Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
22/01 Ngoan cố, tội phạm đến Chúa Thánh Thần
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Ngoan cố, tội phạm đến Chúa Thánh Thần.
Thứ Hai tuần 3 thường niên – Thánh Vinh Sơn, Phó tế, Tử đạo.
"Satan phải diệt vong".
LỜI CHÚA: Mc 3, 22-30
Khi ấy, những luật sĩ từ Giêrusalem xuống nói rằng: "Ông ấy bị quỷ Belgiêbút ám", và nói thêm rằng: "Chính nhờ tướng quỷ mà ông ấy trừ quỷ".
Khi đã gọi họ lại, Chúa Giêsu phán bằng dụ ngôn rằng: "Satan lại trừ Satan làm sao được? Nếu một nước mà tự chia rẽ nhau, thì nước đó tồn tại làm sao được? Vậy nếu Satan dấy lên chống đối với chính mình và tự phân tán, thì nó không thể đứng vững được mà phải diệt vong. Chẳng ai có thể vào nhà một người khoẻ mạnh và cướp của y, nếu không trói được y trước đã, rồi sau mới cướp phá nhà y.
Quả thật, Ta bảo các ông hay, mọi tội lỗi và mọi lời phạm thượng của con cái loài người sẽ được tha hết, nhưng kẻ nào nói phạm đến Chúa Thánh Thần, sẽ muôn đời không bao giờ được tha: nó mắc tội muôn đời". Ðó là vì họ nói "Người bị thần ô uế ám".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Tội ngoan cố
Hoạt động của Chúa Giêsu ở Capharnaum, miền Bắc Galilê, đã có một tiếng vang đến Yêrusalem, là trung tâm sinh hoạt tôn giáo của Israel thời Chúa Giêsu. Tuy nhiên, cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và các luật sĩ từ Yêrusalem đến chẳng có gì là tốt đẹp, mà chỉ phơi bày sự ngoan cố của các kẻ thù của Chúa. Sự ngoan cố khước từ đó đạt tới cao điểm khi họ giải thích sai lạc việc Chúa Giêsu dùng quyền năng của mình xua trừ ma quỷ ra khỏi con người, mang lại sức khỏe cho con người.
Chúa Giêsu đã rao giảng một cách có uy tín trong vùng Galilê, quanh thành Capharnaum, cùng với những dấu chỉ kỳ diệu chứng tỏ lòng nhân từ của Chúa đối với con người, đồng thời chứng minh quyền năng thần linh của Ngài. Các luật sĩ từ Yêrusalem đến, lẽ ra hơn ai hết, họ phải hiểu được những dấu chỉ kỳ diệu này, vì họ là những con người tôn giáo chuyên môn về Lời Chúa. Nếu Chúa Giêsu chỉ nói suông mà thôi, thì sự ngoan cố của các kẻ chống đối Chúa có thể còn tha thứ được, nhưng đàng này, Ngài đã thực hiện những dấu lạ để chứng tỏ quyền năng thần linh của Ngài: Ngài đã chữa người bại liệt để chứng minh Ngài có quyền tha tội; Ngài đã ra lệnh cho quỷ dữ ra khỏi nhiều người và chúng đã vâng phục.
Trước những hành động kỳ diệu của quyền năng Thiên Chúa, những kẻ chống đối Ngài nói rằng Ngài đã bị quỷ Beelzebul ám và đã dùng quyền của quỷ vương để trừ quỷ. Thật không có sự ngoan cố nào nặng nề hơn: một vị Thiên Chúa mà lại bị các nhà thông luật gán cho tước hiệu đầu mục của quỷ. Ðó là một sự xúc phạm không thể tha thứ được, vì là tội phạm đến Thánh Thần. Thiên Chúa quyền năng có thể tha thứ mọi tội lỗi nhưng Ngài không thể cứu con người, nếu con người cứ đóng kín tâm hồn mình trước ân sủng và sự soi sáng của Thiên Chúa.
Xin Chúa cho chúng ta xác tín vào chương trình cứu rỗi yêu thương của Ngài được thực hiện qua Chúa Giêsu Kitô, để chúng ta đáng được hưởng ơn cứu độ của Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Nguyên tắc sống không mâu thuẫn
Người trở về nhà và đám đông lại kéo đến, thành thử Người và các môn đệ không sao ăn uống được. Người liền gọi họ đến, dùng dụ ngôn mà nói với họ: “Sa tan làm sao trừ Sa tan được? Nước nào tự chia rẽ, nước ấy không thể bền.” (Mc. 3, 20. 23-24)
Chúa Giêsu vẫn có những kẻ luôn rình mò Người, họ không ngại đẩy Người vào những cuộc tranh luận ở nơi công cộng. Hôm nay, các kinh sư từ Giêrusalem xuống đả kích chính tư cách bản thân Người: “Ông ấy bị thần ô uế ám”.
Tố cáo
Theo cái nhìn của những kinh sư, Chúa Giêsu là con người có nhiều mâu thuẫn. Người cho mình là Thiên Chúa mà lại không tôn trọng luật giữ ngày sa-bát? Người giao du quá dễ dàng với những người tội lỗi và quân thu thuế. Người giảng dạy và chữa bệnh với uy quyền như vậy mà lại không giữ được tư cách đàng hoàng. Tại sao và tại sao? Tóm lại, những kinh sư cho rằng Chúa Giêsu chẳng có gì phù hợp với quan niệm hay mô hình về một ngôn sứ hoặc người công chính theo như họ tưởng.
Bào chữa
Đáp lại những lời tố cáo của các kinh sư, Chúa Giêsu cho họ thấy nơi Người không có gì là mâu thuẫn cả, viện lẽ rằng không ai lại tự hủy diệt chính mình. Khi giao tiếp với ác thần, Người có tiêu diệt được nó không? Khi can thiệp để chữa cho một người bị qủy ám, chẳng phải vì Người có quyền trên thần ô uế đó sao?
Chúng ta có liên đới vơi Người không?
Đến lượt mình, người tín hữu cũng sẽ bị người đời chất vấn: bạn theo ai? Người tín hữu cũng như bất cứ ai hằng gắn bó với một giáo thuyết hay một mẫu gương nào đó và muốn sống trọn với điều ôm ấp ấy, sớm muộn gì cũng sẽ phải trả lời cho biết hành động của mình có đi đôi với giáo thuyết mình tán dương không.
Nhưng cũng phải nhìn nhận rằng, ngày nay chúng ta phải chịu nhiều tố cáo và phê phán, là bởi tại đời sống làm chứng của ta không thật trong sáng, vả chăng lại còn nhiều cách biệt và mâu thuẫn giữa việc ta làm và lời Chúa dạy. Ta vẫn biết cầu nguyện là cần thiết và phải dành thời giờ cho việc ấy, nhưng sự cần thiết và thời gian được dành có phù hợp với nhau không? Ta có phấn đấu và tẩy sạch những lu mờ để đời sống bác ái của ta là tấm gương sáng phản ảnh Chúa, và trở nên Thân thể Chúa Kitô không?
Tóm lại, các kinh sư là những người hay chất vấn. Những kinh sư của thời nay cũng vẫn còn dựa vào nguyên tắc “Ngôn hành tương ứng” nói sao làm vậy để đo lường giá trị con người của ta: cây tốt thì sinh quả tốt…. Cây tốt không thể sinh quả xấu. Họ không lầm để kiểm tra ta trong vấn đề này.
Suy Niệm 3: THÍCH ỨNG ĐỂ TRUYỀN GIÁO (Lc 10, 1-9)
Đọc lại lịch sử truyền giáo của các nhà thừa sai trên Miền Thượng (Tây Nguyên – Việt Nam) trong cuốn: “Dân Làng Hồ”, tác giả cho thấy rất rõ yếu tố sống còn, thành công hay thất bại, phụ thuộc rất nhiều vào việc thích ứng hay không thích ứng của các thừa sai!
Khi nói đến truyền giáo, yếu tố thích ứng là điều rất quan trọng, vì thế, trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nhấn mạnh đến yếu tố này khi sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng và truyền cho họ đừng mang theo bao bị, giày dép, túi tiền... Người ta cho ăn thức ăn gì thì hãy ăn. Điều này ngược lại với quan niệm của người Pharisêu, vì mỗi khi họ đi đâu xa, thường thì họ luôn chuẩn bị cho mình những thứ căn bản như tiền, bao bị và thức ăn để đảm bảo sự thanh sạch, vì nếu không có những thứ đó, họ e sợ bị nhiễm uế nơi dân ngoại...
Người môn đệ của Đức Giêsu phải khác! Khác để hiệp nhất, hiệp thông, hòa đồng; khác để sống tình huynh đệ, bác ái; khác để thích ứng và hội nhập; khác để làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa; khác để sống phó thác trong sự an bài của Thiên Chúa.
Điều quan trọng là nhà thừa sai phải là người cảm nghiệm được sự bình an sâu xa từ trong nội tâm khi phó thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa và sống hết mình với anh chị em mình, có thế, món quà quý giá mà người thừa sai trao ban cho con người chính là sự bình an, niềm vui và hạnh phúc.
Ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, mỗi người được trao phó trách nhiệm làm ngôn sứ cho Chúa. Tức là chúng ta có trách nhiệm giới thiệu Chúa cho người khác. Trở nên chứng nhân trong cuộc sống đời thường của mình. Đây là sứ mạng mà Chúa tin tưởng, ủy thác cho chúng ta. Vậy, chúng ta đã ý thức và thi hành sứ vụ đó ra sao?
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con bình an của Chúa, để chúng con biết chia sẻ sự bình an đó cho người khác. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Vào nhà một người mạnh
Suy niệm:
Thân nhân của Đức Giêsu đã tưởng Ngài bị mất trí (c. 21),
nhưng có thể họ không nghĩ Ngài bị quỷ ám,
dù trong thế giới ngày xưa, mất trí thường bị coi là do quỷ ám.
Các kinh sư đến từ thủ đô Giêrusalem có thái độ quyết liệt hơn nhiều.
Họ tố cáo Đức Giêsu là người bị quỷ ám,
không phải quỷ thường, mà là quỷ vương Bêendêbun.
Hơn nữa, họ cho rằng Ngài trừ quỷ nhờ dựa thế của quỷ vương (c. 22).
Lời tố cáo trên đây của những kinh sư thật là nghiêm trọng,
vì ai dựa thế như vậy là thông đồng với quỷ, có thể bị xử tử.
Đức Giêsu đã trả lời tố cáo này bằng hai hình ảnh về Nước và Nhà.
Đức Giêsu nhìn nhận sự hiện diện
và hoạt động của Nước Xatan trong thế gian này.
Nước này có tôn ti trật tự, được lãnh đạo bởi quỷ vương,
đó là Xatan hay Bêendêbun, kẻ cầm đầu các quỷ nhỏ (c. 22).
Xatan muốn bành trướng Nước của mình trong thế giới loài người.
Nó sai các quỷ nhỏ đi khắp nơi lôi kéo mọi người chẳng trừ ai.
Theo thánh Inhaxiô, Xatan thường cám dỗ ta theo ba bước:
từ sự ham muốn của cải, đến hư danh thế gian, và cuối cùng là kiêu ngạo,
rồi sau đó đi đến mọi nết xấu khác (Linh Thao 142).
Như thế Xatan khôn khéo đánh bẫy và trói buộc con người.
Đức Giêsu đã không bắt tay với Xatan để đuổi các quỷ cấp dưới.
Ngài tấn công trực diện vào Nước của Xatan,
phá đổ Nước này và khai mở Nước Thiên Chúa (Lc 11, 20).
Cuộc chiến không dễ dàng và còn kéo dài đến tận thế.
Thế giới hôm qua cũng như hôm nay được ví như một ngôi nhà.
Tiếc thay ngôi nhà đó ít nhiều đã bị Xatan cưỡng đoạt.
Xatan chính là kẻ mạnh đã biến ngôi nhà đó thành của mình (c. 27).
Nhưng Đức Giêsu lại là người mạnh hơn (Mc 1, 7).
Người mạnh hơn đã trói kẻ mạnh lại và tước đoạt những gì nó đã chiếm.
Tước đoạt chính là giải thoát những ai bị Xatan cầm giữ,
và trả lại cho họ quyền làm chủ đời mình, quyền sở hữu căn nhà của họ.
Hôm nay, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục tấn công Xatan.
Ngài không ngừng chinh phục thế giới này cho Thiên Chúa,
và mời chúng ta cộng tác để xây dựng Nước Chúa trên trần gian.
Nhờ Thánh Thần của Thiên Chúa mà Đức Giêsu trừ quỷ (Mt 12, 28),
nên ai bảo Ngài trừ quỷ nhờ quỷ vương Xatan hay Bêendêbun,
thì xúc phạm đến Thánh Thần, coi Thánh Thần như thần ô uế (c. 30).
Đức Giêsu không phải là người có thần ô uế.
Ngài có đầy ắp Thánh Thần trong mọi lời nói việc làm.
Chỉ ai cố chấp, bướng bỉnh mới không nhận ra điều đó.
Mọi tội lỗi đều có thể được thứ tha (c. 28),
trừ tội khép lòng từ chối ơn tha thứ của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu.
Làm sao giúp con người hôm nay mềm mại mở ra
để nhận thấy Thánh Thần vẫn đang hiện diện trong Giáo Hội ?
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nazareth đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người,
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối,
trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài
bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
21/01 Chúa gọi 4 cộng tác viên tin mừng
- Viết bởi Mc 1, 14-20
Chúa gọi 4 cộng tác viên tin mừng.
Chúa Nhật tuần 3 Thường Niên năm B.
"Anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm".
Lời Chúa: Mc 1, 14-20
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Sau khi Gioan bị bắt, Chúa Giêsu sang xứ Galilêa, rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa, Người nói: "Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm".
Đang lúc đi dọc theo bờ biển Galilêa, Người thấy Simon và em là Anrê đang thả lưới xuống biển, vì các ông là những người đánh cá. Chúa Giêsu bảo các ông: "Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người". Lập tức các ông bỏ lưới theo Người.
Đi xa hơn một chút nữa, Người thấy Giacôbê con ông Giêbêđê và em là Gioan đang xếp lưới trong thuyền, Người liền gọi các ông. Hai ông bỏ cha là Giêbêđê ở lại trên thuyền cùng với các người làm công, và đi theo Người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
CHÚA NHẬT 3 THƯỜNG NIÊN B
Lời Chúa: Gn 3,1-5.10; 1Cr 7,29-31; Mc 1,14-20
MỤC LỤC
1. Nhóm mười hai
Một trong những ưu tư của Chúa Giêsu trong quãng đời công khai, đó là kêu gọi, tuyển chọn và huấn luyện các tông đồ. Chính vì thế, trong một vài phút ngắn ngủi này, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về sinh hoạt trong một ngày của Chúa Giêsu và nhóm Mười Hai.
Chúa Giêsu có thói quen thức dậy rất sớm. Ngài thường chọn một nơi thanh vắng để cầu nguyện. Sau đó, có khi Ngài căn dặn các ông và sai các ông đi thực tập truyền giáo. Có khi Ngài cùng đi với các ông, vừa đi vừa đàm đạo thân mật, nhất là Ngài thường cắt nghĩa cho các ông hiểu rõ những điều Ngài đã giảng dạy, bằng những hình ảnh và ngôn ngữ đơn sơ.
Khi nghe biết Chúa Giêsu tới một làng hay một thành nào đó, người ta thường đem tới cho Ngài đủ mọi thứ bệnh nhân để xin Ngài cứu chữa. Và Ngài đã dành nhiều thời giờ để xoa dịu những đớn đau của họ.
Ngoài ra, Ngài còn tiếp xúc với bọn biệt phái, với những người mẹ và con cái của họ, cũng như với những kẻ tội lỗi và đau khổ. Ngài tiếp nhận hết mọi người và giảng giải cho họ biết về Tin Mừng Ngài loan báo. Chúa Giêsu và các môn đệ thường dùng bữa với nhau. Tuy nhiên, cũng có những ngày quá bận rộn, không có cả thời giờ để ăn uống. Khi chiều xuống, Chúa Giêsu thường đề nghị các môn đệ rút vào một nơi thanh vắng để cầu nguyện và nghỉ ngơi với Ngài.
Một trong những đặc tính nổi bật của nhóm Mười Hai này là tình yêu thương. Chính tình yêu thương này đã nối kết các ông lại với nhau, cũng như đã nối kết các ông lại với Chúa Giêsu.
Thực vậy, chính Chúa Giêsu đã yêu thương các ông. Đi tới đâu, Ngài cũng mang các ông theo. Ngài muốn các ông cùng chia sẻ những vui buồn, những thành công và thất bại với Ngài. Ngài lo lắng đến sức khỏe thể xác cho các ông. Ngài dẫn các ông tới những nơi hoang vắng để nghỉ ngơi. Ngài chuẩn bị để các ông không phải thiếu thốn. Và vào buổi sáng sau ngày Phục sinh, chính Ngài đã dọn bữa cho các ông trên bờ biển.
Đồng thời, các tông đồ cũng đã dành cho Ngài những hành động yêu thương và chăm sóc. Thực vậy, khi Ngài nói chuyện với người phụ nữ Samaria bên bờ giếng Giacóp, thì các ông vào làng mua thức ăn và mời Ngài dùng bữa. Sau những lần đi thực tập truyền giáo, các ông vui mừng trở về gặp Chúa và kể lại cho Ngài nghe biết những thành quả đã thu lượm được. Các ông đau buồn khi nghe Chúa tiên báo về cái chết của Ngài. Nhìn thấy các ông, có lẽ người ta phải thốt lên: Kìa xem họ yêu thương nhau biết là chừng nào.
Noi gương Chúa Giêsu và các tông đồ, chúng ta cũng hãy gieo rắc tinh yêu thương cho những người đang sống chung quanh chúng ta, bắt đầu từ gia đình, rồi đến bà con lối xóm. Bởi vì sứ mạng của chúng ta là giúp mọi người biết cảm thông, chia sẻ và yêu thương. Muốn được như vậy, bản thân và cuộc đời chúng ta phải trở nên một lời mời gọi mọi người đến cùng tình yêu, hay nói cách khác là đến cùng Thiên Chúa, vi Thiên Chúa là Tình yêu.
2. Từ bỏ
Sống là chọn lựa. Chọn lựa từng giây phút trước những hành động cuộc đời chúng ta. Và chọn lựa trước hết là gì? Nếu phải từ bỏ. Thực vậy, nếu muốn lên Saigon, thì phải từ bỏ con đường xuống Rạch Giá. Nếu muốn học giỏi, thì phải từ bỏ những tháng ngày lãng phí thời gian. Nếu muốn làm làm giàu, thì phải từ bỏ sự ươn lười, nhàn rỗi. Nếu muốn được cha mẹ yêu thương, thì phải từ bỏ những gì làm cho các ngài buồn lòng. Sống là chọn lựa và chọn lựa có nghĩa là từ bỏ.
Tiến vào đời sống siêu nhiên cũng thế. Muốn theo Chúa, muốn đáp trả lời mời gọi của Chúa, chúng ta phải chọn lựa, chúng ta cũng phải từ bỏ. Abraham ngày xưa đứng trước lệnh truyền của Chúa, ông đã phải từ bỏ quê hương và sự nghiệp để dấn thân vào một cuộc phiêu lưu không định hướng. Hơn thế nữa, ông còn sẵn sàng từ bỏ cả đứa con duy nhất, sẵn sàng sát tế Isaác để làm lễ vật dâng kính Thiên Chúa. Các tông đồ ngày hôm nay cũng vậy. Các ông đã bỏ cha già, bỏ gia đình, bỏ ghe thuyền, bỏ chài lưới nghĩa là các ông đã từ bỏ tất cả để lên đường theo Chúa. Hay như Phanxicô Khó Khăn, đã từ bỏ đến cả manh áo che thân trước sự ngăn cản của gia đình để được hoàn toàn tự do bước theo Chúa.
Từ bỏ gia đình, từ bỏ tiền bạc, từ bỏ thời giờ để theo Chúa đã là một chuyện khó, nhưng điều quan trọng hơn Chúa đòi chúng ta phải từ bỏ, đó là từ bỏ chính bản thân mình. Những sợi dây níu kéo chúng ta lại với mặt đất, những chướng ngại vật ngăn cản bước chân chúng ta theo Chúa, đó là những thói hư tật xấu, những đam mê tiền bạc hay những khát vọng không chính đáng. Để bước theo Chúa, việc đầu tiên mà chúng ta phải thực hiện đó là dứt bỏ những níu kéo ấy, là khử trừ những khuynh hướng lệch lạc, là từ bỏ những ước vọng trần tục. Từ bỏ tiền bạc, từ bỏ tiện nghi vật chất đã là chuyện khó, nhưng chưa đến nỗi cam go vì tiền bạc và vật chất là những cái còn ở bên ngoài chúng ta. Chứ từ bỏ những đam mê, những ước muốn xấu xa mới là chuyện cam go vì đam mê, và ước muốn bén rễ sâu trong con tim chúng ta. Nó làm thành chính bản tính, chính bộ mặt thực sự, chính cái phần sâu thẳm nhất nơi mỗi người chúng ta. Và đó cũng chính là điều mà Chúa đòi buộc chúng ta phải từ bỏ.
Nhưng tại sao chúng ta phải từ bỏ? Vì Chúa Giêsu đã dạy: Con đường vào Nước Trời thì nhỏ hẹp. Con đường nhỏ hẹp ấy chẳng phải là ngõ cụt, nhưng nó sẽ dẫn chúng ta đến hạnh phúc, đến biển cả của tình yêu là chính Thiên Chúa. Đã là một con đường nhỏ hẹp thì chúng ta không thể bước đi trên đó với những hành lý cồng kềnh. Và những hành lý cồng kềnh của chúng ta là gì nếu không phải là tiền bạc, vật chất, đam mê, khát vọng và thói hư tật xấu. Chúng ta phải từ bỏ thì mới có thể tiến bước. Như một người leo núi chỉ mang theo những dụng cụ tối thiểu nhưng cần thiết, nếu không thì người ấy mãi mãi chỉ ở dưới chân núi mà thôi. Hơn nữa Chúa Giêsu cũng đã nhắn nhủ: Nếu ai muốn cứu mạng sống thì sẽ mất, nghĩa là nếu chúng ta cứ bấu víu vào những thực tại trần thế, nếu chúng ta cứ nắm chặt lấy cuộc sống vật chất, thì chắc chắn chúng ta sẽ đánh mất cuộc sống vĩnh cửu. Chúng ta phải từ bỏ thì mới có thể được sống, như hạt lúa gieo trên ruộng đồng, phải mục nát thì mới đâm bông kết trái.
Một khi đã dứt bỏ được những níu kéo bên ngoài, một khi đã dứt khoát bỏ được những vấn vương bên trong. Một khi đã từ bỏ được những quyến luyến trần thế, một khi đã từ bỏ được những khát vọng bất chính, lúc bấy giờ chúng ta sẽ như một cánh chim bay bổng về với Chúa, lúc bấy giờ chúng ta mới chính thức chọn lựa Chúa. Bấy giờ chọn lựa sẽ không chỉ còn là một từ bỏ mà chọn lựa còn có nghĩa là nói chấp nhận.
Thực vậy, chúng ta chấp nhận Chúa, chúng ta chấp nhận con đường nhỏ hẹp, chúng ta chấp nhận thập giá trong cuộc sống. Muốn được như vậy thì chúng ta phải có một tình yêu, yêu mến Thiên Chúa, và với hương vị của tình yêu, chúng ta sẽ thắng vượt được mọi khó khăn. Với Chúa đi trong cuộc sống, chúng ta không còn bị thất bại. chúng ta sẽ thâu lượm những kết quả tốt đẹp như mẻ lưới lạ lùng của các môn đệ.
Chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau, để mỗi người biết dẹp bỏ những cản trở trong cuộc sống, và để từng giây phút chúng ta chọn lựa, chúng ta chấp nhận và chúng ta bước theo Chúa.
3. Mau qua chóng tàn - Anmai, CSsR
Tác giả Thánh Vịnh 39 thỏ thẻ với Chúa những lời nguyện sau đây:
"Lạy CHÚA, xin dạy cho con biết:
đời sống con chung cuộc thế nào,
ngày tháng con đếm được mấy mươi,
để hiểu rằng kiếp phù du là thế.
Ấy tuổi đời con, Chúa đo cho một vài gang tấc,
kiếp sống này, Chúa kể bằng không.
Đứng ở đời, thật con người chỉ như hơi thở,
thấp thoáng trên đường tựa bóng câu.
Công vất vả ngược xuôi: làn gió thoảng,
ky cóp mà chẳng hay ai sẽ hưởng dùng." (Tv 39, 5-7)
Mới nghe qua ta thấy Thánh Vịnh này sao đượm một chất buồn: đời của con người chỉ như hơi thở, thấp thoáng trên đường tựa bóng câu mà thôi! Buồn có buồn thật nhưng đó chính là thực tế, là sự bi đát, là sự mong manh của phận người. Đã sinh ra, đã cất tiếng khóc chào đời thì ắt hẳn đến một ngày nào đó cũng phải ra đi để về với Cội Nguồn.
Bài hát Khúc Thuỵ Du cũng nhắc nhớ ta về phận con người:
Hãy nói về cuộc đời
Khi tôi không còn nữa
Sẽ lấy được những gì
Về bên kia thế giới
Ngoài trống vắng mà thôi!
Có nghịch lý chăng khi cuộc đời đang phơi phới dệt không biết bao nhiêu là mộng vàng lại đi nói đến cái chết, nói đến cái thời cùng tận. Thoạt tiên xem ra thì nghịch lý nhưng nhìn vào thực tế của cuộc đời chẳng nghịch lý chút nào cả. Không nghịch lý vì lẽ đó là định luật tự nhiên của con người. Có sinh ắt có tử chứ có ai sống mãi trên cuộc đời này chăng?
Có nhiều người thắc mắc hỏi rằng tại sao con người sống chỉ có thế thôi, nghĩa là họ muốn kéo dài thêm tuổi thọ. Cũng tốt thôi, chẳng ai không mong mình sống thọ cả nhưng nhìn vào thực tế tuổi hưu là 60 hay 65 gì đó tuỳ người là nam hay nữ. Chúng ta thấy đó, ở cái tuổi 70, 80 có làm gì được nữa hay chăng? Khi nói về vấn đề tuổi thọ, người ta lại đặt vấn đề về chuyện người già nhiều quá bỗng nhiên trở nên gánh nặng cho xã hội!?!?!
Kết cục con người rồi cũng phải chết nhưng quan trọng chết cách nào và biết khi nào mình chết.
Chẳng ai có thể biết được mình chết cả. Nếu biết trước thì đâu có gì để mà nói vì lẽ mạng sống con người tuỳ thuộc vào Thiên Chúa.
Với con mắt của người đời, đau khổ khi con người vướng vào bệnh ung thư, bệnh nan y nhưng thật sự ra những ngày nằm trên giường bệnh cũng là thời gian, cũng là cơ hội để con người nhìn lại những lầm lỗi, những yếu đuối của mình để ăn năn sám hối. Cứ tưởng những người đó là sấu số hay kém số nhưng những người đó có cơ may để nhìn lại chính mình, nhìn lại cuộc đời của mình.
Dân thành Ninivê thời ngôn sứ Giôna với cái nhìn của người đời thì thật kinh khủng vì được báo trước cái chết 40 ngày nhưng thật sự 40 ngày đó với Ninivê quả thật là có ý nghĩa. Thiên Chúa nói rằng nếu trong 40 ngày đó chịu sám hối thì dân thành Ninivê sẽ không giáng hoạ bởi Thiên Chúa nữa. Hạnh phúc thay khi được báo trước cái chết để chuẩn bị tâm hồn.
Lời nhắn nhủ của thánh Phaolô trong thư thứ nhất của Ngài gửi tín hữu Côrintô cũng chính là lời mà Ngài nhắc nhở mỗi người chúng ta: "Thưa anh em, tôi xin nói với anh em điều này: thời gian chẳng còn bao lâu. Vậy từ nay những người có vợ hãy sống như không có; ai khóc lóc, hãy làm như không khóc; ai vui mừng, như chẳng mừng vui; ai mua sắm, hãy làm như không có gì cả; kẻ hưởng dùng của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng. Vì bộ mặt thế gian này đang biến đi". (1 Cr 7, 29-31).
Đúng như vậy thì thời gian đối với mỗi người chúng ta cũng đang qua đi. Mỗi một lần mừng sinh nhật hay mừng năm mới gọi là mừng nhưng với tôi thì "buồn". "Buồn" vì lẽ qua một năm, thêm một tuổi cũng chính là thời gian mà mình phải về trình diện trước mặt Thiên Chúa nó gần hơn một chút. Thi thoảng nhìn lại tuổi của mấy đứa cháu ở nhà tôi lại thấy giật mình vì mình quá "già". Mới ngày nào đó mà đứa cháu mà mình từng ẵm, từng tung cho cháu đụng cái trần nhà thì nay chúng nặng gần bằng số ký của mình. Thời gian cứ qua đi và nó chẳng chờ đợi một ai cả. Một ngày qua đi là một ngày mà mình gần Chúa hơn, một ngày mà mình phải trả lẽ trước mặt Thiên Chúa mọi hành vi của mình.
Thánh Phaolô thật tâm lý khi khuyên chúng ta: những người có vợ sống như không có, khóc làm như không khóc, vui làm như không vui, sắm như không sắm ... Ngài có ý mời gọi chúng ta hãy dùng những thực tại của trần gian này như là chuyện bình thường, chuyện quan trọng là chúng ta phải thanh thản trước mặt Thiên Chúa với tất cả những gì bám víu của chúng ta trong trần gian này. Ngài không bảo người có vợ phải bỏ vợ, người vui phải khóc, người có của cải trần gian phải bỏ đi hết nhưng ngài bảo mỗi người chúng ta hãy thanh thản trước những gì gọi là của chúng ta, thuộc về chúng ta. Cũng đúng thôi, dẫu là vợ nhưng khi chết chúng ta có mang theo được chăng? Dẫu là cái nhà lầu 5 tầng ở mặt tiền đàng hoàng nhưng khi nhắm mắt xuôi tay mang theo được gì? Dẫu là chiếc xe con đời mới cáu cạnh mới sắm trong thùng đấy nhưng mà có mang theo được về bên kia thế giới hay không mới là chuyện quan trọng.
Thật sự, tất cả danh vọng, quyền cao chức trọng đều mong manh và mau qua chóng tàn khi ta nhắm mắt lìa đời.
Các bài đọc trong Thánh Lễ hôm nay nhắc nhở cho chúng ta tất cả mọi chuyện đều mau qua chóng tàn. Ngôn sứ Isaia nói thế, thánh Phaolô nói thế và Chúa Giêsu cũng nói như vậy trong cái ngày khởi đầu việc rao giảng Tin mừng của Ngài. Mở đầu cho lời rao giảng là lời mời gọi sám hối phải chăng là lời đùa cợt hay hù doạ? Chẳng đùa cợt mà cũng chẳng hù doạ vì đó là sự thật.
Chúa Giêsu mời gọi mỗi người chúng ta hãy sám hối và tin vào Tin mừng vì Nước Trời đã đến gần. Nước Trời thật sự đã đến, đang đến rồi. Nước Trời cũng sẽ đến với từng người một trên chúng ta. Chúa Giêsu hơn một lần nói với các môn đệ cũng như mỗi người chúng ta: "anh em hãy đứng vững trước mặt Con Người!".
Làm sao để đứng vững trước mặt Con Người như Chúa nói? Để có thể đứng vững trước mặt Con Người phải chăng như là lời Thánh Phaolô mời gọi chúng ta là chúng ta hãy nhìn vào sự thật là bộ mặt thế gian này sẽ qua đi, chỉ có mình Chúa mới là cùng đích, là căn cốt của cuộc đời chúng ta.
Chuyện quan trọng không phải là chuyện sống được bao nhiêu năm trong cuộc đời này nhưng chuyện quan trọng là sống bao nhiêu năm ấy như thế nào.
Chuyện quan trọng không phải là làm được bao nhiêu việc lành phúc đức nhưng là sống tình yêu với Chúa và với anh chị em đồng loại như thế nào. Không phải căn cốt là làm phúc làm đức nhưng phải sống cái phúc cái đức ấy trong đời thường.
Chuyện quan trọng không phải là được ngụ trong căn nhà cao cửa rộng ở cuộc đời tạm bợ mau qua chóng tàn này nhưng quan trọng là làm sao có một túp lều be bé con con trong mảnh đất Thiên Đàng.
Chuyện quan trọng không phải là thành công trong cuộc đời này nhưng chuyện quan trọng là được cứu độ hay hư mất mà thôi.
Muốn được hưởng ơn cứu độ, muốn được bình an thật trong tâm hồn không còn cách nào khác là ta phải bám vào Chúa chứ đừng bám vào của cải trần gian mau qua chóng tàn này. Chúng ta đã có thừa kinh nghiệm để nhìn vào những đấng những bậc xung quanh chúng ta. Tất cả những đấng những bậc anh hùng nay đâu rồi? Tất cả những người quyền quý cao sang nay còn đâu khi phải đón nhận cái chết đang rình rập mình.
Nhớ lại một câu chuyện đơn sơ của một vị thiền sư bên Trung Quốc. Trên bàn làm việc của ông lúc nào cũng có chiếc quan tài con. Mọi người vào thấy là lạ và thắc mắc tại sao có chiếc quan tài ấy. Thiền sư nói rằng sở dĩ tôi để như thế để tất cả mọi việc trước khi tôi quyết định tôi đều nhìn đến chiếc quan tài này. Một ngày nào đó tôi sẽ vào đó và nằm trong đó để rồi tất cả các quyết định của tôi đều dựa vào cùng đích của cuộc đời tôi.
Tư tưởng, hành động đơn sơ của vị thiền sư ấy thật dễ thương vì lẽ hành vi, tư tưởng ấy cũng như muốn nói với mỗi người chúng ta về sứ điệp của Chúa Giêsu ngày hôm nay là phải sám hối vì Nước Trời đã gần bên. Lời mời gọi của Chúa vẫn văng vẳng bên tai chúng ta nhưng đôi khi mãi mê với những thế sự thăng trầm để rồi chúng ta không còn nhớ đến cùng đích của cuộc đời chúng ta nữa.
Nguyện xin Chúa đến và ở lại với chúng ta và xin Chúa giúp cũng như nhắc nhở chúng ta về ngày cùng tận của chúng ta ở gần bên để chúng ta cũng sám hối như dân thành Ninivê xưa sám hối trước lời cảnh báo của ngôn sứ Giôna vậy.
4. Phẩm chất đầu tiên của người môn đệ
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Khi bắt đầu thời kỳ công khai lên đường thi hành sứ vụ, việc đầu tiên Chúa Giêsu làm là tuyển chọn một số môn đệ nòng cốt để tiếp tay và nối gót Người rao giảng Tin Mừng và xây dựng Hội Thánh.
Đây là một nhiệm vụ vô cùng trọng đại cao cả nhưng đồng thời cũng đầy gian truân và thách thức, thế nên cần phải tuyển cho được những ứng viên phù hợp.
Trong các thành phần dân chúng thời đó, chúng ta thấy nổi bật nhất là các tư tế ở Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Họ là những người ngày đêm ứng trực trong đền thờ lo việc thờ phượng tế lễ Thiên Chúa. Xem ra họ là những ứng viên sáng giá nhất cho công cuộc loan báo Tin Mừng và xây dựng Hội Thánh. Thế nhưng Chúa Giêsu đã không chọn bất cứ ai trong số các vị ấy làm tông đồ xây dựng Hội Thánh Người.
Kế đó, thành phần Luật sĩ, những người học rộng và thông thạo thánh kinh. Có ai xứng đáng hơn họ trong việc giải thích và loan truyền Lời Chúa? Có ai giàu kiến thức về đạo lý bằng họ? Thế mà Chúa Giêsu cũng không chọn một ai trong số các vị nầy làm tông đồ của Người.
Thành phần thứ ba cũng rất sáng giá là các người biệt phái. Họ giữ luật rất nhiệm nhặt, có đời sống đạo rất nghiêm túc. Những người như thế cũng đáng làm đầu thiên hạ và lãnh đạo người ta. Thế mà Chúa Giêsu cũng không chọn bất cứ người biệt phái nào làm tông đồ cho Người.
Chúa Giêsu cũng không chọn những người có vai vế trong xã hội, những người giàu sang quyền quý làm môn đệ đầu tiên của Người.
Tin Mừng hôm nay cho thấy sự chọn lựa của Chúa Giêsu khiến chúng ta kinh ngạc:
"Người đang đi dọc theo biển hồ Ga-li-lê, thì thấy ông Si-môn với người anh là ông An-rê, đang quăng lưới xuống biển, vì họ làm nghề đánh cá. Người bảo họ: "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá." Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người.
Đi xa hơn một chút, Người thấy ông Gia-cô-bê, con ông Dê-bê-đê, và người em là ông Gioan. Hai ông này đang vá lưới ở trong thuyền. Người liền gọi các ông. Và các ông bỏ cha mình là ông Dê-bê-đê ở lại trên thuyền với những người làm công, mà đi theo Người."
Chúa Giêsu đã chọn bốn ngư phủ là Simon, An-rê, Gioan, Giacobê, làm môn đệ đầu tiên trong lúc họ đang quăng chài kéo lưới hoặc đang vá lưới trong thuyền. Tại sao?
Các ngư phủ là những người dạn dày sương gió. Họ quen chịu giá lạnh giữa biển khơi; từng trải qua những đêm tối giữa sóng gió trùng khơi; không sợ đói, không sợ rét, không sợ bão tố cuồng phong, không sợ cảnh chơi vơi giữa ba đào sóng gió. Nói chung, họ bất chấp mọi khó khăn, gian khổ và nghịch cảnh để đạt cho bằng được nguyện vọng của mình.
Họ là những người đầu tiên được Chúa Giêsu chiếu cố và mời gọi làm môn đệ loan Tin Mừng, làm những trụ cột nòng cốt trong công trình xây dựng Hội Thánh.
Điều nầy cho thấy phẩm chất đầu tiên để làm môn đệ Chúa Giêsu là không ngại gian truân, sẵn sàng hy sinh để thực hiện mục tiêu mong muốn.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã kêu gọi chúng con làm tông đồ cho Chúa trong xã hội hôm nay. Xin ban ơn giúp chúng con sẵn sàng vượt khó, dám đương đầu với mọi thách thức và sóng gió như các môn đệ đầu tiên hầu có thể chu toàn trọng trách mà Chúa và Hội Thánh trao phó cho chúng con.
5. Sống và chia sẻ niềm tin – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Đức Tổng Giám Mục Helder Camara của Braxin, có lần đã chia sẻ kinh nghiệm như sau:
Tôi có người anh lớn hơn tôi 5 tuổi, đã rửa tội từ lúc mới sinh, và từng theo học nhiều năm trong trường dòng. Nhưng lớn lên anh bắt đầu bê trễ, bỏ đọc kinh, bỏ dự lễ, và cuối cùng bỏ... đạo.
Sau khi tôi thụ phong Linh mục, anh cùng với tôi sống chung với người chị độc thân. Mỗi lần biết tôi sắp đi giảng tĩnh tâm, anh lại hỏi:
- Hôm nay chú nói về đề tài gì?
Tôi lại có dịp giải thích cho anh những điều mình sắp giảng. Anh chỉ lắng nghe, không bình luận.
Tám năm sau, anh bị mắc căn bệnh hiểm nghèo. Biết mình sắp chết, anh gọi tôi lại và nói.
- Lâu nay tôi để ý quan sát, thấy không có sự cách biệt giữa lời chú giảng và việc chú làm. Vậy xin hỏi chú, tôi có thể dựa vào Đức tin của chú để Rước lễ không?
Tôi trả lời:
- Em tin là Chúa lòng lành vô cùng sẽ đoái thương anh.
Bấy giờ anh tôi nói trong nỗi xúc động:
- Ngay bây giờ thì chưa được đâu, vì tôi chưa xưng tội.
Tôi định tìm cho anh một linh mục khác nhưng anh đòi xưng tội với tôi. Sau khi Rước lễ xong, anh thều thào trong nước mắt.
- Tôi tin, tôi tin, chú ạ. Bây giờ tôi tin không phải dựa vào Đức tin của chú, mà tôi thực sự xác tín rằng Chúa yêu thương tôi!
***
Sống và chia sẻ niềm tin, đó là cốt lõi đời sống người tín hữu Kitô. Đó cũng là mối quan tâm hàng đầu của Đức Giêsu khi Người bước vào đời công khai rao giảng: “Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các người trở thành những kẻ chài lưới người” (Mc 1,17).
Muốn thu hút tha nhân thì chính mình phải có năng lực hấp dẫn.
Muốn hòa hợp với anh em thì chính mình phải biết chấp nhận mọi người.
Muốn chia sẻ niềm tin thì chính mình phải có niềm tin kiên vững.
Sống và chia sẻ niềm tin, bao giờ cũng đem lại kết quả tốt đẹp. Nhưng kết quả thế nào, nhiều hay ít, vào lúc nào còn do Chúa quyết định Khi Đức Giêsu bảo Phêrô thả lưới, ông đã thưa: “Lạy Thầy, chúng con vất vả suốt đêm mà chẳng được con cá nào, nhưng vâng lời Thầy, con xin thả lưới” (Lc 5,5). Kết quả thế nào chúng ta đã biết: cũng chiếc lưới đó, cũng ngư phủ đó, nhưng lại kéo lên một mẻ cá bội thu.
Sống và chia sẻ niềm tin, là nhiệm vụ của mỗi người tín hữu Kitô. Nhưng trước tiên phải bắt đầu bằng việc đổi mới tâm hồn, bằng việc “sám hối và tin vào Tin mừng”.
Sống và chia sẻ niềm tin, là đem tin vui đến cho mọi người. Nhưng trước hết tin vui ấy phải là niềm hân hoan đích thực, gây xúc động mãnh liệt trong lòng người đi loan báo.
Romano Guardini đã ví von: “Sống niềm tin nghĩa là đơn phương nhường chỗ cho Đức Kitô tự biểu lộ và lớn lên trong cuộc sống chúng ta”.
Lạy Chúa, theo Chúa không phải dễ dàng vì Chúa đòi chúng con phải từ bỏ mọi sự, từ bỏ luôn mãi, và từ bỏ chính mình. Nhưng có Chúa cùng đồng hành chúng con vẫn sáng mãi niềm tin. Xin giúp chúng con luôn trung thành theo Chúa cho đến giây phút cuối cuộc đời. Amen.
6. Chúa Nhật 3 Thường Niên
Chúa Giêsu luôn kêu gọi những người cộng tác với Ngài trong sứ mạng rao giảng Tin Mừng. Ngài muốn Nước Trời là một công trình có sự đóng góp của nhiều người. Vì thế, Lời kêu gọi "Hãy theo Ta" đang vang lên đối với mỗi người chúng ta.
Khởi đầu Tin Mừng, thánh sử Maccô trình bày Chúa Giêsu đến miền Galilêa rao giảng Tin mừng. Chúa Giêsu không chọn Giêrusalem cho cuộc khởi đầu trong công cuộc rao giảng của mình. Bởi vì, Giêrusalem giết Gioan Tẩy Giả. Các luật sĩ Biệt phái ở Giêrusalem thì kiêu căng, cố chấp. Họ tự phụ mình là dòng dõi được tuyển chọn. Hơn nữa, Giêrusalem coi thường vùng đất Galilêa vì Galilêa là một miền gần lương dân, một vùng quê nghèo, không có chút tiếng tăm gì cả. Việc Chúa Giêsu chọn Galiêa để khởi đầu cho công cuộc rao giảng Tin mừng cho thấy Thiên Chúa không chú trọng bề ngoài, Ngài quan tâm đến sự đáp trả của con người. Sự đáp trả đến từ bên trong, từ nội tâm, từ tấm lòng chân thành và khiêm tốn của con người. Ngoài ra, Chúa Giêsu chọn Galiêa, điều này càng cho thấy giáo lý của Ngài không bị đóng khung, vạch ra cho Giáo Hội ra đi những chân trời mới. Nước Trời dành cho mọi người, Nước Trời dành cho những ai chân thành tìm kiếm và cộng tác đáp trả trọn vẹn.Tình yêu Thiên Chúa không bị giới hạn.
Để tiếp nối sứ mạng rao giảng Tin mừng, Chúa Giêsu kêu gọi người ta cộng tác với Ngài. Ngài đã kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên là Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan bước theo Ngài. Chúa Giêsu lên tiếng kêu gọi các ông: "Hãy theo Ta". Trong sự đáp trả của các ngư phủ này, chúng ta thấy hai khía cạnh nổi bật: các ngư phủ này đang làm việc và họ đáp trả một cách dứt khoát, đáp trả mau mắn đi theo Chúa Giêsu.
Thứ nhất, các ngư phủ là những người đang miệt mài làm việc. Chúa Giêsu đến nơi họ đang sinh sống. Ngài đã đi ngang qua chỗ họ đang ở. Ngài thấy họ đang chú tâm trong bổn phận mình. Ngài biết họ là ai. Cả bốn ông này, họ là những người chài lưới. Họ là những người lao động chân tay. Họ đang làm việc miệt mài trên biển hồ Galilê: Simon và Anrê thả lưới bắt cá, Giacôbê và Gioan đang vá lưới. Họ cùng làm việc với nhau, chung tay góp sức trong công việc "mưu sinh", sẵn sàng hiệp nhất để đối đầu với nghịch cảnh, vượt qua những khó khăn trong công việc. Đối với mình, họ có thể nghèo của cải vật chất, họ có thể nghèo tri thức nhưng nhất định là họ là những người giàu có về tình huynh đệ, giàu về tinh thần hợp tác và sẵn sàng giúp đỡ nhau trong công việc bổn phận. Do vậy, các ông sống bình an và luôn chu toàn bổn phận của mình.
Thứ hai, các ngư phủ là những người đáp trả một cách dứt khoát và mau mắn. Chúa Giêsu đã đi qua cuộc đời của họ. Ngài đã mang đến cho họ một sứ điệp mới, một sứ mạng mới: "Hãy theo Ta". Nghe Lời đó, họ lập tức đi theo Chúa Giêsu. Nghe tiếng Chúa Giêsu kêu gọi, Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan đáp lại ngay và sẵn sàng từ bỏ mọi sự, kể cả những gì thiết thân nhất trong đời sống như nghề nghiệp và phương tiện sinh sống cùng với những mối liên hệ ruột thịt tự nhiên vốn có. Các ông đã gắn bó quê hương, quen thuộc với nghề ngư phủ từ thuở nhỏ đến bây giờ. Hơn nữa mặc dù nghề nghiệp ngư phủ này là "sự sống" của họ và nơi đây là "tương lai" của họ nhưng họ đã can đảm chấp nhận từ bỏ tất cả để bước theo Chúa Giêsu. Chúa Giêsu quan trọng hơn hết nên các ông không tính toán thiệt hơn, không bận tâm cho số phận tương lai của mình mà từ bỏ ngay. Từ nay các ông bỏ lại quê hương để đi đến những nơi Thầy sẽ sai đến. Quê hương các ông bây giờ là thế giới. Các ông từ bỏ gia đình ruột thịt quen thuộc, Thiên Chúa sẽ ban cho các ông một gia đình khác, gia đình nhiều linh hồn mà các ông sắp cứu vớt. Các ông thoát ly hoàn toàn và dứt khoát.Các ông đi theo Chúa Giêsu bằng niềm tin và lòng mến. Các ông tin tưởng tuyệt đối và yêu mến hết lòng mình.
Nghe Chúa Giêsu kêu gọi "Hãy theo Ta", các ông Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan đã mau mắn đi theo Chúa Giêsu. Còn phần chúng ta, chúng ta có đáp trả không? chúng ta thật sự muốn đi theo Chúa Giêsu. Phải, nhờ Bí tích Rửa tội, là Kitô hữu, chúng ta đã được Chúa mời gọi đáp trả trong bổn phận làm người, bổn phận làm con Chúa của mình. Người Kitô hữu không phải chỉ là tin những điều Giáo hội dạy, giữ những điều răn Chúa và Giáo hội truyền, nhưng còn để cộng tác với Ngài bằng đời sống chứng nhân giữa đời, đó là loan báo Tin mừng. Vì thế, không phải chúng ta chỉ lo cứu linh hồn mình. Không phải chúng ta chỉ lo giữ đạo, đọc kinh, đi lễ, nhưng phải là những tông đồ nhiệt thành can đảm làm chứng nhân cho Chúa nữa. Dù ở bậc sống nào chúng ta cũng phải là những tông đồ của Chúa bằng chính đời sống tốt đẹp của chúng ta. Chúng ta có thể làm cho những người từ không biết Chúa đến nhận biết Chúa, tôn thờ, yêu mến Chúa. Chúng ta xây dựng nếp sống yêu thương bằng cách dùng lời nói nhằm xây dựng, tôn trọng tha nhân. Chúng ta xây dựng nếp sống yêu thương bằng cách sống biết quan tâm đến tha nhân, biết chia sẻ, biết giúp đỡ người khác bằng cách này hay cách khác trong khả năng của chúng ta. Chúng ta hãy sống ơn gọi của mình bằng cách sống tốt đẹp, thái độ cư xử cao thượng mang tính "quân tử". Chúng ta nêu gương sáng cho mọi người, sống hòa thuận yêu thương nhau.
Các môn đệ đã mở lòng mình ra để Chúa Giêsu bước vào, Ngài đi vào con người của họ để đi vào cuộc đời. Ngài đi qua họ để đi vào thế giới; đồng thời điều đó cũng cho chúng ta thấy rõ cái giá chúng ta phải trả nếu chúng ta muốn làm được điều này. Chúng ta phải hy sinh vì chúng ta biết rằng tình yêu của Thiên Chúa sẽ đòi chúng ta phải sẵn sàng luôn mãi để đáp lại những đòi hỏi mỗi ngày mỗi mới mẽ và khó khăn hơn. Chúng ta phải từ bỏ mình để dấn thân, không còn gì riêng cho chúng ta nữa. Ơn gọi nào cũng có thánh giá phải vác, phải dấn thân, phải từ bỏ mình. Vì thế, chúng ta phải trọn niềm phó thác tiến bước giữa vùng đêm tăm tối và tin tưởng rằng tình yêu càng đòi hỏi, càng thêm chứng tỏ tình yêu bao la trong sáng và lớn mãi giữa niềm vui. Chúng ta hãy mạnh dạn bước thêm một bước vào chương trình diệu kỳ của Thiên Chúa.
Thiên Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài trong chương trình cứu độ. Đúng thế như thánh Augustinô đã nói: "Để tạo dựng nên con, Chúa không cần hỏi ý kiến con, nhưng để cứu độ con Ngài cần con ưng thuận và cộng tác với Ngài". Do đó, là người con chúng ta hãy mau mắn đáp trả và bền lòng làm việc cho Thiên Chúa.
Bước sang Năm Mới này, chúng ta hãy bắt chước các môn đệ hôm nay, mau mắn và dứt khoát đi theo Chúa Giêsu. Chúng ta hãy bước đi trong sự yêu mến Thiên Chúa và yêu thương mọi người hơn nữa.
Hãy đứng dậy, nào chúng ta cùng đi theo Chúa Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, Ngài muốn chúng con đi theo Chúa để sống chứng nhân Tin Mừng. Trong Năm Mới này, xin Chúa thêm sức cho chúng con để chúng con mau mắn đáp trả lời gọi sống chứng nhân mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi phút giây. Xin cho chúng con luôn biết làm việc nhằm mục đích sáng danh Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con yêu mến Chúa. Lạy Chúa Giêsu, chúng con yêu mến Chúa biết bao!. Amen.
7. Sám hối
Hãy sám hối và tin vào Phúc Âm.
Hẳn chúng ta còn nhớ câu chuyện về thành Ninivê mà bài đọc thứ nhất hôm nay đã gợi lại. Bấy giờ Chúa phán với ông Giona: Hãy chỗi dậy, đi đến Ninivê, kinh thành vĩ đại và công bố cho hay điều Ta sẽ truyền cho ngươi. Ninivê là một thành phố rộng lớn, đi ngang qua phải mất ba ngày đàng. Ông Giona mới đi rảo trong thành có một ngày và công bố: Còn 40 ngày nữa thì Ninivê sẽ bị tan phá. Dân chúng tin vào Thiên Chúa. Họ công bố lệnh ăn chay và tất cả mọi người từ lớn chí bé đều mặc áo vải thô. Chúa thấy việc họ làm, từ bỏ đường gian ác, thì đã tha thứ và không trừng phạt họ nữa. Đó là câu chuyện xảy ra trong Cựu Ước. Dân thành Ninivê thực thi sứ điệp tiên tri Giona truyền dạy, đó là ăn năn sám hối, từ bỏ con đường tội lỗi và đã được Chúa thứ tha.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng đã kêu gọi chúng ta như thế: Nước Thiên Chúa đã đến gần, nên phải sám hối và tin vào Phúc Âm. Chúa Giêsu rất nhiều lần đã cho chúng ta thấy: Là Đấng thánh thiện Ngài ghét bỏ tội lỗi, nhưng lại tỏ ra khoan dung và nhân từ đối với các tội nhân. Ngài đã sánh ví mình như người mục tử lên đường tìm kiếm con chiên bị lạc mất. Và khi tìm thấy, thì vui mừng vác nó trên vai, đem về nhà. Ngài sánh ví mình như người đàn bà đốt đèn tìm kiếm đồng bạc bị đánh rơi và khi tìm thấy thì mời chị em lối xóm đến chia vui với mình.
Thế nhưng để được Chúa tha thứ, Ngài đòi hỏi chúng ta một điều kiện đó là hãy sám hối quay trở về với Ngài. Phúc Âm đã kể lại câu chuyện chàng trai phung phá. Trong bước đường truân chuyên gian khổ, chàng đã hối hận, quyết tâm lên đường trở về để rồi cuối cùng chàng đã được người cha tha thứ.
Phúc Âm cũng đã cho chúng ta thấy sở dĩ Phêrô đã được tha thứ và được đặt làm đầu Giáo Hội vì ông đã biết đấm ngực ăn năn về lầm lỗi của mình. Mađalena đã được tha thứ vì đã biết sám hối, khóc cho quãng đời tội lỗi của mình. Tên trộm lành cũng đã được tha thứ vì anh đã biết trở về với Chúa cho dù vào những giây phút cuối cùng.
Có một chàng trai, bất mãn với gia đình đã bỏ nhà đi bụi đời. Sau đó chàng hối hận muốn quay trở về nhưng không biết cha mẹ có sẵn sàng tha thứ cho hay không. Bởi đó chàng đã viết thư và nói nếu thầy mẹ sẵn sàng tha thứ thì đến ngày ấy giờ ấy hãy treo một tấm áo nơi cửa sổ. Nhận thấy tín hiệu ấy, chàng sẽ trở về. Vào ngày giờ đã quy định thầy mẹ chàng không những chỉ treo một tấm áo, mà trong nhà có bao nhiêu quần áo, rồi chăn mùng mền, tất cả đều được treo trên các khung cửa và chàng đã được đón nhận vào trong tình thương của gia đình.
Từ những điều vừa chia sẻ cha muốn đi tới một kết luận đó là hãy sám hối quay trở về cùng Chúa để được hưởng nhờ tình thương của Chúa bởi vì những tâm tình ăn năn là như một thứ tiền để mua lấy ơn tha thứ.
8. Hoa Hướng Dương - Lm Jos Tạ Duy Tuyền
Trong một khu vườn, những cây Hướng Dương hoa vàng rực rỡ đang vươn mình ra đón ánh nắng mặt trời, tận hưởng niềm vui cuộc sống. Chợt, Hướng Dương nghe tiếng thút thít dưới chân. À, hình như bạn Nha Đam đang khóc. Hướng Dương nhẹ nhàng hỏi:
- Hình như bạn có điều gì phiền muộn?Nha Đam bối rối đáp:- À, không có gì đâu.- Rõ ràng, tôi nghe tiếng bạn khóc mà. Có điều gì thế, bạn kể cho tôi nghe đi, mình là bạn bè, là hàng xóm của nhau, có gì thì cùng nhau chia sẻ.Nha Đam tấm tức:- Tôi buồn lắm bạn ạ. Trời không thương nên cho tôi sinh ra với thân hình xấu xí. Đã thấp lè tè, lá lại kỳ quặc chẳng giống ai. Bạn thấy đấy, trong vườn này, muôn hoa đua sắc, còn tôi có cố gắng mấy cũng không thể mọc được cái hoa nào!Hướng Dương nhẹ nhàng bảo:- Bạn Nha Đam à, bạn đừng buồn như thế. Mỗi loài cây đều có sứ mệnh riêng. Tuy bạn không đẹp rạng rỡ như chúng tôi để tô điểm hương sắc cho đời, nhưng bạn cũng rất có ích đấy.- Có ích à? Thôi bạn đừng an ủi, tôi mà có ích gì đâu.- Có đấy, bạn giúp được cho con người trị được rất nhiều thứ bệnh. Chẳng lẽ những điều đó không đáng để cho bạn tự hào sao?Nha Đam nghe vậy, ngập ngừng nói:- Nhưng tôi lại thấp bé, xấu xí, trong khu vườn này tôi đã bị chìm khuất, có ai biết đến tôi đâu.- Không sao đâu! Tuy bạn không nổi bật nhưng con người vẫn biết đến bạn đấy, giá trị của chúng ta không phải ở chỗ cao - thấp, đẹp - xấu mà ở chỗ chúng ta giúp ích gì cho cuộc đời này. Bạn hãy vui vẻ lên, sống khỏe mạnh, đừng tự ti, mặc cảm, rồi sẽ có ngày bạn được biết đến, hãy tin tôi!
Hóa ra ở đời người ta đâu quan trọng cái đẹp bên ngoài. Sống có ích cho đời mới là quan trọng. Sống có ích cũng là một sứ mạng của vạn vật. Sống chu toàn sứ mạng của mình càng làm cho giá trị của mình được tăng thêm.
Thực vậy, mỗi tạo vật đều được Chúa trao cho một sứ mạng. Từ con người cho đến vạn vật, mỗi loài đều có sứ mạng riêng.
Mặt trời có sứ mạng tỏa sáng và sưởi ấm các sinh vật trên mặt đất. Cây lúa có sứ mạng nuôi sống con người. Muôn loài hoa có sứ mạng tô điểm cho vạn vật, và dường như mọi loại đều cố gắng thi hành tốt sứ mạng của mình. Ánh mặt trời luôn tỏ rạng để mang lại sự sống cho con người. Cây lúa luôn trổ bông trĩu hạt. Muôn loài hòa luôn xinh tươi lộng lẫy đem lại hạnh phúc cho con người.
Chúa Giêsu khi xuống thế làm người cũng phải hoàn thành tốt sứ mạng Chúa Cha trao phó. Ngài đến trần gian vì vâng phục Chúa Cha. Ngài thi hành sứ mạng cứu rỗi nhân gian qua cái chết khổ hình và sống lại vinh quang. Ngài đã được rước lên trời sau khi thi hành tốt sứ mạng rao giảng Tin Mừng và cứu độ trần gian.
Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giê-su kêu gọi các tông đồ cùng chia sẻ sứ mạng với Ngài. Những tông đồ đầu tiên là Simon, An-rê, Gia-cô-bê, Gioan đã nhanh chóng bỏ lại việc riêng để làm việc cho Chúa. Các ngài đã bước đi theo Chúa với niềm hăng say loan tin mừng Nước Trời đến cho anh em của mình. Các ngài vui vì được Chúa chọn gọi. Các ngài hạnh phúc vì được cộng tác với Chúa trong sứ mạng cứu độ trần gian. Điều đó đã giúp các ngài bỏ lại tất cả danh lợi thú trần gian để chỉ phụng sự cho chương trình của Thiên Chúa.
Con người chúng ta sinh ra đều có một sứ mạng. Cây cỏ còn có sứ mạng huống chi con người ? Mỗi loài đều có một giá trị hay nói cách khác là đều có một sứ mạng của mình. Vậy sứ mạng của tôi là gì ? Tôi phải làm gì cho bản thân, cho gia đình, cho Giáo hội và xã hội ?
Điều mà Chúa muốn nơi những người tin theo Chúa là hãy rao giảng Tin mừng cho anh em. Hãy làm chứng về Nước Trời. Hãy tôn vinh Chúa và làm sáng danh Chúa trong cuộc đời của mình. Chúa muốn chúng ta là muối men cho đời. Chúa muốn chúng ta phải ướp mặn trần gian bằng đời sống yêu thương và phục vụ. Chúa muốn chúng ta phải thẩm thấu vào thế gian lời Chúa để men lời Chúa canh tân bộ mặt trái đất.
Cuộc đời sẽ đẹp biết bao nếu mỗi người ky-tô hữu luôn là muối ướp mặn cho đời bằng hy sinh, bằng phục vụ, bằng bác ái và vị tha.
Cuộc đời sẽ đẹp biết bao nếu mỗi người ky-tô hữu luôn là ánh sáng cho mọi người khi biết sống theo tin mừng, biết vì Chúa mà sống tốt sứ mạng của mình là canh tân bộ mặt trái đất.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết chu toàn sứ mạng của đời ky-tô hữu là giới thiệu Chúa cho tha nhân. Giới thiệu không bằng lời nói mà bằng đời sống bác ái yêu thương và thờ phượng Chúa trên hết mọi sự. Amen.
9. "Biết mình để sống đúng"
(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một lúc nào đó trong cuộc đời, chúng ta vẫn thường tự hỏi: Tôi là ai? Tôi sinh ra trong cuộc đời này làm gì? Chết rồi đi đâu? Đây là những câu hỏi quyết định hướng đi của một đời người, nó quyết định phận số của một con người. Sống có ích cho xã hội hay trở thành gánh nặng cho xã hội cũng tuỳ thuộc vào chọn lựa cơ bản này của từng người chúng ta.
Người ta kể rằng: thuở xưa khi con người chưa biết soi gương trang điểm nên họ cũng chẳng biết mình là ai? Và khuôn mặt mình thế nào? Một lần kia, anh chồng lên tỉnh thành, người vợ dặn chồng nhớ mua cho mình một cái trâm cài đầu. Nhưng anh không biết cái trâm hình thù như thế nào. Chị vợ liền nhìn trời thấy ánh trăng lưỡi liềm liền nói: "Cái trâm nó giống như ánh trăng kia, nếu anh quên anh cứ nhìn lên ánh trăng thì sẽ nhớ.
Người chồng lên đường mải miết xem bao cảnh lạ ở tỉnh thành mãi mười ngày sau mới trở về quê nhà. Anh sực nhớ lời vợ dặn, anh liền nhìn lên trời và thấy ánh trăng tròn trịa của đêm trăng rằm, anh liền vào tiệm và mua một cái gương tròn trịa như ánh trăng theo lời vợ dặn.
Lòng vui rộn ràng khi vừa về tới nhà vội trao cho vợ cái gương mà anh đã mua từ tỉnh thành. Tưởng rằng vợ sẽ vui mừng với món quà anh đưa về, thế nhưng, khi vừa nhìn vào đồ vật, cô vợ đã tức giận và quát tháo rằng: "Tôi dặn anh mua cái trâm cài đầu, tại sao anh lại đem về một đứa con gái nào đây?". Anh chồng giật mình, dành lại cái gương và nhìn xem chuyện gì xẩy ra. Anh nhìn vào gương lại thấy một người đàn ông trông giống bố mình hồi còn trẻ, nên anh phân bua rằng: Không, đây là bố tôi mà! Cô vợ dành lại và nói: bố ông bao giờ, con nào rõ ràng. Ông còn chối hả? Đính chính chẳng được, nên anh chồng đành bỏ đi. Mẹ chồng thấy vậy đến an ủi con dâu, và người con dâu đưa cho mẹ chồng coi bằng chứng rõ ràng thế mà anh chồng còn chối quanh quẩn. Mẹ chồng xem qua rồi trịnh trọng nói: Thôi đừng ghen nữa! Tao thấy con này không đáng ghen đâu. Tao thấy, nó cũng già lắm rồi!
Đó là câu chuyện vui nhưng cũng nói lên một chân lý: nếu không biết mình thì sẽ làm khổ mình và khổ người khác. Chúa Giê-su cũng từng nói: "Mù dắt mù thì cả hai đều rơi xuống hố". Đó cũng là quang cảnh của xã hội chúng ta đang sống. Một xã hội đầy những bóng tối của tội lỗi, của sa đoạ, cúa ích kỷ và hưởng thụ đã làm cho nhiều người mù quáng để chạy theo những đam mê lầm lạc, lạc mất hướng đi của đời người, dìm mình trong bóng tối của danh lợi thú. Nhiều người đã không còn ý thức giá trị đạo đức con người nên họ sẵn sàng đánh mất phẩm giá của mình và chà đạp lên phẩm giá của người khác. Họ không còn biết mình là ai? Sống để làm gì? Họ như những người lạc hậu trong câu chuyện đã không biết mình, nên gây ra những mâu thuẫn, hiểu lầm không đáng có. Thực vậy, nhiều người trong xã hội hôm nay, đã không hiểu rõ ý nghĩa cuộc sống nên buông thả trong những đam mê tội lỗi. Họ tưởng rằng, con người sinh ra, lớn lên, chết là hết nên chẳng cần sống theo lẽ phải, hay sống theo luân thường đạo lý, dẫn đến tội lỗi ngập tràn, cuộc sống đầy chiến tranh, loạn lạc.
Vì vậy, sứ điệp đầu tiên mà Chúa gửi đến nhân loại chính là: "Hãy sám hối". Sám hối để bước ra khỏi bóng đêm của tội lỗi, ganh tương, đố kỵ và chia rẽ để bước vào ánh sáng của yêu thương và hiệp nhất. Chúa Ky-tô chính là ánh sáng cho thế gian. Từ nay tin mừng cứu độ của Chúa sẽ soi sáng cho con người biết đâu là thiện, là ác, vì chính Ngài là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Và ai theo Ngài sẽ không phải đi trong tối tăm, nhưng bước đi trong tự do của con cái sự sáng.
Thế nhưng, nhân loại hôm nay vẫn thích bóng tối hơn ánh sáng. Người ta sợ ánh sáng của tin mừng sẽ phơi bày bộ mặt thật của mình nên che dấu bằng thủ đoạn, lừa đảo và giả hình, và dần dần đánh mất ý thức về tội. Tội lỗi vẫn lan tràn. Con người tự làm khổ mình, làm khổ nhau bởi chính tội lỗi mình gây ra.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết nhìn lại mình để biết mình. Biết những giới hạn và bất toàn để sửa đổi. Biết những khiếm khuyết để bổ túc và canh tân. Biết tội lỗi mình để sám hối. Xin Chúa giúp chúng ta biết sám hối từng ngày để canh tân đổi mới cuộc đời trong chân lý và tình yêu của Chúa. Amen.
10. Hoán cải
Thế giới loài người từ khi mắc tội Nguyên tổ cần phải hoán cải không ngừng. Thời Noe vì không biết hoán cải nên Chúa để lũ lụt quét sạch cả thế giớI, chỉ trừ gia đình Noe biết vâng nghe lời Chúa dạy nên đã được cứu thoát. Đến thời dân Do thái, Chúa đã sai nhiều tiên tri đến nhắc nhở họ sống theo lời Chúa dạy. Trong mọi thời đại, Thiên Chúa luôn kêu gọi loài người hoán cải để ngày một nên tốt hơn, xứng với ơn gọi làm con Chúa.
Trong bài đọc I, Chúa bảo tiên tri Giôna đến thành phố Ninivê ở phía bắc nước Do thái để kêu gọi dân chúng sám hối, sửa đổI lối sống, nếu không Chúa sẽ tiêu diệt. Sau khi Giôna rao giảng, họ đã sám hối và lo thay đổi cuộc sống.
Trong bài đọc II, thánh Phaolô kể lại cuộc hoán cải của mình cho dân Do thái ở Giêrusalem nghe. Phaolô từng là người bắt đạo hăng hái nhưng sau khi Chúa Giêsu tỏ mình ra cho ông ở Damas, ông đã thay đổi hoàn toàn, trở nên Tông đồ nhiệt thành rao giảng Phúc âm, dám làm chứng cho Chúa bằng đờI sống và lời rao giảng của mình.
Trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu rao giảng cho người ta sám hối ăn năn và tin vào lời Chúa. Và để công việc đó được tiếp tục thực hiện đầu tiên là Chúa đã chọn gọi 4 người làm tông đồ cho nước Chúa. Các ngài đã mau mắn bước theo Chúa và dần dần được biến đổI nên những tông đồ hết lòng vì nước trời.
Ngày hôm nay, mỗi người chúng ta cũng đang được Chúa gọi làm môn đệ làm công việc tông đồ theo những cách thế khác nhau. Vậy chúng ta hãy bắt chước các tông đồ hôm nay bước theo Chúa, hoán cải chính mình để mai sau góp phần vào việc hoán cải tha nhân.
Thế giới hôm nay còn hơn 2/3 chưa biết Chúa Giêsu, Đấng giải thoát loài người khỏi nô lệ tội lỗi và sự chết. Bổn phận của chúng ta là loan báo ơn cứu chuộc cho loài người để mọi người đều được hưởng ơn cứu độ như chúng ta. Thế giới không thể tự chữa lành mình nếu không có ơn Chúa, nếu thiếu hy vọng và hoán cải. Người ta chạy theo những thứ danh vọng chóng qua hoạc lo vui thú trần gian mà quên chỗ ở đời đời cần được chuẩn bị ngay trên trần gian này.
Là những người Kitô hữu, chúng ta biết rõ hơn ai hết rằng mình phải hoán cải luôn luôn theo những tiêu chuẩn Chúa đã dạy trong Tin mừng. Hàng ngày, chúng ta lo xét mình trước khi ngủ. Hàng tháng, chúng ta đi xưng tội để được Chúa tha thứ và để bắt đầu một đời sống mới tốt đẹp hơn. Từ đó, chúng ta trở nên những tấm gương sống động, biết hoán cải đổi mới và sống theo tám mối phúc thật, theo những lời nhắc nhở của các đấng bề trên.
Tin mừng không phải là câu chuyện xa xưa nhưng là những gì chúng ta đang cần áp dụng, thực hành trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Lời Chúa khác lời của những hiền triết đã quá cố vì Chúa Giêsu đang sống và đang giảng lại những lời của mình qua Hội thánh. Với tinh thần bác ái, chúng ta không chỉ sống và hoán cải mà còn phải biết giúp người chưa có đạo biết Tin mừng sự sống mà chúng ta đang thực hành để họ cũng được làm con cái Chúa và Hội thánh như chúng ta.
Nếu chúng ta nhận ra được rằng, chúng ta đang là những người có phúc nhất trên trần đời vì được làm con Chúa nhờ ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu, chúng ta sẽ phấn khởi loan Tin mừng cho bất cứ những ai chúng ta gặp gỡ vì đó là điều đem lại niềm vui và sự sống cho mình.
Lạy thánh Phaolô, xưa khi gặp Chúa, ngài đã hoán cải, có cuộc sống hoàn toàn mới, nay xin giúp chúng con cũng biết nhiệt thành với lý tưởng để mai sau được Chúa thưởng trên nước Thiên đàng.
11. Năm mới người mới cả trời đất mới
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Đức Yêsu rao giảng: “Đã đến thời. Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.” Tết đã đến gần, đây cũng là dịp để mỗi người chúng ta nhìn lại mình trong năm vừa qua, để với năm mới chúng ta trở thành con người mới, bắt đầu một đời sống mới, một con người hạnh phúc với chính mình, dễ thương và quảng đại đối với người khác.
1) Đức nhân thắng số
"Đức nhân thắng số" là không chỉ là câu nói của đa số bình dân, nhưng cả của những người tin vào "tiền định," tin vào "số mạng" nữa. Câu này có nghĩa: một người ăn ở có đức có nhân, thì sẽ đổi được số mạng của mình. Với những người tin vào "tiền định" hoặc "số mạng," câu nói này thực hữu ích.
Trong cuộc đối thoại giữa Abraham và Thiên Chúa, người ta thấy chỉ cần mười người công chính có thể cứu được cả một thành phố gian ác đáng bị tru diệt (St.18, 32). Người tốt không chỉ cứu được mình, mà còn cứu được cả người khác nữa. Trong sách Giô-na hôm nay, dân thành Ninive đã đổi được ý định của Thiên Chúa. Thiên Chúa truyền lệnh cho tiên tri Giô-na báo cho dân thành Ninive biết ý định huỷ diệt thành phố của Thiên Chúa, dân không chỉ tin vào lời tiên tri, nhưng còn tin vào lòng từ bi của Thiên Chúa nữa, nên họ đã sám hối và được cứu. Như vậy, thái độ sống của con người có thể đổi được ý định của Thiên Chúa nữa. Cái "số" bị phạt của dân Sôđôma và dân Ninive, là do hậu quả của những hành vi bất chính của họ. Chính thái độ sống trong quá khứ của họ, mang lại "số phận" cho họ! Và cũng chính thái độ sống "hiện tại" của họ, đổi được "vận số" của họ! Thiên Chúa là Đấng Yêu Thương nên Ngài chỉ muốn điều tốt cho con người; Ngài chỉ muốn con người sống yêu thương và hạnh phúc. Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ tự nhiên, và định cho nó có luật của nó, vật chất có luật vật lý; sinh vật sống theo bản năng, đây cũng là một loại luật của sinh vật; với con người, Ngài ban cho lý trí và ý muốn, để tự do và làm chủ tất cả. Yêu thương là hành vi vượt qua mọi định luật, hành vi yêu thương cứu được chính mình và cứu được người khác nữa. Chẳng hạn, hành vi yêu thương nuôi nấng dạy dỗ một em bé bị bỏ rõi, đổi được đời em bé và còn đổi được đời cả người nuôi em bé đó nữa.
2) Thế giới này đang qua đi
Con người không chỉ bị chi phối bởi luật vật lý tự nhiên, nhưng còn bị chi phối rất nhiều bởi những yếu tố tâm lý. Những hành vi làm vì muốn chứng minh mình trổi trang hơn người khác, những hành vi trả thù, v.v. là những hành vi "nô lệ." Hận thù không được tha thứ, sẽ nối tiếp và chồng chất hận thù. Những người thực hiện những hành vi này bị nô lệ hoặc bị trói buộc bởi những tiêu chuẩn "hèn hạ" mà thường họ không ý thức.
Thư của thánh Phao-lô hôm nay nhắc nhở con người một chân lý: thế gian này đang qua đi. Con người được sinh ra, lớn lên, già đi, và chết. Hiện tại, người ta biết mình; nhưng mười năm sau, còn ít người biết mình; một trăm năm sau, e rằng chẳng ai biết mình nữa. Nếu tất cả vật chất đang biến đổi, đang qua đi, thì tại sao người ta lại miệt mài, đam mê đi tìm kiếm vật chất hoặc những thú vui mau qua, hoặc thoả mãn chính mình!
Khi nhắc nhở con người về thực trạng "thế giới này đang qua đi," thánh Phaolô muốn giúp con người nhận ra sự thật về chính mình, và nhắn nhủ con người hãy đi tìm cái gì cao quý và trường tồn. Như vậy điều quý không hệ nơi vật chất đang qua đi, nhưng là chính con người "vĩnh tồn" của mình. Những hành vi từng ngày làm nên chính con người của mình. Những hành vi yêu thương làm mình trở nên tuyệt vời ngay giữa trần thế đang qua đi này, và cũng làm mình tuyệt vời trong vĩnh cửu nữa.
3) Hãy sám hối và tin vào tình yêu Thiên Chúa.
Đức Yêsu khởi đầu sứ vụ công khai bằng lời rao giảng: "Thời giờ đã đến. Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng. Hành vi sám hối đi liền với hành vi nhận ra sự thật "không đẹp" của chính con người mình. Không thể có hành vi sám hối mà không có sự nhận thức đúng đắn về con người mình. Lời mời gọi sám hối, hàm chứa lời mời gọi xét lại chính con người của mình: tôi có thực sự là người tốt chưa, thành toàn chưa?
Tôi là người như thế nào đối với người ta, đối với tôi, và đối với Thiên Chúa. Có những người đi tìm và cố gắng trở thành "người tốt" theo đánh giá của người khác; những người này đang nô lệ mà không biết. Cũng có người đặt ra cho mình một giá trị, và cố gắng để thành người "thành toàn" theo ý họ; và khi họ không đạt được hoặc không làm chủ được họ hoàn toàn, họ thất vọng và buồn chán. Điều đúng đắn nhất là làm sao để mình đánh giá mình và mọi sự trong nhãn quan của Thiên Chúa Yêu Thương.
"Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ" (2Cor.6, 2). Mỗi người hãy nhìn lên Thiên Chúa là Đấng Yêu Thương, là Đấng chỉ biết yêu thương và làm tất cả vì yêu thương. Mỗi người cũng chỉ bị phán xét về duy một điều là mình có làm mọi sự vì yêu thương không thôi (Mt.25, 31tt). Những lầm lỗi trong quá khứ tuy quan trọng nhưng không quan trọng lắm. Điều rất quan trọng là tin vào Thiên Chúa là Đấng Yêu Thương. Ngài mời gọi mỗi người hãy sống yêu thương như Ngài. Chính hành vi yêu thương làm mình triển nở, hạnh phúc, và cũng làm cho người khác triển nở và hạnh phúc. Những hành vi không làm cho người khác triển nở và hạnh phúc, e rằng đó không phải là hành vi yêu thương thật sự. Nếu tôi sống tốt lúc này, những người quanh tôi sống bình an; nếu tôi không sống tốt, làm hại người khác, thì làm những người đó khổ, và cả tôi cũng khổ, và những người thân yêu của tôi cũng không được thoải mái và hạnh phúc vì tôi. Yêu thương, là hành vi làm con người thành tuyệt vời.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có tin vào số mạng không? Tin vào số mạng có hợp với đức tin Kitô giáo không? Tại sao?
2. Bạn có tin tử vi, coi bói, coi chỉ tay, tướng số không? Tại sao bạn tin và tại sao bạn không tin? Tin vào những điều này có hợp với đức tin Kitô giáo không?
3. Để là một con người mới, điểm chính yếu là gì?
12. Theo Chúa từ bỏ tất cả – Cố Lm. Hồng Phúc
Tin Mừng hôm nay dạy chúng ta tiếp tục suy tư về mầu nhiệm ơn gọi.
Trong ơn gọi của các môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu, chúng ta thấy gì? Chúng ta thấy Chúa Giêsu đã đi bước trước. Ngài đi qua, nhìn thấy và kêu gọi. Marcô nói: “Ngài đi lên núi và gọi những kẻ người muốn lại gần…” (3,13). Ngài chọn những ai Ngài muốn và không hẳn là những người xứng đáng nhất, vì không ai có thể tự cho là xứng đáng cả. Sau này, Ngài sẽ nhắc lại cho họ: “Không phải chúng con đã chọn Thầy, nhưng là Thầy đã chọn chúng con” (Gio. 15,16). Người kêu gọi họ tại chính nơi họ ở, chỗ họ làm việc: Bốn vị đầu tiên trong khoang thuyền, ngoài bãi biển, một vị khác ngay nơi bàn đổi bạc (2,14), và một vị khác đang đứng suy tư dưới bóng cây vả (Ga. 1,50)… Mỗi ơn gọi là một cử chỉ tình thương, Ngài đến với ta, đi tìm và tuyển chọn ta.
Và Người nói gì?
Một câu rất đơn sơ nhưng đầy ánh sáng: “Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người.” Tuy nhiên, đây không phải là một cuộc chọn bạn đi chơi, một thời gian rồi tan hàng rã đám. Mà theo Ngài thì Ngài đòi hỏi rất nhiều. Đòi hỏi gì? Ngài đòi hỏi tất cả: phải từ bỏ mọi sự, từ bỏ luôn mãi và từ bỏ cả mạng sống vì Ngài nữa!
Hỏi rằng, ngoài Chúa ra, có ai có thể đòi hỏi khắt khe như vậy? Có tình yêu nào ghen tị đến mức độ như vậy?
Văn hào Montalembert có một cô con gái dâng mình làm nữ tu. Ông viết: “Người tình ấy là ai, chết treo trên cây thập giá mà có thể lôi kéo như vậy? Người tình ấy là ai mà có một sức hấp dẫn không cưỡng lại được, như một con chim mồi sà xuống và cuốn đi? Phải chăng đó là một người? Không. Đó là Thiên Chúa. Đó là bí ẩn, đó là chìa khóa đưa vào cõi thâm sâu. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể thành công và đòi hỏi một cuộc hy sinh như thế.”
Bà Thánh Jeanne-Francoise Chantal (1572-1641) là một bà mẹ đạo đức. Sau khi chồng qua đời, bà lo nuôi dưỡng, giáo dục và tác thành cho bốn con, có nơi có chốn tự lập được. Bà nghe tiếng Chúa gọi sống đời tận hiến, giúp đỡ người nghèo. Nhưng ngày bà quyết định ra đi thì các con ngăn cản và nằm ngang chận cửa. Nước mắt tràn trụa, Bà nói: “Dầu sao tôi cũng là một Bà Mẹ”. Nhưng tình thương Chúa mạnh hơn tình mẫu tử, Bà bước qua con và đi Annecy, lập nên Dòng Thăm Viếng, tháng 6 năm 1610.
Họ ra đi theo tiếng gọi của Chúa, nhưng đối lại, Chúa hứa ban cho họ những gì? Thật lạ lùng! Ngài không hứa ban cho họ một cuộc sống dễ dãi đầy tiện nghi vì chính Ngài cũng “Không có một hòn đá gối đầu!” Ngài không hứa ban chức tước, đường hoạn lộ tiến thân, vì Ngài truyền dạy phải chọn chỗ tốt nhất, không được tự gọi là Thầy, là Cha mà chỉ là tôi tớ. Ngài không hứa ban cho một cuộc sống nhàn hạ, vì “ai đã ra tay cầm cày, thì không được ngó lui.” Vậy, Ngài hứa gì? Thưa: Một đời sống dấn thân phục vụ các linh hồn, một đời sống vất vả đi “chài lưới người”, bắt từng cá nhân, từng tập thể. Có những lúc thức trắng đêm mà không bắt được con cá nào, có những sáng tinh sương, chèo thuyền không về bế! “Thưa Thầy, chúng con mệt nhọc suốt đêm mà chẳng được gì?” Nhưng Chúa phán: “Hãy chèo ra khơi thả lưới”. Phêrô, đại diện các bạn trả lời: “Vì lời Thầy, con sẽ thả lưới” (Lc. 5,5). Nhất là một lời hứa quan trọng nhất mà Ngài để lại cho các môn đệ ngày giã biệt ra đi vào chốn vinh quang: “Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho con thì con muốn rằng con ở đâu chúng cũng ở đấy với con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho con…” (Gio. 17,24). Cũng như lời hứa mà Đức Mẹ khi hiện ra ở Lộ Đức đã nói với Bernadetta, vị thụ khải của Mẹ: “Mẹ không hứa cho con hạnh phúc ở trần gian mà hạnh phúc trên trời.”
“Lạy Chúa, xin chỉ cho tôi đường đi của Chúa,
Xin dạy bảo tôi về lối bước của Ngài.
Xin hướng dẫn tôi trong chân lý và dạy bảo tôi,
Vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ tôi”
(Tv. 24,4 – Đáp ca)
13. Đôi cánh Thiên Thần
Mc 1, 16 - 20
Chuyện kể về một cậu bé luôn mặc cảm vì trên lưng cậu có hai vết thẹo rất rõ. Nó kéo dài từ bả vai xuống đến eo với phần da nhăn nhúm. Vì thế, cậu luôn cảm thấy xấu hổ về bản thân mình.
Ngày ngày đi học, cậu rất sợ bị bạn bè phát hiện... và thời gian dài trôi qua, cái gì đến cũng phải đến... khi đó các bạn chọc cậu: "Eo ơi, gớm quá!" "A,...quái vật!" "Ôi, thật khủng khiếp!" Những lời vô tâm ấy đã làm đau lòng người bạn nhỏ của chúng ta. Cậu vừa khóc vừa chạy vào sau cánh cửa lớp, trốn tránh tất cả bạn bè. Từ đó, cậu bé bỏ học.
Sau sự việc này, mẹ cậu bé dịu dàng nắm tay cậu đến gặp cô giáo chủ nhiệm. Cô là một nữ giáo viên đôn hậu. Người mẹ kể rằng khi mới sinh, cậu con trai đã mắc bệnh nặng, gần như mất hết hy vọng nhưng gia đình không đành lòng bỏ rơi và quyết cứu cho được đứa con. Qua cuộc giải phẫu vô cùng khó khăn vất vả, cậu bé trai đã được cứu nhưng từ đó để lại hai vết thẹo lớn trên lưng. Nói đến đây, người mẹ run run bật khóc.
Ngày hôm sau, cậu bé xuất hiện ở một góc cuối lớp, các bạn nhỏ khác thấy thế, lại ngây thơ thốt lên những lời vô tâm: "Ôi, thật đáng sợ!" "Ghê quá, trên lưng cậu ấy có 2 con trùn to lắm." Ngay lúc ấy, cô giáo đi ngang, cô nghe hết những lời các bạn chọc cậu bé.
Cô giáo tiến gần đến cậu bé, đặt nhẹ tay lên bờ vai gầy nhỏ bé và mỉm cười nói: "Trước đây, cô đã định kể cho các con nghe một câu chuyện nhưng xem ra, cô phải kể ngay lúc này." Các bạn trẻ vây quanh lấy cô. Cô giáo nhẹ nhàng kéo chiếc áo của cậu bé lên làm lộ rõ hai vết thẹo lớn và nói với đám trẻ: "Đây là một truyền thuyết. Ngày xưa, các thiên thần trên trời đã bay xuống và biến thân thành các bạn nhỏ như chúng ta đây. Tất nhiên, có thiên thần nhanh nhẹn đã kịp tháo gỡ đôi cánh của mình, nhưng cũng có thiên thần hơi chậm, không kịp tháo hết đôi cánh của mình và để lại hai vết như thế này."
Một em bé hỏi: "Vậy đó là cánh của thiên thần hả cô?"
Cô giáo mỉm cười: "Đúng đó!"
Bỗng một bạn gái lên tiếng: "Thưa cô, chúng con có thể sờ chúng không?" Từ nãy đến giờ cậu bé vẫn cứ đứng ngẩn người ra, không nói được câu nào, và bây giờ thì cậu lại khóc. Nhưng cô giáo mỉm cười và diụ dàng nói: "Chúng ta phải xin phép vị thiên thần nhỏ của chúng ta trước chứ?" Lặng người đi một chút, cậu bé lấy lại bình tĩnh và đáp: "Vâng, được ạ!"
Các bạn nhỏ vây quanh lấy cậu, hết bạn này đến bạn khác đến sờ vào "đôi cánh" ấy. "Ôi, tuyệt thật, con đã sờ được cánh của thiên thần rồi!"
Năm tháng dần trôi, người bạn nhỏ của chúng ta đã lớn hơn nhiều, cậu vẫn thầm cảm ơn cô giáo đã đem lại cho cậu một niềm tin mới, một nghị lực mới. Cậu mạnh dạn tham gia giải bơi lội cấp thành phố, và cậu đã đoạt giải. Cậu thầm cám ơn cô giáo, và cậu luôn tin rằng vết thẹo trên lưng cậu chính là đôi cánh thiên thần mà cô giáo năm xưa dành tặng cho cậu với tất cả sự yêu thương.
Qua câu chuyện trên đây, chúng ta thấy cô giáo đã đổi cách nhìn cho các học sinh của mình, và cô giáo cũng đã đổi đời cho cậu bé có vết thẹo trên lưng... Còn qua bài Phúc âm hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu cũng đã kêu gọi các môn đệ và Chúa đã thay đổi cuộc đời cho các ông... và hôm nay chúng ta cũng vậy, Chúa cũng kêu gọi chúng ta, và Chúa muốn chúng ta cũng phải thay đổi cuộc đời để sống theo ý của Chúa... nhưng phải thay đổi thế nào đây khi lòng tôi còn dính bén với tiền bạc, với của cải, khi lòng tôi còn tỏ ra tự phụ không cần ai, khi tôi còn phải lo cho gia đình, lo cho chồng tôi, lo cho vợ tôi, lo cho con tôi, tôi còn phải lo củng cố nghề nghiệp, tôi còn phải lo cho tương lai, tôi không còn thời giờ... nói chung, tôi không muốn mất gì hết, tôi không muốn thay đổi, tôi chưa có sẳn sàng, hay nói đúng hơn, tôi chưa đủ tin tưởng vào Chúa. Bài Phúc âm hôm nay một lần nữa nhắc chúng ta luôn tin tưởng và phó thác cuộc sống mình cho Chúa, bởi vì chỉ có Chúa mới mang lại cho chúng ta hạnh phúc đời đời.
Lạy Chúa, xin Chúa cho chúng con luôn biết chọn Chúa, và quyết tâm theo Chúa cho đến cùng. Amen.
14. Theo Chúa Giêsu, sám hối để hiệp nhất
(Suy niệm của Lm Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bước vào Chúa nhật thứ 3 thường niên, chúng ta thấy Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giorđan xong, được Gioan giới thiệu cho mọi người biết Người là: "Chiên Thiên Chúa" (Ga 1, 29). Ông bị bắt, Chúa Giêsu sang xứ Galilêa, rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa, một hành động diễn tả sự liên tục giữa Giao ước cũ với Giao ước mới, với sứ điệp: "Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm" (Mc 1, 14).
Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến
Viên cai ngục của Hêrôđê tra tay bắt Gioan Tẩy Giả tống ngục. Sứ mạng, lời rao giảng cũng như phép rửa của Gioan chấm dứt, thời giờ đã mãn, Đức Giêsu xuất hiện. Không như Gioan, Chúa Giêsu không đến để thay đổi phép rửa thống hối, sứ mệnh của Người là loan báo Tin Mừng nước Thiên Chúa. Tin Mừng Người loan báo không phải là "tin mới" hay tin mừng như bao tin mừng. Chúa Giêsu nhân danh Thiên Chúa loan báo Tin Mừng, Người chính là Tin Mừng, là Lời Thiên Chúa, Lời cứu rỗi, là sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa loài người.
Gioan loan báo thời mới sẽ đến, thời viên mãn. ‘Thời khác’ là chính Chúa Giêsu, thời của Gioan và thời của Chúa Giêsu nối liền với nhau không có sự gián đoạn.
Gioan đã lãnh nhận sức thiêng khi Chúa Giêsu bước xuống dòng sông Giorđan. Thánh Thần Thiên Chúa ngự xuống trên Chúa Giêsu khi Gioan đổ nước. Chúa Cha chứng nhận Chúa Chúa Giêsu là Con yêu dấu của Ngài.
Từ " gần đến " phải được hiểu là: " Ở bên anh em ". Người ở giữa chúng ta. Chúa Giêsu đã nói với một viên ký lục khi hỏi Chúa về hai điều răn trọng nhất: " Ngươi không còn xa Nước Thiên Chúa đâu " (Mc 12, 34).
Hãy theo Ta
Simon và em là Anrê đang thả lưới xuống biển. Chúa gọi hai ông, biến các ông thành những người cộng tác. Chúa không chỉ ủy thác cho họ một học thuyết, nhưng biến họ, những người lưới cá thành những kẻ lưới người, quăng Lời Chúa vào thế gian để đánh bắt người, đưa người ta lên bờ cho Chúa, đúng như lời Chúa Giêsu nói: "Ta sẽ làm cho các người trở thành những kẻ chài lưới người" (Mc 1, 17).
Giacôbê và Gioan đang xếp lưới trong thuyền với cha mình cùng với các người làm công. Một sự tương phản Marcô đã quan sát và làm nổi bật. Simon và Anrê đã bỏ lưới. Giacôbê và Gioan đã bỏ cha. Hai người con bỏ lại cha với những người đang làm việc không phải vì tình nghĩa con cái hay gia đình, nhưng là vì đồng tiền bát gạo. Marcô sử dụng thuật ngữ " người làm thuê " mà chúng ta dịch là "người làm công". Hai người con " bỏ cha", thay vì ở bên cha, nay thay bằng " theo sau Chúa Giêsu" (x. Mc 1, 20).
Những ngư phủ đến với Chúa Giêsu, đã trở thành những kẻ đánh bắt người như lời Chúa phán: " Này Ta sai ngư phủ đến … và họ sẽ (vung) lưới bắt chúng" (Gr 16, 16). Nếu Chúa sai những người khôn ngoan tới, họ sẽ thuyết phục dân, hoặc bắt lấy dân. Nếu Chúa gửi những người giầu đến, họ sẽ dùng tiền mua chuộc dân và thống trị dân. Nếu Chúa gửi những người khỏe mạnh đến, họ sẽ dùng sức mạnh dụ dỗ dân và cưỡng bức dân bằng bạo lực.
Không có ai trong số các tông đồ là những người ấy. Simon Phêrô là một bằng chứng. Ông nhút nhát, đến nỗi sợ cả một đầy tớ nữ; ông nghèo không có gì, thậm trí cả tiền thuế cũng không có (Mt 17, 24). Phêrô nói: "Bạc vàng tôi không có " (Cv 3,6). Và ông là người ít học, nên từ khi chối Chúa, ông cũng chẳng biết rút ra bài học.
Những kẻ đánh cá được Chúa Giêsu chọn và sai đi, họ ra đi và đã mang lại kết quả mĩ mãn hơn cả những kẻ mạnh, người giầu có và khôn ngoan. Với giáo lý Chúa dạy, họ đã thu hút nhiều người mà không cần bạo lực; phận nghèo khó, họ đã dạy dỗ những kẻ giàu có; là người dốt nát, họ huấn giáo những kẻ khôn ngoan.
Bước theo Chúa Giêsu cần phải sám hối để hiệp nhất
Chúa Giêsu gọi các môn đệ của mình "ăn năn sám hối"(Mc 1, 15). Sám hối là đi từ đời sống tội lỗi sang đời sống con cái Chúa, từ tuyệt vọng đến hy vọng, từ chán nản đến vui mừng, từ bóng tối ra ánh sáng. "Sám hối vì nước Thiên Chúa đã gần đến" (Mc 1, 15) vẫn luôn có tính chất thời sự của Tin Mừng. Quyết tâm sám hối trở về cùng Chúa là con đường dẫn đưa Giáo Hội đến sự hiệp thông hữu hình trọn vẹn vào thời kỳ Thiên Chúa thiết định.
Ngày nay Chúa cũng mời gọi chúng ta mang vào thế giới sứ điệp sự thật và tình thương của Chúa. Hãy sẵn sàng tham gia vào sứ mạng này và nhất là cầu xin Chúa đừng để những chia rẽ và tranh chấp giữa các tín hữu Kitô làm lu mờ khả năng chiếu tỏa của Tin Mừng. Các cuộc gặp gỡ đại kết trong thời gian gần đây gia tăng trên thế giới là một dấu chỉ chứng tỏ điều đó.
Trước giờ Kinh Truyền Tin trưa Chúa nhật 23/1/2011, Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI đưa ra lời kêu gọi sau đây: " Ngày nay cũng vậy, để trở thành dấu chỉ và phương thế kết hiệp sâu xa với Thiên Chúa trong thế giới, các tín hữu Kitô chúng ta phải xây dựng cuộc sống trên 4 cột trụ, đó là: cuộc sống trên nền tảng đức tin của các Tông Đồ được chuyển lại trong Truyền Thống sinh động của Giáo Hội, tình hiệp thông huynh đệ, Thánh Thể và kinh nguyện. Có thế, Giáo Hội mới được kết hiệp bền vững với Chúa Kitô và chu toàn sứ mạng của mình, dù có những chia rẽ như thánh Phaolô Tông Đồ nói đến: "Hỡi anh em, tôi khuyên nhủ anh em tất cả hãy đồng tâm hiệp ý trong lời nói, để không có sự chia rẽ nơi anh em, nhưng hãy kết hiệp trọn vẹn trong tư tưởng và cảm thức" (1 Cr 1,10). Thực ra thánh nhân đã biết trong cộng đoàn Kitô ở Côrintô, đã nảy sinh những bất thuận và chia rẽ; vì vậy, ngài nghiêm nghị viết thêm rằng: "Phải chăng Chúa Kitô bị chia rẽ sao?" (1,13). Ngài quả quyết mọi chia rẽ trong Giáo hội là làm xúc phạm đến Chúa Kitô, Thủ Lãnh duy nhất và là Chúa, chúng ta luôn luôn có thể tái hiệp nhất, nhờ sức mạnh vô tận của ơn thánh Chúa.
Theo giáo huấn của thánh Phaolô, chúng ta được mời gọi loại bỏ gương mù chia rẽ nơi chúng ta để mang sứ điệp của Chúa Kitô Phục Sinh cho tất cả mọi người. Chúng ta hãy cầu nguyện xin Chúa cho sớm đến ngày Giáo Hội được hoàn toàn hiệp nhất. Amen.
15. Sám hối và tin vào Tin Mừng – Radio Veritas Asia
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Trong sưu tập về các thánh ẩn tu trong sa mạc, có kể giai thoại như sau: Có hai tội nhân quyết tâm vào sa mạc để ăn chay đền tội. Nguyên một năm ròng rã, mỗi người giam mình trong một túp lều riêng, ngày đêm ăn chay, cầu nguyện và đánh tội. Ngày ngày các tu sĩ của cộng đoàn nọ đem thức ăn đến tận căn lều riêng cho từng người. Sau đúng một năm thử thách, các tu sĩ nhận thấy có sự khác biệt giữa hai người: một người thì vui vẻ, khỏe mạnh; một người thì ốm o buồn phiền. Cả hai đến trình diện trước Bề Trên cộng đoàn để chờ xem họ có xứng đáng được gia nhập cộng đoàn hay không. Khi được hỏi suốt một năm qua, họ đã suy niệm về những gì.
Người ốm o buồn sầu cho biết:
- Trong năm qua, ngày ngày tôi nhớ lại những tội đã phạm, từng giây từng phút tôi nhớ đến những hình phạt sẽ gánh chịu, tôi sợ hãi đến mất ăn mất ngủ.
Đến lượt mình, người vui vẻ khỏe mạnh trả lời:
- Suốt một năm qua, từng giây từng phút, tôi hằng cảm tạ Chúa vì đã tha thứ cho tôi: tôi luôn nghĩ tới tình yêu của Ngài.
Các tu sĩ trong cộng đoàn rất cảm kích trước tâm tình của người vui tươi khỏe mạnh vì lòng sám hối của anh đã biến thành lời ca cảm tạ tri ân tình yêu Chúa.
Sám hối là khởi đầu của sự nên thánh. Dĩ nhiên, không phải tất cả những vị thánh đều bắt buộc phải là những tội nhân, nhưng tất cả đều phải bắt đầu với ý thức về tội lỗi và sự yếu hèn của mình. Càng ý thức về con người tội lỗi, bất toàn của mình, con người càng cảm nhận được tình yêu của Chúa. Đó là cảm nhận của vua Đavít, của thánh Phêrô, của thánh Augustinô và của tất cả các vị đại thánh trong lịch sử Giáo Hội.
Lời đầu tiên Chúa Giêsu dùng để khai mạc sứ mệnh của Ngài chính là: "Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng". Chúa Giêsu đã nối kết sám hối với Tin Mừng. Tin Mừng là gì, nếu không phải là tình yêu Thiên Chúa được thể hiện qua con người Chúa Giêsu Kitô. Sám hối không chỉ là ý thức và hồi tưởng về tội lỗi của mình; sám hối đích thực không dừng lại ở buồn phiền, sợ hãi và thất vọng, mà là ngõ tất yếu dẫn đến Tin Mừng, nghĩa là vui mừng, hoan lạc.
Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mạc khải qua cuộc sống và nhất là qua cái chết của Ngài, là một người Cha muốn được con cái yêu mến hơn là sợ hãi. Đạo mà Chúa Giêsu thiết lập không phải là đạo của buồn phiền, của khổ đau, nhưng là đạo của Tin Mừng, của tình yêu, của hân hoan và hy vọng. Đành rằng Thập giá là biểu tượng của Kitô giáo, nhưng người Kitô hữu không dừng lại ở chết chóc, khổ đau, buồn phiền; trái lại họ luôn được mời gọi để nhìn thấy ánh sáng, hy vọng, tin yêu và sự sống bên kia Thập giá.
Ước gì Lời Chúa hôm nay ban sức sống để chúng ta không bị đè bẹp dưới sức nặng của tội lỗi, của yếu hèn. Xin cho chúng ta luôn tiến bước trong hân hoan và tin tưởng, vì biết rằng Thiên Chúa là Cha yêu thương, không ngừng nâng đỡ và tha thứ cho chúng ta.
16. Đáp trả
Khi mới nghe bài Tin Mừng nhiều người cứ nghĩ Lời Chúa hôm nay là chỉ dành cho những người đi tu dâng mình cho Chúa. Nhưng thực ra đây không phải là bài Tin Mừng dành riêng cho họ nhưng là cho tất cả mọi người Kitô hữu. Vì mỗi người là "Sống với và sống cho người khác". Chỉ xét về mặt con người với con người thì đó là những mối tương quan. Còn xét về mặt linh thiêng thì đó là một bổn phận, một trách nhiệm, một quyền lợi, mà mỗi người Kitô hữu cần phải có, phải làm và phải thực hiện.
Tin Mừng cho biết cả bốn môn đệ, bốn tông đồ đầu tiên ấy đều là những người chài lưới, và họ đang hành nghề trên biển hồ Galilê. Cho tới lúc đó, chưa bao giờ các ông đưa mắt nhìn xa quá tầm mắt quen thuộc với những công việc sinh nhai hằng ngày. Bây giờ Chúa Giêsu mời gọi các ông nhìn lên cao hơn và xa hơn. Ngài chỉ cho các ông thấy thế giới như biển cả mênh mông, phải vượt khắp đó đây để "tr? thành những kẻ lưới người như lưới cá" Sứ mệnh của các ông là đem các linh hồn về cho Chúa.
Nghe tiếng Chúa kêu gọi, các ông đáp lại ngay, qua việc "Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người", sẵn sàng từ bỏ mọi sự, kể cả những gì thiết thân nhất trong đời sống như nghề nghiệp và phương tiện sinh sống. Hơn thế nữa "các ông bỏ cha mình..." Cho chúng ta thấy rằng các ông còn từ bỏ cả những tình cảm tự, một sự chọn lựa dứt khoát. Từ nay các ông sẽ có một sứ mạng cao cả, với những bận tâm khác và những lo lắng khác. Các ông rời bỏ quê hương làng xóm, nơi chôn nhau cắt rốn, để đi đến những nơi Thầy sẽ sai đến. Quê hương các ông bây giờ là thế giới. Các ông từ bỏ gia đình ruột thịt quen thuộc, Thiên Chúa sẽ ban cho các ông một gia đình khác, gia đình các linh hồn mà các ông sắp cứu vớt. Các ông thoát ly hoàn toàn và dứt khoát.
Ngày hôm nay, mọi người Kitô hữu đều được mời gọi đi theo Chúa Giêsu. Ngài không mời ta đi theo một lý tưởng, một ý thức hệ. Ngài mời ta theo chính con người Ngài, gắn bó với Ngài, nhận Ngài là nền tảng và chóp đỉnh của cuộc sống. Lời kêu gọi "Hãy đi theo tôi" hôm qua vang lên tai các tông đồ thì hôm nay vẫn còn vang lên trong nhịp sống Giáo hội và gửi đến chúng ta hằng ngày. Vấn đề là chúng ta có quan tâm lắng nghe và đáp ứng không?
Mỗi người Kitô hữu qua Bí tích Rửa Tội đã được Thiên Chúa trao ban cho những nhiệm vụ đặc biệt là tiên tri tư tế và vương đế . Nhưng chúng ta đã thực hiện nhiệm vụ của mình như thế nào. Chỉ mới sống tốt cho bản thân, sống chỉ lo cho linh hồn mình chắc chắn là chưa đủ. Nếu chỉ sống như thế thì còn quá ích kỷ với mọi người. Cũng như các tông đồ xưa kia được kêu gọi không phải chỉ là để được "rỗi linh hồn", nhưng còn là để cộng tác với Chúa nhằm thánh hoá các linh hồn. Người Kitô hữu cũng vậy, được kêu gọi theo Chúa, không phải chỉ lo cứu linh hồn mình, nghĩa là không phải chỉ là người giữ đạo, đọc kinh, đi lễ, nhưng phải là những tông đồ cho Chúa nữa. Dù ở bậc sống nào, dù không vào đoàn thể nào, dù ở bất cứ chỗ nào, chúng ta cũng phải là những tông đồ của Chúa. Làm tông đồ trước tiên là bằng chính đời sống tốt đẹp của chúng ta. Đời sống tốt đẹp của chúng ta có thể thay đổi được nếp sống của những người chung quanh. Đời sống tốt đẹp của chúng ta có thể thay đổi được vận mệnh của người khác, từ không biết Chúa đến nhận biết Chúa, tôn thờ, yêu mến Chúa. Đời sống tốt đẹp của chúng ta có thể làm cho mọi người từ ghen ghét đến yêu thương, xây dựng, đùm bọc, nâng đỡ nhau.
Lạy Chúa, xin Chúa cho chúng con biết sống tốt đẹp ,biết nêu gương sáng cho mọi người vì đó là việc tông đồ sống động và là chứng nhân tuyệt vời nhất. Amen.
17. Thấy - Gọi - Bỏ - Theo
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)
Suy niệm:
Sau khi chịu phép rửa của Gioan ở sông Giođan
Đức Giêsu biết đã đến lúc mình phải rời bỏ gia đình ở Nadarét, phải chia tay với người mẹ thân yêu, phải từ giã nghề nghiệp mà mình đã theo đuổi mấy chục năm trời.
Sau khi nhận Thánh Thần từ trên xuống,
Đức Giêsu biết đã đến lúc mình phải lên đường
dấn thân cho sứ mạng do Cha ủy thác.
Vùng Galilê là vùng Ngài bắt đầu rao giảng Tin Mừng về Nước Trời (c.14).
Ngài mời người ta sám hối và tin vào Tin Mừng mà Ngài rao giảng.(c.15).
Nhưng Đức Giêsu không nghĩ rằng mình có thể tự mình làm mọi sự.
Ngài cần người cộng tác, dù nước Ítraen chỉ là một nước bé nhỏ.
Đức Giêsu đi tìm môn đệ, và Ngài bắt gặp các anh đánh cá nơi hồ Galilê.
Có hai đôi anh em ruột đã lọt vào mắt của Ngài.
Ngài THẤY Phêrô và Anrê đang quăng lưới bắt cá.
“Hãy theo tôi. Tôi sẽ làm các anh thành những kẻ lưới con người” (c. 17).
Đây là một mệnh lệnh nhưng cũng là một lời mời thân thương.
Ngài GỌI họ đi theo Ngài, theo chính con người của Ngài,
chứ không phải theo một lý tưởng hay một chủ nghĩa nào đó, dù là cao đẹp.
Theo Ngài sẽ dẫn đến một thay đổi lớn nơi họ: từ lưới cá đến lưới con người.
Bây giờ con người là mối bận tâm của họ, không phải là cá như xưa nữa.
Đức Giêsu cũng thấy cặp anh em ruột thứ hai là Giacôbê và Gioan.
Họ đang vá lưới trong khoang thuyền với người cha.
Khung cảnh cha con thật êm đềm, tưởng như chẳng gì có thể làm xáo trộn.
Tiếng gọi của Thầy Giêsu vang lên, gây cuộc chia ly.
Bốn anh đánh cá đầu tiên này đã BỎ để dáp lại tiếng gọi của Thầy Giêsu.
Họ đã bỏ chài lưới, bỏ nghề dánh cá, bỏ những thú vui của sông nước.
Hơn nữa họ còn bỏ gia đình, bỏ vợ, bỏ cha, để gắn bó với Thầy Giêsu.
Họ bỏ một giá trị để sống cho một Giá Trị lớn hơn,
bỏ một tình yêu để sống cho một Tình Yêu lớn hơn.
Đức Giêsu đã có kinh nghiệm về sự đau đớn khi phải từ bỏ như vậy.
Nhưng bỏ chính là để THEO (cc. 18.20).
Theo một Đấng sống không chỗ tựa đầu, và bước vào cuộc phiêu lưu bấp bênh.
Hôm nay Đức Giêsu vẫn cần những con người dám sống cho người khác,
dám bỏ lại những điều rất quý giá và thân thương,
dám bỏ lại cuộc sống ổn định và ấm êm, tiện nghi và dễ chịu.
Xin cho chúng ta nghe được tiếng gọi thì thầm của Ngài và vui sướng đáp lại.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon,
một người đánh cá ít học và đã lập gia đình,
để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.
Chúa xây dựng Giáo Hội
trên một tảng đá mong manh,
để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.
Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con
theo Chúa, sống cho Chúa,
đặt Chúa lên trên mọi sự:
gia đình, sự nghiệp, người yêu.
Chúng con chẳng thể nào từ chối
viện cớ mình kém đức kém tài.
Chúa đưa chúng con đi xa hơn,
đến những nơi bất ngờ,
vì Chúa cần chúng con ở đó.
Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon,
bỏ mái nhà êm ấm để lên đường,
hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.
18. Đức Giêsu đến
(Suy niệm của Peter Feldmeier - Lm. GB. Văn Hào SDB chuyển ngữ)
Thời kỳ đã mãn (Mc 1,15)
Có một lần người ta đã công bố, vào ngày 21 tháng 5 năm 2011, Đức Giêsu Kitô sẽ trở lại và phán xử vũ trụ. Lời tuyên bố rất rõ ràng, rất khẳng quyết và đầy xác tín. Đó là câu tuyên bố của ông Harold qua chương trình phát thanh về gia đình. Chương trình phát thanh đã quảng bá rộng khắp nguồn tin trên, kèm theo những lời cảnh báo. Một ít người đã tin, và đã phân phát tài sản của mình cho bạn bè, cho hàng xóm và cho cả những người không quen biết. Chúng ta thử nghĩ xem, ví dụ bạn đang có một căn nhà sang trọng, hay một chiếc xe hơi đắt tiền, bạn nghe lời cảnh báo, và sẵn sàng từ khước mọi sự, không màng đến những thứ đó nữa. Vào ngày 23 tháng 5, chương trình phát thanh này lại công bố một lần nữa và xác nhận là Harold đã nói đúng. Đức Kitô thực sự đã đến, nhưng theo như họ nói, Ngài đến một cách linh thiêng. Cuộc phán xử đã xảy ra, nhưng nó diễn ra trong âm thầm và bí mật.
Nhưng đây không phải là lần đầu tiên có người tuyên bố về ngày tận thế. Vào thế kỷ 19, ông William Miller cũng quy tụ một số thân hữu lại, và loan báo Chúa Kitô sẽ đến vào ngày 21 tháng 3 năm 1844. Nhiều người tin ông ta, và nóng lòng chờ đợi. Rồi ngày đó cũng qua đi. Một tín đồ của ông Miller sau đó lại khẳng quyết, ngày Chúa đến sẽ được hoãn lại cho tới 21 tháng 10 năm đó, và điều này đã được nói tới trong sách ngôn sứ Habacuc. Những người theo ông Miller, tức môn phái: “Chờ đợi ngày thứ bảy của Chúa”, vẫn kì vọng như thế và họ tin là việc Chúa đến đã được thực hiện. Nhưng theo họ, Chúa thực thi cuộc phán xét vũ trụ một cách thầm lặng chứ không theo cách thái thông thường như người ta vẫn nghĩ tưởng.
Tuy nhiên, chúng ta thấy tư tưởng của Harold và Miller, qua những hạn từ biểu tỏ sự chờ đợi và vui mừng, khá giống với tư tưởng của Thánh Phaolô, có lẽ hơn hẳn chúng ta. Thánh Phaolô cũng nghĩ rằng Chúa Giêsu sẽ trở lại một cách bất ngờ, và Đấng Cứu thế sẽ đến ngay trong thời đại của Ngài (1Thes 4,17). Tư tưởng xác quyết này càng rõ nét hơn trong thơ thứ nhất gửi giáo đoàn Côrinthô, đặc biệt qua bài đọc phụng vụ của Chủ nhật hôm nay. Thánh Phaolô khởi đầu đoạn văn với lời khẳng quyết: “Thời gian chẳng còn bao lâu nữa” (1Cr 7,29). Ngài còn phác vẽ một viễn cảnh với năm lời khuyên dạy “Từ nay, ai có vợ hãy sống như không có, ai khóc lóc hãy làm như không khóc, ai vui mừng hãy sống như chẳng mừng vui, ai mua sắm hãy làm như không có gì cả, kẻ hưởng dùng của cải đời này hãy làm như chẳng hưởng.” Tóm kết những lời khuyên đó, Thánh Phaolô nhấn mạnh đến động cơ và lý do phải hành xử như thế, chính là “Vì bộ mặt thế gian đang biến đi” (1Cr 7,31).
Thánh Phaolô đưa ra sứ điệp cấp thiết trên, quy chiếu vào lời hiệu triệu của Đức Giêsu khi Ngài khởi sự ngày đầu tiên đi rao giảng công khai. Marcô trình thuật lại lời kêu gọi và cảnh báo của Đức Giêsu, mà bài Tin mừng hôm nay nhắc tới “Thời kỳ đã mãn, và triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin mừng”. Nơi cả 2 bản văn của Thánh Phaolô và của Thánh sử Marcô, ý niệm nói về “thời gian” hay “thời kỳ”, được dịch từ hạn từ Kairos. Từ ngữ Chronos cũng nói về thời gian, nhưng đơn giản ám chỉ về thời gian đang xảy ra trong hiện tại. Còn hạn từ Kairos lại nói về một thời kì đặc biệt, một thời cơ đem đến cho ta, hay một thời khắc quan trọng của cuộc sống, ví dụ lúc chúng ta đang rơi vào một khủng hoảng trầm trọng. Vì vậy, hạn từ Kairos được dùng ở đây muốn nêu lên một điều quan trọng, đang xảy ra tại chính thời điểm này. Đức Giêsu công bố điều quan trọng đó, đó là thời kỳ Thiên Chúa thực hiện ơn cứu độ cho con người. Vì thế, Ngài mời gọi chúng ta phải sám hối. Sám hối, Metanoia, không phải chỉ là việc chúng ta từ bỏ tội lỗi. Nhưng trên hết, hành vi sám hối là một tư thế nội tâm, một động thái toàn diện nơi con người chúng ta để trở về với Chúa. Chúng ta phải quyết tâm định hướng lại, từ suy nghĩ, đến con tim và trọn cả đời sống, để quy về Thiên Chúa, đặt Ngài vào vị trí tối thượng nơi cuộc đời chúng ta. Nước Trời đã đến gần, và Nước Trời mà Chúa Giêsu gợi nhắc, mời gọi chúng ta phải thực sự biến đổi.
Thánh Marcô diễn tả lời gọi mời của Chúa Giêsu ngỏ trao cho bốn môn đệ đầu tiên, như là một sức mạnh đến từ Thiên Chúa. Đó là một lời cầu ngỏ cách tự nguyện, nhưng cũng là một mệnh lệnh hiển thị qua uy quyền được diễn bày, mà con người không thể cưỡng lại. Mệnh lệnh đó cũng đòi hỏi chúng ta phải đáp trả, ngay hôm nay và ngay lúc này. Trên bờ biển Galilê, Chúa Giêsu đã thấy Phêrô và Anrê. Ngài truyền lệnh “ Hãy theo tôi”. Sau đó Ngài gặp Giacôbê và Gioan, và cũng gọi hai ông với cùng một dạng thức truyền lệnh giống như thế. Marcô thuật lại, ngay lập tức cả bốn ông bỏ thuyền và lưới để đi theo Ngài. Giacôbê và Gioan còn bỏ lại cả cha của mình cùng những người làm công trên thuyền. Các ông bỏ lại tất cả để đến với Chúa. Uy quyền Đức Giêsu đã hoàn toàn chinh phục các ông.
Harold và William Miller đã tiên đoán sai. Thánh Phaolô thì không dám khẳng quyết ngày giờ chính xác Đức Kitô sẽ trở lại, cho dầu vị tông đồ vẫn kì vọng Chúa sẽ đến ngay trong thời đại của Ngài. Sự kỳ vọng đó hiển nhiên cũng sai. Tuy nhiên, ở khía cạnh khác, chúng ta thấy lời khuyên dạy của Thánh Phaolô và của Chúa Giêsu vạch dẫn cho ta thấy rằng “ Tin mừng mà Chúa Giêsu đem đến sẽ kiến tạo một thời kỳ mới, một Kairos mới nơi chính cuộc đời chúng ta. Tin mừng khuyến mời chúng ta, cũng giống như một chỉ lệnh rất mạnh mẽ, là hãy hoán cải, hãy quy hướng trọn vẹn cuộc sống chúng ta về với Chúa. Điều đó không phải vì “ thời gian hiện tại , tức chronos đang qua đi”, nhưng Kairos “ thời kỳ ân điển, thời cơ mà Chúa gửi đến để giúp ta hoán cải”, đang được ngỏ trao cho chúng ta, ngay bây giờ.
Có bao giờ bạn nghĩ rằng, ngày hôm nay với tất cả những gì chúng ta đang vui hưởng, những niềm vui, những nét đẹp, những mơ ước chúng ta đang có…. được đồng hóa với thời điểm cùng tận vũ trụ mà chúng ta đang phải đối diện hay không? Giao ước tình yêu của Đức Giêsu mới thật sự là thời điểm sau cùng, là thực tại cánh chung, là giai đoạn cuối của lịch sử cứu độ. Giai đoạn cùng tận và thời điểm cánh chung đó không phải là lúc chúng ta phải buông xuôi tất cả, giã từ tất cả. Nhưng trên hết, đó là thời kỳ ân điển được hiến trao, để chúng ta mạnh mẽ đi vào thế giới hôm nay, với sức mạnh và lời gọi mời khẩn thiết của Đức Giêsu luôn vang vọng bên tai mỗi người: Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin mừng.
19. Đáp trả lời mời gọi
Đọc lại Phúc Âm chúng ta thấy các môn đệ đã mau mắn và quảng đại đáp trả lời mời gọi của Chúa Giêsu. Thực vậy, ngày kia Chúa Giêsu đi dạo trên bờ hồ, Ngài nhìn thấy Simon và Andrê đang thả lưới dưới biển. Ngài bèn lên tiếng gọi: Hãy theo Ta và Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người. Lập tức các ông đã bỏ ghe thuyền chài lưới mà đi theo Chúa Giêsu.
Đi được một quãng, Ngài thấy Giacôbê và Gioan đang vá lưới dưới thuyền với cha là Giêbêđê. Ngài cũng lên tiếng gọi: Hãy theo ta. Lập tức các ông đứng dậy, bỏ cha già ở lại với những người làm công mà đi theo Chúa Giêsu.
Lần khác, tại Capharnaum, Chúa Giêsu đi ngang qua một bàn thu thuế, nhìn thấy Matthêu, Ngài liền phán: Hãy theo Ta. Lập tức Matthêu đã bỏ mọi sự mà đi theo Chúa Giêsu.
Từ những sự kiện cụ thể ấy, chúng ta thấy, trước hết là Chúa Giêsu. Ngài đã không chọn lựa những con người giàu sang và quyền thế, học rộng và biết nhiều. Trái lại Ngài đã chọn lựa những kẻ nghèo túng và đơn sơ làm môn đệ của Ngài. Ngài biết các ông thiếu khả năng và bị hạn hẹp rất nhiều. Nhưng đồng thời Ngài cũng thấy các ông là những người quảng đại và hết sức nhiệt tình. Chính vì sự quảng đại và nhiệt tình này, Ngài đã bắt tay vào công việc giáo dục các ông. Cắt nghĩa riêng cho các ông thấu hiểu giáo lý Tin mừng. Trao ban quyền hành và sai các ông đi thực tập truyền giáo, để rồi cuối cùng đã ủy thác cho các ông sứ mạng chèo lái con thuyền Giáo Hội. Trong khi chọn lựa các môn đệ, có lẽ Chúa Giêsu đã nghĩ tới Giáo Hội, và nhất là có lẽ Ngài đã nghĩ tới chúng ta, và muốn nói với mỗi người rằng: Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các con trở thành những kẻ chinh phục người khác…
Tiếp đến là các môn đệ. Lúc đầu có lẽ các ông chưa hiểu được sứ mạng của Chúa Giêsu, cũng như con đường mà Ngài sẽ dẫn dắt các ông. Tuy nhiên các ông xác tín rằng Chúa cần đến các ông và các ông đã mau mắn quảng đại đáp trả tiếng Chúa gọi, bằng cách từ bỏ ghe thuyền và chài lưới, cha già và nhà cửa, bàn giấy và nghề nghiệp để đi theo Chúa.
Với chúng ta ngày hôm nay cũng vậy. Điều quan trọng và cần thiết đó là chúng ta phải nhận ra tiếng Chúa gọi, nhất là phải mau mắn và quảng đại đáp trả tiếng gọi ấy. Chúa nói với chúng ta qua những biến cố xảy ra, cũng như qua những người mà chúng ta có dịp tiếp xúc với. Chúng ta có thể đáp trả bằng một đời sống đạo đức và thánh thiện, chúng ta có thể đáp trả bằng những hành động bác ái và yêu thương. Thực vậy, Chúa cũng kêu mời chúng ta phục vụ Ngài nơi những người anh em, thế nhưng chúng ta đã mau mắn và quảng đại đáp trả hay chưa?
20. Cộng tác với ơn Chúa
Hãy sám hối và tin vào Phúc âm.
Sau khi nghe bài đọc thứ nhất, tôi tự hỏi: Nhờ vào đâu mà dân thành Ninivê đã được Chúa tha thứ, được thoát khỏi hình phạt nặng nề giáng xuống trên họ.
Tôi xin thưa: là nhờ vào tâm tình sám hối.
Thực vậy, trước lời cảnh cáo của tiên tri Giona, họ đã ăn năn và từ bỏ con đường tội lỗi, để rồi đã được hưởng nhờ lòng khoan dung nhân hậu của Chúa. Chính vì thế, khi bắt đầu cuộc sống công khai Chúa Giêsu đã kêu gọi:
- Hãy sám hối và tin vào Phúc âm.
Qua lời kêu gọi ngắn ngủi này, Ngài muốn chúng ta cộng tác với Ngài trong chương trình cứu độ. Đúng thế, có lần thánh Augustinô phát biểu:
- Để tạo dựng nên chúng ta, Chúa không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu độ chúng ta Ngài cần chúng ta ưng thuận và cộng tác với Ngài. Bởi vì Ngài sẽ không thể nào cứu chuộc chúng ta nếu như chính bản thân chúng ta lại không muốn.
Sự cộng tác của chúng ta, mặc dù rất nhỏ bé, nhưng lại là một yếu tố quan trọng và có tầm mức quyết định.
Cũng trong chiều hướng đó, chúng ta thấy tâm tình sám hối ăn năn, chính là sự cộng tác của chúng ta vào với ơn Chúa, chính là như một thứ tiền bạc thiêng liêng để chúng ta mua lấy ơn tha thứ.
Chàng trai phung phá sở dĩ đã được người cha đón nhận, là vì chàng đã có can đảm chỗi dậy, trở về nhà cha. Phêrô sở dĩ đã được Chúa tha thứ và được đặt làm đầu Giáo Hội, là vì ông đã biết đấm ngực sau những lầm lỗi của mình. Mađalêna sở dĩ đã được Chúa tha thứ, là vì nàng đã biết khóc thương cho quãng đời nhơ nhuốc trong dĩ vãng. Anh trộm lành trên thập giá, sở dĩ đã được Chúa tha thứ, là bởi vì anh đã quyết tâm trở về cùng Chúa, mặc dù chỉ trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời.
Nếu như giòng nước rửa tội tẩy xóa mọi dấu vết của tội nguyên tổ, thì những giọt nước mắt ăn năn sám hối, cũng chính là một thứ nước có sức gột rửa những dấu vết của tội lỗi mà chúng ta đã trót vấp phạm. Để nói lên sự cần thiết phải cộng tác với ơn Chúa, tôi xin kể lại một mẩu chuyện sau đây:
Sau khi cuộc thế chiến lần thứ hai kết thúc, có một toán lính đồng minh đi giúp những người dân xây dựng lại cuộc sống trên đống gạch hoang tàn đổ vỡ. Họ làm lại nhà cửa, sửa chữa ngôi nhà thờ trong làng. Nhưng đến khi dựng tượng Chúa thì toán lính không tìm đâu ra hai bàn tay của pho tượng đã bị bom đạn cắt cụt. Tìm kiếm suốt một ngày trong đám xà bần mà cũng chẳng thấy. Toán lính bèn chịu thua. Sau khi dựng bức tượng lên, viên sĩ quan đã ghi lại một hàng chữ như sau:
- Dân làng sẽ thay Chúa làm những công việc mà đáng lẽ hai bàn tay Chúa sẽ làm.
Một người đau khổ nghèo túng kêu cầu Chúa, và cần đến chúng ta để an ủi và giúp đỡ họ. Chúa dùng bàn tay của chúng ta để xoa dịu những nỗi bất hạnh của người khác.
Cuộc sống của chúng ta phải là một sự nối tiếp công trình của Chúa, phải là một sự kéo dài cho sự hiện diện đầy tình thương của Ngài cho đến tận cùng thời gian.
Chúa đã chết trên thập giá để lập nên kho tàng cứu độ, thế nhưng, chúng ta phải biết giơ bàn tay lên để đón nhận ơn cứu độ ấy cho bản thân và cho những người chung quanh của chúng ta.
21. Đổi mới cuộc đời – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Nhiều lần đài phát thanh, truyền hình, trong mục nói về giáo dục trẻ em, giới thiệu chương trình hoạt động của anh Thảo Đàn ở thành phố Hồ chí Minh. Trước đây, Thảo Đàn là một trẻ của đường phố, bỏ nhà đi lang thang bụi đời, tệ hơn nữa, vướng vào nghiện hút. Nhưng khi hiểu được tác hại của ma tuý, anh quyết tâm cai nghiện. Với ý chí cương quyết, anh đã hoàn toàn dứt bỏ được ma tuý. Chừa được ma tuý rồi, anh không chỉ hài lòng với việc làm lại cuộc đời cho bản thân, nhưng còn muốn dùng kinh nghiệm của mình để giúp đỡ các trẻ em đường phố. Với sự hỗ trợ của Nhà Nước và các tổ chức từ thiện, anh mở ra một trung tâm qui tụ 200 trẻ em đường phố. Tại đây, anh giáo dục cho các em hiểu biết những nguy hiểm đang rình rập các em, giúp các em bảo vệ quyền lợi của mình và nhất là tìm cách đưa các em hội nhập vào đời sống xã hội.
Điều mà Thảo Đàn đã làm cho bản thân mình và đang muốn làm cho các trẻ em đường phố, đó là đổi mới đời sống. Không biết anh có đạo hay không, nhưng anh đang thực hiện Lời Chúa trong các bài sách thánh hôm nay. Trong bài đọc thứ nhất, tiên tri Gio-na kêu gọi dân thành Ninivê đổi mới đời sống để được tha thứ. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu kêu gọi dân Do thái đổi mới đời sống để đón nhận Nước Chúa đang đến. Đáp lại lời Người, các môn đệ bước theo Đức Giêsu trong một đời sống mới. Cuộc đổi mới được tiến hành qua ba bước.
Bước thứ nhất: Nhận biết mình tội lỗi.
Tội lỗi như một cơn mê làm ta đắm đuối không nhận biết tình trạng tâm hồn của mình. Muốn đổi mới, cần phải thức tỉnh, nhìn rõ sự thực về mình, thấy rõ tình trạng tội lỗi, hiểu biết sự nguy hại của tội. Thảo Đàn bừng tỉnh sau những lầm lỡ, nhận thức mình đang đứng bên bờ vực thẳm, nên đã kịp dừng chân. Dân thành Ninivê, sau khi nghe tiên tri Giona rao giảng, ý thức về tình trạng nguy ngập của thành, nên đã chấm dứt tình trạng tội lỗi. Để biết rõ tình trạng tâm hồn, để nhận biết tội lỗi, cần phải siêng năng xét mình. Xét mình giống như ngọn đèn pha soi vào tất cả những ngõ ngách trong tâm hồn, phơi bày ra tất cả những gì còn ẩn giấu. Xét mình giống như cái cuốc đào bới những tầng lớp sâu thẳm của tâm hồn để lộ ra những tội lỗi còn bị thời gian, sự quên lãng và sự vô tình vùi lấp.
Bước thứ hai: Sám hối.
Khi đã nhận biết tội lỗi, tâm hồn phải tiến tới một thái độ tích cực hơn, đó là sám hối. Nhận thức tội lỗi giống như ta nhìn thấy một căn nhà rác rưới bẩn thỉu. Sám hối là bắt tay vào quét dọn sạch sẽ. Sám hối như giòng nước gột rửa linh hồn. Sám hối như chiếc dao mổ của bác sĩ cắt bỏ những ung nhọt gieo mầm mống bệnh tật. Sám hối càng mãnh liệt, tội lỗi càng lùi xa. Sám hối càng sâu xa, linh hồn càng mau chóng hồi sinh. Nhờ sám hối sâu xa, Thảo Đàn đã từ bỏ con đường nghiện ngập. Nhờ sám hối mãnh liệt, dân thành Ninivê đã bảo nhau, từ người già đến em bé đều xức tro, ăn chay cầu nguyện, quyết tâm từ bỏ con đường tội lỗi. Tâm hồn sám hối là tâm hồn được chuẩn bị sẵn sàng để đón nhận ơn Chúa.
Bước thứ ba: Đổi mới cuộc đời.
Sám hối chân thành bao giờ cũng đi đến đổi mới cuộc đời. Vì sám hối là muốn đoạn tuyệt với con đường xưa cũ để bước vào một con đường mới. Vì tâm hồn sám hối không những muốn sửa chữa lại những lỗi lầm quá khứ mà còn quyết tâm xây dựng một tương lai tươi mới,trong sạch hơn, tốt đẹp hơn, ích lợi hơn. Vì muốn hoàn toàn đổi mới, Thảo Đàn không chỉ tránh xa nhưng còn dấn thân giúp người khác đâú tranh chống tệ nạn xã hội. Vì muốn đổi mới cuộc đời, các tông đồ đã từ bỏ nếp sống cũ, từ giã những người thân, bỏ hết tài sản để lên đường đi theo Chúa. Con đường mới là con đường theo thánh ý Chúa, con đường dẫn ta đi trong tình yêu mến Chúa và yêu mến anh em. Tình yêu mến sẽ làm cho đời sống ta có ý nghĩa và trở nên phong phú vì sẽ đem lại những hoa quả thiêng liêng. Bước đi trên con đường mới, ta sẽ đón nhận được Nước Chúa đang đến. Bước đi trên con đường mới, ta sẽ góp phần đem Nước Chúa đến với anh em.
Đầu năm mới, ai cũng có ước mong mọi sự mới mẻ. Không gì đẹp hơn một tâm hồn đổi mới. Để đổi mới tâm hồn, ta hãy nhận biết tội lỗi và ăn năn sám hối. Với ơn Chúa giúp và với quyết tâm đổi mới, ta sẽ nhìn thấy những việc cần phải làm. Với những việc làm do Chúa Thánh Thần hướng dẫn, ta sẽ thực sự bước vào Năm Mới với cả tâm hồn đã được đổi mới.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đổi mới mọi sự trong ngoài của chúng con.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Đức Thánh Cha viết cho giới trẻ: "Quả thật, Đức Giê su là người bạn khó tính nhất. Người chỉ cho ta những đỉnh cao và đòi ta phải ra khỏi chính mình để gặp Người." Hiện nay, Đức Giê su đang mời bạn chinh phục những đỉnh cao nào?
2) Để đổi mới cuộc đời, bạn phải từ bỏ nhiều điều. Nhưng quan trọng hơn cả là từ bỏ chính mình. Bạn có kinh nghiệm gì về cái tôi của bạn. Cái tôi ấy ra sao (cứng cỏi, bướng bỉnh, khép kín, tự ái, tự mãn.....).
3) Chừa bỏ tật xấu có dễ không? Ta nên có thái độ nào đối với người nghiện hút, rượu chè?
22. "Hãy theo Ta"
"Hãy theo Ta". Đó là lời Đức Giêsu mời gọi những Tông Đồ đầu tiên bước theo Đức Giêsu. Các ông mau mắn bước đi theo tiếng gọi ấy. Chúng ta hãy nhìn xem thái độ của các ngài như thế nào? Các ông mau mắn đứng dậy, bỏ mọi sự để ra đi. Các ông đã bỏ mọi sự, bỏ cha mẹ, bỏ người thân. Kể cả bỏ những gì đã từng làm vướng bận tay chân các ngài bấy lâu nay: đó là chiếc lưới với những mớ dây chằn chịt đã từng trói chặt đôi chân các ngài, không cho các ngài đi đâu . Bỏ lại tài sản là chiếc thuyền chài với biết bao kỷ niệm gắn bó ở đó để lên đường theo tiếng gọi Giêsu.
Chỉ nghe tiếng gọi: " Hãy theo Ta", thế là tất cả giờ đây cả những điều thân thiết nhất, những điều từng gắn bó với các ngài đều trở nên vô dụng trước tiếng gọi của tình yêu cao cả ấy. Các ngài đã dứt khoát với những gì gần gũi với mình bấy lâu nay để bước đi mà không cần biết mình đi đâu, cũng không cần biết tương lai mình rồi nó sẽ như thế nào và cũng chẳng cần biết phải làm gì. Một cuộc đổi đời không có dự liệu...Các ngài chỉ cần biết nghe theo tiếng gọi và đáp trả là đủ. Cuộc đời các ngài đã trung thành với tiếng gọi. Các ngài đã làm tròn những gì mà tiếng gọi đòi hỏi, cho đến nỗi đã dám hy sinh cả mạng sống vì tiếng gọi.
Lời mời gọi đó vẫn còn vang lên mãnh liệt qua từng thời đại. Nhìn lại trong bối cảnh xã hội của chúng ta ngày hôm nay, tuy sống trong xã hội mang tiếng là "hưởng thụ", duy đòi hỏi nhu cầu nhưng hằng ngày hằng giờ nếu chúng ta chịu khó để ý chúng ta cũng sẽ thấy, sẽchứng kiến, sẽ biết có nhiều "tâm hồn" bước theo để đáp trả "tiếng gọi Tình yêu của Đức Giêsu" ấy. Họ dám từ bỏ những gì là cầnthiết và thân thiết nhất kể cả cha mẹ, người thân, nghề nghiệp, dự định tương lai...một cách dứt khoát mà không do dự. Tiếng gọi ấy bao phủ tất cả, nó lấn át tất cả. Khi đó họ không cần biết những gì sẽ chờ đợi mình, không cần biết tương lai sẽ ra sao. Họ chỉ cần biết, giờ đây họ hành động theo lệnh lệnh của con tim mách bảo và bước theo tiếng gọi của tình yêu. Như thế họ bắt đầu một cuộc đời mới mà không cần nghĩ suy điều gì cả. Và họ đã bước theo và trung thành cách tốt đẹp.
Còn đối với chúng ta, tiếng gọi tình yêu cao cả đó cũng đã vang đến bên tai mỗi người chúng ta. Chúng ta cũng đã đáp lại từ khi lãnh nhận bí tích rửa tội. Được lãnh nhận Bí tích Rửa tội, mỗi người được mời gọi bước theo để sống và làm chứng cho Đức Giêsu, dứt khoát và bước đi theo tiếng gọi. Nhưng rồi từng giờ, từng ngày trôi qua và giờ đây mỗi người nhìn lại mình xem: Chúng ta đã sống theo tiếng gọi như thế nào? Mệnh lệnh con tim thuở ban đầu giờ đây chắc không còn đủ "lửa nhiệt huyết" lắm đối với sự đáp trả của chúng ta. Bởi vì thỉnh thoảng chúng ta vẫn còn trở về cây - đa - cũ bến - đò xưa, để tìm lại những bạn bè năm xưa, trở về chốn Ai - Cập xưa để tìm "củ hành - củ tỏi" . Đó là mỗi khi phạm tội, là chúng ta đã trở về với con người chưa được kêu gọi. Mặt khác, chúng ta cũng còn để cho những mớ chày lưới rối tung đó quấn chặt, bao vây những bước chân của mình để rồi không thể tiếng bước thêm được nữa. Cũng có những lúc chúng ta để cho những tình cảm riêng tư trong con người nỗi lên lấn át cả tiếng gọi linh thiêng của mối tình cao cả mà ngày nào mình đã can đảm bước theo. Nhưng giờ đây đôi lúc chúng ta sợ sệt: sợ không còn ai yêu thương mình, nếu sống theo tiếng gọi mà mình đã bước theo, sợ thiệt hại bản thân - mất lợi lộc vật chất nếu sống đúng với những gì tiếng gọi đòi hỏi, sợ mất đi một chút thời giờ quí báu để hưởng thụ cho thân xác nếu mình sống đúng với những gì sứ mệnh của tiếng gọi đòi hỏi. Nỗi lo sợ đó là những mớ dây chày lưới đã trói bược đôi chân, khiến chúng ta không thể bước đi thoải mái theo tiếng gọi và trung thành với những gì mà tình yêu cao cả đòi buộc chúng ta. Chúng ta hãy xin lỗi Chúa vì những lỗi lầm mà chúng ta đã phạm, điều này đã xúc phạm đến tình yêu bao la vô bờ bến mà Chúa đã thương dành cho chúng ta. Chúng ta hãy thật sự hối tiếc vì những lỗi lầm ấy và thật lòng ăn năn xin lỗi Chúa. Chúng ta hãy quyết tâm đáp trả chân thành và nhiệt tình , hết mình với tình yêu thương mà Chúa đã thương mời gọi chúng ta theo Chúa. Chúng ta hãy dấn thân hơn. Chúng ta hãy mau mắn đáp trả. Nếu tất cả mọi lời nói , mọi việc làm của chúng ta đều phát xuất bởi tình yêu của Chúa, nếu chúng ta biết hành xử với người khác bằng tất cả tình yêu thương mà Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta, nếu chúng ta biết sống như thế nào để người khác nhận ra tình yêu của Thiên Chúa đang hiện diện nơi chúng ta thì như thế là chúng ta đã sống trọn vẹn và trung thành với tiếng gọi tình yêu của Thiên Chúa. Con người ai cũng có con tim để biết yêu thương và đáp trả. Xin Chúa cho chúng ta biết dùng con tim ấy để biết yêu và đáp trả lời mời gọi yêu thương của Chúa dành cho chúng ta.
Lạy Chúa , xin cho chúng con biết chọn Chúa và quyết tâm theo Chúa đến cùng.
23. Chúng ta làm gì với Lời Chúa.
(Suy niệm của Jean-Yves Garneau)
Không bao giờ chúng ta coi trọng Lời Chúa mà lại không thay đổi gì trong đời sống của mình.
Thiên Chúa lên tiếng.
Chúng ta thuộc vào số những kẻ tin rằng Thiên Chúa đã ngỏ lời với nhân loại và Ngài vẫn tiếp tục ngỏ lời bằng nhiều cách.
Các biến cố xảy đến trên thế giới hoặc trong chính cuộc đời chúng ta thường là Lời Chúa: một thiên tai, một chiến thắng trên bệnh tật, cái chết của một người thân, một đứa con ra đời, một cử chỉ tử tế hoặc thù hằn mà người nào đó làm cho chúng ta. Có bao nhiêu sứ điệp của Thiên Chúa mà ta cần biết nhận ra.
Cả Thánh Kinh nữa, tức là Lời mà Thiên Chúa đã nói với loài người suốt lịch sử thánh và đã được ghi chép cẩn thận. Luôn luôn mang tính thời sự. Lời này được loan báo và giải thích cho chúng ta mỗi Chúa nhật. Bất cứ lúc nào chúng ta cũng có thể đọc, suy gẫm và đào sâu Lời này.
Chắc chắn, Lời Chúa luôn luôn ở trong tầm tay chúng ta như một ánh sáng có thể soi sáng chúng ta, như một nguồn suối, mà bao giờ chúng ta cũng có thể đến giải khát.
Trân trọng Lời Chúa.
Tuy nhiên, vấn đề là biết được chúng ta đã làm gì với Lời Chúa. Vì, đọc và nghe Lời Chúa chưa đủ, ta cần phải đem ra thực hành nữa. Biết Lời Chúa không đủ, còn phải lấy Lời Chúa mà hướng dẫn đời mình nữa.
Những gì được nói với chúng ta trong các bài đọc Thánh lễ hôm nay soi sáng và thách thức chúng ta. Ngôn sứ Giona rao giảng khắp thành phố Ninivê loan báo hình phạt của Chúa. Dân chúng trong thành phố lớn này có thể giả điếc làm ngơ và tự nhủ Giona này chỉ là một tiên tri giả thôi hoặc là một kẻ mơ mộng, không bình thường. Nhưng trái lại, họ đã khôn ngoan tin rằng người này nói nhân danh Thiên Chúa và họ đã đáp lại lời giảng của ông: họ ăn chay và thay đổi cuộc sống. như vậy, họ đã khiến Thiên Chúa “từ bỏ hình phạt mà Ngài đe dọa họ”.
Vậy việc trân trọng Lời Chúa đã khiến dân thành Ninivê thay đổi cuộc sống. Đối với họ, không phải chỉ kính cẩn, chăm chú nghe Lời Chúa, chỉ suy gẫm Lời Chúa mà thôi, còn phải hành động theo những đòi hỏi của Lời ấy nữa. Lời Chúa đòi hỏi gắt gao.
Cũng một sứ điệp như vậy trong Tin Mừng. Trước lời mời gọi của Chúa Giêsu, các tông đồ tương lai đáp trả bằng cách biến đổi hoàn toàn cuộc sống của họ. “Tức khắc, họ bỏ lưới, (Simon và Andrê) để đi theo Chúa Giêsu”.
Giacôbê và Gioan em ông cũng làm như vậy nữa “bỏ cha và những người làm công lại trong thuyền, họ đi theo Ngài”.
Chúng ta đừng đọc trang Thánh Kinh này như một câu chuyện thần tiên trong đó các anh hùng giải quyết mọi sự mà không cần cố gắng. Đối với Simon và Andrê, đối với Giacôbê và Gioan, đối với dân thành Ninivê, quyết định trân trọng lời mời gọi của Thiên Chúa là điều vất vả. Quyết định ấy đã đòi hỏi thay đổi cuộc sống.
Ta không thể thật sự trân trọng Lời Chúa mà không bao giờ thay đổi gì cả trong cuộc sống của mình. Đây là sứ điệp của hôm nay. Về điểm này, chúng ta phải tự hỏi: trong cụ thể, chúng ta làm gì với Lời Chúa mà chúng ta đã nghe từ Chúa nhật này đến Chúa nhật khác? Trong bao nhiêu năm nay chúng ta đã đi lễ, chúng ta có thực sự coi trọng Lời Chúa vẫn được loan báo và giải thích cho chúng ta không? Chúng ta hãy chính xác hơn nữa: chúng ta có thể kể ra những lần chúng ta đã thay đổi điều gì đó trong cuộc sống của mình vài Lời Chúa ta đã nghe không?
Thời gian thật ngắn ngủi.
Thánh Phaolô viết cho giáo đoàn Côrintô: “Thời gian thật ngắn ngủi”. Vậy không phải ngày mai mà ngay hôm nay chúng ta phải tìm cách gạt đi những gì giả tạo hay vô ích trong cuộc sống chúng ta và tập trung vào điều chính yếu. Những gì dân Ninivê đã làm. Những gì các môn đệ sơ khởi đã làm.
Chắc hẳn chúng ta cần một ơn đặc biệt để hành động như vậy. Ơn này không thiếu cho chúng ta đâu. Hôm nay Thiên Chúa không ít quảng đại hơn hôm qua đâu. Vậy chúng ta hãy nài xin Ngài cho chúng ta được ơn không những biết nghe Lời Chúa mà còn biết “đem ra thực hành” nữa. “Không phải những kẻ nói: “Lạy Chúa, lạy Chúa” là được vào Nước Trời đâu, nhưng những kẻ thực thi ý Cha Ta trên trời” (Mt 7,21).
24. Thiên Chúa thì vĩ đại.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
Hầu hết mọi người đã được nghe về câu chuyện tiên tri Giona bị con cá voi nuốt. Điểm chính của câu chuyện này thì bị lãng quên, nếu chúng ta không biết hoặc không nhớ thế nào mà ngài đã lâm vào tình trạng bi đát đó. Thiên Chúa đã kêu gọi Giona làm tiên tri cho Người và đến rao giảng cho những người dân trong thành Ninivê. Giona không đơn giản là một tiên tri dễ bảo như tiên tri Isaia, Giêrêmia, Amos. Ngài đã làm một cuộc cách mạng chống lại những ước muốn của Thiên Chúa. Lý do của ngài là người dân Ninivê không phải là dân Do Thái. Họ là kẻ thù của người Do Thái. Giona sợ rằng những người dân Ninivê sẽ nghe những lời rao giảng của ông, thống hối và sẽ trở nên có ơn nghĩa với Thiên Chúa. Đó là điều sau cùng mà ông muốn xảy ra. Yêu cầu Giona rao giảng cho những người dân thành Ninivê thì giống như yêu cầu một cổ động viên của Dalas Cobow cầu nguyện cho đội Francico Fortinight chiến thắng Super Bowl.
Khi Giona cố gắng chạy trốn Thiên Chúa. Ông ta lên một chiếc thuyền và sau đó liền lâm vào một cơn bão đe doạ đến sự sống của toàn thuyền, khi ấy những người thuỷ thủ kết luận rằng, Giona chính là vấn đề nên họ đã liệng ông ra khỏi thuyền. Ông bị nuốt bởi một con cá khổng lồ, Thiên Chúa ra lệnh cho cá nhả Giona vào bãi biển, đó là đường lối của Thiên Chúa để nói cho Giona rằng; “Bây giờ anh phải vui lòng đi và rao giảng cho người dân Ninivê về những gì sẽ xảy ra”.
Sách Giona thì giống như những dụ ngôn của Chúa Giêsu, ở đó tiềm ẩn những bài học quan trọng để giáo huấn. Giona đại diện cho những người nhỏ mọn, rất ích kỷ, người không muốn chia sẻ bất cứ điều gì với người khác và ngay cả Thiên Chúa nữa. Giona là biểu tượng cho những người oán ghét người khác, tham lam, và từ chối sự giảng hoà với kẻ thù của mình, cho dù họ vẫn trông đợi Thiên Chúa tha thứ tội lỗi cho họ. Giona đại diện cho những người đó, những người không hiểu biết Thiên Chúa.
Thiên Chúa thì lớn lao nhưng chúng ta có khuynh hướng nhỏ mọn ti tiểu. Thiên Chúa đang tha thứ nhưng chúng ta có khuynh hướng từ chối những kẻ làm tổn thương chúng ta. Thiên Chúa là Đấng quảng đại nhưng chúng ta có khuynh hướng trở thành ích kỷ. Dấu hiệu của Thiên Chúa thì rất khác biệt với Giona và tất cả những ai giống như Người là thánh giá. Trong kinh nguyện Thánh Thể thứ hai chúng ta nói với Chúa Giêsu rằng: “Ngài đã giang rộng cánh tay trên thánh giá”, Ngài đã làm như vậy để âu yếm những người nam, người nữ trong mọi thời và mọi nơi. Bản dịch từ tiếng Tây Ban Nha làm cho ý nghĩa này trở nên rõ ràng cảm động hơn: “Ngài đã giang rộng cánh tay của Người”. Đó là Ngài muốn vươn đến xa bao nhiêu có thể, để không một người nào bị loại trừ khỏi tình yêu giao hoà của Người.
Trước khi Ngài hy tế chính mình trên thánh giá để cứu độ chúng ta. Chúa Giêsu muốn bảo đảm sứ vụ của Người được tiếp tục trên mặt đất này, sau cái chết và sự Phục Sinh của Người. Ngay sau khi bắt đầu đời sống công khai, Ngài đã chọn các tông đồ, những người tông đồ được chọn là những hạt nhân ở chung quanh Ngài, và họ sẽ hình thành Giáo Hội của Người. Họ sẽ trở thành những người đánh cá linh hồn với một cái lưới lớn lao, lưới đó còn lớn hơn là con cá đã nuốt Giona, một cái lưới lớn như vậy sẽ đủ cho tất cả mọi người. Chúng ta gọi Giáo Hội Công Giáo bởi vì Giáo Hội là hoàn vũ. Giáo Hội đó có khuynh hướng trở lại qua mọi thời để đến thời của Đức Kitô ở lại cho đến khi Ngài trở lại trong vinh quang. Đó là Công Giáo và cũng là ý nghĩa tất cả mọi dân không ai bị loại trừ. Mặc dù Giáo Hội đặt nền tảng được sáng lập tại Giêrusalem nhưng không phải thuộc về người Do Thái. Mặc dầu Giáo Hội đặt trung tâm tại Rôma nhưng không phải là của người Ý. Giáo Hội được trải rộng chính yếu bởi những nhà truyền giáo châu Âu nhưng Giáo Hội không là người châu Âu. Giáo Hội là Công giáo, hoàn vũ. Tất cả những người Công Giáo đích thực thì không đóng kín trái tim của mình với những người khác như là tiên tri Giona đã làm. Đúng hơn họ phải trở nên giống như Đức Kitô giang rộng cánh tay, vươn cánh tay của họ ra để âu yếm hết mọi người.
25. Đôi tay của Chúa
(Trích trong: “Niềm Vui Chia Sẻ”)
Vào cuối thế chiến thứ hai, để thu phục thiện cảm và sự tin tưởng của người dân trong làng vừa mới được giải phóng khỏi tay quân đội Đức quốc xã, toán lính thuộc lực lượng đồng minh cố gắng lượm lại từng mảnh vỡ của bức tượng Chúa Giêsu đã được dựng lên ở quảng trường trước ngôi nhà thờ nhỏ, trung tâm sinh hoạt của làng quê miền cực nam nước Italia.
Sau nhiều ngày cố gắng, toán lính đã gắn lại được gần như toàn bức tượng của Chúa. Nhưng chỉ có đôi tay bức tượng là không thể nào hàn gắn lại được, vì các mảnh vỡ quá vụn nát. Sau nhiều giờ bàn luận và gần như sắp quyết định bỏ dở công việc, thì một người trong toán lính có sáng kiến tìm lấy hai khúc gỗ gắn vào nơi hai cánh tay bị bể nát của bức tượng, rồi viết vào đó một hàng chữ bất hủ, không những đánh động được tâm hồn của những người dân trong làng, mà còn thu hút nhiều khách du lịch đến vùng này để đọc tận mắt hàng chữ đầy ý nghĩa. Anh chị em có đoán được hàng chữ này không? Đó là: “Chính bạn là đôi tay của Chúa”.
Thiên Chúa cần con người. Chúa Giêsu cần chúng ta như đôi tay nối dài của Ngài. Chúa Giêsu muốn dùng chúng ta như đôi tay để tiếp tục sứ mạng của Ngài. Trước khi Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng Tin Mừng ở vùng Galilê, chắc Ngài đã nghĩ đến việc chiêu mộ các môn đệ để tiếp tay với Ngài. Làm sao để mọi người biết rằng đã đến thời viên mãn, Nước Thiên Chúa đã gần kề? Làm sao để mọi người sám hối và tin vào Tin Mừng? Chúa Giêsu biết rõ giới hạn của mình. Ngài cần những người cộng tác để làm tròn sứ mạng Chúa Con trao. Ngài cần đến từng người chúng ta, một viên gạch nhỏ nhưng cần thiết cho cả tòa nhà. Chẳng có ai là thừa, chẳng có ai là vô dụng.
“Anh em hãy làm cho muôn dân trở thành môn đệ Thầy”, đó là mệnh lệnh của Chúa Phục Sinh. Ngài vẫn cần đến chúng ta ngày nào thế giới này còn một người chưa thành môn đệ của Ngài. Chính vì thế, Chúa Giêsu hôm nay vẫn ngỏ lời với từng người chúng ta. Ngài muốn tôi trở thành sự hiện diện của Ngài cho anh em tôi ở đây, hôm nay.
Ngày xưa, lúc đang đi dọc theo bờ biển hồ Galilê, Chúa Giêsu đã thấy bóng dáng các anh đánh cá quen thuộc. Họ có đôi lần tiếp xúc với Ngài và chắc có lần đã được nghe Ngài giảng và chứng kiến các phép lạ Ngài làm, kể từ sau lần được Gioan Tẩy Giả giới thiệu. Chúa Giêsu thấy họ đang làm việc hoặc quăng chài dưới biển để đánh cá hoặc đang ngồi trong thuyền với cha để vá lưới. Chúa Giêsu chắc đã đứng lâu nhìn những cảnh tượng đầy tình người này với cặp mắt yêu thương. Đẹp biết bao hình ảnh con người làm chung với nhau một việc. Họ có tinh thần tập thể và sau này họ sẽ còn làm việc chung với nhau trên chiếc thuyền lớn là Giáo Hội.
Chúa Giêsu đã thấy Simon và Anrê, Giacôbê và Gioan. Chúa Giêsu hôm nay cũng thấy chúng ta. Trước khi kêu gọi chúng ta, Ngài đã ngắm nhìn chúng ta rất lâu. Hạnh phúc cho người nào được thấy Thiên Chúa, nhưng cũng phải nói thêm, hạnh phúc cho người nào được Thiên Chúa thấy, được lọt vào ánh mắt của Ngài. Chúa Giêsu hôm nay đang thấy chúng ta. Chúng ta thế nào, Ngài thấy chúng ta thế ấy. Cái nhìn của Ngài không làm chúng ta bị tê liệt, vì Ngài chấp nhận trọn vẹn con người chúng ta, cả cái yếu đuối và tội lỗi của chúng ta nữa. Chúng ta không cần phải son phấn, phải ăn mặc đúng một thời trang để gợi sự chú ý của Ngài. Chính cái thô thiển mộc mạc của ta đã thu hút Ngài.
Chúa Giêsu hôm nay bắt gặp chúng ta lúc chúng ta đang làm một việc gì đó, đang mải mê với một dự tính tốt đẹp. Ngài gặp chúng ta không phải chỉ trong lúc đọc kinh, dự lễ, những ngay giữa chợ đời xô bồ, giữa cái lam lũ vất vả của đời thường, giữa cái bon chen vật lộn của cuộc sống. Cuộc gặp gỡ thật bất ngờ. Có thể điều chúng ta phải dứt bỏ đầu tiên là công việc ta ưa thích và đang làm, là bầu khí gia đình ấm áp mà ta đang tận hưởng.
Ở đất nước chúng ta, ơn gọi thường được hiểu là ơn sống đời tu sĩ hay linh mục. Thật ra ơn gọi làm vợ, làm chồng, ơn gọi làm cha, làm mẹ. Ơn gọi ấy thật là cao quý và nhiều khó khăn không kém ơn gọi tu sĩ, linh mục. Tin Mừng hôm nay dành cho mọi Kitô hữu, dù sống ở bậc nào đi nữa. Tất cả chúng ta đều được gọi làm môn đệ của Chúa Giêsu “Các anh hãy theo Tôi”. Đây là lời mời gọi. Ơn gọi khởi xướng từ một tiếng gọi của Thầy Giêsu. Chúa Giêsu mời gọi Kitô hữu đi theo Ngài. Không phải chỉ là đi theo một lý tưởng hay theo một mục đích cao đẹp, mà là đi theo chính con người của Ngài. Ơn gọi Kitô hữu là gắn bó với Chúa Giêsu, nhận Ngài là trung tâm và chóp đỉnh của đời mình.
“Tôi sẽ làm cho anh em trở thành những kẻ lưới người như lưới cá”. Một cuộc biến đổi thực sự, từ lưới cá đến lưới người, từ ngư phủ thành Tông đồ. Chỉ Chúa Giêsu mới làm được cuộc biến đổi đó. Khi được mời gọi gắn bó với Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi gắn bó với con người. Bởi, con người là mối bận tâm chủ yếu của Chúa Giêsu. Theo Ngài là cùng chia sẻ nỗi thao thức của Ngài về nhân loại và đồng bào, đồng lao cộng khổ với Ngài trong sứ mạng cứu độ.
“Chính bạn là đôi tay của Chúa”. Chính chúng ta phải là những cánh tay nối dài của Chúa Giêsu. Sứ mạng cứu độ của Chúa là một sứ mạng thiêng liêng, nhưng sứ mạng ấy cần phải được thể hiện bằng lời nói, bằng hành động. Vì thế, không có gì đáng ngạc nhiên khi giao phó sứ mạng đó cho Giáo Hội, qua các Tông đồ, qua hàng giáo phẩm, giáo sĩ và mỗi Kitô hữu chúng ta. Nhờ những hoạt động bằng đôi tay cụ thể của chúng ta, Chúa Giêsu tiếp tục loan truyền Tin Mừng Nước Trời, trao ban sự sống và dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu.
Là chi thể của Giáo Hội, Thân Mình Mầu Nhiệm của Chúa Kitô, một Kitô hữu cũng là đôi tay rộng mở của Chúa Kitô, nhờ đó, Ngài không ngừng giải tỏa ánh sáng, trao tặng tình thương, ơn cứu độ và hạnh phúc cho mọi người.
26. Hãy theo Tôi
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Bốn anh thanh niên có gia đình, có nghề nghiệp lại được Đức Giêsu mời gọi theo Ngài, bỏ lại tất cả. Chắc chắn họ không phải là những người nhẹ dạ. Họ đã từng quen biết Thầy Giêsu và kính nể Ngài. Đến lúc nào đó, khi được Ngài hoàn toàn chinh phục, họ đã sẵn sàng ra đi, nhẹ tênh.
Nhiều người nghĩ rằng đoạn Tin Mừng này nói về ơn gọi đi tu của các linh mục tu sĩ. Thật ra đây là đoạn Tin Mừng nói về ơn gọi của từng Kitô hữu chúng ta.
Chúa Giêsu vẫn đi ngang qua đời ta mỗi ngày như xưa Ngài đã dọc theo biển hồ Ga-li-lê. Ngài thấy ta như Ngài đã thấy bốn môn đệ. Ngài thấy ta trước khi ta thấy Ngài. Cái nhìn của Ngài không làm ta bị tê liệt vì Ngài chấp nhận trọn vẹn con người của ta. Cả những yếu đuối và tội lỗi cũng được Ngài đón nhận. Hạnh phúc cho ai được thấy Thiên Chúa. Nhưng hơn nữa, hạnh phúc cho ai được Thiên Chúa thấy.
Lúc Ngài thấy ta thì ta vẫn không hay biết. Ta vẫn mải mê quăng chài hay vá lưới. Ta vẫn tất bật với những lo toan đời thường, hay đang miệt mài theo đuổi một ước mơ. Chính lúc đó, chính lúc ta tưởng mình quá ư ổn định, và đời mình đã được định hướng quá rõ ràng, thì tiếng gọi của Ngài vang lên, mạnh mẽ, dứt khoát.
Hãy theo tôi!
Mọi người Kitô hữu đều được mời gọi đi theo Chúa Giêsu. Ngài không mời ta đi theo một lý tưởng, một ý thức hệ. Ngài mời ta theo chính con người Ngài, gắn bó với Ngài, nhận Ngài là nền tảng và chóp đỉnh của cuộc sống.
Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới con người.
Con người là điều ta phải quan tâm, vì đó là mối quan tâm lớn nhất của Chúa Giêsu.
Theo Ngài là chia sẻ với Ngài cùng một sứ mạng, là thao thức và đồng cam cộng khổ với Ngài trong công việc cứu độ toàn thế giới.
Chúa Giêsu mời ta dấn thân vào cuộc đổi đời, mời ta định lại hướng đi theo những giá trị mới. Như thế là chấp nhận đổ vỡ, đoạn tuyệt.
Bốn môn đệ đã bỏ lại biển cả và những người thân yêu. Vợ con của Simon và cha của Giacôbê sẽ sống thế nào? Mái nhà nay vắng bóng những người đàn ông cột trụ!
Hôm nay Chúa Giêsu vẫn cần bạn, vì bạn là Kitô hữu. Ngài vẫn thấy bạn, và mời gọi bạn đáp lại mỗi ngày.
Cần trầm lắng mới nghe được tiếng thì thầm của Chúa. Bạn có thể sống như một giáo dân bình thường. lo xây dựng gia đình, sự nghiệp, tương lai. Nhưng bạn phải sẵn sàng từ bỏ khi cần, nghĩa là chọn Chúa, đặt Chúa lên trên mọi giá trị đó.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đức Thánh Cha viết cho giới trẻ: "Quả thật, Đức Giêsu là người bạn khó tính. Ngài chỉ cho ta những đỉnh cao và đòi ta phải ra khỏi chính mình để gặp Ngài, bằng cách trao phó cho Ngài trọn cuộc sống." Hiện nay, Ngài đang mời bạn chinh phục đỉnh cao nào trong cuộc sống?
Để theo Đức Giêsu, cần phải từ bỏ nhiều điều. Nhưng quan trọng hơn cả là từ bỏ chính mình. Bạn có kinh nghiệm gì về cái tôi của bạn? Cái tôi ấy ra sao (cứng cỏi, bướng bỉnh, khép kín, tự ái, tự mãn...)?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa,
Chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon, một người đánh cá ít học và đã lập gia đình, để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.
Chúa xây dựng Giáo Hội trên một tảng đá mong manh, để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.
Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con theo Chúa, sống cho Chúa, đặt Chúa lên trên mọi sự: gia đình, sự nghiệp, người yêu.
Chúng con chẳng thể nào từ chối viện cớ mình kém đức kém tài. Chúa đưa chúng con đi xa hơn, đến những nơi bất ngờ, vì Chúa cần chúng con ở đó.
Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon, bỏ mái nhà êm ấm để lên đường, hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.
27. Phaolô Vị Tông Đồ hăng say rao giảng Tin Mừng
Thông thường, để cho dễ nhớ tên của các Tông đồ ta thường nhớ kèm theo một trong những điểm nổi bật của các ngài. Chẳng hạn như nói đến vị Thánh sử viết Tin mừng mà trước kia làm nghề thu thuế thì ta sẽ nhớ ngay là Matthêu, nói đến vị Tông đồ cứng lòng tin thì không ai khác đó là Thánh Tôma hay nói đến Tông đồ được Chúa Giêsu yêu mến đó là Gioan.... Cũng vậy, khi nói đến Vị Tông đồ sinh sau đẻ muộn mà có lòng hăng say thì ta không thể nào quên chính là Thánh Phaolô mà chúng ta mừng lễ hôm nay.
Như chúng ta biết, trước khi trở lại Thánh Phaolô rất ghét những ai tin vào Chúa Giêsu. Ngài cho đó là tà đạo. Do đó, hễ nghe nói ở đâu có người tin vào danh Giêsu là ngài tìm cách đi bắt ngay. Có thể nói với những người tin vào danh Giêsu thì khngài thể đội trời chung với ngài được. Ngày kia trên đường đi Đamas để làm việc ấy thì bỗng có một luồng sáng chiếu quá khiến ngài ta té xuống ngựa. Kèm theo là có tiếng "Saolô, Saolô sao ngươi bắt bớ Ta". (Cv 9, 4)
Sau cuộc đối thoại với Chúa Giêsu thì ngài đã thay đổi 180 độ. Trước kia ngài hăng say đi bắt những người tin vào danh Giêsu bao nhiêu thì giờ đây ngài lại hăng say đi rao giảng danh ấy bấy nhiêu. Đến nỗi nhiều người thấy vậy đã từ ngạc nhiên đến hoài nghi và căm giận ngài. Những nơi nào đến được và những nơi nào cần thì ngài đều đến. Nào là Antiôkia, Côrintô, nào là Galata, nào là Êphêsô....Thậm chí khi bị bắt trong tù ngài cũng không bỏ việc rao giảng. Ngài đã viết rất nhiều bức thơ để an ủi những cộng đoàn ngài đã đi qua. Nếu chúng ta mở sách Tân ước ra thì phần lớn những thơ trong đó đều là của ngài.
Như thế, Thánh Phaolô thật là một con người hăng say. Chỉ vì trước kia ngài hăng say theo suy nghĩ của mình nên ngài đã phạm phải sai lầm. Nhưng từ khi ngài được Chúa Giêsu thu phục thì sự hăng say ấy hoàn toàn theo thánh ý Chúa. Ngài chỉ còn biết hăng say trong ck thôi. Ngài đã nói: "Tôi sống không phải là tôi sống nhưng là Đức Kitô sống trong tôi" "Đối với tôi sống là Đức Kitô" hay "Không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô".
Qua sự hăng say trong Đức Kitô đó, chắc hẳn ngài đã sống lời mời gọi và lệnh truyền của Chúa Giêsu trong đoạn Tin mừng: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi thọ tạo" (Mc 16 ,15) một cách rất tuyệt hảo. Từ một con người hăng say đi bắt những ai tin vào Tin mừng trở nên một con người hăng say rao giảng Tin mừng.
Do đâu, Thánh Phaolô đã sống được như thế? Vì ngài đã cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa dành cho mình qua Chúa Giêsu quá sâu xa đậm đà. Chắc chắn mỗi người chúng ta cũng đều được Thiên Chúa yêu thương như vậy. Chỉ khác nhau mỗi người ở trong những hoàn cảnh và điều kiện khác nhau. Ước gì mỗi người chúng ta mỗi ngày cảm nghiệm được nhiều hơn tình yêu Thiên Chúa dành cho mình. Để rồi chúng ta cũng biết noi gương Thánh Phaolô hăng say sống chứng nhân tin mừng mỗi ngày.
28. Người ta không phải đương nhiên là Kitô hữu,
Người ta trở thành kitô hữu.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Đoạn Phúc âm này theo thánh Marcô, tỏ cho chúng ta hai điều: Trước hết chúng ta thấy Chúa Giêsu rảo qua miền Galilê, để giảng dạy. Kế đó chúng ta thấy Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ để họ hợp tác vào sứ mệnh của Người.
1. GIÁO HUẤN CỦA CHÚA GIÊSU
Giáo huấn ấy gồm một lời loan báo và một đòi hỏi. Lời loan báo Tin Mừng Phúc âm ấy là thời gian chuẩn bị và chờ đợi đã gần chấm dứt, Nước Thiên Chúa đã đến, có thể nhận ra được. Cũng như vào những ngày cuối đông, chúng ta thường nói: ‘Xuân sắp về’, thì Chúa Giêsu cũng vậy, cuối hạn kỳ cuộc chờ mong lâu dài của Cựu Ước, Chúa loan báo Nước Trời đã đến, gần gũi như muà xuân của thế gian. Nhưng chúng ta phải đủ sức nhìn ra nó và đón tiếp nó. Để được thế, anh em phải ăn năn thống hối và tin vào Tin Mừng. Bằng một thay đổi nào trong nếp sống, chúng ta phải mở lòng ra để đón lấy ân huệ đức tin. Gioan Tẩy Giả chỉ rao giảng sự ăn năn thống hối. Chúa Giêsu đi xa hơn và đòi Đức tin. Đoạn tiếp của Phúc âm cho thấy là đức tin đòi hỏi ở đây, không nhắm vào một giaó lý mà là vào một người. Khi Chúa Giêsu đòi hỏi Đức tin, điều đó có nghĩa là ở địa vị con Thiên Chúa, Người đề nghị chính Người là đối tượng của đức tin ấy. Cuối cùng, nỗ lực ăn năn thống hối có mục đích làm cho con người có đủ khả năng gắn bó với Chúa Giêsu.
Khi đã loan báo Nước Trời, Chuá Giêsu đưa vào một yếu tố mới. Người muốn sự loan báo ấy được trao phó cho những người có sứ mệnh đem truyền bá nó ra cho hết thảy mọi người. Chúa kêu gọi các môn đệ.
2. KÊU GỌI CÁC MÔN ĐỆ
Chúa Giêsu phán: Hãy đến theo ta và Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những ngư ông lưới người. Trong câu nói ấy của Chúa Giêsu, chúng ta hãy dừng lại ở hai phương diện quan trọng của lời kêu gọi: Hãy đến theo ta; ta sẽ làm cho các ngươi trở thành.
a) Hãy đến theo Ta. Lời mời gọi này của Chuá Giêsu nhấn mạnh đến tất cả sự khác biệt mà người đặt vào giữa Người và các nhà thông thái lề luật. Các nhà thông thái này có nhiều môn đệ, song họ chỉ truyền lại môt giáo huấn, không hơn không kém. Một môn đệ nào đó có thể nói: họ nhận nhà thông thái Lề Luật làm thầy, nhưng họ vẫn được phép tranh luận với thày, không chấp nhận mọi điểm thày dạy, và vượt quá thày. Sự đòi hỏi của Chúa Giêsu thì khác hẳn. Chúa kêu gọi người ta theo Chúa, và trong Phúc âm tiếng “theo” luôn luôn có nghĩa là gắn bó với con người của Thày. Điều đó có vẻ thái quá vì theo não trạng người Do Thái, chỉ mình Thiên Chúa mới xứng đáng cho người ta gắn bó với Ngài. Điều đó có nghĩa là Chúa Giêsu chiếm đoạt cho Người lời nói của tiên tri Is. loan báo một ngày kia hết thảy đều trở nên “môn đệ của Thiên Chúa” (Is 54,13). Không mạc khải ngay mình là Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu cách gián tiếp đã lôi kéo các môn đệ vào con đường chuẩn bị cho họ đón nhận sự mạc khải đó.
b) Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành. Chúa Giêsu không nói: Ta làm cho các ngươi, cũng không nói cách đơn giản: Ta sẽ làm cho các ngươi. Người nói: Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành. Lời kêu gọi của Chúa Giêsu không có tác dụng làm cho kẻ được kêu trở nên môn đệ hoàn hảo ngay trong tình trạng cuối cùng. Đây chỉ mới là một sự lên đường, một sự khởi đầu, một lời kêu gọi chuyển động. Người ta trở thành môn đệ của Chúa, chứ người ta không tức khắc là môn đệ Chúa. Trước khi là Tông đồ của Chúa sau Lễ Ngũ tuần, các Tông đồ đã được Chúa huấn luyện lâu dài, đã được thử thách, thanh tẩy, kiện toàn. Ngày nay, chúng ta cũng vậy. Thật ra, chúng ta không thể nói: Chúng ta đương nhiên là kitô hữu; chúng ta được Chúa Giêsu kêu gọi trở thành kitô hữu, trở thành môn đệ Người. Danh từ “theo” mà Chúa dùng ở đây giả thiết một động tác ấy. “Theo” có nghĩa là không đứng yên tại chỗ, nhưng là tiến bước theo sau Thày mình. Do Thánh Linh của Người, Chúa Kitô phát triển trong chúng ta một công cuộc huấn luyện, như Người đã huấn luyện các môn đệ đầu tiên của Người. Sự hình thành về tâm linh của chúng ta ưu tiên tùy thuộc nơi Người. Phần chúng ta, Chúa đòi hỏi chúng ta phải thừa nhận tác động của Chúa, phải ngoan ngoãn dễ dạy đối với Người và phải đặt đời sống chúng ta trong đời sống của Người.
29. Đã mãn
Để chuẩn bị chịu phép Thêm sức, các em thanh thiếu niên phải thiện nguyện tham gia những việc bác ái như giúp đỡ những người già yếu, tham gia vào việc xã hội của cộng đoàn… Sau khi làm công tác, các em họp nhau lại để chia sẻ cảm nghiệm. Có một em đã kể câu chuyện giúp đỡ một bà cụ từ siêu thị Kmart về nhà như sau:
Sáng Chúa nhật em ra ngoài tiệm Kmart, gặp một bà cụ đang khệ nệ với hai túi xách tay nặng những hàng hóa mới mua. Bà cụ chỉ có một mình, vất vả với hai túi xách tay cồng kềnh, và cứ đi được ít bước phải dừng lại nghỉ ngơi, em liền đến xin giúp đỡ. Bà vui vẻ thuận lời ngay. Nhận thấy hai túi đồ hơi nặng, em hỏi bà: “Nhà bà có xa lắm không?” bà trả lời: “Không xa lắm đâu, ở cuối đường kia thôi!”
Lúc đầu em cảm thấy OK, sau một lúc em hơi mỏi tay. Hai bà cháu đã đi bộ qua được vài khu phố. Hai cánh tay em bắt đầu ê ẩm nhưng vì tự ái em không muốn nghỉ dọc đường. Tuy vậy, em cứ luôn miệng hỏi bà cụ xem đã về gần đến nhà chưa. Mỗi lần hỏi, bà đều trả lời: “Không xa lắm đâu, gần tới rồi!” Sau cùng bà quẹo vào một con đường nhỏ. Em mừng rỡ hỏi: “Phải khu phố này không?” “Không xa lắm đâu, ở cuối đường kia thôi!” Bà trả lời.
Bà và em lại bước đi thêm mấy khu phố nữa. Những bước chân chậm chạp, nặng nề và đầy nỗ lực. Các ngón tay của em đã đau và tê cóng lại. Sau cùng bà cụ dẫn em vào một cái building cho mướn, chừng 5 hay 6 lầu. “Bà ở lầu mấy?” Em hỏi bà cụ. Bà lại trả lời, “Không xa lắm đâu, mấy bước ấy mà!” Hai bà cháu lại lết thết bước lên từng lầu một. Tại mỗi lầu, em đều hỏi xem có phải bà ở lầu này không. Sau cùng thì lên đến lầu thứ 5. Em chia sẻ rằng em cảm thấy công việc bác ái từ thiện của em giống như một cuộc mạo hiểm leo lên núi! Cái khoảng cách bà cụ nói rằng “Không xa lắm đâu, ở cuối đường kia thôi!” đã làm em kiệt sức!
Tôi không thể tránh được sự nghi ngại rằng Chúa Giêsu trong bài Phúc âm hôm nay, có cái gì đó giống như bà cụ: “Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Và thánh Phaolô trong bài đọc II cũng đã kêu gọi giáo dân Côrintô rằng: “Thời gian chẳng còn bao lâu. Vậy từ nay những người có vợ hãy sống như không có…” À há! Chúa Giêsu và thánh Phaolô đã nói như thế cách đây đã hơn 2000 năm rồi, và bây giờ cũng vẫn chờ đợi mãi!
Có phải rằng thời gian của Chúa khác với thời gian tính của con người không? Trong thơ thứ hai của thánh Phêrô cũng đã cắt nghĩa rằng: “Xin anh em đừng quên: đối với Chúa, một ngày ví thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một ngày”. Tại sao Chúa Giêsu nói rằng thời giờ đã mãn mà vẫn cứ phải chờ đợi?
Vương Quốc Thiên Chúa giữ một vai trò quan trọng trong lời rao giảng của Chúa Giêsu. Thánh Maccô dùng từ “Vương Quốc Thiên Chúa”, nhưng thánh Matthêu lại dùng từ “Vương Quốc Trên Trời”, theo như ngôn ngữ của các thầy Rabbi Do Thái đương thời. Thực ra cả hai từ đều đồng nghĩa với nhau.
Trong Phúc âm Chúa Giêsu đã dùng rất nhiều dụ ngôn khác nhau để công bố và diễn tả Vương Quốc của Ngài. Nó sẽ tăng trưởng giống như hạt cải, hạt giống được gieo xuống đất, trở thành một cây to lớn, ở đó mọi chim trời sẽ đến làm tổ. Nó sẽ nâng thế giới lên như men trong bột, và có thể được coi như một thực tại vô hình, nhưng đang hiện diện. Nó ẩn hiện giống như lúa lẫn lộn với cỏ lùng trong một cánh đồng, hay ở chính giữa “đàn chiên nhỏ bé” đã lãnh nhận nó.
Vương Quốc có thể là Giáo Hội được xây dựng trên Phêrô. Đó cũng là ân sủng tuyệt hảo của Thiên Chúa ban do làng nhân lành của Ngài qua dụ ngôn thợ làm vườn nho, hoặc người ta phải sở đắc bằng tất cả những gì họ có, hay được ban cho ai có tâm hồn khó nghèo, có thái độ bé thơ, tích cực tìm kiếm sự công chính, chịu đựng những sự bách hại, chu toàn thánh ý Chúa Cha, và có tình yêu thương huynh đệ. Muốn vào được Vương Quốc không phải ai cũng có thể vào được, nhưng phải chu toàn những đòi hỏi, có kẻ bị đuổi ra ngoài vì không mặc áo cưới. Theo nguyên tắc phải hoán cải và tỉnh thức.
“Vương Quốc Thiên Chúa” là một từ với rất nhiều ý nghĩa. Một ảnh hưởng thấm nhập vào tâm khảm con người để con người trở nên một với Thiên Chúa. Đó là ân sủng và sự hiện diện của Thiên Chúa nơi các tâm hồn. Một nơi mà tình yêu Thiên Chúa cai trị trong trái tim của ta.
Trong những trang nhật ký của bà Elaine M. Prevallet trích từ “Occasional Journal” có đoạn như sau:
“Vương Quốc Thiên Chúa ở trong chúng ta, ở giữa chúng ta, ở trong sức mạnh của chúng ta, nó có sẵn đó cho chúng ta. Nó có thể bị lôi kéo ra khỏi chúng ta, và chúng ta có thể lấy nó ra khỏi những người khác… Chữ “Vương Quốc” chỉ về một tiến trình phát triển của tình yêu Thiên Chúa trong cuộc sống của con người”.
“Vương Quốc ở trong tôi khi tôi có an bình, khi tôi giữ phẩm giá của mình, khi tôi biết mình là quý giá trong ánh mắt Chúa, khi tôi sống thẳng thắn với nhân quyền, khi tôi biết đón nhận và dùng tài năng, khi tôi có thể cảm tạ Chúa vì đời mình.
Vương Quốc không ở trong tôi khi tôi sợ hãi, khi tôi đầy mặc cảm tội lỗi, khi tôi mất niềm tin, khi tôi bị khinh thường, khi tôi không biết kính trọng mình, khi tôi nghĩ mình là xấu.
Vương Quốc ở giữa chúng ta khi chúng ta cư xử với mọi người như anh chị em, khi chúng ta có thể tha thứ, khi chúng ta nhân ái với mọi người, khi chúng ta chân thành trong các liên hệ, khi chúng ta làm việc cho an hòa, khi chúng ta chỉ ước ao làm điều tốt.
Vương Quốc không ở giữa chúng ta khi chúng ta muốn khống chế người khác, khi chúng ta chất đầy những tư tưởng báo thù, khi chúng ta lạm dụng tình yêu và sự tin tưởng của người khác, khi chúng ta không thành thật trong các tương quan, khi có sự chia rẽ trong gia đình, khi chúng ta tạo ra đau khổ và ghen tương.
Vương Quốc ở xung quanh chúng ta khi chúng ta đoàn kết với nhau, khi chúng ta nhìn thẳng vào cuộc sống, khi chúng ta dấn thân, khi chúng ta phấn đấu trong kiên nhẫn và vui sướng, khi chúng ta mời người khác cùng xây dựng, khi chúng ta cảm tạ Chúa vì sự hiện diện của Ngài trong chúng ta, trong gia đình và cộng đoàn chúng ta.
Vương Quốc không ở xung quanh chúng ta khi chúng ta bị chia rẽ và phân tán, khi chúng ta mù quáng đối với những vấn đề phải giải quyết, khi chúng ta không muốn biết, khi chúng ta đầu hàng trong tuyệt vọng, khi chúng ta làm nản lòng người khác, khi chúng ta đổ thừa cho Chúa”.
Vương Quốc Thiên Chúa đã hiện diện đầy đủ và sung mãn nơi chúng ta, nhưng chúng ta không nhận ra là vì trong chúng ta và thế giới này còn đầy tội lỗi và bất công. Chúng ta chưa hoán cải và tỉnh thức như Chúa Giêsu đã kêu gọi: “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”.
Giờ đây trên Internet tôi nhận được một bản thống kê về sự chênh lệch và bất công trên thế giới. Nếu dân số thế giới được thu hẹp lại với cùng một tỷ lệ tương tự vào một ngôi làng nhỏ chỉ có 100 người, chúng ta sẽ thấy một hình ảnh như sau:
Có 57 người Á Châu, 21 người Âu Châu, 14 người từ cực Nam Bắc, 8 người Phi Châu.
30 người là da trắng; 70 người không phải da trắng.
30 người là Kitô hữu; 70 người không phải là Kitô hữu.
50/o của cải trên thế giới ở trong tay 6 người và 6 người này là công dân Hoa Kỳ.
70 người không biết đọc.
50 người thiếu ăn, bị suy dinh dưỡng.
80 người không nhà không cửa, hoặc nơi ở thiếu tiêu chuẩn.
Chỉ có một người tốt nghiệp đại học mà thôi!
Cải thiện đời sống, xóa bỏ bất công, tránh xa tội lỗi là những lời kêu gọi thúc dục cấp bách của Tin Mừng để giúp nhận ra sự hiện diện của Vương Quốc Thiên Chúa.
William Barclay đã giải thích lời Chúa Giêsu kêu gọi sám hối như sau: “Chữ sám hối theo từ ngữ Hy Lạp “metanoia” có nghĩa là một sự thay đổi của tâm trí. Chúng ta thường lẫn lộn hai điều: hối tiếc vì những hậu quả của tội lỗi và hối hận vì tội. Nhiều người rất ân hận vì sự rối loạn do tội lỗi gây ra cho họ, nhưng chính họ lại biết rõ ràng rằng, nếu có thể thoát khỏi những hậu quả của tội lỗi, họ cũng sẽ phạm lại y như vậy.
Sám hối thực sự có nghĩa là một người không chỉ ân hận vì những hậu quả của tội mình, nhưng phải tiến tới việc ghét bỏ chính tội lỗi nữa. Xưa kia, Montaigne, một nhà khôn ngoan đã viết trong cuốn tự thuật rằng, “Trẻ em nên được dạy dỗ phải ghét bỏ tật xấu vì chính sự cấu tạo của nó, các em sẽ không chỉ tránh né trong hành động, mà còn phải chê ghét nó trong tâm hồn tới nỗi chỉ một tư tưởng về nó thôi cũng đủ làm cho ghê tởm”. Sám hối có nghĩa là phải ghét tội vì chính sự tội tỗi của nó”.
Sách Giáo lý Công giáo khuyên chúng ta: “Nhưng trong cuộc lữ hành của mình, Giáo Hội đã kinh nghiệm về “quãng cách giữa sứ điệp mình phải công bố và sự yếu đuối của những con người được ủy thác Phúc âm này”. Vậy phải tiến bước trên con đường “của sám hối và của đổi mới…”
Vương Quốc Thiên Chúa chính là ân sủng của Thiên Chúa đã hiện diện ở giữa chúng ta để giúp chúng ta chiến đấu với tội lỗi. Bổn phận của chúng ta là hòa hợp hành động của mình với hành động của Thiên Chúa. Khi chúng ta hòa nhịp với thánh ý Thiên Chúa, chúng ta sẽ cảm nghiệm được Nước Thiên Chúa. Mỗi giây phút hiện hữu trên cuộc đời là một cơ hội cho con người gặp gỡ Thiên Chúa và Vương Quốc của Ngài.
30. Mãnh lực của niềm tin - Lm. Minh Vận, CMC
Cựu Hoàng Edward VIII của Anh Quốc, vào năm 1936 khi còn đang trên ngai Hoàng Đế nước Anh, bỗng ông si mê một thiếu phụ thuộc hàng thứ dân, đã một lần bà ly dị chồng.
Theo luật Anh Quốc, thì nhà Vua không được phép cưới một người đàn bà như thế, vì là điều xỉ nhục cho quốc thể. Bởi đó, nhà Vua phải chọn một trong hai con đường:
1. Phải bỏ mối si tình đó, nếu còn muốn là Hoàng Đế cai trị Anh Quốc.
2. Nếu muốn được yêu đương tự do thì phải bỏ ngôi vị Hoàng Đế, trở thành một người thứ dân.
Chỉ vì muốn đáp tiếng gọi của ái tình, Cựu Hoàng Edward đã chọn con đường thứ hai, trả lại cho Anh Quốc uy quyền và mọi danh vọng, để được cùng người yêu sang Pháp Quốc, sống cuộc đời bình thường như mọi người công dân khác.
Thế rồi, vào 1972 Cựu Hoàng Edward bỗng lâm bệnh nặng. Vừa được tin này, Nữ Hoàng Elizabeth là cháu của ông đang cai trị Anh Quốc, vội vàng từ Luân Đôn bay thẳng sang Paris, xin vào thăm bác của bà, nhưng Cựu Hoàng Edward nhất mực từ chối. Sau vì Nữ Hoàng năn nỉ mãi, nên ông đã đòi một điều kiện là: Nếu bà muốn được vào thăm ông, thì phải phong cho người yêu của ông trở thành hàng công chúa, để người yêu của ông được nở mày nở mặt với đời, không còn bị người đời mỉa mai là hạng đàn bà thứ dân.
Vì tình huyết nhục, Nữ Hoàng Elizabeth đành phải chấp nhận điều kiện để ông được toại nguyện. Thế là ông vui sướng đến độ ngất xỉu, rồi chết luôn ngày 28 tháng 5 năm 1972. Cựu Hoàng Edward VIII chỉ vì muốn được tự do theo tiếng gọi của ái tình, ông đã đành bỏ ngai vàng Hoàng Đế và mọi vinh sang danh vọng; nhưng rồi lại cũng chỉ vì muốn danh vọng cho người yêu của ông, mà ông đã vui sướng đến chết đi vì danh vọng. Thật là điên khùng!
Bài sách tiên tri Jona chúng ta vừa nghe, cho chúng ta thấy mãnh lực của niềm tin tưởng và lòng yêu mến vâng nghe Lời Chúa. Tiên tri Jona vừa công bố lệnh Chúa truyền: " Chỉ còn bốn mươi ngày nữa, thành Ninive sẽ bị phá hủy". Khi nghe tin đó, chính nhà Vua đã lià bỏ ngai vàng, cởi áo cầm bào, mặc áo vải thô, ngồi trên đống tro. Khắp nơi trong thành Ninive, người ta tuân theo sắc lệnh của nhà Vua và triều đình: Mọi người lớn bé, già trẻ, cả chiên bò, súc vật đều không được ăn uống của gì; lại cả người lẫn súc vật đều phải cuốn bao bố. Mọi người đều khẩn cầu cùng Chúa, quyết tâm cải thiện đời sống, tẩy trừ gian ác, xin Chúa nguôi giận và tha thứ tội lỗi cho dân.
Quả thật, Chúa đã thấy họ thực tâm sám hối cải thiện đời sống, chừa bỏ tội lỗi, Chúa liền động lòng thương xót không thi hành việc giáng họa, tiêu diệt thành Ninivê, như lời Người đe phạt. Đó là kết quả của niềm tin tưởng và lòng yêu mến.
Bài Tin Mừng hôm nay nhắc lại, sau khi Gioan Tiền Hô bị tống ngục, Chúa Giêsu đến xứ Galilea và rao giảng rằng: " Thời giờ đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần đến; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng". Thế rồi, đi dọc theo bờ biển, Người gặp Simon và Andrê đang thả lưới, Người phán bảo hai anh em: "Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người". Lập tức hai ông bỏ chài lưới đi theo Chúa. Đi một chút nữa, Chúa lại gặp Gioan và Giacôbê là hai con ông Giebeđê đang xếp lưới, Người cũng gọi họ. Lập tức hai anh em cũng từ bỏ thân phụ và các người làm công để đi theo làm môn đệ Chúa Giêsu.
Các vị này đã dứt khoát bỏ mọi sự, để dấn thân theo Chúa ngay, cũng chỉ vì niềm tin tưởng và lòng mến yêu đặt nơi Đấng đã kêu gọi họ. Chính niềm tin tưởng lòng yêu mến đó, còn có mãnh lực đến nỗi, đã làm cho các ngài sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ, cùng với Chúa đi khắp đó đây để rao giảng Tin Mừng Cứu Độ cho muôn dân; rồi cuối cùng, các ngài đều sung sướng được chịu chết, để minh chứng niềm tin yêu nơi Chúa, như tiểu sử các ngài đã từng ghi nhận:
Thánh Phêrô sau những năm theo Chúa rao giảng Tin Mừng, làm việc ngày đêm, long đong vất vả, trốn tránh ngược xuôi, ra tù vào khám. Ngài đã rảo khắp miền Anitoche và vùng Tiểu Á thực thi sứ mạng Chúa ủy thác dù phải gặp biết bao gian truân. Cuối cùng, ngài đã phải lãnh án tử hình thập giá; nhưng ngài đã xin được đóng đinh ngược đầu xuống, để tôn kính Chúa và để người ta khỏi lầm tưởng ngài với Thầy Chí Thánh mình.
Cũng vậy, Thánh Andrê cũng chịu đóng đinh trên thập giá suốt hai ngày trời, sau nhiều năm rao giảng Tin Mừng và ca tụng Thầy Chí Thánh trước mặt muôn người.
Thánh Giacôbê thì bị dân chúng xua đuổi hết thành này đến thành khác, nếm đủ mùi khổ thống. Cuối cùng, ngài đã bị chém đầu để chứng minh cho Thầy mình.
Cùng một số phận, Thánh Gioan Tông Đồ được Chúa Giêsu yêu thương đặc biệt, được Chúa trao sứ mạng phụng dưỡng Mẹ Maria; và sau cuộc đời gian khổ vì Tin Mừng, ngài đã bị quảng vào vạc dầu sôi, chịu chết để minh chứng cho niềm tin yêu và lòng trung thành của ngài với Đấng ngài yêu mến.
Để minh chứng niềm tin yêu của chúng ta nơi Chúa, chúng ta đã làm gì? Chỉ một tiếng gọi của ái tình, được thỏa mãn lòng si mê một người đàn bà thứ dân, Cựu Hoàng Edward đã sẵn sàng từ bỏ ngai vàng Hoàng Đế và mọi vinh sang phú quí triều đình Anh Quốc.
Còn chúng ta, chúng ta đã có thái độ nào khi nghe lời thống thiết Chúa kêu gọi: " Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng", để được hạnh phúc vĩnh cửu muôn đời trong Nước Thiên Chúa?
Chúng ta hãy noi theo gương dân thành Ninive, cấp bách đáp lời tiên tri Giona kêu gọi bỏ đàng tội lỗi, sám hối cải thiện đời sống, để đáng được Chúa thương ban ơn tha thứ.
Chúng ta hãy mau mắn đáp lại Lời Chúa mời gọi: " Hãy theo Cha" và hãy anh dũng dấn thân theo Chúa, trung kiên thực thi sứ mạng tông đồ, sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ, và nếu cần sẵn sàng hiến cả mạng sống mình, để minh chứng niềm tin yêu nơi Đấng đã yêu thương kêu gọi chúng ta, theo gương các Thánh Tông Đồ đã chịu chết vì Thầy mình.
Chúng ta hãy sống niềm tin vào tinh thần Tin Mừng, vào những giáo huấn của Chúa và những lời dạy dỗ của Giáo Hội như Chúa và Giáo Hội đã kêu gọi.
Kết Luận
Chớ gì chúng ta luôn có tâm hồn ngoan thảo thưa với Chúa: Lạy Chúa, xin chỉ bảo cho chúng con biết đường lối Chúa. Xin cho chúng con luôn biết lắng nghe Lời Chúa và biết can đảm, anh dũng dấn thân sống Lời Chúa, để chúng con cũng được Chúa chúc phúc như chính Chúa đã kín đáo chúc khen Mẹ Chúa: "Hạnh phúc hơn nữa cho những ai biết lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa" (Lc 11:28).
31. Sám hối
“Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Tin Mừng là gì? Có gì quan trọng mà người ta phải sám hối và đặt lòng tin vào đó? Sám hối và lòng tin đi đôi với nhau như hai con mắt cùng nhìn vào một đối vật, sám hối sửa soạn cho lòng tin, lòng tin khởi đầu bằng sự sám hối. Sám hối gồm hai khía cạnh: khía cạnh tiêu cực là nhận về quá khứ, nhìn lại dĩ vãng, để thấy đường mình đã đi, cuộc đời mình đã sống như thế nào, đúng hay sai, tốt hay xấu. Khía cạnh tích cực là hướng tới tương lai để sống đúng hơn và tốt hơn. Người sám hối trở nên khiêm tốn, bé nhỏ, từ bỏ mình, để đặt tất cả niềm tin vào sự công chính của Nước Trời, vào ơn cứu độ do Tin Mừng đem đến, còn tin là trao hiến, tin ai và tin điều gì? Chúng ta hãy tìm hiểu nội dung của Tin Mừng gồm những vấn đề gì mà chúng ta phải sám hối và đặt lòng tin vào đó. Chúng ta có thể tóm lược nội dung của Tin Mừng vào hai phạm vi luân lý và giáo lý.
Về phạm vi luân lý: chúng ta thấy Tin Mừng đã đề cập tới những vấn đề quan trọng sau: Thứ nhất, về hôn nhân, Chúa Giêsu đã lập luận hôn nhân bất khả phân ly và nhất phu nhất phụ: mỗi người chỉ được một vợ một chồng và phải trung thành chung thủy với nhau cho đến chết. Thứ hai, Chúa Giêsu đã đề cao tinh thần nghèo khó: người nghèo khó được Chúa chúc phúc, Chúa kêu gọi hãy nghèo của nhưng không nghèo lòng, ngược lại, người giàu của mà không giàu lòng thì khó vào nước trời như con lạc đà trước lỗ kim. Thứ ba, về luật lao động và tinh thần hợp tác, Chúa dạy: mọi người phải siêng năng làm việc để tự lực mưu sinh, lười biếng sẽ bị phạt, rồi phải biết cộng tác với nhau để cùng nhau thăng tiến. Thứ tư, vấn đề tiền của: tiền của nay còn mai mất, Chúa dạy: phải biết dùng tiền của làm phương tiện đi vào nước trời, mỗi người đừng quá đòi hỏi mà chỉ mong sao hằng ngày dùng đủ, rồi tin tưởng vào Thiên Chúa quan phòng, các tài nguyên thiên nhiên, hãy dùng chúng để kiến tạo hòa bình và biến gươm giáo thành cày cuốc. Thứ năm, để đảm bảo luật luân lý, Chúa dạy: mọi người phải coi nhau như anh em, phải yêu thương nhau, yêu thương cả kẻ thù nghịch với mình, cầu nguyện cho kẻ ngược đãi mình, mọi người phải tha thứ cho nhau. Thứ sáu, về vấn đề giáo dục trẻ em, Chúa dạy: phải yêu mến chúng, phải hướng dẫn chúng và không được làm gương mù gương xấu cho chúng, nước trời thuộc về những ai có tâm hồn đơn sơ như trẻ em. Thứ bảy, các nhân đức luân lý được đề cao: khôn ngoan, công bằng, vâng lời, tiết độ, kiên nhẫn, can đảm chịu đựng những đau khổ, khiêm nhường, hiền lành, trong sạch, phục vụ, tránh xa dịp tội và đứng làm gương mù. Tóm lại, mọi người là anh em, là con cái Thiên Chúa, mỗi người là chi thể trong một nhiệm thể, cho nên, phải dùng tình thương mà đối xử với nhau và yêu nhau như Chúa yêu chúng ta.
Về phạm vi giáo lý: Tin Mừng đã mạc khải cho chúng ta biết bốn điều quan trọng: Thứ nhất, một Thiên Chúa có Ba Ngôi, chúng ta chỉ tôn thờ một Thiên Chúa mà thôi, Thiên Chúa có Ba Ngôi: ngôi thứ nhất là Cha, là Đấng tạo dựng vũ trụ trời đất muôn loài, ngôi thứ hai là Con, là Chúa Giêsu Kitô, Đấng xuống thế làm người để cứu chuộc mọi người, ngôi thứ ba là Thánh Thần, Đấng thánh hóa, an ủi và giúp đỡ mọi người. Cả ba Ngôi chỉ là một Thiên Chúa, bằng nhau mọi đàng. Thứ hai, Chúa Giêsu là Thiên Chúa và là Thiên Chúa nhập thể, Ngài là một người như mọi người, có cha có mẹ, có quê hương tổ quốc, có sinh có tử, có sống và chết như mọi người, Ngài giống chúng ta mọi đàng chỉ trừ tội lỗi, nhưng Ngài cũng là Thiên Chúa, đồng bản tính với Chúa Cha, Ngài đến trần gian để dạy dỗ và cứu chuộc loài người, Ngài là đường, là sự thật và là sự sống, ai tin theo Ngài sẽ được sự sống đời đời. Thứ ba, về Nước Thiên Chúa, Nước Trời, đây là nước hằng sống, vĩnh cửu, là thiên đàng, muốn vào Nước Thiên Chúa phải tin và thực hành đức tin chứ không thể chỉ nói “Lạy Chúa” mà vào được, nước Chúa có giá trị vô song, người ta phải hy sinh mọi sự, kể cả mạng sống để chiếm hữu nó. Thứ tư, Tin Mừng cho biết về Giáo Hội qua những dụ ngôn người gieo giống, hạt giống tự mọc, hạt cải, tấm men, kho báu, viên ngọc quý, mẻ cá, bầy chiên… Giáo Hội có phẩm trật: Phêrô là đầu, tức Đức Giáo Hoàng sau này, các tông đồ, là các giám mục sau này, những vị lãnh đạo Giáo Hội được Chúa trao quyền cầm buộc và cởi mở, ai muốn đến với Chúa phải đến với Giáo Hội.
Có cuốn sách nào được người ta ham mộ, kính trọng như sách Tin Mừng không? Có sách nào tồn tại suốt 20 thế kỷ và bán chạy như sách Tin Mừng không? Sách Tin Mừng toàn bộ đã được dịch ra 236 thứ tiếng, và còn cả 100 thứ tiếng nữa đang sửa soạn để dịch Tin Mừng, có sách nào khích lệ, đổi mới con người bằng sách Tin Mừng không? Cho nên, vấn đề đặt ra cho chúng ta là chúng ta có đọc Tin Mừng hay không? Nếu chúng ta không chịu đọc thì sách có hay mấy cũng là không hay, cũng như đã gọi là thuốc hay mà chúng ta không dùng thuốc thì làm sao khỏi bệnh được? Chúng ta hãy nhớ: sách Tin Mừng là lời Thiên Chúa hằng sống, chúng ta có đọc, có sống Tin Mừng thì chúng ta mới thấy được sự sống ấy dồi dào ra sao, nơi đâu có ánh sáng Tin Mừng nơi ấy tràn đầy hy vọng cho hiện tại và tương lai. Ước mong mỗi gia đình đều có sách Tin Mừng, chúng ta có đủ thứ sách mà lại thiếu sách Tin Mừng thì thật đáng tiếc. Nhưng có sách mà không dùng, không đọc cũng như không có. Ước mong chúng ta hãy đọc và sống theo những điều chúng ta đọc, bảo đảm bản thân chúng ta và gia đình chúng ta sẽ tốt đẹp.
32. Hãy theo Tôi
Đoạn Tin Mừng kể lại việc Chúa Giêsu kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên là Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan. Chúa kêu gọi các ông: “Các anh hãy đi theo tôi”. Lời kêu gọi đó Chúa cũng nói với mỗi người chúng ta hôm nay.
Tin Mừng cho biết cả bốn môn đệ, bốn tông đồ đầu tiên ấy đều là những người chài lưới, và họ đang hành nghề trên biển hồ Galilê. Cho tới lúc đó, chưa bao giờ các ông đưa mắt nhìn xa quá tầm mắt quen thuộc với những công việc sinh nhai hằng ngày. Bây giờ Chúa Giêsu mời gọi các ông nhìn lên cao hơn và xa hơn. Ngài chỉ cho các ông thấy thế giới như biển cả mênh mông, phải vượt khắp đó đây để đánh lưới “sinh linh”. Sứ mệnh của các ông là đem các linh hồn về cho Chúa.
Nghe tiếng Chúa kêu gọi, các ông đáp lại ngay và sẵn sàng từ bỏ mọi sự, kể cả những gì thiết thân nhất trong đời sống như nghề nghiệp và phương tiện sinh sống cùng với những mối liên hệ ruột thịt tự nhiên. Từ nay các ông sẽ có những bận tâm khác với những lo lắng trước đây. Các ông rời bỏ quê hương làng xóm, nơi chôn nhau cắt rốn, để đi đến những nơi Thầy sẽ sai đến. Quê hương các ông bây giờ là thế giới. Các ông từ bỏ gia đình ruột thịt quen thuộc, Thiên Chúa sẽ ban cho các ông một gia đình khác, gia đình các linh hồn mà các ông sắp cứu vớt. Các ông thoát ly hoàn toàn và dứt khoát.
Thực vậy, các tông đồ đầu tiên thoát ly mọi sự trước kia đã ràng buộc các ông là để gắn bó với Chúa Giêsu. Các ông đi theo Ngài một cách tin tưởng mà không hỏi xem Ngài sẽ dẫn các ông đi đâu và tương lai sẽ thế nào. Các ông đi theo Ngài để chia sẻ vui sướng, nhưng đồng thời cũng để đồng lao cộng khổ với Ngài. Các ông đi theo Ngài để lãnh nhận lời giáo huấn, lấy đó làm mẫu mực cho đời sống mình trước hết, để rồi sau đó tuyên xưng giáo thuyết của Ngài và truyền bá giáo thuyết đó cho mọi người.
Tóm lại, bốn tông đồ đầu tiên nói riêng và tất cả các tông đồ nói chung, đã thực thi mệnh lệnh “Hãy đi theo tôi” của Chúa Giêsu một cách trọn vẹn. Các ông đã đi theo Chúa, sống bên Chúa, chứng kiến mọi việc Chúa làm, ghi nhớ những lời Chúa giảng dạy. Và khi Chúa về trời, các ông hăng say rao giảng về Chúa và giáo huấn của Chúa cho đến chết. Đó là đường lối mà các tông đồ đầu tiên và các tông đồ kế tiếp nhau đã làm đổi thay bộ mặt cũng như toàn bộ thế giới cho tới chúng ta ngày nay.
Nếu Chúa Giêsu đã quan tâm kêu gọi những người cộng sự trong sứ mạng rao giảng Tin Mừng, thì điều đó có nghĩa là Ngài không muốn làm việc một mình mà muốn nước trời là một công trình có sự đóng góp của mọi người, nhất là qua ơn gọi thừa tác. Lời kêu gọi “Hãy đi theo tôi” hôm qua vang lên tai các tông đồ thì hôm nay vẫn còn vang lên trong nhịp sống Giáo hội và gửi đến chúng ta hằng ngày. Vấn đề là chúng ta có quan tâm lắng nghe và đáp ứng không?
Qua Bí tích Rửa tội, chúng ta đã được Chúa mời gọi theo Chúa, chúng ta đã thực sự là Kitô hữu rồi. Nhưng đời sống Kitô hữu không phải chỉ là tin những điều Giáo hội dạy, giữ những điều răn Chúa và Giáo hội truyền, và giữ như thế để được rỗi linh hồn. Cũng như các tông đồ xưa kia được kêu gọi không phải chỉ là để được “rỗi linh hồn”, nhưng còn là để cộng tác với Ngài. Người Kitô hữu cũng thế, được kêu gọi theo Chúa, không phải chúng ta chỉ lo cứu linh hồn mình, nghĩa là không phải chỉ là người giữ đạo, đọc kinh, đi lễ, nhưng phải là những tông đồ cho Chúa nữa. Dù ở bậc sống nào, dù không vào đoàn thể nào, dù ở bất cứ chỗ nào, chúng ta cũng phải là những tông đồ của Chúa. Làm tông đồ trước tiên là bằng chính đời sống tốt đẹp của chúng ta.
Đời sống tốt đẹp của chúng ta có thể thay đổi được nếp sống của những người chung quanh. Đời sống tốt đẹp của chúng ta có thể thay đổi được vận mệnh của người khác, từ không biết Chúa đến nhận biết Chúa, tôn thờ, yêu mến Chúa. Đời sống tốt đẹp của chúng ta có thể làm cho mọi người từ tị hiềm ghen ghét đến yêu thương, xây dựng, đùm bọc, nâng đỡ nhau.
Về điều này chính chúng ta đã kinh nghiệm hay chúng ta biết được qua kinh nghiệm của người khác. Câu truyện sau đây là một điển hình: Một hôm, thánh Cờ-lê-men-tê lững thững đi vào một quán ăn. Ngài giơ tay ra và nói: “Xin quí ông rộng lượng bố thí cho các em cô nhi một miếng ăn”. Tức thì các thực khách cười rộ lên. Một người tên là Uyn-déc (Wilszek) ngổ ngáo nói: “Một miếng ăn cho các em hả, được lắm”. Nói xong, anh ta nâng cốc bia lên uống, rồi phùng miệng phun thật mạnh vào mặt cha Cờ-lê-men-tê. Ngài điềm tĩnh lấy khăn mùi xoa ra lau mặt, rồi lại giơ hai tay ra và nói: “Thưa các ông, đó là phần của tôi. Còn phần của các em cô nhi đâu chưa thấy”. Uyn-déc như bị đấm một quả thôi sơn, té nhào xuống đất, anh ấp úng nói.
“Tôi…tôi…sẽ…gởi…tặng các em một món quà”. Quả thực, sau đó anh tự động đi lạc quyên giữa các bạn bè xa gần và đến trao cho thánh Cờ-lê-men-tê một món tiền lớn; và anh còn làm nhiều lần như thế.
Gương sáng, đời sống tốt đẹp có sức mạnh như thế đó. Xin Chúa cho chúng ta biết sống tốt đẹp, nêu gương sáng cho mọi người, trước tiên cho những người thân yêu trong gia đình bằng đời sống hòa thuận yêu thương nhau, hạnh phúc trong tình yêu mến Chúa và yêu mến nhau, rồi từ đó lan tỏa cho những người chung quanh.
33. Trở nên môn đệ
Thánh Marcô tạo ra cảm giác là lời kêu gọi các môn đệ đầu tiên là một sự kiện mang tính cách rất lễ nghi, và người được kêu gọi hoàn toàn bất ngờ, không được biết trước, hoặc có quan hệ gì với Đức Giêsu. Nhưng thánh Gioan cho thấy rằng không phải là trường hợp đó. Ngài giải thích rõ ràng rằng mối tương quan của các môn đệ với Đức Giêsu trải qua một giai đoạn lớn lên và phát triển. Người ta không đi theo một người hoàn toàn xa lạ. Nếu như vậy, thì họ là những kẻ điên rồ.
Rõ ràng là cả bốn môn đệ (Simon, Anrê, Giacôbê và Gioan) đã có quan hệ từ trước với Đức Giêsu. Chắc hẳn là họ bắt đầu bằng cách đứng trong đám đông, lắng nghe Người nói. Điều này đưa đến kết quả là họ thán phục Người, làm cho họ muốn được quen biết với Người một cách cá nhân. Một khi đã được gặp gỡ Người, và cảm thấy được sức thu hút nơi nhân cách của Người, thì họ đều bị lôi cuốn về phía Người. Từ đó, có thể họ quyết định đi theo Người.
Điều này giải thích nguyên nhân tại sao, khi cuối cùng Người kêu gọi họ, thì họ liền hưởng ứng ngay tức khắc và một cách trọn vẹn đến như vậy. Họ bỏ lại tất cả mọi sự – cách sinh nhai, tài sản, sự an toàn, những liên hệ gia đình – và tự hiến thân riêng biệt cho việc đi theo Đức Giêsu. Qua bao thời đại, nhiều kẻ tin đã thực hiện cũng lời cam kết này đối với Đức Kitô. Mặc dù lời kêu gọi “Hãy theo Thầy” của Người nghe giống như một lệnh truyền, nhưng tất nhiên, đó không phải là một lệnh truyền, mà là một lời mời gọi.
Những người đó là ai vậy? Họ là những người đánh cá, mà đánh cá là một công việc quan trọng. Nhưng Đức Giêsu mời gọi họ đến với một công việc thậm chí còn quan trọng hơn. Người đem đến cho họ không chỉ một công việc mới mẻ, nhưng còn là một nguyên cớ để rồi từ đó, họ hiến trọn cuộc đời mình. Họ biết rằng Người không kêu gọi họ đến với một cuộc sống dễ dãi. Trái lại là đàng khác. Nhưng vốn là những người đánh cá, họ đã từng quen thuộc với cảnh khó nhọc rồi.
Họ cũng hiểu rằng lời mời gọi của Đức Giêsu chính là lời mời gọi phục vụ người khác: “Thầy sẽ làm cho anh em trở thành những kẻ lưới người”. Khi những người lãnh đạo các giáo phái kêu gọi người ta đi theo họ, họ biến những kẻ đó thành nô lệ cho họ. Đức Giêsu kêu gọi các tông đồ, không phải để phục vụ bản thân Người, nhưng là để phục vụ những người khác.
Lời mời gọi của Người mang ý nghĩa hy sinh những kế hoạch riêng, những tham vọng, sự an toàn v.v… Đây là một cuộc phiêu lưu đầy nguy hiểm, bởi vì họ đang chuyển từ công việc mà họ biết, để đến với một công việc mà họ không hề biết. Nhưng họ cũng biết rằng lời mời gọi của Người đem đến cho họ một cơ hội được sống một cuộc sống trọn vẹn hơn và xứng đáng hơn. Cho đến nay, họ đã có một nghề nghiệp. Bây giờ, họ có được một ơn gọi.
Một nghề nghiệp và một ơn gọi khác hẳn nhau, mặc dù không hề loại trừ lẫn nhau. Chúng ta vẫn có thể sống theo một ơn gọi, thông qua một nghề nghiệp cụ thể, chẳng hạn như làm giáo viên, y tá, bác sĩ… Nhưng không bao giờ một ơn gọi có thể đưa đến những hoạt động này. Ơn gọi mang nét gì đó sâu xa hơn, đòi hỏi một tầm nhìn, một động cơ, một sự tận tụy. Một nghề nghiệp thường mang ý nghĩa đưa con người đi xa hơn. Nhưng một ơn gọi có nghĩa là phục vụ những người khác.
Sự kiện các môn đệ chấp nhận thử thách này một cách hết lòng đến thế, nói lên cho chúng ta biết rất nhiều về tính cách con người của họ, mặc dù họ không phải là những siêu nhân, mà chỉ là những con người bình thường. Không ai có thể tin tưởng vào những con người bình thường, giống như Đức Giêsu đã tin. Để trở thành môn đệ của Đức Giêsu, người ta không cần phải trở thành một con người đặc biệt.
Ngày nay, Chúa vẫn còn kêu gọi con người, và nhu cầu hiện nay rất lớn. Vẫn có những người đáp trả lại lời mời gọi của Người. Một số người (giống như bốn môn đệ trên) được kêu gọi hoàn toàn hiến thân, và sống theo một cách thức “chuyên nghiệp” đi theo Đức Kitô. Nhưng không phải tất cả mọi Kitô hữu đều được mời gọi đi theo Đức Kitô bằng cách này.
Ý tưởng về lời mời gọi trái ngược với nền văn hóa phổ biến hiện nay. Ngày nay, chúng ta nghĩ rằng mình vẫn có thể sống một cuộc sống không hề được kêu gọi – không cậy nhờ vào bất cứ mục đích nào bên ngoài bản thân mình. Thật không dễ dàng khi cho phép mình được chọn lựa. Khi để mặc một mình, chúng ta có khuynh hướng đi theo lối sống nào ít bị kháng cự nhất. Do đó, chúng ta cần có người nào đó thách đố chúng ta, người đó biết rõ những điều mà chúng ta ưa thích nhất, và sẽ không để cho chúng ta sắp xếp bất cứ thứ gì, mà khả năng của chúng ta chưa đạt tới.
Việc đi theo Đức Kitô có ý nghĩa gì đối với người bình thường? Điều đó có nghĩa là hãy là người Kitô hữu ngay tại nơi bạn đang sống, và theo nghề nghiệp mà bạn đã chọn lựa. Có nhiều cách thức phục vụ Đức Kitô và Tin Mừng của Người. Lời kêu gọi này ngay từ đầu không phải là trở nên người tông đồ, mà là trở nên môn đệ của Đức Kitô.
34. Hãy đến theo Tôi – Lm. Mark Link
Chủ đề: "Chẳng những Chúa Giêsu tạo nguồn hứng khởi cho ta, mà Ngài còn làm hơn thế nữa. Ngài có thể ngự vào trong tâm hồn ta để giúp ta thực hiện tiềm năng sung mãn nhất của mình"
Tháng chín năm 1862 cuộc Nam Bắc phân tranh của Hoa Kỳ đã dứt khoát nghiêng thế thuận lợi về cho quân đội phương Nam. Tinh thần quân đội phương Bắc rơi vào mức thấp nhất của cuộc chiến. Một số rất lớn các toán quân liên bang rút lui về Virginia. Các nhà lãnh đạo địa phương bắt đầu lo sợ điều tệ hại nhất sắp xảy ra. Họ không còn phương cách nào để đảo ngược tình thế và biến những toán quân bị đánh te tua, kiệt sức trở thành một đạo quân hữu dụng trở lại.
Chỉ có một vị tướng có thể làm nên được phép lạ này. Đó là tướng Mc.Clellan. Ông đã huấn luyện binh lính chiến đấu, họ yêu qúi và khâm phục ông. Thế nhưng bộ quốc phòng đã không thấy điều này; cả đến nội các chính phủ cũng chả nhận thấy ngoại trừ một mình Tổng Thống Lincoln. May mắn thay, Lincoln đã phớt lờ những lời phản đối của các cố vấn và đặt Mc.Clellan trở lại vị trí chỉ huy. Lincoln ra lệnh cho ông xuống Virginia để tặng cho các binh sĩ ấy điều mà không người nào khác trên mặt đất có thể trao cho họ, đó là: Nhiệt tình, sức mạnh và Hy vọng. Mc.Clellan chấp nhận nhiệm vụ chỉ huy. Ông leo lên con ô mã to lớn và phóng xuống những nẻo đường cát bụi ở vùng Virginia.
Quả là khó giải thích điều xảy ra tiếp sau đó. Các lãnh tụ phương Bắc chẳng thể giải thích được. Các binh lính phương Bắc cũng chẳng thể giải thích được. Ngay cả Mc.Clellan cũng chẳng thể giải thích được. Mc.Clellan gặp các lực lượng Liên Bang đang rút quân. Ông giơ nón lên cao vẫy chào và hô lên những khẩu hiệu cổ xuý lòng can đảm. Nhìn thấy chủ tướng quí yêu, đám lính mệt mỏi bắt đầu bình tâm lại: Họ bắt đầu cảm giác một cách kỳ lạ rằng kể từ bây giờ mọi sự sẽ đổi khác. Và giờ đây mọi sự đều có thể ổn định trở lại.
Bây giờ chúng ta hãy xem Bruce Catton một sử gia danh tiếng viết về cuộc nội chiến đã mô tả nỗi phấn khích ngày càng gia tăng khi có tin Mc.Clellan lại trở về vị trí chỉ huy như sau: “Từ dặm này đến dặm nọ suốt con đường vùng Virginia những toán quân đi đứng chuệnh choạng bắt đầu hồi sinh, họ ném mũ nón, túi vải lên không trung và hò hét cho đến khi khan cả cổ… bởi vì họ đã nhìn thấy vị anh hùng lanh lợi nhỏ con ấy đang cỡi ngựa xuất hiện dưới ánh sáng sao màu tím. Một cách nào đó, đây chính là bước ngoặt của cuộc chiến… không ai có thể cắt nghĩa được điều ấy cho đầy đủ…(Trích trong cuốn this Hallowed Ground: vùng đất Thánh này)
Nhưng dẫu sao, đó chính là điều mà Lincoln và phương Bắc đang cần và lịch sử đã mãi mãi thay đổi nhờ điều ấy.
***
Câu chuyện về tứơng Mc.Clellan cho thấy rõ rệt người lãnh đạo ảnh hưởng đến tinh thần người dưới quyền mãnh liệt như thế nào.
Trong một thiên khảo luận, Ralph Waldo Êmrson ghi lại hàng chữ đáng nhớ sau đây: “Điều cần thiết chính yếu trong cuộc sống chính là gặp được một ai đó có khả năng giúp ta làm những gì ta có thể làm”. Và ai làm được điều ấy sẽ là một lãnh tụ vĩ đại. Chúng ta không thể tự mình làm bừng dậy cái khả năng tiềm tàng vĩ đại ẩn dấu bên trong mọi người chúng ta.
Hầu hết mọi người chúng ta giống như cái chai Aladdin nhặt được trên bờ biển. Mỗi người chúng ta đều có vị thần vĩ đại đang cư ngụ trong mình. Nhưng ông ta không thể tự mình bước ra ngoài và chúng ta cũng chẳng thả ông ta ra được. Chúng ta cần một anh chàng Aladdin đi đến khui nắp chai và giải phóng vị thần khổng lồ ấy dùm chúng ta. Và đó cũng chính là những gì Emerson đã cưu mang trong tâm trí ông. Ngay sau khi nói câu; “Điều cần thiết chính yếu trong cuộc sống là gặp được một ai đó có khả năng giúp ta làm những gì ta có thể làm”. Ông liền thêm: “và đây chính là công việc của một người bạn”, còn tôi thì lại muốn thêm vào: “Đấy cũng là công việc của Đức Giêsu Kitô”
Không nơi nào trình bày cho chúng ta điều này rõ hơn trong Phúc Âm. Và cũng không câu chuyện Phúc Âm nào chỉ cho ta điều này rõ hơn bài đọc hôm nay. Nó giúp ta hiểu được điều Napoléon đã từng nói về năng lực của ông là có thể tạo ra một điều gì đó nơi tâm hồn các thuộc hạ của ông. Napoléon nói:
“Chỉ cần nhìn ánh sáng nơi mắt tôi, nghe âm giọng tôi và chỉ cần nghe một lời từ miệng tôi, thì lập tức ngọn lửa linh thiêng bừng cháy lên trong lòng họ thực sự, tôi đã nắm được bí quyết của một năng lực ma thuật có thể lay chuyển tâm hồn kẻ khác”. Quả thế, Napoléon đã chiếm hữu được quyền năng ấy, và chính ông ta chú thích thêm trong cùng một đoạn văn trên như sau: “Đức Kitô cũng có được quyền năng này nhưng ở một cấp độ vô cùng to lớn hơn’.
Nơi Chúa Giêsu, có gì khiến Ngài khác biệt với những lãnh tụ khác vậy? câu trả lời thật đơn giản.
Tất cả lãnh tụ khác chỉ có thể ảnh hưởng trên ta, gây cho ta niềm phấn khích, tuy nhiên ảnh hưởng họ gây ra trên ta chỉ thuần về mặt tâm lý. Còn ảnh hưởng Đức Giêsu gây ra trên ta không chỉ mang tính cách tâm lý và còn gồm cả tính mầu nhiệm nữa. Điều này có nghĩa là gì? Nghĩa là các lãnh tụ khác có thể hâm nóng nhiệt tình của chúng ta, có thể khích động chúng ta, có thể khơi dậy niềm xúc cảm của ta, kích thích trí tưởng tượng của ta nhưng họ không thể ban cho ta tinh thần của họ được; họ không thể chia sẻ cho chúng ta năng lực và sức mạnh riêng của họ được; nếu có sự thay đổi xảy ra nơi những người theo họ, thì chắc hẳn sự thay đổi đó là do nơi nguồn lực và sự gắng sức của đám người theo họ ấy.
Trong trừơng hợp Đức Giêsu, tất cả mọi điều này thực khác hẳn. Đức Giêsu có thể đặt tinh thần Ngài trong chúng ta. Ngài có thể chia sẻ quyền năng riêng của Ngài với chúng ta. Ngài có thể bước vào trong tâm trí ta để gíup ta làm được điều mà tự sức riêng ta không thể nào làm được một mình. Chỉ cần ta mở rộng lòng trí cho Ngài thì Đức Kitô sẽ bứơc vào trong cuộc đời của ta và Ngài sẽ làm tất cả những gì tiếp theo sau đó.
Như thế chúng ta bước sang điểm cuối cùng và cũng là điểm trọng yếu nhất đối với chúng ta.
Chỉ cần điều duy nhất mà Chúa Giêsu không thể làm được cho chúng ta đó là Ngài không thể cởi mở tâm hồn chúng ta ra nếu chúng ta không muốn. Ngài có thể làm tất cả mọi điều khác ngoại trừ điều này, bởi vì chúng ta nắm giữ chìa khoá cửa ngõ tâm hồn chúng ta trong cuộc sống mình. Và điều này dẫn chúng ta trở lại với bài Phúc Âm hôm nay.
Bài Phúc Âm hôm nay chỉ cho ta cách thức mở ngỏ lòng ra để Chúa Giêsu bước vào; đồng thời cũng cho chúng ta thấy rõ cái giá chúng ta phải trả nếu chúng ta muốn làm được điều này. Chúng ta phải thực hành những gì các tông đồ đã làm, chúng ta phải sẵn lòng chấp nhận cái giá các ngài đã phải trả, chúng ta phải sẵn lòng thiêu huỷ mọi chiếc cầu phía sau chúng ta để bước theo Chúa Giêsu bất cứ nơi nào Ngài muốn dẫn đi.
Nếu chúng ta quyết định làm điều các tông đồ đã làm, nếu chúng ta quyết định liều bỏ mọi sự vì Chúa Giêsu thì Ngài cũng sẽ làm cho chúng ta những gì Ngài đã làm cho các vị ấy. Ngài sẽ biến chúng ta nên những thành viên chia sẻ công việc của Ngài, và ban cho đời sống chúng ta một ý nghĩa mới vượt quá mọi niềm ước mơ vĩ đại nhất của chúng ta.
Để kết thúc, chúng ta hãy dùng bài suy niệm thú vị của Edward Farrell trong tập sách của ông nhan đề; “Kinh ngạc bởi Thánh Linh” (Surprised by Spirit).
“Người đang đi dọc bờ biển lung linh sáng, Người là ai? người là ai – trông sáng ngời kinh khiếp – đang nhìn chúng tôi bằng đôi mắt mòn mỏi, đôi mắt như tìm kiếm chính linh hồn chúng tôi?
“Người là ai mà thấy được tư tưởng, đọc được tâm hồn sâu kín của chúng tôi bằng ánh mắt yêu thương, thông suốt, như muốn nói rằng: Ta chẳng muốn gì cả ngoài bản thân của bạn”
35. Điều kiện gia nhập nước Thiên Chúa
Clay Trumbull thuật lại cuộc đối thoại ý vị giữa vị Mục Sư Tin Lành và một bé trai. Vị Mục Sư hỏi: "Tại sao em lại muốn gia nhập Giáo Hội?" Em bé nhanh nhẹn đáp: "Vì con muốn nói một cách công khai rằng Chúa Giêsu đã cứu con." Vị Mục Sư hỏi dồn: "Em cảm thấy em được cứu rỗi? Ai cứu em?" Em bé giải thích: "Đó là công việc của Chúa Giêsu và của con!" Vị Mục Sư hỏi lại: "Công việc của em? Phần nào là phần của em?" Cậu bé trả lời: "Con thống hối tội lỗi con, và Chúa Giêsu làm tất cả."
Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu bắt đầu Sứ Vụ Tông Đồ của Người bằng lời kêu gọi tha thiết: "Thời giờ đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần đến; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng" (Mc 1,15). Thời gian đã mãn là lúc thuận tiện để Thiên Chúa làm việc qua con người Chúa Giêsu. Sự hiện diện của Chúa Giêsu báo hiệu việc Nước Chúa đã bắt đầu và đang hình thành. Nước Chúa, theo những nhà chú giải Thánh Kinh, không những chỉ một nơi chốn (Kingdom) trên bản đồ, nhưng còn nói đến sự thống trị (Basileia hay Reign) của Thiên Chúa. Việc Thiên Chúa thống trị không bị giới hạn ở Pa-lét-tin nhưng lan rộng trên toàn thế giới. Chúa Giêsu đã đến để công bố Nước Trời và chuẩn bị cho Nước Trời mỗi ngày một lan rộng qua lời giảng và các phép lạ. Nước Thiên Chúa sẽ nên hoàn hảo khi Con Người trở lại thế gian lần thứ hai (Mc 8,38 - 9,2).
Để gia nhập nước Thiên Chúa, con người phải làm gì? Chúa Giêsu nói rõ điều kiện tiên quyết để gia nhập Nước Thiên Chúa là sám hối và tin vào Tin Mừng của Ngài. Ngài không bắt người ta phải học tiếng hay phải xin nhập quốc tịch Do-thái. Nhưng Ngài buộc phải có tinh thần sám hối. Lòng sám hối đòi người có tội nhận mình có lỗi và rồi thay đổi hướng đi cho đời mình (metanoia). Hối nhân quay trở về với Thiên Chúa vì nhận thức rằng con đường quá khứ đã không ăn khớp với đường lối của Thiên Chúa hoặc sự cai trị của Ngài.
Đoạn trích Tin Mừng không nói đến lòng thống hối của các Tông Đồ nhưng nói rõ việc các ông bỏ mọi sự để theo Thầy Giêsu. Thánh Phê-rô, An-rê, Gia-cô-bê và Gioan đã tin lời Chúa Giêsu và "lập tức" bỏ lưới và cha mẹ để theo Chúa Giêsu. Việc từ biệt cha mẹ già của Gia-cô-bê và Gioan là điều quá khích đối với người thời bấy giờ. Những người bỏ cha mẹ được coi như là kẻ phạm thượng (Kn 3, 1-16, Tb 5,1). Ngay như ngôn sứ Êlisa, khi được Chúa gọi để theo ngôn sứ Êlisa, cũng đã xin phép về hôn cha hôn mẹ trước khi lên đường. Nhưng vì Lòng Tin nơi Chúa Giêsu, các ông đã thay đổi từ nghề chài lưới cá cho đến việc chài lưới người. Tư tưởng thay đổi và cuộc sống cũng thay đổi hoàn toàn. Các ông đã theo Chúa Giêsu Kitô, và Ngài đã biến các ông thành những kẻ chài lưới người thật đắc lực (Mc 1, 17). Các tông đồ đã làm phần của các ngài, và Chúa Giêsu đã làm phần còn lại.
Chúa Giêsu Kitô đã đến trong thời gian và qua Ngài Nước Thiên Chúa đã thành hình được hơn 2000 năm. Nhưng tại sao Nước Thiên Chúa vẫn chỉ là một "tiểu quốc" so với những quyền lực khác đang làm chủ thế giới? Tại sao con số những người theo Chúa Giêsu mới chỉ được một phần tư dân số thế giới? Xin mạo muội đưa ra một câu trả lời: Xin thưa, vì con người thời nay không nhận ra nhu cầu phải thống hối và ý thức về tội lỗi hình như không còn nữa. Nếu không nhận mình có tội thì cũng chẳng cần phải thống hối hay cần Vị Cứu Thế là Chúa Giêsu.
Đức Tổng Giám Mục Fulton Sheen đã có lý khi ngài viết: "Mối họa nghiêm trọng trong xã hội hiện đại, sự nguy hiểm đã phá hủy nhiều nền văn hóa xưa và sẽ phá hủy nền văn minh của chúng ta nếu chúng ta không ngăn ngừa, là sự mất đi ý thức về tội lỗi... Có một sự phủ nhận chung cho rằng không có gì đúng và không có gì sai. Và có sự đồng ý chung cho rằng "tội lỗi" (hiểu theo thần học cổ xưa) chỉ là một sự dữ tâm lý (psychic evil) hay là sự sa thải trong tiến trình biến hóa (a fall of evolutionary process)."
Nhận xét trên của cố Tổng Giám Mục Sheen tuy đã có lâu nhưng vẫn chí lý trong thời buổi này vì ý niệm tội lỗi nếu có cũng rất hời hợt. Ví dụ, giới trẻ thời nay coi sự liên hệ tính dục ngoài hôn nhân là chuyện bình thường không có gì là sai quấy. Theo một thống kê, 40 % các em lớp chín đã làm chuyện tính dục. Lên lớp 10, 48 %. Đến lớp 11, 57 %. Và khi lên lớp 12 thì có 72 % các em đã ăn ở với nhau trước hôn nhân. Nhiều thống kê khác còn cho thấy 86 % các em trai và 75 % các em nữ tuổi 19 biết chuyện ân ái vợ chồng. Điều đáng lo ngại hơn nữa là trong những em 18 tuổi lớn lên trong gia đình Kitô hữu, 43 % đã ân ái trước khi lập gia đình (Understanding Today's Youth Culture, Walt Mueller, 213 - 214). Và kết quả của sự mất ý thức về tội lỗi này thật nguy hiểm và đáng buồn.
Nơi khác, Đức Tổng Giám Mục Sheen quả quyết: "Thiên nhiên nói cho chúng ta rằng tội lỗi mang đến chết chóc; lương tâm nói cho chúng ta rằng tội lỗi bứt rứt tâm hồn (guilt) và Chúa nói với chúng ta rằng tội lội chống lại tình yêu Thiên Chúa."
Lời cầu nguyện của người trộm lành: "Thưa ông Giêsu, khi nào vào nước Thiên Đàng, xin nhớ đến tôi cùng" (Lc 23, 42).
36. Suy niệm của Lm. Phạm Đức Trị
Người Kitô hữu chỉ là Kitô hữu đích thực khi họ là ánh sáng thế gian
Mẹ Têrêsa Calcutta kể lại câu chuyện sau. Một người đàn ông phong cùi sống trơ trọi trong một túp lều tăm tối, xa tránh và hận thù mọi người, hận thù xã hội, ông đã không chấp nhận cho một nữ tu chăm sóc và nghĩ rằng chị nữ tu sẽ được hưởng một nụ cười mãn nguyện qua sự từ chối của anh.
Mẹ Têrêsa Calcutta nói:
«Ngày tôi đến thăm người đàn ông đã không bao giờ muốn rời khỏi túp lều tăm tối của mình. Tôi tiến lại gần con người ấy và đưa cánh tay ra mời mọc, nâng cánh tay của anh để anh đứng dậy rồi cùng dìu anh bước ra khỏi túp lều tăm tối. Vừa đến bên cánh cửa nơi có ánh sáng mặt trời chiếu xuyên qua, người đàn ông đã có một thái độ mà mãi mãi tôi không bao giờ có thể quên được. Ra khỏi căn nhà, đứng giữa ánh sáng, anh hô lên một tiếng kêu lớn: «Tôi thấy!» Kể từ khi bóng tối của bệnh phong cùi ập phủ xuống trên cuộc đời thì hôm nay thực sự là lần đầu tiên anh cảm nhận được có ánh sáng trong cuộc đời. Với tất cả sức lực còn lại anh muốn thét lên với cây cỏ, với núi non, với thiên nhiên, với tất cả mọi người như sau: «Tôi thấy! Tôi thấy! Tôi thấy!».
Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu lại đánh động chúng ta thêm một lần nữa: «Thời kỳ đã mãn, và Triều đại Thiên Chúa đã gần đến. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng ». Tin Mừng của Chúa Giêsu luôn mới mẻ, luôn là ánh sáng chỉ đường cho mỗi người chúng ta, nhưng nhiều khi trong cuộc đời chúng ta không cảm nghiệm được điều đó. Tin Mừng đã trở thành cũ kỹ, và chính chúng ta là những người phải loan báo Tin Mừng nhưng lòng chúng ta không còn nhạy cảm nữa, đôi khi nó đã ra chai đá! Nhiều lúc chúng ta giống như anh phong cùi kia, tự giam mình vào bóng tối, tự hãm mình vào bóng tối. Đôi khi vô tình hay hữu ý, chúng ta cũng xô đẩy những người khác vào trong bóng tối. Một cuộc sống không muốn làm chứng tá, một khước từ và tự khép cửa lòng chối từ ánh sáng của Thiên Chúa.
“Các con là ánh sáng thế gian”. Câu nói đó của Chúa Giêsu vẫn còn vang vọng trong các trang Phúc âm. Người Kitô hữu chỉ là Kitô hữu đích thực khi họ là ánh sáng thế gian. Nhưng khi ánh sáng không còn khả năng chiếu sáng, thì ánh sáng ấy trở thành tăm tối và nó sẽ dần tắt ngút trong màn đêm. Chúng ta là những con người cần ánh sáng để sống, để lớn lên trong tình Chúa và tình người. Ta cần có ánh sáng Lời Chúa soi sáng dẫn lối chỉ đường trong thế giới đầy lôi cuốn của cám dỗ. Vậy hãy nhận lấy ánh sáng của Lời chân lý ấy, hãy chiếu sáng bằng những việc làm của ánh sáng. Hãy để Lời chân lý đó thấm nhuần lòng trí ta, hãy để chính Đấng là sự đường, là sự thật và là sự sống đó hoạt động trong chúng ta. Từ đó, chúng ta sẽ trở thành những ngọn đèn đang thắp sáng chung quanh chúng ta: bằng một lời nói nâng đỡ an ủi, bằng một nụ cười thông cảm, một đường hướng đưa ra để đồng hành với những ai thất vọng tràn trề nơi cuộc sống, để giúp đó hồi phục vì những vết thương bất chính trong cuộc sống... đó chính là những việc làm của ánh sáng, đó chính là phương cách đón nhận Tin Mừng và trở thành chứng nhân Tin Mừng cho những người chung quanh đang chờ đợi chúng ta. Một hành động bác ái, một biểu lộ yêu thương dù nhỏ mọn đến đâu cũng là một tia sáng mang hy vọng đến cho những nơi tối tăm và cô đơn nơi những tâm hồn đau khổ.
Lậy Chúa, xin mở lòng trí con ra, để con biết tiếp nhận ánh sáng của Lời chân lý Ngài, vì con đang chìm ngập trong bóng tối nhỏ nhoi của ích kỷ, hận thù. Xin Chúa tha thứ cho con những lần vô tình hay hữu ý xô đẩy người khác vào bóng tối cô đơn hay tội lỗi. Xin cho con niềm vui vì được biết rằng mỗi lần con thực thi một cử chỉ nhỏ mọn cho người anh em, là mỗi lần con được lớn lên trong ánh sáng và trong tình yêu Chúa. Amen.
37. Tuyển quân – Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
“Đức Giêsu nói với họ: ‘Hãy theo Ta’, và họ đã bỏ cả chài lưới mà theo Ngài” (Mc 1,17).
Cuối năm 1999, trước tình trạng thiếu hụt binh lính trong các đơn vị, Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ đã đưa ra một quảng cáo rất hấp dẫn nhằm chiêu mộ thêm thanh niên nam nữ tòng quân giúp nước.
Ngũ Giác đài đã tặng một món tiền thưởng lên đến 6.000 đô la cho những ai tình nguyện gia nhập lục quân trong khoảng thời gian từ cuối tháng Tám cho đến 30 tháng 9. Tuy nhiên kể từ khi tung ra món tiền “câu người” cộng với những giao kèo cho đi học tại các ngành nghề thực dụng và cao cấp, rất bảo đảm cho cuộc sống tương lai sau khi giải ngũ, kết quả tuyển quân vẫn rất khiêm nhường: chưa tới 1,000 người. Trong khi đó, chỉ tiêu do Bộ quốc phòng đề ra là 6.000.
Người ta cho biết nguyên nhân của sự thiếu hụt binh lính, cũng như tình trạng đáp ứng không mấy sốt sắng, dù rằng quảng cáo rất hấp dẫn, là vì tình trạng kinh tế quá khả quan. Cuộc sống còn dễ thở, công việc không khó kiếm, nên đi lính làm gì. Với lại, cuộc đời quân kỷ ngày nay khá là gắt gao nên chẳng mấy ai hăng hái tham gia.
Mẫu tin thời sự, tình cờ xem thấy sau khi đọc qua bài Phúc âm Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ tiên khởi, đã gợi lên trong tôi đôi chút suy tư: có lẽ chưa lúc nào việc đi lính được ưu đãi như lúc này: vừa được tiền lại vừa được nhiều lợi lộc khác, sự chết chóc đổ máu không dễ gì sảy ra. Ấy thế mà chẳng mấy ai hưởng ứng. Lý do là vì sống đời dân sự vẫn tìm được nhiều tiền hơn. Thế mới hay cái gì lợi vẫn được người ta ưu tiên chọn lựa.
Riêng việc đi theo Chúa, khách quan mà nhận xét thì không thấy được đồng nào, thậm chí còn phải từ bỏ rất nhiều: bỏ thân bằng quyến thuộc, tài sản vật chất, dự tính riêng tư, có khi còn phải đối diện với khó khăn hiểm nguy, nhưng không hiểu sao theo tổng kết của Toà thánh thì chiều hướng gia tăng ơn gọi hiện nay rất lạc quan, nhất là tại các vùng Á châu.
Thử hỏi theo Chúa được lợi gì?
Ngày xưa, khi đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu, các tông đồ Phêrô, Anrê, Gioan, Giacôbê đã phải bỏ lại cha mẹ và những người làm công quen biết. Họ phải giã từ luôn cả chiếc thuyền, tấm lưới, biển khơi, để theo một con người chỗ gối đầu không có, tài sản nổi chìm gì cũng không. Đã vậy, tình trạng no đói cũng thất thường, đến nỗi có hôm phải tuốt gié lúa mà ăn cho đầy bụng. Tương lai về tài chánh, kinh tế, an sinh không có gì hứa hẹn. Ấy thế mà còn phải đi theo Con Người đó suốt đời.
Đi lính hay tham gia phục vụ trong một tổ chức hành chánh nào thì cũng có những hạn kỳ nhất định. Ít là 2 hay 3 năm, nhiều là 40, 50 năm. Sau đó có thể giải ngũ để thực hiện những dự phóng của mình khi xưa. Còn bước theo Đức Giêsu là phải bước theo suốt cả cuộc đời. Không có tình trạng vài ba hôm rồi nghỉ, hay 5, 6 năm rồi thôi.
Ấy thế mà tại sao vẫn có không ít người đã “từ bỏ mọi sự để đi theo Ngài”? Thử hỏi người ta muốn tìm điều chi bên kia sự từ bỏ? Trong mọi hành động hay bước đi của con người luôn luôn có đích tới, vậy đích tới của người theo Chúa Giêsu là gì?
Cuộc đời của con người hay được đan dệt bởi hai câu hỏi “sống để làm gì?” và “làm gì để sống?” Sự sống đây tất nhiên không chỉ thuần tuý sự sống của phần xác, được duy trì bằng ăn uống, hoạt động, ngủ nghỉ, nhưng còn là sự sống tâm linh-một sự sống chỉ được thăng hoa khi tìm ra ý nghĩa và giá trị của cuộc đời. Song, ý nghĩa cùng giá trị cao đẹp của cuộc đời con người lại không nằm nơi tiền tài, vật chất, dục tình, danh vọng, nghề nghiệp, nhưng là con người.
“Hãy theo Ta, Ta sẽ cho các ngươi làm ngư phủ bắt người” (Mc 1,17). Phục vụ “con người” mới là lý tưởng và mục tiêu tiến tới. Trải dài trong lịch sử cứu độ, khi Thiên Chúa cất tiếng gọi hay chọn ai- dù là Abraham, Môisen, Samuen, Đức Maria, hay các tông đồ Phêrô, Gioan-không bao giờ chỉ để họ được hưởng phúc vinh, nhưng là để cộng tác trong tiến trình đưa mọi người vào chung hưởng Tin Mừng Thiên Chúa yêu thương con người.
Để có thể thành công trên bước đường đem niềm hy vọng yêu thương đến cho mọi người và đưa mọi người về với cội nguồn yêu thương là Thiên Chúa, kẻ được gọi trước hết cần phải hướng đến, đón nhận, và bước theo một con người: Đức Giêsu. Đây chính là đích điểm của mọi đích điểm, giá trị trên mọi giá trị, và chính lộ của muôn vạn nẻo đường. Do đó trước khi có thể “chài lưới người” là phải “theo Ta”. Không thể nào tìm thấy ý nghĩa của cuộc đời hay nhận rõ được giá trị của con người để mà đi “lưới” về, nếu không tin phục Đức Kitô.
Chỉ có Đức Kitô mới có thể làm cho một ngư phủ lưới cá thành một ngư phủ lưới người. Thế giới vạn vật có gì sánh được với giá trị siêu việt của con người. Thiên Chúa không đến thế gian để đánh bắt tôm cá hay cứu vớt một sinh vật nào khác ngoài con người. Cho nên đáp trả lời mời gọi cộng tác trao ban tình thương của Thiên Chúa cho con người là ta đang làm cho cuộc sống đời mình nên tốt đẹp, ý nghĩa.
Một lần kia, trên một bài báo, nhà tỉ phú George Soros đã than thở: “Tôi không biết mình đang giàu hay đang nghèo; tôi đang làm chủ số phận hay là nô lệ cho thành công? Bởi vì để thành công tôi phải làm việc như một con chó; để giàu có tôi phải chịu căng thẳng trường kỳ; và để duy trì phú quí tôi phải chịu cảnh bất an liên tục, một sự bất an mà thiết tưởng kẻ nghèo khổ nhất hiện nay cũng chưa phải gánh chịu.”
Thế rồi một hôm kia, một tiếng gọi vang lên từ nơi thẳm sâu của tâm hồn George Soros. Trong âm thầm ông đã hành động. Ông chi viện hàng năm 300 triệu đô la cho người nghèo bên phương Đông, trợ giúp 50 triệu cho người Macedoine đang bị các nước chung quanh cô lập; ông chi 50 triệu cho thành phố Sarajevo trong việc tái thiết hệ thống cung cấp nước cho người di tản; ông còn trả tiền cho gần 30 ngàn khoa học gia thuộc khối cộng sản sau khi sụp đổ, để họ không cộng tác với những quốc gia khủng bố, chế tạo bom đạn nguyên tử, gây tang thương cho thế giới. Sau những công tác cứu trợ nhiều quốc gia và dân tộc, Soros tâm sự: “Chỉ từ khi biết yêu thương và chia sẻ, đời tôi mới bắt đầu nếm được mùi hạnh phúc và sung túc thật sự.”
Đúng vậy, chỉ khi biết yêu thương và phục vụ con người trong đường lối của Thiên Chúa, chúng ta mới cảm nếm được giá trị và ý nghĩa của đời mình.
38. Chúa Nhật 3 Thường Niên
NGỌN ĐÈN TÂM HỒN CỦA TA CÓ ĐƯỢC CHÚA THẮP LÊN KHÔNG?
Anh chị em thân mến,
Lúc Mẹ Têrêsa Calcutta ở nước Úc, một hôm Mẹ đến thăm một người nghèo già không ai biết tới. Căn phòng của ông dơ bẩn, đồ đạc ngổn ngang, lại không cửa sổ, không một bóng đèn. Mẹ bắt tay vào dọn dẹp, nhưng ông quát lên: "Cứ để yên mọi thứ cho tôi!" Nhưng Mẹ vẫn tiếp tục. Khi mọi thứ vào ngăn nắp, Mẹ tim thấy một cây đèn dầu ở góc phòng đầy bụi. Mẹ hỏi: "Sao lâu rồi ông không thấp đèn lên?"- "Thắp làm chi? Có ai tới thăm tôi đâu!" - "Nếu sau này khi nữ tu của tôi tới thăm ông, ông hứa sẽ thắp đèn lên nhé!" Ông trả lời cởi mở hơn: "Vâng, tôi sẽ làm như vậy!" Sau đó mỗi ngày, các nữ tu đều tới chăm sóc cho ông...Một hôm ông nói với một chị em: "Bây giờ tôi biết tự dọn dẹp cho mình rồi. Cám ơn các cô. Các cô làm ơn nói lại với Bà nữ tu đầu tiên rằng: ngọn đèn mà bà đã thắp lên nay vẫn tỏa sáng." (Trích "Sợi chỉ đỏ")...
Qua câu chuyện này, ta thấy Mẹ Têrêsa đã thắp lên ngọn đèn dầu cho ông già nghèo. Điều đó đã không vô ích. Chúa Giêsu muốn thắp lên ngọn đèn tâm hồn trong ta, ta có muốn nó luôn sáng không? Đây là đề tài chúng ta sẽ suy niệm trong ngày chúa nhật hôm nay...
a/. Bài Tin mừng hôm nay có hai vấn nạn ta cần tìm hiểu:
Một: Chúa Giêsu kêu gọi: "hãy theo Thầy"; chính khi Chúa kêu gọi là Người muốn thắp lên ngọn đèn trong tâm hồn chúng ta... Trong những ngày đầu tiên ra đi rao giảng, Chúa Giêsu kêu gọi mọi người mà nói: "Nước Thiên Chúa đang đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng. Đang đi dọc theo bờ biển, Chúa thấy hai anh em ông Simon đang thả lưới xuống biển; Chúa gọi họ: "hãy theo Ta...." Lập tức, họ bỏ mọi sự mà theo Chúa. Qua cử chỉ này, Chúa Giêsu muốn gieo vào tâm hồn các môn đệ niềm tin đầu tiên, cũng là hình ảnh Chúa thắp lên trong tâm hồn ngọn đèn niềm tin. Đó cũng chính là hình ảnh Mẹ Têrêsa thắp lên cho ông già nghèo bị bỏ rơi, ánh đèn dầu, ánh đèn mà bao lâu nay chính ông không buồn thắp lên, cũng không được ai thắp lên cả. Ông hầu như đã bị mất niềm tin nơi mọi người, như hình ảnh cây đèn bị bỏ xó, không ai quan tâm tới nữa. Ông cũng không hi vọng ngọn đèn của mình được sáng lên.
Hai: Các môn đệ bỏ hết mọi sự mà theo Chúa: Khi bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu, chính là các môn đệ muốn giữ chiếc đèn tâm hồn của mình, đã đuợc Chúa thắp lên, để nó được sáng luôn luôn, không tắt nữa. Thái độ của các môn đệ sẵn sàng bỏ hết mọi sự để theo Chúa cũng nói lên thái độ tích cực của mình, sẵn sàng theo Chúa, sẵn sàng từ bỏ bản thân, ý riêng mình để nghe lời Chúa, sẵn sàng giữ gìn ngọn đèn cho nó luôn tỏa sáng, như câu chuyện ông già nghèo sẵn sàng nghe lời Mẹ Têrêsa Calcutta, giữ ngọn đèn dầu sáng lên mỗi khi chị em tới thăm. Chúa Giêsu có nói hứa sẽ biến họ thành kẻ lưới người ta, không chỉ là người chài cá. Lúc đó, các môn đệ có thể không hiểu bao nhiêu. Ở đây ta chỉ nói đến thái độ sẵn sàng, thái độ của lòng tin. Chính Chúa đã thắp lên trong họ ngọn đèn lòng tin; phần họ, họ lại sẵn sàng gìn giữ ngọn đèn lòng tin được tỏ sáng...
b/. Câu chuyện: Đức Tổng Giám mục Helder Camara của Brasil kể rằng: "Anh ruột của tôi có rửa tội hồi nhỏ. Lớn lên học trường dòng, nhưng rồi lôi thôi; sau đó lại bỏ đạo luôn. Sau khi tôi làm linh mục, anh về sống chung với tôi. Mỗi lần tôi đi giảng tỉnh tâm, anh hỏi: Chú sẽ nói về cái gì? Tôi giải thích cho anh nghe bài giảng của mình. Tám năm sau, anh bị bệnh hiểm nghèo sắp chết. Biết mình không sống được, anh gọi tôi: Tôi thấy nơi chú, giữa bài giảng và việc làm của chú không có sự cách biệt; Vậy tôi có thể dựa vào lòng tin của chú mà rước lễ được không? Tôi nói: Em tin lòng thương xót của Chúa sẽ tha thứ cho anh. - Nhưng tôi chưa đi xưng tội? Tôi định tìm một linh mục cho anh, nhưng anh xin xưng tội với tôi...Sau khi rước lễ xong, anh thều thào: Bây giờ tôi tin Chúa, không phải dựa vào lòng tin của chú, mà thực sự tôi xác tín Chúa thương tôi...Sau đó anh chết cách bình an. (Vietcatholic news 12. 2007).
Đức TGM Brasil đã nói với người anh của mình: "Hãy theo Chúa"; Ngài không nói bằng lời, nhưng nói bằng chính cách sống của mình. Anh của Ngài đã tin, người anh đã muốn giữ ngọn đèn mà em của ông thắp lên trong tâm hồn của mình; chính vì lẽ đó, trong giờ phút cuối cùng, ông đã ăn năn trở lại và đã chết bình an, nghĩa là ông giữ cho chiếc đèn tâm hồn mà em ông thắp sáng lên, không hề tắt nữa.
c/. Gợi ý sống và chia sẻ:
Câu chuyện trên đẹp quá, phải không anh chị em? Nhưng nó sẽ đẹp hơn nhiều, nếu mỗi người kitô hữu chúng ta biết để Chúa Kitô thắp chiếc đèn tâm hồn cho mình, nghĩa là mình sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa gọi: "Hãy theo Thầy". Ta có nghĩ rằng Chúa Kitô muốn nói với ta: "Hãy theo Thầy". Tin như vậy, Ta có sẵn sàng bỏ hết mọi sự mà theo Chúa không?
39. Nhìn về tương lai - Lm. Jos Nguyễn Hữu An
Có một thầy ẩn tu tên là Xê-bat-chiêng thường đến cầu nguyện tại một nhà nguyện vắng vẻ trên núi. Trong nhà nguyện này dân chúng tôn kính một tượng Thánh Giá với tước hiệu là "Tượng Chúa ban ơn"
Thấy dân chúng có lòng tin thường đến cầu xin ơn lành, thầy Xê-bat-chiêng cũng thêm lòng tin cậy.
Một hôm vắng người, thầy quỳ gối trước Thánh Giá và chân thành khấn nguyện: "Lạy Chúa, con ước ao được chia sẻ đau khổ với Chúa, xin cho con được thế chỗ Chúa trên thánh giá".
Thầy quỳ yên lặng, mắt đăm đăm nhìn lên Thánh Giá mong đáp lời. Một lúc sau, từ Thánh Giá có tiếng phán bảo: "Được, Ta bằng lòng để con thế chỗ Ta trên Thánh Giá nhưng với một điều kiện duy nhất là bất cứ điều gì xảy ra, tai con nghe gì, mắt con thấy gì, con đều phải giữ im lặng không được nói năng gì hết". Xê-bat-chiêng hứa và được Chúa Giêsu cho lên thế chỗ Ngài trên Thánh Giá.
Ngày qua ngày, dân chúng vẫn đến trước tượng Thánh Giá để cầu nguyện. Không ai hay biết về việc đổi chỗ này.
Một hôm, có người xứ nọ đến cầu nguyện. Khi ra về, ông để quên dưới ghế quỳ cái túi đầy những đồng tiền vàng. Thấy vậy thầy vẫn yên lặng.
Lúc sau, có một người nghèo khổ vào nhà nguyện, ông ta sung sướng nhìn túi tiền vàng, tưởng là Chúa ban cho liền xách túi, tạ ơn và đi ra.
Rồi có một chàng thanh niên vào quỳ gối khẩn nguyện xin ơn che chở vì sắp đi xa. Vừa ra khỏi nhà nguyện thì gặp người phú hộ trở lại tìm túi tiền. Không thấy đâu, ông nghi chàng thanh niên đã lấy đi, tranh cãi và cả hai mời cảnh sát phân xử.
Không cầm lòng được nữa, từ trên Thánh Giá, thầy Xê-bat-chiêng hét lên: Đứng lại. Mọi người ngạc nhiên. Thầy phân trần sự việc. Người phú hộ tìm người nghèo xin lại túi tiền. Chàng thanh niên cũng vội vã đi cho kịp chuyến tàu.
Khi không còn ai trong nhà nguyện, Chúa Giêsu lên tiếng bảo Xê-bat-chiêng: "Con hãy xuống ngay khỏi Thánh Giá, con không xứng đáng thế chỗ cho Ta, vì con đã không biết giữ yên lặng như lời con đã hứa."
Thầy vội vã phân trần: Nhưng lạy Chúa, làm sao con có thể chịu đựng được cảnh bất công đó?
Chúa Giêsu đáp: Thật con không hiểu gì hết! Tiền của người phú hộ là tiền bất lương, trong khi người nghèo đói kia vất vả mà không kiếm đủ miếng cơm manh áo cho đàn con nhỏ. Và nếu chàng thanh niên kia có bị cảnh sát giữ lại, anh ta lỡ chuyến tàu, như thế đã cứu được mạng sống mình. Kìa, tàu của anh ta đang lao đao giữa biển cả sắp chìm vì sóng to gió lớn. (Trích tuyển tập truyện hay, Giấc Mộng Vàng, trang 27)
Câu chuyện này nhắc chúng ta nhớ lời Chúa trong sách Isaia: Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, đường lối của Ta không phải là đường lối của các ngươi. Như trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi bấy nhiêu.
Trong suy nghĩ của con người,chúng ta không thể hiểu được tại sao Chúa Giêsu lại gọi bốn môn đệ đầu tiên để đặt nền tảng xây dựng Giáo hội như bài phúc âm đã kể.
Đó là những người chài lưới, "ăn với sóng, nói với gió", ít học, quê mùa. Chúa Giêsu lại chọn họ làm môn đệ. Tại sao Chúa Giêsu không chọn những Luật sĩ, những Pharisiêu, những Ký lục thông thái?
Cũng như chúng ta cũng hỏi, tại sao Chúa Giêsu không sinh ra nơi cung điện nguy nga lộng lẫy mà lại chọn hang đá Bêlem hôi hám lạnh lẽo để giáng sinh? Tại sao Chúa Giêsu lại chọn cái chết Thập giá đau đớn tủi nhục để làm phương thế cứu độ? Ngắm nhìn Hài Nhi trong máng cỏ cũng như nhìn lên tử tội Giêsu trên thập giá, chúng ta thường tự hỏi tại sao Chúa lại thích những điều nghịch lý? Làm sao người ta có thể tuyên xưng Người là Đấng Giải Thoát khi Người đến trong dáng vẻ yếu đuối bé bỏng?
Thánh Phaolô đã từng thốt lên: Trong khi người Hy lạp tìm kiếm sự khôn ngoan, trong khi người Do thái tìm các dấu lạ, thì chúng tôi lại rao giảng Đức Kitô chịu đóng đinh, một sự điên rồ đối với lý trí nhân loại.
Bởi đó, đường lối của Thiên Chúa không phải là đường lối của con người. Thiên Chúa là Thiên Chúa. Con người là thụ tạo.
Chúa Giêsu thường chọn những cái nghịch lý để làm những điều vĩ đại. Tám mối phúc thật là nghịch lý đối với người đời nhưng lại là Hiến Chương Nước Trời. Chúa Giêsu không đến với sức mạnh bạo lực nhưng với những gì yếu ớt mỏng manh kết tụ nơi Hài Nhi bé nhỏ. Chúa Giêsu cũng kêu gọi những người tầm thường, những người khiêm nhường bé nhỏ. Chính bằng cái mỏng manh bé nhỏ ấy mà Người khơi dậy nơi con người cái chân tâm để rồi tình yêu của Người giúp họ biến đổi để trở nên những rường cột của Giáo hội.
Như thế Chúa nhìn con người với cái nhìn yêu thương, tôn trọng, luôn thấy cái tốt, cái đáng yêu nơi mỗi người cho dù họ nhỏ bé, họ tầm thường. Chính sự bé nhỏ đó mà Chúa biến đổi để nên lớn lao.
Mỗi người chúng ta trong cách nhìn về tha nhân cũng cần học theo gương của Chúa. Đó là cái nhìn về phía đàng trước, về phía tương lai.
Nhiều lần ta khóa chặt anh chị em mình trong quá khứ lỗi lầm. Nhiều khi chỉ vì vài xích mích, vài lỗi lầm trong cuộc sống, nhưng ta lại vịn vào đó mà phủ nhận, mà phán đoán và đánh giá chính họ theo thành kiến của mình. Có người giận Cha xứ mà bỏ Nhà thờ không đi lễ, không xưng tội rước lễ. Có người tâm sự: mọi người coi tôi như một người xấu xa, ai cũng lên án, ai cũng xa lánh, cùng lắm chỉ thương hại, không còn cánh cửa mở ra phía trước cho tôi.
Về mặt xã hội, hai mươi mấy năm qua cũng có thái độ xét đoán con người như thế. "Chủ nghĩa lý lịch" tạo nên sự kỳ thị khủng khiếp. Biết bao nhân tài bị mai một, không phát huy được tài năng chỉ vì lý lịch. Biết bao kẻ bất tài nhờ lý lịch được thăng quan tiến chức. Khóa chặt con người trong quá khứ, một quá khứ do cha mẹ, do hoàn cảnh xã hội tạo nên. Vì quá khứ ấy mà mà mọi cánh cửa mở ra cho tương lai của xã hội đất nước cũng bị thiệt thòi.
Cho nên xem ra con người ta vẫn hay nhìn lại phía đàng sau hơn là nhìn về phía đàng trước. Trong khi đó niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng mở ngỏ cho tương lai, lại thúc bách ta nhìn về phía tương lai. Nhìn về phía tương lai là không chấp nhận thái độ thất vọng: thất vọng về chính mình, về anh em, về cuộc đời. Nhìn về phía tương lai là thay thế thất vọng bằng niềm tin: tin vào chính mình, vào con người, vào cuộc đời... Và trên hết cũng như sâu hơn hết là tin vào Thiên Chúa, Đấng mở ngỏ và dẫn đưa chúng ta đi về tương lai.
40. Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng.
(Suy niệm của Lm. Bùi Thượng Lưu)
Ninivê kinh thành sám hối: một kinh thành "lớn quá trời rộng ba ngày đàng" (Ga 3,3), đặc biệt đó là một kinh thành ngoại giáo. Chính trong kinh thành này, lời sấm của Ngôn sứ Giona đã vang dội khắp hang cùng ngõ hẻm, dội tới cung điện đức vua. Điều kinh ngạc là dân thành đã "tin vào Thiên Chúa" và tin vào lời rao giảng sám hối của sứ giả Thiên Chúa sai đến. Nhà vua đã ra chiếu chỉ bắt toàn dân từ vua quan tới thứ dân phải theo nghi tiết sám hối... Và Thiên Chúa đã chấp nhận tấm lòng thống hối của Ninivê.
Đức Kitô, sau thời gian tĩnh tâm trong sa mạc đã khai mào việc rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa tại Galiê:
"Thời buổi đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần bên" (Mc 1,14)
Theo địa dư, Galilê giáp với xứ Samarie và miền Syrô-Phénicie, ngoài dân địa phương là người Do Thái lập cư, còn có các sắc dân thiểu số ngoại bang khác cư trú, họ là những người ngoại giáo. Điều đáng lưu ý là Đức Kitô đã bắt đầu sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa từ Galilê. Rồi sau khi sống lại, Ngài cũng hẹn với các môn đệ của Ngài ở Galilê (Mc 14,28 và 16,7). Quả thực, Tin Mừng đã được công bố cho cả dân tộc Do Thái và dân ngoại.
Một trong những điều kiện tiên quyết để đón nhận nước Thiên Chúa chính là lòng hối cải: "Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng" (Mc 1,14). Đọc hạnh các thánh, nhất là những vị đại thánh, chúng ta kinh ngạc và thán phục con đường cải quá tự tân dẫn các ngài từ con đường sa đọa tội lỗi quay trở về với Thiên Chúa: Một Augustin, một Charles de Foucauld... và biết bao những tâm hồn lành thánh khác. Lòng hối cải thường bắt đầu với sự đánh động từ thâm sâu của Thiên Chúa, nói một cách khác chính ân thánh của Thiên Chúa biến cải tâm hồn và làm cho con người tìm về đàng ngay nẻo chính. Tiếp đến là một đoạn tuyệt, cắt đứt với đời sống dĩ vãng, cởi bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới, con người được tái tạo trong ân thánh. Dân thành Ninivê đã nhận lấy lời cảnh cáo của sứ giả Thiên Chúa, đã ăn năn sám hối và chắc hẳn đã cải bỏ nếp sống lăng loàn cũ để bắt đầu cuộc sống mới trong đức tin vào Thiên Chúa.
Lý do khiến con người hối cải thật lớn lao: để tiếp nhận Nước Thiên Chúa, đón nhận ơn cứu độ. Con người từ bỏ kiếp sống nô lệ tội ác trở về với thiên chức con cái Thiên Chúa. Trong cái nhìn vĩnh cửu và khải huyền đó, thánh Phaolô đã khuyên tín hữu thành Corinthô hãy hướng nhìn về tương lai:
"Vì bộ dạng thế gian này đang qua đi" (1 Cr 7,31)
Dân thành Ninivê sống vào thế kỷ thứ 8 trước kỷ nguyên, rồi đến các tín hữu thành Côrinthô cũng như những người đồng thời với Đức Kitô quả thực họ đã qua đi. Bao nhiêu đế quốc đã sụp đổ hoang tàn không còn vết tích. Và thế gian với những phù hoa của nó: tiền tài, danh vọng và sắc dục... tất cả cũng sẽ qua đi. Sống trong kiếp phù du, con người thường bị vật chất ru ngủ, quên đi kho tàng khôn sánh ví là Nước Thiên Chúa. "Và tức khắc họ đã bỏ cả chài lưới mà theo Ngài", các môn đệ đầu tiên theo Đức Kitô hẳn đã hiểu phần nào Tin Mừng nước Thiên Chúa họ đã nghe Thầy mình rao giảng, họ đã sẵn sàng từ bỏ tất cả, ngay cả những gì cấp thiết nhất cho kế sinh nhai của họ. Còn chúng ta, những người con đang sống trong thế giới mau qua chóng hết này, chúng ta phải có thái độ và nếp sống nào đối với Tin Mừng Nước Thiên Chúa chúng ta đã lãnh nhận?
41. Chúa Nhật 3 Thường Niên
Anh chị em thân mến.
Con người ai cũng nặng tình gia đình không thể rời xa cha mẹ. Thế mà, anh chị em đã từng chứng kiến: biết bao người đã dám từ bỏ cha mẹ mình cách dứt khoát, để chạy theo tiếng gọi của tình yêu. Khi đó họ không còn phải suy nghĩ gì nhiều đến cha mẹ mình nữa, chỉ còn có con tim là trên hết. Tiếng gọi của con tim nó bao phủ tất cả, nó lấn át tất cả. Khi đó họ không cần biết những gì sẽ chờ đợi mình, không cần biết tương lai sẽ ra sao. Họ chỉ cần biết, giờ đây họ hành động theo lệnh lệnh của con tim mách bảo và bước theo tiếng gọi của tình yêu. Như thế họ bắt đầu một cuộc đời mới mà không cần suy nghĩ gì nhiều. Mỗi người đều trải qua giai đoạn như thế, cứ sự thường thì chăng ai hối tiếc về việc làm đó của mình cả.
Các tông đồ cũng thế. Các ông cũng bước đi theo tiếng gọi: hãy theo Ta. Chúng ta nhìn xem thái độ của các ngài như thế nào? - Không một tiếng trả lời, vội đứng dậy, bỏ tất cả để ra đi. Các ông đã bỏ cha mẹ, bạn bè thân hữu, tài sản, cả những gì đã từng làm vướng bận tay chân các ngài bấy lâu nay: đó là chiếc lưới với những mớ dây chằn chịt đã từng trói chặt đôi chân các ngài, không cho các ngài đi đâu . Thế mà giờ đây tất cả cả những thứ đó đều trở nên vô dụng trước tiếng gọi của tình yêu cao cả. Các ngài đã dứt khoát những gì gần gủi với mình bấy lâu nay để bước đi mà không cần biết đi đâu, không cần biết tương lai như thế nào và cũng chẵng cần biết phải làm gì. Giờ đây các ngài chỉ cần biết nghe theo tiếng gọi và đáp trả là đủ. Cuộc đời các ngài đã trung thành với tiếng gọi. Các ngài đã làm tròn những gì mà tiếng gọi đòi hỏi, cho đến đỗi đã dám hy sinh cả mạng sống vì tiếng gọi. Lời mời gọi đó vẫn còn vang lên mãnh liệt qua từng thời đại. Cũng có biết bao người không thể từ chối hay cưỡng lại được nên cũng đã bước theo và trung thành cách tốt đẹp.
Ngày hôm nay, tiếng gọi tình yêu cao cả đó cũng đã vang đến bên tai mỗi người chúng ta, và chúng ta cũng đã đáp lại . Mỗi người cũng đã dứt khoát và bước đi theo tiếng gọi. Nhưng rồi từng ngày, từng ngày trôi qua và giờ đây mỗi người nhìn lại mình xem: Chúng ta đã sống theo tiếng gọi như thế nào? Mệnh lệnh con tim thuở ban đầu giờ đây chắc không còn hiệu quả lắm đối với chúng ta. Bởi vì thỉnh thoảng chúng ta vẫn còn trở về cây da cũ bến đò xưa, để tìm lại những bạn bè năm xưa. Đó là mỗi khi phạm tội, là chúng ta đã trở về với con người chưa được kêu gọi. Chúng ta cũng còn để cho những mớ chày lưới rối tung đó quấn chặc những bước chân của mình để rồi không thể tiếng bước thêm được nữa. Cũng có những lúc chúng ta để cho những tình cảm riêng tư trong con người nỗi lên lấn át cả tiếng gọi linh thiêng của mối tình cao cả mà ngày nào mình đã can đảm bước theo. Nhưng giờ đây đôi lúc chúng ta sợ sệt: sợ không còn ai yêu thương mình, nếu sống theo tiếng gọi mà mình đã bước theo, sợ thiệt hại bản thân nếu sống đúng với những gì tiếng gọi đòi hỏi, sợ mất đi một chút thời giờ quí báu để hưởng thụ cho thân xác nếu mình sống đúng với những gì sứ mệnh của tiếng gọi đòi hỏi. Nỗi lo sợ đó là những mớ dây chày lưới đã trói bược đôi chân, khiến chúng ta không thể bước đi thoải mái theo tiếng gọi và trung thành với những gì mà tình yêu cao cả đòi buộc chúng ta.
Nếu tất cả mọi hành động, mọi lời nói của chúng ta đều phát xuất bởi tình yêu , nếu chúng ta biết đối xử với người khác bằng tất cả tình yêu thương mà Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta, nếu chúng ta biết sống như thế nào để người khác nhận ra tình yêu của Thiên Chúa đang hiện diện nơi chúng ta thì như thế mình đã sống trọn vẹn và trung thành với tiếng gọi tình yêu của Thiên Chúa.
Xin Chúa cho chúng ta biết yêu thương thật sự, để trung thành đáp lại lời mời gọi của Chúa trong đời sống hằng ngày.
42. Đức Giêsu hành động nhờ trung gian các môn đệ
(Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Bài Tin Mừng này lấy phần cuối của Lời tựa (Bản tóm tắt hoạt động rao giảng của Đức Giêsu tại Galilê, cc.14-15) và phần đầu của hoạt động của Đức Giêsu tại Galilê (cc. 16-20).
Tin Mừng không phải là bản công bố một loạt các chân lý rõ ràng và tách biệt. Ngược lại, đây là một bản tường thuật lôi kéo độc giả vào, đặt câu hỏi cho độc giả, gây ra những nỗi ngờ vực và những câu hỏi. Nhưng chính là nhờ cứ tiếp tục tự hỏi trong công việc giải thích, mà độc giả–thính giả trở thành môn đệ Đức Giêsu, sẵn sàng bước đi đàng sau Thầy. Đọc lần đầu tiên, hoặc đọc những đoạn rời rạc, độc giả thấy ý nghĩa của Tin Mừng không rõ ràng. Do đó độc giả cần có can đảm đọc tiếp, và cứ để cho những thắc mắc mở ra và chờ đợi các câu trả lời đến dần dần.
Cùng với việc Đức Giêsu xuất hiện, hành trình của các môn đệ cũng bắt đầu. Đức Giêsu gọi các môn đệ đầu tiên tại bờ hồ Galilê. Qua các hành động của Người, Nước Thiên Chúa cũng đến gần.
2.- Bố cục
Bản văn gồm hai đoạn nhỏ có thể văn khác nhau:
1) Một “bản tóm tắt” công việc rao giảng của Đức Giêsu tại Galilê (1,14-15):
a- nơi chốn và thời gian (c. 14a),
b- chính “bản tóm tắt” (cc. 14b-15);
2) Bài tường thuật việc Đức Giêsu kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên (1,16-20):
a- Đức Giêsu thấy (cc. 16.19),
b- Đức Giêsu gọi: đến, theo (cc. 17.20a),
c - Các ông đáp: từ bỏ và đi theo (cc. 18-20b).
Người ta thường coi “bộ ba” Gioan Tẩy Giả – Phép Rửa – Cám Dỗ như một phần Mở của TM Mc, còn “bản tóm tắt” là khởi đầu cuộc đời công khai của Đức Giêsu. Toàn bản văn chúng ta đang khảo sát là phần khai mạc sứ mạng của Đức Giêsu với khởi đầu công việc rao giảng của Ngài và việc kêu gọi các môn đệ. Trong Mc, có nhiều đoạn nhắc lại và nối kết hai điểm này: x. 3,7-12.13; 6,6b.7-12).
Tuy nhiên, người ta cũng có thể coi 1,1-15 là một khối, được đóng khung bởi hai từ “Tin Mừng” (cc.1 và 15) (x. Gnilka). Sang phần kế tiếp, tác giả đưa vào một phần mới với “biển hồ Galilê”. Như thế, có thể nói, nhờ lối cấu trúc đóng khung, ta hiểu lúc đầu Tin Mừng được giới thiệu tổng quát, sau sẽ được giới thiệu chi tiết.
Các câu 14-15 long trọng giới thiệu các lời nói đầu tiên của Đức Giêsu theo Mc, do đó, cần lưu ý đến tầm quan trọng của những lời này. Trong Mt và Lc, Đức Giêsu đã nói trước khi đi vào đời sống công khai: qua ba mẩu đối thoại với quỷ (Mt 4,3-10; Lc 4,3-12); trước đó, Mt 3,14-15 kể lại mẩu đối thoại giữa Đức Giêsu với Gioan Tẩy Giả, còn Lc 2,48-49 kể lại mẩu đối thoại giữa Đức Giêsu với Đức Maria tại Đền Thờ. Những lời đầu tiên của Đức Giêsu có ý nghĩa đối với nền thần học Mt và Lc, thì hẳn cũng có ý nghĩa đối với nền thần học Mc... Nhưng bản văn song song đích thực chính là lời nói công khai đầu tiên của Đức Giêsu được ba Tin Mừng Nhất Lãm ghi lại:
a) So sánh Mc với Mt
Mt 4,17
Mc 1,14-15
Đức Giêsu rao giảng
Đức Giêsu bắt đầu rao giảng
Tin Mừng của Thiên Chúa:
Thời kỳ đã mãn
Anh em hãy sám hối
vì Nước Trời đã đến gần
Triều Đại (Nước) Thiên Chúa đã đến gần
Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng
Công thức của Mt thì ngắn và mờ nhạt hơn công thức của Mc. Điểm nòng cốt (Nước Thiên Chúa và hoán cải) được đóng khung bởi hai yếu tố bổ sung: “thời kỳ đã mãn”, và “anh em hãy tin vào Tin Mừng”.
Ngay trong bản văn Mt, câu nói ngắn ngủi của Đức Giêsu đã được Gioan Tẩy Giả nói trước đó: Tác giả Mt dùng cách đó để khẳng định sự tiếp nối của các sứ mạng (việc rao giảng của Gioan chuẩn bị cho việc rao giảng của Đức Giêsu, và việc rao giảng của các môn đệ nối dài sứ điệp của Thầy). Nhưng vì thế, khi so sánh với bản văn Mt, ta thấy bản văn Mc phong phú hơn, độc đáo hơn, đặc biệt với từ “Tin Mừng” đặt trên môi miệng Đức Giêsu.
b) So sánh Mc với Lc (Lc 4,14-15): Tác giả Lc nói rằng Đức Giêsu giảng dạy nhưng không ghi lại một lời nào của Người; ngược lại, ngay sau đó, trong câu truyện hội đường Nadarét (4,16-30), Đức Giêsu đọc đoạn văn Is 61, mà theo Lc, là cả môt chương trình. Mà Lc lại dùng động từ “loan báo Tin Mừng” (euangelizomai) (Lc thích dùng động từ này hơn là danh từ “Tin Mừng”). Đây là điểm song song đáng lưu ý với bản văn Mc. Trong cả hai bản văn, quang cảnh khai mạc cuộc đời công khai của Đức Giêsu là một Tin Mừng.
Mc đã nhấn mạnh tầm quan trọng của “Tin Mừng” (HL. euangelion) khi ngài dùng từ này mà đóng khung bản văn của ngài: “Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa” và “anh em hãy tin vào Tin Mừng”. Từ ngữ “Tin Mừng” được lặp lại ba lần để đóng khung hai đoạn văn trong cùng một phân đoạn, khiến ta hiểu đây là “từ chìa khoá” vừa của phần Mở vừa của “bản tóm tắt”. Đàng khác, nếu từ “Tin Mừng” đóng khung những lời nói đầu tiên của Đức Giêsu, điều này có nghĩa là, muốn hiểu những lời này, ta phải đi từ “Tin Mừng”.
3.- Vài điểm chú giải
- Tin Mừng (14.15): Tác giả dùng từ ngữ “Tin Mừng” ở dạng tuyệt đối (= không có bổ ngữ theo sau) 5 lần, mà ta có thể phân phối thành hai loạt: trong quan hệ với việc rao giảng cho Dân ngoại (13,10; 14,9; 16,15) và khi nói về việc các môn đệ bị bách hại và phải biết hy sinh (8,35; 10,29). Trong hai bản văn cuối cùng, đáng lưu ý là “Tin Mừng” được đặt song song với Đức Giêsu: “vì tôi và vì Tin Mừng”, y như là một sự đồng hoá. Tin Mừng được nói đến y như là một nhân vật. Trong tác phẩm Mt, từ ngữ này chỉ được dùng 3 lần trong thuật ngữ “Tin Mừng về Nước Trời”, còn Lc thì không bao giờ sử dụng. Hẳn đây là sáng kiến của riêng tác giả Mc. Nhưng cũng rất có thể là ngài đã nhận lấy ý niệm này từ Phaolô, vì vị tông đồ đã sử dụng từ ngữ “Tin Mừng” khoảng 60 lần, và có tới khoảng 30 lần dùng từ ngữ này ở thể tuyệt đối (Các bản văn chính: 1 Tx 2; 1 Cr 9; Rm 1; 15; Pl 1 và 4). Từ ngữ này có nhiều nghĩa:
+ việc loan báo một sứ điệp hạnh phúc: nội dung của sứ điệp này;
+ hoạt động truyền giáo của tông đồ Phaolô nơi Dân ngoại;
+ giá trị tối cao mà thánh Phaolô phải đón nhận vì vượt quá ngài vô cùng;
+ nhất là, đây luôn luôn là một thực tại sống động, năng động, một biến cố đang diễn tiến: sự xuất hiện của vinh quang (2 Cr 4,4), sự mạc khải đức công chính của Thiên Chúa đang hoạt động để cứu độ loài người (Rm 1,16). Phaolô có thể nói rằng Đức Giêsu là “Con Thiên Chúa quyền năng do phục sinh từ cõi chết” (Rm 1,4) hoặc Tin Mừng là “quyền năng của Thiên Chúa để cứu thoát mọi kẻ tin” (Rm 1,16). Nhìn theo quan điểm cứu độ, Phaolô cũng như Máccô đồng hoá Đức Giêsu và Tin Mừng (so sánh Mc 1,14-15 với Rm 1,1-5.16).
Các độc giả của Phaolô, sống trong đế quốc, đã quen với những từ ngữ như “quang lâm”, “giáng lâm”, “tiền hô”, “công bố” (HL. kêrygma)… Nhưng tư tưởng của Phaolô không bắt nguồn trực tiếp từ nghi thức đón tiếp hoàng đế, mà là từ một nền tảng Cựu Ước: từ các câu chuyện các vua Saun, Đavít và Salômôn (x. 1 Sm 31; 2 Sm 1,4; 1 V 1) trong đó Tin Mừng có ý nghĩa là chiến thắng, giải phóng, sự hiển ngự của một vị vua. Đặc biệt từ sách Sách Yên Ủi Israel (Is 40–55) trong đó có từ ngữ “Tin Mừng”: hai lần ngài đã quy về Is 52,7 (x. Rm 10,15; Ep 6,15). Sách II Isaia đã dùng từ “Tin Mừng” mà áp dụng cho một biến cố cụ thể: biến cố giải phóng những người lưu đày, nhờ chiến thắng của vua Kyrô và sắc lệnh cho phép họ hồi hương và tái thiết Đền Thờ. Khi giải phóng Dân Người, Đức Chúa (Yhwh) tỏ ra cho Dân ngoại thấy Người là Đấng Cứu độ đầy quyền lực, là Đấng công chính, Đấng yêu thương. Thiên Chúa đã thiết lập triều đại của Người khi tích cực can thiệp mà cứu độ Dân Ngài và tỏ mình ra cho họ. Vậy Tin Mừng là việc công bố cho muôn dân biết cuộc đăng quang này của Thiên Chúa.
Đối với Phaolô và cả Mc nữa, Tin Mừng là một cuộc đăng quang hoàng đế, là một triều đại bắt đầu (x. Rm 1,1-4). Nhưng nếu Phaolô đặt biến cố đăng quang vào lúc Đức Giêsu chết và sống lại, Mc lại đưa biến cố ấy ra trước, đặt vào đời sống công khai của Đức Giêsu. Đối với Mc, quyền lực của Đấng Phục Sinh đã được bày tỏ cách kín ẩn trong những lời nói và việc làm của Đức Giêsu trần thế. Được loan báo trong bản tóm tắt, Tin Mừng sẽ được bung ra trong những bài tường thuật kế tiếp: lời rao giảng với uy quyền, cuộc chiến đấu chống Satan, các phép lạ và, có thể, trước tiên, việc chọn lựa các môn đệ. Từ đó, biến cố cứu độ khởi đầu cho Triều Đại của Thiên Chúa (“Tin Mừng của Thiên Chúa”: Mc 1,14) chính là bản thân Đức Giêsu (“Tin Mừng Đức Giêsu Kitô”: 1,1) đang hành động và rao giảng, Người chính là “Triều-Đại-hiện-thân” (Origiênê). Như Phaolô nói, và như Mc đã hiểu rất đúng: Tin Mừng của Thiên Chúa, chính là Con của Người. Và Đức Giêsu có thể nói: “Triều Đại (Nước Thiên Chúa) đang ở đó” bởi vì chính Người đang ở đó.
Sự song song giữa hai bản văn của Phaolô (Rm 1,1-5 và Rm 1,16-17) và Mc (Mc1,14-15) còn cho thấy một yếu tố khác nữa: lời đáp của con người với biến cố cứu độ hệ tại một thái độ duy nhất, đức tin. Hoán cải, chính là tin vào Tin Mừng, nghĩa là đón nhận Tin Mừng và dấn thân phục vụ Tin Mừng.
- Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ: Trong Mt, có một bản văn hầu như tương tự bản văn Mc, còn trong Lc, hoàn cảnh khác hẳn: đây là một bản văn độc đáo với ba yếu tố: giảng dạy đám đông, mẻ cá lạ lùng và việc kêu gọi Phêrô. Có thể nói bài tường thuật về việc kêu gọi các môn đệ đầu tiên đã có trong truyền thống ở dạng độc lập.
Đọc lướt qua, chúng ta có ấn tượng đây là một sự kiện tầm thường. Đọc kỹ hơn, ta thấy hoàn cảnh không đơn giản mấy. Trong thực tế, có hai bài tường thuật nhỏ, khá giống nhau, ta có thể đọc riêng rẽ, nhưng chúng được nối kết với nhau về thời gian, nơi chốn và hoàn cảnh, làm thành một khối rất thống nhất.
Nói là hai bài tường thuật vì các đoạn văn này được xây dựng theo cùng một mẫu, theo cách lược đồ (làm bảng nhất lãm thì thấy rõ). Ta có thể đọc thêm bài tường thuật về ơn gọi của Lêvi (x. 2,14) để thấy những đặc điểm tương tự.
Phêrô-Anrê
Giacôbê-Gioan
Lêvi
1.
Người đang đi dọc theo biển hồ Galilê
Đi xa hơn một chút
Đi ngang qua
(trạm thu thuế)
2.
Người thấy Simon với em là Anrê
Người thấy Giacôbê
với người em là Gioan
Người thấy
Lêvi con Anphê
3.
đang quăng lưới xuống biển vì họ làm nghề đánh cá
đang vá lưới ở trong thuyền
đang ngồi ở đó
(trạm thu thuế)
4.
Người bảo: Các anh hãy theo Tôi
(Tôi sẽ làm cho các anh thành
những kẻ lưới người như lưới cá)
Người liền gọi các ông
Người bảo ông
Anh hãy theo Tôi
5.
Lập tức hai ông bỏ chài lưới
Và các ông bỏ cha mình là Dêbêđê (ở lại trên thuyền với những người làm công)
Ông đứng dậy
6.
mà đi theo Người
mà đi theo Người
đi theo Người
Có hai yếu tố không đổi: khi đi ngang qua, Đức Giêsu thấy ai đó với nghề nghiệp; Người kêu gọi, người ấy bỏ nghề, đi theo Người. Đây là cái khung trong đó ta chỉ cần thay đổi tên người được gọi và kiểu sống của kẻ ấy.
Trong thực tế, sự song đối không hoàn toàn sít sao. Nếu đọc các bài tường thuật từ trái qua phải, ta nhận thấy rằng, cứ sang một cột, lại mất đi một yếu tố. Nhưng dù cho hai bài tường thuật đầu vừa theo một lược đồ tương tự vừa có thể tách rời nhau, ta vẫn có thể nói rằng dường như chúng không được viết độc lập với nhau; trái lại, chúng bổ túc cho nhau rất khéo. Cho dù công thức “họ làm nghề đánh cá” được dùng cho Simôn và Anrê, ta vẫn hiểu rằng Giacôbê và Gioan cũng làm nghề ấy. Mỗi bài mô tả một phương diện của nghề đánh cá (quăng lưới; vá lưới) nhưng cả hai mới cung cấp một bức hoạ đầy đủ về nghề này. Muốn biết bốn người đã bỏ gì lại, phải cộng các chi tiết của hai bài: lưới, thuyền, cha; nghĩa là: nghề nghiệp và gia đình. Nhưng đặc biệt hai câu 17 và 20 soi sáng lẫn nhau: Lời hứa “Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người” chỉ được ngỏ với Simôn và Anrê, nhưng rõ ràng cũng có liên hệ đến Giacôbê và Gioan. Câu “Người gọi các ông” (bản văn 2) không nhắc lại “Các anh hãy theo tôi” (bản văn 1). Câu 17 xác định đối tượng của việc Đức Giêsu kêu gọi (một sứ mạng), còn c. 20 giải thích lời mời gọi bước theo Đức Giêsu (một ơn gọi). Như thế, những chi tiết hơi khác nhau trong hai bài lúc đầu đã khiến người ta nghĩ đến những bài tường thuật tiểu sử, nhưng vì đặc tính đúc sẵn của chúng, có lẽ phải coi đây là một thể văn riêng. Nhiều nhà chú giải cho rằng bài tường thuật này đã dựa theo một bài mẫu là ơn gọi ngôn sứ Êlisa (x. 1 V 19,19-21). Những điểm giống nhau giữa hai bản văn cho thấy tác giả đã dựa vào sách 1 Vua, những chỗ khác nhau cho thấy rằng ngài cũng có quan điểm riêng của ngài.
+ Giống nhau: Hai bản văn có cùng một cấu trúc, hầu như có cùng những từ ngữ giống nhau: Êlia (như Đức Giêsu) đi qua, gặp một người đang làm việc, mời người ấy đi theo mình. Người môn đệ mới liền bỏ nghề và cha mà đi theo Thầy. Trong trường hợp Êlisa, điểm thứ năm chi tiết hơn: ông huỷ tất cả những gì liên hệ với cuộc sống trước đây, và ông từ giã cha mẹ (= hoàn toàn đoạn tuyệt với quá khứ). Điều lạ lùng là yếu tố này chỉ được nhắc lại trong một bài tường thuật về một ơn gọi hụt do Lc viết (9,61-62) ở cuối một chuỗi ba câu truyện (Mt chỉ ghi giữ hai truyện đầu: Mt 8,18-22): Ở đây ta gặp lại lời xin được từ giã gia đình và lời nói về “cái cày”. Như vậy, dường như truyền thống liên hệ đến ơn gọi của Êlisa, bằng ảnh hưởng trực tiếp nhưng cũng bằng tương phản, đã đóng một vai trò quan trọng trong việc sáng tác các bài tường thuật về ơn gọi trong Tin Mừng. Các điểm khác nhau còn cho thấy rõ điều này hơn.
+ Khác nhau:
(1) Từ biệt cha mẹ. Câu trả lời của Êlia có thể có vẻ hàm hồ, nhưng Do Thái giáo coi lời ông như một lời cho phép. Còn trong ba bài tường thuật của Lc (9,57-62), Đức Giêsu không chấp nhận bất cứ sự chậm trễ nào. Trong cuộc kêu gọi các ngư phủ, không hề có lời nào cho thấy họ xin từ biệt cha mẹ. Ngược lại, mọi sự đi theo chiều hướng một sự đoạn tuyệt tận căn.
(2) Êlia “gặp thấy” Êlisa gần như do tình cờ và dùng một cử chỉ mà mời ông đi theo. Ngược lại, Đức Giêsu “thấy” những kẻ Người gọi, một cái nhìn diễn tả một sự lựa chọn trước; ngoài ra, Người còn nói một lời (“Hãy theo tôi”) chứng tỏ uy quyền tuyệt đối của Người.
(3) Êlisa đi theo Êlia chỉ như một người tôi tớ; còn bốn người được Đức Giêsu kêu gọi, thì được Người cho biết sẽ giao cho họ một sứ mạng. Các từ ngữ gợi ý một sự chuyển đổi nghề nghiệp, nhưng trong thực tế Đức Giêsu xác định một sự thay đổi hoàn toàn chiều hướng sống.
Lời Đức Giêsu làm cho bốn ông trở thành “ngư phủ lưới người” chính là trọng tâm, xoay quanh đó là bài tường thuật ơn gọi nhằm một sứ mạng. Chúng ta nhận thấy có những điểm nổi bật:
+ Sáng kiến của Đức Giêsu cho thấy uy quyền tối cao và tính hữu hiệu của lời Người. Không phải là người môn đệ đi tìm một vị thầy dạy suy tư, nhưng là Đức Giêsu đi bước trước. Như Yhwh đã thấy Môsê, đã nhận ra Giêrêmia, Đức Giêsu thấy, chọn và gọi những kẻ Người muốn. Ngay từ đầu, Người đã xử sự như thầy và chúa tể.
+ Lời đáp của kẻ được gọi: tuyệt đối vâng lời Đức Giêsu, như trường hợp các ngôn sứ; đoạn tuyệt trọn vẹn với hoàn cảnh trước đó (gia đình và nghề nghiệp); dâng mình hoàn toàn cho Đấng kêu gọi để sống với Người một cuộc sống mới.
+ Đức Giêsu kêu gọi để giao phó một sứ mạng. Đối với Giáo Hội tiên khởi, bài tường thuật này là nền tảng cho quyền bính tông đồ. Sứ mạng của các ông không đến từ các ông, nhưng từ một tiếng gọi và nó bén rễ trong sự kiện các ông đã bước theo Đức Giêsu.
- “Kẻ lưới người như lưới cá” (halieis anthrôpôn) (c. 17): Tại Sumer (thiên niên kỷ iii) và tại Mari (thiên niên kỷ ii), trong một ngữ cảnh nói về chiến tranh, tấm lưới cá là một dụng cụ giúp đạt chiến thắng trên kẻ thù và là biểu tượng diễn tả việc Thượng Đế thực thi công lý. Trong nhiều bản văn ngôn sứ, đặc biệt Gr 16,16; Kb 1,14-15, ta thấy những tư tưởng và hình ảnh này liên hệ đến việc Yhwh phán xét Israel: trong dụ ngôn chiếc lưới (x. Mt 13,47-49), hình ảnh ám chỉ cuộc chọn lọc trong ngày tận thế. Nhiều cách diễn giải: “you will catch men as if you were catching fish” (Barrow Eskimo), “just like you catch fish, I will make catch men (San Blas), “give power to bring men” (Black Bobo), “make you become ones who are men bringers (Moré), “fishers who fish (or catch) men” (Bratcher & Nida).
- “Lập tức hai ông bỏ …”: Tác giả Mc chỉ áp dụng hai lần động từ HL aphiêmi, “leave, abandon”; “rời bỏ, bỏ rơi” cho các tông đồ (ở đây và 14,50). Có lẽ ngài muốn nói: bỏ của cải mình cũng chẳng ích gì nếu lại bỏ rơi Đức Giêsu trước cái chết, hay chỉ “theo Người xa xa” (14,54). Kể từ việc tuyên xưng đức tin tại Xêdarê và lời loan báo Khổ Nạn lần đầu, Mc đưa vào vào đề tài con đường (x. 8,27. “Con đường” đánh dấu các chặng lên Giêrusalem: 9,33; 10,32). Nhưng trên con đường này, mặc dù đi đàng sau, các môn đệ không muốn theo Đức Giêsu tiến về cuộc Khổ Nạn. Ngược lại, người môn đệ chân chính, là anh mù Báctimê, khi đã thấy, thì theo Đức Giêsu trên con đường này (10,52). Kể từ nay, bước theo Đức Giêsu, chính là vác thập giá (x. 8,34). Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan chỉ thực sự đi theo Đức Giêsu khi mang Tin Mừng đến cho mọi người (x. 1,38; 2,15), và hy sinh mạng sống “vì Đức Giêsu và vì Tin Mừng” (8,35).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Tóm tắt hoạt động rao giảng của Đức Giêsu tại Galilê (14-15)
Trước khi ghi nhận các chi tiết thuộc về đời sống công khai của Đức Giêsu, Mc tóm tắt hoạt động của Người bằng cc. 14-15. Biến cố Gioan Tẩy Giả bị bắt đã kết thúc hoạt động của ông. Đức Giêsu, trước đây đã được Gioan ban phép rửa cho (1,9-11), nay trở lại Galilê và tại đó, Người bắt đầu công trình của Người. Sứ điệp Người phải truyền đạt được xác định ngay từ đầu là Tin Mừng của Thiên Chúa: Tin Mừng đến từ Thiên Chúa và Tin Mừng nói về Thiên Chúa. Đây là Tin Mừng tuyệt hảo được Thiên Chúa thông ban cho ta và nói với ta về tương quan Người muốn thiết lập với ta. Đức Giêsu cho biết rằng những gì Thiên Chúa đã hứa, nay đang trở thành hiện thực. Thời gian đang khởi đầu với lời loan báo và hoạt động của Đức Giêsu là thời gian của sự hoàn tất, thời gian của hoạt động đặc biệt của Thiên Chúa. Tất cả những điều này khiến chúng ta vui mừng và tin tưởng.
* Gọi bốn môn đệ đầu tiên (16-20)
Ngay từ đầu, Đức Giêsu đã chứng tỏ Người là vị Tôn sư và Chúa tể. Người không giải thích cho các môn đệ biết chương trình hoạt động của Người, Người không đề nghị hay hứa hẹn, không tìm cách thuyết phục, Người chỉ đơn giản kêu gọi bước theo Người. Ngoài ra, bởi vì ngoại trừ trong cuộc Khổ Nạn, Đức Giêsu không làm gì mà không có các môn đệ. Điều này có hai ý nghĩa: 1) Ngay khi xuất hiện, Đức Giêsu tạo lập một cộng đoàn, một gia đình (x. 3,20-35) gồm các môn đệ, để họ “ở với Người và để Người sai đi” (3,14). 2) Các ông là những người tiếp nối công trình của Người, các ông phải làm chứng về những hoạt động của Người. Người ta trở thành môn đệ khi đón nhận tiếng gọi của Đức Giêsu. Mở lòng ra liên tục với tiếng gọi này chính là đặc điểm thường hằng của người môn đệ.
Ở đây, chúng ta ghi nhận Simôn nổi lên như người thứ nhất trong anh em do chính sáng kiến của Đức Giêsu (sẽ có lúc tên ông không được nêu ra đầu tiên nữa: x. 16,7); chính Người đã tách ông ra khi thiết lập Nhóm Mười Hai, Người đã đổi tên Simôn thành “Phêrô” (x. 3,13-19).
+ Kết luận
Vậy bài tường thuật này có một ý nghĩa thần học. Nhưng còn giá trị lịch sử thì sao? Dường như bài này đã gây nhiều vấn nạn, và các Tin Mừng viết sau (như Lc và Ga) đã trình bày việc kêu gọi đúng thực tế hơn. Dù vậy, bên kia tính chất lược đồ thần học, bài này cũng phản ánh những nét lịch sử:
- Các môn đệ đã thực sống quanh Đức Giêsu (“bước theo, đi đàng sau” là động từ xác định quan hệ của một nhóm môn đệ với một vị thầy (Rabbi).
- Con người Đức Giêsu có sức thu hút người ta đi theo Người vô điều kiện (nhiều đoạn Mc cho thấy như vậy).
- “Bước theo” Đức Giêsu có nghĩa là dấn thân trọn vẹn vào một cuộc phiêu lưu.
- Có thể coi câu nói “những kẻ lưới người” là câu nói của chính Đức Giêsu, vì không có bản song song trong truyền thống kinh sư Do Thái hay Hy Lạp.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Tác giả muốn nêu bật sự nối tiếp giữa cuộc đời Đức Giêsu và Giáo Hội. Cuộc đời Đức Giêsu được giới thiệu bởi một vị Tiền Hô “bị nộp”. Cuộc đời các ông cũng sẽ được mạc khải bởi một Đấng “bị nộp” và “sống lại”. Đọc câu truyện hôm nay, thực sự phải nhận ra, đây chính là Đấng Phục Sinh vừa xuất hiện trên bờ biển, liên kết con người vào Tin Mừng bằng lời quyền năng của Ngài. Kể từ nay, Galilê chính là toàn trái đất, và bốn vị tông đồ là cộng đoàn mênh mông gồm những người bước theo Đức Giêsu.
2. Người Kitô hữu hôm nay cũng là những người đã nhận được lời kêu gọi: “Hãy theo tôi”. Họ không tự ý ra trình diện Đức Giêsu, không thỉnh nguyện được tham gia vào công trình của Người. Đức Giêsu cũng không nhận họ như là những cộng sự viện có tiền lương và có thời gian nghỉ hè. Người kêu gọi họ. Tiếng gọi của Người rất đòi hỏi, nhưng đưa lại trọn vẹn ý nghĩa cho cuộc đời họ.
3. Đức Giêsu không đề nghị cho họ một chương trình đã được hoạch định sẵn, nhằm thuyết phục họ là dấn thân theo chương trình ấy là chuyện hợp lý. Người gọi họ đến với Người. Thật ra tiếng gọi của Người cũng là một mệnh lệnh: điểm quy chiếu và định hướng duy nhất cho họ là bản thân Đức Giêsu. Người đi trước họ, và họ phải bước theo Người. Nội dung cơ bản của tiếng gọi, tức của cuộc sống mới của các môn đệ, là sự quy hướng về Đức Giêsu, sự hiệp thông đời sống với Người. Người môn đệ ký thác vào sự hướng dẫn của Người.
4. Tiếng gọi này đặt người môn đệ vào trong một tương quan riêng tư với Đức Giêsu, làm cho người ấy trở nên thành viên của một cộng đoàn và tạo ra tương quan của người ấy với những người được gọi khác. Đi theo Đức Giêsu không phải là từng cá nhân riêng lẻ, nhưng là một cộng đoàn các môn đệ. Nhưng không phải là các môn đệ mà là Đức Giêsu, bằng tiếng gọi của Người, xác định ai thuộc về cộng đoàn này.
5. Tiếng gọi này là một lời mời để cho Người đào tạo: “Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” (c. 17). Người trao cho họ một nhiệm vụ mới và Người chuẩn bị họ. Họ sẽ dẫn những người khác đi trên cùng một nẻo đường mà họ đang theo, tức sống hiệp thông với Đức Giêsu.
43. Chương trình cách mạng toàn thiện - ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Vũ Khắc Nghiêm)
Khai mạc công việc rao giảng Tin mừng, Đức Giêsu đã đề ra một chương trình cách mạng rất ngắn gọn, gồm ba điểm: Hãy sám hối, hãy tin vào Tin mừng, hãy theo Ta.
Hãy sám hối: Cách mạng bao giờ cũng bắt đầu bằng lật đổ chế độ cũ, chế độ thốt nát xấu xa. Hầu hết các phong trào cách mạng đều bắt đầu bằng những hành động tiêu cực: đả phá, hiếu chiến, gây tàn ác, chém giết, chiến tranh khốc liệt.
Bắt đầu cách mạng của triều đại Thiên Chúa, Đức Giêsu không đi vào đường lối tàn ác của các cuộc cách mạng trần gian. Người đã mở một con đường cách mạng mới. Con đường hòa bình chứ không hiếu chiến, con đường thương yêu chứ không tàn ác, con đường sám hối tu thân. Sám hối tu thân là đấm ngực mình, chứ không đấm ngực, đánh đập người. Đau lòng vì lầm lỗi chứ không làm người đau lòng. Hối hận chứ không thù hận. Sám hối tu thân là xét mình nhận biết tội lỗi mình đã xúc phạm đến Thiên Chúa và anh em, rồi quyết tâm sửa mình, chứ không tìm lỗi người để tuyên truyền bôi xấu, nhục mạ, tiêu diệt. Mục đích của sám hối là tin vào Thiên Chúa mà bỏ đường gian ác như dân thành vĩ đại Ninivê đã nghe lời Giona, tin vào Thiên Chúa. Họ công bố lệnh ăn chay, tất cả mọi người từ lớn chí bé đều mặc áo vải thô và quyết tâm bỏ đường gian ác.
Hãy tin vào Tin mừng: Bước tiến thứ hai của cách mạng là đề xướng chương trình mới, kế hoạch mới, lý thuyết mới, chế độ mới. Chế độ mới thường được tuyên truyền, quảng cáo rất hấp dẫn để lôi cuốn quần chúng theo cách mạng. Nhưng lịch sử đã cho thấy: trải qua bao nhiêu chế độ từ nông nô, phong kiến đến quân chủ, từ dân chủ, cộng hòa đến xã hội chủ nghĩa ; chế độ nào cũng chỉ tạm thời, rồi sụp đổ vì chế độ nào cũng nảy sinh độc tài, bất công, tham nhũng, thối nát.
Ngay cả đến Khổng Tử muốn thiết lập một chế độ trên nền tảng nhân, nghĩa, lễ, trí, tín và thực hiện thiên mệnh. Nhưng hầu hết những kẻ học nho lên cầm quyền chẳng tin thiên mệnh, chẳng làm theo ý Trời. Do đó, họ chỉ lo dẹp loạn cho yên thân để hưởng vinh hoa phú quý. Dân nước sống chết mặc bay, mà còn giết hại bao nhiêu dân lành. Minh Mạng, Tự Đức, bề ngoài có vẻ hiếu kính tổ tiên, nhưng thực chất họ chỉ lo củng cố địa vị, quyền lợi mình, chém giết nhau để tranh giành ngôi vua và chém giết hàng trăm ngàn dân lành tử đạo, chỉ vì họ sợ mất ngai vàng, chớ không phải sợ mất nước.
Không tin Thiên Chúa, đó là lý do chính khiến các chế độ loài người thối nát, sụp đổ. Đức Giêsu đến cứu độ thế nhân. Người thực hiện cuộc cách mạng chân chính vững bền trên nền tảng Tin mừng, để xây dựng triều đại Thiên Chúa đến muôn đời. Người kêu gọi ta tin vào Tin mừng. Tin mừng hướng dẫn ta biết được nguồn gốc cao cả của ta bởi Thiên Chúa hằng sống, chứ không bởi bùn đất hay bởi loài vật chết thối. Nhờ đó, con người lấy làm vinh dự và tự tin, rồi nỗ lực phát triển nhân phẩm, đền đáp công ơn sinh thành vô cùng của Thiên Chúa.
Thật vinh dự cho tôi, nếu tôi biết tổ tiên tôi là những bậc vĩ nhân hay thánh nhân. Tôi còn được vinh phúc muôn phần hơn nhiều, khi Đức Giêsu cho biết: “Cha anh em, Đấng ngự trên trời, Ngài cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt. 5, 45). Thấy Cha trên trời toàn năng và yêu thương mọi người như vậy, chúng ta phải biết yêu thương anh em như chính mình để nên hoàn thiện như Cha chúng ta ở trên trời. Biết được nguồn gốc bởi Thiên Chúa, làm cho chúng ta có đức tin. Biết được tình yêu vô cùng của Thiên Chúa, làm cho chúng ta có đức ái. Biết được Thiên Chúa là Đấng hằng sống vinh quang làm cho chúng ta có đức cậy. Biết được Con Một Thiên Chúa là Đấng chịu chết để cứu chuộc chúng ta và sống lại để cho chúng ta được sống lại đời đời với Người, làm cho chúng ta cảm thấy chan chứa vui mừng. Chúng ta tràn trề hy vọng được sống vinh phúc muôn đời, không còn tuyệt vọng, đau khổ về cái chết nữa.
Như vậy, tin vào Tin mừng, chúng ta được đức tin mạnh mẽ giải thoát chúng ta khỏi đời sống sa đọa thấp hèn. Tin vào Tin mừng chúng ta được đức ái nồng nàn, sống liên kết khắng khít với Chúa và sống hòa hợp với nhau để hy sinh cứu giúp nhau. Tin vào Tin mừng, chúng ta được đức cậy vững vàng đem lại cho chúng ta niềm hy vọng vào tương lai đầy tươi sáng, để ra sức chiến đấu với mọi thử thách gay go của cuộc đời.
Vậy ngay từ giờ, chúng ta quyết tâm bước theo tiếng gọi của Đức Giêsu: “Hãy theo Ta”, để thực hiện chương trình của Người xây dựng triều đại Thiên Chúa như Phêrô, Gioan, Giacôbê và Anrê, vì không còn triều đại thế gian nào có thể cứu chúng ta khỏi chết. “Bộ mặt thế gian này đang biến đi”. Hiện tại, thế gian này như chiếc pháo, để người ta mua sắm để chúc mừng nhau, vui cười trong tiếng nổ vang dội. Kết cuộc, chỉ còn những xác pháo tan tành buồn thảm. Vậy “kẻ hưởng dùng của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng” (Bài đọc II).
Hãy khôn ngoan nhận biết rằng: “Đừng dựa vào tường, tường sẽ đổ, đừng dựa vào cây, cây sẽ gẫy ; đừng dựa vào người, người sẽ chết”. Hãy chỉ dựa vào một mình Thiên Chúa hằng sống vinh quang ta sẽ được sống vinh phúc bất diệt.
Lạy Chúa, xin ban cho con một nhận thức lành mạnh, để sám hối tu thân. Xin ban cho con một trái tim rộng mở để hiến thân phục vụ Tin mừng. Xin ban cho con một ý chí cậy trông để củng cố những ai thất vọng lo âu.
44. Chúa cần
Hôm đó, Chúa Giêsu đang đi dạo trên bờ biển, Ngài thấy bóng dáng quen thuộc của những người đánh cá… Có đôi lần họ đã tiếp xúc với Ngài, cũng như đã nghe Ngài giảng dạy.
Lúc này kẻ thì đang quăng chài, người thì đang vá lưới. Chúa Giêsu đã nhìn họ với cặp mắt yêu thương và rồi đã lên tiếng kêu gọi:
- Các con hãy theo Ta.
Và như thế, ơn gọi khởi đi từ một lời kêu mời của Chúa.
Nơi người Do thái, cũng như nơi các dân tộc khác, người ta thường tìm thày học đạo. Còn ở đây, chính Chúa Giêsu đi tìm các môn đệ như lời Ngài đã xác quyết:
- Không phải các con chọn Thày, nhưng chính Thày đã chọn các con…
Sở dĩ như vậy là vì Ngài biết rõ những giới hạn của mình trong thời gian và không gian. Ngài cần đến những người cộng tác với Ngài để làm tròn sứ mạng Chúa Cha đã trao phó.
Với chúng ta cũng thế. Rất có thể lúc này Ngài cũng đang nhìn chúng ta bằng cặp mắt trìu mến. Không phải chỉ hạnh phúc cho người nào được thấy Chúa, mà còn phải nói thêm hạnh phúc cho người nào được Chúa nhìn thấy, được lọt vào ánh mắt yêu thương của Ngài. Chúa Giêsu đang nhìn chúng ta, chúng ta thế nào thì Ngài thấy chúng ta thế ấy. Cái nhìn của Ngài không làm cho chúng ta bị tê liệt, bởi vì Ngài chấp nhận thân phận bất toàn và yếu đuối của chúng ta. Cho nên, chúng ta không cần phải tô son điểm phấn, chính cái đơn sơ và chân thành của chúng ta mới thu hút Ngài. Ngài nhìn chúng ta, đồng thời qua cái nhìn ấy, Ngài cũng muốn kêu mời chúng ta trở thành những môn đệ, những cộng tác viên của Ngài.
Ngày xưa các môn đệ đã từ bỏ cha già, ghe thuyền, chài lưới cùng với những vui buồn của kiếp sống trên sông nước mà đi theo Chúa. Còn chúng ta, liệu chúng ta có dám từ bỏ để đi theo Chúa hay không?
Bởi vì sự từ bỏ luôn là một điều kiện gắn liền với ơn gọi của người môn đệ:
- Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo Ta.
Dĩ nhiên Ngài không đòi hỏi mọi người phải từ bỏ gia đình, phải từ bỏ nghề nghiệp để đi theo Ngài trong nếp sống tu trì, nhưng Ngài đòi hỏi mọi người phải từ bỏ mình với sự ích kỷ của bản thân, với sự chai đá của tâm hồn, với sự xơ cứng của con tim, với những thành kiến của trí khôn.
Sự từ bỏ nào cũng để lại những đớn đau, nhưng nhờ đó chúng ta sẽ được lớn lên và trở thành những môn đệ, những cộng tác viên của Chúa, như hạt lúa phải mục nát thì mới sinh nhiều bông hạt.
Trong khi thu dọn ngôi nhà thờ bị đổ nát do chiến tranh gây nên. Từ những mảnh vụn, người ta đã dựng lại tượng chịu nạn. Thế nhưng tượng này lại thiếu mất hai bàn tay. Người ta tìm mãi tìm hoài trong đống gạch vụn mà cũng chẳng thấy. Cuối cùng người ta đành chịu vậy. Thế nhưng, một viên sĩ quan đã ghi lại hàng chữ dưới chân tượng như sau:
- Vì đôi tay của Chúa không còn nữa, nên dân làng hãy thay Chúa làm những công việc mà lẽ ra đôi bàn tay Chúa vốn thường làm.
Lúc này Chúa đang nhìn chúng ta, Ngài lên tiếng kêu mời chúng ta bước theo Ngài để trở thành những môn đệ, những cộng tác viên, những cánh tay nối dài của Ngài trong chương trình cứu độ.
Con người chúng ta thật là cao cả, bởi vì được Thiên Chúa cần đến. Phải, Ngài cần đến từng người chúng ta như một viên gạch nhỏ cần thiết cho tòa nhà và chẳng có ai là thừa thãi và vô dụng cả.
45. Sự thống hối
Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ công khai của Người bằng lời rao giảng: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Lời kêu gọi sám hối này nhắm đến ai vậy? Trước hết, lời kêu gọi này nhắm đến những kẻ tội lỗi, nhưng trên thực tế, cũng nhắm đến tất cả mọi người, ngay cả người tốt lành.
Đức Giêsu băn khoăn đối với những người tốt lành hơn, so với những kẻ tội lỗi. Tại sao vậy? Kẻ khó biến đổi nhất lại chính là những người tốt lành, bởi vì họ không nhận thấy mình có bất cứ nhu cầu nào trong việc hoán cải. Muốn đưa một bệnh nhân đi khám bác sĩ đã là một chuyện khá khó khăn, nhưng bạn hãy thử thuyết phục người đang mạnh khỏe đi bác sĩ xem sao! Những kẻ tội lỗi vốn công khai thừa nhận rằng mình là người tội lỗi, lại không gây ra cho Đức Giêsu cùng một nỗi băn khoăn như vậy.
Để đáp ứng lại lời kêu gọi hoán cải, người ta phải cảm thấy bất mãn với chính mình, và ao ước một điều gì đó tốt đẹp hơn. Họ phải ý thức rằng bản thân mình có một điều gì đó sai trái, hoặc ít nhất là đang thiếu sót một điều gì đó. Cảm nghiệm về nhu cầu hoán cải bắt đầu với việc nhận ra rằng chúng ta không được như điều chúng ta có thể và nên làm. Nhận thức này là giai đoạn đầu tiên của một quá trình, bước kế tiếp là cả một hành trình.
Để xúc tiến lời kêu gọi hoán cải, đòi hỏi người ta phải có tinh thần cởi mở, chân thành, khiêm tốn, và nhất là lòng can đảm – can đảm để chấm dứt kiểu tự lừa dối chính mình, và dám đối diện với một thực tại đau lòng, can đảm thừa nhận tội lỗi của mình, cầu xin ơn tha thứ và quyết tâm thay đổi. Con người ta có thể trở nên quá kiên định trong lối sống của mình, do đó, lại càng bị chìm đắm trong những lối mòn, đến nỗi hầu như không thể lay chuyển họ được.
Một số người có thể nhìn thấy tương lai tốt đẹp hơn, nhưng vẫn không chịu di chuyển. Họ nhận ra rằng không thể đạt được tương lai này chỉ trong nháy mắt, hoặc bằng phương tiện là cây gậy thần. Họ nhận ra rằng con đường trước mặt sẽ lâu dài, sự tiến bộ thật là chậm chạp và đau thương. Con người của hiện tại không thể cư ngụ trong ngôi nhà của tương lai, chỉ người nào biết biến đổi mới có thể sống được mà thôi. Đây là lý do tại sao một số người đã chọn lựa ở lại nguyên tình trạng của họ.
Người ta thường trình bày sự thống hối như là một công việc đầy khó khăn, tiêu cực và đáng buồn, dường như thể điều đó chỉ bao hàm cảm giác tội lỗi về những sai phạm của mình, và phải gánh chịu hình phạt do các tội lỗi này. Sự thống hối là một hành động rất tích cực. Thật vậy, thống hối là thừa nhận rằng tất cả mọi sự nơi bản thân mình đều chưa tốt đẹp. Nhưng cũng là khám phá rằng con người mình có một điều gì đó tuyệt vời, nghĩa là có những tiềm năng, mà mình chưa biết là mình có. Điều này có nghĩa là người đó đang đạt được một tầm nhìn mới, đang đi theo một đường hướng mới, tự mình theo đuổi những mục đích xứng đáng hơn, sống theo những giá trị tốt đẹp hơn. Nói tóm lại, điều này mở ra một lối sống mới. Khi thấu hiểu được điều này, thì thống hối lại là một công việc đầy phấn khởi, và luôn luôn đưa đến niềm vui.
Thống hối nghĩa là biến đổi. Sự biến đổi là điểm mở đầu cho mỗi cuộc hành trình thiêng liêng, và đó là điều tiên quyết để đi vào nước Thiên Chúa. Cuộc sống Kitô hữu là một quá trình biến đổi liên tục.
46. Cộng tác với ơn Chúa
“Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”
Sau khi nghe bài đọc thứ nhất, tôi tự hỏi: Nhờ vào đâu mà dân thành Ninivê đã được Chúa tha thứ, được thoát khỏi hình phạt nặng nề giáng xuống trên họ.
Tôi xin thưa: là nhờ vào tâm tình sám hối.
Thực vậy, trước lời cảnh cáo của tiên tri Giona, họ đã ăn năn và từ bỏ con đường tội lỗi, để rồi đã được hưởng nhờ lòng khoan dung nhân hậu của Chúa. Chính vì thế, khi bắt đầu cuộc sống công khai Chúa Giêsu đã kêu gọi:
- Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.
Qua lời kêu gọi ngắn ngủi này, Ngài muốn chúng ta cộng tác với Ngài trong chương trình cứu độ. Đúng thế, có lần thánh Augustinô phát biểu:
- Để tạo dựng nên chúng ta, Chúa không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu độ chúng ta Ngài cần chúng ta ưng thuận và cộng tác với Ngài. Bởi vì Ngài sẽ không thể nào cứu chuộc chúng ta nếu như chính bản thân chúng ta lại không muốn.
Sự cộng tác của chúng ta, mặc dù rất nhỏ bé, nhưng lại là một yếu tố quan trọng và có tầm mức quyết định.
Cũng trong chiều hướng đó, chúng ta thấy tâm tình sám hối ăn năn, chính là sự cộng tác của chúng ta vào với ơn Chúa, chính là như một thứ tiền bạc thiêng liêng để chúng ta mua lấy ơn tha thứ.
Chàng trai phung phá sở dĩ đã được người cha đón nhận, là vì chàng đã có can đảm chỗi dậy, trở về nhà cha. Phêrô sở dĩ đã được Chúa tha thứ và được đặt làm đầu Giáo Hội, là vì ông đã biết đấm ngực sau những lầm lỗi của mình. Mađalêna sở dĩ đã được Chúa tha thứ, là vì nàng đã biết khóc thương cho quãng đời nhơ nhuốc trong dĩ vãng. Anh trộm lành trên thập giá, sở dĩ đã được Chúa tha thứ, là bởi vì anh đã quyết tâm trở về cùng Chúa, mặc dù chỉ trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời.
Nếu như giòng nước rửa tội tẩy xóa mọi dấu vết của tội nguyên tổ, thì những giọt nước mắt ăn năn sám hối, cũng chính là một thứ nước có sức gột rửa những dấu vết của tội lỗi mà chúng ta đã trót vấp phạm. Để nói lên sự cần thiết phải cộng tác với ơn Chúa, tôi xin kể lại một mẩu chuyện sau đây:
Sau khi cuộc thế chiến lần thứ hai kết thúc, có một toán lính đồng minh đi giúp những người dân xây dựng lại cuộc sống trên đống gạch hoang tàn đổ vỡ. Họ làm lại nhà cửa, sửa chữa ngôi nhà thờ trong làng. Nhưng đến khi dựng tượng Chúa thì toán lính không tìm đâu ra hai bàn tay của pho tượng đã bị bom đạn cắt cụt. Tìm kiếm suốt một ngày trong đám xà bần mà cũng chẳng thấy. Toán lính bèn chịu thua. Sau khi dựng bức tượng lên, viên sĩ quan đã ghi lại một hàng chữ như sau:
- Dân làng sẽ thay Chúa làm những công việc mà đáng lẽ hai bàn tay Chúa sẽ làm.
Một người đau khổ nghèo túng kêu cầu Chúa, và cần đến chúng ta để an ủi và giúp đỡ họ. Chúa dùng bàn tay của chúng ta để xoa dịu những nỗi bất hạnh của người khác.
Cuộc sống của chúng ta phải là một sự nối tiếp công trình của Chúa, phải là một sự kéo dài cho sự hiện diện đầy tình thương của Ngài cho đến tận cùng thời gian.
Chúa đã chết trên thập giá để lập nên kho tàng cứu độ, thế nhưng, chúng ta phải biết giơ bàn tay lên để đón nhận ơn cứu độ ấy cho bản thân và cho những người chung quanh của chúng ta.
47. Lời mời gọi
Chủ đề về sự thống hối là một trong những chủ đề chính của các bài đọc hôm nay. Chúng ta nhận thấy cách thế ngôn sứ Giô-Na rao giảng về sự thống hối cho thành phố ngoại đạo của Ninivê, và đã gặp được một sự đáp ứng ngay tức khắc và hết mình. Đức Giêsu cũng bắt đầu sứ vụ công khai của Người bằng lời rao giảng: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Nhưng thật không may, Người đã không hề gặp được một cách đáp ứng tương tự.
Nhiều người nhận thấy rằng ý tưởng thống hối là một ý tưởng gây rắc rối. Thống hối có nghĩa là thay đổi tầm nhìn của người đó về cuộc sống, và điều chỉnh những hành động của mình một cách phù hợp. Điều đó có nghĩa là thay đổi tâm hồn và thay đổi lối sống, có lẽ là hoàn toàn thay đổi cuộc sống của mình, theo chiều ngược lại. Như thế, sự thống hối nối kết với cảm giác đau đớn. Đó là lý do tại sao người ta chậm đi theo sự thống hối, và chỉ muốn được yên thân.
Có một câu chuyện từ những ngày mà đạo Công giáo vừa mới đến Rôma. Câu chuyện này liên quan đến một người lính Rôma, tên là Livinius, đã yêu một thiếu nữ Công giáo. Tuy nhiên, nàng không đồng ý yêu người lính đó, bởi vì anh ta không phải là người Công giáo. Một đêm kia, anh ta đi theo nàng đến một nơi gặp gỡ bí mật của một nhóm Kitô hữu nhỏ, tại đó, không để cho bất cứ ai nhận ra mình, anh ta lắng nghe phụng vụ.
Khi được nghe đến lời rao giảng của thánh Phêrô, có một điều gì đó xảy ra nơi tâm hồn của anh. Một tầm nhìn mới về cuộc sống mở ra trước mặt anh. Nhưng anh biết ngay rằng nếu anh đi theo lời giảng dạy này, thì anh sẽ phải bỏ đi những tư tưởng, thói quen, mục đích và tính cách cũ của mình. Thế rồi anh ta sẽ phải sống theo một lối sống hoàn toàn khác hẳn. Chúng ta không biết rằng anh ta có đủ yêu người thiếu nữ đó, đến nỗi chịu thay đổi lối sống của anh ta đến thế không.
Đó là một ví dụ về sự thống hối – quay lưng lại với những điều rõ ràng là xấu xa, chẳng hạn như nghiện ngập, bất lương, loạn luân. Nhưng đây chỉ là một loại thống hối mà thôi. Cũng có một sự thống hối được chuyển thành lòng tốt. Ở đây, sự thay đổi không nhất thiết phải mạnh mẽ, quyết liệt. Sự thay đổi có thể xuất phát từ một lối sống hoàn toàn ích kỷ, đến một lối sống yêu thương và quan tâm hơn. Loại thay đổi này cũng gây ra sự đau xót. Ai muốn giũ khỏi lối sống theo nhục dục, tìm kiếm tiện nghi, và nuông chiều bản thân?
Sự thống hối là điều gì đó chủ yếu là tích cực. Thật vậy, thống hối là thừa nhận rằng tất cả mọi sự nơi bản thân mình đều chưa tốt đẹp. Nhưng cũng là khám phá rằng con người mình có một điều gì đó tuyệt vời, nghĩa là có những tiềm năng, mà mình chưa biết là mình có. Điều này có nghĩa là người đó đang đạt được một tầm nhìn mới, đang đi theo một đường hướng mới, tự mình theo đuổi những mục đích xứng đáng hơn, sống theo những giá trị tốt đẹp hơn. Nói tóm lại, điều này mở ra một lối sống mới.
Không ai có thể đạt được lối sống mới một cách nhanh chóng và không hề đau xót gì cả, nếu không, tất cả mọi người đều sẽ chọn lựa lối sống đó. Nói đúng hơn, điều này đưa đến một cuộc hành trình và đấu tranh, mà trong đó không ai hoàn toàn đạt được chiến thắng.
Không giống như sự ân hận, thống hối mở ra con đường tái sinh. Khi thấu hiểu được điều này, thì thống hối lại là một công việc đầy phấn khởi, và luôn luôn đưa đến niềm vui. Điều này có nghĩa là chúng ta biết lắng nghe và sống theo Tin Mừng.
20/01 Thân nhân của Chúa
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Thân nhân của Chúa !!!.
Thứ Bảy tuần 2 thường niên.
"Những thân nhân của Người nói: Người đã mất trí".
LỜI CHÚA: Mc 3, 20-21
Khi ấy Chúa Giêsu cùng các môn đệ trở về nhà, và dân chúng đông đảo lại đổ xô tới, đến nỗi Người không dùng bữa được.
Những thân nhân của Người hay tin đó, liền đi bắt Người, vì họ nói: "Người đã mất trí".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Vai trò của gia đình
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta suy nghĩ về tương quan với Chúa Giêsu và gia đình của Ngài, để từ đó rút ra những bài học thực tiễn về vai trò gia đình đối với con người.
Chúa Giêsu đã sinh ra và lớn lên trong một gia đình. 33 năm sống kiếp làm người, Ngài đã sống 30 năm với gia đình. Hơn nữa, cũng như bất cứ một người Á Ðông nào, Chúa Giêsu rất xem trọng những mối giây liên hệ thân thuộc: trong ba năm rao giảng công khai, Ngài vẫn tìm dịp trở về thăm làng cũ, và giữa lúc Ngài bận bịu với sứ vụ công khai, bà con thân thuộc của Ngài vẫn tìm đến thăm Ngài. Quả thật, Chúa Giêsu xem trọng những liên hệ máu mủ và tình bà con xóm giềng, Ngài quý trọng gia đình; Ngài đề cao sự thánh thiêng và bất khả phân ly của giây hôn phối. Tuy nhiên, Chúa Giêsu không lập gia đình; trong ba năm thi hành sứ vụ công khai, Ngài sống xa gia đình, không nhà, không cửa.
Như vậy, đối với Chúa Giêsu, trên cõi đời này, gia đình cũng như mọi thứ định chế khác của loài người đều không phải là những giá trị tuyệt đối. Chỉ có một giá trị tuyệt đối, đó là con người, bởi có con người mới có một vận mệnh vĩnh cửu. Tất cả đều hiện hữu vì con người. Trong Kinh Tin Kính, Giáo Hội tuyên xưng: "Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trờ xuống thế". Như vậy, ngay cả mầu nhiệm Nhập Thể cũng là vì con người. Chính Chúa Giêsu đã tuyên bố rằng Ngài đến để phục vụ, chứ không phải để được phục vụ; nếu Con Thiên Chúa nhập thể là để phục vụ con người, thì huống chi những định chế của xã hội loài người. Tất cả đều hiện hữu vì con người: gia đình cũng như xã hội hiện hữu vì con người, chứ không phải con người vì gia đình và xã hội.
Từ cái nhìn trên đây của Chúa Giêsu về gia đình, chúng ta có thể thấy được vai trò của gia đình và một cách cụ thể mục đích của việc giáo dục trong gia đình.
Trong tuyển tập "Giới Luật Yêu Thương", Ðức Cha Bùi Tuần đã có một phân tích sâu sắc về mục đích của việc giáo dục gia đình, Ngài viết:
"Các bậc cha mẹ muốn biết xưa nay mình nhằm mục đích gì trong việc giáo dục con cái, thì hãy xét xem ta thường muốn gì, chờ đợi gì ở con cái. Có phải muốn chúng nên giàu sang không? Có phải chờ đợi ở chúng một lợi lộc vật chất chăng? Không thiếu những cha mẹ nhắm cái đó khi giáo dục con cái. Những hy vọng đó không phải là xấu, nhưng chắc chắn không phải là chính mục đích mà cha mẹ phải nhắm để đưa con cái mình đi tới. Mục đích chính đó là gì?"
Mục đích đó là giúp chúng nên người với tất cả ý nghĩa cao đẹp của nó. Mà nên người trước hết là thực hiện đầy đủ ý nghĩa câu nói quen thuộc: "Con người, đầu đội trời, chân đạp đất". Chân đạp đất là thái độ phải thắng dẹp những lôi cuốn tội lỗi thế tục, là đạp lên trên những gì làm cho mình ra hèn như cát bụi, là đạp lên trên những gì đưa ta xuống đất, xuống địa ngục. Nếu chân đạp đất chỉ những sự phàm trần, thì đầu đội trời chỉ những sự siêu phàm. Ðầu đội trời chi thái độ vươn lên những gì cao thượng, đầu đội trời chỉ sự cố gắng phóng mình tới lý tưởng xa vời, đầu đội trời chỉ sự hướng tâm con người về mục đích ở tận bên kia thế giới, đầu đội trời chỉ nỗ lực băng mình lên cao để tìm về quê hương trên trời.
Những suy tư của Ðức Cha Bùi Tuần gợi lại cho chúng ta câu nói của Chúa Giêsu với cha mẹ Ngài khi hai Ðấng gặp lại Ngài trong Ðền Thờ Yêrusalem: "Cha mẹ không biết con phải lo việc Cha con sao?" Ðầu đội trời chính là lo việc Cha trên trời, là hướng về trời cao, là sống cho những giá trị vĩnh cửu. Nên người thực sự là sống đúng ý nghĩa ba chữ "đầu đội trời", và đó phải là mục đích của giáo dục gia đình, bất cứ hành động nào đi ngược mục đích ấy đều là phản giáo dục.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tự vấn lương tâm xem đâu là những giá trị đích thực mà chúng ta đang theo đuổi và muốn truyền đạt cho người khác. Nguyện xin Ðấng là Ðường, là Sự Thật và là Sự Sống soi sáng và hướng dẫn chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Người đã mất trí
Người trở về nhà và đám đông lại kéo đến, thành thử Người và các môn đệ không sao ăn uống được. Thân nhân của người hay tin ấy, liền bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí. (Mc. 3, 20-21)
Thân nhân của Chúa Giêsu đã không được chiều chuộng cho lắm. Buổi đầu khi Người xuất thân đi rao giảng, nhứng người thân của Chúa đã phải chịu nỗi phiền hà là có liên hệ bà con với một con người kỳ quặc, tự cao. Sau này khi Chúa Giêsu đã có tiếng tăm rồi và bà con muốn tới gặp Người thì lại bị rầy la, khi Người nói: “Ai là anh chị em tôi?”
Phần chúng ta, chúng ta có hạnh phúc vì được kể vào hàng bà con thân thích mới này- chúng ta sung sướng được gọi là anh là chị của Đức Kitô. Nhưng vấn đề Phúc âm hôm nay đặt ra cho ta là hãy tìm xem liệu ta có nét nào giống với đám bà con ấy là những người đã coi Chúa Giêsu như kẻ “phá rối” cần sớm cho vào “nhà nghỉ mát” không?
Tại sao có sự phiền hà này
Ta có thể hiểu thế nào về phản ứng của những thân nhân ấy? Phản ứng này một phần lớn là Do thái độ tự phụ của Chúa Giêsu dám coi mình là “Con Người”. Với danh xưng này, Người đòi buộc người ta phải nhìn nhận mình là một nhân vật của Truyền thống có quan hệ thân cận độc nhất vô nhị với Đức Giavê Vì thế, là thân nhân của một con người tự phụ, một anh “ngộ đạo”, thì chẳng có gì là vinh quang cả! Tốt hơn là nên coi Người như một người khùng thay vì đưa ra tòa hoặc bịt miệng Người lại.
Còn chúng ta có “giam tù” Người không?
Những thân nhân của Chúa Giêsu có lập trường rõ ràng. Còn ý định của chúng ta lại tế nhị hơn. Hãy coi xem.
Chúng ta không nói rằng Chúa Giêsu đã mất trí. Nhưng chúng ta để trong ngoặc đơn những đòi hỏi gắt gao nhất của Người.Ta có can đảm như thế nào khi làm chứng Người là Thiên Chúa? Ta làm chứng gì về sự Phục sinh của Người?
Chúng ta không muốn bắt Người để tống vào ngục, nhưng chúng ta gác ra một bên những yêu sách quyết liệt nhất của Người: “… Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo … rồi hãy đến theo Tôi!” - “Phúc thay ai xây dựng hòa bình! Phúc thay ai hiền lành!”
Bôi bác Tin mừng của Đức Kitô, làm méo mó chân dung Người, đòi Phúc âm phải hợp với lý luận, đó chính là một cách thế nào đó đã giam giữ Đức Kitô vậy.
Suy Niệm 3: VÌ SỨ VỤ (Mc 3, 20-21)
Có một linh mục sống tại một đất nước phồn thịnh, nhưng khi làm linh mục được 5 năm, ngài đã xin phép bề trên để về Việt Nam phục vụ những bệnh nhân sida, nghiện ngập, những bạn trẻ cơ nhỡ và trẻ em mồ côi. Khi quyết định của ngài được thông báo cho gia đình, bà cố đã không chấp nhận và cho rằng con mình có vấn đề...!!!
Hôm nay, Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu tất bật lo lắng cho dân chúng, đến nỗi không có thời giờ để nghỉ ngơi và ăn uống. Những việc như: giảng dạy, chữa bệnh, xua trừ Ma Quỷ... Ngài làm mọi việc không xuể, nên đã gọi và chọn các môn đệ để hỗ trợ Ngài trong sứ vụ.
Tuy nhiên, sự nhiệt tình vì sứ vụ khi chăm lo cho người nghèo, bệnh tật, ốm đau thì lại là mối lo của bà con, họ hàng của Ngài khi họ nghe tin đổn thổi Ngài bị mất trí..., vì thế, họ đã đến để tìm cách ngăn cản Ngài.
Thật vậy, trong cuộc sống, chúng ta vẫn thấy xuất hiện đây đó những hình ảnh sống động của Đức Giêsu khi những anh chị em Kitô hữu luôn sống chu toàn bổn phận và sẵn sàng đặt lợi ích của cộng đoàn, gia đình lên trên cá nhân của mình. Luôn đứng về phía người nghèo khổ để nâng đỡ và phụ giúp họ... Luôn coi sứ vụ là chính yếu, nhu cầu cá nhân là phụ thuộc...
Nhưng lẽ ra, theo lối suy nghĩ của người đời thì họ phải được tán dương, chúc tụng mới xứng! Tuy nhiên, điều đó có lẽ có nhưng họa hiếm, ngược lại có khi chỉ là những lời dè môi bỉu mỏ cho rằng: họ bị điên, bị khùng thì mới làm những chuyện như thế!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết đặt sứ vụ lên trên hết mọi chuyện. Nếu có phải khinh thường, chỉ trích, thì chúng ta cũng biết vui chịu để danh Chúa được cả sáng và Nước Chúa được trị đến. Chỉ khi nào chúng ta trở nên giống Chúa, thì hình ảnh, khuôn mặt của Ngài mới được lộ hiện nơi chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết yêu mến Chúa tha thiết. Luôn biết trung thành với sứ vụ được trao. Và xin cho chúng con biết đón nhận tất cả, miễn sao anh chị em chúng con được hạnh phúc và Chúa được loan báo. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Người bị mất trí
Suy niệm:
Bài Tin Mừng hôm nay thật là ngắn, chỉ gồm có hai câu.
Nhưng câu chuyện kể lại có thế làm chúng ta bối rối.
Đức Giêsu đã gặp sự chống đối từ phía các kinh sư và người Pharisêu.
Bây giờ Ngài lại gặp sự hiểu lầm từ phía những thân nhân,
trong đó có thể có thân mẫu của Ngài (x. Mc 3, 31).
Khi Đức Giêsu và các môn đệ trờ về nhà ở Caphácnaum,
đám đông lại kéo đến.
Nhu cầu thật lớn lao và thúc bách khiến cả nhóm không thể nào có giờ ăn.
Thân nhân của Ngài nghe tin ấy thì hốt hoảng.
Có lẽ họ đã đi từ quê làng Nadarét đến để gặp Đức Giêsu.
Họ nghĩ Ngài bị mất trí và họ muốn lôi Ngài về lại quê nhà.
Họ sẵn sàng dùng sức mạnh để ép Đức Giêsu phải đi.
Kể cũng lạ nếu chỉ dựa vào chuyện Đức Giêsu không ăn
để vội vã kết luận là Ngài mất trí.
Các thân nhân chẳng để ý đến chuyện đám đông chạy đến với Ngài
để được trừ quỷ, được chữa bệnh và để được nghe giảng.
Làm sao một người mất trí có thể làm được những việc như thế ?
Xem ra họ không hiểu mấy về con người và sứ mạng của Đức Giêsu.
Thật ra dưới mắt của các thân nhân,
Đức Giêsu có những điều chẳng bình thường chút nào.
Ngài đã không lập gia đình như những thanh niên khác.
Ngài đã bỏ nghề thợ mộc ở Nadarét để lang thang khắp đó đây.
Dù không phải là người học thức,
Ngài đã chiêu tập một nhóm môn đệ chủ yếu là dân đánh cá,
đã giao du với những hạng người nên tránh, đã dám đụng độ với các kinh sư,
và bây giờ Ngài đang mê mệt với một đám đông cuồng nhiệt theo Ngài.
Họ tự hỏi ông Giêsu, người thân của họ, có vấn đề gì về tâm lý không,
có rơi vào tình trạng hoang tưởng tự đại không.
Chúng ta cần nhiều thời gian để hiểu được sự “mất trí” của Đức Giêsu.
Quan hệ máu mủ có khi lại làm cản trở việc nhận ra Ngài là ai.
Đức Giêsu bao giờ cũng vượt trên những gì chúng ta thường nghĩ.
Cần thấy được sự khôn ngoan và lòng nhân hậu của Thiên Chúa
nơi sự “mất trí” và điên rồ của Đức Giêsu trên thập giá (1 Cr 1, 18).
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nadarét đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người,
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối,
trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài
bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
19/01 Chúa gọi Nhóm Mười Hai
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Chúa gọi Nhóm Mười Hai.
Thứ Sáu tuần 2 thường niên.
"Người gọi những kẻ Người muốn gọi để họ ở cùng Người".
LỜI CHÚA: Mc 3, 13-19
Khi ấy, Chúa Giêsu lên núi và gọi những kẻ Người muốn gọi, và họ đến cùng Người. Người chọn mười hai vị để theo Người, và sai các ông đi giảng và ban cho các ông quyền trừ quỷ.
Mười hai vị ấy là: Simon mà Người đặt tên là Phêrô, Giacôbê con ông Giêbêđê, và Gioan là em Giacôbê, (cả hai được Người đặt tên là Boanerges, nghĩa là con của sấm sét), rồi đến Anrê, Philipphê, Bartôlômêô, Matthêu, Tôma, Giacôbê con ông Alphê, Tađêô, Simon nhiệt tâm, và Giuđa Iscariô là kẻ nộp Người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Giáo Hội là một Mầu Nhiệm
Nếu thời Cựu Ước đã có những tiên tri cung đình, chuyên phụ họa cho vua chúa, thay vì nói lời của Chúa; thì ngày nay cũng không thiếu những tiên tri như thế: thay vì nói Lời Chúa, lên tiếng tố cáo bất công, người ta lại chỉ làm tiên tri để công kích và chỉ trích Giáo Hội của mình. Dù sao, đây cũng là dịp để các Kitô hữu suy nghĩ và đào sâu về bản chất của Giáo Hội.
Ðiều cơ bản nhất mà chúng ta cần phải tuyên xưng trước tiên khi nói về Giáo Hội, đó là Giáo Hội là một mầu nhiệm, do đó chúng ta không thể so sánh hay xếp Giáo Hội vào bất cứ một tổ chức trần thế nào. Giáo Hội không là một thể chế quân chủ chuyên chế hay quân chủ lập hiến. Giáo Hội cũng không hề là một chế độ tập quyền hay Bô lão trị; Giáo Hội lại càng không phải là một chế độ dân chủ. Giáo Hội thiết yếu là một mầu nhiệm, do đó mà không có một tên gọi nào diễn tả và múc cạn mầu nhiệm ấy. Giáo Hội được gọi là Hiền thê của Chúa Kitô, Giáo Hội được gọi là thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô, Giáo Hội được gọi là Dân Chúa; mỗi kiểu nói này bày tỏ một khía cạnh, nhưng không thể nào nói hết về Giáo Hội.
Tin Mừng hôm nay như muốn đưa chúng ta vào trong bản chất mầu nhiệm ấy của Giáo Hội. Chúa Giêsu thiết lập nhóm Mười Hai để các ông ở với Ngài và được Ngài sai đi rao giảng. Ngài trao ban cho các ông quyền năng mà chính Ngài đã từng sử dụng: chỉ có các Tông Ðồ mới có quyền trừ quỷ, mới có quyền cử hành các Bí Tích, và chỉ những ai được các ông trao quyền cho mới được cử hành các Bí Tích. Chúa Giêsu trao phó cho các Tông Ðồ kho tàng mạc khải, chỉ có các ông mới có khả năng và có quyền giải thích kho tàng ấy và giảng dạy đúng ý muốn của Chúa. Trong Nhóm Mười Hai, Chúa Giêsu đặt Phêrô làm thủ lãnh để cai trị và trở thành mối giây hữu hình trong Giáo Hội, Ngài hứa ở với Giáo Hội mỗi ngày cho đến tận thế: như Ngài đã ở với các Tông Ðồ ngay từ buổi đầu, thì hơn 2,000 năm qua, Ngài vẫn tiếp tục ở với và trong Giáo Hội.
Giáo Hội chính là thân thể Chúa Kitô. Thuộc về Giáo Hội chính là chấp nhận lời rao giảng của Chúa Giêsu được ủy thác cho các Tông đồ và những người mà các ông cắt đặt để thay thế và tiếp tục sứ mệnh của mình. Thuộc về Giáo Hội một cách cụ thể, là đón nhận và sống giáo huấn của chính các Tông đồ được ủy thác cho Giáo Hội và những người kế vị các ông. Giáo Hội không phải là một thể chế dân chủ, nhưng Giáo Hội chưa hề cưỡng bách ai phải gia nhập Giáo Hội; nhưng nếu đã thuộc về Giáo Hội thì không thể không chấp nhận quyền bính của Giáo Hội. Dù vậy, ngay cả khi một Kitô hữu không chấp nhận quyền giáo huấn của Giáo Hội, thì Giáo Hội cũng không phải dùng đến võ lực hoặc nhà tù để đe dọa và trừng phạt.
Hằng năm, Giáo Hội dành một tuần lễ để cầu cho sự hiệp nhất của các Kitô hữu, một tuần lễ để đi sâu vào mầu nhiệm của Giáo Hội, một tuần lễ để hoán cải. Chúng ta hãy cầu xin bằng chính lời cầu nguyện của Chúa Giêsu: "Xin cho chúng nên một như Cha ở trong Con và như Con ở trong Cha, ngõ hầu thế gian tin rằng Cha đã sai Con".
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Những kẻ Người muốn
Rồi Người lên núi và gọi những kẻ Người muốn. Và các ông đến với Người. Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng. (Mc. 3, 13-14)
Để hiểu sâu bài Phúc âm hôm nay, một lần nữa chúng ta còn tìm ra được vài chi tiết khác thánh Maccô muốn làm nổi lên hình ảnh con người Đức Giêsu.
Vì thế, để gây ý thức về tiếng gọi mà mười hai Tông đồ đã nhận được, cũng như về ơn gọi của các ông, thánh Maccô ghi lại rằng: “Người gọi những kẻ Người muốn và Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng.”
Những kẻ Người muốn
Có lẽ ta lấy làm ngạc nhiên khi thấy rằng Chúa Giêsu đã có những sự lựa chọn. Phải chăng Người không đến” kêu gọi những người tội lỗi”? Như thế, theo nguyên tắc, mọi người trong cái nhân loại ốm đau này có lẽ phải được làm tông đồ mới phải!
Người ta giải thích sự Chúa tuyển chọn như sau: lời mời gọi của Chúa diễn ra ỏ hai mức độ, và mỗi người chúng ta đều được gọi hai lần. Tiên vàn là kêu gọi đón nhận đức tin, sám hối, gia nhập Nước Tròi, hưởng ơn cứu độ. Sứ mệnh của Đức Kitô có mục đích tối hậu là làm vang lên tiếng mời gọi của Chúa Cha “Anh em hãy đến!”
Nhưng cũng có tiếng mời gọi khác gởi đến từng người giúp họ xác định vị trí hoạt động, chọn lựa phần đóng góp của mình trong Nhiệm Thể Chúa Kitô: “những người này Chúa đã cho làm tông đồ, những người kia làm tiên tri; người được ơn chữa bệnh, người khác lại được ơn diễn giải”. Chúa Giêsu muốn cho tất cả chúng ta, mỗi người giữ một vị trí nhất định.
“Để các ông ở với Người và đi rao giảng”
Nếu chúng ta muốn hiểu biết chức vụ linh mục, hiểu biết linh mục là gì, phải trở lại hai chức năng được Chúa Giêsu gán cho Nhóm Mười Hai là “ở với Người và được sai đi rao giảng”.
Nhờ bí tích truyền chúc, linh mục được đặt để ở với Chúa Giêsu. Người ta thường đòi hỏi linh mục sống hòa mình với mọi người, ngang tầm với họ, phục vụ họ. Đòi hỏi linh mục cùng tầm vóc với Chúa Giêsu, ở với Người, thiết tưởng lại không phải là điều tốt hơn và chính đáng hơn sao? Linh mục bỏ ra một chút thời giờ trong ngày dể truyện trò với Chúa Giêsu không phải là điều tốt đẹp sao? Hãy truyện trò với Chúa đã, rồi mới đi ra ngoài! Rồi mới giảng giải và hội họp!.
Suy Niệm 3: CHÚNG TA ĐƯỢC MỜI GỌI ĐẾN VÀ Ở VỚI THẦY (Mc 3,13-19)
Có nhiều người nhìn bộ dạng bên ngoài “rất cốt tu”, nhưng kỳ thực anh ta không hề nghĩ là sẽ đi tu! Hay nhìn những người trông xem ra có vẻ đơn sơ, chất phác, nông dân thì Chúa lại chọn và gọi để trở thành linh mục, tu sĩ của Ngài.
Như vậy, chỉ cần đưa ra một vài hình ảnh, chúng ta cũng nhận thấy rất rõ rằng: ơn gọi tu trì là một mầu nhiệm, vì Chúa chọn và gọi những ai Ngài muốn.
Hôm nay, Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu chọn nhóm 12 trở thành môn đệ của Ngài, để họ tiếp tục sứ mạng loan báo Tin Mừng cho muôn dân. Qua danh sách 12 môn đệ, chúng ta thấy không ai là trọn vẹn cả. Ai cũng có những khuyết điểm, thiếu xót, đôi khi những lỗi mắc phải trước, trong, và sau khi ở với Đức Giêsu là những lỗi rất nặng.
Nhưng điều quan trọng đối với các ông là: tập trung quy vào Đức Giêsu. Thầy của các ông như là cái tâm trong một vòng tròn. Nhiều khi vì yếu đuối, nên xao nhãng đi xa tâm của vòng tròn, nhưng khi tỉnh lại và ngộ ra sự yếu đuối, tội lỗi của mình, các ông lại tiếp tục nhập vào vòng tròn đó và hướng về Đức Giêsu là tâm điểm, đích đến của cuộc đời. Vì thế, tuy bất toàn, nhưng các ông ở lại với Ngài, Ngài đã huấn luyện và làm cho các ông xứng đáng là kẻ lưới người như lưới cá trên hành trình loan báo Tin Mừng.
Mỗi người chúng ta ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta được mời gọi bước theo Đức Giêsu để trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài khi mang trong mình những tâm tư của chính Đấng mà chúng ta đi theo.
Tuy nhiên, điều quan trọng là chúng ta có sẵn sàng thi hành những giáo huấn và lời dạy của Đức Giêsu không hay nhiều khi chúng ta chỉ có tên tuổi mà không có chất? Chỉ có phẩm mà không có lượng?
Lạy Chúa Giêsu, được trở thành môn đệ của Chúa là một hồng ân. Tuy nhiên, xin Chúa ban cho mỗi người chúng con biết làm cho hồng ân ấy triển nở trong cuộc sống thường ngày của mình qua những hoa trái tốt lành. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Đến với Người, ở với Người
Suy niệm :
Thông thường ở xã hội Do Thái, người môn đệ đi tầm sư học đạo.
Còn Thầy Giêsu lại đi “gọi” học trò.
Thầy muốn lập một nhóm học trò ruột, hết sức gần gũi với mình.
Những người Thầy muốn, Thầy đã gọi họ lại.
Và họ đã đáp lời mà đến với vị Thầy đang ở trên núi.
Như thế sáng kiến thì bắt nguồn từ Thầy,
còn đáp lại là điều con người cần thực hiện.
Thầy Giêsu muốn lập một nhóm mười hai môn đệ.
Có thể vì Thầy nhớ đến mười hai chi tộc Ítraen ngày xưa.
Mục đích của nhóm Mười Hai này là ở với Thầy và được Thầy sai đi.
Ở với là chuyện ưu tiên, và cũng là chuyện dễ bị xao lãng.
Ở với là có tương quan thân thiết và thường xuyên với Thầy.
Ở với là chia sẻ cuộc sống ăn ở, đói no, thành công, thất bại.
Khi ở với Thầy Giêsu, người môn đệ hiểu Thầy sâu xa và gắn bó với Thầy.
Khi các môn đệ đến với và ở với Thầy Giêsu,
họ như được tách ra khỏi đám đông.
Sau này, khi tìm người thay thế Giuđa phản bội,
Phêrô đòi đó phải là người đã sống với Thầy Giêsu ngay từ đầu (x.Cv 1, 22).
Ở với nằm trong định nghĩa về người môn đệ của Thầy Giêsu.
Nhưng đó không phải là điểm dừng.
Ở lại với Chúa là để được sai đến với con người.
Được tách ra khỏi đám đông chính là để được sai đến với đám đông,
trong tư cách của người đã được mắt thấy tai nghe Thầy Giêsu.
Người môn đệ được sai sẽ được phép làm những việc y hệt như Thầy:
rao giảng Tin Mừng và trừ quỷ nhằm phục vụ cho con người.
Chẳng những họ làm việc như Thầy, họ còn làm việc của Thầy và với Thầy.
Không ở với thì cũng chẳng được sai đi, và cũng không đủ sức để được sai.
Nhưng ở với là để có ngày được sai đi, mà sai đi thì vẫn luôn ở với.
Kitô hữu là người được gọi, để ở với Chúa Giêsu và được ngài sai đi.
Cuộc sống xao động hôm nay có vẻ làm ta quên ở với Chúa
và rơi vào tình trạng nghiện việc.
Chính vì thế công việc ta làm không đem lại hiệu quả thực sự và lâu bền.
Hãy ở với Giêsu mỗi ngày 15 phút, bạn sẽ thấy mọi sự thay đổi.
Cầu nguyện :
Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào,
xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc,
xin cho con quý chuộng những lúc
được an nghỉ trước nhan Chúa.
Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo,
xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa
để nghe lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng,
xin cho con thoát được lên cao
nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.
Lạy Chúa,
ước gì tinh thần cầu nguyện
thấm nhuần vào cả đời con.
Nhờ cầu nguyện,
xin cho con gặp được con người thật của con
và khuôn mặt thật của Chúa. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
18/01 Chúa Giêsu là ai?
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Chúa Giêsu là ai??.
Thứ Năm tuần 2 thường niên.
Tuần lễ cầu cho sự hiệp nhất các Kitô hữu.
"Các thần ô uế vừa thấy Người, liền sụp lạy và kêu lên rằng: "Ngài là Con Thiên Chúa", nhưng Người nghiêm cấm chúng không được tiết lộ gì về Người".
LỜI CHÚA: Mc 3, 7-12
Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ lui về bờ biển, đám đông từ Galilêa theo Người, và từ Giuđêa, Giêrusalem, Iđumê, bên kia sông Giođan, miền Tyrô và Siđon, nhiều kẻ đến cùng Người, khi nghe biết tất cả những việc Người đã làm.
Vì đông dân chúng, nên Người bảo các môn đệ liệu cho Người một chiếc thuyền, kẻo họ chen lấn Người. Vì chưng, Người đã chữa lành nhiều bệnh nhân, nên bất cứ ai mắc bệnh tật gì đều đến gần để động đến Người. Và những thần ô uế vừa thấy Người, liền sụp lạy và kêu lên rằng: "Ngài là Con Thiên Chúa", nhưng Người nghiêm cấm chúng không được tiết lộ gì về Người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Hiểu biết Chúa Giêsu
Có một giai thoại về Trang Tử như sau:
Một hôm, Trang Tử cùng đệ tử đi chơi núi, một người thợ rừng hỏi: "Tại sao cây này không dùng được?", Trang tử liền nói: "Cây này vì bất tài mà được sống lâu".
Về đến nhà, nguời thợ bắt con chim không biết gáy để làm tiệc đãi khách. Hôm sau đệ tử hỏi Trang Tử:
- Hôm qua, cái cây trên núi vì bất tài mà sống, con chim hồng vì bất tài mà chết; theo Thầy, Thầy xử trí thế nào?
Trang Tử cười và nói:
- Tài và bất tài đều là quấy cả. Khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống.
Ðông Phương đề cao sự khôn ngoan ở đời; Tây Phương chịu ảnh hưởng Hy Lạp cũng dạy: con người lý tưởng là con người biết nhiều. Nhưng biết không chỉ là biết sự vật, mà là biết con người, và biết con người không chỉ là một nhận thức suông, mà thiết yếu là đi vào tri giao mật thiết.
Trong Tin Mừng hôm nay, dường như tác giả muốn đưa chúng ta vào một sự hiểu biết như thế. Thánh Marcô trình bày cho chúng ta nhiều phản ứng hay đúng hơn nhiều nhận thức khác nhau về con người Chúa Giêsu. Trước hết là đám đông từ các nơi tìm đến với Chúa Giêsu, họ nghe và chứng kiến nhiều phép lạ Ngài thực hiện. Nhưng trong nhận định của Marcô, đám đông chỉ tìm đến để được ăn no nê, để được chữa trị khỏi các bệnh tật, chứ không phải để hoán cải; đám đông chỉ thấy cái trước mắt là phép lạ, mà không đọc ra được ý nghĩa của phép lạ là dấu chỉ của Nước Trời mà Chúa Giêsu đã loan báo. Nói tắt, đám đông không biết gì về Chúa Giêsu, và đây là lý do tại sao Chúa Giêsu tỏ ra dè dặt đối với đám đông, Ngài thường lẩn tránh họ. Duy chỉ có ma quỷ biết Chúa Giêsu là ai, nhưng biết đối với ma quỷ không đồng nghĩa với tri giao, mà chỉ là thù hận.
Ðặt vào đúng văn mạch, thì Tin Mừng hôm nay muốn trình bày cho chúng ta nhiều thứ hiểu biết về Chúa Giêsu: ma quỷ biết Chúa Giêsu, nhưng biết trong thù hận; đám đông thì tìm đến với Ngài vì mục đích trục lợi; bà con thân thuộc của Ngài chỉ có về Ngài một sự hiểu biết hời hợt, thiếu chiều sâu; những người Biệt phái thì hoàn toàn mù tịt về con người Chúa Giêsu; chỉ có Nhóm Mười Hai về sau này mới có một hiểu biết chính xác về Ngài. Nhưng đối với Chúa Giêsu, biết Ngài không chỉ là một nhận thức của trí tuệ, mà là đi vào tri giao mật thiết với Ngài, đi theo Ngài, nên một với Ngài. Ðó là lý do tại sao sau khi Phêrô đại diện Nhóm Mười Hai tuyên xưng Ngài là Ðức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống, Ngài liền loan báo về cuộc Tử nạn của Ngài và mời gọi họ vác lấy Thập giá mỗi ngày và đi theo Ngài. Và đó chính là sự hiểu biết về Ngài mà Chúa Giêsu đang chờ đợi nơi mỗi Kitô hữu. Biết và tuyên xưng trên môi miệng mà thôi chưa đủ, biết Ngài thật sự là nên một với Ngài đến độ thốt lên như Thánh Phaolô: "Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi".
Ước gì tâm tình và xác tín của Thánh Phaolô cũng thấm nhập và hướng dẫn chúng ta từng giây phút của cuộc sống.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Khi người ta quá nhiệt tình
Quả thế, Người đã chữa lành nhiều bệnh nhân, khiến ai có bệnh cũng đổ xô đến để sờ vào Người. Còn các thần ô uế, hễ thấy Đức Giêsu, thì xấp mình dưới chân Người và kêu lên: “Ông là Con Thiên Chúa.” (Mc. 3, 10-11)
Phúc âm Maccô như ta đã biết, có nhiều chi tiết rất ý vị, tỏ ra ngài có một con mắt tinh tường khi nhìn những sự việc bình thường. Hôm nay Maccô kể lại rằng Chúa Giêsu muốn để khỏi bị đám đông chen lấn, nên đã bảo các môn đệ dành sẵn cho Người một chiếc thuyền nhỏ, để Người ngồi ở đó mà giảng dạy và chữa bệnh cho dân. Maccô đã tả lại cảnh huyên náo của đám đông bằng những lời giản dị mà sắc bén: “Họ đổ xô đến để sờ vào Người”. Các thánh sử khác chỉ viết nôm na rằng: dân chúng đến với Người; trái lại thánh Maccô nhấn mạnh đến việc người ta chen lấn xô đẩy nhau mà đến.
Những thái độ này có thể giúp ta phân tích lối cư xử của chúng ta. Thực ra chúng ta có nhiệt tình đến với Đức Kitô không?
Hoảng hốt và vội vã
Ta hãy thử phân tách những lúc ta sống vội vã, để biết ta đang đồng hội đồng thuyền với ai, đang chạy theo thần tượng nào.
Chúng ta vội vã để kịp mua được món có lời, để kịp chuyến xe buýt, để mua được tấm vé đi coi tuồng, để làm qua loa cho xong công chuyện của ngày. Chúng ta hối hả đi xem cho được trận đá banh, hay đi nghỉ cuối tuần.
Điều khiến Chúa Giêsu lo lắng bồn chồn ngày nay, hẳn không phải là chuyện người ta hồ hởi đổ xô đến với Người như xưa. Chắc chắn là Người sẽ không sợ bị ngộp thở vì lòng nhiệt thành sốt sắng của các tín hữu.
Cõi lòng ngổn ngang
Không, điều khiến Chúa Kitô phải lo láng buồn phiền, có lẽ vì Người thấy chúng ta đến với Người mà lòng ngổn ngang trăm mối. Vì lo hưởng thụ, mà ta xốn xang chạy khắp đó đây để thỏa mãn cơn đói khát ấy, cả ngày chỉ bận rộn về cái gọi là “những nhu cầu của đời sống hiện đại”! Nói cho cùng, chúng ta đi tới chỗ giống như một cửa tiệm sưu tầm đồ cổ, mà trên quầy đã chất đống những món đồ. Và để quên đi cảm tưởng bị ngộp thở vì cảnh bộn bề ngổn ngang này, ta vội chạy đến vớí những cuộc “săn tìm” mới lạ khác.
Nếu Chúa Giêsu không muốn để người ta chen lấn, xô đẩy Người trong những điều kiện này, thiết tưởng cũng là chuyện thông thường thôi.
Suy Niệm 3: ĐI THEO CHÚA VÌ MỤC ĐÍCH GÌ? (Mc 3, 7-12)
Có nhiều thái độ đi theo Đức Giêsu. Có người đi theo Đức Giêsu chỉ vì hiếu kỳ; có người vì trục lợi; lại có người theo vì hiệu ứng đám đông; nhưng cũng có người theo Đức Giêsu vì lòng mến. Tuy nhiên, con số này chỉ là thiểu số, đếm trên đầu ngón tay. Còn lại đa số họ theo Ngài vì thực dụng.
Hôm nay, Bài Tin Mừng thánh Máccô thuật lại việc Đức Giêsu được đám đông lũ lượt đi theo Ngài, đến nỗi Ngài phải ngồi trên một chiếc thuyền mà giảng dạy.
Họ đến với Ngài vì nghe danh tiếng và việc làm của Ngài khá nhiều. Thấy họ, Đức Giêsu lại một lần nữa chạnh lòng thương và ra tay tế độ cho họ bằng việc chữa lành nhiều thứ bệnh hoạn tật nguyền và xua trừ Ma Quỷ.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết chạy đến với Chúa để được Ngài chữa lành bệnh tật thiêng liêng và nhất là kín múc được nguồn ân sủng phong phú từ tình yêu của Ngài. Đồng thời cũng biết chọn Chúa làm lý tưởng, lẽ sống của cuộc đời, chứ không chỉ thực dụng trước mắt mà thôi.
Hơn nữa, ngang qua những hành động của Đức Giêsu, chúng ta cũng được mời gọi chạnh lòng thương đến người anh chị em chúng ta như chính Chúa đã chạnh lòng thương đến ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết chọn Chúa làm lý tưởng, lẽ sống và mục đích của cuộc đời. Xin trái tim của Chúa luôn là sự cuốn hút chúng con đến say mê, để chúng con luôn biết rung động trước sự khốn cùng của anh chị em chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Chữa lành nhiều bệnh nhân
Suy niệm :
Bài Tin Mừng hôm nay được coi là một bản tóm lược
những hoạt động của Đức Giêsu tại vùng phía biển hồ.
Có vẻ Ngài rút lui về vùng này không phải vì sợ bị hãm hại (Mc 3, 6),
nhưng để mở rộng phạm vi hoạt động hơn.
Như trước đây không lâu, mọi người từ vùng Giuđê và Giêrusalem
kéo tới xin chịu thanh tẩy bởi ông Gioan (Mc 1, 5),
giờ đây một đám đông lớn hơn từ khắp mọi vùng đổ xô đến với Đức Giêsu.
Có thể nói cả dân Ítraen hào hứng tụ họp bên ngài (Mc 3, 7-8).
Chưa bao giờ Đức Giêsu thành công đến thế !
Nhưng nhiều người trong đám đông khổng lồ này lại là những bệnh nhân.
Họ theo Đức Giêsu vì họ đã nghe biết những phép lạ chữa bệnh ngài làm.
Đức Giêsu xin các môn đệ chuẩn bị một chiếc thuyền
để nếu bị chen lấn quá trên bờ, ngài còn có thể xuống thuyền mà tránh đám đông.
Những bệnh nhân tin rằng mình có thể được chữa lành nhờ chạm đến Ngài.
Có những người chỉ xin chạm vào tua áo choàng của Ngài (Mc 6, 56).
Họ không chờ Đức Giêsu đến với họ.
Chính họ chủ động chen lấn để chạm đến Đức Giêsu.
Họ không cần Ngài phải làm gì hay nói gì,
họ chỉ cần chạm đến trong lòng tin là mọi bệnh tật được chữa khỏi.
Dù y khoa đã đạt được những bước tiến đáng kể,
nhưng ai có thể thống kê hết số bệnh nhân trên thế giới.
Con người hôm xưa chạy đến với Đức Giêsu để xin được chữa lành
khỏi ách nặng nề của bệnh tật thân xác và tinh thần.
Con người hôm nay cũng chạy đến với Giáo Hội để xin được chữa lành.
Mọi nhà thương, phòng khám bệnh hay phát thuốc của người Công giáo,
đều là nơi các bệnh nhân gặp được Đức Giêsu.
Nơi đây họ chạm được vào con người nhân hậu của Ngài,
và nơi đây Đức Giêsu chạm đến họ qua bàn tay của những y bác sĩ Công giáo.
Con người hôm nay nhận ra Chúa Giêsu
không nhờ sự giới thiệu của quỷ: “Ông là Con Thiên Chúa”,
nhưng nhờ sự phục vụ khiêm hạ của những lương y sống như Giêsu.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa,
xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin
để nhận ra Chúa hôm nay và hằng ngày,
nơi khuôn mặt khốn khổ
của tất cả những người bị thử thách :
những kẻ đói, không chỉ vì thiếu của ăn,
nhưng vì thiếu Lời Chúa;
những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước,
nhưng còn vì thiếu bình an, sự thật, công bằng và tình thương;
những kẻ vô gia cư,
không chỉ tìm kiếm một mái nhà,
nhưng còn tìm một con tim hiểu biết, yêu thương;
những kẻ bệnh hoạn và hấp hối,
không chỉ trong thân xác,
nhưng còn trong tinh thần nữa,
bằng cách thực thi lời hy vọng này :
“Điều mà ngươi làm
cho người bé mọn nhất trong anh em
là làm cho chính Ta”. Amen.
(Thánh Têrêxa Calcutta)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
17/01 Cần làm việc lành
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Cần làm việc lành.
Thứ Tư tuần 2 thường niên – Thánh Antôn viện phụ. Lễ nhớ.
"Trong ngày Sabbat được cứu sống hay là giết chết?"
* Thánh Antôn là tổ phụ của các đan sĩ Ai Cập. Người chào đời quãng năm 250. Sau khi song thân qua đời, đáp lại lời mời gọi của Tin Mừng: “Nếu anh muốn nên hoàn thiện thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo rồi hãy đến theo tôi”, người rút lui vào sa mạc sống đời khổ chế và đền tội. Nhiều bạn hữu đã đến theo người, sống nếp sống khắc khổ để có thể kết hợp mật thiết với Thiên Chúa. Người cũng có công nâng đỡ các tín hữu trong thời kỳ hoàng đế Đi-ô-cơ-lê-xi-a-nô bách hại đạo, người cũng trợ giúp thánh Athanaxiô đối phó với phái Ariô. Người qua đời năm 356.
LỜI CHÚA: Mc 3, 1-6
Khi ấy, Chúa Giêsu lại vào hội đường và ở đó có một người khô bại một tay. Người ta để ý quan sát xem Chúa có chữa bệnh trong ngày Sabbat không, để tố cáo Người. Chúa bảo người có tay khô bại rằng: "Ngươi hãy đứng ra giữa đây". Rồi Người bảo họ: "Trong ngày Sabbat được làm sự lành hay sự dữ? Ðược cứu sống hay là giết chết?" Nhưng họ thinh lặng.
Bấy giờ Người thịnh nộ đưa mắt nhìn họ và buồn phiền vì lòng họ chai đá, Người bảo bệnh nhân rằng: "Hãy giơ tay ra". Người đó giơ tay ra và tay anh ta được lành. Lập tức, những người biệt phái đi ra bàn tính với những kẻ thuộc phái Hêrôđê chống đối Người và tìm cách hại Người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Phản ứng của Chúa Giêsu
Trong diễn văn đọc trước ngoại giao đoàn bên cạnh Toà Thánh nhân dịp Năm Mới 1996, Ðức Gioan Phaolô II đã mạnh mẽ tố giác các đàn áp Kitô hữu; Ngài nhận định như sau: "Người ta không thể đàn áp mãi hàng triệu tín hữu, nghi ngờ hoặc chia rẽ họ, mà những hành động đó lại không đưa đến những hậu quả tiêu cực, chẳng những đối với uy tín của các quốc gia trên trường quốc tế, mà cả trong nội bộ các xã hội liên hệ; trái lại, những mối quan hệ tốt giữa các Giáo Hội và nhà nước góp phần vào sự hòa hợp mọi thành phần trong xã hội".
Vừa đàn áp, vừa kêu gọi tin tưởng, chỉ có người mù quáng mới không thấy được sự mâu thuẫn trong hành động của mình. Người mù lòa ít ra còn biết mình không thấy, nhưng kẻ mù quáng vốn có mắt, nhưng lại không nhìn thấy.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu có một phản ứng trước sự mù quáng của những người Biệt phái. Chúng ta cứ tưởng tượng một bệnh nhân đang quằn quại trong đau khổ cần được một bàn tay săn sóc chữa trị, thì người ta lại nại đến luật ngày Hưu lễ để bắt bẻ và cấm chế. Thánh sử Marcô như muốn tô đậm phản ứng của Chúa trước thái độ mù quáng như thế, khi viết: "Chúa Giêsu giận dữ rảo mắt nhìn họ, buồn khổ vì lòng chai đá của họ". Chúa Giêsu vốn là Ðấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Chúng ta hãy chiêm ngưỡng thái độ của Ngài đối với những người khốn khổ, các bệnh nhân, các tội nhân, những người bị đẩy ra bên lề xã hội, Ngài đồng bàn với họ, cảm thông với họ, tha thứ cho họ.
Chúa Giêsu tỏ ra cảm thông tha thứ đối với mọi tội lỗi của con người, duy chỉ có một thái độ Ngài không bao giờ chấp nhận và tha thứ, đó là thói giả hình và mù quáng. Do yếu đuối, con người sa ngã là chuyện bình thường, nhưng nhắm mắt khép kín tâm hồn để không nhận ra mình yếu đuối cũng như nhân danh đạo lý và pháp luật để khước từ yêu thương, để loại trừ người khác, Chúa Giêsu gọi đó là tội chống lại Thánh Thần, tội không thể tha thứ được. Thật thế, khi con người không còn nhận ra thân phận tội lỗi yếu đuối của mình, khi con người khước từ yêu thương, thì mọi tương quan với Thiên Chúa cũng hoàn toàn bị cắt đứt. Chúa Giêsu không ngừng lên án thái độ giả hình và mù quáng của những người Biệt phái; Ngài cũng luông kêu gọi các môn đệ đề cao cảnh giác trước men Biệt phái.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta ghi tạc Lời Chúa để tránh khỏi men giả hình và mù quáng ấy. Xin Ngài cho chúng ta một tâm hồn nhạy cảm để nhận ra thân phận yếu đuối bất toàn của chúng ta và đáp lại tiếng gọi thống hối và hoán cải không ngừng của Chúa. Xin Ngài ban cho chúng ta một trái tim luôn biết rung động trước nỗi đau khổ của đồng loại và đôi tay luôn biết rộng mở để săn sóc chữa trị và san sẻ trao ban cho mọi người.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Làm việc lành khi nào?
Đức Giêsu lại vào hội đường. Ở đó có một người bị bại tay. Họ rình xem Đức Giêsu có chữa người ấy ngày sa bát không, để tố cáo Người. Đức Giêsu bảo người bại tay: “Anh chỗi dậy, ra giữa đây!” Rồi Người nói với họ: “Ngày sa bát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay giết đi?” Nhưng họ làm thinh. (Mc. 3, 1-4)
Chúa Giêsu và các người Biệt phái đã nhiều lần đối đầu với nhau về vấn đề giải thích Luật. Chúa Giêsu có một cách tiếp cận Luật một cách khá thông thoáng, còn những người Biệt phái chủ trương một sự giải thích chặt chẽ khít khao. Thực ra mỗi bên đều theo đuổi những nguyên tắc và quan điểm riêng, nên không thống nhất được một thang giá trị về công lý. Một bên thì cọi trọng những luật lệ và thực hành cũ kỹ của quá khứ, bên kia lại sẵn sàng thích ứng với hiện tại.
Một vấn đề có tính thời sự
Sự phát triển về cấu trúc lao động trong các xã hội công nghiệp đã dẫn đến một sự quá chuyên biệt và phân cách trong các ngành nghề và hoạt động khác nhau, đồng thời khiến cho những luật về lao động càng rắc rối phức tạp. Kết quả là vì muốn tôn trọng người lao động mà người ta đã phạm phải những sai lầm vô lý, tỉ dụ như trên một công trường xây dựng, người thợ điện không được phép cưa một khúc gỗ cho anh mà phải đem khúc gỗ ấy đến xưởng cưa, ông thầy dạy học không thể cung ứng cho các sinh viên một sinh hoạt ngoài giờ học; những công nhân đã bị người ta rầy la khi làm việc vì đã tỏ ra quá nhiệt tình và đã bày ra thêm một lượng công việc lớn hơn mức trung bình.
Người ta lại phải tự hỏi: khi nào phải làm việc lành? Có phải tôn trọng hay bỏ qua những luật lệ tỉ mỉ này không?
Thí dụ nêu trên về tình hình lao động khiến chúng ta phải nêu lên mấy câu hỏi. Chúa Giêsu liệu có phải giận dữ rảo mắt nhìn ta khi thấy ta đôi khi vì những luật lệ tỉ mỉ này mà làm cho lòng quảng đại khó được thực hiện chăng? Chúng ta xây dựng loại thế giới nào khi chính những con người cần cù lao động lại bị coi như làm hại cho những kẻ lười biếng? Và biết bao người trong chúng ta thường ỷ vào những quy ước, văn bản đã ký, những nỗi lo toan việc chung để thoái thác một đơn thỉnh cầu và xếp lại hồ sơ hay gọi điện thoại đẩy công việc đó cho một người khác?
Phần Chúa Giêsu, Người đã trả lời những câu hỏi này và khi thấy việc lành cần làm thì Người đã làm ngay.
Suy Niệm 3: CÓ ĐƯỢC PHÉP LÀM ĐIỀU THIỆN TRONG NGÀY SA-BÁT KHÔNG? (Mc 3, 1-6)
Khi nói đến Đức Giêsu, hẳn ai ai trong chúng ta cũng đều nghĩ ngay đến một Đức Giêsu nhân từ, hiền hậu và khiêm nhường. Mà quả thật là như vậy, bởi đã có lần Ngài nói: hãy học cùng tôi vì tôi hiền lành và khiêm nhường; hay trong các cử chỉ, hành động của Ngài cũng đều toát lên bản chất đó.
Tuy nhiên, chúng ta thấy có những lúc Đức Giêsu rất cương nghị. Chẳng hạn như khi Ngài loan báo cuộc khổ nạn thì Phêrô đứng ra ngăn cản Ngài, Ngài sẵn sàng mắng Phêrô là Satan và đuổi ông xéo lại đằng sau. Hay khi Ngài lên đền thờ Giêrusalem và thấy người ta buôn bán đủ thứ trong đền thờ, Ngài đã nổi nóng và lấy giây bện thành roi đánh đuổi và lật nhào bàn ghế của họ. Tại sao vậy, thưa vì nếu những gì làm cho con người xa ơn cứu chuộc, hay làm cản trở sứ vụ cứu thế của Ngài thì Ngài không khoan nhượng. Bởi nếu khoan nhượng thì họ bị mất ơn cứu chuộc.
Hôm nay cũng vậy, Ngài tỏ ra buồn bực và mạnh mẽ lên án cách nặng nề những người đang đứng đó với Ngài bởi vì lòng họ hóa ra trai đá, cứng cỏi, nên không thể có một cái nhìn tích cực về những việc làm tốt đẹp và như một điều tất yếu, họ khó có thể đón nhận được hồng ân cứu độ vì sự kiêu ngạo đã phủ lấp tâm hồn họ.
Lời Chúa hôm nay cật vấn lương tâm mỗi chúng ta. Liệu có khi nào vì ích kỷ, ghen tương và vụ luật mà chúng ta không thể có một cái nhìn tích cực hay nhìn đúng sự việc tốt lành của anh chị em mình? Hay là chúng ta chỉ tìm cơ hội để thọc gạy bánh xe, làm cho người anh chị em chúng ta khó lòng thi hành điều tốt đẹp mà họ được thúc đẩy để làm?
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho mỗi người chúng con luôn biết nghĩ tốt cho người khác; hay khi muốn sửa lỗi cho ai thì chính mình phải nhìn nhận bản thân cũng có những lỗi đó. Có thế, chúng ta mới trở thành môn đệ thực thụ của Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Anh giơ tay ra!
Suy niệm :
Bài Tin Mừng hôm nay là cao điểm của năm cuộc tranh luận
giữa Đức Giêsu với các kinh sư hay người Pharisêu (Mc 2, 1-3, 6).
Đó là các cuộc tranh luận về quyền tha tội của Đức Giêsu,
về chuyện Ngài ăn uống với người thu thuế, chuyện môn đệ không ăn chay,
chuyện môn đệ bứt lúa ngày sabát, và cuối cùng là chuyện Ngài chữa bệnh.
Trong hội đường, vào một ngày sabát, một người có bàn tay bị teo đi dự lễ.
Các người Pharisêu rình xem Đức Giêsu có chữa cho anh ấy không.
để có cớ tố cáo Ngài.
Đức Giêsu chủ động đưa âm mưu của họ ra ánh sáng.
Ngài muốn công khai h óa và chính thức hóa việc làm của mình,
bởi vậy Ngài mới nói với người bị tật rằng: “Anh hãy trỗi dậy ra giữa đây!”
Như thế mọi người trong hội đường đều thấy được anh.
Rồi Ngài đặt câu hỏi với các người đang rình rập Ngài
về điều được phép làm trong ngày sabát:
được làm điều tốt hay điều xấu, cứu sống hay giết chết?
Câu trả lời tưởng như quá rõ ràng,
nhưng ta nên nhớ rằng chữa bệnh ngày sabát bị coi như lao động.
Chỉ được chữa bệnh ngày sabát khi đó là một bệnh nguy tử.
Anh bại tay không phải là người lâm cơn bệnh nguy tử.
Nếu hoãn lại đến ngày mai mới chữa anh, thì có vẻ cũng chẳng sao.
Nhưng Đức Giêsu đã không chấp nhận sự trì hoãn này.
Đối với Ngài, làm điều tốt là chữa ngay cho anh.
Ngài không đợi anh ấy gần chết mới cứu sống.
Cứu sống là cho con người được sống hạnh phúc dồi dào hơn.
Một bàn tay héo khô, teo tóp, bại liệt,
một bàn tay đàn ông chẳng còn làm việc được, chẳng còn tự phục vụ được,
một bàn tay đã chịu tật nguyền như thế từ bao giờ,
theo Đức Giêsu, bàn tay ấy phải được chữa lành ngay khi có thể.
“Hãy giơ tay ra!”
Người ấy đã giơ tay ra và tay anh trở lại bình thường.
Giơ tay ra là điều trước kia anh mong muốn mà không làm được.
Bây giờ anh có thể giơ tay để nắm lấy một bàn tay khác,
và cảm được sự ấm áp chân thành của tình bạn.
Có bao nhiêu bàn tay, dù không bại liệt, nhưng chẳng bao giờ bình thường
vì chẳng bao giờ dám đưa ra để trao và để nhận, để nắm và để buông.
Trước sự thinh lặng chai đá của các kẻ chống đối,
Đức Giêsu vừa giận vừa buồn (c.5).
Ngài chấp nhận trả giá cho quyết định của mình.
Ngài đã chữa bệnh chỉ bằng một lời nói, chứ không bằng đụng chạm.
Thế nên theo Luật Môsê, Ngài vẫn không bị coi là đã vi phạm ngày sabát.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa,
lúc đầu chúng con chỉ muốn cầm tay nhau
để làm thành một vòng tròn khép kín.
Sau đó chúng con hiểu rằng
cần phải buông tay nhau
để nhận những người bạn mới,
để vòng tròn được mở rộng đến vô cùng
và trái tim được lớn lên mãi.
Lạy Chúa, chúng con biết rằng
cần phải nối vòng tay lớn
xuyên qua các đại dương và lục địa.
vòng tay người nối với người,
vòng tay con người nối với Tạo Hóa.
Chúng con thích Chúa
đứng chung một vòng tròn
với tất cả loài người chúng con,
nắm lấy tay chúng con
và đưa chúng con lên cao.
Ước gì việc Chúa giang tay trên thập giá
giúp chúng con biết cầm lấy tay nhau
và nhận nhau là anh em. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
16/01 Cốt lõi của Lề Luật
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Cốt lõi của Lề Luật.
Thứ Ba tuần 2 thường niên.
"Ngày Sabbat làm ra vì loài người, chứ không phải loài người vì ngày Sabbat".
LỜI CHÚA: Mc 2, 23-28
Vào một ngày Sabbat, Chúa Giêsu đi qua đồng lúa, môn đệ Người vừa đi vừa bứt lúa. Tức thì những người biệt phái thưa Người rằng: "Kìa Thầy xem. Tại sao ngày Sabbat người ta làm điều không được phép như vậy?"
Người trả lời rằng: "Các ông chưa bao giờ đọc thấy điều mà Ðavít đã làm khi ngài và các cận vệ phải túng cực và bị đói ư? Người đã vào nhà Chúa thời thượng tế Abiata thế nào, và đã ăn bánh dâng trên bàn thờ mà chỉ mình thượng tế được ăn, và đã cho cả các cận vệ cùng ăn thế nào?"
Và Người bảo họ rằng: "Ngày Sabbat làm ra vì loài người, chứ không phải loài người vì ngày Sabbat; cho nên Con Người cũng làm chủ cả ngày Sabbat".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Linh hồn của Lề Luật
Nói về luật pháp của con người, triết gia Schopenhauer đã ví von như sau: "Luật pháp cũng giống như một mạng nhện, những con ong gấu thì vượt qua một cách dễ dàng, những thứ ruồi nhặng thì kẹt lại". Ðây là một sự thật đau lòng mà chúng ta chứng kiến mỗi ngày trên khắp thế giới: những con ong gấu, tức những người làm ra luật, những kẻ có quyền thế trong tay, thường chiu qua những kẽ hở của luật pháp một cách dễ dàng; thế lực của đồng tiền, vây cánh, ô dù, giúp họ luôn đứng trên luật pháp mà chính họ lập ra.
Vào thời Chúa Giêsu không có chuyện ô dù, nhưng có một hạng người tự cho mình có quyền lập ra luật, bắt người khác giữ luật, còn mình thì không muốn lay thử một ngón tay. Tin Mừng hôm nay là khởi đầu của một cuộc đối đầu triền miên giữa Chúa và hạng người này, tức là nhóm Biệt phái về vấn đề luật pháp. Chúa Giêsu không phải là một người vô kỷ luật. Ngài sinh ra khi cha mẹ Ngài tuân theo lệnh kiểm tra dân số do Hoàng đế La mã ban hành; sau này Ngài vẫn đóng thuế như bất cứ một công dân của Ðế quốc nào. Trong lãnh vực tôn giáo Ngài tuân giữ lề luật của Môsê. Ngài cũng chịu cắt bì, được hiến dâng trong Ðền thờ vì là con trai đầu lòng, hằng năm lên Yêrusalem để mừng lễ, mỗi ngày hưu lễ Ngài cũng đến Hội đường.
Tuy nhiên, như Chúa Giêsu đã có lần tuyên bố Ngài đến là để kiện toàn lề luật, và kiện toàn lề luật là gì nếu không phải là mặc cho nó linh hồn là tình yêu; không có tình yêu thì lề luật chỉ là những thây chết, nhưng nói đến tình yêu là nói đến con người. Như vậy luật lệ là vì con người, là để giúp con người sống chứ không phải để đàn áp và giết chết con người; luật lệ chỉ có ý nghĩa và giá trị khi nó là một biểu lộ của tôn trọng và yêu thương đối với con người; trái lại, tất cả những luật lệ nào đi ngược lại với sự sống và tình yêu, đều là những luật lệ bất công. Trong Thông điệp "Tin Mừng Sự Sống" ban hành năm 1995, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã kêu gọi các tín hữu mạnh mẽ và can đảm chống lại những thứ luật lệ xúc phạm đến chính sự sống của con người, như luật cho phép phá thai, luật cho phép kết liễu cuộc sống của bệnh nhân.
Là một xã hội, Giáo Hội cũng ban hành luật lệ. Tất cả lề luật của Giáo Hội được tóm gọn trong một giới luật duy nhất và nền tảng, đó là yêu thương. Ăn chay, giữ ngày Chúa nhật hoặc bao nhiêu khoản luật khác liên quan đến đời sống hôn nhân, tất cả đều qui về một luật duy nhất là để giúp các tín hữu sống tôn trọng và yêu thương con người. Như thế, người Kitô hữu chỉ có một giới răn để tuân giữ, đó là giới răn yêu thương, và họ cũng chỉ có một tinh thần duy nhất để tuân giữ lề luật, đó là tình yêu thương.
Nguyện xin Chúa hướng dẫn để chúng ta luôn sống đạo theo tinh thần yêu thương ấy.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Thiên Chúa phục vụ con người
Vào ngày sa bát Đức Giêsu đi băng qua một cánh đồng lúa. Các môn đệ Người bắt đầu bứt lúa trong khi đi đường. Nhưng người Pha-ri-sêu liền nói với Đức Giêsu: “Ông coi ngày sa bát mà họ làm gì kia? Điều ấy đâu được phép!”
Đức Giêsu nói: “Ngày sa bát được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày sa bát. Bởi đó con người làm chủ luôn ngày sa bát. (Mc. 2, 23-24. 27-28)
Điều khiến ta ngạc nhiên nhất khi đọc trích đoạn Phúc âm này không phải là việc Chúa Giêsu đặt mình ở trên luật về ngày sa-bát hay là muốn cho truyền thống mang một sắc thái khác, mà đúng hơn là việc Người tỏ cho ta biết rằng ngày sa-bát được làm ra vì con người.
Ngày sa-bát, ngày của Thiên Chúa
Khi viết tường thuật về việc Chúa tạo dựng trời đất muôn vật, các tác giả theo truyền thống tư tế đã xếp đặt cho công việc tạo dựng này được hoàn tất trong sáu ngày, còn ngày thứ bảy Chúa nghỉ ngơi: đó là ngàyThiên Chúa dành cho chính mình. Vì thế, “ngày-của-chúa” đó, dân chúng phải sống và làm việc vì Chúa, cho Chúa, và ngày đó vì thế đã trở thành ngày dành cho việc phụng thờ.Cho nên các linh mục là những người phải lo viêc Đền thờ, có giảng giải và nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc giữ ngày chúa nhật như kiêng việc xác, đi lễ đọc kinh, làm việc đạo đức và từ thiện….thì cũng là điều dễ hiểu và bình thường thôi.
Vậy mà Chúa Giêsu lại nói: “Cái ngày mà anh em coi như thuộc về Thiên Chúa, ngày ấy lại được làm ra vì anh em”. Có nghía là cả Ba Ngôi Thiên Chúa đã hướng cuộc sống, sự hiện hữu của mình vì con người.
Một Thiên Chúa phục vụ
Thiên Chúa phục vụ con người, đây không phải là một mạc khải mới mẻ. Tất cả lịch sử của dân được tuyển chọn đều kể lại cho ta hay Đức Giavê đã sẵn sàng phục vụ như thế nào: đem họ ra khỏi Ai cập, đưa họ từ chốn lưu đầy trở về, lập vương quốc cho Đavít… Cả khi họ hối lỗi trở về, thì Chúa vẫn sẵn sàng thứ tha. Vừa thoáng có dấu hiệu của sự hối cải, trở về là Chúa hoan hỉ, và quên đi ngay những đe dọa trừng phạt.
Và đấy chính là điều Chúa muốn khẳng dịnh lại khi nói rằng ngày sa-bát được làm ra vì con người. Tất cả những gì liên quan tới Chúa, thì Người đã ràng buộc nó vào vận mệnh của chúng ta. Thiên Chúa đã hạ mình phục vụ ta, để ta cũng theo gương Người mà phục người khác như vậy.
Mạc khải này đưa chúng ta đến câu hỏi sau đây: Ta có đi đúng đường khi giữ cũng như bảo người khác giữ ngày của Chúa? Phải chăng ta chỉ nhắc lại suông bằng lời mà không thực hành bằng việc, mạc khải Chúa đã tỏ cho ta là Thiên Chúa phục vụ con người? Phục vụ tha nhân, há chẳng phải là nét cao cả, là điểm nổi bật trong đời sống Kitô hữu, và là con dường hay nhất giúp ta đến và sống với tha nhân sao?
Thiên Chúa phục vụ! Thiên-Chúa-vì-con-người!
Ai đón nhận Tin Mừng này sẽ không còn phải sợ mình không thuộc về Chúa vậy.
Suy Niệm 3: TRẢ LẠI CHO LUẬT Ý NGHĨA CỦA NÓ! (Mc 2, 23-28)
Luật ngày Sabát chính là luật quan trọng của người Dothái. Tuy nhiên, vì luật này, mà đã biết bao nhiêu lần giữa Đức Giêsu và người Pharisêu xảy ra tranh cãi, bởi lẽ với Đức Giêsu thì coi luật vì con người, còn với kẻ chống đối Ngài thì cho rằng con người nên công chính vì luật.
Thật vậy, Đức Giêsu không phải là người đến để bãi bỏ lề luật, Ngài đến để kiện toàn. Tuy nhiên, Ngài nhìn và coi luật là thứ yếu, nó chỉ nắm vai trò phục vụ con người, vì vậy, nó không phải là tất cả và mang tính sống còn! Nếu luật đưa ra mà không làm cho con người có giá trị nhân linh trước mặt Chúa và sống tốt với nhau hơn hay không đem lại bình an, hạnh phúc cho người thi hành thì luật đó phải được thay thế.
Việc trung thành giữ luật ngày Sabát mà khiến lòng con người ra trai cứng, dửng dưng trước sự đói khát, khổ sở, hay ốm đau, chết chóc thì hoàn toàn không phù hợp với tinh thần cũng như mục đích nguyên thủy của luật. Không thể hoàn toàn dựa trên luật để đánh giá đồng đều lòng đạo đức của mọi người. Cần phải áp dụng theo từng người, trong những hoàn cảnh nhất định. Vì thế: “Ngày Sabát được tạo ra vì con người, chứ không phải con người cho ngày Sabat” (Mc 2, 27).
Ngày nay, qua lối thực hành đạo của chúng ta, vẫn còn đó những người luôn coi việc giữ luật cách nghiêm ngặt, cứng ngắc là điều nên làm và họ luôn coi đây là chuẩn mực để được coi là đạo đức! Tuy nhiên, khi trở về với những lời giáo huấn và tinh thần của Đức Giêsu, nhất là những việc Ngài làm, thì hẳn chúng ta phải xem lại!
Liệu rằng khi chúng ta làm việc thiện rồi để khoe khoang; hay là nhân danh đạo đức để xử sự bất nhân với anh chị em mình; hoặc tự cho mình là người giữ luật cách trung thành, nhưng lại coi thường, khinh bỉ hay luôn cho mình là người mẫu lý tưởng bắt mọi người phải quy phục thì liệu có phù hợp với giáo huấn của Chúa và cốt lõi của Luật không??? Hay chúng ta đang bị chất tố Pharisêu chỉ đạo lối nhìn và quan điểm để rồi mình trở thành bản sao của nhóm người giả hình thời hiện đại?
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho mỗi người chúng con biết giữ luật vì lòng mến; đồng thời luôn biết yêu thương anh chị em mình bằng một tình yêu chân thành, thiết thực dựa trên đức ái. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Con Người làm chủ ngày sabát
Suy niệm :
Các kitô hữu gốc Do Thái của Giáo Hội sơ khai
thường bị chê trách vì đã lơ là trễ nải trong việc giữ ngày sabát.
Giữ ngày sabát là điều hết sức quan trọng đối với người theo Do Thái giáo
Ai vi phạm ngày này có thể bị xử tử (Xh 31, 14), bị ném đá (Ds 15, 32-36).
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu hẳn đã soi sáng cho vấn đề này.
Câu chuyện xảy ra vào một ngày sabát.
Khi thầy trò băng qua đồng lúa, các môn đệ đã bứt các bông lúa.
Và hẳn họ đã vò lúa trong tay trước khi có thể ăn hạt bên trong.
Theo sách Đệ nhị luật (23, 26) thì hành động này được phép làm :
“Khi vào đồng lúa của người đồng loại, anh em có thể lấy tay bứt bông lúa.”
Nhưng theo các kinh sư, điều này bị cấm làm trong ngày sabát,
lý do là vì bứt lúa và vò trong tay cũng giống với hành vi gặt và xay lúa,
mà gặt và xay lúa là một trong ba mươi chín việc không được phép làm ngày sabát.
Từ đó người Pharisêu kết luận việc các môn đệ bứt lúa là phạm đến luật Môsê.
Ngày nay chúng ta có thể buồn cười về chuyện này,
nhưng nó nói lên việc các kinh sư vì sợ người ta phạm luật
nên sau này đã thêm thắt những quy định tỉ mỉ chi li.
Đức Giêsu đã trả lời người Pharisêu bằng đức cách trưng dẫn chuyện vua Đavít.
Trong truyền thống Do Thái, vua này thường được coi là đạo đức mẫu mực.
Đavít đã làm điều không được phép làm, đó là ăn bánh tiến (x. 1 Sm 21, 1-6).
Bánh này gồm mười hai ổ lớn được đặt trước nhà tạm (x. Lv 24, 5-9).
Vào mỗi ngày sabát, bánh mới được thay, bánh cũ chỉ dành cho các tư tế.
Khi kể câu chuyện về vua Đavít, Đức Giêsu muốn cho thấy rằng
nếu Đavít và các thuộc hạ có thể được miễn giữ luật liên quan đến bánh thánh
thì Đức Giêsu và các môn đệ trong trường hợp nào đó
cũng có thể được miễn giữ ngày sabát thánh (x. 1 Mac 2, 34-38).
Theo Đức Giêsu, ngày sabát được tạo cho loài người, chứ không phải ngược lại.
Người Pharisêu có lẽ đã quên đi mục đích của việc giữ luật ngày sabát.
Thiên Chúa lập nên ngày sabát để loài người có thời gian nghỉ ngơi
hầu nhớ đến công trình tạo dựng và giải phóng của Ngài (Đnl 5, 14-15).
Ngày sabát đúng là ngày của Chúa, dành cho Chúa,
nhưng nó cũng là ngày cho loài người sau sáu ngày làm việc vất vả.
Ngày nay chúng ta không còn giữ ngày sabát nữa,
nhưng giữ ngày Chúa Nhật, ngày của Chúa.
Cám ơn vị nào đã lần đầu tiên dùng từ này để chỉ ngày đầu tiên của tuần.
Trong thế giới quá cạnh tranh hiện nay, chúng ta cần được nhắc nhở
về chuyện nghỉ ngơi để sống cho mình, cho nhau, cho Chúa.
Ngày Chúa Nhật là thời gian tuyệt vời đề sống cả ba chiều kích ấy.
Cầu nguyện :
Ngày lại ngày, lạy Thiên Chúa,
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan,
hai tay cung kính, lạy Thiên Chúa muôn loài,
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan.
Dưới bầu trời bao la,
trong cô đơn và thầm lặng,
với tấm lòng thanh tịnh,
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan.
Trong thế giới ồn ào vì nhọc nhằn,
huyên náo vì đấu tranh,
giữa đám đông hối hả lăng xăng,
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan.
Và khi đã hoàn tất việc đời,
lạy Thiên Chúa muôn loài,
một mình, lặng lẽ,
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan. Amen.
(R. Tagore - Ðỗ Khánh Hoan dịch)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
15/01 Cốt lõi của đạo chính là tình thương
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Cốt lõi của đạo chính là tình thương.
Thứ Hai tuần 2 thường niên.
"Tân lang còn ở với họ".
LỜI CHÚA: Mc 2, 18-22
Khi ấy, môn đồ của Gioan và các người biệt phái ăn chay, họ đến nói với Chúa Giêsu rằng: "Tại sao môn đồ của Gioan và các người biệt phái ăn chay, còn môn đồ Ngài lại không ăn chay?"
Chúa Giêsu nói với họ: "Các khách dự tiệc cưới có thể ăn chay khi tân lang còn ở với họ không? Bao lâu tân lang còn ở với họ, thì họ không thể ăn chay được. Nhưng sẽ đến ngày tân lang bị đem đi, bấy giờ họ sẽ ăn chay.
Không ai lấy vải mới mà vá áo cũ, chẳng vậy, miếng vải vá sẽ rút lại mà kéo áo cũ, và chỗ rách lại tệ hơn. Cũng không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, chẳng vậy, rượu sẽ làm vỡ bầu da, và rượu đổ, bầu da hư. Nhưng rượu mới phải để trong bầu da mới".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Cốt lõi của đạo
Trong những thập niên gần đây, mặc dầu càng lúc Hiến pháp các quốc gia càng đi sâu vào sự tách biệt giữa tôn giáo và nhà nước; thế nhưng, sự liên kết giữa tôn giáo và chính trị lại càng đậm nét hơn. Cuộc chiến giữa Tư bản và Cộng sản đã hầu như chấm dứt, nhưng chiến tranh tôn giáo xem chừng vẫn dai dẳng, không những giữa những người khác tôn giáo với nhau, mà ngay cả trong cùng một tôn giáo. Nhìn vào thảm cảnh ấy, ai cũng thắc mắc tự hỏi: Tôn giáo nào mà không dạy ăn ngay ở lành, tôn giáo nào mà không dạy sự khoan dung tha thứ, thế thì tại sao những người có tôn giáo lại nhân danh tôn giáo của mình để gây chiến với người khác hay với chính những người đồng đạo của mình?
Câu trả lời thật đơn giản: sở dĩ người có tôn giáo có thái độ quá khích và bất khoan nhượng, là vì họ chưa sống đúng cái cốt lõi của đạo. Xét cho cùng, cái cốt lõi của tôn giáo nào cũng là tình thương.
Chúa Giêsu cũng muốn chứng tỏ cho chúng ta thấy thế nào là sống đạo. Chúng ta hãy chiêm ngắm thái độ và lời dạy của Ngài trong Tin Mừng hôm nay. Vừa bắt đầu sứ mệnh rao giảng của Ngài, cũng như các kinh sư của thời đại Ngài, Chúa Giêsu cũng qui tụ một số môn đệ; và cũng như các môn đệ của các kinh sư khác, môn đệ của Ngài cũng theo một lối sống nào đó. Thế nhưng, điều khiến cho nhiều người ngạc nhiên và đặt vấn đề, đó là Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài không tuân giữ một số ngày chay tịnh như môn đệ của Gioan hay của những người Biệt phái. Không tuân giữ những ngày chay tịnh đã đành, sau này xem ra Chúa Giêsu càng thách thức hơn nữa, khi Ngài không tuân giữ cả ngày hưu lễ hay một số tập tục khác, như rửa tay trước khi ăn.
Suốt cuộc sống của Ngài, Chúa Giêsu đã tỏ ra rất độc lập đối với Do thái giáo. Ðây quả là cách sống đạo hoàn toàn mới mẻ mà Chúa Giêsu muốn đề ra cho con người. Ðối với Ngài, linh hồn và cốt lõi của đạo chính là tình thương; tình thương ấy đã thúc đẩy Ngài đi đến tận cùng bằng cái chết trên Thập giá, và cái chết của Ngài mãi mãi là lời tố cáo về thái độ bất khoan nhượng trong niềm tin tôn giáo của con người. Vụ án của Ngài được thi hành như một vụ án chính trị; mãi mãi tên tuổi của viên toàn quyền La mã là Philatô gắn liền với cái chết của Ngài. Tuy nhiên, vụ án của Chúa Giêsu vẫn là một vụ án tôn giáo: Ngài chết vì sự cuồng tín và thái độ bất khoan nhượng của các thủ lãnh Do thái giáo.
Chiêm ngắm thái độ của Chúa Giêsu trong suốt cuộc đời trần thế của Ngài và lắng nghe giáo huấn của Ngài, chúng ta sẽ thấy rằng cái cốt lõi của đạo chính là tình thương. Trong cuộc sống đạo, nhiều lúc chúng ta thắc mắc phải ăn chay thế nào cho đúng cách? Ngày Chúa nhật có được làm việc xác không? Bỏ lễ Chúa nhật có tội hay không? Thật ra còn có nhiều câu hỏi nền tảng hơn mà thiết tưởng chúng ta không thể không đặt ra để tự vấn lương tâm mỗi ngày: tôi có sống công bình, bác ái chưa? Tôi có yêu thương người anh em bên cạnh tôi chưa? Nhắm mắt làm ngơ trước nỗi khổ của người xung quanh tôi có phải là một tội không?
Nguyện xin Chúa cho chúng ta ngày càng thấu hiểu và xác tín rằng sống đạo là sống yêu thương, rằng cốt lõi của Kitô giáo chính là tình thương.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Thời gian nghỉ lễ
“Tại sao các môn đệ ông Gio-an và các môn đệ người Pha-ri-sêu ăn chay, mà môn đệ ông không ăn chay?” Đức Giêsu trả lời: “Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể ăn chay, khi chàng rể còn ở với họ? Bao lâu chàng rể còn ở với họ, họ không thể ăn chay được.” (Mc. 2, 18b-19)
Trích đoạn Phúc âm này ghép hai mẩu chuyện có vẻ như không ăn ý với nhau: cuộc tranh biện về sự ăn chay và lời kêu gọi canh tân nội tâm. Nhưng thực ra lại có sự hòa hợp rất chặt chẽ. Thời đại cứu độ của Chúa Giêsu mang lại niềm vui. Thời đại này hoàn toàn mới, không thể đi đôi với trật tự cũ thuộc quá khứ. Những thực hành cũ kỹ của Đạo Do thái phải nhường bước cho Tin Mừng đi lên. Chúng ta sẽ đọc hai mẩu chuyện này từ góc độ của việc mừng ngày lễ.
Mừng lễ chính là nhìn lại quá khứ
Trong tác phẩm nổi tiếng của mình, La Fête des Fous, thần học gia Harvey Cox đã phân tích mối liên hệ của con người với cuộc lễ. Trong cuộc lễ, ông nói, con người tổng hợp quá khứ và loan báo tương lai của mình. Trong một tiệc cưới, người ta làm gì, nếu không phải là gom góp lại cái quá khứ yêu đương của cặp trai gái và rọi chiếu nó vào trong tương lai? Chính bởi vì người ta đã yêu thương nhau và muốn yêu nhau nữa, nên mới dừng lại trong lúc này để nói lên câu “Ta yêu nhau”
Tác giả nói thêm: Cái quá khứ mà người ta tìm lại được trong cuộc lễ đó, đã đưọc gạn lọc, biến đổi và làm cho nên đẹp. Còn lại chỉ là những giờ phút hạnh phúc và dẽ dàng. Chính từ đó mà buôỉ lễ tiệc mới có được vẻ vui chơi nhộn nhịp để người ta ăn uống vui đùa và ca hát.
Cũng là để cho người ta sẵn sàng thăng tiến
Chiều hướng thư hai của buổi lễ là dự phóng cho một tương lai mang nhiều hy vọng. Trong mọi cuộc lễ đều có một ý hưóng làm mới lại. Trong hôn lễ, đôi uyên ương muốn làm mới lại tình yêu thuở ban đầu của họ, muốn lấy lại nghị lực. Cuộc lễ như cung cấp cho người ta một thứ rượu mới.
Rượu mới cần phải đựng trong những bầu da mới mà Chúa Giêsu nói đến trong phần hai của trích đoạn Phúc âm này, mời gọi ta phải trở nên những con người mới để sẵn sàng đi vào tương lai.
Còn những bầu da cũ ám chỉ những con người mà đối với họ ngày lễ lại rất ảm đạm, chỉ khơi lại trong lòng họ những nỗi buồn nhỏ lệ. Họ không thể thấy hạnh phúc mà không đau lòng. Họ không chịu đựng được thứ rượu mới, thứ rượu mang niềm hy vọng cho những ngày mai tốt đẹp. Đúng ra những con người này đã đánh mất ý thức về tương lai.
Tóm lại, điều Chúa đòi hỏi chúng ta hôm nay là chúng ta có còn khả năng mừng lễ không? Chúng ta có thể tìm ôn lại dĩ vãng, cái cũ để rút ra cái mới hầu thăng tiến con người ta không? Nếu có, là chúng ta đã đang đi trên con đường dẫn ta vào dự tiệc Nước Trời rồi đó.
Suy Niệm 3: BÊN TRONG THÌ GIÁ TRỊ HƠN BỀ NGOÀI (Mc 2, 18-22)
Đã rất nhiều lần người Pharisêu dùng biện pháp “nhất tiễn diệt song điêu” để gài bẫy Đức Giêsu. Hôm nay, cũng chiêu thức ấy, họ tìm cách đưa cả thầy lẫn trò vào chòng khi cất tiếng hỏi Đức Giêsu: “Tại sao môn đệ của ông Gioan và người Pharisêu ăn chay, trong khi đó muôn đệ của ông lại không ăn chay?”.
Họ hỏi Đức Giêsu về lý do tại sao các môn đệ của Ngài không ăn chay, nhưng thực ra họ đang tìm cách trách móc Đức Giêsu! Nếu Đức Giêsu trả lời các môn đệ không cần ăn chay, thì vô hình chung Ngài chống luật Môsê; còn nếu Đức Giêsu thuận theo và yêu cầu các môn đệ ăn chay theo ý của những người Pharisêu, thì quả thực, Ngài đang phủ nhận sự hiện diện của mình, bởi tất cả mọi điều mà dân Israel mong đợi, thì nay Ngài đến, Ngài đang là hiện thân của niềm hy vọng đó. Vậy ăn chay là để mong đợi, nay điều mong đợi đó đã đến, thì không có lý do gì phải ăn chay nữa!
Biết được ý đồ thâm độc của họ, nên Đức Giêsu đã lấy một ví dụ qua hình ảnh vải mới vá vào áo cũ và rượu mới đổ bầu da cũ để thấy được điều nghịch lý nơi câu hỏi của nhóm người Pharisêu. Đây cũng chính là câu trả lời gián tiếp đầy khôn khéo, khiến họ không thể bắt bẻ được Ngài điều gì!
Trong cuộc sống thực tế, có khi chúng ta cũng chẳng khác gì những người Pharisêu khi xưa!
Nhiều khi đọc kinh rất nhiều, nhưng bảo tha thứ cho người làm phiền chúng ta thì không bao giờ! Hay đi lễ thường xuyên, nhưng có khi anh chị em cần đến sự giúp đỡ thì lại là điều xa vời với ta!
Hoặc cũng có những người tham gia hội đoàn này hội đoàn kia chỉ để chỉ trích và bới bèo ra bọ mà không hề thay đổi lối sống cho tốt hơn!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi chúng ta hãy chú tâm đến nội dung bên trong hơn là những chuyện bề ngoài. Đừng vì những điều phụ thuộc mà đánh mất đi giá trị của nội dung.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho con biết chú trọng đến lối sống đạo hơn là hình thức. Một trái tim biết yêu thương thực sự thay cho hình thức giả tạo trên đầu môi chóp lưỡi. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Chàng rể còn ở với
Suy niệm:
Một trong những nét khác biệt giữa Gioan Tẩy Giả với Đức Giêsu
là sự khắc khổ nhiệm nhặt.
Gioan được coi là người “không ăn bánh, không uống rượu” (Lc 7, 33).
còn Đức Giêsu bị mang tiếng là “tay ăn nhậu” với quân thu thuế (Lc 7, 34).
Chúng ta đã từng thấy ngài ăn tại nhà ông Lêvi hay ông Dakêu.
Các người Pharisêu cũng là những người thích ăn chay nhiều lần trong tuần,
dù ngày ăn chay chính thức hàng năm của đạo Do-thái chỉ là ngày lễ Xá tội.
Như thế có sự khác biệt khá rõ giữa môn đệ của Đức Giêsu
với môn đệ của Gioan Tẩy Giả và môn đệ của người Pharisêu.
Một bên có vẻ thoáng và thoải mái, một bên thì khắc khổ nhiệm nhặt.
“Tại sao môn đệ của ông lại không ăn chay ?”
Có người đã dám hỏi thẳng Đức Giêsu như thế.
Ngài đã trả lời bằng một cách dùng một hình ảnh dễ hiểu và đầy ý nghĩa.
Vào thời Đức Giêsu, tại Paléttin, cũng như tại nhiều vùng quê ngày nay,
đám cưới là một biến cố mừng vui có tính làng xã.
Chẳng thể nào hiểu được chuyện một người đi ăn cưới
với khuôn mặt buồn của kẻ đang ăn chay.
“Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể ăn chay,
khi chàng rể còn ở với họ”
Đức Giêsu tự ví mình với chàng rể, còn môn đệ là khách dự tiệc cưới.
Bầu khí trong nhóm môn đệ của ngài là bầu khí vui tươi của một lễ thành hôn
bởi lẽ thời đại thiên sai đã đến rồi.
Đức Giêsu, Đấng Mêsia dân Ítraen mong đợi từ lâu, nay có mặt.
Ngài là chàng rể kết duyên với cô dâu là dân tộc Ítraen của ngài.
Đức Giêsu đã làm trọn điều các ngôn sứ nói trong Cựu Ước
về việc Thiên Chúa lập hôn ước với dân của Người (Hs 2, 21-22; Is 62, 4-5).
“Nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi khỏi họ, bấy giờ họ mới ăn chay.”
Sau khi Đức Giêsu chịu cái chết dữ dằn, được phục sinh và lên trời,
Giáo hội bước vào một giai đoạn mới, giai đoạn chờ đợi ngài quang lâm.
Trong giai đoạn này, khi Chúa Giêsu vừa vắng mặt, vừa hiện diện,
Các Kitô hữu ăn chay, vác thánh giá theo Chúa Giêsu,
dù họ vẫn luôn sống trong niềm vui, bởi tin vào Đấng đã phục sinh vinh hiển.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
các sách Tin Mừng chẳng khi nào nói Chúa cười,
nhưng chúng con tin Chúa vẫn cười
khi thấy các trẻ em quấn quýt bên Chúa.
Chúa vẫn cười khi hồn nhiên ăn uống với các tội nhân.
Chúa đã cố giấu nụ cười trước hai môn đệ Emmau
khi Chúa giả vờ muốn đi xa hơn nữa.
Nụ cười của Chúa đi đôi với Tin Mừng Chúa giảng.
Nụ cười ấy hòa với niềm vui
của người được lành bệnh.
Lạy Chúa Giêsu,
có những niềm vui
Chúa muốn trao cho chúng con hôm nay,
có sự bình an sâu lắng Chúa muốn để lại.
Xin dạy chúng con biết tươi cười,
cả khi cuộc đời chẳng mỉm cười với chúng con.
Xin cho chúng con biết mến yêu cuộc sống,
dù không phải tất cả đều màu hồng.
Chúng con luôn có lý do để lo âu và chán nản,
nhưng xin đừng để nụ cười tắt trên môi chúng con.
Ước gì chúng con cảm thấy hạnh phúc,
vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương
và được sai đi thông truyền tình thương ấy. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
14/01 Biến đổi khi gặp Chúa
- Viết bởi Ga 1, 35-42
Biến đổi khi gặp Chúa.
Chúa Nhật tuần 2 Thường Niên năm B.
"Họ xem chỗ Người ở, và ở lại với Người".
Lời Chúa: Ga 1, 35-42
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Gioan đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông nhìn theo Chúa Giêsu đang đi mà nói: "Đây là Chiên Thiên Chúa". Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu ngoảnh mặt lại, thấy họ đi theo Mình, thì nói với họ: "Các ngươi tìm gì?" Họ thưa với Người: "Rabbi, nghĩa là: thưa Thầy, Thầy ở đâu?" Người đáp: "Hãy đến mà xem".
Họ đã đến và xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy, lúc đó độ chừng giờ thứ mười. Anrê, em ông Simon Phêrô, (là) một trong hai người đã nghe Gioan nói và đã đi theo Chúa Giêsu. Ông gặp Simon anh mình trước hết và nói với anh: "Chúng tôi đã gặp Đấng Messia, nghĩa là Đấng Kitô". Và ông dẫn anh mình tới Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nhìn Simon và nói: "Ngươi là Simon, con ông Gioan, ngươi sẽ được gọi là Kêpha, nghĩa là Đá".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
CHÚA NHẬT 2 THƯỜNG NIÊN B
Lời Chúa: 1Sm 3,3b-10.19; 1Cr 6,13c-15a.17-20; Ga 1,35-42
MỤC LỤC
1. Ơn gọi
Chúa nhật hôm nay có thể được coi là Chúa nhật của ơn gọi.
Thực vậy, bài đọc một ghi lại câu chuyện Chúa gọi Samuel một cách đích danh và cậu đã đáp lại tiếng gọi ấy: Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe.
Đoạn Tin Mừng ghi lại câu chuyện Chúa Giêsu thâu nhận những môn đệ đầu tiên, được ghi lại trong Phúc âm theo thánh Gioan, thì mọi sự dường như đã bắt đầu từ các môn đệ. Các ông đến với Chúa trong những trường hợp khác nhau. Có người đang là môn đệ của Gioan tiền hô. Có người được anh rủ tới. Có người đến với Chúa sau lời giới thiệu: Đây chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian. Cũng có người đến vơi Ngài sau lời xác quyết Ngài là Đấng Messia, Đấng Cứu Thế. Tin Mừng còn nói là họ đã đến với Ngài và sau khi đã xem chổ Ngài ở, họ đã ở lại với Ngài.
Chỗ Ngài ở, hiển nhiên không phải là đền đài nguy nga lộng lẫy, bởi vì chính Ngài đã từng tuyên bố: Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu. Họ đến với Ngài chỉ vì Ngài và chỉ vì được Ngài lôi cuốn. Chúa Giêsu đã lôi cuốn họ và sự lôi cuốn này có sức biến đổi hẳn con người của ho.
Chúa Giêsu không muón thực hiện sứ mạng của Ngài một cách đơn độc và lẻ loi, trái lại Ngài luôn mong muốn sứ mạng ấy phải được thực hiện bởi chính Ngài và được tiếp nối bởi những người đã từng chứng kiến những việc Ngài đã làm. Sứ mạng ấy là rao giảng Tin Mừng cứu độ cho mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc.
Chúng ta cũng đã đến với Chúa qua Bí tích Rửa tội và Thánh Thể. Chúng ta cũng đã trở thành Kitô hữu bằng nhiều cách khác nhau: qua sự giới thiệu của một người bạn hay của một người thân, sau một biến cố đáng ghi nhớ trong đời hay sau khi đọc xong một cuốn sách. Và thông thường nhất đó là chúng ta được diễm phúc sinh ra trong một gia đình Kitô hữu. Vấn để thiết yếu của mỗi người chúng ta, đó là đi theo Chúa và ở lại với Ngài. Nghĩa là trở thành môn đệ của Ngài, trở thành người được Ngài mời gọi và sai đi, trở thành người loan báo Tin Mừng về tình thương cứu độ của Thiên Chúa cho mọi người.
Sự gắn bó với Chúa cũng như với lời Ngài, sự lắng nghe để nhận ra ý nghĩa chương trình cứu độ của Chúa trong từng sự kiện, trong gừng biến cố của cuộc sống thường ngay phải là thái độ người môn đệ trung tín của Chúa Giêsu cần phải có.
2. Gặp gỡ Tin Mừng
Tin Mừng là để được loan báo, và chia sẻ cho người khác.
Thực vậy, trong đêm giáng sinh, các thiên thần đã loan báo cho các mục đồng: Này tôi báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại, cũng là Tin Mừng cho toàn dân: Hôm nay Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho anh em trong thành của vua Đavít. Còn đối với các đạo sĩ Phương Đông, con đường dẫn đến Tin Mừng lại là một ngôi sao lạ xuất hiện trên bầu trời.
Thực vậy, có muôn ngàn cách thế và nẻo đường khác nhau để Thiên Chúa hướng dẫn con người nhận ra Tin Mừng, Lời Chúa hôm nay cũng muốn gợi lên cho chúng ta ý tưởng đó.
Gioan Tiền Hô đã gặp Chúa Giêsu và giới thiệu Ngài cho các môn đệ: Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian. Và các môn đệ đã từ giã Gioan là thầy mình, để đi theo Chúa Giêsu và ở lại với Ngài suốt ngày hôm đó. Rồi đến lượt Andrê đã trở về và dẫn anh mình là Simon đến gặp Chúa Giêsu và đã được Ngài đổi tiên cho ông là Kêpha.
Những cuộc gặp gỡ trong Tin Mừng luôn có những diễn tiến như vậy. Một người nào đó gặp Chúa, họ trở về và loan báo cho người khác. Như các mục đồng chăn chiên, như ba nhà đạo sĩ phương Đông, như Andrê với Simon, như Philipphê với Nathanael...
Hoặc nếu không qua trung gian, thì chính Chúa Giêsu lại gặp gỡ con người trong chính cuộc sống của họ: Người thì đang giặt lưới dưới thuyền, kẻ thì đang trầm tư suy nghĩ dưới gốc cây vả, kẻ khác thì đang ngồi ở bàn thu thuế hay đang ở trên cây cao như ông Giakêu...
Thiên Chúa luôn đến với chúng ta qua một trung gian: Trung gian của một người đã gặp Chúa, trung gian của một cuộc sống hay của một biến cố nào đó. Có thể nói: Bao nhiêu cuộc gặp gỡ và biến cố trong cuộc sống là bấy nhiêu dịp để nhận ra Tin Mừng, là bấy nhiêu dấu chỉ mời gọi để gặp gỡ Chúa.
Thánh Phanxicô Xaviê đã nhận ra con đường Chúa muốn ngài đi qua lời nhắc bảo của thánh Ignatio: Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích lợi chi. Thi sĩ Paul Claudel đã nhận ra tiếng Chúa trong tiếng hát của lời kinh Magnificat vào buổi chiều ngày lễ Giáng sinh. Văn sĩ Andrê Frossard cảm nhận được sự hiện hữu của Thiên Chúa qua ánh nến lung linh trên bàn thờ. Đức Hồng Y Lustiger vào năm 14 tuổi, đã nhận ra Đấng Cứu Thế trong một buổi chiều thứ sáu Tuần Thánh. Còn chúng ta thì sao?
Chúng ta có nhận ra tiếng Chúa mời gọi qua những biến cố, qua những sự việc của đời thường hay không? Và hơn thế nữa, liệu bản thân và cuộc đời chúng ta có trở nên là một dấu chỉ cho sự hiện diện và tình thương của Chúa hay không?
3. Tôi đã gặp
Là người đạo gốc, chúng ta vốn thường xuyên đọc kinh xem lễ, nhưng rồi một ngày nào đó chúng ta băn khoăn tự hỏi: Liệu chúng ta đã thực sự gặp gở Chúa hay chưa? Vậy thế nào là gặp gỡ Chúa? Kinh Thánh đã kể lại biết bao nhiêu sự gặp gỡ.
Trong Cựu ước, qua bài đọc một, chúng ta thấy Samuel đã gặp gỡ Chúa ngay từ buổi thiếu thời và đã bước theo tiếng gọi của Ngài trong suốt cuộc đời.
Trong Tân ước, trước tiên là các môn đệ. Các ông đã đi theo Chúa, nhất là khi đã cảm nghiệm được mầu nhiệm Phục Sinh, các ông đã mạnh dạn rao giảng Tin Mừng mặc bao gian truân nguy hiểm trên con đường thực hiện sứ vụ.
Tiếp đến là những người phụ nữ. Chẳng hạn như người đàn bà ngoại tình đã được Chúa che chở bình an trước những kẻ cực đoan định ném đá chị. Hay như Madalena, ngay từ buổi gặp gỡ Chúa đã đoạn tuyệt với cuộc đời tội lỗi để sống xứng đáng với ơn tha thứ chị đã nhận lãnh.
Đặc biệt nhất là thánh Phaolô. Kể từ khi bị ngã ngựa trên đường đi Đamas, ông đã bừng tỉnh. Từ một kẻ say sưa bắt bớ các tín hũu, ông đã trở thành một tông đồ nhiệt thành và xác tín: Đức Kitô sống trong tôi… và không có gì tách tôi ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa. Ông đã cảm nhận mình là chi thể của Đức Kitô, là đền thờ của Thiên Chúa, và trong suốt cuộc đời còn lại ông đã trung thành với ơn gọi của mình, là đem Tin Mừng đến cho dân ngoại.
Trong lịch sử Giáo Hội, sự gặp gỡ làm thay đổi cuộc đời đã được thể hiện qua hình ảnh của thánh Augustinô, thánh Ignatiô và nhiều vị thánh khác. Từ một cuộc sống sa ngã trác táng, họ đã trở nên những con người thánh thiện, nhiệt thành với sự nghiệp Nước Chúa.
Một câu nói của Chúa: Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích lợi chi, đã làm chuyển hướng cả cuộc đời của Phanxicô. Một câu trong Phúc âm: Hãy bán tất cả, làm phúc cho kẻ nghèo rồi đến mà theo Ta, đã thay đổi hẳn con người của Antôn.
Và gần đây, Mẹ Têrêxa thành Calcutta, mẹ đã gặp Chúa nơi những người nghèo khổ mà mẹ đã đem cả cuộc đời mình để phục vụ. Cha Lelotte trong cuốn “Những người trở lại trong thế kỷ 20” ghi lại hơn ba mươi khuôn mặt từ giám mục, linh mục, tu sĩ đến giáo dân và cả những người ngoài Kitô giáo, cha trình bày kinh nghiệm gặp gỡ Chúa một cách độc đáo, riêng biệt của từng người. Và từ ngày ấy cuộc đời của họ đã biến đổi một cách sâu sắc. Nhưng dẫu bởi cách thức nào đi chăng nữa, thì qua lần gặp gỡ đầu tiên ấy, tất cả đều cảm nhận được Chúa một cách rất cụ thể, Ngài thực sự hiện diện mà họ có thể nhìn thấy, có thể trao đổi. Đồng thời cũng họ cảm nhận được tình thương cao cả của Ngài đối với con người qua hình ảnh của Chúa Giêsu, Đấng đã xuống thế, chia sẻ thân phận của con người, chịu mọi khổ nhục và cuối cùng chịu chết trên thập giá để làm chứng cho tình yêu.
Qua sự gặp gỡ yêu thương ấy, con người chỉ có một cách đáp trả duy nhất là thực hiện lời dạy của Ngài: Các con hãy yêu thương nhau như Thày đã yêu thương các con.
Đó là một ơn huệ lớn lao và cũng là một đòi hỏi triệt để của Chúa đối với con người. Dấu chứng của sự gặp gỡ Chúa là một cuộc sống biến đổi tích cực được thể hiện qua sự an bình và tình yêu thương. Và như thế, chúng ta đã thực sự gặp Chúa hay chưa?
4. Giới thiệu Chúa cho anh em mình
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’ của Thiên Phúc)
Nhiều nhóm binh sĩ có vũ trang từ Syrie xâm chiếm đất Israel. Sau khi bắt dân Israel làm tù binh, chúng tàn phá thành phố và làng mạc. Chúng bắt những tù binh này làm việc như những đầy tớ trên đất Syrie. Trong số những người bị bắt, có một bé gái. Người ta không nói tên của cô ta.
Cô trở thành đầy tớ của viên sĩ quan nổi tiếng người Syrie, tên là Naaman. Vua Syrie rất hài lòng về Naaman vì ông là một sĩ quan rất gan dạ. Rủi thay ông vừa mắc bệnh phong.
Một ngày kia, cô tớ gái nói với bà chủ: “Giá mà ông chủ Naamna được gặp tiên tri Elisa, đang sống ở Samaria, thì ngài sẽ chữa cho ông chủ tôi khỏi bệnh”. Nghe vậy, Naaman xin vua Syrie viết thư giới thiệu cho vua Israel. Ông cũng mang theo vải vóc, vàng bạc làm quà tặng.
Khi vua Israel đọc thư, ông rất lo, vì ông nghĩ vua Syrie muốn gây chiến. Nhưng Elisa nghe biết, ông xin nhà vua dể mình chữa bệnh cho Naaman. Elisa không gặp Naaman, nhưng chỉ gởi một lá thư: “Hãy đi tắm trong dòng song Giodan 7 lần và ông sẽ được khỏi”.
Naaman rất tự ái, ông không chịu tắm, nhưng đây tớ khuyên ông cứ làm như lời nhà Tiên tri. Và quả nhiên, Naaman đã được chữa khỏi, da của ông trở nên mịn màng như da đứa trẻ. Naaman dâng cho Elisa quà tặng, nhưng người của Thiên Chúa không nhận, chỉ chúc cho ông “Hãy về bình an”.
Chúng ta đừng bao giờ quên đứa tớ gái nhỏ bé ở đầu câu chuyện, em đã mau mắn giới thiệu tiên tri Elisa cho Naaman. Nếu cô bé giữ im lặng, thì Naaman sẽ không bao giờ được chữa lành.
Hôm nay, Anrê cũng giới thiệu Phêrô em mình cho Đức Giêsu: “chúng tôi đã gặp Đấng Mesia” (Ga 1,41). Rồi dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu.
Dường như mỗi lần Tin Mừng Gioan đề cập đến Anrê thì liền sau đó Anrê lại dẫn một ai đó đến với Đức Giêsu. Anrê đã trở nên nổi tiếng vì ông đã dẫn cậu bé có “năm chiếc bánh và hai con cá” giới thiệu với Đức Giêsu. Để rồi, sau khi cầu nguyện tạ ơn, Người đã biến bữa ăn trưa của cậu bé trở nên bữa ăn tập thể nuôi sống hơn năm ngàn người.
Lần thứ ba, chúng ta gặp lại Anrê lúc Đức Giêsu vào Giêrusalem lần cuối. Có mấy người Hy Lạp đến xin gặp Người. Cũng chính Anrê là người đã giới thiệu họ với Đức Giêsu. Và chắc hẳn đó là điều làm Người hài lòng, vì sau đó Người phán: “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12,32).
Nếu Anrê không giới thiệu Phêrô với Đức Giêsu thì có lẽ chẳng bao giờ có tông đồ Pherô đá tảng của Hội thánh.
Nếu Anrê không giới thiệu cậu bé có “năm chiếc bánh và hai con cá”, thì có lẽ chẳng có phép lạ đầy ngoạn mục hứng khởi nhất trong Thánh Kinh.
Vậy bài học của Anrê là hãy giới thiệu cho mọi người đến với Đức Giêsu. Đó là con đường rao giảng từ người này đến người kia, từng người một. Đức Giêsu rất cần những người giàu tình bạn chân thành, những bước chân mang dấu vết của thân thiện, những lời nói luôn chứa đầy nhiệt huyết, những chứng nhân ra đi kể câu chuyện: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mesia”.
Lạy Chúa, trên trái đất này, chúng con là đôi tay, là tiếng nói, là trái tim của Chúa. Xin cho chúng con trở nên những người nhiệt thành giới thiệu Đức Giêsu cho thế gian. Amen.
5. Hãy đến mà xem – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Vào khoảng năm 1965 về trước, thời bấy giờ chưa có vô tuyến truyền hình, nên mỗi lần có trận giao đấu bóng đá giữa hai đội mạnh, thính giả toàn quốc chỉ được nghe tường thuật về trận đấu qua làn sóng của đài phát thanh.
Thật khó hình dung nổi diễn tiến trận đấu với những pha đi bóng gay cấn, những cú sút ngoạn mục khi chỉ được nghe bằng tai.
Hiện nay, chuyện theo dõi trận đấu qua đài phát thanh đã thuộc về quá khứ vì ưu thế vượt trội của kỹ thuật truyền hình. Nhờ đủ dạng sóng truyền hình hiện đại bao trùm trái đất, người hâm mộ bóng đá từ phần nửa bên nầy địa cầu có thể chứng kiến, như thể tận mắt, từng chi tiết, từng pha đi bóng của những cầu thủ trong những trận đấu diễn ra ở nửa bên kia trái đất.
Thế là từ khi có truyền hình, không ai mê bóng đá lại theo dõi trận đấu qua đài phát thanh nữa. Từ kỹ thuật truyền thanh chuyển qua truyền hình là cả một bước tiến vượt bậc.
* * *
Tiến trình mặc khải cũng trải qua hai chặng đường như thế.
Khởi đầu, Thiên Chúa không trực tiếp tỏ mình cho loài người nhưng chỉ phán dạy qua các ngôn sứ, - như thể qua xướng ngôn viên trên các đài phát thanh - nên chân dung của Thiên Chúa còn rất mờ mịt đối với loài người.
"Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ" (Dt 1,1a).
Tiến sang giai đoạn hai, Thiên Chúa không còn mặc khải Người bằng lời qua trung gian các ngôn sứ nữa, nhưng đã bày tỏ chính Mình qua Con chí ái là Đức Giêsu Kitô.
"Nhưng vào thời sau hết nầy, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử." (Dt 1,1b)
Thế là từ đây, Lời của Thiên Chúa - tức Ngôi Lời - không còn là tiếng nói từ cõi xa xăm vọng lại, nhưng đã mặc lấy một hình hài, một thân xác để cho mọi người không những được nghe tiếng mà còn có thể nhìn ngắm, đụng chạm, tiếp xúc với Ngôi Lời.
"Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta." (Ga 1,14)
"Người là hình ảnh trung thực của Thiên Chúa" (Dt 1,3)
Thế là chương trình mặc khải của Thiên Chúa đã chuyển sang một khúc quanh mới: giai đoạn mặc khải qua hình ảnh, qua chân dung - như kỹ thuật vô tuyến truyền hình hiện nay - đã khai mở. Nhờ đó, nhân loại không những có thể "nghe", mà còn "thấy tận mắt, được chiêm ngưỡng và được chạm đến Lời" của Thiên Chúa là Chúa Giêsu Kitô. (thư IGa 1,1)
* * *
Hãy đến mà xem
Trăm nghe không bằng một thấy. Nghe tường thuật về một trận bóng sao bằng tận mắt xem trận đó, ít nữa qua chiếc TV.
Chính vì thế nên khi Anrê và một môn đệ khác của Gioan Tẩy Giả được giới thiệu cho biết Đức Giêsu là chiên Thiên Chúa, hai ông liền tìm gặp Chúa Giêsu để tìm hiểu Người.
Chúa Giêsu quay lại hỏi: "Các anh tìm ai?". Họ thưa Ngài: "Thưa Thầy, Thầy ở đâu?". Chúa Giêsu đáp: "Hãy đến mà xem".
Hai anh em nầy đến với Chúa Giêsu, ở lại với Người, rồi mới sống gắn bó và trở thành môn đệ của Người.
* * *
Chúa Giêsu mời gọi "hãy đến mà xem", nhưng chúng ta có thể nhìn xem Chúa ở đâu?
Trước hết là trong Kinh Thánh. Thánh Giêrônimô dạy: "Không biết kinh thánh là không biết Chúa Giêsu". Từng trang, từng dòng trong kinh thánh đều hoạ lại chân dung Chúa Giêsu và âm vang lên sứ điệp của Người. Biết bao nhiêu người nhờ thường xuyên nhìn ngắm cuộc đời và lắng nghe lời dạy của Chúa Giêsu trong Tân Ước, dưới sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, đã được diễm phúc cảm nghiệm được Chúa là Đấng tuyệt vời khôn tả.
Dostoievski, đại văn hào trứ danh người Nga ở thế kỷ 19, cũng là ngôi sao sáng trong trong làng văn học thế giới, từng viết nhiều tác phẩm đồ sộ có giá trị vượt thời gian và không gian, thường chiêm ngưỡng Chúa Giêsu trong Tin Mừng nên mới cảm nhận được nét đẹp cao quý tuyệt vời của Chúa Giêsu và đã tuyên xưng Người qua bức thư gửi cho bà Von Vizine. Bức thư nầy thường được gọi là kinh tin kính của Dostoievski: "Đối với tôi, không có gì đẹp đẽ, sâu xa, dễ mến, hợp lý và hoàn hảo cho bằng Đức Kitô, và hơn thế nữa, nếu ai chứng minh với tôi rằng Đức Giêsu ở ngoài chân lý, thì tôi không ngần ngại chọn ở lại với Đức Kitô hơn là chiều theo chân lý".
Ước gì chúng ta thường xuyên "đến mà xem" Chúa Giêsu trong kinh thánh, "ở lại với Người" nơi bí tích thánh thể, để rồi say mê Người như Dostoievski và trở thành môn đệ Người như Anrê và người bạn của ông.
6. Hãy đến mà xem – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Đức Giêsu nói với mấy anh thanh niên: “Hãy đến mà xem”. Tôi tự hỏi, lúc đó Chúa Giêsu là người lang thang không nhà, không cửa, “không có hòn đá gối đầu”, thế mà Người lại gọi họ theo Người. Khi họ hỏi: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu”, Chúa nói: “Hãy đến mà xem”. Xem gì? xem hòn đá gối đầu ư? xem một người cùng khổ ư? Thật là bạo phổi, nếu không phải là vớ vẩn!
Nhưng không, không phải đến xem hòn đá, mà là nhìn kỹ một người sống mạnh mẽ. Không phải xem người cùng khổ, nhưng thấy một tấm lòng cao cả, thương yêu những người cùng khổ.
Xưa cũng như nay, người ta chỉ tin những gì xem bằng mắt, bắt bằng tay. Họ đã nói: Trăm nghe không bằng một thấy, đừng nghe những gì nó nói, phải nhìn kỹ việc nó làm. Khổng Tử cũng dậy môn đệ: “Thị kỳ sở dĩ, quan kỳ sở do, sát kỳ sở an, nhơn yên sưu tai?” – Hãy nhìn kỹ cách họ làm, quan sát do đâu họ làm, cứu xét việc có an lành không? Họ làm có yên vui không? (Luận ngữ II, 10).
Để xác nhận một lý thuyết là chân thực, các nhà khoa học đòi phải được thí nghiệm và kiểm chứng.
Quan sát, suy nghĩ và hành động là phương châm khôn ngoan. Đức Giêsu muốn gọi Gioan và Anrê làm môn đệ, Người muốn họ phải biết sống theo phương châm khôn ngoan ấy, chứ không phải theo Người cách mù quáng.
Sau những lời giới thiệu của vị Tiền Hô, chắc mấy anh thanh niên đó đã thảo luận nhiều về Đức Giêsu: Đấng Chiên Thiên Chúa. Dầu vậy, mấy anh còn phải tiếp xúc trực tiếp với Người. Phải quan sát Người với tất cả trí óc, con tim và ý chí của các anh. Các anh đã thấy Người sống với các anh rất giản dị, chân thành, siêu thoát, hiền hòa khả ái, trong buổi chiều thanh bình êm đềm, thân mật để cho từng lời nói, từng việc làm và nhất là tâm tình của Người như một cuốn phim diễn ra trước khối óc, con tim, chứ không phải chỉ xem bằng mắt, bắt bằng tay của giác quan tầm thường. Lúc đó, Thần khí tình yêu thanh khiết, nồng nàn của Người như men thơm dậy hương đậm đà trong lòng mình. Chân lý cao cả nhiệm mầu của Người như ánh sáng chiếu tỏa rạng ngời trong tâm trí mình. Và sức sống mãnh liệt của Người như máu đào tươi sống dạt dào chảy tràn vào con tim mình. Toàn diện con người các anh đã thấm nhuần tinh thần cao siêu lạ lùng của Người. Mỗi người các anh đã cảm động và vui mừng thốt lên: “Lạy Thầy, con theo ai được! Vì chỉ Thầy mới có lời ban sự sống trường tồn” (Ga. 6, 68).
Các anh đã thành môn đệ nghĩa thiết và chứng nhân trung tín của Đức Giêsu, “vì ngay sáng hôm sau, Anrê đã đi tìm em mình là Simon và nói: Chúng tôi đã gặp Đấng Mesia (tức là Đấng Kitô). Rồi kéo em đến gặp Đức Giêsu. Đức Giêsu nhìn Simon và nói: Anh là Simon, con ông Giona, anh sẽ được gọi là Kêpha, tức là Phêrô”.
Đức Giêsu đã kêu tên Simon thân mật như bạn hữu và đã đổi tên tục Simon thành danh hiệu Phêrô nghĩa là Đá tảng.
Như vậy, bài Tin mừng hôm nay trình bày một đường lối trực tiếp gặp gỡ Chúa, cho ta khám phá thấy ơn Chúa gọi ta để ta quyết tâm theo Chúa.
Lời Chúa hôm nay còn cho ta thấy, trước khi được trực tiếp gặp Chúa, ta cũng cần nhiều trung gian hướng dẫn, giới thiệu cho ta đến với Chúa. Vị tiền hô đã giới thiệu cho Gioan và Anrê đến theo Chúa.
Rồi Anrê lại giới thiệu cho Simon được gặp Chúa. Ngôn sứ Samuen đã kể lại kinh nghiệm đó trong bài đọc 1. Khi còn nhỏ, Samuen đã sống với thầy tư tế Hêli trong đền thờ, được thầy huấn luyện và dạy dỗ về Thiên Chúa, Samuen đã trở thành cậu bé rất đạo đức tốt lành. Cậu ngủ trong đền thờ, bên hòm bia Thiên Chúa, được Chúa gọi bốn lần, cậu đều mau mắn thức dậy thưa: Dạ, con đây và lanh lẹ chạy đến thầy Hêli ba lần vì tưởng thầy gọi. Lần thứ bốn Chúa gọi, cậu vẫn không mê ngủ, không cựa quậy, tỉnh dậy ngay, kính cẩn thưa như thầy Hêli dạy: “Lạy Chúa, xin Chúa phán vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe”.
Ước chi những cậu bé của chúng ta được như Samuen, đồng thời chúng ta phải nỗ lực huấn luyện con em mình biết luôn luôn kính cẩn cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin Chúa phán vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe”.
Biết lắng nghe lời cha mẹ, lắng nghe lời linh mục, lắng nghe giáo lý, lắng nghe lời Chúa, mới được Chúa đến mời gọi: “Hãy đến mà xem”.
Bài đọc hai, thánh Phaolô đã hướng dẫn tín hữu giáo đoàn Côrintô khám phá và gặp gỡ Chúa trong chính bản thân mình. Nhưng điều thiết yếu là thân xác ta không được dùng để gian dâm, mà chỉ để phụng sự Chúa, lý do là Chúa làm chủ bản thân ta, đã mua chuộc ta bằng giá rất đắt. Chỉ như thế, ta mới khám phá thấy bản thân ta là chi thể của Đức Kitô, là đền thờ Chúa Thánh Thần ngự, khiến ta được kết hợp với Chúa nên một tinh thần, cho ta xứng đáng tôn vinh Thiên Chúa, và được sống lại với Đức Kitô.
Lạy Chúa, ơn kêu gọi chúng con thật cao cả quý giá vô cùng. Xin cho chúng con biết đến mà xem Chúa trong bản thân chúng con, xem Chúa trong mọi người, xem Chúa trong chính Đấng Mesia, chúng con mới mong khám phá ra ơn Chúa gọi chúng con. Đến gặp gỡ Chúa, sống nghĩa thiết với Chúa, hiệp thông sự sống dồi dào của Chúa và được chia sẻ sứ mạng cứu độ muôn dân của Chúa.
7. "Hãy quên đi cái tôi..." – Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Có một bài hát sinh hoạt quen thuộc vẫn mời gọi chúng ta: "Hãy quên đi cái tôi để mang Chúa đi vào đời". Xem ra để mang Chúa vào đời phải quên đi cái tôi của riêng mình để sống cho Thiên Chúa. Xem ra để mang Chúa vào đời phải từ bỏ tham vọng của cái tôi ích kỷ để Chúa được lớn lên trong đời sống chứng nhân của chúng ta. Vì ở đời ai cũng thích danh vọng. Ai cũng mong cho mình được nổi tiếng, được trở thành ân nhân của xã hội. Xem ra từ thích danh vọng đến hám danh hám lợi thật gần, gần đến nỗi nhiều người đã trơ trẽn nhận phần vinh quang về mình, cho dù vinh quang đó không do công của mình.
Ngày nay ai cũng sợ bệnh thành tích. Vì nó là nguyên nhân dẫn đến ham danh hão huyền. Vì nó là nguyên nhân dẫn đến biết bao tiêu cực bởi sự gian dối, lường gạt. Những con người ham danh thường là sống giả dối, thiếu chân thật. Những con người ham danh thường tìm vinh quang về mình. Thích được tán thưởng. Thích được biết ơn. Nhưng đôi khi họ chỉ là một loại Lý Thông cướp công Thạch Sanh như trong truyện dân gian Việt Nam.
Có một nhà truyền giáo tâm sự rằng: ngài đã từng truyền giáo tại Đông Timor. Đó là một đất nước nghèo nàn và lạc hậu. Người dân còn thiếu rất nhiều phương tiện tối thiểu của cuộc sống. Ngài đã vận động rất nhiều các cá nhân và tổ chức từ thiện ở mọi nơi để giúp đỡ cho người dân Đông Timor. Nhiều nơi hưởng ứng và nhờ đó ngài đã có rất nhiều tặng phẩm để tặng cho người nghèo. Tự nhiên ngài được người dân kính nể, yêu mến và biết ơn. Thế nhưng, ngài lại mắc cở khi được người đời ca tụng. Vì ngài biết rất rõ, ngài chỉ là kẻ phân phát, là trung gian chứ không phải là chủ nhân. Ngài chẳng có chỉ ngoài đôi tay để đón nhận và trao ban. Ngài không có quyền nhận cái không phải của mình. Vì tiền bạc, của cải là của những nhà hảo tâm trao cho ngài để ngài trao đến cho anh em nghèo khó. Từ đó, ngài đã rút ra kinh nghiệm rằng: cái khó của người làm công tác từ thiện là làm sao đửng nhận mình là người ban phát, đừng tưởng rằng những tặng phẩm đó là của mình cho người nghèo. Hãy khiêm tốn đừng nhận phần đó về mình là những lời khen, những lới tán dương... Hãy biết cho đi cả danh dự của mình, vinh quang của mình. Hãy tự biết mình chỉ là tôi tớ hèn mọn được Chúa sử dụng mang lại niềm vui cho những anh em nghèo khó.
Đó cũng là cung cách của thánh Gioan Baotixita. Ngài luôn sống khiêm tốn trước mặt mọi người. Ngài đã từng không dám nhận phần vinh dự về mình, khi ngài nói: "Có Đấng đến sau tôi. Ngài cao trọng hơn tôi. Tôi không đáng cởi dây giầy cho Người". Ngài đã từng mong ước cho đời sống chứng nhân của ngài luôn "nhỏ bé để Chúa được lớn lên". Ngài chỉ muốn những việc ngài làm sẽ dẫn người khác đến với Chúa. Ngài muốn dùng cuộc đời chứng nhân của mình để tôn vinh Thiên Chúa.
Hôm nay, ngài cũng sẵn sàng để các môn đệ của mình đến với Chúa. Ngài không dám giữ các môn đệ cho riêng mình. Ngài đã giới thiệu cho các môn đệ về danh tính của Đấng Messia. Đây mới chính là Chiên Thiên Chúa. Đây mới xứng đáng là Thầy mà các ngươi cần đi theo. Ngài sẵn lòng để các môn đệ ra đi. Ngài biết phận mình chỉ là kẻ dọn đường cho Đấng Cứu Tinh nhân trần.
Ước gì ở đời có nhiều tâm hồn quảng đại sẵn lòng dấn thân làm chứng cho tin mừng của Chúa nhưng vẫn luôn khiêm tốn và ẩn mình đi. Dấn thân một cách vô vị lợi. Dấn thân một cách quên mình. Dấn thân để tôn vinh Thiên Chúa, chứ không tôn vinh mình. Dấn thân để làm vinh quang Thiên Chúa, chứ không nhằm rạng danh mình. Dấn thân để mang anh em đến với Chúa, để tạ ơn và chúc tụng Thiên Chúa, chứ không phải đến với mình để tâng bốc tán dương. Ước gì mỗi người chúng ta luôn có lòng quảng đại để cho đi cái riêng của mình để làm giầu có cho Thiên Chúa, như Gioan đã cho các môn đệ đến với Thầy Giêsu, như Anre đã mang em mình là Simon đến với Chúa. Ước gì chúng ta luôn nhỏ bé, khiêm tốn, đừng đề cao mình quá đáng, đừng tìm cách tán dương mình mù quáng. Hãy để những công việc mình làm cho danh Chúa được cả sáng.
Lạy Chúa, ở đời ai cũng thích được tán dương, được khen thưởng, được đề cao giữa mọi người. Người đời thường đua nhau danh vọng. Chính vì vậy mà cuộc đời không thiếu những thị phi, những bất công... Xin cho chúng con luôn khiêm tốn, bé nhỏ để Chúa được lớn lên trong cuộc đời chúng con. Amen.
8. Nghề mai mối
(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
Chuyện cưới xin ngày xưa ở Việt Nam thường lệ thuộc vào ông mai bà mối. Ông mai bà mối được xem là một nghề. Khi nhà trai muốn kiếm vợ cho con. Họ cần một bà mai để kiếm vợ cho con. Họ nhờ vả bà mai kiếm cho họ một cô con dâu vừa đẹp vừa ngoan. Có khi gia đình nào có con gái đến tuổi cập kê kiếm chồng không ra, hay gọi nôm na là ế chồng thì cũng nhờ đến bà mai. Sở trường nổi bật của bà mai là phải thật dẻo mồm dẻo miệng, nói dở thành hay, mới hy vọng kết mối tơ duyện cho đôi vợ chồng.
Điều hay nơi các bà mai mối thường đóng vai trò con thoi khiêm nhường. Nhiệm vụ của họ chỉ là giới thiệu hai gia đình quen biết nhau, đốc thúc gặp gỡ để hai họ đi đến việc thăm viếng làm quen rồi đề nghị đám hỏi, đám cưới...
Theo thời gian, với cuộc sống hiện đại, khi các mối quan hệ ngày càng mở rộng, toàn cầu, con người sẽ dễ dàng tìm được bạn đời ưng ý, song thực tế, chuyện mai mối vẫn là điều đang diễn ra hàng ngày, chỉ có điều ở hình thức khác, hiện tượng khác hơn và ông tơ bà mối cũng khác hơn ngày xưa.
Có một người bạn tâm sự: “Hôm vừa rồi, mình vừa giới thiệu cô bạn thân với anh bạn đồng nghiệp. Tưởng chỉ làm bạn, ai dè thành đôi đấy. Cũng khá đẹp đôi với nhau. Mà mình cũng mát tay thật. Đây là đôi thứ 3 đấy. Cứ không ngờ mà lại thành thật. Hai đôi trước cưới nhau rồi. Mà toàn là bạn thân thiết của nhau cả. Cũng thấy vui vui vì đã làm được điều có ích”.
Sự khác biệt của ông tơ bà mối ngày nay không còn là một nghề nữa, nhưng nó lại đa dạng nơi mọi thành phần. Có thể là một người bạn, người anh, người chị, thậm chí là một chiếc điện thoại, máy tính cũng thành bà mối tình duyên.
Tình yêu Thiên Chúa đến với con người cũng cần ông mai bà mối. Thiên Chúa cần một ai đó để giới thiệu về tình yêu Chúa cho con người. Thiên Chúa cần một bà mối nói thật hay, sống thật tốt để giới thiệu Chúa cho anh em của mình. Thiên Chúa cần chúng ta giới thiệu Chúa cho anh em lương dân đang sống bên cạnh mình. Hãy nói về tình yêu của Chúa. Hãy mạnh dạn giới thiệu Chúa đến cho bạn bè, cho đồng nghiệp và cho anh em của mình.
Ngày xưa là thời các nhà truyền giáo làm nghề giới thiệu Chúa, hôm nay không còn các nhà truyền giáo chuyên biệt mà là từng người chúng ta. Mỗi người phải có bổn phận làm ông mai bà mối cho anh em, bè bạn của mình.
Thánh Gioan Tẩy Giả cũng từng là ông mai bà mối cho Đấng Cứu Thế. Gioan đã giới thiệu Chúa cho hàng ngàn người đang đứng bên ông. Ông tận dụng thời cơ để nói về Chúa cho các môn đệ của mình, cho bà con láng giềng của mình, và cho cả dân tộc của ông.
Thiên Chúa là Đấng quyền năng, Ngài có thể tự tỏ mình ra cho nhân loại. Ngài không cần sự trợ giúp của con người. Thế nhưng, Ngài đã không tự biểu dương mình. Ngài cần người giới thiệu. Ngài muốn con người là nhịp cầu cho Ngài đến với nhân loại. Nếu con người cảm nghiệm tình yêu ngọt ngào từ Ngài thì hãy giới thiệu tình yêu ấy cho nhiều người khác. Nếu con người cảm thấy tình yêu quan phòng kỳ diệu của Ngài thì hãy tuyên xưng Ngài cho thế trần. Đây là bổn phận của lòng biết ơn. Đây là cách chúng ta tỏ bày lòng biết ơn của mình với Đấng tạo thành khi đã nhận ơn của Ngài.
Thế nên, , không phải chỉ Gioan mới được Chúa mời gọi làm người “mai mối” cho Ngài đến với nhân loại. Không phải chỉ Gioan mới có khả năng làm chứng cho Thiên Chúa, mà tất cả những ai mang danh kitô hữu. Qua bí tích rửa tội đều được mời gọi làm chứng cho Chúa. Làm chứng bằng lời nói và bằng cả hành động. Hãy mạnh dạn nói về Chúa. Hãy chia sẻ niềm vui làm con Chúa cho tha nhân. Nhất là hãy sống một đời nhân chứng khi biết nói không với tội lỗi, khi biết vượt lên những bon chen tầm thường để chọn Chúa làm gia nghiệp. Và chắc chắn điều mà chúng ta có thể thuyết phục tha nhân tin theo Chúa là hết mình sống vì Tin mừng qua giới luật yêu thương.
Ước gì chúng ta biết noi gương bắt chước thánh Gioan luôn nói về Chúa trong mọi hoàn cảnh. Trong hoang địa hay đường phố. Nơi người thân hay người xa lạ. Hãy tận dụng mọi hoàn cảnh Chúa ban để làm chứng nhân cho tình yêu của Chúa. Amen.
9. Bước theo Đức Kitô trong cuộc sống hôm nay
(Suy niệm của JB. Nguyễn Quốc Tuấn)
Cuộc sống hôm nay đang đặt ra cho người Kitô hữu rất nhiều chọn lựa: chọn lựa giữa niềm tin vĩnh cửu với sự hấp dẫn kỳ thú của những thành tựu vĩ đại do nền khoa học kỹ thuật tiên tiến mang lại, giữa hành vi buông thả, tự do quá trớn với thái độ đúng mực theo nền tảng luân lý truyền thống, nhất là sự cân nhắc chọn lựa giữa các “thần tượng” trần thế với lời mời gọi lý tưởng đến từ thập giá Đức Kitô… Dưới ánh sáng Lời Chúa, chúng ta bắt gặp được câu trả lời thỏa đáng cho những chọn lựa ấy. Tin mừng Ga 1, 35 – 42 đã gợi lên cho chúng ta kinh nghiệm đáp trả đích thực của người môn đệ Chúa trước lời mời gọi của Đức Kitô.
1. Tiếng gọi từ thập giá
Gioan Tiền hô đã không giới thiệu Đức Giêsu “với hai người trong nhóm môn đệ” như là vị vua hùng dũng sẽ đem vinh quang cho toàn cõi Israel ở phương diện trần thế, nhưng “là Chiên Thiên Chúa” (Ga 1, 36b). Khi nghe biết tước hiệu của Đấng đang “đi ngang qua” là “Chiên Thiên Chúa”, chắc hẳn hai môn đệ của Gioan (Anrê và một môn đệ khác) không khỏi sững sờ và kinh ngạc về vai trò và vị thế của Đức Giêsu trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Lời giới thiệu của Gioan mở ra bước ngoặt trọng đại có liên quan đến sứ vụ của các ông và toàn nhân loại. Cũng chính trong thời điểm ấy, hai môn đệ của Gioan đã lắng nghe “tiếng gọi từ phía bên trong”, nhắc bảo các ông hãy bước theo Đấng cứu độ đích thật, là “Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”, “Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần” (Ga 1, 33b). Nghiệm thấu điều này, hai môn đệ “liền đi theo Đức Giêsu” với tất cả niềm tín thác và hy vọng về giá máu cứu độ của “Chiên Thiên Chúa”. Hành trình sứ vụ trước mắt các ông là chặng đường đau khổ để minh chứng cho sự chọn lựa đúng đắn của mình vào thập giá Đức Kitô. Với tất cả tình yêu tận hiến, hai môn đệ của Gioan đã trở thành những môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu.
Tiếng gọi từ thập giá vẫn vang vọng trong tâm thức của người Kitô hữu hôm nay và với hết thảy những ai đang hướng chiều về Đấng là “Chiên Thiên Chúa” đang “đi ngang qua” đời họ với bao nỗi niềm buồn vui, khổ đau, hạnh phúc… Có khi, dường như ta đã tỏ ra e sợ trước những khổ đau đến từ thập giá. Có lúc, người mang danh kitô hữu lại nhát đảm, thậm chí khước từ, chạy xa khỏi mối dây thông hiệp với cuộc khổ nạn, phục sinh của “Chiên Thiên Chúa” trước những đắng cay, nghiệt ngã của cuộc lữ lành đức tin. Giữa bộn bề, ngổn ngang của bao định hướng, lựa chọn và những áp lực, cám dỗ của lối sống hình thức, tiếng gọi từ thập giá nhiều khi bị chìm lắng và có nguy cơ tan biến trong tâm khảm chúng ta…Hệ quả là, ta phải đứng giữa trăm chiều do dự, lần mò giữa mục tiêu tối hậu với những phương tiện tạm thời, làm cản lối về vinh quang đích thực chỉ có thể tìm thấy nơi thập giá Đức Kitô.
Thái độ đáp trả của hai môn đệ mời gọi ta hãy dứt khoát, can đảm bước ra khỏi lối mờ tối của những lựa chọn và hướng thắng về phía thập giá, ở đó, “Chiên Thiên Chúa” là mẫu hình lý tưởng nhất cho đời ta. Vì chỉ nơi “Chiên Thiên Chúa”, ta mới được biến đổi trong tiến trình hoán cải nội tâm thực sự, nhờ hiệu quả “từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận từ ơn này đến ơn khác” (Ga 1, 16).
2. Sống với Đức Kitô
Bước theo Đức Kitô, cũng có nghĩa là chúng ta biết đáp trả cách nhiệt thành và kiên trung trước tiếng gọi từ thập giá. Như hai môn đệ của Gioan, sau khi đã nghe Gioan giới thiệu Đấng “là Chiên Thiên Chúa”, hai ông đã không hề do dự nhưng đã hoàn toàn dứt bỏ lối cũ và nhất mực bước đi theo Người, để sống với Người. Câu hỏi của các ông, “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?” (Ga 1, 38b), hàm ẩn niềm khát khao kiếm tìm tận căn thân thế và hành động yêu thương của “Chiên Thiên Chúa” khi Người cứu độ nhân loại. Được tình yêu cứu độ thúc bách, các ông đã “đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người” (Ga 1, 39b). Để từ đây, “hai người trong nhóm môn đệ” của Gioan có thể thông dự vào đời sống thần nhiệm sâu xa và sung mãn của Đức Kitô, nhờ lòng tin và tình yêu tận hiến cho vinh quang thập giá.
Đời sống của người kitô hữu là một tiến trình bền bỉ, liên tục kết hiệp mật thiết và sinh động với sự sống của Đức Kitô. Dấu chứng cho sự kết hiệp này được biểu tỏ qua thái độ hy sinh trao hiến của chúng ta như hệ quả do bởi giá máu cứu chuộc của Con Chiên Thiên Chúa. Dù phải đối diện với những chọn lựa đầy khó khăn, người tông đồ của Đức Kitô hôm nay cũng được mời gọi đáp trả tiếng Chúa qua hành động kiếm tìm và “ở lại” trong tình yêu của Người.
Sống với Đức Kitô là cảm thông, sớt chia và làm triển nở tình yêu cứu độ của Người. Hôm nay, ta không thể “đến xem chỗ Người ở” cách thể lý, nhưng mỗi người chúng ta là thành viên chính thức, được hạnh phúc thông dự vào “Ngôi Nhà” Giáo hội do Đức Kitô thiết lập nên, là chính Nhiệm Thể của Người. Do đó, khi ta chu toàn sứ vụ của một chi thể ngay giữa lòng Giáo hội thì ta cũng đồng thời được kết hiệp với sự sống trọn hảo của Đức Kitô.
Sống với Đức Kitô, là tháp hiệp vào trong từng hơi thở, trong ánh mắt yêu thương, trong mỗi cử chỉ, hành vi trao hiến của Người. Tình yêu của Đấng “là Chiên Thiên Chúa” sẽ hiển trị khi ta biết mở rộng cõi lòng để đón nhận và đỡ nâng biết bao phận người đang bị vùi dập giữa những khổ đau của kiếp nhân sinh. Như Đức Kitô, ta hãy dõi ánh mắt yêu thương về phía hận thù và hãy nói lời thứ tha được khởi phát từ con tim dạt dào Đức ái trong ta. Như Đức Kitô, ta hãy cúi xuống và vực dậy nhân loại hôm nay đang cố rời xa những chuẩn mực nền tảng của Tin Mừng.
Ta hãy “ở lại” với Đức Kitô trong nhiệm tích Thánh Thể, để được thông truyền sự sống và tình yêu tuyệt hảo, nhờ đó, ta có được sức mạnh thần linh để sống chứng nhân cho Người trong cuộc sống hôm nay.
3. Chứng nhân cho Đức Kitô
Theo lời mời gọi của Đức Giêsu, Anrê và người môn đệ ẩn danh không chỉ “đến xem” và “ở lại với Người ngày hôm ấy” (Ga 1, 39b), nhưng các ông đã báo tin vui cho Si-mon và những người khác: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a” (Ga 1, 41b). Như vậy, được sống với Đức Giêsu dù chỉ trong khoảng khắc ngắn ngủi của buổi đầu gặp gỡ, các môn đệ đầu tiên đã thấu cảm gương mặt đích thực của “Chiên Thiên Chúa” như lời giới thiệu của Gioan. Các ngài đã được biến đổi thành những tông đồ thực thụ nhờ được “ở lại” trong tình yêu của Đức Kitô. Tình yêu ấy thúc bách các ngài tiến xa hơn trên hành trình sứ vụ giới thiệu “Chiên Thiên Chúa” cho muôn người, dẫu phải trả giá bằng chính mạng sống của mình.
Bước theo Đức Kitô trong cuộc sống hôm nay, chúng ta cũng được mời gọi trở nên chứng nhân trung thành của Người trước một nhân loại đang tỏ ra lãnh đạm với chân lý và mục tiêu tối hậu. Trong bối cảnh ấy, tiếng gọi từ thập giá vẫn không ngừng âm vọng trong cõi sâu thẳm của con người, kêu mời sự dấn thân quả cảm của những tâm hồn thiện chí cho sự sống và tình yêu của Đức Kitô được trở nên dũng khí linh nhiệm nhằm cảm hóa và biến đổi thế giới này.
Các môn đệ đầu tiên chỉ có thể giới thiệu Đức Kitô cho những người khác sau khi các ông đã “đi theo”, đã “đến xem” và “ở lại” với Người. Chúng ta chỉ có thể trở nên chứng nhân mạnh bạo, can trường của Đức Kitô khi ta đã sống kinh nghiệm thông dự vào tình yêu thập giá cách trọn hảo.
10. Ơn gọi – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Thiên Chúa có chương trình cho mỗi người; tuy nhiên nếu ai không đáp trả tiếng gọi của Ngài, thì Thiên Chúa vẫn yêu thương và tiếp tục mời gọi họ theo chương trình yêu thương của Ngài. Thiên Chúa luôn mong muốn và mời gọi mỗi người sống hạnh phúc, không chỉ ở đời sau nhưng ngay đời hiện tại này nữa.
1) Chúa gọi Samuel
Samuel là người con được sinh ra sau khi bà Anna, một phụ nữ hiếm muộn, cầu khẩn Đức Chúa. Người mẹ đã cầu xin Thiên Chúa ban cho mình người con, bà cầu nguyện khẩn thiết đến độ thầy tư tế Hêli tưởng bà say rượu nói nhảm. Sau khi nghe bà trình bày, thầy Hêli chúc lành cho bà, và sau đó bà sinh hạ Samuel. Bà mẹ này đã dâng người con quý cho Thiên Chúa, để Samuel được phục vụ trong nhà Thiên Chúa. Bà Anna nhận ra rằng, tuy Samuel là con bà, nhưng Samuel cũng là người thuộc về Thiên Chúa, là người của Thiên Chúa. Người hiếm muộn dễ nhận ra con cái là quà tặng của Thiên Chúa; họ thường trân trọng và quý món quà Thiên Chúa ban này cách đặc biệt.
Thiên Chúa gọi Samuel. Đầu tiên Samuel cũng tưởng đó chỉ là lời gọi của người phàm. Samuel chỉ nhận ra Chúa gọi mình khi thầy Eli dạy cho cậu biết. Phải chăng tiếng Chúa và tiếng con người cũng có những nét giống nhau, và chỉ con người thân quen với Thiên Chúa hay có kinh nghiệm với Thiên Chúa mới dễ dàng nhận ra? Con người là thể xác và tinh thần, nên để nghe được tiếng Chúa, con người cần nhận ra điều gì đó và xác tín rằng điều này đến từ Thiên Chúa. Thánh Yuse qua giấc mộng, nhận ra đó là tiếng Chúa. Giấc mộng, có thể là trung gian Thiên Chúa dùng để tỏ lộ Ý của Ngài cho con người. Đức Maria được thiên thần truyền tin. Có thể thiên thần lấy hình một người hiện ra cho Đức Maria và nói với Mẹ, nhưng cũng có thể Mẹ Maria nhận ra Ý Thiên Chúa qua những ý tưởng hiện ra trong đầu Mẹ.
Thiên Chúa có chương trình cho Samuel. Ngài có chương trình cho Yuse và Maria. Thiên Chúa có chương trình cho Phaolô (1Cor.1, 1). Thiên Chúa cũng có chương trình cho mỗi người chúng ta, vì Thiên Chúa yêu thương mỗi người chúng ta như yêu chính Đức Yêsu (Ga.17, 23. 20; 15, 9.13). Thiên Chúa muốn chúng ta thuộc về Thiên Chúa, và sống hạnh phúc nhờ và trong Đức Yêsu Kitô (Eph.1, 3tt).
2) Thân xác anh em là chi thể của Chúa Kitô
Con người là tạo vật vô cùng quý đối với Thiên Chúa, đến độ Thiên Chúa đã ban chính Con Một Ngài cho thế gian, để những ai tin vào Con Ngài thì được cứu (Ga.3, 16). Không phải những ai tin vào Con Ngài thì mới được cứu, nhưng những ai tin vào Con Ngài thì qua việc tin vào Con Ngài họ nhận ra sự thật về Thiên Chúa và về chính con người, và qua đó họ được giải phóng (Ga.8, 32) và được cứu.
Cả thân xác con người cũng là quý giá đối với Thiên Chúa. Thân xác của Đức Yêsu đã phục sinh, và cũng vậy thân xác của mỗi người chúng ta. Một số người tưởng rằng chết là hết, hoặc thân xác bị tiêu hủy sẽ vĩnh viễn không còn gì nữa; nhưng dựa vào biến cố Đức Yêsu phục sinh từ cõi chết, và theo sự hiểu biết của thánh Phaolô (1Cor.15), thân xác chúng ta sẽ phục sinh cho dù hiện tại chúng ta thấy thân xác của con người bị tiêu hủy với thời gian. Thân xác chúng ta là đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Mỗi Kitô-hữu không chỉ phải sống sao cho tâm hồn được tinh tuyền để xứng đáng là đền thờ của Thiên Chúa, nhưng Kitô-hữu còn phải sống sao để thân xác cũng là thánh và thuộc về Thiên Chúa nữa. Với Kitô-hữu, không chỉ linh hồn là quý nhưng cả thân xác nữa.
3) Ơn gọi
Cuối tuần thứ hai trong cuộc Linh Thao, thánh Ynhã Loyola đề nghị người làm Linh Thao chọn lựa bậc sống. Với thánh Ynhã, chọn lựa bậc sống gia đình hay “dâng hiến” không phải là mình thích bậc sống nào thì mình chọn bậc sống đó, nhưng là nhận ra Thiên Chúa muốn mình sống bậc sống nào thì mình sẽ “chọn” bậc sống đó.
Xác tín rằng Thiên Chúa yêu thương mỗi người. Nên nếu Thiên Chúa muốn ta sống ở bậc sống nào, thì bậc sống đó (dù gia đình hay dâng hiến) sẽ giúp ta triển nở và hạnh phúc nhất. Như vậy, để nhận ra Thiên Chúa muốn mình sống ở bậc sống nào, hãy xem bậc sống nào làm mình triển nở và hạnh phúc thật. Đời sống gia đình không kém giá trị hơn đời sống dâng hiến. Đời sống nào giúp tôi sống triển nở và hạnh phúc, thì đó là bậc sống Thiên Chúa muốn tôi sống, và đó là bậc sống tốt nhất đối với tôi. Nếu Chúa muốn tôi sống đời gia đình, thì bậc sống gia đình là tốt nhất đối với tôi; nếu Chúa muốn tôi sống đời “dâng hiến,” thì đời sống dâng hiến là đời sống tốt nhất đối với tôi, vì nơi bậc sống này tôi được triển nở và hạnh phúc, và như vậy Thiên Chúa được tôn vinh nơi tôi.
Các tông đồ và thánh Phaolô, một khi biết Đức Yêsu, đã dâng hiến cả cuộc đời để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân. Các tu sĩ trong dòng lịch sử, đã hiến thân trọn vẹn cho Thiên Chúa và con người. Những người có gia đình muốn phục vụ Thiên Chúa cách đặc biệt, chẳng hạn nơi trách vụ phó tế vĩnh viễn, cần có sự đồng ý của người phối ngẫu, vì các vị này phải có trách nhiệm đầu tiên với gia đình, nên để có thời gian và sức lực phục vụ tha nhân, cần sự đồng ý của người phối ngẫu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Xin bạn cho biết những nét đẹp của đời sống gia đình.
2. Xin bạn liệt kê những nét đẹp của đời sống dâng hiến (đời sống tu trì).
3. Theo ý riêng của bạn, đời sống nào giúp bạn triển nở và hạnh phúc hơn?
11. Chúng tôi đã gặp Đấng Cứu Thế
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)
Nhìn nhận khả năng của người khác đó là một điều mà ít ai trong chúng ta cũng muốn. Việt Nam chúng ta thường nói: "Mỗi người có một ông quan trong bụng". Ai cũng muốn mình hơn kẻ khác, nổi hơn và trội hơn kẻ khác nhiều, ít ai chịu lép vế, chịu thua kẻ khác. Tự cao tự đại, ưa chỉ tay năm ngón, đó là thói thường của con người.
Kiêu ngạo là tội đứng đầu trong bảy mối tội đầu. Có lẽ người ta thấy tội kiêu ngạo là đầu dây mối nhợ sinh ra mọi tội lỗi khác. Tự đưa mình lên cao, không xem ai ra gì và theo như câu nói dân gian của người Việt Nam: "Coi trời bằng vung" hay "coi trời bằng ngọn rau má" là thế. Tâm trạng đó làm cho con người khó chấp nhận nhau về khả năng, về tài khiếu hơn thua.
Bài Tin Mừng hôm nay nói việc thánh Gioan Tẩy Giả cũng có những môn đệ tìm theo học hỏi và muốn tôn ông làm thầy, ít ra là phải hai hoặc ba người, vì sách ghi rằng: "Gioan đang đứng và nói chuyện với hai trong nhóm môn đệ của ông", chứng tỏ là Gioan cũng có nhiều môn đệ khác nữa ngoài hai người đó.
Và tâm trạng chung khi một người có nhiều môn đệ đi theo thì không muốn một môn đệ nào của mình bỏ mình đi mà theo một người khác. Lý do đó có thể là mình kém tài giỏi, đạo đức hơn người kia chăng? Sự việc đó phải chăng đã làm mất sĩ diện cho mình? Vậy mà chúng ta thấy Gioan không nghĩ đến điều đó, ông vẫn chỉ cho các môn đệ của mình về Chúa Giêsu: "Đây là Chiên Thiên Chúa". Hai môn đệ của Gioan nghe nói liền đi theo Chúa Giêsu nhưng Gioan cũng không ngăn cản hai môn đệ mình, vì ông đã thấy sự thật nơi Chúa Giêsu là Con Thên Chúa, là Đấng ông loan báo, Đấng cứu chuộc tội lỗi nhân loại. Ông không mê hoặc người khác để cho họ nhắm mắt theo ông nhưng ông chỉ cho người khác thấy sự thật, thấy chân lý, thấy Đấng Cứu Thế.
Mỗi người trong chúng ta đôi lúc cũng có thái độ ngược hẳn lại: theo Chúa, tuân giữ luật Chúa, đôi lúc chúng ta muốn người khác nhìn vào và khen chúng ta là ngưòi đàng hoàng, tốt lành, đạo đức và chúng ta hãnh diện vì điều đó. Như thế chúng ta đã che mất hình ảnh của Thiên Chúa trong chúng ta, người khác tìm đến chúng ta chứ không phải họ tìm đến với Thiên Chúa qua sự tốt lành đạo đức đó. Mọi lời khen thưởng, ca ngợi thay vì dành riêng cho Thiên Chúa, người ta lại dành hết cho chính mình. Bài học của Gioan Tẩy Giả hôm nay là một bài học thực tế cho mỗi người trong chúng ta.
Khi hai môn đệ Gioan đi theo Chúa Giêsu. Anrê sau khi đã biết Chúa Giêsu là Đấng Kitô, là Đấng Messia thì ông giới thiệu với anh mình là Simon Phêrô đến gặp Chúa Giêsu. Anrê nói với anh mình: "Chúng tôi đã gặp Đấng Messia, nghĩa là Đấng Kitô" và rồi ông đã dẫn Simon Phêrô đến với Chúa Giêsu.
Mỗi người trong chúng ta khi biết được Thiên Chúa, biết được ơn cứu rỗi của Đức Kitô, chúng ta có can đảm mạnh dạn giới thiệu Ngài với mọi người chăng? Chúa không đòi hết thảy trong mọi người chúng ta phải từ bỏ cha mẹ, anh em và mọi sự để theo Ngài. Nhưng Ngài đòi mỗi người trong chúng ta tùy khả năng, tùy môi trường nơi chúng ta đang sống mà giới thiệu Chúa cho mọi người biết. Chúa không đòi hỏi chúng ta phải rao giảng, phải nói về Chúa thật hay như các nhà hùng biện để lôi cuốn người khác. Nhưng Ngài chỉ mong ước trong cách sống đạo của mỗi người chúng ta, như là lời mời gọi tha thiết mọi người tìm đến Thiên Chúa tình thương. Mỗi cử chỉ, mỗi lời nói, mỗi hành động của chúng ta đều thể hiện lời Chúa trong Phúc Âm như thánh Phaolô đã thúc nhắc chúng ta: "Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi".
Có khi nào chúng ta làm một việc gì mà chúng ta suy nghĩ và thành thực hỏi Chúa: Chúa muốn con làm gì bây giờ đây? Hay ý Chúa muốn con thực hiện như thế nào? Có lẽ chưa hoặc ít khi chúng ta hỏi Chúa Giêsu như vậy. Nếu chúng ta thực sự yêu Chúa, Chúa luôn hiện diện trong chúng ta và chúng ta luôn luôn muốn làm đẹp lòng Chúa, như một người muốn làm đẹp lòng người yêu của mình thì khi nào họ cũng tìm hiểu xem người yêu của họ thích gì rồi mua một món quà tặng đúng như ý người yêu mong ước.
Chúng ta yêu Chúa, chúng ta cũng phải tìm xem Chúa yêu thích nhất điều gì và chúng ta phải cố gắng lo làm đẹp lòng Ngài theo như điều Ngài mong muốn. Thật vậy, món quà đó không gì khác hơn là món quà của đức "Mến Chúa và Yêu Người".
Lạy Chúa, xin cho mỗi người trong chúng con biết sống khiêm nhượng như Gioan Tẩy Giả. Xin Chúa cho mỗi người trong chúng con biết giới thiệu Chúa cho mọi người qua lời ăn, tiếng nói và nhất là cách sống đạo của mỗi người chúng con trong cuộc sống hằng ngày.
12. Đáp lời Chúa gọi – Lm. Đam Trần Đình Nhi
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Ga 1,35-42)
Thánh Gioan kể lại một cách hết sức thích thú câu chuyện Chúa Giêsu gọi hai môn đệ đầu tiên. Thích thú thật, vì đó là câu chuyện cho phép chúng ta tha hồ dùng trí tưởng tượng mà hình dung ra bất cứ điều gì chúng ta thấy thích hợp với tâm tình cầu nguyện của chúng ta. Vậy trước hết chúng ta cứ để phần tưởng tượng lại mà tâm sự với Chúa, còn bây giờ chúng ta xem câu chuyện xảy ra như thế nào.
Chúng ta biết rõ hai người môn đệ này thuộc nhóm môn đệ ông Gioan Tẩy Giả. Với linh đạo “Chúa Giêsu phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Ga 3,30), ông Gioan Tẩy Giả thấy không có vấn đề gì khi ông vừa nhận ra Chúa Giêsu “đi ngang qua” liền nói cho các môn đệ biết đấy chính là “Chiên Thiên Chúa”. Lời ông Gioan giới thiệu giản dị, nhưng chứa đựng cả một bí mật cao cả, đã khiến cho hai trong số các môn đệ ông quyết định “đi theo Chúa Giêsu”. Đều là “đi”, nhưng người thì đi ngang qua làm như không để ý gì, kẻ thì đi theo để gặp cho được người mình chưa biết là ai. Bề ngoài xem ra như chuyện tình cờ, nhưng bên trong là động lực mạnh mẽ: Chúa Giêsu cố ý đi ngang qua để lọt vào sự chú ý của những kẻ Chúa muốn gọi, còn hai môn đệ ông Gioan cố ý đi theo Chúa Giêsu là để khám phá một mầu nhiệm.
Điểm thứ hai lôi cuốn chúng ta chú ý, đó là mẩu đối thoại ngắn gọn giữa Chúa Giêsu và hai ông. Những câu hỏi và trả lời giống như giữa những người bàng quan với những lời lẽ rời rạc. Tuy nhiên những lời rời rạc ấy lại hàm ẩn ý nghĩa vô cùng sâu xa. Tìm gì không giống như tìm một vật để đâu đó hoặc đánh mất, nhưng là một hành trình tìm kiếm chân lý, tìm Đấng là Tin Mừng với tất cả những giá trị siêu việt của Thiên Chúa. Ở đâu không có nghĩa là một nơi chốn, vì “chồn có hang, chim có tổ, còn Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc 9,58). Cho nên “ở đâu” có nghĩa là cả một kho tàng tích trữ tất cả những mặc khải Thiên Chúa muốn tỏ ra cho nhân loại. Cuối cùng là lời mời gọi Đến mà xem. Lời mời gọi “Đến mà xem” mở ra một chân trời mới cho hai môn đệ ông Gioan. Phải đến thì mới thấy được, nghĩa là phải thoát ra ngoài cái vỏ con người của mình thì mới thấy được Chúa Giêsu là Đấng nào.
Kết thúc câu chuyện tìm kiếm này, thánh sử ghi lại rõ ràng: “Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười”. Hai ông đã ở lại với Người ngày hôm ấy. Cả một ngày họ ở lại với Chúa Giêsu và chúng ta không rõ với khoảng thời gian đó họ đã khám phá được những gì. Thánh sử chấm dứt câu chuyện, không quên ghi lại câu chuyện thật ấn tượng ấy đã xảy ra vào khoảng giờ thứ mười, rồi ngài im lặng ở đây, nhường lại để chúng ta tưởng tượng mà lắng nghe hoặc nói với Chúa.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Như hai môn đệ ông Gioan Tẩy Giả, chúng ta thực sự đã được Chúa gọi làm môn đệ khi lãnh nhận bí tích Rửa tội. Tuy mang danh người môn đệ của Chúa, nhưng có lẽ chúng ta vẫn chưa thực sự đi theo Chúa, hỏi Chúa rằng “Thầy ở đâu?”, đến xem chỗ Người ở và ở lại với Người. Tất cả những hành vi trên, người môn đệ đích thực cần phải xét lại mỗi ngày để coi mình còn giữ được căn tính môn đệ hay không.
Thay vì đi theo Chúa, chúng ta đi theo những gì thế gian quyến rũ mời gọi. Thay vì hỏi Chúa “Thầy ở đâu?”, chúng ta đã giả thiết Chúa chỉ ở trong nhà thờ, do đó trong cuộc sống thường ngày, chúng ta không muốn Chúa có mặt để Người khỏi cản trở chúng ta sống theo thế gian. Mỗi tuần một lần, chúng ta quả có đến “xem chỗ Người ở”, nhưng thực ra chúng ta không ở lại với Người, có nghĩa là không sống mối tương quan mật thiết với Người trong cầu nguyện.
Thánh sử Gioan đã kể thêm sau câu chuyện rằng ông Anrê, một trong hai môn đệ ấy, đã về nhà và đem em mình là Simôn Phêrô đến giới thiệu cho Chúa Giêsu. Đây cũng là điều chúng ta phải tự hỏi: Có bao giờ tôi giới thiệu một người nào đó và đem họ đến với Chúa chưa? Chúa Giêsu đang chờ đợi chúng ta đấy!
13. Lắng nghe tiếng Chúa
(Suy niệm của Lm. Anphong Trần Đức Phương)
Từ Chúa Nhật trước, chúng ta đã bước vào Mùa Quanh Năm với Chúa Nhật Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa. Hôm nay, chúng ta mừng Chúa Nhật II quanh năm (Chu kỳ năm B). Chủ điểm của Chúa Nhật này là ‘Tiếng Chúa gọi mỗi người chúng ta làm việc tông đồ cho Chúa.’
Bài đọc I (Samuel 3, 3-10; 19) nói đến việc Chúa gọi Samuel đi làm tiên tri cho Chúa. Khi nhận ra tiếng Chúa, Samuel đã mau mắn đáp lại: “Lạy Chúa xin hãy nói, con nghe đây!” Bài Phúc Âm (Gioan 1, 35-42) nói đến việc Chúa gọi hai anh em ông Anrê và Phêrô theo Chúa. Trong Bài đọc II (Corintô 6,13-15, 17-20), Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta là những tín hữu của Chúa, là chi thể trong Thân Thể Mầu Nhiệm của Chúa, là đền thờ Chúa Thánh Thần, chúng ta không được sống đời sống vô luân, nhưng phải sống thánh thiện, xứng đáng con cái thật của Chúa.
Qua các thời đại, Thiên Chúa thường gọi một số người để làm các công việc đặc biệt Chúa trao phó. Trong Cựu Ước, Chúa gọi Abraham, Môsê, Davit, các tiên tri v.v… Trong Tân Ước, Chúa Giêsu đã gọi 12 tông đồ. Đó là những ơn gọi đặc biệt, và việc Chúa gọi và chọn ai cũng là một việc nhiệm mầu của Chúa. Chúa gọi và chọn người Chúa muốn. Tuy nhiên, Chúa vẫn tôn trọng tự do của mỗi người; tùy theo mỗi người có quảng đại đáp lại tiếng Chúa gọi hay không (Matthêu 19,16…), và có cố gắng sống xứng đáng và trung thành với Ơn Gọi của mình hay không.
Thánh Luca (Lc 6,12-16) có kể lại việc Chúa Giêsu đã “ra núi cầu nguyện suốt đêm với Thiên Chúa Cha. Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy 12 ông và gọi là Tông Đồ.” Điều này cho thấy việc chọn 12 Tông Đồ là việc rất quan trọng. Trong số 12 tông đồ Chúa chọn, đa số làm nghề chài lưới, có người làm nghề thu thuế; lại có Giuđa Itcariot là kẻ phản bội; sau này, Matthia được chọn để thay thế (Cv. 1, 15-26). Chúa cũng chọn Phaolô làm Tông Đồ cho Chúa ngay chính lúc ông này (lúc đó còn tên là Saolô) đang trên đường đi bách hại đạo Thánh Chúa (Cv. 9, 1…)
Trải qua lịch sử của Giáo Hội, Chúa cũng chọn một số người để chuyên làm việc tông đồ cho Chúa qua các địa vị khác nhau: Giáo Hoàng, Giám Mục, Linh Mục, Tu sĩ. Mỗi trường hợp đều do sự nhiệm mầu của tình yêu Chúa. Chẳng ai dám tự phụ mình là người xứng đáng. Dù có những Ơn Gọi rất đặc biệt, như trường hợp của Đức Hồng Y Avery Dulles (1918-2008) con của ngoại trưởng Hoa Kỳ John Foster Dulles, đã gia nhập Đạo Công Giáo lúc 22 tuổi, đã từng là Sĩ Quan Hải Quân Hoa Kỳ, năm 1946 giải ngũ, vào Dòng Tên, chịu chức Linh mục năm 1956, và dâng hiến cả cuộc đời để nghiên cứu, viết nhiều sách về thần học, trở nên rất nổi danh tại Hoa Kỳ về đời sống thánh thiện và nhiệt thành truyền giáo (giống như Ơn Gọi của Linh mục Bác Sĩ Cổ Tấn Hưng ở Việt Nam); Cha Bao Yuanjin, hiện sống âm thầm truyền giáo ở Trung Quốc; Cha Charles de Foulcauld (1858-1916), lập dòng Tiểu Đệ và Tiểu Muội, và rất nhiều trường hợp khác.
Nhưng không phải chỉ các Giáo sĩ hay Tu sĩ mới được mời gọi làm việc tông đồ cho Chúa, mà mọi tín hữu đều có ơn gọi riêng của mình để làm tông đồ cho Chúa cách này hay cách khác. Nhìn công việc truyền giáo bao la, Chúa Giêsu đã nói: “Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít…” (Matthêu 9, 37), nhưng trong thực tế, Chúa chỉ chọn có 12 người chính thức làm Tông đồ, sau này thêm ông Phaolô. Vậy, làm sao công việc rao giảng Phúc Âm của Chúa đã có thể lan rộng nhanh chóng suốt cả Đế Quốc Rôma rộng lớn thời đó? Chính là nhờ sự cộng tác quảng đại của các giáo dân thời bấy giờ. Đó là việc Tông Đồ Giáo Dân.
Qua các thời đại cho đến ngày nay, vẫn có những người làm tông đồ giáo dân rất tích cực. Có những vị là những Tông Đồ Giáo Dân rất nổi danh như Antoine Federic Ozanam (Chân Phước) (1813-1835, học giả nổi tiếng của Pháp, lập Hội Bác Ái Thánh Vinh Sơn, chuyên giúp đỡ những người nghèo trên thế giới; Bác sĩ Thomas A. Dooley (Hoa Kỳ, 1927-1961) đã hy sinh cả cuộc đời giúp đồng bào Việt Nam mới di cư từ Miền Bắc vào Miền Nam, và sau đó mở nhà thương giúp bao bệnh nhân tại Lào; Frank Duff (Ái Nhĩ Lan, 1889-1980) lập Hội Đạo Binh Đức Mẹ, chuyên lo công việc thăm viếng giúp đỡ các bệnh nhân, các gia đình đang gặp khó khăn; Chiara Lubich (người Ý, 1920-2008) thành lập hội Focolore để cổ võ tinh thần hòa hợp giữa mọi người thuộc các sắc tộc, ngôn ngữ, tôn giáo khác nhau.
Trong Giáo Hội, luôn có những Hội Đoàn hoạt động tông đồ rất tích cực cho mọi lứa tuổi, như Đạo Binh Đức Mẹ, Liên Minh Thánh Tâm, Các Bà Mẹ Công Giáo, Thiếu Nhi Thánh Thể, Hướng Đạo Sinh Công Giáo, Cursillo, Opus Dei, Tông Đồ Fatima, Hồn Nhỏ, Hội Bảo Trợ Ơn Gọi v.v… Ngoài ra, còn có các Tu Hội Đời quy tụ chính những giáo dân sống giữa đời, liên kết đặc biệt với nhau để làm việc tông đồ.
Tất cả các Hội Đoàn đều có mục đích giúp thánh hóa bản thân và rao giảng Phúc Âm tình thương của Chúa cách này hay cách khác, nơi chính gia đình của mình, nơi sở làm, nhà máy, xưởng thợ, trường học, trong mọi môi trường sống hằng ngày của mỗi người.
Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta hãy đặc biệt cầu xin Chúa cho mọi người chúng ta luôn ý thức nhiệm vụ truyền giáo mà chúng ta phải chu toàn; xin cho chúng ta luôn biết ‘lắng nghe tiếng Chúa gọi’, trở nên những tông đồ nhiệt thành trên cánh đồng truyền giáo bao la trong thế giới chúng ta hiện nay.
14. Họ đến và ở lại với Người
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)
Được công bố trong khung cảnh những ngày bắt đầu chu kỳ Thường Niên, bài Tin Mừng hôm nay (Ga 1,35-42) nêu bật sự bắt đầu một giai đoạn mới với sự xuất hiện của Đức Giêsu và các môn đệ đầu tiên bước theo Người.
Mở đầu bài Tin Mừng, chúng ta gặp một sự xác định thời điểm mới trong trình thuật của sách Tin Mừng thứ tư: “Hôm sau, ông Gioan lại đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông” (c.35). Đó là ngày thứ ba kể từ sự kiện người Do Thái cử người đến chất vấn ông Gioan rằng ông là ai (1,19tt). Ông Gioan lại đang đứng ở chỗ của ngày hôm trước. Đó là cách tác giả ngầm nói với chúng ta về một tình trạng tĩnh, không tiến triển. Và quả thực, trong đoạn văn này không có bất cứ một động từ nào diễn tả sự di chuyển của ông Gioan. Nhưng sứ mạng của ông chưa kết thúc, cho đến khi nào Đức Giêsu bắt đầu sứ mạng của Người. Một khi Đức Giêsu đi ngang qua ông và tiến đi tiếp (trong hành trình sứ vụ của Người), thì ông sẽ không còn xuất hiện ở chỗ đó nữa, vì sứ mạng của ông đã kết thúc. Còn bây giờ, ông vẫn đang đứng đó. Bên cạnh ông là hai người trong nhóm môn đệ của ông. Họ đã nghe ông giảng dạy và đã nhận phép rửa của ông. Tác giả Tin Mừng đã không ghi “hai môn đệ” mà ghi là “hai người trong nhóm môn đệ”, chứng tỏ đã có cả một nhóm đông người đón nhận lời giảng dạy và phép rửa của ông Gioan. Vậy cùng với ông Gioan, hai người môn đệ này của ông đang đứng đó trong tư thế chờ đợi. Nhưng có một sự khác biệt: ông Gioan đã biết Đấng Mêsia (1,29) còn họ thì chưa.
“Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa” (c.36). Ở đây có một chi tiết nhỏ nhưng rất đáng chú ý: ngày hôm trước, ông Gioan thấy Đức Giêsu tiến về phía mình (1,29), còn hôm nay, vẫn đứng đó, ông lại “thấy Đức Giêsu đi ngang qua”. Quả thật, đúng như lời ông nói: “Người đến sau tôi, nhưng trổi vượt hơn tôi” (c.15), bây giờ ông đã ở phía sau rồi. Đó là thời khắc của một sự thay đổi quan trọng, thời điểm chấm dứt vai trò của vị tiền hô, vì Đấng ông loan báo đã bắt đầu hoạt động của Người rồi. Vào thời khắc quan trọng đó, ông Gioan công bố trước mặt hai môn đệ của ông: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Ông nói cho họ biết Đức Giêsu là Đấng Mêsia, Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian (xem c.29). Ông chỉ cho họ thấy một cách cụ thể nội dung mà sự mong chờ của phép rửa do ông thực hiện đang hướng đến.
“Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giêsu” (c.38). “Đi theo Đức Giêsu” là một thuật ngữ được áp dụng cho các môn đệ của Đức Giêsu (1,43; 8,12; 10,4; 12,26; 13,36; 21,19). Hai người môn đệ của ông Gioan, như thế, đã quyết định sẽ trở thành môn đệ của Đức Giêsu. Họ đã lập tức lấy quyết định dứt khoát. Sự dứt khoát và lập tức này cho thấy họ đã hiểu sứ điệp của ông Gioan. Ông Gioan đương nhiên không hề phản đối quyết định của hai môn đệ, trái lại, có lẽ ông rất vui mừng trước quyết định đó. Vì ông biết Đức Giêsu mới là Chú Rể, như lời ông nói: “Chính anh em làm chứng cho thầy là thầy đã nói: “Tôi đây không phải là Đấng Kitô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người. Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể. Còn người bạn của chú rể đứng đó nghe chàng, thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng. Đó là niềm vui của thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn. Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (3,28-30).
Vậy hai môn đệ đi theo Đức Giêsu. Trong im lặng. Tức là trong sự chờ đợi. Cuộc tìm kiếm của họ đã được bắt đầu với việc họ rời ông Gioan và đi theo Đức Giêsu, nhưng chưa đạt đến đích nếu không có sáng kiến của Đức Giêsu. Biết rằng họ đang đi theo mình, Đức Giêsu quay lại và hỏi họ. Người ân cần quan tâm đến khát vọng và sự tìm kiếm chân thành và tốt lành của con người. Người hỏi họ: “Các anh tìm gì thế?” (c.38a).Đức Giêsu muốn biết họ tìm cái gì nơi Người, họ chờ đợi gì nơi Người, họ nghĩ Người có thể làm gì cho họ.
Họ đáp: “Thưa Rabbi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đâu?” (c.38). Hai môn đệ gọi Đức Giêsu bằng một tước hiệu đầy kính trọng, và là cách gọi cho thấy họ ý thức rằng Người có thể ban cho họ những giáo huấn giá trị, rằng Người có thể cho họ biết những điều họ chưa biết. Họ vốn là môn đệ ông Gioan, nhưng đó chỉ là một hoàn cảnh tạm bợ, hoàn cảnh của sự trông chờ Đấng mà chính ông Gioan loan báo là đang đến.
Đương thời, mối tương quan tôn sư – môn đệ không chỉ là tương quan giữa người truyền và người nhận kiến thức, mà còn là và chính yếu là một cách sống. Môn đệ lấy cách sống của tôn sư làm chuẩn mực cho mình. Chính vì thế, trong ước muốn làm môn đệ của Đức Giêsu, hai người đồ đệ này muốn biết Người sống ở đâu. Chắc chắn đó phải là một nơi chốn (và tình cảnh cũng như cách thức sống) khác với của ông Gioan (mà họ đã từng biết). Kèm với lời hỏi “Thầy ở đâu?”, như thế, là một lời thưa với Đức Giêsu về quyết định của họ rời xa vị tôn sư của giai đoạn cũ để đến sống dưới ảnh hưởng của Người. Quyết định này hoàn tất sự đoạn tuyệt mà phép rửa bằng nước do ông Gioan cử hành là biểu tượng. Đồng thời, câu hỏi đó cũng có giá trị của một lời xin Đức Giêsu nhận họ làm môn đệ của Người.
“Người bảo họ: “Đến mà xem” (c.39a). Đức Giêsu trả lời trực tiếp cho lời xin gián tiếp trong lời hỏi của các ông. Người đưa ra một lời mời gọi rằng chính họ hãy đến để trải nghiệm một cách cụ thể và thực tế cuộc sống chung với Người trong tư cách là đồ đệ của Người. Khi đó, họ sẽ có thể tìm ra câu trả lời cho câu hỏi của họ. Rõ ràng là để trở thành môn đệ của Đức Giêsu, trước hết, cần phải bước vào trong vùng sự sống của Người, nơi Người đang sống.
“Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười” (c.39b). Họ đã bước vào vùng của sự sống, trải nghiệm về ân nghĩa và sự thật trong đó (1,14). Trải nghiệm trực tiếp đó đã giúp họ đi đến quyết định cuối cùng là ở lại với Đức Giêsu. Trong Ga, đây là hai môn đệ đầu tiên đến nơi Đức Giêsu sống. Như thế là bắt đầu xuất hiện cộng đoàn mới, cộng đoàn Mêsia, cộng đoàn những kẻ sẽ có thể nói: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật “(c.14). Rõ ràng đây là một thời khắc quan trọng.
“Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười”. Theo cách tính của chúng ta ngày nay là khoảng bốn giờ chiều. Theo cách tính của người Do Thái, đó là thời điểm cuối ngày và chuẩn bị bước sang ngày mới, vốn bắt đầu vào khoảng 6 giờ chiều của chúng ta. Ngày cũ sắp chấm dứt. Ngày mới sắp xuất hiện. Khi ngày mới bắt đầu cũng là lúc đánh dấu sự chấm dứt của dân cũ và sự khởi đầu của dân mới. Dân cũ đã sắp chấm dứt vai trò của mình, và đó là lúc Đức Giêsu bắt đầu gây dựng nhóm của Người.
“Ông Anrê, anh ông Simôn Phêrô, là một trong hai người đã nghe ông Gioan nói và đi theo Đức Giêsu. Trước tiên, ông gặp em mình là ông Simôn và nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia” (nghĩa là Đấng Kitô)” (cc.40-41). Trải nghiệm của ông Anrê với Đức Giêsu đã lập tức gây nên nơi ông cái ý thức về tính cách khẩn thiết phải làm cho những người khác biết về Người. Trước tiên, ông tìm gặp và loan báo cho em trai mình. Nói “ trước tiên” tức là ông không chỉ giới thiệu với ông Simôn mà thôi, nhưng còn với rất nhiều người khác nữa. Ông Simôn đã không được nghe ông Gioan giới thiệu về Đức Giêsu, và ông chưa đi theo Người. Ông Anrê báo tin cho ông Simôn bằng một công thức khá đặc biệt: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia” (nghĩa là Đấng Kitô)”. Chắc chắn ông Simôn là một trong số những người đang tha thiết với niềm mong chờ Đấng Mêsia mà ông Gioan đã loan báo ở 1,27. Khi nói với Simôn rằng các ông đã gặp Đấng Mêsia, là ông Anrê loan báo cho ông Simôn biết sự chờ đợi đó đã kết thúc, Đấng Mêsia đang hiện diện rồi.
Quan niệm về “Đấng Mêsia” của ông Anrê lúc này cần được giải thích trong quy chiếu về hai sự kiện: lời công bố của ông Gioan (“Đây là Chiên Thiên Chúa” ở c.36) và lời giải thích của tác giả Ga (“nghĩa là Đấng Kitô”). Với ẩn dụ Con Chiên, ông Anrê hiểu Đức Giêsu là Đấng Mêsia trong tư cách Đấng thực hiện cuộc Vượt Qua mới, Đấng sẽ dùng cái chết của mình mà giải thoát dân Người khỏi sự chết. Người sẽ khai mở một giao ước mới,thay thế các thiết chế của giao ước cũ đã bị vượt quá. Quan niệm “ Đấng Kitô” quy chiếu về mầu nhiệm Thần Khí ngự xuống trên Đức Giêsu (1,32) và Người chính là Đấng làm phép rửa trong Thần Khí (c.33). Ông Anrê đã được trải nghiệm về tình yêu, ân sủng và sự thật nơi Đức Giêsu, và ông loan báo điều đó cho ông Simôn, em trai mình.
Ông Anrê đã nhấn mạnh trải nghiệm quan trọng đó không phải như một trải nghiệm cá nhân đơn độc, mà là trải nghiệm của cộng đoàn các đồ đệ. Ông nói “Chúng tôi đã gặp”. Trải nghiệm về Đấng Mêsia luôn luôn là một trải nghiệm mang chiều kích cộng đoàn.
“Rồi ông Anrê dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu. Đức Giêsu nhìn ông Simôn và nói: “Anh là Simôn, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha” (tức là Phêrô)” (c.42). Ông Simôn không có sáng kiến tự mình đến với Đức Giêsu. Ông thụ động để cho ông Anrê dẫn đến. Chúng ta cũng không thấy ông bình luận bất cứ câu nào về lời giới thiệu của ông Anrê. Ông không nói một lời nào trong toàn bộ trình thuật này.
Đức Giêsu nhìn ông Simôn. Đây chắc chắn không phải là một cái nhìn bình thường hay thoáng qua. Trước đây, ông Gioan cũng đã nhìn Đức Giêsu và rồi tuyên bố “Đây là Chiên Thiên Chúa” (c.36). Cái nhìn của Chúa Giêsu đối với ông Simôn lúc này cũng tương tự như vậy. Người nhìn ông, rồi tuyên bố: “Anh là…”. Vì thế, đó không phải là một cái nhìn tuyển chọn, mà là cái nhìn thẩm thấu, cái nhìn để nhận định.
Đức Giêsu xác định ông Simôn là “con ông Gioan”, và tác giả Ga đặt mạo từ trước hạn từ “con”. Điều này gây khó khăn cho cách hiểu rằng thân phụ của ông Simôn có tên là Gioan, vì ngay ở câu 41 tác giả vừa nói rõ Simôn là em trai của Anrê (tức không thể là con trai duy nhất của ông Gioan được). Đàng khác, danh xưng Gioan từ đầu đến đây được dùng để gọi ông Gioan Tẩy Giả (cc.35.40). Vì vậy, nhiều người chấp nhận cách hiểu rằng ông Simôn một đàng thuộc về phong trào của ông Gioan Tẩy Giả, một đàng khác, ông chưa hề được nghe chứng từ của ông Gioan về Đức Giêsu, cũng chưa hề đi theo Đức Giêsu như hai người môn đệ kia.
Rồi Đức Giêsu tuyên bố rằng ông Simôn sẽ được gọi là Kêpha. Tác giả Ga là tác giả sách Tin Mừng duy nhất ghi tên Aram của ông Simôn là Kêpha, một têngọi khá phổ biến trong tiếng Aram, và có nghĩa là đá, tương tự như tên gọi Petros trong tiếng Hy Lạp. Tác giả Ga không hề nói rằng Đức Giêsu đổi tên cho ông Simôn thành Phêrô. Trong Ga, không bao giờ Đức Giêsu gọi nhân vật này là Phêrô; chỉ có tác giả Ga mới gọi ông là Simôn Phêrô trong một số trường hợp (thí dụ: 1,40; 6,6.68…).
Cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với ông Simôn ở đây là một cuộc gặp gỡ rất đặc biệt. Đức Giêsu không chủ động gặp ông hay bắt chuyện với ông, cũng không kêu mời ông đi theo Người. Về phần mình, ông Simôn hoàn toàn thụ động, và cuối cùng, ông cũng chẳng ngỏ lời xin làm môn đệ của Đức Giêsu. Rồi sau khi đã gặp Đức Giêsu, ông Simôn chẳng hề giới thiệu Người với bất cứ ai, khác hẳn ông Anrê là anh trai của ông. Người môn đệ đầu tiên mà Đức Giêsu chủ động kêu gọi, trong Ga, ngay sau đoạn Tin Mừng mà chúng ta suy niệm hôm nay, chính là ông Philípphê (1,43). Phải đến cuối sách, ở chương 21, sau khi ông Simôn đã ba lần tuyên bố về tình yêu của ông đối với Đức Giêsu, chúng ta mới thấy Đức Giêsu ngỏ lời với ông như Người ngỏ với ông Philípphê ngay từ giây phút đầu gặp gỡ.
Rất nhiều khi trong cuộc đời, chúng ta thấy mình được may mắn và hăng hái như ông Anrê. Nhưng cũng rất nhiều khi chúng ta thấy mình giống như ông Phêrô trong bài Tin Mừng hôm nay vậy… Nhưng chính nhân vật có vẻ thụ động, chẳng có gì hấp dẫn và xuất hiện trong một tình cảnh chẳng có gì nổi bật này, lại là petros, nghĩa là tảng đá…
15. Ở lại với Chúa - Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Trên các chương trình tivi đều có mục quảng cáo. Sản phẩm quảng cáo thì cái gì cũng nhất, cái gì cũng đẹp cũng bền. Thông tin quảng cáo đã tác động mỗi ngày nhiều lần vào người xem tạo nên một ấn tượng mạnh. Từ đó trong tiềm thức, khách hàng sẽ tìm mua sản phẩm ấy. Quảng cáo là giới thiệu những gì là độc đáo nhất. Mục đích của giới thiệu là để biết nhau. Muốn giơí thiệu một người thì phải biết về người đó, tuỳ theo mối liên hệ giữa hai người mà mức độ biết nhau nhiều hay ít. Nếu không biết rõ về một người thì có thể giới thiệu sai về người ấy.
Trong Phúc Âm có đề cập đến việc giới thiệu. Có ba lời giới thiệu tiêu biểu. Chúa Cha giới thiệu Chúa Kitô: “Đây là con Ta yêu dấu, làm đẹp Ta mọi đàng”( Mt 4,17). Chúa Kitô giới thiệu Chúa Cha: ”Ai thầy Thầy là thấy Cha” (Ga 14,9) Gioan Tẩy Giả giới thiệu Chúa Kitô: “Đây là Chiên Thiên Chúa. Đây Đấng xoá tội trần gian.. Người đến sau tôi nhưng quyền thế hơn tôi vì có trươc tôi … Ngài làm phép rửa trong Thánh Thần.” (x.Ga 1,29–34). Trong khi toàn miền Giêrusalem và Giuđêa đang coi Gioan như thần tượng, thì chỉ vì để giới thiệu Chúa Kitô, Gioan đã từ giã sự nổi danh của mình và lặng lẽ rút lui. Chúa Kitô giới thiệu Chúa Cha bằng cách nói cho người nghe hãy nhìn vào chính Ngài. Gioan giới thiệu Chúa Kitô bằng cách nói cho người nghe đừng nhìn vào mình,nhưng nhìn thằng vào Chúa. Đây là cách giới thiệu chính xác nhất khi một người muốn giới thiệu cho người khác về Thiên Chúa.
Phúc Âm hôm nay kể câu chuyện: “Thấy Đức Kitô đi ngang qua, ông lên tiếng nói: đây là Chiên Thiên Chúa. Hai môn đệ nghe ông nói liền đi theo Đức Kitô” (Ga 1,36-37). Bấy giờ Gioan rất nổi tiếng. Những người Do thái ở Giêrusalem cử các Thầy Tư tế và Lêvi đến hỏi xem liệu ông có phải là Đức Kitô, là Êlia hoặc ngôn sứ không (Ga 1,19-23). Gioan trả lời trung thực: “Không! Tôi không phải là Đức Kitô” (Ga 1,20). Ông chỉ nhận mình là tiếng kêu trong hoang địa (1,23). Đức Kitô là Đấng đến sau ông, cao trọng hơn ông vì có trước ông (1,30). Đấng ấy được Thánh Thần xức dầu (1,33), và sẽ rửa mọi người trong Thánh Thần và lửa (1,33; Mt3,11). Đấng ấy cao trọng đến nỗi ông không đáng cởi dây giày cho Ngài (1,27). Nhiệm vụ của ông là làm cho mọi người và cả các môn đệ của ông hiểu đươc điều đó. Gioan mong ước khi có dịp sẽ giới thiệu cho các môn đệ về vị Thầy đích thực mà họ cần phải theo. Bởi thế, khi thấy Chúa Giêsu đi ngang qua, Gioan liền lên tiếng: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Hiểu ý thầy, hai môn đề liền đi theo Chúa Giêsu trong hân hoan. Thay vì nuối tiếc, Gioan đã hạnh phúc hối dục họ lên đường. Nếu hai môn đệ không muốn theo Chúa mà cứ nấn ná ở lại với Gioan thì giáo dục tôn giáo của Gioan đã thất bại. Nếu hai môn sinh cứ đòi ở lại với Gioan là dấu chứng Gioan chỉ nói về mình, gây ảnh hưởng cho mình. Lên đường theo Chúa như một khám phá mới của hai môn sinh là kết quả thành công của Gioan trong sứ mạng làm người dọn đường cho Chúa.
Chúa Giêsu quay lại và hỏi: Các anh tìm gì thế? Hai môn đệ đã không đi “tìm gì” mà là tìm một Con Người. Họ đi tìm Đức Kitô. Họ mang nặng nổi khát khao đi tìm một trái tim, một vị thầy. “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?”. Câu hỏi ấy là câu hỏi muốn hiểu, muốn tìm đến và muốn ở lại với Thầy. Chúa Giêsu không trả lời là Ngài ở nơi này nơi kia và cũng không mời họ đến thăm chơi. Chúa nói “hãy đến mà xem” rồi sẽ biết. “Đến mà xem” là lời mời gọi đi vào cuộc gặp gỡ thân thiết. Trăm nghe không bằng mắt thấy “cứ đến mà xem” cũng là câu nói Philipphê thuyết phục Nathanael (Ga 1,46).Thánh sử Gioan kết thúc câu chuyện các môn đệ đầu tiên của Đức Kitô bằng hình ảnh: “Họ đến xem chỗ Người ở và ở lại với Người” (1,39).
Chỗ ở của Chúa Giêsu có gì hấp dẫn mà giữ chân các ông ở lại? Đầy đủ tiện nghi và sung túc chăng? Chắc chắn là không rồi, vì Chúa đã từng nói:” Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8,20). Rày đây mai đó nên nơi Chúa ở là “khách sạn ngàn sao”, chẳng có gì hấp dẫn như biệt thự hay khách sạn mấy sao. Sự hấp dẫn các môn đệ chính là con người Chúa Giêsu. Chính cuộc sống và lời giảng dạy của Ngài đã hấp dẫn họ và họ nhận ra Ngài là Đấng Messia, Đấng Cứu Thế, vị Thầy mà họ đáng theo.
Chúa kêu gọi các môn đệ, trước hết để họ “ở lại với Ngài” trong bầu khí huynh đệ thân tình (x. Ga 1,35-39), rồi Ngài mới sai họ đi thi hành sứ vụ. Yêu thương nhau là một dấu chỉ, là chứng từ cốt yếu, là đòi hỏi tiên quyết và đồng thời cũng là điều kiện cơ bản của người môn đệ Đức Giêsu.“Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).
Đi tìm con người Đức Kitô là theo Ngài, thuộc về Ngài, ở với Ngài. Các môn đệ vui mừng hân hoan, họ muốn chia sẽ với người thân yêu nên khi trở về, Anrê gặp em là Simon, nói với em về Đấng mà mình đã gặp và dẫn em đến diện kiến Chúa. Simon được Chúa đổi tên thành Phêrô. Trên đá tảng Phêrô, Chúa xây Hội Thánh và cửa hoả ngục sẽ không thắng được. Một cuộc gặp gỡ. Một tình yêu có thể làm đảo lộn cả một cuộc đời. Khám phá ra tình yêu Thiên Chúa trong đời mình quả là một biến cố vô cùng quan trọng.Trong ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa, những ai đã gặp Người đều thay đổi dần cuộc đời mình.
Gioan Tẩy Giả là mẫu mực cho người tông đồ hôm nay. Giới thiệu Chúa còn mình thì lặng lẽ rút lui để Chúa lớn lên. Bổn phận giới thiệu Chúa cho người khác là một ân sủng được trao ban. Thiên Chúa là tình yêu. Vậy lời giới thiệu trung thực nhất phải là lời ca ngợi về một Thiên Chúa tình thương.Để nói về tình thương, chúng ta phải có kinh nghiệm về tình thương.Cách chuyển thông chính xác nhất tình thương của Thiên Chúa là bản thân mỗi người yêu tha nhân với tấm lòng chân thành của mình.
Lời giới thiệu của Gioan Tẩy giả về Chúa Kitô rất ngắn. Điều đó nhắn nhủ rằng: Để giới thiệu về Chúa, chưa chắc đã cần nói nhiều.Vì nói nhiều chưa chắc đã là nói hay. Nói hay mà không đúng thì chỉ làm người nghe lạc lối. Để giới thiệu về Chúa cần nói đúng và sống điều mình rao giảng.Dung mạo đúng nhất của Thiên Chúa là tình yêu thương “ Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nổi ban Con Một của Ngài” (Ga 3,16) và tình yêu thương ấy là “ Không có tình yêu nào cao cả hơn tình thương của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
Để giới thiệu Chúa, tôi phải biết Chúa. Bài học đầu tiên của các môn đệ là “ở lại với Chúa”. Chỉ khi sống với Chúa mới biết Chúa. Vì thế, để giới thiệu về Chúa, phải biết Chúa. Để biết Chúa, chỉ có con đường duy nhất là sống với Chúa. Sống với Chúa chính là chuyên chăm học hỏi, suy niệm Lời Chúa và chiêm nghiệm trước Thánh Thể mỗi ngày để trở nên người giới thiệu Chúa cách trung thực và chính xác cho người khác.
Lạy Chúa, xin cho con nhìn thấy sự từ bỏ của Gioan và hai môn đệ mà xét lại bản thân. Con đang giới thiệu Chúa hay dùng Chúa để mình được lợi. Con đang theo Chúa hay chỉ theo người của Chúa. Xin cho con luôn chọn Chúa qua những chọn lựa nhỏ bé nhiều lần trong ngày để Chúa chiếm trọn cuộc sống con và để con thông hiệp vào cuộc sống Chúa nhờ đó con được ở lại với Chúa.
Và Lạy Chúa, xin ở lại với con, vì con yếu đuối, con cần Chúa đỡ nâng mỗi ngày trong đời con. Không có Chúa, con đâu còn nồng nhiệt hăng say. Xin ở lại với con vì con chỉ tìm Chúa, yêu Chúa và không đòi phần thưởng nào khác ngoài việc được yêu Chúa hơn. Amen.
16. Tiếng Chúa gọi – AM Trần Bình An
Olalla Oliveros, người mẫu nổi tiếng đã tham gia chụp nhiều bộ ảnh quyến rũ, diễn viên chính trong nhiều bộ phim, gương mặt của cô xuất hiện trên các tấm biển khắp Tây Ban Nha. Tuy nhiên, nữ người mẫu đã quyết định trở thành một nữ tu, gia nhập Dòng thánh Michael. Mặc dù sự nghiệp vẫn đang phát triển, nhưng Olalla Oliveros không còn cảm thấy hạnh phúc, vui vẻ.
Ở tuổi 36, cô quyết định từ bỏ sự nghiệp và khoác lên mình chiếc áo nữ tu sau khi đến viếng Nhà thờ Đức Mẹ Fatima ở Bồ Đào Nha. Không muốn nói nhiều về quyết định của mình, Oliveros chỉ cho biết cảm giác khi tới nơi này giống như có một trận động đất rung chuyển trong người: “Chúa không bao giờ sai, Ngài hỏi tôi có sẵn sàng theo Ngài và tôi không thể từ chối.”
Trên một trang web, Oliveros chia sẻ rằng cô đã có những cảm giác rất kỳ lạ. Từ sau chuyến thăm nhà thờ, hình ảnh bản thân mặc chiếc áo nữ tu luôn hiển hiện trong tâm trí Oliveros. Vì thế, cô đã quyết định từ bỏ công việc của mình để trở thành một nữ tu và đổi tên thành Olalla del Sí de María. Trên tờ El Tiempo, Oliveros chia sẻ: “Là một người mẫu bạn phải có thân hình chuẩn, là hình mẫu để mọi người noi theo. Tôi cảm thấy áp lực. Tôi cũng mệt với những lời nói dối, hình thức, một xã hội đầy bạo lực, ngoại tình, ma túy, rượu, thù oán và một thế giới đề cao vật chất, hưởng thụ, dâm dục, lừa đảo.” Oliveros cho biết thêm: “Tôi không lấy việc trở thành một nữ tu để lăng xê tên tuổi của bản thân, mà chỉ muốn trở thành một hình mẫu đề cao phẩm giá thực sự của người phụ nữ.”
Oliveros không phải là người mẫu đầu tiên quyết định từ bỏ cuộc sống bận rộn trên sàn catwalk để chọn lấy một cuộc sống bình lặng trong tu viện. Amada Rosa Pérez là một trong những người mẫu hàng đầu của Colombia trước khi trở thành một nữ tu vào năm 2005, vì cảm thấy mệt mỏi với cuộc sống căng thẳng của mình. (Theo Daily Mail)
Tin Mừng hôm nay, Thánh Gioan tường thuật Thánh Gioan Tiền Hô giới thiệu những môn đệ với Đức Giêsu: “Đây là Chiên Thiên Chúa!” Lập tức họ được Đức Giêsu mời gọi theo Người. Rồi họ lại giới thiệu người khác đến với Chúa. Bây giờ, Đức Giêsu vẫn không ngừng mời gọi mọi người bỏ mọi sự theo Người. Điển hình như các người mẫu, diễn viên tài sắc Olalla Oliveros và Amada Rosa Pérez đã đáp lời, mặc dù sự nghiệp còn đang lẫy lừng thành đạt.
Tiếng gọi
Hôm nay, tín hữu Kitô không còn vinh hạnh được thánh Gioan Tiền Hô trực tiếp giới thiệu đến với Chiên Thiên Chúa, như các môn đệ thuở xưa. Nhưng may mắn thay, Giáo Hội không thiếu các đấng như môn đệ Anrê, sẵn sàng tận tụy chỉ dẫn đến Đức Giêsu. Đó là những Chủ Chiên tốt lành, những tu sĩ chân chính, những tông đồ giáo dân nhiệt thành. Hoặc Chúa gửi đến những dấu chỉ riêng cho từng người. Một lời khuyên nhủ nhắc nhở của bè bạn. Một cơn bệnh thập tử nhất sinh. Một gia cảnh lục đục bất an. Một thất bại cay đắng, ê chề…Vấn đề là người tín hữu có thức tỉnh, sẵn sàng và khao khát lắng nghe, tìm hiểu, giải mã dấu chỉ, để nghe được tiếng Đức Giêsu mời gọi hay không? Hay cứ đắm đuối, mải mê, mù lòa trong cõi ta bà tục lụy, thì làm sao nghe được tiếng Chúa gọi?
“Đến mà xem!” Bằng rất nhiều dấu chỉ, Thiên Chúa luôn xót thương, luôn kiên nhẫn mời gọi, luôn nhẫn nại chờ từng người đáp lại, tựa như Người Cha tốt lành trông ngóng đứa con hoang, biết ăn năn sám hối, đáp lời, mà quay trở về.
“Hãy theo Thầy!” Các tông đồ đã bỏ mọi sự theo Chúa, con có dứt khoát một phen theo Chúa không? Chúa phải gọi con mấy lần rồi?” (Đường Hy Vọng, số 61)
Lời đáp
“Dạ, con đây!” Ngôn sứ Samuel đã luôn tỉnh thức, mau mắn cả ba lần đều thân thưa tiếng Chúa gọi. Một tâm hồn chân thành, tinh tuyền, trong sáng, nhạy cảm, sẵn sàng lắng nghe, đón nhận Lời Chúa, để thực thi Thánh Ý Chúa. “Xin Ngài phán, vì tôi tờ Ngài đang lắng nghe.”
Hai Tông đồ Anrê và Gioan cũng đều nhiệt thành, sẵn sàng tuân theo lời mời gọi “Đến mà xem.” Họ đã đến xem chỗ Người ở và ở lại vời Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười. (tức bốn giờ chiều ngày nay) Không chút chần chừ, so đo, suy xét, họ bỏ tất cả nghề nghiệp, huyết tộc, thân bằng quyến thuộc, dứt khoát dấn thân theo Đức Giêsu, Đấng chẳng có nhà cửa, cũng chẳng có chỗ tựa đầu nữa. (Mt 8, 20)
Đức Giêsu cũng thân thương mời gọi, an ủi, cứu giúp tất cả những ai đang khốn khổ, cực nhọc: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Tôi, Tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11, 28). Vì chỉ ở nơi Người mới có sự bình an viên mãn, niềm hoan lạc, mà thế gian không bao giờ có. “Ta để lại bình an cho các ngươi; Ta ban bình an của Ta cho các ngươi; không phải thế gian ban cho thế nào, thì Ta cũng ban cho như vậy đâu! Lòng các ngươi chớ xao xuyến, chớ nhát đảm” (Ga 14, 27)
“Chúa hiện diện bên con, không phải chỉ là một tâm tình, nhưng là việc Chúa chiếm hữu cả con người con, hướng dẫn, yêu thương, an ủi con.” (Đường Hy Vọng, số 241)
Chứng nhân
Ông Gioan Tiền Hô đã giới thiệu Đức Giêsu cho ông Anrê. Ngài đã gặp Chúa, ở lại với Chúa dù chỉ một ngày, đã cảm nghiệm Tình Yêu tuyệt vời, nay lại tiếp tục giới thiệu cho Simon. Trước hết, ông Anrê gặp em mình là ông Simon và nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Messia.” Rồi ông dẫn em mình đến gặp Chúa Giêsu.
Gặp gỡ Chúa, ở lại trong Tình Yêu còn gì hân hoan, sung sướng, hạnh phúc hơn? Còn gì tuyệt vời hơn được nương náu bên Người Cha chí nhân, chí thánh, nguồn cội tinh tuyền của con người? Người luôn đầy lòng thương xót, tha thứ, biến đổi, thánh hóa con người bùn nhơ, tội lỗi, bất nghĩa, bất tín, bất trung thành bạn hữu, anh em của Người. Chính vì nếm trải cảm nghiệm thần thánh, mà ông Anrê vội vàng tìm gọi em mình là Simon cùng theo, làm môn đệ Đức Giêsu cực trọng.
Có Chúa là có tất cả, dù bao phong ba cuộc đời thử thách, ngôn sứ Khabacúc vẫn trung kiên xác tín: “Thật thế, cây vả không còn đâm bông nữa, cả vườn nho không được trái nào. Quả ô liu đợi hoài không thấy, ruộng đồng chẳng đem lại gì ăn. Bầy chiên dê biến mất khỏi ràn, ngó vào chuồng bò bê hết sạch. Nhưng phần tôi, tôi nhảy mừng vì ĐỨC CHÚA, hỷ hoan vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, làm cho tôi mạnh sức, cho đôi chân này lanh lẹ tựa chân nai, và dẫn tôi đi trên đỉnh núi cao vời.” (Kb 3, 17-19)
Đức Giêsu liền sai cùng bốn mộn đệ đầu tiên làm chứng nhân, rao truyền ơn cứu độ đến mọi người, mọi dân tộc: "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá." (Mc 1, 17) Bởi vì “Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không.” (Mt 10,8)
“Quyết định theo Chúa của con không phải chỉ là một chữ ký, không phải là một lời tuyên thệ thôi. Nhưng là một sự hiến dâng liên lỉ, thực hiện trong cả cuộc sống.” (Đường Hy Vọng, số 69)
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con thành tâm và tỉnh thức nghe thấy tiếng Chúa gọi. Chúng con vốn yếu đuối, dễ sa ngã, dễ bị sự đời cám dỗ quyến rũ. Vậy xin Chúa tha thứ và cảm biến, đối mới chúng con, để chúng con luôn nhạy cảm nghe được tiếng gọi qua các dấu chỉ, hầu được kết hiệp cùng Chúa trong từng giây phút cuộc đời.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu bầu cho chúng con hằng ngày biết lắng nghe Lời Chúa mời gọi, để tỉnh thức ăn năn, sám hối, trở về cùng Chúa luôn. Amen.
17. Vai trò trung gian
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Nghe hai từ trung gian, không ít nguời trong chúng ta cảm thấy khó chịu. Quả thật trong các hoạt động kinh doanh buôn bán cũng như trong các dịch vụ, hễ có trung gian là hầu như có “phết phẩy”, có những chi phí không như ý. Dĩ nhiên không ai chấp nhận một sự tồn tại của chuổi các trung gian nặng nề, vô bổ, gây phiền hà và gây lãng phí. Vì thế người ta tìm cách loại bỏ bớt những trung gian ấy ngay cả trong các sinh hoạt hành chính. Chuyện bỏ bớt “các cửa, các dấu” để tiến đến mô hình một, cửa một dấu là một trong những nổ lực của cải cách hành chánh nước Việt thời gian vừa qua. Thế nhưng cần phải xác nhận rằng tác nhân trung gian vẫn còn đó vị trí và vai trò cần thiết không thể thiếu trong đời sống kinh tế, xã hội lẫn tâm linh.
Một chân lý trong niềm tin Kitô giáo: Thiên Chúa ban ơn cho con người thường là qua các trung gian. Không kể đến thưở ban đầu của buổi sáng tạo, thì ngoài việc trực tiếp phú ban linh hồn, Thiên Chúa ban cho chúng ta sự sống thể lý cùng những ơn lành khác đều thường qua các trung gian là tổ tiên, ông bà, bố mẹ, thầy cô, các vị mục tử trong Hội thánh…Ngược lại, để đến với Thiên Chúa thì các trung gian luôn có đó vị trí, vai trò cần thiết dường như là tất yếu theo chương trình Thiên Chúa đặt định.
Hai lần Thiên Chúa gọi Samuel, thế mà Samuel vẫn không nhận biết. Để có thể nhận ra tiếng Chúa phán, trẻ Samuel đã phải cần đến sự chỉ dạy của tư tế Hêli. (x.1 Sm 3,3b-10) (Bài đọc 1). Chính nhờ lời giới thiệu của thầy Gioan Tẩy Giả mà hai môn đệ mới tiếp cận được với Chúa Giêsu để rồi theo Người và ở lại với Người ngày hôm ấy. Nhờ một trung gian là Anrê mà Simon Phêrô đã đến gặp Chúa Giêsu và Hội Thánh chúng ta đã có được một vị Tông đồ nhiệt thành, một vị Giáo hoàng tiên khởi. (x. Ga 1,35-42) (bài Tin Mừng). Thánh Tông đồ dân ngoại khẳng định rằng thân xác chúng ta là một trung gian để chúng ta kết hợp nên một với Chúa Kitô. Và chính thân xác chúng ta là Đền thờ, là một trung gian để Chúa Thánh Thần ngự trong chúng ta. (x. 1Cor 6,13-20) (Bài đọc 2).
Qua các bài đọc của Thánh lễ Chúa Nhật II TN B, xin được đề ra vài tiêu chí của sự trung gian hầu cho các tác nhân trung gian thực sự là những chiếc cầu nối hữu hiệu, cách đặc biệt giữa Thiên Chúa và con người.
1. Biết Chúa và biết người: Anrê đã trở thành một người trung gian đích thực giữa Simon, anh mình với Chúa Giêsu là nhờ ngài vốn biết rõ anh mình. Chuyện anh em ruột biết rõ nhau là chuyện bình thường, anh em như thể chân tay. Anrê còn là người biết Chúa Giêsu một cách nào đó, nhờ đã đến và ở với Chúa Giêsu ngày hôm ấy, sau khi được thầy Gioan Tẩy giả giới thiệu.
Hình như ít có ai tranh cãi về tiêu chí này. Để làm trung gian thì cần phải biết cả hai phía. Tuy nhiên cái biết ở đây không dừng lại sự nhận thức bằng lý trí mà còn với cả sự gắn bó bằng ý chí. Không mến phục Giêsu hoặc không yêu thương anh mình thì Anrê chưa chắc đã đóng vai trò một trung gian.
2. Được Chúa chọn gọi và trao phó trách nhiệm: Chúng ta nhận ra tiêu chí này qua vai trò của Gioan Tẩy Giả. Ngài là đấng được Thiên Chúa chọn gọi ngay từ trong dạ mẹ (x.Gr 1,4-5) Ngài được Chúa trao phó cho trách nhiệm làm tiếng hô trong hoang mạc là dọn đường cho đấng Thiên sai ngự đến (x. Is 40,1-5).
Vấn đề đặt ra là làm sao nhận ra được tiếng Chúa chọn gọi. Dễ được mấy ai có diễm phúc được Chúa Giêsu chọn gọi cách trực tiếp như các tông đồ ngày xưa? Nhìn vào cuộc đời vị Tiền Hô, chúng ta có thể xác định rằng tiếng Chúa gọi chúng ta thường qua các biến cố cuộc sống (các hiện tượng xảy ra với nhà Giacaria), qua việc dạy bảo của mẹ cha (việc ông Giacaria và bà Isave đặt tên cho con trẻ khác với truyền thống nói lên điều này), qua việc nghiền ngẫm Thánh Kinh (nếu không có yếu tố này thì Gioan hẳn sẽ khó nhận ra vai trò của mình qua lời tiên báo của Ngôn sứ Isaia ngày nào).
3. Được Hội Thánh chuẩn nhận: Cái tiêu chí này được thể hiện qua vai trò của Tư Tế Hêli. Dù rằng tư tế Hêli còn thiếu sót trong một vài trách nhiệm của mình như lơ là việc dạy bảo con cái khiến cho hai người con trai của ông là Khópni và Pinkhát ra hư hỏng (x. 1 Sm 2,22-35), nhưng không ai phủ nhận vai trò của ông trong việc hướng dẫn trẻ Samuel lắng nghe tiếng Chúa phán.
Chúng ta cần thú nhận rằng cái tiêu chí thứ ba này thường gây tranh luận cho nhiều người bên trong lẫn bên ngoài Hội Thánh, đặc biệt, với các anh em ly khai. Thế nhưng dòng lịch sử thánh minh định rõ rằng Thiên Chúa đã dùng con đường này, phương thức này. Phương thức này, con đường này đã manh nha hình thành trong thời Cựu Ước qua việc Thiên Chúa truyền lệnh cho Môsê cắt đặt Aaron làm Tư Tế và chọn chi tộc Lêvi lo việc tế tự (x.Xh 4,13-16; 28,1-5). Và đến thời Tân Ước, Chúa Giêsu đã minh nhiên thiết lập Hội Thánh trên các Tông đồ và trao quyền tài thẩm cho các ngài (x. Mt 16,13-19; Ga 20,19-23). Trong thực tế, dù là cá biệt, nhưng vẫn tồn tại hiện tượng “thầy cả Hêli”. Ước gì Kitô hữu chúng ta làm theo lời dạy của Chúa Cứu thế: “Các kinh sư và những người Pharisêu ngồi trên toà Môsê mà giảng dạy. Vậy những gì họ nói thì anh em hãy làm, nhưng đừng theo hành động của họ…” (Mt 23,2-3).
Đến với Thiên Chúa, gặp gỡ Thiên Chúa là một diễm phúc của nhân loại chúng ta. Thiên Chúa đã tạo các trung gian là để cho mọi người có thể đến với Người, gặp gỡ Người cách thuận lợi dễ dàng và hữu hiệu theo hoàn cảnh, khả năng và điều kiện của từng người. Chính vì thế các tác nhân trung gian mãi luôn càn thiết cho nhân loại chúng ta. Tuy nhiên các tác nhân trung gian ấy vẫn ở bên ngoài chúng ta. Có một tác nhân gần gủi, thiết thân nhất với mỗi người chúng ta đó là chính con người, thân xác chúng ta. Chúa Kitô đã tự hiến thân mình trong hình bánh rượu hiến tế trên các bàn thờ. Con người, thân xác chúng ta là nơi Chúa muốn đến để nên một với chúng ta. Dù chằng đáng Chúa ngự vào, nhưng với tâm hồn khiêm nhu, xin Chúa làm cho tâm hồn, thân xác chúng ta được lành mạnh thì chúng ta sẽ làm một với Chúa cách trọn vẹn. Và Nước Trời đang ở giữa chúng ta (x. Lc 17,21).
18. Đến mà xem – AM Trần Bình An
Hành trình đến với Chúa ai cũng đều trải qua nhiều bước, lắm khi thăng trầm, gian lao, thử thách, chứ chẳng mấy khi êm ả như hai ông Anrê và Gioan, đã khéo léo theo một lộ trình khá suôn sẻ đến ơn gọi. Tiên quyết, hai ông đã được ông Gioan Tẩy Giả chuẩn bị sẵn sàng hành trang. Nếu không có tấm lòng thành khẩn, hai ông đã không tìm đến với vị Tiền Hô khổ tu, để qua từng bước Thanh tẩy và khởi sự truy tầm ơn gọi.
Khi từ biệt gia đình, thân quyến, bè bạn, xóm làng để ra đi làm môn đệ ông Gioan Tiền Hô, hai vị cũng đã nhiệt tình hưởng ứng lời kêu gọi thống hối, ăn năn, hầu sẵn sàng và xứng đáng diện kiến Đấng Cứu Thế. Một điều kiện ắt có cho bất cứ ai muốn tìm gặp Chúa.
San bằng những hầm hố tham lam, ham muốn đê tiện xấu xa, uốn nắn những khúc khuỷu lắt léo điêu ngoa, man trá, dối gian, cùng tẩy xóa tội nhơ qua Phép Rửa, hai vị mới có hội truy tìm Ơn Gọi trên con đường thiên lý.
Nhưng kìa lạ thay, chính Chúa Giêsu lại chủ động mời gọi nhị vị, khi thấy họ chỉ dám lẽo đẽo, đeo bám theo Ngài xa xa. Nên Ngài mới ngoảnh mặt ngó lại, thân thương hỏi họ: “Các anh tìm gì thế?” Họ đáp: “Thưa Rabbi, Thầy ở đâu? “Người bảo họ: “Đến mà xem.”
Điều kỳ lạ trong đoạn Tin Mừng này theo thánh sử Gioan, là câu trả lời của nhị vị đó lại là một câu hỏi ngược lại Chúa. Có lẽ họ quá sức bối rối, vì cảm thấy Chúa đã nhìn thấu tâm can, biết tỏ tường mong muốn nhiệt thành của họ, nên thay vì trả lời với Ngài: “Chúng con tìm Ngài,” thì họ lại mau mắn tôn Ngài làm Sư phụ, tình nguyện làm đệ tử chân truyền: “Thưa Rabbi, Thầy ở đâu?”
Nhưng Sư phụ Giêsu không vội trả lời cho họ, vì thực ra Ngài sống vô gia cư, làm gì có nhà cửa, dinh thự, lầu son gác tía. Ngài cũng chẳng có nơi trú ẩn cố định, thì biết lấy địa chỉ nào cho các tân đệ tử. Bởi chưng“Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc 9, 58). Vậy dưới con mắt thế gian, theo Thầy Rabbit Giêsu thì cũng như phiêu lưu cùng Thầy.
Người ngoài không hiểu được tại sao người ta theo tiếng gọi của Chúa, họ cho ta là điên. Chính Chúa Giêsu cũng bị Hêrôđê gọi là điên, và chúng ta hãnh diện được ở trong “nhà thương Biên Hòa” của Chúa. (ĐHY Fx Nguyễn Văn Thuận, ĐHV 68)
Chưa hết, khi đến xem tận mắt, biết nơi tạm trú xuềnh xoàng, nghèo nàn, xác xơ của Sư phụ, họ đã ở lại với Người ngày hôm ấy.Một quyết định dại dột và bất ngờ với thiên hạ, nhưng là chọn lựa sáng suốt tuyệt vời của người theo Chúa. Bởi chưng họ đã tìm được Minh Chủ, đấng mà thầy cũ của họ đã loan báo vô cùng tôn kính: “Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.”(Ga 1, 27)
Thật vậy, gặp và sống bên Chúa Giêsu còn gì vui thích hơn, chẳng có gì trên thế gian có thể sánh nổi. Nên Chúa đã mời gọi: “Tất cả hãy đến với ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng. Ta sẽ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách ta và hãy học cùng ta, vì ta dịu hiền và khiêm nhường trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ được bình an. Vì ách của ta êm ái, gánh của ta nhẹ nhàng” (Mt 11:30).
Lạy Chúa Giêsu, khi xưa Ngài đã kêu gọi các môn đệ, nay xin luôn nhắc nhở con dấn bước theo Ơn Gọi, để con được sống trong tình yêu vô biên của Ngài.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu bầu con luôn biết tìm đến nương náu bên Chúa Giêsu qua Lời Chúa và Thánh Thể, hầu con được sung mãn hồng ân cứu độ. Amen.
19. Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nam
“Họ đã đến xem chỗ Người ở
Và ở lại với Người ngày hôm ấy”
Thiên Chúa luôn kêu gọi và muốn con người cộng tác trong công trình cứu độ. Đó là chủ đề của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay.
Thiên Chúa quyền phép vô cùng, làm được mọi sự. Nhưng Ngài không muốn làm một mình, mà luôn kêu gọi con người cộng tác với Ngài.
- Khởi đầu lịch sử cứu độ, Thiên Chúa chọn ông Abraham làm cho ông trở nên cha của mọi dân tộc đông đúc. Từ dòng đời này phát sinh Đấng Cứu Thế.
- Để giải phóng dân Do Thái khỏi ách thống trị của đế quốc Ai Cập, Thiên Chúa đã chọn Môisen lãnh đạo dân Do Thái.
- Để có một lãnh tụ dẫn dắt dân Ngài, Thiên Chúa đã chọn kẻ nhỏ nhất, yếu đuối nhất. Đó là cậu bé Đavít.
- Để cho lời hứa ban Đấng Cứu Thế được thực hiện, Thiên Chúa đã chọn Đức Maria, một thiếu nữ vô danh miền Nazaret.
- Để tiếp tục công việc loan báo Tin mừng và cứu độ trần gian, Chúa đã chọn 12 tông đồ, 72 môn đệ.
Thiên Chúa luôn kêu gọi và muốn con người cộng tác với Ngài trong việc cứu độ nhân thế. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay chứng minh rất rõ chân lý trên:
Thiên Chúa chọn và gọi Samuel để ông thay thế thầy cả Heli. Ngài gọi ông 3 lần và Samuel đã thưa: “Xin Ngài cứ phán, tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe”.
Thế là Samuel đã trở thành thủ lĩnh dân Do Thái.
Bài Tin mừng ghi lại biến cố Chúa Giêsu gọi và chọn 3 tông đồ đầu tiên là Gioan, Anrê và Phêrô. Các tông đồ đi theo Chúa, đến gặp gỡ Chúa và ở lại với Người. Chính Chúa Giêsu đã gọi họ đích danh: “Anh là Simon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha”.
Ơn gọi làm môn đệ Chúa Giêsu khởi đi từ việc đến gặp gỡ Chúa Giêsu. Đi theo Chúa Giêsu hay gặp gỡ Chúa Giêsu là bước đầu cần thiết để trở thành môn đệ. Gặp gỡ gắn bó với Chúa Giêsu là mục đích tối hậu của người môn đệ (Ga 1,37). Sau đó những công việc mục vụ và rao giảng sẽ là thành quả của việc gặp gỡ này.
Từ việc gặp gỡ “đến mà xem” tới việc ở lại với Người. Trăm lần nghe không bằng một lần thấy; ở lại với Người để thấy, để hiểu, để yêu mến và noi gương sống như Người.
Gặp gỡ Đức Kitô trong cuộc sống của mình, rồi phải giới thiệu Chúa đến với tha nhân qua việc chu toàn bổn phận mà Chúa trao phó. Đó là bổn phận, sứ mạng của người môn đệ Chúa Kitô và người kitô hữu.
Theo đạo Công Giáo không phải đi theo một tổ chức hay gia nhập một đảng phái… nhưng là đi theo một nhân vật độc đáo là Đức Giêsu và qua Chúa Giêsu đến với Chúa Cha.
Qua Tông Huấn Lời Chúa, Đức Giáo Hoàng Benêđictô XVI nhắc nhở chúng ta: “Đời sống Kitô hữu có đặc tính chủ yếu là gặp gỡ Chúa Giêsu, Đấng hằng kêu gọi chúng ta bước theo Ngài” (Verbum Domini số 72).
Làm cách nào chúng ta có thể gặp gỡ Đức Giêsu trong cuộc sống hôm nay?
- Gặp gỡ Chúa trong thánh kinh, trong lời của Người, học hỏi, suy niệm lời Chúa. Thánh Giêrônimô dạy: “Không biết Kinh thánh là không biết Đức Giêsu”.
- Cao điểm của cuộc gặp gỡ Đức Giêsu là thánh lễ. Vì thánh lễ là trung tâm đời sống Giáo hội và đời sống Kitô hữu. Tông huấn Verbum Domini số 52 dạy: “Chính Chúa Giêsu đã hiện diện trong lời của Người, vì chính Người nói khi ta đọc kinh thánh trong Giáo hội”.
- Gặp gỡ Đức Giêsu qua việc cầu nguyện và suy niệm lời Chúa hằng ngày.
- Gặp gỡ Đức Giêsu một cách cụ thể qua việc bác ái, giúp đỡ những người nghèo khổ… “Cho anh em một chút nước lạnh, là cho chính Chúa”.
Ngày xưa Chúa kêu gọi Samuel, các tông đồ Gioan, Anrê, Phêrô… Ngày nay Chúa cũng kêu gọi mỗi người chúng ta làm môn đệ để đem Tin mừng cho anh em. Chúng ta hãy mau mắn, quảng đại đáp lại lời mời gọi của Chúa như các môn đệ, như Samuel xưa: “Lạy Chúa, xin hãy phán, này tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe”.
20. Thi hành sứ vụ nhân danh Ngài.
(Suy niệm của Yvane Fournier-Guérard)
Sứ vụ được thực hiện do các chứng nhân. Nhờ tiếp xúc với Chúa Giêsu, họ hiểu được vai trò Phúc Âm hóa của họ.
Một vị tiền hô.
Khi Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đời công khai của Ngài, chiếc rìu đã đặt bên gốc cây. Một vị ẩn sĩ, Gioan Tẩy Giả, loan báo Nước Trời và lớn tiếng đòi hỏi người ta hoán cải con tim để đón tiếp Đấng Mêsia đang đến. Bằng dấu chỉ Phép rửa trong đó tín đồ được dìm vào dòng nước sông Giođan để lấy lại sự thanh sạch của con tim. Gioan nhắc nhở mọi người rằng một Đấng khác sẽ đến và thanh tẩy trong Thánh Thần.
Những gì Gioan đã làm trong hoang địa: quy tụ môn đệ, rao giảng sự thống hối và mong đợi một vương quốc sắp tới, đều đã chuẩn bị người ta nghe lời Chúa Giêsu. Bởi vì trước đó quần chúng đã thức tỉnh trước sứ điệp thiêng liêng của Gioan nên họ đón tiếp Chúa ân cần hơn và đã hiểu lời Ngài hơn.
Tỉnh thức là giai đoạn đầu tiên của việc gặp gỡ Thiên Chúa.
Một lời sống động.
Rồi chiên Thiên Chúa mà Gioan Tẩy Giả nhìn nhận là lớn hơn mình đã đến. Mảnh đất đã sẵn sàng nên hạt giống có thể gieo được. Chúa Giêsu thực sự bị thu hút bởi lời rao giảng của Gioan. Ngài đã nhìn thấy những đám đông được Gioan thuyết phục và những con người tự nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi. Ngài đã xin Gioan làm phép rửa cho Ngài. Ngài đã nhận ra mảnh đất tốt lành, nơi đó cỏ dại ích kỷ, hận thù, tội lỗi của dân Ngài đã được nhổ sạch.
Chúa Giêsu đã đi theo Gioan và từ nay ông sẽ theo Ngài và sẽ khuyên các môn đệ của ông cũng làm như vậy nữa.
Giai đoạn thứ hai của sứ vụ là tiếp đón Đấng đang đến cùng với sứ điệp và chân lý của Ngài.
Đây không chỉ là một trò chơi.
Anh chị em còn nhớ trò chơi điện thoại được dùng trong những buổi sinh hoạt hay trong những lớp dạy về truyền thống chứ? Người thứ nhất tham gia trò chơi rỉ tai người thứ hai một sứ điệp ngắn và người này nói lại cho người thứ ba, v.v… đến người cuối cùng thì ít khi sứ điệp còn giữ được nguyên vẹn như ban đầu. Vì nghe không rõ nên các sứ giả liên tiếp nhau thay đổi sứ điệp được truyền đi và như vậy đã phản bội chính sứ điệp.
Các môn đệ đầu tiên không phản bội sứ điệp. Sau khi đi theo Chúa Giêsu theo lời giới thiệu của Gioan, sau khi nhìn thấy và đích thân nghe vị tôn sư, họ đã mời anh em và bạn bè của họ đến gặp Ngài.
Chính nhờ lưu lại với Ngài mà việc hoán cải con tim đã được thực hiện. Ngôn sứ Samuel cũng đã sống kinh nghiệm này, và dân Samari đã diễn tả đúng chân lý này khi nói với người phụ nữ Samari: “Không phải vì những gì chị kể cho chúng tôi mà chúng tôi tin, nhưng bởi vì bản thân chúng tôi đã được nghe Ngài”. Nhưng cần phải có ngôn sứ Êlia trong Cựu Ước, cần phải có các môn đệ đầu tiên và người phụ nữ Samari để cho người ta đến với Chúa Giêsu.
Đây là giai đoạn thứ ba của việc Phúc Âm hóa: chúng ta được mời gọi loan báo cho kẻ khác con đường dẫn đến Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin hãy phán, tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe.
Chúng ta là những lời sống động của Thiên Chúa bằng cuộc sống hơn là bằng lời nói. Phải đích thân gặp gỡ Ngài, lắng nghe Ngài, lớn lên trước mặt Ngài và tôn vinh Ngài bằng thân xác chúng ta được xem như đền thờ của Ngài. Chứng nhân không vượt qua giai đoạn cuối này là một chứng nhân giả. Lời của họ trống rỗng và sứ điệp của họ rất có nguy cơ bị méo mó bởi chính những cách nhìn riêng của họ.
Bài Tin Mừng hôm nay nói về sứ vụ như sau: “Hãy đến mà xem”. Kẻ lớn lên trước mặt Chúa, như Samuel, có lẽ không tự mình ý thức được rằng “không lời nào của họ là không có hiệu quả”, nhưng đã xảy ra đúng như vậy.
Được gọi với tư cách là ông bà, cha mẹ, với tư cách là giới trẻ, với tư cách là những người đã chịu phép rửa để truyền đạt đức tin, chúng ta hãy xin Chúa Giêsu giữ chúng ta lại bên cạnh Ngài. Xin cho luật tình yêu của Ngài trở nên thiết thân với chúng ta như tác giả thánh vịnh và cho chúng ta biết nói: “Này con đây” trong mọi hoàn cảnh, trong lúc “miệng chúng ta loan báo tình yêu và chân lý của Ngài cho toàn thể đại hội”. Khi đón tiếp Ngài đến trong Thánh lễ này, chúng ta hãy thưa: “Lạy Chúa, này con đây, con xin đến để thực thi ý Chúa”.
21. Chiên Thiên Chúa – Lm Vũ Đình Tường
Thánh Danh ‘Chiên Thiên Chúa’ được thánh Gioan Tiền Hô dùng để chỉ Đức Kitô Cứu Thế. Có lẽ đây là lời tiên tri quan trọng nhất trong cuộc đời rao giảng của Gioan, đấng đi trước dọn đường cho Chúa Cứu thế. Đây cũng là lời tiên tri cuối cùng của Ngài trước khi chịu xử trảm chém đầu dưới tay hoàng đế Hêrôđê. Ngoài giải thích linh ứng bởi Thánh Thần thì không còn giải thích nào thích hợp hơn làm sáng tỏ điều gì dẫn đến việc Gioan giới thiệu Đức Kitô với các môn đệ mình khi ông gọi Ngài là Chiên Thiên Chúa. Điều Gioan với thiệu với môn đệ mình xưa kia nay được Kitô hữu tuyên xưng ba lần trước khi đón nhận Mình và Máu Thánh Chúa. Khi Gioan tuyên xưng Đức Kitô là ‘Chiên Thiên Chúa’ ngài có lẽ không hiểu rõ ràng như ngày nay chúng ta biết đó là việc Đức Kitô chịu chết thay cho nhân loại, xoá tội trần gian và sống lại để ban sự sống trường sinh cho nhân loại.
Điều chắc chắn là hình ảnh chiên hiến tế thánh Gioan biết có nguồn gốc xa xưa từ Cựu Ước. Cả hai biến cố lịch sử trọng đại đều liên quan đến hình ảnh chiên hiến tế, được ghi nhận trong cuốn sách đầu trong Cựu Ước là sách Sáng Thế Kí chương 12-13 và 22.
Biến cố lịch sử trọng đại thứ nhất Yavê giải thoát dân Ngài khỏi thời kì nô lệ dưới triều đại của Pharaô. Trong ngày đó gia đình dân Chúa chọn giết con chiên làm bữa ăn và dùng máu chiên bôi trên khung cửa trước nhà. Nhà nào có máu chiên trên khung cửa mọi người được bình yên và thoát nạn chết. Sau đó toàn dân Israel an toàn ra đi khỏi vùng đất nô lê, vượt qua Biển Đỏ. Biến cố này phát sinh ngày lễ kính hàng năm của dân tộc Do Thái đó là lễ Vượt Qua tưởng niệm ngày được tự do, giải thoát khỏi ách nô lệ của ngoại bang.
Biến cố thứ hai Yavê Thiên Chúa thử tổ phụ Abraham khi nói với ông hãy hiến tế người con duy nhất là Isaac cho Ngài. Để chứng tỏ lòng yêu mến Yavê hơn chính bản thân mình Abraham thương con nhưng Ngài thương Thiên Chúa nhiều hơn nên không ngần ngại hiến tế con một mình cho Yavê. Thiên Chúa sai Thánh Thần Chúa xuống can thiệp cứu Isaac khỏi chết và thay thế bằng một con chiên sừng mắc bụi gai. Điều này dẫn Abraham trở thành tổ phụ của những ai có lòng tin vào Thiên Chúa.
Thời Cựu Ước biến cố bôi máu chiên trên khung cửa trước nhà trở thành biểu tượng của an toàn, của bào vệ dân Israel khỏi sự chết. Ngoài ra chiên còn là hình ảnh của giải thoát khỏi tình trạng nô lệ để được sống tự do. Từ đó phát sinh ngày mừng kính lễ Vượt Qua hàng năm. Thịt chiên là thực phẩm chính trên bàn ăn của các gia đình ở phương Tây, là nguồn cung cấp chất dinh dưỡng chính nuôi cơ thể. Lông chiên giữ cơ thể ấm suốt mùa đông giá rét. Chiên Thiên Chúa thực hiện nhiều điều kì diệu ngoài sự suy hiểu của con người. Ngoài việc nuôi dưỡng tâm linh Kitô hữu, máu Chiên Thiên Chúa xoá sạch tội trần gian và việc Đức Kitô sống lại từ cõi chết ban sự sống trường sinh cho nhân loại. Từ đó biến chúng ta thành con cái Thiên Chúa thừa hưởng những hồng ân Thiên Chúa ban cho Đức Kitô, Con yêu dấu Ngài.
Chúng ta không những tránh khỏi sự chết, còn được ban cho sự sống trường sinh khi Đức Kitô gánh tội trần gian chịu khổ hình vào đúng dịp lễ Vượt Qua của người Do Thái. Vì thế chúng ta có thể nói nhờ vào cuộc tử nạn và Máu Thánh Đức Kitô đổ ra chúng ta Vượt Qua được sự chết tiến đến đất hằng sống trường sinh.
22. Này Chiên Thiên Chúa – Charles E. Miller.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
Môn chơi chữ có thể rất vui. Một số người nói một từ và bạn có thể trả lời theo những gì đến trong tâm trí bạn. Thí dụ, tôi nói “nhỏ” và bạn nói “lớn”. Tôi nói “bóng đá”, bạn nói “bóng chày”. Gioan Tẩy Giả nói Đây Chiên Thiên Chúa” và chúng ta có thể nói “cái gì?”.
Để trình bày Chúa Giêsu. Thánh Gioan Tẩy Giả đã có thể làm tốt hơn khi tuyên bố: “Hãy chiêm ngắm, đó là Chúa của các ngươi” hoặc “Đó là Đấng Cứu Độ” hay “đấy là Đức Kitô” không hay hơn sao? Tất cả những tước hiệu này xem ra diễn tả rõ ràng hơn: “Chiên của Thiên Chúa”.
Thật ra, đối với người Do thái, tước hiệu mà Gioan Tẩy Giả rao giảng thì từ: “Chiên Thiên Chúa” gợi lên trong tâm trí họ toàn bộ giáo lý đức tin của dân riêng Thiên Chúa. Ngay lập tức, họ nghĩ rằng không phải là một con chiên nhỏ bé nhưng là sự lớn lao của quyền năng và lòng thương xót Chúa hướng đến họ qua dấu máu của con chiên, nhờ đó họ được cứu thoát khỏi ách nô lệ ở Ai Cập và được mang đến sự tự do và đời sống mới nơi đất Hứa. Mỗi năm và dịp lễ Vượt Qua, họ lại tưởng nhớ và mừng lễ Cứu Độ bằng việc tham dự vào bữa ăn tối Vượt Qua.
Trong Thánh Lễ, việc mừng sự cứu độ của chúng ta trong Đức Kitô, chúng ta nhìn lên Mình và Máu Chúa, chúng ta nhận biết Người bởi chúng ta hiểu những lời của vị linh mục: “Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian”. Khi chúng ta nghe những lời này trước khi rước lễ, chúng ta được mời gọi nhớ lại những gì mà Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta, Người như Chiên Vượt Qua. Chúng ta diễn tả niềm tin của chúng ta trong những lời tuyên xưng Thánh Thể. Khi nhớ chiên Vượt Qua đã bị hy sinh sát tế như thế nào, chúng ta được mời gọi suy niệm về chung kết là việc Chúa ngự đến như là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ thế gian này: “Đức Kitô đã chết, Đức Kitô đã sống lại, và Chúa Giêsu Kitô sẽ đến trong vinh quang”.
Khi suy niệm về sự giải thoát đã ban cho các tổ phụ chúng ta, trong đức tin, chúng ta được mời gọi suy niệm về việc được giải thoát khỏi tội lỗi của chúng ta: “Lạy Chúa, bằng thánh giá và sự Phục Sinh của Người, Người đã cho chúng con được tự do. Chúa là Đấng Cứu Độ thế gian”. Khi suy nghĩ về đời sống mới của các tổ phụ tinh thần của chúng ta nơi đất Hứa, chúng ta được mời gọi suy niệm đời sống mới của chúng ta trong Đức Kitô: “Bằng cái chết, Người đã tiêu diệt sự chết nơi chúng ta, bằng việc sống lại, Người đã phục hồi sự sống cho chúng ta”. Khi suy niệm về các tổ phụ đã kỷ niệm sự giải thoát của mình bằng việc dự phần vào bữa tối Vượt Qua, chúng ta được mời gọi chiêm ngắm việc chúng ta cử hành ơn cứu độ của chúng ta nơi bữa tiệc Thánh Thể: “Lạy Chúa Giêsu Kitô khi chúng con ăn bánh và uống chén này, chúng con tuyên xưng việc Chúa chịu chết, cho tới khi Chúa lại đến”.
Khi mời gọi mọi người lên hiệp lễ, vị linh mục nói: “Phúc cho những ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa” hay là câu “Hạnh phúc thay những người được gọi đến dự bữa tối với Người”. Bữa tối hoặc tiệc đây không phải ám chỉ bữa tối sau hết nhưng là tiệc cưới của Con Chiên Thiên Chúa trên thiên đàng nơi mà các tín hữu của Chúa mừng Giao Ước tình yêu và trung tín (Kh 19,9). Bữa tiệc huy hoàng và đời đời là số phận của chúng ta bởi vì chúng ta nên một với Chiên Thiên Chúa ở trên trời.
Không có từ đơn giản nào mà thích hợp như một câu trả lời khi chúng ta nghe xướng: “Đây Chiên Thiên Chúa”, nhưng một cuộc suy niệm sâu xa về sự phong phú của tước hiệu này sẽ giúp chúng ta hiểu biết Chúa Giêsu tốt hơn và dẫn chúng ta tới dự phần đầy đủ hơn nơi bữa tiệc Thánh Thể của Chiên Thiên Chúa.
23. Đây là Chiên Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Nếu Chúa nhật lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa, lời Chúa mời gọi chúng ta sống sao cho xứng đáng làm con Thiên Chúa, thì Chúa nhật này, lời Chúa mời gọi chúng ta đặt mình vào vị trí của nhóm môn đệ Gioan Tẩy Giả, nhất là của chính Gioan để thấy được kế hoạch của Thiên Chúa đối với nhân loại.
Tin Mừng hôm nay trình bày Gioan Tẩy Giả thật đúng với sứ mạng của ông là chỉ cho mọi người biết Đấng Cứu Thế: Khi ấy, Gioan đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông nhìn theo Chúa Giêsu đang đi mà nói: "Đây là Chiên Thiên Chúa" (Ga 1, 35). "Chúa Giêsu đang đi và Gioan nói", là một hành động diễn tả sự liên tục giữa Giao ước cũ với Giao ước mới, vì Gioan Tẩy Giả đã không nói về chính mình, lời của ông được rút ra từ Cựu Ước đan vào nhau để làm sáng tỏ các mầu nhiềm. Năm Phụng vụ mới bắt đầu, Gioan Tẩy Giả thấy sự huy hoàng rực rỡ của Giao Ước mới đang ló rạng thì giới thiệu cho môn sinh: "Đây là Chiên Thiên Chúa"(Ga 1, 35).
Đây là Chiên Thiên Chúa
Gioan Tẩy Giả khẳng định, Chúa Giêsu là Chiên duy nhất chết thay cho đoàn chiên là nhân loại chúng ta. Không những thế, Người còn phục hồi tất cả những người sống trên trần gian này và cứu chuộc mang về cho Thiên Chúa Cha. Một người chết thay cho toàn dân, để tất cả vâng phục Thiên Chúa; chỉ một mình Người đã chịu chết để cứu chuộc muôn người… Thật thế, con người đã trở nên hư hỏng, sống trong tội lỗi và đây là lý do tại sao Chúa Cha đã cho Con của Ngài tới làm giá chuộc tội cho toàn dân (Ga 3,16), vì Người là đầu và tất cả mọi sự ở trong Người. Để tất cả chúng ta sống trong Người, Người đã vui lòng chịu chết và hiến tế vì chúng ta, Người đã chết thay cho chúng ta, và sống lại vì chúng ta. Người là Chiên thật xóa bỏ tội trần gian.
Gioan là mẫu người tìm Chúa và giới thiệu Chúa
Gioan Tẩy Giả là một tiên tri, biết nhận ra Thiên Chúa giữa loài người. Chúa Giêsu là Lời Thiên Chúa mặc khải trong xác phàm, Lời làm người để cứu chuộc nhân loại. Gioan là tiếng, ông là người lồng tiếng truyền đi sứ điệp mà ông đã được ủy thác. Sứ điệp Gioan truyền là một công thức tuyệt đẹp và độc đáo, được lặp đi lặp lại ở tất cả các Bí tích Thánh Thể, được thể hiện dưới ánh mắt thân mật và yêu thương nhất của Thiên Chúa: "Đây là Chiên Thiên Chúa"(Ga 1, 35). Đây sự tuyển chọn Abraham và giao ước với nhà Đavid, đây là người Tôi Tớ đau khổ và là Chiên Vượt Qua. Đây là Đấng Cứu Thế muôn dân mong đợi. Đây là Con Thiên Chúa.
Gioan không nói như là tiếng vọng của tiên tri Isaia, nhưng ông đã viết lời tiên tri một lần nữa và tham gia việc thực hiện lời hứa. Ông đã sống đến cùng ơn gọi của mình là chỉ cho mọi người biết Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa.
Noi gương Gioan sống chứng nhân
Con người tìm Thiên Chúa, Thiên Chúa đáp trả, con người lại tiếp tục giới thiệu Chúa cho tha nhân, nên câu hỏi: "Thưa Thầy, Thầy ở đâu?" (Ga 1, 38). là câu hỏi mà hai anh em nhà Anrê và Simon Phêrô sau khi được thầy Gioan giới thiệu đã hỏi Chúa. Khuynh hướng tự nhiên nơi tâm hồn con người là đi tìm Chúa, và Thiên Chúa luôn luôn mau mắn đáp trả, mời gọi con người đến gặp Người: "Hãy đến mà xem" (Ga 1, 39)..
Hai chàng thanh niên hỏi, rồi một câu trả lời có tính cách như là một lời mời gọi. Khi nghe những lời chỉ dẫn đó, hai môn đệ của Gioan Tẩy Giả liền theo Chúa Giêsu. Phải chăng đây là một biến cố đầy ý nghĩa? Khi Chúa Giêsu hỏi: "Các ngươi tìm gì?" (Ga 1, 38) thì hai môn đệ trả lời cũng bằng một câu hỏi: "Thưa Thầy, thầy ở đâu?" (Ga 1, 38). Và Chúa Giêsu trả lời: "Hãy đến mà xem". Họ đã đến và xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy, lúc đó độ chừng giờ thứ mười (Ga 1, 39). Họ trở thành những môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu. Đến lượt Anrê, Anrê lại dẫn anh mình là Simon Phêrô đến với Chúa Giêsu.
Khi trình bày lại cuộc gặp gỡ nầy với Chúa Giêsu, phụng vụ ngày hôm nay muốn chứng tỏ điều trọng nhất trong đời sống chúng ta. Hỏi là kết quả của cuộc kiếm tìm. Con người đi tìm Thiên Chúa. Con người, tận trong thâm tâm, hiểu rằng cuộc kiếm tìm này là định luật nội tại của cuộc sống. Con người đi tìm đường đi trong thế giới hữu hình, và qua thế giới hữu hình, con người đi tìm cái vô hình trong cuộc hành trình thiêng liêng của mình.
Mượn lời vịnh gia, mỗi người trong chúng ta có thể thân thưa với Chúa: "Lạy Chúa, con đi tìm nhan thánh Chúa; xin đừng ẩn mặt xa con" (Tv 27. 26, 8-9). Mỗi người trong chúng ta có một lịch sử cá nhân riêng và mang trong mình khát vọng muốn thấy nhan Thiên Chúa, một ước vọng mà người ta cảm thấy cùng với việc khám phá thế giới tạo vật.
Chúng ta hỏi Chúa: "Thưa Thầy, Thầy ở đâu?" (Ga 1, 38). Giáo Hội trả lời cho chúng ta mỗi ngày rằng: Chúa Kitô hiện diện trong bí tích Thánh Thể, bí tích của sự chết và sống lại, trong và nhờ bí tích này, chúng ta nhận ra Thiên Chúa sống động trong lịch sử con người.
Câu trả lời cho câu hỏi: "Thưa Thầy, thầy ở đâu?" Còn cần phải được nghe như sau: Thầy ở trong tất cả mọi người được cứu chuộc. Đúng vậy, Chúa Kitô, Đấng có những lời ban sự sống đời đời, Đấng là "Đầu của Dân mới và phổ quát của tất cả những con cái của Thiên Chúa" (LG số 13), hiện diện trong dân Người. Gioan đã làm chứng và giải thích về sự nhận biết và tôn thờ cũng như đón nhận Lời để thông phần vinh quan với Lời; hành động đức tin biến chúng ta thành người tôi tớ hợp nhất với người môn đệ dưới chân Thánh Giá: "Đây là Chiên Thiên Chúa "(Ga 1, 35). Đến lượt chúng ta, là thành phần của Giáo hội, thành phần sống động và có trách nhiệm, hãy là những đồ đệ và là những chứng nhân của Chúa Kitô, Đấng mạc khải Thiên Chúa Cha. Hãy sống trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần, Đấng ban sự sống. Amen.
24. Chúa Nhật 2 Thường Niên
Bài Tin Mừng hôm nay: Ga 1, 35-42 trình bày cho chúng ta thấy Gioan và Anrê bước theo Chúa Giêsu, (là những Tông Đồ đầu tiên theo Chúa Giêsu làm thành những Tông Đồ nồng cốt cho 12 Tông Đồ sau này). Nhìn vào ơn gọi của hai ông (sự dấn thân quyết liệt, mau mắn bước theo Chúa Giêsu của hai ông,) ta thấy được một vài ý nghĩa:
Người đi theo Chúa Giêsu trước tiên là người có lòng muốn
Sống trong xã hội thời đó, giống như những người Do Thái khác, Anrê và Gioan cũng có tâm tình khao khát, các ông trông mong Đấng Thiên Sai đến để giải thoát họ. Hơn nữa hai ông còn muốn "mặt giáp mặt", muốn gặp được Người để thỏa lòng mong muốn. Bởi vì Người là "Chiên Thiên Chúa", là Đấng Thiên Sai, là Đấng Messia mà các ông đợi trông, muốn gặp mặt tự trong cõi lòng. Nên khi nghe Gioan Tiền Hô giới thiệu, Anrê và Gioan tin ngay và liền bước theo Đức Giêsu.
Phần mình, Đức Giêsu muốn hai ông ý thức việc làm của mình, Người muốn các ông xác tín rõ ràng việc đi theo của hai ông: hai ông đi theo Đức Giêsu để làm cái gì ? Người muốn các ông không phải là những người hùa theo đám đông, nghe dư luận, làm theo tiếng nói quần chúng mà không có sự ý thức. Phải có sự phân định ơn gọi rõ ràng, có sự thúc bách tận cõi lòng. Sống có mục đích. Vì thế Người hỏi: "các ngươi tìm gì?"
Đối với mình, vì đã có lòng khao khát, đã có thao thức, đã có để tâm nghe, đã có lòng muốn bước theo nên khi nghe được tiếng Người hỏi, và như bắt được tần sóng, hai ông đã thưa: "Thầy ở đâu?". Lòng muốn của các ông được Đức Giêsu tạo ban cho cơ hội bước theo Đức Giêsu.
Người đi theo Chúa là người có lòng mến Chúa thật sự
Tình yêu Đức Kitô thật mãnh liệt, đã lôi cuốn hai ông. Hai ông đã bỏ Gioan Tiền Hô mà dứt khoát đi theo Đức Giêsu, dám sống dám chết cho Người, dám dấn thân cho Người.
Thế nên nếu ta có thiện chí, có lòng khát khao thật sự, tận thâm tâm, trong cõi lòng của mình để bước theo Chúa như hai ông Anrê và Gioan trong bài Tin mừng hôm nay thì Đức Giêsu sẽ cho ta gặp được chính Người, Người sẽ biến đổi ta. Lòng mến Đức Giêsu thật sự được thể hiện qua cách đáp trả dứt khoát của hai ông.
"Hãy đến mà xem." Khi nghe Đức Giêsu mời gọi, các ông liền mau mắn bước theo Thầy Chí Thánh Giêsu. Và rồi chẳng những hai ông đến xem mà còn ở lại, lưu lại. Nhờ đó hai ông được Đức Giêsu biến đổi. Ở với Đức Giêsu, các ông được sưởi ấm lòng mến, thắp thêm niềm tin, đón nhận được nguồn bình an cần thiết, được bồi bổ tình yêu. Hơn nữa các ông còn được học biết cách sống của Người: yêu người, yêu Thiên Chúa, biết cầu nguyện, sống đời sống mới. Qua cách bước theo của các ông, chúng ta nhận thấy việc theo Chúa không phải là việc theo thời " người ta đi theo thì mình cũng đi" hay vì tình cảm ham thích nhất thời " ngày một, ngày hai" ,thích hùa theo dư luận cho vui,..nhưng quan trọng phải chú ý tới là: ý thức việc theo Đức Giêsu của mình là gì?. Việc theo Đức Giêsu phải thật sự dựa trên lòng mến chân thánh, tha thiết, trọn vẹn.
Người theo Chúa là người biết lắng nghe và đáp lại ý Chúa
Động cơ theo Đức Giêsu thiết yếu dựa trên việc người môn sinh dõi theo tiếng Chúa , ý muốn của Chúa, muốn thực hiện điều Đức Giêsu muốn. Do đó ta phải chuyên chăm cầu nguyện, cầu nguyện liên lĩ, cầu nguyện không ngừng. Khi ta mở lòng mình ra để chìm sâu vào trong ơn Chúa, chìm sâu vào sự hiện diện huyền nhiệm của Đức Giêsu trong cõi lòng mình, thì trí ta, lòng ta sẽ sáng suốt nhận thấy được điều Người muốn, để ta thực thi và chỉ muốn làm đẹp lòng Người mà thôi. Và khi đó ta không còn mong làm điều mình muốn nữa mà là mong muốn thực thi thánh ý Chúa. Nên là người Kitô hữu, ta hãy hoàn toàn dấn thân, toàn tâm toàn ý, đem hết cả tâm trí để bước theo Đức Giêsu, ta sẽ để Người dùng quyền năng theo cách của Người thực hiện chương trình cứu độ qua cuộc đời chúng ta.
Hôm nay Chúa cũng đang mời gọi chúng ta theo Chúa qua Hội Thánh. Chúng ta hãy thành tâm đáp lại lời mời gọi của Chúa. Tuy nhiên cũng giống như các môn đệ, kẻ được mời gọi không dừng lại ở người trung gian mà phải vượt lên tất cả, trực diện với chúa, sống với Chúa, ở lại với chúa. Đây là công việc của mỗi cá nhân mà không ai thay thế . Bên cạnh đó, đến với Chúa, người môn đệ trở thành nhân chứng cho người anh em xung quanh. Chúng ta có trách nhiệm giúp họ, nói về Chúa cho họ, chỉ cho họ về với Chúa. Đó còn là bổn phận cấp thiết cho chúng ta .
Xin Chúa cho chúng ta biết can đảm bước theo Chúa và dám sống cho Chúa.
25. Gặp gỡ Đức Kitô.
(Trích trong: “Niềm Vui Chia Sẻ”)
Gặp gỡ Đức Kitô, biến đổi cuộc đời mình,
Gặp gỡ Đức Kitô, đón nhận ơn tái sinh.
Gặp gỡ Đức Kitô, chân thành mình gặp mình,
Gặp gỡ Đức Kitô, nảy sinh tình đệ huynh”.
Câu điệp khúc của một bài ca sinh hoạt của các bạn trẻ giúp chúng ta ý thức về cuộc gặp gỡ Đức Kitô của hai môn đệ đầu tiên: Arê và Gioan trong Tin Mừng hôm nay. Chính Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã chọn đoạn Tin Mừng này để làm đề tài cho cuộc gặp gỡ giới trẻ thế giới lần thứ 12 diễn ra vào trung tuần tháng 8 năm 1997 tại Paris, nước Pháp. Theo Đức Thánh Cha, cuộc gặp gỡ rất quan trọng vì là “khởi điểm của mọi hành trình Đức Tin”.
Nhưng thế nào là gặp gỡ Đức Kitô?
Có lẽ chúng ta đều lúng túng khi được người khác đặt câu hỏi cơ bản này. Chúng ta không biết phải trả lời làm sao, mô tả như thế nào. Chúng ta chưa có kinh nghiệm hoặc một kinh nghiệm rất hời hợt. Cuộc gặp gỡ Đức Kitô của hai môn đệ đầu tiên trong Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy một diễn tiến gồm một số bước: Trước hết là được Gioan Tẩy Giả giới thiệu: “Đây là Con Chiên Thiên Chúa. Đây Đấng xóa tội trần gian”. Hai môn đệ vừa nghe giới thiệu liền đi theo Chúa Giêsu. Nếu hai môn đệ không tức khắc đi theo Chúa Giêsu khi nghe Gioan giới thiệu, hai ông đã bỏ lỡ cơ hội gặp gỡ Đức Kitô và đã không trở thành những môn đệ đầu tiên của Ngài.
Bước thứ hai là đối thoại với Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu là người ngỏ lời trước: “Các anh tìm gì thế?” Đức Thánh Cha nói: “Khi ta hỏi Chúa điều gì, thì Ngài luôn hỏi lại ta, người hỏi trở thành kẻ bị hỏi; người tìm kiếm Chúa trở thành kẻ được Ngài kiếm tìm: “Các anh tìm gì thế?”. Câu hỏi có vẻ tầm thường như những câu hỏi lúc mới gặp nhau, nhưng đây là một câu hỏi đặt vấn đề cho những ai theo Chúa: Chúng ta tìm ai? Theo Chúa để làm gì? Chúng ta chờ đợi nơi Chúa điều gì?
Chúa không chờ đợi một câu trả lời của trí tuệ, nhưng chờ đợi một câu trả lời của trái tim, của tâm hồn. Các môn đệ đáp trả bằng một câu vắn gọn: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?” Câu trả lời vắn gọn nhưng biểu lộ lòng trìu mến gắn bó muốn dấn bước theo Thầy, muốn chia sẻ nếp sống của Thầy. Chúa cũng không nói địa chỉ, tên đường, số nhà, vì Ngài “Không có nơi gối đầu”. Ngài chỉ bảo: “Hãy đến mà xem”. “Hãy đến” là lời mời gọi của trái tim rộng mở. Hãy đến mà xem tình yêu của Thiên Chúa biểu lộ nơi con người của Đức Giêsu. Đến với Chúa chắc chắn dẫn đến một kinh nghiệm: kinh nghiệm về một tình yêu sâu thẳm nhất. Các môn đệ đã đến, đã nhìn thấy nơi Chúa ở. Đây không phải là ngôi nhà vật chất, đây là chính Thiên Chúa. Đến với Chúa Giêsu là đến với Thiên Chúa. Ngài ở với Thiên Chúa, ở trong Thiên Chúa. Đến với Chúa Giêsu là gặp gỡ chính Thiên Chúa: “Ai thấy Thầy là thấy Đấng đã sai Thầy”. Các môn đệ đã kinh nghiệm được điều ấy, nên đã ở lại với Chúa. Ở lại với Chúa là gắn bó với Chúa, kết hợp với Chúa, ở lại trong tình yêu của Chúa. Tình yêu làm cho môn đệ gần gũi với Thầy và sự gần gũi làm tăng thêm tình yêu.
Cuối cùng, khi đã kinh nghiệm tình yêu của Chúa, Anrê tự nhiên cảm thấy được thúc bách phải chia sẻ niềm tin cho em mình là Simon Phêrô: “Chúng tôi đã gặp Đức Kitô”. Rồi ông dẫn em mình đến gặp Chúa Giêsu. Anrê chắc chắn biểu lộ một sự thích thú rõ rệt. Ông đã sung sướng được gặp Chúa, ông đã khám phá ra Chúa là Đấng Mêsia, Đấng được Thánh Thần xức dầu tấn phong sai đi loan báo Tin Mừng Cứu Độ. Dĩ nhiên, ông còn phải ở lại với Chúa Giêsu lâu hơn nữa, còn phải tìm hiểu, phải khám phá nhiều hơn. Nhưng giờ đây, ông cùng chia sẻ với em mình, cùng tìm hiểu, cùng khám phá với em và các bạn khác của ông. Niềm tin của ông càng được củng cố, càng lớn lên trong mức độ ông biết chia sẻ cho người khác.
Sau cuộc gặp gỡ đầu tiên đó, các ông trở lại với cuộc sống đời thường. Thế nhưng, từ nay không còn là cuộc sống như trước, vì cuộc gặp gỡ Đức Kitô đã làm thay đổi tận căn. Giờ đây các ông sống với niềm tin Đức Giêsu là Đấng Mêsia –Đấng Thiên Sai Cứu Thế- Chính niềm tin đó điều khiển cuộc sống và làm cho cuộc sống người môn đệ mang một ý nghĩa mới.
Anh chị em thân mến,
Là Kitô hữu, đi lễ, đọc kinh thường xuyên, nhưng thử hỏi, chúng ta có thật đã gặp gỡ Chúa chưa? Đã có lần nào chúng ta choáng váng vì lần đầu tiên gặp gỡ đích thực với Chúa chưa? Chúa đã có mặt trong cuộc sống của chúng ta chưa? Sao cuộc đời ta vẫn không có gì thay đổi, vẫn thấy buồn chán, thất vọng, tội lỗi?...
“Gặp gỡ Đức Kitô, biến đổi cuộc đời mình”. Tại sao cuộc đời tôi chưa được biến đổi? Tôi vẫn sống với con người cũ, tội lỗi, ích kỷ, lười biếng? Tôi như chưa được “tái sinh”, chưa “gặp lại mình”, chưa “nối lại những mối dây huynh đệ” với những người khác? Ấy là dấu Đức Kitô chưa có mặt trong đời tôi. Đã gặp được Chúa là phải có một sự đổi đời. Bởi, sống đạo không phải là sống theo một điều gì, đi theo một ai khác hơn là sống theo Đức Giêsu Kitô.
Nhưng ngày nay, gặp gỡ Đức Kitô ở đâu?
Đức Thánh Cha nói: “Đức Giêsu ở bên cạnh chúng ta, nơi những người anh em chúng ta cùng chia sẻ cuộc sống hằng ngày. Gương mặt của Ngài là gương mặt của người nghèo nhất trong những người nghèo; của những người bị gạt ra bên lề cuộc sống, thường là nạn nhân của những cơ chế bất công. Nhà của Đức Giêsu là bất cứ nơi nào con người phải chịu đau khổ vì các quyền sống của họ bị chối từ, những hy vọng của họ bị phản bội, những lo âu của họ không được biết đến. Nhà của Đức Kitô là chính nơi đó, ở giữa mọi người, nơi mà Ngài yêu cầu chúng ta, nhân danh Ngài, lau khô mọi giọt lệ và nhắc cho những ai cảm thấy một mình cô đơn nhớ rằng chẳng có ai cô đơn hết, nếu họ đặt niềm tín thác vào Ngài”.
Nếu đã gặp được Đức Kitô trong cuộc đời, cuộc đời chúng ta đã được đổi mới như được tái sinh, sẽ từ bỏ con người ích kỷ của mình và bị thúc đẩy chia sẻ niềm tin và cuộc sống với mọi người anh em, nhất là những con người nghèo khổ. Mẹ Têrêxa Calcutta đã gặp Đức Kitô nơi những người nghèo khổ bị bỏ rơi và mẹ đã đem cả cuộc đời để phục vụ hết lòng. Nếu thực sự đã gặp được Đức Kitô, chúng ta đã trở thành một Kitô hữu năng nổ và tích cực trong cuộc sống, sẵn sàng dấn thân phục vụ Tin Mừng tình thương cứu độ của Thiên Chúa cho mọi người.
Như Đức Thánh Cha đã nói: “Cuộc gặp gỡ Đức Kitô rất quan trọng, vì là khởi điểm của mọi hành trình đức tin”. Đức tin quả là một cuộc hành trình khởi đi từ cuộc gặp gỡ Đức Kitô, đến nhận biết Ngài, yêu mến và gắn bó mật thiết với Ngài. Gắn bó mật thiết đến nỗi sẵn sàng tận hiến cả tâm hồn và thể xác, con người và cuộc sống cho vinh Danh Chúa hơn.
26. Thầy ở đâu - Hãy đến mà xem
Suy Niệm
Đoạn Tin Mừng này đã được Đức Thánh Cha dùng làm bài suy niệm cho ngày Giới Trẻ Thế Giới lần thứ XII.
Để gặp được Đức Giêsu, cần có người giới thiệu. Gioan đã giới thiệu Đức Giêsu cho hai môn đệ của mình. Ông Anrê cũng đã giới thiệu Đức Giêsu cho em là Simon, và dẫn ông này đến gặp Ngài. Chẳng ai thực sự gặp được Đức Giêsu mà lại không mong giới thiệu Ngài cho người khác.
Đức Giêsu là kho tàng cứ mãi lớn lên khi được san sẻ. Hạnh phúc của Gioan Tẩy giả và Anrê là thấy Đức Giêsu và người mình giới thiệu gặp nhau. Họ chấp nhận tự xóa mình. Gioan chấp nhận chia tay với hai môn đệ yêu dấu. Anrê sau này chẳng được nổi tiếng bằng Simon.
Theo lời giới thiệu của Gioan, hai ông đi theo Đức Giêsu. Chẳng rõ họ đã đi theo bao lâu và bao xa. Họ rụt rè không biết bắt đầu câu chuyện thế nào. Đức Giêsu thấy sự lúng túng dễ thương của họ. Chính Ngài đi bước trước, mở đầu cuộc đối thoại.
Các anh tìm gì thế?
Câu hỏi này bắt họ phải trở lại với lòng mình, phải ý thức về nỗi khát khao đang chi phối mình. Tôi đang tìm gì? Tiền bạc, tiếng tăm, thỏa mãn? Hay tôi đang tìm một Ai đó cho đời tôi một hướng đi? Đức Giêsu gợi chuyện để họ bày tỏ khát vọng của mình.
Thưa Thầy, Thầy ở đâu?
Câu hỏi này tương đương với một câu trả lời. Chúng con muốn biết nhà của Thầy, muốn đến thăm Thầy.
Đến nhà một người là đi vào thế giới của người đó. Hai ông không chỉ muốn biết Đức Giêsu qua lời Gioan. Họ muốn đích thân gặp gỡ Ngài. Chuyện này không ai làm thay được.
Hãy đến mà xem.
Đức Giêsu không giấu hai ông về thế giới của Ngài. Lời mời này vẫn vang vọng đến tai chúng ta. Đừng sợ đi theo Đức Giêsu để đến nhà Ngài. Đừng sợ trao đổi với Ngài như một người bạn. Nơi nào có những người nghèo khổ, bị bỏ rơi, những người cô đơn, bị khinh miệt hay phản bội, những người khác văn hóa và tôn giáo, nơi đó là nhà của Đức Giêsu.
Họ đã đến xem và đã ở lại.
Hai ông đã nhận lời mời ngay lập tức. Không có khoảng cách giữa ước muốn và thực hành. Chúng ta chẳng rõ chi tiết của cuộc hạnh ngộ này, nhưng chắc chắn đó là một kỷ niệm không quên.
Kinh nghiệm của hai ông cũng là của mọi Kitô hữu. Chúng ta phải được giới thiệu Đức Giêsu, phải đích thân gặp Ngài, và phải trở nên người giới thiệu Ngài cho thế giới.
Gợi Ý Chia Sẻ
"Các anh tìm gì thế?" Theo ý bạn, người trẻ hôm nay đang làm gì? Đang tìm ai? Nơi bản thân bạn, đâu là mối bận tâm lớn nhất của bạn hiện nay?
Bạn có tin Đức Giêsu có thể đem lại câu trả lời cho những vấn đề sâu xa nhất của bạn không? Bạn có tin Đức Giêsu có thể đem lại bình an cho thế giới hôm nay không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
nhiều bạn trẻ đã không ngần ngại chọn những cầu thủ bóng đá, những tài tử điện ảnh làm thần tượng cho đời mình.
Hôm nay, Chúa cũng muốn biết chúng con chọn ai, và chúng con thật sự đắn đo trước khi chọn Chúa.
Bởi chúng con biết rằng chọn Chúa là lội ngược dòng, theo Chúa là bước vào con đường hẹp: con đường nghèo khó và khiêm nhu, con đường từ bỏ và phục vụ.
Hôm nay, chúng con chọn Chúa
Không phải vì Chúa giàu có, tài năng hay nổi tiếng, nhưng vì Chúa là Thiên Chúa làm người. Chẳng ai đáng chúng con yêu mến bằng Chúa. Chẳng ai hoàn hảo như Chúa.
Ước gì chúng con can đảm chọn Chúa nhiều lần trong ngày, qua những chọn lựa nhỏ bé, để Chúa chiếm lấy toàn bộ cuộc sống chúng con, và để chúng con thông hiệp vào toàn bộ cuộc sống của Chúa. Amen.
27. Hành trình ơn gọi – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Các bài sách thánh hôm nay đều nói về ơn gọi. Ơn gọi của Samuel thật lạ lùng. Còn ơn gọi của Anrê và Gioan diễn ra nhẹ nhàng hơn. Tuy nhiên, dù mạnh mẽ lạ lùng hay nhẹ nhàng bình thường, hành trình ơn gọi nào cũng trải qua bốn giai đoạn.
1- Giai đoạn thứ nhất: Chúa kêu gọi.
Việc Chúa kêu gọi không xảy ra tức khắc trong một lần, nhưng diễn tiến tuần tự, chậm rãi với mức độ tăng dần, tuỳ sự đón nhận của người nghe.
Thoạt tiên là một lời kêu gọi nhẹ nhàng qua một thiên hướng, một ước nguyện của người thân, một gương mẫu, một thần tượng. Ở Samuel, đó là ước nguyện của bà mẹ muốn tạ ơn Chúa. Ở Anrê và Gioan, đó là thiên hướng đi tìm lý tưởng.
Sau đó, Chúa có thể dùng các trung gian dẫn ta đến với Chúa. Trong trường hợp Samuel, người trung gian là thày cả Hêli. Còn trong trường hợp Anrê và Gioan, thánh Gioan Baotixita đã làm trung gian đưa hai môn đệ đến với Đức Giêsu.
2- Giai đoạn hai: Ta đáp trả.
Nếu ta trung thành đáp trả mỗi khi nghe tiếng Chúa kêu gọi, Chúa sẽ tiếp tục gọi ta đi vào những đoạn đường mới, mỗi lúc một khó khăn hơn. Tiếng Chúa mời gọi mỗi lúc một mãnh liệt hơn, đòi hỏi ta phải trả lời mỗi lúc một dứt khoát hơn. Cho đến một thời điểm quyết định, Chúa sẽ đưa ra lời mời gọi cuối cùng đòi ta trọn vẹn dấn thân lên đường theo Chúa. Với Samuel, việc Chúa ba lần cất tiếng gọi chứng tỏ Chúa tha thiết muốn tuyển chọn ông. Với Anrê và Gioan, việc Đức Giêsu mời hai ông đến chỗ Ngài ở đã khiến hai ông phải dứt khoát với quá khứ để bắt đầu một giai đoạn mới.
3- Giai đoạn ba: Sống thân mật với Chúa.
Tuyệt đỉnh của ơn gọi không phải là làm việc cho Chúa, nhưng là sống thân mật với Chúa. Chúa không kêu gọi ta theo một chủ thuyết nhưng kêu gọi ta theo Chúa. Ta đến với Chúa không phải để học những bài học lý thuyết nhưng để tham dự vào sự sống của Chúa. Sự sống của Chúa là sự sống thần linh nâng ta lên hưởng nếm sự ngọt ngào của tình Cha - Con thắm thiết. Sự sống của Chúa là tình yêu đưa ta vào hạnh phúc của người biết mình được yêu thương.
Trong tình yêu Thiên Chúa, tâm hồn ta được gột rửa sạch mọi tội lỗi.
Trong tình yêu Thiên Chúa, trái tim ta trở nên dịu dàng, hiền hoà rộng mở để tha thứ và đón nhận mọi người.
Hạnh phúc sống trong tình yêu Thiên Chúa lớn lao đến độ biến đổi toàn bộ cuộc đời ta. Ai đã một lần nếm cảm sẽ không còn mơ ước điều gì khác nữa.
Sau khi được tiếp xúc thân mật với Chúa, trọn cuộc đời Samuel hoàn toàn dâng hiến cho Chúa. Sau một buổi chiều thân mật sống với Đức Giêsu, hai tông đồ Anrê và Gioan gắn bó với Người, cho đến chết vì Người.
4- Giai đoạn bốn: Làm chứng cho tình yêu Chúa.
Cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa rồi, ta sẽ không thể làm điều gì khác hơn là ra đi làm chứng về tình yêu đó. Giống như dòng suối sung mãn tràn xuống thành thác, tâm hồn tràn đầy tình yêu sẽ cất lên thành lời ca tụng, giới thiệu tình yêu Thiên Chúa cho mọi người.
Sau khi gặp Đức Giêsu, Anrê vội vã đi tìm em là Phêrô để dẫn đến giới thiệu với Người. Từ đó, Anrê theo Đức Giêsu cho đến cuối đời. Ông đã đem chính mạng sống làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa. Ông đã đổ máu ra để chứng thực tình yêu ấy. Ông dám khước từ cuộc sống trần gian vì ông đã biết đến hạnh phúc đích thực trong tình yêu Thiên Chúa. Tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa mời gọi đến sống thân mật với Người trong tình Cha-Con thắm thiết.
Lời Chúa vang lên khi ta chịu phép Rửa tội.
Lời Chúa tiếp tục mời gọi ta khi ta lãnh nhận các bí tích, khi ta nghe sách thánh, khi ta học giáo lý, khi ta tĩnh tâm, nghe giảng.
Lời Chúa lúc thì nhẹ nhàng thoang thoảng, khi thì mãnh liệt thiết tha. Nhiều lúc ta tưởng đến nhà thờ vào ngày Chủ nhật là đã đáp lại tiếng Chúa mời gọi, nhưng không phải. Chúa không mời gọi ta chỉ đi lễ như trả nợ. Chúa muốn ta thực sự gặp gỡ Người, tiếp xúc thân mật với Người, sống thân thiết với Người trong tình con thảo.
Hành trình đức tin của người Kitô hữu là một hành trình đi về với Chúa. Sau bao nhiêu năm giữ đạo, tôi đã đi đến đâu? Tôi đã thực sự gặp được Chúa chưa? Tôi đã tiến đến gần Chúa chưa? Hay là tôi mới ở khởi điểm? Hãy đến, Chúa đang mời gọi ta. Chúa đang chờ đợi ta. Chúa đang mở rộng vòng tay, mở rộng trái tim để đón ta đến sống trong tình yêu của Người. Tình yêu ấy là hạnh phúc muôn đời của ta.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Có khi nào bạn nghe thấy tiếng Chúa mời gọi không?
2- Bạn đã quảng đại đáp lại tiếng Chúa mời gọi chưa?
3- Có bao giờ bạn cảm nghiệm được tình yêu của Chúa chưa?
28. Chúa kêu gọi con người hợp tác
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
"Hai môn đệ nghe Gioan nói, liền đi theo Đức Giêsu" (Ga 1,37)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Hôm nay chúng ta bước vào mùa Thường niên. Các bài đọc trong Thánh lễ sẽ dần dần dẫn bước chúng ta đi theo Chúa. Bước đầu tiên là Chúa đến gặp gỡ chúng ta và kêu mời chúng ta đi theo Ngài.
Xin Chúa giúp chúng ta nghe được tiếng kêu gọi của Ngài và mau mắn đáp lại.
II. Gợi ý sám hối
Nhiều lần Chúa đã kêu gọi chúng ta, nhưng chúng ta không nghe thấy vì chúng ta mãi mê theo đuổi những chuyện vật chất, thế gian.
Chúa mời 2 môn đệ đầu tiên "Hãy đến mà xem". Chúa cũng kêu mời chúng ta như thế. Nhưng rất ít khi chúng ta chịu khó đến với Chúa và chiêm ngắm Chúa.
Chúa đã tạo dựng cho chúng ta một thân xác để chúng ta xử dụng mà tôn vinh Chúa. Nhưng rất nhiều lần chúng ta lại dùng thân xác mình để làm chuyện tội lỗi.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (1 Sm 3,3b-10.19)
Chuyện xảy ra vào cuối thời kỳ các Thủ lãnh (hay còn gọi là Quan án). Thủ lãnh lúc đó là thầy cả Hêli. Ông này có hai đứa con trai. Vì không được Hêli giáo dục kỹ, cho nên hai tên này rất vô đạo. Chúng lợi dụng chức vụ của cha chúng để làm nhiều điều xấu xa tội lỗi. Vì thế Thiên Chúa quyết định chọn người khác thay thế Hêli. Người đó là Samuel, khi ấy còn là một cậu bé được trao phó cho Hêli dạy dỗ trong đền thờ Silô.
Một đêm câu bé Samuel đang ngủ trong đền thờ thì Thiên Chúa gọi cậu 3 lần. Ban đầu cậu chưa biết đó là tiếng Chúa. Nhưng sau đó, được Hêli cho biết đó là tiếng Chúa thì Samuel đã mau mắn đáp lại: "Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe". Thế là Chúa gọi Samuel làm thủ lãnh dân Do Thái thay cho thầy cả Hêli.
2. Đáp ca (Tv 39)
Đây là lời đáp ngoan ngoãn và quảng đại của kẻ được Chúa gọi: "Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa".
3. Tin Mừng (Ga 1,35-42)
Gioan và Anrê là môn đệ của Gioan Tẩy giả. Một hôm, Gioan tẩy giả đang đứng với họ thì thấy Đức Giêsu đi ngang qua. Gioan tẩy giả chỉ Ngài cho môn đệ thấy và giới thiệu "Đây là con chiên Thiên Chúa", kiểu nói có nghĩa Đức Giêsu là Đấng Messia. Nghe thế Gioan và Anrê liền đi theo Đức Giêsu. Sau đó Anrê lại giới thiệu Đức Giêsu cho anh mình là Simon. Đức Giêsu lại kêu gọi Simon và còn đổi tên ông thành Phêrô.
4. Bài đọc II (1 Cr 6,13c-15a.17-20) (chủ đề phụ)
Những giáo huấn của Thánh Phaolô trong đoạn thư này vẫn còn là căn bản cho giáo lý ngày nay về giá trị thân xác con người:
- Thân xác chúng ta là chi thể của Đức Kitô,
- là đền thờ của Chúa Thánh Thần,
- đã được cứu chuộc bằng giá máu của Đức Kitô.
- Vì thế chúng ta không được dùng thân xác để phạm tội dâm ô, nhưng phải dùng nó để tôn vinh Thiên Chúa.
IV. Gợi ý giảng
1. Cảm nghiệm nhớ đời
a/ Cảm nghiệm của thánh Gioan tông đồ: Trong bài Tin mừng này, Thánh Gioan ghi lại một cảm nghiệm rất sâu sắc mà Ngài được trải qua và nhớ mãi suốt đời, đến nỗi khi Ngài ngồi lại để viết đoạn Tin mừng này (khoảng năm 90), việc đó đã trôi qua khoảng 60, 70 năm mà Ngài vẫn nhớ rất rõ "lúc đó là khoảng giờ thứ 10". Cảm nghiệm gì mà sâu sắc như vậy? Thưa là cảm nghiệm được gặp Chúa và từ đó gắn bó với Chúa. Chính Thánh Gioan kể lại như sau:
Khi ấy Ngài đang là môn đệ của Gioan tẩy giả. Một hôm Đức Giêsu đi ngang qua, Gioan Tẩy giả liền chỉ cho các môn đệ mình và nói: "Đấy là Con Chiên Thiên Chúa". Nghe vậy, Gioan và một môn đệ nữa liền đi theo Đức Giêsu. Đức Giêsu thấy họ đi theo sau lưng nên quay lại hỏi "Các anh tìm gì?" Họ không trả lời nhưng hỏi lại "Thưa Thầy, Thầy ở đâu?" Đức Giêsu cũng không trả lời nhưng mời họ "Hãy đến mà xem", rồi dẫn họ tới chỗ Ngài đang trọ. Họ đã đến và ở lại với Ngài suốt ngày hôm ấy. Hẳn là một ngày rất ấm cúng, cho nên sau đó họ đã trở thành môn đệ của Đức Giêsu luôn và 60, 70 năm sau Thánh Gioan còn nhớ kỹ lúc bắt đầu việc đó là "khoảng giờ thứ 10". Thật đúng như lời của một thi sĩ rằng:
"Cái phút ban đầu lưu luyến ấy,
Nghìn năm hồ dễ đã mau quên".
Thánh Gioan muốn chia xẻ cho chúng ta một kinh nghiệm quý giá, đó là: nếu có lần nào chúng ta được thực sự gặp Đức Giêsu và lưu lại trong tình thân mật với Ngài thì chúng ta sẽ không thể nào quên được Ngài, chúng ta sẽ mãi mãi gắn bó với Ngài.
b/ Cảm nghiệm của một số người khác:
- Văn hào Pháp Paul Claudel: một buổi chiều kia rảnh rỗi Paul Claudel rảo bước dạo chơi và tình cờ đi ngang một nhà thờ. Từ trong nhà thờ vang ra tiếng hát thánh ca thanh thoát, siêu phàm. Tiếng Thánh ca ấy đã thu hút ông buớc vào. Ông cảm xúc và ở lại cho đến hết buổi lễ. Và từ chiều hôm đó trở đi, Paul Claudel đã trở thành một tín hữu sốt sắng kiên trì trong Đức Tin. Ông viết nhiều quyển sách truyền bá Đức tin và ca tụng Thiên Chúa, ca tụng Đức Mẹ. Mọi sự bắt đầu vào một buổi chiều đáng nhớ.
- Thomas Merton: Thomas Merton mồ côi cha mẹ lúc 16 tuổi, năm 20 tuổi ông trở thành đảng viên cộng sản, ông hoàn toàn không tin gì về những sự siêu nhiên và sống một nếp sống chạy theo vật chất, nhục lạc. Một đêm kia khi đang ở trong một khách sạn, tự dưng ông nhìn lại đời mình, thấy nó quá trống rỗng và cũng quá nhầy nhụa, đến nỗi ông chê chán chính mình. Lúc đó chẳng biết làm gì khác, Thomas Merton quỳ gối xuống và cầu nguyện: "Lạy Chúa, từ trước tới nay tôi chẳng hề tin Chúa và ngay bây giờ tôi cũng chẳng biết có Chúa hay không. Nhưng nếu thật có Chúa thì xin Ngài hãy giúp kéo tôi ra khỏi vũng bùn nhầy nhụa của đời tôi hiện tại". Đêm hôm đó lần đầu tiên Thomas Merton cầu nguyện. Ông đã gặp được Chúa và từ đó mãi mãi gắn bó với Chúa. Sau đó ông đi tu dòng Trappe. Mọi sự bắt đầu từ một đêm gặp Chúa.
2. Chúa vẫn còn kêu gọi
Mặc dù Thiên Chúa là Đấng quyền phép vô cùng, muốn làm gì cũng được, nhưng Ngài không thích làm một mình, mà luôn kêu mời con người chúng ta cùng làm với Ngài.
Bắt đầu lịch sử cứu độ, Ngài đã kêu gọi Abraham.
Khởi sự cuộc giải phóng dân do thái, Ngài kêu gọi Môsê.
Mở màn thời Tân Ước, Ngài đã kêu gọi Maria.
Khai mạc sứ vụ rao giảng Nước Trời, Ngài kêu gọi các môn đệ v.v.
Tóm lại, thời Cựu Ước vẫn thế, thời Tân Ước vẫn thế, và thời Hội Thánh cũng vẫn thế: Thiên Chúa luôn muốn kêu gọi con người hợp tác với Ngài trong công trình cứu độ.
Thánh Augustinô đã suy gẫm rất nhiều về điều này, và Ngài đã viết: "Khi tạo dựng con, Chúa không cần hỏi ý con. Khi muốn thánh hóa con, Chúa cần sự hợp tác của con".
3. Chúa gọi, con người đứng lên
Tháng 3 năm 1998, Đức Cha Gioan Bta Phạm Minh Mẫn, Giám mục phó giáo phận Mỹ Tho, được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Tổng Giám mục tổng giáo phận Saigon. Từ Lyon nước Pháp, nữ tu Marie Claude Faure, cựu Tổng quyền Dòng Chúa Quan Phòng Portieux, đã gởi đến ĐC Gioan Bta những lời khích lệ như sau:
Chúa cần một người cha cho dân Ngài
Ngài đã chọn một cụ già. Thế là Abraham đứng lên...
Ngài cần một người phát ngôn.
Ngài đã chọn một kẻ nhút nhát nói năng ngọng nghệu. Thế là Môsê đứng lên...
Ngài cần một lãnh tụ dẫn dắt dân Ngài.
Ngài đã chọn kẻ nhỏ nhất, yếu nhất. Thế là Đavít đứng lên...
Ngài cần một tảng đá để đặt nền cho tòa nhà.
Ngài đã chọn một người chối thầy. Thế là Phêrô đứng lên...
Ngài cần một gương mặt để nói cho người ta biết tình thương của Ngài.
Ngài đã chọn một cô điếm. Đó là Maria Mađalêna.
Ngài cần một nhân chứng để hô to sứ điệp của Ngài.
Ngài đã chọn một kẻ bách hại đạo. Đó là Phaolô thành Tarsô...
Ngài cần ai đó để tập họp dân Ngài và để Ngài đến với những kẻ khác.
Ngài đã chọn Đức Cha: dù Đức Cha run sợ, Đức Cha sẽ có thể không đứng lên sao?
4. "Hãy đến mà xem"
Đức Giêsu nói với Anrê và Gioan "Hãy đến mà xem". Ý của Đức Giêsu là muốn gọi họ làm môn đệ. Nhưng Ngài chưa nói rõ ý đó ra, Ngài chỉ mời họ đến và xem.
Phải đến, đến gần Đức Giêsu thì mới hiểu Ngài rồi mới có thể làm môn đệ Ngài. Không thể tưởng tượng nổi kiểu môn đệ gì mà ở xa Thầy, không thường xuyên đến gần Thầy.
Rồi phải xem nữa. Môn đệ không chỉ nghe Thầy dạy, mà còn phải xem cách Thầy sống để sống theo. Không thể chấp nhận kiểu môn đệ mà không sống theo gương Thầy.
Câu Tin Mừng này nhắc tôi phải thường xuyên đến gần Đức Giêsu bằng những lúc cầu nguyện, và phải chăm chỉ xem Đức Giêsu bằng việc nguyện gẫm.
5. Giới thiệu Chúa cho anh em
Nhiều nhóm binh sĩ có vũ trang từ Syrie xâm chiếm đất Israel. Sau khi bắt dân Israel làm tù binh, chúng tàn phá thành phố và làng mạc. Chúng bắt những tù binh này làm việc như những đầy tớ trên đất Syrie. Trong số những người bị bắt, có một cô gái. Người ta không nói tên của cô ta.
Cô trở thành đầy tớ của viên sĩ quan nổi tiếng người Syrie, tên là Naaman. Vua Syrie rất hài lòng về Naaman, vì ông là một sĩ quan rất gan dạ. Rủi thay ông vừa mắc bệnh phong.
Một ngày kia, cô tớ gái nói với bà chủ: "Giá mà ông chủ Naaman được gặp tiên tri Elisa, đang sống ở Samaria, thì ngài sẽ chữa cho ông chủ tôi khỏi bệnh" Nghe vậy, Naaman xin vua Syrie viết thư giới thiệu cho vua Israel. Ông cũng mang theo vải vóc, vàng bạc làm quà tặng.
Khi vua Israel đọc thư, ông rất lo, vì ông nghĩ vua Syrie muốn gây chiến. Nhưng Elisa nghe biết, ông xin nhà vua để mình chữa bệnh cho Naaman. Elisa không gặp Naaman, nhưng chỉ gởi một lá thư: "Hãy đi tắm trong dòng sông Giodan 7 lần và ông sẽ được khỏi".
Naaman rất tự ái, ông không chịu tắm, nhưng đầy tớ khuyên ông cứ làm như lời nhà Tiên tri. Và quả nhiên, Naaman đã được chữa khỏi, da của ông trở nên mịn màng như da đứa trẻ. Naaman dâng cho Elisa quà tặng, nhưng người của Thiên Chúa không nhận, chỉ chúc cho ông "Hãy về bình an".
****
Chúng ta đừng bao giờ quên đứa tớ gái nhỏ bé ở đầu câu chuyện, em đã mau mắn giới thiệu tiên tri Elisa cho Naaman. Nếu cô bé giữ im lặng, thì Naaman sẽ không bao giờ được chữa lành.
Hôm nay, Anrê cũng giới thiệu Phêrô em mình cho Đức Giêsu: "Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a" (Ga.1,41). Rồi dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu.
Dường như mỗi lần Tin mừng Gioan đề cập đến Anrê thì liền sau đó Anrê lại dẫn một ai đó đến với Đức Giêsu. Anrê đã trở nên nổi tiếng vì ông đã dẫn cậu bé có "năm chiếc bánh và hai con cá" giới thiệu với Đức Giêsu. Để rồi sau khi cầu nguyện tạ ơn, Người đã biến bữa ăn trưa của cậu bé trở nên bữa ăn tập thể nuôi sống hơn năm ngàn người.
Lần thứ ba, chúng ta gặp lại Anrê lúc Đức Giêsu vào Giêrusalem lần cuối. Có mấy người Hy Lạp đến xin gặp Người. Cũng chính Anrê là người đã giới thiệu họ với Đức Giêsu. Và chắc hẳn đó là điều làm người hài lòng, vì sau đó Người phán: "Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi" (Ga.12,32).
Nếu Anrê không giới thiệu Phêrô với Đức Giêsu thì có lẽ chẳng bao giờ có tông đồ Phêrô đá tảng của Hội thánh.
Nếu Anrê không giới thiệu cậu bé có "năm chiếc bánh và hai con cá", thì có lẽ chẳng có phép lạ đầy ngoạn mục hứng khởi trong Thánh kinh.
Vậy bài học của Anrê là hãy giới thiệu cho mọi người đến với Đức Giêsu. Đó là con đường rao giảng từ người này đến người kia, từng người một. Đức Giêsu rất cần những người giàu tình bạn chân thành, những bước chân mang dấu vết của thân thiện, những lời nói luôn chứa đầy nhiệt huyết, những chứng nhân ra đi kể câu chuyện: "Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia".
***
Lạy Chúa, trên trái đất này, chúng con là đôi tay, là tiếng nói, là trái tim của Chúa. Xin cho chúng con trở nên những người nhiệt thành giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
6. Một cuộc gặp gỡ đầy ý nghĩa
Trong đời của chúng ta có rất nhiều cuộc gặp gỡ.
Có những cuộc gặp gỡ chẳng có ý nghĩa bao nhiêu và sớm rơi vào quên lãng. Đó là gặp gỡ hời hợt bề ngoài. Ta có thể nói chuyện với một người nào đó hàng giờ, có khi hàng năm nhưng vẫn thấy chưa thể cởi mở hết tấm lòng. Ta có thể sống chung một tập thể với một người nào đó nhiều năm trời nhưng không bao giờ hiểu được người đó.
Có những cuộc gặp gỡ mà sau khi chia tay, chúng ta cảm thấy mình còn nghèo nàn hơn trước.
Nhưng cũng có những cuộc gặp gỡ rất nhiều ý nghĩa, làm cho chúng ta giàu hơn, và có khi làm thay đổi hẳn cuộc đời chúng ta. Bạn có thể gặp một người nào đó chỉ một lần liền cảm thấy gắn bó với người đó. Với người đó, bạn có thể cởi mở hết tấm lòng.
Khi tình bạn nẩy sinh giữa ta với một người nào đó, ta không cảm thấy rõ ràng đời mình đã đổi thay, nhưng ta nhận thức được rằng đời mình đã có một cái gì đó khác trước, ta có thể yêu thương và chăm sóc người đó một cách dễ dàng không cần cố gắng.
Đừng nghĩ rằng hễ cứ sống với nhau lâu dài và kiên trì chiều chuộng nhau thì sẽ có tình yêu. Theo Kahlil Gibran, "Tình yêu là con đẻ của một sự thu hút vô hình. Nếu sự thu hút này không nẩy sinh trong một giây phút thì nó sẽ chẳng bao giờ nảy sinh cho dù trải qua nhiều năm và thậm chí nhiều thế hệ".
Có những cuộc gặp gỡ rất tình cờ nhưng lại khiến người ta gắn bó với nhau suốt đời. Nhiều cặp vợ chồng đã kể về lần đầu tiên họ gặp nhau với những chi tiết mà suốt đời họ không thể nào quên.
Những điều nói trên giúp chúng ta hiểu được tầm quan trọng của cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa Đức Giêsu và 3 môn đệ sau này sẽ trở thành tông đồ của Ngài: Anrê, Gioan và Phêrô. Rõ ràng đây là một cuộc gặp gỡ tuyệt vời, bởi vì rất nhiều năm sau, khi Gioan viết Tin Mừng, ông vẫn còn nhớ chính xác thời giờ lúc đó: "Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười" (nghĩa là khoảng 4 giờ chiều).
Vừa khi gặp Đức Giêsu, họ đã bị Ngài thu hút. Tuy nhiên Ngài không hối thúc, Ngài để họ thong thả muốn tìm hiểu Ngài bao lâu tuỳ ý: "Hãy đến mà xem". Họ đã đến và đã xem. Họ thấy Ngài thân thiện, niềm nở, nồng ấm. Họ biết mình đã gặp được một con người tuyệt vời, và thế là một tình nghĩa gắn bó được phát sinh.
Khi ở với Ngài, họ cảm thấy hoàn toàn bình an thoải mái. Qua tiếp xúc với Ngài, họ còn khám phá chính bản thân họ. Thấy cung cách của Ngài, họ cảm mến và thấy rằng mình cũng phải cố gắng sống theo cung cách ấy.
Có một khác biệt vô cùng to lớn giữa uy quyền và ảnh hưởng. Những người hành quyền trên chúng ta thì muốn chế ngự chúng ta, biến chúng ta thành nô lệ họ hoặc một bản sao của họ. Trái lại, những người có ảnh hưởng trên chúng ta thực ra không có ý gò ép chúng ta, thay đổi chúng ta hay khuôn đúc chúng ta thành người giống như họ. Họ ban cho chúng ta một không gian mà trong đó chúng ta có thể tìm gặp chính mình và sống theo cách thức của mình. Đức Giêsu không hành quyền trên các môn đệ. Nhưng Ngài có ảnh hưởng sâu đậm trên họ. Cuộc gặp gỡ hôm ấy đã biến đổi hẳn cuộc đời của Gioan, Anrê và Phêrô.
Chúng ta không thể gặp gỡ Đức Giêsu trong xác thể, nhưng chúng ta có thể gặp gỡ Ngài một cách thiêng liêng trong đức tin như gặp một người Bạn, một người Anh và một Đấng cứu tinh.
Ngày nay Đức Giêsu vẫn còn đi qua và luôn sẵn sàng đón tiếp những ai tìm gặp Ngài. Tuy nhiên Ngài không bao giờ ép buộc ai phải sống như Ngài. Đối với những ai có thiện chí muốn biết Ngài nhiều hơn, Ngài nói như đã nói với Gioan và Anrê "Hãy đến mà xem". (Viết theo Flor McCarthy)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu mời gọi những người muốn theo Người "Hãy đến mà xem", để hiểu biết Người hơn mà chọn lựa thái độ đối với Người. Chúng ta hãy tin tưởng dâng lên Chúa những ý nguyện sau đây:
1. Xin cho mọi người trong Hội thánh biết năng tìm dịp gặp gỡ Đức Giêsu / để mỗi người càng hiểu biết và yêu mến Người hơn.
2. Xin cho mọi người trên thế giới chưa biết gì về Chúa Kitô / được có dịp gặp gỡ và hiểu biết Người là Đấng Cứu độ.
3. Xin cho mọi người đang gặp đau khổ và thử thách / biết tìm đến với Đức Giêsu Kitô để Người giải khổ và bồi dưỡng cho.
4. Xin cho anh chị em trong cộng đồng họ đạo chúng ta biết dùng lời nói và việc làm của mình như dấu chỉ và dụng cụ để giới thiệu Đức Giêsu Kitô cho mọi người.
Chủ tế: Lạy Đức Giêsu Kitô, Chúa đã mời gọi chúng con "Hãy đến mà xem", xin cho mọi người chúng con biết lắng nghe và đáp lại tiếng Chúa mời gọi. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.
VI. Trong Thánh lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Trong tâm tình sẵn sàng của những kẻ được Chúa gọi "Lạy Chúa, này con xin đến, để thực thi ý Chúa", chúng ta hãy sốt sắng dâng lên Chúa lời kinh Lạy Cha.
- Sau kinh Lạy Cha: "Lạy Cha xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin giúp chúng con lắng nghe những tiếng gọi của Cha, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an..."
VII. Giải tán
Ngày xưa Chúa đã kêu gọi Ông Samuel, Chúa đã kêu gọi các môn đệ đầu tiên là Gioan, Anrê và Simon... Ngày nay Chúa cũng kêu gọi chúng ta làm môn đệ Ngài để đem Tin Mừng của Ngài rao giảng cho thế giới. Chúng ta hãy đáp lại lời Ngài, suốt tuần lễ này nhiệt tình làm chứng cho Tin Mừng trong môi trường chúng ta sống và làm việc.
29. Đối với tôi, Đức Giêsu là ai?
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Thiên ký sự của thánh Gioan về ơn gọi của những môn đệ đầu tiên, đáng khâm phục vì lời văn bình dị và gợi ý. Ký sự diễn tả tiến trình cơ bản về mọi ơn gọi theo Đức Kitô: gặp gỡ, phát hiện, ưng thuận, thay đổi đời sống.
- Gặp gỡ. Hai môn đệ Anrê và Gioan gặp Đức Giêsu vì đã được Gioan Tẩy giả lưu ý họ về người. Cũng thế, Simon – Phêrô gặp Chúa, vì Anrê cho biết. Trong hai trường hợp này, ta thấy rằng một sự can thiệp của con người chính là con đường đưa người ta đến gặp Đức Giêsu. Nhưng tự nó sự can thiệp không có tính cách quyết định trong việc các môn đồ đi tìm Chúa. Điều khiến họ quyết định, chính là lời kêu gọi của Đức Giêsu: Hãy đến mà xem. Như vậy hai yếu tố đầu tiên trong tiến trình đáp ứng ơn gọi là: một người dẫn những người khác đến nơi gặp gỡ- Thiên Chúa kêu gọi. Một câu hỏi được đặt ra: đó bao giờ chúng ta nghĩ rằng có thể chúng ta cũng dẫn một người nào đó đến gặp Đức Giêsu không? Cũng như Gioan Tẩy Giả, chúng ta biết rõ Đức Giêsu là ai. Giống như Anrê, chúng ta đã tìm thấy Đấng Cứu thế. Liệu chúng ta có lo lắng đến việc không nên khư khư giữ làm của riêng điều chúng ta tìm thấy? Để cho lời gọi của Chúa đến với một người trong anh em chúng ta, có lẽ Chúa nhờ chúng ta dẫn kẻ ấy đến gặp Người.
- Phát hiện. Vì vậy hai môn đệ đến và nhìn thấy nơi Chúa ở. Sau khi đã lưu lại với Chúa tới sáng hôm sau, họ tin chắc đã gặp Đấng Cứu Thế. Họ phát hiện Đức Giêsu là ai. Ta có thể nghĩ xa hơn: Hai môn đệ đã phát hiện Đức Giêsu là ai đối với họ. Thật vậy, không những họ nhận Đức Giêsu đúng là Đấng Cứu Thế, mà lại còn khám phá thấy một liên hệ đặc biệt do Đức Giêsu thiết lập giữa Người với họ, Chúa kêu gọi họ hãy trở nên môn đệ Người – đặc biệt Phêrô được Chúa gọi là “Đá”, tức là đá tảng trên đó Đức Giêsu sẽ thiết lập Giáo Hội Người. Tới đây, ta nhận định: Trong tiến trình ơn gọi, con người lúc đối diện với Đức Kitô không những phát hiện Đức Kitô, trong bản thế là ai mà còn thấy rõ Đức Kitô là ai đối với người được gọi. Mỗi người chúng ta cũng có thể tự hỏi: Đối với tôi, Đức Giêsu là ai? Người gọi tôi làm việc gì? Ý muốn của Người ảnh hưởng trên tôi thế nào?
- Ưng thuận và thay đổi. Đoạn Phúc âm kể lại đầy đủ: Sau khi gặp Đức Giêsu và ở lại với Người tơí hôm sau, những môn đệ tình nguyện theo Chúa. Toàn bộ Phúc âm theo thánh Gioan cho biết một việc: Sự ưng thuận theo Chúa đã đếm lại đổi thay trong đời họ. Họ bỏ lại tất cả để theo Đức Kitô. Niềm tin vào Đức Kitô xoay đổi đời sống con người theo một hướng hoàn toàn khác với chiều hướng bình thường. Thậm chí, ở đây lại là theo Chúa trong điều kiện sinh hoạt khác với mọi người. Kitô hữu được kêu gọi hãy uốn sửa đời mình cho phù hợp với khuôn mẫu Đức Kitô. Đó là điều làm thay đổi một đời người, thay đổi toàn diện.
Tóm lại, đoạn Phúc âm nói với chúng ta thế này:
1) Có những người đi tìm Đấng Cứu Thế.
2) Thấy họ tìm thì Chúa đến với họ và kêu gọi họ.
3) Những người ấy đáp ứng lời Chuá bằng một câu đáp tích cực nó biến đổi đời họ. Ba câu hỏi chờ chúng ta: chúng ta có phải là những Kitô hữu trên đường tìm Chúa không? Chúng ta có nghe thấy những lời mời của Chúa không? Câu đáp của chúng ta, tức là nếp sống Kitô giaó thực tiễn, có biến đổi chúng ta, làm cho chúng ta trở thành môn đệ không?
30. Lựa chọn theo Chúa
“Một trong hai người… đã đi theo Chúa Giêsu”.
Một thương gia người Mỹ, lúc chết đã làm chúc thư để lại gia tài đồ sộ cho các con. Người con gái của ông tên Grace lúc đó 23 tuổi, đang tu ở tu viện Đaminh Nữu Ước. Ông để cho cô này một triệu đô la, với điều kiện là cô phải rời tu viện và tuyên bố bỏ đạo Công giáo. Cuối cùng nữ tu Grace dứt khoát không rời tu viện, cũng không bỏ đạo. Vì thế cô đã mất cả phần tài sản to lớn đó.
Bước đường theo Chúa đôi lúc cũng đòi một sự lựa chọn như vậy. Tin Mừng hôm nay cho ta thấy những người đầu tiên xin làm môn đệ Chúa. Trong giai đoạn đầu cuộc sống công khai của Chúa, chỉ có Gioan Tẩy Giả được ban ơn đặc biệt nhận ra Chúa, ông giới thiệu Chúa: “Đây là Con Chiên Thiên Chúa”. Người Do Thái nghe danh hiệu này theo ý nghĩa thường gặp trong Kinh Thánh, là tôi tớ Thiên Chúa, một người tôi tớ âm thầm phục vụ lò sát sinh. Những người nghe thánh Gioan lúc đó là những người thiện chí, muốn cải thiện, họ quanh quẩn bên vị tiền hô để học hỏi sống chính trực. Họ biết Chúa Giêsu là người tốt, nhưng không phải một ông vua, không hứa hẹn giàu sang vinh hiển, tuy nhiên cũng có người quyết định đi theo Chúa.
Chúa Giêsu tiếp đón họ rất bình thường, chẳng có gì là niềm nở. Chúa hỏi họ như hỏi người lạ: “Các anh kiếm gì?” Chúa không phải một người quảng cáo hay tuyên truyền. Chúa bảo các ông: “Hãy đến mà xem”. Việc tìm hiểu rất cần thiết, chứng tỏ một tâm hồn khát khao chân lý, một tâm hồn có khả năng tiến bộ. Trong buổi đàm đạo đầu tiên này, có lẽ những người theo Chúa không được hứa hẹn gì, ngoài việc nhận ra Chúa là Đấng Mêsia, Đấng đã được hứa ban trong Kinh Thánh. Nhưng Kinh Thánh cũng đã nói trước Đấng Mêsia sẽ chịu bạc đãi, khổ đau. Họ chưa hiểu cặn kẽ số phận Đấng Cứu Thế, nhưng cũng lờ mờ thấy theo Chúa là phải chấp nhận khó khăn, hy sinh và có khi nguy hiểm nữa, nhưng họ đã quyết định theo Chúa.
Các ông đi theo Chúa trong niềm vui phấn khởi. Các ông vui không vì đã tìm ra một món lợi, nhưng vì từ lâu các ông vốn khát khao ơn cứu độ, các ông tha thiết chia sẻ tâm tình mong chờ Đấng Cứu Thế của Kinh Thánh, và bây giờ thấy lòng mong đợi đó được đáp ứng. Các ông có được niềm vui lớn lao, và khi vui người ta thấy cần chia sẻ, niềm vui sẽ tràn đầy và truyền lan. Các ông đi nói lại với bạn bè, với bà con thân thuộc: Chúng tôi đã thấy Đấng Cứu Thế, cũng gọi là Đức Kitô. Các ông muốn người thân cũng vui với mình, và muốn mọi người cùng đi theo Chúa như mình.
Đầu tiên Gioan Tiền Hô đã gửi Anrê và Gioan đến với Chúa. Rồi Anrê và Gioan đi gọi Simon và Philipphê mời gọi Nathanael. Khởi đầu là do Chúa. Ơn gọi của Chúa như một niềm vui lan tràn từ người nọ tới người kia như nước chuyển qua những ống dẫn và ta có cảm tưởng như nếu không có người hướng dẫn thì những người kế cận sẽ không nhận được ơn gọi của Chúa.
Xin Chúa giúp mỗi người chúng con biết lắng nghe lời Chúa gọi và luôn cố gắng truyền thông cho anh chị em, để mọi người sớm thành môn đệ Chúa.
31. Giới thiệu
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, tôi muốn chia sẻ với anh em một bổn phận quan trọng, đó là: Bổn phận giới thiệu Đức Kitô cho những người chung quanh.
Thực vậy, Gioan Tiền Hô lúc bấy giờ xuất hiện bên bờ sông Giordan, ông rao giảng về tâm tình ăn năn và trao ban phép rửa sám hối. Mọi người đều kính trọng ông và coi ông như là một vị tiên tri. Thế nhưng ông đã thẳng thắn xác quyết với họ:
- Tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc, hãy dọn đường Chúa đến.
Cũng chính ông đã long trọng giới thiệu Chúa Giêsu cho các môn đệ của mình:
- Đây là Chiên Thiên Chúa.
Rồi ông đã khiêm nhường thú nhận:
- Tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Ngài. Ngài cần phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi.
Nghe lời giới thiệu ấy, Andrê và Gioan đã bước theo Chúa. Chúa Giêsu quay lại thấy hai ông liền phán:
- Các ngươi tìm chi.
Các ông thưa:
- Lạy Thầy, Thầy ở đâu?
Chúa Giêsu bảo:
- Hãy đến mà xem.
Hai ông đã đến cùng Chúa và ở lại với Ngài ngày hôm đó. Sau cuộc gặp gỡ này, Andrê đã đi tìm em mình là Simon và nói với ông:
- Chúng tôi đã gặp Đấng Cứu Thế, tức là Đức Kitô.
Và chính Andrê đã dẫn Simon đến cùng Chúa.
Thoạt nhìn thấy Simon, Chúa Giêsu liền phán:
- Con là Simon, kể từ nay con sẽ được gọi là Kêpha, nghĩa là Đá.
Phúc âm còn kể tiếp, sau khi được Chúa gọi, Philipphê, đã đến gặp Nathanael và nói:
- Chúng tôi đã gặp Chúa Giêsu, con ông Giuse quê tại Nagiarét, là đấng Maisen mà các tiên tri đã nói tới trong lề luật.
Nhưng Nathanael đáp lại:
Ở Nagiarét nào có cái chi hay?
Philipphê liền nói:
- Hãy đến mà xem.
Cuối cùng Nathanael đã đi tìm gặp Chúa, đã tin nhận Chúa với lời tuyên xưng:
- Lạy Thầy, Thầy là Con Thiên Chúa, là vua Israel.
Và ông đã trở nên một trong số 12 tông đồ của Ngài.
Từ những chi tiết tôi vừa kể, chúng ta thấy: Gioan Tiền hô đã giới thiệu Chúa Giêsu cho các môn đệ của ông, trong đó có Gioan và Andrê. Rồi sau đó, Andrê cũng đã giới thiệu Chúa Giêsu cho em mình là Phêrô. Còn Philipphê, một khi đã đi theo Chúa, ông cũng đã giới thiệu Chúa cho Nathanael. Còn chúng ta thì sao?
Nhiều người trong chúng ta lầm tưởng rằng, bổn phận giới thiệu Đức Kitô, làm chứng về Ngài cũng như rao giảng Phúc âm là một bổn phận dành riêng cho các linh mục và tu sĩ, còn người giáo dân, thì không cần phải vướng mắc chi vào chuyện đó.
Nghĩ như vậy là lầm. Đúng thế, với Bí tích Rửa tội, chúng ta trở nên người Kitô hữu. Và như chúng ta thường định nghĩa. Người Kitô hữu là người có Đức Kitô trong tâm hồn và mang Đức Kitô trong cuộc sống của mình, bằng cách tuân giữ những điều Ngài truyền dạy và sống gắn bó mật thiết với Ngài qua những tâm tình cầu nguyện.
Thế nhưng có Chúa mà thôi chưa đủ, chúng ta còn có bổn phận phải giới thiệu Chúa, phải đem Chúa đến cho những người chung quanh. Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã phán:
- Các con là muối, là men, là ánh sáng. Các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân…
Bởi đó, bằng một cuộc sống đạo đức, chúng ta thực sự có Chúa trong tâm hồn, đồng thời bằng những hành động bác ái yêu thương, chúng ta đem Chúa đến và giới thiệu Chúa cho những người chung quanh chúng ta.
32. Hoàn hảo
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Thái)
“Họ xem chỗ Người ở, và ở lại với Người.” (Ga 1,35-42)
Ở đời ai cũng muốn đi tìm cái hơn. Muốn giàu có hơn, học hành giỏi hơn, có bằng cấp cao hơn. Lấy vợ gả chồng đôi khi cũng nhằm chỗ cao hơn mà tính. Thật không may, người ta chỉ đi tìm cái hơn về vật chất bằng mọi giá, ngay cả bằng những cách bất chính mà không kể gì đến những giá trị đạo đức tinh thần. Gần đây tôi đọc được bài thờ trào phúc “Cha và con và… sự đời” của Nguyễn Văn Thắm trên báo Tuổi Trẻ Cười nói lên cái tâm trạng đó của con người.
Cha:
Con ơi! Lấy vợ xem tông,
Lấy chồng chọn giống… mới mong sang giàu
Chồng mà chức trọng quyền cao,
Phong bì, quà biếu… cửa sau rộn ràng.
Vợ mà con cái nhà quan,
Mình đi xin việc dễ dàng như chơi.
Con gái:
Thôi… con sợ lắm cha ơi!
Quan mà tham nhũng người đời dèm pha!
Cha:
Dèm pha mặc kệ dèm pha.
Có xe đời mới, có nhà tầng cao.
Còn hơn cơm mắm, canh rau,
Nhà tranh, vách lá chui vào… chui ra!
Con trai:
Con quan phung phí xa hoa,
Thời trang đủ kiểu, cưới mà làm chi!
Tối ngày kẻ mắt, cắt mi
Môi son, má phấn… lấy gì nuôi con?
Cha:
Mày tưởng có bằng là ngon?
Thử đi xin việc, cúi lòn… còm lưng!
Quà thì tay xách, tay bưng
Tới lui mỏi gối, mòn chân… hết tiền!
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Gioan 1:35 -42 , khi Chúa Giêsu chú ý thấy hai người môn đệ của Gioan đi theo Ngài, Ngài quay lại và hỏi họ, “Các ngươi đi tìm gì?” Họ trả lời: “Thưa thầy, thầy ở đâu?” Họ đang là môn đệ của Gioan, lại muốn bỏ Gioan mà đi theo Chúa Giêsu, để tìm “cái hơn”. Giống như chúng ta, họ cũng muốn sống một đời sống đầy đủ hơn. Nhưng khác chúng ta, chúng ta đi tìm kiếm đời sống vật chất cao hơn, còn Anrê và Philip lại đi tìm một đời sống tinh thần cao hơn. Họ muốn có một đời sống đích thực! Và chính Gioan, thầy của họ đã chỉ cho họ thấy khi Chúa đi ngang qua: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. (1:36).
Trong một lớp giáo lý tân tòng, một thiếu nữ trẻ đang học đạo để lập gia đình, chia sẻ tâm tình và sự lựa chọn của cô như sau. Trong cuộc đời cô, cô chưa bao giờ nghe biết hay được học hỏi điều gì về tôn giáo cả. Gia đình cô rất ghét đạo Công giáo. Nhưng chàng và ngàng lại yêu thương nhau tha thiết. Khi chàng ngỏ ý muốn cưới nàng làm vợ với điều kiện cả hai phải có cùng một niềm tin tôn giáo, nàng chấp nhận ngay. Cô nói: “Tôi muốn có cái mà anh ấy có.” Cô chia sẻ rằng cô nhận thấy, đối với chàng đức tin là điều quan trọng nhất trong cuộc đời và chi phối toàn bộ cuộc đời chàng. Trong đức tin chàng có sự bình an và hạnh phúc. Đó là điều cô cũng đang đi tìm kiến thì tại sao cô lại không chấp nhận được. Trong khi đó chàng không có nhiều tiền bạc, nhưng rất hài lòng về cuộc sống của mình, và chu toàn những bổn phận hằng ngày. Cuộc sống phản ảnh đức tin mà chàng và cô muốn là một phần của niềm tin đó.
Cô đã chọn lựa “cái hơn” của đức tin, của tình yêu và hạnh phúc nơi Đức Giêsu Kitô.
Đây cũng chính là điều mà Anrê và Philip muốn tìm khi họ bỏ Gioan Tẩy Giả để theo Chúa Giêsu. Họ không những chỉ muốn “cái hơn” mà thôi, nhưng còn là sự sung mãn nhất, đầy đủ nhất và hoàn hảo nhất nơi Đức Giêsu Kitô.
Tất cả chúng ta được sinh ra với một ước muốn tự nhiên và lòng khao khát đi tìm hạnh phúc và sự sung mãn. Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta rằng cái mà chúng ta đang ước muốn, đang đi tìm, đang chờ mong, đang cố gắng đạt cho được bằng mọi cách, ở bất cứ thời đại nào hay thế hệ nào, chỉ tìm thấy đầy đủ nơi Chúa Giêsu Kitô (Pl 3:8). Khi xưa Chúa Giêsu đã mời hai môn đệ: “Hãy đến và xem”, Ngài cũng mời chúng ta không chỉ “đến và xem”, nhưng còn “Ở lại với Người” để trở nên môn đệ của người.
Ơn gọi làm môn đệ Chúa Giêsu là sự chọn lựa giữa việc đến gặp gỡ Chúa Giêsu và các lý do chính đáng khác trên đời (Mt 10:37). Gặp gỡ và gắn bó với Chúa Giêsu là mục đích tối hậu của người môn đệ (Ga 1:37). Sau đó những công việc mục vụ và rao truyền Tn Mừng sẽ là thành quả của việc gặp gỡ này.
Theo William Barclay, Anrê là một nhân vật luôn luôn giới thiệu người khác đến với Chúa Geiesu. Ba lần Anrê được nhắc đến trong Phúc âm của Gioan với vài trò này: đưa Phêrô đến với Chúa Giêsu (1:42); đứa bé trai với năm chiếc bánh và hai con cá đến cho Chúa Giêsu (6:8-9); đưa mấy người Hy Lạp đến gặp Chúa Giêsu (12:22). Anrê là con người với trái tim truyền giáo.
Và sau này cả Philip nữa, sau khi đã gặp Chúa Giêsu rồi, cũng đi mời Nathanael đến với Ngài (1:45-47). Giới thiệu Chúa Giêsu đi vào cuộc đời của tha nhân là thành quả của sự kết hiệp mật thiết và cá nhân giữa ta với Chúa.
Vào thế kỷ thứ XI, Vua Henry III của vương quốc Bavaria, nay là một tiểu bang thuộc vùng Tây Nam nước Đức, đã chán ngán làm vua và trở nên quá mệt mỏi trong việc điều hành đất nước nên ngài ao ước được sống ẩn dật trong một tu viện. Nhà Vua đi tới một tu viện gần đó để xin ý kiến của vị tu viện trưởng. Cha tu viện trưởng nhận ra ngài là vua đã quen với việc điều hành và ra những chỉ thị nên nói với vua rằng: “Nếu vào sống trong tu viện như một tu sĩ thì việc trước hết là vua phải vâng lời cha bề trên tu viện trưởng và phải làm theo lệnh truyền của ngài.” Vua Henry III nhận thấy điều đó quá dễ dàng, không thành vấn đề. Vua sẵn lòng vâng lời cha bề trong trong bất cứ chuyện gì. Cha bề trên mới nói: “Vậy thì tốt lắm, tôi sẽ chỉ cho nhà vua điều phải làm. Nhà vua hãy trở về hoàng cung và phục vụ đất nước trong ngôi vị mà Thiên Chúa đã định đặt cho ngài.”
Theo ý Vua Henry III, “cái hơn” là vào tu viện sống đời cầu nguyện và chiêm niệm như một tu sĩ. Nhưng cha bề trên đã giúp cho ngài nhận ra không phải chỉ là “cái hơn” mà là cái hoàn hảo nhất, sung mãn nhất. Đó là gặp gỡ Đức Kitô ngay trong cuộc sống của mình, rồi giới thiệu Chúa đến với tha nhân qua việc chu toàn bổn phận mà Thiên Chúa đã xếp đặt cho ngài: xây dựng một xã hôi công bằng, an bình, mang lại ích lợi cho toàn dân.
Vua Henry III đã trở về với công việc bổn phận để gặp gỡ Chúa Giêsu và trở nên người môn đệ chân chính của ngài (Mt 7:24).
33. Được kêu gọi để ở lại
Khi yêu thương ai, chúng ta thường muốn người ấy được ở lại với mình. Trong trường hợp hai người ngang hàng với nhau thì được ở lại trong nhau thì cả hai đều được lợi. Còn nếu như một người lớn muốn người cho người nhỏ được ở lại thì lợi ích dường như luôn thuộc về người nhỏ. Bởi vì, đó là tình thương được thể hiện qua sự lo lắng, quan tâm và chăm sóc.
Hôm nay, qua đoạn tin mừng Chúa Giêsu cũng muốn các môn đệ (Gioan và Anrê) được ở lại với Người. Chúa Giêsu thấy các ông đi theo mình thì đã hỏi: "Các anh tìm gì thế? Họ đáp: Thưa Ráp-bi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đâu? Người bảo họ: Đến mà xem". (Ga 1, 38b - 39). Nghe lời mời gọi của Chúa Giêsu: "Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy" (Ga 1, 39b)
Chúng ta không biết hai ông đã được xem nơi ở của Chúa Giêsu như thế nào. Tuy nhiên, như có lần Chúa Giêsu đã nói: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu." (Lc 9, 57). Do đó, chắc chắn nơi ở của Chúa Giêsu không phải là một cung điện nguy nga tráng lệ.
Dầu vậy, quan trọng hơn là các ông được lĩnh hội một năng lực hết sức quý báu từ Chúa Giêsu. Năng lực ấy chính là tình thương mà Chúa Giêsu dành cho các ông. Một tình thương có thể nói không ai ở trần gian có thể đem đến cho các ông. Cảm nhận được điều đó nên ông Anrê đã không chỉ giữ cho riêng mình mà ông đã vội vàng dẫn em mình là Simon Phêrô đến gặp Chúa Giêsu (Ga 1, 42)
Được ở lại với Chúa và trong Chúa thì không còn hạnh phúc nào bằng. Khi ở lại trong Chúa chúng ta sẽ được Người thông ban những ân sủng dồi dào và cần thiết. Và nhất là chúng ta sẽ được tình thương của Người ấp ủ và chăm sóc. Chỉ khi được như thế chúng ta mới có thể có đầy đủ năng lực để sống. Bởi lẽ, Chúa Giêsu đã nói: "Ta đến để cho chúng được sống và sống dồi dào" (Ga 10, 10).
Được biết những tu sĩ thuộc dòng của Mẹ Têrêsa Calcutta mỗi ngày phải quỳ trước Thánh Thể Chúa ít nhất là một giờ đồng hồ. Mặc dù dòng của Mẹ là dòng hoạt động chứ không phải là dòng chiêm niệm. Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng thế. Cho dù bận trăm công nghìn việc nhưng ngài không bao giờ bỏ những giờ chầu bên Thánh Thể Chúa.
Phần chúng ta, những giây phút đặc biệt được ở lại trong Chúa đó là những lúc chúng ta đi dâng Thánh lễ và cử hành các giờ đạo đức (Kinh sáng và Kinh tối). Chúng ta thường nghĩ rằng đó là những việc làm bổn phận của mình với Chúa. Thế nhưng chúng ta hãy nhớ rằng đó là những giây phút chúng ta đang đáp lại lời mời gọi của Chúa để được ở lại trong Người. Chắc chắn Chúa sẽ thông ban cho chúng ta được nhiều năng lực cần thiết và quý giá hơn những gì chúng ta mong đợi.
34. Giới thiệu – Lm Giacôbê Phạm Văn Phượng
Một thủ tục đầu tiên, hay đúng hơn, một nghi thức đầu tiên mà trong bất cứ buổi hội họp hay một bữa tiệc lớn nhỏ nào người ta vẫn thường làm, đó là giới thiệu những người hiện diện, nhất là giới thiệu những chức sắc, những nhân vật quan trọng. Trong cuộc sống xã giao hằng ngày cũng vậy, mỗi khi gặp những người mới lạ, người ta cũng thường giới thiệu nhau. Như vậy, giới thiệu nhau là một điều rất bình thường, và tất cả chúng ta đều biết mục đích của sự giới thiệu là để biết nhau.
Trong bài Tin Mừng chúng ta thấy Gioan Tẩy Giả giới thiệu Chúa Giêsu cho các môn đệ của ông, ông nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Lời giới thiệu này chứng tỏ Gioan biết Chúa Giêsu là ai và cũng chứng tỏ ông ý thức sứ mệnh tiền hô của mình, ông đã chỉ lối cho hai môn đệ đến gặp Chúa Giêsu. Đây là lời giới thiệu trung thực, đầy can đảm và có mãnh lực thôi thúc hai môn đệ đi theo Chúa.
Hai môn đệ ấy, một người là Anrê, còn người kia, tuy Tin Mừng không nói đích danh, nhưng chúng ta biết đó là Gioan, tác giả bài Tin Mừng này, bởi vì trong sách Tin Mừng của ông, ông thường giấu tên mình. Họ đến nói chuyện với Chúa, chúng ta không biết Chúa nói gì với hai ông và hai ông nói gì với Chúa, chỉ biết rằng sau khi tiếp xúc với Chúa ra về, hai ông đã biểu lộ lòng tin: tin nhận Chúa là Đấng Mêsia, Đấng Thiên Sai, Đấng Cứu Thế, và lòng đầy phấn khởi, quyết dấn thân theo Chúa không điều kiện.
Ngày hôm sau, ông Anrê lại đưa em mình là Simon đến gặp Chúa. Vừa gặp Simon, Chúa đổi ngay tên cho ông là Phêrô. Trong truyền thống của Do thái, việc đổi tên như thế bao hàm một ý nghĩa quan trọng và là một cách minh chứng: người đổi tên là người có uy quyền, và người được đổi tên sẽ được trao cho một nhiệm vụ quan trọng nào đó. Ở đây, Chúa Giêsu đổi tên cho Simon, minh chứng uy quyền của Chúa, và Ngài sẽ trao cho ông một sứ mệnh mới, một nhiệm vụ đặc biệt. Simon được đổi tên là Phêrô, nghĩa là Đá Tảng, tức là ông sẽ làm nền móng của Giáo Hội, ông sẽ là người lãnh đạo tối cao của Giáo Hội sau này.
Như vậy, Gioan Tẩy Giả biết Chúa Giêsu, nên ông đã giới thiệu cho các môn đệ và hai môn đệ đã tin theo Chúa. Liền sau đó, Anrê đã giới thiệu cho em mình, và Phêrô cũng tin theo Chúa. Rồi cả ba môn đệ cũng như tất cả các môn đệ khác đã biết Chúa, sống với Chúa và vâng lệnh truyền của Chúa đi giới thiệu Chúa cho muôn dân: “Anh em hãy đi khắp nơi rao giảng cho mọi người”. Các ông đã hoàn thành tốt đẹp nhiệm vụ này.
Đối với chúng ta hôm nay, một khi đã chịu phép rửa tội và gia nhập vào Giáo Hội, chúng ta đều có nhiệm vụ giới thiệu Chúa cho anh em. Chúng ta có thực hiện không và thực hiện như thế nào? Mục đích của giới thiệu là để biết nhau, muốn giới thiệu về một người thì phải biết về người đó, tùy theo mối liên hệ giữa hai người mà mức độ biết về nhau nhiều hay ít, nếu không biết rõ về người nào thì có thể giới thiệu sai về người ấy, chẳng ai muốn người khác giới thiệu sai về mình, giới thiệu sai là xúc phạm đến người đó và cũng mắc lỗi với người mình giới thiệu. Vì thế, muốn giới thiệu ai thì phải biết rõ về người ấy, cũng vậy, để giới thiệu Chúa chúng ta phải biết Chúa. Chúng ta có biết Chúa không?
Có lẽ nhiều người tín hữu có mặc cảm vì thấy mình non yếu về đức tin, về giáo lý, về Kinh Thánh, hình như chúng ta chỉ đủ đức tin để giữ đạo cho mình mà không truyền thụ được cho ai, vì vốn liếng kiến thức về giáo lý, về Kinh Thánh quá ít. Chúng ta thử nhìn lại bản thân mình mà coi: hồi nhỏ, chúng ta học giáo lý chỉ là những câu hỏi thưa, học thuộc để được xưng tội rước lễ lần đầu, Thêm sức hoặc lãnh bí tích hôn phối, từ đó trở đi, không còn ai lo phải học, phải thi giáo lý nữa. Nhiều người cũng chỉ bằng lòng với vốn liếng giáo lý đó, chứ không còn học hỏi hay đào sâu thêm chi nữa, cũng chẳng ai bắt buộc chúng ta học nữa, trong khi đó ở những bộ môn khác luôn luôn được học hỏi, được bồi dưỡng thêm.
Nói như vậy không phải để chúng ta bi quan, mặc cảm, nhưng để chúng ta cố gắng thêm, dù chúng ta không biết về Chúa cho đủ, nhưng Chúa cũng sai chúng ta đi giới thiệu Chúa cho mọi người. Cách giới thiệu Chúa Giêsu cho người khác tốt nhất, cụ thể nhất, hữu hiệu nhất là bằng chính đời sống tốt đẹp của chúng ta, đó chính là một tấm gương trước mặt mọi người và có giá trị hơn nhiều bài giảng, “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo” là thế.
Xin hãy nhớ: không phải ai cũng có thể làm việc lớn, nhưng tất cả mọi người có thể làm được điều thiện, mà điều thiện thì luôn có trong đời thường, và việc thường thì luôn có bên cạnh. Không phải ai cũng là thánh ở đời này, nhưng tất cả đều có thể là một người lành, người tốt, vì thế, với việc thường ngày, dù có nhạt nhẽo, nhàm chán với đắng cay, chúng ta cũng hãy góp phần nhỏ bé của mình để xây dựng Giáo Hội và thế giới, chúng ta hãy cố gắng làm gì cho đời chứ không thu góp những gì của đời cho mình, vì một cuộc đời chỉ biết có mình là cuộc đời đã chết trước khi tắt thở.
35. Cuộc gặp gỡ
Trong suốt quá trình của đời sống, chúng ta có nhiều cuộc gặp gỡ với mọi người. Hầu hết những cuộc gặp gỡ này đều ít có ý nghĩa, và chẳng bao lâu, bị quên lãng.
Mỗi ngày, bạn có thể gặp gỡ một số người, nhưng không bao giờ gần gũi với họ, mà chỉ ở bề ngoài mà thôi. Bạn có thể nói chuyện với một số người hàng giờ, thậm chí hàng năm, mà vẫn không hề cảm thấy bạn đã bộc lộ con người đích thực của bạn cho họ. Bạn có thể sống nhiều năm trong cùng một cộng đoàn với người khác, mà vẫn không bao giờ biết về họ, hoặc nói chuyện về những điều sâu xa hơn với họ. Một số quan hệ với người khác mà thậm chí còn đưa chúng ta quay trở lại với chính mình, trở nên nghèo nàn hơn, sau khi chúng ta ra đi. Đây là một trong những điều đáng buồn nhất trong cuộc sống.
Nhưng có những cuộc gặp gỡ khác mang ý nghĩa vĩ đại; chúng phong phú hóa, và đôi khi, còn dứt khoát làm thay đổi cuộc sống của chúng ta nữa. Có thể bạn chỉ vừa mới gặp gỡ một người nào đó, và ngay tức khắc, một mối quan hệ liền được hình thành. Bạn có thể bộc lộ bản thân mình, một cách rõ ràng và thực sự. Đây là một trong những điều thú vị và thỏa mãn nhất trong cuộc sống.
Khi một tình bạn được khai sinh, thì không có một sự thay đổi nào rõ rệt trong cuộc sống con người – mà chỉ là một sự nhận thức rằng cuộc sống của người đó trở nên khác hẳn, khả năng yêu thương và chăm sóc của họ đã được mở rộng một cách lạ lùng, mà không hề có bất cứ sự nỗ lực nào từ phía người đó.
Thật sai lầm khi nghĩ rằng tình yêu đến từ tình bạn lâu dài và sự kiên nhẫn theo đuổi. Theo Kahlil Gibran “Tình yêu là kết quả của sự thu hút về mặt tinh thần, trừ khi sự thu hút này được tạo ra trong một chốc lát, theo năm tháng, hoặc thậm chí qua nhiều đời, người ta vẫn sẽ không tạo ra được nó”. Nhiều cuộc gặp gỡ có ý nghĩa tình cờ xảy ra. Một số người sẽ nói điều này với bạn, về cách họ gặp gỡ người bạn đời của mình: họ không bao giờ quên được những sự kiện của cuộc gặp gỡ đầu tiên đó. Một khi chúng ta đã yêu mến hoặc căm ghét một người nào, thì hầu như chúng ta nhớ được từng chi tiết của cuộc gặp gỡ đầu tiên đó. Điều này giúp chúng ta hiểu biết được tầm quan trọng của cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa Đức Giêsu và ba môn đệ sau này trở thành các tông đồ của Người – Phêrô, Anrê và Gioan. Rõ ràng họ đã có một cuộc gặp gỡ tuyệt vời. Nhiều năm sau, khi Gioan viết sách Tin Mừng, ông vẫn có thể nhớ được chính xác về ngày giờ diễn ra cuộc gặp gỡ đó – đó là vào khoảng giờ thứ 10 (4 giờ chiều).
Khi được gặp Đức Giêsu, Người đã lôi cuốn họ ngay. Người dành cho họ nhiều thời gian theo lòng họ mong muốn. Họ nhận thấy Người nồng nàn, thân thiện, hiếu khách. Họ biết rằng họ được gặp gỡ một nhân vật quan trọng, và một tình bạn hiếm có được khai sinh. Họ cảm thấy hoàn toàn được bình an nhờ sự hiện diện của Người. Thông qua cuộc tiếp xúc với Người, họ bắt đầu khám phá ra chính con người của họ. Nhờ tính cách của Người, họ có được tầm nhìn về con người mà họ có thể trở thành.
Có một sự khác biệt lớn lao giữa quyền lực về ảnh hưởng. Những người nắm quyền lực trên chúng ta áp bức chúng ta, cố gắng biến chúng ta thành nô lệ, hoặc bản sao của con người họ. Những người gây ảnh hưởng trên chúng ta thì lại không hề cố gắng xoay chuyển, thay đổi, hoặc đúc khuôn chúng ta. Họ tạo ra cho chúng ta một khoảng không gian, trong đó chúng ta có thể tìm thấy bản thân mình, và đường lối của riêng mình. Đức Giêsu không áp đặt quyền lực trên các môn đệ của Người. Nhưng Người gây ra một ảnh hưởng sâu xa trên họ. Cuộc gặp gỡ với Người mãi mãi thay đổi cuộc sống của Phêrô, Anrê và Gioan.
Chúng ta không thể gặp gỡ Đức Giêsu bằng xương thịt. Nhưng chúng ta có thể gặp gỡ Người một cách thiêng liêng trong lòng tin, với tư cách là một Người bạn, một Người anh Cả, và một Đấng Cứu độ. Không nhận biết Đức Giêsu là chưa khám phá được điều mà đạo Công giáo hướng tới. Đạo Công giáo đưa đến một mối quan hệ nồng ấm, gần gũi với Đức Giêsu.
Đức Giêsu mãi mãi ra đi rồi. Nhưng Người vẫn luôn gần gũi với những ai chân thành tìm kiếm Người. Người không bao giờ áp đặt bản thân Người trên bất cứ ai. Đối với kẻ nào thích được hiểu biết nhiều hơn nữa, thì Người nói câu mà Người đã nói với Gioan và Anrê “Hãy đến mà xem”.
Tất nhiên đó không phải là một cuộc gặp gỡ một lần cho tất cả, nhưng chúng ta đang nói về một mối quan hệ đang phát triển với Người.
36. Các môn đệ đầu tiên - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Bạn có thể biết và tin Đức Giêsu mà không do một người nào khác giới thiệu cho bạn không? Nếu thế, bạn có cảm thấy bổn phận phải tiếp tục giới thiệu Đức Giêsu cho những người khác nữa không?
2. Những người hiện nay mang danh là biết và tin Ngài, thật ra có biết và tin Ngài đích thực không? Những người này có cần được giới thiệu lại về Đức Giêsu để họ biết và tin Ngài đích thực hơn, nghĩa là niềm tin ấy phải được thể hiện bằng sự dấn thân cụ thể trong đời sống không?
3. Khi giới thiệu, rao giảng về Đức Giêsu, bạn có bị cám dỗ tìm chính mình, lợi ích cho mình - thay vì tìm Ngài và lợi ích cho Ngài - trong công việc thánh thiện ấy không? Bạn có dễ dàng từ bỏ những ưu đãi, đặc quyền đặc lợi đi kèm với công việc tông đồ không?
Suy tư gợi ý:
1. Cần giới thiệu Đức Giêsu cho người chưa biết Ngài
Đức Giêsu nói: “Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án” (Mc 16,16). Sự cần thiết và quan trọng của Đức tin được Kinh Thánh nói đến rất nhiều (xem thêm: Lc 8,12b; Cv 16,31; Rm 10,9; Ep 2,8; 1Pr 1,9; v.v...). Nhưng tin không phải chuyện ai cũng làm được: ta thấy hiện nay trên thế giới, cứ 10 người thì mới có 3 người mang danh là tin Đức Giêsu. Và rất có thể trong 3 người - hay hơn nữa - mang danh là tin ấy mới có một người thật sự tin vào Ngài (vì tin thật sự là tin phải được chứng tỏ bằng việc làm, bằng đời sống và sự dấn thân thật sự). Việc có đức tin tùy thuộc nhiều điều kiện: một cách khách quan vào cơ hội hay “nhân duyên” (nói theo từ nhà Phật), và một cách chủ quan vào tâm trạng của mỗi người. Về điều này thánh Phaolô cũng viết: “Kinh Thánh nói: Tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát. Thế nhưng làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng” (Rm 10,11.13-15a).
Để người ta tin vào Đức Giêsu, cần có người giới thiệu Ngài cho họ. Người giới thiệu hết sức cần thiết. Trong thương trường, để bán được hàng hóa, người ta phải tìm mọi cách, bằng quảng cáo, tiếp thị, để giới thiệu cho mọi người biết trên thị trường có loại hàng hóa ấy, chất lượng nó ra sao, nó cần thiết cho đời sống thế nào. Thời nay, hàng hóa mà không nhờ quảng cáo và tiếp thị thì dễ có nguy cơ bị ế. Trong bài Tin Mừng hôm nay, ta thấy Gioan Tẩy giả đã giới thiệu Đức Giêsu cho hai môn đệ của mình để họ theo Ngài: hai môn đệ này một người là Anrê, và người kia chắc hẳn là Gioan (nhỏ), tác giả bài Tin Mừng này (tác giả thường không muốn nói đến bản thân mình). Nhờ Gioan Tẩy giả giới thiệu, hai môn đệ của ông đã trở thành môn đệ của Đức Giêsu và dấn thân trọn vẹn cho Ngài suốt cuộc đời.
2. Cần giới thiệu lại Đức Giêsu cho người đã biết và tin Ngài
Hiện nay, chung quanh ta có biết bao người không tin thật sự vào Đức Giêsu, vào chân lý cứu độ. Trong số đó, có biết bao người mang danh là tin Ngài, nhưng thật sự chỉ là tin trên danh nghĩa, vì trong thực tế họ chỉ biết về Ngài rất mơ hồ, sự biết ấy không đủ sức mạnh để thúc đẩy họ sống và hành động như sự hiểu biết ấy đòi hỏi. Ngay trong số chúng ta, những người tự xưng là Kitô hữu, chúng ta có thể tuyên xưng rất mạnh niềm tin của mình, thậm chí kết án những ai tin khác với mình, nhưng giữa niềm tin ấy và cuộc sống của ta là cả một sự xa cách. Tin trên lý thuyết và sống trong thực tế không trùng hợp với nhau, lý và sự, chủ trương và hành động, nói và làm khác xa nhau. Điều đó chứng tỏ chúng ta chưa thật sự tin.
Thánh Giacôbê nói: “Một thân xác không hơi thở là một xác chết, cũng vậy, đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2,26; x.2,17). Nhiều khi chúng ta tưởng mình có đức tin, nhưng đức tin ấy xét cho nghiêm túc lại là thứ “đức tin chết”, những đức tin giả hiệu, là “hàng giả”, loại rẻ tiền (vì được mua với giá rẻ). Chính vì thế, Giáo Hội ngày nay mới nói đến vấn đề “phúc âm hóa mới”, hay “tái phúc âm hóa”, nghĩa là giới thiệu lại Đức Giêsu cho những người đã biết Ngài, đã mang danh là tin Ngài, để họ tin Ngài một cách đích thực hơn.
3. Tỷ lệ người tin thật sự trong Giáo Hội và thế giới hiện nay
Cứ nhìn vào thực trạng của Giáo Hội, của xã hội và thế giới hiện nay, ta có thể thấy được tỷ lệ người tin thật sự vào Đức Giêsu là bao nhiêu. Người thật sự tin tất nhiên phải trở thành “muối” (x. Mt 5,13; Mc 9,49; Lc 14,34), thành “men” (Mt 13,33; Lc 13,21) chất lượng. Nếu thức ăn được ướp muối mà vẫn bị hư, bột được trộn men mà không dậy lên được, là vì: hoặc muối hay men quá ít, hoặc muối hay men đã bị mất chất lượng. Vì nếu men tốt thì chỉ cần “một chút men (là đủ) làm cả khối bột dậy men” (Gl 5,9).
Tệ hơn nữa, nếu men bị biến chất thành men thối thì thật là nguy hiểm cho đống bột. Đức Giêsu đã cảnh cáo chúng ta chuyện này: “Anh em phải coi chừng, phải đề phòng men Pharisêu và men Hêrôđê” (Mc 8,15; x. Mt 16,6). Ngài giải thích: “Men Pharisêu tức là thói đạo đức giả” (Lc 12,1b), là thói giữ đạo một cách hình thức, với những nghi lễ trang trọng bề ngoài, mục đích để được ca tụng, được khen, nhưng trong tâm hồn thì chẳng có tình thương, chẳng muốn hy sinh chịu thiệt cho ai (x. Mt 23). Còn “men Hêrôđê” có thể là thói ham thích quyền bính, thích ép buộc người khác phải làm theo ý mình, đồng thời sẵn sàng làm tất cả mọi sự - kể cả những chuyện bỉ ổi, đê hèn, tội lỗi - để đạt được hay duy trì quyền bính của mình (x. Mt 2,16). Hai loại “men” này thực chất thì như nhau, nhưng một đằng áp dụng trong tôn giáo, một đằng áp dụng ở ngoài đời. Chính những loại “men” này đã làm Giáo Hội, xã hội và thế giới thoái hóa về đạo đức và tâm linh.
Vậy, ai sẽ là người làm công việc “tái phúc âm hóa” này, nghĩa là làm cho muối mặn trở lại, men nồng trở lại? Bạn nhận định thế nào về thực trạng của Giáo Hội, xã hội và thế giới hiện nay? Bạn có ý thức được nhu cầu khẩn thiết phải tái phúc âm hóa trong Giáo Hội không? Bạn có nghe thấy tiếng Chúa kêu gọi bạn làm công việc này không? Nếu nghe thấy, bạn có đáp lại tiếng Chúa như Sa-mu-en trong bài đọc I không? Bạn có sẵn sàng đi theo và rủ người khác theo Ngài như hai môn đệ của Gioan Tẩy giả trong bài Tin Mừng không? Bạn thử lắng nghe Chúa nói trong lòng mình và nghe cả lòng mình nói nữa!
4. Dành cho Chúa tất cả, đừng giữ lại gì cho mình
Thái độ của Gioan Tẩy giả cũng là một gương mẫu và là một bài học tốt cho chúng ta. Anrê và Gioan (nhỏ) đều đang là môn đệ của Gioan Tẩy giả. Chắc chắn ông đã từng nói với các môn đệ mình cũng như đã từng nói với dân chúng: “Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Tôi làm phép rửa trong nước để giục lòng sám hối, còn Người sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa” (Mt 3,11). Khi nói những lời ấy, Gioan Tẩy giả xác định mình không phải là Đấng ấy, đồng thời muốn giới thiệu Đấng ấy để mọi người - kể cả các môn đệ của ông - tin và hướng về Đấng ấy. Chính vì thế, khi Gioan Tẩy giả “thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa”“ thì có “hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giêsu”. Khi hai môn đệ rất ưu tú của mình bỏ mình để làm môn đệ Đức Giêsu, chắc chắn Gioan Tẩy giả cảm thấy một niềm vui buồn lẫn lộn. Vui vì thấy Đức Giêsu có được hai môn đệ, vui vì hai môn đệ của mình có được một người thầy cao cả và xứng đáng hơn mình. Nhưng cũng buồn vì mình đã bị mất mát một cái gì rất thân quí. Giữa vui và buồn ấy, đối với một người thật sự quan tâm tới công việc chung, thì cái vui ấy sẽ lấn át cái buồn, và nỗi buồn chỉ là thoáng qua.
Khi ta giới thiệu Đức Giêsu cho mọi người, rao giảng, dạy dỗ về Ngài, chắc chắn vì sự giới thiệu, dạy dỗ ấy, nhiều người sẽ nhận ta là thầy, và theo làm môn đệ ta. Ngoài ra, ta còn được biết bao người kính trọng, nể phục, khen ngợi, đồng thời dành cho ta nhiều ưu tiên, đặc quyền đặc lợi nào đó. Ban đầu có thể ta không hề nhắm tới những điều phụ thuộc này, nhưng khi đã hưởng được những ưu đãi hay đặc quyền đặc lợi ấy, lòng ta bắt đầu cảm thấy gắn bó với chúng, đến nỗi nếu không có những ưu đãi hay đặc quyền đặc lợi ấy, ta cảm thấy thiếu thốn, bực bội. Từ đó, như một phản xạ có điều kiện, khi ta giới thiệu hay rao giảng về Đức Giêsu, phản ứng tự nhiên của ta là đòi hỏi những ưu đãi hay đặc quyền đặc lợi ấy. Và cuộc đời tông đồ của ta dần dần bị biến chất. Ta không còn quan tâm chính yếu tới Đức Giêsu mà ta đang giới thiệu, rao giảng, nhưng ta lại tìm chính ta, tìm danh vọng, địa vị, ưu đãi trong chính công việc tưởng chừng rất thánh thiện ấy. Và khi bổn phận tông đồ buộc ta phải từ bỏ chúng, ta không thể chấp nhận được. Ta cố níu lại cho bằng được những thứ ấy. Đó chính là một trong những cám dỗ rất thường gặp nơi những người làm tông đồ, những người giới thiệu Đức Giêsu như Gioan Tẩy giả. Thiết tưởng chúng ta luôn luôn tỉnh táo kẻo sa vào chước cám dỗ ấy, vì có biết bao người đã chìm đắm trong đó rồi!
Cầu nguyện
Lạy Cha, con biết Cha là nhờ Đức Giêsu giới thiệu, và biết Đức Giêsu là nhờ Giáo Hội, nhờ một ai đó giới thiệu. Nhờ đó, con được diễm phúc biết và yêu mến Cha, biết và tin theo Đức Giêsu để được cứu độ. Vì thế, con cảm thấy mình thật ích kỷ nếu không tiếp tục giới thiệu cho những người khác nữa biết về Cha, về Đức Giêsu. Nhưng xin hãy cho con biết và tin đích thực, đồng thời sống thật sự niềm tin ấy trước khi giới thiệu niềm tin ấy cho người khác. Amen.
37. Đáp lời Chúa kêu gọi - Lm. Minh Vận
Sau 9 năm trường giầm gìa trong vũng bùn lầy trụy lạc tội lỗi, Thiên Chúa đã kêu gọi và thức tỉnh lương tâm Margarita de Cortone, bằng cách cho người cô gái hoang đàng ấy chứng kiến một cảnh ghê rợn. Một thây chết nát rữa thối tha là tình nhân của nàng trước đây, tại một góc rừng lúc bất ngờ nàng đi qua. Trước cảnh hãi hùng đó, khiến nàng rất bàng hoàng xúc động và tự hỏi: "Lạy Chúa, sau đó còn lại cái gì?" Thế rồi, người con gái tội lỗi đó đã trở về với gia đình, xin lỗi thân phụ. Để tỏ lòng ăn năn sám hối, nàng đã tròng một giây thừng vào cổ và đã đến xin các Cha Dòng Thánh Phanxicô hướng dẫn. Rồi sau 3 năm đầy thử thách, với nhiều đêm ngày khóc lóc, ăn chay, đền tội, Margarita đã khoác trên mình bộ tu phục Dòng Ba Thánh Phanxicô, sống cuộc đời thánh thiện.
Để đáp lại tình Chúa yêu thương và lời kêu gọi của Chúa, Margarita đã biến nhà mình thành một bệnh xá vừa săn sóc bệnh nhân vừa lao động sản xuất để nuôi họ. Ma quỉ căm hờn, dùng trăm phương ngàn kế để cám dỗ Margarita bỏ đàng nhân đức, trở lại đàng tội lỗi trụy lạc; nhưng Margarita đã toàn thắng và luôn vững tiến trên đàng nhân đức. Ơn Chúa tuôn trào trên tôi tớ trung nghĩa của Ngài, khiến Margarita đã làm cho vô số tội nhân cải tà qui chính, bỏ đàng tội lỗi, ăn năn trở lại với Chúa.
I. TIẾNG CHÚA LUÔN KÊU GỌI CON NGƯỜI
Bài sách Samuel hôm nay thuật lại câu truyện Chúa đã gọi Samuel, để trao cho cậu một trọng trách của Chúa. Giữa đêm khuya đang ngon giấc trong Đền Thờ, bỗng tiếng Chúa vọng bên tai cậu: "Samuel! Samuel!" Cậu giật mình thức giấc, vội vã chạy lại Thầy Cả Heli thưa: "Này con đây, vì Thầy gọi con". Cứ như vậy, mãi tới lần thứ ba, Thầy Cả Heli biết đó là tiếng Chúa kêu gọi Samuel, nên đã bảo cậu: "Con hãy đi ngủ lại, và nếu Người gọi con, thì con hãy thưa rằng: "Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe!" Samuel về chỗ ngủ lại. Chúa tới gần và lại gọi Samuel như trước: "Samuel! Samuel!" Và Samuel thưa: "Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe!"
Tiếng Chúa kêu gọi con người bằng nhiều cách thế khác nhau: Chỉ một vài trường hợp đặc biệt, Chúa đã thân hiện đến, kêu gọi đích danh, như trường hợp của cậu Samuel, nhưng hầu hết Chúa đã dùng những cách thế thông thường, như lời khuyên nhủ của các vị đại diện Chúa, lời giảng dạy của một vị giảng thuyết, một ơn soi dẫn trong tâm hồn, một giấc chiêm bao hay một biến cố nào đó của cuộc đời. Trong tất cả mọi hoàn cảnh đó, các Thánh đã mau mắn đáp lại, khi các ngài nhận ra thánh ý Chúa.
Thánh Phanxicô thành Assisi, một chàng trai giầu sang háo danh, cũng chỉ vì nghe lời Chúa phán được trưng lại trong một bài giảng: "Con người được lợi lãi cả thế gian, mà thiệt mất linh hồn mình thì được ích gì". Ngài đã quyết tâm bỏ mọi sự, sống đời khó nghèo và đã chinh phục được biết bao người theo ngài, để hiến thân phụng sự Chúa, xây dựng Giáo Hội và giúp ích cho biết bao linh hồn.
Thánh Ignatiô, một sĩ quan quân đội bị trọng thương, đang thời gian nằm điệu trị tại bệnh viện, bất ngờ đọc cuốn truyện các Thánh, ngài cảm thấy thán phục, nên đã quyết tâm sống theo thánh ý Chúa soi dẫn, lập nên một Hội Dòng lớn với danh hiệu Dòng Chúa Giêsu, đem lại bao lợi ích cho Giáo Hội và thế giới.
Thánh Augustinô, từ một chàng trai trụy lạc tội lỗi được cải hóa và đã trở nên một vị Đại Thánh Tiến Sĩ của Giáo Hội, chinh phục biết bao linh hồn trở về với Chúa, qua những tác phẩm giáo huấn và lời giảng dạy khôn ngoan của ngài... Còn biết bao trường hợp tương tự, ơn Chúa đã thực hiện cách lạ lùng nơi đời sống của các Thánh.
II. THÁI ĐỘ CHÚNG TA TRƯỚC LỜI CHÚA
Ngày lãnh Bí Tích Thánh Tẩy, Chúa đã kêu gọi chúng ta theo Chúa, đã giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ tội lỗi và quyền lực hỏa ngục, ban cho chúng ta được diễm phúc làm con Chúa; đồng thời, ủy thác cho chúng ta sứ mạng làm tông đồ đem Tin Mừng của Chúa đến cho muôn người. Nhưng để thực thi sứ mạng tông đồ đó cách hữu hiệu hơn, Chúa còn dùng nhiều cách thế, nhiều hoàn cảnh, nhiều cơ hội thuận tiện khác nhau hoặc bởi nhiều biến cố, nhiều nguyên nhân khác nhau, để kêu gọi và tỏ cho chúng ta biết thánh ý Chúa, muốn chúng ta sống trong ơn gọi hay địa vị nào, hợp với mỗi môi trường và hoàn cảnh khác nhau; đồng thời, ban cho chúng ta những ơn thánh cần thiết, để chúng ta có thể làm trọn thánh ý Chúa.
Nhưng đứng trước lời Chúa kêu gọi, chúng ta cần có thái độ nào? Chúng ta đã mau mắn, dứt khoát, can đảm và quảng đại đáp lại lời mời gọi ân tình của Chúa như các Thánh đã làm chưa?
Margarita sau khi bỏ đàng tội lỗi, không những ngài đã trở thành một vị Thánh, mà ngài còn chinh phục biết bao linh hồn tội lỗi khác trở về với Chúa.
Thánh Phanxicô, Ignatio, Augustinô, sau khi nghe tiếng Chúa kêu gọi, các ngài đã trung thành phụng sự Chúa, không những bằng đời sống thánh thiện của mình, mà các ngài còn tận lực dùng ảnh hưởng, dùng tài sức khôn ngoan thông thái Chúa ban, để cải hóa, chinh phục biết bao linh hồn cũng can đảm hiến thân phụng sự và làm tông đồ vinh danh Chúa. Sự nghiệp lớn lao và gương mẫu thánh thiện của các ngài vẫn còn tồn tại trong Giáo Hội và có sức chinh phục các linh hồn qua muôn thế hệ.
Các Thánh đã không hề làm uổng phí ơn Chúa đã ban cho các ngài, bởi vì các ngài đã hết lòng phụng sự yêu mến Chúa, chỉ khát khao làm vinh danh Người. Do đó, các Thánh đã tận lực dùng mọi cách thế, với tất cả khả năng, lợi dụng mọi hoàn cảnh, mọi cơ hội, để cổ võ, khuyến khích, chinh phục, lôi kéo các linh hồn về cho Chúa, để họ cũng được diễm phúc làm con Chúa, phụng sự và yêu mến Chúa. Như trong bài Tin Mừng hôm nay, khi Gioan Tiền Hô thấy Chúa Kitô đi ngang qua, ngài giới thiệu với hai môn đệ của ngài: "Đây là Chiên Thiên Chúa" và cho hai môn đệ ông đi theo Chúa. Rồi khi Anrê đã gặp được Chúa rồi, lại sung sướng giới thiệu với Simon: "Chúng tôi đã gặp được Đấng Messia" và dẫn ngay anh mình đến với Chúa Giêsu.
Khi các Thánh đã nhận biết Chúa, cảm nghiệm được hạnh phúc trong tình yêu mến Chúa, các ngài cũng sốt sắng, khát khao chia sẻ niềm vui sướng và thôi thúc người ta đến với Chúa, để họ cũng được hưởng niềm an vui hạnh phúc được yêu mến và phụng sự Chúa như các ngài. Cũng giống như cậu Samuel, các Thánh mỗi ngày càng tiến cao trong đàng thánh thiện, lập thêm nhiều công phúc, làm vinh danh Chúa, vì được Chúa hằng ở cùng các ngài, các ngài không để uổng phí lời nào trong các thánh ngôn Chúa phán dạy (xem 1 Sam 3:19).
KẾT LUẬN
Chớ gì chúng ta có tâm hồn như Mẹ Maria và các Thánh, luôn mau mắn, dứt khoát, can đảm và quảng đại đáp lời Chúa kêu gọi, tiến thân theo Chúa, hết lòng yêu mến, phụng sự và làm vinh danh Ngài. Để cũng luôn được tâm hồn ngoan thảo thưa được với Chúa: "Này con xin đến để thi hành thánh ý Chúa" (xem Heb 10:7).
38. Bước theo Ngài - Thiện Mỹ
Người Ấn Độ kể rằng:
Có một thanh niên khao khát được nhìn thấy Chúa. Ngày đêm anh cầu nguyện cho ước mong được thành sự thật.
Không bao lâu Chúa hiện đến với anh dưới hình dạng một người đẹp đẽ, uy quyền và dễ mến. Chúa hỏi anh:
- Con có muốn đi với Ta một quãng đường không?
Người thanh niên cảm thấy hạnh phúc hơn bao giờ hết. Chúa và anh cùng sánh bước như đôi bạn tri kỷ. Đi được một lúc Chúa hỏi:
- Ta khát nước, con có thể đi tìm cho Ta ít nước không? Người thanh niên hăm hở đi tìm nước. Lòng anh tràn ngập hân hoan. Còn gì sung sướng cho bằng đi tìm nước cho Chúa.
Nhưng anh đi mãi mà không thấy nước đâu. Anh tiếp tục đi và sau cùng anh tới một dòng sông, anh đang chuẩn bị lấy nước mang về cho Chúa thì tình cờ xuất hiện một cô gái xinh đẹp, cô gái đẹp tới độ làm người thanh niên không còn thấy cảnh vật chung quanh cũng chẳng nghĩ đến mang nước về cho Chúa nữa.
Anh lân la đến làm quen với cô gái. Họ thương nhau, lấy nhau và sinh nhiều con cái, không gì hạnh phúc cho bằng... Thế rồi chuyện không may xảy ra, một cơn ôn dịch xảy tới, người thanh niên đưa vợ con đi nơi khác. Khi đi qua một chiếc cầu thình lình mưa gió thổi đến, nước dâng lên,cuốn cả vợ con anh. Còn anh thì may mắn bám được vào một gốc cây. Anh khóc thương cho số phận vợ con cũng như kiếp cô đơn của mình.
Giữa lúc đó Chúa lại xuất hiện trước mặt anh. Ngài ôn tồn hỏi:
- Này con, con có mang nước về cho ta không? Con làm gì để Ta chờ đợi cả tiếng đồng hồ vậy!
Chắc hẳn ai ai cũng thầm trách người thanh niên đểnh đoảng đến thế. Nhưng xét cho kỹ thì đó là sự mê hoặc thường tình của con người. Cũng như khi đọc lại những trang đầu của bộ sách Kinh Thánh, khi nguyên tổ đồng hành với Thiên Chúa trong ân sủng, lại bị sai sót rơi vào lời dụ dỗ của ma quỉ, để rồi loài người bị gián đoạn nhiều ngàn năm chờ đợi vị cứu tinh. Hôm nay Phúc Âm tỏ cho chúng ta thấy việc Chúa lại bắt đầu cuộc sống thân tình với loài người.
Hôm ấy Thánh Gioan Tẩy Giả cùng với hai môn đệ đang đứng bên bờ sông.Trông thấy Chúa Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: "Đây là Chiên Thiên Chúa Hai môn đệ nghe nói, liền xin phép Thầy để theo Chúa. Có lẽ hai môn đệ này đã được nghe nói về Chúa Giêsu nhiều và đã hỏi ý Thầy trước nên mới vội vã xin theo Ngài.
Nghe bài Tin Mừng trên chúng ta lại thèm khát cho số phận "sinh sau đẻ muộn" của mình vì không được tốt số sống đồng thời với Chúa Giêsu để rồi theo sát khít bước chân của Ngài, sống chết với Ngài như các Thánh Tông Đồ năm xưa. Nhưng giả sử tất cả chúng ta có được sống chung với Ngài, theo bước chân Ngài đi rao giảng khắp mọi nơi. Giả thiết này cũng chỉ giải quyết được những thanh niên, còn các phụ nữ ngày xưa đâu có ở luôn bên Chúa và những người bệnh tật, trẻ con, già cả làm sao mà ở với Chúa được. Thế nên Chúa chỉ chọn 12 Tông Đồ mà thôi. Và để trả lời đáp án này, Chúa Giêsu nói với chị người Samaritana bên bờ giếng Giacóp rằng: "Những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa trong Thần Khí và sự thật".
Như chúng ta đã biết:"Chúa ở khắp mọi nơi". Đó là giáo lý sơ đẳng cho mọi tín hữu. Và trong thời đại này Lời Chúa đã được lan tràn khắp thế giới. Hơn nữa ta có thể thấy Ngài hiện diện trong mọi tạo vật.
"Mắt và cánh của một con bướm đủ để đánh đổ một nhà vô thần" (Diderot).
Chẳng hạn chúng ta yêu thích người bạn trăm năm của mình không những vì dáng vẻ bên ngoài, vì con tim nồng ấm, mà còn vì Thiên Chúa ở trong hữu thể của họ. Thiên Chúa ngự trị giữa gia đình nơi từng người con trai cũng như con gái. Nhờ đó chúng ta sẽ phấn khởi phục vụ và dẫn đưa cả gia đình về miền đất hứa vĩnh cửu.
Sứ mệnh con người không phải là kiếm cho được nhiều tiền, cũng không phải là tìm kiếm một ước vọng sa xôi hão huyền. Sứ mệnh con người là nhận biết Thiên Chúa để yêu mến và phụng sự Ngài. Người tu trì thể hiện tình yêu Chúa nơi cộng đoàn tu trì hoặc cộng đoàn dân Chúa. Còn giáo dân thể hiện tình yêu Chúa nơi mái ấm gia dình. Tất cả mọi trái tim làm nên khối tình yêu vĩ đại dâng lên Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh của đời sống.
Thật sự đời sống của con người chỉ có ý nghĩa khi nhìn thấy bước chân của Ngài ở khắp mọi nẻo đường trong cuộc sống. Ngài ẩn mình trong muôn ngàn hoa sắc thắm, trong giòng suối mát dù ở tận rừng sâu thẳm, trong bầu trời lấp lánh của các vì sao, trong trái tim của nhân loại nơi người em thơ cũng như người già yếu v.v.
Mỗi người sẽ hoàn thành công việc bước theo chân Ngài trong trách vụ được trao phó để rồi đời sống mai hậu sẽ được phần thưởng nhiều hay ít là tùy ở sự đáp yêu của từng người.
Để bước theo chân Chúa Giêsu cách mau lẹ, chúng ta hãy nhìn lên gương mẫu tuyệt vời là Đức Maria. Mẹ đã đồng hành với Chúa Giêsu từ lúc thưa lời xin vâng đầu tiên trong ngày truyền tin cho đến lời xin vâng cuối cùng trên thập giá. Vì thế Đức Mẹ được ban tặng mọi danh hiệu nhân đức cao cả.
39. Cách thức Thiên Chúa kêu gọi con người
(Suy niệm của Lm Nguyễn Hữu Thy)
Bài Sách Thánh trích từ Sách Sa-mu-en thuộc phần Cựu Ước và bài Phúc Âm theo thánh Gioan của Chúa Nhật thứ 2 Mùa Thường Niên hôm nay có một tương quan hết sức mật thiết. Bài Sách Thánh trình bày câu chuyện cậu học trò Sa-mu-en được Chúa kêu gọi làm Tiên Tri, còn trong bài Phúc Âm thánh sử Gioan tường thuật lại ơn kêu gọi hai môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu, mà một trong hai người môn đệ đó là chính tác giả của bài Phúc Âm.
Điều quan trọng khiến chúng ta không thể bỏ qua được trong hai bài tường thuật về ơn gọi của cậu học trò Sa-mu-en cũng như của các môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu là sự can thiệp của một đệ tam nhân, của người làm trung gian. Vâng, trong ơn gọi của Sa-mu-en chính là Thầy Cả Thượng Phẩm Hê-li, người mà cha mẹ Sa-mu-en đã trao phó con trai mình để ngài giáo dục và dẫn dắt cậu trên đường hiến dâng cho Thiên Chúa. Một hôm đang ngủ, Sa-mu-en bỗng nghe như có ai gọi tên cậu và cậu liền chạy lại cùng Thầy Cả Hê-li ngay và thưa: “Này con đây, Thầy đã gọi con!” Thầy Cả Hê-li biết ngay là Thiên Chúa gọi cậu bé nên đã cho cậu về phòng và căn dặn hãy cứ tiếp tục mau mắn và sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa gọi như thế. Vậy, Thầy Cả Hê-li đã hoàn thành nhiệm vụ của mình. Thầy Cả đã dầy công dạy dỗ và dìu dắt Sa-mu-en trở thành ngoan ngoãn thuần thục, để chuẩn bị sẵn sàng cho sứ mệnh từ Trời Cao giao phó. Nay thời giờ cho sứ mệnh đó đã điểm, một Đấng Cao Cả hơn muốn đòi lại cậu bé Sa-mu-en và Thầy Cả Thượng Phẩm Hê-li đã dâng hoàn trả lại cậu bé cho Đấng Cao Cả đó.
Còn trong bài tường thuật của Phúc Âm, Gioan Tiền Hô cũng đã cảm nghiệm được rằng sứ mệnh huấn luyện đoàn môn đệ đang luôn vây quanh ngài đã đến lúc hoàn tất. Một Đấng khác cao cả hơn ngài đã đến và cũng chỉ vì Đấng đó mà ngài đã huấn luyện đoàn môn đệ kia bấy lâu. Nay đã đến lúc ngài phải trao trả lại các môn đệ cho Đấng đó. “Kìa là Con Chiên Thiên Chúa”, Gioan Tiền Hô đã chỉ tay về phía Đức Giêsu và giới thiệu cho hai người môn đệ như thế khi ngài thấy Đức Giêsu đang đi ngang qua trước mặt mình. Và hai người môn đệ đã hiểu được ngay lời thầy mình: “Hai người môn đệ nghe ông nói và liền theo Đức Giêsu.”
Qua sự diễn biến về ơn gọi của Sa-mu-en và của hai người môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu, chúng ta khám phá ra được đường lối của Nước Thiên Chúa, hay nói cách khác, cách thức hành động của Thiên Chúa. Đó là không một ai được kêu gọi trực tiếp dâng hiến phụng sự Thiên Chúa hay làm môn đệ Đức Giêsu, nhưng đương sự phải nhờ vào đời sống đức tin có ấn tượng mạnh mẽ, gương sống đạo sâu sắc và sự tận tâm giúp đỡ của đệ tam nhân, của đồng loại khác. Dĩ nhiên, sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người, giữa Đức Giêsu và người môn đệ là một điều hoàn toàn mang tính cách cá nhân. Vâng, tiếng “xin vâng” đáp lại lời kêu mời của Thiên Chúa, tiếng “xin vâng” của đức tin và của lòng tuân phục đối với Thiên Chúa, không một ai có thể làm thay cho người khác được. Đó là ngưỡng cửa mà mỗi người phải tự bước qua với tất cả ý thức trách nhiệm. Thế nhưng, khoảng cách trên đoạn đường tìm về ngưỡng cửa đó, chúng ta cần phải có sự hướng dẫn của bao người khác, những người đã đi trước và đã bước qua ngưỡng cửa đó trước chúng ta, những người đã có đầy đủ kinh nghiệm về Thiên Chúa như Thầy Cả Hê-li; và những người được gửi tới để làm bạn đường hướng dẫn chúng ta, như Gioan Tiền Hô: Cha mẹ, các cha linh hướng, các thầy cô và bạn bè tốt, v.v...
Vâng, Ơn gọi sống đức tin là một ơn nhưng không của Thiên Chúa ban, và “Thánh Thần hoàn toàn tự do, muốn thổi đâu tuỳ ý”, tuy nhiên ảnh hưởng và sự dìu dắt nâng đỡ của kẻ khác cũng hầu như là một điều kiện tất yếu trong Ơn Gọi vậy. Cũng như, không hẳn là một thửa đất đã được cày bừa thuần thục là sẽ được bác nông dân gieo hạt giống tốt vào đó, nhưng điều kiện để bác nông dân gieo hạt giống của mình vào thửa đất là trước hết thửa đất phải được cày bừa và sửa soạn thuần thục trước đã.
Tiếp đến, Sa-mu-en sẽ không bao giờ quên Thầy mình là Hê-li, hai Tông đồ Gioan và An-rê cũng sẽ không bao giờ quên sư phụ đầu tiên của các ngài là Gioan Tiền Hô. Cũng vậy, chúng ta không bao giờ được phép quên ơn những người đã dạy dỗ, đã giúp đỡ chúng ta trong việc nhận biết Thiên Chúa, biết khám phá ra và đầy tin yêu đáp lại tiếng Người mời gọi chúng ta, dù cho đã xảy ra trong tuổi thơ qua đường lối vâng lời đơn sơ như trường hợp cậu bé Sa-mu-en, hay qua những thăm dò và tìm hiểu dè dặt của các thanh thiếu niên trưởng thành như trong trường hợp của các môn đệ Gioan Tiền Hô. Mỗi người hành động tương tự theo lứa tuổi và cách thức của mình như thế đều đúng và đều quan trọng. Tuy nhiên, trường hợp thứ hai cần phải nối tiếp, đổi mới và đào sâu trường hợp thứ nhất, nói cách khác, sau khi tìm hiểu Ơn Gọi của mình, con người còn phải biết đơn sơ phó thác đáp lại tiếng Chúa, biết đơn sơ tin tưởng vâng theo Thánh Linh Chúa hướng dẫn. Bởi vậy, bạn đừng coi thường đức tin đơn sơ của tuổi thơ, nhưng bạn cũng đừng ngạc nhiên khi một ngày nào đó đức tin đơn sơ của tuổi thơ được thay thế bằng đức tin có ý thức và đầy thâm tín của người trưởng thành. Cả hai giai đoạn đều cần thiết và đều bổ túc cho nhau.
Vâng, nếu ngày nay bạn là một người trưởng thành với đời sống đức tin sống động, là do đức tin đó đã ăn rễ sâu trong con người bạn từ tuổi thơ rồi. Nhưng cả hai giai đoạn đó của đức tin - trong tuổi thơ và tuổi trưởng thành - đều cần đến sự nâng đỡ và hướng dẫn của kẻ có kinh nghiệm trong vấn đề.
Dĩ nhiên mỗi giai đoạn mỗi khác. Cách thức hướng dẫn của thầy cô ở nhà trường, của các giáo lý viên hay của cha xứ ở các lớp giáo lý khác với sự chỉ dạy của cha mẹ ở nhà khi các ngài lần đầu tiên dạy cho bạn biết kêu tên Chúa hay dạy cho bạn cách giơ tay làm Dấu Thánh Giá, v.v.. Cũng vậy, cách thức hướng dẫn của Thầy Cả Hê-li đối với bé Sa-mu-en không giống thái độ của Gioan Tiền Hô đối với hai môn đệ trưởng thành của ông. Thầy Cả Hê-li dạy bé Sa-mu-en: Con hãy làm như thế này. Còn Gioan Tiền Hô lại sử dụng một phương pháp khác: Ông chỉ giới thiệu và cho các môn đệ thông tin về Đức Giêsu: “Kià là con Chiên Thiên Chúa”.
Cả hai trường hợp, Thầy Cả Hê-li và Gioan Tiền Hô đều nhằm cùng một mục đích: Trao trả những người được giao phó cho mình lại cho Đấng Cao Cả hơn, vì sứ mệnh của các ngài là sống và hướng dẫn dạy dỗ kẻ khác cho Đấng đó mà thôi.
Đàng khác, qua thái độ sống gương mẫu và cách thức thực thi tốt sứ mệnh được giao phó cho mình của Hê-li và của Gioan Tiền Hô, chúng ta cảm nhận được rằng thật không gì đẹp đẽ và cao quí hơn là được hướng dẫn và giúp đỡ kẻ khác trên con đường dẫn tới Đức Kitô. Nhưng đồng thời chúng ta cũng phải học nơi các ngài là khi nào phải biết can đảm chấm dứt sứ mệnh đã nhận lãnh, khi nào phải rút lui khỏi chức vụ và nhiệm sở đã được trao phó, để nhường lại cho người kế vị và nhất là trao trả lại cho Thiên Chúa. Không phải tất cả các bậc cha mẹ, các nhà giáo dục, các vị Linh mục, v.v... đã xử sự như Thầy Cả Hê-li và như Gioan Tiền Hô. Nhưng, hoặc họ quá dính bén một cách trần tục vào chức vụ thiêng liêng, hoặc họ chỉ muốn các thụ nhân của họ phải luôn lệ thuộc và phải luôn nhờ đến sự chăm sóc giúp đỡ của họ.
Họ quên rằng một chương trình giáo dục chỉ được coi là thành công khi người thụ nhân trưởng thành, tự có thể tìm ra cho mình một hướng đi riêng độc lập và không còn cần đến sự hướng dẫn của nhà giáo dục nữa. Cũng vì thế, khi người thanh niên tự chọn cho mình một con đường sống khác với sự dự định và lòng mong muốn của chúng ta - là cha mẹ, cha linh hướng và các nhà giáo dục - thì chúng ta phải tôn trọng sự tự do đó.
Mỗi người đều được tự do thờ phượng Chúa theo cách thức của mình. Mỗi người đều được tự do chọn lựa cho mình con đường tìm đạt hạnh phúc. Chúng ta phải tôn trọng sự lựa chọn đó, cả khi chúng ta tin chắc rằng sự lựa chọn đó hoàn toàn khác với sự hướng dẫn chính đáng của chúng ta và sẽ không dẫn tới Thiên Chúa, thì điều chúng ta vẫn cần phải làm là hãy tôn trọng sự tự do đó. Vì không ai được phép ép buộc người khác phải chạy đến cùng Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa cũng không ép buộc bất cứ ai phải đến với Người. Nếu không, mọi sự sẽ đưa tới một hậu quả tồi tệ hơn.
Quả vậy, chúng ta hãy quan sát xem chính Đức Giêsu đã tôn trọng sự tự do của hai người thanh niên là Gioan và Anrê đang tìm đến với Người một cách nhã nhặn như thế nào: “Các anh muốn tôi giúp được gì cho các anh đây?” Người hoàn toàn để hai chàng thanh niên được tự do trình bày ý nguyện của họ: “Thưa Thầy, nhà Thầy ở đâu?”, nghĩa là họ muốn nói: Trước hết chúng tôi chỉ muốn có những thông tin chắc chắn về Thầy đã! Đối lại, Đức Giêsu cũng chỉ cho tin một cách hết sức khách quan, chứ không khuyến dụ hay lôi kéo hai anh: “Các anh hãy tới xem cho biết”, và “họ đã đi với Người và đã nhìn thấy nhà người đang ở, và họ đã ở lại đó với Người cho hết ngày hôm đó”. Sau rất nhiều năm, vị thánh sử và đồng thời cũng là người môn đệ còn ghi rõ: “Đó là vào giờ thứ mười”. Chính đó là giờ mà lần đầu tiên trong đời anh đã bước qua ngưỡng cửa nhà Đức Giêsu và đã được làm quen với Người. Điều đó nói lên rằng suốt đời anh sẽ không bao giờ quên những giờ phút hạnh phúc được sống với Đức Giêsu.
Sau cùng, để có thể cảm nghiệm được cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu đã nung nấu, động viên và thay đổi được con người của hai chàng thanh niên đó như thế nào, chúng ta hãy nhìn vào thành quả của buổi gặp gỡ: Chỉ mấy ngày sau đó, An-rê đã tìm gặp em mình là Simon và dẫn chàng đến gặp Đức Giêsu. Qua sự kiện đó, đường lối căn bản cố hữu của Thiên Chúa lại được sử dụng ở đây, là người này hướng dẫn người kia tới cùng Người, kẻ này giúp đỡ kẻ nọ tìm gặp được Người, và cứ thế mãi! Vậy để thử nghiệm xem đức tin của chúng ta có còn sống động hay không và liệu chính chúng ta đã bước qua ngưỡng cửa để vào nhà Đức Giêsu hay chưa, chúng ta hãy tự hỏi lòng mình là chúng ta đã nỗ lực thực thi đường lối cơ bản của Nước Thiên Chúa, tức đưa dẫn người khác đến cùng Đức Giêsu hay không!
40. Hãy đến, xem và ở lại cùng Người
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Khoa Toàn)
Norman Vincent Peale là tác giả nổi tiếng viết khá nhiều sách trong đó có best-seller "The Power of Positive Thinking". Một ngày kia, đang dạo phố ở Hồng Kông, Peale tình cờ đi ngang qua một tiệm xâm hình. Trên khung cửa kiếng trưng bày đủ loại đủ kiểu xâm nhưng có một hàng chữ đập mạnh vào mắt Peale: "Born to Lose". Không nén nỗi tò mò, Peale đẩy cửa buớc vào, chỉ vào hàng chữ trên rồi nói: "That one!"
Người thợ xâm không nói không rằng chỉ lẳng lặng ra hiệu cởi áo ngoài ra thì Peale liền xua tay: "Không! Tôi không có ý xâm đâu nhưng chỉ muốn hỏi là đã có ai vào xâm hàng chữ 'Born to Lose' kia chưa?" "Cũng có vài người." "Ông không đùa đấy chứ?" Peale trố mắt kinh ngạc. Bằng một giọng lơ lớ tiếng Anh, người thợ xâm bình thản trả lời: "Before tattoo on chest, tattoo on mind." (Truớc khi xâm trên ngực, [họ] đã xâm trong đầu rồi)...
Peale choáng váng mặt mày như không tin vào tai mình nữa. Sao ai lại vào đây và xâm trên da thịt mình những chữ rất tiêu cực kia? Oái ăm thay! Điều gì cũng có thể xảy ra dưới ánh mặt trời này!!!
Thực thế, linh mục tâm lý gia dòng Tên John Powell đã viết là có những người không bao giờ tin tưởng vào khả năng mình. Giả như có ai nhờ điều gì hoặc cậy việc chi, họ điều tìm đủ mọi cách từ chối thoái thác. Có thể một phần vì ngại ngùng, nhưng cũng có thể phần lớn của sự ngại ngùng kia là họ không tin chính vào sức mình.
Khi Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ 'đến và xem' chỗ Người ở, họ đã đến. Đã xem. Và họ quyết định 'ở lại' cùng Người. Họ ở lại vì chẳng những họ tin Đức Giêsu chính là Chiên Thiên Chúa mà là Chiên Thiên Chúa sẽ làm những việc kỳ diệu của Người qua chính họ.
Họ ở lại. Không một chút đắn đo! Cũng chẳng một phút ngại ngùng! Chúng ta cũng thế. Qua bí tích Rửa Tội, chúng ta đuợc mời đến và xem và dẫu cho muôn ngàn khó khăn chông gai đang chờ đón, chính chúng ta quyết định ở lại và cùng Người tiến buớc gieo Tin Mừng Cứu Rỗi.
Không phải dễ dàng đâu nếu không xâm trong óc trong tim một lòng tin tuyệt đối vào Thiên Chúa. Và vào chính mình. Đuờng theo chân Chúa chỉ có thể cho những người tay áo luôn xắn cao sẵn sàng đối đầu với những hiểm nguy và thử thách thế trần.
Khi Thiên Chúa luôn là trọng tâm của cuộc đời, chúng ta sống vũng tin hơn vào chính mình vì thân xác mình, như lời thánh Phaolô, chính là "đền thờ Thánh Thần Chúa". Và đền thờ này không phải đuợc giản đơn định giá qua lăng kính 'ngoại hình cân đối' mà là một tinh thần tuyệt đối trung kiên.
"Đuờng đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà chỉ khó vì lòng người ngại núi e sông!" Đã bước sang tuần thứ hai của năm mới, nhưng cũng chưa muộn lắm đâu khi chúng ta cầu chúc cho nhau đuợc thêm lòng tin vào Thiên Chúa. Và hãy mạnh dạn xâm niềm tin ấy vào máu vào tim. Như Samuen và các tiên tri xưa kia. Như các thánh tông đồ hai ngàn năm truớc. Họ đã đến. Đã xem. Và đã trung kiên ỡ lại cùng Người...
41. Đáp trả và sống ơn gọi mỗi ngày
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
Nhìn thấy Đức Giêsu đi qua, ông Gioan tiền hô liền giới thiệu hai môn đệ của mình cho Chúa: Đây là Chiên Thiên Chúa (Ga 1:36). Một trong hai môn đệ đi theo Chúa thì Phúc âm hôm nay nêu danh tính là Anrê, còn ông kia được giấu tên. Tuy nhiên học giả Thánh kinh đoán là ông Gioan tông đồ vì ông có khuynh hướng hay giấu tên mình. Hai trường hợp khác ông cũng giấu tên là khi ông viết: Người môn đệ mà Chúa yêu (Ga 13:23; Ga 19:26-27; Ga 20:2) và ông còn tường thuật về: Người môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước (Ga 20:4).
Hai môn đệ của ông Gioan tiền hô chấp nhận lời mời gọi của Chúa: Hãy đến mà xem (Ga 1:39). Họ đến xem nơi Chúa ở và quyết định ở lại với Người và đi theo Người. Gioan tiền hô không đặt vấn nạn về việc hai môn đệ đào ngũ đi theo Chúa, vì ông chủ trương Đấng cứu thế phải được tỏ hiện, còn ông phải rút lui vào bóng tối (Ga 3:30). Hành động đầu tiên của Anrê khi tìm thấy nơi Chúa ở là đi tìm anh mình là ông Simon để giới thiệu với Chúa. Khi Simon đến gặp Chúa, Chúa liền đổi tên ông thành Phêrô, có nghĩa là đá. Chúa đặt cho ông tên này vì Chúa biết trước Người sẽ đặt ông làm đầu Giáo hội. Ông sẽ trở nên như tảng đá vững chắc cho toà nhà Giáo hội của Chúa.
Các ông đi theo Chúa, chắc chắn trăm phần trăm không phải vì Chúa ở nhà cao cửa rộng. Trong đời sống ẩn dật, Chúa ở tại nhà Nadarét. Còn trong đời sống công khai, Phúc âm chỉ nhắc Chúa ở lại nhà ông Dakêu (Lc 19:5) và có những lần ở nhà ba chị em Mác-ta, Maria và Ladarô (Lc 10:38; Ga 12:2). Những trường hợp khác ta có thể đoán khá chắc chắn rằng Chúa sống kiểu bụi đời: nay đây mai đó, có thể tá túc ở túp lều vải lưu động để che mưa nắng, đi thì gấp vào rồi mang theo. Lối sống vô gia cư này được Chúa xác nhận khi có người trong Phúc âm muốn đi theo Chúa, thì Chúa bảo: Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu (Mt 8:20; Lc 9:58). Theo Chúa trong trường hợp và hoàn cảnh như vậy phải kể là mạo hiểm, nếu chưa nói là liều lĩnh vì nước Trời. Bài trích sách Sa-mu-en quyển một cho thấy câu chuyện Chúa gọi Samuen để thi hành sứ mệnh lãnh đạo dân Chúa và làm ngôn sứ. Samuen trả lời sẵn sàng: Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe (1Sm 3:10).
Nói đến ơn gọi nhiều người nghĩ rằng chỉ có linh mục và tu sĩ nam nữ mới được ơn Chúa gọi làm việc tông đồ truyền giáo. Thực ra mỗi người tín hữu đều có ơn gọi. Nói chung có ba thứ ơn gọi khác nhau: ơn gọi làm linh mục tu sĩ nam nữ, ơn gọi sống đời hôn nhân, ơn gọi sống độc thân giữa đời. Người giáo dân sống độc thân hay có gia đình qua Bí tích Rửa tội và Thêm sức đều được gọi để làm việc tông đồ giáo dân bằng lời cầu nguyện, gương sáng, bằng việc bác ái phục vụ theo khả năng và phương tiện có thể.
Theo thánh Phaolô thì trong Giáo hội có những ơn gọi, những chức vụ và vai trò khác nhau khả dĩ để xây dựng nhiệm thể Chúa Kitô (1 Cr 12:12-34). Công đồng Vaticanô II trong Sắc lệnh về Tông đồ Giáo dân, kêu gọi người giáo dân làm việc tông đồ nơi gia đình, trong xã hội, trên bình diện quốc gia và quốc tế qua việc tông đồ cá nhân, việc tông đồ tập thể. Công Đồng ghi nhận: Người giáo dân có rất nhiều cơ hội làm việc tông đồ: rao giảng Phúc âm và thánh hoá. Chính chứng tá của đời sống Kitô và những việc lành được làm với tinh thần siêu nhiên có sức lôi kéo người ta đến đức tin và đến với Thiên Chúa (TĐGD # 6).
Như vậy có ơn gọi nọ giá trị và cao qui hơn ơn gọi kia chăng? Cổ nhân thường nói: Tu là cõi phúc, tình là giây oan. Tuy nhiên tu mà không trọn kiếp thì cũng không hẳn là có hạnh phúc. Điều quan trọng là mỗi người sống ơn gọi của mình, tìm cách phát triển và hoàn thành ơn gọi. Trong một vở kịch mà tài tử chính diễn dở thì làm cho vở kịch kém giá trị. Trái lại người đóng vai phụ mà diễn hay, thì cũng được khen thưởng.
Sống ơn gọi là một tiến trình kéo dài suốt cả cuộc sống. Ngày chịu chức linh mục không phải là dừng bước làm linh mục. Ngày chịu chức linh mục mới chỉ là bước khởi đầu cho đời sống linh mục. Đời sống hôn nhân cũng vậy. Hôn nhân không dừng lại trong ngày đám cưới, trong tuần trăng mật. Tình yêu và đời sống hôn nhân phải được nuôi dưỡng và phát triển từ ngày này qua ngày khác, từ năm nọ qua năm kia. Ơn gọi làm người Kitô hữu cũng không dừng lại khi lãnh nhận Bí tích Thanh tẩy hay Bí tích Thêm sức. Chứng chỉ rửa tội không phải là giấy thông hành để vào nước Trời, nếu người ta không sống và thực hành lời Chúa và không giữ giới răn Chúa. Mỗi người tín hữu cần tiếp tục học hỏi về đạo giáo và đường lối Phúc âm hầu làm tăng triển mối liên hệ với Chúa, sống đức tin và làm đổi mới đức tin.
Đó là tíến trình của việc làm môn đệ. Mỗi người Kitô hữu đã chịu Phép Thanh tẩy gồm cả linh mục, nam nữ tu sĩ đều được gọi để làm môn đệ Chúa. Việc người tín hữu đáp lại tíếng Chúa mời gọi không phải là một lần. Mỗi ngày đòi ta làm mới lại việc đáp trả. Còn việc chấp nhận hay không là tùy thuộc vào mỗi người. Bản tính loài người là yếu đuối, nhưng khi Chúa mời gọi ta làm việc nọ chuyện kia, Người ban đủ ơn để ta thi hành công việc.
Lời Chúa mời gọi không phải là tiếng gọi một chiều, nhưng bao hàm việc đáp trả và cộng tác với ơn Chúa. Ân huệ và quyền năng của Chúa tuỳ thuộc vào việc mở rộng tâm hồn và cộng tác của mỗi người.
Lời cầu nguyện: xin cho được đáp trả và sống ơn gọi mỗi ngày: Lậy Chúa! Chuá hằng kêu gọi mỗi người đến những vai trò và phận vụ khác nhauđể phụng sự Chúa và phục vụ đồng loại. Xin cho những người đứng giữa ngã ba đường không biết phải theo đường nào được nhận ra đường Chúa muốn họ đi để họ có thể đáp trả và theo đuổi. Và xin ban ơn để con hoàn thành ơn gọi. Amen.
42. Hãy đến mà xem
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)
Angele Laly viết: "... Để mời gọi, Chúa Giêsu hầu như không nói. Người chỉ trả lời cho một sự khát vọng và một câu hỏi: “Thầy ở đâu?”. Người mời gọi vào trong thân tình của Người, vào trong nhà Người, những ai muốn biết Người ở đâu: “Hãy đến rồi sẽ thấy”. Giới thiệu Đức Giêsu cho người khác, cho anh em là bổn phận và trách nhiệm của tất cả Kitô hữu trên trái đất này? Nếu Đức Giêsu không được nhiều người nhận biết và tin bởi vì ít người nói, loan báo về Ngài. Bởi vậy, việc loan báo và giới thiệu Đức Giêsu cho anh em là việc làm khẩn thiết và quan trọng đối với người môn đệ của Chúa. Tin Mừng Chúa Nhật II thường niên, năm B, nhắn nhủ mọi người nên bắt chước Anrê chia sẻ với người khác niềm tin của mình vào Chúa Giêsu.
Đọc Tin Mừng của thánh Gioan, chúng ta không khỏi ngạc nhiên và hết sức khâm phục Anrê, vị tông đồ luôn giới thiệu Đức Giêsu cho người khác. Đoạn Tin Mừng của thánh Gioan hôm nay cho thấy Anrê đã gặp Đức Giêsu: "Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia” (Ga 1, 41), rồi Anrê liền giới thiệu em mình là Phêrô cho Chúa Giêsu. Anrê đã trở nên quen thuộc và được nhiều người biết đến vai trò của mình, khi dân chúng đi theo Chúa Giêsu để nghe Ngài giảng dạy và vì chiều, dân quá đông, các môn đệ đề nghị với Chúa Giêsu giải tán đám đông, để họ tự đi tìm thức ăn, nhưng Chúa Giêsu đã bảo các môn đệ: “Các con hãy cho họ ăn”. Thế rồi Anrê đã tìm được một cậu bé có “năm chiếc bánh và hai con cá“, Anrê liền đưa cậu bé giới thiệu với Chúa Giêsu. Qua việc giới thiệu cậu bé này, với sự cộng tác của bàn tay con người hay nói đúng hơn, có vật chất: có bánh, có cá. Chúa Giêsu sau khi đã cầu nguyện tạ ơn Thiên Chúa Cha, Ngài đã biến bữa ăn trưa của cậu bé trở thành bữa tiệc tập thể nuôi sống hơn năm ngàn người.Lần cuối cùng khi Chúa Giêsu trở lại Giêrusalem, có mấy người Hy Lạp đến xin gặp Ngài. Anrê là người đã giới thiệu họ với Chúa Giêsu. Chắc chắn Chúa Giêsu đã rất hài lòng về Anrê, bởi vì sau đó chính Ngài đã nói: “phần Ta, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, Ta sẽ khéo mọi người lên với Ta” (Ga 12,32).
Xem như thế, chúng ta thấy vai trò của Anrê thật quan trọng và đáng được ghi nhận để bắt chước Anrê vì nếu Anrê không giới thiệu em mình là Simon Phêrô cho Chúa Giêsu, Giáo Hội làm gì có một Phêrô là thủ lãnh được Chúa tin tưởng, yêu thương đặt lên coi sóc Giáo Hội của Ngài: “Hãy chăm sóc chiên con, chiên mẹ của Ta“. Và nếu không có Anrê giới thiệu cậu bé có “năm chiếc bánh mì nhỏ và hai con cá“, làm sao có một phép lạ đẹp và hoành tráng như phép lạ Chúa Giêsu đã làm để nuôi sống một đám đông người như thế.
Anrê đã giới thiệu nhiều người đến gặp Đức Giêsu. Do đó, Tin Mừng của thánh Gioan 1, 35-42 mời gọi mọi Kitô hữu hãy xét lại thái độ, cử chỉ và hành động của mình cách cụ thể hơn: tại sao Kitô hữu lại chưa muốn chia sẻ đức tin của mình cho người khác? tại sao Kitô hữu lại chưa mau mắn giới thiệu Chúa Giêsu cho người xung quanh, cho bạn bè và cho nhiều người khác? Quả thực, nếu người môn đệ của Chúa đã tìm gặp Tin Mừng, đã nhận ra Tin Mừng là chính Đức Giêsu thì tại sao họ lại chậm chạp, chứ chưa chóng vánh chia sẻ niềm vui, chia sẻ đức tin cho bạn bè, những người quen biết và nhiều người mình chưa quen biết? Đây là vấn nạn quan trọng được đặt ra và mỗi người phải tự mình trả lời trước lương tâm, trước mặt Chúa về câu hỏi này, không ai có thể trả lời giúp họ được vấn nạn này. Mọi người đang nhìn vào cách thể hiện đức tin của người môn đệ Chúa và sự chia sẻ đức tin của họ cho người khác là điều rất quan trọng và hết sức hệ trọng. Bài Tin Mừng này là bài học cho mọi Kitô hữu hãy bắt chước việc làm của vị tông đồ Anrê: “giới thiệu Chúa Giêsu và chia sẻ đức tin cho người khác“.
Xung Quanh chúng ta còn biết bao người chưa biết Chúa và còn biết bao người chưa được nghe nói tới Tin Mừng. Chính vì thế, thái độ và việc làm của chúng ta là phải làm chứng cho Chúa Giêsu như Anrê, như các tông đồ xưa và nhiều người khác đã làm. Được phục vụ cho anh chị em lương dân và những anh chị em Dân tộc thiểu số, tôi vẫn cảm nghiệm được việc làm chứng cho Chúa bằng đời sống là cần thiết và việc loan báo Tin Mừng, rao giảng Đức Giêsu là tối ư quan trọng. Bởi, nếu không rao giảng, không chia sẻ đức tin mình có được thì anh chị em lương dân hay anh chị em Dân tộc sẽ không thể nào nhận ra Chúa Giêsu.
Xin mượn lời của Ange Laly để kết thúc bài chia sẻ hôm nay: “Sống dưới cái nhìn của Chúa Giêsu, chia sẻ sự thân tình của Người, sẽ đem đến cho ta niềm vui, để lại đến lượt chúng ta là những kẻ mời gọi. Nhưng chúng ta có dám nói với những ai đi tìm: “Hãy đến rồi sẽ thấy! “. Thiên Chúa, cách khiêm tốn, muốn tự mặc khải ngang qua cuộc đời chúng ta và ngang qua các cộng đoàn chúng ta. Đó có phải là những dấu chỉ của Thiên Chúa không? Những đối thoại của chúng ta sẽ có được sự dồi dào phong phú, nếu mọi người đều muốn sống dưới cái nhìn của Thiên Chúa và sống trung thành với Lời của Người”.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Làm sao để có thể nhận biết và tin Chúa?
2. Anrê đã giới thiệu ai cho Chúa Giêsu?
3. Ai đã giới thiệu với Chúa Giêsu em bé có năm chiếc bánh và hai con cá?
4. Em bé đó là ai?
5. Phép lạ đòi hỏi gì nơi mỗi người chúng ta?
6. Chúa có còn làm phép lạ không? Phép lạ lớn nhất mỗi người chúng ta đang lãnh nhận là phép lạ nào?
43. Môn đệ Chúa Giêsu
(Suy niệm của Lm Bênađô Nguyễn Tiến Huân)
Ngay ngày hôm sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa của Gioan ở sông Giođan (Ga 1,35) Chúa Giêsu bắt đầu tuyển chọn những môn đệ đầu tiên như chúng ta đọc trong bài Phúc Âm hôm nay. Đang đứng với hai môn đệ mình, Gioan thấy Chúa Giêsu đi ngang qua thì nói với họ: "Đó là Chiên Thiên Chúa". Hai môn đệ ấy là Anrê, người khác nữa thì thánh Gioan không nói nhưng dựa theo Nhất Lãm (Mt 4,18; Lc 5,10-11; Mc 1,16 và Ga 1,42), chúng ta biết môn đệ đó là Simon (Phêrô) đã bỏ Gioan Tiền Hô mà đi theo Chúa (Ga 1,37). Gioan không ngăn cản cũng không hỏi tại sao lại bỏ đi. Điều đó chứng tỏ Gioan rất bằng lòng và còn muốn cho các môn đệ mình đi theo Chúa Giêsu. Đúng như cương vị của một tiền hô, Gioan muốn giới thiệu cho mọi người tìm tới Chúa Giêsu chứ không giữ họ lại cho mình như người đã nói: "Ngài cần phải được lớn lên, còn tôi thì phải nhỏ bé đi" (Ga 3,30). Khi ở trong ngục Gioan vẫn sai các môn đệ đến để được Chúa Giêsu dạy dỗ. Và Chúa đã khen Gioan là người lớn nhất trong Cựu Ước (Mt 11,2-11).
Lời Gioan giới thiệu Chúa Giêsu: "Đây là Chiên Thiên Chúa". Đó là hình ảnh chỉ về Chúa Giêsu trong vai trò tế lễ và đền tội như tiên tri Isaia đã báo trước về Ngài rằng: "Bị tra tấn, Ngài đã chịu đựng và không mở miệng như con chiên bị đem đi giết" (Is 53,7). Khi đi theo Chúa Giêsu các môn đệ này chỉ hỏi Ngài một câu rằng: "Thầy ở đâu?" (Ga 1,3-8). Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp mà chỉ nói: "Hãy đến mà xem". Họ đã tới và ở lại với Ngài luôn (Ga 1,39).
Để làm môn đệ Chúa, tất cả mười hai vị cũng đã bỏ hết mọi sự kể cả cha, mẹ, vợ con và tức khắc đi theo Chúa, để Chúa ở đâu, đi đâu, thì cũng ở đó, đi đó: "Có sướng cùng hưởng có họa cùng chịu". Đó chính là tinh thần của kẻ theo Chúa và cũng là điều kiện Chúa đòi buộc: "Ai muốn theo Ta thì phải bỏ mình vác Thánh giá mà theo Ta" (Mc 8,34). "Kẻ nào đến với Ta mà không từ bỏ cha mẹ anh chị em và cả mạng sống mình nữa thì không thể làm môn đệ Ta" (Lc 14,26). Có họa cùng chịu nhưng cũng sẽ có sung sướng cùng hưởng: "Phàm ai bỏ cha mẹ vợ con ruộng vườn vì Ta thì sẽ lại được gấp trăm" (Mt 19,29). Và "khi con người được vinh hiển thì sẽ được ngồi trên mười hai ngai vinh hiển mà xét xử 12 chi tộc Israel" (Mt 19,28). Muốn theo Chúa mỗi người chúng ta cũng phải làm như vậy mà tất cả mọi người chúng ta đều là môn đệ Chúa đã chọn để chu toàn những sứ mệnh riêng trong đấng bậc của mỗi người chúng ta.
Lạy Chúa, tuần này con sẽ nhìn lại sứ mạng làm tông đồ Chúa đã trao phó cho con và quyết thực hiện những điều kiện Chúa đòi hỏi.
44. Ơn gọi - Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Thiên Chúa luôn có cách, có phương thế, có những nẻo đường để mời gọi con người đi theo Ngài. Tin Mừng mà Ngài giới thiệu chính là Con Một Chí Ai của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và các môn đệ đầu tiên được Tin Mừng giới thiệu hôm nay muốn gợi lên cho nhân loại ý tưởng ấy.
Gioan Tẩy giả đã gặp gỡ Chúa, Ông không chỉ giữ cho riêng mình mà giới thiệu Chúa Giêsu cho các môn đệ của mình. Các môn đệ của Gioan Tẩy giả đã tới tìm gặp Chúa và ở lại với Chúa suốt ngày hôm ấy. Anrê là một người trong nhóm môn đệ đã gặp Chúa và về đưa em của mình là Simon đến gặp Chúa. Xem ra những cuộc gặp gỡ của những những người được Chúa để ý cũng tương tợ như vậy. Trở về cựu ước ta sẽ thấy những ơn gọi đặc biệt và lạ lùng.
Samuel trong đền thờ đang đêm nghe tiếng Chúa gọi. Lần thứ ba Ông đã thưa với Chúa:" Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang nghe".
Môsê gặp gỡ Chúa trong bụi gai rực đỏ. Đavít, chàng chăn chiên nhỏ bé, có mái tóc hoe hoe vàng được Chúa tuyển chọn. Nhiều ngôn sứ đáp lại tiếng Chúa gọi mời.
Những cuộc gặp gỡ trong Tin Mừng đều na ná xẩy ra tương tự: một người gặp được Chúa, họ nong nả giới thiệu Chúa cho người khác. Các môn đệ đều được Chúa kêu mời trong những hoàn cảnh cụ thể: có người đang ngồi ở bàn thu thuế, có người đang ở dưới gốc cây vả, có người đang giặt lưới hoặc đang vá lưới với cha mình trên bãi biển vv...
Mỗi cuộc gặp gỡ trong cuộc sống là một dịp nhận ra Tin Mừng, mỗi dấu chỉ trong cuộc đời là lời mời gọi gặp gỡ Chúa. Chúa là Tin Mừng, gặp gỡ, tìm ra được Tin Mừng là nhận ra Chúa đang hiện diện giữa dòng đời, giữa cuộc sống.
Mẹ Têrêsa Calcutta đã tìm và nhận ra Chúa nơi những con người nghèo, nơi những người vất vưởng, hấp hối. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, mỗi lần tiếp xúc với giới trẻ là đem Chúa cho họ và họ nhận ra Ngài là hiện thân của Chúa Giêsu. Thi sĩ Paul Claudel nhận ra tiếng Chúa trong tiếng chuông ngân của giáo đường. Charles Foucauld đã nhận ra Chúa trong những giờ tĩnh lặng. Phanxicô khó nghèo đã nhận ra Chúa nơi vẻ đẹp của muôn loài muôn vật vv và vv. Mỗi người đều có những cảm nghiệm về ơn gọi và gặp gỡ Chúa.
Ngày nay nhiều nước rất hiếm ơn gọi. Sở dĩ ơn gọi bị khủng hoảng vì con người chạy theo những khoa học, những văn minh, vật chất vượt quá sức tưởng tượng của con người. Họ vẽ ra khuôn mặt của Chúa Giêsu bị méo mó. Họ tự nghĩ ra Chúa Giêsu hơn là chính khuôn mẫu Ngài đã hiện diện, đã có. Một nhà Kinh Thánh đã viết: " Đức Giêsu loan báo nước trời nhưng Giáo Hội đã đến"( Loisy ).
Tìm gặp Đức Giêsu phải như mẫu mực của hai môn đệ tiên khởi. Người ta không thể gặp được Chúa trong sự xa hoa, tráng lệ và không phù hợp với nước trời. Một Giáo Hội nghèo với những con người chân thành, đơn sơ, chất phác, đó là Hội Thánh của Chúa Giêsu. Cuộc sống của con người chứa đựng biết bao chặng đường, nẻo đi, nơi đến của sự hiện của Chúa và lời mời gọi của Chúa Giêsu. Con người có niềm tin luôn sẵn sàng, chóng vánh và tỉnh thức để nhận ra Chúa Giêsu đang hiện diện, đang có mặt trong mọi trạng huống của cuộc đời. Chúa Giêsu trên thập giá là sự hiện diện tột đỉnh và mầu nhiệm nhất nói lên sự có mặt của Chúa giữa trần gian để cứu độ gian trần.
Tin Mừng là Đức Kitô luôn là niềm vui, sự hạnh phúc mà con người có lòng tin đang lần mò tìm kiếm và đòi được chia sẻ, đòi được cảm thông. Tin Mừng luôn thúc bách con người cần phải được loan báo. Con người chỉ có thể sống Tin Mừng khi Tin Mừng được loan báo. Cuộc sống chứng nhân là lời loan báo mãnh liệt nhất và ý nghĩa nhất để rao truyền và giới thiệu Chúa Kitô cho người khác. Ơn gọi và tiếng gọi của Chúa vẫn vang lên. Nhưng thử hỏi con người có sống ơn gọi và nhận ra tiếng gọi của Chúa đang thôi thúc con người hay không ?
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con luôn mau mắn nhận ra tiếng Chúa trong cuộc sống của chúng con.
45. Chúa Nhật 2 Thường Niên
Con người là một hữu thể luôn khao khát hạnh phúc. Là con người bất toàn nhưng luôn hướng về Đấng vĩnh cửu. Hai môn đệ của Gioan đang khát khao Đấng hạnh phúc vĩnh cửu. Họ đã gặp được Đấng vĩnh cửu là Đức Kitô và đã sống hoàn toàn cho Ngài.
Anrê và Gioan đi tìm và gặp được Đức Kitô. Cuộc sống có những điều thú vị của nó nhưng nó không làm Anrê và Gioan thoả mãn. Lòng hai ông luôn mang trong mình niềm khát khao một điều cao quý hơn, khát khao điều gì đó tốt đẹp hơn, khát khao một điều gì đó bền vững hơn. Điều này thúc bách hai ông luôn ấp ủ một cuộc đổi đời, nó thôi thúc hai ông không dậm chân tại chỗ mà luôn "thao thức tìm kiếm" Đấng vĩnh cửu hạnh phúc. Sống trong tâm trạng đó nên khi nghe Thầy Gioan giới thiệu: "Đây Chiên Thiên Chúa" thì hai ông đã tức khắc đi theo Đức Giêsu. Đây là cơ hội ngàn năm có một. Hai ông không muốn bỏ lỡ cơ hội này. Hai ông mạnh dạn bước tới "Chiên Thiên Chúa". Hai ông không chần chừ, không tra hỏi Thầy điều gì thêm nữa, cũng không cần phải tính toán, không cần phải suy nghĩ thêm. Hai ông đã nhanh chóng và mạnh dạn đến với Đấng mà Thầy mình giới thiệu. Hai ông đã gặp được Đức Kitô.
Phần mình, Chúa Giêsu trả lời: "hãy đến mà xem". Ngài không giới thiệu địa chỉ, nơi chốn nhưng Ngài nói: "hãy đến mà xem". "Hãy đến mà xem" là lời mời gọi bước đi. Chúng ta là môn đệ nên hãy bỏ lại chỗ cũ, hãy bỏ lại con người cũ, hãy mặc lấy con người mới. Chúng ta hãy đến với Ngài bằng con người mới, đi trên hành trình mới, hành trình của sự từ bỏ, hy sinh và yêu thương. Chúng ta hãy đến mà xem tình yêu của Thiên Chúa biểu lộ cho con người nơi Chúa Giêsu Kitô. Khi gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô là chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa tình thương: "Ai thấy Thầy là thấy Đấng đã sai Thầy". Khi gặp gỡ và "lưu lại" với Ngài, chúng ta học biết được kinh nghiệm về một tình yêu, tình yêu vĩnh cửu, về hạnh phúc trường tồn. Thật đúng như vậy hai ông Anrê và Gioan đã kinh nghiệm được điều ấy nên đã lưu lại với Chúa, lưu lại trong tình yêu của Ngài. Tình yêu làm cho hai ông trở nên gần gũi với Thầy và sự gần gũi làm gia tăng tình yêu. Hai ông đã đến với Chúa Giêsu, họ đã "lưu lại với Người", nhờ đó hai ông đã nhận ra Người là "Đấng Kitô". Như thế, có thể nói, nếu chúng ta có thao thức, chúng ta ước muốn tìm hạnh phúc là điều kiện đầu tiên tuy nhiên chúng ta cần phải bước đi. Chúng ta hãy bước đi bằng cách chấp nhận từ bỏ, chấp nhận hy sinh, từ bỏ những gì là cũ, từ bỏ những gì không phù hợp, nó đang gây cản trở cho hành trình ta gặp Chúa. Chúng ta phải hết lòng cộng tác với ơn Chúa, bước đi trong đường lối và giới răn của Thiên Chúa thì ta mới đạt kết quả tốt đẹp như Đấng đang thúc bách mời gọi. Nói một cách khác, hành trình đón nhận đức tin của chúng ta là sẵn lòng đón nhận chân lý mạc khải của Thiên Chúa và nỗ lực đáp trả tức khắc và liên lĩ lời mời gọi sống cho Đức Kitô.
Gặp gỡ được Đức Kitô, chúng ta sẽ có cơ hội đối thoại với Ngài. Chúng ta có chân thành mở rộng cõi lòng, chúng ta có thiện chí đáp trả thì chúng ta sẽ được nghe Ngài ngỏ lời, chỉ dạy giống như Anrê và Gioan đã được đối thoại với Chúa. Các ông đã nghe Chúa Giêsu hỏi: "các anh đi tìm gì?". "Các anh đi tìm gì?", đây quả thật là câu hỏi không tầm thường, một câu hỏi cho hai ông mà cũng là câu hỏi chất vấn đặt lại vấn đề cho những ai theo Chúa, cho những ai muốn làm môn đệ của Ngài. Câu hỏi như một tiếng thức tỉnh lại tâm hồn mình, thức tỉnh cho những ai đang khao khát, thức tỉnh ý muốn của mọi người. Do đó, câu trả lời không phải bằng trí tuệ mà là bằng con tim, câu trả lời bằng tất cả tấm lòng yêu mến, yêu mến vào chính Đấng khơi nguồn khao khát. Đấng ấy chính là niềm hạnh phúc thật sự và vững bền mãi mãi. Vì thế hai ông trả lời bằng một câu hỏi: "Thưa Thầy, Thầy ở đâu?". Câu trả lời đơn sơ nhưng ẩn chứa tấm lòng khao khát gặp Chúa, mến yêu Ngài hết lòng, biểu lộ lòng trìu mến muốn gắn bó với Ngài, muốn dấn bước theo Ngài và muốn chia sẻ cuộc sống với Ngài.
Gặp gỡ được Đức Kitô thật là thú vị! Chúa Giêsu Kitô gặp gỡ các ông và đã biến đổi các ông. Chính Đấng Messia đã chiếm được cảm tình, giúp các ông xác tín đức tin và củng cố niềm hy vọng cho các ông. Kể từ đây, các ông sẽ ở lại với Ngài, sẽ cùng sống, cùng bước theo Ngài và trở nên giống Ngài. Chính tình yêu và niềm tin vào Chúa Giêsu hướng người môn đệ sống và làm cho cuộc đời mình mang ý nghĩa mới.
Khi đã kinh nghiệm tình yêu của Chúa, Anrê tự cảm thấy được thúc bách phải chia sẻ niềm tin cho Phêrô. Anrê đã giới thiệu với Phêrô: " chúng tôi đã gặp Đức Kitô". Không dừng lại ở đó, Anrê đã dẫn Phêrô đến gặp Chúa Giêsu. Anrê đã sung sướng gặp được Chúa, ông đã khám phá ra Chúa Giêsu chính là Đấng Messia mà ông mong chờ, Đấng mà muôn dân trông đợi và các tiên tri đã loan báo. Chắc chắn Anrê sẽ ở lại với Ngài nhiều hơn nữa, lâu hơn nữa để thêm tìm hiểu và khám phá mới nơi Đấng Messia nay. Nhưng giờ đây Anrê cùng chia sẻ, cùng khám với với Phêrô. Niềm vui và lòng mến của ông sẽ được củng cố, tăng thêm và càng lớn lên hơn nữa.
Là Kitô hữu, chúng ta đã gặp Chúa. Chúng ta đã gặp Ngài nơi tha nhân, nơi các biến cố trong cuộc sống. Chúng ta đã gặp Ngài nơi Thánh Lễ và các Bí tích, nơi kinh nguyện và các việc đạo đức. Đặc biệt chúng ta đã gặp gỡ một Thiên Chúa tình thương từ trời cao đến với chúng ta nơi Bí tích Thánh Thể. Nơi Thánh Thể, Chúa Giêsu Kitô muốn đối thoại, đồng hành, chia sẻ cuộc sống dương thế với chúng ta. Hơn nữa, Chúa Giêsu Kitô giúp chúng ta ở lại với Ngài và Ngài giúp chúng ta thêm yêu mến và bền lòng bước theo Ngài, đi về cõi hạnh phúc thật, cõi hạnh phúc đời đời trong vương quốc tình yêu của Ngài. Ngài là tình yêu. Chúng ta như đang rơi vào biển tình yêu bao la của Ngài.Tình yêu giúp ta hướng gặp gỡ Ngài và củng cố tình yêu của chúng ta đối với tha nhân. Tình yêu Chúa Giêsu Kitô giúp chúng ta loại bỏ ích kỷ và thúc đẩy chúng ta chia sẻ tình yêu cho tha nhân, sẵn sàng dấn thân cho tình yêu và ơn cứu độ của Thiên Chúa. Khi được chất vấn về đức tin, chúng ta không do dự mà mạnh dạn chia sẻ đức tin của mình cho người khác. Chúng ta hãy bắt chước Thánh Phaolô chia sẻ đức tin của mình với tín hữu Côrintô, Gioan Tẩy Giả chia sẻ đức tin với hai môn đệ của mình và Anrê chia sẻ đức tin vào Chúa Giêsu với Phêrô...Tha nhân đang chú tâm vào đức tin của chúng ta, và sự chia sẻ đức tin của chúng ta đóng vai trò cực kỳ quan trọng.
Khi xưa Chúa Giêsu đã mời hai môn đệ: "Hãy đến mà xem", thì hôm nay Ngài cũng mời gọi chúng ta không chỉ "đến mà xem" và còn "ở lại với Người" để trở nên môn đệ của Người, và để người ban cho dồi dào ơn phúc cho.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết khát khao Chúa, muốn đi theo Chúa để làm môn đệ, để làm chứng nhân cho Chúa. Bởi vì Chúa chính là lẽ sống, là hạnh phúc và niềm hy vọng của chúng con. Amen.
46. Đến và ở lại – Anmai
Thử hỏi ai trong chúng ta là người không biết yêu? Và khi yêu nhau, tâm trạng của tình yêu nó làm sao đó và chẳng ai có thể diễn tả được. Chỉ có những tâm hồn đang yêu mới diễn tả và mới hiểu được tình yêu là gì.
Đơn giản, đứa trẻ, nhìn vào đứa trẻ chúng ta sẽ thấy lộ ra tình yêu của chúng với cha mẹ chúng là như thế nào. Chúng hình như không muốn xa lìa cha mẹ chúng chút nào cả. Bằng chứng tôi thấy rõ nhất là ở gia đình, có hai đứa cháu trai năm nay đứa học lớp 10, đứa học lớp 5. Hai đứa cháu này không bao giờ chịu rời xa cha mẹ chúng cả. Dù nghe người khác bảo là dẫn đi Siêu Thị hay đi mua đồ chơi, mua thức ăn cho chúng là những điều chúng thích nhưng chẳng bao giờ dụ chúng được. Có lẽ một phần do bản tính nhưng căn cốt đó là vì yêu cha yêu mẹ chúng, chúng sợ xa cha xa mẹ nên chẳng chịu rời xa cha mẹ. Yêu là như vậy đó.
Hay là như chúng ta, hơn một lần chúng ta tiễn biệt người thân chúng ta như ông, như bà, như cha, như mẹ. Ít nhiều gì đó, chúng ta cảm thấy cái giây phút hạ huyệt, cái giây phút đưa vào lò thiêu nó đau đớn đến mức nào. Có những người khóc ngất, có những người xỉu vì xa cha, xa mẹ, xa ông, xa bà của mình. Tại sao khóc? Chẳng cần suy nghĩ, ta có thể trả lời ngay là vì yêu. Yêu nên sợ xa, sợ mất người mà mình yêu.
Nhìn vào tình yêu đôi lứa chúng ta sẽ thấy rõ nét nhất về sự xa cách này. Khi vì hoàn cảnh chưa đến được với nhau, chưa được ở gần nhau thì cái lòng nó nao nao làm sao đó. Hình như lúc nào anh chị cũng muốn được ở gần nhau, được ở bên nhau hết. Có những lúc đi xa thì chỉ tổ làm giàu cho các mạng di động thôi vì lúc nào cũng liên lạc cả. Không được ở gần nhau vì hoàn cảnh nào đó thì cũng mong được nghe tiếng của nhau. Vì sao vậy? Vô duyên quá chăng? Không! Đó là vì yêu, yêu nên người ta mới mong mỏi được ở gần nhau, ở bên nhau.
Tất cả những hình ảnh đơn sơ ấy biểu lộ tình yêu giữa con cái với ông bà cha mẹ, giữa hai người yêu nhau. Phải nhìn nhận thẳng với nhau rằng, trước khi yêu ta tin cái người ta yêu. Thử hỏi đứa trẻ xem, nó tin ai nhất? Chắc chắn nó tin cha mẹ nó nhất trên đời nên nó mới yêu. Thử hỏi không tin xem nó có dám yêu chăng?
Hai anh chị cũng thế! Dù không nói ra, dù không cân - đo - đong - đếm được nhưng hình như tự hai người nó phát ra cái tín hiệu rất là lạ đó là tin nhau. Tin nhau rồi họ mới tìm đến nhau và mới yêu. Thật sự mà nói, chẳng ai dám đi yêu cái người mà mình không tin cả. Từ tin bắt đầu đến yêu. Yêu nhau nên muốn ở lại bên nhau là chuyện bình thường thôi. Nếu yêu mà không tin nhau đó là tình yêu bất thường, tình yêu dị dạng và tình yêu móp méo.
Hình ảnh tin, yêu và ở lại bên nhau được Thánh Gioan nói cho chúng ta qua trang Tin mừng mà chúng ta vừa nghe. Gioan thuật lại rằng có hai môn đệ đang đứng với ông, thấy Đức Giêsu đi ngang và Gioan giới thiệu ngay: "Đây là Chiên Thiên Chúa". Sau khi nghe giới thiệu Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa, lập tức hai môn đệ đi ngay. Tại sao đi ngay? Vì lẽ là môn đệ Gioan, tin Gioan nên mới đến với Chúa Giêsu và ở lại với Chúa Giêsu. Không đơn giản như Thánh Gioan thuật lại, muốn đến và ở lại như vậy chắc có lẽ phải qua một thời gian, một giai đoạn tìm hiểu và rồi tin và rồi yêu như những người trẻ đến với nhau vậy. Và muốn có được kết qủa như ngày hôm nay của hai môn đệ ông Gioan là do hai môn đệ ấy đã lắng nghe ông Gioan nói về Chúa Giêsu trong thời gian hai ông ở với Gioan. Phải lắng nghe hai ông ấy mới biết Chúa Giêsu là ai để rồi mới ngong ngóng tìm Chúa và hôm nay mới gặp được Chúa và theo Chúa, ở với Chúa.
Muốn biết về ai, muốn tin vào ai và muốn yêu người ấy thì chuyện quan trọng nhất đó là lắng nghe. Khi ta không lắng nghe nói về người đó, nói với người đó thì làm sao ta biết, ta tin và ta yêu được.
Hình ảnh về sự lắng nghe, về tin, về yêu ấy được Samuael thuật lại trong trang sách của ông mà chúng ta cũng vừa được nghe.
Trong cơn ngủ đấy nhưng Samuel được nghe tiếng gọi, ông giật mình đến hỏi thầy của mình. Cả đến 3 lần, 3 lần ấy ông Êli đều xác nhận không phải là ông gọi nhưng chính Thiên Chúa gọi Samuel. Và Samuel lại tiếp tục trong cơn ngủ của mình. Thiên Chúa lại đến với Samuel và thực thi theo lời thầy mình dạy, Samuel đã thân thưa với Chúa: "Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng tai nghe". Sau khi thân thưa, thỏ thẻ với Chúa về tâm tình, về thái độ của mình thì ơn của Thiên Chúa đến với ông như chúng ta nghe: "Samuel lớn lên, Đức Chúa ở với ông và Người không để cho một lời nào của Người ra vô hiệu". (1 Sm 3, 19)
Thật sự là thế, Samuel lớn lên trong ơn nghĩa của Chúa nhờ thái độ, nhờ tâm tình lắng nghe Chúa và rồi Chúa ở với ông. Chúa ở với ông đồng nghĩa là ông ở trong Chúa.
Chúng ta, nhìn lại mình, chúng ta thấy buồn cười lắm! Chúng ta được nghe các thánh, các tông đồ và nhiều người nói về Chúa cho chúng ta nhưng tâm hồn của chúng ta nó cứ trơ trơ ra làm sao đó. Không chỉ các thánh, các tông đồ nhưng ngay bản thân chúng ta thôi, Thiên Chúa đã nhiều lần trực tiếp bằng những biến cố này biến cố khác trong cuộc đời Chúa nói với chúng ta đấy nhưng chuyện quan trọng là chúng ta có đủ kiên nhẫn, có đủ lắng đọng để nghe không?
Tạ ơn Chúa vì ngày nay xã hội phát triển, thậm chí phát triển quá mức tưởng tượng. Tất cả những gì xã hội mang đến cho con người là con dao 2 lưỡi. Nó phục vụ rất tốt cho cuộc sống của con người nhưng ngược lại nó cũng làm cho con người ra hư hỏng. Nếu biết dùng thì con người sẽ dùng những vật chất, những phát triển văn minh sẽ phục vụ con người nhưng không khéo nó sẽ làm hỏng con người. Nếu không cẩn thận, nếu không có chiều sâu tâm linh đậm đặc đủ con người sẽ mãi chạy theo những đam mê, những cám dỗ của vật chất, của xác thịt, của danh vọng.
Những thú vui của danh vọng, địa vị, vật chất ấy đôi khi đã làm cho con người đánh mất cảm thức về Chúa, không còn thấy Chúa có chỗ đứng trong cuộc đời của mình nữa. Sự thật thật bi đát, sự thật thật đau lòng đó là dù cho giàu có, danh vọng, hưởng thụ đến mức nào đi chăng nữa nhưng không có Chúa cuộc đời nó cứ rỗng rỗng tuếch tuếch làm sao đó.
Chúng ta vẫn bị giằng co giữa những cái mong manh của cuộc đời và Chúa nên rồi chúng ta cứ quay quắt trong những cái mong manh ấy. Vì sao chúng ta bị quay quắt? Vì lẽ chúng ta đã lìa xa Chúa, chúng ta đã không tìm Chúa, không đến, không lắng nghe lời Chúa như hai môn đệ của ông Gioan và Samuel.
Vâng! Tất cả rồi sẽ qua đi, tất cả rồi sẽ mất hết, còn lại duy chỉ mình Chúa thôi. Xin Chúa cho chúng ta ghi nhớ rằng chỉ mình Chúa là đủ cho cuộc đời chúng ta để rồi dù cuộc đời này có bao nhiêu ồn ào, bao nhiêu náo động chúng ta luôn lắng đọng tâm hồn để chúng ta đến bên Chúa, để ở lại với Chúa và để nghe lời Chúa. Khi Lời Chúa ngự vào tâm hồn chúng ta chúng ta sẽ tìm thấy sự bình an thật sự trong cuộc đời.
Anmai, CSsR
47. Chiến dịch Anrê – Lm. Mark Link
Chủ đề: "Chúng ta hãy nên bắt chước Anrê chia sẻ với người khác niềm tin của mình vào Chúa Giêsu"
Cách đây mấy năm, có một ông lão được nhận vào bệnh viện để điều trị bệnh. Sau khi ông cụ được dễ chịu, cô y tá hỏi ông lão vài câu hỏi theo thông lệ, vì cô phải điền vào một trong các giấy tờ thủ tục nhập bệnh viện. Một trong những câu cô hỏi ông lão là: “Tôn giáo ông quí chuộng hơn cả là tôn giáo nào?”. Cụ già nhìn cô y tá và nói: “Tôi rất vui sướng được cô hỏi câu ấy, tôi luôn luôn muốn là một người công giáo, nhưng trước đây chưa có ai hỏi tôi như vậy. Chính cô là người đầu tiên hỏi tôi câu ấy”.
Câu chuyện có thực trên đặt cho chúng ta một vấn đề gây bối rối: Tại sao trong chúng ta có nhiều người do dự khi phải chia sẻ đức tin của mình với kẻ khác? hoặc chúng ta có thể đặt lại câu hỏi này như sau: Nếu chúng ta tin rằng Phúc Âm thực sự là Tin Mừng, thì tại sao chúng ta lại không chia sẻ nó với kẻ khác? hoặc nếu chúng ta tin Đức Giêsu là kho tàng vĩ đại nhất mà chúng ta có thể chiếm hữu được, thì tại sao chúng ta không chia sẻ với người khác đức tin của mình nơi Đức Kitô?
Điều này dẫn chúng ta đến với bài đọc ngày hôm nay. Bài đọc thứ nhất tường thuật việc Samuel chia sẻ niềm tin của mình với chàng Eli. Bài đọc thứ hai thuật lại việc thánh Phaolô chia sẻ đức tin của mình với tín hữu Côrintô. Và bài Phúc Âm trình bày Gioan tẩy giả chia sẻ đức tin với hai môn đệ của mình, và Andrê chia sẻ đức tin với anh em mình là Phêrô.
Chúng ta hãy chú ý vào bài Phúc Âm và đặc biệt vào trường hợp Andrê. Sự kiện thánh Gioan nhắc đến Andrê những ba lần trong Phúc Âm của ngài quả thực mang đầy ý nghĩ. Lần nào Andrê cũng dẫn đến với Chúa Giêsu một người nào đó, lần nào ông cũng chia sẻ đức tin của mình với kẻ khác, trong bài đọc hôm nay, Andrê dẫn Phêrô, anh mình đến với Chúa Giêsu, mà Ngài đặt làm viên đá để xây dựng Giáo hội Ngài trên đó. Về sau, Andrê lại dẫn đến với Chúa Giêsu một em bé có 5 ổ bánh và hai con cá (Ga 6: 8) và Chúa Giêsu đã dùng bánh và cá này để thiết đãi đám đông đang đói một bữa no nê. Sau cùng, chính Andrê lại dẫn đến với Chúa Giêsu vài người Hy Lạp (Ga 12: 20-22), để rồi Chúa Giêsu thừa cơ hội này dạy cho dân chúng những điều trọng đại.
Từ đó, chúng ta trở lại câu hỏi ban đầu; Nếu quả thực chúng ta tin Đức Giêsu là kho báu to lớn nhất mà chúng ta có thể chiếm hữu được, thì tại sao chúng ta lại không muốn chia sẻ kho tàng của chúng ta cho kẻ khác?
Câu trả lời mà chúng ta thừơng nghe là: người khác có thèm chú tâm đến Đức Giêsu đâu: câu trả lời rõ ràng cho câu hỏi trên là nhiều người nghĩ rằng ông lão kia cũng chả chú tâm gì đến Chúa Giêsu. Có lẽ họ tự nghĩ; “Nếu ông lão chú tâm đến Chúa Giêsu hoặc nếu lão ta muốn trở thành một người Công giáo thì lão ta đã lo liệu được việc đó từ lâu rồi!”
Vài năm trước, một giáo viên trung học ở Chicago đã yêu cầu mỗi học viên trong lớp phỏng vấn ba người về vấn đề cầu nguyện. Các học viên phải đặt cho họ 5 câu hỏi:
- Anh (chị) có cầu nguyện không?
- Anh (chị) cầu nguyện hằng ngày hay chỉ thỉnh thoảng?
- Tai sao anh (chị) cầu nguyện?
- Khi cầu nguyện, anh (chị) cầu nguyện như thế nào?
- Ai đã dạy anh (chị) cầu nguyện?
Cuộc phỏng vấn của các học viên đem lại ba điều ngạc nhiên:
Thứ nhất, các học viên ngạc nhiên vì không ngờ người ta lại sẵn lòng bàn luận đến vấn đề cầu nguyện như thế.
Thứ hai, họ ngạc nhiên khi thấy có nhiều người cầu nguyện hằng ngày.
Và thứ ba, họ ngạc nhiên vì có nhiều bạn bè thân thiết của mình có cầu nguyện, thế mà trước đó họ chưa hề bao giờ bàn luận với nhau vấn đề ấy.
Một sinh viên nói về cuộc phỏng vấn:
“Tôi cứ tưởng các bạn tôi sẽ chế nhạo cuộc phỏng vấn, thế mà hoàn toàn khác hẳn, họ đã kính cẩn trả lời. Một trong các bạn tôi nói rằng anh thực vui mừng khi bàn về một điều thực sự có ý nghĩa như thế.
Một cô gái kết luận: “Điều tôi thu lượm được từ dự án phỏng vấn nói trên chính là:Người ta đã thực sự quan tâm đến vấn đề cầu nguyện”
Tất cả chúng ta đều đã đọc các bài viết trong các tạp chí bàn về cách thức trở nên một người nói chuyện có duyên hơn, hoặc bàn về việc trau dồi nhân cách bằng cách trau dồi nghệ thuật nói chuyện của mình. Các bài ấy luôn luôn nhấn mạnh điều này; Chúng ta nên nói đến những gì thân thiết và quan trọng đối với chúng ta. Thế mà có gì thân thiết và quan trọng hơn là niềm tin vào Chúa Giêsu? Ai còn nghĩ rằng người ta chả quan tâm gì đến những việc này thì nên ghi nhớ cuộc khảo sát của các sinh viên nêu trên. Người ta chẳng những ủng hộ cuộc khảo sát mà còn lấy làm hăng hái tham gia vào đó là khác.
Điều này khiến chúng ta đi đến một điểm quan trọng “chúng ta nên chia sẻ đức tin của chúng ta với kẻ khác”. Bất cứ ai nghĩ rằng điều này không quan trọng thì người ấy nên ghi vào tâm trí câu chuyện về ông lão nói trên. Giả như cô y tá chẳng hỏi ông về vấn đề tôn giáo thì chắc hẳn ông đã qua đời trong tình trạng chưa thực hiện được giấc mơ trở thành một người công giáo.
Và bất cứ ai nghĩ rằng việc chia sẻ đức tin của mình với kẻ khác là chả quan trọng thì kẻ ấy nên ghi vào tâm trí bài Tin Mừng hôm nay. Giả như Andrê đã không chia sẻ đức tin với ông anh Phêrô thì có lẽ chẳng bao giờ Phêrô trở nên tảng đá trên đó Chúa Giêsu xây dựng Giáo hội Ngài. Và giả như Andrê đã không chia sẻ đức tin của mình với cậu bé có năm chiếc bánh và hai con cá thì có lẽ đám đông trên đồi sẽ trở về nhà bụng đói meo và Phúc Âm có lẽ đã không có được một trong những câu chuyện hứng khởi nhất của toàn bộ Kinh Thánh rồi!
Để kết luận, bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta xem xét kỹ lưỡng lý do tại sao chúng ta còn miễn cưỡng không muốn chia sẻ đức tin của mình với kẻ khác? Nếu chúng ta tin Phúc Âm là Tin Mừng và nếu chúng ta tin Đức Giêsu là kho báu to lớn nhất mà con người có thể chiếm hữu, thì tại sao chúng ta lại miễn cưỡng không muốn chia sẻ đức tin của mình với con cái chúng ta, với bạn bè chúng ta và với những ai mà ta biết đang tìm kiếm một niềm tin? đây là vấn nạn cực kỳ quan trọng mà Tin Mừng hôm nay đặt ra trước mỗi người trong chúng ta. Không ai có thể trả lời dùm chúng ta. Chúng ta phải tự mình trả lời lấy, mỗi người tuỳ theo cách thức riêng của mình. Và chúng ta bị bắt buộc phải trả lời câu hỏi ấy. Tha nhân đang chú tâm vào đức tin của chúng ta, và sự chia sẻ đức tin của chúng ta đóng vai trò cực kỳ quan trọng.
Chúng ta hãy kết thúc với lời khấn nguyện. Xin quí vị yên lặng hiệp ý cùng tôi.
“Lạy Chúa, xin dạy cho mỗi người trong chúng con biết rằng ngay ở đây, trên trái đất này, Chúa chỉ biết nhờ đôi bàn tay chúng con để giúp đỡ những người thiếu thốn, Chúa chỉ biết dùng trái tim chúng con để ôm ấp những kẻ cô đơn; Chúa chỉ nhờ giọng nói chúng con để chia sẻ sứ điệp loan báo cuộc sống, nỗi khổ đau và cái chết Chúa đã chịu vì chúng con.
Lạy Chúa, xin hãy dạy chúng con biết rằng ở nơi đây, trên trái đất này, chúng con là đôi tay của Chúa, chúng con là tiếng nói của Chúa, và chúng con là trái tim của Chúa".
48. Lạy Thầy, Thầy ở đâu?
Anh chị em thân mến,
Trong sách Các Vua quyển 2 có kể câu chuyện: Naaman, vị tướng chỉ huy quân đội của vua Aram, ông là người có tài, có uy tín trước mặt nhà vua; nhưng ông phải khổ sở vì bệnh cùi. Một đầy tớ gái người Israel mà họ bắt được, đang phục dịch cho ông, cô nói: "Phải chi ông chủ gặp được vị tiên tri ở Samaria, vị này chắc sẽ chữa cho ông khỏi bệnh cùi." Naaman đã xin vua Aram giới thiệu cho mình sang Israel, nhờ vị tiên tri (là Êlisêô) chữa bịnh. Naaman đã ra đi, tin theo lời giới thiệu của đầy tớ gái. Cuối cùng ông cũng đã được lành bệnh (sách Các Vua, q. 2, ch 5).
Hai môn đệ của thánh Gioan Tiền hô, đã tin lời giới thiệu của ông, nên đã đi theo Chúa Giêsu. Kết quả, nhờ lòng tin đó, họ gặp được Đấng Cứu thế và đã trở nên môn đệ của Chúa. Đây chính là đề tài chúng ta suy niệm hôm nay...
a/. Anh chị em thân mến, bài Tin mừng hôm nay có hai điều làm chúng ta suy nghỉ: một là lời giới thiệu của thánh Gioan cho 2 môn đệ mình và thái độ của họ. Hai là mời gọi của Chúa Giêsu "hãy đến mà xem" và thái độ đón nhận của họ:
Gioan giới thiệu Chúa Giêsu cho hai môn đệ mình: Đây là Chiên Thiên Chúa...Các ông nghe nói liền tin và đi theo Chúa Giêsu:
Trên đời này, người ta ai ai cũng muốn đi tìm cái hơn: muốn giàu có hơn, học giỏi hơn, có vợ có chồng sang hơn...Thật không may, con số nhiều người trên đời, chỉ biết đi tìm vật chất bằng mọi giá, ngay cả bằng thủ đoạn bất chính nữa. Xem ra chỉ có số ít là muốn đi tìm giá trị tinh thần cao cả hơn. Đó chính là các môn đệ của Chúa Giêsu. Hai môn đệ của thánh Gioan trong câu chuyện hôm nay đã cư xử như thế. Họ đã không ngần ngại bỏ thầy mình để đi tìm chân lý. Thái độ bỏ thầy mà theo Chúa Giêsu, có thể đuợc coi như một hành động dứt khoát với quan niệm sai lạc về Đấng Mêsia xưa nay của người Do thái. Chính vì lẻ đó, Chúa quay lại hỏi họ: Các ông tìm gì? Có nghĩa: Tại sao các ông không đi tìm các bậc thầy của Do thái, để học hỏi làm môn đệ? Tại sao và tại sao? Các ông lúc này cũng chưa hiểu Chúa bao nhiêu, nhưng vì tin vào lời giới thiệu của thầy mình là thánh Gioan, nên họ sẵn sàng đến với Chúa.
Chính hai môn đệ này là những người đã tin, nên đã lên đường trước, đến với Chúa Giêsu, nên đáng được Chúa thưởng công lớn lao: là cho họ trở nên những tông đồ tiên khởi.
Chúa nói với hai môn đệ: "Hãy đến mà xem!" Họ đã đến và ở lại với Chúa Giêsu ngày hôm đó:
Chúa Giêsu muốn hai môn đệ đầu tiên có kinh nghiệm về cuộc sống, về Lời giảng dạy của mình, nên đã mời họ đến gặp gở Chúa. Chính các ông đã vui lòng đáp lại lời mời gọi của Chúa. Phúc âm ghi rõ: "họ đã đến và ở lại với Chúa Giêsu ngày hôm đó." Ở lại với Chúa Giêsu, cùng một nhà với Chúa, những câu nói này cũng đồng nghĩa với việc muốn đuợc tham dự vào sự sống, vào nguồn hạnh phúc, muốn chia vui xẻ buồn với Chúa. Thực ra lúc này đây, các ông cũng không hiểu rõ lắm việc mình làm; chỉ có một điều chắc chắn ta không bỏ qua được, đó là chính các ông đã tỏ ra rất tích cực, sẵn sàng cộng tác với Chúa, dù rằng các ông không biết sẽ làm gì và như thế nào. Chắc chắn chính vì điểm này mà Chúa đã chọn các ông như lời Chúa nói: "Tôi sẽ làm cho các anh nên những kẻ lưới người."
Thánh Augustinô đã nói: 'Chúa dựng nên con, không cần có con; nhưng Chúa cứu chuộc con lại cần có con...Rõ ràng Chúa dựng nên ta không cần hỏi ý ta, nhưng khi cứu chuộc ta, Chúa lại muốn ta cộng tác vào; như thế con người mới thực sự tự do và lập nên công nghiệp trước mặt Thiên Chúa...
b/. Câu chuyện: Một cha xứ hỏi một nguời vợ công giáo trẻ (cô này theo đạo chồng): lý do nào mà cô theo đạo. Cô trả lời: Con là một phật tử, dù chỉ có danh mà thôi; nhưng con lại rất ghét đạo công giáo. Dĩ nhiên, từ nhỏ con không hiểu chút nào về đạo này. Khi lập gia đình với chồng con là người công giáo, con vì yêu anh lắm nên buộc lòng phải giữ đạo, để được sống chung với anh. Chồng con không giàu có, nhưng anh có cuộc sống tốt, anh có đức tin mạnh mẻ làm mọi người quí mến. Với anh, đức tin là điều quan trọng hơn hết. Cũng chính vì đó con thấy rằng: " hể yêu anh, con cũng phải yêu cả những gì chồng con có. Chồng con có đức tin mạnh mẻ, con cũng muốn có đức tin như chính chồng con vậy"
Câu chuyện của người vợ này thật đáng khen, y như câu ông bà mình nói: "yêu nhau yêu cả lối đi." Người vợ này vì yêu chồng, nên cũng yêu cả lối sống của chồng nữa. Điễm này quá giống với các môn đệ trong bài Tin mừng hôm nay...
c/. Gợi ý sống và chia sẻ:
Chúa Giêsu kêu gọi các tông đồ: "Hãy đến mà xem". Họ đã đến ngay với Chúa, và còn ở lại với Chúa ngày hôm ấy nữa. Cuộc đời ta, bao nhiêu lần ta được mời ta đến với Chúa, qua Bí tích rửa tội, qua lời giảng dạy của bề trên, qua các Bí tích, nhất là BT Thánh thể, qua anh em xung quanh, ta có sẵn sàng đến và ở lại với Chúa trong những dịp đó không?
49. Ơn gọi theo Chúa
Mỗi người là một kiệt tác của Thiên Chúa và được kêu gọi làm môn đệ Ngài theo đấng bực khác nhau. Có những người được Chúa gọi lập gia đình để công trình tạo dựng loài người được tiếp tục, có người sống độc thân lo cho nước Chúa lớn mạnh trong thế giới, mỗi người đều được Chúa gọi làm công việc Chúa muốn theo bậc sống của mình: giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân để cộng tác vào công trình của Chúa trong vị thế của mình.
Chàng trai Samuel trong bài đọc I được Chúa chọn gọi làm tư tế để thi hành ý muốn của Yavê thiên Chúa , thực hiện những công việc phục vụ cho tuyển dân của Ngài. Samuel vừa là tư tế vừa là ngôn sứ để truyền giảng lời Chúa cho dân Israel (x. 1Sm 2, 25; 3,20) Samuel đã làm thủ lãnh Israel để giúp dân trở về với Chúa, tuân giữ đúng các giới răn của Người. Nhờ trung thành với Chúa mà họ được bảo vệ khỏi sự xâm lấn của quân Philitinh và sống trong thanh bình. Samuel còn tìm cho dân những vị vua tài cán, đáp ứng nguyện vọng của dân chúng theo ý Chúa muốn.
Trong bài đọc II, thánh Phaolô cho chúng ta biết: chúng ta được Chúa kêu gọi để kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần. Mỗi người chúng ta là đền thờ Chúa Thánh Thần. Chúng ta không thuộc về chính mình vì đã được chuộc bằng giá máu của Chúa Giêsu Kitô. Vậy phải tôn vinh Thiên Chúa trong thân xác mình và giữ gìn tâm trí xứng đáng làm nơi Chúa ngự, không được phạm tội nhất là tội dâm dật làm cho toàn thân ra ô uế. Chúng ta là chi thể trong thân mình Chúa Kitô là Hội Thánh cần biết giữ mình trong sạch luôn luôn.
Trong bài Tin Mừng, hai môn đệ của thánh Gioan Tẩy Giả nghe thầy mình giới thiệu Đấng Cứu Thế liền đi theo và ở lại với Người. Họ đã đáp trả tiếng gọi của Chúa và còn giới thiệu cho anh em mình cũng được ơn trọng đại đó.
Anrê khám phá ra Chúa giêsu trước nhất nhờ nghe lời Gioan Tẩy Giả và ông nghĩ ngay đến anh mình là Simon Phêrô đang khát mong Đấng Cứu Thế. Ông đã đem đến cho Chúa người Chúa muốn gọi làm đầu Hội thánh của Người ở trần gian. Sau này, Anrê còn dẫn những người gốc Hy Lạp tới gặp Chúa Giêsu. Chắc hẳn là Người hài lòng với Anrê về những việc này. Ơn gọi của Anrê là giới thiệu về Chúa cho người khác và nhất là làm chứng cho Chúa Kitô phục sinh bằng lời rao giảng và mạng sống của mình.
Một người được gọi đồng thời với Anrê là Gioan, người đã trung thành với Chúa tới cùng, người đã theo sát bên Chúa trong những hoàn cảnh bi đát nhất. Gioan là người Tông đồ duy nhất đứng dưới chân thánh giá. Thánh Gioan đã yêu mến Chúa hết lòng và được gọi là môn đệ Chúa yêu. Nhờ lòng chân thành yêu mến Chúa mà ngài đã thắng vượt được tình nóng nảy và óc bè phái của mình (x. Mc 9, 38), trở nên một người biết thông cảm và hợp tác với người khác. Gioan khởi đầu bằng đức tin là lớn lên trong đức Ái. Gioan đã làm chứng cho tình yêu Chúa Kitô và viết lại Tin Mừng tình yêu Thiên Chúa đối với loài người trong Ngôi Hai cứu thế.
Mỗi người chúng ta được Chúa gọi làm gì? Có lẽ chúng ta không được Chúa hiện ra để kêu gọi như các Tông đồ và cũng không tử đạo theo kiểu của các ngài, nhưng mỗi người được Chúa gọi theo Chúa trong hoàn cảnh riêng của mình. Mỗi người hãy biết lắng nghe tiếng Chúa trong thâm tâm để biết mình phải sống ơn gọi nào và nên làm những gì cho Chúa, cho tha nhân và bản thân. Có người được Chúa gọi làm một Anrê trong thời đại mới, biết giới thiệu Chúa cho người khác và dẫn đưa họ đến gặp Chúa. Cụ thể là rao giảng lời Chúa trong gia đình mình rồi cho những người xung quanh bằng gương sáng là việc làm để mọi người nhận ra ơn cứu độ Chúa ban. Chúng ta đã đáp trả tiếng Chúa thế nào? Chúng ta có là những người môn đệ theo sát bên Chúa như thánh Gioan, biết chết đi cho những tính hư nết xấu của mình: những thói ích kỷ, kiêu căng của mình để trở nên giống Thầy Giêsu ngày một hơn.
Để lắng nghe tiếng Chúa, chúng ta cần ở lại trong Bí tích Thánh thể để cảm nhận tình yêu và nỗi đau của Chúa Giêsu trên Thánh giá, bắt chước Chúa vâng phục Chúa Cha và hy sinh cho tha nhân được hạnh phúc. Mỗi người hãy quyết tâm sống cuộc sống chứng nhân giữa lòng đời qua việc đọc kinh, dự lễ sốt sắng, sống hòa thuận với mọi người trong gia đình cũng như trong thôn xóm, thể hiện tình bác ái huynh đệ qua việc giúp đỡ những người nghèo, tham gia những phong trào đoàn thể chứng tỏ sự gắn bó với Giáo hội, với họ đạo.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con là những môn đệ của Chúa, nhưng nhiều khi lại để mình bị lôi cuốn theo những cám dỗ trần thế và lơ là trong nhiệm vụ làm chứng cho Chúa, xin Chúa thương xót và ban ơn trợ giúp chúng con biết thắng vượt ba thù, biết yêu mến Chúa hơn để trung thành với Chúa và trở nên những người con xứng đáng với tình yêu Chúa Ba Ngôi.
50. Hành trình hay là biến đổi
(Suy niệm của G. Nguyễn Cao Luật, OP)
Lời mời gọi làm biến đổi cuộc đời
Giai đoạn từ sau khi Đức Giêsu chịu phép rửa đến tiệc cưới Ca-na là một thời kỳ chuyển tiếp giữa Cựu và Tân Ước. Đối với các môn đệ của ông Gioan Tẩy Giả, đây là những ngày có tầm quan trọng đặc biệt, có tính cách quyết định: các ông sẽ trở thành môn đệ của Đức Giêsu, các ông sẽ nhìn thấy nước được biến thành rượu, các lời hứa được thực hiện. Đêm trở thành ngày, nghi ngờ biến thành đức tin.
Bên bờ hồ, ông Gioan đang đứng với các môn đệ của mình, như tượng trưng cho quá khứ đã dừng lại. Còn Đức Giêsu đi ngang qua và các môn đệ ông Gioan tiến đến với Đức Giêsu: hình ảnh của tương lai. Qua lời giới thiệu của ông Gioan, hai người môn đệ bắt đầu cuộc gặp gỡ với Chiên Thiên Chúa, và sau đó chia sẻ cuộc sống với Người: họ đã đến xem chỗ Người ở và ở lại với Người ngày hôm ấy.
Con đường của các môn đệ đến với Đức Giêsu được mở rộng thêm với lời mời gọi "Hãy đến mà xem" , kèm theo một tình thân mật mà không có gì có thể lật ngược lại. Con đường này diễn ra không phải bằng lời nói nhưng bằng cuộc tiếp xúc với thực tại, bằng việc đi sâu vào cuộc sống và chia sẻ cuộc sống đó.
Đi theo Đức Kitô, các môn đệ đã xem và đã ở lại với Người. Tuy vậy, các ông không ở lại luôn đó Trong truyền thống Do-thái, việc đặt tên cũng có nghĩa là ban tặng cuộc sống.
Đức Giêsu ban cho ông Simon một đời sống mới, kiện toàn đời sống đang có sẵn. Đời sống mới này được diễn tả qua một nhiệm vụ mới: "Phêrô - Đá". Như thế Simon Phêrô vẫn là con người đó nhưng đồng thời cũng là một người khác: ngay ở bên trong con người, có một đời sống mới, một trách nhiệm mới. Kê-pha: đó là tên gọi đầy yêu thương mà Con Người dành cho ông Simon. Từ nay trở đi, người thợ chài lưới tên là Phêrô sẽ phải nỗ lực để xứng đáng với tên gọi đó, qua đời sống làm môn đệ Đức Giêsu, cho đến một ngày chính ông sẽ gọi Người là Con Thiên Chúa.
Câu chuyện về cuộc tiếp xúc đầu tiên giữa Đức Giêsu với các môn đệ là khởi đầu cho một con đường dài, cho mầu nhiệm hiệp thông: trời cao đã thầm thì những tên gọi vẫn được giấu kín, và ngược lại, trời cao chờ đợi trái đất khám phá và gọi lên danh hiệu của Thiên Chúa.
Một sự gắn bó
Xưa kia, trong Đền Thờ, cậu bé Sa-mu-en đã nhanh nhẹn đáp lại khi nghe được tiếng nói bí ẩn đang gọi cậu. Cậu đã chỗi dậy, sẵn sàng đón nhận tấm lòng ưu ái giúp cậu nhận ra chính Đấng đã gọi cậu.
Con đường dài của các ông Phêrô, Anrê, Gioan - và của tất cả mọi người - đã được bắt đầu từ xa xưa với cuộc di cư của tổ phụ Áp-ra-ham và cuộc xuất hành khỏi Ai-cập của dân Ít-ra-en.
Con đường này có đích điểm là Giêrusalem thiên quốc, là tận cùng thế giới. Đó là một cuộc ra đi đòi phải có lòng kiên trì ; đó là một hành trình rất dài trong sương mờ để dần dần các ông nhận ra người thợ mộc khiêm tốn của làng Na-da-rét cũng chính là Chiên Thiên Chúa.
Một hành trình như thế, một cuộc biến đổi như thế không chỉ là nỗ lực của trí óc, nhưng là một bước nhảy của tâm hồn. Tuy thế, vẫn cần phải có thời gian, phải có sự quen thuộc. Chính vì vậy, Đức Giêsu đã quay lại nhìn những người đang e dè bước đi theo mình và đưa ra lời đề nghị: "Hãy đến mà xem".
Có thể giải thích lời đề nghị ngắn ngủi này như sau: "Anh em hãy đến ở với tôi, chia sẻ cuộc sống của tôi. Hãy tiếp xúc với tôi và loại bỏ mọi thành kiến, mọi ý tưởng có sẵn, rồi các anh sẽ dần dần quen thuộc với con người lạ kỳ của tôi, hiểu được con người được sai đến đầy bí nhiệm, con người mang nhiều tước hiệu mâu thuẫn: kẻ bịp đời và Thầy, con loài người và con Thiên Chúa, Chúa và Con Chiên.
Như vậy, quả là một hành trình khó khăn đối với các môn đệ cũng như cho tất cả mọi người. Người ta không thể lấy làm thoả mãn vì những điều đã có. Đức tin chỉ sáng tỏ dần vào cuối một con đường, nó mọc lên như bình minh rực rỡ thêm dần theo bước chân của người đi săn.
Phải nói thêm rằng, hành trình này là một khát vọng, một sự biến đổi không ngừng. Sau một chặng đường tìm kiếm, ông Anrê đã nói với em mình là ông Simon: "Chúng tôi đã gặp thấy Đấng Mêsia". Lời giới thiệu này khởi đầu cho cuộc hành trình của ông Simon để "sẽ được gọi là Kêpha", đồng thời cũng đưa tất cả các ông vào một chặng đường mới. Đức Giêsu luôn nhấn mạnh với các ông về sự thay đổi, về sự hoán cải dựa trên những xác tín đã có. Nếu người ta đã tìm thấy Đấng Mê-si-a, thì vẫn chưa phải là lúc nghỉ ngơi, vẫn chưa có quyền ở lại một chỗ ; trái lại, đó là lúc chấp nhận cách mãnh liệt hơn, cách tin tưởng hơn thân phận của Đấng Mê-si-a theo cách thức của Thiên Chúa, và cũng là dám phiêu lưu trong niềm tín thác để vừa là chính mình vừa là một người khác, vừa là con người vừa là con Thiên Chúa.
Gặp gỡ để đáp trả
Vậy, bài Tin Mừng này khích lệ và củng cố chúng ta.
Trước hết, chúng ta biết rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta và trao tặng cho mỗi người một tên gọi riêng phù hợp với con người và sứ mạng của chúng ta. Mỗi người đều có một tên gọi riêng, tên gọi vĩnh cửu được khắc vào một viên sỏi trắng mà chỉ chúng ta mới biết (x. Kh 2,17). Mỗi chúng ta có nhiệm vụ khám phá tên gọi đó và đáp lại tình thương của Thiên Chúa bằng một đời sống phù hợp. Đó chính là hành trình của chúng ta.
Ngoài ra, bài Tin Mừng còn an ủi chúng ta nếu chúng ta gặp thấy những vấn đề trong đời sống đức tin. Đó là chuyện bình thường. Tuy vậy, chúng ta không được khép kín nơi chính mình, không được đứng yên một chỗ và thoả mãn với những điều đã tìm được. Đức Giêsu luôn mời gọi chúng ta hãy đến mà xem căn nhà của Người, hãy đến gặp gỡ Người. Hãy đến mà xem Người sống thế nào và múc nước từ nguổn mạch nào. Hãy đi sâu vào bí mật của Người và hãy để lòng mình được sưởi ấm nhờ sự hiện diện của Người. Hãy tiếp xúc với Người và mắt của chúng ta sẽ bừng sáng.
Ngạn ngữ cổ có câu: "Hãy cho tôi biết anh tiếp xúc với ai, tôi sẽ cho anh biết anh là ai". Chúng ta có thể áp dụng câu ngạn ngữ này vào bài Tin Mừng hôm nay và thấy thật là thích hợp. Nếu chúng ta thường xuyên tiếp xúc với Đức Giêsu, nếu chúng ta sống trong tình thân mật với Người, thì chúng ta sẽ dần dần nên giống như Người, sẽ trở nên môn đệ đích thực của Người.
Sống với Đức Giêsu, đó là nhìn xem với cặp mắt của Người, yêu thương với tấm lòng của Người và hành động với sức mạnh của Người.
Hãy dành những khoảnh khắc để nghe được lời mời yêu thương của Đức Giêsu. Hãy dành thời gian để đến xem chỗ Người ở. Mỗi lần hãy ở lại lâu hơn. Hãy trở lại đó thường xuyên và dần dần chúng ta sẽ được biến đổi.
* * *
Lạy Chúa,
Chúa muốn chúng con đưa Chúa đi
trên mọi hành trình của cuộc sống
trên những lối quen thuộc hằng ngày.
Chúa muốn chúng con thưa lên với Chúa:
Xin hãy đến và bước đi cùng với chúng con,
xin đừng chậm trễ,
xin đến và nhìn xem
nơi chúng con đang ở ;
xin ở bên chúng con
để mắt chúng con bừng mở
và hy vọng được nảy sinh.
Bấy giờ, nếu Chúa muốn,
chúng con sẽ bước đi theo Chúa
đến những miền xa xăm.
(theo J.Y.Quellec)
51. Chúa Nhật 2 Thường Niên
Anh chị em thân mến.
Có một người đạo đức sau bao nhiêu năm tu thân tích đức, giờ đây ông ta muốn tìm một tôn giáo để hướng dẫn đời sống tâm linh. Nhưng ông ta tìm mãi vẫn không được. Một hôm, ông nhìn thấy bóng Thánh Giá của một tháp nhà thờ từ xa xa, ông thắc mắc về biểu tượng và ý nghĩa của Thánh Giá. Một cụ già giải thích: Đó là biểu tượng của đạo công giáo, vì một người đã hy sinh chịu chết trên Thánh Giá, để cho tất cả mọi người được sống. Ông ta gật đầu trầm ngăm suy nghĩ và xin cụ già dẫn đến nhà thờ.
Trên đường đi ông ta rất vui mừng và hồi hộp như vừa khám phá ra một chân lý mới. Đi được một lúc cụ già mới nói cho ông biết là đã bước vào ranh giới của họ đạo. Ông ta hơi ngở ngàn, vì ông ta nhìn thấy những quán nhậu bên đường, đang có nhiều người trong đó: có nơi thì ồn ào to tiếng, có nơi thì nói những lời không được đẹp cho lắm, có nơi thì chẵng những to tiếng mà thôi, nhưng còn dùng cả đến tay chân để rồi rược đuỗi nhau làm náo động cả đường phố.
Đi một quảng nữa, ông ta nhìn thấy những sòng bài, có nhiều người tụ tập chung quanh.
Đi tiếp tục, ông nhìn thấy những đứa trẻ đang chơi. Nhưng cái đơn sơ hiền dịu đâu không thấy, mà chỉ nghe những lời cọc cằng thô lỗ chưởi bới nhau.
Ông ta bèn lắc đầu rút lui, không tiếp tục cuộc hành trình tìm kiếm nữa. Ông ta rút lui với một nỗi thất vọng; Thất vọng vì những điều ông nhìn thấy trước mắt. Nếu ông chịu đi thêm một chút nữa để đến nơi mà ông muốn đến, chắc là ông không đến nỗi thất vọng như thế. Như vậy việc ông thất vọng bỏ đi đó, trách nhiệm thuộc về ai ? - Thuộc về chính ông ta. Nhưng còn thuộc về cả những điều mà ông đã nhìn thấy.
Các môn đệ thật may mắn, các ông đã được một người dẫn dắt tuyệt vời là Gioan Tẩy Giả. Chẵng những chỉ bằng lời nói, nhưng đi đôi với cả đời sống và hành động. Khi các môn đệ đến với Chúa Giêsu, các ông còn được kêu mời: "Hãy đến mà xem". Ngài chẵng bảo gì hết, Ngài cũng chẵng đòi hỏi gì. Ngài chỉ nói: Hãy xem đi và quyết định cho cuộc đời của mình. Các ông đã nhìn xem cuộc đời của người giới thiệu, giờ đây các ông lại nhìn xem đời sống Đấng mà các ông được giới thiệu. Chính những điều các ông nhìn thấy đã thay đỗi cả cuộc đời các ông, và cũng đã làm cho cuộc đời các ông hoàn toàn mới.
Các ông đã nhìn thấy, nên các ông đã can đảm từ bỏ tất cả để bước theo Đấng mà mình đã thấy. Các ông cũng đã công bố, đã rao giảng, các ông còn dám dùng chính mạng sống minh chứng điều mình đã rao giảng, để cho bao nhiêu người nhìn thấy.
Ngày nay trên thế giới, được bao nhiêu người nhìn biết Thiên Chúa ? Chỉ khoản 1/3 dân số thế giới. Còn Việt Nam chúng ta ? - Không được 1/10.
Chúng ta là người công giáo, được biết Chúa rất lâu. Chúng ta đã được giới thiệu không phải chỉ bởi những con người tầm thường, nhưng chính Con Thiên Chúa tự giới thiệu Mình cho chúng ta. Con Thiên Chúa không chỉ mời gọi chúng ta nhìn xem chỗ Ngài ở mà thôi, nhưng Ngài còn cho chúng ta nhìn thấy bao nhiêu việc làm biểu lộ tình yêu thương của Ngài. Cái chết trên thập giá là tột đỉnh của tình yêu thương bao la đó. Vậy mà. . . Mỗi người thử nhìn lại mình xem. Những bước chân mà chúng ta bước theo Ngài như thế nào ? Có phải là những bước chân dứt khoát - Hay chỉ là những bước chân nữa vời, chờ có dịp là vội rút lại ngay. Cuộc đời chúng ta ngày hôm nay có gì là mới mẽ tốt đẹp hơn không ? Hay cũng vẫn còn là con người cũ và vẫn bước đi trên con đường cũ của bao nhiêu n#m xưa: Con đường của sự ương lười và chỉ biết hưởng thụ cách ích kỷ. Bao nhiêu người chung quanh, họ nhìn thấy được gì, chúng ta có dám mời gọi họ hãy đến mà xem cách sống của mình không? Chúng ta mời gọi người khác đến với Chúa, không chỉ bằng lời nói suông, nhưng phải bằng chính đời sống tốt đẹp và gương mẫu của một người biết yêu thương, với đầy đủ tinh thần trách nhiệm. Mọi người nhìn vào gia đình chúng ta, làm sao để họ có thể nhìn thấy được Chúa Kitô đang hiện diện thật sự. Đó là cách chúng ta mời gọi, rao giảng, minh chứng cho mọi người để họ đến với Thiên Chúa. Đó cũng là cách chúng ta bước theo Lời mời gọi của Chúa thật sự.
Xin Chúa cho chúng ta biết can đảm bước theo Chúa và sống đúng với những gì mình đã biết.
52. Chú giải của Noel Quesson
Mùa Phụng vụ được cấu trúc dựa theo hai lễ lớn: Giáng Sinh và Phục Sinh. Mỗi “thời điểm đặc biệt" trên lại được một thời gian chuẩn bị trước, gọi là Mùa Vọng và Mùa Chay, và được kéo dài theo sau bằng Lễ Hiển Linh và Mùa Phục Sinh.
Ngoài hai giai đoạn lễ quan trọng này, thời gian phụng vụ trong năm trở nên “thông thường" hơn, đó là các Chúa Nhật xem ra ít sắc thái hơn. Tuy nhiên, đó không phải là những Chúa Nhật tẻ nhạt, kém phong phú đâu. Đời sống của ta không chỉ bao gồm những thời gian đặc biệt. Cần phải biết chấp nhận cả những chuỗi ngày bình thường nữa.
Sau những ngày lễ hội Giáng Sinh và Năm mới, hôm nay chúng ta lại bước vào một chuỗi dài các Chúa Nhật, qua đó Giáo hội trình bày cho ta cuộc đời trưởng thành của Đức Giêsu.
Hôm sau, ông Gioan lại đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông".
Đây là biểu tượng cho "nếp sống thường ngày", bắt đầu lại mỗi buổi sáng, bề ngoài có vẻ tầm thường, lu mờ, ảm đạm... cứ khởi sự lại hoài hoài, nhưng thực sự có phải chỉ dẫn ta đến buồn chán hay không?
Đâu phải vậy, chính trong bối cảnh tẻ nhạt đó, thông thường xem như "không có cái gì xảy ra", thì lại sắp phát sinh cái mới mẻ! Không có buổi sáng nào tầm thường cả.
Thiên Chúa đều hiện diện ở đó. Hôm nay, một điều gì đó sẽ xảy đến.
Thánh Gioan đã có ý soạn thảo chương thứ nhất Tin Mừng của ông, như một "Tuần lễ đầu tiên": chủ yếu là gây chú ý "buổi khởi đầu của Đức Giêsu. (Ga 1,19) đó là ngày thứ nhất. Một phái đoàn Do Thái đến chất vấn Gioan Tẩy Giả tại sông Giođan.
Ga 1,29: Ngày thứ hai “Hôm sau, Gioan Tẩy Giả xác định Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa.
Ga 1,35: Ngày thứ tư, "Hôm sau, Đức Giêsu kêu gọi thêm hai môn đệ khác.
Ga 2,1: Ngày thứ bảy, "Ba ngày sau”, phép lạ đầu tiên đã xảy ra tại tiệc cưới Ca-na, qua đó Đức Giêsu biểu lộ vinh quang của Người và các môn đệ tin vào Người.
Qua các dàn dựng như trên, Thánh sử Gioan muốn báo cho chúng ta một "Tin Mừng": đây là một cuộc sáng thế mới, một cuộc tạo dựng mới được khởi sự, một việc lặp lại trang đầu tiên của Kinh Thánh. Toàn thể "mạc khải" như kêu lên cho chúng ta biết: Không, thời gian không thể tầm thường, tẻ nhạt, buồn chán. Chính thời gian sẽ phát sinh ra điều mới lạ căn bản, thới gian luôn mang chứa năng lực sáng tạo, thời gian sẽ thực hiện công cuộc Tạo dựng.
Đối với tôi mỗi buổi sáng có mang lại một điều gì mới mẻ không?
Lạy Chúa, xin giúp con biết chăm chú đến những gì sắp gây ra đến "biến cố" sắp xảy đến thường gây bất ngờ cho con, Lạy Chúa, mỗi ngày, Chúa đang chờ đợi con.
Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: "Đây là chiên Thiên Chúa”.
Vâng, Gioan Tẩy Giả giới thiệu Đức Giêsu, và đã khiêm tốn tự xóa nhòa đời mình trước Đấng mà ông loan báo: ông sắp chuyển giao các môn đệ của mình. Họ sẽ rời bỏ Gioan Tẩy Giả để theo một ông Thầy khác. Tước hiệu đầu tiên trên đây, được dành cho con người mà cho tới nay, vẫn được coi là chàng thợ mộc Na-da-rét, có ý nghĩa gì? Chàng là "Chiên Thiên Chúa" sao!
Đó là tên gọi mà ta thường hát đi hát lại trong mỗi thánh lễ Dưới tên gọi để chúng ta mặc cho nó một ý nghĩa nào? Gioan Tẩy Giả nhằm nói lên điều gì? Ta chỉ cần gợi lại toàn diện bối cảnh Do Thái lúc đó. Tước hiệu này thực sự là bước "chuyển tiếp" từ Cựu ước sang Tân ước; đó là vị ngôn sứ cuối cùng và là chứng nhân đầu tiên Đức Giêsu Kitô. Vào ngày lễ Vượt qua, mỗi gia đình Do Thái giết một con chiên và lấy máu bôi lên cửa nhà mình trong lúc dùng bữa cơm tối: đó là biểu tượng cho công cuộc "giải phóng" ít-ra-en. Ngoài ra, từ "con chiên" trong tiếng A-ra-mên, ngôn ngữ Đức Giêsu sử dụng, cũng có nghĩa là “tôi tớ”. Mọi người Do Thái sùng đạo đều mang trong đầu lời sấm nổi tiếng của ngôn sứ Isaia (53,7), giới thiệu “người Tôi tớ của Thiên. Chúa" hoàn hảo như "một con” chiên bị người ta dẫn tôi lò sát sinh mà không mở miệng kêu than". Vậy Đức Giêsu đã được chỉ định như Đấng sắp bị người ta sát tế trong thinh lặng, sắp vì yêu mà hiến mạng sống mình để xóa bỏ tội lỗi trần gian. Theo tập truyền Do Thái thời Đức Giêsu, người ta thường nói tới một "con chiên Chúa", có thể mọc sừng cừu đực và lãnh trách nhiệm "bảo vệ cả đoàn chiên". Ngoài ra, đó cũng là hình ảnh mà Gioan sử dụng lại trong sách Khải Huyền, khi ông giới thiệu Con chiên, được chọn từ đoàn chiên, đảm trách việc bảo vệ các anh em mình, tấn công và đánh tan kẻ thù. Chúng ta có đi quá xa bài thánh ca dịu dàng "Đây Con chiên vô cùng hiền lành" không! Thực ra, Chiên Thiên Chúa nơi chúng ta ca ngợi trước khi trước lễ không phải là hình ảnh con vật dịu hiền, trìu mến và vô hại... Đúng ra đó là hình ảnh một kẻ giao chiến hiếu thắng nhưng phải đổ đầm đìa máu huyết để cứu thoát chúng ta khỏi bất hạnh!
Đó là cách thức Gioan đã giới thiệu Đức Giêsu như thể ngay ngày thứ ba khởi sự đời sống công khai của Người.
"Hai môn đệ nghe ông nói đều đi theo Đức Giêsu”.
Tôi có thể hình dung ra cảnh tượng trên. Đức Giêsu đang bước đi trên một con đường mòn dọc theo bờ sông. Hai người theo gót chân Người, thái độ nhút nhát, vẻ hồi hộp... Họ chưa gặp Người bao giờ. Đó là một người lạ mặt. Những gì sắp xảy ra đây?
Thật là quá "liều” khi theo một người lạ như thế. Có lẽ, đây là một cuộc mạo hiểm. Nhưng những cuộc hành trình vĩ đại đều bắt đầu như thế cả, vì nhờ đó mới mở ra một con đường mới.
“Đức Giêsu quay lại, thấy các ông đi theo mình, thì hỏi..."
Đức Giêsu đã nghe thấy bước chân họ đạp trên sỏi đá, phía sau Người. Người quay lại. Tôi thử quan sát cảnh tượng này. Đây cũng là "cái nhìn đầu tiên" của Đức Giêsu đối với những người lạ mặt...
“Các anh tìm gì thế?”
Đây là lời đầu tiên của Đức Giêsu được ghi nhận trong Tin Mừng thánh Gioan. Câu hỏi này Đức Giêsu muốn đặt ra cho mọi người. Hôm nay, Người cũng đang hỏi tôi như thế. "Bạn tìm gì đó? Bạn đặt cho đời mình ý nghĩa nào? ước muốn của bạn là gì?
Ta cần ghi nhận, sự can thiệp đầu tiên của Đức Giêsu không phải là một "khẳng định", nhưng là một "câu hỏi'. Vì thực ra, để đến với Đức Giêsu, cần phải có thái độ "cởi mở", không thể "khép kín" trong một hệ thống đóng khung, như các "tư tế và trợ tế" đã đến gặp Gioan Tẩy Giả. (Ga. 1,19). Đối với những loại người này, cuộc đối thoại đã sớm kết thúc vì thực ra họ ‘không tìm cái gì cả’. Lời đầu tiên của Đức Giêsu muốn lưu ý ta rằng, điều kiện trước hết để làm phát sinh và đào sâu đức tin, phải là thái độ "tìm kiếm, Đức tin trước hết phải là thái độ tìm hiểu đạo: đó là một cuộc kiếm tìm, một câu hỏi. "Lạy Chúa, Chúa là ai?", kẻ nào cho mình biết tất cả, sẽ bị khựng lại trong những xác tín của mình, sẽ không bao giờ tiến bộ được. "Không có Thiên Chúa! - Bạn có tin chắc như thế không? Thiên Chúa hiện hữu. Người là Đấng này.. Đấng kia - Bạn có xác tín như thế không?". Một triết gia tầm cỡ như Descartes đã nói: "Muốn cho khoa học tiến bộ, cần phải biết "hồ nghi". Cũng vậy, cần phải biết "đặt câu hỏi", như một thứ điều kiện để phát triển đức tin. Còn Péguy đã diễn dịch như sau: "Có những tâm hồn hoàn toàn khép kín, không để một ngõ ngách nào cho ân sủng thâm nhập. Không có chỗ có thể "thấm ướt" được, thì làm sao có thể tiếp thu... ".
Lạy Chúa, xin ban cho tâm hồn chúng con biết mơ mộng, biết kiếm tìm.
Họ đáp: 'Thưa Rapbi, (nghĩa là thưa Thầy) Thầy ở đâu?”. Người bảo họ: “Đến mà xem".
Tìm kiếm... bước theo... cư ngụ... đó là ba thái độ cốt yếu của tình yêu. Tôi có kiếm tìm Thiên Chúa không? Tôi có theo vết chân Người không? Tôi có luôn ở cùng Thiên Chúa không? Đức Giêsu đáp lại lòng mong muốn, thái độ kiếm tìm của họ. Nhưng, cách đáp trả của Người luôn tôn trọng tự do của họ: "Hãy đến mà xem?” Đức Giêsu không bó buộc các ông đi theo. Người không phải là một nhà tuyên truyền, một người quảng cáo, khi cần thiết có thể tìm mọi cách và áp lực người ta hoán cải. Phần tôi, cách tôi sử dụng để trình bày đức tin như thế nào?
“Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng bốn giờ chiều”.
Có những từ mà Gioan không những gặp đi lặp lại.
Không phải ông nghèo ngữ vựng, nhưng ông chú ý sử dụng vậy. Nhờ cách lặp đi lặp lại như thế, ông có thể diễn tả bước tiến của "người môn đệ": "kiếm tìm"(1,38), "đến xem" (1, 39 và 46), "quan sát" (l,39 và 41), "gặp thầy" (1,41 và 45), "bước theo” (l,37.38.40.43) "ở lại" (l,38.39).
Gioan Thánh sử là một trong hai người đã bước theo Đức Giêsu. Kỷ niệm của ông rất chính xác, như kỷ niệm lần đầu gặp gở của hai người yêu nhau. Ong ghi lại cả giờ giấc sự kiện đó đã diễn ra vào lúc "bốn giờ chiều', (thời đó người ta gọi đó là giờ thứ mười). Hôm đó, họ đã trao đổi với nhau những gì? Hẳn là hai ông đã kể lại đời sống, những khát vọng, những mong ước, thái độ "tìm kiếm" của họ. Còn Đức Giêsu, có thể Người đã nói cho họ biết về những dự tính, những ước muốn riêng của Người.
“Ông Anrê, anh ông Simon Phêrô, là một trong hai người đã nghe ông Gioan nói và đi theo Đức Giêsu. Trước hết, ông gặp em mình là ông Simon và nói: "Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia, nghĩa là Đấng Kitô".
Một nét đặc thù đáng ghi nhận, đó là lời mời gọi của Thiên Chúa, hay "ơn gọi", thực tế được truyền đến tai con người, nhờ các mối tương quan nhân loại. Để nghe được lời mời gọi của Thiên Chúa, cũng cần phải chăm chú tới tiếng gọi của con người. Đó là những trường hợp của Gioan Tẩy Giả, trước hết ông gọi Anrê và Gioan. Rồi đến lướt Anrê và Gioan lại kêu gọi Simon. Sau này, Philipphê cũng sẽ mời gọi Nathanaen như thế.
Tôi có nuôi tư tưởng khi có dịp sẽ hướng dẫn một người nào đó tới gặp gỡ Đức Giêsu không? Khám phá ra Đức Giêsu rồi, tôi có lo truyền đạt cho kẻ khác hay chỉ biết giữ riêng cho mình?
“Ông dẫn em mình đến gặp gỡ Đức Giêsu, Đức Giêsu nhìn ông Si-mon và nói: "Anh là Simon, con ông Gioan. Anh sẽ được gọi là Kêpha", "tức là Phêrô".
Trở nên môn đệ, nghĩa là "thay đổi" đời sống... đó là bước vào một, cuộc phiêu lưu mới, trở nên một "con người mới". Đó là ý nghĩa việc đổi tên cho Simon. Đối với các môn đệ đầu tiên, mỗi khi hồi tưởng lại, các ông đều cảm thấy việc thay đổi đời sống của mình thật là phi thường.
Đó là khởi đầu cho một định hướng hoàn toàn khác lạ trong đời sống của các ông. Trong não trạng của người Sêmít, việc đổi tên cũng có nghĩa là, Thiên Chúa hoàn toàn ảnh hưởng trên Simon Phêrô. Những con người đó đã "tìm kiếm" Đức Giêsu, đúng vậy? nhưng chính Đức Giêsu cũng kiếm tìm họ... Chinh Người khởi xướng trước nhờ "ân sủng" kỳ diệu của Người. Ơn gọi: vừa là tiếng kêu gọi của con người... vừa là lời mời gọi của Thiên Chúa.
53. Điều quan trọng là lòng tin kiên vững
(Suy niệm của Vinh sơn Trần Xuân Bình, OP)
Kính thưa cộng đoàn !
Bài đọc I kể lại câu chuyện Đức Chúa gọi Sa-mu-en và Sa-mu-en đã đáp lời: “Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe.” Chính lời đáp trả này mà Đức Chúa đã ở với Sa-mu-en và “Người không để cho một lời nào của Người ra vô hiệu.”
Bài đọc II thánh Phao-lô tự vấn tín hữu Cô-rin-tô rằng: “Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao ?” Và ngài khẳng định, “ai đã kết hợp với Chúa, thì nên một tinh thần với Người.”
Còn bài Tin mừng hôm nay, thuật lại biến cố Đức Giêsu mời gọi các môn đệ của ông Gioan đến sống thâm tình với Người, qua đó các môn đệ của ông Gioan đã xác tín vào lời giới thiệu của thầy mình về Đấng Kitô, “đây là Chiên Thiên Chúa” vì thế họ đã tuyên nhận Đức Giêsu là Đấng Mê-si-a nghĩa là Đức Kitô Con Thiên Chúa.
Như vậy tất cả những ai sống thâm tình với Thiên Chúa đều được Chúa đoái thương cư ngụ trong tâm hồn và Thiên Chúa trở nên thân thiện và hằng quan tâm chăm sóc họ trong suốt cuộc đời.
Cũng vậy nhờ được đến sống thâm tình với Đức Giêsu tại nơi ở của Người mà các môn đệ đã trải nghiệm được tình yêu Thiên Chúa đối với họ qua con của Người là Đức Giêsu Kitô, đó là điều có lẽ suốt cuộc đời, họ luôn khắc ghi trong tâm hồn và thiết nghĩ đó cũng là niềm xác tín rất riêng tư nơi sâu thẳm tâm hồn mỗi tín hữu về một Đức Kitô đã được trao ban cho con người và vì con người. Đó là Mầu nhiệm hiện diện của Con Thiên Chúa nơi thế gian, đặc biệt nơi sâu thẳm tâm hồn mỗi con người.
Để có được trải nghiệm này không phải là chuyện dễ, thật thế làm sao chúng ta cảm nhận được một Thiên Chúa đang hiện diện trong tâm hồn và Người rất thân thiện và hằng quan tâm ủi an chúng ta ? Làm sao chúng ta cảm nghiệm được một Thiên Chúa là ánh sáng cho trần gian ? Làm sao chúng ta cảm nghiệm được một Thiên là đường dẫn đưa chúng ta đến cùng Chúa Cha ? Làm sao chúng ta cảm nghiệm được một Thiên Chúa đã được sinh ra trong tâm hồn chúng ta cho chúng ta và vì chúng ta ? …
Điều quan trọng là lòng tin kiên vững mà Đức tin đã tặng ban cho chúng ta, chứ không phải là cảm nhận được sự hiện diện của Thiên Chúa. Bởi vì sự hiện diện của Thiên Chúa, không hệ tại vào những tài năng của linh hồn, nhưng là từ tận nơi sâu thẳm của linh hồn. Chính vì thế, điều đó lý giải tại sao mà chúng ta không lãnh hội được. Thật thế Thiên Chúa luôn thân thiện, nhưng chúng ta không có một chút cảm nhận nào. Thiên Chúa rất thân thiện với chúng ta, nhưng chúng ta lại xa Người. Thiên Chúa ở trong còn chúng ta thì ở ngoài. Thiên Chúa luôn ở trong ngôi nhà tâm hồn chúng ta, thế mà chúng ta lại là kẻ xa lạ với chính ngôi nhà của chúng ta. Như lời sách Công vụ tông đồ đã nói: "Trong Người, chúng ta sống, cử động và hiện hữu" (Cv 17:28), Ngài bao bọc chúng ta mọi nơi mọi lúc. Cũng như thánh Âu-tinh, chúng ta tin tưởng cầu nguyện với Thiên Chúa rằng: "Lạy Chúa, xin che chở con, và con đã được Người che chở". Khi ấy, chúng ta có thể lắng nghe tiếng Chúa Thánh Thần mách bảo trong sâu thẳm tâm hồn, vì này Triều Đại Thiên Chúa "đang ở giữa các ngươi" (Lc 17:21).
Khi Đức Giêsu Kitô sinh ra vào trong thế gian như một phàm nhân, thì Người cũng được sinh ra trong tâm hồn chúng ta. Và như vậy, Người là ánh sáng soi chiếu thế gian, là ngọn đèn nội tâm dẫn đưa chúng ta đến cùng Chúa Cha. Chúng ta hãy lắng nghe lời Người với một tấm lòng đơn sơ thành thật đừng ngờ vực. Nếu chúng ta chỉ lắng nghe mà không hành động theo, khi ấy chúng ta sẽ mất tất cả. Như vậy chúng ta không được biến đổi và không thể nhận biết được Thiên Chúa trong sâu thẳm tâm hồn, nơi mà chúng ta được mời gọi nhận biết Thiên Chúa trong đó.
Đức Kitô đã sinh ra trong chúng ta và chúng ta cần nuôi dưỡng mối liên hệ thân thuộc với Người. Sự sinh ra của Đức Kitô cho phép chúng ta thông phần vào bản tính Thiên Chúa; như vậy, nhân loại được liên kết với Thiên Chúa sau khi xa lìa Thiên Chúa một thời gian rất lâu vì tội nguyên tổ. Sự sinh ra của Đức Kitô là qùa tặng cao qúi của Thiên Chúa nhờ sự sáng tạo của Người; xuất phát từ tình yêu vô biên của Thiên Chúa vì chúng ta. Vì thế chúng ta được kêu mời đáp trả lại tình yêu ấy theo cùng cách thức, với lòng mến chúng ta sẵn sàng hiến dâng cả thân xác lẫn ý muốn cho Thiên Chúa, vì Người đã yêu chúng ta trước. Chúng ta có thể yêu Chúa qua lời cầu nguyện và qua sự phục vụ tha nhân.
Tất cả những điều nêu trên có thể lý giải cho chúng ta những vấn đề: tại sao chúng ta phải cầu nguyện, tại sao chúng ta phải ăn chay, tại sao chúng ta phải làm tất cả những việc lành, tại sao chúng ta phải rửa tội, tại sao Thiên Chúa phải trở nên phàm nhân, tại sao chúng ta phải sống thân tình với Thiên Chúa, tại sao tất cả những điều đó là cao cả nhất ? Thưa ! vì Thiên Chúa đang hiện diện trong tâm hồn chúng ta, Người rất thân thiện và hằng chăm sóc ủi an chúng ta.
Chúng ta hãy mở rộng tâm hồn ra và đến với Thiên Chúa trong sự cô liêu hoàn toàn, nhờ đó mà chúng ta tỉnh thức với những gì mà Đức Kitô mang tặng chúng ta: một thế giới mới, một thế giới nội tâm mà Thiên Chúa ban tặng cho chúng ta và vì chúng ta. Đó là Mầu nhiệm hiện diện. Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban ân sủng để nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi sâu thẳm tâm hồn. Nếu chúng ta chưa nhận ra thì hãy có sự ao ước để được nhận ra, nếu chúng ta chưa thể có sự ao ước để nhận ra thì hãy ao ước có sự ao ước đó. Vì chính Đức Giêsu đã nói: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở lại với người ấy" (Ga 14,23).
Lạy Chúa xin ban ân sủng cho chúng con để chúng con nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi sâu thẳm tâm hồn. Amen.
54. Các môn đệ đầu tiên – Lm. FX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Trong Tin Mừng Gioan, bài tường thuât ơn gọi các môn đệ được ghép vào bên trong cái mà người ta gọi là “Tuần lễ khai mạc sứ vụ của Đức Giêsu”.
- hai ngày đầu: Gioan Tẩy Giả làm chứng (phủ định - khẳng định);
- ngày thứ ba (“hôm sau”, 1,35): lần này Gioan Tẩy Giả giới thiệu Đức Giêsu cho hai môn đệ: “Đây là Chiên Thiên Chúa” (cc. 35-36);
- đoạn văn của chúng ta (1,35-42) nằm ở vị trí này;
- ngày thứ tư (“hôm sau”, 1,43): Đức Giêsu gọi Philípphê và Natanaen;
- “ngày thứ ba” (2,1): Đức Giêsu “bày tỏ vinh quang” (2,11) tạiCana miền Galilê.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Hai môn đệ đầu tiên (1,35-39);
2) Anrê (1,40-42a);
3) Simôn (1,42b).
3.- Vài ghi chú về chú giải
- Ông Gioan đang đứng... (35): Có một nhóm môn đệ thường xuyên ở quanh Vị Tẩy Giả (x. Mc 2,18t và //; Mt 11,2; 14,12; Lc 11,1; Ga 3,25). Bản văn xác định tiếp rằng một trong hai môn đệ là Anrê, em của Simôn (41); còn người thứ hai thì vô danh.
Tìm cách dung hòa bài tường thuật của TM IV với bài của các TMNL nói về ơn gọi của các môn đệ (x. Mc 1,16-20) là chuyện vô ích. Chỉ có một điểm gặp nhau: hai anh em Simôn và Anrê ở trong số những người được gọi đầu tiên. Còn các khác biệt quá lớn:
+ Theo Mc 1,29: Simôn ở Caphácnaum; theo Ga 1,44: hai anh em gốc Bétxaiđa.
+ TM IV không nói gì tới các con ông Dêbêđê, trong khi theo Mc 1,18-20, họ là cặp môn đệ thứ hai; Mc lại không hề nói đến Philípphê và Natanaen.
+ Bối cảnh cũng khác nhau: theo TM IV, các môn đệ đầu tiên thuộc nhóm của Vị Tẩy Giả, đã được ông hướng dẫn tới với Đức Giêsu; theo Mc, Đức Giêsu chỉ kêu gọi các môn đệ sau khi Vị Tẩy Giả bị bắt, và kêu gọi tại bờ hồ Ghennêsarét, chứ không tại bờ sông Giođan, lúc đó họ đang làm nghề chài lưới.
+ Ý hướng tổng quát khác nhau: Theo Mc, đây là một biến cố bất ngờ lôi kéo người ta ra khỏi cuộc sống hằng ngày để thi hành sứ mạng tông đồ. Dường như bản văn Ga còn ghi giữ lại kỷ niệm lịch sử, đó là các môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu, và có thể chính tác giả, đã có lúc thuộc về nhóm Gioan Tẩy Giả.
- thấy Đức Giêsu đi ngang qua (36): Hôm sau ngày làm chứng (cc. 29-34), trong khi Vị Tẩy Giả còn đứng đó, Đức Giêsu đã bắt đầu tiến đi: thái độ của Gioan tượng trưng rằng sự nghiệp của ông đã đến lúc chấm dứt; thái độ của Đức Giêsu đánh dấu khởi đầu cuộc đời của Người là một cuộc tiến bước thiêng liêng, sẽ đưa Người về với Chúa Cha (x. Ga14,28). Còn Gioan thì tức khắc nói với hai người trong nhóm môn đệ đã đến để tìm ơn cứu độ nơi ông, rằng: “Đây là Chiên Thiên Chúa”.
- Các anh tìm gì thế? (38): “Tìm” (zeteô: 34 lần trong TM IV) có nghĩa là “tìm cách có lại những đồ vật đã bị mất hoặc để lạc”. Trong tiếng Hy Lạp LXX, đây là từ ngữ chuyên môn để nói về việc đi tìm Thiên Chúa, đặc biệt tìm sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa (x. Hn 1,1-2a; 8,2.18 …). Trong tiếng Híp-ri, “tìm” là darash; darash ha Torah, “tìm Torah”, có nghĩa là giải thích Kinh Thánh.
- Thưa Rabbi, Thầy ở đâu? Trên môi họ, câu hỏi chỉ nhắm nơi Đức Giêsu đang sống, để họ đến gặp, nhưng tác giả là người đã quen sử dụng các từ ngữ theo hai ý, có lẽ cũng hiểu câu hỏi theo một nghĩa sâu hơn: “Thầy ở đâu về phương diện thiêng liêng?”. Đối với ông, các môn đệ đã mặc nhiên thưa với Đức Giêsu lời thỉnh cầu của Philípphê và của bất cứ người nào: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha (nơi Chúa Cha, Thầy đang cư ngụ), như thế là chúng con mãn nguyện” (14,8).
- Đến mà xem (39): Dịch sát là “Hãy đến và các anh sẽ xem thấy, erchesthe kai opsesthe. Mệnh lệnh cách erchesthe có thể hiểu theo nghĩa điều kiện là “nếu như, với điều kiện”. Còn opsesthe là thì tương lai của động từ horaô, có thể hiểu như một lời hứa của Đức Giêsu: TM IV có bốn động từ để diễn tả cái nhìn, từ cái nhìn thể lý nhất đến cái nhìn chiêm ngưỡng sâu sắc nhất, đó là: blepein, theasthai, theôrein, horan [idein]. Động từ sau cùng thuộc về lãnh vực đức tin. Trong Ga 1,39, Đức Giêsu mời các ông di chuyển về phía Người và có cái nhìn đức tin.
Câu trả lời của Đức Giêsu ở đây cũng có một mức sâu hơn: việc khám phá ra nơi ở trần thế của Người tượng trưng và chuẩn bị cho việc khám phá ra nơi ở thiêng liêng của Người. Bước đi theo Người theo cách thể lý, các môn đệ thấy nơi trú ngụ của Người; hơn nữa, đã bước đi theo Người cách thiêng liêng bằng lòng tin, họ cũng bắt đầu thấy được nơi ở thiêng liêng của Người, tức Chúa Cha: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (14,9).
- Họ ở lại với Người (39): Đây là chặng đầu của một cuộc chung sống đưa tới sự hiệp thông sâu xa nhất (x. 15,4). Trọn buổi chiều, kể từ 4g, họ xem và ở lại với Đức Giêsu, về thiêng liêng cũng như về thể lý. Buổi chiều hoặc đêm đáng ghi nhớ ấy mở đầu cho đời sống đức tin tròn đầy, đã đưa Anrê và người môn đệ vô danh kia vào trong mầu nhiệm của đời sống Đức Kitô và làm cho họ rất phấn khởi: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia”, Anrê reo lên như thế khi gặp Simôn. Một niềm vui thiêng liêng bùng ra: đây là niềm vui được ban cho những tâm hồn khám phá ra viên ngọc quí và kho tàng trên trời (x. Mt 13,44).
- Khoảng giờ thứ mười (39): tức khoảng 4g chiều. TM IV quen ghi chú về thời gian chính xác (x. 4,52; 18,28; 19,14; 20,19), nhưng hẳn là có một ý hướng biểu tượng. Trong một số bản văn của Cựu Ước hoặc của Do Thái giáo đương thời, số 10 là con số hoàn hảo; vậy “giờ thứ 10” hẳn là giờ hoàn tất và đánh dấu khởi đầu công trình của Đức Giêsu. Quả thế, ở 11,9, ngày là một hình ảnh được dùng để gọi thời gian Đức Giêsu hoạt động ở trần gian (x. thêm 9,4-5; 12,35). “Mười” là một con số hoàn hảo đối với các triết gia phái Pythagore và triết gia Philô khiến Bultmann gợi ý rằng đây là giờ của sự hoàn tất. Cũng có những tác giả cho rằng ngay hôm sau, bắt đầu vào lúc mặt trời lặn, là một ngày sa-bát; do đó hai môn đệ đã phải ở lại với Đức Giêsu để tránh di chuyển vào ngày ấy.
- Trước hết (prôton) (41): Cuộc trò chuyện đã kéo dài trong đêm. Do đó, chúng ta hiểu là sáng hôm sau, Anrê trước hết vội vã đi tìm anh trước khi làm bất cứ việc gì.
- Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia (41): Dịch sát là “Chúng tôi đã tìm thấy/tìm ra Đấng Mêsia” Heuriskein, tìm thấy, được dùng thường xuyên trong phân đoạn này và phân đoạn sau. Anrê “tìm thấy/ra” Simôn, báo rằng họ đã “tìm thấy/ra” Đấng Mêsia. Sau được Đức Giêsu “tìm thấy/ra”, Philípphê “tìm thấy/ra” Natanaen và bảo rằng đã “tìm thấy/ra” Đấng Mêsia.
- Anh sẽ được gọi là Kêpha, tức là Phêrô (42): Kêphas là từ A-ram kêpha được hy-hóa, có nghĩa là “tảng đá”. Cũng như từ rabbi (c.38) và Mêsia (c.41), kêpha là từ A-ram (Chúng ta lưu ý là có ba từ A-ram trong cùng một đoạn văn). Hẳn là tác giả suy tư trong ngôn ngữ này, hay ít ra ông cũng rất quen thuộc các thuật ngữ A-ram. Bản RSV dịch thành một câu hỏi: “So you are Simon the son of John? Vây anh là Simôn con ông Gioan à?”. Người ta đặt tên cho những người hoặc những vật thuộc quyền kiểm soát của mình (x. St 2,20; Đn 1,7); người cha đặt tên cho con cái (Mt 1,25; Lc 1,63).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Hai môn đệ đầu tiên (35-39)
Truyện hai môn đệ này chắc chắn có dấu vết những hoài niệm về một vài môn đệ. Nhưng dưới ngòi bút của tác giả, truyện mang tính điển hình để chia sẻ với độc giả cái nhìn về đời môn đệ. Các biến cố xảy ra rất nhanh, trong cái khung giả tạo bảy ngày: các môn đệ đầu tiên đến gặp Đức Giêsu, rồi Đức Giêsu gọi Phêrô, Philípphê, Nathanaen. Cuối cùng toàn chương kết thúc với lời Đức Giêsu long trọng mạc khải về chính mình: “Thật, tôi bảo thật các anh, các anh sẽ thấy trời rộng mở, và các thiên sứ của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người” (Ga 1,51).
Trước khi truyện đạt tới đỉnh cao này, tác giả ghi lại lời chứng của Gioan. “Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa”“ (Ga 1,36). Lời này nhắc lại lời nói trong hoạt cảnh ở c. 29, chỉ khác là thuộc về ngày hôm sau. Đây là “cấu trúc trôn ốc” quen thuộc của tác giả. Ngài thường xuyên trở lại với những đề tài cũ, cứu xét chúng từ những viễn tượng khác, thăm dò, và chia sẻ với các độc giả sự phong phú đặc biệt của những thực tại ngài đề cập đến (x. Ga 20,19-23).
Lúc đó Gioan [và hai môn đệ] được mô tả là “đang đứng” (heistêkei). Có vẻ như thể ông đang chờ chuyện gì đó xảy ra. Trong TM IV, hành động duy nhất có ý nghĩa mà Gioan làm, đó là làm chứng. Vì lúc này Đức Giêsu chưa xuất hiện, hành động đó chưa xảy ra được. Như ngày hôm trước, Gioan thấy Đức Giêsu bước đi và đã giới thiệu Người (Ga 1,29), sang ngày hôm sau, một lần nữa, Gioan lại công bố Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa. Hoạt cảnh của ngày hôm qua cho biết ý nghĩa của tên gọi bí ẩn này; hoạt cảnh hôm nay cho thấy hậu quả của lời loan báo ấy. Ông mời họ rời ông để gắn bó với Đấng Cứu thế duy nhất chân thật.
Do được thầy giới thiệu, hai môn đệ đã quyết định đi theo Đức Giêsu. Ơn gọi của họ, cũng như của Samuen, được đánh thức bởi một người khác, không phải bởi “ánh sáng” nhưng bởi “chứng nhân của ánh sáng” (1,8; 3,3). Tác giả không nói gì đến hoàn cảnh thời gian, không gian, tâm lý của các nhân vật: đây cũng là một lược đồ. Ý thức về sự khác biệt giữa tiếng nói và Đấng được tiếng nói làm chứng cho, hai môn đệ bước theo Đức Giêsu.
Hẳn là vì nghe tiếng bước chân, Đức Giêsu quay lại, và thấy các ông đi theo mình. Người hỏi thẳng: “Các anh tìm gì thế?” (Ga 1,38). Những người đi theo thưa với Người là “Rabbi”, không trả lời câu hỏi của Người, mà lại hỏi Người ở đâu. Thay vì cung cấp một câu trả lời trực tiếp, Đức Giêsu mời hai người đến và xem nơi Người ở. Hai ông đã nhận lời mời và đi với Người đến nơi Người ở, nơi này là nơi nào chúng ta không biết. Lúc đó vào khoảng giờ thứ 10 (= 4g chiều, hay là 5/6 ngày đã trôi qua), tức đã muộn. Có lẽ họ đã qua đêm với Người. Chi tiết về thời gian này có ý nghĩa gì với tác giả không? Điều đánh động trong mẩu đối thoại giữa Đức Giêsu và các môn đệ đầu tiên của Gioan, đó là họ xưng hô với Đức Giêsu là Rabbi. “Thưa Ngài” (Kyrie) là từ ngữ thường được dùng để bày tỏ lòng tôn kính; TM IV thường dùng từ ngữ này vào những dịp tường thuật các cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với người khác. Những người được hưởng nhờ quyền lực siêu phàm của Đức Giêsu cũng gọi Người là “Kyrie”. Rabbi có nghĩa chữ là “thầy tôi” (didaskalos), thường được các môn sinh dùng để gọi vị thầy họ trân trọng, nhưng sau này chỉ còn nghĩa là “thầy”.
Trong TM IV từ đầu cho đến đây, không chi tiết nào cho thấy Đức Giêsu là một thầy giáo. Không một điều gì gợi ý là dân chúng mong ước Đấng đang đến là một thầy dạy. Trong TM này, từ ngữ Rabbi cũng không được sử dụng nhiều: 7 trên 8 lần được các môn đệ Đức Giêsu sử dụng (1,38.49; 3,2; 4,31; 6,25; 9,2; 11,8); lần còn lại được đặt trên môi của các môn đệ nhìn nhận Gioan là thầy họ (3,26).
Hai môn đệ vô danh “bước theo” Đức Giêsu. Trong ngôn ngữ Hy Lạp, “bước theo” (akoloutheô) có nghĩa là “đi đàng sau một người”; “trở thành môn đệ” (nghĩa ẩn dụ). Thay vì theo Gioan, bây giờ họ bước theo Đức Giêsu. Họ đã học với Gioan; nay họ phải học với Đức Giêsu. Chính vì thế, họ gọi Người là “Rabbi”. Đây là cách tác giả diễn tả đòi hỏi từ bỏ tận căn được nói đến trong các TMNL (x. Mt 19,21; Mc 10,21; Lc 18,22): hoặc họ là môn đệ của Đức Giêsu hoặc họ là môn đệ của Gioan. Không thể có thỏa hiệp. Đây không còn phải là quyết định triệt để trở thành môn đệ bằng cách từ bỏ những của cải vật chất nữa để đi theo một vị thầy du thuyết; đúng hơn, đây là từ bỏ một dấn thân đầu tiên trong đức tin của mình.
Nhưng ở đây không chỉ có vấn đề một dấn thân tận căn. Tác giả diễn tả xác tín của mình là những ai đã thật sự học nơi Gioan, những ai đã thật sự hiểu ý nghĩa của lời chứng của Gioan, thì trở thành môn đệ của Đức Giêsu. Các môn đệ của Gioan tìm được vị trí đúng đắn của họ trong cuộc đời khi họ trở thành môn đệ của Đức Giêsu. Những ai đã chú ý thật sự đến lời chứng của Gioan thì phải đi vào nhóm môn đệ của Đức Giêsu. Đây là ý nghĩa biểu tượng và cũng là ý nghĩa đích thật của bài tường thuật.
Câu hỏi mở đầu của Đức Giêsu cũng lạ: “Các anh tìm gì thế?”, một câu hỏi trên bình diện tường thuật thuần túy chỉ có nghĩa là “Các anh muốn gì?”. Họ không đáp lại bằng một câu trả lời, nhưng bằng một câu hỏi: “Thầy ở đâu?”. Nếu so sánh với ba TMNL, ta thấy những lời đầu tiên Đức Giêsu nói công khai được các TM ấy ghi lại đều có chất chứa một chương trình cho toàn thể Tin Mừng (Mt 3,15; Mc 1,15; Lc 4,21), còn TM IV thì thế nào?
Có thể cho rằng tác giả trình bày các môn đệ đầu tiên của Gioan như là những cá nhân đang theo đuổi sự Khôn Ngoan thần linh. Tuy nhiên, Đức Giêsu chính là hiện thân của sự Khôn Ngoan thần linh. Thật khôi hài, những người đi tìm sự Khôn Ngoan thần linh lại tìm thấy sự Khôn Ngoan hiện thân khi họ bước theo Đức Giêsu. Rồi tác giả cũng cho thấy Đức Giêsu giải thích Kinh Thánh, và thường quy chiếu về bản thân Người. Chẳng hạn, Người thực hiện một midrash[1] về Tv 78,24 trong Diễn từ về bánh ban sự sống (Ga 6,26-51). Từ cách hiểu tổng quát về Đức Giêsu như thế, rất có thể tác giả mô tả hai môn đệ đi đến với Đức Giêsu như đến với người có thể giải thích Kinh Thánh. Nếu vậy, hẳn là họ đã có lý khi thưa “Rabbi” (Ga 1,38), nhưng danh hiêu này cũng phản ánh cách các thành viên của cộng đoàn tác giả hiểu về Đức Giêsu. Do đó, câu hỏi của hai ông “Thầy ở đâu?” đã được Đức Giêsu nâng lên một bình diện ý nghĩa khác (x. phản ứng của Đức Giêsu đối với câu nói của Đức Maria tại tiệc cưới Cana: Ga 2,3-4), khi Người bảo các ông bằng một câu nặng chất đức tin: “Hãy đến và các anh sẽ xem thấy”.
Hai môn đệ hỏi: “Thầy ở đâu?”. Câu hỏi này không đơn giản như thoạt nhìn. “Ở/ở lại”, menô, là một động từ tác giả rất ưa chuộng (67 lần trong truyền thống Gioan; 40 lần trong TM IV; 51 lần trong phần còn lại của Tân Ước).
Mặc dù thỉnh thoảng tác giả sử dụng động từ này theo nghĩa thông thường là “ở lại, stay” hoặc “sống, live”, ngài rất thường dùng từ này theo một nghĩa thần học sâu sắc. “Ở [lại]” thường gợi lên một khoảnh khắc đặc biệt quan trọng trong lịch sử cứu độ (Để diễn tả ý nghĩa này, có những tác giả dịch là “abide”). Đức Giêsu “ở lại” với các môn đệ đang tin vào Người (Ga 2,12; 4,40; 7,9; 10,40; 11,6.54; 14,25). Đám đông nói rằng Đấng Kitô “ở lại” (tồn tại) mãi mãi (Ga 12,34), nhưng tác giả gợi ý rằng Đức Giêsu ở lại Nhà của Cha Ngài (Ga 8,35). Trong các bài diễn từ cáo biệt (Ga ch. 13–17), tác giả trình bày rộng rãi ý nghĩa đích thực của “ở lại”. Đức Giêsu trở về với Chúa Cha để chuẩn bị một chỗ cho các môn đệ để họ được ở với Người (Ga 14,2-3).
Chúa Cha ở lại trong Đức Giêsu (Ga 14,10) và Thánh Thần ở lại trong các môn đệ của Đức Giêsu (Ga 14,17). “Ở lại” không chỉ là “ở với”, mà còn có nghĩa là “ở trong”. Trong thực tế, có một sự “ở lại trong nhau” giữa Đức Giêsu và các môn đệ. Họ ở lại trong Người và Người ở lại trong họ (Ga 15,4.5.7). Các môn đệ ở lại trong tình thương của Đức Giêsu (Ga 15,9.10), và các lời Người ở lại trong họ (Ga 15,7). Ý nghĩa tối hậu của Bí Tích Thánh Thể là: đây là một phương tiện để ở trong nhau và hiến mạng sống cho nhau (Ga 6,56).
Tất cả những điều này đã được tiên báo khi Đức Giêsu mời hai môn đệ vô danh đến và xem Người ở đâu. Không phải là Người muốn họ đến mà thăm cái lều người Ả-rập du cư (bedouin) hoặc một nhà trọ nào bên đường. Người mời họ đến mà nhận thấy rằng Người đang ở với Chúa Cha và Chúa Cha đang ở với Người. Họ đến mà trải nghiệm rằng sống chung với Người chính là điều duy nhất quan trọng của đời sống Kitô hữu.
Cũng như Gioan đã thấy (horaô) Thần Khí ở lại (menô) trên Đức Giêsu, các môn đệ được mời xem/thấy (horaô) nơi Đức Giêsu ở (menô). Đây không phải là một vấn đề nhìn xem bằng cặp mắt thể lý, mà là một nhận thức nhờ đức tin. Như ông Gioan đã trải nghiệm cái nhìn mà Thiên Chúa đã hứa (cc. 32.34), các môn đệ cũng chấp nhận lời mời của Đức Giêsu: “Hãy đến và các anh sẽ xem thấy, erchesthe kai opsesthe” (1,39). Một lời mời gọi (các anh hãy đến) và một lời hứa (các anh sẽ thấy). Họ đã đến, tức là rời bỏ vị trí, quan điểm, lập trường của họ, để đi vào vị trí, quan điểm, lập trường của Đức Giêsu, và họ đã “xem thấy”. Họ đã nhận ra nơi Đức Giêsu đang ở thật sự.
* Anrê (40-42a)
Đến đây, tác giả cho biết một trong hai môn đệ ấy là Anrê, em của Simôn Phêrô. Truyền thống và nhiều nhà chú giải hiện đại nghĩ rằng người môn đệ vô danh kia chính là người môn đệ Chúa thương mến. Truyền thống cũng đã đồng hóa tác giả TM IV với người môn đệ Chúa thương mến và đồng hóa người môn đệ Chúa thương mến với Gioan, con ông Dêbêđê. Các học giả Kinh Thánh hiện đại khá dè dặt đối với các kiểu đồng hóa này. Dù sao, không có gì chắc chắn để chúng ta có thể đồng hóa người môn đệ vô danh trong Ga 1,35-39 với con ông Dêbêđê (Giáo sư Boismard nghĩ là Philípphê). Quả thế, nếu con ông Dêbêđê là bạn của Anrê vào dịp họ được gọi làm môn đệ, thì đây hẳn là lần duy nhất trong toàn bộ Tân Ước, Gioan con ông Dêbêđê đi đôi với Anrê. Thông thường Gioan đi đôi với anh là Giacôbê (x. chẳng hạn Mt 4,21; Mc 3,17; Lc 5,10…), còn Anrê thì đi đôi với anh là Phêrô (x. Ga 1,40-42). Simôn Phêrô chưa xuất hiện, nhưng vì ông được biết nhiều, nên chỉ cần nêu tên ông ra là có thể xác định được Anrê. Trong truyền thống của Họi Thánh sơ khai, Anrê chỉ là em của Phêrô thôi (Mt 4,18; 10,2; Mc 1,16 (29); Lc 6,14). Tuy nhiên tác giả TM IV có cách phác họa riêng Anrê.
Trong các TMNL, tên Anrê luôn xuất hiện trong một danh sách. Danh sách này có khi chỉ có hai tên (Mt 4,18; Mc 1,16.29), có khi bốn tên (Mc 3,18; Cv 1,13), có khi mười hai tên (Mt 10,2; Mc 3,13; Lc 6,14), nhưng không cho thấy Anrê có phận vụ gì cả. Anrê chỉ là em và bạn đồng hành của Phêrô hoặc là một trong Nhóm Mười Hai. Nhưng với TM IV, Anrê được phác họa ra như một người môn đệ đích thực của Đức Giêsu. Thậm chí ông còn là một môn đệ có điều gì đó mà nói ra. Ông nói với anh mình (Ga 1,41), và ông nói với Đức Giêsu (Ga 6,9; x. 12,22). Rõ ràng là tác giả có một “luận đề về đời môn đệ” (Ga 1,35-39) và ngài tìm cách minh họa luận đề này bằng “ví dụ Anrê”.
Đối với ngài, Anrê là một con người bằng xương bằng thịt, xuất thân từ một thành phố có thật: Bétxaiđa (Ga 1,44), một thành của miền Galilê (Ga 12,21). Anrê là một môn đệ đã đi theo trọn chương trình về đời môn đệ. Ông đã nghe lời chứng về Đức Giêsu. Ông đã bước theo Đức Giêsu. Ông đã nêu chứng từ về Đức Giêsu cho những người khác. Nhận lời chứng về Đức Giêsu, trở thành một môn đệ, và cống hiến chứng từ về Đức Giêsu cho những người khác như một cách diễn tả đời môn đệ của mình, đây là cái pattern (mô hình đơn giản) thông thường về đời môn đệ theo cái nhìn của TM IV. Cũng như Anrê có điều gì đó mà nói về Đức Giêsu cho anh mình (Ga 1,41), Philípphê cũng có điều gì đó mà nói về Đức Giêsu cho Nathanaen (Ga 1,45), và người phụ nữ Samari cũng có điều gì đó mà nói về Đức Giêsu cho các dân trong thành của bà (Ga 4,29.39). Trong cái chuỗi phản ứng từ chứng từ đến chứng từ này, Tin Mừng tiếp tục được loan báo và người ta có thể tin.
Tác giả ghi nhận là “trước hết (prôton), ông đi tìm gặp (heuriskei) anh mình” (Ga 1,41). Điều đầu tiên mà người môn đệ mới này đã làm là đi tìm anh mình và nói về Đức Giêsu cho ông. Đã được đưa vào trong “phong trào” của các môn đệ Đức Giêsu, Anrê phải kể cho ai đó về Đức Giêsu, và anh ông là Simôn là người may mắn hưởng nhờ chứng từ của ông đầu tiên. “Chúng tôi đã tìm thấy Đấng Mêsia”. Một lần nữa, tác giả dịch một công thức Híp-ri ra tiếng Hy Lạp: “nghĩa là Đấng Kitô”. Vì tác giả cho thấy Anrê làm chứng cho Đức Giêsu là Đấng Mêsia (Kitô), ta có một sự xác nhận là lời chứng của ông Gioan nói rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa (Ga 1,34) là chứng từ về tư cách Mêsia của Người. Qua cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu, Anrê đã nhận ra sự thật của lời chứng của ông Gioan. Trước đây, Anrê đã được mô tả như là một người đang đi tìm (Ga 1,38); bây giờ ông được giới thiệu như là người đã tìm thấy. Kẻ đi tìm đã tìm thấy nơi Đức Giêsu điều ông vẫn đang đi tìm lâu nay.
Lúc đầu Anrê đã gọi Đức Giêsu là Rabbi, “thầy của con”, bây giờ ông gọi Người là Mêsia, “Đấng được xức dầu”. Khi tác giả phác họa các môn đệ thưa với Đức Giêsu như một rabbi, thường ngài mô tả cho thấy các môn đệ này đến với Đức Giêsu và đặt một câu hỏi (Ga 1,38; 6,25; 9,2;11,8) để được chỉ giáo thêm. Đấy là thói quen của các học trò Do Thái. Các môn đệ ra khỏi cuộc gặp gỡ, đã học thêm được điều gì từ nơi thầy. Đây là trường hợp của Anrê, cũng như sau này là trong của Nathanaen (Ga 1,49) và Maria Mácđala (20,16.18).
Nói rằng tác giả coi Anrê là một môn đệ đích thực của Đức Giêsu, điều này được nêu rõ qua lời tuyên xưng đức tin của ông vào Đức Giêsu. Ông công bố: “Chúng tôi đã đã tìm thấy (heurêkamen) Đấng Mêsia” (Ga 1,41). Ở bình diện tường thuật, “chúng tôi” đây là Anrê và người môn đệ vô danh. Ở một bình diện sâu hơn, “chúng tôi” đây, theo truyền thống Gioan, là toàn thể nhóm của tác giả đang tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu Mêsia qua môi miệng Anrê.
Như thế, trong bài tường thuật rất ngắn về vai trò của Anrê (Ga 1,[35-39].40-41), tác giả phác họa Anrê như là người môn đệ đích thật. Điều đáng lưu ý, đó là Anrê được thúc đẩy mạnh mẽ bởi lý tưởng dấn thân làm môn đệ đến nỗi ông đi tìm anh để kể về Đức Giêsu và đưa anh tới với Đức Giêsu. Nếu có một nét căn bản, không thay đổi, mà TM IV rút ra được từ dung mạo Anrê, đó là Anrê đưa người ta đến với Đức Giêsu.
* Simôn (42b)
Simôn Phêrô là một dung mạo quen thuộc với độc giả, vì ông được nêu tên như thế (Ga 1,40), dù sau đó hai câu, tác giả xác định là tên thật của ông là Simôn (Ga 1,42), còn Phêrô là biệt danh Đức Giêsu ban cho ông.
Simôn được em là Anrê giới thiệu về Đức Giêsu là Đấng Mêsia rồi cũng được em giới thiệu với Đức Giêsu. Như thế, con đường Simôn Phêrô theo để đến với Đức Giêsu là con đường thông thường: ông được một người đã tin làm chứng và đưa đến với Đức Giêsu; ông chấp nhận chứng từ đó và đích thân đến gặp Đức Giêsu và khám phá ra quan hệ duy nhất giữa ông với Ngài.
Vậy Simôn Phêrô là một môn đệ khác của Đức Giêsu. Nhưng có điều gì đó chỉ có nơi người môn đệ này. Được đưa đến với Đức Giêsu nhờ lời tuyên xưng của em vào Đấng Mêsia, Phêrô được Đức Giêsu ngỏ lời với theo cách huyền bí: “Anh là Simôn, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha” (Ga 1,42). Công thức này, được Đức Giêsu nói ra trong khi Ngài nhìn ông, tương tự công thức mạc khải có ở Ga 1,29.36.47; 19,26-27.
Đức Giêsu đặt cho Simôn một tên mới, tác giả ghi nhận điểm này để nêu bật quan hệ có một không hai giữa Simôn Phêrô và Đức Giêsu, nhưng cũng để cho thấy Đức Giêsu có một uy quyền. Khi đặt tên cho Phêrô, Đức Giêsu cũng còn muốn xác định cho ông một căn tính mới, một vai trò mới trong cuộc sống, thậm chí một định mệnh mới (x. Abram và Giacóp: St 32,38; 35,10). Nói đến tầm quan trọng của tên mới của Simôn, chúng ta đều nhớ đến đoạn văn Mt 16,15-19. So với hoạt cảnh tương đối dài đó được Mt mô tả, bản văn của TM IV thật quá ngắn; nó chỉ tương tự với những câu ngắn nói về việc đổi tên ở Mt 10,2; Mc 3,16 và Lc 6,14, chứ không sánh được với bản văn Mt 16. Có thể nói kịch bản này là do tác giả TM IV sáng tác ra cho phù hợp với phần tường thuật của ch. 1 của TM. Tuy nhiên, tác giả không suy diễn gì về việc đổi tên hay về ý nghĩa của tên mới cả. Ngài chỉ dịch tên A-ram mới “Kêpha” thành một tên Hy Lạp mới tương đương là “Phêrô” (Petros) thôi. Ngài cũng chẳng nói gì đến tảng đá, và càng không nói đến Họi Thánh xây trên một tảng đá. Ngài cũng không có một suy tư gì về vai trò của Phêrô như người giữ cửa với quyền chìa khóa. Dù sao, đối với tác giả, tên mới này quan trọng, bởi vì ngài thường xuyên gắn nó vào tên Simôn (trừ hai lần chỉ có tên Simôn, tất nhiên: Ga 1,41.42, và vài lần chỉ có tên Phêrô: 1,44; 13,37; 18,11.16.17.18.26.27; 20,3.4; 21,7.17.20.21). Chúng ta sẽ có một dung mạo Simôn rõ ràng hơn khi đọc trọn TM IV.
+ Kết luận
Trong bài tường thuật này, có những yếu tố chính của một ơn gọi làm môn đệ: 1) gặp gỡ đích thân Đức Giêsu; 2) khám phá ra Đức Giêsu là một con người siêu phàm; 3) cuối cùng, thay đổi định mệnh. Cuộc đời mỗi người là một chuyến “đi tìm” Đức Giêsu, được Người dẫn dắt, rồi sau khi đã thực sự “tìm ra, tìm thấy” Người, thì đi giới thiệu cho người khác. Đấy là một chu kỳ giúp mọi người tin Đức Giêsu và được cứu độ.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Chúng ta nghĩ đến sự thẳng thắn và cương trực của Gioan Tẩy Giả. Ông đã làm chứng về Đức Giêsu, đã giới thiệu Người là Đấng Mêsia. Sau đó, ông đã chứng kiến các môn đệ rời bỏ ông mà đi theo Đức Giêsu: điều ông nói đang được thể hiện, “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (3,30). Báo trước những thất thế của mình đã là khó, nhưng vẫn còn dễ hơn là bình thản sống những thất thế đó khi chúng xảy đến. Gioan biết mình là ai và đã can đảm sống sứ mạng cho đến cùng.
2. Lời mời gọi và lời hứa của Đức Giêsu hết sức quan trọng: “Hãy đến và các anh sẽ thấy!”. Tất cả mọi chuyện đều nhắm đến cuộc gặp gỡ sống động và riêng tư. Đức Giêsu không giao cho những kẻ đi theo Người một quyển sách chứa đựng các giáo thuyết và điều luật phải học và phải tuân giữ, nhưng Người kêu gọi họ đi vào một tương quan riêng tư với Người, đi vào hiệp thông với Người. Phần họ, họ không được giữ một khoảng cách an toàn với Người để mà chỉ việc quan sát, nhưng phải dấn thân vào, phải đi với Người, phải đưa bước trên nẻo đường Người đi.
3. Có những thành kiến nào có thể ngăn cản người ta nhận biết Đức Giêsu? Có điều gì đang ngăn cản tôi, về phương diện trí thức hoặc tình cảm, khiến tôi không nhận ra Người là Con Thiên Chúa, ngang bằng với Thiên Chúa? Lâu nay tôi tự hào là mình đi theo Đức Giêsu, mình là môn đệ của Người, thật ra quan hệ của tôi với Người có thật sự sống động? Vì sao? Dường như tôi chưa thật sự “đến” với Người, nên cũng chưa thật sự “thấy” được điều Người muốn mạc khải cho?
4. Anrê không gặp Simôn Phêrô tình cờ, nhưng đã chủ ý đi tìm ông này, để đưa ông tham dự vào kinh nghiệm mới mẻ và lạ lùng của ông: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia”. Anrê không chỉ giới hạn vào việc làm chứng, ông còn dẫn Simôn đến gặp Đức Giêsu. Có vô số nẻo đường cụ thể đưa người ta đến với Đức Giêsu: tôi nghĩ đến những nẻo đường đã đưa tôi đến với Người. Trên các nẻo đường này, có lời chứng và gương sáng của những người khác góp vào. Nhưng chắc chắn phần quan trọng vẫn là kinh nghiệm thiết thân tôi có về Đức Giêsu. Hôm nay, phải chăng tôi là một Anrê đưa được người khác đến với Đức Giêsu, không phải chỉ bằng lời nói suông, mà bằng chính kinh nghiệm sống tôi đã và vẫn đang có?
------------------
[1] Midrash: Một cách chú giải Kinh Thánh theo kiểu các kinh sư. Thường các kinh sư lấy các câu văn Cựu Ước rồi diễn dịch, và ghép vào bản dịch của mình những chi tiết mang tính huyền thoại hoặc tưởng tượng, để giáo dục dân chúng.
55. Lắng nghe - Trầm Thiên Thu
William Arthur Ward (1921-1994) nhận định: “Trước khi nói, hãy lắng nghe; trước khi viết, hãy suy nghĩ; trước khi chi tiêu, hãy kiếm được; trước khi đầu tư, hãy tìm hiểu; trước khi phê phán, hãy chờ đợi; trước khi cầu nguyện, hãy tha thứ; trước khi bỏ cuộc, hãy thử làm; trước khi nghỉ hưu, hãy tiết kiệm; trước khi chết, hãy cho đi”. Thính giác là một trong ngũ quan, nhưng là giác quan quan trọng nhất. Lắng nghe là một nghệ thuật, vì còn phải biết cách nghe.
Có thể nói rằng phải thực sự khiêm nhường mới có thể lắng nghe. Nói là gieo, nghe là gặt. Nghe có lợi hơn nói: Nói ít thì sai ít, nói nhiều thì sai nhiều, không nói thì không sai. Người ta ví von:“Người nói hay không bằng người nghe giỏi”.
Công ty bảo hiểm nhân thọ Prudential có một slogan thật thú vị: “Luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu”. Dĩ nhiên lời đó không thể tuyệt đối vì nặng tính “quảng cáo”, có chút gì đó là “nổ” mà thôi, nhưng qua đó, chúng ta biết được rằng việc “lắng nghe” có tầm quan trọng riêng. Lắng nghe là nghe thấy và chú ý, chứ không nghe cho “có lệ”, nghe vì “không điếc”. Nghe và hiểu có hệ lụy với nhau.
Tuy nhiên, hai động thái “lắng nghe” và “thấu hiểu” lại có một khoảng cách nhất định, đồng thời còn có những mức độ khác nhau, thậm chí có thể chúng ta vẫn nghe nhưng không hiểu (x. Lc 8:10), và Chúa Giêsu đã phải nhắc nhở nhiều lần: “Ai có tai thì nghe” [ai có tai nghe thì (hãy) nghe] (Mt 11:15; Mt 13:9; Mt 13:43; Mc 4:9; Mc 4:23; Mc 7:16; Lc 8:8; Lc 14:35; Kh 13:9).
Trình thuật 1 Sm 3:3-10 cho chúng ta biết về câu chuyện “nổi tiếng” về việc “lắng nghe” và “mau mắn đáp lại” của ngôn sứ “nhí” Samuen. Chuyện kể về một đêm nọ, ông Êli đang ngủ, mà mắt ông thì mờ, ông không còn thấy rõ nữa. Đèn của Thiên Chúa chưa tắt và Samuen đang ngủ trong đền thờ Đức Chúa, nơi có đặt Hòm Bia Thiên Chúa. Bất ngờ, Đức Chúa gọi Samuen. Cậu thưa: “Dạ, con đây!”. Rồi chạy lại với ông Êli và thưa: “Dạ, con đây, thầy gọi con”. Ông bảo rằng ông không gọi cậu, cứ về ngủ đi”. Cậu đi ngủ, rồi lại có tiếng gọi lần nữa. Samuen lại dậy ngay và đến với ông Êli, nhưgn ông vẫn bảo là không gọi cậu.
Trẻ người, non dạ, nên Samuen chưa biết Đức Chúa, và lời Đức Chúa chưa được mặc khải cho cậu. Rồi cậu lại nằm ngủ, Đức Chúa lại gọi Samuen lần thứ ba. Cậu lại dậy và đến với ông Êli. Bấy giờ ông Êli hiểu là Đức Chúa gọi cậu nên ông bảo Samuen đi ngủ, hễ có ai gọi thì thưa: “Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe”. Samuen về ngủ, và Đức Chúa lại đến, đứng đó và gọi như những lần trước: “Samuen! Samuen!”. Cậu liền thưa: “Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe” (1 Sm 3:10).
Đó là câu nói được trích dẫn nhiều mỗi khi nói đến việc thi hành Thánh Ý Chúa. Thi hành mau mắn và vui vẻ chứ không miễn cưỡng như “bị triệt buộc”. Thiên Chúa ban cho chúng ta quyền tự do hoàn toàn, Ngài không ép buộc ai làm bất cứ điều gì, vì thế Ngài rất đề cao sự tự nguyện, hành động vì yêu mến. Samuen đã lắng nghe, thấu hiểu, và mau mắn làm theo Ý Chúa, thế nên Samuen được Thiên Chúa bảo vệ: “Samuen lớn lên. Đức Chúa ở với ông và Người không để cho một lời nào của Người ra vô hiệu” (1 Sm 3:19). Samuen vô cùng diễm phúc!
Diễm phúc không là tình trạng “tự nhiên” mà là động thái “có điều kiện” với lòng tự nguyện: Tổ phụ Ápraham đã “xin vâng” hoàn toàn khi rời quê hương đến Đất Hứa, ông không hề ngần ngại sát tế chính con trai mình, và Đức Maria cũng diễm phúc vì lời “xin vâng” vô điều kiện. Lắng nghe – thấu hiểu – hành động, đó là “chuỗi liên kết” như một tam-giác-đều bất biến vậy, trong đó đã tiềm ẩn và mặc nhiên có nhân đức khiêm nhường – nền tảng của mọi nhân đức.
Có điều “trái khoáy” là chúng ta luôn muốn người khác lắng nghe mình nhưng mình lại không muốn lắng nghe người khác. Sao vậy nhỉ? Đó là vì ích kỷ, vì “cái tôi” lớn quá, luôn tưởng mình là “số dzách” hơn người khác về mọi lĩnh vực. Thậm chí cả với Thiên Chúa mà chúng ta cũng dám làm vậy. Thực sự chúng ta to gan, lớn mật tới mức dám làm vậy ư? Thật, không oan đâu! Chúng ta luôn xin Ngài lắng nghe mình (Tv 30:11; Tv 51:3; Tv 55:2; Tv 77:2; Tv 86:6; Tv 88:3; Tv 141:1; Tv 143:1), nhưng hiếm khi chúng ta “nhận lỗi” (Tv 51:5) hoặc “lắng nghe điều Thiên Chúa phán” (Tv 85:9), nhất là khi ý Chúa khác hẳn ý mình.
Chắc hẳn ai cũng đủ kinh nghiệm để khả dĩ biết rằng “đời là bể khổ”, thế nên lúc nào chúng ta cũng phải cầu xin Thiên Chúa thương xót: “Tôi đã hết lòng trông đợi Chúa, Người nghiêng mình xuống và nghe tiếng tôi kêu” (Tv 40:2). Và rồi chúng ta phấn khởi lắm: “Chúa cho miệng tôi hát bài ca mới, bài ca tụng Thiên Chúa chúng ta. Thấy thế, nhiều người sẽ kính sợ và tin tưởng vào Chúa” (Tv 40:4). Thế nhưng chúng ta lại thường “ngủ quên trong chiến thắng”, chẳng khác chi chín người vô ơn bạc nghĩa trong chuyện “mười người phong hủi” (Lc 17:11-21).
Tác giả Thánh Vịnh cho biết rằng Thiên Chúa không thích tế phẩm, lễ vật, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Ngài không đòi chi, không cần gì, vì Ngài có tất cả. Ngài chỉ muốn một điều là chúng ta PHẢI biết mau mắn thân thưa: “Này con xin đến! Con thích làm theo thánh ý, và ấp ủ luật Chúa trong lòng, lạy Thiên Chúa của con” (Tv 40:7-9). Chúng ta càng thu nhỏ mình thì càng được Ngài xót thương. Và đừng quên điều này: “Đức công chính của Ngài, con loan truyền giữa lòng đại hội; lạy Chúa, Ngài từng biết: con đâu có ngậm miệng làm thinh” (Tv 40:10).
Chẳng có gì vĩnh cửu vì mọi sự đều có lúc, có thời mà thôi (x. Gv 3:1-8). Ngay cả sự sống và sự tự do của chúng ta cũng vậy thôi, tới một lúc nào đó sẽ không còn. Thánh Phaolô nói: “Tôi được phép làm mọi sự, nhưng không phải mọi sự đều có ích. Tôi được phép làm mọi sự, nhưngtôi sẽ không để sự gì làm chủ được tôi” (1 Cr 6:12). Thật không dễ để có thể nhận thức và tự chủ được như vậy, chứng tỏ phải có sự giằng co rất mãnh liệt. Thánh nhân giải thích cụ thể:“Thức ăn dành cho bụng, và bụng dành cho thức ăn. Thiên Chúa sẽ huỷ diệt cả cái này lẫn cái kia. Nhưng thân xác con người không phải để gian dâm, mà để phụng sự Chúa, vì Chúa làm chủ thân xác. Thiên Chúa đã làm cho Chúa Kitô sống lại; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại. Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao? Tôi lại lấy phần thân thể của Đức Kitô mà làm phần thân thể của người kỹ nữ sao? Không đời nào!” (1 Cr 6:13-15).
Chưa cần nói vấn đề tinh thần, các vật chúng ta đang sở hữu cũng không là của chúng ta mãi mãi. Chẳng hạn tiền bạc, nhà cửa, xe cộ,… Những thứ chúng ta gọi là “của mình”, tức là mình sở hữu nó. Đúng vậy, chúng ta sở hữu chúng vì chúng ta có quyền quản lý chúng, nhưng nó mãi mãi là của chúng ta, vì một lúc nào đó chúng ta không được sở hữu chúng nữa. Phũng phàng ư, thất vọng ư, buồn ư? Đời là thế nên nó thế đấy! Sự sống chúng ta đang có mà rồi cũng chẳng giữ được thì làm sao giữ những thứ khác?
Vì thế, Thánh Phaolô khuyên: “Ai đã kết hợp với Chúa thì nên một tinh thần với Người. Anh em hãy tránh xa tội gian dâm. Mọi tội người ta phạm đều ở ngoài thân xác mình, còn kẻ gian dâm thì phạm đến chính thân xác mình. Hay anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thầnsao? Mà Thánh Thần đang ngự trong anh em là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban cho anh em. Như thế, anh em đâu còn thuộc về mình nữa, vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em. Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em” (1 Cr 6:17-20). Thân xác đủ thứ nhơ nhớp, nói ra mà thấy ngượng miệng, nhưng chính cái nhơ nhớp hèn hạ đó lại được Thiên Chúa dùng làm Đền Thờ để Ngài ngự vào – thiêng liêng và cụ thể (Thánh Thể). Chúng ta là “đền thờ” thì chúng ta phải cố gắng lắng nghe và thực thi Thánh Ý Ngài. Bức tượng không thể phản đối nhà điêu khắc!
Ước gì mỗi chúng ta đều biết xác định rạch ròi: “Tuân theo thánh ý Ngài, con vui sướng hơn là được tiền rừng bạc bể” (Tv 119:14). Tâm niệm được như vậy thì chẳng có gì lo ngại. Tất cả đều NHỜ Ngài, VỚI Ngài và TRONG Ngài!
Hôm trước, khi thấy Đức Giêsu tiến về phía mình, ông Gioan liền nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian. Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi” (Ga 1:29-30). Và ông đã làm chứng với mọi người: “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người” (Ga 1:32).
Hôm sau, ông Gioan lại đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông và thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa” (Ga 1:36). Nghe vậy, hai môn đệ kia liền đi theo Đức Giêsu. Đức Giêsu quay lại, thấy các ông đi theo mình thì hỏi: “Các anh tìm gì thế?”. Họ đáp:“Thưa Thầy, Thầy ở đâu?”. Người bảo họ: “Đến mà xem”. Họ đã đến xem chỗ Ngài ở, và ở lại với Ngài ngày hôm ấy. Chắc hẳn nơi ở của Chúa Giêsu giản dị lắm, khó nghèo lắm, nhưng họ vẫn theo Ngài. Cái “thấy” của họ là sự vĩ đại của Ngài, họ sẵn sàng “lắng nghe” và “thực hiện” như Ngài.
Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười. Ông Anrê, anh ông Simôn Phêrô, là một trong hai người đã nghe ông Gioan nói và đi theo Đức Giêsu. Trước hết, ông gặp em mình là ông Simôn và nói:“Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia” (Ga 1:41). Rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu. Đức Giêsu nhìn ông Simôn và nói:“Anh là Simôn, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha” (Ga 1:42). Thánh sử Gioan giải thích rằng chữ Kêpha có nghĩa là Đá, đồng nghĩa với tên Phêrô (Pièrre = Đá).
Dù chỉ là ngư dân, chuyên chài lưới, nhưng hẳn là lão ngư Phêrô “có tướng có tá” lắm, chắc hẳn “tướng mạo” như ông phải có gì đó đặc biệt, vì Thầy Giêsu đã “thấu suốt” cả tâm địa của ông bộc trực: Nóng nảy nhưng tốt bụng. Và Ngài OK liền, “chấm” ngay. Thật vậy, dù tội chối Thầy lớn lắm, không chối một lần mà chối tới ba lần, nhưng không sao, “chuyện nhỏ” thôi, vì Chúa Giêsu vẫn luôn giàu lòng thương xót và cho ông “bù lỗ” bằng ba lần tuyên xưng: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự. Thầy biết rõ con yêu mến Thầy!” (Ga 21:15-18). Từ đó, lão ngư Phêrô trở thành Giáo hoàng tiên khởi của Giáo Hội lữ hành tại trần gian.
Hôm nay là ngày bắt đầu tuần lễ cầu cho sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu. Mỗi người là một cá nhân, với tính cách khác nhau, nhưng mỗi người không là một ốc đảo, mà luôn phải hài hòa trong một tổng thể, mang tính liên đới đa dạng, kể cả tội lỗi cũng có tính liên đới. Sự hiệp nhất rất quan trọng, cần thiết đối với mọi tổ chức hoặc nhóm. Ngay trong gia đình cũng vậy, thiếu sự đồng tâm nhất trí thì “ông nói gà, bà nói vịt”, gia đình khó có thể là một tổ ấm đích thực. Các cộng đoàn tu cũng vậy, mỗi người mỗi phách thì không thể là một cộng đoàn. Mỗi thành viên có biết lắng nghe thì mới khả dĩ hiệp nhất.
Đặc biệt năm nay là năm Tân Phúc Âm Hóa các giáo xứ và các cộng đoàn. Hai loại hình này là dạng “đời sống chung”, cần biết lắng nghe nhau để hiểu nhau và cùng nhau thực hiện điều mong muốn của Thầy Chí Thánh Giêsu trong Vườn Dầu: “Xin cho họ nên một”. Tính “nên một” được Chúa Giêsu đề cập ba lần (x. Ga 17:1-24), chứng tỏ đó là tính chất đặc biệt lắm, vì đó là tính hiệp nhất của Chúa Ba Ngôi.
Lạy Thiên Chúa, xin dạy chúng con biết những quyết định của Ngài (Tv 119:108), xin giúp chúng con biết mau mắn lắng nghe lời Ngài dạy chúng con mọi nơi và mọi lúc, xin cũng giúp chúng con biết mau mắn đáp lại và sẵn sàng thực thi Thánh Ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
13/01 Thày thuốc cho người đau yếu
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Thày thuốc cho người đau yếu.
Thứ Bảy tuần 1 thường niên.
"Ta không đến để kêu gọi những người công chính, mà kêu gọi những người tội lỗi".
LỜI CHÚA: Mc 2, 13-17
Khi ấy Chúa Giêsu đi dọc theo bờ biển, toàn dân đến cùng Người và Người giảng dạy họ. Khi vừa đi qua, Người thấy ông Lêvi con của Alphê, đang ngồi nơi bàn thu thuế. Người bảo ông: "Hãy theo Ta". Ông liền đứng dậy theo Người. Và xảy ra là khi Người dùng bữa tại nhà ông, nhiều người thu thuế và tội lỗi cùng đồng bàn với Chúa Giêsu và các môn đệ của Người, vì đã có nhiều kẻ theo Người. Những luật sĩ và biệt phái thấy Người ngồi ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi, liền nói với các môn đệ Người rằng: "Tại sao thầy các ông lại ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi?"
Nghe vậy, Chúa Giêsu bảo họ: "Những người khoẻ mạnh không cần gì đến thầy thuốc, nhưng là những người đau yếu. Ta không đến để kêu gọi những người công chính, mà kêu gọi những người tội lỗi".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Kêu gọi người tội lỗi
Ơn gọi của Lêvi được coi là khác thường và gây ngạc nhiên hơn ơn gọi của các Tông đồ khác, bởi vì ông là một người tội lỗi công khai. Lêvi sau này được gọi là Matthêu, một trong bốn thánh sử, ông làm nghề thu thuế cho đế quốc Rôma, lúc đó đang cai trị xứ Palestina. Những người làm nghề thu thuế được hưởng lợi tức cao, nhưng bị dân chúng ghét bỏ vì thường xảy ra những vụ gian lận hoặc lạm thu.
Ðối với người Do thái, những người thu thuế là gương mù cần phải tránh xa, xét về phương diện tôn giáo và xã hội, vì hai lý do: thứ nhất, vì họ cộng tác với chính quyền ngoại quốc; thứ hai, vì họ có bàn tay dơ bẩn bởi tiền của dơ bẩn. Ðối với những vị có trách nhiệm về luật Môsê và về phụng tự, thì người thu thuế bị loại trừ khỏi ơn cứu độ, vì họ bị coi như không thể từ bỏ con đường xấu xa, cũng không thể sửa lại những gian lận trong nghề được. Do đó, tiền của người thu thuế dâng cúng vào đền thờ không được nhận; họ không có quyền dân sự, không thể làm thẩm phán hoặc chứng nhân, tất cả những tiếp xúc với họ đều bị coi là nhơ uế.
Nhưng đó không phải là thái độ của Chúa Giêsu, bởi vì Ngài đến để kêu gọi những người tội lỗi. Việc Chúa kêu gọi Lêvi, một người thu thuế tội lỗi và ghi tên ông vào số các Tông đồ, đã bị những người Biệt phái chỉ trích và bị coi như một gương mù: "Sao ông ấy lại ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi". Chúa Giêsu nghe những lời chỉ trích này và Ngài giải thích: "Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, chỉ có người đau ốm mới cần. Tôi đến không phải để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi người tội lỗi".
Cũng như thời Chúa Giêsu, ngày nay không thiếu những kẻ giả hình, tự cho mình là nhân đức, thánh thiện, nhưng lại khinh thường kẻ khác. Cần phải sống kinh nghiệm tình yêu thương của Thiên Chúa để hiểu được bài Tin Mừng hôm nay. Không gì an ủi hơn việc khám phá ra tình thương của Thiên Chúa đối với người tội lỗi. Thiên Chúa đã so sánh mình với vị Mục Tử nhân lành dám bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc, và khi tìm được Ngài vác nó trên vai đưa về đàn chiên. Việc Thiên Chúa yêu thương người tội lỗi không có nghĩa là Ngài dung thứ tội lỗi. Tình yêu thương của Thiên Chúa không miễn trừ việc nhìn nhận lỗi lầm của con người, cũng không cho phép con người lạm dụng lòng nhân hậu của Ngài. Chúa Giêsu đã đến để giải thoát con người khỏi ách nô lệ tội lỗi. Ngài thấu hiểu sự yếu đuối của con người và sẵn sàng tha thứ, với điều kiện là con người thành thật nhìn nhận tội lỗi của mình và trở lại với Ngài.
Hãy để ơn Chúa tha thứ, cứu rỗi và giải thoát chúng ta. Như Lêvi xưa, xin Chúa cho chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa và mau mắn chỗi dậy theo Chúa, ngay lúc này đây, sợ rằng ơn Chúa qua đi mà không trở lại. "Hôm nay, nếu các ngươi nghe tiếng Chúa, các ngươi đừng cứng lòng nữa".
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Kìa Người đến dùng bữa!
Đức Giêsu lại đi ra bờ biển hồ. Toàn thể dân chúng đến với Người, và Người dạy dỗ họ. Đi ngang qua trạm thu thuế, Người thấy ông Lê-vi là con ông An-phê, đang ngồi thu thuế ở đó. Người bảo ông: “Anh hãy theo tôi!” Ông đứng dậy đi theo Người. (Mc. 2, 13-14)
Chúa Giêsu thường bị những con mắt hay soi bói và đả kích Người bám theo. Mọi cử chỉ của Người đều bị họ rình mò, giải thích và sàng lọc theo luật lệ của những người Pharisiêu. Các kinh sư là những người rất quen với công việc này; và họ cũng thường có cơ hội dễ dàng.
Hạng người rình mò như thế vẫn còn, bởi lẽ tất cả chúng ta tự bản tính vốn dễ dàng xếp loại mọi người, phân cách người lành với kẻ dữ và nhất là muốn dựng lên bức vách ngăn giữa cái gì là khả kính với bất kính, ít nữa là xét theo quy tắc và quan điểm của ta.
Thực ra Giáo hội vẫn còn là một tập hợp những con người đáng trọng cũng có và không đáng kinh cũng có, nơi đây Chúa Giêsu đến cư ngụ, bởi vì ngay lúc ban đầu, từ những con người tội lỗi mà Chúa đã lập nên Giáo hội vậy.
Giáo Hội là một tập hợp đủ thứ
Theo cái nhìn của những người trí thức Mác-xít tích cực, thì Giáo hội thường quy tụ những con người yếu hèn, bất lực trong việc tự giải quyết lấy thân phận con người và xã hội của mình, nên mới chạy đến với những cái nạng gọi là “Thiên Chúa” hay “đức tin” vậy.
Nơi đây có Chúa cư ngụ
Thực ra, hơn nơi nào khác, Chúa Giêsu chỉ thích tìm cư ngụ nơi những con người đã không tìm được ở nơi mình bất cứ một lý lẽ nào để biện minh cho sự công chính của mình, nơi những kẻ không có lấy một sự đáng tôn đáng kính nào khác, ngoài chuyện họ sống trung thực, can đảm và sẵn sàng thú nhận mình là kẻ tội lỗi.
Quả thực, người tội lỗi là người sống trung thực, vì người ấy biết rõ mình. biết nơi mình không có được tất cả sự bền bỉ cần thiết để sống trọn phẩm giá con người, và để được như thế, cần phải có ơn Chúa. Người có tội không gian lận với mình.
Người tội lỗi cũng là người can đảm. Có người đã viết điều này: có can đảm hay không ở tại biết làm cho sự thật phải yên lặng hoặc không làm cho sự thật yên lặng? Quả quyết mình dốt nát hay dấu nhẹm sự ấy, đàng nào can đảm hơn? Tỏ ra run sợ trước Thiên Chúa thánh thiện và siêu phàm, phải chăng kém can đảm hơn là trốn chạy khỏi tôn nhan Người?
Sau cùng con người tội lỗi luôn ở tư thế chuẩn bị sẵn; người ấy biết rõ rằng điều tốt nhất đang ở phía trước, nên sẵn sàng lại lên đường.
Có thế ta mới hiểu được tại sao Chúa Giêsu thích lui tới hạng người này và tại sao chúng ta không được vấp phạm vì hành động của Giáo hội mẹ ta và vì những ai thường đến chung sống với họ vậy.
Suy Niệm 2: Nhạy bén với tình thương của Chúa (Mc 2, 13-17)
Ơn gọi luôn luôn đến từ Chúa. Chúa muốn gọi và chọn ai tùy ý Ngài. Tuy nhiên, nếu chỉ có Chúa gọi và con người không đáp trả thì không trở thành một ơn gọi.
Hôm nay, Chúa gọi Mátthêu, người thu thuế. Dù là con người tội lỗi vì mang trong mình cái tội phản quốc, tức là trù dập dân, o ép người đồng hương, để hưởng lợi nhuận trên xương máu của đồng bào.
Tuy nhiên, khi nhận ra mình tội lỗi ngập đầu như vậy, và được Đức Giêsu yêu thương trìu mến chọn và gọi mình, thì Mátthêu đã không ngần ngại thả lỏng cây bút chuyên ghi chép những chuyện phi nhân, bất nghĩa và sẵn sàng buông mình vào bàn tay từ ái của vị Thầy dễ thương để tùy Ngài hướng dẫn, ngõ hầu sau này dùng ngòi bút mới để viết lên những trang Tin Mừng mang đậm tình thương của Thiên Chúa cho nhân loại, mà chính ông là người được yêu thương cách nhiệm mầu và cảm nghiệm cách đặc biệt.
Nhiều khi trong cuộc sống, chúng ta bỏ lỡ nhiều cơ hội được Chúa yêu thương, một phần do kiêu ngạo như những người Pharisêu, luôn coi mình là hạng người ưu tuyển, nên không nhạy bén trước tình yêu của Thiên Chúa; mặt khác, không giống như Mátthêu, nhiều khi chúng ta lại quá tự ty đến độ không dám đến với Thiên Chúa vì cho rằng mình không xứng đáng.
Tất cả những lý do đó hoàn toàn không phù hợp với Tin Mừng, vì Đức Giêsu đến không phải để kêu gọi người công chính, mà là kêu gọi người tội lỗi, bởi vì người đau yếu mới cần thầy thuốc, người khỏe mạnh thì không cần.
Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta hay có thái độ khinh thường những người tội lỗi và tự mãn vì mình là người đạo đức, nhưng không chừng, con cái trong nhà lại bị loại ra ngoài, còn phường tội lỗi và gái điếm lại vào Nước Trời trước chúng ta!
Xin Chúa Giêsu ban cho mỗi người chúng ta mặc lấy cái nhìn của Chúa, luôn yêu thương những người tội lỗi, đồng thời biết mau mắn đáp trả lời mời gọi của Ngài để ra đi chia sẻ tình thương của Chúa cho anh chị em xung quanh. Amen.
Ngọc Biển
Suy niệm 4:
Trong bài Tin Mừng hôm qua, Đức Giêsu đã tha tội cho anh bất toại.
Và chuyện này đã bị các kinh sư coi là phạm thượng (Mc 2, 6).
Trong bài Tin Mừng hôm nay, ngài lại tiếp tục bị tấn công,
vì làm những điều dưới mắt các kinh sư là gai chướng.
Trước hết là việc chọn ông Lêvi vào số các môn đệ.
Như bốn môn đệ đầu tiên, khi được gọi Lêvi cũng đang làm việc.
Lúc đó ông đang ngồi nơi bàn thu thuế, bận bịu với tiền bạc và sổ sách.
Ánh mắt của Thầy Giêsu chụp lấy ông và lôi cuốn ông.
Lời mời của Thầy thật rõ ràng và ngắn gọn: “Anh hãy theo tôi.”
Lêvi có ngỡ ngàng không?
Ông đang làm một nghề bị mọi người coi là ô uế
vì phải tiếp xúc với dân ngoại và dính dáng đến dối trá tham lam.
Ông bị coi là tội nhân, bị gạt ra khỏi cộng đoàn Dân Chúa.
Bây giờ ông được Thầy mời vào nhóm môn đệ của mình
Đức Giêsu có liều lĩnh không?
Ngài có sợ uy tín nhóm bị giảm sút vì sự có mặt của Lêvi không?
Đức Giêsu không định thành lập một nhóm gồm toàn những người hoàn hảo,
nên ngài đã chọn sự có mặt của Lêvi.
Như thế ranh giới giữa “môn đệ” và “tội nhân” đã bị xóa.
Môn đệ chính là tội nhân được kêu gọi để chia sẻ tình bạn và sứ vụ.
Lêvi diễn tả niềm vui của người được gọi bằng một bữa tiệc,
trong đó ông mời các bạn bè đồng nghiệp đến để chia tay.
Đức Giêsu và các môn đệ cũng được mời tham dự.
Ngài đã vui vẻ nhận lời, đã đến nhà và ăn với họ, dù đây là điều bị cấm.
Để biện minh cho thái độ này, ngài coi tội nhân như người đau ốm.
Người đau thì cần thầy thuốc, cần sự lại gần để săn sóc của lương y.
Họ cần chữa lành và đón nhận, chứ không cần phán xét và lên án.
Đức Giêsu chính là vị lương y đến để kêu gọi người tội lỗi (c. 17).
Nhưng có ai trong chúng ta lại không là tội nhân?
Có ai trong chúng ta lại công chính thánh thiện
đến độ không cần phải sám hối (Mc 1, 15)?
Hôm nay Đức Giêsu vẫn đi ngang qua đời tôi, tưởng như tình cờ,
vẫn thấy tôi và gọi tôi, vẫn mời tôi ra khỏi chỗ ngồi vững chãi của mình,
và bỏ lại tất cả sau lưng.
Xin được như Lêvi đứng lên ngay để theo Ngài.
Cầu nguyện :
Lạy Cha, thế giới hôm nay cũng như hôm qua
vẫn có những người bơ vơ lạc hướng
vì không tìm được một người để tin;
vẫn có những người đã chết từ lâu
mà vẫn tưởng mình đang sống;
vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế,
ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn,
bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống;
vẫn có những người bị sống bên lề xã hội,
dù không phải là người phong...
Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ
và biết chạnh lòng thương như Con Cha.
Nhưng trước hết, xin cho chúng con
nhìn thấy chính bản thân chúng con. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
- 12/01 Bệnh tật tâm hồn và bệnh tật thể xác
- 11/01 Chữa người phong cùi
- 10/01 Tiếp tục rao giảng
- 09/01 Công việc của Chúa Giêsu
- 08/01 Gioan làm chứng về Chúa Giêsu
- 07/01 Các đạo sĩ đến triều bái Chúa Hài Nhi
- 06/01 Chúa Giêsu chịu phép rửa
- 05/01 Gặp Con Thiên Chúa
- 04/01 Gặp Ðấng Cứu Thế
- 03/01 Ðấng xóa tội trần gian