn nằm ở trong việc mở mang Nước Chúa, nằm ở trong sự tương phản giữa cái bé nhỏ lúc ban đầu và sự to lớn lúc phát triển. Tiếp đến là dụ ngôn nem bột. Nếu dụ ngôn hạt cải nói lên sự phát triển rộng rãi của Nước Trời thì dụ ngôn men bột nói đến sức biến đổi, thâm nhập của Tin Mừng Phúc Âm. Đúng thế, một dúm men có thể làm cho cả đấu bột dậy lên để bánh có hương vị thơm ngon thì cũng thế, giáo lý của Chúa sẽ thấm nhập và làm cho thế giới trở nên tốt đẹp hơn. Nhưng đối với chúng ta thì hai dụ ngôn trên có ý nghĩa gì?
Theo tinh thần bác ái Công giáo, chúng ta không được nghĩ tới việc tiêu diệt, nhưng phải nghĩ đến việc hoán cải. Một chút men làm cho cả đấu bột dậy lên. Chúng ta cũng là men của Chúa, chúng ta phải ảnh hưởng đến gia đình và xã hội, phải làm cho môi trường chúng ta sống trở nên tốt đẹp hơn. Tuy nhiên nếu men mà xấu thì thật là tai hại, nó sẽ làm cho bột bị chua và làm hỏng cả bánh. Bổn phận của chúng ta là phải đem tinh thần Phúc Âm vào mọi cơ cấu gia đình cũng như xã hội. Mỗi người chúng ta phải là men biến đổi thế giới trong môi trường sống của mình.
Người ta kể lại trong trận thế giới đại chiến lần thứ hai. Những binh sĩ người Anh bị quân đội Nhật bắt giữ. Họ phải làm việc khổ cực và bị đối xử tàn nhẫn. Lúc đầu những người Anh còn giữ được lòng cao thượng và tinh thần tương trợ. Nhưng dần dần vì miếng ăn, vì cực nhọc, họ đã trở nên hung dữ, đối xử với nhau theo luật rừng. Nhưng trong số đó có hai người Công giáo, với đức tin mạnh mẽ, với đức ái sâu xa, họ đã là men của Phúc Âm, là ánh sáng của Thiên Chúa. Họ đã yêu thương tất cả. Tình yêu đó không gì làm phai mờ được. Họ đã sống phần nào câu nói của một thi sĩ: Tôi đi tìm một tâm hồn mà không thấy. Tôi đi tìm Thiên Chúa mà cũng chẳng có tiếng trả lời. Tôi đi tìm người anh em và với người anh em đó, tôi đã thấy tất cả. Gương bác ái yêu thương của hai người Công giáo này đã cảm hoá được cả đám tù nhân. Để rồi họ đã yêu thương nhau, giúp đỡ nhau như anh em một nhà.
Để góp phần vào công cuộc truyền bá Phúc Âm, để góp phần vào việc làm cho Giáo Hội được lớn mạnh, thì mỗi người chúng ta phải là men của Phúc Âm, làm dậy lên vẻ bác ái và thánh thiện cho cả một thôn ấp, cho cả một khu phố, cho cả một phiên chợ, cho cả một lớp học, cho cả một công sở. Hãy là men của Chúa.
2. Tốt và xấu
Thế giới hôm nay vẫn còn là như một thửa ruộng, trong đó có cỏ lùng xen lẫn với lúa. Cái tốt xen lẫn với cái xấu. Chúng ta chỉ cần để ý một chút là có thể nhận ra trong giáo xứ, trong khu xóm, trong gia đình có những người tốt và những người xấu. Hơn nữa, cùng một con người, nhưng có lúc hành động tốt và có lúc hành động xấu.
Chọn cái tốt và làm điều tốt cũng như ghét cái xấu và tiêu diệt cái xấu, đó là bài học luân lý phổ thông nhất cho mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc. Bài học này nói thì dễ nhưng áp dụng vào thực hành lại chẳng dễ chút nào. Vì thế, chúng ta cần phải cố gắng liên tục, cố gắng không ngừng.
Tuy nhiên cái đích mà Chúa Giêsu nhắm tới không phải chỉ là những kẻ khô khan nguội lạnh mà còn là những người sốt sắng nóng nảy, bởi vì dụ ngôn trên kêu gọi sự nhẫn nại. Nhẫn nại với lịch sử, với người chung quanh và với chính bản thân mình. Đừng vội kết án như thể mọi sự đã xong xuôi, chẳng còn gì để mà nói, để mà trông chờ. Nó đã hư đã hỏng, chỉ còn việc nhổ lên và vất đi. Các nhãn hiệu tốt và xấu như được gắn chặt nơi mỗi con người một cách vĩnh viễn.
Nền tảng của sự nhẫn nại chính là tính chất của giai đoạn chúng ta đang sống. Giai đoạn hiện tại là một giao thời và sự hiện diện của Giáo Hội là một lời mời gọi chứ chưa phải là một lời kết án. Giai đoạn hiện tại còn là thời rao giảng Tin Mừng. Các môn đệ của Chúa được sai đi để đem đến ơn cứu độ. Nhưng đồng thời lòng ham muốn sai trái và tội lỗi vẫn còn được phép hoạt động. Sẽ tới một thời được gọi là mùa gặt, tức là cuộc phán xét trong ngày sau hết. Bấy giờ Chúa Giêsu sẽ đứng lên để làm công việc phải làm: phân định vĩnh viễn người lành kẻ dữ, người tốt kẻ xấu. Người lành thì sáng chói trong Nước Chúa còn kẻ dữ thì bị ném vào lửa, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng.
Nhẫn nại đi đôi với lạc quan và hy vọng. Dụ ngôn còn là một lời mơi gọi chúng ta phải biết nhìn về tương lai. Căn bệnh rồi sẽ khỏi, chiến tranh rồi sẽ hết, bất công không thể kéo dài một cách vĩnh viễn, kẻ phạm tội có thể hối cải và kẻ thất vọng sẽ tìm thấy chốn cậy trông.
Nhưng tin vào tương lai cũng là hoạt động cho niềm tin trở thành sự thật. Nhẫn nại không có nghĩa là khoanh tay ngồi im chờ đợi trong trạng thái thụ động. Người tín hữu tin ở sự chiến thắng của cái tốt, tin ở một tương lai tươi đẹp, tin ở công trình cứu chuộc của Thiên Chúa, cũng phải là người hành động một cách tích cực để huỷ diện cái xấu và làm phát sinh những cái tốt.
3. Nụ cười.
Theo yêu cầu, một nhà đạo đức đã kể lại kinh nghiệm đời mình như sau:
- Giai đoạn đầu tiên, tôi được Thiên Chúa cầm tay, dẫn tới xứ sở của hoạt động và tôi đã ở lại đó nhiều năm. Tiếp đó, Ngài trở lại đưa tôi đến xứ sở của niềm đau, tại đây, trái tim tôi được thanh luyện khỏi mọi dính bén với của cải trần gian. Sau đó, Ngài dẫn tôi đến miền đất của cô đơn, ở đó mọi ti tiện nhỏ bé của bản thân đều bị thiêu rụi. Và rồi tôi có thể đi vào xứ sở của thinh lặng, trước mặt tôi, mầu nhiệm của sự sống và sự chết đều được bày tỏ.
Nghe thế, người ta liền hỏi:
- Phải chăng ngài đã đạt tới giai đoạn cuối cùng của cuộc tìm kiếm.
Nhà đạo đức trả lời:
- Chưa đâu, ngày nọ, Thiên Chúa nói với tôi: Lần này Ta đưa con vào thẳm cung của đền thánh để con được đi vào cõi lòng Ta.
Thế là tôi đã đến xứ sở của nụ cười.
Người Tây phương thường bảo: Một vị thánh buồn là một vị thánh đáng buồn vậy. Niềm vui phải chăng là nét chính yếu trên khuôn mặt của một vị thánh.
Cựu Ước đã nói: Thiên Chúa là Đấng làm hoan lạc tuổi xuân con. Sở dĩ như vậy vì Ngài là niềm vui. Đi vào cõi lòng của Ngài là tìm được nụ cười muôn thuở của Ngài. Nụ cười không chỉ là thể hiện của niềm vui, mà còn là một thách thức trong những hoàn cảnh bi đát. Đó là nụ cười của Sara giữa cảnh già nua con sẻ. Thực vậy, khi Thiên Chúa cho biết bà sẽ thụ thai, mặc dù tuổi đã cao, thì bà đã bật cười.
Thiên Chúa thường khơi dậy những nụ cười như thế, bởi vì tư tưởng và lối của Ngài là những nghịch lý đối với con người. Thực vậy, cả cuộc sống cùng với lời rao giảng cái chết và sự phục sinh của Ngài là một chuỗi những nghịch lý trước mắt thế gian. Đang khi người đời chạy theo tiền bạc, địa vị và danh vọng thì Ngài lại tuyên bố: Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó. Đang khi người đời thích gây bạo động và hận thù, thì Ngài lại truyền dạy: Phúc cho những ai ăn ở thuận hoà. Đang khi người đời cho rằng cái chết là một bất hạnh tột cùng, thì Ngài lại dạy đó là khởi đầu của ơn phúc, là cửa ngõ dẫn vào sự sống.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta cũng thấy được những điều nghịch lý về Nước Trời. Nhỏ bé như hạt cải nhưng khi mọc lên sẽ trở thành cây to. Ít ỏi như nhúm men nhưng sẽ làm dậy cả đấu bột. Cả hai hình ảnh này đều nói lên sức mạnh của Nước Trời Chúa Giêsu muốn thể hiện qua Giáo Hội của Ngài. Khởi đầu từ một nhóm người nhỏ bé, Giáo Hội dần dần quy tụ mọi dân nước trên thế giới. Xây dựng từ một đám dân chài dốt nát, Giáo Hội đã trở thành phổ quát. Và trải qua bao nhiêu bách hại, Giáo Hội ấy vẫn tiếp tục đứng vững.
Là con cái Giáo Hội, chúng ta được mời gọi đặt tất cả niềm tin tưởng vào Chúa. Tiến bước trong tình yêu quan phòng của Ngài luôn phù trợ chúng ta, dù trải qua gian nan thử thách, chúng ta luôn xác tín rằng: Với những ai yêu mến Chúa, thì Ngài sẽ làm cho mọi sự đều quy về sự thiện hảo. Với niềm tin tưởng ấy, chúng ta quả thực đang tìm được nụ cười muôn thuở của Thiên Chúa.
4. Thiên Chúa luôn tôn trọng tự do con người
(Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Một số người cứ thắc mắc: tại sao Chúa không quét sạch những phường tội lỗi và hung ác khỏi mặt đất nầy? Tại sao Thiên Chúa cứ để họ ung dung sống trong tội ác và tiếp tục gây ra chiến tranh, khủng bố, áp bức, bất công? Ai làm ác, ai gây rối, Chúa cứ việc quét sạch chúng đi là thế giới sẽ được hoà bình và mọi người sẽ được sống trong hạnh phúc. Đó chẳng phải là một giải pháp đơn giản để tái lập hoà bình ổn định cho thế giới đó sao?
Để trả lời cho vấn nạn đó, Chúa Giêsu kể dụ ngôn sau:
"Nước Trời ví như chuyện người kia gieo giống tốt trong ruộng mình. Khi mọi người đang ngủ, thì kẻ thù của ông đến gieo thêm cỏ lùng vào giữa lúa, rồi đi mất. Khi lúa mọc lên và trổ bông, thì cỏ lùng cũng xuất hiện. Đầy tớ mới đến thưa chủ nhà rằng: "Thưa ông, không phải ông đã gieo giống tốt trong ruộng ông sao? Thế thì cỏ lùng ở đâu mà ra vậy?" Ông đáp: "Kẻ thù đã làm đó!" Đầy tớ nói: "Vậy ông có muốn chúng tôi ra đi gom lại không?" Ông đáp: "Đừng, sợ rằng khi gom cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa. Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt. Đến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt: hãy gom cỏ lùng lại, bó thành bó mà đốt đi, còn lúa, thì hãy thu vào kho lẫm cho tôi."
Qua dụ ngôn trên, Chúa Giêsu tỏ cho chúng ta biết rằng kẻ nghịch của Thiên Chúa là ma quỷ tìm cách gieo mầm giống xấu vào lòng dạ con người và từ mầm giống xấu xa ấy, sự dữ lan tràn khắp thế gian. "Người kia gieo giống tốt trong ruộng mình, nhưng khi mọi người đang ngủ thì kẻ thù của ông đến gieo thêm cỏ lùng vào giữa lúa."
Cỏ lùng trong ruộng mọc lên lấn lướt lúa non thế nào thì mầm giống xấu do ma quỷ gieo vào lòng người cũng bùng lên cách đáng sợ như thế.
Như những người tôi tớ, sau khi thấy cỏ lùng mọc lên lấn át lúa non, đã nài xin chủ ruộng cho đi nhổ cỏ để bảo vệ lúa, nhiều người trong chúng ta cũng ước mong Thiên Chúa dùng quyền lực của mình để quét sạch phường gian ác khỏi thế giới nầy, để nhân loại được sống trong hoà bình an lạc.
Nhưng làm như thế là 'khủng bố' kẻ gian ác, là tước đoạt tự do con người. Thiên Chúa nhân lành và cao cả nên Người không hề 'khủng bố' ai và Người cũng không bao giờ tước đoạt tự do mà Người đã thông ban cho loài người, vì nếu Thiên Chúa tước đoạt tự do con người, thì Người sẽ biến họ thành robot hoặc thành thú vật là loài không có tự do.
Con vật không có tự do để lựa chọn điều tốt hay tránh điều xấu, chúng chỉ thực hiện mệnh lệnh của bản năng và hoàn toàn bị bản năng khống chế.
Nơi con người, dù bản năng cũng mãnh liệt không khác chi nơi con vật, nhưng con người có thể dùng tự do của mình để khước từ những mệnh lệnh của bản năng, sống vượt lên bản năng cũng như những lôi cuốn đê hèn. Con người có thể tuyệt thực bên cạnh mâm cỗ thịnh soạn được dọn ra cho mình, nhưng thú vật không thể làm được điều đó vì bản năng sinh tồn đòi buộc chúng phải ăn khi đói.
Con người có thể tuyệt dục dù có thừa cơ hội để thực hiện bản năng truyền sinh; nhưng nơi con vật, bản năng truyền sinh hoàn toàn chế ngự chúng.
Khi con người biết dùng tự do của mình để chế ngự bản năng, làm chủ bản thân và thực hành điều thiện, thì con người trở nên cao cả và đáng kính. Nhưng khi con người để cho bản năng lấn lướt tự do, cam thân làm nô lệ cho bản năng hư hèn hoặc dùng tự do để chọn làm điều xấu, con người đánh mất phẩm giá cao cả của mình.
Nếu con người bị tước đoạt tự do, con người chẳng hơn gì người máy; người máy chỉ biết làm theo những gì mà nhà chế tạo đã cài đặt vào bộ nhớ của nó. Nếu con người không có tự do, con người chẳng hơn gì thú vật; thú vật chỉ biết hành động theo bản năng, theo thú tính mà chẳng có tự do để chọn làm điều tốt. Vì thế, Thiên Chúa không bao giờ tước đoạt tự do con người cho dù con người dùng tự do của mình để gây ra điều ác đối với đồng loại cũng như để phỉ báng Thiên Chúa là Đấng tạo dựng và thông ban tự do cho mình.
Nhưng nói thế không có nghĩa là Thiên Chúa làm ngơ để mặc loài người đi vào con đường lầm lạc. Thực ra, Người luôn dùng Tin Mừng và giáo huấn để soi sáng, để cảm hoá, để cảnh tỉnh con người và Người luôn kiên nhẫn, rất kiên nhẫn chờ đợi họ hồi tâm quay lại đường lành: "Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt. Đến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt: hãy gom cỏ lùng lại, bó thành bó mà đốt đi, còn lúa, thì hãy thu vào kho lẫm cho tôi."
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho chúng con tự do vì chỉ khi có tự do, chúng con mới thật sự là người, mới xứng đáng là hình ảnh của Chúa.
Chúa cũng không bao giờ tước đoạt tự do mà Chúa đã thông ban cho chúng con vì không muốn chúng con sống như người máy hay như thú vật.
Xin cho chúng con biết sử dụng tự do của mình mà tránh dữ làm lành để nhờ đó, chúng con làm cho mình trở thành người thật sự tự do, có phẩm chất cao đẹp và thánh thiện.
5. Không gì là quá muộn
(‘Như Thầy Đã Yêu’ – Thiên Phúc)
Mục sư Martin Luther King, người đấu tranh giành tự do cho nô lệ da đen tại Hoa Kỳ bằng phương pháp bất bạo động đã kể lại một câu chuyện như sau:
Chúng tôi đã có dịp viếng thăm bang Kerela ở cực Nam Ấn Độ. Một buổi chiều cuối tuần, chúng toi đến bãi biển Cap-Comorin, thường được gọi là “nơi tận cùng của thế giới”, vì đây là mũi đất cuối cùng của lục địa Ấn Độ tiếp giáp Ấn Độ Dương.
Trước mắt chúng toi là đại dương mênh mông, với các đợt sóng nhấp nhô. Nơi đây được gọi là “điểm hẹn” của ba biển cả: Ấn Độ dương, Biển Ả Rập và vịnh Bengal. Ngồi trên tảng đá nhô ra trên mặt nước, chúng tôi cảm thấy mình bị cuốn hút vào biển cả mênh mông. Trong khi các đợt sóng dồn dập vào mỏm đá, tạo nên một bản nhạc nhịp nhàng, thì về phía tây, chúng tôi nhìn thấy mặt trời đỏ chói đang dần dần đi vào biển cả. Khi mặt trời gần khuất, vợ tôi đánh động tôi và nói: “Xem kìa, Martin, thật là tuyệt vời, phải không?” Tôi đưa mắt nhìn chung quanh và kìa mặt trăng đang từ từ lên khỏi lòng biển trong khi mặt trời chậm chạp đi xuống biển sâu. Khi mặt trời lặn, bóng tối bao trùm mặt đất, nhưng từ phía đông, mặt trăng mọc lên, rực rỡ, chói sáng.
***
Khi ánh sáng mặt trời tắt dần và dìm chúng ta vào trong bóng tối dày dặc, có thể ví như thời điểm của cái ác và sự dữ lộng hành, biến chúng ta thành nạn nhân của thế lực đen tối. Nhưng hãy nhìn về phía đông, chúng ta sẽ thấy một ánh sáng rực rỡ huy hoàng ngay trong đêm tối. Và đêm đen lại sáng tỏ như ban ngày. Đó là lúc điều thiện và cái tốt đang vươn lên mạnh mẽ. Nếu đã có ánh sáng ban ngày hướng dẫn chúng ta lúc thuận buồm xuôi gió, thì cũng có ánh sáng ban đêm dẫn đưa chúng ta khi bão tố phong ba. Cả hai phải cùng tồn tại để đồng hành với chúng ta đến với nguồn sáng vĩnh cửu là Thiên Chúa.
Đức Giêsu, trong bài Tin Mừng hôm nay đã khẳng định lập trường của Thiên Chúa qua dụ ngôn “Cỏ lung và lúc tốt”. Đầy tớ muốn nhổ cỏ lùng đi, nhưng ông chủ lại bảo: “Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt” (Mt 13,30). Kể từ khi nguyên tổ nuối lấy trái cấm thì sự dữ và cái ác như con bạch tuộc vươn vòi đến mọi mặt của cuộc sống con người. Nó dai dẳng, ngoan cố, lì lợm, không dễ dàng buông tha nếu chúng ta không chống cự lại một cách mãnh liệt, dứt khoát. Chẳng thế mà Kinh thánh đã dùng biểu tượng con rắn để mô tả hành động xảo trá của sự dữ luôn gieo rắc bất hoà trong bản hòa tấu nhịp nhàng của đời sống con người.
Trong dụ ngôn Cỏ lùng, Đức Giêsu khẳng định về sự xuất hiện của cỏ lùng là do “kẻ thù đã gieo chúng vào ruộng lúa”.
Cho dù kẻ thù đó là Satan hay bởi chính sự lạm dụng tự do của con người, thì cỏ lùng luôn mang đến tai họa và chết chóc.
Cho dù cỏ lùng có bóp nghẹt lúa tốt trong một thời gian, nhưng mùa gặt đến nó sẽ bị gom lại và đốt đi. Còn lúa tốt lại được cất vào kho lẫm.
Cho dù cứ để cỏ lùng và lúa tốt cùng lớn lên cho đến mùa gặt, nhưng không phải là để dung túng cho cái ác và để sự dữ lộng hành.
Thiên Chúa có chương trình hành động của Người: Trong hành trình của mỗi con người, vẫn có cỏ lùng mọc chung với lúa tốt, vẫn có cái ác sống chung với cái thiện, vẫn có bóng tối chen lẫn cùng ánh sáng. Đó là cuộc chiến đấu trường kỳ giữa sự lành và sự dữ. Trong lòng người tín hữu rễ cỏ lùng và lúa tốt vẫn đan xen lẫn nhau. Thánh Phaolo đã diễn tả chân lý ấy khi viết: “Điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi cứ làm” (Rm 7,15). Người tín hữu hay bị cám dỗ ở trong tình trạng chưa là tội nhân mà cũng chưa muốn tìm về thánh thiện.
Khi chiến đấu chống lại sự dữ, chúng ta không chiến đấu đơn độc, có Chúa cùng chiến đấu với chúng ta, như một người Cha đầy yêu thương. Nhưng Người không can thiệp để tiêu diệt sự dữ một cách vũ bão, vì Người đã ban cho chúng ta sự tự do, và bởi chúng ta là những con người có trách nhiệm. Sự dữ nào cũng có phần cộng tác của con ngưồi, tội lỗi nào cũng mang dấu tay của những kẻ đồng lõa. Eva đã chẳng phạm tội nếu bà đừng đưa tay ra hái trái cấm. Để cứu lấy con người luôn luôn sa ngã, Thiên Chúa đã phải nhẫn nại, chờ đợi sự hoán cải tuy rất chậm chạp của họ.
Thiên Chúa yêu thương con người, và không hề quên sót một ai, cho dù họ là những tội nhân:
Nếu Thiên Chúa tỏ ra chậm chạp trong việc chống lại tội lỗi, là để chúng ta có thời gian mà sám hối canh tân.
Nếu chúng ta yếu đuối lầm lỗi, thì Người sẽ ban cho chúng ta sức mạnh để can đảm trỗi dậy sau những lần vấp ngã.
Nếu phải bước đi trong bóng đêm tối tăm vì mất niềm hy vọng, thì Người sẽ là ánh sáng dẫn đường để chúng ta đến với niềm tin.
Thiên Chúa khinh ghét tội lỗi nhưng lại yêu mến tội nhân, vì Người chờ đợi nơi họ lòng thống hối để được Người thứ tha (x. Rm 2,4). Thiên Chúa khoan dung, độ lượng không phải để dung túng cho các tội nhân, nhưng là để cho họ thời gian thức tỉnh mà quay trở về.
Chúa đã bao dung nhẫn nại với chúng ta. Lẽ nào chúng ta lại thiếu nhân hậu khoan dung với kẻ tội lỗi? Chúa đã yêu thương chúng ta, lẽ nào chúng ta không dùng tình yêu của Người mà hóan cải anh em? Lòng thương xót Chúa muốn kéo chúng ta vào quê hương vĩnh cửu. Nhưng không phải là một cuộc hành trình đơn độc. Trái lại, phải là một ngày hội thấm đẫm tình yêu, đầy ắp tiếng cười.
***
Lạy Chúa, dù tội lỗi có ngập tràn Chúa cũng không bao giờ thất vọng về chúng con. Với tình yêu thương xót của Chúa thì không có gì là quá muộn.
Xin cho chúng con luôn biết bắt đầu lại trong tin yêu và hy vọng nơi Chúa. Amen.
6. Tự do của con người
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Nét nổi trội nơi con người hơn muôn loài muôn vật chính là được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa. Và dấu hiệu của sự trổi vượt ấy chính là sự tự do giống như thần linh mà các tạo vật khác không thể có được. Chính nhờ sự tự do mà con người có khả năng làm chủ mình, đồng thời cũng phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Đây là điểm mạnh và cũng là yếu điểm của con người. Con người có thể sử dụng tự do để đi theo lề luật Thiên Chúa hay đi theo những đòi hỏi của tính xác thịt và theo ý riêng của mình.
Quả thực, con người hơn mọi tạo vật khác là có khả năng biết phân biệt điều thiện điều ác, biết chọn lựa điều nào nên làm hay không nên làm, và vì thế chỉ có con người mới phải nhận lãnh trách nhiệm về việc làm của mình. Có một chuyện ngụ ngôn kể rằng:
Một hôm Satan ra lệnh cho một người kia phải thi hành một trong ba điều nó yêu cầu, nếu không nó sẽ cướp linh hồn người đó. Ba điều đó là: giết cha, hành hạ người em, uống rượu. Người đó ngẫm nghĩ: giết cha, đánh đập người em là điều trái với đạo lý làm người, còn uống rượu thì dễ quá, ai mà không làm được. Thế là anh ta quyết định đi uống rượu. Lúc đầu anh ta còn làm chủ được, nhưng về sau không còn làm chủ được mình nữa, anh đã say lúy túy và kết quả đã diễn ra đúng như qủy mong đợi. Anh ta đã giết cha, hành hạ người em và còn làm nhiều điều tội lỗi khác.
Câu chuyện trên đây có lẽ không chỉ là chuyện ngụ ngôn mà là thực tế xảy ra hằng ngày trước mắt chúng ta. Tội ác luôn tiềm ẩn trong tâm hồn chúng ta. Rơi vào một hoàn cảnh nào đó, nếu không biết tự chủ bản năng, ai cũng có thể là một tên sát nhân. Thế nhưng câu chuyện này không chỉ nêu lên mặt trái của con người, nó còn nói lên nét cao qúy trong lòng con người nữa. Thật thì người đàn ông trong câu chuyện đã không lao vào tội ác như một phản ứng bình thường. Đạo lý và lẽ phải đã đến với anh ta trước tiên. Từ thâm sâu lòng mình, con người luôn hướng về điều thiện. Con thú cắn xé mồi rồi lăn ra ngủ yên, nhưng con người thì không như thế. Thử hỏi có kẻ sát nhân nào mà không cảm thấy bị cắn rứt trong lương tâm, có hành động xấu nào mà không dày vò lòng dạ con người? Con người sinh ra vốn hướng về điều thiện, nhưng ma qủy lại luôn lôi kéo con người vào sự dữ. Thực vậy, con người luôn bị giằng co giữa thiện và ác, giữa phúc và tội. Tại sao vậy?
Thưa, bởi vì Thiên Chúa đã tạo dựng mọi sự đều tốt đẹp, thế nhưng, ma quỷ lại gieo những điều xấu vào thế gian. Nó còn gieo điều gian ác vào trong chính tâm hồn con người. Hạt giống của sự dữ đó được ấp ủ, được nuông chiều nuôi nấng bởi tâm hồn thiếu cương quyết tránh xa sự dữ, thiếu tự chủ trước những tư tưởng bất chính nên hạt giống xấu luôn có cơ hội bùng phát và một khi có cơ hội nó sẽ triển nở làm cho con người ra băng hoại.
Theo giáo lý Kitô giáo, Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta theo hình ảnh Ngài, vì thế, khát vọng sâu thẳm nhất trong lòng ta chính là Thiên Chúa. Chọn tuân phục Chúa, chúng ta có được sự tự do đích thực, được bình an, hạnh phúc. Còn khi chúng ta bất tuân Thiên Chúa, là đánh mất ý nghĩa đời mình, là đặt cuộc sống mình dưới sự điều khiển của sự ác và sẽ bị buông mình trong hố sâu của tội lỗi, tựa như cánh diều chỉ có thể tự do bay bổng khi còn được ràng buộc với sợi dây, con người chỉ có thể được tự do sống trong hạnh phúc khi tự ràng buộc đời mình theo lề luật của Chúa mà thôi.
Tuy nhiên, vì bản tính con người đã bị thương tích do tội nguyên tổ trở nên yếu đuối, dễ sa vào những cám dỗ tội lỗi, như lời thánh Phaolô đã nói: "sự lành tôi muốn làm nhưng tôi lại không làm, còn sự dữ tôi không muốn làm nhưng tôi lại cứ làm". Đó chính là sự giới hạn của mình, chúng ta cần phải nhờ ơn Chúa qua việc cầu nguyện, năng lãnh nhận các bí tích để xin Thiên Chúa gia tăng ơn cần thiết mà biết làm điều lành tránh điều dữ, và gìn giữ ta trong ơn thánh của Người, mà trong giáo lý chúng ta gọi là ơn thánh hoá và ơn trợ giúp. Vì vậy, để gìn giữ vẻ đẹp linh hồn mình luôn là hình ảnh sống động của Thiên Chúa, chúng ta cần thường xuyên cầu nguyện, siêng năng tham dự thánh lễ và nếu chúng ta lỡ phạm tội chúng ta cần can đảm đến với bí tích giải tội để được ơn tha thứ và qua đó, Chúa sẽ ban ơn soi sáng để chúng ta biết sống đúng với phẩm giá làm người của mình hơn.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn can đảm nói không với sự dữ, luôn kiên trường tránh xa những mưu chước cám dỗ của Sa-tan và luôn trung thành theo giáo huấn của Chúa, ngõ hầu chúng ta luôn trở thành con cái của Thiên Chúa, con cái của tự do không lệ thuộc bởi đam mê tội lỗi. Amen.
7. Diệt cỏ lùng bằng nhân đức
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Một nhà hiền triết dẫn các học trò đến trên bãi cỏ hoang và hỏi các học trò: Làm thế nào để diệt trừ hết cỏ hoang này?
Một học trò thưa: “Dạ thưa thầy, chỉ cần có một cái xẻng thôi là xong hết ạ!”Nhà hiền triết khe khẽ gật đầu. Một người học trò khác như phát hiện ra điều gì mới, nói tiếp: “Dạ thưa thầy, đốt lửa để diệt cỏ cũng là một cách rất hay đấy ạ!”Nhà hiền triết im lặng mỉm cười, ra hiệu gọi một người khác. Người học trò thứ ba nó: “Thưa thầy, rắc vôi lên cũng có thể diệt được hết tất cả các giống cỏ đấy ạ!”. Tiếp ngay sau đó là người học trò thứ tư anh ta nói: “Diệt cỏ phải trừ tận gốc, chỉ cần nhổ được rễ lớn là xong hết!”. Các học trò đã lần lượt nói hết suy nghĩ của mình, nhà hiền triết mới nói: “Muốn diệt hết cỏ dại ở bãi hoang, chỉ có một cách hay nhất, đó là hãy trồng cấy mùa màng lên đấy. Cũng như vậy, muốn để linh hồn không phải buồn lo tản mạn, thì cách duy nhất là hãy chiếm cứ nó bằng những đức tính tốt”.
Đây là một câu chuyện thật ý nghĩa. Ý nghĩa vì nó rút cho chúng ta một bài học làm người thật giản dị. Muốn trở nên người tốt thì không phải chỉ bỏ tật xấu mà quan yếu là tập thói quen tốt mới có thể giảm dần tính xấu.
Con người chúng ta mặc dầu được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa nhưng lại được đặt giữa thế gian nên ma qủy cũng gieo vào hồn ta những cỏ dại là tính hư nết xấu. Có đôi lúc chúng ta ngủ mê trong đam mê nên để cỏ dại mọc kín tâm hồn chúng ta. Có đôi lúc chúng ta mải mê trong danh vọng nên để cho tính hư nết xấu, cùng thói kiêu căng giả hình phát triển mạnh mẽ nơi chúng ta.
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn lúa và cỏ lùng như muốn nhắc nhở chúng ta sự phát triển rất nhanh của tính hư nết xấu trong con người chúng ta. Chỉ một chút thờ ơ thì cỏ lùng đã lấn lướt cây lúa. Cũng vậy, chỉ một chút mất cảnh giác cũng đủ chúng ta lây nhiễm biết bao thói đời xấu xa. Cỏ thì dễ mọc. Lúa thì phải chăm bón. Thói xấu thì dễ nhiễm, nhưng nhân đức phải tập luyện mới thành. Đó là nỗi khổ mà thánh Phaolô đã từng thốt lên: “việc lành tôi muốn làm mà tôi lại không làm. Việc dữ tôi không muốn làm mà tôi lại làm”. Đó là lý do mà có biết bao người đang hiền lành bổng dưng làm chuyện ác, đang sống tốt bỗng trở thành kẻ sát nhân. Đó cũng là mâu thuẫn tự nội tâm con người và vượt ngoài tầm kiểm soát của chúng ta. Nhưng hôm nay Chúa bảo chúng ta đừng lo lắng hay thất vọng. Hãy tin tưởng vào sức mạnh của ân sủng Chúa. Chính Chúa sẽ hoàn tất những điều tốt đẹp nơi chúng ta. Tựa như một cây cải nhỏ bé tưởng chừng như bị nuốt chửng giữa cỏ dại um tùm nhưng một lúc nào đó nó sẽ trở thành cây cao bóng cả. Hay việc tốt chúng ta làm tuy nhỏ bé như nắm men được ủ vào ba thúng bột, thế mà nó làm cho tất cả đều phải dạy men. Hãy kiên nhẫn rèn luyện nhân đức. Hãy kiên nhẫn sửa lại lỗi lầm bằng những việc cao thượng hơn hầu khống chế những tính hư nết xấu trong ta.
Cuộc sống con người có cái tốt, cái xấu. Nó có thể biến chúng ta thành thiên thần hay ác quỷ trong một khoảng cách rất gần. Điều quan yếu là chúng ta đừng bao giờ mất cảnh giác với lời mời gọi đi vào đường xấu. Hãy tỉnh thức kẻo sa vào cám dỗ. Hãy nói không với tội lỗi. Hãy tránh xa môi trường xấu để giữ mình khỏi quyến luyến tội lỗi.
Người xưa nói rằng: “biết mình yếu thì đừng ra gió”. Hãy tự biết sự yếu đuối của mình để phòng tránh những cám dỗ tội lỗi. Hãy nhìn nhận sự yếu đuối của mình để cậy dựa vào ân sủng Chúa. Hãy để cho Chúa dẫn dắt chúng ta đi trong ánh sáng Lời Chúa. Hãy rèn luyện các nhân đức tốt để đẩy lùi những thói xấu ra khỏi con người chúng ta. Hãy nuôi dưỡng những mầm sống lương thiện thay cho những ý đồ bất chính. Hãy làm cho tâm hồn mình trở thành miền đất màu mỡ cho Tin Mừng của Chúa được vươn lên thành những nhân đức cao đẹp.
Ước gì chúng ta hãy làm đẹp cuộc đời mình thành những cánh đồng lúa xanh tươi bằng những việc lành phúc đức. Xin đừng để tính lười biếng mà biến hồn ta thành nơi chất chứa những điều xấu xa. Xin cho chúng ta biết chiến thắng cỏ lùng bằng việc rèn luyện những nhân đức tốt thay cho những cái xấu làm mất vẻ đẹp cuộc đời chúng ta. Ước gì chúng ta luôn biết cậy dựa vào ơn Chúa để hoàn thiện đời mình nên hoàn hảo như Cha chúng ta ở trên trời là Đấng hoàn hảo. Amen.
8. Như hạt giống tốt
(Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Bài tin mừng Chúa nhật nầy gồm ba dụ ngôn về Nước Trời: Dụ ngôn lúa và cỏ lùng (13:24-30), dụ ngôn hạt cải (13:31-32); dụ ngôn men trong bột (13:33); lý do dùng dụ ngôn (13:34-35) và giải thích dụ ngôn lúa và cỏ lùng (13:36-43). Ba dụ ngôn nầy có nhiều điểm chung: - Tất cả đều hướng về “ngày thu hoạch”, chứ không phải tình trạng hiện thời; - Phương thức làm là hạt giống/men được gieo vào trong một môi trường; - Các dụ ngôn nhấn mạnh kết quả mà hạt giống/men mang lại cho môi trường (cc. 30b.32.33).
Dụ ngôn lúa và cỏ lùng (13:24-30)
Liên hệ với dụ ngôn trước, dụ ngôn nầy tiếp tục nói về Nước Trời bằng câu chuyện hạt giống. Khác với dụ ngôn trước, dụ ngôn nầy không nói về các loại đất trong đó các hạt giống được gieo vào, mà nói về hạt giống. Dụ ngôn trước nói về đất tốt (13,8.23) giúp cho hạt giống trổ sinh nhiều bông hạt. Dụ ngôn nầy đề cập đến hạt giống tốt (c. 24), không bị cỏ lùng làm chết đi, mà sẽ sinh nhiều hạt và được thu vào kho lẫm (c. 30). Điểm khác biệt nữa trong dụ ngôn nầy là sự can thiệp bởi các yếu tố bên ngoài: một đàng là kẻ thù gieo cỏ lùng vào ruộng lúa (c. 25); đàng khác là quyết định của chủ ruộng để cho lúa và cỏ lùng mọc chung với nhau cho đến ngày gặt, bởi ông biết phẩm tính của hạt giống (c. 30). Có thể phân chia bố cục của đoạn nầy như sau: - Khởi điểm về hạt giống tốt (c. 24); - Hạt giống lớn lên chung với cỏ lùng (cc. 25-26); - Lúa tốt được tách ra khỏi cỏ lùng trong mùa gặt (cc. 27-30)
Khởi điểm về hạt giống tốt (c. 24)
Matthêô dùng tĩnh từ kalos, “tốt” trong một số hình ảnh ẩn dụ như trái tốt (3,10; 7,19), công việc tốt (5,16), cây tốt (12,33), hạt giống tốt (13,24), hạt ngọc tốt (13,45), cá tốt (13,48). Các hình ảnh nầy đều nằm trong văn mạch của trình thuật về ngày cánh chung. Đến thời sau cùng, cây nào sinh trái tốt thì được giữ lại, cây nào không sinh trái hoặc sinh trái xấu sẽ bị chặt đi và vất vào lửa; cá tốt sẽ được bỏ vào giỏ, còn cá xấu thì bị quăng ra ngoài. Cũng thế hạt giống tốt sẽ được cất vào kho lẫm, trong khi cỏ lùng sẽ bị gom góp lại thành bó và bị đốt đi.
Hạt giống lớn lên chung với cỏ lùng (cc. 25-26)
Trong đoạn nầy dưới hình thức trình bày, Matthêô nói đến sự xuất hiện của cỏ lùng và lớn lên chung của nó với hạt giống trong cùng một thửa ruộng. “Kẻ thù”, echthros, là người gieo cỏ lùng vào đó, cũng là ma quỉ, diabolos (c. 39), là kẻ đối nghịch với “ông chủ”, kyrios (c. 28). Kẻ thù gieo cỏ lùng lên trên hạt giống tốt nhằm phá hoại hạt giống tốt và ngăn cản hạt giống sinh trái.
Câu 25 mô tả các hành động liên tiếp và hoàn thành của kẻ thù: èlthen, “đã đến”, epespeiren, “đã gieo lên trên” và apèthen, “đã ra đi”. Các hành động diễn ra rất nhanh trong khung cảnh thoi gian là “lúc mọi người đang ngủ”, en tò katheudein. Matthêô thường mô tả một biến cố “sự dữ” diễn ra trong khi một người đang ngủ: Chúa Giêsu đang ngủ trên thuyền thì giông bão ập đến (8,24), trong khi các môn đệ đang ngủ, Chúa Giêsu chiến đấu với cám dỗ trong Vườn Cây Dầu, và người tội lỗi đang đến bắt Ngài (x. 26,40-45). Ở đây Matthêô chỉ nhắm mô tả sự kiện là ma qủi lợi dụng lúc người ta đang ngủ để gieo cỏ lùng vào.
Cỏ lùng được kẻ thù gieo vào giữa hạt giống tốt và lớn lên cùng hạt giống (c. 26). Trong 10,16 Matthêô nói đến việc chiên được sai đến giữa đàn sói. Trong cả hai trường hợp Matthêô đều cho thấy là hạt giống và chiên không bị biến dạng hay hư hỏng bởi việc sống chung nầy. Cỏ lùng và hạt giống tốt cùng lớn lên và chúng phát triển theo cách của chúng. Ở đây cả hai được mô tả là lớn lên cùng thời. Trong 13,30, có sự quyết định của gia chủ nữa, “Hãy để chúng cùng lớn lên”. Hạt giống tốt kết trái, cỏ lùng cũng phơi bày mình ra. Tỏ hiện, phainò, ở đây là tự phơi bày mình ra cho người khác thấy (x. 9,33; 24,30); khi còn là hạt, khó phân biệt được đâu là cỏ lùng và hạt giống.
Chủ đề chính của dụ ngôn là hạt giống. Chủ ruộng đã gieo hạt giống, speirò, vào ruộng của mình. Kẻ thù đến và gieo thêm cỏ lùng “giữa hạt giống”; động từ epi-speirò chỉ việc gieo lên trên. Cách mô tả nầy cho thấy mục đích xấu của kẻ thù. Tuy nhiên, hạt giống vẫn mọc lên và kết trái. Matthêo nói đến việc kết trái, karpos, như trong dụ ngôn trước (13,8). Việc kết trái chứng tỏ là hạt giống tốt, nên mới sinh trái tốt (7,18.20), và không bị ảnh hưởng bởi việc lớn lên chung với cỏ lùng.
Lúa tốt được tách ra khỏi cỏ lùng trong mùa gặt (cc. 27-30)
Đoạn nầy ở hình thức đối thoại giữa chủ ruộng và các tôi tớ. Các tôi tớ đặt các câu hỏi, và gia chủ trả lời và ra mệnh lệnh. Kẻ thù ra đi, các tôi tớ đến với gia chủ trình bày về sự hiện diện của hạt giống xấu trong ruộng (c. 27). “Người gieo hạt giống tốt” trong câu nhập đề, bây giờ được xác định chính là gia chủ, oikodespotès. Gia chủ nầy chính là hình ảnh của Thiên Chúa (20,1; 21,33); bởi đó kyrie cũng hiểu theo nghĩa nầy. Các tôi tớ đặt vấn đề về nguồn gốc hạt giống xấu giữa ruộng của ông chủ: “Ông đã chẳng gieo hạt giống tốt hay sao?” Câu trả lời chờ đợi khẳng định “Vâng, tôi đã gieo hạt giống tốt”. Câu hỏi tiếp theo về nguồn gốc cỏ lùng “Bởi đâu lại có cỏ lùng?” Trong Matthêô, khi đặt vấn đề về nguồn gốc một sự kiện, thường cho thấy sự kiện ấy vượt qua trí hiểu của con người, và cả sự bất lực của con người trong giải quyết vấn đề (13,27; 13,54.56; 15,33; 21,25). Bởi đó, ông chủ không để cho các tôi tớ làm theo cách suy nghĩ của họ là đi nhổ ngay cỏ lùng ra khỏi ruộng.
Chỉ gia chủ mới biết nguồn gốc của cỏ lùng, còn tôi tớ không biết điều nầy, nên họ phải chờ đến ngày gặt (c. 28). Ông gọi đó là kẻ thù của ông, vì cỏ lùng đã được gieo vào trong ruộng của ông. Chính ông quyết định thời hạn để cho cỏ lùng lớn lên chung với hạt giống, và khi nào thì chúng sẽ bị đốt trong lửa. Động từ syllegò, “thu góp” (cc. 28.29.30) được dùng đến 3 lần trong đoạn ngắn nầy. Các tôi tớ muốn thu góp ngay cỏ lùng (c.28), nhưng gia chủ lo ngại việc thu góp nầy sẽ ảnh hưởng đến hạt giống tốt (c. 29). Bởi đó ông để cỏ lùng mọc chung trong ruộng của ông cho đến ngày gặt (c. 30). “Mùa gặt” và “thời gian” gắn liền với nhau và mang ý nghĩa cánh chung. Chính “thời gian”, kaipos, xác định tính chất của mùa gặt. Đó là mùa gặt của thời cánh chung (8,29; 21,34). Chính đợi đến ngày cánh chung, mọi sự mới tỏ lộ ra và được giải quyết (13,47-50; 22,1-14; 25,31-46). Hạt giống tốt thì sinh hạt, còn cỏ lùng thì không; như thế ông chủ dùng nguyên tắc “xem quả thì biết cây” (7,18) để chỉ cho tôi tớ biết cách phân biệt và hành động trong ngày gặt. Cỏ lùng thì bó lại và đốt đi, còn lúa tốt cất vào trong kho lẫm của gia chủ (13,30b.40; 3, 12).
Thiên Chúa gieo hạt giống tốt xuống, và Ngài thu gặt hoa trái. Trên mảnh ruộng của Thiên Chúa ở trần gian, hạt giống tốt và cỏ lùng sống chung. Hạt giống tốt phải sinh hoa trái tốt, vì chỉ như thế nó mới được thu hoạch và cất vào kho lẫm của Thiên Chúa.
Dụ Ngôn Hạt Cải (13,31-32)
Lần nữa Chúa Giêsu nói về dụ ngôn một hạt giống khác. Đó là hạt cải. Dụ ngôn nầy được thuật lại trong Mc 4,30-32 và Lc 13,18-19. Hạt cải mọc dọc theo vùng Biển Galilêa. Chiều cao loại cây một năm nầy thay đổi từ 0,6096 m - 1,8288m. Lá mọc từ gốc mà lên. Đến mùa cây trổ sinh rất nhiều bông nhỏ màu vàng. Hạt cải dùng làm dầu, một thứ hương liệu (ABD 2,812).
Khác với dụ ngôn hạt giống tốt, dụ ngôn nầy nhấn mạnh đến kết quả cuối cùng của hạt cải, rất tương phản với tình trạng khởi đầu. Tính cách tương phản nầy được diễn tả bởi hai tính từ mikroteron, “nhỏ nhất” và meizon, “lớn nhất” (c.32). Sự tương phản nầy nhấn mạnh sự sống lớn mạnh và năng động của Nước Trời. Hạt cải lớn lên thành “cây”, devdron, nghĩa là nó có hình dáng và kích thước như một thân cây.
Hình ảnh ẩn dụ “chim trời đến ẩn náu trong cành của nó” lấy từ Cựu ước. Sách Đaniel 4 và Ezekiel 31 so sánh vua Aicập như một cây to lớn, “thân nó cao lớn hơn mọi cây cối trong cánh đồng, chồi lộc ra nhiều, cành lá vươn rộng” (Ezk 31,5), mà các chư hầu như chim trời tìm đến ẩn náu và làm tổ, “Trên cành cây, mọi giống chim trời đến làm tổ, dưới bóng lá cành, mọi dã thú nẩy nở sinh sôi, và dưới bóng nó, vô số dân tộc đến cư ngụ” (Ezk 31,6; Đaniel 4,9.18). Bởi đó, hình ảnh nầy được dùng trong dụ ngôn ám chỉ việc các dân tộc tìm đến Nước Trời vào thời cánh chung, để được cư ngụ và hưởng sự sống trong đó.
Cây cải của Nước Trời thay thế cây sự sống trong vườn Eđen, bởi Nước Trời ban sự sống cho mọi dân tộc và mọi người.
Dụ Ngôn Men Trong Bột (13,33)
Dụ ngôn nầy không dùng hình ảnh hạt giống nữa, mà một nhúm men, zymè. Giống như dụ ngôn trước, dụ ngôn nầy nói đến sự nhỏ bé lúc ban đầu và lớn mạnh vào lúc cuối. Tuy nhiên dụ ngôn nầy còn nhấn mạnh một khía cạnh khác. Đó là sự sống của Nước Trời làm biến đổi cả môi trường nơi men Nước Trời được bỏ vào.
Kết luận: Nước Trời là Chúa Giêsu Kitô. Ngài đến trần gian như hạt giống chịu chôn vùi trong lòng đất. Không để tỏ lộ công khai một dáng vẻ to lớn và huy hoàng nào; trái lại nhỏ bé và thầm lặng. Tuy nhiên Ngài đã làm dậy lên trần gian và khi đã hoàn thành sứ mạng, Ngài trở nên nơi ơn cứu độ duy nhất cho mọi người.
9. Nước Trời được ví như...
(Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Đoạn Tin Mừng dài hôm nay chỉ có một chủ đề duy nhất: qua một số hình ảnh dễ hiểu Nước Trời được phác lên những nét đặc thù mà, thoạt tiên xem ra rời rạc nhưng nhìn kĩ chúng bổ sung cho nhau cách hết sức chặt chẽ. Tuy nhiên để hiểu sâu rộng hơn, tôi thiết nghĩ cần phải đầu tư đội chút suy nghĩ. Hai dụ ngôn đầu chẳng hạn, nhiều lần ta được giải thích: sức mạnh của Nước Trời được ví như hạt cải, tuy nhỏ bé nhưng lại mọc thành cây lớn, như dúm men ít ỏi mà làm cho cả ba thúng bột dậy men, vì đó là sức mạnh của chân thiện mỹ, mà chân thiện mỹ thì không gì có thể cưỡng lại được. Điều này nếu có đúng thì chỉ trên suy luận lô-gic, thực tế cho thấy: ngay cả giữa các tu sĩ nhiều người còn nghi ngại về sức mạnh của gương mù gương xấu hơn là tin tưởng vào sức mạnh của gương lành hay nhân đức. Ngay cả một Giáo Hội rất tự hào về các chân lý mình sở đắc mà nhiều khi cũng còn run sợ, lép vế trước các thói đời, lạc thuyết… Sức mạnh vô địch của Nước Trời, theo Đức Giêsu, chắc phải hệ tại ở một điều gì khác lắm…
Dụ ngôn thứ ba thì Đức Giêsu kể, rồi lại được chính Người giải thích nhằm đáp ứng yêu cầu của các môn đệ. Nhiều người cho rằng dụ ngôn này nói về tình trạng chịu vậy của người lành phải sống chung với kẻ dữ chờ ngày phán xét; nếu quả thật là thế thì ý nghĩa của nó đi ngược hẳn lại, và triệt tiêu hai dụ ngôn trên. Chắc chắn không thể thế được! Hơn nữa nhiều người trong chúng ta vẫn hiểu là Đức Giêsu ví von Nước Trời giống như hạt cải, như nhúm men…, thậm chí nhiều cuốn Kinh Thánh còn đặt tiêu đề ‘dụ ngôn cỏ lùng’ dễ gây hiểu lầm (Nước Trời giống như cỏ lùng?). Thực ra các dụ ngôn đều là những câu chuyện, và ở đây Nước Trời được ví như ba hành động chứ không phải ba vật thể. Riêng dụ ngôn thứ ba (lúa tốt và cỏ lùng) Nước Trời được ví với thái độ của chủ ruộng: ông chấp nhận tình trạng sống chung tốt xấu vì một mục đích nào đó cao cả hơn. Nếu ta đọc cả ba dụ ngôn và hiểu ba hành động trong thế liên hoàn, có thể ý nghĩa sẽ hiện rõ hơn chăng? Tôi thử suy diễn:
Nước trời chính là lòng từ nhân của Thiên Chúa và thực tại trong đó lòng thương xót của Ngài ngự trị và hành động. Lòng nhân này chấp nhận, và thực tế còn như ‘mong’ cho có sự dữ, ‘đòi’ phải có sự tội trên trần gian này, mọi nơi và qua mọi thời đại (kể cả trong Hội Thánh, trong đời tu… và đương nhiên nơi từng tâm hồn…) Felix culpa là thế!; ‘Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt!’ Yếu đuối và tội lỗi không hề làm cho tình yêu thương xót này bị giảm sút hay thu hẹp lại. Thoạt nhìn lòng nhân ái có vẻ âm thầm và rất mực khiêm tốn, nhưng chính trước tội lỗi và sự dữ nó lại có cơ càng lớn mạnh và bùng nổ mạnh mẽ hơn. ‘Nước Trời cũng giống như chuyện hạt cải (nhỏ bé) người nọ lấy gieo trong ruộng mình…như nắm men vùi vào ba thúng bột…’ Và trong chính cái môi trường tội lỗi và thấp kém đó (thửa đất đen hay mấy thúng bột chai lì) lòng thương xót càng chứng tỏ được cái sức mạnh cải tạo và biến đổi vô địch của nó, ‘cho đến khi tất cả bột dậy men’.
Lấy trường hợp thầy thuốc chẳng hạn, một hình ảnh mà Đức Giêsu đã từng sử dụng để nói về chính mình. Nghề của thầy thuốc cần, và gần như đòi, phải có người đau yếu bệnh tật. Người ta không gởi bác sĩ tới nơi toàn người khỏe mạnh, lành lặn. Bệnh càng nhiều và con bệnh càng hiểm nghèo thì tay nghề của bác sĩ, không những không mai một, mà ngược lại còn phát huy và nổi danh hơn. Một bác sĩ được gởi tới bệnh viện chính là để chữa bệnh cho thật nhiều bệnh nhân, nhất là các ca bệnh nặng nhất… cho tới khi họ hoàn toàn bình phục có thể về nhà. Nước Trời của Đức Kitô là như thế đó và kế hoạch của Thiên Chúa là như vậy!
Cụ thể hơn, ta thử nhìn vào trường hợp cha sở họ Ars - thánh Gioan Vi-a-nê, một hình ảnh mà tôi đã nhiều lần chiêm ngắm trong sứ vụ linh mục của mình. Sứ mệnh mục tử tìm chiên lạc của ngài gần như đòi ngài phải được phái tới một họ đạo hẻo lánh, khô khan, nguội lạnh như cái họ đạo Ars thời đó. Và chính vì được gởi tới cái họ đạo tội lỗi bê tha này mà từ một linh mục tầm thường vô danh, Gio-an Ma-ri-a đã trở nên lừng danh thánh thiện; và vì ngài đã trung thành ở lại phục vụ chứ không trốn chạy (như ngài đã từng muốn làm) mà họ đạo Ars và cả vùng lân cận dần dần được cải hóa. Có như thế, Gioan Maria Vi-a-nê mới nối bước theo chân Thầy Giêsu, mới xứng danh là linh mục của Nước Trời - linh mục của Giêsu cứu độ, của Thiên Chúa nhân hậu và xót thương. Chính vì thế mà, nếu muốn trở thành một linh mục (hay Kitô hữu) của Nước Trời, tôi không thể khác hơn… là chấp nhận sống giữa một trần gian tội lỗi, để có nhiều người nhận ra rằng: ‘Nước Trời đang ở giữa anh em’.
Lạy Thiên Chúa là chủ của Nước Trời đang được thể hiện nơi trần gian, xin biến đổi con nên linh mục của Nước Trời, để con không phàn nàn kêu trách tội lỗi của người đời, không khó chịu, chán nản trước các lầm lỗi của chính mình, cũng như của các anh em con. Ngược lại xin cho con biết dâng lời cảm tạ vì nhờ đó con càng được đồng hành với lòng thương xót Chúa, được tiến bộ và lớn mạnh lên trong sức mạnh yêu thương, và được tham gia vào hiệu năng cải hóa và biến đổi mà chỉ có lòng thương xót thập giá mới có thể thực sự mang lại. Amen.
10. Con người, không phải cỏ cây
(John. W. Martens – Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
Mt 13, 28: “Vậy ông có muốn chúng tôi ra đi để gom cỏ lùng lại không?”
Dụ ngôn cỏ dại giữa ruộng lúa chỉ có trong tin mừng Matthêu. Đó là dụ ngôn về cánh chung, về ngày phán xét sau cùng. Đối với những người làm vườn, dụ ngôn gợi nhắc chúng ta nhớ lại những kinh nghiệm vườn tược. Kinh nghiệm cho thấy, ta có thể phân biệt giữa lúa tốt và cỏ dại. Nói thì dễ nhưng bắt tay vào làm thì rất khó, nhất là đối với những ai mới tập sự công việc ruộng rẫy. Ở đây chúng ta đặt ra một câu hỏi khác: Cỏ dại từ đâu mà ra?
Gia đình tôi đã mua một căn hộ 10 năm về trước, và chúng tôi đã chuyển đến căn hộ này vào mùa xuân. Tôi nhận thấy có một giống cỏ lạ trong vườn nhà mình. Khi loại cỏ này lớn lên vào mùa hè, tôi khám phá ra chúng không còn giống một loại cỏ dại nữa. Đó là loại rau ăn được, tên khoa học là Antium lappa. Rễ của nó màu trắng, dài đến 1 mét khi nó lớn và rất khó để nhổ lên. Rễ của giống cây này sẽ bị gãy và tự phân hủy, trước khi tôi có thể bứng nó đi. Tôi còn khám phá ra một điều thú vị về loại cây Antium lappa này. Nhiều người đã dùng nó như một vị thuốc để chữa bệnh. Đó cũng là một loại thảo mộc mà bông của nó có thể được dùng để dệt vải. Khi người ta lấy sợi bông này dính vào lông cừu, thì rất khó để gỡ ra. Đây là loại cỏ dại đối với tôi và gia đình, những đối với những người biết công năng của nó, thì nó chẳng còn là một loại cỏ dại nữa. Phân biệt cỏ dại với một loại thảo mộc hữu ích, tùy thuộc vào sự hiểu biết của từng người.
Trong dụ ngôn về lúa tốt và cỏ dại, dường như không có sự phân định ró ràng giữa hai thể loại này. Một bên là lúa, để làm ra cơm bánh, một bên là cỏ dại, tiếng Hy Lạp là Zizania, và tên khoa học nó thuộc chủng loại Lolium Temulentum. Các bản dịch cổ trong Kinh Thánh vẫn gọi là cỏ lùng, hay cỏ dại. Zizania trông khá giống cây lúa khi nó mới mọc lên, nhưng khi nó lớn lên, người ta dễ phân biệt nó với cây lúa. Dụ ngôn của Chúa Giê-Su khai sáng cho chúng ta thấy loại cỏ Zizania này cuối cùng không thể được sử dụng, không giống như loại cỏ bông, cây thuốc chúng ta nói ở trên. Khi người làm vườn phát hiện ra nó, nó sẽ bị đốn bỏ. Tuy vậy, để phân định lúa tốt với cỏ dại, phải chờ đợi ngày cánh chung, eschaton, khi nhũng người thợ gặt, là các thiên thần sẽ đến thu gom lúa tốt cho vào kho lẫm và gom đốt cỏ dại, như một cuộc phân định chung thẩm.
Đôi khi có một vài sinh viên hỏi tôi có phải dụ ngôn ám chỉ việc tiền định, tức là có một số người đã là lúa tốt, và một số khác đã là cỏ dại ngay từ lúc ban đầu. Vấn nạn đó chống lại gay gắt ý nghĩ ẩn dụ của dụ ngôn. Cây cỏ chỉ là cây cỏ, và con nguời vẫn là con người. Điểm nhấn của Chúa Giê-Su nơi dụ ngôn, là Ngài không chủ trương nói rằng có những người vốn xấu xa ngay từ ban đầu, từ căn rễ. Nhưng Giáo hội là một thân thể mầu nhiệm pha trộn cả những vị thánh và những tội nhân. Chúng ta không thể nói ai là những người biểu trưng cho lúa tốt, và ai là những cỏ dại, vì bản tính bất toàn của con người chúng ta. Những hiểu biết và những quyết định của chúng ta khi xét đoán người khác không thể nào chính xác, khi chúng ta muốn tiếm quyền Thiên Chúa trong công việc này.
Dương như trong dụ ngôn này, Giáo hội được khuyến mời hãy luôn có thái độ kiên nhẫn và khoan nhượng đối với những con người mà chúng ta dễ kết án.Tất cả chúng ta hợp thành một nhiệm thể. Chúng ta được dựng nên tốt lành theo họa ảnh của Thiên Chúa, nhưng ai cũng có khuynh hướng chiều theo tội lỗi. Không ai trong chúng ta trở thành lúa tốt nếu Chúa không trợ giúp. Chúng ta dễ có khuynh hướng sai lạc là muốn làm tinh sạch giáo hội bằng cách loại trừ những ai phạm tội không theo kiểu cách của chúng ta, hoặc không suy nghĩ giống như chúng ta. Khuynh hướng này cần phải được loại bỏ. Chúng ta phải kiên nhẫn để cho Thiên Chúa làm việc, khi chúng ta đang chuẩn bị cho ngày cánh chung sau cùng. Matthêu không hổ thẹn khi nói về Ngày Chung Thẩm (Ngày Chung Thẩm viết hoa). “Sẽ có nhiều người bị ném vào nơi khóc lóc nghiến răng, và một số nguời công chính sẽ sáng chói như ánh mặt trời trong vương quốc của Chúa Cha”. Trong khi Giáo Hội vẫn sử dụng quyền bính để thẩm xét những hành vi của con người như trong Mt 18, và những ai còn sống trong sự hiệp thông với Giáo hội, thì với sự hiểu biết hạn hẹp của chúng ta, chúng ta không thể kết luận ai là lúa tốt, ai là cỏ dại. Về điều này chúng ta cần phải nhấn thật mạnh một lần nữa, dụ ngôn với ý nghĩa ẩn dụ thì vẫn chỉ là ẩn dụ mà thôi. Chúng ta không phải là cây cỏ, nhưng chúng ta là những con người. Khác với cây cỏ, vì nó chỉ là cỏ cây, thế thôi. Chúng ta là con nguời, và chúng ta vẫn có thể lớn lên theo cách thức mà Chúa muốn chúng ta phải là, để phục vụ vương quốc với hoa trái mà chúng ta không bao giờ biết đến, và hoa trái đó ở ngay chính trong tâm hồn chúng ta.
11. Nhẫn nại đợi chờ!
(Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Nước Trời là một mầu nhiệm, Chúa Giêsu đã mạc khải và thiết lập trong lịch sử nhân loại. Qua những hình ảnh đơn sơ, bình dị, gần gũi với cuộc sống, Chúa Giêsu đã dùng nhiều dụ ngôn để giảng dạy về Nước Trời.
Chúa nhật trước với dụ ngôn “người gieo giống”,Chúa Giêsu cho thấy Nước Trời đã khai mạc. Cũng như người gieo giống đi gieo hạt trên khắp cánh đồng, Chúa Giêsu cũng gieo hạt giống Lời Chúa. Hạt giống ấy tăng trưởng trổ sinh hoa trái nơi mỗi người ra sao là tùy thái độ đón nhận của từng người ấy.
Chúa nhật hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục giảng dạy về Nước Trời bằng dụ ngôn “lúa và cỏ lùng”. Như vậy, sau khi nói đến việc khai mạc Nước Trời, Người nói đến sự phát triển của Nước Trời trong lịch sử trần thế.
Chúa Giêsu đã khởi đầu công trình của Người với một nhóm nhỏ Mười Hai Tông Đồ. Sự khiêm tốn của “hạt cải bé nhỏ được gieo vào lòng đất bao la”. Sự khiêm tốn của “một nắm men bị vùi sâu vào ba đấu bột”. Điều kỳ diệu là “hạt bé hơn mọi thứ hạt giống” lại “trở thành cây cao bóng cả đến nỗi chim trời có thể đến nương náu nơi ngành nó”. Nắm men ít ỏi kia lại có khả năng làm dậy lên cả ba đấu bột chôn vùi nó. Cũng như vậy, Nước Trời sẽ vươn xa vươn rộng cho muôn dân nước đến nương nhờ. Hạt giống Nước Trời đã làm dậy lên cả thế giới bằng một tinh thần mới của Tin Mừng,biến đổi lịch sử trong tình thương và hòa bình.
Một vấn nạn luôn được đặt ra: Nếu Nước Trời đã được Chúa Giêsu thiết lập cách đây hơn 20 thế kỷ và nếu Thiên Chúa là Đấng nhân hậu giàu lòng xót thương thì tại sao cho đến nay, cuộc sống con người vẫn đầy dẫy bất công,bạo lực,khổ đau,chiến tranh tương tàn, và xem ra sự dữ có chiều hướng gia tăng? Đôi khi những người xấu xa tội lỗi gian manh, lại giàu có sung túc trong đời sống vật chất hơn những người lành? Vấn nạn này vẫn luôn là trăn trở khôn nguôi người Kitô hữu ở mọi thời đại! Dụ ngôn “lúa và cỏ lùng” giải thích vấn nạn ấy.
Cánh đồng được gieo toàn hạt giống tốt. Thiên Chúa đã gieo vào trần thế những con cái Nước Trời. Ban đêm, kẻ thù xuất hiện. Satan tới gieo cỏ lùng. Thế là có cảnh lẫn lộn trên trần gian. Người lành kẻ dữ cùng chung nhau một mảnh đất. Đang khi hạt giống được gieo giữa ban ngày thì Satan lại lợi dụng đêm tối khi mọi người đã mất cảnh giác, để gieo rắc tội lỗi. Hành động thấp hèn. “Xấu” chưa chắc đã “hèn”, nhưng “hèn” thì chắc chắn là “xấu”, bởi lẽ nhiều tay “giang hồ”, bặm trợn, vẫn rất ghét thói “ném đá dấu tay”, trong khi động cơ, phương tiện và mục đích của những hành động lén lút, luôn là bỉ ổi, xấu xa và hại người.
Thế giới này giống như cánh đồng lúa đầy cỏ lùng xen vào. Những ông thánh sống lẫn lộn với những thằng quỷ, tốt xen lẫn với xấu. Tốt như những tổ chức nhân đạo, nhân quyền, hoà bình thế giới: Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên Hiệp Quốc – UNESCO (United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization), Quỹ Cứu trợ Nhi đồng Quốc tế của Liên Hiệp Quốc – UNICEP (United Nations International Children’s Emergency Fund), Tổ chức Lương thục và Nông nghiệp của Liên Hiệp Quốc – FAO (United Nations Food anf Agricultural Organization), OLYMPIC (Thế vận hội), WORLD CUP (Túc cầu Thế giới) là những tổ chức xây dựng văn hoá, giáo dục tình thương, bảo vệ sức khoẻ trẻ em, phát triển lương thực thế giới, thăng tiến những tài năng, chăm lo y tế. Nhưng lại có rất nhiều những tổ chức xấu xen vào như Mafia, buôn lậu, ma tuý, vũ khí, khủng bố, trộm cướp, du đãng, buôn bán trẻ em, phim ảnh sách báo đồi truỵ… Đồ thật, hàng tốt bị xen lẫn hàng xấu, đồ giả. Người lương thiện, chân chính bị lẫn lộn với kẻ tham ô, móc ngoặc, bất lương. Những thứ cỏ lùng gai góc đó không bao giờ hết, chỉ đến mùa gặt tận thế, chúng mới bị quét sạch, đốt sạch. Tận thế sẽ thiêu đốt tất cả những thứ cỏ lùng đó, những kẻ xấu, kẻ dữ đó. Còn lúa thì được gánh về, chở về kho. Những thánh nhân, những người lương thiện, công chính sẽ sáng chói trong ngày vinh quang đó, họ được rước vào nước hạnh phúc đời đời.
Thấy cỏ lùng xuất hiện với lúa, các đầy tớ đến hỏi ông chủ: “Thưa ông, không phải ông đã gieo giống tốt trong ruộng ông sao? Thế thì cỏ lùng ở đâu ra vậy?” Thấy sự dữ tràn lan trên thế giới, bao nhiêu người thắc mắc: sự dữ, sự ác bởi đâu ra? Chúng ta nhiều lần thấy gian tà thắng ngay lành, bất công thắng công chính, kẻ ác thắng kẻ thiện, nên cũng thất vọng kêu trách: Sao Chúa để kẻ dữ sống lâu, mạnh khoẻ, giàu sang, may mắn, còn kẻ lành phải khổ cực trăm chiều?
Trước những thắc mắc đó, Chúa đáp: “Kẻ thù đã làm đó!” Kẻ thù là ai? Thánh kinh cho biết có hai thứ kẻ thù: kẻ thù ở trong ta và kẻ thù ở ngoài ta.
Kẻ thù ở ngoài ta có những tên khác nhau: con rắn cám dỗ phỉnh gạt (x. St 3,2.13), con rồng, rắn xưa, quỷ, satan (x. Kh 12,9), con thuồng luồng Leviathan (x. Is 27,1), kẻ thù, kẻ chống đối (x. Mt 13,25; Lc 10,19; 2Cr 6,15). Những kẻ thù này ở ngoài con người, nhưng chúng xâm nhập vào con người sâu hiểm tới độ đồng hoá với bản tính nhân loại. Nhưng chúng sẽ bị “Thiên Thần Chúa từ trời xuống, tay cầm chìa khoá vực thẳm và một dây xích lớn, bắt lấy con rồng, tức là con rắn xưa cũng là ma quỷ satan xích nó… quăng vào vực thẳm, rồi đóng cửa niêm phong lại” (Kh 20, 2-3).
Nhưng một mình quỷ thôi, chúng sẽ bất lực như bất lực đối với Thánh Gióp. Chỉ khi có sự tiếp tay của ta như Eva tiếp nó, nó mới thành kẻ thù trong ta: nó trở nên kẻ nội thù ghê gớm. Nó mọc lên những cỏ lùng, bụi gai, đá sỏi, quỷ dữ (x. Mt 13,18-22). “Vì tự lòng phát xuất ra những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cướp, chứng gian, vu khống” (Mt 15, 19). Khi chủ cho biết kẻ thù làm đó, thì đầy tớ xin nhổ đi, chủ sợ hại đến lúa, nên ông đáp: “Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt”. Thái độ của chủ thật khôn ngoan, ông kiên nhẫn chờ đợi đến mùa gặt, mới nhặt cỏ lùng đốt đi.
Có thể trong tâm tưởng nhiều người lại quy gán cho Thiên Chúa trách nhiệm về tình trạng khổ đau đó, chẳng khác gì câu hỏi ngày xưa: “Thưa ông, không phải ông đã gieo giống tốt trong ruộng ông sao? Vậy cỏ lùng ở đâu mà ra?” Một câu hỏi không lên án, nhưng chứa đựng sự nghi ngờ.
Để trả lời cho vấn nạn đó, Chúa Giêsu đã lấy lại giáo huấn của sách Sáng Thế: Sự ác không đến từ Thiên Chúa. Ngài chỉ gieo hạt giống tốt lành vào mảnh đất người đời. Sự ác cũng không chỉ đến từ tâm trí con người, nhưng nó đã có trước đó. Sự dữ cũng là một mầu nhiệm. Đối với Chúa Giêsu, con người là nạn nhân của sức mạnh mà Người gọi là ”Kẻ thù”, là ”Quỹ dữ” như cách diễn tả trong dụ ngôn: “Khi mọi người đang ngũ, thì kẻ thù của ông đến gieo thêm cỏ lùng rồi đi mất”. Ở cội nguồn tội lỗi của con người, còn có một sức mạnh luôn tìm cách phá hoại công trình của Thiên Chúa và hành tung của nó rất bí mật. Đó là quỷ dữ lợi dụng đêm tối để gieo rắc tội lỗi rồi trốn đi.Thánh Phaolô đã nói về sự dữ trong thư Rôma: Công cuộc tạo dựng của Thiên Chúa tốt lành. Satan đã cám dỗ Adam, Eva, Nguyên Tổ sa ngã, tội lỗi sinh ra đau khổ và sự chết rồi nó như con bạch tuộc vươn vòi vào trần thế, con người nô lệ cho tội lỗi và nhận lấy án phạt là sự chết (x.Rm 1,20 -31;15,12). Ma quỷ luôn có mặt để gieo rắc sự xấu.
Thiên Chúa gieo vào thế giới hạt giống khát vọng hòa bình. Đẹp biết bao khi mọi dân tộc nắm tay nhau xây dựng một thế giới huynh đệ tươi thắm tình người. Nhưng thực tế lại đáng buồn thay! Cánh đồng hòa bình tươi xanh đã bị những cỏ dại của tham vọng, ích kỷ, ác độc làm hoen ố. Lịch sử thế giới được ghi bằng những trang buồn đau vì không lúc nào mà không có chiến tranh.
Thế giới này sẽ tươi đẹp biết bao nếu tất cả trí thông minh, tất cả tài nguyên, tất cả năng lực đều góp phần chung tay xây dựng! Nhưng thật đáng tiếc, rất nhiều trí thông minh, rất nhiều tài nguyên, rất nhiều năng lực đã tiêu tốn trong việc hủy hoại, tha hóa, nô lệ hóa con người. Đó là những hạt cỏ xấu do ma quỷ lén lút gieo vào ruộng lúa tốt. Lúa tốt và cỏ lùng lẫn lộn trên cùng ruộng lúa. Cái tốt, cái xấu đan xen trong cuộc sống hàng ngày, nhất là trong tâm hồn mỗi người. Ở đó, hạt mầm sự sống và nọc độc sự chết, cùng sống chung. Mỗi con người chắc chắn đều có kinh nghiệm bản thân như Thánh Phaolô đã từng kinh nghiệm “Điều lành tôi muốn làm, tôi lại không làm, còn điều dữ tôi không muốn làm, nhưng tôi lại cứ làm (Rm 7,19).
Con người có tự do để chọn lựa cái đúng, cái sai, chọn cái tốt, cái xấu. Nước Trời cũng gồm những con người có tự do, thì cũng có những người xấu do chọn lựa sai lầm. Cảm nhận được sự thật ấy trong tâm hồn mình để chúng ta biết khoan dung trong cách nhìn về người khác. Sự khoan dung không đồng nghĩa với đầu hàng cái ác, nhưng phát xuất từ niềm tin vững chắc vào sự tất thắng của Nước Trời: “Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt. Đến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt: hãy gom cỏ lùng lại, bó thành bó mà đốt đi, còn lúa thì hãy thu vào kho lẫm cho tôi”. Cho dù cỏ lùng có bóp nghẹt lúa tốt trong một thời gian dài, nhưng mùa gặt đến, cỏ lùng sẽ bị gom lại và đốt đi, còn lúa tốt được cất vào kho lẫm.
Cỏ lùng chẳng bao giờ thành lúa tốt được,nhưng người xấu có thể hoán cải để nên người tốt. Thiên Chúa ghét tội lỗi, nhưng lại yêu mến tội nhân vì Người chờ nơi họ lòng thống hối để được thứ tha (x.Rm 2,4). Chính vì thế mà Thiên Chúa kiên tâm chờ đợi. Chờ đợi vì Thiên Chúa tin vào sự hoán cải của con người. Chờ đợi vì Thiên Chúa tôn trọng tự do lựa chọn của con người. Chờ đợi vì Thiên Chúa nuôi một niềm hy vọng lớn lao.Thiên Chúa vẫn luôn nhẫn nại đợi chờ cho đến ngày tận thế “ cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt”.
Cỏ lùng và lúa tốt nằm ở trong tim con người. Mỗi người đong đưa giữa cỏ lùng và lúa tốt, giữa cái thiện và cái ác, giữa Thiên Thần và Satan.Tự do chọn lựa là quyền mỗi người.Thiên Chúa vẫn chấp nhận cỏ lùng trong con người. Thiên Chúa nhẫn nại đợi chờ con người thanh luyện dần dần và hy vọng mọi sự trong họ sẽ thành lúa tốt.
Lạy Chúa, xin cho con nhẫn nại và can đảm cùng đi với Chúa và với tha nhân trên những nẻo đường ghập ghềnh cuộc đời, trong thác dốc tâm hồn với tất cả niềm tin và hy vọng. Amen.
12. Giống tốt
(Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
Tác giả Sách Khôn Ngoan diễn tả lòng thương xót của Thiên Chúa với dân Do-thái trong cuộc xuất Ai-cập như là biểu tượng của niềm hy vọng tràn dầy. Sự khôn ngoan thúc đẩy con người tìm hiểu về Thiên Chúa và vai trò của con người trong chương trình sáng tạo. Sách Khôn Ngoan luận bàn đến nguyên lý nhân qủa, nguyên nhân và hậu qủa để phân biệt giữa tốt và xấu. Mọi sự xuất hiện trên đời đều có lý do riêng để được tồn tại. Thời gian là ân huệ giúp mọi loài phát triển theo ý định nhiệm mầu. Sự khôn ngoan diễn tả sự liên hệ thiết yếu giữa Thiên Chúa và loài người. Thiên Chúa là Đấng tạo dựng muôn loài trong vũ trụ và con người có trách nhiệm trong việc bảo trì và làm cho sinh xôi nẩy nở về mọi phương diện. Đời sống con người là một lời mời gọi tích cực hướng tới sự viên mãn tích cực. Đau khổ của đời sống mang một ý nghĩa riêng biệt. Chương trình quan phòng của Thiên Chúa vượt trên sự điều khiển của con người. Trung tín với mạc khải về luật tự nhiên là sự khôn ngoan đích thực cao quí hơn sự hiểu biết nông cạn của trí khôn con người.
Thiên Chúa tạo dựng và điều khiển vũ trụ muôn loài. Thiên Chúa là tình yêu. Người muốn chia sẻ tình yêu với các loài thụ tạo, nhất là loài người. Người quan tâm cách đặc biệt tới con người. Người ban cho con người có hồn xác, tự do, trí khôn, ý chí và sự thông minh để con người nhận biết Thiên Chúa và đồng chủng. Thiên Chúa là Cha nhân từ đối xử đại lượng với mọi người: Vì chưng, sức mạnh của Chúa là nguồn gốc sự công minh và vì Người là Chúa mọi sự, nên tỏ ra khoan dung với mọi người (Kn 12, 16). Người tạo dựng con người để chung phần sự sống và hưởng hạnh phúc đời này lẫn đời sau. Cuộc sống có thử thách và được tự do chọn lựa. Chúa tạo cơ hội cho con người nhận biết chân lý và đường nẻo ngay chính để sống an lạc: Người dậy dỗ dân Người rằng: Người công chính, phải ăn ở nhân đạo, và Người làm cho con cái Người đầy hy vọng rằng: Người ban cho kẻ tội lỗi ơn ăn năn sám hối (Kn 12, 19).
Vì thân xác nặng nề và yếu đuối mỏng dòn nên con người dễ sa ngã vào đường lầm. Từ bẩm sinh, con người tốt lành. Nhân chi sơ, tính bản thiện. Khi sống chung đụng với người khác trong xã hội, mầm mống sự dữ và thói xấu nẩy sinh. Sự khao khát thèm muốn trong con người không có cùng. Khi có cơ hội đến là những hạt giống xấu trong tâm sẽ đua nhau phát triển. Hạt giống của sự tham lam, bất công, kiêu căng, hà tiện, giận dữ, ghen tương và thù ghét giống như cỏ lùng tự do sinh xôi nẩy nở. Đôi khi còn lớn mạnh hơn, bởi vì được tưới gội bằng ước muốn và lòng tham vô đáy. Từ đó sinh ra biết bao chứng hư tật xấu. Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn về lúa và cỏ lùng để diễn tả về tình trạng của đời sống con người. Lúa là hạt giống tốt như các nhân đức và việc tốt lành. Cỏ lùng là hạt giống xấu được gieo vào chen lẫn giữa lúa để dành sống. Người chủ ruộng kiên tâm chờ đợi cho đến mùa thu hoạch mới diệt trừ. Trong dụ ngôn, khi đầy tớ xin ông chủ nhổ cỏ lùng, Chủ nhà đáp: Không được, kẻo khi nhổ cỏ lùng, các anh lại nhổ luôn cả lúa chăng (Mt 13, 29).
Trong thực tế của việc cầy bừa ruộng rẫy, thường các chủ gia chăm bón ruộng lúa rất cẩn thận. Vào mùa lúa, để bảo vệ cây lúa phát triển tốt, các chủ gia phải chuẩn bị ruộng đất cẩn thận, rồi bơm nước, bỏ phân, diệt rầy, giết ốc và xịt thuốc cỏ. Vì nếu để cỏ mọc um tùm, lúa sẽ bị chen lấn còi cọt không thể sinh hoa kết qủa tốt. Nhưng theo cách nhìn của chủ ruộng trong dụ ngôn, mang một ý nghĩa khác sâu xa hơn. Lúa và cỏ lùng được ví như nhân đức và tính hư tật xấu của con người. Người xấu hay người tốt luôn có cơ hội sống để phát triển và hoàn thành sứ mệnh. Không ai bị cắt đứt dọc đường. Biết rằng không có ai hoàn toàn thánh thiện và cũng không có ai hoàn toàn xấu xa tội lỗi. Mỗi con người đều ẩn dấu cái tốt, cái xấu trong người. Mỗi ngày sống là một kinh nghiệm giúp con người nên tốt hơn. Vì thế, chủ nói: Hãy cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt. Và đến mùa, ta sẽ dặn thợ gặt: Các anh hãy nhổ cỏ lùng trước, rồi bó lại từng bó mà đốt đi, sau mới thu lúa lại chất vào lẫm cho ta (Mt 13, 30).
Sự kiên nhẫn mong chờ của chủ gia là phút cuối cùng. Chúng ta biết cỏ lồng vực sẽ sinh hạt lồng vực, không thể thay đổi, nhưng tâm con người có thể thay đổi để trở nên tốt hơn. Môi trường cuộc sống rất quan trọng để giúp cải hóa. Người ta thường nói: Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng. Đúng vậy, khi chúng ta kết bạn với những kẻ xấu, nhóm băng đảng, người nghiện ngập, hút sách, bài bạc, nhậu nhoẹt, trước hay sau, chúng ta cũng bị nhiễm độc. Người ta thường nói rằng: Bạn có thể cho biết rằng bạn thường chơi với ai, tôi sẽ cho biết, bạn là người thế nào. Con người chúng ta rất dễ thay đổi, tập sống sung xướng tiện nghi dễ hơn là sống kham khổ. Thay đổi để trở nên tốt và hoàn thiện thì khó hơn đổi thay để trở nên tầm thường và buông thả. Hằng ngày chúng ta chứng kiến biết bao nhiêu bạn trẻ đã đang bị thất bại trong cuộc sống bởi chạy đua theo thói hư tật xấu như hút sách, cá độ, chơi bời lêu lổng và ngại phấn đấu. Họ ưa thích đua đòi một cuộc sống hưởng thụ, an nhàn và hoang phí. Chúng ta không ngồi đây để than phiền trách móc hay chán nản. Những vị hữu trách cần tỉnh thức lên tiếng cảnh báo và đề phòng giúp các bạn trẻ có cơ hội đổi mới cuộc đời.
Nước Trời giống như hạt cải bé nhỏ hay giống như men trong đấu bột. Bột làm chất xúc tác để dậy men: Nước trời giống như men người đàn bà kia lấy đem trộn vào ba đấu bột, cho đến khi bột dậy men (Mt 13, 33). Trong cuộc sống xã hội hôm nay, cần nhiều nhân chứng chân thật và thánh thiện. Chúng ta, các Kitô hữu, phải luôn là muối, là men và là ánh sáng soi đường cho những người cùng đồng hành. Ai trong chúng ta cũng đều có ẩn chứa trong mình chất lúa và cỏ lùng. Có nghĩa là đức tính tốt và xấu lẫn lộn, chúng ta cần ý thức nhận biết đâu là lẽ phải, điều tốt để đi theo và đâu là sự sai trái để tránh xa. Sự nhắc nhở của các vị có trách nhiệm rất quan trọng cho những ai còn đang mê ngủ hay say đắm chôn vùi trong lầm lạc. Lời Chúa và sự khuyên dậy sẽ giúp tỉnh thức và có thể tìm đường giác ngộ.
Chúng ta đang trải nghiệm cuộc sống qua muôn hình vạn trạng. Có rất nhiều điều thật khó mà đánh giá đúng sai, phải trái, vì nó vừa thật vừa ảo. Có thể nói là ‘ba phải’. Mục đích của cuộc sống là đi tìm kiếm niềm vui, sự hoan lạc và thỏa mãn. Mỗi người có kinh nghiệm trong hoàn cảnh đời sống riêng tư của mình. Kinh nghiệm mục vụ, có nhiều các cha mẹ vào xin rửa tội cho con. Khi hỏi về vấn đề gia đình, hôn thú, hôn phối và cưới xin, phần lớn các anh chị chỉ trả lời quanh quanh và hứa xuông. Các anh chị ấy sống chung nhưng không có hôn phối, có khi tách biệt nhau hoặc độc thân nuôi con. Khi đặt vấn đề niềm tin đạo giáo, tín lý, luân lý đạo đức, luật lệ, thói tục, phong tục và tập quán, để hướng dẫn tâm linh, thì hình như các thầy dậy đạo giáo đang bị lạc lõng vào thế giới không tưởng và không còn thực tế. Quan sát cuộc sống chung quanh, người già, kẻ trẻ sống cả như vậy, sự liện hệ chằng chịt, họ vẫn sống vui vẻ và sinh hoạt tốt, có sao đâu! Lúa và cỏ lùng cứ mọc cho tới mùa gặt. Có thể lạc quan khi chúng ta nhìn cuộc sống là một tiến trình (progress) từ giai đoạn này tới giai đoạn kia nhưng sẽ kéo theo nhiều hệ lụy trong đời sống. Chúng ta biết mọi sự ở đời phải có lúc kết thúc. Sau cùng thì cỏ lùng sẽ bị đốt và lúa được chất vào kho lẫm.
Là Kitô hữu, chúng ta luôn chăm chỉ cầu nguyện hằng ngày. Cầu nguyện là linh hồn của cuộc sống đức tin. Với sức lực riêng, chúng ta rất khó thắng vượt những cám dỗ và những mời gọi hưởng thụ nhất thời. Cầu ơn Chúa Thánh Thần soi sáng trong mọi tư tưởng, lời nói và việc làm cho xứng hợp với danh nghĩa là Con Chúa: Mà Đấng thấu suốt tâm hồn, thì biết điều Thánh Thần ước muốn. Bởi vì Thánh Thần cầu xin cho các thánh theo ý Thiên Chúa (Rm 8, 27). Xin Thiên Chúa chúng lành cho chúng ta mọi ngày trong đời sống.
13. Thiện ác song hành
(Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
Mọi sự trong thế gian đều tương đối. Thế giới thay đổi. Cuộc sống thay đổi. Sự vật đổi thay. Chế độ chính trị thay đổi. Con người cũng luôn thay đổi. Không có gì tồn tại mãi.
Không có gì tốt hay xấu tuyệt đối ở trần gian này. Con người sinh ra tính bản thiện, nhưng xác phàm yếu đuối hướng về đàng xấu. Trong con người có cả thiện lẫn ác. Thiện và ác gắn chặt với bản tính con người.
Trong xã hội, có người tốt người xấu, nhưng chẳng có ai tốt hay xấu toàn diện. Thánh Phaolô có kinh nghiệm về sự tốt và xấu: “Tôi biết rằng sự thiện không ở trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi. Thật vậy, muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không” (Rm 7,18).
Sự thiện và sự ác như đồng tiền hai mặt. Sự thiện, sự ác có thể tráo đổi và hỗ tương vì trong thiện, có ác, và trong ác, có thiện.
Người ta nói trong rủi, có cái may, và trong cái may, có cái rủi. Thiện ác song hành trong cuộc sống đời tạm này, nhưng ngày sau hết, sự thiện và sự ác sẽ được tách biệt muôn đời.
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn “Cỏ Lùng” để diễn tả về Nước Trời. Những ai có kinh nghiệm về cấy cầy, gieo vãi và trồng trọt nơi đồng ruộng sẽ hiểu dụ ngôn cách dễ dàng. Và đây là dụ ngôn dạy bảo về Nước Trời, nên so sánh với thực tế thì có vài điểm khác biệt.
Trong thửa ruộng trồng lúa, thường thì các nhà nông sẽ phải ra công diệt trừ cỏ dại trước. Cây lúa và cây cỏ lùng rất giống nhau. Cỏ lùng phát triển rất nhanh và ăn hại đất mầu. Nhà nông phải nhổ cỏ và xịt thuốc diệt trừ cỏ dại. Dụ ngôn dạy ý nghĩa ám chỉ về lòng khoan dung nhẫn nại của người chủ và sự thiện ác trong lòng người và cuộc đời.
Hình ảnh cuộc đời con người thật rõ ràng. Môi trường sống ảnh hưởng đến toàn diện con người từ cách suy tư, cách xử trí, cách sống và cách ăn nết ở. Luân lý đạo đức có một, nhưng có nhiều cấp bậc và nhiều cách áp dụng.
Nói về Nước Trời, mỗi người khi được lãnh nhận bí tích Rửa Tội là họ được tháp nhập vào Nhiệm Thể của Chúa Kitô. Chúa Kitô gieo mầm sống tốt: Người đáp rằng: "Kẻ gieo giống tốt, là Con Người” (Mt 13,37).
Con người sống và phát triển trong môi trường cụ thể của xã hội. Con người dễ nhiễm mùi tục lụy thế gian qua tất cả các ngõ ngách của cuộc sống. Môi trường cuộc sống nơi trần gian có rất nhiều cám dỗ hướng về đàng xấu. Chúa Giêsu giải thích: Ruộng là thế gian. Còn hạt giống tốt là con cái Nước trời. Cỏ lùng là con cái gian ác (x. Mt 13,38)
Kẻ thù gieo cỏ lùng là ma quỷ (x. Mt 13,39). Kẻ thù đây, chính là những gương mù gương xấu của con người. Chúa gọi kẻ thù là ma quỷ. Chúng ta phải chóng mặt khi nhìn vào cuộc sống đổi thay về luân thường đạo lý. Con người thời nay đang muốn thay đổi tận gốc rễ những giá trị về tinh thần. Các làn sóng chủ trương Duy Nhân Bản ở Âu Châu đang muốn tước đoạt mọi quyền tự do tôn giáo và cá nhân. Họ chủ trương một cuộc sống duy vật vô thần. Các phong trào nổi dậy đòi tự do luyến ái, hôn nhân đồng tính, ngừa thai phá thai, trợ tử, thụ thai trong ống nghiệm và dùng tế bào gốc nơi phôi thai. Văn hóa sự chết đang lan tràn khắp nơi. Nền luân lý bị xói mòn băng hoại qua những chủ trương quá cấp tiến. Nhiều người không còn muốn sống theo nền đạo đức truyền thống và những giá trị nhân bản nữa.
Nhiều nhóm chủ trương đặt cá nhân chủ nghĩa trên niềm tin tôn giáo, luân lý đạo đức và kỷ cương xã hội. Ảnh hưởng mặt trái của xã hội cứ thấm dần và réo gọi con người trở về thời hoang sơ. Những đức tính cao quý ảnh hưởng của Khổng Giáo như Tam cương ngũ thường, Tam tòng tứ đức, Tu thân tích đức, thấy sao mà xa lạ. Giới trẻ thời nay không còn chú ý nhiều đến sự rèn luyện về nhân cách và đạo đức như: Công, dung, ngôn, hạnh. Bóng tối sự dữ cứ đẩy lui con người vào cuộc sống hưởng thụ. Con người bị vòng quay xã hội cuốn hút theo chiều. Văn minh kỹ thuật góp phần đẩy con người đi xa hơn vào sự chạy đua không ngừng. Cái xấu, cái tốt khó có thể phân biệt. Hình như cái tốt nó đi theo với cái tôi thích. Cái tôi thích và tôi muốn, là tôi thực hiện đúng. Tôi không muốn người khác phải dạy đời hay chỉ dẫn, ngay cả cha mẹ và thầy cô. Đây là cuộc đời của tôi mà!
Nếu quan sát, chúng ta sẽ nhận ra ngay những ảnh hưởng của truyền thông rất lớn. Những phương tiện truyền tin hằng ngay qua sách báo, phim ảnh, truyền hình, báo đài, talk show…hay qua kỹ thuật cao như cellphone, itunes, iphone, ipod và ipad. Chúng ta đã đầu tư quá nhiều thời giờ vào những phương tiện và dụng cụ kỹ thuật tân tiến này. Tình người bị đánh cắp. Ngồi bên nhau đấy, nhưng mỗi người một theo một trò chơi và một ý thích khác nhau. Nguồn kiến thức nơi các trang mạng thật dồi dào và đa dạng. Có những kiến thức rất bổ ích mà chúng ta cần học hỏi và trau dồi, nhưng cũng không tránh khỏi những loại văn hóa đồi trụy và tư tưởng đầu độc. Thánh Phaolô nhận ra sự song hành của sự thiện và sự ác: Bởi đó tôi khám phá ra luật này: khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay (x. Rm 7,21).
Cái gì sẽ giúp chúng ta nhận định và chọn lựa cho đúng. Chúng ta có thể dựa vào tiếng nói lương tâm, nhưng nếu lương tâm chúng ta bị ô nhiễm và trì độn, làm sao chúng ta có thể sáng suốt để quyết định?
Có muôn vàn loại cỏ lùng từ từ được gieo vào lòng người mọi nơi và mọi thời. Qua các cửa ngõ giác quan như cảm giác, thính giác và thị giác, chúng ta nhìn thấy biết bao hình ảnh, sự cố và nghe được biết bao tin tức, chuyện trong nhà ngoài ngõ và chuyện ba xu. Tất cả những sản phẩm xô bồ vàng thau lẫn lộn như mẻ cá vừa bắt được, chúng ta để chúng tự do xâm nhập vào trong đáy tâm hồn của chúng ta. Nhiều khi chúng ta không có giờ để loại bỏ và chọn lựa cái tốt khỏi cái xấu. Chúng ta đón nhận biết bao nhiêu những hình ảnh bạo lực, chém giết, chết chóc, trả thù, trộm cướp, hãm hiếp, gian xảo, khêu gợi lõa lồ, dục tình, hút sách, những lời thô tục, báng bổ, xỉ vả, gian dối…Điều tốt bon chen với điều xấu. Tội lỗi chen lẫn với nhân đức. Sự sai trái chung vai sát cánh với sự thật. Chúng cứ tự nhiên đồng hành bên nhau. Thánh Matthêô ghi chú giải thích: Chủ nhà đáp: 'Không được, kẻo khi nhổ cỏ lùng, các anh lại nhổ luôn cả lúa chăng (Mt.13,29).
Làm sao chúng ta có thể nhổ bỏ và dứt khoát với các thói hư tật xấu? Chúng ta sẽ rất dễ dàng bị ô nhiễm bởi môi trường sống. Vì gần mực thì đen, gần đèn thị rạng. Chúng ta phải biết chọn bạn mà chơi, chọn bài mà đọc và chọn điều tốt mà làm.
Sự giằng co giữa thiện và ác sẽ không ngừng nghỉ. Sự phấn đấu để vươn lên luôn là một thúc bách khẩn thiết. Thân xác và ước muốn của con người cứ bị kéo lôi vào con đường thênh thang rộng rãi. Xác thân muốn thỏa mãn mọi ước mơ và khao khát cứ nổi dậy đòi được đáp ứng. Thánh Phaolô đã chia sẻ kinh nghiệm: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7,19).
Như thế, thiện và ác cứ song hành như cánh đồng lúa chen lẫn cỏ lùng. Chính Chúa Giêsu không muốn cho thợ nhổ cỏ lùng ngay. Như vậy, thói xấu ở đời cũng cần có, để như lửa thử vàng, gian nan thử đức. Chúa không cất chúng ta ra khỏi thế gian. Cạm bẫy tội lỗi vẫn có đó, nhưng Chúa dạy chúng ta hãy cầu nguyện: “Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.” Có nghĩa là chúng ta phải phấn đấu không ngừng để thắng các chước cám dỗ của ma quỷ. Chúa Giêsu dùng dụ ngôn để chỉ dậy: Hãy cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt. Và đến mùa, ta sẽ dặn thợ gặt: "Các anh hãy nhổ cỏ lùng trước, rồi bó lại từng bó mà đốt đi, sau mới thu lúa lại chất vào lẫm cho ta" (Mt 13,30).
Chúng ta cần học hỏi đạo lý và trau dồi nhân đức để không bị những đám cỏ lùng phát triển um tùm lấn át. Sự thật mà nói, căn bản giáo lý của chúng ta quả thật là qúa khiêm nhường so với kho tàng hiểu biết về khoa học, xã hội và cuộc sống. Chúng ta tự vấn xem sự học hỏi về Kinh Thánh, hiểu biết về Giáo Lý và sự nhuần nhuyễn về giáo huấn của Giáo Hội được bao nhiêu. Là người công giáo, cơ may mỗi tuần một lần khi tham dự thánh lễ, chúng ta được nghe lời Chúa, bài giảng và kinh nguyện, đó là số vốn liếng hạt giống lãnh hội được. Có một số trong chúng ta còn bị thiệt thòi vì khả năng ngôn ngữ và văn hóa giới hạn, mà phải tham dự các buổi phụng vụ bằng tiếng ngoại quốc. Suốt tuần, chúng ta chẳng có giờ để học hỏi, nghiên cứu hay tìm hiểu lẽ đạo, chúng ta sẽ dễ dàng bị cỏ lùng trần thế lấn át và bao trùm.
Mang danh Kitô hữu, mà trong lòng chúng ta đầy áp cỏ lùng. Đối diện với cuộc sống, chúng ta dựa trên những kiến thức đã bị tục hóa để phân tích, phán đoán và chọn lựa. Chúng ta nghĩ rằng những chọn lựa đó là đúng và thích hợp, nhưng sự thật này chỉ là chủ quan. Thánh Phaolô nhắc nhở: “Vậy thật ra không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi” (Rm 7,17).
Chúng ta hãy rà soát lại thửa ruộng tâm hồn của mình. Hạt giống tốt được gieo vào cung lòng, nhưng có hạt đã rơi vào bụi gai, có hạt rơi bên vệ đường, có hạt rơi trên đá sỏi và có số ít hạt rơi vào vùng đất tốt đang chờ ngày để sinh hoa kết trái. Trong khi hạt giống cỏ lùng được gieo vãi tràn lan, được ấp ủ canh chừng, phát triển xanh tươi chen lấn và làm hạt giống tốt bị ngột ngạt.
Chúng ta không thể nhổ hết cỏ lùng chung quanh, nhưng chúng ta cần vun xới cho hạt giống tốt lời Chúa để có thể sinh hoa trái.
Điều quan trọng là hạt giống đức tin của chúng ta không thể bị vùi tắt, mà phải luôn cháy sáng trong đêm tối. Chúng ta phải phấn đấu và giữ đức tin cho đến cùng như thánh Phaôlô dạy: “Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin” (2 Tm 4,7). Dù có phải bước đi trong đêm tối, chúng ta không lo mắc nạn vì Chúa ở cùng chúng ta.
Mỗi người hãy chu toàn ơn gọi và chức vụ của mình để nhắm đến cùng đích. Chúng ta không nên trì hoãn hay bỏ cuộc dọc đường. Dù hành trình có gian nan, cuộc sống có đau thương và niềm tin có chao đảo, chúng ta cứ nhắm đích mà hướng tới. Chúa Giêsu hứa ban phần thưởng cho những ai trung tín tới cùng. Sau cuộc lữ hành chạy đua trong niềm tin, thánh Phaolô đã tâm sự: “Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy, và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện” (2 Tm 4,8).
14. Hãy cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt
(Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục dùng các dụ ngôn để giúp các môn đệ cũng như dân chúng hiểu về "Nước Trời". Người so sánh " Nước Trời như một người đã gieo giống tốt trong ruộng mình; Nước Trời giống như hạt cải; Nước Trời giống như nắm men" (x. Mt 13, 24-43), nước ấy ở ngay "trên mặt đất" chứ không phải nơi xa lạ.
Thật vậy, chỉ trên mặt đất mới có chỗ cho lúa và cỏ lùng mọc lên, chỉ trong cuộc sống nhân trần mới có bột cần chất men, nên ở trên Thiên Đàng, chỉ có Thiên Chúa là tất cả mọi sự trong mọi người.
Chúa Giêsu lấy dụ ngôn hạt cải, mô tả nó "bé nhỏ hơn mọi thứ hạt giống, nhưng khi mọc lên, thì lớn hơn mọi thứ rau cỏ, rồi thành cây" (Mt 13, 32) … "cũng như men người đàn bà kia lấy đem trộn vào ba đấu bột, cho đến khi bột dậy men" (Mt 13, 33), ngoài ám chỉ sự lớn lên âm thầm nhưng hùng mạnh của Nước Chúa trong lịch sử, Chúa Giêsu muốn nói đến sự nhập thể làm người của chính mình và sức thánh hóa của Chúa Thánh Thần.
Nếu ai đó không lấy men trộn vào bột làm cho bột dậy men, thì bột đó không thể sử dụng làm thực phẩm được. Nhưng nếu trộn bột vào men, bột sẽ dậy men, đó là cách Chúa Giêsu áp dụng cho Nước Trời... Cũng như thịt: để giữ gìn thịt khỏi hư, chúng ta phải tra muối vào để bảo quản... nếu không thịt sẽ hư và trở nên không phù hợp cho tiêu dùng. Một cách tương tự, nhân loại đại diện cho thịt hoặc bột, Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần là muối và men. Nếu men Thánh Thần và muối Giêsu không xuống thế gian, không mặc lấy bản tính con người, nghĩa là nhào trộn với con người, con người sẽ không bao giờ mất đi mùi hôi thối của tội lỗi, không "tẩy trừ men cũ, để nên bột mới, là bánh không men" (1Cr 5,7) thì không thể được cứu độ.
Nếu con người chỉ dựa vào sức riêng mình, không cần Thánh Thần trợ giúp, thì thật sai lầm; bởi con người không được tạo dựng để ở trên Trời... Nếu người tội lỗi không gặp gỡ Thiên Chúa, không từ bỏ tội lỗi, không được thấm nhuần sức sống thần linh của Thiên Chúa, người ấy sẽ không bao giờ được nếm hưởng cuộc sống đích thực... Trái lại, nếu đón nhận được ân sủng của Chúa Thánh Thần, không "gây phiền muộn cho Thánh Thần" (Eph 4,30), người ấy sẽ hạnh phúc và được sống đời đời.
Dụ ngôn hạt cải và nắm men có lẽ dễ hiểu nên các môn đệ không cần phải giải thích, các ông chỉ xin Chúa Giêsu: "giải thích dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng" (Mt 13, 36) sau khi đã về nhà. Và Người đã giải thích: "Người là kẻ gieo giống. Ruộng là thế gian. Hạt giống tốt là con cái Nước Trời. Cỏ lùng là con cái gian ác. Kẻ thù gieo cỏ lùng là ma quỷ. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên thần" (Mt 13, 37-39).
Ở những thế kỷ đầu của Kitô giáo, giáo phái Đô nát cho rằng Giáo hội là tất cả những người lành, còn thế gian thì đầy dẫy con cái sự ác không có hy vọng được cứu độ. Thánh Augustinô quan niệm: "Chính Giáo Hội là một cánh đồng có lúa và cỏ lùng, có kẻ xấu và người tốt đều chung sống với nhau, là nơi để chúng ta bắt chước gương nhẫn nại của Chúa. Những kẻ dữ hiện hữu trong thế gian này hoặc là để được cải hóa hay là nhờ họ mà những kẻ lành có thể luyện tập đức nhẫn nại".
Vì thế chúng ta có thể rút ra những bài học sau:
1. Cần phải có hành động khôn ngoan, thận trọng, nhẹ nhàng và đúng đắn của người gieo giống tốt, để đề phòng "kẻ thù của ông đến gieo cỏ lùng vào ngay giữa lúa, rồi đi mất" (Mt 13, 25). Thậm chí người gieo giống tốt có thể bị cám dỗ phản ứng với bạo lực khi áp dụng lời van xin của đầy tớ, "nếu ông bằng lòng, chúng tôi xin đi nhổ cỏ" (Mt 13, 27). Ông chủ thật tuyệt vời, bởi ông thận trọng thẳng thừng nói: "Không được, kẻo khi nhổ cỏ lùng, các anh lại nhổ luôn cả lúa chăng. Hãy cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt. Và đến mùa, ta sẽ dặn thợ gặt: "Các anh hãy nhổ cỏ lùng trước, rồi bó lại từng bó mà đốt đi, sau mới thu lúa lại chất vào lẫm cho ta" (Mt 13, 29-30).
2. Chúa Giêsu, lúc sinh thời, Người đã phải đối mặt với sự hiện diện của sự dữ, các môn đệ Người cũng thế. Theo Matthêu thì cuộc đối đầu của Chúa Giêsu với sự dữ đã bắt đầu với câu chuyện thời thơ ấu lúc thánh Giuse đưa Đức Maria cùng Người trốn sáng Ai Cập để tránh cuộc thảm sát của Hêrôđê (Mt 2, 1-14). Người sẽ tiếp tục đối đầu khi bị cám dỗ trong hoang địa (Mt 4, 1-11), cũng như trong suốt cuộc đời sứ vụ công khai, và sẽ phải chiến đấu chống lại cái ác cho đến giờ phút cuối cùng của cuộc đời (Mt 26; 27). Tuy nhiên, Người sẽ chiến thắng khi sống lại bởi Đức Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần (Mt 28).
Cũng giống như Thầy mình, các môn đệ Chúa Kitô cũng phải đối mặt với sự hiện diện của cái ác. Sau đó họ phải bắt chước Thầy mình nhẫn nại cho đến thời gian thu hoạch.
3. Trước sự hiện hữu của cái ác, thái độ của các môn đệ Chúa Kitô là gì nếu không phải là chấp nhận. Chúa Giêsu dùng dụ ngôn cỏ lùng để mời gọi chúng ta áp dụng một số thái độ cần phải có đối với sự hiện hữu của cái ác trên thế giới.
Trước hết cần phải gieo trong chúng ta và xung quanh chúng ta thật nhiều hạt tốt và đặc biệt là thực hiện từng bước để gìn giữ các hạt giống tốt cho đến mùa thu hoạch như là (cầu nguyện, tĩnh tâm, làm việc lành phúc đức, giúp đỡ tha nhân...)
Tiếp đến là phải hành động với sự khôn ngoan, thận trọng khi đối đầu với sự ác, đồng thời cầu xin Chúa Thánh Thần giúp sức cho, vì: "Thánh Thần nâng đỡ sự yếu hèn của chúng ta " (Rm 8, 26).
Cần phải đứng vững trong đức tin, hy vọng và bác ái; nghĩa là chinh phục cái ác bằng việc làm tốt, theo lời khuyên của thánh Tông đồ Phaolô: "Chớ để sự dữ thắng được ngươi, nhưng hãy lấy lành mà thắng dữ" (Rm 12, 21).
Chúng ta hãy hướng tới Mẹ Maria với lòng tin tưởng, để Mẹ giúp chúng ta trung thành theo Chúa Giêsu, và sống như con cái của Thiên Chúa.
15. Lòng kiên nhẫn
(Lm Đam. Nguyễn Ngọc Long)
Xưa nay con người thường hay bị cám dỗ nhìn phân chia đời sống trong xã hội cách đơn giản ra làm hai ranh giới: trắng và đen, tốt và xấu... Căn cứ theo đó mà xét định phê phán.
Nhưng trong thực tế đời sống đâu có đơn giản như thế.
Thực tế đời sống con người không chỉ có hai lằn ranh như ta nghĩ tưởng trắng và đen, tốt và xấu. Nhưng còn có lằn ranh ở giữa, ở tầng trên hay ở bên dưới những yêu tố đó nữa. Những lằn ranh này ẩn hiện khó nhận ra, và lại thường ăn sâu ảnh hưởng trong đời sống nhiều hơn, dù là đời sống cá nhân một ai, hay đời sống chung cộng đoàn xã hội, tôn giáo.
Đó là những bề không hẳn là tối đen, cũng không hẳn là sáng tỏ. Chúng như bóng rợp của một tàn cây ngả đổ xuống trên đường che khuất ánh sáng mặt trời một bên. Thông thường trong đời sống cây càng cao, càng rậm rạp nhiều cành lá, bóng rợp của nó đổ ngả xuống càng lan rộng, như ngạn ngữ có câu: Cây cao bóng cả!
Hình ảnh này Chúa Giêsu dùng trong bài giảng nói về Nước Trời: trên đồng lúa có cả cây lúa cùng cỏ hoang dại cùng mọc bên nhau, như trong cánh đồng thực tế đời sống có sự tốt và sự xấu cùng nẩy sinh song hành nơi mỗi người.
Nếu người làm ruộng vườn khi vừa phát hiện ra cỏ dại hoang mọc lên, mà vội nhổ hay cắt cỏ đi, thì vô tình làm cho cây lúa, cây giống tốt nằm sát bên cạnh cũng bị bật rễ, bị động, hay bị cắt ngọn theo. Như thế sự sống tích cực cũng bị chặn đứng thiệt hại.
Cung cách sống kinh nghiệm của người làm ruộng là kiên nhẫn chờ cho cỏ dại cùng cây lúa mọc lên cứng cáp, lúc đó sẽ dễ phân biệt hơn và lúc nhổ cỏ dại, cây lúa đã bén rễ sâu ít bị ảnh hưởng giao động làm lung lay gốc rễ.
Với đời sống con người cũng tương tự như thế, nơi mỗi người đều có mầm sống sự tốt lành. Sự xấu, sự dữ nẩy sinh trong đời sống là điều cần phải ngăn chặn xa tránh. Nhưng không vì thế mà phải phá đổ hoàn toàn bức tượng khi thấy một dấu vết hòn sỏi đá nào lẫn trong bức tượng.
Với đời sống tinh thần con người, ngày hôm nay có thể là chưa tốt. Nhưng ngày mai có thể sẽ trở nên tốt. Đời sống con người cần luật lệ, cần kỷ luật, chính những điều này giúp nhắc nhớ con người trở nên công chính tốt lành.
Cha mẹ nào cũng đều mong muốn con cháu mình sống nên người tốt. Nhưng rất nhiều khi thực tế đời sống của họ lại có những giai đoạn, những khúc quanh không như thế. Và đâu có cha mẹ nào, vì thế, mà chối bỏ con cháu mình đâu. Trái lại họ tỏ tấm lòng bao dung kiên nhẫn chờ đợi con cái mình sẽ có ngày thay đổi nếp sống trở nên lành mạnh tốt đẹp.
Lòng kiên nhẫn là một nhân đức bác ái. Nhân đức này thể hiện tấm lòng đạo đức kính trọng Thiên Chúa, Đấng là nguồn đời sống, cùng là lòng đạo đức tình người với nhau.
Lòng kiên nhẫn cũng là ân đức khôn ngoan Đức Chúa Thánh Thần ban xuống tâm hồn mỗi tín hữu ngày lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức.
Trong đời sống, dù sự dữ nhiều khi lấn lướt sự tốt lành ngay chính. Nhưng Thiên Chúa, Đấng tạo dựng, cùng gìn giữ hướng dẫn đời sống con người luôn kiên nhẫn chờ đợi, ban ơn trợ giúp họ trở về con đường sống tốt lành, con đường mang lại hoa trái sự sống.
16. Lúa tốt và cỏ lùng
(Lm. Nguyễn Ngọc Long - Bài giảng cho Thiếu Nhi)
Các con thiếu nhi thương mến,
Ai trong các con nhớ Tin mừng Chúa nhật tuần trước, Chúa Giêsu đã dạy chúng ta qua dụ ngôn gì? Đó là dụ ngôn người gieo giống. Chính Chúa Giêsu là người gieo giống, hạt giống chính là Lời Chúa và tâm hồn mỗi chúng ta là những thửa đất. Nếu chúng ta biết chăm chú lắng nghe lời Chúa và thi hành thì kết quả sẽ sinh gấp trăm hạt.
Các con thương,
Tiếp nối lời giảng dạy bằng các dụ ngôn, hôm nay Chúa Giêsu dùng dụ ngôn nào để dạy chúng ta? – Câu chuyện tuần này là dụ ngôn lúa tốt và cỏ lùng; hạt cải và nắm men.
Trong dụ ngôn lúa tốt và cỏ lùng, các con cho cha biết ai là người gieo giống? - Người đi gieo giống tốt là Thiên Chúa.
Hạt giống là ai? - Hạt giống là người ta, là con người, là con cái Chúa.
Thửa ruộng là gì? -Thửa ruộng là thế gian, là nơi sinh sống, làm việc, phục vụ.
Cỏ lùng là ai? - Cỏ lùng là người xấu, kẻ dữ.
Còn mùa gặt nghĩa là gì? - Mùa gặt là ngày chết hay ngày tận thế, thợ gặt là các thiên thần, lúa tốt thì được thu vào kho lẫm, tức là những người tốt lành, công chính, thánh thiện thì được thưởng, còn cỏ lùng là những người xấu, kẻ dữ thì bị tống vào hỏa ngục.
Các con thấy thái độ của các đầy tớ trong dụ ngôn như thế nào? - Muốn tiêu diệt kẻ xấu, muốn nhổ hết cỏ lùng ra khỏi lúa tốt: “Thưa ông, ông có muốn chúng tôi cắt hết cỏ lùng ngay bây giờ không?”. Hơn một lần, các con cũng có thái độ tương tự như thế khi thấy người khác không tốt: “Lạy Chúa, xin Chúa hãy phạt nhãn tiền những kẻ xấu…”.
Thái độ ấy không thể chấp nhận được vì quyền xét xử cuối cùng là của Thiên Chúa chứ không phải của chúng ta. Người không muốn một ai trong chúng ta phải hư mất. Chúa Giêsu đã nói: “Ta không đến để kêu gọi người công chính nhưng kêu gọi người tội lỗi”. Thiên Chúa yêu thương con người, và không quên sót một ai, cho dù họ là những tội nhân. Ngài chờ họ có lòng sám hối để được người tha thứ.
Nếu Thiên Chúa chậm chạp trong việc chống lại tội lỗi, là để chúng ta có thời gian mà sám hối ăn năng. Nhưng con người thường hay phạm lỗi lầm, sa ngã vì quỷ dữ luôn tìm cách gieo cỏ dại vào tâm hồn mỗi người. Vậy nếu chúng ta yếu đuối lầm lỗi, thì Ngài sẽ ban cho chúng ta sức mạnh để ta can đảm chổi dậy sau những lần vấp ngã. Chúa ước mong đời sống chúng ta hãy là những hạt cải, là men làm dậy lên tình yêu con người.
Chúa khoan dung độ lượng với chúng ta, lẽ nào chúng ta lại thiếu nhân hậu, khoan dung với kẻ tội lỗi? Chúa đã yêu thương chúng ta, lẽ nào chúng ta không dùng tình yêu của Người mà hoán cải anh chị em mình?
Các con có nhớ trường hợp người trộm lành không? - Trong khoảnh khắc cuối cùng của cuộc đời còn lại chính là thời điểm anh ta đón nhận ơn cứu độ của Chúa; hay là trường hợp của Âugustinô, một thanh niên ăn chơi trác táng lại trở thành người phục vụ Giáo hội cách tích cực nhất và đã nên thánh…
Vậy ta phải có thái độ nào trong thời hiện tại?
- Chúa Giêsu mong muốn các con nỗ lực và bền bĩ trong việc đạo đức và học tập. Vấn đề không phải là ngồi đó mà than trách cánh đồng nhiều cỏ lùng quá. Hãy sống Lời Chúa bằng hành động của mình. Những vất vả trong việc đạo đức và học tập hôm nay sẽ trổ sinh hoa trái tốt lành cho ngày mai.
- Giúp bạn mình khi thấy họ sai lỗi, tạo cơ hội cho họ sửa đổi đời sống…
- Luôn ý nhớ rằng mỗi khi các con làm việc lành, chính lúc các con vượt khó, chuyên chăm học tập là khi các con cùng Chúa gieo vãi những hạt giống tốt trong thế gian này.
- Sự nhẫn nại của ông chủ ruộng trong Tin mừng hôm nay là gương mẫu cho chúng ta. Chúa mời gọi chúng ta sống khiêm tốn và nhân hậu đặc biệt là kiên nhẫn trước mọi người. Chỉ có một đồng ruộng cần thiết để nhổ ngay cỏ lùng, đó là từ chính lòng của mình, bằng cách từ bỏ tình xấu mỗi ngày, và không ngừng nỗ lực sống tốt mỗi ngày!
Nguyện chúc các con luôn là những hạt giống tốt của Chúa và Giáo hội hôm nay và ngày mai.
17. Hãy chờ đã
Tội lỗi và sự dữ là một thực tại thiêng liêng. Chúng đang ngự trị và tồn tại khắp mọi nơi, len lõi vào mọi tâm hồn. Vấn đề đặt ra là làm cách nào để tận diệt chúng và bao giờ Thiên Chúa mới chấm dứt những điều ấy? Tin mừng hôm nay sẽ cho chúng ta lời giải đáp đó.
Có nhiều người cảm thấy bất mãn, thất vọng và đặt vấn đề là tại sao Giáo hội Chúa vẫn có những con người xấu? Đâu rồi một Giáo hội thánh thiện của Thiên Chúa? Bản chất Giáo hội là thánh, nhưng Giáo hội đang cưu mang trong lòng những con người tốt lẫn những con người chưa tốt và tội lỗi. Giáo hội chính là thửa ruộng có cả lúa và cỏ lùng đang mọc lên. Chúa là người chủ ruộng không muốn sai người tiêu diệt cỏ lùng ra khỏi lúa, vì ông sợ khi làm như thế sẽ có sự lầm lẫn! Nhưng thật ra là Thiên Chúa kiên nhẫn và chờ đợi những người tội lỗi hồi tâm trở về với Ngài. Cỏ lùn không bao giờ trở thành lúa được nhưng người xấu có thể trở nên tốt, người tội lỗi có thể trở nên thánh thiện. Đó chính là lý do tại sao Chúa lại kiên nhẫn chờ đợi con người! Sự kiên nhẫn, lòng khoan dung và nhân từ không phải là cử chỉ của sự yếu đuối, nhưng là biểu lộ một sức mạnh, sức mạnh của tình yêu.
Con người dù cho có tội lỗi hay hung ác đến đâu đi nữa thì nơi tận đáy lòng của họ vẫn có những điều tốt đẹp và thánh thiện khi nó được khơi lên. Văn hào người Nga Dostoieveski, với tác phẩm nổi tiếng như "Tội ác và hình phạt", "anh em nhà Karamazov"... là người đã trải qua một cuộc đời đầy sóng gió. Sau một thời gian dài bị giam cầm vì lý do chính trị, ông bị kết án tử hình. Nhưng như một phép lạ, vào giữa lúc bị hành quyết, ông bỗng nhận được lệnh được tha. Người viết tiểu sử của ông đã kể lại như sau: "thời gian ngồi tù đã in đậm nét trên quảng đời còn lại của ông. Từ trên chiếc máy chém nhìn xuống đám người đang đứng dưới chân mình, ông chỉ còn thấy họ là những người bị áp bức, những người nô lệ đáng thương, dù họ có phạm tội những tội ác tày trời đi nữa, thì tâm hồn của họ vẫn là tâm hồn của những con người vô tội. Do đó, họ đáng được tha thứ hơn là đáng kết tội.
Khi bước xuống khỏi máy chém, Dostoievski thấy mọi sự như vô nghĩa. Điều duy nhất còn ý nghĩa đối với ông chính là tình yêu, và cho dù trong suốt 30 năm sau, cộng đoàn của ông có đắm chìm trong bùn nhơ của tội lỗi, của khốn khổ, của ô nhục, ông luôn nhìn mọi sự qua lăng kính của yêu thương. Một lần bị đưa lên máy chém cho ông hiểu rằng: con người đau khổ, tất cả mọi người đều đáng cảm thông và thương mến.
Tất cả cuộc đời của ông là một cố gắng không ngừng để diễn đạt câu nói: "Hỡi người anh em, không gì có thể ngăn cản tôi yêu thương bạn"
Nếu có những lúc chúng ta cảm thấy thất vọng về con người đốn mạt của chúng ta, nếu có những lúc chúng ta không còn tin tưởng ở tình người nữa, chúng ta hãy nhìn lên Chúa Giêsu, chúng ta sẽ cảm thấy ngay ánh mắt nhân từ và cảm thông của Ngài. Hãy nhớ lại Ngài đã làm gì đối với Giakêu, với Malađana, với Phêrô khi chối bỏ Ngài, với tên trộm bị đóng đinh bên phải Ngài.
Tình yêu của Thiên Chúa mạnh hơn tội lỗi, mạnh hơn sự ác. Thiên Chúa ghét bỏ tội lỗi nhưng Ngài yêu thương tội nhân. Chính vì thế mà Ngài muốn cho Con của Ngài xuống thế làm người, một con người nghèo khó để có thể liên kết với hết mọi người, với những ai được gọi là người. Cái chết của Đức Giêsu trên Thánh giá là ngôn ngữ không lời của tình yêu, diễn tả tình yêu tột cùng của Thiên Chúa dành cho con người.
"Đừng nhổ cỏ lùn ra khỏi ruộng, cứ chờ cho đến mùa gặt". Thái độ của Thiên Chúa luôn là kiên nhẫn. Ngài kiên nhẫn vì yêu thương con người. Ngài nhận thấy thấu tận con tim và tấm lòng của con người. Nên dù khi con người hành động chống lại Ngài đi nữa, Ngài vẫn yêu thương họ, vì họ "lầm không biết".
Thiên Chúa thì luôn kiên nhẫn "chờ đợi", còn con người thì nóng vội, muốn hành động mọi sự nhằm thoả mãn tính kiêu căng và ích kỷ của mình. Rất nhiều lần chúng ta có thái độ giống như hai anh em Giacôbê và Gioan ngày xưa khi Chúa Giêsu và các ông đi ngang qua làng Samaria mà người ta không đón tiếp Chúa: "Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu đốt họ không?". Chắc chắn là khi ta hành động nóng nảy với anh em mình, muốn trả thù anh em mình, muốn loại trừ anh em mình ra khỏi cộng đoàn... là chúng ta hành động trái ngược với ý muốn của Thiên Chúa. Con người vốn phức tạp lắm. Chúng ta không thể hiểu được lòng của ai khác ngoài chính bản thân của ta đâu. Do đó, thái độ khôn ngoan là đừng xét đoán ai và cũng đừng kết án ai. Trái lại, ta hãy có cái nhìn như Đức Giêsu khi đối diện với những sai lỗi của anh em mình "họ lầm không biết" đó thôi; hay ta hãy có tâm tình như văn hào Dostoievesk: "dù họ có phạm những tội ác tày trời đi nữa, tâm hồn của họ vẫn là tâm hồn của những con người vô tội. Do đó, họ đáng được tha thứ."
Muốn tha thứ được cho người khác, chúng ta hãy tập yêu thương mọi người, nhất là những người đang sống bên cạnh chúng ta, tập nghĩ tốt về họ, nói tốt về họ, tập quên đi những sai lỗi của họ. Nước Trời chỉ dành cho những người biết chiếm lấy bằng sức mạnh. Sức mạnh đó chính là sự kiên nhẫn, tha thứ, yêu thương, chờ đợi... Những thứ mà loài người vẫn cho là yếu kém và nhu nhược. Chúng ta hãy tập "lấy hoa thơm lấn dần cỏ dại" trong cuộc sống vốn phức tạp và ô hợp này.
Xin Chúa ban cho chúng ta sức mạnh của Chúa Thánh Thần để chúng ta biết hành động, suy nghĩ và phát ngôn những điều mang lại niềm vui, hạnh phúc và an vui cho mọi người, hầu góp phần làm cho Nước Cha được thể hiện từng ngày trong cuộc sống của chúng ta. Amen.
18. Suy niệm của Lm Ignatiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật này, đặc biệt bài đọc I và Tin Mừng, mời gọi chúng ta gẫm suy về việc Thiên Chúa kiên nhẫn đối với những người tội lỗi.
Chúng ta tiếp tục đọc chương 13 Tin Mừng Mátthêu: ba dụ ngôn về cỏ lùng, hạt giống và men trong bột gợi lên sự phát triển của Nước Trời.
1. Dụ ngôn cỏ lùng:
Dụ ngôn cỏ lùng là dụ ngôn làm các môn đệ rối trí nhất; đây là dụ ngôn duy nhất mà họ hỏi Đức Giêsu. Quả thật, dụ ngôn này đặt ra một vấn đề nghiêm trọng: cuộc sống chung của Cái Thiện và Cái Ác, ở giữa lòng công trình của Thiên Chúa.
Các ngôn sứ định vị kỷ nguyên Mê-si-a và kỷ nguyên cánh chung vào cùng một viễn cảnh, cả hai được trộn lẫn dưới những từ ngữ “Ngày của Chúa” hay “Ngày Chung Thẩm”. Thánh Gioan Tẩy Giả được nuôi dưỡng bởi niềm hy vọng này: Đấng Mê-si-a sẽ là vị Thẩm Phán, Ngài sẽ chọn lựa sàn lọc: “Tay cầm cái nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi” (Mt 3: 12; Lc 9: 52-55). Thế mà Đức Giêsu đã không đến để thu hoạch, Ngài đến để gieo giống. Chính bằng hình ảnh người gieo giống mà Ngài diễn tả sứ mạng của mình.
Dụ ngôn cỏ lùng cho hiểu rằng ông chủ ruộng có một kẻ thù bí nhiệm, hắn hành động lén lút ban đêm như một người có quyền năng giới hạn. Ông chủ không hề xao động; ông bình thản chờ đợi thời vụ; ông biết rằng ông sẽ có lời phán quyết sau cùng. Cỏ lùng sẽ không ngăn cản được vụ mùa bội thu: công trình của Thiên Chúa sẽ không bao giờ thất bại cả.
Nếu cây lúa và cỏ lùng trộn lẫn vào nhau đến mức không thể phân biệt được, đó không phải là dấu chỉ cho thấy rằng cỏ lùng ở trong lòng quân vô đạo sao? Thật ra, khó mà phân biệt rạch ròi giữa “người tốt” và “kẻ xấu”. Không ai hoàn toàn xấu, cũng như không ai hoàn toàn tốt về mọi mặt cả.
Thiên Chúa chờ đợi; Ngài chờ đợi mỗi người phô bày hết khả năng của mình; có thể có những người thợ của giờ sau cùng…Thời gian của Thiên Chúa chưa chấm dứt và những kỳ hạn của Ngài là những trì hoãn vì lòng xót thương.
2. Dụ ngôn hạt cải:
“Nước Trời cũng giống như chuyện hạt cải người nọ lấy gieo trong ruộng mình”. Hạt cải là một hạt giống nhỏ bé nhất trong các loại giống. Xét theo lý, từ hạt giống nhỏ bé ấy sinh ra một cây nhỏ theo một kích thước chừng mực nào đó. Ấy vậy, Chúa Giêsu miêu tả một sự phát triển thần kỳ: cây nhỏ trở thành một cây lớn đến nỗi chim trời đến làm tổ trên cành được. Sự tăng trưởng Nước Trời rồi sẽ cũng như vậy đó.
Lối phóng dụ của Đức Giêsu chứa đựng một ám chỉ Kinh Thánh rõ ràng. Các ngôn sứ đã biểu tượng quyền năng của các đế quốc ngoại giáo (Ai-cập, Ba-by-lon) bằng hình ảnh về một cây hương bá, thân cao lớn hơn mọi cây trong cánh đồng, đâm chồi nẩy lộc, cành lá vươn rộng. Trên cành, mọi giống chim trời đến làm tổ, dưới bóng mát của nó, mọi dã thú sinh sôi nẩy nở và vô số dân tộc đến lập cư (Ed 31, 1-13).
Êdêkien gợi ra tương lai của Giêrusalem theo cùng một cách như vậy. Đức Chúa ngắt một chồi non trên ngọn cây hương bá đem về trồng trên núi Israel. Chồi non này trở thành một cây hương bá tuyệt diệu, nơi ẩn náu của đủ loài chim muôn (Ed 17). Bản văn Ê-dê-ki-en này là một trong những bản văn thiết lập niềm hy vọng về quyền thống trị của dân Chúa chọn.
Đức Giêsu cũng rất ý tứ khi lấy lại những hình ảnh tự hào tự phụ này. Một cây cải không thể đánh thức trong tâm trí khán thính giả của Ngài bất kỳ hậu ý nào về quyền lực trần thế. Một lần nữa, Đức Giêsu bày tỏ chủ nghĩa phi chính trị của sứ điệp Ngài. Vóc dáng biểu tượng của cây cải là một sự so sánh thuộc trật tự tinh thần: vóc dáng này nhấn mạnh sự tương phản giữa khởi đầu bé nhỏ của Nước Trời và sự phát triển phi thường của nó.
3. Dụ ngôn men trong bột:
Dụ ngôn men trong bột đưa ra một bài học tương tự với dụ ngôn hạt cải trên. Không gì nhỏ bé và ẩn kín hơn nắm men, tuy nhiên nó đã làm dậy lên cả đống bột. Công việc âm thầm, tương tự như sự tăng trưởng của một cây, nhưng thành quả của nó thì đáng kinh ngạc.
Nước Trời cũng như vậy. Bị vùi sâu trong đống bột nhân loại, Nước Trời sẽ âm thầm biến đổi đống bột nhân loại này dần dần cho đến ngày tận thế. Đức Giêsu không là một nhà cách mạng: Ngài không tìm kiếm một thành quả bất ngờ và ngoạn mục; vương quốc của Ngài khởi đi từ những bước khởi đầu khiêm tốn và rồi âm thầm phát triển mà không ai hay biết, nhưng một cách sâu xa trong nhân loại được đổi mới.
Ở nơi đoạn văn này, chúng ta ghi nhận đây là trường hợp duy nhất trong các sách Tin Mừng ở đó men được nhắm đến một cách tích cực. Ở những nơi khác, kể cả các thư của thánh Phaolô, men là hình ảnh về việc dậy men, tức là sự suy đồi hư hỏng, thế nên men bị loại trừ khỏi những ngày lễ Vượt Qua.
4. Đức Giêsu giảng dạy đám đông bằng dụ ngôn:
Như trước đây, Chúa Giêsu giảng dạy đám đông chỉ bằng dụ ngôn: “Tất cả các điều ấy, Đức Giêsu dùng dụ ngôn mà nói với đám đông; và Ngài không nói gì với họ mà không dùng dụ ngôn”. Thánh Mátthêu viện dẫn sự kiện này bằng cách trích dẫn Tv 78. Thánh vịnh gia này loan báo rằng ông sẽ giải mã những điều bí nhiệm của thời quá khứ qua lịch sử Israel. Cũng vậy, tác giả Tin Mừng muốn nói rằng Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn để vén mở những điều bí ẩn của Nước Trời.
5. Đức Giêsu giải thích cho các môn đệ:
Nhưng lối nói dụ ngôn này các môn đệ của Ngài xem ra không nắm bắt được, vì thế khi trở về nhà, họ xin Chúa Giêsu giải thích cho họ. Câu hỏi của họ nhắm đến dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng, dụ ngôn này làm họ bối rối: “Xin Thầy giải nghĩa dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng cho chúng con”.
Đức Giêsu giúp cho họ hiểu rằng tất cả lịch sử nhân loại sẽ diễn tiến cho đến tận thế, theo đó nhân loại sẽ phải chấp nhận sống chung với những “con cái Ác Thần”, những kẻ tìm cách bóp nghẹt vụ mùa. Sự chọn lọc phân định người lành kẻ ác sẽ được thực hiện vào mùa gặt.
“Thợ gặt là các thiên thần”. Việc các thiên thần được gán cho vai trò thợ gặt vào ngày tận thế đến từ các ngôn sứ, nhưng nhất là các sách khải huyền. Sách Khải Huyền của thánh Gioan lấy lại đề tài này (Kh 15, 17-19).
6. Nước của Chúa Cha:
Điều gợi lên sau cùng rất đáng chú ý. Vào ngày tận thế, “mọi kẻ làm gương mù gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác” sẽ bị quăng vào lò lửa, trong khi những người công chính “sẽ chói lọi như mặt trời, trong Nước của Cha họ”.
Triều đại của Chúa Con là thời kỳ cứu độ nhân loại. Vào ngày tận thế, Chúa Giêsu trao vương quyền lại cho Cha Ngài. Trong thư thứ nhất gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phaolô phác họa cùng một viễn cảnh hùng vĩ như vậy: “Sau đó mọi sự điều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha. Thật vậy, Đức Giêsu phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Ngài” (1Cr 15, 24-25).
19. Lúa và cỏ
(Jos. Nguyễn Văn Thuần)
Bài Tin Mừng kể lại ba dụ ngôn của Chúa Giêsu: dụ ngôn cỏ lùng, dụ ngôn hạt cải và dụ ngôn nắm men. Cả ba dụ ngôn này đều có ý nghĩa rất hay và dạy chúng ta những bài học rất hữu ích. Ở đây ta chỉ tìm hiểu một dụ ngôn cỏ lùng thôi.
Trước hết, chúng ta hãy hình dung lại câu chuyện cỏ lùng và cây lúa: có một người chủ ruộng kia đi gieo lúa trong ruộng mình. Chiều đến, ông trở về nhà, mệt nhọc nhưng vui vì đã hoàn tất công việc. Ông và cả gia đình có thể yên tâm nghỉ ngơi, chờ đợi lúa mọc lên. Nhưng có một người hàng xóm ma giáo, xấu bụng. Người này đã từ lâu ghen tỵ với ông khi thấy trang trại của ông càng ngày càng rộng lớn, trù phú. Anh ghen tỵ và không ngừng tìm mưu kế để hại ông, nên khi thấy ông gieo mạ, anh nảy ra ý định gieo hạt cỏ lùng vào ruộng của ông để phá hoại. Không lâu sau đó, ý định gian ác kia được anh đem ra thi hành. Vào một đêm tối, khi mọi người đang ngủ say, anh mò ra ruộng, vội vàng gieo hạt cỏ lùng vào trong ruộng của ông chủ kia, rồi nhanh nhẹn tẩu thoát, không ai nhìn thấy.
Kết quả, khi lúa mọc lên thì cỏ lùng cũng xuất hiện. Tôi tớ của ông chủ đã sớm phát hiện ra điều này và đề nghị với ông cho họ đi nhổ cỏ lùng, nhưng ông bảo họ hãy chờ đến mùa gặt. Tại sao ông chủ không cho nhổ cỏ lùng ngay? Chúng ta biết: cỏ lùng là một thứ cỏ dại, giống hệt như cây lúa. Người nông dân khó mà phân biệt được lúa và cỏ lùng khi chúng còn non và chưa đâm bông. Nhưng khi lúa đã đâm bông rồi, thì một em bé thiếu kinh nghiệm, cũng phân biệt được đâu là cây lúa, đâu là cỏ lùng. Cỏ lùng thường mọc khi lúa đã lớn, nhưng lại giỗ và chín sớm hơn lúa, thành thử đó là cái phiền cho nhà nông: không biết nhổ lúc nào cho tiện. Nhổ lúc còn non thì e nhổ lầm cả lúa, vì nó rất giống cây lúa. Không những thế, rễ cỏ lùng thường mọc chằng chịt quấn bó vào rễ lúa, nên nếu nhổ cỏ cũng có thể kéo luôn cả lúa lên. Mà nếu như để đến ngày mùa, thì nó ăn hại hoa màu của lúa. Nhưng dù sao thì cũng phải chấp nhận một giải pháp nào tương đối bớt hại hơn, như ông chủ trong dụ ngôn đã làm, là chờ tới ngày mùa, gặt cả hai một trật. Như thế, chúng ta thấy cỏ lùng là thứ cỏ dại có hại cho lúa và là kẻ thù của nhà nông.
Dụ ngôn này có ý nghĩa thế nào? Chính Chúa Giêsu đã giải thích: người gieo giống tốt là chính Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn luôn tốt lành, vì bản tính Ngài là chân thiện mỹ, mọi vật do Ngài tạo dựng đều tốt đẹp. Ngài dựng nên mặt trời, mặt trăng để chiếu sáng cho mọi người, Ngài làm mưa làm nắng trên mọi người, kẻ lành cũng như kẻ dữ. Thiên Chúa gieo giống tốt vào ruộng. Hạt giống là người ta, là con cái Chúa, là những người tốt lành. Thửa ruộng là thế gian, là nơi sinh sống, làm việc và phục vụ. Cỏ lùng là người xấu, kẻ ác, kẻ dữ do ma quỷ cám dỗ, chiếm đoạt. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là thiên thần. Khi ấy thiên thần sẽ phân loại người lành người dữ, kẻ tốt kẻ xấu để Thiên Chúa thưởng phạt: kẻ lành được đưa vào Nước Trời, kẻ dữ bị tống vào hỏa ngục.
Qua những điều giải thích trên, chúng ta đã hiểu ý nghĩa của dụ ngôn và có thể suy luận được những bài học Chúa Giêsu muốn dạy. Thực vậy, chúng ta có thể rút ra được ba bài học: Thứ nhất, nơi trần gian này, bất cứ ở đâu, bất cứ ở thời đại nào, cũng có lành có dữ, có tốt có xấu, có phải có trái, có sáng có tối, có đen có trắng, có vàng thau lẫn lộn, có trứng gà trứng ếch,… Và như vậy, ở trần gian này, luôn luôn có người lành kẻ dữ, người tốt kẻ xấu sống bên nhau, sống chung với nhau như lúa và cỏ lùng ở trong một thửa ruộng. Đó là chuyện thường và chúng ta phải công nhận đời là thế. Chúng ta thường quá lý tưởng mong muốn chỉ có người lành người tốt, chúng ta không thể nóng tính đòi Chúa hủy diệt ngay những kẻ dữ kẻ xấu. Chuyện này chỉ xảy ra vào ngày tận thế mà thôi, lúc ấy sẽ được phân định rõ ràng: kẻ lành kẻ dữ sẽ vĩnh viễn xa nhau: kẻ lành sẽ được trọng thưởng trong Nước Trời, còn kẻ dữ sẽ bị trừng phạt trong hỏa ngục.
Thứ hai, chúng ta biết: cỏ lùng là cỏ dại đem lại những hat có chất độc và sự chết, cây lúa đem lại những hạt lúa hạt thóc bổ dưỡng và nuôi sống con người. Vậy mỗi người hãy kiểm điểm: chúng ta là cỏ lùng hay là lúa? Chúng ta đang đem lại sự sống hay sự chết cho nhau? Chúng ta hãy suy nghĩ: sự sống, tài năng, sức khỏe, tiền của chúng ta đang có, đã được sử dụng thế nào? Sử dụng đúng hay sai? Đem lại ích lợi cho mình và gia đình, hay là gây hại cho mình và gia đình? Có bao giờ chúng ta ngồi bóp trán suy nghĩ về những lần chúng ta đã gây khổ đau cho người khác không?
Thứ ba, chúng ta hãy nhớ: đời này là đời tạm, đời sau mới là vĩnh viễn. Nhưng cuộc sống đời này lại có giá trị quyết định cho số phận đời sau của chúng ta, nghĩa là Thiên Chúa sẽ căn cứ vào những năm tháng chúng ta sống ở trần gian mà thưởng phạt chúng ta. Vì thế, đòi hỏi chúng ta phải biết lựa chọn giữa tốt và xấu, phải làm lành lánh dữ, không thể sống lửng lơ con cá vàng, sống nửa nạc nửa mỡ, sống ương ương dở dở, sống kiểu vàng thau lẫn lộn được, nghĩa là không thể vừa làm lành vừa làm dữ được. Chúng ta phải cố gắng lập công, để khi ra khỏi đời này, chúng ta được Thiên Chúa đưa vào Nước Trời.
Hôm nay chúng ta hãy cầu xin Chúa: Lạy Chúa, biết bao lần chúng con đã là cỏ lùng, gây hại cho mình và thiệt hại cho những người khác. Xin cho chúng con trở thành những cây lúa đem lại ích lợi cho mọi người. Xin cho những người xấu được trở nên những người tốt và cho những người tốt được tốt thêm và tốt thật.
20. Thiên Chúa kiên nhẫn và bao dung
(Lm. Phêrô Nguyễn Hương)
Nếu Chúa Nhật vừa rồi dụ ngôn "người gieo giống" diễn tả hình ảnh về một Thiên Chúa yêu thương và quảng đại trong việc phân phát Lời và Ơn Cứu độ của Người cho hết mọi người, thì Chúa Nhật XVI này phụng vụ Lời Chúa lại giới thiệu với chúng ta về một Thiên Chúa kiên nhẫn và bao dung trước sự dữ và tội lỗi của chúng ta.
1. Lúa và cỏ lùng, thực tại của cuộc sống
Khởi đầu dụ ngôn Chúa Giêsu ví Nước Trời như một thửa ruộng trong đó "lúa và cỏ lùng" mọc chung với nhau. Nếu lúa tượng trưng cho những con người tốt và những việc tốt, những điều thiện hảo, thì cỏ lùng lại tượng trưng cho những người xấu, những việc xấu, và tội lỗi. Lúa mọc với cỏ lùng, sự thiện ở bên cạnh sự dữ, người tốt sống với kẻ xấu. Sự lẫn lộn giữa "lúa và cỏ lùng" này chúng ta gặp bất cứ ở đâu: trong gia đình, ngoài xã hội, trong cộng đoàn, nơi công cộng, và ngay cả trong chính lòng của mỗi người.
Dụ ngôn của Chúa Giêsu cũng chỉ cho chúng ta thấy nguồn gốc của sự lành và sự dữ. Tất cả mọi sự tốt lành trong thế giới này đều đến từ Thiên Chúa, Người là nguồn gốc của mọi sự thiện hảo. Còn sự dữ là do Ma quỷ gieo vào. Ma quỷ là kẻ thù luôn chống lại chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Và Chúng tìm cách dụ dỗ con người làm những điều xấu và gây đau khổ cho người khác. Chúng ta phải tĩnh thức vì ngày hôm nay Ma quỷ hoạt động càng tinh vi để gieo rắc cỏ lùng sự dữ vào trong cuộc sống chúng ta!
2. Tại sao Thiên Chúa lại để như thế?
Trước "cỏ lùng", sự dữ và người tội lỗi, thái độ của chúng ta thường giống như những người đầy tớ chủ ruộng: là muốn nhổ đi, loại trừ, nổi loạn, hoặc bất bao dung. Nhưng thái độ của Thiên Chúa được dụ ngôn nói tới thì hoàn toàn khác hẳn. Thiên Chúa kiên nhẫn và bao dung trước sự dữ, nhất là trước tội nhân. Bởi vì Thiên Chúa biết rằng: từ sự dữ có thể đưa tới sự lành! Từ một người tội lỗi có thể trở thành một vị thánh. Hay nói như Đức HY Nguyễn Văn Thuận: "Thiên Chúa biết vẽ những đường thẳng trên những đường cong". Thiên Chúa luôn hy vọng và cho chúng ta những cơ hội để hoán cải, để thay đổi đời sống, để trở thành điều mình phải là. Nói như sách Khôn Ngoan: "Khi hành động như thế, Người dạy dỗ dân Người rằng: Người công chính phải ăn ở nhân đạo... Người ban cho kẻ tội lỗi ơn ăn năn sám hối" (Kn 12,19). Hay nói như Thánh Vịnh hôm nay: "Lạy Chúa, vì Chúa nhân hậu và khoan dung, giàu lượng từ bi với ai kêu cầu Chúa" (Tv 85,5). Và Thánh Phaolô nói cách tuyệt với rằng: "Có Chúa Thánh Thần nâng đỡ sự yếu hèn của chúng ta" (Rm 8,26).
Thời gian chúng ta sống là thời gian kiên nhẫn của Thiên Chúa, thời gian của sám hối, thời gian để làm điều thiện. Cỏ lùng thì mãi mãi là cỏ lùng, còn con người thì khác, con người có thể cải tà qui chính, có thể từ một thằng quỷ biến thành một vị thánh. Trong cái nhìn đó, Đức Thánh Cha Benedetto XVI trong lễ khai mạc sứ mạng giáo hoàng của Ngài, đã có câu nói rất hay: “Chúng ta chịu đựng vì sự kiên nhẫn của Thiên Chúa, thế nhưng chúng ta tất cả cần sự kiên nhẫn của Thiên Chúa. Thiên Chúa, Đấng đã trở thành con chiên, nói với chúng ta rằng thế giới được cứu độ bởi Đấng Chịu đóng đinh chứ không phải những kẻ đóng đinh. Thế giới này được cứu độ nhờ sự kiên nhẫn của Thiên Chúa và bị phá hũy bởi sự bất kiên nhẫn của con người”. (Benedetto XVI, Omelia nell'inizio solenne del Pontificato, Roma, 24 aprile 2005)
Nếu Thiên Chúa hành xử cách thẳng tay và ngay lập tức thì sẽ không có: một Phaolô bắt bớ Giáo hội, lại trở thành một người Tông đồ dân ngoại đi khắp nơi hăng say rao giảng Tin Mừng Đức Kitô; một Augustinô tội lội và phóng túng, đã trở thành một vị đại thánh, bậc tiến sỹ của Giáo hội; một Charles de Foucauld lêu lỗng lại trở thành người sống nghèo khó và khiêm tốn; một Ève Lavallìere cô đào nỗi tiếng của Pháp đã từ bỏ vinh quang và phú quí để sống cuộc đời hoàn toàn cho Chúa trong tu viện vv..vvv. Rất nhiều những chứng tích khác đã là những vị thánh lừng danh nhờ sự kiên nhẫn và bao dung của Thiên Chúa.
21. Cỏ lùng và lúa tốt
(Lm Bùi Quang Tuấn)
Tuần trước, Dụ ngôn “Người Gieo Giống” trình bày Thiên Chúa như một nông gia tung gieo Lời Ngài vào các tâm hồn. Có tâm hồn như đường đi, hạt giống rơi xuống bị người ta giẫm đạp, không ngóc đầu lên được. Có tâm hồn như sỏi đá, khô khan cứng cỏi, hạt tuy có nẩy mầm nhưng rồi bị nắng trời thiêu cháy vì thiếu nước. Có tâm hồn như bụi gai um tùm, bóp nghẹt cây lúa đang lên, nên cũng chẳng sinh được bông trái nào. Nhưng có tâm hồn như vùng đất phong phú, hạt giống mọc lên tươi tốt, hy vọng mang lại cho nhà nông một mùa gặt thành công rạng rỡ.
Tuần này, Dụ ngôn “Cỏ Lùng” lại trình bày Thiên Chúa như người vãi gieo giống tốt vào mảnh đất hứa hẹn, nhưng sau đó Satan đã lén lút gieo hạt giống xấu là cỏ lùng vào ban đêm. Thành ra trên cùng một mảnh đất màu mỡ, lúa non và cỏ lùng mọc lên chen nhau, rễ cây này xoắn gốc cây kia.
Người tôi tớ chân thành không khỏi nhức nhối lắng lo, muốn xin chủ ruộng giải quyết tức thì tình trạng vàng thau lẫn lộn. Nhưng chủ nhân e rằng khi nhổ cỏ người ta bứng luôn cả lúa nên quyết định đợi đến mùa gặt. Lúc đó cây lúa sinh hạt sẽ được bó lại đưa về sân phơi, còn cỏ lùng hoang dại sẽ bị cắt xuống ném vào lửa thiêu.
Dụ ngôn “Cỏ Lùng” bộc lộ hình ảnh thế giới, giáo hội, gia đình, con người như những vùng đất mang tính hỗn hợp. Thiện và ác, tốt và xấu, ân sủng và tội lỗi như “đan cài” với nhau. Không thể có một xã hội toàn là người tốt hoặc người xấu, cũng chẳng thể có một cộng đoàn toàn là thánh nhân hay tội nhân. Sự kiên nhẫn đầy tình thương xót của chủ ruộng như một cơ may cho những biến đổi và hoàn thiện. Thiên Chúa luôn mở ngỏ cho hoán cải và trổ sinh hoa trái tốt lành.
Dụ ngôn trên thúc đẩy tôi đi vào một hành trình tự vấn: tôi là một cây lúa xanh tươi đang nảy sinh bông hạt thơm ngát cho cuộc đời, hay tôi là cụm cỏ lùng đang ăn hại bao chất màu tươi tốt của cuộc sống?
Chắc hẳn tâm hồn tôi có mang nhiều loại giống tốt do Chúa gieo vào và cũng không ít giống xấu do Satan và tôi tớ của nó thảy vô, nhưng loại giống nào đang được chăm sóc và thứ nào đang bị vùi xuống? Tôi đang nhổ cỏ lùng trong đời mình hay tôi đang gắng công nhổ cỏ và nhổ luôn cuộc đời người khác?
Tôi đang cộng tác với Thiên Chúa để gieo giống tốt vào thế giới hôm nay hay tôi đang tiếp tay với ma quỉ để gieo bao giống xấu vào tâm hồn tha nhân?
Có một chi tiết rất đáng chú ý trong bài Dụ ngôn: khi mọi người đang ngủ, một kẻ xấu lòng đến rải cỏ lùng vào ruộng rồi đi mất. Kẻ thù ra tay mà không ai hay biết. Mầm mống sự ác đột nhập thế giới trong cách thế bất ngờ. Người ta chỉ nhận ra khi nó mọc lên và bắt đầu phá hoại hoa màu.
Như thế Lời Chúa mời gọi một thái độ tỉnh thức. Nếu quên mất rằng: sống là một cuộc tranh đấu không ngừng cho điều tốt vươn lên, tôi sẽ bị cái ác đè bẹp. Nếu chủ quan thiếu canh phòng trước những bóng đêm của cuộc sống, tôi sẽ bị ma quỉ khống chế cuộc đời.
Khi người ta nói: “đâu có sao” trong việc xem phim ảnh sách báo không nết na để giải trí một chút; khi người ta nghĩ: “đâu có sao” nếu nghe bạn bè rủ rê hút một chút cocain cho biết mùi đời; khi người ta tưởng: “đâu có sao” chuyện bỏ đọc kinh đi lễ một hôm..., đều là những mầm giống cỏ lùng Satan gieo vào cuộc đời, chờ ngày bùng phát và hủy hoại.
Không phải chỉ có ma quỉ mới gieo cấy cỏ lùng. Nếu không tỉnh thức, coi chừng chính ta là người tiếp tay tung rắc cỏ lùng vào đời kẻ khác. Có cha mẹ gieo gian dối, tham lam vào lòng con cái mà không biết. Chẳng hạn, có người đi chợ về khoe với cả nhà: “Cô bán hàng hôm nay mất trí hay sao mà thối tiền sai nên dư mấy đồng, mừng quá!” Đáng lẽ nên nói với nhau: “Ồ, mẹ đã trả lại cho cô bán hàng số tiền dư vì phép công bằng”, hay “vì sợ cô ấy phải bỏ tiền túi ra để bù vào chỗ mất,” hoặc “e cô ấy sẽ gặp khó khăn với chủ tiệm,” đàng này người ta lại sung sướng thu cái lợi trước mắt mà không ngờ đã gieo vào lòng con cái mầm mống ích kỷ, gian tham; sau này lớn lên, chúng chỉ mong người ta dốt nát, lầm lẫn, mất trí để có lợi.
Thế đấy, hành động, lời nói, thái độ cư xử của một người có tầm ảnh hưởng như những hạt giống. Nếu là hạt tốt, gia đình, xã hội được nhờ biết bao. Trái lại, nếu là loại xấu, thương đau tất đang chờ ngày phát tán.
Trên một tờ báo nọ có câu chuyện tếu lâm đáng suy nghĩ: Một bé trai được mẹ cho ghé chơi nhà ông nội trong dịp cuối tuần. Ông thấy cháu mình chơi với bạn rất hăng say, nhưng hễ mở miệng ra là có những lời không thanh lịch cho lắm. Nội mới gọi cháu cưng lại trách:
- “Cháu học kiểu ăn nói du côn của đứa nào vậy? Từ nay trở đi ông cấm không được chơi với những thứ đó nữa nghe chưa.”
Đứa cháu vừa thở dài vừa nói:
- “Nếu thế thì từ nay cháu phải nghỉ chơi với bố cháu hay sao?
Ông nội:!!! (Thì ra nó học được từ bố nó.)
Hỡi bạn, Thiên Chúa đang cần chúng ta tiếp tay với Ngài để gieo vào gia đình, cộng đoàn, và lòng người những hạt giống tốt. Có thể là những hạt rất bé như hạt cải, nhưng hiệu năng vô cùng lớn lao. Có thể là những hạt đơn sơ âm thầm, nhưng lại như nắm men làm dậy biết bao đấu bột. Hãy gieo đi những hạt giống yêu thương, chân thật, trung tín, nhẫn nại, quảng đại, thứ tha... Chắc chắn hoa trái mai ngày sẽ là một mùa hân hoan và hạnh phúc tràn đầy.
22. Cứ để cả hai cùng mọc lên
(Văn Chính, SDB chuyển ngữ)
Một điểm nổi bật của Dụ ngôn Cỏ Lùng mà chúng ta dễ nhận thấy, đó là sự quân bình và trưởng thành của các đầy tớ. Nếu không có sự quân bình và trưởng thành này của các đầy tớ, thì dụ ngôn có thể có một kết cục khác như sau:
Đầy tớ mới đến thưa chủ nhà rằng: “Thưa ông, không phải ông đã gieo giống tốt trong ruộng ông sao? Thế thì cỏ lùng ở đâu mà ra vậy?” Ông đáp: “Kẻ thù đã làm đó!” Đầy tớ nói: “Vậy ông có muốn chúng tôi ra đi gom lại không?” Ông đáp: “Đừng, sợ rằng khi gom cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa. Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt. Thế rồi, một trong số đầy tớ liền nói: “Cứ để tôi, thưa ông chủ. Vì tôi có thể phân biệt rõ lúa và cỏ lùng”. Rồi anh ta đi làm, và khi nhổ cỏ lùng, anh ta đã làm bật rễ những gốc lúa như ông chủ đã nói trước.
Ngày nay, có nhiều Kitô hữu cũng giống như những người đầy tớ quá nhiệt thành kia, không chấp nhận sự bao dung đối với những loại cỏ lùng xấu. Với sự nhiệt thành phục vụ Thiên Chúa, họ sẵn sàng làm một cuộc thánh chiến với những ai họ nhận thấy là xấu, với ý định loại trừ họ ra khỏi Giáo hội, quốc gia, hay thế giới này. Rốt cuộc, họ mới nhận ra rằng mình đã mắc phải lỗi lầm nghiêm trọng.
Bạn cứ tưởng tượng các đầy tớ ngạc nhiên và bị “sốc” thế nào khi họ trở về nhà báo cho ông chủ biết chuyện cỏ lùng đang mọc trong ruộng lúa của ông, và xin phép để đi nhổ cỏ lùng. Như những người nông dân tốt, họ muốn làm chuyện đó. Thế nhưng tại sao ông chủ lại cản họ không nhổ cỏ lùng trong ruộng? Có thể vì 2 lý do:
Trước hết, ông chủ biết rằng lúa đang sống và mọc lên cùng với cỏ lùng. Cỏ lùng có thể gây bất tiện tạm thời nào đó trong lúc này, nhưng chúng không thể làm lúa chết được. Thứ đến, đây là chuyện quan trọng, ông chủ biết thật khó để phân biệt giữa lúa và cỏ lùng. Chúng trông rất giống nhau. Chỉ khi mùa gặt đến, các đầy tớ mới có thể phân biệt được rõ ràng nhờ vào hoa trái của chúng. Cho dẫu các đầy tớ có thể phân biệt được chính xác cỏ lùng và lúa, thì ông cũng ngăn cản họ, vì lý do “sợ rằng khi gom cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa” (Mt 13,29).
Sau đó, Đức Giêsu tiếp tục giải thích cho các môn đệ rằng “Ruộng là thế gian. Hạt giống tốt, đó là con cái Nước Trời. Cỏ lùng là con cái ác thần” (c 38). Lối giải thích này của Đức Giêsu làm sáng tỏ quan điểm của dụ ngôn: các người Kitô hữu không nên tìm cách loại trừ những kẻ xấu ra khỏi thế gian này. Họ cứ để kẻ tốt và người xấu sống bên cạnh nhau trong thế giới cho đến Ngày Thu Hoạch. Khi đó mọi sự sẽ dựa vào kết quả của họ. Chúng ta nên để kẻ tốt, người xấu sống chung trong một nhà, một căn hộ, một tòa nhà, một khu vực, một quốc gia, một thế giới, vì lý do đơn giản: chúng ta là những con người tốt nhưng cũng có thể phạm phải sai lầm. Một cách tự nhiên, chúng ta cũng có thể có ý tưởng giống như các đầy tớ trong dụ ngôn, thế nhưng ý tưởng đó không đúng. Các đầy tớ trung tín là những người biết nhận ra rằng họ có thể sai lầm. Sự bất khoan dung, ước muốn loại trừ người xấu quanh chúng ta, sẽ biến chúng ta trở thành những người đầy tớ bất trung đối với Thiên Chúa, Đấng “cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5,45)
Những người đầy tớ quá nhiệt thành muốn loại trừ những người mà họ nhận thấy là xấu, rốt cuộc họ cũng đang đi tới ý định chống lại chính Thiên Chúa. Chúng ta hãy nghĩ tới trường hợp của chàng thanh niên Sao-lô mà sau này trở thành Thánh Phao-lô. Ngài đã từng một thời nhiệt thành ruồng bắt những người Kitô hữu, vì ngài đã mang nơi mình một quan điểm xấu. Chúng ta cũng có thể nghĩ đến những người “Kitô hữu nhiệt thành” muốn săn đuổi những kẻ phá thai, đồng tính, những người tín hữu da trắng với đầu óc kỳ thị chủng tộc, chủ nghĩa duy quốc gia, nòi giống...
Sứ điệp Tin mừng ngày hôm nay thật rõ ràng. Nếu bạn muốn trở thành người đầy tớ trung tín của Thiên Chúa, bạn cần được chuẩn bị để biết đón nhận những kẻ mà bạn nhận thấy là xấu xa. Chúng ta phải nhớ lời của Thày Giêsu: “Cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt” (câu 30).
23. Lúa hay cỏ lùng?
Chủ ruộng không bao giờ mong cỏ lên trong ruộng lúa nhưng thửa ruộng nào cũng có cỏ. Đó là điều khó tránh khỏi. Trong thửa ruộng Chúa đã gieo hạt và sai các Thiên thần coi sóc cũng có lúa và cỏ cùng mọc lên. Tuy Chúa không muốn có cỏ mọc chen vào nhưng Ngài cũng không muốn nhổ nhầm lúa của Ngài: cứ để chúng cùng mọc lên cho đến ngày thu hoạch.
Điều khác biệt trong ruộng lúa này là: lúa xấu có thể dần dần trở thành cỏ và cỏ tốt có thể trở thành lúa. Điều lạ thứ hai là chủ ruộng vẫn đối xử với cỏ và lúa như nhau. Những đợt phân, nước, thuốc được trao cho lúa và cỏ như nhau. Thiên Chúa vẫn luôn chăm sóc, ban ơn và tỏ mình ra bằng những cách khác nhau cho thửa ruộng qua các đầy tớ, qua những ơn lành... Còn việc biến đổi bên trong tùy vào mỗi người.
Trong cuộc đời tôi có khi nào tôi trở thành cỏ lùng không? Khi tôi phạm tội trọng và từ chối trở lại với Chúa, khi tôi giận hờn, ghen ghét một ai đó và từ chối Thiên Chúa, khi tôi để cho những dục vọng hay bản năng điều khiển cuộc đời mình... Liệu Thiên Chúa có phạt tôi ngay không? Thiên Chúa vẫn chờ đợi cho tới một ngày, tôi không biết là ngày nào, một ngày nào đó tôi một mình đối diện với thiên Chúa. Đó là ngày phán xét. Liệu tôi có đứng vững trước mặt Ngài và được Ngài cho vào Thiên đàng không? Nghĩ tới điều này, tôi thấy mình cần quan tâm chăm sóc cho phần linh hồn của mình hơn, biết tôi luyện chính mình, biết tập những đức tính tốt, từ bỏ những thói xấu, năng cầu nguyện với Chúa, dùng những phương thế Chúa ban để trở nên xứng đáng là người con Chúa cũng như giúp cho những người xung quanh, nhất là những người tôi có trách nhiệm quan tâm đến.
Nước Thiên Chúa đến cách âm thầm khiêm tốn. Qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa kêu gọi những kẻ người chọn. Nước Trời được thiết lập cách bí ẩn, nhiệm mầu. Tôi nghĩ mình đã thuộc về Nước Thiên Chúa nhưng biết đâu một lúc nào đó tôi thiếu tỉnh thức hay cậy sức mình, mềm lòng để ma quỷ lừa gạt được tôi và biến tôi thành cỏ lùng. Tuy nhiên, tôi tin là: nếu tôi biết khiêm tốn sám hối thì Chúa sẽ lại đón nhận tôi về làm con Chúa như người Cha Nhân Hậu tiếp nhận đứa con hoang trở về. Bổn phận của tôi là sống trung thành với luật yêu thương của Nước trời và nếu có lỗi phạm thì biết sớm quay về chính lộ. Tôi sẽ không nói suông, nhưng thực hành việc kính Chúa hết lòng, bác ái vớI tha nhân và vác thánh giá hàng ngày bước theo chân Chúa. Chúng ta thấy rằng, từ những gian khó hàng ngày nơi những người theo Chúa, từ cái có vẻ như không là gì trước mặt thế gian, Chúa có thể dùng làm chuyện to tát. Ngài đã thiết lập một vương quyền hùng mạnh của Ngài từ 12 tông đồ và một ít môn đệ, đa số là những người ít học, không có danh vọng gì trong xã hội, đã được Chúa huấn luyện và biến đổi nên những người dũng cảm, làm chứng cho chân lý đến tận cùng trái đất. Đây là điều kỳ diệu trước mắt chúng ta.
Hạt giống tốt gieo ở mọi nơi thì kết quả hạt lúa tốt dồi dào. Tuy nhiên, cỏ lùng có thể chen vào giữa ruộng lúa hoặc ảnh hưởng đến chúng ta bằng những cám dỗ: vật chất giàu sang, danh dự, tiện nghi... Nếu chúng ta biết canh tân chính mình mỗI ngày, chúng ta sẽ không bị biến chất. Ai quyết tâm trung thành giữ vững Đức Tin và sống cho Chúa, cố gắng không ngừng vì yêu mến Chúa thì Người sẽ không bỏ rơi nhưng luôn trợ giúp để chúng ta luôn là men muối ướp đời mà không nhiễm thói đời.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa cho chúng con đừng chiều theo những cám dỗ, nhưng biết làm chủ lấy mình. Mỗi ngày con sẽ chú ý tập luyện một tính tốt và loại trừ tật xấu để trở nên con chiên gương mẫu, nên lúa tốt và có thể giúp cỏ lùng biến đổi thành lúa trong thửa ruộng của Ngài.
24. Dụ ngôn lúa và cỏ lùng
Bài Phúc âm hôm nay Chúa Giêsu nói về Nước Trời qua ba dụ ngôn: cỏ lùng xen lẫn lúa tốt, hạt cải bé nhỏ và nắm men trong bột. Cả ba đều rất hữu ích cho chúng ta vì những ý nghĩa và bài học mà Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta. Tuy nhiên chúng ta chỉ tìm hiểu dụ ngôn cỏ lùng mọc xen lẫn với lúa tốt và rút ra bài học hữu ích cho chúng ta hôm nay.
Dụ ngôn này rất sống động. Có thể xem đây là một vở kịch nhỏ, diễn ra nhanh và đầy ý nghĩa. Các vai trong vở kịch gồm có: ông chủ ruộng, kẻ xấu (người hàng xóm xấu bụng) và các tôi tớ của ông chủ ruộng. Ông chủ đã cẩn thận chọn giống tốt, kỹ lưỡng loại bỏ những hạt kém chất lượng, giữ lại những hạt có phẩm chất tốt. Ông đợi đúng vào thời điểm mà đi gieo trồng. Khi công việc hoàn tất ông vui mừng trở về nhà, hài lòng với những gì mình đã bỏ công khó nhọc làm ra. Ông chờ đợi ngày lúa nẩy mầm và lớn lên, hy vọng vào vụ mùa bội thu, chờ đợi thành quả xứng với công sức mà ông đã bỏ ra. Người hàng xóm xấu bụng luôn ganh tỵ với công việc của ông và tìm mọi cách để làm hại. Người hàng xóm xấu bụng nghĩ ra nhiều cách, trải qua thời gian dài suy nghĩ và cuối cùng hắn đã chọn phương án cho những ý nghĩ xấu xa của mình. Hắn chờ cơ hội để hành động. Khi mọi người chìm vào giấc ngủ say sau một ngày vất vả, hắn đã âm thầm ra ruộng của ông và gieo vào đó cỏ lùng. Việc hoàn tất anh tươi cười với thái độ thoả mãn lòng dạ thâm độc kia. Hắn đi về trong đêm tối một cách nhanh chóng, rồi cũng âm thầm chờ ngày cỏ lùng mọc lên.
Ông chủ vẫn để mắt chăm nom ruộng lúa của mình. Mắt ông luôn theo dõi. Lòng ông luôn gắn bó với ruộng lúa. Ông biết ruộng của mình. Ông biết có kẻ thù gieo cỏ lùng vào trong đó... Khi lúa mọc lên cũng là lúc cỏ lùng bắt đầu tươi tốt. Các tôi tớ của ông chủ đã phát hiện ra cỏ lùng. Họ muốn ông chủ cho họ ra đồng nhổ cỏ lùng để nó đừng làm hại ruộng lúa. Nhưng ông bảo họ đợi đến mùa gặt. Ông chủ không muốn các đầy tớ của mình ra đồng nhổ cỏ ngay tức khắc. Ông tế nhị, sợ khi nhổ cỏ lùng thì sẽ nhổ luôn cả lúa tốt. Hơn nữa, ông muốn các đầy tớ phải nhớ bổn phận của mình vì: cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt. Lúc đó ông chủ sẽ căn dặn người thợ gặt chỉ gặt lúa còn cỏ lùng thì tách ra mà đốt trong lò lửa.
Qua đoạn Phúc Âm này, chúng ta có thể nhận ra rằng vấn đề lành dữ, tốt xấu, phải trái, sáng tối, đen trắng luôn luôn hiện diện trong trần gian, nó hiện diện trong Giáo Hội, trong xã hội, trong gia đình và chính trong bản thân chúng ta nữa. Như vậy trần gian luôn có người lành kẻ dữ, người tốt kẻ xấu, lúa tốt và cỏ lùng sống chung với nhau. Thiên Chúa là ông chủ ruộng không gieo vào trong thế gian là thửa ruộng điều xấu và sự dữ. Thiên Chúa tốt lành gieo điều tốt lành vào trong cuộc sống. Nhưng kẻ thù của Thiên Chúa, nguyên nhân gây ra điều xấu là ma quỷ, và những kẻ nghe theo lời cám dỗ, xúi dục của ma quỷ đã gieo cỏ lùng vào trong thế gian.
Chúng ta thường quá lý tưởng, mong muốn thế giới chỉ có người tốt, mong ước một xã hội hoàn hảo, xã hội chỉ có những người tài giỏi tồn tại, mong chỉ có những người tuyệt vời sống mà thôi. Thậm chí chúng ta mong muốn Thiên Chúa tiêu diệt người xấu và kẻ ác khỏi cuộc đời này ngay như những người đầy tớ của ông chủ ruộng kia. Thế nhưng như ông chủ ruộng kiên nhẫn chờ cho đến mùa gặt mới tách biệt lúa tốt và cỏ lùng. Thiên Chúa cũng kiên nhẫn và bao dung như thế. Chúa đợi cho đến ngày tận thế mới tách cỏ lùng ra khỏi lúa tốt. Chúa hy vọng những người xấu và tội lỗi ăn năn sám hối để được ơn tha thứ. Chúa không trừng phạt ngay tức khắc những người tội lỗi vì Chúa là Thiên Chúa bao dung và nhân ái. Chúa yêu thương và tin tưởng có một ngày nào đó người xấu và tội lỗi sẽ quay trở về và trở nên người tốt. Ngài là người cha nhân hậu đang hằng ngày chờ đợi đứa con trai hoang đàng trở về. Và chính lòng bao dung ấy mà Giáo Hội có những vị thánh như: tên trộm lành, thánh nữ Maria Madalenna, thánh Augustino, thánh Phaolô... Nếu Chúa chấp tội thì có lẽ chính bản thân chúng ta là người bị phạt đầu tiên, vì trong chúng ta cũng đầy dẫy tội lỗi và sự xấu. Tâm hồn chúng ta cũng mọc đầy cỏ lùng xen lẫn vào trong lúa tốt.
Thiên Chúa không thích tội nhưng bao dung cho người tội lỗi. Chính vì bao dung nên người đã kiên nhẫn đợi chờ. Thiên Chúa không tiêu diệt sự xấu vì Thiên Chúa vẫn để cho chúng ta có cơ hội lớn lên trong thử thách, giữa những ảnh hưởng của tội lỗi và ma quỷ. Lúa phải chống chọi để lớn lên bên cạnh cỏ lùng thế nào, thì cuộc đời của người kitô hữu cũng phải trưởng thành về đời sống đức tin và đức mến giữa một thế giới đầy sự xấu và sự dữ như vậy. Con cái Thiên Chúa cần phải lớn lên qua những chiến đấu mà họ đương đầu với cám dỗ và tội lỗi.
Lạy Chúa Giêsu, xin tha thứ cho chúng ta vì biết biết bao lần chúng con đã là cỏ lùng, gây hại cho mình và cho biết bao người khác. Xin Chúa cho chúng con trở thành những cây lúa tốt đem lại lợi ích cho mọi người. Và xin cho những người tội lỗi biết nhận ra tình thương của Chúa mà ăn năn trở về với Chúa và những người sống tốt được tốt thêm và tốt thật. Amen.
25. Nhổ đi hay sống chung
(Lm. Trịnh Ngọc Danh)
“Đừng, sợ rằng khi gom cỏ lùng, các anh lại làm bật luôn rễ lúa”.
Bài Tin Mừng Chúa nhật 16, mùa Thường niên, năm A, theo Thánh Matthêu (Mt 13,24-43) ghi lại việc Chúa Giêsu dùng Dụ ngôn cỏ lùng, Dụ ngôn hạt cải và Dụ ngôn men bột để nói về Nước Trời. Trong buổi chia sẻ này, chúng ta chỉ bàn về Dụ ngôn cỏ lùng.
Các nhân vật trong Dụ ngôn cỏ lùng gồm có: Người gieo giống và hạt giống tốt, kẻ thù của người gieo giống và cỏ lùng, đầy tớ của người gieo giống và thợ gặt.
Chúng ta hãy nghe Chúa Giêsu giải nghĩa Dụ ngôn cỏ lùng như sau: “ Kẻ gieo hạt giống là Con Người. Ruộng là thế gian. Hạt giống tốt, đó là con cái Nước Trời. Cỏ lùng là con cái Ác Thần. Kẻ thù đã gieo cỏ lùng là ma quỷ. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên thần. Vậy, như người ta nhặt cỏ lùng rồi lấy lửa đốt đi thế nào, thì đến ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy. Con Người sẽ sai các thiên thần của Người tập trung mọi kẻ làm gương mù gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác, mà tống ra khỏi Nước của Người, rồi quăng chúng vào lửa; ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng. Bấy giờ người công chính sẽ chói lọi như mặt trời trong Nước của Cha họ”.
Ý nghĩa của Dụ ngôn cỏ lùng như thế đã rõ. Biểu tượng của cỏ lùng là điều xấu, điều ác, là mọi kẻ làm gương mù guơng xấu và mọi kẻ làm điều ác; khác với biểu tượng của hạt giống tốt là điều tốt, điều thiện, là con cái Nước Trời.
Sau đây, chúng ta thử nhìn đến cách ứng xử và thái độ của những người đầy tớ và ông chủ gieo giống tốt đối với cỏ lùng ra sao.
Khi lúa lớn lên và trổ bông thì cỏ lùng cũng lộ ra. Những người đầy tớ thắc mắc: “ Thưa ông, không phải ông đã gieo giống tốt trong ruộng ông sao? Thế thì cỏ lùng ở đâu mà ra vậy?” Và họ đã đề nghị: “ Nếâu ông bằng lòng, chúng tôi xin đi nhổ cỏ”. Và ông chủ thì bảo: “ Đừng, sợ rằng khi gom cỏ lùng, các anh lại làm bật luôn rễ lúa”.
Cũng như các đấy tớ, có lẽ chúng ta cũng thắc mắc: Chúa là Đấng quyền năng, thông biết mọi sự, Chúa biết kẻ thù là ma qủy đã gieo cỏ lùng vào ruộng lúa thế gian, nhưng sao Chúa không ra tay hành động, không cho đầy tớ nhổ cỏ đi, sao Chúa không diệt cỏ lùng, không diệt kẻ làm gương mù gương xấu, kẻ làm điều ác; nhưng lại để cho chúng cùng nẩy nở và sống chung với hạt giống tốt là những điều tốt, điều thiện, là con cái Nước trời?
NHỔ! Tại sao không?
NHỔ cỏ lùng là một gợi ý hay, một việc làm tốt và cần thiết; nhưng lại là một việc rất khó. Khó bởi vì một khi rễ lúa và rễ cỏ lùng đã đan chen vào với nhau rồi, thay vì nhổ cỏ lùng, chúng ta lại làm bật rễ lúa, làm cho cây lúa héo đi và chết. Nhổ được cỏ lùng nơi chính bản thân mình đã khó, nói chi đến nhổ cỏ lùng nơi người khác!
Cái xấu, cái tốt, điều thiện điều ác, gương mù gương xấu do đâu mà có? Chúa thì gieo điều thiện, ma qủy lén lút gieo điều xấu. Cổ nhân cũng có nói: “ Nhân chi sơ tính bản thiện”. Con người sinh ra vốn thiện, nhưng môi trường sống, xã hội… đã đẩy đưa con người xã hội của chúng ta vào những khúc quanh đi ngược lại lương tri, lương tâm của mình. Cỏ lùng và cây lúa cứ như thế mà sống chung, mà tồn tại. Nếu không có con rắn cám dỗ, nếu bà Evà không nghe theo những thôi thúc của dục vọng, thì bà đâu bị Chúa đuổi ra khỏi vườn Địa đàng!
Tốt xấu, thiện ác, bạn thù, ánh sáng bóng tối, hòa bình chiến tranh… là hai gương mặt của một con người, của xã hội, của cuộc đời…
Con người luôn phúc tạp. Chúng ta không thể phân chia hay vạch được một ranh giới rạch ròi giữa tốt và xấu nơi con người. Trong tâm hồn mỗi người, đều có điều tốt lẫn điều xấu. Biết đường thẳng ngắn hơn đường cong, thế mà chúng ta vẫn cứ chọn đường quanh co mà đi. Biết ganh ghét là sinh ra hận thù, thế mà chúng ta vẫn cứ một mực chỉ trích chê bai.
Tất cả chúng ta là một hỗn hợp giữa điều tốt và điều xấu. Người mà chúng ta coi là tốt, thì lại tiềm ẩn trong lòng những đố kỵ, gian ngoa, kiêu ngạo…và người mà chúng ta cho là xấu, thì lại chất đầy lòng vị tha, yêu thương và phục vụ…
Một số người tỏ ra bất mãn trước những thiếu sót, bất toàn của Giáo hội. Họ không muốn chấp nhận Giáo hội có những thiếu sót, sai lầm, không muốn chấp nhận sự cộng sinh giữa người người lành và kẻ dữ.
Trong con người thánh nhân, có con người thánh thiện và con người tội lỗi…
Như thế biện pháp NHỔ gương mù gương xấu, nhổ cái gian ác nơi ruộng lúa thế gian thật không phải dễ mà còn nguy hại vì nhổ lầm.
Không NHỔ nhưng để cho cây lúa và cỏ lùng SỐNG CHUNG, đó là biện pháp, cách thức người gieo giống muốn áp dụng. Vì Chúa sợ rằng: “ Khi gom cỏ lùng, anh em lại làm bật luôn rễ lúa”.
Rễ lúa và rễ cỏ lùng đan chen với nhau trong lòng đất cũng như thiện ác đan chen với nhau trong tâm hồn chúng ta. Nhổ cỏ lùng vô tình chúng ta làm bật rễ những cái thiện đang tiềm ẩn nơi chúng ta.
Gốc rễ cây lúa tốt, mạnh sẽ lấn át gốc rễ cỏ lùng. Một khi thiện tâm chúng ta có nội lực mạnh, có gốc rễ sum xuê, sẽ có thể cải hóa được cái ác nơi cỏ lùng. Tin Mừng và lịch sử Giáo hội đã chứng minh cho thấy đã có vô số người tội lỗi trở thành những thánh nhân.
Nếu không có cỏ lùng, có lẽ người ta sẽ quên hoặc không bận tâm gì lắm đến cây lúa! Sống chung với cỏ lùng là cơ hội cho cây lúa thăng tiến…
26. Nhận diện sự dữ.
Thái độ ông chủ trong dụ ngôn của đoạn Tin Mừng vừa nghe xem ra không được hợp tình và hợp lý. Thực vậy, có anh nông dân nào mà lại không chịu khó đi xịt thuốc, hay đi nhổ, mà cứ để cho cỏ dại mọc xả láng trên đồng ruộng của mình.
Thế nhưng, nếu chúng ta hiểu rằng ông chủ ấy là chính Thiên Chúa và cỏ dại là những kẻ tội lỗi, thì chúng ta lại thấy cách cư xử này thật tuyệt vời, vừa hợp tình, lại vừa hợp lý.
Đúng thế, Ngài không đồng lõa và dung túng kẻ tội lỗi, nhưng đã đối xử với họ theo lòng khoan dung và nhân ái. Ngài kiên nhẫn đời chờ kẻ tội lỗn sám hối và hoán cải.
Nếu Thiên Chúa tiêu diệt sự ác ngay bây giờ, thì chắc chắn không ai trong chúng ta có thể sống sót, bởi vì như lời Thánh Vịnh đã diễn tả: Từ trong lòng mẹ, tôi đã là tội nhân, thoạt sinh ra, tôi đã mắc tội rồi.
Và như chúng ta đã biết: Tình thương thì nhẫn nại, nên Thiên Chúa luôn chờ đợi thiện chí hoán cải của từng người, đồng thời Ngài còn ban ơn nâng đỡ họ trên mọi bước đường đời, để rồi cuối cùng, ngày thầm phán mới tới, ngày xét xử tuyệt đối công mình và không ai có thể trách cứ Ngài là đã không dủ lòng thương xót.
Nếu như Thiên Chúa không dung túng và đồng lõa với sự ác, thì chúng ta cũng không được phép thở dài và chán ngán, thất vọng và buông xuôi, nhưng phải cố gắng trở thành người cộng tác vào việc xây dựng Nước Trời.
Thực vậy, ông chủ đã xác quyết:
- Kẻ thù của ta đã làm như vậy.
Vì thế, bước khởi đầu của chúng ta cũng phải là nhận diện sự ác. Tiêu chuẩn để nhận diện sự ác không phải là bản thân chúng ta với những sở thích riêng tư, nhưng phải là Tin Mừng, với những đòi hỏi của Chúa.
Dưới ánh sáng của Tin Mừng, liệu chúng ta có nhận ra đâu là những dấu chỉ của sự ác đang hoành hành trong tâm hồn mỗi người chúng ta, cũng như trong thế giới hôm nay hay không?
Sau khi xem xong cuốn phim “Dưới ánh mặt trời của Satan”, trong một cuộc phỏng vấn, cha Bourgeois đã đưa ra những dấu chỉ của sự ác hôm nay, đó là sự khinh rẻ con người và cướp đi quyền sống của họ; thái độ tôn thờ ngẫu tượng như tiền bạc, quyền lực, lạc thú; sống trong ảo tưởng vì cho rằng khoa học có thể giải quyết được mọi sự; đánh mất niềm hy vọng, không còn nhìn tới tương lai và sau cùng là đánh mất chính mình, không còn biết rõ con người mình là như thế nào nữa.
Như vậy, sự ác có thể ẩn hiện dưới nhiều khuôn mặt, đôi khi lại là những khuôn mặt thật dễ thương, đầy quyến rũ và rất hấp dẫn.
Thế nhưng, sự dữ không phải chỉ hiện diện trên bình diện thế giới và cộng đồng nhân loại, mà còn hiện diện ngày trong chính cõi lòng chúng ta. Bởi vì cõi lòng chúng ta là như một thửa ruộng trong đó cỏ lùng xen lẫn với lúa tốt.
Vấn đề là làm thế nào để hạt giống Nước Trời đã được Thiên Chúa gieo vãi vào cõi lòng chúng ta được nảy mầm, lớn lên, đâm bông và kết trái. Chính vì thế, chúng ta phải cố gắng kiện toàn bản thân và thể hiện những giá trị của Tin Mừng trong chính cuộc sống chúng ta, bởi vì sự góp phần vào công cuộc kiến tạo Nước Trời phải được khởi đi từ chính bản thân mỗi người chúng ta.
27. Tất cả là hồng ân
(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Dụ ngôn cỏ lùng là một trong những dụ ngôn hiếm hoi được chính Chúa giải thích rõ ràng. Giải thích của Chúa giúp ta có những hiểu biết hữu ích cho đời sống đạo.
Dụ ngôn nhắc nhớ ta về sư hiện diện của ma quỷ. Ma qui hiện hữu. Chúng luôn có mặt để gieo rắc sự xấu. Chúa đã chuần bị những thửa ruộng tốt. Những thửa ruộng đó là thế giới, là Giáo hội, là tâm hồn mỗi người. Chúa đã gieo những hạt giống tốt. Hạt giống đó là Lời Chúa, là ơn Chúa, là những thiện chí, những ý hướng cao đẹp trong tâm hồn con người. Nhưng ma quỷ lén gieo vào những hạt cỏ xấu.
Chúa gieo vào thế giới hạt giống khát vọng hoà bình. Đẹp biết bao nếu mọi dân tộc nắm tay nhau xây dựng một thế giới huynh đệ tươi thắm tình người. Nhưng buồn thay, cánh đồng hoà bình tươi xanh đã bị những ngọn cỏ tham vọng, ích kỷ, ác độc làm hoen ố. Lịch sự thế giới được ghi bằng những trang buồn vì không ngày nào không có chiến tranh.
Thế giới sẽ đẹp biết bao nếu tất cả trí thông minh, tất cả tài nguyên, tất cả năng lực đều góp phần xây dựng. Nhưng buồn thay, rất nhiều trí thông minh, rất nhiều tài nguyên, rất nhiều năng lực đã tiêu tốn trong việc huỷ hoại, tha hoá, nô lệ hoá con người.
Ngay trong bản thân mỗi người, không thiếu những sáng kiến, những hoạt động ban đầu xem ra tốt đẹp, nhưng dần dà vị vẩn đục vì những biến tướng nặng mùi trần tục như khoe khoang, tìm hư danh, tìm lợi lộc.
Đó là những hạt cỏ xấu ma quỷ lén lút gieo vào ruộng lúa tốt.
Tuy nhiên, dụ ngôn cho thấy sự kiên nhẫn và lòng bao dung của Chúa. Chúa đợi cho đến ngày tận thế mới thu lúa cùng với cỏ lùng. Chúa kiên nhẫn đợi chờ vì hi vọng những người tội lỗi ăn năn sám hối. Chúa bao dung tha thứ không nỡ phạt người tội lỗi tức khắc. Chúa yêu thương, tin tưởng người xấu sẽ có ngày nên tốt. Nếu phạt ngay nhưng người tội lỗi thì ta đâu còn cơ may được chiêm ngưỡng ông thánh trộm lành. Nếu Chúa thẳng tay thì ta đâu có thánh nữ Madalêna, Tông đồ của các Tông đồ, thánh Augustinô, Tiến sĩ lừng danh, thánh Phaolô, vị Tông đồ dân ngoại. Nếu Chúa chấp tội thì bản thân ta sẽ là người bị phạt đầu tiên, vì trong ta cũng đầy những tội lỗi, những sự xấu. Trong tâm hồn ta cỏ lùng vẫn mọc xen với lúa tốt.
Sau cùng, dụ ngôn cho ta hiểu tất cả là hồng ân của Chúa. Có sự lành để ta hiểu biết và yêu mến sự tốt lành của Thiên Chúa. Có sự dữ để ta gớm ghét tránh xa và càng thêm gắn bó với sự lành. Có sự lành để ta được hưởng niềm an ủi ngọt ngào của Chúa. Có sự dữ để ta phấn đấu vượt qua, chứng minh lòng trung tín của ta với Chúa. Có thuận lợi tiến bước trên đường thánh thiện. Có khó khăn để ta rèn luyện thêm đức.
Mọi sự đều nên tốt cho kẻ lành. Thật vậy, việc cấm đạo là sự dữ. Nhưng nhờ đó mà Giáo hội có được những chứng nhân anh hùng. Đau khổ và bệnh tật là những khiếm khuyết trong cuộc sống, nhưng lại giúp con người được thông phần đau khổ với Chúa. Thánh Nữ Têrêsa đã nhìn thấy tất cả là hồng ân của Chúa. Sự lành cũng như sự dữ. Hạnh phúc cũng như đau khổ. Thành công cũng như thất bại. Tất cả đều góp phần rèn luyện, vun đắp và thăng tiến người lành.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Khi gặp những người xấu trong xứ đạo, trong hội đoàn, bạn có muốn khai trừ người đó ngay tức khắc không?
2) Trong con người bạn có những khuyết điểm, những bệnh tật, bạn có phấn đấu khắc phục những khuyết điểm, vượt qua bệnh tật để thăng tiến bản thân không?
3) Chúa đã khoan dung, kiên nhẫn đợi chờ bạn ăn năn hối cải. Bạn có biết kiên nhẫn với người khác?
28. Không được loại trừ
Anh chị em thân mến.
Hiện tại, thế giới đang rối loạn lên vì tình trạng khủng bố đang lan rộng khắp nơi. Vừa qua ở tại Anh Quốc bốn quả bom đã phát nỗ nơi giao thông công cộng, khiến cho 52 người chết và rất nhiều người bị thương còn đang trong tình trạng nguy kịch. Những nạn nhân là ai? Họ chỉ là những người dân bình thường, vậy mà họ phải nhận lấy hậu quả của những người bất đồng với nhau vì một lý do nào đó. Chính vì thế mà mọi người trên thế ở trong tình trạng báo động và được kêu mời chống khủng bố.
Tại sao lại có tình trạng khủng bố và có người chống khủng bố? Bởi vì họ không chấp nhận việc làm của người khác, họ bất mãn với cách làm của người khác vì người đó không thuộc về phe của họ. Nếu cả hai chịu ngồi lại để tìm tiếng nói chung, tìm con đường tốt nhất để thực hiện, thì sẽ không có tình trạng khủng bố càng không có tình trạng báo động chống khủng bố. Nếu cả hai biết kiên nhẫn chờ đợi một kết quả tốt, và nếu cả hai bên biết kiên nhẫn cách quảng đại để chấp nhận nhau trong tinh thần xây dựng chứ không loại trừ thì mọi việc sẽ khác đi nhiều. Nhưng có tình trạng hỗn loạn và bất ổn như thế nầy, vì con người luôn tìm cách khẳng định mình để rồi loại trừ người khác, không chấp nhận người khác cùng đồng hành với mình.
Trong bài Phúc Âm chúng ta vừa nghe, ông chủ ngăn cản những người muốn vội vàng có hành động loại trừ. Những người đó cũng có ý hướng hoàn toàn ngay chính, họ nhìn thấy những điều không thích hợp và muốn loại trừ ngay, để cho điều mà họ cho là tốt được hoàn toàn tốt đẹp theo như ý họ muốn. Nhưng họ giật mình khi nghe chủ không cho họ hành động. Không phải chủ muốn bao che cho sự xấu, càng không phải ủng hộ cho điều không tốt, nhưng người chủ muốn cho tốt xấu được phân biệt rõ ràng khi đến thời đến lúc của nó. Nếu sớm hơn thời kỳ hạn định thì sẽ có sự lầm lẫn. Người chủ chỉ sợ khi ý tốt của những người muốn tiêu diệt cái xấu là cỏ lùng, lại vô tình làm nguy hại đến cái mà gọi là lúa tốt, khi đó cỏ lùng không bị tiêu diệt hết mà vô tình lúa tốt lại bị tiêu diệt và không có cơ hội phát triển.
Thiên Chúa muốn cho điều tốt được phát triển mạnh mẽ lên, có sức mạnh bao phủ và lôi cuốn để cho mọi sự mỗi ngày trở nên tốt hơn, mạnh mẽ hơn.
Nhưng con người, chỉ là những người thợ nóng vội, chỉ hành động theo bản năng mà không cần biết đến hậu quả như thế nào. Con người chỉ biết hành động theo như những gì mình muốn, mình thấy và không cần phải suy tư tìm hiểu cho lợi ích chung.
Mỗi người trong chúng ta nhìn vào chính mình, xem giờ này đây chúng ta đang nghĩ gì và muốn gì? Chúng ta đang nhìn thấy một xã hội bất công, chúng ta cũng đang nhìn thấy những ý tưởng tốt đẹp của mình và chúng ta đang mong muốn thực hiện những ý tưởng đó. Chúng ta muốn loại trừ bất công, để những gì chúng ta cho là tốt đẹp càng tốt đẹp hơn. Chính những ý nghĩ như thế, chính những lúc chúng ta hành động mà chúng ta cho là tốt như thế, thì cũng chính những lúc đó chúng ta là những người khủng bố, chúng ta đang gieo kinh hoàng khắp nơi, chung quanh cuộc sống của mình.
Những lúc chúng ta khó chịu, bất mãn với cuộc sống, nên chỉ trích phê bình, hay hành động nông nổi khi chúng ta không chấp nhận ý kiến người khác, mà chỉ biết có chính mình. Khi đó chúng ta có nhìn thấy hậu quả của sự việc như thế nào không? Nếu những lúc đó chúng ta kiên nhẫn, lắng nghe với một tâm hồn quảng đại, với một con tim biết yêu thương, tha thứ và thông cảm, chắc chắn chúng ta cũng sẽ nhận được một kết quả mà chúng ta không ngờ được. Lúc đó chúng ta đang thực hiện lời Chúa: hãy chờ đợi. . . , coi chừng sẽ lầm lẫn.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết lắng nghe lời Chúa, để trong đời sống hằng ngày chúng biết kiên nhẫn tìm hiểu thánh ý Chúa mà thực hiện.
29. Đừng nhổ cỏ lùng.
(‘Manna’)
Cỏ lùng ở đâu mà ra vậy? Cỏ lùng trong ruộng khiến các đầy tớ ngỡ ngàng.
Thửa ruộng vốn chỉ được gieo giống tốt. Vậy mà khi lúa mọc lên và trổ bông. cỏ lùng lại xuất đầu lộ diện.
Bởi đâu mà có cỏ lùng, có người xấu? Bởi đâu mà ở nơi ta tưởng là trong ngần lại bất ngờ có dấu hiệu của sự vẩn đục?
Có tác động xấu xa nào của Thần Dữ đẩy đưa? Có sự ưng thuận chiều theo nào của con người?
Ông có muốn chúng tôi nhổ đi không? Chúa có muốn chúng tôi tiêu diệt mọi kẻ xấu không? Ngài có muốn chúng tôi xây dựng một Giáo Hội toàn bích, một xã hội chỉ gồm toàn những người tốt không?
Lắm khi chúng ta nóng nảy như Gioan và Giacôbê, đòi đốt cả làng người Samari, vì họ không tiếp Chúa.
Đừng, sợ rằng khi nhổ cỏ lùng, lại làm hư rễ lúa. Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt.
Như thế Thiên Chúa để cho cỏ mọc chung với lúa. Ngài chấp nhận tình trạng vàng thau lẫn lộn. Ngài nhẫn nại với tội nhân, với cỏ lùng.
Cỏ lùng chẳng bao giờ thành lúa được. Nhưng người xấu có thể hoán cải nên người tốt. Chính vì thế Thiên Chúa cứ kiên tâm chờ đợi.
Chờ đợi vì tin vào sự hoán cải của con người. Chờ đợi vì tôn trọng tự do lựa chọn của họ. Chờ đợi vì nuôi một niềm hy vọng lớn lao.
Sự thánh thiện của Thiên Chúa ở nơi sự chờ đợi. Ngài còn chờ đợi cho đến ngày tận thế.
Trong thế giới và Giáo Hội không có hai hạng người: hạng cỏ lùng và hạng lúa tốt.
Cỏ lùng và lúa tốt nằm ở nơi tim mỗi người.
Mỗi người đong đưa giữa cỏ lùng và lúa tốt, giữa cái thiện và cái ác, giữa thiên thần và Satan.
Ngay trong những hành vi tốt đẹp nhất của tôi, tôi vẫn thấy có chút vị kỷ, chiếm đoạt.
Thiên Chúa vẫn chấp nhận cỏ lùng ở trong tôi. Ngài chờ tôi được thanh luyện dần dần, để rồi mọi sự trong tôi thành lúa tốt.
Kitô hữu không dung túng sự dữ, họ dám hy sinh để xây dựng một thế giới yêu thương. Nhưng họ không dùng bạo lực để chống lại ác nhân. Họ nhẫn nại biến đổi trái tim kẻ thù, vì họ tin vào sức mạnh của tình yêu, tin vào Đức Giêsu, Đấng đã bị sự dữ nuốt chửng nhưng cuối cùng là Đấng toàn thắng.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có khi nào bạn bị "sốc" trước một gương xấu xảy ra trong Giáo Hội hay giáo xứ của bạn không? Bạn đã làm gì để vượt qua cú sốc đó?
Bạn có thấy mình ít nhẫn nại trước cỏ lùng của người khác, nhưng lại không thấy cỏ lùng nơi mình? Có khi nào bạn đòi khai trừ người khác vì họ lầm lỗi không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con, xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.
Mỗi lần con thấy Chúa, xin biến đổi ánh mắt con.
Mỗi lần con rước Chúa, xin biến đổi môi miệng con.
Mỗi lần con nghe lời Chúa, xin biến đổi tai con.
Xin làm cho khuôn mặt con ngời sáng hơn sau mỗi lần gặp Chúa.
Ước chi mọi người thấy nét tươi tắn của Chúa trong nụ cười của con, thấy sự dịu dàng của Chúa trong lời nói của con.
Thế giới hôm nay không cần những Kitô hữu có bộ mặt chán nản và thất vọng.
Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm cùng đi với Chúa và với tha nhân trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen.
30. Thiên Chúa luôn cho ta cơ hội để hoán cải
(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Có một câu ngạn ngữ nói rằng: Khi cuộc đời đóng lại cánh cửa trước mặt chúng ta, thì Thiên Chúa luôn mở cho ta cánh cửa khác. Có thể nói rằng, câu ngạn ngữ này thật đúng. Khi mỗi người bình tâm nhìn lại cuộc đời của mình sẽ thấy Thiên Chúa luôn cho chúng ta những cơ hội. Có những lúc trước mặt ta là cả một bầu trời đen tối, thì Thiên Chúa luôn cho ta một tia hy vọng; có những khi ta tưởng rằng với tội lỗi mình gây ra, đáng lẽ mình đã phải trả giá, thế nhưng Thiên Chúa vẫn độ lượng cho chúng ta thời gian và cơ hội sửa chữa sai lầm.
Nhân từ và khoan dung là “đặc tính” trong cách hành xử của Thiên Chúa. Nhìn lại lịch sử của dân Israel, chúng ta thấy Thiên Chúa đã yêu thương chăm sóc họ như một người cha lo cho con cái; vậy mà rất nhiều lần, Israel từ chối tình yêu và sự chăm sóc của Ngài. Những lúc như thế, Thiên Chúa như một người cha, vừa giận lại vừa thương. Cũng nhiều lần, với sự công thẳng, Ngài như muốn để cho Israel bị tiêu diệt khỏi mặt đất, nhưng tấm lòng người cha không cho phép Ngài làm như thế. Ngài lại tha thứ, yêu thương và đón nhận họ khi họ sám hối trở về.
Bài đọc một, tác giả sách Khôn Ngoan đã suy gẫm về Thiên Chúa và nhận ra rằng: Thiên Chúa luôn phải chịu sự giằng co giữa nhân từ và lỗi phạm, giữa công thẳng với khoan dung. Tác giả giải thích: Chính do sức mạnh của Chúa, mà Chúa hành động công minh- vì Chúa làm bá chủ vạn vật nên Chúa lại nương tay với muôn loài. Thiên Chúa luôn xử khoan hồng, lấy lượng từ bi cao cả mà cai quản con ngươi, chỉ những ai cố tình, cố chấp thì Ngài mới xử tội. Tác giả sách Khôn Ngoan còn nghiệm ra rằng, Thiên Chúa làm như thế là để dạy chúng ta: Người công chính phải có lòng nhân ái, vì Thiên Chúa luôn cho con cái niềm hy vọng và cho người có tội có cơ hội để sám hối.
Dụ ngôn Chúa Giêsu kể hôm nay về câu chuyện cỏ lùng trong ruộng, cho thấy sự khác biệt về cách hành xử giữa Thiên Chúa và con người. Trước hết, câu chuyện trả lời cho thắc mắc muôn thuở của con người: Tại sao Thiên Chúa là Đấng quyền năng, nhân từ sao lại để cho nhiều sự xấu, sự ác xảy ra trong thế giới như thế? Thiên Chúa không tạo nên sự xấu, Ngài càng không tạo nên sự ác. Giống như người chủ trong câu chuyện, ông đã không hề gieo cỏ lùng, nhưng ông gieo giống lúa tốt trong ruộng của ông và ông hết sức chăm lo cho mảnh ruộng của mình. Tuy nhiên, khi mọi người đang ngủ, kẻ thù của ông đã gieo cỏ lùng vào ruộng lúa rồi đi mất. Kẻ thù của Thiên Chúa chính là ma quỷ. Nó không muốn nhìn thấy con cái Chúa được hạnh phúc. Nó ghen tỵ vì con người được Chúa yêu thương. Vì thế, nó lén lút, đợi khi con người say ngủ trong lối sống và thói quen của mình, thì đã gieo những hạt cỏ dại vào trong tâm hồn mỗi người. Những hạt cỏ này cứ âm thầm mọc lên, đến một lúc nào đó, nó lấn lướt hết những việc tốt lành và biến mảnh ruộng tâm hồn chúng ta trở nên vườn hoang cỏ dại.
Nhìn thấy sự xấu, sự ác cùng với những bất công đang xảy ra trong xã hội, nhiều người đã giống như những đầy tớ trong câu chuyện hôm nay, họ muốn quay lại trách Thiên Chúa và nghi ngờ về quyền năng của Ngài: Thưa ông, không phải ông đã gieo giống tốt trong ruộng của ông sao? Thế thì cỏ lùng ở đâu mà ra vậy? Không chỉ trách Thiên Chúa, mà họ còn muốn Thiên Chúa hành xử theo cách của họ, khi đề nghị với ông chủ: Vậy ông có muốn cho chúng tôi đi gom chúng lại không? Với đề nghị này, những người đầy tớ trong câu chuyện muốn nhân danh Thiên Chúa và sự công thẳng của Ngài để loại trừ những người xấu, những kẻ bị xem là cỏ lùng. Như thế, những người này tự cho mình là những người tốt, những người xứng đáng có quyền để kết án người khác.
Thiên Chúa có quyền trừng phạt ngay lập tức kẻ có tội, những kẻ xấu và những người gây ra sự ác, nhưng Thiên Chúa đã không làm như vậy, Ngài có cách hành xử riêng của Ngài. Trước lời đề nghị đi nhổ cỏ lùng của những người đầy tớ, ông chủ đã trả lời: Đừng, vì sợ rằng khi đi nhổ cỏ, các anh lại làm bật luôn rễ lúa. Hãy cứ để cả hai cùng mọc lên cho đến mùa gặt. Đến mùa gặt, tôi sẽ cho thợ gom cỏ lùng lại và đốt đi, còn lúa thì cho vào kho lẫm. Câu trả lời này cho thấy sự nhẫn nại của Thiên Chúa đối với những kẻ có tội và những người làm điều xấu. Thiên Chúa luôn cho con người có thời gian và cơ hội để hoán cải, để làm lại cuộc đời. Dĩ nhiên, Thiên Chúa không mong cỏ lùng biến thành lúa, nhưng Ngài lại mong người xấu biến thành người tốt, kẻ gian ác biến đổi nên người lương thiện, và đến ngày xét xử, Thiên Chúa sẽ xử công minh với mỗi người tùy theo việc họ đã làm.
Hãy cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt. Điều đó cho thấy rằng, Thiên Chúa không hề nóng vội, cũng không hề mất kiên nhẫn với con người. Ngài là một người Cha luôn chờ đợi chúng ta là những người con sám hối trở về để Ngài tha thứ. Ngài không hề kể tội chúng ta khi chúng ta quay về. Trái lại, Ngài luôn mở rộng vòng tay ôm chúng ta vào lòng và cho chúng ta được ngụp lặn trong biển yêu thương của Ngài. Tuy nhiên, đến thời hạn sau cùng, nếu người nào còn cố chấp trong sự sai trái của mình, từ chối tình yêu, bỏ mất cơ hội hoán cải, không chấp nhận quay trở lại thì kẻ ấy sẽ biến mình trở thành thù nghịch với Thiên Chúa và sẽ bị hủy diệt trong lò lửa.
Tuy nhiên, không dễ để mỗi người nhận ra thực trạng của mình: Hiện nay, tôi đang là cỏ lùng hay là lúa? Hiện nay, mảnh ruộng tâm hồn tôi đang là ruộng lúa hay đang là ruộng cỏ? Để có thể nhận ra được tình trạng tâm hồn của mình là cỏ hay là lúa, ruộng lúa hay là ruộng cỏ, chúng ta cần phải có sự trợ giúp của Thánh Thần. Đó là điều Thánh Phaolô chỉ cho chúng ta trong thư Roma: Thần Khí sẽ giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải. Điều đó có nghĩa là qua việc cầu nguyện cùng với sự soi sáng của Thánh Thần, chúng ta sẽ nhìn rõ về con người và tình trạng tâm hồn của mình. Chỉ khi dám nhìn vào tâm hồn mình và khiêm tốn nhìn nhận sự sai trái của mình, chúng ta mới có thể khắc phục được những sai lầm trong cuộc sống, và cùng với ơn Chúa và sức mạnh của Thánh Thần, chúng ta mới có thể tận dụng được cơ hội và thời gian Chúa ban để hoán cải.
Thưa quý OBACE, Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người nhìn lại tình trạng tâm hồn của mình và biết học nơi Chúa sự nhẫn nại và quảng đại bao dung với anh chị em chung quanh, đừng vội kết án, nhưng luôn cho anh chị em mình cơ hội để làm lại cuộc đời.
Các bậc làm cha mẹ luôn muốn mảnh ruộng gia đình là một mảnh ruộng tốt và muốn con cái mình là những giống lúa tốt. Tuy nhiên, vì sức ép của đời sống kinh tế, vì cám dỗ chạy theo vật chất và danh vọng, nhiều người đã ngủ quên trong công việc, trong việc tìm kiếm cơm áo nên đã bỏ quên ruộng lúa là gia đình, bỏ quên con cái, để cho ma quỷ và sự xấu len lỏi vào trong gia đình, trong tâm hồn của mình và của con cái. Vì vậy, các bậc cha mẹ cần điều chỉnh lại cuộc sống của mình, cần biến tâm hôn mình thành mảnh đất tốt, dành nhiều thời gian hơn nữa cho gia đình, cho con cái để chuyện trò, để hiểu nhau hơn và thông cảm với nhau hơn. Hãy gieo vào gia đình và tâm hồn con cái nhiều việc tốt, nhiều gương sáng, hãy đem Chúa vào trong gia đình qua những giờ kinh, giờ cầu nguyện và hãy gieo vào tâm hồn mình và con cái những hạt giống của Tin Mùng. Khi tỉnh thức như thế, thì ma quỷ và sự xấu sẽ không thể lẻn vào gia đình chúng ta được.
Lời Chúa cũng muốn chúng ta học nơi Chúa sự kiên nhẫn và quảng đại với anh chị em. Đừng vội kết án hay loại trừ khi anh em mình sai lỗi, nhưng hãy ân cần nâng đỡ và tạo cơ hội cho anh chị em làm lại cuộc đời. Thiên Chúa không bao giờ dập tắt hy vọng của chúng ta, Ngài cũng không bao giờ khóa chặt cánh cửa tương lai của chúng ta. Vì thế, chúng ta đừng bao giờ đóng chặt cửa tương lai, đừng bao giờ dập tắt hy vọng của mình và của anh chị em mình. Amen.
31. Giáo Hội thánh thiện gồm những người có tội.
(‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Dụ ngôn hạt giống tốt và cỏ dại, là cơ hội tốt để chúng ta suy niệm về sự thánh thiện của Giáo Hội. Thực vậy Giáo Hội giống như một thửa ruộng lớn nơi đó chủ đã gieo hạt giống tốt, là sự thánh thiện, nhưng người ta cũng thấy mọc cỏ dại là tội lỗi. Chúa giải thích dụ ngôn bằng cách ứng dụng trực tiếp hơn vào thế giới. Hạt giống tốt là thần dân Vương quốc và cỏ dại là những kẻ theo kẻ dữ. Chủ không muốn hành động mạnh chống lại những kẻ làm dữ, vì muốn tránh gây thương tổn cho những ai cố gắng trung thành với điều thiện, nhưng dụ ngôn cũng gợi ra câu hỏi khác mà chúng ta dùng làm đề tài suy niệm: làm sao trong Giáo hội của Thiên Chúa có lẫn lộn thánh thiện với tội lỗi?
1) Giáo Hội thánh thiện tự bản thể, trong cội rễ, trong nhựa sống, trong sự tăng trưởng. Nhưng Giáo Hội được tạo bởi những người có tội. Giáo Hội bắt rễ nơi Đức Kitô, nhựa sống là sự sống của Đức Kitô. Qua Giáo Hội, chính Đức Kitô lớn lên trong nhân loại. Nhưng nhân loại ấy làm bằng những con người yếu đuối. Một đàng những con người ấy giống như gié lụa mà không có cái nào chín ngay được, không có ai hoàn thiện trong tình trạng hiện thời. Đàng khác có những người tuỳ thuộc số hạt giống tốt của Thiên Chúa, nhưng vì có tự do, nên có thể biến đổi thành hạt giống của ma quỷ. Giáo Hội chịu sự giằng co bên trong, khi vừa thánh thiện nhờ tất cả động lực của nguồn gốc mình, vừa khổ vì tội lỗi của những người họp thành mình. Bởi đó mới có sự kiện lạ lùng: không ai có thể bắt bỏ Đức Kitô được một tội nào trong khi Giáo Hội Đức Kitô gồm bằng những tội nhân. Nhưng cũng phải nói luôn rằng Đức Kitô cấu tạo Giáo Hội thánh thiện bởi sức mạnh thánh hoá của Ngài. Trong tư cách Giáo Hội, Giáo Hội thánh thiện nhờ sự kết hiệp với Đức Kitô nhờ Giáo lyý của mình, nhờ ác phép bí tích và cũng nhờ lưu lực thánh thiện đang biến cải các người tội lỗi. Giáo Hội như một linh hồn thánh, không ngừng hồi sinh một thân thể bệnh tật và thương tích. Điều nên kinh ngạc không phải là việc Giáo Hội đang sự khốn cùng của tội lỗi, nhưng là nghị lực của Giáo Hội để thúc đẩy sự thánh thiện.
2) Thực tại của Giáo Hội vượt ra ngoài các giới hạn của hiện tại chúng ta và của lịch sử quá khứ. Khi nói đến tội lỗi bên trong Giáo Hội (các lầm lỡ, các lạm dụng, các sai lầm…) người ta nghĩ đến Giáo Hội thời quá khứ, hay nghĩ đến Giáo Hội hiện đại. Tuy nhiên, phải nghĩ đến Giáo Hội toàn diện, từ khởi sự sẽ tiến tới hoàn thành, Giêrusalem trên trờ mà thánh Gioan nói đến. Khi sống thời hiện tại của Giáo Hội, chúng ta hãy sống viễn tượng và trong niềm kiêu hãnh chính đáng về Giáo Hội bất tử. Hãy tránh một thứ tâm trạng khổ dục, ưa thích một cách bệnh hoạn vạch rõ những gì yếu đuối và tội lỗi trong Giáo Hội hiện đại. Trái lại hãy dựa cách suy tư và cảm nhận của chúng ta trên hành động tích cực của Đức Kitô hằng sống. Trong Giáo Hội, từ Đức Giáo Hoàng cho đến người tín hữu khiêm nhường nhất, Ngài gợi lên lòng quảng đại, tăng cường lòng tin tưởng, thúc đẩy các sáng kiến, nâng đỡ lòng can đảm và ban cho các Kitô hữu chân chính khuôn mặt của những kẻ chiến thắng, những người sống mạnh, những người được giải cứu.
32. Cánh đồng truyền giáo
Mầu nhiệm Giáo Hội phong phú và phức tạp đến nỗi không thể tóm gọn vào trong một công thức. Hơn nữa, vì một mầu nhiệm trong khi ngôn ngữ loài người lại phát nguyên từ kinh nghiệm giác quan, nên không thể nào có khả năng để diễn tả cho thoả đáng được. Vì thế, Kinh Thánh và truyền thống phải nhờ đến những biểu tượng để diễn tả một nội dung vượt hẳn lên trên khả năng diễn đạt của lời nói. Chính Chúa Giêsu cũng đã dùng đến phương pháp này trong các dụ ngôn của Ngài. Quả thật, Thánh Tôma Aquirô nhận định là: Chính qua trung gian của cảm giới mà chúng ta có thể vượt tới thần giới. Trong Kinh Thánh, các nhà chú giải đếm được hơn 80 hình ảnh chỉ về Giáo Hội. Hôm nay, Đức Giêsu liên tiếp dùng ba dụ ngôn cỏ lùng , dụ ngôn hạt cải và dụ ngôn men trong bột để diễn tả những khía cạnh khác nhau của Nước Trời, của Giáo Hội chúng ta.
Vốn suất thân từ Vùng thôn dã, Đức Giêsu đã dùng nhiều ví dụ đượm sắc thái nông thôn . "Về nước trời cũng tựa như người kia gieo giống tốt vào ruộng mình'' (Mt 13,24). Điều này chỉ nhằm diễn tả Giáo Hội là một thực tại trãi rộng trong không gian và thời gian, trong đó có những mảnh lực thù nghịch chống đối nhau nguyên do là "kẻ thù của ông đến gieo cỏ lung vào ngay giữa lúa''. Và thực tế cho thấy bao giờ Giáo Hội cũng có cỏ lùng chen lẫn và thật khó nhận diện đâu là cỏ lùng, đâu là lúa, ai là kẻ dữ, ai là người lành. Thiên Chúa vẫn có thể dùng những biện pháp cứng rắn, khắt khe, cường bạo như nhổ cỏ lùng từ ngay lúc này, ngay lúc còn nhỏ. Nhưng Ngài không làm thế, vì có thể khi nhổ cỏ "Các anh lại nhổ luôn cả lúa chăng". Bất cứ ai đã làm ruộng thì thấy điều này rất rõ, cây cỏ trong lúa mà chúng ta thường gọi là bông cỏ, lúc bé chẳng khác gì là lúa. Cho dù những người tinh mắt , những nông dân " thâm niên'' thì họ mới biết đâu là cỏ đâu là lúa. Nhưng cho dù hay đến đâu thỉnh thoảng nhổ cỏ vẫn bị nhầm lẫn giữa cỏ và lúa. Cho nên, hay nhất là đợi đến ngày cả hai cây lớn lên thì sẽ lộ ra nguyên hình đâu là cỏ, đâu là lúa . Ở đây, Đức Giêsu không muốn chỉ phương pháp nào diệt cỏ có lợi nhất, hay phương pháp diệt nào loại trừ người tội lỗi nhanh nhất, hữu hiệu nhất, cho bằng nói lên tình yêu của Thiên Chúa với tội nhân qua việc người chờ đợi "Người cho mặt trời của người mọc lên soi sáng kẻ xấu như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính'' (Mt 5, 45), mong cho họ được hoán cải được cứu thoát .
Lịch sử Giáo Hội cho thấy có rất nhiều bè phái cỏ lùng chống phá Giáo Hội cách có tổ chức và hệ thống. Tiêu biểu là các lạc giáo đã cố chấp lập ra nhiều loại Giáo Hội khác. Cùng vì điều này mà Thánh PhaoLô đã mạnh dạn lên án những bè phái gây chia rẽ trong cộng đoàn Côrintô "họ chẳng hơn lương dân" (x 1 cr3). Những thế lực ấy luôn tìm ẩn chống phá thật nguy hiểm. Nó có thể phá hoại ngay trong nội bộ, phá hoại từ những đầu não cốt yều nhất. Chúng là con cái của bóng tối, thích làm việc và hoạt động trong bóng tối "Thích làm trong lúc mọi người ngủ", nó làm cách vụn trộm xấu xa. Nhưng cho dù kín đáo đến đâu thì Thiên Chúa vẫn biết mọi hành vi của hắn .Chỉ vì Ngài muốn chờ đợi, chờ đợi sự ăn năn, chờ đợi sự sám hối và thức tỉnh . Những cỏ lùng mà chúng ta biết, chúng ta thấy chỉ là những cây cỏ bình thường, sức chống phá vẫn chưa nguy hại cho bằng những cọng cỏ mọc âm thầm đang lớn lên từng ngày nơi tâm hồn mỗi người. Những tính hư nết xấu, những giận hờn chia rẽ, và muôn vạn âm mưu xảo huyệt trong tâm trí... đó là những cỏ lùng nguy hiểm mà chúng ta cần loại ngay. Chỉ khi chúng ta diệt được cây cỏ ngay bên trong mình thì mới giúp người khác được. Khi nhổ được một cây cỏ nơi mình chính là lúc mình đang chăm sóc vào cánh đồng của Chúa.
Lạy Chúa! Chúa ghét tội nhưng yêu tội nhân, thể hiện qua việc Ngài luôn kiên nhẫn chờ đợi để tha thứ cho họ. Xin cho con cũng có cái nhìn của Chúa mà sống bao dung với hết mọi người. Amen.
33. Thiên Chúa nhẫn nại với cỏ dại
(‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)
Đôi khi có vẻ như Thiên Chúa sẽ dùng cái lưỡi hái của Người để cắt đi tất cả những cỏ dại mọc trong xã hội của chúng ta. Điều đó sẽ là một điều may phúc lớn lao nếu Thiên Chúa loại trừ khỏi chúng ta những kẻ phá thai, những đứa trẻ vô giáo dục, mấy tay nát rượu, những trùm du đãng, những kẻ giết người hàng loạt, những nhà độc tài… và tất cả những người lạm dụng sự tốt lành và giá trị nhân bản. Nhưng điều đó đã không xảy ra. Vì sao nó đã không xảy ra? Sách Khôn ngoan nói với chúng ta rằng Thiên Chúa cho con người niềm hy vọng. Người sẽ cho phép họ thống hối tội lỗi của họ. Nói cách khác, Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi. Thiên Chúa tôn trọng sự tự do của chúng ta. Người coi sự tự do của chúng ta là một tặng ân quý giá khiến Người phải chịu đựng sự dữ, ít nhất là cho đến ngày phán xét. Thiên Chúa sẽ không cưỡng bách bất cứ ai tránh sự dữ và làm điều lành nhưng Người muốn cho tất cả mọi người chúng ta có đủ thời giờ để thống hối và thay đổi cuộc sống của chúng ta.
Loại lúa mì được trồng nhiều ở miền Palestina, lúc còn nhỏ rất khó phân biệt với cây cỏ. Đây là sự thật ẩn trong câu căn dặn: “Khi nhổ cỏ, các anh sẽ nhổ cả lúa mì lẫn trong cỏ”. Người Anh khi chuyển dịch dụ ngôn này đã dùng những từ ngữ giúp minh họa được ý nghĩa của dụ ngôn, nhưng khi lắng nghe tiếng Anh thì rất khó phân biệt giữa hai từ “Wheat và Weed”.
Chúng ta có thể dễ dàng xét đoán một người nào hay một điều gì là sự xấu mà chịu đựng nó thì không thể chấp nhận được theo quan điểm của chúng ta. Đó có thể là một sai lầm nghiêm trọng. Sự thật là chúng ta không có quyền xét đoán tội lỗi của bất cứ ai. Quyền này thuộc về một mình Thiên Chúa. Phá thai là một tội trọng, tội mà Công đồng Vaticano II gọi là “tội không thể nói gì hơn nữa”. Tuy vậy, nhưng có những người phá thai vẫn chưa dứt khoát, mù mờ, lẫn lộn hoặc bị ép buộc, trong trường hợp đó tội của họ được giảm nhẹ cách nào đó. Mặc dầu xã hội của chúng ta đã bị đầu độc bởi một tai họa, là từ chối nhận lãnh trách nhiệm và những dự định bào chữa cho mọi loại xấu xa. Chúng ta không có quyền kết án một người nào, chỉ có hành động là xấu mà thôi.
Thực tế thì rắc rối lắm. Ngay trong Giáo hội dù Giáo hội được xác định là thánh thiện, chúng ta đã kinh nghiệm những gương mù, gương xấu rồi. Có những cỏ dại ngay trong cánh đồng của Giáo hội. Chúng ta đau buồn khi nghe những gương mù trong Giáo hội nhưng những điều xấu xa ấy không làm cho chúng ta ngạc nhiên vì ngay mười hai tông đồ chính Chúa Giêsu đã chọn, cũng có một người phản bội. Chúa Giêsu không loại trừ Giuđa trong khi phát giác ra những hành động gian dối hay những tư tưởng xấu của ông. Người không nhổ cỏ, cỏ đó là Giuđa, khỏi những cây lúa mì là những tông đồ khác.
Những người lãnh đạo quân đội hay cầm đầu chính trị sẽ loại trừ kẻ thù của mình ngay khi vừa phát giác ra họ. Nhưng Thiên Chúa thì không như thế. Cách thế của Thiên Chúa được diễn tả trong bài ca Thánh Vịnh của chúng ta: “Lạy Chúa, Chúa là Đấng nhân từ và hay tha thứ”. Chính chúng ta may mắn khi Chúa thì nhân từ và hay tha thứ. Ai ở trong thế giới này là người vô tội? Ai là lúa mì trong sạch mà không pha trộn một chút cỏ dại? Chúng ta có muốn Thiên Chúa đem chúng ta ra khỏi thế gian này để diện đối diện với Người trong công minh khi mà cánh đồng đời sống của chúng ta vẫn còn những cỏ dại không? Chúng ta không nhận biết rằng sự mời gọi chúng ta đến dự tiệc Thánh Thể là dấu hiệu sự kiên nhẫn của Thiên Chúa dành cho chúng ta ư? Người không đòi hỏi chúng ta phải hoàn hảo trước khi nhận lãnh Mình và Máu Con của Người, hiệp lễ chúng ta sẽ ý thức rằng đó không phải là một phần thưởng cho người đã tốt nhưng có nghĩa là để trở nên tốt.
Thiên Chúa thì kiên nhẫn với mỗi người trong chúng ta nơi cuộc sống đầy đấu tranh này, và Người kiên nhẫn với hết mọi người sống trong thế giới này. Chỉ đến ngày Tận thế. Người mới sai các thiên thần nhặt lấy cỏ mà đốt đi và thu lúa mì vào kho lẫm của Người.
34. Thế chỗ Chúa Giêsu trên thập giá.
( ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Truyện kể rằng có thầy ẩn tu nọ tên là Cébastien thường đến cầu nguyện tại một nhà nguyện vắng vẻ trên núi. Trong nhà nguyện này dân chúng tôn kính một tượng thánh giá với tước hiệu là “Tượng Chúa ban ơn”.
Thấy dân chúng có lòng tin thường tới cầu xin ơn lành, thầy Cébastien cũng thêm lòng tin cậy. Một hôm, nhân lúc vắng người, thầy đến quỳ gối trước tượng thánh giá và đơn thành khẩn nguyện:
- “Lạy Chúa, con ước ao được chia sẻ đau khổ với Chúa, xin cho con được thế chỗ Chúa trên thập giá”.
Rồi thầy quỳ yên lặng, mắt đăm đăm nhìn lên thánh giá mong được đáp lời. Một lúc sau thầy nghe như từ trên thánh giá có tiếng phán bảo:
- “Được, Ta bằng lòng để con thế chỗ Tqa trên thập giá, nhưng với một điều kiện duy nhất là bất cứ điều gì xảy ra, tai con nghe gì, mắt con thấy gì, con đều phải giữ im lặng không được nói năng gì hết”.
Thầy Cébastien đã hứa, và được Chúa Giêsu cho lên thế chỗ Ngài trên thập giá. Ngày qua ngày, dân chúng vẫn đến quỳ trước tượng thánh giá cầu nguyện. Nhưng không ai hay biết về việc thế chỗ đổi ngôi giữa Chúa Giêsu và thầy Cébastien.
Một hôm có người đến quỳ cầu nguyện. Xong, ông đứng dậy ra về bỏ quên lại dưới ghế cái túi đầy những đồng tiền vàng. Thấy vậy, thầy vẫn yên lặng. Một lúc sau có người nghèo đói vào nhà nguyện. Ông ta vui mừng trố mắt nhìn túi tiền tưởng là của Chúa ban cho, rồi xách túi tiền ra đi. Kế đó có chàng thanh niên vào quỳ gối khẩn nguyện xin ơn che chở vì phải xuống tàu đi xa. Chàng thanh niên vừa ra khỏi nhà nguyện thì gặp người phú hộ trở lại tìm túi tiền. Không thấy đâu, ông nghĩ là chàng thanh niên đã lấy trộm, nên điệu chàng đến trình cảnh sát. Không cầm lòng được nữa, từ trên thập giá, thầy Cébastien hô lớn tiếng:
- “Đứng lại!”;
Mọi người ngạc nhiên dừng lại, và thầy phân trần sự việc. Sau đó người phú hộ ra đi tìm người nghèo đói để lấy lại túi tiền và chàng thanh niên cũng vội vã ra đi cho kịp chuyến tàu. Khi không còn ai trong nhà nguyện, Chúa Giêsu lên tiếng phán bảo thầy Cébastien:
- Con hãy xuống ngay khỏi thập giá! Con không xứng đáng thế chỗ cho Ta, vì con đã không biết giữ im lặng như lời con hứa.
Thầy Cébastien vội vã phân trần:
- Nhưng lạy Chúa, làm sao con có thể chịu đựng được cảnh bất công đó?
Thưa anh chị em, nhiều khi chúng ta cũng nóng vội không chịu đựng nổi trước hiện tượng người tốt kẻ xấu chung sống lẫn lộn, cỏ dại và lúa tốt mọc chen nhau trong cánh đồng thế giới. Chúng ta đặt câu hỏi: “Chúa có muốn chúng con nhổ cỏ vứt đi không? Chúa có muốn chúng con tiêu diệt hay trục xuất những người gian ác, tội lỗi ra khỏi cộng đoàn không?”. Chúa trả lời: “Cứ để đấy, đợi đến mùa gặt sẽ hay ”. Dụ ngôn cỏ dại trong ruộng lúa đã đánh trúng vào điểm thắc mắc của người Do Thái và các môn đệ Chúa Giêsu: Làm sao trong Nước Trời, Nước của Thiên Chúa lại có thể lẫn lộn lúa tốt với cỏ dại được? Làm sao chính Chúa Giêsu rao giảng Nước Trời đang đến rồi mà chẳng thấy hiện tượng tiên báo là những người gian ác, tội lỗi phải bị tiêu diệt. Ngôn sứ Isaia cũng mơ ước và loan báo một “Dân Chúa chỉ gồm những người công chính” (Is 60,31). Và ngay cả Gioan Tẩy Giả, những ngày chuẩn bị cho Chúa Giêsu xuất hiện cũng rao giảng: “Ngài đang cầm sẵn chiếc nia trong tay, để rê sạch lúa trong sân: lúa tốt Ngài thu vào kho lẫm, còn lúa lép, trấu rác, Ngài sẽ đốt bằng lửa không bao giờ tắt” (Mt 3,12).
Vậy mà Ngài, Đấng Thiên Sai Cứu Thế lại làm trật lất hết trọi; Chả có tiêu diệt người tội lỗi, lại còn lo cứu gỡ họ. Cứu gỡ cả những thứ phụ nữ ngoại tình bị bắt tại trận, cả thứ mà người ta cho là trời phạt nhãn tiền, đến độ mang án tật nguyền từ lòng mẹ: đui mù, què quặt, cùi hủi, mọi người đều ghê tởm xa tránh… Thay vì đáng lẽ chỉ cho phép một ít người có chức vị cao cấp nhất mới được hầu tiệc với mình, thì Ngài lại đi lân la nhậu nhẹt với những người tội lỗi và bất lương. Đối với kẻ thù, đáng lẽ ra phải không đội trời chung và tiêu diệt tận gốc rễ mới phải, mới khôn và mới đúng đạo, đàng này Ngài lại còn đòi phải cầu nguyện cho nó, thậm chí phải yêu thương nó.
Hôm nay, với dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng lúa, Chúa Giêsu đã giải đáp những thắc mắc sâu sắc đó và đã mặc khải tâm tình của Thiên Chúa: ngoại trừ Đấng thấu suốt tâm can con người, không ai được quyền tự phong chức vụ quan toà để xét xử hay xếp hạng anh em ai là lúa tốt, ai là cỏ lùng. Bao lâu còn đang sống, còn đang lựa chọn và hành động, con người vẫn chưa đạt tới mức độ cố định đã hết hẳn tật xấu hay dứt khoát trở thành gian ác. Nóng vội kết án anh em là hành động trái ngược với tấm lòng và chương trình cứu độ của Thiên Chúa: đòi nhổ cỏ lùng giữa mùa lúa đâm bông là đòi dạy không Thiên Chúa và phá hoại cả đồng lúa và mùa gặt của Ngài.
Tiếp theo là hai dụ ngôn hạt cải và men trong bột, hai dụ ngôn song sinh cùng mang một ý nghĩa: Hạt cải trong dụ ngôn này là thứ cải cay, dùng làm gia vị (moutarde): Tương hạt cải vừa thơm vừa nồng, là một gia vị quen thuộc ở nhiều nơi trên thế giới. Trong thực tế, cây cải này chỉ phát triển thật giới hạn, nhưng Chúa Giêsu lại diễn giải như một thứ cây có khả năng phát triển kỳ diệu đến độ trở thành cây lớn cho chim trời về xây tổ, để nói về chiều kích tương lai kỳ diệu của Nước Trời.
Dụ ngôn men trong bột cũng bao hàm một ý nghĩa tương tự. Một chút men, không đáng kể so với số lượng bột trộn chung, đủ cho cả trăm người ăn no. Số lượng men thật khiêm tốn, tác dụng thật thầm lặng, nhưng hiệu quả lại vô cùng kỳ diệu, mãnh liệt.
Cả hai dụ ngôn vẫn là một đường lối, một chủ trương: nhỏ bé ở bước thầm lặng, nhưng tiềm ẩn một mầm sống mãnh liệt, vượt xa mọi ước lượng và chiến thắng mọi sức cản thù địch. Yếu tố quan trọng vẫn là thời gian và tình thương của Thiên Chúa. Thiên Chúa kiên trì chờ đợi đến mùa gặt lúa mới nhổ cỏ lùng. Đó là vì tình thương của Thiên Chúa kiên trì chờ đợi con người tội lỗi trở về. Thời gian Ngài kiên trì chờ đợi là để tích cực tạo điều kiện tối ưu cho cây lúa nuôi hạt, cho hạt cải thành cây, cho mầm sống nhân lên gấp bội, và cho men biến bột thành men, cho bột dậy lên làm nên bánh nuôi con người.
Nói chung, cả ba dụ ngôn hôm nay là một lời mời gọi chúng ta phải biết nhìn về tương lai, biết tin vào tương lai; kiên nhẫn chờ đợi gắn liền với tin tưởng vào tương lai. Căn bệnh rồi sẽ khỏi, chiến tranh có thể chấm dứt. Bất công và kỳ thị sẽ không thể kéo dài vĩnh viễn. Bất công sẽ có thể nhổ đi được, kẻ phạm tội có thể hối cải, người thất vọng sẽ tìm lại được hy vọng.
Nhưng, thưa anh chị em,
Tin vào tương lai cũng là hoạt động cho niềm tin trở thành hiện thực. Nhẫn nại kiên trì không có nghĩa là khoanh tay ngồi im chờ đợi trong thái độ thụ động. Người Kitô hữu tin ở sự thắng thế của cái tốt, tin ở một tương lai tốt đẹp, tin ở công trình cứu chuộc của Thiên Chúa, cũng phải là người hoạt động một cách tích cực trong công cuộc xây dựng một xã hội trong đó cái xấu mất dần khả năng gieo rắc nọc độc của nó. Nước Trời đang trổ bông hạt nơi những nỗ lực của nhân loại không ngừng giành lấy từng tấc đất chống lại cỏ lùng. Và bổn phận của chúng ta là liên đới với mọi người anh em để cùng nhau chen vai thích cánh nỗ lực làm tăng trưởng cây lúa, hạt cải và tấm men của Nước Trời.
35. Sống với cỏ lùng.
Đây là một bài học thực tiễn; chấp nhận sống trong một thế giới mà nơi nào cũng có kẻ tốt người xấu, lúa và cỏ lùng.
Dầu sao thì cũng khó chịu đến nỗi chúng ta hăng hái muốn nhổ cỏ lùng! Chúa Giêsu nói với những người không kiên nhẫn này: tại sao có nhiều kẻ bất lương đến thế? Thiên Chúa chờ đợi gì mà không loại trừ họ? Đúng như Gioan Tẩy giả nghĩ về Đấng Cứu Thế như là một vị đầy quyền năng quét sạch mọi sự ác: “Các ngươi sẽ thấy! Ngài cầm nia trong tay mà sẩy sạch sân lúa của Ngài, Ngài thu vén lúa vào kho còn rơm rạ Ngài ném vào lửa” (Mt 3,12).
Chúa Giêsu phải làm dịu những người không kiên nhẫn. Và chúng ta nữa! Phải, sẽ có sự chọn lọc vào ngày tận thế, và chỉ một mình Thiên Chúa thực hiện sự chọn lọc này.
Có lúc chúng ta làm như mình là Thiên Chúa: “Đây là những người tốt! Còn đây là những người xấu, bỏ vào lửa! Luôn luôn có sự cám dỗ này nơi những người Kitô hữu tốt nhất: cùng nhau tạo nên một đồng lúa tươi đẹp. Đáng tiếc là có nhiều cỏ lùng trên thế giới nhưng ít nhất chúng ta làm sạch đồng lúa của chúng ta, sống giữa những tín hữu đích thực, giữa những người trong sạch và có giáo dục. Chúng ta mơ ước về một Giáo hội gồm những người trong sạch, một giáo xứ trong sạch, một cộng đoàn trong sạch, một gia đình trong sạch. Chúng ta hãy nhổ cỏ lùng!
Ở đây chúng ta đứng trước một khuynh hướng bè phái nguy hiểm: chỉ có những người thiện nguyện và những người được chọn, những người được đào tạo, không có những người xử sự sai lầm, không có những người yếu đuối, không có những người tin nửa vời. Chắc chắn có những nhóm người đồng nhất rất sùng tín, anh hùng. Đây là trường hợp điển hình của bước đầu trong các dòng tu. Nhưng biết bao thế giơí nhỏ được chọn đang rình mò do tính kiêu ngạo cho mình là cây lúa tốt: chúng ta đang ghét cỏ lùng ở trong đó.
Chúa Giêsu nhìn Giáo hội theo một cách hoàn toàn khác. Đó là một dân tộc rộng mở và kiên nhẫn, một dân tộc bao gồm những người tốt và những kẻ gàn dở, một dân tộc của sự khiêm nhu và sự hy vọng.
Khiêm nhu. Bạn là ai mà muốn chọn lọc cỏ lùng! Bạn tin rằng mình là đồng lúa chăng? Có thể lắm chứ, nhưng đó là một cánh đồng pha trộn. Bạn hãy xét con tim và những hành vi của bạn, bạn sẽ chịu đựng tốt trong thế giới và quanh bạn hơn là những người khác cũng là một sự pha trộn thánh.
Hy vọng. Sự pha trộn này là một niềm hy vọng. Không có ai hoàn toàn xấu. May thay, tất cả mọi ngươì đều có thể thăng tiến cho tốt hơn! Khi người ta kiên nhẫn chấp nhận chúng ta cùng với cái xấu của chúng ta, chúng ta có cơ may thăng tiến cho tốt hơn. Và khi chúng ta chấp nhận cỏ lùng nơi người khác, thì chúng ta tiếp xúc với họ và có thể giúp họ trở thành cây lúa. Dụ ngôn về sự nhẫn nại này là một dụ ngôn tuyệt vời về sự tiến bộ.
36. Tội lỗi nào được tha thứ
(R. Veritas)
Có tội ác nào tày trời đến độ không thể tha thứ được không? Tap chí Times đã nêu ra câu hỏi trên đây khi trích dẫn câu trả lời của một vị luật sư người Capuchia.
Cách đây ba năm, một Mục sư đã rửa tội cho một giáo viên ở một vùng sình lầy thuộc tỉnh Battanapan, ở mạn TÂy Campuchia. Mới đây người giáo viên này tiết lộ mình đã từng làm giám đốc cơ quan mật vụ của Khờ-me đỏ. Sau 20 năm lẩn trốn, nay ông thú nhận là ông đã trực tiếp nhúng tay vào vụ thảm sát ít nhất là 12.000 người Khờ-me.
Người Mục sư mà cha mẹ và với gần 2.000.000 đồng bào ruột thịt bị người Khờ-me đỏ sát tế trong giai đoạn từ năm 1975 – 1979, đã nhận định về cuộc trở lại của người giáo viên này như sau:
Thật là kỳ diệu, Kitô giáo có thể thay đổi cuộc sống con người. Nếu Chúa Giêsu đã thay đổi người giáo viên này, thì Người cũng có thể thay đổi tất cả mọi người.
Ông Duo tức người giáo viên này, một hôm đã đến nghe vị Mục sư thuyết giảng, sau đó ông đã xin chịu phép rửa, ông nói rằng, trong suốt thời thơ ấu và ngay cả khi lớn lên ông không bao giờ được yêu thương. Giờ đây tin nhận Chúa Kitô, ông cảm thấy tâm hồn được tràn ngập yêu thương.
Mục sư ghi nhận rằng, cuộc thay đổi nội tâm đã ảnh hưởng đến toàn diện con người của ông. Trước kia ông lầm lỳ ít nói, nay ông vui vẻ và cởi mở với tất cả mọi người. Trước kia quần áo ông xốc xếch, thì nay ông ăn mặc chỉnh tề. Sau khi đón nhận phép rửa và tiết lộ tông tích của mình, ông Duo đã bị chính quyền Campuchia bắt giữ hồi tháng 5.1998, hiện nay ông đang bị giam tại một nhà từ gần trung tâm Tollen, tức là nơi trước đây ông đã từng tham vấn, hành hạ và sát hại hàng trăm ngàn người đồng bào ruột thịt của mình.
Nhận định về tay đồ tể khát máu Khờ-me, người luật sư Lobin đã nói như sau: một câu chuyện mang lại niềm hy vọng cho nhân dân Campuchia, họ đã trải qua quá nhiều năm trong tăm tối. Khi đón nhận Chúa Giêsu, họ đã được mang lại ánh sáng trong cuộc sống của họ. Thật vậy, đã đến lúc người Campuchia cần phải từ bỏ thù hận để sống yêu thương.
Anh chị em thân mến,
Chứng từ sống động trên đây đưa chúng ta vào cốt lõi của đạo chúng ta là yêu thương và tha thứ mà hôm nay qua bài dụ ngôn cỏ lùng Giáo Hội muốn nhắc lại cho chúng ta. Dụ ngôn là một câu trả lời của Chúa Giêsu và thắc mắc mà các môn đệ thường nêu lên, là tại sao Thiên Chúa không trừng phạt nhãn tiền những kẻ làm điều gian ác?
Với hình ảnh của ruộng lúa tốt và cỏ lùng, Chúa Giêsu mạc khải lòng nhân từ và sự tha thứ vô biên của Thiên Chúa, đối với Thiên Chúa không có tội ác nào, dù cho có tày trời đến đâu mà không thể tha thứ được. Như một người cha ngày ngày ra đứng trước cửa trông ngóng người con hoang đàng trở về, thì Thiên Chúa cũng có một thái độ chờ đợi kiên nhẫn như thế đối với tất cả mọi tội nhân, dù cho con người có đốn mạt xấu xa đến đâu thì Chúa vẫn luôn dành cho một cơ may mới để trở về với Ngài. Nơi tâm hồn con người dù có tăm tối đến đâu, Thiên Chúa vẫn nhận ra được ánh sáng mà chính ngài đã đặt để trong trái tim con người. Chính vì tin tưởng nơi khảnăng có thể cải thiện của con người mà Thiên Chúa không ngừng tha thứ cho con người và kiên nhẫn chờ đợi con người trở về.
“Thức khuya mới thấy đêm dài, sống lâu mới thấy dạ người có nhân”. Dụ ngôn về cỏ lùng được Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, mời gọi các Kitô hữu mặc lấy tâm tình khoan dung nhân hậu và cảm thông của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu không khoan nhượng, không dung tha cho bất cứ tội ác nào, Ngài gay gắt lên án thói giả hình và thái độ mù quáng của con người, nhưng Ngài lại tỏ ra cảm thông và tha thứ cho những người yếu đuối tội lỗi, Ngài không những cảm thông với những người tội lỗi, mà còn tha thứ cho chính những kẻ hành hạ Ngài.
Tòa nhà giáo huấn của Chúa Giêsu sẽ sụp đổ nếu từ trên thập giá Ngài không tha thứ cho những lý hình của Ngài. Cuộc sống của Ngài cũng sẽ vô giá trị nếu khi bị treo trên thập giá Chúa Giêsu vẫn còn mang theo hận thù trong lòng Ngài.
Tha thứ là vẻ đẹp cao quý nhất trong tâm hồn con người. Nhân cách của con người sẽ bị đánh mất nếu nó không thể làm được hành động tha thứ. Người tín hữu Kitô chúng ta cũng sẽ mất căn tính của mình nếu chúng ta chỉ sống theo đố kỵ, hận thù. Tha thứ là vẻ đẹp cao quý nhất trong tâm hồn con người, do đó cũng chính là điều khó thực hiện nhất, vì thế mà chúng ta không ngừng cầu xin Chúa cho chúng ta luôn được sống ơn tha thứ, đó là điều chúng ta cầu xin trong Thánh Lễ mỗi ngày.
Kinh Lạy Cha nhắc nhớ chúng ta rằng, chúng ta chỉ có thể cảm nhận được ơn tha thứ của Chúa nếu chúng ta cũng tha thứ cho người anh em chúng ta mà thôi.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn được lớn lên trong niềm xác tín ấy. Amen.
37. Cỏ dại.
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta cùng nhau giữ lại một ý tưởng chính của Chúa Giêsu. Thực vậy, Ngài nói về ơn cứu độ vĩnh cửu. Đứng trước ơn trọng đại ấy, chúng ta phải có một lập trường dứt khoát và phải có một chọn lựa rõ rệt: Đi với Chúa hay đi với ma quỷ, chúng ta không thể nào đi nước đôi, bắt cá hai tay, lửng lơ và trung lập.
Tuy nhiên, trong khi chờ đợi được đón nhận vào hạnh phúc nước trời, chúng ta phải sống với người khác, chia sẻ những băn khoăn lo lắng với họ. Và ngay cả đối với những kẻ đã chạy theo ma quỷ, chúng ta vẫn phải tỏ ra một thái độ nhân từ và khoan dung.
Đây không phải là một điều dễ dàng thực hiện, vì chúng ta thường hay nóng giận và tức tối. Chúng ta cũng giống như hai tông đồ Giacôbê và Gioan, được Chúa sai đi vào một làng xứ Samaria, nhưng dân làng này đã không tiếp nhận các ông.
Trước thái độ thờ ơ và lạnh nhạt ấy, các ông đã bực bội và thưa lên cùng Chúa:
- Xin cho lửa trời đổ xuống và thiêu huỷ họ.
Nhưng Chúa Giêsu đã không chiều theo sự bốc đồng của các ông và Ngài đã trách cứ:
- Các con không biết động cơ nào đã thúc đẩy các con hay sao? Con Người đến không phải huỷ diệt mà để cứu thoát.
Chúng ta cũng vậy, đừng phê bình chỉ trích và gay gắt kết án những người anh em không cùng một đường lối với chúng ta.
Khi nhìn thấy sự dữ và tội ác tràn lan khắp nơi, chúng ta thường hay nghĩ rằng:
- Chúa ngủ hay Ngài nhắm mắt làm ngơ cho những sự kiện đáng tiếc ấy xảy ra.
Trên thế giới, những hạt giống tốt thì hiếm hoi, và cỏ dại thì mọc đầy trong cánh đồng của Chúa. Tại sao Chúa lại để cho như thế?
Còn phần chúng ta, chúng ta là hạng người như thế nào: lúa tốt hay cỏ dại.
Nếu là lúa tốt thì liệu chúng ta có thực sự trong sạch và yêu thương hay không. Chúng ta có thực sự là bạn hữu nghĩa thiết của Chúa hay không? Chúng ta có những sai lỗi và yếu đuối nào không? Liệu có thể chắc chắn được rằng chúng ta sẽ không sa ngã hay không?
Nếu chúng ta tỏ ra nghiêm khắc với kẻ tội lỗi, chúng ta sẽ trở nên những người biệt phái đã bị Chúa Giêsu kết án về sự giả hình của họ. Nếu không ý thức về những sai lỗi của mình, chúng ta dễ dàng đi tới chỗ phản bội Chúa mà không hay biết. Càng là những người con ngoan của Chúa, chúng ta càng phải cư xử độ lượng với người khác.
Tuy nhiên, trong thực tế, đang khi chúng ta mong muốn kẻ tội lỗi bị trừng trị thì Chúa lại không muốn như vậy, bởi vì như Kinh Thánh đã nói:
- Ta không muốn cho kẻ có tội phải chết, nhưng muốn nó ăn năn và được sống.
Ngài đã chết trên thập giá để cứu độ tội nhân. Ngài theo đuổi kẻ tội lỗi bằng tình thương và ân sủng. Niềm vui của Ngài là dẫn đưa những con chiên lầm lạc trở về với đàn của Ngài.
Hẳn chúng ta sẽ ngạc nhiên khi nghe Ngài phán:
- Cả thiên đàng sẽ vui mừng vì một kẻ tội lỗi hoán cải hơn là chín mươi chí người công chính không cần sám hối ăn năn.
Và Ngài đã kết luận bằng một hình ảnh cảm động, hình ảnh người cha đón tiếp cậu con hoang đàng trở về. Chúng ta đừng thất vọng và mất lòng cậy trông như Giuđa. Nhưng với một chút thiện chí và dưới tác động của ơn Chúa, rất có thể chúng ta cũng sẽ trở thành như người trộm lành trên thập giá, đã lấy trộm cả Nước Trời cho mình vào giây phút sau hết của cuộc đời.
Trên thiên đàng có những vị thánh đã bắt đầu từ một điểm tăm tối, không đáng ca tụng là mấy. Tuy nhiên với một điều kiện đó là các ngài đã biết trỗi dậy và trở về cùng Chúa, đã làm lại cuộc đời và trung thành với Chúa mãi mãi.
38. Lúa và cỏ.
Ở Scotland, nghề canh nông đã được hiện đại hoá với kỹ thuật máy móc tối tân, nhưng còn một công việc cần phải được làm cẩn thận bởi bàn tay con người. Vài ngày trước khi mùa thu hoạch lúa mạch, bạn sẽ thấy một số đông dân chúng đi bộ băng qua cánh đồng lúa để nhổ những cây lúa dại. Lúa mạch là nguồn nông sản chính yếu cung cấp lương thực cho người dân Scotland. Một món ăn thông dụng được ưa thích khắp nơi trong nước làm từ lúa mạch là món cháo đặc, ở Mỹ gọi là oat meal, một món ăn điểm tâm vừa dễ nấu, vừa bổ dưỡng lành mạnh, không gây gia tăng chất béo, cholesterol, trong động mạch. Do đó mùa gặt lúa mạch là một sinh hoạt rất quan trọng.
Điều rất đơn giản mà những người nông dân phải làm là nhổ những cây lúa mạch dại ra khỏi ruộng lúa trước khi thu hoạch. Nếu để những cây lúa dại này trong lúc gặt, những hạt giống của nó sẽ rớt xuống và mọc lên tràn ngập cánh đồng trong mùa sắp tới. Sự khác biệt giữa lúa dại và lúa mạch thật rất tinh tế. Chỉ sau một hai ngày làm việc, bạn sẽ biết phân biệt rõ ràng. Điều lạ lùng là cây lúa dại thường lớn hơn và khoẻ mạnh hơn lúa thật làm bạn nghĩ rằng phải giữ chúng lại. Tuy nhiên, nếu quan sát kỹ lưỡng sẽ thấy rằng nhánh và hạt lúa dại dài hơn, nhưng lại lép. Điều này giúp ta hiểu tại sao những người nông dân phải chờ đợi cho đến khi mùa thu hoạch đến mới nhổ những cây lúa dại đi, vì chỉ khi đó bạn mới phân biệt được rõ ràng.
Bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu đã dùng những hình ảnh của nghề nông để diễn tả về thế giới, Giáo Hội, Nước Trời hay Vương quốc Thiên Chúa, qua dụ ngôn cỏ lùng, dụ ngôn hạt cải, và dụ ngôn men trong bột. Mỗi dụ ngôn nói lên một khía cạnh khác nhau, đọc lên ai cũng hiểu dễ dàng.
Những người phụ trách các show hài hước kể chuyện vui thường có thói quen bắt đầu vào câu chuyện như sau: “Kính thưa quý vị, tôi có vài tin vui và vài tin buồn xin gửi đến quý vị”. Có một cuộc đối thoại tưởng tượng xảy ra như sau: “Một ông kia gặp người bạn và nói: “Tôi đã trúng số mấy chục ngàn đô la”. Người bạn trả lời: “Tốt quá”. “Không, khi đến Thuỵ Sĩ chơi trượt tuyết tôi đã xài hết rồi, và còn bị gãy chân nữa chứ”. “Xấu quá”. “Không, trong thời gian nằm bệnh viện, tôi gặp và yêu một cô y tá rất xinh đẹp, rồi tôi đã cưới cô ta”. “Tốt quá”. “Không, nhưng chẳng may cô ấy lại không thích ở Mỹ, và đòi chúng tôi phải ở lại Âu Châu”. “Xấu quá”. “Không, chúng tôi mua nhà ở Paris và kiếm được một việc làm cho hãng xuất khẩu”. “Tốt quá”. “Không, hãng bị phá sản, và chúng tôi bị mất nhà”. “Xấu quá”. “Không, trong hoàn cảnh túng quẫn, tôi đã xem lại mục đích, giá trị của đời mình và thấy rằng tôi đang sống lầm lạc”. “Tốt quá”. “Không, vợ tôi đã không chấp nhận quan điểm của tôi, và chúng tôi dần dần xa cách nhau”. “Xấu quá”. “Không, trong lúc hôn nhân bị khủng hoảng, chúng tôi đến với người cố vấn hôn nhân giúp chúng tôi nhận ra sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa”. “Tốt quá”. “Không, vì chúng tôi quá tập trung vào Thiên Chúa nên đã mất hầu hết bạn bè ở Paris và gây ra đụng chạm với cha mẹ vợ”. “Xấu quá”. Cứ thế mà tiếp tục. Lúc tốt, lúc xấu. Đời là thế! Tốt và xấu đi đôi với nhau: “Vì Người làm cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính”.
Chúng ta thường nói “Nhân vô thập toàn”. Không có ai hoàn hảo cả. Không có ai là một vị thánh cho đến khi lên thiên đàng. Mỗi người chúng ta đều mang đủ thất tình: hỉ (vui), nộ (giận), ai (buồn), cụ (sợ), ái (yêu), ố (ghét), dục (muốn). Với bấy nhiêu thứ tình cảm xô bồ trong con người thì khó lòng mà hoàn hảo được. Tâm hồn và tính tình của mỗi người là một sự pha trộn giữa lúa mì và cỏ lùng. Theo cha Tommy Lane, trên cửa một nhà thờ ở phía tây của Ireland, đã viết câu sau đây: “Giáo Hội không phải là một câu lạc bộ dành cho những vị thánh nhưng còn là một bệnh viện dành cho những người tội lỗi”. Câu nói này rất phù hợp với lời giảng dạy của Chúa Giêsu trong dụ ngôn cỏ lùng. Giáo Hội là một sự pha trộn giữa lúa mạch và cỏ lùng, giữa những người thánh thiện và tội lỗi. Hãy kiên nhẫn với những tội nhân. Đừng vội phán đoán người khác. Hãy để Thiên Chúa phán đoán. Lời Chúa cảnh giác chúng ta: “Đừng xét đoán, để khỏi bị xét đoán... Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi anh sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em”.
39. Lúa và cỏ.
Có một câu chuyện cổ kể về một ông vua ở Ba Tư muốn dạy cho bốn người con trai một bài học về sự phán đoán. Bốn người con phải lên đường đi tìm một cây đào trong những thời điểm khác nhau. Trước tiên, vào mùa đông nhà vua ra lệnh cho người con trai lớn nhất phải lên đường. Vào mùa xuân, người con kế tiếp phải ra đi. Đến mùa hè, người con thứ ba ra đi. Cuối cùng, khi mùa thu về người con út phải ra đi. Sau đó nhà vua đã gọi tất cả bốn anh em lại để hỏi xem họ diễn tả cây đào như thế nào.
Người con cả nói cây đào giống như một gốc cây khẳng khiu trơ trụi. Người con thứ cãi lại, cây đào nở đầy hoa mầu hồng rực rỡ. Người con thứ ba không đồng ý, cây đào cành lá xanh tươi. Người con thứ tư nói tất cả các anh đều sai. Đối với anh, nó đeo đầy trái trên cành!
“Này các con”, nhà vua nói, “mỗi người đều đúng cả”. Trong khi nhìn vào những cặp mắt lúng túng của các con, nhà vua giải thích. “Các con thấy đó, mỗi người đã nhìn thấy cây đào trong mỗi mùa khác nhau, do đó tất cả các con đã diễn tả rất đúng điều đã nhìn thấy. Bài học cho các con là phải từ bỏ sự phán đoán của mình cho tới khi các con nhìn thấy cây đào trong bốn mùa của nó”.
Đây chính là bài học Chúa Giêsu đã dạy chúng ta qua dụ ngôn cỏ lùng: “Hãy cứ để cả hai, lúa và cỏ lùng, mọc lên cho đến mùa gặt”. Đến mùa gặt là ngày tận thế, sẽ biết được ai xấu ai tốt, và Thiên Chúa sẽ phán đoán và xét xử họ.
Chúa Giêsu đã so sánh những người Kitô hữu chân chính của Nước Trời giống như hạt cải bé nhỏ, như men trong bột. Khi so sánh như thế Chúa muốn chúng ta là những con người năng động, tích cực vì Nước Trời. Hãy nhìn vào lịch sử của Kitô giáo, lúc ban đầu chỉ là một nhóm nhỏ Kitô hữu ở Giêrusalem, đến nay đã ảnh hưởng trên toàn thế giới. Hãy nhớ rằng 1 ounce men, khoảng 28.35 grams, có thể làm 17 pound bột, khoảng 7.718kg, dậy men.
Trong phần chú giải về dụ ngôn men trong bột, William Barclay đã nói lên cái thành quả của men Kitô giáo trong việc biến đổi thế giới trần gian này như sau:
1. Kitô giáo đã biến đổi đời sống các cá nhân. Trong I Cor 6, 9-10 thánh Phaolô đã liệt kê ra một danh sách những điều ghê tởm của con người tội lỗi, rồi ngài nói: “Trước kia, có vài người trong anh em đã là như thế. Nhưng anh em đã được tẩy rửa, được thánh hoá, được nên công chính...” Sự biến đổi của Kitô giáo bắt đầu từ đời sống cá nhân, vì qua Chúa Kitô, nạn nhân của cám dỗ có thể trở thành người chiến thắng.
2. Kitô giáo đã biến đổi đời sống của phụ nữ. Lời cầu nguyện của một người đàn ông Do Thái vào ban sáng là tạ ơn Thiên Chúa vì đã không tạo dựng nên ông là một người ngoại đạo, một nô lệ hay một người phụ nữ! Trong văn hóa Hy Lạp, người phụ nữ phải sống ẩn dật, làm việc nội trợ... Trong những vùng đất ở phương đông, nhất là một gia đình du mục: người cha được ngồi trên lưng lừa; người mẹ phải đi bộ, và có thể còn phải mang vác một gánh nặng. Lịch sử chứng tỏ rằng Kitô giáo đã biến đổi thân phận và đời sống của phụ nữ.
3. Kitô giáo đã biến đổi đời sống của người yếu đuối và bệnh nhân. Trong cuộc sống chưa văn minh, họ bị coi là một mối phiền muộn. Ở Sparta, một trẻ thơ khi vừa sinh ra, phải nộp để khám xét; nếu khoẻ mạnh, nó được phép sống; nếu yếu đuối hay dị dạng, sẽ bị phơi nắng cho đến chết ở bên sườn núi... Kitô giáo là đức tin đầu tiên chú ý vào những sự đau khổ của cuộc sống.
4. Kitô giáo đã biến đổi đời sống cho người già. Giống như người yếu, người già là một sự quấy rầy... Người già, sau thời gian làm việc đã hoàn tất, không còn thích hợp với bất cứ điều gì hơn là bị loại trừ ra trên đống rác của cuộc sống. Kitô giáo là đức tin đầu tiên coi con người như là những ngôi vị chứ không phải là những dụng cụ có khả năng làm việc càng nhiều càng tốt.
5. Kitô giáo biến đổi đời sống cho trẻ thơ. Trong thời Chúa Giêsu những vụ ly dị xảy ra lan tràn. Con cái là mối phiền muộn; và theo thói quen thường xảy ra là cứ để mặc cho trẻ em chết một cách bi thảm. Trong thời xa xưa trẻ em có nhiều dịp để chết trước khi bắt đầu sống. Chỉ một nhóm nhỏ những người Kitô giáo đã làm thay đổi tất cả vấn đề này.
Ảnh hưởng của Kitô giáo được chứng minh bằng sức mạnh mang tính chất giống như men trong bột của một số nhỏ những người theo Chúa Kitô. Điều này giúp ta hiểu tại sao sách Công vụ Tông đồ đã ghi rằng khi Kitô giáo đến Thessalonica, những người Do Thái phải kêu la lên: “Những người đã làm điên đảo thế giới nay đã có mặt ở đây”.
Bất cứ ai hỏi rằng “Kitô giáo đã làm gì cho thế giới”? Cũng phải nhìn nhận một sức mạnh biến đổi nơi các Kitô hữu trong mọi thời đại. Lịch sử đã chứng minh điều này. Chúng ta có quyền lạc quan, tin tưởng, và hy vọng vào tương lai. Lời Chúa nói trong các dụ ngôn cỏ lùng. Dụ ngôn hạt cải và dụ ngôn men trong bột không bao giờ sai. Và câu hỏi được đặt ra cho chúng ta là liệu chúng ta có dám tiếp tục đứng chung với những người Kitô hữu sơ khởi đấu tranh cho sự sống của con người, nhất là bênh vực cho các trẻ em chưa sinh ra, còn trong bụng mẹ không?
40. Cỏ và lúa.
Bài Tin Mừng thuật lại ba dụ ngôn của Chúa Giêsu: cỏ lùng, hạt cải và men. Nghe Chúa nói ba dụ ngôn, nhưng các môn đệ lại chỉ xin Chúa giải thích một dụ ngôn cỏ lùng, và Chúa đã giải thích: người đi gieo giống tốt là Thiên Chúa, hạt giống là người ta, là con người, là con cái Chúa, thửa ruộng là thế gian, là nơi sinh sống, làm việc, phục vụ, cỏ lùng là người xấu, người dữ, mùa gặt là ngày chết hay ngày tận thế, thợ gặt là các thiên thần, lúa tốt thì được thu vào kho lẫm, tức là những người tốt lành, công chính, thánh thiện, thì được thưởng, còn cỏ lùng là những người xấu, người dữ thì bị tống vào hoả ngục.
Nghe hay đọc dụ ngôn này cùng với sự giải thích của Chúa, chúng ta thấy dễ hiểu và hợp tình hợp lý. Thế gian này có người tốt người xấu, người lành người dữ sống bên nhau, sống cùng nhau là chuyện bình thường. Chẳng có nơi nào toàn là những người tốt và cũng chẳng có nơi nào toàn là những người xấu. Nhưng có một điều khác biệt: cỏ lùng, vì bản chất của nó là cỏ dại, cỏ xấu, cho nên vạn đại nó cũng không thể nào biến thành lúa tốt được. Cũng thế, cây lúa thì lúc nào nó cũng là cây lúa, chỉ có điều là nó cho nhiều hay ít hạt lúa, chứ không bao giờ biến thành cỏ lùng được.
Đối với con người thì không như vậy: bản tính con người được Chúa tạo dựng là tốt lành: “Nhân chi sơ tính bản thiện”: khi sinh ra, con người vốn tốt lành, nhưng với thời gian lớn khôn, con người vẫn tốt hay trở thành xấu, nghĩa là con người tốt hay xấu là do thêm vào hay mất đi. Có người trước kia là lúa tốt, bây giờ là cỏ lùng, ngược lại, có người trước kia là cỏ lùng, bây giờ là lúa tốt. Dĩ nhiên cũng có những người luôn luôn là lúa tốt và những người lúc nào cũng là cỏ lùng, hoặc có những người khi thì là lúa tốt khi thì là cỏ lùng hoặc ngược lại. Điều quan trọng là tới khi chết, người ta đang ở trong tình trạng nào: cỏ lùng hay lúa tốt? Đó là trách nhiệm của mỗi người.
Chính vì yếu tố trách nhiệm này, vì khả năng biến đổi tốt thành xấu và xấu thành tốt nên chúng ta phải cố gắng làm giảm bớt đến mức tối đa, tức là mức thấp nhất những gì là xấu xa, tội lỗi, tức là cỏ lùng, và gia tăng đến mức tối đa, tức là mức cao nhất, nhiều nhất những gì là tốt lành, thánh thiện, tức là lúa tốt. Hơn nữa, trong đời sống hằng ngày, ngoài việc cố gắng bớt cỏ lùng, thêm lúa tốt, tức là bớt tư tưởng, lời nói, việc làm xấu và gia tăng những việc phúc đức, mỗi người còn phải cố gắng làm sao để được nhắm mắt xuôi tay, kết thúc cuộc đời trong tình trạng đang kể là lúa tốt.
Ở đời này, thường chúng ta ít thấy công lý thắng gian tà, nhưng ở đời sau, thì tất cả mọi nợ nần đều phải trang trải, mọi bất công sẽ được san phẳng: lúa tốt, tức là người tốt, sẽ được nâng niu thu góp vào kho lẫm, tức là được thưởng công xứng đáng. Còn cỏ lùng, tức là người xấu, sẽ bị ném vào lửa để thiêu huỷ. Câu chuyện cỏ lùng giữa lúa tốt quả quyết với chúng ta về sự báo oán công minh ở đời sau: người tốt sẽ được thưởng, người xấu sẽ bị phạt muôn đời. Như vậy, tốt hay xấu, được thưởng hay bị phạt là do chính mỗi người chúng ta. Vì thế khi kết thúc dụ ngôn Chúa nói: “Ai có tai thì nghe:, nghĩa là Chúa muốn nhắc chúng ta rằng: chúng ta là đầu óc, có trí khôn, chúng ta biết phân biệt phải quấy, chân giả, đúng sai, tốt xấu thì đừng có sống đóng kịch hay sống bất chính, chúng ta phải biết sống đúng là con Chúa, chúng ta phải sử dụng đầu óc, trí khôn để sống theo luật Chúa. Chúng ta sống làm sao Chúa sẽ căn cứ vào đó để thưởng hay phạt chúng ta.
Tóm lại, trong cánh đồng mầu mỡ là con người yếu đuối của chúng ta, lúa tốt và cỏ lùng, tức là nhân đức và tội lỗi, đức tính và tật xấu... luôn luôn chèn ép nhau, giành giật nhau. Vì thế, chúng ta phải luôn tỉnh thức và chiến đấu để loại trừ cỏ lùng, tội lỗi và tật xấu, đồng thời bảo vệ lúa tốt, nhân đức và công phúc của chúng ta. Có như thế đến mùa gặt, tức là khi chúng ta nhắm mắt xuôi tay, chúng ta sẽ được Chúa nhân từ âu yếm nói với chúng ta: “Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, hãy vào hưởng sự vui mừng với Chúa ngươi”. Xin Chúa cho chúng ta biết sống theo lời Chúa để chúng ta đều được nghe những lời đầy thân thương trên đây của Chúa.
41. Cuộc biến đổi thái độ.
Trong những ngày đầu của thời đại kỹ thuật, một khẩu hiệu nổi tiếng cam đoan với chúng ta rằng: "Mọi ngày và trong mọi cách thức, tình hình sẽ một tốt và một tốt hơn." Thực tế là sự tiến triển của kỹ thuật không hẳn luôn luôn đưa chúng ta đến một thế giới tốt hơn. Chúng ta biết rằng sự tiến triển này không chắc chắn xảy ra. Kinh Thánh nói cho chúng ta biết rằng lịch sử chính là cuộc tranh chấp mà trong đó "các quản thần và quyền thần" của thời đại hiện tại thường cảm thấy như nhập lại chiến thắng trên các nhân đức tin, cậy và mến. Lời công bố của Chúa Giêsu về Nước Thiên Chúa đang gần đến không phải là lời mời gọi để lướt với làn sóng của sự tiến triển không thể tránh được. Nhưng, nó chính là lời kêu mời gia nhập vào cuộc chiến tranh, biết rằng bất chấp sự mẫu thuẫn và thất bại, lời hứa của Thiên Chúa về lòng thoả mãn tột bực của chúng ta sẽ không làm tròn. Cho đến khi Nước đến trong sự hoàn tất mỹ mãn của nó, con đường Kitô giáo vẫn là con đường của Thập Giá.
Có yếu tố của sự sợ hãi trong những thời kỳ biến đổi này và với một lý do chính đáng. Biến đổi có thể trở nên "xấu hơn" cũng như trở nên "tốt hơn." Thế nhưng con người mà đã gặp Chúa Giêsu đều học biết phân biệt những gì là mới và những gì đang hứa cho từ những gì là mới cũng như những gì đang đe doạ. Họ đang được nếm trước về Nước Thiên Chúa đang đến -- một "Thiên Đàng và Trần Gian Mới" và họ tín nhiệm hoàn toàn vào Chúa Giêsu là Đấng làm mọi sự trở nên mới. Do đó, họ không còn nhìn Kitô giáo như là một siêu thị nơi mà họ có thể chọn và lựa những gì họ ưa thích. Họ không nhặt lấy ý tưởng này tại đây, hay yếu tố kia chỗ nọ; kinh nghiệm tinh thần nhỏ bé tốt lành tại bàn này, hay nguyên tắc luân lý tại chỗ khác; và sau cùng, tiêu chuẩn của sự bình an tâm hồn tại nơi tính tiền. Không, loại đường lối này chính là những gì Chúa Giêsu đã cảnh cáo cho chúng ta. Loại đường lối chính là giống như "đổ rượu mới và bình cũ," Chúa Giêsu nói. Cuộc gặp gỡ Chúa Giêsu làm mọi sự trở nên mới mẻ, Thánh Tông Đồ Phaolô nói cho chúng ta biết: "Do đó, nếu ai ở trong Đức Kitô, người đó trở nên một tạo vật mới; thật vậy, sự cũ đã qua đi và sự mới đã đang đến!"
Khi một người quyết định theo Chúa Giêsu, khi một người quyết định tìm kiếm Nước Tình Yêu trước, người đó trải qua một cuộc đổi mới về phẩm chất. Nó không phải chỉ là cộng thêm một sự gì vào. Có sự mới về phẩm chất đã xảy ra. Khi các bạn chấp nhận ân sủng của Đức Kitô về cuộc sống mới, thì mỗi giây phút các bạn sống không còn chỉ lại là phần nối thêm của giây phút quá khứ nữa, nhưng một tạo vật mới; mỗi nhịp thở các bạn hít thở không còn chỉ là những chức năng của thân thể mà chính là hành vi đón nhận ân sủng của cuộc sống mới. Và tất cả những sự kiện này chính là kết quả của cuộc thay đổi về phẩm chất, cuộc thay đổi thái độ.
Quan điểm ngược lại thuộc về những kẻ chỉ thấy biến đổi như là một nối kết kéo dài không thể tránh được của quá khứ mà thôi. Tác phẩm Macbeth của Shakespeare đã than vãn: "...Cuộc sống như hình bóng biết đi, và không biết nghe; nó chính là chuyện tào lao được kể bởi một kẻ ngu dại, chỉ là những âm thanh nhưng không biểu tượng gì cả."
Đây chính là âm thanh của quan điểm thế giới về thuyết nhạo báng và thất vọng. Đây chính là quan điểm của những người khiếp sợ và cưỡng lại tương lai đến độ buộc cho sự dữ mà được biết trên sự thay đổi rằng không biết được. Người ta nói rằng có nhiều người quá khiếp sợ đến sự thay đổi mà nếu họ được hiện diện tại lúc tạo đựng, thì họ sẽ cố biểu quyết cho sự hỗn độn hư vô.
Trong bài học Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói rằng "Nước Trời thì giống như hạt cải người kia lấy gieo trong ruộng mình; nó là hạt giống bé nhỏ nhất, song khi mọc lên thì lớn hơn các thứ rau và thành một cây, chim trời có thể tới đậu trên cành" (Mt 13:31). Hạt cải nhỏ bé không phải là mọc lên thành hạt cải khổng lồ. Nó trở nên một vật mới. Một cuộc thay đổi về phẩm chất đã xảy ra.
Tại đây và lúc này, trong cuộc kinh nghiệm tôn thờ này, giống như chúng ta tưởng nhớ lại trong quá khứ chúng ta thật sự đang nhắm đến tương lai: Nước Đang Đến. Tại đây và lúc này, trong cùng một nghĩa, chúng ta là những người đi trước thời gian. Tại đây và lúc này chúng ta đang mong đợi ngày mà khi, tất cả mọi vật đã đang được làm trở nên mới, "mọi đầu gối sẽ phải bái quỳ và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng rằng Đức Giêsu Kitô là Chúa." Tại đây và lúc này chúng ta đang chuẩn bị cho thời kỳ mà toàn thể thế giới sẽ tụ họp lại trong một cộng đồng thân mến -- Nước Tình Yêu.
"Tất cả mọi vật đều mới mẻ trong Đức Kitô" không phải chỉ là viễn cảnh dại dột thay thế cho viễn cảnh dại dột của hiện tại. Nó không phải là cuộc cộng thêm dại dột vào sự tiến triển của kỹ thuật. Nó chính là niềm hy vọng được thực hiện. Nó chính là sự công bình được thoả mãn. Nó chính là chân lý được toàn thắng. Nó chính là tình yêu được mãn nguyện. Nước Trời đã gần đến. Qua thái độ cởi mở cho triển vọng bất tận của thiên tài tạo dựng của Thiên Chúa, "tất cả mọi sự trở nên mới trong Đức Kitô" có thể là của các bạn. Hãy học biết mong đợi sự bất ngờ từ Thiên Chúa, và mọi sự trở nên Mới trong Đức Kitô sẽ là của các bạn.
42. Một nửa ánh sáng – một nửa bóng tối.
Thiện Ác cùng hiện diện trong mỗi con người, mỗi cộng đồng cũng như trong thế giới:
Trong các tài liệu của Giáo Hội chúng ta thường thấy tựa đề này: "Ánh sáng và bóng tối trong... ví dụ: trong thế giới loài người hôm nay, trong gia đình hiện nay, trong giới trẻ hiện nay". Đó chính là vấn đề mà dụ ngôn cỏ lùng trong Tin Mừng theo thánh Matthêu muốn nêu lên.
Trong cuộc sống, chúng ta luôn chứng kiến một thực tại là Thiện và Ác luôn có mặt cùng lúc, cùng nơi, bên cạnh nhau và tranh giành nhau. Thực tại ấy xẩy ra nơi mỗi tâm hồn, mỗi cộng đồng, mỗi xã hội. Mỗi người mỗi cộng đồng và thế giới luôn bị giằng co, lôi kéo bởi hai lực, hai khuynh hướng, hai trào lưu nội tâm trái nghịch nhau, một kéo về hướng tốt, một kéo về phía xấu. Thánh Phaolô đã diễn tả thực tại ấy như thế này: "Những điều (tốt) tôi muốn làm thì tôi không làm, trong khi những điều (xấu) tôi không muốn làm thì tôi lại làm".
Một nhạc sĩ trẻ đã sáng tác một bài hát rất hay mang tựa đề "Một nửa ánh sáng, một nửa bóng tối trong tôi" để diễn tả thực tại ấy. Nội dung bài hát đại khái như vầy: Trong tôi, trong mỗi người chúng ta có một nửa là ánh sáng (tức là phần tốt lành, vị tha, thánh thiện) và một nửa là bóng tối (tức là phần xấu xa, vị kỷ, tội lỗi). Làm sao để nửa phần ánh sáng bừng cháy lên, đánh tan hoặc che phủ hoàn toàn nửa phần bóng tối kia đi.
Kinh nghiệm cho chúng ta thấy: chẳng có ai hoàn toàn tốt lành, vị tha, thánh thiện; mà cũng chẳng có ai hoàn toàn xấu xa, vị kỷ, tội lỗi. Vấn đề là làm sao đề phần tốt lành, vị tha, thánh thiện hiện rõ và thắng thế. Trong mỗi cộng đoàn đức tin cũng thế. Trong trong thế giới loài người cũng thế. Ngày nay có biết bao người dám xả thân vì tha nhân, vì công lý và hoà bình thì cũng có không ít người chỉ biết huỷ diệt, tìm mọi cách để huỷ diệt. Giữa ánh sáng và bóng tối luôn luôn có sự đấu tranh giành giật loại trừ nhau một cách quyết liệt. Ánh sáng càng lan toả thì bóng tối càng bị thu hẹp và ngược lại. Chính vì thế mà Đức Thánh Cha Gio-an Phaolô II luôn kêu gọi mọi người thành tâm thiện chí và nhất là các Kitô hữu hãy tích cực xây dựng một nền văn minh sự sống, chiến đấu chống lại nền văn minh sự chết đang hoành hành trong các quốc gia.
Thiện xuất phát từ Thiên Chúa, Ác là do ma quỷ:
Đứng trước sự kiện hiển nhiên "một nửa ánh sáng, một nửa bóng tối" ấy, con người không ngừng thắc mắc như các đầy tớ của dụ ngôn cỏ lùng trong Phúc Âm: "Thưa ông, không phải ông đã gieo giống tốt trong ruộng ông sao? Thế thì cỏ lùng ở đâu mà ra vậy?"
Đối với những người tin rằng thế giới này do nhiều thần linh cai trị thì những điều tốt lành là do các thần tốt lành mà ra; còn các điều xấu, điều ác thì tất nhiên phải xuất phát từ những ác thần. Còn đối với chúng ta là những kẻ tin rằng Thiên Chúa là Chủ duy nhất của vũ trụ vạn vật và là Đấng toàn thiện, vậy thì sự ác, sự dữ do đâu mà có?
Thánh Kinh cho biết: ngay từ thuở ban đầu Thiên Chúa tạo dựng nên vũ trụ vạn vật và Ngài đã đánh giá công trình ấy là tốt đẹp. Nhưng Thánh Kinh cũng cho chúng ta biết ngay từ buổi đầu, chính Sa-tan đã lôi cuốn tổ tông loài người bất tuân lệnh Chúa mà ăn trái cấm trong vườn địa đàng và gây tai hoạ cho con cái loài người. Giáo huấn trên ăn khớp với điều Đức Giêsu giải thích về dụ ngôn: "Kẻ gieo hạt giống tốt là Con Người. Ruộng là thế gian. Hạt giống tốt, đó là con cái Nước Trời. Cỏ lùng là con cái Ác Thần. Kẻ thù đã gieo cỏ lùng là ma quỷ". Thế giới vũ trụ vạn vất là công trình tốt đẹp do quyền năng và tình thương của Thiên Chúa dựng nên; còn mầm mống sự ác là cỏ lùng đã được gieo vào lòng con người và lòng xã hội là do ma quỷ, do ác thần. Cỏ lùng mọc xen với lúa và cùng lớn lên với lúa. Lúa tốt và cỏ lùng tranh giành nhau đất sống. Đó là cuộc chiến tranh khốc liệt xảy ra hằng ngày trong mỗi tâm hồn, trong mỗi cộng đồng.
Tại sao Thiên Chúa không huỷ diệt sự ác ngay lập tức?
Một thắc mắc nữa là tại sao Thiên Chúa không huỷ diệt sự Ác ngay lập tức mà lại để cho sự ác hiện hữu, tác động xấu trên con người và xã hội? Trong dụ ngôn cỏ lùng, ông chủ không nghe theo đề nghị của các đầy tớ là cho nhỏ hết cỏ lùng khỏi ruộng lúa, mà cứ để cho cỏ lùng phát triển song song với lúa tốt. Lý do ông nêu lên là nếu cho nhổ hết cỏ lùng thì "sợ rằng khi gom cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa. Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt". Sẽ đến giờ, đến lúc cỏ lùng và lúa tốt được tách riêng ra.
Thiên Chúa có nhiều lý do để hành động như thế. Trước hết vì Thiên Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, không nỡ bẻ gẫy cây sậy đã dập, không dập tắt tim đèn còn khói. Ông chủ ruộng không ra lệnh nhổ hết cỏ lùng cũng là vị mục tử bỏ chín mươi chín con chiền lành để đi tìm một con chiên lạc, cũng là người cha ngày ngày đứng ngóng đợi đứa con hoang trở về.
Thứ đến là vì Thiên Chúa tin rằng người xấu có thể thay đổi thành người tốt, người tội lỗi có thể trở nên người công chính, nhờ hồng ân của Thiên Chúa và sức mạnh của Thánh Thần. Kinh nghiệm cho chúng ta thấy rằng khi một người ý thức mình là người có tội và phải vất vả lắm mới thoát ra khỏi cảnh tội thì người ấy sẽ sống khiêm tốn và yêu thương hơn.
Chúng ta có nhiều ví dụ trong Phúc Âm: Phêrô phút trước vẫn còn là người đánh cá, phút sau đã trở thành môn đệ Đức Giêsu. Cũng Phêrô phút trước còn là kẻ hèn nhát chối Thày trước mặt một người tớ gái, phút sau đã trở thành người sám hối vĩ đại, quyết sống chết với Thày Giêsu. Phaolô phút trước còn là kẻ bách hại các Kitô hữu, phút sau đã trở thành vị tông đồ dân ngoại. Matthêu và Da-kêu phút trước còn là một nhân viên thu thuế, phút sau đã trở thành môn đệ Chúa. Madalêna phút trước còn là một phụ nữ bán mình mua vui cho thiên hạ, phút sau đã trở thành người gắn bó chặt chẽ với Đức Giêsu. Người trộm lành phút trước còn là tên trộm dữ, phút sau đã là người được Đức Giêsu đưa vào thiên đàng hưởng hạnh phúc bên Chúa v.v.. Chúng ta cũng có thể tìm ở chung quanh mình những ví dụ khác mới mẻ hơn.
Lý do sau cùng là Thiên Chúa muốn con người đóng góp vào việc phát triển sự Thiện và tiêu diệt sự Ác nơi mình, nơi tha nhân và trong thế giới.
Làm thế nào để phát triển sự Thiện và tiêu diệt sự Ác nơi mình, nơi tha nhân và trong xã hội?
Chúng ta phát triển sự Thiện và tiêu diệt sự Ác nơi mình, nơi tha nhân và trong xã hội bằng cách làm cho một nửa ánh sáng bừng sáng lên và nửa bóng tối thu hẹp lại tức là tạo điều kiện cho các khuynh hướng tốt, các ước vọng tốt, các nỗ lực tốt thành hiện thực và đồng thời làm cho các khuynh hướng xấu, ước vọng xấu, hành động xấu không có cơ hội hình thành.
Nửa ánh sáng là lòng yêu thương, bác ái, nhân hậu, từ bi, quan tâm giúp người. Nửa bóng tối là ích kỷ, hận thù, khắt khe, sống thờ ơ với người bên cạnh. Nửa ánh sáng là khiêm nhường, hiền lành. Nửa bóng tối là kiêu căng, tự mãn, coi thường tất cả. Nửa ánh sáng là trong sạch, khiết tịnh, điều độ, siêu thoát. Nửa bóng tối là tham sân si, chạy theo lạc thú, ham hố của cải, chức quyền, địa vị. Nửa ánh sáng là công lý và hoà bình. Nửa bóng tối là bất công và chiến tranh... Mỗi lần chúng ta chọn phần nửa ánh sáng và từ khước phần nửa bóng tối là chúng ta phát triển sự Thiện và tiêu diệt sứ Ác nơi mình, nơi tha nhân và trong xã hội.
Lạy Thiên Chúa là Cha từ bi nhân hậu, Cha đã tạo dựng vũ trụ vạn vật và con người. Cha lại còn giao phó cho con người sứ mệnh gìn giữ, cai quản và làm chủ công trình tốt đẹp ấy, để loài người cộng tác với Cha làm cho công trình ấy luôn luôn tốt đẹp và hữu ích. Xin Cha giúp chúng con biết quý trọng thiên nhiên và tôn trọng những định luật tự nhiên mà Cha đã đặt để trong đó. Xin Cha giúp chúng con biết tích cực bảo vệ và phát triển sự Thiện và đấu tranh tiêu diệt sự Ác nơi mình, nơi tha nhân và trong xã hội chúng con đang sống.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã được Cha sai đến trần gian để gieo vãi hạt giống tốt trong cánh đồng thế gian và làm cho hạt giống ấy phát triển thành cánh đồng cao sản. Chúa đã chiến đấu hết sức mình, chiến đấu đến nỗi bị kẻ thù giết hại để thực hiện Ý Cha và đem lại chiến thắng cho Vương quốc của Cha. Xin Chúa giúp chúng con biết cách đấu tranh bênh vực sự Thiện trong chúng con, trong cộng đồng và xã hội chúng con và đẩy lùi sự Ác ra khỏi lòng chúng con, khỏi cộng đồng và xã hội chúng con.
Lạy Chúa Thánh Thần là sức mạnh Thiên Chúa, xin Chúa luôn ở cùng chúng con, luôn chiến đấu với chúng con để đem lại chiến thắng cho Nước Thiên Chúa.
43. Xin Thầy giải nghĩa thí dụ.
Một em bé lúc 13 tuổi bị mọi người xua đuổi, vì em mắc bệnh phong cùi nên mất quyền sinh sống với cộng đoàn. Một nhà truyền giáo bật chợt đi ngang qua nhìn thấy vậy, ông cảm thấy thật đau lòng nên vội vàng xuống xe bênh vực cho em. Không những nhà truyền giáo này chỉ bênh vực cho em bé bất hạnh. Mà còn đem em về trung tâm của mình để săn sóc.
Vừa khóc vừa cảm động, em hỏi nhà truyền giáo:
- Lại sao ông tốt với tôi như vậy?
Em bé gọi nhà truyền giáo bằng ông, vì đây là một linh mục Công giáo đang công tác mục vụ cho bệnh nhân ở làng bên cạnh.
- Lại sao ông tốt và lo lắng cho tôi như vậy?
Nhà truyền giáo trả lời:
- Bởi vì Thiên Chúa là Cha đã dựng nên tôi và dựng nên con.
Tất cả chúng ta được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh của Ngài, và được Ngài yêu thương cách trọn vẹn, Ngài cũng muốn chúng ta yêu thương liên đới với nhau. Vì chính Ngài đã sai Con Một mình xuống trần gian là Đức Kitô để giúp cho mỗi người chúng ta sống xứng đáng với phẩm vị của mình là con cái Thiên Chúa. Vì thế, vâng lời Ngài dạy, cha săn sóc cho con. Và từ đó em bé 13 tuổi bị bệnh phong cùi này không những không quên được những cử chỉ của nhà truyền giáo, mà còn xin được làm đồ đệ của Chúa Giêsu và dùng những năm tháng còn lại của đời em để săn sóc cho các người phong cùi khác nặng hơn em lại trung tâm người phong cùi của nhà truyền giáo.
"Vâng lời Ngài, cha xin săn sóc cho con. Vâng lời Chúa dạy, tôi phục vụ anh chị em". Đó là điều Thiên Chúa Cha qua hình ảnh người gieo giống trong Phúc âm hôm nay mong đợi nơi những đồ đệ của Chúa Giêsu Kitô, những kẻ đã lãnh hạt giống ân sủng và Lời Chúa trong cuộc đời của mình.
Câu chuyện về nhà truyền giáo vô danh và em bé phong cùi kia là một trong muôn vàn thí dụ cụ thể và cũng là một trong muôn vàn những sự kiện cụ thể để chứng minh rằng, qua bao thế hệ lời Chúa vẫn còn trổ sinh những chứng nhân của tình yêu, những hoa trái tốt đẹp trong lịch sử nhân loại cũng như trong lịch sử của mỗi người. Phải chăng Lời Chúa không trổ sinh bông trái là do chính con người là kẻ làm ngơ, thù ghét, muốn bóp chết hạt giống Lời Chúa trong tâm hồn của mình hay trong tâm hồn của anh chị em, chứ không phải Thiên Chúa ngưng không gieo giống, không ban xuống những ơn lành của Ngài, không phân phát Lời Ngài cho con người.
Thật thế, Thiên Chúa vẫn luôn tiếp tục thực hiện những công việc của Ngài để đổ tràn ân phúc và Lời Ngài xuống trên con người, nhưng chính con người từ chối không chấp nhận Ngài. Môi trường chúng ta sinh sống có thể còn nhiều thách thức, nhiều cám dỗ và nhiều trở ngại khác không cho Lời Chúa trổ sinh hoa trái được. Nhưng nếu trong những môi trường như vậy mà đồ đệ của Chúa cương quyết dấn thân sống Lời Ngài dạy, biến đổi cuộc sống của mình trước để trở nên thửa ruộng tốt cho Lời Chúa trổ sinh hoa trái, thì chắc chắn môi trường chúng ta sống sẽ được biến đổi cách tốt đẹp.
Với sức mạnh của ân sủng Lời Chúa, người Kitô hữu có thể biến cánh đồng xã hội thành đồng ruộng tốt tươi đầy bông lúa chín vàng mang lại cơm ăn áo mặc và hạnh phúc ấm no cho con người, cho anh chị em xung quanh. Nhưng nếu Lời chúa không được ăn rễ sâu vào trong tâm hồn của người Kitô hữu, có thể chính lúc đó họ đã làm cho những cánh đồng xã hội thành những đám ruộng hoang, cỏ lác mọc um tùm, bạo lực hận thù khắp nơi gây hoang mang và bất hạnh cho anh chị em.
Chúng ta là những người Kitô hữu đã lãnh nhận hạt giống Lời Chúa, cho nên mỗi người Kitô hữu chúng ta phải có trách nhiệm làm cho Lời Chúa được trổ sinh hoa trái. Bởi vậy, xin đừng ngồi than, đừng trách xã hội lịch sử con người của mình, nhưng hãy biết lợi dụng mọi biến cố, mọi ân sủng của Lời Chúa để làm cho Lời Chúa trổ sinh hoa trái tốt đẹp, biến đổi cuộc sống của mình, biến đổi cuộc sống của anh chị em và làm chứng cho tình thương của Chúa. Xin Chúa gìn giữ chúng ta trong tình thương và đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
44. Cỏ lùng - lúa tốt
(Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
Bài Tin Mừng thuật lại ba dụ ngôn của Chúa Giêsu : cỏ lùng, hạt cải và men. Nghe Chúa nói ba dụ ngôn, nhưng các môn đệ lại chỉ xin Chúa giải thích một dụ ngôn cỏ lùng, và Chúa đã giải thích : người đi gieo giống tốt là Thiên Chúa, hạt giống là người ta, là con người, là con cái Chúa, thửa ruộng là thế gian, là nơi sinh sống, làm việc, phục vụ, cỏ lùng là người xấu, người dữ, mùa gặt là ngày chết hay ngày tận thế, thợ gặt là các thiên thần, lúa tốt thì được thu vào kho lẫm, tức là những người tốt lành, công chính, thánh thiện thì được thưởng, còn cỏ lùng là những người xấu, người dữ thì bị tống vào hỏa ngục.
Nghe hay đọc dụ ngôn này cùng với sự giải thích của Chúa, chúng ta thấy dễ hiểu và hợp tình hợp lý. Thế gian này có người tốt người xấu, người lành người dữ sống bên nhau, sống cùng nhau là chuyện bình thường. Chẳng có nơi nào toàn là những người tốt và cũng chẳng có nơi nào toàn là những người xấu. Nhưng có một điều khác biệt : cỏ lùng, vì bản chất của nó là cỏ dại, cỏ xấu, cho nên vạn đại nó cũng không thể nào biến thành lúa tốt được. Cũng thế, cây lúa thì lúc nào nó cũng là cây lúa, chỉ có điều là nó cho nhiều hay ít hạt lúa, chứ không bao giờ biến thành cỏ lùng được.
Đối với con người thì không như vậy : bản tính con người được Chúa tạo dựng là tốt lành : "Nhân chi sơ tính bản thiện" : khi sinh ra, con người vốn tốt lành, nhưng với thời gian lớn khôn, con người vẫn tốt hay trở thành xấu, nghĩa là con người tốt hay xấu là do thêm vào hay mất đi. Có người trước kia là lúa tốt, bây giờ là cỏ lùng, ngược lại, có người trước kia là cỏ lùng, bây giờ là lúa tốt. Dĩ nhiên cũng có những người luôn luôn là lúa tốt và những người lúc nào cũng là cỏ lùng, hoặc có những người khi thì là lúa tốt khi thì là cỏ lùng hoặc ngược lại. Điều quan trọng là tới khi chết, người ta đang ở trong tình trạng nào : cỏ lùng hay lúa tốt ? Đó là trách nhiệm của mỗi người.
Chính vì yếu tố trách nhiệm này, vì khả năng biến đổi tốt thành xấu và xấu thành tốt nên chúng ta phải cố gắng làm giảm bớt đến mức tối đa, tức là mức thấp nhất những gì là xấu xa, tội lỗi, tức là cỏ lùng, và gia tăng đến mức tối đa, tức là mức cao nhất, nhiều nhất những gì tốt lành, thánh thiện, tức là lúa tốt. Hơn nữa, trong đời sống hằng ngày, ngoài việc cố gắng bớt cỏ lùng, thêm lúa tốt, tức là bớt tư tưởng, lời nói, việc làm xấu và gia tăng những việc phúc đức, mỗi người còn phải cố gắng làm sao để được nhắm mắt xuôi tay, kết thúc cuộc đời trong tình trạng đang là lúa tốt.
Ở đời này, thường chúng ta ít thấy công lý thắng gian tà, nhưng ở đời sau, thì tất cả mọi nợ nần đều phải trang trải, mọi bất công sẽ được san phẳng : lúa tốt, tức là người tốt, sẽ được nâng niu thu góp vào kho lẫm, tức là được thưởng công xứng đáng. Còn cỏ lùng, tức là người xấu, sẽ bị ném vào lửa để thiêu hủy. Câu chuyện cỏ lùng giữa lúa tốt quả quyết với chúng ta về sự báo oán công minh ở đời sau : người tốt sẽ được thưởng, người xấu sẽ bị phạt muôn đời. Như vậy, tốt hay xấu, được thưởng hay bị phạt là do chính mỗi người chúng ta. Vì thế khi kết thúc dụ ngôn Chúa nói : "Ai có tai thì nghe", nghĩa là Chúa muốn nhắc chúng ta rằng : chúng ta có đầu óc, có trí khôn, chúng ta biết phân biệt phải quấy, chân giả, đúng sai, tốt xấu thì đừng có sống đóng kịch hay sống bất chính, chúng ta phải biết sống đúng là con Chúa, chúng ta phải sử dụng đầu óc, trí khôn để sống theo luật Chúa. Chúng ta sống làm sao Chúa sẽ căn cứ vào đó để thưởng hay phạt chúng ta.
Tóm lại, trong cánh đồng màu mỡ là con người yếu đuối của chúng ta, lúa tốt và cỏ lùng, tức là nhân đức và tội lỗi, đức tính và tật xấu ... luôn luôn chèn ép nhau, giành giật nhau. Vì thế, chúng ta phải luôn tỉnh thức và chiến đấu để loại trừ cỏ lùng, tội lỗi và tật xấu, đồng thời bảo vệ lúa tốt, nhân đức và công phúc của chúng ta. Có như thế đến mùa gặt, tức là khi chúng ta nhắm mắt xuôi tay, chúng ta sẽ được Chúa nhân từ âu yếm nói với chúng ta : "Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, hãy vào hưởng sự vui mừng với Chúa ngươi". Xin Chúa cho chúng ta biết sống theo lời Chúa để chúng ta đều được nghe những lời đầy thân thương trên đây của Chúa.
45. Cứ để cả hai mọc lên.
Nước Trời là một mầu nhiệm, Chúa Giêsu đã mạc khải và thiết lập trong lịch sử nhân loại. Qua những hình ảnh đơn sơ, bình dị, gần gũi với cuộc sống, Chúa Giêsu đã dùng nhiều dụ ngôn để giảng dạy về Nước Trời.
Chúa nhật trước với dụ ngôn “người gieo giống”, Chúa Giêsu cho thấy Nước Trời đã khai mạc. Cũng như người gieo giống đi gieo hạt trên khắp cánh đồng, Chúa Giêsu cũng gieo hạt giống Lời Chúa. Hạt giống ấy tăng trưởng trổ sinh hoa trái nơi mỗi người ra sao là tùy thái độ đón nhận của từng người ấy.
Chúa nhật hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục giảng dạy về Nước Trời bằng dụ ngôn “lúa và cỏ lùng”. Như vậy, sau khi nói đến việc khai mạc Nước Trời, Người nói đến sự phát triển của Nước Trời trong lịch sử trần thế.
Chúa Giêsu đã khởi đầu công trình của Người với một nhóm nhỏ Mười Hai Tông Đồ. Sự khiêm tốn của “hạt cải bé nhỏ được gieo vào lòng đất bao la”. Sự khiêm tốn của “một nắm men bị vùi sâu vào ba đấu bột”. Điều kỳ diệu là “hạt bé hơn mọi thứ hạt giống” lại “trở thành cây cao bóng cả đến nỗi chim trời có thể đến nương náu nơi ngành nó”. Nắm men ít ỏi kia lại có khả năng làm dậy lên cả ba đấu bột chôn vùi nó. Cũng như vậy, Nước Trời sẽ vươn xa vươn rộng cho muôn dân nước đến nương nhờ. Hạt giống Nước Trời đã làm dậy lên cả thế giới bằng một tinh thần mới của Tin Mừng,biến đổi lịch sử trong tình thương và hòa bình.
Một vấn nạn luôn được đặt ra: Nếu Nước Trời đã được Chúa Giêsu thiết lập cách đây hơn 20 thế kỷ và nếu Thiên Chúa là Đấng nhân hậu giàu lòng xót thương thì tại sao cho đến nay cuộc sống con người vẫn đầy dẫy bất công, bạo lực, khổ đau, chiến tranh tương tàn, và xem ra sự dữ có chiều hướng gia tăng? Đôi khi những người xấu xa tội lỗi gian manh lại giàu có sung túc trong đời sống vật chất hơn những người lành? Vấn nạn này vẫn luôn là trăn trở khôn nguôi người Kitô hữu ở mọi thời đại! Dụ ngôn “lúa và cỏ lùng” giải thích vấn nạn ấy.
Cánh đồng được gieo toàn hạt giống tốt.Thiên Chúa đã gieo vào trần thế những con cái Nước Trời. Ban đêm kẻ thù xuất hiện. Satan tới gieo cỏ lùng. Thế là có cảnh lẫn lộn trên trần gian. Người lành kẻ dữ cùng chung nhau một mảnh đất. Đang khi hạt giống được gieo giữa ban ngày thì Satan lại lợi dụng đêm tối khi mọi người đã mất cảnh giác để gieo rắc tội lỗi. Hành động thấp hèn. “Xấu” chưa chắc đã “hèn”, nhưng “hèn” thì chắc chắn là “xấu”, bởi lẽ nhiều tay “giang hồ”, bặm trợn, vẫn rất ghét thói “ném đá dấu tay”, trong khi động cơ, phương tiện và mục đích của những hành động lén lút, luôn là bỉ ổi, xấu xa và hại người.
Thế giới này giống như cánh đồng lúa đầy cỏ lùng xen vào. Những ông thánh sống lẫn lộn với những thằng quỷ, tốt xen lẫn với xấu. Tốt như những tổ chức nhân đạo, nhân quyền, hoà bình thế giới: UNESCO, UNICEP, FAO, OLYMPIC, WORLD CUP là những tổ chức xây dựng văn hoá, giáo dục tình thương bảo vệ sức khoẻ trẻ em, phát triển lương thực thế giới, thăng tiến những tài năng, chăm lo y tế. Nhưng lại có rất nhiều những tổ chức xấu xen vào như Mafia, buôn lậu, ma tuý, vũ khí, khủng bố, trộm cướp, du đãng, buôn bán trẻ em, phim ảnh sách báo đồi truỵ… Đồ thật, hàng tốt bị xen lẫn hàng xấu, đồ giả. Người lương thiện, chân chính bị lẫn lộn với kẻ tham ô, móc ngoặc, bất lương. Những thứ cỏ lùng gai góc đó không bao giờ hết, chỉ đến mùa gặt tận thế chúng mới bị quét sạch, đốt sạch. Tận thế sẽ thiêu đốt tất cả những thứ cỏ lùng đó, những kẻ xấu, kẻ dữ đó. Còn lúa thì được gánh về, chở về kho. Những thánh nhân, những người lương thiện, công chính sẽ sáng chói trong ngày vinh quang đó, họ được rước vào nước hạnh phúc đời đời.
Thấy cỏ lùng xuất hiện với lúa, các đầy tớ đến hỏi ông chủ: “Thưa ông, không phải ông đã gieo giống tốt trong ruộng ông sao? Thế thì cỏ lùng ở đâu ra vậy?”.Thấy sự dữ tràn lan trên thế giới, bao nhiêu người thắc mắc: sự dữ, sự ác bởi đâu ra? Chúng ta nhiều lần thấy gian tà thắng ngay lành, bất công thắng công chính. Kẻ ác thắng kẻ thiện, cũng thất vọng kêu trách: Sao Chúa để kẻ dữ sống lâu, mạnh khoẻ, giàu sang, may mắn, còn kẻ lành phải khổ cực trăm chiều?
Trước những thắc mắc đó, Chúa đáp: “Kẻ thù đã làm đó!” Kẻ thù là ai? Thánh kinh cho biết có hai thứ kẻ thù: kẻ thù ở trong ta và kẻ thù ở ngoài ta. Kẻ thù ở ngoài ta có những tên khác nhau: con rắn cám dỗ phỉnh gạt (St 3,2.13), con rồng, rắn xưa, quỷ, satan (Kh 12,9), con thuồng luồng Leviathan (Is 27,1), kẻ thù, kẻ chống đối (Mt 13,25; Lc 10,19; 2Cr 6,15). Những kẻ thù này ở ngoài con người, nhưng chúng xâm nhập vào con người sâu hiểm tới độ đồng hoá với bản tính nhân loại. Nhưng chúng sẽ bị “Thiên Thần Chúa từ trời xuống, tay cầm chìa khoá vực thẳm và một dây xích lớn, bắt lấy con rồng, tức là con rắn xưa cũng là ma quỷ satan xích nó… quăng vào vực thẳm, rồi đóng cửa niêm phong lại” (Kh 20, 2-3). Nhưng một mình quỷ thôi, chúng sẽ bất lực như bất lực đối với Thánh Gióp. Chỉ khi có sự tiếp tay của ta như Eva tiếp nó, nó mới thành kẻ thù trong ta: nó trở nên kẻ nội thù ghê gớm. Nó mọc lên những cỏ lùng, bụi gai, đá sỏi, quỷ dữ (Mt 13,18-22). “Vì tự lòng phát xuất ra những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cướp, chứng gian, vu khống” (Mt 15, 19). Khi chủ cho biết kẻ thù làm đó, thì đầy tớ xin nhổ đi, chủ sợ hại đến lúa, nên ông đáp: “Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt”. Thái độ của chủ thật khôn ngoan, ông kiên nhẫn chờ đợi đến mùa gặt, mới nhặt cỏ lùng đốt đi.
Có thể trong tâm tưởng nhiều người lại quy gán cho Thiên Chúa trách nhiệm về tình trạng khổ đau đó chẳng khác gì câu hỏi ngày xưa: “Thưa ông, không phải ông đã gieo giống tốt trong ruộng ông sao? Vậy cỏ lùng ở đâu mà ra?” Một câu hỏi không lên án nhưng chứa đựng sự nghi ngờ.
Để trả lời cho vấn nạn đó, Chúa Giêsu đã lấy lại giáo huấn của sách Sáng Thế: Sự ác không đến từ Thiên Chúa. Ngài chỉ gieo hạt giống tốt lành vào mảnh đất người đời. Sự ác cũng không chỉ đến từ tâm trí con người nhưng nó đã có trước đó.Sự dữ cũng là một mầu nhiệm. Đối với Chúa Giêsu, con người là nạn nhân của sức mạnh mà Người gọi là ”Kẻ thù”, là ”Quỷ dữ” như cách diễn tả trong dụ ngôn: “Khi mọi người đang ngũ, thì kẻ thù của ông đến gieo thêm cỏ lùng rồi đi mất”. Ở cội nguồn tội lỗi của con người,còn có một sức mạnh luôn tìm cách phá hoại công trình của Thiên Chúa và hành tung của nó rất bí mật. Đó là quỷ dữ lợi dụng đêm tối để gieo rắc tội lỗi rồi trốn đi.Thánh Phaolô đã nói về sự dữ trong thư Rôma: Công cuộc tạo dựng của Thiên Chúa tốt lành.Satan đã cám dỗ Adam, Eva, Nguyên Tổ sa ngã, tội lỗi sinh ra đau khổ và sự chết rồi nó như con bạch tuộc vươn vòi vào trần thế, con người nô lệ cho tội lỗi và nhận lấy án phạt là sự chết (x.Rm 1,20 -31;15,12).Ma quỷ luôn có mặt để gieo rắc sự xấu.
Thiên Chúa gieo vào thế giới hạt giống khát vọng hòa bình. Đẹp biết bao khi mọi dân tộc nắm tay nhau xây dựng một thế giới huynh đệ tươi thắm tình người. Nhưng thực tế lại đáng buồn thay! Cánh đồng hòa bình tươi xanh đã bị những cỏ dại của tham vọng, ích kỷ, ác độc làm hoen ố. Lịch sử thế giới được ghi bằng những trang buồn đau vì không lúc nào mà không có chiến tranh.
Thế giới này sẽ tươi đẹp biết bao nếu tất cả trí thông minh, tất cả tài nguyên, tất cả năng lực đều góp phần chung tay xây dựng! Nhưng thật đáng tiếc,rất nhiều trí thông minh, rất nhiều tài nguyên, rất nhiều năng lực đã tiêu tốn trong việc hủy hoại, tha hóa, nô lệ hóa con người. Đó là những hạt cỏ xấu ma quỷ lén lút gieo vào ruộng lúa tốt. Lúa tốt và cỏ lùng lẫn lộn trên cùng ruộng lúa. Cái tốt, cái xấu đan xen trong cuộc sống hàng ngày,nhất là trong tâm hồn mỗi người. Ở đó, hạt mầm sự sống và nọc độc sự chết cùng sống chung. Mỗi con người chắc chắn đều có kinh nghiệm bản thân như Thánh Phaolô đã từng kinh nghiệm “Điều lành tôi muốn làm tôi lại không làm, còn điều dữ tôi không muốn làm nhưng tôi lại cứ làm ( Rm 7,19). Con người có tự do để chọn lựa cái đúng cái sai, chọn cái tốt cái xấu. Nước Trời cũng gồm những con người có tự do, thì cũng có những người xấu do chọn lựa sai lầm. Cảm nhận được sự thật ấy trong tâm hồn mình để chúng ta biết khoan dung trong cách nhìn về người khác. Sự khoan dung không đồng nghĩa với đầu hàng cái ác nhưng phát xuất từ niềm tin vững chắc vào sự tất thắng của Nước Trời: “Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt. Đến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt: hãy gom cỏ lùng lại, bó thành bó mà đốt đi, còn lúa thì hãy thu vào kho lẫm cho tôi”. Cho dù cỏ lùng có bóp nghẹt lúa tốt trong một thời gian dài, nhưng mùa gặt đến, cỏ lùng sẽ bị gom lại và đốt đi, còn lúa tốt được cất vào kho lẫm.
Cỏ lùng chẳng bao giờ thành lúa tốt được,nhưng người xấu có thể hoán cải để nên người tốt.Thiên Chúa ghét tội lỗi nhưng lại yêu mến tội nhân vì Người chờ nơi họ lòng thống hối để được thứ tha (x.Rm 2,4). Chính vì thế mà Thiên Chúa kiên tâm chờ đợi. Chờ đợi vì Thiên Chúa tin vào sự hoán cải của con người. Chờ đợi vì Thiên Chúa tôn trọng tự do lựa chọn của con người. Chờ đợi vì Thiên Chúa nuôi một niềm hy vọng lớn lao.Thiên Chúa vẫn luôn nhẫn nại đợi chờ cho đến ngày tận thế “ cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt”.
Cỏ lùng và lúa tốt nằm ở trong tim con người. Mỗi người đong đưa giữa cỏ lùng và lúa tốt, giữa cái thiện và cái ác, giữa Thiên Thần và Satan.Tự do chọn lựa là quyền mỗi người.Thiên Chúa vẫn chấp nhận cỏ lùng trong con người. Thiên Chúa nhẫn nại đợi chờ con người thanh luyện dần dần và hy vọng mọi sự trong họ sẽ thành lúa tốt.
Lạy Chúa, xin cho con nhẫn nại và can đảm cùng đi với Chúa và với tha nhân trên những nẻo đường ghập ghềnh cuộc đời, trong thác dốc tâm hồn với tất cả niềm tin và hy vọng. Amen.
46. Quyền năng Thiên Chúa
Ngay từ lúc tạo dựng vũ trụ, Thiên Chúa đã dùng quyền năng của Người mà làm nên mọi sự. Trong sự quan phòng của Thiên Chúa cũng vậy, Người đã dùng quyền năng của mình mà làm cho muôn loài muôn vật được phát triển. Cho dù con người có nhìn nhận sự hiện diện cũng như quyền năng của Thiên Chúa hay không thì Thiên Chúa vẫn có đó và quyền năng của Người vẫn bao trùm trên mọi loài thụ tạo.
Trong bài Tin mừng chúng ta được mời gọi suy niệm hôm nay, Chúa Giêsu đã kể ba dụ ngôn để cho thấy quyền năng thật sự của Thiên Chúa trên mọi loài. Tuy nhiên, quyền năng Thiên Chúa là để thực thi tình yêu của Người trên muôn loài, để tha thứ và để mời gọi trở về chứ không phải là để đánh phạt hay tiêu diệt.
Trong ba dụ ngôn, chúng ta thấy nổi lên tư tưởng chủ đạo đó là: Quyền năng của Thiên Chúa tuy ẩn tàng khó thấy nhưng mạnh mẽ như hạt cải, như nắm men đã làm cho cả khối bột dậy men, đã sinh trưởng thành những cây cải thật to... nhưng quyền năng ấy lại được thể hiện trong thầm lặng trong đợi chờ như người chủ đợi chờ ngày thu hoạch, đợi chờ ngày có sự phân biệt rõ ràng giữa lúa và cỏ lùng để không làm hại lúa cũng như chờ cỏ lùng có thể biến đổi để trở thành lúa. Ông chủ ruộng vẫn biết nếu để cỏ lùng trong ruộng lúa của mình có thể nó làm hại cho lúa, làm cho lúa có thể khó phát triển. Ông biết rằng mình có đủ sức mạnh để làm cho ruộng lúa của ông sạch bon cỏ lùng nhưng vì lòng ưu ái ông dành cho lúa, lòng nhân từ ông dành cho cỏ lùng nên ông chờ cho đến cơ hội cuối cùng.
Thiên Chúa là chủ ruộng đầy lòng nhân từ, vẫn biết rằng mảnh đất ven đường, mảnh đất sỏi đá, mảnh đất gai góc không thể nào làm cho hạt giống phát triển nhưng chủ ruộng là Thiên Chúa vẫn gieo Lời của Người vào tâm hồn của tất cả mọi người, Người không chọn lựa cũng không kỳ thị một ai. Bài tin mừng hôm nay cũng thế, vẫn biết rằng cỏ lùng khó có thể biến đổi trở thành lúa thế mà chủ ruộng này vẫn kiên trì chờ đợi, cho cơ hội đến phút cuối cùng... Thiên Chúa cũng đối xử như thế đối với những người tội lỗi.
Nhìn vào lịch sử dân Israel chúng ta có thể dễ dàng thấy được lòng nhân từ của Thiên Chúa được biểu lộ. Bốn chữ "Tội - Phạt - Hối - Cứu" vẫn luôn đồng hành với dân Israel. Thiên Chúa dùng quyền năng của Người để biểu lộ tình yêu, để thông chia tình yêu, nhưng khi dân từ chối tình yêu này thì họ đã đi vào con đường lầm lạc, họ tự nhận lấy án phạt do chính họ mang đến. Nhưng khi họ quay trở lại với Chúa thì Người vẫn không từ chối họ, cho họ được trở lại làm con cái Chúa. Quả là Thiên Chúa vẫn một lòng xót thương.
Suy niệm bài tin mừng hôm nay xin Chúa cho chúng con nhận biết được quyền năng của Thiên Chúa vẫn luôn ấp ủ chúng con, hướng dẫn và làm cho cuộc đời chúng con nên tươi sáng, xin Chúa cũng cho chúng con luôn biết quy hướng về Chúa để cái đổi đời sống và luôn chạy về trong vòng tay đầy tình thương của Chúa.
47. Không muộn.
Mục sư Martin Luther King, người đấu tranh giành tự do cho nô lệ da đen tại Hoa Kỳ bằng phương pháp bất bạo động đã kể lại câu chuyện như sau:
Chúng tôi đã có dịp viếng thăm bang Kerela ở cực Nam Ấn Độ. Một buổi chiều cuối tuần, chúng tôi đến bãi biển Cap-Comorin, thường được gọi là “nơi tận cùng của thế giới”, vì đây là mũi đất cuối cùng của lục địa Ấn Độ tiếp giáp Ấn Độ Dương.
Trước mắt chúng tôi là đại dương mênh mông, với các đợt sóng nhấp nhô. Nơi đây được gọi là điểm hẹn của ba biển cả: Ấn Độ Dương, biển Ả Rập và vịnh Bengal. Ngồi trên tảng đá nhô ra trên mặt nước, chúng tôi cảm thấy mình bị cuốn hút vào biển cả mênh mông. Trong khi các đợt sóng dồn dập vào mỏm đá, tạo nên một bản nhạc nhịp nhàng, thì về phía tây, chúng tôi nhìn thấy mặt trời đỏ chói đang dần dần đi vào biển cả. Khi mặt trời gần khuất, vợ tôi đánh động tôi và nói: “Xem kìa, Martin, thật là tuyệt vời, phải không?” Tôi đưa mắt nhìn chung quanh và kìa mặt trăng đang từ từ lên khỏi lòng biển trong khi mặt trời chậm chạp đi xuống biển sâu. Khi mặt trời lặn, bóng tối bao trùm mặt đất, nhưng từ phía đông, mặt trăng mọc lên, rực rỡ, chói sáng.
Khi ánh sáng mặt trời tắt dần và dìm chúng ta vào trong bóng tối dày đặc, có thể ví như thời điểm của cái ác và sự dữ lộng hành, biến chúng ta thành nạn nhân của thế lực đen tối. Nhưng hãy nhìn về phía đông, chúng ta sẽ thấy một ánh sáng rực rỡ huy hoàng ngay trong đêm tối. Và đêm đen lại sáng tỏ như ban ngày. Đó là lúc điều thiện và cái tốt đang vươn lên mạnh mẽ. Nếu đã có ánh sáng ban ngày hướng dẫn chúng ta lúc thuận buồm xuôi gió, thì cũng có ánh sáng ban đêm dẫn đưa chúng ta khi bão tố phong ba. Cả hai phải cùng tồn tại để đồng hành với chúng ta đến với nguồn sáng vĩnh cửu là Thiên Chúa.
Đức Giêsu, trong bài Tin mừng hôm nay đã khẳng định lập trường của Thiên Chúa qua dụ ngôn cỏ lùng và lúa tốt. Đầy tớ muốn nhổ cỏ lùng đi, nhưng ông chủ lại bảo: “Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt”. Kể từ khi nguyên tổ nuốt lấy trái cấm thì sự dữ và cái ác như con bạch tuộc vươn vòi đến mọi mặt của cuộc sống con người. Nó dai dẳng, ngoan cố, lì lợm, không dễ dàng buông tha nếu chúng ta không chống cự lại một cách mãnh liệt, dứt khoát. Chẳng thế mà Kinh thánh đã dùng biểu tượng con rắn để mô tả hành động xảo trá của sự dữ luôn gieo rắc bất hoà trong bản hoà tấu nhịp nhàng của đời sống con người.
Trong dụ ngôn cỏ lùng, Đức Giêsu khẳng định về sự xuất hiện của cỏ lùng là do kẻ thù đã gieo chúng vào ruộng lúa.
Cho dù kẻ thù đó là Satan hay bởi chính sự lạm dụng tự do của con người, thì cỏ lùng luôn mang đến tai hoạ và chết chóc.
Cho dù cỏ lùng có bóp nghẹt lúa tốt trong một thời gian, nhưng mùa gặt đến, nó sẽ bị gom lại và đốt đi. Còn lúa tốt lại được cất vào kho lẫm.
Cho dù cứ để cỏ lùng và lúa tốt cùng lớn lên cho đến mùa gặt, nhưng không phải là để dung túng cho cái ác và để sự dữ lộng hành.
Thiên Chúa có chương trình hành động của Người: Trong hành trình của mỗi con người, vẫn có cỏ lùng mọc chung với lúa tốt, vẫn có cái ác sống chung với cái thiện, vẫn có bóng tối chen lẫn cùng ánh sáng. Đó là cuộc chiến đấu trường kỳ giữa sự lành và sự dữ. Trong lòng người tín hữu rễ cỏ lùng và lúa tốt vẫn đan xen lẫn nhau. Thánh Phaolô đã diễn tả chân lý ấy khi viết: “Điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi cứ làm”. Người tín hữu hay bị cám dỗ ở trong tình trạng chưa là tội nhân mà cũng chưa muốn tìm về thánh thiện.
Khi chiến đấu chống lại sự dữ, chúng ta không chiến đấu đơn độc, có Chúa cùng chiến đấu với chúng ta, như một người Cha đầy yêu thương. Nhưng người không can thiệp để tiêu diệt sự dữ một cách vũ bão, vì Người đã ban cho chúng ta sự tự do, và bởi chúng ta là những con người có trách nhiệm. Sự dữ nào cũng có phần cộng tác của con người, tội lỗi nào cũng mang dấu tay của những kẻ đồng loã. Evà đã chẳng phạm tội nếu bà đừng đưa tay ra hái trái cấm. Để cứu lấy con người luôn luôn sa ngã, Thiên Chúa đã phải nhẫn nại, chờ đợi sự hoán cải tuy rất chậm chạp của họ.
Thiên Chúa yêu thương con người, và không hề quên sót một ai, cho dù họ là những tội nhân:
Nếu Thiên Chúa tỏ ra chậm chạp trong việc chống lại tội lỗi, là để chúng ta có thời gian mà sám hối canh tân.
Nếu chúng ta yếu đuối lầm lỗi, thì Người sẽ ban cho chúng ta sức mạnh để can đảm trỗi dậy sau những lần vấp ngã.
Nếu phải bước đi trong bóng đêm tăm tối vì mất niềm hy vọng, thì Người sẽ là ánh sáng dẫn đường để chúng ta đến với niềm tin.
Thiên Chúa khinh ghét tội lỗi nhưng lại yêu mến tội nhân, vì Nười chờ đợi nơi họ lòng thống hối để được Người thứ tha. Thiên Chúa khoan dung, độ lượng không phải để dung túng cho các tội nhân, nhưng là để cho họ thời gian thức tỉnh mà quay trở về.
Chúa đã bao dung nhẫn nại với chúng ta. Lẽ nào chúng ta lại thiếu nhân hậu khoan dung với kẻ tội lỗi? Chúa đã yêu thương chúng ta, lẽ nào chúng ta không dùng tình yêu của Người mà hoán cải anh em? Lòng tương xót Chúa muốn kéo chúng ta vào quê hương vĩnh cửu. Nhưng không phải là một cuộc hành trình đơn độc. Trái lại, phải là một ngày hội thắm đẫm tình yêu, đầy ắp tiếng cười.
48. Sức mạnh ẩn tàng
Anh chị em thân mến,
Hôm nay, tôi muốn nói về cây cỏ lùng trong cánh đồng lúa tại Việt Nam chúng ta. Hai mươi năm nay, ai là nông dân, và có làm lúa ngắn ngày, chắc hẳn sẽ biết cây cỏ lùn khá rõ. Trước năm 1975, nói tới cỏ lùng, người công giáo hầu như chỉ biết cỏ lùng qua bài dụ ngôn trong Phúc âm mà thôi. Thực tế, người ta không biết cây cỏ lùng ra sao cả. Như trên đã nói, chỉ sau năm 75, khi làm lúa ngắn ngày, người ta mới biết cỏ lùng là gì. Đặc điểm của cỏ lùng chính là vì nó rất giống cây lúa - chỉ khác là nó xanh đen, mướt hơn, và lá dài hơn. Chỉ khi cây lúa đã già, sắp trổ bông, người ta mới phân biệt được cỏ lùng và lúa. Chúng ta cũng không biết cây cỏ lùng trong ruộng lúa ở Việt Nam hôm nay, có phải là cây cỏ lùng thời Chúa Giêsu không? Dầu sao xem ra, cỏ lùng này cũng có những đặc điểm khá giống những gì Chúa Giêsu muốn nói. Bài Tin Mừng hôm nay kể lại dụ ngôn kẻ thù đã gieo cỏ lùng vào ruộng lúa của ông chủ.... Kính mời anh chị em cùng suy niệm.
a/. Chúng ta thử nghe lại cách giải thích của Chúa Giêsu về dụ ngôn cỏ lùng gieo trong ruộng: Chúa nói: hạt giống tốt là con cái Nước Trời - Người gieo giống chính là Con Người (Chúa Giêsu) - ruộng là thế gian - cỏ lùng là con cái ác thần - kẻ thù gieo cỏ lùng là ma quỷ - mùa gặt là ngày tận thế - thợ gặt là các thiên thần.
Chúa nói tiếp: Khi đến mùa gặt, sẽ không gặt lúa trước, nhưng ông chủ bảo thợ gặt lo nhổ cỏ lùng trước, rồi đốt đi. Hình ảnh Nước Trời ngày tận thế cũng vậy, Chúa sẽ sai thiên thần tập trung mọi kẻ xấu tống ra khỏi Nước Trời, cho họ vào lò lửa... còn kẻ lành sẽ được vinh quang trong Nước Trời...
b/. Có hai điều rút ra từ bài học Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay:
* Hình ảnh Nước Trời: được ví như hạt giống tốt được gieo trong ruộng là tâm hồn chúng ta. Hạt giống lúc đầu rất bé nhỏ âm thầm, như hình ảnh hạt cải, chỉ bé xíu thôi; nhưng hạt giống Nước Trời có sức mạnh vô biên, có thể sinh hoa kết quả.... Hình ảnh của một viên men, chỉ có 28grs, có thể làm cho một thúng bột độ 7 kg 500, đều dậy men... cũng chính là hình ảnh nói lên sức mạnh Nước Trời. Dỉ nhiên Nước Trời không phải là hạt giống, cũng không phải là viên men; đó chỉ là hình ảnh tượng trưng mà thôi...
Hình ảnh Nước Trời: ta thử nhìn vào lịch sử Kitô giáo, lúc đầu vào thời Giáo hội sơ khai, chỉ là một nhóm nhỏ gồm 12 tông đồ, một số môn đệ và ít người tin Chúa. Ngay thời đó, Giáo hội bị bắt bớ đủ điều. Rồi trải qua 20 thế kỷ, hầu như không lúc nào Giáo Hội không bị bắt bớ, có lúc hầu như người ta tưởng sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn. Vậy mà ngày nay trên thế giới, có lối 1 tỷ người Kitô hữu. Hầu như cứ 8 người thì có một người tin vào Thiên Chúa. Chúng ta không nói đến sức mạnh của tổ chức xã hội Kitô giáo, nhưng là nói đến sức mạnh của Hạt giống Lời Chúa, là ân sủng Chúa. Sức mạnh này có giá trị vô biên, mạnh hơn cả sự chết...
* Chúa muốn con người cộng tác vào việc phát triển Hạt giống Nước Trời: Hạt giống Nước Trời tuy có sức mạnh vô biên, nhưng hạt giống đó phải được gieo trên đất tốt. Hạt giống được gieo trong bụi gai, bên vệ đường sẽ không sinh hoa kết trái được. Viên men muốn làm cho thúng bột dậy lên, phải được người đàn bà trộn trong bột. Hạt cải muốn thành cây, phải được con người gieo trồng cẩn thận, và phải được chăm sóc chu đáo....
Qua lịch sử của Hội thánh, các thánh hiển tu, cũng như các vị tử đạo, họ là những con người đã hết lòng vì Nước Trời. Chính vì thế, họ cộng tác hết sức chặt chẻ để mong cho Hạt giống Nước Trời lớn lên; họ luôn tỉnh thức cầu nguyện, lấy Lời Chúa và Thánh Thể làm sức sống. Họ cũng là nhân chứng của Tin mừng, luôn xây đắp yêu thương và tha thứ...
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Qua những điều suy niệm kể trên, ta thấy được sức mạnh vô biên của Hạt giống Lời Chúa, vậy ta có sẵn sàng cộng tác vào việc xây dựng Nước Trời bằng cách như Chúa mong muốn không?
49. Sự nhẫn nại thật sự
(Lm. Cantalamessa)
Cha Capuchin Raniero Cantalamessa, người giảng Phủ Giáo Hoàng đã giải thích về dụ ngôn cỏ lùng và hột giống tốt.
* * *
Hột giống và cỏ lùng
Nước Trời có thể sánh với một người đã gieo giống tốt trong ruộng mình; nước Trời giống như một hột cải; nước trời giống như chất men. Ba câu đầu này của những dụ ngôn đủ cho chúng ta hiểu rằng Chúa Giêsu đang nói với chúng ta về một nước "Trời", nhưng nước đó được tìm thấy "trên mặt đất."
Thật vậy, chỉ trên mặt đất mới có một chỗ cho cỏ lùng và sự mọc lên, chỉ trên mặt đất mới có bột cần chất men. Trong nước cuối cùng, không có cái gì trong tất cả những thứ đó, nhưng duy nhất chỉ có Chúa, đấng sẽ là tất cả trong tất cả mọi người. Dụ ngôn hột cải biến thành một cây chỉ rõ sự lớn lên của nước Chúa trong lịch sử.
Dụ ngôn chất men cũng chỉ sự lớn lên của nước Chúa, nhưng không phải một sự lớn lên trong sự trải rộng cho bằng trong sự hùng mạnh; nó chỉ sức mạnh biến đổi Người có sức mạnh đó có thể đổi mới mọi sự. Hai dụ ngôn sau cùng này được các môn đệ hiểu dễ dàng. Nhưng dụ ngôn thứ nhất không được hiểu dễ dàng như thế đó là dụ ngôn cỏ lùng.
Sau khi bỏ những đám đông, và khi vào đến nhà, các môn đệ hỏi Chúa Giêsu về sự đó: "Xin Thầy giải nghĩa dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng cho chúng con nghe".. Chúa Giêsu đã giải nghĩa dụ ngôn. Người nói Người là kẻ gieo giống, hột giống tốt là con cái nước trời, những cỏ lùng là những con cái kẻ dữ, và đồng ruộng là thế gian và mùa gặt là ngày tận thế.
Đồng ruộng là thế gian. Trong thời cổ Kitô giáo, các người Donatists đã giải quyết vấn đề một cách đơn giản và nói rằng Giáo Hội là tất cả những kẻ lành, và thế gian thì đầy dẩy những con cái kẻ dữ, không có hy vọng gì được cứu độ. Nhưng tư tưởng của Thánh Augustinô trổi bật hơn, tư tưởng đó là tư tưởng về Giáo Hội phổ quát.
Chính Giáo Hội là một cánh đồng, trong đó những hột giống và những cỏ lùng, những kẻ tốt và những người xấu, đều mọc lên chung, là một nơi có chỗ để mọc, để được cải thiện và hơn hết để bắt chước gương nhẫn nại của Chúa. "Những kẻ dữ hiện hữu trong thế gian này hoặc là để được cải thiện hay là nhờ họ mà những kẻ lành có thể luyện tập đức nhẫn nại" (Th.Augustine).
Bài đọc thứ nhất, trích từ Sách Khôn Ngoan, cũng nói về sự nhẫn nại của Chúa, với thánh thi ca ngợi sức mạnh của Chúa: "Nhưng dầu Chúa là chủ tể sức mạnh, Chúa xét xử nhân hậu, và Chúa cai trị chúng con với nhiều khoan dung,... Và Chúa đã dạy dân Chúa, bằng những việc làm này, là những kẻ công chính phải ở hiền lành, và Chúa ban cho con cái Chúa điều kiện tốt để hy vọng Chúa cho phép sám hối vì tôi lỗi của họ."
Hơn nữa, sự nhẫn nại của Chúa, không phải là một sự nhẫn nại đơn giản, nghĩa là chờ tới Ngày Phán Xét và lúc đó phạt theo thoả thích. Đó là sự nhẫn nhục, lòng thương xót và ý muốn cứu vớt. Do đó, trong Nước Chúa, không có chỗ cho những tôi tớ không biết nhẫn nại, cho những người không làm gì hơn là kêu xin Chúa phạt và thỉnh thoảng chỉ cho Chúa con người Chúa phải đánh.
Một ngày kia Chúa Giêsu quở trách hai môn đệ của Người muốn lửa mưa từ trời xuống trên những kẻ đã không tiếp rước Người (Lc 9:55). Có lẽ cũng phải quở trách như vậy đến một số người quá sốt sắng đòi công lý, hình phạt và báo oán những kẻ giữ cỏ lùng của thế gian.
Sự nhẫn nại của ông chủ ruộng cũng được chỉ như một gương mẫu cho chúng ta. Chúng ta phải chờ mùa gặt, nhưng không phải như những đầy tớ khó kiềm hảm, giữ chặt cái liềm, dường như nóng lòng thấy gương mặt của những kẻ dữ trong Ngày Phán xét. Ngược lại, chúng ta phải chờ như những người coi ý muốn của Chúa là của mình, là "tất cả mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý " (1 Tim. 2:4).
Do đó, một lời kêu gọi sống khiêm tốn và nhân hậu, là điều được gặt hái từ dụ ngôn hột giống và cỏ lùng. Chỉ có một đồng ruộng đúng đắn và cần thiết để nhổ ngay cỏ lùng, đó là từ chính lòng của mình!
50. Nước Trời được xây dựng trên lòng kiên nhẫn
Tiếp theo dụ ngôn người gieo giống, Chúa nhật hôm nay chúng ta được tiếp tục suy niệm các dụ ngôn về Nước Trời. Chúng ta cùng nhau dừng lại nơi dụ ngôn lúa và cỏ lùng. Ngày nay, người ta muốn diệt cỏ thì rất dễ dàng. Chỉ cần một bình xịt thì không bao lâu cỏ mà ta muốn diệt sẽ chết hết. Ngày xưa và nhất là nơi vùng đất Do thái không được như thế. Do đó, khi phát hiện trong ruộng có nhiều cỏ lùng người đầy tớ đã tức tốc chạy báo cho ông chủ. Đồng thời, anh cũng xin chủ cho mình ra ruộng nhổ và gom đi những cỏ lùng đó. Thế nhưng, ông chủ với thái độ bình thản và kiên nhẫn trả lời: "Đừng, sợ rằng khi gom cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa. Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt. Đến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt: hãy gom cỏ lùng lại, bó thành bó mà đốt đi, còn lúa, thì hãy thu vào kho lẫm cho tôi." (Mt 13, 29 - 30)
Thiên Chúa của chúng ta là Đấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và rất mực khoan dung (Tv 103, 8 ). Người không muốn một ai trong chúng ta phải hư mất. Chúa Giêsu đã nói: "Ta không đến để kêu gọi người công chính nhưng kêu gọi người tội lỗi" ( Mt 9, 13 ). Thiên Chúa không dung túng cho tội lỗi nhưng Người rất thông cảm cho sự yếu đuối và mỏng dòn của con người.
Chúng ta nhớ thời Cựu ước, dân Do thái không biết bao nhiêu lần bội nghĩa thất trung nhưng Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi họ. Những Tông đồ đầu tiên được Chúa Giêsu kêu gọi cũng là những người thất học, thậm chí có người tội lỗi công khai. Dù vậy, chính những người đó lại là nền tảng để xây dựng Giáo hội. Đúng như lời của một ai đã nói: "Không thánh nhân nào mà không có một quá khứ tội lỗi. Cũng như không có một tội nhân nào mà không có một tương lai rực sáng".
Có lẽ nhiều lúc chúng ta tự hỏi tại sao còn nhiều kẻ ác vẫn còn sống thoải mái. Thậm chí họ còn làm hại nhiều người lành nữa. Trời đất sao tiêu diệt những hạng người đó cho xong. Suy niệm dụ ngôn hôm nay chắc phần nào chúng ta sẽ tìm được câu trả lời. Thiên Chúa không bao giờ muốn ai trong chúng ta bị hư mất. Hãy cám ơn Chúa vì biết đâu có lúc chính ta lại là những cỏ lùng. Thiên Chúa vẫn luôn kiên nhẫn trông chờ chúng ta có thể trở thành cây lúa tốt.
51. Hiểu biết và kiên nhẫn
(Lm FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Câu dẫn nhập ngắn (c. 24a) liên kết dụ ngôn Cỏ lùng (13,24b-30) với hai dụ ngôn tiếp theo (cc. 31a.33a). Chủ đề “gieo giống” cũng là chủ đề của dụ ngôn trước; các từ móc là “gieo” (speirô), “giống” (sperma) và “ruộng” (agros).
Hai dụ ngôn ngắn, Hạt cải và Men (cc. 31-33), đưa chúng ta tới với diễn từ về các dụ ngôn Đức Giêsu giảng cho công chúng. Dụ ngôn Hạt cải, với một câu mở tương tự 13,24, được liên kết với dụ ngôn trước bằng những từ móc “con người” (anthrôpos), “gieo” (speirô), “ruộng” (agros) và “giống” (sperma). Dụ ngôn Men có nhiều điểm khác biệt hơn. Hai dụ ngôn này có bố cục song song trong phần thứ nhất, còn kết luận thì khác nhau.
Các câu 34-35 đưa tới một kết luận cho bài Diễn từ công cộng. Tác giả Mt đưa độc giả trở lại với cc. 2-3 và cc. 10.13. Câu 35b tương ứng với Tv 78,2 LXX, vì có số phức en parabolais (“Mở miệng ra, tôi sẽ kể các dụ ngôn); còn c. 35c không tương ứng với một bản văn Kinh Thánh nào cả và cũng không thuộc ngôn ngữ Mt.
Với c. 36a, chúng ta được đưa trở lại với Mt 13,1-2: thể văn đóng khung. Câu hỏi của các môn đệ kèm theo câu trả lời của Đức Giêsu được đối lại ở c. 51, với câu hỏi của Đức Giêsu và câu trả lời của các môn đệ.
2.- Bố cục
Nếu xác định cấu trúc theo kiểu quen thuộc của Mt, chúng ta có thể cho rằng đoạn văn đọc hôm nay có ba phần A, B và C, với một câu mở và một câu kết như sau:
Mở (13,24a)
A. Các dụ ngôn:
(1) Dụ ngôn 1: “Cỏ lùng” (13,24b-30):
a) Trình bày sự việc (cc. 24b-26),
b) Mẩu đối thoại giữa chủ nhà và các đầy tớ (cc. 27-30);
(2) Dụ ngôn 2: “Hạt cải” (13,31-32),
(3) Dụ ngôn 3: “Men” (13,33);
B. Lý do nói bằng Dụ ngôn (13,34-35);
C. Dụ ngôn Cỏ lùng được giải thích (13,36-42; c. 36 là câu dẫn nhập):
a) Giải thích bài dụ ngôn từng từ một (cc. 37-39),
b) “Bài khải huyền nhỏ” (cc. 40-43);
Kết (13,43).
3.- Vài điểm chú giải
- Cỏ lùng (zizania, 25): Đây là một loại cỏ ăn bám, độc hại. Khắp vùng Trung Đông đầy loại cỏ này. Nó bị coi là một dạng thoái hóa, biến chất, của lúa mì. Trong thân nó, có một thứ nấm thường tiết ra một chất độc.
- Hạt cải (31): Tiếng Hy Lạp là kokkos sinapeôs. Cây sinapi (ta tạm dịch là “cây cải”) là một loại cây rau thông dụng bên Paléttina, có thể cao tới ba hoặc bốn thước, dạng mộc với các cành tỏa rộng. Lá của nó có thể làm rau. Hạt của nó không phải là nhỏ nhất trong các loại hạt (đường kính khoảng 1mm), nhưng nhỏ nhất trong các loại hạt được người ta gieo trồng, được dùng làm mù-tạc, thuốc và thức ăn cho chim. Tục ngữ Do Thái dùng hạt này mà chỉ những gì nhỏ nhất. Sách Mishna coi cây cải đen (brassica nigra) là loại cây trồng ngoài cánh đồng. Nhưng tại Paléttina và nhiều nơi khác, người ta trồng trong vườn nhà.
- Nó trở thành cây to (32): Trong Cựu Ước, cây cho đàn chim trú ngụ là một hình ảnh quen thuộc để diễn tả một vương quốc hùng mạnh đảm bảo che chở các thần dân (x. Ed 17,23; 31,6; Đn 4,9; 11,18). Trong nền văn chương khải huyền, kinh sư hoặc targum, “chim” tượng trưng các dân ngoại đang kéo đến thật đông. Ở đây, Mt nêu bật đặc tính cánh chung của dụ ngôn khi phóng đại kích thước của cây rau thành “một cây to”.
- chim trời tới làm tổ trên cành (32): Chi tiết này không phải là không thể xảy ra, bởi vì chim chóc thích ăn hạt cải.
- vùi vào (33): dịch sát là “giấu trong” (enekrypsen). Động từ này đi với văn cảnh (x. cc. 35.44)
- ba thúng bột (33): “Thúng” là từ được chọn để dịch từ saton Hy Lạp. Saton là một đơn vị đo lường ngũ cốc và bột, tương đương với 13-15 lít. Đây là một lượng bột lớn, khi đã dậy men thì có thể làm ra bánh cho khoảng 150 người ăn. Mt nhấn mạnh đến tính hữu hiệu của men.
- công bố (35): Động từ “công bố”, ereugomai, hiếm khi được dùng. Nghĩa chữ là “mạc khải”, nhưng cũng có thể là “gây ồn ào”, “thốt ra”, “diễn tả”.
- các gương mù gương xấu (40): Trong Kinh Thánh, skandala nhắm đến những sự vật chứ không nhắm đến những con người (x. Mt 18,6-7). Đây là những điều làm cho người khác “vấp”, nghĩa là không đi vững vàng trong đường lối Thiên Chúa.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Nhìn vào cuộc sống, ta thấy Thiên Chúa ở trong tình trạng ẩn mình, Ngài không can thiệp cách rõ ràng hiển nhiên. Người ta có thể sống không cần và còn chống lại Ngài mà dường như chẳng phải chịu hậu quả gì. Ngài biến mất hoàn toàn đàng sau các thế lực và các quyền hành đang thống trị sân khấu thế giới và đang can thiệp vào trong đời sống chúng ta cách quyết liệt. Tất cả tình trạng này vẫn là một chướng kỳ khiến con người khó mà coi trọng Thiên Chúa và tin cậy nơi Ngài. Điều này cũng đúng cho bản thân và công trình của Đức Giêsu, đúng cho cả cộng đoàn các tín hữu là Hội Thánh. Do bản tính, chúng ta hướng về sự to lớn, sức mạnh, sự hào nhoáng, sự hiển nhiên, sự cao cả, chứ chúng ta không nghiêng về sự chờ đợi, sự kiên trì nhẫn nại. Các giáo huấn của Đức Giêsu hôm nay giúp chúng ta suy nghĩ lại cách suy tưởng và xử sự của chúng ta.
Đức Giêsu đến không như một nhà chiến thắng oai hùng, có sức thuyết phục và thống trị mọi người. Con đường Người theo và công trình của Người gây nhiều mệt nhọc. Cái chết của Người trong tình trạng bất lực và bị bỏ rơi dường như cung cấp một dấu chỉ rõ ràng cho thấy Người không đáng giá gì và ta không thể tin cậy nơi Người.
Đức Giêsu biết hoàn cảnh khó chịu này, nhưng Người không thay đổi cách xử sự: Người là và vẫn là Ngôi Lời Thiên Chúa đã làm người (x. Ga 1,14), Người đã đi vào trong tình trạng lệ thuộc, yếu đuối và mỏng dòn của cuộc sống con người. Người vẫn là Người Tôi Tớ của Thiên Chúa, không gây ồn ào, không tỏ ra hào nhoáng (x. Mt 12,15-21).
* Dụ ngôn 1: “Cỏ lùng” (24-30)
Tuy nhiên, Đức Giêsu cũng muốn giúp chúng ta hiểu đúng đắn hoàn cảnh này và ngăn cản chúng ta rút ra những kết luận vội vã. Chúng ta không được chỉ nhìn vào ngày hôm nay, và khép mình lại trong khoảnh khắc hiện tại. Dụ ngôn Cỏ lùng có mục đích ấy.
Dụ ngôn Cỏ lùng là một tấn kịch có hai cảnh. Cảnh thứ nhất diễn ra hai nhân vật và hành động đối lập: Trên cùng một mảnh đất, ông chủ và kẻ thù đã gieo hai loại giống khác nhau, lúa tốt và cỏ lùng là loại cỏ ăn hại. Cảnh thứ hai mở ra với sự can thiệp của các đầy tớ: Họ hỏi một câu hỏi thừa là chẳng lẽ ông chủ lại không gieo giống tốt, mà như vậy thì do đâu có cỏ lùng. Câu hỏi không cần thiết, nhất là bởi vì họ không hỏi vì sao có quá nhiều cỏ lùng như thế. Có ai lại ngạc nhiên khi thấy trong một thửa ruộng xuất hiện thứ cỏ không thể tránh được?
Câu trả lời của ông chủ thật đáng ngạc nhiên. Ông biết rõ ràng là kẻ thù đã làm điều đó. Tuy nhiên, có kẻ thù nào lại có ý tưởng đó và lại có đủ hạt giống cỏ lùng mà gieo ngay trong đêm như thế! Nếu họ lén lút gặt lúa chín hoặc đốt cánh đồng, thì còn dễ hiểu hơn. Đàng khác, gợi ý của các đầy tớ là nhổ cỏ lùng cũng dễ hiểu, vì người ta vẫn làm như thế. Vậy mà ông chủ lại không đồng ý, ông bảo: “Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt” (c. 30). Như thế, bài dụ ngôn không muốn mô tả cách làm ruộng thông thường.
Mọi chuyện trở nên rõ ràng khi đến cuối. Các thợ gặt, chứ không phải là các đầy tớ đã đến hỏi, trước tiên sẽ thu gom cỏ lùng, bó thành bó mà đốt đi. Thông thường người ta làm cách khác: cỏ lùng chưa được nhổ đi sẽ bị thợ gặt quẳng trên đất, sau đó được thu gom lại cho gà ăn hoặc để đốt đi.
* Dụ ngôn 2: “Hạt cải” (31-32)
Bằng dụ ngôn tiếp theo, Đức Giêsu mời độc giả quan tâm đến sự tương phản giữa hạt cải lúc đầu và cây to ở hồi kết thúc. Hạt cải là một thứ bé nhỏ và không đáng ai để ý, nhưng sẽ không cứ ở trong tình trạng nhỏ bé mãi; nó sẽ phát triển nhiều và mọi người phải nhìn nhận nó. Một chi tiết lạ: người nọ gieo “(chỉ) một” hạt cải trong ruộng/cánh đồng. Hẳn chúng ta nhớ lại bài dụ ngôn trước (13,24), nhưng ở đây rõ ràng không phải là vấn đề gieo và gặt, mà là vấn đề đặc tính của cây cải mà Đức Giêsu muốn vận dụng để giới thiệu Nước Trời.
Chuyện xảy ra cho Nước Trời cũng như vậy: khởi đầu trong tình trạng bé nhỏ, khiêm tốn; nhưng kết cuộc sẽ là một kết quả đầy sức thuyết phục. Dụ ngôn này là một lời “loan báo” đầy sức an ủi và khích lệ cho những ai chưa thấy các nỗi niềm chờ mong thiên sai được thể hiện nơi công trình của Đức Kitô.
* Dụ ngôn 3: “Men” (33)
Dụ ngôn về men lấy lại bài học của dụ ngôn trên. Hình ảnh “men” lấy từ nhà bếp. Bà nội trợ có thể mua men hoặc tự làm lấy. Đây là sự tương phản giữa phần khởi đầu nhỏ bé và khối lượng bột to lớn ở cuối. Khởi đầu với một chút men, không mấy ai để ý; nhưng trong đó đã chứa đựng tất cả sức bung mở trong tương lai. Như men đã được “giấu ẩn” trong bột, Nước Thiên Chúa lúc khởi đầu là một thực tại không ai thấy; chỉ sang giai đoạn thứ hai, ta mới thấy được sức mạnh của chút men ấy. Sự nhỏ nhoi khiêm tốn của chút men khiến làm ta không ngờ tới tác động của nó trên khối bột; đó cũng sẽ là tác động của Nước Thiên Chúa trong lòng nhân loại. Cũng như tình trạng nhỏ bé là một điều kiện quan trọng để hạt cải phát triển (c. 31), tình trạng giấu ẩn, hòa trộn với bột là điều kiện thiết yếu để cho men có thể tác động.
Động tác “vùi” (“giấu”) men vào trong bột hẳn muốn gợi ý đến tình trạng ẩn giấu của chân lý. Tình trạng ẩn giấu của sự thật trong các dụ ngôn (c. 35) và tình trạng ẩn giấu của kho báu trong ruộng (c. 44) tương ứng với men bị “vùi/giấu”. Hội Thánh có nhiệm vụ vén mở cho thấy chân lý giấu ẩn bằng lời nói và việc làm (10,26-27; x. 5,13-16). Khi làm như thế, Hội Thánh làm cho thế giới “dậy men”.
* Tại sao nói bằng Dụ ngôn? (34-35)
Tác giả Mt cắt ngang diễn từ các dụ ngôn bằng cách đưa vào một “bản tóm tắt” hoạt động rao giảng của Đức Giêsu. “Người không nói gì với họ mà không dùng dụ ngôn” (c. 34). Câu văn này được TM Mc dùng để kết thúc “phân đoạn” các dụ ngôn (x. Mc 4,33-34); được đưa vào trong văn cảnh Mt, ta không hiểu rõ lý do bao nhiêu. Rất có thể tác giả Mt đưa câu ấy vào đây để ngưng một chút trong diễn từ dài về các dụ ngôn và để đào sâu những nguyên do thần học đã đưa Đức Giêsu đến chỗ chuộng ngôn ngữ dụ ngôn hơn là ngôn ngữ thông thường (x. c. 11). Sau đó, câu 35 với hai vế song song (c. 35b và 35c) giúp hiểu rằng mục đích của Đức Giêsu là trình bày những gì dược giấu kín. Cũng như ở 13,14-15, ở đây lại xuất hiện mối bận tâm biện giáo của Mt, đó là xác nhận thể văn dụ ngôn bằng một chứng từ Kinh Thánh. Lần này ngài trích Tv 78,2, trong đó mầu nhiệm tạo dựng được kể dưới dạng các câu bí hiểm. Tác giả Mt coi mọi bản văn Kinh Thánh Cựu Ước có một giá trị ngôn sứ. Rõ ràng Kinh Thánh đã tiên báo là Đấng Mêsia sẽ nói bằng dụ ngôn! Tuy nhiên, dân chúng lại không hiểu những gì Người đã nói. Chỉ các môn đệ mới hiểu, nên bây giờ Người rút về nhà với các ông. Thật ra, dụ ngôn Men là dụ ngôn cuối cùng Đức Giêsu công bố từ trên thuyền cho dân chúng, rồi sau đó Người về nhà và tiếp tục bài giảng với các môn đệ (c. 36).
Vậy dân chúng ở lại bên ngoài. Họ đã làm điều gì xấu khiến Đức Giêsu phải quay lưng lại với họ như thế? Dựa theo ngữ cảnh của Mt 13, thì chúng ta phải nói: họ không làm gì xấu cả. Đây là cách tác giả báo trước những điều sẽ xảy ra trong cuộc sống tương lai của Đức Giêsu. Dân chúng sẽ đưa Đức Giêsu đến thập giá, có nghĩa là họ sẽ liên tục loại trừ các sứ giả cho đến khi loại được cả vị Sứ Giả tối cao.
* Dụ ngôn Cỏ lùng được giải thích (36-43)
Đức Giêsu bỏ đám đông đang nghe Người tại điểm này và cùng với các môn đệ về nhà, nơi xuất phát (x. 13,1). Nay Người giảng dạy cho các môn đệ. Đời môn đệ là như vậy: suốt đời, họ phải học với “vị thầy duy nhất” là Đức Giêsu (x. 23,8). Tác giả gọi bài này là “dụ ngôn các Cỏ lùng trong ruộng” (hê parabolê tôn zizaniôn tou agrou) vì bài học nhắm vào điểm này.
Đức Giêsu đã giải nghĩa từng hình ảnh một. Danh mục ở cc. 37-39 chuẩn bị cho phần áp dụng ở cc. 40-43. Kẻ gieo hạt giống tốt là Con Người. Đến c. 41, ta thấy Con Người chính là vị Thẩm phán trần gian. Người nắm trong tay không những công việc gieo giống, mà cả việc thu hoạch và như thế là toàn thể lịch sử thế giới. Trong TM Mt, Con Người là Chúa tể xét xử, Người tháp tùng Hội Thánh suốt hành trình xuyên qua tình trạng cô đơn, đau khổ, để đi đến sự sống lại. Ruộng là thế gian (chứ không phải là Hội Thánh; Hội Thánh luôn hiện hữu chỉ trong sứ mạng truyền giáo cho thế gian). Hạt giống tốt là con cái Nước Trời (x. 8,12). Chúng ta không biết chính xác “con cái Nước Trời” là ai, nhưng toàn thể TM I cho thấy làm thế nào, thay vì dân Israel, “Dân ngoại” (ethnê) mang hoa trái (x. 21,43) sẽ trở thành “con cái Nước Trời”. Các cỏ lùng là “con cái Ác Thần”. Kẻ thù là ma quỷ, nó vẫn đang hoạt động, như ở 13,19, trong lúc này. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên thần của cuộc phán xét.
Sau những giải thích chuẩn bị, bây giờ tác giả Mt diễn tả mối quan tâm của ngài; ngài nhấn mạnh trên khía cạnh tiêu cực. Cũng như chủ nhà sẽ thu gom cỏ lùng lại vào lúc gặt và “lấy lửa đốt đi” (x. 3,12), chuyện cũng sẽ xảy ra như thế cho các con cái Ác Thần vào lúc tận thế. Ở đây, trên mặt đất này, các sự việc “trộn lẫn” với nhau: bên cạnh những người tốt, có những kẻ xấu. Sự gần kề này là một chướng kỳ. Các môn đệ trong nhà phải để ý đừng thuộc về “những kẻ làm gương mù gương xấu” (skandala) và “những kẻ làm điều gian ác” (anomia), đang có cả ở bên trong lẫn bên ngoài Hội Thánh.
Thiên Chúa lại không phải can thiệp, ngăn cản những kẻ xấu hành động và chặn đứng tất cả những lối xử sự bất công của họ sao? Đây lại không phải là nhiệm vụ của Đấng Mêsia: tách biệt người lành kẻ dữ và thiết lập những tương quan vĩnh viễn trong sáng sao (x. 3,12)? Chúng ta nhớ đến phản ứng của Giacôbê và Gioan khi cả nhóm không được một làng Samari tiếp đón: “Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không?” (Lc 9,54). Đức Giêsu dùng dụ ngôn để dạy cho loài người chúng ta biết chấp nhận hoàn cảnh pha trộn này. Người không có nhiệm vụ chia cắt rõ ràng và vĩnh viễn người lành với người dữ. Người quy tụ các môn đệ quanh Người và dạy cho họ biết con đường của Người; như Người, cả họ nữa, họ cũng phải rảo qua con đường ấy trong thế giới này.
Nếu trong cuộc sống trần thế này, vẫn còn tình trạng gần kề, chưa tách biệt, điều đó không có nghĩa là hoàn cảnh này sẽ kéo dài mãi, là làm tốt làm xấu thì cũng như nhau! Đức Giêsu cho biết, số phận của người lành kẻ dữ sau này sẽ hoàn toàn khác nhau. Những người tốt, vì đã ra sức thi hành ý muốn của Thiên Chúa, sẽ được đón vào trong Nước Trời và thuộc về gia đình Thiên Chúa, sẽ được Ngài nhìn nhận là con cái (x. 5,9). Họ sẽ được sống trong ánh sáng và niềm vui chan hòa; chính họ cũng sẽ chói chan hạnh phúc. Những kẻ khác, vì đã không quan tâm đến thánh ý Thiên Chúa, đã đi theo tính ích kỷ và còn muốn lôi kéo người thân cận theo, sẽ bị loại khỏi cộng đoàn này.
+ Kết luận
Xuyên qua hình ảnh cỏ lùng, Đức Giêsu nói lên sự kiên nhẫn của Thiên Chúa đối với loài người: về phương diện thực vật, cỏ lùng không thể biến thành lúa tốt, nhưng trên bình diện thiêng liêng, kẻ xấu có thể trở thành người tốt, nếu họ được người khác nêu gương sáng, tác động để họ biết vận dụng những ơn lành Thiên Chúa vẫn ban cho họ.
Xuyên qua hình ảnh hạt cải và nắm men, Đức Giêsu cho thấy rằng một tình trạng khởi đầu không nổi rõ không có nghĩa là kết thúc cũng như thế. Chỉ đến cuối, khi cây cải đã lớn lên và bột đã dậy men, người ta mới biết có cái gì ẩn giấu trong hạt cải và men. Cũng thế, Nước Trời (Thiên Chúa) trên mặt đất đang hiện diện, không viên mãn và xán lạn, nhưng trong sức mạnh dồi dào, và sẽ tỏ rõ ra vào lúc kết thúc. Vậy, ai ước ao thuộc về Đức Kitô, cần phải có một tầm nhìn rộng rãi và kiên nhẫn.
Như vậy, Nước Thiên Chúa đã khởi sự với công việc loan báo Tin Mừng, nhưng tình trạng hiện nay còn rất khiêm tốn (chưa đủ thuyết phục) và không rõ ràng (người tốt kẻ xấu đang lớn lên với nhau). Chỉ sau khi đã trải qua một hành trình dài, trong tình trạng tranh tối tranh sáng, Nước Thiên Chúa mới tỏ hiện rõ ràng là một cuộc quy tụ toàn thể vũ trụ vào sống trong bình an của Thiên Chúa.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Phương pháp làm việc của con người và Thiên Chúa thật khác nhau. Tiêu chuẩn các đầy tớ nêu ra diễn tả một khát vọng vẫn dày vò các người của Thiên Chúa, như Giêrêmia, Gióp, những người nghèo của Đức Chúa. Gioan Tẩy Giả cũng đã chia sẻ mối bận tâm ấy khi giới thiệu Đấng Mêsia đến sẽ làm việc quyết liệt: như rìu đã đặt sẵn nơi gốc cây (x. Mt 3,10), như nia đã sẵn sàng để rê lúa (x. Mt 3,11; Lc 3,17); một phép rửa trong lửa đang chờ đợi mọi người (x. Mt 3,11; Lc 3,16). Người ta cũng tạo lập những nhóm “những người hoàn hảo” tách khỏi những người khác: đó là những người Pharisêu, “những người tách biệt”, và những người Exêni ở Qumrân, “các con cái ánh sáng”, “những người công chính”. Đây chính là những đầy tớ của ông chủ trong dụ ngôn. Tuy nhiên, vì có hiểu biết và kiên nhẫn vô biên, Thiên Chúa đã và vẫn xử sự cách khác.
2. Thiên Chúa không muốn triệt tiêu sự dữ, nghĩa là những kẻ dữ, nhưng muốn họ sống còn và sống chung với những người tốt. Hẳn là Ngài hiểu tính hợp lý trong đề nghị của các đầy tớ, nhưng Ngài đã phải xử sự ngược đời, là vì cỏ lùng sống đan quyện với lúa tốt, nên nếu nhổ cỏ lùng, thì khó tránh được chuyện nhổ cả lúa tốt. Với lại, nếu cỏ lùng không thể thành lúa tốt (về thực vật học), kẻ xấu lại có thể trở thành người tốt (trong đời sống thiêng liêng). Sự hiểu biết và kiên nhẫn của Thiên Chúa là nhằm cứu độ mọi người. Đàng khác, sự xấu và sự thiện đan quyện với nhau tinh vi đến nỗi không dễ gì mà phân tách ra. Thật ra không phải là với những cuộc tiêu diệt mà người ta xây dựng được Nước Thiên Chúa, nhưng là với sự kiên nhẫn và tin tưởng.
3. Những gì mà loài người thấy như là một chướng kỳ thật ra lại là một điều bí nhiệm nằm trong chương trình Thiên Chúa: sự bé bỏng và yếu đuối không gây phương hại mà đúng hơn lại tạo điều kiện cho thành công tương lai. Nếu Nước Thiên Chúa trở thành một định chế tự thỏa mãn về mình và hết là một hạt cải, thì Nước ấy thiếu mất điều kiện tăng trưởng. Chỉ khi biết mình yếu đuối, con người cậy dựa vào Thiên Chúa, con người mới nên mạnh mẽ (x. 2 Cr 12,9). Các tín hữu cần phải bỏ các điểm tựa và các duyên cớ trần tục, trở thành nghèo khó, khiêm nhường, yếu đuối, để Họi Thánh có được những đặc tính như Đấng Sáng Lập thần linh muốn cho có.
4. Dụ ngôn Men trong bột khiến chúng ta nhớ đến một phương pháp mục vụ mà các sứ giả Tin Mừng đều nhớ: họ được đề nghị sống âm thầm, khiêm tốn, nhỏ bé, để có thể chuyển sức mạnh Tin Mừng vào trong lòng thế giới và biến đổi thế giới từ bên trong. Một tư tưởng khác đến từ thư 1 Pr 1,1: “Tôi là Phêrô, Tông Đồ của Đức Giêsu Kitô, kính gửi những người được Thiên Chúa kén chọn, những khách lữ hành đang sống tản mác trong các xứ”. Các Kitô hữu sống tản mác, sống tình trạng diaspora. Trong tiếng Hy Lạp, diaspora là hành động gieo hạt: Vậy các Kitô hữu là hạt giống Thiên Chúa gieo vào trong thế giới, để cuối cùng toàn thế giới trở thành một cánh đồng của Thiên Chúa, mang những hoa quả tốt lành.
52. Sự kiên nhẫn và bao dung của Thiên Chúa
(Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Trong cuộc sống, chúng ta thường xuyên đặt ra cho mình thắc mắc hay được nghe những chất vấn của rất nhiều người như: “Tại sao Thiên Chúa lại để cho người dữ sống chung với người lành mà không tiêu diệt nó đi?”; hay “Tại sao kẻ ác lại gặp được may mắn, còn nhiều khi người tốt lại gặp phải thất bại?”; và “Trước thực trạng đó, chúng ta cần phải có thái độ nào? Có được phép tiêu diệt kẻ dữ để làm cho Giáo Hội được trong sạch không?”.
Hôm nay, chúng ta sẽ tìm thấy câu trả lời cho những vấn nạn trên qua ý nghĩa của ba dụ ngôn, đó là: dụ ngôn hạt giống và cỏ lùng, dụ ngôn hạt cải và dụ ngôn men bánh.
Qua ba dụ ngôn trên, ta thấy rất rõ cách hành xử của con người và Thiên Chúa hoàn toàn khác nhau. Cũng qua bài học của ba dụ ngôn trên, mỗi người chúng ta cần phải có thái độ sao cho phù hợp với thánh ý Thiên Chúa.
Trước tiên, chúng ta cùng xem cách hành xử của con người như thế nào?
1. Cách hành xử của con người
Vì mang trong mình sự hữu hạn của loài thụ tạo, nên chúng ta không thể thoát ra khỏi sự yếu đuối, bất toàn của kiếp nhân sinh. Tuy nhiên, thay vì cần có thái độ khiêm nhường như Đức Mẹ, thánh Phêrô, Phaolô, Âu tinh..., để tạ ơn Chúa và sửa sai hầu được tốt lành hơn, hay sẵn sàng cảm thông cũng như chia sẻ, nắm lấy tay nhau, dìu nhau đứng dạy và hướng tới sự thánh thiện, thì chúng ta nhiều khi chẳng khác gì những đầy tớ của ông chủ trong “dụ ngôn cỏ lùng”, luôn tìm cách triệt hạ những kẻ yếu đuối và bất toàn, để muốn giải quyết cho nhanh hầu được yên thân, xong chuyện: “Vậy ông có muốn chúng tôi nhổ cỏ đi không?”.
Thật vậy, đã nhiều lần chúng ta không đứng về phía bao dung để tha thứ, mà lại cảm thấy khó chịu và đòi hỏi mọi người phải thánh thiện, tốt lành, trong khi đó, chúng ta không hề xắn tay áo lên để cùng nhau giải quyết.
Thái độ của chúng ta là như thế đó. Luôn muốn loại bỏ cái xấu cũng như cả con người xấu cùng lúc. Tuy nhiên, xem ra thái độ này không được đảm bảo, bởi lẽ không hợp với thánh ý Thiên Chúa muốn.
Vậy ý muốn và cách hành xử của Thiên Chúa là gì?
2. Cách hành xử của Thiên Chúa
Qua dụ ngôn cỏ lùng, Đức Giêsu muốn giới thiệu cho chúng ta về bản chất của Thiên Chúa là: “Ðấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương” (Tv 103, 8).
Vì bản chất của Thiên Chúa là yêu thương, tha thứ và kiên nhẫn, nên trong mọi hoàn cảnh, biến cố, dù chúng ta suy nghĩ cách nào, tiêu cực hay tích cực, Ngài luôn tìm cách và dịp thuận tiện để hướng dẫn, dạy dỗ nhằm thể hiện tình yêu thương của Ngài và mong muốn chúng ta quay về để được tha thứ, yêu thương. Bởi vì “Ngài ghét tội chứ không ghét kẻ có tội”. Nên khi nghe đầy tớ đến xin cho phép được nhổ cỏ lùng ngay lập tức, thay vì thái độ ưng thuận, ông chủ đã ngăn chặn ngay và nói: “Đừng, cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt... sợ rằng khi nhổ cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa”. Cách hành xử này hoàn toàn khác với cách hành xử của con người mà chúng ta đã tìm hiểu ở trên.
Thật vậy, Nước Thiên Chúa đã đến nơi hành động của người gieo hạt. Tuy nhiên, Nước ấy được lớn lên ngay trong những thử thách qua hình ảnh cỏ lùng và lúa ở cùng với nhau, trà trộn vào nhau. Thời gian từ lúc gieo cho đến lúc gặt chính là thời gian kiên nhẫn chờ đợi của Thiên Chúa trong sự bao dung, nhẫn nại, để chờ đợi con người sám hối, ăn năn.
3. Sứ điệp Lời chúa và thái độ của chúng ta
Lời Chúa hôm nay muốn mời gọi chúng ta cần phải có thái độ như Thiên Chúa là: hiền từ, nhân hậu, bao dung và kiên nhẫn, để chịu đựng những điều xấu của người khác và dần dần tìm cách để hoán cải họ nhờ ơn Chúa Thánh Thần. Đồng thời cảnh tỉnh chúng ta tránh cho xa thái độ của những đầy tớ là ích kỷ, nóng vội, bảo thủ và bất bao dung.
Tại sao vậy? Thưa, vì chúng ta cần phải nhìn nhận rằng: “Kẻ dữ người lành đều là con cái Chúa, được Chúa thương yêu tất cả, chúng ta cũng phải thương yêu nhau và phải có thái độ khoan dung” (thánh Augustinô).
Thật vậy, Thiên Chúa là Đấng: “... cho mặt trời chiếu soi kẻ dữ cũng như người lành, và cho mưa trên người công chính cũng như kẻ bất lương”.
Khi Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở nên hiền từ, nhân hậu và kiên nhẫn, ấy là lúc Ngài muốn chúng ta có sự bình tâm để được thanh thản ngay trong những thử thách do người anh chị em chúng ta gây nên, đồng thời đợi chờ để kẻ tội lỗi có cơ may quay trở lại. Thật vậy, "Nước trời giống như hạt cải người kia gieo trong ruộng mình. Hạt đó bé nhỏ hơn mọi thứ hạt giống, nhưng khi mọc lên, thì lớn hơn mọi thứ rau cỏ, rồi thành cây, đến nỗi chim trời đến nương náu nơi ngành nó"; hay "Nước trời giống như men người đàn bà kia lấy đem trộn vào ba đấu bột, cho đến khi bột dậy men" là bằng chứng cho thấy thành công của sự kiên trì và chờ đợi trong hy vọng.
Mặt khác, Lời Chúa hôm nay cũng cho chúng ta thấy rằng: không vinh quang nào mà không có thánh giá. Không thành không nào lại thiếu mồ hôi và nước mắt. Vì thế, chúng ta phải luôn tỉnh thức và chiến đấu, nếu không kẻ thù là ma quỷ sẽ tiến lại và thỏa sức gieo cỏ lùng là tội lỗi... vào trong mảnh đất tâm hồn, hầu làm cho lương tâm chúng ta nhuốm màu đen tối của sự ác...
Làm được điều đó, chúng ta phải trở nên khiêm tốn để lắng nghe Lời Chúa hướng dẫn chứ đừng có tai mà không nghe, có mắt mà không thấy.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con đừng rơi vào thái độ khó chịu, bất mãn về những khuyết điểm nơi anh chị em. Xin cho chúng con nhận ra sự nhẫn nại của Thiên Chúa. Đồng thời biết phản ánh tình yêu của Thiên Chúa qua hành động, lời nói và thái độ của chúng con. Amen.
53. Chung đụng với lúa miến và cỏ lùng
(Lm Trần Bình Trọng)
Để giúp người nghe hiểu về sự phát triển của nước Trời, Chúa Giêsu dùng ba dụ ngôn để chuyển đạt ý niệm. Dụ ngôn về hạt cải ám chỉ nước Trời bắt đầu rất nhỏ bé như hạt cải với việc chọn có mười hai tông đồ. Dụ ngôn nắm bột dậy men ám chỉ việc bành trướng của nước Chúa lúc đầu cũng nhỏ bé. Và nước Trời được ví như một thửa ruộng được gieo hạt giống. Trong khi người gieo giống thiếp ngủ, thì kẻ thù đến gieo vãi cỏ lùng vực vào ruộng lúa của chủ như Phúc âm hôm nay ghi lại: Khi mọi người đang ngủ, thì kẻ thù của ông đến gieo thêm cỏ lùng vào ruộng lúa, rồi đi mất (Mt 13:25).
Theo ý nghĩa dụ ngôn thì lúa miến và cỏ lùng tượng trưng cho thiện và ác, sự lành và sự dữ. Thánh kinh dạy ta có sự hiện diện của sự dữ trong thế gian. Theo thần học và Thánh kinh công giáo thì thần dữ không chịu tuân phục Thiên Chúa. Như vậy sự dữ là sản phẩm của tự do mà Thiên Chúa đã ban cho loài thụ tạo: cho thiên thần cũng như loài người. Lucifer vì bất tuân phục Thiên Chúa, nên đã trở thành thần dữ. Ađam vì không vâng lệnh Thiên Chúa nên đã để cho tội lỗi lọt vào thế gian..
Vì thế bao lâu con người còn tại thế, thì thiện ác, tốt xấu, vẫn xen lẫn nhau như lúa miến và cỏ lùng và gây xung đột trong lòng người. Kẻ thù của nước Trời hằng rình chực lúc con cái sự sáng ngủ mê, không tỉnh thức cầu nguyện, không sống và thực hành lời Chúa, để gieo vãi cỏ dại là tội lỗi và các thứ tính mê nết xấu vào tâm hồn loài người. Dưới chiêu bài tự do: tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do tư tưởng và tôn trọng quan điểm cá nhân, người ta tự do gieo vãi hạt giống cỏ lùng vào thế gian, trong xã hội ta đang sống bằng đủ mọi phương tiện truyền thông xã hội như sách vở, báo chí, truyền thanh, truyền hình, phim ảnh, mạng tin tức hầu làm tắc nghẽn lời Chúa, làm sa đoạ lòng người, làm lũng đoạn vườn nho của Giáo hội. Tội ác phạm đến Chúa, đến tha nhân và đến chính mình xẩy ra hằng phút trên thế giới.
Loài người thường có khuynh hướng hay đổ lỗi cho quỉ. Hễ cái gì xấu xa, dơ bẩn hay tội lỗi, thì cho là tại quỉ. Vì thế mà người ta ví nghịch như quỉ, xấu như quỉ, ác như quỉ.. Có lẽ người ta ví nghịch như quỉ cho nên hoạ sĩ mới hay vẽ hình thằng quỉ có cái đuôi dài? Mà thực vậy, hễ con vật gì có đuôi dài là nó thường nghịch, chẳng hạn như con khỉ. Về phương diện này thì kể ra cũng tội nghiệp cho thằng quỉ. Không biết còn gì giống như quỉ nữa không? Có một linh mục Việt Nam kia, trước khi qua Mỹ tu nghiệp có gặp một linh mục Mỹ, học làm linh mục cho giáo phận Đà nẵng, sau khi mãn lính Mỹ ở Việt Nam. Linh mục người Mỹ nói với linh mục người Việt: 'Cha cứ sang đó mà coi. Nó lạnh như quỉ vậy!' Ông cha Việt nam nghĩ bụng từ trước tới nay đọc sách nói về hoả ngục với lửa sinh lửa diêm, thì phải nóng chứ. Sao bây giờ ông cha Mĩ lại ví: nó lạnh như quỉ vậy?
Hôm nay mỗi người cần nhận thức rằng nhiều cám dỗ để làm bậy là do khuynh hướng xấu trong con người chứ không hẳn là do ma quỉ bầy đặt. Đó chính là điều mà Thánh Phaolô đã nhận ra là có hai khuynh hướng hay hai lề luật phản nghịch nhau nơi loài người: Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì luật của Thiên Chúa; nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: luật này chiến đấu chống lại luật của lí trí và giam hãm tôi trong luật của tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể tôi (Rm 7:22-23). Thánh Phaolô muốn nói là thần trí ta muốn vươn lên, nhưng xác thịt cứ kéo ghì ta xuống.
Gương xấu và sự dữ trong thế gian giống như cỏ lùng, có thể gây ảnh hưởng xấu và làm hại ta bất cứ lúc nào. Và hậu quả của sự dữ có ảnh hưởng đến người xung quanh, tốt cũng như xấu. Để bảo vệ mùa gặt lúa trong Phúc âm hôm nay, đầy tớ đề nghị với chủ phải nhổ cỏ lùng. Tuy nhiên chủ lại bảo phải để cỏ lùng mọc chung với lúa miến, cho tới mùa gặt là lúc mà người ta mới có thể dễ dàng tách biệt lúa ra khỏi cỏ. Chủ trương để cỏ lùng mọc chung với lúa miến cho tới mùa gặt nói lên lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa và lòng khoan dung của Người mà ta cần phải học. Biết đâu người gian ác được ơn sám hối để trở lại cùng Chúa như sách Khôn Ngoan hôm nay ghi lại: Ngài đã cho con cái niềm hi vọng tràn trề là người có tội được Ngài ban ơn sám hối (Kn 12:19). Có những người có thể phản đối giải pháp trì hoãn này. Lý do họ đưa ra là nếu Giáo hội hay nước Chúa ở trần gian là phương tiện cứu rỗi thì phải diệt cội rễ của sự dữ và nết xấu. Tuy nhiên thời giờ tách biệt thiện hảo ra khỏi gian ác một cách hiệu quả và toàn diện thì chưa tới lúc. Bài học thứ hai ta cần học là thời giờ phán xét cũng là của Chúa và thuộc về Chúa.
Còn bài học thứ ba ta có thể rút tỉa trong Phúc âm hôm nay là việc thiện cũng như thói xấu đều bắt đầu bằng những việc nhỏ bé, nảy mầm từ những cám dỗ phạm những lỗi nhỏ, rồi đưa đến tội tầy đình. Việc luyện tập nhân đức cũng phải bắt đầu bằng những việc nhỏ bé dễ dàng. Vì thế mà ta cần luyện tập để thắng lướt những cám dỗ nhỏ trước để lấy đà hầu có thế thắng vượt cám dỗ lớn. Muốn được như vậy, ta phải tỉnh thức cầu nguyện, luyện tập nhân đức để có thể chống trả cám dỗ. Bao lâu còn tại thế, ta phải chung đụng với lúa miến và cỏ lùng: chung đụng với sự lành và sự dữ, tốt xấu và thiện ác. Vì thế ta phải canh chừng kẻo bị cỏ lùng lấn át.
Lời nguyện xin cho được ơn đứng vững trước cỏ lùng:
Lạy Chúa, mọi công trình Chúa tạo dựng đều là tốt đẹp.
Mà tội lỗi của thần dữ và ông bà nguyên tổ đã làm ra xấu.
Xin cho con được nhận thức rằng bao lâu còn tại thế
con phải chung đụng giữa cỏ lùng và lúa miến
trong xã hội loài ngưòi cũng như trong chính bản thân con.
Xin cho những người đang gieo vãi cỏ lùng vào thế gian
có được tâm hồn biết kính sợ Chúa.
Và xin cho con được đứng vững, khỏi bị cỏ lùng lấn át. Amen.
54. Cỏ lùng - hạt cải - men
Thiên Chúa tốt lành, yêu thương , nhân hậu, ban cho con ngưòi món quà lớn lao là tự do. Ngưòi còn nhẫn nại, chờ đợi và mong mỏi nguời tội lỗi hối cải để được sống. Vì Thiên Chúa có ơn cứu độ. Cuối cùng mới phán xét và thưởng phạt công minh.
*Thiên Chúa thưởng công việc lành cách bội hậu nhất là đời sau "phần thưởng đời đời". Đời đời sánh với đời nầy thì như hạt cải tí xíu mà lớn thành cây to đến nổi chim trời đến làm tổ được. Việc làm của đức tin. (đức tin bằng hạt cải). Có gieo thì mới có gặt dù chỉ gieo hạt cải. Không gieo thì lấy gì mà gặt.(không làm việc lành mà muốn Chúa ban nhiều ơn ).
*Men làm cho bột dậy men nhiều hơn và ngon hơn: Gương lành lôi cuốn những người xung quanh cũng tốt hơn.
CHÚ GIẢI
Là dụ ngôn về Nước Trời. Nói chuyện nước Trời.
- Nước trời ví như ngưòi kia gieo giống tốt trong ruộng mình: Thiên Chúa gieo Lời vào thế gian. Thế gian là tạo vật đã xuống cấp tệ hại. Xấu cùng khắp. Thiên Chúa gieo Lời là gieo giữa cỏ lùng.
- Kẻ thù đã làm đó: Từ xưa coi ma quỉ là kẻ thù. Mọi sự xấu đều dổ trên đầu nó. Đức Giêsu nói cái xấu là "tự lòng ta". Thiên Chúa ban trí khôn để con ngưòi biết lành biết dữ mà "làm lành lánh dữ" chứ đâu phải để làm dữ lánh lành. Ban cho tự do để dùng trí "khôn" chọn cái tốt mà làm cho mình tốt hơn (đâu phải để làm cái xấu mà thành xấu hơn). Ngưòi ta đã làm trái ý Thiên Chúa nên cái xấu đã tràn lan. Cỏ lùng cùng khắp. Ngay cả trong lòng Hội Thánh.
- Ông có muốn chúng tôi đi nhổ cỏ lùng không?: Có đen mới rõ trắng. Có cỏ mới thấy lúa quí. Kẻ lành phải lập công mới có công nghiệp. Cỏ lùng là thử thách của lúa. Kẻ dữ thử thách kẻ lành. Lữa thử vàng gian nan thử đức.
- Hãy để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt: Thiên Chúa tốt lành, yêu thương, nhân hậu thì nhẫn nại chờ đợi "người tội lỗi hối cải" để được sống. Thiên Chúa không muốn nó phải chết. Nhưng có mùa gặt. Có loại lúa 100 ngày, có thứ 120 ngày, có lúa mùa 6 tháng. Không có lúa 2509 ( hai năm không chín). Thiên Chúa chờ đợi nhưng tuỳ theo "khả năng hối cải " của mỗi người. Lúa mùa 6 tháng phải cho gạo ngon hơn. Mùa gặt cho cá nhân. Mùa gặt cho cả thế gian.
- Đến ngày mùa ta sẽ cho gom cỏ lùng mà đốt đi còn lúa tốt thì thu vào lẩm: Lạnh lùng! Lúa tốt mới thu vào lẫm. Không có van xin thương xót. Mà là phán xét và thưỏng phạt công minh.
- Hạt cải là hạt giống nhỏ nhất nhưng khi lớn lên lại là thứ lớn nhất: Không có hạt cải tự nhiên nào như vậy. Chỉ có hạt cải trong Nước Trời "Đức tin bằng hạt cải". Đó là việc lành tự nguyện do đức tin. Đời nầy thì gấp trăm ( ai bỏ cha mẹ...vì Thầy thì được lại gấp trăm ở đời nầy) đời sau thì đời đời. Được một chút đời đời thì cũng không thể tính nổi..
- Men làm cho bột dậy men: Làm bánh phải có men (bánh chai ăn không ngon). Bột dậy men sẽ nhiều hơn, bánh ăn ngon hơn. Ngưòi làm việc lành, gương lành sẽ làm cho xung quanh dậy men, xã hội tốt hơn. Hỡi ôi! Xã hội ngày càng xấu hơn vì cái xấu, gương xấu đầy dẩy, tràn lan.
Nhìn sơ thì thấy ba dụ ngôn rời rạc. Nhưng rất liên kết.
Thế gian - tạo vật- con người- xuống cấp tệ hại. Đâu đâu cũng chỉ thấy cỏ lùng.
Thiên Chúa là Đấng tốt lành, đầy lòng thương xót nên nhẫn nại chờ đợi "chậm bất bình và rất mực khoan dung". Chờ đợi người tội lỗi hối cải, gieo những hạt cải "đức tin", làm gương lành giúp cải tạo xã hội. Đường lối của Thiên Chúa tích cực. Không phải cứ phạm tội rồi xưng tội, Chúa tha, hết tội. Hay thậm chí đợi giờ chót rồi sám hối!Hoặc người ta rước cha giùm, Cha giải tội lòng lành, ban ơn toàn xá tha hết mọi phần phạt tạm, lên thiên đàng cái ục. Giữ đạo dễ lắm! Đã có ơn cứu độ "phổ quát" lên thiên đàng hết. Xin lỗi! lúa tốt mới được thu vào lẫm. Cỏ lùng thì đốt đi. Không có cọng cỏ nào được thu vào lẫm đâu.
Là cây lúa chưa đủ mà phải cho những hạt lúa tốt. Ngưòi tốt phải có việc lành, phải làm gương tốt. Phải làm lúa tốt cho tới mùa gặt nữa. Phải gieo những hạt cải đức tin. Một đời sống tốt Cho một ly nước với tư cách là môn đệ. Cho Chúa ăn cho Chúa uống, mặc, uống thuốc...
Có nhiều người gieo hạt cải, thì ruộng thế gian sẽ có lúa tốt, có bột, có men nữa thì có bánh ăn ngon.
Có nhiều đời sống "gương lành" giúp cải tạo môi trường xã hội thành Nước Thiên Chúa. Một vị thánh cải tạo thời đại mình rất nhiều. Hãy là thánh. Là Hội Thánh. Là Nước Trời đến.
Xin cho Nước Cha trị đến.
22/07 Hãy báo tin cho anh em Ta hay
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Hãy báo tin cho anh em Ta hay.
Thứ bảy tuần 15 thường niên – Thánh nữ Maria Mađalêna. Lễ KÍNH.
"Bà kia, sao mà khóc? Bà tìm ai?"
* Vốn là người phụ nữ tội lỗi đã được Chúa Giêsu ban ơn tha thứ, Maria Mađalêna đã hết tình phục vụ Người. Trong cuộc thương khó, khi các Tông Đồ mạnh ai nấy chạy thì thánh nữ đã can đảm đứng dưới chân thập giá Đức Giêsu, cùng với Đức Maria, tông đồ Gioan và một số phụ nữ khác. Đức Giêsu đã tưởng thưởng lòng trung thành đơn sơ của thánh nữ khi hiện ra với thánh nữ sáng ngày phục sinh và trao cho thánh nữ trách nhiệm loan báo Tin Mừng phục sinh cho các môn đệ của Người. Chẳng phải vô cớ mà phụng vụ Đông phương đã gọi thánh nữ là “tông đồ của các tông đồ”.
Lời Chúa: Ga 20, 1. 11-18
Ngày đầu tuần, Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm khi trời còn tối, và bà thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mồ.
(Bà liền chạy về tìm Simon Phêrô và người môn đệ khác được Chúa Giêsu yêu mến, bà nói với các ông rằng: "Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta để Thầy ở đâu".)
Bà Maria đang còn đứng gần mồ Chúa mà than khóc, nhìn vào trong mồ, bà thấy hai thiên thần mặc áo trắng đang ngồi nơi đã đặt xác Chúa Giêsu, một vị ngồi phía đàng đầu, một vị ngồi phía đàng chân. Hai vị hỏi: "Tại sao bà khóc?" Bà trả lời: "Người ta đã lấy mất xác Chúa tôi, và tôi không biết người ta đã để Người ở đâu?" Vừa nói xong, bà quay mặt lại, thì thấy Chúa Giêsu đã đứng đó. Nhưng bà chưa biết là Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu hỏi: "Bà kia, sao mà khóc? Bà tìm ai?" Tưởng là người giữ vườn, Maria thưa: "Thưa ông, nếu ông đã mang xác Người đi, thì xin cho tôi biết ông đã đặt Người ở đâu, để tôi đến lấy xác Người". Chúa Giêsu gọi: "Maria". Quay mặt lại, bà thưa Người: "Rabboni", nghĩa là "Lạy Thầy". Chúa Giêsu bảo bà: "Đừng động đến Ta, vì Ta chưa về cùng Cha Ta. Nhưng hãy báo tin cho các anh em Ta hay và bảo họ rằng: "Ta về cùng Cha Ta, cũng là Cha các con; về cùng Thiên Chúa Ta, cũng là Thiên Chúa các con".
Maria Mađalêna đi báo tin cho các môn đệ rằng: "Tôi đã trông thấy Chúa, và Chúa đã phán với tôi những điều ấy".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Người Bị Mạo Nhận
Ngoại trừ Mẹ Của Chúa Giêsu, trong các Phúc Âm ít có phụ nữ nào được viét đến nhiều và với đầy sự tôn kính bằng thánh nữ Maria Madalena mà Giáo Hội mừng lễ hôm nay.
Tuy nhiên, người ta có thể gọi Maria Madalena là thánh nữ của sự vu oan vì tuy các Phúc Âm nói đến ba phụ nữ cùng mang tên Maria, nhưng truyền thống trong Giáo hội Tây phương đồng hóa cả ba thành một người phụ nữ duy nhất. Bởi lẽ đó, Maria Madalena cũng được cho là người phụ nữ tội lỗi không được nêu tên trong đoạn 7 của Phúc Âm thánh Luca, người đã bất chợt đem bình dầu thơm xức chân Chúa Giêsu rồi lấy tóc lau và sau đó được Chúa Giêsu tha thứ mọi tội lỗi, vì bà đã yêu mến nhiều.
Ngày nay, người ta phân biệt ba thánh nữ mang cùng một tên Maria, mà từ lâu lịch phụng vụ của Giáo Hội Hy Lạp đã kính riêng rẽ. Ðó là Maria làng Bêtania, chị bà Martha và ông Lazarô. Rồi người phụ nữ đã được tha nhiều vì yêu mến nhiều và sau cùng là bà Maria Madalena, hoặc Maria làng Madala, người được Chúa chữa khỏi "7 quỷ dữ". Cách nói "7 quỷ dữ" này không thể hiểu là Maria Madalena đã sống một cuộc đời vô luân, nhưng chỉ có nghĩa là bà bị quỷ ám nặng nề.
Ðoạn 8 của Phúc Âm thánh Luca thuật lại hoạt động của thánh nữ Maria Madalena và một ít phụ nữ khác như sau: "Sau đó, Chúa rảo qua các thành, các làng mà rao giảng... Có nhóm Mười Hai đi với Ngài và ít phụ nữ đã được chữa lành khỏi quỷ dữ cùng bệnh hoạn: Maria gọi là người Madala, đã được đuổi khỏi 7 quỷ dữ và Gioanna... cùng nhiều bà khác: Họ đã lấy của cải mình mà trợ giúp Ngài".
Và con đường nối gót theo thầy Giêsu đã dẫn Maria Madalena từ Galilêa đến Giuđêa, cho tới chân thập giá và chính Marian Madalena cũng là người trước tiên tìm đến mộ Thầy, vào sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, để được thấy Chúa Giêsu Phục Sinh và được trao cho nhiệm vụ đi báo cho các tông đồ: "Hãy đi gặp anh em Ta và nói với họ: Ta lên cùng Cha ta và cũng là Cha anh em, Thiên Chúa của ta và Thiên Chúa của anh em".
Theo truyền thống Hy Lạp, sau này Maria Madalena đến sống tại Êphêsô cho đến khi qua đời.
Trải qua nhiều thế kỷ, thánh nữ Maria Madalena bị mạo nhận là người đàn bà tội lỗi. Nhưng thiết nghĩ: Thánh nữ chỉ mỉm cười và xác quyết rằng: "Sự mạo nhận này cũng không có gì là quá đáng, vì chúng ta tất cả là những người tội lỗi, cần thống hối ăn năn và cần ơn tha thứ của Thiên Chúa. Nhưng quan trọng hơn là chúng ta hãy chấp nhận sứ mệnh rao truyền Tin Mừng Phục Sinh qua cuộc sống chứng tá của chúng ta".
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Nồng Nhiệt Ði Tìm Chúa
Maria Mađalêna là mẫu gương cho chúng ta, mẫu gương với tình yêu nồng nhiệt đi tìm Chúa, một tình yêu luôn thao thức muốn được sống gần bên Chúa. Và vì thế mà sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, Maria vội vàng lên đường đi tìm Chúa. Ðây là quan tâm đầu tiên, quan tâm có ưu tiên trong cuộc sống của Maria, và khi chưa tìm được đối tượng là Chúa Giêsu trong ngôi mộ đã an táng Chúa, Maria đứng ngoài và khóc.
Chúa Giêsu phục sinh đã không để cho Maria gặp thử thách lâu. Chúa đến với Maria và gọi đích danh bà, rồi biến đổi cuộc đời từ bên trong để sai bà đi làm người chứng đầu tiên cho Ðấng phục sinh nơi các môn đệ Chúa. Trong biến cố được ghi lại trong đoạn Phúc Âm chúng ta vừa đọc lại trên đây, chúng ta thấy rằng để gặp được Chúa Giêsu, những cố gắng riêng của con người không mà thôi thì chưa đủ. Chính Chúa Giêsu phục sinh là người đi bước đầu, Chúa hiện ra và gọi: Maria. Chúa đáp lại thiện ý và cố gắng của Maria. Chúa luôn làm như vậy với tất cả những ai thành tâm tìm Chúa.
Chúng ta hãy noi gương Maria luôn đi tìm Chúa. Tìm Chúa trong lời cầu nguyện ngõ hầu cuối cùng chính Chúa mạc khải chính mình ra cho kẻ tìm Ngài, ngõ hầu chúng ta có thể nhận ra Ngài và loan báo cho anh chị em chung quanh: tôi đã gặp Chúa, tôi đã nhìn thấy Chúa.
Lạy Chúa,
Xin cho con được gặp Chúa. Xin đừng để con phải rời xa Chúa là Thiên Chúa mãi mãi.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Thánh Maria Madalena
Các Giáo phụ đã tranh luận và các nhà chú giải vẫn còn tìm hiểu xem Giáo hội có kính nhớ ba thánh nữ dưới cùng một danh xưng Maria Madalena hay không.
Người thứ nhất là một người nữ tội lỗi. Khi Chúa Giêsu vào nhà ông biệt phái Simon, một tội nhân vô danh đã được ơn tha tội, nhờ tình yêu bà bày tỏ trong việc xức dầu thơm vào chân Chúa rồi lấy tóc mà lau (Lc VII, 36-39).
Đàng khác, cũng chính việc thánh sử Luca (Lc VIII, 43-48) đã nói đến Maria Madalêna được Chúa Giêsu trừ quỉ cho. Thánh nữ là một trong số phụ nữ đã theo Chúa trong các cuộc hành trình của Người. Hiện diện trên đồi Calvê, Ngài cũng thuộc vào số các bà đem dầu thơm đến mồ xức xác Chúa. Ngài là người đầu tiên báo tin cho các môn đệ biết ngôi mộ trống. Trở lại mộ ngay sau đó, Ngài đã thấy và nói truyện với các thiên thần. Sau cùng, Ngài đã nhận ra Đâng Phục sinh mà thoạt đầu Ngài tưởng là một bác làm vườn (Ga 20, 1-18).
Maria Bêtania, là chị em của Matta và Lazarô đã ngồi dưới chân Chúa Giêsu mà nghe lời Người, trong khi Matta bận rộn chuẩn bị bữa ăn. Thế mà Ngài là người đã chọn phần tốt nhất, phần chiêm niệm (Lc 10,38-42). Khi Chúa Giêsu đến cứu sống Lazarô, thánh nữ vẫn giữ một phần tương tự. Ngài ngồi tại nhà cho tới khi Matta kêu Ngài tới gặp “thầy”. Ít ngày sau, Ngài đã xức dầu Chúa Giêsu (Mt 26,6-13).
Mặc dầu các sách Tin Mừng không bảo đảm đồng nhất ba khuôn mặt này thành một người và ý kiến các giáo phụ còn trái nghịch, nhưng Giáo hội Tây phương từ thế kỷ thứ VI đã đồng hóa thành một người. Sự đồng hóa này được diễn tả trong phụng vụ.
Với sự đồng hóa ấy, lòng đạo đức thường diễn tả thánh Maria Madalena như một phụ nữ có mái tóc dài, được Chúa Giêsu tha thứ nao nức đón nghe Lời Người. Bà đã được chứng kiến Laxarô sống lại. Tiên cảm được về thảm kịch khổ nạn, bà đã đổ dầu thơm quí giá lên chân Chúa Giêsu như một cuộc xức dầu cao cả. Hiện diện dưới chân thánh giá, bà sẽ được Chúa Giêsu thân ái gọi tên “Maria” buổi sáng phục sinh.
Sau đó, người ta không nghe nói gì về Maria Madalena nữa. Theo truyền thuyết, Ngài đã từ trần và được mai táng ở Ephêsô. Năm 889, hoàng đế Lêô VI đã chuyển thi hài thánh nữ về một tu viện ở Constantinople.
Suy niệm 4:
Mối tương quan thân thiết giữa Đức Giêsu và Maria Mađalêna
đã được một vài tác giả khai thác và dựng thành truyện.
Từ tiếng nức nở của Maria Mađalêna bày tỏ tình yêu với Thầy Giêsu
trong vở nhạc kịch nổi tiếng Jesus Christ Superstar của thập niên 70,
đến chuyện Đức Giêsu bị đóng đinh mà còn mơ lấy Maria làm vợ, đẻ con,
trong truyện Cơn Cám Dỗ Cuối Cùng của Nikos Kazantzakis.
Gần đây nhất là cuốn Mật mã Da Vinci đã hấp dẫn cả triệu người,
dù câu chuyện giữa Đức Giêsu và Maria Mađalêna hoàn toàn hư cấu.
Theo các sách Tin Mừng, Maria Mađalêna không hề là gái gọi.
Chị không phải là cô Maria ngồi dưới chân Chúa mà nghe (Lc 10, 39),
hay là cô Maria xức chân Chúa ở Bêtania bằng dầu thơm hảo hạng (Ga 12, 3).
Chị cũng không phải là người phụ nữ tội lỗi ở nhà ông Pharisêu (Lc 7, 36).
Maria Mađalêna là người quê ở vùng Mácđala, gần bên hồ Galilê.
Chị đã được Đức Giêsu trừ bảy quỷ,
và đã đi theo Thầy từ Galilê cùng các bà khác (Lc 8, 1-3; 23, 49. 55).
Chị đã theo Thầy đến tận Núi Sọ và đứng bên Thầy bị đóng đinh (Ga 19, 25).
Chị là người đầu tiên ra viếng mộ buổi sáng ngày thứ nhất (c. 1).
Không thấy xác Thầy, chị hốt hoảng chạy về báo cho hai môn đệ khác (c. 2).
Sau đó chị lại đến mộ lần nữa để tìm xác Thầy (c. 11).
Nếu không mến Thầy, chị chẳng thể can đảm theo đến cùng như vậy.
Ngôi mộ tự nó là nơi buồn, buồn hơn vì xác Thầy cũng không còn đó.
Những giọt nước mắt của chị làm ai cũng phải mủi lòng.
Thiên thần và Đấng phục sinh đều hỏi một câu giống nhau: Sao chị khóc?
Maria khóc vì thấy mình mất đi một điều quý báu.
Bận tâm duy nhất ám ảnh chị là tìm lại được xác Thầy.
“Chúng tôi không biết họ để Người ở đâu?”
Ba lần chị đã nói lời tương tự như thế (cc. 2.13.15).
Đấng Phục sinh đến với chị với dáng dấp của một ông làm vườn.
Ngài chạm đến nỗi đau của chị: Sao chị khóc?
Ngài chạm đến khát vọng của chị: Chị tìm ai?
Ngài gọi tên của chị bằng tiếng gọi quen thuộc: Maria.
Với giọng nói ấy, chị nhận ngay ra Thầy và reo lên: Rabbouni.
Đức Giêsu đã lau khô những giọt lệ của chị và cho tim chị vui trở lại.
Chị chỉ mong tìm được xác Thầy, thì lại gặp được chính Thầy đang sống.
Maria Mađalêna là người phụ nữ được thấy Chúa đầu tiên (c. 18),
và được Chúa sai đi loan Tin Mừng phục sinh cho chính các tông đồ (c. 17).
Đời chúng ta nhiều khi như ngôi mộ, mất mát và trống vắng.
Chúng ta đau đớn vì mất Chúa, mất những gì mình yêu quý xưa nay.
Nhưng nếu ngôi mộ không trống thì làm sao có Tin Mừng phục sinh?
Chỉ mong chúng ta tìm kiếm Chúa với rất nhiều tình yêu như chị Maria,
vì biết mình sẽ gặp được điều quý hơn cái mình đã mất.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa, Chúa đã chịu chết và sống lại,
xin dạy chúng con biết chiến đấu
trong cuộc chiến mỗi ngày
để được sống dồi dào hơn.
Chúa đã khiêm tốn và kiên trì
nhận lấy những thất bại trong cuộc đời
cũng như mọi đau khổ của thập giá,
xin biến mọi đau khổ cũng như mọi thử thách
chúng con phải gánh chịu mỗi ngày,
thành cơ hội giúp chúng con thăng tiến
và trở nên giống Chúa hơn.
Xin dạy chúng con biết rằng
chúng con không thể nên hoàn thiện
nếu như không biết từ bỏ chính mình
và những ước muốn ích kỷ.
Ước chi từ nay,
không gì có thể làm cho chúng con
khổ đau và khóc lóc
chỉ vì quên đi niềm vui ngày Chúa phục sinh.
Chúa là mặt trời tỏa sáng Tình Yêu Chúa Cha,
là hy vọng hạnh phúc bất diệt,
là ngọn lửa tình yêu nồng nàn;
xin lấy niềm vui của Người
mà làm cho chúng con nên mạnh mẽ
và trở thành mối dây yêu thương,
bình an và hiệp nhất giữa chúng con. Amen.
(Chân phước Têrêxa Calcutta)
Lm Nguyễn Cao Siêu SJ.
- 21/07 Con Người là chủ ngày Sabbat
- 20/07 Ách của Ta êm ái
- 19/07 Mạc khải cho kẻ bé mọn
- 18/07 Đón nhận và sám hối
- 17/07 Phần thưởng môn đệ Chúa
- 16/07 Dụ ngôn hạt giống Lời Chúa
- 15/07 Đừng sợ…, nhưng hãy sợ
- 14/07 Số phận người môn đệ Chúa
- 13/07 Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không
- 12/07 Chọn gọi 12 tông đồ