Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
17/12 Làm chứng về sự sáng
- Viết bởi Ga 1, 6-8. 19-28
Làm chứng về sự sáng.
Chúa Nhật 3 Mùa Vọng năm B.
"Giữa các ngươi có một Ðấng mà các ngươi không biết".
Lời Chúa: Ga 1, 6-8. 19-28
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Có người đã được Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến như chứng nhân để làm chứng về sự sáng, hầu mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là sự sáng, nhưng ông chỉ làm chứng về sự sáng. Và đây là chứng của Gioan, khi những người Do-thái từ Giêrusalem sai các vị tư tế và các thầy Lêvi đến hỏi ông: "Ông là ai?" Ông liền tuyên xưng, ông không chối, ông tuyên xưng rằng: "Tôi không phải là Ðấng Kitô". Họ liền hỏi: "Thế là gì? Ông có phải là Elia chăng?" Gioan trả lời: "Tôi không phải là Elia". - "Hay ông là một đấng tiên tri?" Gioan đáp: "Không phải". Họ liền bảo: "Vậy ông là ai, để chúng tôi trả lời cho những người sai chúng tôi. Ông tự xưng là ai?" Gioan đáp: "Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi, như tiên tri Isaia đã loan báo". Và có những người thuộc nhóm biệt phái cũng được sai đến. Họ hỏi Gioan rằng: "Nếu ông không phải là Ðức Kitô, cũng không phải là Elia hay một tiên tri, vậy tại sao ông làm phép rửa?" Gioan trả lời: "Tôi làm phép rửa trong nước; nhưng giữa các ngươi, có Ðấng mà các ngươi không biết. Ðấng ấy sẽ đến sau tôi, nhưng chính Ðấng ấy đã có trước tôi và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người". Việc này xảy ra tại Bêtania, bên kia sông Giođan, nơi Gioan làm phép rửa.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 3 MÙA VỌNG B
Lời Chúa: Is 61, 1-2a.10-11; 1Tx 5,16-24; Ga 1, 6-8.19-28
1. Người dọn đường
Đoạn Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy được khuôn mặt của Gioan Tiền Hô.
Thực vậy, công việc của ông đã thu hút được sự chú ý của đông đảo người Do Thái, nhất là hàng lãnh đạo trong dân về mặt tôn giáo. Chính vì thế, họ đã thắc mắc, muốn biết rõ lý lích của ông cũng như vai trò của ông trong lịch sử cứu độ. Họ đã sai người đến đặt câu hỏi: Ông là ai? Là Đức Kitô? Là Elia? Hay là một tiên tri? Đó là những nhân vật mà họ tin rằng sẽ trở lại nơi trần gian, để rao giảng sự thống hối vào những ngày cuối cùng.
Lời giảng và việc làm của Gioan đã lay động xã hội thời bấy giờ. Tuy nhiên, ông đã xác quyết rằng mình chỉ là một nhân chứng, một người giới thiệu cho một Đấng đang ở giữa họ mà họ không biết. Đấng ấy là người đến sau ông, nhưng lại lớn hơn ông. Hiểu theo nghĩa là nắm giữ vai trò chủ chốt. Và như thế, Gioan đã đặt chúng ta trước ngưỡng cửa một thời đại mới. Thời đại cứu chuộc, thời đại Emmanuel, Con Thiên Chúa xuống thế làm người và ở giữa chúng ta. Trong thời đại ấy, những người nghèo khổ được đón nhận Tin Mừng, những tâm hồn đau thương được băng bó, những kẻ lưu đày được ân xá, Và đó chính là thời đại hồng ân của Thiên Chúa.
Còn chúng ta thì sao? Ngày hôm nay chúng ta cũng đang sống trong thời đại hồng ân của Thiên Chúa. Thế nhưng, cuộc sống của chúng ta có phản ảnh được cái tinh thần của thời đại mới ấy hay không? Bởi vì cuộc sống chung quanh chúng ta vẫn còn quá nhiều những nghèo khổ, túng thiếu, bất công, bóc lột và thù hận. Chúng ta đã làm được gì cho những người chung quanh, để họ nhận cũng nhận biết tình thương và ơn sủng của Thiên Chúa.
Ước chi việc làm và đời sống của mỗi người chúng ta cũng sẽ trở nên một thứ tiếng kêu, thức tỉnh những người chung quanh biết hướng nhìn về Chúa và nhất là biết đón nhận Chúa trong mùa Giáng Sinh này.
2. Làm chứng
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay đã đưa ra những câu hỏi để truy tìm tông tích, lý lịch, dung mạo và vai trò của Gioan tiền hô, nhưng thực ra là truy tìm chính Đức Kitô, Đấng Cứu Thế.
Bấy giờ, mọi người ở Giêrusalem đã bị khuấy động bởi những chuyện khác thường. Thế nhưng, những câu hỏi nêu lên lại không đi ra ngoài những khuôn mẫu sẵn có: là Elia, là tiên tri? Và Gioan đã chỉ có thể trả lời không. Bao lâu người ta còn loanh quanh trong những cái có sẵn, người ta không thể nhận ra Ngài. Sự hiện diện của Ngài đã là một sự độc đáo. Gioan đã phải vất vả để dứt cái nhìn của đám đông ra khỏi con người của ông để hướng về chính Đấng họ đang tìm kiếm. Và Đấng ấy đang ở giữa họ, nhưng họ chưa nhận ra. Gioan quả đã là người chứng đích thực vì ông đã không ngăn cản ánh sáng chiếu tới họ.
Muôn ngàn những bận rộn trong ngày chuẩn bị lễ Giáng sinh của chúng ta cũng có thể được coi là những câu hỏi về dung mạo của Đấng chúng ta đang chờ đợi và tìm kiếm. Những cuộc vui chơi với bè bạn. Những chiếc hang đá xinh xinh và gợi cảm. Những món quà đắt giá, những chiếc bánh truyền thống, những bài hát thơ mộng, những ánh đèn muôn màu và rồi những buổi lễ long trọng. Lễ Giáng sinh có thể được làm nên bởi những thứ đó, nhưng tất cả những thứ đó được lặp lại hàng năm, có phải là giáng sinh? Có phải đó là lễ giáng sinh của ngày hôm nay? Chúng ta chỉ có thể trả lời: Không phải và không thể.
Bởi lẽ giáng sinh là một con người, con người ở giữa chúng ta trước khi là một ngày lễ. Con người ấy được nhận diện không phải bằng những lời giới thiệu, những bài giảng hay bằng các nghi lễ, mà trước tiên bằng chính việc làm. Không phải những việc làm thuộc loại gây chấn động trong thiên hạ, gây kin ngạc và thán phục, những việc làm ngoạn mục xuất chúng.
Bài đọc hai đã kê khai những việc làm của Đấng được xức dầu, tức là Đức Kitô: Loan báo Tin Mừng cho kẻ khó nghèo, băng bó những tấm lòng tan nát, tuyên bố việc ân xá cho những bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa. Và Đức Kitô đã khẳng định: Chính Ngài là người đã thực hiện những việc làm này, và chính Ngài cũng đã từng trả lời với những ai đang thắc mắc về Ngài: Hãy nhìn những việc làm để nhận ra Ngài là ai. Ngài quả là Đức Kitô, vì Ngài đã làm những việc của người đã được Thiên Chúa xức dầu. Đức Kitô đã chết và đã được tôn vinh, nhưng Ngài vẫn hiện diện giữa con người. Theo ánh sáng của lòng tin, chúng ta biết được Ngài hiện diện ở đâu có những nỗ lực và hành động giải phóng, đưa con người bị vùi dập bạc đãi, bị kỳ thị, bị tước mất quyền làm người. Mỗi người chúng ta có bổn phận phải làm chứng. Làm chứng không phải chỉ bằng lời nói mà chủ yếu bằng việc làm. Những việc làm của chính Đức Kitô, Đấng được xức dầu.
Thế nhưng nhiều khi chúng ta chuẩn bị mừng lễ giáng sinh bằng sự phô trương chính mình thay vì là một chứng tá sống động về sự hiện diện của Đức Kitô, Đấng mà mọi người đang mong đợi và tìm kiếm.
3. Gioan Tiền Hô
Sống dưới ách thống trị của đế quốc La-mã dân Do Thái luôn trông chờ một Đấng cứu thế do Thiên Chúa sai đến. Họ đã mượn nỗi khắc khoải của cha ông thuở trước để cầu xin: Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây hãy mưa Đấng cứu đời. Chính vì thế, khi Gioan xuất hiện bên bờ sông Giođan, họ đã phấn khởi vui mừng. Và rồi họ đã cử một phái đoàn đến để tìm hiểu cho cặn kẽ và thấu đáo. Những người này đã hỏi Gioan: Ông là ai, ông có phải là Đức Kitô hay không. Gioan đã xác quyết với họ: Tôi không phải là Đấng Cứu Thế, nhưng tôi chỉ là người tiền hô, đi trước để dọn đường cho Ngài. Hãy chuẩn bị vì Ngài sắp đến. Hãy sám hối ăn năn vì Nước Trời đã gần. Ông không để cho người ta chú ý tới ông mà trái lại, ông hướng mọi sự chú ý của họ vào Đức Kitô: Ngài cần phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi.
Qua sứ điệp của Gioan Tiền Hô, chúng ta rút ra hai điểm thực hành. Điểm thứ nhất đó là hãy sám hối, cải thiện đời sống. Thực vậy, Chúa không phải chỉ đến với chúng ta trong đêm giáng sinh, mà hơn thế nữa Ngài còn đến với chúng ta vào ngày tận cùng của vũ trụ, cũng như vào ngày sau hết của cuộc đời chúng ta. Và hơn thế nữa, Ngài còn đến với chúng ta mỗi ngày qua bí tích Thánh Thể. Như thế cuộc đời chúng ta phải là một mùa vọng nối dài. Và trong mùa vọng cuộc đời này chúng ta phải thực hiện ngay sứ điệp của Gioan Tiền Hô, đó là hãy sám hối, dọn đường Chúa đến. Sám hối ở đây không phải chỉ là hối tiếc về những tội đã phạm mà hơn thế nữa còn phải cố gắng uốn nắn sửa đổi để nhờ đó thăng tiến bản thân, đổi mới cuộc đời.
Điểm thứ hai, đó là hãy trở nên những tiền hô cho Chúa. Thực vậy, là người Kitô hữu, chúng ta không phải chỉ có Chúa trong tâm hồn, mà hơn thế nữa, còn phải đem Chúa đến cho người khác. Dọn đường cho Chúa đến trong tâm hồn của mình mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải dọn đường để Chúa cũng đến được trong tâm hồn người khác. Muốn được như thế, chúng ta cần phải có một đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, nhờ đó mà dần dần chúng ta có thể cảm hoá được những người chung quanh và dẫn đưa họ trở về cùng Chúa.
Dọn đường Chúa đến trong tâm hồn mình và giúp người khác dọn đường Chúa đến trong tâm hồn họ đó là việc chúng ta cần phải làm ngay trong mùa vọng này.
4. Vui mừng và hy vọng.
(Trích trong ‘Tin Vui Xuân Lộc”)
Hôm nay bước vào tuần thứ ba mùa vọng, Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy vui mừng và hy vọng, lời mời gọi này có thừa không khi, nhìn từ bên ngoài xã hội chúng ta đang sống đã có qua nhiều các hình thức và tụ điểm vui chơi, phương tiện giải trí? Mọi người mọi tầng lớp đều có những điểm gọi là “điểm vui chơi”. Người có nhiều tiền thì vui chơi theo kiểu cao cấp quý tộc, người bình dân vui chơi theo kiểu bình dân, người lớn vui chơi theo kiểu của người lớn, trẻ em và thanh niên vui chơi theo kiểu thanh thiếu niên, ví dụ quán bar, quán bia, caraoke, caphe… là nơi người ta đến để giải sầu, tìm vui, nghèo hơn nữa thì vài lít rượu với mấy quả ổi, con mực cũng được gọi là lai rai cho vui. Vui cũng uống, buồn cũng uống và không buồn không vui cũng uống. Bên cạnh đó, người ta còn tạo ra đủ mọi thứ lể hội để đem niềm vui cho mọi người
Thưa quý OBACE, như vậy, cuộc sống và xã hội này có thực sự đem đến cho chúng ta niềm vui hay không, nếu thực sự có, thì tại sao khi trở về nhà, họ lại cảm thấy buồn bã và trống rỗng, và họ vẫn cứ phải tìm kiếm một nơi nào đó để vui, để giải sầu mà càng “uống chén tiêu sầu càng sầu thêm”!
Thế giới chúng ta đang sống là một thế giới vô thần, là một thế giới người ta đang muốn loại trừ Thiên Chúa ra khỏi xã hội và khỏi tâm hồn con người, mà một thế giới, một tâm hồn không có Thiên Chúa là một thế giới bất an, một thế giới lo âu khắc khoải không niềm vui. Nơi nào, tâm hồn nào không có Thiên Chúa thì nơi ây, tâm hồn ấy chỉ còn là hỏa ngục, buồn bã và thất vọng, và không có gì ở thế gian này có thể đem lại niềm vui cho những tâm hồn ấy được.
Lời Chúa hôm nay đem đến và mời gọi chúng ta hãy tận hưởng một niềm vui và hy vọng hoàn toàn khác với các niềm vui trống rỗng của thế gian, đây là niềm vui thực sự phát xuất từ trong tâm hồn được thể hiện ra bên ngoài qua nét mặt qua cuộc sống, đó là niềm vui có Chúa và niềm vui của Chúa.
Niềm vui ấy trước hết là niềm vui được giải thoát, được đổi mới. Tiên tri Isaia đã mở ra cho chúng ta một tương lai hy vọng, như ánh sáng bừng lên trong bóng tối, vì thời của Đấng Cứu thế đến, Ngài không chỉ chữa lành những đau đớn bệnh tật thể xác, mà Ngài còn chữa lành những bênh tật trong tâm hồn và lấp đầy những khát vọng buồn chán trong tâm hồn con người, Ngài giải thoát con người khỏi nô lệ của tội lỗi, sự tù đày của dục vọng: Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, Ngài đã xức dầu cho tôi, sai tôi đem Tin Mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương dập nát, giải phóng cho kẻ bị giam cầm, tuyên bố năm hồng ân của Thiên Chúa. Niềm vui Đấng cứu thế còn là niềm vui của hy vọng và hân hoan, như niềm vui của cô dâu và chú rể, và như niềm vui của đất đai đâm chồi nảy lộc, niềm vui vì được đổi mới. Niềm vui này con người thế gian không thể mang lại, chỉ có Thiên chúa mới có thể đem đến cho chúng ta.
Kế đến đó là niềm vui trong cầu nguyện gặp gỡ Thiên Chúa. Sự trống rỗng hời hợt của nhiều người và kể cả của nhiều Kitô hữu hôm nay đó là vì họ không có Chúa trong tâm hồn, bởi vì họ để mình bị cuốn trôi theo dòng chảy của xã hội của cơm áo gạo tiền, bởi những thú vui bên ngòai, họ sống một cách hời hợt không chiều sâu, không mục đích. Trong khi đó Thánh Phaolô khuyên tín hữu Thesalônica: Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh… đừng dập tắt Thần khí, chớ khinh thường ơn nói tiên tri, hãy cân nhắc mọi sự điều gì tốt thì giữ và điều xấu dưới bất cứ hình thức nào thì tránh cho xa. Khi sống như thế, Thánh Phaolô khẳng định thiên Chúa là nguồn mạch niềm vui và bình an sẽ gìn giữ anh em.
Bài Tin mừng giới thệu cho chúng ta một niềm vui khác, đó là niềm vui vì nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời mình. Gioan Tiên Hô là người đã có kinh nghiệm này. Lúc bắt đầu sứ mạng rao giảng, Gioan đã rất thành công vì ông đã thu hút được rất nhiều người, mọi người kính trọng và đến với ông, thậm chí ông còn trở thành một dấu hỏi lớn đối với họ. Vì thế Những người Do Thái đã cử một số thày Tư tế và Lêvi đến hỏi Gioan: Ông là ai? Ông có phải là đấng Cứu thế không? Gioan mặc dù đang rất thành công, nhưng ông không nhận điều không có về cho mình, mà ông đã rõ ràng dứt khoát từ chối: Tôi không phải là Đấng Kitô, Tôi không là Elia mà ông chỉ nhận mình: Tôi là tiếng kêu trong hoang địa, hảy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi. Tức là Gioan vui với sứ mạng của mình là người dọn đương cho Đấng cứu thế, Đấng ây ông biết rất rõ Ngài đang ở giữa các ngươi mà các ngươi không biết, còn Gioan đã biết và đã nhận ra Ngài và còn nhận ra uy quyền tối cao của Ngài, mà ông khiêm tốn cho rằng mình không đáng cúi xuống cởi dây dép cho Ngài.
Gioan không buồn vì mình phải lui bước, cũng không sợ mất ảnh hưởng, không níu kéo vinh quang uy tín về cho mình, trái lại ông vui vì ông đã chu tòan sứ mạng, ông ý thức rằng ông phải nhỏ đi để Người được lớn lên; ông đến để làm chứng về ánh sánh để mọi người nhờ ông mà tin, chứ ông không phải là ánh sáng, và mọi người, để đón nhận được niềm vui từ Đấng Cứu Thế cần có một thái độ tiên quyết đó là có lòng sám hối, thay đổi đời sống, được biểu lộ ra bên ngoài bằng việc lãnh phép rửa mà ông đang thực hiện, phép rửa của ông chì là một dấu hiệu bày tỏ lòng sám hối, vì ông biết việc ông làm không có sức tha tội, chỉ có Đấng đến sau ông sẽ tẩy rửa tôi lỗi nhân loại bằng Thánh Thần, và ai chấp nhận để cho Thiên Chúa tẩy rửa và uốn nắn, người ấy sẽ có được niềm vui, hoặc đúng hơn chính Đấng ấy sẽ ban tặng cho họ niềm vui vì được làm con cái Chúa.
Thưa quý OBACE, chúng ta đang vui hay chúng ta đang buồn? Chúng ta có thực sự cảm nhận được niềm vui Chúa đem đến cho chúng ta hay không? Ngoài đường phố đã rộn ràng những bài thánh ca, những trang trí giáng sinh, ở trong siêu thị và các nhà hàng cũng tưng bừng với các chương trình cho mùa Giáng sinh mà họ gọi là mùa Noel. Vâng! Có thể người kitô hữu chúng ta cũng sẽ chỉ vui một cách hời hợt ở bên ngoài, nếu chúng ta chỉ chú ý đến những trang trí bên ngoài mà không chuẩn bị để có được niềm vui đón Chúa đến trong tâm hồn. Nhiều người nhiều gia đình lo chuẩn bị những chương trình, đi chơi hay ăn uống trong đêm Giáng sinh sắp tới mà không chuẩn bị cho Chúa có một chổ nhỏ ấm áp trong tâm hồn trong gia đình mình.
Khi chúng ta đã để cho bao thứ lo toan ràng buộc trong cuộc sống chiếm hết thời gian và tâm hồn khiến cà ngày sống chúng ta cứ cảm thấy mình trống rỗng và lao vào tìm kiếm mà không biết mình tìm kiếm điều gì. Chúng ta sẽ không thể nào vui khi chúng ta không dám để cho Chúa gỡ bỏ những gánh năng của cuộc đời, không dám để cho Chúa chia sẻ với nhữ lo toan nhọc nhằn của chúng ta như Chúa hằng mong muốn: Hãy đến với ta hỡi những ai vất vả nặng nề- ta sẽ nâng đỡ bổ sứ cho.
Chúng ta sẽ không vui và sẽ cảm thấy trống rỗng khi chúng ta không dám dừng lại, khi không dám sống trong sự thinh lặng, vì chúng ta sợ phải đối diện với chính mình và đối diện với Thiên Chúa; Chúng ta sẽ không thể vui khi trong lòng còn những bận vướng với anh em. Chúng ta sẽ không thể cảm nhận được niềm vui và hy vọng khi chúng chúng ta không có giờ cho việc cầu nguyện gặp gỡ Thiên chúa, cầu nguyên riêng tư một mình với Chúa, hoặc cầu nguyện chung trong gia đình, hay khi chúng ta cùng họp nhau nơi đây để cử hành thánh lễ, chính là lúc chúng ta được gặp Chúa, được lấp đầy những khoảng trống trong tâm hồn và tìm được niềm vui sâu xa.
Sau cùng, chúng ta chỉ thực sư vui khi chúng ta sống và làm việc trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn hiện diện trong cuộc đời chúng ta, ở bên chúng ta, trong Bí tich Thánh Thể, nơi những người anh em, có điều là chúng ta có nhận ra sự hiện diện yêu thương nâng đỡ của Ngài hay không? Chỉ khi nhận ra và làm việc trong sự hiện diện của Ngài chúng ta sẽ tìm được niềm vui và bình an. Điều cũng cần lưu ý, là Thiên Chúa chỉ hiện diện trong một tâm hồn sạch tội, một tâm hồn khiêm nhường hối cải, một tâm hồn không chất chứa sư thù oán ghen tị giận hờn… khi thực lòng thanh tẩy và sửa chữa những sai lầm nhờ Bí tích giải tội, ơn tha thứ sẽ được ban cho chúng ta và chắc chắn mỗi người sẽ cảm nhận được niềm vui và sự bình an vì biết mình được yêu thương tha thứ.
Xin cho mỗi người không chỉ chuẩn bị bên ngoài cho ngày lễ Giáng sinh, mà còn biết chuẩn bị tâm hồn để niềm vui và ân phúc của mủa Giáng sinh được trọn vẹn nơi mỗi người. Amen.
5. Sống chứng nhân như Gioan Tiền Hô
Sống cho tình yêu. Đó là là mời gọi mà con người cần đáp trả. Bởi lẽ, con người được sinh ra vì tình yêu và vì thế nên được mời gọi sống cho tình yêu. Gioan Tiền hô đã hoàn thành thiên chức này và ngài mời gọi mỗi người chúng ta cũng hãy sống và làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa.
Thật thế, Gioan Tiền Hô là một nhân vật quan trọng luôn được nhắc tới trong Mùa Vọng, vì ngài là vị Tiền Hô đi trước kêu gọi người ta dọn lòng đón mừng Đấng Cứu Thế đến bằng cách thay đổi, cải thiện đời sống. Bài Tin Mừng cho chúng ta thấy một điều nổi bật trong cuộc đời tiền hô của ngài, đó là làm chứng cho Chúa Cứu Thế.
Gioan rao giảng và làm chứng cho Đấng Cứu Thế: "Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên ông là Gioan, ông đã đến để làm chứng, để chứng thực về sự sáng, ngõ hầu mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là sự sáng, nhưng là người làm chứng cho sự sáng". Sự sáng ở đây là Đấng Cứu Thế. Gioan đã làm chứng cho Đấng Cứu Thế một cách trung thành nhất, bất vụ lợi nhất, kiên trì nhất và hoàn hảo nhất. Ngài đã làm chứng bằng lời nói, bằng hành động và bằng cái chết.
Gioan Tiền Hô đã làm tròn bổn phận của mình là một ngôn sứ là phát loa, là loan báo về Đấng Cứu Thế. Gioan xuất hiện bên bờ sông Giorđan, rao giảng, kêu gọi người ta sám hối. Dân chúng tuôn đến với ông, nghe ông và làm theo điều ông rao giảng...Họ tuôn đến đông đảo khiến cả nhà cầm quyền lẫn các người lãnh đạo trong tôn giáo lúc bấy giờ rất đỗi kinh ngạc. Họ đề cử các phái đoàn đến để tra vấn Gioan để biết xem ông là ai? Gioan không xuất trình cho họ về chứng minh thư của mình, hoặc hộ khẩu, đã không nêu tên tuổi, lý lịch, địa chỉ, bằng cấp...Ông chỉ nói rõ sứ mạng và nhiệm vụ của mình: "Tôi chỉ là tiếng nói trong hoang địa, chuẩn bị đường đi cho Đấng Cứu Thế, sau tôi một Đấng sẽ đến, Đấng ấy đã có trước tôi, cao trọng hơn tôi nhiều, và tôi không đáng xách dép cho Ngài". Rồi khi Chúa Giêsu đến, Gioan đã chỉ vào Chúa và nói với dân chúng: "Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh hết mọi tội trần gian". Như một người phát ngôn trung thành, Gioan loan báo cho mọi người biết: Chúa Giêsu chính là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế. Như thế, Gioan Tiền hô hướng toàn bộ cuộc đời ông về Chúa Giêsu. Bản thân ông không là gì cả. Cuộc đời ông, sứ mạng của ông chính là loan báo Đấng Kitô. Ngài đến mạc khải cho con người ý nghĩa của cuộc sống và lịch sử của họ. Ngài mang đến cho con người mối phúc: Thiên Chúa là tình yêu, là ơn tha thứ, niềm vui và bình an cho nhân loại.
Không những làm chứng bằng lời nói, Gioan còn làm chứng bằng hành động và gương sáng. Gioan kêu gọi được người ta ăn năn sám hối, trở về với Chúa. Lời giảng của Gioan đi đôi với hành động của Ngài. Thực vậy, Gioan đã lấy cuộc đời khổ hạnh để làm chứng cho người tôi tớ của Giavê, ngài đã sống khó nghèo để làm chứng cho Con Người không có chỗ dựa đầu. Gioan rất vui mừng nhường môn đệ cho Chúa Giêsu, không một chút ghen tương, không một chút nuối tiếc. Ông làm chứng Chúa Giêsu mới là vị tân lang của họ, còn ngài chỉ là bạn hữu đến sửa soạn tiệc cưới mà thôi. Gioan kêu gọi người ta thực hành bác ái và ngài đã thực sự mến Chúa yêu người. Gioan kêu gọi người ta hy sinh và ngài đã sống khắc khổ và hy sinh vì người khác. Như thế, ngài được mọi người nghe và làm theo lời ngài giảng dạy là vì ngài chỉ nói những gì ngài đã sống, đã làm, đã kinh nghiệm. Lời nói và gương sống của Gioan đã làm chuyển biến lòng người. Đời sống và gương sáng của ngài đã thuyết phục được mọi người.
Sau hết, Gioan luôn trung thành với nhiệm vụ của mình cho đến chết. Ngài làm chứng cho Sự Thật bằng chính cái chết của mình. Ngài tố cáo cuộc hôn nhân bất chính của vua Hêrôđê với bà Hêrôđia, vợ của anh vua, nên ngài đã bị tống giam vào ngục. Cuối cùng, Ngài phải chết. Ngài đã chấp nhận cái chết chứ không chịu để cho đạo lý bị chà đạp, chấm dứt nhiệm vụ chứng nhân của mình. Cuộc đời chứng nhân của Gioan Tiền Hô là một bài học đáng giá cho chúng ta.
Hôm nay, Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy can đảm ra khỏi con người ích kỷ, nhỏ bé, tầm thường của mình để Lời Chúa và tình yêu tự lòng mình thúc đẩy để chúng ta có thể sống đời sống mới, đời sống chứng nhân cho Chúa, cho tình yêu.
Ngày nay, nếu ai đó hỏi chúng ta là ai, chúng ta sẽ trả lời như thế nào? Chắc hẳn, chúng ta không đơn giản trả lời bằng cách xuất trình giấy chứng minh có ghi tên tuổi, hay đưa cho họ xem quyển sổ gia đình công giáo của mình đã ghi tên vào đạo Công Giáo, đã được rửa tội, hoặc không chỉ nói bằng lời mà phải thể hiện chính bằng đời sống chứng nhân của mình cho dù bị thiệt thòi vì Chúa Kitô. Thật thế, trọn cả cuộc đời chúng ta phải nói về Chúa Kitô, phải loan báo Chúa kitô và sứ mạng của Người. Đồng thời, chúng ta phải sống chứng nhân bằng những việc làm cụ thể trong cuộc sống mình, sống làm chứng cho tình yêu đối với Chúa Kitô và đối với con người. Hẳn là Chúa không đòi chúng ta phải sống khắc khổ hay đổ máu đào như Gioan, nhưng Chúa đòi chúng ta phải là chứng nhân, sống như Gioan trong đời sống hiện tại của mình, nghĩa là chúng ta phải là ánh sáng, là muối, là men của trần gian, phải sống như bông sen giữa bùn lầy. Chúng ta làm chứng cho Chúa chính cách sống của mình, sự chọn lựa như chính Chúa Kitô đã sống. Tôi phải sống cởi mở, can đảm, thẳng thắn làm chứng cho Chúa Kitô, đem niềm vui đến cho mọi người. Làm chứng tá như thế, người ta sẽ nhận ra chúng ta chính là Kitô hữu, người có Chúa Kitô, người sống niềm tin Kitô. Vì thế, mỗi người phải là một Gioan Tiền Hô, phải sống và là chứng tá cho Chúa kitô nơi gia đình, nhà trường, nơi chốn làm việc và ngoài xã hội. Mỗi người chúng ta hãy sống và yêu mến việc làm chứng cho Chúa kitô để mọi người nhận ra và đón nhận ơn cứu độ của Chúa Kitô.
Hơn nữa, để can đảm dám sống và dám chết đi mỗi ngày cho Chúa Kitô, là những người Kitô hữu, những người yêu mến Chúa Kitô, yêu mến Chúa Kitô như người bạn như ân nhân, như là lẽ sống, như là người quan trọng nhất của chúng ta. Chúng ta yêu mến Ngài. Chính tình yêu này là động cơ thúc đẩy chúng ta sống vì ngài, sống cho ngài và trở nên thuộc về ngài. Chúng ta bước đi trong tình yêu của Ngài. Tình yêu sẽ giúp chúng ta chiến thắng nghịch cảnh, bản thân.
Chúa Nhật hôm nay được gọi là "Chúa Nhật Vui". Đó là niềm vui lớn lao và tràn đầy hy vọng của những người tin vào Đấng Cứu Thế và đang hân hoan chờ đón Ngài. Chúng ta hãy thể hiện niềm vui có Chúa Kitô, niềm vui đợi chờ Chúa Kitô đến bằng đời sống chứng tá, bằng đời sống yêu thương chân thành của mình.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin củng cố lòng mến cho chúng con và thêm đức tin để chúng con sống vui, sống thêm tin yêu vào Thiên Chúa. Đó còn là cách thế chúng con là chứng cho Chúa giữa đời. Amen.
6. “Hãy vui lên” – Barbara E. Reid.
(Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Có một người ở giữa các anh mà các anh không nhận ra” (Ga 1,26).
Chúa Nhật hôm nay được gọi là Chúa Nhật Gaudete, hạn từ Latinh mang ý nghĩa "Hãy vui lên”. Sứ điệp “Hãy vui lên” được dàn trải trong cả 3 bài đọc. Niềm vui của dân Israel được trở về cố hương sau cuộc lưu đày, cùng với niềm vui của Đức Maria được diễn tả qua kinh Magnificat chúng ta đọc lên trong Thánh vịnh đáp ca, và niềm vui mọi nơi mọi lúc mà Thánh Phaolô nói tới trong thư gửi giáo đoàn Thessalonica, là tư tưởng chính của chủ đề phụng vụ hôm nay. Diễn bày sự vui mừng trong mọi trạng huấn mà cả ba bài đọc nhắc đến, không phải là những tình cảm hời hợt nhất thời, hay chỉ là một ý niệm trừu tượng mông lung. Đây chính là niềm vui sâu tận trong tâm hồn, khi chúng ta nhận ra những dấu chỉ rõ rệt diễn bày tình yêu quan phòng của Thiên Chúa.
Isaia vạch dẫn những lý do rất quen thuộc để kiến tạo niềm vui: Những tâm hồn tan nát được chữa lành, người bị giam cầm được phóng thích, sự giải cứu cho những ai bị bắt bớ. Đây là những điều tương hợp, giống nội dung khi Đức Giêsu nói về sứ mạng cứu thế của Ngài (Lc 4, 18-19). Những động thái giải phóng này được nói tới trong sách Lêvi chương 25 khi đề cập đến năm hồng ân. Cứ 50 năm một lần, người Do Thái cử hành năm hồng phúc này. Mọi nợ nần được xóa bỏ, đất đai bị cầm cố được trả về cho chủ nhân, những ai bị giam giữ được tha bổng. Chúng ta không biết ngày xưa năm hồng phúc, như sách Levi nhắc tới, được tổ chức như thế nào, nhưng ý nghĩa của nó vẫn được lập lại ngày hôm nay, nhất là trong mùa vọng này.
Khi con người bị nợ nần về kinh tế, hoặc bị giam giữ và tự do bị tước đoạt, thì quà tặng năm hồng ân quả là quý giá đối với họ. Họ chẳng tốn kém gì nhưng chỉ cần rộng mở tâm hồn và đón nhận hồng ân được ban trao. Ví dụ, khi tôi biểu tỏ sự tha thứ cho một ai đó đã xúc phạm hay nợ nần đối với tôi, tôi có cảm giác như đang khoác cho họ “chiếc áo choàng cứu độ”, hoặc giống như một chiếc “áo công chính” được mặc vào cho cả hai chúng tôi, tựa như chúng tôi đón nhận chính tình yêu hòa giải và ơn cứu độ từ nơi Thiên Chúa. Đây qủa là một quà tặng được trao ban rất hào phóng, còn quý hơn cả những “bảo ngọc trân châu của chú rể” hay những “đồ trang sức quý báu của cô dâu”. Đó là quà tặng làm khởi phát một mùa xuân mới, giữa những tháng ngày mùa đông rét buốt.
Trong lời kinh Magnificat, Đức Maria diễn tả niềm vui, không chỉ vì những điều kỳ diệu Thiên Chúa đã thực hiện trong cuộc đời của Mẹ, nhưng còn là vì tình yêu thương của Chúa luôn trải rộng từ đời nọ sang đời kia. Đức Maria đã cất lên lời ca khen “Kẻ đói nghèo Chúa ban cho đầy ơn, kẻ tham lam chỉ biết làm giàu cho chính mình, sẽ bị đuổi về tay trắng”. Trong cái nhìn của Đức Maria, sự công chính của Thiên Chúa không phải là thay đổi vận may của kiếp người, giàu trở thành nghèo, đói khát trở nên no đủ. Nhưng còn hơn thế nữa, theo nhãn quan Kinh Thánh, những ai sống trong tương quan thân tình với Thiên Chúa, sẽ không bao giờ phải đói, phải khát. Để thực hiện điều này, những người giàu có và sống hưởng thụ cho chính mình, phải loại bỏ sự ích kỷ nơi họ, để những ai bị bóc lột do sự tham lam vô độ của kẻ khác, có quyền được ăn, được sống và được thỏa mãn mọi nhu cầu chính đáng.
Làm cách nào chúng ta có thể vun trồng nơi chính mình một con tim quảng đại và rộng mở để có thể phân phát quà tặng như thế. Trong thơ gửi tín hữu Thessalonica, Thánh Phaolô khuyên mời chúng ta thực hành ba phương thức: “Hãy vui lên, hãy cầu nguyện và hãy dâng lời tạ ơn Chúa”. Cả ba cách thế này giúp chúng ta biết quên mình để tìm lại chính bản thân. Nếu chúng ta quy hướng cuộc đời về nơi Thiên Chúa, Thần Khí sẽ lưu lại và đốt nóng tâm hồn chúng ta, giúp chúng ta biết phân định chân lý và thực hành lời Chúa truyền dạy. Khi chúng ta biết tạ ơn Thiên Chúa mọi nơi mọi lúc, chúng ta sẽ loại bỏ được mọi cuồng vọng ích kỷ hay sự khoe trương trống rỗng bên ngoài. Thánh Phaolô mời gọi chúng ta nhận ra rằng, khi chúng ta biết thực hành như thế, thì đó chính là quà tặng Chúa ban. Thiên Chúa đấng luôn tin tưởng, sẽ lấp đầy nơi chúng ta những thiếu sót.
Trong Tin Mừng, chúng ta lắng nghe lời giải trình của Gioan tiền hô, khi ông mượn lời của ngôn sứ Isaia để giới thiệu về chính Ngài. “Ngài chỉ là tiếng kêu trong sa mạc: Hãy san phẳng đường lối Chúa”. Khi trả lời cho các lãnh đạo tôn giáo đến hỏi xem ông là ai, trước tiên Gioan khẳng quyết rằng, ông không phải là nhân vật như họ nghĩ tưởng. Gioan nói rõ, ông không phải là Đức Kitô, người “được xức dầu”, không phải là Messia theo cái nhìn của người Do thái. Hạn từ christos tiếng Hy lạp, hoặc messia tiếng do thái, ám chỉ về người được Thiên Chúa xức dầu, để đặc cách thực thi những phần vụ chuyên biệt mà Thiên Chúa giao phó, ví dụ các vua (Tv 2,2), các tư tế (Lv 3-5), hoặc các ngôn sứ ( 1V 19,16). Thời Đức Giêsu, người Do thái đang mong mỏi Đấng Cứu Độ, Đấng “được xức dầu” sẽ đến. Nhiều người vẫn kỳ vọng và nghĩ tưởng rằng Êlia sẽ trở lại để thanh tẩy hàng ngũ tư tế (Mal 3,2-4), đồng thời khôi phục các chi tộc Israel (Hc 48,10). Một số khác lại đợi chờ một vị ngôn sứ như Moisen (Đệ nhị luật 15,18). Gioan đã khẳng quyết ông không phải là một trong các vị đó như họ suy nghĩ hay mơ tưởng. Ngài chỉ là một con người bình thường, nhưng sẽ vạch dẫn cho họ biết Đấng sẽ đến là ai. Ngài không phải là “ánh sáng”. Ngài đến để làm chứng cho ánh sáng và dẫn đưa mọi người đến với niềm tin, để họ tin vào những gì ông làm chứng. Dầu sao, ở một nghĩa nào đó, Gioan cũng chính là ánh sáng soi dẫn người khác, để họ nhận ra Đức Kitô. Cũng như trong căn phòng tối tăm, một nguồn ánh sáng được thắp lên để người khác nhờ ánh sáng đó, có thể nhìn ra cảnh vật. Ánh sáng chỉ là phương tiện. Cũng vây, Gioan không phải là người để chúng ta quy chiếu về, nhưng Ngài chỉ dẫn, để chúng ta nhận ra và đến với Đức Kitô, là chính Ánh Sáng thật. Đấng đó đang ở giữa các ông, đang ở giữa chúng ta. Thế, chúng ta có nhận ra Ngài hay không?
7. Hãy vui lên – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Theo truyền thống dân tộc Do Thái, năm đại xá của Đức Chúa, là năm đại phúc cho người nghèo, cho người bị tù đầy. Năm đó, có nợ ai bao nhiêu, cũng được xóa; có đang bị ở tù, cũng được trả tự do. Đức Yêsu là Đấng đến để công bố năm toàn xá cho toàn thể nhân loại. Vì thế, hãy vui lên, hỡi nhân trần.
1. Tin Mừng Cho Người Nghèo
Con người sống trên trần gian này cảm nghiệm bao nhiêu nỗi khổ: nỗi khổ vật chất và tinh thần. Ai càng coi trọng tiền bạc và vật chất, càng cảm thấy khổ nhiều. Tuy nhiên, đôi khi người nghèo không cảm thấy khổ, mà những người đặt nặng giá trị vật chất lại cho rằng họ khổ.
Người nghèo cũng có niềm vui riêng của họ, trời xanh, khí mát trong lành, đất trời đẹp tuyệt vời và vô tận. Tuy vậy, nếu người nghèo không thanh thoát vượt lên được cái bình thường, thì cái nghèo, và đặc biệt là tình trạng bần cùng, ảnh hưởng thê thảm trên con người. Nàng Kiều bán mình chuộc cha cung là một thí dụ. Và từ cái khổ này dẫn tới cái khổ khác; đến độ người ta thấy “đời là bể khổ.” Nghèo, tù, tội, là những điều gây cho bao người đau khổ dằn vặt.
Hôm nay, tin mừng đã được công bố: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi vì Đức Chúa đã xức dầu cho tôi. Ngài sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn tan vỡ, loan báo ơn giải thoát cho những kẻ bị bắt, tự do cho kẻ tù đày, và loan báo năm hồng ân của Thiên Chúa.” Chính Thiên Chúa giải phóng con người, cho con người tìm được sự giải phóng, tự do, niềm vui và hạnh phúc.
2. Đấng Đến Sau Tôi
Cái nghèo vẫn còn tiếp tục. Cái nghèo như gắn chặt với cuộc đời của một số người như hình với bóng. Con người vẫn khổ, vẫn miệt mài đi tìm miếng cơm manh áo. Những người đã có miếng cơm áo thì lại muốn có nhiều hơn nữa. Con người vẫn không thoát khỏi cảnh khổ. Nỗi khổ do nghèo vật chất dường như giúp con người thấy nỗi khổ của nghèo tinh thần. Dường như khổ vật chất không làm con người khổ, mà nghèo tinh thần làm con người khổ.
Yoan Tẩy Giả sống đơn sơ trong cảnh nghèo. Ngài như một lời chứng cho nỗi khổ vì nghèo tinh thần, vì không thấy được ánh sáng sự thật, chứ không phải vì nghèo vật chất. Hơn nữa, Yoan Tẩy Giả còn làm chứng cho một Đấng khác nữa: “Đấng đến sau tôi, quyền năng hơn tôi, và tôi không đáng cởi dây giầy cho Ngài. Tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, nhưng Đấng đó sẽ làm phép rửa cho anh em với Thánh Thần và lửa.” Đấng đó là Đấng mà mọi người phải mong chờ, cho dù lúc đó người ta và cả Yoan Tẩy Giả cũng chưa biết người đó là ai.
Đức Yêsu như tất cả mọi người đã sống cái nghèo đến tận cùng: sinh trong hang chiên cừu, ăn uống mặc như người nghèo, làm nghề của những người nghèo, ngay cả khi đi rao giảng vẫn nghèo, có lúc đi tìm trái vả ăn cho đỡ đói cũng không có (Mt.21, 18-19). Tuy vậy, Đức Yêsu là người làm trọn lời tiên tri trong sách Isaya, Ngài công bố năm hồng ân của Thiên Chúa, Ngài tới để làm cho người mù được thấy, người tù được trả tự do, băng bó những tâm hồn tan vỡ. Đức Yêsu mang lại cho người ta thấu hiểu sự thật, và sự thật sẽ giải phóng con người khỏi mọi phiền não, tù tội ràng buộc tinh thần. Ngài giúp con người vươn lên, vươn lên tới Thiên Chúa là đỉnh bình an hạnh phúc. Hãy vui lên vì với Đức Yêsu, chúng ta biết con đường giải thoát và hạnh phúc đích thực.
3. Hãy Vui Mọi Lúc
Như một người đã được giải phóng, thánh Phaolô viết cho dân thành Thessalônica: “hãy vui hạnh phúc mọi lúc.” Một người rao giảng tin mừng Đức Yêsu phục sinh, luôn bị phản đối, rượt đuổi và bắt bớ, mà khuyên người ta hãy sống vui và hạnh phúc được sao? Nếu đúng, người đó phải sống vui và hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh, trong mọi thời điểm.
Tại sao Phaolô lại được như vậy? Vì Ngài đã đạt đạo, đã chọn Thiên Chúa trên hết, đã chấp nhận Đức Yêsu như lý tưởng và Chúa của mình. Ngài đã thấy được trần gian chóng qua, chỉ có thực tại bền vững là chính Thiên Chúa, và cũng là bình an và hạnh phúc của Ngài. Với quan niệm sống và chọn lựa như vậy, Ngài sống vui và hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh, trong mọi thời điểm.
Chỉ khi nào con người chọn Thiên Chúa trên hết, phó thác tất cả cho Thiên Chúa, thì con người mới sống chấp nhận thực tại và thanh thản trước mọi biến cố và nghịch cảnh. Thiên Chúa đang thực hiện việc giải phóng con người qua Đức Yêsu, qua việc cho con người thấy cách sống giúp con người bình an hạnh phúc. Cách sống đó chính là cách sống của Đức Yêsu. Đức Yêsu cũng không được miễn trừ khỏi bao cám dỗ, nhưng Ngài đã vượt qua và vẫn trông cậy vào Thiên Chúa ngay cả khi không thấy dấu chỉ cho thấy như vậy. Biến cố Đức Yêsu kêu trời “lạy Cha, lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con” là một bằng chứng. Ngay cả như vậy, chúng ta tin rằng, Ngài vẫn bình an và phó thác.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. “Hãy bình an hạnh phúc mọi lúc.” Liệu điều này có thể xảy ra không?
2. Làm sao để có thể bình an hạnh phúc trong mọi nơi mọi lúc?
3. Bạn có thể gặp được Đức Yêsu không? Xin đưa lý lẽ cho câu trả lời của bạn?
8. Anh em hãy vui lên
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bước vào Chúa nhật thứ I Mùa Vọng, Lời Chúa mời gọi chúng ta: “Hãy tỉnh thức” (Mt 24, 44). Sang Chúa nhật thứ II, tiếng hô lớn của Gioan Tẩy Giả vọng vang: “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng” (Is 40, 3). Chúa nhật thứ III hôm nay, Phụng vụ Giáo hội đang màu tím chuyển sang hồng như Chúa nhật IV Mùa Chay, nhằm đánh dấu một giai đoạn sám hối, nay nghỉ một chút để nhìn lại chặng đường đã qua với niềm vui vì những gì đã đạt được, và lấy thêm đà mới chuẩn bị mừng (Chúa Giáng Sinh), nên Giáo hội mời gọi con cái mình “Gaudete - Hãy vui lên”.
Vui lên “Gaudete” là chủ đề của Chúa nhật này. Vui lên như Isaia: “Tôi hớn hở vui mừng trong Chúa, và lòng tôi hoan hỉ trong Chúa tôi” (Is 61, 10).Lời nguyện nhập lễ hôm nay đưa chúng ta vào chính niềm vui thiêng thánh ấy: “Lạy Chúa, xin đoái xem, này dân Chúa đem tất cả niềm tin đợi chờ ngày lễ Sinh Nhật Đấng Cứu Thế. Xin hướng niềm vui chúng con về chính nguồn hoan lạc của mầu nhiệm Giáng Sinh cao cả để tâm hồn chúng con hoàn toàn đổi mới mà họp mừng ngày cứu độ đã gần kề” (Lời nguyện nhập lễ CN III Mùa Vọng).
Với những lời trên làm tâm hồn chúng ta rạo rực hẳn lên, dẫn chúng ta bước vào mầu nhiệm của niềm vui ơn cứu độ. Làm sao không thể không vui khi nghe những lời loan báo đầy niềm vui của Isaia: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi: vì Chúa đã xức dầu cho tôi; Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, báo tin ân xá cho những kẻ bị lưu đày, phóng thích cho những tù nhân, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa” (Is 61, 1-2).Và làm sao không thể không mừng “vì Người đã mặc cho tôi áo phần rỗi, và choàng áo công chính cho tôi, như tân lang đầu đội triều thiên, như tân nương trang sức bằng ngọc bảo. Như đất đâm chồi, như vườn nảy lộc, Chúa cũng làm phát sinh công chính và lời ca tụng trước mặt muôn dân” (Is 61, 10-11).
Đọc Trang Tin Mừng (Ga 1, 6-8. 19-28), chúng ta bắt gặp một nhân vật có vai trò đặc biệt trong việc chuẩn bị mừng Chúa Giêsu giáng sinh đến với nhân loại là Gioan Tẩy Giả. Ngài xuất hiện trong tư cách là vị tiên tri cuối cùng của Cựu Ước, là hy vọng cuối cùng của một dân tuyệt vọng. Chúng ta đang vui sẵn, sự xuất hiện của ngài làm cho chúng ta vui thêm, vì lời hứa được thành hiện thực.
Gioan rút lui vào hoang địa để sống một cuộc sống rất khổ hạnh, và qua cuộc sống của mình, ông mời gọi dân chúng hoán cải; ông làm phép rửa trong nước, một nghi thức thống hối đặc biệt, khác với nhiều nghi thức thanh tẩy bên ngoài của các giáo phái thời đó, khiến những người Do thái từ Giêrusalem phải sai các vị tư tế và các thầy Lêvi đến hỏi xem: "Ông là ai?" Chúng ta phải cám ơn họ, vì nhờ họ mà chúng ta biết được Gioan là ai?
Câu trả lời của thánh nhân thật là khiêm tốn lạ thường, ông không phải là Đức Messia, không phải là ánh sáng. Không phải là Elia trở lại trái đất, cũng không phải là một vị đại ngôn sứ đang được chờ đợi. Ông là vị tiền hô, một chứng nhân, hoàn toàn tùng phục Đấng mà ông rao giảng, ông là một tiếng kêu trong hoang địa.
Thế giới cần tiếng kêu của chúng ta: Chúng ta đang sống trong một thế giới, thu hẹp hơn là một đất nước với chủ nghĩa vô thần, phủ nhận Thiên Chúa, sống như thể không có Thiên Chúa, và chúng ta cũng cảm thấy vắng bóng Thiên Chúa. Người kitô hữu có bổn phận phải cất lên những tiếng kêu vang vọng khắp bốn phương trời rằng: "Có Thiên Chúa hiện hữu, Chúa luôn ở gần kề, cả khi Thiên Chúa có vẻ vắng bóng".
Gioan là một tiếng kêu trong hoang địa, là một chứng nhân của ánh sáng. Đó chính là sứ mạng của Mùa Vọng: tức là trở thành những chứng nhân của Ánh Sáng và chúng ta chỉ có thể là chứng nhân như vậy nếu chúng ta mang ánh sáng trong mình, nếu chúng ta không những xác tín là có ánh sáng, nhưng cả chúng ta cũng thấy một chút ánh sáng. Và trong Giáo Hội, trong Lời Chúa, chúng ta cử hành các bí tích, trong bí tích giải tội, với sự tha thứ mà chúng ta nhận lãnh, trong việc cử hành Thánh Lễ qua đó Chúa hiến mình trong tay và trong tâm hồn chúng ta, chúng ta chạm đến ánh sáng và nhận lãnh sứ mạng này là trở thành những chứng nhân, chứng tỏ có ánh sáng và mang ánh sáng vào trong thời đại chúng ta".
Trong mùa vọng này, chúng ta hãy củng cố xác tín Chúa đã đến giữa chúng ta và chúng ta hãy tín thác nơi Chúa; như thánh Augustinô cũng đã quả quyết, do kinh nghiệm của ngài: “Chúa gần chúng ta hơn chúng ta gần chính mình” (Le Confessioni, III, 6,11).
Chúng ta hãy phó thác hành trình của chúng ta cho Đức Maria, thần trí của Mẹ đã vui mừng trong Chúa là Đấng Cứu Thế. Xin Mẹ hướng dẫn tâm hồn chúng ta trong sự vui mừng chờ đợi Chúa Giêsu đến, một sự chờ đợi đầy kinh nguyện và việc lành. Amen.
9. Làm chứng cho Đức Kitô – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Linh mục Anthony de Mello có kể một câu chuyện sau đây:
Có gia đình kia đi nghỉ hè một thời gian dài bên bờ biển. Ngày nọ, mấy đứa con đang nô đùa, xây những lâu đài bằng cát trên bãi biển, thì có một bà cụ xuất hiện. Tóc bà rối bời trong gió, áo quần bẩn thỉu rác rưới. Bà vừa lẩm bẩm một mình, vừa cúi nhặt những vật gì đó trên mặt cát rồi cho vào giỏ.
Cha mẹ lũ nhỏ gọi chúng lại và bảo chúng hãy tránh xa mụ đàn bà đó. Khi đi ngang qua, bà mỉm cười với họ, nhưng mọi người không hề tỏ dấu đáp lại.
Nhiều tuần sau, cả gia đình mới biết rằng đã lâu lắm rồi, người đàn bà ấy đã tự nguyện, làm công việc lượm các mảnh thủy tinh rơi rớt trên bãi biển, để bọn trẻ khỏi bị đứt chân.
“Giữa các ngươi có một Đấng mà các ngươi không biết” (Ga 1,26).
Sứ mạng của Gioan Tiền Hô là làm chứng cho Sự Sáng đích thật chính là Đức Kitô. Đức Kitô đến để chiếu ánh ssng cho trần gian. Toàn bộ Tin Mừng chỉ là để trả lời cho câu hỏi này: “Giêsu Nagiaret, Người là ai?”. Gioan không dùng danh từ Phúc Âm mà chỉ dùng từ ngữ “chúng nhân”. Động từ “làm chứng” được gioan nhắc đến 33 lần. Tin Mừng Gioan được khai mở bằng lời chứng của Gioan Tiền Hô và kết thúc với minh chứng của Gioan tong đồ: “Chính môn đệ này làm chứng về những việc đó và đã viết ra. Chúng tôi biết lời chứng của người ấy xác thực” (Ga 21,24).
Qua lối sống khỏ hạnh khác ngời, qua lời rao giảng sám hối, và qua lời chứng: “Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa chon gay đường Chúa đi” (Ga 1,23), đã minh chứng Gioan là vị Tiền Hô của Đấng Cứu Thế,là chứng nhân của Thiên Chúa. Gioan chỉ đứng ra làm chứng và báo trước ngày Chúa xuất hiện, rồi rút lui vào bóng tối.
Có thể nói, Gioan là người tôi tớ, còn đức Giêsu là ông chủ. Gioan là đèn soi, còn Đức Giêsu là ánh sáng, Gioan là tiếng kêu, và Đức Giêsu là lời hằng sống.
Như Gioan, người tín hữu cũng sẽ là chứng nhân cho Đức Kitô trong cuộc sống. Về điểm này, Teilhard de Chardin đã ví von rất sống động: “Ánh sáng xuyên qua những áng mây, người ta đoán là có mặt trời trên đó. Nhìn vào đời sống chúng ta, mọi người cũng đoán được có Đức Kitô”. Bà cụ trong câu chuyện của Cha Mello phản ánh một tấm gương sáng ngưòi về long thương người, luôn quan tâm tới kẻ khác. Cụ sống khó nghèo, âm thầm, hy sinh thời giờ sức lực của mình, để cho niềm vui của người khác được trọn vẹn.
Martin Luther King viết: “Chúng ta không chỉ làm chứng bằng lời nói, mà còn làm chứng bằng cuộc sống của mình”. Có những tâm hồn dần dần cải hóa nhờ việc làm của ta, nhưng chính ta lại không ngờ tới. J. Basquin nói: “Sống chứng nhân không phải là đuổi theo các tâm hồn, mà là sống làm sao để các tâm hồn chạy theo ta”.
Ước gì khi nhìn vào đời sống chúng ta, mọi người cũng có thể nói như đã nói về Thánh Gioan Vianey “Tôi đã thấy Thiên Chúa trong một con người”.
* Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết làm chứng cho Chúa bằng lời rao giảng và bằng gương sáng đời sống chúng con. Xin cho chúng con biết sống khiêm nhường : không hiếu danh cũng chẳng ganh tị, không cao ngạo cũng chẳng cậy uy. Nếu có khi nào thành công việc gì, xin cho chúng con biết hướng vinh dự về cho Chúa, để qua đó, ngươì ta nhận biết Chúa là Đấng quyền năng và yêu thương con người. Amen.
10. Sự sáng – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Chúa Nhật thứ ba Mùa Vọng là Chúa Nhật vui mừng. Đốt lên cây nến thứ ba màu hồng của Vòng Hoa Mùa Vọng. Mầu hồng là mầu của sự hy vọng vì ơn cúu độ đã gần kề. Phụng vụ lời Chúa hôm nay khơi dậy niềm hy vọng cứu độ trong dân thánh. Sau bao nhiêu năm lưu đầy xa xứ, dân Chúa chọn đã khổ sở vì làm tôi đòi, mất quyền tự do thờ phượng và bị ép buộc từ bỏ lề luật của Chúa. Nay Dân được giải thoát trở về Giêrusalem xây dựng lại đền thờ và thanh tẩy tâm hồn. Các tiên tri đã gióng lên lời an ủi là ơn cứu độ đã gần kề. Mọi người hãy ăn năn sám hối đón nhận lời hứa ban Đấng Cứu Độ.
Sách tiên tri Isaia từ chương 56-66, được đa số các nhà chuyên môn nghiên cứu Thánh Kinh xếp vào Sách Isaia Thứ Ba. Sách viết về hoạt động của dân Do-thái sau thời lưu đầy trở về khoảng năm 538 B.C. tại Giêrusalem. Căn bản thần học: Yahweh là Thiên Chúa, Ngài bênh đỡ người công chính và tiêu diệt kẻ hung ác. Người Do-thái không còn lưu đầy ở Babylon mà trở về Giêrusalem. Tiên tri diễn tả lời rao giảng qua một giọng điệu mới mẻ với dân Chúa. Tiên tri ghi nhận những nghi thức thờ phượng, ăn chay hãm mình, giữ ngày Sabát, dâng hy tế như là việc thờ phượng và mời gọi tập trung đời sống nơi Đền thờ Yahweh. Chúa sẽ phán xét những người tội lỗi đã chối bỏ tôn thờ Thiên Chúa.
Sách Isaia nhắc nhở mọi người rằng lời hứa của Thiên Chúa với các tổ phụ năm xưa vẫn còn có giá trị và mời gọi mọi người hãy ăn năn sám hối và quay trở về với Yahweh. Thiên Chúa luôn trung thành với lời đã hứa và chuẩn bị ban ơn cứu độ. Tiên tri Isaia loan báo về Đấng Cứu Thế: Thánh Thần Chúa ngự trên tôi: Vì Chúa đã xức dầu cho tôi. Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, báo tin ân xá cho những kẻ bị lưu đầy, phóng thích cho những người tù nhân; công bố năm hồng ân của Thiên Chúa (Is 61,1-2a). Chương trình cứu độ của Thiên Chúa được mạc khải một cách rất tiệm tiến. Hơn năm trăm năm trước khi Đấng Cứu Thế xuất hiện, đã được các tiên tri, nhất là tiên tri Isaia loan báo một cách rất chi tiết. Đấng Cứu Thế là sứ giả bình an dẫn đưa nhân loại vào năm Hồng Ân.
Qua lịch sử ơn cứu độ, Thiên Chúa đã dùng các tiên tri để loan tin vui phấn chấn lòng dân. Tất cả các tổ phụ, các tiên tri và dân Thánh đang mong chờ ơn cứu độ. Các tiên tri đã loan báo về vị thiên sứ đi trước để dọn đường cho Chúa. Vị thiên sứ đã đến trong hoang địa và mời gọi mọi người ăn năn sám hối. Vị tiền hô chính là thánh Gioan Tẩy Giả dọn đường cho Chúa Giêsu Cứu Thế đã xuống trần gian cách đây cả 2000 năm. Ơn cứu độ được trao ban trước hết cho dân tộc đã được chọn. Đấng Cứu Độ đã đến, đang đến và sẽ đến. Chúa đã đến để giải thoát dân khỏi cảnh lầm than của sự dữ và sự chết là một biến cố vĩ đại đã xảy ra trong lịch sử loài người. Công cuộc cứu chuộc của Chúa có giá trị cho mọi thời, từ dòng dõi này tới dòng dõi kia. Đã có biết bao nhiêu thế hệ con người đã lãnh nhận hồng ân giải thoát. Ơn cứu độ được trao ban cho mọi người và ở mọi thời. Chúng ta không phải đợi đến ngày tận thế hay ngày phán xét để nhận biết ơn cứu độ. Ơn cứu độ phổ quát cho toàn dân.
Tuy nhiên, Đấng Cứu Thế đến cứu rỗi từng tâm hồn chứ không phải cứu rỗi một đám đông ồ ạt. Vì mỗi con người đều mang hình ảnh và là thụ tạo của Thiên Chúa. Mỗi một con người là một món qùa quí báu mà Thượng Đế đã an bài. Dù sống trong khoảng thời gian nào, mỗi người đều có thể hưởng nhờ ơn cứu độ của Thiên Chúa. Bởi thế niềm vui giải thoát được các tông đồ rao giảng khắp nơi. Mời gọi tất cả mọi người hãy ăn năn sám hối và hãy dọn tâm hồn cho ngay thẳng để đón nhận ơn cứu rỗi. Như thế, mọi tâm hồn công chính và tốt lành sống trong ơn nghĩa của Chúa đều có thể được đón nhận ơn cứu độ qua những cách thức khác nhau. Tiếng kêu trong sa mạc không bị giới hạn trong một khuôn khổ nào, nhưng mở rộng đến mọi nơi cho toàn thể nhân loại.
Thơ của thánh Phaolô tông đồ gởi cho giáo đoàn Thessalonica kêu gọi anh em hãy vui mừng luôn. Hãy cầu nguyện và cảm tạ Thiên Chúa. Đừng dập tắt Thánh Thần nhưng nghiệm xét mọi sự và điều gì tốt hãy giữ lại. Hãy vui mừng lên vì Chúa Giêsu đã ngự đến. Đấng Cứu Thế đến để giải thoát tâm hồn họ khỏi mọi ràng buộc của tội lỗi và sự dữ. Từ lời loan báo của các tiên tri tới việc Đấng Cứu Thế xuất hiện trên trần gian và ơn cứu rỗi trải dài qua mọi thời đại. Niềm vui của Dân Chúa vẫn trào dâng. Chúa Giêsu là Chúa của lịch sử ơn cứu độ.
Chúa Giêsu đã đến mang tin mừng cứu độ theo một ý nghĩa hoàn hảo hơn. Chúa giải thoát tâm hồn con người khỏi những ràng buộc của sự dữ. Chúa là ánh sáng thế gian. Ánh sáng soi dọi vào đêm tối của tội lỗi và lầm lạc. Chúa mở đường dẫn chúng ta vào con đường của sự thật và của sự sống. Chúa đến với trái tim yêu thương và chân thật. Gioan Tẩy Giả đã làm chứng cho sự sáng thật. Gioan là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi. Ông đã chu toàn sứ mệnh của người tiên hô. Gioan đã làm phép rửa sám hối và đã giới thiệu Đấng Cứu Thế cho mọi người.
Với tâm tình mòn mỏi đợi chờ, dân đi trong tối tăm đã nhìn thấy ánh sáng. Họ đã nhìn thấy Đấng ban ơn cứu độ. Sau hai ngàn năm, giờ đây chúng ta hãy sống tâm tình tạ ơn, vì Chúa tiếp tục ban ơn cứu rỗi cho mọi tâm hồn. Niềm vui của sự mong chờ của những ngày Mùa Vọng sẽ qua mau và lễ Chúa Giáng Sinh đã gần kề. Thánh Phaolô kêu gọi chúng ta hãy vui mừng luôn. Chúng ta không chỉ vui mừng khi tái lập những khung cảnh hang đá với đủ màu sắc lộng lẫy, các thứ trang trí đẹp mắt hay qùa cáp, tiệc tùng. Chúng ta vui vì Chúa đã ban ơn giao hòa và ơn tha tội cho nhân loại. Hãy chạy đến với Bí Tích Hòa Giải, chúng ta sẽ tìm được nguồn vui bình an đích thực cho tâm hồn. Niềm vui của sự thánh thiện và tinh tuyền. Niềm vui của hoan lạc và hạnh phúc. Chúng ta mừng vui vì Chúa tiếp tục ban ơn cứu độ cho tất cả những tâm hồn thiện tâm tìm kiếm Chúa,
Đức Giáo Hoàng Bênêđictô chia sẻ rằng: Nếu Thiên Chúa không hiện hữu, đời sống sẽ trống rỗng, tương lai vô định. Và nếu Thiên Chúa hiện hữu, mọi sự thay đổi, đời sống chiếu sáng, tương lai rực rỡ và chúng ta sẽ có định hướng để sống.
Hãy dọn tâm hồn. Sám hối tội lỗi. Lãnh nhận hòa giải. Đổi mới cuộc sống. Hãy mở rộng cửa đón Chúa Kitô. Xin Chúa ban Ơn Cứu Độ!
11. Làm chứng về ánh sáng
(Suy niệm của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Tin mừng chúa nhật nầy gồm hai đoạn 1:6-8 và 1:19-28 thuộc 2 văn mạch khác nhau, tuy nhiên đều nói về Gioan, là chứng nhân của Chúa Giêsu Kitô. Đoạn 1:6-8 nằm trong văn mạch của 1:1-13, nói về Ngôi Lời là ánh sáng (1:1-5) và Ngôi Lời đã đi vào lịch sử (1:6-13). Đoạn 1:19-28 nói về Gioan và công việc của ông.
Trong tin mừng Gioan, làm chứng là sứ mạng chính của Gioan, không phải là làm phép rửa (1:7[2].8.15.19.32). Để làm chứng, Gioan phải là một con người và được Thiên Chúa sai đến (c.6). Là con người, để Gioan có thể nói cho con người điều ông đã thấy và đã tin. “Được Thiên Chúa sai đến”, vì sứ mạng của ông là làm chứng cho Con Thiên Chúa (3:27). Bởi đó, Gioan không làm chứng cho một điều, mà cho một người. Mục đích của Gioan là làm cho mọi người tin vào Chúa Giêsu (c.7), để họ được làm con Thiên Chúa (1:12) và không còn thuộc về bóng tối nữa (1:5; 11:10; 12:35).
Chúa Giêsu là ánh sáng của trần gian (1:4; 9:5; 11:9; 12:35.36.46). Ánh sáng ấy là sự sống (1:4;8:12[2x]) và cũng là sự thật (1:9; 3:21). Gioan làm chứng cho ánh sáng, có nghĩa là làm chứng cho một sự sống Chúa Giêsu đang mang đến (1:15-16; 6:41.48.51) và một sự thật: Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa (1:32.35; 5:33). Đón nhận chứng từ của Gioan, nghĩa là tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là sự thật và sự sống (14:6) để được trở nên con cái Thiên Chúa (1:12). Khước từ chứng từ của Gioan là khước từ Chúa Giêsu và tiếp tục sống trong bóng tối (1:5; 8:12).
Gioan là chứng nhân, không phải là ánh sáng (1:8). Bởi đó, Gioan từ chối nhận mình là Đấng Kitô hay là Êlia. Ông nhận mình không xứng đáng cởi quai dép cho Đấng đang đến. Thành ngữ egò ouk eimi “Tôi không là” mà Gioan dùng cho mình (c.20.21.27; 3:28) đối nghịch với egò eimi “Tôi là”, được dùng độc nhất cho Chúa Giêsu: “Tôi là tôi” (4:26; 6:20; 13:19; 18:5.6.8), “Tôi là bánh ban sự sống” (6:41.48.51), “Tôi là ánh sáng trần gian” (8:12; 9:5), “Tôi là…” (10:9.11.14; 11:25; 14:6; 15:1.5; 18:37). Chính cách nói nầy cho thấy Chúa Giêsu, là ánh sáng, ngày mỗi tỏa sáng lên, còn Gioan, như là chứng nhân của ánh sáng, ngày mỗi tan biến dần (3:30). Gioan giới thiệu Chúa Giêsu cho hai môn đệ của mình, và họ đã trở thành môn đệ của Chúa Giêsu (1:35-42), dân chúng đến với Chúa Giêsu thay vì đến với Gioan (3:26) và cuối cùng chết âm thầm trong ngục tối (3:24). Gioan, một chứng nhân chân thật và khiêm tốn vô hạn (10:41).
Gioan không là chứng nhân duy nhất của Chúa Giêsu. Chúa Cha (5:32.37; 8:18), Kinh Thánh (5:39), công việc của Chúa Giêsu (5:36; 10:25), chính Chúa Giêsu (8:14.18), Thánh Linh (15:26) và các môn đệ (15:27) tất cả đều làm chứng một điều: Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Đến trần gian, Chúa Giêsu cần chứng nhân, vì không dễ tin Người là Con Thiên Chúa. Nếu tin, sẽ được làm con cái của Thiên Chúa. Nếu được làm con cái của Thiên Chúa, tất phải sống như con cái của Người.
12. Làm chứng về ánh sáng.
Gioan: Không phải là ánh sáng
Trong đoạn mở đầu Phúc Âm, Thánh Gioan Thánh sử đã nói về Đức Kitô, Người là Thiên Chúa, là Nguồn Sáng, là Ánh Sáng đến trần gian.
“Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người.”(Ga.1,9).
Khi người Do-thái từ Giê-ru-sa-lem cử một số tư tế và mấy Thầy Lê-vi đến hỏi Gioan Tẩy giả: "Ông là ai?" Ông tuyên bố thẳng thắn: "Tôi không phải là Đấng Kitô." Đúng như lời thánh Gioan Thánh sử đã viết về Gioan Tẩy Giả: “Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.” (Ga.1,6-7).
Gioan Tẩy Giả xuất hiện trong bối cảnh người Do Thái đang trông chờ một Vị Cứu Tinh cho dân tộc, người sẽ khôi phục Israel và đem về cho Israel một thuở huy hoàng nay đã mất dưới gót giầy đè bẹp của đế quốc La Mã.
Giấc mơ ấy hạn hẹp trong ý tưởng con người, vì Vị Cứu Tinh sẽ đến không phải để phục hồi lại những gì đã tổn thương trong Israel, mà tái tạo lại một “trời mới đất mới” cho cả vũ hoàn.
Vị Cứu Tinh ấy là Chúa Kitô, ánh sáng cho trần gian.
“Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối sẽ không diệt được ánh sáng”. (Ga.1,5).
Gioan Tẩy Giả xuất hiện để “làm chứng” cho Chúa Kitô, làm chứng về ánh sáng.
Gioan: Làm chứng về ánh sáng
Ánh sáng ở đây là chính Thiên Chúa – “Thiên Chúa làm người và ở cùng chúng ta”.
“Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người”. ( Ga 1,10).
Và Gioan Tẩy Giả mang sứ mạng làm cho mọi người nhận biết Người - nhận biết Đức Kitô - nhận biết Ánh Sáng.
“Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.” (Ga.1,17).
Gioan Tẩy giả dành trọn cuộc đời mình chỉ với một mục đích trung thành với lời tuyên bố: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian.” (Ga.1,29-34).
Ý nghĩa cuộc đời: Ánh Sáng Chúa Kitô
Đức Giêsu lại nói với người Do-thái: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga.8,12).
Gioan Tẩy Giả đã sống một cuộc đời có ý nghĩa, hoàn thành sứ mạng của mình trong ánh sáng chân lý.
Không ai thuộc về bóng tối lại có thể làm chứng về ánh sáng!
Chỉ trong ánh sáng Chúa Kitô, con người mới nhận ra giá trị đích thực của chính mình, vị trí của chính mình. Trong ánh sáng Chúa Kitô, Gioan nhận ra mình bé nhỏ.
Trong bóng tối, con người ngủ mê trong ảo ảnh. Con người hiểu biết được bao nhiêu và làm được điều gì lớn lao đến thế nào để có thể kiêu căng đến mức muốn thay thế Thiên Chúa?
Một cách nào đó, nhiều người tự xem mình như Đấng Cứu Thế. Nhiều kẻ muốn thay thế Lời Chúa bằng những “giáo điều” triết học và ý thức hệ chính trị nghe rất hấp dẫn và thu hút được nhiều người. Thực tế, những dòng tư tưởng đó đã đem thế giới đến chỗ tan nát vì chia rẻ và thù hận.
“Sẽ có nhiều người mạo danh Thầy đến nói rằng: ‘Chính ta đây’, và: ‘Thời kỳ đã đến gần’” (Lc 21: 8).
Với Niềm tin Kitô hữu, đời ta chỉ có một mục đích duy nhất là “làm chứng về ánh sáng”.
Gioan Tẩy Giả là tấm gương để tiến bước. Hoặc là sống trong ánh sáng, hoặc là sống trong tăm tối, phải chọn một, và chỉ chọn một, không có sự chọn lựa nào khác.
Quê tôi là một xóm làng dân cư đông đúc, khi cúp điện, cả ngàn hộ dân chìm trong tăm tối, thôn xóm đông người mà vắng lặng đến đáng sợ. Khi có điện trở lại, nghe vang lên những tiếng reo hò vui sướng: “Có điện rồi! Có điện rồi!”. Tiếng em bé reo vui, tiếng người cười cười nói nói, tiếng nhạc, tiếng TV… vang lên đó đây, xóm làng vui tươi, nhộn nhịp hẳn lên…
Không ai có tìm thấy hạnh phúc trong vùng tăm tối. Người từ chối ánh sáng là người đã hoàn toàn mất đi niềm hy vọng và sống một cuộc sống buông xuôi vô nghĩa.
Hạnh phúc là được tìm về ánh sáng. Mang hạnh phúc đến cho người khác là thắp lên cho họ ánh sáng hy vọng.
Một ngày kia Mẹ Têrêsa Calcutta đến Melbourne, Australia. Mẹ đi thăm một người nghèo không ai biết đến. Ông sống trong một căn phòng rất tồi tệ, đồ đạc dơ bẩn ngổn ngang. Phòng không có cửa sổ mà cũng chẳng có lấy một bóng đèn.
Mẹ Têrêsa bắt tay vào thu dọn đồ đạc. Ông gắt lên: "Cứ để yên mọi thứ cho tôi". Nhưng Mẹ cứ tiếp tục. Sau khi mọi thứ đã ngăn nắp, Mẹ Têrêxa tìm thấy một chiếc đèn trong một góc phòng. Đèn bám đầy bụi, chứng tỏ lâu lắm rồi không ai đụng đến. Mẹ lau chùi sạch sẽ rồi hỏi:
- Sao lâu nay ông không thắp đèn lên?
- Thắp làm chi. Có ai đến thăm tôi đâu. Tôi đâu cần thấy mặt ai.
- Thế ông có hứa sẽ thắp đèn lên khi một nữ tu của tôi đến thăm ông không?
- Vâng, nếu tôi nghe có tiếng ai đến thì tôi sẽ thắp đèn lên.
Từ đó, mỗi ngày, hai nữ tu của Mẹ Têrêxa đều đến thăm ông và giúp đỡ ông. Một hôm ông nói với một trong hai nữ tu ấy:
- Bây giờ tự tôi đã biết thu dọn phòng tôi rồi. Nhưng xin làm ơn về nói với nữ tu đầu tiên rằng ngọn đèn mà Bà đã thắp lên đến nay vẫn sáng.
Hãy thắp lên Ánh sáng Tình Yêu Thiên Chúa – Ánh sáng Chúa Kitô – Ánh sáng Lời Chúa – Ánh sáng Giới luật yêu thương.
Thế giới chỉ có thể tồn tại trong ánh sáng tình yêu – “Ánh sáng đem lại sự sống”. Có thể nào Thế giới tìm thấy bình an và hạnh phúc trong thế giới tối tăm sao?
Lạy Chúa,
Xin thắp lên trong con,
ánh sáng Tình Yêu Chúa,
để từ tận thẳm sâu lòng con,
biết nói lên và thực hiện,
Những điều Chân Thiện.
Đó là lúc con biết
làm chứng về ánh sáng,
Ý nghĩa của đời con. Amen.
13. Đấng Messia – Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Đấng Messia không phải là…
Đoạn Tin Mừng mở đầu bằng một xác quyết phủ định: “Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng”. Thế rồi tiếp theo đó trong chứng từ của Gioan, chúng ta còn gặp thấy nhiều phủ định khác nữa: “Tôi không phải là đấng Kitô!... Ông có phải là Êlia không – không phải!... Ông có phải là vị ngôn sứ chăng – không! “. Thì ra thế, lời chứng của Gioan về đấng Thiên Sai trước hết đã khởi đầu bằng những phủ định. Đối với một số người, đặc biệt những ai tưởng mình đã hiểu biết đủ, thì đôi khi để minh xác một đối tượng là ai họ cần trước hết nói rõ Ngài không phải là ai cái đã.
Chắc chắn rất nhiều người Do Thái cùng trông đợi đấng Messia hay Kitô - Người Được Sức Dầu, trong số đó phải kể các thầy tư tế và Lê-vi. Giới giáo sĩ này vẫn hướng dẫn dân chúng theo những gì họ đọc được trong Sách Thánh Cựu Ước: đấng Kitô - Messia sẽ đến phải là môt nhân vật đầy quyền lực thống trị, cao sang tột cùng và đầy Thần Khí, tức là đầy sức mạnh của Đức Chúa Gia-vê. Để đón tiếp một vị quyền uy như thế phải có nhân vật xứng tầm Êlia - người đã một mình ngăn cản vua A-háp, thách thức hoàng hậu Giê-dê-ben và tiêu diệt bọn sư sãi Ba-an trên đỉnh núi Cát Minh (I Vua 17), hoặc vị ngôn sứ tuyệt hảo tầm cỡ Mô-sê với sức mạnh giải phóng dân khỏi ách thống trị của Pha-ra-ô. Thế nhưng Gioan đã phủ nhận toàn bộ lối suy nghĩ này khi họ muốn gán cho ông những danh hiệu đó (cho dầu chính Đức Giêsu có ám chỉ ông là Êlia phải đến, có lẽ vì thái độ thẳng thắn ông lên tiếng tố cáo Hê-rô-đê loạn luân). Gioan dứt khoát không muốn đặt mình thuận theo lối suy nghĩ đó. “Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là đấng Kitô, cũng không phải là ông Êlia hay vị ngôn sứ?” Ông không là đấng Kitô theo lối suy nghĩ của giới tư tế và Lê-vi đã đành, ông còn phủ nhận luôn vai trò tiền hô theo suy nghĩ họ có trong đầu. Ông nói rõ, quan niệm họ vốn có về đức Kitô - Messia sẽ không làm họ có thể nhận ra được Người, vì cụ thể Người đang ở ngay giữa họ, “Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết.” Nói lên điếu đó, hầu như Gioan yêu cầu chính các tư tế và Lê-vi phải bỏ hẳn lối suy nghĩ cũ về đấng Messia, điều kiện cần thiết để họ có thể nhận ra và đón rước Người.
Thế ra đôi lúc, nhất là đối với một hạng người nào đó, việc làm tiên quyết để đón đấng Messia không phải là từ bỏ đường tội lỗi để cải tà qui chính, mà lại là phải bỏ hẳn lối suy nghĩ cũ để khám phá ra dung mạo hay ánh sáng đích thực của Đấng phải đến. Phải chăng có một ứng dụng rất mới của sứ điệp dọn đường: “Thung lũng phải lấp cho đầy, núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng” (Lc 3:5), cũng như lời kêu gọi “anh em hãy sám hối” (Mt 3:2); sứ điệp này chứa đựng một ý nghĩa vượt xa nội dung thuần luân lý mà nhiều người vẫn hiểu? Ánh sáng mà Hài Nhi Giêsu đem đến trần gian sẽ là một thứ ánh sáng rất khác lạ, có lẽ cho tới lúc đó rất hiếm người đã được nhìn thấy nó. Ánh sáng này chỉ dành cho các tâm hồn đơn sơ hèn mọn được thấy, các ‘A-na-wim’ (tôi tớ hèn mọn) của Gia-vê như Maria, các mục đồng, Si-mê-on và An-na…, vì đó là ánh sáng của một ‘Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian’ (Ga 1:29). Những ai vẫn bảo thủ quan niệm cố hữu về đấng Mét-si-a quyền uy cao cả và thống trị, như quân vương Hê-rô-đê, các thượng tế và thầy thông luật, sẽ chẳng bao giờ có thể nhận ra được Ngài đâu.
Như thế, ngoài sứ điệp thống hối tội lỗi để thanh tẩy tâm hồn vẫn thường nghe nhắc nhở, Mùa Vọng còn gởi tới một sứ điệp khác cấp bách không kém: hãy duyệt lại quan niệm tôi vốn có về đấng Kitô, về Thiên Chúa giáng trần. Nếu tâm trí tôi vẫn thường chỉ hướng tới Thiên Chúa như đấng quyền uy cao cả, thì Hài Nhi sinh ra khó nghèo trong hang bò lừa, hoặc sẽ chẳng có ý nghĩa gì đối với tôi, hoặc tôi sẽ cố biến hang bò lừa ấy thành một nơi cao sang rực rỡ. Để nhận ra được ‘Chiên Thiên Chúa’ tâm hồn tôi không những phải sạch tội, mà còn phải đơn sơ và hèn mọn, nếu không Hội Thánh sẽ nói với tôi, giống như Gioan đã cảnh cáo các Tư Tế và Lê-vi: “có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết.” Có không rất nhiều tín hữu, trong số đó có cả linh mục và tu sĩ, dọn mừng lễ Giáng Sinh rất trọng thể linh đình, nhưng khi Người đến họ lại không thể nhận ra, vì trong thâm sâu cõi lòng họ vẫn chỉ muốn thấy một Thiên Chúa quyền uy thống trị và cao sang? Có thể lắm đấy, bản thân tôi cũng đã từng là một trong số đó, nếu không sớm được giác ngộ để thay đổi tận căn quan niệm tôi có về đấng Kitô Cứu Thế, Người Cha từ nhân và xót thương!
Lạy Hài Nhi Giêsu giáng sinh trong hang bò lừa nghèo hèn, xin hãy liệt con vào số các người hèn mọn của Gia-vê để con có thể nhận ra khi Người đến giữa và ở với chúng con. Xin gạt hẳn khỏi tâm trí con hình ảnh một Thiên Chúa công thẳng quyền uy, và thế vào đó là một Thiên Chúa từ nhân cứu độ; và cũng xin đừng bao giờ để hình ảnh này biến mất khỏi tâm trí lòng con, một hãy làm cho nó ngày càng đậm nét hơn. Lạy Mẹ Maria, kẻ hèn mọn tuyệt vời, xin giúp con như Mẹ nhận biết Chúa Hài Nhi. Amen.
14. Chúa Nhật 3 Mùa Vọng.
Anh chị em thân mến.
Trong thời buổi kinh tế thị trường của thời đại, nghệ thuật quảng cáo chiếm một vị trí hết sức quan trọng. Trên đường phố, những nơi nào có thể được là có những hình ảnh giới thiệu những gì mà người ta cần đến. Trên TV cũng thế, bất cứ giờ phút nào cũng có những thông tin cần thiết về những sản phẩm, có khi làm cho người nghe phải khó chịu. Nhưng lại rất hiệu quả, vì khi qua những giây phút khó chịu đó, nó dường như có một chút gì còn lại nơi người nghe. Không chỉ có thế, còn có những con người mang sản phẩtm đến tận nơi người tiêu dùng, với những kiểu nói hết sức duyên dáng và thu hút, làm cho người đối diện không thể nào làm ngơ được. Những người quảng cáo nầy còn được goi là nhân viên tiếp thị, họ chịu trách nhiệm về mặt hàng, họ giải thích hiệu quả và chỉ cách cho khách hàng xử dụng như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất. Ngoài ra còn có những giải thưởng hết sức hấp dẫn cho người tiêu dùng, khiến cho mọi người đều lắng nghe và hưởng ứng tận tình.
Chúng ta vừa lắng nghe một nhân viên tiếp thị, nhưng không phải tiếp thị cho mặt hằng nào, mà là thông báo và quảng cáo phần thưởng cho những ai biết chuẩn bị chu đáo để đón mừng Đấng có uy quyền đến với họ. Nhân viên tiếp thị không chỉ bằng lời nói, nhưng bằng hành động và cả cuộc sống. Một đời sống khiêm nhường chân thật để làm chứng cho sự thật. Một đời sống thanh thoát để hướng mọi người về trời cao. Một đời sống khắc khổ để kêu gọi mọi người hy sinh, chịu khó để dâng cuộc đời cho Chúa. Oâng biết chấp nhận sự thật, quên mình đi, để hướng mọi người về Đấng Cứu Thê mà ông giới thiệu. Oâng kêu mời mọi người thay đỗi đời sống cho tốt hơn để xứng đáng chuẩn bị đón chờ Chúa đến. Oâng cũng làm gương cho mọi người biết chấp nhận cuộc sống hiện tại, chấp nhận những gì là của mình, để biết sống trọn vẹn và chu toàn trách nhiệm thật chu đáo.
Những người của ngày xưa không thể nào ngồi yến bất động, khi nghe thấy những lời mời gọi của Gioan Tẩy Giả, họ chạy đến với Gioan, nhận phép rửa thống hối. Họ cũng đến với Gioan để tìm cho mình một con đường sống theo Thánh ý Chúa.
Chúng ta, những con người của ngày hôm nay, cũng nghe những lời của ngày xưa, cũng gợi lại trong tâm trí chúng ta hình ảnh sống động của một chứng nhân. Nhưng nhân viên tiếp thị hết sức thuyết phục của ngày xưa, cũng đang dùng hết khả năng của mình cho những người của ngày nay, không biết có mang lại chút kết quả nào không?
Mỗi người trong chúng ta nghe nhiều, biết nhiều, nhưng chúng ta sống như thế nào? Giờ đây lời kêu mời lại vang lên một cách sống động và tha thiết. Nếu chúng ta thấy được mình thiếu thốn về đạo đức, thiếu về lòng nhân ái, thiếu thốn về nhân cách làm người mà biết chạy đến với Chúa khi nghe lời kêu mời của Gioan, để xin Chúa đong đầy những gì còn thiếu nơi chúng ta.
Nhìn vào gương làm chứng của Gioan Tẩy Giả, chứng ta cũng quyết là những chứng nhân sống động như Ngài; khi chúng ta biết làm cho Chúa Kitô hiện điện trong đời sống của mình thật sự. Đó là những lúc chúng ta biết quên mình mà đến với người khác để giúp cho họ sống tốt hơn qua những lời nói chân thành, qua sự giúp đở nhẹ nhàng đối với những gì mà người ta cần. Cũng là những lúc chúng ta nhìn thấy được trách nhiệm, những gì phải làm mà không ngần ngại, cho dù nhìn thấy những khó khăn trước mắt. Trong những lúc chúng ta nhìn thấy những lợi lộc của trần gian, những niềm vui không phải của mình, chúng ta không cần đến cũng không tìm cách chiếm hữu nó; những lúc đó chúng ta đã trở nên một chuyên viên tiếp thị xuất sắc cho chúa Kitô như vị Tiền Hô của ngày xưa. Khi đó mọi người nhìn vào chúng ta và họ cũng nhìn thấy, cũng lắng nghe được sứ điệp loan báo về Chúa sắp ngự đến. Khi đó chúng ta không chỉ loan báo bằng lời nói, nhưng bằng chính cuộc sống và cả con người của chúng ta. Khi đó Chúa đã đến thật sự.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết lắng nghe Lời Chúa, đễ biết nhận ra Chúa và sống xứng đáng là Chứng nhân trung thành của Chúa trong cuộc sống đời thường.
15. Con tim rung nhịp với chân lý
(Suy niệm của Thomas Nguyễn Văn Hiệp)
Tiếp nối hai bài suy niệm “Đừng Vô Cảm” và “Tỉnh Thức Con Tim” của hai chúa nhật I & II mùa vọng, hôm nay chúa nhật III mùa vọng, xin được chia sẻ đề tài: con tim rung nhịp với chân lý.
Mấy ngày gần đây, video clip về sự thờ ơ của người qua đường đối với cô gái bị đâm 28 nhát dao đang tạo sự quan tâm của dân cư mạng và gây xôn xao dư luận Trung Quốc. Đoạn video có tên “Ngang nhiên giết người trên phố” đã được phát tán với tốc độ chóng mặt trên các mạng xã hội Trung Quốc. Video này cho thấy, vào lúc 9h sáng ngày 30/11, một người đàn ông chừng 25 tuổi đã xông vào tấn công một cô gái qua đường. Hắn ta giật, lôi và giằng lấy giỏ xách của cô gái. Cô gái đã gắng sức giữ chặt giỏ của mình. Sau gần 10 giây giằng co, người đàn ông hung hãn đã rút dao trong người đâm tới tấp cô gái 4 nhát liền, khiến cô ngã lăn ra đất. Ngay khi đó có hai người qua đường (có lẽ là 2 người đàn ông) đứng yên gần bên quan sát sự việc; ở len đường bên cạnh có ít nhất 1 chiếc taxi và 2 chiếc môtô tấp vào lề (chắc là vì tò mò); cách đó không xa là một nhóm người rất đông (có lẽ đi ra từ khách sạn). Chẳng ai có một phản ứng gì! Người đàn ông say máu cuồng lên, hắn tiếp tục dùng dao đâm cô gái thêm mấy nhát nữa. Nạn nhân dồn chút sức tàn gượng dậy kêu cứu, nhưng hai người đàn ông qua đường vẫn thản nhiên không hề can thiệp hay báo cảnh sát mà lẳng lặng rời khỏi hiện trường. Kẻ côn đồ tiếp tục đâm cô gái mười mấy nhát nữa cho đến khi cô nằm im trên vũng máu. Sau cùng, hắn dùng chân đạp hơn 10 cái trên thi thể nạn nhân bê bết máu rồi lạnh lùng bỏ đi.
Vụ án mạng được xác định xảy ra ở huyện Hoài Nhơn, tỉnh Sơn Tây (Trung Quốc). Vụ giết người dã man đã khiến cư dân mạng đã vô cùng kinh ngạc về hành động gian ác mất tính người của hung thủ và thương xót cho cô gái xấu số. Được biết nạn nhân đã tử vong sau khi đưa tới bệnh viện do mất quá nhiều máu. Họ cũng bày tỏ sự phẫn nộ với thái độ dửng dưng và bàng quan của những người qua đường không ai chịu ra tay can ngăn hay báo cảnh sát. Cho dù địa điểm xảy ra án mạng cách đồn cảnh sát không xa, nhưng hơn 10 phút sau vẫn không thấy cảnh sát đâu cả. Nhiều người cho rằng hành động của người đàn ông khiến người ta ghê tởm. Nhưng sự thờ ơ, lạnh lùng, vô cảm của những người qua đường thấy chết mà không cứu giúp còn tàn nhẫn hơn!
Xem đoạn video clip xong, người viết bỗng nhớ đến bộ phim tài liệu “Chuyện Tử Tế” vang tiếng một thời của đạo diễn – NSND Trần Văn Thủy. Bộ phim được bấm máy năm 1985, bị cấm chiếu trong nước, nhưng lại gây tiếng vang ở nước ngoài. Bộ phim đoạt giải Bồ câu bạc Liên hoan phim Quốc tế Leipzig, được báo chí nước ngoài ví như “Quả bom đến từ Việt Nam nổ tung ở thành phố Leipzig” (Đức), được nhiều đài truyền hình nổi tiếng mua bản quyền phát sóng, được lọt trong top 10 bộ phim tài liệu hay nhất được thế giới bình chọn năm 1992.
Có lẽ vì biết trước số phận “long đong” của “Chuyện Tử Tế” trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam 1985 mà Trần Văn Thủy đã dán tấm bùa hộ mệnh ở đầu và kết cho bộ phim là câu nói của Karl Marx: “… Tất nhiên, chỉ có loài súc vật mới có thể quay lưng lại nỗi đau khổ của con người, và chăm lo riêng cho bộ da của mình …”.
“Chuyện Tử Tế” được liền mạch bởi những câu hỏi mang tính nhân sinh: thế nào là Nhân dân? Là Vĩ đại? là Hạnh phúc? Là Tử tế? … Nhưng tất cả được gói gém trong lời mời gọi: “Hãy sống tử tế với nhau”. Nhưng đâu là nền tảng, là cội nguồn để con người sống tử tế? Dường như chính đời sống tận hiến phục vụ vô vị lợi của các Soeurs tại trại phong Quy Hòa (Quy Nhơn) là đáp án cho vấn nạn. Xin được lược ghi lại lời thoại và lời bình trong phim:
Khởi đi từ lời của cô gái: “Ăn ở với nhau tử tế là lẽ thường, là niềm an ủi của người đời. Chỉ có đồ hủi mới ăn ở với nhau chẳng ra gì!”.
Lời cô gái như là cái cớ để đoàn làm phim đi đến Trại phong ở Quy Hòa. Tại đây, họ gặp mặt đông đảo các thầy thuốc và đặt câu hỏi:
- Thưa các thầy thuốc, ở đây ai là người tận tâm chạy chữa, chia sẻ với người hủi?
- Các bà soeurs! Chuyện đó phải kể đến các bà soeurs.
Các thầy thuốc, trong đó có các thầy thuốc từ khi rời ghế trường Y, cho đến bây giờ đã hai thứ tóc, làm việc ở các trại hủi, đều trả lời như vậy …
Những người làm phim hỏi: -Thưa, đâu là nơi bắt đầu để các soeurs yên tâm, tận tụy phục vụ người mắc bệnh hủi?
- Dạ, chỗ bắt đầu của chúng tôi và đồng nghiệp là lòng Tin.
Vâng! Nếu không có lòng tin thì con người không thể sống với con người được. Con người đã từ lòng tin thần thánh, lòng tin tôn giáo mà đến với lòng tin có chứng cứ, tin vào những cái đích thật.
Người biên tập bộ phim này cho biết: "Từ rất xa xưa, cha bác có dạy rằng tử tế có trong mỗi con người, mỗi nhà, mỗi dòng họ, mỗi dân tộc. Hãy bền bỉ đánh thức nó, đặt nó lên bàn thờ tổ tiên hay trên lễ đài của quốc gia. Bởi thiếu nó, một cộng đồng dù có nổ lực tột bậc và chí hướng cao xa đến mấy thì cũng chỉ là những điều vớ vẩn. Hãy hướng con trẻ và cả người lớn đầu tiên vào việc học làm người - người tử tế - trước khi mong muốn và chăn dắt họ trở thành người có quyền hành, giỏi giang hoặc siêu phàm".
Đọc đến đây có lẽ mọi người sẽ cho rằng người viết quá sa đà nơi phần dẫn nhập. Nhưng có xem đi xem lại hai đoạn phim kể trên nhiều lần và nghiền ngẫm nó thì ta mới thấy bừng sáng lời mời gọi của đoạn Tin Mừng hôm nay.
Bài Tin mừng hôm nay (Ga 1,6-8.19-28) giới thiệu sứ mạng của Gioan Tẩy Giả. Ông là người làm chứng. Người làm chứng về Đức Giêsu là Ánh sáng, là Ân sủng, là Sự thật. Người làm chứng có “Con tim rung nhịp với chân lý” là Đức Giêsu, cho dẫu người đương thời khướt từ Ngài. Vì có “con tim rung nhịp với chân lý” nên mạnh mẽ tuyên bố trong khiêm hạ: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi … Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.”
Người làm chứng trong đoạn video clip có tên “Ngang nhiên giết người trên phố” là hai người đi đường, là những người trên 2 chiếc môtô và taxi, là đám đông trước khách sạn … đã vô cảm với chân lý, với lòng trắc ẩn yêu thương mà Thiên đã đặt để trong trái tim mỗi người. Họ vô cảm, dửng dưng, bàng quang, lạnh lùng, vô trách nhiệm trước cái ác, trước chân lý bị chà đạm miễn sao không phiền lụy đến bản thân. Đó là hệ quả của một xã hội đánh mất niềm tin vào Thiên Chúa Tình Yêu, Đấng là nguồn cội muôn loài; một xã hội chỉ chạy theo vật chất tạm bợ trần gian.
Người làm chứng trong phim tài liệu “Chuyện Tử Tế” cũng rất nhiều và cũng rất đáng sợ. Đáng sợ đến nỗi mà khi công chiếu những người lãnh đạo đương thời phải thẹn với sự thật đau lòng mà cấm chiếu bộ phim. Tuy nhiên trong muôn vàn người thích làm chứng giả hay tránh né sự thật ấy vẫn còn có những con người có “con tim rung nhịp với chân lý”. Họ sống, hành xử theo niềm tin vào Thiên Chúa là nguồn cội của Tình yêu và Sự thật để đến với tha nhân bằng sự đồng cảm, yêu thương, chia sẻ … Những con người ấy được điển hình hóa qua các nhân vật trong phim là các nữ tu tại trại phong Quy Hòa.
Người làm chứng trong bối cảnh của bài Tin Mừng hôm nay cũng có nhiều: là phần đông dân chúng, là một số Tư tế và thầy Lêvi, là Gioan Tẩy Giả. Dân chúng thời Chúa Giêsu thì im lặng không đón nhận: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1, 11). Một số Tư tế và thầy Lêvi thì nghi ngờ và dửng dưng đi kiểm chứng. Chỉ có Gioan Tẩy Giả thì xác tín, con tim luôn rung nhịp với Chân lý là Con Thiên Chúa làm người nên khiêm tốn, sẵn sằng làm tất cả mọi sự vì Chúa Giêsu, vì chương trình cứu độ của Ngài. “Con tim rung nhịp với chân lý” của Gioan Tẩy Giả vẫn bền bĩ kiên trung rung nhịp theo Tin Mừng của Chúa Giêsu đến hơi thở cuối cùng dưới lưỡi gươm gian trá và thâm độc của Hêrôđê.
Bộ phim “Chuyện Tử Tế” được kết bằng ba biểu tượng: Thiên thần Gabriel thắng quỷ dữ, hai ngọn đèn cầy leo lét trước gió và cuối cùng là ngọn sóng bạc đầu dâng cao gào thét như thét gọi mọi người đừng vô cảm, hãy tỉnh thức con tim, để rung nhịp với chân lý, với sự thật, với nỗi đau của tha nhân.
Lời dạy của Tin Mừng hôm nay được thể hiện qua đời sống chứng tá cho Chân lý của Gioan Tẩy giả là lời mời gọi tất cả chúng ta phải có “con tim rung nhịp với chân lý” để làm chứng cho Thiên Chúa Tình Yêu, để sống “tử tế” với nhau, khướt từ mọi đam mê quyến rũ, mọi tham lam ích kỷ vụ lợi cá nhân.
Hình tượng Gioan Tẩy Giả trong Tin Mừng càng thôi thúc mỗi người kitô hữu chúng ta hơn nữa: Hãy khiêm tốn sửa đổi chính mình để đón mừng Hài Nhi Giêsu ngự đến.
16. Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
ĐỨC GIÊSU KITÔ LÀ ĐẤNG EMMANUEL, THIÊN CHÚA Ở CÙNG CHÚNG TA.
Khi tìm hiểu về con người, người ta đưa ra rất nhiều định nghĩa. Một trong nhiều định nghĩa được ghi nhận: con người là một hữu thể tôn giáo, nghĩa là giữa con người với thần linh có mối tương quan. Tôn giáo, hay tín ngưỡng là kết quả tìm kiếm thiên chúa của con người. Dầu vậy, thần linh và con người không cùng một loài, nên người ta không thể hiểu biết được thần linh, nếu ngài không tự tỏ mình ra cho họ.
Đọc lại lịch sử cứu độ, tác giả thư gởi tín hữu Do Thái chỉ cách thức Thiên Chúa tỏ mình ra bằng nhiều con đường khác nhau “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các vị ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết đây, nghĩa là trong những ngày này, Người đã phán dạy chúng ta qua Người Con là Đức Giêsu Kitô” (Dt 1,1). Người là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, nghĩa là thần tính Thiên Chúa kết hợp với nhân tính của Đức Giêsu, được sinh ra bởi một người đàn bà, sống dưới chế độ lề luật và bị chi phối bởi lề luật. Đón nhận thân phận của một con người bình thường đến độ người ta chẳng còn nhận ra Ngài nữa: Người đã bị liệt vào hàng tội nhân, bị kết án tử, bị nhổ khỏi đất kẻ sống. Nhưng nhờ những thương tích Người mà chúng ta hết thảy đều được chữa lành, được hưởng ơn tha tội và được sự sống đời đời.
Lời Chúa chủ nhật III Mùa Vọng phác họa chân dung Đấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta và mời gọi dọn đường đón Chúa trong tỉnh thức và sẵn sàng.
Bài đọc I, trích sách Ngôn sứ Isaia, đề cập đến các sấm ngôn an ủi. Gọi là sấm ngôn an ủi, vì khi đó dân Chúa đang bị lưu đày bên Babylon: chẳng còn đền thờ, chẳng còn nơi dâng của đầu mùa lên Chúa, chẳng còn người lãnh đạo, bị quân thù áp bức mãi không thôi; Isaia được sai đến an ủi dân. Ông nói với họ: “Can đảm lên, đừng sợ. Thiên Chúa của anh em đây rồi, sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em” (Is 35, 4). Ngài đến trong quyền năng của Đấng được xức dầu để khai mở một kỷ nguyên mới cho Israel: kỷ nguyên của hòa bình thịnh vượng, của công lý được vãn hồi, nhân phẩm con người được nâng cao và mọi khát vọng của dân Chúa, nhất là của người nghèo được đáp ứng đầy đủ. Đấng ấy đến từ Thiên Chúa, được sức dầu và được sai đến với dân. Sứ vụ của Người là loan báo tin mừng cho người nghèo khổ, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho các tù nhân, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng của Thiên Chúa.
Người ta luôn tự hỏi: Đấng mà vị ngôn sứ mô tả ở đây là ai vậy? Thật, không có câu trả lời nào chính xác bằng câu trả lời của Chúa Giêsu khi Người vào hội đường ở Nazareth, người ta đưa cho người sách ngôn sứ Isaia, mở sách ra gặp ngay đoạn viết: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, Người đã xức dầu cho tôi, sai tôi đi...”, và Người xác nhận: hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe.
Bài Tin Mừng hôm nay chuyển tải cùng một nội dung: Chúa Giêsu là Đấng muôn dân mong đợi. Đọc lướt qua, độc giả có cảm tưởng đoạn Tin Mừng nói về Gioan Tẩy Giả vì cuộc phỏng vấn nhắm vào ông, nhưng tác giả rất thâm thúy đẩy lùi Gioan vào hậu cảnh khi đặt vào miệng ông lời tuyên bố: tôi không phải là Đấng Kitô, tôi chỉ là tiếng kêu trong hoang địa và đơn giản chỉ là một kẻ dọn đường; nên những việc tôi làm chỉ mang tính tượng trưng: tôi rửa anh em bằng nước, còn Đấng đến sau tôi sẽ rửa anh em trong Thánh Thần.
Thưa anh chị em, Đức Giêsu, Đấng Emmanuel, bởi sự chết và sống lại, đã thiết lập phép rửa trong Chúa Thánh Thần nhằm ban tặng tình yêu và sự sống cho cả thế gian: “Người đã tự hiến tế để cứu chuộc chúng ta khỏi mọi điều bất chính, luyện lọc chúng ta thành dân riêng của Người, một dân nhiệt tâm làm việc thiện” (Tt 2, 14).
Con Thiên Chúa làm người ở cùng chúng ta là Tin Mừng vĩ đại nhất, tin vui tròn đầy nhất đáp ứng mọi khát vọng của kẻ kiếm tìm chân lý và sự sống. Bởi vậy, khi đón nhận Chúa Giêsu, Thánh Phaolô cảm nghiệm sâu sắc niềm vui ơn cứu độ. Trong thư gởi giáo đoàn Thê-xa-lô-ni-ca, ngài không ngừng khuyến khích cộng đoàn: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi, hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh” (1Th 5, 16, 18a). Phaolô tin rằng: Chúa Giêsu mới là người thánh hóa và gìn giữ anh chị em vẹn toàn, không gì đáng trách trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta ngự đến.
Hiểu như thế, chúng ta mới thấy công cuộc dọn đường là do Đấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng linh hoạt và mời gọi chúng ta đối thoại với Ngài. Dọn đường hay đối thoại với Chúa Giêsu là nên giống Chúa nhiều hơn trong cử chỉ, lời nói việc làm. Đời sống luân lý, đạo đức cá nhân hoàn hảo phải đặt nền tảng trên Lời Chúa, bằng không nó chỉ có giá trị tạm thời. Chúng ta thâm tín điều này: nếu đời chúng ta có Chúa, chúng ta sẽ hoàn hảo hóa đời mình và hoàn hảo hóa môi trường xã hội, cộng đoàn nơi mình sinh sống.
Chuyện kể (trích góp nhặt): Chúa Giêsu đang hiện thân nơi một thầy trong tu viện.
Khi mới thành lập tu viện, các tu sỹ được mọi người hết lòng kính trọng, yêu mến vì sự thánh thiện của các thầy. Phần các tu sỹ cầu nguyện và chữa mọi bệnh tật cho dân. Tu viện được Chúa chúc lành nên phát triển rất nhanh cả về số lượng lẫn chất lượng. Nhiều năm sau, tinh thần các thầy sa sút, chểnh mảng những bổn phận của tu viện. Hậu quả, người ta không còn đến hành hương để xin các thầy cầu nguyện và chữa bệnh nữa, vì các thầy khấn không được, chữa bệnh không khỏi.
Năm đó một cha được bầu làm tu viện trưởng, ngài quyết tâm phục hồi tinh thần của đấng sáng lập tu viện. Ngài tìm đến một đạo sỹ để hỏi nguyên nhân tại sao tu viện sa sút như vậy. Vị đạo sỹ không giải thích mà nhắc: trong tu viện của cha có một người là Chúa Giêsu đang hiện thân nơi một thầy. Cha về tìm xem ai để hỏi, Ngài sẽ dạy cho cách phục hưng tu viện.
Trên đường về, vị tu viện trưởng nghĩ: chắc không phải là mình vì xét bản thân thấy yếu đuối nhiều hơn nhân đức. Ngài quyết định loan báo tin đó cho các thầy. Ai cũng tự thấy mình không phải là Chúa Giêsu, mà nghĩ người anh em bên cạnh mình mới là Chúa. Vì không biết chắc là ai, nên tốt hơn hết cứ kính trọng, yêu mến, phục vụ... để khỏi bất kính với Chúa Giêsu. Cứ như thế một thời gian tu viện lại nổi tiếng về sự thánh thiện. Các thầy lại cầu nguyện và chữa bệnh có hiệu lực như trước. Lúc bấy giờ họ mới vỡ lẽ: nhìn nhận Thiên Chúa nơi tha nhân là cách tốt nhất để thánh hóa bản thân và môi trường nơi mình sinh sống.
Xin cầu chúc quý cố ông bà, anh chị em về nhà nhìn thấy Chúa Giêsu nơi những người thân thương của mình để sống hiệp nhất yêu thương. Chính nơi điều này chúng ta đang dọn lòng đón Chúa cách tích cực và hiệu quả nhất.
Xin Chúa chúc lành cho mỗi người chúng ta trong ngày chúa nhật III Mùa Vọng hôm nay. Amen.
17. Niềm vui đích thực
Hôm nay chúng ta bước vào Chúa nhật thứ 3 Mùa vọng, nghĩa là chúng ta đã trải qua hơn nữa chặng đường của Mùa Vọng. Hôm nay, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy vui lên. Tại sao vậy? Điều gì khiến chúng ta cần phải sống tâm tình hân hoan như thế? Vâng, chúng ta có rất nhiều lý do để vui mừng:
Trước hết, chúng ta vui mừng vì Chúa đã nhập thể làm người và đã mang lại cho chúng ta ơn cứu độ. Chúa đã đến và đã hiện diện trong lịch sử nhân loại, mang lại cho con người hồng ân lớn lao là cứu con người khỏi quyền lực sự chết và phục hồi cho con người địa vị làm con cái Thiên Chúa. Nhưng có lẽ nhiều người chúng ta không cảm thấy đây là một vinh dự lớn lao mà lại xem thường vì thấy làm con cái Thiên Chúa đâu có hơn gì người khác đâu. Quả thật, nếu nhìn theo phương diện phàm trần thì được làm con Chúa không hơn và không khác gì với những người khác, thậm chí còn phải mang lấy nhiều trách nhiệm hơn những người khác. Nhưng về phương diện đời sống thiêng liêng, chúng ta đang nắm giữ một vinh dự quá lớn lao, đang sở hữu một gia nghiệp sung mãn và vững chắc mà không ai trên trần gian này có thể có hay dám nghĩ tới. Chúng ta có quyền hy vọng như thế vì Chúa đã ban cho chúng ta Người Con Một yêu dấu của Ngài rồi thì không còn có gì mà Ngài lại từ chối không ban cho chúng ta. Tuy nhiên, hạnh phúc Nước trời chỉ nằm ở cuối chặêng đường trong hành trình đức tin của chúng ta. Phần thưởng ấy dành cho những ai hết lòng tin tưởng và tín thác vào Thiên Chúa qua nỗ lực sống thánh thiện trong từng ngày sống của mình. Sống tin tưởng và tín thác vào Thiên Chúa chính là chu toàn sứ mạng của mình, chu toàn những phận vụ mà mình đã lãnh nhận từ nơi Thiên Chúa như những nén bạc được Thiên Chúa trao ban.
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy một mẫu gương sống niềm vui và sống tín thác vào Thiên Chúa, đó là Thánh Gioan Tẩy Giả. Thánh Gioan là người sống niềm vui tràn đầy vì ngài được kêu gọi làm Ngôn sứ của Chúa và làm tiền hô cho Đấng Cứu Thế. Thánh Gioan đã sống hết mình và hết tình với nhiệm vụ của mình trong sự khiêm tốn lạ lùng để làm cho mọi người nhận biết Đức Giêsu là Đấng Kitô và là Đấng Cứu Độ muôn dân hằng mong đợi. Thánh Gioan đã hạ mình xuống để cho làm cho Đức Giêsu được sáng lên. Ngài đã nói "Người phải lớn lên còn tôi phải nhỏ lại". Thánh Gioan làm được điều đó vì ngài đang mang trong mình niềm tin yêu và hy vọng vào Thiên Chúa của ngài. Chúng ta cũng cần mang lấy tâm tình đó để sống vui trong từng ngày sống làm Kitô hữu và làm chứng nhân cho Thiên Chúa.
Chúng ta còn phải vui mừng vì biết bao những ơn lành người đã ban cho chúng ta trong cuộc sống hằng ngày. Nhưng đây là điều ít ai trong chúng ta nghĩ tới. Chúng ta thường có quan niệm coi Thiên Chúa như một vị khách hoà hiệp nào đó, lâu lâu ghé thăm chúng ta một lần rồi tặng cho chúng ta một món quà nào đó, thấy cũng vui vui vậy thôi. Vì nhìn Thiên Chúa như thế, cho nên chúng ta không thấy cần Thiên Chúa trong cuộc đời của mình bao nhiêu: có Ngài cũng được, không có Ngài cũng chẳng sao. Thậm chí nhiều lúc, chúng ta còn nghi ngờ về sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời này khi chúng ta thấy thiên tai, bệnh tật, bất công, đói nghèo xảy ra nhan nhản trước mắt; khi chúng ta thấy kẻ ác lại sống sung túc và dư dật, còn kẻ lương thiện, hiền lành thì lại sống chật vật và bị chèn ép tứ bề. Nhìn thấy nhân tình thế thái như vậy thì làm sao chúng ta vui được? Làm sao chúng ta có thể hân hoan tiến bước trong đời sống đức tin của chúng ta được? . . . Tất cả những điều ấy chỉ có thể giải đáp trong đời sống đức tin mà thôi. Nhưng tắt một lời là nếu vắng bóng Thiên Chúa trong cuộc đời của chúng ta một giây phút thôi, nếu Thiên Chúa ngưng gìn giữ vù trụ này một giây phút thôi thì tất cả sẽ ra tro bụi hết, sẽ về cõi hư vô hết. Chúng ta cũng cần hiểu biết rằng: nếu không có cuộc sống đời sau và sự sống vĩnh cửu thì cuộc đời này sẽ vô lý, vô nghĩa và nói như Jean Paul Sarte: "Cuộc đời này buồn nôn" vô cùng. Nhưng chúng ta tin có sự sống đời sau, có thưởng phạt trong cuộc sống mai sau. Thiên Chúa là Đấng nhân từ vô cùng nhưng Ngài cũng công bằng vô cùng: Số phận của con người chúng ta sẽ khác biệt nhau trong cuộc sống mai sau tuỳ vào lối sống hiện tại của chúng ta. Kẻ dữ, người lành sẽ được Thiên Chúa tách biệt ra như "mục tử tách chiên ra khỏi dê" vậy. Vì thế, mọi việc làm của chúng ta ở cuộc đời này cần phải được đặt nền móng trong Thiên Chúa, trong cuộc sống mai sau. Có như thế thì chúng ta mới thấy phấn khởi và hân hoan tiến bước. Chúa Giêsu đã khuyên nhủ chúng ta rằng: "anh em hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, " (Ga 6,27). Nếu chúng ta giữ đạo chỉ vì muốn được hạnh phúc ở đời này thôi thì quả thật đức tin của chúng ta còn non yếu lắm và coi chừng chúng ta là những kẻ khờ dại trước mặt Thiên Chúa. Chúa không hứa hạnh phúc ở đời này cho bất cứ ai theo Ngài, có hứa chăng là Ngài hứa cho chúng ta được nên giống Ngài trên con đường Thập giá để mai sau chúng ta được Phục sinh vinh quang với Ngài trên trời. Chúa nói: "phúc cho anh em khi vì Thầy mà bi người ta bắt bớ và vu khống mọi điều xấu xa". Chúng ta có dám đón nhận phúc lành của Chúa không? Chúa Giêsu cũng nói với thánh Phêrô rằng: "Con ráng làm Giáo hoàng cho ngon lành và tốt đẹp nhé, Thầy sẽ cho con được chết giống như Thầy". Như vậy, cuộc đời theo Chúa của từng người chúng ta không nhằm vinh quang ở đời này, không nhằm hạnh phúc chóng qua ở đời này, nhưng là hạnh phúc lớn lao mai sau. Đó là động lực, là niềm vui mà Giáo hội mời gọi chúng ta hân hoan đón nhận và tích cực sống đời sống Kitô hữu của mình.
Chúng ta còn một lý do nữa để vui mừng là chúng ta đang mang trong lòng một niềm hy vọng về một tương lai huy hoàng và chắc chắn. Trong sứ điệp Mùa vọng năm nay, Đức Thánh Cha Bênêđictô mời gọi người Kitô hữu chúng ta sống niềm hy vọng. Như vậy, sống Mùa vọng là sống niềm hy vọng. Quả thật, đời sống của người Kitô hữu của chúng ta được đông đầy bởi niềm hy vọng: hy vọng vào vào tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, hy vọng vào một tương lai huy hoàng mai sau. Nói cách khác, niềm tin Kitô giáo của chúng ta được xây trên niềm hy vọng vững chắc cho cuộc sống mai sau.
Ước gì chúng ta luôn sống vui mừng và hy vọng trong từng ngày sống của chúng ta trong niềm tin vào Thiên Chúa tình yêu qua thái độ sống tích cực, vui tươi với mọi người, hăng hái làm việc thiện, khát khao tìm gặp Chúa và tìm mọi phương thế cũng như tận dụng mọi khả năng để làm cho Chúa được lớn lên trong cuộc đời chúng ta và trong vũ trụ này. Amen.
18. Làm chứng cho ánh sáng
(Suy niệm của Lm. Barnaba Lê An Phong)
1. Có một người Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến làm nhân chứng để làm chứng cho ánh sáng. Ông không phải là ánh sáng, nhưng đã được gửi đến làm chứng về ánh sáng đó. Và đây là lời chứng của Gioan, khi người Do Thái gửi các “chuyên viên” từ Jerusalem đến hỏi ông: “Ông là ai?”. Gioan thú nhận, không phủ nhận, “Tôi không phải là Đức Kitô” – Tôi không là Đấng cứu thế, cũng không phải là nhà tiên tri. “Tôi chỉ là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy dọn con đường của Đức Chúa, như tiên tri Isaia đã nói”.
Trước mặt ông là sa mạc hoang vu, và nơi ấy Gioan đã lắng nghe Lời Chúa. Đến với ông là mọi người thuộc nhiều tầng lớp và là những ai muốn đổi mới cuộc đời. Gioan Tẩy giả loan báo và dọn đường bằng lời nói và bằng hành động nơi cuộc sống của chính mình.
Gioan Tẩy giả bị “hạch hỏi” vì những gì mình đang làm nhân đanh Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn dùng con người – các ngôn sứ - để nói về Ngài và nhờ họ dẫn đưa nhiều người về với Thiên Chúa. Cũng vì thế, lý chứng hay nhân chứng về Thiên Chúa không phải được con người đón nhận luôn luôn. Người ta có thể chất vấn, tra hỏi và xua đuổi các chứng nhân Tin mừng.
2. Tin mừng tuần này theo Thánh Gioan cũng nói đến ánh sáng và làm chứng cho ánh sáng. Cuộc tranh đấu giữa thiện và ác, tốt và xấu, ánh sáng và bóng tối vẫn luôn diễn ra trong và ngoài bản thân mỗi chúng ta. Bây giờ chúng ta đang bão hòa với “tin xấu” và sự dửng dưng, vô cảm. Chỉ cần nghe vài thông tin là người ta có thể rơi vào tình trạng “trầm cảm”. Đây là tin chiến tranh, này là tin cuộc sống “có vấn đề” của giới trẻ; nọ là tin bạo lực vô cớ đối với phụ nữ và trẻ em, kia là tin gia đình tan nát vì muôn vàn lý do ngô nghê.
Cần chăng những tin vui và bình an được loan đi! “Tin mừng của Thiên Chúa”, đây không phải là một kiểu chơi chữ. Lời mở đầu khi đọc Lời Chúa là “Tin mừng”. Con người luôn mong đợi được nghe một điều tốt lành ở giữa rất nhiều tin tức xấu. Sự xuất hiện của tình yêu Thiên Chúa nơi Đấng an ủi và hoà giải mọi người luôn là một tin tốt lành.
3. Theo gương Gioan, chúng ta có thể là một sự hiện diện chứng tá. Cũng giống như Gioan Tẩy Giả, mục đích rao giảng của ông không phải là để thu hút sự chú ý của mọi người về phía mình và để chiếm toàn bộ thế giới cho riêng mình, nhưng là để chuẩn bị một không gian rộng lớn hơn nơi tâm hồn mọi người, và toàn bộ không gian ấy thuộc về Chúa Giêsu Kitô. Chỉ có Ngài mới là “ân sủng tràn đầy của Thiên Chúa”, và Ngài sẽ xuất hiện cho chúng ta trong tất cả vẻ huy hoàng rực rỡ, như ánh sáng rọi vào đêm tối.
Bạn và tôi có thể chuẩn bị và làm sạch sẽ không gian bụi bặm của tâm hồn mình để ánh sáng của Chúa có thể rọi chiếu vào. Bạn và tôi có thể làm chứng cho Ngài trong tuần lễ này bằng lối sống chân thực và khiêm nhường được chăng? Hãy thắp lên một ngọn nến nhỏ khi bạn cầu nguyện trong tuần này, một dấu hiệu cho thấy chúng ta đang tỉnh thức. Ngọn nến thắp sáng cũng là một dấu hiệu của ánh sáng đã rọi chiếu vào chúng ta qua Bí tích Rửa tội. Trong Mùa Vọng này, bạn được mời gọi để xem lại rằng ánh sáng ấy đang trở nên mờ nhạt hay không. Hãy xin Chúa giúp bạn cảm nhận được vẻ đẹp và sự ấm áp của ánh sáng đã đốt cháy tâm hồn bạn, để bạn cũng có thể làm sinh động, chiếu sáng và sưởi ấm những người gần gũi với bạn.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến với chúng con. Vì Ngài là ánh sáng của thế giới, xin hãy chiếu sáng tâm hồn chúng con. Amen.
19. Có một người ở giữa anh em – An Phong
Trong mùa Vọng, ba nhân vật vẫn được nói đến luôn, đó là: Đức Maria, ngôn sứ Isaia và Gioan - người làm phép Rửa. Bài Tin mừng hôm nay đề cập đến nhân vật thứ ba vừa nói ở trên, với một chứng từ rõ ràng về con người sa mạc ấy. Gioan loan báo Đấng đang đến, Gioan chỉ cho thấy Đấng ấy chính là Đức Giêsu; và một hệ luận tất nhiên: Gioan nhận ra mình không xứng đáng cởi xăng-đan cho Người.
Cùng với Gioan, mùa Vọng hẳn là mùa loan báo và là mùa chỉ cho thấy; đồng thời mùa Vọng là mùa nhận ra mình không xứng đáng.
Thiên Chúa vốn là một vị Thiên Chúa ẩn giấu. Người ta đã hao tổn biết bao giấy mực để cố khám phá vị Thiên Chúa ẩn giấu này. Gần 2000 năm lịch sử trước Chúa Giáng sinh, người ta mặc sức hình dung Ngài với những dung mạo khác nhau. Với Abraham, Ngài không có tên; Ngài là "sự sợ hãi của Isaác" (St 31,42), là "Đấng Tối Cao của Giacóp" (St 49,24)... Với Isaia, Ngài là "Người Tôi Tớ đau khổ"...
Như thế, Ngài luôn luôn và vẫn là một vị Thiên Chúa cần được loan báo và cần được chỉ cho thấy. Đôi lúc người ta phác họa chân dung một Thiên Chúa sai lạc, hoặc chỉ dò ý tưởng riêng của mình. Hẳn lúc đó, nguời ta sẽ nhận được một câu trả lời "tôi không phải như là các bạn nghĩ đâu"; hoặc "có một người ở giữa anh em mà anh em không nhận ra".
Như thế, cùng với Gioan, chúng ta hẳn phải loan báo và chỉ cho người khác thấy một vị Thiên Chúa tình yêu; Loan báo và chỉ cho thấy Thiên Chúa đang đến. Ngài đang ẩn giấu nơi người nghèo, người đau khổ, những phụ nữ "đứng đường"... bởi Ngài là tình yêu, là niềm cảm thông sâu xa thân phận con người.
Như Gioan, nhận ra mình không xứng đáng, đó là một sự không xứng đáng trước vị Thiên Chúa tình yêu bao la; ta đấm ngực "lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng", nghĩa là dám nhận ra mình còn "những điều thiếu sót", chưa làm những điều phải làm để gia tăng tình yêu. Victor Hugo đã có lần lên tiếng cảnh tỉnh: Ngày nào chúng ta không thắp lên ngọn lửa sưởi ấm, ngọn lửa tình yêu, chắc chắn sẽ có người chết rét".
Như thế, cùng với Gioan, chúng ta cất tiếng cao rao tình yêu Thiên Chúa bao la và cố gắng sống bác ái với mọi người.
Lạy Chúa Giêsu,
Hẳn cũng có lần con đấm ngực, dằn vặt tâm hồn
và tha thiết mong Chúa giải thoát nỗi khốn cùng của con.
Hẳn cũng bao lần con đứng trước hang đá, cầu xin Chúa mau đến;
Nhưng hình như con chưa dám "đóng vai Chúa"
để đến với những người nghèo khó,
khổ đau chung quanh con.
Và hình như con chưa nhận ra Chúa là tình yêu,
Chúa đang mời gọi tình yêu nơi chính tâm hồn của con.
Lạy Chúa Giêsu, xin Ngài trở nên tình yêu trong con
và đốt nóng tâm hồn của con bằng tình yêu của Chúa.
20. Tìm gặp Chúa trong vị thế của mình
(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)
Vào thời Chúa Giêsu tại thế, người ta đã chán ngấy tình trạng xã hội suy đồi bên đất Pa-lét-tin. Đời sống những nhà lãnh đạo tôn giáo cũng như dân sự thì truỵ lạc. Còn trên bình diện chính trị thì đất nước của họ bị phân chia và bị đế quốc La mã cai trị, nên họ mong đợi Đấng Cứu thế đến hơn bao giờ hết.
Và theo quan niệm của dân chúng, thì Đấng Cứu thế đến sẽ giải thoát họ khỏi ách nô lệ người ngoại bang, khiến cho đất nước của họ trở nên giàu mạnh, và dân tộc họ vượt lên hàng bá chủ hoàn cầu. Vì thế sứ điệp rao giảng sám hối của Gioan tiền hô để dọn đường cho Đấng Cứu thế đến đã làm khơi dậy một niềm vui phấn khởi của dân Do thái. Sở dĩ có như vậy là vì qua bao nhiêu thế hệ, họ đã bị quyền lực ngoại bang áp đảo: dưới ách thống trị của đế quốc Ba tư, dưới ách nô lệ của người Ai cập, dưới ách đô hộ của dân Xyria và dưới ách cai trị của đế quốc La mã.
Một nhóm người, chán nản cảnh suy sụp và vô luân trong xã hội, rút lui vào sa mạc Qumran xứ Giuđê gần Biển Chết, tuyên thệ để tài sản làm của chung, sống đời cầu nguyện, chiêm niệm và học hỏi Thánh kinh. Theo suy đoán có căn cứ thì ông Gioan tiền hô thuộc nhóm người sống trong cộng đồng tu này vì khi rao giảng phép rửa thống hối, ông ta xuất hiện từ sa mạc xứ Giuđê. Như vậy nếu theo quan niệm của quần chúng về đấng cứu thế, thì ông Gioan tiền hô cũng có thể mạo nhận cho mình là đấng Cứu Thế, nhất là sứ điệp rao giảng của ông có sức lôi cuốn mãnh liệt. Tuy nhiên khi dân chúng cử một số thượng tế và các thầy Lêvi đến hỏi xem ông là ai, thì được ông trả lời: Tôi không phải là Đấng Kitô (Ga 1:20). Hay ông là ông Êlia chăng? Tôi không phải là Elia (Ga 1:21). Vậy ông có phải là vị một ngôn sứ không? Tôi cũng không phải (Ga 1:21). Và ông nói: Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường ngay thẳng cho Đấng cứu thế đến như ngôn sứ Isaia đã loan báo (Ga 1:23).
Những người tư tế được cử đến hỏi Gioan hẳn phải biết ông Gioan không phải là nhân vật tầm thường bởi vì cha ông là Dacaria cũng là một tư tế được thấy hiện tượng lạ trong Đền thờ về ông Gioan. Thế mà ông Gioan chỉ trả lời cách trung thực và khiêm tốn như vậy. Rồi mấy người Pharisêu trong nhóm lại hỏi tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Kitô. Gioan trả lời: Tôi làm phép rửa trong nước... Người sẽ đến sau tôi, và tôi không đáng cởi quai dép cho Người (Ga 1:26-27).
Tại sao dân chúng lại hỏi xem Gioan tiền hô có phải là Êlia không? Thưa lí do là thế này. Theo ngôn sứ Malakhi, thì ngôn sứ Êlia sẽ trở lại trước khi Đấng cứu thế xuất hiện (Ml 3:23). Nhiều người đương thời Chúa Giêsu cũng tin như vậy, chẳng hạn như các kinh sư (Mt 17:10; Mc 9:11). Họ tưởng rằng Gioan là Êlia tái xuất hiện vì ông cũng bận giống như ông Êlia: Mặc áo lông lạc là, thắt lưng bằng giây da (Mc 1:6; 2V 1:8) và khi rao giảng, giọng nói của ông cũng như thét ra lửa. Khi Chúa Giêsu nói Gioan chính là Êlia (Mt 11:14; 17:12-13, Mc 9:13), Chúa muốn nói Gioan đến trong tinh thần của Êlia. Đó chính là điều mà sứ thần của Chúa nói về Gioan tiền hô là con của ông Dacaria như sau: Cháu sẽ đi trước mặt Người, đầy thần khí và uy quyền của ngôn sứ Êlia (Lc 1:17). Và tại sao họ còn hỏi xem Gioan có phải là vị ngôn sứ không và họ ám chỉ về ngôn sứ nào? Thưa sự thể là thế này. Sách Đệ Nhị luật có bàn đến một vị ngôn sứ sẽ xuất hiện giữa họ để giúp họ (Đnl 18:15). Căn cứ vào đó mà họ mong đợi vị ngôn sứ đến giúp họ tham dự vào kỉ nguyên của Đấng Thiên sai.
Theo tông đồ thánh sử Gioan, thì ông Gioan tiền hô được sai đến làm chứng về ánh sáng (Ga 1:7, 8). Đó là ánh sáng cứu độ trần gian, ánh sáng ban sự sống và ánh sáng chân lí. Đó là ánh sáng giải thoát đã được ngôn sứ Isaia loan báo hơn năm trăm năm về trước cho dân chúng đang bị lưu đầy bên Babylon. Bấy giờ ngôn sứ Isaia có thấy rõ được ý nghĩa trọn vẹn và thực sự của cuộc giải thoát hay không, thì không phải là điều quan trọng. Điều quan trọng là khi mở đọc bài sách Isaia hôm nay (Is 60:1-2) trong hội đường Nadarét, Đấng cứu độ trần gian công bố là Người đến để hoàn tất lời tiên tri này. Còn Gioan tiền hô chỉ đến để làm chứng cho ánh sáng giảỉ thoát và cứu độ mà thôi.
Giả sử Gioan tiền hô qui công về cho mình, cũng khoe khoang, mạo nhận mình là Đấng cứu thế, thì ông đã mất hết công nghiệp trước mặt Thiên Chúa. Theo Thánh kinh ghi lại thì Gioan tiền hô đã nhận chân được vị thế của mình trước mặt Đấng tối cao. Ông chủ trương Đấng Kitô phải rạng rỡ thêm, còn ông phải lu mờ dần đi (Ga 3: 30) nghĩa là Đấng Kitô phải được vinh danh, còn ông phải lui vào bóng tối.
Bài học mà Gioan tiền hô dạy ta sửa soạn đón mừng Đấng cứu thế đến là biết chấp nhận: chấp nhận sự thật về mình, chấp nhận vị thế, thế đứng và giới hạn của mình, không giả tạo, không qui công về cho mình cái mà mình không có, điều mà mình không làm. Hôm nay Giáo hội dùng những bài Thánh kinh chứa đựng những lời lẽ khích lệ, bảo ta hãy vui lên, vì ngày giờ cứu rỗi đã gần. Còn Gioan tiền hô thì dạy ta làm sao để tạo cho mình niềm vui chấp nhận để dọn đường đón mừng Đấng cứu thế. Là người tín hữu ta phải học hỏi với Gioan tiền hô để nhận biết mình, chấp nhận bản thân và hoàn cảnh. Nếu không, ta có thể trở thành những người bất mãn. Thái độ bất mãn sẽ làm cản trở cho việc Chúa đến trong tâm hồn.
Vậy chỉ khi nào ta bằng lòng chấp nhận vị thế, chỗ đứng, giới hạn của mình trong tâm tình biết ơn Đấng tạo dựng, ta sẽ có được tâm hồn ai vui, không bận tâm về mình, để có thể mở rộng tâm hồn đón mừng Đấng Cứu thế.
Lời cầu nguyện xin cho được biết vị thế của mình:
Lạy Chúa, Chúa là Đấng sáng tạo muôn loài muôn vật.
Xin cho con nhận thức được rằng:
Con chỉ là đất sét, còn Chúa mới là thợ gốm.
Chúa muốn con thành dụng cụ gì,
là do bàn tay tác tạo của Chúa.
Như Gioan tiền hô, không mạo nhận,
xin dạy con biết sống trung thực với lòng mình,
để con cảm nghiệm được niềm vui
đón chờ Chúa đến. Amen.
21. Chúa nhật hồng – Niềm vui cứu độ
Chúa Nhật hôm nay được gọi là: "Chúa Nhật Hồng, Chúa Nhật Vui". Đây là một niềm vui rất to lớn và tràn đầy hy vọng của những người tin vào Đấng Cứu Thế và đang hân hoan chờ đón Ngài. Niềm vui này chúng ta được nghe trong Lời Chúa hôm nay: "Anh chị em hãy vui lên trong Chúa.! Tôi nhắc lại một lần nữa: Anh chị em hãy vui lên vì Chúa đã đến gần!...". Niềm vui này là một niềm vui được ơn Chúa cứu độ, niềm vui được an bình, niềm vui được hạnh phúc! Vậy thì chúng ta phải sống như thế nào trong Mùa Vọng này, để hưởng được trọn vẹn hạnh phúc Chúa ban?
Chuyện kể rằng: Có một Ông Vua kia lúc nào cũng lo âu, mặc dù sống trong quyền lực và nhung lụa sung sướng nhưng ông không có hạnh phúc, không biết cách nào để có được hạnh phúc. Nhà Vua gọi các nhà khôn ngoan lại bàn hỏi xem làm thế nào trút bỏ những âu lo đang đè nặng tâm trí Vua đến nỗi Vua không thể nào có được một cuộc sống hạnh phúc? Nhà thông thái trả lời: "Chỉ có một cách duy nhất để giúp nhà Vua . Đó là Vua phải mặc chiếc áo của người có hạnh phúc thật sự!". Thế là các sứ giả được sai đi khắp nơi để tìm kiếm một người đang mặc chiếc áo hạnh phúc. Nhưng bất kỳ người nào được hỏi đến cũng có lý do để đau khổ, buồn sầu,... một điều gì đó đã cướp mất hạnh phúc của họ. Sau cùng thì họ cũng tìm một người, đúng hơn là một người ăn xin. Người ăn xin này ngồi mỉm cười ở giữa chợ và tự xưng mình là người hạnh phúc nhất, không có một điều gì buồn rầu, lo âu. Sứ giả của Nhà Vua nói với người ăn xin về điều Nhà Vua cần mặc chiếc áo hạnh phúc ấy, và hứa trả cho người ăn xin một món tiền thật lớn để mua chiếc áo hạnh phúc ấy. Chúng ta nghĩ sao? Anh chàng ăn xin này có đồng ý bán chiếc áo hạnh phúc của mình không? Chúng ta có biết phản ứng của người ăn xin ra sao không? Không nín được cười, người ăn xin bật cười to lên và nói rằng: " Thật đáng tiếc! Tôi không thể nào làm hài lòng Nhà Vua được. Vì tôi chẳng có chiếc áo nào cả!!!". Vâng người hạnh phúc nhật trên đời lại là người không có một chiếc áo nào cả!!!
Bài Tin mừng hôm nay Ga 1, 6-8, 19-28 cho chúng ta thấy nhiều người kéo đến với Gioan Tiền Hô để tìm kiếm hạnh phúc. Và ông cũng đã vạch ra cho họ những con đường trong chính cách sống của ông để họ thực sự hạnh phúc khi họ biết tin vào Đấng Cứu Thế đang đến gần. Đó là những con đường như:
Con đường sống khổ hạnh: Gioan sống ần dật trong samạc. Sống trong samạc đồng nhĩa với sống khổ hạnh: sống trong sự khắc nghiệt của thời tiết, trong sự hoang vu cô tịch, sự đe dọa của thú dữ. Sống khó nghèo, đơn sơ đạm bạc: mặc áo bằng da thú, ăn châu chấu và mật ong rừng.
Con đường sống khiêm nhường: Gioan từ chối vinh quang mà người ta ban tặng cho mình. Ông thành thật nhận mình không phải là Đấng Cứu Thế. Ông chỉ là "tiếng kêu trong sa mạc", không đáng cởi giây giày cho Đấng Cứu Thế.
Con đường sống trung thực: Gioan đến để làm chứng về ánh sáng. Trung thực với sứ mạng của mình, một mặc ông chỉ cho chúng ta thấy ánh sáng thật là ai, mặc khác khi có người lầm tưởng ông là ánh sáng ấy thì ông thẳng thắn phủ nhận. Trung thực về những lời nói về mình nên ông không nhận vinh quang mà người ta lầm tưởng ban tặng. Trung thực với lòng mình nên Ông sống khổ hạnh, không phô trương, không giả dối,... Trung thực trong phán đoán nên ông thẳng thắn khuyên Vua Hêrôđê không được lấy chị dâu
Con đường sống quên mình: nhìn nhận là người đưa tin nên ông quên mình để cho Đức Giêsu nổi bật lên. Ông tự hủy mình để Đấng Cứu Thế được nhận biết.
Tóm lại Gioan Tiền Hô là một chứng nhân tuyệt hảo, Ông là chứng nhân của ánh sáng, chứng nhân của hy vọng, của hạnh phúc. Ông là làm chứng cho sự sáng thật là Đức Kitô.
Mùa vọng này, mọi ngươì đang chờ Chúa đến, Chúa muốn chúng ta giới thiệu Chúa cho người khác, Chúa muốn chúng ta làm chứng cho Chúa. Thế nhưng rất nhiều khi thay vì mở đường cho Chúa, chúng ta chỉ lo mở đường cho chúng ta. Hay thay vì làm chứng cho Chúa thì chúng ta làm chứng cho ta....
Hôm nay Chúa mời gọi chúng ta hãy nhìn vào tấm gương của Gioan Tiền Hô để biết cách dọn đường cho Chúa ngự đến bằng đời sống chứng tá là " để Chúa lớn lên" và để cho chúng ta biết đường tìm đến hạnh phúc đích thực.
Xin Thánh Gioan giúp chúng ta sống trong ánh sáng của Chúa Cứu Thế để chúng ta được hưởng trọn vẹn hạnh phúc Chúa ban.
22. Niềm vui đang đến – Lm Lu-y Nguyễn Quang Vinh
Phụng vụ Chúa nhật thứ ba mùa Vọng ghi đậm nét vui tươi. Tiên tri Isaia sống trước Chúa Cứu Thế sáu trăm năm, loan báo tin mừng hồi hương cho dân đang bị lưu đày ở Babylon: “Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa … Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa. Vì Người mặc cho tôi hồng ân cứu độ cứu độ” (x. Bài Đọc 1. Is 61, 1-2a.10-11). Đây là niềm vui giải phóng, niềm vui hồi hương.
Tin vui cứu độ được Đức Maria cảm nghiệm cụ thể khi lời sấm của ngôn sứ Isaia trở thành hiện thực nơi cung lòng Mẹ, khi Mẹ thưa với sứ thần truyền tin “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”(Lc 1,38) và Mẹ diễn tả niềm vui sung mãn đó trong Kinh Linh Hồn Tôi Ngợi Khen Chúa (Kinh Magnificat). Mẹ lên tiếng ca tụng Thiên Chúa đã đoái thương thân phận mọn hèn của Mẹ, niềm vui cá nhân của riêng Mẹ được tuyển chọn làm mẹ Thiên Chúa; và niềm vui của cộng đồng Do thái được cứu độ theo như Lời Chúa đã hứa từ ngàn xưa. Niềm vui hoàn vũ nầy này vọng lại trong thư thánh Phaolô gửi cho tín hữu Thêxalônica đang chờ mong Chúa Cứu Thế trở lại: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng” (x. Bài Đọc 2. 1Tx 5, 16-24). “Vì đã có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đến để làm chứng về ánh sáng” (x. Bài Tin Mừng. Ga 1, 6-8.19-28), làm chứng cho niềm vui cứu độ đã xuất hiện trên trần gian, đó là Chúa Giêsu. Đây là khởi đầu niềm vui Chúa Cứu Thế thực hiện bằng con đường nhập thể và nhập thế đi vào giữa nhân loại. Niềm vui Thiên Chúa làm người, định cư giữa nhân loại, để nhân loại biết đường về trời.
Niềm vui cảm nghiệm mình được Thiên Chúa cứu chuộc được tiên báo qua nụ cười của bà Sara, vợ ông Ápraham, khi được báo tin con đầu lòng Ixáac sẽ ra đời, cho đến sự nhảy mừng của thánh Gioan khi còn trong lòng bà Isave. Tất cả cho thấy niềm vui của buổi phụng vụ hôm nay như tô đậm nét sự hân hoan mà bà Isave cảm nghiệm khi đứa con thân yêu nhảy lên trong dạ mẹ, niềm sung sướng tràn trề của vị tiên tri cuối cùng Cựu Ước gặp được Chúa Cứu Thế thời Tân Ước. Niềm vui vỡ bờ hoành tráng hoàn vũ.
Niềm vui vĩ đại đòi cung cách diễn tả hòanh tráng. Tiền hô hậu ủng là phong cách nhân lọai của bất cứ đại vương nào khi hạ cố thăm thần dân của mình. Sự long trọng của người tiền hô càng làm sáng tỏ uy quyền cao cả của nhân vật chính yếu đến sau. Đây là cung cách của vị tiền hô: Lối sống tu rừng khắc khổ và đơn sơ, cách ăn mặc kỳ dị và mộc mạc, lời rao giảng nghiêm khắc và cứng rắn của vị tiền hô Gioan gây thắc mắc cho những người thời bấy giờ đến phỏng vấn ông. Tuy nhiên đứng trước niềm vui to lớn này vị tiền hô xóa mình đi. Ông khiêm hạ thẳng thắn khẳng định mình không phải là Đấng Kitô, không phải là Êlia, không phải là ngôn sứ mà truyền thống Do thái mong đợi. Ông khẳng định mình là tiếng kêu trong sa mạc, có sứ mạng dọn đường tâm linh, chỉnh đốn tâm đạo cho ngay thẳng để đón tiếp một nhân vật cao trọng âm thầm đang đến một cách bí bí ẩn: “ Có một Vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người đến sau tôi, tôi không đáng cởi quai dép cho người” (x. Bài Tin Mừng).
Con người bí ẩn đó là Chúa Giêsu, mà cho đến hôm nay, đối với các Kitô hữu, Người vẫn còn y nguyên là một mầu nhiệm cực lớn, đòi liên tục khám phá trong đời sống. Tất cả những gì diễn tả về Người đều là mầu nhiệm đòi khám phá, sự hiện hữu của Người, quyền năng vô biên của Người, tình yêu cứu chuộc của Người đối với nhân loại, sự đồng hóa của Người nơi anh em hèn mọn, cả đến sự chết và sự phục sinh vinh hiển của Người đều là bí ẩn đòi khám phá không ngừng trong cuộc sống.
Thật vậy mỗi ngày người Kitô phải liên tục khám phá niềm vui trong gặp gỡ tha nhân để phát hiện con người bí ẩn đó, vì “Ngài ở giữa các ông mà các ông không biết”. Không những khám phá niềm vui mà thôi, người Kitô hữu còn phải là tiền hô cho Chúa Cứu Thế nữa, sống vui tươi xây dựng xã hội trần thế, bởi vì Kitô hữu là người mang tin vui đến cho mọi người. Tuy nhiên Người mang tin vui mà chính mình không vui là phi lý, là phản tác dụng, là phản bội sứ điệp loan báo Tin mừng.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết khám phá con người bí ẩn mà thánh Gioan nói đến: “Ngài ở giữa anh em mà anh em không biết”, con người đó có thể là láng giềng khó tánh, là người đồng nghiệp gặp họan nạn, là bệnh nhân cần giúp đỡ, là người xa Chúa lâu ngày cần trở lại. Amen.
23. Tin mừng giải phóng – Như Hạ, OP
TIN MỪNG đem lại niềm vui cho toàn thể vũ trụ. Nghe lời Chúa hôm nay, chúng ta sẽ hiểu tại sao Kitô giáo là một đạo Tin Mừng, đem niềm vui đến cho toàn thể nhân loại. Đức Giêsu đã xuống trần gian để mạc khải tình Cha yêu thương hết mọi người, không trừ ai. Đúng hơn, "Ngôi Lời hằng hữu đời đời đã nhập thể làm người Á châu," (ĐGH Gioan Phaolô II: VietCatholic- 8/12/1999) để đem TIN MỪNG giải phóng đến cho miền đầy cơ chế bất công nhất thế giới.
Dọn Đường Cho Chúa Đi
Cho đến hôm nay, Đức Giêsu vẫn còn là một bóng mờ trên miền đất bao la đó. Hơn khi nào, cần phải nhìn Đức Phật, Khổng Tử, Lão tử v.v. như những sứ giả dọn đường cho Chúa đến với dân Người. Nhưng hơn ai hết, Gioan Tẩy giả là vị tiền hô lớn nhất. Hôm nay "ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin" (Ga 1:7). Lời chứng Gioan Tẩy giả thật là hùng hồn và ảnh hưởng. Ông ý thức rất rõ sứ mệnh và vai trò của mình. Ông chỉ là trung gian giới thiệu Đức Giêsu cho muôn dân, chứ không phải là người muôn dân trông đợi. Bởi vậy khi bị những người thuộc phái Pharisêu bắt bí, ông đã khẳng định: "Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn đường cho thẳng để Đức Chúa đi" (Ga 1:23; Is 40:3). Những người Pharisêu "cứ gặng hỏi xem Gioan Tẩy giả là ai, nhưng Gioan lại muốn cho họ biết Đức Giêsu là ai" (Life Application Study Bible:1991).
Dọn đường cho Chúa đi vào lòng người. Chúa là nguồn bình an và hoan lạc sẽ đem đến cho nhân loại một mùa xuân rực rỡ. Mấy ai phát hiện được mùa hồng ân đang đến? Bởi vậy Gioan mới nhắc nhở mọi người: "Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết" (Ga 1:26). Chính vì thế, vai trò Gioan cực kỳ quan trọng. Ngoài Gioan, không ai có thể thấy được Đức Giêsu là "Con Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian." (Ga 1:29) Ông đã đến như một chứng nhân TIN MỪNG. Chính ông đã chỉ cho các môn đệ thấy TIN MỪNG đích thực là Đức Giêsu.
"Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng" (Ga 1:8). Chính khi làm chứng như thế, ông mới giữ trọn được niềm vui cho mình và các môn đệ. Đức Giêsu đã không hề "dập tắt thần khí" (1Tx 5:19) nơi chứng từ Gioan Tẩy giả, ngay cả khi ông hoài nghi về sứ vụ của Người (Mt 11:2-6; Lc 7:18-23). Trái lại, nhiều lần Người còn ca ngợi ông cao trọng "hơn cả ngôn sứ" (Mt 11:9) và bất cứ "phàm nhân" nào (x. c.11). Dầu vậy, ông chỉ tự nhận như một tên nô lệ bất xứng: "Tôi không đáng cởi quai dép cho Người" (Ga 1:27).
Đúng thế. Đức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa."Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành" (Ga 1:3), trong đó có Gioan Tẩy giả. Một tạo vật làm sao có thể so sánh với Đấng Tạo hóa?! Nhưng "Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta" (c.14). Nghĩa là "Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận" (c. 11). Chính vì thế mới cần đến lời chứng Gioan Tẩy giả. Ông đã tìm được niềm vui trong sứ vụ làm chứng. Ông đã thành công rực rỡ tới mức đổ máu vì sự công chính, một nhân tố làm nên Nước Trời.
Nhận Diện
TIN MỪNG đã bắt đầu vang lên với chứng từ Gioan Tẩy giả. Nhưng TIN MỪNG chỉ thực sự có hiệu lực từ lúc Đức Giêsu xuất hiện trong quyền năng Thánh Linh, một sức mạnh giải thoát. Thực vậy chính Chúa đã công khai xác nhận "hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh" (Lc 4:21): "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, Vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, Để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố Cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, Cho người mù biết họ được sáng mắt, Trả lại tự do cho người bị áp bức, Công bố một năm hồng ân của Chúa." (c.18-19; Is 61:1-2).
Từ nay TIN MỪNG đã trả lại cho tất cả những người cùng khổ nhất tất cả niềm vui ơn cứu độ. Như thế xã hội đã được Phúc Âm hóa. Không hiểu tại sao có người không đồng ý với việc "Phúc Âm hóa Á châu" trong thông điệp "Giáo hội tại Á châu" của Đức Giáo Hoàng? Nếu Phúc Âm hóa chỉ là đổ mấy giọt nước rửa tội trên đầu, quả thực Giáo hội đang đi ngược dòng. Nhưng nếu chỉ nhằm đem lại cho xã hội đời sống "công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần" (Rm 14:17), Giáo hội đáp ứng những gì các dân tộc Á châu đang mong đợi nhất. "Giáo hội xác tín rằng trong lòng dân chúng, văn hóa và tôn giáo tại Á Châu, có một cơn khát "Nước Hằng sống" (x.Ga 4:10-15), một cơn khát chính Thần Khí đã tạo ra và chỉ có mình Chúa Giêsu Cứu thế mới có thể thỏa mãn đầy đủ" (Giáo hội tại Á châu:1999). Cơn khát vọng này lớn hơn nỗi mong chờ Đấng Messia của dân Do thái. Cơn khát vọng đó kéo dài cả mấy ngàn năm rồi. Giáo hội đã nêu lên được lý tưởng cao cả nhất của công cuộc Phúc Âm hóa. Giáo hội chỉ muốn phục vụ, chứ không muốn khống chế con người.
Thế nhưng, cho tới nay vẫn có những "chuyên viên" Phúc Âm hóa "lẫn lộn sứ vụ rao giảng Tin Mừng với khát vọng truyền bá các giá trị văn hóa và lối ứng xử kiểu Âu châu" (Cuộc tọa đàm về truyền giáo đại kết tại Hồng Kông, VietCatholic 8/12/1999). Lối khống chế đó đã làm cho công cuộc Phúc Âm hóa Á châu trì trệ và thất bại.
Tuy thế, vẫn chưa đến nỗi thất vọng. Thực tế "Chúa Thánh Thần, Đấng hoạt động trên Á châu trong thời các Tổ Phụ và ngôn sứ, và hoạt động còn mãnh liệt hơn nữa trong thời Chúa Giêsu và Giáo hội lúc đầu, bây giờ vẫn hoạt động ở giữa các người Kitô hữu Á Châu, tăng cường bằng chứng đức tin của họ giữa các dân tộc, các nền văn hóa và tôn giáo của lục địa" (Giáo hội tại Á châu:1999). Chỉ có Thánh Linh mới thấu hiểu và đáp ứng nổi tất cả những khát vọng lớn lao của các dân tộc.
Vậy các dân tộc Á châu đang mơ ước những gì? Chắc chắn sống dưới nhiều cơ chế bất công khác nhau, họ muốn thấy công lý ngự trị. Đây là một cơ hội lớn xây dựng Nước Chúa tại Á châu. Hơn lúc nào hết, chúng ta cố gắng "thiết lập lại công bằng và làm cho công bằng được triển nở ở mọi cấp bực xã hội" (ĐGH Gioan Phaolo II: VietCatholic- 8/12/1999). Nhưng muốn thực hiện được công cuộc đó, xin khắc tâm khắc cốt lý tưởng Kitô hữu sau đây:
TÌNH YÊU phục vụ tha nhân,
Sống là TIẾN BỘ, dấn thân suốt đời.
TÍN THÀNH sống đạo làm người,
Hồng ân thắp sáng bầu trời TỰ DO.
Hai vai TRÁCH NHIỆM 'tiền hô':
TIN MỪNG cứu độ, điểm tô Nước Trời.
Lý tưởng đó đã được Thần Khí khơi dậy nơi Kitô hữu. Nhưng bao lần lý tưởng tuổi trẻ đã bị vùi dập. Bởi vậy, thánh Phaolô cảnh cáo: "Anh em đừng dặp tắt Thần Khí." (1 Tx 5:19) Đặc biệt, nơi giáo xứ Thần Khí đang hoạt động như "trung tâm đời sống phụng vụ" (ĐGH Gioan Phaolô II: CWNews 25/11/2002) và trung tâm đào luyện giáo lý và luân lý cho giới trẻ Kitô hữu. ĐGH cho thấy giáo xứ là tụ điểm quan trọng để giáo dân "uống tận nguồn suối Lời Chúa và truyền thống. Người cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của bí tích Thánh Thể trong việc nuôi dưỡng đức tin, "bảo vệ chúng ta khỏi tội lỗi, kiện cường chúng ta trong tình thân ái, và duy trì nỗ lực chúng ta trên cuộc hành trình dương thế." (CWNews 25/11/2002) Không có sức mạnh đó, tuổi trẻ không thể chống lại những ảnh hưởng văn hoá trần tục. Muốn tìm được hứng thú cho cuộc sống, giới trẻ "cần phải tiếp tục cuộc hành trình, khởi sự từ Đức Kitô, nghĩa là từ bí tích Thánh Thể." (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 25/11/2002) Hôm nay, Giáo hội cần giáo dân "ý thức về ơn gọi rao giảng Tin Mừng" và sẵn sàng đem sứ điệp Tin Mừng vào trần gian. Muốn "làm chứng về ánh sáng"(Ga 1:7.8) là Đức Kitô giữa thế giới chìm đắm trong bóng tối hôm nay, họ cần giáo xứ hỗ trợ mạnh mẽ (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 25/11/2002) và trang bị đầy đủ sức mạnh Tin Mừng.
24. Đơn giản là như thế – G. Nguyễn Cao Luật
Tôi chẳng phải là ai cả
Câu chuyện xảy ra tại một địa điểm ở phía Bắc Biển Chết, có lẽ cũng là nơi xưa kia dân Do-thái đã vượt qua sông Gio-đan để tiến vào Đất Hứa. Ông Gioan Tẩy Giả đang có mặt tại đó và làm phép rửa bằng nước. Chỉ một nghi thức sám hối này cũng đủ để phân biệt phép rửa của ông với những cách thức thanh tẩy khác nhau vốn đang thịnh hành trong các nhóm thời bấy giờ. Con người này là ai vậy mà biết bao người đang ùn ùn kéo đến với ông để lãnh nhận phép rửa? Con người này có sứ mạng gì mà lời rao giảng của ông có âm giọng như tiếng kêu của các vị ngôn sứ, tính cho đến lúc này, đã im vắng được ba thế kỷ?
Người Do-thái, hay chính xác hơn, một số tư tế và mấy thầy Lê-vi đã muốn xác định xem ông là ai. Họ đặt câu hỏi và muốn xếp ông vào một trong số những hiểu biết của mình. Họ muốn kiểm chứng, họ muốn tin chắc vào hiểu biết của mình.
Trước hết, họ muốn biết có phải là Đấng Mê-si-a không. Trong giai đoạn căng thẳng lúc bấy giờ, có rất nhiều người mong chờ vị sứ giả của Thiên Chúa đến. Họ đã mường tượng ra dung mạo của vị sứ giả, nhưng là một thứ hình ảnh cứng ngắc. Trong thực tế, họ đã có nhiều hình ảnh mẫu, tuỳ theo thái độ chờ đợi, tuỳ theo khát vọng của mỗi người. Trong khi đó, các vị lãnh đạo dân đang cố gắng kiểm chứng danh tính của những người đang có ảnh hưởng trên dân chúng. Chính họ cũng có quan niệm về dung mạo của con người phải đến. Do đó, họ đã nêu vấn đề với ông Gioan khi thấy đám đông kéo đến với ông để nghe giảng và đón nhận phép rửa.
Ông có phải là ngôn sứ Êlia không? Một nhân vật khác được nêu lên sau khi ông Gioan đã tuyên bố ông không phải là Đấng Mê-si-a. Từ trước đến nay, người Do-thái vẫn công nhận ngôn sứ Êlia là một chứng nhân vĩ đại về lòng tin. Ông đã được cất lên trời cách lạ lùng (2 V 2), và ông sẽ trở lại để dọn đường cho Đấng Mê-si-a đích thực. Lúc sinh thời, ngôn sứ Êlia đã bị mọi người loại bỏ. Nhưng giờ đây, người ta đã biết ông là ai. Con người xưa kia bị bách hại, nhưng giờ đây lại được tôn phong.
Người ta vẫn dựa trên những hình ảnh quá khứ để nhận định về hiện tại. Nhưng mỗi người có vai trò riêng của mình, và ông Gioan Tẩy Giả là một trường hợp rất đặc biệt.
Đơn giản là một chứng nhân
Câu trả lời của ông Gioan cho thấy một thái độ khiêm tốn cần ngạc nhiên.
Ông tuyên bố ông không phải là Đấng Mê-si-a, không phải là Ánh Sáng. Ông không phải là ngôn sứ Êlia trở lại, cũng không phải là vị Ngôn Sứ vĩ đại như người ta vẫn chờ đợi.
Ông chỉ là vị tiền hô, đơn giản là một chứng nhân, có vai trò hoàn toàn tuỳ thuộc vào Đấng ông loan báo. Ông là ngọn đèn do Thiên Chúa thắp lên để soi đường cho Đức Kitô đến, là tiếng nói của Thiên Chúa. Đơn giản chỉ có thế. Tất cả chỉ có thế. Ngọn đèn để soi sáng, tiếng nói để cung cấp lời.
Cách trả lời của ông Gioan Tẩy Giả cho thấy ông không để cho người ta xác định về mình. Ông không lặp lại quá khứ, nhưng mở ra tương lai. Vì vậy, ông là người của bất ngờ. Người ta không thể đóng khung vào một loại nào. Ông khước từ quan niệm coi ông là điểm dừng, ông chỉ muốn mình là điểm cần đi qua. Ông làm chứng về ánh sáng, một loại ánh sáng luôn vuột khỏi tầm với con người, nhưng lại soi chiếu cho họ trên con đường của mình. Ông Gioan chỉ muốn mình là người chỉ đường và không muốn người ta chăm chú vào mình. Một thái độ tuyệt vời và chính điều này làm ông trở nên cao cả. Đây cũng là đặc tính của mọi ngôn sứ Ít-ra-en.
Đàng khác, câu trả lời của Gioan là một thứ tuyên bố về lý lịch cá nhân, nhưng hoàn toàn tiêu cực, làm cho những người chất vấn chưng hửng, thêm thắc mắc. Người ta không thể xác định về ông, nhưng ông vẫn rất cần thiết và quý giá để chỉ cho mọi người thấy rằng: có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết".
Tuy vậy, phải nói rằng chính ông Gioan Tẩy Giả cũng không biết rõ về Đức Giêsu. Đang khi ông dìm người khác trong nước để thức tỉnh và thanh tẩy họ, thì chính ông lại sống trong nghi nan. Ông biết rằng ông có sứ mạng dọn đường cho Đấng Mê-si-a đến. Ông cũng biết rằng Đấng Mê-si-a cao cả hơn ông nhiều: "Người đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người"; "có người đến sau tôi nhưng trỗi hơn tôi, vì có trước tôi"; ông cũng cảm thấy một sự đứt đoạn, nhưng ông chưa thấy Người đến. Ông cũng không biết rằng Vị Sứ giả của Thiên Chúa, mà ông là người dọn đường, lại chẳng là ai khác hơn là người bà con của ông tại làng Na-da-rét, là ông Giêsu người thợ mộc.
Ông chỉ biết rằng chính ông không phải là Đấng Mê-si-a, và chỉ là kẻ dọn đường. Ông biết điều này rất rõ và ông sống đến tận cùng. Ông dấn thân trọn vẹn để thi hành sứ mạng ngôn sứ, giới thiệu Đức Kitô khi tới thời gian đã được ấn định. Ông biết rằng ông không phải là ánh sáng, nhưng ông có mặt để làm chứng về Ánh Sáng. Rồi đây, ông sẽ đưa tay ra để chỉ vào Đấng phải đến. Người là Đức Giêsu, Người đến và đem lại cho Thiên Chúa vô hình, Thiên Chúa không thể đụng chạm tới được một dung mạo, một thân thể.
Về một Thiên Chúa đã biết và chưa biết
Không ai thấy Thiên Chúa, không ai nghe được Thiên Chúa, và cũng không ai đụng chạm được Thiên Chúa.
Làm thế nào bây giờ trước một Thiên Chúa được gọi là Ánh Sáng nhưng không ai nhìn thấy được? Đấng tự nhận mình là Chân Lý tinh tuyền nhưng lại xuất hiện dưới khuôn mặt không thực, Người là ai? Đấng hiện diện ở khắp nơi nhưng dường như lại vắng mặt, Người là ai?
Các nhà thần học luôn tìm ra những lý luận rất hay, nào là Thiên Chúa ẩn mình để tôn trọng sự tự do của chúng ta, hay để tạo cho chúng ta nỗi ngạc nhiên khi chúng ta chết, v.v... Tuy vậy, chúng ta cảm thấy không thoả mãn với những giải thích như thế, và chúng ta có cảm tưởng rằng những giải thích này cũng chẳng làm cho những người đã đề ra chúng được thoả mãn.
Thiên Chúa là Đấng không thể hiểu thấu: chúng ta phải chấp nhận sự kiện đó, một sự kiện không thể khác được. Chấp nhận không phải để buông xuôi, nhưng là để nhìn rõ chỗ đứng của chúng ta và nhất là để đặt Thiên Chúa vào đúng chỗ của Người, tức là Người có mặt ở khắp nơi, ở bất cứ nơi nào chúng ta đang chờ đợi Người.
Như vậy, nếu Thiên Chúa không để cho cảm giác và lý luận của chúng ta đụng chạm tới Người, nếu Thiên Chúa không để cho chính lòng tin của chúng ta nắm bắt được Người, thế thì phải chăng chúng ta bị kết án phải tìm đến Người trong bóng đêm mịt mù? Phải chăng chúng ta đang có nguy cơ đi lạc đường hay là chỉ chạy theo một ảo ảnh?
Những câu hỏi như thế vẫn được đặt ra cho chúng ta và có lẽ không bao giờ chúng ta có được câu trả lời đầy đủ. Thiên Chúa vẫn luôn ở phía trước và mở ra những chân trời rộng lớn hơn. Người mời gọi chúng ta bước vào và trở thành nhân chứng cho Người.
Như ông Gioan Tẩy Giả, mỗi chúng ta cũng được mời gọi trở thành người loan báo về một Thiên Chúa đang ẩn mình nhưng vẫn đang đến. Mỗi chúng ta đang được mời gọi đóng vai trò rất khiêm tốn nhưng không thể thiếu: giới thiệu về Thiên Chúa đang đến. Nói một cách khác, chúng ta được trao phó trách nhiệm lôi kéo thêm nhiều người cùng gia nhập vào cộng đoàn những người tìm kiếm Thiên Chúa, tìm kiếm Chân Lý và Ánh Sáng, đang khi chính chúng ta phải trở thành ngọn đèn, thành tiếng nói. Đơn giản là như thế. Tất cả chỉ có thế.
* * *
Thiên Chúa của tôi vượt hẳn mọi thứ suy luận và mọi thứ đo lường.
Thiên Chúa của tôi là thế này: kỳ diệu, độc đáo và gây sững sờ.
Người là hữu thể, nhưng lại là chuyển biến,
Người là những gì đã có, hiện có và sẽ có,
Người là tất cả, nhưng không có gì là Người,
Chúa tôi gây sững sờ
là Đấng người ta tin nhưng không thấy,
người ta yêu mến nhưng không sờ được,
người ta trông chờ nhưng không nghe theo,
người ta chiếm hữu, nhưng không đáng được như thế.
(Juan Arias - Thiên Chúa mà tôi không tin, trang 32)
25. Làm chứng
Anh chị em thân mến,
Chị Rơ Châm H'Jưng, là người J'rai, đất Ialy, Kontum, giáo viên cấp I. Chị đang học Giáo lý tân tòng thì bị chính quyền xã gọi đến cấm đoán. Sau nhiều lần như thế, chị bị buộc phải chọn lựa: hoặc làm giáo viên, hoặc theo Chúa. Chị khẳng khái trả lời: "Tôi chọn theo đạo Chúa." Thế là bị nghỉ việc. Chị kể lại: khi nhận tờ giấy thôi dạy, chị thấy tương lai của gia đình, con cái đều sụp đổ... Chị lại trở về bản làng làm lụng kiếm ăn. Bà con biết chị theo đạo đã đến xin chị dạy đạo cho họ. Lúc đầu chị từ chối, nghĩ rằng ngoài khả năng mình; nhưng sau vì thấy cần, chị chịu khó đọc Kinh thánh, cầu nguyện suy niệm Lời Chúa. Chị mạnh dạn nói về Chúa cho mọi người. Càng ngày bà con càng đến với chị đông hơn, có khi phải lội bộ 20, 30 cs, hay bị cấm đoán, phạt vạ, vì họ đến học đạo nơi chị. Từ đó, chị lại càng thấy rõ cái được, cái mất hơn nữa: "Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo" (Mt 16, 24). Cũng từ nay, chị nhận ra mình là sứ giả của Tin mừng cho người nghèo mà Chúa Giêsu mong muốn nơi chị, không chỉ rao giảng Lời Chúa, mà còn để xoa dịu những tâm hồn tan nát, chữa lành người tật bệnh. (Vietcatholic news, 18.01.2003). Đây chính là hình ảnh của thánh Gioan nói trong TM hôm nay; ngài là chứng nhân sống cho Chúa Kitô. Kính mời cùng suy niệm...
a/. Gioan Tẩy giả, trước mắt người phàm:
Thánh Gioan Tẩy giả được kinh thánh tuyên xưng là vị đại Tiên tri, Đấng Tiền hô đi trước dọn đường cho Đấng Cứu thế, vậy mà cuộc đời của ngài vinh quang đâu chẳng thấy, chỉ thấy toàn là long đong, vất vả. Lớn lên nhận được ơn gọi làm chứng nhân, người tiền phong cho Chúa Cứu thế, thánh nhân đã vào sa mạc sống khắc khổ, ăn châu chấu, uống mật ong rừng, mặc áo bằng da lông thú. Chính Chúa Giêsu đã nói về Gioan: "các ông vào sa mạc tìm gì? Có phải tìm cây sậy phất phơ trước gió không? - Không. Hay có phải tìm một người ăn mặc lụa là gấm vốc? Nhưng hạng người đó lại chỉ ở trong cung điện nhà vua. Vậy có phải các ông đi tìm một vị tiên tri không? Đúng và còn hơn một tiên tri nữa..."(Gn 11, 7-9)
Thánh Gioan là một tiên tri, một chứng nhân như thế, vì lời thẳng thắn đã không làm hài lòng nhóm tư tế, kinh sư do thái. Thánh Gioan còn làm phật ý cả vua Hêrôđê, đến nổi bị bà Hêrôđiađê dùng mưu mà chém đầu. Trước mặt thế gian, ai cũng cho là thất bại, là điên rồ. Cuộc đời của các thánh hiển tu, các vị tử đạo cũng thế. Các ngài bị chê là những kẻ khờ dại, mê lầm, những người không hiểu biết nên mới chối bỏ vinh hoa phú quí trần gian... Những con người bị chê; thả mồi bắt bóng... Có đúng như thế không?
b/. Gioan Tẩy giả, trước mặt Thiên Chúa, là một chứng nhân tận tụy và trung kiên:
"Có người hỏi: Ông là ai? Có phải là Đấng Cứu thế không? Gioan trả lời: Tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc..."(Gn 1, 20-29)
"Tôi chỉ làm phép rửa cho anh em trong nước; Đấng đến sau tôi, sẽ rửa anh em trong Thánh Thần và trong lữa..."(Mt 3, 11)
"Khi Đức Giêsu đến xin Gioan làm phép rửa, Gioan nói: chính tôi mói cần được ngài làm phép rửa." (Mt 3, 14).
"Đấng đến sau tôi, cao trọng hơn tôi; tôi không đáng cởi quai dép cho Người..."(Gn 1, 27)
Thánh Gioan Tiền hô quả là một chứng nhân tận tụy và trung kiên. Dù là một đại Tiên tri đi trước mở đường cho Đấng Cứu thế, nhưng rõ ràng ngài khiêm tốn biết bao khi nói lên chính sự thật này: "tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc.Tôi chỉ rửa anh em trong nước mà thôi..." Một con người sống sau thánh Gioan không bao lâu, nhỏ hơn ngài cũng không nhiều, cũng đã sống như một chứng nhân tận tụy và trung kiên như Gioan Tẩy giả, đó là Thánh Phaolô, tông đồ dân ngoại.Thánh nhân cũng đã từng nói những lời không khác thánh Gioan là mấy:
"Tôi sống nhưng không còn phải là tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi"(Gal 2, 20). "Tôi biết tôi đang tin vào ai..." (II Tim 1, 12)
"Ước gì tôi chẳng hảnh diện điều gì, ngoài thập giá Đức Kitô."(Gal 6, 14)
"Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng phúc âm."(I Cor 9, 16)
"Ai tự hào, hãy tự hào trong Chúa." (I Cor 1, 31)
"Tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng cho tôi được mạnh mẻ." (Phil 4, 13)
Thánh Gioan TG, thánh Phaolô, tông đồ dân ngoại, họ là những chứng nhân tận tụy kiên cường như thế, làm sao chúng ta có thể nghỉ họ là người ngây dại mê muội, không khôn ngoan?
Câu chuyện: Mang thai đứa con thứ tư, bác sĩ Gianna Beretta Molla mới biết mình mang căn bệnh đe dọa mạng sống cả hai mẹ con, bà không hề do dự. Luôn tin tưởng vào sự Quan Phòng và Tình thương của Thiên Chúa, bà sẵn sàng dâng hiến mạng sống để cứu bào thai. Bà nghiêm trang nói với bác sĩ: Nếu quí vị phải đắn đo chọn lựa giữa tôi và đứa bé, xin đừng do dự, hãy cứu sống đứa bé, vì tôi mong muốn như vậy! Ngày 21-4-1962, bác sĩ Gianna Molla sinh một bé gái, đặt tên: Gianna Emanuela. Chỉ một tuần sau, bà trút hơi thở cuối cùng, miệng vẫn thiết tha lập đi lập lại: "Lạy Đức Chúa GIÊSU, con yêu mến Chúa". Bà hưởng thọ 40 tuổi. Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II đã tôn phong bà là Mẹ các gia đình, lên hàng chân phước ngày 24-4-1994. Ngày 16-5-2004, bà lại được tôn lên hàng hiển thánh. Lễ kính ngày vào ngày 28-4 hàng năm. Con của bà là Gianna Emanuela, hiện nay 46 tuổi, hành nghề bác sĩ nối nghiệp hiền mẫu đáng kính của mình.
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Thánh Gioan đã là vị đại tiên tri, vậy mà Gioan chỉ nhận mình là tiếng kêu trong sa mạc, chứng nhân can trường đi trước dọn đường cho Chúa Cứu thế. Ta có tin nơi lời Gioan nói, tin vào việc ngài làm không? Nhất là ta có sẵn sàng sống như là chứng nhân cho Chúa Kitô ở giữa lòng thế giới hôm nay không?
26. Vì Ngài Ở Với Chúng Ta – Guy Morin
Đây là thời gian của những chứng nhân.
Môi trường chúng ta đang sống hầu như hoàn toàn thiếu vắng những dấu chỉ về sự hiện diện của Thiên Chúa. Người ta loại khỏi các cơ sở những gì nhắc đến niềm tin Kitô. Không còn ảnh thánh giá trong các bệnh viện và trường học nữa; Lời chứng long trọng thay thế cho lời tuyên thệ; Hôn nhân dân sự đẩy lùi hôn nhân tôn giáo. Người ta không còn khả năng đưa ra những dấu chỉ này nữa: Nhiều trẻ em không biết làm dấu Thánh giá và việc dậy giáo lý làm cho nhiều nhà giáo phải lúng túng.
Dĩ nhiên các thành phố của chúng ta đầy dẫy nhà thờ và chuông còn reo vang. Ở thôn quê, đó đây người ta nhìn thấy những thập giá trên nóc thánh đường và những hang Đức Mẹ. Tuy nhiên xã hội chúng ta sống và được xây dựng như thể Thiên Chúa đã không hề lên tiếng nói với con người, như thể Ngài câm lặng và vắng mặt.
Chúng ta tin rằng Thiên Chúa hiện diện trong lịch sử loài người chúng ta, nhưng bằng một sự hiện diện kín đáo và vô hình. Sự kín đáo của Thiên Chúa đòi hỏi phải có những chứng nhân. Thiên Chúa cần những chứng nhân trong thế giới này, nơi mà xem ra Ngài vắng bóng và sự hiện diện của Ngài thật kín đáo.
Gioan Tẩy Giả, vị chứng nhân gương mẫu.
Chính kinh nghiệm bản thân làm nên chứng nhân. Gioan Tẩy Giả kể lại cho chúng ta kinh nghiệm của ông: “Tôi không biết Ngài, nhưng Đấng đã sai tôi làm phép rửa trong nước, chính Đấng ấy đã nói với tôi: Ngươi thấy Thánh Thần đậu xuống trên ai thì chính đó là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần. Và tôi đã thấy và làm chứng rằng Ngài là Con Thiên Chúa”. Chứng tá của Gioan dựa trên mặc khải của Thiên Chúa sau này được chứng thực trong một sự kiện mà ông đã thấy. Thánh Thần xuống trên Chúa Giêsu.
Từ kinh nghiệm bản thân này Gioan sẽ làm chứng về Chúa Giêsu bằng lời nói và việc làm. Việc rao giảng của ông gây xôn xao tại Israel: Người ta luôn đến nghe ông giảng và ông ban phép rửa thống hối. Vì ông là con vị thượng tế, tức là một nhân vật quan trọng, nên các chức trách tôn giáo đã được báo động và họ làm một cuộc điều tra: Ông là ai? Tại sao ông làm phép rửa? Ông tuyên bố: “Ở giữa các ông có một Đấng mà các ông không biết”.
Chứng nhân hoàn toàn hướng về một Đấng khác mà mình chỉ là tôi tớ khiêm tốn mà thôi. Gioan tuyên bố mình không đáng cởi dép cho Ngài, tức là làm công việc của một nô lệ.
Kinh nghiệm bản thân, dũng cảm trong lời nói và trong hành động, xóa mình đi, ba đức tính này của chứng nhân, Gioan Tẩy Giả đều có ở mức độ cao.
Người ta đòi hỏi những chứng nhân.
Các giám mục của chúng ta viết: “Kitô hữu có khuynh hướng khép kín về lãnh vực tôn giáo riêng tư nơi gia đình, ở học đường và trong phụng vụ. Họ thoải mái khi ở phòng thánh hơn là ngoài đường phố”.
Đây là một cách nói: Người ta đòi hỏi phải có những người làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô! Chúng ta phải làm gì đây? Mang kèn trống và biểu ngữ diễu hành ngoài đường chăng? Treo vào xe hơi của chúng ta một tấm bảng để tên Giêsu ư? Làm áp lực để tại học đường người ta treo ảnh thánh giá và cho đọc kinh ư? Hoặc là cho Giáo Hội nhiều ảnh hưởng hơn?
Những hành động này không xấu nhưng vẫn còn hời hợt và có nguy cơ áp đặt niềm tin của chúng ta trên kẻ khác.
Ngày nay chúng ta được mời gọi đào sâu kinh nghiệm của mình về Thiên Chúa của Chúa Giêsu Kitô trong Tin Mừng. Nhờ đó, chúng ta sẽ trở nên vừa cởi mở đối với những kẻ cảm thấy mình xa Giáo Hội vừa phê phán đối với những bất công và những điều vô nhân đạo của xã hội chúng ta.
Xin thánh Gioan Tẩy Giả cảm hứng cho chúng ta trở thành những chứng nhân của Chúa Giêsu và những kẻ phản chiếu ánh sáng của Ngài.
27. Khiêm nhường
Người ta thường ví Gioan Tẩy Giả như một ngọn đèn biết tỏa sáng và biết mờ đi một cách đúng lúc. Có những lúc ông tỏa sáng đến nỗi người ta hiểu lầm ông là Đấng Kitô màDân Do Thái đang trông chờ, cho đến ngày nay người ta vẫn đang trông đợi Đấng Kitô. Vì bất cứ một dân tộc nào đang bị đô hộ cũng trông mong được giải phóng. Có người còn hy vọng Ngài sẽ cai trị đất nước bằng sự công chính. Khi ông phủ nhận mình không phải là Đấng Kitô thì họ lại lầm tưởng là Eâlia. Đối với họ Ê-li-a phải đến trước Đấng Messia Người ta còn tin rằng chính Ê-li-a xức dầu cho Đấng Messia làm vua cũng như tất cả các vua đã được xức dầu. Nhưng Gioan Tẩy Giả đã phủ nhận tất cả những vinh dự đó.
Vậy, Gioan Tẩy giả là ai? Ông chỉ là tiếng kêu trong hoang địa hay nói đúng hơn ông chỉ là người cởi giày cho Đấng đến sau ông mà thôi. Một mẫu người cho đi, một mẫu người lãnh đạo, một mẫu người với tinh thần phục vụ biết làm đúng công việc của mình. Có thể nói, Gioan Tẩy Giả là con người mà tất cả các nhà truyền đạo, các giáo sư đều phải nên như thế, ông chỉ là một tiếng nói, một ngón tay chỉ nhà vua. Ông muốn mọi người hãy quên ông, chỉ thấy Nhà Vua mà thôi.
Điều ngạc nhiên hơn nữa là phép rửa do tay người làm thì không dành cho Israen mà chỉ dành cho những người ngọai nhập vào Do Thái giáo, tức là những người vốn có đạo khác, mới tin theo đạo Do Thái . Một người Israen không bao giờ chịu phép rửa, họ đã thuộc về Chúa Giavê, nên không cần rửa sạch nữa. Nhưng những người ngoại bang đến gia nhập Do Thái giáo thì phải chịu rửa sạch bằng phép rửa. Gioan Tẩy Giả đã bắt dân Israen làm một việc mà chỉ có dân ngoại mới phải làm. Ông có ý nói tuyển dân phải được rửa sạch. Đó chính là điều Gioan tẩy Giả tin, nhưng ông đã không trả lời trực tiếp.
Ông nói: "về phần ta, ta làm phép rửa bằng nước, nhưng có một Đấng ở giữa các ngươi mà các ngươi không biết, ta chẳng đáng cởi dây giày cho Ngài". Gioan Tẩy Giả không nêu ra được một nghề nào hèn hạ hơn nữa, mở dây giày là công việc của một người nô lệ. Một ngạn ngữ của các ra-bi bảo rằng môn đệ có thể làm cho thầy mình bất cứ việc gì một đầy tớ phải làm ngoại trừ việc "cởi dây giày". Việc đó quá hèn hạ ngay cả đối với một môn đệ. Dầu vậy, Gioan Tẩy Giả ngụ ý: "Với Đấng đang đến thì cả việc làm đầy tớ cho Ngài cũng không xứng đáng".
Chúng ta phải hiểu là lúc đó Gioan đã làm phép rửa cho Chúa Giêsu rồi, và ông đã nhận ra Chúa. Ở đây, ông nhắc lại ý đó một lần nữa, và ngụ ý: "Nhà Vua đang đến, để chuẩn bị đón Ngài , các ngươi phải được tẩy rửa y như bất cứ người ngoại bang nào. Hãy dọn mình sửa soạn để đi vào lịch sử của nhà vua".
Chức vụ của Gioan Tẩy Giả là chức vụ dọn đường. Bất cứ sự cao trọng nào ông có được đều đến từ sự cao trọng của Đấng mà ông loan báo. Gioan tẩy Giả là tấm gương lớn về con người sẵn sàng xóa mình đi để người ta chỉ nhìn thấy Chúa Giêsu . Ông nhận thấy mình là ngón tay chỉ cho thiên hạ thấy Chúa Cứu Thế.
Lạy Chúa, Nguyện Chúa ban cho chúng con ơn biết quên mình, chỉ nhớ đến Chúa Giêsu thôi. Và nhất là trong mùa vọng này chúng con luôn biết hướng về Ngài. Amen.
28. Hãy vui lên
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.)
"Khi vui non nước cùng vui. Khi buồn sáo thổi kèn đôi cũng buồn", "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Cuộc đời giống như một tấm gương: mỉm cười với nó, nó sẽ mỉm cười lại; gắt gỏng với nó, nó sẽ hung bạo. Hãy thử đứng trước một cái gương xem, sẽ thấy: mỉm cười đáp lại mỉm cười, nhăn nhó đáp lại nhăn nhó. Trước cuộc đời cũng thế: tôi sống làm sao cuộc đời sẽ như vậy. Nếu tôi đón nhận những điều bất ngờ với một nụ cười, nó sẽ đáp lại tôi bằng một nụ cười. nếu tôi đến với nó với bộ mặt càu nhàu, nó sẽ đến cùng tôi với sát khí đằng đằng.
Ngày nay, người ta thường đề cập đến hai tiếng "bi quan" và "lạc quan". Người bi quan là người tỏ vẻ buồn rầu khi nhìn thấy ly rượu đã vơi mất một nửa. Trái lại, người lạc quan là người tỏ vẻ vui mừng hay bình thản khi nhìn thấy ly rượu vẫn còn một nửa. Vậy Kinh Thánh của chúng ta bi quan hay lạc quan? Xét về một phương diện, Kinh Thánh rất bi quan, bởi vì Kinh Thánh có chứa đựng những lời lẽ thật đau xót về những nỗi khổ tâm mà con người đã gây nên cho nhau. Kinh Thánh đã nói rõ rằng: con người sống trong một thế giới đầy tội lỗi và đã gây nên biết bao điều ngang trái cho đồng loại. Nhưng nếu xét về một phương diện khác, thì Kinh Thánh lại rất lạc quan. Kinh Thánh đã từng đề cập đến một thời gian mà con người trông đợi, lúc mà mọi sự sẽ được điều chỉnh lại và được đổi mới hoàn toàn, lúc mà Thiên Chúa sẽ trở nên mọi sự cho mọi người.
Cụ thể như các đoạn Kinh Thánh của Chúa hôm nay: ngôn sứ I-sai-a đã loan báo về Đấng Cứu Thế và những công việc tràn đầy an ủi, phấn khởi. Thánh Phaolô đã khích lệ mọi người: Hãy vui lên. Trong bài Tin Mừng, thánh Gioan đã bảo đảm cho mọi người sẽ được hưởng niềm vui ấy. Vì thế, Chúa nhật hôm nay thường được gọi là Chúa nhật của niềm vui và khích lệ chúng ta hãy vui lên. Niềm vui đó là Chúa đã gần đến, sắp đến rồi, chúng ta hãy vui lên. Ngài sẽ đem đến cho chúng ta một niềm vui vĩ đại: biết Ngài là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa - được sống trong cộng đồng Giáo Hội - được hưởng các ân sủng, và nhất là được Chúa ban phúc bình an vĩnh viễn trong nước trời. Đó là niềm vui chính yếu, niềm vui thâm trầm của những người thấu hiểu ý nghĩa cuộc đời.
Chúa Giêsu là niềm vui; và những lời Ngài giảng dạy là những tin vui. Vì thế, đạo của chúng ta là đạo Tin Mừng. Hai chữ "Tin Mừng" ấy sẽ trở thánh trống rỗng và vô nghĩa nếu cuộc sống của người tín hữu không sống trong niềm vui và thể hiện Tin Mừng. Như thế, chúng ta cũng không thể loan báo hay chia sẻ Tin Mừng cho người khác.
Vào khoảng thập niên 60, một số người chuyên nghiên cứu về tâm lý quần chúng tại Hoa Kỳ đã làm một cuộc thăm dò độc đáo. Đó là xem thử có bao nhiêu người nhặt được ví và đem trả lại. Nhóm người nghiên cứu đã chọn một khu phố để làm việc. Họ cho rải những chiếc ví dọc theo các đường phố. Chỉ vài ngày sau, họ nhận thấy hơn nửa số ví được mang trả lại. Nhưng tỉ lệ này chỉ kéo dài tới ngày bào huynh của cố tổng thống Ken-nơ-đy là Rô-bớc Ken-nơ-đy bị ám sát. Nhóm nghiên cứu nhận thấy rằng trong ngày hôm đó, không một cái ví nào được đem trả lại. Họ đi đến kết luận: những tin buồn có ảnh hưởng sâu đậm đến con người và đời sống xã hội của con người.
Chúng ta không hoàn toàn nhất trí với kết luận đó, nhưng chúng ta có thể suy luận thêm: khi nghe một tin mừng, con người cảm thấy phấn khởi và mau mắn để thi hành điều thiện. Trái lại, khi nghe tin buồn, thì con người dễ bị cám dỗ chán nản, và từ đó trách nhiệm trong lãnh vực luân lý cũng bị giảm sút.
Chúng ta đang đứng trước một thách đố lớn. Cuộc sống xã hội chung quanh chúng ta là cả một hãng thông tấn chỉ tung ra những tin buồn. Qua các phương tiện truyền thông xã hội: báo chí, truyền thanh, truyền hình... đầy dẫy những tin buồn: tin buồn của dối trá lường gạt; tin buồn của phản bội xâu xé nhau; tin buồn của buông xuôi bỏ cuộc, tin buồn của không biết bao nhiêu đói khổ, chiến tranh, thiên tai, chết chóc...
Vì thế, chúng ta phải là những người loan báo Tin Mừng và đem lại niềm vui. Giữa một xã hội chỉ có tin buồn của thất vọng, chúng ta sẽ loan báo tin mừng của hân hoan, phó thác. Giữa một xã hội chỉ có tin buồn của dối trá, lường gạt, chúng ta phải loan báo tin mừng của lòng chân thật, vị tha. Giữa một xã hội chỉ loan báo tin buồn của ích kỷ, nhỏ nhen, chúng ta sẽ loan báo tin mừng của quảng đại, yêu thương, tha thứ và cảm thông. Nếu chúng ta biết sống theo tinh thần trên đây, chúng ta sẽ thấy đời mình có ý nghĩa và gieo rắc những hạt giống của niềm vui ra chung quanh trên mọi nẻo đường đời. Và cho dù hầu hết các hạt giống đó có mục nát đi, tôi vẫn tin rằng thế nào cũng có ít nhất một hạt nảy mầm lên cây, và nó sẽ đâm bông làm thơm tâm hồn chúng ta.
Chúng ta hãy nhớ một câu trong một bản nhạc rất hay của ông Bách, một nhạc sĩ nổi tiếng: "Lạy Chúa Giêsu, xin cho niềm vui của con luôn tồn tại, để niềm vui đó đem lại niềm vui cho những người khác".
29. Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
CHỨNG NHÂN CỦA ÁNH SÁNG
Trên đời có nhiều thứ ánh sáng: ánh sáng vật lý, ánh sáng văn hoá, ánh sáng khoa học, ánh sáng tâm linh. Để nhìn ra ánh sáng, cần có một khả năng nào đó. Để thấy ánh sáng vật lý, chỉ cần có đôi mắt bình thường. Nhưng để nhìn thấy ánh sáng khoa học, phải có một số vốn kiến thức cần thiết. Để thấy ánh sáng văn hoá, cần được khai tâm mở trí. Và để thấy được ánh sáng tâm linh, cần có các chứng nhân chiếu dọi. Thánh Gioan Baotixita là chứng nhân của Đức Kitô ánh sáng. Ngài làm chứng cho Đức Kitô bằng chính cuộc đời trong sáng của ngài. Nhìn vào cuộc đời ngài, ta thấy toả ra các làn ánh sáng sau đây:
Làn ánh sáng thứ nhất mà ta thấy nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của sự khiêm nhường. Ngài khước từ mọi vinh quang người ta phủ quanh ngài. Ngài thành thực nhận mình không phải là Đấng Cứu Thế toàn dân mong chờ, không phải là Êlia vĩ đại, cũng không phải là một tiên tri cao cả. Ngài tự nhận mình chỉ là một "tiếng kêu trong sa mạc". Ngài khiêm nhường nói rằng ngài không xứng đáng xách giày cho Đẫng Cứu Thế. Thật là khiêm nhường tự hạ. Đức khiêm nhường ấy chiếu lên dung mạo ngài một làn ánh sáng. ánh sáng ấy khiến cho lời chứng của ngài càng có sức thuyết phục. ánh sáng ấy phản chiếu dung mạo đích thực của Đấng Cứu Thế, Đấng tuyệt đối khiêm nhường.
Làn ánh sáng thứ hai ta thấy nơi cuộc đời của thánh nhân là làn ánh sáng của sự khổ hạnh. Phần lớn đời ngài ẩn dật trong sa mạc. Sống trong sa mạc đồng nghĩa với sống khổ hạnh. Ngoài sự khắc nghiệt của thời tiết, sự hoang vu cô tịch, sự đe doạ của thú dữ, thánh Gioan Baotixita còn tự nguyện sống khó nghèo, đơn sơ, đạm bạc. Y phục của ngài chỉ là mảnh da thú quấn quanh thân thể. Thức ăn của ngài là châu chấu và mật ong rừng. Sự khổ hạnh không chỉ loé sáng lên một ý chí mạnh mẽ biết vượt thắng chính bản thân mình, mà còn chiếu ánh sáng hy vọng vào tương lai. Người lệ thuộc vào vật chất là người bị trói buộc trong hiện tại. Người khổ hạnh là người đặt niểm hy vọng ở tương lai. Niềm hy vọng ấy chiếu sáng vào cuộc đời hiện tại vì làm cho cuộc sống có một ý nghĩa cao đẹp và sâu xa. Tương lai tươi sáng mà thánh Gioan Baotixita chờ đón chính là Đức Giêsu Kitô mà ngài loan báo.
Làn ánh sáng thứ ba nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của sự trung thực. Trung thực trong những lời nói về chính mình, nên ngài không dám nhận những vinh quang người đời tưởng lầm Ngài có. Ngài chỉ nhận những sự thực rất khiêm nhường, rất bé nhỏ của mình. Trung thực với lòng mình, nên ngài sống một cuộc sống khổ hạnh, không phô trương, không giả dối. Trung thực trong những phán đoán về người khác, nên ngài đã thẳng thắn khuyên vua Hê-rô-đê không đựơc phép lấy chị dâu. Chính sự trung thực này đã phải trả giá bằng cái chết chẳng toàn thây. Nhưng sự trung thực ấy đã làm sáng lên cuộc đời chứng nhân. Làn ánh sáng ấy cho ta thoáng thấy ánh sáng đích thực của Đấng là Sự Thật, là chính Đức Giêsu Kitô.
Làn ánh sáng thứ tư nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của sự quên mình. Biết mình chỉ là người đưa tin, thánh nhân luôn xoá mình đi, để cho Đấng là chính Tin Mừng được nổi bật. Biết mình chỉ là người mở đường, thánh nhân luôn tự hạ để cho Đấng là Đường được mọi người nhận biết. Làm chứng cho sự thật, thánh nhân đã tự nguyện hy sinh để cho Đấng là Sự Thật được trân trọng. Khi mọi người tuốn đến với Ngài, Ngài đã không giữ lại cho mình, nhưng đã giới thiệu họ đến với Đức Giêsu, nên ngài nói: "Người đến sau tôi, nhưng tôi không đáng cởi dây giầy cho Người" (Ga 1,27). Nhiều môn đệ đã theo Ngài, nhưng Ngài giới thiệu để họ theo làm môn đệ Đức Giêsu. Khi thấy đám đông đã bỏ ngài để đi theo Đức Giêsu, ngài hài lòng vì thấy nhiệm vụ đã hoàn tất, nên ngài nói: "Chúa phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi" (Ga 3, 30).
Thánh Gioan Baotixita thật là một chứng nhân tuyệt hảo. Ngài đã biết tự hạ mình xuống để Chúa được nổi bật lên. Ngài đã biết ẩn mình trong bóng tối để Chúa được xuất hiện trong ánh sáng. Ngài đã biết tự huỷ mình đi để Chúa được nhận biết. Ngài đúng là người đi mở đường cho Chúa. Ngài thực là chứng nhân của ánh sáng.
Mùa Vọng này, mọi người đang chờ đón Chúa đến. Chúa muốn tôi hãy đi mở đường cho Chúa. Chúa muốn tôi làm chứng cho Chúa. Chúa muốn tôi giới thiệu Chúa cho anh em. Nhưng rất nhiều khi, thay vì mở đường cho Chúa, tôi chỉ lo mở đường cho tôi. Rất nhiều khi thay vì làm chứng cho Chúa, tôi chỉ lo làm chứng cho tôi. Rất nhiều khi thay vì giới thiệu Chúa, tôi chỉ giới thiệu bản thân mình.
Hôm nay, Chúa mời gọi tôi hãy soi mình vào tấm gương của thánh Gioan Baotixita để biết cách dọn đường cho Chúa ngự đến.
Xin thánh Gioan Baotixita giúp chúng con sống trong sáng để trở nên chứng nhân của ánh sáng.
30. Chứng nhân ánh sáng trung thực
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Gioan Tẩy Giả, có lẽ, là vị Thánh Công Giáo đi vào hội họa nhiều nhất. Có vô số tranh vẽ về ông với đề tài khá đa dạng, hướng đến những giá trị tư tưởng khác nhau. Gần như hầu hết các họa sĩ nổi tiếng nhất trong lịch sử nghệ thuật Công giáo, từ Leonardo da Vinci, Titian, Caravaggio đến Rubens...đều tìm thấy trong cuộc đời của ông một chi tiết nào đó làm nguồn cảm hứng sáng tác cho mình. Riêng Caravaggio, đã vẽ đến hàng chục tác phẩm về Gioan Tẩy giả…
Không chỉ nhiều, Gioan Tẩy Giả có lẽ cũng là vị Thánh đi vào hội họa sớm nhất.
Icon thể hiện hình ảnh Thánh lâu đời nhất được tìm thấy, là icon về Gioan Tẩy Giả, được vẽ vào khoảng cuối thế kỷ thứ V đầu thế kỷ thứ VI, có nguồn gốc Palestine. Dưới đây là ảnh tác phẩm. Bức tranh đã bị hư hại nhiều, không thể nhận biết hai hàng chữ viết hai bên chuyển tải thông điệp gì. Ở trên cùng, dễ nhận biết, bên trái, là hình ảnh Chúa Giêsu, và bên phải, là hình ảnh Đức Mẹ Maria.
Giữa vô số tranh vẽ Thánh Gioan tẩy giả, chiếm số lượng nhiều nhất, và có nhiều tác phẩm xuất sắc nhất, là ở mảng chủ đề: "Thánh Gioan Tẩy giả bị trảm quyết".
Dưới đây là icon thể hiện chủ đề "Thánh Gioan Tẩy giả bị trảm quyết" được cho là lâu đời nhất được vẽ vào khoảng đầu thế kỷ thứ VII, thuộc truyền thống Byzantium.
Đứng chính giữa, là Thánh Gioan Tẩy Giả. Ông đang nói: "Tôi không phải là ánh sáng, nhưng tôi đến để làm chứng cho ánh sáng". Phía sau là dòng sông, nơi ông thực hiện phép Rửa cho Chúa Giêsu. Bên trái, là đầu của ông, đã bị chặt lìa, nhưng vẫn như đang hướng nhìn về phía chúng ta. Bên phải: ở dưới là con chiên tượng trưng cho Dân Chúa như đang suy ngẫm về những gì Thánh Gioan Tẩy giả nói trong sự tôn kính, và bên trên là cây tượng trưng cho sự sống.
Bức tranh như vậy, theo một số học giả, là sự khái quát trọn vẹn cuộc đời và sứ mệnh của Thánh Gioan Tẩy Giả: “là nhà tiên tri cuối cùng, là người dọn đường cho sự ra đời của Chúa”. (Nguyên Hưng).
1. Chứng nhân ánh sáng trung thực
Khởi đầu Phúc Âm Thánh Gioan đã viết: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin.” (Ga 1,6-7).Thánh Gioan là chứng nhân của Đức Kitô ánh sáng. Ngài làm chứng cho Đức Kitô bằng chính cuộc đời trong sáng của mình. Ngài là chứng nhân ánh sáng của sự trung thực.
Chúa Giêsu đã nói về Gioan: “Đây còn hơn cả ngôn sứ nữa” (Mt 11, 9). Và Chúa còn nói thêm về Gioan: “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy giả” (Mt 11,11). Nhưng so sánh với Chúa Giêsu, Gioan nhận ra mình thật nhỏ bé. Thấp kém đến nỗi “không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Người”. Gioan trung thực nói lên một sự thật. Đó là mình kém xa vì Gioan chỉ là một thụ tạo yếu đuối mỏng dòn.Trong khi đó, Đức Kitô là Thiên Chúa, là Chúa của Gioan và là chủ tể của mọi loài. So sánh với Chúa Giêsu, Gioan chỉ là một giọt nước giữa lòng biển cả mênh mông, chỉ là một cây nhỏ trong đại ngàn trùng điệp, chỉ là một hạt cát giữa sa mạc bao la.
Khi thấy Gioan xuất hiện, rao giảng phép rửa thống hối, dân chúng tự hỏi xem có phải ông là Đấng Cứu Thế không? Gioan phủ nhận địa vị mà họ gán cho ông (Ga 1,20; Cv 13,25). Gioan tự xóa mình trước Đức Kitô. Ông chẳng sợ mất uy tín trước bao nhiêu người ngưỡng mộ. Ông nhìn nhận phép rửa của ông chỉ nhằm chuẩn bị cho một phép rửa lớn hơn trong Thánh Thần.Gioan trung thực trong những lời nói về chính mình. Ngài không dám nhận những vinh quang người đời tưởng lầm ngài có. Gioan chỉ nhận những sự thực rất khiêm nhường, rất bé nhỏ của mình mà thôi.
Trung thực với lòng mình, nên Gioan sống một cuộc sống khổ hạnh, không phô trương, không giả dối. Trung thực trong sứ vụ nên Gioan chẳng nể vì kiêng cữ ai. Những luật sĩ thông thái phái Pharisiêu, những bậc vị vọng có nhiều ảnh hưởng lớn trong xã hội thuộc phái Sađucêô, những thầy cả tư tế đạo cao chức trọng, tất cả đều bị Gioan cảnh cáo nặng lời. Gioan gọi họ là loài “rắn độc” (Mt 3,7). Ngay cả vua Hêrôđê, Gioan cũng thẳng thắn cảnh cáo vì vua muốn chiếm vợ của anh mình (Mt 14, 3-12). Vua Hêrôđê vẫn nể sợ Gioan vì biết ông là người công chính, thánh thiện (Mc 6,20). Chính vì trung thực trong sứ mạng ngôn sứ mà Gioan phải trả giá bằng ngục tù và bị chém đầu. Nhưng sự trung thực ấy đã làm sáng lên cuộc đời chứng nhân. Ánh sáng trung thực khiến cho lời chứng của Gioan càng có sức thuyết phục.
Gioan đã làm chứng nhân ánh sáng trung thực nên đã sống một cuộc đời thật đẹp và đã chết hào hùng.
2. Thánh Gioan sống rất đẹp
Gioan sống đẹp vì dám từ bỏ đời sống dễ dãi tiện nghi của gia đình và xã hội, rút vào trong sa mạc hoang vắng để sống gắn bó với Thiên Chúa, lắng nghe và thực hiện ý Ngài.
Gioan sống đẹp khi có được một số môn đệ theo mình, nhưng ngài cũng không ngần ngại giới thiệu Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa cho họ (Ga 1,36) để họ trở thành môn đệ Chúa Giêsu, một bậc Thầy cao cả hơn.
Gioan sống đẹp khi ngài thu phục được đám đông dân chúng, được dân chúng ngưỡng mộ, xem ngài như một tiên tri cao cả, nhưng Gioan lại chỉ cho họ biết có Đấng cao cả hơn đang đến, Đấng mà ngài không đáng cởi quai dép cho Người (Ga 1,27) để cho dân chúng thôi ngưỡng mộ mình mà quay sang ngưỡng mộ Chúa Giêsu.
Gioan sống đẹp khi chủ trương rằng: “Chúa Giêsu phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi”.(Ga 3,30)
3. Thánh Gioan chết cũng rất đẹp, rất hào hùng.
Là một ngôn sứ trong một đất nước đang thời nhiễu nhương,bị đế quốc Roma cai trị hà khắc,nhiều phe nhóm trong dân nổi loạn,dân chúng lầm than. Gioan mang nặng những ưu tư, những trăn trở yêu nước thương dân.
Vua Hêrôđê, một hôn quân bạo chúa, sống loạn luân. Lương tâm ngôn sứ thúc đẩy, Gioan lên tiếng can ngăn và tố cáo những hành vi sai trái của nhà vua, kêu gọi vua trở về nẻo chính đường ngay.Vì thế, Gioan đã bị vua chém đầu. Cái đầu vị ngôn sứ đổi bằng bữa tiệc và điệu múa vũ nữ. Hêrôđê tàn bạo, Hêrôđiađê lăng loàn và thủ đoạn. Cái chết của Gioan cao đẹp và hào hùng vô cùng.
Trước mặt người đời, Gioan là kẻ thất bại. Sứ mạng của ngài không hoàn thành,bị những kẻ gian ác ghen ghét hãm hại, cuối cùng chịu chết chém trong tù. Ngôn sứ, chứng nhân của sự thật thời nào cũng phải trả giá. Điều quan trọng trước mặt Thiên Chúa chẳng phải là danh giá hay thành tích mà là thái độ sống.Thái độ sống của Gioan là bất khuất trước bạo lực, dám nói sự thật bảo vệ công lý, cho dù sự thật đó dẫn đến tù đày và cái chết.
Người theo Đạo Hồi giáo Islam sùng kính Thánh Gioan Tiền Hô ở giáo đường bên Syria. Theo sự tin tưởng và tương truyền, trong ngôi đền thờ Hồi giáo Omajjden bên Syria có nấm mộ chôn đầu bị chém của Thánh Gioan Tiền Hô. Người Hồi giáo Syria gọi thánh nhân bằng tên Yaya Ben Zakariyah. Năm 2001, Đức Chân Phước Gioan Phaolo II đã đến hành hương kính viếng cầu nguyện trước ngôi mộ Thánh nhân tại ngôi đền thờ này với mọi người Hồi giáo tại đó. Một vị Thánh sống tôn trọng và rao giảng sự trung thực, sự ăn năn sám hối. Từ đó cho tới nay, người Hồi giáo vẫn luôn luôn sùng kính mộ mến thủ cấp của vị ngôn sứ chứng nhân sự thật.
4. Theo gương Thánh Gioan, sống chứng nhân trung thực
Nói sự thật có thể bất lợi cho mình hoặc cho người khác. Gioan đã dám nói sự thật, dù phải chết. Gioan không sợ quyền lực, không hùa theo kẻ có quyền lực. Trước điều sai trái, ngài không im lặng để được an toàn bản thân, để được xã hội ưu đãi. Gioan lên tiếng làm chứng cho lẽ phải, ngài không thể nói ngược lại lương tâm mình. Không thể nói điều sai trái là đúng, hay nói điều đúng là sai trái.
Có lẽ chưa bao giờ người dân Việt Nam lại ngao ngán trước những tiêu cực, tệ nạn, bất công, gian dối đầy dẫy trong xã hội như ngày hôm nay. Người dân phải chấp nhận sống chung với gian dối, tiêu cực, tệ nạn như người miền Tây, miền Trung được khuyên tập sống chung với lũ vậy.Ông Trần Quốc Thuận, văn phòng Quốc Hội Việt Nam tuyên bố: “Chúng ta sống trong một xã hội mà chúng ta phải tự nói dối với nhau để sống. Nói dối hằng ngày nên thành thói quen. Thói quen đó lập lại nhiều lần thành ‘đạo đức’, mà cái ‘đạo đức’ đó là mất đạo đức.”. Gian dối trở thành tập quán xã hội, một bản tính thứ hai, một nền “đạo đức” của con người, như vậy thì tương lai của dân tộc Việt Nam sẽ đi về đâu?
Giáo sư Hoàng Tụy nhận định: Sự giả dối hiện nay đang có nguy cơ trở thành nỗi nhục trong khi truyền thống dân tộc Việt Nam không phải là dân tộc giả dối. Ngành giáo dục càng không thể là ngành giả dối. Thế nhưng, đã có hơn một nhà khoa học nước ngoài nói thẳng với tôi rằng, điều thất vọng lớn nhất mà ông ta cảm thấy là sự giả dối đang bao trùm lên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội ở các tầng nấc... Trung thực thế nào được khi mà người ta hàng ngày phải sống trong một môi trường giả dối mà minh chứng rõ nhất là tiền lương công chức. Chẳng ai sống nổi bằng lương nhưng rồi ai cũng sống đàng hoàng, dư giả. (x.Báo Khuyến học & Dân trí, Thứ sáu, 28/11/2008).
Lm Nguyễn Hồng Giáo nhận định: Xã hội ta thì xưa nay đã quá quen với việc làm dối, nói dối, báo cáo láo đến nỗi dường như không còn coi đó là một điều xấu nữa. Chúng ta còn nhớ một khẩu hiệu được tung ra thời đầu đổi mới là "Nói thẳng, nói thật". Có chủ trương như thế là vì có tình trạng quanh co, gian dối. Một bài thơ châm biếm đăng trên Sài Gòn Giải phóng ngày 18. 5. 1990 có nhan đề đáng để ý.
Thôi xài chữ giả
Chữ nghĩa du di chả mấy hồi
Đói không nói đói, "thiếu ăn" thôi!
Học hành "hạn chế": y chang dốt
Báo cáo "tuy nhiên": ắt hẳn... tồi.
"Vượt mức chỉ tiêu"? Nên bớt nửa,
"Có phần sơ sót"? Hãy nhân đôi...
Mực đen gấy trắng đòi trung thực
Chữ giả xài lâu hỏng lắm rồi. (Long Vân)
Các nhà nghiên cứu đã phân tích và nêu lên nhiều nguyên nhân của tình trạng thiếu trung thực tràn lan. Nhưng tôi thiển nghĩ rằng, ta còn có thể nghĩ tới một nguyên nhân sâu xa mà hình như chưa ai đề cập tới cách thẳng thắn. Đó là liệu tình trạng này có liên quan cách nào đó chăng tới nhân sinh quan chính thức của xã hội ta hay ít nhất là tới một cách làm, cách nghĩ lâu đời đã ăn quá sâu vào trong tâm thức của giới cầm quyền và nhân dân? Tôi không dám khẳng định mà chỉ nêu câu hỏi như một "giả thuyết làm việc", như người ta quen nói trong phạm vi nghiên cứu khoa học (hypothèse de travail)… Tôi thiển nghĩ, muốn cải tổ giáo dục theo chiều hướng trung thực, cần phải có một sự cải tổ sâu hơn về não trạng và về quan niệm đạo đức, tựu trung là về nhân sinh quan. (x. Giả dối lan tràn, tại sao? Lm Nguyễn Hồng Giáo, OFM).
Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa Trung Tín (1 Tx 5,24). Ngài là “đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Ngài đã tin tưởng và gọi chúng ta là môn đệ của Ngài (Mt 25,22), và trao cho chúng ta những trách nhiệm lớn (Mt 25,21; Mt 28,19). Vì thế, chúng ta phải là chứng nhân trung thực của sự thật và trung tín giữa một xã hội mà sự gian dối đã trở thành “đạo đức”.
Thiết nghĩ, bài học về lòng trung thực phải là bài học đầu đời cho các bộ óc trẻ trung đang còn trong trắng tuổi học sinh.
Theo gương Thánh Gioan chứng nhân ánh sáng trung thực, với tư cách ngôn sứ, chúng ta cần sống chứng nhân cho chân lý và tình yêu. Sống chân chính ngay thẳng theo lương tâm Kitô giáo, chúng ta góp phần mở đường dọn lối cho Chúa đến.
31. Sống niềm vui trong ân tình Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Lúc màn đêm bắt đầu buông xuống, trên các nẻo đường biết bao công nhân vệ sinh đang lao động miệt mài. Từng nhát chổi của họ như là một sự cộng tác với thiên nhiên trả lại cho thành phố một bầu không khí trong lành. Dù công việc của họ âm thầm, nhỏ bé nhưng họ luôn ý thức rất rõ về công việc mình làm, mục đích họ đang vươn tới, và do đó họ đã tìm được niềm vui, một niềm vui thanh khiết và đáng quý.
Bên cạnh đó, hằng đêm tại các vũ trường, quán bar biết bao nhiêu bạn trẻ đang tìm kiếm niềm vui quay cuồng trong những điệu nhạc, niềm vui miên man trong làn khói thuốc, niềm vui lâng lâng cùng với men rượu... Họ đang vui niềm vui của thế tục.
Chúa nhật thứ III Mùa Vọng được gọi là Chúa nhật của niềm vui. Sở dĩ Giáo hội chọn chủ đề cho Chúa nhật III này là Chúa nhật của niềm vui vì Chúa Kitô, Đấng Cứu độ chúng ta sắp đến. Phẩm phục màu hồng của chủ tế trong cử hành Phụng vụ nói lên điều đó. Tuy nhiên niềm vui mà Giáo hội khuyến khích mời gọi chúng ta là niềm vui nào? Tìm kiếm ở đâu? Có phải là niềm vui của các bạn trẻ trong các vũ trường, quán bar hay không? Có phải là niềm vui của những tay anh chị khi gặp may mắn trong các trò đỏ đen hay không? Hay là niềm vui của những kẻ lừa gạt hoặc những kẻ làm ăn phi pháp khi thực hiện được những phi vụ trót lọt hay không? Chắc chắn không phải là những thứ niềm vui đó.
Vậy đâu là niềm vui mà Chúa và Giáo hội mong muốn con cái mình tìm kiếm trong Chúa nhật III Mùa Vọng?
Chúa Giêsu, ngay khi còn tại thế, Ngài luôn đặt cuộc đời mình trong bàn tay của Chúa Cha. Ngài đã luôn sống và hoạt động trong ân tình của Chúa Cha. Có thể nói cuộc đời của Chúa Giêsu là một cuộc đời luôn tìm niềm vui trong Chúa Cha của Ngài. Vì thế, Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta hãy tìm kiếm niềm vui đó như Ngài, tức là niềm vui trong Chúa. Nhưng làm sao chúng ta có được niềm vui trong Chúa? Chúng ta chỉ có được niềm vui trong Chúa khi chúng ta biết sống trong ân tình của Chúa.
- Sống trong ân tình Chúa là ý thức sự hiện diện của mình là một hồng ân nhưng không phát xuất từ chính tình yêu Thiên Chúa. Một sự hiện diện ngoài sự mong đợi của một thụ tạo. Do đó, một khi ý thức về hồng ân hiện diện, chúng ta sẽ biết sống một đời tạ ơn. Và chính lúc sống đời tạ ơn đó, chúng ta sẽ tiếp tục được Thiên Chúa chăm sóc, nuôi dưỡng và đón nhận sự sống của Ngài, như một trẻ thơ luôn vui sống trong ánh mắt của cha mẹ mình, thì chắc chắn luôn được cha mẹ che chở, chăm sóc và nuôi dưỡng. Như thế, sự sống của chúng ta không chỉ được cắm rễ sâu trong sự sống của Thiên Chúa mà còn triển nở một cách tròn đầy trong Thiên Chúa nữa, và tâm hồn chúng ta chắc chắn sẽ có được niềm vui của Chúa, niềm vui của những người con thảo đối với Cha trên trời.
- Sống trong ân tình của Chúa còn là gì nữa, nếu không phải là nhận ra và sử dụng những nén bạc Chúa trao một cách hiệu quả nhất theo ý Ngài. Niềm vui của cha mẹ là nhìn thấy con cái mình khôn lớn và thành đạt bằng những phương tiện do mình trợ giúp. Hay nói một cách khác, chính khi người con biết tận dụng những phương tiện cha mẹ cung cấp để thành đạt trong cuộc sống, ấy là lời tri ân đẹp nhất dâng lên cha mẹ mình. Vậy khi chúng ta biết tận dụng và phát huy mọi ân huệ và tài năng Chúa ban lại không phải là bài ca chúc tụng và tạ ơn đẹp lòng Thiên Chúa sao? Tất nhiên niềm vui đến từ đây là rất lớn.
- Sống trong ân tình Chúa còn là chu toàn mọi công việc bổn phận theo ý Chúa muốn trong từng ngày sống. Điều này cũng cho thấy chúng ta không còn sống cho riêng mình, nhưng là sống cho Chúa và cho tha nhân nữa. Như là những đầy tớ trung tín, không chỉ chu toàn mọi công việc được trao, mà còn luôn khao khát đón chờ chủ về và luôn cảm thấy vui sướng, hạnh phúc khi được sống với chủ. Thông thường chúng ta vẫn thích làm theo ý mình hơn là ý Chúa, chúng ta vẫn thích chiều theo cái tôi của mình hơn là lề luật của Giáo hội, nên chúng ta vẫn sống ngoài ân tình của Chúa và dĩ nhiên là cũng không nhận được niềm vui thực sự trong tâm hồn.
Ước mong mỗi người chúng ta biết tận dụng thời gian Mùa Vọng này để luôn sống trong ân tình của Chúa, nhờ đó khi Chúa đến diện đối diện, thì tâm hồn chúng ta, cuộc đời của chúng ta luôn được chan chứa niềm vui và bình an, thứ niềm vui và bình an mà thế gian không ban được.
32. Người làm chứng
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Trong bài Tin Mừng trên đây cụm từ ‘làm chứng’ được dùng đến bốn lần.
Lẽ sống của Gioan là làm chứng. Ông được sai đến để làm chứng (x. c.6-7). Cả câu chuyện xảy ra ở Bêtania, bên kia sông Giođan, cũng là một lời chứng hùng hồn của ông (c.19).
Gioan không làm chứng cho mình hay về mình, bởi lẽ ông không phải là Ánh Sáng. Ông chỉ là ngọn đèn (Ga 5,35) giúp mọi người tin vào Ánh Sáng thật là Đức Kitô.
Sau khi nhiều người tuốn đến chịu phép rửa, tiếng tăm của Gioan trở nên lừng lẫy. Các nhà lãnh đạo tôn giáo cử một phái đoàn đến tìm hiểu con người ông.
Khi được hỏi lần thứ nhất: Ông là ai? Gioan đã đưa ra ba câu trả lời phủ định: "Tôi không phải là Đức Kitô" - "Không phải" - "Không". Những tiếng ‘không’ dứt khoát và trung thực.
Ông không nhận những danh hiệu người ta nghĩ về ông. Ông chẳng phải là một Êlia tái giáng hay một vị Ngôn Sứ phi thường như Môsê. Gioan chỉ sợ người ta đánh giá quá cao về mình khiến Đấng ông giới thiệu bị che khuất.
Lần thứ hai được hỏi: Ông là ai?
Gioan đã định nghĩa mình là một tiếng hô trong hoang địa, là lời mời gọi con người sửa đường cho Đức Kitô.
Ông biết rõ mình là người đến trước nhưng vị đến sau lại có trước ông và trổi vượt hơn ông ngàn trùng (Ga 1,30). "Tôi không đáng cởi quai dép cho Người." Làm đầy tớ cho Đức Kitô, ông nhận mình không xứng.
Gioan tự xóa mình trước Đức Kitô. Ông chẳng sợ mất uy tín trước bao người ngưỡng mộ. Ông nhìn nhận phép rửa của ông chỉ nhằm chuẩn bị cho một phép rửa lớn hơn trong Thánh Thần.
Gioan không ngại giới thiệu môn đệ mình theo Đức Giêsu, và ông bình an khi người ta đổ xô đến với Ngài để chịu phép rửa (Ga 3,26).
Có ai siêu thoát như Gioan?
Ông từ bỏ trong niềm vui hồn nhiên. Ông hạnh phúc vì mình đã hoàn thành sứ mạng. "Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại" (Ga 3,30).
Sự khiêm hạ làm cho lời chứng của Gioan đáng tin hơn.
"Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết."
Hôm nay Đức Giêsu vẫn là Đấng xa lạ với nhiều người.
Con người vẫn khắc khoải đi tìm những nẻo đường cứu độ, trong khi Đấng Cứu Độ đã đến từ hơn 2000 năm.
Xin được làm người chứng như Gioan, giới thiệu cho bạn bè Đấng mà họ đang tìm kiếm.
Gợi Ý Chia Sẻ
Giới trẻ hôm nay say mê các ngôi sao ca nhạc, điện ảnh, thể thao... Theo ý bạn, điểm nào nơi Đức Giêsu có thể làm cho giới trẻ say mê? Đức Giêsu có phải là mẫu người lý tưởng của các bạn trẻ không?
Gioan là con người siêu thoát. Ông không tìm mình, ông vượt lên trên cái vòng danh lợi. Bạn có quen biết ai làm chứng tuyệt như Gioan không?
Cầu Nguyện
Chỉ mong tôi chẳng còn gì, nhờ thế Người là tất cả của tôi.
Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn gì, nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi, đến với Người trong mọi sự, và dâng Người tình yêu trong mọi lúc.
Chỉ mong tôi chẳng còn gì, nhờ thế tôi không bao giờ muốn tránh gặp Người.
Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng còn gì, nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn của Người và thực hiện ý Người trong suốt đời tôi.
(R. Tagore)
33. Một nhân chứng dấn thân
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Để hiểu rõ đoạn mở đầu Phúc Âm theo thánh Gioan, chúng ta cần nhớ lại bầu khí mong đợi bao trùm sinh hoạt dân Do Thái khoảng thập niên 30. Một số những nhà lãnh đạo và nhất là khối dân chúng nóng nảy trông đợi Đấng Cứu thế, họ nghĩ rằng Người sẽ ngự đến và trục xuất quân La mã chiếm đóng đất nước họ, rồi tổ chức Israel thành vương quốc lý tưởng. Chính trong bầu khí đó, Gioan Tẩy giả xuất hiện. Sứ điệp của ông không phù hợp với ý niệm người Do Thái vốn có về Đấng Cứu Thế, tuy vậy ông vẫn là một trường hợp gây bối rối: ông lôi cuốn những đám đông, từ con người ông tỏa ra một sức mạnh tinh thần, ông thành vấn đề cho nhà đương cuộc, thuộc giới lãnh đạo dân tộc, những người biệt phái muốn biết rõ. Họ thắc mắc: không hiểu ông Gioan này, thường vẫn rửa tội cho dân chúng, ông là ai? Họ cử phái đoàn chính thức gồm những tư tế và phó tế đến gặp ông với nhiệm vụ điều tra lý lịch và ý nghĩa hoạt động của ông. Họ đặt ba câu hỏi phù hợp với luồng tư tưởng đương thời. Gioan có phải là Đấng Cứu thế không? Phải chăng ông là Elia, người đi trước Đấng Cứu thế, như mọi người thường nghĩ? Ông có phải là Ngôn sứ không? –nghĩa là ông có phục hồi những thời kỳ sấm ngôn, khi mà từ lâu rồi chẳng còn thấy các ngôn sứ nữa? Gioan trả lời một cách hơi khó hiểu, tuy nhiên câu đáp của ông lại là minh bạch đối với những ai muốn hiểu biết “Tôi là tiền hô của Đấng Cứu thế”. Một chi tiết: tuy ông nhận là kẻ đi trước Đấng Cứu thế, nhưng không nhận là Elia, vì lẽ ông tách rời con người Elia và sứ mạng người ta gán cho Elia là loan báo Đấng Cứu thế xuất hiện, sứ mạng này được Gioan hoàn tất tuy khônbg phải vì thế mà ông là Elia. Cho nên ông có thể trả lời: ông không phải là Elia, mà vẫn khẳng định ông là kẻ tiền hô. Chúng ta ghi nhận tầm quan trọng thánh chép sử đặt cho lời chứng.
1) Ông đến như một nhân chứng, để làm chứng cho ánh sáng. Đức tin của chúng ta ngày nay đặt nền móng trên 1 chứng từ. Nếu nhặt riêng ra từng chứng từ một thì chứng từ không có cùng 1 sức mạnh nhưng tập họp lại thì trở nên một lớp đất mầu đặc biệt phì nhiêu, trên đó trổi lên và tăng trưởng cây đại thụ Giáo Hội. Chứng từ của Gioan Tẩy giả ở vào khoảnh khắc bản lề, 1 khoảnh khắc trọng đại trong lịch sử dân Chúa. Gioan là vị Ngôn sứ cuối cùng vì tuy sống thời Cựu Ước, nhưng loan báo về Đấng Cứu thế. Ông cũng là nhân chứng vì khi sứ mạng kết thúc, ông nhìn thấy Đấng Cứu thế và tuyên cáo Người đã ngự đến. Sức mạnh của lời chứng của ông là ở cung cách ông đáp ứng đích thật đối với nhiệm vụ Chúa trao cho ông. Người ta hình dung dễ dàng quang cảnh một số người Do Thái khi họ thấy ông, nghe ông giảng dạy. Có thể họ đã nhận xét ông bằng thứ ngôn ngữ dân gian đậm chất thân mật: ông này đúng là 1 ngôn sứ “thứ thiệt” đây. Chúng ta giữ lại để suy niệm câu hỏi sau: phải chăng lời chứng của chúng ta về Đức Kitô căn cứ trên sự tiên quyết này, là chúng ta làm chứng về Người không phải vì đã tận mắt thấy Chúa, mà chỉ vì đã gặp Người trong thâm tâm chúng ta?
2) Gioan Tẩy giả được trình bay như một nhân chứng cho ánh sáng. Chủ đề ánh sáng bàng bạc khắp Phúc âm theo thánh chép sử Gioan. Ngay ở phần nhập, chủ đề đã đặt câu hỏi nghiêm trọng về sự đón tiếp con người dành cho sự thật. Óc thông minh con người được cấu tạo để hiểu biết chân lý, cho nên có khả năng hoặc tiếp nhận hoặc xua đuổi chân lý. Chúng ta nên nhớ, vấn đề này không chỉ là 1 vấn đề trí thức. Con người tiếp nhận sự thật bằng toàn bộ thể xác và tâm linh. Điều này dẫn đưa con người vào đường dấn thân. Tiếp nhận đức tin là dấn thân vì đức tin. Chừng nào đến lượt mình chúng ta cũng sẽ là những người làm chứng cho ánh sáng nếu chúng ta vì tin mà thừa nhận, gắn bó, chứ không phải chỉ vì hiểu biết, nếu chúng ta dùng cả cuộc đời để nghênh đón Chúa.
34. Tiếng kêu trong hoang địa
Niềm hy vọng sẽ không giá trị gì đối với những ai cứ khép chặt lòng mình không muốn đổi mới. Tiếng kêu cầu hay kêu cứu của con người sẽ chẳng ai nghe nếu cuộc đời vắng đi những tâm hồn biết sống cho người khác. Gioan Tẩy Giả thật khiêm nhường khi tự giới thiệu về mình "Tôi là tiếng kêu trong hoang địa". Tiếng kêu giữa phố xá thị thành may ra còn người đáp cứu. Tiếng kêu giữa nơi hoang vu thì mấy ai trả lời. Ấy vậy mà Gioan vẫn kêu mời mọi người dọn đường đón Chúa đến. Tôi nhìn thấy cuộc đời luôn có những tiếng kêu vang. Kêu trong niềm hạnh phúc đến tột cùng. Kêu trong nỗi đau buồn đến tuyệt vọng. Kêu trong nỗi ưu phiền cho phận người còn quá long đong.
Tiếng kêu trong niềm vui sướng
Loan báo niềm vui lúc nào cũng làm cho người ta mạnh miệng. Tiên tri Isaia đã mạnh dạn khi nói về thời gian mà Thiên Chúa thi ân cho con người. Ngày mà tù nhân được phóng thích, lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, những tấm lòng tan nát được Chúa băng bó vết thương. Đó là thời thịnh vượng, sung túc vì Thiên Chúa đến với con người.
Thật là oan ức khi có người cho rằng tiếng kêu trong vui mừng chẳng qua là "nổ". Không, niềm vui khi được sẻ chia thì niềm vui nhân lên. "Nổ" là người nói quá sự thật, nhưng tiếng kêu trong vui mừng là nói sự thật để mọi người cùng vui. Đây lại là một niềm vui lớn: Thiên Chúa đã đến với con người.
Tiếng kêu trong sứ mệnh làm chứng
Nếu mình đóng vai trò là một bóng mờ để người khác vượt đúng là điều không dễ. Bởi nó đòi hỏi rất nhiều hy sinh. Sự hy sinh đến mức tự huỷ chính mình là điều không ai muốn. Aáy vậy mà Gioan xuất hiện để thực hiện sứ mệnh ấy. Ông chấp nhận lắng chìm để Chúa được nâng lên. Oâng tự nhận không xứng cởi day giày cho Người để tất cả mọi người hãy quên ông đi để tập trung hướng về Đấng Cứu Thế.
Ai cũng hiểu Gioan Tẩy Giả lúc bấy giờ thật có thế giá. Nhiều người tuôn đến chịu phép rửa của ông. Có lẽ có nhiều người rất thần tượng về ông. Thế nhưng ông không cố giữ những lời ca tụng của dân chúng nới bản thân. Tiếng "không" là một cách trả lời dứt khoát và đúng sự thật. Tôi không phải là Êlia, cũng không phải là Môisen, càng không phải là vị cứu tinh mà mọi người trông đợi.
Gioan xuất hiện như mẫu gương của sự khiêm nhường trong việc làm chứng cho sự thật. Sống giữa đời tôi cần phải biết mình, biết người và biết Chúa. Biết những giới hạn của mình để đón nhận và cố gắng vượt qua. Hiểu biết người để cùng đồng hành chia sẻ. Biết Chúa để phụng thờ và thiết lập một tương quan ngày càng xứng hợp. Khi nào ta dám xoá mình đi khi đó ta mới làm chứng cho người khác được.
Tiếng kêu để mời gọi đổi đời
Tiếng kêu trong hoang địa không phải là tiếng kêu cứu của kẻ cô đơn thất vọng nhưng là lời mời gọi mọi người đổi mới. Đổi mới cái nhìn bằng cách nhận ra Chúa đang hiện diện quanh đây. Đổi mới cánh sống bằng việc sám hối lỗi lầm. Đổi mới con người bằng việc thực thi công bằng bác ái. Gioan vào sa mạc tưởng đâu tách biệt nhưng thực ra ông đang sống rất gần. Bằng những lời kêu mời rất cụ thể, Gioan muốn giới thiệu về một Thiên Chúa cũng rất gần và đang đến.
Mỗi Kitô hữu giờ đây đến Chúa Giêsu không còn là một nhân vật trong quá khứ nhưng Ngài đang sống với ta, trong ta. Đừng để Ngaì đi qua cuộc đời mà chẳng một ai tiếp rước. Tiếng kêu của Gioan vẫn còn vang vọng để nhiều người nhận ra Ngài, đón nhận Ngài mà thay đổi đời sống.
35. Kitô hữu, bạn là ai?
(Trích trong: “Niềm Vui Chia Sẻ”)
Trên đường đi, cảnh sát giao thông chặn tôi lại, kiểm tra giấy tờ. Tôi xuất trình thẻ chứng minh nhân dân, trong đó có ghi sẵn họ và tên, địa chỉ, ngày và nơi sinh của tôi. Thế là cảnh sát hài lòng, vì đã biết được tôi là ai trong giấy tờ. Nhưng cảnh sát lại không biết tôi làm những việc gì, những mối quan hệ của tôi, những suy nghĩ của tôi, lý tưởng của tôi, niềm vui, nỗi buồn của tôi. Tất cả những điều đó ông không cần lưu tâm. Ông đã cầm được giấy chứng minh nhân dân chính thức của tôi và thế là đủ. Nếu có cần thì hỏi thêm giấy chủ quyền xe gắn máy và thuế lưu hành.
Ngày xưa, khi Gioan Tẩy Giả công khai xuất hiện bên bờ sông Giođan, rao giảng phép rửa sám hối, dân chúng tuôn đến với ông, khiến nhà cầm quyền đạo đời Do Thái phải thắc mắc: Ông ấy là ai? Và họ cử phái đoàn đến điều tra xét hỏi. Họ đã mở cuộc phỏng vấn: Ông là ai? Gioan Tẩy Giả đã không xuất trình chứng minh nhân dân hoặc hộ khẩu, đã không nêu tên tuổi, địa chỉ, lý lịch của mình, nhưng ông nói rõ sứ mạng, lý tưởng của ông, sự dấn thân, ơn gọi và lẽ sống của ông: “Tôi là tiếng của người kêu trong sa mạc… Tôi đây làm phép rửa bằng nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người”. Gioan Tẩy Giả hướng toàn bộ cuộc đời ông về Đức Giêsu. Bản thân ông không là gì cả. Cuộc đời ông, sứ mạng ông, đam mê của ông chính là loan báo Đấng Kitô. Ngài đến mặc khải cho con người ý nghĩa của cuộc sống và lịch sử của họ. Ngài mang đến cho con người Tin Mừng: Thiên Chúa là tình yêu, là ơn tha thứ, là bình an và niềm vui cho nhân loại. Cho đến chết, Gioan Tẩy Giả là tiếng hô dọn đường cho Chúa đến.
Hôm nay, chúng ta hãy tự đặt câu hỏi cho chính mình: Kitô hữu, chúng ta là ai? Như người ta đã chất vấn Gioan Tẩy Giả: “Ông là ai? Ông nói gì về chính mình?”
Chúng ta không đơn giản trả lời bằng cách xuất trình giấy chứng minh có ghi “Thiên Chúa giáo” hoặc giấy rửa tội của chúng ta ra. Vấn đề là, như Gioan Tẩy Giả, chúng ta trả lời về ý nghĩa cuộc sống của chúng ta, về động cơ bên trong thúc đẩy và chi phối cuộc đời chúng ta. Chắc chắn chúng ta còn nhớ câu chuyện sau đó, khi Gioan đang ở trong tù, ông đã sai các môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu là ai. Chúa Giêsu đã trả lời: Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được khỏi, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng và phúc thay người nào không mất niềm tin vào tôi” (Lc 7,12-23). Chúng ta cũng hãy tự trả lời về chính mình bằng chính những việc làm của chúng ta, bằng chính cách sống của chúng ta. Cả cuộc đời chúng ta phải nói về Đức Giêsu, phải loan báo Đức Giêsu và sứ mạng của Ngài.
Kitô hữu là ai?
Là những người đàn ông, đàn bà, thanh niên, thiếu nữ, thiếu nhi, những người yêu mến Đức Giêsu. Nhưng không phải như người yêu thích một đồ vật hay một nhân vật đã đi qua, cũng không phải như người ta yêu thích một bài hát hay, hoặc một văn sĩ, nghệ sĩ nổi tiếng đã chết. Người Kitô hữu yêu mến Đức Giêsu như một người yêu, như một người bạn. Bởi vì, đối với chúng ta, Đức Giêsu chẳng phải là một nhân vật đã đi vào quá khứ, nhưng Ngài hiện đang sống với chúng ta, trong chúng ta. Chúng ta yêu mến Ngài. Chính tình yêu này là động cơ thúc đẩy chúng ta làm việc cho Ngài và tiếp tục công việc của Ngài: đó là yêu thương những con người nghèo khổ, giải phóng những kẻ bị áp bức, bóc lột, chữa lành những tâm hồn tan vỡ, đem tự do đến cho những kẻ bị giam cầm, loan báo Tin Mừng cho những con người bất hạnh. Trong thời đại chúng ta, vẫn còn có Mẹ Têrêxa của cộng đoàn Thừa Sai Bác Ái, Sư Huynh Roger Schutz của cộng đoàn Taizé, cha Pierre của cộng đoàn Emmau, và còn biết bao tấm gương âm thầm khác nối tiếp bước chân Gioan Tẩy Giả.
Hôm nay, Chúa mời gọi chúng ta trở nên những con người của niềm vui và đem niềm vui của Chúa đến cho người khác. Chẳng phải chỉ nói rằng: tôi là người có đạo, tôi đi nhà thờ, tôi thuộc họ đạo này, giáo xứ nọ. Nhưng chính yếu là chính cuộc sống của tôi, hành động của tôi, sự chọn lựa của tôi như Đức Giêsu đã sống, đã hành động và đã chọn lựa. Ngày nay chúng ta cần có nhiều người như Gioan: cởi mở, can đảm, thẳng thắn làm chứng cho Đức Kitô không những bằng lời nói mà nhất là bằng hành động cụ thể, đem niềm vui và hạnh phúc đến cho mọi người. Với những chứng tá ấy, người ta sẽ nhận ra chúng ta là bạn của Đức Kitô, là Kitô hữu.
Vì thế, mỗi người Kitô hữu phải là một Gioan Tiền Hô, phải sống thế nào để qua lời nói và hành động của chúng ta, những người khác có thể gặp được Chúa Cứu Thế: trong gia đình, ngoài xã hội, nơi làm việc, chỗ giải trí, chúng ta phải sống ra sao để ai gặp được chúng ta là phần nào đã gặp được Chúa Giêsu. Mỗi người chúng ta phải là một ngọn đèn, một ngôi sao Giáng Sinh, một nhân chứng của ánh sáng. Noi gương Gioan Tiền Hô, hãy sống hết lòng với Chúa và do đó luôn thao thức làm cho người khác tìm gặp Chúa Giêsu và đón nhận ơn cứu độ của Ngài.
36. Niềm vui thật
Chúa nhật thứ ba mùa vọng được gọi là Chúa nhật hồng, Chúa nhật của sự vui mừng (Gaudete Sundae). Màu hồng của phẩm phục phụng vụ cho thấy sự vui mừng, yêu đời và hy vọng. Và quả thực tư tưởng lời Chúa hôm nay nói lên điều đó. Isaia loan báo: Tôi hớn hở vui mừng trong Chúa và lòng tôi hoan hỷ trong Thiên Chúa, Người đã sai tôi đem Tin mừng cho người nghèo khó. Thánh Phaolo cũng kêu gọi tín hữu Thêxalônica: anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Giêsu Kitô. Và bài Tin mừng cho chúng ta thấy niềm vui ấy khi Gioan Tiền Hô loan báo Chúa Kitô là nguồn an ủi của mọi tâm hồn: Có một vị đến sau tôi và đang ngự giữa các ông mà các ông không biết.
Niềm vui, hy vọng hay hạnh phúc của chúng ta bắt nguồn từ đâu? Chúng ta phải sống niềm vui ấy như thế nào?
Niềm vui hay hạnh phúc là mục đích của con người sống trên trần gian. Vì con người được Thiên Chúa dựng nên để chia sẻ niềm vui, hạnh phúc và sự sống đời đời với Thiên Chúa. Pascal đã nói: Tất cả mọi người đều đi tìm kiếm hạnh phúc, ngay cả những người tự tử. Nhưng chúng ta không thể tìm kiếm niềm vui, hạnh phúc hay hy vọng ở ngoài Thiên Chúa.
Ngày nay có người đi tìm hạnh phúc trong những giây phút huy hoàng "thăng hoa" của tình yêu đôi lứa. Nhưng hạnh phúc ấy chợt vụt tắt khi họ không còn cần đến nhau nữa. Có người tìm kiếm hạnh phúc nơi tiền bạc hay của cải, nhưng tiền tài của cải cũng chóng qua như khi nó đến. Cũng có người tìm kiếm niềm vui và hạnh phúc nơi sự nghiệp công danh. Nhưng công danh sự nghiệp thì kèm theo nước mắt và đoạ đày.
Niềm vui, hạnh phúc thật của con người không thấy được tìm thấy nơi khoái lạc trần gian, nơi vật chất mau qua chóng tan hay cuộc sống danh vọng nhiều ganh đua. Niềm vui và hạnh phúc thật chỉ có được khi con người sống trong vui tươi, tin tưởng, bất chấp mọi khổ đau vì con người tin rằng Chúa Giêsu đã đến và mang lại cho chúng ta niềm vui và sự sống: Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con một của Người xuống cho trần gian để nhờ Người Con một ấy chúng ta được sự sống của con Chúa, được trở nên con cái Thiên Chúa. Đó là niềm vui đích thực, đó là niềm phấn khởi bao la của chúng ta.
Nhưng để sống được trong niềm vui và hạnh phúc ấy chúng ta hãy tập sống như Gioan Tiền Hô trong bài Tin mừng hôm nay. Gioan xuất hiện trong khiêm tốn dù ông là một nhân vật rất quan trọng (Tiền Hô cho Chúa Cứu Thế). Ông từ chối hết tất cả những tước hiệu mà dân chúng gán cho ông (vì nó không phải là của ông). Hạnh phúc và niềm vui của Gioan là đến để làm chứng cho ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin và được cứu rỗi. Đối với Gioan, trở thành đầy tớ của Thiên Chúa và giúp mỗi người trở về với Thiên Chúa là niềm vui và hạnh phúc thật.
Trần Văn Điền định nghĩa hạnh phúc như sau: Hạnh phúc không phải là cái bạn cầm trong tay nhưng là cái bạn mang trong tim. Hạnh phúc là kêt quả của tình thương yêu đối với mọi người. Khi chúng ta mở một nụ cười với người đau buồn, khi chúng ta nói một lời an ủi, nâng đỡ đối với người tội lỗi; một hành vi giúp đỡ cho người thiếu thốn. Niềm vui và hạnh phúc là chia vui với người vui, là sớt chia nỗi buồn với người sầu khổ.
Niềm vui và hạnh phúc thật còn là bình an trong tâm hồn mình, là khiêm nhường chấp nhận thực tại của cuộc sống mặt dù cuộc sống này còn đó những khó khăn và thử thách.
Sự vui mừng hay hạnh phúc của chúng ta phải đến từ bên trong, từ hành động phục vụ tha nhân và ý thức rằng Thiên Chúa vẫn hiện diện với chúng ta. Hạnh phúc và niềm vui là tin tưởng phó thác hoàn toàn cho Chúa vì chính Chúa là nguồn vui thật của chúng ta và sự sống của chúng ta ở nơi Đức Giêsu Kitô.
37. Niềm Vui – ĐGM. Nguyễn Sơn Lâm
"Hãy vui lên, hỡi anh em, hãy vui lên! Hãy cảm tạ Thiên Chúa trong mọi sự, vì đó là thánh ý Người về tất cả anh em trong Đức Kitô. Anh em đứng dập tắt tác động của Thánh Thần" (1Thes 5,16-17). Lời thánh Phaolô viết cho giáo đoàn Thessalônikê ngày xưa, hôm nay Giáo hội lại công bố với chúng ta trong ngày Chúa nhật thứ III mùa Vọng này.
Trong lúc chờ đợi Đức Kitô đến, chúng ta phải tỉnh thức, phải lắng nghe tiếng Chúa kêu gọi. Chính tiếng Người đem lại niềm vui cho ta, như Gioan Tẩy giả đã làm chứng, khi ông nói về vai trò tiền hô của mình đối với Đấng Cứu thế.
"Niềm vui của tôi là được nghe tiếng Ngài. Niềm vui của tôi đã sung mãn. Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ dần đi" (Gioan 3,29-30)
***
1. Giáo Hội Kêu Gọi Chúng Ta Vui Lên. Nhưng Thế Nào Là Vui?
Theo kinh nghiệm thông thường, vui là khi một ước vọng của ta được toại nguyện; khi ta thành công trong một nỗ lực hoặc một dự tính; khi quyền lợi của ta bị tước đoạt mà nay được phục hồi; và vui nhất là khi ta được gặp lại những người thân yêu sau một thời gian xa vắng. Tắt một lời, ta vui khi lòng ta đang trống mà được lấp đầy.
2. Niềm Vui, Theo Nghĩa Thánh Kinh, Chính Trị Là Trạng Thái Của Con Người Được Thiên Chúa Đổ Đầy Thánh Thần
Bài sách Isaia hôm nay (Is 61,1-2a.10-11) phác họa cho ta hình ảnh Đấng Thiên Sai được Thánh Thần xức cho dầu hoan lạc: "Thánh Thần Chúa ngự xuống trên tôi... Ngài sai tôi công bố năm hồng ân của Thiên Chúa".
Năm hồng ân trong Cựu Ước - mà Năm Thánh là điệp ảnh - quả là một sáng kiến độc đáo Thiên Chúa đề ra cho Dân Ngài. Nó là khoảng thời gian đặc biệt nhắc cho mọi người nhớ rằng: tất cả những gì mình có đều là do Thiên Chúa ban, và mọi người phải nghĩ đến quyền lợi của kẻ khác: bởi vì mọi người đều có quyền sống tự do và hưởng dùng tài nguyên trên mặt đất. Năm hồng ân làm nổi bật, nguyên tắc công bằng và quyền bình đẳng của mọi người trước mặt Thiên Chúa (Lêvi 25,1-55).
Mở đầu cuộc đời công khai, Đức Giêsu đã đọc cho mọi người nghe đoạn sách Isaia trên đây trong hội đường Nadarét. Và Ngài kết luận: "Hôm nay, đoạn sách thánh ấy đã thực sự ứng nghiệm cho anh em" (Lc 4,16-21). Và như thế, Ngài nhận lấy sứ mạng "loan báo Tin Mừng cho những người nghèo khổ, băng bó vết thương cho những tấm lòng tan nát, công bố ân xá cho những kẻ bị tù đày, trả tự do cho những người bị áp bức" (Is 61,1-2; cf Lc 4,18-19).
Đó là những quyền căn bản của con người: quyền được sống xứng đáng với nhân phẩm của mình và được tôn trọng, quyền được hưởng niềm vui làm người tự do và bình đẳng. Nhưng hơn thế nữa, sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu Kitô còn nhằm biến đổi mọi người trở thành con cái Thiên Chúa. Điều quan trọng hơn cả trong Tin Mừng Ngài mang đến cho chúng ta là Thiên Chúa muốn sống giữa loài người liên đới với nhau như một cộng đoàn hợp nhất, thánh thiện và hòa bình. Sứ điệp đó thúc đẩy chúng ta nỗ lực xây dựng Nước Trời trong một xã hội công bình và huynh đệ, ở đó mọi thành phần đều được Thần Khí thánh hóa và quy tụ quanh Đức Giêsu Kitô, để cùng tuyên xưng Thiên Chúa là Cha (Gal 3,16; Rm 8,14-17). Bài sách Isaia loan báo Thiên Chúa sẽ khoác cho dân Ngài một áo choàng công chính và cứu độ (Is 61,10) mà thánh Phaolô họa lại bằng lời nguyện cầu "xin Thiên Chúa bình an thánh hóa anh em" (1Thes 5,23).
Niềm vui Đức Giêsu Kitô mang tới cho ta, chính là niềm vui của người tự do được làm con Thiên Chúa.
3. Sứ Điệp Tin Mừng Là Thế - Sứ Điệp Đấng Thiên Sai Là Thế
Nhưng người Kitô hữu chúng ta phải làm gì để nhận được niềm vui đó? Thánh Phaolô trả lời: "Anh em đừng dập tắt tác động của Thánh Linh" (1Thes 5,19) vì chính Thánh Thần làm nảy sinh mọi sự tốt đẹp, mọi hoa quả nhân đức "bác ái, hoan lạc, bình an, cao thượng, tận tâm, nhân từ, tín thác, hiền lành, tự chủ" (Gal 5,22-23), và "đâu có Thánh Thần, đấy có tự do" (2Cr 3,7). Đặc điểm của thời đại Đấng Thiên Sai là Thiên Chúa phủ đầy Thần Khí trên nhân loại, làm cho mọi tâm hồn chan chứa niềm vui: niềm vui được Thiên Chúa viếng thăm, được Ngài chúc phúc và ban ơn cứu độ.
Nhưng hạng người được Thiên Chúa ưu tiên viếng thăm là những người nghèo (xem Lc 2,24). Họ được, Ngài chúc lành (Lc 6,20; Mt 5,3) và Tin Mừng cũng được loan báo trước tiên cho họ (Lc 4,18). Họ được Thiên Chúa ban đầy hồng ân, vì lòng họ sẵn sàng và khiêm tốn đón nhận. Những người tiếp xúc với Đức Giêsu thuở Ngài còn thơ ấu; cũng như khi Ngài hoạt động công khai đều là những con người nghèo hèn bé mọn của Giavê: Giacaria, Isave, Maria, Giuse, đám mục đồng, Simêon, Anna, Gioan Tiền hô, nhóm môn đệ và đoàn dân nghèo theo Ngài để đi giảng. Đó là một xã hội nghèo của Ngài và từ đó phải trở thành Giáo hội của người nghèo; một Giáo hội nhẹ lòng với của cải trần gian, ít bận tâm về những điều vật chất, để được thanh thoát và mở rộng tâm hồn đón nhận tác động của Thần Khí Thiên Chúa biến đổi họ thành những con người tự do.
Hai tâm hồn tiêu biểu nhất trong mùa Vọng là Trinh Nữ Maria và Gioan Tẩy giả. Họ đều nghèo nhưng cả hai đều tràn đầy Thánh Thần và vì thế, lòng các ngài chan chứa niềm vui. Riêng niềm vui của Đấng Tiền hô thật là sung mãn: bởi đã nghe tiếng Chúa Cứu Thế, được làm người dọn đường cho Ngài, để chỉ Ngài cho thiên hạ thấy, rồi vui vẻ rút lui vào bóng tối; chấp nhận nhỏ dần đi để Ngài được lớn lên (Ga 3,29-30).
Người Kitô hữu cũng phải mang đầy niềm vui như Gioan Tiền hô, một niềm vui thâm thúy của con người ý thức trách nhiệm, trung thành chu toàn sứ mạng, đúng như ơn gọi Thiên Chúa đã dành cho.
Mà ơn gọi và sứ mạng đều phát xuất từ Thiên Chúa. Nhưng để sống đến cùng những đòi hỏi của ơn gọi mình, người Kitô hữu cũng phải như Đức Trinh Nữ Maria kết hiệp mật thiết với Đấng Cứu Thế. Bởi vậy, khi kêu gọi ta vui lên, thánh Phaolô cũng nói thêm: "Anh em hãy cầu nguyện không ngừng" (1Thes 5,16).
Đó là điều kiện cần thiết mang lại niềm vui sâu xa cho tâm hồn con người tràn đầy Thánh Linh Thiên Chúa. Và ai có những lần đã thực sự cầu nguyện, thì cũng đã cảm nghiệm được niềm vui thiêng liêng, niềm vui của người Kitô hữu.
***
BÀI GIẢNG
Thấy Gioan xuất hiện, dân Dothái ngày xưa đã hân hoan rồi. Nhưng khi nghe Gioan tuyên bố: sắp có Đấng cao trọng hơn ông đến, họ còn vui mừng hơn nữa. Vì thế, Chúa nhật thứ ba mùa Vọng là Chúa nhật hân hoan vui mừng.
Chúng ta hãy vui mừng, không phải chỉ vì đang được nghe lại tiếng kêu của Gioan. Ngày xưa dân Dothái đã hân hoan khi thấy Gioan xuất hiện. Tên ông đã gợi lên niềm tin rồi, vì Gioan có nghĩa là "Thiên Chúa đoái thương". Ngài không còn ngoảnh mặt đi nữa, nhưng đã bắt đầu nhìn lại Dân Ngài, để ra tay cứu độ. Và quả thật, đang có nhiều hy vọng vươn lên. Người ta tuôn đến nghe Gioan giảng; người ta chen nhau lội xuống nước, thú nhận tội mình, để được ông rửa cho. Gioan này thật là vị tiên tri vĩ đại. Chúa gửi người đến cho dân, để sửa soạn gì đây. Dân Chúa cảm thấy phấn khởi vì sự hiện diện của Gioan Tẩy giả, với phong trào đạo đức mà ông đang khơi động.
Ngày nay chúng ta cũng có thể phần nào vui lên như thế. Ở trong Giáo hội toàn cầu cũng như ở nơi Giáo hội Việt Nam đang nổi lên biết bao phong trào đạo đức. Người ta đi lễ nhiều hơn trước, rước lễ đông hơn trước, say sưa học giáo lý và dường như thấy rõ niềm tin lúc này là nguồn an ủi sâu xa hơn khi nào khác. Ở nhiều nơi, người ta còn được chứng kiến nhiều buổi cầu nguyện Thánh Linh nữa. Các phong trào đạo đức đó như đang làm cho bộ mặt Giáo hội sáng ngời lên, khiến nhiều người có thể hân hoan nghĩ rằng: tất cả những gì đang xảy ra có thể là cơ hội thanh tẩy Giáo hội và giúp Giáo hội vươn lên trong sự công chính và thánh thiện thật.
Nhưng cũng như dân Dothái ngày xưa, chúng ta đừng chỉ vui với chừng ấy. Ngày xưa khi thấy Gioan xuất hiện, dân Chúa như đã muốn vui luôn trong ánh sáng của người. Nhưng Phúc Âm hôm nay cho ta thấy: Gioan bảo dân chúng phải nhìn xa hơn nữa. Ông chỉ rửa trong nước thôi; sắp có Đấng đến sau để rửa dân trong Thánh Thần. Chính Ngài mới là Đấng Kitô Cứu Thế và ông không đáng cởi dây giày cho Ngài... Chúng ta ngày nay cũng phải cẩn thận, đừng dừng lại ở những hiện tượng lạc quan như trên đã nói. Phải đi sâu hơn, xa hơn. Phải vượt qua mọi hình thức, cho dù rất đạo đức, để tìm gặp chính Chúa Kitô. Nhiều người trong ta có lẽ còn giống nhóm Biệt phái và Dothái. Các nhóm này, ngày xưa, chỉ muốn dừng lại ở Gioan, ngưỡng mộ ông và coi ông như Cứu Thế. Nhiều Kitô hữu ngày nay cũng thường chỉ muốn dừng lại ở những cái thấy được, ở các buổi phụng vụ sốt sắng và các buổi cầu nguyện sầm uất. Học giáo lý để thuộc chứa không để sống! Rước lễ để sốt sắng trong nhà thờ chứ không để thêm sức sống đạo ở giữa đời! Hôm nay, phụng vụ của Giáo hội thúc giục ta phải đi xa hơn, vượt qua những hành vi và tổ chức đạo đức, để gặp Chúa Kitô và sống với Ngài.
Chúa Kitô, theo bài đọc I hôm nay, là sứ giả của Thiên Chúa sai xuống trần gian. Ngài được xức dầu Thánh Thần, rồi được sai đem Tin Mừng cho người nghèo khó; và công bố khắp nơi năm hồng ân của Thiên Chúa... Ngày nay, Chúa cũng đang muốn tìm được những sứ giả như vậy ở giữa chúng ta. Ngài muốn cho cả Giáo hội của Ngài được xức dầu hoan lạc để luôn luôn công bố cho mọi người biết Tin Mừng Chúa đến cứu độ trần gian. Ngài muốn cứu mọi người từ tận căn, tận rễ, từ những người đang nghèo khổ, bất cứ về phương diện nào, để đời sống trở thành như năm hồng ân của Thiên Chúa.
Như vậy, tinh thần của ngày Chúa nhật hôm nay, đòi ta phải lột bỏ mọi vẻ mặt sầu bi, thiểu não. Phải đuổi xa mọi tâm tư hắc ám và buồn nản. Phải giải tỏa mọi nỗi lòng đau khổ và tội lỗi. Xưng tội từ hôm nay để tham dự vào mầu nhiệm Giáng sinh không phải là quá sớm đâu. Phải như mặc lấy áo phần rỗi và công chính để hoan hỷ đem tin vui đến cho mọi người.
Và tin vui của Đức Kitô là gì?
Như lời sách Isaia viết: Ngài muốn "đem hân hoan đến cho người nghèo, băng bó những tâm hồn đang đau thương, báo tin ân xá cho những kẻ lưu đày". Ngài muốn nhờ ta bây giờ làm những công việc ấy, để khắp nơi nổi lên một bầu khí hân hoan như được hồng ân của Chúa viếng thăm.
Thánh Phaolô trong bài thư hôm nay cũng vạch ra cho ta con đường thực tế để sống đạo theo tinh thần nói trên. Ngài bảo ta trước hết phải lạc quan: "Anh em hãy vui mừng luôn". Rồi hãy có tinh thần cầu nguyện để nhìn thấy thánh ý Chúa trong mọi việc. Đừng dập tắt Thánh Thần của Chúa, đừng làm ngơ trước tiếng gọi của Chúa hằng vang lên trong mọi sự xảy đến hằng ngày cho ta, hãy duyệt lại tất cả: bỏ cái xấu đi, và giữ lấy cùng phát triển mọi điều tốt gặp được.
Như vậy chúng ta sẽ đi vào đường lối của Đức Kitô, sẽ sống như Ngài trong cuộc đời trần gian: Ngài đã mặc lấy thân phận y hệt như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Ngài đã chấp nhận mọi hoàn cảnh xảy ra, gạt bỏ điều xấu, xây dựng điều lành. Ngài cứ nhìn vào những người nghèo khó và khổ sở ở đời để tìm cách kéo gỡ họ ra khỏi thân phận đau thương. Chính vì vậy Ngài đã trở thành Cứu thế và ban ơn Cứu độ.
Giờ đây trên bàn thờ Ngài muốn cử hành mầu nhiệm cứu độ đó ở trước mắt chúng ta, để kêu gọi chúng ta đi vào, dâng mình kết hợp với Ngài, hầu Ngài có thể ngự vào lòng ta để tiếp tục làm những hành vi cứu độ trong đời sống và qua đời sống của ta. Ta hãy nhiệt tâm đi vào mầu nhiệm thánh lễ này.
Đức Giêsu Là Người Thực
Tôi dám nói rằng: Nếu tôi không nhận biết Chúa Kitô thì đối với tôi, "Thượng đế" sẽ là một danh từ vô nghĩa. Nếu không có ơn rất đặc biệt tôi sẽ không thể mường tượng một hữu thể vô hạn. Thiên Chúa của các triết gia và những nhà bác học sẽ không giữ vai trò nào trong đời sống luân lý của tôi. Thiên Chúa đã phải hạ mình xuống trong nhân loại, và trong một giờ khắc rõ rệt của lịch sử, tại một địa điểm xác định trên địa cầu, một người được tạo nên bằng huyết nhục, đã phải tuyên bố mấy lời và làm một vài cử chỉ thì tôi mới quỳ gối thờ lạy. Nếu Chúa Kitô đã không phán: "Lạy Cha chúng con..." thì không bao giờ tự mình tôi có ý niệm về tình nghĩa tử này. Lời kêu cầu ấy đã không khi nào tự đáy lòng tôi thốt ra trên môi. Tôi chỉ tin cái gì tôi đụng chạm và nom thấy, cái gì sát nhập vào bản thể tôi. Và chính vì thế, tôi đã tin Chúa Kitô. Tất cả những khuynh hướng muốn giảm bớt thân phận con người nơi Chúa Kitô sẽ đi ngược với một ý hướng sâu thẳm nhất của tôi. Có lẽ vì thế mà tôi vẫn không thích nhìn dung nhan Chúa Kitô Vua và Đấng Thiên Sai toàn thắng bằng hình ảnh khiêm tốn và tiều tụy của Con Người mà qua việc bẻ bánh trong quán trọ làng Emmau các lữ khách đã nhận ra. Người là người anh mang đầy thương tích và là Thiên Chúa của chúng ta. (Francois Mauriac Vie De Jésus)
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa - của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
38. Làm chứng cho sự thật
Gioan Tẩy Giả có một vai trò rất đặc biệt trong kế hoạch của Thiên Chúa. Có lẽ vì thế mà Thánh sử Luca đã nói về Gioan ngay sau câu giới thiệu tóm tắt quyển Tin Mừng: " Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa: chiếu theo lời đã chép trong sách ngôn sứ Isaia: 'Này ta sai sứ giả của ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con. Có tiếng người hô trong hoang địa, hãy dọn đường ..." (x. Mc 1, 1-4). Gioan Tẩy Giả đến để làm chứng cho sự thật về vai trò của mình, về tình thương của Thiên Chúa và về Đấng Cứu Độ đến trong trần gian.
1. Làm chứng cho sự thật về mình:
Gioan rao giảng và làm phép rửa sám hối cho mọi người. Khi ông đã nổi danh, người ta thắc mắc về vai trò của ông. Ông có phải là một vị tiên tri như bao vị tiên tri đã qua đi hay là Đấng Cứu Độ phải đến trong trần gian. Những người đại diện tôn giáo muốn có tin chính xác về ông nên đã cử người đến gặp ông. Họ hỏi: "ông là ai?" Ông nói rõ: tôi không phải là Đấng Cứu Thế, cũng không phải là Êlia nhưng là "tiếng hô trong hoang địa". Phái đoàn này gồm những luật sĩ và biệt phái chắc hẳn hiểu ngay là Gioan ám chỉ mình là Tiền hô cho Đấng Cứu Thế và phép rửa của ông chỉ là hình bóng cho phép rửa chính thức của Đấng Cứu Thế.
2. Làm chứng cho tình thương của Chúa:
Tên Gioan nghĩa là Chúa thương. Gioan sinh ra do tình thương của Chúa đối với gia đình: sinh ra trong hoàn cảnh cha mẹ già. Kể cả Giacaria cũng không tin nổi là mình còn có thể sinh con dù ông tha thiết muốn có con! Chính ông làm mọi người phải để tâm suy nghĩ về hồng ân Chúa ban cho gia đình, và xa hơn nữa là tình thương của Chúa đối với dân Israel. Mỗi lần kêu đến tên Gioan là mọi người nghĩ ngay đến tình thương Chúa.
3. Làm chứng về Đấng Cứu Độ đã đến trong trần gian:
Gioan khẳng định mình là tiếng hô trong hoang địa, cũng là cách khẳng định về ơn cứu độ đang dành sẵn cho dân Israel. Thời kỳ cứu độ đã đến gần. Gioan nói rõ: Đấng đó đã đến, đang ở giữa các ngươi mà các ngươi không biết. Đấng đó cao trọng hơn tôi và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người. Đấng đó là Ngôi lời Thiên Chúa, là Sự Sáng, còn Gioan chỉ là người phàm được Chúa sai đến làm chứng cho Sự Sáng, giúp cho thiên hạ nhận biết Ngôi Lời và tin phục Người.
Gioan dọn đường cho Chúa bằng việc làm chứng cho sự thật về mình, về Đấng cứu thế. Đời sống khổ hạnh của Ngài là lời mời gọi chúng ta hôm nay hãy hoán cải tận đáy lòng, thể hiện đức tin của mình bằng những việc làm cụ thể như sống hòa thuận trong gia đình, hàng xóm láng giềng, bác ái với mọi người, biết tha thứ cho những người làm phiền lòng mình... lời rao giảng và bằng đời sống khổ hạnh. Chúng ta cũng hãy nối tiếp vai trò của Gioan nhắc nhở những người xung quanh bằng cuộc sống gương mẫu và lời khuyên để họ biết chuẩn bị đón Chúa đến luôn luôn.
Là con cái Chúa, chúng ta trả lời mạnh dạn cho mọi người về vai trò và niềm tin của chúng ta hiện nay trong thế giới, ý thức về bổn phận của mình đối với việc truyền giáo và sống đạo, để xứng đáng với tình thương của Chúa trên mỗi người chúng ta. Ngay khi làm được nhiều việc Chúa trao, chúng ta cũng hãy biết vai trò của mình chỉ là người dọn đường và biết nói như thánh Gioan Tiền Hô: để Chúa lớn lên còn tôi nhỏ đi.
39. Trút bỏ hư danh để được rót đầy ân sủng
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Trần Ngà)
Vào thời Minh Trị thiên hoàng tại Nhật Bản (1860-1912), Nan-in, một thiền sư Nhật, tiếp một vị giáo sư đại học đến tham vấn về thiền.
Nan-in mời trà. Ông châm trà đầy tách của khách nhưng vẫn tiếp tục rót thêm như một người đãng trí.
Vị giáo sư ngồi nhìn nước trong tách tràn ra cả mặt bàn nên không kìm mình được nữa, liền thưa: "Thưa Thầy, đầy tràn cả rồi. Xin đừng rót nữa".
Thiền sư Nan-in thản nhiên đáp: "Giống như tách trà nầy, đầu óc ông cũng đầy ắp những quan niệm, những tư tưởng. Làm sao tôi có thể giải bày thiền cho ông được, trừ khi ông cạn cái tách của ông trước." (Trích: Góp nhặt cát đá của thiền sư Muju, Đỗ Đình Đồng dịch, Lá Bối xuất bản).
Một chiếc ly đã đầy tràn thì không thể rót gì thêm được. Một cái thùng đầy cát thì không thể đổ thêm gạo, bắp hay bất cứ thứ gì. Cũng thế, một tâm hồn đầy kiêu căng, tự mãn, tham lam... thì đâu còn chỗ trống cho Thiên Chúa rót thêm ân sủng vào.
Trang Tin Mừng hôm nay mời chúng ta hãy hướng về một nhân vật quan trọng của mùa vọng là Gioan Tẩy Giả, một con người sẵn sàng trút bỏ mọi tham vọng và hư danh, trở thành tách trà rỗng không; nhờ đó, ông đã được Thiên Chúa rót đầy.
* * *
Người đời bị cuốn hút bởi lợi danh và cố làm gia tăng giá trị mình bằng những lớp vỏ bên ngoài.
Tiêu biểu cho hạng người nầy là những biệt phái thời Chúa Giêsu. "Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong các hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là "ráp-bi". (Mt 23, 5-6).
Còn người thời nay thì tìm cách làm gia tăng giá trị của mình bằng những đồ trang sức đắt giá, bằng xe hơi sang trọng, bằng dinh thự nguy nga.
Trong khi đó, Gioan chê bỏ những "lớp vỏ" hào nhoáng của người đời. Người chỉ cần cào cào châu chấu trong hoang mạc làm thức ăn; chỉ cần tấm da thú thô sơ làm áo mặc. (Mt 3,4).
Người đời khát khao danh vọng, muốn khoác cho mình nhiều danh hiệu cao sang; còn Gioan thì trái lại, ông tước bỏ hết mọi danh hiệu cao quý mà người đời khoác cho ngài.
Thời bấy giờ Gioan là người tiếng tăm lỗi lạc. Có luồng dư luận cho rằng ông là Đức Kitô, một tước hiệu cao cả đầy vinh dự. Gioan trả lời với các tư tế và các thầy Lê-vi từ Giê-ru-sa-lem rằng ông chẳng phải là Đấng Kitô. Ông đã không nhận vơ cho mình một danh hiệu rất cao quý.
Thế rồi có dư luận cho rằng ông là ngôn sứ Êlia vĩ đại giáng lâm, vì theo kinh thánh thì vị ngôn sứ nầy phải đến trước để dọn đường cho Đấng Cứu Thế; Gioan cũng từ chối tước hiệu nầy. Thế là ông lại trút bỏ thêm một vinh dự thứ hai.
Có một số khác nghĩ rằng nếu ông không là Đấng Kitô, không là ngôn sứ Êlia, ít nữa thì ông cũng là một vị ngôn sứ cao cả nào đó. (Ga 1, 21b). Gioan cũng từ khước luôn cả danh hiệu nầy.
Và đang khi nhiều người coi trọng phép rửa của Gioan, đã tuôn đến với ông đông đảo, xin ông làm phép rửa cho mình, thì Gioan khiêm tốn nói rằng phép rửa của ông chỉ là phần chuẩn bị cho một phép rửa khác quan trọng hơn, do một Đấng rất cao cả cử hành mà ông chẳng đáng cởi quai dép cho Đấng ấy: "Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người." (Ga 1, 26-27).
Và đang khi danh tiếng của Gioan vang dội, còn Chúa Giêsu chưa được nhiều người biết đến, thì Gioan đã tự xoá mình đi, để cho Chúa Giêsu được tỏa sáng. Gioan nói: "Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi." (Ga 3,30).
Thế là Gioan đã trút bỏ hết mọi vinh dự người ta gán cho mình, chỉ nhận mình là tiếng kêu trong sa mạc hoang vu. (Ga 1, 23).
Gioan đã hạ mình xuống, nên đã được Thiên Chúa nâng lên. Gioan đã trút bỏ mọi thứ vinh quang và của cải, trở thành trần trụi rỗng không, nên Thiên Chúa đã đổ đầy ân sủng cho người. Nhờ đó, Gioan trở nên vị ngôn sứ rất cao cả. Chính Chúa Giêsu đã xác nhận sự cao cả của ông. "Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả" (Mt 11, 11)
* * *
Gioan đã tự xoá mình đi nhưng người đã sáng bừng lên như một ngôi sao trên bầu trời Hội Thánh. Gioan luôn hạ mình xuống nhưng Giáo Hội vẫn hằng ngưỡng mộ người suốt dòng thời gian. Cuộc đời khiêm hạ của thánh nhân mãi mãi là tấm gương sáng ngời cho bao thế hệ nối tiếp.
Lạy Chúa Giêsu,
Chiếc ly đời con chất chứa đầy tự mãn, kiêu căng, tham lam, ích kỷ và chúng con vẫn quyến luyến gắn bó với chúng cho đến mãn đời.
Xin thương giúp chúng con có đủ nghị lực và quyết tâm trút bỏ những thứ cặn bã đáng ghét đó đi cho tâm hồn được rỗng không.
Có làm được như thế, chúng con mới trở thành ống sáo rỗng để Chúa tấu lên những khúc hoan ca.
Chỉ khi đó, chúng con mới trở nên một chiếc ly, chiếc bình trống không để cho Chúa rót đầy tình yêu và ân sủng.
40. Suy niệm của Anmai, CSsR
CÓ MỘT VỊ ĐANG Ở GIỮA CÁC ÔNG MÀ CÁC ÔNG KHÔNG BIẾT!
Con người, khi sinh ra, cần phải học nhiều điều để biết cách hành xử trong cuộc sống hằng ngày. Cần thiết nhất con người cần có không phải là bằng này bằng nọ, cấp này cấp kia nhưng điều quan trọng đó chính là nhân bản. Dù cho làm ông này bà nọ, dù học cao hiểu rộng và dù cho có bao nhiêu bằng tiến sĩ đi chăng nữa nhưng không có nhân bản thì vẫn bị người ta coi thường. Một trong những bài học căn bản, nhân bản của con người đó là lòng biết ơn, đó là lòng tri ân. Khi nhận ơn mà không biết ghi ơn, không biết tri ân phải nói là quá tệ. Trong dòng chảy của con người, với lòng biết ơn, ghi ơn và tri ân Thiên Chúa đó chúng ta nhớ lại thái độ, tâm tình của Đức Maria. Sau khi đón nhận niềm vui lớn trong cuộc đời đó là cưu mang Đấng Cứu Thế, Mẹ Maria đã biết ơn, đã tri ân Thiên Chúa và bằng cách cụ thể nhất là Mẹ đã lên đường đến nhà bà chị họ Elisabeth để mà chia sẻ ân huệ mà Thiên Chúa đã thương ban cho Mẹ và khi gặp bà chị họ, Mẹ Maria đã không ngần ngại vang lên lời tán tụng Thiên Chúa. Lời tán tụng ấy chúng ta quá quen thuộc: "Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn! Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng. Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta,vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời." (Lc 1, 46-55).
Trở lại với những trang Thánh Kinh Cựu Ước, chúng ta cũng gặp đâu đó lời tán dương Thiên Chúa, lời tri ân Thiên Chúa vì biết bao nhiêu ân huệ mà Chúa thương ban cho mình. Hôm nay, qua sách ngôn sứ Isaia chúng ta nghe lời tán dương, lời tri ân ấy: "Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ ĐỨC CHÚA, nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao! Vì Người mặc cho tôi hồng ân cứu độ, choàng cho tôi đức chính trực công minh, như chú rể chỉnh tề khăn áo, tựa cô dâu lộng lẫy điểm trang. Như đất đai làm đâm chồi nẩy lộc, như vườn tược cho nở hạt sinh mầm, ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng cũng sẽ làm trổ hoa công chính, làm trổi vang lời ca ngợi trước mặt muôn dân". (Is 61, 10-11)
Vì sao Isaia thốt lên lời ca ngợi như vậy? Vì lẽ Isaia đã cảm nhận, đã nói với dân về quyền năng, về vinh quang của Đức Chúa - Thiên Chúa của dân chiếu sáng trên dân: "Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của ĐỨC CHÚA như bình minh chiếu toả trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi ĐỨC CHÚA như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi. Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước". (Is 60, 1-3).
Đức Trinh Nữ Maria cũng như Isaia, Mẹ đã cảm nhận cũng như xác tín rằng quyền năng và vinh quang của Thiên Chúa đã đến và ở lại trên cuộc đời của Mẹ nên Mẹ đã cao rao tình yêu của Thiên Chúa trên cuộc đời của Mẹ thôi.
Mẹ không như những người Do Thái đương thời, Mẹ khác họ, Mẹ nhìn, Mẹ đón nhận Đấng Cứu Độ trần gian một cách khác họ. Những người Do Thái đương thời của Mẹ đón nhận, nhìn nhận Đấng Mêsia - Đấng Cứu Độ trần gian phải đến trong vinh quang hoành tráng, đến một cách uy lực và làm cho cuộc đời của họ vinh quang theo. Khi Đấng Mêsia đến sẽ giải thoát họ khỏi những khổ cực của vật chất, của tiền bạc theo kiểu trần gian. Vì họ quan niệm Đấng Mêsia đến cách thế như thế nên làm sao họ nhận ra được sự hiện diện của Đấng Cứu Độ đến được.
Như trang tin mừng ngắn ngủi mà chúng ta vừa nghe Thánh Gioan công bố đấy. Ông nói rõ rằng ông là người được Thiên Chúa sai đến để làm chứng, để minh chứng về ánh sáng đã đến trong trần gian này. Gioan đã làm chứng về ánh sáng, làm chứng về Đấng Mêsia. Và chúng ta thấy thái độ tranh cãi, nghi ngờ của những người thuộc nhóm Pharisêu. Chúng ta thấy thái độ chất vấn của những người Pharisêu và chúng ta thấy lộ bên dưới lời những chất vấn ấy là lòng cứng tin vào Đấng Cứu Độ trần gian. Không phải khi ấy người ta mới tranh cãi với Gioan nhưng mà ngay từ ngày Chúa Giêsu sinh ra nơi hang đá Belem họ đã ngờ vực, họ đã dò xét rồi.
Hôm nay, Gioan như là sứ giả của Thiên Chúa, dọn đường cho Chúa Giêsu đã công bố sự thật có Người sẽ đến sau ông và Người đến sau ông đấy ông không xứng đáng cởi quai dép cho Ngài. Đáng tiếc thay từ ngày Chúa Giêsu cất tiếng khóc chào đời cho đến ngày Chúa Giêsu công khai sứ vụ của mình vẫn bị người Do Thái không tin và tìm đủ mọi cách để mà sát hại, để mà tố cáo.
Chúng ta cũng thế thôi, nhiều lần nhiều lúc chúng ta cũng đi tìm Đấng Mêsia, tìm Đấng cứu độ trần gian của chúng ta là một Đấng đến trong vinh quang, đến trong quyền lực theo kiểu người đời vậy. Tệ hơn thế nữa đó chính là Thiên Chúa là Chúa, là Chủ của cuộc đời chúng ta vậy mà chúng ta nỡ lòng nào đẩy Chúa ra khỏi cuộc đời của mình. Chuyện quan trọng, chuyện căn cốt của cuộc đời chúng ta đó là chúng ta không nhận ra Thiên Chúa trong cuộc đời chúng ta như thánh Gioan Tẩy Giả cảnh báo chúng ta: Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết!
Tưởng chừng câu đó là câu mà Gioan nhắc nhở những người Do Thái ngày xưa nhưng nào ngờ Gioan nhắc nhở chính mỗi người chúng ta đây. Chúa ở trong ta, Chúa yêu thương ta, Chúa quan phòng cuộc đời ta mà ta không hay biết đó thôi. Chúng ta không giống Đức Maria, Đức Maria đã nhìn thấy tình thương và sự quan phòng của Chúa trên cuộc đời của Mẹ nên Mẹ chẳng còn bận tâm chuyện gì khác là lắng nghe và thực thi những gì mà Chúa nói với Mẹ. Hình như giữa cuộc đời phát triển nhiều về tiền bạc, về vật chất để rồi chúng ta cứ loay hoay mãi trong tiền bạc, trong vật chất, trong danh vọng và trong dục vọng. Tất cả những thứ làm cho chúng ta không còn nhận ra sự hiện diện của Chúa nữa.
Chúng ta nên nhớ Chúa đã hơn một lần nhắc nhở chúng ta là Chúa vẫn hiện diện nơi những con người nghèo khổ, tất bạt, bất hạnh, bỏ rơi ... Chúa vẫn dùng những biến cố mà đôi khi dưới con mắt người đời là khắc nghiệt để tỏ tình yêu thương, sự quan phòng của Chúa. Chúng ta vẫn còn nhớ hình ảnh của một Abraham phải đau lòng để mà sát tế đứa con yêu quý nhất của mình cho Thiên Chúa. Chúng ta còn nhớ hình ảnh của một ông Giob quá đớn đau với những chứng bệnh của thể xác, quá khắc nghiệt của cuộc đời chìm xuống bùn đen của sự chết chóc của con cái cũng như đàn gia súc mà ông đang có. Thế đấy! Thiên Chúa vẫn thử thách lòng tin của con người để xem con người còn tin Chúa hiện diện trên cuộc đời này hay không? Và qua cơn thử thách ấy, chúng ta thấy được ân huệ mà Chúa tuôn đổ trên cuộc đời của Abraham, của Giob như thế nào? Lửa thử vàng, gian nan thử sức! Đó là câu nói mà chúng ta vẫn thường nghe và vẫn thường nói với nhau. Ấy vậy mà đôi khi Chúa mới thử chúng ta một chút thôi thì chúng ta lại ngã lòng và chúng ta hình như không còn tin vào Chúa nữa, chúng ta lại đi tìm đến các thần ngoại bang như dân Do Thái ngày xưa vậy.
Thánh Phaolô trong thư của Ngài gửi cho giáo đoàn Thessalônia thật là hay. Ngài bảo giáo đoàn cũng như ngài bảo mỗi người chúng ta là: "Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Ki-tô Giê-su. (1 Thes 5, 18.19). Phải nói đây là tâm tình tuyệt vời của Thánh Phaolô: Tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh.
Đúng như tâm tình của Đức Maria, trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, dù vui dù buồn, dù sướng dù khổ Mẹ luôn luôn vui mừng, Mẹ luôn luôn tạ ơn Chúa và kết hiệp mật thiết với Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Đây là tâm tình, đây là mẫu gương mà mỗi người chúng ta cần học và noi gương Mẹ vì thật ra chúng ta thấy đó. Nhìn lên với cuộc đời này thì chúng ta thấy chúng ta không bằng ai nhưng nhìn xuống chúng ta được Thiên Chúa ban cho quá nhiều ơn lành để rồi tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh.
Ngài cũng không quên xin ơn Chúa để mà Chúa thánh hoá con người chúng ta "Nguyện xin chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hoá toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em, được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng trách, trong ngày Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, quang lâm. Đấng kêu gọi anh em là Đấng trung thành: Người sẽ thực hiện điều đó. (1 Thes 5, 23.24.).
Ngài dặn dò mỗi người chúng ta là cảm nghiệm tình yêu Thiên Chúa và rồi Ngài cũng mời gọi mỗi người chúng ta nhờ ơn Chúa xin Chúa giữ gìn chúng ta được vẹn toàn, không gì đáng trách trong ngày Chúa đến.
Như Đức Trinh Nữ Maria, như ngôn sứ Isaia cảm nhận được Thiên Chúa Đấng Cứu Độ thương mình thì mình sẽ chỉ biết ca tụng Chúa và tin tưởng Chúa mà thôi.
Hôm nay, như là cơ hội để chúng ta dừng lại, nhìn lại cuộc đời của mình. Nếu không được, chúng ta xin Mẹ ban thêm ơn, giúp sức cho chúng ta để chúng ta khám phá ra rằng Thiên Chúa đã quá yêu thương ta. Từ sự khám phá đó ta sẽ ca tụng Chúa và ta sẽ sống sao cho đẹp lòng Chúa.
Như Đức Trinh Nữ Maria, khi có ơn Chúa thì Mẹ đi chia sẻ, chúng ta có ơn rồi chúng ta có biết chia sẻ như Mẹ hay không?
Như ngôn sứ Isaia nói ở bài đọc thứ nhất mà chúng ta vừa nghe: "Thần khí của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì ĐỨC CHÚA đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của ĐỨC CHÚA" (Is 61, 1-2a). Chúng ta được Thần Khí của Đức Chúa ngự trên chúng ta, được Ngài tấn phong chúng ta cũng phải lên đường để loan báo tin mừng Tình yêu cho anh chị em đồng loại như Đức Trinh Nữ Maria đi chia sẻ niềm vui cho bà chị họ trong lúc sinh nở khó khăn.
Nguyện xin Chúa Giêsu đến và ở lại với mỗi người chúng ta và ban ơn cho chúng ta để chúng ta nhận ra tình yêu Chúa trên cuộc đời chúng ta như Mẹ nhận ra tình yêu của Chúa vậy. Và cũng xin Chúa ban thêm ơn, ban thêm sức cho chúng ta để chúng ta công bố tin mừng Tình yêu của Chúa giữa cuộc đời đầy gian lao khốn khó này.
41. Nghề của tôi
Cách đây ít năm, một người làm nghề hốt rác tại thành phố Dallas, thuộc bang Texas, đã được dân chúng tuyên dương. Mười bảy cư dân đã viết thư cho ông giám đốc sở vệ sinh công cộng để ca ngợi nụ cười đầm ấm, thân hữu và lịch thiệp của bác Cummings, người hốt rác của họ:
- Chúng tôi sống trên con đường này công nhận bác là một Kitô hữu trung kiên, một công dân yêu nước và một người bạn chân tình. Bác đã giúp họ mua hàng, trả lại cho họ những vật họ đánh rơi ngoài đường hay vì lầm lẫn mà vứt đi.
Và ông giám đốc đã gửi cho bác một bức thư với những lời lẽ như sau:
- Chúng tôi tin rằng người ta có thể hoàn thành những công việc phi thường trong bất cứ hoàn cảnh nào của cuộc sống, không kể gì đến địa vị hay trách nhiệm. Việc làm của bác đã cho thấy ý nghĩa thực sự của niềm tin ấy.
Qua đoạn Tin mừng sáng hôm nay, người ta đã hỏi Gioan Tiền hô:
- Ông có phải là Đức Kitô hay không?
Họ không cần biết tên tuổi hay lý lịch của ông, họ chỉ muốn biết việc ông làm, chức vụ ông giữ và nghề nghiệp ông sống. Và rồi Gioan đã xác quyết với họ:
- Tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc, hãy dọn đường Chúa đến.
Nghề nghiệp của ông đó chính là loan báo, giới thiệu Đức Kitô. Chính ông đã nói cho thế giới biết rằng Đức Kitô là Đấng Thiên Chúa đã hứa ban cho nhân loại. Và Gioan đã dành tất cả cho nghề nghiệp của ông. Ông đã thực hiện mọi cố gắng, chấp nhận mọi hy sinh để loan báo Đức Kitô. Còn chúng ta, chúng ta phải làm gì?
Thật đơn giản, đó là mỗi người trong chúng ta đều có một nghề trong nước trời. Nói cách khác, mỗi người chúng ta đều có một cái gì quan trọng cần phải làm cho gia đình nhân loại. Nghề nghiệp của chúng ta đều quan trọng, mặc dù công việc của chúng ta có nhỏ bé và khiêm tốn. Bác hốt rác đã ý thức điều đó. Bác đã thực hiện hết mình cái nghề hốt rác của bác.
Tất cả chúng ta cũng cần phải ý thức rằng: Mỗi nghề nghiệp trên trần gian đều đáng quý trọng. Cuộc sống sẽ trở nên nhàm chán, nếu xã hội chỉ gồm toàn những người đứng đầu mà không có cấp dưới, toàn là giám đốc mà chẳng có nhân viên, toàn là cấp tướng mà chẳng có binh lính, toàn là những nhân vật nổi tiếng mà chẳng có kẻ âm thầm làm việc.
Tuy nhiên, đôi lúc húng ta đã than phiền:
- Tôi chỉ là một người nội trợ, suốt ngày làm những việc vặt vãnh như thổi cơm, quét nhà, giặt quần áo… Hay tôi chỉ là bác nông phu, suốt ngày đổ mồ hôi trên miếng ruộng thần nông…
Chúng ta thử phác họa xem một cuộc sống, mà không có những người làm những công việc tầm thường đó sẽ như thế nào. Mọi nghề đều đáng quí đáng trọng. Không có nghề nghiệp nào xấu mà chỉ có con người xấu mà thôi. Nghề nghiệp không phải chỉ quan trọng đối với nhân loại mà còn quan trọng cả trước mặt Thiên Chúa.
Khi chuẩn bị đón mừng Chúa đến, chúng ta hãy nhớ lại rằng: Hài nhi Giêsu đã lớn lên và trở thành một bác phó mộc. Ngài không bao giờ nhàm chán cái cưa, cái búa, cái đục. Ngài hân hoan làm công việc Chúa Cha đã trao phó: cưa một khúc cây hay chết trên một khúc cây khác để cứu chuộc mọi người…
Chúng ta cũng vậy, bằng cách chu toàn bổn phận nghề nghiệp của đấng bậc mình, chúng ta sẽ tìm thấy được niềm vinh quang cho cuộc sống hiện tại cũng như cho cuộc sống mai hậu sau này.
42. Gioan
Như chúng ta đã biết Gioan mở mắt chào đời đã được Chúa trao cho một sứ mạng, đó là giới thiệu Chúa cho đồng bào của mình, và làm chứng Ngài chính là Con Chiên vô tội, đã gánh lấy những lầm lỗi của loài người.
Sứ mạng này, Gioan đã làm đầy đủ và hễ có dịp Gioan liền chỉ cho công chúng biết Đức Kitô. Khi thấy mọi người vây quanh mình và tưởng rằng mình là Đấng Cứu Thế, Gioan liền mạnh dạn cải chính, mặc dù đến sau nhưng Chúa Giêsu vẫn cao trọng hơn nhiều, mình chẳng xứng đáng cúi xuống cởi dây giầy cho Chúa.
Khi Chúa đến xin ông làm phép rửa, ông đã nhìn thấy trời mở ra và chim bồ câu tượng trưng cho Chúa Thánh Thần đỗ xuống trên đầu và từ trời cao có tiếng phán:
- Này là Con Ta rất yêu dấu.
Đồng thời Gioan còn có nhiệm vụ bảo dân phải sửa đường cho Chúa đến, nơi cao phải bạt xuống, chỗ trũng phải lấp cho đầy, đường gập ghềnh quanh co phải uốn cho thẳng.
Với người quyền thế, Gioan vẫn mạnh dạn nói lên sự thực, chẳng hạn với Hêrôđê, Gioan đã can ngăn:
- Vua không được cướp vợ của em mình.
Bổn phận làm chứng cho Chúa cũng là bổn phận của mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc. Nhìn vào giòng lịch sử chúng ta cũng thấy được như vậy.
Trước hết là các Tông đồ.
Tuân theo lệnh truyền của Chúa, các ông đã đi khắp thế gian giảng dạy và làm chứng về Ngài. Mặc dầu biết trước sẽ gặp phải nhiều khó khăn và chống đối, nhưng các ông vẫn cứ ra đi, để rồi đã bị bắt bớ, cầm tù và sau cùng đã lấy mạng sống của mình để làm chứng tá cho Tin Mừng Phúc âm.
Thánh Giacôbê thì bị đưa lên nóc đền thờ và bị xô xuống cho chết. Thánh Bartôlômêô thì bị lột da sống, thánh Andrê và Phêrô thì bị đóng đinh ngược, duy chỉ có thánh Gioan là đã chết già tại Công đồng Ephêsô mà thôi.
Tiếp đến là Giáo hội.
Giáo hội nối tiếp các Tông đồ. Trong số 33 vị Giáo Hoàng đầu tiên, thì đã có tới 30 vị bị giết. Rồi trong 4 thế kỷ đầu, các tín hữu đã gặp phải những cơn bách hại khủng khiếp. Nhưng các ngài đã anh dũng tuyên xưng đức tin của mình để làm chứng cho Chúa.
Đối với mỗi người chúng ta cũng vậy.
Chúng ta không phải chỉ làm chứng cho Chúa bằng lời nói mà còn phải làm chứng cho Chúa bằng chính cuộc sống của mình. Bởi vì chính gương sáng của chúng ta mới là một bài giảng hùng hồn, có sức lôi cuốn và hấp dẫn những người khác trở về cùng Chúa, như người xưa đã nói:
- Lời nói như gió lung lay,
Việc làm như tay lôi kéo.
Ngày kia vua Tấn văn Công đi săn và bị lạc ở trong rừng, may thay gặp một người câu cá tên là Ích Ngư, vua nói:
- Ta đây là vua, chú đưa ta ra, ta sẽ ban thưởng.
Người câu cá hèn hạ nói:
- Nếu được phép thì tôi xin hỏi một đôi lời.
Nhà vua bằng lòng. Người câu cá bèn nói tiếp:
- Chim hồng sống ở bờ biển, chán biển đến sống ở chỗ ao tù sẽ sa vào bẫy. Ba ba sống ở đáy vực sâu, chán vực sâu lên sống ở bãi sẽ bị chài lưới. Nhà vua ở đền sao lại đi săn và lạc vào rừng sâu thế này.
Nhà vua khen:
- Chú nói hay quá.
Sau đó, nhà vua bảo người tùy tùng ghi địa chỉ để khi về sẽ gửi quà tặng. Người câu cá bèn trả lời:
- Đức vua ghi địa chỉ làm chi. Xin đức vua hãy tôn kính trời đất, bảo vệ bờ cõi, thương yêu dân chúng là tức khắc bầy tôi này đã được trọng thưởng. Bằng không thì dù nhà vua có ban phần thưởng thế nào, bày tôi cũng sẽ không thể an tâm mà hưởng dùng.
Cũng vậy, mỗi người chúng ta hãy lo sống đạo và chu toàn bổn phận của mình, thì dù không giảng giải, không nói năng, chúng ta cũng đã làm chứng cho Chúa.
Bởi vì, đời sống đạo đức của chúng ta chính là một thứ ánh sáng chiếu tỏa, để những người chung quanh sẽ nhận biết Chúa.
43. Hãy vui lên
“Khi vui non nước cùng vui. Khi buồn sáo thổi kèn đôi cũng buồn”, “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Cuộc đời giống như một tấm gương: mỉm cười với nó, nó sẽ mỉm cười lại; gắt gỏng với nó, nó sẽ hung bạo. Hãy thử đứng trước một cái gương, sẽ thấy: mỉm cười đáp lại mỉm cười, nhăn nhó đáp lại nhăn nhó. Trước cuộc đời cũng thế: tôi sống làm sao cuộc đời sẽ như vậy. Nếu tôi đón nhận những điều bất ngờ với một nụ cười, nó sẽ đáp lại tôi bằng một nụ cười. Nếu tôi đến với nó với bộ mặt cầu nhàu, nó sẽ đến cùng tôi với sát khí đằng đằng.
Ngày nay, người ta thường đề cập đến hai tiếng “bi quan” và “lạc quan”. Người bi quan là người tỏ vẻ buồn rầu khi nhìn thấy ly rượu đã vơi mất một nửa. Trái lại, người lạc quan là người tỏ vẻ vui mừng hay bình thản khi nhìn thấy ly rượu vẫn còn một nửa. Vậy Kinh thánh của chúng ta bi quan hay lạc quan? Xét về một phương diện. Kinh thánh rất bi quan, bởi vì Kinh thánh có chứa đựng những lời lẽ thật đau xót về những nỗi khổ tâm mà con người đã gây nên cho nhau. Kinh thánh đã nói rõ rằng: con người sống trong một thế giới đầy dẫy tội lỗi và đã gây nên biết bao điều ngang trái cho đồng loại. Nhưng nếu xét về một phương diện khác, thì Kinh thánh lại rất lạc quan. Kinh thánh đã từng đề cập đến một thời gian mà con người trông đợi, lúc mà mọi sự sẽ được điều chỉnh lại và được đổi mới hoàn toàn, lúc mà Thiên Chúa sẽ trở nên mọi sự cho mọi người.
Cụ thể như các đoạn Kinh thánh của Chúa nhật hôm nay: ngôn sứ Isaia đã loan báo về Đấng Cứu thế và những công việc tràn đầy an ủi, phấn khởi. Thánh Phaolô đã khích lệ mọi người: Hãy vui lên. Trong bài Tin mừng, thánh Gioan đã bảo đảm cho mọi người sẽ được hưởng niềm vui ấy. Vì thế, Chúa nhật hôm nay thường được gọi là Chúa nhật của niềm vui và khích lệ chúng ta hãy vui lên. Niềm vui đó là Chúa đã gần đến, sắp đến rồi, chúng ta hãy vui lên. Ngài sẽ đem đến cho chúng ta một niềm vui vĩ đại: biết Ngài là Đấng Cứu thế, là Con Thiên Chúa – được sống trong cộng đồng Giáo Hội – được hưởng các ân sủng, và nhất là được Chúa ban phúc bình an vĩnh viễn trong Nước Trời. Đó là niềm vui chính yếu, niềm vui thâm trầm của những người thấu hiểu ý nghĩa cuộc đời.
Chúa Giêsu là niềm vui; và những lời Ngài giảng dạy là những tin vui. Vì thế, đạo của chúng ta là đạo Tin Mừng. Hai chữ “Tin Mừng “ ấy sẽ trở thành trống rỗng và vô nghĩa nếu cuộc sống của người tín hữu không sống trong niềm vui và thể hiện Tin mừng. Như thế, chúng ta không thể loan báo hay chia sẻ Tin mừng cho người khác.
Vào khoảng thập niên 60, một số người chuyên nghiên cứu về tâm lý quần chúng tại Hoa kỳ đã làm một cuộc thăm dò độc đáo. Đó là xem thử có bao nhiêu người nhặt được ví và đem trả lại. Nhóm nghiên cứu đã chọn một khu phố để làm việc. Họ cho rải những chiếc ví dọc theo các đường phố. Chỉ vài ngày sau, họ nhận thấy hơn nửa số ví được mang trả lại. Nhưng tỉ lệ này chỉ kéo dài tới ngày bào huynh của cố tổng thống Kenneđy là Rô-bóc Kenneđy bị ám sát. Nhóm nghiên cứu nhận thấy rằng trong ngày hôm đó, không một cái ví nào được đem trả lại. Họ đi đến kết luận: những tin buồn có ảnh hưởng sâu đậm đến con người và đời sống xã hội của con người.
Chúng ta không hoàn toàn nhất trí với kết luận đó, nhưng chúng ta có thể suy luận thêm: khi nghe một tin mừng, con người cảm thấy phấn khởi và mau mắn để thi hành điều thiện. Trái lại, khi nghe tin buồn, thì con người dễ bị cám dỗ chán nản, và từ đó trách nhiệm trong lãnh vực luân lý cũng bị giảm sút.
Chúng ta đang đứng trước một thách đố lớn. Cuộc sống xã hội chung quanh chúng ta là cả một hãng thông tấn chỉ tung ra những tin buồn. Qua các phương tiện truyền thông xã hội; báo chí, truyền thanh, truyền hình… đầy dẫy những tin buồn: tin buồn của dối trá lường gạt; tin buồn của phản bội xâu xé nhau; tin buồn của buông xuôi bỏ cuộc; tin buồn của không biết bao nhiêu đói khổ, chiến tranh, thiên tai, chết chóc…
Vì thế, chúng ta phải là những người loan báo Tin mừng và đem lại niềm vui. Giữa một xã hội chỉ có tin buồn của thất vọng, chúng ta sẽ loan báo tin mừng của hân hoan, phó thác. Giữa một xã hội chỉ có tin buồn của dối trá, lường gạt, chúng ta phải loan báo tin mừng của lòng chân thật, vị tha. Giữa một xã hội chỉ loan báo tin buồn của ích kỷ, nhỏ nhen, chúng ta loan báo tin mừng của quảng đại, yêu thương, tha thứ và cảm thông. Nếu chúng ta biết sống theo tinh thần trên đây, chúng ta sẽ thấy đời mình có ý nghĩa và gieo rắc những hạt giống của niềm vui ra chung quanh trên mọi nẻo đường đời. Và cho dù hầu hết các hạt giống đó có mục nát đi, tôi vẫn tin rằng thế nào cũng có ít nhất một hạt nẩy mầm lên cây, và nó sẽ đâm bông kết trái làm thơm tâm hồn chúng ta.
Chúng ta hãy nhớ một câu trong một bản nhạc rất hay của ông Bách, một nhạc sĩ nổi tiếng: ”Lạy Chúa Giêsu, xin cho niềm vui của con luôn tồn tại, để niềm vui đó đem lại niềm vui cho những người khác”.
44. Những lời chứng
Thánh Gioan Tẩy giả đóng một vai trò trung tâm trong việc Đấng Cứu Độ sẽ đến. Theo bài Tin mừng hôm nay, vai trò của ngài là “chứng nhân để nói về ánh sáng”. Ánh sáng đó chính là Đức Giêsu.
Thánh Gioan đã chứng tỏ mình là một chứng nhân can đảm và có hiệu quả. Ngài có nhân cách mạnh mẽ và là người sống theo nguyên tắc. Ngài không sống theo một lối sống thoải mái, không sống trong cung điện, nhưng sống nơi sa mạc. Lối sống của ngài, cũng như sự chính trực của cá nhân ngài, đã bổ sung thêm niềm tin tưởng cho những lời nói của ngài, đã bổ sung thêm niềm tin tưởng cho những lời nói của ngài. Ngài là một gương mẫu sống động cho điều mà ngài rao giảng. Và khi đã hoàn tất nhiệm vụ của mình, ngài bước sang một bên để nhường lối cho Đức Giêsu.
Đức Giêsu vẫn cần đến những lời chứng. May thay, vẫn còn những người trung thành làm chứng cho Người, và coi bản thân mình như không có giá trị gì.
Một vị linh mục nói với tôi về cuộc thăm viếng của ông tại Trung quốc cách đây vài năm. Trong thời gian ở đó, ông đã gặp hai vợ chồng già, cả hai đều là bác sĩ. Họ học chung tại trường y, yêu nhau và kết hôn với nhau, bà là người Công giáo, còn ông thì ngoại đạo. Bà mong muốn thuyết phục ông nên gia nhập Giáo Hội, nhưng ông không muốn chịu phép rửa tội. Một thời gian ngắn sau, họ có một đứa con.
Suốt thời gian diễn ra một trong những phong trào chính trị ở Trung quốc, cùng với một số nhà trí thức khác, người chồng bị bắt đi làm việc trong quân đội. Sự xa cách gây ra rất nhiều khó khăn cho người vợ, do bà vừa phải cả ngày làm việc nhiều giờ tại bệnh viện, vừa phải làm ban đêm chăm sóc đứa con trai. Ngoài nỗi cô đơn ra, người vợ còn phải chịu sức ép từ phía chính phủ, hối thúc bà li dị với chồng và bỏ đạo, để đạt được những lợi thế về mặt chính trị. Nhưng bà đã từ chối. Mỗi đêm, sau khi trở về nhà, bà và con trai đều quì gối cầu nguyện, xin Thiên Chúa ban sức mạnh để chịu đựng những khó khăn.
Vào cuối thập niên 1970, bà nghe nói rằng chồng bà và một số nhà trí thức khác được phép trở về nhà. Khi đến ngày đó, bà và con trai ra sân ga, họ là những thành viên trong gia đình duy nhất có mặt ở sân ga để đón tiếp những người đàn ông, bởi vì tất cả những người phụ nữ khác đều đã li dị và tái kết hôn, do không chịu đựng được cảnh chia ly lâu dài. Do cảm động sâu sắc, chồng bà đã chịu đi học đạo và lãnh nhận phép rửa tội.
Người phụ nữ đó đã thực sự mang lời chứng cho ánh sáng, giống như thánh Gioan Tẩy giả đã thực hiện. Bây giờ, đến lượt chúng ta. Đối với nhiều người trong thế giới ngày nay, Đức Kitô đã trở nên một khuôn mặt rất mờ nhạt và xa cách. Những lời trong bài Tin mừng hôm nay đúng từng chữ một “Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết”. Đức Kitô vẫn còn cần đến những chứng nhân, đó là những người có thể làm cho Người hiện diện đối với người khác một cách có hiệu quả.
Chúng ta không thể làm chứng cho ánh sáng, nếu chúng ta sống trong tối tăm. Chúng ta phải sống trong ánh sáng. Một đời sống tốt đẹp là một lời chứng mạnh mẽ và có hiệu quả, và tự thân, đó là một lời loan báo Tin mừng. Khi người ta không còn thực hành đạo trong cuộc sống nữa, thì họ đã đánh mất đi một yếu tố quan trọng. Nhưng khi việc thực hành đạo đưa dẫn đến những hành động cụ thể, thì người ta đã thực hành được một lời chứng rất có hiệu quả. Không có một lời chứng nào đến được với những người cùng thời của chúng ta một cách đầy sức thuyết phục, cho bằng lời chứng của những người thực hiện những lời giảng dạy của Đức Giêsu.
Nếu không có lời chứng của các Kitô hữu, thì gương mặt của Đức Kitô, vốn đã bị mờ nhạt, sẽ tiếp tục lu mờ trong thế giới của chúng ta. Người sẽ tiếp tục ở giữa chúng ta, dù chúng ta không biết và không nhận ra, và tâm hồn con người vẫn sẽ bị tan nát, người ta sẽ còn bị cầm tù trong cảnh tối tăm, và Tin mừng sẽ không được rao giảng cho người nghèo.
Đây không phải là một trách nhiệm chỉ dành cho cá nhân người Kitô hữu, mà còn dành cho toàn thể cộng đồng Kitô hữu nữa. Khi là thành viên của một cộng đồng nâng đỡ nhau, thì việc làm chứng cho Đức Kitô sẽ dễ dàng hơn.
45. Ẩn mặt
Thánh Gioan Tẩy giả nói với dân chúng “Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết”. Vị mà ngài đang nói đến chính là Đức Giêsu Thiên Chúa thường được ám chỉ như là một Thiên Chúa “ẩn mặt”. Về phương diện này, có thể so sánh Thiên Chúa như một người viết tiểu sử. Công việc của người viết tiểu sử là tránh mặt trong khi kể chuyện. Một người viết tiểu sử giỏi luôn sẵn sàng có mặt ở bất cứ chỗ nào, nhưng không ai nhìn thấy họ cả. Thiên Chúa hiện diện ở tất cả mọi nơi trong các tạo vật của Người, nhưng không ai nhìn thấy Người.
Có câu chuyện về một người đàn ông kia khi trở về nhà, anh phát hiện ra đứa con gái bé bỏng của anh đang khóc rống lên. Anh hỏi cháu bé về chuyện gì xảy ra. Cháu bé nói rằng cháu đang chơi trò chơi trốn tìm với các bạn của cháu. Nhưng khi đến phiên cháu đi trốn, cháu bé đã trốn quá kỹ, đến nỗi các bạn của cháu đã bỏ đi chơi trò khác, không chịu tìm kiếm cháu nữa. Cháu bé cứ chờ đợi các bạn tìm thấy mình, nhưng chúng không thể nào làm được như vậy. Cuối cùng, khi đi ra khỏi chỗ ẩn núp, thì cháu bé phát hiện ra rằng chỉ còn có một mình cháu thôi.
Đôi khi, có lẽ Thiên Chúa cảm thấy cô độc. Người đã tự trú ẩn trong các tạo vật của Người một cách quá tài tình, đến nỗi một số người không thể tìm thấy Người. Và cuối cùng, họ đã bỏ không tìm kiếm Người nữa, rồi rẽ sang các hướng khác.
Cuối cùng, khi Con của Người đến thế gian này, hầu hết cuộc đời của Người đều không được người ta nhận ra. Ngay cả khi Người xuất hiện ở nơi công cộng, không phải tất cả mọi người đều tin tưởng nơi Người. Và thánh Gioan tẩy giả đã nói “Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết – một Đấng đến sau tôi”. Và trong phần mở đầu cuốn sách Tin mừng của mình, thánh sử Gioan đã nói một cách buồn rầu “Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người”.
Ở đây, khi ngày Giáng sinh đến hỗ trợ chúng ta, trong ngày đó, chúng ta cảm thấy lòng đầy thắc mắc về sự gần gũi của Thiên Chúa. Trong biến cố Nhập Thể, Thiên Chúa ẩn náu một cách tài tình, và được mặc khải một cách hoàn hảo. Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa đến với chúng ta, mặc lấy thân phận nhân loại của chúng ta. Khi thấy Người là thấy Chúa Cha.
Trước khi Đức Giêsu đến, người ta coi như Thiên Chúa là Đấng xa cách và tách biệt của con người, không thể quan tâm gì đến chúng ta và những nỗi đau khổ của chúng ta. Tệ hơn nữa, người ta còn nhìn vào Người như một quan tòa hoặc một điệp viên, sẵn sàng vồ chụp và trừng phạt con người. Nhưng từ khi Đức Giêsu đến, chúng ta không còn nhìn vào Thiên Chúa như một người nào đó xa cách nữa, mà rất gần gũi với chúng ta, quan tâm đến mỗi người chúng ta, bởi vì chúng ta là con cái của Người.
Đức Giêsu mặc khải về Chúa Cha như một người Cha đầy tình yêu, lòng thương xót và luôn sẵn sàng tha thứ. Đó là một Thiên Chúa không ở xa chúng ta, nhưng sống giữa chúng ta, và rất say mê quan tâm đến chúng ta. Mối quan tâm của Thiên Chúa không phải là phê phán và kết án, nhưng là chữa lành và cứu thoát. Đó là một Thiên Chúa đặc biệt gần gũi với những người yếu đuối, nghèo khổ và quá nặng gánh,
Thiên Chúa giống như một giòng suối ở bên chúng ta, mà chúng ta có thể say sưa uống lấy và làm cho bản thân mình được tươi mát. Nhận biết về Thiên Chúa theo cách thức này, là nguyên nhân đưa đến niềm vui lớn lao. Đây chính là niềm vui đã được loan báo cho các mục đồng trong ngày Chúa Giáng sinh, và bây giờ, cũng đang được loan báo cả cho chúng ta nữa.
46. Sứ giả tin mừng
Thuở nước Mỹ chưa có bưu điện và những phương tiện liên lạc tối tân, người ta tổ chức thành những trạm. Mỗi trạm cách nhau chừng 25 Km. Tại mỗi trạm lúc nào cũng có sẵn những con ngựa khỏe.
Những kỵ sĩ sẽ chở thư từ trên lưng ngựa. Họ phóng nước đại, chạy hết tốc lực từ trạm này tới trạm kia và ở đó họ sẽ thay ngựa, rồi lại tiếp tục lên đường. Mỗi ngày một người phải chạy chừng 100 cây số.
Bình thường họ phải đem theo hai cây súng để đề phòng mọi da đỏ. Họ chạy ngày và đêm, bất kể mọi thời tiết, để hoàn thành cuộc hành trình dài tới ba ngàn cây số trong vòng một tuần lễ hay mười ngày là cùng.
Việc hoàn thành mạng lưới điện thoại nối liền hai bờ biển đông và tây đã chấm dứt vai trò của những con ngựa tốc hành. Tuy nhiên, câu chuyện về những chàng kỵ sĩ gan dạ này vẫn còn làm cho chúng ta khâm phục.
Qua đoạn Tin mừng vừa nghe, chúng ta thấy Thiên Chúa cũng đã sai phái vị sứ giả của Ngài đến với chúng ta và chuyển giao cho chúng ta một sứ điệp quan trọng, đó là hãy dọn đường Chúa đến.
Vị sứ giả đưa tin nàychính là Gioan Tiền hô. Ông đến để đem lại cho chúng ta tin vui về Đấng Cứu thế. Kể từ đó, hàng triệu người không phân biệt màu da và tiếng nói, thuộc đủ mọi dân tộc đã đi theo dấu chân của ông và đã trở nên những người đem tin mùng của Chúa. Họ loan báo và dọn đường cho Chúa đến trong tâm hồn mọi người.
Và điều đáng ngạc nhiên hơn nữa, đó là có những nhà truyền giáo đã đem chân lý của Chúa xuyên qua các núi đồi, các ghềnh thác, đến với những bộ lạc, những sắc dân còn man di mọi rợ.
Kể từ các tông đồ, biết bao nhiêu người đã rảo bước trên khắp mọi nẻo đường và đã có mặt khắp mọi nơi, từ thành thị đến những hang cùng ngõ hẻm. Và hơn thế nữa, còn dám hy sinh cả mạng sống để loan truyền cái tin quan trọng, đó là
- Đức Kitô, Đấng Cứu độ trần gian đã đến và đang ở giữa chúng ta.
Tin mừng sự sống này cần phải được loan báo, cần phải được đem đến cho từng người sống trên mặt đất.
Các nhà truyền giáo không thể hành động đơn độc. Trái lại, chúng ta phải cộng tác với họ trong khả năng và phạm vi của mình.
Có nhiều cách để thi hành điều đó. Chúng ta cộng tác bằng lời cầu nguyện, xin Chúa luôn nâng đỡ để công cuộc rao giảng Tin mừng của những nhà truyền giáo gặt hái được những thành quả tốt đẹp.
Chúng ta cộng tác bằng cách giúp tiền bạc vật chất để tài trợ, nhờ đó những nhà truyền giáo sẽ có được những phương tiện để họat động.
Chúng ta cộng tác bằng chính cuộc sống thường ngày của chúng ta. Thực vậy, cuộc sống thường ngày của chúng ta phải là một tin mừng. Mỗi lời nói, mỗi việc làm của bản thân, của gia đình, của giáo xứ chúng ta cũng phải là một tin mừng, bởi vì qua đó chúng ta nói cho mọi người biết được rằng:
- Đức Kitô, Đấng Cứu độ trần gian đã đến và đang ở giữa chúng ta.
Hãy sống thế nào để mỗi người chúng ta cũng trở nên một Gioan Tiền hô, một tông đồ nhiệt thành, đem Chúa đến cho những người chung quanh.
47. Chứng nhân
Gioan Tẩy giả là một nhân vật quan trọng luôn được nhắc tới trong Mùa Vọng, vì ngài là vị Tiền Hô đi trước kêu gọi mọi người chuẩn bị tâm hồn đón Đấng Cứu Thế đến bằng cách thay đổi, cải thiện đời sống. Bài Tin Mừng cho chúng ta tấy một điều nổi bật trong cuộc đời tiền hô của ngài, đó là làm chứng cho Chúa Kitô, Ngài đã sống và chết cho vai trò chứng nhân của mình. Ngay những trang đầu tiên sách Tin Mừng của thánh Gioan Tông đồ đã cho chúng ta biết mục đích cuộc đời trần thế của Gioan Tẩy giả là làm chứng cho Đấng Cứu Thế: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên ông là Gioan, ông đã đến để làm chứng, để chứng thực về sự sáng, ngõ hầu mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là sự sáng, nhưng là người làm chứng cho sự sáng”. Sự sáng đây là Đấng Cứu Thế và Gioan đã làm chứng cho Đấng Cứu Thế một cách trung thành nhất, bất vụ lợi nhất, kiên trì nhất và hoàn hảo nhất. Ngài đã làm chứng bằng lời nói, bằng hành động và bằng máu.
Gioan Tiền Hô đã làm chứng bằng lời nói: chúng ta biết vai trò hay sứ mạng của một ngôn sứ là phát loa, là thuyết giảng, là loan báo về Đấng Cứu Thế. Gioan Tiền Hô đã đóng vai trò đó, ngài đã nói những gì? Ngài bảo cho mọi người biết: “Tôi chỉ là tiếng nói trong hoang địa, chuẩn bị đường đi cho Đấng Cứu Thế, sau tôi một Đấng sẽ đến, Đấng ấy đã có trước tôi, cao trọng hơn tôi nhiều, và tôi không đáng xách dép cho Ngài”. Rồi khi Chúa Giêsu đến, Gioan đã chỉ vào Chúa và nói với dân chúng: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh hết mọi tội trần gian”, nghĩa là đây là Đấng Cứu Thế, Ngài sẽ là nạn nhân hiến tế để cứu chuộc mọi người. Bài Tin Mừng Gioan còn cho mọi người biết Chúa Giêsu là Đấng thánh hóa các linh hồn, Ngài sẽ rửa mọi người trong Thánh Thần và lửa, đồng thời cũng là Đấng xét xử mọi người: thưởng phạt mỗi người tùy theo công nghiệp của họ. Tóm lại, như một người phát ngôn trung thành, Gioan loan báo cho mọi người biết: Chúa Giêsu chính là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế.
Không những làm chứng bằng lời nói, Gioan còn làm chứng bằng hành động và gương sáng. Chúng ta biết Gioan là một người rao giảng đầy uy quyền, kêu gọi được người ta ăn năn sám hối, trở về với Chúa. Lời giảng của ngài được mọi người đương thời chú ý, tại sao vậy? Bởi vì ngài chỉ nói sau khi đã làm hay đã sống, đã kinh nghiệm rồi mới nói, bí quyết thành công của ngài là làm rồi mới nói, hoặc nói và làm đi đôi với nhau. Thực vậy, ngài đã lấy cuộc đời khổ hạnh để làm chứng cho người tôi tớ của Giavê, ngài đã sống khó nghèo để làm chứng cho Con Người không có chỗ dựa đầu. Thi hành chức vụ tiền hô ngài cũng có một số môn đệ, nhưng ngài rất vui mừng nhường số môn đệ ấy cho Chúa Giêsu, không một chút ghen tương, không một chút luyến tiếc, bởi vì ngài biết Chúa Giêsu mới là vị tân lang của họ, còn ngài chỉ là bạn hữu đến sửa soạn tiệc cưới mà thôi. Nói rõ hơn, Gioan không thể kêu gọi người ta sám hối nếu ngài không sám hối trước, Gioan không thể kêu gọi người ta khiêm nhường nếu ngài không quên cái tôi của mình, Gioan không thể kêu gọi người ta thực hành bác ái nếu ngài không thực sự mến Chúa yêu người, Gioan không thể kêu gọi người ta hy sinh nếu ngài chưa sống khắc khổ và hy sinh vì người khác. Tóm lại, ngài được mọi người nghe và làm theo lời ngài giảng dạy là vì ngài chỉ nói những gì ngài đã sống, đã làm, đã kinh nghiệm: “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”, lời nói của Gioan đã làm chuyển biến lòng người, nhưng đời sống và gương sáng của ngài đã thuyết phục được mọi người.
Sau hết, bởi vì Gioan luôn sống với tư cách là chứng nhân của Đấng Cứu Thế, nên sau khi đã làm chứng cho Chúa bằng lời nói và hành động, ngài còn muốn làm chứng bằng chính máu của mình nữa. Ngài tố cáo cuộc hôn nhân bất chính của vua Hêrôđê với bà Hêrôđia, vợ của anh vua, nên ngài đã bị tống giam vào ngục. Bà Hêrôđia vẫn chưa hài lòng, vì Gioan luôn là mối cản trở cho hành động ngang trái của bà, bà tìm cách giết cho được Gioan, chính vì thế mà trong bữa tiệc mừng sinh nhật Hêrôđê, lợi dụng lúc ông đã ngà ngà say, bà xúi con gái là Salômê xin chiếc đầu của Gioan, vì Hêrôđê vui thú trước những điệu múa của Salômê và hứa cho cô bé bất cứ thứ gì dù là nửa nước. Thế là Gioan đã phải chết, ngài đã chấp nhận cái chết chứ không chịu để cho đạo lý bị chà đạp, chấm dứt nhiệm vụ chứng nhân của ngài. Cuộc đời chứng nhân của Gioan Tiền Hô là một bài học sáng giá cho chúng ta. Đời sống của một Kitô hữu phải bắt chước đời sống của ngài, là làm chứng nhân cho Chúa trong mọi hoàn cảnh: thuận cảnh cũng như nghịch cảnh. Hẳn là Chúa không đòi chúng ta phải sống khắc khổ hay đổ máu đào như Gioan, nhưng Chúa đòi chúng ta phải là chứng nhân, sống như Gioan trong đời sống hiện tại của mình, nghĩa là chúng ta phải là ánh sáng, là muối, là men của trần gian, phải sống như bông sen giữa bùn lầy, như bông huệ giữa bụi gai, đặc biệt là sống anh hùng như ngài, ngài là một anh hùng của sự thật: suốt đời ngài chỉ sống theo sự thật và nói sự thật, điều gì có ngài chân nhận, điều gì không có ngài nói không. Chúng ta hãy kiểm điểm và suy nghĩ: chúng ta có bao giờ nói dối không? Chúng ta phải nhìn nhận rằng không những chúng ta có nói dối mà còn nói dối nhiều hơn nữa, rồi nhiều khi chúng ta còn ém nhẹm, giấu diếm, chua ngoa, thề thốt, phân bua cho là mình thật thà, thẳng thắn, vô vị lợi… để lấp đầy đi cái thiếu thành thật của mình. Nếu chúng ta đã sống như thế, chúng ta phải sửa lại, phải sống thành thật, có nói có, không nói không, đừng thêm thắt, bịa đặt. Tuy nhiên chúng ta phải cẩn thận, vì sự thật dễ mất lòng. Chúng ta phải sống thành thật, đó là điều tất nhiên, nhưng sống thật thà không có nghĩa là buộc chúng ta phải nói tất cả những gì mình nghĩ, mình biết, đức tính này buộc chúng ta suy nghĩ cẩn thận, chín chắn rồi hãy nói, mà đã nói thì không bao giờ nói sai, nói thừa nói thiếu, nói dối để khỏi gây thiệt hại cho bất cứ ai. Xin Chúa cho chúng ta quyết tâm sống được như thế luôn mãi.
48. Vui mừng
Chuyện kể về một ông vua đang băn khoăn bằng cách nào để có hạnh phúc. Nhà vua bèn mời một nhà khôn ngoan lại để bàn hỏi xem làm thế nào vứt bỏ được những lo âu buồn rầu đang đè nặng tâm trí ông đến nỗi phát bệnh. Làm thế nào để có hạnh phúc thực sự? Nhà thông thái trả lời: “Chỉ có một cách duy nhất để chữa nhà vua. Đó là nhà vua phải nằm ngủ một đêm trong cái áo của một người có hạnh phúc thực sự”.
Các sứ giả được sai đi khắp quốc gia để tìm kiếm một người thực sự đang hạnh phúc. Nhưng bất kỳ người nào khi hỏi đến cũng có lý do để đau khổ buồn rầu. Một điều gì đó đã cướp mất hạnh phúc của họ. Sau cùng họ tìm thấy một người, đúng hơn là một gã ăn xin. Hắn ngồi mỉm cười ở giữa chợ đời. Hắn tự xưng là người hạnh phúc thực sự, không có một mảy may gì buồn rầu lo âu. Người ta nói với hắn về điều nhà vua đang tìm kiếm. Nhà vua cần phải ngủ một đêm trong cái áo của người có hạnh phúc thực sự, và cho anh ta một số tiền rất lớn đền bù vào chiếc áo hạnh phúc đó.
Bạn nghĩ sao? Anh chàng ăn xin này có đồng ý bán chiếc áo của anh đang mặc cho nhà vua không? Các bạn có biết phản ứng của hắn ra sao không? Không nín được cười! Gã ăn xin bật cười lên hô hố mà rằng: “Thật đáng tiếc! Tôi không thể nào làm hài lòng nhà vua được. Tôi chẳng có chiếc áo nào cả!” Người hạnh phúc nhất trên đời không có ngay cả một chiếc áo!
Trước Công Đồng Vaticanô II, Chúa nhật thứ III Mùa Vọng hôm nay được gọi là “Gaudete Sundae”. “Gaudete” tiếng La tinh có nghĩa là “vui mừng”. Trong nhà thờ, đốt lên cây nến hồng ở Vòng Lá Mùa Vọng – Advent Wreath. Mầu hồng biểu tượng cho sự vui tươi, yêu đời và hy vọng, vì Thiên Chúa đã gần đến rồi!
Quả vậy, con người đã được Thiên Chúa tạo dựng nên là để chia sẻ niềm vui và hạnh phúc đời đời với Người. Vì thế, Pascal đã nói rằng: “Tất cả mọi người đều đi tìm kiếm hạnh phúc hết, ngay cả những người treo cổ tự tử”. Niềm vui và hạnh phúc là mục đích của con người sống trên trần đời. Nó cần thiết cho chúng ta như dưỡng khí cần cho tim phổi, lương thực cần cho thân xác. Tuy nhiên, càng tìm kiếm nó, nó lại càng vuột khỏi tay ta, như nước trôi qua các kẽ ngón tay. Ta nghĩ về hạnh phúc theo quan niệm của ta. Ta long đong vất vả đi tìm nó ở nơi ta muốn tìm, ở nơi nó không có.
Đi tìm hạnh phúc không đúng chỗ:
Trong “Tiếng Chim Ca” của cha Anthony de Mello có truyện “Tìm Sai Chỗ” được kể như sau. Một người thấy ông bạn láng giềng cứ lom khom cúi tìm mãi một cái gì dưới ánh đèn đường nên hỏi: “Ông bạn đang tìm gì vậy?” Người láng giềng trả lời: “Tôi tìm chìa khoá đánh rơi”. Thế rồi cả hai cùng chăm chú, lom khom tìm mãi. Một hồi lâu người này chợt nhận ra một điều gì nên hỏi người láng giềng: “Mà ông bạn đánh rơi nó ở đâu vậy?” “Ở trong nhà thì phải!” người láng giềng trả lời. “Nhưng tại sao ông bạn lại tìm ở đây?” “Vì ở đây có đèn đường sáng hơn!!!”
Chỗ ngã ba đèn đường chiếu sáng nhất mà người đời vẫn thường đến tìm kiếm hạnh phúc là “ngã ba chữ T”: tình, tiền, tài.
Có những bạn trẻ bước vào đời với lăng kính màu hồng, hăm hở tìm hạnh phúc trong những giây phút huy hoàng của tình dục mà họ nghĩ là tình yêu, họ đồng ý với Xuân Diệu rằng: “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt. Còn hơn le lói suốt trăm năm”.
Có người lao mình vào việc tìm kiếm tiền bạc bằng mọi cách. Họ bôn ba xuôi ngược trên chợ đời, tranh giành với người, để rồi cuối cùng như nhà thơ Quốc Nghệ đã diễn tả sự thật chua cay bằng những lời thơ châm biếm:
Bạc ác chi mi lắm rứa tiền,
Mi làm nhân loại hoá ra điên.
Mi tô mặt nạ đen ra trắng,
Mi xé ân tình thẳng hoá xiên.
Mi gác luân thường vào một xó,
Mi đưa nhân nghĩa xếp hai bên.
Mi làm nhân loại đua tranh mãi,
Bạc ác chi mi lắm rứa tiền?
Có người dùng tài ba để tìm kiếm công danh sự nghiệp hầu mang lại hạnh phúc. Thế nhưng danh vọng cũng kèm theo cuồng phong bão tố, nước mắt và đoạ đày, như Nguyễn Công Trứ đã cảm nghiệm: “Ra trường danh lợi vinh tiền nhục, vào cuộc trần ai khóc lẫn cười”.
Điều lầm lẫn lớn nhất của chúng ta là đã đồng hóa niềm vui hạnh phúc với khoái lạc thế trần, rồi đi tìm thỏa mãn nơi thể xác, vật chất và cuộc sống ở bên ngoài. Chúng ta có thể đạt được khoái lạc bằng dục vọng, danh tiếng và tiền bạc, nhưng tất cả những thứ này không thể nào mang lại cho con người niềm vui và hạnh phúc thật sự.
49. Vui mừng
Hạnh phúc ở đâu? Bài Phúc âm hôm nay, nói đến một nhân vật rất quan trọng nhưng khiêm tốn, dạy chúng ta cách đi tìm hạnh phúc đích thật. Đó là Gioan tẩy Giả: “Ông đến để làm chứng”, “Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi”. Gioan chối từ tất cả những tước hiệu được dân chúng gán cho mình. Đối với Gioan tẩy giả, hạnh phúc của ông là trở nên đầy tớ của Thiên Chúa, là con người giúp cho mọi người quy hướng về Thiên Chúa.
Trong bài đáp ca, Đức Maria cũng đóng vai trò này: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa… vì Chúa đã đoái nhìn phận hèn tớ nữ của Chúa”. Hạnh phúc của Đức Maria là được làm nữ tì của Thiên Chúa.
Sách Giáo lý Công giáo dạy rằng: “Sự ao ước Thiên Chúa đã được ghi sâu trong tâm hồn con người, bởi vì con người đã được sáng tạo bởi Thiên Chúa và cho Thiên Chúa. Thiên Chúa không ngừng lôi kéo con người lại với Ngài, và chỉ nơi Thiên Chúa, con người mới tìm thấy chân lý và hạnh phúc mà con người không ngừng tìm kiếm”.
Công Đồng Vatican II cũng dạy: “Khía cạnh cao siêu nhất của phẩm chức con người là ở chỗ con người được ơn gọi hãy hiệp thông với Thiên Chúa. Lời mời gọi con người đối thoại đã được Thiên Chúa gửi tới con người từ khi có loài người. Bởi vì nếu có con người, thì cũng tại Thiên Chúa đã tác tạo nên con người vì tình yêu, và vì tình yêu, Ngài không ngừng ban cho con người hiện hữu. Và con người chỉ sống đầy đủ theo chân lý nếu con người tự do công nhận tình yêu này và phú mình cho Đấng tác tạo nên mình.
Linh mục Dominicô Đỗ Minh Trí trong cuốn “Việt Nam Quê Hương Tôi”, trang 41-44 đã kể câu chuyện “Con Mèo Già và Con Mèo Trẻ” với hai đề nghị về hạnh phúc như sau:
Một con mèo già, đầy kinh nghiệm và khôn ngoan thấy một con mèo trẻ, đang đuổi theo cái đuôi của chính nó. Tò mò, nó hỏi con mèo trẻ: “Này con, con làm gì vậy? Tại sao con lại đuổi theo cái đuôi của con như vậy?”Mèo trẻ trả lời: “Con nghe nói rằng cái tốt nhất đối với một con mèo là hạnh phúc và hạnh phúc của con mèo ở trong cái đuôi của nó. Vì vậy mà con đuổi theo cái đuôi của con. Khi nào con bắt được, con sẽ có hạnh phúc!”
Mèo già trả lời: “Này con, ta đã suy gẫm rất nhiều về vấn đề hạnh phúc. Và ta cũng đã đi đến kết luận rằng hạnh phúc của ta là ở trong cái đuôi của ta. Nhưng ta cũng nhận rằng mỗi khi ta đuổi theo cái đuôi, thì không thể nào ta bắt được. Trong khi đó, nếu ta làm một việc khác nhất là khi ta lo lắng cho con mèo khác, thì cái đuôi của ta đi theo ta bất cứ nơi đâu!”
1. “Hạnh phúc ở trong cái đuôi của ta”, con mèo già nói: Cái đuôi ở đằng sau, con mèo không nhìn thấy được. Điều này diễn tả điều kiện đầu tiên của hạnh phúc: Không bao giờ nắm được. Hạnh phúc không phải là mục đích, mà là một kết quả! Đó là một thực tại đi theo một thực tại khác. Hạnh phúc là kết quả của tình thương yêu đối với loài người. Cái cần phải nhắm tới là tình thương yêu đối với đồng loại, hạnh phúc sẽ đi theo một cách tất yếu.
2. Người ta tìm thấy hạnh phúc của chính mình khi làm việc vì hạnh phúc của người khác. Bằng cách tranh đấu cho sự an vui của đất nước mình hay giúp đỡ người đồng loại, giải quyết các vấn đề của họ. Lấy tình thương yêu đồng loại, tình thương yêu xã hội làm căn bản của cuộc sống của mình. Đặt cơ sở đời sống của mình trên tình thương yêu để nhìn các thiếu thốn của người khác như các thiếu thốn của chính mình, quyền lợi của người khác như quyền lợi của chính mình. Hãy thoát ra khỏi bản thân mình, thoát ra khỏi sự tìm kiếm hạnh phúc riêng tư của mình để làm việc vì hạnh phúc của người khác.
Hạnh phúc hay nguồn vui Kitô giáo đem lại khác xa với khoái lạc. Nó phong phú và sâu xa hơn cả nụ cười tươi nở trên một khuôn mặt vui vẻ. Nó đến từ bên trong, từ hành động phục vụ tha nhân và ý thức rằng Thiên Chúa hiện diện với chúng ta sẽ làm chúng ta hạnh phúc. Một sự bình an nội tại không có gì có thể lấy mất khỏi chúng ta. Phục vụ Thiên Chúa là cội nguồn của niềm vui Kitô giáo. Đó là tình trạng của ân sủng không vướng mắc tội lỗi. Chúa ở cùng ta, ta sống trong Chúa, như Đức Maria diễn đạt trong kinh Ngợi Khen ở bài đáp ca hôm nay: “Linh hồn tôi nhảy mừng trong Chúa”
“Lúc nào cũng lo tìm hạnh phúc, ta sẽ chẳng bao giờ thấy hạnh phúc.
Hạnh phúc phải được tạo thành thay vì tìm thấy”.
“Hạnh phúc không phải là cái bạn cầm trong tay, nhưng là cái bạn mang trong tim”.
“Muốn được hạnh phúc, đừng cộng thêm của cải, nhưng hãy trừ bớt ham muốn”.
(Định nghĩa Cuộc Đời của Trần văn Điền).
50. Hãy sửa đường... – Lm. Nguyễn Minh Hùng
"Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi". Thánh Gioan Tẩy giả tự trả lời về mình như thế cho những người Do-thái chất vấn ông. "Tiếng kêu trong hoang địa". Nói đến hoang địa là nói đến một môi trường chưa được sử dụng, chưa được khai phá. Môi trường đó còn âm u, đầy dẫy nguy hiểm. "Tiếng kêu trong hoang địa" là tiếng kêu giữa mênh mông, giữa những âm u nguy hiểm đó.
Nhưng dù nói là kêu trong hoang địa, và bản thân thánh Gioan đã từng sống trong hoang địa, nhưng ngài đã không hô to một lời nào trong suốt những năm tháng sống một mình ở nơi ấy. Ngược lại, bây giờ, để thi hành sứ mạng ngôn sứ của mình, thánh Gioan đã rời hoang địa, đi vào làng mạc và cất tiếng rao giảng kêu gọi lòng sám hối ăn năn. Hóa ra hoang địa nhưng không là hoang địa thiên nhiên, không là một môi trường nào đó mà thánh Gioan đã từng sống. Bởi thế, khi áp dụng hình ảnh tiếng kêu trong hoang địa của Ngôn Sứ I-sai-a đã loan báo trong Cựu Ước để nói về chính mình, điều mà thánh Gioan nhắm đến chính là tâm hồn con người. Nếu hoang địa là mênh mông, là âm u, nguy hiểm, thì hoang địa tâm hồn còn đáng sợ, và nguy hiểm hơn.
Cách đây vài năm, một lần kênh truyền hình HTV7 chiếu bộ phim Hòn Đá Lăn Tròn do Mê-hi-cô sản xuất. Có thể nói nhân vật chính trong phim, luật sư Prado, là đại diện của một thứ hoang địa tâm hồn. Đúng là hòn đá lăn tròn. Địa vị, tiền bạc đã làm cho luật sư lăn theo nó quay tít như một hòn đá tuột dốc. Ông là kẻ kiêu căng, ích kỷ, tính toán và đầy tham vọng. Tất cả những tính xấu đó lớn trong ông đến nỗi biến ông thành một kẻ thủ đoạn không thể tả. Ông bất chấp tất cả dù người đó là vợ ông, con ông, quảng gia của ông, hoặc những người cùng làm việc với ông, miễn sao đạt được quyền cao chức trọn, đem lại danh vọng cho ông. Có những lần ông nhắc tới Chúa. Nhưng Chúa không còn ở trong tâm hồn ông nữa. Có nhắc tới Chúa chẳng qua chỉ là để ông gây lòng tin cho ai đó, để rồi biến Chúa trở thành phương tiện phục vụ chính ông, phục vụ con người đầy thủ đoạn của ông...
Cám dỗ của địa vị, tiền bạc đã làm cho mảnh đất tâm hồn trở thành hoang địa. Một thứ hoang địa mà ở phần cuối bộ phim, đã biến một luật sư như luật sư Prado uy quyền là thế, tiếng tăm là thế, đã từng được mọi người nể phục, vậy mà cuối cùng ông đã phải cô đơn đến mức tuyệt vọng. Ông đã muốn lấp đầy cho nỗi cô đơn, cho sự tuyệt vọng của mình bằng những tiếng hét, tiếng rú kinh hồn. Càng cố rú lên bao nhiêu, thì không chỉ tiếng rú, mà là cả con người ông, cả mạng sống của ông càng rơi vào mênh mông bao la bấy nhiêu.
Bạn có thấy, hoang địa tâm hồn thật nguy hiểm bởi nó chỉ toàn là hận thù, là thủ đoạn. Đã là hoang địa cho nên rất cần những "tiếng kêu trong hoang địa" giúp ta "sửa lại cho ngay đường Chúa đi", nghĩa là chỉnh đốn tâm hồn mình. Sửa lại tâm hồn mình để ta trở thành người ngay chính, đừng như nhân vật Prado trong phim Hòn Đá Lăn Tròn, cứ mải miết chạy theo "cơm áo gạo tiền". Tệ hại hơn, mãi chạy theo thủ đoạn để tìm danh vọng, tìm của cải, để thăng quan tiến chức, để làm giàu... mà quyên đi hay cố tình quên đi các bổn phận đạo đức, bổn phận Xưng Tội, Rước Lễ, nghe Lời Chúa...
Trên tất cả, bạn và tôi hãy khắc ghi lời thánh Gioan Tẩy Giả: "Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi". Đó là lời kêu gọi của một thời đã xa. Nhưng cũng là lời mà hôm nay thánh Gioan mời gọi "Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi", sửa cho ngay tâm hồn của bạn và cả tôi.
51. Lời chứng của ông Gioan - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Thời nay, Thiên Chúa có cần người làm chứng cho Ngài không? Nếu Ngài cần và mời gọi bạn, bạn có sẵn sàng chấp nhận lời mời ấy không?
2. Rao giảng và làm chứng có khác nhau không? Cái nào cần thiết hơn?
3. Làm chứng có cần phải nói sự thật không? Có thể lấy cớ bảo vệ Giáo Hội, bảo vệ tôn giáo để làm chứng dối, để phản lại sự thật không? Tại sao?
CHIA SẺ
1. Thiên Chúa cần người làm chứng cho Ngài
Qua bài Tin Mừng, ta thấy khi Đức Giêsu đến trần gian, Thiên Chúa cần một người làm chứng cho Con của Ngài, và người ấy là Gioan Tẩy giả. Ông này được kêu gọi để làm công việc ấy. Suốt lịch sử Giáo Hội, thời nào ta cũng thấy Thiên Chúa cần những người làm chứng cho Ngài, cho sự thật, cho công lý, và cho tình thương của Ngài. Có thể nói lịch sử của Giáo Hội là một lịch sử của “làm chứng” và “rao giảng”. Rao giảng là để giúp người ta hiểu, nắm vững, còn làm chứng là để giúp người ta tin.
Hiểu và tin là hai chuyện rất khác nhau. Nhiều người hiểu rất rõ mà vẫn không tin, chẳng hạn: nhiều người tìm hiểu Kitô giáo không phải để tin theo, mà để bài bác một cách “nói có sách, mách có chứng”. Ngay trong số những người rao giảng Tin Mừng, nhiều người có đời sống thực tế chứng tỏ rằng họ không tin, thậm chí không tin một chút nào điều họ vẫn rao giảng một cách thật hùng hồn, mạnh mẽ. Trường hợp đánh động nhất là trường hợp của Mahatma Gandhi, người giải phóng dân tộc Ấn Độ.
Gandhi rất hiểu, rất yêu mến, rất đồng cảm với Đức Giêsu, thậm chí ông còn sống tinh thần quên mình, từ bỏ và yêu thương của Đức Giêsu một cách gương mẫu (có thể hơn rất nhiều Kitô hữu), nhưng ông hoàn toàn không tin Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế. Ông đã lên tiếng có vẻ như thách thức người Kitô hữu, cụ thể là những người Anh đô hộ dân tộc ông: “Nếu những người Kitô hữu tại Ấn Độ thật sự sống đúng tinh thần của Đức Kitô, thì chẳng cần phải mất công rao giảng, toàn Ấn độ sẽ trở thành Kitô hữu hết”. Trước mắt ông, người Kitô hữu - cụ thể là người Anh - cũng tham lam, bất công và tàn bạo không kém gì những kẻ xâm lăng khác. Chắc hẳn ông đã từng tự hỏi: sự siêu việt của Kitô giáo - như các Kitô hữu thường tự hào - nằm ở đâu? Sự siêu việt đó chẳng lẽ chỉ có thể tin chứ không thể chứng tỏ cụ thể bằng thực tế hay bằng hành động được sao?
2. Ngày nay, nhiều giáo hội rao giảng nhiều hơn làm chứng
Để được cứu rỗi, đức tin là một yếu tố tối cần thiết: “Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án” (Mc 16,16; x. Cv 16,31; Rm 10,9). Nhưng làm sao tin được một chuyện mình không biết, không thấy, nếu không có ai nói cho biết. Nhưng làm sao tin được người nói cho biết ấy, nếu người ấy không có bằng chứng hay không có đủ uy tín để bảo đảm? Làm sao tin được người nói hay rao giảng thật là hay, nhưng đời sống hay việc làm của họ thì lại hoàn toàn đi ngược lại điều họ rao giảng?
Ngày xưa, thời Giáo Hội sơ khai, Kitô giáo lan truyền rất nhanh, vì thời ấy, các tông đồ làm chứng nhiều hơn là rao giảng. Còn ngày nay, Kitô giáo lan truyền rất chậm, rất nhiều nơi bị giảm sút, tại sao? Vì những người làm tông đồ ngày nay quá chú trọng tới rao giảng, mà coi rất nhẹ việc làm chứng! Đó là một sự thật mà người Kitô hữu cần nhận chân một lần cho sâu sắc, để chỉnh trang lại cách truyền giáo hay làm tông đồ của mình, đặc biệt nhân dịp kỷ niệm lần thứ 2002 ngày Đức Giêsu đến trần gian.
3. Tại sao phải làm chứng? Để người ta tin
Ngày nay, để tìm hiểu Kitô giáo, người ta chỉ có cách là tìm hiểu trong sách vở, hoặc nghe một người Kitô hữu nào đó trình bày. Nhưng từ hiểu đến tin theo là cả một quá trình khó vượt qua nếu không có một động lực mạnh thúc đầy! Ngày nay, không còn có những nhân chứng đã tận mắt nhìn thấy Đức Giêsu sống, nói, hành xử, làm phép lạ, chết và sống lại như thời Giáo Hội sơ khai nữa. Những chuyện kể về Đức Giêsu phần nào cũng tương tự như bao chuyện kể khác, về Lạc Long Quân, Thánh Gióng, Đức Phật, Đức Khổng, v.v… Làm sao người ta có thể tin vào Đức Giêsu nhiều hơn là tin vào các vị giáo chủ khác? Người thời nay chịu ảnh hưởng tinh thần khoa học thực nghiệm, lời nói suông không còn dễ dàng được nhận là đúng. Muốn họ tin hay chấp nhận phải có bằng chứng. Vì thế, làm tông đồ thời nay cần làm chứng hơn là rao giảng.
Rao giảng thì chỉ cần một mớ kiến thức, một chút suy luận; còn làm chứng đòi hỏi một sự dấn thân thật sự, nó huy động cả một cuộc đời, cuộc đời toàn diện. Rao giảng mà không làm chứng chỉ là nói lên những lời nói rẻ tiền, đương nhiên ít tác dụng. Còn làm chứng là nói lên những lời nói có giá trị sống động vì người nói dám lấy cả cuộc đời, cả mạng sống để bảo chứng cho lời nói ấy. Nhờ thế mà người nghe mới dám đặt niềm tin.
Những người ngoài Kitô giáo phải dựa vào đâu để biết Kitô giáo là chính đạo? để tin Đức Kitô là Đấng cứu độ, thậm chí là Đấng cứu độ duy nhất? Làm sao họ tin được, khi mà đời sống của người Kitô hữu chẳng khác gì và chẳng hơn gì của họ? khi mà người Kitô hữu chẳng chứng tỏ được một cách cụ thể mình đã được cứu độ ở chỗ nào? Nếu được cứu độ, ít ra người Kitô hữu chúng ta phải tự nhiên có một lối sống nào đó chứng tỏ mình được cứu độ, chẳng hạn người khác có thể thấy nơi chúng ta nét vui tươi, hạnh phúc và tình yêu thương nhau được biểu lộ hồn nhiên trong đời sống, bất chấp thuận cảnh hay nghịch cảnh. Sống như thế chính là làm chứng!
4. Hãy xem Gioan Tẩy giả làm chứng thế nào
Chính vì nói thế nào sống như vậy, nên Gioan Tẩy giả đã thu hút được quần chúng đến với ông và làm theo những gì ông yêu cầu: “Mọi người từ khắp miền Giu-đê và thành Giê-ru-sa-lem kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Gio-đan” (Mc 1,5). Gioan là một khuôn mẫu điển hình cho hạng người làm chứng hơn rao giảng: “Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin” (Ga 1,7). Còn giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái là điển hình cho hạng rao giảng hơn làm chứng: “Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm” (Mt 23,2-3). Điều đó được thể hiện qua một số chi tiết:.Gioan ăn mặc đơn giản: “mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da” (Mc 1,6), khác hẳn với cách ăn mặc của các kinh sư: “đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài” (Mt 23,5); “ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng” (Mc 12,38). Gioan sống khó nghèo, thanh đạm, “ăn châu chấu và mật ong rừng”, còn các kinh sư thì giàu sang phần nào nhờ “nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ” (Mt 23,14). Gioan thì khiêm nhường tự hạ: “Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người” (Ga 1,27), còn các kinh sư thì thích tự đưa mình lên: “Họ thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng, ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc” (Mc 12,38-39).
Ta thấy khi làm chứng, Gioan không màng tiếng khen, không tìm vinh quang cho mình, đang khi nhiều người mang danh làm chứng cho Thiên Chúa, nhưng thực tế là đang tự làm chứng cho mình, để mình được khen ngợi, vinh danh, hầu có quyền lực, tiền bạc địa vị… Nhưng điều quan trọng nhất của người làm chứng là phải dám nói sự thật.
5. Người làm chứng phải dám nói sự thật
Nói sự thật có thể bất lợi cho mình hoặc cho người khác. Gioan đã dám nói sự thật, dù phải chết. Ông không sợ quyền lực, không hùa theo kẻ có quyền lực. Trước
16/12 Elia-Gioan Tẩy Giả
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Elia-Gioan Tẩy Giả.
Thứ Bảy tuần 2 mùa vọng.
"Elia đã đến rồi, và họ không nhận biết ông".
LỜI CHÚA: Mt 17, 10-13
Khi xuống núi, các môn đệ hỏi Chúa Giêsu rằng: "Tại sao các luật sĩ lại nói Elia phải đến trước đã?" Chúa Giêsu trả lời: "Thật Elia phải đến để chấn hưng mọi sự. Và Thầy bảo các con, Elia đã đến rồi, và họ không nhận biết ông, nhưng đã đối xử với ông như ý họ. Cũng vậy, Con Người sẽ phải đau khổ bởi họ". Bấy giờ các môn đệ hiểu Chúa Giêsu nói với họ về Gioan Tẩy Giả.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Họ không nhận ra Ngài
Lời Chúa đối với mỗi người đều có một ý nghĩa riêng áp dụng cho người đó trong cuộc sống hiện tại của mình. Chúa Thánh Thần là Ðấng soi sáng cho chúng ta hiểu biết rõ ràng hơn về chân lý niềm tin, cho nên Ngôi Ba được gọi là Thần Chân Lý và mỗi người đều múc lấy ý nghĩa sống cho mình qua Lời Chúa. Tuy nhiên, vì trình độ mỗi người khác nhau, vì hoàn cảnh mỗi nơi mỗi khác cho nên có thể hiểu Lời Chúa sai lệch đi.
Chúa Giêsu trao quyền rao giảng Lời Chúa cho Giáo Hội qua thánh Phêrô, vị đại diện tối cao của Giáo Hội tiên khởi và kế tiếp là trao cho các Tông Ðồ cho đến ngày nay. Cho nên chúng ta thấy trong Do Thái giáo, các luật sĩ là những người cắt nghĩa luật Chúa và họ đã nói với các môn đệ Chúa Giêsu: "Elia phải đến trước đã". Theo truyền thuyết, Elia là một tiên tri đại diện cho các tiên tri trong Cựu Ước, không chết nhưng được đưa về trời và sau này ông sẽ trở lại và các luật sĩ cắt nghĩa: Cần phải đợi Elia trở lại đã.
Chúa Giêsu cũng xác nhận với các môn đệ: "Thật, Elia phải đến để chấn hưng mọi sự". Elia ấy chính là Gioan Tẩy Giả đã rao giảng sự ăn năn thống hối, hãy sửa lối đi cho ngay thẳng, lối đi quanh queo hãy san cho bằng. Những nơi gồ ghề, hố sâu hãy lấp cho bằng thì mọi người sẽ thấy ơn cứu độ. Gioan tiền hô đã đi trước để dọn đường cho Chúa Kitô sẽ đến sau, Ngài đến để mang ơn cứu độ xuống cho trần gian và một số môn đệ Gioan đi theo Chúa Giêsu để xem Ngài, đồng thời Gioan cũng đã xác định vị thế của mình trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa: "Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi".
Con người của Gioan Tẩy Giả thật là khiêm nhường trong vị thế của ông: "Còn tôi, tôi không xứng đáng cởi dây giầy cho Người". Gioan Tẩy Giả mang sứ mệnh như tiên tri Elia trong Cựu Ước nhưng cũng là một con người ăn chay hãm mình trong rừng vắng, khiêm nhường, đơn sơ trong công việc dọn đường cho Ðấng Cứu Thế sẽ đến.
Thật là một tấm gương cao quí đáng cho chúng ta bắt chước noi theo. Gioan Tẩy Giả không cao trọng nhờ sự lạ lúc sinh ra nhưng cao trọng do sứ mệnh dọn đường cho Ðấng Cứu Thế đến mà ông đã làm trong sứ mệnh của mình. Trong ngục tối, ông dám nói thẳng sự thật, dám làm chứng nhân cho Thiên Chúa ở giữa trần gian.
Chúa Kitô đến mang sứ mệnh cứu rỗi của Thiên Chúa Cha. Người ta không nhận ra Người, và người ta cũng đối xử với Ngài như các tiên tri trong Cựu Ước, đó là bắt bớ, đánh đập, hành hạ và sau cùng bị lãnh bản án tử hình treo trên thập giá một cách nhục nhã đau thương.
Bao nhiêu năm tháng chờ đợi Ðấng Cứu Thế đến, trải dài trong Cựu Ước vậy mà khi Ngài đến con người đã không nhận ra Ngài. Mỗi người chúng ta đôi lúc cũng đã không nhận ra Ngài trong cuộc sống, chúng ta vẫn nhớ Lời Chúa nhắc với chúng ta: "Ai làm cho một kẻ bé mọn nhất trong anh em ấy là làm cho chính Ta".
Những kẻ bé mọn đó là ai? Thưa, họ là những người mà Chúa Giêsu đã nói::Ta đói các con cho Ta ăn, Ta khát các con cho Ta uống. Ta rách rưới các con đã cho áo mặc. Khi Ta ở tù các con đã viếng thăm". Lời nói của Chúa Giêsu làm mỗi người trong chúng ta suy nghĩ và tự nhận: Ailà anh em tôi? Không phải những ai xa lạ, không phải là những ai ở xa để rồi chúng ta không thấy được. Không phải là những bậc giàu có sang trọng trong xã hội, những người thiếu thốn, những người chạy gạo ăn bữa hôm lo bữa mai, những người không có thân nhân bà con, không mái nhà che mưa che nắng vào những trưa hè nóng oi bức, vào những cơn mưa tàn tã của thời tiết thu đông.
Mỗi người trong chúng ta tự hỏi như người luật sĩ và biệt phái trong Phúc Âm hỏi Chúa Giêsu: "Nhưng ai là anh em tôi?" Chúng ta cùng nhau xin Chúa cho chúng ta biết rõ, cảm nhận một cách sâu xa hơn câu trả lời của mình trong Mùa Vọng này để chúng ta đi đến niềm nở với người anh chị em, cùng nhau nắm chặt bàn tay thân ái đón mừng Chúa đến.
Lạy Chúa, Gioan Tẩy Giả đến để chuẩn bị cho Chúa mang ơn cứu độ đến. Xin cho mỗi người trong chúng con chuẩn bị tâm hồn trong sáng hân hoan để đón Chúa đến trong chúng con và trong gia đình thân yêu của chúng con. Xin Chúa cho mỗi người trong chúng con biết yêu thương nhau, chia sẻ cho nhau tất cả tinh thần và vật chất để trọn niềm vui mừng đón chờ Chúa đến. Amen.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)
Suy Niệm 2: Êlia sẽ đến lại.
Ngày 10/11/1948, Đại hội đồng Liên hiệp quốc đã long trọng công bố bản Tuyên ngôn nhân quyền. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, cộng đồng thế giới đã đảm nhận trách nhiệm quảng bá và bênh vực quyền con người như một nghĩa vụ trường kỳ. Gia nhập Liên hiệp quốc có nghĩa là ký tên vào bản tuyên ngôn này và đương nhiên cam kết bênh vực quyền con người.
Thật ra, chỉ Thiên Chúa là Đấng có thể ban cho con người quyền và phẩm giá được làm người mà thôi. Trong tác phẩm: “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng” Đức Gioan Phaolô II đã viết:
“Thật hiển nhiên là quyền con người đã được Đấng sáng tạo ghi khắc trong trật tự của công cuộc sáng tạo. Như vậy chúng ta không thể nói đến những ban nhượng từ phía các tổ chức của con người. Những tổ chức này không làm gì khác hơn là diễn tả những gì chính Thiên Chúa đã ghi khắc trong trật tự Ngài đã tạo dựng: trong lương tâm hay trong quả tim con người như Phaolô đã giải thích trong thư Rôma. Tin Mừng là sự khẳng quyết trọn vẹn nhất về mọi quyền con người. Không có Tin Mừng, chúng ta rất dễ xa lạc với chân lý về con người. Thật thế, Tin Mừng cho thấy các luật thần linh đang bảo toàn trật tự luân lý của vũ trụ và củng cố nó, nhất là qua cuộc Nhập thể. Con người là ai mà Con Thiên Chúa mặc lấy bản tính con người. Con người phải là ai nếu Con Thiên Chúa đã phải trả một giá đắt nhất cho phẩm giá của nó. Mỗi năm, phụng vụ diễn tả sự thán phục sâu xa của mình khi chiêm ngắm chân lý và mầu nhiệm này trong lễ Giáng sinh cũng như trong đêm Vọng Phục Sinh. “Ôi tội hồng phúc vì ngươi đã mang lại cho chúng ta Đấng Cứu chuộc cao cả”. Đấng Cứu chuộc khẳng quyết quyền con người bằng cách tái lập sự toàn ven của phẩm giá mà con người đã lãnh nhận khi Thiên Chúa tạo dựng nó theo và giống hình ảnh Thiên Chúa.
Những lời trên đây giúp chúng ta hiểu được sứ điệp Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu nói đến Êlia, Gioan Tẩy giả và chính thân phận của Ngài. Êlia là hiện thân của một cuộc tranh đấu không ngơi nghỉ cho công bằng và quyền con người, Ngài mở ra một thế hệ các tiên tri luôn lên tiếng tố cáo những bất công và kêu gọi tôn trọng phẩm giá con người, nhất là những người cùng khổ, bị áp bức. Chúng ta cũng bắt gặp dung mạo ấy trong vị tiên tri cuối cùng của Cựu Ước là Gioan Tẩy giả. Lời kêu gọi sám hối của Gioan cũng là một cảnh cáo trước những bất công xã hội và vi phạm nhân quyền, nhất là những người thấp cổ bé miệng trong xã hội. Chúa Giêsu xuất hiện trong truyền thống tiên tri ấy. Ngài là tiên tri của các tiên tri, Ngài không những lên tiếng tố cáo bất công, mà còn đề cao quyền và phẩm giá cao trọng của con người nơi những kẻ bé mọn, bị đẩy ra bên lề xã hội. “Con Người cũng phải đau khổ như thế”. Cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá trước hết là một điển hình cho những vi phạm tôn giáo, nhân danh quyền lợi dân tộc và theo một hình thức tố tụng tùy tiện và độc đoán nhất, người ta đã kết án Ngài phải chết cách bỉ ổi nhất. Tuy nhiên, cũng qua cái chết ấy, Chúa Giêsu đã thể hiện phẩm giá cao cả của con người.
Chân lý của con người đã được thể hiện trong cái chết của Chúa Giêsu. Cái chết ấy là một lời ngỏ của Thiên Chúa với con người. Con người cao cả đến độ Thiên Chúa đã thí ban người Con Một của Ngài. Dù muốn hay không, không ai chối cãi được rằng ý niệm về nhân quyền như được đề cao trong bản Tuyên ngôn nhân quyền đã cắm rễ sâu trong mầu nhiệm nhập thể và cứu chuộc của Kitô giáo. Người ta không thể hiểu và chấp nhận phẩm giá cũng như các quyền con người, nếu không nhìn nhận nền tảng là con người đã được tạo dựng theo và giống hình ảnh Thiên Chúa và được cứu chuộc bằng chính cái chết của Chúa Giêsu.
Ước gì cái nhìn ấy luôn là động lực thúc đẩy các kitô hữu nhìn nhận và tôn trọng phẩm giá và quyền con người trong cuộc sống từng ngày nhất là phẩm giá và quyền của những người cùng khổ bị đẩy ra bên lề xã hội.
Suy Niệm 3: Tranh cãi của luật sĩ
Nhưng Thầy nói cho anh em biết: Ông Ê-li-a đã đến rồi mà họ không nhận ra, lại còn xử với ông theo như ý họ muốn. Con Người cũng sẽ phải đau khổ vì họ như thế.” Bấy giờ các môn đệ hiểu Người có ý nói về ông Gioan Tẩy Giả. (Mt. 17, 12-13)
Dân Ít-ra-en cứ tưởng rằng Thiên Chúa sẽ sai Ê-li-a đến dọn đường cho Đấng Thiên sai. Ma-la-ki-a, vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước đã viết: “Đây Ta sai Ê-li-a làm sứ giả đến trước ngày quang minh chính đại lạ lùng của Đức Chúa. Ông sẽ hướng con tim của cha ông về cùng con cháu, và hướng con tim của con cháu về những con tim của cha ông kẻo Ta đến chúc dữ xứ này” (3, 23-24). Điều gì sẽ xảy ra nếu lời tiên tri này không thực hiện?
Chính lối tranh luận về lời tiên tri trên mà người ta thường phi bác thái độ cứu thế của Đức Giêsu. Người đã sẵn sàng mất thời gian chịu đựng cách phi thường lối sống cuồng tín lầm lẫn đáng sợ đó.
Đối với môn đệ, Người quả quyết cho các ông biết rằng Ê-li-a đã đến và đã phục hưng tất cả, nhưng Người thêm rằng: Người ta đã không nhận biết ông và còn xử tệ với ông như đã hãm hại tất cả các tiên tri. Ông đã san phẳng những con đường, đã lấp đầy những thung lũng, đã bạt thấp những núi đồi … Ông đã loan báo Đấng đến sau ông. Ngài lớn hơn ông, cầm sàng sẵn trong tay, xẩy sạch các hạt lúa phơi trong sân, đốt sạch rơm rạ, đưa cất những lúa tốt vào kho lẫm của Thiên Chúa … Bấy giờ các môn đệ hiểu Người nói về Gioan tẩy giả.
Đức Giêsu nói về các luật sĩ rằng họ đã không nhận ra dấu chỉ của thời đại, nên họ không thể nhận ra đặc tính của Đấng Cứu thế. Cho nên Con Người sẽ phải chịu khốn khổ bởi họ.
Nếu các luật sĩ cố chấp không hiểu, thì các môn đệ đã hiểu sứ vụ của Người và các ông bắt đầu tìm hiểu lời tiên báo về thập giá.
Chúng ta dễ thấy bực mình về những rắc rối của luật sĩ, vậy chúng ta cần phải thi hành lời Chúa để đáp lại những lý luận của những kẻ mê muội đó. Đức Giêsu đã không ngừng rao giảng sự cứu độ cho cả những tối dạ không biết suy nghĩ đó. Người cũng không ngừng bị cám dỗ chỉ nói cho những kẻ đón nhận lời Người thôi. Chúng ta tuy vào số những người hiểu lời Chúa, nhưng lại nhốt lời Chúa như nhốt tù, không lo sống và rao giảng lời Chúa.
G.M
Suy Niệm 4: ĐAU KHỔ VÌ SỨ VỤ (Mt 17,10-13)
Trong Mùa Vọng, người được nhắc nhiều nhất chính là Gioan Tẩy Giả. Bởi vì Ngài vừa là vị tiên tri cuối cùng của thời Cựu Ước, vừa là người loan báo, chuẩn bị dọn đường trực tiếp cho Đấng Cứu Thế. Có thể nói: Gioan Tẩy Giả là vị tiên tri kết thúc thời Cựu Ước, và khai mào cho thời Tân Ước.
Mặc dù ngài là người sống trong sa mạc, tuy nhiên, những lời giảng của ngài đã lay động nhiều tâm hồn, và ngày càng đông người đến để xin thụ huấn.
Sứ mạng của Gioan đến là để canh tân các tâm hồn, kêu gọi sám hối để được ơn cứu độ của Đấng Cứu Thế. Sứ mạng này cũng chính là của Êlia thời Cựu Ước.
Thật vậy, Êlia đến để loan báo về tình thương của Thiên Chúa trên dân Người, ngài cũng trở thành trung gian để khẩn cầu lòng thương xót của Thiên Chúa, làm nguôi cơn thịnh nộ của Người. Ngài còn đóng vai trò làm người giao hòa giữa mọi người với nhau, xây dựng sự hiệp nhất và bình an trong xã hội. Đến thời Gioan cũng vậy. Ông đến để kêu gọi dân quay trở lại đường chính nẻo ngay để chuẩn bị tâm hồn, dọn lòng thanh sạch để đón mừng Đức Giêsu đến. Hai con người nhưng cùng chung một sứ mạng. Hai thời điểm, nhưng cùng hướng về một mục đích. Vì thế, nếu Êlia đã phải chịu bách hại vì sứ vụ, thì Gioan cũng không thoát khỏi cảnh tù đầy và bị giết chết. Đặc biệt, chính Đức Giêsu, Ngài cũng đồng số phận với các tiên tri khi thực thi sứ mạng cứu chuộc nhân loại.
Điều này đã được Đức Giêsu nhắc lại trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài nói: “Êlia đã đến rồi, và họ không nhận biết ông, nhưng đã đối xử với ông như ý họ. Cũng vậy, Con Người sẽ phải đau khổ bởi họ".
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sám hối, ăn năn vì những lỗi lầm thiếu sót của chính mình.
Noi gương Gioan Tẩy Giả, sống cuộc sống hy sinh để làm gương cho dân chúng noi theo. Đồng thời, chia sẻ bác ái cho những người khó khăn. Sẵn sàng loan báo Tin Mừng của Chúa cho mọi người bằng nhiều cách, nhất là bằng gương sáng.
Nếu có phải nguy hiểm đến tính mạng thì hãy nhớ rằng: đây chính là số phận của Êlia, Gioan Tẩy Giả và của Đức Giêsu cũng như những môn đệ của Ngài trên khắp thế giới.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết noi gương thánh Gioan Tẩy Giả mà hăng say vì sứ vụ, sẵn sàng dấn thân vì Chúa. Ước mong sao Mùa Vọng này, chúng con có được một tâm hồn mới, nhờ sự sám hối chân tình để xứng đáng đón mừng đại lễ Giáng Sinh sắp tới. Amen.
Ngọc Biển
Suy niệm 5:
Các nhà thông luật, dựa trên ngôn sứ Malakhi,
nói rằng Êlia phải đến trước để dọn đường cho Chúa (c. 10),
để “đưa tâm hồn cha ông trở lại với con cháu,
và đưa tâm hồn con cháu trở lại với cha ông” (Ml 3, 1. 24).
Đức Giêsu nhất trí với họ, nhưng nhấn mạnh:
“Êlia đã đến rồi, và họ đã không nhìn nhận ông,
nhưng đã xử với ông theo ý họ muốn” (c. 12a).
Theo Đức Giêsu, chẳng cần phải đợi Êlia nữa.
Gioan Tẩy giả chính là Êlia (c. 13).
Gioan đã đến để chỉnh đốn mọi sự (c. 11).
Đời ông là một tiếng kêu to trong hoang địa.
Ông mời mọi người sinh hoa trái diễn tả lòng sám hối ăn năn.
Dân chúng đã đổ xô đến với ông như đến với một ngôn sứ,
để thú tội và nhận phép rửa của ông ở sông Giođan.
Ông trở nên nổi tiếng đến độ có người tưởng ông là Đấng Mêsia.
Gioan đã không bao giờ nhận mình là Đấng Cứu thế.
Ông chỉ xin được cúi xuống cởi dây giày
cho Đấng đến sau ông, nhưng cao trọng hơn ông.
Kết cục của đời ông là bị cầm tù (Mt 11, 2),
và sau đó là một cái chết bi đát và đột ngột (Mt 14, 10-12).
Đầu ông rơi dưới tay của Hêrôđê, người vừa sợ, vừa kính nể ông.
Vào Mùa Vọng, chúng ta lại được Đức Giêsu nhắc đến cái chết
của người đã giới thiệu Ngài cho chính đồng bào của mình.
Gioan đã chu toàn nhiệm vụ của tiếng, nhưng ông không phải là lời.
Ông là ngọn đèn, nhưng không phải là ánh sáng (Ga 1, 8; 5, 35).
Bạo quyền có thể làm cho tiếng phải im, ngọn đèn phải tắt,
nhưng lời chứng của Gioan thì vẫn còn mãi trong dòng lịch sử cứu độ.
Ông đã sống một đời sống tuyệt vời, hoàn toàn xóa mình,
nên nhân loại hôm nay, qua ông, có thể tin vào Đức Giêsu.
Êlia đã chịu nhiều đau khổ.
Gioan và Đức Giêsu cũng không được nhìn nhận (c.12b).
Số phận của các ngôn sứ trong mọi thời đại đều như nhau.
Họ chịu khổ vì phải nói hay làm một điều gì đó đòi người ta thay đổi.
Họ gây khó chịu cho những người có quyền thế vững vàng.
Nhìn kết cục của đời ông Gioan và Đức Giêsu ta thấy khó tin.
Một người chết vì bị xử trảm, một người chết vì bị đóng đinh.
Khó mà tin được một vị là Êlia, vị kia là Mêsia.
Êlia phải quyền thế hơn nhiều, Mêsia thì không hề nếm mùi thất bại.
Để đón lấy một Êlia như Gioan, đón lấy một Mêsia như Giêsu,
phải bỏ những định kiến khô cứng, vì Chúa đi đường chẳng ai ngờ.
Thế giới hôm nay vẫn cần những ngôn sứ như Gioan,
làm chứng bằng lời giới thiệu và bằng đời sống.
Lời giới thiệu hấp dẫn nhờ đời sống thanh liêm.
Đời sống thu hút nhờ lời giới thiệu soi sáng.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con dám hành động
theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.
Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện,
vì xác tín rằng
Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con,
Chúa ngàn lần quảng đại hơn con,
và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.
Lạy Chúa Giêsu trên thập giá,
xin cho con dám liều theo Chúa
mà không tính toán thiệt hơn,
anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ,
can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim,
và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.
Ước gì khi dâng lên Chúa
những hy sinh làm cho tim con rướm máu,
con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt
của người một lòng theo Chúa. Amen
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
15/12 Chủ quan, phiến diện
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Chủ quan, phiến diện.
Thứ Sáu tuần 2 mùa vọng.
"Họ không nghe lời Gioan và lời Con Người".
LỜI CHÚA: Mt 11, 16-19
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Ta sẽ so sánh thế hệ này với ai? Họ giống như bọn trẻ ngồi nơi phố chợ, gọi lũ trẻ khác mà rằng: "Chúng tôi thổi sáo, sao các bạn không múa nhảy; chúng tôi than vãn, sao các bạn không khóc lên!" "Vì Gioan đến, không ăn không uống, thì họ nói: "Ông ta phải quỷ ám!" Con Người đến, ăn uống giống như thường, thì họ nói: "Ðó là người mê ăn mê uống, là bạn của quân thu thuế và những kẻ tội lỗi". Nhưng sự khôn ngoan được biện minh bằng các công việc của mình".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Pharisiêu cứng lòng
Một vị quan văn nổi tiếng vào thời nhà Tống ở Trung Quốc có câu chuyện Giáp Ất tranh luận như sau:
Giáp hỏi Ất: - Nếu lấy đồng đúc thành chuông, đẽo gỗ làm cái dùi, lấy dùi đánh vào chuông, nó lêu boong boong. Vậy tiếng kêu là do gỗ hay do đồng.
Ất đáp:
- Lấy dùi gõ vào tường vách không kêu, gõ vào chuông lại kêu. Vậy tiếng kêu ở đồng.
Giáp lại hỏi: - Lấy dùi gõ vào tiền trinh bằng đồng không kêu, thế thì có chắc tiếng kêu là do ở đồng mà ra không?
Ất lại đáp:
- Ðồng tiền đặc, cái chuông rỗng. Vậy tiếng kêu là do các đồ vật rỗng mà ra.
Giáp hỏi tiếp: - Lấy gỗ, lấy đất sét làm thành chuông đánh cũng chẳng nghe tiếng kêu boong boong, thế thì chắc gì tiếng là do các vật rỗng mà ra.
Cuộc tranh luận giữa Giáp và Ất sẽ kéo dài mãi thì chẳng thể nào có một giải đáp đúng nghĩa nếu họ chỉ giải đáp một cách phiến diện và chủ quan, chỉ giải quyết vấn đề theo từng góc cạnh riêng lẻ. Tâm trạng chủ quan và cái nhìn phiến diện của họ phần nào cũng giống như cái nhìn của người Do Thái được Chúa Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng mà thánh Matthêu ghi lại.
Thật vậy, sống trong một thế giới đầy màu sắc và ánh sáng thì chẳng ai lại không lo sợ và đề phòng về chứng tật mù lòa. Nhìn người mù không ai mà lại không cảm thấy xót thương, động lòng trắc ẩn, vì mắc phải bệnh mù con người gần như mất một phân nửa cuộc đời, và không những họ mất hết niềm vui do cái nhìn đem lại mà trước một sự việc họ cũng chẳng hiểu được tường tận nếu chỉ đón nhận bằng đôi tai, chưa nói đến những điều đòi phải được đón nhận bằng đôi mắt.
Tuy nhiên, dù cho thiệt thòi như vậy bệnh mù lòa vẫn chưa nguy hiểm bằng căn bệnh của những người Do Thái được Chúa Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay, đó là óc phê phán chủ quan và họ cứ tưởng mình sáng hóa ra lại chẳng thấy gì. Vì nếu người mù biết mình tối thì họ sẽ cố gắng tìm hiểu sự việc trước mắt khi không nhìn được sự khác. Còn người chủ quan và phiến diện thì muôn đời sẽ tăm tối trước chân lý, vì khi chỉ nhìn được một khía cạnh của chân lý mà họ cứ tưởng là đã đạt được chân lý để rồi cứ thế mà cố chấp trước những vẻ đạp của chân lý. Họ chẳng khác gì năm người mù đi xem voi, người thì cho con voi là cái cột đình to tướng, kẻ lại nói con voi là chiếc quạt khổng lồ, người khác lại cho con voi là quả núi đồ sộ.
Khi thánh Gioan Tẩy Giả đến rao giảng ơn cứu độ, người không ăn uống thì được gán cho nhãn hiệu là bị quỉ ám. Ðức Kitô đến, Người ăn uống như bình thường thì bị kết án là người mê ăn uống, là bạn của quân thu thuế và tội lỗi. Họ chỉ hiểu ơn cứu độ theo quan điểm riêng của mình, chỉ nhìn Ðấng Messia theo cái nhìn phiến diện nên người Do Thái đã khép chặt cửa lòng trước lời mời gọi của ơn cứu rỗi. Với cái nhìn phiến diện đã nảy sinh những phe phái chủ quan chẳng khác gì bọn trẻ nít ngồi nơi phố chợ: "Chúng tôi thổi sáo sao các bạn không nhảy múa. Chúng tôi than vãn sao các bạn không than khóc?" Chính vì thế mà ơn cứu độ đến và qua đi mà người Do Thái chẳng nhận ra: "Ngài đã đến trong nhà Ngài nhưng người nhà đã không nhận ra Ngài, không đón tiếp Ngài".
Trong Giáo Hội ngày nay cũng không thiếu những trường hợp mắc phải căn bệnh của người Do Thái. Ðức Kitô được trình bày trọn vẹn trong Kinh Thánh, qua Phụng Vụ và qua Giáo Hội, thế mà người ta lại giới hạn Ðức Kitô trong cái nhìn của họ. Họ cũng giới thiệu Ðức Kitô cho người khác nhưng đây chỉ là một Ðức Kitô bị bóp méo cho hợp với chủ trương của họ, có lợi cho họ. Và nếu có một ai giới thiệu Ðức Kitô khác với chủ trương và đi ngược lại với quyền lợi thì họ sẵn sàng kết án hoặc bôi nhọ làm sao để đừng mất đi quyền lợi của mình.
Lạy Chúa, khi nhìn lại bản thân chắc chắn không ít lần con đã hành động như người Do Thái, nhìn Chúa bằng một cái nhìn phiến diện. Chỉ đón nhận Thiên Chúa hợp với sở thích, quyền lợi, giới thiệu cho người khác hoặc Thiên Chúa bị uốn nắn theo những điều con nghĩ tưởng, và nếu có điều nào khác quyền lợi của con, con sẽ sẵn sàng kết án dù cho đó là chân lý, là sự thật.
Trong Mùa Vọng này, xin Chúa cho con được biết vượt qua các thành kiến hẹp hòi mà vươn lên khỏi những ràng buộc của quyền lợi để rộng mở tâm hồn đón tiếp Chúa, vì Chúa đang đến trong từng giây phút qua các biến cố cuộc đời cũng như qua người anh em bên cạnh con.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)
Suy Niệm 2: Chủ quan, phiến diện.
Âu dương tử, một học giả Trung hoa có viết câu chuyện sau:
Giáp hỏi Ất: Lấy đồng đúc thành chuông, đẽo gỗ làm cái dùi, lấy dùi đánh vào chuông, thì tiếng kêu phát ra đó do gỗ hay do đồng?
Ất đáp: Lấy dùi gõ vào tường vách thì không kêu, mà gõ vào chuông lại kêu, vậy tiếng kêu do bởi đồng.
Giáp lại hỏi: Lấy dùi gõ vào đồng tiền bằng đồng thì không kêu, vậy có chắc tiếng kêu là do đồng chăng?
Ất đáp: Đồng tiền đặc, cái chuông rỗng, vậy tiếng kêu phát ra là do các vật mỏng.
Giáp hỏi tiếp: Lấy gỗ, lấy đất sét khoét làm chuông, đánh lên đâu có boong boong, thế thì có chắc gì tiếng kêu phát ra là do đồ vật rỗng?
Cuộc tranh luận nếu cứ đà ấy sẽ kéo dài lẩn quẩn và chẳng có câu giải đáp nào thỏa đáng, nếu họ chỉ nhìn vấn đề một cách chủ quan, phiến diện, chỉ giải quyết vấn đề từng góc cạnh riêng rẽ.
Sống trong một thế giới đầy màu sắc và ánh sáng, thì ai cũng lo đề phòng chứng tật mù lòa. Nhìn người mù, ai lại không xót thương và trắc ẩn. Mắc phải mù lòa, con người cảm thấy như mất nửa cuộc đời. Không những mất niềm vui do cái nhìn mang lại, họ còn chịu bao thiệt thòi khi không cảm nhận được những sự việc xảy ra chung quanh.
Tuy nhiên, bệnh mù lòa vẫn chưa nguy hiểm cho bằng căn bệnh của người Do Thái như được nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay, đó là tâm trạng chủ quan và cái nhìn phiến diện. Bởi vì nếu người mù biết mình tối họ sẽ cố gắng hiểu sự vật trước mắt bằng những giác quan khác; còn người chủ quan, phiến diện sẽ muôn đời tăm tối trước chân lý, chỉ nhìn được một khía cạnh của chân lý, họ tưởng mình đã đạt tới chân lý, để rồi cứ thế trở thành cố chấp. Gioan Tẩy giả đến rao giảng ơn cứu độ, ngài không ăn không uống thì bị gán cho là người bị quỷ ám; Chúa Giêsu đến, Ngài hòa nhập với mọi người, ăn uống bình thường, thì bị chê bai là người mê ăn uống, bạn bè với quân thu thuế và tội lỗi.
Chỉ hiểu ơn cứu độ theo quan điểm riêng của mình, chỉ hiểu Đấng Mêsia theo cái nhìn phiến diện, người Do Thái đã khép lòng trước lời mời gọi hoán cải để đón nhận ơn cứu độ. Ơn cứu độ đến và qua đi mà người Do Thái chẳng có cơ may nhận ra và đón tiếp.
Trong Giáo Hội hôm nay cũng không thiếu trường hợp mắc phải căn bệnh của người Do Thái xưa. Chúa Kitô được phô bày trong Kinh Thánh qua phụng vụ, thế mà người ta lại giới hạn Ngài trong cái nhìn của họ, hợp với chủ trương của họ, và nếu có ai tin thờ một Chúa Kitô đi ngược với quan điểm của họ, thì họ sẵn sáng phủ nhận, kết án, bôi nhọ.
Trong Mùa vọng này, chúng ta xin Chúa cho chúng ta biết vượt khỏi thiên kiến và ràng buộc của quyền lợi, để đón nhận Chúa đang đến qua từng biến cố cuộc đời và nơi mỗi người anh em.
Suy Niệm 3: Một trái tim cảm thương
Con Người đến, cũng ăn cũng uống, thì thiên hạ bảo: “Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi.” Nhưng đức Khôn Ngoan được chứng minh bằng hành động. (Mt. 11, 19)
Một số người luôn luôn có tính ngang ngược. Tin mừng hôm nay vạch cho chúng ta thấy tính ngang ngược của chính chúng ta. Nếu có ai đi lễ nhiều, chúng ta nghĩ xấu họ là kẻ tốt thế đó, chẳng đứng đắn đâu. Nếu có ai siêng năng xưng tội rước lễ, thì bị coi là đạo đức ủy mị. Chúng ta luôn luôn bài bác người khác về bất cứ cái gì.
Gần đây, tôi gặp một gã thanh niên khổ sở vì một cô gái trẻ yêu thích bạn nó hơn nó. Nó không còn vui gì khi gặp bạn nó. Nó không còn trái tim muốn nhảy nhót nữa.
Và khi xảy đến một tai họa, một vụ giết người, hay có ai chết, có ai bệnh, có ai bị trừng phạt … chúng ta sẵn sàng nói: đó không phải là việc của tôi, tôi bận việc, tôi bị đau, kệ thây nó, nó phải tự lo lấy.
Chúng ta trở nên kẻ hoặc ghen ghét, hoặc lãnh đạm, nhưng lại không dám nói thẳng thắn. Thế là chính chúng ta đang bị Tin mừng phanh phui về chúng ta.
May thay, Tin mừng vẫn mời gọi chúng ta đi vào con đường hạnh phúc: “Phúc cho những ai biết cảm thương. Phúc cho trái tim biết thương xót”.
Đó là hiến chương nước trời, của triều đại đáng được mong chờ và đáng được loan báo trong mùa vọng này. Để được như thế, cần phải tước bỏ cái tôi, cần phải có con tim cảm thương nhạy bén: “Vui với người vui, khóc với người khóc”, sẵn sàng nâng đỡ nỗi cực khổ của người khác.
Ai trong các người lân cận của bạn, đã sống trong hoàn cảnh sung sướng hay khổ sở trong những ngày này? Họ cần bạn chia sẻ niềm vui nỗi buồn của họ. Họ cần tấm lòng thông cảm nhạy bén của bạn.
Và trong lễ tế Thánh Thể này, chúng ta có thể dự phần vui mừng của chính Thiên Chúa được không? Hãy vui mừng sung sướng vì Ngài sống trong Con yêu dấu của Ngài?
Hãy ngợi khen Thiên Chúa, đã cho phép chúng ta được vui sướng với Ngài, đã cho phép chúng ta được thông phần nguồn hoan lạc của Ngài.
J.Y.G
Suy Niệm 4: TẠI SAO...? (Mt 11,16-19)
Tin Mừng hôm nay tiếp nối bài Tin Mừng trước. Nếu hôm qua, Đức Giêsu khen ngợi sự xuất hiện và vai trò cũng như sứ mạng của thánh Gioan Tẩy Giả, thì hôm nay, Ngài khiển trách nặng nề đối với các vị lãnh đạo tôn giáo thời của Gioan. Tại sao vậy? Thưa vì Gioan đã kêu gọi dân chúng sám hối để đón chờ Đấng Cứu Tinh đến. Dân chúng đã tỏ lòng sám hối, xin chịu phép rửa thanh tẩy, còn những người lãnh đạo thì cứng lòng, ích kỷ và không chịu tin. Vì thế, Đức Giêsu đã mượn một trò chơi hát đối của trẻ em thời đó, nhằm diễn tả về thế hệ này vì sự cố chấp, kém tin của họ:
Các trẻ em thường chia làm hai phe. Bên xướng bên đáp. Nếu bên xướng hát những điệu buồn hay đưa đám thì bên đáp phải khóc lóc, than vãn..., còn nếu bên xướng hát lên những điệu nhạc vui, thì bên kia phải nhảy múa hân hoan....
Nếu đôi bên không hiểu ý nhau thì cuộc chơi mất vui. Tuy nhiên, trong thực tế, không phải lúc nào bọn trẻ cũng thành công trong trò chơi này, vì gặp phải những “đầu biếu” cố tình chọc ngoáy làm cho cuộc chơi mất vui. Vì vậy, bên chủ động bực tức nên mới nói: "Chúng tôi thổi sáo, sao các bạn không múa nhảy; chúng tôi than vãn, sao các bạn không khóc lên!". Tệ hơn nữa là nhóm trẻ không chịu chơi đó lại còn trách móc đủ điều....
Sự xuất hiện của Gioan Tẩy Giả cũng vậy. Lời mời gọi của ngài không được giới lãnh đạo đáp ứng, mà ngược lại, họ còn coi ông như là: người bị quỷ ám. Đức Giêsu cũng chung số phận với Gioan vì Ngài cũng đã từng bị họ lên án là người “mê ăn mê uống, là bạn của quân thu thuế và những kẻ tội lỗi".
Tin Mừng hôm nay được đọc trong bối cảnh của Mùa Vọng, hẳn sứ điệp Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy noi gương dân chúng thời Gioan khi xưa là: hãy hoán cải đời sống, ăn năn sám hối, trở về với Chúa trong phẩm giá người Kitô Hữu, để chuẩn bị tâm hồn đón mừng đại lễ Giáng Sinh. Bên cạnh đó, Lời Chúa còn mời gọi chúng ta hãy thực thi tinh thần sám hối cách thiết thực hơn nữa chính là những việc hy sinh, hãm mình, khổ chế, làm việc bác ái…, để nêu gương sáng cho hối nhân sám hối trở về với Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con biết đáp lại lời mời gọi của thánh Gioan để ăn năn sám hối, canh tân đời sống, ngõ hầu tâm hồn chúng con được xứng đáng đón tiếp chính Chúa Giáng Sinh hằng ngày qua việc đón nhận chính Mình và Máu Chúa. Amen.
Ngọc Biển
Suy niệm 5:
Đức Giêsu ví những người thuộc thế hệ của Ngài
với lũ trẻ ngồi chơi ngoài chợ (cc. 16-17).
Một nhóm bày trò chơi đám cưới,
thổi sáo, thổi kèn để mong nhóm kia nhảy múa.
Nhưng nhóm kia đã chẳng tham gia.
Nhóm này bèn chơi trò đám ma, hát những bài ca buồn não nuột.
Nhưng nhóm kia cũng không giả vờ than khóc.
Thế hệ của Đức Giêsu cũng có nét tương tự như lũ trẻ.
Khi Gioan Tẩy giả đến mời gọi họ sám hối ăn năn,
sự khổ hạnh của vị ngôn sứ này đã khiến họ từ khước (Lc 7, 30).
Đơn giản vì họ không thích khóc than hay hoán cải.
Lối sống của Gioan phù hợp với lời ông giảng về Nước Trời gần đến.
Nhưng lối sống khác thường ấy lại bị xem là một triệu chứng tâm thần.
Người ta đã coi ông là bị quỷ ám (c. 18),
nên cuối cùng đã không tin ông (Mt 21, 32).
Ngược lại, khi Đức Giêsu đến với thế hệ này,
Ngài đã không mang dáng dấp của một ẩn sĩ nơi hoang địa.
Ngài đã sống như một người bình thường, ăn uống bình thường.
Lối sống của Ngài phản ánh Tin Mừng Ngài rao giảng,
một Tin Mừng đem lại niềm vui và sự giải thoát.
Ngài tiếp đón những ai bị xã hội loại trừ.
Ngài ăn chung một bàn với những tội nhân cần xa tránh.
Chính trong bầu khí vui tươi, ấm áp của bữa ăn,
họ cảm nhận được tình thương tha thứ của Thiên Chúa và hoán cải.
Tiếc thay, Đức Giêsu cũng bị nhiều người từ khước như Gioan.
Ngài bị coi là kẻ chỉ biết ăn với nhậu (c. 19).
Cả Gioan lẫn Đức Giêsu đều bó tay trước sự cố chấp của thế hệ này.
Sống thế nào cũng không chiều được họ.
Khi sợ thay đổi chính mình, ai cũng cố tìm ra lý do để biện minh.
Để khỏi phải đối diện với chân lý, con người trở nên ngụy biện.
Đức Giêsu dám ví thế hệ của Ngài với đám con nít ngồi ngoài chợ.
Ngài sẽ ví thế hệ chúng ta với ai?
Nơi một số nước, người ta cho phép ly dị, phá thai, hôn nhân đồng tính.
Ở nhiều nơi vẫn còn sự kỳ thị về giới tính, màu da, tôn giáo, chủng tộc.
Bao giờ người ta cũng tìm đủ lý do để làm những điều trên.
Nguy cơ của con người thuộc mọi thời đại, là ở lại trong sự ấu trĩ,
khăng khăng với những ngang bướng ích kỷ của mình.
Cả Gioan và Đức Giêsu đều đã bị loại trừ và bị giết.
Mùa Vọng mời chúng ta dám tin vào lời chứng của Gioan và Giêsu.
Tin luôn đòi chúng ta hoán cải, không được sống như xưa.
Tiếng kêu từ hoang địa của Gioan kéo ta ra khỏi mọi dính bén trần tục.
Thái độ bao dung nơi bàn ăn của Giêsu mời tội nhân ra khỏi bóng tối.
Làm sao con người hôm nay nghe được tiếng kêu của Gioan và Giêsu?
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Thánh Thần, xin ban sức sống cho chúng con.
Xin cho cuộc đời Kitô hữu của chúng con
đừng rơi vào sự đơn điệu nghèo nàn,
vào những lối mòn quen thuộc, nhưng xin canh tân
và tái tạo chúng con mỗi ngày.
Xin nuôi chúng con bằng những thức ăn mới,
cho chúng con khám phá ra những chiều sâu khôn dò của Đức Kitô
và ý nghĩa thâm thúy của Tin Mừng.
Lạy Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống,
thế giới hôm nay luôn bị đe dọa
bởi bạo lực, khủng bố, chiến tranh; mạng sống con người bị coi rẻ.
Xin cho chúng con biết say mê sự sống,
và gieo vãi sự sống khắp nơi.
Ước gì Chúa ban cho nhân loại một lễ Hiện Xuống mới
để con người có thể hiểu nhau hơn
và đón nhận nhau trong yêu thương. Amen
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
14/12 Gioan Tẩy giả được Chúa khen
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Gioan Tẩy giả được Chúa khen.
Thứ Năm tuần 2 mùa vọng – Thánh Gioan Thánh Giá, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
"Chưa từng có ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả".
* Thánh Gioan thánh giá chào đời năm 1542 ở Phontivêrốt, nước Tây ban Nha. Sau một ít năm sống trong dòng Cácmen, và được thánh nữ Têrêxa thành Avila khuyến khích, thánh Gioan đã muốn thực hiện việc cải cách trong dòng. Điều này khiến thánh nhân phải chịu đựng muôn vàn đau khổ, thử thách. Người qua đời tại Ubêđa, nổi tiếng là một bậc khôn ngoan, thánh thiện, như chúng ta có thể nhận thấy qua các tác phẩm của người.
LỜI CHÚA: Mt 11, 11-15
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Ta bảo thật các ngươi, trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất hiện một ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả, nhưng người nhỏ nhất trong nước trời lại cao trọng hơn ông. Từ thời ông Gioan Tẩy Giả đến giờ, nước trời phải dùng sức mạnh mà chiếm lấy, và những kẻ mạnh mẽ can đảm mới chiếm được. Tất cả các tiên tri và lề luật đã tuyên sấm cho đến Gioan và nếu các ngươi muốn hiểu, thì chính Gioan là Elia, kẻ phải đến. Ai có tai, thì hãy nghe!"
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Người Ðược Chúa Khen
Nhìn vào các chi tiết đã xảy ra cho Gioan Tẩy Giả mà Thiên Chúa đã làm, chúng ta thấy cũng là một chuyện lạ lùng. Zacharia, cha của Gioan Tẩy Giả, là người thuộc ban Abina, tức là một tư tế phục dịch trong Ðền Thờ; và Elizabeth, mẹ của ngài, thuộc dòng dõi Aaron. Cả hai ông bà là người công chính trước mặt Thiên Chúa, ăn ở tuân giữ mọi giới răn và lề luật của Ngài. Nhưng cả hai người không có con và tuổi đã già cả. Zacharia đến phiên mình vào dâng hương trong Ðền Thờ khi trúng thăm. Khi vào Ðền Thờ dâng hương, ông thấy thiên thần Gabriel hiện ra bên phải hương án và cho ông biết: Bạn ông sẽ sinh một con trai và tên con trẻ sẽ gọi là Gioan Tẩy Giả, và con trẻ này sẽ nên cao trọng trước mặt Thiên Chúa, ngài sẽ không uống rượu và thức có men, sẽ được tràn đầy Thánh Thần ngay từ trong lòng mẹ, sẽ đem nhiều con cái Israel trở về cùng Chúa là Thiên Chúa. Và thiên thần Gabriel còn cho biết thêm: Con trẻ là người đi trước dọn đường cho Ðấng Cứu Thế đến.
Rồi khi Mẹ Maria đến thăm bà Elizabeth, lúc ấy bà đang mang thai Gioan Tẩy Giả được sáu tháng thì con trẻ trong lòng bà cũng đã nhảy mừng và được khỏi tội tổ tông.
Sau khi Gioan Tẩy Giả sinh ra, cả hai ông bà muốn đặt tên cho con trẻ là Gioan Tẩy Giả, nhưng bấy giờ Zacharia đang bị câm không nói được nên ông ra hiệu là đặt tên cho con trẻ là Gioan Tẩy Giả. Mặc dù mọi người trong dòng họ đều không bằng lòng, vì không ai trong họ hàng có tên đó.
Từ những sự kiện trên cho ta thấy Gioan Tẩy Giả được sinh ra một cách khác thường và khắp các miền núi phía Giuđêa lúc bấy giờ đều nghĩ thầm rằng: Con trẻ này rồi sẽ nên thế nào? Vì quả thực bàn tay Thiên Chúa đã ở với con trẻ này.
Ðiều đó đã được Chúa Giêsu xác nhận trong bài Tin Mừng hôm nay: "Thật, Ta bảo các ngươi hay, trong con cái do người nữ sinh ra chưa có ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả". Con người có lẽ ai cũng mong ước được như Gioan Tẩy Giả. Chúng ta cũng thấy trong một đoạn Tin Mừng khác, lúc Chúa Giêsu đang giảng dạy thì có một người đàn bà buột miệng nói rằng: "Phúc thay dạ đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú. Nhưng Chúa Giêsu lên tiếng::Ai nghe và giữ lời Chúa thì còn có phúc hơn nhiều". Hoặc chúng ta cũng thấy trong lúc Chúa Giêsu đang thi hành sứ mệnh công khai của Ngài, Mẹ Maria và các người thân thuộc tìm đến nghe, nhưng vì dân chúng quá đông không chen vào được, có mấy người thấy thế nói với Chúa Giêsu: "Kìa Mẹ và anh em Thầy đến tìm Thầy", Chúa Giêsu liền trả lời: "Ai là Mẹ Ta, ai là anh em Ta? Ðó là những kẻ nghe và giữ lời Ta".
Qua những lời trên, Chúa Giêsu cho chúng ta một cái nhìn mới, một ý nghĩa mới: thân thuộc, bà con bằng máu mủ không quan trọng cho bằng thân thuộc bà con thiêng liêng: "Ai theo Ta mà không từ bỏ cha mẹ anh em thì chưa xứng đáng là môn đệ Ta". Nói thế không phải chúng ta không tôn kính hay không yêu mến cha mẹ chúng ta, vì giới răn thứ tư trong Mười Ðiều Răn, Ðức Kitô dạy rằng: "Hãy thảo kính cha mẹ". Giới răn này nằm sau giới răn thứ nhất: "Thờ phượng Ðức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự".
Chúng ta đừng đặt nặng vấn đề gia đình, vấn đề tình thân thuộc máu huyết mà chúng ta quên mất việc thờ Thiên Chúa. Chúng ta cũng đừng tìm danh giá, giàu sang bên ngoài mà quên mất lương thực Thần Linh nuôi sống chúng ta, đó là Mình và Máu Chúa. Mình Máu Chúa nuôi sống phần hồn, lương thực Lời Chúa nuôi sống tinh thần chúng ta.
Từ Gioan Tẩy Giả trở về sau, tức là từ khi Chúa Giêsu Kitô đem ơn cứu rỗi của Thiên Chúa đến cho nhân loại thì Nước Trời phải dùng sức mạnh mới chiếm lấy được và kẻ nào mạnh mẽ can đảm mới chiếm được. Trước Chúa Kitô chưa ai có được ơn cứu rỗi cho đến khi Chúa Kitô chết trên Thánh Giá Ngài mới kéo tất cả mọi sự lên cùng Ngài. Ai muốn nhận được ơn cứu rỗi đó phải qua cửa hẹp, phải vác thập giá mình mà theo Chúa mới vào được Nước Trời, vì ngày nào có sự khốn khó của ngày ấy.
Theo Chúa để vào Nước Trời, chúng ta phải chiến đấu với chính bản thân mình, phải từ bỏ những đam mê, những thói quen không tốt, những việc làm không chính đáng, phải hy sinh cho người thân quen thuộc trong gia đình, cho tha nhân và làm tất cả những gì khi có thể để giúp đỡ người khác mới thực sự là dấn thân thi hành giới răn "Mến Chúa Yêu Người".
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn hiểu rõ được giá trị của sự yêu thương, tránh tìm những gì hào nhoáng bên ngoài nhưng thực sự sống cảm thông, yêu thương nhau và tha thứ khoan dung hơn để mong chờ Ðấng Cứu Thế đến. Amen.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)
Suy Niệm 2: Gioan Tẩy giả.
Lustiger là người Do Thái đã từng chứng kiến cảnh phân biệt chủng tộc và việc Đức quốc xã tiêu diệt người Do Thái. Là người Do Thái, nhưng có bạn là người Công giáo, một hôm theo bạn đến nhà thờ và từ đó muốn trở lại Công giáo. Anh muốn thuộc về Chúa và dâng hiến cuộc đời cho Chúa. Mặc dù ông bố không chấp thuận, nhưng anh nhất quyết đi tu để phục vụ người nghèo khổ, yếu đuối.
Năm 1954, thụ phong linh mục. Năm 1964 được chọn làm Giám mục và được đề cử về làm Tổng Giám mục Paris. Bị một số người bất bình phản đối, nhưng ngài vẫn kiên vững trong đức tin và quan tâm phục vụ mọi người.
Bài Tin Mừng hôm nay nói đến một con người đặc biệt, có sứ mệnh chuẩn bị tâm hồn người Do Thái đón nhận Chúa, con người ấy là Gioan Tẩy giả. Kể từ khi gặp Chúa Giêsu, nhất là từ khi bị Hêrôđê tống ngục, cố gắng quan trọng của Gioan là làm sao cho môn đệ của ông nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Thiên sai. Dù tống giam Gioan, nhưng Hêrôđê vẫn còn nể Gioan, nên cho ngài được liên lạc với bên ngoài, bằng chứng là các việc Chúa Giêsu làm đều đến được tai Gioan và các môn đệ vẫn được tiếp xúc với ngài. Chúa Giêsu cũng đã từng ca tụng Gioan với dân chúng đi theo và nghe Ngài giảng dạy. Bằng lối văn đặt câu hỏi dồn dập, Ngài nhấn mạnh đến một số đức tính của Gioan. Trước hết, là thái độ cứng rắn không chịu thua sự dữ: “Các người đi ra sa mạc để coi cái gì? Cây sậy rung trước gió ư?” Gioan không phải là cây sậy. Gioan đã dám đương đầu với sự xấu. Gioan không nể vua Hêrôđê khi khuyến cáo vua không được lấy vợ của người anh cùng cha khác mẹ với mình là Philip. Thứ đến là việc từ bỏ mọi sự để sống nghèo khó. Gioan không ăn mặc mịn màng và sống xa hoa. Gioan chỉ vận tấm da thú, ăn những thức ăn đơn sơ tìm được nơi rừng hoang, như châu chấu, mật ong. Sau cùng Chúa Giêsu nhấn mạnh đến sứ mệnh của Gioan: “Các người đi xem một tiên tri ư? Ta bảo các người: và còn hơn một tiên tri nữa”. Về ông đã có viết: “Này Ta sai sứ thần đi trước mặt ngươi để dọn đường cho ngươi”.
Tuy nhiên, nếu vai trò của Gioan cao trọng, thì Nước Trời còn cao trọng hơn, vì người nhỏ nhất trong Nước Trời còn lớn hơn Gioan. Sở dĩ Nước Trời có giá trị lớn lao vì có sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô. Nước Trời được mô tả như vương quốc của sức mạnh và chỉ những kẻ mạnh mới dành được phần thắng.
Ước gì chúng ta biết sống trọn vẹn ơn gọi của chúng ta và tìm gặp được Đức Giêsu là Đấng cứu độ và niềm vui của chúng ta nơi trần gian này.
Suy Niệm 3: Ngôn sứ Gioan Tẩy Giả
“Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông. Từ thời ông Gioan Tẩy Giả cho đến bây giờ, Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì sẽ chiếm được. Cho đến ông Gioan, tất cả các ngôn sứ cũng như Lề Luật đều đã nói tiên tri. Và nếu anh em chịu tin lời tôi, thì ông Gioan chính là Ê-li-a, người phải đến. Ai có tai thì nghe. (Mt. 11, 11-12)
Trong mùa vọng, hình ảnh Gioan tẩy giả nổi bật, ông là nhân vật tích cực hoạt động: rao giảng, loan báo, làm phép rửa, kêu gọi ăn năn trở lại. Người ta cảm thấy ông rất lo lắng, rất vội vã thúc bách khẩn trương: “Có Đấng đang đến, đang ở giữa các anh chị em, anh chị em hãy cải thiện con tim gấp lên … Chiếc rìu đã kề gốc cây”.
Gioan tẩy giả là ngôn sứ cuối cùng. Mọi người kéo đến với ông, đến với sứ điệp của ông. Quả thực suốt dòng lịch sử dân Ít-ra-en, những lời tiên tri đã lan sâu rộng và được tập trung vào một Đấng. Tất cả mọi hy vọng đều đổ dồn vào một Đấng: Đấng thực hiện lời giao ước. Ngày nay, chúng ta suy nghĩ và tự hỏi xem thời hạn của Gioan đã chấm dứt chưa?
Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu nói kẻ bé mọn nhất trong nước trời còn cao trọng hơn Gioan. Nghĩa là, một đàng, sứ mệnh của Gioan đã kết thúc vì có Đấng đã đến phục hưng nước Thiên Chúa. Nhưng đàng khác, nước trời còn chịu nhiều bạo lực, nước trời này chưa đến thời toàn hảo, Đức Kitô chưa được hoàn toàn biểu lộ. “Từ thời Gioan tới chúng ta ngày nay, nước trời phải chịu đau khổ vì bạo hành”. Chính vì thế, Gioan tẩy giả đã sát nhập với tất cả những ai khẩn cấp kêu gọi đổi mới tâm can trong thế giới đang chịu đau khổ vì bạo lực, như: chiến tranh do chủng tộc, chiến tranh do chủ thuyết, chiến tranh do nội chiến, chiến tranh do phân hóa quốc tế.
Gioan tẩy giả, một lần nữa, sát nhập với những người hô hào cần phải ăn năn trở lại với Đấng đến giải phóng, chỉ có Người mới có thể xây dựng công trình hòa bình toàn hảo thôi.
Còn chúng ta, dâng tế lễ Thánh Thể là tiếp tục vai trò của Gioan, vì tế lễ Thánh Thể là tuyên xưng sự hiện diện của Chúa Giêsu trong cộng đoàn tụ họp để chia sẻ với Người trong công trình cứu độ cho tới khi Người đến hoàn tất thế giới.
Cử hành Thánh lễ, chính là tuyên xưng quyền phép ban hòa bình của Đức Kitô, là loan báo hoàng tử hòa bình và nước trời bình an.
J.Y.G
Suy Niệm 4: GIOAN TẨY GIẢ LÀ NGƯỜI CAO TRỌNG (Mt 11,11-15)
Trong các cuộc diễn nguyện, lời dẫn phải đi sâu vào nội dung, và người dẫn chương trình phải là người biết truyền cảm hứng cho thính giả thì nội dung mới được toát lên và hấp dẫn. Nhưng điều quan trọng là làm sao cho người tham dự rút ra được bài học từ những cuộc diễn xuất đó mới là điều đáng nói!
Thánh Gioan Tẩy Giả đã xuất sắc trong vai trò này khi ngài trở thành người tiền hô loan báo về Đấng Cứu Thế, và, ngài cũng thành công trong việc truyền cảm cho những người đương thời về tinh thần sám hối, chuẩn bị cho giáo huấn của Đức Giêsu. Ngoài những lý do trên, ngài còn là tiên tri cuối cùng của thời Cựu Ước, là người loan báo trực tiếp về Đức Giêsu. Cuối cùng, Gioan đã thực hiện thành công xuất sắc sứ mạng của mình bằng cái chết để làm chứng cho sự thật. Như vậy, ngài xứng đáng được Đức Giêsu khen ngợi: "Ta bảo thật các ngươi, trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất hiện một ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả”.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy noi gương Gioan Tẩy Giả: sẵn sàng lên tiếng loan báo Đức Giêsu cho mọi người, dù thuận tiện hay không thuận tiện. Sẵn sàng sống sự khiêm tốn để cho nội dung lời loan báo có hồn và vui lòng nhường lại sân khấu cho diễn viên chính là Đức Giêsu. Có thế, chúng ta mới hy vọng Đức Giêsu khen ngợi là người có phúc như Gioan Tẩy Giả khi xưa.
Lạy Chúa Giêsu, thánh Gioan khi xưa đã hết lòng vì sứ vụ và đã sống chết cho sự thật. Xin Chúa cũng ban cho chúng con hôm nay biết làm chứng cho Chúa bằng sự khiêm tốn, can đảm và trung thành như Gioan khi xưa. Amen.
Ngọc Biển
Suy niệm 5:
Đã từ lâu dân tộc Do Thái không có vị ngôn sứ nào xuất hiện.
Thiên Chúa thinh lặng như chẳng muốn nói với dân Ngài.
Người ta thường coi vị ngôn sứ cuối cùng là Malaki.
Ông sống trước công nguyên gần năm thế kỷ.
Ông đã mạnh mẽ phê phán những bê bối của các tư tế và dân Do Thái
sau khi họ trở về từ nơi bị lưu đầy ở Babylon.
Malaki tiên báo ngày đoán phạt của Đức Chúa gần đến.
Nhưng trước khi Ngài đến, sẽ có người đi trước để dọn đường (Ml 3, 1).
Êlia chính là người làm công việc đó:
“Này đây Ta sẽ sai đến với ngươi Êlia, vị ngôn sứ” (Ml 3, 23).
Gioan Tẩy giả là người đã làm nhiệm vụ của Êlia,
tuy ông không phải là một Êlia từ cõi chết sống lại.
Gioan xuất hiện như một ngôn sứ khắc khổ nơi sa mạc hoang vu.
Ông đã cất tiếng mời gọi mọi người sám hối và chịu phép rửa.
để dọn lòng đón Đấng Mêsia sắp đến.
Thế là sau bao thế kỷ mong chờ, Thiên Chúa lại ngỏ lời với dân Ngài.
Gioan Tẩy giả luôn là nhân vật nổi bật trong Mùa Vọng.
Đức Giêsu khẳng định ông còn trọng hơn một ngôn sứ nữa (Mt 11, 9).
Đã có bao ngôn sứ trong Cựu Ước xuất hiện trước ông,
loan báo về Đấng Cứu độ mà Thiên Chúa hứa ban.
Nhưng Gioan là người duy nhất đã chỉ cho dân thấy Đấng ấy là ai.
Chính là Đức Giêsu, người ông đã ban phép rửa.
Gioan cao trọng vì ông là cầu nối giữa hai giai đoạn của lịch sử cứu độ.
Ông vừa thuộc nhóm những ngôn sứ của giai đoạn trước (c. 11),
vừa là người đã chạm đến Nước Trời ở giai đoạn sau (cc. 12-13).
Giai đoạn trước của những lời Thiên Chúa hứa,
và giai đoạn sau khi Thiên Chúa thực hiện những lời hứa này.
Đức Giêsu là Đấng khai mở giai đoạn sau.
Nhưng Ngài cần Gioan để làm người trực tiếp giới thiệu.
Chúng ta không thánh thiện hơn Gioan Tẩy giả,
nhưng chúng ta có phần hạnh phúc hơn ông,
vì được sống trong giai đoạn lời hứa của Thiên Chúa nên thành tựu.
Ơn cứu độ đã đến, Nước Trời đã ở ngay bên.
“Kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông” (c. 11).
Cao trọng hơn vì những kho tàng mới do Đức Giêsu mang lại.
Ngài đem đến ơn cứu độ toàn diện cho từng người,
vượt xa những gì mà các ngôn sứ thời xưa mong đợi.
Gioan hẳn sẽ có mặt trong bữa tiệc cánh chung (Mt 8, 11).
Ông đã chiếm được Nước Trời bằng sức mạnh phấn đấu (c. 12).
Ông đã sống bất khuất và đã chết anh hùng.
Mỗi lần Mùa Vọng, chúng ta lại gặp Gioan.
Đức Giêsu mãi mãi cần những Gioan cho đến ngày tận thế,
để bắc một nhịp cầu, để làm người môi giới trung gian
để tình yêu cứu độ được mọi người đón nhận.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến.
Xin đừng mỉm cười mà nói rằng
Chúa đã ở bên chúng con rồi.
Có cả triệu người chưa biết Chúa.
Nhưng biết Chúa thì được cái gì ?
Chúa đến để làm gì nếu đời sống con cái của Chúa
cứ tiếp tục y như cũ ? Xin hoán cải chúng con.
Xin lay chuyển chúng con.
Ước gì sứ điệp của Chúa trở nên máu thịt của chúng con,
trở nên lẽ sống của cuộc đời chúng con.
Ước gì sứ điệp đó lôi chúng con ra khỏi sự an nhiên tự tại,
và đòi buộc chúng con, làm chúng con không yên.
Bởi lẽ chỉ như thế, sứ điệp đó mới mang lại cho chúng con
bình an sâu xa, thứ bình an khác hẳn,
đó là Bình An của Chúa. (Helder Câmara)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
13/12 Dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng.
Thứ Tư tuần 2 mùa vọng – Thánh Luxia, trinh nữ, tử đạo. Lễ nhớ.
"Hãy đến với Ta, hỡi những ai vất vả cực nhọc".
* Có lẽ thánh nữ đã chịu chết ở Xyracuxa, thời hoàng đế Điôlêxianô bách hại đạo (340). Ngay từ thời xa xưa, hầu như cả Hội Thánh Rôma đã tôn kính rồi ghi tên người vào Kinh Tạ Ơn.
LỜI CHÚA: Mt 11, 28-30
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: Hãy đến với Ta tất cả, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Những ai khó nhọc hãy đến với Ta
Sách "Liệt Tử" có câu truyện như sau:
Nước Tống có một người đã đứng tuổi tự nhiên mắc phải chứng bệnh quên lãng. Buổi sáng lấy gì của ai, buổi chiều đã quên. Hôm nay ai cho cái gì ngày mai lại chẳng nhớ. Ra đường quên cả đi, về nhà quên cả ngồi. Trước đã làm gì và bây giờ đang làm gì đều quên hết, sau này cũng chẳng nhớ. Cả nhà rất lo lắng về bệnh tình của anh nên đã mời thầy thuốc, chạy đủ hết mọi cách mà cũng chẳng khỏi.
Sau đó có ông thầy đồ người Lỗ nói rằng là tôi chữa được.
Người bệnh hứa với ông đồ: Hễ chữa được bệnh sẽ chia cho ông một phần gia tài.
Trước khi trả lời đáp ứng nhận chữa bệnh, ông đồ dùng nhiều cách thức khác nhau để tìm hiểu khả năng trí nhớ của người bệnh này. Trước hết ông đồ thử bằng cách lột áo của người bệnh để rét lạnh thì thấy anh ta xin áo. Bỏ đói không cho ăn thì anh ta xin ăn. Ðem anh ta vào chỗ tối tăm thì anh ta xin ra chỗ sáng. Sau đó ông đồ mới nhận lời chữa bệnh. Chẳng biết ông đồ chữa thế nào mà sau bảy ngày anh ta đã hết bệnh và trở lại bình thương.
Tuy nhiên, khi đã tỉnh táo như thường thì anh ta lại nổi giận, chửi vợ đánh con, cầm dao rượt đuổi ông đồ.
Người ta bắt giữ anh ta lại hỏi: Tại sao anh lại giận dữ như vậy?
Anh ta trả lời: Lúc trước tôi mắc bệnh quên thì lòng tôi thảnh thơi khoan khoái, trời đất có còn hay không tôi cũng chẳng cần biết. Nay tôi lành bệnh, tôi nhớ lại tất cả những chuyện của mấy mươi năm về trước như chuyện buồn, vui, yêu, ghét, thành công, thất bại, lòng tôi trở nên bối rối, ngổn ngang trăm mối. E rằng sau này các việc ấy cứ bám cứng lấy tâm trí tôi thì dù cho muốn quên chúng đi trong một giây, một phút liệu tôi có được như ý muốn hay không?
Anh chị em thân mến!
Nhìn một người điên, người mất trí, có kẻ chép miệng khen người ấy hạnh phúc, vì chẳng có gì phải lo âu phiền muộn. Thế nhưng nếu hỏi lại những người vừa buông lời khen này xem họ có muốn trở thành người hạnh phúc kiểu như vậy không? Chắc chắn họ sẽ trốn chạy trước câu trả lời, vì đã làm người thì chẳng ai muốn mình được gọi là kẻ ngây ngô, không nhớ, không biết chuyện gì. Không muốn bị gọi là kẻ ngây ngô thì con người lại phải đối đầu với lo âu, phiền muộn, nóng giận, đau khổ, chúng là gánh nặng của thuyết nhân sinh.
Mở mắt chào đời lúc ngửa tay đón nhận sự sống thì cũng là lúc con người phải mang lấy gánh nặng nề. Bởi thế, không ít kẻ dám đánh đổi tất cả để tìm kiếm một chút thú vui để được quên trong chốc lát, có kẻ tìm quên trong sợi khói phù du, có người tìm quên trong men say trác táng, rồi cũng tìm được thú vui trong chốc lát. Nhưng rồi sau những phút giây ngán ngủi ấy, thực tế lại trở nên nặng nề hơn, gánh nặng cuộc đời càng xúi giục sâu hơn.
Lại cũng có những triết thuyết như vô cảm, vô vị, vô sắc chỉ giúp con người giải thoát lo âu vướng bận của cuộc sống, thực hiện những hướng dẫn đó thật là một thái độ lý tưởng cho những ai muốn kiếm tìm sự bình an. Thực tế trong cuộc sống thử hỏi mấy ai hiểu được điều này, vì cuộc sống con người gắn liền với cái cảm tính lo âu, nóng giận, buồn phiền... có tránh cũng chẳng thoát, khó nhọc và gánh nặng là thân phận của kiếp sống con người.
Về phần Chúa Giêsu, cảm thông với phận kiếp làm người nên khi đến cứu chuộc trần gian Ngài đã nhận một cuộc đời lam lũ ở làng quê Nazareth. Và qua bài Tin Mừng hôm nay, Ngài kêu gọi những ai khó nhọc và gánh nặng hãy đến với Ngài, nếu luật lệ Do Thái đã bị các luật sĩ và biệt phái biến thành chiếc ách kìm kẹp dân Chúa. Hãy đến với Ngài, nếu đau khổ của kiếp nhân sinh như chiếc gánh đè nặng trên vai con người. Ðến với Ngài không phải để được cất khỏi những điều ấy. Vì Ngài đến không phải để hủy bỏ lề luật, nhưng là để kiện toàn lề luật và làm cho ách trở nên êm ái và gánh trở nên nhẹ nhàng.
Lề luật phải được giữ trong tinh thần và sự thật. Lề luật giải phóng con người và đau khổ là con đường dẫn đến vinh quang. Gánh trở nên nhẹ nhàng vì từ nay con người không phải một mình mang lấy đau khổ nhưng đã có người chia sẻ cảm thông. Dân tộc Do Thái đã hằng mong mỏi chở Ðấng Cứu Thế đến, vì khi Ngài đến Ngài sẽ lau khô mọi giọt lệ trên khuôn mặt và kẻ nhọc mệt sẽ được Ngài nâng đỡ bổ sức.
Sống trong tâm tình mùa vọng, mùa trông đợi, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta cũng sẽ tìm đến với Chúa Giêsu, Ðấng Cứu Thế để được Ngài an ủi, nâng đỡ, bổ sức và đồng thời học nơi Ngài tâm tình biết chia sẻ cảm thông với người khác. Vì mang kiếp phận con người chẳng ai tránh khỏi khó nhọc và gánh nặng, nhưng khó nhọc sẽ bớt khi được người chia sẻ, gánh nặng sẽ vơi khi có kẻ cảm thông.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)
Suy Niệm 2: Ách êm ái.
Trong lịch sử nhân loại, nhiều khi những cuộc cách mạng nhằm lật đổ một tình trạng bất công lãi dẫn đến một tình trạng bất công còn tệ hại hơn. Cuộc cách mạng Pháp 1789 đã gây ra biết bao nhiêu đổ máu. 80 triệu người Trung hoa đã chết dưới bàn tay của Mao trạch Đông. 2 triệu người Cambốt đã chết trên cánh đồng giết người của Pônpốt. Quả thực, con người mơ ước thiên đàng, nhưng lại rơi vào địa ngục.
Trong tôn giáo có lúc người ta cũng chứng kiến một hiện tượng tương tự: tôn giáo vốn là nơi nương tựa của con người: con người tìm đến với tôn giáo thường là để tìm một sự giải thoát nào đó. Nhưng nhiều khi thay vì tìm được thanh thản nơi tôn giáo, con người lại bị đè bẹp bởi những gánh nặng. Đó là trường hợp đã xảy ra cho những người mà Chúa Giêsu gọi là những kẻ bé mọn. Họ là những người vất vả gồng gánh nặng nề. Thật thế, vào thời Chúa Giêsu, trong Do Thái giáo, những người thiệt thòi nhất là những người bé mọn, thất học. Gồng gánh nặng nề mà các luật sĩ chất lên vai họ chính là vô số khoản luật mà họ phải tuân giữ mà không hề hiểu được ý nghĩa và mục đích, họ không đủ khả năng để phân biệt được cái thiết yếu với điều phụ thuộc. Tôn giáo như thế không phải là một giải thoát, nhưng chỉ là một cầm buộc, đi tìm sự giải thoát, con người lại trở thành nô lệ.
Với những người bé mọn ấy, Chúa Giêsu đã mời gọi hãy mang lấy ách của Ngài, vì ách của Ngài thì êm ái và gánh của Ngài thì nhẹ nhàng. Thật ra, Chúa Giêsu không rao giảng một tôn giáo mới. Ngài không đạp đổ hệ thống tôn giáo có sẵn. Trái lại Ngài chỉ cho con người thấy đâu là cái cốt lõi của Lề Luật và của đạo. Cái cốt lõi ấy chính là tình yêu thương. Ngài đã từng tuyên bố: “Ta đến không phải để bãi bỏ Lề Luật và các tiên tri, nhưng để kiện toàn”. Và như thánh Phaolô đã giải thích: “Yêu thương là chu toàn cả Lề Luật”. Thật thế, Chúa Giêsu đã kiện toàn Lề Luật bằng giới răn yêu thương, Ngài thu tóm cả Lề Luật thành hai chữ yêu thương. Một bộ luật nặng nề và không hồn đã trở thành nhẹ nhàng nhờ có linh hồn là tình yêu thương. Đó là cuộc cách mạng vĩ đại nhất của Chúa Giêsu, cuộc cách mạng của tình thương. Chỉ có tình thương mới là khí giới lật đổ được bất cứ một bất công nào và xây dựng được một xã hội công bằng thật sự. Chỉ có tình thương mới thực sự giải phóng con người khỏi mọi áp bức.
“Hãy mang lấy ách của Ta, vì ách của Ta thì êm ái. Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường”. Lời mời gọi của Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta về cái cốt lõi của đạo. Đạo là chính Chúa, là tình yêu nhập thể. Sống đạo là sống bằng sức sống thần linh của Ngài, sống đạo là làm chứng và chia sẻ tình yêu của Ngài cho mọi người. Đó là cuộc cách mạng đích thực mà Chúa Giêsu muốn tiếp tục qua Giáo Hội và qua mỗi người chúng ta.
Suy Niệm 3: Tiếp đón Đức Giêsu là lãnh nhận ơn cứu độ
“Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.” (Mt. 11, 28-30)
Cho tới hết chương 10 Tin mừng theo thánh Mát-thêu, việc rao giảng nước trời hầu như không gặp trở ngại gì. Nhưng đến chương 11 và 12, Đức Giêsu bắt đầu gặp chống đối.
Trước hết, Gioan tẩy giả sai môn đệ đến hỏi: “Thưa Thầy, Thầy có đúng là Đấng phải đến không, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (Mt. 11, 2-6). Tiếp đến là dân chúng: “Thật vậy, Gioan đến không ăn không uống, thì thiên hạ bảo: Ông ta bị quỷ ám. Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì thiên hạ lại bảo: Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi” (Mt. 11, 18-19). Sau là đến những biệt phái bắt bẻ Đức Giêsu giữ luật ngày Sa-bát (Mt. 12, 1-8. 9-14). Họ còn chụp mũ Người là đồng lõa với tướng quỷ Bê-en-giê-bút (Mt. 12, 22-32).
Đức Giêsu đã ứng xử thế nào trước những phản đối của dân chúng và quyền bính Do-thái? Người ứng xử bằng hai cách: Trước tiên bằng một lời kêu cầu tạ ơn: “Lạy Cha là Chúa tể trời đất, con ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những kẻ bé mọn” (Mt. 11, 25). Thứ đến, Người quay lại phía những kẻ khốn cùng: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Tôi, Tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của Tôi, và hãy học với Tôi vì Tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách Tôi êm ái, và gánh Tôi nhẹ nhàng” (Mt. 11, 28-30).
Nhưng Đức Giêsu chống thái độ về giữ luật của biệt phái và những thầy thông luật, không phải Người giải phóng con người khỏi giữ luật luân lý. Trái lại, Người yêu cầu họ phải giữ luật nghiêm chỉnh và đúng căn tính của luật (Mt. 11, 5-7). Người đòi hỏi như vậy vì Người là Thầy có lòng êm ái và khiêm nhường. Quả thực, toàn bộ Tin mừng nhằm giới thiệu Đức Giêsu như là tôi tớ, khiêm nhường trước Thiên Chúa, và êm ái với mọi người. Thái độ của Người không như các nhà luân lý. Trước khi trình bày cho con người những đòi hỏi căn bản về đổi mới một điều luật, Đức Giêsu đã mang đến cho họ niềm vui của nước trời.
Mang lấy ách của Đức Giêsu, chính là gắn bó với Người, đi theo Người, học hỏi với Người về thực chất của lề luật, mà ưu tiên và trước hết, phải cảm nghiệm được niềm vui ơn cứu độ và lòng thương xót của Chúa Cha.
J.M.R
Suy Niệm 4: HÃY MANG “ÁCH” VÀ “GÁNH” CỦA ĐỨC GIÊSU (Mt 11, 28-30)
“Anh em hãy mang lấy ách của tôi ...”. Đây chính là lời mời gọi của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay. Ngài lên tiếng mời gọi những ai muốn theo Ngài thì cũng phải mang lấy “ách” và “gánh” của Ngài.
Tuy nhiên, “ách” và “gánh” của Đức Giêsu thì hoàn toàn khác với “ách” và “gánh” của các Rapbi Dothái. Nếu “ách” và “gánh” của các thầy Dothái là những lề luật khắt khe và vụ hình thức, thì “ách” và “gánh” của Đức Giêsu lại trở nên êm ái và nhẹ nhàng. Bởi vì “ách” và “gánh” của Ngài cũng chính là đạo lý, cốt lõi Tin Mừng. Thế nên, hệ quả của “ách” và “gánh” đó chính là trở nên hiền lành và khiêm nhường trong lòng.
Như vậy, khi mang “ách” và “gánh” của Đức Giêsu, ấy là chúng ta tin Ngài để trở thành môn đệ. Trở thành môn đệ của Đức Giêsu thì phải trở nên giống như Ngài ở điểm khiêm nhường. Đồng thời học cho biết và sống sự hiền lành với tha nhân.
Nếu một khi chúng ta sống những đặc tính ấy của Đức Giêsu trong lòng mến, thì hẳn chúng ta sẽ được thanh thản và tâm hồn chúng ta sẽ được an vui bình an, nghỉ ngơi bồi dưỡng.
Ngày hôm nay, con người đang bị cơn lốc của kinh tế thị trường, của ăn chơi hưởng thụ, của những chân lý nửa vời lôi cuốn..., nên họ muốn cho mình được thoát ly khỏi Thiên Chúa. Nhưng khi họ đã mời Chúa đi chỗ khác, thì ngay lập tức, cuộc đời của họ trở nên trống rỗng, cô đơn, bất an và đau khổ.... Họ mong muốn được tự do, nhưng thực ra, con người đang trở thành nô lệ của những thứ mau qua chóng hết.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy mang lấy “ách” và “gánh” của Đức Giêsu chính là từ bi, nhân hậu, hiền hòa, khiêm nhường, là những hy sinh, từ bỏ, và sẵn sàng vác Thập Giá hằng ngày mà đi theo Chúa. Sống mến Chúa trên hết mọi sự và yêu tha nhân như chính mình. Làm mọi việc thiện vì lòng yêu mến Chúa. Tránh kiêu ngạo, hình thức, vụ lợi. Không vì luật mà bỏ qua tình Chúa, tình người để rồi bất nhân với nhau.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con được trở thành môn đệ thực sự của Chúa khi mang trong mình và sống tinh thần của Chúa trong cuộc sống hằng ngày. Amen.
Ngọc Biển
Suy niệm 5:
Khi quy hoạch thành phố tương lai,
người ta không quên dành một khu vui chơi giải trí.
Nghỉ ngơi thư giãn là một nhu cầu quan trọng
cho những ai sống trong nền kinh tế thị trường.
Nghỉ ngơi không chỉ cần cho thân xác hay trí óc.
Nghỉ ngơi còn cần cho tâm hồn.
Cái tâm của chúng ta cần được sống trong an tĩnh
giữa sóng gió dao động, giữa chợ đời bon chen.
Nhiều người bị suy nhược thần kinh, bị stress.
Có người tự tử vì không đủ sức để tiếp tục sống.
Ðức Giêsu mời gọi chúng ta đến với Ngài,
tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề.
Gánh nặng của nỗi buồn đau và vấp ngã trong quá khứ.
Gánh nặng của trách nhiệm và yếu đuối hiện tại.
Gánh nặng phải mang vì người khác...
Tất cả những ai bị căng thẳng và lo âu,
chán chường và mệt mỏi.
Tất cả những ai muốn tìm một chút nghỉ ngơi.
Hãy đến với Ngài, ta sẽ gặp được sự an tĩnh.
Hãy mang lấy ách của tôi.
Ðức Giêsu không ngần ngại nói đến ách của Ngài
mà những kẻ đến với Ngài phải mang.
Ngài không giấu ta về những đòi hỏi nghiêm túc,
về con đường hẹp mà ít người muốn đi,
về thánh giá mà ta phải vác để theo Ngài.
Như thế sự an bình thư thái Ngài hứa ban
đâu phải là thứ bình an rẻ tiền, không cần từ bỏ.
Ðó là thứ bình an ngay giữa khổ đau và nước mắt,
vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương,
vì xác tín là mình đang làm đúng ý Thiên Chúa.
Nếu ách của Ngài êm và gánh của Ngài nhẹ,
thì là vì chúng được đón nhận trong tình yêu.
Tình yêu làm cho mọi sự trở nên êm nhẹ.
“Chỗ nào có lòng yêu mến, thì không cảm thấy vất vả;
mà giả như có vất vả đi nữa
thì người ta cũng thích cái vất vả đó” (thánh Âutinh)
Hãy học với tôi.
Ðức Giêsu kêu gọi chúng ta làm học trò của Ngài.
Chúng ta học trường Giêsu, học Thầy Giêsu, học bài Giêsu.
Bài học nằm nơi chính trái tim Ngài:
“Vì tôi có trái tim hiền hậu và khiêm nhu.”
Khi mang trong mình những tâm tình của Thầy Giêsu
thì tâm hồn ta sẽ được bình an trở lại.
Chúng ta cần theo học Thầy Giêsu suốt đời,
cần lột bỏ những tự hào về khôn ngoan thông thái,
cần sống hồn nhiên khiêm tốn như trẻ thơ.
Chỉ như thế chúng ta mới được Thầy Giêsu mạc khải,
và đưa vào thế giới của Thiên Chúa.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,
khép kín và nghi ngờ. Xin dạy con sự hiền hậu
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
12/12 Con chiên lạc đàn
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Con chiên lạc đàn.
Thứ Ba tuần 2 mùa vọng.
"Chúa không muốn những kẻ bé nhỏ phải hư đi".
LỜI CHÚA: Mt 18, 12-14
Khi ấy Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con nghĩ sao? Nếu ai có một trăm con chiên mà lạc mất một con, thì người đó lại không bỏ chín mươi chín con trên núi, để đi tìm con chiên lạc sao? Nếu người đó tìm được, thì quả thật, Thầy bảo các con, người đó sẽ vui mừng vì con chiên đó hơn chín mươi chín con chiên không thất lạc. Cũng vậy, Cha các con ở trên trời không muốn để một trong những kẻ bé nhỏ này phải hư đi".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Phải tha thứ luôn luôn
Sống ở trên đời, ai cũng mong ước mình gặp được nhiều sung túc, hạnh phúc và nhất là gặp được nhiều may mắn thành công. Ai cũng muốn là mình gặp được mối tình thông cảm cho đến đỉnh cao của tiền tài, danh vọng. Ai cũng sợ thất bại, sợ gian khổ cùng cực cất đầu không lên được với những người xung quanh. Dù rằng ai cũng tự an ủi mình bằng câu: "Thất bại là mẹ thành công". Ðau khổ nhiều, con người mới thấy giá trị đích thực của hạnh phúc. Có gian nan vất vả nhiều, con người mới cảm thấy giá trị của đau khổ, mới đánh giá chính xác về sự thành công từ những nhẫn nhục, chịu đựng, âm thầm làm việc sau bao nhiêu ngày tháng. Nếu như con người từ nhỏ đến lớn sống hoàn hảo như một vị thánh, người ấy chưa chắc đã cảm thấy mình hạnh phúc nếu không phải là người đặc biệt Thiên Chúa gìn giữ. Vì thế theo thông thường chúng ta không ai thoát khỏi những lầm lỗi, không khía cạnh này thì vướng mắc khía cạnh khác, không nặng thì nhẹ, không phải khuyết điểm lầm lỗi nặng hay nhẹ, cố tình hay vô tình nhưng quan trọng là chúng ta có nhận ra được khuyết điểm sai lỗi của chính mình hay không? Và khi nhận ra được khuyết điểm sai lỗi ấy, chúng ta có sửa đổi, rút kinh nghiệm cho lần sau hay không?
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng: "Nếu ai trong các ngươi có một trăm con chiên mà bị lạc mất một con thì người đó không bỏ chín mươi chín con trên núi để đi tìm con chiên lạc ấy sao?" Ðó là điều an ủi cho chúng ta, vì khi lầm lỗi, con người thường ít khi tha thứ hoặc có tha thứ cho nhau thì vẫn có thành kiến không tốt về người đó, nghĩa là chúng ta có ý nghĩ không tốt, bớt sự niềm nở tự nhiên trước đó.
Từ thái độ đó thường làm cho người có lỗi mang một tâm trạng tự ti mặc cảm, vì dù sao đi nữa thì trong tâm trạng đó con người cũng không có cái nhìn hồn nhiên, vui vẻ lạc quan yêu đời như trước khi họ chưa lầm lỗi. Khi đã sống trong tình trạng nghi kỵ lẫn nhau, nhìn nhau không thân thiện, chúng ta sẽ mắc vào một câu nói của một triết gia nọ: "Tha nhân là hỏa ngục của tôi". Ai cũng nhìn nhau bằng cặp mắt hận thù, ganh tị, hững hờ, chê bai lẫn nhau. Bao nhiêu cặp mắt hận thù, ganh tị, hững hờ, chê bai lẫn nhau. Bao nhiêu cặp mắt hình như cứ soi mói vào chúng ta, xét xem để rồi bắt lỗi chúng ta thì chẳng hỏa ngục là gì? Có bị như thế chúng ta mới cảm nghiệm được tình yêu bao la dung thứ của Thiên Chúa đối với chúng ta hôm nay: "Người chăn chiên sẽ bỏ chín mươi chín con trên núi để đi tìm con chiên lạc, khi tìm được rồi người chăn chiên sẽ vui mừng vì con chiên đó hơn chín mươi chín con chiên không bị lạc".
Thiên Chúa đã dạy chúng ta không những phải tha thứ cho nhau bảy lần mà là bảy mươi lần bảy, nghĩa là phải tha thứ luôn luôn. Và trong một đoạn Tin Mừng khác Chúa Giêsu nói: "Nếu trong một ngày người anh em con phạm đến con bảy lần và bảy lần người ấy đến nói với con rằng tôi hối hận thì con cũng phải tha cho nó". Khi thấy điều đó khó thực hiện được nên người môn đệ của Chúa đã thưa: "Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con". Ðó là Lời Chúa nhắn nhủ dạy bảo chúng ta, còn đối với Thiên Chúa Ngài càng phải khoan dung tha thứ hơn, yêu thương chúng ta nhiều hơn nữa bằng một tình thương tha thứ vô cùng.
Trong dụ ngôn "Người Con Hoang Ðàng Trở Về" sau những tháng ngày ăn chơi trác táng thì bấy giờ nó suy nghĩ và thành tâm ăn năn thống hối trở về để xin cha tha thứ. Nhưng khi nhìn thấy con từ đàng xa, chưa kịp nghe con nói lên lời xin lỗi thì người cha đã bảo gia nhân đem áo mặc cho cậu, lấy nhẫn đeo vào tay cậu. Qua những cử chỉ yêu thương mặn nồng như thế đã nói lên tình thương của cha vẫn luôn luôn yêu thương con cái và người cha vẫn coi cậu như người con trong nhà. Vì thế, ông nói với gia nhân hãy làm thịt con bê béo để mừng con đã chết nay được sống lại. Tình thương của người cha bao la đã bỏ qua tất cả mọi lỗi lầm của đứa con hoang đàng trở về.
Trong đoạn Tin Mừng nói về một người mắc nợ ông vua như sau: Có một người mắc nợ ông vua kia đến mười ngàn nén bạc nhưng anh không có gì để trả nợ. Chủ ra lệnh bán anh và vợ con cùng tất cả gia sản anh để trả nợ. Anh liền sấp mình xuống dưới chân chủ mà van lơn: "Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn rồi tôi sẽ trả cho ngài tất cả". Người chủ động lòng thương trả tự do và tha nợ cho anh ta. Khi ra về anh ta gặp một người bạn mắc nợ anh ta một trăm nén bạc, anh ta tóm lấy bóp cổ người ấy mà nói:Hãy trả nợ cho ta, khi ấy người bạn sấp mình dưới chân và nói: Cho tôi khất một kỳ hạn. Nhưng anh ta không nghe, bắt người bạn đó tống giam vào ngục cho đến khi trả xong nợ. Người xung quanh thấy cảnh tượng thương tâm đó thuật lại với người chủ và người chủ đã bắt trao anh cho lý hình hành hạ cho đến khi trả hết nợ một ngàn nén bạc của anh.
Chúng ta đôi khi cũng thế, lòng Chúa khoan dung yêu thương, tha thứ cho chúng ta không biết bao nhiêu, vậy mà đối với anh em ta lại xét nét, chê bai, xử tệ, không tha thứ cho nhau dù chỉ là những lầm lỗi không đáng kể gì trước mặt Chúa là người Cha đầy tình thương dung thứ.
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con cảm nhận được lòng khoan dung tha thứ của Thiên Chúa để chúng con đáp lại tình thương nhỏ bé của chúng con đối với Ngài. Xin Chúa cho chúng con biết tha thứ cho nhau không những bảy lần nhưng là bảy mươi lần bảy, nghĩa là tha thứ cho nhau luôn luôn trong suốt cuộc sống. Amen.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)
Suy Niệm 2: Chiên lạc
Một nhà truyền giáo trong vùng Thái bình dương có kể lại sự kiện như sau: Ngày nọ có một người đàn bà bước vào lều của Ngìa với đôi bàn tay nắm chặt cát ướt. Bà hỏi ngài:
- Cha có biết cái gì trong tay con không?
Vị linh mục đáp:
- Hình như chị đang cầm cát trong tay thì phải?
Người đàn bà lại hỏi tiếp:
- Cha có biết tại sao con mang cát ấy đến đây không?
Nhà truyền giáo lắc đầu.
Người đàn bà liền giải thích:
- Thưa cha, đây là tội lỗi của con, tội con nhiều như cát biển, làm sao con có thể được tha thứ?
Lúc bấy giờ vị linh mục mới an ủi:
- Có phải chị lấy cát từ bờ biển không, vậy chị hãy quay trở lại bờ biển và giống như các em bé vẫn thường làm, chị hãy xây một núi cát, rồi chị ngồi đó và ngắm những đợt sóng biển, sóng biển sẽ vỗ vào bờ và cuốn đi ngọn núi cát của chị. Ơn tha thứ của Chúa cũng giống như thế, lòng nhân từ của Ngài bao la như đại dương, chị hãy thành tâm thống hối và Chúa sẽ tha thứ cho chị.
Một lần nữa, Giáo Hội lại tha thiết kêu gọi chúng ta quay trở về với Chúa. Với hình ảnh người mục tử bỏ 99 con chiên khỏe mạnh về tìm một con chiên lạc, trước hết Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta về lòng nhân từ bao la của Thiên Chúa đối với con người. Chúng ta chỉ có thể tin tưởng quay về với Chúa, nếu chúng ta ý thức được tình yêu và lòng tha thứ của Ngài.
Tuy nhiên, con người chỉ có thể cảm nhận được lòng tha thứ của Thiên Chúa khi biết tha thứ cho anh em mình mà thôi. Đó là điều Chúa Giêsu muôn nêu bật trong Tin Mừng hôm nay. Thật thế, dụ ngôn người mục tử bỏ 99 con chiên khỏe mạnh để tìm một con chiên lạc được nhắm trước tiên đến những người biệt phái. Họ khó chịu khi thấy Chúa Giêsu kết thân với những người tội lỗi. Đề ra những khoản luật nghiêm nhặt về sự thanh tẩy, đặc biệt là thanh tẩy trước khi ăn, những biệt phái đã loại trừ nhiều tội nhân và những người thu thuế. Qua cử chỉ này, Ngài không những muốn nói với các tội nhân rằng Thiên Chúa yêu thương họ, Thiên Chúa đi tìm kiếm họ, Thiên Chúa tha thứ cho họ, nhưng Ngài còn mời gọi chính những người biệt phái, tức là những kẻ tự cho mình là lành thánh cũng phải hoán cải. Hoán cải trong quan niệm của họ về lòng nhân từ của Thiên Chúa, nhất là hoán cải trong cái nhìn của họ đối với người tội lỗi. Con người chỉ cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa khi họ biết cảm thông và tha thứ cho tha nhân. Điều đó cũng có nghĩa là lòng nhân từ của Thiên Chúa không hề làm cho con người ra vong thân, nhưng biến nó trở thành người hơn, có trách nhiệm và dấn thân hơn. Con người chỉ thực sự thống hối khi nó biết thực thi lòng nhân ái với tha nhân.
Mỗi lần bước ra khỏi tòa giải tội ai trong chúng ta cũng cảm thấy như trút được một gánh nặng và tìm được bình an và niềm vui. Quả thực, như đại dương, lòng nhân từ Chúa sẽ xóa sạch tội lỗi chúng ta. Tuy nhiên để được tắm gội trong đại dương của lòng nhân từ ấy, chúng ta được mời gọi sống lòng nhân từ đối với tha nhân. “Con hãy về và đừng phạm tội nữa”. Lời Chúa Giêsu nói với người phụ nữ ngoại tình cũng được lặp lại cho mỗi người chúng ta. Bước ra khỏi tòa giải tội là được sai đi để thể hiện lòng nhân từ với tha nhân. Và đó là món quà cao đẹp và ý nghĩa mà chúng ta có thể gửi cho nhau trong mùa vọng này.
Suy Niệm 3: Đón rước Đấng Cứu Thế là đón kẻ bé mọn
“Anh em nghĩ sao? Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao? Và nếu may mà tìm được, thì Thầy bảo thật anh em, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn chín mươi chín con không bị lạc. Cũng vậy, Cha anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất. (Mt. 18, 12-14)
Nếu người ta đọc lại đầu chương 18 Tin mừng theo thánh Mát-thêu, người ta thấy rằng dụ ngôn chiên lạc được tiếp sau câu hỏi của các môn đệ: “Thưa Thầy, ai là người lớn nhất trong nước trời?” (18, 1). Đức Giêsu không trả lời ngay mà lần lượt trả lời theo ba nhịp độ sau:
1) Câu 2-5: Theo kiểu các ngôn sứ xưa, Đức Giêsu trả lời trước hết bằng một cử chỉ tượng trưng: “Người gọi một em bé đến, đặt giữa các ông và bảo: Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại nên như trẻ em, thì chẳng sẽ được vào nước trời” (c. 3). Qua cử chỉ này, Đức Giêsu đảo lộn thứ bậc theo quan niệm của môn đệ. Tiếp theo, Người tự giới thiệu mình như trẻ nhỏ trước mặt Chúa Cha, môn đệ cũng phải trở nên nhỏ bé như em này, thì mới là người lớn nhất trong tình yêu của Chúa Cha.
2) Câu 6-9: Vì thánh ý của Chúa Cha là muốn cho mỗi người lớn lên trong tình yêu của Ngài, cho nên điều quan trọng là phải chăm lo săn sóc những bé nhỏ này, bằng cách tránh mọi gương mù và mọi khinh thường có thể làm chúng sa ngã.
3) Câu 10-14: Dụ ngôn chiên lạc nói đến kẻ bé mọn và gương mù (c. 6) hay cảm thấy bị khinh bỉ (c. 10) và hậu quả là dần dần xa cộng đồng vì cộng đồng không tiếp nhận nó vào cuộc sống cụ thể hằng ngày, và ngăn cản nó lớn lên trong tình yêu của Chúa Cha. Chính ra mỗi phần tử trong cộng đồng đều được đón nhận thánh ý của Chúa Cha đã muốn cho tất cả đều lớn lên trong tình yêu của Ngài, để không còn thấy mình bị xa lạc nữa, nhưng luôn luôn được đón tiếp, được tôn trọng như một nhân vị độc nhất.
Chúng ta cũng theo gương các môn đệ, cần thiết phải thanh tẩy óc địa vị của mình. Chúng ta có luôn luôn ý thức mình phải hoạt động theo tiếng gọi của Chúa Cha để thi hành trách nhiệm, mà Ngài đã trao phó cho chúng ta với danh nghĩa là môn đệ của Chúa Con và là phần tử của nước trời không?
Trong đời sống thực tế cụ thể hằng ngày, chúng ta có biết tránh mọi gương mù, gương xấu cho những kẻ bé mọn không? Có giúp chúng khám phá và lớn lên trong tình yêu của Chúa Cha không?
Hãy nhớ rằng Đức Giêsu đã tự đồng hóa mình với những kẻ bé mọn: “Ai tiếp đón một em nhỏ như thế này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy” (c. 5).
J.M.R
Suy Niệm 4: TẤT CẢ VÌ TÌNH YÊU
Đức Giêsu thường làm những chuyện gây “sốc” cho những người xung quanh. Vì thế, người đương thời với Ngài và đôi khi cả chính chúng ta cũng có lối suy nghĩ rằng: Ngài chuyên làm những chuyện ngược đời, nghịch lý và khó hiểu...!
Quả thật, nếu xét theo kiểu con người thì Đức Giêsu có rất nhiều những khuyết điểm. Những khuyết điểm đó là:
Ngài kém trí nhớ. Khi cả một đời tội lỗi ngập đầu, đến giờ chết xin Ngài tha thứ tội lỗi thì lại cho họ lên Thiên Đàng trước nhất: "Tôi bảo thật với anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng" (Lc 23, 42-43).
Ngài cũng là một người không giỏi luận lý. Có đời thủa nào lại bày cho chủ tiệc đi mời những người nghèo nhất đến dự tiệc cưới của con mình: “...hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì để đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc...” (Lc 14, 12-14).
Ngài còn là một người không biết tổ chức công việc. Người làm đầu tiên cũng như người làm giờ chót, tất cả đều được một đồng! (x. Mt 20, 1-16).
Trong mối liên hệ, bạn số một của Ngài lại là những người tội lỗi (x. Mt 9, 11. 12-13; Lc 15, 2; 19, 2. 5.7. 9...)
Hôm nay, Tin Mừng cũng thuật lại một sự nghịch lý đó ngang qua việc Đức Giêsu bỏ 99 con chiên lại để đi tìm một con chiên lạc. Điều này chứng tỏ Ngài không biết tính toán, là người dốt toán hạng chót...!
Nếu chúng ta đứng về phía những người làm kinh tế, hẳn chúng ta sẽ kết luận Đức Giêsu là kẻ điên khùng vì những điều bất thường trên!
Tuy nhiên, Đức Giêsu muốn dùng những nghịch lý đó để làm sáng tỏ chân lý. Chân lý đó chính là: Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ngài cho mưa xuống trên kẻ dữ cũng như người lành. Ngài đến để cứu những gì đã mất. Ngài yêu thương đặc biệt những người tội lỗi....
Thật vậy, vì yêu thương, Đức Giêsu không để ý đến quá khứ tội lỗi của con người. Cũng vì yêu thương, Ngài đã chấp nhận chuộc những kẻ tội lỗi bằng tình yêu và cái chết.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có cái nhìn như Chúa, hành xử như Chúa. Hãy tin tưởng cậy trông vào lòng thương xót của Thiên Chúa như Maria Mađalêna; Phaolô, Augustinô, Charles de Foucauld.... Thiên Chúa không kết án con người vì tội lỗi quá khứ của họ. Nhưng Thiên Chúa nhìn vào thực tại của chúng ta như chúng ta là... trong giây phút hiện tại này.
Mùa Vọng là Mùa mời gọi chúng ta quay về với lòng thương xót của Thiên Chúa bằng thái độ sám hối để được Đức Giêsu “vác lên vai, đưa về nhà”.
Mặt khác, Mùa Vọng cũng mời gọi chúng ta noi gương Đức Giêsu để “đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an bình vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm ...”.
Lạy Chúa Giêsu, hình ảnh Chúa đi tìm con chiên lạc, khi tìm được, Chúa đã vác lên vai và yêu thương chúng đặc biệt, điều này đã khích lệ chúng con rất nhiều, bởi vì mỗi người chúng con đều cần đến sự tha thứ của Chúa như con chiên lạc khi xưa. Amen.
Ngọc Biển
Suy niệm 5:
Chăn chiên là một nghề đã có từ lâu.
Nhiều nhà lãnh đạo dân Do Thái như Môsê, Đavít, đều làm nghề này.
Trên những đồng cỏ mênh mông, giữa trời và đất, chỉ có chiên và mục tử,
nên giữa đôi bên có một sự thân thiết và hiểu biết nhau thật gần gũi.
Chính vì thế trong Cựu Ước, Thiên Chúa hay ví mình với người chăn chiên.
Đàn chiên là dân Do Thái, là dân riêng Ngài rất mực quý yêu:
“Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa…
Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng,
bầy chiên mẹ cũng tận tình dẫn dắt” (Is 40,11).
Như Thiên Chúa, Đức Giêsu cũng ví mình với người mục tử tốt lành.
“Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi” (Ga 10, 14).
Sự hiểu biết thân thương này mạnh đến độ
Ngài dám hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên (Ga 10, 15).
Sau khi chết và phục sinh, Đức Giêsu muốn ông Simon nhận sứ mạng mục tử.
Ngài mời ông chăm sóc và chăn dắt chiên của Ngài (Ga 21, 15-17).
Như thế đoàn chiên mới của Đức Giêsu lúc nào cũng được bảo vệ.
Qua bao thế kỷ Giáo Hội vẫn không ngừng có những mục tử mới,
nối gót Simon Phêrô để phục vụ và hiến mạng vì đoàn chiên.
Nhưng Đức Giêsu không dạy người mục tử chỉ lo cho cả đoàn,
mà quên chăm sóc cho từng con chiên một.
Ngài mời ta để ý đến tập thể lớn, nhưng không được quên từng cá nhân nhỏ.
Có khi chỉ một con chiên lạc lại khiến người mục tử bận tâm lo lắng
đến nỗi để chín mươi chín con trên núi mà đi tìm con bị mất (c. 12).
Không phải vì coi thường chín mươi chín con không bị lạc,
nhưng vì người mục tử không muốn mất con nào.
Con chiên lạc lại có chỗ đứng đặc biệt trong trái tim mục tử.
Chúng ta ai cũng có kinh nghiệm về chuyện tìm lại được điều đã mất.
Khi mất thì đứng ngồi không yên,
khi tìm thấy thì bình an và niềm vui òa vỡ.
Người mục tử lo âu, vất vả tìm kiếm con chiên lạc,
nhưng khi tìm được rồi thì niềm vui là vô bờ.
Có thể nói còn vui hơn chuyện chín mươi chín con không bị lạc (c. 13).
Dường như người ta bắt đầu quý một điều từ khi mất điều đó.
Có khi một người bắt đầu hiện diện từ khi người ấy vắng mặt và mất đi.
Cha không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất (c. 14).
Cha muốn cho mọi người được cứu độ và không muốn mất một ai (1 Tm 2, 4).
Mùa Vọng là thời gian chúng ta nhìn lại những người bé mọn quanh ta,
những người từ lâu đã bỏ nhà thờ, những người mất lòng tin vào Chúa.
Mỗi người chúng ta phải là mục tử cho nhau, chăm sóc nhau, quý nhau,
khởi đi từ những người trong gia đình, trong nhóm bạn thân quen.
Chúng ta quý nhau vì Thiên Chúa quý từng người chúng ta.
Chúng ta chẳng thể mừng Lễ Giáng sinh nếu còn một người đang lạc ở đâu đó.
Nếu chịu mất công đi tìm về, chúng ta mới được hưởng niềm vui trọn vẹn.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
Khi làm người, Chúa đã nhận trái đất này làm quê hương.
Chúa đã ban nó cho chúng con như một quà tặng tuyệt vời.
Nếu rừng không còn xanh, dòng suối không còn sạch,
và bầu trời vắng tiếng chim,
thì đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến làm người để tôn vinh phận người,
vậy mà thế giới vẫn có một tỷ người đói,
bao trẻ sơ sinh bị giết mỗi ngày khi chưa chào đời,
bao kẻ sống không ra người, nhân phẩm bị chà đạp.
Đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đến đem bình an cho người Chúa thương,
vậy mà trái đất của chúng con chưa một ngày an bình.
Chiến tranh, khủng bố, xung đột, có mặt khắp nơi.
Người ta cứ tìm cách giết nhau bằng thứ vũ khí tối tân hơn mãi.
Đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu ở Belem,
Chúa đã cứu độ và chữa lành thế giới bằng tình yêu khiêm hạ,
nhưng bất công, ích kỷ và dối trá vẫn thống trị địa cầu.
Chúa đến đem ánh sáng, nhưng bóng tối vẫn tràn lan.
Chúa đến đem tự do, nhưng con người vẫn bị trói buộc.
Đó là lỗi của chúng con.
Vì lỗi của chúng con, chương trình cứu độ của Chúa bị chậm lại,
và giấc mơ của Chúa sau hai ngàn năm vẫn chưa thành tựu.
Mỗi lần đến gần máng cỏ Belem,
xin cho chúng con nghe được lời thì thầm gọi mời của Chúa
để yêu trái đất lạnh giá này hơn,
và xây dựng nó thành mái ấm cho mọi người.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
11/12 Chữa người bất toại và quyền tha tội
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Chữa người bất toại và quyền tha tội.
Thứ Hai tuần 2 mùa vọng.
"Hôm nay chúng tôi đã thấy những việc lạ lùng".
LỜI CHÚA: Lc 5, 17-26
Ngày ấy, Chúa Giêsu đang ngồi giảng, có cả những người biệt phái và tiến sĩ luật từ các làng mạc xứ Galilêa, xứ Giuđêa và Giêrusalem đến nghe Người, và Người dùng quyền lực của Thiên Chúa chữa nhiều người. Người ta khiêng một người bất toại đến, họ tìm cách vào nhà để đặt người bất toại trước mặt Người. Nhưng không tìm được lối vào, vì dân chúng quá đông, họ liền trèo lên sân thượng và thả người bất toại xuống giữa cử toạ trước mặt Chúa Giêsu. Thấy lòng tin của họ, Người nói: "Hỡi người kia, tội ngươi đã được tha!"
Các luật sĩ và biệt phái bắt đầu lý luận rằng: "Người này là ai mà dám nói phạm thượng? Trừ một mình Chúa, ai có quyền tha tội?" Chúa Giêsu biết rõ điều họ suy tính, liền nói với họ: "Sao các ngươi lại nghĩ trong lòng như vậy? Nói rằng: "Các tội của ngươi đã được tha", hay nói: "Ngươi hãy đứng dậy mà đi", đàng nào dễ hơn? Song (như thế là) để các ngươi biết Con Người có quyền tha tội ở dưới đất". Người nói với người bất toại rằng: "Ta bảo ngươi, hãy chỗi dậy vác giường về nhà".
Tức thì anh ta chỗi dậy vác giường đi về nhà và ca tụng Thiên Chúa. Ai nấy đều sợ hãi và ngợi khen Thiên Chúa; họ kinh sợ và nói: "Hôm nay chúng ta đã thấy những việc lạ lùng".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Tâm hồn bình an.
Một buổi sáng tháng 7/1971, tại một thành phố bên Hoa kỳ, một người đàn ông đã đến nộp mình tại một trạm cảnh sát gần nhà. Ông thú nhận đã giết một người đàn bà cách đó 21 năm. Ông cho biết trong 21 năm qua, ông không bao giờ chợp mắt được mỗi khi màn đêm phủ xuống. Ông nói: “Chỉ vì một phút say sưa, tôi đã biến 21 năm qua thành một cơn ác mộng. Giờ đây sau khi thú nhận tội lỗi, tôi cảm thấy thanh thản trong lương tâm, tôi cảm thấy như được tái sinh”.
Những câu chuyện nộp mình và thú nhận tội lỗi như trên đây không phải là chuyện hiếm có trong lịch sử nhân loại. Riêng với người Kitô hữu, đó là một phần của cuộc sống đức tin. Trong những cao điểm của năm phụng vụ, lời nhắc nhở của Giáo Hội về nghĩa vụ này lại càng tha thiết hơn. Đặc biệt mỗi khi Mùa Vọng về, Giáo Hội khẩn khoản kêu mời chúng ta chuẩn bị tâm hồn đón Chúa Giáng sinh, Chúa của Hòa bình. Làm sao chúng ta cảm nhận được bình an trong tâm hồn, nếu tội lỗi vẫn còn đè nặng lương tâm của chúng ta?
Có lẽ, vì muốn nhắc nhở chúng ta về sự cần thiết của Bí tích giao hòa, mà hôm nay Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe việc Chúa Giêsu chữa lành một người bất toại. “Này anh, tôi anh đã được tha rồi”. Lời khẳng quyết của Chúa Giêsu với người bất toại cho chúng ta thấy được ý nghĩa đích thực của niềm tin được tuyên xưng bởi chính miệng anh và đám đông khiêng anh đến trước mặt Chúa. Thật thế, tuyên xưng niềm tin trước tiên là nhìn nhận thân phận tội lỗi bất toàn của mình. Ngày nay, nhiều người đã có lý để liên kết cơn khủng hoảng đức tin với việc đánh mất ý thức tội lỗi. Quả thực khi con người không còn ý thức về tội lỗi nữa, thì điều đó cũng có nghĩa là trong sâu thẳm của tâm hồn, con người cũng không còn cảm nhận được mối liên kết của mình với Thiên Chúa nữa. Đánh mất ý thức về tội lỗi cũng có nghĩa là gạt bỏ Thiên Chúa và chối bỏ những giá trị siêu việt trong cuộc sống.
Tuyên xưng đức tin không những là nhận ra thân phận tội lỗi, bất toàn của mình, nhưng còn là nhìn nhận quyền năng cứu rỗi của Thiên Chúa. Chỉ một mình Thiên Chúa Đấng tạo dựng con người mới có thể tái tạo, nghĩa là tha thứ cho con người. Tha thứ đối với con người là tái lập một quan hệ đã bị phá vỡ. Còn đối với Thiên Chúa, tha thứ chính là tái tạo, là ban lại một sức sống mới đã bị đánh mất. Quyền năng tái tạo ấy của Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã muốn thể hiện qua các phép lạ của Ngài, nhất là các phép lạ chữa bệnh tật con người. Qua các phép lạ ấy, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể tha thứ cho con người, chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể tái tạo con người. Đó là lý do tại sao trong phép lạ chữa người bất toại, Ngài đã nói đến hành động tha thứ của Thiên Chúa.
Được Thiên Chúa tha thứ, được Thiên Chúa cứu rỗi, được Thiên Chúa tái tạo để biến thành một tạo vật mới, đó là sứ điệp quan trọng nhất mà Chúa Giêsu đã mang đến cho con người. Ngày nay, qua Giáo Hội, Chúa Giêsu cũng không ngừng nói với chúng ta sứ điệp ấy. Qua Giáo Hội, Ngài không ngừng nói với chúng ta như Ngài đã từng nói với các bệnh nhân và những người tội lỗi đương thời của Ngài: “Hãy can đảm lên, tôi con đã được tha”. “Ta cũng không kết án con”.
Mùa Vọng, tâm hồn chúng ta cảm thấy rạo rực hân hoan vì bầu khí chuẩn bị mừng Chúa Giáng sinh. Những chuẩn bị bên ngoài là cần thiết để gợi lên cho chúng ta ý nghĩa đích thực của Lễ Giáng sinh. Chúa Giêsu đã Giáng sinh là để chúng ta được sinh lại, được tái sinh. Chúng ta cần được Ngài tha thứ và tái tạo, do đó không có chuẩn bị nào cần thiết hơn là đến với Ngài trong Bí tích giải tội để được ơn tha thứ.
Vào cuối đời, Đức Gioan XXIII đã ghi lại trong nhật ký của Ngài: “Có hai ngõ dẫn chúng ta vào thiên đàng: một là tấm lòng trong sạch, hai là sự thống hối. Là những con người yếu đuối mỏng dòn, không ai trong chúng ta dám nghĩ đến ngõ thứ nhất, tuy nhiên chúng ta có thể tin chắc vào ngõ thứ hai, Chúa Giêsu đã đi qua ngõ ấy”. Ngài đã mang lấy Thập giá để đền bù tội lỗi chúng ta và mời gọi chúng ta bước theo Ngài. Nhưng theo Ngài cũng có nghĩa là sám hối, chấp nhận mỗi ngày cần được thanh tẩy thêm.
Ước gì Bí tích giải tội mà chúng ta sốt sắng lãnh nhận trong mùa vọng này đem lại cho chúng ta bình an đích thực, bình an mà các Thiên thần loan báo trong đêm Giáng sinh:
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người thiện tâm”
Suy Niệm 2: VÌ GHEN TỨC MÀ TRỞ THÀNH BẤT NHÂN!
Ghen ăn tức ở hay không ăn được thì đạp đổ vốn là thói xấu thường trực trong xã hội mọi thời. Bởi vậy, chúng ta không lạ gì vào thời Đức Giêsu, tình trạng này lại càng rõ nét nơi những người Pharisiêu và các Luật sĩ khi họ thấy Đức Giêsu được lòng dân và uy tín của Ngài ngày càng lan rộng. Vì thế, họ sinh ra căm phẫn và tức tối, nên muốn loại bỏ Đức Giêsu ra khỏi cuộc sống và xã hội.
Tuy nhiên, họ khó lòng kết tội cho Đức Giêsu khi Ngài làm việc thiện, việc tốt hay đứng lên bảo vệ công lý, công bình, giúp đỡ người nghèo, người không nơi nương tựa.... Bởi lẽ, nếu họ chống đối ra mặt những việc Đức Giêsu đã làm trên thì họ sẽ bị dân chúng phản đối và đương nhiên, khuôn mặt giả hình nhân đức của họ bị bại lộ. Như thế, hoàn toàn không có lợi cho bản thân và mưu kế của những người này. Chỉ có một cách là họ ghép Đức Giêsu vào tội lộng ngôn hay phản động thì sẽ dễ dàng hơn.
Thua keo này, họ bày keo khác…. Và, hôm nay là cơ hội để họ thực thi điều ác tâm đó với Đức Giêsu.
Tin Mừng thuật lại câu chuyện Đức Giêsu chữa người bất toại cách công khai và nhân đây Ngài cũng mặc khải Thiên Tính của mình khi nói: "Hỡi người kia, tội ngươi đã được tha!". Khi nói như thế, Đức Giêsu bị những nhà lãnh đạo tôn giáo kết án Ngài nói lộng ngôn vì tự cho mình ngang hàng với Thiên Chúa khi tha tội cho người ta. Theo quan niệm của người Dothái thì những người mắc bệnh tật là do bị Thiên Chúa phạt vì tội lỗi của họ. Và đương nhiên, chỉ có Thiên Chúa mới có quyền tha tội. Khi họ không tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, thì hẳn là họ phủ nhận quyền tha tội của Ngài, như thế, họ có lý do để loại trừ Đức Giêsu bằng cái chết.
Về phía Đức Giêsu: khi Ngài bày tỏ uy quyền của mình bằng việc tha tội, ngay lập tức, người bất toại được lành, điều này cho thấy quyền năng và lòng thương xót của Đức Giêsu đã chứng minh sứ vụ Thiên Sai Con Thiên Chúa nơi Ngài, Ngài đến là để cứu chữa và ban ơn cứu độ cho mọi người.
Mặt khác, niềm tin của những người khiêng anh bại liệt cũng như niềm tin của chính người bại liệt đã để lại cho chúng ta bài học:
Tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa, vì Ngài làm được mọi chuyện và Ngài biết điều gì tốt nhất cho ơn cứu độ của ta thì Ngài sẽ ban ơn.
Đức tin cần phải đi đôi với việc làm. Nếu người bại liệt đã tin vào Chúa, và khi được giải phóng khỏi tội lỗi là quyền lực của Ma Quỷ, anh ta đã cất tiếng ngợi ca Thiên Chúa, thì chúng ta, khi cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa trên cuộc đời, hãy có tâm tình tạ ơn.
Đức tin cần được biểu lộ qua đức ái. Vì thế, noi gương những người Dothái khi xưa, hãy sẵn sàng giúp đỡ những người nghèo đang cần đến sự giúp đỡ của chúng ta. Nhất là những người cô thế, cô thân, để tăng thêm niềm tin nơi họ ngang qua những việc thiện chúng ta làm.
Tránh những kiểu kỳ thị như những người Pharisiêu và Luật sĩ. Đừng vì ích kỷ hay hình thức bề ngoài mà ngăn cản ơn Chúa đến với mọi người, cũng như căm tức những người vì lòng tốt mà làm được nhiều việc thiện hơn ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con ơn đức tin để chúng con biết tin tưởng vào Chúa. Xin cũng cho chúng con luôn biết tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh và sống đức ái với nhau cách chân tình. Amen.
Ngọc Biển
Suy niệm 3:
Lành bệnh và tha thứ đều quan trọng cho sự sống con người: lành bệnh liên quan đến sức khỏe; tha thứ liên quan đến tương quan với Thiên Chúa, với bản thân và với người khác. Con người không thể sống bình an, thậm chí sống mà như chết, nếu những tương quan này bị tổn thương.
Đức Giê-su quan tâm đến sự sống của con người mang hai chiều kích thể lý (chữa bệnh, cho ăn, hồi sinh) và tương quan, nhưng luôn hướng ơn chữa bệnh đến ơn tha thứ, vốn thiết yếu cho sự sống hôm nay, diễn tả và hướng đến sự sống đích thật.
Tuy nhiên, trong trình thuật chữa lành kẻ bại liệt, tương quan giữa hai ơn huệ, ơn chữa bệnh và ơn tha thứ, trở nên phức tạp hơn bình thường : lúc cần chữa bệnh, thì Đức Giê-su ban ơn tha thứ, lúc nói về năng quyền tha tội, thì Ngài lại chữa bệnh !
Một kẻ bại liệt có bốn người khiêng (c. 17-19)
Và trong cuộc sống, chúng ta cần tình liên đới biết bao ; thậm chí, chúng ta không thể sống mà không có tình liên đới. Thật vậy, trong cuộc sống, nhất là trong đời sống gia đình và cộng đoàn, chúng ta được mời gọi mang vác nhau, nhất là mang vác những người thân yêu, những anh em, chị em đau yếu, và rộng hơn, những anh em hay chị em yếu đuối, yếu kém hay chịu thiệt thòi do hoàn cảnh hoặc thân phận hơn. Và một ngày kia, và ngày này không thể tránh được, chính chúng ta cũng sẽ được những người thân yêu, anh em hay chị em của chúng ta mang vác, mang vác đi « loanh quanh » (đến thầy thuốc hay bệnh viện để chữa bệnh), và rồi cuối cùng, mang vác chúng ta đến đặt trước mặt Đức Giê-su (trong Nhà Thờ để cầu nguyện tiễn biệt) ! Và lúc ấy, chúng ta chỉ còn có thể cậy vào lòng tin của mọi người, nhất là của những người thân yêu mà thôi.
Thực ra, mỗi người trong chúng ta cũng đã từng được mang vác đấy thôi, khi chúng ta còn bé hay những lúc đau yếu ; và chúng ta vẫn được Chúa và anh em, chị em, những người thân yêu mang vác mỗi ngày ; có điều là chúng ta nhiều khi mù quáng không nhận ra. Sự liên đới này được kể lại khắp nơi trong các Tin Mừng và đã khiến cho Đức Giê-su, Con Thiên Chúa, phải động lòng, như bài Tin Mừng hôm nay kể lại. Và một ngày kia, trong cuộc Thương Khó, chính Đức Giê-su cũng sẽ để cho người khác mang vác Người, để Người cảm thông và dẫn chúng ta vượt qua đau khổ và sự chết trong tín thác và hi vọng.
Trong bài Tin Mừng, không chỉ có tình liên đới, nhưng còn có lòng tin ; và chính lòng tin tạo ra tình liên đới trong lời kêu cầu, trong ơn chữa lành và ơn cứu độ. Và một lòng tin mãnh liệt đến độ sáng tạo ra những phương thế lạ lùng và táo bạo, khi gặp trở ngại :
Nhưng vì có đám đông, họ không tìm được lối đem người ấy vào, nên họ mới lên mái nhà, dỡ ngói ra, thả người ấy cùng với cái giường xuống ngay chính giữa, trước mặt Đức Giê-su.
(c. 19)
Đó một lòng tin mạnh đến độ có thể nhìn thấy được. Và quả thực, Đức Giê-su đã nhìn thấy lòng tin của họ. « Lòng tin của họ », nhưng họ là những ai ? Là những người khiêng vác người bại liệt, là những người tỏ tình liên đới với người bại liệt. Như thế, lòng tin không chỉ có thể cứu chính mình, như Đức Giê-su hay nói : « lòng tin của con đã cứu con » (Lc 7, 50), nhưng còn có thể cứu người khác nữa, như trường hợp ở đây, và nhiều trường hợp khác nữa trong các Tin Mừng. Chính vì thế mà chúng ta được mời gọi cầu nguyện cho nhau, những người còn sống, cũng như những người đã qua đời. Bởi vì, Chúa cũng mến thương những người chúng ta thương mến trong Chúa. Như thế, đau khổ bệnh tật thuộc về thân phận phải chết của con người, nhưng trong thực tế, lại là cơ hội làm phát sinh tình liên đới, tình thương, sự hòa giải và hiệp nhất. Đó chính là điều Chúa mong chờ để thi ân và bày tỏ tình yêu và lòng thương xót.
Ơn lành bệnh và ơn tha thứ (c. 20-24)
Nhưng còn có một điều đáng ngạc nhiên khác nữa, mà bài Tin Mừng đặc biệt nhấn mạnh, đó là ơn tha thứ Đức Giê-su ban cho người bại liệt :
Này anh, tội anh đã được tha rồi.
(c. 20)
Trong khi đó, tất cả mọi người, trong đó có người bệnh và cả chúng ta nữa hôm nay nghe bài Tin Mừng này, đều chờ đợi một điều khác, đó là phép lạ chữa lành thể lí. Hơn nữa, chữa lành thể lí mới là khẩn cấp và gây ấn tượng cho người xem. Ngoài ra, nếu Đức Giê-su chữa lành ngay, thì sẽ không gây cớ cho người ta xì xầm, thậm chí lên án :
Ông này là ai mà nói phạm thượng như thế?
Ai có quyền tha tội, ngoài một mình Thiên Chúa?
(c. 21)
Bình thường, Đức Giê-su chữa bệnh rồi mới tha tội ; nhưng trong trường hợp này, tại sao Ngài cố ý tha tội trước rồi mới chữa bệnh, và lại còn so sánh hai hành động này nữa :
Các ông đang nghĩ gì trong bụng vậy? Trong hai điều: một là bảo: “Anh đã được tha tội rồi”, hai là bảo: “Đứng dậy mà đi”, điều nào dễ hơn?
(c. 22-23)
Trong bài Tin Mừng, không có câu trả lời, chính là để cho người đọc thuộc mọi thời trả lời, trong đó có chính chúng ta hôm nay. Quả thực, có người mau mắn trả lời, bảo người bại liệt đứng dậy mà đi thì khó hơn, vì đó là phép lạ làm thay đổi thực tại khách quan mà không tuân theo qui luật tự nhiên, còn tha tội thì chỉ là một lời nói, diễn tả tâm tình của người nói dành cho người nghe, không phải là “phép lạ”. Hiểu như thế, đó là vì người này chưa thực sự có kinh nghiệm về ơn tha thứ và chưa hiểu hết được sự lạ lùng nhân linh và thiên linh của lời tha thứ.
Sự sống của người
Sức khỏe
(bệnh tật)
– Bệnh tật, đến từ sự bất toàn của thể xác, liên quan đến sức khỏe.
– Để được chữa lành, không nhất thiết cần tương quan.
– Sức khỏe cần thiết cho cuộc sống những sẽ qua đi.
Tương quan
(tội lỗi)
– Tội lỗi, đến từ sự dữ, là thứ bệnh vô hình (vô ơn, nghi ngờ, ham muốn, ghen tị…), nhưng làm ô nhiễm tâm hồn, gây ra bầu khí chết chóc, ảnh hưởng đến các mối tương quan làm nên cuộc sống, tương quan với Chúa, với bản thân và với người khác, và có hậu quả cụ thể và rộng lớn.
– Ơn tha thứ đòi hỏi lòng tin : « Lòng tin của chị đã cứu chị » (Lc 7, 50) và dẫn đến hành trình chữa lành hay tái sinh lâu dài trong việc đón nhận ơn huệ tha thứ và sống ơn huệ tha thứ.
– Thiết yếu cho sự sống hôm nay, bền vững và diễn tả và hướng đến sự sống đích thật.
Trước hết về thiên linh, qua lời tha tội, Đức Giê-su mặc khải chính căn tính thần linh của mình, chính tương quan duy nhất của Ngài với Thiên Chúa. Đúng như những người Pha-ri-sêu và luật sĩ đã nghĩ : « Ai có thể tha tội, ngoài một mình Thiên Chúa? » (c. 21) ; và Đức Giê-su công bố : « Vậy, để các ông biết: ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội » (c. 24). Chúa đánh liều chính sự sống của mình khi phục hồi sự sống nhân linh, nghĩa là sự sống, được nuôi dưỡng bởi tương quan liên vị, của người bệnh, vì người ta sẽ kết án tử Người, vì tội phạm thượng (x. Mt 26, 65-66).
Về nhân linh, chữa lành thể lí đúng là việc khẩn cấp, mọi người đều muốn và gây ấn tượng. Con người thời nay cũng vậy, hay chạy theo những cách chữa bệnh lạ lùng. Được lành bệnh, phục hồi sức khỏe, cho dù là quan trọng cho cuộc sống, nhưng đâu có thể giải quyết hết được mọi vấn để của cuộc sống, nhất là những vấn đề sâu xa như những vết thương lòng, cảm thức tội lỗi, không bình an và bị « bại liệt » với bản thân, với người khác và nhất là với Thiên Chúa. Như thế, ơn tha thứ không thể là « tự động » được, nhưng liên quan đến tự do của ngôi vị, liên quan đến ơn chữa lành con tim, chữa lành tâm hồn, được giải thoát khỏi sự dữ (x. Tv 51, 12-21). Để được « hoàn tất », ơn tha thứ cần được đón nhận và thể hiện trong cuộc sống như là ơn tái sinh : « Con ta đã chết, nay sống lại » (Lc 15, 24). Và đây là một việc lâu dài và rất khó khăn : chúng ta có thật sự xác tín mình được bao dung tha thứ hay không bởi mầu nhiệm Thập Giá của Đức Ki-tô, vì « Đức Ki-tô chết cho chúng ta, ngay khi chúng ta còn ở trong tội » ? Chúng ta có nhận ra gốc rễ của tội chưa ? Chúng ta đón nhận ơn chữa lành khỏi sự dữ chưa ? Chúng ta đã sống ơn tha thứ đã nhận được chưa, nhất là diễn tả tình yêu và lòng biết ơn của chúng ta dành cho Chúa và lòng bao dung chúng ta dành cho nhau ? Nếu không, chúng ta sẽ tự biến mình trở thành bất xứng với ơn tha tội (x. Mt 18, 23-35 : người tôi tớ, được tha thứ, nhưng lại độc ác với bạn của mình).
Và giả như, phép lạ chữa lành có xẩy ra, thì sức khỏe đâu có tồn tại mãi. Người bại liệt được Đức Giê-su chữa lành ; nhưng một ngày kia, anh lại bị « liệt » trở lại, và lần này sẽ mãi mãi không thể đứng dậy được.
Ơn tái tạo (c. 25-26)
Chúng ta được mời gọi nhìn ngắm hình ảnh người bại liệt đứng dậy vác giường đi về nhà, bằng lời của Đức Giê-su :
Tôi truyền cho anh : « Hãy đứng dậy, vác lấy giường của anh mà đi về nhà ! »
(c. 24)
Và khi nhìn ngắm, đôi mắt của chúng ta được mời gọi nhận ra một ân huệ lớn hơn là ơn huệ chữa lành thể lí, mà Chúa muốn ban cho mỗi người chúng ta. Bởi vì chính chúng ta cũng đã từng bị và có thể đang bị bại liệt, trong tương quan với mình, với Chúa và với nhau. Bại liệt này vô hình, nhưng lại có hiệu quả hữu hình : chúng ta im lặng, tiêu cực, lẩn trốn, đóng kín, tính toán, tẩy chay… Chính Lời bao dung tha thứ của Chúa làm cho chúng ta đứng dậy, chữa lành, tái tạo chúng ta để chúng ta có sức mạnh và tình yêu để đảm nhận gánh nặng (hình ảnh tự vác giường, thay vì để cái giường nó vác mình), đi về nhà, nghĩa là tái hòa nhập với những người thân yêu trong hòa giải và hiệp nhất.
Đức Giê-su đến để cho con người được sống và sống dồi dào. Và sự sống đích thực này được trao ban cho chúng ta, không phải bằng những phép lạ chữa bệnh (xét cho cùng, con người làm được chuyện này bằng nền y học càng ngày càng hiệu quả), nhưng là bằng lời tha thứ, lời tái tạo, lời phục hồi :
Này anh, anh đã được tha tội rồi.
(c. 20)
Và Lời này chỉ có thể đến từ Thiên Chúa mà thôi. Lời tha thứ tái tạo, tuy vô hình, nhưng lại có những hiệu quả hữu hình, khi làm cho chúng ta hòa giải với bản thân, với người khác và với Thiên Chúa, qua đó, làm cho chúng ta sống dồi dào ngay trong thân phận con người và ngay trong những hoàn cảnh đầy thách đố, sinh lão bệnh tử.
* * *
Khi ban ơn tha thứ cho người bại liệt, Đức Giê-su muốn dẫn anh đi xa hơn việc tìm lại được sức khỏe, đó là đi vào trong sự sống đích thật ; đồng thời, Ngài cũng mặc khải chính căn tính của Ngài là Con Thiên Chúa. Nhưng khi làm như thế, Ngài đánh liều chính sự sống của mình, và sẽ đánh liều đến cùng bằng cái chết trên Thập Giá, để tha thứ và chữa lành chúng ta một cách bền vững và tận căn.
Chúng ta được mời gọi đi theo Đức Giê-su và cũng dám đánh liều sự sống, được Chúa ban vào ngày được mẹ sinh ra, và cuộc đời để phục vụ sự sống, qua đó « ca tụng, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa, Chúa chúng ta » (Linh Thao, số 23), trong ơn gọi thánh hiến, độc thân hay gia đình Chúa ban cho mỗi người chúng ta, như Đức Giê-su.
Mùa Vọng 2017
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
Suy niệm 4
Bệnh tật nơi thân xác con người
có thể tượng trưng cho một thứ bệnh tật nào đó nơi tinh thần.
Ít người mắc bệnh câm, nhưng ai cũng có kinh nghiệm về sự câm nín,
do sợ hãi của chính mình hay do bị đe dọa bắt phải im.
Ít người mắc bệnh điếc, nhưng lại có quá nhiều cuộc đối thoại
mà hai bên chẳng hiểu nhau, vì mất khả năng nghe.
Người mù không phải chỉ là người không thấy ánh mặt trời,
nhưng còn là người không dám thấy ánh sáng của sự thật,
không nhận ra hình ảnh người anh em nơi khuôn mặt kẻ thù.
Không phải ai cũng có bàn tay khô bại, không duỗi ra được,
nhưng ai cũng có lần thấy mình khó đưa tay ra để bắt tay người khác.
Đức Giêsu đã chữa cả thảy bao nhiêu bệnh nhân, chúng ta không biết.
Nhưng chắc Ngài đã không dừng lại ở việc chữa lành thân xác.
Ngài muốn một sự lành mạnh nơi toàn diện con người.
“Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai” (Is 35, 6).
Lời của ngôn sứ Isaia trong bài đọc 1 đã ứng nghiệm.
Khi anh bại liệt trỗi dậy, vác giường và đi một mạch về nhà,
chúng ta thấy niềm vui bừng tỏa trên khuôn mặt của anh và các bạn.
Cả gia đình của anh cũng sẽ ngập tràn hạnh phúc
khi thấy anh trở về, đi đứng như một người bình thường.
Nhưng có điều họ không nhận ra đó là chuyện anh được tha tội.
Đức Giêsu đã tha tội cho anh dù anh không xin,
vì điều anh quan tâm chỉ là sự bất toại thể lý.
Nhưng tâm hồn anh đã bước đi,
trước khi đôi chân anh đi được.
Sự trỗi dậy của anh là sự trỗi dậy của cả hồn lẫn xác.
Đức Giêsu có cơ hội để tỏ cho nhóm các luật sĩ và Pharisêu thấy
không nhất thiết phải đi gặp tư tế và dâng lễ đền tội mới được tha.
Chỉ bằng một lời nói đơn sơ và dễ dàng, Ngài có quyền ban ơn tha thứ.
Chính việc anh bất toại được chữa lành làm chứng về quyền năng này.
Ngược lại với thái độ tin tưởng táo bạo của anh bất toại và các bạn,
là thái độ thụ động ngồi của các luật sĩ và Pharisêu.
Họ cứng nhắc trong suy nghĩ truyền thống của mình :
chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể tha tội.
Họ không tin Đức Giêsu được chia sẻ quyền ấy từ Cha,
dù họ đã tận mắt thấy anh bất toại đi được.
Mùa Vọng là thời gian trỗi dậy, ra khỏi sự bất toại và bước đi.
Có những bệnh bất toại về mặt thiêng liêng,
khiến tôi không đến gần được Chúa, cũng không dám đến với anh em.
Có những bất toại về trí tuệ khiến tôi bị kẹt
trong những định kiến, thiên kiến, thành kiến,
không dám mở ra để đón nhận những sự thật bất ngờ và đáng sợ.
Có những bất toại về tình cảm khiến tim tôi như bị cầm tù,
không sao thoát khỏi được chuyện yêu ghét oán hờn dai dẳng.
Xin Giêsu giải phóng tôi, cho tôi khỏi bất toại, để tôi được tự do.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu, sống cho Chúa thật là điều khó.
Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả
để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.
Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa
để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà
để cây đời con sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết chinh phục con
cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình,
ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan
để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng
trước khi con tập sống cho Chúa
và thuộc về Chúa thì Chúa đã sống cho con
và thuộc về con từ lâu. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
10/12 Dọn đường cho Chúa đến
- Viết bởi Mc 13, 33-37
Dọn đường cho Chúa đến.
Chúa Nhật 2 Mùa Vọng năm B.
"Hãy dọn đường Chúa cho ngay thẳng".
Lời Chúa: Mc 13, 33-37
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khởi đầu Phúc Âm của Ðức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa. Như có lời Tiên tri Isaia chép rằng: Ðây Ta sai Thiên Thần của Ta đến trước mặt ngươi để dọn đường cho ngươi. Có tiếng kêu trong hoang địa rằng: "Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng". Gioan Tẩy Giả xuất hiện trong hoang địa, rao giảng phép rửa sám hối cầu ơn tha tội. Dân cả miền Giuđêa và Giêrusalem tuôn đến với người, thú tội và chịu phép rửa trong sông Giođan. Lúc đó Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú, ăn châu chấu và uống mật ong rừng. Người rao giảng rằng: "Ðấng đến sau tôi, quyền năng hơn tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi dây giày Người. Phần tôi, tôi lấy nước mà rửa các ngươi, còn Ngài, Ngài sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 2 MÙA VỌNG B
Lời Chúa: Is 40, 1-5.9-11; 2Pr 3, 8-14; Mc 1, 1-8
1. Thời cứu độ
Bước sang Chúa nhật thứ hai Mùa Vọng, sự chờ đợi hầu như không còn ở trong một tương lai mù mịt, nhưng đã được cảm nghiệm như đang ở trước mắt.
Thực vậy, bài đọc 1 là lời loan báo Chúa đến đầy phấn khởi hân hoan. Dân Chúa được kêu gọi bước vào giai đoạn mở đường cho Chúa, như người dân trong vùng được huy động dọn đường, mỗi khi có một nhân vật quan trọng đi qua. Thiên Chúa các ngươi đây rồi. Một lời hô như thế chỉ có thể làm cho các tâm hồn khao khát Đấng Cứu Thế hân hoan mừng rỡ. Đoạn Kinh Thánh còn đi xa hơn nữa, khi nhấn mạnh vào hậu quả của việc Chúa đến: Chấm dứt thời kỳ phục dịch, bắt đầu thời kỳ ân xá tội lỗi và dân Chúa sẽ được chính Chúa chăn dắt.
Dân Chúa đã từng phải sống trong cảnh nước mất nhà tan. Một phần lớn phải trải qua cuộc sống lưu đày nơi đất khách quê người. Những tâm hồn đào đức vẫn đưa ra mối quan hệ mật thiết giữa các tai ương và tội lỗi của dân. Thực vậy, dân Chúa gặp phải những khốn khồ là vì Chúa không còn dẫn dắt dân của Ngài, bởi những bất trung của họ. Do đó, thời cứu chuộc được mong đợi cũng là thời chấm dứt các tai ương hoạn nạn, vì Thiên Chúa đã chấp nhận trở lại hướng dẫn dân của Ngài.
Bài đọc 2 trích thư của thánh Phêrô Tông đồ, đặt trọng tâm vào việc giải quyết vấn nạn tại sao lại có sự chậm trễ trong việc Chúa lại đến? Theo thánh Phêrô, thì chúng ta không phải là người tính toán về ngày giờ Chúa lại đến, để rồi khi Ngài không đến vào ngày giờ chúng ta đã tính toán, thì chúng ta đâm nghi ngờ về lời hứa của Ngài.
Vấn đề trước tiên và căn bản đó là nhận ra ý nghĩa của thời gian chờ đợi hiện tại để có được một thái độ, một lối sống thích hợp. Theo thánh Phêrô, thời gian chờ đợi hiện tại là sự nhẫn nại của Thiên Chúa. Ngài muốn để mọi người có thời gian ăn năn đền tội và có thể sống trong sự thánh thiện. Như vậy, để trả lời cho vấn nạn về ngày Đức Kitô lại đến trong vinh quang, thánh Phêrô nhắc lại chiều kích quan trọng của đời sống đức tin: hướng về sự hoàn tất và hoạt động cho sự hoàn chỉnh, nghĩa là xây dựng trời mới và đất mới, nơi công lý ngự trị.
Đoạn Tin Mừng được đọc trong Chúa nhật thứ 2 Mùa Vọng đã tiếp nối những tư tưởng trên và cho thấy: Điều tiên tri loan báo đã thực sự xảy ra với sự xuất hiện của Đức Kitô. Đoạn Tin Mừng cũng đã lặp lại lời tiên báo củ Isaia về tiếng kêu trong hoang địa, về sự dọn đường cho Chúa. Nhưng Gioan, người trực tiếp dọn đường cho Chúa đã có đó và đang chỉ cho mọi người nhận biết Đấng Cứu Thế đã ở giữa họ rồi. Gioan tuy là người đến trước, nhưng thực ra lại trở thành người đi sau, vì chúng ta đang ở trong thời buổi của phép rửa bằng Thánh Thần, trong khi phép rửa của Gioan mới chỉ là phép rửa bằng nước.
Phần Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho thấy Thiên Chúa đang thực hiện những gi Ngài đã hứa và mỗi người chúng ta đều được lôi cuốn vào công trình của Ngài. Nếu sự chờ đợi của dân Chúa thuở trước đã không uổng công, thì điều người kitô hữu đang chờ đợi trong hiện tại cũng sẽ đến. Đó là nền tảng cho một niềm tin, thế nhưng niềm tin đích thực phải có sức biến đổi cuộc sống của mỗi người chúng ta.
2. Chúa đến để giải thoát
Qua ba bài đọc hôm nay, lời Chúa mang đến cho chúng ta một niềm hy vọng là Ngài sẽ đến để giải thoát cho dân Ngài trong lịch sử và để tái tạo thế giới trong tương lai. Đồng thời còn vạch cho chúng ta đường lối của Ngài để chúng ta biết phải chuẩn bị như thế nào cho xứng hợp.
Trước hết, Thiên Chúa đã đến trong lịch sử. Như chúng ta đã biết dân Do Thái đã qua cuộc xuất hành đầu tiên khỏi Ai Cập, nhưng về sau họ còn phải trải qua những cuộc lưu đày khác và theo sau là những lần Chúa can thiệp. Tiên tri Isaia hôm nay loan báo cho họ biết là sắp có một cuộc xuất hành mới, khỏi ách thống trị của Babylon: Thời nô lệ đã chấm dứt, tội lỗi đã được ân xá. Đây Chúa là Thiên Chúa các ngươi sẽ đến trong quyền lực, cánh tay Ngài sẽ thống trị. Ngài đến để dẫn dắt họ trở về quê hương các tổ phụ như người mục tử ẵm chiên con trên cánh tay mình và nhẹ tay dẫn dắt các chiên mẹ.
Hơn thế nữa Thiên Chúa đã đến qua Con của Ngài là Đức Kitô. Đức Kitô chính là sức mạnh của Thiên Chúa đến để giải thoát thế gian khỏi tội lỗi như lời Gioan Tiền Hô đã làm chứng: Đấng đến sau tôi nhưng quyền năng hơn tôi, Ngài sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần. Người là mục tử nhân lành đến tìm kiếm những con chiên lạc.
Và sau cùng, Đức Kitô sẽ đến trong vinh quang. Ngài đã nói nhiều về ngày Ngài sẽ trở lại để phán xét thế gian. Thánh Phêrô đã nói đến thái độ của các tín hữu đầu tiên: Mong đợi ngày Chúa trở lại đến nỗi có người lầm tưởng là Ngài chậm trễ thi hành lời hứa của Ngài. Chắc chắn Ngài sẽ đến nhưng Ngài đã không xác định thời gian vì một ngày của Chúa như ngàn năm và ngàn năm như một ngày. Ngài chưa đến là do sự quan phòng, và vì Ngài nhẫn nại, muốn tất cả mọi người được cứu rỗi.
Thiên Chúa đến như là hậu quả cuộc chuẩn bị của con người. Ngài đã sai các tiên tri như tiếng kêu trong hoang địa loan báo dân Ngài hãy chuẩn bị để Ngài đến giải thoát. Thế nhưng, phải chuẩn bị ra làm sao?
Trước hết mọi người cần phải ăn năn sám hối, tiếp đến là hãy sống thánh thiện và đạo đức mong ngày Chúa đến. Sau cùng là hãy đem Tin Mừng đến cho người khác.
Một du khách rảo qua những danh lam thắng cảnh ở Thuỵ Sĩ, dừng lại trước một vườn hoa đẹp bao quanh một lâu đài, người làm vườn ra đón chào. Du khách hỏi: Cụ ở đây bao lâu rồi? Thưa 24 năm. Có lẽ chủ của cụ ít ở đây? Vâng, tôi chỉ mới gặp có bốn lần thôi, và lần cuối cùng cách đây đã 12 năm. Thế thì ai thưởng thức cảnh đẹp này mà cụ phải mất công chăm sóc kỹ càng như vậy. Thưa ông, tôi làm như chủ tôi đến hôm nay, ngay bây giờ. Ngoài ra, chính khi làm đẹp khu vườn cho chủ, vợ chồng tôi cũng được hưởng cảnh đẹp.
Lời Chúa hằng kêu gọi mọi người trong thế giới hôm nay. Chúng ta cần có thái độ lắng nghe, mở rộng tâm hồn để trở về với Chúa. Và có nhiệm vụ làm cho mọi người cũng biết từ bỏ tội lỗi mà trở về cùng Chúa.
3. Dọn đường
Vào một buổi sáng Chúa nhật đẹp trời, Cordell, một con người bệnh tật và đau yếu, được mời đến nói chuyện tại câu lạc bộ dành cho những người khoẻ mạnh, giàu sang và gặt hái những thành công sáng chói. Anh đã mở đầu như sau: Tôi biết rằng tôi rất khác biệt với quý vị. Rồi anh trích dẫn lời thánh Phaolô: Nhưng nhờ ơn Chúa mà tôi được như thế này. Suốt 20 phút đồng hồ, anh đã nói về lòng nhân từ của Thiên Chúa được thể hiện trong đời sống của anh. Và rồi anh đã kết luận: Quý vị có thể thành công trong suốt cả cuộc đời và lợi nhuận hàng năm có thể lên tới hàng triệu đồng, nhưng khi ngày giờ đến, ngày mà quý vị nhắm mắt buông tay giã từ cuộc sống và bị vùi sâu dưới lòng đất lạnh, thì quý vị sẽ chẳng khác tôi chút nào. Đó là giây phút mọi người chúng ta đều giống nhau. Tôi không cần tới những gì quý vị đang có trong cuộc sống, nhưng tôi chắc chắn rằng quý vị cần một điều mà tôi đang có đó là Đức Kitô.
Câu chuyện trên làm cho tôi thích thú, bởi vì nó rất thích hợp với bầu khí của mùa vọng. Nó mời gọi chúng ta thử kiểm điểm xem cái gì thực sự quan trọng đối với chúng ta? Cái gì chiếm địa vị ưu tiên trong cuộc sống? Và hơn nữa Đức Kitô giữ vai trò nào trong đời sống chúng ta? Trong giây phút này, Ngài có phải là thần tượng chiếm chỗ nhất trong con tim chúng ta hay không? Như trái đất xoay quanh mặt trời, thì liệu toàn bộ cuộc đời chúng ta có quy hướng về Ngài, có xoay quanh Ngài hay không?
Cũng trong chiều hướng ấy, phụng vụ lời Chúa hôm nay thôi thúc chúng ta hãy đặt lại vấn đề xem: Chúng ta đã đi đúng hay đi sai? Chúng ta đã đặt trọng tâm của cuộc sống vào đâu? Cũng như chúng ta đã xây dựng con người chúng ta trên nền tảng nào?
Tại Luân Đôn có một ngôi nhà nguyện được sử dụng để tưởng niệm những người dân đã bị thiệt mạng trong thành phố do máy bay oanh tạc thời đệ nhị thế chiến. Trong nhà nguyện có 4 cuốn sách lớn, ghi tên sáu ngàn nạn nhân. Mỗi ngày người ta mở một trang, và khi đọc những tên ấy, chúng ta không sao biết được nạn nhân là người nghèo hay giàu, da đen hay da trắng, già hay trẻ, đẹp hay xấu. Bởi vì lúc đó không còn một khác biệt nào nữa. Có chăng sự khác biệt duy nhất đó là bản chất con người mà cá nhân chúng ta đã tạo ra cho mình khi còn sống ở trần gian này. Và như thế, chúng ta phải làm gì nếu như đã không sống đúng với cách thức chúng ta phải sống. Chúng ta phải làm gì nếu như Đức Kitô thực sự đã không chiếm chỗ nhất trong tâm hồn chúng ta. Chúng ta phải làm gì nếu như chúng ta chưa chuẩn bị để gặp gỡ Đức Kitô trong ngày sau hết.
Gioan Tiền Hô hôm nay đã đưa ra những việc cần phải làm ngay, đó là phải ăn năn sám hối, cải tà quy chính và làm lại cuộc đời, nghĩa là hãy dọn đường Chúa đến. Khi tôi là một em nhỏ thì thời gian như bò tới. Khi tôi là một thanh niên thì thời gian như đi tới. Khi tôi là một người trưởng thành thì thời gian như chạy tới. Khi tôi là một người già cả, thì thời gian như bay tới. Còn khi tôi cận kề với cái chết, thì tời gian như đã mất đi. Vậy chúng ta đã làm được những gì để đón mừng Chúa đến?
4. Chuẩn bị
Để đạt một giải thưởng thể thao ở Thế Vận Hội, vận động viên phải tập luyện nhiều năm, nếu không nói là tập làm quen với môn loại đó từ lúc thiếu thời mới mong đạt được huy chương cấp quốc tế nhưng cũng là danh dự chóng qua. Để đạt được phần thưởng lớn lao vĩnh cửu, chúng ta càng phải chuẩn bị nhiều hơn. Thiên Chúa sẵn sàng ban cho con người phần thưởng lớn lao, nhưng Ngài muốn con người đón nhận phần thưởng cách xứng đáng. Ngay từ bây giờ, chúng ta lo chăm sóc linh hồn, điều hướng cuộc sống đời này cho đúng đường lối Chúa. Chúa không đến muộn nhưng Chúa muốn chờ đợi mọi người chuẩn bị đón Chúa, không muốn ai phải hư mất.
Xưa kia, trước khi Chúa đến, Ngài sai Gioan Tẩy Giả dọn lòng dân Israel đón Chúa. Ngày nay, Chúa tiếp tục ban ơn và dạy chúng ta dọn lòng đón Chúa qua lời nhắc nhở của các linh mục, qua những biến cố của cuộc sống… các linh mục giúp chúng ta nhớ lời Chúa nói trong Kinh Thánh: hãy dọn lòng đón Chúa, sửa đổi, sống cho ngay thẳng. Chúa cũng nhắc chúng ta trong các biến cố của cuộc sống để chúng ta hướng lòng về Chúa và được gần Chúa hơn. Nhờ Bí tích Giải tội, chúng ta được thanh tẩy trong sạch, xứng đáng lãnh nhận các Bí tích khác nhất là Bí tích Thánh thể mỗi ngày. Và qua các Bí tích, Chúa ban dồi dào ơn phúc để chúng ta nên giống Chúa ngày một hơn, xứng đáng đứng vào hàng ngũ các thánh.
Chúng ta là con cái Chúa, chúng ta không thể để lòng mình mê muội trong những cám dỗ của thế gian như quá coi trọng tiền bạc, địa vị, kiến thức… nhưng luôn nhớ tới Chúa, nhận thức sự hiện diện của Chúa trong thế giới. Chúng ta sống thế nào cho phù hợp với ý Chúa, cho đẹp lòng Chúa và luôn vui mừng vì ơn cứu độ Chúa dành cho mỗi người chúng ta.
Trong việc chuẩn bị đón Chúa, chúng ta rất cần ơn Chúa Thánh Thần. Chúng ta hãy cầu xin với Ngài, năng nhớ tới Ngài, đừng để Ngài phải cô đơn. Chúng ta hãy biết thanh lặng mỗi ngày ít phút, để những lo toan, xô bồ của cuộc sống không làm chúng ta xa Chúa. Những công việc, vấn đề tiền bạc, địa vị, … chỉ là phương tiện cho chúng ta sống đạo. Chúng ta biết để các phương tiện trần thế qua một bên khi cầu nguyện, để lòng lắng nghe tiếng Chúa dạy bảo để đi đúng đường về nhà Cha của mình. Sức mạnh của Chúa Thánh Thần sẽ bổ sức cho chúng ta trên con đường theo Chúa. Chúa thánh Thần dạy chúng ta biết sống đạo, và thực thi thánh ý Chúa cho bản thân mình. Đời chúng ta sẽ bớt khổ nhọc khi đi theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần vì ách của Chúa êm ái, gánh của Chúa nhẹ nhàng. Cái khổ của người có tâm hồn trông cậy sẽ khác với với cái khổ của những người không biết hy vọng. Có Chúa, dù có khó nhọc chúng ta vẫn cảm thấy bình an và hơn nữa , cảm thấy vui sướng vì được giống Chúa Kitô trong niềm tin vào lời hứa của Người.
Gioan lấy nước mà rửa cho người Do thái, còn chúng ta được tẩy rửa trong Chúa Thánh Thần. Do đó, mỗi ngày chúng ta càng trở nên giống Chúa hơn, quãng đại, vị tha hơn theo gương Chúa Giêsu. Chúng ta sẽ nên thánh nếu biết sống theo sự soi dẫn của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến rồi mà nhiều khi chúng con còn thờ ơ, còn mê muội trong những đam mê thú vui vật chất, chưa ý thức Chúa đang ngự trong lòng mình mỗi khi rước Chúa, chưa xứng đáng với tấm lòng ưu ái của Chúa. Trong mùa Vọng này, chúng con xin Chúa thêm sức cho chúng con biết sửa đổi, biết mở lòng ra đón nhận lời Chúa và sống xứng đáng với tình yêu Ngôi Hai giáng sinh vì nhân loại.
5. Gioan, con người thật lạ lùng
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Hôm nay chúng ta cùng chiêm ngắm một con người thật lạ lùng. Lạ lùng từ khi được cưu mang. Lạ lùng trong cách sống. Lạ lùng đến nỗi cha ông là Zacaria đã không tin rằng mình sẽ làm cha vào tuổi bóng đã ngả về chiều. Lạ lùng vì ngay từ trong dạ mẹ ông đã reo lên khi Chúa đến viếng thăm. Lạ lùng vì ông sống khắc khổ nơi rừng vắng. Ông chỉ ăn châu chấu với mật ong. Lạ lùng vì ông được người đời ca tụng nhưng ông đã từ khước tất cả danh vọng chỉ nhận mình là tiếng kêu nơi hoang địa. Cuộc đời ông luôn khiêm tốn nhỏ bé để Chúa được lớn lên. Ông có tên gọi thật khiêm nhường là Gioan.
Tin mừng thánh Luca trình thuật về việc làm của ông cũng thật lạ lùng. "Có tiếng người hô trong hoang địa". Tại sao ông lại hô giữa nơi hoang địa? Hoang địa khô cằn lại lắm hiểm nguy? Hoang địa làm sao có kẻ qua người lại mà ông đến nơi hoang địa để hô vang dọn đường cho Chúa? Thế mà tiếng hô của ông lại đánh động lòng người. Hàng ngàn người đã ăn năn sám hối. Hàng ngàn người tìm đến với ông để canh tân, sửa đổi cuộc đời. Như vậy, hoang địa ở đây có thể không mang nghĩa địa lý. Hoang địa ở đây chính là sa mạc của lòng người. Cuộc đời đã khô cạn tình người. Giữa phố xá đông người nhưng con người vẫn cô đơn, thất vọng, chán chường bởi sự ích kỷ, lạnh lùng trong quan hệ giữa người với người. Đây là "một ngõ vắng xôn xao nằm trong thành phố lớn". Dù rằng thành phố có trăm ngàn ngõ ngách nhưng bởi tính ích kỷ và sự vô cảm nên xã hội vẫn đầy những ngõ vắng cô đơn của cuộc đời. Vâng, cuộc đời trở thành một hoang địa khi tình người đã mất. Khi người ta sống bên nhau nhưng không còn liên đới, chia sẻ với nhau thì con người vẫn cô đơn giữa lòng nhân thế. Cuộc đời trở thành một hoang địa khô cằn nên cuộc đời buồn nhiều hơn vui, nước mắt nhiều hơn nụ cười.
Tiếng hô của ông đi xuyên qua hoang địa lòng người. Ông đề nghị sửa lại lối sống. Đường quanh co hãy uốn cho ngay thẳng. Người quanh co là người sống thiếu chân thật. Người quanh co thường có lối sống gian dối, điêu ngoa, sống lắc lẻo, lừa bịp. Ăn không nói có. Thêm điều đặt chuyện để hại người hại đời. Lối sống như vậy chỉ là một loại phá hoại sự yên ổn của xóm làng và gây chia rẽ khu xóm, chỉ khiến con người xa rời nhau. Làm sao có thể tin tưởng và yêu mến nhau nếu trong giao tiếp thiếu sự chân thành, lại còn thêm điều đặt chuyện? Gioan còn đề nghị phải lấp đầy thung lũng của lòng người. Vì "sông sâu còn có kẻ dò - Lòng người nham hiểm trùng khơi khôn dò". Do vậy, phải lấp đầy thung lũng của những ngăn cách, của những phân biệt giai cấp và nghi kỵ hiểu lầm. Và cuối cùng là hãy bạt đi núi đồi của kiêu căng, tự mãn để nhờ đó mà con người khắp năm châu sẽ nắm tay nhau hát vang câu hát của thanh bình. Đây cũng là cách thức duy nhất để Nước Thiên Chúa hiển trị và ơn cứu độ của Thiên Chúa trải rộng đến muôn tâm hồn.
Vâng thưa anh chị em, thế giới hôm nay vẫn còn đó tiếng kêu đơn độc giữa phố phường. Có biết bao người sống cô đơn lây lất vì thiếu sự cảm thông nâng đỡ của anh em bạn bè. Có biết bao trái tim đang co thắt trong đau khổ vì sự nghi kỵ, kết án, tẩy chay của anh em. Có biết bao cuộc đời đang thất vọng buông xuôi vì sự bỏ vạ, cáo gian, vì sự lừa gạt và hãm hại của đồng loại. Có biết bao giọt nước mắt vẫn rơi rớt trên giòng đời vì vô ơn bội bạc, vì sự bất trung, bất hiếu của những người thân trong gia đình. Và vẫn còn đó, còn rất nhiều những nỗi đau là hệ quả của một thế giới hoang địa khô cằn tình người.
Mùa vọng giáo hội mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức để nhận ra tiếng kêu cầu cứu của tha nhân. Hãy yêu mến tha nhân trong tình yêu chân thành, đừng lường gạt lẫn nhau, hãy sống thật lòng với nhau. Hãy xóa đi những hố sâu của nghi kỵ, hiểu lầm để sống cảm thông và tha thứ cho nhau, đừng gây chia rẽ và tạo nên những hố sâu của bất đồng, của oán hận hờn căm. Hãy xan bằng những ngăn cách bởi kiêu căng tự mãn bằng một đời sống hoà hợp với nhau trong tình anh em có chung một cha trên trời.
Ước mong mỗi người chúng ta hãy sửa lại lối sống cho phù hợp với tin mừng cứu độ, để thiết lập một màu xanh yêu thương và ngập tràn niềm vui và hạnh phúc thay cho sự khô cằn của sa mạc tình người.
Nguyện xin Đấng Emmanuel, là Đường là sự thật và là sự sống dẫn dắt chúng ta đi trong hồng ân của Ngài, ngõ hầu mỗi người chúng ta sẽ được hưởng một mùa xuân của hoa công lý và tình thương nở rộ khắp nhân trần. Amen.
6. Lầm lỗi và sám hối
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Con người thường có những lỗi lầm. Lỗi lầm khiến con người trở nên xấu xa. Lỗi lầm càng nhiều thì xấu xa càng ghê sợ hơn. Thế nên, con người thường có khuynh hướng che giấu tội lỗi của mình. Đôi khi còn đóng kịch để che đậy bản tính xấu xa của mình. Sống giả dạng người tốt để đánh lừa anh em.
Có đôi vợ chồng nọ, mới cưới nhau về được khoảng một tuần, anh nói với vợ rằng,
- Xin em hứa với anh là đừng bao giờ mở cái hộp này ra, bao lâu anh đang còn sống.
- Người vợ gật gù đồng ý.
- Sau bốn mươi năm sống chung, gia đình rất hạnh phúc. Một hôm ông đi vắng, bà ở nhà một mình, tò mò lấy cái hộp từ dưới chân giường ra, không hiểu là ông đã giấu cái gì trong hộp. Người vợ nghĩ rằng đã sống với nhau bốn mươi năm, cái gì cũng biết hết rồi, ngoài trừ cái hộp này.
- Bà liền mở hộp ra xem, và trong hộp có năm vỏ bia, và một trăm hai mươi lăm đồng, năm chục xu. Bà nghĩ rằng chỉ có vậy thôi mà sao ông bí mật thế.
- Khi Ông đi làm về, bà liền đến tự thú với ông. Và bà hỏi ông rằng, tại sao trong hộp lại có năm vỏ bia? Ông trả lời, năm vỏ bia là tượng trưng cho mỗi lần tôi làm lỗi với bà, thì tôi uống một lon. Người vợ thấy vậy cũng vui vui, vì nghĩ rằng, sống với nhau bốn mươi năm, mà ông chỉ làm lỗi với mình chỉ có năm lần, kể cũng quá ít.
- Bà tiếp, vậy còn một trăm hai mươi lăm đồng, và năm chục xu thì sao?
- Ông đáp, "thì là tiền bán vỏ lon bia chứ gì. "
- Bà...."ố trời ơi!!!!!"
Hóa ra tình yêu vẫn có những phản bội. Phản bội vì yếu đuối. Phản bội vì nông cạn. Phản bội có thể xảy đến khi mình thiếu tự chủ, mất kiểm soát tình cảm dễ dẫn đến phản bội với nhau. Nhưng nếu phản bội mãi mà không nhận ra sai lỗi của mình thì thật bất hạnh cho mình và cho gia đình. Điều quan yếu là biết sám hối và đứng dậy sau những lần vấp ngã. Dẫu có muộn màng vẫn hơn. Dẫu có tái phạm vẫn còn sửa chữa vì không cố tình ở lỳ trong tội lỗi.
Thánh Gioan B. là sứ giả của Thiên Chúa. Ông đến để sửa lại lỗi lầm cho con người. Ông đi trước Chúa để uốn lại lòng dân. Ông dọn lại những gồ ghề trong tâm hồn con người bởi những tham sân si. Ông đưa ra phương án sửa lại lỗi lẫm bằng việc sám hối ăn năn.
Sám là thú nhận lỗi lầm, Hối là hứa từ nay không tái phạm. Sám Hối là thú nhận lỗi lầm, và hứa không tái phạm. Sám hối là hành động của bản thân biết nhìn ra tội lỗi của mình mà sửa đổi, mà canh tân. Không có sám hối sẽ không có những cuộc canh tân làm thay đổi đời sống và môi trường sống. Chính nhờ sám hối và bản thân được thăng tiến, mỗi trường cũng được đổi thay thêm xinh đẹp hơn.
Sám hối là động lực giúp con người hoàn chỉnh bản thân mình. Nhờ sám hối mà ta chỉnh tu lại con người mình thêm xinh đẹp hơn. Madalena đã từng sám hối để từ bỏ con người trắc nết mà biến đổi trở thành người đi theo Chúa. Augutino đã từng sám hối để bỏ đường rộng thênh thang chiều theo tính xác thịt mà biến đổi trờ thành một đại thánh cho Giáo hội. Có rất nhiều những con người đã đổi đời nhờ sám hối mà chỉnh tu lại lối đi của mình theo đường lối Thiên Chúa.
Xin Chúa giúp chúng ta biết nhìn lại những yếu đuối của bản thân mà sám hối ăn năn. Xin giúp chúng ta can đảm thực hiện hành vi sám hối bằng việc thú nhận tội lỗi của mình và tuyên hứa từ nay không tái phạm. Xin Chúa nâng đỡ sự yếu hèn của chúng ta và giúp chúng ta hoàn chỉnh mình mỗi ngày thêm giống Chúa hơn nhờ cuộc canh tâm sám hối từng ngày. Amen.
7. Chuẩn bị đón Chúa – Thiên Phúc
(Trích trong “Như Thầy đã yêu”)
Pat William có kể một câu chuyện rất đặc sắc trong cuốn The Power Within You như sau:
Cordell Brown, một bệnh nhân vị bhứng liệt nào, đến câu lạc bộ Quán Quân Thế Giới Philadelphia Phillies. Anh bước đi khó khăn, nói năng ấp úng, nên khi anh tới, các thành viên quay mặt đi như không nhìn thấy. Anh có thể nói gì với những siêu minh tinh màn bạc Steve Carleton, hoặc như Mike Schmit, những kẻ sống rất phong lưu ngàn lần xa anh.
Tuy không được đón tiếp nhiệt tình, anh vẫn nói: Tôi biết rằng tôi rất khác biệt với các bạn, “nhưng nhờ ơn Chúa mà tôi được như thế này”. (1 Cr 15,10). Và anh thao thao bất tuyệt nói về long nhân hậu của Thiên Chúa đã tuôn đổ phúc lộc xuống trên cuộc đời anh. Anh mạnh mẽ xác quyết: “Các bạn có thể thành công suốt cả cuộc đời, lãnh cả triệu đô la mỗi n ăm, nhưng khi ngày giờ đến, ngày mà người ta đóng nắp quan tài của các bạn lại, thì các bạn cũngnhư tôi. Mọi n gười đều như nhau. Tôi không cần những gì các bạn đang có, nhưng tôi chắc chắn rằng các bạn cần một điều mà tôi luôn có, đó là Đức Giêsu Kitô”.
Suốt chiều dài lịch sử Cựu Ước, Thiên Chúa đã chuẩn bị cho con người đón tiếp Đức Kitô. Và khi đến thời gian đã định Thiên Chúa dùng Gioan Tiền Hô, một tiên tri vĩ đại gạch nối giữa Cựu và Tân ước để chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế: “Có tiếng kêu trong hoang địa; hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng” (Mc 1,3).
Gioan không làm cách mạng, ngài không bắt người ta phải thay đổi cuộc sống, thay đổi địa vị xã hội, cỏ dù là thu thuế hay binh lính, hai hạng người mà thời bất giờ bị coi khinh và xem thường. Nhưng Gioan chỉ nhắc nhở, thúc dụ mọi người hãy cải thiện đời sống, đổi mới tâm hồn để sẵn sang chờ đón Chúa đến.
Để gặp gỡ Đức Kitô, chúng ta không thể làm gì khác Gioan, sống khó nghèo và đớn sơ trong cách ăn mặc và lối sống.
Để gặp gỡ Đức Kitô, chúng ta không thể sống buông thả theo tính khoe khoang và tự mãn.
Để gặp gỡ Đức Kitô, chúng ta không thể không học nơi Gioan long khiêm nhường, luôn qui hướng mọi vinh quang về cho Chúa.
Chính nhờ có Đức Kitô mà Cordell Brown trong câu chuyện trên đây cảm thấy hạnh phúc tràn đầy. Hạnh phúc ấy chỉ có được bằng giá của sẹ từ bỏ liên tục. Ludovic Giraud đã viết: “Sống không phải là chấp nhận tất cả, mà là chọn lựa, là cắt bỏ, là hy sinh. Nhựa cây chỉ dẫn đến cành khi được cắt tỉa, và nó chỉ sống được khi ngàn cây tầm gởi không bóp nghẹt nó”.
Mùa vọng là thời gian của hy vọng. Con thuyền hy vọng của người tín hữu Kitô luôn chất đầy tin tưởng và phó thác:
- Tin tưởng Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về con người, nên chúng ta cũng đừng thất vọng về chính mình.
- Phó thác cho Thiên Chúa tình yêu, nên dù tội lỗi có ngập tràn, khổ đau có chồng chất, chúng ta vẫn một niềm cậy trông.
Tin tưởng và phó thác là đôi mắt của người tín hữu nhìn thẳng vào Chúa mà hy sinh và từ bỏ.
***
Lạy Chúa, xin giúp chúng con chuẩn bị đón Chúa với thái độ của người lữ hành trong sa mạc: dẹp đi những cồng kềnh vướng bận. Xin cho chúng con biết khổ chế nơi thân xác và chay tịnh trong cõi lòng, cho tâm hồn chúng con được thanh thoát, đón mừng Chúa đến ban nguồn vui Ơn Cứu độ. Amen.
8. Người phu quét lá
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Trong Tác phẩm “Người phu quét lá”, Đức Giám Mục Nguyễn Khảm đã ví von, đời Linh mục như người phu quét lá: “Người phu quét lá bên đường. Quét cả nắng chiều quét cả mùa thu” (Ns. Trịnh Công Sơn).
Người phu quét lá, hàng ngày dù mưa dầm hay nắng hạn, vẫn luôn có mặt từ sáng sớm tinh sương trên mọi nẻo đường thành phố để dọn đường sạch sẽ cho ngàn ngàn con người sắp đi qua. Linh mục, mỗi ngày cũng dọn đường tâm hồn cho con người đi đến với Thiên Chúa và để Thiên Chúa đến với con người.
Trong ý nghĩa đó, có thể nói Gioan Tiền Hô cũng là “Người phu quét lá” dọn đường cho Chúa Cứu Thế đến với nhân loại.
Bước vào Mùa Vọng, chúng ta gặp lại Gioan Tiền Hô, vị ngôn sứ đi trước dọn đường và dọn lòng người để đón Đấng Cứu Thế. Thực thi sứ vụ dọn đường, Ngôn Sứ Gioan luôn gắn bó với Thiên Chúa và sống gần gũi với con người. Lời Chúa, Gioan chiêm niệm trong hoang địa qua nhiều năm tháng đã giúp ông tiếp xúc, gặp gỡ với nhiều hạng người qua những vùng ven sông Giođan. Lời Chúa, Gioan nghe đã trở thành Lời Chúa ông công bố. Tiếng Chúa gọi Gioan đã trở thành tiếng ông mời gọi mọi người.Gioan trở nên trung gian làm người dọn con đường tâm hồn cho anh chị em mình đến với Chúa Cứu Thế.
Các chương từ 40-55 trong sách Tiên tri Isaia, được gọi là Sách An Ủi dân Israel. Sau khi Giêrusalem bị thất thủ, dân phải đi đầy sang Babylon, Thiên Chúa dùng Tiên tri Isaia loan báo cho dân ngày giải thoát. Vì vậy tiếng hô: "hãy mở một con đường cho Đức Chúa" (Is 40,3) là câu hoàn tất lệnh truyền của Thiên Chúa trước đó: "Hãy an ủi, an ủi dân Ta. Hãy ngọt ngào khuyên bảo Giêrusalem, và hô lên cho Thành: thời phục dịch của Thành đã mãn, tội của Thành đã đền xong" (Is 40,2). Lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả hoàn tất các lời hứa của Thiên Chúa: "Này ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con." (Mc 1,2). Và mở đường cho ơn cứu độ phổ quát. Trước khi là một sứ điệp loan báo, Tin Mừng là một biến cố, một con người cụ thể, Đức Giêsu Kitô: Con Thiên Chúa hằng sống (Mc 15,39).
Thánh Máccô đã thấy rõ nơi Gioan Tẩy Giả là người thực hiện các điều mà Is 40,3 loan báo, là người giúp chuẩn bị lòng dân đón chờ Đấng Cứu Thế. Sứ điệp mà ông kêu gọi mọi người dọn lòng chuẩn bị đón Chúa đến chính là: sám hối và canh tân cuộc sống.Lòng ăn năn thống hối đích thực không hệ tại nơi những tình cảm chóng qua, hay những nghi thức bên ngoài nhưng phải phát xuất từ chính nội tâm bên trong, từ chính niềm tin mong đợi Chúa đến.
Gioan là vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước. Sau 5 thế kỷ vắng bóng ngôn sứ, nay Gioan xuất hiện với sứ mạng Tiền Hô. Ông đáp lại tiếng Chúa gọi, ra đi rao giảng về Nước Trời, dọn đường cho Chúa Giêsu, Đấng Cứu Tinh nhân loại đến trần gian. Ông đã chu toàn ơn gọi cách nhiệt thành và đã chết anh hùng cho sứ vụ. (x. Mt 14,3012; Mc 6,17-19). Cuộc đời Gioan là một thiên anh hùng ca, bất khuất trước cường quyền, bao dung với tội nhân.
Gioan có một cuộc sinh ra kỳ lạ, một lối sống khác thường. Gioan chọn con đường tu khổ chế: ăn châu chấu và mật ong rừng, uống nước lã và mặc áo da thú. Sống trong hoang địa trơ trụi, vắng người, thiếu sự sống. Nhưng chính ở đó mà Gioan đã lớn lên và trưởng thành trong sự gặp gỡ thâm trầm với Thiên Chúa.
Gioan nhắc lại lời tiên tri Isaia: “Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng” (Lc 3,5). Gioan mời dân chúng sám hối. Không thể tiếp tục sống như xưa nữa. Đã đến lúc phải đổi đời, đổi lối nhìn, đổi lối nghĩ. Như thế, Gioan kêu gọi hãy dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Phải lấp cho đầy những hố sâu tham lam ích kỷ hẹp hòi. Phải uốn cho ngay những lối nghĩ quanh co, những tính toán lệch lạc. Phải san cho phẳng những đồi núi kiêu căng tự mãn. Phải bạt cho thấp những gồ ghề của bất công bất chính.
Phụng vụ Chúa nhật II Mùa Vọng mời gọi chúng ta chuẩn bị con đường cho Chúa Cứu Thế ngự đến. Chúa đến là niềm vui cho toàn thể nhân loại. Nhưng để được hưởng niềm vui này, mỗi người cũng như toàn thể nhân loại phải biết dọn đường cho Người.Dọn đường là nỗ lực hoán cải bản thân, tẩy trừ tội lỗi trong đời sống; đồng thời trong xã hội, cũng cần sự hoán cải tập thể, để tình yêu và chân lý, công lý và hòa bình được ngự trị.
Đạo là con đường dẫn đến Thiên Chúa. Đạo là ngón tay chỉ mặt trăng. Nếu không có đường thì không đi đến đâu cả. Một đất nước có văn minh hay không là do hệ thống đường sá.
Đạo từ nguyên thuỷ luôn mang ý nghĩa trong sáng, ngay thẳng, công minh. Đạo dẫn đưa con người đến chân thiện mỹ.
Đạo là đường nên có thể nói sống đạo là sống ngoài đường, sống với người khác, sống với cuộc đời. Abraham khởi đầu sứ mạng mới bằng việc lên đường từ giã thành Ur để sang đất hứa. Và lịch sử Do thái là những chuyến xuất hành di cư, lang thang trong sa mạc, lưu đầy và mất quê hương trong một thời gian dài. Gioan rao giảng và làm phép rửa khắp mọi nẻo đường. Chúa Giêsu sống ở thế gian bằng những cuộc lên đường sang Ai cập, về Nazareth, lên sa mạc, vào đền thánh và trở lại Galilêa. Cuộc sống công khai của Chúa ít là có ba cuộc hành trình lên Giêrusalem. Và sau cùng Ngài lên đường về nhà Cha.
Vì là đường nên nên đạo luôn mở ra nối kết và đón nhận cuộc sống, đón nhận mọi người, không phân biệt ai với tinh thần yêu thương của Thiên Chúa. Tin Mừng chính là đạo, là con đường mà Chúa Giêsu vạch ra cho chúng ta đi theo Ngài.
Đường quan trọng nhất là đường vào cõi lòng. Gioan đã chỉ cho thấy rằng, mỗi con người đều có ít nhiều đồi núi kiêu ngạo, thung lũng ích kỷ, ghồ ghề khúc khuỷu trong các mối quan hệ. Có bao lối nghĩ quanh co, có bao tính toán lệch lạc, có những lũng sâu tăm tối thiếu vằng ánh sáng tình yêu. Sửa đường theo Gioan là sám hối. Nhìn lại con đường mình đã đi qua, sửa lại những sai lệch nếu có. Những gì cong queo hãy san cho thẳng. Những gì cao cao, cần bạt xuống thấp. Lúc đó mới nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa. Sửa cho thẳng, lấp cho đầy, uốn cho ngay, san cho phẳng, bạt cho thấp. Đó là sứ điệp Gioan gởi tới chúng ta trong Mùa Vọng này, để chúng ta dọn lòng mình thành đại lộ thênh thang mở ra với Chúa Cứu Thế.
Con đường mà Gioan nói tới đây chính là đường vào cõi lòng. Con đường nội tâm của mọi người. Sửa con đường nội tâm là thay đổi cõi lòng, thay đổi cuộc sống để xứng đáng đón tiếp Chúa Cứu Thế.
Sửa đường cho Chúa đến là cần thiết và hợp lý. Khi đón tiếp một vị khách quý, người ta thường sửa sang đường sá, làm sạch đẹp nơi vị khách sẽ đến. Như thế là biểu lộ lòng kính trọng đối với vị khách. Thiên Chúa là vị khách cao trọng nhất. Người hạ mình đến thăm và ở lại cùng sống với thân dân của Người. Đó là hạnh phúc tuyệt vời nên cần phải dọn tâm hồn xứng đáng. Như con đường cho Chúa đi qua. Như căn nhà cho Chúa ngự tới. Chúa đứng ngoài cửa lòng và gõ cửa, ai mở thì Ngài đi vào. Con đường có thể có chông gai tội lỗi, có nổi đam mê tiền lợi danh, có những tính hư nết xấu. Cho nên trong cõi lòng đó phải có im lặng như cõi lòng Mẹ Maria ghi nhớ, suy niệm và không nói gì. Chỉ nói những lời để giúp đỡ người khác. Tâm hồn Mẹ bình an nên nghe rõ tiếng Chúa và chỉ nghe được tiếng Chúa mà thôi. Như thế dọn đường chính là tạo im lặng cho tâm hồn để nghe được tiếng Chúa và chỉ nghe được tiếng Chúa mà thôi.
Dọn đường còn là tỉnh thức đợi chờ Chúa đi xa trở về. Như năm cô khôn ngoan có sẵn dầu đèn. Như những đầy tớ làm lợi những nén vàng cho chủ. Như tên lính canh thành luôn chú ý những biến chuyển chung quanh. Mỗi cá nhân, ai cũng có những tật xấu, những khuyết điểm, vị kỷ kiêu căng, tham lam đố kỵ ghen ghét lười biếng hèn nhát… Xã hội nào cũng có bất công, những lạm dụng quyền bính, những hủ tục, những tệ đoan, những điều ấy làm cho con người đau khổ, trì trệ, không phát triển.
Dọn đường căn bản là ở trong nội tâm, sám hối để canh tân, sửa đổi để trở nên tốt lành thánh thiện hơn. Những con đường, thường được làm bằng đất đá nhựa bê tông. Những con đường trên mặt đất, trên sông trên biển trên bầu trời là những con đường vật lý. Những con đường tâm lý, con đường tinh thần, con đuờng lòng người mới quan trọng hơn. Nguyễn Bá Học đã nói: đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà chỉ vì lòng người ngại núi e sông.
Sống đạo luôn là một thách đố đầy quyết liệt và phong phú. Hiểu đạo, tin đạo, giữ đạo xem ra khá dễ dàng vì thuộc lãnh vực cá nhân. Còn sống đạo thường khó khăn hơn vì liên quan đến tha nhân, đòi hỏi một sự quên mình, vượt thắng bản thân. Cũng như thực hiện việc dọn đường qua nghi thức sám hối bên ngoài như rửa tội, xưng tội khá dễ dàng, nhưng nếu mà trong lòng không thật tâm sám hối đưa đến canh tân bản thân, thì hành vi sám hối chỉ là việc làm lấy lệ hình thức mà thôi.
Sống đạo bao giờ cũng đòi hỏi nhiều cố gắng và tỉnh thức. Mùa Vọng, Giáo hội cho chúng ta chiêm ngắm mẫu gương của Gioan. Sống gắn bó với Thiên Chúa và gần gũi với con người. Như thế mỗi người sẽ sống đạo hôm nay với tất cả niềm vui hạnh phúc cho bản thân và cho tha nhân.
Cả cuộc đời Gioan chỉ một tâm nguyện là làm “ Người phu quét lá” dọn lòng người khác cho Chúa đến. Mỗi người chúng ta cũng theo mẫu gương của Gioan trở thành “Người phu quét lá” cho chính tâm hồn mình, cho gia đình mình và rồi cho người khác nữa. Dọn đường cũng chính là lên đường theo Chúa Cứu Thế, cho nên dọn đường cho Chúa vừa là một hồng ân vừa là trách nhiệm đòi hỏi mỗi người thi hành nghiêm túc trong cuộc sống hàng ngày của mình.
9. Sửa đường nội tâm
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Thư HĐGMVN 2006 đã khẳng định: “Đời sống đạo vừa cần găn bó với Thiên Chúa, vừa phải đi đến với anh em”.
Chúa nhật II Mùa vọng, Giáo hội giới thiệu cho chúng ta khuôn mặt Gioan Tiền hô, một ngôn sứ luôn gắn bó với Thiên Chúa, rất gần gũi với con người. Lời Chúa Gioan chiêm niệm trong hoang địa qua nhiều năm tháng đã giúp ông tiếp xúc, gặp gỡ với nhiều hạng người qua những vùng ven sông Giođan. Lời Chúa Gioan nghe đã trở thành lời Chúa ông công bố. Tiếng Chúa gọi Gioan đã trở thành tiếng ông mời gọi mọi người. Gioan trở nên trung gian làm người dọn con đường tâm hồn cho anh chị em mình đến với Chúa Cứu Thế.
Gioan là vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước. Sau 5 thế kỷ vắng bóng ngôn sứ, nay Gioan xuất hiện với sứ mạng Tiền hô. Ông đáp lại tiếng Chúa gọi, ra đi rao giảng về Nước Trời, dọn đường cho Chúa Giêsu, Đấng Cứu Tinh nhân loại đến trần gian. Ông đã chu toàn ơn gọi cách nhiệt thành và đã chết anh hùng cho sứ vụ. (x. Mt 14,3012; Mc 6,17-19). Cuộc đời Gioan là một thiên anh hùng ca, bất khuất trước cường quyền, bao dung với tội nhân.
Gioan có một cuộc sinh ra kỳ lạ, một lối sống khác thường. Gioan chọn con đường tu khổ chế: ăn châu chấu và mật ong rừng, uống nước lã và mặc áo da thú. Sống trong hoang địa trơ trụi, vắng người, thiếu sự sống. Nhưng chính ở đó mà Gioan đã lớn lên và trưởng thành trong sự gặp gỡ thâm trầm với thiên Chúa.
Gioan nhắc lại lời tiên tri Isaia: “Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng” (Lc 3,5). Gioan mời dân chúng sám hối. Không thể tiếp tục sống như xưa nữa. Đã đến lúc phải đổi đời, đổi lối nhìn, đổi lối nghĩ. Như thế, Gioan kêu gọi hãy dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Phải lấp cho đầy những hố sâu tham lam ích kỷ hẹp hòi. Phải uốn cho ngay những lối nghĩ quanh co, những tính toán lệch lạc. Phải san cho phẳng những đồi núi kiêu căng tự mãn. Phải bạt cho thấp những gồ ghề của bất công bất chính.
Đạo là con đường dẫn đến Thiên Chúa. Đạo là ngón tay chỉ mặt trăng. Nếu không có đường thì không đi đến đâu cả. Một đất nước có văn minh hay không là do hệ thống đường sá.
Đạo từ nguyên thuỷ luôn mang ý nghĩa trong sáng, ngay thẳng, công minh. Đạo dẫn đưa con người đến chân thiện mỹ.
Đạo là đường nên có thể nói sống đạo là sống ngoài đường, sống với người khác, sống với cuộc đời. Abraham khởi đầu cuộc sống thật bằng việc lên đường từ giã thành Ur để sang đất hứa. Và lịch sử Do thái là những chuyến xuất hành di cư, lang thang trong sa mạc, lưu đầy và mất quê hương trong một thời gian dài. Gioan rao giảng và làm phép rửa khắp mọi nẻo đường. Chúa Giêsu sống ở thế gian bằng những cuộc lên đường sang Ai cập, về Nazareth, lên sa mạc, vào đền thánh và trở lại Galilêa. Cuộc sống công khai của Chúa ít là có ba cuộc hành trình lên Giêrusalem. Và sau cùng Ngài lên đường về nhà cha.
Vì là đường nên nên đạo luôn mở ra nối kết và đón nhận cuộc sống, đón nhận mọi người, không phân biệt ai với tinh thần yêu thương của Thiên Chúa. Tin mừng chính là đạo, là con đường mà Chúa Giêsu vạch ra cho chúng ta đi theo ngài.
Đường quan trọng nhất là đường vào cõi lòng. Gioan đã chỉ cho thấy rằng, mỗi con người đều có ít nhiều đồi núi kiêu ngạo, thung lũng ích kỷ, ghồ ghề khúc khuỷu trong các mối quan hệ. Có bao lối nghĩ quanh co, có bao tính toán lệch lạc, có những lũng sâu tăm tối thiếu vằng ánh sáng tình yêu. Sửa đường theo Gioan là sám hối. Nhìn lại con đường mình đã đi qua, sửa lại những sai lệch nếu có. Những gì cong queo san cho thẳng. Những gì cao cần bạt xuống. Lúc đó mới nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa. Sửa cho thẳng, lấp cho đầy, uốn cho ngay, san cho phẳng, bạt cho thấp. Đó là sứ điệp Gioan gởi tới chúng ta trong Mùa Vọng này, để chúng ta dọn lòng mình thành đại lộ thênh thang mở ra với Chúa Cứu Thế.
Con đường mà Gioan nói tới đây chinh là đường vào cõi lòng. Con đường nội tâm của mọi người. Sửa con đường nội tâm là thay đổi cõi lòng, thay đổi cuộc sống để xứng đáng đón tiếp Chúa Cứu Thế. Sửa đường cho Chúa đến là cần thiết và hợp lý. Khi đón tiếp một vị khách quý, người ta thường sửa sang đường sá, làm sạch đẹp nơi vị khách sẽ đến. Như thế là biểu lộ lòng kính trọng đối với vị khách. Thiên Chúa là vị khách cao trọng nhất. Người hạ mình đến thăm và ở lại cùng sống với thân dân của Người. Đó là hạnh phúc tuyệt vời nên cần phải dọn tâm hồn xứng đáng. Như con đường cho Chúa đi qua. Như căn nhà cho Chúa ngự tới. Chúa đứng ngoài cửa lòng và gõ cửa, ai mở thì Ngài đi vào. Con đường có thể có chông gai tội lỗi, có nổi đam mê tiền lợi danh, có những tính hư nết xấu. Cho nên trong cõi lòng đó phải có im lặng như cõi lòng Mẹ Maria ghi nhớ, suy niệm và không nói gì. Chỉ nói những lời để giúp đỡ người khác. Và tâm hồn ấy bình an nên nghe rõ tiếng Chúa và chỉ nghe được tiếng Chúa mà thôi. Như thế dọn đường chính là tạo im lặng cho tâm hồn để nghe được tiếng Chúa và chỉ nghe được tiếng Chúa mà thôi.
Dọn đường còn là tỉnh thức đợi chờ Chúa đi xa trở về. Như năm cô khôn ngoan có sẵn dầu đèn. Như những đầy tớ làm lợi những nén vàng cho chủ. Như tên lính canh thành luôn chú ý những biến chuyển chung quanh. Mỗi cá nhân, ai cũng có những tật xấu, những khuyết điểm, vị kỷ kiêu căng tham lam đố kỵ ghen ghét lười biếng hèn nhát… Xã hội nào cũng có bất công, những lạm dụng quyền bính, những hủ tục, những tệ đoan, những điều ấy làm cho con người đau khổ, trì trệ, không phát triển.
Dọn đường căn bản là ở trong nội tâm, sám hối để canh tân, sửa đổi để trở nên tốt lành thánh thiện hơn. Những con đường thường được làm bằng đất đá nhựa bê tông. Những con đường trên mặt đất, trên sông trên biển trên bầu trời là những con đường vật lý. Những con đường tâm lý, con đường tinh thần, con đuờng lòng người mới quan trọng hơn. Nguyễn Bá Học đã nói: đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà chỉ vì lòng người ngại núi e sông.
Sống đạo luôn là một thách đố đầy quyết liệt và phong phú. Hiểu đạo, tin đạo, giữ đạo xem ra khá dễ dàng vì thuộc lãnh vực cá nhân. Còn sống đạo thường khó khăn hơn vì liên quan đến tha nhân, đòi hỏi một sự quên mình, vượt thắng bản thân. Cũng như thực hiện việc dọn đường qua nghi thức sám hối bên ngoài như rửa tội, xưng tội khá dễ dàng, nhưng nếu mà trong lòng không thật tâm sám hối đưa đến canh tân bản thân, thì hành vi sám hối chỉ là việc làm lấy lệ hình thức mà thôi.
Sống đạo bao giờ cũng đòi hỏi nhiều cố gắng và tỉnh thức. Mùa Vọng, Giáo hội cho chúng ta chiêm ngắm mẫu gương của Gioan. Sống gắn bó với Thiên Chúa và gần gũi với con người. Như thế mỗi người sẽ sống đạo hôm nay với tất cả niềm vui hạnh phúc cho bản thân và cho tha nhân.
10. Dọn đường
Trong những trận lụt vừa qua, ai trong chúng ta cũng được nghe và được biết đến nhiều du khách trên đường đã bị tắt nghẹn, xe cộ không đi lại được. Do bởi đường đi bị sạt lở. Nhiều đoạn đường bị nước lũ tàn phá. Nhiều làng bị nước ngập, dân làng muốn thoát ra nhưng không đi được vì đường sá không còn. Nhiều đoàn cứu trợ muốn đến những làng xa xôi, nhưng không có đường đi, nên đành chịu bó tay.
Thưa anh chị em, con đường thật quan trọng vì nó giúp cho người bị nạn có thể thoát ra. Và còn đón nhận được sự cứu trợ, nối liên lạc giữa người với người nữa và…
Anh chị em thấy đó, con đường vật lý mà chúng ta đã cần như vậy. Vậy con đường tâm lý ta còn cần như thế nào nữa đây?
Nếu con đường tâm lý bị hư hỏng thì cho dù có ở sát cạnh nhau, người ta cũng vẫn xa nhau. Giống như vậy, ta cần có con đường thiêng liêng thật tốt để đón Chúa đến. Thật ra Chúa đã đến từ lâu, nhưng ta chưa đón nhận được vì con đường thiêng liêng trong tâm hồn ta đã bị hư hỏng.
Tâm hồn ta có những đỉnh đồi kiêu ngạo luôn muốn nâng mình lên, luôn khoe khoang, không bao giờ chịu thua kém người khác. Tâm hồn ta có những ngọn núi tự ái cao ngất trời xanh, không bao giờ chịu nhận lỗi, không bao giờ chịu tha thứ. Tâm hồn ta có những hố sâu tham lam muốn chiếm đoạt tất cả, thu vén tất cả vào túi riêng. Tâm hồn ta có những hố sâu đam mê, những hố sâu dục vọng, những hố sâu chia rẽ… miệt mài đuổi theo danh, lợi, thú. Tâm hồn ta có những khúc quanh co của sự dối trá, không thành thật với Chúa, không thành thật với người khác và không thành thật với chính mình. Tâm hồn ta có những lượn sóng gồ ghề của những lời nói độc ác, tàn nhẫn. Tâm hồn ta gồ ghề vì thói lười biếng không chịu cố gắng thăng tiến bản thân. Tâm hồn ta gồ ghề vì những phê bình chỉ trích thiếu tính cách xây dựng.
Tất cả những ngọn đồi, những vực sâu, những khúc quanh co, những lượn sóng gồ ghề ấy ngăn chặn Chúa đến với ta. Thưa anh chị em. Hôm nay, Thánh Gio-an Tiền hô mời gọi ta hãy sửa chữa con đường thiêng liêng cho tốt đẹp để đón Chúa Giê-su đến. Hãy bạt đi thói kiêu căng tự mãn. Hãy bạt đi tính tự ái ngang ngạnh. Hãy lấp đi những hố sâu tham lam, chia rẽ, bất hoà. Hãy lấp đi những hố sâu đam mê, dục vọng. Hãy uốn thẳng lại những quanh co dối trá. Hãy uốn thẳng lại những khúc quanh giả hình. Hãy san phẳng những lượn sóng gồ ghề độc ác. Hãy san phẳng những lượn sóng gồ ghề nói hành nói xấu.
Đổi mới con đường thì dễ, nhưng đổi mới con đường tâm hồn không dễ chút nào. Ngoài cố gắng bản thân, Thánh Gio-an Tiền hô đề nghị cho ta 3 cách
Thứ nhất là vào sa mạc. Đây là nơi vắng vẻ giúp ta sống yên lặng. Trong yên lặng, ta dễ gặp gỡ Chúa. Một mình ta đối diện với Chúa. Trong thân mật, Chúa sẽ dạy ta biết Thánh Ý Chúa để ta thi hành. Sa mạc đây được hiểu là những giờ cầu nguyện riêng tư thân mật một mình ta với Chúa.
Thứ hai là mặc áo da thú. Mặc áo da thú có nghĩa là ăn mặc đơn sơ, không chải chuốt. Một tâm hồn mặc áo da thú là một tâm hồn biết sống thực với chính mình, biết nhìn nhận những yếu đuối lỗi lầm và xin Chúa tha thứ. Thái độ đơn sơ khiêm nhường như thế chính là khởi điểm để tiến lên trên con đường thánh đức.
Thứ ba là ăn châu chấu và mật ong rừng. Đây có ý nói về một đời sống khổ chế. Hãm dẹp những tính mê tật xấu, hạn chế những đòi hỏi của thân xác để bắt nó quy phục linh hồn. Giảm bớt những nhu cầu không cần thiết để bồi dưỡng đời sống tâm linh.
Thánh Gio-an Tiền hô đã sống theo 3 điểm này, nên Ngài đã trở thành người mở đường cho Đấng Cứu Thế. Nếu chúng ta biết áp dụng 3 cách này trong Mùa Vọng này, ta sẽ biến tâm hồn ta thành một con đường thẳng tắp cho Chúa Giáng Sinh ngự đến.
Lạy Chúa, xin cứu con khỏi mọi tội lỗi để con xứng đáng đón rước Chúa. Amen.
11. Con đường của Đức Chúa
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
Con đường Via Appia được xây dựng từ năm 312 trước Công Nguyên bởi vị Censor khiếm thị Appius Claudius. Via Appia là con đường đầu tiên bằng xi-măng lát đá, khởi nguyên của kỹ thuật xây dựng xa lộ trên thế giới.
Trên thực tế, Via Appia hay kỹ thuật xây dựng xa lộ đã khởi đầu cho những bước đột phá của Cộng hòa La Mã (509-27tcn) dẫn đến phát triển toàn diện trong thời Đế quốc La Mã (27tcn-493). Kể từ đó một mạng lưới giao thông đường bộ được thiết lập trên toàn lãnh thổ rộng lớn, nối liền các provinciae –nay là các quốc gia độc lập- trải dài từ châu Âu sang châu Phi và châu Á đến tận Ấn Độ. Có cả thảy 372 con đường với tổng chiều dài lên đến 15.000 dặm, tạo thành một hệ thống lưu thông mà “mọi con đường đều dẫn đến kinh thành La Mã”. Điều ngạc nhiên là nhiều trong số các con đường đó còn được bảo tồn cho đến ngày nay.
Via Appia có chiều dài tổng cộng 563km. Đoạn đầu dài 195km từ Roma đến Napolis được xây dựng nhằm mục đích chuyển quân và tiếp liệu trong cuộc chiến thứ hai giữa liên minh Roma-Capua với người Samnites (323-304tcn). Để xây dựng con đường khó khăn này người ta đã phải bạt thấp các ngọn đồi, lấp đầy các thung lũng, đắp cao nền đất đầm lầy sụt lún, mà ngày nay chúng ta gọi là kỹ thuật highway hay xây dựng xa lộ. Kèm theo đó là vô vàn các hạng mục công trình từ mương hào thoát nước, các cầu cống, các đoạn tường chắn đất... và cả các đài chỉ huy cùng các mốc dặm đường gọi là Miglio. Mặt đường tại đây rộng 14 pies, khoảng 4,15 mét, được xây bằng các tảng đá basalt to lớn nhẵn bóng kết dính bởi loại xi-măng La Mã, gồm vôi và tro núi lửa. Nhiều nơi như ở Villetri mặt đường bằng phẳng đến độ chúng tôi không cảm nhận dược xe đang chạy trên mặt đá của một Via Appia hơn 2300 năm tuổi. (Hoàng Xuân Phương, Via Appia, Con đường làm nên đế chế)
Tin Mừng hôm nay, ngôn sứ Isaia kêu gọi: “Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Ngài đi.” (Mc 1, 3) Con đường này không giống như Via Appia lát đá basalt, mà là con đường cải tà quy chánh, cải lão hoàn đồng và cải tử hoàn sinh. Con đường do chính Đức Giêsu thiết kế, xây dựng, hoàn toàn trái ngược với con đường thế gian quen đi.
Con đường cải tà quy chánh
“Ông Gioan Tẩy Giả đã xuất hiện trong hoang địa, rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa, tỏ lòng sám hối, để được ơn tha tội.” (Mc 1, 4) Nhiệm vụ Tiền Hô của Thánh nhân bắt đầu bằng lời mời gọi ăn năn, sám hối, cải tà quy chánh, trở về con đường công chính của Thiên Chúa đã vạch ra.
Ngôn sứ Gioan giác ngộ mọi người nhận ra tội lỗi vấp phạm, để thay đổi nếp sống, qua chính cuộc sống kham khổ, chay tịnh của ngài trong hoang địa. “Các anh hãy sinh hoa quả, xứng với lòng sám hối.” (Mt 3, 8) Ngài mời gọi cụ thể hóa, hiện thực hóa lòng sám hối, qua nghi thức dìm mình xuống sông, chịu phép rửa. Nếu ngoan cố, chống báng, khước từ, làm lơ, gỉa hình, vờ vịt, hay tỏ ra bất tuân thì: “Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi quăng vào lửa.” (Mt 3, 10). Khi Chúa quang lâm, thì “Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thỉ bỏ vào lửa không hể tắt mà đốt đi.” (Mt 3, 12)
Con đường cải lão hoàn đồng
“Không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh lại bởi ơn trên.” Đức Giêsu đã phán cùng ông Nicôđêmô, một thủ lãnh Pharisiêu tỉnh thức, thao thức được ơn cứu rỗi. Đức Giêsu công khai nhấn mạnh: “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí. “(Ga 3, 3 & 5)
Không phải trẻ hóa thân xác đã trưởng thành. Cũng chẳng phải Đức Giêsu khuyên dùng thuốc men, hóa chất hay phương tiện vật lý nào khác để giữ mãi tuổi thanh xuân, sắc đẹp. Nhưng Người muốn con người trẻ hóa tâm hồn, trở nên trong sáng, ngây thơ, hiền hòa, biết ơn, thân thiết, yêu thương, kính trọng, hiếu đễ các đấng sinh thành và thương mến mọi người.
Chẳng còn chút mưu mô, quỷ quyệt, chẳng còn ganh ghét, đố kỵ, chẳng còn oán thán, cay cú, hận thù. Trái lại, tất cả đều đằm thắm tình yêu, tình cha nghĩa mẹ, tình huynh đệ, sống bổn phận, trách nhiệm, sống bác ái, phục vụ, nhường cơm xẻ áo, như Thánh Gioan Tiền Hô tha thiết, cấp bách kêu gọi dân Chúa: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy.” (Lc 3, 11) “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho mình.” (Lc 3, 13) “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình.” (Lc 3, 14)
Con đường cải tử hoàn sinh
“Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy.“ (Mt 17, 24-25)Một cuộc sống mới nảy sinh, khi dám quyết định cho cái thân xác yếu hèn chết đi cùng với những ham muốn, đam mê, đòi hỏi, cám dỗ tội lỗi.
Chết đi những tham sân si, danh lợi, địa vị, chức tước, quyền lực. Chết đi những thói đời, luôn tôn sùng “Bò Vàng,” luôn thờ bái vật là của cải, vật chất, tiện nghi, dễ dãi hưởng thụ, thoải mái xa hoa, phù phiếm, hư ảo, mau mục nát, mất đi. Đừng để Thánh Gioan Tiền Hô phải nộ khí xung thiên, gay gắt cảnh báo, như đối với những kẻ đạo đức giả hình thuộc phái Pharisiêu và Sađốc: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? Các anh hãy sinh hoa quả sớm với lòng sám hối.” (Mt 3, 7 - 8)
Thiên Chúa quá yêu thương, quá ư giàu lòng thương xót, mới rộng lượng ban cho con người, đổi của giả lấy của thật. Đổi kiếp sống phù du, tạm bợ lấy cuộc sống vĩnh cửu, hạnh phúc viên mãn, nếu biết vâng theo, sống theo đạo Tình Yêu.
“Sống tinh thần con Chúa không phải là ủy mị, thụ động, nhưng là một linh đạo:
Dễ dàng trong sự khó khăn,
Đơn sơ trong sự phức tạp,
Dịu dàng trong cương quyết,
Hùng dũng trong sự yếu đuối,
Khôn ngoan trong sự điên dại.”
“Nếu các con không trở nên như trẻ thơ, các con không được vào Nước Trời.” (Đường Hy Vọng, số 727)
Lạy Chúa Giêsu xin cải hóa tâm hồn chúng con nên công chính, nên trong sáng, nên can đảm, dám chết đi những thói hư tật xấu, để chúng con canh tân đổi mới theo Lời Chúa.
Lạy Mẹ Maria, kính xin Mẹ thương yêu giúp đỡ, dạy dỗ chúng con biết khiêm nhường nhận biết thân phận yếu đuối, thấp hèn. Kính xin Mẹ cầu bầu cho chúng con biết ăn năm sám hối, sửa chữa ngay phẳng con đường đến với Chúa, đến với tha nhân và đón Chúa sắp đến trong Mùa Giáng Sinh này. Amen.
12. Sửa lối cho thẳng để Người đi!
(Suy niệm của Anmai, CSsR)
Từ thành phố Hồ Chí Minh muốn ra thăm lăng Bác thì phải mất hơn ba mươi giờ đồng hồ. Đoạn đường hơn kém 1.500 km vậy mà mất thời gian dài như vậy. Có dịp ra Hà Nội thực tập mục vụ ngồi trên xe mất 34 tiếng đồng hồ mới đến nơi thấy sao mà nó vất vả quá! Chưa đi nước ngoài nhưng báo chí và các phương tiện truyền thông cho biết là chỉ cần 5 đến 6 giờ đồng hồ để đi đoạn đường như trên. Như vậy, tính ra ở Việt Nam, cũng một đoạn đường như thế ta phải mất một khoảng thời gian gấp 6 lần. Nếu tính thiệt hại về tiền bạc, kinh tế, ta sẽ thấy tổn hao một con số khổng lồ cho bao nhiêu con người ngồi trên xe di chuyển trên một đoạn đường như thế! Nguyên nhân do đâu thì ai cũng biết: đó là do đường sá Việt Nam quá kém!
Gần đây thôi, Cần giờ, một huyện ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh, cách thành phố Hồ Chí Minh 60 km nhưng phải đi mất hơn 2 giờ rưỡi đồng hồ. Khi đó, Trung Tâm Mai Hoà - nơi nuôi dưỡng, chăm sóc bệnh nhân Sida giai đoạn cuối cách thành phố Hồ Chí Minh cũng khoảng 60 km nhưng chỉ hơn một giờ đồng hồ là ta có thể đến với Trung tâm. Đoạn đường, xét về địa lý thì khoảng cách như nhau nhưng mà thời gian cần đến của hai nơi lại cách biệt đến một nửa thời gian. Lý do tại sao thì chúng ta cũng hiểu rõ đó là do con đường về Cần Giờ xấu và phải nói là con đường này quá xấu.
Ngay như chúng ta, muốn đi đến đích thì phải có một con đường thật là thẳng, không được quanh co, không có ổ gà hay ổ voi. Đừng càng thẳng,càng đẹp thì chúng ta có cảm giác thích thú vô cùng. Ngược lại, đi trên con đường xấu ta cảm thấy chán và không muốn đi. Phải nói là đường nào cũng đến nơi nghèo để phục vụ nhưng bảo chọn thì ai cũng thích đến Mai Hoà hơn vì đường đến Mai Hoà thẳng và đẹp hơn đường đi Cần Giờ. Đó là tâm lý thường tình của con người thôi.
Thi thoảng có dịp chạy về Sài Gòn ngồi trên xe mà thầm xót xa. Giá như mà những người có trách nhiệm làm con đường này có trách nhiệm hay nói một cách mạnh hơn một chút là có lương tâm thì sẽ làm con đường này tốt hơn và sẽ tu bổ mỗi khi nó có vấn đề. Nếu như đi quen thì sẽ thấy buồn cười. Nếu như mà người ta chịu khó chăm chút, tu sửa khi nó mới bị thôi thì sẽ không có vấn đề nhưng đàng này người ta cứ như cố làm ngơ để cho con đường ngày mỗi ngày xấu đi.
Nghĩ về con đường về Cần Giờ tôi nhớ đến các bài đọc trong Thánh Lễ hôm nay. Các bài đọc trong Thánh Lễ hôm nay vẽ lên hình ảnh của ngày Đức Chúa xuất hiện, ngày vinh quang của Đức Chúa tỏ hiện trên trần gian này. Các bài đọc gợi lên cho chúng ta thái độ, tâm tình mà chúng ta phải có để đón chờ Đức Chúa.
Có hai vấn đề mà chúng ta phải đặt lại trong các bài đọc mà chúng ta nghe hôm nay?
Chúa có phải là Đấng quyền thế hơn Gioan, đến sau Gioan mà Gioan đã tự nhận là Gioan không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Gioan chỉ cử hành phép rửa bằng nước còn Người thì Người rửa bằng Thánh Thần hay không?
Vấn đề thứ hai là khi nhận ra Người rửa bằng Thánh Thần rồi chúng ta có dọn đường để mà đón Người hay không?
Chắc có lẽ không chỉ là dân Do Thái thời Gioan Tẩy Giả không nhận ra Đấng Cứu Độ trần gian đã đến thế gian này nhưng trước đó, thế hệ cha ông của họ đã không nhận ra. Vì cha ông của họ đã không nhận ra Đấng Cứu Độ nên Đức Chúa - Thiên Chúa của họ đã gửi đến nhiều ngôn sứ cảnh báo có, răn đe có, ngọt ngào có để mà bảo họ hãy bỏ đường xưa lối cũ để chỉ còn phụng thờ một mình Đức Chúa là Thiên Chúa duy nhất của họ nhưng họ nào có nghe đâu? Một trong những ngôn sứ lớn thời Cựu Ước đó là Isaia. Isaia đã nói lên tiếng nói của mình.
Mở đầu sách của mình, Isaia đã lên tiếng kêu ai oán: "Trời hãy nghe đây, đất lắng tai nào, vì ĐỨC CHÚA phán: "Ta đã nuôi nấng đàn con, cho chúng nên khôn lớn, nhưng chúng đã phản nghịch cùng Ta. Con bò còn biết chủ, con lừa còn biết cái máng cỏ nhà chủ nó. Nhưng Ít-ra-en thì không biết, dân Ta chẳng hiểu gì. Khốn thay dân tộc phạm tội, dân chồng chất lỗi lầm, giống nòi gian ác, lũ con hư hỏng! Chúng đã bỏ ĐỨC CHÚA, đã khinh Đức Thánh của Ít-ra-en, mà quay lưng đi". (Is 1,2-4)
Đó là lời sấm mà Isaia nói với dân của Đức Chúa. Isaia cũng không quên gửi những lời sấm đến với dân ngoại: "Hãy rên siết, vì ngày của ĐỨC CHÚA đã gần kề; ngày đó đến như cuộc tàn phá của Đấng Toàn Năng. Vì thế ai nấy đều rụng rời tay chân, đều sờn lòng nản chí. Chúng kinh hoàng, lên cơn đau, quằn quại, đau thắt như sản phụ. Chúng sửng sốt nhìn nhau, mặt đỏ bừng như lửa. Kìa, ngày của ĐỨC CHÚA đến, ngày khắc nghiệt, ngày của phẫn nộ và lôi đình, ngày làm cho đất tan hoang và tiêu diệt phường tội lỗi, không còn một tên nào ở đó". (Is 13, 6-9)
Isaia cũng loan báo ngày giải thoát cho Israel mà trong bài đọc thứ nhất chúng ta vừa nghe đấy: Có tiếng hô: "Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho ĐỨC CHÚA, giữa đồng hoang, hãy vạch con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta. Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ hoá thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu". (Is 40, 3-4)
Isaia mời gọi dân chúng hãy sửa đường đến cho Đức Chúa ngự đến và rồi khởi đầu tin mừng theo Thánh Maccô chúng ta vừa nghe cũng nói đến chuyện sửa lối để Người đến. Và hôm nay, sau những ngày tháng ẩn dật trong hoang địa, cầu nguyện và ăn chay xong Gioan lên đường. Gioan lên đường để thực thi sứ mạng của mình là người hô cho mọi người biết Đức Chúa đến. Gioan kêu gọi mọi người sám hối để đón chờ Người rửa trong Thánh Thần.
Lời của Isaia, lời của Gioan dẫu rằng cách chúng ta quá lâu. Gioan thì hơn 2000 năm còn Isaia thì hơn nữa nhưng mà lời đó hình như vẫn còn như quá mới, quá thiết thực và quá gần với chúng ta. Chúng ta đã để cho lòng chúng ta còn quá nhiều hố sâu, còn quá nhiều đồi núi. Hố sâu, đồi núi đó chính là những hành vi, những lối sống ngược với Tin mừng. Nếu như chúng ta cứ để những cái hố sâu đó ban đầu be bé mà không chịu sửa thì dần già thời gian chúng ta sẽ khó lường được hậu quả. Cũng như trên con đường đi, thoạt đầu nó chỉ là cái lỗ nho nhỏ nhưng nếu như người ta lấp đi thì nó không có phá đường nhưng đàng này người ta làm ngơ. Ngày qua ngày cái ổ gà trở thành cái ổ voi và hết sức vất vả để qua con đường đó và thậm chí đến một lúc nào đó thành một cái vũng thì ta không thể nào qua được.
Chúng ta cũng không quên một điểm nhỏ là khi Gioan tin nhận Đấng Cứu Thế thì Gioan đã thi hành sứ mạng của mình là loan báo Đấng Cứu Thế cho người khác tin nhận như ông. Và đoạn sách ngôn sứ Isaia mà chúng ta vừa nghe cũng mời gọi chúng ta hãy thi hành sứ mạng ngôn sứ của mình: "Bấy giờ vinh quang ĐỨC CHÚA sẽ tỏ hiện, và mọi người phàm sẽ cùng được thấy rằng miệng ĐỨC CHÚA đã tuyên phán." Có tiếng nói: "Hãy hô lên! " Tôi thưa: "Phải hô lên điều gì? " - "Người phàm nào cũng đều là cỏ, mọi vẻ đẹp của nó như hoa đồng nội. Cỏ héo, hoa tàn khi thần khí ĐỨC CHÚA thổi qua. Phải, dân là cỏ: cỏ héo, hoa tàn, nhưng lời của Thiên Chúa chúng ta đời đời bền vững." Hỡi kẻ loan tin mừng cho Xi-on, hãy trèo lên núi cao. Hỡi kẻ loan tin mừng cho Giê-ru-sa-lem, hãy cất tiếng lên cho thật mạnh. Cất tiếng lên, đừng sợ, hãy bảo các thành miền Giu-đa rằng: "Kìa Thiên Chúa các ngươi! " Kìa ĐỨC CHÚA quang lâm hùng dũng, tay nắm trọn chủ quyền. Bên cạnh Người, này công lao lập được, trước mặt Người, đây sự nghiệp làm nên. Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt". (Is 40 5.9-11)
Chúng ta là những người được Thiên Chúa yêu thương, được Thiên Chúa tuyển chọn và đôi khi chúng ta biết nhiệm vụ loan báo tin mừng của chúng ta nhưng dường như chúng ta cứ phớt lờ đi cái nhiệm vụ ngôn sứ đó của chúng ta. Không chỉ quên đi nhiệm vụ ngôn sứ mà đôi khi chúng ta còn sống làm phai mờ đi hình ảnh đẹp của ngôn sứ.
Lối sống loan báo, ngôn sứ của mình đẹp nhất mà ông Gioan cũng như ngôn sứ Isaia loan báo là gì? Chúng ta nhớ lại lời của thánh Phêrô tông đồ trong thư thứ hai của Ngài: "Anh em thân mến, một điều duy nhất, xin anh em đừng quên: đối với Chúa, một ngày ví thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một ngày. Chúa không chậm trễ thực hiện lời hứa, như có kẻ cho là Người chậm trễ. Kỳ thực, Người kiên nhẫn đối với anh em, vì Người không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người đi tới chỗ ăn năn hối cải. Nhưng ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm. Ngày đó, các tầng trời sẽ ầm ầm sụp đổ, ngũ hành bốc cháy tiêu tan, mặt đất và các công trình trên đó sẽ bị thiêu huỷ. Muôn vật phải tiêu tan như thế, thì anh em phải là những người tốt dường nào, phải sống đạo đức và thánh thiện biết bao, trong khi mong đợi ngày của Thiên Chúa và làm cho ngày đó mau đến, ngày mà các tầng trời sẽ bị thiêu huỷ và ngũ hành sẽ chảy tan ra trong lửa hồng. Nhưng, theo lời Thiên Chúa hứa, chúng ta mong đợi trời mới đất mới, nơi công lý ngự trị. Vì thế, anh em thân mến, trong khi mong đợi ngày đó, anh em phải cố gắng sao cho Người thấy anh em tinh tuyền, không chi đáng trách và sống bình an" (2 Pr 3, 8-14).
Thánh Phêrô nhắc nhở chúng ta về ngày Chúa đến như kẻ trộm vậy và Thiên Chúa là tình yêu, Ngài không muốn cho ai phải diệt vong. Ngài muốn và Ngài chờ đợi sự hoán cải của con người. Thánh Phêrô mời gọi chúng ta hãy sống làm sao cho tinh tuyền trong những ngày mong đợi Thiên Chúa này.
Là con người mỏng dòn và yếu đuối, đôi khi chúng ta đã khép lòng chúng ta lại, chúng ta không dám mở lòng mình ra để cho Chúa sửa chữa những khuyết điểm những lầm lỗi trong ta. Hôm nay, nghe lời của ngôn sứ Isaia, nghe lời của ông Gioan, nghe lời của Thánh Phêrô để rồi chúng ta cải hoá con người chúng ta để chúng ta đứng vững trước mặt Con Người khi Con Người đến lần thứ hai trong vinh quang.
Chúng ta hãy siêng năng chạy đến Chúa, đặt mình trước mặt Chúa, xin Chúa thương hoán cải con người yếu đuối con người tội lỗi của chúng ta. Chúng ta cũng xin Chúa cho chúng ta cái ơn biết hoán cải để rồi ngày mỗi ngày chúng ta sống chúng ta nhớ đến ngày Đấng Cứu Độ đến lần thứ hai trong vinh quang và chúng ta cũng sống làm sao liệu liệu để dọn con đường cho Chúa đến. Con đường đó chính là sự thánh thiện, lòng tinh tuyền mà Thánh Phêrô mời gọi chúng ta.
13. Con đường
“Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước Con, để dọn đường cho Con đến”. (Mc 1,2)
Thông thường, trước khi tổ chức một chương trình trại, giao lưu, hay biểu diễn văn nghệ, cao hơn là chuyến viếng thăm của một nguyên thủ quốc gia chẳng hạn, ngoài việc thông báo cho nơi sắp đến biết thời gian và địa điểm, ban tổ chức còn cử một vài đại diện đến nơi để kiểm tra, hay để bàn kế hoạch chương trình. Công việc này có một cái tên rất “quân sự” là đi tiền trạm. Tính chất chương trình càng hệ trọng thì vấn đề đi tiền trạm càng cần thiết.
Có lẽ Mùa vọng nào chúng ta cũng nghe nói đến Gioan Tẩy Giả - một chuyên viên đi tiền trạm cho Đức Giêsu. Tuy nhiên công việc của Ông hơi khác một chúc. Ông không đến để kiểm tra sân bãi, tình hình an ninh, cũng chẳng dựng liều, phát thảo chương trình, mà Ông kêu gọi mọi người hãy tự chuẩn bị cho chính mình. “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối thẳng để Người đi”. Bởi vì, nhân vật sắp đến sẽ viếng thăm từng người một.
“Con đường” ở đây không là đại lộ rải nhựa, hay con đường quê lót ximăng, nhưng đó là tâm hồn của chính bản thân chúng ta và “dọn đường” ở đây chính là cải đổi đời sống, tâm hồn của mình.
Những ngày cuối năm, bà con ta hay dọn dẹp, tô sơn lại nhà cửa, tủ bàn… để đón năm mới. Vì ngày Tết sẽ có nhiều người đến thăm, nghèo thì ít ra phải cho sạch sẽ, gọn gàng. Thế, chúng ta đã chuẩn bị gì để đón Vua Giêsu đến với tâm hồn mình? Trong ta vẫn lổm chổm những ghanh đua, dối trá, nền nhà ta vẫn lồi lõm những hận thù, oán hờn. Ngõ Chúa vào nhà ta vẫn bề bộn nhưng biếng lười, nguội lạnh. Chúa đến Ngài sẽ đứng ở chỗ nào đây? Hay Ngài phải lầm lũi quay đi trong nỗi thương xót. Thương cho chúng ta dại dột khước từ Chúa, thương cho Thiên Chúa chẳng ai tiếp rước. Thiên Chúa, dẫu sao, cũng chẳng hại, chỉ tội cho chúng ta bỏ lỡ cơ hội “đổi đời” của mình.
Thiên Chúa đã chẳng ngại thân phận cao sang của mình cúi xuống ôm lấy con người tội lổi thấp hèn chúng ta. Ngài đã đi trước trong cái việc đặt mối liên lạc với con người. Ngài đã tạo nên con đường để đến với chúng ta. Thế nhưng, trong khi Ngài cố gắng bằng mọi cách để đến với thế giới này thì ngược lại chúng ta đã cố tình lãng quên hoặc phá bỏ con đường ấy. Chúng ta xây dựng nên nhiều con đường khang trang, đẹp đẽ. Nhưng không có đường nào để đến với Chúa hoặc để Chúa đến. Và rồi chính chúng, những con đường của tiền của, thú vui, danh vọng.. làm ngẽn lối ta đến với Chúa. Mà cũng đôi lúc ta đi đúng đường rồi mà cũng chẳng gặp được Chúa. Bởi vì chúng ta đi nhưng lòng chúng ta vẫn còn mãi mê với biết bao suy tư khác, thì làm sao có thời gian cho Chúa? Thật chua xót cho một Thiên Chúa đã dại dột yêu thương những con người vô tâm.
Giáo Hội một lần nữa dùng lại lời của Thánh Gioan Tẩy Giả để cảnh báo, mà cũng là để mời gọi nhân thế quay về. Bao nhiêu lần bỏ rơi Thiên Chúa đã quá mất mát. Bao nhiêu lần lạc đường đã quá đủ kinh nghiệm cho một lần trở lại.
Đức Giêsu đang đến thăm nhà chúng ta. Ngài vẩn kiên nhẫn chờ ta “quét dọn”. Đường đến với Ngài vẫn luôn rộng mở. Hãy đến với Ngài. Hãy nguyện cầu với Ngài. Hãy vui vẻ, hân hoan vì thời cơ khổ đã hết.
14. Chuẩn bị đón Chúa đến
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)
Bài Tin Mừng hôm nay (Mc 1,1-8) kể lại công việc của ông Gioan Tẩy Giả. Chúa Giêsu chưa xuất hiện. Nhưng thực ra, từ đầu cho đến cuối bài, mọi chi tiết đều có liên quan đến Người và đều chỉ mang một ý hướng chính yếu là cung cấp những chỉ dẫn về vị thế và nhiệm vụ của Người.
1. Mở đầu là lời công bố Tin Mừng của Hội Thánh: “Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa” (c.1). Hạn từ “khởi đầu” (arkhè) có thể được hiểu theo nghĩa thời gian hoặc theo nghĩa nguyên nhân. Hiểu theo nghĩa thời gian, nó chỉ điểm khởi đầu của một chuỗi các biến cố và thực tại. Hiều theo nghĩa nguyên nhân, nó chỉ tính chất nguồn khởi của thực tại được đề cập. Trong c.1 này, arkhè vừa mang nghĩa thời gian vừa mang nghĩa nguyên nhân. Điều được đề cập sẽ vừa là khởi điểm vừa là nguồn khởi của Tin Mừng mà Hội Thánh loan báo.
Nhưng điều được đề cập ở đây là gì? Nói cách khác, hạn từ arkhè ở c.1 quy chiếu về thực tại nào? Cái gì là arkhè của Tin Mừng mà Hội Thánh đang sống và công bố? Ở đây, hạn từ này có thể quy chiếu về phần dẫn nhập của sách Mc, tức là phần kể về giai đoạn chuẩn bị cho sứ vụ của Đức Giêsu (1,2-13); hoặc quy chiếu về toàn bộ cuốn sách. Có lẽ nên ưu tiên hiểu theo cách thứ hai: công trình của Đức Giêsu (mà đỉnh điểm là cái chết và sự phục sinh) chính là khởi đầu, nguồn mạch và nền tảng của Tin Mừng mà Hội Thánh đang sống và công bố.
Tin Mừng được diễn đạt trong hình thức trọn vẹn: Đức Giêsu Nadarét là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa. Ở trung tâm của sứ điệp, như vậy, không phải là một giới luật hay một lời hứa hẹn, mà là một sự kiện thực tế, rằng con người lịch sử – cụ thể Giêsu chính là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa. Lời loan báo này liên quan đến căn tính của Đức Giêsu và cho chúng ta biết Ngài là ai, vừa xét trong vị thế của Ngài đối với nhân loại (“Đấng Kitô”), vừa xét trong tương quan của Ngài với Thiên Chúa (“Con Thiên Chúa”). Đối với nhân loại, Ngài là Đấng Mêsia. Hạn từ này cho thấy một cách rõ ràng công trình cứu độ của Đức Giêsu không bị giới hạn vào cảnh vực cá nhân, mà tác động trực tiếp đến cảnh vực xã hội – cộng đồng, vì Vua Mêsia là vua và là Đấng cứu độ không chỉ của một cá nhân. Đối với Thiên Chúa, Đức Giêsu ở trong tương quan rất đặc biệt: tương quan con thảo. Tất cả những kẻ đến trước đều chỉ là các đầy tớ (x.12,2-5), còn Đức Giêsu là Con yêu dấu của Ngài (x.1,1; 9,7). Mối tương quan này là thực tại riêng biệt của Đức Giêsu, làm cho Người khác hẳn tất cả mọi con người khác trong nhân loại. Mối tương quan này cũng là nền tảng của vị thế và nhiệm vụ của Người đối với thế gian.
Chuẩn bị Lễ Giáng Sinh không phải là chuẩn bị cho một lễ hội vào dịp cuối năm, mà chính yếu và thực chất là chuẩn bị để đón Đấng ấy: Người là Đấng Kitô và là Con Thiên Chúa. Chúng ta phải đọc lời công bố Tin Mừng của Hội Thánh ở câu đề tựa Mc 1,1 trong khung cảnh Mùa Vọng với ý thức đó.
2. Sau câu đề tựa (c.1) là ba đoạn văn nhằm làm sáng tỏ dung mạo của Đức Giêsu trong giai đoạn lịch sử đầu tiên của Người. Bài Tin Mừng hôm nay chỉ gồm đoạn thứ nhất (cc.2-8), nói về hoạt động của ông Gioan Tẩy Giả.
Trước tiên là một lời ngôn sứ được trích dẫn: “Trong sách ngôn sứ Isaia có chép rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con. Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” (cc.2-3). Với lời trích dẫn này, tác giả Mc muốn làm nổi bật mối liên hệ với sứ điệp của Cựu Ước. Có một sự tương ứng trực tiếp giữa tiếng hô trong oang địa (Is 40,3) với sự xuất hiện của ông Gioan Tẩy Giả trong hoang địa (Mc 1,4). Sự xuất hiện và các công việc của ông Gioan đã được ngôn sứ Isaia loan báo trước, và nơi ông Gioan, chương trình của Thiên Chúa bắt đầu đi vào giai đoạn thực hiện.
Thực ra, dưới danh nghĩa ngôn sứ Isaia, tác giả Mc gộp vào hai bản văn khác nhau: bản thứ nhất (c.2) trích từ Xh 23,20 và Ml 3,1; bản thứ hai (c.3) trích từ Is 40,3. Nhưng trong Mc 1,2 Thiên Chúa ngỏ lời trực tiếp với Đấng đang đến, tức là với Đức Giêsu, chứ không phải với dân Israel. Biến cố Đức Giêsu đến là một biến cố có ý nghĩa đặc biệt; tính chất đặc biệt ngoại thường này được thể hiện trong sự kiện nó được chuẩn bị như là biến cố chính Thiên Chúa đến (Ml 3,1), bởi một sứ giả. Đó là điều hoàn toàn khác biệt, vì không bao giờ có ngôn sứ nào được chuẩn bị như thế. Con đường phải được chuẩn bị ở đây là con đường của Đức Chúa.
Rõ ràng tác giả Mc muốn khẳng định ngay từ khởi đầu rằng nơi Đức Giêsu, chính Đức Chúa đến với dân Người. Một lần nữa, chúng ta được nhắc nhở rằng sự chuẩn bị của chúng ta trong Mùa Vọng này chính là sự chuẩn bị để đón Đức Chúa. Đấng đang đến là Đức Chúa, chứ không phải là một lễ hội, cho dù là lễ hội của Đạo Chúa.
3. Đúng theo lời Kinh Thánh được trích dẫn ở cc.2-3, “Ông Gioan Tẩy Giả đã xuất hiện trong hoang địa” (c.4a). Ông có nhiệm vụ kép: kêu gọi dân chuẩn bị (cc.4-5) và rao giảng về Đấng đang đến (cc.7-8). Những mô tả về cách trang phục và ăn uống của ông Gioan (c.6) giúp cho người ta hiểu rõ hơn về ông và nhiệm vụ của ông.
Trước hết, ông Gioan “rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. Mọi người từ khắp miền Giuđê và thành Giêrusalem kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Giođan” (cc.4b-5). Chuẩn bị đón Đức Chúa, có bốn điều phải làm: sám hối, thú tội, chịu phép rửa và được ơn tha tội. Hai yếu tố đầu nhấn mạnh sự thanh tẩy khỏi tội lỗi; hai yếu tố sau nhấn mạnh sự giao hòa với Thiên Chúa. (Đó cũng phải là hai yếu tố quan trọng trong việc chúng ta chuẩn bị đón Chúa trong Mùa Vọng này và trong suốt cuộc đời). Ông Gioan thành công rực rỡ trong nhiệm vụ: “Mọi người từ khắp miền Giuđê và thành Giêrusalem kéo đến với ông” (c.5). Thực ra, hoạt động của ông Gioan có phần “lập dị”. Thứ nhất, ông không đến với người ta như các ngôn sứ đã làm và như chính Chúa Giêsu cũng sẽ làm. Ông ở yên trong hoang địa và mọi người kéo đến gặp ông ở đó. Thứ hai, ông Gioan làm phép rửa trong nước sông Giorđan. Bình thường, nước sông không thể được sử dụng để cử hành việc thanh tẩy theo nghi thức. Vì thế, hàng lãnh đạo tôn giáo giữ khoảng cách với công việc của ông Gioan, và dân chúng đến với ông là đang làm một hành động đặc biệt, vượt khỏi khung cảnh của những thực hành tôn giáo bình thường.
“Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng” (c.6). Cách trang phục này chứng tỏ ông Gioan chỉ sống cho một mình Thiên Chúa thôi. Thức ăn của ông hoàn toàn lấy từ hoang địa, và như thế, cắt đứt liên hệ với những sản phẩm của đất Palestina. Về thắt lưng, Gioan và Êlia là các nhân vật duy nhất trong Kinh Thánh mang thắt lưng bằng dây da, và đó là một nét khu biệt của ông Êlia. Ông Gioan được đồng hóa với ông Êlia và vì thế, mang một tầm quan trọng đặc biệt trong việc loan báo về căn tính của Đức Giêsu, Đấng đang đến. Ông Êlia là ngôn sứ chỉ hoàn toàn phục vụ Thiên Chúa, hướng trọn con người và sinh mệnh của mình về Thiên Chúa, và mọi điều ông làm chỉ là để dẫn dắt dân về với Thiên Chúa. Sự hoàn toàn tập trung vào Thiên Chúa đã là yếu tố đặc trưng làm nên dung mạo của Êlia và làm cho ông trở thành mẫu mực của các ngôn sứ. Thế mà ông Gioan lại được đồng hóa với ông! Điều đó có nghĩa là Đấng mà ông Gioan chuẩn bị dân chúng đón Người, phải là Đấng có một căn tính thật sự đặc biệt. Giống như Êlia, ông Gioan chỉ phục vụ một mình Thiên Chúa. Hành động của ông, vì thế, ngầm cho thấy phẩm giá cao cả của Đức Giêsu và chứng tỏ rằng nơi Đức Giêsu – Con Thiên Chúa, chính Thiên Chúa đang đến với dân Người.
Ông Gioan còn có sứ mạng rao giảng minh nhiên về Đấng đang đến. “Ông rao giảng rằng: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần” (cc.7-8). Rõ ràng là xét cả về quyền năng, cả về vị thế, cả về hành động, Đấng đang đến đều hơn hẳn ông Gioan, cho dù ông được Thiên Chúa sai đến và ông được đồng hóa với ngôn sứ Êlia.
Như vậy, bằng việc kêu gọi dân chuẩn bị, bằng cách trang phục và ăn uống của mình, và bằng lời rao giảng minh nhiên của mình, ông Gioan đã cho ta thấy Đấng đang đến là ai. Đó là chính Đức Chúa.
Trong Mùa Vọng, chúng ta chuẩn bị để đón chính Đức Chúa đến viếng thăm dân Người. Đức Giêsu đến từ Thiên Chúa; nơi Ngài, chính Thiên Chúa đang đến và đón nhận tất cả nhân loại vào trong sự sống thần linh của Người.
15. Con chuẩn bị đón Chúa đến – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’– Lm. Vũ Khắc Nghiêm)
Theo lời Chúa hôm nay, chúng ta đang sống giữa hai thời đại của Chúa: thời đại Con Thiên Chúa giáng sinh và thời đại Con Thiên Chúa giáng lâm.
Thời đại Giáng sinh được tiên tri Isaia loan báo là thời đại an ủi và khuyên bảo ngọt ngào.
Con Thiên Chúa đến an ủi và khuyên bảo dân Người vì họ đang phải sống phục dịch cho thành dã man. Thành dã man này là thành Babylon, dân đang phải sống kiếp lưu đầy, là đế quốc La mã đang đặt ách nô lệ trên Giêrusalem, là vương quốc satan đang thống trị nhân loại. Dân đang phải phục dịch bọn chúng giữa chốn sa mạc, giữa cánh đồng hoang, giữa núi đồi lổm chổm, dưới thung lũng hố sâu.
Thiên Chúa đã an ủi dân, khuyên họ đừng sợ: “Thiên Chúa các ngươi đến đây rồi”. Người sẽ giải thoát khỏi nô lệ Babylon. Họ được trở về quê cha đất tổ của Abraham, của Isaac. “Chúa chăn dắt họ như mục tử, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Chiên con, Người ấp ủ vào lòng, chiên mẹ, Người tận tình săn sóc” (Is. 40, 1-5. 9-11).
Gioan cũng xuất hiện bên bờ sông Gióc-đan kêu gọi dân chịu phép rửa sám hối và chỉ cho họ biết “có Đấng quyền thế cao trọng hơn tôi, đang đến sau tôi, Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần” (Mc. 1, 7-8). “Người sẵn sàng ban ơn cứu độ cho kẻ kính sợ Người. Người cho thành tín mọc lên từ đất thấp. Và cho công lý mưa từ trời cao. Chúa sẽ tặng ban nguồn ân huệ dồi dào, đất đai này trổ sinh nhiều hoa trái” (Tv. 84, 10.13.14).
Thời đại Giáng lâm cũng được Isaia và thánh tông đồ Phêrô loan báo. Đó là thời đại vinh quang của Chúa hiện đến. “Kìa Đức Chúa quang lâm hùng dũng, tay nắm trọn chủ quyền” (Is. 40, 10). “Ngày đó, các tầng trời sẽ ầm ầm sụp đổ, ngũ hành sẽ bốc cháy tiêu tan, mặt đất và công trình trên đó sẽ bị thiêu hủy nhường chỗ cho trời mới đất mới, đúng như lời Chúa hứa” (2P. 3, 4.10.13). “Người sẽ muôn đời ngự trị, cho dân Người được hưởng thái bình, thịnh vượng. Ân nghĩa tín thành nay hội ngộ, hòa bình công lý đã giao duyên” (Tv. 85, 9.11). “Thiên Chúa ban diễm lệ vinh quang hạnh phúc cho tất cả những ai bước đi trọn lành” (Tv. 84, 12).
Chúng ta đang sống giữa hai thời đại huy hoàng đó. Nhờ vậy, chúng ta được hưởng nguồn ân huệ Giáng sinh, để biết chuẩn bị đón chờ Chúa Giáng lâm. Thánh Phêrô đã ngọt ngào khuyên nhủ chúng ta: “Có điều này, xin anh em đừng quên: Đối với Chúa, một ngày như thể ngàn năm, ngàn năm tựa như một ngày”. Thời gian trước mặt Chúa đều là hiện tại, quá khứ hay tương lai ngàn năm đều ở trước mặt Chúa. Cho nên, một ngày hay ngàn năm cũng như nhau. Thiên Chúa hằng hữu đời đời, không có thời gian ngày tháng thay đổi, không có thơ ấu lớn lên, trưởng thành, già cỗi tiêu tan. Người hoàn hảo trọn vẹn vô cùng. Lâu hay chóng, nhỏ hay lớn, xấu hay tốt, lành hay dữ là tự ta. Vì thế “Người tỏ lòng kiên nhẫn thương chờ đợi hết thảy ăn năn trở lại. Người không muốn cho bất cứ ai phải diệt vong. Người sẽ đến bất ngờ như kẻ trộm không phải để đánh bẫy, nhưng để anh em luôn luôn phải ăn ở thế nào, phải sống thánh thiện biết bao, phải tôn kính Thiên Chúa chừng nào ! Khi ngày Thiên Chúa đến, anh em sẽ được hưởng trời mới đất mới” (2Pr. 3, 8-14).
Phúc cho chúng ta luôn biết chuẩn bị đón Chúa đến trong ngày quang lâm. Ai ra công ra sức dọn đường Chúa đến, biết làm cho sa mạc khô cằn thành xa lộ quang minh chính đại; trong chân lý của Chúa, biết san phẳng đồi núi thành cánh đồng sinh nhiều hoa trái thánh thiện, biết làm cho những thung lũng tối tăm đầy ánh sáng huy hoàng của Tin Mừng.
Như vậy, có dọn mình một ngàn năm, vẫn thấy mình bất xứng, vẫn chưa đủ để ra trước Thiên Nhan vinh quang Thiên Chúa. Vì thế, một ngàn năm thấy chóng như một ngày. Nhưng ta đang sống trong cảnh tù đầy trần gian, nóng lòng mong mỏi khao khát Chúa đến, như sa mạc mong trời mưa xuống, như tù nhân mong ngày tự do, vì thế chúng ta cảm thấy một ngày lâu như ngàn năm: “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”.
Lạy Chúa, xin tỏ lòng Ngài nhân ái. Ơn cứu độ Ngài, xin ban tặng cho chúng con.
----------------------------------------
CHÚ Ý: Chúa đến bất ngờ có hai lý do:
1. Để biết lòng trung thành ta đối với Chúa: đầy tớ bất trung nghĩ chủ còn lâu, sẽ ăn chơi, đánh đập, hành hạ tớ trai tớ gái.
2. Để cho ta luôn luôn biết tỉnh thức, luôn luôn chuẩn bị bằng lo làm nhiệm vụ, lo đón Chúa.
16. Sứ điệp Gioan Tiền Hô
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Sứ điệp của Gioan có giá trị nào đối với Kitô hữu chúng ta?
Tác giả Mác-cô mở đầu sách Tin Mừng bằng việc giới thiệu Gioan, vị sứ giả tiền hô của đấng Messia: “Khởi đầu Tin Mừng... Ta sai sứ giả của ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con…” Công việc tiền hô của vị sứ giả đã được xác định rõ, ông phải hô hào mọi người: “Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để người đi!” Thế nhưng tôi vẫn thường tự hỏi: Gioan Tiền Hô có thật sự hiểu rõ Đấng mà ông đang nỗ lực kêu mời mọi người chào đón hay không? Điều này xem ra không được rõ cho lắm; có vẻ như ông vừa hiểu lại vừa không, chính vì vậy mà lời ông kêu gọi chỉ là chung chung, rất dễ gây ngộ nhận về Con Người sẽ đến và sứ điệp Tin Mừng của Ngài.
Điều Gioan tỏ ra biết về đấng Messia, người mà ông có nhiệm vụ tiền hô dọn đường, hoàn toàn bó gọn trong nội dung Cựu Ước, vốn đã rất phổ thông đối với người Do Thái đương thời. Messia - vị Thiên Sai - Đấng Được Sức Dầu phải là một vị đầy quyền uy thống trị, “Có Đấng quyền thế hơn tôi… Tôi không xứng đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người”. Đối với một đấng như thế, Gioan kêu gọi dân chúng phải đón tiếp trong sợ hãi và kính phục. Các tác giả Mát-thêu và Lu-ca ghi rõ lời ông đe loi, “Ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?... Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 3:7.10). Như vậy lời kêu gọi sám hối của Gioan quả có sức mạnh, nhưng hoàn toàn trong nội dung Cựu Ước, “Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi!” (Is 40:3) Ngay cả khi tuyên bố, “Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần” Gioan vẫn hiểu đó là phép rửa trong sức mạnh của Đức Chúa, vì theo hiểu biết chung của người Do Thái, Thần Khí đơn giản chỉ là biểu hiện sức mạnh của Gia-vê.
Gioan còn phải tìm hiểu nhiều về dung mạo đích thực của đấng Messia mà ông được gởi tới dọn đường. Điều này đã được Phúc Âm minh chứng, nhiều lần trong suốt cuộc sống ông không ngừng nỗ lực tìm hiểu. Ngày cả tới lúc bị giam cầm trong ngục thất, ông vẫn còn loay hoay trong nghi vấn này và muốn tìm lời giải đáp cho chính mình cũng như cho các môn đệ của ông: “Ngài có thật là đấng phải đến, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” Đáp lại Đức Giê-su đã phác lên một dung mạo khác hẳn với hình ảnh ông vốn có về đấng Messia: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù thấy được, kẻ què đi được, người chết chỗi dậy, kẻ nghèo được nghe tin mừng” (Lc 7:20.22). Đó là dung mạo của một đấng Thiên Sai đầy từ tâm và cứu vớt, ngược hẳn với Messia uy nghiêm xét xử mà ông từng rao giảng dọn đường. Đức Giê-su hiểu việc thay đối quan niệm như thế là không dễ chút nào, kể cả đối với vị tiền hô đáng kính nể của mình, Người nói thêm: “Và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi!”
Nếu quả như thế thì một Kitô hữu như tôi khi tiến vào Mùa Vọng phải biết xác định rõ: Đấng mà tôi chuẩn bị đón rước trong thời gian này là ai? Giáo Hội giới thiệu cho tôi sứ điệp và diện mạo của Gioan Tiền hô, “mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng”. Thế nhưng tôi đâu phải là người Do Thái của Cựu Ước! Là Kitô hữu của Tin Mừng, tôi biết Đấng mà tôi được kêu gọi đón tiếp lại rất giầu từ tâm và hay thương xót; Người không đến để luận phạt, nhưng đến để cứu vớt và thứ tha. Vì thế việc sám hối và ‘dọn đường… sửa lối cho ngay thẳng…” của tôi sẽ không chỉ vì muốn xứng đáng đón tiếp một đấng cao cả quyền uy, lại càng không phải để ‘tránh cơn thịnh nộ’ vì ‘rìu đã đặt sát gốc’. Tôi nhìn nhận tội lỗi mình vì nhờ đó tôi càng ý thức mình ‘phận nghèo được nghe Tin Mừng’. Đúng hơn chính khi nhìn nhận mình tội lỗi, tôi lại càng tới gần hài nhi Giê-su nhân hậu và cứu độ hơn, đồng thời biến việc dọn đường trở thành niềm vui và hy vọng tràn trề. Phải chăng đó mới chính là điều Phụng vụ đang hướng chúng ta tới?
Tuy nhiên, đối với tôi cũng như đối với mọi người, vẫn luôn tồn tại nguy cơ ngộ nhận sứ điệp của Gioan, ngộ nhận ngay cả Tin Mừng Đức Kitô rao giảng, ngộ nhận cả huấn quyền cứu độ của Hội Thánh. Mùa Vọng là thời gian dành cho tôi, trong khi vẫn thành khẩn tiếp nhận sứ điệp sám hối, gia tăng nhận biết diện mạo nhân ái giầu xót thương của một Thiên Chúa đang đến để cứu vớt chứ không phải để luận phạt. Tôi không chỉ vọng về lễ Giáng Sinh, mà phải biến trọn đời sống Kitô hữu tôi thành một Mùa Vọng bất tận; vọng về tình yêu nhân ái của Thiên Chúa, đấng yêu thương tôi. Công việc này thật khẩn trương và vô cùng quan trọng, cho Gioan cũng như cho chính tôi, vì “phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi!”.
Lạy Đấng đang đến và con được mời gọi dọn đường đón tiếp. Xin cho con nhận biết dung nhan hiền dịu Chúa để, cho dầu con người con có bất toàn và tội lỗi đến đâu, với lòng chân thành sám hối, con càng vui mừng tiến ra đón Chúa với cánh tay và trái tim mở rộng; vì biết rằng Hài Nhi giáng sinh là đấng cứu độ chứ không phải là người luận phạt. Xin cho toàn nhân loại cùng con chia sẻ niềm vui Giáng Sinh, trong tâm tình ca khen cảm tạ tình yêu của Thiên Chúa giáng trần. Amen.
17. Biến đổi
Anh chị em thân mến.
Vấn đề thời sự nóng bỏng hiện nay là vấn đề giao thông. Rất nhiều công trình giao thông hiện đại đã được thực hiện trong thời gian qua, từ thành thị đến nông thôn đều có những công trình mới, những làng quê xa xôi hẻo lánh, giờ đây cũng được tiếp xúc với nền văn minh hiện đại là nhờ những công trình giao thông, nhờ những con đường thuận tiện và dể dàng. Nhưng niềm vui mừng còn đó, thì những khó khăn cũng liền theo; những con đường hiện đại nhưng lại kém phẩm chất, nhìn bên ngoài, nó tạo niềm vui cho con người một thời gian ngắn, nhưng mang lại những phiền toái và tai nạn thì rất nhiều. Những con đường tốt lành có chất lượng mang lại niềm vui và sự an toàn, còn những con đường kém phẩm chất thì thật là nguy hại.
Trong tâm tình của Mùa vọng, chúng ta vừa nghe lời kêu mời: “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng…”. Dọn đường cho trống để không còn một cản trở hay một chướng ngại vật nào trên có thể gây nguy hiểm. Dọn đường để chuẩn bị những gì cần thiết trên đường, không có những gì bất ngờ xảy đến. Sửa đường Chúa cho ngay thẳng để người đi. Dọn cho trống mới thấy được những gì cần phải sửa, phải thay đỗi và mạnh dạng thi hành thì con đường mới nên hoàn hảo. Sửa chửa tận căn để có con đường thật sự có giá trị vững bền, cái giá trị không cần ai biết đến, nhưng khi Thiên Chúa cần dùng thì nó bảo đảm được chất lượng và giá trị cần thiết. Như thế mới là con đường thật sự cho Chúa đến, con đường mà Gioan Tẩy Giả kêu mời mọi người.
Lời kêu mời của vị Tiền hô đã vang lên hơn 2000 năm qua. Hôm nay một lần nữa lại vang lên như tiếng kêu trong sa mạc vô vọng. Ngày xưa tiếng kêu trong sa mạc, đã được mọi người đáp ứng và chạy đến tỏ lòng ăn năn sám hối. Nhưng ngày nay một lần nữa tiếng kêu mời đó vang lên rồi lại đi vào quên lãng như bao lần khác nữa sao?
Mỗi người trong chúng nhìn lại xem: đã bao Mùa Vọng đến trong cuộc đời, đã bao lần lời kêu mời của vị tiền hô vang lên, và cũng đã bao lần như thế nó lại qua đi mà không để lại một chút ấn tượng gì trong ta, vì chỉ là tiếng kêu trong sa mạc.
Nhìn lại chính mình: chúng ta vẫn ngồi yên bất động trong cuộc sống hiện tại. Bản thân không có gì thay đổi, vẫn những toan tính, những suy nghĩ, những hành động, những sự nóng vội, những câu nói bất cẩn và không bao giờ chú ý đến những người chung quanh đang cần gì. Biết bao nhiêu lý do của hoàn cảnh làm cho đời sống của mình bị cuốn đi không thể nào dừng lại được. Hiện tại chúng ta không biết mình đang đi về đâu, vì khả năng nghe và nhìn không còn nữa. Hay chúng ta cũng đang đỗi mới để cho mọi người nhìn thấy, qua những cử chỉ bên ngoài như là hưởng ứng phong trào cho vui. Hoặc là lời kêu mời vẫn vang lên, nhưng là lời để cho người khác, còn chính bản thân mình không cần thiết, vì mình tự cảm thấy đã an toàn, và bằng lòng với những gì của hiện tại.
Những người của ngày xưa, họ biết cần phải sám hối, cần thay đổi, nên họ từ khắp nơi mà đến với lời kêu mời. Còn chúng ta những người của thời hiện đại, không lẽ lại phải nghe và thực hiện những gì của ngày xưa sao? Vậy thì làm sao tiến được? Mặc dù những lời của ngày xưa, nhưng nó vẫn còn là vấn đề thời sự và rất hiện đại.
Nếu chúng ta nghe lời kêu mời và nhìn thấy được những sai lầm của mình trong cuộc sống, dám can đảm từ bỏ những gì không đúng, không phải để biết làm lại cho tốt hơn, khi đó giá trị cuộc đời đang đổi mới và được nâng cao cho bản thân chúng ta.
Nếu chúng ta biết lắng nghe, mà nhìn thấy những yếu đuối, những thiếu sót của cuộc sống, để can đảm hơn, siêng năng hơn, làm tốt những gì cần phải làm, khi đó con đường cuộc sống của bản thân đang được sửa đỗi. Như thế lời mời gọi của năm xưa vẫn còn có giá trị. Như thế Chúa có thể đến được với chúng ta mà không bị một chướng ngại nào ngăn cản. Như thế, một lần nữa Mùa Vọng đến với chúng ta mang một chất lượng có giá trị thật sự. Tiếng kêu của vị tiền hô không còn là tiếng kêu trong sa mạc vô vọng, mà là tiếng kêu đã có lời đáp.
Chúng ta cùng nhau cầu cầu xin Chúa cho mỗi người biết lắng nghe Lời Chúa và can đảm thi hành theo những gì chúng ta lắng nghe.
18. Dọn đường cho Chúa - ĐTGM. Jos. Ngô Quang Kiệt
Trong một trận lũ lụt kia, nhiều du khách trên tuyến đường Bắc - Nam bị kẹt ở miền Trung. Lý do là đèo Hải Vân bị sạt lở, xe cộ không đi lại được. Nhiều đoạn đường sắt bị nước lũ cuốn đi, nên tàu Bắc - Nam cũng đành ủ rũ nằm chờ. Nhiều làng bị nước ngập, dân làng muốn thoát ra nhưng không đi được vì đường sá không còn. Nhiều đoàn cứu trợ muốn đến những làng xa xôi, nhưng không có đường đi, nên đành chịu bó tay.
Những con đường thật là quan trọng. Đường đi giúp cho người bị nạn có thể thoát ra. Đường đi giúp cho người bị nạn đón nhận được sự cứu trợ. Đường đi nối liên lạc giữa người với người. Đường sá hư hỏng làm giao thông ngừng trệ, chậm trễ việc cứu trợ, ngăn cách người với người. Muốn cho giao thông mau lẹ, muốn việc cứu trợ có kết quả, muốn cho con người gần gũi nhau, phải sửa chữa đường đi cho thật tốt.
Con đường vật lý đã cần. Nhưng con đường tâm lý còn cần hơn. Nếu con đường tâm lý bị hư hỏng thì dù có ở sát cạnh nhau, người ta cũng vẫn cứ xa nhau.
Tương tự như thế, ta cần có con đường thiêng liêng thật tốt để đón Chúa đến. Thật ra Chúa đã đến từ lâu, nhưng ta chưa đón nhận được vì con đường thiêng liêng trong tâm hồn ta đã bị hư hỏng.
Tâm hồn ta có những đỉnh đồi kiêu ngạo luôn muốn nâng mình lên, luôn khoe khoang, không bao giờ chịu thua kém người khác. Tâm hồn ta có những ngọn núi tự ái cao ngất trời xanh, không bao giờ chịu nhận lỗi, không bao giờ chịu tha thứ.
Tâm hồn ta có những hố sâu tham lam muốn chiếm đoạt tất cả, muốn thu vén tất cả vào túi riêng. Tâm hồn ta có những hố sâu chia rẽ, luôn gây ra bất hoà, luôn giận hờn, luôn ganh ghét, luôn nghi kỵ. Tâm hồn ta có những hố sâu đam mê, miệt mài đuổi theo danh, lợi, thú. Tâm hồn ta có những hố sâu dục vọng nặng nề thú tính.
Tâm hồn ta có những khúc quanh co của sự dối trá, không thành thật với Chúa, không thành thật với người khác và không thành thật với chính mình. Tâm hồn ta có những khúc quanh co của sự trốn tránh bổn phận, của sự giả hình, của sự thiếu duyệt xét lương tâm.
Tâm hồn ta có những lượn sóng gồ ghề của những lời nói độc ác, tàn nhẫn. Tâm hồn ta gồ ghề vì thói lười biếng không chịu cố gắng thăng tiến bản thân. Tâm hồn ta gồ ghề vì những phê bình chỉ trích thiếu tính cách xây dựng.
Tất cả những ngọn đồi, những vực sâu, những khúc quanh co, những lượn sóng gồ ghề ấy ngăn chặn Chúa đến với ta. Nên hôm nay, Thánh Gioan Tẩy Giả mời gọi ta hãy sửa chữa con đường thiêng liêng cho tốt đẹp để đón Chúa Giêsu đến.
Hãy bạt đi thói kiêu căng tự mãn. Hãy bạt đi tính tự ái ngang ngạnh. Hãy lấp đi những hố sâu tham lam, chia rẽ, bất hoà. Hãy lấp đi những hố sâu đam mê, dục vọng. Hãy uốn thẳng lại những quanh co dối trá. Hãy uốn thẳng lại những khúc quanh giả hình. Hãy san phẳng những lượn sóng gồ ghề độc ác. Hãy san phẳng những lượn sóng gồ ghề nói hành nói xấu.
Đổi mới một con đường thì dễ, nhưng đổi mới tâm hồn không dễ chút nào. Ngoài những cố gắng bản thân, còn cần đến những phương thế. Đời sống của Thánh Gioan Baotixita đề nghị cho ta 3 phương thế rất tốt.
Phương thế thứ nhất là vào sa mạc. Sa mạc là nơi hoang vu vắng vẻ giúp ta sống cô tịch. Trong cô tịch, ta dễ chìm sâu xuống đáy lòng mình để gặp gỡ Chúa. Một mình ta diện đối diện với Chúa. Trong thân mật, Chúa sẽ dạy ta biết Thánh Ý để ta thi hành. Đức Giêsu, trước khi đi rao giảng cũng đã vào sa mạc 40 ngày để tìm Thánh Ý Chúa Cha. Sa mạc đây được hiểu là những giờ cầu nguyện riêng tư thân mật một mình ta với Chúa.
Phương thế thứ hai là mặc áo da thú. Mặc áo da thú có nghĩa là ăn mặc đơn sơ, không chải chuốt. Một tâm hồn mặc áo da thú là một tâm hồn biết sống thực với chính mình, biết nhìn nhận những yếu đuối lỗi lầm và xin Chúa tha thứ. Thái độ đơn sơ khiêm nhường như thế chính là khởi điểm để tiến lên trên con đường thánh đức.
Phương thế thứ ba là ăn châu chấu và mật ong rừng. Đây có ý nói về một đời sống khổ chế. Hãm dẹp những tính mê tật xấu, hạn chế những đòi hỏi của thân xác để bắt nó quy phục linh hồn. Giảm bớt những nhu cầu không cần thiết để bồi dưỡng đời sống tâm linh.
Thánh Gioan Baotixita đã sống theo chương trình 3 điểm này, nên Ngài đã trở thành người mở đường cho Đấng Cứu Thế. Nếu chúng ta biết áp dụng 3 phương thế ấy trong Mùa Vọng này, ta sẽ biến tâm hồn ta thành một con đường thẳng tắp cho Chúa Giáng Sinh ngự đến.
Lạy Chúa, xin cứu con khỏi mọi tội lỗi để con xứng đáng đón rước Chúa. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Con đường tâm hồn tôi có những đồi núi, vực sâu, khúc quanh nào cần sửa chữa?
2- Tôi có cần đến những phương thế của Thánh Gioan Baotixita không?
3- Tôi sẽ làm gì trong tuần này để thực hành Lời Chúa?
4- Trong bài Tin Mừng Chủ nhật thứ II Mùa Vọng này, tôi tâm đắc nhất câu nào?
19. Dọn đường
(Suy niệm của Lm Vũ Đình Tường)
Hàng năm chính phủ địa phương thông báo dọn đường một vài lần. Gọi là dọn đường vì trước đó mấy tuần có thông báo gia đình nào muốn bỏ đồ phế thải cần mang ra bờ đường và sẽ có xe dọn đồ phế thải. Dọc hai bên đường có đủ vật dụng từ trong nhà ra đến ngõ. Thứ nào cho là vô dụng được khuân ra đường chờ xe đến lấy.
Gọi là dọn đường mà thực sự không phải là dọn đường; đúng ra là dọn rác ngoài đường. Có những đồ vật người này cho là rác, đồ phế thải, vô dụng; người khác lại cho là hữu dụng, còn tốt, nhặt lấy mang về nhà dùng. Phế thải hay hữu dụng do hoàn cảnh người xử dụng nó. Người biết dùng, cần dùng cho là tốt, cần giữ lại; người không biết dùng, cho là vô dụng, để chật chỗ, quẳng ra đường cho người nhặt rác dùm. Kẻ quăng ra, người nhặt vào. Rác rưởi đồ dùng trong nhà là thế. Xã hội nào cũng có rác. Người ta gọi rác xã hội là tệ đoan xã hội. Tương tự như rác ngoài đường. Có những tệ đoan xã hội người này cố gắng vứt bỏ, quyết tâm chừa, đến trung tâm cai nghiện nhờ giúp; kẻ khác lại tìm tòi, kiếm cho được những tệ đoan đó.
Tội lỗi làm cho con người ra xấu xa, gây đau khổ tang thương cho người khác được gọi là rác tâm linh. Tương tự như đồ dùng phế thải ngoài xã hội. Có những tội người lành thánh cố tránh, chiến đấu sinh tử để khỏi làm nô lệ chúng; lại có những Kitô hữu buông thả, chiều theo chúng, đi tìm tòi, tìm được dâng mình làm nô lệ cho tội. Tiên Tri Isaiah có thời cất tiếng vừa cảnh báo, vừa kêu gọi, đồng thời loan báo thời kì nô lệ đã chấm dứt, tội lỗi được ân xá. Đừng phạm tội nữa hãy mau chạy đến cùng Thiên Chúa toàn năng xin xá tội để hưởng ân xá. Thời đó có nhiều người thống hối ăn năn. Tiếng kêu của tiên tri ngàn năm trước đây, hiện tại vẫn vang vọng và vẫn có người từ chối lắng nghe. Thời nô lệ đã qua tại sao vẫn còn có người cố bám víu, níu kéo cuộc sống nô lệ. Họ không muốn được tự do sao. Họ không muốn được ân xá sao.
Các bài đọc hôm nay đều dùng hình ảnh dọn đường để được ân xá, đón mừng Chúa Cứu Thế. Dọn con đường tâm linh cho ngay thẳng để thoát cảnh nô lệ tội lỗi, thói hư tật xấu, tính tình man dại, ham đam mê phù phiếm biến con người thành nô lệ cho chính mình và xã hội mình đang sống.
Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa chúng ta trong hoang địa cho ngay thẳng. Hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng Is 40, 3-4
Thư thứ hai của thánh Phêrô tông đồ dậy cách thức thoát mình khỏi tình trạng nô lệ tội lỗi. Tự mình không thể vùng vẫy thoát khỏi vòng cương toả, ràng buộc của tội và mọi thứ đam mê. Muốn thoát ra được cần trông cậy vào ơn Chúa. Thánh nhân dùng hình ảnh dọn đường đón Chúa bằng đời sống thánh thiện. Muốn người đổ rác dùm cần phải chọn lựa vất nó ra đường. Muốn dọn đường tâm linh cũng cần xin ơn Chúa soi sáng để biết loại tật xấu, liệt kê lỗi hư. Cần sống thánh thiện mới có thể và xứng đáng đón trời mới, đất mới khi Chúa xuất hiện. Để sống trong trời mới, đất mới, con người cũ không thích hợp, cần con người mới. Để trở thành con người mới cần phải lối sống mới bắt đầu từ tâm linh. Thay vì chạy theo ý riêng; thay vì làm nô lệ cho tội lỗi, thay vì làm nô lệ cho của cải, vật chất. Hãy thay đổi, chọn sống theo ánh sáng chân lí của Chúa, công lí và thánh thiện. Thánh Gioan không nói rõ bằng lời nhưng bằng hành động của ông.
Đấng đến sau tôi, quyền năng hơn tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi dây giày Người. Phần tôi, tôi lấy nước mà rửa các ngươi, còn Ngài, Ngài sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần Mc1,7
Thánh nhân kêu gọi sống khiêm nhường. Không phải khiêm nhường bằng lời nói nhưng bằng hành động. Hành động khiêm nhường Gioan tự nhận là ông không xứng đáng cởi dây giầy cho Người đến sau ông. Đấng đó thì lớn lên, còn ông thì nhỏ đi, biến ra sau hậu trường cho Đấng đó lớn lên. Cởi dây giầy cho ai đó hẳn phải là hành động khiêm hạ tột bực. Gioan không ngại tuyên bố điều đó, rõ ràng, mạch lạc, vang dội nơi công cộng, giữa chốn đông người. Hành động khiêm nhường đó Gioan kêu gọi Kitô hữu học đòi, bắt chước. Chỉ những tâm hồn khiêm hạ như thế mới có thể thay đổi trở thành con người mới. Chỉ có con đường thống hối nhận ơn tha tội mới thay đổi biến ta thành con người mới, xứng đáng vào sống trong trời mới, đất mới.
20. Cất lời rao giảng
Một trong những sứ mạng chính yếu của Giáo hội là rao giảng: rao giảng về Thiên Chúa cho con người, nhất là rao giảng về tình yêu cứu độ của Thiên Chúa cho những ai đang kiếm tìm và khao khát Thiên Chúa.
Thế giới ngày nay dễ làm cho con người lao mình vào việc hưởng thụ và quên mất Thiên Chúa. vì thế, nhiệm vụ rao giảng lại càng cấp thiết hơn bao giờ hết. Nhưng nhiệm vụ rao giảng là của ai? Họ cần được trang bị những gì và rao giảng điều gì? Tin mừng hôm nay cho chúng ta một cái nhìn chuẩn mực trong vấn đề rao giảng.
1. Ai có nhiệm vụ rao giảng?
Rao giảng về Thiên Chúa , về ơn cứu độ của Thiên Chúa cho con người là nhiệm vụ của mọi tín hữu Chúa Kitô. Mọi thành phần Dân Chúa đều có bổn phận tham gia vào việc rao giảng này, dù rằng các Linh mục, tu sĩ, giáo lý viên có trách nhiệm đặc biệt hơn trong vấn đề này.
Có nhiều cách thế rao giảng khác nhau. Chúng ta có thể rao giảng về Thiên Chúa cho con người bằng lời nói, bằng những phương tiện truyền thông đại chúng, nhưng lời rao giảng hùng hồn nhất vẫn là đời sống chứng nhân của từng người chúng ta.
An là một học sinh tiểu học bán trú và là một người Công giáo rất ngoan đạo vì em được giáo dục đức tin từ thưở bé. Chuyện xảy ra là trong một giờ ăn trưa, khi các bạn bè của An ngồi vào bàn ăn và ăn ngay những thức ăn được dọn sẵn. Còn An thì chậm rãi là dấu Thánh giá và thì thầm trong miệng lời kinh Lạy Cha mà em vẫn được dạy đọc trước mỗi giờ ăn. Các bạn bè của An nhìn An một cách tò mò và tỏ vẻ khó chịu. Thế rồi có một đứa bạn của An chạy đến chỗ thầy giáo đang dùng cơm ở phòng kế bên và nói: "Thầy ơi, bạn An đọc thần chú trước bữa ăn đó thầy". Chờ các học trò ăn xong, thầy giáo gọi An lên hỏi xem em đã làm gì. An bình thản trả lời: "Em chỉ làm dấu thánh giá và đọc kinh Lạy Cha để cám ơn Chúa đã ban cho em bữa ăn thôi". Thầy giáo cố nén vẻ xúc động và chân thành nói: "An à, em tốt lắm. Em là người can đảm. Em làm cho thầy cảm thấy mình thật xấu hổ, vì thầy cũng là người Công giáo, nhưng thầy chỉ đọc kinh khi ở một mình. Còn khi có ai, thầy cảm thấy mắc cỡ nên không đọc. Từ nay, thầy sẽ noi theo gương của em để tuyên xưng niềm tin của mình". Câu chuyện rất đơn sơ nhưng thật cảm động. An đã là một cử chỉ rất thiết thực để rao giảng về Chúa Kitô cho người khác và cho những ai còn non kém về niềm tin của họ.
2. Người rao giảng về Chúa cần phải được trang bị những gì?
Chắc chắn một điều là chúng ta không thể cho những gì chúng ta không có. Vì thế, người rao giảng về Chúa thì cần phải có Chúa trong lòng mình, có đức tin vào Chúa thật vững vàng... người rao giảng cần có những cảm nghiệm riêng tư về Chúa, như cảm nghiệm được rõ ràng bàn tay của Chúa đang hành động trên cuộc đời mình, trong vũ trụ, cảm nghiệm được Chúa yêu thương mình cách lạ lùng... Họ cũng cần phải có đời sống gương mẫu: sống khiêm tốn, chân thành, thanh thoát, thương người, siêng năng cầu nguyện...Thánh Gioan Tẩy giả là một mẫu mực về đời sống gương mẫu này để chúng ta học đòi bắt chước.
3. Rao giảng những gì?
Thánh Gioan Tẩy giả nói về Chúa Giêsu với tất cả tất lòng kính trọng và khiêm hạ của ông để giúp người ta nhận biết về Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Thánh Gioan chấp nhận xoá mình đi để làm cho Chúa Giêsu nổi bật lên và lớn lên trong cuộc đời của ngài, như lời ngài đã nói: " Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại" Gioan tẩy giả đã qui hướng mọi vinh quang, danh dự và thành công về Chúa Giêsu. Ngài đã khiêm hạ tột cùng khi nói: "Tôi không đáng cúi xuống cởi dây giày cho Người".
Rao giảng về Thiên Chúa đích thực là giúp người khác nhận ra Thiên Chúa quyền năng nhưng rất yêu thương con người, là tìm mọi phương thế để đưa người ta đến với Chúa và quên đi chính mình. Rao giảng là giúp người khác Chúa nhận biết thân phận đích thực của mình, giúp họ sám hối, cải thiện đời sống và hướng lòng về Thiên Chúa.
Noi gương thánh Gioan tẩy giả, chúng ta cần phải ý thức sứ mạng và ơn gọi của mình trong cuộc đời này. Vậy chúng ta hãy biết dùng những phương tiện và khả năng Chúa ban để giúp đỡ Giáo hội trong sứ mạng rao giảng về Chúa cho con người. Chúng ta hãy dùng chính cuộc sống của mình để biến nó thành lời rao giảng sống động về Thiên Chúa cho con người. Muốn thế, chúng ta cần phải biết sống hy sinh trong những chuyện thường ngày; biết sống nhường nhịn nhau, không tham lam, tranh chấp, không nói xấu người khác, nhưng tập nghĩ tốt và nói tốt về người khác. Chúng ta cần tập sống cho đi nhất là cho những ai đang cần đến sự trợ giúp của chúng ta.
Xin Chúa giúp chúng ta biết noi gương thánh Gioan Tẩy giả để nhiệt thành trong vai trò và sứ mạng rao giảng của mình để Chúa được lớn lên trong cuộc đời của từng người Kitô hữu chúng ta. Amen.
21. Kẻ dọn đường – Lm G. Nguyễn Cao Luật
Vẫn là một con đường
Toàn bộ cuộc sống của dân Do-thái đều có dấu ấn về một quan niệm: đời sống là một cuộc Vượt qua. Quan niệm này được bày tỏ rõ ràng qua những biến cố lớn: Thiên Chúa gọi tổ phụ Áp-ra-ham, dân Do-thái được giải thoát khỏi Ai-cập và lưu lạc 40 năm trong sa mạc, cuộc lên đường rời bỏ đất lưu đày để trở về quê hương... Trong những biến cố đó, họ luôn phải lên đường và luôn phải vượt qua những chướng ngại làm cản trở bước chân: đó là sa mạc, là dòng sông... Họ lên đường để đi tới miền đất Thiên Chúa đã hứa ban cho họ, nơi họ vẫn hằng mơ ước.
Sa mạc, dòng sông: những yếu tố này lại xuất hiện trong câu chuyện về ông Gioan Tẩy Giả và trở thành dấu chỉ cho những ý nghĩa mới: Phép rửa ông Gioan đề ra cho người Do-thái không phải chỉ là một nghi thức; trái lại, đó là dấu chỉ bề ngoài cho một hoạt động sâu xa là sự thanh tẩy nội tâm. Qua phép rửa này, ông Gioan muốn nhắc nhở dân chúng về ý nghĩa sâu xa trong ơn gọi của họ: họ là những người được Thiên Chúa tuyển chọn và họ phải trở nên xứng đáng với ơn gọi đó.
Theo cách hiểu của các Kitô hữu thời đầu, từ việc Thiên Chúa kêu gọi dân Ít-ra-en trở thành dân của Người đến sự xuất hiện của ông Gioan Tẩy Giả và của Đức Giêsu là một sự liên tục hoàn toàn. Những yếu tố này liên hệ với nhau cách chặt chẽ và bổ sung cho nhau. Đây cũng chính là điều thánh Mác-cô muốn nhấn mạnh. Trong bài tường thuật của Tin Mừng thứ hai, người ta thấy cả ba khía cạnh quá khứ, hiện tại và tương lai.
Quá khứ: vào cuối thời lưu đày, ngôn sứ I-sai-a đã kêu gọi dân Do-thái lên đường, thực hiện một chuyến du hành mới băng qua sa mạc. Một lần nữa, Thiên Chúa lại đến, mở ra con đường cho dân Người, thúc đẩy họ lên đường đang khi họ là những người đã chịu kết án phải chết.
Hiện tại: ông Gioan kêu gọi dân trở lại, từ bỏ lối sống cũ và bước vào đời sống mới.
Tương lai: ông Gioan thoáng thấy được sự xuất hiện của Đức Giêsu, Vị Cứu Thế. Chính Người sẽ làm sáng tỏ toàn bộ ý nghĩa của cuộc hành trình luôn được lặp lại này. Người là Đấng sẽ thực hiện cuộc Vượt Qua đích thực, và tận điểm của cuộc hành trình này là ân huệ Thánh Thần.
Qua những suy niệm như thế về ý nghĩa lời rao giảng của ông Gioan Tẩy Giả, thánh Mác-cô đã hiểu được tất cả mọi điều hàm chứa trong phép rửa. Với Đức Giêsu, phép rửa chính là cuộc vượt qua đúng nghĩa, nhờ cái chết trên thập giá. Cuộc vượt qua này đòi phải từ bỏ mọi sự, kể cả mạng sống, nhưng cuối cùng, chính cuộc vượt qua này sẽ mở ra con đường dẫn tới cuộc sống viên mãn.
Công việc của kẻ dọn đường
Người ta vẫn gọi ông Gioan Tẩy Giả là vị Tiền Hô, nhưng có người lại muốn gọi ông là cái máy ủi.
Cách nói như thế không phải chỉ do ý thích muốn chơi chữ. Lý do chính là tính cộc cằn của ông cũng như những ngôn từ mạnh bạo, quyết liệt của ông. Thánh Lu-ca thuật lại ông đã lăng mạ những người đến gặp ông: ông gọi họ là nòi rắn độc.
Một lý do khác nữa là nếp sống kỳ lạ của ông. Con người ông ít có những nét hấp dẫn, như lời tường thuật của các tác giả sách Tin Mừng và hình ảnh do các nhà điêu khắc để lại: một con người mặc áo bằng da thú, ăn châu chấu và mật ong rừng...
Vị ngôn sứ này quả là một nhân vật lạ lùng. Đức Giêsu gọi ông là vị ngôn sứ lớn nhất, không phải chỉ vì dáng dấp đặc biệt của một người sống trong sa mạc: là nếp sống khỗ hạnh và đưa ra nhiều yêu cầu, nhưng vì ông đã nhận mình là tiếng nói của Thiên Chúa: ông đến để loan báo và chuẩn bị cho cuộc xuất hiện của chính Thiên Chúa.
Thiên Chúa vẫn luôn là Đấng Em-ma-nu-en - Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, một Thiên Chúa đang chuẩn bị cho cuộc xuất hành mới, cuộc xuất hành cuối cùng để đưa nhân loại về quê hương vĩnh cửu. Con người cần phải tạo điều kiện để Thiên Chúa có thể đến và hoạt động nơi họ. Ông Gioan là người nhắc nhở cho họ về bỗn phận này.
Công việc của ông Gioan là "đi trước Chúa, mở lối cho Người" (Lc 1,76b) và ông đã dọn lối bằng cách thức tỉnh lương tâm con người, kêu gọi họ thay đỗi lối sống, thúc đẩy họ dẹp bỏ những gò nỗng, lấp những hố sâu, uốn ngay đường cong mà quay về đường công chính.
Thật ra lời kêu gọi của ông Gioan không phải là mới mẻ: hình thức có thay đỗi, nhưng nội dung vẫn là một từ thời các ngôn sứ. Thiên Chúa vẫn luôn mong muốn con người vươn lên cao hơn, hạnh phúc hơn và xứng đáng hơn với tình yêu thương của Người. Con người luôn phải vượt qua quá khứ để đạt tới tương lai mới. Họ luôn phải khắc khoải trở mình để đón lấy những điều lớn lao Thiên Chúa tặng ban cho họ. Lời kêu gọi của ông Gioan Tẩy Giả nhắc lại cả một lịch sử dài của lòng yêu thương. Lịch sử này đang đi tới hổi quyết định với sự xuất hiện của Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa.
Do đó, lời kêu gọi của ông Gioan có tính cách độc đáo vì chuẩn bị cho thời cuối cùng. Ông đã thoáng thấy một tương lai xán lạn đang được mở ra: nhân loại được giải thoát hoàn toàn khỏi ách nô lệ, và Thiên Chúa sắp đến để thực hiện những sáng kiến cuối cùng. Chính vì vậy ông nói rõ: "sẽ có một Đấng đến sau tôi, quyền thế hơn tôi" và "tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần" (Mc 1,7-8).
Kẻ dọn đường hiên ngang
Ngày nay, Đức Kitô đã đến và một giao ước mới giữa Thiên Chúa và loài người đã được ký kết, thì nhân vật Gioan này còn có thể nói gì với con người? Ông là vị ngôn sứ cuối cùng, một vị ngôn sứ lớn của Cựu Ước, nhưng lại là vị ngôn sứ đầu tiên trong Kitô giáo; ông đã hoàn thành công trình xây dựng cây cầu nối giữa dân Ít-ra-en và dân mới của Thiên Chúa, giữa đợi chờ và xuất hiện. Vậy phải chăng nên xếp ông vào công hàm, vào bảo tàng lưu trữ?
Chắc chắn là không. Điểm nghịch lý trong Lịch Sử Cứu Độ là tất cả đã được ban tặng nhưng vẫn còn đang được thực hiện. Có một Tin Mừng đã được viết ra, và có một Tin Mừng khác cũng đang được viết ra. Thiên Chúa đã nói với con người một lần thay cho tất cả, nhưng sự im lặng hiện nay của Người cũng là một cách nói. Do đó, lời kêu gọi của ông Gioan Tẩy Giả vẫn luôn vang lên như một lời mời gọi, như một sứ mạng.
Như một lời mời gọi. Con người sống trong sa mạc xưa kia cũng đang kêu lên giữa sa mạc của cuộc đời: Anh em hãy ăn năn sám hối, tức là: hãy đi vào sa mạc mà gặp gỡ Thiên Chúa, hãy từ bỏ tất cả để nhường chỗ cho Thiên Chúa. Đây cũng là điều Thiên Chúa luôn nói với con người, như lời ngôn sứ Hô-sê: "Ta sẽ dẫn ngươi vào sa mạc để cùng ngươi thổ lộ tâm tình."
Như một sứ mạng. Gioan đã minh chứng rằng Đức Kitô chỉ có thể xuất hiện trên những con đường đã được chuẩn bị sẵn sàng. Mỗi người phải dẹp đi những trở ngại được dựng nên trên con đường của Đức Kitô. Họ có nhiệm vụ phải đẩy xa khỏi mình cũng như môi trường chung quanh những thành kiến, những thái độ thiếu tình yêu... Họ có sứ mạng phải dọn đường, phải dành chỗ cho Đức Kitô xuất hiện: nhỗ đi những mầm mống của bạo lực và chiến tranh, san bằng những ngọn núi là thái độ dửng dưng, lấp đầy những hố sâu là nghi ngờ và cái nhìn xấu xa.
Ông Gioan đã làm chứng cho niềm tin của ông vào thế giới mới này bằng chính mạng sống của ông. Ông xác tín rằng trong thế giới mới này, những tâm hồn ủ rũ sẽ được nâng dậy và những cõi lòng sôi sục, chia rẽ vì hận thù sẽ được biến đổi trở nên dịu hiền.
Ông Gioan đã là cái máy ủi. Mỗi người chúng ta, theo cách của mình, cũng phải trở thành người ủi đường cho Chúa đến. Và như ông Gioan, mỗi người chúng ta cũng phải xoá mình đi trước một Đấng khác, quyền thế hơn chúng ta. Chính Người là ơn cứu độ, là Tin Mừng cho thời đại chúng ta.
* * *
Đức Kitô chẳng còn đôi tay
Người chỉ có đôi tay của chúng ta
để thực hiện công trình của Người ngày hôm nay.
Đức Kitô chẳng còn đôi chân
Người chỉ có đôi chân của chúng ta
để đến với con người.
Đức Kitô chẳng còn tiếng nói
Người chỉ có tiếng nói của chúng ta
để công bố về Người.
Đức Kitô chẳng còn sức lực
Người chỉ có sức lực của chúng ta
để hướng dẫn nhân loại đến với Người.
Đức Kitô chẳng còn những bản Tin Mừng
để con người đọc lên.
Nhưng tất cả những gì chúng ta làm
qua lời nói và hành động
đó chính là Tin Mừng được viết ra.
M. Pomilio.
22. Bắt đầu lại
(Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
Chúng ta mong đợi trời mới đất mới (2P 3,13)
Thời điểm bị khủng hoảng cũng là dịp để giúp chúng ta thay đổi, canh tân và bắt đầu lại. Khi mọi sự đang diễn ra suông sẻ, chúng ta thường ít nghĩ đến việc phải đổi thay. Giữa lúc thế giới có những xáo trộn, chúng ta có thể dễ dàng nghe được tiếng nói của những người đang cần đến chúng ta, để giúp họ vươn lên và sống đúng với phẩm giá đầy tròn của mình. Đây cũng là điều mà ngôn sứ Isaia đã làm đối với dân Chúa trong cuộc lưu đày bên Babylon, mà chúng ta sẽ nghe trong bài đọc thứ nhất hôm nay. Vị ngôn sứ ngọt ngào nói với Israel, hay diễn tả theo kiểu cách văn hoa là Isaia đã “ngỏ lời bằng con tim của mình” về niềm hy vọng khi bình minh mới ló rạng. Đây là ngôn ngữ của những người đang chìm đắm trong yêu thương nồng nàn. Bình minh ló rạng sẽ khai mở một tin tức tốt lành lúc ban mai: Dân sẽ thoát cảnh lưu vong và được trở về cố hương. Một con đường dẫn ngang sa mạc sẽ đưa họ trở về Giêrusalem, về với quê cha đất tổ.
Nhiều người đi lưu đày, coi đó như một hình phạt do chính tội lỗi họ đã gây ra. Tuy nhiên vị ngôn sứ nói về “cánh tay mạnh mẽ của Đấng Thánh” không phải là đôi tay để giáng phạt. Trái lại, Thiên Chúa giang rộng vòng tay để thu gom đoàn chiên bị tản mát, để ôm ấp dân Ngài vào lòng cách trìu mến, và dịu dàng đưa dẫn họ trên con đường về lại quê hương. Đây chính là tin vui được công bố. Một Thiên Chúa uy quyền và mạnh mẽ lại là một Thiên Chúa nhân hậu, như một mục tử hiền lành, chăm sóc những con chiên bị thương tích và tật nguyền, dẫn chúng thoát khỏi nơi hoang vu, và đưa chúng đi vào đường lối của Ngài. Đó là một khởi đầu mới quá tốt lành.
Tuy nhiên, Gioan tiền hô cũng đã công bố một khởi đầu mới, nhưng xem ra có vẻ hơi nhức nhối và khó chịu. Gioan nói rằng, quà tặng thứ tha đến từ Thiên Chúa, chỉ được trao ban cho những ai nhận thức được tội lỗi mình và biết trải lòng ra để Thiên Chúa lau rửa sạch sẽ. Sự khởi đầu mới này đã được đón nhận bởi đám đông khi họ đến nghe Gioan rao giảng, và được thanh tẩy bằng Thần khí. Câu văn đầu tiên, mà Marcô đã viết trong trình thuật “ Khởi đầu Tin Mừng”, vọng lại âm hưởng những dòng đầu tiên trong sách Khởi nguyên. Marcô muốn gợi lên nơi chúng ta niềm hy vọng vào Thiên Chúa, đấng đang thực hiện một khởi nguyên mới khi Đức Giêsu đến. Đó là một cuộc tạo dựng mới, được bắt đầu ngay hôm nay, ngay bây giờ, mỗi khi chúng ta trở về với Chúa và biết biến cải tâm hồn chúng ta đi theo đường lối chính trực và ngay lành.
Bài đọc thứ hai cũng nói về sự mới mẻ mà chúng ta đang đợi chờ. Thánh Phêrô dùng hình ảnh “trời mới, đất mới” để khải thị điều này. Nhiều bản văn Kinh thánh cũng nói về một cuộc tạo dựng mới tương tự, ( như trong Is 65,17; 66,22; Kh 21,1; 2 Cor 5,17; Gal 6,15). Tuy nhiên chỉ trong lá thư thứ hai của Thánh Phêrô, vị tông đồ đã phác vẽ một viễn cảnh cánh chung bao gồm cả sự hủy diệt và khóa sổ vũ trụ, trước khi khai mở một tạo dựng mới. “Các tầng trời sẽ bị thiêu hủy và ngũ hành chảy tan ra trong lửa hồng” (2P 3,12). Quan niệm này bắt đầu xuất hiện ở Ba-tư, dần trải rộng sang vùng theo văn hóa Hy - La. Nhiều lần, chính chúng ta cũng mong muốn Thiên Chúa thực hiện một điều gì đó xem ra có vẻ bi thiết giống như vậy, để khởi đầu lại, và xóa sạch mọi vết tích cũ. Tin Mừng được công bố, chính là việc Thiên Chúa, cho dù đã thực hiện những việc bi ai, nhưng Ngài biến đổi vũ trụ, thiết định một tạo dựng mới xuyên qua những dạng thức bi ai này. Tuy nhiên, Thiên Chúa thực thi những công trình của Ngài, không phải với phương cách hủy diệt đầy phẫn nộ và tàn bạo. Ngài chỉ mong muốn mạnh mẽ lôi kéo mọi con tim sắt đá và chai cứng đến sát bên Ngài, để những tâm hồn tội lỗi đó được tẩy luyện trong máu Đức Giêsu. Đây là cách thái thông thường, tuy cũng khá đặc biệt, mà Thiên Chúa thường hay sử dụng. Ngài dùng sự Khôn Ngoan linh thánh nhập thể nơi vũ trụ, để biến đổi hoàn vũ cũng như biến đổi tâm hồn chúng ta.
Đối với một số người, cần phải có một thời gian dài để mở toang cánh cửa tâm hồn cho tình yêu Thiên Chúa chiếm ngự và biến đổi. Một số khác, lại rất nhạy bén và nhanh chóng quy thuận để bước theo chỉ dẫn của Ngài. Thiên Chúa hứa thực hiện một khởi đầu mới nơi ta, nhưng nhiều khi ta vẫn nghĩ tưởng là Ngài chậm trễ hay trì hoãn. Không phải Ngài chậm trễ, mà là chính chúng ta, chúng ta không thiết tha hay cứ mãi chần chờ. Bài đọc thứ hai hôm nay bảo đảm rằng, Thiên Chúa luôn kiên nhẫn và không theo những gì chúng ta hoạch định cho hôm nay hay cho ngày mai. Đối với Chúa, một ngày cũng như ngàn năm và ngàn năm cũng như một ngày. Thánh Phêrô nói với chúng ta rằng nhiều người vẫn nghĩ Thiên Chúa quá chậm chạp, song thực chất Ngài luôn kiên nhẫn đợi chờ, chỉ vì muốn lôi kéo chúng ta đến với tình yêu Ngài, để tình yêu đó biến đổi và tái tạo cuộc sống mới nơi chúng ta.
Các bài đọc hôm nay trình bày cả hai chiều kích năng động, một từ phía Thiên Chúa, và một từ phía con người. Thiên Chúa mong muốn thực hiện nơi ta những khởi đầu mới nhưng Ngài sẽ bất lực không làm được, nếu chúng ta không đáp trả và cộng tác. Chúng ta phải nhận ra rằng Chúa đang đến, và chúng ta cần phải biết trải lòng mình ra đón chờ Chúa đến. Bài đọc thứ nhất và cả bài đọc thứ hai hôm nay đều mời gọi chúng ta đi vào sa mạc để thực thi điều ấy. Sa mạc biểu thị cả hai trạng huống tương phản. Đó vừa là nơi hoang vắng đầy khiếp hãi, đồng thời sa mạc cũng là nơi Thiên Chúa thân tình đến gặp gỡ và trao ban ân sủng cho con người. Từ trong sa mạc nội tâm nơi mỗi người chúng ta, vẫn luôn vang vọng điệp khúc của hy vọng, đem đến cho chúng ta những tin tức tốt lành. Đó là tin tức về tình yêu của Thiên Chúa không bao giờ vơi cạn, và cả khi chúng ta cảm thấy tâm hồn mình cằn cỗi, thiếu vắng tình yêu, ơn Chúa vẫn luôn đủ để giúp chúng ta “bắt đầu lại”.
23. Người dọn đường
(Trích trong ‘Manna’)
Để chuẩn bị cho Con của Ngài đến trần gian, Thiên Chúa cần nhiều người dọn đường trong dòng lịch sử.
Người nổi bật nhất là Gioan.
Gioan là nhịp cầu thân thương để Đức Kitô đến gặp dân Ngài, và để dân Ngài đón nhận Đức Kitô cứu thế. Ông đã quen biết cả đôi bên và ông hạnh phúc được làm người phù rể cho đám cưới giữa Đức Kitô và dân được chọn.
Thời nào Thiên Chúa cũng cần những sứ giả, những người dọn đường, những Gioan mới.
Đó là sự khiêm tốn muôn thuở của Thiên Chúa, Ngài chẳng bao giờ đường đột đến với con người.
Hôm nay, Đức Kitô muốn đi vào thế giới của bạn: đất nước, gia đình, trường học, nơi làm việc, bạn bè... Ngài cần bạn làm người giới thiệu. Nhờ bạn, Tin Mừng được khởi đầu nơi một ai đó, như xưa Tin Mừng đã được khởi đầu nhờ Gioan.
Chúng ta cần ngắm nhìn lối sống của Gioan. Ông sống độc thân trong hoang địa, ăn châu chấu và mật ong rừng, mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da. Lối sống khắc khổ ấy đã trở nên một dấu hỏi.
Gioan đã chọn lối sống phù hợp với lời ông giảng. Ông kêu gọi mọi người dọn tâm hồn để đón Đấng quyền thế hơn ông, thì chính ông đã sống như con đường thẳng. Ông mời gọi người ta sám hối, thì chính đời ông đã mang nét sám hối rồi. Bởi thế tiếng gọi của ông có sức thu hút mãnh liệt.
Biết bao người từ khắp nơi kéo đến với ông, để khiêm tốn thú tội và chịu phép rửa, nhằm chuẩn bị đón Đấng Mêsia sắp đến.
Chúng ta không thể vào hoang địa như Gioan, cũng không thể ăn mặc như ông, nhưng chắc chắn để làm chứng cho Đức Kitô hôm nay, chúng ta không thể sống y như mọi người.
Lắm khi chúng ta phải từ khước một cuộc sống dễ dãi, tiện nghi, thoải mái, để tìm kiếm một cái gì sâu xa hơn, ý nghĩa hơn. Không phải chúng ta thích lập dị, nhưng ơn gọi Kitô hữu đòi chúng ta dám lội ngược dòng với thế gian, dám sống một cách khác thường trong chính cuộc sống bình thường của ta.
Làm sao chúng ta có sức thu hút như Gioan để đưa con người hôm nay đến gặp Chúa? Chúng ta phải thay đổi lối sống mình như thế nào, để người ta tin được lời chúng ta rao giảng?
Đức Kitô hôm nay vẫn cần những người dọn đường tuyệt vời như Gioan.
Gợi Ý Chia Sẻ
Nhiều người đã không đón nhận Tin Mừng chỉ vì gương xấu của các Kitô hữu. Bạn có nhìn thấy, nghe thấy những gương xấu đó ở quanh bạn không? Làm sao để có một cuộc sám hối tập thể như Gioan đã khơi dậy?
Bạn sẽ làm gì để tỏ lòng yêu mến Chúa Giêsu và làm cho Ngài được mọi người yêu mến?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, sám hối không phải là điều dễ dàng, bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn để nhận mình lầm lỗi.
Chúng con ngỡ ngàng khi thấy Chúa là Đấng vô tội mà lại đứng chung với các tội nhân, chờ Gioan ban phép Rửa. Chúa đã muốn nên bạn đồng hành với phận người mỏng dòn và yếu đuối chúng con.
Xin cho chúng con biết thường xuyên điều chỉnh lối nghĩ và lối sống của mình, tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng, thành thật để khỏi tự dối mình.
Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải, dám đi đến những hành động cụ thể, và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau.
Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con niềm vui của Giakêu, hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến.
24. Giấc mơ hay hiện thực
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một người kia kể lại giấc mơ khủng khiếp như sau: Tôi thấy mình đứng trước một biệt thự nguy nga. Bước vào trong, tôi thấy hai hành lang với hai hàng chữ: Bên phải dành cho người Công giáo, bên trái dành cho kẻ ngoại đạo. Theo bảng chỉ dẫn, tôi đi theo hành lang bên phải dành cho người Công giáo.
Đi được một lúc, tôi thấy mình đứng trước một ngã rẽ khác. Lần này tôi đọc thấy bảng chỉ dẫn như sau: Bên phải dành cho kẻ có đức tin vững mạnh, bên trái dành cho kẻ có đức tin yếu kém. Và tôi lại đi bên phải.
Đến một ngã rẽ khác, tôi lại thấy một bảng chỉ dẫn: Bên phải dành cho những người có lòng bác ái, bên trái dành cho những người ích kỷ. Tôi lại chạy qua bên phải mà đi.
Cuối cùng tôi gặp một bảng chỉ dẫn: Bên phải dành cho những ai có đời sống thánh thiện, bên trái dành cho những kẻ tội lỗi. Một lần nữa tôi cứ chọn bên phải mà đi. Nhưng tôi đang hân hoan rảo bước, thì bỗng một cảnh tượng hãi hùng khủng khiếp hiện ra ở cuối hành lang ấy: cảnh hỏa ngục với muôn vàn hình khổ không lời nào tả xiết. Tôi hoảng hốt kêu rú lên và giật mình thức giấc.
Sau một phút tôi hoàn hồn và tự hỏi: “Phải chăng đời sống đạo của tôi cũng chỉ là một giấc mơ hãi hùng?”.
Câu hỏi trên đây có lẽ cũng có thể được nêu lên cho mỗi người chúng ta trước tiếng hô của Gioan Tẩy Giả: “Có tiếng hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”. Thường thì chúng ta cứ chọn bên phải mà đi, chứ mấy ai lại thích đi bên trái. Cái ảo tưởng về sự tốt lành của mình luôn luôn bám sát chúng ta như hình với bóng. Lòng tự cao tự đại thường mê hoặc chúng ta, làm cho chúng ta như chìm sâu mãi vào một giấc mơ hãi hùng.
“Anh em hãy tỉnh cơn mê, đêm đã tàn, ngày đang đến”. Lời ấy của thánh Phaolô muốn thôi thúc chúng ta thành khẩn nhìn lại giá trị đích thực của đời mình. Tôi có thực sự xứng đáng đứng bên phải trong ngày phán xét cuối cùng không? Hay đó chỉ là một giấc mơ hãi hùng?
Gioan Tẩy Giả kêu gọi chúng ta hãy dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Dọn đường cho Ngài đến thực hiện một cuộc giải phóng mới, không phải giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập hay khỏi nơi lưu đầy Babylon, mà là khỏi tội lỗi, trở về với Thiên Chúa. Vì vậy, Gioan Tẩy Giả kêu gọi mọi người hãy sám hối. Ông đã dùng phép rửa như một dấu hiệu của lòng sám hối, từ bỏ tội lỗi để đón nhận Chúa Kitô, đồng thời như một dấu hiệu tiên báo một phép rửa hoàn hảo hơn -Phép rửa của Chúa Giêsu: “Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, còn Ngài, Ngài sẽ làm Phép Rửa cho anh em bằng Thánh Thần”.
Gioan không chỉ rao giảng sám hối mà còn sống tinh thần sám hối, không chỉ thức tỉnh dân chúng trước biến cố đang xảy đến mà còn lay tỉnh chính mình trước công việc mầu nhiệm của Thiên Chúa: cách ăn mặc của Gioan nói lên tâm tư và phong cách sám hối. Thực vậy, lối sống đơn giản và khổ chế của Gioan – mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng – chứng tỏ ông đã thoát khỏi những ràng buộc phiền toái của xã hội Do Thái và những bận tâm quá đáng về vật chất để quy hướng cuộc sống vào việc chào đón và rao giảng về Đấng Cứu Thế. Ông đã làm chứng về Đấng Cứu Thế và chờ đợi Ngài đến bằng một đời sống khổ hạnh và tỉnh thức.
Đời người là một Mùa Vọng dài hướng về ngày Chúa đến lại. Mỗi tín hữu là một Gioan Tẩy Giả, và toàn thể Giáo Hội có sứ mạng tiền hô. Người tín hữu hôm nay, khi nhắc đến mầu nhiệm Chúa đến, phải có tâm tư và thái độ sống thế nào để dọn đường cho những anh chị em chung quanh biết đón chờ Chúa? Chúng ta đã gia tăng cầu nguyện, hoán cải đời sống để dọn đường Chúa đến, để chuẩn bị cho Chúa tỏ mình ra chưa?
Lòng sám hối đích thực không nằm ở nơi những tình cảm tốt đẹp, những sáo ngữ hấp dẫn, những nghi thức rầm rộ bên ngoài, nhưng nơi những công việc và hành vi cụ thể: sửa lại cho thẳng những lối đi quanh co tăm tối của con tim, bạt xuống cho bằng các đồi núi kiêu căng của tâm trí, lấp đầy hố thẳm nghèo đói Lời Chúa của tâm hồn.
Thánh Phêrô trong thư của ngài đã cho thấy lòng sám hối không phải là một thái độ nhất thời, mà là thái độ thường xuyên của người Kitô hữu trong suốt giai đoạn chờ Ngày của Chúa. Ngài nhắn nhủ: “Anh em thân mến, trong khi chờ đợi ngày đó, anh em phải cố gắng nên tinh tuyền, không chi đáng trách, để được bình an trước mặt Chúa” (2Pr 3,14). Lời nhắn nhủ đó là những lời kêu gọi các tín hữu sám hối để tạo nên cho mình một thái độ tương xứng cần thiết.
Hiển nhiên là lời kêu gọi sám hối trong Phụng Vụ Chúa Nhật 2 Mùa Vọng này không thể chỉ được giới hạn trong việc xét mình ăn năn và xưng tội để có được một tâm hồn trong sạch xứng đáng cho Chúa ngự, vào thánh lễ đêm Giáng Sinh. Sám hối là một thái độ sống của người Kitô hữu. Sám hối là một sự đổi mới, một sự đổi mới toàn diện: trong tư tưởng, trong sự chọn lựa, trong hành động. Sự đổi mới này không chỉ diễn ra một lần là đủ, mà là một đổi mới liên tục. Người Kitô hữu được kêu gọi từ bỏ con người cũ, lối sống theo lòng ích kỷ, tham lam, tàn bạo, không đếm xỉa đến quyền lợi của người khác, để sống theo con người mới với lòng yêu thương, với tình liên đới với người chung quanh, ở trong gia đình, trong trường lớp, trong cơ quan, xí nghiệp… Người Kitô hữu vẫn tin rằng ơn cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện không chỉ nơi thâm sâu thầm kín của từng con người mà còn ngang qua lịch sử trong xã hội con người.
Tiếng hô của Gioan Tẩy Giả trong hoang địa là một tiếng gọi mang đầy hy vọng và niềm vui: “Hãy dọn đường cho Đấng Cứu Thế, vì Người sắp đến rồi!”. Hãy thay đổi bộ mặt trái đất này cho loài người được sống ấm no hạnh phúc, để cho Trời Mới Đất Mới xuất hiện, trong đó công lý và hòa bình sẽ ngự trị và mọi người sẽ được thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.
25. Dọn đường
Ngày nay, người ta có thể đến gần với nhau hơn nhờ Khoa học kỹ thuật đã phát triển ngành giao thông. Đường xá ngày càng mở rộng, từ thành thị đến thôn quê. Nhờ đó người ta có thể đi lại dễ dàng và việc liên lạc không còn là vấn đề khó khăn nữa.
Trong tâm tình sống Mùa Vọng, thời điểm mà Giáo Hội mời gọi người Kitô hữu dọn lòng mừng Chúa đến, chúng ta vừa được kêu mời: "hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng".
Đường đi cần phải dọn cho trống trãi để giao thông được thuận lợi.Sửa đường cho ngay thẳng để người ta đi lại được dễ dàng.
Ngôn sứ Isaia cho biết mục đích của việc dọn đường và sửa đường là để cho Chúa đến. Con đường được đề cập ở đây là tâm hồn của con người, cụ thể là người Kitô hữu chúng ta. Người Kitô hữu được mời gọi dọn lòng mình chuẩn bị cho Chúa ngự đến.
Nếu nhìn lại kỹ hơn trong lòng mình, ta sẽ nhận thấy có những con đường khác nhau: Con đường u tối: do lòng mình còn sống trong tội lỗi Con đường bị cỏ dại mọc bít lối: vướng mắc đủ thứ tội nặng nhẹ, khô khan việc đạo đức. Con đường gồ ghề quanh co: do lọc lừa gian dối, hiềm thù...
Vì thế, hưởng ứng lời kêu gọi của Isaia, ta hãy mở lòng ra, nhìn lại để dọn lòng mình cho sạch sẽ,.... lấp ổ gà bằng lòng bao dung, tha thứ yêu thương, hãy sửa những quanh co, lọc lừa, gian dối, hiềm thù, bằng lòng khiêm nhượng, yêu thương chân thành.
Đọc bài Tin Mừng hôm nay ta còn thấy hình ảnh của Gioan Tiền Hô, một nhân chứng sống động cho việc dọn đường cho Chúa.
Về việc ăn uống: Ông ăn châu chấu và uống mật ong rừng: một hình ảnh gợi cho chúng ta thấy con người này hoàn tòan sống hài hòa với thiên nhiên, theo thiên nhiên
Về thái độ sống: khiêm nhượng, nhìn nhận sự hèn kém của mình, nổ lực làm hết mình vì Đấng đến sau mình. Ông là mẫu gương sống phục vụ vì Chúa Kitô.
Kêu gọi: sám hối bao gồm nhận biết tội mình, hối tiếc vì đã phạm tội và trông cậy vào ơn Chúa giúp mình sửa đổi.
Những người của ngày xưa đã biết sám hối, nên đã đến lãnh phép rửa của Gioan. Còn chúng ta thì sao?
Hằng ngày, chúng ta có những thời gian, cơ hội để sám hối như những thời gian ta cầu nguyện: sáng, trưa, và trước khi nghỉ đêm. Việc sám hối này đồng thời với việc cảm tạ hồng ân Chúa thương ban cho ta từng phút giây trong cuộc sống. Nhìn lại, cảm ta và định hướng cho cuộc sống mới, cuộc sống có Chúa, cuộc sống có niềm tin, bình an, hy vọng...
Hãy nhìn lại bản thân mình, biết lắng nghe Lời Chúa, khiêm tốn nhìn nhận mình yếu đuối, để dọn lòng mừng Chúa đến, tạo cho mình con đường để Chuá đến với ta.
26. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
HÃY CHUẨN BỊ TÂM HỒN CHO XỨNG ĐỂ ĐÓN NHẬN CHÚA ĐẾN
Việc chuẩn bị đón chờ Chúa đến đã được ghi khắc trong lịch sử nhân loại. Lịch sử của tình thương và đầy lòng trắc ẩn của Thiên Chúa đối với con người. Lịch sử ấy có những đòi hỏi như Gioan Baotixita kêu gọi chúng ta: "Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng". Thiên Chúa vĩ đại và quyền năng đã hạ mình xuống với con người, đến với chúng ta dưới hình hài một trẻ thơ nghèo, kêu mời chúng ta khiêm tốn đến gặp Người. Bước vào Chúa nhật II Mùa Vọng với chủ đề: Populus Sion... (Này hỡi Dân Sion...) Chúa sắp ngự đến cứu độ muôn dân. Người sẽ lên tiếng thật oai hùng, khiến tâm hồn anh em hoan hủy..." (Ca nhập lễ). "Lạy Mục Tử nhà Israel, xin hãy đến cứu độ đoàn chiên Ngài...... như chăn giữ chiên cừu, xin hãy lắng tai nghe!..." (Tv 79, 2)
Trong bài đọc I, tiên tri Isaia vang lên lời Chúa phán với Dân Ngài như một sự trấn an trước cảnh nô lệ và tội lỗi: "Hỡi dân Ta, hãy an tâm, hãy an tâm!...Thời nô lệ đã chấm dứt, tội lỗi đã được ân xá, Chúa đã ban ơn nhiều gấp hai lần tội lỗi" (Is 40, 2). Và hơn thế nữa, Chúa truyền cho Isaia: "Hãy nói cho các dân thành thuộc chi họ Giuđa rằng: Đây Thiên Chúa các ngươi, đây Chúa là Thiên Chúa các ngươi sẽ đến trong quyền lực; cánh tay Người sẽ thống trị. Người mang theo những phần thưởng chiến thắng và đưa đi trước những chiến lợi phẩm. Người chăn dắt đoàn chiên Người như mục tử. Người ẵm chiên con trên cánh tay, ôm ấp chúng vào lòng, và nhẹ tay dẫn dắt những chiên mẹ" (Is 40, 9-11).
Để được như vậy Dân Chúa phải thực hành không trì hoãn khi nghe thấy tiếng kêu trong hoang địa: "Hãy dọn đường Chúa... Hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi" (Is 40, 3).
Hố sâu và đồi núi gồ ghề sẽ gây cản trở người đi lại, khiến người ta khó đến với nhau. Lấp hố sâu và bạt núi đồi là dẹp bỏ lòng tự mãn kiêu căng của chính mình, là cản trở lớn nhất trên đường Chúa đến với chúng ta. Khi chúng ta thực hành nét đẹp của khiêm nhường và hạ mình xuống, chúng ta sẽ khám phá ra sự kiêu ngạo ẩn sâu trong lòng ta. "Hãy sửa đường Chúa chúng ta trong hoang địa cho ngay thẳng" (Is 40, 3). Như Gioan nói: "Con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng" (Mc 1).
Gioan Tẩy Giả được Marcô (1, 2-8) trình bầy như vị tiên tri cuối cùng của Cựu Ước, ví ông như "Thiên Thần của Ta đến trước mặt ngươi để dọn đường cho ngươi" (Mc 1,2; Ml 3,1) từ trong hoang địa, cất lời rao giảng "phép rửa sám hối cầu ơn tha tội" (Mc 1, 4). Lời giảng tuy nghiêm nghị nhưng thu hút "cả miền Giuđêa và Giêrusalem" (Mc 1, 5). Gioan đã xuất hiện với những người đương thời như là hy vọng cuối cùng của một dân tuyệt vọng. Rất ít người nhận ra sứ vụ đích thực của ông là để "dọn đường cho Chúa đến".
Gioan xuất hiện như Tiếng kêu trong hoang địa, mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú. Ông không kêu gọi người ta trở nên nhà khổ tu giống như ông. Ông rao giảng rằng: "Đấng đến sau tôi, quyền năng hơn tôi... Ngài sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần" (Mc 1, 7.8). Lời của Gioan vẫn vang dội qua các thời đại và như một sứ điệp cấp bách gửi đến với chúng ta ngày hôm nay. Kêu mời thay đổi nội tâm, bắt đầu từ việc thừa nhận và xưng thú tội lỗi của mình. Kết quả là: "Cả miền Giuđêa và Giêrusalem tuôn đến với người, thú tội và chịu phép rửa trong sông Giođan" (Mc 1, 5).
Mùa Vọng năm nay, chúng ta đang sống như thế nào, nếu không phải là chuẩn bị tâm hồn, giục lòng tin, cử hành Phụng vụ cho sốt sáng để lãnh nhận ân sủng mà Chúa Kitô đã mang đến trong thế gian cho mọi người hưởng nhờ. Năm nay là năm Tân Phúc Âm hoá đời sống gia đình. Năm 2015 sắp tới là năm Hội Đồng Giám Mục Việt Nam mời gọi chúng ta Phúc Âm hoá đời sống cộng đoàn giáo xứ và cộng đoàn thánh hiến. Vậy giờ đây, có thể nói là bốn tuần của Mùa Vọng là như "tiền đường" để bước tiếp vào những ngày thánh. Chúng ta hãy chuẩn bị tinh thần bằng lời cầu nguyện, sẳn sàng tiếp đón Đấng Cứu Thế ngự đến!
Hãy thay đổi cung cách suy nghĩ hành xử và sống thanh đạm "Vì nước trời gần đến". Công Đồng Vaticanô II dạy rằng: Chúng ta không biết được thời gian hoàn tất của trái đất và nhân loại, chúng ta cũng chẳng biết cách thức biến đổi vũ trụ. Chắc chắn hình ảnh của một thế gian lệch lạc vì tội lỗi sẽ qua đi, nhưng chúng ta được biết Thiên Chúa đã dọn sẵn một chỗ ở mới và một đất mới, nơi công bằng ngự trị. Hạnh phúc nơi ấy sẽ thỏa mãn và đắp đầy mọi ước vọng hòa bình trào dâng trong lòng con người. Khi ấy, sự chết sẽ bị đánh bại, con cái Thiên Chúa sẽ phục sinh trong Chúa Kitô và những gì được gieo vãi trong yếu hèn, mục nát, sẽ mặc lấy sự không hư nát; tình yêu và các hoạt động bác ái sẽ tồn tại và toàn thể tạo vật mà Thiên Chúa đã dựng nên cho con người sẽ được giải thoát khỏi ách nô lệ phù vân.
Chúng ta đã được cảnh giác là lời lãi cả thế gian mà chính mình hư mất nào ích lợi gì. Nhưng sự trông đợi đất mới không được làm suy giảm, trái lại phải kích thích nỗ lực phát triển trái đất này, nơi mà Thân Thể gia đình nhân loại mới đang tăng trưởng và tiên báo một vài hình ảnh của thời đại mới. (Trích "Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng", 39, 1-3).
Đừng sợ sống hy vọng. Trong thế giới đầy bất ổn và bạo lực này, ước gì Mùa Vọng và việc chờ đón "Hoàng Tử Bình An" đến, cho chúng ta dịp suy gẫm Lời Chúa. Hãy tránh ngủ quên, và cương quyết dọn đường cho Chúa, là nguồn mạch bình an, niềm vui, tình yêu và hy vọng, là Đấng không ngừng đến để an ủi dân Người. Chúng ta hãy đặt tay ta vào tay Mẹ Maria, Trinh Nữ của sự chờ đợi, để Mẹ dẫn chúng ta đến gặp gỡ Chúa Giêsu Con Mẹ. Amen.
27. Tháo gỡ để giao hòa – Lm. Trần Ngà
Có hai hình thức cản trở khiến con người không đến được với nhau: cản trở bên ngoài và cản trở bên trong.
Cản trở bên ngoài có nhiều thứ như lũng sâu, núi cao, đường sá quanh co hiểm trở... đã được tiên tri Isaia đề cập đến trong bài đọc thứ nhất hôm nay.
Lại có những hình thức cản trở khác do chính con người tạo ra để ngăn chận sự thâm nhập của quân thù như người xưa phải xây thành cao, đào luỹ sâu; hay ngày nay người ta dùng hàng rào kẽm gai cài thêm bom mìn để ngăn chặn đối thủ.
Ngoài ra còn có những ngăn cách khác như dòng sông Bến Hải trước đây đã chia cắt đất nước Việt Nam thành hai miền thù nghịch, hoặc bức tường Bá Linh ở Đức chia cắt đất nước nầy thành hai quốc gia đối lập.
Thành luỹ bên ngoài tuy vậy mà dễ vượt qua, còn thành luỹ bên trong tâm tư con người còn khó vượt qua hơn; đó là lòng hận thù, nghi kỵ, giận hờn, ghen tỵ, tranh chấp, cãi cọ, kiêu căng, khép kín... Những thứ thành luỹ nầy tuy vô hình, không đồ sộ, không có bề cao, bề rộng, bề sâu nhưng có khả năng ngăn cách con người rất hiệu quả: Có những gia đình ở kề bên nhau nhưng vì hận hờn ghen ghét nên không hề lui tới với nhau; thậm chí có những anh em ruột thịt mà mấy chục năm trời không nhìn mặt nhau chỉ vì tranh chấp đố kị. Có khi vợ chồng cùng sống chung phòng nhưng tâm hồn hai người cách xa nhau vạn dặm.
Lời Chúa qua miệng Ngôn sứ Isaia (trong bài đọc thứ nhất hôm nay) tha thiết mời gọi chúng ta hãy tháo gỡ những thành luỹ vô hình đó để giao hoà với nhau. "Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng. Hãy lấp mọi hố sâu và bạt mọi núi đồi: con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng..."
Và trong Tin Mừng hôm nay, Thánh sử Mác cô nhắc lại: "Có tiếng kêu trong hoang địa: hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng".
Dọn đường đón Chúa không là gì khác ngoài việc tháo gỡ những rào cản đang được dựng lên trong lòng ta để người anh em có thể đến được với mình.
Tha nhân là hiện thân của Chúa Kitô, là chi thể của Chúa Kitô.
Nếu chúng ta không tháo gỡ những ngăn cách để cho tha nhân là hiện thân của Chúa Giêsu đến được với ta, thì chúng ta đang ngăn chặn Chúa đến với mình.
* * *
Cha mẹ trần gian rất đau lòng khi nhìn thấy con cái trong nhà xích mích, chia rẽ và ly tán.
Thiên Chúa là Cha nhân lành cũng vô cùng đau đớn khi con cái Người trên dương thế sống xa lìa chia cắt.
Mỗi người chúng ta là một tế bào, là một chi thể làm nên Thân Thể Chúa Kitô. Vì thế, khi để cho hận thù, nghị kị, ganh ghét chia rẽ chúng ta là chúng ta đang chia cắt Thân Thể Chúa. Thế là vô tình Chúa Kitô đang bị phanh thây! Chúa Giêsu rất đau lòng vì Thân Mình Người bị chia năm xẻ bảy nên Người tha thiết đòi buộc con cái phải mau tháo gỡ những ngăn cách đó để giao hoà với nhau, để cho Thân Mình Người được lành lặn. Vì thế Người nghiêm khắc đòi buộc những chi thể phân cách hãy mau mau giao hoà: "Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình" (Mt 5, 23-24).
* * *
Dòng sông Bến Hải cắt đôi đất nước Việt Nam và biến đồng bào Việt Nam thành thù địch trong suốt 21 năm trời cuối cùng đã trở thành gạch nối liên kết hai miền bắc nam.
Bức tường Bá Linh chia cắt Đức quốc thành hai quốc gia thù nghịch suốt 28 năm cuối cùng cũng bị triệt hạ để cho dân tộc Đức được thống nhất và trở nên hùng cường.
Nhiều ngăn cách lớn lao giữa các dân tộc đã dần dần được tháo gỡ.
Vậy biết đến bao giờ những "bức tường" do chính chúng ta dựng lên ngăn cách chúng ta với người khác được tháo gỡ để Thiên Chúa có thể đến với chúng ta?
28. Người dọn đường tâm hồn.
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Minh Hùng)
Mỗi lần chuẩn bị cho xa giá của nhà vua đi qua một nơi nào đó, thường có một người lính cầm loa phóng thanh đi trước hô to để dọn đường. Khi nghe tiếng loa báo hiệu như thế, dân chúng sẽ thu dọn mọi thứ rác rến bừa bãi, thu dọn những gì bị coi là không đẹp mắt, làm cho con đường sạch đón vua đi qua.
Cũng thế, mỗi lần có một phái đoàn quan trọng của chính phủ đi trên đường phố, thường có xe cảnh sát và đoàn xe mô tô đi trước, làm nhiệm vụ bảo vệ và dọn đường để chuẩn bị cho xe của phái đoàn cấp cao đi qua.
Nhiệm vụ của thánh Gioan Tẩy giả vừa giống như thế, nhưng cũng vừa không giống như thế. Giống là vì thánh Gioan cũng được gọi là người dọn đường. Không giống là vì nhiệm vụ của thánh Gioan quan trọng hơn, cao cả hơn: Thánh Gioan không dọn đường đi như những người dọn đường cho vua chúa, nhưng là Dọn Đường Tâm Hồn.
Dọn đường cho chính Thiên Chúa đi vào tâm hồn con người. Người dọn đường tâm hồn nhắn gởi đến mọi người lời kêu gọi thống thiết: "Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng".
Cùng với lời kêu gọi dọn đường cho Chúa là rao giảng phép rửa sám hối để đem mọi người trở về với lòng ăn năn tội nhằm xin ơn tha thứ. Hóa ra dọn đường cho Chúa ngự vào tâm hồn, không có gì khác hơn, nhưng chính là hoán cải đời sống và thú nhận tội lỗi để được ơn tha thứ. Chỉ có tâm hồn trong sạch, một tâm hồn hoàn toàn không vướng mắc tội lỗi mới xứng đáng cho Chúa ngự vào.
Dù lời mời gọi của thánh Gioan Tẩy giả: "Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng" đã có từ rất lâu, nhưng vẫn rất phù hợp với mọi người hôm nay. Vì ở đâu có tội lỗi, ở đó rất cần ơn ăn năn sám hối. Bạn và tôi có tội. Cách duy nhất để dọn đường và sửa đường đón Chúa ngự vào tâm hồn là ăn năn sám hối.
29. Chân dung Gioan Tẩy Giả
(Suy niệm của P. Trần Đình Phan Tiến)
Thưa quý vị, thưa các bạn. Chân dung là hình ảnh thật của chính người đó. Hình ảnh là sự họa lại rõ nét con người, nhân vật đó. Nhưng, chân dung thật sự có ý nghĩa, có giá trị chính là ở phần khuôn mặt, chi tiết là khuôn mặt thật. Nếu thiếu chi tiết nầy, thì không gọi là chân dung. Vì không ai gọi là chân dung, nếu thiếu đi phần gương mặt. Vậy, khi nói đến chân dung, người ta biết được là hình ảnh của ai đó, có gương mặt. (đó là nghệ thuật chụp hình)
Chân dung của Vị Tiền Hô của Đấng Cứu Thế được thánh sử Marco ghi lại thì không có “mặt, mũi” rõ nét, vì đây không phải nghệ thuật chụp hình, cũng không phải hội họa, mà là cách hành văn, gọi là “tả” văn.
Vâng, cách hành văn của thánh sử Marco hôm nay cho chúng ta một “chân dung”, một “tính cách” của một con người, được đảm nhận sứ vụ Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế.
Vâng, “Có tiếng người kêu trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối ngay thẳng để Ngài đi” (Mc 1, 3).
Vâng, Tin Mừng hôm nay, Chúa Nhật II MV (B) cho chúng ta thấy, Đấng Cứu Thế Giêsu – Kitô, khi từ trời xuống thế, mặc lấy nhân tính để thực thi Thiên Ý được tiền định, để cứu độ nhân loại. Dù từ lúc hạ mình sinh xuống trong máng cỏ Bê-lem, thì Người đã bắt đầu chu toàn Thập Giá. Vì, Thập giá máng cỏ là khởi sự cho Thập giá Golgotha. Như vậy, chân dung thánh Gioan Tiền Hô hôm nay cũng là chân dung Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế kế tiếp. Vì chân dung của một vị Tiền Hô là một chân dung nhiệm nhặt, vì: “Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú, ăn châu chấu và mật ong rừng” (c 6). Rõ ràng, chân dung của Vị Tiền Hô thật ngắn gọn, đơn giản. Nhưng, nói lên được sự nhiệm nhặt, sự khắc khổ của một vị ẩn sĩ. Vị ẩn sĩ Tiền Hô không làm lu mờ hình ảnh Đấng Cứu Thế, trái lại, chân dung ấy làm sáng tỏ chân dung Đấng Cứu Thế Giêsu- Kitô, bởi tính cách Gioan Tẩy Giả, là vị Tiền Hô đích thực cho Đấng Cứu Thế. Vì, Ông rao giảng rằng: “Có Đấng đến sau tôi, nhưng quyền thế hơn tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người” (c 7). Ông không mạo nhận mình là Đấng Cứu Thế, không lợi dụng vai trò được giao, như vậy sự trung tín, sự chân thật, sự khiêm tốn của Gioan Tiền Hô nói lên tính cách Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế, thật là tuyệt vời. Vâng, Gioan Tiền Hô cũng là Gioan Tẩy Giả, Ông đảm nhận Sứ Vụ Tẩy Giả cho đoàn dân, và cũng chính Ông đảm nhận sứ vụ Tẩy Giả cho Đấng Cứu Thế nữa. Nhưng con người thật của Gioan là trung tín với “ơn gọi” của mình một các xác quyết và đúng vị trí. Vì Ông nói: “Tôi đã làm phép rửa cho anh em nhờ nước; còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần” (c 8).
Như vậy là quá rõ, chân dung của Vị Tiền Hô Gioan, đồng thời là Vị Sứ Giả của Đấng Cứu Thế, chính là Vị Tẩy Giả đoàn dân bằng nước. Chính là rửa sạch sự bất xứng, để cải tà quy chánh, sám hối ăn năn, nhưng chưa ban được Thánh Thần, Đấng là nguồn sự sống.
Theo đó, chỉ có ba câu trong đoạn Tin Mừng (Mc 1, 1-8), từ câu 6 – 8 nói lên được tính cách, vai trò, sứ vụ của Vị Tiền Hô, cũng là nói lên được chân dung của Gioan Tẩy Giả, một Vị ngôn sứ đích thực của Thiên Chúa. Vì, chiếu theo lời đã chép trong sách ngôn sứ Isaia: “Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con” (c 2)
Như vậy, sứ giả của Thiên Chúa chính là Gioan Tiền Hô, một nhân vật, một tính cách. Một sự thể hiện đức tính “tu” của một phàm nhân làm chứng cho Tin Mừng cứu độ.
Khởi đi từ bài đọc I hôm nay (Is 40, 1-5; 9-11), cho chúng ta một chân dung Tiền Hô thật sự từ ngàn xưa, để minh chứng Đấng Cứu Thế sẽ đến và cứu độ nhân loại bởi: “Bàn tay của Thiên Chúa đã tha thứ gấp hai lần tội lỗi thế nhân” (Is 40, 1b).
Bài đọc II, thư thánh Phê-rô (2Pr 3, 8-14) cho chúng thấy một quang cảnh tràn đầy mùa vọng. Một mùa vọng “… mong đợi trời mới, đất mới, nơi mà công lý ngự trự” (c 13). Đoạn nầy thánh Phê-rô cho chúng ta một sự dẫn giải đầy đủ và tròn đầy mùa vọng đích thực. Thánh Phê-rô cho chúng ta biết, Thiên Chúa là Đấng kiên nhẫn, không muốn cho ai diệt vong. Nhưng, khi giờ của Chúa đến như kẻ trộm và sẽ dùng lửa (tức Thánh Thần) mà tiêu hủy hết, kể cả các tầng trời và ngũ hành. Như vậy, rõ ràng tầng trời và các ngũ hành mà con người biết được, cũng chính là những hành tinh, là vật thụ tao bởi tay Thiên Chúa. Muôn vật phải tiêu tan, huống hồ chi là con người. Như vậy, sự còn lại của con người là gì? Há, chẳng phải ân sủng của Thiên Chúa, ơn cứu độ của Đức Giêsu-Kitô sao?
Thánh Vịnh 84 hôm nay, cho chúng ta biết việc cầu xin ơn hoà bình: “Tội dân được Chúa tha rồi. Bao nhiêu tội lỗi tay Ngài thứ tha” (c 3). Rõ ràng ân phúc từ trời cao, từ nơi Thiên Chúa tuôn trào xuống dân.
Rõ ràng, tuần thứ II mùa vọng cho chúng ta một hình ảnh khắc khổ, nhiệm nhặt của một sứ giả Đấng Cứu Thế, một sự kêu gọi sám hối từ chính bản thân ngài, là Gioan Tiền Hô. Theo đó, Giáo Hội mở đầu cho một năm Thánh Hiến, là thời gian dành cho những người tu trì nói riêng và tất cả mọi Kitô hữu nói chung. Như vậy, mẫu gương đẹp theo sau Đức Kitô không gì khác là “Gioan Tiền Hô”, một mẫu gương cho đời sống Thánh Hiến của Giáo Hội.
Lạy Chúa Giêsu, con người mà Chúa khen trong phàm nhân chính là Gioan Tiền Hô, một chân dung mà có một cuộc sống chân thật và để làm chứng cho sự thật. Xin cho mỗi người chúng con biết sống theo gương của Vị Tiền Hô, hầu xứng đáng là những vị tiền hô của Chúa cho nhân thế. Amen.
30. Đón nhận Đức Kitô trong niềm vui
(Văn Chính, SDB chuyển ngữ)
Một linh mục trẻ mới chịu chức được gởi đến giúp phụ tá cho một vị cha xứ già tại một giáo xứ nọ. Khi đến nơi, vị linh mục trẻ đến chào vị linh mục già và xin ngài những lời khuyên cho công việc mục vụ của mình tại đây: “Thưa cha, con nên giảng về những vấn đề gì?”. Vị linh mục trả lời: “Chỉ giảng khoảng 10 phút thôi”. Vài năm trước đây, tôi đến một giáo xứ tại Pháp để giúp mùa hè, và lời khuyên duy nhất của vị cha xứ tại đó cho tôi cũng là nên giảng và cử hành Thánh lễ ngắn bao có thể vì dân chúng tại đây chẳng có nhiều thời gian. Tôi đã làm theo lời khuyên này. Thế nhưng điều làm tôi thực sự ngạc nhiên là khi được nghe một ban hợp xướng từ Anh quốc đến và trình diễn bài Messia của Handel. Buổi trình diễn được tổ chức ngay tại nhà thờ của giáo xứ, và sau 3 tiếng đồng hồ trình diễn, nhiều người vẫn xin yêu cầu trình diễn thêm. Thú thật, tôi chưa bao giờ nhìn thấy sự vui tươi hơn thế trên khuôn mặt của những người tham dự trong nhà thờ hôm đó, cũng như chưa bao giờ nhìn thấy sự nhiệt tình hơn thế nơi họ. Sau đó, tôi đã hỏi cha xứ: “Làm sao bà con tín hữu lại có thể ngồi yên một chỗ trong hơn 3 tiếng đồng hồ để chăm chú lắng nghe ban hợp xướng với niềm vui như thế, trong khi họ lại chẳng có thái độ tương tự khi lắng nghe Lời Chúa trong thánh lễ? Vị cha xứ chẳng trả lời được.
Vài năm sau, tôi đã có được câu trả lời từ một người bạn hiện đang dạy tại trường giáo lý, và những gì anh nói đã giúp soi sáng cho tôi. Anh nói người ta cần có kinh nghiệm về Thiên Chúa trong cuộc sống của họ trước khi họ có thể lắng nghe Lời Chúa trong niềm vui. Anh cho rằng việc loan truyền Lời Chúa cho những người chưa biết Chúa phải lưu ý tới mối tương giao cá nhân của họ với Chúa, vì người mà chẳng có mối tương giao cá nhân với Thiên Chúa thì cũng tựa như đọc thơ cho một người mà chẳng biết gì về thơ văn cả. Khi ấy, họ sẽ dễ dàng chán và chỉ muốn bỏ đi ngay. Vậy thì, làm thế nào để giúp người ta đi từ tâm trạng chán ngán khi nghe Lời Chúa đến tâm trạng vui tươi và hứng khởi khi nghe Lời Chúa? Với Lời Chúa trong Chúa nhật hôm nay, thánh Gioan Tẩy Giả đã đưa ra cho chúng ta một mẫu gương.
Khi chúng ta đọc Tin Mừng hôm nay: “Có Lời Thiên Chúa phán cùng con ông Da-ca-ri-a là ông Gioan trong hoang địa. Ông liền đi khắp vùng ven sông Gio-đan, rao giảng, kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội” (Lc 3,2-3). Trong đoạn văn ngắn này, chúng ta thấy có 3 bước cần thiết để giúp một người đi từ tình trạng lãnh đạm đến tình trạng nhiệt tình trong niềm tin. Ba bước đó là (1) Gioan đi vào hoang địa, (2) Lời của Chúa đến với ông, và (3) Gioan bỏ rời hoang địa và đi rao giảng niềm tin. Mỗi người chúng ta cũng phải đi qua ba bước này để đạt đến tình trạng khởi sự sống niềm tin của mình trong niềm vui.
Bước 1: Đi vào Hoang địa. Hoang địa là nơi mỗi người sống một mình với Thiên Chúa. Vào hoang địa nghĩa là bỏ đi những công việc, những bận tâm lo toan thường ngày để gặp gỡ Thiên Chúa trong cầu nguyện, trong việc đọc và suy niệm Lời Chúa. Hoang địa là nơi chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa. Chính bản thân mỗi người chúng ta phải làm bước đầu tiên này: đi vào hoang địa, tìm kiếm và gặp gỡ Thiên Chúa.
Bước 2: Để Lời Chúa đến với chúng ta. Một khi chúng ta mở lòng ra với Thiên Chúa trong hoang địa, thì chính Thiên Chúa đến và chiếm ngự tâm hồn chúng ta. Có một vị thánh nói rằng khi chúng ta bước 1 bước để đến với Thiên Chúa, thì chính Người lại bước 2 bước để đến với chúng ta. Với bước thứ 2 này, Thiên Chúa đã có sáng kiến đến với chúng ta, chiếm ngự tâm hồn chúng ta, canh tân đổi mới chúng ta, tô điểm lại hình ảnh của Người nơi chúng ta mà chúng ta vốn được tạo dựng nên giống thế. Một số người gọi đây là việc được “tái sinh”. Khi những việc này xảy ra, chúng ta có thể ở lại một mình với Thiên Chúa cả ngày trong nhà thờ để cầu nguyện, để gặp gỡ Thiên Chúa qua Lời của Người trong Kinh Thánh. Thế nhưng giống như Gioan Tẩy Giả, chúng ta còn phải tiếp tục sống và thực thi những bổn phận của chúng ta trong gia đình và xã hội nữa.
Bước 3: Rao truyền Niềm tin của mình. Khi đã trải nghiệm những điều tốt lành từ Thiên Chúa trong cuộc sống, chúng ta lại muốn chia sẻ những trải nghiệm này với người khác. Lúc ấy, chúng ta giống như người mặc một chiếc áo “pun” có ghi dòng chữ lớn trên lưng “Wow, Thiên Chúa thật vĩ đại!” để mọi người có thể nhìn vào và cảm nhận được niềm vui, sự an bình tỏa ra từ chúng ta, và rồi họ cũng muốn được nên giống chúng ta, được trở thành bạn hữu của chúng ta. Tiếp đến, chúng ta có thể chỉ họ họ thấy con đường đến với hoang địa để nơi đó, họ cũng được gặp gỡ chính Thiên Chúa. Trải nghiệm về Thiên Chúa cũng tựa như trải nghiệm về tình yêu. Bạn có thể nói cho người khác về tình yêu, nhưng có không thể hiểu được nó cho tới khi chính bản thân họ trải nghiệm.
Trong lời Tổng nguyện của lễ Chúa nhật, chúng ta thưa lên với Thiên Chúa: “Lạy Thiên Chúa toàn năng ái tuất, xin mở rộng tâm hồn chúng con để đón mừng Con Chúa. Xin hãy loại bỏ những gì cản trở chúng con đón nhận Đức Kitô trong niềm vui.” Để được như thế, trong Mùa Vọng này, chúng ta cần thực hiện bước thứ 1 để dành cho Thiên Chúa một chỗ trong tâm hồn chúng ta, dành thời gian để cầu nguyện, tham dự Thánh lễ và lắng nghe Lời Chúa.
31. Hãy dọn đường đón Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Chúa đã tới và đang tới. Lời Chúa mời gọi con người hãy chuẩn bị để đón Chúa. Hãy dọn đường cho Chúa, lấp những chỗ trũng, san bằng những gập ghềnh, để Chúa ngự đến.
1. Chúa đang tới
Chúa tới thăm dân Ngài đang bị lưu đày nơi đất khách quê người. Chúa tới thăm, nghĩa là, Ngài tới để giải thoát họ khỏi cảnh cùng cực. Họ được trở về quê hương. Chúa luôn là Đấng đem niềm vui, hạnh phúc cho dân Ngài. Tin Chúa tới thăm, là tin mừng cho tất cả con dân Ngài.
Con người với bao nỗi khổ, bận tâm, lo lắng. Lo lắng bận tâm cho gia đình với những nhu cầu vật chất và tinh thần. Bận tâm về tương lai và sự nghiệp của mình và của những người thân. Dường như ngày nào cũng có nỗi khổ riêng của ngày đó. Ai có thể giúp mình thoát khỏi những bận tâm khổ não như vậy?
Thiên Chúa là Đấng yêu thương con người. Ngài luôn muốn con người sống bình an hạnh phúc. Ngài có cách giúp con người được hạnh phúc. Ngài đang tới. Ngài tới để an ủi dân Ngài, để giải phóng dân Ngài. Ngài tới để giải phóng mỗi người khỏi khổ não mà mỗi người đang mang vác.
2. Hãy dọn đường cho Chúa tới
Hãy dọn đường cho Chúa tới. Đây là lời mời cho những người sẵn sàng đón nhận Thiên Chúa vào đời mình. Hãy bạt những gập gềnh, sửa những chỗ quanh co. Để Thiên Chúa ngự tới. Khi mỗi người làm điều này, Thiên Chúa đã đang ở với họ rồi. Chính Thiên Chúa giúp họ có đủ can đảm và sức mạnh để vượt trên chính mình, để bỏ tự ái, để đến với người khác.
Hãy cho Chúa một cơ hội, sẽ thấy bên Ngài, người ta tìm được bình an và hạnh phúc. Hãy để Ngài biến đổi mình, để Ngài lo cho những lo lắng của mình, để Ngài săn sóc những người thân và tương lai họ giúp mình. Hãy cho Ngài cơ hội để Ngài giới thiệu về Ngài, để thấy được Ngài thương mình đến độ nào.
Không dọn đường, Chúa vẫn tới, và Ngài vẫn tìm cách để tới với mỗi người. Tuy vậy, nếu mình không đồng ý, thì Chúa vẫn không làm gì được. Ngài luôn là Đấng có sáng kiến để mời gọi mình, để chinh phục mình bằng tình yêu, nhưng con người luôn tự do để từ chối. Mà khi con người từ chối, Thiên Chúa vẫn không chịu thua vì Ngài yêu mình. Ngài tìm cách khác để tiếp cận, làm quen và cảm hóa mình. Ngài luôn có sáng kiến để yêu mình.
3. Thiên Chúa đến với con người qua Đức Yêsu
Đức Yêsu sẽ được sinh ra. Đây là người rất đặc biệt, là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, là Đấng Thiên Chúa nói với con người, Ngài là Lời của Thiên Chúa cho con người. Ngài rất khiêm tốn, không ai biết Ngài để đón tiếp long trọng. Thân phận của Ngài là thân phận của mỗi người chúng ta. Ngài rất đặc biệt, nhưng khi Ngài còn tại thế, khó có ai biết sự thật về chính Ngài.
Yoan đã được sai đến để chuẩn bị cho Ngài. Yoan giúp dân trở về với Thiên Chúa, để có thể đón nhận Đấng Thiên Sai. Chính Yoan cũng phải tìm kiếm để biết Đấng đó là ai. “Ngài có phải là Đấng phải đến, hay chúng tôi phải chờ Đấng khác?” Đấng phải tới đó, Yoan không đáng cúi xuống cởi dây giầy cho Ngài, nhưng Ngài quá âm thầm đến độ chính Yoan cũng khó biết.
Chúa đã đến. Ngài cũng đang đến với con người. Hãy tỉnh thức và nhạy bén để nhận ra Ngài. Ngài không chỉ đến vào ngày cánh chung và vào giờ chết của mỗi người, nhưng Ngài còn đến với mỗi người từng ngày một cách dễ thương. Hãy tỉnh thức để nhận ra Ngài. Hãy mời Ngài vào lòng mình, để Ngài an ủi, để Ngài lo lắng, để Ngài giúp mình trong mọi chuyện, để mình có thể an nghỉ. Hãy phó thác tất cả cho Ngài. Ngài sẽ làm tất cả, vì Ngài yêu thương mình.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Tuần qua, Chúa có tới với bạn không? Qua trung gian nào?
2. Hôm nay, bạn làm gì để đón Ngài?
3. Xin bạn kể một kinh nghiệm Chúa đến mang niềm vui và bình an cho bạn, nếu được.
32. Lắng nghe tiếng Chúa
(Suy niệm của Lm. Phêrô Trần Văn Trợ)
“Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng.”
Người chứng của Thiên Chúa thật kỳ dị không giống ai! Tại sao Thiên Chúa lại không dùng những người có thế giá để làm chứng cho Ngài có phải hiệu nghiệm hơn không?
Trong việc chọn ông Gioan ngay từ ban đầu và tách biệt ông khỏi những người chung quanh, để rồi trao cho ông một sứ mệnh rất khó khăn, Thiên Chúa muốn khẳng định với loài người rằng Ngài có đường lối hoạt động hoàn toàn độc lập với cách của người trần, nếu không muốn nói là trái ngược! Chỉ một mình ông Gioan phải đối đầu và thách thức với cả dân tộc cùng hàng ngũ lãnh đạo dân Do-thái. Tuy ông rao giảng với đầy uy quyền, xong ông chẳng cần mang đầy đủ những dấu hiệu hợp thời như xã hội mong đợi! Phải là một người thuộc dòng hoàng tộc ăn bận sang trọng đầy thế lực và giàu nứt đố đổ vách.
Thiên Chúa không muốn dùng cách mà người đời xem là khôn ngoan: “ride with the tide” hay a dua, hùa theo đám đông! Ngài có sức mạnh riêng của Ngài, sức mạnh của Chân Lý, chứ không phải sức mạnh của số đông dễ bị xách động “lấy thịt đè người” vẫn thường đổi trắng thay đen theo thị hiếu, “nay thế này, mai thế nọ!”
Khi nào loài người không còn muốn sống theo khuôn phép luật thánh của Thiên Chúa, nhưng ham mê buông tuồng theo thị hiếu riêng, là họ đang làm những điều sai quấy đáng quở phạt. Với tình thương yêu đại lượng, Ngài gửi ngôn sứ đến nhắc nhở và cảnh cáo, vì Ngài không muốn nhìn thấy con người tự đưa mình vào con đường chết, và Ngài phải có thái độ cứng rắn đề răn dạy họ. Nếu Ngài dùng phương thế của loài người, thời Ngài sẽ bị lệ thuộc vào sự thao túng của họ. Hơn nữa Thiên Chúa chẳng bao giờ có thể dùng cách thế khôn ngoan của loài ngườI chính vì Ngài không ở cùng trình độ với họ nhưng vượt trổi muôn trùng “như trời cao hơn đất!”
Chính vì thế Ngài đã dùng một người không ai ngờ để thực hiện công tác quan trọng của Ngài. Một người khác hơn mọi người để gióng lên tiếng chuông cảnh tỉnh: hãy ăn ăn hối cải, chuẩn bị tâm hồn chào đón Đấng Thánh của Thiên Chúa.
Đời xưa Thiên Chúa đã hành xử như thế, ngày nay Ngài vẫn tiếp tục thực hiện tôn ý của Ngài như vậy. Ngài không dùng bạo lực hay cậy nhờ những kẻ quyền thế công bố chương trình của Ngài, nhưng Ngài muốn nhờ những tâm hồn đơn sơ bé mọn loan truyền sứ điệp yêu thương của Ngài cho mọi dân nước.
Những tâm hồn ấy là mỗi người tín hữu chúng ta, nếu ai biết quảng đại đáp lại tiếng mời gọi của Ngài. Và đừng bao giờ tìm thánh ý Chúa ở giữa đám đông của thời trang nóng bỏng ồn ào, nhưng hãy biết lắng nghe tiếng Ngài trong sa mạc tĩnh lặng của tâm hồn.
33. Mở đường để làm gì? Đường dẫn tới đâu?
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Trong những năm gần đây, để phát triển kinh tế đất nước nhiều con đường đã được giải tỏa để mở rộng, nhiều ngôi nhà đã phải đập bỏ hoặc cắt bớt cho thông thoáng chẳng hạn như đường quốc lộ ngang qua nhà thờ chúng ta đây. Nhiều con đường mới, cây cầu mới được mở ra nối liền các vùng miền, làm cho việc đi lại thuân lợi, vận chuyển hàng hóa dễ dàng và việc đi đến với nhau cũng thuân lợi hơn. Không những thế, người ta còn muốn mở những con đường cao tốc, siêu tốc ví dụ đường cao tôc Trung lương, và chính phủ còn đang mở đường siêu tốc Sài Gòn- Giầu Dây là con đương vận chuyển hàng hóa như boxit, và giảm thời gian đi lại xuống nhiều lần. Dĩ nhiên để có thể gọi là đường siêu tốc, người ta sẽ phải rào chắn đề tránh tối đa tình trạng buôn bán lấn chiếm lề đường, gỡ bỏ tất cả những công trình không phù hợp hoặc làn giảm tâm nhìn, giảm bớt tối đa các ngã ba ngã tư để cho việc lưu thông dể dàng. Không chỉ có những con đường nhằm phát triển kinh tế xã hội, người ta cũng làm những con đường để đón Thủ tướng hoạc Chủ tịch nước về thăm quê hoăc đến thăm một vùng nào đó như thế.
Thưa quý OBACE, hôm nay Lời Chúa của Chúa nhật II mùa vọng cũng đề cập đến vấn đề giải tỏa và làm đường, đây không phải là những con đường quốc lộ, mà là giải tỏa và làm những con đường đi vào trong tâm hồn, con đường đón Chúa đến và đến với Chúa cũng như con đường đến với anh em.
Hình ảnh và lời kêu gọi của Isaia phát xuất từ một thực tế lúc ấy, dân Israel đang chịu cảnh nô lệ, con đường trở về quê dường như xa thẳm và không còn hy vọng, khoảng cách này bị ngăn cản không chỉ bởi sa mạc Arập, mà khoảng cách này còn là khoảng cách trong lòng của họ, khi mà Israel đã lìa xa Thiên Chúa không còn tuân giữ giao ước của Ngài, họ chạy theo lối sống dân ngoại và thay vì cậy dựa vào quyền năng của Thiên Chúa thì họ lại cây dựa vào những liên minh chính trị. Con đường càng trở nên mịt mù hơn khi Israel đã rơi vào tuyệt vọng và nghĩ rằng chắc Chúa đã quên chúng tôi rồi! Trong bối cảnh như thế, Isaia là người đầu tiên chỉ ra và khai thông cho họ con đường hy vọng, hy vọng vào tình thương của Thiên Chúa, hy vọng vào lời hứa cứu độ của Thiên Chúa, khi nhấn mạnh rằng đã đến lúc Thiên Chúa nhìn đến Israel và phục hồi họ, Đấng Cứu độ sẽ đến với họ và sẽ giải phóng họ khỏi cảnh nô lệ nhục nhã.
Tuy nhiên để đón Ngài đến, cần phải mở một con đường, không chỉ là con đường trong sa mạc Arâp, mà là con đường trong sa mạc tâm hồn để đón Thiên Chúa đến. Nơi cao, hãy bạt xuống, thung lũng hãy lấp cho đầy, con đường quanh co hãy uốn cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng, vì vinh quang của Đức Chúa sẽ tỏ hiện. Đó là một Đức Chúa hùng dũng uy phong song cũng là một Đức Chúa gần gũi yêu thương, Ngài sẽ đem lại hòa bình và hy vọng cho mọi dân mọi nước. Lời của Isaia hôm nay hẳn là một lời tiên báo mang bao niềm vui và hy vọng cho dân Israel, phác họa lên một sự nhộn nhịp, khẩn trương chuẩn bị của hết mọi người chờ đợi Chúa.
Khi Gioan Tẩy giả xuất hiện, một lần nữa lời mời gọi chuẩn bị, dọn đường càng khẩn thiết cấp bách hơn qua lời kêu gọi mạnh mẽ của ông: Có tiếng kêu trong hoang địa hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, mở lối cho thẳng để Người đi. Gioan không chỉ là người mở đường cho Chúa đến với người khác, mà trước tiên ông là ngời đã mở đường để Chúa đến với ông. Thánh Maccô đã muốn nhấn mạnh điều đó khi giới thiệu về Gioan như một tấm gương sống mùa vọng. Trong lúc mọi người đi tìm một cuộc sông xa hoa và giàu sang thì Gioan lại chọn một cuộc sống thanh đạm giũ bỏ mọi ràng buộc của vật chất, lui vào hoang địa, để mình ông sống thân mật gặp gỡ Thiên Chúa trong cầu nguyện, giửa lúc mọi người đang tìm cách hương thụ, thì Gioan lại chọn ăn chấu chấu và uống mật ong rừng. Con đường trong tâm hồn của Gioan không phải là con đường một chiều mà là con đương hai chiều từ Chúa vào trong tâm hồn ông và từ trái tim ông đến với Chúa. Từ đó cho ông một cái nhìn rất chinh xác về thiên Chúa Đấng ông giới thiệu và cái nhìn chính xác về con người ông. Dù nhiều người kéo đến với ông, dù người ta coi ông như là đấng cứu thế, nhưng ông không bị choáng ngợp trong những lời ca tụng, mà ông vẫn nhìn nhận rằng: Tôi không phải là đấng Cứu Thế, có Đấng quyền năng hơn tôi đang đến sau tôi tôi không đang cúi xuống cởi dây dép cho Ngài.
Khi đã đón được chúa đến với mình, Gioan là người đem Chúa đến cho người khác bằng việc kêu gọi mọi người sám hối, lãnh phép rửa để được ơn tha tội, ơn xót thương. Gioan đã cho dân chúng thấy rằng đây là thời gian, là cơ hội Chúa gia hạn cho hết mọi người, bất cứ ai có một lòng thành tâm sám hối, quyết quay trở về với Thiên Chúa, thì sẽ được tha thứ. Sám hối là phài chấp nhận một sự quay đầu trở lại, một quyết tâm thay đổi dứt khoát, một thái độ hối hận sâu xa, và một quyết tâm sửa chữa sai lầm và sống tốt hơn, hay nói cách khác, để có thể đón Chúa đến trong tâm hồn và trong cuộc đời, cần phải thay đổi từ suy nghĩ đến hành động, từ lời nói đến việc làm trong khiêm tốn.
Thánh Phêrô trong bài đọc hai cho thấy Thiên Chúa không muốn ai trong nhân loại phải bị tiêu diệt đời đời, vì thế Ngài luôn kiên nhẫn và cho mỗi người có cơ hội để làm lại cuộc đời trở nên tốt hơn, sống đạo đức hơn, sống thánh thiện hơn. Vì ngày Chúa đến sẽ là ngày bất thình lình như kẻ trộm ban đêm, một khi mọi người đã chuẩn bị sẵn sàng thì dù đất trời có xụp đổ, dù bão tố có trào dâng, thì – Thánh Phêrô nhấn mạnh- anh em hãy cố gắng sống sao cho Người thấy anh em tinh tuyền không gì đáng trách và sống bình an.
Thưa quý OBACE, mở đường băng qua nhà hàng xóm thì dễ còn băng qua nhà mình thì không dễ, người ta rất dể đồng ý khi những nhà phía bên kia đường phải giả tỏa, còn nhà mình không bị giái tòa. Cũng thế, người ta dể dàng nhìn thấy những sai lỗi của anh em và muốn anh em mình phải thay đổi trong khi chính mình lại không chịu thay đổi, mình cứ muốn bảo vệ quan điểm của mình dù biết là nó không đúng, và loại trừ ý kiến quan điềm của người khác, người ta dễ dành chỉ trích anh em hơn là tim hiểu để thông cảm. Con đường khó mở nhất là con đường đi vào trong căn nhà tâm hồn của mình, vì khi mở con đường này phải chấp nhận đập bỏ những thói quen cũ, những lô cốt kiêu căng và cái tôi ích kỷ, phải uốn nắn lại cách làm ăn gian dối hoặc cách sống giả hình, đế con đường có thể đứa chúng ta đến với Chúa và với anh em.
Con đường cụt là con đường bế tắc, chí có con đường đến với Chúa mới đưa chúng ta đi xa và là con đường mở ra một tương lai hạnh phúc, và con đường đến với anh em lại là con đường sẽ đưa chúng ta đến với Chúa. Tức là chúng ta cần mở ngay trong tâm hôn chúng ta một con đường cao tốc, con đường hai chiều để cho Chúa có thể dễ dàng đến với chúng ta và chúng ta có thể dễ dàng đến với Chúa và đến với anh em.
Giữa một cuộc sông ồn ào hôm nay, hãy mở cho mình và cho gia đình một con đường của thinh lặng và cầu nguyện, hãy tạo ra những khoảng tĩnh lặng trong ngày dành cho việc cầu nguyện riêng và cầu nguyện chung với gia đinh vì không thinh lặng và không cầu nguyện sẽ không nghe, không biết biết phải đi đường nào. Giữa một xã hội dư thừa vật chất lại đói về đời sống thiêng liêng, hãy mở một con đường đến với bàn tiệc thiêng liêng là các Bí tích nhất là Bí tích giải tội và Thánh Thể, Thánh lễ, là con đường an toàn cho phần rỗi linh hồn chúng ta. Giửa một xã hội ích kỷ hưởng thụ, hãy mở ra một con đường bác ái, yêu thương và tha thứ. Đừng mờ những con đường ở đâu xa, mà hãy bắt đầu giải tỏa ngay trong lòng mình, mở thông đến vợ chồng con cái trong gia đình và thông qua hàng xóm láng giềng của mình.
Nếu mỗi người quyết tâm bắt đầu như thế, Chúa sẽ đên với chúng ta và qua chúng ta đên với mọi anh em chung quanh không chỉ trong Đại lể Giáng sinh này mà Chúa đến với chúng ta mổi ngày và Chúa sẽ đưa chúng ta đến với Chúa trong hạnh phúc Nước trời. Amen.
34. Vì Ngài Ở Với Chúng Ta …
(Suy niệm của Jean Ratlé)
Đây là thời đổi mới.
Giáng Sinh sắp đến! Bạn có biết không? Đây là thời gian chuẩn bị mừng lễ: Hãy trang hoàng nhà cửa, chuẩn bị một bữa tiệc, chẳng bao lâu nữa sẽ là Giáng Sinh rồi.
Giáng Sinh đã có nơi bạn rồi, bạn có nghe lòng mình hát lên không? Để đón nhận Giáng Sinh, bạn hãy để trào dâng lên nơi mình Giáng Sinh đang có ở nơi bạn, hãy để nó chiếu tỏa ra chung quanh bạn, Giáng Sinh đã có đó rồi.
Thiên Chúa trong thâm tâm.
Nhưng ai sẽ làm nẩy sinh như vậy được niềm hoan lạc trong cuộc đời làm người của bạn? Ô! Bạn biết rằng chính Ngài đã đến, bạn cũng biết rằng Đấng đang đến sẽ có mặt ở đó trong vài ngày nữa. Chỉ có vậy sao? Hãy nghe rõ, còn một ít nữa, tận đáy lòng, hãy nghe tiếng hát của con tim bạn… Bây giờ bạn đã nghe chưa? Phải, chính Ngài đó, chính Ngài là Thiên Chúa đang đến. Ngài đã có mặt ở đó, nơi thâm tâm bạn, Ngài hiện diện, Ngài đến đổi mới bạn, qua trung gian của bạn, quyền năng của Thần Khí Ngài.
Nhìn kìa: Ngài tiến tới như kẻ đi chinh phục, chính Ngài là vị đại thắng. Điều Ngài trao cho bạn là một trời mới đất mới. Một quả đất nơi Công lý và Hòa bình ngự trị, một trái đất giàu tình thương và chân lý.
Hãy lắng nghe tiếng hát của Ngài đang dâng lên, du dương như làn gió nhẹ, sâu thẳm như đêm dài, ấm áp như ngọn lửa. Đó là tiếng hát của Tin Mừng, bạn hiểu chưa?
Niềm hoan lạc trong lòng.
Nhưng có phải bạn chỉ giữ điều này trong trí thôi, lặp đi lặp lại nói mà không thực sự hiểu chăng? Nó phát xuất từ lòng bạn, vậy hãy nghe bằng con tim, lúc đó bạn sẽ hiểu. Vả lại, Chúa nói với con tim của bạn. Ngôn ngữ của Ngài là Tình yêu, và chỉ mình con tim mới hiểu rõ được. Và nếu cuối cùng bạn hiểu được thì cả bạn nữa hãy ra đi chuẩn bị đường nẻo của Chúa.
Nhưng bạn sẽ hỏi: tôi đi đâu? Trước hết hãy đi vì bản thân bạn. Đi trên những con đường đời của bạn, và vạch ra ở đó một con đường bằng phẳng cho Thiên Chúa chúng ta. Nơi bạn, hố sâu hãy lấp cho đầy, núi đồi hãy bạt xuống, nẻo quanh co hãy làm cho thẳng băng và hãy biến đổi những chỗ gồ ghề ra bằng phẳng.
Bạn thấy đấy, trước hết chính nơi bạn mà công việc phải bắt đầu. Bạn phải thay đổi thói quen, những cách làm và những cách nhìn của bạn. Bạn phải tìm cách loại bỏ đi khỏi đời bạn tất cả những gì không thuộc về Thiên Chúa, tất cả những gì giam hãm con tim của bạn. Bạn hãy học biết đừng phán đoán hoặc kết án người đồng loại, cho dù hành động của họ có xấu đi nữa. Vì khi loại trừ họ bạn cũng dứt bỏ Thiên Chúa ở nơi họ nữa. Bạn cũng hãy học biết chia sẻ, vì khi bạn thu góp dư thừa, bạn sẽ làm cho đồng loại thiếu thốn, không có được những gì cần thiết để sống. Bạn hãy học biết tìm kiếm Thiên Chúa khắp mọi nơi, nhất là nơi mà bạn không bao giờ tìm được Ngài, vì con người biết giấu Ngài rất kỹ.
Phá bỏ để xây dựng lại.
Nếu bạn thấy Đấng Cứu Thế chậm đến bạn đừng than phiền vì nếu Ngài hoãn lại hoạt động của Ngài, chính là vì bạn – bởi vì Ngài đang chờ bạn. Là Tình yêu, Ngài không thể chấp nhận để cho ai bị hư mất nhưng ban cho họ tất cả mọi cơ may. Ngài để cho bạn thời gian để bạn hoán cải.
Vì thế bạn đừng sợ, đây là thời gian phá hủy nơi bạn các ngẫu tượng và bàn thờ của Chúa, thời gian xé những bức màn dối trá đã làm cho đời bạn ra u ám. Cất khỏi bạn tất cả những gì chiếm chỗ của Thiên Chúa. Hãy để chỗ cho Ngài xây dựng. Hãy cùng với Ngài tái thiết một con người mới được sinh ra cho thế giới mới mà Ngài mang đến cho bạn. Vì con người cũ không thể đi vào trong thế giới mới được. Hãy đi đến cùng tận con người bạn, tận cùng nỗi nghèo nàn của bạn, nỗi đau khổ làm người của bạn và lúc đó bạn sẽ tìm thấy Ngài, vị Thiên Chúa mà bạn tìm kiếm.
Và khi bạn đã tìm được Ngài rồi thì hãy nhanh chóng đi loan báo Ngài cho tất cả những ai chưa tìm được Ngài, những ai không biết tìm Ngài ở đâu. Hãy đến nói với họ rằng Thiên Chúa đang có mặt và Ngài đang làm những điều mới mẻ cho hết thảy mọi người. Hãy đi nói với họ rằng Ngài yêu thương và chờ đợi họ. Hãy đi nói với họ rằng thế giới mới đã bắt đầu rồi và họ được mời gia nhập vào đó.
Và như bạn thấy, Giáng Sinh đang đến! Và như bạn thấy, Giáng Sinh đã đến rồi, nơi thâm tâm bạn cũng như tận đáy lòng của mọi con người. Đây là lúc Chúa đến đổi mới con người. Vậy hãy mở rộng lòng bạn ra và để cho Ngài đặt bạn dọn tiệc, vì hôm nay đây, Ngài mời bạn đi vào trong thế giới mới mà bạn đợi chờ.
35. Hoang địa phì nhiêu – Achille Degeest
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Đoạn mở đầu Phúc âm theo thánh Maccô là một tuyên cáo. Đây là một bản loan Tin Mừng, bằng những lời mạnh không hoa mỹ, nó chứa đựng những yếu tố chủ yếu của sứ điệp, đó là: Thời đại Cứu chuộc đã khởi sự, những lời tiên tri đã được thực hiện –Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa- Người đã đến thanh tẩy loài người trong Chúa Thánh Thần, nghĩa là đến cứu rỗi nhân loại. Đoạn Phúc âm mời gọi mọi người hãy sám hối, thanh tẩy bản thân cách xứng đáng để được tha thứ.
Tiền hô Gioan Tẩy giả được trình bày với dáng vẻ cường tráng, trung kiên và khiêm hạ. Thánh sử đặt ông ngay phần mở đầu, giống như các kiến trúc sư thời trung cổ thiết bị cửa chính nhà thờ như một lời mời hãy tiến vào thánh đường. Ta ghi nhận Gioan Tẩy giả đã sống trong sa mạc, nghĩa là trong cô tịch, thiếu thốn tiện nghi thể xác, quang đãng vật chất, và khoáng đạt tâm hồn. Được khai quang hết những gì không tối cần thiết, ông sẵn sàng để Thiên Chúa sử dụng. Điều này mời chúng ta suy niệm về ý nghĩa thiêng liêng của hoang địa.
1) Hoang địa là sự chuẩn bị bắt buộc phải có cho mỗi thực hiện đáng giá trên bình diện nhân phẩm hoặc trên bình diện hành động. Chúng ta hiểu “hoang địa” theo nghĩa: đó là những khoảnh khắc cầu nguyện trong vắng vẻ, những giây phút suy tư và suy niệm, yên lặng, cố gắng dọn dẹp loại bỏ cái thừa. Ân sủng chính của “hoang địa” là khám phá thấy con người tùy thuộc trước hết vào Thiên Chúa.
Người ta nhớ tới cuộc xuất hành khi Môisê dẫn dắt dân ông. Kinh nghiệm về hoang địa của Israel trốn chạy khỏi Ai cập để tiến về Đất hứa, chính là 1 nhận thức về hai điểm. Trước hết họ hoàn toàn tùy thuộc vào sự chăm nom của Thiên Chúa. Điểm hai: họ có thể trông nhờ vào sự chiếu cố ấy, một sự ân cần săn sóc không lúc nào vắng thiếu. Đời sống Kitô hữu cũng vậy. Trên đường tiến đến tận cùng số mệnh mình, người Kitô hữu phải biết sức mạnh đó miễn là phải loại bỏ tất cả những gì ngăn chặn Chúa đến. Để chuẩn bị đón tiếp Chúa trong dịp lễ Giáng sinh, chúng ta sẽ khai quang tâm hồn chúng ta như thế nào?
2) “Hoang địa” là một chuẩn bị ưu tiên cho hành động đặc biệt cho cho hoạt động Tông đồ. Cũng như Gioan Tẩy giả, người làm việc Tông đồ chuẩn bị cho người ta nghênh đón “Đấng đến để thanh tẩy trong Chúa Thánh Thần”. Hoạt động Tông đồ được bồi dưỡng cường lực và hiệu năng, nếu trước đó đã được thuần luyện bằng suy niệm và nguyện cầu, trong tâm trạng “hoang địa” nó khai phóng tâm trí, thanh luyện tâm hồn, củng cố ý chí, mở rộng linh hồn đón nhận cường lực của Thiên Chúa.
Giống Gioan Tẩy giả lúc từ sa mạc trở về, đã lôi cuốn những đám dân chúng đông đảo, chiến sĩ của Đức Kitô lôi cuốn người khác nếu họ cảm thấy trong con người chiến sĩ tính chất chân chính có được nhờ thời gian lâu dài sống vắng vẻ với Chúa. Một yếu tố đặc biết đáng lưu ý. Ta có thể tự hỏi: sống vắng vẻ với Chúa, phải chăng là sống ngoài trần thế? Vậy mà tín đồ của Chúa phải dấn thân vào thế gian, để trong thế gian trở nên một thứ men sinh động cho đời sống và tiến hóa của thế gian. Lời đáp nằm trong một nhận định sơ đẳng. Mọi cuộc đời đều có một nhịp độ hấp thụ và cống hiến. Người ta chỉ có thể cống hiến điều gì đã được hấp thụ. Không được nuôi dưỡng thì cơ thể không làm được những cố gắng thể lực. Cũng vậy, đời sống thiêng liêng không thể hoạt động thật sự, nếu không hấp thụ sức mạnh của Thiên Chúa. Chính trong sự gặp gỡ Thiên Chúa, thực hiện được bằng cầu nguyện và tĩnh tâm, trong vắng vẻ (dù chỉ vài ba phút) trong từ bỏ không luyến tiếc những cái ngổn ngang rườm ra, mà chiến sĩ Đức Kitô trở nên men tác động giữa thế gian, môi trường sinh hoạt của mình.
36. Tiếng kêu – ĐGM. Nguyễn Sơn Lâm
Điểm nổi bật trong các bài đọc hôm nay là tiếng kêu. Khi một âm thanh vang động, thì tiếng ấy phải phát xuất từ đâu, muốn nói gì và cho ai? Tiếng kếu chúng ta nghe hôm nay phát xuất từ Thiên Chúa qua Gioan Tiền hô loan báo cho ta một sứ điệp: "Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước để dọn đường cho con". Sứ giả Gioan chính là tiếng kêu trong sa mạc: "Hãy dọn đường cho Chúa, chỗ quanh co hãy uốn lại cho ngay thẳng" (Mc 1,1-3).
1. Tiếng kêu của Chúa
Từ ngày xưa cũng như bây giờ, Thiên Chúa vẫn làm phát xuất những tiếng kêu: qua các ngôn sứ, qua tiếng lương tâm và qua cả những trạng huống của đời sống con người. Những tiếng kêu bi thiết trầm thống của mọi thời đại đã vang tới Chúa. Phải chăng chỉ vì vậy mà Chúa mới nhắn bảo các sứ ngôn: "Hãy an ủi, hãy an ủi dân Ta. Hãy nói cho Yêrusalem biết rằng: nó không còn phải mang kiếp tôi đòi nữa và tội lỗi của nói đã được tha" (Is 40,2-2).
Vì thế tiếng kêu của Chúa là một tiếng kêu đặc biệt. Thông thường khi nói tới tiếng kêu, chúng ta quen nghĩ tới kêu cứu, kêu gọi, kêu cầu: kêu cứu vì mình đang lâm nguy; kêu cầu để van xin giúp đỡ; kêu gọi để nhắc bảo phải làm một cái gì. Tiếng kêu của Chúa không hàm nghĩa kêu cứu và kêu cầu, mà chỉ ngụ ý kêu gọi.
2. Chúa kêu gọi ta làm gì?
Để lay động thức tỉnh ta, bắt ta chú ý và chuẩn bị đón nhận một sứ điệp. Tiếng kêu của Gioan tiền hô giữa nơi hoang vắng tiên vàn cũng đánh thức, gây chú ý và quy tụ dân chúng để nghe ông nói.
Sứ điệp của ông cũng tương tự như những điều ngôn sứ trong sách Đệ nhị Isaia đã nói với dân Dothái vào thế kỷ VI, sau khi họ vừa thoát khỏi cảnh lưu đày ở Babylon.
Chúa đã thẳng tay trừng trị Yêrusalem, nhưng giờ đây họ không còn phải làm nô lệ nữa, và tội lỗi của họ đã được tha thứ.
Phải dọn đường cho Chúa trong sa mạc. Chỗ gập ghềnh khúc khuỷu hãy uốn lại cho ngay.
Mọi người sẽ được nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa, vì Người đến với đầy vẻ lẫm liệt oai phong.
Người lãnh đạo dân mình như mục tử chăn dắt đoàn chiên (Is 40,1-5.9-11).
Những năm tháng lưu đày đã giúp họ hồi tâm lại và nhận thức lý do đem tới đau khổ là chính tội lỗi của họ (Is 7,25-28). Từ đó nhóm dậy trong lòng họ những tâm tình sám hối, dẫn đến quyết định dứt khoát với tội lỗi.
Khi làm như thế là họ sửa sang đường lối trong tâm hồn cho ngay thẳng để đón tiếp vinh quang Chúa đến. Đó chính là điều các ngôn sứ nhắm, khi các ngài gióng lên tiếng kêu.
3. Tiếng kêu của Gioan gây nên âm hưởng nào đối với người Do Thái đương thời?
Chắc chắn, tiếng kêu ấy đã khiến họ ngỡ ngàng, băn khoăn và làm cho họ như phải đối diện với một số vấn đề thuộc phạm vi lương tâm và công bình xã hội (Lc 3,7-14). Họ đã chịu phép rửa sám hối, xin ơn tha tội để dọn tâm hồn tiếp nhận Đức Kitô.
Còn đối với chúng ta hôm nay thì sao?
Sứ điệp của sách Đệ nhị Isaia và của Gioan tiền hô vẫn thúc bách chúng ta dọn đường cho Chúa trong sa mạc, nhưng là để đón Chúa Kitô trở lại trong vinh quang. Quả vậy, kinh nghiệm sa mạc của người Dothái trong biến cố Xuất hành khỏi Aicập hướng về Đất Hứa và trên đường hồi cư từ Babylon trở về Quê Hương vẫn mang một giá trị hiện thực cho cuộc sống chúng ta hôm nay. Sa mạc trong lịch sử cứu độ mang những ý nghĩa thần học sâu xa. Chính trong sa mạc con người chịu thử thách và phải chiến đấu để trung thành với Giao ước; cũng chính trong sa mạc, con người được thanh luyện tinh tuyền để xứng đáng với Thiên Chúa trong cuộc gặp gỡ ân tình. Giáo hội hôm nay cũng phải trải qua kinh nghiệm sa mạc bằng cuộc sống chiến đấu và thử thách để minh chứng lòng trung thành với ơn gọi Kitô hữu của mình và để tự thanh luyện xứng đáng gặp lại Đức Kitô đến thiết lập Trời mới Đất mới (2P 3,13).
4. Phải chăng trời mới đất mới chỉ hình thành trong thời viễn lai?
Ngay từ bây giờ Trời mới Đất mới xuất hiện khi mỗi người thi hành sứ điệp dọn đường cho Chúa và biến cõi đời này thành nơi đáng sống hơn. Ở đó mỗi ngày một bớt dần những cảnh bất công tàn ác; ở đó nhân phẩm được kính trọng và các quyền lợi căn bản của con người được bảo đảm; và nhất là ở đó mọi người được hòa giải với Thiên Chúa và với anh em đồng loại. Như thế, vinh quang Thiên Chúa đang xuất hiện giữa thế giới loài người, vì theo thánh Irênê: "Con người là vinh quang của Thiên Chúa". Chúng ta không ngừng xây dựng Trời mới Đất mới để tiến tới ngày viên mãn rực rỡ lúc mà Đức Kitô trở lại hoàn tất lịch sử cứu độ, thu hồi vạn vật về một mối (Ep 1,10) và trao phó vương quyền cho Thiên Chúa Cha, để Người trở nên mọi sự trong mọi người. (1Cr 15,28).
Đó là viễn tượng giúp ta hiểu đúng câu nói của thánh Phêrô trong bài đọc thứ 2: "Ngày đó, các tầng trời sẽ sụp đổ tan tành, lửa, nước, ánh sáng, gió, mây đều cháy tiêu tan, và trái đất với tất cả mọi công trình xây dựng của con người đều bị thiêu đốt" (2P 3,10). Câu đó có nghĩa là chính Đức Kitô sẽ dùng năng lực Thánh Thần và lửa tình yêu nung nấu tất cả, để siêu thăng và biến đổi chúng nên rực rỡ tốt đẹp cách nhiệm mầu chứ không hủy diệt chúng. Đó sẽ là cuộc biến hình hoàn vũ, mà cuộc biến hình trên núi Tabo là dấu chỉ và khởi đầu.
Tiếng kêu của Gioan vọng lại tiếng kêu của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ, đang gọi ta đứng dậy, ngước mắt nhìn lên và hướng về tương lai. Viễn tượng Chúa đến trong vinh quang đem lại cho ta niềm tin, phấn khởi trong cuộc hành trình qua sa mạc của đời sống hiện tại.
Vì thế, tiếng kêu của vị tiền hô là một tiếng kêu mang đầy Hy Vọng và Niềm Vui.
***
BÀI GIẢNG
Chúa nhật hôm nay có thể gọi được là Chúa nhật của vị Tiền Hô, của Gioan Tẩy giả, của "tiếng kêu" dọn đường Chúa đến, và như thế là Chúa nhật của niềm trông đợi chứa chan hy vọng.
Chúng ta ngày nay, xét về mặt xã hội, không còn như Israel ngày xưa. Dân Chúa bấy giờ đang lầm than trong cảnh nô lệ lưu vong. Nhưng xét về nhiều phương diện khác, đời người luôn luôn có những khổ sở. Và chẳng bao giờ nhân loại thấy đã thoát khỏi lầm than, đau đớn... Luôn luôn chúng ta có một số vấn đề không làm đau khổ thể xác thì cũng làm khắc khoải tâm hồn. Và cái khổ là bao giờ những khó khăn hiện tại đối với tâm lý, cũng vẫn là những gò bó khó chịu nhất mà chúng ta muốn cựa quậy, giũ đi cho bằng hết. Trong hoàn cảnh đó tiếng kêu của vị Tiền hô đang muốn khơi lại niềm tin hun đúc niềm cậy, để mọi người chúng ta tìm lại được tinh thần chứa chan hy vọng do Tin Mừng cứu độ mang tới.
Gioan không bịa ra những nguồn tin giả dối, trần tục, vô căn cứ và miễn cho ta những nỗ lực chính đáng. Chính ông cũng không tự xưng là người sẽ giải thoát anh em. Ông chỉ cho chúng ta thấy Đấng Cứu thế đích thực, là Đức Yêsu Kitô. Nói đúng hơn, khi rao giảng, ông bảo mọi người hãy trông cậy vào Đấng sẽ đến sau, Đấng chưa ai thấy, nhưng chắc chắn sẽ đến mà ông chẳng đáng cúi xuống cởi dây giày Người. Gioan không nói viển vông. Đặt niềm tin ở Sách Thánh, căn cứ vào mạc khải của Thiên Chúa, Gioan khẳng định Đấng Cứu thế không phải là phàm nhân, không hành động như các vĩ nhân trong lịch sử. Ngài đến chăn dắt đoàn chiên mình như mục tử; Ngài ẵm chiên con trên cánh tay; ôm ấp chúng vào lòng và nhẹ tay dẫn dắt các chiên mẹ.
Đấng Cứu thế chúng ta trông đợi là như thế. Ngài không có những toan tính trần gian. Ngài là một mục tử hiền lành săn sóc từng con chiên và cả đoàn chiên. Vì thế, chúng ta hãy trút bỏ não trạng trần tục khi khắc khoải đợi chờ Đức Kitô trở lại. Trong bất cứ thử thách nào Đấng Cứu chuộc chúng ta vẫn là Chúa, vì chỉ có Ngài mới đáp ứng được niềm trông cậy của ta.
Niềm trông cậy ấy tạo nên ở nơi ta một thái độ, một tác phong, một nếp sống đặc biệt. Khi người ta ao ước những sự hão huyền hay chờ đợi những giải pháp trần tục, thường người ta dành công việc cứu thế cho người khác; còn chính bản thân người ta chỉ thụ động ỷ lại và biếng nhác. Ngược lại, khi rao giảng Đấng Cứu thế là ai, thì Gioan cũng vạch ra cho mỗi người con đường phải sửa soạn có thể tiếp một vị cứu tinh như thế. Người sẽ rửa ta trong Thánh Thần. Người sẽ thánh hóa tất cả những ai sẵn sàng. Thế nên hết mọi người phải ăn năn thống hối, phải thú tội và sửa lại đường lối xưa nay. Không còn được sống quanh co, lúc thế này khi thế khác. Phải trước sau như một, thi hành một đòi hỏi của sự thánh thiện. Mọi gồ ghề ngăn trở các quan hệ tốt đẹp với tha nhân, phải bạt xuống và san phẳng đi, để tình người và lòng bác ái cứu độ của Đức Kitô đến với hết mọi người. Có như vậy, xã hội mới dần dần huynh đệ hơn, tốt đẹp hơn và chúng ta mới nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa trải rộng trên khắp mặt địa cầu.
Không những rao giảng, Gioan còn sống cuộc đời sám hối. Ông ăn châu chấu và uống mật ong rừng. Ông mặc áo lông lạc đà và thắt lưng bằng dây da thú. Ông sống như các thánh nhân thời bấy giờ: không quan tâm đến việc trang điểm bằng các sản phẩm mỹ nghệ, không ăn dùng như những người tưởng chỉ có các thú vui ở đời này. Ngược lại, ông thấy hạnh phúc trong nếp sống gần thiên nhiên, thấy thiên nhiên như tiếng gọi trở về đời sống chất phác và chân thật. Ông coi cuộc đời phù phiếm như đã qua, và trông đợi Trời mới và Đất mới trong đó có công lý sẽ ngự trị.
Tất cả chúng ta không đang được kêu gọi đi vào một nếp sống cụ thể như thế sao? Cả một lối sống phù phiếm như đã qua rồi. Những giờ lao động tiếp xúc với thiên nhiên như đang khiến ta có một nhân-sinh-quan mới: chân thật và đơn sơ hơn. Nhiều nhân đức Phúc Âm như đang có cơ hội được thực thi dễ dàng hơn trước. Chúng ta phải bắt lấy thời cơ, nhờ ơn từ trời xuống, giúp nhau sám hối và đổi đời. Làm được như vậy, là đang san phẳng đường đi cho Chúa đến. Nói đúng hơn, Thánh Thần Chúa ở trong ta đang muốn dùng ta để thay đổi mặt đất này cho công lý ngự trị.
Thánh Thể mà chúng ta cử hành bây giờ cũng chỉ muốn thực hiện những điều đó. Đức Kitô cứu thế mời ta góp phần đời sống sám hối canh tân của chúng ta vào mầu nhiệm Tử nạn của Người, để ơn Phục sinh của Người tràn vào tâm hồn và đời sống chúng ta, dùng nếp sống đổi mới hằng ngày của ta, canh cải mặt đất này tạo nên một Trời mới Đất mới cho tất cả mọi người.
Xin anh em hãy hết mình đi vào mầu nhiệm bàn thờ với những tâm tư quyết liệt như thế.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
37. Chúng ta đợi chờ
Truyện cổ Đông Phương kể về một con cá con bơi dọc theo bờ sông. Cạnh bờ sông, ông giáo đang dạy khoa học cho các học trò đang quây quanh ông. Thày giáo giảng: "Nước tuyệt đối cần thiết cho sự sống. Không có nước trong một tuần lễ chúng ta sẽ chết." Một con cá con nghe vậy liền tự nghĩ: "Trời! Nếu nhà khoa học đó nói đúng, tôi phải đi tìm cái mà người ta gọi là nước đó, nếu không tìm được mấy ngày nữa tôi sẽ chết." Nó hỏi mọi con cá khác nó gặp có biết nước là gì không, nhưng không ai trả lời cho nó. Họ chỉ biết để ý đến tìm của ăn nuôi sống. Nhiều con cá còn cho nó là dại gì mà nghĩ những chuyện đâu đâu. Nó tiếp tục đợi chờ đi tìm cái gọi là nước. Rồi một hôm nó cố hỏi con cá lớn tuổi, có phần khôn ngoan: "Làm ơn chỉ cho tôi cái chất mà người ta gọi là nước là gì và tìm đâu ra nó?" Con cá lớn trả lời: "Nước hả! Mày đang ở trong đó, mày sinh ra và lớn lên trong đó. Nước bao quanh mày và mày cứ ngụp lặn, hút lấy nó thì mày sống được." Con cá đang sống trong nước mà nó không nhận ra. Cũng thế, chúng ta đang sống trong sự hiện diện của Chúa mà chúng ta không nhận ra Ngài.
Thời gian đã đến, Thiên Chúa thể hiện công trình cứu chuộc. Ngài đã không kiến tạo một thế giới khác, xứng đáng đón nhận sự viếng thăm của Ngài. Ngài đã đến trong thế giới con người, những người đang mong mỏi chờ đợi Ngài đến. Hầu hết những người Do Thái, không sống đúng với việc nghinh đón Đấng Thiên Sai, đã quên đi việc chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế. Nhiều lần trong Cựu Ước, con cái Israen đã bước theo những thần tượng khác.
Trong biến cố Giáng Sinh, Tình yêu Thiên Chúa đi vào sự hiện hữu của con người. Nơi Chúa Kitô, Thiên Chúa được khám phá ngay trong cuộc sống thường ngày của con người.
Đối với hầu hết chúng ta, không ai là tầm thường khi là một phần tử của gia đình. Thông thường, sự quen thuộc gây nên mãn nguyện, coi thường. Điều đó đúng khi không biết tìm mới lạ trong thường ngày. Đây chính là bí mật của Phúc Âm được khám phá do những người vợ, người chồng, người anh, người em, những người bạn. Thật đẹp biết bao có những gia đình, những tình bạn mà tình yêu luôn đầm thắm. Nhưng điều đó hiếm hoi quá.
Chúng ta giống như các trẻ em sáng thứ Bảy muốn có những cuộc giải trí hào hứng. Tuy nhiên, tiến trình làm phong phú sự liên hệ tình người không phải là cuộc giải trí nhưng là dấn thân. Chúng ta nghe có những gia đình mất đi những thích thú. Họ thấy nhạt chán. Từ trước đến giờ, họ trở đi trở lại cũng một trò cười, những thói quen, những phàn nàn. Họ nghĩ đến một liên hệ mới để có thể tìm vui hứng. Thật đáng buồn.
Nơi Chúa Kitô, Chúa tự ngụp sâu vào tình trạng con người. Thực tại của con người, của mỗi người thì vô tận. Mỗi người là một mầu nhiệm đối với những người khác: Mầu nhiệm vui và buồn, mầu nhiệm của nước mắt và hy vọng, mầu nhiệm của đau đớn và hoan lạc. Chúng ta là mầu nhiệm đối với chính chúng ta. Thánh Phaolô nói: "Chỉ trong Nước Chúa, chúng ta sẽ thấy chúng ta như Chúa thấy chúng ta." Cho đến ngày đó, chúng ta vẫn còn thám hiểm.
Một trong những mầu nhiệm cao cả của Đức Tin là Ơn Thánh Chúa cống hiến chúng ta sự sống mới mà chúng ta đang mong đợi và Chúa đang đợi chúng ta đáp trả. Ngài không áp lực. Ngài không đánh tráo. Ngài chờ đợi! Còn chúng ta, chúng ta không hiểu được "Chúa ở đâu?" "Ngài ẩn trốn?" hay "Ngài bỏ rơi?" Thật ra, Chúa ở đó và chờ đợi. Chúng ta phải đáp trả mới nhận ra sự hiện diện của Ngài. Chúng ta phải có ý sử dụng sự sống mới Ngài tặng ban, nếu không, việc tặng ban sẽ vô ích. Chúng ta phải có ý bước theo con đường của Ngài.
Thánh Mátcô nói: "Gioan Tẩy Giả xuất hiện trong hoang địa, rao giảng phép rửa thống hối." Nói cách khác, Đấng Thiên Sai quí vị đang mong chờ đang hiện diện. Đây là lúc cần thay đổi. Gioan không công bố, "Đức Kitô sắp đến." Ngài rao giảng phép rửa thống hối; ngài kêu gọi một sự đáp ứng.
Trong cuốn tiểu thuyết The Shoes of the Fisherman, có câu rất hay: "Cái giá phải trả để thành một con người hoàn toàn quá đắt đến nỗi ít người có hứng hay có can đảm để trả nó." Lúc này chúng ta có thể quyết sống một đời sống mới. Chúng ta quyết chí thành một người hoàn toàn. Chúng ta đón nhận ơn soi sáng nhận ra Chúa hiện diện trong ta và can đảm sống cuộc sống mới.
Chuẩn bị mừng Chúa Giáng Sinh, Ngài hỏi chúng ta có muốn một đời sống mới không? Giáng Sinh nói cho chúng ta rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến nỗi Ngài tự hạ mình hiện diện trong cuộc sống nhân loại. Ngài chờ chúng ta khám phá ra Ngài. Chúng ta sẽ không thể nhận ra Ngài nếu chúng ta không nhận ra Ngài trong người chồng, người vợ, người cha, người mẹ, các con, bạn bè, người khách lạ, hay kẻ thù. Giáng Sinh không những để mừng vui, Giáng Sinh mời gọi khám phá, khám phá ra sự hiện diện của Chúa Giêsu.
38. Hãy sám hối
Trong Mùa vọng, các bài Tin Mừng nhiều lần nói đến Gioan Tẩy giả, bởi vì đời sống và sứ mạng của ngài gắn liền với Đấng Cứu Thế. Ngài là vị ngôn sứ cuối cùng được Thiên Chúa chọn làm sứ giả đi trước mở đường và dọn đường cho Chúa Kitô. Cho nên, danh hiệu “Tiền hô” và sự nghiệp của Gioan gắn liền với chương trình cứu chuộc của Chúa Giêsu, thậm chí không thể nào nói đến Chúa Giêsu mà không nhắc tới vị tiền hô của Người. Chính vì thế phụng vụ Mùa vọng đã dành nhiều ngày nói đến Gioan. Cụ thể bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay và Chúa nhật tuần sau, đặc biệt đề cập đến ngài.
Ngài là con duy nhất của ông Giacaria và bà Êlisabéth, sinh sống ở làng Ain Karim, gần thủ đô Giêrusalem. Có thể ngài đã đi tu từ nhỏ trong hoang địa với những người phái Qumran, sống rất khổ hạnh: Y phục chỉ có một áo choàng bằng da lạc đà, một kiểu áo hãm mình mà các ngôn sứ xưa thường dùng. Ngang lưng thắt một dây da cho gọn ghẽ. Còn của ăn là châu chấu độn với mật ong rừng. Ngài sống như vậy cho đến mùa thu năm 27, dưới thời hoàng đế Tibêriô thì xuất hiện công khai giảng dậy dân chúng ở miền nam Do thái, chung quanh lưu vực sông Giorđan.
Nội dung lời giảng dạy của ngài được thánh Matthêu diễn tả rõ ràng: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”. Các sách Tin Mừng khác cũng cho thấy nội dung ấy một cách gián tiếp khi kể lại những lời kêu gọi và hoạt động “làm phép rửa sám hối” của ngài, chẳng hạn như Tin Mừng Maccô của Chúa nhật hôm nay.
Sám hối, theo tiếng Hy lạp có nghĩa là thay đổi não trạng. Theo tiếng Do thái là quay trở về, trở lại, tức là trở về với Chúa, với giao ước của Chúa. Gioan rao giảng kêu gọi mọi người sám hối. Ai nghe lời ngài giảng mà sám hối thì được ngài làm phép rửa, nhưng phép rửa của ngài chỉ có tính cách giúp người ta thống hối, sửa soạn cho việc tha tội, chứ không phải là một bí tích như phép rửa Chúa Giêsu sẽ thiết lập sau này.
Như vậy, Gioan đã đối chiếu sứ mạng của ngài với sứ mạng của Đấng đến sau ngài, và ngài khiêm nhường tự nhận là không đáng cởi quai dép cho Đấng đó. Tóm lại Gioan làm phép rửa bằng nước để giục lòng người ta sám hối. Còn Đấng đến sau làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần để tha tội cho người ta. Cho nên, rõ ràng Gioan chỉ là một vị tiền hô, một người đi trước, có bổn phận dọn đường cho Đấng Cứu thế.
Đối với chúng ta hôm nay, nhắc đến Gioan Tiền hô cũng có nghĩa là nhắc lại lời ngài đã giảng dạy, và cũng là nhắc nhở chúng ta: Hãy sám hối, hãy thay đổi đời sống. Chúng ta đều đã biết sám hối là nhận ra những giới hạn thiếu sót và lầm lỗi của mình; là nhận ra những thiệt hại mình đã gây ra cho người khác; là nhận ra và quyết tâm dứt bỏ tình trạng cũ để bắt đầu một cuộc canh tân. Nhưng trước hết và trên hết, chúng ta phải hiểu sám hối là quay về với Chúa, tuyên xưng tình yêu thương và lòng nhân từ tha thứ của Chúa. Đây là điều Thiên Chúa mong muốn nơi chúng ta.
Về điều này, chúng ta hãy nhớ câu chuyện thánh Giêrônimô: Vào một đêm lễ Giáng Sinh kia. Giêrônimô đang cầu nguyện trong một hang đá ở rừng vắng, ngài suy niệm về mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người. Đột nhiên Chúa Giêsu hiện ra hỏi ngài: “Giêrônimô, con có gì làm quà cho Ta trong ngày sinh nhật của Ta không?”. Ngài thưa: “Lạy Chúa, con xin dâng Chúa trái tim của con”. Chúa nói: “Còn gì khác nữa không?”. Ngài thưa: “Lạy Chúa, con xin dâng Chúa tất cả những gì con có và tất cả những gì con có thể”. Chúa lại hỏi: “Còn điều gì khác nữa không?”. Ngài thưa: “Lạy Chúa, con mới dịch sách Thánh xong, con xin dâng Chúa bản dịch công lao vất vả của con”. Chúa nói: “Tốt lắm, con còn điều gì nữa không?”. Ngài thưa: “Lạy Chúa, con còn gì nữa đâu?”. Chúa bảo: “Còn sự yếu đuối và tội lỗi của con, con hãy dâng những thứ ấy cho Ta”. Giêrônimô hốt hoảng thưa: “Lạy Chúa, làm sao con dám dâng những cái ấy?”. Chúa nói: “Được chứ, Ta muốn con dâng những cái đó cho Ta để Ta tha thứ cho con. Đó là điều Ta mong đợi”.
Câu chuyện trên nhắc nhở: Chúng ta phải có tâm hồn sám hối để được Chúa tha thứ. Lòng nhân từ tha thứ của Thiên Chúa được biểu lộ tới tột đỉnh bằng việc ban tặng chính Con Một của Ngài. Chúa Giêsu chính là hiện thân của lòng tha thứ. Ngài đến trần gian để nhận lấy tất cả tội lỗi của loài người. Bởi vậy, chẳng có gì quá đáng khi nói: Món quà Thiên Chúa mong đợi nhất nơi con người là tội lỗi của họ. Vì Thiên Chúa chẳng muốn gì hơn là được thỏa mãn lòng nhân từ yêu thương của Ngài bằng việc tha thứ cho con người.
39. Gioan Tiền Hô
Tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giầy cho Ngài.
So sánh với Chúa Giêsu, Gioan nhận ra mình thật kém cỏi, kém cỏi đến nỗi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giầy. Kém cỏi đến nỗi không xứng đáng xách dép cho Ngài.
Chúng ta tưởng rằng Gioan hạ mình và khiêm tốn, nhưng không phải là như thế. Gioan không hạ mình và cũng chẳng khiêm tốn, nhưng ông chỉ nói lên một sự thật, một sự thật 100%.
So sánh với chúng ta, Gioan trổi vượt hơn nhiều, bởi vì ông được toàn thể dân chúng trọng kính, kéo đến nghe giảng và chịu phép sám hối. Nhưng so sánh với Chúa Giêsu, ông thật kém xa và kém rất xa vì dù sao ông cũng chỉ là loài người, ông cũng chỉ là một tạo vật.
Trong khi đó, Đức Kitô là Thiên Chúa, là Chúa của Gioan và là chủ tể của mọi loài. So sánh với Chúa Giêsu, Gioan chỉ là một giọt nước giữa lòng biển cả mênh mông, chỉ là một cây nhỏ trong thửa rừng bát ngát, chỉ là một hạt cát chốn sa mạc bao la.
Từ mẫu gương của Gioan chúng ta hãy đi vào lãnh vực bản thân và hãy thú nhận mình hèn kém, hèn kém mọi đàng.
Thực vậy, tự bản chất chúng ta chẳng là gì cả. So sánh với người này người kia, có thể chúng ta giàu sang hơn, chúng ta tài giỏi hơn, chúng ta thế lực hơn, chúng ta nhan sắc hơn. Tuy nhiên chúng ta có nên dựa vào mấy cái hơn đó mà vênh vang tự đắc hay không?
Về giàu sang ư?
Hẳn rằng ai cũng đã rõ, tiền bạc và của cải không phải là yếu tố chính yếu đem lại hạnh phúc. Hơn thế nữa, nó cũng không ở cùng chúng ta luôn mãi, có thể chỉ vì một biến động mà chúng ta sẽ trắng tay, như tục ngữ đã bảo:
- Bừng con mắt dậy thấy mình tay không.
Về tài giỏi ư?
Cái chúng ta biết chỉ là một, còn cái chúng ta không biết thì từng ngàn từng vạn. Jules Simon đã nói:
- Chỉ có kẻ ngu mới tin rằng mình biết mọi sự.
Người ta hỏi một nhà bác học nọ:
- Chính phủ trả lương cho ông, mà sao mỗi lần hỏi sự gì thì ông lại trả lời là không biết.
Nhà bác học nói:
- Chính phủ trả lươngcho tôi vì cái tôi biết. Song nếu phải trả lương cho tôi vì cái tôi không biết, thì cả kho bạc chính phủ cũng chẳng đủ để trả lương.
Về thế lực ư?
Có những người một thời hét ra lửa, thế mà, sau cùng lại bị tù tội. Cảnh thăng trầm, lên voi xuống chó, chẳng phải là chuyện bình thường trong sinh hoạt của con người đó sao?
Về nhan sắc ư?
Chỉ một cơn sốt trên bốn mươi độ, thì con người còn gì là nhan sắc.
Tại Hollywood, kinh đô điện ảnh của thế giới, có một nhà hưu dưỡng dành cho những ngôi sao màn bạc, khi trẻ được ngưỡng mộ, nhưng bây giờ, họ vừa già lại vừa nghèo nên đã bị bỏ rơi và chìm vào quên lãng. Chính phủ cung cấp tiền nuôi dưỡng. Từ ngày mồng một tháng giêng đến hết ngày ba mươi tháng chạp, những bóng người lui tới thăm hỏi họ thật là ít ỏi.
Như trên đã xác quyết: Những cái chúng ta có thì chẳng là mấy. Hơn thế nữa, chúng ta chỉ là những người quản lý chứ không phải là những ông chủ. Mặc dù so sánh, chúng ta có thể hơn thật, nhưng tự bản chất chúng ta chỉ là những người quản lý. Như vậy có chi đáng cho chúng ta khoe khoang, vênh vang và tự đắc.
Quản lý càng nhiều, thì càng bận rộn, càng phải mang lấy trách nhiệm, bởi vì không sớm thì muộn chủ sẽ hạch hỏi và đòi chúng ta tính sổ quản lý.
Copernic là một nhà thiên văn nổi tiếng. Sự nghiệp của ông trong lãnh vực này thật lớn lao. Thế nhưng, ông không bao giờ tự phụ, trái lại ông sống rất khiêm tốn. Càng thông minh, ông càng nhận thấy mình bé nhỏ. Khi gần qua đời, ông xin khắc trên mộ bia của ông những hàng chữ như sau:
- Lạy Chúa, con không dám xin ơn trở lại như thánh Phaolô, cũng chẳng dám yêu cầu được sự tha thứ như thánh Phêrô, con chỉ xin Chúa thương con như đã thương kẻ trộm lành mà thôi.
Để kết luận, tôi xin mượn lời cầu nguyện của thánh Augustinô:
- Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa và xin cho con biết con.
Biết Chúa để con yêu mến Chúa nhiều hơn. Biết con để con ăn năn sám hối, sửa đổi những sai lỗi mà thăng tiến bản thân, đổi mới cuộc đời.
40. Dọn lòng
Nhân vật Gioan Tẩy Giả thật đặc biệt, ông là vị ngôn sứ sống vừa cả thời cựu ước lẫn tân ước, sứ mạng được chỉ rõ trong lời sấm: "Có tiếng kêu trong hoang địa" và trong lời tuyên bố: "Gioan đến làm phép rửa trong hoang địa". Ông được sai đi "dọn đường Chúa, nắn thẳng lối Ngài đi" bằng cách "kêu gọi ăn năn để được tha tội".. Phép rửa của ông diễn tả sự ăn năn của người lãnh nhận và để ý đến việc tha tội. Kêu gọi ăn năn để đón chờ Chúa đúng là công tác của một sứ giả dọn đường, vì người Do Thái ngoan đạo đều tin rằng Đấng Messia chỉ đến khi dân người từ bỏ tội lỗi.
Ngày nay cũng thế, sự ăn năn thật tâm phải có trước rồi mới lĩnh nhận được những ơn phúc mà Chúa sẵn lòng ban cho kẻ tin nhận Ngài. Sự thành công của Gioan được tả rõ: "cả miền Giuđê và dân thủ đô đến với ông để lãnh phép rửa". Dĩ nhiên có nhiều người không đến, nhất là các vị có quyền chức đạo đời...Nhưng Marco cho thấy hưởng ứng của dân chúng với phong trào phục hưng mà Gioan phát động, và rồi sau này tấp nập đến với Chúa Giêsu tại sao Gioan lại gây được ảnh hưởng lớn đến vậy?
Một trong những nguyên nhân vì ông là một người khiêm nhường, trong khi đang là một người rất nổi tiếng và có uy tín, nhưng chỉ dám ví mình như một người đầy tớ xách dép cho người đến sau. Và ông thực sự là người như thế, ông biết được vị trí và công việc của mình. Chính ông tự đánh gía là không xứng đáng với nhiệm vụ làm đầy tớ. Dép chỉ là một miếng da có xoi lỗ, buộc vào bàn chân bằng mấy sợi dây. Đường đi thời xưa rất gồ ghề, vào mùa khô, bụi tích tụ thành từng đống, mùa mưa thì là những con sông ngập bùn. Cởi dép là bổn phận và việc làm của kẻ tôi tớ. Gioan chẳng mong ước gì hơn là được làm bất cứ điệu gì cho Chúa Cứu Thế mà ông đang rao giảng. Ông quên mình, sẵn sàng phục tùng, sẵn sàng chịu lu mờ, hoàn toàn xóa bỏ mình trong thông điệp của ông đã thúc đẩy dân chúng theo ông. Thông điệp của Gioan có hiệu quả vì ông đã hướng sự chú ý của dân vào một điều, một nhân vật cao cả, vượt trổi ông. Ông bảo dân chúng rằng, qua phép rửa ông dìm họ xuống nước, nhưng Đấng đến sau ông sẽ dìm họ trong Thánh Thần. Trong khi nước thanh tẩy thân thể thì Thánh Thần thanh lọc cả đời sống, bản ngã và tấm lòng con người. Có thể dùng một hình ảnh minh họa dễ hiểu: Khi gọi điện thoại qua nhân viên tổng đài, và nếu có sự chậm trễ thì nhân viên tổng đài thường nói: "Tôi sẽ cố gắng bắt liên lạc cho ông". Khi đã bắt được liên lạc, thì nhân viên tổng dài tự rút lui để đôi bên tiếp xúc với nhau. Mục đích của Gioan là không chiếm lấy trung tâm liên lạc điện thoại mà cố gắng giúp người ta bắt liên lạc được với Đấng trọng đại và quyền phép hơn ông, và người ta nghe ông vì ông không chỉ vào chính mình nhưng chỉ vào Đấng mà mọi người cần đến.
Vậy, đã có người kêu gọi và nhất là mùa vọng đã đến hơn một tuần rồi chúng ta đã chuẩn bị lòng đón Chúa như thế nào? Nhất là con đường trong tâm hồn chúng ta với nhiều chông gai gồ ghề cần phải san cho bằng để chuẩn bị đón Chúa trong mùa Giáng sinh này.
Lạy Chúa, Mỗi năm đến mùa vọng là thời gian để chúng con dọn lòng đón Chúa đến. Xin Chúa Thánh Thần soi sáng cho con biết nhận ra những gồ ghề trong tâm hồn để san cho bằng mà rước Chúa vào lòng. Amen.
41. Dọn đường đón Chúa Cứu Thế
Thiên Chúa yêu thương con người. Ngài luôn sáng tạo và tìm đủ mọi cách thế thể hiện tình yêu thương đối với nhân loại chúng ta. Chúa nhật hôm nay, Phúc âm trình bày cho chúng ta việc Thiên Chúa sai Gioan Tiền Hô đến giúp con người nhận ra, sửa đổi thái độ sống và chỉ dẫn người ta can đảm bước đi trên con đường của Ngài để đón nhận tình thương Thiên Chúa.
Dọn đường cho Chúa Cứu Thế đến. Dọn đường nghĩa là sửa lối đi, là dẹp bỏ những gì không thích hợp, là gia tăng hy sinh, là phá đỗ những thứ vướng bận, những vướng mắt, những điều không thích hợp cho cuộc sống mình...Những vướng bận này cản trở ta đến với Chúa. Mang tâm tình đón Đấng Cứu Thế chúng ta hãy dọn lòng của mình cho bớt bất xứng.
Người Do thái hưởng ứng lời kêu gọi "dọn đường" của Gioan Tiên Hô bằng việc chịu phép rửa trong dòng sông Giorđan. Họ từ bỏ thói xấu, từ bỏ nếp sống cũ để sống cho lời mời gọi mới, sống bác ái yêu thương. Hơn nữa, Gioan Tiền hô còn mời gọi mọi người dọn đường bằng thái độ tin yêu và đón nhận Chúa Giêsu: "tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, con Ngài, Ngài sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần".
Dọn đường còn là hối cải, là trở về với Thiên Chúa tình thương. Ý thức Ngài đang yêu thương và chờ chúng ta hối cải, trở về để sống tâm tình con ngoan, đón nhận tình thương của Thiên Chúa. Dọn đường hay đúng hơn là dọn lòng mình thoát khỏi ách thống trị tội lỗi để xứng đáng cho Chúa đi vào tâm hồn chúng ta, Chúa đi qua cuộc đời chúng ta. Chúng ta hưởng nhờ tình thương tha thứ và sự cứu độ của Thiên Chúa.
Dọn đường còn thể hiện ở việc lời nói đi đôi với hành động. Gioan rao giảng không chỉ bằng lời mà còn mà chính đời sống dọn đường của mình. Lối sống của ông nên một dấu hiệu, một gương mẫu để thức tỉnh dân chúng trước các biến cố đang xảy đến và còn thể hiện tâm tình đối với Thiên Chúa yêu thương nhiệm mầu. Cách ăn mặc nói lên thái độ sám hối. Ông đã thoát khỏi bản thân, thoát ra khỏi vòng ràng buộc đầy phiền toái của xã hội Do thái và những bận tâm quá đáng của họ về đời sống vật chất. Gioan muốn người ta quy hướng về Chúa Kitô, sống và làm chứng cho Chúa Kitô. Đời sống của ông là một bằng chứng xác thực về tình yêu, lòng trung thành và chờ đợi Chúa kitô.
Cuộc sống người Kitô cũng là một mùa vọng chờ đợi Chúa trở lại. Trong đó, mỗi người là một Gioan Tiền Hô, và mọi người cũng có sứ mạng tiền hô. Lòng thống hối thực sự phải phát xuất từ tâm tình bên trong của con người, tinh thần và thái độ cụ thể như sửa lại cho thẳng những lối đi quanh co tăm tối của con tim, bạt xuống cho bằng các đồi núi kiêu căng, lấp đầy lòng bác ái yêu thương. Thống hối còn là một sự đổi mới, đổi mới toàn diện, đổi mới liên tục. Mùa vọng này, Người kitô hữu được kêu gọi đáp lại việc canh tân đời sống bằng chính việc từ bỏ con người cũ, lối sống cũ,...để sống con người mới. Hãy quan tâm đến người khác, sống bác ái, giúp đỡ tha nhân, chia sẽ tình thương và của cải vật chất cho mọi người....
Gioan Tiền hô đã loan báo: "Hãy dọn đường cho Đấng Cứu Thế". Chúng ta hãy hưởng ứng thực hiện để làm cho nhân loại đi trong tình yêu Chúa Kitô, cho xã hội hưởng tình yêu cứu độ và chính bản thân chúng ta tìm được nguồn bình an, chân lý và ơn cứu độ của Thiên Chúa được phát triển dồi dào.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết lắng nghe Lời Chúa dạy qua Gioan Tiền hô, can đảm dọn lòng mình và can đảm sống cho Chúa vì tình yêu thương. Amen.
42. Dọn đường Chúa đến
Trong thế giới văn minh, sự phát triển của các quốc gia có liên quan mật thiết đến sự phát triển của các phương tiện giao thông. Thực vậy, giao thông càng mau lẹ, thuận tiện và rẻ tiền bao nhiêu, thì sự phát triển càng nhanh chóng bấy nhiêu. Chính vì thế, mặc dù không thếiu những phương tiện đi lại bảo đảm và an toàn giữa hai nước Anh và Pháp, thế mà người ta vẫn tung ra không biết bao nhiêu tiền của và công sức để làm một con đường hầm xuyên qua eo biển Manche. Tại Việt Nam cũng vậy. Với ý muốn làm cho vùng duyên hải Saigon được phát triển, mặc dầu ngân sách không mấy dồi dào, nhưng người ta vẫn cố gắng đầu tư vào con đường Nhà Bè-Duyên Hải, một con đường mà các chuyên viên cho rằng rất khó xây dựng.
Tuy nhiên, qua báo chí cũng như qua các phương tiện truyền thông, chúng ta thấy có những người không ý thức về việc bảo vệ con đường, thậm chí họ còn có những hành vi gây hậu quả nghiêm trọng, chẳng hạn như chạy xe quá tải trọng làm hư nền đường, làm sụp cầu cống hay đào đương để lắp đặt hệ thống ống nước, cũng như dây cáp điện thoại, nhưng rồi không lấp lại theo đúng kỹ thuật, khiến cho con đường trở thành lồi lõm với những ổ gà ổ vịt, thậm chí còn có cả những ổ voi ổ trâu, rất khó đi lại, thậm chí còn gây nên những tai nạn và tình trạng tắc nghẽn giao thông.
Hình ảnh này làm cho chúng ta liên tưởng tới một con đường khác, mặc dù không nhìn thấy được, nhưng lại được Kinh Thánh nói tới rất nhiều, đó là con đường Thiên Chúa đến với con người và con người đến với Thiên Chúa. Thực vậy, chính Thiên Chúa đã mở ra con đường đến với con người bằng cách tạo dựng nên chúng ta, trao ban cho chúng ta sự sống. Và hơn thế nữa, Ngài lại còn muốn gắn bó mật thiết với chúng ta. Sách Sáng Thế Ký đã viết: Khi gió chiều nhẹ thổi, Thiên Chúa thường đi dạo trong vườn Địa đàng và nói chuyện với AdongEva.
Như thế, Thiên Chúa không xa cách con người, nhưng đã đến với con người ngay tại chính nơi mà họ đang sống. Cũng vậy, trong suốt dòng lịch sử, Thiên Chúa đã đến với dân Do Thái. Ngài đã cắm lều, có nghĩa là Ngài đã cư ngụ giữa họ bằng nhiều cách. Và với cặp mắt đức tin, họ đã nhận ra sự hiện diện của Ngài. Ngài luôn đi trước họ, ban ngày bằng áng mây để chỉ lối cho họ, ban đêm bằng cột lửa để soi sáng cho họ. Cũng như họ đã nhìn thấy vinh quang của Ngài bao phủ nhà tạm, nơi đặt hòm bia giao ước. Nhất là trong đêm giáng sinh, Ngài đã đến với toàn thể nhân loại. Ngài đã trở thành một Emmanuel, nghĩa là một Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Tuy nhiên, có một sự việc đáng buồn đã xảy ra, đó là con người đã đặt những rào cản, những chướng ngại vật để ngăn chặn bước đường Chúa đến. Hay nói một cách khác, con người đã từ khước sự viếng thăm đầy yêu thương của Ngài, như lời thánh Gioan đã cảnh báo: Ngài đã đến nhà Ngài, nhưng những người thân thuộc đã không tiếp đón Ngài.
Thuở ban đầu, Adong Eva đã giơ tay ngắt trái cấm và lẩn tránh sự hiện diện của Ngài. Tiếp đến, dân Do Thái đã nhiều lần quay lưng chống lại Ngài bằng cách quì gối thờ lại những thần tượng nhảm nhí. Ngay chính chúng ta cũng vậy. Thiên Chúa không phải chỉ đến với chúng ta trong đêm giáng sinh, nhưng Ngài còn đến với chúng ta qua tiếng nói lương tâm, qua mười giới luật, quan Tin Mừng, qua Giáo hội, qua những người nghèo khổ, qua những biến cố và qua những dấu chỉ của thời đại.
Thế nhưng, bản thân chúng ta đã tạo nên những rào cản, những chướng ngại vật dể ngăn cản không cho Ngài đến. Những rào cản ấy, những chướng ngại vật ấy chính là những tội lỗi, những thói hư tật xấu của mỗi người. Vì thế, trong suốt mùa vọng sứ điệp của Gioan tiền hô phải luôn vang vọng bên tai chúng ta: Hãy dọn đường Chúa đến. Quanh co uốn cho ngay, gồ ghề san cho phẳng, hố sâu lấp cho đầy và nơi cao phải bạt xuống.
Ước vọng của Thiên Chúa là muốn được sống với con người. Chính vì ước vọng này, Ngài đã xuống thế và sinh ra trong cảnh khó nghèo của hang đá máng cỏ. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã tiếp nhận Ngài hay là đã xua đuổi Ngài như dân thành Bêlem ngày xưa?
43. Dọn đường
Không ai thích đợi chờ. Đợi chờ là một đau khổ. Yêu nhau mà không được gần nhau hay cưới nhau nhưng phải chờ đợi vô hạn định thì lại đau khổ biết chừng nào: “Chờ anh em ráng sức chờ. Chờ hồi mười bẩy bây giờ ba mươi”.
Trong sách hướng dẫn du lịch “Non Nước Việt Nam” có ghi lại sự tích Núi Tô Thị như sau: “Chếch về phía tây bắc núi Tam Thanh là núi Tô Thị hay còn gọi là núi Vọng Phu đã đi vào truyền thuyết của dân tộc. Trên đỉnh núi có tảng đá tự nhiên trông xa giống người phụ nữ bồng con nhìn về phương xa. Từ xưa, tảng đá hình người này được gắn liền với truyện cổ tích nàng Tô Thị bồng con đứng đợi chồng đi đánh giặc từ phương Bắc trở về. Chờ mãi, hai mẹ con hóa thành đá. Vì thế dân gian mới đặt tên cho tảng đá là nàng Tô Thị”.
Do tác động của thiên nhiên và con người, di tích này đã bị phá hủy. Chính quyền tỉnh Lạng Sơn đã cho dựng lại nguyên bản để giữ gìn một di tích đã đi sâu vào tình cảm và văn chương bình dân của người Việt Nam. Mấy dòng thơ sau còn lưu truyền cho hậu thế:
“Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa,
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh.
Ai lên xứ Lạng cùng anh,
Bõ công cha mẹ sinh thành ra em”.
Câu chuyện thật bi đát! Một bi kịch của sự chờ đợi. Chúng ta là Kitô hữu đang chờ đợi Chúa trở lại lần thứ hai. Chúng ta sẽ chờ cho đến khi nào? Chúng ta cũng sẽ biến thành tượng đá hay sao? Sự ra đi của Chúa Kitô có giống như sự ra đi vĩnh viễn của người chồng trong sự tích núi Tô Thị không?
Những người Kitô hữu thời sơ khởi cũng đã đặt ra những vấn nạn này, một cách rất hăng say và nhiệt tình, họ tin rằng ngày Đức Giêsu Kitô trở lại trong vinh quang đưa mọi người vào Vương quốc của Thiên Chúa sắp đến gần rồi! Niềm tin này đã trở thành một nguồn an ủi lớn lao và hy vọng cho các tín hữu, bởi vì họ đang bị bắt bớ. Nhiều người đã bị chính quyền tra tấn, tù đày và bị giết chết vì đức tin của họ. Nhưng cũng có nhiều người thất vọng, nản lòng và bỏ cuộc!
“Sao Chúa mãi im” là tên của một cuốn tiểu thuyết do Nguyễn văn Thực dịch thuật từ nguyên tác Nhật ngữ của Endo Shusaku. Tác giả Endo Shusaku đã đoạt nhiều giải văn chương lớn của Nhật và được đề cử tranh giải Nobel năm 1994. Tác giả đã viết cuốn tiểu thuyết này dựa trên những dữ kiện lịch sử truyền giáo của Giáo Hội Công giáo vào thế kỷ 16 và 17 trên đất Nhật.
Truyện thuật lại hai sự quyết tâm: sự quyết tâm của các giáo sĩ truyền giáo xâm nhập đất Nhật và sự quyết tâm ngăn chặn của nhà cầm quyền Nhật. “Sao Chúa mãi im” là câu than thở của các giáo sĩ trong cơn bách hại với bao nỗi khốn khó cô đơn. Vào giữa thế kỷ 16, lúc đầu đạo Công giáo gặp rất nhiều thuận lợi vì chính quyền Nhật muốn o bế các thương thuyền Bồ Đào Nha, họ thân thiện với các vị thừa sai để có lợi. Theo sử liệu, vào đầu thế kỷ 17, con số giáo dân đã có lúc lên tới 250.000 người. Nhưng sau đó chính quyền đã cấm đạo vì nhiều lý do. Cuộc bách hại vô cùng tàn khốc và hiểm độc đã khiến một số các giáo sĩ thừa sai bỏ đạo, trong đó có linh mục giáo sư thần học Ferreira đã từng truyền giáo ở Nhật 20 năm với chức vụ Giám tỉnh dòng tên. Ông đã bỏ đạo, lấy vợ Nhật, có tên Nhật, chết tại Nhật. Một sự kiện mà Giáo Hội Lamã không tưởng tượng nổi, vì thế mới có câu chuyện này.
Vào năm 1638 hai linh mục dòng tên tìm cách rửa nhục cho cha Ferreira, giáo sư thần học của họ ngày xưa ở Rôma. Họ đã vạch ra kế hoạch truyền giáo tại Nhật giữa thời kỳ bị bách hại dữ dội nhất. Mặc dù cha bề trên giám tỉnh nghiêm khắc khuyến cáo họ không nên vào Nhật trong lúc này, nhưng cuối cùng theo như ý họ muốn, hai giáo sĩ đã cương quyết vào được đất Nhật, và đã được các bổn đạo che dấu để hoạt động. Tuy nhiên, với sự kiểm soát chặt chẽ, tất cả các giáo dân cùng linh mục đều đã bị bắt. Một vị phóng xuống biển chết theo giáo dân vì bị nhận nước. Vị còn lại, sau bao nhiêu ngày tù tội, phấn đấu với bản thân và các mưu mô của chính quyền dẫn dụ việc bỏ đạo, cuối cùng đã chịu thua, chấp nhận đạp lên ảnh Chúa. Và những điều đã xảy ra ngày xưa với vị thầy cũng đã được lập lại cho ông: lấy vợ Nhật, đổi tên Nhật, có pháp danh của đạo Phật, và khi chết lại được hỏa táng ở chùa.
Chính quyền Nhật đã nghĩ ra một cách thuyết phục rất tâm lý và tinh vi. Họ bắt các nhà truyền giáo phải chứng kiến giáo dân chịu cực hình và bị hành quyết với lý lẽ rất đơn giản: vì quí vị vào đất Nhật truyền đạo nên mới có giáo dân, và giáo dân phải bị trừng trị theo luật lệ. Vì bác ái mà quí vị đã truyền đạo, xin quí vị cũng hãy vì tình thương mà cứu họ. Chỉ cần quí vị bỏ đạo, các giáo dân sẽ được tự do!
Trong cuốn tiểu thuyết “Sao Chúa mãi im”, và trong lịch sử Giáo Hội khi bị cấm cách, bắt bớ và thử thách, có những vị tông đồ, giáo sĩ và giáo dân nghe được tiếng Chúa, trung thành với đức tin, chấp nhận tử đạo. Trái lại, đối với vị linh mục truyền giáo trong cuốn tiểu thuyết, và rất nhiều tín hữu khác thì “Sao Chúa mãi im”! Thiên Chúa đến với chúng ta bằng cách nào? Khi nào Ngài lại đến? Làm thế nào để sống trong ánh sáng của niềm tin giữa những bắt bớ, thử thách và đau khổ? Chúng ta nên làm gì trong khi chờ đợi Chúa Giêsu trở lại? Tại sao Chúa trì hoãn”? Những câu trả lời đã được các thánh Tông Đồ trả lời tóm tắt như sau:
1. Sự trì hoãn ngày Chúa Giêsu trở lại là do lòng yêu thương của Thiên Chúa đối với con người. Ngài trì hoãn là để cho những người chưa ăn năn trở lại có thêm thời gian và cơ hội thay đổi đời sống và trở về với Chúa trước khi quá trễ, để Vương Quốc yêu thương của Thiên Chúa có cơ hội phát triển và lan tỏa rộng lớn hơn.
2. Vì trì hoãn nên ngày ấy sẽ đến rất bất ngờ, như “kẻ trộm đến ban đêm”. Phải luôn sẵn sàng, tỉnh thức và thực thi thánh ý Thiên Chúa.
3. Lời hứa của Chúa Giêsu là chắc chắn. Ngài sẽ trở lại trong vinh quang. Ngày ấy đang trên đường đến. Chúng ta không nên ngã lòng vì nó sẽ xảy ra theo như thời biểu của Thiên Chúa đã định, không theo ý muốn của con người.
4. Trong khi chờ đợi, ta phải sống trong sự bình an và ngay chính. Kitô giáo không phải chỉ hướng về sự hy vọng ở tương lai mà quên hiện tại lúc này. Ngay trong hiện tại lúc này Chúa đang đến với tâm hồn ta bằng nhiều cách.
44. Dọn đường
Trong truyền thống Zen của Đông phương có ghi lại một câu chuyện sau đây của một ông giáo sư đại học đến gặp vị thiền sư để xin lời chỉ dạy: Thưa thầy, xin dạy con phải làm gì để có một đời sống hạnh phúc. Con đã học thánh kinh, con đã học hỏi với những bậc đại sư, nhưng con chưa tìm thấy câu trả lời, xin thầy làm ơn chỉ dạy cho con biết cách nào đây?
Nghe xong câu hỏi, vị thiền sư rót nước trà mời khách. Ngài rót trà đầy tách của khách, rồi tràn cả ra ngoài, nhưng ngài vẫn cứ rót thêm mãi, tới nỗi nước trà chảy xuống bàn, rồi từ bàn chảy xuống sàn nhà. Ông giáo sư nhìn thấy thế, không thể kềm hãm mình được nữa, bèn nói lớn: “Ngưng đi! Ngưng đi! Đầy quá rồi! Không còn chỗ… tràn cả ra nhà”.
“Giống như cái tách trà này!”Vị thiền sư nói. Ông đã đổ đầy những suy nghĩ và ý kiến của ông vào rồi. Làm thế nào tôi có thể chỉ cho ông cách nào được nữa, trừ phi ông phải làm trống rỗng cái tách của ông trước đã.
Trong Thánh Kinh, sa mạc là nơi để gặp Thiên Chúa. Đi vào trong sa mạc là phải bỏ lại tất cả mọi thứ mà ta thường tùy thuộc trong đời: nghề nghiệp, liên hệ, tiện nghi, ý muốn và ngay cả những cơ chế tôn giáo. Thiên Chúa chẳng làm gì được cho ta nếu ta không hoàn toàn tùy thuộc và tin tưởng vào Ngài. Sa mạc biểu tượng cho sự từ bỏ bản thân, ý riêng, làm trống vắng con tim mình để Thiên Chúa hoàn toàn ngự trị. Đó là lý do tại sao khi xưa Gioan tẩy giả xuất hiện trong hoang địa và rao giảng phép rửa sám hối để chuẩn bị cho Chúa Giêsu đến: “Hãy dọn đường Chúa đến, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng”.
Phúc âm hôm nay nói về con người và những việc làm của Gioan tẩy giả chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế đến. Theo William Barclay, một trong những lý do làm cho công việc mục vụ của Gioan có hiệu quả mạnh mẽ, dân chúng lũ lượt kéo đến nghe giảng và xin ơn tha tội qua phép rửa, là vì Gioan rất khiêm tốn. Gioan đã sống hy sinh từ bỏ chính bản thân mình như một người nô lệ của Thiên Chúa qua đời sống trong hoang địa, trang phục đơn sơ, ăn uống kiêng cữ giản tiện: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người”.
“Sự phán quyết của Gioan cho chính mình là Gioan không xứng đáng làm bổn phận của một người nô lệ. Những chiếc dép da thuộc đơn sơ được cột vào bàn chân bằng những sợi dây. Mặt đường gồ ghề. Vào mùa khô bụi bặm, sang mùa mưa dính đầy bùn. Tháo những đôi dép ra khỏi chân là công việc và bổn phận của người đầy tớ. Gioan đã không đòi hỏi điều gì cho chính mình nhưng mọi sự dành cho Đức Kitô. Rõ ràng là sự tự quên mình, sự nhượng bộ, sự tự bôi xóa chính mình, sự thua thiệt hoàn toàn trong lời ngài rao giảng đã thúc đẩy dân chúng phải lắng nghe”.
Chúa Giêsu Kitô cũng đã chết trên thập giá theo ý Chúa Cha. Ngài hoàn toàn không làm sự gì theo ý riêng mình. Qua thập giá, Ngài tự hư vô hóa bản thân mình để thánh ý của Chúa Cha được thể hiện. Đó là con đường tu đức Ngài dạy chúng ta phải theo.
Chúng ta không có quyền bắt Chúa phải trở lại theo thời khắc như ý ta. Khi nào Chúa đến đó là quyền của Chúa. Ngay chính Chúa Giêsu cũng không biết ngày ấy: “Còn về ngày và giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay cả người Con cũng không; chỉ một mình Chúa Cha biết mà thôi”. Nhưng điều kiện Chúa đòi chúng ta là phải chuẩn bị sẵn sàng. Một trái tim luôn sẵn sàng là trái tim thực thi thánh ý của Thiên Chúa.
Nếu ta không dọn chỗ trống cho Ngài, làm sao Ngài đến được? Thánh Gioan tẩy giả đã đến để dọn đường cho Thiên Chúa, không phải bằng cách xây dựng một cơ chế tôn giáo, một lề lối làm việc hay một phương hướng hoạt động truyền giáo theo ý ngài, nhưng bằng việc sửa soạn trái tim và tâm hồn của tất cả những ai muốn đón nhận Thiên Chúa.
45. Thay đổi
Gioan Tẩy giả là vị Tiền Hô của Đấng Cứu Thế. Ngài đã sống và thi hành sứ mạng của ngài thế nào? Ngài sống rất khổ hạnh từ buổi thiếu thời: y phục chỉ có một áo choàng bằng da lạc đà, là một kiểu áo hãm mình mà các ngôn sứ xưa thường dùng, ngang lưng thắt một dây da cho gọn ghẽ, còn của ăn lại càng bấp bênh hơn nhờ vào “may rủi”, là ăn châu chấu độn với mật ong rừng. Gioan ăn mặc như thế mà đi rao giảng khắp vùng Giuđê, Galilê và quanh sông Giordan. Bấy giờ mùa màng vừa gặt hái xong, thời vụ mới cũng chưa tới, nên dân chúng rảnh rang kéo nhau đến rất đông để nghe ngài giảng, cả những người lãnh đạo cũng sai người tới hỏi ngài là ai? Ngài chỉ mượn lời ngôn sứ Isaia để trả lời: tôi không là ai cả, chỉ là tiếng kêu trong hoang địa, có bổn phận dọn đường cho Đấng Cứu Thế.
Thực vậy, ngài làm phép rửa và rao giảng kêu gọi mọi người thay đổi đời sống để đón Đấng Cứu Thế đến. Phép rửa của Gioan, xét về hình thức thì giống như phép rửa của đạo Do Thái, là dìm mình ở nước sông Giordan, để từ bỏ ngoại giáo và dứt khoát trở về tôn thờ Thiên Chúa. Nhưng phép rửa của Gioan có một hướng mới, khác hẳn đạo Do Thái, là hướng về luân lý, dùng công bằng, bác ái, chân thật để sửa soạn cho nước Đấng Cứu Thế. Vì vậy, phép rửa của Gioan chuẩn bị cho phép rửa của Chúa Giêsu, giúp người ta sám hối, sửa soạn cho việc tha tội. Cho nên, phép rửa của Gioan không phải là một bí tích, nghĩa là không tự động tức khắc tha tội.
Đàng khác, cùng với việc làm phép rửa, Gioan Tiền Hô còn giảng dạy, kêu gọi mọi người hãy thay đổi đời sống để đón nhận Đấng Cứu Thế: “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng”. Điệp khúc rao giảng của ngài là hãy ăn năn sám hối, lời giảng của ngài làm chấn động mọi tầng lớp, mọi thứ người, từ lớp rắn lục trở xuống, nghĩa là những người có chức quyền, nhưng lươn lẹo, cố chấp, cả vua Hêrôđê cũng bằng lòng nghe ngài giảng. Sử gia Phơlaviô đã ghi nhận: “Gioan có ảnh hưởng sâu đậm trên quần chúng, đến nỗi họ sẵn sàng làm bất cứ điều gì ông dạy bảo, hết mọi hạng người đến gặp ngài để xin ngài chỉ dạy cách phải sống”.
Đối với chúng ta ngày nay, lời kêu gọi “hãy ăn năn sám hối” của Gioan phải chăng đã nhàm chán và lỗi thời? Hoặc trong hoàn cảnh hiện tại của chúng ta, lời kêu gọi hãy thay đổi đời sống của Gioan phải chăng không còn cần thiết? Nhàm chán thì có nhàm chán thật, vì lúc nào chúng ta cũng nghe lặp đi lặp lại những lời khuyên đó hoặc những lời tương tự như hãy tu thân tích đức, đừng kiêu ngạo, đừng gian tham, đừng bất công, đừng sống phản bác ái, lỗi tình thương… Nhưng còn lỗi thời thì sao? Có lỗi thời không? Có thể nói, ngày nào còn con người là còn luân lý, còn giáo dục, còn khuyên răn, và bao lâu còn tội lỗi, còn tranh chấp, còn tệ đoan, còn tiêu cực, thì còn phải sửa chữa, phải thay đổi để trở nên tốt hơn, và như vậy lời kêu gọi của Gioan vẫn mãi mãi cần thiết, không bao giờ lỗi thời.
Tất cả chúng ta đều biết: bước đầu tiên để kiến tạo một xã hội, một thế giới tốt đẹp, là con người phải hiểu rõ “cái tôi” của mình, từ đó mới làm chủ được bản thân và cùng hoà nhịp vào cuộc sống với mọi người, đúng như quan niệm từ ngàn xưa của Khổng Tử: “Thành ý, chính tâm, tu thân” rồi mới “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Con người sống trong xã hội có ảnh hưởng hỗ tương và liên đới trách nhiệm với nhau rất mật thiết, một con én không làm nên mùa xuân, nhưng một phần tử xấu cũng đủ làm hư hỏng một gia đình và cả xã hội, “con sâu làm rầu nồi canh” là như thế.
Vì vậy, mỗi Mùa Vọng chúng ta lại có dịp xét mình, kiểm điểm đời sống, cách suy nghĩ qua lời kêu gọi của Gioan Tiền Hô, để cải thiện đời sống mỗi ngày thêm tốt đẹp hơn. Nói khác đi, chúng ta cần phải thay đổi cách sống và lối suy nghĩ không phù hợp với lời Chúa hay không đúng với lương tâm và lương tri của mình.
Trên đời này có cái gì không thay đổi chăng? Có người nói chơi: chỉ có chữ “thay đổi” là không thay đổi mà thôi, nghĩa là cái gì trên đời này cũng thay đổi. Thế giới này có nhiều sự thay đổi, và có những cái thay đổi ảnh hưởng tới chúng ta, nhưng cái cần thiết nhất là lòng chúng ta phải thay đổi. Khi lòng mình được thay đổi thì mọi sự sẽ được đổi thay. Chúng ta đừng mong ngoại cảnh thay đổi lòng mình, chính lòng chúng ta phải được thay đổi trước đã thì ngoại cảnh mới thay đổi theo, như câu chuyện sau: có một cụ già kia sống giữa hai gia đình: một gia đình làm nghề thợ rèn và một gia đình làm nghề thợ mộc, cả hai gia đình này gây tiếng động ồn ào suốt ngày. Cụ già không chịu được, năn nỉ họ đổi đi nơi khác, nhưng họ cứ nhùng nhằng mãi, sau cùng họ đồng ý đổi đi, họ đổi đi đâu? họ đổi nhà cho nhau, như vậy cụ già kia chẳng được gì. Muốn thay đổi, chính cụ phải thay đổi, chính cụ phải dọn nhà ra đi.
Đàng khác, có người không muốn thay đổi gì hay chỉ ưa thay đổi tạm bợ và bằng lòng với phương pháp gọi là tu sửa ít phần trăm, có người lại sợ đổi mất cả cái ít phần trăm đó, vì thế, dù chúng ta đang sống trong hoàn cảnh nào thì lời kêu gọi của Gioan Tiền Hô vẫn là một lời khẩn thiết, xin mỗi người hãy lắng nghe và thực hiện để kinh nghiệm được những ơn phúc của Mùa Vọng. Xin Chúa cho tất cả chúng ta đều thay đổi, đều đổi mới từ tư tưởng tới hành động để trở thành những con người mới thực sự.
46. Dọn đường Chúa đến
Một lần nọ đang đi trên đường bỗng nhiên nghe tiếng còi hụ dữ dội phía sau quay lại thì thấy có một số người lái xe cơ động chạy tới. Những người này đi tới đâu thì mọi người đi trên đường đầu phải dừng lại và nép vào lề. Đang lúc ngạc nhiên thì tiếp theo một đoàn đua xe đạp chạy tới. Lúc đó tôi mới hiểu ý nghĩa của phái đoàn xe cơ động chạy trước. Những người đó đóng vai trò dọn đường cho đoàn đua xe đạp. Họ đi trước để dẹp đi những cản trở để đoàn đua xe đạp đi qua được dễ dàng.
Mỗi năm vào vọng chúng ta luôn được nghe lời kêu mời của Thánh Gioan Tẩy Giả là hãy dọn sẵn con đường cho Chúa đến. Và chính ông cũng đã và đang đóng vai trò ấy. Thiên Chúa rất muốn đến ở với từng người chúng ta. Muốn được Chúa đến với mình không cách nào khác từng người chúng ta hãy đóng vai trò dọn đường để Chúa đến với mình.
Dọn đường bằng cách lấp đầy những thung lũng, bạt những núi cao ấy và sửa lại những con đường quanh co hiện đang ở trong tâm hồn từng người chúng ta. Đó là những trở ngại khiến cho Chúa không đến được với ta. Những trở ngại ấy ở từng người không ai giống ai. Dù vậy, xin gợi ra một vài trở ngại mà chúng ta thường gặp.
Có khi tâm hồn ta đang gặp trở ngại bởi thung lũng ngăn cách tình người. Sự ngăn cách ấy có thể xảy ra giữa ta với bạn bè hay giữa ta với những người lối xóm. Có khi sự ngăn cách ấy lại xảy ra với chính những người thân thuộc hay chính trong gia đình ta. Có thể nói không gì đáng sợ cho bằng trong một mái nhà mà xảy ra chiến tranh lạnh. Khi đó chuyện ai nấy làm không ai thèm ngó ngàng tới ai. Thậm chí còn có những thái độ và lời nói xúc phạm đến nhau.
Có khi ta lại gặp trở ngại bởi những lời nói và cách sống gian dối. Có lẽ vì ích kỷ và chỉ muốn mọi cái có lợi cho mình nên chúng ta bất chấp tất cả. Chúng ta tìm mọi cách luồn lách và lừa gạt nhau
Có khi tâm hồn ta đang gặp trở ngại bởi núi đồi kiêu căng. Kiêu căng từ trong suy nghĩ đến việc làm. Sự kiêu căng ấy thể hiện ở chổ tự cho mình là nhất và không coi ai ra gì. Nguy hiểm hơn, thái độ này ta lại đem áp dụng với cả Thiên Chúa. Ta xem Thiên Chúa như vị thần tài hay như một nô lệ để ta sai khiến. Ta bắt Chúa phải ban ơn theo ý của mình. Đến khi không được thì đâm ra chán nản rồi bỏ Chúa, bỏ đạo. Đây là thái độ hết sức nguy hiểm.
Như vậy, chắc ai trong chúng ta cũng mong muốn đại lễ Giáng sinh sẽ đem lại niềm vui cho họ đạo và cho gia đình chúng ta. Một niềm vui không chỉ là không khí từng bừng rộn rã bên ngoài mà niềm vui ấy mang tính cách chiều sâu trong tâm hồn. Vậy ngay từ hôm nay mỗi người chúng ta hãy đáp lại lời kêu gọi của Thánh Gioan:
Chúng ta hãy lấp đầy thung lũng ngăn cách bằng việc đến với nhau, quan tâm đến nhau và giúp đỡ nhau.
Chúng ta hãy sửa lại cách sống gian dối bằng cách sống thật với mình và với nhau.
Chúng ta hãy bạt đi núi cao kiêu căng bằng cách sống khiêm tốn với nhau. Nhất là chúng ta hãy biết phó thác và tin tưởng vào tình yêu của Thiên Chúa. Chúng ta hãy biết làm theo ý Chúa chứ đừng bắt Chúa phải theo ý mình. Hãy nhớ Thiên Chúa không bao giờ bỏ ta.
47. Con đường…
(Suy niệm của Lm. Anphong Trần Đức Phương)
Có nhiều con đường khác nhau: có những ‘con đường cái quan’, có những con đường làng, có những con đường thành phố, có những đường mòn, có những con đường tắt..vv… Nhưng con đường nào cũng đưa ta tới một nơi nào đó. Con đường càng bằng phẳng, càng dễ đi.
Ngoài ra lại có ‘Đường Đời’ là con đường mọi người chúng ta bước đi trong cuộc sống từ khi chúng ta ‘mở mắt chào đời’ cho đến khi ‘nhắm mắt lìa đời.’
Rồi lại có con đường gọi là ‘Đường Thiêng Liêng’ là con đường ‘nội tâm’ mà mọi người sống âm thầm không ai nhìn thấy, chỉ ta và Thiên Chúa biết được. Đó cũng là con đường đưa ta đến Cuộc Sống Vĩnh Hằng.
Con đường thiêng liêng dẫn đến Cuộc Sống Vĩnh Hằng phải là con đường thẳng và bằng phẳng; không quanh co (như gian tham, dối trá, lừa đảo…), không gồ ghề (như kiêu căng, tự phụ, cố chấp…), không có những lũng sâu (như những đam mê tội lỗi, cờ bạc, rượu chè, dâm ô; hoặc lười biếng, ham chơi, thiếu sót bổn phận hàng ngày của mình).
Hôm nay trong Chúa Nhật II, Mùa Vọng (năm B), chúng ta thấy các bài đọc đều nói đến Con Đường. Đó là Con Đường Thiêng Liêng.
Bài đọc I (Isaia 40,1-5;9-11) là lời tiên tri Isaia nói đến tình trạng Dân Chúa thời đó đã phản nghịch cùng Thiên Chúa, đắm chìm trong tội lỗi, không phương cứu thoát; nhưng Tiên tri Isaia nói: “Chúa là Đấng nhân hậu và hay thương xót. Ngài sẽ đến để cứu độ dân Ngài. Nhưng mỗi người phải sửa lại con đường của mình cho ngay thẳng, cho bằng phẳng, và mỗi người sẽ nhìn thấy ơn Cứu độ cửa Thiên Chúa!”
Bài Phúc Âm (Maccô 1,1-8) nói đến sứ mệnh của Thánh Gioan Tiền Hô: Thánh Gioan được sai đến để kêu gọi Dân Chúa sám hối tội lỗi, sửa lại con đường thiêng liêng của mình, đến xin lĩnh nhận phép rửa thống hối, dọn đường đón Chúa Cứu Thế đang đến gần.
Bài đọc II (2 Phêrô 3,8-14), nhắc lại tư tưởng của Chúa Giêsu trong Chúa Nhật tuần trước: Thiên Chúa nhẫn nại chờ đợi chúng ta sám hối để được ơn tha thứ; vì Chúa không muốn cho ai phải ‘hư mất’, nhưng cho mọi người được hưởng ơn cứu độ do Người mang đến. Miễn là chúng ta luôn phải sẵn sàng chờ đón Chúa đến lúc chúng ta không ngờ, qua cái chết của mỗi người. Ngày tận thế cũng đến vào lúc không ai ngờ được. Ngày đó sẽ thật khủng khiếp, mọi sự sẽ tan biến, “các tầng trời sẽ sụp đổ!” Nhưng với những tâm hồn luôn ăn năn sám hối, luôn sống sẵn sàng,thì ngày đó sẽ là ngày đưa đến “một Trời Mới Đất Mới, nơi Công lý ngự trị!’
Chúng ta cùng nhau đi trên đường đời, và chúng ta cùng
cầu nguyện cho nhau, nâng đỡ nhau trong cuộc sống như những tín hữu của Chúa trong gia đình Giáo Hội, và trong gia đình riêng (giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái). Tuy nhiên mọi người đều phải đi con đường đời của mình, trách nhiệm con đường của mình. Không ai có thể đi thay con đường của chúng ta. Các vị chủ chăn Chúa sai đến giữa chúng ta đều có trách nhiệm, như Isaia, Gioan Baotixita… kêu gọi, thúc đẩy và giúp chúng ta “sửa đường Chúa cho ngay thẳng.” Tuy nhiên, các vị đó cũng không thể đi thay con đường mà mỗi người chúng ta phải đi!
Vậy trong tinh thần sám hối ăn năn tội lỗi và sửa đổi cuộc sống, hàng ngày vào mỗi buổi tối, trước khi đi vào giấc ngủ ban đêm, chúng ta hãy cầu nguyện và ‘xét mình’ để nhìn thấy con đường của mình trong một ngày qua như thế nào, để tạ ơn Chúa đã qua một ngày tốt đẹp, và xin Chúa tha thứ và giúp chúng ta sửa đổi lỗi lầm, để ngày hôm sau chúng ta sẽ khá hơn: “Tân Nhật Tân!” Ngày hôm nay ta sẽ cố gắng khá hơn ngày hôm qua và ngày mai sẽ khá hơn ngày hôm nay!
Con Đường Thiêng Liêng của mỗi người chúng ta có nhiều khó khăn, đòi hỏi những cố gắng hằng ngày, kể cả lòng kiên nhẫn mỗi khi trượt chân sa ngã. Chúng ta hãy luôn ‘đứng dậy mà đi’ với niềm tin tưởng rằng Chúa đã chết để cứu chuộc chúng ta; Chúa Thánh Thần luôn soi sáng, phù trợ chúng ta; ngoài ra, Mẹ Maria và các Thánh, Thiên thần bản mệnh luôn đi với chúng ta và nâng đỡ chúng ta; miễn là chúng ta biết dơ tay lên và cầu khẩn “Lạy Chúa, xin hãy tỏ lòng nhân từ của Chúa cho chúng con và ban ơn cứu rỗi cho chúng con!” (Đáp ca).
48. Hãy dọn đường - Mark Link
Chủ đề: “Mùa vọng là thời gian để trở về với những gì nền tảng và đặt Đức Giêsu Kitô lên hàng đầu trong cuộc đời ta”.
Trong cuốn “Nội lực nơi bạn” (the power within you), Pat William ở tiểu bang Philadelphia có kể một câu chuyện đặc biệt sau đây:
Năm 1980, vào một buổi trưa Chúa nhật nóng bức, một bệnh nhân trẻ bị chứng tê liệt não bộ tên là Cordell Brown đang đi bộ đến câu lạc bộ quán quân thế giới Philadelphia Phillies. Cordell bước đi hết sức khó khăn, nói năng cũng rất là khó. Ăn uống đối với anh là một bổn phận hết sức nặng nhọc. Khi thấy Cordell tới, nhiều người quay mặt đi đàng khác, hoặc cố tình không nhìn thấy anh. Đó là cách phản ứng của một số người trong hội Phillies khi thấy Cordell đi tới câu lạc bộ.
Cordell làm gì trong câu lạc bộ Phillies vậy? Anh được mời tới đó để nói chuyện với những tay ăn chơi trong một buổi nói chuyện tại nhà nguyện câu lạc bộ.
Cordell có thể nói gì với những ngôi sao màn bạc như Steve Carleton và Mike Schmit, những người sống rất xa cách với thế giới đau khổ và dị tật của anh?
Một vài người trong hội Phillies cũng tự hỏi như thế khi họ ngồi xuống để chuẩn bị nghe anh nói. Cordell bắt đầu bằng cách làm sao cho các tay ăn chơi đó cảm thấy thoải mái dễ chịu. Anh nói: "Tôi biết rằng tôi rất là khác biệt với các bạn". Rồi anh trưng đoạn thư Thánh Phaolô (1Cr. 15,10): nhưng nhờ ơn của Thiên Chúa mà tôi được như thế này.
Suốt 20 phút kế đó, Cordell đã nói về lòng nhân hậu của Thiên Chúa được thể hiện trong cuộc sống của anh. Anh kết luận bằng cách trả lời cho câu hỏi này: Anh có thể nói gì với những siêu minh tinh nổi tiếng như Steve Carleton và Mike Schmit, là những người sống hết sức xa cách với thế giới của những người đau khổ tật nguyền như anh?
Cordell nói một cách rất duyên dáng: "Bạn có thể thành công suốt cả cuộc đời, và lãnh cả triệu đôla mỗi năm, nhưng khi ngày giờ đến, ngày mà người ta đóng nắp hòm quan tài của bạn lại, thì bạn sẽ chẳng khác tôi chút nào. Đó là lúc mà mọi người chúng ta đều y như nhau. Tôi không cần tới những gì các bạn đang có trong cuộc sống, nhưng có một điều tôi chắc chắn rằng: các bạn cần một điều mà tôi đang có, đó là Đức Giêsu Kitô".
Tôi thích câu chuyện này vì hai lý do:
Trước hết, nó nói cho chúng ta về Mùa vọng. Nó mời gọi chúng ta trở về với những gì nền tảng. Nó mời chúng ta tự hỏi chính mình xem: Cái gì thực sự là quan trọng đối với chúng ta? Nó mời chúng ta nhìn vào những cái chúng ta phải coi là ưu tiên trong cuộc đời mình. Nhất là nó hỏi chúng ta xem Đức Giêsu Kitô có phải là ưu tiên số một trong cuộc đời của chúng ta hay không?
Và điều này dẫn chúng ta tới điểm thứ hai về câu chuyện của Cordell Brown. Nó nói với chúng ta về những bài học Thánh Kinh ngày hôm nay.
Cả ba bài đọc đều nói nói về sự cần thiết phải dọn đường cho Chúa đến. Cả ba bài đọc đều nói rằng: chúng ta không sống đúng như cái mình phải sống, thì chúng ta phải chịu trách nhiệm về điều đó.
Nói cách khác, nếu chúng ta đi sai không đúng theo căn bản, thì những bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta hãy trở về với những cái nền tảng ấy.
Nếu chúng ta đặt công việc của chúng ta lên hàng đầu trước cả gia đình chúng ta, thì những bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta sửa chữa lại tình trạng ấy.
Nếu chúng ta đặt sự thành công lên trước tương quan cá nhân của chúng ta đối với Thiên Chúa, thì các bài đọc hôm nay kêu gọi chúng ta thay đổi thái độ đó.
Tại Tu viện Westminster ở Luân Đôn, có một nhà nguyện nhỏ tên là "nhà nguyện thánh Grêgôriô". Nhà nguyện này được xây lên để tưởng niệm những người dân Luân Đôn bị mất mạng vì máy bay oanh tạc thời đệ nhị thế chiến. Trong nhà nguyện có bốn cuốn sách lớn, trong đó có ghi tên 6.000 tên các nạn nhân cuộc không kích đó. Một cuốn mở ra và trên trang sách lấp lánh ánh sáng có ghi một số tên nạn nhân. Mỗi ngày người ta giở ra một trang để phơi ra một số những tên mới. Khi bạn nhìn và đọc cột tên dài ấy, bạn không sao biết được người có tên mà bạn đọc thấy nghèo hay giầu, da đen, da trắng hay da nâu, là Kitô hữu, là Do Thái hay là vô thần, gìa hay trẻ, đẹp hay xấu.
Lúc đó không còn có một khác biệt nào nữa. Lúc đó tất cả những gì xẩy ra đều tùy thuộc vào bản chất con người mà mỗi người tạo ra cho mình còn sống trên dương thế.
Câu chuyện của Cordell Brown và câu chuyện nhà nguyện Thánh Grêgoriô của Tu viện Westmister khiến chúng ta tự hỏi: chúng ta phải làm gì nếu chúng ta thấy mình đã không sống đúng như cách chúng ta phải sống? chúng ta phải làm gì nếu chúng ta nhận ra rằng chúng ta không chuẩn bị ngày giờ chết, hay chuẩn bị cho ngày Đức Giêsu tái lâm bất chấp ngày nào đến trước?
Dĩ nhiên câu trả lời là: chúng ta phải làm đúng những gì Gioan Tẩy Giả đã đề nghị cho dân chúng thời ông làm. Chúng ta phải sám hối, phải xin Thiên Chúa tha thứ những lỗi lầm của chúng ta. Chúng ta phải cải tà qui chánh và phải bắt đầu một cuộc sống mới. Đó là tất cả những gì Mùa vọng muốn nói đến. Đó là thời gian để chúng ta kiểm tra lại đời sống của mình và làm tất cả những thay đổi cần thiết trong đời sống.
Điều này đem chúng ta trở lại với câu chuyện đáng ghi nhớ của Cordell Brown và câu hỏi được nêu ra trong câu chuyện. Anh có thể nói gì với các siêu minh tinh như Steve Carleton và Mike Schmit, là những người sống hết sức xa cách với thế giới đau khổ tật nguyền của anh? và Cordell phải nói gì với bạn và tôi?
Cordell đã trả lời câu hỏi đó một cách duyên dáng:
"Bạn có thể thành công suốt cả cuộc đời, và lãnh cả triệu đôla mỗi năm, nhưng khi này giờ đến, ngày mà người ta đóng nắp quan tài của bạn lại, ngày đó bạn sẽ chẳng khác gì tôi chút nào. Đó là lúc mọi người chúng ta đều y như nhau. Tôi không cần tới những gì các bạn đang có trong cuộc sống, nhưng điều duy nhất tôi chắc chắn là: các bạn cần cái tôi đang có, và đó chính là Đức Giêsu Kitô".
Để kết thúc, chúng ta hãy thưởng thức một bài thơ cổ, nói về cuộc đời này chóng qua thế nào và điều gì quan trọng vào giây phút cuối cùng:
" Khi tôi là một đứa trẻ, tôi cười và khóc, thì lúc đó thấy thời gian bò tới.
" Khi tôi là một thanh niên, tôi táo bạo hơn, thì thấy thời gian đi bộ.
" Khi tôi trưởng thành, tôi là một người chững chặc, thì thấy thời gian chạy.
" Cuối cùng khi tôi bước vào tuổi chín mùi, thì thấy thời gian bay.
" Chẳng bao lâu nữa là tôi chết, lúc đó thời gian đã đi mất.
" Ôi lạy Chúa Giêsu, khi cái chết đến, thì ngoài Ngài ra, không còn gì là quan trọng nữa.".
49. Thay đổi
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Gioan Tẩy Giả là vị Tiền Hô của Đấng Cứu Thế. Ngài đã sống và thi hành sứ mạng của ngài thế nào? Ngài sống rất khổ hạnh từ buổi thiếu thời: y phục chỉ có một áo choàng bằng da lạc đà, là một kiểu áo hãm mình mà các ngôn sứ xưa thường dùng, ngang lưng thắt một dây da cho gọn ghẽ, còn của ăn lại càng bấp bênh hơn nhờ vào “may rủi”, là ăn châu chấu độn với mật ong rừng. Gioan ăn mặc như thế mà đi rao giảng khắp vùng Giu-đê, Ga-li-lê và quanh sông Gio-đan. Bấy giờ mùa màng vừa gặt hái xong, thời vụ mới cũng chưa tới, nên dân chúng rảnh rang kéo nhau đến rất đông để nghe ngài giảng, cả những người lãnh đạo cũng sai người tới hỏi ngài là ai? Ngài chỉ mượn lời ngôn sứ I-sai-a để trả lời: tôi không là ai cả, chỉ là tiếng kêu trong hoang địa, có bổn phận dọn đường cho Đấng Cứu Thế.
Thực vậy, ngài làm phép rửa và rao giảng kêu gọi mọi người thay đổi đời sống để đón Đấng Cứu Thế đến. Phép rửa của Gioan, xét về hình thức thì giống như phép rửa của đạo Do Thái, là dìm mình ở nước sông Gio-đan, để từ bỏ ngoại giáo và dứt khoát trở về tôn thờ Thiên Chúa. Nhưng phép rửa của Gioan có một hướng mới, khác hẳn đạo Do Thái, là hướng về luân lý, dùng công bằng, bác ái, chân thật để sửa soạn cho nước Đấng Cứu Thế. Vì vậy, phép rửa của Gioan chuẩn bị cho phép rửa của Chúa Giê-su, giúp người ta sám hối, sửa soạn cho việc tha tội. Cho nên, phép rửa của Gioan không phải là một bí tích, nghĩa là không tự động tức khắc tha tội.
Đàng khác, cùng với việc làm phép rửa, Gioan Tiền Hô còn giảng dạy, kêu gọi mọi người hãy thay đổi đời sống để đón nhận Đấng Cứu Thế: “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng”. Điệp khúc rao giảng của ngài là hãy ăn năn sám hối, lời giảng của ngài làm chấn động mọi tầng lớp, mọi thứ người, từ lớp rắn lục trở xuống, nghĩa là những người có chức quyền, nhưng lươn lẹo, cố chấp, cả vua Hê-rô-đê cũng bằng lòng nghe ngài giảng. Sử gia Phơ-la-vi-ô đã ghi nhận: “Gioan có ảnh hưởng sâu đậm trên quần chúng, đến nỗi họ sẵn sàng làm bất cứ điều gì ông dạy bảo, hết mọi hạng người đến gặp ngài để xin ngài chỉ dạy cách phải sống”.
Đối với chúng ta ngày nay, lời kêu gọi “hãy ăn năn sám hối” của Gioan phải chăng đã nhàm chán và lỗi thời? hoặc trong hoàn cảnh hiện tại của chúng ta, lời kêu gọi hãy thay đổi đời sống của Gioan phải chăng không còn cần thiết? Nhàm chán thì có nhàm chán thật, vì lúc nào chúng ta cũng nghe lặp đi lặp lại những lời khuyên đó hoặc những lời tương tự như hãy tu thân tích đức, đừng kiêu ngạo, đừng gian tham, đừng bất công, đừng sống phản bác ái, lỗi tình thương… Nhưng còn lỗi thời thì sao? có lỗi thời không? Có thể nói, ngày nào còn con người là còn luân lý, còn giáo dục, còn khuyên răn, và bao lâu còn tội lỗi, còn tranh chấp, còn tệ đoan, còn tiêu cực, thì còn phải sửa chữa, phải thay đổi để trở nên tốt hơn, và như vậy lời kêu gọi của Gioan vẫn mãi mãi cần thiết, không bao giờ lỗi thời.
Tất cả chúng ta đều biết: bước đầu tiên để kiến tạo một xã hội, một thế giới tốt đẹp, là con người phải hiểu rõ “cái tôi” của mình, từ đó mới làm chủ được bản thân và cùng hòa nhịp vào cuộc sống với mọi ngưới, đúng như quan niệm từ ngàn xưa của Khổng Tử: “Thành ý, chính tâm, tu thân” rồi mới “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Con người sống trong xã hội có ảnh hưởng hỗ tương và liên đới trách nhiệm với nhau rất mật thiết, một con én không làm nên mùa xuân, nhưng một phần tử xấu cũng đủ làm hư hỏng một gia đình và cả xã hội, “con sâu làm rầu nồi canh” là như thế.
Vì vậy, mỗi Mùa Vọng chúng ta lại có dịp xét mình, kiểm điểm đời sống, cách suy nghĩ qua lời kêu gọi của Gioan Tiền Hô, để cải thiện đời sống mỗi ngày thêm tốt đẹp hơn. Nói khác đi, chúng ta cần phải thay đổi cách sống và lối suy nghĩ không phù hợp với lời Chúa hay không đúng với lương tâm và lương tri của mình.
Trên đời này có cái gì không thay đổi chăng? có người nói chơi: chỉ có chữ “thay đổi” là không thay đổi mà thôi, nghĩa là cái gì trên đời này cũng thay đổi. Thế giới này có nhiều sự thay đổi, và có những cái thay đổi ảnh hưởng tới chúng ta, nhưng cái cần thiết nhất là lòng chúng ta phải thay đổi. Khi lòng mình được thay đổi thì mọi sự sẽ được đổi thay. Chúng ta đừng mong ngoại cảnh thay đổi lòng mình, chính lòng chúng ta phải được thay đổi trước đã thì ngoại cảnh mới thay đổi theo, như câu chuyện sau: có một cụ già kia sống giữa hai gia đình: một gia đình làm nghề thợ rèn và một gia đình làm nghề thợ mộc, cả hai gia đình này gây tiếng động ồn ào suốt ngày. Cụ già không chịu được, năn nỉ họ đổi đi nơi khác, nhưng họ cứ nhùng nhằng mãi, sau cùng họ đồng ý đổi đi, họ đổi đi đâu? họ đổi nhà cho nhau, như vậy cụ già kia chẳng được gì. Muốn thay đổi, chính cụ phải thay đổi, chính cụ phải dọn nhà ra đi.
Đàng khác, có người không muốn thay đổi gì hay chỉ ưa thay đổi tạm bợ và bằng lòng với phương pháp gọi là tu sửa ít phần trăm, có người lại sợ đổi mất cả cái ít phần trăm đó, vì thế, dù chúng ta đang sống trong hoàn cảnh nào thì lời kêu gọi của Gioan Tiền Hô vẫn là một lời khẩn thiết, xin mỗi người hãy lắng nghe và thực hiện để kinh nghiệm được những ơn phúc của Mùa Vọng. Xin Chúa cho tất cả chúng ta đều thay đổi, đều đổi mới từ tư tưởng tới hành động để trở thành những con người mới thực sự.
50. Hãy sám hối
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.)
Trong Mùa Vọng, các bài Tin Mừng nhiều lần nói đến Gioan Tẩy Giả, bởi vì đời sống và sứ mạng của ngài gắn liền với Đấng Cứu Thế. Ngài là vị ngôn sứ cuối cùng được Thiên Chúa chọn làm sứ giả đi trước mở đường và dọn đường cho Chúa Kitô. Cho nên, danh hiệu "Tiền Hô" và sự nghiệp của Gioan gắn liền với chương trình cứu chuộc của Chúa Giêsu, thậm chí không thể nào nói đến Chúa Giêsu mà không nhắc tới vị tiền hô của Người. Chính vì thế phụng vụ Mùa Vọng đã dành nhiều ngày nói đến Gioan. Cụ thể bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay và Chúa nhật tuần sau, đặc biệt đề cập đến ngài.
Ngài là con duy nhất của ông Da-ca-ri-a và bà Ê-li-sa-bét, sinh sống ở làng A-in Ka-rim, gần thủ đô Giêrusalem. Có thể ngài đã đi tu từ nhỏ trong hoang địa với những người phái Qum-ran, sống rất khổ hạnh: y phục chỉ có một áo choàng bằng da lạc đà, một kiểu áo hãm mình mà các ngôn sứ xưa thường dùng. Ngang lưng thắt một dây da cho gọn ghẽ. Còn của ăn là châu chấu độn với mật ong rừng. Ngài sống như vậy cho đến mùa thu năm 27, dưới thời hoàng đế Ti-bê-ri-ô thì xuất hiện công khai giảng dạy dân chúng ở miền nam Do thái, chung quanh lưu vực sông Gio-đan.
Nội dung lời giảng dạy của ngài được thánh Mát-thêu diễn tả rõ ràng: "Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần". Các sách Tin Mừng khác cũng cho thấy nội dung ấy một cách gián tiếp khi kể lại những lời kêu gọi và hoạt động "làm phép rửa sám hối" của ngài, chẳng hạn như Tin Mừng Mác-cô của Chúa nhật hôm nay.
Sám hối, theo tiếng Hy lạp có nghĩa là thay đổi não trạng. Theo tiếng Do thái là quay trở về, trở lại, tức là trở về với Chúa, với giao ước của Chúa. Gioan rao giảng kêu gọi mọi người sám hối. Ai nghe lời ngài giảng mà sám hối thì được ngài làm phép rửa. Nhưng phép rửa của ngài chỉ có tính cách giúp người ta thống hối, sửa soạn cho việc tha tội, chứ không phải là một bí tích như phép rửa Chúa Giêsu sẽ thiết lập sau này.
Như vậy, Gioan đã đối chiếu sứ mạng của ngài với sứ mạng của Đấng đến sau ngài, và ngài khiêm nhường tự nhận là không đáng cởi quai dép cho Đấng đó. Tóm lại, Gioan làm phép rửa bằng nước để giục lòng người ta sám hối. Còn Đấng đến sau làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần để tha tội cho người ta. Cho nên, rõ ràng Gioan chỉ là một vị tiền hô, một người đi trước, có bổn phận dọn đường cho Đấng Cứu Thế.
Đối với chúng ta hôm nay, nhắc đến Gioan Tiền Hô cũng có nghĩa là nhắc lại lời ngài đã giảng dạy, và cũng là nhắc nhở chúng ta: hãy sám hối, hãy thay đổi đời sống. Chúng ta đều đã biết sám hối là nhận ra những giới hạn thiếu sót và lầm lỗi của mình; là nhận ra những thiệt hại mình đã gây ra cho người khác; là nhận ra và quyết tâm dứt bỏ tình trạng cũ để bắt đầu một cuộc canh tân. Nhưng trước hết và trên hết, chúng ta phải hiểu sám hối là quay về với Chúa, tuyên xưng tình yêu thương và lòng nhân từ tha thứ của Chúa. Đây là diều Thiên Chúa mong muốn nơi chúng ta.
Về điều này, chúng ta hãy nhớ câu truyện thánh Giê-rô-ni-mô: vào một đêm Giáng Sinh kia, Giê-rô-ni-mô đang cầu nguyện trong một hang đá ở rừng vắng, ngài suy niệm về mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người. Đột nhiên Chúa Giêsu hiện ra hỏi ngài: "Giê-rô-ni-mô, con có gì làm quà cho Ta trong ngày sinh nhật của Ta không?". Ngài thưa: "Lạy Chúa, con xin dâng Chúa trái tim của con". Chúa nói: "Còn gì khác nữa không?". Ngài thưa: "Lạy Chúa, con mới dịch Sách Thánh xong, con xin dâng Chúa bản dịch công lao vất vả của con". Chúa nói: "Tồt lắm, con còn điều gì nữa không?". Ngài thưa: "Lạy Chúa, con còn gì nữa đâu?". Chúa bảo: "Còn sự yếu đuối và tội lỗi của con, con hãy dâng những thứ ấy cho Ta". Giê-rô-ni-mô hốt hoảng thưa: "Lạy Chúa, làm sao con dám dâng những cái ấy?". Chúa nói: "Được chứ, Ta muốn con dâng những cái đó cho Ta để Ta tha thứ cho con. Đó là điều Ta mong đợi".
Câu chuyện trên nhắc nhở: Chúng ta phải có tâm hồn sám hối để được Chúa tha thứ. Lòng nhân từ tha thứ của Thiên Chúa được biểu lộ tới tột đỉnh bằng việc ban tặng chính Con Một của Ngài. Chúa Giêsu chính là hiện thân của lòng tha thứ. Ngài đến trần gian để nhận lấy tất cả tội lỗi của loài người. Bởi vậy, chẳng có gì quá đáng khi nói: món quà Thiên Chúa mong đợi nhất nơi con người là tội lỗi của họ.. Vì Thiên Chúa chẳng muốn gì hơn là được thỏa mãn lòng nhân từ yêu thương của Ngài bằng việc tha thứ cho con người.
Dù chúng ta đang sống trong hoàn cảnh nào thì lời giảng dạy của thánh Gioan Tiền Hô vẫn là một lời khẩn thiết. Có thể nói: ngày nào còn con người là còn luân lý, còn giáo dục, còn khuyên răn; và bao lâu còn tội lỗi, còn tranh chấp, còn những tệ đoan, còn những tiêu cực...thì còn phải sửa chữa, còn phải thay đổi để trở nên tốt hơn. Xin mỗi người chúng ta hãy lắng nghe và thực hiện để kinh nghiệm được ơn lộc to lớn của Mùa Vọng năm nay.
51. Sứ vụ của Gioan – Lm FX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Có thể theo G. Gnilka mà coi Mc 1,1-15 là lời tựa hoặc mở đầu của Tin Mừng Máccô: phần này đăt trọng tâm vào “Tin Mừng” (x. cấu trúc đóng khung với từ “Tin Mừng” ở đầu và cuối đoạn). Như thế, đoạn văn 1,1-8 là đoạn mở đầu của Lời tựa này liên hệ đến hoạt động của Gioan Tẩy Giả trong hoang địa.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Danh hiệu của Tin Mừng (1,1);
2) Hoạt động của Gioan (1,2-6):
a) Câu trích Isaia xác định vai trò của Gioan (cc. 2-3),
b) Giới thiệu tóm tắt bản thân và hoạt động của Gioan (cc. 4-6);
3) Lời loan báo của Gioan (1,7-8).
3.- Vài điểm chú giải
- Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa (1): Câu này là tiêu đề của cc. 1-8 nói về công việc rao giảng của Gioan Tẩy Giả, hay là tiêu đề của phần Mở (cc. 1-15), hoặc của toàn tác phẩm? Phải chăng sứ vụ, cuộc Khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu chỉ là khởi đầu của Tin Mừng, và Tin Mừng sẽ được tiếp tục loan truyền nhờ sứ vụ của Giáo Hội? Thật ra, không có gì cho thấy rằng Mc coi hoạt động của Giáo Hội như một phần của Tin Mừng cả, y như thể Giáo Hội phải tự rao giảng về chính mình. Cứ theo nội dung của tác phẩm, ta thấy Tin Mừng mà Giáo Hội phải công bố chính là biến cố cứu độ đã xảy ra trước khi có Giáo Hội và đã khai sinh ra Giáo Hội, đó là sứ vụ của Đức Giêsu và cuộc Vượt Qua của Người.
Có thể nói c. 1 này là tiêu đề của phần Mở của Tin Mừng Máccô: hoạt động của Gioan, vị Tiền Hô loan báo và ban phép rửa cho Đức Kitô, trong hoang địa, là phần mở cho biến cố cánh chung (sứ vụ, cuộc đời đau khổ và cuộc tôn vinh của Đức Giêsu).
Từ ngữ “Tin Mừng”, được vay mượn từ Cựu Ước (x. Is 40,9; 52,7; 61,1…), được hiểu tương đương với lời loan báo tiên khởi (kêrygma) được triển khai rộng ra (x. Công vụ). Thế mà kêrygma của các Tông đồ (x. Cv 1,21t; 10,37; 13,24) cũng như TM Mc bắt đầu với sứ vụ của Gioan Tẩy Giả. Vậy chính mầu nhiệm này là “khởi đầu Tin Mừng” (x. cùng một kiểu diễn tả: Hôsê 1,2 ).
- Tin Mừng Đức Giêsu, Con Thiên Chúa: Phần Mở từ c. 1 đến c. 15: hai từ ngữ “Tin Mừng” đóng khung bản văn này. Kiểu nói “Tin Mừng Đức Giêsu Kitô” có thể hiểu là “Tin Mừng về [= có đối tượng là] Đức Giêsu Kitô” (thuộc-cách chỉ đối tượng, objective genitive), hoặc “Tin Mừng của [= đến từ] Đức Giêsu Kitô” (thuộc-cách chỉ chủ từ, subjective genitive), hoặc “Tin Mừng là chính Đức Giêsu Kitô” (thuộc-cách giải thích, epexegetic genitive; xem sự song đối giữa “vì Đức Kitô” và “vì Tin Mừng”: 8,35; 10,29; 13,9).
Dưới ánh sáng của biến cố Phục Sinh, các Kitô hữu đã hiểu Đức Giêsu là Đấng Mêsia, Con Thiên Chúa, theo nghĩa là Người không còn phải là Đấng Mêsia trần thế và dân tộc mà người Do Thái từng mong đợi, nhưng là Đấng huyền nhiệm, đã tỏ mình ra là “Đức Chúa” (x. Cv 2,36) và “Đấng Kitô” (4,26t; 10,38), qua biến cố Phục Sinh, nay ở vào tư thế có thể giải thoát mọi người khỏi Satan, tội lỗi, đau khổ và cái chết. Bây giờ khi đọc lại câu truyện trước Phục Sinh Mc viết ra, họ hiểu rằng tại hoang địa và qua cuộc sống công khai (với những cuộc trừ quỷ), Đức Giêsu đã khai mào chiến thắng bằng sức giải phóng ấy. Họ cũng hiểu rằng Đức Giêsu truyền lệnh giữ thinh lặng (“bí mật thiên sai”) là vì không muốn người ta hiểu lầm về tư cách và sứ vụ của Người: Phêrô đã hiểu sai nội dung danh hiệu Mêsia (x. 8,29-33); Người chỉ nhận là Con Thiên Chúa (14,61t) và kẻ đại diện cho thế giới ngoại giáo chỉ tuyên xưng Người như thế (15,39) vào lúc Người bị kết án và xử tử. Người ta chỉ có thể hiểu tất cả các danh hiệu của Đức Giêsu xuyên qua mầu nhiệm đau khổ của Người. Và các Kitô hữu cũng phải hiểu rằng họ chỉ có thể tuyên xưng Đức Giêsu thật là Đấng Kitô và là Con Thiên Chúa, bằng cách bước theo Người trên con đường đau khổ (x. 8,34; 10,35-45).
- Câu 2-6:
Phân đoạn này có lược đồ A-B-B’-A’:
A = cc. 2-3: mở đầu, trích các ngôn sứ,
B = c. 4: Gioan rao giảng phép rửa tỏ lòng sám hối.
Câu này song đối với câu sau,
B’= c. 5: đám đông đến với Gioan để thú tội và nhận phép rửa,
A’= c. 6: kết, nói đến kiểu sống của Gioan như là một ngôn sứ.
So sánh cc. 2-3 trích Ml 3,1 và Is 40,3 với Mt (3,3; 11,10), Lc (3,4-6; 7,27) và Ga (1,23), ta hiểu các tác giả Tin Mừng có chung một nguồn, nhưng Mc đã vừa thêm vừa tổng hợp câu truyện Gioan rao giảng với bài tường thuật của ngài về nhóm sứ giả, để làm nên một mở đầu long trọng và để có thể nêu bật ý tưởng này là khởi đầu Tin Mừng Cứu Độ đã được chính các ngôn sứ xác định nơi cuộc xuất hiện của Gioan Tẩy Giả.
Mc đã trích Ml 3,1a (… “mặt Ta”) dưới ảnh hưởng của Xh 23,20 LXX (“mặt Con”) để biến vị sứ giả thành tiền hô không phải của Thiên Chúa mà là của “Đức Chúa” (x. Ml 3,1b), là Đức Giêsu. Ngoài ra, hẳn là Mc cũng nghĩ đến đoạn cuối của sách Ml (3,23t): ngôn sứ Êlia có vai trò tiền hô.
Tác giả cũng sử dụng bản văn Is 40,3 (LXX) cùng với các tác giả Tin Mừng khác: “Đức Chúa” đây là Đức Giêsu Kitô, và “vạch lối cho thẳng để Thiên Chúa đi” được sửa thành “để Người đi”.
- đi trước mặt Con = đi trước Con.
- Gioan Tẩy Giả đã xuất hiện (4): Câu này với các câu trích ở trên chỉ là một câu duy nhất, được ngắt bằng dấu phết: “Chiếu theo lời đã chép …, ông Gioan Tẩy Giả…”. Những gì bây giờ được nói về Gioan thì làm ứng nghiệm các sấm ngôn, đặc biệt sấm ngôn Is 40,3: ông ở “trong hoang địa”, và tại đó ông “hô” để kêu gọi người ta hoán cải, mà “dọn sẵn con đường của Đức Chúa” (Đức Giêsu).
Gioan “rao giảng thanh tẩy hối cải, để được tha thứ tội khiên” (NTT). Đấy là hai hành vi tách biệt nhưng liên hệ với nhau, vì thế đã được diễn tả trong một công thức duy nhất.
- sám hối, metanoia: sự hoán cải, do động từ metanoeô, “suy tưởng sau”, “suy nghĩ tiếp đó”; “thay đổi ý kiến”; “hối tiếc”, “hối hận”, “hoán cải”. Đây là việc chuyển đi từ tình trạng này sang một tình trạng khác, tức là thay đổi trọn vẹn lối sống. Sự thay đổi này có một phương diện tiêu cực (bỏ [apo, from] con đường tội lỗi: x. Cv 8,22; Dt 6,1) và một phương diện tích cực (quay về [eis, epi, to] với Thiên Chúa: Cv 20,21; 26,20).
Trong Tin Mừng Máccô, danh từ metanoia được dùng 1 lần (1,4) và động từ metanoeô được dùng 2 lần (1,15; 6,12), như thế là ít hơn các TMNL khác (metanoia: Mt 2 lần, Lc 5x, Ga 0x, Cv 6x, Phaolô 4x, Dt 3x, 2 Pr 1x; metanoeô: Mt 5x, Lc 9x, Ga 0x, Cv 5x, Phaolô 1x, Kh 12x), nhưng lại có một cách áp dụng độc đáo. Tác giả áp dụng hai từ này cho hoạt động của Gioan Tẩy Giả (1,4), Đức Giêsu (1,15) và Nhóm Mười Hai (6,12), như vậy liên kết vị Tiền Hô, Đức Giêsu và các sứ giả của Người với nhau (xem một cách dùng tương tự cho hai động từ kêryssein [loan báo]: 1,4.7; 1,14.38t; 3,14 và 6,12; paradidonai [giao nộp]: 1,14; 9,31; 10,33; 13,9.11). Các từ đó lại luôn lệ thuộc động từ kêryssein, nghĩa là các từ đó chính là nội dung của sứ điệp các ông phải mang đi truyền bá.
- phép rửa tỏ lòng sám hối: Cụm từ Hy Lạp baptisma metanoias (thanh tẩy hối cải, x. Lc 3,3; Cv 13,24; 19,4): metanoias ở thuộc-cách (genitive) xác định đặc tính của phép rửa Gioan loan báo. Đây là một kiểu nói Sêmít, có nghĩa là “một phép rửa tượng trưng hoặc diễn tả sự hoán cải”. Cho dù Gioan có thuộc về phong trào Êxêni ở Qumrân hay không, phép rửa của ông tương tự phép rửa của người Êxêni, nhất là ở điểm cả hai phép rửa đều diễn tả một sự hoán cải nội tâm, sự hoán cải này vừa là hành vi của con người vừa là ân huệ của Thiên Chúa, cũng như chuẩn bị các tâm hồn đón tiếp Thiên Chúa sắp đến can thiệp vào thời cánh chung. Tuy nhiên, Gioan khác người Êxêni ở hai điểm: không nghĩ rằng tội lỗi gây nên một sự ô nhơ nơi thân xác; không buộc các hối nhân phải sống một năm thử thách; chỉ ban phép rửa một lần, vì đây là hành vi chuẩn bị cuối cùng để đón Đấng Mêsia ngự đến.
- Mọi người từ khắp miền Galilê và thành Giêrusalem (5): Máccô nhắm cho thấy mục tiêu của sứ vụ Gioan Tẩy Giả là khai mạc giai đoạn cuối cùng của Chương trình Thiên Chúa cứu độ loài người. Như thế, kiểu nói phóng đại (“toàn thể”, “khắp”) về miền Giuđê và Giêrusalem, kinh đô tôn giáo của Do Thái giáo, không phải là không có chủ ý, nhất là lại có quy chiếu về việc thanh tẩy Giuđa và Giêrusalem thể theo Ml 3,4 hoặc quy chiếu về sứ điệp vui tươi được ngỏ với Giêrusalem và các thành Giuđa thể theo Is 40,9t. Nay đã khởi sự biến cố cánh chung: câu hỏi phải đặt ra là không biết Dân Thiên Chúa có nhận biết chăng “Đức Kitô, Con Thiên Chúa” (c. 1) chính là “Đấng quyền thế hơn” (c. 7), Đấng mà Gioan đang dọn đường đón tiếp.
- kéo đến: Thì vị hoàn (imperfect) exeporeueto diễn tả chuỗi người liên tục kéo đến để nghe Gioan giảng và nhận phép rửa. Giới từ ek (out, of) muốn nói là ra khỏi miền Giuđê và thành Giêrusalem.
- Gioan mặc áo lông lạc đà… (6): ên.. endedymenos: trợ động từ eimi ở thì vị hoàn cộng với phân từ quá khứ của động từ chính endyô nói lên cách thức ăn mặc quen thuộc của Gioan. Ông được giới thiệu có cách sống như một con người của hoang địa, một nhà khổ hạnh, một na-dia (x. Lc 1,15), tương tự ngôn sứ Êlia (x. 2 V 1,8; Dcr 13,4).
Trichas kamêlou, “lông lạc đà”, không có nghĩa là “da” lạc đà. Đây là cái áo dài và rộng dệt bằng lông lạc đà. Zônê, “girdle, waitsband; ceinture”, không phải là dây thắt lưng của người Tây phương, nhưng là một thứ như cái “ruột tượng” của ta (x. Mc 6,8).
- Ăn châu chấu: Châu chấu luộc trong nước muối rồi nướng trên than và mật ong rừng là hai thứ lương thực của dân cư sa mạc. Vì bản văn không kể ra thứ lương thực nào khác, ta hiểu ở đây tác giả muốn nêu bật nếp sống khắc khổ của vị Tẩy Giả.
- Ông rao giảng (7): ekêryssen, do động từ Hy Lạp kêryssein, “công bố; loan báo”, ở thì vị hoàn, để diễn tả đây là một hoạt động thường xuyên của Gioan. Chúng ta đến đỉnh cao của đoạn văn này, bởi vì chỉ đến đây, Gioan mới lên tiếng mà chỉ cho thấy Đấng ông làm Tiền Hô cho.
- Đấng quyền thế hơn tôi: Có lẽ danh xưng này ám chỉ đến Is 40,10 (“Kìa Đức Chúa quang lâm hùng dũng [= đến với sức mạnh], tay nắm trọn chủ quyền”). Sự tương phản giữa hai bên lớn đến nỗi Gioan “không đáng cởi quai dép cho Người”, mà đây là công việc thấp hèn đến nỗi một nô lệ Do Thái cũng không buộc phải làm cho chủ (sách Mishna) (x. Mt 3,11; Lc 3,16; Ga 1,15.27.30; 3,30; Cv 13,25).
- trong Thánh Thần (8): Các bản văn Nhất Lãm song song (Mt 3,11; Lc 3,16) đọc là “trong Thánh Thần và lửa”. Có lẽ lúc đầu, câu này có hình thức là “gió và lửa” để mô tả biến cố Triều Đại cánh chung của Thiên Chúa ngự đến. Mc chỉ quan tâm đối lập nghi thức chuẩn bị của Gioan với việc thiết lập Nước Thiên Chúa nhờ hoạt động của Đức Kitô, mà không nói đến phán xét. Nhờ đó, Người đưa lại cho “phép rửa trong Thánh Thần” ý nghĩa tích cực là một cuộc tái sinh bên trong.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Danh hiệu của Tin Mừng (1)
Cả bốn quyển mở đầu bộ Tân Ước chỉ bắt đầu được gọi là “Tin Mừng” nhiều năm sau khi được viết ra. Vào thời tác giả Máccô, “Tin Mừng” không có nghĩa là một quyển sách, mà là “những tin vui” do một sứ giả mang đến. “Các tin mừng” là những tin về các chiến thắng, các biến cố may lành, các hiệp ước hòa bình và nhất là tin về các cuộc chào đời. “Các tin mừng” làm bừng lên những niềm hy vọng về một cuộc sống tiện nghi, sức khỏe, bình an, nên dân chúng vui sướng khi nghe được.
Mc 1,1 dùng từ ngữ “tin mừng” để giới thiệu “lời rao giảng của Kitô giáo”, cho chúng ta biết việc cứu độ và hạnh phúc không còn là kết quả của những tin vui về hoàng đế hoặc về một ai đó giống như hoàng đế, nhưng là kết quả đến từ lời rao giảng của Đức Giêsu, cũng là lời giảng về Đức Giêsu, cho thấy đã đến lúc Thiên Chúa can thiệp chung kết vào lịch sử loài người.
* Hoạt động của Gioan (2-6)
Câu trích tổng hợp Is, Ml và Xh (cc. 2-3) có mục đích xác định vai trò của Gioan trong quan hệ với Đấng Mêsia mà ta biết là chính Đức Giêsu. Nhưng một nét được nêu bật là Gioan không phải là vị Tiền Hô của Con Người sẽ đến, mà là của Đức Giêsu trần thế.
Còn cc. 4-6 giới thiệu tóm tắt bản thân và hoạt động của Gioan: ông loan báo phép rửa bày tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. Tác giả đặt đối lập phép rửa bằng nước của Gioan và phép rửa bằng Thánh Thần của Đấng Mêsia. Phép rửa bằng Thánh Thần liên hệ rõ ràng đến phép rửa tội Kitô giáo. Nói đến “để được ơn tha tội” là nêu một khẳng định liên hệ đến Thiên Chúa: Ngài sẵn sàng tha thứ các tội lỗi; nói đến “sám hối” là nêu một khẳng định về loài người: họ có tội và được dạy rằng Thiên Chúa tha tội cho họ. Sứ điệp của Gioan đưa đến cả nỗi sợ hãi lẫn niềm vui.
Dân chúng đã từ khắp nơi kéo đến (khắp miền Giuđê và thành Giêrusalem); tác giả không nói đến Galilê, vì theo ngài, hoạt động của vị Tiền Hô tập trung vào miền nam. Họ thú nhận tội lỗi: ta có thể nghĩ đến một hành vi tương tự mà các thành viên ở Qumrân làm vào lễ tái lập giao ước (1 QS 1,22–2,1) hoặc người Do Thái làm vào ngày Lễ Xá Tội.
* Lời loan báo của Gioan (7-8)
Tương hợp với câu trích Is nói về tiếng nói của người loan báo, hoạt động của Gioan được mô tả như là một việc “hô to [như anh mõ làng]”; “công bố”; “phổ biến” (kçryssein). Hành vi này đưa ông đến gần Đức Giêsu (1,14.38t), các môn đệ (3,14; 6,12), Tin Mừng (13,10; 14,9), các sứ giả đức tin (1,45; 5,20; 7,36). Cùng với sự đối lập giữa phép rửa của ông với phép rửa của Đấng Mêsia, ông loan báo “Đấng quyền thế hơn (= Đấng mạnh hơn [ông])” đang đến.
+ Kết luận
Đến đây, chúng ta đã có thể hiểu vì sao sứ vụ của Gioan lại là “khởi đầu Tin Mừng”. Bởi vì Tin Mừng là biến cố trước khi là sứ điệp. Qua vị Tẩy Giả, Thiên Chúa thực hiện các Lời Ngài hứa (cc. 2-3); Thiên Chúa thực hiện nơi Đức Giêsu, Đấng sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần (cc. 6-8). Như thế, sứ vụ của Gioan đã thuộc về biến cố cánh chung, biến cố này xảy ra khi Đức Giêsu bắt đầu rao giảng tại Galilê và các môn đệ rao giảng khắp tứ phương thiên hạ.
Gioan chỉ là một sứ giả “đi trước mặt” Đức Chúa (c. 2). Nhưng cũng chính ông có nhiệm vụ viết trang dẫn nhập vào Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa. Chính vì thế, “trong số phàm nhân lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả” (Mt 11,11).
5.- Gợi ý suy niệm
1. Chúng ta được mời gọi tin vào sự trung tín của Thiên Chúa: Ngài đã lên kế hoạch cứu độ, thì khi đến thời Ngài đã định, Ngài sẽ ban gửi các vị loan báo Tin Mừng Cứu Độ đến. Sứ điệp Gioan loan báo mang lại cả nỗi sợ hãi lẫn niềm vui, bởi vì ông nói cho họ biết rằng họ bị thất sủng, tương quan của họ với Thiên Chúa đã bị rối loạn, nhưng đồng thời ông khẳng định rằng Thiên Chúa đầy lòng thương xót đối với họ và Ngài muốn thắng vượt tình trạng thất sủng của họ. Đoạn văn này cũng cho thấy Ba Ngôi (Đấng xưng là “Ta”, “Đấng quyền thế hơn” và “Thánh Thần”) cùng làm việc để thực hiện công trình cứu độ.
2. Gioan không xác định tội ông nói đến là tội gì. Dĩ nhiên ông có thể hiểu ngầm rằng những người đang nghe ông biết các tội của họ. Từ sự hiểu biết này phát sinh ước muốn thú nhận các tội lỗi của mình (1,5). Tuy nhiên, tội căn bản là loài người không nhận biết Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên mình và là Chúa tể của mình, không tự hỏi về ý muốn của Thiên Chúa, nhưng muốn làm chúa tể của chính mình, đi theo những ý muốn của mình. Đặc biệt tội hệ tại việc không tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa vì các điều răn cho biết ý muốn của Thiên Chúa.
3. Người Kitô hữu cũng có một vai trò tiền hô đối với anh chị em mình. Muốn thế, cần xác định rõ ràng quan hệ của mình với “Đấng đang đến”, để khiêm tốn và trung thực giới thiệu về Người như là Đấng đã đang có mặt trong lịch sử loài người.
4. Vị Tẩy Giả nhìn người ta lên khỏi nước. Ông gạt đi các lời cám ơn và ca ngợi. Ông nói với họ về “Đấng quyền thế hơn”, Đấng sẽ ban cho họ Thần Khí của đời sống mới. Đời sống này sẽ khởi sự khi người ta nhận ra và đón tiếp Đức Kitô cùng với sự khôn ngoan của Người vào lòng. Họ đang ở tại bờ của một khởi đầu; họ cần sẵn sàng, khao khát, mở lòng ra.
52. Chú giải và suy niệm của Quesson
Hôm nay, chúng ta sẽ đọc trang đầu tiên của Tin Mừng theo thánh Maccô. Trong suốt năm phục vụ này, năm B, chúng ta sẽ đọc cách đặc biệt Tin Mừng Maccô.
Truyền thống thường giới thiệu Maccô như môn đệ của Phêrô. Vì thế trong trình thuật của ông, ta được nghe lại những kỷ niệm và giáo lý của vị tông đồ, đã từng mục kích Đức Giêsu. Người ta cho rằng: Tin Mừng này đã được soạn thảo tại Rôma, khoảng năm 70, và gửi cho một cộng đồng Latô gồm những người gốc ngoại giáo, chưa từng sống tại Palestine.
So sánh với ba Tin Mừng khác, Tin Mừng của thánh Maccô rất thực tế: đó là câu truyện của một người bình dân, có những nét gây thích thú. Nhưng ta đừng vội lầm, Maccô cũng là một nhà thần học, sẽ tỏ lộ cho ta cuộc khám phá dần dần của Phêrô. Suốt trong phần đầu, mọi người đều tự hỏi: “Đức Giêsu là ai!” Đức Giêsu thể hiện những hành động, nói những lời luôn đặt thành vấn đề. Nhưng thật lạ lùng. Người vẫn đặt “bí mật” trên con người mình. Mãi tới phần thứ hai của đời sống công khai, người mới từ từ thông tỏ về bản thân Người.
Khung cảnh địa lý Máccô sử dụng cũng mang tính thần học. Theo đó ông đề cao xứ Galilê, miền đất mở ngở và để đón nhận sứ điệp của Đức Giêsu, nghịch lại với Giêrusalem, thành phố luôn chối từ Đức Giêsu.. Hơn nữa đối với Maccô, biển hồ Galilê mang một ý nghĩa biểu tượng (Phêrô người thuyền chài, biết rõ từng vũng nhỏ trong hồ ông sinh sống!). Bờ hồ phía tây, là người Do Thái. Bờ hồ phía đông, là anh em dân ngoại Máccô có ý nhấn mạnh cho ta thấy, Đức Giêsu đang đi vào "miền đất ngoại giáo "... như thế khai mở "vùng truyền giáo" của Giáo Hội mà Tin Mừng ông muốn gửi tới.
Cuối cùng Tin Mừng của Maccô đượm vẻ "bi thảm”. Ba nhóm người được miêu tả trong đó. Trước hết đó là Đức Giêsu và các môn đệ của Người, luôn chung sống với nhau. Rồi tới đám dân chúng theo Đức Giêsu, nhưng không hiểu biết gì về Người. Sau hết, đó là các kẻ thù nghịch, ngay từ đầu chỉ xoi mói rình rập nhằm kết án Đức Giêsu.
Khởi đầu Tin Mừng.
Có lẽ không phải là ngẫu nhiên mà lời đầu tiên của Tin Mừng theo thánh Maccô cũng là lời đầu tiên trong Bộ Kinh thánh: 'Khởi đầu trời và đất" (St 1,1). Thánh Gioan cũng sử dụng cùng một từ đó, cũng bắt đầu Lời tựa trong Tin Mừng của ông: “Khởi đầu vẫn có Ngôi Lời" (Ga 1,1). Còn Mát-thêu và Luca, cũng gợi lên thực tại của một khởi đầu này: “Đây là gốc tích Đức Giêsu Kitô " (Mt 1, 18; Lc 1 3). Như thế, cả bốn thánh sử đều gợi lên cho ta thấy, nhờ Đức Giêsu, chương trình của Thiên Chúa đã có một bước khởi đầu mới: Có thể nói, một cuộc tạo thành mới đang khởi sự. Và mỗi năm, Mùa Vọng bắt đầu, cũng là một dịp khởi đầu lại. Lạy Chúa, thế mà chúng con vẫn thích dừng chân tại chỗ để thốt lên: Đủ rồi, xin Chúa không ngừng ban lại cho chúng con tinh thần biết "khởi sự". Xin làm sống lại trong chúng con niềm hy vọng.
“Tin Mừng": Chúng ta quá quen thuộc với từ này. Nó dịch từ tiếng Hy Lạp “Evangélion”. Nhưng từ này không có ý diễn tả “một cuốn sách" hay một sự việc. Đó là Tin Mừng nước Thiên Chúa đã khơi sự trong con người của Đức Giêsu. "Tin Mừng”, đó là sự sống lại, là Phục sinh, là sự chiến thắng vĩnh viễn của sự sống? Tin Mừng phát xuất từ sấm ngôn của I-sai-a, khi ông loan báo cho những người bị lưu đày biết tình trạng khổ ái của họ sắp chấm dứt: “Hãy an ui, hãy an ủi dân Ta... Dịch vụ của nó mãn rồi. Hãy nhủ lòng cùng Giêrusalem, hãy công bố tội của nó được tha. Hãy lên núi cao, hỡi Sion, người loan Tin Mùng. Hãy gióng tiếng lên cho mạnh và loan báo: Kìa Thiên Chúa của ngươi đang đến... (Is 40,1-11). Tôi có tin tưởng như thế không? Đức tin của tôi có là một thứ gánh nặng, tôi phải vất vả đeo mang, hay là một Tin Mừng “Vui tươi”, “Tốt đẹp”, "Tuyệt diệu”.
Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, con Thiên Chúa.
Ngay từ dòng đầu của Tin Mừng, Máccô đã nói ngay nếu ông muốn bàn. Những “tước hiệu" trên đây của Đức Giêsu là chìa khóa khai mở toàn bộ trình thuật của ông. Những tước hiệu đó sẽ được lặp lại vào giây phút cuối đời; khi một người "dân ngoại" nhận biết Đức Giêsu chết trên thập giá: “Quả thật người này là con Thiên Chúa" (Mc 15,39). Đó là điều ta thường gọi là một thứ “hệ luận” theo kiểu nói “Xê-mít". Đó là kiểu cách văn chương nhằm biểu thị ý nghĩa sâu xa của một câu chuyện, mà toàn bộ "bao gồm" trong hai từ được lặp đi lặp lại từ đầu đến cuối.
Giêsu... trong ngôn ngữ Do Thái muốn nói lên "Thiên Chúa cứu độ " – “Yéshouah”. Đó là một từ quen thuộc, diễn tả tính cách nhân bản, lịch sử trần thế của con người Na-za-rét. Kitô.... trong ngôn ngữ Do Thái có ý nghĩa Đấng được “Đức Chúa xức dàu": “Meshiah" Tước hiệu này biểu lộ, Đức Giêsu chính là Đấng mà toàn dân ít-ra-en mong đợi, là con cháu nhà Đa-vít, là "Vua nước Thiên Chúa”.
Con Thiên Chúa... tước hiệu cuối cùng này, chỉ mang ý nghĩa trọn vẹn, lúc Chúa sống lại: Vào thời Maccô viết Tin Mừng, các Kitô hữu đã dùng kiểu nói mạnh này để tuyên xưng đức tin vào thần tính của Đức Giêsu.
Trong sách Ngôn sứ I-sai-a có chép rằng: “Này Ta sai sứ giả của Ta đi tnrớc Con, để dọn đường cho con đến". Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi".
Một lần nữa không phải ngẫu nhiên, mà Tin Mừng Máccô bắt đầu bằng một câu trích dẫn trong Cựu ước. Đức Giêsu không phải là một “sao băng" từ một hành tinh khác mà đến. Ngài được ghi tên trong tịch sử của một dân tộc Ngài được người ta "mong chờ', "loan báo”, "chuẩn bị"... Từ sau Công đồng Vatican, bài đọc Cựu ước mà ta đọc mỗi Chúa nhật, không phải là một việc làm mới lạ của Giáo Hội hiện nay. Các Kitô hữu tiên khởi, các tín hữu của Máccô, cũng như của Mátthêu, Luca và Gioan, đã từng đọc Kinh thánh Cựu ước... và ứng dụng cho Đức Giêsu. Còn chúng ta thìn sao? Chúng ta thường phàn nàn vì không gặp gỡ Thiên Chúa. Nhưng ta có coi Kinh thánh như phương thế tiếp gặp Chúa chưa?”
Ta làm gì để gặp gỡ Chúa? Ta có chuẩn bị con đường cho Chúa đến không? Mùa Vọng này có thể là một thời gian để ta suy niệm lại Kinh thánh.
Ông Gioan Tẩy Giả xuất hiện trong hoang địa, rao giảng kêu gọi dân chúng chịu phép rửa, tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. Mọi người từ khắp miền Giu-đê và thành Giêrusalem kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ tại sông Gio-đan.
Chúng ta đừng có mơ tưởng rằng, ta sẽ “gặp" được Thiên Chúa, chẳng- hạn như dịp Noen này, mà không cần phải “chuẩn bị" cho Người đến, không cần phải thanh tẩy, không cần phải làm việc để hoán cải thay đổi đời sống.
Chính Gioan Tẩy Giả không chút nể nang thính giả của ông. ông bảo họ: "Các ngươi phải thay đổi hoàn toàn nếp sống... Hãy trở lại!. Đó là ý nghĩa của từ “Metanoia" bản dịch là "hoán cải". Các người đã làm điều này sao? Giờ đây, hãy làm ngược lại. Điều xấu, điều ác mà các ngươi đã thực hiện, hãy chấm dứt ngay? Điều tốt lành như vậy mà sao các ngươi không làm, hãy bắt tay thi hành ngay đi! Phải thay đổi, cần thay đổi gấp!
Sắp tới lễ Noen rồi, mọi Kitô hữu lại được mời gọi lãnh nhận “bí tích giao hòa" để được ơn tha tội. Ngay từ bây giờ, tôi muốn chuẩn bị lãnh nhận, để nhờ bí tích đó tôi có một bước tiến đáng kể, trưởng thành và có trách nhiệm hơn. Và cũng như dân chúng xưa kia tuôn đến sông Giođan, tôi cần phải bắt đầu “nhận biết” tội lỗi mình, cách sáng suốt. Lạy Chúa xin mở rộng đôi mắt con.
Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng".
Đó là y phục tiêu biểu của những "người vùng hoang địa”, những con người du mục.
“Hoang địa"! Để tới đó theo sự lôi cuốn của Gioan Tẩy Giả, dân chúng phải rời bỏ một thế giới nào đó họ đang sống, để bước vào một thế giới khác. Lui vào "hoang địa" nghĩa là từ chối dễ dãi, tiện nghi. “Hoang địa" đó là vùng đất mở tới rất xa, là nơi không thể nhận rõ dấu vết lộ trình, là tiếng mời gọi ta dấn thân mạo hiểm? “Hoang địa" đó cũng là nơi cô tịch và yên lặng: Mời gọi ta hướng đến cuộc gặp gỡ nội tâm? ở đây ta không thể vui chơi giải trí hay lánh ẩn để kiếm tìm những việc bề ngoài, những điều xem ra giả tạo mà là nơi con người gặp lại bản thân, đối mặt với chính mình, trong tình trạng bị bóc lột trần trụi. Trong tư thế lột xác và thinh lặng này, Thiên Chúa mới có thể làm cho ta nhận ra tiếng Người: Đó là lời mời gọi ta nhận ra thực tại của bản thân, khi các mặt nạ đã được trút bỏ, trong tiếng Nga, từ “hoang địa" được dịch là “poustinia”. Và luôn luôn có những người nam cũng như nữ lui vào trong “poustinia" của họ: Cuộc gặp gỡ giữa họ với Thiên Chúa sẽ mang tính chất nào, đều phụ thuộc vào giá trị này cả. Tôi có lợi dụng Mùa Vọng này, để tạo cho mình một thời gian chính thức sống cô tịch không?
Ông loan báo: "Có một Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi. Tôi không đáng cúi xuống cởi dép cho người. Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần".
Gioan Tẩy Giả chỉ hiện diện tại đó để tiến dẫn một kẻ khác, một người nào đó chưa được gọi tên: “Đấng đang đến"... Đấng quyền năng nhất"... “Đấng xứng đáng nhất!... Đấng dìm trong Thánh Thần”... Nếu ta quyết định hoán cãi Thiên Chúa sẽ không là người phong kiến ngoại cuộc: Người sẽ dìm chúng ta trong Thần Khí của Người.
*******
THÁI ĐỘ CẦN CÓ ĐỂ ĐÓN NHẬN CHÚA
Charles Lamb là một văn sĩ nổi tiếng của nước Anh vào thế kỷ thứ 18. Buổi tối nọ, năm sáu văn sĩ khác tụ họp ở nhà ông để thảo luận về các đề tài văn chương. Bỗng nhiên, có người đặt vấn đề: Chúng ta sẽ làm gì nếu được gặp gỡ các danh nhân thế giới trong các thời đại đã qua. Có người gợi ý:
- Nếu giờ đây Dante bước vào phòng này?
- Giả như đêm nay có Shakespeare cùng tham gia thảo luận với chúng ta?
Charles Lamb hô to: - Tôi sẽ hân hoan giơ tay đón tiếp các vị như các hoàng đế của tư tưởng.
Cuối cùng một người nói:
- Còn nếu bây giờ Đức Kitô bước vào phòng này?
Charles Lamb nghiêm nét mặt nói:
- Dĩ nhiên tất cả chúng ta đều quỳ xuống.
Đó là thái độ đúng đắn để tiếp đón Chúa Kitô. Người khác với mọi danh nhân trong lịch sử, vì Người là Thiên Chúa.
Chúng ta vừa nghe thánh sử Maccô mở đầu sách Tin Mừng Đức Giêsu Kitô. Đây là một câu chuyện, nhưng là một câu chuyện đem lại ơn cứu độ. Tuy nhiên để đạt hiệu quả mong muốn chúng ta phải chuẩn bị cho mình một thái độ đặc biệt để tiếp nhận câu chuyện về Đức Kitô cùng với những lời truyền dạy của Ngài.
Đầu tiên, Đức Kitô là Thiên Chúa. Người tới trần gian như một biến cố quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại. Câu chuyện bắt đầu bằng những từ ngữ trang trọng giống như những lời khởi đầu toàn bộ Kinh Thánh: “Khởi đầu của Tin Mừng…”
Câu chuyện về cuộc đời Đức Kitô bắt đầu bằng lời ngôn sứ Isaia: “Có tiếng kêu nơi hoang mạc: Hãy dọn đường cho Chúa”. Đức Kitô xuất hiện muộn màng trong lịch sử, nhưng Người chính là trung tâm của lịch sử, toàn bộ Cựu Ước cốt chuẩn bị cho nhân loại đón tiếp Người. Trước khi tới trần gian, Người đã hiện diện với tư cách Thiên Chúa, nhưng chỉ khi nhân loại được dọn dẹp, được dạy dỗ, được huấn luyện bằng các biến cố lâu dài, bằng những lời mặc khải cặn kẽ, lúc ấy con người mới có đủ khả năng và tư cách tương đối xứng đáng đón nhận Chúa.
Sau khi được chuẩn bị bằng cả chiều dài lịch sử, Gioan Tiền Hô dạy chúng ta dọn dẹp chính tâm hồn mình bằng thái độ thống hối ăn năn. Nếu không cải thiện, không đổi mới hoàn toàn, ta sẽ chẳng bao giờ gặp được Đức Kitô. Để đón mừng Chúa trong lễ Giáng Sinh, chúng ta phải đổi mới ngay từ bây giờ. Những việc xấu đã từng làm phải ngưng lại. Những việc thiện còn chần chừ ngần ngại phải sẵn sàng bắt tay làm ngay.
Dọn lòng trí đón tiếp Chúa với thái độ của một người hành trình qua sa mạc. Bỏ hết xa hoa hào nhoáng, từ chối cao lương mỹ vị, sẵn sàng chay tịnh và ăn mặc đơn sơ nghèo khó.
Khi đó chúng ta mới có thể gặp được Chúa và con đường theo Chúa mới thực sự là một Tin Mừng chứ không phải một gánh nặng. Vì một khi chúng ta đã cố gắng hết sức, Chúa sẽ ban phép rửa bằng Thánh Linh, chúng ta sẽ được tràn đầy sức mạnh và hân hoan.
Xin Chúa ban Thánh Thần cho chúng con. Nhờ Người, tâm tư tình cảm chúng con được đổi mới, cũng nhờ Người, chúng con tích cực chuẩn bị đón Chúa bằng cách nghe, suy niệm và thực thi lời Chúa dạy bảo.
53. Theo gương Gioan, hãy dọn đường cho Chúa đến.
(Suy niệm của Phêrô Hà Anh Tiến, OP)
Bài Tin Mừng hôm nay Thánh sử Marcô thuật lại việc Chúa Kitô đến loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa rằng: đã đến giờ Thiên Chúa thực hiện công trình cứu độ là giải thoát nhân loại khỏi tội lỗi, và kéo nhân loại về với Chúa Cha. Tin Mừng mà các Tiên tri loan báo, dân Israen đang mong chờ ngày được thực hiện. Dân Israen biết rằng Đấng Thiên Chúa sai đến thực hiện là Đức Kitô.
Thánh Marcô còn cho chúng ta biết Đức Kitô, Con Thiên Chúa đã đến và cũng cho biết Thiên Chúa đang sử dụng những tháng ngày sau cùng của chương trình Cựu Ước là sai Tiên tri loan báo để dọn đường cho Chúa Kitô xuất hiện.
Vị Tiên tri sau cùng của Cựu Ước là thánh Gioan Tẩy Giả được thánh sử mô tả, giới thiệu cho chúng ta biết chân dung khổ hạnh của người: mặc áo lông lạc đà, thắt đai lưng bằng da thú, thức ăn là châu chấu và uống mật ong rừng. Sống tu trì, khổ hạnh nhiều năm trong sa mạc, bây giờ người xuất hiện trên dòng sông Gióc-đan miền Giê-ri-cô, nơi chỗ nước cạn gọi là Bêthabara, giảng dạy cho dân về sự thống hối – sự ăn năn và kêu gọi dân chúng quay trở về với Chúa. Nhiều người đã chịu phép rửa của ngài.
Thánh Marcô nhấn mạnh đến việc rao giảng của thánh Gioan Tẩy Giả, là Đức Kitô sắp đến, uy quyền hơn thánh nhân; có giá trị cao vời đến nỗi thánh nhân không xứng đáng làm người đầy tớ, làm nô lệ, không đáng cởi dây giày cho Người. Đức Kitô sẽ đến thanh tẩy dân trong Thánh Thần.
Thánh Gioan Tẩy Giả kêu gọi dân chúng chuẩn bị đón Chúa Kitô đến, và Chúa Kitô đã đến thực sự làm ứng nghiệm lời Tiên tri Isaia đã loan báo. Này Ta sai thần sứ Ta đi trước mặt Người, dọn đường cho Người. Tiếng của người hô trong sa mạc: Hãy dọn đường Chúa, hãy bạt lối Người đi. Nếu Chúa Kitô không đến, thì lời rao giảng của thánh Gioan trở nên mơ hồ. Vì thế, công việc chính của thánh Gioan, mục đích chính của cả cuộc đời thánh nhân là chuẩn bị và giới thiệu Chúa Kitô, cho dân biết phải thanh tẩy, phải từ bỏ đường tà và quay về với nẻo chính đường ngay, phải từ bỏ mọi chướng ngại là tội lỗi. Chuẩn bị tâm hồn để đón Chúa đến.
Ngày nay, tiếng nói của thánh nhân vẫn có giá trị, vẫn vang vọng lên mãi mọi nơi và được Hội Thánh nhắc lại trong Mùa Vọng - Mùa Chúa đến. Việc làm trước tiên của chúng ta là phải thống hối. Chúa sẽ đến với ta khi ta biết thống hối. Vì thế, chúng ta cần phải noi gương thánh Gioan trang bị cho mình những đức tính cần thiết như: từ bỏ xa hoa xét ra không cần thiết, khiêm nhường trước mặt Chúa và mọi người, sống yêu thương và phục vụ. Người nào sống xa hoa, phung phí tiền bạc, không đọc và suy gẫm Kinh Thánh, không có lòng khiêm nhường, chưa nói về Chúa cho người khác biết và chưa sống cuộc đời của thánh Gioan, thì cần phải xem lại bản thân. Hãy bạt cho bằng những gồ ghề nơi tâm hồn, hãy sửa cho thẳng những quanh co, gian dối, xảo trá, những bất công, bất hòa trong cuộc sống, hãy lấp cho đầy những hố sâu ngăn cách. Hội Thánh còn mong muốn chúng ta chẳng những nghe lời thánh Gioan, mà còn truyền lời thánh nhân lại cho mọi người. Vai trò của thánh nhân nay trao lại cho mỗi người chúng ta là:
“Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa lối cho thẳng để Người đi”.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, cuộc đời mỗi người chúng con đều có một con đường riêng biệt. Mỗi người theo con đường của mình để nhắm về cùng đích là Thiên Chúa. Nếu chúng con nhắm đúng đích, dấu chỉ con đường chúng con đi là ngay thẳng. Chỉ có con đường thẳng, nhắm đúng đích mới dẫn chúng con đến bến bờ hạnh phúc vĩnh cửu là Nước Trời. Lạy Chúa, bản tính chúng con được dựng nên thuở ban đầu tự nhiên hướng về con đường thẳng là: Chân-Thiện-Mỹ. Thế nhưng, nhiều khi chúng con bị lầm tưởng, chúng con bị mê hoặc bởi những cái đẹp giả tạo, cái thiện ảo tưởng nên chúng con nhắm không đúng đích, vì thế con đường chúng con đi trở thành quanh co và không đón nhận được ơn cứu độ.
Xin Chúa ban Thánh Thần của Người đến sửa lại con đường quanh co nơi tâm hồn mỗi người chúng con, để chúng con gặp được Đức Kitô là Đấng đem lại nguồn ơn cứu độ cho chúng con. Amen.
54. Sửa đường tâm linh cho ngay thẳng
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Trong Chúa Nhật I Mùa Vọng, mỗi người chúng ta được mời gọi hãy tỉnh thức để đón chờ Chúa đến. Sang Chúa Nhật II hôm nay, phụng vụ Lời Chúa nhắc nhở chúng ta phải chuẩn bị tâm hồn cho xứng hợp để đón chờ Đấng Cứu Thế đến. Một trong những công việc cụ thể nhất đó là sám hối. Sám hối là thay đổi não trạng cũ để thay vào đó một lối sống mới cho phù hợp với Tin Mừng. Sám hối còn là trở về với Chúa, biết nhận ra lỗi lầm cũng như thực trạng linh hồn của mình.
Tuy nhiên, sám hối như thế nào? Và phải chuẩn bị tâm hồn ra sao là điều mà phụng vụ hôm nay muốn nhắm tới?
1. Ý nghĩa Lời Chúa
Trước tiên, bài đọc I cho chúng ta thấy sứ vụ của tiên tri Isaia là an ủi dân chúng và loan báo cho họ về thời cứu rỗi do lòng thương xót của Thiên Chúa đã đến gần. Ngài sẵn sàng tha thứ cho dân, mặc dù trong quá khứ dân đã cứng đầu cứng cổ và phản bội Thiên Chúa bằng việc bất trung với Giao Ước.
Nay dân hối hận và đã đáp lại lời mời gọi của Isaia để sám hối, thanh luyện tâm hồn và quay trở về với Thiên Chúa. Họ đã biết lỗi của mình, và như thế, tin mừng cho họ chính là họ được hồi hương để về với tiền nhân và quê cha đất tổ. Thiên Chúa tiếp tục dẫn dắt dân như mục tử chăm sóc đoàn chiên, như gà mẹ ấp ủ con dưới cánh... Đây chính là cuộc xuất hành lần thứ hai của dân Israel.
Sang bài đọc II, thánh Phêrô đã an ủi để dân trung thành đón chờ Chúa đến. Tại sao vậy? Thưa vì họ nghĩ rằng Chúa sắp đến, nên họ chờ mong. Tuy nhiên, khi chờ đợi lâu, họ đâm ra chán trường, mệt mỏi, và điều đó làm cho họ thờ ơ với việc chuẩn bị đón Chúa. Tuy nhiên, thánh Phêrô mặc khải cho họ biết rằng: sự chậm trễ của Thiên Chúa là có lý do. Lý do chính yếu chính là việc Ngài kiên nhẫn chờ đợi để cho dân có thời gian sám hối, thay đổi đời sống hầu được cứu độ. Tuy nhiên, Chúa đến là điều chắc chắn, nhưng lại không biết ngày nào, giờ nào, nên phải tỉnh thức: “Trong khi mong đợi ngày đó, anh em phải cố gắng sao cho Ngài thấy anh em tinh tuyền, không chi đáng trách và sống bình an” (2 Pr 3,14).
Sang bài Tin Mừng, thánh Máccô cho thấy, Đấng mà các tiên tri loan báo chính là Đức Giêsu, Ngài chính là Mêsia, sẽ đến để cứu thoát dân Ngài, tuy nhiên, cần phải chuẩn bị tâm hồn cho xứng đáng để được ơn cứu độ do Ngài mang lại.
Lời mời gọi của Gioan Tẩy Giả cũng chính là lời mời gọi của Isaia trong thời Cựu Ước. Tuy nhiên, Isaia thì loan báo dân sẽ được hồi hương để được sống trong cảnh hòa bình, cũng như được hiện diện trên đất của cha ông. Còn Gioan Tẩy Giả thì loan báo về một trời mới đất mới là chính ơn cứu độ. Tuy nhiên, muốn được vào đó, cần phải thay đổi lối sống cũ, mặc lấy đời sống mới trong tư cách là con cái Ánh Sáng.
2. Sửa cho tốt con đường tâm linh
Lời mời gọi của thánh Gioan: "Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng". Con đường mà ngài nói đến đây chính là con đường tâm linh, con đường thiêng liêng. Con đường đó nó có tác dụng chính là việc nối liền đôi đầu. Một bên là ta và bên kia là Chúa. Muốn đến được với Chúa phải qua con đường này. Tuy nhiên, trên con đường ấy, nhiều khi có những lồi lõm, loằn ngoằn, làm cho chúng ta có nguy cơ bị đi lạc... Những con đường như vậy, nó trở thành những rào cản tâm linh, khiến chúng ta khó khăn trong việc gặp được Thiên Chúa là cùng đích của con đường là cuộc đời chúng ta.
Bổn phận của chúng ta chính là hãy làm cho con đường ấy trở nên dễ dàng bằng việc lấp cho đầy những hố sâu do những tham sân si của con người, gây nên như: tự ái, ghen ghét, tự ty, hách dịch, trưởng giả... hay những ham mê bất chính như: danh, lợi, thú... tất cả những thứ đó phải được khước từ, vứt bỏ hết, để con đường tâm linh được nhẵn nhụi, phẳng phưu....
Bên cạnh đó, chúng ta cũng phải uốn nắn con đường tâm linh sao cho thẳng để khỏi bị lầm đường lạc lối. Những cong queo đó chính là sự sự gian dối, xảo quyệt..., không thành thực, trốn tránh trách nhiệm, sống hình thức, không hồi tâm để biết mình và biết Chúa...
Cuối cùng, con đường gồ ghề chính là hình ảnh của những tâm hồn kiêu ngạo, huênh hoang, tự đắc. Lòng đầy dẫy những sự tàn ác độc địa, bất nhân, gây chia rẽ...
Cần thay vào đó bằng con đường chính trực, công minh. Con đường khiêm nhường, liên đới, hiệp nhất và yêu thương. Con đường của sự thật, công lý và bình an...
3. Hiểu và sống sứ điệp Lời Chúa
Có một bạn trẻ nọ, lúc còn sinh viên, anh ta sa đà vào con đường tội lỗi khi sống buông mình trong những thú vui thác loạn, tiêm trích, xì ke ma túy, lêu lổng việc học hành. Điểm đến của anh là các quán bar, những tụ điểm hành lạc. Tuy nhiên, một biến cố đến với anh là mẹ anh bị ung thư, và anh ta cũng chứng kiến cảnh nhiều bạn bè chết vì bệnh tật, sốc thuốc và đâm chém nhau. Lúc đó, anh ta hồi tỉnh và nghĩ về cuộc sống mỏng dòn nơi những người thân thiết nhất của anh. Được ơn Chúa giúp, anh ta can đảm từ bỏ con đường tội lỗi cũ để trở về với Chúa. Anh ta quyết định đi xưng tội, tập trung việc học hành và dành nhiều thời gian cho việc đạo đức. Cuối cùng Chúa đã nhận lời, ban cho anh được cải tà quy chính. Giờ đây anh đã trở thành người chồng trách nhiệm, người cha gương mẫu và là Kitô Hữu sốt sắng, đạo đức.
Thật vậy, cuộc vui nào rồi cũng có lúc tàn. Cuộc đời nào rồi cũng chấm dứt với cái chết. Điều quan trọng là biết điểm dừng và ý thức rằng: bên cạnh những hữu hạn này, chúng ta còn có một cuộc sống vĩnh cửu mai hậu. Tuy nhiên, muốn đạt được điều đó, hẳn chúng ta phải từ bỏ những thứ lỉnh kỉnh không tốt cho hành trình lữ thứ của mình. Cần có một cuộc sống lương thiện, thật thà, chân chính, khiêm nhường, bao dung...
Phụng Vụ Lời Chúa và câu chuyện trên đáng đáng để cho chúng ta suy nghĩ và noi gương trong việc sám hối, trở về với Chúa trong Mùa Vọng này.
Giờ đây, ngay trong giây phút này, mỗi người chúng ta hãy thành thật xin lỗi Chúa vì những thiếu xót của mình với Ngài và tha nhân, để tâm hồn chúng ta trở nên trong sáng, xứng đáng đón Chúa Giáng Sinh trong linh hồn chúng ta qua Bí tích Thánh Thể mà lát nữa đây chúng ta sẽ lãnh nhận.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sám hối để được ơn cứu độ. Amen.
55. Tìm gặp Chúa trong sa mạc tâm hồn
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
Phúc âm theo thánh Máccô bắt đầu bằng câu chuyện Gioan tiền hô, ngôn sứ cuối cùng trong thời Cựu ước. Sau một thời gian lâu dài vắng bóng ngôn sứ, thì dân Chúa lại có thể nghe tiếng Người qua miệng Gioan, một đại ngôn sứ vừa xuất hiện.
Sứ vụ của Gioan tiền hô đã được ngôn sứ Isaia loan báo cả hơn nửa thế kỉ về trước cho dân chúng, đang sống trong cảnh lưu đầy là cuộc giải thoát khỏi cảnh nô lệ đã gần đến. Ngôn sứ Isaia báo trước là người ta sẽ nghe thấy tiếng kêu trong hoang địa: Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Chúa; giữa đồng hoang, hãy làm một con đường cho ngay thẳng (Is 40:3). Thời đó giữa Ba-by-lon và Giêrusalem, chỉ có đường mòn cho lái buôn cưỡi lạc đà. Cho nên dân chúng được khuyến khích làm đường mòn rộng hơn, vì theo họ thì Đấng cứu thế sẽ đến với họ qua sa mạc.
Gioan tiền hô đến thực hiện lời ngôn sứ Isaia về việc dọn đường cho Đấng cứu thế. Gioan cắt nghĩa việc sửa đường cho Đấng cứu thế theo nghĩa thiêng liêng. Gioan bảo họ phải sửa đường cho ngay thẳng nghĩa là thanh tẩy tâm hồn bằng việc: Chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội (Mc 1:4).
Điều làm ta thắc mắc sơ khởi ở đây là tại sao lại rao giảng trong sa mạc? Tài liệu tình cờ được tìm thấy ở hoang địa Qumran và người ta tìm thấy dấu vết một tu viện Do thái thời Chúa Giêsu. Hội viên trong tu viện là tư tế, hay dân thường, không lập gia đình, sống khắc khổ, cầu nguyện và suy niệm hằng ngày và gom tài sản làm của chung theo lời tuyên thệ. Như vậy có thể ông Gioan tiền hô cũng thuộc nhóm này, rồi xuất hiện trong hoang địa để rao giảng.
Theo ý niệm Thánh kinh thì sa mạc có liên quan đến việc manh nha và bành trướng của đạo cũ, nghĩa là đạo Do thái. Chính trong sa mạc mà dân Do thái đã gặp được Chúa. Họ nghe tiếng Chúa gọi làm dân riêng và sửa soạn cho họ vai trò được chọn. Sa mạc là lối sống du mục của họ trong suốt bốn mươi năm trường trên đường tìm về đất hứa. Họ nhận thức được rằng họ được sinh tồn trong sa mạc là có bàn tay Giavê bảo vệ và nuôi dưỡng họ khi cần bằng manna, bằng chim cút, bằng nước do Giavê truyền cho Môsê dùng cây gậy đập vào đá cho nước trào ra. Trong sa mạc, họ được thử thách và sau cùng khi họ phản bội Chúa thì ngôn sứ Hôsê nhắc nhở cho họ là họ sẽ lại được đưa vào sa mạc để nghe Chúa nói với con tim họ (Hs 2:16). Như vậy thì đó là điều thích hợp để lời Chúa qua miệng Gioan tiền hô lại đến với họ trong sa mạc.
Trong Phúc hôm nay Gioan tiền hô sửa soạn cho Đấng Cứu thế đến bằng việc rao giảng phép rửa thống hối. Sứ mệnh của Gioan tiền hô thật là gay go. Trước hết ông ta phải sửa soạn cho sứ mệnh làm ngôn sứ bằng việc đi vào sa mạc để luyện chưởng linh thiêng bằng việc ăn chay cầu nguyện.
Điều thắc mắc thứ hai là ai sẽ vào sa mạc để nghe giảng, trừ khi giảng cho cào cào, châu chấu hay bọ cạp? Phúc âm hôm nay ghi lại là dân chúng từ các vùng làng mạc thôn xóm, cũng như từ Giêrusalem tuốn đến nghe Gioan giảng. Việc dân chúng tuốn đến, không những từ miền quê, mà còn từ đô thị để nghe Gioan trong sa mạc, chứng tỏ ông ta có sức lôi cuốn rất mãnh liệt. Không phải chỉ vì tò mò mà đến coi một nhân vật có vẻ kì dị trong cách ăn bận: ăn châu chấu, bận da thú vật (Mc 1:6). Dân chúng tuốn đến nghe ông giảng bởi vì lời rao giảng của ông có sức tác động làm thay đổi đời sống họ. Họ đáp lại sứ điệp thống hối bởi vì họ cảm thấy được lôi kéo vào thế giới thiêng liêng. Nghe giọng nói của nhân vật thủ vai Gioan tiền hô trong phim ảnh về cuộc đời Đấng Cứu thế, thấy tiếng ông ta cảnh giác dân chúng rống lên như con sư tử cái, trong thế nhảy chồm lên, rượt bắt mồi.
Sa mạc là nơi khô chồi, hoạ hiếm mới tìm được nước uống và sinh vật sồng. Trong sa mạc, người ta cảm thấy mình bé nhỏ, yếu thế, không có chỗ cho việc thỏa hiệp. Người ta phải làm quyết định nhanh chóng có liên hệ đến vấn đề sinh tử. Người ta phải lựa chọn giữa Thiên Chúa và chính mình. Như vậy vào sa mạc để nghe Gioan giảng có nghĩa là đối diện với chính mình, để hoán cải tâm hồn và sửa soạn đón chờ Đấng Cứu thế. Gioan nhận thức được sứ mệnh của ông là kêu gọi dân chúng ăn năn sám hối và chịu phép rửa. Dân chúng tuốn đến nghe ông bởi vì họ tin rằng ông rao giảng lời Chúa, chứ không thỏa hiệp, không nhắm làm vừa lòng, làm khoái tai người nghe. Vì thế khi nhận phép rửa thống hối, dân chúng cũng bắt đầu đổi mới đời sống.
Thắc mắc thứ ba là làm sao ta có thể bắt chước dân chúng trong Phúc âm, đi vào sa mặc để nghe sứ điệp sám hối, dọn đường cho Đấng cứu thế đến? Để gợi lên bầu khí sa mạc trong Thánh kinh, những trại huấn luyện huynh trưởng Thiếu Nhi Thánh Thể thường được tổ chức trong sa mạc hay trong rừng núi. Tên của mỗi khoá sa mạc được đặt theo ý niệm trong Thánh kinh như Sa mạc Ánh lửa, Lửa thiêng, Giêrusalem, Bêlem, Na-da-rét.. để khoá sinh dễ cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa khi học hỏi về Thánh kinh giữa cảnh thiên nhiên. Vào rừng cũng như vào sa mạc người ta có cảm tưởng dễ gặp nguy hiểm như bị lạc, bị dã thú tấn công hay không tìm được thức ăn và nước uống. Do đó người ta dễ bám víu vào Đấng cầm giữ sinh mạng.
Đối với đa số giáo dân thì điều mà ta có thể làm là tạo nên bầu khí sa mạc trong tâm hồn là nơi chỉ có Chúa và mình hiện diện. Nói như vậy có nghĩa là ta cần tìm những giờ phút thanh vắng, đơn độc để ở một mình với Chúa, để lắng nghe tiếng Chúa trong sa mạc của tâm hồn, để có thể tự giác và thức tỉnh tâm hồn. Trong sa mạc, người ta dễ dàng làm quyết định phải theo đường nào, vì không có cây cối che lấp nhãn quan. Cũng vậy, trong sa mạc của tâm hồn, không bị ngoại cảnh chi phối, không bị nội cảnh lấn át, ta sẽ dễ dàng làm quyết định cho đời sống nội tâm. Đó là việc lựa chọn mà mỗi người phải làm trong Mùa vọng này.
Lòi cầu nguyện, xin ơn được gặp gỡ Chúa trong sa mạc của tâm hồn:
Lạy Chúa, Chúa hiện diện khắp mọi nơi.
Sa mạc, núi rừng, biển cả đều có Chúa ở đó.
Chính trong sa mạc mà dân Do thái gặp được Chúa.
Xin ban cho con một tâm hồn thanh tịnh,
để khỏi bị ngoại cảnh chi phối và nội cảnh lấn át.
Xin dạy con biết tạo bầu khí sa mạc trong tâm hồn:
đơn côi và cô tịch,
để con mời Chúa vào,
ở với con. Amen.
09/12 Lúa chín đầy đồng, thợ gặt thì ít
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Lúa chín đầy đồng, thợ gặt thì ít.
Thứ Bảy tuần 1 mùa vọng.
"Thấy đoàn lũ dân chúng, Người động lòng xót thương họ".
LỜI CHÚA: Mt 9,35 - 10,1.6-8
Khi ấy, Chúa Giêsu đi rảo khắp các thành phố làng mạc, dạy dỗ trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Thấy đoàn lũ dân chúng, Người động lòng xót thương họ, vì họ tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn, Người liền bảo môn đệ rằng: "Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa".
Và Người triệu tập mười hai môn đệ, ban cho họ quyền năng trên các thần ô uế, để họ xua đuổi chúng, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Người bảo: "Các con hãy đi đến cùng chiên lạc của nhà Israel trước đã, và rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần. Hãy chữa lành người liệt, phục sinh kẻ chết, chữa lành người phung, và xua trừ ma quỷ. Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Sứ Mệnh Tông Ðồ
Chú ý đến những thái độ trên của Chúa Giêsu, chúng ta có thể khám phá ra những sự thật hữu ích cho cuộc đời theo Chúa của mỗi người, nhất là của những ai dấn bước theo Chúa, cách đặc biệt hơn là những kẻ "Tận Hiến" cuộc đời làm chứng cho Chúa. Dung mạo tinh thần xung quanh và trước mặt Chúa Giêsu thời Ngài cũng như của thời đại chúng ta hôm nay được Chúa mô tả như lầm than, vất vả, bơ vơ như đàn chiên không có người chăn dắt, bị lạc mất lý tưởng sống, đang tự tranh đấu để sống còn.
Trong đoạn này những điểm tiêu cực nhiều hơn là tích cực, như bơ vơ, lạc lõng, đã bỏ mất hay không biết gì đến giá trị nhân bản Kitô. Ðó là đoàn người của một xã hội bị trần tục hóa trầm trọng của ngày hôm nay. Diễn phác môi trường như thế, Chúa Giêsu không có chút trách móc, khinh thị, tránh né mà nhìn đó như một lời mời gọi dấn thân yêu thương, đó là mùa lúa chín một cơ hội ngàn vàng để biểu lộ tình yêu thương đối với anh chị em.
Sự nhỏ mọn tầm thường nơi tâm hồn có thể làm cho chúng ta có một thái độ tranh chấp, khinh thị, rút lui, nhưng đó không phải là thái độ của chính Chúa Giêsu khi Ngài nhìn thấy đoàn người khủng hoảng tinh thần như đoàn chiên không người chăn dắt, vả lại Chúa Giêsu đã yêu thương họ. Ðây không phải là một sự chạnh lòng thương, không phải là một tâm tình thương hại, tôi nghiệp chóng qua nhưng là một tình thương sâu thẳm từ đáy tâm hồn của Chúa Giêsu.
Qua đoạn Tin Mừng trên, chúng ta thấy tâm hồn Chúa Giêsu tràn đầy tình thương khi nhìn thấy nhu cầu dân chúng đang bị lạc hướng như đàn chiên không người chăn dắt. Tâm hồn Ngài xúc động tận trong thâm tâm, vì Ngài tràn đầy tình thương đối với họ, Ðó là bí quyết của đời sống Tông đồ của mọi đồ đệ theo Chúa. Ðược Chúa mời gọi làm chứng nhân của tình thương cho tình thương thì những sự dữ, những tiêu cực của môi trường chúng ta sinh sống ngày nay là những cơ hội ngàn vàng để chúng ta sống tình thương mà Chúa đã ban tặng cho các đồ đệ của Ngài.
Tư tưởng thứ hai mà bài Phúc Âm gợi lên cho chúng ta là những hành động của Chúa Giêsu: Chúa gọi các Tông đồ, ban cho họ quyền hành như Chúa, trừ các tà thần, giải phóng con người khỏi làm nô lệ cho sự dữ, cho ma quỉ, chữa lành các bệnh tật, thăng tiến cuộc sống con người. Chúa sai các Tông đồ đi rao giảng bằng các chỉ thị, mặc dù đây mới chỉ là sai các ngài đi thử nghiệm lúc ban đầu. Cuộc sai đi chính thức sau này sẽ được thực hiện khi Chúa đã hoàn tất công cuộc cứu chuộc của Ngài sau biến cố Phục Sinh.
Những hành động của Chúa phát đi từ tình thương của Ngài đối với con người. Nhìn công việc của người khác chúng ta có thể nói trọn vẹn sứ mạng của Giáo Hội, mọi thành phần của Giáo Hội, mọi thành phần đích thực của Chúa đều phát sinh từ tình yêu Thần Linh hiện diện nơi con tim phàm trần. Người đồ đệ của Chúa cần phải được thanh luyện, cần phải được biến đổi, được thay thế quả tim xác thịt bằng một quả tim mới tràn đầy tình yêu thương thần thiêng. Toàn thể cơ cấu Giáo Hội trong sứ mạng rao giảng Tin Mừng được xây dựng trên nền tảng tình yêu thương thần thiêng này. Chính nơi đây, chúng ta được hiểu thêm hay hiểu lại câu nói của thánh Phaolô Tông đồ viết về bí quyết đời sống Tông đồ của ngài: "Tình yêu Chúa Kitô thúc bách tôi".
Chúa Giêsu thấy đám đông liền chạnh lòng thương. Tâm hồn Ngài tràn ngập tình thương, Ngài xúc động tận thâm tâm trước nhu cầu của dân chúng đang bị lạc hướng như đoàn chiên không người chăn dắt. Ngài lên tiếng mời gọi các Tông đồ, những con người tầm thường hãy theo Ngài, hãy để Ngài biến đổi thành những chứng nhân tình yêu. Thái độ đáp trả duy nhất của mỗi người chúng ta là để cho tình yêu thần thiêng Chúa biến đổi và thôi thúc chúng ta hành động: "Tình yêu Chúa Kitô thúc bách tôi".
Trong khiêm tốn và trong thinh lặng của Ðức Tin, chúng ta hãy đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, hãy bắt chước cuộc đời của Chúa Giêsu trên trần gian này: "Thầy đến để mang lửa yêu thương đến trần gian và Thầy không có mong ước nào khác hơn là cho lửa ấy cháy lên, tỏa sáng khắp nơi, soi sáng mọi người, mang tin vui tỏa sáng khắp nơi, soi sáng mọi người, mang tin vui tỏa sáng cho con người". Hãy khiêm tốn lắng nghe và hãy để cho tình yêu Chúa biến đổi và thôi thúc.
Lạy Chúa, xin đổ tràn tình yêu Chúa trên chúng con và biến đổi chúng con thành những chứng nhân cho tình yêu Chúa, chứng nhân kiên trung trong Ðức Tin sống động qua đức Bác Ái. Amen.
Suy Niệm 2: Nhà truyền giáo đích thực
Vào thời Trung cổ, một số tín hữu giàu có muốn sống theo tinh thần của thánh Benado đã từ bỏ mọi tiện nghi và ngay cả ngôi thánh đường ấm cúng của họ để đến cư ngụ trên một đỉnh núi cao. Mục đích của họ là để cảm thông với những khách bộ hành lạc lối giữa núi rừng, nhất là vào mùa đông tuyết rơi. Những tín hữu này quyết định ngày đêm túc trực ở đó để kịp thời cứu vớt những ai kêu cứu. Để làm việc đó, họ đã huấn luyện một đàn chó đi tìm người lạc lối, đưa về nhà Dòng để được tận tình săn sóc.
Sự cảm thông không chỉ là một cảm xúc trong tâm hồn, mà còn là đến gần để lắng nghe, chia sẻ, trao ban. Thiên Chúa là Đấng cảm thông đích thực: Ngài không thể hiện sự cảm thông duy chỉ bằng cái nhìn từ trời cao, nhưng Ngài đã hoá thân làm người, chia sẻ hoàn toàn kiếp sống khốn cùng của con người. Tin mừng hôm nay nói lên sự cảm thông của Thiên Chúa bằng câu: “Ngài động lòng xót thương họ”. Chúa Giêsu quả thực chính là Trái tim của Thiên Chúa, một Trái tim không những rung động trước nỗi khốn khổ của con người, mà còn đến ở bên con người.
Chúa Giêsu xuất hiện như một tôn sư. Nhưng trong khi các bậc thầy khác qui tự một số môn sinh trong một ngôi trường hoặc chỉ giảng dạy tại cổng thành, thì Chúa Giêsu đã ra đi khắp nơi, chiêu mộ môn sinh để họ cùng đi với Ngài tìm đến những người bị bỏ rơi nhất trong xã hội.
Qua cung cách thể hiện sự cảm thông ấy, Chúa Giêsu phác hoạ ra mẫu người truyền giáo đích thực: ra đi và tìm đến với người khác. Ra đi dĩ nhiên không chỉ có nghĩa là rời bỏ nơi này đến nơi khác, mà thiết yếu là thái độ ra khỏi chính mình, ra khỏi vỏ ốc của mình để đến với tha nhân.
Chúa Giêsu đã đến để phục vụ, chứ không phải để được phục vụ. Ngài đã phục vụ bằng một tình yêu vừa bao la, vừa cụ thể, đến với từng con người trong từng nỗi đau của họ để băng bó, xoa dịu.
Ước gì sự đồng hành cảm thông của Chúa Giêsu cũng hiện thực hoá trong cuộc sống mỗi Kitô hữu, để mọi người chung quanh nhận ra tình yêu của Thiên Chúa đối với họ.
Suy Niệm 3: Chứng nhân của niềm vui (Mt. 9,35 - 10,8)
Rồi Đức Giêsu gọi mười hai môn đệ lại, ban cho các ông được quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa các bệnh hoạn tật nguyền (Mt.10,1)
Không ai không biết câu châm ngôn này: “Một ông thánh buồn là điều đáng buồn”. Lời Chúa trong tất cả các trang Tin mừng mời gọi chúng ta sống vui mừng sâu thẳm và trở nên nhân chứng Tin mừng của Đức Giêsu.
Đức Giêsu trao phó cho các môn đệ một sứ điệp không hề có một chút bất hạnh nào. Người làm cho họ nên những người ban phát sự sống và mời gọi họ đi loan báo Tin mừng nước trời, kèm theo những dấu chỉ: Những dấu chỉ vui mừng chiến thắng buồn sầu, sự sống chiến thắng sự chết, hạnh phúc của Thiên Chúa chiến thắng tội lỗi: “Các con hãy đi chữa lành các bệnh nhân, phục sinh những kẻ chết, thanh tẩy những kẻ phong cùi”.
Niềm vui người tông đồ của Đức Kitô còn hơn cảm tính vui mừng tâm lý con người. Niềm vui đó bắt nguồn sâu xa trong sự gặp gỡ sống động với tình yêu Thiên Chúa. Ai cảm thấy được yêu mãnh liệt bởi Đức Chúa Cha và được sống đổi mới bởi Chúa Thánh Thần thì không thể bị lôi cuốn lâu trong buồn sầu. Dù có bị chôn vùi trong những hố sâu nguy khó, họ sẽ nhận ra Đấng đầy quyền năng phá tan đen tối (Is. 30, 20 và 26). Môn đệ quyết tâm nhận lãnh sứ mệnh đưa Tin mừng tình yêu vô hạn cho những kẻ đang tìm ngụp lặn trong những thú vui tạm bợ giữa lòng thế giới chồng chất buồn sầu lai láng. Mỗi cá nhân và tập thể chúng ta phải biết gieo những mầm sống và hy vọng của Tin mừng. Cùng nhau và chính mình chúng ta phải tìm mọi cách xua đuổi những thế lực sự dữ còn đang hiện diện trong thế giới chúng ta. Tìm mọi cách trao ban hương vị tự do cho những ai đã quàng vào cổ mình ách nô lệ, tìm mọi cách rao giảng Đức Giêsu Kitô cho kẻ không nhận biết Người là Chúa sự sống của họ, là Chúa các ngày lễ. Nếu chúng ta quyết tâm hợp tác vào công cuộc cứu độ thế giới, thì chúng ta phải là những sứ giả mang Tin mừng có sức biến đổi bộ mặt trái đất này.
Chúng ta có ý thức rõ như thế không?
C.G
Suy Niệm 4: MỤC TỬ ĐÍCH THỰC (Mt 9, 35; 10, 1.6-8 )
Lời mời gọi truyền giáo là đề tài xuyên suốt của Đức Giêsu trong hành trình sứ vụ của Ngài. Từng lời nói, hành động đều làm toát lên đặc tính này.
Hôm nay, một lần nữa Đức Giêsu quan sát và thấy dân chúng lầm than vất vưởng như bầy chiên không người chăn dắt và Ngài đã chạnh lòng thương đám đông này.
Thực ra thì dân chúng có người lãnh đạo, nhưng điều thua thiệt cho họ là họ lại bị sống dưới sự thống lãnh của những kẻ độc tài, kiêu ngạo, hình thức, dối trá là những Luật Sĩ và Pharisiêu. Vì thế, họ bị những người này dẫn đi sai đường trật lối, bởi vì người đang dẫn dắt họ chính là những mục tử dởm.
Chính vì thế, khi Đức Giêsu đến, Ngài đã sống hoàn toàn khác với những người lãnh đạo thời bấy giờ, để làm hiện lên dung mạo một vị Mục Tử nhân lành, biết từng con chiên của mình, để con nào ốm đau, Ngài chữa trị; con nào gãy chân, què tay, Ngài băng bó; con nào đi lạc, Ngài đi tìm..., nói chung, Ngài đã “ngửi thấy mùi của từng con chiên” để yêu thương chúng xứng với nhân phẩn của từng con.
Hôm nay, Tin Mừng cho thấy Đức Giêsu một lần nữa thi hành sứ vụ Mục Tử của mình khi “chạnh lòng thương” để chữa lành bệnh tật, xua đuổi ma quỷ và giải thoát họ khỏi những sự kiềm chế của tội lỗi.
Kế đó, Đức Giêsu đã mời gọi các môn đệ ra đi thi hành cùng một sứ vụ như Ngài và đồng thời trao ban cho các ông những quyền năng cần thiết để hỗ trợ việc rao giảng như khả năng chữa bệnh, trừ quỷ, khuất phục thiên nhiên.... Tuy nhiên, vì Ngài biết rõ sự nguy hại của kẻ kiêu ngạo, nên không quên nhắc các ông: “Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không”.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cần có thái độ như Đức Giêsu là phải có tình yêu thương, trách nhiệm và hết lòng phục vụ con người cách vô vị lợi, không tìm lợi lộc, danh vọng thấp hèn cho mình, nhưng tất cả để cho danh Cha được cả sáng và Nước Cha mau ngự trị.
Có thế, Mùa Vọng mới thực sự là Mùa của tình thương, sự tha thứ, bao dung. Được như thế, chúng ta sẽ có những món quà trân quý để dâng lên cho Chúa Hài Đồng trong dịp lễ Giáng Sinh sắp tới.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được trở nên người môn đệ đích thực nhờ học và noi theo gương Chúa đã làm. Xin cho anh chị em giới trẻ biết mau mắn đáp lại lời mời gọi của Chúa để ra đi và làm môn đệ cho Chúa. Amen.
Ngọc Biển
Suy niệm 5:
Thiên Chúa của Do Thái giáo là Thiên Chúa gần gũi với con người.
Thiên Chúa của Ítraen có thể trừng phạt dân vì sự bất trung của họ,
nhưng Ngài cũng là Thiên Chúa giàu lòng tha thứ.
Khi đọc bài đọc 1 của ngôn sứ Isaia, chúng ta ngạc nhiên
khi thấy một Thiên Chúa tỉ mỉ quan tâm đến hạnh phúc của con người.
Ngài nghe và đáp lại tiếng dân kêu than, khóc lóc (c. 19).
Ngài dạy dỗ và chỉ đường cho người lưỡng lự phân vân (c. 21).
Nhưng hơn nữa, Ngài còn để ý đến đời sống vật chất của dân chúng.
Ngài làm cho mưa thuận gió hòa,
cho khe suối róc rách vì có dòng nước chảy.
Nhờ đó hạt giống được gieo trở thành lương thực,
súc vật chăn nuôi được gặm cỏ thỏa thuê,
bò cầy ruộng sẽ được ăn cỏ khô trộn muối (cc. 23-24).
Con người có đủ bánh ăn và nước uống trong lúc ngặt nghèo.
Qua cuộc sống của mình, Đức Giêsu cũng muốn cho ta thấy
một Thiên Chúa nhân từ bằng xương bằng thịt,
một Thiên Chúa bị thu hút bởi con người, mê say phục vụ con người.
Không rõ trong sứ vụ công khai, trong gần ba năm rong ruổi,
Đức Giêsu đã đi bộ bao nhiêu cây số của xứ Paléttin,
đôi chân dẻo dai của Ngài đã đến với bao nhiêu làng mạc, thành phố.
đôi tay của Ngài đã chạm đến bao nhiêu thương tích của nhân gian.
Chỉ biết trái tim của Ngài là trái tim bằng thịt,
cứ nhói đau và chạnh thương trước bể khổ của phận người.
Bệnh tật thân xác là gánh nặng kéo con người xuống.
Đức Giêsu đã trở nên như vị lương y đối diện với đủ thứ bệnh tật.
Mù lòa, câm điếc, bất toại, phong hủi đều được Ngài chữa lành,
thậm chí Ngài còn hoàn sinh kẻ chết.
Ma quỷ cũng là một mãnh lực làm con người mất tự do.
Khử trừ ma quỷ và thần ô uế, là dấu cho thấy Nước Trời đã đến.
Mọi sự Đức Giêsu đã làm thì Ngài sai các môn đệ tiếp tục (cc. 6-8).
Hôm nay chúng ta cũng được sai để tiếp tục việc của Ngài ngày xưa:
loan báo Tin Mừng Nước Trời, chữa lành thế giới khỏi mọi bệnh tật,
giải phóng con người khỏi những xích xiềng mới do chính họ tạo nên,
và loại trừ thần ô uế ra khỏi mọi nơi con người sinh sống.
Công việc này thật bao la,
vì không giới hạn trong mảnh đất Paléttin nhỏ hẹp.
Công việc này không dễ,
vì ta phải đối diện với sức đề kháng mạnh mẽ của ác thần.
Nhưng với quyền năng Chúa ban, chúng ta tin mình sẽ thắng (c. 1).
Lễ Giáng Sinh là lễ mừng ơn cứu độ cho con người.
Chúng ta được mời nhìn thế giới hôm nay bằng cái nhìn của Giêsu,
yêu thế giới bơ vơ hôm nay bằng trái tim của Giêsu,
đến với thế giới xa xôi hôm nay bằng đôi chân của Giêsu.
Ước gì tay chúng ta chạm đến người nghèo, người yếu đau, sa ngã.
Và ước gì chúng ta cho không những gì đã nhận được nhưng không.
Cầu nguyện:
Lạy Cha, thế giới hôm nay cũng như hôm qua
vẫn có những người bơ vơ lạc hướng
vì không tìm được một người để tin;
vẫn có những người đã chết từ lâu
mà vẫn tưởng mình đang sống;
vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế,
ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn,
bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống ;
vẫn có những người bị sống bên lề xã hội,
dù không phải là người phong...
Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ
và biết chạnh lòng thương như Con Cha.
Nhưng trước hết,
xin cho chúng con
nhìn thấy chính bản thân chúng con.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
08/12 Nhớ lại và lắng nghe
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Nhớ lại và lắng nghe.
Thứ Sáu tuần 1 mùa vọng – ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI. Lễ trọng. Lễ cầu cho giáo dân.
"Chào Trinh Nữ đầy ân sủng, Chúa ở cùng Trinh Nữ".
* Ngay từ giây phút đầu tiên trong đời, Đức Maria đã được gìn giữ khỏi vương bất cứ tội lỗi nào, nhờ ân sủng do cái chết của Con mình. Như vậy, tín điều Đức Maria vô nhiễm nguyên tội được đặt căn bản trên đặc ân làm Mẹ Thiên Chúa. Đức Maria vô nhiễm nguyên tội, cũng như được cất lên trời là hình ảnh tiên báo Hội Thánh. Thiên Chúa muốn cho Hội Thánh không tỳ ố, không vết nhăn, hoặc bất cứ một khuyết điểm nào.
LỜI CHÚA: Lc 1, 26-38
Khi ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nagiarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính chào trinh nữ đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng trinh nữ, trinh nữ có phúc hơn các người nữ". Nghe lời đó, trinh nữ bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì. Thiên thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa. Này trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một Con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp và triều đại Người sẽ vô tận!" Nhưng Maria liền thưa với Thiên Thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?" Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ. Vì thế Ðấng trinh nữ sinh ra sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ trinh nữ cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được". Maria liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền". Và Thiên Thần cáo biệt trinh nữ.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Nhớ lại và lắng nghe
Mừng lễ Đức Mẹ Vô nhiễm là một niềm vui của các con cái Đức Mẹ. Có nhiều cách mừng.
Riêng tôi, khi cuộc đời đã sang thu, sắp bước vào mùa đông, tôi mừng lễ Đức Mẹ vô nhiễm một cách cũng rất riêng tư.
Tôi mừng lễ bằng cách vừa nhớ lại Đức Mẹ trong Phúc Âm, vừa nhìn lại Đức Mẹ trong đời tôi. Để rồi lắng nghe Mẹ nhắn nhủ hôm nay.
Nhớ lại.
Tôi thấy Đức Mẹ thuở xưa trong Phúc Âm cũng là Đức Mẹ trong chuyến đi dài đời tôi.
Đức Mẹ dạy tôi bằng Phúc Âm. Đức Mẹ cũng dạy tôi bằng những dắt dìu trong dòng lịch sử.
Nếu cần tóm tắt, thì xin vắn gọn thế này:
Đức Mẹ, tuy được ơn vô nhiễm, nhưng cũng chịu nhiều đau đớn, để góp phần vào công cuộc cứu độ của Chúa Giêsu. Đúng như lời tiên tri Simeon đã báo trước: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn Bà” (Lc 2,25).
Những con cái Mẹ, nhất là tôi, mình đầy ô nhiễm, càng không được phép miễn khỏi thánh giá. Ít là phần nào.
Chúa Giêsu là con Mẹ, xưa “đã hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thánh giá” (Pl 2,8).
Đức Mẹ nên giống Chúa cứu thế không phải ở sự chịu đóng đinh, nhưng ở sự Mẹ chịu những lưỡi gươm đâm vào lòng. Những lưỡi gươm vô hình, với những nhát đâm vô hình, cùng những vết thương vô hình. Vô hình, nhưng thực sự đau đớn.
Chẳng nói hết được những đau đớn đó của Mẹ.
Còn những con cái Mẹ, thì kẻ cách này, người cách nọ, họ cũng được thanh luyện bằng trải qua những đớn đau lớn nhỏ. Đớn đau của họ tự nó chẳng có gì là giá trị. Nhưng nhờ Mẹ nhuộm nó vào tình yêu của Mẹ, nên nó trở thành bông hoa.
Những bông hoa như thế nơi tôi chẳng nhiều. Nếu muốn tìm nó, thì phải tìm ở những dòng nước mắt.
Trước hết là hoa sám hối trong những nước mắt ở cuộc chiến nội tâm.
Cuộc chiến nội tâm của tôi cũng đã có một người xưa trải qua và diễn tả rất rõ. Đó là thánh Phaolô. Ngài phơi bày như những tiếng nức nở nghẹn ngào: “Vẫn biết rằng Lề luật là bởi Thần Khí, nhưng tôi thì lại mang tính xác thịt, bị bán làm tôi cho tội lỗi. Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu, vì điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm..
Bởi đó tôi khám phá ra luật này: Khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay. Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì luật của Thiên Chúa. Nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: Luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí. Nó giam cầm tôi trong luật của tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể tôi.
Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 7,14-25).
Cuộc chiến nội tâm giữa thiện và ác nơi thánh Phaolô chỉ được tả là rất cam go. Còn chiến thắng hay chiến bại thì không thấy ngài nói. Phần tôi, có lúc thắng và cũng có lúc bại. Vì thế mà tôi sám hối. Sám hối là bông hoa đầu tiên tôi dâng lên Mẹ vô nhiễm. Mẹ đã thương giúp tôi trở về, như Mẹ đã giúp kẻ trộm lành xưa chịu treo trên thập giá.
Bên cạnh bông hoa sám hối trồng trong dòng nước mắt ăn năn, tôi có thể lượm được một bông hoa khác. Tôi tạm gọi nó là hoa cảm thương trôi trong dòng nước mắt bất lực không thể phục vụ.
Biết bao lần, tôi cảm thấy đau đớn vì bất lực trong việc loan báo Tin Mừng. Tôi nghĩ Đức Mẹ xưa đã khóc khi phải chấp nhận âm thầm bồng con trốn sang Ai Cập và ở lại đó ẩn mình trong cảnh nghèo khó (Mt 2,13-18).
Đức Mẹ chắc cũng đã khóc, khi phải chứng kiến cảnh con mình bị hành hạ và bị giết (Ga 19,25-27). Mẹ đã không cứu được con mình. Nhưng Chúa lại muốn như vậy. Sự vâng lời như thế còn đau hơn là chết.
Chương trình cứu độ của Chúa rất khác ý nghĩ của con người. Chúng ta tưởng sẽ cứu được các linh hồn và làm vinh danh Chúa, nhờ những phô trương quyền bính, cao rao chức tước, thổi phồng uy tín, tổ chức lễ lạt linh đình. Nhưng tất cả sẽ không có giá trị bằng sự vâng phục ý Chúa. Ý Chúa là muốn ta chấp nhận hạ mình xuống, đi theo con đường Chúa cứu thế đã đi, và Đức Mẹ vô nhiễm cũng đã vâng ý Chúa bước theo từng bước.
Ngoài ra, biết bao lần, tôi cảm thương đau đớn vì bất lực trong việc cứu giúp những người cần được giúp đỡ, hoặc về vật chất hoặc về tinh thần. Tôi muốn giúp. Nhưng ý muốn của tôi đụng vào những giới hạn khắp nơi của tôi. Những giới hạn đó càng ngày càng lớn, khi tuổi tác bệnh tật càng tăng lên. Phục vụ trong những tình trạng này sẽ chỉ còn là tập trung vào cầu nguyện và dâng đau khổ với tình yêu siêu nhiên lên Chúa giàu lòng thương xót, qua trái tim Mẹ vô nhiễm, để góp phần nào vào việc loan báo Tin Mừng.
Chính trong những tình trạng này, mà tôi được thu hút nhiều hơn đến việc lắng nghe Đức Mẹ nhắn nhủ con cái Mẹ đang sống trong thời điểm hiện nay.
Lắng nghe.
Thời điểm hôm nay là một thời điểm rất đáng ngại. Ngại vì ma quỉ và thế tục xấu đang cố tình tạo ra một môi trường ô nhiễm. Tôi không muốn nói về môi trường ô nhiễm sinh thái, mà về môi trường phong hoá và luân lý.
Ô nhiễm khắp nơi. Ai cũng phải sống chung với ô nhiễm. Nhưng khả năng và mức độ chịu ảnh hưởng ô nhiễm sẽ tuỳ theo ba cái mốc này:
Nơi chốn, lứa tuổi và giới phái.
Nơi chốn là một nước, một vùng, hoặc một văn hoá, một tôn giáo hay không tôn giáo, hoặc một giai cấp, một mức sống, một tổ chức. Có nơi ô nhiễm hơn nơi khác.
Lứa tuổi là lớp già, lớp thanh niên, lớp thiếu nhi, lớp trẻ thơ. Có lớp tuổi dễ bị ô nhiễm hơn lớp tuổi khác.
Giới phái là nam, là nữ. Có giới phái dễ bị ô nhiễm hơn giới phái khác.
Hiện nay, làm sóng ô nhiễm mạnh nhất về phong hoá là hưởng thụ độc hại. Người ta tìm mọi cách để tìm hưởng thụ đó. Hưởng thụ nhờ danh vọng, chức tước, địa vị, quyền lợi, tiền bạc, ăn uống, tiện nghi, giải trí, sắc dục, vv.... Nếu không cảnh giác, thì cả những gì vốn được tôn trọng là thánh thiêng, cũng có thể bị lợi dụng cho mục đích hưởng thụ xấu xa.
Trước một nguy cơ lớn mạnh và tinh vi có khả năng tiêu diệt những giá trị thiêng liêng, đẩy các linh hồn vào tay thần dữ, để chúng tha hồ lôi xuống hoả ngục, Đức Mẹ vô nhiễm đã hiện ra ở Lộ Đức, ở Fatima, ở Mễ Du và nhiều nơi khác, để tha thiết kêu gọi nhân loại sám hối, khiêm tốn đi vào đàng thiện. Kẻo sẽ quá muộn.
Vậy ta hãy lắng nghe Mẹ, mà vâng phục ý Chúa. Chính bản thân ta hãy trở thành đền thờ Chúa Thánh Thần, trong đó ta được hưởng thụ những gì là chân thiện mỹ, bình an, hạnh phúc đích thực và bền vững.
Tôi có cảm tưởng là nhiều người hiện nay đang sống như không có lương tâm, hoặc với một cái tâm đã lạnh cứng. Không còn khả năng rung cảm với những nỗi đau của Chúa, của Đức Mẹ, của Hội Thánh, của những kẻ khốn cùng đang dở sống dở chết xung quanh mình.
Nhưng tôi vẫn tin vững vàng lời Chúa phán trong Phúc Âm: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37). Nhất là với lời cầu bầu của Đức Mẹ vô nhiễm. Nên sự phục hưng lại Hội Thánh giữa một thế giới đầy ô nhiễm sẽ thực hiện được.
Nhưng đừng quên sự phục hưng như thế phải bắt đầu từ mỗi người chúng ta, con cái của Mẹ vô nhiễm.
Trong mỗi người, việc phục hưng sẽ bắt đầu và nhấn mạnh ở cái tâm. Cái tâm làm sao giữ không bị nhiễm, sẽ dẫn đưa tất cả con người về đàng thiện. Không bị nhiễm là nhờ thánh giá. Hoặc bị nhiễm mà được rửa sạch cũng là nhờ thánh giá.
Chúng ta ít là hãy ước muốn việc đó, và dâng ước muốn chân thành đó lên trái tim Mẹ vô nhiễm. Người là Mẹ Chúa Cứu thế và cũng là mẹ chúng ta. Người là hy vọng của những ai sống bé mọn và tín thác nơi trái tim vô nhiễm đầy tình mẫu tử dịu dàng xót thương của Người. Người là nơi trú ẩn của những kẻ lỗi lầm biết sám hối. Người là Đấng cầu bầu đắc lực nhất trước toà Chúa cho tất cả những ai tin tưởng nơi Người.
ĐGM. Bùi Tuần
SUY NIỆM 2: Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương
Ðời người, có lẽ ai cũng có một lần trải qua một biến cố lớn trong lịch sử thế giới hay dân tộc...
Một ít cụ già hiện còn sống sót có lẽ đã trải qua cuộc đại chiến thứ nhất. Nhiều người đã có thể chứng kiến những tàn phá khốc liệt của thời đệ nhị thế chiến, cộng với nạn đói kinh hoàng ở Bắc Việt năm 1945. Và đa số chúng ta đã trực tiếp hay gián tiếp chứng kiến không biết bao nhiêu đổi thay, bao nhiêu cuộc chiến trong nước cũng như tại các nước khác trong những năm gần đây... Thêm vào đó, còn có biết bao nhiêu thiên tai và tai nạn khủng khiếp đã xảy ra cho con người.
Chiến tranh và sự sa đọa của con người có lẽ mang lại cho chúng ta cái cảm tưởng rằng sự dữ, tội ác đã lan tràn khắp cả mặt đất; thế giới ngày nay không còn biết đến Thiên Chúa nữa. Cùng với tất cả một đoàn người mà Ðức cố Giáo Hoàng Gioan 23 gọi là “các tiên tri chuyên loan báo thảm họa”, có lẽ chúng ta chỉ nhìn vào thế giới bằng đôi mắt của bi quan, thất vọng, chúng ta chỉ nhìn thấy thảm họa, tang tóc... để rồi loan báo ngày tận cùng của thế giới như kề bên.
Thế giới có tội lỗi đó, thế giới có tang thương đó, thế giới có nhiều thảm họa đó, nhưng chúng ta đừng quên rằng chương trình của Thiên Chúa đang được thực hiện dọc theo chiều dài của lịch sử nhân loại. Giữa hai cực: một bên là sự sa ngã ở khởi đầu lịch sử và một bên là ngày tận cùng của thế giới, đã có cuộc nhập thể làm người của Con Thiên Chúa: Ngài đã làm người ngay giữa lòng của một nhân loại tội lỗi của thời đại Ngài...
Thế giới của chúng ta đầy dẫy tội lỗi, Thiên Chúa vẫn yêu thương thế giới ấy. Thay vì chỉ nhìn thấy hận thù, bạo động và sa đọa dưới mọi hình thức, chúng ta hãy cố đọc được những dấu chỉ của thời đại để thấy rằng Thiên Chúa vẫn luôn có mặt trong lịch sử con người, Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương con người.
Mừng lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, hôm nay Giáo Hội cũng muốn lập lại với chúng ta chân lý ấy: Thiên Chúa đã yêu thương con người và không có gì Thiên Chúa không làm được.
Thiên Chúa đã tạo dựng Mẹ và gìn giữ Mẹ khỏi mọi tỳ vết của tội lỗi. Mẹ là nền tảng của niềm hy vọng của chúng ta, Mẹ là bình minh của nhân loại mới, một nhân loại được Thiên Chúa cứu chuộc và ban cho sức mạnh để vươn lên không ngừng.
Chúng ta hãy chiêm ngắm Mẹ với tất cả niềm cậy trông và lạc quan ấy. Qua Mẹ, Thiên Chúa muốn tỏ bày tình yêu không hề lay chuyển của Ngài cho nhân loại và qua Mẹ, Ngài cũng muốn chúng ta bước đi trong vâng phục và yêu mến, cậy trông.
Thân phận yếu hèn của chúng ta được dệt bằng những vấp ngã và chỗi dậy không ngừng. Chúa ban cho chúng ta một người Mẹ không tỳ vết để chúng ta không ngừng ngước mắt nhìn lên. Chúa ban cho chúng ta một người Mẹ luôn “Thưa, xin vâng!” giữa muôn ngàn đớn đau thử thách, để chúng ta tiếp tục chỗi dậy sau những lần vấp ngã.
Chúng ta hãy nhìn lên Mẹ. Mẹ luôn có đó để giúp chúng ta khỏi vấp ngã và nếu chúng ta có vấp ngã, Mẹ sẽ đỡ chúng ta dậy và giúp chúng ta tiếp tục “Thưa, xin vâng!” với Chúa để chúng ta bước đi theo Chúa Giêsu...
(Trích trong ‘Lẽ Sống’ – Radio Veritas Asia)
SUY NIỆM 3: Lạy Mẹ là ngôi sao sáng
Ðôi khi trong thanh vắng chúng ta nghe lòng mình rộn lên bài hát thật du dương về Mẹ Maria: “Lạy Mẹ là ngôi sao sáng, soi lối cho con lúc vượt biển thế gian”. Lời văn đã nhân cách hoá Mẹ như một ngôi sao sáng soi giữa cuộc đời tựa như biển đêm đầy rợn rùng, hiểm nguy. Nhưng dù cuộc đời có bao trùm một bóng đêm dầy đặc, ở giữa bầu trời vẫn còn đó đôi bàn tay từ mẫu của Mẹ đang rộng tay ban phát ơn lành, và sẵn lòng nâng đỡ những người con thân yêu đang phải vật lộn với phong ba bão tố cuộc đời.
Ánh sao sáng là Mẹ giữa trời đêm được cha ông ta gọi là sao Bắc Ðẩu. Sao Bắc Ðẩu định hướng cho ngư dân biết đường đến bến bình yên. Sao Bắc Ðẩu còn là điểm báo về thời gian như dân gian có câu: “ Bắc thần đã mọc xê xê, chị em thức dậy lo nghề đi buôn”. Bên cạnh đó, ngôi sao đối với người phương đông còn mang một ý nghĩa là định mệnh của một con người. Người ta cho rằng mỗi người sinh ra trên cuộc đời này đều mang cung mệnh của một vì sao. Cuộc sống thăng trầm cũng theo điềm của mỗi vì sao. Có những vì sao sáng, có những vì sao mờ và có những vì sao tối và đã tắt, nó cũng giống như cuộc đời của con người, có người sống vinh hiển như chòm sao sáng, có những cuộc đời bình thường như những ngôi sao mờ nhạt, và buồn hơn có những cuộc đời lầm lũi như vì sao đã tắt và như vì sao chết. Cuộc đời càng thanh thoát, càng đầy phúc thì ngôi sao chiếu mệnh càng sáng. Ngôi sao sáng trên hết vì sao trên vòm trời là chòm sao Bắc Ðẩu, thế nên người ta gọi Mẹ là ngôi sao Bắc Ðẩu là ánh sao sáng nhất trong muôn loài thọ tạo được Chúa dựng nên.
Tin mừng hôm nay tường thuật lại cuộc gặp gỡ giữa sứ thần và Mẹ Maria. Mẹ là một thôn nữ miền quê, thế nhưng Mẹ đã được tạo dựng trở thành một ngôi sao Bắc Ðẩu cho nhân gian. Tin mừng khởi đầu với lời chào thật kính cẩn của sứ thần: “Kính chào bà đầy ơn sủng”. Ðầy ơn sủng nghĩa là cuộc đời Mẹ đã được bao trùm bằng ân sủng của Chúa ngay từ lúc thụ thai. Thiên Chúa đã gìn giữ Mẹ bằng ân sủng của Ngài để Mẹ không vấn vương tội đời, không tỳ ố trong xác phàm để cung lòng Mẹ xứng đáng là đền thờ cho Chúa Ngôi Hai. Nói như thế, không phải là Mẹ không có công trạng gì, vì cuộc đời Mẹ đã được định đoạt từ ý định của Thiên Chúa. Thiên Chúa chọn Mẹ nhưng Ngài vẫn tôn trọng ý chí và tự do của Mẹ. Mẹ vẫn sống một kiếp người bình thường như bao người khác, có khác chăng là tấm lòng Mẹ luôn thanh khiết, luôn toả sáng bằng việc chọn Chúa hơn là chọn những tạo vật trần gian. Chính vì vậy, mà từ Thiên cung Thiên Chúa đã nhìn thấy ánh sao bắc Ðẩu mà Ngài đã tạo dựng luôn toả sáng giữa bóng đêm tội luỵ. Sứ thần đã nói cùng Mẹ vì “Mẹ hằng đẹp lòng Chúa”. Mẹ đẹp rực rỡ không phải là vẻ đẹp kiêu xa bên ngoài mà là vẻ đẹp của một tâm hồn thanh khiết, sống giữa đời nhưng không hoen ố tội đời, tựa như đoá sen “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.
Hôm nay chúng ta mừng lễ Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, chúng ta tạ ơn Chúa đã tạo dựng cho nhân loại một ánh sao sáng giữa trời đêm tội lụy là Mẹ Maria. Một ngôi sao Bắc Ðẩu luôn toả sáng để hướng dẫn những ai đang lầm đường lạc lỗi hãy mau quay về với Chúa tình thương. Tạ ơn Chúa đã tặng ban cho đời một ánh sao luôn toả sáng bởi sự trong sạch, bởi tình yêu hiến dâng cho Chúa để phục vụ cho đời. Tạ ơn Chúa và nguyện cầu cùng Mẹ giúp chúng ta biết trở thành một ánh sao soi dẫn bước cho anh chị em của mình.
Thế giới hôm nay rất cần đến ánh sao dẫn đường của Mẹ. Vì có mấy ai không một chút quyến luyến tội lối? Có mấy ai không vương vấn tội đời? Thế giới hôm nay rất cần sự dẫn lối của Mẹ, vì nhiều người còn mải mê với đam mê trần thế mà quên đi hướng đi về trời. Họ sống như thể chỉ ngụp lặn trong thú vui trần thế đến nỗi đánh mất phẩm giá cao qúy của con người là hình ảnh của Thiên Chúa. Họ quá bận rộn với chuyện cơm áo gạo tiền đến nỗi quên rằng mục đích của đời người là tìm kiếm Nước Thiên Chúa, là trở thành ánh sao cho tha nhân, vì chưng Chúa đã từng mời gọi chúng ta “anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên trời”.
Lạy Mẹ Maria Vô nhiễm nguyên tội, Mẹ là ngôi sao sáng xin dẫn lối chúng con bước về nẻo chính đường ngay, xin gìn giữ chúng con khỏi sa vòng tội lũy và ban phước lành cho nhân gian chúng con luôn được bình an. Amen.
(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm. Tạ Duy Tuyền)
SUY NIỆM 4: Lễ Vô Nhiễm
Để nhấn mạnh lễ Mẹ Ma-ri-a Vô Nhiễm Nguyên Tội, phụng vụ trích đoạn Tin Mừng Truyền Tin. Đoạn này dẫn chúng ta vào mục đích của Thiên Chúa, Đấng được loài người đoán nhận.
Thực vậy, từ đầu cuộc sáng tạo, Thiên Chúa đã loan báo ngày Ngài đến. Và suốt dòng lịch sử, Ngài không ngừng nhắc lại, biết bao nhiêu lần trong thời cựu ước. Trước cuộc tuyền tin cho Đức Ma-ri-a, Thiên Chúa đã tự loan báo cho loài người. Thời kiên nhẫn chờ đợi đã viên mãn vì đã có người hoàn toàn biết nghe lời Thiên Chúa, Người ấy là Đức Ma-ri-a.
Trong Đức Ma-ri-a, hơi thở thần khí của Thiên Chúa không bị sức nặng của tội lỗi, sức nặng của từ chối ngăn cản. Trong Đức Ma-ri-a không còn bị sai biệt giữa lời loan báo của Thiên Chúa với người lắng nghe, giữa lời đề nghị với lời đón nhận.
Còn chúng ta, chúng ta gọi đó là sự cưu mang Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội. Vô Nhiễm là không có vết nhơ tội nguyên tổ, nói kiểu tích cực Ma-ri-a tinh tuyền trong sạch ngay lúc ở trong lòng bà Anna, đó là hành động của Thiên Chúa. Nhưng chúng ta vẫn không hiểu được rõ ràng.
Thiên Chúa, Đấng thương yêu quảng đại vô cùng đối với loài người, đã muốn mọi sự tốt lành cho một con tim loài người biết đón nhận. Thiên Chúa đã làm cho Đức Ma-ri-a được như vậy, cho đôi tai Ma-ri-a luôn lắng nghe lời Chúa trọn vẹn. Không ai lấy làm sững sờ khi Ngài làm cho Ma-ri-a nên nơi Ngài ngự. Vô Nhiễm thai của Ma-ri-a chính là lời Chúa được thực hiện hoàn toàn nơi một người trong loài người, chấm dứt sự xa cách giữa lời mời của Chúa với sự nhận lời của loài người. Đây chính là sự chuẩn bị một khu vườn mầu mỡ cho Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể, xuống thế làm người.
Thiên Chúa lại tiếp tục cuộc hành trình với loài người trong mọi thế kỷ, và Ngài hằng theo dõi kế hoạch cứu độ của Ngài nơi loài người cho đến tận thế, nên Đức Giê-su Ki-tô đã loan báo ngày Người đến lần thứ hai nữa. Chúng ta đón tiếp kế hoach của Người thế nào? chúng ta có thái độ gì? chúng ta có chuẩn bị sẵn sàng để hiện diện trọn vẹn trước Đấng lại đến không? hay là lại mặc một bộ áo giáp sắt nhơ bẩn che chắn việc đón nhận Thiên Chúa tái sinh chúng ta và làm cho chúng ta nên thánh để được hoàn toàn nên giống Người.
JM.
SUY NIỆM 5: Lễ Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội
Trong quyển “Tiểu Sử Ðời Sống Của Thánh Don Boscô” có thuật lại một sự việc sau đây:
Hôm ấy là ngày 8 tháng 12 năm 1841, ngày lễ Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, Cha Don Boscô vị tân Linh Mục đang mặc áo sửa soạn dâng Thánh Lễ, bỗng từ trong phòng áo Cha nghe tiếng ồn ào từ phía ngoài cửa. Cha bước ra và gặp thấy Ông Từ coi phòng áo nhà thờ đang cầm chổi lông gà đánh đuổi một cậu bé nghèo ăn mặc rách rưới, chỉ vì cậu dám bén mảng đến phòng áo và lại không biết giúp lễ. Cha Don Boscô tỏ vẻ không bằng lòng và bảo Ông Từ phải đi tìm cậu bé đem trở lại phòng áo cho Cha. Cha lại còn quả quyết rằng đó là bạn thân của Cha.
Vâng! Tất cả các thanh thiếu niên nghèo bị bỏ rơi đều là bạn thân của Cha hết.
Một lúc sau, Ông Từ trở lại phòng áo, dẫn theo cậu bé bị đánh đuổi. Cha bảo cậu ngồi đợi một chút, sau lễ ngài sẽ nói với cậu về một điều mà cậu rất vui thích. Có lẽ đó chỉ là cách Cha muốn bù đắp lại sự tàn nhẫn của Ông Từ hoặc xóa bỏ đi những mặc cảm và ấn tượng xấu đã gây nên trong tâm hồn cậu.
Nhưng đường lối của Chúa còn đi xa hơn nữa, vì chính trong ngày lễ Kính Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội đó, Thiên Chúa muốn ngài khởi công một sứ mệnh Tông Ðồ cao cả mà vẫn còn hiện hữu cho tới ngày nay tại mọi dân tộc, mọi nền văn hóa. Ðiều gì đã xảy ra trong cuộc gặp gỡ đó? Như lời đã hứa, sau lễ Cha bắt đầu cuộc đối thoại thân mật với cậu bé, đó là cậu Bartolômêo Galendy. Don Boscô bắt đầu bằng những câu hỏi thân mật từ gia đình cậu, cha mẹ cậu.
Cậu đáp lại là cả hai đều đã qua đời.
Cha hỏi tiếp về tuổi của cậu, về công ăn việc làm và nơi ăn chốn ở của cậu.
Tuy nhiên câu hỏi đó, cậu chỉ đáp lại bằng tiếng “không” hơi cọc cằn.
Tuy nhiên, Cha vẫn không nản lòng. Sau cùng Cha hỏi: Con có biết huýt sáo không? Mắt cậu sáng lên và cậu bắt đầu mỉm cười gật đầu. Ðó là điều duy nhất Cha mong ước. Cậu đã bị chinh phục và đã trở nên bẹn thân của Cha. Từ đó, cha bắt đầu đối thoại bằng những câu hỏi về đời sống người công giáo của cậu. Ðáng thương thay, tuy cậu đã lên 16 tuổi nhưng chỉ được xưng tội lần đầu mà thôi. Còn về giáo lý thật không biết gì hết, vì không được ai chỉ bảo cho. Ngay cả đến việc làm dấu Thánh Giá và đọc một kinh Kính Mừng cậu cũng không biết. Và cha Don Boscô quì gối đọc kinh Kính Mừng phó thác cho Mẹ Maria và nhân danh Mẹ bắt đầu sứ mệnh Tông Ðồ của Cha, cầu xin Mẹ giúp Cha cứu rỗi linh hồn cậu bé này.
Trước khi cho cậu ra về, Cha tặng cậu một mẩu ảnh Ðức Mẹ và cậu hứa sẽ trở lại tuần tới đem theo chúng bạn của cậu để cùng được học giáo lý nữa.
Nhân dịp toàn thể Dòng Con Cái Don Boscô mừng kỷ niệm một trăm năm mươi năm cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa Don Boscô và cậu bé Bartolômêo Galendy, ngày khởi đầu sinh hoạt Khánh Lễ Viện mà Don Boscô là Vị Sáng Lập và cậu bé Bartolômêo là viên đá đầu tiên. Nơi cậu Bartolômêo, Don Boscô đã nhìn thấy trước hàng ngàn thanh thiếu niên bị bỏ rơi cần được nhận biết tình thương của Chúa và ngài đã hiến trọn đời mình để giáo dục niềm tin trong tâm hồn các em. Hơn nữa, ngài còn đào luyện các em trở thành tông đồ giữa chúng bạn, dẫn đưa chúng bạn về với Chúa qua đời sống bí tích và việc học hỏi giáo lý. Một trăm năm mươi năm đã qua và sứ mệnh tông đồ của Don Boscô đã được các con thiêng liêng của ngài tiếp tục tới ngày nay trên khắp Năm Châu. Hàng ngàn hàng triệu thanh thiếu niên qua nhiều năm đã nhận biết, yêu mến Chúa và dấn thân để Chúa cũng được nhận biết, yêu mến và tôn thờ.
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, một tấm gương tinh tuyền và tràn đầy ơn thánh Chúa. Cám ơn Chúa đã làm phong phú Giáo Hội Chúa với ơn đặc sủng của Tu Hội Salésien. Xin Chúa chúc lành cho sứ mệnh tông đồ mà ngài đã hiến thân phục vụ đến hơi thở cuối cùng, để giới trẻ qua mọi thời đại và trong mọi môi trường văn hóa tìm được thầy chỉ dẫn, nhận được sự hiểu biết tình thương của Chúa và trở nên vị tông đồ khác giữa giới trẻ, dẫn đưa chúng bạn gặp gỡ Chúa, xa tránh tội lỗi và gìn giữ luôn mãi vẻ đẹp trong sáng của tâm hồn là bí quyết niềm an vui và hạnh phúc thật. Amen.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)
SUY NIỆM 6: Đặc Ân Vô Nhiễm
Sau khi Adong Eva phản bội, Thiên Chúa đã phán với con rắn, tượng trưng cho uy quyền của ma quỷ rằng: Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa ngươi và người phụ nữ, giữa dòng dõi ngươi và dòng dõi người phụ nữ. Dòng dõi người phụ nữ sẽ đạp dập đầu ngươi, còn ngươi thì chỉ rình cắn trộm gót chân Người.
Lời tiên tri này trước hết muốn nói tới Đấng Cứu Thế, Ngài sẽ đến đập tan uy quyền hoả ngục để cứu độ chúng ta. Nhưng đồng thời cũng giới thiệu với chúng ta, khuôn mặt Đức Trinh Nữ Maria.
Thực vậy, sứ thần Gabriel đã đến viếng thăm Mẹ với lời chào kính lạ lùng: Kính chào Bà đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Bà. Trước lời chào kính lạ lùng ấy, Mẹ đã cảm thấy bối rối. Sứ thần Gabriel đã cắt nghĩa, nhưng đồng thời lại đề nghị một tin vui lạ lùng khác nữa: Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên lá Giê su. Ngài sẽ nên cao cả và sẽ được gọi là con Đấng Tối Cao. Tin vui này khiến cho Mẹ không khỏi băn khoăn nêu lên câu hỏi: Việc đó xảy đến thế nào được vì tôi không biết tới người nam. Thiên thần liền trả lời: Chúa Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao phủ bà. Vì thế con trẻ được sinh ra sẽ là Đấng Thánh và được gọi là con Thiên Chúa. Sau khi biết được thánh ý Thiên Chúa là như thế, Mẹ đã trả lời một cách đơn sơ: Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền.
Qua hình ảnh của sách Sáng Thế Ký cũng như qua câu chuyện của Phúc Âm thánh Luca chúng ta thấy được vai trò của Mẹ Maria đối với nhân loại, đồng thời cũng thấy được đặc ân vô nhiễm nguyên tội của Mẹ, ít nữa là một cách gián tiếp.
Jean Guitton trong cuốn “Vie de la Vierge Marie”, cuộc đời Đức Trinh Nữ Maria, đã viết: Mẹ như một thửa vườn khép kín, đến nỗi ma quỷ và tội lỗi không thể nào ảnh hưởng và để lại những dấu vết. Cho dù bầu khí tội lỗi đã bao trùm nhân loại ngay từ thuở ban đầu, thì vẫn còn có một nơi không hề bị ô nhiễm. Nơi đó được dành cho Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Phúc Âm cũng cho thấy: Gioan Tiền Hô mà còn được thánh hoá từ trong lòng mẹ, huống chi nữa Đấng cưu mang Ngôi Lời, Đấng cưu mang chính Thiên Chúa.
Từ những suy tư như thế, người tín hữu đã tin chắc đặc ân vô nhiễm của Mẹ Maria, để rồi cuối cùng Đức Thánh Cha Piô IX, vào năm 1854 đã long trọng công bố và ấn định thành một tín điều phải tin. Sau đó bốn năm tức là vào ngày 25.3.1858, chính Mẹ đã hiện ra tại Lộ Đức và xác quyết với chị Bernadette: Ta là Đấng vô nhiễm nguyên tội. Mừng lễ Vô Nhiễm, chúng ta hãy mang lấy tâm tình vui mừng và hy vọng, bởi vì hiện giờ ở trên trời, chúng ta có được một người mẹ vừa thánh thiện lại vừa quyền năng để bầu cử cho chúng ta trước mặt Thiên Chúa. Nhất là chúng ta hãy ra sức khử trừ tội lỗi, để nhờ đó tâm hồn chúng ta được trở nên giống Mẹ, là một cánh sen vô nhiễm, gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
ĐÓA HỒNG ĐỜI MẸ
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Đã từ lâu tôi vẫn thích dâng hoa Hồng cho Đức Mẹ. Hoa hồng được tượng trưng cho tình yêu và được nhiều người yêu thích. Nó cũng rất quen thuộc với mỗi con người Việt Nam. Nó là một loài hoa rất giản dị, có rất nhiều màu như màu đỏ, màu hồng, màu cam, màu vàng. Loài hoa này nở quanh năm bốn mùa như thể mùa nào cũng là mùa của tình yêu.
Nguồn gốc của hoa hồng được kể rằng: Nữ thần tình yêu được sinh ra cùng lúc với hoa hồng trắng. Nàng xinh đẹp và trong trắng như đóa hoa thơm ngát tinh khiết đó.
Tuổi ấu thơ trôi qua, cô thiếu nữ như bông hồng ngày một xinh đẹp và trưởng thành hơn, rồi nàng đã yêu một chàng trai và hôn lễ đã cử hành…
Nàng là một người vợ đẹp lại chung thủy hết mức. Yêu chồng còn hơn cả mọi thứ trên đời. Nhưng thật không may chồng nàng lại ra đi trong lúc tuổi còn trẻ, cũng không ai biết chồng nàng chết vì lí do gì…
Trong lễ tang của chàng, nàng do đau khổ quá đã khóc lóc rất nhiều. Cũng do không để ý vô tình nàng đã bị gai của bông hồng đâm vào tay rất sâu, máu ở tay nàng nhỏ xuống thấm vào bông hoa hồng trắng. Vâng, chỉ vài giọt máu thôi mà bông hồng tự nhiên đỏ rực lên rồi càng ngày càng thẫm lại…
Cuộc đời Mẹ Maria cũng tinh khôi vẹn tuyền như đóa hoa hồng trắng. Và trái tim Mẹ cũng nhuộm thắm máu đào để cùng con cứu chuộc nhân gian. Mẹ đã hiệp thông với con yêu trong hiến tế thập giá. Trái tim Mẹ đã đỏ son của tình yêu sắt son thủy chung dành cho con người.
Tình yêu của Mẹ cũng hao mòn theo năm tháng đời con như bao bà mẹ chốn dương gian. Tận tụy hy sinh, mưa nắng không sờn miễn sao con khôn lớn thành tài.
Thế nên, nếu có ngắt bông hồng cho Mẹ ta vẫn thấy một tình yêu bao la luôn dạt dào xuống cho nhân loại chúng ta. Vì mẹ chính là bông hoa đẹp nhất mà tạo hóa đã tạo dựng cho nhân loại chúng con.
Hoa hồng tặng mẹ sớm mai
Cài lên vạt áo, áo phai bạc màu
Nắng mưa mẹ chẳng sờn lòng
Mong con khôn lớn thỏa lòng mẹ mong.
Phúc âm kể rằng tại thôn làng Nagiaret có một trinh nữ tinh khôi vẹn tuyền. Một thôn nữ tài sắc vẹn tuyền được nồng bởi sự trong trắng, đoan trang hiền thục. Một thôn nữ đạo hạnh mà từ trời cao Thiên Chúa luôn hài lòng về người, nên đã được chọn là Mẹ của Thiên Chúa. Đó là Đức Trinh nữ Maria. Thiên Chúa đã tuyển chọn Mẹ làm Mẹ Đấng cứu thế vì tâm hồn Mẹ thanh khiết vẹn toàn lại nồng thêm hương thơm của lòng bác ái bao dung.
Giáo Hội nhìn nhận Mẹ được ơn Vô Nhiễm ngay tứ lúc trinh thai, nhưng điều quan yếu là Mẹ đã giữ được vẻ thanh khiết vẹn toàn giữa thế gian tội lụy. Mẹ đã thắng mọi cám dỗ để có thể toả ngát hương thơm giữa trần đời. Mẹ là người phụ nữ đẹp rạng ngời giữa muôn ngàn người phụ nữ, tựa như bông hồng trinh nguyên luôn tỏa hương thơm dịu dàng. Mẹ hoàn toàn xứng đáng là đóa hoa hồng giữa thảo nguyên nhân gian như câu thơ viết rằng:
Đẹp lắm hoa hồng tận thảo nguyên.
Thanh trong ánh nắng dịu trên miền.
Dẫu cuộc đời Mẹ có lắm truân chuyên, gai góc lại càng làm nên vẻ thanh cao nơi con người Mẹ không vấn vương tội truyền.
Xương rồng mắc cỡ gai ứ mộng.
Cỏ bụi xanh vờn ngọn gió yên.
Nhìn ngắm đóa hồng đời Mẹ mà con cảm thấy nhẹ vơi mọi ưu phiền. Vì từ nơi Mẹ con đã hiểu được hương vị của tình yêu luôn pha chút ngọt đắng
Cát bụi cuồng phong vùi lấp nỗi.
Cơn mưa nhẹ rắc phủi tan phiền.
Hoa hồng bỗng đẹp chiều đâu hỡi.
Lãng tử say nồng mãi chẳng quên.
Chúng con cám ơn Chúa đã ban cho nhân loại chúng con một đóa hồng trinh khiết vẹn tuyền. Cám ơn Mẹ lại nhận chúng con làm con của mẹ. Xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho mỗi người chúng con biết gìn giữ nét đẹp cao quý nơi phẩm giá làm người và làm con Chúa. Xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho chúng con luôn được hồn an xác mạnh, ơn thánh dư đầy để phụng sự Chúa trong mọi người như Mẹ. Amen
.
VÔ NHIỄM VÌ ĐƯỢC THIÊN CHÚA ĐOÁI THƯƠNG
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Niềm tin vào sự kiện Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội quả là quan trọng, nhưng nó không hề xa vời mà gần gũi với Ki-tô hữu chúng ta hơn bất kỳ sự kiện nào khác. Trong niềm tin của tôi, ‘vô nhiễm’ không còn phải là một luật trừ dành riêng cho Đức Ma-ri-a, mà là một định luật phổ quát áp dụng cho hết thảy mọi người, trong đó có cả tôi và bạn nữa. Mời bạn cùng tôi khám phá nguyên lý thâm sâu của đặc ân vĩ đại này.
Lu-ca thuật lại giai thoại truyền tin và nhấn mạnh một điều không thể tin được, nếu chỉ căn cứ vào suy luận tự nhiên: Ma-ri-a thụ thai và sinh con mà vẫn đồng trinh. Và để dẫn chứng điều không thể đó là có thể, thiên sứ đã đưa ra sự kiện một phụ nữ khác là Ê-li-sa-bét hiếm muộn và già nua mà cũng đã thụ thai. Cả hai trường hợp này đều là phản tự nhiên, phản lại với định luật bất di bất dịch của trời đất và con người. Nếu nó có xảy ra được thì âu là có một sức mạnh vô song nào đó mà Đức Chúa muốn tỏ bày. Nhưng tôi tự hỏi: đó là sức mạnh nào? Chẳng lẽ chỉ là một ‘show’ về quyền phép là điều Ngài muốn biểu lộ sao cho con người phải nể phục, tương tự như các tai ương Ngài đã dùng Mô-sê mà giáng họa xuống đất nước Ai-cập xưa? “Đối với Thiên Chúa, không có gì mà không thể làm được!” điều đó là đương nhiên rồi, nhưng một khi thực hiện cái không thể đó Ngài phải có một lý do gì rất chính đáng chứ! Về điều này tôi muốn được nghe chính những nhân vật trong cuộc là Ma-ri-a và Ê-li-sa-bét (hay chồng của bà là Gia-ca-ri-a, người thân thiết và hiểu rõ bà hơn hết) nói về những cảm nghiệm thâm sâu nhất họ có. Đàng sau những sự kiện ‘không thể’ đó chính họ đã nghiệm thấy rõ quyền năng mà Thiên Chúa đang muốn thực hiện thực sự là cái gì.
Ma-ri-a thoáng nhận ra một điều gì đó vô cùng vĩ đại đang xảy đến với mình “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả”. Sự vĩ đại này quá đỗi to lớn tới độ con người, hoặc chỉ còn biết câm nín, hoặc bị thôi thúc phải cất tiếng ngợi khen. Đó chính là trường hợp của Ma-ri-a và Da-ca-ri-a khi được loan báo. Nhưng để biết điều vĩ đại họ nghiệm ra cụ thể là gì thì chúng ta hãy lắng nghe các bài ca Magnificat và Benedictus mà họ đã cất lên tự đáy lòng mình:
• “Đời nọ tới đời kia Chúa hằng thương xót”
• “Vì Người nhớ lại lòng thương xót… đến muôn đời”
• “Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn…”
• “Người sẽ cứu độ là tha cho họ hết mọi tội khiên”
• “Người sẽ nhớ lại lòng thương xót dành cho Ap-ra-ham và con cháu đến muôn đời”
Thì ra lòng thương xót mới chính là quyền năng đứng đàng sau tất cả những gì là ‘không thể’ này. Lòng từ bi thương xót là quyền năng vĩ đại nhất mà Thiên Chúa đang muốn biểu lộ cho tất cả những ai tin vào Đức Giê-su Ki-tô, khởi đầu là Ma-ri-a, là Da-ca-ri-a … Lòng từ bi thương xót cứu độ đó đã đạt tới cao điểm nhất khi nó làm cho sự sống phục sinh mãnh liệt bừng lên từ nấm mồ chết chóc lạnh lùng và hủy diệt. Sự kiện Phục Sinh cho thấy từ bi thương xót có sức mạnh làm đảo lộn tất cả: nó làm cho thụ thai mà không mất đồng trinh, sinh con trong tuổi già hiếm muộn, được thưởng phúc vinh khi chỉ đáng hình phạt đọa đầy, được làm nghĩa tử khi phản nghịch chống đối, thánh thiện khi tội lỗi, mạnh mẽ khi yếu đuối, vô nhiễm khi là con cháu E-va vướng mắc tội nguyên tổ… Ai chấp nhận cho nổi những điều này? Nó thật phi lý quá, ngoại trừ những kẻ bé mọn mà “Cha Ta muốn mạc khải cho”!
Và như thế, đón nhận lòng Thương Xót của Thiên Chúa chính là điều quan trọng nhất mà con người ta có thể làm. Sự vĩ đại nhất của Ki-tô hữu chúng ta chính là mở rộng cõi lòng đón lấy lòng Nhân Hậu Chúa. Tôi không cần biết Thiên Chúa sẽ hay đã làm cho tôi những ‘điều trọng đại’ nào (…có lẽ cũng nhiều lắm chứ), nhưng quan trọng và vĩ đại nhất trong đời vẫn phải là: trở thành Ki-tô hữu, tức là tôi trở thành một người có khả năng hiểu biết và tiếp nhận lòng thương xót vô biên của Chúa. Ngay cả Mẹ Ma-ri-a cũng chưa chắc đã ý thức mình được Thiên Chúa ban cho đặc ân vô nhiễm nguyên tội, nhưng có một điều chắc chắn là Mẹ đã biết rất rõ và rộng mở cõi lòng đón nhận hơn bất cứ ai khác; đó là Thiên Chúa là Đấng xót thương.
Mừng kính Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, trong khi cất tiếng ca ngợi đặc ân Chúa ban cho Mẹ, tôi có bị thôi thúc cùng Mẹ cất tiếng hát khen “Chúa hằng thương xót… hết đời nọ tới đời kia” không? Và tôi có xác tín rằng chính quyền năng thương xót đó cũng đang đổ tràn trên tôi, và biến đổi số phận thấp hèn của tôi cách sung mãn nhất hay không?
Lạy Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, xin cho con được bắt chước Mẹ, không cần quan tâm nhiều tới bất kỳ đặc ân nào con nhận được, kể cả ơn gọi tu sĩ và linh mục, sự tốt lành đạo đức thánh thiện… nếu có, nhưng tập trung trí lòng để nhận biết Chúa Từ Ái xót thương con vô bờ bến. Con xin chúc mừng Mẹ về đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, nhưng con còn muốn chúc tụng Mẹ nhiều hơn vì Chúa đã xót thương đến phận hèn của Mẹ. Xin cho con được cùng Mẹ Vô Nhiễm ca ngợi lòng Thương Xót Chúa đến muôn đời. A-men.
.
MẦU NHIỆM THẲM SÂU VƯỢT RA NGOÀI TRÍ KHÔN CON NGƯỜI
JM. Lam Thy
Trong bài giảng ngày đại lễ kính Đức Mẹ Vô Nhiễm và khai mạc Năm Thánh Lòng Thương Xót (8/12/2015), ĐTC Phan-xi-cô thuyết giảng: “Trước hết, Đức Maria đã được thôi thúc để vui mừng về tất cả những gì mà Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ. Ân sủng của Thiên Chúa đã bao phủ Mẹ, và làm cho Mẹ trở nên xứng đáng làm Mẹ Chúa Ki-tô. Đối với Mẹ, khi Tổng Lãnh Thiên Thần Gabriel bước vào nhà Mẹ, một mầu nhiệm thẳm sâu mà nó vượt ra ngoài bất cứ dung lượng nào của trí khôn, cũng đã trở nên nguyên cớ dẫn tới niềm vui, dẫn tới Đức Tin và dẫn tới sự trao hiến trọn vẹn cho Lời vừa được mạc khải cho Mẹ. Sự tràn đầy ân sủng có khả năng biến đổi con tim, và làm cho nó có khả năng thực hiện một bước đi, mà bước đi ấy rất vĩ đại vì nó làm thay đổi lịch sử nhân loại.” (nguồn: Vatican.net). Thử tìm hiểu xem “bước đi làm thay đổi lịch sử nhân loại” là thế nào?
Bài đọc 1 hôm nay (St 3, 9.15-20) trình thuật việc ông bà Nguyên tổ nghe lời con rắn xúi giục đã ăn trái cấm, khiến “Đức Chúa là Thiên Chúa đuổi con người ra khỏi vườn Ê-đen để cầy cấy đất đai, từ đó con người đã được lấy ra. Người trục xuất con người và ở phía đông vườn Ê-đen, Người đặt các thần hộ giá với lưỡi gươm sáng lóe, để canh giữ đường đến cây trường sinh.” Đến bài Tin Mừng (Lc 1, 26-38), Thánh sử Lu-ca trình thuật sự kiện “Truyền tin cho Đức Maria”. Nghe lời chào và chúc mừng của sứ thần, Đức Mẹ rất bối rối và hỏi lại: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng.” Sau khi được sứ thần giải thích thỏa đáng sự băn khoăn thắc mắc trước việc thụ thai Chúa Giê-su, Đức Maria đã trả lời sứ thần: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” Như vậy, hai bài đọc làm nổi bật hai cuộc đối thoại mà đối tượng chính là hai người phụ nữ, đã làm đảo lộn lịch sử loài người, thay đổi hẳn cục diện thế giới.
Cuộc đối thoại thứ nhất giữa sứ giả của ma quỷ (con rắn) với bà E-và trong vườn địa đàng: Rắn nói với Eva: “Có thật Thiên Chúa bảo: “Các ngươi không được ăn hết mọi trái cây trong vườn không?” Người đàn bà trả lời: “Trái các cây trong vườn, thì chúng tôi được ăn. Còn trái trên cây ở giữa vườn, Thiên Chúa đã bảo: “Các ngươi không được ăn, không được động tới, kẻo phải chết.” Rắn nói: “Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác.” E-và nghe bùi tai, lại “thấy trái cây đó ăn thì ngon, trông thì đẹp mắt, và đáng quý vì làm cho mình được tinh khôn. Bà liền hái trái cây mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở đó với mình; ông cũng ăn.” Kết quả là: “Bấy giờ mắt hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng; họ mới kết lá vả làm khố che thân.” (St 3, 1-7).
Và hậu quả tất yếu đến cho ông bà Nguyên tổ: “Với người đàn bà, Chúa phán: “Ta sẽ làm cho ngươi phải cực nhọc thật nhiều khi thai nghén; ngươi sẽ phải cực nhọc lúc sinh con. Ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi, và nó sẽ thống trị ngươi.” Với con người, Chúa phán: “Vì ngươi đã nghe lời vợ và ăn trái cây mà Ta đã truyền cho ngươi rằng: “Ngươi đừng ăn nó”… Ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi, mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra. Đất đai sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng. Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất.” (St 3, 16-19).
Cuộc đối thoại thứ hai giữa sứ giả của Thiên Chúa (sứ thần Gáp-ri-en) với E-và Mới là Đức Maria nơi thành Na-da-ret (miền Ga-li-lê): “Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.” Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì? Sứ thần liền nói: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.” Bà Maria thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”. Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Ê-li-za-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.” Kết quả là: ”Bấy giờ bà Maria nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” (Lc 1, 28-38)
So sánh hai cuộc đối thoại, thấy rõ một bên là sứ giả của quỷ dữ (con rắn) đầy ranh ma quỷ quyệt ẩn trong thái độ ngạo mạn coi thường cả Thiên Chúa lẫn đối tượng bị cám dỗ (E-và), còn một bên là sứ giả của Thiên Chúa (sứ thần) chân thành biểu lộ trong thái độ khiêm cung, kính trọng Thiên Chúa và cả người đối diện (Đức Maria). Cả hai đối tác đều gật đầu ưng thuận (Bà E-và thì mau mắn hái trái cây ăn và cón đưa cho chồng cùng ăn; Đức Maria tuy tỏ dấu băn khoăn, nhưng khi được giải thích đã khiêm tốn xưng mình là nữ tì của Thiên Chúa và “xin vâng”). Cái gật đầu mau mắn của E-và đã làm đảo lộn lịch sử loài người: Thay vì được an vui thảnh thơi sống trong vườn địa đàng thì bị đuổi ra ngoài, xa lìa Thiên Chúa, phải tự vật lộn với cuộc mưu sinh và đối mặt với biết bao ác hiểm của kẻ thù muôn kiếp là ma quỷ. Không những chỉ hai ông bà Nguyên tổ mà còn truyền tử lưu tôn tội lỗi tày trời đến thiên thu vạn đại. Còn cái gật đầu ưng thuận của Đức Maria bằng tiếng “xin vâng” thì lại thay đổi hẳn cục diện thế giới, mở ra một kỷ nguyên mới cho lịch sử loài người: Kỷ nguyên Cứu Độ.
Cũng là gật đầu để đón nhận lương bổng hay ân hụê mà sao kết quả lại trái ngược nhau đến lạ lùng? Ấy cũng bởi vì “Lương bổng mà tội lỗi trả cho người ta, là cái chết; còn ân huệ Thiên Chúa ban không, là sự sống đời đời trong Đức Ki-tô Giê-su.” (Rm 6, 23). Có tin thì mới gật đầu ưng thuận. Con người ta sống trên đời cần phải có niềm tin, bởi nếu thiếu nó thì cuộc sống thật vô vị. Có tin thì mới yêu đời, nên hai chữ “tin yêu” luôn đi đôi với nhau thành một từ ghép diễn tả tâm trạng vui sống của con người. Đến ngay cả những kẻ chán đời tìm đến cái chết cũng vẫn có một niềm tin. Họ tin rằng cái chết sẽ giúp họ giải thoát cơn bĩ cực sầu khổ tột cùng. Chính vì thế nên vấn đề đặt ra là lòng tin của người gật đầu đã đặt đúng chỗ chưa? Nên tin vào một vị Thần duy nhất là “Vua trên hết các vua, Chúa trên hết các chúa” hay là nên tin vào thần sông thần núi, thần cây đa cây đề, thần mưa thần gió, thần sấm thần chớp, thần bếp thần đất …?
Nói đến vấn đề tin vào thần linh là nói đến thái độ cực đoan của những người tin. Họ tôn thờ những đối tượng mà họ tin như một ông chủ và sẵn sàng làm tôi tớ để mua chuộc cảm tình. Ấy cũng bởi vì con người được tự do tuyệt đối chọn cho mình một lối sống, hoặc chạy theo bả vinh hoa vật chất, hoặc sống một cuộc đời công bình chính trực. Nếu chẳng vậy thì vị Vua Công Chính, Vua Tinh Yêu đã chẳng dạy: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được.” (Mt 6, 24). Hoá cho nên chỉ vì một niềm tin đặt không đúng chỗ, vì một cái gật đầu ưng thuận của “một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết” (Rm 5, 12). Nhưng Thiên Chúa cũng không vì thế mà bỏ rơi loài người. Người vẫn thương yêu đàn con cái trầm luân trong tội lỗi nhuốc nhơ, nên đã ban cho nhân loại một Người Nữ đặt niềm tin tuyệt đối vào Đấng Toàn Năng hằng hữu, để từ cái gật đầu khiêm nhường ưng thuận bằng hai tiếng “xin vâng”, đã đón nhận vào cung lòng một Trưởng Tử Thiên Cung nhập thể làm người cứu chuộc nhân thế. Thật đúng là: “Nếu chỉ vì một người duy nhất sa ngã, mà sự chết thống trị, thì điều Thiên Chúa làm qua một người duy nhất là Đức Giê-su Ki-tô, lại còn lớn lao hơn biết mấy. Quả vậy, những ai được Thiên Chúa ban ân sủng dồi dào và cho trở nên công chính, thì sẽ được sống và được thống trị.” (Rm 5, 17).
Càng suy gẫm càng thấy rõ ràng 2 cái gật đầu của 2 người nữ đã quyết định vận mệnh con người. Chính vì thế nên xin đừng nghi ngờ, phân vân gì nữa, mà hãy mừng vui lên cùng với cái gật đầu thứ hai trong lịch sử loài người của “nữ tì Thiên Chúa”. Ấy cũng bởi vì “một mầu nhiệm thẳm sâu mà nó vượt ra ngoài bất cứ dung lượng nào của trí khôn con người” (Bài giảng của ĐTC Phan-xi-cô như đã dẫn trên). Từ niềm hoan lạc được mạc khải, hãy cất cao giọng vinh tụng ca: “Vinh danh Thiên Chúa, Đấng có quyền năng làm cho anh em được vững mạnh theo Tin Mừng tôi loan báo, khi rao giảng Đức Giê-su Ki-tô. Tin Mừng đó mạc khải mầu nhiệm vốn được giữ kín tự ngàn xưa, nhưng nay lại được biểu lộ như lời các ngôn sứ trong Sách Thánh. Theo lệnh của Thiên Chúa, Đấng hằng có đời đời, mầu nhiệm này được thông báo cho muôn dân biết, để họ tin mà vâng phục Thiên Chúa. Chỉ mình Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan thượng trí. Kính dâng Người mọi vinh quang đến muôn thuở muôn đời, nhờ Đức Giê-su Ki-tô. A-men.” (Rm 16, 25-27). Người Ki-tô hữu hãy hoan hỉ ngẩng cao đầu cất tiếng ngợi khen, để tiếp liền sau đó khiêm cung cúi đầu “xin vâng” theo Thánh ý Đấng Toàn Năng Hằng Hữu.
Muốn được như vậy, xin hãy chạy đến cùng Đức Mẹ như lời khuyên của ĐTC Phan-xi-cô trong bài giảng ngày lễ Đức Mẹ Vô Nhễm (–nt–): “Xin hãy chạy đến nép mình trong áo Mẹ, cũng bởi vì ”Dưới áo choàng của Mẹ có chỗ cho tất cả mọi người, vì Mẹ là Mẹ Thương Xót. Trái tim Mẹ đầy dịu dàng đối với mọi con cái của Mẹ: sự dịu dàng của Thiên Chúa, Đấng đã nhận xác thể từ Mẹ, và trở thành người Anh của chúng con, là Chúa Giê-su, Đấng Cứu Độ mọi người nam nữ. Lạy Đức Mẹ Vô Nhiễm, khi nhìn lên Mẹ, chúng con nhận ra chiến thắng của Lòng Chúa Xót Thương trên tội lỗi và mọi hậu quả của nó; trong tâm hồn chúng con bừng lên niềm hy vọng một cuộc sống tốt đẹp hơn, được giải thoát khỏi mọi nô lệ, oán hận và sợ hãi. Lạy Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, chúng con cảm tạ Mẹ vì trong hành trình hòa giải này, Mẹ không để chúng con đi một mình, nhưng tháp tùng chúng con, ở cạnh và nâng đỡ chúng con trong mọi khó khăn. Chúc tụng Mẹ bây giờ và mãi mãi. Amen.”
Ôi! “Lạy Thiên Chúa chí thánh, Chúa đã làm cho Trái Tim Ðức Trinh Nữ Ma-ri-a nên cung điện xứng đáng của Chúa Thánh Thần, vì lời Ðức Trinh Nữ chuyển cầu, xin thương giúp chúng con cũng trở nên đền thờ Chúa ngự. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen. (lời nguyện lễ Trái rim Vô nhiễm Đức Mẹ – 8/12)
.
ĐỆ NHẤT THÁNH NỮ
Trầm Thiên Thu
HỒNG ÂN CAO CẢ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI
THÁNH MẪU GIỮ MÌNH TRINH KHIẾT TRỌN ĐỜI
Vô nhiễm là một trong tứ ân đặc biệt mà Thiên Chúa dành riêng cho Đức Mẹ (*), thụ tạo đặc biệt của Thiên Chúa – Đệ Nhất Thánh Nữ với nhiều thánh hiệu được Giáo hội tôn vinh (x. Kinh Cầu Đức Bà). Theo ngữ nghĩa “nhiễm” là “nhuộm” – nghĩa bóng là lây lan, thấm sang, vương, vướng, dính – nhưng thường được dùng ở thể thụ động và mang nghĩa xấu. Nói ngắn gọn, “vô nhiễm” nghĩa là không bị nhiễm. Qua Tông sắc “Ineffabilis Deus” (Thiên Chúa Bất Khả Ngộ) ban hành ngày 8-12-1854, ĐGH Piô IX đã công bố Tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Trong cuộc sống đời thường có nhiều dạng “nhiễm”: Nhiễm khuẩn, nhiễm trùng, nhiễm độc, nhiễm xạ, nhiễm bệnh,… Về thể lý, chắc chắn không ai miễn nhiễm, nghĩa là ai cũng đã từng bị bệnh, bị nhiễm một dạng virus nào đó, với mức độ khác nhau. Vì thế, người ta rất cần bảo vệ hệ miễn nhiễm của cơ thể, đặc biệt là cố gắng làm mạnh sức đề kháng. Thật kỳ diệu là đối với một số người Phi châu, họ miễn nhiễm với HIV (Human Immunodeficiency Virus), người ta gọi là “căn bệnh thế kỷ”, thường nói theo Pháp ngữ là SIDA (Anh ngữ là AIDS – Acquired Immune Deficiency Syndrome), Việt ngữ gọi là “bệnh liệt kháng”. Đó là một dạng thiếu khả năng miễn nhiễm của cơ thể. Tuy nhiên, có một số người Phi châu không bị nhiễm HIV, đúng là dạng “vô nhiễm” rất kỳ lạ!
Theo giáo sử, Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm đã có tại Ðông phương từ giữa thế kỷ VII và VIII. Các vị giảng thuyết đã nói về sự Vô Nhiễm, thai sinh thánh thiện, nhưng không nêu lên vấn đề gì khác. Thời Trung cổ, lễ này được đưa vào Tây phương, rồi nhiều dòng tu ở Ðức và Rôma cũng đã mừng lễ này từ thế kỷ IX.
Các tu sĩ đưa lễ này vào Anh quốc năm 1060, rồi lễ này được lan rộng khắp Âu châu trong thời gian 1127-1128, dù Thánh Bênađô vẫn tỏ ra dè dặt trước “sự mới lạ” đó. Lúc đầu, đó là một phong trào sùng kính sốt sắng nhưng thiếu suy tư, nhất là bị ảnh hưởng những ý kiến mù mờ của thời đó.
Sau đó, cùng với Thánh GM TS Augustinô, người ta cho rằng việc giao hợp vợ chồng là hành động trác táng lưu truyền tội tổ tông. Như vậy, Đức Maria sinh bởi sự giao hợp của cha mẹ thì cũng không thoát khỏi “định luật thông thường” đó. Vả lại, thời đó người ta có quan niệm phi khoa học về việc thai sinh, như thể xác được cưu mang trước rồi linh hồn đến trong khoảng thời gian sau: Linh hồn con trai trước 40 ngày, linh hồn con gái phải lâu hơn mới hợp với thể xác vì bản tính con gái yếu kém. Ui da!
Trong cái “vòng lẩn quẩn” đó, các thần học gia cũng không biết làm sao thoát khỏi với điều này: Chúa Kitô là Ðấng cứu chuộc hết mọi người. Như vậy, nếu nói rằng Ðức Mẹ không vướng mắc tội lỗi, dù chỉ nói đến tội tổ tông, thì Chúa Kitô không còn là Ðấng cứu chuộc toàn thể nhân loại. Các nhà thần học thế kỷ XIII, kể cả Thánh TS Thomas Aquinô, đều cho rằng Ðức Mẹ vẫn có phần lệ thuộc tội lỗi, ít nhất là về thể lý trong thời gian mang thai.
Đến cuối thế kỷ XIII, thần học gia tu sĩ Gioan Duns Scott và tu sĩ William Ware (Dòng Phanxicô) đã có công tìm hiểu và đảo ngược lý luận trên. Chân phước tu sĩ Duns Scott lý luận rằng đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội của Ðức Mẹ chẳng những không làm tổn thương đến vinh dự Đức Kitô và Công Cuộc Cứu Chuộc của Ngài, nhưng càng làm tỏ rạng sự sung mãn của công cuộc ấy. Nhân loại thực sự được thoát khỏi Nguyên Tội khi lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy. Nơi Đức Maria, công việc của Chúa Giêsu có sức ngăn ngừa tội lỗi. Vì Ðấng Cứu Chuộc hoàn hảo phải là Ðấng không chỉ có thể CHỮA LÀNH tội lỗi mà còn NGĂN NGỪA tội lỗi. Lý luận thật tuyệt vời, và Thánh Ý Chúa thật là mầu nhiệm! Thật vậy, vào ngày 25-3-1858, chính Đức Mẹ đã hiện ra với Thánh nữ Bernadette tại Lộ Đức và xác nhận: “Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội”. Điều này cho thấy Chúa Thánh Thần thực sự tác động mạnh trong đời sống Giáo hội Lữ hành và minh chứng ơn bất khả ngộ của Đấng kế vị Thánh Phêrô, vì lúc đó Giáo hội mới công bố tín điều Mẹ Vô Nhiễm được gần 4 năm.
Qua trình thuật St 3:9-15, chúng ta thấy đó là một cuộc “xưng tội công khai” của Ông Bà Nguyên Tổ trước Tôn Nhan Thiên Chúa.
Sách Sáng Thế cho biết: Thuở hồng hoang, Đức Chúa là Thiên Chúa gọi con người và hỏi: “Ngươi ở đâu?”. Con người thưa: “Con nghe thấy tiếng Ngài trong vườn, con sợ hãi vì con trần truồng, nên con lẩn trốn”. Đức Chúa là Thiên Chúa hỏi: “Ai đã cho ngươi biết là ngươi trần truồng? Có phải ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi ăn không?”. Con người thưa: “Người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con ăn”. Đức Chúa là Thiên Chúa hỏi người đàn bà: “Ngươi đã làm gì thế?”. Người đàn bà thưa: “Con rắn đã lừa dối con, nên con ăn”. Đức Chúa là Thiên Chúa phán với con rắn: “Mi đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất trong mọi loài súc vật và mọi loài dã thú. Mi phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi. Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó”.
Lạy Chúa tôi, con người thật chua ngoa và tồi tệ! Đó là một dây-chuyền-tội-lỗi: Ông đổ lỗi cho bà, bà đổ lỗi cho con rắn. Cuộc đời người ta “chết” vì những cái VÌ, BỞI, TẠI, NẾU, GIÁ MÀ, GIẢ DỤ,… và không phục thiện. Thật nguy hiểm vô cùng!
Chàng Adam được Thiên Chúa ban cho “mỹ nhân” (chắc là xinh đẹp và dễ thương lắm) nên chàng Adam nhà ta khoái chí lắm, liền đặt tên cho “vợ yêu” là Eva – tên này có nghĩa là “mẹ của chúng sinh” (St 3:20). Như một chuỗi lô-gích liên quan lẫn nhau, người ta có một câu danh ngôn thú vị thế này: “A-xít làm CHÁY tiền, tiền làm CHÁY tim đàn bà, nước mắt đàn bà làm CHÁY tim đàn ông”. Ôi chao, thú vị mà cay cú, nhưng cũng chí lý đấy chứ!
Người ta gọi phụ nữ là “liễu yếu đào tơ”, nhưng đôi khi quên rằng phụ nữ mềm mà cứng, yếu mà mạnh. Quả thật, chính sự yếu mềm đó lại chính là thế mạnh của họ, nhất là họ vừa trẻ vừa đẹp, ngày nay còn “chân dài” nữa, nó “khoèo” một cái là lũ đàn ông té hàng loạt như bão mạnh thổi tung vậy. Khốn thay! Thật vậy, giọng cô ả chỉ “nhựa” một chút và ẻo lả một chút khi nói “Anh ơi!”, thì hỡi ôi, chàng chợt mềm nhũn như bún thiu ngay thôi. Chẳng thế mà Samson khỏe như voi cũng “chết ngắc” chỉ vì một phụ nữ, đường đường là một quốc vương như Đa-vít mà cũng “tiêu” chỉ vì một phụ nữ, và rồi gã Hê-rô-đê cũng sẵn sàng “làm liều” chỉ vì một phụ nữ, dám “thí” nửa nước như một món đồ chơi vậy. Đúng vậy, chỉ MỘT phụ nữ mà quý ông đã “tiêu diêu miền tình ái” chứ chưa cần nhiều phụ nữ đâu. Thật khủng khiếp quá chừng!
Xưa nay người ta vẫn ví von thế này: “Phụ nữ muốn là trời muốn”. Và người ta cũng so sánh: “Nhất vợ, nhì trời,…”. Trời còn đứng hàng thứ chứ nói gì phàm phu tục tử. Đáng sợ là khoảng giữa “cái có” và “cái không” ở phụ nữ thì dù một sợi tóc cũng không thể lọt vào. Tinh vi quá đỗi! Đàn ông là sóng cồn nhưng đàn bà là sóng ngầm. Sóng ngầm không thấy mà tránh và có sức cuốn mất hút dù trời không hề giông bão.
Tuy nhiên, Thiên Chúa không làm ngơ. Chỉ vì một phụ nữ tội lỗi mà nhân loại chịu kiếp đọa đày, đó là Bà Cố Tổ Eva; nhưng lại nhờ một phụ nữ thánh thiện, nhu mì và tuân phục, mà nhân loại được giải án tuyên công, người đó chính là Đức Maria. Thật diễm phúc cho phàm nhân chúng ta!
Khi đã thực sự nhận ra “cái may” to lớn như thế thì người ta phải biết tạ ơn chân thành và không ngừng. Thật vậy, Thánh Phaolô đã bày tỏ tâm tình đó: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Trong Đức Kitô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần” (Ep 1:3). Không chỉ vậy, Thánh Phaolô còn xác định chi tiết: “Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô, để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu”(Ep 1:4-6). Rất rõ ràng, mạch lạc, và dễ hiểu.
Và rồi Thánh Phaolô còn nói thêm: “Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi sự theo quyết định và ý muốn của Người, đã tiền định cho chúng tôi đây làm cơ nghiệp riêng theo kế hoạch của Người, để chúng tôi là những người đầu tiên đặt hy vọng vào Đức Kitô, chúng tôi ngợi khen vinh quang Người” (Ep 1:11-12). Quả thật, hồng ân Thiên Chúa quá bao la, cao vời và khôn ví. Chúng ta chỉ còn biết suốt đời cúi đầu mà cảm tạ liên lỉ từng phút, từng giây, trong suốt cuộc đời này.
Ơn là ơn, ân sủng là ân sủng, hồng ân là hồng ân, chúng ta không thể xác định ơn nào to hay nhỏ – đại ân hoặc tiểu ân. Chỉ có Thiên Chúa mới là người xác định mức độ, vì chỉ một mình Ngài là người thi ân giáng phúc. Đức Mẹ và các thánh chỉ là những người cầu thay nguyện giúp, đại diện cầu xin thay cho chúng ta (vì họ “uy tín” hơn chúng ta), họ là “ống dẫn” để chuyển ơn thánh từ Thiên Chúa tới chúng ta.
Trình thuật Lc 1:26-38 nói về cuộc Truyền Tin, ngày khởi đầu quan trọng đối với công trình cứu độ. Thánh sử Luca kể: Bà Êlisabét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Maria.
Vừa gặp Trinh Nữ Maria, Sứ thần liền nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà”. Nghe lời ấy, Cô Maria rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. Sứ thần biết Cô Maria đang lo lắng nên trấn an ngay: “Cô Maria ơi, xin đừng sợ, vì Cô đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây Cô sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận”.
Chu choa, răng mà kỳ vậy hè? Người ta đã khấn giữ đồng trinh mà tự dưng nói chuyện mang thai và sinh sản. Kỳ ghê đi, mắc cỡ thí mồ, ngại hết sức! Thế nên Cô Maria thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”. Sứ thần liền giải thích cặn kẽ và minh chứng cụ thể: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”.
Thì ra là thế! Nói đến Thiên Chúa thì miễn bàn, vì Cô Maria hết lòng tin kính Ngài. Thế là hai năm rõ mười. Tỏ rõ khúc nhôi. Chắc hẳn Cô Maria nhà ta thở phào nhẹ nhõm. Và rồi Cô Maria dịu dàng nói ngay với sứ thần: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa CỨ LÀM cho tôi như lời sứ thần nói”. Nghe vậy, sứ thần cũng “an tâm” mà từ biệt ra đi…
Alleluia! Thế là “chốc ấy Ngôi Thứ Hai xuống thế làm người”, và ở cùng chúng ta… Ngài chính là Đấng Thiên Sai, mệnh danh Emmanuel (Is 7:14; Mt 1:23). Đức Maria tự nhận là một Nữ Tỳ hèn mọn nhưng lại thật là vĩ đại, đã trở thành Đấng Theotókos (Θεοτόκος – God-Bearer – Người-Mang-Thiên-Chúa). Xin kính chào Đấng Emmanuel, và xin “kính mừng Maria đầy ơn phước”… Tạ ơn Thiên Chúa – Deo gratias!
Lạy Mẹ Maria
Đấng Vô nhiễm Nguyên tội
Luôn tin yêu tuyệt đối
Nơi Thiên Chúa tình yêu
Mẹ sáng rực ngàn sao
Trắng trong như Bạch Huệ
Nêu gương cho hậu duệ
Trinh nguyên cả xác hồn
Lạy Thánh Mẫu từ nhân
Xin chở che, nâng đỡ
Dẫu đời bao sóng gió
Vẫn một lòng tin yêu
Lạy Thiên Chúa quan phòng và tiền định, xin làm mạnh hệ miễn nhiễm tâm linh để con đủ sức đề kháng cái xấu. Lạy Thánh Nữ Vô Nhiễm, xin giúp con can đảm khi noi gương Mẹ sống khiêm nhu và tuân phục vô điều kiện. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
(*) 1. Thánh Mẫu Thiên Chúa [01-01], 2. Mông Triệu [15-08, Hồn Xác Lên Trời], 3. Đồng Trinh Trọn Đời [22-08, Maria Trinh Vương], 4. Vô nhiễm Nguyên tội [08-12].
.
NGƯỜI PHỤ NỮ THÁNH THIỆN
P.Trần Đình Phan Tiến
Vâng, thưa quý vị, thưa các bạn, người Công Giao trên khắp thế giới tôn kính Mẹ Maria là điều hiển nhiên rồi. Nhưng, người Hồi giáo cũng tôn kính Mẹ Maria không thua kém. Như vậy, cùng với hơn một tỷ người Công giáo và Hồi giáo chúng ta hân hoan mừng kính trọng thể Lễ Đức Trinh Nữ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội. Vâng, “Người Nữ đạp nát đầu satan”.
Thưa quý vị, thưa các bạn, Người Phụ Nữ được Thiên Chúa chúc phúc để “đạp nát đầu satan” , đó chính là Đức Trinh Nữ Maria. Vâng, không ai có thể đạp nát đầu satan được, nếu không được Thiên Chúa ban cho cái “quyền “ấy.
Người phụ nữ đầu tiên đã “bị” satan gài bẫy, sự bất lực nơi con người không thể chống lại stan. Nhưng, với ơn Chúa và sự vâng lời của con người, thì con người mới chống lại satan được.
Satan : kẻ phản nghịch. Vậy muốn chống lại satan, con người phải “vâng lời” Thiên Chúa. Vậy, ai là người đầu tiên thực thi được điều ấy. Thưa, đó là ”DỨC TRINH NỮ MARIA”, Lời Thiên Sứ Truyền Tin đứng sau “Lời tiền định” từ Thiên Chúa, Lời mà Thiên Chúa đồng thời lên “án phạt” satan, tức con rắn xưa.
Như vậy, “Đặc Ân Vô Nhiễm Nguyên Tội” được ban cho Đức Trinh Nữ Maria chính là “ngay từ giây phút” Lời Tiền Định từ Thiên Chúa. (St 3, 15) trong Cựu Ứơc. “ … người phụ nữ sẽ đạp nát đầu mi..” Còn trong Tân Ứơc chính là câu :” Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà …” (Lc 1, 35)
Đồng thời lời thưa “ Xin Vâng” của Mẹ nói lên sự “ưng thuận tuyệt đối”, sự tín thác chân thành của thụ tạo, mà Mẹ là người đại diện.
Tiếng “Fiat” của Mẹ là tiếng thưa của cả nhân loại, dâng lên Thiên Chúa là Cha, để đáp lại “Hồng ân của lòng tin “. Để đồng lòng cùng Đấng Tạo Thành lên án satan. Như vậy, Người Phụ Nữ duy nhất ấy phải Thánh Thiện, phải trỗi vượt trên tất cả loài thụ tạo, để Mẹ xứng đáng được đón nhận một “dòng dõi mới” , đó là Tân Ứơc, một Giao Ứơc mới. Một Giao Ứơc mà Thiên Chúa đã “lập ra” dành cho một “Người Mẹ”, để làm Mẹ một dòng dõi mới, dòng dõi Tân Ứơc. Vì, “… Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa ” ( c 35)
Vâng, Đấng Thánh được sinh ra bởi một Người Mẹ, mặc nhiên người Mẹ ấy phải thánh thiện trỗi vượt. Vì, Người Mẹ ấy được gọi là “ MẸ THIÊN CHÚA “.
Như vậy, “Đặc ân vô nhiễm nguyên tội” nơi Đức Mẹ thật là có cơ sở vậy. Bởi vì, “ Từ Nguyên thủy đã có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở nơi Thiên Chúa Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, vì Ngôi Lời là Thiên Chúa” ( Ga 1, 1).
Mặc nhiên, người được Thiên Chúa tiền định để cộng tác vào Mầu Nhiệm Cứu Độ loài người bởi Thiên Chúa, thì Người Phụ Nữ ấy phải là “ Nguyên tuyền thánh thiện” vậy.
Vâng, đó là nguyên lý đặc ân “Vô Nhiễm Nguyên Tội” nơi Đức Trinh Nữ Maria vậy.
Không ai được gọi là “Thánh “ ngoài Thiên Chúa, nhưng chính Đấng Thánh ấy, là Thiên Chúa cực Thánh , Chí Thánh, ngàn trùng Chí Thánh đã muốn “Tiền Định” sự “Thánh Thiện “ ấy cho một thụ tạo, thì ai ngăn cản được.
Xin mượn lời nhạc sĩ để cất lên lời chúc tụng Mẹ : “ Cung chúc Trinh Vương, Mẹ quyền phép khôn lường, vì Mẹ đầy ơn Thiên Chúa, Mẹ khiết trinh trọn đời …”
Lạy Thiên Chúa là Cha, xin chúc tụng ngợi khen Danh Cha, xin cùng Đức Trinh Nữ Maria cảm tạ Cha muôn vàn cao cả, Cha đã ban cho một thụ tạo được trở nên Mẹ của Đấng Cứu Thế, để muôn đời nhân thế tôn vinh Cha, vì những kỳ công tuyệt mỹ. Xin Cha thương ban cho mọi loài thọ sinh biết nhận ra tình Cha cao vời, mà phượng thờ cho xứng hợp. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu- Kitô./. Amen
.
LỄ ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM
Lm Giuse Đinh lập Liễm
I. LÒNG SÙNG KÍNH QUA THỜI GIAN
Thánh Kinh không minh nhiên nói về việc Đức Maria ngay từ thưở ban đầu đã được gìn giữ khỏi tội nguyên tổ, nhưng lòng sùng kính cá nhân hay trong cộng đoàn địa phương đã có từ lâu. Giáo dân với lòng thành thật đã tin rằng Đức Maria đã được ơn vô nhiễm nguyên tội và lòng sùng kính mỗi ngày một tăng thêm.
Về phụng vụ, chúng ta thấy đã có những thánh lễ kính Đức Mẹ vô nhiễm từ thế kỷ thứ 9, bắt đầu từ Constantinople tràn sang miền nam nước Ý. Nhưng rõ nét nhất là thánh Anselmô thành Canterburry đã du nhập Thánh lễ này vào giáo phận của Ngài.
Vào năm 476 Đức Giáo hoàng Sixtô IV xuất thân từ dòng Anh Em Hèn Mọn, đã đem lễ này vào Giáo hội La mã.
Tuy Thánh lễ kính Đức Mẹ Vô nhiễm đã được mừng trọng thể trong toàn Giáo hội, nhưng lòng tin vào đặc sủng này còn bỏ ngỏ để các nhà thần học tự do nghiên cứu và thảo luận.
Riêng Giáo phận Bùi chu, năm 1845 là thời kỳ cấm đạo gay gắt nhất, Đức cha Valentinô Vinh coi sóc Giáo phận đã thay mặt cho giáo phận khấn với Đức Mẹ Vô Nhiễm :”Nếu cơn bách hại tan đi thì Giáo phận sẽ xây dâng kính Đức Mẹ một ngôi thánh đường xứng đáng.”.
Nhờ ơn Đức Mẹ, cơn bắt đạo qua đi, và thánh đường khấn hứa đã bắt đầu được xây cất vào năm 1917 tại làng Phú nhai (Bùi chu) và hoàn thành vào năm 1923. Nhưng mùa hè năm 1929 một cơn bão lớn đánh sập và năm 1938 việc tái thiết được hoàn thành.
Đây là ngôi thánh đường nguy nga đồ sộ, theo kiểu gothique, với chiều dài 83 mét, rộng 28 mét và tháp chuông cao 30 mét. Mới đây thánh đường Phú nhai mới được nâng lên thành “tiểu vương cung thánh đường” dâng kính Đức Mẹ Vô Nhiễm.
II. TÍN ĐIỀU ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI
Sự kiện
Suốt một thời gian dài lòng sùng kính Đức Mẹ Vô Nhiễm vẫn triển nở. Mãi đến ngày 08/12/1854, cũng trong ngày lễ hôm nay, Đức Giáo hoàng Piô IX, sau khi tham khảo ý kiến các Giám mục trên khắp thế giới, đã long trọng tuyên bố tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên Tội bằng sắc lệnh “Ineffabilis Deus”, trong đó Ngài tuyên bố :”Rất thánh Trinh nữ Maria nhờ Thiên Chúa toàn năng và nhờ công nghiệp của Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu chuộc nhân loại ban cho ân phúc đặc biệt là ngay từ khi thụ thai đã được gìn giữ khỏi hết mọi bợn nhơ của tội nguyên tổ. Đó là tín điều được Thiên Chúa mạc khải, vì thế buộc mọi người phải tin vững vàng mãi mãi”.
Có lẽ Đức Mẹ muốn củng cố cho tín điều mà Đức Giáo hoàng Piô IX mới tuyên bố, thì ngày 11/02/1858 Đức Mẹ đã hiện ra tại hang đá Massabielle ở Lộ đức với một thiếu nữ 14 tuổi quê mùa dốt nát hay đau yếu nhưng đơn sơ trong trắng tên là Bernadette.
Hôm đó, Bernadette đang đi chặt củi với mấy đứa bạn thì một bà lạ mặc áo trắng như tuyết đã hiện ra với em. Bà lạ đó đã hiện ra tất cả 18 lần. Có lần em đã kể với cha sở là bà lạ muốn xây một thánh đường ở đây. Nhưng cha sở đã bảo em rằng hãy hỏi xem bà là ai ? Tên là gì ? Nhiều lần em đã hỏi nhưng bà im lặng. Cuối cùng vào ngày lễ Truyền Tin (25/03), sau khi Bernadette hỏi bà là ai thì bà chắp tay trước ngực, ngước mắt lên trời mỉm cười đáp :”Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội”. Đây là tín điều mà Đức Giáo hoàng Piô IX đã long trọng công bố trước đó gần 4 năm.
Lý do
Tin mừng hôm nay kể lại : Sứ thần Gabriel đến báo tin cho Trinh nữ Maria biết Thiên Chúa đã chọn Trinh nữ làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Sứ thần bắt đầu báo tin trọng đại ấy bằng một lời chào có vẻ rất tầm thường, nhưng lại chứa đựng đầu mối của mọi đặc ân nơi Đức Maria.
“Kính chào Trinh nữ đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng trinh nữ, trinh nữ có phúc ơn mọi phụ nữ”. Lời chào này đã gián tiếp đề cập đến mầu nhiệm và đặc ân vô nhiễm nguyên tội của Đức Maria. Bởi vì “đầy ơn phúc” (gratia plena) thì tất nhiên là không có tội. Cũng như một gian phòng, nếu đầy ánh sáng, dĩ nhiên bóng tối không còn có thể xâm nhập vào được nữa.
Chúng ta có thể tóm tắt trình bầy Đức Maria được khỏi tội tổ tông theo Thánh Kinh và thần học để hiểu rõ thêm, dĩ nhiên đây chỉ là suy nghĩ cá nhân, còn các nhà thân học có những suy nghĩ khác.
Theo Thánh Kinh
Sách Sáng thế cho biết : sau vụ rắn quỉ cám dỗ hai tổ tông phạm tội và Thiên Chúa đã ra hình phạt cho cả hai bên, Ngài còn phán tiếp với con rắn quỉ :”Ta sẽ đặt mối thù giữ mi và người đàn bà, giữa miêu duệ mi và miêu diệu người đàn bà, người miêu duệ đó sẽ đạp nát đầu mi”(St 3,15).
Người đàn bà này là ai ? Chắc chắn không phải Evà, vì lẽ Evà đã phạm tội. Và theo Thánh Kinh, kẻ phạm tội thì làm tôi cho sự tội (Ga 8,34). Và kẻ làm tôi sự tội dĩ nhiên làm tôi ma quỉ. Đã làm tôi ma quỉ lại đạp nát đầu ma quỉ thì cả là một sự vô lý, khác nào con ở đánh phạt chủ nhà vậy.
Cho nên, người nữ đây phải hiểu là Đức Maria – người có quyền đạp đầu con rắn quỉ. Nhưng việc Đức Maria đạp đầu rắn quỉ không thể cắt nghĩa được nếu không nhận Ngài có quyền trên rắn quỉ, cũng không cắt nghĩa được nếu không công nhận Đức Maria không mắc tội tổ tông, vì lẽ tội tổ tông mới làm cho rắn quỉ có quyền như thế.
Theo Thần học
“Thiên Chúa ở cùng Trinh nữ”. Thiên Chúa là Đấng thánh vô cùng. Tội lỗi không thể ở chung với Thiên Chúa. Tội lỗi chống lại sự thánh thiện của Thiên Chúa như bóng tối và ánh sáng. Vậy, nếu Thiên Chúa ở cùng Đức Maria, Thiên Chúa đã chọn Đức Maria làm đền thờ cho Ngài ngự, thì tội lỗi còn ở trong Đức Maria thế nào được ?
Như đã nói Thiên Chúa và tội lỗi xung đột nhau như lửa với nước, như ánh sáng và bóng tối. Nếu Đức Maria mang tội tổ tông trong lòng một trật lại cưu mang Thiên Chúa, hóa ra Người là vật hy sinh chứa đựng hai sự xung đột như trên sao ?
Thứ nữa, Thiên Chúa là Đấng vô tội – và gớm ghét sự tội, nay lại xuống thai trong lòng một người mang tội, thì chẳng ra con người có tiếng là thanh sạch mà lại gieo mình vào đống bùn nhơ sao ?
Đàng khác, Chúa xuống thế gian để kêu mời kẻ có tội (Mc 2,17; Lc 5,32) nghĩa là làm cho kẻ có tội sạch tội và nên thánh thì tại sao lại không làm cho Mẹ mình sạch tội và nên thánh, nếu thật sự Mẹ mình ít nhất là có tội tổ tông ? Do đó phải kết luận rằng Đức Maria được khỏi tội nguyên tổ là một đặc ân Thiên Chúa ban cho để Người cộng tác với Chúa Giêsu trong việc cứu chuộc loài người.
Tuy nhiên, đặc ân vô nhiễm nguyên tội này không có lý do nào khác ngoài tình thương Thiên Chúa ban cho Đức Maria vì Thiên Chúa đã chọn Ngài làm Mẹ mình. Ngài làm cho Mẹ mình “có phúc hơn các người nữ”, nghĩa là từ người nữ đầu tiên cho đến người nữ cuối cùng đều thua kém Đức Maria.
Sách Giáo lý Công giáo cũng dạy :”Suốt dòng lịch sử, Hội thánh ý thức rằng Đức Maria vì được Thiên Chúa ban cho “đầy ơn phúc” (Lc 1,28), nên được cứu chuộc ngay từ lúc tượng thai. Đó là nội dung tín điều VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI do Đức Piô IX công bố năm 1854.
Sách Denzinger cũng còn trưng lại :”Đức Trinh nữ diễm phúc Maria đã được gìn giữ khỏi mọi tỳ ố nguyên tội ngay từ lúc tượng thai, do ân sủng và tình thương đặc biệt của Thiên Chúa toàn năng, nhờ công nghiệp của Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ loài người”(DS 2803)
III. SỐNG TRONG SẠCH THEO GƯƠNG MẸ MARIA
Đặc ân vô nhiễm nguyên tội đã chuẩn bị cho Đức Maria một sứ mạng cao quí là được làm mẹ Đấng Cứu thế, làm Mẹ Thiên Chúa xuống thế làm người và làm mẹ của tất cả chúng ta.
Ngày nay, qua Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm Nguyên tội, Chúa Cứu thế đã đến với chúng ta và đã thực hiện ơn cứu độ trong thế giới. Ngài đã trả lại cho con người tình trạng ơn nghĩa đã bị đánh mất vì tội nguyên tổ. Như thế, chúng ta tuy không được đặc ân vô nhiễm nguyên tội như Đức Mẹ nhưng chúng ta đã được khỏi tội nguyên tổ trong bí tích Thánh tẩy. Và khi được rửa sạch tội lỗi trong bí tích Thánh tẩy, chúng ta đã được sự sống mới, sự sống của Chúa và được có “Chúa ở cùng chúng ta” như đã ở cùng Đức trinh nữ Maria. Chúng ta không được làm mẹ Thiên Chúa, nhưng qua bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được làm con cái Thiên Chúa, làm em của Đức Giêsu Kitô và con của Mẹ Maria.
Trong bí tích Thánh tẩy, chúng ta đã được tha tội tổ tông, nhưng hệ lụy của tội nguyên tổ vẫn còn ảnh hướng xấu đến chúng ta. Con người chúng ta trở nên yếu đuối dễ hướng chiều về tội lỗi. Chúng ta vẫn bị ma quỉ các dỗ nhất là lỗi đức trong sạch. Chúng ta hãy bắt chước Mẹ Maria mà giữ hồn xác trong sạch, xứng đáng là đền thờ của Thiên Chúa.
Truyện : Bị chém đầu vì bàn tay nhơ nhớp
Người ta kể rằng : một ngư phủ nghèo nàn ở Huế ngày xưa đã rất sung sướng khi anh ta lượm được chiếc sọ của vua Gia Long (1800-1820) nổi lềnh bềnh trên dòng sông Hương (vì lăng tẩm nhà vua bị lấy trộm).
Bác ngư phủ lập tức đi tới Hoàng cung để trình bầy xương sọ của vua Gia Long cho các vị Thượng thư, dĩ nhiên, bác nghĩ rằng mình sẽ được trọng thưởng.
Và bác đã được trọng thưởng thật.
Trọng thưởng thế nào ?
Đầu tiên bác ngư phủ được nâng lên hàng Đại thần. Con cái của bác ta được hoàng gia che chở, tiền nong tha hồ tiêu. Rồi triều đình lập tức cho xây cất một đền thờ ngư phủ, hiện nay vẫn còn ngôi đền này tại Huế.
Tại sao lại phải xây cất đền thờ cho ngư phủ ?
Đó là vì : bác ngư phủ sau các tưởng thưởng kể trên đã bị điệu ra Ngọ môn để chém đầu. Bác ta bị hành quyết vì can tội dùng hai bàn tay nhơ nhớp hèn hạ của mình mà sờ vào hài cốt của một vị vua !
Ôi ! Vua Gia Long là gì mà một người nhà quê đụng tới hài cốt lại phải bị chém đầu ! Người ta đã quá kính trọng hài cốt của một con người đã chết mà khinh thường mạng sống của một con người. Nhưng dù sao câu chuyện đó cũng để lại cho chúng ta một bài học : đó là chúng ta phải dọn linh hồn chúng ta cho trong sạch để hằng ngày chúng ta xứng đáng rước Chúa ngự vào long.
Trong ngày lễ hôm nay, chúng ta hãy hạ quyết tâm : Hãy tôn sùng Đức Maria với tước hiệu “Vô nhiễm Nguyên Tội”. Hãy lấy Mẹ làm gương, sống trong sạch.
Họa sĩ Fra Angelico, một lần vẽ mặt Đức Mẹ thì suy gẫm và cầu nguyện trước, mặc dầu không bao giờ hài lòng và phải đề thêm vào bức họa : Virgo Maria, non est similis tui ( Trinh nữ Maria, không ai giống được như Mẹ). Ta cố gắng theo gương Mẹ. Mặc dầu sẽ không bao giờ giống Mẹ hoàn toàn, nhưng cũng như Mẹ đã mỉm cười với Fra Angelico, thì cũng sẽ in vào lòng ta một hai nét của các nhân đức Người, nhất là đức trong sạch.
.
ĐÓA HOA MARIA
Jos. Tạ Duy Tuyền
Khi nói đến hoa là người ta nói đến sắc, đến hương. Hương sắc mỗi loài hoa lại khác nhau. Sự khác nhau tạo nên sự phong phú , đa dạng của muôn loài hoa và tạo nên cái riêng của từng loài hoa. Hương sắc càng rạng rỡ càng làm nên vẻ cao sang quyền quý cho loài hoa.
Con người yêu hoa thích hoa vì nó dễ nhìn, dễ gần. Có người thích gần, thích nhìn hoa để tìm sự thanh thản cho tâm hồn. Ngắm nhìn hoa và thưởng thức mùi hoa đề tìm cảm giác dễ chịu đến nỗi quên hết mệt nhọc hay ưu phiền.
Hôm nay chúng ta tôn vinh Mẹ Maria. Chúng ta tôn vinh Mẹ như là một đóa hoa thanh cao nhất được dâng lên Thiên Chúa. Mẹ như loài hoa Sen cũng mang những đặc tính vô nhiễm, thanh lọc, thuần khiết, kiên nhẫn và hương thơm thùy mị vì “gần bùn mà chẳng hôi tành mùi bùn”. Là thu tạo được Thiên Chúa dựng nên, nhưng Mẹ đã trở nên thụ tạo hoàn hảo nhất của Thiên Chúa. Nơi Mẹ không hề vướng mắc tội lỗi. Cuộc đời của Mẹ đã họa lại hình ảnh của Thiên Chúa hoàn toàn trong sạch, hằng yêu thương nâng đỡ mọi người. Mẹ đẹp cách hoàn hảo cả về thân xác và tâm hồn. Mẹ còn toả hương thơm ngào ngạt qua những nhân đức ma Mẹ luôn sống: trong sạch, mến Chúa và yêu người.
Tin mừng hôm nay cho ta thấy sự thanh khiết và nét đẹp trinh trong của Mẹ được bảo toàn bằng ân sủng và tình thương của Thiên Chúa. Tin mừng khởi đầu với lời chào thật kính cẩn của sứ thần: “Kính chào Bà đầy ơn sủng”. Đầy ơn sủng nghĩa là cuộc đời Mẹ đã được bao trùm bằng ân sủng của Chúa ngay từ lúc thụ thai. Thiên Chúa đã gìn giữ Mẹ bằng ân sủng của Ngài để Mẹ không vấn vương tội đời, không tỳ ố trong xác phàm để cung lòng Mẹ xứng đáng là đền thờ cho Con Chúa Trời ngự trị.
Nói như thế, không phải là Mẹ không có công trạng gì, vì cuộc đời Mẹ đã được định đoạt từ ý định của Thiên Chúa. Thiên Chúa chọn Mẹ nhưng Ngài vẫn tôn trọng ý chí và tự do của Mẹ. Mẹ vẫn sống một kiếp người bình thường như bao người khác, có khác chăng là tấm lòng Mẹ luôn thanh khiết, luôn toả sáng bằng việc chọn Chúa hơn là chọn những tạo vật trần gian. Chính vì vậy, mà từ Thiên cung Thiên Chúa đã nhìn thấy Mẹ như đóa hoa đẹp nhất trần gian. Sứ thần đã nói cùng Mẹ vì “Mẹ hằng đẹp lòng Chúa”. Mẹ đẹp rực rỡ không phải là vẻ đẹp kiêu xa bên ngoài mà là vẻ đẹp của một tâm hồn thanh khiết dành trọn vẹn cho Thiên Chúa.
Hôm nay chúng ta mừng lễ Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, chúng ta tạ ơn Chúa đã tạo dựng cho nhân loại một đóa hoa rạng ngời luôn tỏa hương thơm ngát là Mẹ Maria. Tạ ơn Chúa đã tặng ban cho đời một đóa hoa luôn thanh thoát, cao quý bởi tình yêu hiến dâng cho Chúa để phục vụ cho đời. Tạ ơn Chúa và nguyện cầu cùng Mẹ giúp chúng ta biết trở thành một đóa hoa thơm ngát dâng tặng cho đời và ca tụng Thiên Chúa.
Cuộc đời hôm nay rất cần những bông hoa tô thắm cho trần gian. Hoa bác ái để bớt đi những gai góc cũng tham sân si mù quáng. Hoa yêu thương rải ngập trán lối đi của danh lợi thú đang làm mất tình người. Hoa thủy chung để xây dựng lại những giá trị của gia đình đang mất dần bởi lối sống thực dụng đầy phóng túng.
Đây là những loài hoa mà Chúa đang cần trên trần gian. Ước gì đời sống ky-tô không chỉ nở hoa thơm ngát tô thắm cho trần gian mà còn là những người vun trồng, chăm sóc để dâng hiến cho đời những bông hoa tươi thắm là con cái, là bạn bè, là đồng nghiệp đang sống tốt nhờ gương sáng của chúng ta. Ước gì đời sống của chúng ta cũng luôn nở hoa bác ái yêu thương để từ trời cao Chúa luôn hài lòng về chúng ta.
Lạy Mẹ Maria Vô nhiễm nguyên tội, Mẹ là đóa hoa đẹp nhất trần gian. Bông hoa đời Mẹ thanh khiết, không tì ô luôn đẹp lòng Chúa. Chúng con xin nương nhờ công đức của Mẹ để ơn Chúa xuống trên gia đình chúng con. Xin Mẹ cũng luôn ban phước lành cho nhân gian chúng con được bình an. Amen.
.
ÔI MẸ ĐẦY ƠN PHÚC!
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Hôm nay toàn thể Hội Thánh tôn vinh Mẹ Maria, Ðấng Tuyệt Ðẹp “ Tota Pulchra”, Ðấng đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Con Một Ngài, Đấng được gìn giữ khỏi mắc tội nguyên tổ, là Ðấng đầu tiên đã được Con Mẹ cứu chuộc. Nét đẹp cao cả của Mẹ phản chiếu nét đẹp của Chúa Kitô, là bằng chứng cho tất cả mọi tín hữu về chiến thắng của Ân sủng Thiên Chúa trên tội lỗi và sự chết.
Tín điều Mẹ Maria Đầu Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội được Đức Chân phước Piô IX Giáo hoàng long trọng tuyên bố bằng sắc lệnh “Ineffabilis Deus” vào ngày Lễ Mẹ Vô Nhiễm, 8/12/1854, rằng: “Để vinh danh Ba Ngôi thánh thiện duy nhất, để tôn kính và hiển danh Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa, để phấn khởi đức tin Công Giáo và phát triển Kitô Giáo; bằng quyền bính của Chúa Giêsu Kitô, của các thánh tông đồ Phêrô và Phaolô, và bằng thẩm quyền của mình, Tôi tuyên xưng, công bố và xác nhận rằng: tín lý cho rằng rất Thánh Nữ Trinh Maria, ngay từ giây phút đầu thai của mình, nhờ ơn sủng cùng với đặc ân chuyên nhất của Thiên Chúa toàn năng, và dựa vào công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc loài người, đã được gìn giữ vô nhiễm khỏi mọi tì vết của nguyên tội, là điều được Thiên Chúa mạc khải, vì thế, tất cả mọi tín hữu đều phải mạnh mẽ và liên lỉ tin tưởng”. (DS 2803)
Như thế, Mầu nhiệm Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội nhắc nhớ chúng ta hai chân lý căn bản của đức tin, đó là tội nguyên tổ và nhất là sự chiến thắng của ơn thánh Chúa trên tội này, chiến thắng ấy được phản chiếu tuyệt vời nơi Đức Maria chí thánh.
Chúng ta cảm thấy sự hiện diện của tội nguyên tổ quanh chúng ta và nhất là trong chúng ta. Kinh nghiệm về sự ác thật tỏ tường đến độ khơi lên trong ta câu hỏi: sự ác ấy từ đâu mà tới? Các trang đầu tiên của sách Sáng Thế (x. St 1-3) cho ta câu trả lời. Thiên Chúa không tạo nên sự chết, nhưng sự chết đã đi vào thế giới vì sự ghen tương của ma quỉ (x. Kn 1,13-14; 2,23-24). Khi nổi loạn chống lại Thiên Chúa, ma quỉ đã lường gạt và lôi kéo cả con người theo chúng. Thiên Chúa hỏi Ađam : “Ai đã chỉ cho ngươi biết rằng ngươi trần truồng, há chẳng phải tại ngươi đã ăn trái cây mà Ta cấm ngươi không được ăn ư? ” Thiên Chúa hỏi Evà : “Tại sao ngươi đã làm điều đó? ” Và Thiên Chúa phán bảo con rắn: “Bởi mi đã làm điều đó, mi sẽ vô phúc ở giữa mọi sinh vật và mọi muông thú địa cầu; mi sẽ bò đi bằng bụng, và mi sẽ ăn bùn đất mọi ngày trong đời mi”. (St 3, 9-15. 20). Đó là thảm kịch tự do mà Thiên Chúa chấp nhận đến cùng vì yêu thương, nhưng Ngài hứa sẽ có người con của một phụ nữ đập dập đầu con rắn xưa (St 3,5); “ Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa mi và người phụ nữ, giữa miêu duệ mi và miêu duệ người đó, người miêu duệ đó sẽ đạp nát đầu mi, còn mi thì sẽ rình cắn gót chân người” (St 3,5).
Nhìn vào Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, chúng ta chiêm ngưỡng vẻ đẹp cứu độ trần thế: vẻ đẹp của Thiên Chúa chiếu tỏ rạng ngời nơi tôn nhan Chúa Kitô. Nơi Mẹ Maria vẻ đẹp này hoàn toàn tinh tuyền, khiêm tốn, được giải thoát khỏi mọi kiêu căng và tự phụ.
“Kính chào trinh nữ đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng trinh nữ! ” (Lc 1, 28). Lời của sứ thần Gabriel, chúng ta không ngớt dâng lên Đức Mẹ nhiều lần trong ngày. Hôm nay chúng ta lặp lại với niềm vui không tả, trong ngày lễ Đức Maria Vô nhiễm Nguyên Tội, một mầu nhiệm cao cả, chúng ta trình bày trong Phụng vụ hôm nay ! Một mầu nhiệm không ngừng thu hút sự chiêm niệm của các tín hữu và truyền cảm hứng cho sự suy tư của các nhà thần học. “Ðấng đầy ơn phúc”, đây là tên mà Thiên Chúa, qua sứ thần, muốn gọi Đức Trinh Nữ . Đó là cách Thiên Chúa đã nghĩ và nhìn đến từ trước muôn thủa.
Trong bài thánh thi của Thư gửi tín hữu Êphêsô, Thánh Phaolô ca ngợi Thiên Chúa Cha vì Ngài “ đã chúc phúc cho chúng ta bằng mọi phúc lộc thiêng liêng ở trên trời trong Đức Kitô” ( 1, 3 ) . Thiên Chúa đã gửi cho Đức Maria phúc lành thiêng liêng ấy! Mẹ là thực sự được chúc phúc hơn các người phụ nữ (x. Lc 1 : 42) ! Chúa Cha đã chọn Mẹ trong Đức Giêsu Kitô từ trước khi tạo thành vũ trụ, ngõ hầu Mẹ trở nên thánh thiện và tinh tuyền trước mặt Người. Trong tình thương, Người đã tiền định cho chúng ta được làm dưỡng tử đối với Người, qua Đức Giêsu Kitô (x. Ep 1 4-5).
Tiền định của Đức Maria, như tất cả chúng ta, trong tương quan với tiền đình của Chúa Con. Chúa Kitô là chổi non mọc lên để đạp dập đầu con rắn xưa, theo sách Sáng Thế (x. St 3 , 15) là Con Chiên không tì vết (x. Xh 12, 5 , 1 P 1 , 19) tự hiến tế để cứu chuộc con người khỏi tội lỗi.
Với tiên đoán về cái chết cứu cứu chuộc của Ngài, Đức Maria đã được gìn giữ khỏi tội nguyên tổ và mọi tội lỗi khác. Trong chiến thắng của Adam mới, đó cũng là của Eva mới, mẹ của những người đã được cứu chuộc. Do đó Đức Maria Vô Nhiễm là một dấu chỉ niềm hy vọng cho tất cả chúng sinh, những người đã chiến thắng Sa-tan nhờ máu của Con Chiên (x. Kh 12 , 11).
Hôm nay chúng ta chiêm ngưỡng người thôn nữ khiêm hạ Nazareth thánh thiện và vô nhiễm trước nhan Thiên Chúa trong tình yêu (x. Ep 1 : 4), tình yêu mà trong đó suối nguồn là chính Thiên Chúa Ba Ngôi, nhờ đó Đức Maria được Vô Nhiễm Nguyên Tội và làm Mẹ Đấng Cứu Chuộc !
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là người đầu tiên được cứu chuộc bởi Con Mẹ, được tham gia vào sự viên mãn rất thánh thiện của Con Mẹ, là niềm ước mơ và hy vọng của Hội Thánh, là hình ảnh cánh chung của Giáo Hội. Mẹ là Trạng Sư của chúng con, Mẹ của Vua Hòa Bình, Ðấng đạp đầu con rắn, xin phù giúp chúng con biết chống lại những cám dỗ của sự dữ; Xin Mẹ làm sống lại trong chúng con, đức tin, đức cậy và đức mến, ngõ hầu, trung thành với ơn gọi của mình, chúng con biết sống làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô, bất chấp mọi hy sinh. Và như ngôi sao sáng, xin Mẹ hướng dẫn bước đường chúng con đến gặp Chúa đang ngự đến. Amen.
.
VÔ NHIỄM CHO HẾT THẢY MỌI NGƯỜI
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Ki-tô hữu chúng ta mừng gì trong ngày lễ Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội? Mừng một đặc ân dành riêng cho Mẹ? hay để chúc mừng một trường hợp biệt lệ có một không hai mà quyền phép Thiên Chúa đã thực hiện cho một mình Đức Mẹ mà thôi? với mục đích làm vui lòng Mẹ, và nhờ đó sẽ được Mẹ thương ban cho nhiều ân huệ ta cầu xin? Vậy thì lễ Mẹ Vô Nhiễm có liên quan gì tới mỗi chúng ta, hoặc giả ta long trọng mừng lễ để khích lệ mình sống trong sạch và thánh thiện như Mẹ?… Những câu hỏi tương tự như thể đã lởn vởn trong đầu tôi từ lâu lắm rồi, nhưng chỉ ngại công khai nói ra. Thú thực, tôi vẫn né tránh đi tìm một giải đáp thỏa đáng vì sợ đụng chạm tới một tín điều đã từng gây quá nhiều tranh cãi trong lịch sử.
Thế nhưng âm thầm tôi vẫn tin rằng tín điều Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội phải là một gì đó liên quan rất chặt chẽ tới niềm tin của mình. Trong câu chào của Sứ thần: “Mừng vui lên, hỡi đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà!” tôi vẫn thấy có một thực tế nào đó đụng chạm tới chính bản thân mình, và tới từng con người sống trên trần gian này. Phải, Đức Ma-ri-a đâu phải là người duy nhất đầy ân sủng, vì đơn giản Thiên Chúa đã cống hiến ân huệ tình yêu tha thứ của Ngài cách sung mãn cho hết thảy mọi người. Đức Chúa đâu chỉ duy nhất ở cùng Đức Maria, vì Ngài “ở cùnganh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Trong thư gửi giáo đoàn Rô-ma, Thánh Phao-lô đã khảng định nhiều lần một tư tưởng rất căn bản: “Nếu chỉ vì một người, một người duy nhất sa ngã, mà sự chết đã thống trị, thì điều Thiên Chúa làm qua một người duy nhất là đức Giê-su Ki-tô, lại còn lớn lao hơn biết mấy. Quả vậy, những ai được Thiên Chúa ban ân sủng đồi dào và cho trở nên công chính, thì được sống và được thống trị” (Rm 5, 17, và toàn chương 5). Như vậy, giữa một bên là A-đam phạm tội để mọi người bị nhiễm tội tổ tông, và bên kia là Đức Giê-su Ki-tô cứu chuộc để mọi người được trở nên công chính, ta phải làm nổi bật (highlight) bên nào? Theo Phao-lô thì vế thứ hai phải được nhấn mạnh hơn, vì nó “lớn lao hơn biết mấy”. Không những cần làm nổi bật Giê-su Cứu Chúa hơn là tổ tông A-đam lỗi phạm, mà còn cần phải đề cao “ân sủng … còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người” hơn là trên “muôn người phải chết”. Quả thật, theo Phao-lô, “sự sa ngã của A-đam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa” (Rm 5, 15).
Dưới nhãn quan đó, ta sẽ chiêm ngắm Ma-ri-a Vô Nhiễm Nguyên Tội như thế nào? Nếu ta chủ yếu nhìn lên Mẹ như một trường hợp được đặc ân miễn trừ khỏi vế thứ nhất ‘mọi người mắc tội nguyên tổ’, thì dù có cao đẹp tới mấy đi chăng nữa thì ơn cứu độ Đức Ki-tô thực hiện vẫn còn là rất đơn độc và nghèo nàn. Còn nếu ta dùng con mắt Tin Mừng để nhận ra đây là một trường hợp điển hình (prototype chứ không phải unique) của ‘muôn người được trở nên công chính nhờ ân sủng’, thì ta mới thật sự khám phá ra được ‘cái lớn lao’ mà Phao-lô muốn nhắc nhở. Nếu tâm trí chỉ tập trung vào Ma-ri-a như một người nữ con cháu E-va, độc đáo vì không bị vướng mắc tội nguyên tổ, để rồi nhạt nhòa hình ảnh một Giê-su – A-dam mới hoàn lại sự sống, sự công chính cho muôn người cách rất căn cơ và mạnh mẽ, thì đúng là ta đã chọn lấy cái yếu hơn cái mạnh, cái nhỏ mọn hơn cái lớn lao, cái biệt lệ hơn cái phổ quát. Trong Ma-ri-a Vô Nhiễm Nguyên Tội, ta tìm thấy có cả hình ảnh một Ma-ri-a Mác-đa-la sám hối, một tên cướp bị án phạt đóng đinh kêu cầu được Chúa xót thương; có cả hình ảnh của tôi khi quì gối ăn năn sám hối, của hết thảy mọi người trong cuộc sống ngụp lặn nơi dương thế… và nói chung của toàn thể nhân loại tội lỗi. Vô Nhiễm Nguyên Tôi không mang một nội dung biệt loại (exclusive: chỉ Ma-ri-a thôi chứ không một ai khác), mà phải mang tính bao hàm (inclusive: Ma-ri-a và mọi tín hữu, trong đó có cả mỗi chúng ta). Vô Nhiễm Nguyên Tôi phải nói được cho tôi rằng: ‘Mừng vui lên, hỡi người được đầy ân sủng, Đức Chúa xót thương và cứu độ luôn ở với bạn!’.
Ma-ri-a Vô Nhiễm phải là đại lễ của tất cả mọi người, vì Mẹ không phải là người duy nhất trên trần gian đã gắn kết cuộc đời mình cách bền chặt với Giê-su Ki-tô, mà cả tôi và mọi Ki-tô hữu cũng đã được gắn kết bền chặt qua bí tích Thánh Tẩy đã lãnh nhận. Vô Nhiễm không chỉ mang nội dung thụ động ‘không vướng mắc tội nguyên tổ’ mà chứa đựng một nội dung tích cực và động hơn nhiều, đó là ‘mở rộng tâm hồn đón nhận ơn cứu độ’ và ‘nỗ lực gắn kết bền chặt hơn nữa với lòng lân tuất Chúa’, điều mà Đức Ki-tô Giê-su đã giáng thế để mạc khải và thực hiện (xem kinh tiền tụng lễ Mẹ Vô Nhiễm).
Lạy Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, xin cho con được cùng Mẹ không ngừng cất lời ca tụng Đức Chúa xót thương và cứu độ như Mẹ đã từng cất lên trong bài ca Magnificat. Nếu trinh trong / vô nhiễm đối với Mẹ trước hết là không ngừng rộng mở cõi lòng đón lấy ân sủng hải hà của Thiên Chúa, thì xin cho con cũng được bắt chước Mẹ không ngừng đón nhận và gắn kết bền chặt với lòng thương xót cứu độ đó trong suốt cuộc sống Ki-tô hữu, cho dầu rất yếu hèn và tội lỗi của con. A-men.
.
LỄ MẸ VÔ NHIỄM
Lm. Antôn
Ông bà anh chị em thân mến. Hôm nay, cùng với Giáo hội, chúng ta mừng lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Vô nhiễm nguyên tội có nghĩa là từ lúc thụ thai trong lòng mẹ là bà thánh An-na Trinh nữ Maria được gìn giữ khỏi tội tổ tông, do một ơn sủng đặc biệt của Thiên Chúa tặng ban. Và cũng từ lúc đó, Đức Maria được tràn đầy ơn phúc của Thiên Chúa, như lời tuyên xưng của Thiên thần khi báo tin được chọn làm Mẹ Ngôi Hai Thiên Chúa “Kính mừng Maria đầy ơn phúc.”
Chúng ta nhận biết Kinh thánh không ghi rõ việc Đức Maria được thụ thai trong lòng mẹ vô tội, nhưng có ám chỉ trong sách Sáng thế qua việc Thiên Chúa tuyên án phạt con rắn đã cám dỗ ông A dong và bà E-và phạm tội không vâng lời Chúa ăn trái cấm: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người nữ… dòng giống người nữ sẽ đạp vào đầu mi.” Con rắn đó được ám chỉ là ma quỉ, còn người nữ được ám chỉ về Đức Maria.
Lễ Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội được mừng vào đúng chín tháng trước ngày sinh nhật của Mẹ Maria. Tín điều Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội được Đức giáo hoàng Pi-ô thứ 9 công bố năm 1854 như sau: “Từ lúc thụ thai, trinh nữ Maria được gìn giữ khỏi mọi vết nhơ nguyên tội do ân sủng và đặc ân siêu việt mà Thiên Chúa ban tặng xét theo công nghiệp Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng cứu chuộc nhân loại.”
Chúng ta biết trước khi Đức giáo hoàng Pi-ô công bố tín điều Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội thì Giáo hội đã mừng lễ này vào những thế kỷ trước đó, như vậy, Đức giáo hoàng chỉ tái khẳng định tín điều giáo dân đã tin và mừng kính từ lâu đời, chứ không đơn phương tuyên bố tín điều này mà không tham khảo ý kiến của Giáo hội. Vào năm 1846, Hội dồng Giám mục Hòa kỳ đã xin Tòa thánh nhận Đức Trinh Nữ Maria dưới tước hiệu Vô Nhiễm Nguyên Tội làm bổn mạng của quốc gia, và vào năm 1847 đã được Đức giáo hoàng Pi-ô thứ 9 phê chuẩn. Khi Đức Maria hiện ra với Bơ-na-đét tại Lộ Đức, nước Pháp, vào ngày 25 tháng 3 năm 1854, nghĩa là vào lần hiện ra thứ 16 trong tổng cộng 19 lần, Đức Maria đã công khai tuyên bố xác nhận: “Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội.” Điều này càng làm cho chúng ta xác tín vào việc Đức Maria không hề mắc tội tổ tông truyền.
Chúng ta có thể tự hỏi: “Tại sao Thiên Chúa phải gìn giữ trinh nữ Maria khỏi mắc tội tổ tông?” Lý do là vì: nếu Thiên Chúa muốn cho Con Thiên Chúa sinh ra làm người trong cung lòng của người đàn bà mắc tội thì đó là điều ô nhục cho Ngôi Hai Thiên Chúa. Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội đã mang thai Đấng Cứu Thế một cách kỳ diệu do quyền phép của Chúa Thánh Thần, vì vậy Mẹ Maria đã đóng một vai trò quan trọng trong công trình cứu chuộc loài người.
Ông bà anh chị em thân mến. Đức Maria là Mẹ của Giáo hội và là Mẹ của tất cả chúng ta. Mẹ đã để lại cho chúng ta những tấm gương sáng cho chúng ta noi theo để chúng ta cũng nhận được ân sủng của Chúa ban như Mẹ. Mẹ đã sống một cuộc sống mật thiết với Thiên Chúa qua đời sống cầu nguyện. Mẹ mở rộng tâm hồn để đón nhận Lời Chúa, và trung thành sống theo ý Chúa như lời Mẹ thưa cùng Thiên thần Chúa trong bài Tin mừng hôm nay: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền.”
Một nhân đức khác mà chúng ta có thể noi gương và học từ Mẹ là đức khiêm tốn. Trinh nữ Maria không nuôi tham vọng làm mẹ Đấng cứu thế như những bà, cô Do thái bấy giờ. Nhưng nhìn thấy thấy rõ lòng khiếm tốn và đơn sơ nơi trinh nữ Maria, Thiên Chúa đã cất nhắc trinh nữ lên địa vị làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Mẹ Maria cũng muốn chúng ta noi gương yêu thương, hy sinh phục vụ giúp đỡ tha nhân và nhất là quảng đại. Sau khi được truyền tin, Mẹ đã mau mắn lên đường để hy sinh giúp đỡ bà Elizabeth, lúc đó cũng đang cứu mang Gioan trong lòng. Và sau khi sinh Con Thiên Chúa, Mẹ đã không giữ cho mình, nhưng đã quảng đại dâng hiến Chúa để chịu chết cứu chuộc nhân loại. Vì thế Mẹ Maria muốn chúng ta là con cái của Mẹ, biết noi gương và sống những nhân đức của Mẹ.
Trong ngày kính Đức Maria Vô Nhiễn Nguyên Tội, chúng ta nhớ lại ơn tái sinh khỏi tội tổ tông trong Bí tích Rửa tội hay Thanh tẩy của chúng ta. Chúng ta nhận biết trong cuộc sống Ki-tô hữu, vì phải đối diện với những thử thách và cám dỗ, chúng ta không gìn giữ được ơn vô nhiễm khỏi tội khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Chúng ta cầu xin Đức Maria là Ngôi Sao Sáng dẫn lối và giúp để chúng ta cố gắng phục hồi ơn Chúa bằng cách sống theo thánh ý lời Chúa dạy.
Cũng như Mẹ Maria mong đợi Chúa Cứu Thế đến lần thứ nhất trong lịch sử nhân loại, chúng ta đang sống trong mùa Vọng và cũng mong chờ ngày Chúa đến lần thứ hai, ngày cuối cùng của lịch sử nhân loại. Giữa hai cuộc thăm viếng này, Chúa thường đến trong tâm hồn của mỗi người chúng ta bằng ơn thánh. Cùng với Mẹ Maria, chúng ta cầu xin Chúa thánh hóa tâm hồn chúng ta thành nơi xứng đáng cho Chúa đến và ngự trị để chúng ta luôn trung thành và can đảm vâng theo và sống lời Chúa dạy bảo, và trở thành sứ giả đem tin vui mừng của Chúa đến cho những người chung quanh.
.
NGUYỆN XIN VÂNG
Trầm Thiên Thu
Ngôn sứ Samuel đã đặt vấn đề: “Đức Chúa có ưa thích các lễ toàn thiêu và hy lễ như ưa thích người ta vâng lời Đức Chúa không? Này, VÂNG PHỤC thì TỐT HƠN là DÂNG HY LỄ, lắng nghe thì tốt hơn là dâng mỡ cừu” (1 Sm 15:22). Để dễ nhớ, người ta thường nói ngắn gọn: “Vâng lời trọng hơn của lễ”.
Đức vâng lời đã được tuân thủ tuyệt đối bởi một Nữ Tỳ đặc biệt của Thiên Chúa: Đức Maria, Đấng Vô Nhiễm Nguyên tội.
Động từ “nhiễm” có nghĩa là “nhuộm”. Theo nghĩa bóng, “nhiễm” là lây lan, lan truyền, thấm sang, thường ở thể thụ động và mang nghĩa xấu, Việt ngữ gọi là “lây nhiễm” – nhiễm trùng, nhiễm độc, nhiễm cái xấu,… Vô nhiễm nghĩa là không bị nhiễm.
Có những sinh vật truyền nhiễm – như vi khuẩn, virus, ký sinh, nấm,… Sức đề kháng yếu kém thì cơ thể sẽ dễ bị nhiễm trùng, bị bệnh. Sức đề kháng là khả năng phòng vệ và chống lại các tác nhân xâm nhập vào cơ thể con người. Hệ miễn dịch là một hệ thống gồm các tế bào phức tạp, các tế bào này sẽ giúp bảo vệ cơ thể khỏi các tác nhân gây bệnh. Muốn sống khỏe thì phải bảo vệ hệ miễn nhiễm bằng các hoạt động tốt (vệ sinh, thể dục, ngủ nghỉ,…).
Cuộc sống có nhiều thứ “nhiễm”, nhất là trong cuộc sống ngày nay: Nhiễm trùng, nhiễm độc, nhiễm xạ, nhiễm bệnh,… Về thể lý, chắc chắn không ai miễn nhiễm, nghĩa là ai cũng đã từng bị bệnh, bị nhiễm một dạng virus nào đó. Vì thế, người ta rất cần bảo vệ hệ miễn nhiễm của cơ thể, làm mạnh sức đề kháng. Thật kỳ diệu đối với một số người Phi châu, họ miễn nhiễm với HIV (Human Immunodeficiency Virus), căn bệnh thế kỷ này quen gọi theo Pháp ngữ là SIDA (Anh ngữ là AIDS). Đó là một dạng thiếu khả năng miễn nhiễm của cơ thể. Quả thật, người Phi châu có dạng “vô nhiễm” kỳ lạ biết bao!
Ngày 8-12-1854 là ngày quan trọng, mang tính lịch sử, vì đó là ngày ĐGH Piô IX đã công bố Tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội qua Tông sắc “Ineffabilis Deus” (Thiên Chúa Bất Khả Ngộ). Thánh Ý Chúa thật là mầu nhiệm, vì ngày 25-3-1858, chưa đầy 4 năm sau khi Giáo Hội công bố tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm, chính Đức Mẹ đã hiện ra xác nhận với Thánh nữ Bernadette tại Lộ Đức: “Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội” (Je suis la conception immaculée, I am the immaculate conception, Ego sum immaculata conceptio, Soy la inmaculada concepción). Dĩ nhiên khi đó Bernadette chưa thể hiểu ngay, về sau mới có thể hiểu thế nào là Vô Nhiễm Nguyên Tội. Điều này chứng tỏ Chúa Thánh Thần luôn tác động trong đời sống Giáo hội Lữ hành.
Trong cuộc sống đời thường, khi người ta “có tật” thì cũng dễ bị “giật mình”, và người ta còn thường đổ lỗi cho nhau theo “dây chuyền” bằng nhiều dạng tinh vi: Vì A, tại B, bởi C, nếu D, giá mà E,… Lỗi tại X, lỗi tại Y,… có lẽ hiếm khi dám nhận: “Lỗi tại tôi”. Cái kiểu “đổ rô, đổ trê” thế này thì nguy hại lắm, bởi vì tội lỗi cũng có tính liên đới, xảy ra theo “dây chuyền”.
Kinh Thánh hôm nay (St 3:9-15) cho chúng ta biết lý do “giật mình” của Ông Bà Nguyên Tổ. Lúc đó, Thiên Chúa gọi con người và hỏi: “Ngươi ở đâu?”. Con người thưa: “Con nghe thấy tiếng Ngài trong vườn, con sợ hãi vì con trần truồng, nên con lẩn trốn”. Trước đó thì Ông Bà thường xuyên chuyện vãn với Thiên Chúa, bây giờ thì lủi đi như chim cút, mắt liên láo và không thích gặp mặt Ngài nữa. Và rồi Ngài hỏi: “Ai đã cho ngươi biết là ngươi trần truồng? Có phải ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi ăn không?”. Con người thưa: “Người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con ăn”. Đức Chúa là Thiên Chúa hỏi người đàn bà: “Ngươi đã làm gì thế?”. Người đàn bà thưa: “Con rắn đã lừa dối con, nên con ăn”. Ngài hỏi không phải là Ngài không biết, mà Ngài muốn tự con người xác nhận, nhưng chẳng ai dám nhận lỗi, Ông đổ lỗi cho Bà, Bà đổ lỗi cho con rắn.
Sau đó, hệ lụy tất yếu đã xảy ra, đó là lúc Thiên Chúa nói thẳng thắn với con rắn: “Mi đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất trong mọi loài súc vật và mọi loài dã thú. Mi phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi. Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó”. Đó là cách Thiên Chúa đề cập một phụ nữ vĩ đại nhất trong nữ giới và cả nhân loại này: Trinh Nữ Maria.
Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng, sau khi được Thiên Chúa trao cho một mỹ nhân, Chàng Ađam thích lắm, cứ ngỡ mình nằm mơ. Và trong khi phấn khởi khôn tả, Chàng gọi Nàng là Êva, Kinh Thánh giải thích rằng Chàng “đặt tên” cho Nàng như vậy vì Nàng là “mẹ của chúng sinh” (St 3:20).
Người phụ nữ đầu tiên và là người mẹ đầu tiên của nhân loại đã hư hỏng vì thiếu đức vâng lời – bất tuân lệnh của Thiên Chúa. Thế là nhân loại mất Người Mẹ thứ nhất: Bà Êva, nhưng nhân loại lại được Thiên Chúa ban cho Người Mẹ thứ nhì: Đức Maria. Thật là mầu nhiệm đối với sự quan phòng và tiền định của Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta cảm thấy hạnh phúc lắm, không thể không cảm tạ Thiên Chúa theo lời mời gọi của tác giả Thánh Vịnh: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã thực hiện bao kỳ công. Người chiến thắng nhờ bàn tay hùng mạnh, nhờ cánh tay chí thánh của Người” (Tv 98:1).
Và còn rất nhiều lý do khác để chúng ta phải tạ ơn Thiên Chúa. Đây là một trong các lý do đó: “Chúa đã biểu dương ơn Người cứu độ, mặc khải đức công chính của Người trước mặt chư dân; Người đã nhớ lại ân tình và tín nghĩa dành cho nhà Ítraen. Toàn cõi đất này đã xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta” (Tv 98:2-3). Niềm vui của chúng ta cứ tăng dần, trách nhiệm của chúng ta cũng phải tăng dần, và không thể không chia sẻ với người khác: “Tung hô Chúa, hỡi toàn thể địa cầu, mừng vui lên, reo hò đàn hát” (Tv 98:4).
Từ Cựu Ước tới Tân Ước có vô vàn các kỳ công của Thiên Chúa khiến chúng ta phải tâm phục khẩu phục và không ngừng tạ ơn Ngài. Thánh Phaolô đã lên tiếng: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Trong Đức Kitô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần. Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người” (Ep 1:3-4).
Dâng lời tạ ơn cũng là một cách cầu nguyện, chứ không phải chỉ là cầu xin, van nài. Để cầu nguyện có hiệu quả và đẹp lòng Thiên Chúa, Thánh Faustina cho biết: “Khi cầu nguyện, chúng ta ĐỪNG NÀI ÉP Chúa ban cho điều chúng ta muốn, mà chúng ta NÊN TUÂN PHỤC Thánh Ý Ngài” (Nhật Ký, số 1525). Nghĩa là có những điều chúng ta xin nhưng không được vì không đúng Thánh ý Chúa. Thánh Phaolô giải thích: “Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô, để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu” (Ep 1:5-6). Rõ ràng việc tạ ơn vô cùng quan trọng trong đời sống hằng ngày của chúng ta – những người mệnh danh là Kitô hữu.
Thiên Chúa là Đấng toàn năng, toàn trí, nhân từ, yêu thương vô hạn, giàu lòng thương xót, Ngài chỉ muốn những gì tốt lành nhất cho chúng ta, dù đôi khi chúng ta cảm thấy trái ý, không vừa lòng. Thánh Phaolô cho biết: “Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi sự theo quyết định và ý muốn của Người, đã TIỀN ĐỊNH cho chúng tôi đây làm cơ nghiệp riêng THEO KẾ HOẠCH của Người, để chúng tôi là những người đầu tiên đặt hy vọng vào Đức Kitô, chúng tôi ngợi khen vinh quang Người” (Ep 1:11-12).
Không gì ngoài Thánh Ý Chúa, dù chỉ là một sợi tóc nhỏ nhoi cũng được Ngài quan phòng và tiền định rạch ròi (x. Mt 5:36; Mt 10:30; Lc 21:18; Cv 27:34). Trình thuật Lc 1:26-38 nói về việc Sứ thần Gáprien loan báo Hỉ Tín cho Trinh nữ Maria, một Thôn nữ đoan trang, duyên dáng, nết na và thùy mị.
Bà Êlisabét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáprien đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã đính hôn với một chính nhân là Giuse, thuộc dòng dõi Hoàng tộc Đavít. Đó là trinh nữ Maria. Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà”. Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. Vâng, Thôn nữ Maria rất khiêm nhường, thế nên rất ngại khi được người khác đề cao mình, nói mình là người nhân đức.
Lúc đó Sứ thần liền nói: “Thưa Chị Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận”. Cái “vụ” kia đã thấy ngại rồi, cái “vụ” này còn ngại hơn. Ui da, kỳ thí mồ đi! Bụng muốn đánh lô-tô rồi đó.
Thế nên Cô Maria ngạc nhiên lắm, Cô phân trần: “Mèn ơi! Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”. Nhưng Sứ thần xác định ngay: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Chị, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Chị. Vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa, Cô Êlisabét, người họ hàng với Chị, tuy già rồi mà cũng đang cưu mang một người con trai: Cô ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”.
Nghe xong nhẹ cả mình. Vâng Thôn nữ Maria hiền thục và luôn một niềm tín thác nơi Thiên Chúa. Bấy giờ, Trinh nữ Maria không cần đắn đo, nói ngay: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Thế là hoàn thành sứ vụ, rồi sứ thần từ biệt ra đi…
Chắc hẳn trình thuật Tin Mừng hôm nay như một thước phim hay, chúng ta đã biết rõ và quá quen thuộc, hầu như thuộc lòng, thế mà chúng ta vẫn không cảm thấy nhàm chán. Thật là kỳ diệu quá chừng! Ước gì mỗi chúng ta cũng biết luôn tín thác vào sự quan phòng và tiền định của Thiên Chúa để có thể mau mắn “xin vâng” như Đức Mẹ, vâng lời ngay trong những đoạn đường tối tăm gian khổ nhất của cuộc đời.
Cùng với Đức Mẹ, đặc biệt trong niềm hân hoan kính mừng Đức Mẹ Vô Nhiễm, mỗi chúng ta hãy chân thành thân thưa với Thiên Chúa: “Xin cho con được trí thông minh để vâng theo luật Ngài và hết lòng tuân giữ” (Tv 119:34).
Lạy Thiên Chúa toàn năng và chí ái, chúng con cảm tạ Ngài đã thương ban cho chúng con một Người Mẹ nhân đức tuyệt vời, xin giúp chúng con luôn biết tuân phục Thánh Ý Ngài mọi nơi và mọi lúc, trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Lạy Thánh Mẫu Vô Nhiễm Nguyên Tội, xin nguyện giúp cầu thay chúng con còn đang lưu lạc nơi thung lũng nước mắt trần gian này, xin bảo vệ chúng con cũng được “miễn nhiễm” với tội lỗi và mọi mưu ma chước quỷ, xin thương cầu bầu cùng Chúa cho chúng con bây giờ và trong giờ lâm tử.
Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
.
GIÂY PHÚT NHẬP THỂ
P.Trần Đình Phan Tiến
Kính thưa quý vị, thưa các bạn có lẽ không ai xa lạ với Đoạn Lời Chúa ( Lc 1, 26 -38) hôm nay, được Giáo Hội chọn đọc cho ngày LỄ ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI . Điều nầy, một lần nữa Giáo Hội xác tín “Đặc Ân Vô Nhiễm Nguyên Tội”, mà Thiên Chúa ban cho Đức Trinh Nữ Maria qua định tín bởi Đức Thánh cha Piô IX ngày 08/12/1854.
Như chúng ta biết, Tín Điều “VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI” là một trong bốn tín điều cao trọng nhất, mà Thiên Chúa ân ban cho Đức Trinh Nữ Maria.
Một là : Vô Nhiễm Nguyên Tội
Hai là : Trọn Đời Đồng Trinh
Ba là : Hồn Xác về Trời
Bốn là : Mẹ Thiên Chúa
Vâng , hôm nay hiệp cùng muôn vàn thần thánh trên trời, Giáo Hội toàn cầu long trọng một lần nữa tuyên tín và cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho người “ Tỳ Nữ ” của Chúa một đặc ân trọng đại, đó là Đức Trinh Nữ Maria, ĐẤNG VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI.
Vâng , mỗi lần nhắc lại “Định Tín “ trên, là mỗi lần mừng kính trọng thể một đặc ân thật cao trọng mà Thiên Chúa đã ban cho Đức Mẹ.
Vâng, “Bà gồm mọi phước lạ, và GIÊSU, Con lòng Bà gồm phước lạ…”
“Tỳ Nữ” có nghĩa là : “ người tớ gái”, vâng, Đức Mẹ xác tín cách tỏ tường như vậy, mặc nhiên, ngoài Ngôi Hai Nhập Thể ra, thì không một thụ tạo nào có được diễm phúc như Đức Mẹ. Vì sao ? Thưa quý vị. Thưa, vì Đức khiêm nhường thẳm sâu, từ một thụ tạo “thấp hèn “, vâng, Mẹ , thưa như vậy, và quả thật như vậy. Từ đó, “giây phút ” Mẹ nhận Truyền Tin , đồng thời, là “ giấy phút ” Mẹ thưa Tiếng “ XIN VÂNG”, (Fiat) chính là “GIÂY PHÚT NHẬP THỂ” của Ngôi Hai Thiên Chúa làm Người.
Mặc nhiên, “giây phút “ ấy chính là “Giây Phút “ Mẹ nhận được “ Ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội”. Vì sao vậy ? Thưa, bởi vì : “Mẹ đã đáp Lời Thiên Chúa” một cách chân thành tuyệt đối, một thụ tạo thấp hèn mặc nhiên, chưa “khỏi tội nguyên tổ ”. Nhưng, Mẹ hoàn toàn tín thác cách trọn vẹn vào Lời “Hứa” ban Đấng Cứu Độ. Tiếng thưa “XIN VÂNG” của Mẹ không phải chỉ lấy lệ, cho qua, mà là một “ kỳ công”, bởi vì, một sự “ lạ lùng” được trao cho một người “thấp hèn” như Mẹ. vì, đây là ”quyền năng ” bởi Thiên Chúa tối cao, chứ không do phàm nhân.
Chúng ta thấy, tâm tình của Mẹ thật xứng hợp, Mẹ không tự hào là : “ Mẹ xứng đáng” lãnh nhận sự trọng đại ấy. Bởi vì, Mẹ cảm nghiệm được ơn Chúa thật bao la, quá đỗi cao cả, Mẹ không hề biết được những gì là “trọng đại”, mà Thiên Chúa sẽ thực hiện, nhưng tâm hồn “thấp hèn” của Mẹ, Mẹ đã “ ưng thuận “. Vâng, sự đồng ý ở đây là , Mẹ muốn cho “công trình” của Thiên Chúa được thực hiện. Điều ấy , có nghĩa là : “Tâm hồn “ thánh kiết vẹn tuyền của Mẹ tuy chưa nhận được đặc ân “ Vô Nhiễm Nguyên Tội” trước lúc thưa tiếng : “ XIN VÂNG ”. Và , ngay khi thưa tiếng “xin vâng”, thì như chúng ta biết, “ mọi sự “ đã trở nên kỳ diệu”, bởi vì ngay “GIÂY PHÚT “ ấy , Ngôi Hai đã “từ trời xuống thế”, Bởi Phép Chúa Thánh Thần. và , mặc nhiên là ” THÁNH THAI “ đã ngự vào cung lòng của Mẹ. Như vậy, Đặc Ân khỏi tội Nguyên Tổ của Mẹ đã nghiễm nhiên trở thành hiện thực. Như vậy, đặc ân “ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI” ngay từ giây phút đó đã dẫn đưa Mẹ đến với ơn “Cứu Độ ”. bởi vì, Mẹ cũng phải được cứu độ bởi Đấng Cứu Thế. Chúng ta đừng “lầm” tưởng rằng : Đức Mẹ được ơn “Vô Nhiễm Nguyên Tội” trước lúc thưa “Tiếng xin vâng”, không phải vậy, bởi vì, Mẹ được lãnh nhận “Đặc Ân” “Vô Nhiễm Trinh Thai” là như vậy, chứ không phải là Mẹ nhận lãnh “ ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội” trước khi thưa “ tiếng Xin Vâng”.
Vì, Đặc Ân “Vô Nhiễm Nguyên Tội” được ban cho Đức Mẹ, là một ơn hoàn toàn nhưng không, hoàn toàn tự do, và như thế, Thiên Chúa không ban cho Đức Mẹ đặc ân “ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI” trước khi Đức Mẹ” tự nguyện “ ưng thuận cộng tác vào ơn Cứu Độ bởi Thiên Chúa.
Vì như vậy, mầu nhiệm Truyền Tin , đồng thời là mầu nhiệm tràn đầy ân sủng dành cho bất cứ “ người nào” có “tâm hồn “ như Mẹ. vì, giả sử Đức Mẹ không thưa “ tiếng xin vâng”, thì Đức Mẹ vẫn có quyền như thế, nhưng, mặc nhiên, ân sủng không đến với Mẹ. Từ đó, suy ra “ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội” nơi Đức Mẹ không có trước “Tiếng Xin Vâng”.
Như vậy, Đức Mẹ được diễm phúc đón nhận nhận Chúa Cứu Thế, thì mặc nhiên, Mẹ được nhận lãnh : ” Bốn đặc ân “ trên, nhưng, một trong bốn đặc ân đó là : Đặc Ân “ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI “ là đặc ân “dẫn đầu” cao trọng nhất .
Giáo Hội sắp xếp thật phù hợp, lễ kính trọng thể Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội trong Mùa Vọng, là mùa “sám hối” sự sám hối của Mùa Vọng khác với sự sám hối của Mùa Chay. Sự “dọn đường” cho Đấng Cứu Thế đến trong Lễ Giáng Sinh, mặc nhiên phải là một tâm hồn “ vô nhiễm”. Đức Mẹ được nhận lãnh Ơn Vô Nhiễm hoàn toàn là Mẹ đã chuẩn bị “tâm hồn “ để đón Chúa. Một tâm hồn trong trắng, thuần khiết tự nhiên của Mẹ cùng với sự đón nhận “Thánh Thai “là Đấng Cứu Thế là ơn VÔ NHIỄM siêu nhiên, mặc nhiên Mẹ được nhận lãnh đặc ân “ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI” là điều hợp lẽ.
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh, chúng con xin cảm tạ Thiên Chúa vì Hồng Ân diễm phúc là Đặc Ân Vô Nhiễm Nguyên Tội đã ban cho Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ của Ngôi Hai Nhập Thể, đồng thời là Mẹ loài người chúng con, xin thương ban cho chúng con, nhờ lời cầu bàu cùa Mẹ, biết noi gương bắt chước tâm tinh của Đức Mẹ mà vâng theo Thánh Ý Chúa trong mọi sự, hầu đán
.
ĐẶC ÂN VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Hôm nay toàn thể Giáo Hội tôn vinh Mẹ Maria được Thiên Chúa tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế, được gìn giữ khỏi tội nguyên tổ.
Đặc Ân “Vô Nhiễm Nguyên Tội” là bằng chứng về sức mạnh của Ân Sủng trên tội lỗi và sự chết. Phụng vụ đang ở giữa chặng đường Mùa Vọng. Thời gian chuẩn bị đón mừng mầu nhiệm Con Thiên Chúa đến trần gian. Giữa “màu tím đợi chờ và hy vọng” chợt bừng lên “màu trắng tinh tuyền” của ngày lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm. Ý nghĩa phụng vụ gắn liền với thời điểm quan trọng của lịch sử cứu rỗi. Cánh cửa thiêng liêng mở ra cho Dân Chúa bước tới cử hành mầu nhiệm Nhập Thể.
Trong hai thế kỷ sau cùng của thiên niên kỷ thứ hai, liên tiếp có hai chân lý về Đức Maria đã được Giáo Hội định tín. Đó là: tín điều “Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội” (8.12.1854) và tín điều “Đức Maria Hồn Xác Lên Trời” (1.11.1950). Qua hai tín điều này, Giáo Hội tuyên tín và khái quát về toàn bộ chương trình cứu độ của Thiên Chúa ở hai tận cùng của lịch sử. Một khởi đầu sáng tạo với vẽ đẹp “Vô Nhiễm Nguyên Tội”, và cuối cùng, với công trình Nhập Thể – Cứu Chuộc của Chúa Con, toàn thể nhân loại lại được nâng lên trong ánh quang phục sinh như “Đức Maria hồn xác lên trời”.
Lòng sùng kính Đức Maria là cả một cảm nghiệm sâu xa của niềm tin Dân Chúa qua dọc dài lịch sử với nền tảng Thánh Kinh và Thánh Truyền.
Sách Sáng thế kể rằng: con người được tạo dựng trong yêu thương và được ân ban cuộc sống hạnh phúc ngay từ thuở ban đầu. Tuy nhiên, địa đàng hạnh phúc ấy không may đã khép lại với nguyên tổ. Đánh mất địa đàng, con người cũng mất luôn hạnh phúc được chia sẻ sự sống thân mật và vĩnh hằng với Thiên Chúa. Cái chết đã trở thành một bản án chí tử. Thiên Chúa tình yêu đã hé mở chân trời hy vọng : “Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa mi và người phụ nữ, giữa miêu duệ mi và miêu duệ người đó. Người miêu duệ đó sẽ đạp nát đầu mi”. Đó chính là “Tin Mừng đầu tiên”, Tin Mừng nguyên thủy. Niềm hy vọng trải dài xuyên suốt lịch sử con người từ buổi hồng hoang cho đến ngày Lời hứa được thực hiện.
Từ cuộc “đỗ vỡ ban đầu” của Nguyên tổ, Thiên Chúa đã quyết định thực hiện một chương trình cứu rỗi diệu kỳ. Đức Maria đã được chọn từ muôn thưở: “Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa mi và người phụ nữ”. Thánh Phaolô đã khẳng quyết: “Khi đến thời viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con của Người, sinh bởi người nữ, sinh dưới quyền lề luật, để cứu chuộc những kẻ dưới quyền lề luật, ngõ hầu ta được chịu lấy quyền nghĩa tử” (Gl 4,4). Chính người Con đó, Đức Giêsu Kitô, sẽ thực hiện lời hứa “đạp dập đầu con rắn” mà Thiên Chúa đã công bố thuở xưa. Người nữ đó chính là Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Đấng Cứu Chuộc. Đức Trinh Nữ ấy đã được Đức Piô IX long trọng công bố trong tín điều Vô Nhiễm : “Ta tuyên bố rằng Đức Trinh Nữ rất thánh đã được gìn giữ khỏi mọi tì ố tội tổ tông… ngay từ buổi đầu tượng thai”.
Như thế, rõ ràng mầu nhiệm “Vô Nhiễm Nguyên Tội” là một lộ trình đức tin của Dân Chúa. Đặc Ân này, huyền nhiệm này nắm giữ một vai trò, một ý nghĩa, một điều kiện có tính quyết định trong con đường dẫn tới hạnh phúc vĩnh hằng của nhân loại. Nói cách khác, Đặc ân “Vô Nhiễm Nguyên Tội” của Đức Trinh Nữ Maria chính là “Tin mừng về cuộc chiến thắng của tình yêu cứu độ của Thiên Chúa”.
Tín điều Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội bắt nguồn từ trong Thánh Kinh và lớn lên trong đức tin đơn thành và bình dân của tín hữu thời Giáo Hội Sơ Khai. Ngay từ thế kỷ thứ II, các Thánh Giáo Phụ Justinô và Irénée de Lyon đã ngợi khen sự thánh thiện của Đức Maria. Giáo Hội Đông Phương đã mừng Lễ Mẹ Vô Nhiễm từ thế kỷ thứ VII. Vào năm 1432, công đồng Bâle đã coi mầu nhiệm này như một tâm điểm của lòng tin. Vào thế kỷ XIX, sau khi Đức Mẹ hiện ra với Thánh Catherine Labouré tại nguyện đường nhà Dòng Nữ Tử Bác Ai năm 1830, sau đó Đức Thánh Cha Piô IX đã long trọng ban bố tín điều Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội vào ngày 8.12.1854. Bốn năm sau đó, vào ngày 25.3.1858, Đức Mẹ hiện ra tại hang đá Massabielle Lộ Đức, với thánh nữ Bernadette Soubirous. Đức Mẹ đã xác nhận tín điều trên đây khi tự xưng mình là “Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội”.
Đặc ân “Vô Nhiễm Nguyên Tội” tô thắm vẽ đẹp tuyệt mỹ của Đức Mẹ. Mẹ đầy ơn Chúa. Sứ Thần cung kính thưa với Mẹ rằng: “Mừng vui lên, hỡi Ðấng đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng bà!” (Lc 1,28). “Ðấng đầy ơn phước” là tên gọi đẹp nhất của Mẹ Maria, tên gọi mà Thiên Chúa đã ban cho Đức Mẹ, để chỉ cho biết rằng từ muôn thuở và cho đến muôn đời, Đức Mẹ là Ðấng được yêu thương, được Thiên Chúa tuyển chọn, được tiền định để đón nhận hồng ân quý giá nhất, là Chúa Giêsu, “tình thương nhập thể của Thiên Chúa” (x.Thông điệp Thiên Chúa là tình yêu, số 12).
Tước hiệu “Bà đầy ơn phước” xác nhận lòng Đức Mẹ không có chổ dành cho tội lỗi vì luôn được đầy tràn ơn phước của Thiên Chúa.
“Thiên Chúa ở cùng Bà”: Ở đâu có Thiên Chúa, ở đó bóng tối của tội lỗi không thể có mặt. Mẹ luôn sống trong ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa.
“Bà có phúc hơn mọi người phụ nữ” vì Mẹ là người duy nhất không vướng mắc tội tổ tông. Mẹ đẹp thánh thiện. Mẹ đẹp cao quý. Mẹ tuyệt mỹ vì niềm tin đơn sơ và cuộc sống khiêm nhường. Nét đẹp ấy thoang thoảng như như một hương thơm hảo hạng toả ra lôi cuốn. Nét đẹp ấy mặn mà như thứ muối thiêng liêng. Nét đẹp ấy lung linh như ánh sáng dịu mát. Nét đẹp ấy huyền diệu như âm nhạc dịu êm mời gọi con người nâng tâm hồn lên tới Chúa.
Đặc ân “Vô Nhiễm Nguyên Tội” là một biểu hiện cụ thể và tròn đầy kết quả viên mãn của ơn cứu độ do Đức Kitô mang lại cho phần tử ưu tú nhất của nhân loại. Đức Maria gắn bó mật thiết với mầu nhiệm “Con Chúa xuống thế làm người” như sách Giáo Lý đã viết : “Để làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria “đã được Chúa ban cho nhiều ơn xứng với nhiệm vụ cao cả ấy”. Những đặc ân của Đức Maria có được là kết quả đi trước nhờ cuộc Vượt Qua của Đức Kitô, như sách Giáo Lý xác tín : “Mẹ có được sự thánh thiện tuyệt vời, có một không hai “ngay từ lúc tượng thai” hoàn toàn là do Đức Kitô : Mẹ được cứu chuộc cách kỳ diệu nhờ công nghiệp Con của Mẹ” (GLCG # 56). Ngoài ra, Đặc ân Vô Nhiễm cũng còn tiên báo hình ảnh đích thực của Hội Thánh vào ngày cánh chung, ngày mà Dân Chúa sẽ được tác thành như “một trinh nữ vẹn toàn”. Tất cả những nội dung đó đã được tóm kết trong Kinh Tiền Tụng ngày lễ hôm nay :“Chúa đã gìn giữ Đức Trinh Nữ Maria rất thánh khỏi mọi vết nhơ nguyên tội, để chọn Người đầy ơn phúc xứng đáng làm Mẹ Con Chúa, và chỉ cho chúng ta thấy nơi Người là khởi điểm Hội Thánh xinh đẹp, không vết nhăn, là bạn Con Chúa”.
Mẹ Maria chính là thụ tạo đầu tiên hưởng được lời hứa cứu độ mà Thiên Chúa công bố ngay buổi đầu với Nguyên tổ.
Với Đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ Maria trở thành một chứng nhân cụ thể cho tình yêu bao la của Thiên Chúa dành cho toàn thể nhân loại. Chính vì thế, trong ngày lễ hôm nay, Giáo Hội đã mượn lời Thánh Vịnh 97 để cùng hát lên trong hân hoan cảm tạ : “Hãy ca tụng Chúa một bài ca mới.Vì Người đã thực hiện những việc lạ lùng…Chúa đã công bố ơn cứu độ, đã tỏ sự công chính Người trước mặt chư dân…mọi dân trên khắp cùng bờ cõi trái đất đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta…”
Với Đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ Maria được quyền năng và tình yêu Thiên Chúa đổ tràn.Mẹ được khỏi tội tổ tông và được đầy ơn ơn sủng ngay từ trong lòng Mẹ. Quyền năng và tình yêu Chúa bao phủ suốt cả đời Mẹ trên từng ý nghĩ, từng tình cảm, từng mỗi hành động, từng mỗi bước đi… khiến cho tâm hồn Mẹ luôn hướng về Chúa mà tạ ơn và ngợi khen liên lỉ. Đặc ân cao trọng này chính là sự thánh thiện tinh tuyền của Mẹ, vốn đã được “Thánh Thần ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao rợp bóng trên bà” (Lc 1,35).
Giáo Hội cùng hiệp ý chung lời với Mẹ ngợi khen tạ ơn Thiên Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới, từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”. Những lời ngợi ca đó nói lên tất cả tâm hồn của Mẹ. Đó là toát lược cả cuộc đời Mẹ, cả chương trình sống của Mẹ, là con đường tu đức của Mẹ: mãi mãi là người nữ tỳ khiêm tốn, luôn phó thác hoàn toàn trong tay Chúa toàn năng và nhân hậu, hằng dâng lời ngợi khen tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh cuộc sống. Mẹ Vô Nhiễm là một dấu chỉ niềm hy vọng cho tất cả nhân loại, những người đã chiến thắng Satan nhờ máu của Con Chiên (x. Kh 12 , 11).
Năm 1492, hơn 500 năm trước đây Colombô đã khám phá ra Châu Mỹ. Ông đã dùng con tàu mang tên: Maria Vô Nhiễm. Colombô đặt tên cho hòn đảo đầu tiên ông đặt bước chân là San Salvador để tôn kính Đấng Cứu Thế. Hòn đảo thứ nhì mang tên Conception, Mẹ Vô Nhiễm để tôn kính Mẹ Chúa Kitô.
Vào năm 1673, hơn 300 năm trước, cha Monquette, một linh mục thám hiểm gan dạ, người đầu tiên tới sông Mississipi, một thác nước khổng lồ chạy dài 3.000 km xuyên qua 10 tiểu bang Hoa Kỳ. Ngài đặt tên cho con sông miền Tây này là “Maria Vô Nhiễm”.
Balboa và Cortez, hai nhà thám hiểm nổi tiếng cũng có lòng tôn sùng Maria Vô Nhiễm.
Giáo dân Việt Nam rất sùng kính Đức Maria Vô Nhiễm. Năm 1960 khi thành lập hàng Giáo phẩm Việt Nam, các Giám mục đã dâng đất nước Việt Nam cho Đức Mẹ Vô Nhiễm.
Cử hành lễ Mẹ Vô Nhiễm giữa Mùa Vọng, cộng đoàn chúng ta được nhắc nhở thêm nữa về thái độ sửa dọn tâm hồn xứng đáng để đón mừng mầu nhiệm Giáng Sinh, nhất là để từng ngày cộng tác với Ân Sủng hầu biến cuộc sống trở thành một mãnh đất tốt để Lời Chúa kết trái đơm hoa, như mãnh đất tâm hồn trong trắng của Đức Maria, tinh hoa của bao ngàn năm mong đợi. Đức Mẹ đã chuẩn bị một lễ Giáng sinh đẹp nhất, công phu nhất, dài nhất bằng chín tháng cưu mang trong tình yêu.
Xin Mẹ cũng giúp chúng con chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh với tâm tình yêu mến như Mẹ. Amen.
.
.
CUỘC ĐỜI CÓ MẸ
Lm. Jos. DĐH
Ca dao tục ngữ có câu : canh suông khéo nấu thì ngon, mẹ già khéo nói thì con đắt chồng. Lại cũng có câu : con hư tại mẹ, cháu hư tại bà. Đúng là vị trí của người mẹ trong cuộc sống thật quan trọng, mẹ là nải chuối buồng cau, mẹ là ngọn gió đưa êm, mẹ là dòng suối mơ huyền bao la. Cuộc đời đầy người tốt, nhưng tốt hơn cả vẫn là “mẹ”, gian khổ cuộc đời ai cũng có, mà khổ nhất là “mất mẹ”, chẳng thế mà dân gian có câu : mồ côi mẹ liếm lá gặm xương !
Sinh ra làm người, ai cũng có mẹ; sinh ra làm con Chúa, chúng ta còn biết đến người Mẹ thiêng liêng nữa : Mẹ Maria. Mừng lễ Mẹ Vô Nhiễm, chúng ta lại được nhắc nhớ đến ví trí quan trọng của người mẹ trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Người phụ nữ duyên dáng xinh đẹp, thời nào cũng có; nhưng phụ nữ hoàn hảo, đức độ, Thiên Chúa đã gặp nơi Trinh Nữ Maria. Xem ra tiêu chí đẹp toàn diện chưa đủ, Sứ thần của Chúa còn cần thiếu nữ Maria thể hiện được niềm tin, phải tự do nói và sống lời thưa vâng trong suốt cuộc đời trần thế.
Trinh Nữ Maria chính thức làm Mẹ Đấng Cứu Thế, sau lời khiêm tốn thưa vâng. Đức Maria chính thức là Mẹ Hội Thánh, là Mẹ của chúng ta trước khi Chúa Giêsu hoàn tất sứ mạng trên cây thập giá. Người đời ví von rằng : có cha có mẹ thì hơn, không cha không mẹ như đờn đứt dây. Đức Giêsu thật là hạnh phúc, vì cả cuộc đời của Ngài là có Mẹ có cha, dù các ngài rất âm thầm nơi mái nhà Nagiarét, hoặc đầy lo lắng trong khi thất lạc và tìm thấy trẻ Giêsu ở Giêrusalem.
Để diễn tả tình mẹ con, người xưa nói rằng : dù con lớn vẫn là con của mẹ, đi hết cuộc đời lòng mẹ vẫn theo con. Khi hay Đức Giêsu có dấu hiệu bất thường, mất trí, Mẹ Maria vội vã tìm gặp Con, rồi trên đường thập giá, đứng dưới chân thập giá, người Mẹ dù tan nát cõi lòng, nhưng không bỏ cuộc. Ở đời vẫn quan niệm : càng cao danh vọng, càng nhiều gian nan; tương lai càng sáng, cạm bẫy càng nhiều. Với Đức Maria, Sứ thần truyền tin đã chào chúc, đã trấn an : “Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa cùng Chúa”. Như vậy, phải chăng càng dồi dào ơn Chúa, càng bớt gian khổ ? Hay càng ngập tràn tình Chúa, càng bớt ưu tư sợ hãi ? Mỗi người hãy suy tư và cầu nguyện đi ? Câu trả lời sẽ thuộc về mỗi chúng ta.
Thế giới này, vốn dĩ chứa đựng rất nhiều đau khổ, mỗi người đều phải đối mặt và kinh qua đau khổ, nhất định không ai là ngoại lệ. Về cuộc đời có Mẹ, hẳn Chúa Giêsu là rõ nhất, còn kinh nghiệm có Mẹ Maria, hẳn mỗi tùy mỗi người mỗi khác. Chỉ biết rằng, chân lý đau khổ ở đời này là có thật, dù là người thông thái, hoặc là kẻ khờ dại nhất, không thể có sự khác biệt. Đức Maria dù đã thưa vâng, đã xác tín vào tình yêu Chúa, nhưng không phải không có đau khổ và nước mắt trong ơn gọi làm Mẹ Đấng Cứu Thế.
Hành trình đời người Kitô hữu chúng ta hôm nay thì sao ? đau khổ và hạnh phúc sẽ không phân tách để ta chọn lựa ! Thiên Chúa ở cùng Đức Maria và theo Đức Maria suốt hành trình đức tin, dù Maria đã sống lời thưa vâng trọn vẹn nhất, dù tâm trí Đức Maria lúc đó chưa thể hiểu hết thập giá vinh quang là gì. Thiên Chúa có thể làm những điều kỳ diệu nơi mỗi người chúng ta, như đã thực hiện nơi thiếu nữ mang tên Maria, nhưng Ngài luôn tôn trọng tự do của con người. Cuộc đời của chúng ta luôn có Mẹ, nhưng ngoài việc thể hiện niềm tin qua đau khổ thập giá đến vinh quang phục sinh, mỗi người hãy cùng Mẹ Maria nói và sống lời thưa vâng. Amen.
Suy niệm 7:
Ngày 25-3-1858 tại Lộ Đức, Đức Mẹ lại hiện ra cho Bernadette,
một cô bé mười bốn tuổi, nhà nghèo, quê mùa.
Vào lần hiện ra thứ mười sáu, khi cô gặng hỏi tên của Bà đẹp,
Bà đã trả lời: Que soy era Immaculada Conception,
Ta là sự Thụ thai vô nhiễm.
Một câu trả lời khó hiểu và khó nhớ đối với một cô bé ít học.
Dĩ nhiên cô không hề biết rằng bốn năm trước đó,
Đức Piô IX đã công bố tín điều Đức Maria Vô Nhiễm nguyên tội.
Mừng lễ Đức Maria Vô nhiễm là mừng lễ một con người, một phụ nữ.
Thiên Chúa muốn Con Một của mình làm người trăm phần trăm,
nên cần tuyển chọn một phụ nữ để sinh ra người Con ấy.
Maria chính là người được chọn, hoàn toàn như một ân huệ.
Khi chọn Maria, Thiên Chúa đã ban cho Mẹ mọi sự tốt đẹp nhất có thể,
vì ơn gọi quá vĩ đại là làm Mẹ Con Thiên Chúa.
Maria được Thiên Chúa bao bọc và bảo vệ bằng ân sủng tuyệt vời.
Ngài cho Mẹ được hưởng trước công nghiệp của Người Con,
nên gìn giữ Mẹ khỏi vết nhơ của nguyên tội.
Mừng lễ Vô nhiễm là mừng lễ một con người, một phụ nữ,
ngay từ giây phút đầu tiên được thụ thai,
đã trọn vẹn và tuyệt đối nằm trong bàn tay yêu thương của Thiên Chúa.
Khi nói Mẹ không nhiễm vết nhơ của nguyên tội
là chỉ mới nêu lên một khía cạnh có phần tiêu cực.
Theo Công Đồng Vaticanô II, từ giây phút hiện diện đầu tiên của cuộc sống,
Mẹ đã được rạng ngời một sự thánh thiện hoàn toàn độc nhất vô nhị.
Giáo Hội Đông Phương gọi Mẹ là Đấng toàn thánh (panagia).
Sự thánh thiện của Mẹ đã được sứ thần Gabrien diễn tả qua lời chào :
“Mừng vui lên, hỡi Đấng được đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Bà.”
Maria được Thiên Chúa ban đầy tràn ân sủng,
nghĩa là được Thiên Chúa yêu thương, và được đẹp lòng Thiên Chúa,
từ trước khi Mẹ nói tiếng Xin Vâng.
Nhưng ân sủng không bóp chết sự tự do và trách nhiệm.
Mẹ đã đáp lại tình yêu đó với sự cởi mở không ai sánh bằng.
Tiếng Xin Vâng trên môi của cô thiếu nữ Maria
là cử chỉ đón lấy Đấng Cứu Độ vào đời mình, vào lòng dạ mình.
Maria đã suốt đời trung tín với tiếng Xin Vâng đầu tiên
bằng việc nói muôn tiếng Xin Vâng khác cho đến tận thập giá.
Những gì Mẹ Maria được hưởng, chúng ta cũng được chung phần.
Chúng ta cũng được chọn, được tẩy xóa tội nguyên tổ, được ban ơn.
Chúng ta cũng được mời gọi đáp lại bằng những tiếng Xin Vâng nho nhỏ.
Sống Mùa Vọng là để cho Con Thiên Chúa đi vào đời mình.
Như Đức Maria, chúng ta được mời gọi cưu mang Con Thiên Chúa,
làm cho Ngài lớn lên mỗi ngày và sinh Ngài ra thế giới.
Chúng ta cũng muốn cưu mang Giêsu với trái tim cuộc đời vô nhiễm.
Xin Chúa cho chúng ta được chia sẻ ơn Vô Nhiễm giữa cuộc đời ô nhơ.
Cầu nguyện:
Lạy Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa,
xin gìn giữ nơi con quả tim của trẻ thơ
tinh tuyền và trong ngần như dòng suối.
Xin ban cho con quả tim đơn sơ,
mau quên những nỗi buồn phiền.
Một quả tim hào hiệp dám hiến thân,
dịu dàng để cảm thông.
Một quả tim trung thành và quảng đại,
không quên ơn, không báo oán.
Xin tạo cho con quả tim hiền từ và khiêm tốn,
yêu mà không mong được yêu lại,
hân hoan xóa mình đi
để Con của Mẹ có chỗ trong lòng người khác.
Một quả tim vĩ đại và bất khuất,
không khép lại trước những kẻ vô ơn,
không chán nản trước người lạnh nhạt.
Một quả tim khắc khoải
lo tìm vinh danh Chúa Giêsu Kitô,
quả tim mang vết thương vì yêu Ngài,
vết thương chỉ lành
khi được sống với Ngài trên trời. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.