Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
21/07 Con Người là chủ ngày Sabbat
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Con Người là chủ ngày Sabbat.
Thứ sáu tuần 15 thường niên.
"Con Người cũng là chủ ngày sabbat".
Lời Chúa: Mt 12, 1-8
Khi ấy, vào ngày Sabbat, Chúa Giêsu đi ngang cánh đồng lúa. Các môn đệ của Người đói, liền bứt bông lúa mà ăn. Thấy vậy, các người biệt phái thưa với Người rằng: "Kìa, các môn đệ của Ngài làm điều không được phép làm trong ngày Sabbat". Người nói với các ông rằng: "Các ông không đọc thấy Đavít và những người đi với ông đã làm gì khi đói lả sao? Các ông cũng không đọc thấy Đavít vào đền thờ Chúa ăn bánh trưng hiến, bánh mà ông và các kẻ theo ông không được phép ăn, chỉ trừ các tư tế được ăn mà thôi sao? Hay các ông không đọc thấy trong luật rằng: Ngày Sabbat, các tư tế trong đền thờ vi phạm ngày Sabbat mà không mắc tội đó sao? Tôi bảo cho các ông biết, đây có Đấng còn trọng hơn đền thờ nữa. Vì nếu các ông biết được điều này là, "Ta muốn lòng nhân từ, chứ không muốn hy lễ", chắc các ông không bao giờ lên án những người vô tội, vì chưng Con Người cũng là chủ ngày Sabbat".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Ngày Hưu Lễ
Chương 12 Tin Mừng Mátthêu qui tụ những tranh luận giữa Chúa Giêsu và các vị lãnh đạo Do thái giáo thời Chúa Giêsu về những đặc tính của nếp sống tôn giáo. Cuộc tranh luận hôm nay liên quan đến việc thực hành đạo đức căn bản của người Do thái, đó là việc giữ ngày Hưu lễ. Ðây là một thực hành quan trọng đến độ người Biệt Phái đã dùng việc Chúa Giêsu không tuân giữ luật Hưu lễ để lý luận và nói với dân chúng rằng Chúa Giêsu không phải là Ðấng đến từ Thiên Chúa, không phải là Ðấng Mêsia.
Việc dành riêng một ngày nghỉ cho Thiên Chúa đã bị lạm dụng đến mức việc tuân giữ ngày Hưu lễ không còn là do tình yêu mến tôn thờ đối với Thiên Chúa, nhưng là một hình thức ràng buộc con người. Qua cuộc tranh luận với những người Biệt Phái về việc giữ ngày Hưu lễ, Chúa Giêsu mở rộng cho chúng ta thấy giá trị tôn giáo đích thực của ngày Hưu lễ, và do đó phải sống tinh thần ngày Hưu lễ đó như thế nào?
Cuộc tranh luận của Chúa Giêsu đều được trình thuật đầy đủ trong các Tin Mừng Nhất Lãm, nhưng nơi Tin Mừng Mátthêu, tác giả lưu ý hai điểm: thứ nhất, quyền hành của Chúa Giêsu trên các việc thực hành đạo đức; thứ hai, lòng nhân từ có ưu tiên trên việc thực hành đạo đức. Trả lời cho thắc mắc của những người Biệt Phái tại sao các môn đệ Ngài không giữ luật Hưu lễ, Chúa Giêsu nhắc lại việc xẩy ra trong Cựu Ước liên quan đến Ðavít và những người tùy tùng khi đói, tức khi khẩn thiết, đã làm điều không được phép làm, hoặc việc các tư tế trong Ðền thờ không nghỉ ngày Hưu lễ mà cũng không mắc tội. Rồi Chúa kết luận: "Nếu các ông hiểu được ý nghĩa của câu này: "Ta muốn lòng nhân từ, chứ đâu cần lễ tế, ắt các ông sẽ chẳng lên án kẻ vô tội". Lòng nhân từ phải là căn bản cho những phán đoán của chúng ta đối với anh em; cần phải hành xử theo lòng nhân từ này hơn là chỉ xét đoán anh em theo những việc bên ngoài.
Vả lại, những việc đạo đức và việc nghỉ ngày Hưu lễ, là để con người đến gần Thiên Chúa, thế mà Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa đã hiện diện giữa họ, thì lòng đạo đức không còn là một cái gì tuyệt đối phải thi hành nữa. Các tư tế làm việc trong Ðền thờ ngày Hưu lễ mà không lỗi luật, thì các môn đệ Chúa Giêsu lỗi luật thế nào được, vì đã có Chúa Giêsu bên cạnh họ. Ngài là Con Thiên Chúa cao trọng hơn Ðền thờ. Chúa Giêsu muốn nhân dịp này để mạc khải chính Ngài là Ðấng Mêsia cao trọng hơn Ðền thờ và làm chủ cả ngày Hưu lễ; nhưng các người Biệt Phái không nhìn nhận điều này.
Xin Chúa giúp chúng ta vượt qua tinh thần vụ hình thức trong đời sống đức tin. Xin cho chúng ta tâm hồn nhân từ như Chúa để biết đối xử với người khác mỗi ngày một tốt đẹp hơn.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 2: Tinh Thần Vụ Hình Thức (Mt 12,1-8)
Cuộc tranh luận trên của Chúa Giêsu với những người biệt phái được tường thuật cách đầy đủ trong cả bốn Phúc Âm, nhưng nơi Phúc Âm thánh Mátthêu này thì tác giả xem ra muốn lưu ý độc giả hai điểm: thứ nhất là lòng nhân từ ưu tiên trên việc thực hành những việc đạo đức và thứ hai là quyền hành của Chúa Giêsu vượt lên trên những việc đạo đức.
"Ta ưa thích lòng nhân từ chứ không ưa thích của lễ". Lòng nhân từ phải là căn bản cho những phán đoán của ta đối với anh chị em. Cần hành xử theo lòng nhân từ này hơn là chỉ lo xét đoán anh chị em theo những việc bề ngoài. Hơn nữa, những việc đạo đức trong đó có việc nghỉ ngày sabát là để con người đến gần Thiên Chúa. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, đang hiện diện giữa các tông đồ, Người làm cho những việc đạo đức khác trở thành thứ yếu, bởi vì một khi đã đạt đến mục tiêu là sống hiện diện với Chúa rồi, thì những phương tiện, những việc đạo đức phải nhường chỗ. Nếu các biệt phái chấp nhận rằng các thầy tư tế làm việc trong đền thờ vào ngày nghỉ sabát sẽ không lỗi luật nghỉ sabát, thì những đồ đệ của Chúa Giêsu lỗi luật ngày sabát sao được vì đã có Chúa bên cạnh họ rồi.
"Ðây có Ðấng cao trọng hơn đền thờ". Chúa Giêsu dùng việc tranh luận để mạc khải về chính mình là Ðấng cao trọng hơn đền thờ, là Ðấng Thiên Sai, Ðấng dĩ nhiên có quyền trên ngày sabát. Ước chi chúng ta đừng xét xử anh chị em qua những việc đạo đức bên ngoài. Những việc làm này là điều tốt, đáng làm, nhưng không phải là tiêu chuẩn tuyệt đối để ta dựa vào mà xét xử anh chị em. Lòng nhân từ thì quan trọng hơn.
Lạy Chúa, Xin giúp con vượt qua được tinh thần vụ hình thức trong đời sống đức tin. Xin thương ban cho con tâm hồn nhân từ yêu thương như Chúa, để biết cảm thông và đối xử với anh chị em chung quanh mỗi ngày một tốt đẹp hơn.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 3: Những Luật Phải Vi Phạm.
Khi ấy vào ngày sa bát, Đức Giêsu đi băng qua một cánh đồng lúa; các môn đệ thấy đói và bắt đầu bứt lúa ăn. Những người Pha-ri-sêu thấy vậy, mới nói với Đức Giêsu: “Ông coi, các môn đệ ông làm điều không được phép làm trong ngày sa bát!” (Mt. 12, 1-2)
Các môn đệ đói.
Các môn đệ Chúa bị cơn đói dày vò. Luật ngày sa bát không cho phép các ông bứt lúa mà ăn trong ngày ấy. Các môn đệ vẫn cứ bứt lúa ăn. Các người Pha-ri-sêu cho đó là xì-căng-đan. Đức Giêsu dùng sự cố này để bày tỏ quan điểm của Người về ngày sa bát.
Quan điểm đó của Chúa, chúng ta biết rõ rồi. Ngày sa bát phải phục vụ con người… ngày sa bát được phép làm điều lành. Nếu những luật chi phối ngày sa bát đã nén cản trở yêu thương, ta không được làm nô lệ cho những luật ấy và ngần ngại vi phạm. Nhưng thực tế không phải là phạm luật, bởi lẽ có môt luật được đặt lên hàng ưu tiên và làm lu mờ mọi luật khác: Luật tình yêu. Để yêu thương để giúp người đang túng đói, ta đừng phải sợ thay đổi nội quy, tập tục và luật lệ.
Có những người đang đói.
Theo thói quen ta vốn nghĩ là mình không còn nô lệ cho những luật lệ bất công vốn ngăn trở ta phục vụ tha nhân. Ta lầm rồi đấy. Những luật ấy tuy không áp dụng cho việc tuân giữa này sa bát hoặc ngày chúa nhật, nhưhg nó vẫn tồn tại.
Trên thế giới có những người đang đói ăn. Có nhiều người đang đói ăn. Cónhững người đang chết đói. Cần phải cho họ ăn. Cần phải có đủ trí tưởng tượng và con tim mới giúp họ sống được. Những điều gì đang xảy ra. Có những luật ngăn cản người ta chừng nào hay chừng ấy trong công việc cứu giúp những con người đói khổ kia.
Những luật này, chính các nước giầu tự ấn định cho mình, không những để cho mình vẫn là những nước giầu có mà muốn khuếch trương thêm sự giầu có của họ. Những luật ấy chính chúng ta tự đặt ra cho mình để tiếp tục sống trong tiện nhgi xa hoa.
Ngày nào chúng ta mới dám vi phạm tất cả những luật lệ này để có được một con tim rộng mở biết yêu thương hơn nữa.
J.Y.G
Suy niệm 4:
Đức Khổng Tử đòi người quân tử phải có năm đức tính gọi là ngũ thường.
Đứng đầu của ngũ thường là lòng nhân.
Ngài viết: “Người quân tử mà bỏ đức nhân thì làm sao được gọi là quân tử?
Người quân tử dù trong một bữa ăn cũng không làm trái điều nhân,
dù trong lúc vội vàng cũng theo điều nhân (Luận Ngữ, IV, 5).
Trong giáo huấn của Đức Giêsu, lòng nhân có một chỗ đứng đặc biệt.
Hai lần câu này của ngôn sứ Hôsê được trích dẫn trong Mátthêu:
“Ta muốn lòng nhân, chứ đâu cần lễ tế” (9, 13; 12, 7).
Xem ra câu này không dễ hiểu, nên Ngài khuyên ta học cho biết ý nghĩa.
Giữ ngày sabát là điều rất quan trọng trong Do thái giáo.
Theo Luật Chúa, đó là ngày nghỉ ngơi, ngừng mọi công việc.
Đối với người Pharisêu, bứt lúa được xem như gặt lúa, nên là việc bị cấm làm.
Hành vi bứt lúa của các môn đệ bị coi là vi phạm ngày sabát.
Thay vì trách họ theo lời người Pharisêu, Thầy Giêsu lại bênh vực họ.
Ngài trưng dẫn trường hợp Đavít và các thuộc hạ khi đói bụng
đã ăn bánh thánh hiến vốn dành riêng cho các tư tế (Lv 24,5-9; 1 Sm 21,1-6).
Hiển nhiên đây là chuyện vi phạm Lề Luật vì có nhu cầu chính đáng.
Nếu chấp nhận chuyện Đavít thì càng phải chấp nhận chuyện của các môn đệ,
vì họ đi theo một Đấng mà Đavít phải gọi là Chúa (Mt 22, 43).
Luật giữ ngày sabát thật ra không phải là một đòi buộc luân lý tuyệt đối.
Các tư tế phải làm việc phụng sự Chúa, chuẩn bị các lễ vật vào ngày sabát.
Nếu họ được phép vi phạm ngày sabát mà không mắc tội (c. 5),
thì huống hồ là Thầy Giêsu và các môn đệ của Ngài,
những người làm việc cho Nước Trời, nhưng lại phải chịu đói nên mới bứt lúa.
Đức Giêsu không có thái độ bất kính với ngày sabát.
Nhưng Ngài là chủ ngày sabát, Ngài có quyền xác định điều gì được phép làm.
Ngài thấy gánh nặng đè lên con người bởi những cấm đoán chi li,
khiến con người ngột ngạt, mệt mỏi.
Giữ Luật phải đem lại cho con người hạnh phúc,
phải đi với lòng nhân.
Giữ Luật mà cứng nhắc, thiếu lòng nhân, lòng bao dung,
thì đó là thứ hy lễ Chúa không cần (Hs 6, 6).
Thật ra không có sự đối nghịch giữa luật lệ với lòng nhân.
Giữ luật là cách biểu lộ lòng nhân, vì luật trên hết là luật yêu thương.
Người giữ luật thực sự là người có khuôn mặt vui tươi và trái tim rộng mở.
Khi yêu thì người ta trở nên chi li.
Không phải chi li để xét đoán người khác.
Nhưng chi li vì thấy những nhu cầu nhỏ bé của tha nhân.
Chỉ xin giữ mọi luật lệ nhỏ bé thật chi li, chỉ vì yêu bằng tình yêu quá lớn.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu, vì con bé nhỏ,
nên xin yêu ngài bằng khả năng bé nhỏ của con.
Cho con biết yêu
những công việc bé nhỏ mỗi ngày,
những công việc âm thầm,
những bổn phận mà con làm vì yêu mến.
Cho con biết yêu những hy sinh bé nhỏ mỗi ngày,
vui lòng đón nhận những thánh giá tuy nhỏ,
nhưng làm tim con đau đớn.
Cho con biết yêu tinh thần bé nhỏ của trẻ thơ,
đơn sơ thú nhận mình yếu đuối và bất lực,
sung sướng nương tựa vào duy một mình Chúa.
Hơn nữa, xin cho con can đảm,
dám chọn những gì giúp con trở nên bé nhỏ hơn,
nhờ đó con vui tuoi phục vụ mọi người
và hạnh phúc khi thấy Chúa lớn lên trong con.
Mỗi lần bị cám dỗ tự cao,
xin cho con biết ngắm nhìn con đường Chúa đã đi,
con đường bé nhỏ và khiêm hạ.
Ước gì con được làm bạn của Chúa
trên đường từ Bêlem đến Núi Sọ,
và được ở bên Chúa trong Nước Trời. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
20/07 Ách của Ta êm ái
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Ách của Ta êm ái.
Thứ năm tuần 15 thường niên.
"Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng".
Lời Chúa: Mt 11, 28-30
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Hãy đến với Ta tất cả, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Hãy Ðến Với Chúa
Những kẻ vất vả mang gánh nặng mà Tin Mừng hôm nay nhắc đến được các nhà chú giải hiểu là những con người đơn sơ khiêm tốn, sẵn sàng để Thiên Chúa dạy dỗ hướng dẫn, như được nói đến trong đoạn Tin Mừng trước đó. Tâm hồn họ đã sẵn sàng, giờ đây, Chúa Giêsu mời gọi họ đến với Ngài để được Ngài nâng đỡ bổ sức cho; hay nói theo một bản dịch Kinh Thánh khác: để được Ngài giải thoát khỏi gánh nặng. Gánh nặng nào? Ðó là gánh nặng của lề luật mà các nhà thông thái chất trên vai những con người đơn sơ, hèn mọn. Họ bó gánh nặng đặt lên vai người khác, còn chính họ thì không muốn động ngón tay vào, như lời Chúa trách cứ thái độ giả hình của những người Biệt Phái. Tinh thần vụ luật, vụ hình thức đã làm cho những vị lãnh đạo Do Thái giáo không còn quả tim để thông cảm nữa.
Chúa Giêsu mời gọi dân chúng đến với Ngài để được Ngài giải thoát khỏi gánh nặng và được nâng đỡ bổ sức. Chống lại những người Biệt Phái, Chúa Giêsu đề ra một cái ách mới cho những ai chấp nhận Ngài. Ðây chẳng phải là không còn lề luật, bởi vì giáo huấn của Chúa Giêsu đòi hỏi không thua gì lề luật của Môsê. Nhưng đối với Chúa Giêsu, những kẻ tuân giữ luật Chúa được sức mạnh tinh thần nâng đỡ ủi an, đó là sức mạnh của Thánh Thần mà Ngài đã ban cho các môn đệ để họ tuân giữ luật Chúa, và như vậy luật Chúa trở nên nhẹ nhàng, dễ chu toàn.
Người Kitô hữu không lẻ loi một mình, không tự sức mình tuân giữ luật Chúa. Hằng ngày họ được Chúa nuôi dưỡng bằng chính Mình Máu Thánh Ngài và được ban cho tràn đầy Thánh Thần. Sống theo ơn soi sáng của Thánh Thần, họ sẽ cảm nghiệm được rằng đời sống đức tin với tất cả những hệ lụy, những đòi buộc của nó, sẽ không còn là gánh nặng, mà là niềm vui và sức mạnh trong mọi biến cố, mọi hoàn cảnh cuộc đời.
Xin cho chúng ta biết lắng nghe lời mời gọi đến với Chúa, tin tưởng vào Chúa và lấy tình yêu đáp trả tình yêu để "ách Chúa trở nên êm ái và gánh Chúa trở nên nhẹ nhàng" cho chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 2: Gánh Nặng Cuộc Ðời (Mt 11,28-30)
Theo các nhà chú giải thì những kẻ mệt mỏi và vất vả mà đoạn Phúc Âm nhắc đến là những kẻ đã được nói đến trước đó như là những con người đơn sơ, khiêm tốn, sẵn sàng để cho Chúa dạy bảo, hướng dẫn. Tâm hồn họ đã được chuẩn bị sẵn sàng. Giờ đây, Chúa mời gọi họ một cách tha thiết hơn. Hãy đến với Ngài để được Ngài nâng đỡ, an ủi. Nơi bản văn Kinh Thánh khác, câu quả quyết của Chúa Giêsu: "Ta sẽ nâng đỡ, an ủi" được chuyển dịch là: "Ta sẽ giải phóng họ khỏi gánh nặng". Và gánh nặng nào đây? Thưa, đó là gánh nặng phức tạp mà các nhà thông luật đặt ra đè năng trên vai những con người đơn sơ bé nhỏ, bắt buộc họ phải tuân giữ hết điều này tới điều khác.
Chúa Giêsu đã trách những người biệt phái, thông luật và giả hình như sau: "Họ bó những gánh nặng đặt trên vai dân chúng. Còn họ thì không muốn đụng ngón tay". Tinh thần vụ hình thức, vụ Lề Luật Môsê, đã làm cho những vị lãnh đạo dân Do Thái không còn có một quả tim để thông cảm nữa. Chúa Giêsu mời gọi dân chúng đến với Ngài để được giải thoát khỏi những gánh nặng của cuộc đời, khỏi những gánh nặng của luật lệ, vụ hình thức.
"Hãy mang lấy ách của Ta, ách êm ái, gánh nhẹ nhàng". Chống lại những người Pharisiêu, Chúa Giêsu đề ra cho những ai chấp nhận Ngài một ách mới, nhưng đây không có nghĩa là không còn luật lệ gì nữa cả. Không phải vậy, giáo huấn của Chúa Giêsu rất đòi hỏi không thua gì những đòi hỏi của luật Môsê. Nhưng kẻ tuân giữ Luật Chúa thì còn được sức mạnh Chúa nâng đỡ an ủi, đó là Thánh Thần sự thật mà Chúa Giêsu hứa sẽ ban cho các đồ đệ, để giúp các ngài tuân giữ Luật Chúa và như vậy khiến Luật Chúa trở nên nhẹ nhàng, dễ chu toàn.
Người đồ đệ Chúa không lẻ loi, không tự sức mình mà tuân giữ các giới răn, có Chúa Thánh Thần ngự trong họ, giúp họ hướng về Thiên Chúa mà họ gọi là Cha "Abba". Sống theo sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, người đồ đệ sẽ cảm nghiệm được rằng đời sống đức tin với tất cả những hệ luận của nó sẽ không còn là gánh nặng nữa, nhưng là niềm vui, sự ủi an và cả những thử thách.
Lạy Chúa,
Con hết lòng cảm tạ Chúa, vì tình thương bao la Chúa không ngừng nâng đỡ con. Con cảm tạ Chúa vì đã ban cho con hồng ân của Chúa Thánh Thần, để soi sáng, nâng đỡ con trong những lúc gian nan thử thách. Xin cho con được tin tưởng đến với Chúa, lấy tình yêu đáp lại tình yêu.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 3: Luật Đè Nặng, Luật Giải Thoát
“Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.” (Mt. 11, 28-30)
Ách lề luật
Chúa Giêsu hay ngỏ lời với đám người bình dân, Người thường gặp trên các nẻo đường. Họ là những con người nghèo khổ, bé mọn mà Phúc Âm rất hay nói đến. Cuộc sống của đám người này chẳng có gì là sung sướng. Một trong những lý do thực tế là họ đã phải tuân thủ quá nhiều luật lệ mà giới chức sắc thời đó đã áp đặt lên họ. Và bởi không sao giữ nổi hết những luật lệ tỉ mỉ đó, lên lương tâm họ đâm ra bối rối. Họ đâu có biết rằng trong nhiều trường hợp người ta đã lợi dụng họ.
Thời ấy luật lệ thường quá tỉ mỉ và thường bất công. Những người thấp cổ bé họng cứ phải lầm lũi phục lụy. Còn kẻ có địa vị ăn trên ngồi trước lại khôn khéo tìm kẽ hở để được miễn trừ luật. Gánh nặng quả đã đè năng lên vai những người bé mọn ấy.
Ách tình yêu.
Chúa Giêsu muốn giải thoát họ, người mời gọi họ đổi cái ách ngăn cản họ sống lấy cái ách mới sẽ làm họ sống. Ách đó chỉ gồm có một luật mà thôi: Luật tình yêu.
Nếu Chúa Giêsu bảo người ta phải mang ách là vì điều Người kêu gọi là đòi hỏi cấp bách phải thi hành. Con đường Người đặt cho ta đi quả là gay go, cánh cửa Ngài mở ra cho ai sẽ đi theo Người là cánh cửa hẹp. Thế nhưng Chúa bảo đó là ách êm ái nhẹ nhàng. Tất nhiên là người ta mang ách đó bởi vì tình yêu.
Khi ta cảm thấy ngột ngạt vì phải chu toàn những bổn phận, phải giữ những điều trung tín, phải tôn trọng những lời nói, phải thực hành những điều Phúc Âm truyền buộc thì chỉ có một lý do: Là vì không có tình yêu ở đấy. Khi không có tình yêu, chẳng có gì ý nghĩa. Khi có tình yêu trong công việc, mọi việc đều mang ý nghĩa. Và điều gì có thể coi như nặng nề, bỗng nhiên hóa ra nhẹ nhàng hơn nhiều.
J.Y.G
Suy niệm 4:
Sống làm người ở đời ai tránh được gánh nặng.
Chẳng phải chỉ những người bốc vác ở cảng mới mang gánh nặng.
Gánh nặng gắn liền với phận người.
Có gánh nặng gia đình, gánh nặng nghề nghiệp, gánh nặng tuổi tác.
Có gánh nặng buồn đau của quá khứ, gánh nặng lo âu cho tương lai.
Xem ra mỗi người không vác nổi gánh nặng của mình.
Ai cũng thấy có lúc cần đến người khác.
Đức Giêsu nhìn thấy những ai đang mang gánh nặng vào thời của Ngài.
Đặc biệt những kẻ phải giữ chi li hơn 600 điều luật của phái Pharisêu.
Luật Chúa lẽ ra phải đem đến niềm vui hạnh phúc,
thì lại trở thành “những gánh nặng chất lên vai người ta” (Mt 23, 4).
Đức Giêsu mời đến với Ngài tất cả những ai đang vất vả,
tất cả những ai chưa là môn đệ của Ngài.
Ngài hứa sẽ cho họ được nghỉ ngơi trong tâm hồn (cc. 28. 29).
Sự nghỉ ngơi ở đây chính là sự bình an sâu xa của người được cứu độ,
được hưởng các mối phúc ngay từ bây giờ,
và bắt đầu được sống trong ngày Sabát vĩnh cửu với Thiên Chúa.
“Hãy đến với tôi; hãy mang ách của tôi; hãy học với tôi.”
Lời mời của Đức Giêsu lôi kéo những ai vất vả đến với Ngài.
Ngài mời họ làm môn đệ và sống theo giáo huấn của Ngài.
Trong Cựu Ước, ách tượng trưng cho Luật Thiên Chúa ban cho Môsê
Đi theo làm học trò Đức Giêsu, không phải là không có ách.
Ách của Đức Giêsu chính là lời giáo huấn của Ngài.
Lời giáo huấn ấy chúng ta đã được nghe trong Bài Giảng trên núi.
“Ách của tôi êm ái và gánh của tôi nhẹ nhàng” (c. 30).
Nhiều người không hiểu tại sao Đức Giêsu lại bảo ách mình êm ái,
khi mà Ngài đưa ra những đòi hỏi triệt để hơn,
tận căn hơn những đòi hỏi của Luật được giải thích bởi Môsê.
Thật ra sự êm ái nhẹ nhàng không bắt nguồn từ việc được đòi hỏi ít hơn,
nhưng đến từ tình yêu của tôi đối với Đức Giêsu.
Bài Tin Mừng hôm nay có 7 chữ tôi.
Cái tôi hiền hậu và khiêm nhường của Đức Giêsu thu hút tôi mến Ngài
Chính tình yêu làm cho ách và gánh của Ngài trở nên êm nhẹ.
Người ta thấy nặng nề khi bị áp lực phải giữ các luật lệ bên ngoài,
nhưng lại dễ làm theo sự thúc đẩy của một tình yêu bên trong.
Tự do hơn và vui tươi hơn, đó là điều ta cảm thấy khi sống cho Giêsu.
Làm sao để việc giữ đạo, theo đạo, sống đạo,
không trở thành một gánh nặng đè trên người Kitô hữu?
Làm sao để chúng ta tự do hơn và vui tươi hơn khi đến gặp Giêsu
và tìm được sự nghỉ ngơi cho tâm hồn mình?
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã yêu trái đất này,
và đã sống trọn phận người ở đó.
Chúa đã nếm biết
nỗi khổ đau và hạnh phúc,
sự bi đát và cao cả của phận người.
Xin dạy chúng con biết đường lên trời,
nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.
Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu,
chúng con thấy mình được thêm sức mạnh
để xây dựng trái đất này,
và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.
Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa,
xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời
không làm chúng con quên trời cao;
và những vẻ đẹp của trần gian
không ngăn bước chân con tiến về bên Chúa.
Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con,
mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
19/07 Mạc khải cho kẻ bé mọn
- Viết bởi 19/07 Mac khai cho ke be mon
Mạc khải cho kẻ bé mọn.
Thứ tư tuần 15 thường niên.
"Chúa đã giấu không cho những người khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn".
Lời Chúa: Mt 11, 25-27
Khi ấy, Chúa Giêsu thưa rằng: "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy. Mọi sự đã được Cha Ta trao phó cho Ta. Và không ai biết Con trừ ra Cha; và cũng không ai biết Cha trừ ra Con và kẻ Con muốn mạc khải cho".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Cần Trở Nên Bé Mọn
Con người có thể khước từ Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa thì không bao giờ từ bỏ con người; Ngài luôn mời gọi con người trở về để lãnh nhận ân sủng và sự thật của Ngài. Thiên Chúa mời gọi mọi người, không phân biệt, nhưng từ phía con người có thể có một trong hai thái độ: thái độ của những kẻ bé mọn khiêm tốn để cho Chúa dạy dỗ; và thái độ của những kẻ thông thái, tự cao, cho mình thuộc một nhóm nhỏ tách rời khỏi đại đa số dân chúng.
Những kẻ thông thái được Chúa Giêsu trực tiếp nhắm đến trong Tin Mừng hôm nay là nhóm Biệt Phái đang đứng trong hành lãnh đạo sinh hoạt tôn giáo và chống đối Chúa. Họ đến với Chúa bằng con đường của sự thông hiểu về luật Môsê; họ cho rằng chỉ cần am tường lề luật Môsê trong Kinh Thánh cũng như trong truyền khẩu là con người có thể đến với Chúa: họ tự phụ mình biết Thiên Chúa, nhưng thực ra họ lìa xa Ngài.
Con đường Chúa Giêsu mạc khải để giúp con người đến với Thiên Chúa chính là Ngài, mà mỗi người chúng ta được mời gọi đón nhận với tâm hồn đơn sơ khiêm tốn: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy". Nếu cậy dựa vào sự khôn ngoan của mình, con người sẽ không gặp được Thiên Chúa, nhưng nếu để Chúa Thánh Thần hướng dẫn và nhờ qua Chúa Giêsu Kitô, con người có thể đạt tới sự thông hiệp với Thiên Chúa và được cứu rỗi: "Lạy Cha, con chúc tụng Cha, vì điều Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết, thì Cha lại mạc khải cho những người bé mọn".
Chúng ta cần trở nên những người bé mọn theo tinh thần Phúc Âm, để cảm nếm và sống hòa hiệp với Thiên Chúa. Ðức tin Kitô giáo hướng dẫn chúng ta đến một con người cụ thể, một vị Thiên Chúa chấp nhận sống với con người, chứ không phải những lý lẽ thần học cao siêu. Một con người khiêm tốn có thể có đức tin sâu xa hơn một nhà thông thái. Ðức tin là một hồng ân cần được lãnh nhận hơn là kết quả của sưu tầm trí thức của con người. Thánh Têrêsa Avila, tuy không học hành nhiều, nhưng đã có kinh nghiệm sống động về Thiên Chúa và đã trình bày kinh nghiệm thiêng liêng của mình một cách tốt đẹp, đến nỗi đã được đặt làm tiến sĩ Hội Thánh, vì giáo huấn của thánh nữ để lại là kho tàng thiêng liêng quý báu giúp mọi thành phần Giáo Hội đến với mầu nhiệm Thiên Chúa.
Dĩ nhiên, Chúa Giêsu không có ý loại bỏ những bậc thông thái, nhưng chỉ có ý cảnh tỉnh những ai cậy dựa vào sự thông thái rằng họ sẽ không đến được với Chúa, không có đủ điều kiện để lãnh nhận mạc khải của Chúa. Tuy nhiên, không thiếu những trường hợp có sự hòa hợp giữa thông thái và đức tin Kitô giáo. Thánh Tôma Tiến sĩ là một điển hình. Nói chung, thái độ khiêm tốn để Chúa soi sáng hướng dẫn là điều căn bản cần phải có luôn.
Xin Chúa mở rộng tâm hồn chúng ta để lắng nghe Lời Chúa với tâm hồn khiêm tốn, mến yêu. Xin cho chúng ta biết sống theo sự soi sáng của Thánh Thần để đến với Chúa và anh em.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 2: Kinh Nghiệm Thiêng Liêng (Mt 11,25-27)
Con người có thể khước từ Thiên Chúa nhưng Thiên Chúa thì không bao giờ từ bỏ con người, không bao giờ ngưng mời gọi con người trở về lãnh nhận ân sủng và sự thật Người ban cho nhưng không: "Hết thảy những ai mệt mỏi và vất vả hãy đến với Ta, Ta sẽ nâng đỡ, ủi an". Thiên Chúa mời gọi tất cả mọi người, không phân biệt một ai, nhưng từ phiá con người, khi đáp lại lời mời gọi của Chúa, mỗi người chúng ta có thể có một trong hai thái độ: thái độ đơn sơ, khiêm tốn đón nhận Chúa để cho Ngài hướng dẫn dạy dỗ; hoặc ngược lại, thái độ tự cao của kẻ cho mình là khôn ngoan, không cần đến Thiên Chúa.
Những kẻ khôn ngoan thông thái mà Chúa Giêsu nhắm đến trong đoạn Tin Mừng trên đây là những người biệt phái tinh thông Lề Luật và lãnh đạo sinh hoạt tôn giáo của dân Israel. Có thể nói, những kẻ khôn ngoan thông thái này đến với Chúa bằng con đường hiểu biết, nhất là sự thông thái Lề Luật Môsê. Họ nghĩ rằng chỉ cần am tường những Lề Luật của Môsê là họ có thể đến với Thiên Chúa. Họ ỷ lại vào sự hiểu biết và sự tự phụ cho mình biết rõ Thiên Chúa, nhưng thật ra, họ đang xa lìa Ngài.
"Lạy Cha, con chúc tụng Cha là Chúa trời đất, vì Cha đã giấu những điều đó ngoài những kẻ khôn ngoan thông thái, nhưng lại mạc khải cho chúng con, những kẻ bé mọn". Mỗi người chúng ta cần trở nên bé nhỏ đơn sơ theo tinh thần Phúc Âm để cảm mến và sống mầu nhiệm Thiên Chúa. Ðức tin Kitô hướng ta đến gặp một con người cụ thể, một vì Thiên Chúa chấp nhận đến với con người. Ðức tin Kitô không dựa trên những lý lẽ thần học cao siêu. Ðức tin là một hồng ân cần được khiêm tốn đón nhận hơn là kết quả của cuộc sống sưu tầm trí thức.
Thánh Têrêsa Avila tuy không được học hành nhiều nhưng có kinh nghiệm sống động về Thiên Chúa. Thánh nữ đã trình bày những kinh nghiệm thiêng liêng của mình cách tốt đẹp đến độ Ðức Thánh Cha Phaolô VI đã tuyên bố thánh nữ là tiến sĩ của Giáo Hội, bởi vì giáo huấn của thánh nữ để lại là kho tàng thiêng liêng quý báu giúp các thành phần Giáo Hội đến với mầu nhiệm Thiên Chúa. Dĩ nhiên, đoạn Tin Mừng hôm nay không có ý nói là Chúa Giêsu hoàn toàn loại bỏ những nhà thông thái, nhưng chỉ có ý cảnh tỉnh rằng những ai ỷ lại vào sự hiểu biết thông thái của mình, thì sẽ không đến được với Thiên Chúa. Không thiếu những trường hợp có sự hài hòa giữa sự thông thái và đức tin Kitô như thánh Thomaso thành Aquino. Trong mọi trường hợp, thái độ khiêm tốn chấp nhận để cho Thiên Chúa soi sáng hướng dẫn là điều căn bản cần phải có luôn.
Lạy Chúa,
Xin thương mở rộng tâm hồn cho con được lắng nghe Lời Chúa với hết lòng khiêm tốn và biết ơn. Xin thương giúp con sống theo sự soi sáng của Chúa Thánh Thần để đến với Chúa và anh chị em một cách dễ dàng và sâu xa hơn.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 3: Đường Lối Cư Xử Của Chúa
Vào lúc ấy, Đức Giêsu cất tiếng nói: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết điều này, nhưng lại mắc khải cho những người bé mọn.” (Mt. 11, 25)
Không giống như mọi người
Thiên Chúa không hành động như phần đông người ta, không suy nghĩ như họ, không xét đoán theo cùng tiêu chuẩn như họ.
Đối với phần đông, quy luật chung vẫn là: “Mạnh được yếu thua.” Người giầu có nhiều cơ may thăng tiến, kẻ nghèo thì họa chăng mới được, người khôn ngoan thông thái được mọi người kính trọng, hạng thứ dân ít học vốn bị coi thường. Kẻ có tiền, có quyền giống như: “Miệng quan có gang có thép.” Kẻ trắng tay lý lẽ cũng không. Ai có địa vị, người ấy có quyền ăn quyền nói, kẻ thấp hèn lên tiếng chẳng ai nghe.
Nhưng đối với Chúa lại khác hẳn, kẻ làm đầu phải trở lên người rốt hết, người rốt hết sẽ lên kẻ đứng đầu. Người mạnh trở lên yếu, kẻ yếu được lên mạnh, những bậc khôn ngoan thông thái đã bị giấú không cho biết những mầu nhiệm Nước Trời, trong khi những kẻ bé mọn lại được Chúa mặc khải cho những thực tại tuyệt vời ấy.
Lời tiên báo cho những kẻ bé mọn.
Khi thấy những người khôn ngoan thông thái bịt tai không nghe những lời giáo huấn của Chúa, còn những kẻ bé mọn lại dễ dàng tiếp nhận, Chúa Giêsu trong trạng thái hứng khởi, liền cất tiếng ngợi khen Cha.
Những kẻ bé mọn mà Phúc Âm nói đến ở đây, ta có thể gặp họ ở khắp nơi. Đó là những con người ít được học hành. Những người chẳng có địa vị cao trong xã hội, những người không thành đạt mấy trong cuộc đời, những người sống khiêm tốn. Họ có được sự nhạy bén để mở lòng ra đón nhận những sự thuộc về Chúa, một sự nhạy bén mà những người khác không có.
Nhưng những kẻ bé mọn của Phúc Âm cũng có thể là những người khôn ngoan và thông thái chân thật. Tuy nhiên không phải bất cứ người khôn ngoan thông thái nào cũng là chân thật cả. Mà chỉ có những ai không vênh vang kiêu hãnh về sự hiểu biết và khôn ngoan của mình mới là những người khôn ngoan thông thái chân thật. Chỉ có những người ấy mới có được tâm hồn của những kẻ bé mọn vậy.
J.Y.G
Suy niệm 4:
Bài Tin Mừng hôm nay là một lời nguyện tự phát của Đức Giêsu.
Đó là một lời tạ ơn, một lời ngợi khen của Con dâng lên Cha.
Đức Giêsu gọi Thiên Chúa bằng từ Abba thân thương gần gũi,
nhưng Thiên Chúa ấy cũng là Đấng siêu việt ngàn trùng,
Đấng quyền uy tối thượng, Chúa Tể cả trời đất (c. 25).
Đức Giêsu ca ngợi Cha vì hành vi mặc khải của Cha cho con người.
Cha có một kế hoạch cứu độ nhân loại qua Con của Cha là Đức Giêsu.
Và Cha muốn vén mở kế hoạch đó cho con người biết.
Có những người đã thành tâm đón nhận, và có những người cố ý từ chối.
Nhưng tất cả đều không nằm ngoài chương trình của Cha (c. 26).
Lối nói kiểu Do thái của Đức Giêsu có thể khó hiểu đối với ta ngày nay:
“Cha đã giấu các điều này trước những người khôn ngoan thông thái.”
Thật ra, chẳng phải Thiên Chúa ghét bỏ hay phân biệt đối xử,
vì Ngài muốn cho mọi người được cứu độ (1 Tm 2, 4).
Chẳng phải Cha ghét bỏ các người khôn ngoan và cổ võ sự ngu dốt.
Ngài cũng không che giấu mầu nhiệm Nước Trời trước một ai.
Nhưng quả thật ai tự hào, tự mãn với hiểu biết khôn ngoan của mình,
và khép lại trước những gì vượt quá trí hiểu nông cạn của họ,
người ấy sẽ không có cơ may đón nhận được mặc khải của Thiên Chúa.
Một số kinh sư và người Pharisêu giỏi giang về Sách Thánh và truyền thống,
đã không thể đón nhận được cái hoàn toàn mới mẻ nơi giáo lý Đức Kitô,
vì họ quá bám víu vào cái biết cũ mà họ coi là tuyệt đối.
Nhưng các người bé mọn, ít tri thức và sách vở, lại dễ dàng đón nhận hơn.
Họ hồn nhiên mở ra trước mặc khải của Thiên Chúa qua Đức Giêsu.
Chính vì thế họ biết được những điều sức người không thể nào đạt tới.
Câu cuối (c. 27) là một mặc khải lớn của Đức Giêsu trong tư cách là Con.
Ngài cho thấy giữa Cha và Con có sự hiểu biết nhau cách độc nhất vô nhị.
“Không ai biết rõ Con trừ ra Cha và không ai biết rõ Cha trừ ra Con…”
Sự hiểu biết nhau thân tình và sâu xa này
như thể tạo ra một thế giới riêng giữa Cha và Con.
Muốn biết Cha phải nhờ Con, Đấng duy nhất có đủ thẩm quyền mặc khải.
Hơn nữa, muốn biết Con cũng phải nhờ Cha mặc khải.
Phêrô phải nhờ Cha mới biết được Đức Giêsu là ai (Mt 16, 17).
Nói chung Cha và Con làm nên một thế giới riêng tư, nồng ấm.
Nhưng thế giới ấy lại không khép kín, mà mở ra để mời con người vào.
Cha và Con đều muốn mặc khải thế giới ấy cho con người.
Cha đưa ta gặp Con, Con đưa ta gặp Cha.
Chỉ cần gặp Con hay Cha là có thể bước vào thế giới đó, để gặp cả Cha và Con.
Chị Edit Stein là một phụ nữ Do thái được coi là thông thái, trí tuệ.
Chị đậu tiến sĩ triết học với hạng tối danh dự tại Đức.
và là người cộng tác với ông tổ của Hiện tượng luận là triết gia Husserl.
Việc tìm kiếm Chân Lý đã dẫn chị đến với đạo Công giáo.
Chị đã đi tu Dòng Kín Cát Minh và đã bị giết tại trại giam của Đức quốc xã.
Chị Bênêđícta Thánh Giá được phong thánh năm 1998 bởi Đức Gioan Phaolô II.
Sự thông thái khiêm tốn đã giúp Chị gặp được Nước Trời như một kẻ bé mọn.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện
và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,
khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu
để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
18/07 Đón nhận và sám hối
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Đón nhận và sám hối.
Thứ Ba tuần 15 thường niên.
"Trong ngày phán xét, Tyrô và Siđon sẽ được xét xử khoan dung hơn các ngươi".
Lời Chúa: Mt 11, 20-24
Khi ấy, Chúa Giêsu quở trách các thành đã chứng kiến nhiều phép lạ Người làm mà không chịu sám hối: "Hỡi Côrôzain, khốn cho ngươi! Hỡi Bethsaiđa, khốn cho ngươi! Vì nếu đã xảy ra tại Tyrô và Siđon các phép lạ diễn ra nơi các ngươi, thì họ đã mặc áo nhặm, rắc tro mà ăn năn hối cải từ lâu rồi. Nên Ta bảo các ngươi: Trong ngày phán xét, Tyrô và Siđon sẽ được xét xử khoan dung hơn các ngươi.
"Còn ngươi, hỡi Capharnaum, chớ thì ngươi nhắc mình lên tận trời sao? Ngươi sẽ phải rơi xuống địa ngục, vì nếu các phép lạ diễn ra giữa ngươi mà xảy ra tại Sôđôma, thì thành ấy đã tồn tại cho đến ngày nay. Vậy Ta bảo thật các ngươi: Trong ngày phán xét, Sôđôma sẽ được xét xử khoan dung hơn ngươi".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Lắng Nghe Lời Chúa
Văn minh càng tiến bộ, càng lôi kéo con người đến sa đọa và hủy hoại nền tảng gia đình và xã hội. Ngay từ thời xa xưa, các Tiên Tri trong Cựu Ước đã thấy được hiểm họa ấy. Việc chúc dữ các đô thị là một trong những đề tài nổi bật trong lời rao giảng của các ngài. Sôđôma, Gômôra, Babylon, Tyrô, Siđôn là đối tượng của những lời rủa xả nặng nề nhất của các tiên tri. Những đô thị này không những là nơi phát sinh những sa đọa luân lý, mà còn là biểu tượng của óc tự mãn, sự tôn thờ ngẫu tượng của con người.
Chúa Giêsu cũng tiếp tục truyền thống tiên tri ấy khi Ngài lên tiếng chúc dữ một số thành phố như Corazin, Betsaida. Cuộc sống vật chất sung túc làm cho con người sa đọa, đồng thời chối bỏ tương quan với Ðấng Tạo Hóa. Con người được tạo dựng không phải để sống đơn độc một mình; chính trong tương quan với tha nhân mà con người nên thành toàn hơn, do đó gia đình và xã hội là nhân tố thiết yếu cho sự phát triển toàn diện con người.
Làng mạc, thành phố, đô thị, tự nó là những xã hội cần thiết để con người xây dựng các tương quan và nhờ đó phát triển nhân cách. Tuy nhiên, thay vì giúp con người phát triển, các đô thi thường lại đày đọa con người vào nỗi cô đơn và chối bỏ mối tương quan với Thiên Chúa. Sự trống rỗng trong lòng người dân đô thị cũng là dấu chỉ sự vắng bóng Thiên Chúa. Kinh Thánh không ngừng nhắc nhở con người biết rằng chỉ trong Thiên Chúa, con người mới có thể tạo được tương quan đích thực giữa người với người. Loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, con người không những rơi vào sa đọa, mà còn cắt đứt mọi tương quan với tha nhân.
Lắng nghe Lời Chúa, đó là bí quyết để xây dựng cuộc sống xã hội, thắt chặt quan hệ với tha nhân và trở nên thành toàn. Ðó là điều Chúa Giêsu muốn nhắn nhủ chúng ta trong Tin Mừng hôm nay: con người không thể xây dựng một xã hội tốt đẹp, nếu loại bỏ Thiên Chúa và những giá trị thiêng liêng ra khỏi cuộc sống.
Nguyện cho Lời Chúa soi sáng và hướng dẫn chúng ta trong cuộc sống, để khi mưu sinh và xây dựng xã hội, chúng ta biết đặt Thiên Chúa vào trọng tâm cuộc sống, đeo đuổi những giá trị thiêng liêng và xây dựng tình người.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Ăn Năn Thống Hối (Mt 11,20-24)
Bài Tin Mừng hôm nay là lời khiển trách của Chúa Giêsu đối với cư dân thuộc các thành phố tại miền Galilêa, nằm gần bờ hồ Tibêria. Ba thành phố đó là Khôradin, Bétxaiđa và Caphácnaum. Thành phố Khôradin nằm cách ba cây số về hướng đông bắc của Caphácnaum. Thành Bétxaiđa là quê hương của tông đồ Philiphê, Phêrô, Andrê - em ông Phêrô. Thành Caphácnaum được đặc biệt gọi tên là thành của Chúa Giêsu, nơi Chúa thường hay lui tới, sau những lần rao giảng Tin Mừng qua vùng phụ cận. Tắt một lời, đây là những nơi mà dân chúng ít nhiều đã chứng kiến tận mắt, và được hưởng phúc lành những phép lạ của Chúa, đã được nghe những lời giảng dạy của Người. Thế nhưng, không phải tất cả đều tin nhận Chúa.
Chúa Giêsu đã dành cho dân chúng tại ba thành phố nhiều ơn lành. Thế nhưng, họ không ý thức, không biết quý trọng lắng nghe, không thay đổi đời sống, trở lại với Người. Mục tiêu Chúa nhắm đến là sự ăn năn thống hối của những ai nghe lời Chúa, để lãnh nhận ơn cứu rỗi. Hơn nữa, sự tự phụ, kiêu ngạo của dân thành Capharnaum càng cao, thì sự hủy diệt họ càng nặng nề. Ân huệ được trao ban cho ai nhiều, thì người đó sẽ phải trả lẽ, phải chịu trách nhiệm nhiều hơn.
Những lời khiển trách của Chúa Giêsu có thể được xem như là những lời tổng kết về kết quả của các vụ rao giảng của Chúa tại miền Galilêa. Chúa Giêsu đã thu nhập những môn đệ tại vùng này, nhưng đây chỉ là sự đáp trả của một thiểu số, còn đa số thì vẫn lơ là, không màng chi, dù được chứng kiến những phép lạ Chúa đã thực hiện. Những phép lạ này là dấu chỉ trên Nước Chúa,là lời cảnh tỉnh và thôi thúc con người ăn năn trở lại cùng Thiên Chúa: "Hãy ăn năn thống hối, vì Nước Trời đã gần bên". Chuyện xưa còn mang tính thời sự cho ngày hôm nay, Lời Chúa và những việc kỳ diệu Thiên Chúa vẫn còn tiếp tục thực hiện trong lịch sử con người, cách riêng trong cuộc đời mỗi người chúng ta. Lòng ăn năn thống hối phải là bước đầu tiên chuẩn bị chúng ta tin nhận Chúa. Xin hãy thương ban cho con một quả tim mới, một tinh thần mới, để con đừng hoang phí hồng ân Chúa ban cho con.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Chúa Giêsu Đe Dọa
Bấy giờ Người bắt đầu quả trách các thành đã chứng kiến phần lớn các phép lạ Người làm mà không sám hối:
“Khốn cho các ngươi, hỡi Khô-ra-din! Khốn cho ngươi, hỡi Bét-xai-đa! Vì nhiều phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Xi-đon,thì họ đã mặc vải thô, rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối.” (Mt. 11, 20-21)
Khi Thiên Chúa tỏ mình ra cho người ta cùng một cách. Người hiện diện với những người này hơn với những người kia. Người nói rất rõ ràng cho người này, tối tăm khó hiểu cho người khác. Người luôn sử sự như vậy đó.
Khi Chúa Giêsu chưa đến ở giữa chúng ta, Thiên Chúa duy trì mối liên hệ đặc biệt với dân Ít-ra-en. Chẳng một dân tộc nào mà được Chúa dùng các ngôn sứ mà nói với họ, như đã nói với dân tộc này. Chẳng một dân tộc nào đã được nhìn xem kỳ công của Chúa, như Chúa đã dùng mà tỏ mình ra cho dân tộc này vậy. Đường lối ấy, Chúa vẫn tiếp tục. Khi Đức Giêsu đã sinh ra-Xứ Pa-lét-tin lại được Chúa ưu đãi. Nhưng Chúa Giêsu cũng không tỏ mình đồng đều ở khắp nơi. Chúa đã làm nhiều phép lạ hơn, và giảng dạy rõ ràng hơn ở những miền này hơn là những miền kia.
Chúa làm như vậy để gây hiệu quả. Đến ngày phán xét, những ai đã lãnh nhiều, sẽ bị đối xử nghiêm nhặt hơn. Chỉ là công bình thôi. Cho ai nhiều hơn thì đòi người ấy nhiều hơn.
Chúng ta hãy coi chừng
“Khốn cho ngươi, hỡi Kho-ra-din! Chúa phán, khốn cho ngươi hỡi Bét-xai-đa! Khốn cho ngươi, hỡi Ca-phác-na-um!…vì đến ngày phán xét, đất Xơ-đôm còn được xử khoan hồng hơn các ngươi” Lời đe dọa này thật dễ hiểu. Những thành phố này đã lãnh nhận nhiều hơn từ nơi Chúa Kitô. Nhưng chính họ lại tỏ ra lì lợm và cứng lòng tin hơn. Họ phải gánh lấy hậu quả vì không đón nhận Người và tin vào Người.
Chúng ta đang sống trong một đất nước mà đức tin Kitô giáo đã phát triển tứ lâu năm và sâu xa. Những cơ may cho ta gặp gỡ Đức Kitô và nhận biết Phúc âm đã và vẫn còn rất nhiều. Có thể là lời đe doạ của Đức Kitô cũng nói cho chúng ta hôm nay chăng?
J.Y.G
Suy niệm 4:
Lời giảng đầu tiên của Đức Giêsu là một lời mời sám hối (Mt 4, 17).
Những phép lạ Ngài làm cũng là một lời mời tương tự.
Phép lạ không phải chỉ là những biểu lộ của uy quyền và tình thương.
nhằm vén mở khuôn mặt của Thiên Chúa và của Con Ngài.
Phép lạ còn là lời mời gọi đổi đời, vì Nước Trời đã gần đến.
Đức Giêsu quở trách các thành đã lần lữa không chịu sám hối,
dù họ đã được chứng kiến phần lớn các phép lạ Ngài làm (c. 20).
“Khốn cho ngươi, hỡi Khoradin ! Khốn cho ngươi, hỡi Bếtxaiđa!”
Đức Giêsu đã kêu than như một ngôn sứ, buồn phiền và đau đớn,
trước sự cứng lòng của những nơi mà Ngài đã đặt chân và thi ân.
Khoradin là một vùng ở tây bắc của Hồ Galilê (Mc 10, 13).
Nay chỉ còn là cánh đồng gạch vụn, với dấu tích của một hội đường.
Bếtxaiđa nghĩa là “nhà của cá”, nằm nơi sông Giođan đổ vào Hồ nói trên.
Thành này ngày nay cũng biến mất, có lẽ vì bị tràn ngập bởi phù sa.
Đức Giêsu đã so sánh hai thành này với hai thành dân ngoại Tia và Xiđôn.
Nếu Tia và Xiđôn nhận được sự hiện diện của Đức Giêsu,
hẳn họ đã ăn năn sám hối từ lâu rồi (c. 21).
Caphácnaum được coi là trụ sở của Đức Giêsu khi thi hành sứ vụ.
Nơi đây Ngài đã làm bao điều tốt lành (Mt 4, 13; 8, 5; 9, 1; 17, 24).
Vậy mà có vẻ nó lại không muốn đón nhận Đấng mang ơn cứu độ.
Phải chăng vì nó đã tự hào, tự cao trước những ơn Chúa ban?
“Ngươi sẽ được đưa lên tới tận trời sao? Ngươi sẽ bị tống xuống âm phủ.”
Đức Giêsu dám so sánh Caphácnaum với Xơđôm.
Xơđôm là một thành phố trụy lạc, đã bị thiêu hủy hoàn toàn (St 19, 25).
Ngài cho rằng Xơđôm mà được thấy những điều kỳ diệu Ngài làm,
hẳn nó đã hoán cải và còn tồn tại đến nay (c. 23).
Đến ngày phán xét, con người sẽ bị xét xử theo điều mình đã lãnh nhận.
Lãnh ít thì sẽ được khoan hồng nhiều hơn.
Mỗi người chúng ta thật sự chẳng rõ mình đã nhận được bao nhiêu.
Chúng ta dễ có thái độ tự cao của những người được gần gũi Chúa.
“Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt Ngài,
và Ngài cũng đã từng dạy dỗ trên các đường phố của chúng tôi” (Lc 13,26).
Nhưng điều quan trọng không phải là đã nghe giảng và đã thấy phép lạ.
Điều quan trọng là sám hối.
Những ơn lộc Chúa ban cho đời Kitô hữu lại đòi ta phải hoán cải nhiều hơn.
Chúng ta không thể coi mình là Caphácnaum để khinh Xơđôm được.
Thiên Chúa xét xử theo điều Ngài ban cho từng con người,
từng nền văn hóa hay văn minh, từng vùng đất hay từng tôn giáo.
Làm sao tôi có thể thấy được những phép lạ Chúa làm cho tôi mỗi ngày?
Có những phép lạ xảy ra đều đặn và bình thường nên tôi không nhận ra.
Mỗi cử chỉ yêu thương tôi nhận được cũng là phép lạ.
Mong tôi đáp lại phép lạ đó bằng một cử chỉ yêu thương.
Cầu nguyện :
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,
những ơn con thấy được,
và những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng
con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng,
biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những gì
Cha không ban cho con,
và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì
Cha cương quyết không ban
bởi lẽ điều đó có hại cho con,
hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha
dù con không hiểu hết những gì
Cha làm cho đời con.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
17/07 Phần thưởng môn đệ Chúa
- Viết bởi Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
Phần thưởng môn đệ Chúa.
Thứ Hai tuần 15 thường niên.
"Thầy không đến để đem hòa bình, nhưng đem gươm giáo".
Lời Chúa: Mt 10,34 - 11,1
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: "Các con chớ tưởng rằng Thầy đến để mang hoà bình cho thế gian: Thầy không đến để đem hoà bình, nhưng đem gươm giáo. Vì chưng, Thầy đến để gây chia rẽ con trai với cha mình, con gái với mẹ mình, nàng dâu với mẹ chồng mình: và thù địch của người ta lại là chính người nhà mình. Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy. Kẻ nào yêu con trai con gái hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy. Kẻ nào không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó.
Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy, và kẻ nào đón tiếp Thầy, là đón tiếp Đấng đã sai Thầy. Kẻ nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của tiên tri; và kẻ nào đón tiếp người công chính với danh nghĩa người công chính, thì sẽ lãnh phần thưởng của người công chính. Kẻ nào cho một trong những người bé mọn này uống chỉ một bát nước lã mà thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, Thầy nói với các con: người ấy không mất phần thưởng đâu".
Sau khi Chúa Giêsu truyền dạy xong các điều ấy cho mười hai tông đồ, Người rời khỏi đó để đi dạy dỗ và rao giảng trong các thành phố của các ông.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Chúa Sẽ Ðền Bù
Có thể nói, bài Tin Mừng hôm nay cho hệ quả của bước đường theo Chúa. Theo Chúa, người môn đệ phải chấp nhận nhiều thua thiệt: họ có thể bị chống đối từ ngoài xã hội đến trong gia đình, và một cách nào đó, Chúa Giêsu cũng bị xem là nguyên cớ của các tranh chấp, chống đối. Thật thế, làm sao không có đối nghịch giữa ánh sáng và bóng tối, giữa Chúa Giêsu và thế gian, giữa quyền lực Thiên Chúa và quyền lực thế gian. Bước theo Chúa, người môn đệ phải chọn lựa, và chỉ chọn lựa tình yêu Chúa mới cho họ xứng đáng được gọi là môn đệ Ngài.
Chắc chắn, khi chọn lựa như vậy, người môn đệ không tránh khỏi những mất mát, thua thiệt. Tuy nhiên, Thiên Chúa sẽ không để họ phải thất vọng, Ngài sẽ đền bù vượt quá sự chờ đợi của họ. "Ðón tiếp một tiên tri, sẽ nhận được phần thưởng dành cho một tiên tri; đón tiếp người công chính, sẽ nhận được phần thưởng dành cho người công chính; đón tiếp kẻ rao giảng, sẽ nhận được phần thưởng dành cho kẻ rao giảng". Người môn đệ của Chúa đừng sợ mất phần thưởng, nhưng hãy sợ mình chưa trung thành trong bổn phận của mình mà thôi.
Với Thiên Chúa, dù công khai hay âm thầm, sứ mệnh kẻ rao giảng bao giờ cũng cần thiết. Thiên Chúa luôn cần đến những người ngày đêm nhiệt thành rao giảng và làm chứng cho Ngài bằng đời sống hoạt động tông đồ, nhưng Ngài cũng cần đến những người hỗ trợ cho công việc tông đồ bằng đời sống âm thầm cầu nguyện và hy sinh. Lịch sử chỉ nhớ đến những vĩ nhân, chứ lịch sử không đủ giấy bút để ghi lại hết những khuôn mặt đã góp phần vào đời sống của các vĩ nhân. Lịch sử không nhớ, nhưng Thiên Chúa lại ghi nhớ tất cả, Ngài không bỏ sót một khuôn mặt nào, và phần thưởng của họ cũng có giá trị như của các vĩ nhân.
Xin Chúa cho chúng ta biết biểu lộ lòng trung thành với Chúa và Giáo Hội bằng những đóng góp nhỏ bé trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Dù chỉ là những việc nhỏ bé, âm thầm, không được ai biết đến, nhưng chúng ta hãy tin rằng chúng vẫn hiện diện và có giá trị trước mặt Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Thực hành giới răn của Chúa (Mt 10,34-11,1)
Với cái nhìn trần tục, chúng ta có thể cho rằng những lời dạy của Chúa Giêsu cho các đồ đệ xem ra thật chói tai: "Thầy đến để đem chia rẽ con trai với cha, con gái với mẹ. Ai yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì không đáng làm môn đệ Thầy. Ai không vác thập giá mình hàng ngày mà theo Thầy, thì cũng không xứng đáng làm môn đệ Thầy".
Thử hỏi, trên trần gian này có ai dám yêu cầu những điều như vậy nơi những kẻ theo họ không? Nhưng Chúa Giêsu đã không ngần ngại dùng ngôn ngữ như vậy, để khắc ghi mạnh mẽ vào tâm trí những người nghe điều Người muốn nói trong cách thức phù hợp với tâm thức của những người đương thời.
Thật vậy, để nhấn mạnh điều gì đó người ta thường dùng cách nói táo bạo, nghịch lý thường tình như những lời chúng ta vừa đọc lại trên: "Ai yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì không đáng làm môn đệ Thầy". Chúa muốn chỗ ưu tiên trên hết mọi người và mọi sự. Chính vì vậy mà sự hiện diện của Chúa là dấu gây nên mâu thuẫn, gây chia rẽ: "Thầy không đến mang sự bình an, nhưng chia rẽ. Thầy đến để chia rẽ con trai với cha, con gái với mẹ".
Sự trung thành với Chúa, việc sống thực hành những giới răn Chúa làm cho mỗi người Kitô trở thành như kẻ thù của chính người thân thuộc, vì nếp sống mới mẻ của người Kitô không phù hợp với nếp sống trần gian, tinh thần Phúc Âm không phù hợp với tinh thần phàm tục. Luật Chúa luôn luôn dạy điều nghịch lại những ước mơ ích kỷ của con người. Giáo huấn Phúc Âm không bao giờ là điều tiện lợi dễ dàng. Thánh giá hy sinh là chiều kích không thể nào tách rời ra khỏi cuộc đời của người theo Chúa. Thánh giá là dấu chỉ, là bằng chứng của tình yêu.
Nhìn vào Chúa Giêsu, Thầy chúng ta, bị treo trên thập giá, chúng ta hiểu được mức tận cùng của tình yêu đích thực. Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi trao nộp Con Một của Ngài cho thế gian giết chết trên thập giá. Hy sinh mạng sống mình cho Chúa và anh chị em, đó là vận mệnh không thể tránh được của người Kitô. Ðể theo Ngài trọn vẹn, trung thành cho đến cùng, người đồ đệ cần nhiều can đảm, hy sinh và ơn soi sáng hướng dẫn Chúa.
Lạy Chúa, Xin đổ tràn tình yêu Chúa xuống trên chúng con, để chúng con sống trung kiên với Chúa và quảng đại với anh chị em chung quanh.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Chúa Giêsu không đem đến bình an
“Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo.”
Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì sẽ không xứng với Thầy. Ai giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được.” (Mt. 10, 34. 38-39)
Những lời gây kinh ngạc
Nếu có ai hỏi ta Chúa Giêsu đến mang lại và dạy dỗ cho con người cái gì, ta sẽ trả lời rằng Chúa đến dạy người ta biết sống yêu thương nhau; Người đem hòa bình, Người hiệp nhất những ai chia rẽ. Và chúng ta sẽ có thể trưng ta nhiều câu Phúc Âm minh chứng rằng vì những mục đích trên, mà Chúa Giêsu đã làm người ở giữa chúng ta, đã chết và sống ại vì hạnh phúc loài người.
Vậy thì những lời của Phúc Âm vừa nghe, quả làm ta ngạc nhiên Chúa Giêsu khẳng định rằng Người “Không đến đem bình an cho trái đất, nhưng để đem gươm giáo”. Người dám nói rằng Người đến: “Để gây chia rẽ giữa con trai với cha mình, giữa con gái với mẹ…” Chúa Giêsu Người gieo rắc chia rẽ! Chúa Giêsu gây chia rẽ hơn là tạo hiệp nhất! Có ai dám nghĩ như vậy không? Ai mà cho rằng những lời đó là từ môi miệng Chúa? Vậy mà đúng như thế đó.
Những sự kiện minh chứng.
Ta nên lưu ý rằng Chúa Giêsu không khẳng định là Người có chủ tâm gây chia rẽ người ta. Người chỉ nhìn nhận sự kiện xảy ra. Người ta sẽ bất đồng ý kiến với nhau về Người. Có những người sẽ ủng hộ Người, người khác lại chống đối Người. Sẽ có những hiểu lầm, những cắt đứt quan hệ, những xung đột ở khắp nơi trên thế giới và ngay cả trong các gia đình, là vì Người và vì giáo huấn của Người.
Đó chính là điều vẫn xảy ra, mãi mãi những kẻ tin và những kẻ không tin Chúa Kitô vẫn xung khắc với nhau. Mãi mãi chồng và vợ, cha và con chia rẽ nhau và gây khổ cho nhau vì đôi bên không cùng một lập trường khi phải đối mặt với giáo huấn của Chúa Kitô.
Chúa Giêsu lúc nào cũng vẫn muốn gieo sự bình an, nhưng Người cũng là con người thực tế, vì biết rằng trên trần gian Người sẽ mãi mãi là chủ đề gây trang cãi, chống đối và chia rẽ vậy.
J.Y.G
Suy niệm 4
Bình an hay gươm giáo?
Một trong những lời khó hiểu và dường như mâu thuẫn nhất của Đức Giê-su chính là lời sau đây, được thánh Mát-thêu kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay:
Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo. Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa con trai với cha, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. Kẻ thù của mình chính là người nhà (c. 34-36).
Thật vậy, lời này của Đức Giê-su dường như mâu thuẫn với tất cả những lời còn lại của Ngài, với sứ điệp hòa giải, hòa bình và hiệp thông của Nước Trời mà Ngài rao giảng và làm cho hiện diện giữa chúng ta. Như khi các thiên thần cất tiếng hát trong biến cố Giáng Sinh: “Vinh Danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2, 13-14).
Một trong những nguyên tắc giúp cho việc đọc hiểu và cầu nguyện với một bản văn Kinh Thánh, đó là điểm tối tăm sẽ được soi sáng khởi đi từ điểm sáng tỏ. Và nguyên tắc này rất thích hợp với bài Tin Mừng của chúng ta. Ngọn lửa tình yêu mà Đức Giêsu đem đến và muốn cho bùng cháy (x. Lc 12, 49-50) tất yếu sẽ đốt cháy, loại bỏ, và nói theo trình thuật “Sáng Tạo Bảy Ngày”, sẽ phân rẽ (x. St 1, 4.6.7.14.18). Giống như một thủa đất, để trở thành đất tốt, thì phải được mổ xẻ, phân chia, vun xới; chúng ta hãy đặt mình trong vị trí của đất, thật đau đớn biết bao, khi được đào xới và cày bừa để loại bỏ sỏi đá, gai góc, cây cỏ… Nhưng tiến trình mổ xẻ, phân chia, vun xới, chính là để chữa lành, để làm cho chúng ta trở nên “đất tốt”.
Và để sống theo lửa tình yêu của Đức Giêsu, chúng ta không chỉ gặp nhưng xung khắc nội tâm, nhưng còn có nhưng xung khắc trong tương quan với người khác, đôi khi với những người thân yêu, mỗi khi chúng ta muốn sống sự đơn sơ, nghèo khó và khiêm tốn theo Tin Mừng của Đức Giê-su. Khi chúng ta cầu nguyện với Lời Chúa, hẳn chúng ta sẽ có kinh nghiệm này: Lời Chúa có thể “xâu xé”, “cắt tỉa” chúng ta, nhưng là để chữa lành và làm cho chúng ta sinh nhiều hoa trái, như chính Đức Giê-su đã nói, khi dùng hình ảnh cây nho (x. Ga 15, 1-8): Hình ảnh rau sa-lát phải được quấy nát để thấm nước sốt, diễn tả phần nào kinh nghiệm này.
Chính Đức Giê-su cũng sẽ đối diện với những xung khắc, mà Ngài gọi là “Phép Rửa”. Phép Rửa Ngài phải chịu là cuộc thương khó và cái chết trên thập gía. Thập giá là điên rồ và sỉ nhục, nhưng đối với Thiên Chúa và nhưng ai đặt niềm tin nơi Ngài, thì đó lại là sức mạnh và khôn ngoan, dẫn đến bình an và niềm vui vô hạn.
Trong sách Xuất Hành, có một hình ảnh rất tuyệt vời nói lên Ngọn Lửa Tình Yêu thần linh, đó là hình ảnh bụi gai bừng cháy, nhưng không bị thiêu rụi (x. Xh 3,2). Hình ảnh bụi gai bừng cháy diễn tả rất tuyệt vời hai đặc tính trái ngược nhau của tình yêu: vừa mạnh mẽ và vừa hiền lành, không loại trừ hay hủy diệt. Thiên Chúa là tình yêu, và tình yêu Thiên Chúa là ngọn lửa bừng cháy, lan tràn, thanh tẩy, nhưng không thiêu rụi.
Dứt bỏ điều không thể
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su không chỉ nói những lời khó hiểu và mâu thuẫn, những còn có những lời khó chấp nhận:
Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy.
(c. 37)
Trong sách Tin Mừng theo thánh Luca, Đức Giê-su còn nói mạnh hơn: “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14, 26-27). Để trở thành môn đệ của ngài, Đức Giê-su đưa ra một đòi hỏi quá khó khăn. Vì thế, chúng ta thường hiểu đòi hỏi này chỉ dành cho một số ít người thôi, đó là các tông đồ, và bây giờ là những người đi tu. Hiểu như vậy là không đúng, vì như chúng ta vừa nghe trong bài Tin Mừng, Đức Giê-su nói lời này với đám người rất đông đang cùng đi đường với Ngài; và trong Giáo Hội, dù lập gia đình hay đi tu, chúng ta đều là Ki-tô hữu, nghĩa là thuộc về Đức Ki-tô, chúng ta đều là môn đệ của Đức Ki-tô theo những cách thế khác nhau, trong đời sống hôn nhân hay đời sống tu trì. Hơn nữa, Đức Giê-su còn mời gọi người ta dứt bỏ “vợ con”, nghĩa là Ngài ngỏ lời với cả người đã có gia đình, đã có vợ có chồng và đã cả con cái!
Vậy thì phải làm sao đây trước đòi hỏi quá rõ ràng và khó khăn của Đức Giê-su, ngỏ với từng người trong chúng ta, không phân biệt? Chúng ta được mời gọi dành thời gian để tìm cách hiểu Lời Chúa theo khả năng của mình, trước khi nghĩ đến việc phải thực hành làm sao. Trong nhiều trường hợp, nếu chúng ta “nhắm mắt” thực hành ngay, sẽ đi đến bế tắc, làm khổ thậm chí làm hại mình và làm hại nhau, như trong trường hợp đòi hỏi phải từ bỏ này. Thế thì, chúng ta phải hiểu như thế nào đòi hỏi quá lớn lao đến độ phi lí này của Đức Giê-su? Trước hết, chúng ta cần nhận ra rằng đòi hỏi này thật là lạ lùng, nếu không muốn nói là khó chấp nhận. Khó chấp nhận, vì Đức Giê-su không đòi chúng ta dứt bỏ của cải, tiện nghi, nhà cửa, ruộng đất, nhưng là dứt bỏ những con người cụ thể.
Và khó chấp nhận, nhất là vì Đức Giê-su không đòi hỏi chúng ta dứt bà con họ hàng, bạn bè hay là người yêu. Dứt bỏ những người này cũng không phải dễ, nhưng không phải là không làm được. Như chúng ta đã biết, có nhiều người trẻ nam nữ đã phải chia tay với người yêu để trở thành môn đệ Đức Ki-tô trong đời tu. Và dĩ nhiên là cũng có những người không chia tay được!
Nhưng, ở đây, Đức Giê-su đòi hỏi chúng ta dứt bỏ những người ruột thịt: đó là cha mẹ, vợ con, anh em, chị em. Và ruột thịt hơn nữa là chính sự sống của mình, bởi vì chúng ta phải đối diện vởi chính mình hằng ngày: phải ăn phải mặc, phải chăm sóc sức khỏe, và còn phải chú ý đến ngoại hình nữa. Có thể nói, Đức Giê-su đòi hỏi chúng ta dứt bỏ điều không thể dứt bỏ, bởi vì đó là ruột là thịt của mình. Ví dụ, dù chúng ta đi đâu, làm gì, sống ơn gọi nào, thì khi làm tờ khai, chúng ta vẫn phải khai mình là con của ai, khai vợ khai chồng nếu có, khai tất cả anh chị em ruột. Hơn nữa, người Việt Nam chúng ta rất coi trọng đạo hiếu với cha mẹ và tình nghĩa anh chị em và bà con thân thuộc.
Vậy “dứt bỏ” Chúa nói ở đây có nghĩa là gì? Dứt bỏ những người thân yêu, chính là để nhận lại như một quà tặng Thiên Chúa ban. Nếu không, chúng ta sẽ coi những người thân yêu là của riêng mình, và tự coi mình là chủ có quyền định đoạt theo ý riêng. Kinh nghiệm cho thấy, làm như thế chúng ta sẽ đánh mất mình và đánh mất nhau.
Tổ phụ Abraham vì tình yêu đối với Chúa, đã dứt bỏ người con trai duy nhất, nhưng cuối cùng đã nhận lại như một ơn huệ Thiên Chúa ban, và cùng với người con ơn huệ Isaac là cả một dân tộc đông như sao trên trời, nhiều như cát dưới biển.
Có thể nói, chính Thiên Chúa Cha cũng dứt bỏ người Con duy nhất, là Đức Giê-su Ki-tô trong cuộc Thương Khó, nhưng để nhận lại Ngài trong sự sống Phục Sinh và cùng với Ngài, là cả một đoàn con đông đúc, là nhân loại mới, là Giáo Hội, là chúng ta, được cứu chuộc bỏi cái chết trên Thập Giá của Đức Ki-tô.
Vỉ thế, chúng ta được mời gọi trở thành môn đệ của Đức Giê-su, ngang qua việc nghe Lời của Ngài và đón nhận mình và máu ngài trong Thánh Lễ, để nghiệm được tình yêu của Chúa dành cho mỗi người chúng ta. Và cách Đức Giêsu yêu mến chúng ta, cũng chính là cách thức chúng ta yêu mến nhau. Như Chúa nói: “Anh em hãy yêu mến nhau như Thầy yêu mến anh em”.
Nếu chúng ta yêu nhau như Chúa yêu chúng ta, tương quan tình yêu giữa chúng ta, sẽ không bị lệc lạch, không bị biến dạng thành tương quan ham muốn, chiếm hữu hay độc quyền, nhưng trở thành tương quan hiệp thông trong sự tôn trọng, chia sẻ cho nhau và chia sẻ cho nhau đến tận cùng. Và Ngài hứa với chúng ta là chúng ta sẽ nhận lại gấp trăm. Bởi vì tất cả những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành sẽ trở thành người thân của Chúa và vì thế, trở thành người thân của nhau. Lời hứa này không chỉ được ứng nghiệm trong cộng đoàn đời tu, nhưng trong Giáo Hội, trong cả trong cộng đoàn giáo xứ của chúng ta nữa.
Dứt bỏ mọi sự để trở thành môn đệ của Đức Giê-su bằng mọi giá, để yêu mến và đi theo Ngài, chúng ta sẽ không “đánh mất nhau”, nhưng ngược lại, chúng ta sẽ “tìm lại được nhau” trong tương quan tình yêu đích thật và muôn đời. Bởi vì Thiên Chúa là Tình Yêu.
Lời Chúa trong Thánh Lễ hôm nay, mời gọi chúng ta phải hi sinh từ bỏ rất lớn để trở nên môn đệ đích thật của Chúa. Nhưng đó chính là để chúng ta đón nhận tình yêu bao dung và thương xót của Chúa, và để chúng ta nhận lại nhau như hồng ân Chúa ban và yêu thương nhau; và không phải yêu thương nhau theo kiểu của chúng ta, nhưng là yêu thương nhau như Chúa yêu thương chúng ta.
Phần thưởng
Nếu những lời trên đây của Đức Giê-su gây ra nhiều khó khăn, thì những lời tiếp theo lại mang lại cho chúng ta sự bình an và hi vọng. Thật vậy, một ơn rất nhỏ, là một « chén nước », mà chúng ta trao ban cho những người thuộc về Đức Ki-tô, cũng được Chúa ghi nhận, coi trọng, và sẽ làm cho sinh hoa trái kết quả, như Người nói : « Người đó sẽ không mất phần thưởng đâu ». Và vì đó là « phần thưởng » đến từ Đức Ki-tô, con Thiên Chúa, nên sẽ tồn tại mãi mãi.
Chắc chắn ai trong chúng ta cũng trao ban hơn thế nhiều, cho những người thuộc về Chúa, hay rộng hơn, cho những gì thuộc về Chúa và cho chính Chúa. Vậy, dựa vào lời của Chúa, một đàng, chúng ta hãy xác tín về « phần thưởng », nghĩa là những hoa trái Chúa sẽ ban cho chúng ta, cho sự sống hôm nay và mai sau, cho dù chúng ta còn đầy thiếu sót, yếu đuối và tội lỗi ; và đàng khác, chúng ta được mời gọi trao ban hơn nữa.
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
16/07 Dụ ngôn hạt giống Lời Chúa
- Viết bởi Mt 13, 1-23
Dụ ngôn hạt giống Lời Chúa.
Chúa Nhật 15 thường niên năm A.
"Kìa, có người gieo giống đi gieo lúa".
Lời Chúa: Mt 13, 1-23
Ngày ấy, Chúa Giêsu ra khỏi nhà và đi đến ngồi ở ven bờ biển. Dân chúng tụ tập quanh Người đông đảo đến nỗi Người phải xuống thuyền mà ngồi, còn tất cả dân chúng thì đứng trên bờ. Và Người dùng dụ ngôn mà nói với họ nhiều điều.
Người nói: "Này đây, có người gieo giống đi gieo lúa. Trong khi gieo, có hạt rơi xuống vệ đường, chim trời bay đến ăn mất. Có hạt rơi xuống trên đá sỏi, chỗ có ít đất, nó liền mọc lên, vì không có nhiều đất. Khi mặt trời mọc lên, bị nắng gắt, và vì không đâm rễ sâu, nên liền khô héo. Có hạt rơi vào bụi gai, gai mọc um tùm, nên nó chết nghẹt. Có hạt rơi xuống đất tốt và sinh hoa kết quả, có hạt được một trăm, có hạt sáu mươi, có hạt ba mươi. Ai có tai thì hãy nghe".
Các môn đệ đến gần thưa Người rằng: "Tại sao Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ?" Người đáp lại: "Về phần các con, đã cho biết những mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không cho biết. Vì ai đã có, thì ban thêm cho họ được dư dật; còn kẻ không có, thì cái họ có cũng bị lấy đi. Bởi thế, Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ: vì họ nhìn mà không thấy, lắng tai mà không nghe và không hiểu chi hết. Thế mới ứng nghiệm lời tiên tri Isaia nói về họ rằng: "Các ngươi lắng tai nghe mà chẳng hiểu, trố mắt nhìn mà chẳng thấy gì. Vì lòng dân này đã ra chai đá, họ đã bịt tai nhắm mắt lại, kẻo mắt thấy được, tai nghe được, và lòng chúng hiểu được mà hối cải, và Ta lại chữa chúng cho lành". Phần các con, phúc cho mắt các con vì được thấy; và phúc cho tai các con vì được nghe. Quả thật, Thầy bảo các con: Nhiều vị tiên tri và nhiều đấng công chính đã ao ước trông thấy điều các con thấy, mà không được thấy; mong ước nghe điều các con nghe, mà không được nghe.
"Vậy, các con hãy nghe dụ ngôn về người gieo giống: Kẻ nào nghe lời giảng về Nước Trời mà không hiểu, thì quỷ dữ đến cướp lấy điều đã gieo trong lòng nó: đó là kẻ thuộc hạng gieo dọc đường.
Hạt rơi trên đá sỏi là kẻ khi nghe lời giảng, thì tức khắc vui lòng chấp nhận, nhưng không đâm rễ sâu trong lòng nó, đó là kẻ nông nổi nhất thời, nên khi cuộc bách hại, gian nan xảy đến vì lời Chúa, thì lập tức nó vấp ngã.
Hạt rơi vào bụi gai, là kẻ nghe lời giảng, nhưng lòng lo lắng việc đời, ham mê của cải, khiến lời giảng bị chết nghẹt mà không sinh hoa kết quả được.
Hạt gieo trên đất tốt, là kẻ nghe lời giảng mà hiểu được, nên sinh hoa kết quả đến nỗi có hạt được một trăm, có hạt sáu mươi, có hạt ba mươi".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 15 THƯỜNG NIÊN - A
Lời Chúa: Is. 55, 10-11; Rm. 8, 18-23; Mt. 13, 1-23
1. Đất tốt
Hãy trở thành một mảnh đất tốt để hạt giống được gieo xuống sinh nhiều hoa trái. Như chúng ta đã biết Lời Chúa được ví như hạt giống mà người nông phu mang đi gieo. Để hạt giống có thể nẩy mầm lớn lên, đâm bông và kết trái, thì trước hết nó phải mục nát hoà tan vào với đất. Chúa Giêsu chính là lời của Thiên Chúa, một thứ hạt giống được gieo vào lòng nhân loại. Để có thể đến với lòng người, tạo được một niềm tin và một tình mến, từ đó làm phát sinh cuộc sống mới, Chúa Giêsu đã phải trải qua những khổ đau nhất là cái chết nhục nhã trên thập giá. Với cái chết này, Ngài và những kẻ tin nơi Ngài, mỗi ngày một đông, được dẫn đến vinh quang của Thiên Chúa.
Giáo Hội có thể thực hiện sứ mạng Chúa Giêsu trao phó một cách có hiệu quả cao, không thể không đi theo con đường của Chúa Giêsu. Giáo Hội là như một hạt giống được gieo vào lòng thế giới, thế nhưng hạt giống chỉ đâm bông kết trái khi Giáo Hội thực sự chia sẻ không chỉ những vui mừng và hy vọng, mà cả những lo âu, những khắc khoải, những khó khăn của thế giới. Đồng thời Giáo Hội cũng như mỗi người chúng ta đều được kêu gọi để trở thành những mảnh đất tốt cho Lời Chúa thực sự đem lại kết quả. Chúa Giêsu đã rao giảng Tin Mừng cứu độ của Ngài hầu như ở khắp nơi. Số người nghe Ngài giảng dạy thật nhiều. Nhưng không phải tất cả những ai nghe Ngài đều tin Ngài, trái lại có những người nghe Ngài rồi bỏ đi, vì họ thấy lời Ngài khó nghe hay khó thực hiện.
Có những người càng nghe Ngài lại càng thêm căm phẫn đối với Ngài để rồi cuối cùng bày mưu tính kế để thủ tiêu Ngài. Cũng có những người nghe lời Ngài nhưng lại chẳng hiểu gì hay chẳng có được một hiệu quả nào. Sở dĩ như vậy là vì lòng trí họ còn đuổi theo những mưu đồ những toan tính, hay đã ra chai đá và xơ cứng vì những giáo điều, hay vì những đam mê dục vọng. Lời Chúa và con người cũng như cuộc đời họ là những khối khác nhau, không thể hoà vào được với nhau. Mảnh đất tốt đối với Lời Chúa là những ai nghe lời Ngài, đem lòng suy nghĩ, tìm hiểu, nhào nặn cuộc đời mình theo những đòi hỏi của Chúa, và cuối cùng thực thi Tin Mừng của Ngài trong chính cuộc đời thường ngày của mình. Mảnh đất tốt chính là những tâm hồn bé mọn, những con ngườikhông có những kho lẫm quyền lực để bám víu, và do đó luôn sẵn sàng mở rộng lòng trước lời mời gọi của Chúa. Còn chúng ta thì sao. Chúng ta đã thực sự trở nên những mảnh đất tốt cho Lời Chúa được lớn lên và đem lại nhiều hoa trái hay chưa?
2. Gieo giống
Bác nông phu đi ra ruộng và gieo hạt giống. Đây là một hình ảnh đẹp và quen thuộc. Bác nông phu đi với dáng bộ nghiêm trang và thận trọng, vai đeo thúng lúa. Ông thọc tay phải vào thúng, bốc hạt giống xạ xuống trên ruộng đồng theo nhịp chân bước. Người gieo giống đi gieo và đã xảy ra là có những hạt rơi trên vệ đường và chim trời đến ăn mất. Những hạt khác rơi trên sỏi đá, chúng mọc lên nhưng vì không đủ đất, cho nên bị ánh nắng mặt trời làm cho khô héo. Còn những hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm cho chúng chết ngạt. Và sau cùng, những hạt khác rơi vào đất tốt, chúng sinh hoa kết quả, có hạt được 100, hạt 60, hạt 30.
Chúng ta có thể nghĩ rằng: gieo giống gì mà kỳ lạ quá vậy. Tại sao không gieo trên đất tốt, mà còn gieo cả trên vệ đường, trên đất xấu và cả vào trong bụi gai. Gieo như thế vì đó là phương pháp làm ruộng của người dân miền Palestina. Họ có cách gieo giống khác với chúng ta. Họ gieo giống trước rồi mới cày úp sau. Vì vậy, ông bạn gieo giống trong dụ ngôn, đi gieo trong ruộng chưa cày bừa chi cả. Suốt thời gian đất nghỉ, dân làng thường đi tắt qua những thửa ruộng đã gặt hái chỉ còn lại những gốc rạ. Vậy khi gieo, ông ta đã tung hạt giống trên cả thửa ruộng, trên cả những con đường tắt này với ý định là sẽ cày cả con đường này lên, nhưng chim trời đã nhìn thấy những hạt giống đó và đã ăn mất trước khi chúng nẩy mầm. Ông cũng chủ ý gieo vào cả bụi gai khô héo vì ông cũng định cày cả đám gai này nữa. Nhưng hạt gai đã rụng xuống đất, lại được cày úp lẫn lộn với những hạt lúa, do đó gai mọc lên và làm cây lúa non chết ngạt. Chúng ta cũng không ngạc nhiên khi thấy những hạt rơi trên sỏi đá. Đó là lớp sỏi đá cứng nằm ngầm dưới mặt đất, chỉ có một lớp đất mỏng phủ trên, người ta không trông thấy và chỉ khám phá ra khi lưỡi cày đụng phải. Nếu gặp lớp sỏi đá này, rễ lúa không thể đâm sâu xuống được và ánh nắng mặt trời sẽ làm cho chúng khô héo. Hình như người gieo giống không mấy lạc quan với công việc của mình. Nhưng may thay, phần lúa giống còn lại rơi trên đất tốt và đã sinh hoa kết quả tốt đẹp, hạt được 30, 60 hay 100.
Dĩ nhiên chúng ta phải nhớ rằng Chúa Giêsu đang giảng bằng dụ ngôn, và chân lý tôn giáo được núp sau hình ảnh của dụ ngôn đó. Điều này thực sự muốn nói là kết quả của lời Chúa. Lời ấy có khả năng phát triển và sinh hoa kết trái cách phi thường trong lòng người. Chính thánh Marcô đã cắt nghĩa dụ ngôn này một cách vắn tắt: Người gieo giống là chính Thiên Chúa và hạt giống là Tin Mừng, hay nói một cách khác, chính Chúa Giêsu là người gieo giống và hạt giống là những lời Ngài giảng dạy, còn tâm hồn chúng ta là những thửa đất. Thế nhưng những thửa đất ấy giờ đây như thế nào?
Lời Chúa nơi chúng ta không phải là những hạt giống rơi trên vệ đường, rơi giữa bụi gai hay ở trên sỏi đá. Nhưng lời đó phải được thâm nhập vào tận đáy lòng chúng ta để rồi sinh hoa kết trái một cách tốt đẹp. Lời Chúa luôn có một sức sống làm nẩy sinh hoa trái, nhưng lời ấy có thực sự đem lại kết quả tốt cho tâm hồn chúng ta hay không, thì còn tuỳ thái độ đón nhận và cộng tác của chúng ta đối với lời Chúa.
3. Gieo giống
Nói về việc rao giảng lời Chúa, chúng ta thấy có hai thực tại đối kháng nhau. Trước hết chúng ta xác tín lời Chúa là lời hiệu nghiệm, một khi đã gieo trồng thì chắc chắn sẽ đem lại mùa xuân với hoa trái dồi dào. Đàng khác là sự chai cứng của những tâm hồn, khiến cho cuộc sống cứ chìm trong tội lỗi và mùa đông ảm đạm cứ kéo dài tưởng chừng như vô tận.
Thực vậy, giữa lòng cuộc đời ồn ào và náo nhiệt này, nhiều khi lời rao giảng chỉ là một tiếng kêu trong sa mạc và người nói chỉ thấy vọng lại chính âm điệu của mình và không có một người đáp trả. Cuộc sống hình như vẫn bước đi theo nhịp điệu riêng của nó, vẫn được lượng giá bằng cái thước đo quen thuộc của nó. Cảm giác ấy gắn liền với sự cô đơn của người rao giảng. Cô đơn vì không một ai chia sẻ nỗi thao thức với mình. Từ nỗi cô đơn ấy, người ta dễ dàng buông xuôi, chán nản và tuyệt vọng.
Thế nhưng, lời Chúa lại không cho phép chúng ta được đánh mất niềm tin. Bởi vì đánh mất niềm tin là đánh mất sứ vụ gieo rắc Tin Mừng, là đánh mất sự sống đem lại niềm vui và sự hăng say cho những bước chân truyền giáo. Đánh mất đức tin là đánh mất cả cái lý do hiện hữu của Giáo Hội trong lòng thế giới.
Trong một cuộc phỏng vấn dành cho báo Figaro, Đức Hồng Y Paul Poupard, chủ tịch văn phòng đối thoại với những người không tin, đã nhìn nhận cuộc hành hương của 500.000 người trẻ về quảng trường Compostellos như biểu tượng cho nỗi khát vọng và sự tìm kiếm những giá trị tâm linh. Con người không thể sống mà lại không nhìn nhận một chiều kích tâm linh siêu việt trong đời mình. Người ta loan báo Thượng Đế đã chết, nhưng hôm nay người ta lại nhìn nhận sự hiện diện sống động của Ngài ngay giữa lòng những xã hội tục hoá hay vô tín ngưỡng. Đồng thời ĐHY cũng nhìn vào sự xuất hiện của nhiều giáo phái huyền bí hiện nay như một thách đố cho Giáo Hội. Khi những khát vọng tôn giáo hay không tìm được lời giải đáp nơi Giáo Hội thì người ta sẽ lần đến những giáo phái khác. Vì thế, sau thách đố của chủ nghĩa vô thần, là thách đố về mục vụ đối với Giáo Hội hôm nay. Chính Công đồng Vat. II cũng đã xác quyết: Người tín hữu phải chịu trách nhiệm không nhỏ trong việc khai sinh ra chủ nghĩa vô thần. Phải nói rằng họ che giấu hơn là bày tỏ khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa và tôn giáo.
Chúng ta có thể than phiền vì người đời không đón nhận Tin Mừng. Thế nhưng trước khi than phiền, chúng ta cũng cần phải tự hỏi: Tôi đã thực sự rao giảng lời Chúa, hay mới chỉ là rao giảng những suy nghĩ, những lập trường của cá nhân tôi. Hay chỉ cố thuyết phục bằng sự khôn ngoan theo cái thước đo thiếu hụt của thế gian chứ chưa phải là những chân lý Phúc Âm ngàn đời dịu mát. Chúng ta nên nhớ sức mạnh đích thực là sức mạnh của lời Chúa chứ không phải là sức mạnh của chúng ta. Nếu không, cả những lúc xem ra thành công, thì cũng chỉ nhất thời, hời hợt mà thôi.
Đồng thời lời Chúa là lời sống động. Lời đó không phải chỉ là ngôn từ mà còn phải trở thành những hành động. Vì thế, trước khi than phiền về sự lãnh đạm của người đời đối với lời Chúa, chúng ta cần phải tự hỏi xem: Chính bản thân chúng ta đã đón nhận lời Chúa ra sao? Và lời Chúa đã phát sinh những hậu quả nào trong mảnh đất là cuộc đời chúng ta? Khi cuộc sống chúng ta đã thấm nhuần tinh thần lời Chúa, thì tự bản chất, cuộc sống ấy đã là một bằng chứng hùng hồn về hậu quả của lời Chúa và trở nên một sự rao giảng sống động, một cách tay tung gieo hạt giống Nước Trời trong lòng trần thế.
4. Hạt giống Lời Chúa
(Radio Veritas Asia)
Một cầu thủ đấu bóng rổ đã tâm sự với các phóng viên báo chí như sau:
Quan niệm của tôi về cuộc sống nay đã thay đổi hẳn, tôi nghĩ rằng điều quan trọng hơn trong lúc này là dành nhiều thời giờ hơn để sống gần gũi với con cái tôi và biết thưởng thức, quí trọng những điều khác nữa, chứ không phải chỉ có môn thể thao bóng rổ mà thôi. Dù gặp bất hạnh, nhưng anh Colin đã là người có phúc hơn những người khác, bởi vì anh đã nghe được điều mà nhiều người muốn nghe mà không được nghe, đó là nghe được tiếng Chúa nói với anh trong các biến cố cuộc đời. Anh Colin khám phá ra được rằng, cuộc sống của anh còn có nhiều điều hay ho và quan trọng khác nữa.
Anh chị em thân mến,
Thiên Chúa dùng mọi tình huống để thức tỉnh chúng ta lắng nghe và sống Lời Ngài. Dụ ngôn về người gieo giống hôm nay cần được chúng ta dành nhiều thời gian trong ngày sống để suy niệm nhiều hơn, để lĩnh hội các ý nghĩa mà chính Chúa đã giải nghĩa cho các môn đệ.
Thiên Chúa đã luôn luôn gieo vãi Lời Ngài khắp nơi, với mọi hạng người, với mọi hoàn cảnh. Chúng ta đáp lại Lời Chúa như thế nào? Chúng ta có cần Chúa mở mắt chúng ta qua một biến cố đau thương như biến cố đã xảy ra với anh Colin hay không? Có cần Thiên Chúa thiêu đốt tất cả những gì chúng ta đang mù quáng bám víu vào như là giá trị duy nhất của đời mình, để giúp chúng ta trở về với Lời Chúa và sống thực hành Lời Chúa hay không?
Bằng cách nào đó không thể nói là tự nhiên tốt được. Tâm hồn con người cũng thế, tự nó không phải tự nhiên tốt, nhưng cần được ân sủng Chúa thánh hóa, thanh luyện mới có thể trở nên tốt, và mỗi người chúng ta cần cộng tác với ơn Chúa để tâm hồn chúng ta được trở nên mảnh đất tốt và trổ sinh nhiều hoa trái.
Thiên Chúa rất thường đến viếng thăm chúng ta qua các biến cố lớn nhỏ, vui buồn, nhưng rất nhiều khi hay là hầu hết nhiều khi, hầu hết mỗi lần Chúa đến thăm để nói với chúng ta một điều gì đó, mạc khải cho chúng ta một điều gì đó thì chúng ta lại vắng mặt, chúng ta lại lo ra. Nhiều lần chúng ta được tiếp xúc với Lời Chúa nhưng chúng ta lại lơ là không màng chi đến Lời Chúa nữa.
Ước chi hôm nay, trong giây phút này, chúng ta hãy trở về ngồi lại nơi căn nhà tâm hồn của chúng ta trong thinh lặng để kiểm điểm lại những gì mình đã làm hư hỏng, để được kín múc lấy sức mạnh của Chúa mà giúp ta canh tân trong cuộc sống.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con hồi tâm trở về, lắng nghe Lời Chúa và sống thực hành Lời Chúa, xin Chúa giúp chúng con biết cộng tác với ơn Chúa, để mảnh đất tâm hồn chúng con trở nên mảnh đất tốt, để chúng con luôn biết đón nhận Lời Chúa và để cho Lời Chúa trổ sinh hoa trái trong tâm hồn chúng con mỗi ngày một hơn. Amen.
5. Tôn giáo có ích gì?
Có một lần người thợ làm xà bông và một vị giáo trưởng đi dạo và chuyện trò với nhau. Người thợ làm xà bông đã nói: - Tôn giáo có ích gì? Tôn giáo nào cũng rao giảng chân lý, bình an, lòng thiện hảo. Nhưng ngài hãy nhìn vào thực trạng của thế giới: chiến tranh, đói khổ, và bao nhiêu hệ lụy khác xem ra sẽ chẳng bao giờ chấm dứt. Tôn giáo đâu có giúp được gì cho nhân loại?
Vị giáo trưởng im lặng và hai người tiếp tục đi qua một khu phố nghèo. Tại một con hẻm lầy lội, vị giáo trưởng chỉ vào một em bé ăn mặc bẩn thỉu, và nói:
- Ông hãy nhìn đứa bé kia. Ông cho rằng xà bông để tẩy xóa nhơ bẩn trên thân thể và quần áo của con người. Vậy ông hãy thử nhìn đứa bé kia. Xà bông của ông để làm gì? Với tất cả mọi thứ xà bông hiện có trên thế giới, đứa bé nhơ bẩn này vẫn cứ nhơ bẩn. Tôi chẳng biết xà bông dùng để làm gì?
Nghe lời ấy, người thợ làm xà bông cãi lại:
- Nó dơ bẩn là tại nó. Xà bông sẽ không có ích gì, nếu người ta không sử dụng nó.
Bấy giờ vị giáo trưởng mới nhỏ nhẹ nói:
- Đúng thế, xà bông sẽ vô ích, nếu người ta không sử dụng nó. Tôn giáo cũng vậy. Tôn giáo sẽ vô ích nếu con người không sống theo tôn giáo của mình.
Lời Chúa hôm nay được diễn ta qua dụ ngôn người đi gieo giống. Thiên Chúa là người đi gieo giống. Ngài đã gieo lời Ngài xuống thế gian. Trải qua suốt dọc dài lịch sử cứu độ. Ngài đã gieo qua các tổ phụ, các tiên tri và thời sau hết qua Con Một Chí ái là Đức Giêsu Kytô. Thế nhưng số phận của những hạt giống đó thật đáng thương: bị quên lãng, khước từ và bỏ ngoài tai,...
Chúa Giêsu đã khéo léo đưa ra nguyên do sự hư hại của hạt giống. Đó là do sự chai cứng trên lối mòn hay bởi gai góc, đá sỏi cằn khô. Chỉ một phần tư số hạt gieo vãi được may mắn rơi vào đất tốt, đủ điều kiện để hạt giống nảy mầm, đơm bông kết trái.
Đó cũng là lý do đưa đến sự ác nhiều hơn sự thiện. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến sự bất công và sa đọa vẫn đầy dẫy trên mặt địa cầu. Cho dù giáo huấn và lề luật của Chúa đã được ban ra, được gieo vãi khắp nhân gian, nhưng mấy ai đã đón nhận và đem ra thực hành?
Nhìn vào thế giới hôm nay, còn quá nhiều lề thói xa hoa trụy lạc, lề thói vô lương tâm và vô liêm sỉ. Đó chính là những lối mòn mà kẻ qua người lại tấp lập khiến nhiều người đánh mất ý thức về tội. "Người ta làm mình cũng làm. Người ta làm bậy mình cũng làm theo". Như hiện trạng phá thai, nghiện ngập sì ke ma túy và bây giờ là thuốc lắc tổng hợp của Việt Nam hôm nay. Mỗi năm ở Việt Nam có khoảng gần 2 triệu thai nhi bị sát hại. Chốn ăn chơi sa đọa nhan nhản khắp nơi, dẫn đến con số nhiễm HIV đã lên đến hơn 400 ngàn người, và không biết bao nhiêu con người khác nữa đã và đang lao vào.
Một thế giới có quá nhiều đá sỏi của những trào lưu văn hóa đồi trụy hay những phong trào tha hóa con người đã và đang gây nên cớ vấp phạm cho nhiều người. Một xã hội quá phức tạp tựa như những gai góc, cứ quốn quanh lấy đời người bởi những đam mê thấp hèn. Thực vậy, có nhiều người đã thiếu cương quyết để xa tránh cám dỗ, và nói không với tội lỗi. Họ để cho tính xác thịt và lòng tham nổi loạn và thống trị họ, khiến họ không thể tự kiềm chế bản tính của mình và dễ dàng ngã theo những đam mê bất chính.
Con người ngày nay thực sự có mắt cũng như mù, có tai cũng không nghe. Họ đều biết rằng với lối sống trụy lạc sẽ dẫn đến tử vong thế nhưng họ vẫn lao đầu vào. Họ biết rằng văn hóa đồi trụy là mần mống đưa đến tha hóa con người, nhưng vì đồng tiền, vì đam mê họ vẫn mua bán, trao đổi khiến cho sự xấu cứ xum xuê và bao trùm ở mọi nơi, mọi chốn. Họ biết rằng một đời sống nông cạn, hời hợt, thiếu chuẩn mực đạo đức, thiếu đời sống cầu nguyện là nguyên nhân dẫn đến sa ngã phạm tội, thế nhưng có biết bao cha mẹ lại quá thờ ơ, hay thiếu trách nhiệm giáo dục con cái nên người.
Phải chăng lời tiên tri Isaia đang ứng nghiệm cho con người hôm nay. "Các ngươi lắng tai mà chẳng hiểu, trố mắt nhìn mà chẳng thấy gì"?
Lời Chúa là lời ban sự sống, nhưng sẽ vô ích cho người có tâm địa xấu, cho lòng chai dạ đá. Lời Chúa đến với họ như "đàn gảy tai trâu" hay như "nước đổ lá môn". Đời sống họ sẽ không có biến đổi, vì họ nghe tai này sang tai kia và điều tệ hại nhất là họ đã để ngoài tai những lời vàng ngọc, lời ban sự sống của Chúa.
Chúa Giêsu đã chúc phúc cho những ai biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Xin Chúa giúp chúng ta biết chuyên tâm lắng nghe, học hỏi, suy niệm và thực thi Lời Chúa như Mẹ Maria, như các thánh, để Lời Chúa sinh hoa kết trái trong tâm hồn chúng ta.
Lạy Chúa, Lời Chúa là lời ban sự sống, xin giúp chúng con biết cúi xuống nhặt những hạt giống Tin mừng bên vệ đường để đặt vào trong cuộc sống hằng ngày của mình, và biết quăng đi những sỏi đá, là những dịp tội gây cớ vấp phạm cho tha nhân, đồng thời luôn can đảm nhổ đi những gai góc là những đam mê bất chính, là nguyên do đưa đến sự tha hóa con người. Xin cho con biết noi gương Mẹ Maria luôn biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa trong cuộc sống hằng ngày của chúng con. Amen.
6. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
THÁI ĐỘ CỦA NGƯỜI ĐÓN NHẬN HAY LÀ TẤM LÒNG CỦA NGƯỜI GIEO
Thoạt nghe bài Tin Mừng vốn đã quen tai là dụ ngôn người gieo giống, chúng ta không khỏi nghĩ ngay đến những thái độ khác nhau của người nghe Lời Chúa. Cũng là lắng nghe Lời, nhưng tùy thuộc vào thái độ tiếp nhận thì mới có những hiệu quả tốt xấu, ít nhiều, khác nhau. Một số nhà nghiên cứu Tin Mừng cho rằng có lẻ xuất phát bởi nhu cầu của Hội Thánh sơ khai trong việc đón nhận Lời Chúa nên các tác giả Tin Mừng đã thêm vào phần giải thích bài dụ ngôn (parabole) theo kiểu văn phong thể phóng dụ (allégorie), tức là áp dụng từng chi tiết của câu chuyện, một thể văn mà các giáo phụ thường dùng, khác với thể văn dụ ngôn, một thể văn thông dụng thời Chúa Giêsu, là thường chỉ nhắm đến một điều muốn nói.
Dù sao đi nữa thì Lời Chúa vẫn nguồn sống cho mọi người, mọi hoàn cảnh. Việc thiên về thái độ của người đón nhận Lời đã, đang và mãi còn chân giá trị. Ân sủng không loại bỏ tự nhiên, một chân lý mà Hội Thánh luôn khẳng định cách chắc chắn. Tuy nhiên, xin được chia sẻ một vài ý tưởng nhỏ khi nhìn ngắm tấm lòng của người gieo giống.
1. Thiên Chúa muốn mọi người nhận biết chân lý (x.1Tim 2,3-4): Đây là một sự thật cần khẳng định mà không sợ sai lầm. Đấng Toàn Thiện sẵn sàng cho mưa rơi đều trên người lành lẫn kẻ dữ, cho mặt trời mọc lên soi sáng người công chính lẫn tội nhân hẳn là Đấng không muốn bất cứ một ai phải hư mất. Chính vì thế Thiên Chúa không chỉ muốn mà còn tìm đủ cách thế, giúp mọi người nhận biết chân lý, để được sống trong hạnh phúc viên mãn (x. Mt 5,45; Ga 6,39).
Có lẽ hình thức “cấy mạ” chưa hình thành và phát triển trong nghề nông vào thời bấy giờ. Ngay cả với ngành nông nghiệp hiện đại hôm nay thì cách thức gieo hạt, người Việt Nam ta gọi là “sạ lúa” vẫn còn phổ biến. Nhìn người nông phu vung tay sạ lúa giữa trời trưa, nhiều gió, chúng ta thoáng thấy một nét đẹp của sự hào phóng.
Từng nắm lúa được tung gieo theo chiều gió. Có nhiều hạt rơi trên mảnh đất đã cày xới, cũng có nhiều hạt vung vải trên bờ giường, bờ thuở…Bác nông phu chẳng tiếc, chẳng nao. Làm sao tránh được những hao hụt. Nhưng không sao, mùa vụ trước mắt sẽ dư đầy. Trở lại với dụ ngôn Chúa Giêsu kể năm nào. Người chỉ nêu có bốn loại hạt rơi ở bốn mảnh đất khác nhau. Giả như số hạt ấy được chia đều cho bốn loại đất, ta thử làm con tính xem sao. Mất ba, chỉ được một. Tưởng chừng như thua lỗ, nhưng vẫn còn dư lãi. Chỉ với một loại hạt rơi trên đất tốt, đã có hạt sinh một trăm, hạt sinh sáu mươi, hạt sinh ba mươi. Thế là sinh lợi bình quân trên sáu mươi. Khấu trừ cho ba loại hạt có vẻ như đã mất thì vẫn còn lãi dư nhiều.
Tấm lòng của Thiên Chúa, Đấng gieo hạt Lời từ trên, thật bao la khôn xiết. Người đã gieo Lời Người khắp cả vũ hoàn. Mỗi kỳ công tay Người tác tạo, dù chẳng một âm thanh, nhưng là mỗi Lời của Người được tung gieo (x.Tv 18,2-5). Thiên Chúa gieo Lời của Người vào tận đáy lòng mỗi con người. Chẳng máy móc tân kỳ nào có thể ghi âm, nhưng hiệu quả của “tiếng lòng” ấy không ai là không chân nhận, mỗi khi lý trí đã biết xét suy. Thiên Chúa gieo Lời của Người qua các biến cố lịch sử, đặc biệt qua lịch sử một dân được tuyển chọn và đến thời kỳ viên mãn Người đã gieo Lời trọn hảo của Người qua chính Con Một làm người (x.Dt 1,1-2). Rất có thể bị hao hụt phần nào, nhưng “cũng như mưa với tuyết sa từ trời không trở về trời mà không sinh hiệu quả thì Lời của Thiên Chúa sẽ không trở về với với Người nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Người, chưa chu toàn sứ mạng Người giao phó” (x. Is 55,10-11).
2. Dù đối với loài người là không thể, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể (x. Lc 1,37; Mt 19,26):
Vệ đường, đất sỏi đá hay đất đầy gai góc, tất cả đều có thể mọc cây, đơm bông, kết hạt. Đây là chuyện không còn viễn vông đối với khoa học công nghệ hiện đại. Sa mạc biến thành vườn rau hay thành cánh đồng cây ăn trái, không còn là chuyện xưa nay hiếm. Nhiều thứ cỏ dại như cỏ cú, cỏ chỉ, cỏ tranh không còn là nan trị đối với nông gia ngày nay. Không chỉ ở thôn quê mà ngay cả ở thành thị, những con đường đã phủ đầy cây xanh. Nhưng sự khả thể ngày càng mở ra trước mắt chúng ta. Cây sẽ mọc và đơm hoa kết trái, nếu có đủ nước và khí trời.
Với quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa thì mọi sự đều là có thể. Thiên Chúa đã ban tất cả cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô. “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta?” (Rm 8,32).
Vấn đề còn lại là ở mảnh đất có “sâu” đủ và “thoáng” đủ, để đón nhận nước và khí trời. Đây chính là sự khiêm nhu và lòng thành hướng thiện của mỗi người chúng ta. Nếu có sự hướng thiện và khiêm nhu chân thành thì dù cho cuộc đời ta, hoàn cảnh sống của ta như mảnh đất đầy sỏi đá hay nhiều gai góc cũng sẽ trở thành mảnh đất tốt để cho hạt giống Lời nẩy mầm, thành cây, đơm bông và kết hạt.
3. Hãy mặc lấy tấm lòng của Người gieo giống: Chúng ta cần có chút cẩn trọng để đừng “ném ngọc trai cho heo”. Đừng làm cớ cho người ta xúc phạm đến những gì thánh thiêng một khi đã suy xét và lường trước sự việc. Tuy nhiên, việc tích cực gieo rắc Lời Chúa bằng nhiều hình thức một cách nào đó nói lên tấm lòng của ta với tha nhân và nói lên niềm tin của ta vào quyền năng của Chúa và vào sức mạnh của Lời. Thánh Tông đồ dân ngoại dạy ta: Hãy rao giảng Tin mừng khi thuận lợi cũng như lúc không thuận lợi. Kitô hữu chúng ta hẳn không quên câu Lời Chúa: “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn nào có ích gì” (Mt 16,26), đã làm trổ sinh cho nhân loại, cho Hội Thánh một Phanxicô Xavie, vị thánh nhiệt tình rao giảng Tin mừng cho lương dân. Đoạn Tin Mừng Mt 10,7-10 đã góp phần dệt xây nên một “người nghèo của Thiên Chúa là Phanxicô khó khăn cùng với Hội Dòng anh em hèn mọn…
Người gieo, kẻ gặt, nhưng chính Thiên Chúa là Người cho mọc lên. Không ai thắp đèn rồi lấy thùng úp lên. Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, hãy lên mái nhà mà rao giảng (x. Mc 4,21-24; Mt 10,27). Dù mệt nhọc, muốn nghỉ ngơi cùng với các môn đệ, nhưng khi thấy đoàn người đông đảo, Chúa Giêsu động lòng xót thương, Người lại tiếp tục rao giảng (x. Mc 6,34). Hãy có tấm lòng với anh chị em đồng loại, đồng thời tin tưởng vào sức mạnh của Lời, để nhiệt thành gieo rắc hạt giống. Vì đêm hay ngày, ta ngủ hay thức thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, trổ bông, đơm hạt (x. Mc 4,26-29).
7. Sứ mạng thực hiện Thiên Ý
(Lm. Hồng Phúc)
Dưới hình ảnh mưa tuyết từ trời rơi xuống làm cho đồng ruộng phì nhiêu, cây cối sinh hoa mầu người ta có lương thực, Tiên tri Isaia đã hình dung Lời của Chúa phán ra.
Lời nói phát ra từ miệng nhưng bắt nguồn từ con tim, từ cõi lòng, nhờ đó con người bạch lộ nội tâm của mình. Lời nói càng phong phú khi nội tâm càng suy tư càng nghiền ngẫm nhiều. Huống hồ lời đó là Lời của Thiên Chúa, mang sứ mạng thực hiện Thiên Ý của Người.
Qua bài Phúc Âm, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn “người gieo giống” để mô tả số phận Lời Chúa được tung ra giữa các linh hồn và đem lại kết quả như thế nào.
Người phán: “Này đây, có người gieo giống đi gieo lúa”. Có hạt rơi xuống bên vệ đường, chim trời ăn mất. Có hạt rơi xuống trên sỏi đá, không đâm rễ sâu, bị khô héo. Có hạt rơi vào bụi gai bị chết ngạt. Chúa không chú trọng đến phần mất mát đó cho bằng đến sự phát triển mạnh mẽ của hạt giống khi rơi vào phần đất tốt. Nó sẽ bừng lên một mùa gặt phong phú, một thành trăm.
Vậy đừng ai ngã lòng vì thấy Nước Trời chậm chạp. Mọi sự xem ra chống lại việc triển nở nhưng hãy chờ mùa gặt đến. Kết quả sẽ vượt mức tưởng tượng vì đây là công việc của Thiên Chúa.
Bổn phận của mỗi người là lắng nghe Lời Chúa và cố gắng thi hành trong việc làm. Không phải chỉ nghe, mà cố tìm hiểu cho biết Chúa muốn ta phải làm gì. Có bao nhiêu chướng ngại vật chống lại việc tìm hiểu Lời Chúa. Trước hết là ma quỉ như chim trời đến cướp lấy hạt vừa rơi xuống. Vì thế, Chúa dạy chúng ta cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ của ma quỉ. Rồi đừng quá “lo lắng việc đời, ham mê của cải”, như những bụi gai bóp nghẹt Lời Chúa.
Tóm lại, dụ ngôn người gieo giống là dụ ngôn Đức Tin, với một lối diễn tả đầy tâm lý. Chúa phác họa cuộc sống hằng ngày của chúng ta theo tinh thần Đức Tin. Tin là chấp nhận Chúa, đem Lời Chúa thực thi trong đời sống và quảng bá cho người chung quanh.
Thánh Justinô tử đạo vào năm 150 đã suy niệm về dụ ngôn người gieo giống này và người khuyên bảo những người rao giảng Tin Mừng đừng bao giờ ngã lòng.
Thật đáng buồn khi thấy đạo thánh càng ngày càng sa sút. Điển hình như nước Ý có truyền thống Công giáo lâu đời, có bao nhiêu đấng thánh, thế mà số người giữ đạo thực sự hiện nay chỉ còn 15% tổng số dân có đạo. Số còn lại toàn thuộc lại dửng dưng. Lời Chúa như rơi vào sỏi đá, vào bụi gai hay ngoài mặt lộ. Tuy nhiên, như lời thánh Justinô, người rao giảng Lời Chúa như hạt giống rơi vào ruộng tốt sẽ triển nở một thành trăm. Bổn phận ta là thành tâm đón nhận Lời Chúa.
Lạy Chúa, xin kết nạp con vào đoàn người đi gieo giống của Chúa.
8. Nghe và hiểu mầu nhiệm Nước Trời
(Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Mỗi khi tiến lên bục giảng, tôi muốn mọi thính giả để tai lắng nghe các lời tôi nói, vì lúc đó tôi đinh ninh rằng mình đang công bố Lời Chúa, đang rao giảng về Nước Thiên Chúa. Dụ ngôn được kể hôm nay nhắc nhở tôi rằng, linh mục rao giảng Lời Chúa phải là người đầu tiên đặt ra cho chính mình câu hỏi: tôi có thật sự biết Nước Trời là gì không? và tôi đã từng nghe và hiểu mầu nhiệm Nước Trời chưa? Câu hỏi không thừa thãi chút nào, kể cả sau 40 năm đời linh mục, vì vẫn có nguy cơ tôi hiểu sai, hoặc chưa hề thực sự nghe Lời và hiểu thấu.
‘Con hãy chỉ cho cha con đường tới nhà thờ, và cha sẽ chỉ cho con đường về trời.’ câu nói danh tiếng đó của cha sở họ Ars - thánh Jean Marie Vianey thì mọi linh mục đều biết; có điều, rất thường khi ta lại hiểu ‘chỉ đường về trời’ là dạy bảo điều tốt lành để được rỗi linh hồn, lên thiên đàng. Và vì hiểu như thế nên linh mục về phần mình cố gắng sống đời thánh thiện gương mẫu, và rồi cho rằng việc mục vụ mà mình phải chu toàn chính yếu hệ tại ở việc giảng dạy cho giáo dân bổn đạo ăn ngay ở lành và nắm giữ các luật Chúa và luật Hội Thánh, nhất là các qui định về đạo giáo và luân lý.
Người Việt Nam chúng ta (giống người Do Thái) dùng chữ ‘trời’ để chỉ Thiên Chúa, vì thế Nước Trời là Nước Thiên Chúa. Trong ngôn ngữ bình dân, chúng ta cũng hiểu ‘trời’ là nơi xa xôi trên cao, ‘về quê trời’ là lên thiên đàng gặp gỡ Thiên Chúa sau khi chết v.v… Công việc giữ đạo vì thế hệ tại ở sống làm sao để sau khi chết được rỗi linh hồn, được về quê trời, được lên thiên đàng. Do đó trách nhiệm bổn phận chính yếu của linh mục là giúp bổn đạo đạt được điều đó… Chính vì thế mà… câu chuyện dụ ngôn hôm nay cũng dễ dàng được suy đoán và giải thích theo chiều hướng đó…
Nếu Lời là chính Đức Giêsu, và nếu rao giảng Nước Trời là chính công bố cuộc sống và cái chết thập giá của Người, thì đúng là hạt giống Nước Trời yêu thương và tha thứ đã được gieo vào trần gian. Nghe Lời và hiểu là chấp nhận Đức Giêsu, là chấp nhận ơn cứu rỗi của Người, là đi vào vương quốc tinh yêu tha thứ của Thiên Chúa. Người môn đệ của Đức Giêsu trước hết phải là ‘anh em được hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời’ vì đã tin và chấp nhận Giêsu là tình yêu tha thứ của Thiên Chúa. Bí tích rửa tội đã thực sự đưa họ vào Nước Trời và còn tiếp tục đưa vào ngày càng sâu hơn, miễn là họ còn luôn sẵn sàng đón lấy như thửa đất tốt được hạt giống gieo xuống. Thửa đất tốt khi đó không phải là những người ngay lành về mặt luân lý, cũng không phải là người học cao hiểu rộng về mặt tri thức, không phải là người chăm chú lắng tai nghe về mặt tâm lý. Đơn giản đó là những tâm hồn, trong tác động của Thần Khí và ân sủng, đang trong tư thế sẵn sàng lắng nghe, hiểu và chấp nhận Tình Yêu tha thứ hay Tình Yêu thương xót. Và hạt giống Tình Yêu đó sẽ tự động ‘sinh hoa kết quả, hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục’. Điều duy nhất con người cần làm để thửa đất được nên tốt là nhìn nhận thân phận tội lỗi, thấp hèn và đáng thương của mình, nhờ thế chân thành khao khát đón lấy Giêsu Cứu Chúa. Hiệu năng của hạt giống Lời gieo xuống lệ thuộc rất nhiều vào chiều sâu của cầy sâu cuốc bẫm này.
Nếu như thế, trước khi bước lên bục giảng để gieo Lời Tình Yêu cứu độ, tôi – linh mục của Lời – sẽ phải đi sâu vào con người bất toàn yếu đuối của chính mình. Câu kinh ngắn, ‘Xin Chúa thanh tẩy tâm hồn và môi miệng con…’ mà linh mục hay phó tế cúi mình thầm đọc trước công bố Tin Mừng là gợi nhớ cho chính tôi một thái độ chân thành và khiêm tốn. Và rồi hạt giống tôi gieo qua bài giảng của mình, bất kể lúc nào và trong hoàn cảnh nào, ngay cả trong các tình huống tệ hại và bi quan hơn hết, vẫn đích thực phải là Đức Kitô Giêsu – tình yêu Thiên Chúa thứ tha, chứ không phải một Đức Chúa công thẳng luận phạt gieo sợ hãi, hầu ép người nghe nắm giữ các giới răn hay luật buộc để mong được lên thiên đàng. Trong khi dọn bài giảng, chính tôi sẽ phải tự tra vấn: có thực sự tôi ‘nghe Lời và hiểu’ hay không; và chính tôi có phải là thửa đất tốt được cầy sới đang khiên tốn đón nhận hạt giống Nước Trời của lòng thương xót Chúa, và đang sinh bông hạt của cùng một tình yêu xót thương tha thứ hay không?
Lạy Đức Giêsu là chính hạt giống và người gieo giống Nước Trời, xin cho con, linh mục của Lời Chúa, trở thành thửa đất tốt sẵn sàng nhất đón nhận hạt giống của Tình Yêu xót thương. Và một khi đã đón nhận và làm cho hạt giống này sinh hoa kết trái (ít là được vài chục hạt), chính con sẽ tiếp tục cùng Chúa gieo vãi vào các thửa đất khác là tâm hồn các tín hữu. Xin liệt con vào số những ‘ai đã có thì được cho thêm, và sẽ có dư dật’, không phải chỉ vì lợi ích riêng tư của mình, nhưng vì công tác gieo giống Chúa đã trao phó cho con, linh mục của Lời. Amen.
9. Bài học thiết thực từ Thầy Giêsu
(Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Trong những năm gần đây, một trong những vấn đề được xã hội cũng như Giáo hội quan tâm nhiều đó là vấn đề giáo dục. Và điều khiến cho nhiều người bức xúc nhất đó là chương trình dạy và học quá tải. Càng cải cách thì chương trình càng nặng. Số môn học và lượng bài tập, bài học cứ thế mỗi năm mỗi tăng. Chiếc cặp học sinh càng ngày càng to càng nặng, có khi nặng hơn cả trọng lượng của các em. Hậu quả là cả thầy và trò, cả người học lẫn người dạy đều phải vật vả thương đau.
Trong cuộc họp báo đầu tiên của Bộ trưởng Giáo dục Trung Quốc, Chu Tế, phóng viên nhí Lý Gia Hy, 12 tuổi, của kênh thiếu nhi Đài CCTV, đã chất vấn ông Bộ trưởng của mình: "Cháu được biết ngành giáo dục đã có nhiều cố gắng trong việc giảm nhẹ cặp sách đến trường cho học sinh, nhưng tại sao đến nay cặp của chúng cháu vẫn còn rất nặng? Câu hỏi thứ hai là các bạn đều nói không đủ thời gian để ngủ, bác bộ trưởng có cách nào để chúng cháu được ngủ nhiều hơn không?". Một câu cật vấn nhẹ nhàng, nhưng làm cho người nghe nhói lòng! Trong một lá thư gởi Chúa Hài đồng nhân dịp Giáng sinh, một em học lớp 4 đã than thở với Chúa Hài Đồng: “Con ước mong sao chương trình học ở trường nhẹ hơn, dễ hơi để con có thời gian học Giáo Lý và sinh hoạt Phong trào Thiếu Nhi”. Là những người có trách nhiệm, khi đọc lá thư, chúng tôi không khỏi chạnh lòng.
Quả đúng như vậy, vì đa phần các em phải học sáng học chiều. Chưa đủ các em còn phải tranh thủ học đêm; học chính khoá, học phụ đạo, học thêm, học bồi dưỡng, học nâng cao…. Cả thời gian nghỉ hè cũng bị bớt trước xén sau. Tệ hại hơn nữa là nhiều em Thiếu nhi Công giáo bỏ cả việc học Giáo lý, bỏ cả lễ ngày Chúa Nhật để đi học thêm cho kịp chương trình ở trường. Tất cả chỉ vì chương trình học ở trường quá nặng, quá ôm đồm.
Tuy nhiên, có một trường mà ở đó chương trình học rất nhẹ nhàng, rất thoải mái, trường đó mang tên là Trường Dạy Đức Tin. Vị Thầy Số Một làm hiệu trưởng ngôi trường đó là Thầy Giêsu. Ai học ở trường này chẳng phải đóng một khoản học phí hay lệ phí nào hết. Vả lại những bài học mà Thầy Giêsu đưa ra lại rất thiết thực và sống động, chứ không nặng tính lý thuyết, và từ chương như ở các trường học khác. Cụ thể hôm nay một trong những bài học rất dễ thuộc mà Chúa Giêsu dạy các môn sinh của Ngài đó là bài học hiền lành và khiêm nhường: “Hãy học với Ta, vì TA hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29). Một bài học hoàn toàn không mang tính lý thuyết tí nào. Vì chính Chúa Giêsu đã sống, đã thực hành một cách trọn hảo trước khi Ngài dạy chúng ta.
Thật vậy, trong suốt cuộc đời của mình, từ khi nhập thể làm người cho đến khi chết thân treo thập giá, Chúa Giêsu đã nêu gương hiền lành khiêm nhường sâu thẳm. Thánh Phaolô đã tóm tắt gương sống này trong một đoạn thư ngắn gọn: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2, 7-8).
Như thế lòng hiền lành khiêm nhường của Chúa Giêsu, Đấng đã “không nỡ lòng bẻ gãy cây sậy bị dập và dập tắt tim đèn còn khói”, đã trở thành nguồn ơn cứu độ cho nhân loại. Bởi vì nếu Chúa Giêsu chỉ là một vị Thiên Chúa muôn đời muốn cao sang thì Ngài khó có thể biết cảm thông với những đau khổ của phận người. Ngài đã tự hạ để nâng con người tội lỗi lên địa vị làm con cái Thiên Chúa và được thừa hưởng phần gia nghiệp Nước trời mai sau.
Người ta vẫn thường nói: “Thầy nào trò nấy”. Là người học trò, người môn đệ của Thầy Giêsu, chúng ta đã nên giống Thầy mình chút nào chưa? Nếu Vị Thầy của chúng ta là Đấng hiền lành khiêm nhường, thì chúng ta, người môn sinh của Ngài, phải trở nên thế nào, hiền lành hay dữ tợn; khiêm nhường hay kiêu căng tự mãn? Bài học đã có sẵn, nhưng chúng ta đã đem ra thực hành chưa? Và thực hành đến mức độ nào?
10. Suy niệm của Lm. Nguyễn Thành Long
“Hãy đến với Ta, hỡi những ai mang gánh nặng nề”
Có thể nói rằng cuộc đời là một gánh nặng, có khi là quá nặng đối với nhiều người, nặng đến nỗi dường như người ta không thể nào kham nổi.
Gánh nặng ở người này có thể là bệnh tật. Hết bệnh này đến tật khác. Bệnh nào cũng khó chịu, tật nào cũng khó ưa. Hôm nọ, tôi vào tiệm thuốc tây mua hộp thuốc. Trong khi chờ đợi, tôi nghe bà chủ tiệm than thở với một người khách: “Sống mà lành lặn, chứ lưng thì đau, tay chân thì nhức buốt thế này, chết còn sướng hơn”. Hỏi ra thì biết bà bị bệnh thấp khớp và thần kinh toạ. Là thầy thuốc, trong nhà lại đầy thuốc, mà đau vẫn cứ đau. Bệnh tật quả thật là một gánh nặng đối với rất nhiều người, đặc biệt trong thời đại hôm nay!
Gánh nặng ở người kia có thể là tai ương hoạn nạn. Đùng một cái tai nạn ập đến, người thì chết, người thì phải nằm nhà thương. Tiền bạc cứ thế một đi không trở lại đi… Mới trưa nay có một xơ quen ở dòng Đaminh nhắn tin cho tôi: “Xin cha cầu nguyện cho con với. Con bị xe tung, 3 tuần nay rồi mà vẫn chưa đi lại được. Huhu”.
Gánh nặng ở người khác có thể là tuổi già sức yếu. Chân chậm, mắt mờ răng long, đau nhức toàn thân, đi đứng khó khăn, ăn rồi thì nói chưa ăn…, Nên suốt ngày phải làm phiền đến con cháu… Gánh nặng của thời gian, của tuổi tác!
Gánh nặng ở người khác nữa có thể là việc giáo dục con cái. Đứa thì ngang tàng ương ngạnh, đứa thì ù lì bỏ học vì ham chơi, đứa thì khô khan nguội lạnh chuyện đạo nghĩa. Hôm trước, có người than vãn: “Cha ơi, ba đứa con nhà con, hai thằng em thì không cần phải nhắc; nhưng thằng anh thì trong mùa World Cup này, sáng Chúa Nhật nào con cũng phải khổ sở vì nó. Con đánh thức nó dậy đi lễ: đánh thức ở phòng này, nó ôm mền sang phòng khác nó ngủ (ăn bóng đá, ngủ bóng đá mà). Con gọi điện thoại, nó cúp máy để khỏi phải nghe mẹ gọi dậy đi lễ. Hỏi lẽ thì nó bảo rằng mẹ tha cho con khỏi đi lễ lúc này đi. Hết kỳ World Cup, con sẽ đi lễ lại”. Mẹ botay.com!
Và rồi gánh nặng ở người này có thể là chuyện chồng, chuyện con. Có ông thì đam mê rượu chè, sáng xỉn chiều say, hành hạ vợ con quanh năm suốt sáng, khiến cho gia đình tựa một hoả ngục trần gian. Có ông thì máu me cờ bạc, số đề, lại thêm nạn cá độ mỗi khi có Eurô hay World Cup đến. Làm được bao nhiêu nướng hết cho thần đỏ đen bấy nhiêu, thậm chí các vật dụng trong nhà cũng lần lượt đội nón ra tiệm cầm đồ. Gia đình vì thế mà lụn bại, không sao ngước mặt lên được.
Gánh nặng ở người kia có thể là nợ nần. Nợ nần bao vây, do làm ăn thất bát, hay do bị bạo bệnh. Cứ phải sống trong thấp thỏm lo âu vì cái khổ thứ 3: nợ đòi. Đêm nằm thậm chí còn mơ thấy con nợ tới xiết nhà. Thật là khổ.
Gánh nặng ở người khác có thể là trách nhiệm bổn phận. Bổn phận làm cha làm mẹ với đủ thứ cái lo, nhất là chuyện cơm áo gạo tiền; trách nhiệm làm chồng làm vợ trước nhiều chước cám dỗ làm cho người ta dễ dàng sống bất trung; trách nhiệm làm thầy cô, làm người học trò, với đống giáo án, đống bài vở từ chương vô bổ; trách nhiệm làm xếp, làm chủ, làm người lãnh đạo chỉ huy với vô vàn thách đố của thời cuộc, v.v…
Gánh nặng ở người khác nữa có thể là sự nghi kị và hiểu lầm của người thân. Hôm rồi có một người giáo dân vào nói: “Thưa cha, cách đây khoảng 10 năm, ông già con bị mất 1000 USD và ông đổ thừa cho con lấy. Không sao thanh minh được, tức quá, con không nhìn mặt ông già con nữa, và con cũng quyết định bỏ đạo luôn”. Hỏi tại sao tức ông già mà lại bỏ đạo, anh ta bảo: “Tại vì nhà ông già con ngay trước mặt nhà thờ, mỗi lần đi nhà thờ là phải đi ngang nhà ổng. Con không muốn nhìn mặt ổng, nên con không đi nhà thờ luôn”. Chỉ vì hiểu lầm, nghi kị nhau mà trở thành gánh nặng cho nhau trong suốt 10 năm dài.
Muôn kiểu của gánh nặng cuộc đời! Gánh nào cũng nặng nề khó chịu. Gánh nào cũng có khả năng đè bẹp người ta, làm cho người ta quỵ ngã và té nhào đớn đau. Nhất là cái gánh của tội lỗi. Nó không những đè nặng thân xác, mà còn đè bẹp cả phần linh hồn, khiến cho người ta không thể ngẩng cao đầu được.
Vậy khi phải “gồng” những gánh nặng nề đó, Chúa Giêsu mời gọi ta điều gì? Chúa Giêsu mời gọi ta đến với Chúa.
Chúa Giêsu mời ta đến với Chúa, không phải để Chúa cất đi gánh nặng đó cho ta, vì khi xuống trần gian Chúa cũng đã phải mang lấy cái gánh nặng nề. Gánh nặng đó chính là gánh tội lỗi của toàn thể nhân gian. Chúa cũng không gánh thay giùm ta! Chúa mời ta đến với Chúa để được nâng đỡ và bổ sức cho. Chúa nâng ta bằng ơn thánh của Chúa, Chúa đỡ ta bằng sức mạnh của Ngài. Chúa còn bổ sức cho ta bằng phúc lành và tình thương tha thứ của Chúa.
Có Chúa nâng đỡ và bổ sức, chắc chắn gánh nặng đời ta sẽ bớt nặng, bớt nề; và cuộc đời ta, vì thế, mà sẽ tươi sáng hơn lên.
Tuy nhiên, một thực tế đáng buồn đó là có nhiều người khi đối mặt với những gánh nặng cuộc đời, thay vì tìm đến với Chúa thì lại tìm đến với những thứ khác.
Có người thì tìm đến với thầy nọ bà kia, hoặc tìm đến với phù chú, bùa ngải. Hậu quả là gia cảnh càng thêm trầm trọng.
Có người thì tìm đến với với rượu với bia, tự nhủ nhờ rượu nhờ bia mà bớt sầu buồn. Kết cục là cả cuộc đời ngả nghiêng xiêu vẹo theo men rượu men bia.
Có người lại tìm đến số đề, số đóm với ước mong có tiền trả nợ, thoát nghèo. Nào ngờ nợ càng chồng chất, gia đình vì thế mà tan nát te tua.
Có người lại tìm đến với thuốc, không phải là thuốc bổ, mà là thuốc sâu để giải sầu vĩnh viễn và để quên đi gánh nặng cuộc đời. Để lại một gánh nặng nề hơn cho những người thân thương, v.v…
“Hỡi những ai mang gánh nặng nề, hãy đến với Ta”, thiết nghĩ đó là lời mời gọi thân thương và ngọt ngào nhất của Thầy Giêsu Chí Thánh. Hãy mau mắn đáp lại lời mời gọi ấy. Có Chúa cùng đi, có Chúa cùng nâng đỡ và giúp sức, không có gánh nào có sức đè bẹp ta, không có gánh nào làm ta quỵ ngã. Có khi gánh ấy lại trở thành chiếc cầu đưa ta đến gần Chúa hơn và gần anh em hơn. Amen.
11. Gieo và Gặt
(Anmai)
Trang Tin Mừng theo Thánh Matthêu mà chúng ta vừa nghe là trang Tin Mừng quá quen thuộc với mỗi người chúng ta nhưng ngày hôm nay nghe lại nó vẫn có một giá trị nhất định trong cuộc đời của mỗi người chúng ta, cách riêng là đời sống thường nhật đang, đã và sẽ diễn ra trong xã hội ngày hôm nay.
Chúa Giêsu thường dùng các dụ ngôn để giảng dạy cho các môn đệ, cho dân chúng. Dụ ngôn ngày hôm nay thật là dễ thương, Chúa đã lấy hình ảnh hết sức thực tế, hết sức gần gũi trong đời sống con người để nói với mỗi người chúng ta. Chúa nói là gieo giống chứ Chúa chẳng hề nói là gieo cây nào cả, Chúa chẳng hề nói đó là lúa hay bắp, hay đậu … Nói như thế hết sức gần gũi vì lẽ ai ai cũng có thể hiểu được vì có vùng thì trồng lúa, có vùng thì trồng đậu, có vùng thì trồng cà phê, có vùng thì trồng tiêu … Bất cứ nghề nào chứ không phải riêng gì về nghề nông, ai ai cũng mong cho mình có lợi sau mùa thu hoạch chứ chẳng ai mong mình bị thất mùa hay bị thất thu.
Như một người gieo giống bình thường, Chúa cũng mong gặt được những hoa quả thật tốt nhưng rồi cuộc đời vẫn có điều gì đó bất thường là thi thoảng Chúa thất thu. Chúa thất thu vì lẽ người ta đã khép lòng mình lại, khép mảnh đất cuộc đời của mình lại không để cho Lời Chúa sinh sôi nẩy nở trong đời của họ. Thiên Chúa luôn luôn yêu thương, sẵn sàng cứu độ con người nhưng còn phần con người, con người có mở lòng mình ra để cho Chúa cứu hay không là chuyện khác. Chúa gieo giống tốt nhưng con người lại cố tình làm cho hạt giống đó bị hư đi đó chính là quyết định của mỗi người.
Ta có thể hiểu một cách đơn giản về dụ ngôn này : người gieo hạt là Chúa, hạt là Lời Chúa, đất chính là mỗi người chúng ta.
Hoa quả của bất cứ cây, hạt nào cũng cần có 3 yếu tố : người gieo, giống gieo và đất để gieo.
Người gieo thì khỏi phải bàn, vì Ngài là chính Thiên Chúa, Ngài là Đấng giàu lòng thương xót, đầy từ bi và nhân hậu để rồi chúng ta an tâm và tin tưởng rằng Ngài là người gieo tuyệt vời. Ngài gieo những hạt mầm tốt để cho con người được phát triển, để được sống trong vòng tay yêu thương, trong sự quan phòng kỳ diệu của Ngài.
Hạt: Lời Chúa. Chúng ta vẫn thường hát với nhau: “Halleluia, Lời Chúa sáng soi con đường đi, Halleluia, Lời Chúa khác chi như giòng suối, Hallelui, Lời Chúa bánh thiêng ban nguồn sống, phúc cho người vui nghe, yêu mến gẫm suy lời luôn”
Hát thật là hay, hát thật là to, hát thật là hoành tráng nhưng hình như Lời Chúa ngày hôm nay nó cứ mờ dần, nhạt dần trong đời sống người kitô hữu thì phải. Thánh vịnh nhắc nhở chúng ta: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước” thế nhưng mấy ai trong chúng ta đã dùng lời Chúa để chiếu soi cuộc đời của mình.
Ngày hôm nay, giữa một đời sống quá phát triển, Lời Chúa dần dần bị người ta đẩy ra khỏi cuộc đời.
Thử hỏi các bậc làm cha làm mẹ xem, ngày hôm nay, cha mẹ, con cái trong gia đình mấy khi đụng đến quyển Thánh Kinh? Trong khi đó Thánh Kinh chính là nguồn sống, nguồn hạnh phúc, của ăn tinh thần cho gia đình.
Nhìn lại chương trình học của một đứa bé chúng ta thấy rất rõ.
Chập chững biết đi một chút thì vào nhà trẻ, sau đó vào cấp 1 và từ từ tiến vào đại học. Bên cạnh đó cha mẹ chúng lo lắng cho chúng quá nhiều về các kỹ năng như đàn, vi tính, học bơi. .. học ngày không đủ và tranh thủ cả học đêm nữa. Đành biết những môn đấy rất cần cho cuộc đời nhưng nó chỉ là cần chứ không phải là đủ, là căn cốt của cuộc đời này. Một thực trạng đau lòng ngày hôm nay là số lượng giáo lý viên trong các giáo xứ cứ vơi dần. Không chỉ giáo lý viên vơi dần mà các em nhỏ học giáo lý cũng vắng dần trong các lớp giáo lý. Khi hỏi đến thì cha mẹ và ngay như chính các em cũng tìm hết mọi cách để lý giải cho mình về chuyện bỏ bê học Lời Chúa mà chỉ mãi đi tìm cho mình tri thức của xã hội.
Cũng buồn cười ! Chắc có lẽ đi học cái gì càng đóng tiền cao họ càng thích đi chứ đi học Giáo lý miễn phí nên chẳng ai thèm đi học cả. Cũng nực cười hơn nữa khi chính cái học miễn phí ngày hôm nay, ngày các cháu còn trẻ chính lại là cái kho tàng vô giá, là hành trang các cháu mang theo khi vào đời. Học cao hiểu rộng biết nhiều là tốt đấy nhưng thực ra không ít người đang phải trả một giá quá đắt cho chuyện đầu tư tri thức chứ không đầu tư cho Lời Chúa.
Lời Chúa cứ theo năm tháng mờ nhạt dần trong đời sống kitô hữu.
Mảnh đất: mảnh đất để mà Lời Chúa có thể sống và phát triển chính là cuộc đời của mỗi người chúng ta. Vì ham chạy theo sức hút của cuộc đời, ngày hôm nay con người ta không còn dành cho Lời Chúa phát triển trong đời mình nữa. Các kiến thức về khoa học, về tin học, về xã hội nó đã chiếm hết mảnh đất của đời ta rồi thì còn gì chỗ để mà cho Lời Chúa phát triển nữa.
Mới đây, một người quen nhờ tôi giúp cho hai đứa con của chị khi chị thấy chúng dường như nói quá đáng là bỏ đạo! Nghe chị nói xong tôi cảm thấy ngao ngán làm sao đấy! Gia đình chị thuộc dạng khá giả, chồng chị là một người có tiếng trong giới hội họa – mỹ thuật nhưng gia đình chị đang đứng trên bờ vực của sự dữ, sự mất lòng tin, dự đánh mất Thiên Chúa ra khỏi gia đình.
Chẳng dám trách ai, chẳng dám trách chị, chẳng dám lên án ai và cũng chẳng dám lên án chị.
Có lẽ cái hậu quả, sự bi đát mà gia đình chị đang chịu lấy không phải ngẫu nhiên mà đến với gia đình chị. Nó chính là hậu quả của nhiều tháng nhiều năm mà gia đình chị chính là tác giả. Là một gia đình Công giáo hẳn hoi nhưng Lời Chúa chẳng bao giờ có cơ hội để mà sống trong gia đình của chị. Vợ chồng con cái cứ mãi miết đi tìm con chữ, đi tìm tri thức mà không tìm Lời Chúa. Chúa nhật vẫn tham dự Thánh lễ tạm gọi là cho có với người ta chứ vợ chồng con cái có để cho Lời Chúa thấm nhập vào gia đình chị đâu mà con cái chị có đời sống đạo tốt! Tôi khẳng định một điều rằng chính vợ chồng con cái chị là người đã tạo nên hậu quả ngày hôm nay. Ngày hôm nay, dẫu rằng anh chị sống trên một đống tiền mà có thể nói là tiền tỷ đấy nhưng có hạnh phúc thật hay không hay nó chỉ là cái giả tạo ở bên ngoài về mặt xã hội thôi còn về tôn giáo, về lòng tin, về Thiên Chúa hình như chỉ là vá víu tạm bợ mà thôi.
Nếu như khi các cháu còn bé, anh chị biết dạy dỗ, hướng dẫn các cháu sống Lời Chúa cùng với các anh chị thì ngày hôm nay anh chị không phải lo lắng gì cả. Thử hỏi một ngày Chúa ban cho anh chị và các cháu được 24 giờ đồng hồ nhưng anh chị và các cháu dành được bao nhiêu phút để ngồi lại với nhau đọc kinh chung với nhau thôi chứ đừng nói là đọc lời Chúa và suy niệm Lời Chúa?
Lo đi tìm thế gian thì thế gian sẽ tràn ngập gia đình, đó là quy luật tất yếu của cuộc đời chứ có gì đâu mà chị phải lo âu và thắc mắc. Nếu như anh chị và các cháu đi tìm Lời của Chúa thì chắc chắn Chúa sẽ là vua, là Chúa là chủ của gia đình anh chị.
Nhớ đến hình ảnh gia đình của chị tôi trộm nghĩ rằng Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, Ngài cho chúng ta tự do lựa chọn thái độ sống với Ngài. Ngài không hề ép buộc chúng ta bất cứ điều gì cả. Lời Chúa vẫn có đó, Lời Chúa vẫn còn đó nhưng còn đón nhận, làm cho phát triển lại tùy thuộc vào mỗi người chúng ta. Chúng ta có để cho Lời Chúa trở nên nguồn sống, nguồn ánh sáng, nguồn suối cho cuộc đời chúng ta hay không chính là cách đáp trả của mỗi người chúng ta.
Nguyện xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết mở lòng mình ra để đón nhận Lời Chúa và để cho Lời Chúa sinh hoa kết quả trong cuộc đời mỗi người chúng ta để ngày sau Chúa gặt được những cây “lúa”, những cây “đậu”, những cây “cà phê” đầy hoa và trĩu quả.
12. Ngài dạy họ nhiều điều
(Giải thích Bản văn Tin Mừng – Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Giải thích
Bắt đầu từ chương 13, Chúa Giêsu ra khỏi khung cảnh hội đường và các cuộc tranh luận. Ngài giảng dạy dân chúng trên bờ biển qua các dụ ngôn. Sau khi Chúa Giêsu nói về việc “thi hành ý muốn của Cha trên trời” (12:50), Ngài chuyển sang dụ ngôn Người gieo giống. Hạt giống sẽ được giải thích là lời của Nước Trời (13:19), cũng có nghĩa là ý muốn của Thiên Chúa được trình bày trong lời nầy. Tiếp sau dụ ngôn nầy là các dụ ngôn về Nước Trời. Như thế, Chúa Giêsu trình bày ý muốn của Thiên Chúa trong các dụ ngôn. Dụ ngôn đầu tiên “Người gieo giống” sẽ cho thấy các cách thức khác nhau đón nhận lời Chúa và thi hành ý muốn của Thiên Chúa.
Dụ ngôn Người Gieo Giống là dụ ngôn đầu tiên trong loạt 7 dụ ngôn. Sáu dụ ngôn còn lại chia thành hai nhóm ba, phân cách nhau bởi giải thích dụ ngôn cỏ lùng. Mỗi trong sáu dụ ngôn đều bắt đầu bằng câu: “Nước Trời giống như”. Phần dành cho các dụ ngôn kết thúc ở câu 13:53.
Phân đoạn các dụ ngôn trong chương 13 nầy như sau:
1- Dụ ngôn người gieo giống (13:1-9); Mục đích của dụ ngôn (13:10-17) và giải thích dụ ngôn (13:18-23); 2- Dụ ngôn lúa và cỏ lùng (13:24-30); 3- Dụ ngôn hạt cải (13:31-32); 4- Dụ ngôn men trong bột (13:33); Lý do dùng dụ ngôn (13:34-35); Giải thích dụ ngôn lúa và cỏ lùng (13:36-43); 5- Dụ ngôn kho tàng ẩn dấu (13:44); 6- Dụ ngôn viên ngọc quý (13:45-46); 7- Dụ ngôn lưới cá (và giải thích) (13:47-50); Kết luận (13:51-52).
Bố cục của dụ ngôn người gieo giống (13:1-9) có thể được phân chia như sau:
- Dẫn nhập (c. 1-3a);
- Các loại đất đón nhận hạt giống (cc. 3b-8);
- Kết luận (c. 9).
Giảng Dạy Trên Bờ Biển (cc. 1-3a)
Không gian trình thuật thay đổi. “Căn nhà” mà Ngài đi ra khỏi là căn nhà trong đó Ngài sẽ giải thích cho các môn đệ ý nghĩa dụ ngôn người gieo giống (13:36). “Ngài ngồi xuống” và “đám đông đến bên Ngài” ám chỉ Ngài sắp sửa giảng dạy họ như một vị Thầy (5:1). Những người nghe Ngài giảng dạy vẫn là “đám đông” đã theo Ngài ngay lời đầu tiên của Bài Giảng Trên Núi (5:1; 7:28; 8:1; 12:46; 13:2).
Các Loại Đất Đón Nhận Hạt Giống (cc. 3b-8)
Ý nghĩa của dụ ngôn sẽ được Chúa Giêsu giải thích trong 13:18-23. Ở đây chúng ta cố gắng tìm hiểu ý nghĩa các hình ảnh của dụ ngôn. Người gieo giống, chứ không phải là “một người gieo giống vì có mạo từ, được giới thiệu ở đầu dụ ngôn (c. 3b) chính là Chúa Giêsu, Đấng mang lời Chúa đến cho trần gian. Tuy nhiên trong dụ ngôn không nhắc đến người gieo giống nữa, mà chỉ nói đến “hạt giống”, chủ ngữ thật của dụ ngôn, “Có hạt rơi trên…”. Matthêu mô tả bốn nơi hạt giống rơi xuống (cc. 4-8), trong đó hai lần thánh sử mô tả tính chất của đất: “không có nhiều đất” (c. 5) và “đất tốt” (c. 8), như là điều kiện chính làm cho hạt giống lớn lên và sinh hạt hay không. Hai lần khác thánh sử không nói đến tính chất của đất, mà nói đến môi trường không thuận lợi cho hạt giống: “vệ đường” (c. 4), và “bụi gai” (c. 7); trong các môi trường đó, hạt giống chịu tác hại do chim trời đến ăn, và cây gai bóp nghẹt; do đó hạt giống không thể sinh trưởng được.
Hạt giống rơi trên vệ đường (c. 4). Vệ đường ở đây là những mảnh đất hẹp chạy dọc theo bờ ruộng hoặc giữa ruộng (x. 12:1). Chim trời đến ăn đi những hạt rơi trên đó. “Chim trời” không mang một ý niệm tiêu cực. Trong Matthêu, peteinon, chỉ “chim trời” được Thiên Chúa chăm sóc và nuôi nấng (6:26; 8:20; 13:32); do đó không thể giải thích “chim trời” là hình ảnh của “kẻ xấu”, ponèros (13:19). Động từ katesthiò, có nghĩa là “nuốt chững”.
Hạt rơi trên đá, không có nhiều đất (cc. 5-6). Đồi núi nhiều nơi tại Palestina chỉ toàn là đá sỏi. Loại đá trong dụ ngôn nầy là petròdès, “đất đá”, trên loại đá nầy có một lớp đất mỏng (13:5.20); khác với petra, “đá tảng” (7:24tt). Trong lớp đất mỏng hạt giống mau ấm hơn nên cũng mọc lên nhanh hơn; nhưng dưới ánh mặt trời nóng bức, nó sẽ khô héo ngay nếu thiếu nước (x. Giê. 17:8).
Bụi gai (c. 7). Cây gai không phải là cây hữu ích. Nơi cây gai không thể hái được trái nho (7:16; 13:22). Hạt giống rơi vào trong bụi gai thì không thể sinh trưởng được (x. 7:16). Động từ “bọp nghẹt” , pnigò, “làm cho nghẹt thở” (18:28) không sống nổi.
Đất tốt (c. 9). Hạt giống lthành cây và kết hạt được tính theo con số tăng dần, từ ba mươi lên dần đến một trăm. Cách tính tăng dần nầy cũng thấy trong đoạn tin mừng nầy. Từ hạt giống rơi bên vệ đường bị ăn mất ngay từ đầu, đến hạt giống mọc lên được một chút rồi bị cháy khô, đến hạt giống lớn lên nhưng không sinh hạt, và sau cùng là hạt giống sinh hạt. “Trái/hạt”, karpos, còn có nghĩa thiêng liêng: đó là lòng sám hối. Muốn biết đất tốt hay xấu thì hãy nhìn xem cây sinh hạt, giống như nhìn quả thì biết cây (x. 7:16; 12:33).
“Ai có tai để nghe thì hãy nghe” (c. 9). Cụm từ nầy được dùng trong hai lần khác nữa trong văn mạch khác (11:15; 13:43). Nó thường được dùng trong kết luận, và nhằm gây chú ý trước một vấn đề hệ trọng đã được bàn đến. Ở đây câu nầy hướng về dân chúng là những người đang nghe Chúa Giêsu giảng dạy. Ngài làm cho họ chú ý và cho họ thấy họ có thể là một trong các loại đất vừa nói trên.
+++
Hạt giống Lời Chúa được gieo xuống trần gian không bao giờ thiếu.
Mảnh đất đón nhận hạt giống, mới là quan trọng.
Chúa Giêsu đã rao giảng lời Thiên Chúa cho dân chúng, và Ngài trông chờ những mảnh đất tốt.
Ai là mảnh đất tốt, nghĩa là đón nhận Lời Chúa cách có hiệu quả, sẽ trở nên mẹ và anh chị em của Chúa Giêsu.
13. Sức sống của hạt giống
(Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Vào một đêm nọ, người phụ nữ nằm mơ. Chị thấy mình bước vào một siêu thị. Khách hàng tấp nập. Có một quày hàng đặc biệt, người ta chen chân không lọt. Chị ngạc nhiên thấy Chúa Giêsu đứng bán ở quày hàng này.
Chờ đợi đến phiên mình, chị hỏi: Chúa mà cũng bán hàng sao? Chúa bán cái gì ở đây vậy?
Chúa trả lời: Ta bán mọi sự con đang ước muốn trong trái tim con.
Chị nói liền một hồi: Thưa Chúa, con muốn có bình an, có tình yêu, có hạnh phúc, có khôn ngoan và tự do không sợ hãi. Suy nghĩ một lúc, chị lại thêm: không chỉ cho con mà thôi nhưng còn cho chồng, cho con và cho những người thân yêu của con nữa.
Chúa mỉm cười và nói: hỡi con yêu dấu, ở đây,Ta không bán hoa trái mà chỉ bán hạt giống thôi. (Anthony de Mello).
Tin mừng Chúa nhật hôm nay (Mt 13,1-23) có tên gọi là “Dụ ngôn người gieo giống”. Thiên Chúa là người gieo giống. Chúng ta là đất. Hạt giống là lời giảng dạy của Chúa Giêsu. Tùy vào thái độ của mỗi người, chân thành đón nhận hay lười biếng khước từ, Lời Chúa sẽ sinh những hiệu quả khác nhau.
Hạt giống được gieo trên bốn loại đất, đất vệ đường, đất lẫn sỏi đá, đất có nhiều gai góc và đất tốt. Đất nào cho năng suất nấy. Làm sao bên lề đường khô cằn sỏi đá, hạt giống có thể sinh hoa kết trái được? Trong bụi gai chằng chịt cỏ rác không mọc nổi, hạt giống làm sao vươn lên để thánh cây xanh tốt được? Chúa Giêsu ví lời giảng dạy của Ngài như hạt giống trong tay người nông dân. Hạt giống gieo trên những loại đất khác nhau, số phận các hạt giống khác nhau. Lời Chúa cũng có nhiều số phận khác biệt. Có lời sinh lợi muôn vàn lời. Có lời sống èo uột bị bóp nghẹt. Có lời làm tròn sứ mạng được uỷ thác. Có lời biến mất như rơi vào cõi hư không. Khác biệt về thành quả không hệ tại bởi hạt giống tốt xấu mà bởi phẩm chất ruộng đất. Thửa ruộng mà Chúa Giêsu nói đến không phải ruộng trên mặt đất mà là cõi lòng con người. Vì thế, dụ ngôn hạt giống gieo trên các loại đất khác nhau gợi lên những ý nghĩa.
Tấm lòng quảng đại của người đi gieo.
Người đi gieo đã gieo hạt giống trên những mảnh đất phì nhiêu màu mỡ. Những mảnh đất sỏi đá, gai góc, lối mòn có bước chân người cũng không bị lãng quên. Người gieo hạt không bỏ rơi một mảnh đất nào vì tấm lòng quãng đại của ông, chỉ muốn cho hạt giống được gieo vãi khắp chốn. Thiên Chúa quảng đại nhìn mọi người với chính phẩm giá của họ trong niềm hy vọng của Ngài. Vì thế, mảnh đất nào cũng nhận được hạt giống đồng đều. Ai cũng có cơ may nhận được ân sủng cứu độ Tin Mừng nếu như họ thành tâm thiên chí. Lòng quảng đại không phân biệt đối xử, không ưu tiên ai mà cũng chẳng loại trừ ai, không thất vọng về hiện tại của người khác mà biết kiên tâm đợi chờ hy vọng vào tương lai tươi sáng hơn.
Không ai hoàn toàn là “lề đường”, là “sỏi đá” hay là “bụi gai”. Trong mỗi con người luôn có một mảnh đất tốt cho dù nó chỉ nhỏ bé thôi. Có thiện chí đón nhận hạt giống cũng sẽ có một mùa gặt bội thu “đến nỗi có hạt được một trăm, có hạt sáu mươi, có hạt ba mươi” (Mt 13, 23). Thiên Chúa vẫn gieo Lời Ngài vào lòng chúng ta, vì Ngài chắc chắn rằng: “Lời từ miệng Ta phán ra sẽ không trở lại với Ta mà không sinh kết quả, nhưng nó thực hiện ý muốn của Ta và làm tròn sứ mạng Ta uỷ thác” (Is 55, 11).
Thánh Phêrô đã ba lần chối Chúa, nhưng trong ngài vẫn còn một mảnh đất tốt của lòng sám hối. Thánh Phaolô hăng say bách hại các kitô hữu, nhưng trong ngài vẫn còn đó một mảnh đất tốt của lòng nhiệt thành và khiêm tốn. Thánh Augustinô bị những bụi gai của tri thức, kiêu căng và dục vọng vây bủa, nhưng vẫn còn có một mảnh đất tốt hướng tìm chân lý, chỉ chờ hạt giống gieo trồng là nở rộ mùa gặt phong nhiêu… Còn nhiều lắm những mảnh đất tốt như thế trong Giáo Hội và trong cuộc sống thường ngày của chúng ta. Tất cả những mảnh đất tốt đó, cho dù có nhỏ nhoi đi chăng nữa, nhưng một khi đã được đón nhận Lời Chân Lý thì đúng như lời Chúa nói, đã sinh lợi “hạt một trăm, hạt sáu mươi, hạt ba mươi”.
Hạt giống tiềm ẩn sự sống.
Hạt giống có vỏ cứng bảo vệ, khi được gieo vào lòng đất vỏ sẽ vỡ ra cho mầm đâm chồi. Chồi non lên xanh là hình ảnh của sự sống mới. Sự sống vào đời mới bằng một cuộc phiêu lưu, bằng niềm phó thác cho tương lai.
Hạt giống là ánh sáng, là Tin mừng, là thiện hảo tốt lành, là giá trị Nước Trời. Tự nó, hạt giống có một sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Trong hạt giống có mầm sự sống, hễ cứ gặp điều kiện thuận lợi là mọc lên. Trong mầm sống có sự sống tiếp nguồn từ sự sống của Thiên Chúa. Nếu “Hạt lúa âm thầm mọc lên” (x. Mc 4,26-29) là hình ảnh sức sống tiềm tàng thì “Hạt lúa mục nát đi” (x. Ga 12,24) lại là một hình ảnh khác nói lên niềm hy vọng một mùa gặt mới sau khi chịu ‘mục nát”. Hạt giống là hồng ân Thiên Chúa, phong phú bao la và vô cùng mạnh mẽ. Điều quan trọng là hãy cho hạt giống một cơ hội để mọc lên.
Niềm hy vọng mùa gặt phong phú
Nếu người gieo hạt đã đặt hy vọng vào từng mảnh đất bất kể mức độ tốt xấu thì bổn phận của đất là không được phụ lòng người quảng đại gieo hạt. Thiên Chúa làm được mọi sự nhưng Ngài cần con người cộng tác.Thiên Chúa vẫn luôn tin tưởng và hy vọng nơi con người.
Trong các hoạt động tông đồ, không cần phải phân tích người nào là lề đường, là sỏi đá hay bụi gai. Hạt giống cứ gieo vào đất, chúng ta hãy làm việc tốt cho người khác. Chính Thiên Chúa mới là Đấng làm cho hạt giống mọc lên và sinh hoa kết quả (x. 1 Cr 3, 5-9).
Niềm hy vọng phải là một đặc trưng của đời sống người kitô hữu. Chính niềm hy vọng đó sẽ giúp chúng ta vượt qua những khó khăn, thử thách trong cuộc sống hiện tại, hướng tới một tương lai tươi sáng và một cuộc sống vĩnh cửu của người được làm con cái Thiên Chúa.
Mầu nhiệm Nước Trời còn ẩn chứa nhiều điều huyền diệu và chỉ cõi lòng nào chân thành, khiêm nhường đón nhận mới có cơ duyên thưởng thức những huyền diệu của Lời Hằng Sống. Nhận lấy hạt giống Lời Chúa trong mình, chúng ta từ từ sinh hoa trái trong Giáo Hội cho vinh quang của Thiên Chúa ( GLCG # 1724).
Người nông dân có câu: “nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”. Giống là cần thiết, nhưng nước, phân bón và công chăm sóc thật là quan trọng. Giống tốt, gieo xạ đúng quy trình kỹ thuật, nhưng để đất khô hạn thì lúa không lên xanh. Có giống, có nước mà không có phân bón thuốc trừ sâu, thì lúa sẽ èo uột không kết quả. Có được giống tốt, nước bảo đảm, phân thuốc đầy đủ, nhưng chẳng chăm sóc thì không thu lợi được bao nhiêu.
Người sáng, người mù hay người câm điếc cũng đều có thể nghe Lời Chúa, đón nhận hạt giống Lời Chúa gieo vào lòng, nhưng quan trọng là đem ra thực hành.
Có một mảnh đất hoang cỏ mọc um tùm. Ông Tư mua lại thửa đất ấy rồi cày xới, làm sạch cỏ, rồi ông trồng cây, trồng hoa, trồng rau. Một thời gian sau, mảnh đất trở thành một khu vườn thật đẹp. Một hôm, ông Tư đang làm việc trong vườn, cha xứ đi qua và nói: "Khu vườn thật là đẹp! Ông Tư thấy không, khi ông biết cộng tác với Thiên Chúa thì kết quả như thế đó". Ông Tư trả lời: "Vâng, cha cứ thử nghĩ lại xem, miếng đất này như thế nào khi chỉ có một mình Chúa làm việc ở đây".
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay. Chúng con thường xây nhà trên cát, vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy, nhưng lại không dám đem ra thực hành. Chính vì thế Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con.
Xin cho chúng con đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa, đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.
Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình, để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng trưởng.
Ước gì ngôi nhà đời chúng con được xây trên nền tảng vững chắc, đó là Lời Chúa, Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con. (Mana)
14. Đường đi phải đến
(Lm. Giuse Trương Đình Hiền)
Nhà văn quá cố Xuân Vũ (1930-2004), một văn sĩ bộ đội hồi chánh năm 1971 đã viết một cuốn trường thiên hồi ký mang tựa đề “ĐƯỜNG ĐI KHÔNG ĐẾN” mà nội dung cốt yếu là làm sống lại những nổi bi đát, thống khổ, man rợ tột cùng mà những người cán binh cọng sản, trong đó có Xuân Vũ, đã trải qua trên con đường mòn mang tên Hồ Chí Minh. Trên cuộc hành trình “giải phóng miền Nam” cay nghiệt đó, biết bao thanh niên, thiếu nữ đã vĩnh viễn nằm lại giữa núi rừng heo hút, bao nhiêu cái chết tức tửi đắng cay khi tuổi đời còn thênh thang mộng ước, bao mối tình say đắm ngọt ngào đành chia ly đứt gánh vì một “rừng mơ” của ảo tưởng và lầm lạc. Cho dù trong số ra đi đó có đến được Miền Nam, thì tâm hồn họ, cuộc đời họ cũng gần như tan nát, mất hướng và thất vọng khi nhận ra một lý tưởng bị đánh lừa, một cuộc đời bị lãng phí. Và vì thế, đối với Xuân Vũ, con đường giải phóng đó, con đường cách mạng đó lại là “ĐƯỜNG ĐI KHÔNG ĐẾN”.
Thế nhưng hôm nay, Lời Chúa lại mách bảo chúng ta rằng: có một con đường khác mang tên LỜI CHÚA là một “ĐƯỜNG ĐI PHẢI ĐẾN”.
Trước hết, Lời Chúa phải được chúng ta tin nhận đó là Lời Hành Động, Lời hiệu quả, Lời mang lại ơn cứu độ, chứ không bao giờ là một lời của gió thoảng mây bay, lời của hoang vu trống rỗng.
Để khẳng định chân lý nầy, chúng ta hãy nhớ lại lời của sứ ngôn Isaia trong Bài đọc 1 vừa được công bố:
“Cũng như mưa tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đât, chưa làm cho đất…đâm chồi nẩy lộc…thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không về với Ta, nếu chưa đạt kết quả, …”.
Và không chỉ “xuất phát từ miệng Ta” như một âm thanh, như một tiếng nói, cho dù là tiếng nói sáng tạo: “Thiên Chúa phán: - Phải có ánh sáng. Liền có ánh sáng” (St 1,3), hay tiếng nói tình tự vỗ về của người yêu: "Bởi thế, nầy Ta sẽ quyến rũ nó, đưa nó vào sa mạc để cùng nó thổ lộ tâm tình" (Hs 2,16), mà là một sự “xuất phát” để “trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta...” (Ga 1,14).
Với cuộc mặc khải tối hậu nầy, quả thật Lời Chúa đã cô đọng thành xương, thành thịt, thành người, thành “ngôi vị” và là Đấng tái tạo, cứu độ thế giới.
Đức Kitô chính là Ngôi Lời Nhập Thể, là Lời vâng lệnh Chúa Cha xuống thế làm người, là Lời loan báo tin Mừng bình an, là Lời Chân lý, là Lời đem lại sự sống đời đời. Ngài là Lời nhưng Ngài cũng chính là người đi rao giảng Lời, là Người công bố Tin Mừng Nước Thiên Chúa, là Người mang hạt giống chân lý tình yêu và cứu độ gieo vào mảnh đất trần gian. Ý nghĩa đầu tiên mà Chúa Giêsu muốn nhắm tới trong dụ ngôn “Gieo Giống” phải chăng là muốn cho dân Ít-ra-en ngày xưa và chúng ta hôm nay xác tín rằng: Nước trời chắc chắn sẽ đến và “Lời loan báo về Nước Trời” chắc chắn sẽ sinh hoa kết trái, cho dù phải kinh qua khó khăn thử thách, vất vả hiểm nguy, chẳng khác nào người gieo giống phải đối diện với những “sỏi đá khô cằn, những bụi bờ gai góc, tưởng đâu hạt giống sẽ bị vùi dập, nghiền nát, và người gieo phải thất bại trắng tay. Nhưng rồi, mùa gặt bội thu lại đến mang theo vỡ lỡ vui mừng, “hạt một trăm, hạt sáu mươi, hạt ba mươi…”
Phải chăng, Chúa Giêsu muốn ngụ ý trong dụ ngôn nầy là chính cuộc đời và sứ vụ của mình? Cũng có thể lắm đấy chứ! Ngay từ phút giây Nhập Thể vào mảnh đất trần gian, Lời Thiên Chúa đã chẳng đụng ngay con đường Bêlem sỏi đá, khô chồi đến độ, mọi cánh cửa nơi đó đều khép chặt để Ngài phải sinh hạ trong chuồng lừa máng cỏ đó sao! và rồi, trái tim nhân loại đâu có phải lúc nào cũng trổ hoa để mĩm cười đón đợi Đấng Cứu Thế. Hêrôđê, Philatô, những người biệt phái, các ông tư tế của đền thờ không chỉ là những thế lực có thể bóp nát chính bản thân Ngài, nhưng còn có đủ quyền uy để bóp ngặt không để cho một mầm mống nào của chân lý do Ngài rao giảng được tồn tại, phát sinh. Trong suốt ba năm dãi dầu sương gió, từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây, từ duyên hải Biển Hồ đế giữa lòng hoang mạc…Ngài đã cất công tung gieo hạt giống Lời Chúa. Nhưng kìa, tất cả gần như sụp đổ tan tành vào buổi trưa thứ Sáu: “Đóng đinh nó đi, đóng đinh nó đi…Xin tha Baraba, đóng đinh Giêsu vào thập giá…”. Vâng, có lẽ do áp lực của miếng cơm manh áo, của vị thế chính trị, của nhưng “lo toan vặt vãnh đời thường”, mà gai góc đã phủ kín mảnh đất tâm hồn của đám dân vô tội ấy để Lời chân lý họ đã nghe và thán phục hôm nào “Người nầy dạy như Đấng có uy quyền”, đã “đội nón ra đi”, đã bị bóp nghẹt từ trong trứng nước! Phải chăng bi kịch thập giá là điểm hội tụ của tất cả những gì bi đát nhất của thân phận người gieo giống, của cuộc đời làm ngôn sứ của Chúa Giêsu.
Nhưng tiếng nói cuối cùng lại không là sự chết và đích điểm của Nước Trời lại không phải nấm mồ. Hạt giống Nước trời mà Chúa Giêsu gieo vào giữa lòng thế giới đã mục nát đi cùng với 33 năm cuộc đời nhập thể, cùng với cái chết đau thương của Ngài, đã không luống công vô ích. Vào bình minh ngày Thứ Nhất Trong tuần, hạt giống bị vùi dập Kitô đã oai hùng chỗi dậy đánh bại thần chết và tội lỗi để mang nhân loại đi lên một lộ trình mới: lộ trình của phục sinh, tin yêu và hy vọng. Tất cả đã từ từ vươn dậy. Để rồi xuyên qua bao thăng trầm dâu bể của lịch sử, hôm nay đã có một mùa lúa tốt tươi trên cánh đồng thế giới và hứa hẹn sẽ vàng đồng đầy kho nứt lẫm trong ngày thế mạt.
Và đó là con đường của Lời suốt 2000 năm nay, kể từ khi Hạt Giống Ngôi Lời chấp nhận chịu mục nát trên đồi Can-vê và muôn thế hệ Tông Đồ, chứng nhân nối tiếp cùng chấp nhận theo Đức Ki-tô làm “hạt lúa mì” mục nát đi trên cánh đồng thế giới.
Để đức tin, để ơn cứu độ được đến với muôn người, muôn dân tộc, cần có những con người gieo giống và những hạt giống tốt được gieo.
Vì thế, nếu Lời Chúa hôm nay không cho phép chúng ta đánh mất niềm tin yêu và hy vọng trong sứ vụ loan báo Tin Mừng ; thì đồng thời, Lời Chúa cũng tra vấn chúng ta, thách thức chúng ta: Chính bản thân tôi đã đón nhận Lời Chúa thế nào? Lời Chúa đã thật sự phát sinh hiệu quả ra sao trong mảnh đất của đời tôi? Bởi vì Lời Thiên Chúa là Lời sống động kia mà! Lời không chỉ là ngôn từ mà còn phải trở thành ngôn ngữ của cuộc sống.
Nói cách khác, phải biến cuộc sống trở nên lời chứng sống động của Lời Chúa. Phải cất đi những góc gai sỏi đá và cày xới liên tục bằng hy sinh nguyện cầu để biến cuộc đời thành mảnh đất mở màu cho Lời Chúa kết trái đơm hoa.
Nếu Phêrô, Gioan không can đảm “nghe Lời Thiên Chúa hơn lời người phàm” (Cv 4,18), cho dù phải đối diện với đòn vọt ngục tù và cả cái chết thì làm sao có được Hội Thánh hôm nay? Nếu Phaolô không xác tín mạnh mẽ rằng: “khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”, thì làm sao một phần ban nhân loại hôm nay biết được Đức Kitô là ai và Tin Mừng cứu rỗi là gì? Cũng thế, nếu không có những Augustinô, Phanxicô Xavie, những Têrêsa hài đồng, những Anrê Phú Yên…; hay mới đây, trong thời đại nầy, những người như Mẹ Têrêsa Calcutta, những vị giáo hàng thánh thiện như hai Thánh giáo hoàng Gioan 23 và Gioan-Phaolô 2, thì làm sao vườn hoa Giáo Hội có được mùa lúa bội thu như hôm nay? Bên cạnh những tượng đài vĩ đại đó, trong Hội Thánh hôm qua và hôm nay còn có bao nhiêu “mảnh đất tâm hồn” âm thầm nhưng vĩ đại, như cô gái Vêrônica phung cùi người Camêrun, cho dù mù mắt, cùi tay, cụt giò, vẫn vui tươi biến cuộc đời thành hy lễ để Lời Chúa kết trái đơm bông nơi bao nhiêu anh chị em thương tật cùi hủi khác.
Và như thế chúng ta xác tín rằng, một khi đã mang Lời Chúa lên đường, một khi đã trở thành người gieo giống, .và một khi đã đón nhận hạt giống Lời Chúa với một cỏi lòng “đất tốt”, thì dứt khóa đường đi của Lời Chúa là “đường đi phải đến”, phải đến để mảnh đất trần gian nầy bớt đi những cỏ lùng hoang dại và trổ sinh những hoa trái tốt lành.
15. Hạt giống
(Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
Lạy Chúa, xin ban ơn cho chúng con biết biến đổi mảnh đất khô cằn, sỏi đá và hoang dại của tâm hồn, thành miền đất mầu mỡ phì nhiêu để hạt giống loiừ Chúa triển nở tốt tươi và sinh nhiều bông hạt.
*******
Khi người ta tìm cách phủ nhận sự hiện hữu và sự sáng tạo của Đấng Tạo Hóa là khi họ bị lạc vào hư vô. Sự chối bỏ quyền của Tạo Hóa là chối bỏ chính mình. Một số người không tìm hiểu tường tận mà đã chối bỏ nguồn cội và ngụy trang bằng một kết luận là mọi sự tự nhiên mà có. Kết luận mà chẳng có luận kết chút nào. Khi không hiểu hay chưa hiểu về nguyên nhân cùng cốt của vũ trụ vạn vật, chúng ta phải mở lòng mở trí để đón nhận và nghiên cứu một cách sâu xa. Đừng phủ nhận và chối bỏ sự gì khi trí chưa kịp suy, lòng chưa kịp cảm và giác quan chưa được thấu tỏ. Khi quan sát mọi sự hiện hữu nhiệm mầu chung quanh, chúng ta hãy mở mắt ngắm nhìn và dừng lại đôi phút để chiêm niệm và vui hưởng. Vũ trụ vạn vần, mây tầng kết hợp, gió lộng tuyết rơi, nắng sớm mưa chiều và nguồn sinh phát lộc. Đây Chúa phán: Như mưa tuyết từ trời rơi xuống và không trở lên trời nữa, nhưng chúng thấm xuống đất, làm cho đất phì nhiêu, cây cối sinh mầm, cho người gieo có hạt giống, cho người ta có cơm bánh ăn ((Is 55, 10). Ôi bao la nhiệm mầu công trình tay Chúa đã dựng nên.
Ngay từ khởi nguyên, Thiên Chúa phán: Đất phải sinh thảo mộc xanh tươi, cỏ mang hạt giống và cây trên mặt đất có trái, ra trái tùy theo loại, trong có hạt giống (Stk 1, 11). Một trí khôn siêu việt đã đặt để an bài mọi sự trong trật tự lạ lùng. Trong tất cả mọi loài từ thực vật đơn sơ bé nhỏ cho tới những loài sinh vật phức tạp đều có khả năng truyền sinh giống nòi. Một hạt giống nhỏ li ti của mỗi loài đã tiềm ẩn một sự sống phát triển không ngừng cho tới khi chấm dứt. Tạo Hóa đã quan phòng đặt để nơi mỗi loại có muôn vàn hạt giống tiềm năng có thể phát triển trong những điều kiện cần có. Nói chung, mọi loài đều hưởng nhờ sự sống qua môi trường không gian, thời gian, dưỡng khí, đất đai, mưa nguồn và nguồn sống.
Chúa Giêsu đã giảng một dụ ngôn về hình ảnh người đi gieo giống rất tuyệt vời. Người gieo giống tung gieo hạt giống một cách quảng đại. Số phận mỗi hạt mỗi khác, có hạt rơi xuống vệ đường, hạt rơi vào bụi gai, hạt rơi trên đá sỏi và hạt rơi vào đất tốt. Hạt giống nào cũng có khả năng nẩy mầm sinh cây. Môi trường chung quanh rất quan trọng làm cho hạt giống được phát triển và sinh hoa kết quả. Cánh đồng bao la bát ngát: Trong khi người ấy gieo, thì có những hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất (Mt 13, 4). Hạt giống tung bay khắp nẻo gần xa. Có hạt rơi vào bụi gai, gai mọc um tùm, nên nó chết ngạt (Mt 13, 7). Nội dung ý nghĩa của dụ ngôn qúa thâm sâu đều áp dụng cho cả thân và tâm. Hạt giống thật là chính lời Chúa. Lời của Chúa luôn luôn là hạt giống tốt lành và có sức biến đổi tâm hồn.
Kho tàng hạt giống lời Chúa được linh ứng ghi chép trong Kinh Thánh. Đặc biệt Chúa Giêsu đã rao giảng và phân phát mầu nhiệm nước trời. Lời Chúa như mưa tuyết trên trời rơi xuống sẽ không trở lại trời nữa mà thấm nhập vào lòng con người để sinh hoa kết trái. Chúa Giêsu đã trao ban cho các tông đồ, môn đệ và mọi Kitô hữu quyền tiếp tục tung gieo lời Chúa qua muôn thế hệ. Tin vui Lời Chúa được gieo vãi không ngừng qua tất cả các phương tiện truyền thông và nhân chứng. Lời Chúa được gieo đi gieo lại cho tới lúc hạt gieo vào lòng đất tốt. Lời Chúa là lời hằng sống có năng lực cải biến tâm linh. Thiên Chúa cho chúng ta có đủ phương tiện của giác quan để tiếp nhận: Tai nghe, mắt nhìn, miệng đọc, tâm suy và tứ chi thực hành. Tùy thuộc chúng ta có dám mở lòng đón nhận và ươm mầm hạt giống hay không.
Hạt giống cây cỏ thì bị giới hạn trong không gian và thời gian, nhưng hạt giống lời Chúa có nội lực vượt khó và đi vào tận thâm tâm của lòng người. Ai nghe và thực hành lời Chúa thì có phúc. Những hạt giống tốt rơi xuống đất mầu mỡ sẽ sinh hoa kết qủa gấp trăm gấp ngàn. Có những hạt rơi xuống đất tốt, nên sinh hoa kết qủa, có hạt được một trăm, có hạt sáu mươi, có hạt ba mươi (Mt 13, 8). Qua mọi thời, Giáo Hội đã minh chứng rõ ràng có biết bao nhiêu thành viên đã lãnh nhận hạt giống tốt và đã sinh hoa kết trái. Ai trong chúng ta cũng được mời gọi để đón nhận lời Chúa và làm sinh lợi. Chúa mở rộng cửa nước trời bằng Tám mối phúc thật, bằng con đường đơn bé nhỏ, bằng đời sống khiêm tốn, bằng cách yêu thương tha thứ, bằng sự khó nghèo thanh sạch, bằng sự tin tưởng nguyện cầu và qua con đường khổ đau thập giá. Mỗi cá nhân tự chọn cho mình lối nhỏ vào quê hằng sống.
Đường nào hay lối nào cũng đòi hỏi sự gắng công phấn đấu. Chúng ta không thể nằm đó chờ sung rụng. Cửa hẹp là lối dẫn vào nước trời. Không ai có thể lên trời một mình. Chúng ta phải sống hỗ tương với nhau trong gia đình, cộng đoàn hay giáo hội. Giống như cây rừng dựa nhau để vươn lên và nương nhau để sống còn. Con người sống trong xã hội cũng thế, chúng ta cần có nhau để vươn tới đích cùng. Thiên Chúa trao ban cho con người có trí khôn và có trái tim. Để điều khiển chính mình, chúng ta dùng lý trí và ý chí. Để đối xử với người khác, chúng ta dùng trái tim. Thượng Đế chăm sóc ban thức ăn cho từng con chim, nhưng Ngài không ném thức ăn vào trong tổ của nó. Con người phải bươn chải và phấn đấu với cuộc sống. Phần thưởng nào cũng có cái giá phải trả. Muốn thành qủa bội thu, chúng ta phải bỏ vốn liếng, công sức, gieo hạt, vun xới, chăm dẵm và kiên trì chờ đợi hoa trái.
Một hạt giống tốt được gieo trồng vào vùng đất tốt sẽ sinh nhiều hoa qủa. Một việc tốt dù bé nhỏ luôn sinh hoa trái tốt. Hạt giống lời Chúa là hạt giống tin mừng sẽ đem lại niềm an vui cho tâm hồn. Chúng ta cần chuẩn bị thửa ruộng tâm hồn qua việc lãnh nhận các ân xá bí tích, qua việc siêng năng cầu nguyện, tham dự thánh lễ và làm việc lành phúc đức. Giống như thửa đất được cầy bừa, phơi ải, san bằng, nước non và phân bón đầy đủ sẽ giúp hạt giống phát triển tốt. Mỗi ngày chúng ta hãy dành đôi phút để bồi dưỡng nhu cầu tâm linh. Hãy cùng đọc, cùng lắng nghe, suy gẫm và đem lời Chúa thực hành trong đời sống. Chắc chắn lời Chúa sẽ mang lại niềm vui ơn cứu độ.
Thánh Phaolô nhắn nhủ: Anh em thân mến, tôi nghĩ rằng những đau khổ ở đời này không thể sánh với vinh quang sắp tới sẽ được mạc khải cho chúng ta (Rm 8, 18). Trong tất cả mọi sự sinh động đều có diễn tiến qua thời gian. Chúng ta không thể rút vắn, cắt bớt hay chối từ thực tại sống. Biết rằng bản tính của con người chúng ta thì yếu đuối và dễ chán nản. Cần có sự bền tâm nhẫn nại trải qua mọi thử thách để đạt triều thiên vinh quang. Muốn thực hành nhân đức chúng ta phải tu thân tích đức mỗi ngày. Có những đổi đời trở về trong nhu cầu cuộc sống nội tâm. Thật hiếm có những bước nhảy vọt trên con đường trọn lành. Có nghĩa là mỗi người phải khổ luyện, tập tành và tu thân. Đòi hỏi phải có sự hy sinh, từ bỏ và hãm mình. Chúng ta nên tận dụng mọi năng lực để biến đổi cả điều tốt lẫn xấu, cả vui xướng lẫn khổ đau trở thành bước thang dẫn lối tiến lên. Những khổ ải ở đời này sẽ mau qua và vinh quang bất diệt đang chờ đón. Đây là con đường Chúa đã đi qua.
Lạy Chúa, đã biết bao lần hạt giống lời Chúa đã được gieo vào thửa đất tâm hồn chúng con. Nhiều mầm sống non nớt trong tâm của chúng con bị thui chột, còi cọt, héo khô và chết ngạt. Xin ban ơn cho chúng con biết biến đổi mảnh đất khô cằn, sỏi đá và hoang dại của tâm hồn, thành miền đất mầu mỡ phì nhiêu để hạt giống Lời Chúa triển nở tốt tươi và sinh nhiều bông hạt.
16. Sa mạc trở thành vườn xanh
(Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con loại bỏ mọi thứ “sỏi đá gai góc” ra khỏi tâm hồn, tích cực vun xới cho hạt giống Tin Mừng đâm chồi và tăng trưởng để làm cho cuộc đời nở hoa.
*******
Vào chiều 29 tết cách đây khá lâu, một phụ nữ không quen biết từ một thôn kế cận gọi điện thoại gặp tôi và tuôn ra hàng loạt những lời kết án gay gắt. Bà tố cáo một số thiếu niên trong giáo xứ tôi có hành vi côn đồ, ném đá vào khu xóm của bà ở làng lân cận. Bà quy trách nhiệm cho tôi về những hành vi quậy phá đó, rồi bà cho rằng đạo công giáo là xấu vì có một số người công giáo thuộc hạng côn đồ.
Sau khi nghe bà hằn học tuôn ra những lời trách móc, tôi khẩn khoản yêu cầu bà nhẫn nại nghe tôi thuật lại sơ lược dụ ngôn Tin Mừng về người gieo giống mà chúng ta vừa nghe hôm nay: “Có người nông dân mang thóc đi gieo trên đồng ruộng của mình. “Trong khi người ấy gieo, thì có những hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất. Có những hạt rơi trên nơi sỏi đá, chỗ đất không có nhiều; nó mọc ngay nhưng vì đất không sâu nên khi nắng lên, nó liền bị cháy, và vì thiếu rễ nên bị chết khô. Có những hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm nó chết nghẹt. Có những hạt lại rơi nhằm đất tốt, nên sinh hoa kết quả: hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục” (Mt 13, 4-8)
Rồi tôi kết luận: Những hạt thóc trong dụ ngôn trên đây tượng trưng cho những lời giáo huấn của Chúa Giêsu và Hội Thánh. Cho dù giáo huấn của Thiên Chúa và Giáo Hội là những hạt giống rất tốt, nhưng nếu những hạt giống ấy bị rơi xuống vệ đường, rơi trên sỏi đá hay rơi vào bụi gai, tượng trưng cho người tâm hồn chai đá, cứng cõi, vô tâm… thì không thể bén rễ được nên phải chết khô chết héo; còn những hạt rơi vào đất tốt, tượng trưng cho những tâm hồn biết phục thiện, thì sẽ vươn lên mạnh mẽ và sẽ trổ hoa kết hạt dồi dào.
Những hạt lúa rơi vào nơi gai góc sỏi đá không tăng trưởng được không phải vì do hạt giống xấu nhưng do đất có vấn đề. Tương tự như thế, một số kitô hữu đón nhận Lời Chúa mà không được biến đổi thành người tốt lành thánh thiện, không phải vì giáo lý của Chúa và Hội Thánh không tốt, nhưng vì nhiều thứ “gai góc sỏi đá” trong lòng họ làm cho Lời Chúa chết ngạt đi.
Sa mạc nở hoa
Lãnh thổ Do-thái với diện tích 22.000 cây số vuông mà chỉ có một phần ba đất đai ở miền Galilê là có thể trồng trọt được, phần còn lại gồm sa mạc và đồi núi cằn cỗi, đặc biệt sa mạc Negev ở miền nam, chiếm hơn một nửa diện tích đất nước, là một trong những vùng khô cằn với khí hậu cực kỳ khắc nghiệt. Vậy mà hiện nay, người Do-thái đã biến những vùng đất chết nầy trở thành những vườn hoa, vườn rau và vườn cây ăn trái nổi tiếng; nhờ đó Do-thái được xếp vào một trong những nước đứng đầu về xuất khẩu hoa quả hàng đầu thế giới. Thành quả nầy khiến thế giới hết sức ngưỡng mộ và xem đây là một phép mầu.
Samạc Negev khô cằn sỏi đá với khí hậu khắc nghiệt đến thế mà vẫn được cải tạo thành vườn cây ăn trái tốt tươi, trù phú… không lẽ tâm hồn chúng ta vẫn cứ ở mãi trong tình trạng khô khan cằn cỗi và suốt đời chẳng sinh được chút hoa trái nào hay sao!
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho chúng con biết nhìn vào công cuộc khắc phục thiên nhiên khắc nghiệt để làm cho sa mạc nở hoa của người Do-thái, để quyết tâm cải tạo lại đời mình. Xin giúp chúng con loại bỏ mọi thứ “sỏi đá gai góc” ra khỏi tâm hồn, tích cực vun xới cho hạt giống Tin Mừng đâm chồi và tăng trưởng để làm cho cuộc đời nở hoa, tức làm cho mình trở thành người có văn hoá, có đạo đức, có phẩm chất cao đẹp, nhờ đó Hội Thánh Chúa cũng được toả ngát hương thơm thánh thiện khắp nơi.
17. Sạ lúa
(Lm Vũ Đình Tường)
Người gieo giống đi xạ lúa trên ruộng. Đất sau khi cầy vỡ ra, nước mưa làm cho đất mềm, ẩm. Đất đó gần như sẵn sàng cho mùa gieo giống. Chỉ cần đón một vài cơn mưa lớn là nhà nông mang lúa ra xạ. Gọi là xạ vì người nông dân, trước ngực đeo thúng lúa, chân bước đều hai tay nhịp nhàng vung lúa sang hai bên. Các hạt lúa văng đều trên ruộng mới cầy, đất còn tươi, trước khi rơi vào kẽ đất, chờ mọc lên. Hạt rơi trên mặt đất hy vọng được nước mưa chôn vùi trong đất. Trường hợp mưa nhiều hạt úng, thối. Trái lại, thiếu mưa hạt lúa đó nếu không làm mồi cho chim trời ăn mất, cũng là nạn nhân của nắng hạn làm thui chột mộng lúa. Nhà nông không sợ chim trời bằng chuột vì chuột ngày đêm đào bới hạt giống. Ngay cả hạt đã chôn vùi trong đất vẫn bị chúng mò mẫm ăn đi.
Tương tự như hạt mưa từ trời xuống đất, hạt mưa không về trời bằng hình ảnh hạt mưa, giọt nước, nhưng về trời bằng hình ảnh mới, từ thể lỏng sang thể hơi. Một khi hạt giống rơi khỏi tay nông dân, hạt giống đó hoàn toàn lệ thuộc vào thiên nhiên, biến thể hoặc thành bụi lúa xanh tốt, hoặc bị tiêu hủy, tan rã thành phân tro.
Đức Kitô ví lời Ngài rao giảng như hạt lúa trong tay nông dân. Số phận từng Lời Chúa cũng rất khác biệt. Có Lời sinh lời muôn vàn lời. Có lời sống èo ọt, nửa sống, nửa chết. Có lời làm tròn sứ mạng được uỷ thác. Có lời biến mất như rơi vào cõi hư không. Khác biệt về thành quả không hệ tại bởi hạt giống tốt xấu mà bởi phẩm chất ruộng đất. Thửa ruộng mà Đức Kitô nói đến không phải ruộng trên mặt đất mà là cõi lòng con người. Có ai ngờ được tấm lòng con người có thể là tấm lòng vàng và cũng có thể là chòi vắng, hoang tàn.
Tương tự như thỏi vàng, vàng ba mươi, năm mươi hay vàng ròng. Cõi lòng con người là tấm lòng vàng khi cõi lòng đó làm cho Lời Chúa sinh hoa kế trái. Hạt ba mươi, hạt năm mươi, hạt bảy mươi, hạt chẵn trăm. Trong sáng óng ánh như vàng ròng.
Tương tự chòi vắng, hoang tàn. Mỗi lần phải ngang qua, ngày cũng như đêm, đều thấy ớn lạnh. Rợn tóc gáy, nổi da gà vì nơi đó chứa nhiều ám khí, ảm đạm, thê lương. Một cõi lòng như thế sao thích hợp với Lời hằng sống.
Lời Chúa ví như hạt mưa. Khí hậu dù khắc nghiệt mấy cũng không triệt tiêu được hạt mưa. Quá lạnh hạt mưa biến thành tuyết. Gió to hạt mưa biến thành bụi sương. Nóng cháy da người hạt mưa biến thành thể khí bay là là trên cát nóng. Rơi xuống sông biển hạt mưa hoà mình trong nước, trên đất khô hạt mưa thẩm thấu vào lòng đất.
Lời hằng sống không thể chết. Nếu chết thì lời đó sao có thể mang lại sự sống cho tâm linh. Chết ở đây không thể hiểu là lời hằng sống chết. Chết có nghĩa cõi lòng người nào đó đã chết để đón nhận lời hằng sống. Lời hằng sống có sức sống biến đổi mọi cõi lòng miễn là cõi lòng đó mở ra đón nhận. Cõi lòng khô cằn, cõi lòng gai góc, cõi lòng vệ đường, cõi lòng tốt lành. Không cõi lòng nào có thể giết chết được Lời Chúa là lời hằng sống. Chỉ có hai loại cõi lòng. Một cõi lòng vui mừng đón nhận và cõi lòng xua đuổi lời hằng sống. Đón nhận lời hằng sống làm trổ sinh hoa trái ít nhiều tuỳ theo mức đón nhận.
Cánh đồng lúa mang lợi nhuận cho nông dân. Giúp họ ấm no. Cánh đồng lúa tốt tươi mang lại cho nông dân nụ cười, niềm hy vọng dạt dào. Cánh đồng lúa vừa cung cấp thực phẩm cho con người, gia súc, thú hoang, vừa làm tăng vẻ đẹp thiên nhiên, làm cho đất sinh mầu mỡ, cung cấp thực phẩm và là công viên cho ong bướm vui chơi sáng sớm, chiều tàn.
Hạt lúa vỏ vỡ ra cho mầm đâm chồi. Vỏ lúa vỡ ra hẳn là hình ảnh của đau thương. Chồi non nảy mầm là hình ảnh của sự sống mới. Sự sống bắt đầu vào đời mới bằng một cuộc phiêu lưu, phó thác an toàn cho tương lai. Mầm sống bọc kín trong vỏ hẳn an toàn hơn nhưng như thế làm chi có cây lúa mới. Muốn có cây lúa mới, cuộc đời mới, mầm sống phải thay đổi, chịu đau khổ vỡ ra, liều, dấn thân vào đời. Tấm lòng đón nhận lời hằng sống mà từ chối thay đổi, đau khổ và dấn thân chính là muốn điều không tưởng. Thánh Phaolô diễn tả đó là cảnh hư ảo (Rom 8, 20). Không có đổi mới nếu từ chối thay đổi. Không có mới mẻ nếu khư khư bảo thủ lối sống cũ. Muốn phiêu lưu cần mạo hiểm. Từ chối sáng tạo sao có đổi mới.
Lời Chúa sinh động như cánh đồng lúa trổ bông, mang hương thơm ngạt ngào sớm tối. Làm thay đổi cõi lòng con người và mang lại bình an trong tâm hồn. Mầu nhiệm nước trời còn ẩn chứa nhiều điều huyền diệu và chỉ cõi lòng nào chân thành, khiêm nhường đón nhận, mới có cơ duyên thưởng thức điều kì ảo, huyền diệu của lời hằng sống.
18. Gieo và gặt
(Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Nhạc sĩ Thông Vi Vu viết ca khúc “Gieo và Gặt” với giai điệu vui tươi, ca từ đậm chất thơ và có ý nghĩa sâu sắc.
Gieo thành thật, gặt được niềm tin.
Gieo lòng tốt, gặt về thân tình.
Gieo kiên nhẫn, sẽ gặt quang vinh.
Gieo tha thứ, sẽ gặt được an bình.
Gieo dối trá, sẽ ra ngờ vực.
Gieo ích kỷ, sẽ chỉ cô đơn.
Gieo kiêu hãnh, sẽ lãnh đau thương.
Gieo đố kỵ, là ky cóp muộn phiền.
Gieo cay đắng, sẽ tăng hủy diệt.
Gieo biếng lười, ra người buông trôi.
Gieo lo lắng, tay trắng âu lo.
Gieo tội lỗi, suốt đời gặt tội lỗi.
Có gieo thì mới có gặt. Gieo giống nào thì gặt giống đó.Thánh Phaolô viết: “Ai gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy. Ai theo tính xác thịt mà gieo điều xấu thì sẽ gặt được hậu quả của tính xác thịt là sự hư nát. Còn ai theo Thần Khí mà gieo điều tốt thì sẽ gặt được kết quả của Thần Khí là sự sống đời đời. Khi làm điều thiện, chúng ta đừng nản chí, vì đến mùa chúng ta sẽ được gặt, nếu không sờn lòng” (Gl 6,7-9).
Hạt giống tốt mới có thể nảy mầm tốt, lớn thành cây tốt và sinh hoa trái tốt. Chúa Giêsu xác định: “Xem quả thì biết cây” (Mt 12,33; Lc 6,44). Cây tốt không thể sinh trái xấu, cây sâu không thể sinh trái ngọt. Đời sống tinh thần cần có “hạt giống tâm hồn”. Đời sống tâm linh rất cần “hạt giống Lời Chúa”.
Tin mừng hôm nay có tên gọi là “Dụ ngôn người gieo giống”. Thiên Chúa là người gieo giống. Chúng ta là đất. Hạt giống là lời giảng dạy của Chúa Giêsu. Tùy vào thái độ của mỗi người, chân thành đón nhận hay lười biếng khước từ, Lời Chúa sẽ sinh những hiệu quả khác nhau.Hạt giống được gieo trên bốn loại đất, đất vệ đường, đất lẫn sỏi đá, đất có nhiều gai góc và đất tốt. Đất nào cho năng suất nấy.
Làm sao bên lề đường khô cằn sỏi đá, hạt giống có thể sinh hoa kết trái được? Trong bụi gai chằng chịt cỏ rác không mọc nổi, hạt giống làm sao vươn lên để thành cây xanh tốt được?
Chúa Giêsu ví lời giảng dạy của Ngài như hạt giống trong tay người nông dân. Hạt giống gieo trên những loại đất khác nhau, số phận các hạt giống khác nhau. Lời Chúa cũng có nhiều số phận khác biệt. Có lời sinh lợi muôn vàn lời. Có lời sống èo uột bị bóp nghẹt. Có lời làm tròn sứ mạng được uỷ thác. Có lời biến mất như rơi vào cõi hư không. Khác biệt về thành quả không hệ tại bởi hạt giống mà bởi phẩm chất ruộng đất. Thửa ruộng mà Chúa Giêsu nói đến không phải ruộng trên mặt đất mà là cõi lòng con người. Vì thế, dụ ngôn hạt giống gieo trên các loại đất khác nhau gợi lên những ý nghĩa.
1. Tấm lòng quảng đại của người đi gieo.
Người đi gieo đã gieo hạt giống trên những mảnh đất phì nhiêu màu mỡ. Những mảnh đất sỏi đá, gai góc, lối mòn có bước chân người cũng không bị lãng quên. Người gieo hạt không bỏ rơi một mảnh đất nào, ông quảng đại muốn cho hạt giống được gieo vãi khắp chốn. Thiên Chúa quảng đại nhìn mọi người với chính phẩm giá của họ trong niềm hy vọng của Ngài. Vì thế, mảnh đất nào cũng nhận được hạt giống đồng đều. Ai cũng có cơ may nhận được ân sủng cứu độ Tin Mừng nếu như họ thành tâm thiện chí. Lòng quảng đại không phân biệt đối xử, không ưu tiên ai mà cũng chẳng loại trừ ai, không thất vọng về hiện tại của người khác mà biết kiên tâm đợi chờ hy vọng vào tương lai tươi sáng hơn.
Không ai hoàn toàn là “lề đường”, là “sỏi đá” hay là “bụi gai”. Trong mỗi con người luôn có một mảnh đất tốt cho dù nó chỉ nhỏ bé thôi. Có thiện chí đón nhận hạt giống cũng sẽ có một mùa gặt bội thu “đến nỗi có hạt được một trăm, có hạt sáu mươi, có hạt ba mươi” (Mt 13, 23). Thiên Chúa vẫn gieo Lời Ngài vào lòng chúng ta, vì Ngài chắc chắn rằng: “Lời từ miệng Ta phán ra sẽ không trở lại với Ta mà không sinh kết quả, nhưng nó thực hiện ý muốn của Ta và làm tròn sứ mạng Ta uỷ thác” (Is 55, 11). Tác giả Thánh Vịnh cảm nghiệm hồng ân Thiên Chúa chan hòa như mưa móc: “Thăm trái đất, Ngài tuôn mưa móc, cho ngập tràn phú túc giàu sang, suối trời trữ nước mênh mang, dọn đất sẵn sàng đón lúa trổ bông. Tưới từng luống, san từng mô đất, khiến dầm mưa cho hạt nẩy mầm, bốn mùa Chúa đổ hồng ân, Ngài gieo màu mỡ ngập tràn lối đi” (Tv 65,10-12).
Thánh Phêrô đã ba lần chối Chúa, nhưng trong ngài vẫn còn một mảnh đất tốt của lòng sám hối. Thánh Phaolô hăng say bách hại các kitô hữu, nhưng trong ngài vẫn còn đó một mảnh đất tốt của lòng nhiệt thành và khiêm tốn. Thánh Augustinô bị những bụi gai của tri thức, kiêu căng và dục vọng vây bủa, nhưng vẫn còn có một mảnh đất tốt hướng tìm chân lý, chỉ chờ hạt giống gieo trồng là nở rộ mùa gặt phong nhiêu… Còn nhiều lắm những mảnh đất tốt như thế trong Giáo Hội và trong cuộc sống thường ngày của chúng ta. Tất cả những mảnh đất tốt đó, cho dù có nhỏ nhoi đi chăng nữa, nhưng một khi đã được đón nhận Lời Chân Lý thì đúng như lời Chúa nói, đã sinh lợi “hạt một trăm, hạt sáu mươi, hạt ba mươi”.
2. Hạt giống tiềm ẩn sự sống.
Hạt giống có vỏ cứng bảo vệ, khi được gieo vào lòng đất vỏ sẽ vỡ ra cho mầm đâm chồi. Chồi non lên xanh là hình ảnh của sự sống mới. Sự sống vào đời mới bằng một cuộc phiêu lưu, bằng niềm phó thác cho tương lai.
Hạt giống là ánh sáng, là Tin mừng, là thiện hảo tốt lành, là giá trị Nước Trời. Tự nó, hạt giống có một sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Trong hạt giống có mầm sự sống, hễ cứ gặp điều kiện thuận lợi là mọc lên. Trong mầm sống có sự sống tiếp nguồn từ sự sống của Thiên Chúa. Nếu “Hạt lúa âm thầm mọc lên” (x. Mc 4,26-29) là hình ảnh sức sống tiềm tàng thì “Hạt lúa mục nát đi” (x. Ga 12,24) lại là một hình ảnh khác nói lên niềm hy vọng một mùa gặt mới sau khi chịu ‘mục nát”. Hạt giống là hồng ân Thiên Chúa, phong phú bao la và vô cùng mạnh mẽ. Điều quan trọng là hãy cho hạt giống một cơ hội để mọc lên.
3. Niềm hy vọng mùa gặt phong phú
Nếu người gieo hạt đã đặt hy vọng vào từng mảnh đất bất kể mức độ tốt xấu thì bổn phận của đất là không được phụ lòng người quảng đại gieo hạt. Thiên Chúa làm được mọi sự nhưng Ngài cần con người cộng tác.Thiên Chúa vẫn luôn tin tưởng và hy vọng nơi con người.
Trong các hoạt động tông đồ, không cần phải phân tích người nào là lề đường, là sỏi đá hay bụi gai. Hạt giống cứ gieo vào đất, chúng ta hãy làm việc tốt cho người khác. Chính Thiên Chúa mới là Đấng làm cho hạt giống mọc lên và sinh hoa kết quả (x. 1 Cr 3, 5-9).
Niềm hy vọng phải là một đặc trưng của đời sống người kitô hữu. Chính niềm hy vọng đó sẽ giúp chúng ta vượt qua những khó khăn, thử thách trong cuộc sống hiện tại, hướng tới một tương lai tươi sáng và một cuộc sống vĩnh cửu của người được làm con cái Thiên Chúa.
Mầu nhiệm Nước Trời còn ẩn chứa nhiều điều huyền diệu và chỉ cõi lòng nào chân thành, khiêm nhường đón nhận mới có cơ duyên thưởng thức những huyền diệu của Lời Hằng Sống. Nhận lấy hạt giống Lời Chúa trong mình, chúng ta từ từ sinh hoa trái trong Giáo Hội cho vinh quang của Thiên Chúa ( GLCG # 1724).
Người nông dân có câu: “nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”. Giống là cần thiết, nhưng nước, phân bón và công chăm sóc thật là quan trọng. Giống tốt, gieo xạ đúng quy trình kỹ thuật, nhưng để đất khô hạn thì lúa không lên xanh. Có giống, có nước mà không có phân bón thuốc trừ sâu, thì lúa sẽ èo uột không kết quả. Có được giống tốt, nước bảo đảm, phân thuốc đầy đủ, nhưng chẳng chăm sóc thì không thu lợi được bao nhiêu.
Người sáng, người mù hay người câm điếc cũng đều có thể nghe Lời Chúa, đón nhận hạt giống Lời Chúa gieo vào lòng, nhưng quan trọng là đem ra thực hành.
Có một mảnh đất hoang cỏ mọc um tùm. Ông Tư mua lại thửa đất ấy rồi cày xới, làm sạch cỏ, rồi ông trồng cây, trồng hoa, trồng rau. Một thời gian sau, mảnh đất trở thành một khu vườn thật đẹp. Một hôm, ông Tư đang làm việc trong vườn, cha xứ đi qua và nói: "Khu vườn thật là đẹp! Ông Tư thấy không, khi ông biết cộng tác với Thiên Chúa thì kết quả như thế đó". Ông Tư trả lời: "Vâng, cha cứ thử nghĩ lại xem, miếng đất này như thế nào khi chỉ có một mình Chúa làm việc ở đây".
Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta đi gieo hạt giống Lời Chúa, gieo hào phóng, gieo kiên trì, gieo hy vọng và nhất là gieo yêu thương. Gieo gì gặt nấy. Gieo bác ái chúng ta sẽ gặt được yêu thương, một mùa yêu thương tràn ngập đời sống hàng ngày.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay. Chúng con thường xây nhà trên cát, vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy, nhưng lại không dám đem ra thực hành. Chính vì thế Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con.
Xin cho chúng con đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa, đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.
Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình, để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng trưởng.
Ước gì ngôi nhà cuộc đời chúng con được xây trên nền tảng vững chắc, đó là Lời Chúa, Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con. (Manna)
19. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Hãy là đất tốt, để hạt giống Lời Chúa sinh nhiều bông hạt
Cho đến bây giờ, "mọi tạo vật đều rên siết và đau đớn như người đàn bà trong lúc sinh con. Nhưng không phải chỉ có các tạo vật, mà cả chúng ta là những kẻ hưởng ơn đầu mùa của Thánh Thần, chúng ta cũng rên siết trong khi ngóng chờ phúc làm nghĩa tử và ơn cứu độ thân xác chúng ta" (Rm 8, 22-23). Hỏi ai trong chúng ta lại không có kinh nghiệm sống ở đời về tương phản giữa khổ đau trong đời sống thường ngày và vinh quang cũng như hy vọng mà Thánh Phaolô nói đến trong thư gửi giáo đoàn Rôma (Rm 8 18-23)? Giữa "những đau khổ trong hiện tại" chúng ta mang trên mình, và "vinh quang mà Thiên Chúa sẽ tỏ lộ trong tương lai" (Rm 8,18). Hiện tại chúng ta chưa có kinh nghiệm nhiều, nên chúng ta muốn nói như Đức Maria: "Việc đó xảy ra thế nào được?" (Lc 1, 34) Phụng vụ hôm nay sẽ cho chúng ta câu trả lời.
Mặc khải cho biết, khổ đau đi vào thế giới như là hậu quả của tội lỗi "không thể tránh khỏi"; cũng như trái cấm trong vườn Êđen, vì một lời nói dối, khiến con người chống lại Lời sáng tạo, gây nên sự hỗn loạn, sau cùng cả và nhân loại bị hủy diệt. Chỉ có Thiên Chúa, Lời sáng tạo, mới có thể can thiệp để cứu chuộc con người (x. Rm 8) và tái lập trật tự hài hòa đã được thiết lập ngay từ thuở ban đầu. Chúa phán: "Lời từ miệng Ta phán ra sẽ không trở lại với Ta mà không sinh kết quả, nhưng nó thực hiện ý muốn của Ta, và làm tròn sứ mạng Ta uỷ thác" (Is 55, 11).
Hỏi: Lời từ miệng Thiên Chúa phán ra là gì vậy?
Thưa: Là chính Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Con một Ngài, Thiên Chúa như người gieo giống gieo Lời ( Con Ngài) vào thế giới chúng ta, "Người cho ứ nước luống cày, Mô đất đặt xuống phẳng phiu, Người cho mưa rào đảo nhuyễn, chúc lành cho giống trổ mầm" (Tv 64, 11) ; "Như mưa tuyết từ trời rơi xuống … làm cho đất phì nhiêu, cây cối sinh mầm, cho người gieo có hạt giống, cho người ta có cơm bánh ăn" (Is 55, 10). Nước ở đây là nước Thánh Thần tưới lên chúng ta để chúng ta sinh được gấp trăm. Chính nơi Chúa Giêsu phục sinh mà nhân loại được cứu, Người là "Đấng cứu chuộc thế gian! nơi Ngài đã được mạc khải một cách mới mẻ và kỳ diệu hơn chân lý căn bản về thế giới thụ tạo, điều mà sách Sáng thế xác nhận khi lặp đi lặp lại nhiều lần: "Thiên Chúa thấy như thế là tốt lành" (Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Đấng Cứu Chuộc con người, số 8. Ngày 4/3/1979).
Nhưng nếu Chúa Giêsu là Đầu đã đạt đến chặng cuối của hành trình, thì Thân mình là " mọi tạo vật rên siết và đau đớn như người đàn bà trong lúc sinh con " (Rm 8, 22) cũng được như vậy. Tuy nhiên, tiền đề sự phục sinh của Chúa Giêsu đã được trao ban: hạt giống sự sống đời đời đã ẩn tàng trong tâm hồn các tín hữu từ ngày họ chịu phép Rửa tội ; Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, Lời tái tạo và biến đổi chúng ta. Thật hạnh phúc biết bao khi có Thiên Chúa là Cha vô cùng nhân hậu ; Ngài biết lòng dạ con người phức tạp và yếu đuối. Vì thế, Ngài gieo cách hào phóng, kể cả vệ đường, nơi bụi gai và sỏi đá. Chim trời sẽ đến ăn mất, nhưng đặt hy vọng vào hạt rơi vào đất tốt sinh hoa kết quả dồi dào, "có hạt được một trăm"(Mt 13, 23).
Thiên Chúa rất đỗi khoan dung, không những mạc khải cho chúng ta tình yêu của Ngài bằng cách hòa giải với chúng ta nhờ sự chết của Con Ngài khi chúng ta còn là kẻ thù (x. Rm 5, 10), Ngài gieo Lời cứu độ là chính Con Ngài xuống trên chúng ta, bất kể chúng ta thờ ơ, từ chối, nhưng chắc chắn sẽ có hạt đâm rễ và mọc lên.
Dụ ngôn này thật an ủi cho những kẻ cứng đầu cứng cổ như chúng ta, và cũng là lời khuyên an ủi những ai đang chịu trách nhiệm dạy giáo lý cho thiếu nhi và giới thành niên.
Còn nỗi khổ nào hơn đối với các bậc làm cha mẹ khi thấy con cái mình từ bỏ đức tin! Nhưng đức tin không thể được truyền theo nhiễm sắc thể hay dòng sữa của mẹ nuôi con, chúng ta có thể trình bày cho trẻ em về tình bạn của Chúa Giêsu, nhưng không thể áp đặt đức tin cho chúng.
Thiên Chúa không đòi hỏi nơi chúng ta những điều không thể: chúng ta hãy vui lòng làm như Ngài, gieo cách hào phóng bằng lời nói và gương sáng, ngay cả trong sự khác biệt; hãy tin rằng sẽ luôn có cái gì đó thúc đẩy hạt giống mọc lên đúng thời vụ; bởi vì Lời từ miệng Chúa phán ra sẽ không trở lại với Chúa nhưng theo ý Chúa mà sinh kết quả (x. Is 55, 10-11).
Chúng ta cần chuẩn bị một thửa đất tốt để đón nhận hạt giống, và chăm sóc để nó có thể đơm hoa kết trái. Có người không muốn mình bị thử thách hay gặp khó khăn, người ấy sẽ có ngàn lý do để từ chối. Nhưng ai "nghe lời giảng mà hiểu được, nên sinh hoa kết quả" (Mt 13, 23).
Tất cả đều nghe dụ ngôn, nhưng người hiểu được là người mang nó về nhà, trân trọng như một tài sản quý giá. Chúng ta sẽ hạnh phúc nếu chúng ta nghe những gì Chúa nói và nghiêm túc hoán cải theo tiếng Chúa gọi: Ngài sẽ chữa lành và làm cho chúng ta được sống, "giải thoát khỏi vòng nô lệ sự hư nát, để được thông phần vào sự tự do vinh hiển của con cái Thiên Chúa" (Rm 8, 21), chúng ta sẽ đơm hoa kết trái.
Trong năm Phúc Âm gia đình, chúng ta cùng nghe lời vị cha chung dạy: "Tất cả việc Phúc Âm hóa được thiết lập dựa trên sự lắng nghe, suy niệm, sống, cử hành Lời Chúa và làm chứng cho Lời Chúa. Thánh Kinh là nguồn mạch của việc Phúc Âm hóa. Vì vậy, chúng ta phải liên tục được đào luyện trong việc lắng nghe Lời Chúa. Hội Thánh không rao giảng Tin Mừng nếu không liên tục để cho mình được Phúc Âm hóa…
Việc Phúc Âm hóa đòi hỏi chúng ta phải làm quen với Lời Chúa, và điều này đòi buộc các giáo phận, các giáo xứ và các nhóm Công Giáo đề ra một chương trình học hỏi Thánh Kinh nghiêm túc và kiên trì, cũng như thúc đẩy việc đọc Thánh Kinh trong cầu nguyện của cá nhân và cộng đồng… " (Đức Phanxicô, Niềm Vui Phúc Âm §174-175).
Dưới ánh sáng của Lời Chúa, chúng ta hãy nhìn lên Mẹ Maria như bậc thầy của việc lắng nghe Lời Thiên Chúa cách sâu đậm và kiên trì. Xin Mẹ giúp chúng ta theo gương Mẹ, là "đất tốt", nơi hạt gống Lời Chúa có thể đem lại nhiều bông hạt. Amen.
20. Tâm tình người đi gieo
(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Bài dụ ngôn thật đẹp. Đẹp về hình ảnh phong phú. Đẹp về ý nghĩa sâu xa. Nhưng đẹp nhất vẫn là thái độ của người đi gieo. Người đi gieo đã có thái độ vừa hào phóng vừa kiên trì, vừa hy vọng vừa yêu thương.
Người đi gieo đã gieo một cách hào phóng. Hãy nhìn kìa: ông vốc từng vốc lớn hạt giống và rộng tay vung vãi. Ông gieo không tiếc xót. Ông gieo không tính toán. Ông gieo không loại trừ. Những mảnh đất phì nhiêu màu mỡ nhận được hạt giống đã đành. Cả đến những mảnh đất sỏi đá, gai góc cũng được hưởng ơn mưa móc. Cả đến lối mòn có bước chân người cũng không bị lãng quên. Người đi gieo không bỏ rơi một mảnh đất nào, một ngõ ngách nào. Ông muốn cho hạt giống được gieo vãi khắp chốn.
Người đi gieo đã gieo một cách kiên trì, ông gieo bất kể ngày đêm. Ông gieo bất kể mưa nắng. Ông gieo bất kể những thất bại. Đợt gieo giống đầu tiên đã thất bại vì chim chóc tha đi, ông liền gieo tiếp đợt hai. Bị sỏi đá nắng hạn, cây lúa mất mùa, ông lại đi gieo tiếp đợt thứ ba. Bị gai góc bóp nghẹt, cây lúa bị lụi tàn, ông vẫn không nản, cứ gieo đợt thứ tư. Ông đúng là người đi gieo hạt không biết mỏi mệt.
Người đi gieo đã gieo trong niềm hy vọng. Niềm hy vọng của ông thật lớn lao. Chính với niềm hy vọng ấy, ông đã dám đầu tư tất cả tiền bạc, sức khỏe, thời giờ vào việc gieo hạt. Chính niềm hy vọng ấy đã giúp ông đủ sức mạnh vượt qua những khó khăn, đứng vững trước những thất bại. Vì hy vọng, ông gieo cả trên lối đi, trên đá sỏi, trong cỏ gai. Ông tin rằng có gieo thì có gặt. Chính niềm hy vọng ấy đã giúp ông kiên trì và sau cùng đi đến thành công.
Người đi gieo đã gieo trong tình thương yêu. Tình thương yêu của ông dạt dào lắm. Nên ông đã không ngại hao tốn tiền của, tâm trí, sức lực. Tình thương ấy bao la lắm. Nên ông động lòng thương đến cả những mảnh đất chai cứng, đá sỏi, gai góc. Tình yêu thương ấy mãnh liệt lắm. Nên ông mong sẽ cảm hoá được cả gai góc, sỏi đá, biến chúng thành đất màu mỡ phì nhiêu. Ông đã có thể chỉ chọn đất tốt mà gieo. Nhưng tình thương yêu mãnh liệt không cho phép ông làm thế. Vì ông không muốn loại trừ những miền đất chai cứng chứa đầy sỏi đá, cỏ gai.
Người đi gieo chính là Thiên Chúa hiện thân trong Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã gieo trong yêu thương. Yêu thương đến độ chính Người lại trở nên một hạt giống,chịu vùi chôn, chịu mục nát để biến cải những mảnh ruộng gai góc, sỏi đá thành màu mỡ phì nhiêu, mong một mùa gặt đầy những bông lúa chín vàng trĩu nặng.
Thiên Chúa là người đi gieo không biết mệt mỏi. Chúa Giêsu là người đi gieo say mê đến quên chính cả bản thân mình. Người muốn cho các môn đệ của Người tiếp tục công việc gieo Tin Mừng đi khắp mọi nơi.
Hôm nay Người muốn ta gieo một cách hào phóng. Hãy gieo không xẻn xo. Hãy gieo không tính toán. Hãy gieo không loại trừ. Hãy biết dùng mọi phương tiện hiện đại nhất để chuyên chở Tin Mừng. H ãy đem Tin Mừng tới mọi lãnh vực của đời sống. Hãy đem Tin Mừng tới tất cả mọi hạng người không loại trừ một ai.
Người cũng muốn ta kiên trì gieo hạt Tin Mừng. Hãy kiên trì như thánh Phaolô, cứ gieo dù gặp “thời thuận lợi hay không thuận lợi”. Hãy cứ gieo dù đá sỏi, chông gai. Hãy cứ gieo dù những thất bại, nhọc nhằn.
Nhưng điều Người mong chờ nhất là các môn đệ của Người hãy đi gieo yêu thương. Yêu thương không chỉ những mảnh đất phì nhiêu, nhưng yêu thương cả những mảnh đất sỏi đá, gai góc. Yêu thương không chỉ những người mình thương và những người thương mình mà còn yêu thương cả những người không ưa mình và mình không ưa: vì một tình yêu thương đích thực thì không loại trừ ai. Chỉ có tình yêu thương mãnh liệt như thế mới cảm hoá được cỏ gai, làm mềm được đá sỏi, biến tất cả thành màu mỡ phì nhiêu.
Đáp lời Chúa mời gọi, biết bao lớp người đã hăng hái ra đi gieo Tin Mừng tại vùng đất Lạng Sơn này.
Trong số đó phải kể đến Đức cố Giám mục Vinh Sơn Phaolô của chúng ta. Người đã là một người đi gieo không biết mệt mỏi. Qua bao ngày tháng, Ngài vẫn kiên trì không bao giờ chồn chân mỏi gối. Hôm nay Ngài đã trở thành một hạt giống vùi sâu trong lòng đất. Hạt giống ấy, tình thương ấy, sẽ làm mềm sỏi đá, hứa hẹn cho ta một mùa gặt bội thu.
Ta cũng không thể nào quên được công ơn của Đức Hồng Y Phaolô Giuse, cũng là một người đi gieo không biết mệt mỏi. Dù tuổi cao sức yếu với gánh nặng của Giáo phận Hà Nội và của Giáo hội Việt Nam, Ngài vẫn sẵn sàng ghé vai gánh đỡ Lạng Sơn trong những lúc cần thiết. Ngài đã gieo mồ hôi nước mắt làm phì nhiêu cánh đồng này. Công khó ấy chắc chắn sẽ góp phần rất lớn cho một mùa gặt mai sau.
Hôm nay, Chúa gởi tôi đến cánh đồng Lạng Sơn này. Lạng Sơn là quê hương tôi. Anh chị em đã đón nhận tôi như đón một người thân. Chúng ta thuộc về một gia đình. Hôm nay Chúa mời gọi tất cả chúng ta vào làm việc trong cánh đồng của Chúa. Chúng ta hãy hăng hái bắt tay vào việc đi gieo Lời Chúa. Hãy noi gương Chúa Giêsu, hào phóng, gieo kiên trì, gieo hy vọng và nhất là hãy gieo yêu thương. Gieo gì gặt nấy. Nếu ta gieo bác ái chắc chắn ta sẽ gặt được yêu thương, một mùa yêu thương tràn ngập trên núi đồi Lạng sơn- Cao bằng này.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Thiên Chúa không ngừng gieo Lời Chúa vào tâm hồn bạn. Bạn đã đón nhận Lời Chúa thế nào?
2- Thái độ của người đi gieo cho bạn cảm nghiệm gì về Thiên Chúa?
3- Chúa mời gọi bạn đi gieo Tin Mừng. Bạn phải có thái độ nào?
21. Nghe và hiểu
(‘Manna’)
Dụ ngôn người gieo giống đầy tính lạc quan, hy vọng.
Đức Giêsu gieo hạt giống Lời Chúa khắp nơi.
Có hạt bị chim trời ăn mất, khi chưa kịp nảy mầm. Có hạt bị khô cháy khi chưa bám rễ. Có hạt đã thành cây, nhưng bị gai làm chết ngạt.
Thực tế đau buồn ấy làm nản lòng nhiều người.
Đức Giêsu đã gặp biết bao chống đối và thất bại.
Ngài có thật là Đấng được Thiên Chúa sai đến để thiết lập Nước Trời trên trần gian không?
May thay có những hạt rơi vào đất tốt, và đem lại kết quả gấp bội.
Nhìn vào khuôn mặt của Giáo Hội hôm nay, nhiều người thất vọng trước những khó khăn, khủng hoảng. Đức Giêsu khuyên ta hãy vững lòng. Lời Chúa vẫn còn gặp được mảnh đất phì nhiêu.
Dụ ngôn người gieo giống đòi chúng ta phải xét mình:
Có bao hạt Lời Chúa được gieo vào lòng tôi? Đâu là số phận của chúng?
Có hạt rơi vào lòng tôi như rơi trên mặt đường. Tôi nghe mà không hiểu. Không hiểu vì không muốn hiểu, vì cố tình né tránh, bởi lẽ Lời Chúa đòi tôi hoán cải và từ bỏ mình. Thế là Lời Chúa trượt đi như nước đổ lá khoai.
Có hạt rơi vào lòng tôi như rơi trên đất đá. Tôi vội vã, hớn hở đón lấy ngay, nhưng chỉ dừng lại ở bề mặt hời hợt. Lời Chúa không đâm rễ sâu trong mảnh đất đời tôi. Khi thử thách gay gắt của cuộc sống ập đến, tôi té nhào và bỏ cuộc, chẳng dám sống Lời Ngài.
Có hạt rơi vào lòng tôi như rơi trong bụi gai. Bụi gai là nỗi lo âu chuyện đời, là đam mê của cải. Bụi gai bóp nghẹt, làm cây Lời Chúa không sinh trái.
Có hạt rơi vào long tôi như rơi vào đất tốt. Tôi nghe và hiểu. Tôi hiểu được là nhờ dám sống Lời Chúa trong đời. Chỉ ai hiểu nhờ sống mới đem lại mùa bội thu.
Dụ ngôn trên đòi tôi xét lại thái độ nghe Lời Chúa, đòi tôi cải tạo lại mảnh đất lòng mình.
Có biết bao gai góc, đá sỏi trong mảnh đất đời tôi. Có bao hạt giống bị mất mát vì tôi từ khước.
Nếu tôi dám để cho một câu Lời Chúa tự do lớn lên thì đời tôi sẽ hoàn toàn thay đổi.
Hôm nay, tôi được mời gọi đi gieo hạt. Nhưng trước hết, tôi cần được Lời Chúa biến đổi, cần hiểu sâu nhờ dám sống Lời Chúa tận căn. Xin Chúa giúp tôi tìm ra những lối gieo mới, để Lời Chúa sai trái hơn trong thế giới hôm nay.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, đâu là những trở ngại, từ bên ngoài cũng như từ bên trong, khiến hạt giống Lời Chúa khó nẩy mầm và lớn lên trong bạn?
Có khi nào bạn mê một câu Lời Chúa không? Có khi nào bạn dám sống một câu Lời Chúa không? Có khi nào đời bạn đã hoàn toàn đổi khác, vì bạn gặp được một câu Lời Chúa không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay.
Chúng con thường xây nhà trên cát, vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy, nhưng lại không dám đem ra thực hành. Chính vì thế Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con.
Xin cho chúng con đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa, đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.
Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình, để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng trưởng.
Ước gì ngôi nhà đời chúng con được xây trên nền tảng vững chắc, đó là Lời Chúa, Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con.
22. Kho báu đã mở
(‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)
Không một nông dân nào thích thú bởi cảnh gieo giống lãng phí hạt giống như người nông phu trong bài Phúc âm hôm nay. Một nông dân cần cù thì sẽ gieo cẩn thận ở những nơi mà ông bảo đảm sẽ gặt hái được vụ mùa bội thu. Nhưng người nông dân trong Phúc âm thì phung phí những hạt giống, nhờ đó ông giới thiệu Thiên Chúa là Đấng luôn luôn quảng đại ban phát những hồng ân của Người.
Những hạt giống được giới thiệu đây là Lời Chúa, Lời ấy được tìm thấy trong những trang được linh ứng trong Thánh Kinh. Có bốn mươi sáu cuốn trong Cựu ước và hai mươi bảy cuốn trong Tân ước. Thiên Chúa gieo những hạt giống của Người vào trong tâm trí chúng ta và trong lòng của chúng ta trước, bởi ý nghĩa của Phụng vụ Lời Chúa trong khi cử hành thánh lễ.
Theo phụng vụ trước đây, những bài đọc thường được dùng hàng năm và thế là không thể giới thiệu được kho tàng phong phú của Thánh Kinh. Một hậu quả của việc xếp đặt như thế là một số lớn những đoạn súc tích rất hay không bao giờ được những người công giáo nghe vào những ngày chúa nhật. Dụ ngôn người con hoang đàng không có phần nào trong nghi thức phụng vụ ngày chúa nhật và câu chuyện người Samaritanô tốt lành cũng như thế. Những bài Thánh Thư cung cấp cho bài đọc đầu tiên như một danh sách dài đang chờ được chấp nhận để biên soạn sách Tông đồ công vụ, câu chuyện của Giáo hội tiên khởi được chọn một lần trong năm vào Chúa nhật Hiện Xuống. Không có bài đọc nào được lấy từ Cựu ước và sách Khải Huyền cũng chẳng bao giờ đọc trong thánh lễ ngày chúa nhật.
Công đồng Vaticano II, dùng một hình ảnh phong phú đã quyết định rằng: “Kho tàng Thánh Kinh đã khai mở cách dư thừa và phong phú để cung cấp cho các tín hữu” (Hiến chế về phụng vụ, số 51). Việc tu sửa phụng vụ đã làm viên mãn quyết định này bằng cách chọn lựa những đoạn Thánh Kinh được chia làm ba thời kỳ vào các chúa nhật chứ không còn là một thời kỳ như trước bằng việc cung cấp thêm bài đọc trước Phúc âm chứ không phải là một như trước.
Năm nay tính theo chu kỳ phụng vụ là năm A, những bài Phúc âm sẽ theo thánh Mathêu. Chu kỳ phụng vụ năm B giới thiệu Phúc âm theo thánh Marcô và chu kỳ phụng vụ năm Chúa theo thánh Luca. Phúc âm theo thánh Gioan trước hết được dùng vào các chúa nhật năm A trong suốt mùa chay, suốt mùa Phục Sinh và điền vào chu kỳ phụng vụ năm B. Suốt mùa Phục Sinh, bài đọc I được lấy từ sách Tông đồ công vụ, những mùa khác thì trái lại, bài đọc I luôn luôn lấy từ Cựu ước, bài đọc II thì luôn luôn lấy từ Tân ước. Sách Khải huyền là bài đọc II trong suốt mùa Phục sinh trong chu kỳ phụng vụ năm C.
Để thu được nhiều lợi ích qua việc giới thiệu cách dồi dào kho tàng Thánh Kinh, tất cả chúng ta phải làm cho mình nhiệt tình hơn trong việc tham dự thánh lễ. Quả thật, chúng ta phải công nhận rằng chúng ta có đến nhà thờ với nhiều thời gian nhưng chú ý đến các bài đọc thì không có mấy. Chúng ta phải lắng nghe trong tinh thần đức tin, đó là Đức Kitô đang nói với chúng ta khi Thánh Kinh được tuyên đọc (Hiến chế Phụng Vụ, số 56-57)
Cho Lời Chúa một vị trí quan trọng như thế, còn tiệc Thánh Thể thì sao? Một cách nhìn sự hiệp lễ là xem Mình và Máu của Chúa giống như mưa và tuyết đổ xuống từ trời cao và làm cho đất phì nhiêu. Sự hiệp lễ cho chúng ta ý nghĩa chúng ta cần, để khi nghe đọc Thánh Kinh chúng ta được những chân lý trong ấy hướng dẫn để sống theo ý muốn của Thiên Chúa. Thánh Thần không chỉ linh ứng cho những trang Thánh Kinh, Thánh Thần còn chúc phúc cho chúng ta qua công trình của Công đồng Vaticano II.
23. Sức mạnh của Lời Chúa
(Lm. Phêrô Nguyễn Hương)
Với dụ ngôn “người gieo giống” rất quen thuộc, phụng vụ Lời Chúa hôm nay đưa chúng ta tới một chủ đề nền tảng, đó là: Sức Mạnh của Lời.
Chúng ta sẽ tập trung suy nghĩ ba điểm chính yếu của dụ ngôn: người gieo giống, hạt giống và những thửa ruộng khác nhau.
1. Thiên Chúa, Người gieo trong hy vọng
Trước hết, dụ ngôn nói về người gieo làm ta ngạc nhiên bởi vì sự phung phí của ông. Ông hành động như kẻ không chuyên nghiệp, vung vãi hạt giống khắp nơi, và hầu như không để ý tới chúng sẽ rơi vào đâu: trên vệ đường, trên sỏi đá, trên bụi gai, cuối cùng là trên đất tốt. Người gieo giống là biểu tượng về một Thiên Chúa của hy vọng: spes in semine (gieo trong hy vọng), của sự quảng đại quá mức đến độ “phung phí” trong việc ban phát các ân sủng và Lời của Người cho chúng ta. Một Thiên Chúa yêu hết mọi người và muốn Lời của Ngài đến với tất cả. Hay nói như Thánh Phaolô: «Thiên Chúa muốn mọi người được cứu độ và đạt tới sư nhận biết chân lý» (1 Tim 2,3-4). Và như thế trong thế giới này và trong các nền văn hóa dù chưa được được tin mừng hóa, người ta vẫn tìm thấy những chân lý và những giá trị mà chúng có nguồn gốc và sự viên mãn trong Thiên Chúa là Cha của tất cả và cũng là Người ban phát mọi sự thiện hảo. Thiên Chúa đó ban cho chúng ta Lời Chân Lý, Lời Sự Sống. Lời đó là kim chỉ nam và là luật sống của chúng ta. Lời đó cũng là hạt giống gieo vào lòng chúng ta.
2. Hạt giống
Hạt giống biểu tượng những gì là nhỏ bé nhưng lại chứa đựng một sức mạnh, một mần sống kỳ lạ nhiều lúc không thể tin được! Hạt giống cũng là biểu tượng của Lời Chúa, Lời được viết ra trong Sách Thánh. Nhưng hạt giống cũng chính là Đức Kitô Giêsu, vì Người là Lời sống động của Thiên Chúa, Lời nhập thể làm người, và là Lời viên mãn của Nước Trời. Lời đó làm tăng trưởng các giá trị hiện có trong các nền văn hóa, thanh tẩy chúng và đưa chúng tới sự hoàn hảo. Bởi thế, Giáo Phụ Giustino (+165) gọi những giá trị trong các tôn giáo và trong các nền văn hóa là “semi Verbi”, các hạt giống của Lời. Người, Lời hiệu quả của Cha, như mưa xuống trên đất đai (Bài đọc I), tưới gội đất đai, làm cho đất đai màu mỡ, và làm mọc lên những hoa quả tốt tươi tô đẹp cho đời. Hạt Giống thần linh này có một sức mạnh vô tận: là ban tặng ơn cứu độ cho tất cả, bất kỳ nơi đâu, bất kỳ ai, kể cả những lúc thất vọng nhất, sức mạnh đó không có hàng rào nào có khả năng ngăn cản được. Thế giới này là cánh đồng của Chúa Cha, luôn đẹp đẽ, đáng chiêm ngắm như Thánh vịnh hôm nay nói tới, không có những con người hay những thực tại mà không thể không cứu rỗi được. Đó là nền tảng của niềm hy vọng về ơn cứu độ kitôgiáo (Spes salvi, như ĐHG Benedetto XVI nhấn mạnh). Hãy cam đảm vươn tới những chân trời bao la của hy vọng, vượt trên cả mồ hôi, nước mắt và tuyệt vọng của kiếp người!
3. Những thửa ruộng khác nhau
Dụ ngôn nói tới những thửa ruộng khác nhau, ám chỉ những thực tại của thế giới và lòng mỗi người chúng ta. Thiên Chúa ban Lời và ân sủng cách quãng đại cho hết mọi người. Nhưng Người không có ép ai phải theo. Ai có tai để nghe thì hãy nghe. Thiên Chúa tôn trọng sự tự do của chúng ta. Hay nói đúng hơn, Thiên Chúa mời gọi chúng ta cộng tác với Người. Những mãnh đất khác nhau là lòng chúng ta có khả năng đón nhận hoặc từ chối hạt giống Lời và Ân sủng. Con người có khả năng chọn cho mình là vệ đường, là rỏi đá, là bụi gai, hay là mãnh đất tốt trước Lời Chúa. Và kết quả của hạt giống được gieo vào đất tốt làm chúng ta ngạc nhiên: hạt 30, hạt 60 và hạt 100! Sự khác nhau này không tùy thuộc vào người gieo mà lại tùy thuộc vào phẩm chất của đất, chính là thái độ đón tiếp Lời và thực hành Lời của mỗi người chúng ta.
Bài học áp dụng
- Hãy yêu mến Kinh Thánh và siêng năng đọc, tìm hiểu và áp dụng Lời Chúa vào trong cuộc sống hằng ngày.
- Hãy chuẩn bị cho lòng mình là mãnh đất tốt để Lời Chúa dễ bắt rễ, và thấm sâu vào tâm hồn, và hãy để cho Lời đó uốn nắn và biến đổi suy nghĩ, phán đoán và hành động của chúng ta.
- Hãy quảng đại và rao giảng Lời Chúa khi thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện, ngay cả những hoàn cảnh xem ra không còn hy vọng gì nữa vì Lời đó là Lời cứu độ con người. Amen!
24. Mở tai, mở mắt
(‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Ý nghĩa đại cương của dụ ngôn người gieo giống được chính Chúa giải thích. Nhiều bài bình giảng đã quảng diễn về sau lời giải thích ấy. Ở đây chúng ta dừng lại mầu nhiệm đáng sợ: cách thức người ta tiếp nhận lời Chúa. Quả thật trong dụ ngôn có thuật lại 1 lời Chúa dạy rằng, nhiều kẻ bịt tai nhắm mắt lại để khỏi nghe khỏi thấy. Nhiều người được gọi là có phúc vì họ thấy và nghe.
1) Làm sao người ta có thể bịt tai nhắm mắt trước lời của Chúa? Việc ấy tuỳ thuộc vào sự chọn lựa thâm sâu dấu kín tận đáy lòng, bằng vào đó mà người ta quyết định về cuộc sống của mình. Vượt ngoài mọi luật tất định, sở dĩ lời Chúa dược đề ra cho người ta tin theo, là vì nơi con người có một hạt nhân tự do có thể quyết định đón nhận một cách hữu trách. Xét đoán theo nhân loại mỗi trường hợp riêng là việc không thể làm được. Điều quan trong là biết rằng con người có trách nhiệm khi đối diện lời Chúa. Do đó một con người có thể đã quyết định thâm sâu trong lòng khiến anh đui và điếc trước Chân Lý đang đến gặp anh. Nêu Chân Lý nhằm vào chỗ thâm sâu, quyết định ấy lại càng mãnh liệt dứt khoát. Thực vậy, khi con người cảm thấy liên luỵ đến cả định mệnh, anh sẽ hung dữ và bảo vệ các chọn lựa của mình và không chịu để cho người khác để lay chuyển. Một hiện tượng như thế đã xảy ra nơi những người Do thái gặp Đức Kitô. Hiện tượng ấy ngày nay vẫn còn xảy ra. Chúng ta không thể xét đoán trách nhiệm của những người từ khước TC và Đức Kitô. Nhưng bí ẩn của trách nhiệm ấy chất vấn chúng ta, vì nó đặt chúng ta vào một con đường đi không bao giờ cùng. Nếu quả thật chúng ta có đón nhận Lời Chúa thì vẫn chưa đón nhận hoàn hảo và chúng ta vẫn còn phải từ bỏ mình để theo những gì TC mời. Có thể mắt và tai chúng ta đã mở, nhưng chúng ta vẫn còn luôn luôn phải dọn sạch và tẩy rửa. Chúng ta có nghĩ đến việc ấy chăng.
2) Làm sao để đáng được lời Chúa phán với các môn đệ: phúc cho mắt các con vì được thấy, phúc cho tai các con vì được nghe? Bằng cách nỗ lực tiến đến một trạng thái tâm hồn. Các môn đệ là những người đơn sơ, ngay thẳng, không có hệ thống trí thức cứng ngắt, nghèo hèn, không có đặc quyền để bảo vệ, không có ích kỷ để chống giữ, gần gũi với cuộc sống thực và họ có trái tim trong sạch, đặc ân của những người ngay thẳng và giản đơn. Ngày nay để giữ cho mắt và tai luôn mở ra đón nhận Phúc âm, chúng ta phải được kháng nhiễm chống lại một bầu không khí tinh thần và luân lý, nó xác trộn tâm trí và làm vẩn đục trái tim. Có một thế giới ra sức biện minh cho bất cứ lý thuyết nào, bất cứ thói hư nào, lo âu duy nhất là tiền tài và danh vọng. Nhiều tờ báo, nhiều đài truyền thanh truyền hình đổ ra suốt ngày thỉnh thoảng được vài điều thât hay còn ngoài ra từng đống nguỵ biện, khiêu dâm, bạo hạnh, những cuộc trình diễn người ta nói đã được nghệ thuật thanh tẩy, nhưng làm vẩn đục tâm trí người xem. Câu hỏi là như thế này: chúng ta chọn để cho cái gì thấm nhập vào mình để cho những gì thế gian mời chào, hay để cho những gì Phúc âm đề nghị? Khả năng chăm chú nghe lời Chúa tuỳ thuộc vào câu trả lời.
25. Hạt giống Lời Chúa
(‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Ông Chirgwin, trong quyển sách mang tựa đề: “Thánh Kinh trong thế giới truyền giáo”đã kể câu chuyện sau đây:
Tokichi Ishi-I, một tên giết người không gớm tay, đã đạt được kỷ lục hạ sát nhiều nạn nhân nhất bằng những phương thế không thể tưởng tượng nổi.
Hắn ta tàn nhẫn hạ sát đàn ông, đàn bà, kể cả trẻ con. Với bàn tay khát máu, hắn đã thủ tiêu bất cứ người nào tình cờ hắn gặp và muốn giết. Nhưng cuối cùng, hắn cũng bị bắt và bị kết án tử hình.
Lúc ở nhà tù chờ ngày hành quyết, hai phụ nữ đi công tác tông đồ thử khuyên nhủ hắn, nhưng tất cả những câu hỏi han, trò chuyện của họ không làm cho hắn mảy may cảm lòng, trái lại hắn nhìn thẳng vào họ với cặp mắt dữ tợn như một hung thủ.
Cuối cùng, mất hết kiên nhẫn, hai phụ nữ ra về. Hai bà chỉ để lại cho hắn quyển Thánh Kinh Tân Ước, với một hy vọng mỏng manh là hắn sẽ đọc và Lời Chúa sẽ hoạt động nơi mà tiếng nói con người trở nên hoàn toàn bất lực.
Niềm hy vọng của họ đã trở thành hiện thực, Ishi-I đã đọc những câu chuyện trong Tân Ước hình như có một sự thu hút mãnh liệt, khiến hắn cứ tiếp tục đọc, đọc mãi và cuối cùng hắn đọc đến câu chuyện diễn tả cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Lời Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha trên thập giá: “Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”. Lời ấy đã thắng sự chống trả cuối cùng trong tâm hồn của hắn. Sau đó Ishi-I thuật lại:
“Đọc đến lời ấy “Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”, tôi mới dừng lại. Con tim tôi hình như bị đánh động, bị đâm thâu bằng một con dao dài. Tôi có thể gọi đó là lòng thương xót của Ngài? Tôi không biết, nhưng điều duy nhất tôi biết là sự hung dữ, tàn bạo nơi tôi đã tan biến và tôi đã tin”.
Cuối cùng, ông Chirgwin, tác giả câu chuyện này, kết thúc câu chuyện bằng sự ngạc nhiên tột độ của những nhân viên nhà giam có phận sự đến dẫn Ishi-I đi hành quyết. Họ đã không gặp một tên sát nhân hung bạo như họ chờ đợi, nhưng là một con người hoà nhã, lễ độ. Ishi-I, tên sát nhân đã được Lời Chúa tái sinh.
(Câu chuyện này khiến tôi liên tưởng đến một chuyện phim video mới đây được giải thưởng Oscar, mang tựa đề: “Dead man walking” (Người chết biết đi). Ở các quầy cho thuê băng video, mang tựa đề: “Tên tử tội”).
Anh chị em thân mến,
Lời Chúa có sức mạnh vạn năng. Lời Chúa có thể biến đổi tâm hồn một tên giết người không gớm tay như anh Tokichi Kshi-I và bao tâm hồn sa ngã khác. Lời Chúa có thể là động lực cho bao công tác bác ái của các tu sĩ nam nữ và giáo dân đang dấn thân phục vụ những trẻ em bị bỏ rơi, những người già nua hấp hối không ai chăm sóc, những kẻ phải sống bên lề xã hội. Đúng như Chúa Giêsu đã nói trong Tin Mừng hôm nay: “Lời Chúa như hạt giống được gieo vào đất tốt. Nó sẽ nẩy sinh một mùa gặt phong phú, một thành một trăm”.
Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn “Người gieo giống”để mô tả số phận Lời Chúa được tung ra giữa nhân loại và đem lại kết quả như thế nào: Có hạt rơi xuống bên vệ đường, chim trời ăn mất. Có hạt rơi xuống trên sỏi đá, không đâm rễ được, bị khô héo. Có hạt rơi vào bụi gai, bị chết nghẹt. Chúa không chú trọng đến phần mất mát đó cho bằng đến sự phát triển mạnh mẽ của hạt giống khi rơi vào phần đất tốt. Nó sẽ nẩy sinh một mùa gặt phong phú, một thành ba mươi, sáu mươi hay một trăm. Vậy thì chúng ta đừng ai nản lòng vì mất mát, thiệt thòi. Người gieo giống cứ thẳng tay tung vãi khắp nơi một cách quảng đại, không dè xẻn. Bên ngoài xem ra như mọi sự chống lại việc triển nở của hạt giống Lời Chúa. Nhưng hãy chờ mùa gặt đến, kết quả sẽ vượt mức tưởng tượng, vì đây là công việc của Thiên Chúa. (Một tên giết người không gớm tay như Ishi-I, thế mà Lời Chúa đã từ từ thấm nhập vào tâm hồn, đã cải hoá anh thành một con người mới, một người hoà nhã, lễ độ, sám hối và đã tin).
Thánh Justinô tử đạo vào năm 150, khi suy niệm về dụ ngôn người gieo giống này đã khuyên bảo những người rao giảng Tin Mừng, đừng bao giờ thất vọng: “Chính Chúa Giêsu là Lời Thiên Chúa đã được gieo vào cánh đồng thế giới chúng ta. Ngài cũng đã bị hiểu lầm, bị chống đối, đã gặp bao thất bại… Nhưng sau khi bị chôn vùi vào lòng đất như hạt giống, Ngài đã nẩy sinh bao hoa trái sự sống dồi dào”.
Thưa anh chị em,
Ngày nay Giáo Hội không ngừng rao giảng Lời Chúa qua các thế hệ trên khắp thế giới. Giáo Hội cũng gặp nhiều khó khăn, thất bại như: thiếu phương tiện, bị bách hại, đời sống kém cỏi của một số giáo sĩ và giáo dân, số người rửa tội ngày càng ít đi trong một thế giới duy vật và trần tục hoá. Thật đáng buồn khi thấy đời sống đạo ngày càng sa sút. Lời Chúa như rơi vào sỏi đá, vào bụi gai hay ngoài đường lộ. Tuy nhiên, như lời Thánh Justinô: đứng thất vọng, người gieo cứ việc gieo và để cho Lời Chúa âm thầm hoạt động. Không có gì được phép làm cho chúng ta phải nghi ngờ hay chán nản. Hạt giống Lời Chúa có thể là bé nhỏ, có thể bị đối xử tàn tệ, bị chà đạp, bị lấn át, nhưng năng lực của nó là vô hạn (x. Bđ: Is 55,10-11).
Bổn phận của chúng ta là thành tâm đón nhận Lời Chúa, lắng nghe Lời Chúa và thực thi Lời Chúa trong cuộc sống giữa lòng đời. Không phải chỉ nghe suông mà còn tìm hiểu ý Chúa muốn chúng ta phải làm gì. Có bao nhiêu chướng ngại chống lại việc tìm hiểu và thực thi Lời Chúa: nào là những quyến rũ của đời sống trần tục, nào là những lo lắng việc đời, ham mê của cái. Chúng như chim trời sà xuống cướp lấy hạt giống vừa rơi xuống, hoặc như sỏi đá, như bụi gai cản trở, bóp nghẹt Lời Chúa.
Anh chị em thân mến,
Mỗi Chúa Nhật, chúng ta họp nhau dự Tiệc Thánh, gồm có Lời Chúa và Thánh Thể của Chúa. Hãy đón nhận với niềm tin yêu để Lời Chúa và Thánh Thể trở nên sức sống và ánh sáng, niềm vui và hy vọng cho cuộc đời chúng ta. Rồi đến lượt chúng ta lại trở thành người ra đi gieo giống, người Tông đồ rao giảng Lời Chúa, góp phần vào mùa thu hoạch của Giáo Hội cho Nước Trời vào ngày sau hết.
26. Luôn luôn gặt hái kết quả
Sách lễ cho chúng ta chọn giữa một bài đọc ngắn chỉ kể lại dụ ngôn người gieo giống và một bài đọc dài có thêm câu trả lời của Chúa Giêsu đáp lại câu hỏi “Tại sao Thầy dùng dụ ngôn để nói?” và lời giải thích dụ ngôn người gieo giống. Tôi chọn bài đọc ngắn, đúng như nó mô tả câu chuyện những hạt gieo của Chúa Giêsu.
Đọc đến chương 13 này của Matthêu, “chương của những dụ ngôn”, chúng ta biết được gì? Chúa Giêsu đã gieo nhiều trên tất cả các mảnh đất. Ngài đụng phải những cái đầu cứng rắn của những luật sĩ và người Pharisêu. Ngài đã thấy những người phấn khởi nhưng bỏ Ngài rất nhanh. Ngài đã cảm nhận những thái độ ngập ngừng nơi các môn đệ của Gioan Tẩy giả và sự bối rối nơi chính Gioan Tẩy giả: “Thầy có phải là Đấng- phải -đến hay không?” Sự dửng dưng của một số thành phố đã tác động mạnh đến Ngài: “Khốn cho người hỡi thành Côrô! Khốn cho người hỡi thành Bétsai!” Tất cả những điều đó tạo nên một bức tranh khá đen tối. Nước Trời dường như khó khởi động.
Chính trong bối cảnh này mà dụ ngôn người gieo giống có tầm quan trọng rất lớn. Dụ ngôn này nói lên nhận xét sáng suốt nhưng không thất vọng của Chúa Giêsu. Ngài mời gọi chúng ta can đảm bằng cách nhìn vào điều quan trọng nhất: người gieo giống ra đi để gieo lúa. Nhưng thật là một người gieo giống kỳ lạ!
Người đó ra đi từ nơi Thiên Chúa và đến với chúng ta để gieo Thiên Chúa. Đây là một biến cố bất ngờ, không phải là một giai đoạn của lịch sử mà là sự đảo lộn lịch sử: “Các ngươi hãy mau ăn năn hối cải, vì Nước Trời đã gần kề!”
Tin Mừng này đã làm cho mọi người phấn khởi. Sau đó, khi lời rao giảng tỏ ra có yêu cầu một số thính giả bén rễ vào lời rao giảng đó, nhưng một số khác rơi vào trong cuộc sống hời hợt hoặc ngổn ngang trăm bề và thậm chí trong sự chống đối, những con đường, những hòn đá, những bụi gai, những mảnh đất tốt, đất đai thật khác nhau! Mặc kệ, người gieo giống kỳ lạ này đã thấy được kết quả rồi: hạt được ba mươi, hạt được bốn mươi, hạt được một trăm. “Ai có tai nghe, hãy nghe!”
Nghe lời kêu gọi tin tưởng khi việc gieo giống có vẻ như thất bại. Trường hợp này đã xảy ra cho các nhà truyền giáo. Đây cũng là trường hợp xảy ra cho mọi tông đồ hiện nay, cho mọi Kitô hữu xem truyền hình và những người qua lại trên đường: “Đâu là những cây lúa đang mọc lên?”
Đây là câu trả lời. Đấng biết rõ những mảnh đất con người khẳng định với chúng ta rằng có những mảnh đất khô cằn thì cũng có những mảnh đất tốt tươi và do đó luôn luôn có kết quả.
Chúa Giêsu đã nói điều này với nhũng đám đông bối rối, với những môn đệ bị dao động. Ngài nói điều đó với chúng ta bây giờ là những người đo lường sự bỏ rơi việc hành đạo, sự dửng dưng của con cái chúng ta, sự gia tăng những người vô tín ngưỡng-Đấng kể dụ ngôn này hiện vẫn sống, dụ ngôn này được dành cho chúng ta. Đấng gieo giống đang có mặt ở đó, cho nên không có ai, không nơi nào, có quyền đoán xét rằng mọi hạt giống đều bị mất đi. Bao lâu chúng ta gieo Tin Mừng, chúng ta sẽ có kết quả là hạt được một trăm, hạt được sáu mươi, hạt được ba mươi.
27. Nghe giảng
Benjamin Franklin là một vị tổng thống nổi tiếng của nước Mỹ. Ngày kia, ông nhân được món quà, đó là một cái chổi từ Ấn Độ. Ông nhìn thấy mấy hạt giống còn dính vào cái chổi, và thế là ông bứt ra và đem gieo những hạt giống ấy.
Sau lần thu hoạch đầu tiên, ông đem phân phát tất cả những hạt giống mình có cho bà con lối xóm. Và vu thu hoạch của họ cũng thành công tốt đẹp. Bằng cách này, ông trở nên người đầu tiên đưa rơm vào Hoa Kỳ và khởi đầu cho kỹ nghệ sản xuất chổi.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng vừa nghe. Thực vậy, tất cả chúng ta đều được mời gọi phải hành động như thế. Chúa Giêsu ban cho chúng ta những chân lý của Người, đó là như những hạt giống chúng ta cần phải gieo trồng trong tâm trí chúng ta đã đành, mà còn phải đem gieo trồng trong tâm trí những người khác nữa.
Những hạt giống này, những chân lý này, Người ban cho chúng ta qua Thánh Kinh, qua sự giáo huấn của Hội Thánh, cụ thể là qua sự giảng dạy của các linh mục.
Như vị tổng thống nước Mỹ, chúng ta hãy đón nhận những chân lý ấy, hãy gieo trồng trong cõi lòng chúng ta, đồng thời cũng hãy chia sẻ những chân lý ấy cho những người chung quanh.
Bổn phận của tôi là nói nói về những chân lý ấy cho anh chị em. Còn bổn phận của anh chị em là lắng nghe và làm cho những chân lý ấy được nảy mầm và lớn lên, như lời Chúa Giêsu đã phán: Ai có tai để nghe, thì hãy nghe.
Tôi xin đưa ra một vài việc gợi ý cần làm ngay để chúng ta thâu lượm được những thành quả tốt đẹp khi nghe giảng.
Như một bác nông phải, trước khi xạ lúa cân phải chuẩn bị ruộng đất. Chúng ta cũng thế. Thật là hữu ích nếu như trên đường tới nhà thờ tham dự thánh lễ, chúng ta biết tự chuẩn bị đón nhận chân lý. Chúng ta đừng nói: Lạy Chúa, hôm nay xin đừng để cha giảng quá dài. Trái lại hãy thân thưa: Lạy Chúa, xin giúp con đón nhận những chân lý để nuôi sống đời sống thiêng liêng của con. Chính người giảng cũng phải cầu nguyện như thế, để những người nghe mình giảng sẽ lợi dụng được những điều mình trình bày, và sẽ cung cấp được những mảnh đất phì nhiêu cho những chân lý mình đang cố gắng gieo trồng. Chúng ta không phải chỉ cầu nguyện cho mình, mà còn phải cầu nguyện cho người giảng nữa. Đó quả thực là một việc làm quí giá biết bao.
Tiếp đến, khi bước chân vào trong nhà thờ, chúng ta hãy làm dấu thánh giá trên mình, như để rũ sạch những lo âu trần thế và mở rộng tâm hồn cho hạt giống chân lý. Chúng ta hãy chăm chú lắng nghe những lời cầu nguyện, những bài đọc Thánh Kinh, nhất là bài Tin Mừng, đồng thời cũng hãy chú ý tới bài giảng, bằng cách cố gắng hiểu và nhớ.
Đức Kitô nói với chúng ta qua môi miệng của vị linh mục, thế nhưng, vị linh mục cũng chỉ là một con người, nên cũng có những giới hạn của mình. Con người đứng trên bục giảng có thể là một dụng cụ hữu hiệu, nhưng cũng có thể là một dụng cụ vô tích sự. Sứ điệp có thể được quảng diễn một cách trong sáng hay mù mờ, thế nhưng, nội sung của sứ điệp mới là điều quan trọng, còn cách diễn tả chỉ lả điều thứ yếu.
Hãy lắng nghe và thực thi trong cuộc sống những điều đã đón nhận, để Lời Chúa thực sự nảy mầm, đâm bông và kết trái trong cuộc sống chúng ta.
28. Hạt giống và người gieo giống
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về hạt giống và người gieo giống, cũng như về thửa đất đón nhận hạt giống.
Trước hết, hạt giống và người gieo giống chính là Đức Kitô.
Thực vậy, Ngài đã đến trong cánh đồng trần gian. Thế nhưng, Ngài đã bị hiểu lầm, đã gặp biết bao nhiêu khó khăn và thất bại. Nhưng sau khi bị chôn vùi vào lòng đất như một hạt giống, Ngài đã nảy mầm đâm bông và kết trái.
Tiếp đến, hạt giống và người gieo giống còn là Giáo Hội.
Thực vậy, như Chúa Giêsu, Giáo Hội trải qua giòng thời gian cũng đã gặp phải biết bao nhiêu thất bại và cấm cách. Tuy nhiên, tất cả không thể làm cho Giáo Hội nghi ngờ hay thất vọng về sứ mạng của mình.
Hạt giống lời Chúa cũng như bản chất của Giáo Hội, có thể là rất nhỏ bé. Nhỏ bé như một hạt cải, nhỏ bé như một dúm men, nhưng năng lực của lời Chúa cũng như của Giáo Hội là vô hạn.
Không phải là qua những thành công rực rỡ bên ngoài mà Chúa Giêsu đã cứu độ nhân loại. Trái lại, Ngài đã bước vào chặng đường thập giá, bước vào tiến trình của một hạt giống được gieo vào lòng đất cần phải mục nát.
Bởi đó, Ngài đã trách cứ hai môn đệ trên đường về Emmaus:
- Hỡi những kẻ kém trí và chậm tin, Đức Kitô há không phải chịu thương khó rồi mới được vào chốn vinh quang hay sao?
Cũng vậy, Giáo Hội cần phải bước vào chặng đường thập giá, cần phải bước vào tiến trình mục nát của một hạt giống. Những thời Giáo Hội được huy hoàng nhất chưa hẳn đã là những thời mà Nước Chúa được mở rộng hơn cả.
Còn thửa đất thì sao?
Trước tiên, thửa đất là thế gian này.
Thực vậy, Đức Kitô đã đến trong thế gian và gieo vào đó hạt giống lời của Ngài. Thế gian trước kia đang khô cằn và chờ mong ơn cứu độ. Thế nhưng, kể từ đây có thể trở nên phì nhiêu cho lời Chúa sinh hoa kết trái.
Thế nhưng quan trọng hơn cả, mảnh đất phì nhiêu ấy phải là chính cõi lòng chúng ta. Đúng thế, mặc dù lời Chúa đầy hiệu năng, nhưng tự nó lời Chúa cũng không đủ để đảm bảo một mùa gặt tốt đẹp, bởi vì lời Chúa còn cần phải gặp được những thửa đất tốt.
Thiên Chúa tiếp tục gieo vãi hạt giống lời Ngài vào cõi lòng chúng ta. Nhiều người nghe nhưng ít người hiểu. Nhưng hiểu mà thôi cũng chưa đủ, chúng ta còn phải sống lời Chúa. Bởi vì, không phải chỉ nghe, chỉ hiểu là lời Chúa tự động nảy nở trong cõi lòng chúng ta và đem lại những hoa trái.
Mặc dù lời Chúa có đủ sức để đảo lộn cuộc đời chúng ta, nhưng hiệu năng của lời Chúa không phải là tự động, không phải là máy móc. Sự tăng trưởng của lời Chúa hoàn toàn tùy thuộc vào mỗi người chúng ta.
Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta sự tự do và Ngài luôn tôn trọng sự tự do ấy cho tới cùng. Ngài đề nghị mà không ép buộc:
- Này Ta đứng ngoài cửa mà gõ, nếu ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào và dùng bữa với kẻ ấy.
Chúng ta có tự do để trở nên một đám sỏi đá, một bụi gai, một lối đi cằn cỗi, nhưng đồng thời cũng có thể là một thửa đất tốt. Tất cả mọi loại đất đều tùy thuộc ở cõi lòng chúng ta.
Vậy chúng ta sẽ là thửa đất nào? Chúng ta đã nghe và đã hiểu, nhưng liệu chúng có dám sống lời Chúa và thực thi những điều Ngài truyền dạy hay không?
29. Hạt giống tốt
Lớn lên ở thôn quê, đi rao giảng phần lớn thời gian ở thôn quê, Chúa Giêsu đã thường xuyên được chứng kiến cảnh gieo trồng của người nông dân, nên Ngài đã mượn những hình ảnh của những sinh hoạt thôn dã ấy để nói về nước trời, một trong những dụ ngôn đầu tiên của Chúa là dụ ngôn người gieo giống.
Người gieo trồng nào cũng có niềm tin và sự lạc quan. Gieo hạt giống vào lòng đất là đặt tất cả tin tưởng phó thác của mình vào thiên nhiên. Có hạt rơi xuống đất tốt, có hạt rơi bên vệ đường, có hạt rơi trong bụi gai, nhưng kết quả cuối cùng vẫn là vụ mùa tươi tốt. Nước trời cũng giống như người ra đi gieo giống vậy.
Thái độ lạ đời của người gieo giống khiến chúng ta hiểu được phần nào tình yêu thương phổ quát của Thiên Chúa. Không có người nông dân nào có đầu óc bình thường hiểu biết, lại đi phung phí hạt giống trên mọi mảnh đất, ngay cả những chỗ gai góc hay những mảnh đất sỏi đá, nhưng họ gieo vãi hạt giống của mình trên thửa đất đã được cày bừa cẩn thận để hạt giống có thể mọc lên thật dễ dàng. Ở đây Chúa Giêsu cho chúng ta biết: Ngài muốn cứu rỗi tất cả mọi người, không phân biệt ai, Ngài muốn thông truyền chân lý cho mọi hạng người. Nhưng cũng như các mảnh đất được kể trong Tin Mừng, tiếp nhận hạt giống và sinh hoa kết trái khác nhau, mỗi người cũng có thái độ khác nhau khi đón nhận lời Chúa, tiếp nhận ân sủng của Ngài, họ có quyền tự do chấp nhận hay từ chối. Nếu chấp nhận thì lời Chúa sẽ đem lại cho họ nhiều lợi ích, nếu chối từ thì họ sẽ chẳng được gì. Như vậy, hoa trái tốt lành là tùy ở sự chấp nhận của con người.
Chính mỗi người phải cố gắng làm cho tâm hồn mình thành mảnh đất tốt, phì nhiêu tiếp nhận lời Chúa một cách thành khẩn, để hạt giống có thể phát triển và đơm bông kết trái. Trong các hoạt động hay sinh hoạt hằng ngày, dù công khai hay âm thầm, dù to lớn hay nhỏ bé, kể cả những khó khăn và đau khổ của cuộc sống, tất cả mọi người đều được mời gọi để gieo rắc niềm hy vọng. Trên những mảnh đất khô cằn tình người, chúng ta được Đức Kitô kêu mời trồng tỉa từng hạt giống của yêu thương. Trên những vùng đất khô sạn tin yêu, chúng ta được Đức Kitô kêu mời gieo rắc niềm hy vọng. Từng giây, từng phút, từng ngày, từng năm, chúng ta tin tưởng rằng sức sống sẽ bừng dậy, yêu thương sẽ trổ bông.
Người ta kể rằng: Một người cha kia có ba đứa con trai, tuy sinh ra trong nghèo khổ, nhưng nhờ chuyên cần làm việc và tiết kiệm, ông đã trở nên một điền chủ giầu có. Lúc cuối đời, tuổi già sức yếu, ông tính việc chia gia tài cho các con, ông muốn biết đứa con nào thông minh nhất để giao phó phần lớn gia tài của ông cho nó. Ông gọi cả ba người con tới bên giường bệnh, trao cho mỗi đứa năm đồng và bảo hãy đi mua cái gì có thể lấp đầy căn phòng trống trải và u tối của ông.
Ba người con vâng lời cha cầm tiền ra chợ. Người anh cả nghĩ rằng việc này quá dễ dàng, anh mua một bó rơm lớn đem về, người con thứ hai nghĩ kỹ hơn, anh mua những bao lông vịt rất đẹp mắt, người con út lo nghĩ: biết mua gì với năm đồng này để có thể lấp đầy căn phòng lớn của cha? Cuối cùng anh đã nghĩ ra, anh mua một cây nến và một bao diêm.
Ngày hôm sau, cả ba người con đều tụ họp trong phòng cha già. Người con cả mang rơm ra trải, nhưng phòng quá rộng, chỉ phủ được một góc, người con thứ đổ lông vịt ra, nhưng cũng chỉ phủ được hai góc của căn phòng. Người cha tỏ vẻ thất vọng. Người con út từ từ rút trong túi ra một cây nến và một hộp diêm, thoáng một cái căn phòng đầy ánh sáng. Mọi người ngạc nhiên, người cha già rất sung sướng vì quà tặng của người con út, ông quyết định trao phần lớn ruộng đất và gia sản cho anh ta, vì ông thấy anh ta đủ thông minh để quản trị gia sản của mình và nhờ đấy cũng có thể giúp đỡ các người anh nữa.
Cuộc sống mỗi người chúng ta, cuộc sống những người chung quanh chúng ta, cuộc sống của xã hội chúng ta, có lẽ nhiều khi cũng giống như một căn phòng tối, chỉ cần một người nào đó thắp lên một tia sáng nhỏ là những người chung quanh sẽ cảm thấy ấm áp và phấn khởi hơn: một tia sáng nhỏ của cái mỉm cười, một tia sáng nhỏ của lời chào hỏi thăm nom, một tia sáng nhỏ của tình yêu san sẻ, một tia sáng nhỏ của cảm thông, tha thứ, một tia sáng nhỏ của niềm tin giải tỏa qua sự hân hoan chấp nhận cuộc đời.
Chúng ta hãy tạ ơn Chúa đã cho chúng ta nhận được tình yêu của Chúa. Xin cho cả cuộc sống chúng ta trở thành chứng tích của tình yêu Chúa đối với mọi người. Xin cho tất cả những ai gặp gỡ chúng ta đều có thể nhận ra được tình yêu của Chúa.
30. Gieo giống
Bài Phúc âm hôm nay, mang tên “Dụ ngôn người gieo giống”. Thiên Chúa là người gieo giống. Chúng ta là đất. Hạt giống là lời giảng dạy của Chúa Giêsu. Vấn đề của chúng ta là làm sao trở nên đất tốt?
Để hiểu dụ ngôn dễ dàng hơn, William Barclay đã giải thích cách gieo hạt giống của người nông dân và sự phức tạp của những mảnh đất khác nhau ở Palestine vào thời Chúa Giêsu như sau:
“Ở Palestine có hai cách gieo hạt giống. Nó có thể được tung vãi lên không khi người gieo giống bước tới bước lui trên cánh đồng. Dĩ nhiên, nếu gió thổi, một số hạt giống có thể bị thổi vào tất cả mọi chỗ, đôi khi bay ra khỏi cánh đồng. Cách thứ hai là cách lười biếng, nhưng không phải là không được sử dụng thường xuyên. Đó là đặt một cái túi hạt giống trên lưng một con lừa, cắt hay xé một cái lỗ ở góc túi, rồi để con lừa đi lại trên cánh đồng trong khi hạt giống chảy ra. Trong trường hợp này một số hạt giống có thể chảy xuống đang khi con vật băng ngang qua lối đi hoặc trước khi nó đi tới cánh đồng.
Ở Palestine, những cánh đồng là những dải đất dài và hẹp; ở bên phải có lối đi. Lối đi được nện chắc chắn như mặt đường bởi vô số những vết chân của những người bộ hành qua lại. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu nói đến “có hạt rơi xuống vệ đường”, đã không có cơ hội cho hạt giống thâm nhập xuống đất.
“Có hạt rơi trên đá sỏi…” Đất sỏi đá, không phải là đất đầy những đá; nhưng là đất bình thường ở Palestine, một lớp đất mỏng trên mặt của một tảng đá nằm ở dưới. Lớp đất có lẽ chỉ sâu chừng 4 hay 5 cm trước khi tới phần đá vôi. Hạt giống nằm trên phần đất như vậy sẽ nẩy mộng nhanh chóng do sức nóng của mặt trời và đất ẩm. Nhưng vì không có chiều sâu của đất nên khi rễ đâm xuống để đi tìm chất dinh dưỡng và nước, nó chỉ gặp đá, liền bị chết, và hoàn toàn không thể nào chịu đựng nổi sức nóng mặt trời.
“Có hạt rơi vào bụi gai…” Đất có gai, dễ tạo nên lầm lẫn. Khi người gieo hạt giống xuống, mặt đất có vẻ được dọn sạch sẽ; nhưng ở trong đất vẫn còn những gốc rễ của cỏ dại, cây hoang, và gai góc sẵn sàng mọc trở lại. Mỗi người làm vườn đều biết rằng các loại cỏ dại mọc lên với một tốc độ nhanh chóng mà ít có hạt giống tốt nào có thể theo kịp. Hậu quả là hạt giống và cỏ dại mọc lên chung với nhau; nhưng cỏ dại mạnh mẽ hơn làm chết ngộp sự phát triển của hạt giống.
“Có hạt rơi xuống đất tốt…” Đất tốt, ở dưới sâu, thuần túy là đất mềm; hạt giống có thể đâm rễ sâu xuống tìm được dinh dưỡng, lớn lên nhanh chóng; và trong đất tốt nó sẽ phát sinh một mùa huê lợi phong phú.
Tâm hồn mỗi người cũng giống như thửa ruộng ở Palestine thời Chúa Giêsu, gồm đủ mọi loại đất như William Barclay đã diễn tả. Trong cuốn “A Kind of Praying”, của Rex Chapman, có lời cầu nguyện dựa theo đoạn Thánh Kinh của dụ ngôn người gieo giống đã diễn tả rằng có những loại đất khác nhau ở ngay bên trong mỗi người:
“Lạy Chúa, điều lạ lùng là làm thế nào con người đã phản ứng rất khác biệt ở những giây phút khác nhau đối với cùng một tình huống. Đôi khi con có được sự phấn khởi của trẻ thơ. Con nhìn thấy tương lai rõ ràng. Con hiểu được những vấn đề. Con biết đường phải đi. Đôi mắt của con tập trung lại một cách rất bén nhậy. Hạt giống mọc lên và sinh hoa trái.
Nhưng lạy Chúa, tại sao con lại không thể nào luôn như vậy được? Đôi khi con thấy mình đang vật lộn với một vấn đề. Tuy nhiên, chỉ vì những chiếc cây mà con không thể nào thấy được cả khu rừng, vì những chi tiết nhỏ mà con không thể nhìn thấy toàn bộ bức tranh. Rồi chẳng có sự gì đi đúng đường cả. Dường như con chẳng làm được gì, như thể những cây gai cỏ dại đang bóp chết sự sống của hạt giống.
Đôi khi sự thích thú hăng say ở trong con bùng dậy. Con bắt đầu nắm bắt được công việc. Bỗng nhiên tính tình thay đổi. Sự biếng nhác ngự trị bỏ lại lòng nhiệt thành trong quá khứ. Sự thích thú phai nhạt dần vì thiếu nước. Đôi khi con đi lang thang chẳng biết phải làm gì. Cuộc đời là những khoảng thời gian trôi qua vô vị…”
Chúng ta đã biết được sự phức tạp và hay thay đổi của tâm hồn mình. Vậy làm thế nào để tâm hồn chúng ta luôn luôn là những mảnh đất tốt?
31. Gieo giống
Jerry Anderson khi còn trẻ rất thích đi săn vịt, và qua hình ảnh của những con vịt đi kiếm mồi, ông đã diễn tả đời sống của các Kitô hữu như sau: Vào mùa thu, khi gió lạnh từ hướng bắc thổi về, ông lấy những con vịt mồi bằng gỗ ra, lau chùi sạch sẽ, và móc những cái mỏ neo mới vào những con vịt mồi này. Khi mùa săn vịt đến, ông đã sẵn sàng. Theo ông Anderson hiện nay, những con vịt trời là những con vịt hoang sống ở các đầm lầy. Chúng bơi lội xung quanh chỗ nước cạn và kiếm ăn ngay trên những đám cỏ mọc lên ở đầm lầy. Chúng chỉ ăn những lương thực kiếm được trên mặt nước mà thôi. Dù vậy, thỉnh thoảng, ông cũng đã nhìn thấy những con vịt lặn lỏn vào trong những con vịt mồi. Chúng lặn sâu xuống đáy ao để tìm mồi, kiếm ăn trên những thảo mộc, rong rêu mọc lên từ dưới đáy hồ.
Ngày nay, trong những cách thức nào đó, Anderson nói, những người Kitô hữu giống như những con vịt đó. Một số là những con vịt cạn ở đầm lầy, thỏa mãn với phần lương thực họ kiếm được trong những chỗ cạn của đời sống Kitô hữu. Những người khác là những con vịt lặn. Họ lặn rất sâu vào trong Lời Chúa qua sự học hỏi nghiên cứu Thánh Kinh, suy niệm, và tham gia vào trong đời sống và công việc mục vụ của Giáo Hội. Lời Chúa phát sinh hoa trái phong phú trong đời sống của họ.
Ngày 6 tháng 7 năm 2002, kỷ niệm một trăm năm ngày vị thánh nữ trẻ Maria Goretti tuyên xưng tình yêu và lòng can đảm trung thành với Chúa Giêsu. Lên mười tuổi thánh nữ rước lễ lần đầu với tất cả lòng yêu mến Chúa Giêsu. Ba tháng trước khi mừng sinh nhật thứ 12, một người hàng xóm tên là Alessandro Serenelli đã cố hãm hiếp thánh nữ. Maria từ chối và kháng cự quyết liệt. Alessandro đã dùng dao đâm nhiều nhát vào người Maria. Ngày hôm sau, ngày 6 tháng 7 năm 1902, thánh nữ đã qua đời trước khi tha thứ cho kẻ đã cố tình hãm hiếp và giết người. “Phải, vì tình yêu của Chúa Giêsu tôi tha tội cho anh và tôi muốn anh cùng ở với tôi trên thiên đàng”. Mang đầy tủi nhục, đớn đau và bị mọi người xa lánh, Alessandro đã bị kết án vào tù. Tuy nhiên, hạt giống tha thứ và yêu thương Maria đã gieo vào tâm hồn anh đã dần dần phát sinh hoa trái. Anh đã cảm nghiệm được ơn trở lại. Sau 27 năm tù, ngay sau khi được thả ra anh đi thẳng đến nhà mẹ của Maria để xin lỗi, đồng thời cùng với bà đi tham dự lễ Giáng sinh, anh đã bước lên trước mặt cộng đoàn, xác nhận tội lỗi của mình, và van xin sự tha thứ của Thiên Chúa, cũng như của cộng đoàn. Chính anh đã đứng ra làm chứng để phong thánh cho Maria Goretti. Ngày 24 tháng 6 năm 1950 anh đã đứng ở quảng trường thánh Phêrô khi Đức Giáo Hoàng Piô XII công bố Maria Goretti là một vị thánh. Sau cùng, Alessandro Serenelli đã chết vào ngày 6 tháng 5 năm 1970 trong tu viện Capuchin nơi anh đã xin vào làm vườn để ăn năn đền tội và cầu nguyện.
Xưa kia Mẹ têrêsa thành Calcutta đã phải làm sự lựa chọn như vậy. Lúc mới bước vào đời sống tu trì, Mẹ Têrêsa chưa bắt đầu giúp đỡ người nghèo khổ ngay. Khoảng trên 20 năm Mẹ đã dạy học cho con cái của những người giầu có nhất ở Calcutta, An Độ. Mỗi ngày Mẹ nhìn xuống xóm nhà nghèo bẩn thỉu và dân chúng sống chen chúc ngoài đường phố xung quanh những người giầu có nơi Mẹ làm việc. Mẹ hài lòng với cuộc sống của mình. Cho đến một đêm, Mẹ phải đi bộ về nhà và nghe thấy tiếng rên rỉ của một người phụ nữ kêu xin giúp đỡ. Nhận ra tình trạng nguy kịch của bà, Mẹ Têrêsa vội vã đưa bà vào một nhà thương gần nhất. Đến nhà thương, người ta bảo mẹ phải ngồi chờ. Mẹ biết rằng người phụ nữ có thể chết nếu không được săn sóc thuốc thang ngay lập tức, do đó Mẹ lại đưa bà vào một nhà thương khác. Một lần nữa Mẹ lại bị từ chối. Người phụ nữ thuộc về giai cấp bị bỏ quên trong xã hội. Trong tuyệt vọng, Mẹ đã đưa bà về nhà. Đến khuya bà đã ra đi êm ái trong cánh tay yêu thương của Mẹ Têrêsa. Đêm hôm đó, Mẹ Têrêsa đã khẳng định rằng từ nay trở đi điều này sẽ không còn bao giờ xảy ra nữa cho bất cứ ai Mẹ đã gặp, Mẹ đã quyết định dâng hiến đời mình để thoa dịu vết thương của những người đang chịu đau khổ xung quang Mẹ. Dù sống hay chết, họ phải được cư xử xứng đáng với phẩm giá của con người. Mẹ sẽ làm mọi sự trong quyền hạn của mình để họ phải được cư xử tốt đẹp hơn với tình yêu và sự kính trọng mà tất cả mọi người đáng được hưởng.
Nói tóm lại, để trở nên đất tốt, Giáo Hội khuyên chúng ta hãy sống xứng đáng với đời sống Kitô hữu bằng việc tuân giữ: “Mười điều răn, Bài giảng trên núi và giáo lý của các tông đồ vạch ra cho chúng ta những con đường dẫn tới nước trời. Chúng ta tiến từng bước trên con đường này, bằng những hành vi thường nhật, được nâng đỡ bởi ân sủng của Chúa Thánh Thần. Nhận lấy hạt giống lời Chúa trong mình, chúng ta từ từ sinh hoa trái trong Giáo Hội, cho vinh quang của Thiên Chúa”.
32. Lời Chúa với đời người
(Lm. Kiều công Tùng)
"Con lớn lên bằng lời ru của bà cùng với sự êm ái dịu dàng của Kymdan". Một câu quảng cáo đầy ấn tượng nhằm đạt đến mục đích cuối cùng của nhà sản xuất nệm Kymdan. Điều đáng nói ở đây là câu quảng cáo ấy đã vô tình nói với mọi người một sự thật: Người ta lớn lên không chỉ bằng cơm bánh mà còn bằng lời nữa. Từ lời ru êm khi còn nằm nôi cho đến lời dạy bảo nhắc nhở răn đe lúc đã lớn khôn. Rồi trưởng thành bước vào đời, người ta vẫn cần lắm những lời khen tặng, động viên hay an ủi... Thử hỏi, cuộc sống con người sẽ ra sao, nếu như những lời lẽ kia không được gieo vãi.
Thế nhưng trong thực tế, nhiều khi chúng ta nghiệm ra rằng cho dù lời người phàm cần thiết đến đâu thì cũng không làm cho người ta no thỏa. Người ta cần một thứ lời có thể đáp ứng mọi tâm trạng và trong mọi hoàn cảnh, không phải chỉ là "2 trong 1" hay "3 trong 1" mà là "nhiều trong 1". Một thứ lời có thể hướng dẫn ta trong lúc nghi nan, trấn an khi gặp khó khăn, nâng đỡ khi sầu khổ, sửa dạy khi nông nổi, hối thúc khi lười biếng, cảnh giác trong nguy hiểm và đem lại hy vọng những lúc ta chán nản tuyệt vọng. Chỉ có Lời Chúa mới thỏa mãn những điều kiện ấy, mà Lời Chúa thì đã được gieo vãi trong tâm hồn và cuộc sống mỗi người từ lâu rồi.
1. Lời được gieo cách hào phóng
Trước hết, Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy Thiên Chúa là một người gieo giống đầy hào phóng và lạc quan. Kinh nghiệm của một nhà nông không cho phép người ta phí phạm hạt giống lẫn công sức trên những mảnh đất cằn cỗi sỏi đá bởi kết quả thu được chắc chắn không thể bù lại những gì bỏ ra. Thế nhưng, đường lối của Thiên Chúa lại hoàn toàn khác với cách suy nghĩ của con người. Hạt giống Lời Chúa không chỉ dành cho những mảnh đất mầu mỡ mà được tung vãi khắp nơi, cả bên vệ đường, trên sỏi đá hay giữa bụi gai. Lời Chúa không chỉ nói cho các thầy tư tế hay kinh sư, cho người lành người tốt.
Thiên Chúa đã tung gieo Lời của Ngài một cách hào phóng trên mọi mảnh đất, đến mọi hạng người, mọi tâm hồn bất kể là thu thuế hay gái điếm. Nếu tính tỉ lệ thì ta thấy giữa đất xấu và đất tốt là 3/1. Một tỉ lệ khá cao: cứ ba hạt bị mất mát mới có một hạt đem lại kết quả. Thế nhưng, người gieo giống vẫn cứ ra đi, vẫn cứ gieo vãi. Sẽ có người cho rằng người gieo giống quá phung phí và dở hơi; nhưng nếu nhìn xa hơn, nghĩ sâu hơn thì người gieo giống cực kỳ quảng đại, ông ta muốn mọi nơi trên cánh đồng đều có cơ hội sản sinh mùa màng thật tốt và đem lại thật nhiều hoa lợi.
Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót như thế đó. Ngài không bao giờ nghi ngờ thiện chí của bất kỳ một tâm hồn nào. Ngài đã quảng đại trao ban Lời của Ngài, trao ban chính Con của Ngài cho nhân loại và Ngài luôn chờ đợi hiệu quả phát sinh nơi tâm hồn và cuộc sống của chúng ta. Tâm hồn nào cũng có thể trở nên mảnh đất mầu mỡ khi biết mở rộng lắng nghe và đón nhận Lời Chúa, suy gẫm và làm cho phong phú cụ thể qua từng suy nghĩ, lời nói hay cử chỉ.
2. Lời mọc lên đầy hy vọng
Chúa Giêsu giảng dụ ngôn "Người Gieo Giống" trong bối cảnh những người trí thức có địa vị đang ra sức chống đối Ngài, còn những kẻ bình dân và các môn đệ thì đã bắt đầu ngã lòng hoài nghi trước những kết quả ít ỏi của lời Ngài giảng dạy. Như thế, có thể nói đây là dụ ngôn tuyệt vời của niềm hy vọng dành cho những con người đang thất vọng.
Dụ ngôn "Người Gieo Giống" cho chúng ta thấy rằng hành trình Đức Tin của chúng ta phải là một hành trình trong tin yêu hy vọng: dù huê lợi không đồng đều nhưng đất mầu mỡ vẫn có đó, dù hạt giống có mất mát nhưng mùa gặt vẫn bội thu, dù vẫn có đó những chướng ngại nhưng Nước Thiên Chúa cũng sẽ đạt đến viên mãn. "Cuộc đời chỉ là thời kỳ gieo hạt, mà mùa gặt không ở tại thế này" (Danh họa Van Gogh). Chính niềm hy vọng là nguồn sinh lực dồi dào cho cuộc lữ hành của chúng ta.
Nhiều khi chúng ta thấy đường đi phía trước thật mịt mờ. Hiện tại thì đầy khó khăn thử thách. Tương lai càng tối tăm dầy đặc. Chúng ta bị cám dỗ hoài nghi và mất hết niềm hy vọng. Lời Chúa hôm nay mở ra cho chúng ta một con đường đầy ánh sáng. Đau khổ khó khăn hiện tại chính là liều thuốc kích thích Niềm Tin tưởng chờ đợi Ơn Cứu Độ. Tin tưởng trong nỗ lực phấn đấu chứ không phải Niềm Tin lười biếng bạc nhược. Số phận người đi gieo có hẩm hiu bạc bẽo, nhưng mùa thu hoạch thì đầy hứa hẹn huy hoàng.
3. Lời sinh sôi thật bất ngờ
Từ những khởi đầu ít hứa hẹn, điều kỳ diệu của hạt giống rơi trên đất tốt đã có thể bù đắp gấp bội những thất bại mất mát. Tỉ lệ mất mát là 3/1, nhưng số thu lại không chỉ gấp ba mà là 30, 60 và thậm chí 100 lần. Thiên Chúa không ngừng mời gọi chúng ta vươn tới sự thiện hảo và trổ sinh ngày càng nhiều hoa trái hơn trong cuộc sống. Chỉ cần một câu Lời Chúa được tự do lớn lên trong lòng người ta thì cũng đủ để đời người hoàn toàn thay đổi.
Lịch sử Giáo hội và cuộc đời của nhiều vị thánh đã chứng minh điều này. Chỉ một câu: "Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời, rồi hãy đến theo tôi" (Mc 10, 21) đã làm thay đổi cả cuộc đời thánh Phanxicô Át-xi-di, đến nỗi một kẻ vô thần độc tài cũng phải nhìn nhận rằng chỉ cần mười người như ngài là có thể thay đổi cả thế giới. Rồi cuộc đời và thành quả truyền giáo của Thánh Phanxicô Xa-vi-ê cũng là hoa trái của câu Lời Chúa: "Được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì người ta nào có lợi gì?" (Mc 8, 36). Cũng thế, tâm hồn và cuộc đời của Mẹ Têrêsa thành Calcutta cũng chính là mảnh đất mầu mỡ đã để cho Lời Chúa lớn lên và sinh sôi đem lại mùa bội thu cho cả thế giới.
Thửa đất không thể sinh hoa trái nếu không có hạt giống. Cũng vậy, cuộc sống chúng ta sẽ cằn cỗi nếu không có Lời Chúa gieo trong tâm hồn. Thiên Chúa không chỉ nói với chúng ta qua Thánh Kinh, Ngài còn nói với chúng ta qua các biến cố của đời mình. Dụ ngôn "Người Gieo Giống" đòi chúng ta phải xét lại thái độ nghe Lời Chúa, đòi ta phải cải tạo lại mảnh đất lòng mình, và tăng thêm sinh lực giúp chúng ta sống Lời Chúa. Lời Thiên Chúa đã phán ra chỉ trở về khi đã đạt được kết quả. Bổn phận của chúng ta là phải nỗ lực làm cho hạt giống Lời Chúa mọc lên tươi tốt, đâm rễ sâu trong tâm hồn, phát sinh những công việc phù hợp với Đức Tin và đem lại những kết quả tốt đẹp.
33. Mảnh đất cuộc đời
(‘Như Thầy Đã Yêu’ – Thiên Phúc)
Tại Úc Châu có dân tộc Chimbu thuộc đảo Tân Ghinê. Hàng ngàn năm qua họ sống khép kín trong những bộ tộc riêng tại vùng núi hiểm trở. Các bộ tộc này không quan hệ với nhau họ sống hoàn toàn biệt lập. vì thế, chỉ có 3 tiệu người mà họ nói tới 700 ngôn ngữ.
Các vị thừa sai cố học, đọc một ngôn ngữ, và họ dựa vào đó mà dịch ra một thứ tiếng chung gọi là Esperanto, có nghĩa là niềm Hy vọng. Tiếng này được rút ra từ các nhóm ngôn ngữ khác nhau để làm nên một thổ ngữ Melanesien.
Khi chị nữ tu Mary Claude Đem Lời Chúa Đến rao giảng thì được họ đón nhận rất dễ dàng. Dường như lịch sử truyền khẩu của họ qua các thế hệ đều nói tới một Vị nào đó sẽ đến.
Chị Mary Claude kể: “Có một bà góa trẻ làm công cho địa điểm truyền giáo để kiếm tiền nuôi ba đứa con. Xảy ra có những người thuộc bọ lạc của bà đến xin tiền. Tôi khuyên chị nên tiết kiệm tiền để lo cho các con. Nhưng chị ấy đã nói một câu làm tôi bất ngờ: Chúa Giêsu dạy rằng ai cho người thân cận đang túng thiếu là cho chính Chúa, nên con phải có bổn phận giúp đỡ họ”.
***
“Cho đi” đã trở thành nét văn hóa truyền thông của người Chimbu và “chia sẻ” đã đi vào bản sắc dân tộc của họ. Được như thế, chính là nhờ Lời Chúa đã thấm nhập vào máu thịt của họ, vào từng suy nghĩ, hành vi của họ. Lời Chúa đã đưa họ thoát ra khỏi tình trạng biệt lập, và qui tụ họ lại thành một cộng đoàn yêu thương.
Tin mừng hôm nay đức Giêsu dùng dụ ngôn “Người gieo giống” để dạy chúng ta về giá trị của Lời Chúa, nhờ đó chúng ta biết lắng nghe, suy niệm và đem ra thực hành, để có thể trổ sinh nhiều bông hạt.
Tâm hồn chúng ta có thể ví như vệ đường: Nghe mà không hiểu hay cố tình không hiểu, vì Lời Chúa bắt ta phải thay đổi nếp sống.
Tâm hồn chúng ta có thể ví như đá sỏi: Nghe thì mau mắn đón nhận nhưng hời hợt nhất thời, khi thử thách đến thì cao bay xa chạy.
Tâm hồn chúng ta cũng có thể vì như gai góc: Những lo lắng sự đời với danh vọng của cải, là nỗi đam mê đã bóp nghẹt Lời Chúa.
Nhưng nếu tâm hồn chúng ta là mảnh đất tốt: Lắng nghe và thấu hiểu, tin cậy và khiêm tốn sống Lời Người, thì ngày mai phía trước sẽ là một vụ lúa bội thu.
Như thế, chỉ có thái độ thành tâm lắng nghe Lời Chúa mới là quan trọng, chỉ có sự mau mắm đáp trả Lời Người mới có giá trị. Ai nghĩ và hiểu được đều có mới thật có phúc. Đức Giêsu nói: “Còn anh em, mắt an hem thật có phúc vì được thấy, tai an hem thật có phúc, vì được nghe” (Mt 13,16). Nhưng nghe và hiểu được những đòi hỏi gắt gao của Lời Chúa, quả thật cũng không phải dễ dàng. Và càng khó khăn hơn khi ta dám can đảm thực thi Lời Người.
Đã hơn hai ngàn năm qua, hạt giống Lời Chúa không ngừng gieo vãi trên các tâm hồn thiện chí. Kinh Thánh đã được dịch ra 2123 ngôn ngữ. Kể từ khi cuốn sách in đầu tiền trên thế giới ra đời cách đây 550 năm, tì Kinh Thánh vẫn liên tiếp là cuốn sách được dịch ra thêm nhiều ngôn ngữ mới, kể cả các thổ ngữ của dân tộc Yami ở Đài Loan, thổ dân da đỏ ở Paraquay, Kenya v.v… chưa kể hàng triệu băng cassette, video và CD Rom không ngừng phát hành.
Chúng ta không thiếu các phương tiện thông tin hiện đại để gieo vãi Lời Chúa.
Chúng ta cũng chẳng thiếu các nhà truyền giáo nhiệt tâm rao giảng Lời Người.
Chúng ta chỉ thiếu nhưũng mảnh đất tốt, những tâm hồn ngoan ngùy để cho hạt giống Lời Chúa gieo xuống, nẩy mầm, vươn lên, và trổ bong: hạt được 30, hạt được 60 và hạt được 100.
Để chuẩn bị luống cầy cho những hạt giống tốt. Người Kitô hữu không chỉ thán phục khi nghe Lời Chúa, không chỉ xúc động khi đón nhận Lời Người. Nhưng phải can đảm và nhiệt âm thực thi Lời yêu thương của Người.
***
Lạy Chúa, xin giúp chúng con thoát ra khỏi vỏ trấu của ích kỷ, ươn hèn, để nẩy mầm vươn lên và trổ sinh thật nhiều bông hạt của nhân ái và yêu thương.
Xin chỉ cho chúng con biết dọn dẹp mảnh đất cuộc đời cho phì nhiêu màu mỡ, để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng trưởng đến mức viên mãn trong cuộc sống chúng con. Amen.
34. Bội thu
Đa số quí ông bà và anh chị em ở đây sống bằng nghề nông. Vì thế, hẳn chúng ta có nhiều kinh nghiệm trong việc cấy trồng.
Qua dụ ngôn “Người gieo giống”, Chúa Giêsu đã chia sẻ với chúng ta những hiểu biết và kinh ngiệm về việc đồng áng tại quê hương của Người. Tất nhiên, Người không có ý dạy ta về việc cấy trồng. Nhưng từ công việc cụ thể và quen thuộc ấy, Người dẫn chúng ta tới một lãnh vực khác, đó là lãnh vực tâm linh. Trong lãnh vực này, tâm hồn mỗi người được ví như một thửa đất có những điều kiện khác nhau để tiếp nhận hạt giống. Hạt giống được gieo vào tâm hồn mỗi người không phải là hạt lúa hay hạt cây ăn trái mà là Lời Chúa. Lời Chúa sẽ đem lại sự sống cho tâm hồn ta giống như hạt lúa, hạt gạo cho ta sự sống phần xác. Và hạt giống Lời Chúa được gieo vãi một cách rộng rãi không loại trừ một mảnh đất tâm hồn nào. Người đạo đức thánh thiện cũng như người khô khan nguội lạnh, người lương thiện cũng như người bất lương… tất cả đều được đón nhận hạt giống Lời Chúa. Rồi kinh nghiệm cho thấy rằng: việc cấy trồng không luôn dễ dàng bởi có nhiều kẻ thù phá hoại. Kẻ thù của nông dân và hạt giống là giông bão, là nắng hạn, là đá sỏi, là gai góc, là cỏ dại, là muông thú, là sâu rầy… Hạt giống Lời Chúa cũng có nhiều kẻ thù. Kẻ thù của Lời Chúa là não trạng hưởng thụ, là sự dửng dưng nguội lạnh, là sự lười biếng, ngại khó ngại khổ, là lòng tham và ích kỷ, là sự gian dối và lừa đảo, là những sự xấu, sự ác, là những tệ đoan xã hội… Tất cả những kẻ thù ấy sẽ bóp nghẹt hạt giống Lời Chúa làm cho hạt giống ấy không thể mọc lên và sinh hoa kết quả.
Chính từ những điều nói trên mà ta có thể tự đặt câu hỏi cho mình:
- Tâm hồn tôi thuộc loại đất nào? Đất có sỏi đá, đất đầy gai góc hay đất phì nhiêu? Và thế nào là đất có sỏi đá, đất đầy gai góc, đất phì nhiêu thì Chúa Giêsu đã giải thích cho chúng ta rồi. Chỉ khi xác định được mình thuộc loại đất nào ta mới có thể cải tạo, mới có thể dọn dẹp mảnh đất ấy để nó có thể đón nhận hạt giống Lời Chúa hầu hạt giống này cho ta một mùa gặt bội thu.
- Hạt giống Lời Chúa đã được gieo vãi trong mảnh đất tâm hồn của tôi, nhưng tôi có sẵn sàng tiếp nhận và chăm sóc cho hạt giống ấy không?
- Đứng trước những kẻ thù của hạt giống Lời Chúa tôi đã làm gì? Tôi có nỗ lực khử trừ hay để mặc nó hủy diệt hạt giống ấy?
Muốn có được một mùa gặt bội thu, người nông dân phải dọn ruộng, dọn đất, phải chăm sóc cho hạt giống nảy mầm và lớn lên, phải ngăn ngừa và đẩy lùi mọi yếu tố, mọi tác nhân gây thiệt hại cho hạt giống và cây trồng. Mùa gặt thiêng liêng cũng phải vậy thôi. Tuy nhiên, bên cạnh việc dọn dẹp và chăm sóc cho mảnh đất tâm hồn của riêng mình bằng cách cải tà qui chánh, bằng cách đổi mới đời sống, ta còn cần hợp tác với nhau để dọn dẹp và chăm sóc cho mảnh đất xã hội, nơi mà chúng ta đang sống, sao cho mảnh đất ấy mỗi ngày được sạch sẽ hơn, quang đãng hơn và mầu mỡ hơn. Lý do là môi trường xã hội có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của mỗi người. Dọn dẹp mảnh đất xã hội nghĩa là mỗi người cần dấn thân để xây dựng một nếp sống công bình, lành mạnh, thấm đẫm tình yêu thương. Đồng thời nỗ lực đẩy lui cái nghèo, cái khổ, cái dốt, khử trừ những tệ đoan xã hội như cờ bạc, say sưa, đĩ điếm và những hình thức mãi dâm trá hình… Đó chính là những cỏ dại, là gai góc, là sỏi đá, là những côn trùng có hại cho mùa màng thiêng liêng không chỉ của riêng ta mà còn của mọi người.
Nếu mỗi người biết dọn dẹp và chăm sóc cho mảnh đất tâm hồn của mình cũng như mảnh đất xã hội, thì Lời Chúa khi được gieo vào mới có hy vọng sinh hạt 30, hạt 60 và hạt 100 như lòng Chúa mong ước.
35. Gieo giống
Bài Tin mừng là dụ ngôn người gieo giống. Đây là dụ ngôn đầu tiên trong một loạt các dụ ngôn Chúa Giêsu giảng dạy. Trước hết, chúng ta có thể thắc mắc: Một kiểu gieo giống gì mà kỳ lạ thế? Tại sao không chỉ gieo trên đất tốt thôi mà lại gieo cả trên chỗ đá sỏi, đường đi và cả chỗ gai góc nữa? Thưa, gieo như thế, vì đây là cách làm ruộng của người dân miền thánh địa, xứ Palestin, họ có cách gieo giống khác với người Việt Nam chúng ta. Họ gieo trước rồi mới cày sau, nghĩa là họ dọn đất xong thì gieo hạt rồi cày lấp đi. Như vậy, người gieo giống trong dụ ngôn này đi gieo trong thửa ruộng chưa cày bừa gì cả.
Đàng khác, đất đai ở đây nhiều đá. Người Do thái thường nói khôi hài rằng: “Khi Thiên Chúa tạo dựng trời đất, có ba túi đá thì Chúa đã làm rớt hết hai túi xuống đất Palestin”. Vì thế, trong việc làm ruộng của dân Do thái, việc lượm đá là một việc làm quen thuộc cũng như việc làm cỏ. Đá lượm ra xếp thành bờ ngăn các thửa ruộng, do đó mép bờ cũng là nơi gai mọc. Ở những vùng đất thiếu nước, thì gai là loại cây dại phổ biến nhất, vì nó có sức chịu khô lâu nhất.
Biết qua khung cảnh địa dư và cách làm ruộng của người Do thái xưa kia như thế, chúng ta mới dễ hiểu bốn vị trí mà hạt giống có thể rơi xuống khi người nông dân gieo lúa: đất đá, lối đi, bụi gai và đất tốt. Muốn gieo cho kín ruộng, người nông dân phải chấp nhận có sự hao hụt, vì khi vung tay gieo hạt, một số nào đó sẽ rơi vào ba loại vị trí không kết quả.
Tuy nhiên, chúng ta nên nhớ, đây là một dụ ngôn của Chúa Giêsu, và chân lý về tôn giáo đang núp sau bức màn dụ ngôn đó. Điều Ngài thực sự muốn giảng dạy là kết quả của Lời Chúa: Hạt giống tượng trưng cho lời Thiên Chúa gieo vào lòng người, và tùy theo đất, tức là tùy theo lòng người, mà có những kết quả khác nhau, như Chúa đã giải thích rõ ràng. Vì thế, ở đây chúng ta không giải thích nữa mà chú ý đến một điều khác, đó là cử chỉ tung hạt thật quảng đại của người gieo giống, và đây chính là thái độ quảng đại của Thiên Chúa đối với chúng ta.
Quả thật, Thiên Chúa vô cùng quãng đại. Mặc dầu Chúa biết chúng ta sẽ lãng phí thật nhiều ân huệ của Ngài, nhưng Ngài vẫn cứ vung tay phân phát thật rộng rãi. Chúng ta thử tưởng tượng: Nếu Chúa tính toán để không uổng phí chút nào thì tình cảnh chúng ta sẽ ra sao? Nhưng sự quảng đại của Chúa trong việc ban phát mọi ơn lành cho chúng ta, làm cho chúng ta an tâm và tin tưởng vào tình yêu của Ngài. Ngài chẳng bao giờ rút lại tình yêu ấy, chỉ có chúng ta có thể từ chối hoặc bóp nghẹt, không cho tình yêu của Ngài triển nở trong chúng ta thôi.
Tình yêu được biểu lộ bằng quà tặng, bằng sự hiện diện, bằng hành động, và cuối cùng bằng sự trao cho nhau bản thân mình hoặc trong tình yêu hôn nhân, hoặc bằng sự tận hiến trong đời sống tu trì. Thiên Chúa bộc lộ tình yêu của Ngài bằng tất cả những cách thức đó, bằng quà tặng, bằng sự hiện diện và hành động không ngừng của Ngài trong mọi sự đối với mỗi người chúng ta. Ngài cho chúng ta cả chính mình Ngài, Ngài cho chúng ta cả người con một yêu dấu của Ngài. Và Con của Ngài đã cho chúng ta đến giọt máu cuối cùng đọng lại trong tim.
Khi yêu chúng ta Thiên Chúa muốn chúng ta đáp lại tình yêu của Ngài, bởi vì tình yêu mời gọi tình yêu và tình yêu đáp lại tình yêu. Khi chúng ta đã đón nhận tình yêu của Chúa như thế, thì trái tim chúng ta đập cùng nhịp với trái tim Ngài và cùng mở rộng như trái tim Ngài, và chúng ta sẽ rộng tay để cho tình yêu của Ngài đến với mọi người bằng cuộc sống của chúng ta, dù người ta có biết đón nhận hay không. Bởi vì có những hạt lúa sẽ chết đi, sẽ mất không, do rơi vào sỏi đá, do chim trời lượm mất, hay do gai góc đè chết. Nhưng số hạt rơi vào đất tốt vẫn nhiều hơn, và sẽ sinh hoa kết quả ba mươi, sáu mươi hay một trăm. Bởi vì mỗi hành động yêu thương được đón nhận sẽ làm nảy sinh những hành động yêu thương khác.
Nói rõ hơn, mỗi hành động yêu thương chúng ta làm cho người khác, là một hạt giống chúng ta gieo, không phải chỉ gieo vào chính người thụ hưởng, mà gieo vào cả những người chứng kiến nữa. hạt giống ấy sinh hoa kết trái khi chính người thụ hưởng hoặc người chứng kiến lại để cho tình thương thúc đẩy họ phục vụ người khác. Cứ thế mà tình yêu được nhân lên mãi, và cuộc sống này, xã hội này, thế giới này sẽ tốt đẹp hơn.
Tóm lại, những hạt giống yêu thương chúng ta gieo vào bất cứ nơi đâu, cho bất cứ người nào, cũng đều có hiệu quả tốt đẹp, chúng ta hãy bắt chước người gieo giống có thái độ hào phóng, quảng đại trong dụ ngôn, là Thiên Chúa, để tất cả những hạt giống chúng ta gieo vãi, là những cử chỉ, thái độ, việc làm yêu thương của chúng ta đều đâm bông kết trái, và như thế cuộc sống này, xã hội này, thế giới này càng ngày càng tốt đẹp hơn.
36. Dụ ngôn người gieo giống – Lm FX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Sau khi giới thiệu Đức Giêsu là Đấng có quyền giải thích Luật (ch. 5–7), rồi minh họa quyền đó bằng một vài truyện về phép lạ (ch. 8–9), tác giả Mátthêu đã cho thấy Đức Giêsu sai phái và ban "bài sai" cho các sứ giả của Nước Thiên Chúa (ch. 10). Nhưng chẳng mấy chốc vương quyền này đã bị đặt thành vấn đề, hoặc bởi chính Gioan Tẩy Giả, hoặc bởi các thành miền Galilê (ch. 11). Từ khước Đức Giêsu là Đấng thiết lập Triều Đại của Thiên Chúa, đây là đề tài của ch. 12: đề tài này đi tới đỉnh cao khi những người Pharisêu tố giác là Đức Giêsu bị quỷ ám (x. 12,22-24) và Đức Giêsu tuyên bố về Gia đình thật của Người (x. 12,46-50): Đức Giêsu đoạn tuyệt với môi trường tinh thần của Người. Trên nền tảng của bài tường thuật nói về sự đoạn tuyệt bi đát này với Do Thái giáo, ch. 13 đề cập tới "mầu nhiệm" Nước Thiên Chúa, giải thích làm thế nào mà Triều Đại Thiên Chúa lại vừa có thể được khai mạc trên mặt đất vừa bị loài người phản đối hoặc không được biết đến. Nối tiếp các bài tường thuật về các xung đột ở ch. 12, các dụ ngôn ở ch. 13 có hai ý nghĩa:
- đối với các môn đệ, các dụ ngôn này giải thích vì sao Nước Thiên Chúa, đã được Đức Giêsu khai mào, lại chưa được biểu lộ ra trong vinh quang, đặc biệt tại sao những bước đầu của Nước Thiên Chúa trong sứ vụ của Đức Giêsu lại thiếu vẻ huy hoàng và oai phong đến thế;
- đối với những người ở ngoài (c. 11), sau cuộc đoạn tuyệt được nói đến ở ch. 12, các dụ ngôn này trước tiên phải khẳng định rằng những gì họ có thể thấy từ bên ngoài về Nước Thiên Chúa, là được ban cho họ để xác nhận thái độ không tin của họ; và điều thuộc về Mầu nhiệm, nghĩa là thuộc về chương trình của Thiên Chúa đối với Vương quốc của Ngài.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Giới thiệu chương các dụ ngôn (13,1-3a);
2) Dụ ngôn Người gieo giống (13,3b-9);
3) Lý do khiến Đức Giêsu nói bằng dụ ngôn (13,10-17: hai phần nho a- cc. 11-12; b- cc. 13-17 theo cấu trúc chuyển hoán);
4) Giải thích dụ ngôn Người gieo giống (13,18-23).
3.- Vài điểm chú giải
- dụ ngôn (3): Trong hy ngữ, có đọng từ paraballô có nghĩa là "so sánh, đối chiếu". Kể một dụ ngôn (parabolê, hầu như tương đương với từ Híp-ri mâshâl), là kể một tình huống nhằm lưu ý về một thực tại ít được chú ý hơn, nhưng tác giả muốn các thính giả biết. Tác giả dụ ngôn không phải là một sử gia, nhưng là một nhà thần học và một nhà luân lý; ông có thể sáng tác ra các hoạt cảnh tùy theo sứ điệp hoặc bài học ông muốn truyền đạt. Một dụ ngôn không phải là một ẩn dụ: trong một ẩn dụ, mọi chi tiết đều có ý nghĩa, còn trong một dụ ngôn, người ta chỉ nhắm đến sứ điệp tổng quát (Tuy nhiên, dụ ngôn Người gieo giống được giải thích ra lại có vẻ là một ẩn dụ). Trong dụ ngôn, cần đặc biệt ghi nhận các nét "khác thường" thì mới hiểu được bài học căn bản.
- có những hạt rơi xuống vệ đường (4): Hẳn là người nông phu có điên thì mới gieo hạt giống lên mặt đường đã chai lì, hoăc lên vùng sỏi đá hay vào các bụi gai (x. cc. 5.7)! Tuy nhiên, theo J. Jeremias, tập tục trồng lúa của Paléttina là gieo giống trước khi cày xới đất cho hạt giống lọt xuống lớp đất sâu. Thật ra lối giải thích này tuy hấp dẫn nhưng không phù hợp với những gì đã xảy ra thật sự trong bài dụ ngôn. Vì vậy thay vì ra sức bảo vệ tính xác thực của dụ ngôn, ta nên lưu ý đến khía cạnh "khác thường" của lối xử sự của người gieo giống.
- hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục (8): Có những nhà chú giải như Jeremias cho rằng dụ ngôn này là một bài khuyến khích cổ võ tin vào thành công cuối cùng. Tuy nhiên, có một số khó khăn: (1) Một sử gia kinh tế (K.D. White) cho biết rằng năng suất 1 gấp 100, thậm chí 1 gấp 400, không phải là lạ lùng, chẳng hạn nếu trồng lúa trong vùng Giléad, gần Gađara. (2) Nếu Mt đã muốn nêu bật mùa màng bội thu, hẳn là ngài đã dùng chuỗi số đi lên như Mc (30, 60, 100) thay vì chuỗi số đi xuống (100, 60, 30), bởi vì như thế sẽ làm yếu đi bài học về tính lạc quan. (3) Trong năm câu của bài dụ ngôn, có tới bốn câu mô tả sự thất bại của vụ gieo (và trong phần giải thích, cũng có một tỷ lệ như thế). (4) Nhấn mạnh đến các thất bại của người gieo giống dường như lại phù hợp hơn nhiều với ngữ cảnh tổng quát của các chương này trong TM Mt, vì các ch. 11–12 mô tả sức chống đối ngày một gia tăng để đáp lại những hành vi quyền lực trong các ch. 8–9.
Vậy không nhất thiết phải loại bỏ lối giải thích "lạc quan" (Jeremias), bởi vì quả thất Đấng Mêsia sẽ vẫn chiến thắng. Nhưng bởi vì những người đương thời với Đức Giêsu vẫn đương nhiên liên kết Đấng Mêsia với sự thành công, có lẽ Đức Giêsu không muốn nhấn mạnh đến phương diện này đâu. Điều làm nên "mầu nhiệm Nước Trời", mầu nhiệm mà chỉ một nhóm giới hạn "những kẻ bé mọn" mới có thể hiểu được, đó là cuối cùng Đấng Mêsia chỉ có thể thành công xuyên qua thất bại.
Tuy nhiên, viễn tượng của phần giải thích lại theo hướng của cuộc phán xét: Lúc đầu, bài dụ ngôn nhắm nhiều hơn đến các loại đất khác nhau và vụ thu hoạch cuối cùng, nhưng sang phần giải thích, Mt đã thay đổi Mc mà đặt cho dụ ngôn nhan đề "Người gieo giống" (Mt 13,18). Thật ra người gieo giống chỉ đóng một vai trò nhỏ bé trong truyện, vì bài đã trở thành dụ ngôn về "Lời rao giảng Nước Trời". Tuy nhiên, tác giả Mt làm như thế là để sau này ngài có thể đồng hóa người gieo giống với Đức Kitô (x. 13,37). Bởi vì đối với ngài, Đức Giêsu tháp tùng Hội Thánh qua dòng lịch sử (x. 28,18). Người chính là Đấng đang hiện diện và tích cực hoạt động trong công việc gieo rắc Lời (x. 13,37). Người tự đồng hóa với các thừa sai của Người (x. 10,40). Chính Người xây dựng Hội Thánh (x. 16,18), tích cực hỗ trợ Hội Thánh trong việc duy trì kỷ luật (x. 18,18-20). Và cuối cùng Người sẽ là vị Thẩm phán tách các môn đệ trung thành khỏi những đồ đệ bất trung (x. 13,41-43). Quả thật, Mt đã muốn đọc tất cả các dụ ngôn của ch. 13 này dưới ánh sáng của cuộc phán xét cuối cùng. Vì thế, tác giả nhấn mạnh đến trách nhiệm cá nhân là phải sinh "hoa quả", tức là các hành vi tốt lành, và ngài đã đảo lộn thứ tự của Mc là 30-60-100 thành 100-60-30 cho phù hợp với các truyện của ngài về phán xét: bắt đầu với việc ca ngợi những người thu hoạch nhiều hoa quả nhất, để đi đến chỗ phê phán những người không sinh hoa quả (x. 25,14-30). Vậy một truyện về sức mạnh của Lời Chúa đã trở thành truyện về phán xét.
- các mầu nhiệm Nước Trời (11): Công thức này được lấy từ nền văn chương khải huyền. Công thức nhắc lại những bí mật tối hậu của Thiên Chúa, cụ thể là kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa tập trung nơi các hoạt động cứu chữa của Đức Kitô.
- Hễ ai nghe lời ... đó là kẻ đã được gieo (19): Dụ ngôn "Người gieo giống" đã được chuyển thành dụ ngôn "Lời rao giảng về Nước Trời". Trọng tâm đã chuyển từ một giáo huấn về mầu nhiệm Đấng Mêsia phải thất bại về mặt nhân loại sang việc lưu ý, khuyến khích, là hãy sẵn lòng đón nhận sứ điệp Tin Mừng. Dù vậy, giữa hai bài dụ ngôn và phần giải thích không có mâu thuẫn, mà chỉ có khác biệt về điểm nhấn mạnh thôi. Mt đã sửa nhẹ khi viết lại Mc 4,14 để tránh sự đụng chạm trực tiếp giữa hạt giống là lời (Mc 4,14) và hạt giống là người nghe (x. Mc 4,16.18.20), nhưng cũng không thành công bao nhiêu, vì ở Mt 13,19b, "điều đã được gieo trong lòng" hẳn là lời, thì ở cc. 20tt, "điều (CGKPV: "kẻ") được gieo" là "kẻ nghe". Ở c. 19, Mt lại xác định lời được gieo là "Lời rao giảng về Nước Trời".
Rõ ràng Mt nhấn mạnh rằng người môn đệ là người hiểu lời: ở c. 19, ngài xác định rằng vấn đề với loại hạt giống/đất thứ nhất là thiếu hiểu biết, và đến c. 23, ngài xác định rằng hạt giống tốt/đất tốt thì nghe và hiểu. Đây là hành văn đóng khung (x. thêm 13,13.15.51). Và Mt đã thay đổi chủ từ số phức của Mc (x. Mc 4,16tt) thành số đơn (x. Mt 13,20tt) để nhấn mạnh trách nhiệm cá nhân. Câu 13,23 tóm bằng cách mô tả dung mạo của hạt giống tốt/đất tốt với các cặp động từ bổ nghĩa cho nhau: nghe và hiểu, sinh hoa kết quả và làm ra (so với Mc 4,20).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Giới thiệu chương các dụ ngôn (1-3a)
Toàn chương 13 của TM I có một cụm từ dẫn nhập ngắn về thời gian, "hôm ấy" (en tê hêmera ekeinê) nhằm tạo một liên kết với cảnh trước, nhưng lại đưa Đức Giêsu sang một cảnh mới. Những người nghe, là "dân chúng", lại được nhắc lại. Đức Giêsu ra khỏi "nhà" và đi đến bờ hồ (c. 1). Đám đông lại kéo đến với Người (c. 2). Đây là lần duy nhất tác giả ghi nhận Đức Giêsu "rời bỏ nhà". Chi tiết lạ, bởi vì ngay khi Người chuyển từ Nadarét đến Caphácnaum, tác giả cũng không hề lưu ý. Rất có thể chi tiết này đã có sẵn trong nguồn Mt dùng và là một từ để mở vào một hành trình truyền giáo. Nhưng cũng rất có thể là trong ý Mt, là tác giả quen loại bỏ các chi tiết miêu tả, từ ngữ ấy có một ý nghĩa ngôn sứ và mục vụ. Sau bài Diễn từ truyền giáo, từ này nhắc nhớ các đòi hỏi của nhiệm vụ truyền giáo. Tất cả những ai đã được mời bước theo Đức Giêsu (4,18-22) và đã được sai phái đi nhân danh Người, đều phải chấp nhận "bỏ nhà" (10,35-36; 19,21).
Nới chốn là "Biển Hồ" (Ghennêsarét): đây là nơi xảy ra việc kêu gọi các môn đệ đầu tiên (4,18) và cũng là nơi mà nhóm các môn đệ có một kinh nghiệm đầu về Đức Giêsu (8,24-27). Đức Giêsu lên một "chiếc thuyền", mà ta có thể coi là biểu tượng của Hội Thánh (x. 8,23), nhưng trong TM Mt, con thuyền hàm ý một sự xa cách nào đó với các đám đông (x. 14,13; 15,39). Cũng như khi bắt đầu Bài Giảng trên núi, ở đây Người cũng "ngồi" (2 lần; x. 5,1; 7,29; 15,29; 23,2; 24,3); đây là dấu chứng tỏ tư cách của một vị thầy. Đám đông thì "đứng": đi theo ngữ cảnh của TM I, có lẽ ta không nghĩ tới tư thế đứng trong một đền thờ hay một hội đường, mà là tư thế của gia đình Đức Giêsu "đứng bên ngoài" (12,46-47). Chương 13 sẽ cho thấy làm thế nào dân chúng chiến chỗ của những người đứng bên ngoài.
Đức Giêsu bắt đầu nói với dân chúng. Tác giả Mt không dùng từ "didaskeô, "dạy" của TM Mc, mà dùng động từ "nói" (laleô, "to speak"), bởi vì ngài thường dùng động từ "dạy" cho việc giải nghĩa Lề Luật và công bố cung cách sống luân lý, thường ở trong hội đường (4,23; 5,2; 7,29; 9,35; 11,1; 13,54; 21,23; 26,55; 28,20). Bài diễn từ sẽ tập trung vào mầu nhiệm Nước Trời (c. 11), nhưng được diễn tả bằng một ngôn ngữ tiêu biểu, bằng "dụ ngôn" (x. cc. 3.10.13). Chi tiết này tương ứng với cc. 10,13,34 và 53.
* Dụ ngôn Người gieo giống (3b-9)
Đọc bài dụ ngôn, ta ghi nhận: Ta không thấy nói là đất mầu mỡ hay cằn cỗi, bùn lầy hay khô cứng, bằng phẳng hay mấp mô. Ta cũng không biết là vụ gieo giống được thực hiện vào mùa thu hay đầu mùa đông. Cũng khôn có một lời nào về khí hậu. Như vậy, chỉ những điều được nói tới trong bài mới quan trọng thôi. Nhân vật chính là "người gieo giống" (ho speirôn) mà ta có thể thêm vào tính từ "siêu đẳng". Ông đi vào sân khấu một mình; ông làm một công việc lâu giờ và mệt nhọc, mà không hé một lời, hoặc để than trách hoặc để nói lên sự thỏa mãn. Ở đây, chỉ có các sự kiện. Ta có thể gọi đây là một "hành động biểu tượng" được minh họa bởi một nhà bình luận giấu mặt.
Có nhiều yếu tố của bài dụ ngôn được nêu ra: hành vi gieo giống, hạt giống, các loại đất, chim trời, ...; nhưng có thể nói độc giả được mời chú ý tối đa đến người gieo giống, công việc của ông, sự cần mẫn, sự can đảm, sự cương quyết của ông, cũng như các kết quả. Ông là một nông dân lạc quan, tin tưởng rằng cả "các con đường" khô cứng, những nơi sỏi đá, các bụi gai cũng có thể làm cho hạt giống sinh hoa kết quả. Không phải là ông thiếu kinh nghiệm, vì bất cứ người nào ít kinh nghiệm nhất cũng hiểu rằng hạt giống không thể tăng trưởng trên những mảnh đất loại đó, nhưng ông là người cải tổ các kỹ thuât truyền thống.
Thật ra công việc gieo giống chỉ là khởi điểm để đưa tới điểm khác. Tác giả đang nghĩ tới hoạt động của một người thợ khác, là nhà rao giảng Tin Mừng, hay chính xác hơn, đó là chính Đức Kitô. Chính Người đã cách mạng các tiêu chuẩn của việc giảng dạy quen thuộc (của người Pharisêu) khi chuyển sứ điệp của Thiên Chúa cho mọi hạng người, không phải chỉ cho những người "tốt", nhưng cho mọi người. Sứ mạng của Người không được bù đắp bởi những thành công tức thời (trái lại, thập giá đang chờ Người!), nhưng Người không đầu hàng trước các thất bại, Người tiếp tục đi tới và gieo vãi. Ông đã tưởng rằng luôn có trước mặt một đám đất tốt, nếu không, ông đã chẳng phí phạm hạt giống. Thế nhưng cũng một loại hạt giống lại đạt được bốn loại kết quả: những nỗ lực đầu tiên đã thất bại, chỉ những nỗ lực cuối cùng mới có kết quả. Đức Giêsu cũng đã ở trong hoàn cảnh tương tự. Người đã thường xuyên ra đi, ngay từ buổi đầu, để gieo Lời trên khắp các nẻo đường Paléttina, nhưng mặc dù lao nhọc, Người không thâu đạt được các kết quả tốt. Sự hăng hái ban đầu nay đã tan biến nơi các thính giả và nhiều người đã rút lui, không bước theo Người nữa. Dụ ngôn đang đương đầu với phương diện chướng kỳ nhất của sứ vụ Nước Trời: dường như phần lớn công việc tông đồ, giống như phần lớn hạt giống, đã bị phí đi. Nhưng Đức Giêsu không nản chí, Người không nhìn tới thời giờ và sự mệt nhọc; Người không khựng lại trước các thất bại; Người đã tiếp xúc gặp gỡ (x. 11,19), để cho thấy rằng cả mảnh đất khô chồi nhất vẫn có thể trở thành đất "tốt".
Trong khi biện minh cho các kết quả của công việc của Đức Giêsu, Đấng Mêsia, dụ ngôn cũng trả lời cho các đòi hỏi biện giáo và thần học của cộng đoàn tiên khởi. Nhiệm cuộc cứu độ mới này phải chấp nhận nguyên tắc là thành công chỉ đến xuyên qua thất bại. Vậy có thể tóm tắt ý nghĩa dụ ngôn như sau: Cũng y như người gieo giống đã làm công việc của mình xuyên qua vô số khó khăn thì mới đạt thành công, Nước Thiên Chúa được Đức Giêsu khai mào sẽ chỉ được thiết lập xuyên qua vô số những thất bại đáng kể. Và đó lại chính là điều mà cả người Pharisêu lẫn các đám dông không thể "hiểu" được. Nhưng thành công được nêu ra trong bài dụ ngôn cũng là một lời khuyến cáo: có hạt được gấp trăm, nhưng có hạt chỉ được sáu chục, và có hạt lại chỉ được ba chục mà thôi. Kết quả có đó vẫn không được làm cho người môn đệ rơi vào tình trạng lạc quan ngây thơ mà không tiếp tục cố gắng nữa.
* Lý do khiến Đức Giêsu nói bằng dụ ngôn (10-17)
Đức Giêsu vẫn còn ở trên thuyền (c. 2), nhưng các môn đệ vẫn cứ đến gần Người mà hỏi, mà cho đến nay ta cũng chẳng thấy các ông đâu cả! Các ông trao đổi với Người một câu chuyện (x. cc. 10.18.241.31) kéo dài khá lâu trong khi đám đông thinh lặng chứng kiến (c. 36). Đây những chỗ thiếu mạch lạc do công việc soạn thảo.
Giảng dạy bằng dụ ngôn là một cách mới, do đó, cần biện minh. Ở đây tác giả thu gom lại các câu thuộc nhiều xuất xứ có tầm mức khác nhau dường như không đáp ứng mục tiêu chờ đợi. Chúng giúp "giải thích" vì sao các môn đệ đón nhận, còn người Do-thái thì không đón nhận lời rao giảng của Đức Giêsu. Điều này, chúng ta đã thấy ở 11,19.25-26. Ở tại nguồn, có sự quảng đại vô biên của Thiên Chúa, Đấng tùy nghi "cho" (didômi) những người này mà không cho những người kia được hiểu các mầu nhiệm Nước Trời (c. 11). Theo văn mạch, "anh em" là các môn đệ, còn "họ" là dân chúng (c. 2). Sự cứng tin của người Do-thái, Hội Thánh sơ khai thấy là không hiểu được, nên đã gán thái độ tiêu cực này cho một hành động (trừng phạt) của Thiên Chúa. Trước đó, Đức Giêsu đã giải thích đây là ý muốn của Thiên Chúa (x. 11,25-27). Lịch sử được giải thích, hoặc đúng hơn, được bẻ lại theo thần học, nhưng làm như thế là gây ra những trục trặc trầm trọng hơn những trục trặc người ta muốn giải quyết.
Lời khẳng định hàm hồ ở c. 12 được làm sáng tỏ bởi một lời khác còn tăm tối hơn. Lời này minh họa sự tự do của Thiên Chúa nhưng che mất sự công minh của Người. Động từ "ban/cho" nêu bật sự quảng đại của Đấng Tối Cao, nhưng chỉ cho một số người, là những người đã được ưu đãi, khiến cho họ thêm dồi dào, còn những kẻ không có gì, thì còn bị tước mất cả những gì họ có thể có (c. 13).
Sau những lời "tâm sự" này, Đức Giêsu giải thích lý do dùng ngôn ngữ dụ ngôn bằng cách nại đến một bản văn của Isaia (6,9-10). Đây không phải là lần đầu tiên trong lịch sử cứu độ, người ta thấy những thất bại như Đức Giêsu. Dường như đây là thân phận của các ngôn sứ. Nhưng trước khi trích dẫn đoạn dài (cc. 14b-15), Mt tóm tắt đoạn văn một cách rõ ràng (c. 13b). Đức Giêsu đã chọn ngôn ngữ ẩn dụ, một kiểu nói thường thấy nơi các ngôn sứ, "bởi vì" (hoti nguyên nhân) các người đồng hương đã không muốn "thấy và nghe" những gì Người đã loan báo và đề nghị cho họ bằng ngôn ngữ thông thường. Đây là một sự thay đổi trong chiến thuật do sự cứng cỏi ương bướng của các thính giả, chứ không phải do một phương pháp mục vụ mới. Ai đã từ chối đề nghị đầu tiên, thì sẽ nhận được một đề nghị khác không phải dễ hơn, nhưng tối tăm hơn, che phủ hơn, huyền bí hơn. Sự từ khước của con người là nguyên do khiến Thiên Chúa, Đức Giêsu co lại. Mc còn cứng rắn hơn nữa vì ngài gán cho Đấng Cứu thế ý định trừng phạt: "để [hina mục đích] họ có nhìn mãi nhìn hoài cũng chẳng thấy" (Mc 4,11)2.
Mt rút bản văn Is 6,9-10 từ Bản dịch LXX; so với bản Híp-ri, trong Bản dịch Hy Lạp này, mọi nét phi lý về thần học đã bị loại đi. Vị ngôn sứ tiên liệu sứ mạng của ông sẽ thất bại ngay bước đầu, do các thính giả cứng lòng. Ông vẫn mạnh mẽ can đảm làm việc để mong hoán cải toàn thể Israel. Như thế, nếu công việc của ông không đạt được kết quả mong ước, lỗi thuộc về con cái Israel. Đức Giêsu cũng thấy sứ mạng của Người đang đi vào con đường đó. Nhưng khi họ từ chối Đấng Mêsia, họ đã làm cho lời sấm ngôn nên trọn (c. 14). Ngôn sứ Isaia dĩ nhiên không nghĩ tới lời giảng của Đức Giêsu, nhưng điều này không ngăn cản Mt thấy rằng vị ngôn sứ cũng đã báo trước về số phận của lời rao giảng này.
Tác giả đang "cay cú" với hội đường, nhưng ngài còn tỏ ra bận tâm với cộng đoàn hơn (cc. 16-17). Mối phúc của các môn đệ đã được công bố ngay trong phần mở của Bài Giảng trên núi (5,12). Bây giờ Mt cảm thấy cần nhắc lại để nâng đỡ đức tin vẫn còn yếu ớt của các tín hữu. Mối phúc này hệ tại việc lắng nghe Lời Chúa, chấp nhận bản thân và công việc của Đức Kitô. Đây chính là vinh dự họ có, còn lớn lao hơn vinh sự của các vị Tổ phụ Cựu Ước. Bằng móc nối này, Mt cũng cho thấy cộng đoàn Do Thái – Kitô hữu này mới là sự nối dài của Israel chân chính (chứ không phải là hội đường).
* Giải thích dụ ngôn Người gieo giống (18-23)
Phần "giải thích" lại tách khỏi chính bài dụ ngôn (cc. 3-9) về mặt nội dung và hình thức. Câu truyện đầu được thêm vào nhiều chi tiết mới. Các chi tiết mô tả là hạt giống, gai góc, chim trời, ... đã có một ý nghĩa biểu tượng mà trước đây không có. Dụ ngôn đã biến thành hầu như một ẩn dụ và đã thay đổi cả chủ đề. Bài gốc là một loan báo về những chiến thắng tương lai của Nước thiên sai; đề tài của "phần giải thích" lại nhìn đến số phận của lời nơi mỗi thính giả. "Dụ ngôn Người gieo giống" đã chuyển thành dụ ngôn về "Lời rao giảng Nước Trời" (c. 19); từ ngữ logos được dùng 5 lần, trong khi không xuất hiện trong phần đầu. Các dạng đất khác nhau không tượng trưng các thính giả nghe lời Đức Giêsu rao giảng, nhưng các loại Kitô hữu khác nhau, các tâm trạng khác nhau họ có khi nghe sứ điệp Tin Mừng. Người giải thích đã quên mất cử tọa Do Thái đang được Đức Giêsu ngỏ lời với, để nói với một cử tọa đã và đang trải nghiệm những khó khăn mà đức tin Kitô giáo gặp phải. Trong bản văn đầu, tác giả nhắm vào sự tương phản và hướng về bài học chung kết phát xuất từ kết quả phong phú do đất tốt; ngược lại, phần giải thích quan tâm đến cả các mưu toan không thành công. Trong bản văn này, các nguyên do ngăn cản hoặc làm chậm sự phát triển của hạt giống là gian nan (thlipsis) và ngược đãi (diôgmos); các nghịch cảnh này liên hệ đến hoàn cảnh của Hội Thánh sơ khai (tương tự trong Lc 8,15: hypomonê hiểu là "sự kiên trì" khi gặp các nguy hiểm đối với đức tin).
Bản văn mới này cho thấy rằng mọi sự tùy thuộc thiện chí của mỗi một tín hữu. Tác giả đã thay từ ngữ số phức ha men, "có những [hạt]", alla, "có những [hạt] khác" (cc. 4-8) bằng từ số đơn ("ai nghe": cc. 20.22.23). Lời đến tai mọi người (đám đông và các môn đệ) nhưng không phải mọi người đều quan tâm đến và vâng lời như nhau ("nghe" theo nghĩa Kinh Thánh là "hiểu", tức là gắn bó về trí thức, và "vâng lời", tức gắn bó bằng đời sống. Đây chính là thần học kinh Shema (Đnl 6,4-5) được vào cho các Kitô hữu.
+ Kết luận
Bài Giảng trên núi và bài Diễn từ về truyền giáo nhắm trực tiếp đến chính tư cách môn đệ; còn các dụ ngôn lại nhắm đến cách thi hành sứ mạng truyền giáo, hoàn cảnh của Hội Thánh. Vào lúc tác giả viết, Hội Thánh đã trở nên vững vàng ở khắp nơi. Dù vậy, sự cứng lòng của người Do Thái vẫn là một cái gai làm cho các tín hữu phải đau đớn (cc. 10-17). Cần phải nêu bật tất cả các cố gắng của Đức Giêsu nhằm đưa sứ điệp Phúc Âm đến cho người đồng hương của Người.
Tuy nhiên, sứ điệp cũng được gửi đến cho các môn đệ của Đức Giêsu. Họ phải thấy mình vừa được nhắc nhở vừa được trấn an: được nhắc nhở hãy trở nên đất tốt và sinh hoa quả tối đa; được trấn an do biết Đức Giêsu hoàn toàn làm chủ tình thế: Người có gặp thất bại, nhưng các thất bại này được tiên liệu trong chương trình của Thiên Chúa.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Quả thật, thành công đến từ thất bại. Thất bại, như tấn bi kịch thập giá sẽ cho thấy, là đảm bảo cho thành công. Do đó, bài dụ ngôn là một sứ điệp chiến thắng gửi đến cho các tông đồ và các tín hữu, là một lời khuyến khích và trấn an. Hiểu như thế, bài dụ ngôn là một lời loan báo mang tính ngôn sứ báo trước các chiến thắng của Đức Kitô và của Hội Thánh.
2. Hoạt động của Đức Giêsu chỉ đâm chồi và kết trái tại nơi nào có đất tốt, nghĩa là tại nơi nào Người gặp được những tư thế sẵn sàng. Như thế, người tín hữu phải trở thành "đất tốt" nếu muốn làm cho hạt giống thần linh nhanh chóng đâm chồi và kết quả nơi mình và nơi người khác. Phải mở trái tim ra, phải san bằng con đường mà đón sứ điệp Kitô giáo. Bài dụ ngôn đang muốn lay động tình trạng tê cóng, lưỡng lự hoạc cứng cỏi của các thính giả.
3. Trong Bài giảng trên núi, Đức Giêsu đã cho biết rằng người môn đệ không chỉ được đánh giá theo những gì đã biết, nhưng còn theo những gì đã làm (7,13-27). Tiêu chuẩn này được nhắc lại trong phần giải thích dụ ngôn. Không phải chỉ cần nghe lời giảng là đã được cứu, nhưng còn phải diễn tả ra bằng những việc tốt lành, tức là làm cho lời rao giảng đã nghe sinh hoa kết quả. Tiêu chuẩn này đã được nhắc lại nhiều lần (x. 3,8.10; 7,17-19; 12,33). Các quả chứng tỏ phẩm chất của cây; không có hoa quả, mọi sự chỉ là chuyện bì phu.
4. Đời sống Kitô hữu sẽ gặp vô số nguy hiểm (Satan, gian nan, thử thách, bách hại, các lo lắng sự đời, và bả vinh hoa phú quý). Cần phải có sức mạnh và sự can đảm mà thắng vượt chúng. Bài dụ ngôn về Lời là bài dụ ngôn về đức tin: bài này minh họa tấn bi kịch của người phải hằng ngày chiến đấu để giữ vững sự ưng thuận đối với sứ điệp của Đức Kitô.
37. Suy niệm của Noel Quesson
Trong ba Chúa nhật của mùa hè đang đến, chúng ta sẽ đọc bảy bài dụ ngôn mà Thánh Matthêu đã tập họp trong bài giảng dài thứ ba của Đức Giêsu. Giờ đây, Đức Giêsu đi qua một khúc quanh trong sứ vụ của Người: Người đụng phải sự thù ghét công khai của các thủ lãnh tôn giáo. Họ quyết định loại trừ Người (Mt 12,14)... Những đám đông, sau nhiệt tình dễ dàng lúc ban đầu, đã thất vọng bởi vì Đấng Mêsia ấy từ chối bước qua hành động chính trị.
Hôm ấy, Đức Giêsu từ trong nhà đi ra ngồi ở ven biển hồ. Dân chúng tụ họp bên Người rất đông, nên Người phải xuống thuyền mà ngồi, còn toàn thể đám đông thì đứng trên bờ. Người dùng dụ ngôn mà nói với họ nhiều điều.
"Dụ ngôn" dịch từ "mâchâl" của tiếng Do Thái, có nghĩa là "một chuyện kể tượng trưng dùng để làm cho người ta khám phá một ý nghĩa ẩn giấu": Thế giới tạo vật đầy những biểu tượng. Khi quan sát những thực tại tầm thường của cuộc sống hàng ngày. Đức Giêsu nhìn qua chúng, những thực tại thánh thiêng. Ví dụ như công việc của những nông dân làm Người nghĩ đến một sự việc khác... Các bạn thử đoán việc gì nào?
Người nói: "Kìa người gieo giống đi ra gieo giống. Trong khi người ấy gieo, thì có những hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất. Có những hạt rơi trên sỏi đá chỗ đất không có nhiều; nó mọc ngay vì đất không sâu nhưng khi nắng lên, nó liền bị cháy, và vì thiếu rễ nên bị chết khô. Có những hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm nó chết nghẹt...”
Những hạt giống tội nghiệp! Và người gieo hạt đáng thương! Tại sao Đức Giêsu kể cho chúng ta nghe một loạt những thất bại ấy? Cho đến bây giờ công việc của người gieo hạt hoàn toàn vô ích.
Chúng ta cũng thế, thường trong những thực tế nào đó của cuộc sống, chúng ta có ấn tượng đã thất bại thảm hại... ngay từ đầu, và sau một thời gian ngắn nẩy mầm hoặc sau một thời dài hơn thành công. Tất cả những thất bại này, Đức Giêsu đã gặp. Trong lúc kể lại dụ ngôn này, Người nghĩ đến những thất bại trong việc tông đồ của chính mình. Không che giấu mọi sự thất bại đó Đức Giêsu phân tích chúng một cách sáng suốt...
Nhưng Người muốn đi tới đâu? Người gieo hạt phải chăng đã mất thời gian vô ích?
Có những hạt lại rơi nhằm đất tốt, nên sinh hoa, kết quả: hạt dược gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục. Ai có tai thì nghe.
Vậy đây là một bài học phi thường về lòng trông cậy mà Đức Giêsu đem lại cho chúng ta. Khi bạn nhìn đời sống đáng thương của bạn, khi bạn nhìn Giáo Hội, hoặc thế giới bạn chớ ở lại trong những nhận định bi quan và nản chí: bất chấp mọi thất bại, một mùa gặt sẽ đến. Các bậc cha mẹ gặp nhiều khó khăn với con cái mình, xin các ông bà chớ từ chối gieo hạt. Giới trẻ chưa thành công trong công việc của mình, các bạn hãy lắng nghe sứ điệp lạc quan và thực tế của Đức Giêsu. Mặc dù sứ điệp đã được công bố hai ngàn năm nay, nó vẫn giữ được mọi sự mới mẻ hợp thời đại. Thế giới ngày nay luôn cần đến sứ điệp ấy.
Lạy Chúa, xin hãy dạy chúng con biết phân biệt các hạt giống nào... hứa hẹn những mùa gặt... bất chấp mọi vẻ bề ngoài trái ngược.
Các môn đệ đến gần hỏi Đức Giêsu rằng: “Sao Thầy lại dùng dụ ngôn mà nói với họ, Người đáp: "Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không Ai đã có thì được cho thêm, và sẽ có dư thừa! còn ai không có, thì ngay cái đang có cũng sẽ bị lấy mất. Bởi thế nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không nhìn, nghe mà không nghe không hiểu.
Không đi vào việc giải thích chuyên môn đoạn văn khó hiểu này, ít nhất chúng ta hãy nhận ra chân lý rất hiện đại của nhận định ấy... Có những thời kỳ người ta có sự nhất trí trong đức tin và toàn thể những người được dạy giáo lý xem ra đều gắn đức tin ấy với đức tin được giảng dạy. Ngày nay, chúng ta tìm thấy tình hình mà Đức Giêsu gợi ra: người ta có thể "tiếp nhận" hoặc "từ khước” lời đề nghị của đức tin. Đức Giêsu phân biệt rõ ràng hai loại thính giả: những người nhìn, nghe và hiểu... và những người không nhìn, không nghe. Đức Giêsu đã không chọn lựa để Người trở nên khó hiểu? Người không nói: "bằng dụ ngôn" để che giấu một số chân lý cho lột số người.
Thật ra, Đức Giêsu không thể nói về Thiên Chúa cách nào khác với dụ ngôn. Sự thuyết giáo của Người mạc khải những "mầu nhiệm” vượt quá con người một cách vô cùng tận, và một phần lớn vẫn còn bị "che giấu”... Chính trong phần không rõ ràng này mà tự do của con người được kêu gọi. Người ta không “tự do" trước điều gì đã hiển nhiên. Mầu nhiệm của Nước Thiên Chúa, trong tất cả sự phong phú của nó, không phải là một chân lý được áp đặt. Đó là một bí mật chỉ được bày tỏ cho những tấm lòng sẵn sàng lắng nghe. Một dụ ngôn không rõ ràng... Phải tìm kiếm... Phải ước muốn.
Thế là đối với họ đã ứng nghiệm lời sấm của ngôn sứ Isaia: "Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy. Và lòng dân này đã ra đần độn, chúng đã nặng tai, còn mắt thì chúng nhắm lại, kẻo mắt chúng thấy, tai chúng nghe và lòng hiểu được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành”.
Chúng ta cảm thấy sự đau khổ của Đức Giêsu nhiều dường nào trước những sự từ khước ấy! Người đã đến để đem lại cho họ ánh sáng, để mở mắt họ ra... để chữa cho họ bệnh mù lòa. Nhưng Người không thể cũng không muốn “ép buộc” họ. Người tôn trọng tự do của họ.
Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc vì được nghe. Vậy anh em hãy nghe dụ ngôn người gieo giống.
Vâng, Lạy Chúa, con muốn lắng nghe. Xin Chúa cho con đôi tai tinh tế và đôi mắt mới mẻ.
Hễ ai nghe lời rao giảng Nước Trời mà không hiểu, thì quỷ dữ đến cướp đi điều đã gieo trong lòng người ấy: đó là kẻ được gieo bên vệ đường.
Trong việc giải thích dụ ngôn, điểm nhấn mạnh không được đặt trên khả năng của hạt giống hay niềm hy vọng không gì thắng nổi của người gieo hạt (như chúng ta đã ghi nhận)… nhưng đặt trên sự khác nhau của đất, nghĩa là trên những thiên hướng của những người đón nhận "lời Thiên Chúa"... Trong nhóm người thứ nhất đức tin không bám, không đâm rễ, hạt giống cũng không nẩy mầm... bởi vì chim chóc đã đến ăn mất hạt trên đường.
Bên trên những hình ảnh cụ thể. Đức Giêsu còn nhìn rất xa: người lắng nghe Lời Chúa có một kẻ thù. Chúng ta đã quên điều đó sao? Một kẻ thù đáng ngại mà Đức Giêsu gọi là "quỷ dữ". Đàng sau con người không đạt được đức tin, có một thứ vực thẳm mầu nhiệm, và cũng như chính đức tin nó không hoàn toàn trở thành hợp lý được: nó là một quyền lực ẩn giấu mà con người không làm chủ được. Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi quỷ dữ!
Còn kẻ được gieo trên nơi sỏi đá, đó là kẻ nghe Lời và liền vui vẻ đón nhận. Nhưng nó không đâm rễ mà là kẻ nhất thời khi gặp gian nan hay bị ngược đãi vì Lời, nó vấp ngã ngay...
Sau kẻ không tin vì đức tin chưa được nẩy mầm, giờ đây cũng theo Đức Giêsu, là người tín hữu “bỏ ngũ”, người ấy bỏ đạo như cách nói rõ ràng của Thánh Luca trong đoạn văn song song (Lc 8,18). Thiếu rễ cây? Người ấy nhiệt tình theo Đức Kitô khi mọi sự dễ dàng xuôi chảy, và bỏ Người khi khó khăn, thử thách, đau khổ; ngược đãi ập đến. Than ôi! Chúng ta biết rõ hoàn cảnh này thường xảy đến. Lạy Chúa, xin cho con được bám rễ trong Chúa!
Còn kẻ được gieo vào bụi gai, đó là kẻ nghe Lời, nhưng nỗi lo lắng sự đời và bả vinh hoa phú quý bóp nghẹt khiến Lời không sinh hoa kết quả gì…
Giờ đây là "người tín hữu không đạt đến sự chín muồi của đức tin"... bởi vì người ấy bị tinh thần của thế gian giữ lại bị bối cảnh vô tín xung quanh bao vây. Chúng ta cảm thấy rõ ràng đối với Đức Giêsu đức tin là một công việc phát triển lâu dài, và phải chiến đấu chống lại mọi thứ trở ngại. Đức Giêsu đã thường xuyên cảnh báo các môn đệ chống lại ảnh hưởng của thế gian (Lc 9,57-62; 14,28-33; 16,19-31; Ga 15,19; 12,6).
Đức tin bị bóp nghẹt? Đức tin dần dần xanh xao vì thiếu hơi thở và một ngày kia bị chết nghẹt. Phần còn lại, tất cả đã chiếm quá nhiều chỗ trong đời sống: "Các bạn biết đấy? Làm sao tôi có thể đi nghe Lời Chúa ngày Chúa nhật! Tôi còn đi xem đá banh, đi chơi lướt ván... và vì tôi quá mệt với tuần lễ của tôi, vậy thì tôi phải tranh thủ ngày nghỉ “cuối tuần"... Và chính điều chủ yếu phải vượt qua mọi thứ khác!
Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi sự quyến rũ của thế gian và bả vinh hoa phú quý.
Còn kẻ được gieo trên đất tốt, đó là kẻ nghe Lời và hiểu thì tất nhiên sinh hoa kết quả và làm ra kẻ được sáu chục, kẻ được ba chục.
Sinh hoa kết quả!
Đó là điều mong ước mà Đức Giêsu muốn chúng ta thực hiện (Mt 3,10; 12,33; 13,23-26; 12,43). Một đời sống tràn đầy, phong phú. Đối với Đức Giêsu, điều kiện chủ yếu để đời sống chúng ta sinh hoa, kết quả là Lời Thiên Chúa được lắng nghe và hiểu lâu dài. Thông qua sự phân tích về các mức độ lác nhau của đức tin chúng ta đoán ra rằng không có gì vĩnh viễn là chung cuộc. Đó là điều mà ngày hôm nay chúng ta nhận định xung quanh chúng ta và ở trong chúng ta. Đức tin là một "đời sống", một ngày nào đó được gieo xuống, lớn lên và sinh hoa quả... nhưng là một đời sống mong manh phải được phát triển ở giữa nhiều nghịch cảnh đang tấn công nó…
Nếu chúng ta cần làm cho đức tin phát triển... thì chúng ta cũng phải trở thành những "người gieo vãi Phúc Âm", và chuẩn bị đất đai, ngõ hầu tấm lòng của anh em mình trở thành một mảnh đất tốt sinh ra gấp trăm. Chúng ta quan tâm đến chính hạnh phúc của họ: "Phúc thay ai lắng nghe Lời và đem ra thực hành!”
38. Hãy mặc lấy tâm tình của người gieo giống
(Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Trong quá trình loan báo Tin Mừng, Đức Giêsu đã dùng nhiều dụ ngôn khác nhau để giúp cho người Dothái cùng thời thay đổi thái độ và cách sống sao cho phù hợp với Tin Mừng.
Hôm nay, Đức Giêsu dùng dụ ngôn “người gieo giống” để giúp cho người nghe hiểu ý nghĩa của nội dung lời giảng.
1. Cách gieo hạt và thửa ruộng của người Dothái
Người Dothái xưa không có những cánh đồng bằng phẳng như ở đồng bằng của Việt Nam, mà thửa ruộng của họ thuộc loại bậc thang trên sườn đồi như những vùng núi Trung du và thượng du gồm sơn địa và bán sơn địa như ở miền Bắc Việt Nam. Như vậy, thửa ruộng của họ thường có sỏi đá, gai góc và thiếu nước.
Cách thức gieo hạt của họ rất giống với cách sạ lúa của người Nam Bộ chúng ta. Tức là họ không cấy từng cụm như đồng bằng, mà họ rắc hạt trên thửa đất của mình.
Sau khi quan sát và thấy hình ảnh của người gieo hạt cũng như những thửa đất khác nhau, Đức Giêsu đã rất tinh tế khi dùng dụ ngôn này để nói về thái độ của dân chúng khi lắng nghe Lời Chúa và sự quảng đại, hào phóng của Thiên Chúa khi gieo giống.
2. Tâm tình người đi gieo giống
Đức Giêsu đưa ra hình ảnh của người gieo giống thật kỳ lạ: ông là người hào phóng. Chỗ nào cũng gieo. Gieo vung vãi không tiếc hạt, tiếc công. Gieo một cách quảng đại, không phân biệt bất cứ loại đất nào. Gieo cả nơi sỏi đá, vệ đường, bụi gai. Ông gieo trong thái độ kiên trì và trung thành, không tính toán thiệt hơn, không biết mỏi mệt và không hề thất vọng.
Ông đầu tư hết tất cả những gì mình có như: tiền tài, vốn liếng, sức khỏe và cả ngày lẫn đêm. Ông gieo mọi nơi mọi chốn.
Có được điều ấy, hẳn ông là người có tham vọng lớn, một trái tim rộng mở để vượt qua mọi rào cản, khó khăn, để tung gieo từng hạt giống, bất chất mọi sự ngỗ nghịch. Ông có một tình yêu bao la, vượt lên trên tất cả, miễn sao hạt giống được tung ra và rơi vào mọi môi trường.
Nói như thế, không có nghĩa ông là người vô trách nhiệm, không chuyên nghiệp, nhưng muốn diễn tả hình ảnh một người nông dân cần cù, chịu khó, kiên trì và quảng đại. Hình ảnh đó không ai khác ngoài Thiên Chúa, mà hiện thân chính là Đức Giêsu, người đang nói qua dụ ngôn.
Thật vậy, Thiên Chúa say mê con người, không ngừng tìm mọi cách để mong sao con người nhận ra chân lý, tình thương để mà cải hóa bản thân cho tốt hơn. Vì thế, tình yêu của Thiên Chúa là một tình yêu phổ quát, không phân biệt giàu nghèo, giai cấp, địa vị, màu da, sắc tộc..., vì “Người làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, làm cho mưa xuống trên kẻ lành cũng như người bất lương…”
3. Thái độ của mỗi chúng ta trong vai trò của người gieo và nhận
Khi dùng dụ ngôn “người gieo giống” và nhiều loại đất khác nhau, Đức Giêsu mong muốn mỗi người chúng ta cũng mang trong mình tâm tình của người gieo giống. Tức là gieo trong hy sinh, vất vả, không tính toán hơn thiệt, không ích kỷ nhỏ nhen. Bổn phận của người môn đệ chính là mau mắn lên đường, tung hoành khắp nơi, biết tận dụng mọi thời gian, phương tiện để miễn sao Lời Chúa được loan xa tới mọi nơi, mọi chốn, không phân biệt họ là ai, cuộc sống và địa vị của họ như thế nào...
Thật vậy, chúng ta cứ trung thành và quảng đại, còn thành công là do Chúa chứ không phải hoàn toàn ở khả năng của chúng ta. Tinh thần này đã được thánh Phaolô nói đến khi ngài xác định: “Tôi trồng, anh Apôlô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên. Vì thế, kẻ trồng hay người tưới chẳng là gì cả, nhưng Thiên Chúa, Ðấng làm cho lớn lên, mới đáng kể” (1 Cr 3,6-7).
Làm được điều đó, chúng ta cần có một trái tim đủ lớn để yêu thương, kiên trì và trung thành.
Là kitô hữu, chúng ta được hạt giống là chính Lời của Chúa gieo vào lòng chúng ta từ ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Rồi tiếp tục trải qua dòng thời gian, chúng ta có nhiều điều kiện để cho Hạt Giống ấy nẩy mầm và sinh hoa kết trái dồi dào. Nhưng thử hỏi, mỗi chúng ta có sẵn sàng để trở thành thửa đất tốt tươi hay chỉ là sỏi đá, ven đường và gai góc?
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi chúng ta hãy có tấm lòng bao dung, độ lượng như người gieo giống, đồng thời cũng phải có thái độ cởi mở, hân hoan, đơn sơ và yêu mến để cho hạt giống được nảy mầm, trổ sinh hoa trái dồi dào như những thửa đất tốt.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được mặc lấy tâm tình của người gieo giống, đồng thời cũng trở nên những thửa đất tốt để hạt giống Lời Chúa được trổ sinh hoa trái dồi dào nơi tâm hồn chúng con. Amen.
15/07 Đừng sợ…, nhưng hãy sợ
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Đừng sợ…, nhưng hãy sợ ….
Thứ Bảy tuần 14 thường niên – Thánh Bônaventura, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
"Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác".
Lời Chúa: Mt 10, 24-33
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Môn đệ không hơn thầy, và tôi tớ không hơn chủ mình. Môn đệ được bằng thầy, tôi tớ được bằng chủ mình thì đã là khá rồi. Nếu họ đã gọi chủ nhà là Bêelgiêbul thì huống hồ là người nhà của Ngài. Vậy các con đừng sợ những người đó, vì không có gì che giấu mà không bị thố lộ; và không có gì kín nhiệm mà không hề hay biết. Điều Thầy nói với các con trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng; và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên mái nhà.
"Các con đừng sợ kẻ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn. Các con hãy sợ Đấng có thể ném cả xác lẫn hồn xuống địa ngục. Nào người ta không bán hai chim sẻ với một đồng tiền đó sao? Thế mà không con nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi. Vậy các con đừng sợ: các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần.
"Vậy ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Thầy là Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ chối nó trước mặt Cha Thầy là Đấng ngự trên trời".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Ðừng sợ người đời
Mahatma Gandhi, nhà tranh đấu bất bạo động cho quyền con người và nền độc lập của Ấn Ðộ, đã có lần nhắn nhủ các môn sinh như sau: "Sự thật và tình thương sẽ chiến thắng. Hãy suy nghĩ điều đó và hành động theo sự thật và tình thương. Ðừng bao giờ dùng bạo lực đáp trả bạo lực, vì làm như thế là bắt chước lối sống man rợ của những người dùng bạo lực. Khi dùng bạo lực, những người đó cho thấy nỗi thất vọng và trạng thái thú hóa của họ. Chúng ta hãy sống như con người. Những người dùng bạo lực có thể đánh đập và giết chết thân xác chúng ta, nhưng không thể giết được tinh thần và quyền lợi của chúng ta, họ không thể giết được sự thật. Sự thật và tình thương sẽ chiến thắng. Hãy suy nghĩ kỹ và hãy sống theo sự thật và tình thương, bởi vì nếu sống theo bạo lực và hận thù, thì thế giới sẽ trở thành mù lòa".
Ðã từng vào tù ra khám, đã từng bị đánh đập hành hung, con người đã nói những lời trên đây chưa một lần tỏ ra sợ sệt. Ngày 30/01/1948, ông ngã gục vì nhát gươm của một người quá khích. Cái chết của ông là một cụ thể hóa của chính chủ trương bất bạo động mà ông đã đề ra.
Sẵn sàng chết để làm chứng cho sự thật và tình thương với niềm tin vào sự bất tử của linh hồn con người, Mahatma Gandhi dù chưa phải là Kitô hữu, nhưng đã sống theo lời Chúa dạy trong Tin Mừng hôm nay, đó là sống hiên ngang, không sợ hãi trước các cường lực sự dữ, không sợ hãi những người chỉ giết được thân xác, nhưng không làm gì được linh hồn; sống trung thực với phẩm giá của con cái Chúa, không để mình rơi vào tình trạng hóa thú và nô lệ cho bạo lực: "Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác, mà không giết được linh hồn".
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn vào thực tế cuộc sống và tỏ ra thái độ phù hợp với người có lòng tin. Từ chuyện phải vất vả kiếm sống đến chuyện tương lai của con cái và những khó khăn trong việc sống đạo, chúng ta được mời gọi để múc lấy ánh sáng của Tin Mừng và chiếu dọi vào những thực tế ấy. Là người Kitô hữu, tôi phải sống những thực tại ấy thế nào? Lý tưởng của tôi là tìm mọi cách để có nhiều của cải vật chất hay là tìm kiếm Nước Chúa và sự công chính trước?
"Môn đệ không hơn Thầy, tôi tớ không hơn chủ". Chúa Giêsu đã đi con đường của nghèo khó, thua thiệt, bách hại, thập giá, tha thứ và tha thứ cho đến cùng. Nhưng Chúa Giêsu không chỉ đề ra cho chúng ta một lý tưởng, một con đường để đi theo, Ngài chính là con đường, là sự thật và là sự sống. Chúng ta tin rằng nếu chúng ta kết hiệp với Ngài, chúng ta sẽ được sức mạnh của Ngài để thắng vượt mọi gian nan thử thách. Chúng ta cũng tin rằng bên kia những hao mòn và chết chóc trong thân xác, tâm hồn chúng ta sẽ được mãi mãi kết hiệp với Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Những sợ hãi không đâu
“Anh em đừng sợ những kẻ giết được thân xác mà không thể giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt được cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục.”
Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. (Mt. 10, 28. 32-33)
Chúng ta sợ hãi cái gì?
Bạn hãi hỏi xem người ta sợ hãi cái gì? Hầu như ai nấy cùng có một câu trả lời. Người ta sợ bị ốm đau, tật nguyền sợ mất của cải hay công ăn việc làm, sợ phải sống cô đơn, sợ mất danh thơm, tiếng tốt, sợ bị kẻ bất lương tấn công ngoài đường phố, sợ phải xa cách người thân yêu, sợ chết…
Điều ta lo sợ trong cuộc sống ấy, bởi chính nó gây tổn thương, mất mát, thiệt thòi hay tàn tật cho ta. Ta không khinh chê coi thường những xao xuyến, sợ hãi kia. Nhưng chỉ có nguyên những lo âu xao xuyến này thôi sao, và đó phải chăng là những điều quan trọng nhất? còn biết bao điều lẽ ra khiến ta phải bàng hoàng lo sợ, thế mà ta lại bình chân như vại.
Những điều đáng sợ mà người ta lại không nghĩ đến.
Bạn hỏi xem người ta có lo sợ vì không kính mến Thiên Chúa và yêu thương người ta đủ không? Hãy hỏi xem người ta có sợ vì chỉ biết sống bo bo mà không biết chia sớt với anh em mình không. Người ta có run sợ vì đã không coi trọng Phúc Âm, không sống đời cầu nguyện và nói về Chúa Giêsu đủ không? Những người mà bạn đặt những câu hỏi trên đây cho họ, có lẽ đều bỡ ngỡ. Vì phần lớn thời giờ, có bao giờ tâm trí họ màng đến những điều như trên đây.
Chúng ta thường sợ hãi vì những chuyện chẳng đáng gì, còn những điều lẽ ra lòng ta phải xao xuyến âu lo, thì ta lại chẳng màng chi đến. Ta hãy biết sợ. Kiểu nói đó, nghe không suôi. Bởi vì Chúa đâu có muốn cho ta phải sống trong nơm nớp sợ hãi; nhưng Người muốn ta luôn được sống trong yêu thương an bình. Điều Chúa mang đợi ở ta là luôn hướng về Người và các anh em ta. Người mong muốn cho ta chẳng phải sợ gì, chẳng sợ ai cả, nhưng vững tin rằng Chúa Thánh Thần hằng ngự trong ta che chở và dẫn dắt ta đến cùng Cha.
Lạy Chúa, xin cho con biết xao xuyến và sợ hãi những khi con thấy mình xa Chúa. Xin giúp con biết đem lại niềm hy vọng mới cho những ai đang hao mòn vì những xao xuyến sợ hãi đủ thứ trong cuộc đời.
J.Y.G
Suy niệm 3:
Sự chết
Khi thi hành sứ mạng phục vụ cho sự sống của con người, người môn đệ có nguy cơ mất đi chính sự sống của mình. Bởi vì con người không chỉ đau khổ vì thân phận sinh lão bệnh tử, nhưng còn bị chi phối nặng nề bởi Sự Dữ, vốn gây ra bầu khí chết chóc và chính cái chết cho con người (x. St 3, 1-7: Con Rắn gieo nọc độc vô ơn, ham muốn và ghen tị gây chết chóc trong lòng con người và trong tương quan giữa người với người).
Phục vụ cho sự sống đến độ đánh liều chính sự sống của mình. Nhưng đó lại là con đường nhận lại sự sống trong Chúa, giải phóng sự sống hôm nay khỏi Sự Dữ và tất cả những gì liên quan đến Sự Dữ, vì thế làm cho sự sống trở nên đích thật và hướng về sự sống viên mãn mai sau, theo khuôn mẫu của mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Ki-tô.
Chính vì thế, Đức Giê-su nói, Ngài sai các môn đệ đi như “chiên vào giữa bầy sói”. Như thế, sự chống đối, thậm chí bách hại, là tất yếu; như hình ảnh “chiên và sói” gợi ra: một bên là hiền lành và một bên là bạo lực, muốn hủy diệt. Nhưng lí do của sự chống đối không phải là chính bản thân các môn đệ, nhưng là “vì Thầy”, “vì danh Thầy”, bởi vì Thầy mới là “Con Chiên” đích thật của Thiên Chúa, là Đấng mà các môn đệ rao giảng và được mời gọi trở nên một với Ngài. Người môn đệ được mời gọi trở nên một với Đấng mình rao giảng, vì Ngài đã trở nên một với môn đệ trước.
“Người đời” đã bách hại Thầy và Đức Giê-su nói: “Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi. Chủ nhà mà người ta còn gọi là Bê-en-dê-bun, huống chi là người nhà”. Và “Người đời” tiếp tục bách hại Thầy nơi các môn đệ, bởi vì Thầy là “Chiên lành”, “Sự Thiện”, “Thiên Tính”, “Ánh Sáng”, “Sự Sống, “Sự Thật”. Vì thế, một cách tương ứng, kẻ bách hại không phải là những con người cụ thể, nhưng là “Sói Dữ”, “Sự Dữ”, “Thú Tính”, “Gian Dối”, “Bóng Tối”, “Sự Chết” hành động nơi những con người cụ thể. Thế mà, Sự Dữ và những gì thuộc về Sự Dữ có mặt ở khắp nơi và nơi mọi người, và có nơi chính các môn đệ! Vì thế, sự chống đối của Sự Dữ có thể bùng lên từ những nơi và những người thiết thân nhất: “Anh sẽ nộp em, em sẽ nộp anh cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết.” “Sói Dữ” không phải là con người, những là thú tính hiện diện và chi phối con người chống lại “Chiên Lành”.
Sự Sống
Nhưng lời loan báo của Đức Giê-su về sự bách hại thậm chí giết hại, lại chứa đựng Sự Sống của Thiên Chúa và hướng đến Sự Sống viên mãn của Người, theo khuôn mẫu của “Hạt Lúa Mì”, nghĩa là của mầu nhiệm Vượt Qua. Thật vậy, bách hại, nhưng lại là cơ hội “để làm chứng cho họ và cho dân ngoại được biết”; và bởi vì đây là chứng từ tận cùng, nghĩa là “chứng từ sự sống”, như Đức Ki-tô trong cuộc Thương Khó, người môn đệ được dẫn vào kinh nghiệm “thần nhiệm” về Thiên Chúa Ba Ngôi: người môn đệ bị bách hại vì Chúa Con, nên được Chúa Cha ban Chúa Thánh Thần để Người lên tiếng và hành động nơi các môn đệ, như Đức Giê-su nói: “Vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì: thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em.”
Và sự bách hại không phải là vô tận, nhưng sẽ kết thúc với biến cố “Con Người đến” một cách bất chợt. Đó là hướng đi tất yếu của lịch sử cứu độ, bởi vì Đức Ki-tô đã vượt qua sự bách hại và chính sự chết, và Ngài sẽ lại đến để dẫn đưa sáng tạo và lịch sử đi vào một chiều kích vừa vĩnh cửu và vừa mới mẻ. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể hiểu, chính sự bách hại khiến người môn đệ phải trốn chạy: “Khi người ta bách hại anh em trong thành này, thì hãy trốn sang thành khác”, sẽ làm cho người môn đệ trở nên giống với Đức Ki-tô và mau đến với Người. Con Người đến với chúng ta, hay chúng ta đến với Con Người, còn nhắc nhớ Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người: Người đã bị giết chết, nhưng Người đã phục sinh, để trở nên sức mạnh và niềm hi vọng cho người môn đệ thuộc mọi thời.
“Đừng sợ”
Tuy nhiên, đứng trước viễn tượng chống đối tất yếu và tận căn như thế, không ai có thể tránh được sự sợ hãi ; và chính Đức Ki-tô cũng có kinh nghiệm này trong Vườn Dầu. Vì thế, khi Người mời gọi người môn đệ nhiều lần « đừng sợ » (ba lần ở những câu 26, 28 và 31 trong bài Tin Mừng ngày mai : Mt 19, 24-33), thì đó không phải là sự sợ hãi thuộc bình diện tâm lí, vì ở bình diện này, con người không thể không sợ, nhưng Người gọi người môn đệ « đừng sợ », đừng lung lạc, đừng để ma quỉ làm cho nghi hoặc, ở bình diện tín thác, mà người môn đệ đặt để nơi Sự Thật, quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa.
Tín thác nơi chân lí của sứ điệp Tin Mừng, của chính Đức Ki-tô, bởi vì Người là Chân Lý ; và Chân Lý này hôm nay được rao giảng bởi các môn đệ, nhưng một ngày kia sẽ được tỏ bày cho tất cả mọi người : « Thật ra, không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng.” Và tín thác nơi quyền năng mạnh hơn sự chết của Thiên Chúa : « Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục »
Và nhất là người môn đệ được mời gọi tín thác nơi tình yêu quan phòng của Người : « Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ ». Khi nói về tình yêu quan phòng của Thiên Chúa Cha, ngang qua hình ảnh « con chim sẻ », Đức Giê-su đã làm cho lời nguyện Thánh Vịnh được hoàn tất (x. Lc 24, 44) ; thật vậy, theo con đường thiêng liêng của lời nguyện Thánh Vịnh, Người mời gọi chúng ta nhận ra tình yêu đặc biệt của Thiên Chúa dành cho con người khởi đi từ công trình sáng tạo của Người :
Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo
muôn trăng sao Chúa đã an bài,
thì con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến,
phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm?
(Tv 8, 4-5)
Chim sẻ rẻ tiền như thế, nhưng vẫn không bị loại bỏ khỏi sự quan tâm yêu thương của Chúa Cha, trong khi chúng ta được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và được tái sinh trong Máu Đức Ki-tô để trở nên con Thiên Chúa, vì thế, Người quí trọng từng « sợi tóc » trên đầu của chúng ta. Chứng kiến từng sợi tóc rụng theo năm tháng, nhất là khi đến tuổi trung niên, thay vì sợ hãi, chúng ta được mời gọi tín thác nơi Thiên Chúa « muôn ngàn đời vẫn trọn tình thương ».
Vì thế, không có gì tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa, được thể hiện nơi Đức Ki-tô, dù cho đó là “gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?… là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác” (Rm 8, 35-39). Chính tình yêu Thiên Chúa cuốn hút con tim và làm cho người môn đệ “tuyên bố Thầy trước mặt thiên hạ”, nghĩa là sống tương quan thiết thân với Người trong mọi nơi mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh.
Khi bắt đầu nói về sự bách hại, Đức Giê-su mời gọi người môn đệ: “Vậy anh em phải khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu” (c. 16). Chúng ta chỉ có thể hiểu đúng lời mời gọi này khi chiêm ngắm Mầu Nhiệm Thương Khó của Đức Ki-tô, để nhận ra Khuôn Mặt của Đức Ki-tô chịu đóng, rạng ngời sự đơn sơ và khôn ngoan của Thiên Chúa và để cho con tim chúng ta được chinh phục.
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
Suy niệm 4:
Trong bài Tin Mừng hôm qua, Đức Giêsu nhắc chúng ta đừng lo (c.19).
Hôm nay ba lần Ngài nhắc chúng ta đừng sợ kẻ bách hại (cc. 26. 28.31).
Cuộc sống con người bị trói buộc bởi những nỗi sợ,
có lý và vô lý, đến từ bên ngoài hay từ bên trong trái tim.
Càng văn minh con người càng có nhiều nỗi sợ mới.
Nỗi sợ làm người ta mất tự do, mất bình an, mất vui…
“Đừng sợ” là điệp khúc trấn an được Đức Giêsu nhắc lại nhiều lần.
Đừng sợ, Simon, khi Thầy gọi anh đi theo (Lc 5, 10).
Đừng sợ khi Thầy đi trên mặt nước mà đến (Mt 14, 27).
Đừng sợ sau khi thấy Thầy được biến hình (Mt 17, 7).
Đừng sợ, Giairô, dù con gái ông đã chết (Mc 5, 36).
Đừng sợ, hỡi các phụ nữ, khi gặp Thầy phục sinh (Mt 28, 10).
Nỗi sợ có vẻ gắn liền với phận người mong manh.
Nhưng Đức Giêsu muốn giải phóng chúng ta khỏi mọi nỗi sợ.
Có người môn đệ sợ bị mất mạng, đến nỗi không dám rao giảng,
không dám tuyên nhận Thầy trước mặt người đời.
Đức Giêsu mời các môn đệ nói công khai giữa ban ngày, trên mái nhà,
điều mình nghe Thầy thì thầm trong đêm khuya (c. 27).
Họ không được giữ riêng cho mình điều đã lãnh nhận.
Đừng sợ cái giá phải trả cho việc rao giảng, làm chứng cho Thầy,
vì có điều gì còn quý hơn cả sự sống thân xác nữa (c. 28).
Trong Vườn Dầu, Đức Giêsu cũng sợ chết, vì Ngài còn quá trẻ.
Nhưng Ngài đã không để cho nỗi sợ thắng mình,
khi dám nói tiếng xin vâng, buông đời mình trong tay Cha.
Cha lo cho cả những sinh vật bé nhỏ, tưởng như vô giá trị.
Chim sẻ là thức ăn rẻ tiền nhất vào thời Đức Giêsu.
Tiền lương một ngày mua được ba chục con chim sẻ.
“Thế mà không một con nào rơi xuống đất ngoài ý Cha” (c. 29).
Cả đến sợi tóc của trên đầu chúng ta cũng được Thiên Chúa đếm (c. 30).
Dù một sợi cũng được Thiên Chúa giữ gìn (Lc 21, 18).
Chính vì thế người Kitô hữu được giải phóng khỏi những nỗi sợ đeo đẳng.
Họ chẳng còn sợ ai, ngoài Thiên Chúa.
Vấn đề không phải là trở nên vô cảm, không biết sợ là gì.
Nhưng là biết sợ ai.
“Mày cùng chịu một án phạt mà không biết sợ Thiên Chúa ư?”
Anh trộm lành đã nói với người kia như vậy (Lc 23, 40).
Xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi những nỗi sợ vu vơ,
để chúng ta được tự do, biết lo điều phải lo, biết sợ điều phải sợ.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con dám hành động
theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.
Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện,
vì xác tín rằng
Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con,
Chúa ngàn lần quảng đại hơn con,
và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.
Lạy Chúa Giêsu trên thập giá,
xin cho con dám liều theo Chúa
mà không tính toán thiệt hơn,
anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ,
can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim,
và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.
Ước gì khi dâng lên Chúa
những hy sinh làm cho tim con rướm máu,
con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt
của người một lòng theo Chúa.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
14/07 Số phận người môn đệ Chúa
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Số phận người môn đệ Chúa.
Thứ sáu tuần 14 thường niên.
"Không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con".
Lời Chúa: Mt 10, 16-23
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: "Này, Thầy sai các con đi như những con chiên ở giữa sói rừng. Vậy các con hãy ở khôn ngoan như con rắn và đơn sơ như bồ câu. Các con hãy coi chừng người đời, vì họ sẽ nộp các con cho công nghị, và sẽ đánh đập các con nơi hội đường của họ. Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại được biết. Nhưng khi người ta bắt nộp các con, thì các con đừng lo nghĩ phải nói thế nào và nói gì? Vì trong giờ ấy sẽ cho các con biết phải nói gì; vì chưng, không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con nói trong các con.
"Anh sẽ đem nộp giết em, cha sẽ nộp con, con cái sẽ chống lại với cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét, nhưng ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ. Khi người ta bắt bớ các con trong thành này, thì hãy trốn sang thành khác. Thầy bảo thật các con: Các con sẽ không đi khắp hết các thành Israel cho đến khi Con Người đến".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Số phận của người Kitô hữu
Trong chuyến hành hương Lộ Ðức tháng 8/1981, Ðức Gioan Phaolô II nhắc đến những hình thức bách hại đạo tại một vài nơi trên thế giới, Ngài nói: "Có những tín hữu bị bắt buộc phải hội họp một cách lén lút, bởi vì cộng đoàn tôn giáo của họ không được phép hoạt động. Có những Giám mục, Linh mục, Tu sĩ, bị cấm thi hành chức vụ trong nhà thờ hay tại những nơi công cộng. Có những nữ tu bị phân tán không thể tiếp tục cuộc sống hiến thân của họ. Có những người trẻ quảng đại nhưng không thể thực hiện ơn gọi của họ. Có những tín hữu bị tước đoạt cả quyền có thể tận hiến cho một cuộc sống chung để cầu nguyện và thực thi bác ái. Có những bậc cha mẹ bị người ta khước từ quyền được bảo đảm cho con em một nền giáo dục dựa trên niềm tin của mình..."
Tin Mừng hôm nay một lần nữa cho chúng ta hiểu được thế nào là ơn gọi và số phận của người Kitô hữu. Chúa Giêsu đã được cụ già Simêon gọi là dấu chỉ gợi lên chống đối. Cái chết của Ngài trên Thập giá là cao điểm của những chống đối mà con người dành cho Ngài. Tiếp tục sứ mệnh của Ngài, Giáo Hội ở mọi nơi và mọi thời, không thể thoát khỏi số phận bị chống đối ấy. Hình thức và mức độ của những cuộc bách hại có khác nhau, nhưng tựu trung ở đâu và lúc nào Giáo Hội cũng bị bách hại.
Ý thức về sự bách hại không phải là một mặc cảm; lên tiếng về những bách hại cũng không hề là một ý đồ chính trị. Giáo Hội tự bản chất luôn bị đặt vào thế bị chống đối. Chấp nhận đi theo Chúa Kitô, sẵn sàng chiến đấu chống lại tội lỗi, lên tiếng chống lại bất công và can đảm lội ngược dòng, sống như thế tức là đã bị bách hại rồi. Một Giáo Hội phục vụ có thể được thương mến, nhưng một Giáo Hội bị bách hại lại càng là Giáo Hội trung thành với Chúa Kitô hơn.
Trong một chuyến viếng thăm tại Braxin, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói: "Tôi thà thấy muôn ngàn lần một Giáo Hội bị bách hại, hơn là một Giáo Hội thỏa hiệp".
Nguyện xin Chúa gìn giữ mọi thành phần Dân Chúa được luôn trung thành theo Chúa Kitô và thoát khỏi tinh thần thỏa hiệp vì một chút dễ dãi, lợi lộc.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Thích sống yên thân
“Hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết.” (Mt. 10, 17-18)
Đời sống một chứng nhân
Chúa Giêsu chẳng dấu diếm gì, khi sai các môn đệ đi truyền giáo. Người nói rõ cho các ông hay những gì sẽ chờ đợi các ông. Trớ trêu thay! Các ông sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền, bị người ta đánh đòn. Người ta sẽ thù ghét, truy nã các ông. Các bạn hữu thân tình sẽ chống lại các ông. Tất cả những chuyện đó đang chờ đợi các ông. Quả là tệ hại! Cuộc đời các môn đệ chẳng có giây phút nghỉ ngơi. Đi theo Chúa, rao giảng về Người là nhất thiết liều mình gánh lấy những tai họa, là chấp nhận phải chiến đấu cam go, đau khổ nhiều, khóc lóc nhiều.
Đức Giêsu đã báo trước điều đó. Mười hai tông đồ đã gặp những thử thách nặng nề. Người ta không để cho các ông sống dễ dàng. Họ đã bắt các ông phải chết. Tôi tớ không trọng hơn chủ, nó chịu đồng số phận với chủ mình. Đức Giêsu đã nói thế.
Nếu không gây ra cho ta gì
Điều Đức Giêsu loan báo cho các môn đệ xưa thì vẫn luôn có giá trị cho tất cả những ai còn đang làm chứng cho Phúc âm. Một chứng nhân đích thực không thể sống kiểu “ngồi nhà mát ăn bát vàng”. Người chứng nhân ấy không thể rao giảng Tin mừng cách chân chính mà lại không bị người đời chống đối, bị người ta một ngày nào đó đem mình ra bêu diếu cách nào đó.
Đã có lần nào ta bị người ta chống đối kịch liệt, bị bôi nhọ vì những niềm tin Kitô giáo của ta không? Đã có lần nào ta phải đau khổ vì đã mạnh dạn và công khai làm chứng về Đức Kitô không? Nếu chưa bao giờ ta phải chịu điều gì thiệt thòi, chưa có ai chống đối ta bao giờ, thì có lẽ vì ta đã chưa bao giờ là những chứng nhân đích thực, vì ta đã chỉ muốn sống yên thân thôi. Những chứng nhân tồi là vậy đó.
JYG
Suy niệm 3:
Sự chết
Khi thi hành sứ mạng phục vụ cho sự sống của con người, người môn đệ có nguy cơ mất đi chính sự sống của mình. Bởi vì con người không chỉ đau khổ vì thân phận sinh lão bệnh tử, nhưng còn bị chi phối nặng nề bởi Sự Dữ, vốn gây ra bầu khí chết chóc và chính cái chết cho con người (x. St 3, 1-7: Con Rắn gieo nọc độc vô ơn, ham muốn và ghen tị gây chết chóc trong lòng con người và trong tương quan giữa người với người).
Phục vụ cho sự sống đến độ đánh liều chính sự sống của mình. Nhưng đó lại là con đường nhận lại sự sống trong Chúa, giải phóng sự sống hôm nay khỏi Sự Dữ và tất cả những gì liên quan đến Sự Dữ, vì thế làm cho sự sống trở nên đích thật và hướng về sự sống viên mãn mai sau, theo khuôn mẫu của mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Ki-tô.
Chính vì thế, Đức Giê-su nói, Ngài sai các môn đệ đi như “chiên vào giữa bầy sói”. Như thế, sự chống đối, thậm chí bách hại, là tất yếu; như hình ảnh “chiên và sói” gợi ra: một bên là hiền lành và một bên là bạo lực, muốn hủy diệt. Nhưng lí do của sự chống đối không phải là chính bản thân các môn đệ, nhưng là “vì Thầy”, “vì danh Thầy”, bởi vì Thầy mới là “Con Chiên” đích thật của Thiên Chúa, là Đấng mà các môn đệ rao giảng và được mời gọi trở nên một với Ngài. Người môn đệ được mời gọi trở nên một với Đấng mình rao giảng, vì Ngài đã trở nên một với môn đệ trước.
“Người đời” đã bách hại Thầy và Đức Giê-su nói: “Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi. Chủ nhà mà người ta còn gọi là Bê-en-dê-bun, huống chi là người nhà”. Và “Người đời” tiếp tục bách hại Thầy nơi các môn đệ, bởi vì Thầy là “Chiên lành”, “Sự Thiện”, “Thiên Tính”, “Ánh Sáng”, “Sự Sống, “Sự Thật”. Vì thế, một cách tương ứng, kẻ bách hại không phải là những con người cụ thể, nhưng là “Sói Dữ”, “Sự Dữ”, “Thú Tính”, “Gian Dối”, “Bóng Tối”, “Sự Chết” hành động nơi những con người cụ thể. Thế mà, Sự Dữ và những gì thuộc về Sự Dữ có mặt ở khắp nơi và nơi mọi người, và có nơi chính các môn đệ! Vì thế, sự chống đối của Sự Dữ có thể bùng lên từ những nơi và những người thiết thân nhất: “Anh sẽ nộp em, em sẽ nộp anh cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết.” “Sói Dữ” không phải là con người, những là thú tính hiện diện và chi phối con người chống lại “Chiên Lành”.
Sự Sống
Nhưng lời loan báo của Đức Giê-su về sự bách hại thậm chí giết hại, lại chứa đựng Sự Sống của Thiên Chúa và hướng đến Sự Sống viên mãn của Người, theo khuôn mẫu của “Hạt Lúa Mì”, nghĩa là của mầu nhiệm Vượt Qua. Thật vậy, bách hại, nhưng lại là cơ hội “để làm chứng cho họ và cho dân ngoại được biết”; và bởi vì đây là chứng từ tận cùng, nghĩa là “chứng từ sự sống”, như Đức Ki-tô trong cuộc Thương Khó, người môn đệ được dẫn vào kinh nghiệm “thần nhiệm” về Thiên Chúa Ba Ngôi: người môn đệ bị bách hại vì Chúa Con, nên được Chúa Cha ban Chúa Thánh Thần để Người lên tiếng và hành động nơi các môn đệ, như Đức Giê-su nói: “Vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì: thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em.”
Và sự bách hại không phải là vô tận, nhưng sẽ kết thúc với biến cố “Con Người đến” một cách bất chợt. Đó là hướng đi tất yếu của lịch sử cứu độ, bởi vì Đức Ki-tô đã vượt qua sự bách hại và chính sự chết, và Ngài sẽ lại đến để dẫn đưa sáng tạo và lịch sử đi vào một chiều kích vừa vĩnh cửu và vừa mới mẻ. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể hiểu, chính sự bách hại khiến người môn đệ phải trốn chạy: “Khi người ta bách hại anh em trong thành này, thì hãy trốn sang thành khác”, sẽ làm cho người môn đệ trở nên giống với Đức Ki-tô và mau đến với Người. Con Người đến với chúng ta, hay chúng ta đến với Con Người, còn nhắc nhớ Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người: Người đã bị giết chết, nhưng Người đã phục sinh, để trở nên sức mạnh và niềm hi vọng cho người môn đệ thuộc mọi thời.
“Đừng sợ”
Tuy nhiên, đứng trước viễn tượng chống đối tất yếu và tận căn như thế, không ai có thể tránh được sự sợ hãi ; và chính Đức Ki-tô cũng có kinh nghiệm này trong Vườn Dầu. Vì thế, khi Người mời gọi người môn đệ nhiều lần « đừng sợ » (ba lần ở những câu 26, 28 và 31 trong bài Tin Mừng ngày mai : Mt 19, 24-33), thì đó không phải là sự sợ hãi thuộc bình diện tâm lí, vì ở bình diện này, con người không thể không sợ, nhưng Người gọi người môn đệ « đừng sợ », đừng lung lạc, đừng để ma quỉ làm cho nghi hoặc, ở bình diện tín thác, mà người môn đệ đặt để nơi Sự Thật, quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa.
Tín thác nơi chân lí của sứ điệp Tin Mừng, của chính Đức Ki-tô, bởi vì Người là Chân Lý ; và Chân Lý này hôm nay được rao giảng bởi các môn đệ, nhưng một ngày kia sẽ được tỏ bày cho tất cả mọi người : « Thật ra, không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng.” Và tín thác nơi quyền năng mạnh hơn sự chết của Thiên Chúa : « Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục »
Và nhất là người môn đệ được mời gọi tín thác nơi tình yêu quan phòng của Người : « Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ ». Khi nói về tình yêu quan phòng của Thiên Chúa Cha, ngang qua hình ảnh « con chim sẻ », Đức Giê-su đã làm cho lời nguyện Thánh Vịnh được hoàn tất (x. Lc 24, 44) ; thật vậy, theo con đường thiêng liêng của lời nguyện Thánh Vịnh, Người mời gọi chúng ta nhận ra tình yêu đặc biệt của Thiên Chúa dành cho con người khởi đi từ công trình sáng tạo của Người :
Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo
muôn trăng sao Chúa đã an bài,
thì con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến,
phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm?
(Tv 8, 4-5)
Chim sẻ rẻ tiền như thế, nhưng vẫn không bị loại bỏ khỏi sự quan tâm yêu thương của Chúa Cha, trong khi chúng ta được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và được tái sinh trong Máu Đức Ki-tô để trở nên con Thiên Chúa, vì thế, Người quí trọng từng « sợi tóc » trên đầu của chúng ta. Chứng kiến từng sợi tóc rụng theo năm tháng, nhất là khi đến tuổi trung niên, thay vì sợ hãi, chúng ta được mời gọi tín thác nơi Thiên Chúa « muôn ngàn đời vẫn trọn tình thương ».
Vì thế, không có gì tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa, được thể hiện nơi Đức Ki-tô, dù cho đó là “gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?… là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác” (Rm 8, 35-39). Chính tình yêu Thiên Chúa cuốn hút con tim và làm cho người môn đệ “tuyên bố Thầy trước mặt thiên hạ”, nghĩa là sống tương quan thiết thân với Người trong mọi nơi mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh.
Khi bắt đầu nói về sự bách hại, Đức Giê-su mời gọi người môn đệ: “Vậy anh em phải khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu” (c. 16). Chúng ta chỉ có thể hiểu đúng lời mời gọi này khi chiêm ngắm Mầu Nhiệm Thương Khó của Đức Ki-tô, để nhận ra Khuôn Mặt của Đức Ki-tô chịu đóng, rạng ngời sự đơn sơ và khôn ngoan của Thiên Chúa và để cho con tim chúng ta được chinh phục.
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
Suy niệm 4:
Tháng 8 năm 2008, tại vùng Orissa ở đông bắc Ấn độ,
có một người theo chủ nghĩa dân tộc thuộc Ấn giáo, bị bắn chết.
Một tờ báo địa phương đã qui tội cho các Kitô hữu.
Lập tức một làn sóng bạo động nổi lên từ những người Ấn giáo cực đoan.
Kết quả là hàng chục người chết, hàng ngàn người bị thương,
50 nhà thờ bị đốt, 4000 nhà người Kitô hữu bị phá hủy,
hàng chục ngàn người không cửa không nhà, phải sống trong các trại cứu trợ.
Nhiều Kitô hữu thuộc giai cấp thấp nhất trong xã hội Ấn độ,
giai cấp của những người Dalit, những kẻ bị coi là tiện dân.
Người Dalit đã bỏ Ấn giáo để theo Kitô giáo,
và họ đã lấy lại được nhân phẩm, cùng những quyền lợi về kinh tế xã hội.
Họ được giáo dục tử tế, nên giai cấp thống trị không lợi dụng họ được nữa.
Chính vì thế mà họ bị phân biệt đối xử và bị bách hại.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã tiên báo về các bách hại đó.
Những gì Ngài phải chịu thì các môn đệ cũng sẽ phải chịu,
vì tôi tớ không hơn chủ, môn đệ không hơn thầy.
Hãy để ý đến những động từ nói lên nỗi thống khổ của các Kitô hữu:
bị nộp, bị đánh đập, bị điệu ra nơi hội đường và trước mặt vua quan,
bị tra hỏi, bị thù ghét và cuối cùng là bị giết, có khi bởi người nhà (c. 21).
Những điều này Đức Giêsu đều đã trải qua.
Mọi sự họ chịu đều “vì Đức Giêsu”, “vì Danh Đức Giêsu” (cc. 18. 22).
Nơi tòa án, có sự hiện diện gần gũi của Thiên Chúa Ba Ngôi.
“Chính Thần Khí của Chúa Cha sẽ nói trong anh em” (c. 20),
để giúp anh em can đảm tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu, Con Cha.
Bởi đó người Kitô hữu ra tòa mà lòng rất bình an, chẳng lo gì (c. 19).
Họ được Thiên Chúa dạy điều phải nói và Thần Khí nói qua miệng họ.
Với sự nâng đỡ đặc biệt ấy, họ có thể bền chí đến cùng và sẽ được cứu độ.
Các Kitô hữu sẽ còn bị bách hại đến tận thế.
Họ không phải là những người thích tỏ ra mình anh hùng, đòi tử đạo.
Nhưng họ là những người khiêm tốn, khôn ngoan,
biết trốn đi thành khác khi bị bắt bớ ở thành này (c. 23).
Chịu bách hại là điều nằm trong ơn gọi của người Kitô hữu,
là cái giá phải trả để sống mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô.
Ngay cả ở những quốc gia tây phương tự hào là có tự do tôn giáo,
vẫn có những kiểu bách hại ngấm ngầm và tinh vi,
khác với kiểu đòi bước qua thánh giá thời vua Minh Mạng, Tự Đức.
Sống là Kitô hữu như Đức Kitô muốn đòi ta phải lội ngược dòng.
Lội ngược dòng bao giờ cũng khó và làm người khác bực bội, sợ hãi.
Làm sao để các bạn trẻ Công Giáo dám sống theo những giá trị của Giêsu?
Làm sao để các gia đình Công Giáo không bị thói đời lôi cuốn?
Cầu nguyện :
Giữa một thế giới mê đắm bạc tiền,
xin được sống nhẹ nhàng thanh thoát.
Giữa một thế giới lọc lừa dối trá,
xin được sống chân thật đơn sơ.
Giữa một thế giới trụy lạc đam mê,
xin được sống hồn nhiên thanh khiết.
Giữa một thế giới hận thù, tuyệt vọng, dửng dưng,
xin được chia sẻ yêu thương, an bình và hy vọng.
Lạy Chúa Giêsu mến thương,
xin dạy chúng con biết cách làm chứng cho Chúa giữa cuộc đời.
Xin giúp chúng con tìm ra những cách mới để người ta tin và yêu Chúa.
Ước gì hơn hai tỉ người Kitô hữu
vẫn giữ được vị mặn của muối và sức biến đổi của men,
để chúng con làm cho thế giới này mặn mà tình người,
và làm cho trần gian trở thành tấm bánh thơm ngon.
Xin cho Thiên Chúa Cha được tôn vinh
qua những việc tốt đẹp chúng con làm cho những người bé nhỏ.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
13/07 Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không
- Viết bởi Mt 10, 7-15
PHÚC ÂM: Mt 10, 7-15
“Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: “Các con hãy đi rao giảng rằng ‘Nước Trời đã gần đến’. Hãy chữa những bệnh nhân, hãy làm cho kẻ chết sống lại, hãy làm cho những kẻ phong cùi được sạch và hãy trừ quỷ. Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không. Các con chớ mang vàng bạc, tiền nong trong đai lưng, chớ mang bị đi đường, chớ đem theo hai áo choàng, chớ mang giày dép và gậy gộc, vì thợ thì đáng được nuôi ăn.
“Khi các con vào thành hay làng nào, hãy hỏi ở đó ai là người xứng đáng, thì ở lại đó cho tới lúc ra đi. Khi vào nhà nào, các con hãy chào rằng: ‘Bình an cho nhà này’. Nếu nhà ấy xứng đáng thì sự bình an của các con sẽ đến với nhà ấy. Nhưng nếu ai không tiếp rước các con và không nghe lời các con, thì hãy ra khỏi nhà hay thành ấy và giũ bụi chân các con lại. Thật, Thầy bảo các con: Trong ngày phán xét, đất Sôđôma và Gômôra sẽ được xét xử khoan dung hơn thành ấy”. Đó là lời Chúa.
13/07/2017
THỨ NĂM TUẦN 14 TN
Mt 10,7-15
MỐI QUAN TÂM HÀNG ĐẦU
“Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy.” (Mt 10,8)
Suy niệm: Nội dung bài Tin Mừng hôm nay là những chỉ thị Chúa Giê-su nói với các môn đệ trước khi các ông lên đường thực tập truyền giáo. Các ông có mối lo tự nhiên và rất chính đáng là làm sao có đủ tiền bạc, lương thực, quần áo, giày dép để đảm bảo đời sống trong những ngày thi hành sứ vụ. Trong khi đó, Chúa nói rõ: đừng tìm kiếm tiền bạc giắt lưng, đừng đi hết nhà này sang nhà nọ… Ngài muốn những sứ giả lời Chúa lên đường với tinh thần nghèo khó, siêu thoát và phó thác, không chủ tâm tìm kiếm lợi lộc vật chất qua việc phục vụ của mình. Chúa muốn cho các ông là những người toàn tâm toàn ý phục vụ Lời Chúa: rao giảng Tin Mừng Nước Trời, chữa lành bệnh tật, khu trừ ma quỉ, cầu chúc bình an. Tất cả quan tâm của người môn đệ phải dành cho việc loan báo Tin Mừng.
Mời Bạn: Chúng ta cũng có ý thức về bổn phận phải truyền giáo nhưng xem ra đó chưa phải là mối bận tâm hàng đầu. Chúng ta chưa tập trung hết các nguồn nhân lực vật lực vào việc phục vụ Lời Chúa, mở rộng Nước Chúa; chúng ta chưa tìm kiếm những phương thức thích hợp và hữu hiệu cho việc dạy giáo lý, đào tạo giáo lý viên, tông đồ giáo dân …
Sống Lời Chúa: Quan tâm tiếp cận một ai hay một địa điểm ở vùng sâu vùng xa cần được rao giảng Tin Mừng.
Cầu nguyện: Lạy Cha, hàng tỉ người chưa nhận biết Đức Giê-su, họ cũng là những người được Ngài cứu chuộc. Xin Cha thôi thúc nơi chúng con khát vọng truyền giáo, khát vọng muốn chia sẻ niềm tin, hạnh phúc và bình an của mình cho tha nhân, khát vọng muốn giới thiệu Chúa Giê-su cho thế giới. Amen. (Thắp sáng niềm tin, tr. 71)
12/07 Chọn gọi 12 tông đồ
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Chọn gọi 12 tông đồ.
Thứ Tư tuần 14 thường niên.
"Các con hãy đến cùng chiên lạc nhà Israel".
Lời Chúa: Mt 10, 1-7
Khi ấy, Chúa Giêsu gọi mười hai môn đệ Người lại, và ban cho các ông quyền hành trên các thần ô uế để các ông xua đuổi chúng và chữa lành mọi bệnh hoạn, tật nguyền.
Đây là tên của mười hai Tông đồ: Trước hết là Simon cũng gọi là Phêrô, rồi đến Anrê em của ông, Giacôbê con ông Giêbêđê và Gioan em của ông, Philipphê và Bartôlômêô, Tôma và Matthêu người thu thế, Giacôbê con ông Alphê và Tađêô, Simon nhiệt tâm và Giuđa Iscariô là kẻ nộp Người.
Chúa Giêsu đã sai mười hai vị này đi và truyền rằng: "Các con đừng đi về phía các dân ngoại và đừng vào thành của người Samaria. Tốt hơn, các con hãy đến cùng các chiên lạc nhà Israel. Các con hãy đi rao giảng rằng: 'Nước Trời đã gần đến'".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Chọn các Tông Ðồ
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta trở về cội nguồn của Giáo Hội. Giáo Hội là Thân Thể của Chúa Kitô, Giáo Hội tiếp tục sứ mệnh cứu rỗi của Chúa Kitô. Ðể thực hiện chương trình cứu rỗi, Chúa Giêsu đã kêu gọi một số môn đệ đi theo Ngài để rao giảng Tin Mừng. Trong số các môn đệ ấy, Ngài đã chọn mười hai người làm Tông Ðồ và trở thành cột trụ của Giáo Hội mà Ngài sẽ thiết lập. Nếu Giáo Hội tiếp tục sứ mệnh của Chúa Kitô, thì Giám mục đoàn mà đứng đầu là Ðấng kế vị thánh Phêrô cũng chính là những người tiếp tục làm cột trụ của Giáo Hội.
Chúa Kitô quả thật đã thành lập một Giáo Hội hữu hình có phẩm trật, phẩm trật ấy hiện hữu không ngoài mục đích tiếp tục sứ mệnh Ngài đã ủy thác cho các Tông Ðồ. Do đó, tiếp nhận quyền bính trong Giáo Hội cũng chính là chấp nhận quyền bính mà Chúa Giêsu đã trao cho các Tông Ðồ. Trong Kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng Giáo Hội tông truyền, điều đó không chỉ có nghĩa là Giáo Hội được xây dựng trên nền tảng các Tông Ðồ, mà còn có nghĩa là chúng ta phải chấp nhận quyền bính mà các Tông Ðồ đã truyền lại cho các đấng kế vị, tức Giám mục đoàn mà thủ lãnh là Ðức Giáo Hoàng, đấng kế vị thánh Phêrô. Ðây chính là nền tảng sự hiệp thông trong Giáo Hội. Không thể nói đến hiệp thông khi một Giám mục đứng riêng rẽ bên ngoài Giám mục đoàn để truyền dạy những điều nghịch đức tin và luân lý của Giáo Hội, và cũng không còn là hiệp thông khi một tín hữu không tuân giữ quyền giáo huấn của Giám mục đoàn và của thủ lãnh Giám mục đoàn là Ðức Giáo Hoàng.
Dân chủ vốn là một phạm trù dễ bị lạm dụng. Ngay tại những nước có dân chủ thực sự, thì hai chữ "dân chủ" cũng bị lạm dụng không kém. Khi một luật pháp bất công như luật cho phép phá thai chẳng hạn được số đông bỏ phiếu tán thành, phải chăng đây không phải là một lạm dụng của trò chơi dân chủ. Giáo Hội luôn đề cao tinh thần dân chủ đích thực, nhưng Giáo Hội không hề là một chế độ dân chủ, trong đó các thành phần có thể bỏ phiếu chọn người lãnh đạo hoặc tán thành một khoản luật. Giáo Hội cũng chẳng là một tổ chức mà người ta có thể xếp vào bất cứ chế độ nào. Giáo Hội là Giáo Hội của Chúa Kitô, chân lý chúng ta phải tuyên xưng là do Chúa Kitô mạc khải và ủy thác cho các Tông Ðồ, và truyền lại cho các đấng kế vị các ngài. Luật phải giữ cũng chính là luật của Chúa Kitô đã ủy thác cho các Tông Ðồ và các đấng kế vị các ngài. Tiêu chuẩn cho biết một thành phần Giáo Hội có hiệp thông với Giáo Hội hay không, là tinh thần tuân phục đối với quyền bính của những đấng kế vị các Tông Ðồ.
Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta tinh thần khiêm tốn, để luôn luôn biết đón nhận và tuân phục giáo huấn của Ngài được ủy thác cho các Tông Ðồ và Giáo Hội. Xin Chúa gìn giữ Giáo Hội được hiệp thông quanh đấng kế vị thánh Phêrô mà Chúa đã đặt làm thủ lãnh Giáo Hội.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Một Hội Thánh bên ngoài Hội Thánh
Rồi Đức Giêsu gọi mười hai môn đệ lại, ban cho các ông được quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền. Dọc đường hãy rao giảng rằng: “Nước Trời đã đến gần.” (Mt. 10, 1. 7)
Sai đi truyền giáo
Khi Chúa sai các Tông đồ đi truyền giáo, Chúa cho các ông một chỉ thị rất rõ ràng: “Tốt hơn là anh em hãy đến với các con chiên lạc nhà It-ra-en”. Vậy là có những người mà các tông đồ phải ưu tiên đến với họ. Họ không phải là dân ngoại, cũng không phải là những người xa xăm chưa biết Chúa. Những người đầu tiên mà các môn đệ phải đi tới, đó là những đồng bào của các ông đang sống bất trung và tội lỗi. Các ông phải đến với họ. Các ông phải ra đi tiếp xúc gặp gỡ để loan báo cho họ biết rằng Nước Trời đã đến gần.
Hãy đi ra bên ngoài giáo hội
Chỉ thị trên đây của Chúa, ta hãy đem ra áp dụng đúng vào hoàn cảnh hôm nay của ta. Những người mà ta phải nói cho họ biết về Chúa, lại đang ở rất gần ta. Họ là những người đồng hương với ta. Họ là những người bà con lối xóm của ta. Họ là những người cùn nghề cùng sở làm với ta. Nhưng ta phải đến với họ nhân danh Chúa Giêsu, có nghĩa là vì hạnh phúc đời đời của họ mà ta phải đi bước trước, phải tới gõ cửa nhà họ để giới thiệu cho họ biết có một đấng luôn yêu thương họ, và quan tâm đến vận mệnh đời đời của họ. Bởi vì rất có thể là họ sẽ không đến với ta và Giáo hội.
Có một thời Giáo hội đã quá quen với nếp sống ù lì là thích tiếp nhận những kẻ đến với mình hơn là ra đi đến với họ. Thời đó nay đã qua rồi. Giáo hội không thể là một biệt khu khép kín. Các linh mục không thể chỉ luẩn quẩn làm việc trong nhà xứ. Các tín hữu không thể chỉ coi mình là những nhà truyền giáo cho những người đang sống trong lòng Giáo hội mà thôi. Đã đến lúc phải vượt ra bên ngoài Giáo hội, phải ra khỏi các phòng hội họp của giáo xứ để đi đến những nơi công cộng, để thâm nhập vào mọi nơi, mọi tầng lớp xã hội. Để chu toàn sứ mệnh của mình, Giáo hội phải tỏ mình ra và hành động ở bên ngoài các nhà thờ. Nếu chỉ có ở tại nhà thờ, ta mới biết làm chứng lòng tin của mình, thì thiết tưởng ta vẫn chưa phải là những chứng nhân theo như Chúa muốn.
Suy niệm 3:
1/ Ơn gọi
Bài Tin Mừng theo thánh Mát-thêu kể lại cho chúng ta ơn kêu gọi của các Tông Đồ. Chiêm ngắm ơn gọi của các ngài, sẽ giúp chúng ta hiểu được ơn gọi của chính chúng ta ; bởi vì ơn gọi của các Tông Đồ là khuôn mẫu của mọi ơn gọi ; và mọi ơn gọi đều khơi nguồn từ ơn gọi của các Tông Đồ và tham dự vào ơn gọi của các Tông Đồ.
a. Đức Giê-su kêu gọi
« Khi ấy, Đức Giê-su gọi mười hai môn đệ lại ». Như thế, ơn gọi đến từ chính ý muốn và tiếng gọi của Chúa. Và ơn gọi của chúng ta cũng vậy, cho dù chúng ta đã đến với đời tu như thế nào, bởi những động lực hay lí do nào. Nhưng với thời gian, nhất là trong thời gian huấn luyện, chúng ta được mời gọi đặt đời tu của mình trên nền tảng tận cùng là “Ơn Được Gọi”. Nếu ơn gọi của chúng ta đặt trên một nền tảng khác, thì chắc chắn sẽ sụp đỗ, không sớm thì muộn; và sụp đổ ngay từ bên trong. Và chúng ta cũng được mời gọi hiểu như vậy về ơn gọi đi theo Đức Ki-tô trong đời sống gia đình.
« Khi ấy », nhưng khi ấy là khi nào ? Chúa muốn gọi chúng ta từ khi nào? Chúng ta nghe được tiếng gọi của Chúa vào một lúc nào đó trong cuộc đời ; nhưng theo Thánh Phaolô, Chúa đã gọi và chọn chúng ta ngay từ trong bụng mẹ và từ trước muôn đời :
Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã gọi tôi nhờ ân sủng của Người.
(Ga 1, 15)
Trong Đức Ki-tô,
Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ.
(Eph 1, 4)
Xác tín này giúp chúng ta nhận ra rằng, ơn gọi là một ơn hoàn toàn nhưng không, chúng ta được Chúa tạo dựng là để sống đời dâng hiến.
b. Ngài gọi đích danh
Con số được gọi là Mười Hai. Điều này có nghĩa là số người được gọi là xác định, không có may rủi. Mỗi lớp tập hay mỗi lớp khấn, chúng ta thường so sánh hơn kém, nhiều ít. Nhưng trong Chúa, số người được gọi là xác định từ trước muôn đời.
Và Chúa gọi đích danh từng người: Phêrô, Giacôbê, Gioan… Cũng vậy, Chúa cũng gọi tên từng người chúng ta. Chúng ta hãy hình dung từng khuôn mặt ngang qua tên gọi : ngoại hình, nguồn gốc, tương quan, khuynh hướng, nghề nghiệp, thao thức… Như thế, các môn đệ được Chúa gọi, khi các ông vẫn còn đầy giới hạn, bất toàn như chúng ta. Bởi vì, tiếng gọi của Chúa là nhưng không, đặt hết lòng tin nơi người được gọi. Ghi nhớ lòng tin « muôn ngàn đời » của Chúa đặt để nơi chúng ta, khi chúng ta chưa là gì và khi đã « là gì », thì là gì một cách rất bất xứng và sẽ mãi mãi là gì rất bất xứng, sẽ khởi dậy nơi chúng ta lòng khát khao đáp trả cách quảng đại và nhưng không.
c. Cho sứ vụ
“Đức Giê-su thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt. Bấy giờ, Người nói với môn đệ rằng: Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.” (9, 36-38) Ngài gọi các tông đồ, Ngài gọi chúng ta chính là để cùng với Ngài chạnh lòng thương đám đông và phục vụ cho sự sống của đám đông.
Nhưng chính chúng ta đã là và luôn luôn là đối tượng của tình yêu Thiên Chúa. Kinh nghiệm này thúc đẩy chúng ta biết chạnh lòng thương như Thánh Tâm Chúa. Chúng ta có thể tự hỏi, ngày nay, những ai là “đám đông” như thế, là đối tượng mà Đức Giê-su chạnh lòng thương?
2. Ra đi
Sứ mạng Chúa muốn trao cho các Tông Đồ khi kêu gọi các ngài, là sứ mạng phục vụ cho sự sống, như chính Đức Giê-su đã thực hiện, và sẽ còn thực hiện “cho đến cùng”. Bởi vì sự sống của con người vừa bị lầm than bởi bệnh hoạn tật nguyền đủ loại và có thể xẩy ra ở bất cứ lứa tuổi nào, vừa bị chi phối nặng nề bởi ma quỉ. Ngày nay, thế giới càng hiện đại, ma quỉ càng có nơi ẩn náu kín đáo và phương tiện tinh vi để gieo rắc bầu khí chết chóc vào trong lòng người và trong mối tương quan giữa người với người. Vì thế, trong lời trao sứ mạng của Đức Giê-su, sứ mạng trừ quỉ được đưa lên hàng đầu:
Đức Giê-su gọi mười hai môn đệ lại, để ban cho các ông quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền.
Và bài Tin Mừng kết thúc với chỉ chị phải rao giảng “Nước Trời đã đến gần”. Như thế, dấu chỉ phục vụ cho sự sống gắn liền với mầu nhiệm Nước Trời đang đến. Bởi vì, Nước Trời là Nước của Thiên Chúa hằng sống, là “Đất của những người sống”, Đất của Sự Sống.
Ngoài ra, Đức Giê-su còn căn dặn khá chi tiết: “Anh em đừng đi tới vùng các dân ngoại, cũng đừng vào thành nào của người Samari. Tốt hơn là hãy đến với các con chiên lạc nhà Israel”. Như thế, khi thi hành sứ vụ, chúng ta luôn phải thi hành theo sự hướng dẫn của Lời Chúa, được lắng nghe trong cầu nguyện, qua việc nhận định thiêng liêng hay qua các trung gian. Trong những lời này, Đức Giê-su còn nêu rõ đối tượng của sứ vụ rao giảng Nước Trời: “các con chiên lạc nhà Israel”. Như thế, trong sứ vụ, người môn đệ luôn phải lựa chọn đối tượng ưu tiên; và khi lựa chọn, đừng quên “các con chiên lạc” của Chúa hiện diện ở giữa chúng ta, ở ngay bên cạnh chúng ta.
3. Ở lại
Nhưng trước khi được Đức Giê-su sai đi, các môn được mời gọi “ở lại” với Người, như thánh sử Mác-cô làm rõ chiều kích thiết yếu này của đời sống người môn đệ, khi kể lại ơn gọi của các Tông Đồ: “Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng” (Mc 3, 14). Ở lại với Đức Giê-su và sau đó, được Ngài sai đi, làm nên hai chiều kích căn bản của đời sống chúng ta, đó là cầu nguyện và hoạt động. Hai chiều kích này đan xen vào nhau trong mỗi ngày sống của chúng ta (cầu nguyện hằng ngày), trong tháng sống (tĩnh tâm tháng), trong năm sống (tĩnh tâm năm) hay trong một giai đoạn huấn luyện hay hành trình ơn gọi đặc biệt.
Chúng ta vẫn sống hai chiều kích này mỗi ngày, hay nói đúng hơn, hai chiều kích này vẫn được ban cho chúng ta mỗi ngày, nhưng dưới ánh sáng của Lời Chúa hôm nay, chúng ta được mời gọi nhận ra đó là những điều Chúa muốn, và rằng đó là những điều làm cho chúng ta trở nên giống Chúa, vì đời sống của Chúa cũng được dệt nên bởi hai chiều kích này: “Khi ấy, Đức Giê-su lên núi”; và Ngài lên núi chính là để cầu nguyện, như lời tường thuật của thánh Luca: “Đức Giê-su đi ra núi cầu nguyện, và Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa” (Lc 6, 12).
* * *
Nhưng với hình ảnh cây nho và cành nho, chúng ta được mời gọi ở lại trong tình yêu của Đức Giê-su mọi nơi mọi lúc, để có thể sinh hoa kết quả dồi dào cho vinh danh Chúa:
Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy
(Ga 15, 9)
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
Suy niệm 4:
Đức Giêsu đã cần mười hai bạn trẻ cộng tác với mình,
để làm mục tử cho đàn chiên, làm thợ gặt cho mùa lúa chín vàng,
làm tông đồ cho một nước Paléttin nhỏ bé.
Ngài chia sẻ cho họ uy quyền mình có và sứ vụ mình làm (c. 1).
Con số mười hai gợi nhớ mười hai chi tộc Israel ngày xưa.
Giáo Hội Ngài thiết lập sẽ là Israel mới, đặt nền trên mười hai bạn trẻ.
Chúng ta khó hình dung khuôn mặt riêng của mỗi vị tông đồ,
nhưng ta biết tên của họ qua các sách Tin Mừng, dù có chút dị biệt.
Họ có cá tính và cuộc đời riêng, nhưng đều được gọi bởi Thầy Giêsu,
và được Thầy sai đến với dân tộc mình là Israel (c. 6).
Tin Mừng Mátthêu kể tên nhóm Mười Hai theo từng cặp.
Simôn Phêrô đứng đầu danh sách, còn Giuđa Ítcariốt thì đứng cuối.
Chỉ sau này ta mới biết Simôn sẽ chối Thầy và Giuđa sẽ phản bội.
Có những cặp anh em ruột: Simon và Anrê, Gioan và Giacôbê.
Có người làm nghề thu thuế cho quân đô hộ: Mátthêu.
Có người lại muốn dùng vũ trang giải phóng đất nước: Simôn nhiệt thành.
Có ba người được coi là môn đệ thân tín: Phêrô, Gioan và Giacôbê.
Nói chung đa số là những người ít học thức, làm nghề đánh cá.
Được sai đi thật là một thách đố đối với họ.
Họ có làm nổi những việc Thầy giao không?
Vào thời Đức Giêsu, rao giảng “Nước Trời đã đến gần” là điều không dễ.
Để người ta tin chuyện đó, cần phải minh chứng bằng hành động cụ thể,
như chữa lành bệnh hoạn và khử trừ thần ô uế.
Vào thời nay, rao giảng Tin Mừng Nước Trời lại càng không dễ.
Rao giảng vẫn phải đi kèm với các việc phục vụ con người.
Lập một bệnh xá, bắc một cây cầu, đào một giếng nước,
giúp trẻ em nghèo đến trường, đưa người cai nghiện về lại với cộng đoàn,
cho các cô gái lầm lỡ có chỗ sinh con và nuôi con…
Giáo Hội đã làm nhiều việc và vẫn còn bao nhu cầu mới mẻ.
Nhưng có một việc mà xã hội hôm nay không biết là mình đang cần,
đó là được giải phóng khỏi những thần ô uế mới đang ám ảnh con người.
Mười Hai tông đồ ngày xưa đã đi khắp mảnh đất Paléttin,
và đã đặt chân đến những vùng đất mới.
Thế giới hôm nay rộng hơn và phẳng hơn xưa.
Chúng ta được Đấng Phục sinh sai đến mọi dân tộc (Mt 28, 20).
Các phương tiện truyền thông ngày nay giúp ta dễ dàng làm chuyện đó.
Nhưng chúng ta vẫn không được quên, trên quê hương Việt Nam
gần 80 triệu đồng bào chưa đón nhận Tin Mừng.
Cầu nguyện :
Lạy Cha,
Cha muốn cho mọi người được cứu độ
và nhận biết chân lý,
chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức Giêsu, Con Cha.
Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người
chưa nhận biết Đức Giêsu,
họ cũng là những người đã được cứu chuộc.
Xin Cha thôi thúc nơi chúng con
khát vọng truyền giáo,
khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc,
niềm vui và bình an của mình cho tha nhân,
và khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới.
Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực
trước sứ mạng đi đến tận cùng trái đất
để loan báo Tin Mừng.
Chúng con chỉ xin đến
với những người bạn gần bên,
giúp họ quen biết Đức Giêsu và tin vào Ngài,
qua đời sống yêu thương cụ thể của chúng con.
Chúng con cũng cầu nguyện
cho tất cả những ai đang xả thân lo việc truyền giáo.
Xin Cha cho những cố gắng của chúng con
sinh nhiều hoa trái. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.