Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
01/02 Chúa Giêsu sai đi mười hai tông đồ
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Chúa Giêsu sai đi mười hai tông đồ.
Thứ Năm đầu tháng, tuần 4 thường niên.
"Người bắt đầu sai các ông đi".
Lời Chúa: Mc 6, 7-13
Khi ấy, Chúa Giêsu gọi mười hai tông đồ và sai từng hai người đi, Người ban cho các ông có quyền trên các thần ô uế.
Và Người truyền các ông đi đường đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áo. Người lại bảo: "Ðến đâu, các con vào nhà nào, thì ở lại đó cho đến khi ra đi. Ai không đón tiếp các con, cũng không nghe lời các con, thì hãy ra khỏi đó, phủi bụi chân để làm chứng tố cáo họ".
Các ông ra đi rao giảng sự thống hối. Các ông trừ nhiều quỷ, xức dầu chữa lành nhiều bệnh nhân.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Sứ mệnh tông đồ
Một tôn giáo chỉ tồn tại, nếu mỗi ngày một phát triển và có thêm người gia nhập. Kitô giáo do Chúa Giêsu thiết lập cũng nằm trong diện đó. Dưới con mắt Chúa, mỗi linh hồn đều có giá trị như nhau và mỗi người đều được sai đi tìm những con chiên lạc và dẫn chúng về đồng cỏ xanh tươi. Ngài ý thức rằng Thiên Chúa đã tạo dựng con người, không phải để bị vất vào lò lửa đời đời, nhưng là để được thu vào kho lẫm. Do đó, mối bận tâm lớn nhất của Ngài khi đến thế gian chính là đem Tin Mừng cứu độ cho mọi người.
Từ trước tới giờ, Ngài vẫn làm việc đó một mình, nhưng nay vì tính cách khẩn thiết của việc tông đồ, Ngài cần có những con người cộng tác: Mùa gặt bề bộn, mà thợ gặt thì ít. Sứ mệnh tông đồ từ nay được trao cho họ. Sứ mệnh đó thật cao cả và cấp bách, vì thế Chúa đòi hỏi nơi họ sự thoát ly trọn vẹn, hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa quan phòng. Ra đi một cách thảnh thơi, không bồn chồn, không bối rối, không bận tâm đến bị, đến tiền. Không những thế, họ còn phải hy sinh tất cả cho sứ mệnh, đo lường mọi sự theo lợi ích của Nước Thiên Chúa. Họ chấp nhận giao tiếp với thế gian nếu đó là cơ hội để phổ biến sứ điệp, họ không mưu cầu tư lợi, nhưng dũ bỏ hết những gì không liên quan đến sứ mệnh, chỉ như thế, họ mới có thể đạt tới trình độ siêu thoát và dễ dàng chinh phục các linh hồn về cho Nước Chúa.
Mỗi người chúng ta cũng được kêu gọi vào sứ mệnh tông đồ, chúng ta có ý thức sứ mệnh cao cả ấy không? Các linh hồn được cứu rỗi hay bị luận phạt, một phần lớn tùy thuộc vào đời sống của chúng ta. Ðiều đó có thể làm chúng ta run sợ, nhưng nếu chúng ta nhiệt tâm mở rộng Nước Chúa nơi các tâm hồn, chúng ta sẽ được an tâm, không ai có thể trách chúng ta đã đùa giỡn với số phận đời đời của họ, và các linh hồn sẽ là triều thiên cho chúng ta trong ngày Chúa vinh quang ngự đến.
Chúng ta hãy sống kết hiệp với Chúa. Tất cả hoạt động của chúng ta sẽ chẳng có giá trị gì, nếu không bắt nguồn từ tình yêu Thiên Chúa. Càng kết hiệp với Chúa, chúng ta càng có khả năng chu toàn bổn phận người tông đồ giữa dân Chúa, và như vậy chắc chắn chúng ta sẽ nhận được phần thưởng Chúa hứa cho người thợ tận tâm, nhiệt tình cho Nước Chúa trị đến.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Nếp sống nghèo cần thiết
Người gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một. Người ban cho các ông quyền trừ quỷ. Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng. (Mc. 6, 7-8)
Hôm nay các Tông đồ bắt đầu thực tập công việc truyền giáo. Các ông đã được thấy Chúa làm, nghe Chúa nói, thì giờ đây đến lượt các ông nói và làm. Tuy thời kỳ huấn luyện các ông còn chưa xong – chỉ đến ngày Lễ Hiện Xuống công việc này mới kết thúc – nhưng các ông đã có thể thử nghiệm cho biết cuộc đời truyền giáo là thế nào.
Khi sai đi truyền giáo, Đức Giêsu đã dặn dò, chỉ thị cho các Tông đò nhiều điều. Chúng ta sẽ lưu ý hai sự kiện có ý nghĩa này: dặn dò sống khó nghèo và làm cho xong công việc.
Đừng mang theo gì cả
Chúa Giêsu căn dặn các Tông đồ không được mang theo gì cả; các ông phải ra đi không cồng kềnh vướng vít, không mang theo ngay cả đồ ăn thức uống nữa.
Tôi nghĩ: xem ra đây là một điều kiện để người truyền giáo có được thảnh thơi. Ra đi không hành lý, chính là từ chối kéo theo mình những gì là riêng tư, là không khui và phô ra trước mặt người khác, tiền bạc, của cải, uy thế của mình… Ra đi không hành lý là muốn nói lên rằng chỉ có bản thân, tư cách con người truyền giáo mới là chiếc xe tốt cần thiết cho việc đi rao giảng Tin mừng. Làm chứng là nói bằng chính con người và đời sống của mình, chứ không phải bằng nhừng lời nói xuông mà thôi, nghĩa là sống sao thì dạy vậy, và dạy sao thì sống vậy.
Một khía cạnh khác nữa của nếp sống nghèo cần có đối với người truyền giáo là chấp nhận lòng hiếu khách của người ta, sẵn lòng khi được người ta mời. Người ta dễ đón nhận mình hơn khi ta không choán hết chỗ của họ!
Ta đến không mang theo đồ đạc lỉnh kỉnh, người ta sẵn lòng đón tiếp ta; hai việc này thường đi đôi với nhau. Ai cũng biết rõ rằng nếu ta tới nhà họ với đôi bàn tay trống – ngoại trừ chứng từ của đời sống ta - thì sự tiếp đón của họ mới thật trong sáng: người ta sẽ tỏ ra quan tâm đến chứng từ, chứ không phải vì món đồ nào đó được cất dấu trong những chiếc va-li của ta.
Làm cho xong công việc
Các Tông đồ đều là những người mới vào nghề; việc các ông làm chẳng phải là điều mắt thấy tai nghe: xức dầu cho vài người bệnh, săn sóc cho mấy bệnh nhân, úy lạo những người khốn khổ, thất vọng.
Có lẽ chúng ta quá tán dương việc các Tông đồ làm, nên đâm ra nhát sợ không có khả năng làm chứng như các ngài. Lần này, ta hãy cứ tạm biết rằng các ngài cũng đã chỉ làm những việc bình thường mà ta có thể làm được, và trước hết các ngài đã trở thành những bàn tay săn sóc, trước khi miệt mài với công việc rao giảng.
Lúc này đây, Chúa Giêsu đang bảo ta: “Nào con, ta đi làm việc thôi, và hãy làm với tinh thần đơn sơ mà can đảm!”.
Suy Niệm 3: GIẢNG GÌ? GIẢNG NHƯ THẾ NÀO? (Mc 6,7-13)
Sau khi được Đức Giêsu gọi và chọn các môn đệ, các ông đã ở lại với Ngài một thời gian, nay Ngài sai họ đi để rao giảng Tin Mừng.
Đức Giêsu truyền cho họ đi rao giảng, và không những thế, Ngài còn dạy cho họ biết giảng điều gì, và giảng như thế nào!
Về nội dung lời giảng: “Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối”. Đây cũng chính là sự tiếp nối lời giảng dạy của Đức Giêsu và của Gioan Tiền Hô.
Về cách giảng:
- Trước tiên, để lời giảng của các ông có giá trị, họ phải là chứng nhân.
- Thứ đến, chữa lành thể xác bằng việc chữa bệnh.
- Cuối cùng, giải thoát con người khỏi xiềng xích trói buộc của Ma Quỷ.
Về thái độ, tác phong của người môn đệ: người thừa sai phải là người nghèo. Nghèo để thanh thoát; để liên đới; để tin tưởng, phó thác nơi Thiên Chúa.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy đi loan báo Lời Chúa cho mọi người, nhất là những người đau khổ cả về thể xác lẫn tinh thần.
Người đi theo Chúa phải là người luôn luôn xây dựng và cổ võ sự hiệp nhất, sống tình huynh đệ và yêu thương, trở nên chứng nhân cho Lời Chúa bằng hành động.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sẵn sàng ra đi loan báo Tin Mừng cho mọi người, nhất là những người nghèo. Nhưng trước tiên, xin cho chúng con biết sống nghèo, tin tưởng, phó thác nơi Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Không được mang gì
Suy niệm :
Đức Giêsu đã chọn nhóm Mười Hai
để họ ở với Ngài và để được Ngài sai đi rao giảng và trừ quỷ (Mc 3, 14-15).
Bây giờ, sau một thời gian sống gần gũi bên Thầy,
đã đến lúc họ được sai đi để làm những điều họ thấy Thầy làm:
kêu gọi người ta hoán cải, trừ quỷ, xức dầu chữa bệnh nhân (cc. 12-13).
Các môn đệ trở nên cánh tay nối dài của Thầy.
Họ được Thầy Giêsu tin tưởng cho chia sẻ cùng một sứ mạng.
Các môn đệ mang gì khi lên đường?
Một lệnh sai đi, một người bạn đồng hành, một quyền lực trên thần ô uế.
Đức Giêsu cho phép họ mang một cái gậy và đôi dép để đi đường xa.
Tất cả hành trang chỉ có thế!
Những thứ bị cấm mang khi đi đường
là những thứ vốn tạo ra sự bảo đảm hay dư thừa không cần thiết:
lương thực, bao bị, tiền giắt lưng, hai áo trong.
Như thế người được sai đi phải hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa lo liệu,
và phải hoàn toàn cậy dựa vào lòng tốt mỗi ngày của tha nhân.
Nhẹ nhàng, đơn sơ là thái độ của người luôn sẵn sàng ra đi.
Siêu thoát, vô vị lợi là thái độ của người không dính bén với vật chất.
Người tông đồ cũng không dính bén đến cơ sở hay tiện nghi.
Họ không tìm cách đổi chỗ ở để có chỗ tốt hơn (c. 10).
Hơn nữa họ chấp nhận sự thất bại, sự từ chối không muốn đón tiếp (c.11),
vì chính Thầy của họ cũng đã chịu cảnh ngộ tương tự ở quê nhà.
Nhóm Mười Hai đã ra đi theo lệnh Thầy Giêsu
và đã làm được những điều họ không dám mơ (cc. 12-13).
Họ đã học được kinh nghiệm về tin tưởng, khó nghèo, siêu thoát.
Họ đã thấy sức mạnh của Nước Trời đang thu hẹp lại mảnh đất của Satan.
Họ đã đem lại niềm vui cho bệnh nhân và người khao khát Tin Mừng.
Giáo Hội mọi thời vẫn được nhắc nhở từ đoạn Lời Chúa trên đây.
Chẳng ai giữ từng chữ của bản văn, nhưng tinh thần thì không được bỏ.
Sự nhẹ nhàng, cơ động của một Giáo Hội đến phục vụ con người,
luôn kéo chúng ta ra khỏi những nặng nề, trì trệ dễ vướng phải.
Hôm nay Chúa cho phép tôi được mang gì
và cấm tôi mang gì?
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
xin sai chúng con lên đuờng
nhẹ nhàng và thanh thoát,
không chút cậy dựa vào khả năng bản thân
hay vào những phương tiện trần thế.
Xin cho chúng con làm đuợc những gì Chúa đã làm:
rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ,
chữa lành những người ốm đau.
Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng
với niềm vui của người tìm đuợc viên ngọc quý,
biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.
Xin ban cho chúng con khả năng
đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.
Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ
của bao người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu,
thế giới thật bao la
mà vòng tay chúng con quá nhỏ.
Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau
mà tin tưởng lên đuờng,
nhẹ nhàng và thanh thoát.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
31/01 Chúa Giêsu tại quê hương Nadarét
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Chúa Giêsu tại quê hương Nadarét.
Thứ Tư tuần 4 thường niên.
"Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương".
Lời Chúa: Mc 6,1-6
Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê nhà và các môn đệ cùng theo Người. Ðến ngày Sabát, Người vào giảng trong hội đường, và nhiều thính giả sủng sốt về giáo lý của Người, nên nói rằng: "Bởi đâu ông nầy được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông nầy chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?" Và họ vấp phạm vì Người.
Chúa Giêsu liền bảo họ: "Không một tiên tri nào mà không bị kinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình". Ở đó Người không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân, và Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin. Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Cuộc sống âm thầm
Thánh Gioan Bosco, nhà giáo dục giới trẻ lừng danh nhất của thế kỷ 19 đã kể lại giấc mơ năm Ngài lên 9 tuổi như sau: Ngài mơ thấy mình ở giữa một đám trẻ đang chơi đùa, nghịch ngợm, cãi cọ và nói những lời thô tục. Muốn cho đám trẻ một bài học, cậu bé liền gọi một số em ra và dùng nắm tay để đe dọa. Nhưng chính lúc đó, Chúa Giêsu hiện ra gọi cậu bé lại và nói:
- Này Gioan, muốn biến những con chó sói này thành chiên con, thì con không nên dùng sức mạnh của đôi tay, mà hãy dùng lòng tốt.
Lúc đó, cậu bé thưa với Chúa:
- Lạy Chúa, chắc con không làm được đâu.
Chúa Giêsu liền chỉ cho Gioan Bosco thấy gương mặt hiền hậu của một người mẹ đang đi bên cạnh và nói:
- Ðây là mẹ của con và cũng là mẹ của chúng nữa. Với mẹ, con có thể biến đổi giới trẻ cho Nước Chúa, cho một thế giới tốt đẹp hơn.
Quả thật, về sau, cả công cuộc giáo dục giới trẻ của Gioan Bosco đều được đặt dưới sự hướng dẫn và bảo trợ của Mẹ Maria. Nhưng để có thể đến với Mẹ Maria, Gioan Bosco đã tiếp nhận lời dạy bảo và gương sáng của chính người mẹ ruột của mình. Có lẽ ngài không bao giờ quên lời căn dặn của mẹ ngài: "Mẹ đã sinh ra trong cảnh nghèo, mẹ đã sống trong cảnh nghèo; nếu con muốn làm linh mục để nên giàu có, thì mẹ sẽ không bao giờ đến thăm con nữa".
Mẹ Maria có lẽ đã không bao giờ nói một lời như thế với Chúa Giêsu, khi Ngài đã sống bên cạnh Mẹ Maria tại Nazareth trong suốt 30 năm. Tin Mừng đã không ghi lại một lời nào của Mẹ trong giai đoạn này, nhưng chắc chắn, cũng như mọi đứa trẻ, Chúa Giêsu đã sống và lớn lên một cách bình thường, nghĩa là Ngài đã từng uống từng lời dạy dỗ của Mẹ. Sống kiếp người chỉ có 33 năm, thì 30 năm, Chúa Giêsu lại dành cho cuộc sống ẩn dật âm thầm tại Nazareth. Ðây chắc chắn không phải là một giai đoạn uổng phí trong cuộc đời Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã không lập gia đình, nhưng đã sống phần lớn cuộc sống của Ngài trong gia đình, một cuộc sống âm thầm và bình thường, đến độ những người đồng hương của Ngài phải thốt lên với giọng gần như khinh bỉ: "Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria sao?"
Phản ứng của những người đồng hương về những năm âm thầm của Chúa Giêsu tại Nazareth là một xác quyết rằng Chúa Giêsu đề cao đời sống gia đình. Ngài đã không sống như một siêu nhân, Ngài đã không làm bất cứ một việc phi thường nào, nhưng đã sống một cách bình dị trong cảnh nghèo như mọi người. Chính vì Con Thiên Chúa đã sống một cách bình dị những thực tại hàng ngày của cuộc sống gia đình, mà đời sống ấy mang một giá trị và có ý nghĩa đối với con người. Tất cả những biến cố trong cuộc sống của Con Thiên Chúa làm người đều đáng được chúng ta chiêm ngưỡng, và trong ánh sáng của những biến cố ấy, chúng ta được mời gọi để nhìn vào cuộc sống hàng ngày của chúng ta.
Nguyện xin Chúa thánh hóa cuộc sống mỗi ngày của chúng ta, để chúng ta sống một cách sung mãn từng giây phút và trở thành nhân chứng tình yêu Chúa trước mặt mọi người.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Quen quá hóa lờn
Đức Giêsu ra khỏi đó và đến nơi quê quán của Người, có các môn đệ đi theo. Đến ngày sa bát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Họ nói: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?” (Mc. 6, 1-2)
Hẳn một ngày nào đó bạn đã có một kinh nghiệm này về chụp ảnh: để lấy hình một đài kỷ niệm hoặc một tòa nhà, bạn phải lùi lại xa. Đứng gần quá bạn chỉ trông thấy được một khối khổng lồ, nặng nề như muốn đè bẹp ta. Khi lấy ảnh quá gần, ta chỉ thấy được những tiểu tiết, không có được cái nhìn khái quát.
Những tương quan xã hội, gia đình, bằng hữu của ta cũng chịu chung số phận như vậy. Gần nhau quá nhiều dễ làm ta mất ý thức về người khác, nên dễ lờn, dễ coi thường… có khi lại chỉ nhìn thấy một vài khuyết điểm nhỏ nhoi của họ, mà không nhận ra bao điểm tốt khác.
Những người làng Nadarét đã có một cái nhìn quá gần, quá thiển cận về Chúa Giêsu. Đúng là “Gần chùa gọi Bụt bằng anh!”.
Từ mệt mỏi đến chán nản
Làm sao giải thích hiện tượng này?
Chủ yếu là bởi tại ta chỉ là những con người phàm trần, những người lớn. Phải, ta mau chán, mau quen lờn khiến cho cái mới dễ trở nên cũ, không còn hấp dẫn, như ta vẫn thường nói “có mới nới cũ” là vậy đó. Thực ra chỉ có các trẻ em – và những ai giống như chúng – mới có thể giữ cho cái nhìn ngỡ ngàng và cảm phục của mình luôn mới mẻ. Tuổi trẻ thường ngưỡng mộ các anh hùng, hoặc tuổi trẻ tài cao, như ta vẫn nói. Thế rồi, sau một thời gian, ta lại vội vã thu mình vào khung cảnh thường nhật và nếp sống đã quen, hầu che dấu đi những nỗi chán nản thất vọng của ta. Ta không còn ngưỡng mộ ai khác, ngay cả chính bản thân mình nữa.
Từ lòng tin đến nhận biết
Thế nên câu Phúc âm sau đây tuy vắn vỏi nhưng thật có tầm quan trọng: “Người lấy làm lạ vì họ không tin!”…
Đức tin không những là cần thiết để đón nhận lời Chúa Giêsu quả quyết Người là Con Thiên Chúa và là Con Người. Đức tin là cần thiết cốt để hiểu biết rõ Đức Kitô, cũng như để nhận biết mọi con người vậy.
Ta chỉ biết rõ một người, nếu như ta có lòng tin vào họ. Con người dù là nam hay nữ đều là một huyền nhiệm. Phải tin vào huyền nhiệm đó, nghĩa là tin vào cái thực thể phong phú, không bao giờ nắm bắt hết được, tin vào cái chiều sâu khôn lường của một nhân vị. Đó chính là nền tảng của mọi nhận thức vậy.
Nhận biết một người là tin trưóc rằng người ấy là một con người.
Tiếp đó, chúng ta mới sẽ có thể tin bằng tất cả sự thật rằng nơi con người này là Đức Giêsu Kitô còn có một huyền nhiệm khác nữa – huyền nhiệm là Con Thiên Chúa.
Suy Niệm 3: SỐ PHẬN TIÊN TRI VÀ QUÊ HƯƠNG (Mc , 6, 1 – 6)
Trong cuộc sống đời thường, người ta vẫn hay nói: “Gần chùa gọi bụt bằng anh”; hay: “Bụt chùa nhà không thiêng, thiêng Bụt chùa người”.
Hôm nay, Đức Giêsu bị chính đồng hương của mình khinh miệt. Chuyện kể rằng: sau một khoảng thời gian, Đức Giêsu công khai thi hành sứ vụ, hôm nay, Ngài trở về nơi chôn nhau cắt rốn để rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Mặc dù lời dạy của Ngài thật khôn ngoan và uy quyền, thế nhưng với những người đồng hương, họ sẵn có tính kỳ thị, và chính từ đó, lòng họ trở nên chai lỳ. Họ nói với nhau: "Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là sao ? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì? Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria sao?".
Lối phản ứng trên đây cho thấy một sự lạnh nhạt, và không chấp nhận những giáo huấn của Đức Giêsu, mặc dù vẫn biết đấy là lời khôn ngoan!
Lối nói: "Con bà Maria" là lối nói kiểu khinh thường. Mẹ Maria cũng là người bình thường như ai, vậy thì một người vô danh tiểu tốt như thế không thể sinh ra một người con phi thường được, nên họ có đủ lý do để khước từ Đức Giêsu!
Trong cuộc sống của chúng ta, chắc cũng không thiếu những lối suy nghĩ như vậy! Một khi đã có sẵn trong lòng sự kỳ thị nào đó, thì nơi người ấy không có chút gì là tốt và chúng ta cũng không ngừng tìm mọi cách để làm cho họ không còn uy tín để làm việc...
Tại sao lại có những lối suy nghĩ xa lạ với Tin Mừng như thế? Thưa! Đơn giản là vì sự ích kỷ, đố kỵ, hẹp hòi và kiêu ngạo luôn luôn ngự trị trong lối nhìn và cách nghĩ của chúng ta, khiến ta không thể vượt ra xa và nhìn rộng để thấy tổng quát.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta không ngừng phấn đấu để vượt thắng những tham sân si đó, sống quảng đại và sẵn sàng đón nhận những giá trị tốt nơi người anh chị em chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con có cái nhìn của Chúa, để chúng con biết yêu thương không giới hạn và sẵn sàng đón nhận anh chị em mình như Chúa đã quảng đại đón nhận chúng con là con Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Quê quán của Người
Suy niệm :
Chẳng rõ Đức Giêsu đã xa gia đình, xa ngôi làng Nadarét bao lâu rồi.
Nhưng hôm nay, Ngài lại trở về với hội đường của làng vào ngày sabát.
Dù sao Ngài đã có danh tiếng trước đám đông, lại có môn đệ đi theo…
Trở về với hội đường thân quen, Ngài được mời đọc sách thánh và giảng dạy.
Nghe lời Ngài giảng, nhiều người sửng sốt ngỡ ngàng.
“Bởi đâu ông này được như thế?
Ông được khôn ngoan như vậy nghĩa là làm sao?
Ông làm được những phép lạ như thế nghĩa là gì?” (c. 2).
Những câu hỏi cho thấy người dân Nadarét nhìn nhận
sự khôn ngoan trong lời giảng và quyền năng trong việc làm
mà họ bắt gặp nơi con người ông Giêsu, người cùng làng với họ.
Chỉ có điều là họ nghĩ không ra nguồn gốc của những chuyện đó.
Tại sao họ lại không coi Đức Giêsu là người của Thiên Chúa,
và coi Thiên Chúa là nguồn gốc mọi khả năng lạ lùng của Ngài?
Câu trả lời là vì người dân làng đã quá quen với ông Giêsu.
Họ tự hào biết rất rõ về nghề nghiệp của ông: một bác thợ.
Họ tự hào biết rất rõ về họ hàng ruột thịt: mẹ và anh chị em của ông,
những người họ có thể kể tên, những người đang là bà con lối xóm với họ.
Họ cũng biết rõ quãng đời thơ ấu và trưởng thành của ông Giêsu.
Chính cái biết này đã ngăn cản
khiến họ không thể tin ông Giêsu là một ngôn sứ.
Hay đúng hơn chính vì họ có một hình ảnh rất cao cả về một ngôn sứ
nên quá khứ bình thường của Đức Giêsu khiến họ không thể tin được.
Người dân Nadarét đã không ngờ mình có người làng cao trọng đến thế:
một ngôn sứ, một Đấng Kitô, một Thiên Chúa làm người, ở với họ.
Và họ cũng không ngờ sự cao trọng đó lại được gói trong lớp áo tầm thường,
không ngờ Đức Giêsu sẽ là người làm cho cả thế giới biết đến Nadarét.
Làm thế nào chúng ta tránh được sai lầm của người Nadarét xưa?
Cần tập nhận ra Chúa đến với mình trong cái bình thường của cuộc sống.
Cần thấy Chúa nơi những người tầm thường mà ta quen gặp mỗi ngày.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nadarét đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người.
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối,
trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài
bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
30/01 Tin nơi Chúa Giêsu
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Tin nơi Chúa Giêsu.
Thứ Ba tuần 4 thường niên.
"Hỡi em bé, Ta bảo em hãy chỗi dậy".
Lời Chúa: Mc 5, 21-43
Khi ấy, Chúa Giêsu đã xuống thuyền trở về bờ bên kia, có đám đông dân chúng tụ họp quanh Người, và lúc đó Người đang ở bờ biển. Bỗng có một ông trưởng hội đường tên là Giairô đến. Trông thấy Người, ông sụp lạy và van xin rằng: "Con gái tôi đang hấp hối, xin Ngài đến đặt tay trên nó để nó được khỏi và được sống". Chúa Giêsu ra đi với ông ấy, và đám đông dân chúng cũng đi theo chen lấn Người tứ phía.
Vậy có một người đàn bà bị bệnh xuất huyết đã mười hai năm. Bà đã chịu cực khổ, tìm thầy chạy thuốc, tiêu hết tiền của mà không thuyên giảm, trái lại bệnh càng tệ hơn. Khi bà nghe nói về Chúa Giêsu, bà đi lẫn trong đám đông đến phía sau Người, chạm đến áo Người, vì bà tự nhủ: "Miễn sao tôi chạm tới áo Người thì tôi sẽ được lành". Lập tức, huyết cầm lại và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. Ngay lúc ấy, Chúa Giêsu nhận biết có sức mạnh đã xuất phát tự mình, Người liền quay lại đám đông mà hỏi: "Ai đã chạm đến áo Ta?" Các môn đệ thưa Người rằng: "Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy tứ phía, vậy mà Thầy còn hỏi "Ai chạm đến Ta?" Nhưng Người cứ nhìn quanh để tìm xem kẻ đã làm điều đó. Bấy giờ người đàn bà run sợ, vì biết rõ sự thể đã xảy ra nơi mình, liền đến sụp lạy Người và thú nhận với Người tất cả sự thật. Người bảo bà: "Hỡi con, đức tin con đã chữa con, hãy về bình an và được khỏi bệnh". Người còn đang nói, thì người nhà đến nói với ông trưởng hội đường rằng: "Con gái ông chết rồi, còn phiền Thầy làm chi nữa?" Nhưng Chúa Giêsu đã thoáng nghe lời họ vừa nói, nên Người bảo ông trưởng hội đường rằng: "Ông đừng sợ, hãy cứ tin". Và Người không cho ai đi theo, trừ Phêrô, Giacôbê và Gioan, em Giacôbê. Các ngài đến nhà ông trưởng hội đường. Và Chúa Giêsu thấy người ta khóc lóc kêu la ồn ào, Người bước vào và bảo họ: "Sao ồn ào và khóc lóc thế? Con bé không chết đâu, nó đang ngủ đó". Họ liền chế diễu Người. Nhưng Người đuổi họ ra ngoài hết, chỉ đem theo cha mẹ đứa bé và những môn đệ đã theo Người vào chỗ đứa bé nằm. Và Người cầm tay đứa nhỏ nói rằng: "Talitha, Koumi!", nghĩa là: "Hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy chỗi dậy!" Tức thì em bé đứng dậy và đi được ngay, vì em đã được mười hai tuổi. Họ sửng sốt kinh ngạc. Nhưng Người cấm ngặt họ đừng cho ai biết việc ấy, và bảo họ cho em bé ăn.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Nhận ra phép lạ mỗi ngày
Ngày 17/9/1961, máy bay chở ông Ðavít Hamacon, Tổng thư ký Liên hiệp quốc, đã ngộ nạn trên không phận nước Congo, Phi Châu. Ông Hamacon không chỉ là người hoạt động cho hòa bình và là một nhà chính trị lỗi lạc, ông còn là một nhà tu đức có chiều sâu. Sau khi ông qua đời, tại căn phòng của ông ở Nữu Ước, người ta đã tìm được tập tài liệu đánh máy, ghi lại những suy tư và cầu nguyện hằng ngày của ông. Trong tập tài liệu này người ta đọc thấy những dòng như sau: "Thiên Chúa sẽ không chết, ngày mà chúng ta không còn tin ở thần linh nào nữa. Nhưng chính chúng ta sẽ chết, ngày nào cuộc sống của chúng ta không còn thấm nhập bởi ánh sáng của phép lạ không ngừng xảy ra, phép lạ mà lý trí chúng ta không biết từ đâu tới".
Cái chết mà ông Ðavít Hamacon nói trên đây chính là cái chết của tinh thần con người. Khi tinh thần con người không còn vượt qua khỏi chính mình để đi vào chiêm niệm, nghĩa là đi vào thế giới ở bên ngoài khả năng nắm bắt của lý trí, thì đó là lúc nó trở nên cằn cỗi và chết dần chết mòn.
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta đi vào thế giới ấy, thế giới của những câu hỏi "tại sao", mà lý trí con người không thể lý giải được. Phép lạ một người đàn bà bị băng huyết được chữa lành nhờ chỉ chạm đến áo của Chúa Giêsu, và phép lạ một em bé gái chết được Chúa Giêsu cho sống lại; cả hai phép lạ đều phát xuất từ lòng tin của con người. Ông trưởng hội đường đã biểu lộ lòng tin bằng cách lặn lội tìm đến với Chúa Giêsu xin Ngài tới đặt tay trên con gái của ông; người đàn bà băng huyết tin một cách mãnh liệt nơi sức mạnh phát xuất từ con người Chúa Giêsu. Nơi ông trưởng hội đường, lòng tin được tuyên xưng tỏ tường; nơi người đàn bà băng huyết, niềm tin rụt rè kín đáo. Nhưng dù tỏ tường hay kín đáo, chính lòng tin đã giúp cho phép lạ xảy ra, như Chúa Giêsu đã nói với người đàn bà: "Lòng tin của con đã cứu chữa con".
Niềm tin làm cho con người được sống, điều này vẫn thường xảy ra trong đời sống con người. Tất cả những thành công trong cuộc sống đều nhờ ở niềm tin, nhưng niềm tin tôn giáo thì quan trọng hơn, bởi vì chính sự sống tinh thần và tâm linh mới là điều cần thiết cho con người đạt được thành công. Có tất cả, nhưng thiếu đời sống tâm linh, con người vẫn như sống dở. Sống sung mãn, sống dồi dào, chính là sống nội tâm. Chỉ có một đời sống nội tâm sung mãn mới giúp con người thấy được, cảm nhận được những gì mà giác quan và lý trí không thể đạt được.
Cuộc sống vốn là một phép lạ, từng hơi thở con người là một phép lạ, mỗi ngày là một phép lạ, mỗi phút giây là một phép lạ. Chỉ có đôi mắt nội tâm mới cho con người cảm nhận được phép lạ triền miên ấy. Sống đích thực, sống dồi dào, là biết chiêm ngưỡng để đón nhận phép lạ từng ngày ấy.
Nguyện xin Chúa ban cho cuộc sống chúng ta luôn được thấm nhập bởi ánh sáng của phép lạ triền miên ấy.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Một y dược mới lạ
Đức Giêsu xuống thuyền, lại trở sang bờ bên kia. Một đám rất đông tụ lại quanh Người. Lúc đó, Người đang ở trên bờ Biển Hồ. Có một ông trưởng hội đường tên là Gia-ia đi tới. Vừa thấy Đức Giêsu, ông sụp xuống dưới chân Người, và khẩn khoản nài xin: “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống.” (Mc. 5, 21-23)
Tương truyền thánh Maccô là một y sĩ. Phúc âm của ngài đầy rẫy những chi tiết về thuốc men cùng những ngón nghề trị bệnh. Nhưng hình như ngài đã tự ý bỏ nghề làm thuốc sau khi đã so sánh những thành công về y khoa của mình với những thành công của Tin Mừng nơi Đức Giêsu Kitô. Thế nên, trong bài tường thuật này, Maccô muốn minh chứng sự đụng chạm đến Chúa Giêsu, dù là kín đáo, cũng tạo được một khả năng hữu hiệu là phục hồi sức khỏe hay phục sinh.
Đụng chạm đến Chúa Giêsu
Chúa Giêsu thực hiện một số phép lạ “từ xa” hoặc bằng lời nói của Người. Trong trường hợp này, Maccô nhấn mạnh đến chi tiết này là phép lạ đã xảy ra nhờ tiếp xúc với Chúa: “Ai đã sờ vào tôi?”, “Người cầm lấy tay đứa bé”.
Chúng ta biết Chúa Giêsu có thể chữa bệnh từ xa, nhưng cũng phải biết rằng Người có thể tác động cách gần gũi, cảm thấy được. Các Bí tích là gì, nếu không phải là những cử chỉ và hành động của Đức Kitô – như trong Bí tích Thánh Thể – của chính Đức Kitô.
Nhưng chúng ta có giống như đám đông chen lấn Chúa, đụng chạm đến Người, mà chẳng sinh được hiệu quả gì chăng? Hay sẽ như người đàn bà nọ bị bệnh băng huyết tiến đến gần Người với lòng tin nên được khỏi bệnh chăng? Chúng ta đến lãnh nhận các Bí tích với tinh thần nào?
Dù là kín đáo không ai hay biết
Có nhiều phép lạ Chúa Giêsu đã thực hiện trước công chúng, mà mọi người được mắt thấy tai nghe. Trong trường hợp phép lạ ở đây, lại khác hẳn. Việc người phụ nữ bị bệnh loạn huyết được khỏi, chẳng có ai hay biết, còn số người chứng kiến việc con gái ông Giai-ia được phục sinh cũng chỉ có mấy người. Việc Chúa Giêsu hành động cách kín đáo, hoặc Người bảo người ta phải kín miệng cảnh báo chúng ta phải coi chừng những phép lạ hàng loạt, và những trường hợp lành bệnh có tính cách phô trương rùm beng. Mỗi người cần có niềm tin sâu xa tự đáy lòng mình, đó mới là điều cốt yếu.
Tiến tới một sự phục hồi toàn diện
Cuối cùng, sự tiếp xúc với chính Chúa Kitô và đụng chạm đến Người phải đưa đến một sự phục hồi toàn diện con người. Chúa Giêsu không ngừng làm cho ta đứng thẳng, trong tư thế của người đang làm việc; Người làm cho chúng ta trở thành người hữu ích, đảm đang. Và cứ như thế cho đến giai đoạn phục hồi chung cuộc, khi con người toàn diện của chúng ta, luôn tỉnh thức phục vụ, được phục sinh trong ngày Chúa ngự đến.
Suy Niệm 3: TIN SẼ ĐƯỢC KHỎI (Mc 5, 21-43)
Trong suốt hành trình rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu gặp rất nhiều người đến xin Ngài chữa bệnh hoặc người ta tự ý đụng chạm đến Ngài để được khỏi bệnh. Trong mọi trường hợp, Ngài đều khơi gợi lên nơi họ một mối tương quan trực tiếp với Ngài. Mối liên hệ đó chính là đức tin. Có đức tin sẽ được lành. Không có đức tin thì không thể khỏi.
Hôm nay Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu chữa lành một người đàn bà bị băng huyết và cho em bé 12 tuổi đã chết được sống lại.
Trường hợp người đàn bà băng huyết thì Đức Giêsu đòi hỏi bà ta phải có niềm tin trực tiếp vào Ngài. Còn với em bé được Ngài cho sống lại thì chính đức tin của cha em đã làm Đức Giêsu chạnh lòng thương và cứu sống em.
Trong cuộc sống đạo của chúng ta, nhiều khi chúng ta tin Chúa, nhưng tin nửa vời, tức là tin khi thành công, thuận lợi, nhưng khi đức tin bị thử thách, chúng ta sẵn sàng buông xuôi. Như vậy, nếu không có lợi thì tức khắc chúng ta chuyển niềm tin sang đối tượng khác! Chúa không còn là Đấng duy nhất chúng ta tin tưởng!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết cộng tác với ơn Chúa để làm cho đức tin của mình được triển nở. Bởi vì đức tin mà không việc làm thì đức tin chết. Đức tin phải được thanh uyện bằng những thử thách. Có thế, chúng ta mới có kinh nghiệm về sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời của mình, và mình mới đủ can đảm để làm chứng cho Chúa ngay trong những lúc khó khăn, thử thách nhất.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con, để chính nhờ đức tin của chúng con vào Chúa, chúng con được sự sống đời đời. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Đụng đến áo
Suy niệm :
Giữa đám đông chen lấn chung quanh Ðức Giêsu,
có những người đụng vào áo Ngài.
Nhưng chỉ có một cái đụng cố ý,
đụng lén như sợ bị bắt quả tang.
Ðó là cái đụng của một người phụ nữ,
mười hai năm mắc bệnh băng huyết,
mười hai năm tìm thầy chạy thuốc mà không khỏi,
mười hai năm bị coi là ô nhơ:
không được đụng đến người khác,
không được tham dự nghi lễ ở Ðền thờ.
Người phụ nữ đụng vào áo Ðức Giêsu
bằng tay và bằng lòng tin,
một lòng tin đơn sơ mà mạnh mẽ.
“Dầu tôi chỉ đụng vào áo Ngài, tôi sẽ được khỏi.”
Cái đụng của lòng tin đã cứu bà khỏi bệnh.
Trong đời sống Kitô hữu,
chúng ta đã nhiều lần đụng vào Chúa.
Ðụng đến Lời Ngài, đụng đến Mình Máu Thánh Ngài.
Ðụng bằng tay, bằng miệng, bằng rung động của trái tim.
Có những lần đụng chạm hời hợt vì thói quen,
không để lại một âm vang nào,
không đem lại một biến đổi nào trong cuộc sống.
Nhưng cũng có lần, như người phụ nữ,
ta run rẩy đụng vào Ngài, dù biết mình ô nhơ tội lỗi.
Hay nói đúng hơn,
vì biết mình ô nhơ tội lỗi mà ta cả dám đụng vào Ngài.
Ðụng vào Ðấng Thánh để được nên trong sạch.
Chúng ta cần đụng đến Ðức Giêsu mỗi ngày
và chúng ta cũng cần được Ngài đụng đến.
Ông trưởng hội đường xin Ngài đặt tay trên con mình.
Ngài đã cầm tay cô bé để kéo cô ra khỏi cái chết.
Như con gái của ông trưởng hội đường,
chúng ta cần được Chúa cầm tay và bảo: “Hãy trỗi dậy.”
Trỗi dậy khỏi bệnh tật và cái chết.
Trỗi dậy và đi lại, ăn uống như người bình thường.
Trỗi dậy và sống vui tươi, tự do như con cái Thiên Chúa.
Hai phép lạ xảy ra nhờ có lòng tin.
Ðức Giêsu xác nhận lòng tin vững vàng của người phụ nữ:
“Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con” (c.34).
Ngài nâng đỡ lòng tin đang chao đảo của Giarô:
“Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (c.36).
Cần có lòng tin khi đụng chạm Chúa Giêsu.
Cần nhạy cảm để nhận ra cái đụng nhẹ của Ngài.
Khi đụng vào Thân Mình Ngài nơi bí tích Thánh Thể,
ta được mời gọi đụng đến nỗi khổ của anh em,
là những chi thể của Nhiệm Thể Ngài.
Khi đụng đến Lời Chúa nơi những trang Tin Mừng,
ta được mời gọi chạm đến Lời Chúa nơi mọi biến cố.
Chỉ cần để Chúa đụng đến bạn một lần thôi,
đời bạn sẽ hoàn toàn đổi mới.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nazareth đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người,
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối,
trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài
bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
29/01 Người bị quỷ ám và đàn heo
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Người bị quỷ ám và đàn heo.
Thứ Hai tuần 4 thường niên.
"Hỡi thần ô uế, hãy ra khỏi người này".
LỜI CHÚA: Mc 5, 1-20
Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ sang bờ biển bên kia, đến địa hạt Giêrasa. Chúa Giêsu vừa ở thuyền lên, thì một người bị quỷ ô uế ám từ các mồ mả ra gặp Người. Người đó vẫn ở trong các mồ mả mà không ai có thể trói nổi, dù dùng cả đến dây xích, vì nhiều lần người ta đã trói anh ta, gông cùm xiềng xích lại, nhưng anh ta đã bẻ gãy xiềng xích, phá gông cùm, và không ai có thể trị nổi anh ta. Suốt ngày đêm anh ta ở trong mồ mả và trong núi, kêu la và lấy đá rạch mình mẩy. Thấy Chúa Giêsu ở đàng xa, anh ta chạy đến sụp lạy Người và kêu lớn tiếng rằng: "Hỡi ông Giêsu, Con Thiên Chúa Tối Cao, ông với tôi có liên hệ gì đâu? Vì danh Thiên Chúa, tôi van ông, xin chớ hành hạ tôi". Nhưng Chúa Giêsu bảo nó rằng: "Hỡi thần ô uế, hãy ra khỏi người này". Và Người hỏi nó: "Tên ngươi là gì?" Nó thưa: "Tên tôi là cơ binh, vì chúng tôi đông lắm". Và nó nài xin Người đừng trục xuất nó ra khỏi miền ấy.
Gần đó, có một đàn heo đông đảo đang ăn trên núi, những thần ô uế liền xin Chúa Giêsu rằng: "Hãy cho chúng tôi đến nhập vào đàn heo". Và Chúa Giêsu liền cho phép. Các thần ô uế liền xuất ra và nhập vào đàn heo, rồi cả đàn chừng hai ngàn con lao mình xuống biển và chết đuối. Những kẻ chăn heo chạy trốn và loan tin đó trong thành phố và các trại. Người ta liền đến xem việc gì vừa xảy ra. Họ tới bên Chúa Giêsu, nhìn thấy kẻ trước kia bị quỷ ám ngồi đó, mặc quần áo và trí khôn tỉnh táo, và họ kinh hoảng. Những người đã được chứng kiến thuật lại cho họ nghe mọi sự đã xảy ra như thế nào đối với người bị quỷ ám và đàn heo. Họ liền xin Chúa Giêsu rời khỏi ranh giới họ. Khi Người xuống thuyền, kẻ trước kia bị quỷ ám xin theo Người. Nhưng người không cho mà rằng: "Con hãy về nhà với thân quyến, và loan truyền cho họ biết những gì Thiên Chúa đã làm cho con và đã thương con". Người đó liền đi và bắt đầu tuyên xưng trong miền thập tỉnh, tất cả những gì Chúa Giêsu đã làm cho anh ta, và mọi người đều thán phục.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Số phận của Chúa Giêsu
Người Do thái thời Chúa Giêsu có một cái nhìn rất miệt thị đối với dân ngoại, họ xem dân ngoại là những kẻ sống dưới ách nô lệ của ma quỷ, do đó cũng cư trú trong những vùng nhơ bẩn chẳng kém gì bãi tha ma. Nhưng đối với Chúa Giêsu, ranh giới giữa Do thái và dân ngoại không còn nữa. Ngài không chỉ đến với dân Do thái, mà cả với dân ngoại nữa. Chính cho dân ngoại mà Chúa Giêsu cũng mang ơn cứu độ đến, và ơn cứu độ ấy được thánh Marcô mô tả bằng những hình ảnh rất sống động: Chúa Giêsu trục xuất cả một đạo binh ma quỷ ra khỏi người bị quỷ ám, nguyên một bầy heo lao mình xuống biển. Tin Mừng được loan báo cho dân ngoại qua miệng người vừa được chữa lành.
Thế nhưng, sự thành công của Chúa Giêsu dưới cái nhìn của Marcô thật là yếu ớt. Dường như tất cả những người mà Ngài tìm đến đều có thái độ dè dặt đối với Ngài. Chỉ có ma quỷ là kẻ duy nhất biết rõ Ngài là ai nhưng chẳng bao giờ có thể hoán cải được nữa. Các luật sĩ và biệt phái thì càng lúc càng tỏ ra chai lỳ, bà con thân thuộc thì chỉ nhìn về Ngài với những tính toán vụ lợi, đám đông dân chúng thì không nhận ra được ý nghĩa đích thực của sứ mệnh thiên sai của Ngài, còn dân ngoại thì nài nỉ Ngài quay trở lại quê hương Ngài để họ khỏi phải mang họa vào thân, và khi Chúa Giêsu chiến thắng được ma quỷ, thì đó cũng là lúc loài người tẩy chay Ngài. Trong một tình thế bi đát như vậy, cái chết trên Thập giá là chuyện tất yếu đối với Chúa Giêsu. Trong cái nhìn của Marcô, mỗi cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu với người đương thời của Ngài là một tiên báo về cuộc tử nạn của Ngài, Ngài là một con người triền miên bị khước từ.
Suy nghĩ về số phận của Chúa Giêsu, chúng ta cũng được mời gọi nhìn lại thân phận của người Kitô hữu chúng ta trong trần thế. Là môn đệ Chúa Giêsu, là chấp nhận lội ngược dòng. Không thể đi theo Chúa Giêsu mà lại sống theo triết lý: người ta sao, tôi vậy. Làm chứng cho Ðấng đã từng bị khước từ, người Kitô hữu bị khước từ đã đành, mà ngay cả khi phục vụ một cách vô vụ lợi, họ cũng không hẳn được người đời thương mến. Nói như thánh Phaolô: bổ khuyết những gì còn thiếu trong cuộc Tử nạn của Chúa Giêsu, đó là số phận của người Kitô hữu trong trần thế này.
Nguyện xin Chúa ban thêm can đảm và sức mạnh, để chúng ta kiên trì trong mọi khổ đau vì Danh Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Chúa Giêsu chế ngự ma quỷ
Đức Giêsu và các môn đệ sang tới bờ bên kia Biển Hồ, vùng đất của dân Ghê-ra-sa. Người vừa ra khỏi thuyền, thì từ đám mồ mả, có một kẻ bị thần ô uế ám liền ra đón Người. Anh này thường sống trong đám mồ mả và không ai có thể trói anh ta lại được, dầu phải dùng đến cả xiềng xích. (Mc. 5, 1-3)
Trình thuật về phép lạ Chúa chữa người bị quỷ ám và đàn heo biến mất đặt ra những vấn đề khó xử và có nhiều điều khác thường tưởng chừng như mê tín dị đoan.
Hình như đây là những sự kiện biệt lập được ghép lại với nhau. Chúa Giêsu lúc đó đang ở vùng Ghêrasa nằm ở phía đông Biển Hồ Ghen-nê-xa-rét là vùng đất dân ngoại, nơi nuôi heo là thú vật ô uế đối với người Do thái. Khi Chúa chữa cho một người bị quỷ ám ở đây thì có một sự cố xảy ra trong một trại nuôi heo lớn. Có lẽ là hai sự kiện này xảy ra vào cùng kỳ, nên được tác giả lợi dụng ghép lại với nhau để sự kiện này giải thích cho sự kiện kia và rút ra một bài học luân lý. Đó cũng là một lối kết cấu câu chuyện có tính cách bình dân vậy.
Nhưng sự ghép nối này trở nên có ý nghĩa. Thánh sử Maccô dùng nó để minh họa cho điều ngài muốn chứng minh: Chúa Giêsu tỏ bày quyền năng của Người đối với thần ô uế ở vùng đất thuộc dân ngoại. Sức mạnh của Người là sức mạnh vô địch. Chẳng những Người trừ thần ô uế, mà còn tiêu diệt chúng để giải thoát con người khỏi tình trạng tha hóa thiêng liêng và tâm tình sợ hãi.
Một quyền năng vô địch
Để chứng tỏ Chúa Giêsu có một sức mạnh vô song, trước tiên Maccô nhấn mạnh đến tính cách trầm trọng của cơn bệnh mà người bị quỷ ám đã phải chịu. Rõ ràng là bệnh tật, sự ác càng trầm trọng thì người chữa trị càng phải cao tay. Nếu “bị gông cùm và bị xiềng xích”, nhưng người bị quỷ ám ấy “đã bẻ gẫy xiềng xích và đập tan gông cùm”, thì phải nói gì về quyền lực của Đấng đã bắt qủy phải xưng tên mình ra – điều đó theo ý kiến các vị trừ tà thời ấy - là dấu chứng tỏ một sự chế ngự hoàn toàn.
Một xứ sở được thanh tẩy
Còn về chuyện bầy heo cả chừng hai ngàn con nhảy xô xuống biển và chết ngộp dưới đó, thì đó là dấu chỉ rằng một người được ơn giải thoát có ảnh hưởng tới người xung quanh. Vì đối với người Do thái, heo là con vật biểu tượng của sự ô uế. Sự chết chìm bi thảm của cả bầy heo cũng ngụ ý sự chấm dứt quyền lực của sự ác vốn ngự trị trên miền đất này và càng làm sáng tỏ ảnh hưởng phấn khởi của ơn giải thoát do Chúa Kitô mang lại vậy.
SUY NIỆM 3: Chúa tỏ bày quyền năng, và …
Sau phép lạ dẹp yên sóng gió, hôm nay trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu lại tỏ bày quyền năng của Ngài ở vùng đất dân ngoại.
Sức mạnh của sự dữ thật lớn, nhưng Ðức Giêsu không gặp khó khăn nào khi xua trừ ma quỉ. Vậy mà Ngài phải khựng lại trước thái độ của con người.
Trình thuật kết thúc bằng sự thất bại bi thảm: Ðức Giêsu bị người ta trục xuất khéo léo. Thiên Chúa luôn mở rộng con đường hạnh phúc, nhưng Satan thì cản lối và con người lại nhát đảm dấn thân. Họ khước từ bởi họ quyến luyến với trần thế hơn.
Suy Niệm 4: SỨ VỤ CỦA ĐẤNG THIÊN SAI (Mc 5,1- 20)
Có những cái nhìn và lối suy nghĩ đã đi vào truyền kiếp. Nếu cái nhìn tích cực thì lối suy nghĩ cũng tích cực, nếu không thì ngược lại!
Người Do thái thời Đức Giêsu cũng vậy! Họ đã nhìn ai với cái nhìn khinh bỉ thì muôn đời, con người đó không có điểm nào tốt được!
Thật vậy, vào thời Đức Giêsu, dưới con mắt của người Do thái, dân ngoại là dân đáng bị miệt thị, là dân luôn sống trong tội lỗi và dưới ách thống trị của Ma Quỷ.
Tuy nhiên, khi Đức Giêsu đến, Ngài không còn phân biệt lằn ranh giữa Do thái hay dân ngoại, nhưng sứ vụ của Ngài là đem ơn cứu độ đến với muôn dân.
Tin Mừng hôm nay trình thuật việc Đức Giêsu đến vùng Ghêrasa và làm phép lạ xua đuổi Ma Quỷ ra khỏi người bị quỷ ám.
Qua phép lạ này, dưới con mắt người đời, thì đây là một sự thành công, vì người bị Quỷ ám có một sức mạnh phi thường, không ai đụng tới hắn được, bởi lẽ anh ta bị cả một cơ binh Quỷ nhập vào. Một cơ binh chính là tên gọi của một đạo quân Lamã thời ấy và có khoảng 6.826 người lính. Như vậy, số Quỷ nhập vào người này cũng đông vô số kể như vậy. Khi Ma Quỷ nhập vào người thanh niên này, anh ta mạnh khỏe phi thường.
Phép lạ này cho thấy, Đức Giêsu có quyền năng trên Ma Quỷ, Ngài đến để giải thoát con người khỏi bị ràng buộc bởi sự dữ. Đem lại cho họ cuộc sống tự do.
Nhưng cái giá mà Ngài phải chịu, chính là sự loại trừ của những Luật Sĩ và Pharisêu.
Suy nghĩ về sứ vụ và thân phận ngôn sứ của Đức Giêsu, một lần nữa chúng ta ý thức hơn về sứ mạng và số phận của mỗi người chúng ta trên hành trình sống đạo và loan báo Tin Mừng. Số phận của Thầy cũng là của trò. Muốn trở nên môn đệ đích thực của Thầy Giêsu, hẳn chúng ta phải lội ngược dòng. Đi ngược quy luật tự nhiên để hiểu được giá trị của những nghịch cảnh khi chúng ta bị người đời phản đối, khước từ, cho dù những việc làm của chúng ta là những hy sinh vô vị lợi!
Lạy Chúa Giêsu, cuộc đời của Chúa đã không ngừng thi ân giáng phúc, nhưng Chúa đã không được người đời coi trọng, mà luôn bị khinh khi! Xin Chúa cho chúng con hiểu được sự thật này để chỉ tìm vinh danh Chúa và mong sao cho Nước Chúa được hiển trị muôn nơi, còn chuyện khen chê, xin cho chúng con không coi trọng nó mà ảnh hưởng đến sứ vụ được trao. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 5: Tên tôi là đạo binh
Trừ quỷ là việc Đức Giêsu vẫn hay làm.
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện Ngài trừ quỷ ở vùng đất dân Ngoại.
Tài kể chuyện của Máccô được thể hiện rõ nét qua bài Tin Mừng này.
Hiếm khi có câu chuyện sống động và ly kỳ đến thế!
Đức Giêsu và các môn đệ vượt biển để đến vùng đất Ghêrasa.
Vừa ra khỏi thuyền thì gặp ngay người bị ám bởi thần ô uế.
Anh sống ở nơi mồ mả, nơi thường được coi là chỗ ở của quỷ ma.
Anh mạnh ghê gớm đến nỗi không xiềng xích nào có thể kiềm chế được.
Sống cô độc, đe dọa người khác, tự hành hạ và làm hại chính bản thân,
đó là thân phận bi đát mà anh không sao thoát khỏi (cc. 3-5).
Rõ ràng anh hoàn toàn bị quỷ dữ chiếm đoạt, chẳng còn chút tự do.
Nhưng lạ thay, chính anh lại chạy đến với Đức Giêsu để gặp Ngài.
Quỷ dữ nơi anh biết rõ Đức Giêsu là ai, là Con Thiên Chúa Tối Cao.
Nhưng cái biết đó lại khiến nó phải run sợ xin Ngài đừng hành hạ (c. 7).
Quỷ dữ biết danh tánh của Đức Giêsu, nhưng không chế ngự được Ngài.
Bây giờ Ngài bắt nó phải khai danh tánh của nó, trước khi Ngài hành động.
Hóa ra đây không phải là một quỷ, mà là một lũ quỷ đông đảo (c. 9).
Đạo binh quỷ này khẩn khoản xin Đức Giêsu một ơn,
đó là chỉ đuổi chúng ra khỏi người này, chứ đừng đuổi ra khỏi vùng này,
vì chúng hy vọng sẽ tìm được một con mồi khác (c. 10).
Đạo binh thần ô uế xin được nhập vào đàn heo vốn bị coi là ô uế.
Sự đồng ý của Đức Giêsu khiến toàn bộ những gì ô uế bị hủy diệt.
Ngài đã thanh tẩy chẳng những anh bị quỷ ám, mà cả vùng anh ở nữa.
Khi người bị quỷ ám được tự do, anh ấy trở nên khác xưa.
Anh ngồi đó, ăn mặc hẳn hoi, trí khôn tỉnh táo (c. 15).
Người dân trong vùng khiếp sợ nên xin Đức Giêsu đi khỏi đất của họ.
Chỉ có anh vừa được trừ quỷ là xin ở với Ngài như môn đệ (c. 18).
Nhưng ơn gọi làm môn đệ phải đến từ Thầy Giêsu.
Ngài khuyên anh nên về nhà, ở lại vùng đất của mình,
để loan báo mọi điều Chúa đã làm cho anh và thương xót anh (c. 19).
Anh đã vâng lời và trở nên người loan báo về Đức Giêsu nơi dân Ngoại.
Đối với anh, Đức Giêsu chính là Chúa.
Thế giới chúng ta sống thì văn minh hơn, khoa học hơn, hạnh phúc hơn,
nhưng vẫn không thiếu cảnh những người sống như bị ám, như bị ma nhập.
Có những người sống trong cô độc và trở nên nguy hiểm cho tha nhân.
Có những kẻ tự giết mình từng ngày trước khi tự tử.
Tru tréo và lấy đá rạch mình không phải là chuyện hiếm (c. 5).
Ăn mặc hẳn hoi và trí khôn tỉnh táo
là niềm mơ ước của biết bao gia đình có người thân bị bệnh.
Bệnh tâm thần là căn bệnh mà ít nhiều chúng ta đều dễ mắc.
Lắm khi con người thấy bó tay, không tự mình giải thoát mình được.
Xin Chúa Giêsu tiếp tục trừ quỷ cho chúng ta, cho vùng đất chúng ta sống.
Xin Ngài tiếp tục tẩy trừ sự ô uế đang thao túng ở lòng con người.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
ai trong chúng con cũng thích tự do,
nhưng mặt khác chúng con thấy mình dễ bị nô lệ.
Có nhiều xiềng xích do chính chúng con tạo ra.
Xin giúp chúng con được tự do thực sự :
tự do trước những đòi hỏi của thân xác,
tự do trước đam mê của trái tim,
tự do trước những thành kiến của trí tuệ.
Xin giải phóng chúng con khỏi cái tôi ích kỷ,
để dễ nhận ra những đòi hỏi tế nhị của Chúa,
để nhạy cảm trước nhu cầu bé nhỏ của anh em.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho chúng con được tự do như Chúa.
Chúa tự do trước những ràng buộc hẹp hòi,
khi Chúa đồng bàn với người tội lỗi
và chữa bệnh ngày Sabát.
Chúa tự do trước những thế lực đang ngăm đe,
khi Chúa không ngần ngại nói sự thật.
Chúa tự do trước khổ đau, nhục nhã và cái chết,
vì Chúa yêu mến Cha và nhân loại đến cùng.
Xin cho chúng con đôi cánh của tình yêu hiến dâng,
để chúng con được tự do bay cao. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
28/01 Ngài giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền
- Viết bởi Mc 1, 21-28
"Ngài giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
(Đến thành Capharnaum) ngày nghỉ lễ, Chúa Giêsu vào giảng dạy trong hội đường. Người ta kinh ngạc về giáo lý của Người, vì Người giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền, chứ không như các luật sĩ.
Đang lúc đó, trong hội đường có một người bị thần ô uế ám, nên thét lên rằng: "Hỡi ông Giêsu Nadarét, có chuyện gì giữa chúng tôi và ông? Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai, là Đấng Thánh của Thiên Chúa". Chúa Giêsu quát bảo nó rằng: "Hãy im đi và ra khỏi người này!" Thần ô uế liền dằn vặt người ấy, thét một tiếng lớn, rồi xuất khỏi người ấy. Mọi người kinh ngạc hỏi nhau rằng: "Cái gì vậy? Đấy là một giáo lý mới ư? Người dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả thần ô uế và chúng vâng lệnh Người". Danh tiếng Người liền đồn ra khắp mọi nơi, và lan tràn khắp vùng lân cận xứ Galilêa. Đó là lời Chúa.
Các bài Suy niệm Chúa nhật 4 Thường Niên năm B
Lời Chúa: Đnl 18,15-20; 1 Cr 7,32-35; Mc 1,21-28.
Mục lục
1. Hãy xuất khỏi người này - Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
2. Ma quỷ thời đại mới - ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
3. Vị Tôn Sư đích thực – Lm G.B. Trần Văn Hào SDB
4. Hiến thân phụng sự Đức Giê-su Ki-tô - Lm Đan Vinh- HHTM
5. Con Người Đến Để Phục Vụ - Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
6. Chúa quyền năng, vì Chúa là Đấng Thánh - Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
7. Tại Hội đường Caphácnaum - Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện
8. Đấng Thánh của Thiên Chúa - Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
9. “Người giảng dạy như Đấng có uy quyền” - Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam
10. Một ngày ở Ca-phác-na-um - P. Trần Đình Phan Tiến
11. Người trừ quỷ.
12. Xua đuổi ma quỷ – Arthur Tone.
13. Chúa Giêsu và dân chúng
14. Ma quỷ
15. Ma quỷ
16. Ma quỷ
17. Trong đời
18. Quyền năng
19. Quyền năng
20. Mặc chúng tôi
21. Giêsu Nagiarét
22. Quyền năng
23. Ma quỷ
24. “Thế nghĩa là gì? Người có uy quyền biết mấy?” - Noel Quesson
25. Chú giải của Noel Quesson
26. Giảng dạy như có thẩm quyền - Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
27. Chân tướng của Đức Giêsu - Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
1. Hãy xuất khỏi người này - Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Một ông thợ ở Nadarét được mời giảng trong hội đường.
Máccô không cho ta biết Ðức Giêsu đã giảng gì.
Chỉ biết nội dung của lời giảng thì mới mẻ,
và cách giảng thì khác hẳn với các kinh sư.
Kinh sư thì giải thích Kinh Thánh với thẩm quyền.
Còn Ðức Giêsu giải thích Kinh Thánh với uy quyền.
Ngài chẳng phải dựa vào sách vở, vào truyền thống có sẵn.
Một cách mới mẻ và đầy uy quyền,
Ðức Giêsu loan báo Triều đại Thiên Chúa đã đến,
triều đại của Xatan phải bị đẩy lui.
Quả vậy, sự hiện diện của Ngài trong hội đường ngày hôm ấy
đã khiến cho thần ô uế phải chường mặt ra và khiếp sợ.
Ðức Giêsu ra lệnh: “Hãy câm đi và xuất khỏi người này”.
Thần ô uế chẳng muốn từ bỏ căn nhà nó đã ở.
Nó chỉ ra sau khi đã vật vã người ấy và thét lên.
Ðức Giêsu đã chiến thắng và giải phóng ta khỏi nô lệ.
Ngài khai mở Nước Thiên Chúa trên mặt đất.
Nhưng cuộc chiến với Xatan còn kéo dài đến tận thế.
Chúng ta phải cộng tác để Nước Chúa mau thành tựu.
Quỷ thường được vẽ như một con vật xấu xí đáng sợ.
Nếu thế thì ta rất dễ nhận ra nó,
và nó cũng khó lòng cám dỗ được ta.
Trong thực tế, quỷ mang dáng dấp xinh đẹp và hấp dẫn.
Nó tấn công ta bằng những thủ đoạn tinh tế, ngọt ngào.
Nó nắm rõ điểm yếu nhất của từng cá nhân, tập thể.
Xưa nay, người bị quỷ nhập thực sự chắc không nhiều.
Nhưng hẳn nhiều người bị quỷ lèo lái mà không biết.
Kitô giáo không bịa ra quỷ để hù dọa tín đồ.
Quỷ là những mãnh lực xấu xa, cố kéo ta xa Chúa.
Chúng chống lại Thiên Chúa và hạnh phúc đích thực của con người.
Quỷ phỉnh phờ con người bằng thứ hạnh phúc giả tạo.
“Nếu ông sấp mình thờ lạy tôi, tôi sẽ cho tất cả”.
Làm gì có hạnh phúc vững bền khi ta quay lưng với Thiên Chúa!
Chúng ta tự hào mình không bị quỷ ám.
Nhưng thế giới hôm nay vẫn bị ám ảnh bởi nhiều thứ khác:
tham vọng và dục vọng, sợ hãi và oán thù, ích kỷ và hưởng thụ...
Có những điều vốn không xấu cũng trở thành ngẫu tượng:
tiền bạc, tiện nghi, thời trang, công việc làm ăn, phim ảnh...
Cái ám nào cũng làm ta bớt tự do, bớt là mình.
Cái ám từ ngoài vào, ở lại trong ta và không chịu ra.
Cái ám khi trở thành tuyệt đối thì làm ta trở nên ô uế.
Nó bắt ta phải nghĩ, phải sống như theo một lập trình.
Ta không thể làm khác, không thắng được bản năng và thói quen.
Ta thấy mình bất lực, nên cần Ðấng Thánh của Thiên Chúa.
“Hãy xuất ra khỏi người này”:
Hôm nay Chúa muốn nói với tà thần ở trong tôi như vậy.
Tôi cầu xin Ngài trục xuất khỏi tôi điều gì?
“Hãy xuất ra khỏi thế giới này”:
Nhờ ơn Chúa, tôi cũng phải ra lệnh cho ma quỷ như vậy.
Lạy Cha,
thế giới hôm nay cũng như hôm qua
vẫn có những người bơ vơ lạc hướng
vì không tìm được một người để tin;
vẫn có những người đã chết từ lâu
mà vẫn tưởng mình đang sống;
vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế,
ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn,
bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống;
vẫn có những người bị sống bên lề xã hội,
dù không phải là người phong...
Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ
và biết chạnh lòng thương như Con Cha.
Nhưng trước hết,
xin cho chúng con
nhìn thấy chính bản thân chúng con.
2. Ma quỷ thời đại mới - ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Từ ngàn xưa, ma quỷ luôn luôn là một mối bất hạnh cho con người. Ma quỷ luôn tìm cách làm hại con người không những bằng xúi giục con người làm điều tội lỗi mà còn hành hạ, khống chế, trói buộc, bắt con người làm nô lệ cho chúng. Trong cuộc chiến với ma quỷ, con người không phải là địch thủ ngang tài đồng sức, nên thường thua cuộc. Ngay trong trận chiến đầu tiên, hai ông bà nguyên tổ đã thua mưu chước ma quỷ. Từ đó, con người chẳng thể nào tự mình thoát được nanh vuốt ma quỷ giam hãm.
Đức Giêsu đến mở đầu một kỷ nguyên mới: Nước Thiên Chúa đến chiến thắng nước ma quỷ. Ngay khi Đức Giêsu xuất hiện, ma quỷ mở lại bài cũ cám dỗ Đức Giêsu đi vào con đường kiêu ngạo, phô trương, cậy sức mình, ham hố danh, lợi, thú. Nhưng ngay trong lần đầu tiên giáp chiến, ma quỷ thất bại nặng nề. Đức Giêsu đã toàn thắng vì Người cương quyết đi theo con đường vâng phục thánh ý Chúa Cha, sống khiêm tốn, đơn sơ, khiêm nhường, phó thác. Từ đó, Đức Giêsu đi đến đâu là khuất phục ma quỷ, giải thoát con người đến đấy.
Đọc trong Tin Mừng, ta thấy Đức Giêsu giải thoát con người ở các khía cạnh sau đây.
Người trực tiếp giải thoát con người khỏi bàn tay hung ác của satan. Hôm nay, Người xua đuổi thần ô uế công khai trước mặt mọi người trong hội đường. Lần khác, Người xua đuổi cả một đạo quân quỷ dữ. Chúng đã xin nhập vào đàn heo đang ăn bên bờ biển, và cả đàn heo lăn xuống biển chết hết.
Người gián tiếp giải thoát con người khỏi ách thống trị của satan qua việc chữa bệnh. Theo quan niệm của người Do Thái, bệnh tật là dấu chỉ của tội lỗi. Vì thế, người bệnh là người sống dưới ách satan. Đức Giêsu đã chữa lành rất nhiều người bệnh. Nhiều lần Người nói với người bệnh: “Tội con đã được tha”.
Người tha thiết với việc cứu con người khỏi ách nô lệ tội lỗi, nên Người thường lui tới với những người thu thuế. Người không chỉ nói lời tha thứ bên ngoài, nhưng thực sự hoán cải họ từ bên trong. Nhất là Người giải thoát họ khỏi những mặc cảm và giúp họ tái hội nhập vào đời sống cộng đoàn.
Qua những việc làm của Đức Giêsu, ta thấy Người không chỉ giải thoát con người khỏi bàn tay hung ác của ma quỷ mà còn quan tâm cứu chữa con người khỏi những thế lực đen tối của chúng.
Cuộc chiến giữa con cái Thiên Chúa và ma quỷ vẫn tiếp tục, nên Đức Giêsu khi sai các Tông đồ đi rao giảng, vẫn luôn kèm theo mệnh lệnh xua đuổi ma quỷ. Hôm nay, Người sai chúng ta tiếp bước các Tông đồ, đi chiến đấu chống lại ma quỷ. Ma quỷ không hiện hình cho ta thấy, nhưng chúng ẩn nấp trong các sự dữ, sự ác còn tồn tại trên thế giới.
Có thứ quỷ nghèo đang trói buộc con người, không cho họ sống một cuộc sống xứng đáng với nhân phẩm con người. Có thứ quỷ đói đang giết chết nhân loại dần mòn. Có thứ quỷ dốt giam cầm những người thất học trong tù ngục tối tăm. Có thứ quỷ bệnh không ngừng hành hạ và đẩy con người vào hố sâu tuyệt vọng.
Ngày nay, ma quỷ rất tinh khôn nên thường xuất hiện dưới những hình dáng bên ngoài xinh đẹp, hấp dẫn. Chúng xuất hiện dưới những đồng tiền bất chính và hứa hẹn cho ta một cuộc sống thoải mái. Chúng xuất hiện dưới chiêu bài tự do hưởng thụ để xúi giục ta lao mình vào những nơi ăn chơi độc hại. Chúng kích thích sự tò mò của thanh niên muốn thử sức với ma túy.
Với bàn tay nham hiểm, ma quỷ âm thầm len lỏi vào tận đáy tâm hồn, khơi lên những làn sóng chia rẽ, ganh ghét, thù hận, bất hòa. Chúng kích thích lòng tham lam vô đáy, đưa ta đến chỗ trộm cắp, kiện cáo và tranh giành. Chúng khơi dậy thói kiêu căng, lòng tự ái để ta ham hố vinh danh và quyền lực. Chúng vuốt ve thói ích kỷ để xui giục ta chỉ nghĩ đến bản thân mình, làm ngơ trước những nhu cầu của người khác. Chúng lừa gạt ta để ta coi thường tội lỗi, mất ý thức về tội.
Hôm nay, Chúa muốn ta tiếp tục công việc của Chúa, xua trừ ma quỷ ra khỏi đời sống chúng ta. Hãy cùng nhau xua đuổi quỷ đói, quỷ nghèo ra khỏi thế giới. Hãy góp phần tích cực diệt trừ quỷ dốt, quỷ bệnh ra khỏi xã hội con người.
Hãy tỉnh táo nhận ra ma quỷ dưới những khuôn mặt đẹp đẽ của vật chất, tiền bạc, hưởng thụ, cám dỗ.
Nhất là, hãy trục xuất khỏi tâm hồn ta những con quỷ gây chia rẽ, bất hòa, tham lam, kiêu căng, tự mãn, gian trá, giả hình, hám danh, ích kỷ, dửng dưng.
Tự sức riêng, ta khó mà chiến thắng được ma quỷ. Muốn chiến thắng ma quỷ, ta phải nhờ ơn Chúa giúp. Ta múc lấy sức mạnh nơi Chúa bằng ăn chay và cầu nguyện. Ta rèn luyện tinh thần bằng khiêm nhường từ bỏ ý riêng để hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin thương xót con, xin cứu con khỏi mọi sự dữ. Amen.
3. Vị Tôn Sư đích thực – Lm G.B. Trần Văn Hào SDB
Hầu hết chúng ta đã từng cắp sách đến trường và được các thầy cô dạy bảo. Chúng ta đã được thụ giáo dưới sự chỉ dẫn của các bậc làm thầy, bởi lẽ ‘Nhất tự vi sư, bán tự vi sư’, một chữ hay dù nửa chữ, các ngài cũng là thầy giáo dạy bảo chúng ta. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã từng nói với các học trò : “Đừng gọi ai dưới đất là thầy, vì anh em chỉ có một ‘Rabbi’, một thầy duy nhất (Mt 23,8)”. Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Marcô cũng trình thuật lại việc Chúa Giêsu vào hội đường ở Capharnaum và giảng dạy như một Đấng có uy quyền (Mc 1,22). Cách Đức Giêsu dạy dỗ khác xa với cung cách làm thầy của các rabbi hồi xưa, cũng chẳng giống các vị tiến sỹ đứng trên bục giảng trong các giảng đường đại học ngày hôm nay. Ngài không nổi trội về kiến thức uyên bác hay có những bằng cấp chuyên môn, nhưng trên hết, Đức Giêsu là Đấng ‘Messia’, là Đấng đã đến trần gian để công bố cho chúng ta một Tin Mừng. Tin Mừng đó được hiển thị rõ nét qua các phép lạ Chúa Giêsu thực hiện như được Thánh sử Marcô mô tả trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúa giảng dạy kèm theo những phép lạ chứng tỏ Ngài là một ‘Đấng có uy quyền’, và đó là dung mạo của vị tôn sư đích thực mà chúng ta cần cung chiêm và học hỏi.
Tư cách làm thầy
Một giáo sư đại học khi dạy các sinh viên về môn Thuyết giảng trước công chúng (Public Speaking) đã nói : “Trong một lớp học, không bao giờ có học sinh dốt, nhưng chỉ có những ông thầy dốt. Dốt, vì ông ta không biết cách truyền đạt những kiến thức để cho sinh viên am hiểu”. Muốn làm thầy, người đó phải được đào tạo chính quy qua trường lớp sư phạm. Cũng vậy, muốn trở thành thầy dạy (magistero) về đức tin, các các anh em linh mục cũng phải được đào tạo kỹ lưỡng ở chủng viện về các bộ môn thần học hay kinh thánh, nhất là phải có chiều sâu đức tin, bởi vì ‘Không ai có thể cho người khác cái mà mình không có, không ai có thể dạy người khác điều mà mình không biết’.
Chúng ta được mời gọi nhìn vào chân dung Đức Giêsu, vị tôn sư đích thực của chúng ta. Khi đặt mình trong tay Chúa, chúng ta cần nhớ rằng mãi mãi chúng ta vẫn chỉ là những học trò của Ngài mà thôi, cho dầu chúng ta là Giám mục hay Linh mục, chúng ta có bằng tiến sỹ này hay bằng chuyên môn nọ.
Ngày xưa, Chúa chọn 12 môn sinh để họ kế tục sứ mệnh làm thầy giống như Ngài, tức là đi ‘rao giảng Tin Mừng’ cho người khác. Những anh học trò này chắc chắn không phải là những chuyên viên về Kinh thánh, tức là những ‘Halakha’ của thời bấy giờ. Một chữ bẻ làm đôi có lẽ nhiều vị cũng không biết. Nhưng điều mà các tông đồ đã học dưới mái trường do Đức Giêsu khai sáng, chính là mầu nhiệm về Thiên Chúa, hiển thị rõ nét nơi Đức Giêsu, vị tôn sư khả kính mà họ được thông dự vào qua cuộc sống hằng ngày. Vì vậy, sau ngày lễ Ngũ tuần, các ông đã hăng hái đi đến mọi ngõ ngách để giảng giải, để nói về Đức Giêsu cho mọi người, không loại trừ ai. Khán thính giả của các tông đồ ngày xưa gồm đủ mọi thành phần, từ chính quyền đến thường dân, từ những nhà trí thức đến những bác dân quê mộc mạc chất phác. Ngôi trường mà Chúa Giêsu đã thiết lập cũng chẳng giống với ngôi trường nào. Ở đó không có sách vở, không có bàn ghế hay giấy bút. Khi được thụ giáo dưới mái trường này, chúng ta sẽ chẳng bao giờ có thể tốt nghiệp với văn bằng này hay chứng chỉ nọ. Chúng ta phải học, phải nghiền gẫm và phải đeo bám cho đến suốt đời. Đức Giêsu mãi mãi vẫn luôn là vị tôn sư khả kính mà chúng ta cần phải không ngừng học hỏi nơi Ngài.
Sức mạnh của ‘Lời’
Lời nói con người giống như một con dao hai lưỡi. Nó có thể giúp xây dựng hòa khí thân thương song cũng có thể tạo ra những đổ vỡ. Lời Thiên Chúa thì khác. Những gì Thiên Chúa nói luôn mang lại cho con người sự sống. Chúa Giêsu giảng dạy tại hội đường Capharnaum kèm theo phép lạ để diễn bày tính năng cứu độ nơi Ngài. Ngài đã làm phép lạ trừ quỷ cách nhãn tiền khiến đám đông kinh ngạc và bảo nhau : “Thế nghĩa là gì? Lời giảng dạy thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền (c. 27)”. Đây là uy quyền của một vị Thiên Chúa, Đấng đem đến cho con người sự chữa lành và ơn tha thứ. Những phép lạ Chúa Giêsu thực hiện không phải nhằm phô diễn một kỳ tích hay như một màn ảo thuật để đánh lừa thị hiếu của đám đông. Mọi phép lạ Chúa làm đều mang chở một sứ điệp sâu xa, mời gọi con người hãy ‘Sám hối và tin vào Tin Mừng’ (Mc 1,15). Đó là Tin Mừng về lòng xót thương của Thiên Chúa đối với con người, giục giã gọi mời chúng ta trở về để đón nhận. Đức Giêsu chính là Đấng Messia mà sách Đệ nhị luật đã tiên báo như chúng ta được nghe trong bài đọc 1 hôm nay. Đây là ‘vị ngôn sứ’ đích thực của Chúa Cha, và vị ngôn sứ đó sẽ nói những điều Thiên Chúa truyền (Dnl 18, 18). Điều mà Đức Giêsu ngỏ trao chính là sứ điệp về tình yêu của Thiên Chúa, mà đỉnh điểm là chính cái chết của Ngài trên Thập Gía.
Tác vụ giảng dạy
Các bài đọc lời Chúa hôm nay được gửi đến mọi người, đặc biệt các anh em linh mục. Chúng ta được mời gọi nhìn vào hình ảnh của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng để biết cách chu toàn tác vụ thánh trong việc công bố và giảng giải Lời Chúa. Trong cuốn ‘Chỉ nam Giảng thuyết (Homiletic Directory) do Thánh bộ Phụng Tự và Kỷ luật Bí tích ban hành năm 2015, Giáo hội cũng nhắc nhở các anh em linh mục đừng bao giờ biến bài giảng trong Thánh lễ thành một bài chú giải Kinh thánh mang tính khoa bảng, hay chỉ để chia sẻ những những kinh nghiệm cá nhân. Trên hết, tòa giảng phải là nơi để các linh mục dùng Lời Chúa nuôi dưỡng đời sống đức tin của cộng đoàn. Vì thế, Giáo hội cũng khuyên các cha hãy chuẩn bị bài giảng thật kỹ lưỡng qua việc suy niệm và cầu nguyện, nhất là cử hành Lectio Divina, để Lời Chúa chạm đến cõi lòng chúng ta và lay động tâm hồn của chính chúng ta. Có như thế chúng ta mới có thể dùng Lời Chúa như lương thực trường sinh, giúp nuôi dưỡng đức tin cộng đoàn. Không ít giáo dân than phiền về nội dung cũng như cách thức các cha giảng trong Thánh lễ, thậm chí có những giáo dân tỏ ra chán ngán vì có những vị còn lạm dụng cả tòa giảng để chửi bới giáo dân nữa.
Chúng ta hãy noi gương Chúa Giêsu, vị Tôn sư khả kính đã giảng dạy như một Đấng có uy quyền. Đây không phải là một thứ uy quyền để nạt nộ hay chửi rủa, nhưng là uy quyền của tình yêu và sự chữa lành.
Kết luận
“Đức Kitô bị đóng đinh trên Thập giá là đối tượng duy nhất của lòng trí chúng ta” (Đức Cha Lambert de la Motte) . Đó cũng là đối tượng duy nhất mà chúng ta phải luôn cung chiêm và học hỏi. Chúng ta học hỏi nơi Ngài cách sống, cách chữa lành và cách thức Ngài rao giảng. Ngài chính là vị tôn sư duy nhất mà chúng ta cần phải xách cặp đến để xin thụ giáo cho đến suốt đời.
4. Hiến thân phụng sự Đức Giê-su Ki-tô - Lm Đan Vinh- HHTM
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mc 1,21-28.
(21) Đức Giê-su và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um. Ngay ngày Sa-bát, Người vào hội đường giảng dạy. (22) Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư. (23) Lập tức, trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên (24) rằng: “Ông Giê-su Na-gia-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến để tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!”. (25) Nhưng Đức Giê-su quát mắng nó: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!” (26) Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta. (27) Mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: “Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!”. (28) Lập tức danh tiếng Người đồn ra mọi nơi, khắp cả vùng lân cận miền Ga-li-lê.
2. Ý CHÍNH:
Đức Giêsu chính là vị Ngôn Sứ ưu việt đã được Mô-sê tiên báo. Tin mừng Mác-cô hôm nay trình bày Đức Giê-su đã khởi đầu sứ mạng Thiên Sai vào ngày Sa-bát trong một hội đường ở thành Ca-phác-na-um thuộc miền Ga-li-lê. Lời giảng dạy và quyền uy của Đức Giê-su khiến mọi người thán phục như Tin mừng Mác-cô ghi nhận như sau:
- "Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư " (c 22).
- Mọi người trong hội đường đều kinh ngạc khi chứng kiến ma quỷ chịu khuất phục xuất ra khỏi người chúng ám sau lời truyền của Đức Giê-su. Họ nói với nhau: “Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!” (c 27).
3. CHÚ THÍCH:
- C 21-21: +Thành Ca-phác-na-um: Là một thành nằm về phía Tây Bắc của biển hồ Ga-li-lê. Đức Giê-su chọn thành này làm trung tâm truyền giảng Tin Mừng. Tại thành này, Người đã làm nhiều phép lạ như: trừ quỉ (x. Mc 1,23-28), chữa bệnh (x. Mc 5,25-34), cho kẻ chết sống lại (x. Mc 5,21-43)... Người cũng có lần quở trách thành này vì đã cứng lòng tin (x. Mt 11,23-24). + Hội đường: Là một ngôi nhà hình vuông gồm có ba gian, được xây hướng về Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Nơi gian giữa có đặt một tủ đựng Sách Thánh, và một cái giá dành cho chủ sự. Hội đường là nơi người Do Thái trong làng hội họp để nghe giảng Kinh Thánh và cầu nguyện. Chúa Giê-su thường được mời giảng tại các hội đường khắp nước Do thái.
- C 23-24: +Một người bị thần ô uế ám: Đây là một người bị quỉ nhập vào. Ma quỉ hay Xa-tan có nhiều nghĩa: “kẻ hủy diệt”, “kẻ gian ác”, “người cáo tội” (Tv 109,6)... Ở đây ma quỉ được gọi là “thần ô uế” để đối lập với Đức Giê-su là “Đấng Thánh của Thiên Chúa”.
- C 25-27: +“Câm đi, hãy xuất khỏi người này”: Việc Đức Giê-su ra lệnh và ma quỷ đã phải im tiếng xuất ra khỏi người bị nó ám, chứng tỏ uy quyền tuyệt đối của Người trên ma quỷ.
4. CÂU HỎI:
1) Ma quỉ có thực hay chỉ là tưởng tượng của những người mê tín dị đoan? Kinh Thánh nói gì về sự hiện hữu của ma quỉ và các hoạt động của chúng? Đức Giê-su và Giáo Hội sơ khai có thái độ thế nào đối với ma quỉ?
2) Khi thấy một người có biểu hiện bất thường về tâm thần, ta có nên vội kết luận họ bị quỉ ám và tìm cách trừ tà hay không? Ai có quyền cử hành nghi lễ trừ tà?
3) Để có thể trục xuất ma quỉ ra khỏi người bị nó ám thì người trừ quỉ cần có những điều kiện nào?
4) Ngày nay, ngoài việc trừ ma quỉ, giải thoát những người đang bị đàn áp khống chế, Giáo Hội còn có sứ mạng gì liên quan đến ma quỉ?
ĐÁP:
1) +Ngày nay, nhiều người không tin có ma quỉ. Họ thường giải thích các hiện tượng siêu nhiên do ma quỉ làm nơi con người thuần túy chỉ là những triệu chứng của bệnh thần kinh. Đang khi Kinh Thánh lại luôn khẳng định về sự hiện hữu của ma quỉ..
+Trong Kinh Thánh, ma quỉ được gọi là “Con Mãng Xà”, “Xa-tan” hay “Thần ô uế” (x. Kh 20,2 ; Mc 1,23). Chúng vốn là thiên thần trên trời, nhưng do phản nghịch với Thiên Chúa nên đã bị phạt xuống hỏa ngục (x. Gd 1,6 ; Kh 20,7-10); Chúng được Thiên Chúa cho phép thử thách đức tin của người ta như trường hợp ông Gióp (x. G 1,6-2,7); Chúng cám dỗ người ta phạm tội như cám dỗ bà E-và (x. St 2,24), cám dỗ Đức Giê-su (x. Lc 4,2); Chúng ám hại người ta như đã giết 7 người chồng của bà Xa-ra (x. Tb 3,8 ; 6,14); Chúng trói buộc người ta bằng cách làm cho họ bị bệnh tật (x. Lc 13,16)...
+Sứ mạng của Đức Giê-su là tiêu diệt ma quỉ (x. Mc 1,24). Người không nhờ tướng quỉ mà trừ quỉ (x. Mc 3,22-26), nhưng nhờ quyền năng Thiên Chúa (x. Mt 12,22tt). Kết quả là ma quỉ phải chịu khuất phục (x. Ga 14,30). Người cũng ban cho các Tông đồ được quyền trừ quỉ (x. Mc 6,7). Giờ Tử Nạn và Phục Sinh của Người là lúc ma quỉ bị tống ra ngoài và bị xét xử (x. Ga 12,31; 16,11).
+Đến thời Giáo Hội Sơ Khai, Phi-líp-phê đã nhờ Thánh Thần mà trừ quỉ (x. Cv 8,7); Phao-lô cũng có khả năng trừ quỉ (x. Cv 19,11-12). Ngày nay ma quỉ vẫn đang hoành hành bằng cách nhập vào những người yếu đức tin (x. Mt 13,43-45); Chúng hành hạ người ta như sàng gạo vậy (x. Lc 22,31). Chúng giống như sư tử luôn rình mồi cắn xé người ta (x. 1 Pr 5,8). Hội Thánh vững tin sẽ toàn thắng ma quỉ khi đến ngày tận thế. Bấy giờ ma quỉ cùng những kẻ đi theo chúng sẽ bị giam phạt trong hoả ngục đời đời (x. Mt 25,41; Lc 10,18).
2) +Không nên vội xác định bệnh nhân đã bị quỉ ám, nhưng trước tiên cần đem đến bác sĩ thần kinh hay bác sĩ phân tâm học để được khám và điều trị bằng thuốc men hay các phương pháp tâm lý tự nhiên. Nếu bệnh không thuyên giảm và có những bằng chứng do ma quỉ làm thực sự, thì phải nhờ Cha Sở hay Linh Mục đặc trách trừ quỉ điều tra xem xét. Các vị này sẽ tiến hành việc trừ quỉ dưới sự chỉ đạo của Đấng Bản Quyền Giáo phận.
+Theo kết quả điều tra thì phần lớn các trường hợp nạn nhân tưởng là bị quỉ ám, thư ếm hay bùa ngải... Thực ra chỉ là hiện tượng suy nhược thần kinh hoặc do ảo giác tưởng tượng mà thôi. Riêng các hiện tượng lạ như bàn ghế tự nhiên xê dịch, giường nằm của bệnh nhân có ai đó dựng lên, hoặc bệnh nhân tự nhiên được nâng cao lên khỏi giường, hoặc có những tiếng gõ bàn hay tiếng nói mỗi khi thày ngải tra hỏi bệnh nhân... có thể do ma quỉ gây ra, mà cũng có thể chỉ là ảo thuật do các thầy pháp hay thầy phù thủy thực hiện, nhằm đánh lừa để người ta tin theo.
+Trong trường hợp chắc chắn các hiện tượng trên do ma quỉ nhập vào và khống chế làm hại một người nào đó, thì Đấng Bản Quyền sẽ chỉ định các linh mục chuyên viên đủ kinh nghiệm chính thức cử hành nghi lễ trừ quỉ.
3) +Nếu bệnh nhân thực sự bị quỉ ám, thì các chuyên gia chỉ trừ được ma quỉ nếu có đức tin vững mạnh và ý chí kiên quyết (x. Mt 17,20). Phải ăn chay và cầu nguyện trong suốt thời gian trừ quỉ (x. Mt 4,5) ; Phải kết hiệp mật thiết với Chúa Giê-su để nhờ quyền năng của Người mà trừ quỉ (x. Ga 15,5). Họ cũng phải nhờ Thần Khí của Chúa Giê-su (x. Mt 12,28) và nhân danh Người mà trừ quỉ (Mc 9,38). Cuối cùng họ còn phải là người từng trải và có kinh nghiệm để có thể đối phó hữu hiệu với ma quỉ và tránh bị chúng làm hại (x. Cv 19,11-19).
4) +Hiện nay, ngoài việc trừ quỉ, Hội Thánh còn có sứ mạng chống lại những sự dữ thuộc về ma quỉ như: ma thuật, đồng bóng và mê tín dị đoan (x. Cv 13,9-11). Bài trừ tận gốc các tệ nạn xã hội như: Sì-ke ma túy, mãi dâm, rượu chè, cờ bạc, sách báo phim ảnh khiêu dâm bạo lực (x. Mt 19,16-18); Hội Thánh cũng phải hòa giải các tranh chấp, đấu tranh chống lại bất công bóc lột. Cuối cùng Hội Thánh còn phải cộng tác với chính quyền và các tổ chức nhân đạo bài trừ các thứ giặc như: nghèo đói, dốt nát và mê tín (x. 1 Cr 10,20).
+Ngoài ra, Hội Thánh cũng khuyên các tín hữu phải phòng tránh sự khôn ngoan giả dối của thế gian và ma quỉ (x. Gc 4.14-15), đề phòng các tiên tri giả là tay sai của ma quỉ đến rao giảng giáo lý sai lạc trái với giáo lý tông truyền (x. Tm 4,1 ; Kh 16,14).
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Nhưng Đức Giê-su quát mắng nó: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!” Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta (Mc 1,25-26).
2. CÂU CHUYỆN:
1) NGƯỜI MANG VÁC CHÚA KI-TÔ
Kho truyện các thánh có ghi lại câu chuyện về một người mang vác Đức Ki-tô như sau:
Có một chàng thanh niên có sức mạnh phi thường nhưng không ai biết tên thật của chàng. Anh này có tâm nguyện đi tìm một người quyền lực nhất để phụng sự. Đầu tiên anh nghĩ không ai quyền lực hơn viên tướng cướp trong vùng anh đang ở nên đến gia nhập vào băng cướp và anh được phân công làm hộ vệ cho viên tướng cướp. Nhưng mỗi lần băng cướp sắp có vụ làm ăn, anh ta lại thấy viên tướng cướp phải đến nhờ thầy phù thuỷ làm phép cho vụ làm ăn thành công. Thế là anh thanh niên liền bỏ viên tướng cướp để xin theo hầu thầy phù thuỷ. Một hôm, khi theo thầy phù thủy đi hành nghề, anh thấy thầy đang đi trên đường gặp một cây Thánh giá bên vệ đường liền sợ hãi không dám đi tiếp mà vòng lại đi đường khác. Thế là anh chàng lực sĩ liền bỏ thầy phù thuỷ quay trở lại đứng bên cây Thánh giá để mong được gặp chủ nhân cây Thánh giá. Anh ta cứ đứng đó chờ mấy ngày liền mà vẫn không thấy chủ nhân cây Thánh giá xuất hiện. Nơi đó gần một khúc sông cạn và có nhiều người đã phải mạo hiểm lội bì bõm qua sông để sang bờ bên kia. Một hôm, một chú bé đến nhờ anh lực sĩ cõng qua sông và anh đã lập tức giúp cõng em trên vai lội qua sông. Có điều khi mới được một đoạn ngắn, anh lực sĩ tự nhiên cảm thấy chú bé trở nên quá nặng, liền hỏi lý do và được chú bé trả lời: "Ta nâng đỡ cả trái đất trên tay nên làm sao không nặng cho được". Cậu bé còn cho biết mình chính là chủ nhân của cây Thánh giá mà chàng lực sĩ đang muốn gặp mặt. Thế là chàng lực sĩ liền xin đi theo vị Chúa Ki-tô Chủ Tể của trái đất này. Chúa Ki-tô dạy anh: “Nếu muốn phụng sự Ta, con hãy dựng một căn lều và luôn ở cạnh cây Thánh giá, để nếu có ai muốn qua sông thì con sẽ cõng họ qua”. Chàng lực sĩ liền làm theo lệnh Chúa truyền. Từ ngày đó, dân chúng trong vùng đã gọi chàng bằng cái tên thân thương là KÍT-TÔ-PHƠ (Christopher), nghĩa là người mang vác Chúa Ki-tô.
2) PHIM “NGƯỜI TRỪ QUỈ”:
Vào năm 1970, cuốn phim “Người trừ quỉ” (Exorcist) được trình chiếu thì lập tức đã phá kỷ lục số vé bán ra. Chuyện phim kể lại một câu chuyện có thật về một thiếu niên 14 tuổi ở vùng Mao-Rai-mơ (Mt. Raimer), thuộc bang Me-ri-len (Maryland) của Hoa Kỳ vào năm 1949. Về sau, tờ “Tuần Tin Tức” (Newsweek) đã tường thuật câu chuyện này như sau: “Theo người cha kể lại thì cậu thiếu niên này thích ở một mình trên gác xép và chơi cầu cơ. Qua trò cầu cơ, cậu ta thường nói chuyện lâu giờ với một người có tên là “Ông Đại Úy”. Lúc đầu người cha cho rằng cầu cơ chỉ là một trò giải trí vô hại. Nhưng về sau, khi thấy con trai có những biểu hiện bất thường, thì cha mẹ cậu bé bắt đầu lo lắng. Nhất là một hôm ông bố nhìn thấy ghế bàn và chiếc giường cậu con đang nằm tự nhiên bị di chuyển trên sàn nhà giống như có bàn tay vô hình nào đó kéo đi. Rồi ban đêm cậu bé bị mất ngủ và hay nói lầu bầu điều gì đó với cái giọng khàn đặc của một gã đàn ông trung niên. Sau đó buộc lòng ông bố phải đưa con đến bệnh viện của trường Gioóc-dơ-tao (Georgetown), một trường đại học danh tiếng. Tại đây bác sĩ điều trị phát hiện ra cậu bé biết nói thành thạo tiếng La-tinh, một thứ cổ ngữ rất khó học mà cậu ta chưa từng biết đến trước đó. Cuối cùng sau một thời gian nằm điều trị vô hiệu, cha mẹ cậu đành đem con về nhà và nhờ hai vị linh mục dòng Tên có lòng đạo đức thánh thiện đến nhà cử hành nghi lễ trừ quỉ.
Cuộc chiến đấu giành linh hồn của cậu bé đã xảy ra rất căng thẳng và quyết liệt, kéo dài suốt 2 tuần lễ. Cuối cùng ma quỉ cũng chịu khuất phục và xuất ra khỏi nạn nhân. Nhưng đồng thời vị linh mục chủ lễ cũng đã gục xuống chết tại chỗ do chứng nhồi máu cơ tim. Hiện nay cậu bé trên vẫn còn sống tại thủ đô Wo-sinh-tơn (Washington). Một trong hai linh mục từng tham gia vào việc trừ quỉ đã thề là không bàn luận gì thêm về công việc nguy hiểm này. Tuy nhiên ông cũng cho biết là chính nhờ tham gia vào việc trừ quỉ mà bản thân ông đã thêm đức tin để luôn trông cậy vào quyền năng và tình thương của Chúa.
3. SUY NIỆM:
1) ĐỨC GIÊ-SU: ĐẤNG QUYỀN NĂNG TRONG LỜI RAO GIẢNG:
Đức Giêsu giải thích Lời Chúa trong hội đường Do thái khiến cho nhiều người phải kinh ngạc, vì : "Người giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền chứ không như các luật sĩ" (Mc 1,22).
Vì Người được Chúa Cha sai đến làm Đấng Thiên Sai, là chính Lời Thiên Chúa nhập thể làm người nên Người chỉ nói Lời Thiên Chúa cho loài người chứ không bị lệ thuộc vào thế giá của bất cứ ai, kể cả Mô-sê. Đức Giê-su đã biểu lộ uy quyền khi thay đổi các tập tục trong Luật Mô-sê: "Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình thì phải bị đưa ra tòa…” (Mt 5,21-22).
Tin Mừng Mác-cô đã thuật lại việc Đức Giê-su và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um gần biển hồ. Ngay ngày Sa-bát, Người vào hội đường mà giảng dạy. Thiên hạ sửng sốt về lời giảng của Người như một Đấng có quyền , chứ không như các kinh sư của họ. Vì các kinh sư chỉ đọc và giải thích kinh thánh như đã học mà không thêm điều gì mới, khác với Đức Giê-su giảng dạy như một Đấng lập Luật mới như Người cố ý chữa bệnh trong ngày Sa-bát, và khi bị hạch hỏi Người đã cho thấy quan điểm của Người như sau: "Ngày Sa-bát được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày Sa-bát; Bởi đó, Con Người làm chủ luôn cả ngày Sa-bát" (Mc 2,27).
2) ĐỨC GIÊ-SU: ĐẤNG QUYỀN NĂNG TRONG HÀNH ĐỘNG:
Đúc Giê-su không những có uy quyền trong lời giảng, trong việc xua trừ ma quỷ, mà Người còn có quyền trên thiên nhiên như: biến nước lã thành rượu nho, nhân bánh ra nhiều, đi trên mặt nước, dẹp yên sóng gió, mẻ cá lạ lùng...
Người cũng đã dùng lời quyền năng để chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền trong dân như: cho người mù được sáng mắt, kẻ câm nói đươc, người điếc được nghe, người què đi được, người phong cùi được sạch…
Người đã phục sinh kẻ chết như cầm tay phục sinh một bé gái mới chết, cho chàng thanh niên đang đem đi chôn ở cử thành Na-im, cho La-da-rô chết 4 ngày sống lại ra khỏi mồ và chính Người đã từ trong cõi chết trỗi dậy đúng như Người đã tiên báo.
3) ĐỨC GIÊ-SU: ĐẤNG QUYỀN NĂNG TRÊN THẦN Ô UẾ LÀ MA QUỶ:
Gặp Đức Giê-su, ma quỷ đã nói ra sứ vụ cứu thế của Người như sau: “Ông Giê-su Na-gia-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến để tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” (Mc 1,24). Đức Giê-su đã lên tiếng quát nạt ma quỷ: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!”. Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta (Mc 1,25-26). Chính thái độ sợ hãi vâng phục của ma quỷ cho thấy quyền năng của Đức Giê-su như lời nhận xét của đám đông dân chúng: “Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!” (Mt 1,27b).
4) CHỈ PHỤNG SỰ DUY MÌNH ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ:
- Ngày nay chúng ta chỉ đi theo một vị Thầy là Chúa Giê-su noi gương Tông đồ Phê-rô: Sau bài giảng về Bánh Hằng Sống thì nhiều môn đệ đã tỏ ra chán nản không còn muốn theo làm môn đệ Đức Giê-su nữa, chỉ còn Nhóm Mười Hai còn ở lại. Dù vậy Đức Giê-su vẫn không rút lại ý định lập bí tích Thánh Thể và đòi các ông xác định lập trường đi hay ở. Ông Phê-rô đã đại diện Nhóm Mười Hai trả lời rằng : “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng: Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,68-69).
- Ngày nay muốn trung thành với Chúa Giê-su, chúng ta cần năng học sống Lời Chúa: Mỗi lần học sống Lời Chúa, chúng ta sẽ khám phá thêm sự mới mẻ của Lời Chúa, và nhận ra quyền năng Chúa trong thiên nhiên và các dấu chỉ của thời đại. Nhờ năng tham dự các buổi học sống Lời Chúa trong sinh hoạt hội đoàn hằng tuần tại nhà thờ, hay trong giờ kinh tối gia đình hằng ngày… chúng ta hy vọng sẽ từng bước trở thành "muối men" hòa lẫn vào thúng bột xã hội để làm dậy lên men tình yêu. “Ánh sáng" của các việc lành chúng ta làm sẽ giúp anh em lương dân nhận biết và ca tụng Thiên Chúa trên trời.
- Ngoài ra chúng ta cần ý thức sứ vụ của mình là cộng tác với Chúa xua trừ ma quỷ, và các tệ đoan xã hội ra khỏi môi trường sống: Hiện nay ma quỉ vẫn luôn tìm cách phá hoại công trình cứu độ của Chúa Giê-su và Hội thánh. Chúng ta cần dấn thân làm những việc công ích và cộng tác với những người thiện chí xây dựng một môi trường sống an toàn sạch đẹp và văn minh. Cần quan tâm an ủi những ai đang gặp gian nan khốn khó bằng cách giúp họ tin tưởng cậy trông vào lòng Chúa thương xót, xin Đức Mẹ và các thánh chuyển cầu và chính chúng ta cũng tích cực giúp đỡ họ với hết khả năng của mình.
4. THẢO LUẬN:
1) Kinh nghiệm của các người tham gia trừ quỷ cho biết: những người bị ma quỉ ám là những kẻ đã tin vào chúng và có quan hệ mật thiết với chúng như thường xem lên đồng, chơi cầu cơ, coi bói toán... Có khi nào vì tò mò mà bạn chơi thử những trò đó không?
2) Bạn phải làm gì để gia tăng đức tin, hầu ma quỉ không thể xâm nhập và khống chế bắt bạn làm tay sai cho chúng?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU là “Đấng Thánh và là Con Thiên Chúa”. Chúa đến để tiêu diệt ma quỉ và thiết lập một Triều Đại Mới Của Thiên Chúa. Trong Tin Mừng hôm nay, quyền năng của Chúa đã bắt ma quỉ phải câm miệng và xuất ra khỏi người bị chúng trói buộc. Chúng con vững tin vào quyền năng của Chúa, và thành khẩn xin Chúa giúp chúng con chiến thắng ma quỉ, tội lỗi và các thói hư. Xin cho chúng con sẵn sàng cộng tác với Chúa đẩy lùi thế lực của ma quỷ như phim ảnh tục tĩu, sì-ke ma túy, cờ bạc, rượu chè... ra khỏi gia đình và môi trường chúng con đang sống hầu Nước Chúa ngày một lan rộng.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
5. Con Người Đến Để Phục Vụ - Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Ở đời người ta thường đua nhau tìm kiếm danh vọng và quyền lực. Danh vọng càng cao, quyền lực càng mạnh, càng có lắm kẻ hầu người hạ, càng có tiền chất kho, chất lẫm. Vì tìm kiếm danh vọng và quyền lực, người ta sẵn sàng đối kháng với nhau, loại trừ lẫn nhau. Người ta sẵn sàng chà đạp lên nhau để leo lên đỉnh vinh quang. Vì danh vọng, quyền lực người ta sẵn sàng lao vào những cuộc chiến bất khoan dung. Lịch sử đã từng chứng mình điều đó. Hitler đã từng đẩy cả thế giới vào chiến tranh loạn lạc chỉ vì tìm kiếm quyền bính của ông. Polpot đã từng xây dựng quyền bính mình trên hàng triệu mạng người. Thực vậy, quyền lực làm cho nhân loại chia rẽ lẫn nhau. Quyền lực làm cho tình người tan rã. Quyền lực là nguyên nhân cho những đố kỵ, ghen tương và thù hận. Cho dù quyền lực làm cho nhân loại khổ đau nhưng người ta vẫn lao vào tranh giành lẫn nhau. Vì dầu sao đi nữa, quyền lực vẫn đem về cho họ rất nhiều mối lợi cả tinh thần lẫn vật chất.
Năm 1986, sau 20 năm cầm quyền tổng thống Philippines, ông Ferdinand Marcos đã trở về vui thú điền viên với gia tài kếch xù trị giá trên 10 tỷ mỹ kim. Đặc biệt là vợ ông chiếm hữu một lâu đài sang trọng với biết bao đồ vật quý giá như: 3,000 đôi giầy đủ màu đủ kiểu còn mới tinh, 100 chiếc ví da hạng sang đắt tiền, hoá đơn một chiếc áo dạ vũ trị giá 107,000 mỹ kim. Ở Việt Nam ngày nay cũng không thiếu những quan gia có những đồn điền cao su thì mênh mông, có những đồng ruộng thì vô tận, có tài khoản thì bao la và nhà cửa thì vào bậc sang trong nguy nga. Xem ra quyền lực không chỉ mang lại cho con người uy quyền mà còn mang lại cho họ vinh hoa phú quý ở đời này, khiến họ trở thành một giai cấp thượng lưu hơn hẳn đám dân đen thấp cổ bé miệng.
Chúa Giêsu đến để nối kết tình nhân loại. Ngài không tìm quyền bính và danh vọng. Ngài không chạy theo những toan tính vụ lợi cho bản thân. Ngài đển để phục vụ và hiến dâng mạng sống cho người mình yêu được sống và sống dồi dào. Chính đời sống khiêm nhu xoá bỏ địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, Ngài đã sống một cuộc đời phục vụ tha nhân một cách không mệt mỏi. Ngài đã phục vụ mọi người bất luận sang hèn, bất luận già trẻ. Ngài đã từng quỳ gối rửa chân cho các môn đệ. Ngài còn rửa chân cho cả Giu-đa kẻ sẽ bán ngài với giá 30 đồng bạc. Ngài đã sống một cuộc đời nghèo khó đến độ “sinh vô gia cư – chết vô địa táng”.
Vâng, Chúa Giêsu, Ngài đã thi hành quyền bính của mình là đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ. Đối tượng được Ngài phục vụ là các bệnh nhân, là những người nam, người nữ đang bị thần ô uế thống trị, là những con người nghèo khổ, bất hạnh đang bị bỏ rơi bởi đời sống thiếu vắng tình người của đồng loại. Tình thương đó đã được thể hiện trên người bệnh nhân bị thần ô uế thâm nhập mà đoạn tin mừng thánh Marco tường thuật lại. Ma quỷ cũng nhìn nhận quyền bính của Ngài nên đã thốt lên: “Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Người đồng hương cũng nhìn nhận Ngài có đầy uy quyền trên môi miệng và nhân cách của Ngài. Họ đã khâm phục ngài vì “giáo lý thì mới mẻ, và người dạy lại có uy quyền”.
Người Kitô hữu cũng được tham dự vào vương quyền của Chúa Giêsu qua bí tích Rửa tội. Người Kitô hữu cũng được mời gọi dùng tình yêu để hoán cải lòng người, để hàn gắn những hố sâu ngăn cách của giầu nghèo, của địa vị sang hèn. Dùng tình yêu để phục vụ anh em, để dấn thân quên mình vì hạnh phúc của tha nhân. Sự hiện diện của người Kitô hữu phải là những ngọn nến sáng chịu hao mòn để mang lại niềm vui và hạnh phúc cho cuộc đời. Người Kitô hữu phải là những hạt lúa chịu nghiền nát để dâng hiến cho đời những hương thơm của phục vụ, của bác ái và vị tha. Người Kitô hữu được mời gọi theo gương Thầy Giêsu biết dùng quyền để phục vụ, biết dùng tình yêu để hàn gắn những thương đau của chia rẽ và hận thù, biết lấy đức ái để sống vì lợi ích của tha nhân.
Nguyện xin Chúa Giêsu là Đấng đến để phục vụ, ban cho chúng ta tinh thần xả kỷ hy sinh, biết sống cho tha nhân và vì tha nhân hơn là vun quén cho bản thân. Nguyện xin Chúa là Đấng đến để chữa lành tâm hồn và thể xác con người, xin cũng chữa lành tâm hồn chúng ta khỏi những ràng buộc của tội lỗi, của đam mê nhục dục để biết sống cao đẹp giữa mọi người. Amen.
6. Chúa quyền năng, vì Chúa là Đấng Thánh - Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Nếu như Chúa nhật III Thường niên, Đức Giêsu đã kêu gọi người ta theo Chúa, hoán cải vì Nước Trời gần đến (x. Mc 1, 14-20). Bước sang Chúa nhật IV, Sứ vụ Thiên sai tiếp tục được thi hành. Người chữa lành những người bị quỉ ám, nhưng Lời Người là Chân lý, nên được lan truyền khắp mọi nơi một cách nhanh chóng, khiến cho những người mù sáng mắt, người què đi được, người điếc nghe được, nói chung là vui mừng sung sướng; mọi người đều…thán phục Người; các thần ô uế phải vâng lệnh (x. Mc 1, 21-28).
Chiêu mộ các môn đệ xong, Chúa Giêsu cùng với các ông tới Capharnaum. Tại hội đường, nơi cộng đoàn tụ họp để lắng nghe Lời Chúa và phổ biến Luật cũng như lời các Tiên tri, lần đầu tiên các môn đệ được nghe Chúa Giêsu giảng dạy (x. Mc 1, 21-22).
Hơn cả luật sĩ
Lúc ấy Chúa Giêsu giảng dạy như Đấng có quyền, mọi ánh mắt của những người có mặt ở đó đổ dồn vào Người, còn thần ô uế thì buộc phải vâng lệnh và xuất ra khỏi người nó ám. Giáo huấn của Chúa Giêsu tương phản với lời giảng dạy của các thầy thông luật, dù họ chuyên về Kinh Thánh (Mc 1, 22).
Điều gì mới chăng? Thưa không, Người không dạy điều gì mới mẻ hoặc trái với giáo lý, cũng không mang đến một giáo lý mới. Chính uy nguyền và phong cảnh giảng dạy làm người ta khám phá ra cái mới. Đồng thời, mới, là vì uy quyền của Người trên các thần ô uế: “Chúng vâng lệnh Người “(x. Mc 1, 25-26). Chúa Giêsu không tiếp chuyện, hay tranh luận với thần ô uế. Người đoạn tuyệt đối thoại với chúng. Và ta sẽ thấy câu trả lời vào cuối trình thuật cám dỗ trong hoang địa. Chúa Giêsu khẳng định: “Người là Chân Lý”.
Hơn một Tiên tri
Bài đọc I trích sách Đệ Nhị Luật (Đnl 18, 15-20), chúng ta thấy Môisen được coi là vị ngôn sứ vĩ đại nhất trong số các ngôn sứ; ông là trung gian giữa Thiên Chúa với loài người. Ông trung gian cần thiết, vì dân chúng sợ mặc khải trực tiếp từ Thiên Chúa nên họ nói: “Tôi không muốn thấy ngọn lửa vĩ đại này nữa, kẻo tôi phải chết ” (Đnl 18, 16).
Và đây là những điều Môisen được biết và công bố. Chúa phán: “Ta sẽ gầy dựng giữa anh em của họ một tiên tri như ngươi” (Đnl 18, 15); Chúa sẽ đặt vào miệng vị đó những lời của Chúa, vị ấy sẽ nói cho dân lệnh Chúa truyền. Và nếu kẻ nào không nghe lời của Chúa qua miệng người ấy sẽ nói nhân danh Chúa, kẻ ấy sẽ chuốc lấy hậu quả thích đáng, như Chúa quả quyết: “chính Ta, Ta sẽ tính số với nó” (Đnl 18, 19). Từ chối Môisen hay một tiên tri là từ chối chính Chúa.
Dân sẽ mượn miệng ông, giọng nói của ông, để thân thưa với Thiên Chúa. Một cách nào đó, người ấy không thể nói điều gì khác hơn là Lời Thiên Chúa. Cuộc sống của ông là một cuộc sống hoàn toàn tùy thuộc vào Thiên Chúa.
Qua đoạn sách Đệ Nhị Luật, phụng vụ giúp chúng ta đọc lời nói đầu thể hiện sứ vụ công khai của Chúa Giêsu, Người hơn cả hơn Môisen: ” Người giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền ” (Mc 1,22), Người là “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Mc 1, 24).
Cuộc chiến giữa Chúa Giêsu và thần ô uế
Tiếng thét của người bị thần ô uế ám và dằn vặt, nay được Chúa trừ là tiếng thét hư vô, không có nguồn gốc và không có Thiên Chúa. Chúa Giêsu không chạm vào người này, Người cũng không thuyết phục hắn. Người nói chuyện trực tiếp với hắn lúc Lời Chúa bị mắc kẹt trong sa mạc bởi sự dữ, bạo lực và tà thần, mỗi người chúng ta phải thường xuyên kiên trì chiến đấu.
Điều thần ô uế nói trong hội đường như thể nó tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa. Nhưng nó bị Chúa Giêsu quát và bảo: “Hãy im đi!” (Mc 1, 25). Như sách Đệ Nhị Luật đã nói (18, 19) chúng ta phải biết nghe lời Chúa, trong hành động của đức tin, đức cậy để lời ấy có thể triển nở trong ta, đụng chạm đến chúng ta, biến đổi chúng ta và hiệp nhất chúng ta…
Sự im lặng bắt buộc này có nghĩa là không còn thời gian nữa. Sự viễn mãn tràn đầy thánh thiện và ơn cứu độ mà Chúa Giêsu mang đến nhờ sự chết và phục sinh. Vì Người là “Đấng thánh của Thiên Chúa” (Mc 1, 24).
Đấng Thánh của Thiên Chúa
Việc trục xuất thần ô uế ra khỏi người bị nó ám được coi như cuộc chiến giữa Chúa Giêsu và thần dữ. Thần dữ cố gắng ngăn chặn nguy hiểm: “Có chuyện gì giữa chúng tôi và ông?” (Mc 1, 25) Chúa Giêsu quát bảo nó rằng: “Hãy im đi và ra khỏi người này!” (Mc 1, 25) Cuộc chiến vẫn tiếp tục trong cơn co giật của bệnh nhân đang bị dằn vặt dữ dội và kêu lớn tiếng. Sức mạnh của Chúa Giêsu làm chủ sự dữ là những cái con người đang bị nắm giữ với lo âu sợ hãi và tự hỏi, “Điều này có nghĩa là gì?” (Mc 1, 27).
Giờ đây, bức màn che dậy được vén lên, mầu nhiệm của Chúa Giêsu và “bí mật” của Người hé mở: Đây là một giáo lý mới! Có thể đây là thời thiên sai mới chăng? Chúa Giêsu có thật là Đấng Mêsia không? Người truyền cho các thần ô uế và chúng vâng theo; chứng tỏ Người mạnh hơn Sự dữ. Nhưng chính ma quỉ nhập nhằng khi tỏ lộ về thân thế Chúa Giêsu: Người là Đấng Thánh, Đấng Thánh của Thiên Chúa! (Mc 1,24) Thánh là thuộc tính của chính Thiên Chúa. Chúa bắt nó: “Im đi!” (Mc 1,25). Còn đám đông dân chúng thì vẫn chưa sẵn sàng tiếp nhận, nên kinh ngạc.
Chúng ta cũng thế, khi ta hoang mang về sự sinh tồn của mỗi chúng ta, và thấy các cuộc chiến giữa Sự Thiện và Sự Ác xảy quanh ta và trong chúng ta, chúng ta tự đặt câu hỏi: Chúa Giêsu là ai đối với cá nhân tôi và toàn thể nhân loại?
Đời sống người Kitô hữu là một cuộc chiến không ngừng chống lại cám dỗ và loại trừ sự dữ. Sống theo Chúa Giêsu, con người sẽ không bao giờ nô lệ cho bản năng và ma quỉ. Để được như thế, chúng ta thành tâm nguyện xin mỗi ngày: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng xin cứu chúng con khỏi sự dữ” (Kinh Lạy Cha). Amen.
7. Tại Hội đường Caphácnaum - Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện
Bài Tin Mừng tuần trước đã kể cho chúng ta sự kiện Chúa Giêsu kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên. Các ông sẽ là những người chứng kiến các hoạt động của Người ngay từ đầu. Bài Tin Mừng hôm nay (Mc 1,21-18) giới thiệu hoạt động đầu tiên của Chúa Giêsu mà các ông được chứng kiến: Chúa Giêsu giảng dạy tại Caphácnaum và chữa lành người bị quỷ ám.
“Đức Giêsu và các môn đệ đi vào thành Caphácnaum. Ngay ngày sabát, Người vào hội đường giảng dạy” (c.21). Ngay từ đầu sứ vụ tại Galilê, giảng dạy đã là một trong những hoạt động chính yếu của Chúa Giêsu. Chính Người sẽ xác nhận cách tỏ tường điều này khi quân dữ tra tay bắt Người: “Ngày ngày tôi vẫn ở giữa các ông, vẫn giảng dạy…” (14,49). Tác giả Mc rất chú tâm đến hoạt động giảng dạy của Chúa Giêsu. Nhưng, cũng như ở nhiều nơi khác (ví dụ 2,13; 6,2.6.34; 10,1), ở đây ông chỉ kể rằng Chúa Giêsu giảng dạy chứ không nói gì về nội dung của lời giảng dạy. Có lẽ đối với ông, điều đáng quan tâm nhất phải là chính Thầy Giêsu, hơn là điều Người giảng dạy.
Một nét đặc trưng của hoạt động giảng dạy của Chúa Giêsu là hiệu quả lời giảng dạy của Người. Hiệu quả đó được trình bày qua việc kể lại trải nghiệm của những người nghe giảng: “Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người” (c.22a). Họ bị đánh động sâu xa và rất ngạc nhiên. Tất cả những tiêu chí cổ điển để đánh giá lời giảng đều không còn giá trị nữa. Có một cái gì đó thực sự mới mẻ đã xuất hiện, gây nên một sự sửng sốt trong đám đông dân chúng. Nói cách khác, những lời giảng dạy của Chúa Giêsu có sức mạnh đặc biệt, giống như những hành động quyền năng của Người. Cuối bài Tin Mừng, tác giả sẽ nói rõ hơn về phản ứng của dân chúng: “Mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: “Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!” Lập tức danh tiếng Người đồn ra mọi nơi, khắp cả vùng lân cận miền Galilê” (cc.27-28).
Sở dĩ đám đông dân chúng sửng sốt, là vì “Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư” (c.22b). Các kinh sư là những người hiểu biết Thánh Kinh, nhất là Tôra. Họ giải thích Thánh Kinh cho dân chúng. Họ chỉ cho dân chúng thấy cần phải làm gì để thi hành thánh ý của Thiên Chúa. Bản văn Mc 1,22 này không có bất cứ yếu tố nào cho phép chúng ta đánh giá tiêu cực về hoạt động giảng dạy của các kinh sư. Nhưng đồng thời, tác giả Mc muốn nhấn mạnh với chúng ta rằng dân chúng đã mau chóng nhận ra rằng lời giảng dạy của Chúa Giêsu thì hoàn toànb khác với lời giảng dạy của các kinh sư. Lời giảng dạy của Người có một thẩm quyền đặc biệt, khác hẳn. Sau này, chính sự khác biệt hoàn toàn này sẽ gây nên những phản ứng tiêu cực nơi các kinh sư: họ sẽ vu cáo rằng Chúa Giêsu nói phạm thượng (2,7), rằng Người liên minh với quỷ vương (3,22), rằng Người đáng bị kết án tử hình (14,53-65).
Cùng với việc giảng dạy, Chúa Giêsu còn thể hiện uy quyền của Người bằng cách trừ quỷ. Khi ấy, “trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên rằng: “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” Nhưng Đức Giêsu quát mắng nó: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!” Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta” (cc.23-26).
Trừ quỷ là một trong những hoạt động của Chúa Giêsu mà tác giả Mc ưa thích kể lại nhất, ví dụ trong 1,23-27.34.39; 3,11-12; 5,1-20; 9,14-29. Ở đây, quỷ được gọi là “thần ô uế”. Chữ “thần” ở đây có ý nói đến một sức mạnh đầy quyền năng, hoạt động, và rất khó kiểm soát. Chữ “ô uế”, trong ngôn ngữ Thánh Kinh, chỉ về thực tại xấu xa, phàm tục, khác hẳn thực tại của Thiên Chúa, đối nghịch hoàn toàn với Thiên Chúa. Trong sách Tin Mừng, thần ô uế xuất hiện như một sức mạnh không phải của con người, nhưng hành động một cách cá vị, có hiểu biết đặc biệt, hoàn toàn đối nghịch với Thiên Chúa, khống chế nhiều người và buộc họ phải làm những điều xấu xa… Thần ô uế rõ ràng là sức mạnh hoàn toàn đối nghịch với Thần Khí của Thiên Chúa. Nó cũng là sức mạnh thù nghịch với con người, phá hoại sự tự do hành động của con người.
Chúa Giêsu được khắc họa trong tư thế có quyền siêu việt tuyệt đối trên thần ô uế. Người quát mắng nó. Và chỉ bằng một lời quát mắng như thế, Người đã chiến thắng nó. Người giải thoát con người khỏi tình trạng nô lệ thần ô uế, trả lại cho họ sự tự do.
Trước khi bị trục xuất, thần ô uế đã kêu lớn tiếng với Chúa Giêsu: “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!”. Lời này nói về sứ mạng và căn tính của Chúa Giêsu. Nó cho thấy Chúa Giêsu có mối liên hệ đặc biệt với Thiên Chúa. Người được Thiên Chúa sai đến. Người đến để tiêu diệt quyền lực ma quỷ. Sau này, Người sẽ nói rõ ràng hơn: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (2,17); “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (10,45).
Tóm lại, bài Tin Mừng hôm nay khắc họa cho chúng ta những đường nét chính yếu trong hoạt động của Chúa Giêsu:
(1) Ngay từ đầu, Người không hoạt động đơn độc, nhưng là trước sự hiện diện và chứng kiến của các môn đệ mà Người đã kêu gọi; họ đã bỏ mọi sự mà theo Người và Người cho họ được đồng hành với Người trong hoạt động cứu độ của Người.
(2) Người giảng dạy. Đây là một hoạt động chính yếu của Người ngay từ đầu.
(3) Người giảng dạy theo một cách thức hoàn toàn khác với các kinh sư Do Thái đương thời.
(4) Người trừ quỷ, tức là thực hiện những hành động quyền năng để giải thoát con người khỏi tình trạng nô lệ những thế lực gian ác.
(5) Người hoạt động trong một mối tương quan đặc biệt với Thiên Chúa: Người là Đấng Thánh của Thiên Chúa.
(6) Người giảng dạy và hành động như một Đấng có thẩm quyền đặc biệt.
Chúa Giêsu vẫn đang hoạt động như thế giữa thế giới hôm nay, nhờ Hội Thánh. Sứ vụ của Người được tiếp nối bởi Hội Thánh. Và Hội Thánh được mời gọi hành động như Chúa đã hành động. Chúng ta được mời gọi ý thức về điều đó, để cầu nguyện cho Hội Thánh và để sống xứng đáng với sứ vụ cao cả của Hội Thánh.
8. Đấng Thánh của Thiên Chúa - Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
Trong Tin Mừng theo thánh Máccô, ta không thấy có những bài giảng dài như Tin Mừng Mátthêu hay Gioan. Nhưng bù lại Máccô đã kể khá nhiều phép lạ của Đức Giêsu.
Khung cảnh của bài Tin Mừng hôm nay là hội đường vùng Caphácnaum vào một ngày sabát.
Theo Máccô, Đức Giêsu đã bắt đầu sứ vụ từ đây.
Chúng ta cần xem Ngài đã sống ngày sabát như thế nào.
Trước hết Ngài đã vào hội đường và giảng dạy.
Thánh Máccô không kể lại nội dung của bài giảng, chỉ cho biết là người ta sửng sốt khi nghe Ngài vì cách giảng đầy uy quyền (c. 22) và lời giảng thì mới mẻ (c.27).
Phép lạ đầu tiên Đức Giêsu làm ở hội đường này là trừ quỷ. Ở đây có một người đàn ông bị thần ô uế ám.
Trước sự hiện diện của Đức Giêsu, anh ta sợ hãi nên kêu lên: “Ông Giêsu Nadarét, ông đến tiêu diệt chúng tôi ư? Tôi biết ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (x. câu 24).
Sự hiện diện của Đấng Thánh cũng đủ làm cho thần ô uế phải khiếp sợ, vì ô uế và thánh thiện không đội trời chung. và Đấng thánh thiện có khả năng triệt phá thần ô uế.
Lời của Đức Giêsu bây giờ là lời trừ quỷ, lời quát mắng, lời ra lệnh đầy uy quyền, lời khiến thần ô uế phải tuân theo.
“Câm đi, hãy xuất khỏi người này !”
Thần ô uế đã nhập vào và làm người ấy bị tha hóa, bị mất tự do, bị chi phối và sai khiến như một nô lệ.
Lời Đức Giêsu là lời giải phóng để anh ấy được thật sự là mình, được giải thoát khỏi tình trạng ô uế.
Thế giới chúng ta đang sống là một thế giới bị ô nhiễm, từ không khí, nước uống đến những sản phẩm nhiễm độc của con người.
Nhưng điều đáng sợ hơn cả là bầu khí ô nhiễm về tinh thần, bầu khí ô uế của sex thấm vào mọi ngõ ngách của cuộc sống. Xin Đức Giêsu trả lại cho ta sự trong sạch nơi cái nhìn, sự trong trắng nơi trái tim và sự trong suốt nơi mọi cuộc gặp gỡ.
Lạy Chúa Giêsu, giàu sang, danh vọng, khoái lạc là những điều hấp dẫn chúng con. Chúng trói buộc chúng con và không cho chúng con tự do ngước lên cao để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất, nhờ cảm nghiệm được phần nào sự phong phú của kho tàng trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi bán tất cả những gì chúng con có, để mua được viên ngọc quý là Nước Trời. Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng trước những lời mời gọi của Chúa, không bao giờ ngoảnh mặt để tránh cái nhìn yêu thương Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen.
9. “Người giảng dạy như Đấng có uy quyền” - Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay hướng chúng ta về Đức Giêsu chính là vị ngôn sứ ưu việt mà ông Môsê đã tiên báo cho dân tộc Israel ở trong sa mạc: “Từ giữa anh em, Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ để giúp anh em”.
Trong Tin mừng, thánh sử Marco trình bày Đức Giêsu là một Đấng rất uy quyền trong lời nói cũng như trong hành động: “Người giảng dạy như Đấng có uy quyền, chứ không như các kinh sư” (Mc, 1, 21).
– Uy quyền trong lời nói, vì lời rao giảng của Đức Giêsu là tin mừng giải thoát con người khỏi tội lỗi và sự chết. Lời nói của Ngài rất thực tế và hấp dẫn có thể thay đổi tâm hồn con người, biến cải con người nên thánh thiện đạo đức. Hơn nữa những gì Chúa rao giảng thì Chúa đã thực hành trong cuộc sống chứ không như các kinh sư “nói mà không làm; nói một đàng làm một nẻo”. Điều này đã được dân chúng, các thính giả của Ngài xác nhận; “Ngài giảng dạy người ta như một Đấng có uy quyền”.
– Uy quyền trong hành động, lời giảng dạy của Chúa Giêsu kèm theo các phép lạ, cụ thể qua việc Chúa chữa người bị quỷ ám. Hơn nữa chính ma quỷ phải công nhận “Đức Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Trước lời rao giảng và phép lạ trừ quỷ thì “dân chúng kinh ngạc về giáo lý của Người… Ngài dùng uy quyền mà trừ thần ô uế”.
Lời giảng của Đức Giêsu là giáo lý mới mẻ! Sự mới mẻ đó làm cho người ta tin nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, làm cho danh tiếng Người lan tràn khắp vùng lân cận Galilê.
Lời giảng của Đức Giêsu là “lệnh truyền cho cả các thần ô uế và chúng phải vâng theo” (Mc 1, 27). Chính thái độ vâng phục của ma quỷ trước uy quyền của Chúa Giêsu, đã nói lên thời cứu độ đã tới, thời đại của Đấng Thiên Sai đã đến.
Là tín hữu Kitô, chúng ta cần học hỏi, suy niệm và sống Lời Chúa để khám phá ra sự mới mẻ của Lời Chúa, đồng thời nhạn ra quyền năng của Chúa bày tỏ trong vũ trụ vạn vật để ca tụng ngợi khen và yêu mến Chúa.
Coutois khẳng định: “Nếu chúng ta khiêm tốn sống Lời Chúa trong môi trường của mỗi người, chúng ta sẽ âm thầm trở nên “muối men” cho cả nhân loại vì “ánh sáng” của những người sống lời Chúa chiếu tỏa xa hơn người ta tưởng rất nhiều”.
Tokichi Ishii, một tên sát nhân không gớm tay đã đạt kỷ lục hạ sát nhiều nạn nhân nhất bằng những phương thế dã man không thể tưởng tượng nổi. Hắn tàn sát đàn ông, phụ nữ, trẻ em với bàn tay khát máu, hắn đã thủ tiêu bất cứ người nào tình cờ hắn gặp và muốn giết. Nhưng cuối cùng hắn bị bắt và bị kết án tử hình.
Lúc ở nhà tù chờ ngày hành quyết, hai phụ nữ công tác tông đồ khuyên nhủ hắn, tất cả những lời thăm hỏi, trò chuyện của họ không làm cho hắn mảy may động tâm, trái lại hắn nhìn thẳng vào họ với cặp mắt dữ tợn như một hung thủ.
Cuối cùng, mất hết kiên nhẫn, hai phụ nữ ra về. Họ chỉ để lại cho hắn cuốn Tân ước với hy vọng mỏng manh hắn sẽ đọc và Lời Chúa sẽ hoạt động… Niềm hy vọng đã trở thành sự thật. Ishii đã đọc, Lời Chúa thu hút anh khiến anh tiếp tục đọc trình thuật cuộc tử nạn của Chúa Giêsu… Đọc đến câu: “Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”! (Lc 23, 34), anh dừng lại, suy nghĩ. Anh tâm sự: “Đọc đến câu này, con tim tôi bị đánh động, bị đâm thâu bằng một con dao dài. Tôi có thể gọi đó là tình yêu của ông Giêsu, là lòng thương xót của Ngài. Điều duy nhất tôi biết là sự hung dữ, tàn bạo nơi tôi đã tan biến và tôi đã tin vào Chúa”.
Các nhân viên nhà giam dẫn đưa anh đi hành quyết, họ rất ngạc nhiên thấy tử tôi Ishii hòa nhã, lễ độ, chứ không phải một tên sát nhân hung bạo. Ishii, tên tử tội đã được lời Chúa tái sinh (Trích Lẽ Sống, Radio Veritas).
“Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước
Là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119, 105).
10. Một ngày ở Ca-phác-na-um - P. Trần Đình Phan Tiến
Ca-phác-na-um là một thành trì nằm sát Biển hồ Ti-ber-ri-a, nơi mà Chúa Giêsu vừa kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên. Nói về giao thông, thì Ca-phác-na-um thuận lợi hơn Giê-ru-sa-lem. Bởi vì, nó nằm gần sát trục lộ chính, trục lộ nầy là chiều dài của nước Do-thái, vì vậy, nó chạy xuyên xuốt nước Do-thai (song song với chiều dài Địa Trung Hải). Biển hồ Ti-ber-ri-a nằm ngay giữa trục lộ nầy, chạy dài xuống Biển Chết (Death Sea). Nơi Chúa Giêsu Giáng Sinh là Bê–lem (nguyên quán Vua Đa-vít), gần Giê-ru-sa-lem, gần Biển Chết. Nhưng, nơi sinh trưởng của Người là Na-za-ret, vì thế Người được gọi là “Giêsu Nazaret”. Na-za-ret gần Biển hồ Ti-ber-ria, vì vậy, Ca-phác-na-um là nơi giảng dạy đầu tiên của Người. Có thể ví Ca-phác-na-um như Vũng Tàu của Việt Nam, còn Thành Giê-ru-sa-lem như Hà Nội vậy.
Nhưng, Chúa Giêsu chỉ đến Ca-phác-na-um có một ngày “… Người vào hội đường giảng dạy. Thiên hạ sửng sốt về Lời dạy của Người. Vì Người giảng dạy như Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư” (c 21 -22).
Theo đó, Tin Mừng hôm nay được chia làm ba phần:
– Phần thứ nhất: Nói về sự giảng dạy của Chúa Giêsu tại hội đường Ca-phác- na-um (c 21-22).
Điều nầy nói lên rằng: Chúa Giêsu đang thực thi sứ mạng của mình. Người là Đấng Thiên Sai. Lời giảng dạy của Người có sức thu hút người nghe, bởi vì là Lời chân thật, Lời có sức thu hút, vì là Lời siêu nhiên. Chúng ta thấy một yếu tố thần học hiện rõ nơi Lời rao giảng của Chúa Giêsu, bởi vì là Lời Hằng Sống theo Thiên Tính của Người, còn theo nhân tính thì Lời ấy được phát ra từ chính một Con Người, có sức thu hút người nghe, bởi vì, Lời ấy không phải giảng dạy theo ý riêng của người rao giảng, mà là theo ý của Thiên Chúa. Chúng ta thấy ý nghĩa rõ rệt hiện ra ngay khi Chúa Giêsu rao giảng.Vì Người giảng dạy như Đấng có thẩm quyền. Điều ấy có nghĩa là giá trị Lời nói của Chúa Giêsu hiện rõ lên. Nhưng người nghe có đón nhận hay không, và đón nhận như thế nào là tùy thuộc vào “mảnh đất tâm hồn“ của người đó. Chúng ta thấy sự khác biệt giữa sự giảng dạy của Chúa Giêsu và các kinh sư. Họ cũng giảng giải Thánh Kinh, nhưng theo ý của họ, chứ không theo ý của Thiên Chúa. Vì “họ nói mà không làm”, hoặc làm theo một cách máy móc, chứ không phát xuất từ tấm lòng.
Đoạn Tin Mừng hôm nay thật là đoạn Tin Mừng gây ”nhức nhối” cho những ai đang rao giảng Lời Chúa. Vì, nếu muốn rao giảng như Chúa Giêsu, thì chúng ta phải “xin” cho có được một tâm hồn như Người. Và rao giảng như một con người tông đồ chân chính, chứ không rao giảng như một “con buôn”. Vì rao giảng Lời Chúa thì không phải là một chuyện dễ dàng, vì muốn rao giảng Lời Chúa thì phải sống như Lời Chúa dạy. Sở dĩ những người kinh sư không làm được như Chúa Giêsu, vì họ không sống được như Người.
– Phần thứ hai: (Từ câu 23-26) Chúa Giêsu trừ quỷ.
Chúng ta thấy, phần thứ hai của đoạn Tin Mừng hôm nay, là một sự chứng minh cho phần thứ nhất ở trên. Ngay lập tức, trong hội đường của họ, có người bị quỷ ám, la lên rằng: “Ông Giêsu Nazaret, chuyện chúng tôi liên quan gì đến ông, mà ông đến phá (tiêu diệt) chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi, Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (c 24).
Chúng ta thấy, thẩm quyền của Chúa Giêsu là như vậy, chính thế lực tà thần phải thốt lên như vậy, vì phàm nhân không thể thấy được sự siêu phàm từ Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu quát mắng nó: “Hãy câm đi, hãy xuất ra khỏi người nầy!” (c 25). Rõ ràng, Lời của Chúa Giêsu có sức xua tan thần ô uế. Một phép lạ, một sự trừ tà ngay lập tức được Chúa Giêsu thực hiện. Chúng ta thấy, quyền năng nơi Chúa Giêsu, lập tức phát ra, nếu Người muốn. Tuy đây là buổi giảng dạy công khai đầu tiên, nhưng Chúa Giêsu đã bày tỏ Thiên tính uy quyền nơi Người, vì thần ô uế hiện diện nơi ấy, và nó sợ hãi Người, đồng thời phá rối việc Người giảng dạy.
Qua đó, chúng ta thấy, việc rao giảng Lời Chúa luôn phải đối phó với việc phá rối của tà thần. Nhưng, chúng ta đừng sợ, vì sự rao giảng Tin Mừng chân chính, thì Lời Chúa sẽ phá tan tất cả những thế lực tà thần. Đó là đức tin của chúng ta, đó là đức tin của Giáo Hội, chúng ta hãnh diện tuyên xưng đức tin ấy.
– Phần thứ ba: Sự kinh ngạc của những người chứng kiến (c 27-28)
Vâng, mọi người đều kinh ngạc, ai lại không kinh ngạc, bởi vì tất cả đều lạ lùng. Chúa Giêsu đã bày tỏ sự lạ lùng của Người. Họ bàn tán với nhau: “Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, Người dạy lại có uy quyền…” (c 27). Như vậy, câu 27 đã minh chứng được phần đầu của đoạn Tin Mừng hôm nay. Người giảng dạy như Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư (c 22).
Rồi, “lập tức danh tiếng của Người đồn ra khắp nơi, khắp các miền lân cận Ga-li-lê (c 28). Nhưng, Chúa Giêsu là Người không muốn nổi danh, bởi vì sứ vụ của Người không phải để được nổi danh, mà là đem ơn “Cứu độ” cho nhân loại. Một điều gì đó cao cả hơn, ý nghĩa hơn, quan trọng hơn, xừng đáng hơn sự nổi danh của phàm nhân.
Khởi đi từ bài đọc I (Đnl 18, 15-20) hôm nay, minh chứng rằng tại sao Đấng cứu thế phải mặc nhân tính phàm nhân. Hầu để mang Lời Thiên Chúa qua sự hữu hình của nhân thế, mà ngày nay chúng at gọi là ”Ngôi Lời”. Vâng, “Ngôi Lời” đã làm Người, đã trở nên phàm nhân, nhưng, Thiên Tính là Bản Tính Thiên Chúa vẫn hiện hữu nơi Người. Đó là điều kỳ diệu nơi Chúa Giêsu, Ngôi Lời nhập thể và nhập thế. Đồng thời đó là ”Nhiệm Vụ tiên tri” của Đấng làm Người.
Bài đọc II (1Cr 7, 32-35), thánh Phao-lô cho biết ý nghĩa của nhân tính và thiên tính. Ai có gia đình thì chu toàn phận vụ gia đình. Ai không có gia đình thì chu toàn phận vụ Thiên sai.
Thánh vịnh 23 hôm nay, cho chúng ta biết, sự khải hoàn của Đấng Kitô là điều hiển nhiên. Đấng Kitô là Đấng công minh. Sự trong sạch và tấm lòng không vẩn đục.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến trong thế gian, hầu mang ơn cứu độ đến cho nhân loại qua sứ vụ Thiên Sai, hầu biểu lộ Ngôi Lời của Thiên Chúa. Xin ban cho phàm nhân biết nhìn nhận và đáp trả, để đón nhận ơn giải thoát và bình an của Chúa. Amen.
11. Người trừ quỷ.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Anh chị em có tin ma quỷ không? Anh chị em có thực sự tin không? Anh chị em không biết phải trả lời ra sao nữa. Tôi cũng vậy. Tuy nhiên, ma quỷ đang là vấn đề thời sự. Anh chị em hãy nhớ lại sự thành công của một cuốn phim mang tựa đề: “Exorcist” (Người trừ quỷ) được ra mắt khán giả vào năm 1970 đã phá kỷ lục bán vé. Chuyện phim kể lại một chàng thanh niên bị quỷ ám, giống hệt anh chàng trong Tin Mừng hôm nay. Cuốn phim được xây dựng dựa trên một trường hợp có thật của một cậu bé 14 tuổi, sống tại vùng Mt. Rainier, bang Maryland, vào năm 1949.
Một hôm trong phòng của cậu bé, các tranh ảnh, ghế bàn và chiếc giường của cậu bé đột nhiên di động. Ban đêm hầu như cậu ta không thể nào ngủ được, vì luôn bị quấy phá. Sau khi được nhận vào bệnh viện, cậu bé bắt đầu lầm bầm trong miệng những lời nguyền rủa hung hãn bằng những thứ cổ ngữ, và đến một lúc nào đó, dù cậu đang bị cột vào chiếc giường ngủ, thì trên thân xác cậu lại hiện ra những vết cào dài nhuốm máu. Cuối cùng cậu đã được cứu sống nhờ được một linh mục trừ tà, và hiện nay cậu đang sinh sống tại vùng Thủ đô Washington. Một linh mục già từng tham gia vào việc trừ tà cho cậu bé đã thề hứa sẽ không bàn luận gì về việc ấy, ngài nhấn mạnh rằng kinh nghiệm này đã thực sự biến đổi cuộc sống của ngài tốt đẹp hơn.
Thưa anh chị em, như đám đông dân chúng chứng kiến Chúa Giêsu trừ quỷ ở Hội đường Caphanaum đã bàn tán với nhau: “Thế nghĩa là gì? Ông ấy ra lệnh cho quỷ, quỷ cũng phải vâng theo”. Chúng ta cũng thắc mắc: Đâu là ý nghĩa sâu xa ẩn chứa đàng sau quyền năng của Chúa Giêsu xua đuổi ác thần, quyền năng mà Chúa Giêsu đã trao ban cho Giáo Hội của Ngài?
Để trả lời cho câu hỏi này, Chúa Giêsu nói: “Ta trừ quỷ chính nhờ quyền năng Thiên Chúa, và điều ấy chứng tỏ rằng Nước Thiên Chúa đã đến với các ngươi rồi” (Lc 11,20). Ý nghĩa sâu xa hơn ẩn chứa đàng sau việc Chúa Giêsu trừ quỷ chính là Vương quốc của Satan từng kiềm kẹp nhân loại dưới vòng nô lệ kể từ khi Ađam phạm tội, giờ đây đang nhường chỗ cho Vương quốc của Thiên Chúa: Nước đã đổi chủ. Nước Thiên Chúa đã đến. Điều này gợi ra cho chúng ta một vấn nạn khác: Nếu Chúa Giêsu đã khai mạc Vương quốc Thiên Chúa từ 2000 năm nay, vậy thì tại sao đến ngày hôm nay, điều ác vẫn còn lan rộng trên thế giới? Nói cách khác: Nếu Chúa Giêsu đã khai mạc Vương quốc Thiên Chúa khi Ngài còn sinh thời, thì tại sao Vương quốc Satan cũng vẫn còn tác oai tác quái trong thời đại chúng ta ngày nay?
Dĩ nhiên câu trả lời sẽ là: Vương quốc Thiên Chúa không đến tức khắc. Đó là một bước tiến từ từ. Nó không phải là biến cố xảy đến chỉ một lúc, mà là một chuyển động liên tục xuyên suốt dòng lịch sử. Đức Giêsu đã khai mạc Vương quốc Thiên Chúa, nhưng Ngài trao phó cho chúng ta công việc hoàn tất: Đó là lý do tại sao trong lời Kinh Lạy Cha, chúng ta vẫn cầu nguyện: “Xin cho Nước Cha trị đến”. Chúng ta có thể sánh ví Vương quốc Thiên Chúa như một cây non. Chúa Giêsu trồng cây ấy, nhưng Ngài giao cho chúng ta nhiệm vụ vun xới, bón phân, tưới nước cho nó. Nhiệm vụ của chúng ta là chăm sóc làm sao cho Vương quốc ấy sinh hoa kết trái theo đúng ý định của Thiên Chúa.
Nhưng tại sao Vương quốc Thiên Chúa lại chậm đến như thế? Tại sao Vương quốc Satan lại lâu lụi tàn như thế? Đó là vì chúng ta đã không hoàn tất nhiệm vụ của chúng ta một cách thỏa đáng. Chúng ta đã không thực hiện trách nhiệm làm hoàn tất Vương quốc ấy đúng như chúng ta đã có thể làm. Thậm chí, có khi chính chúng ta lại đồng lõa với Satan, với thế lực của sự ác để làm lùi bước tiến của Nước Chúa.
Chúa Giêsu đã khai mở Nước Thiên Chúa trên mặt đất, nhưng cuộc chiến với Satan còn kéo dài đến tận thế. Chúng ta phải cộng tác để Nước Chúa mau thành tựu.
Anh chị em thân mến, Satan, ma quỷ thường được mô tả như một con vật xấu xí và đáng sợ. Nếu thế thì chúng ta rất dễ nhận ra nó, và nó cũng khó lòng cám dỗ được ta. Trong thực tế, ma quỷ không bao giờ hiện nguyên hình của nó để cám dỗ chúng ta. Nó luôn ẩn nấp dưới những hình dáng xinh đẹp và hấp dẫn. Nó tấn công chúng ta bằng thủ đoạn tinh vi, ngọt ngào. Nó nắm rõ điểm yếu nhất của từng cá nhân cũng như tập thể. Xưa nay, người bị quỷ nhập thực sự chắc không nhiều. Nhưng chắc hẳn nhiều người bị quỷ lèo lái mà không biết. Kitô giáo không bịa ra ma quỷ để hù dọa tín đồ. Ma quỷ là những mãnh lực xấu xa, cố kéo chúng ta xa Chúa. Chúng chống lại Thiên Chúa và hạnh phúc đích thực của con người. Chúng phỉnh phờ con người bằng thứ hạnh phúc giả tạo. Chúng ta tự hào mình không bị quỷ ám. Nhưng thế giới hôm nay vẫn bị ám bởi nhiều thứ quỷ: quỷ tham vọng và dục vọng, sợ hãi và oán thù, ích kỷ và hưởng thụ… Có những điều vốn không xấu cũng trở thành ngẫu tượng: tiền bạc, tiện nghi, thời trang, công việc làm ăn, phim ảnh… Cái ám nào cũng làm ta mất tự do, mất trong trắng. Cái ám từ ngoài vào, ở lại trong ta, trở nên ô uế. Nó bắt chúng ta phải nghĩ, phải sống như theo một lập trình vi tính. Chúng ta không thể làm khác, không thắng được bản năng và thói quen. Chúng ta thấy mình bất lực, nên cần “Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Hôm nay Chúa muốn nói với tà thần ở trong tôi: “Hãy xuất ra khỏi người này!”. Nhờ ơn Chúa, tôi cũng muốn ra lệnh cho ma quỷ hãy xuất ra khỏi thế giới này.
Hôm nay chúng ta được mời gọi kiểm chứng cuộc chiến đấu của chúng ta với Satan, để phát hiện những thông đồng của chúng ta với sự ác và với ma quỷ. Satan là “thủ lãnh của việc giết chết” và “cha của sự dối trá”. Đối với đồng loại, chúng ta có sử dụng bạo lực không, hay chúng ta sống yêu thương và phục vụ? Chúng ta có sống trong sự thật với Thiên Chúa và với anh em chúng ta không?
Nguyện cho Thánh lễ này, trong đó chúng ta tham gia vào cuộc chiến thắng của Chúa Kitô trên ác thần, trên tội lỗi và sự chết, làm cho chúng ta được tăng cường sức sống của Chúa để cộng tác với Ngài chiến đấu và chiến thắng sự ác trong ta và trong thế giới.
12. Xua đuổi ma quỷ – Arthur Tone.
Một nông dân giàu có nhất trong huyện và rất keo kiệt. Ông đã hối cải, khi ông ý thức rằng. Ông chỉ là một người quản lý đất đai và một người giữ tiền. Không lâu sau đó, một người lối xóm nghèo bị chấy hết cửa nhà, đến gõ cửa xin đồ ăn. Nông dân giàu có này định cho người ngheo một đùi heo trong bếp. Trên đường xuống bếp. Ma quỷ nói thầm bên tai ông: “Cho hắn cái đùi heo nhỏ nhất”.
Người giàu có này chiến đấu với tính keo kiệt cố hữu của ông. Cuối cùng lòng quảng đại đã thắng. Ông lấy cái đùi heo lớn nhất. Ma quỷ cười nhạo ông: “Mày khùng quá”. Nhưng người nông dân bịt miệng y: “Nếu mày không đứng im, tao cho hết mọi đùi heo tao có”.
Chúng ta vừa nghe Đức Giêsu đuổi ma quỷ ra khỏi người bị ám.
Thời đại chúng ta có nhiều chuyện liên quan đến ma quỷ, không những do những cuốn sách, những phim ảnh; gọi là “người trừ quỷ”, nghĩa là một người có thể xua đuổi ma quỷ, mà còn do những nhóm người kỳ dị, họ thờ cúng Satan.
Thật là một lầm lẫn lớn thường thấy ngày nay khi nghĩ rằng ma quỷ ở đâu xa, một nơi nào đó. Nó ở trong một người nào khác chứ không có trong tôi. Thực sự, ma quỷ có mặt nơi mỗi người chúng ta. Cảm tạ Chúa, chúng ta không hoàn toàn dưới sự kiểm soát của chúng. Nhưng cái tinh thần ma quỷ thì ở trong hầu hết mọi con người.
Người hà tiện trong câu chuyện đã đánh bại con quỷ keo kiệt. Nhưng nó vẫn còn cám dỗ ông keo kiệt tiếp. May thay ông lại đánh bại nó.
Con quỷ kiêu hãnh ở trong nhiều người chúng ta. Chúng ta phải đánh bại nó hoài hoài, nói được là mọi lúc. Nhưng chúng ta phải luôn cảnh giác kẻo nó đưa chúng ta lên khi nghĩ rằng chúng ta thật là một nhân vật quan trọng do công nghiệp của riêng mình.
Quỷ mê ăn uống, nó cố gắng làm chúng ta ăn uống thái quá, nhất là uống rượu quá độ. Nó không bao giờ từ bỏ ý định xô đẩy chúng ta ra khỏi tinh thần tiết độ.
Quỷ khoái lạc là một con quỷ có mặt nạ dễ thương, có nhiều bạn trợ giúp như Tivi, phim ảnh, tòa án ly dị, sách báo đồi trụy và bạn bè xấu nết. Tuy nhiên nó cũng phải bị đánh bại. Hàng triệu người đã đánh bại nó.
Bất chấp ma quỷ đến với chúng ta dưới hình thức nào. Chúng ta luôn luôn có thể nương tựa vào Đức Kitô hộ giúp. Trên trần gian Chúa chúng ta đã trừ quỷ nhiều lần trong đời Ngài như trong bài Tin Mừng hôm nay. Nhưng Satan vẫn trở lại, và thành công trong việc giết Đức Kitô trên thập giá. Xem như ma quỷ đã hoàn toàn thắng. Nhưng sự Phục Sinh đã đem lại cho Đức Kitô sự chiến thắng.
Trong mỗi thánh lễ, trên chiến long trời, lở đất này tái diễn: Đức Kitô chết – Đức Kitô sống lại. Trong sự lập lại chiến thắng của Chúa chúng ta. Bạn và tôi được thêm sức mạnh và can đảm để xua đuổi ma quỷ ra khỏi cuộc sống của mỗi người. Hãy tìm kiếm con quỷ trong cuộc đời riêng của bạn và với sự trợ giúp của Đức Kitô; Bạn trục xuất hắn ra.
Xin Chúa chúc lành cho bạn.
13. Chúa Giêsu và dân chúng
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta thử tìm về thái độ của Chúa Giêsu đối với dân chúng. Như chúng ta đã biết Palestine là một xứ nóng, người ta thường sống ở ngoài đường. Cũng chính ở ngoài đường mà Chúa Giêsu thường tiếp xúc và giảng dạy cho dân chúng. Chung quanh Ngài lúc nào cũng có một đám đông thuộc đủ mọi hạng người: Đau yếu, tàn tật, mù lòa, phong cùi, khổ đau, nghĩa là những người cần đến một sự giúp đỡ nào đó. Ngoài ra còn có những bà mẹ và những đứa con, những người đạo đức và những kẻ tội lỗi. Ngài thường mở rộng vòng tay đón nhận, tiếp xúc và nâng đỡ họ.
Ngày kia khi thuyền vừa cặp bến, thì có một đám đông đã chờ đợi Ngài. Từ trong đám đông, ông Giairô tiến ra xin Ngài đến chữa cho đứa con gái của ông đang hấp hối. Chúa Giêsu liền bước theo ông mà chẳng nói một lời. Rồi giữa đám đông, bỗng dưng Chúa Giêsu quay mặt lại và hỏi: Ai đã động đến Ta. Câu hỏi này làm cho các môn đệ ngạc nhiên và nói: Thầy coi đám đông đang chen lấn thế mà Thầy lại hỏi ai động đến Thầy. Sở dĩ Ngài hỏi như thế là vì muốn giúp người đàn bà đau yếu đã làm hành động ấy được biểu lộ đức tin của mình. Sau khi bà ấy đã xác nhận, Ngài nói với ba: Đức tin của con đã cứu chữa con, vậy con hãy về bình an.
Chúa Giêsu không phải chỉ niềm nở tiếp đón mọi người, nhưng hơn thế nữa, Ngài còn biết cách nói với từng hạng người. Thực vậy với bọn biệt phái, là những kẻ đạo đức giả, vốn kiêu căng và tự mãn, Ngài không ngần ngại gay gắt chỉ trích: Các ngươi giống như mồ mả tô vôi. Các ngươi là những kẻ dẫn đường đui mù. Với những người tội lỗi thì khác, Ngài thấu hiểu nỗi đớn đau và sự giày vò của họ, nên Ngài đã nói với họ bằng tất cả sự tế nhị, để họ thấu hiểu và tìm thấy được niềm hy vọng.
Một đặc điểm đáng chúng ta lưu ý, đó là Chúa Giêsu luôn sử dụng những hình ảnh cụ thể để diễn tả những chân lý cao siêu. Chẳng hạn Ngài sánh vị Thiên Chúa như một người cha nhân từ mòn mỏi đón chờ đứa con hoang đàng trở về hay như người mục tử đi tìm kiếm con chiên bị lạc mất. Ngài đòi hỏi mỗi người chúng ta phải trở nên như muối mặn, như đèn sáng. Với những người đau yếu, Ngài nói với họ về bệnh tật, về sức khoẻ, nhưng từ đó Ngài dẫn họ tới bình diện siêu nhiên bằng cách nói với họ: Con hãy về bình an. Tội con đã được tha. Sự chữa lành phần xác chỉ là một khởi điểm cho một cuộc sống mới, cuộc sống thấm nhuần tình thương của Thiên Chúa.
Mặc dù phải tiếp xúc, phải giảng dạy, Ngài cũng biết giữ lấy những khoảng khắc thinh lặng. Ban sáng, ban tối và ban đêm Ngài thường tới những nơi thanh vắng để cầu nguyện. Trước sự tố cáo của bọn biệt phái đối với Người phụ nữ ngoại tình Ngài đã yên lặng. Trước toà án Philatô Ngài cũng đã yên lặng. Sự yên lặng của Ngài lúc này có giá trị như một lời nói. Từ những điều vừa trình bày chúng ta nhận thấy: Qua Đức Kitô, Thiên Chúa đã nói, đã đối thoại với chúng ta, bởi vì Ngài là Lời của Thiên Chúa. Lời ấy hoàn toàn khác biệt với lời của chúng ta. Thực vậy, lời của Thiên Chúa là lời tạo dựng: Ta muốn có trời đất muôn loài vậy lập tức liền có. Lời của Thiên Chúa là lời của chữa lành: Ta muốn con hãy chỗi dậy, Ta muốn con hãy lành sạch. Lời của Thiên Chúa là lời tình yêu: Thầy truyền cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau. Lời của Thiên Chúa là lời Tin Mừng cứu rỗi: Đức tin của con đã cứu chữa con.
14. Ma quỷ
Năm 1970, cuốn phim Quỷ Ám được trình chiếu và đã phá kỷ lục về số vé bán ra. Chuyện phim được xây dựng trên một trường hợp có thật của một cậu bé 14 tuổi, sống tại bang Maryland vào năm 1949. Tờ Newsweek đã mô tả như sau: Tranh ảnh, bàn ghế và cả chiếc giường của cậu bé đột nhiên di động. Về đêm cậu bé không thể nào chợp mắt. Sau khi được nhận vào bệnh viện trường đại học Geogetown cậu bé bắt đầu lâm râm trong miệng những lời nguyền rủa hung hãn bằng một thứ cổ ngữ. Cuối cùng cậu được trừ tà và được cứu thoát. Hiện nay cậu đang sinh sống tại thủ đô Washington. Một vị linh mục già trừ tà cho cậu đã hứa không bàn luận gì về việc này, nhưng ngài nhấn mạnh rằng kinh nghiệm ấy đã thực sự biến đổi cuộc đời mình.
Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay. Với sự việc Chúa Giêsu xua trừ ma quỷ chúng ta sẽ đưa ra 2 câu hỏi. Câu hỏi thứ nhất đó là nếu như Đức Kitô đã khai mạc vương quốc Thiên Chúa 2000 năm rồi, vậy tại sao đến hôm nay điều ác vẫn còn lan rộng, hay nói cách khác vương quốc của Satan vẫn còn tác oai tác quái? Dĩ nhiên câu trả lời sẽ như sau: Nước Thiên Chúa không đến tức khắc, nhưng là một bước tiến từ từ. Nó không phải là một biến cố chỉ xảy ra trong một lúc nào đó, mà là một chuyển biến liên tục suốt dọc dòng lịch sử. Ngài khai mạc vương quốc ấy, nhưng lại trao cho chúng ta hoàn tất. Đó là lý do tại sao trong kinh Lạy Cha chúng ta vốn kêu cầu: Xin cho Nước Cha trị đến. Đức Kitô đã gieo trồng, còn bổn phận của chúng ta là vun xới và chăm sóc để Nước Chúa được đâm bông kết trái.
Câu hỏi thứ hai được đưa ra đó là tại sao Nước ấy lại đến chậm như thế, hay nói cách khác tạo sao vương quốc của Satan lại lâu tàn lụi như vậy? Tôi xin thưa chỉ vì chúng ta đã không hoàn tất nhiệm vụ của mình một cách thoả đáng, đã không thực hiện những lệnh truyền của Chúa. Chẳng hạn có bao nhiêu người trong chúng ta đã thi hành giới luật yêu thương của Ngài. Sở dĩ chúng ta chưa yêu thương người khác, thậm chí cả những người thân yêu trong gia đình là vì chúng ta quá bận rộn với những công việc bên ngoài đến nỗi quên mất sự tuyệt vời của những người ấy. Vì chúng ta không biết dừng lại để nhìn ra được bản chất đích thực của họ, vốn là những tạo vật xinh đẹp, đáng được yêu thương, giống như chúng ta đã được chính Thiên Chúa yêu thương vậy.
Hãy sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, nhờ đó Nước Chúa mỗi ngày một trị đến, đồng thời nhờ đó chúng ta đẩy lui được ảnh hưởng của quyền lực Satan.
15. Ma quỷ
Có một bác nông dân rất giàu nhưng cũng lại rất keo kiệt. Thế rồi bác hối hận và muốn làm lại cuộc đời. Ngày kia một người hàng xóm bị cháy nhà, đến gõ cửa và xin ăn. Bác định cho người ấy một đùi heo trong bếp. Trên đường xuống bếp ma quỉ nói thầm bên tai bác: Cho cái đùi bé bé thôi nhé. Bác chiến đấu với tính keo kiệt cố hữu của mình và đã lấy cái đùi heo lớn nhất. Ma quỉ nhạo cười bác: Mày khùng quá. Thế nhưng bác đã nói lớn: Nếu mày không câm miệng lại, thì ta sẽ cho ông ta cả con heo ngay bây giờ.
Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay, kể lại việc Chúa Giêsu xua trừ ma quỉ. Thời buổi chúng ta có nhiều chuyện liên quan tới ma quỉ, không những do sách vở, phim ảnh, mà còn do những nhóm người kỳ dị, thờ cúng Satan. Thật là một lầm lẫn tai hại khi tưởng rằng ma quỉ ở đâu xa, tại một nơi nào đó, hay ở trong một người nào khác chứ không phải ở trong tôi.
Thực sự thì ma quỉ có mặt nơi mỗi người chúng ta. Cảm tạ Chúa vì chúng ta không hoàn toàn sống dưới sự kiểm soát của chúng. Tuy nhiên có điều chắc chắn là cái tinh thần của ma quỉ thì ở trong hầu hết mọi người. Bác nông dân đã đánh bại con quỉ keo kiệt, nhưng nó vẫn còn cám dỗ bác và bác lại đánh bại nó.
Con quỉ kiêu hãnh ở trong nhiều người. Hãy chiến đấu chống lại nó ở mọi nơi và trong mọi lúc, nhưng cũng hãy cảnh giác kẻo nó đưa chúng ta lên khi nghĩ rằng: Tôi là một nhân vật quan trọng do công nghiệp và tài năng riêng của tôi.
Con quỉ mê ăn uống luôn thôi thúc chúng ta ăn quá nhiều, uống quá nhiều đến độ say sứa xỉn, không còn biết tiết độ là gì nữa.
Con quỉ khoái lạc thì đến với chúng ta bằng một bộ mặt thật dễ thương, đồng thời nó còn nhiều đồng minh trợ giúp như sách báo và phim ảnh đồi trụy, hay bè bạn xấu…
Tuy nhiên, chúng ta cần phải chiến đấu chống lại nó. Bất chấp ma quỉ đến với chúng ta dưới hình thức nào, thì chúng ta vẫn có thể và phải nương tựa vào Chúa. Trong quãng đời công khai, Ngài đã nhiều lần trừ quỉ như đoạn Tin Mừng hôm nay kể lại. Thế nhưng Satan vẫn hoạt động, vẫn bành trướng và đã thành công trong việc giết chết Ngài trên thập giá. Tuy nhiên, cũng nhờ cái chết ấy, mà Ngài đã đem lại sự chiến thắng, một sự chiến thắng trọn vẹn và mãi mãi qua mầu nhiệm Phục sinh của Ngài.
Hãy tìm kiếm xem đâu là con quỉ chính yếu đang làm mưa làm gió, đang chi phối cõi lòng chúng ta, rồi sau đó, hãy chạy đến với Chúa để xin Ngài nâng đỡ và chở che như kinh chúng ta vốn thường đọc: Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.
16. Ma quỷ
Ma quỉ vốn là một tạo vật của Thiên Chúa. Đôi khi nó được phép quấy nhiễu con người và làm cho con người sợ hãi mà bỏ việc phụng sự Chúa…
Cha thánh Vianney là một thí dụ. Quỉ thường quấy nhiễu ngài ban đêm, có lúc nó bắt chước tiếng đóng đinh xuống nền nhà, có lúc nó hát bằng một giọng the thé. Ngài nói:
– Tôi đã nghe nó bảo rành mạch: Hỡi Vianney, mày làm cái gì đó, hãy cút đi.
Dần dần tôi cũng quen với sự quấy phá của nó. Nói chung, nó chẳng làm gì được ngài.
Thật ra chúng ta không nên sợ những con quỉ có sừng hay có đuôi đe dọa. Chúng ta nên sợ Satan đội lốt thiên thần ánh sáng, lắm mánh khóe và lắm trò bịp bợp. Nó biến chúng ta thành tay sai cho nó ngay chính lúc chúng ta tưởng rằng mình đang phụng sự Thiên Chúa.
Vậy phải cảnh giác trước những quyến rũ ngọt ngào, những hứa hẹn hấp dẫn của nó.
Con đường dẫn tới Nước Trời phải là con đường nhỏ hẹp khó đi. Thế nhưng có nhiều người tín hữu hôm nay không tin vào sự hiện diện của ma quỉ.
Nếu đọc lại Phúc Âm chúng ta sẽ thấy ma quỉ quả thực là một thực tại mầu nhiệm, đang hiện hữu và hoạt động nhằm làm băng hoại con người. Nó không phải là một ý niệm trừu tượng, mà là một quyền lực cụ thể đang bành trướng trong thế giới.
Người ta có thể gọi quyền lực này là Belzebuth, là Lucifer, là con rắn xưa, là tên dối trá, là kẻ cám dỗ… Tất cả chỉ là một thực tại duy nhất muốn phá vỡ kế hoạch của Thiên Chúa và đưa con người vào vòng nô lệ.
Cần phải nhận ra quyền lực của ma quỉ để hiểu được cái mỏng giòn yếu đuối của thân phận con người, và từ đó đón nhận ơn giải thoát của Đức Kitô…
Ma quỉ đúng là một kẻ thù mạnh mẻ đáng gờm, nhưng may mắn thay, Đức Kitô còn là người mạnh mẻ hơn nó nhiều. Ngài đã phục sinh ngay lúc tử thần đang huênh hoang vì đã tiêu diệt được Ngài.
Chiến thắng của Ngài là bảo đảm cho chiến thắng của nước Thiên Chúa vào ngày sau hết và cũng là bảo đảm cho chiến thắng của chúng ta hôm nay, giữa những cuộc đối đầu với tên thủ lãnh của thế gian này. Satan đưa chúng ta vào vòng nô lệ, còn Đức Kitô thì giải thoát chúng ta.
Nhìn vào thế giới hôm nay, chúng ta thấy biết bao nhiêu hình thức nô lệ, biết bao nhiêu xiềng xích của ác thần đang trói buộc con người, mà nhiều lúc con người không nhận ra. Nô lệ cho quyền lực, nô lệ cho tình dục, nô lệ cho ma túy, nô lệ cho cờ bạc, nô lệ cho rượu chè, nô lệ cho mọi thứ chủ nghĩa cực đoan, nô lệ cho mọi thứ cuồng tín tôn giáo.
Khi nhìn vào bản thân, chúng ta thấy mình cũng ít nhiều sống dưới sự thống trị của ma quỉ, mặc dầu mỗi năm vào đêm Phục sinh, chúng ta vẫn lặp lại lời tuyên xưng từ bỏ ma quỉ và những gì thuộc về nó. Ma quỉ vẫn còn cám dỗ chúng ta mỗi ngày qua giác quan, qua trí tưởng tượng, qua lòng tham lam, qua những tương quan lệch lạc…hãy chạy đến với Chúa và kêu cầu:
Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.
17. Trong đời
Đoạn Tin Mừng hôm nay là một trong nhiều trường hợp đề cập đến thần dữ hay ác thần, tức là ma quỷ. Ma quỷ thế nào? Ngày nay chúng còn hoạt động trên trần gian không?
Trước hết, thiết tưởng cần phân biệt ma và quỷ. Đây là hai loại khác nhau chứ không phải là một mà người Việt Nam chúng ta thường gọi chung với nhau là ma quỷ. Ma, theo lối hiểu thông thường, là hồn người chết hiện về để ám ảnh, đe dọa hoặc liên hệ gì đó với người sống. Còn quỷ là loại thiên thần hư hỏng, đã bị Thiên Chúa đày xuống hỏa ngục. Như vậy, ma có không? Nhiều người tin mà cũng nhiều người không tin. Nếu hiểu là một loài vô hình như ma xó, ma trơi hay ma này ma nọ… thì không có. Còn nếu hiểu là hồn người chết hiện về thì có, nhưng cũng chỉ xảy ra trong một số trường hợp rất họa hiếm, do sự cho phép đặc biệt của Chúa, để đương sự nhắn bảo một điều gì đó với người sống, hay do ủy nhiệm riêng Chúa trao phó cho đương sự, như thỉnh thoảng nghe nói linh hồn này hay linh hồn kia trở về dương gian trong một vài tích truyện. Còn quỷ thì sao? Phải công nhận là có, vì Kinh Thánh đã nói đến nguồn gốc của chúng. Chúng được nhắc đến nhiều lần trong Tin Mừng. Chính Chúa Giêsu cũng đã bị chúng cám dỗ.
Như vậy, quỷ có thật, chúng vẫn có mặt và hoạt động trên trần gian này. Nhưng sự xuất hiện của chúng tinh vi, kín đáo, khéo léo, nên người ta tưởng rằng dường như chúng không có, hay có chăng thì cũng bị ánh sáng khoa học đẩy lui và quật ngã rồi. Đây là một thứ thái cực mới đi ngược lại thái cực cũ. Nghĩa là trước kia, khi khoa học chưa phát triển và tiến bộ, người ta sợ hãi và thường nói đến ma quỷ như những thế lực ghê gớm, gây “kinh hồn táng đởm” cho nhiều người, thậm chí lại còn nhìn thấy chúng ở khắp nơi nữa. Còn bây giờ, khoa học tiến bộ vượt mức, người ta lại cho ma quỷ là một chuyện hoang đường, bịa đặt, không liên quan gì với cuộc đời con người tại thế.
Phải công bình nhận định rằng: khoa học đã có tác dụng lớn lao trong việc trừ ma đuổi quỷ ra khỏi xã hội con người. Ở đâu dân trí được nâng cao, đời sống văn minh, ma quỷ xem ra rút lui có trật tự. Chẳng hạn ở những chỗ ngã ba đường tăm tối, quanh co, với bóng cây đa cổ thụ mà người ta thường tin là nơi có ma quỷ ngự trị, chỉ cần sửa sang lại đường sá, dựng lên mấy cột điện là đêm hôm người ta có thể ra đó tình tự hay thẩn thơ hóng gió mà không sợ ma quỷ gì nữa. rõ rệt nhất là ở thành thị, ít ai nghe nói chỗ này chỗ kia có ma có quỷ, trẻ con có thể chạy chơi trên những đường phố vắng về đêm. Nhưng ở thôn quê thì khác, chỉ mới nhá nhem tối, không chỉ trẻ con mà cả người lớn, không dám ra ngoài ngõ, nhất là nếu gần đấy có nghĩa địa hay mồ mả nào đó, thì người ta lại càng sợ hãi hơn nữa.
Muốn nghĩ thế nào thì nghĩ, đối với chúng ta, điều chắc chắn là quỷ có thực và không chỉ coi thường hoạt động cũng như sự phá hoại của chúng trên đời sống con người ở trần gian này… Dĩ nhiên cũng phải nói ngay: ảnh hưởng và sức phá hoại của chúng nằm trong phạm vi nội giác và vô hình nhiều hơn, nên chúng ta cũng cần đương đầu với chúng trên mặt trận ấy, nghĩa là trong cuộc chiến đấu chống các cơn cám dỗ để giữ lòng trung thành với Chúa và đẩy lui những tấn công nguy hại của chúng.
Tuy nhiên, chúng ta chớ lầm và đừng vội gán cho Satan, đổ lỗi cho quỷ dữ tất cả những gì xấu xa trong cõi loài người. Kinh thánh cho biết: Satan là kẻ cám dỗ. Nhưng một điều đáng suy nghĩ là đối với Đức Kitô, tất cả những ai tìm cách ngăn cản anh em mình thực hiện sứ mệnh Thiên Chúa, người ấy cũng đáng gọi là Satan, đối thủ hay là kẻ cám dỗ. Chứng cớ là thánh Phêrô đã bị Chúa quở mắng, gọi là Satan, khi ông tỏ ý ngăn cản Chúa đi chịu nạn chịu chết để cứu chuộc loài người.
Câu chuyện thánh Phêrô bị quở mắng và bị coi là Satan làm chúng ta nghĩ đến những câu chửi rủa mà người Việt Nam hay dùng như: “đồ quỷ”, “thằng quỷ”. “con quỷ”, “quỷ sứ”, “nó ra ma ra quỷ”, “đến quỷ cũng phải chịu mày”… Những câu chửi rủa đó thường được áp dụng cho những kẻ nghịch ngợm. Thì ra người Việt Nam cũng đã khám phá ra rằng: ngoài thứ quỷ mà Kinh Thánh nói tới, còn có những thứ “quỷ đen đầu: có thực, bằng xương thịt, sống bên cạnh chúng ta hằng ngày, đó chính là những người anh em nhân loại của chúng ta.
Như vậy, ngoài việc công nhận sự hiện hữu của quỷ, chúng ta còn nhìn nhận một thực tại khác không kém phần quan trọng, đó là sự ác, sự xấu và tội lỗi, không phải là những món hàng hoàn toàn do Satan và bè lũ lén lút nhập cảng vào trần thế, nhưng chính là những đồ “nội hóa”, được sản xuất ngay từ nội tâm mỗi người. Chúng ta không dè rằng Satan, kẻ cám dỗ, có thể là chính chúng ta. Không ai muốn nhận mình là Satan, là kẻ cám dỗ, nhưng rất có thể và đôi khi chúng ta đã cám dỗ anh em mình hành động trái với chân lý, công bằng và bác ái.
Bởi thế, vấn đề quan trọng không phải là cái gì cũng đổ lỗi cho quỷ, trái lại, mỗi người phải dứt khoát chọn sự thiện, chọn con đường của công lý và tình thương. Chúng ta không nên quá sợ hãi quỷ hay những chước cám dỗ của chúng. Nhưng trước hết, tự mình đừng bao giờ xúi giục, cám dỗ anh em làm điều xấu, điều ác, điều tội lỗi; đồng thời cũng phải tỉnh thức đề phòng những chước cám dỗ mà anh em có thể đem đến cho chúng ta.
18. Quyền năng
Ralph Waldo Emerson chiếm vị trí như là một trong những nhân vật văn học vĩ đại của Mỹ vào thế kỷ 19. Vốn là một học giả, một nhà văn tiểu luận và một thi sĩ gây ảnh hưởng rộng rãi, ông trở nên một trong những tiếng nói quan trọng nhất trên quê hương ông. Ông là một kẻ thù ác liệt của sự nô lệ và thối nát về mặt chính trị. Một trong những bài tiểu luận của mình, ông nói một điều gì đó rất phù hợp dưới ánh sáng của bài Tin Mừng hôm nay:
“Tôi chỉ biết rằng mình sống đến mức độ này mà thôi. Ngay khi chúng ta biết rằng những lời nói của người nào mang nặng hơi thở cuộc sống, thì ngay tức khắc, tôi học hỏi được từ bất cứ thuyết trình viên nào về lối sống của họ. Một người nói từ bên trong, hoặc từ kinh nghiệm, là sở hữu chủ của sự kiện; người nào nói từ bên ngoài, thì như một khán giả, hoặc như một người mới làm quen với những sự kiện dựa trên chứng cứ của một người thứ ba. Không cần phải rao giảng cho tôi từ bên ngoài. tôi có thể tự mình làm được điều đó”.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta đọc được rằng lối giảng dạy của Đức Giêsu đã “làm cho dân chúng sửng sốt, bởi vì người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư”. Tại sao Đức Giêsu gây được tác động như vậy trên các thính giả của Người? Bởi vì theo lối nói của Emerson, thì “ Đức Giêsu luôn luôn nói từ bên trong, và theo một mức độ vượt lên trên tất cả những người khác. Nhưng đây là cách thức mà mọi người nên luôn luôn áp dụng. Tất cả mọi người đều không ngừng trông đợi sự xuất hiện của một nhà giảng dạy giống như thế”.
Trong đời sống thiêng liêng, lối nghe gián tiếp ít có giá trị. Ở đây, người duy nhất nói với quyền năng, chính là người đã sống với điều đang nói đến. Không có quyền năng nào giống như quyền năng của người đã sống điều mà họ đang nói.
Ngay khi Đức Giêsu bắt đầu giảng dạy, ngay tức khắc dân chúng nhận ra rằng có một sự mới mẻ và trong suốt trong lời giảng dạy của Người. Mặc dù Người không có cùng một loại kiến thức giống như các kinh sư vào thời đó. Nhưng theo một cách thế nào đó, thì đây lại là một lợi thế. Van Gogh nói “Về một phương diện nào đó, thì tôi lại vui mừng vì mình không được học vẽ”. Có nhiều cách học hỏi hơn là từ trong sách vở. Trường đời thật là vĩ đại.
Điều này đã gây được ấn tượng nhiều nhất nơi nơi các thính giả của Đức Giêsu chính là quyền năng mà Người đã sử dụng khi giảng dạy, mặc dù Người không hề giữ một vị trí chính thức nào cả. Nhưng để có khả năng nói bằng năng quyền, người ta không cần phải giữ một vị trí chính thức nào. Trên thực tế, đôi khi sự thật còn trái ngược lại. Người giữ một cương vị chính thức không sống theo con người riêng của họ. Người đó bị bắt buộc phải thúc ép theo đường lối của đảng phái. Trong khi người không nắm giữ một cương vị chính thức nào, thì có quyền tự do để nói đúng điều cần phải nói.
Trong thời của Đức Giêsu, không có một kinh sư nào diễn tả được theo ý riêng của mình. Ông ta luôn luôn phải mở lời bằng cách nêu ra uy tín của mình. Ông ta dựa vào những lời trích dẫn từ các thày thông luật vĩ đại trong quá khứ, để hỗ trợ cho câu nói của mình. Điều cuối cùng mà ông ta làm được, đó là đưa ra một lời phê phán độc lập.
Đức Giêsu nói với tiếng nói của riêng Người, với quyền năng của bản thân Người. Người không hề biện hộ cho tất cả mọi điều mà Người nói, bằng cách trích dẫn Kinh Thánh, hoặc câu nói của một vị thày thông luật khác. Điều đó sẽ chỉ càng chứng tỏ rằng người đó thiếu năng quyền mà thôi.
Về một khía cạnh, chúng ta phải phân biệt giữa quyền năng và ảnh hưởng, và về khía cạnh, phải phân biệt giữa sức mạnh và sự kiểm soát. Một số người có quyền năng vĩ đại nhất về mặt luân lý, lại không hề có sức mạnh; và có người gây ảnh hưởng nhất, lại không cần phải kiểm soát những người mà họ gây ảnh hưởng. Một người có thể có tất cả quyền năng trên trần gian, lại vẫn thất bại trong vai trò của một người giảng dạy.
Có một số người có tính ưu việt về mặt tinh thần, mà không thể giải thích được. Điều này đem đến cho họ năng quyền vĩ đại về mặt luân lý. Họ có được năng quyền này, không phải là do chức vụ mà họ nắm giữ, nhưng là do ở chính con người của họ. Đây là năng quyền vĩ đại nhất và cao cả nhất vượt lên trên tất cả mọi sự. Điều này bắt nguồn từ chính năng quyền của Thiên Chúa. Nếu không có được năng quyền này, thì người nắm giữ một chức vụ chỉ là một người thừa hành, chỉ là một người phát ngôn mà thôi.
Đức Giêsu đã có loại quyền năng này, với một mức độ mà không có bất cứ người nào khác đạt được. Mỗi người Kitô hữu, bất kể người đó nắm giữ một chức vụ gì, đều có thể và nên có loại quyền năng này – loại quyền năng xuất phát từ việc sống theo tính cách của một con người chính trực trong suốt.
19. Quyền năng
Ngày nay, chúng ta có quá nhiều lời nói từ những nhân vật của quần chúng. Nhưng thật đáng chán khi có thể dự đoán được điều mà họ sẽ nói. Có quá ít người nói bằng quyền năng thực sự. Lúc này, thật vô cùng đáng nghi ngờ về những lời nói của những kẻ có quyền. Có thể người ta phải tuân theo những lời tuyên bố về mặt chính sách, nhưng không ai nghiêm túc coi họ như là những người có quyền năng.
Nếu có nhiều nhân vật của quần chúng bị thiếu mất sự tin tưởng của dân chúng thì điều gì gây tổn hại đến lòng tin? Đó là khi người nói không còn tin tưởng vào lời mình đang nói nữa. Tôi không thể nói được một cách đầy đủ về điều mà tôi không tin tưởng, bất kể tôi thường xuyên lập đi lập lại những lời nói này đến thế nào.
Vậy thì tính cách của người nói rất quan trọng. nếu tính cách của người đó bị nhiều khuyết điểm, thì lòng tin của người đó bị xói mòn một cách trầm trọng. Bạn nhận thấy khó mà uống loại rượu nào được rót ra từ một cái lon đựng rượu đã bị rỉ sét hoặc dơ bẩn. Và khi người nói không sống theo những lời nói của bản thân mình, thì có lẽ đây là điều gây tổn hại nhất. Emerson đã nói về điều đó như sau: “Xin đừng nói nữa. Điều nào có giá trị trên con người của bạn, thì lại quá vang rền, đến nỗi tôi không thể nghe được điều trái ngược lại”.
Định mệnh vĩ đại trong sứ mạng của Đức Giêsu được dành cho việc rao giảng. Và lời giảng dạy của Người lại quá khác biệt, so với những người rao giảng chính thức vào thời đó – các kinh sư. Không có một kinh sư nào diễn tả ý kiến của riêng mình. Ông ta luôn luôn bắt đầu bằng cách nêu ra quyền năng của ông ta. Trái lại, Đức Giêsu nói bằng tiếng nói của chính Người, và Người không cần đến tiếng nói khác. Người không hề nêu ra năng quyền nào, và không hề trích dẫn câu nói của bất cứ chuyên gia nào, tuy nhiên, Người vẫn nói bằng một quyền năng vĩ đại. Người không hề có bất cứ chức vụ chính thức nào. Vậy thì quyền năng của Người xuất phát từ đâu? Năng quyền đó đến từ sự kiện là Người đã nói lên sự thật: “Một lời nói sự thật đáng giá cả thế giới” (Ngạn ngữ Nga). Ngoài ra, lời giảng dạy của Người mới mẻ, trực tiếp và có sự trong suốt về sự thật. Chẳng hạn một số câu nói như “Không ai có thể làm tôi hai chủ được… Một thành phố xây dựng trên núi không thể che giấu được… Con lạc đà không thể chui qua lỗ kim…”
Lời giảng dạy của các kinh sư không đem lại thỏa mãn cho dân chúng. Còn lời giảng dạy của Đức Giêsu lại nuôi dưỡng được tâm hồn và tinh thần con người. Có một số người giảng dạy chỉ cung cấp các sự kiện mà thôi. Người khác lại cung cấp được tầm nhìn, cảm hứng và ý nghĩa cuộc sống nữa. Và tất nhiên là năng quyền của Đức Giêsu xuất phát từ tính cách của Người một tính cách khiến cho dân chúng buộc phải lắng nghe Người. Thế rồi lại có lúc Người chứng tỏ lời nói của Người bằng những hành động cụ thể. Mặc dù thánh Marcô nói rằng “Dân chúng sửng sốt vì lời giảng dạy của Người”, ngài không kể cho chúng ta nghe Đức Giêsu nói gì. Dường như điều này lại càng chứng tỏ rằng con người của Đức Giêsu chính là một bài giảng rồi. Vào một buổi sáng sớm, có một người đàn ông đang đi dạo bên ngoài. Bầu trời trong sáng. Ông ta nghe được tiếng ồn của một máy bay phản lực tại một nơi nào đó. Ông dừng chân nhìn xem, để có thể xác định vị trí. Dõi theo âm thanh, ông nhận thấy dường như chiếc máy bay đó ở ngay trên đầu ông. Nhưng không phải vậy, ông đã tìm kiếm, và không thấy máy bay đâu cả. Thật ra ông nhìn thấy một vết hơi nước trên bầu trời. Nhìn theo dấu vết này, cho đến tận nơi xuất phát của nó, ông phát hiện ra chiếc máy bay – một hình tam giác màu trắng có thể nhìn thấy được một cách rõ ràng trên vòm trời xanh. Chiếc máy bay đã bay đi xa rồi, trong khi âm thanh của nó vẫn còn ở ngay đầu ông. Nhưng âm thanh đó quá lớn, để có thể đánh thức được cả kẻ chết.
Theo một cách nói, chiếc máy bay đã hành động trước, rồi phát ra âm thanh sau. Nói một cách lý tưởng, đây là cách rất hay – hành động nên đến trước lời nói. Người ta sẽ lắng nghe, nếu một người bắt đầu nói, sau khi đã hoặc đang làm một việc gì đó. Những lời nói của người này thật nặng ký. Những lời nói đó có quyền năng thực sự. Người ta có thể nghi ngờ lời bạn nói, nhưng người ta sẽ tin tưởng việc bạn làm. Nhiều lời nói không có tác dụng, vì trước đó, hoặc đồng thời, hoặc sau đó, không có những hành động đi đôi với lời nói.
Trong những lời nói của Đức Giêsu, có của ăn nuôi dưỡng cuộc sống của chúng ta. Nhưng chỉ lắng nghe mà thôi thì chưa đủ, mà còn phải sống theo Lời Chúa nữa. Nếu không sống theo sự thật, thì chúng ta sẽ không được nuôi dưỡng đầy đủ.
20. Mặc chúng tôi
Khi Đức Giêsu đang giảng dạy trong hội đường ở Capharnaum, một người bị thần ô uế nhập la lên “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi liên can gì đến ông, mà ông đến tiêu diệt chúng tôi?”. Trên thực tế, điều mà người đàn ông đó đang nói là “Hãy để mặc tôi! Tôi không phải là người tốt lành, tôi là kẻ dữ, tôi không xứng đáng được yêu thương hoặc săn sóc”.
Đây là một tiếng kêu mà chúng ta đã từng được nghe trong Tin Mừng, từ những người cho rằng mình bị quỉ dữ chiếm hữu. “Đừng can thiệp vào chuyện chúng tôi. Hãy để mặc chúng tôi. Đừng tìm cách thay đổi chúng tôi“. Họ nhận ra rằng sự thay đổi đó gây đau đớn. Chúng ta không biết rằng họ có bị quỉ dữ chiếm hữu hay không. Nhưng chúng ta biết rằng họ là những người bị bệnh hoạn, đổ vỡ, cô độc, không được yêu thương, không hề có nhân phẩm, và giá trị bản thân của họ là con số không.
Trong thế giới của chúng ta ngày nay, có nhiều người như vậy – trong các nhà tù, bệnh viện tâm thần v.v… Bất cứ người nào trong chúng ta cũng có thể lâm vào tình huống đáng tuyệt vọng này. Ít nhất, người đàn ông trong hội đường đã không cố gắng che giấu tình trạng của mình. Anh ta đến với Đức Giêsu. Người không hề lảng tránh sự kêu gọi đầy tuyệt vọng của anh ta. “Hãy để mặc tôi!”. Đức Giêsu nghe thấy rằng đó là một tiếng kêu gọi sự giúp đỡ. Và người đã chữa lành cho anh ta.
Người cảm thấy thật khó mà thừa nhận rằng họ không thể xoay xở được, đối với những vấn đề của bản thân mình. Lòng tự hào nói với họ rằng: ta nên tự giải quyết những vấn đề của mình. Nhưng sự nhận ra mình có vấn đề chính là bước đầu tiên hướng tới sự phục hồi. Khi chúng ta biết thừa nhận sự yếu đuối và nhu cầu của mình, thì sẽ mở lối cho sự phục hồi. Những người can đảm mới đi xin cố vấn.
Các nhà tâm lý học nói với chúng ta rằng đôi khi, người ta không thực sự mong muốn được chữa trị. Tại sao vậy? Bởi vì việc chữa trị gây đau đớn – Điều này lôi kéo theo một quá trình đòi hỏi nhiều sự thay đổi, và tất cả những sự thay đổi đều đau đớn. Ý tưởng được phục hồi thậm chí càng có thể khủng khiếp hơn nữa.
Thông thường, chúng ta hay e sợ khi phải nói về một điều gì đó gây đau lòng cho chúng ta. Chúng ta muốn khóa chặt trong tâm hồn mình, để rồi lại cứ day dứt mãi. Có thể chúng ta không nói rằng “Hãy cứ để mặc tôi” nhưng như thế, chẳng khác gì câu nói “bạn không thể biết được, bạn không thể hiểu được tôi đâu”. Chịu đựng đau khổ mà không chịu nói ra, lại càng gây tổn thương hơn, so với nỗi đau khổ nào được bộc lộ ra.
Vừa khi đứa con trai chào đời, một bà mẹ trẻ khám phá ra rằng cháu bé bị mù. Chị gọi cả gia đình lại và nói: “tôi không muốn con trai tôi biết cháu bị mù”.Chị khẩn khoản xin mọi người tránh sử dụng những từ như “ánh sáng”, “màu sắc”, và “tầm nhìn”, đứa trẻ lớn lên, trong niềm tin tưởng rằng mình giống như tất cả những người bình thường khác, cho đến một ngày kia, một bé gái xa lạ nhảy qua bức tường của khu vườn, và đã sử dụng tất cả những từ bị cấm đoán trên đây.
Câu chuyện trên tượng trưng cho nhiều thái độ sống của chúng ta. Tất cả chúng ta đều tìm cách che giấu những điều kỳ lạ và gây đau đớn, và cứ sinh hoạt như thể mọi sự đều bình thường vậy. Chúng ta làm như mình không hề có vấn đề gì, không có gì là bất thường, không có nỗi đau, không có vết thương, không biết thất bại là gì cả. Ý tưởng thôi thúc người ta che giấu rất mạnh mẽ, và còn có thể gây tác hại hơn cả cố gắng giấu giếm.
Khi chúng ta có can đảm dám đương đầu với những vấn đề của mình, thì những năng lực mới mẻ trở nên sẵn có đối với chúng ta. Nỗi sợ hãi, xấu hổ, và mặc cảm tội lỗi làm cho chúng ta ở lại trong tình trạng cô lập. Chính nhờ sự bộc lộ những vết thương, nhờ để cho mình đụng chạm và được đụng chạm vào, mà chúng ta được chữa lành. Chính trong sự đổ vỡ của chúng ta, trong vết thương của chúng ta, mà Thiên Chúa chữa lành cho chúng ta – nếu chúng ta tạo cho Người một cơ hội.
21. Giêsu Nagiarét
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta tự hỏi Chúa Giêsu là ai? Tôi xin thưa Ngài là một người như chúng ta.
Trước hết Ngài đã có một quê hương và quê hương Ngài là làng Nagiarét.
Đây là một thôn làng nhỏ bé quây quần chung quanh một cái giếng duy nhất. Thôn làng này không có chi nổi bật, nếu không phải là người ta đã có một chút châm biếm và khinh dể khi nghĩ về nó:
– Từ Nagiarét nào có sự gì tốt đâu.
Tiếp đến, Ngài cũng có một gia đình. Gia đình Ngài gồm có thánh Giuse, Mẹ Maria và Ngài. Thực vậy, người ta thường gọi Ngài là con bác thợ mộc Giuse. Nghề thợ mộc là một nghề lặt vặt và đa dạng. Vừa xây cất nhà cửa, vừa đóng bàn đóng ghế và sửa chữa những gì hư hỏng. Có lẽ vào khoảng 12 tuổi, Chúa Giêsu đã học nơi thánh Giuse nghề nghiệp này để kiếm sống.
Mẹ Ngài là Đức Maria, người đã giữ một vai trò quan trọng trong cuộc sống của Ngài. Mẹ Maria đã hòa nhập vào sinh hoạt của dân làng nên mọi người đều biết đến.
Cũng như những gia đình khác, Chúa Giêsu có một tổ tiên, một gia phả. Trong cuốn sổ gia phả này, chúng ta thấy xuất hiện những khuôn mặt không mấy tốt lành. Điều đó muốn nói lên rằng Chúa Giêsu đến để mang lấy tội nhân loại, Ngài muốn mang lấy những đau khổ mà chính chúng ta gặp phải, từ phía gia đình cũng như xã hội. Ngài đã trở nên một người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi: có một quê hương, có một gia đình và có một tổ tiên.
Thời bấy giờ, người ta chưa tổ chức được những trường học như ngày nay. Tất cả những gì Ngài biết, một phần do cha mẹ Ngài truyền dạy, một phần do Ngài lãnh nhận được ở hội đường. Tại đó mỗi ngày thứ bẩy, người ta đều cắt nghĩa Kinh thánh. Chúa Giêsu không phải chỉ hiểu một cách hời hợt, nhưng Ngài đã hiểu đúng ý nghĩa sâu xa của nó. Ngài sống một cuộc sống bình thường, ăn mặc như họ, nói năng như họ.
Chính vì thế, khi Ngài bắt đầu giảng dạy thì những người bà con của Ngài đã ngạc nhiên và tự hỏi:
– Bởi đâu mà Ngài được như thế.
Thánh Giuse đã chết khi Chúa Giêsu còn trẻ, chính vì thế mà Ngài phải cáng đáng mọi công việc nặng nhọc để nuôi sống gia đình.
Khi được 30 tuổi, Ngài đóng cửa xưởng mộc, từ giã mẹ Ngài để lên đường rao giảng Tin Mừng. Bởi vì Ngài là Đấng Messia, người được Thiên Chúa sai đến. Ngài chia sẻ kiếp sống lầm than với mọi người. Có lần đói, Ngài đã muốn ăn một trái vả, có lần khát Ngài đã xin người phụ nữ Samaria cho mình một gáo nước. Cuộc sống êm đềm tại Nagiarét đã chấm dứt, bây giờ là những ngày tháng lang thang vất vưởng:
– Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có lấy một chỗ tựa đầu.
Có lần quá mệt mỏi, Ngài đã thiếp ngủ trên thuyền trong khi các môn đệ cố gắng chèo qua bên kia bờ hồ.
Chúa Giêsu đã chia sẻ một kiếp sống cùng khổ. Thế nhưng, nơi Ngài vẫn có một cái gì là đặc biệt vượt trên khuôn khổ bình thường ấy, vì Ngài chính là Thiên Chúa ở giữa chúng ta.
Là Thiên Chúa Đấng ở khắp mọi nơi, Ngài đã chấp nhận giới hạn trong không gian, cùng với những khổ đau mệt mỏi vì yêu thương chúng ta. Là Thiên Chúa Đấng vĩnh cửu, Ngài chấp nhận có một lịch sử, bị giới hạn vào thời gian vì yêu thương chúng ta. Là một Thiên Chúa Đấng tạo hóa, Ngài đã học một nghề và đã vất vả để kiếm sống cũng vì yêu thương chúng ta. Chỉ với cặp mắt của tình thương yêu, chúng ta mới hiểu được điều đó.
Vì kiêu căng, con người muốn bước lên ngôi Thiên Chúa, thì giờ đây để chữa tội kiêu căng ấy, chính Thiên Chúa đã bước xuống phận con người.
22. Quyền năng
Một hoàng tử kia rất đạo đức, ngày nào ông cũng thức dậy lúc 5 giờ sáng để đọc kinh thờ phượng Chúa. Xảy ra là có một hôm ông ngủ quên, thấy vậy, tướng quỷ Satan đến đánh thức ông. Khi biết kẻ đánh thức mình là Satan, hoàng tử tỏ dấu thắc mắc, ma quỷ nói với ông: “Tôi là ai, điều đó không quan trọng, việc tôi đánh thức ngài là một điều tốt, ngài thấy không, ai làm việc lành cũng là người tốt cả”. Hoàng tử đáp: “Không bao giờ ma quỷ lại làm điều lành, vậy nhân danh Thiên Chúa, mi phải nói rõ vì lý do nào mi đánh thức ta? Bấy giờ ma quỷ buộc lòng phải nói thật: “Nếu ngài ngủ quên không đọc kinh sáng khi thức dậy ngài sẽ hối hận, khiêm tốn và sửa chữa để sống đạo tốt hơn, còn ngày nào cũng ra vẻ sốt sắng, ngài sẽ tự mãn, sẽ kiêu ngạo, cho là mình đạo đức đủ rồi”. Nói xong nó biến mất, ma quỷ thật tinh khôn và hiểm độc.
Ma quỷ không bao giờ làm điều lành, vì bản chất của nó là gian dối, xảo quyệt, ngay từ đầu nó đã lừa đảo và xúi giục ông bà nguyên tổ phạm tội chống lại Thiên Chúa, nó vẫn tiếp tục làm như thế để lôi kéo người ta ra khỏi tình yêu Chúa. Chỉ có Thiên Chúa mới yêu thương cứu vớt chúng ta. Thiên Chúa hiện thân nơi Đức Kitô, Ngài đã đến trần gian để yêu thương cứu chuộc loài người, Ngài là Đấng quyền năng chiến thắng ma quỷ để giải thoát con người khỏi ách thống trị của sự dữ.
Bài Tin Mừng cho biết: thoạt nhìn thấy Chúa Giêsu, thần ô uế đã thét lên: “Ông Giêsu Nagiarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Tại sao ma quỷ lại phải thét lên? Vì không thể có sự tương hợp giữa ô uế và thanh sạch, giữa tội lỗi và thánh thiện, những điều đó quá quen thuộc để nói về ma quỷ và Thiên Chúa. Cho nên, khi Chúa Giêsu đến, một kỷ nguyên mới đươc mở ra cho nhân loại, chấm dứt sự thống trị của thần dữ và đồng thời giải thoát con người khỏi mọi xiềng xích nô lệ.
Là những người tin vào Chúa Kitô và đón nhận Lời giải thoát, phải chăng câu hỏi đầu tiên mỗi người chúng ta phải tự đặt ra cho mình là: chính bản thân tôi đã được giải thoát chưa? Chúng ta phải nói là chưa, vì vẫn còn biết bao thứ “quỷ ám”, biết bao thứ ngẫu tượng đang ám ảnh chúng ta. Có những người đang bán nhân phẩm bằng những đồng tiền rẻ mạt, có những người đang thú vật hóa chính mình bằng những hành vi đê tiện, có những người đang tìm chiếm hữu tất cả, nhưng lại đánh mất chính mình.
Nói khác đi, lục soát lương tâm cho kỹ, có lẽ ai trong chúng ta cũng phải thú nhận rằng mình là nô lệ của rất nhiều ông chủ: có ông chủ là một ý thức hệ luôn trói buộc đôi cánh tư tưởng chúng ta, có ông chủ là những định kiến đối với cuộc đời, xã hội, con người mà chúng ta không bao giờ muốn từ bỏ, có ông chủ là thói quen xấu mà chúng ta tích luỹ như một pháo đài kiên cố không muốn rời bỏ, có ông chủ là thứ tôn giáo vụ hình thức mà trong đó chúng ta cố gắng tô vẽ cho mình một bộ mặt đạo đức, nhưng thực ra lại hoàn toàn xa lạ với Tin Mừng của chân lý, của yêu thương và tự do đích thực…
Đàng khác, ma quỷ thường khống chế con người bằng cách pha trộn lòng tin thực sự với những tin kiêng dị đoan dối trá: tin vào những ngôi sao, hành tinh vận chuyển, tin vào thẻ bài, cầu cơ, bói toán. Tại sao lại tin vào những cái vô tri không đối tượng như thế? Càng văn minh người ta càng bị cám dỗ tin dị đoan, càng bị ma quỷ khống chế trong lãnh vực này. Trên những tờ báo lớn của nhiều nước văn minh chúng ta thấy dầy đặc những lá số tử vi, người ta dựa vào tử vi, phương hướng hành trình của tinh tú để đoán định tương lai đời mình, có những người tin kiêng ngay cả từng bước đi cho đến cuộc đời. Người nào làm ăn phát đạt thành công là có ngôi sao tốt, người nào gặp thất bại, đau khổ là sinh bởi ảnh hưởng của một ngôi sao xấu. Như thế là người ta đã làm nô lệ cho những vì sao vô tri giác, chẳng có quyền hành gì trên mình. Khi người ta nô lệ cho những cái vô tri như thế chính là người ta nô lệ cho ma quỷ núp sau đó. Người ta có cảm tưởng rằng tin theo Chúa Giêsu là một điều tốt, là cần rồi, thế nhưng Ngài không giải thoát được hết những nguy hại trong đời, nên cần tin vào những cái vô tri đó để kiếm thêm hạnh phúc. Đó chính là một cám dỗ của vườn địa đàng tái diễn để làm sao tách rời con cái Chúa ra khỏi lòng tin Ngài, ma quỷ dùng cách đó trước khi làm chúng ta bỏ hẳn lòng tin, nghĩa là trước khi làm chúng ta mất hẳn lòng tin thì hãy tạm pha trộn tin kiêng như thế đã, và đó là bước đầu của mất đức tin. Chúng ta nên biết: Thiên Chúa là Đấng có quyền trên cả hồn lẫn xác và cuộc đời chúng ta, Ngài là Đấng duy nhất chúng ta phải tin thờ, còn những ai tin kiêng dối trá, dị đoan thì hãy nhớ một điều này “tin ma ma nhát, tin quỷ quỷ làm”, sẽ mất cả chì lẫn chài, vì thế Giáo Hội khuyên bảo chúng ta hãy coi chừng trong lãnh vực này, nó lầy lội, người ta dễ bị sa lầy trong đó.
Biết thân phận mình yếu đuối, bất toàn, dễ sa ngã, chúng ta phải luôn tỉnh thức, đồng thời luôn cậy dựa vào quyền năng của Chúa, vào ơn soi sáng của Ngài, để khám phá ra mưu mô hiểm độc của ma quỷ và kiên quyết đánh bại chúng.
Và giả như có bị thua những cám dỗ, chúng ta càng cần phải tin tưởng vào Chúa hơn, bởi vì Thiên Chúa là Đấng cao cả vô cùng thì lòng nhân từ của Ngài cũng vô hạn, tội lỗi con người có nhiều tới đâu, có nặng nề đến mức nào thì cũng như cát, như đá chìm sâu dưới đáy đại dương của lòng nhân hậu thương xót ấy mà thôi. Không có tội lỗi nào mà Thiên Chúa không tha thứ được, không có con người khốn khổ nào mà Thiên Chúa không yêu thương…, chỉ cần chúng ta có lòng khiêm tốn, muốn được tha thứ, muốn được yêu thương mà thôi.
23. Ma quỷ
Từ ngàn xưa, ma quỷ luôn luôn là một mối bất hạnh cho con người. Ma quỷ luôn tìm cách làm hại con người không những bằng xúi giục con người làm điều tội lỗi mà còn hành hạ, khống chế, trói buộc, bắt con người làm nô lệ cho chúng. Trong cuộc chiến với ma quỷ, con người không phải là địch thủ ngang tài đồng sức, nên thường thua cuộc. Ngay trong trận chiến đầu tiên, hai ông bà nguyên tổ đã thua mưu chước ma quỷ. Từ đó, con người chẳng thể nào tự mình thoát được nanh vuốt ma quỷ giam hãm.
Đức Giêsu đến mở đầu một kỷ nguyên mới: Nước Thiên Chúa đến chiến thắng nước ma quỷ. Ngay khi Đức Giêsu xuất hiện, ma quỷ mở lại bài cũ cám dỗ Đức Giêsu đi vào con đường kiêu ngạo, phô trương, cậy sức mình, ham hố danh, lợi, thú. Nhưng ngay trong lần đầu tiên giáp chiến, ma quỷ thất bại nặng nề, Đức Giêsu đã toàn thắng vì Người cương quyết đi theo con đường vâng phục thánh ý Chúa Cha, sống khiêm tốn, đơn sơ, khiêm nhường, phó thác. Từ đó, Đức Giêsu đi đến đâu là khuất phục ma quỷ, giải thoát con người đến đấy.
Đọc trong Tin Mừng, ta thấy Đức Giêsu giải thoát con người ở các khía cạnh sau đây.
Người trực tiếp giải thoát con người khỏi bàn tay hung ác của Satan. Hôm nay, Người xua đuổi thần ô uế công khai trước mặt mọi người trong hội đường. Lần khác, Người xua đuổi cả một đạo quân quỷ dữ. Chúng đã xin nhập vào đàn lợn đang ăn bên bờ biển, và cả đàn lợn lăn xuống biển chết hết.
Người gián tiếp giải thoát con người khỏi ách thống trị của Satan qua việc chữa bệnh. Theo quan niệm của người Do Thái, bệnh tật là dấu chỉ của tội lỗi. Vì thế, người bệnh là người sống dưới ách Satan. Đức Giêsu đã chữa lành rất nhiều người bệnh. Nhiều lần Người nói với người bệnh: “Tội con đã được tha”.
Người tha thiết với việc cứu con người khỏi ách nô lệ tội lỗi, nên Người thường lui tới với những người thu thuế. Người không chỉ nói lời tha thứ bên ngoài, nhưng thực sự hoán cải họ từ bên trong. Nhất là Người giải thoát họ khỏi những mặc cảm và giúp họ tái hội nhập vào đời sống cộng đoàn.
Qua những việc làm của Đức Giêsu, ta thấy Người không chỉ giải thoát con người khỏi bàn tay hung ác của ma quỷ mà còn quan tâm cứu chữa con người khỏi những thế lực đen tối của chúng.
Cuộc chiến giữa con cái Thiên Chúa và ma quỷ vẫn tiếp tục, nên Đức Giêsu khi sai các tông đồ đi rao giảng, vẫn luôn kèm theo mệnh lệnh xua đuổi ma quỷ. Hôm nay, Người sai chúng ta tiếp bước các tông đồ, đi chiến đấu chống lại ma quỷ. Ma quỷ không hiện hình cho ta thấy, nhưng chúng ẩn nấp trong các sự dữ, sự ác còn tồn tại trên thế giới.
Có thứ quỷ nghèo đang trói buộc con người, không cho họ sống một cuộc sống xứng đáng với nhân phẩm con người. Có thứ quỷ đói đang giết chết nhân loại dần mòn. Có thứ quỷ dốt giam cầm những người thất học trong tù ngục tối tăm. Có thứ quỷ bệnh không ngừng hành hạ và đẩy con người vào hố sâu tuyệt vọng.
Ngày nay, ma quỷ rất tinh khôn nên thường xuất hiện dưới những hình dáng bên ngoài xinh đẹp, hấp dẫn. Chúng xuất hiện dưới những đồng tiền bất chính và hứa hẹn cho ta một cuộc sống thoải mái. Chúng xuất hiện dưới chiêu bài tự do hưởng thụ để xúi giục ta lao mình vào những nơi ăn chơi độc hại. Chúng kích thích sự tò mò của thanh niên muốn thử sức với ma túy.
Với bàn tay nham hiểm, ma quỷ âm thầm len lỏi vào tận đáy tâm hồn, khơi lên những làn sóng chia rẽ, ganh ghét, thù hận, bất hòa. Chúng kích thích lòng tham lam vô đáy, đưa ta đến chỗ trộn cắp, kiện cáo và tranh giành. Chúng khơi dậy thói kiêu căng, lòng tự ái để ta ham hố vinh danh và quyền lực. Chúng vuốt ve thói ích kỷ để xúi giục ta chỉ nghĩ đến bản thân mình, làm ngơ trước những nhu cầu của người khác. Chúng lừa gạt ta để ta coi thường tội lỗi, mất ý thức về tội.
Hôm nay, Chúa muốn ta tiếp tục công việc của Chúa, xua trừ ma quỷ ra khỏi đời sống chúng ta. Hãy cùng nhau xua đuổi quỷ đói, quỷ nghèo ra khỏi thế giới. Hãy góp phần tích cực diệt trừ quỷ dốt, quỷ bệnh ra khỏi xã hội con người.
Hãy tỉnh táo nhận ra ma quỷ dưới những khuôn mặt đẹp đẽ của vật chất, tiền bạc, hưởng thụ, cám dỗ.
Nhất là, hãy trục xuất khỏi tâm hồn ta những con quỷ gây chia rẽ, bất hòa, tham lam, kiêu căng, tự mãn, gian trá, giả hình, hám danh, ích kỷ, dửng dưng.
Tự sức riêng, ta khó mà chiến thắng được ma quỷ. Muốn chiến thắng ma quỷ, ta phải nhờ ơn Chúa giúp. Ta múc lấy sức mạnh nơi Chúa bằng ăn chay và cầu nguyện. Ta rèn luyện tinh thần bằng khiêm nhường từ bỏ ý riêng để hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin thương xót con, xin cứu con khỏi mọi sự dữ. Amen.
24. “Thế nghĩa là gì? Người có uy quyền biết mấy?” - Noel Quesson
Trong thư viện của quốc hội Hoa Kỳ, có người đã thống kê các loại sách và công bố kết quả như sau: có 1735 cuốn viết về Napoleon; 1755 cuốn viết về Washington; 3172 cuốn viết về Lincoln; 3172 cuốn viết về W. Shakespeare và 5152 cuốn viết về Đức Giêsu Kitô.
5152 cuốn sách với nhiều bản in đây, chắc chưa phải là đủ hết số sách viết về Chúa Giêsu trên thế giới, nhưng cũng đủ cho ta thấy Chúa là một nhân vật gây nhiều ngạc nhiên cho mọi người có suy nghĩ. Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, ta thấy ngay, khi Chúa vừa ra mắt dân chúng, người ta đã xôn xao bàn tán về Chúa như một điềm lạ.
Chúa Giêsu bắt đầu giảng trong hội đường và lời Ngài làm cho người ta kinh ngạc. Một nhà vô tín đã hỏi một cụ già: “Tại sao cụ tin thờ ông Giêsu, một tử tội chết trần truồng trên Thập giá?”. Cụ già từ tốn đáp: “Thưa ông, rất đơn giản, vì tôi thấy trong lịch sử không có ai như ông Giêsu, không ai bằng ông Giêsu, cũng không ai hơn ông Giêsu”. Thực vậy, những người trực tiếp nghe Chúa Giêsu giảng, đều ngạc nhiên và cảm thấy lời Ngài khác hẳn những kiểu ăn nói của các luật sư, văn sĩ. Vì lời Ngài là “giáo lý mới!…lời Ngài ra lệnh cho ma quỷ và chúng phải tuân theo” (Mc 1,27). Trái lại, các luật sĩ chỉ biết trình bày những điều họ đã nghe, đã học mà thôi. “Ngài giảng dạy như kẻ có quyền, khác với các luật sĩ” là như thế.
Lời Ngài đi thẳng vào tâm hồn người nghe, nói thẳng tới khát vọng muôn thuở của dân Do Thái và mọi nước mọi dân. Người giảng dạy về Thiên Chúa, cũng là giảng dạy về chính mình. Cuộc sống Thiên Chúa là cuộc sống của Người. Nên Chúa nói về mình là điều vững chắc nhất, dê dàng nhất, đầy đủ thẩm quyền nhất và cũng dễ thuyết phục người nghe hơn cả.
Là Kitô hữu, chúng ta có nghĩa vụ nói về Chúa, loan báo Tin Mừng. Nhưng trong thực tế, chúng ta đã tiếp nhận Chúa vào cuộc sống chúng ta chưa? Chỉ khi có Chúa sống trong ta, ta mới có thể nói và làm những công việc Chúa giao phó: -phục vụ những người anh em đau khổ phần xác, nâng đỡ người đau khổ tinh thần, nhất là những anh em thiếu hiểu biết về Chúa, những người kém lòng tin; -Theo gương Chúa, chúng ta dâng hiến thời giờ ngày Chúa Nhật để thực tập việc cầu nguyện, chia sẻ lời Chúa, thăm viếng giúp đỡ bệnh nhân, quan tâm đến người bạn dự tòng và tân tòng của mình…
Qua Thánh Kinh, Chúa vẫn nói với chúng con mỗi ngày, qua bí tích hòa giải, Chúa vẫn trừ quỷ cho chúng con, qua bí tích Thánh Thể. Chúa luôn hiện diện với chúng con. Xin Chúa giúp chúng con sống cuộc sống của Chúa để chúng con có thể phục vụ mọi người theo gương Chúa. Amen.
25. Chú giải của Noel Quesson
Họ (Đức Giêsu và các môn đệ) đi vào thành Ca-phác-na-um.
Đó là bản văn chính xác của Thánh Maccô. Đại danh từ “họ” ở số nhiều trên đây, có vẻ bất định, nhưng rất có ý nghĩa Đức Giêsu vừa mới kêu gọi được bốn môn đệ. Đó là trang Tin Mừng ta đã suy niệm Chúa nhật vùa qua. Như thế, Đức Giêsu không còn cô lẻ nữa. Đã có một nhóm gồm năm người “đi vào” một thành trên bờ hồ Galilê. Từ đây trở đi, Maccô sẽ giới thiệu cho ta những con người đó luôn cùng sống với nhau. Họ tạo thành một nhóm “Đức Giêsu và các môn đệ của Người”.
Sau này, bằng một thứ ngôn ngữ thần học hơn, Thánh Phaolô sẽ nói đến “Thân Thể Đức Kitô” mà chúng ta là các chi thể. Với một cách nói khác, cụ thể hơn, Máccô cũng gợi lên một thực tại như thế. Điều mà Đức Giêsu sắp làm, thì lát nữa đây, chính “Người và các môn đệ” sẽ cùng thực hiện! Đó cũng là công trình của Giáo hội.
Thành Ca-phác-na-um
Ca-phác-na-um chính là biểu tượng cho xứ “Galilê của dân ngoại”, miền đất sẽ trở nên nơi thuận lợi cho công việc truyền giảng Tin Mừng. Xưa kia người ta nhắc đến Ca-phác-na-um, cũng như ngày nay người ta nói với Marseille, Amsterdam hay Hồng Kông! Đó là một hải cảng, một nơi vãng lai, pha tạp nhiều chủng tộc. Bước vào thành Đức Giêsu và các môn đệ sẽ nhận ra ngay các thủy thủ, thương gia, nông dân… Những khuôn mặt sạm nắng của dân du mục đến từ sa mạc gần đó, những người nghèo khó với quần áo tả tơi, cũng như những nhà tư sản Rôma quần là áo lượt, những binh lính làm nhiệm vụ cảnh sát cho người ngoại quốc và có Matthêu, người thu thuế bị dân chúng nhục mạ, vì thu thuế cho bọn xâm chiếm. Đó là thế giới hỗn tạp. Đức Giêsu biết như thế, nhưng Người vẫn chọn lựa. Ngày nay, để diễn tả một đống đồ lộn xộn, người Pháp đã thường nói: thật là một “Ca-phác-na-um”!
Ngày Sabát kế đó, Người vào Hội đường giảng dạy.
Sau khi quay chung cả “nhóm”, giờ đây Máccô giơ máy quay phim, ghi hình cảnh chính, tập trung vào con người có vẻ đang dẫn đầu nhóm, một người làng Na-da-rét thì phải, cho đến lúc này anh ta mới chỉ là một thợ mộc quèn trong một thôn xóm, có tên là Giêsu.
Maccô sắp diễn tả cho ta một “Ngày tiêu biểu” của ông Giêsu và nhóm này, một ngày hiển hách tại Ca-phác-na-um, bằng cách kể lại bốn “hành động” đặc trưng của toàn thể tác vụ Đức Giêsu (cũng như tác vụ của Giáo hội): 1. Đức Giêsu giảng dạy, 2. Đức Giêsu xua trừ quỷ 3. Đức Giêsu chữa lành người bệnh, 4. Đức Giêsu cầu nguyện. Tất cả những việc làm đó diễn ra trong một ngày: từ bình minh hôm nay đến bình minh hôm sau, từ sáng hôm nay đến sáng ngày mai (Mc 1,21,35). Tôi có nhận thấy mình sống như thế trong ngày sống của Đức Giêsu? trong ngày sống tiêu biểu của người Kitô hữu không? Mỗi ngày tôi có thực thi như thế cùng với Đức Giêsu không?
Một hoạt động tiêu biểu và ý nghĩa như thế, không phải ngẫu nhiên đã bắt đầu “trong Hội đồng vào một ngày Sa-bát”. Hội đường vẩn là nơi hội họp chính thức của Do Thái giáo là Ngôi nhà chung cho mọi người, là Nhà thi hành Lề luật, ngay từ đầu, Đức Giêsu đã đến ngay nơi mà có nhiều người tụ họp đông nhất. Người mong được tiếp xúc.
Người vào Hội đường giảng dạy. Thiên hạ rất đỗi ngạc nhiên về cách Người giảng dạy, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư.
Chỉ trong cùng một câu nói mà Máccô đã ba lần sử dụng từ “didakê”, “giảng dạy”. Đối với Đức Giêsu, chính giáo huấn hay “lời dạy” phải đứng hàng đầu! Thực ra, việc trừ quỷ đã hàm ẩn trong hai khẳng định của lời giáo huấn Đức Giêsu. Do đó, giảng dạy là vai trò đầu tiên của Đức Giêsu, cũng như của Giáo Hội. Tôi cố tưởng tượng xem. Tôi cứ nghĩ như mình thuộc cử tọa đang lắng nghe: Hôm nay, chính Đức Giêsu đang thuyết giảng. Maccô không nói tới nội dung bài diễn giảng. Trong trang Tin Mừng trước, Người đã phát biểu nội dung đó qua bốn câu: “Thời kỳ đã mãn… Nước Thiên Chúa đã đến gần rồi… Anh em phải sám hối… Anh em hãy tin vào Tin Mừng”. Điều làm cho Máccô quan tâm, đó là phản ứng của thính giả: Họ say mê thực sự… Đức Giêsu là một nhà thông biện vĩ đại đúng nghĩa… Người ta “kinh ngạc” vì lời Người. Trước hết, không phải giọng điệu nhằm tạo hiệu quả bề ngoài; nhưng chính là lời nói đi thẳng vào tâm hồn, nên những câu hỏi đích thực mà mỗi người đều tự đặt ra cho mình; và mang đến lời đáp trả mà người ta đang mong đợi, bởi vì nó “đúng thực” tận thâm sâu con người!
Một cách long trọng hon, Thánh Gioan đã bắt đầu Tin Mừng của ông, bằng cách nói về Đức Giêsu như sau: “Lúc khởi đầu, vẫn có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa… và Ngôi Lời đã làm người”. Còn Maccô, bằng một kiểu nói khác, cũng diễn tả đích xác cho ta cùng một thực tại đó. Đức Giêsu, Lời của một Thiên Chúa tự mạc khải, Lời gây ngạc nhiên, Lời mang tính quyết liệt… Đối với lời của Đức Giêsu, là chính sự mạc khải của Thiên Chúa tôi đã dành tình yêu như thế nào? Tôi đã dành thời gian để suy gẫm lời nói, giáo huấn của Đức Giêsu ra sao?
Những “kinh sư ” theo truyền thống chỉ biết lặp lại bài vở đã học. Còn Đức Giêsu được người ta chú ý ngay do “uy quyền” của lời Người, uy quyền phát xuất tự bên trong Người. Đức Giêsu nói về Thiên Chúa, Đúng vậy! Nhưng Thiên Chúa, cũng chính là đời sống của Người. Và điều đó dễ được người ta cảm nhận, khi ai đó nói với vẻ xác tín: “anh ta tin như thế?”, rồi anh ta sống thiết thân với lời nói của mình. Đó không phải là nói “ba láp”, nói “ba hoa chích chòe”… nhưng là nói sụ thật. Đúng vậy, Đức Giêsu luôn sống thiết thân với lời Người nói. Đó là điều khác với hạng kinh sư. Còn tôi, khi nói về Thiên Chúa, về Giáo hội, tôi có làm cho người ta cảm thấy tôi tin như thế không? Tôi là một “kinh sư” hay là một “chứng nhân? Tôi có thích lặp lại những bài đã học cách bề ngoài, hay muốn Lời Thiên Chúa trở nên “của tôi”, được nội tâm hóa, là chính “thịt xương của xương thịt tôi” không?
Đúng lúc đó, trong Hội đường, có một người bị quỷ ám la lên…
Chúng ta đang đứng trước bối cảnh phương Đông. Cuốn phim của Zefflrelli đã mô tả rất đúng cảnh này, trong đó thật là náo động, la hét, bạo lực bùng lên. Máccô không ngần ngại tỏ vẻ cho cảnh bùng nổ trên thêm màu sắc: Trước hết, đó là “tiếng la hét” vang lên trong khi Đức Giêsu đang giảng! Rồi Đức Giêsu quát mắng nó”: bầu khí thật sôi động kịch liệt! Chính khi “lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng” quỷ mới xuất khỏi anh ta.
Tân ước đã 23 lần bàn tới “thần ô uế” mà sách bài đọc dịch là “thần xấu’, bởi vì thực ra, từ “ô uế” ở đây không có nghĩa “tình dục” như hiện nay, nhưng sự ô uế chỉ được hiểu như điều gì đổi nghịch với sự “thánh thiện”. Riêng Maccô, ông sử dụng tới 11 lần từ “thần ô uế “. “Thần xấu”, chính là “đứa chống lại sự thánh thiện của Thiên Chúa”: chúng ta thấy rõ điều này được mô tả ở đây, Nó “quấy phá” con người! Nó ngăn cản con người không sống đích thực là người. Con người “bị quấy phá” trên đây, đó là chính biểu tượng của con người “bị tha hóa”. “Bị chiếm đoạt”, vì một thứ sức mạnh ngoài nhân loại khi chinh phục được con người, đã hoàn toàn thống trị nó.
Trước việc “trừ quỷ” của Đức Giêsu trên đây, chúng ta có thể phân vân giữa hai thái độ, thực ra cũng khá giống nhau, khiến chúng ta khó “hiểu biết sâu xa” cảnh tượng này: thái độ thứ nhất làm ta dễ chán nản và nuốn bác bỏ bản văn kỳ dị trên như đã cũ rích và lỗi thời.. Ngược lại thái độ thứ hai gây cho ta thích thú nhìn xem vẻ kỳ diệu bề ngoài của bản văn (theo kiểu nhà đạo diễn phim “Người trừ quỷ”, khai triển mọi vẻ khủng khiếp có tính kịch trên màn ảnh).: Thực ra, Maccô bắt đầu hoạt động của Đức Giêsu bằng một việc trừ quỷ, bởi vì ông nhận thấy ở đó bản “tóm lược” trọn vẹn mọi hoạt động của Chúa: Đức Giêsu đến giải phóng con người nô lệ khỏi những quyền lực đang tha hóa họ… Thế giới thay đổi chủ… Nước Thiên Chúa đang bắt đầu!.
Này ông Giêsu Na-ra-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông? Tôi biết ông là ai rồi: “ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”.
Thực sự cần phải khám phá ra căn tính đích thực của Đức Giêsu. Cần khởi đi từ danh hiệu bình thường “Giêsu, người Na-da -rét”, đến tước hiệu kỳ diệu: “Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Đức Giêsu không phải là kẻ trù quỷ tầm thường ở làng thôn, như một số ít người lúc đó đang hoạt động rải rác khắp nơi, trong thế giới Do Thái cũng như trong thế giới dân ngoại: một loại ma thuật hay phù thủy. Hoàn toàn không thể có sự tương hợp giữa “Thần ác” và “Thiên Chúa” được: thế nên Sa-tan đã công khai tuyên chiến. ông muốn gây chuyện gì đây? Có liên quan gì giữa ông và tôi? ông muốn gì? Đó là “tiếng la hét của quỷ”. Còn chúng ta thì sao? Cùng với Đức Giêsu, chúng ta có quan niệm đời sống Kitô hữu của chúng ta như một cuộc giao chiến lớn lao nhằm giải phóng không? Những người thuộc nhóm của Đức Giêsu cần phải sẵn sàng ứng chiến. Những lực lượng thù địch luôn nổi đậy chống lại Người. Tôi có cùng chiến đấu với Đức Giêsu không? Tôi phải giải thoát anh em tôi, và chính bản thân tôi khỏi sự tha hóa, sự ác nào?
Đức Giêsu quát mắng nó: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này”.
Từ Hi Lạp được dùng ở đây, có nghĩa gì “bịt miệng”, “đe dọa”, “quát mắng”. Trước giông bão nổi lên trên biển hồ, Đức Giêsu cũng sử dụng từ này (Mc 4,39). Quyền năng của Đấng Phục sinh chiến thắng mọi quyền lực ma quỷ được diễn tả qua câu: sự ác bị đánh bại Thiên Chúa xuất hiện.
Chúng ta nên lưu ý một chi tiết có ý nghĩa: đó là khi mọi người hỏi nhau và ngạc nhiên về “nhân cách” của Đức Giêsu… thì ma quỷ đã biến mất rồi. Nhờ bản tính thiêng liêng, có lẽ quỷ tinh thông hơn con người chăng? Nhưng Đức Gíêsu truyền cho chúng phải im lặng: câm miệng lại? hãy im đi! Căn tính đích thực của Đức Giêsu chỉ có thể được mạc khải dần dần: Tuyên bố quá sớm Đức Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa”, là.”Con Thiên Chúa”, có thể chỉ là một việc làm của ma quỷ. Chỉ đến khi đứng trước thập giá một “con người, một kẻ ngoại, viên đội trưởng hành quyết, mọi công bố những tước hiệu trên một cách hợp thức (Mc 15,39).
Mọi người đều kinh ngạc, bàn tán với nhau: “Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có thẩm quyền. Ong ấy ra lệnh cho quỷ, quỷ cũng phải vâng theo”.
Đó là những "Lời”, một giáo huấn, một sứ điệp… một điều gì “mới lạ” cho nhân loại.
Đó là những “Dấu chỉ”, những “hành động của Đức Giêsu, các bí tích… quyền năng của Thiên Chúa”. Đừng quên rằng, trong bí tích Rửa tội, chính chúng ta đã được Chúa Giêsu “trừ quỷ và “dấu chỉ bí tích” này luôn hiện diện: Nó được hiện thực hơn mỗi khi ta cử hành Thánh Thể… trong đó Đức Giêsu “nói” với ta, và “cứu độ” ta khỏi sự dữ.
26. Giảng dạy như có thẩm quyền - Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Tác giả Mác-cô giới thiệu sứ vụ của Đức Giêsu tại Ga-li-lê gồm hai phần: giảng dạy và chữa lành. Tuy nhiên đặc biệt là ở chỗ ông không tách hai điều này riêng ra mà đã liên kết chúng lại thành một cách rất tài tình. Chữa lành chính là để lời rao giảng trở nên thuyết phục.
Mác-cô trước hết giới thiệu Đức Giêsu như một nhân vật xuất hiện hầu công bố một sứ điệp trọng đại: “Thời đại đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (c.15). Ông không những xác địch công việc chính của Đức Giêsu là công bố sứ điệp, nhưng còn nói thêm Ngài đã gây ấn tượng mạnh mẽ trên dân chúng. ‘Đức Giêsu và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um. Ngay ngày Sa-bát, Người vào hội đường giảng dạy. Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư’. Tác giả hình như quan tâm tới thái độ dân chúng tiếp nhận sứ điệp nhiều hơn là chính nội dung thuyết phục hay sự phong phú của sứ điệp Tin Mừng được rao giảng.
Rõ ràng là như thế khi Mác-cô lập tức tường thuật các công việc đầy từ tâm Đức Giêsu thực hiện như chữa người bị quỉ nhập, chữa nhạc mẫu ông Si-mon, chiều đến chữa mọi kẻ ốm đau bệnh tật mà cả thành đem đến cho Người…, hầu như để cho thấy tại sao dân chúng có phản ứng tích cực như vậy trước sứ điệp, hay đúng hơn, với con người công bố sứ điệp đó. So với tác giả các cuốn Tin Mừng khác, tác giả cuốn thứ hai này hầu như không chú trọng tới nội dung sứ điệp nhiều cho lắm. Ông dành nhiều giấy mực hơn cho việc tường thuật các hành động chữa lành và yêu thương Đức Giêsu thực hiện. Và tất cả chỉ để minh chứng cho điều mà ông muốn khảng định ngay từ đầu: ‘Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư’.
Thật ra thì dân chúng bình dân thời nào và ở đâu cũng vậy thôi, với trình độ hiểu biết hạn chế họ ‘nghe’ thì ít mà muốn ‘thấy’ nhiều hơn. Đúng hơn, họ là các thính giả có tầm hiểu biết bằng con tim nhiều hơn là bằng trí óc, nhất là trên con đường đi tìm chân lý; trong khi đó các bậc mô phạm hay hiền triết lại có khuynh hướng sử dụng khối óc nhiều hơn con tim. Các hành động chữa lành đầy từ tâm của Đức Giêsu đánh thẳng vào con tim của thính giả bình dân và chinh phục họ; trong khi các thính giả tri thức như các luật sĩ, biệt phái và kinh sư lại chỉ tìm đến để nghe thuyết pháp, để tìm lý luận, rồi sau đó thi nhau đem ra phân tích mổ xẻ, và tìm lỗi bắt bẻ, chính vì vậy mà các tranh luận căng thẳng giữa họ với Đức Giêsu đã không ngừng nổ ra. Đối với dân chúng, sứ điệp của Đức Giêsu quả là một Tin Mừng, vì nó làm cho con tim của họ được an bình no thỏa, trước khi làm trí óc họ được say mê. Trong thẳm sâu cõi lòng, họ hằng khao khát tìm thấy một Đấng Mét-si-a nhân ái, đầy từ tâm và xót thương, gần gũi với nỗi thống khổ yếu hèn của con người hơn. Đó chính là lý do để mà, trong tất cả sự chân thành mộc mạc họ chân nhận cách thẳng thắn và đơn sơ: ‘Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền’ hơn hẳn các kinh sư và Biệt Phái.
Suy niệm trên đây, tuy đơn giản thật nhưng lại có tầm quan trọng lớn đối với hết thảy mọi người chúng ta, nhất là đối với các linh mục của Đức Ki-tô.
– Quan trọng đối với đời sống thiêng liêng, vì là một tu sĩ linh mục, tôi luôn có nguy cơ xa rời sự nhạy cảm thiêng liêng của người bình dân. Không biết từ khi nào suy luận triết thần đã hoàn toàn chiếm lĩnh đầu óc và suy nghĩ của linh mục. Tôi quan tâm tới hiểu biết và lý luận nhiều tới độ không còn thời giờ để lắng nghe khát vọng thầm kín của chính con tim mình cũng như của người bình dân; kết quả là Tin Mừng đối với tôi phải là chân lý hơn là lòng nhân ái. Và quả thực rất ít khi trong đời sống thiêng liêng tôi dành thời giờ và nỗ lực để nhận ra cái ‘thẩm quyền’ này của Tin Mừng phải tác động trên chính tôi trước hết!
– Quan trọng đối với việc mục vụ: suy niệm trên đưa tôi tới nhận thức sau đây: trước một cộng đoàn phụng vụ, các bải giảng của tôi có được ‘thẩm quyền’ Tin Mừng chỉ khi nào chúng quảng diễn được lòng xót thương cứu độ của Thiên Chúa. Trong thực tế nó đã bị chi phối quá nhiều bởi các kiến thức thần học – luân lý, hay các dẫn chứng mang tính biện giáo. Ngay khuôn mặt Hội Thánh hoặc nội dung Tin Mừng mà tôi trình bày cũng thường khi còn quá mô phạm và nghiêm khắc. Biết bao giờ dung mạo từ nhân tha thứ của Đức Ki-tô mới được sáng tỏ để các tín hữu có thể chiêm ngắm tỏ tường cách mãn nguyện?
Lạy Chúa, đúng là những kẻ bé mọn nhận biết Chúa rõ ràng hơn các bậc khôn ngoan thông thái. Xin đừng để học vấn và hiểu biết làm cho con, linh mục của Chúa, không nhận ra nổi ‘thẩm quyền’ đích thực của Tin Mừng Chúa. Cũng xin làm cho lời rao giảng của Hội Thánh được nhiều người lắng nghe bằng con tim và qua đó nhận ra Chúa thật gần gũi và xót thương hết thảy mọi người. Amen.
27. Chân tướng của Đức Giêsu - Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Người đồng thời với Đức Giêsu chưa biết Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể. Sở dĩ vậy vì Đức Giêsu là một người như bất cứ ai khác, Ngài là người hoàn toàn đến độ một người bình thường như thế nào thì Ngài cũng như vậy. Ngài nghèo như bất cứ người nghèo nào. Không ai biết Ngài, Ngài vô danh như bất cứ ai khác. Lời tựa trong tin mừng theo thánh Yoan gọi Ngài là Lời Thiên Chúa, Lời đã thành xác phàm.
1) Đức Giêsu là một ngôn sứ đối với người đương thời
Ngôn sứ là người Thiên Chúa dùng để nói với dân về ý định của Ngài, chuyển thông cho dân những gì Thiên Chúa muốn. Một vị ngôn sứ không nhất thiết phải là người biết trước những biến cố sẽ xảy ra ở tương lai. Dân Do Thái tin rằng Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện một vị ngôn sứ “lớn” như Môsê. Vì thế nên khi Đức Giêsu làm những dấu lạ cả thể, thì người đương thời đã coi Ngài là một ngôn sứ.
Khi một ký lục giảng dạy, ông ta tựa vào Lời Chúa để dạy dân chúng. Uy quyền của lời giảng dạy của ký lục, không đến từ họ nhưng đến từ uy quyền Lời Chúa. Đức Giêsu giảng dạy không giống như các ký lục, Ngài giảng dạy như người có uy quyền. Không chỉ là người có uy quyền qua giảng dạy, Đức Giêsu còn đuổi được quỷ qua lời truyền phán của Ngài. Đức Giêsu là ai mà có thể làm những điều này. Hành vi của Đức Giêsu làm dân chúng đặt câu hỏi về chân tính của Ngài.
Một ngôn sứ xuất hiện, là dấu chỉ Thiên Chúa đang ở với dân. Thiên Chúa đang thực hiện việc kỳ diệu qua vị ngôn sứ. Khi dân chúng nhận ra Đức Giêsu là người của Thiên Chúa, là một ngôn sứ, thì họ nhận ra Thiên Chúa đang hiện diện với họ. Thiên Chúa đang quan tâm và yêu thương họ.
2) Hơn một vị ngôn sứ
Đức Giêsu không chỉ là một ngôn sứ (tiên tri), nhưng Ngài còn là Đấng Kitô, nghĩa là Đấng Thiên Chúa sai đến để cứu dân Ngài. Dân chúng thời Đức Giêsu đang ao ước thoát ách đô hộ của người Roma, nên họ mong chờ Thiên Chúa sai đến một vị cứu tinh giải thoát họ khỏi cảnh áp bức chính trị này. Đức Giêsu ý thức Ngài không phải là vị Kitô chính trị, nên Ngài đã cấm các tông đồ nói cho người ta biết Ngài là Kitô (Mt.16, 20).
Cái chết trên thập giá của Đức Giêsu làm cho dân chúng và các tông đồ như bừng tỉnh. Đức Giêsu không là Đấng Kitô như họ nghĩ. Các tư tế, kỳ lão và biệt phái nghĩ rằng Đức Giêsu cũng như bất kỳ ai khác, nên khi Ngài chết là họ tưởng rằng họ đã giải quyết được một bận tâm tranh chấp ảnh hưởng. Đức Giêsu sống lại, là một điều gì hoàn toàn mới. Không ai có thể nghĩ rằng Ngài sẽ sống lại. Ngay cả các tông đồ cũng không dám tin Ngài sống lại, cho dù Ngài đã báo trước vài lần, vì thế nên các ngài mới hoảng loạn sợ hãi, và hai môn đệ trên đường Emmau là hai người đã bỏ cuộc về quê vì thất vọng.
Đức Giêsu sống lại và truyền trao sứ mạng cho các tông đồ, làm các tông đồ và những người tin vào lời rao giảng của các tông đồ, suy nghĩ và hiểu biết hơn về Đức Giêsu. Đức Giêsu vẫn đang sống, cho dù bây giờ Ngài vượt khỏi tầm kiểm soát của con người, của những thế lực thù ghét Ngài cũng như cả của những người yêu mến Ngài. Ngài là ai? Đây là một câu hỏi luôn theo sát những người yêu mến Ngài, và cả những kẻ không thích Ngài. Ngay khi Ngài còn sống, Đức Giêsu đã biết người ta nói Ngài là ai, và cũng chính Ngài đã hỏi các tông đồ Ngài là ai, nhưng dường như những câu trả lời đó chưa đủ (Mt.16, 13-16).
3) Đức Giêsu là Con Thiên Chúa
Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Nhưng cả với câu trả lời này, người ta cũng có thể hiểu Đức Giêsu chỉ là một người đặc biệt thôi, vì nhiều người được gọi là con Thiên Chúa, chẳng hạn như những người được Thiên Chúa chọn, được Thiên Chúa yêu thương (Xh.4, 22; Hs.2, 1; Tv.82, 6). Đức Giêsu là Con Thiên Chúa theo một nghĩa rất đặc biệt, theo nghĩa là Ngài Con “đồng bản tính” với Thiên Chúa, được xác định sau này bởi công đồng Nicea (325).
Đức Giêsu là ai? Đối với các tông đồ, Ngài là người rất đặc biệt, luôn kết hợp với Thiên Chúa, đến độ lấy ý Thiên Chúa là lương thực cho mình (Ga.4, 34), là Con Yêu Dấu của Thiên Chúa (Mt.17, 5). Ngài là Đấng “ngự bên hữu” Thiên Chúa (Mc.16, 19). Nhưng tất cả những “từ ngữ” ấy nghĩa là gì? Ngay cả từ ngữ “đồng bản tính” với Thiên Chúa có nghĩa là gì khi đức tin Kitô giáo dạy chúng ta Thiên Chúa là Đấng duy nhất (Dnl.6, 4).
Đức Giêsu là một người như bất kỳ ai khác, Ngài bị cám dỗ, Ngài biết đói biết khát, Ngài cũng bị cám dỗ về danh lợi ở trong hoang địa, Ngài cũng bị cám dỗ “mất lòng tin vào Thiên Chúa” khi ở trên thập giá: “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con;” nhưng Đức Giêsu còn hơn là một con người nữa, Ngài là một tiên tri, và hơn một tiên tri vì Yoan Tẩy Giả không đáng cởi dây giầy cho Ngài; Ngài là Đấng Kitô, Đấng Thiên Chúa sai đến để cứu con người. Và còn hơn thế nữa, Giáo Hội dạy rằng Ngài là Con Thiên Chúa, Con đồng bản tính với Thiên Chúa. Ngài có trước khi Ngài được sinh ra bởi Đức Maria. Ngài là Lời Thiên Chúa nhập thể. Ngài khác biệt với Thiên Chúa Cha, nhưng Ngài lại là một với Thiên Chúa Cha. Ngôi Hai Thiên Chúa cũng là một từ ngữ các nhà thần học dùng để diễn đạt chân tướng của Ngài. Đức Giêsu là một người rất đặc biệt, và người ta đã dùng nhiều từ ngữ để diễn đạt về Ngài, về chân tướng của Ngài, về mầu nhiệm Giêsu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
- Bạn hiểu thế nào về từ ngữ diễn tả Thiên Chúa “Một Thiên Chúa Ba Ngôi”?
- Đức Giêsu là ai đối với bạn? Ngài ảnh hưởng trên đời bạn như thế nào?
27/01 Chúa Giêsu quyền năng
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Chúa Giêsu quyền năng.
Thứ Bảy tuần 3 thường niên.
"Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?"
LỜI CHÚA: Mc 4, 35-41
Ngày ấy, khi chiều đến, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Chúng ta hãy sang bên kia biển hồ". Các ông giải tán đám đông; vì Người đang ở dưới thuyền, nên các ông chở Người đi. Cũng có nhiều thuyền khác theo Người.
Chợt có một cơn bão lớn và những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi sắp đầy nước. Và Người thì ở đàng lái dựa gối mà ngủ. Các ông đánh thức Người và nói: "Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?" Chỗi dậy, Người đe gió và phán với biển rằng: "Hãy im đi, hãy lặng đi". Tức thì gió ngừng biển lặng như tờ. Rồi Người nói với các ông: "Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?" Bấy giờ các ông kinh hãi và nói với nhau rằng: "Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?"
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Sóng gió cuộc đời
Sự kiện Chúa Giêsu và các môn đệ sang bên kia biển hồ, như được trình thuật trong Tin Mừng hôm nay, không phải chỉ có ý nghĩa địa lý: di chuyển từ nơi này sang nơi nọ, cũng như sóng gió nổi lên không chỉ mang ý nghĩa về khí tượng thuần tuý; nhưng các biến cố đó còn mang ý nghĩa thần học nữa. Chúa Giêsu và các môn đệ rời bỏ miền đất Israel để đi sang phía dân ngoại, điều đó mang ý nghĩa truyền giáo; sóng gió nổi lên tượng trưng cho sức mạnh của sự dữ, của ma quỷ nổi lên chống lại Chúa và các môn đệ.
Tuy nhiên, như trình thuật Tin Mừng cho thấy, lúc đó Chúa Giêsu đang ở đàng lái, gối đầu mà ngủ. Giấc ngủ ấy khiến ta liên tưởng đến cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá. Trong cái chết đó, Chúa Giêsu dường như đã thất bại, trong khi đó các quyền lực sự dữ tưởng chừng như đã thành công, vì đã thủ tiêu được người mà họ coi như kẻ thù, như kẻ quấy rầy nền đạo đức tôn giáo của họ. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã thức dậy, nghĩa là Ngài đã phục sinh, và sự Phục Sinh của Ngài loan báo cuộc chiến thắng vĩ đại của Ngài trên mọi quyền lực của ma quỷ và sự dữ cũng như của bất cứ thế lực nào chống đối Giáo Hội.
Ðời sống của Giáo Hội cũng như của mỗi Kitô hữu được ví như một cuộc ra khơi. Thiên Chúa vẫn luôn hiện diện, ngay cả khi chúng ta tưởng như Ngài vắng mặt trong những thử thách, phong ba của cuộc đời. Ðiều quan trọng là chúng ta biết chạy đến cầu nguyện với Chúa để Ngài làm yên cơn sóng gió và dẫn đưa con thuyền cuộc đời chúng ta về tới bến bờ bình an.
Ước gì chúng ta luôn có được xác tín của thánh Phaolô Tông đồ: Thiên Chúa không để chúng ta bị thử thách quá sức chịu đựng, Ngài sẽ ra tay cứu giúp mỗi khi chúng ta kêu cầu đến Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Một thế giới thù địch và đầy biến động
Hôm ấy, khi chiều đến, Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Chúng ta sang bờ bên kia đi!” Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Người đi, vì Người đang ở sẵn trên thuyền; có những thuyền khác cùng đi theo Người. Và một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước. (Mc. 4, 35-37)
Tôi mượn lời một bài ca của John Littleton làm đầu đề cho bài suy niệm này, bởi vì hai phẩm tính trên đây giải thích khá rõ kinh nghiệm các môn đệ Chúa đã sống ở trên Biển Hồ, buổi chiều hôm đó.
Một thế giới thù địch
Câu chuyện Chúa dẹp yên sóng gió có thể được nhìn ở hai bình diện: biểu tượng và mô tả. Về mặt biểu tượng thì biển động là hình ảnh tượng trưng cho những thế lực chống đối Thiên Chúa. Đó là hình ảnh nói lên mối thù địch giữa dòng dõi những kẻ bất phục tùng Thiên Chúa và chính Thiên Chúa. Do đó trên bình diện này, việc Đức Kitô dùng quyền năng dẹp yên sóng gió là dấu chỉ không những Người làm chủ các mãnh lực thiên nhiên và vũ trụ, mà nhất là Người có quyền năng trừ quỷ, bá chủ các thế lực bất phục tùng và sức mạnh của tội lỗi.
Thế nên các Tông đồ cũng giống như các người Pharisiêu thường đặt câu hỏi về Chúa Giêsu: Vậy người này là ai mà có quyền tha tội, chữa lành bệnh? Vậy người này là ai mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?
Còn chúng ta, chúng ta có tin tưởng vào Đức Kitô này không? Người là Đấng Cứu chuộc có khả năng trấn áp và cứu chuộc chúng ta khỏi mọi thế lực địch thù, ta có tin tưởng vào Người không?
Một thế giới đầy biến động
Về mặt mô tả, câu chuyện này cũng tra vấn cuộc đời của ta. Cuộc hành trình vượt biển này mô tả khá rõ cuộc sống đời thường của ta.
Sau một ngày vất vả với đám đông, Chúa Giêsu cảm thấy mệt mỏi và muốn tìm được nghỉ ngơi yên tĩnh và thân tình: “Người ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ”.
Chính lúc đó, một trận cuồng phong nổi lên, và sóng ập vào thuyền. Phải chăng là một trận cuồng phong quá lớn? Có lẽ không, vì Chúa Giêsu dầu sao vẫn ngủ được, nhưng cơn biển động này làm cho các người vượt biển phải bất an.
Mỗi ngày, ta xao xuyến lo âu vì thế giới biến đọng: những vụ đình công, những cảnh cướp đọat, những tai nạn, nếp sống cuồng lọan, những cuộc biểu tình… Chúng ta như đang ở trong thuyền, có Chúa Giêsu ở đó, nhưng Người đang ngủ.
Phải chăng chúng ta không nghe lời Chúa phán với Mác-ta khi cô quá lo lắng cho bữa ăn tối: “Mác-ta còn lo lắng và lăng xăng nhiều chuyện quá!” Chỉ có một chuyện cần thiết, đó là Thầy đang ở đây… mặc dầu Thầy đang ngủ…
Gần Đức Giêsu, con người không có quyền sợ hãi, mất lòng tin tưởng.
Suy Niệm 3: CÓ CHÚA SẼ BÌNH AN (Mc 4,35-41)
Trong một trại tù nọ, người ta nhận thấy có một vị giám mục khoảng ngoài 60 tuổi. Họ thấy ngài rất bình an và vui tươi, mặc dù bản án dành cho ngài là bất công, và hình khổ mà ngài phải chịu quả là đớn đau.
Khi được hỏi: “Thưa đức cha, tại sao đức cha bình an đến như vậy? Người ta bỏ vạ, vu khống đức cha mà đức cha vẫn vui tươi??” Đức cha trả lời rằng: “Thưa, tôi làm gì và ở đâu đều có Chúa. có Chúa là niềm vui và bình an. Hạnh phúc của đời người là khám phá ra sự hiện diện của Thiên Chúa và được sống với Ngài. Tôi được sống với Ngài và trong Ngài, lẽ nào tôi không vui!”.
Hôm nay, bài Tin Mừng trình thuật việc Đức Giêsu và các môn đệ đang trèo thuyền sang bờ bên kia. Đang khi thuyền ra giữa biển thì bị trận cuồng phong ập tới, khiến thuyền của họ đầy nước và có nguy cơ chìm. Các môn đệ thi nhau tát nước và trèo trống... Đến khi họ không còn trụ nổi nữa, lúc đó, họ gọi Đức Giêsu và trách móc Ngài: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”. Đức Giêsu liền thức dạy và ngăm đe gió, tức thì thuyền yên biển lặng. Mọi người ngỡ ngàng và thốt lên: “Ông này là ai mà gió và biển cũng phải tuân lệnh?”
Trong hành trình theo Chúa, có nhiều lúc chúng ta gặp phải những thử thách gian nan, những đêm tối đức tin, làm cho chúng ta hoang mang! Tuy nhiên, chúng ta nên nhớ rằng: trong con thuyền cuộc đời của mỗi người luôn có Chúa ở cùng, điều quan trọng là chúng ta có nhận ra sự hiện diện của Chúa hay không? Nếu chúng ta nhận ra Chúa có mặt thì hẳn tất cả những điều nghịch cảnh đến với ta, ta không hoang mang, hốt hoảng như các môn đệ của Ngài khi xưa, ngược lại, chúng ta khám phá ra giá trị và ý nghĩa của nó, lúc đó, chúng ta sẽ vui tươi và bình an ngay trong những thử thách của cuộc đời, vì có Chúa là có tất cả.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con niềm tin vào Chúa. Xin cho chúng con biết Chúa quyền năng để chúng con nương tựa vào Chúa trong mọi nơi, mọi lúc của cuộc đời chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Tại sao anh em sợ?
Suy niệm:
Chẳng hiểu tại sao lúc chiều xuống,
Đức Giêsu lại bảo các môn đệ đưa mình qua bờ phía đông của Biển hồ,
trên con thuyền mà Ngài ngồi giảng các dụ ngôn (Mc 4,1).
Do địa thế đặc biệt, hồ Galilê hay có những trận cuồng phong ập đến bất chợt,
tạo ra những cơn bão lớn trên sóng nước.
Tối hôm ấy, thầy trò đã gặp một cơn bão như vậy.
Thầy Giêsu phó thác mọi sự cho các môn đệ vốn là ngư phủ lành nghề.
Thầy mệt nên ngủ say ở đuôi thuyền, ngủ trên một cái gối.
Trong khi đó các môn đệ phải vật lộn với sóng gió, nước tràn đầy thuyền.
Họ có vẻ mất bình tĩnh khi thấy cơn giông bão không đánh thức Thầy được.
Chính họ đánh thức Thầy bằng một lời trách móc :
“Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi mà Thầy chẳng lo gì sao?” (c.38).
Thầy Giêsu đã thức dậy, và đã làm cho biển lặng, gió yên.
Đời con người ai tránh được sóng gió bất chợt.
Nếu biết trước sẽ gặp sóng gió, ai dám vượt biến ban đêm.
Sóng gió xảy ra trong đời riêng của mỗi người, trong gia đình,
trong đất nước, trong Giáo Hội, trên thế giới.
Sóng gió làm ta thấy mình con thuyền đời mình chòng chành, mong manh,
và khiến ta sợ hãi, hoảng loạn.
Giữa cơn sóng gió có khi người tín hữu lại thấy Chúa lạnh lùng, vô cảm.
Như các môn đệ, chúng ta không hiểu tại sao Chúa có thể ngủ được
khi đời ta bị đe dọa bởi cuồng phong,
tại sao Chúa vắng mặt, thinh lặng và khoanh tay
vào lúc chúng ta cần đến Ngài hơn cả.
“Tại sao anh em sợ ? Anh em không có lòng tin sao?” (c.40).
Anh em không tin là Thầy đang ở trong cùng một con thuyền với anh em sao?
Lẽ ra chúng ta phải cảm thấy yên tâm
khi nhìn Chúa ngủ giấc ngủ tín thác của trẻ thơ ngay giữa cơn giông bão.
Nhìn Chúa ngủ bình an, chúng ta hiểu rằng chẳng có gì đáng sợ.
Vâng lời Chúa để qua bờ bên kia, và có Chúa trong con thuyền đời mình,
điều đó không làm chúng ta tránh được giông bão,
có khi lại gặp bão tố nhiều hơn.
Nhưng điều chắc chắn là chúng ta sẽ qua được bờ bên kia
với lòng tin được tôi luyện của người tín hữu dày dạn.
Chúng ta dám tin Chúa có quyền trên sóng gió của đời ta không?
Cầu nguyện :
Lạy Cha từ ái,
đây là niềm tin của con.
Con tin Cha là Tình yêu,
và mọi sự Cha làm đều vì yêu chúng con.
Cả những khi Cha mạnh tay cắt tỉa,
cả những khi Cha thinh lặng hay vắng mặt,
cả những khi Cha như chịu thua sức mạnh của ác nhân,
con vẫn tin Cha là Cha toàn năng nhân ái.
Con tin Cha không chịu thua con về lòng quảng đại,
chẳng để con thiệt thòi khi dám sống cho Cha.
Con tin rằng nơi lòng những người cứng cỏi nhất
cũng có một đốm lửa của sự thiện,
được vùi sâu dưới những lớp tro.
Chỉ một ngọn gió của tình yêu chân thành
cũng đủ làm đốm lửa ấy bừng lên rạng rỡ.
Con tin rằng chẳng có giọt nước mắt nào vô ích,
thế giới vẫn tồn tại nhờ hy sinh thầm lặng của bao người.
Con tin rằng chiến thắng cuối cùng thuộc về Ánh sáng.
Sự Sống và Tình yêu sẽ chiếm ngự địa cầu.
Con tin rằng dòng lịch sử của loài người và vũ trụ
đang chuyển mình tiến về với Cha,
qua trung gian tuyệt vời của Chúa Giêsu
và sức tác động mãnh liệt của Thánh Thần.
Con tin rằng dần dần mỗi người sẽ gặp nhau,
vượt qua mọi tranh chấp, bất đồng,
mọi dị biệt, thành kiến,
để cùng nắm tay nhau đi qua sa mạc cuộc đời
mà về nhà Cha là nơi hạnh phúc viên mãn.
Lạy Cha, đó là niềm tin của con.
Xin Cha cho con dám sống niềm tin ấy. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
26/01 Diễn Văn Truyền Giáo
- Viết bởi Lm. Nguyễn Cao Siêu
Diễn Văn Truyền Giáo.
Thứ Sáu tuần 3 thường niên – Thánh Timôthê và thánh Titô, giám mục, Lễ nhớ.
“Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”.
* Cùng với thánh Luca, thánh Timôthê và thánh Titô là những cộng tác viên trung thành của thánh Phaolô. Mẹ thánh Timôthê là người Do thái, còn chính ông thì đã được thánh Phaolô thanh tẩy. Ông đã theo thánh Phaolô trong các chuyến đi truyền giáo, rồi sau được đặt làm thủ lãnh giáo đoàn Êphêxô. Còn thánh Titô đã được thánh Phaolô nhận ở Antiôkhia ngay từ đầu sứ vụ tông đồ. Sau đó, ông được trao nhiệm vụ loan báo Tin Mừng. Thư thánh Phaolô gửi cho ông Timôthê và thư gửi cho ông Titô được gọi là các thư mục vụ, vì trong đó có nhiều lời khuyên dành cho cả những người lãnh đạo cũng như cho hết mọi thành phần trong giáo đoàn.
Lời Chúa: Lc 10, 1-9
Khi ấy, Chúa chọn thêm bảy mươi hai người nữa và sai các ông cứ từng hai người đi trước Người, đến các thành và các nơi mà chính Người sẽ tới. Người bảo các ông rằng: ”Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của người.
Các con hãy đi. Này Thầy sai các con như con chiên ở giữa sói rừng. Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép, và đừng chào hỏi ai dọc đường. Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: ”Bình an cho nhà này”. Nếu ở đấy có con cái sự bình an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng không, sự bình an lại trở về với các con. Các con ở lại trong nhà đó, ăn uống những thứ họ có, vì thợ đáng được trả công. Các con đừng đi nhà này sang nhà nọ.
Khi vào thành nào mà người ta tiếp các con, các con hãy ăn những thức người ta dọn cho. Hãy chữa các bệnh nhân trong thành và nói với họ rằng: ”Nước Thiên Chúa đã đến gần các ngươi”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Diễn Văn Truyền Giáo
Giáo Hội mời gọi chúng ta đọc và suy niệm những câu đầu tiên của chương 10 Phúc Âm theo thánh Luca. Ðây là bài diễn văn truyền giáo số 2. Bài diễn văn truyền giáo số 1 là chương 9, Phúc Âm thánh Luca. Trong bài diễn văn truyền giáo số 2, Chúa Giêsu ngỏ lời căn dặn bảy mươi hai môn đệ mà Ngài sai đi từng nhóm hai người một để làm như một cộng đoàn làm việc chung với nhau, chứ không phải một cách riêng rẽ. Con số mười hai tông đồ nhắc đến mười hai chi họ Israel; con số bảy mươi hai môn đệ nhắc đến chi tiết nơi chương 10 sách Sáng Thế: "Khi tất cả các dân nước trên mặt đất".
Như thế, chúng ta có thể nói rằng bài diễn văn truyền giáo số 2 của Chúa Giêsu trong đoạn Phúc Âm thánh Luca mà hôm nay chúng ta suy niệm là những lời căn dặn của Chúa Giêsu cho tất cả mọi thành phần Giáo Hội Dân Chúa đến từ khắp mọi nơi không phân biệt màu da, chủng tộc, tiếng nói. Tất cả mọi người đồ đệ của Chúa đều phải là những nhà truyền giáo, những chứng nhân của Chúa và phải tuân giữ những gì Chúa căn dặn nơi chương 10 này.
Những lời dặn dò trên của Chúa Giêsu thật là cặn kẽ, cụ thể, với những chi tiết hết sức thực tế. Dĩ nhiên, tinh thần phải có khi thực hiện những việc làm trên là điều quan trọng hơn. Thời đại đã thay đổi, thời chúng ta đang sống khác với thời của Chúa Giêsu. Những hành động cụ thể của một thời đã thay đổi, chẳng hạn như ngày xưa đi bộ, cầm gậy thì ngày nay đã có các phương tiện giao thông liên lạc khác, nhưng tinh thần của những hành động cụ thể mà Chúa Giêsu muốn các môn đệ có không bao giờ thay đổi. Trong những giây phút ngắn ngủi suy niệm này chúng ta không thể nào suy niệm tất cả mọi khía cạnh của tinh thần truyền giáo nơi môn đệ của Chúa.
Ước chi mỗi người chúng ta tìm thì giờ rảnh rỗi trong ngày, trong tuần để trở lại suy niệm thêm về những lời căn dặn của Chúa nơi chương 10 Phúc Âm thánh Luca.
Chúng ta hãy nhớ lại những lời đầu tiên Chúa Giêsu nói trong đoạn Phúc Âm hôm nay: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít, vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người, các con hãy ra đi". Qua câu đầu tiên này của đoạn Tin Mừng hôm nay nhắc chúng ta điểm khởi đầu căn bản của mọi hoạt động truyền giáo: trước hết là nhận thức nhu cầu của anh chị em chung quanh, thứ hai là đưa nhu cầu đó vào trong lời cầu nguyện của chính mình và thứ ba là sẵn sàng để được sai và hăng say ra đi khi được trao phó cho sứ mạng. Chúng ta hãy tự vấn xem chính mình đã có những tư tưởng căn bản này chưa? Những quan tâm truyền giáo làm chứng cho Chúa có được chúng ta đưa vào trong lời cầu nguyện của chính mình chưa? Trong cuộc đối thoại giữa mình với Thiên Chúa chưa?
Lạy Chúa,
Này con đây đã sẵn sàng, Chúa muốn con làm gì xin hãy phán và con xin lắng nghe. Xin ban ơn biến đổi mỗi người chúng con trở thành những chứng nhân đích thực của Chúa trong mọi hoàn cảnh.
SUY NIỆM 2: Quốc Khánh của Australia
Ngày 26 tháng 01 là ngày quốc khánh của người Australia.
Ngày 26/01/1788, lá cờ của nước Anh lần đầu tiên được cắm trên lãnh thổ của Australia, đánh dấu đợt định cư đầu tiên của 730 người. 730 cựu tù nhân này đã được coi như là thủy tổ của đa số người dân Australia này nay.
Ðối với chính phủ Anh thời bấy giờ, việc lưu đày các tù nhân qua một vùng đất xa lạ là một biện pháp giúp giải quyết vấn đề ứ đọng tại các nhà tù trong nước. Nhưng đối với 730 người lần đầu tiên của Australia này, thì đây là cơ hội để làm lại cuộc đời. Dù muốn dù không, người dân Australia chính hiệu ngày nay không thể phủ nhận được sự kiện là quốc gia của họ đẫ được lhai sinh do những con người mà xã hội muốn xua đuổi cho rảnh tay.
Ngày nay, Australia được xếp vào hạng những nước tiên tiến về mọi mặt. Nhưng có lẽ họ không thể quên được công ơn xây dựng của cha ông họ, dù tông tích của họ có là một quá khứ xấu xa đến đâu.
Câu chuyện lập quốc của nước Australia có thể giúp chúng ta hiểu được phần nào hai chữ Quan Phòng trong Kitô giáo của chúng ta. Lời của thánh Phaolô là một xác quyết về sự quan phòng ấy: nơi nào có tội lỗi càng nhiều, nơi đó Thiên Chúa càng ban ơn dồi dào.
Lịch sử của dân Israel và lịch sử ơn cứu rỗi cũng cho chúng ta thấy một chuỗi những vấp ngã của con người và một chuỗi những can thiệp kỳ diệu của Thiên Chúa. Mỗi lần con người phạm tội là mỗi lần Thiên Chúa ban ơn như một khởi điểm cho một công trình mới tốt đẹp hơn.
Hôm nay Giáo Hội kính nhớ hai Thánh Timôtê và Titô, hai người con tinh thần và cộng sự viên gần gũi của thánh Phaolô mà chúng ta tưởng niệm biến cố trở lại ngày hôm qua.
Cũng giống như Thánh Phaolô, Timôtê mang hai dòng máu Hy Lạp và Do Thái. Do Thái xem Ngài như một đứa con ngoại hôn. Nhưng cái tư thế bị ruồng rẫy đó đã khiến cho Timôtê trở thành gạch nối giữa Tin Mừng và văn minh của những dân tộc ở ngoài Do Thái giáo. Trong 15 năm sát cánh bên cạnh Thánh Phaolô để phục vụ các cộng đoàn Ephêsô, Timôtê đã để lại một mẫu gương hy sinh, nhẫn nhục và bác ái cao độ.
Cũng giống như Phaolô và Timôtê, Titô cũng đến từ thế giới dân ngoại. Ngài cũng được Chúa sử dụng để loan báo Tình Thương của Ngài cho mọi tạo vật.
Ôn lại cuộc đời của ba vị Thánh thuộc thế giới dân ngoại này, chúng ta thấy động tác lạ lùng của ơn Chúa. Mọi người, dù thấp hèn đến đâu, cũng đều có một chỗ đứng trong chương trình cứu rỗi của Chúa. Mọi người đều có thể là trung gian nhờ đó ơn Chúa được thông ban cho người khác. Thế giới không được cứu rỗi nhờ những gì chúng ta làm, mà nhờ những gì Thiên Chúa thực hiện qua cuộc sống của chúng ta.
(Trích trong ‘Lẽ Sống’ – Radio Veritas Asia)
SUY NIỆM 3
Hôm nay, hiệp thông với toàn thể Giáo Hội, chúng ta cử hành Thánh Lễ kính nhớ hai thánh Giám Mục, môn đệ của thánh Phao-lô Tông Đồ, đó là hai thánh Ti-tô và Ti-mô-thê. Xin Chúa cũng thương ban cho tất cả chúng ta ơn hiểu biết và yêu mến Đức Ki-tô, để có thể đi theo Người và loan báo Tin Mừng của Người đến cùng, như các thánh chúng ta mừng kính hôm nay.
Lời Chúa trong bài Tin Mừng mời gọi chúng ta nhận ra ba đặc điểm thuộc về sứ mạng loan báo Tin Mừng, và để con tim của chúng ta được chinh phục, nghĩa là được ơn hiểu biết sâu sa, có lòng ước ao và quảng đại dấn thân thực hiện sứ mạng loan báo Tin Mừng trong hành trình đi theo Đức Ki-tô trong một ơn gọi.
Sứ mạng phục vụ cho sự sống
Sẽ thật là ấn tượng và rất có ý nghĩa, khi chúng ta hình dung ra một nhóm rất đông gồm bảy mươi hai môn đệ, được Đức Giê-su đích thân chỉ định, sai đi từng hai người một. Hình ảnh bảy mươi hai môn đệ nói cho chúng ta về sự phong phú của đời tu hôm nay, nam cũng như nữ, trong Giáo Hội và nhất là tại Giáo Hội Việt Nam, và về chính chúng ta nữa, hay những người thân yêu của chúng ta. Chúng ta đang ở trong Năm Đời Sống Thánh Hiến. Vì thế, chúng ta hãy xin Chúa ban cho tất cả chúng ta và cách đặc biệt cho tất cả những người đang tìm hiểu và sống ơn gọi dâng hiến, niềm xác tín này : đó là được Chúa đích thân tuyển chọn và sai đi, cho dù trong thực tế đã diễn ra như thế nào.
Và sứ mạng của các môn đệ là chuẩn bị cho Chúa đến một cách đích thân : « Người sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến ». Nói cách khác, cánh đồng và sứ mạng là của Chúa, chúng ta không phải chủ, nhưng là nữ tì, là tôi tớ, là « ơn huệ », Chúa ban cho cánh đồng nhờ lời cầu nguyện của Giáo Hội, của rất nhiều người, nhất là của những người thân yêu. Và lời loan báo : « Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần », gắn liền với hoạt động chữa những người đau yếu :
Hãy chữa những người đau yếu trong thành, và nói với họ: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông.”
(c. 9)
Đức Giê-su cũng đã làm như thế khi loan báo Nước Trời. Như thế, các môn được mời gọi làm cùng một điều như Đức Giê-su đã làm, khi được chọn và sai đi, đó là hoạt động phục vụ cho sự sống : chữa bệnh liên quan đến sự sống ở mức độ căn bản nhất là sức khỏe, nhưng sự sống của con người không chỉ là sức khỏe, nhưng còn là và nhất là được đón nhận, được đồng hành, được tôn trọng, được yêu thương, được lắng nghe, được hòa giải với bản thân và với nhau, được cảm thông, được bao dung tha thứ, được chữa lành những vết thương trong tâm hồn.
« Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói »
Giống như Đức Giê-su, Đấng chọn và sai chúng ta đi, chính khi chúng ta thi hành sứ mạng phục vụ cho sự sống, chúng ta đánh liều chính sự sống của mình : « Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói ». Chiên con, chứ không phải chiên mẹ hay chiên bố, ở giữa bầy sói, thì chắc chắn là « chết » ! Bởi vì chính Đức Giê-su là « Chiên Con », như chúng ta tung hô nhiều lần trong Thánh Lễ : « Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian… »
Tuy nhiên, hình ảnh chiên và sói lại diễn tả cách tuyệt vời sự tương phản giữa sự hiền lành của Thiên Chúa và tính bạo lực của sự dữ. Giống như Đức Ki-tô, chúng ta được mời gọi chiến thắng bạo lực của sự dữ, không phải bằng bạo lực, nhưng bằng lời tạ ơn và ca tụng Thiên Chúa, bằng cách phó thác cho sự quan phòng của Thiên Chúa, bằng chính sự dịu hiền của Thiên Chúa :
Chúa cho miệng con thơ trẻ nhỏ,
cất tiếng ngợi khen chống lại địch thù,
khiến kẻ thù quân nghịch phải tiêu tan.
(Tv 8, 3)
Bởi vì nếu chúng ta sử dụng cùng một phương tiện bạo lực, mà sự dữ dùng, để chống lại sự dữ, thì chúng ta sẽ không khác gì sự dữ, và nhất là vì chúng ta sẽ rất mau bị cuốn vào xoáy của sự dữ. Thật vậy, khi người ta dùng gươm dao súng ống để chống lại kẻ xấu, không sớm thì muộn, người ta sẽ say mê gươm dao súng ống luôn. Chính vì thế, Đức Giê-su mời gọi chúng đừng chống lại kẻ dữ (x. Mt 5, 39).
Đánh liều sự sống, khi thi hành sứ mạng phục vụ sự sống. Điều này thật là thiệt thòi, thử thách và đau khổ. Nhưng đó lại là qui luật muôn đời của sự sống, được ghi khắc trong công trình sáng tạo và trong kinh nghiệm sống của loài người chúng ta : muốn phục vụ sự sống, muốn cho sự sống sinh sôi nẩy nở, phải cho đi chính sự sống của mình : đó là hạt lúa mì khi được gieo vào lòng đất, đó là người mẹ khi cưu mang và sinh con. Đức Ki-tô đến để cho thế gian được sống, và sống dồi dào (x. Ga 10, 10), và Người đã không đi con đường nào khác, ngoài con đường của hạt lúa mì. Thử thách và đau khổ, nhưng đồng thời cũng là hạnh phúc sâu xa và niềm vui bao la nếu được sống bằng tình yêu và lòng biết ơn. Và nhất là khi, trong Chúa, đó là con đường Vượt Qua, dẫn chúng ta đến ơn huệ sự sống gấp trăm và viên mãn.
« Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép »
Chính Chúa ban sự sống và ban lại sự sống gấp trăm, điều này, giúp chúng ta hiểu hiểu được ý nghĩa của lời dặn rất triệt để của Đức Giê-su, không thể áp dụng được trong thực tế, đó là không mang theo túi tiền, bao bị, giày dép.
Như thế, chúng ta đi vùng sâu vùng xa hoặc đi Đông hay đi Tây làm sao được ? Không thể thực hiện được nhưng lại mang một ý nghĩa quyết định, đó là sứ mạng loan báo Tin Mừng của chúng ta không tuyệt đối phụ thuộc vào những phương tiện vật chất chúng ta có và những khả năng chúng ta tạo lập được, mặc dù những điều này là quan trọng. Sống ơn gọi và thi hành sứ mạng, chúng ta được mời gọi sống bằng ơn Chúa và bằng chính Chúa, chứ không phải bằng phương tiện và khả năng sinh sống và làm việc của riêng mình. Đó là ý nghĩa của phép lạ bánh hóa nhiều.
Và ơn Chúa được ban cho chúng ta một cách rất cụ thể ngang qua sự tiếp đón và quà tặng do người khác chia sẻ, cụ thể là bữa ăn :
Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó… Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em.
(c. 7-8)
Trong lời dặn dành cho các môn đệ được sai đi, Đức Giê-su nói tới bữa ăn người ta đãi tới hai lần, và lần sau ăn lớn hơn lần trước, bởi vì là bữa ăn cấp thành phố !
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
SUY NIỆM 4: Vào nhà, vào thành phố
Suy Niệm:
Dân số Châu Á chiếm gần hai phần ba thế giới
nhưng số người nhận biết Chúa chưa tới 3%.
Cánh đồng lúa chín mênh mông đang cần thợ gặt.
Ðức Giêsu hôm nay vẫn có nhiều nơi Ngài muốn đến,
nhiều căn nhà, nhiều thành phố Ngài muốn đặt chân.
Ngài cần những người đi trước để chuẩn bị cuộc gặp gỡ
giữa Ngài với con người.
Khoa học càng tiến bộ, cuộc sống càng văn minh
thì càng có nhiều lãnh vực mới Ðức Giêsu cần vào.
Ðưa Ngài vào thật là một thách đố cho chúng ta.
Ngài phải vào cả những nơi tưởng như bị cấm.
Nhưng nếu chúng ta được Ngài sai vào trước,
thì thế nào cuối cùng Ngài cũng vào được.
Nếp sống cao ở thành thị vừa gây cản trở,
vừa cung ứng cho ta nhiều phương tiện để đưa Ngài vào.
Hãy chuẩn bị cho Ngài vào thành phố của bạn,
vào trường học, sân vận động, vào xí nghiệp, công ty...
Hãy chuẩn bị để Ngài vào từng nhà, gặp từng người.
Mọi Kitô hữu đều được mời gọi để làm việc đó.
***
Ðâu là khuôn mặt của người được sai hôm xưa?
Hiền lành như chiên giữa bầy sói.
Khó nghèo thanh bạch, không túi tiền, giầy dép, bao bị.
Khiêm tốn đón nhận sự giúp đỡ về nhà ở cơm ăn.
Tôn trọng tự do tha nhân, chấp nhận bị từ chối.
Người Châu Á hôm nay dễ đón nhận người tông đồ
sống khổ hạnh, thoát tục, sống thư thái, trầm tư,
sống nhân từ, phục vụ.
Cuộc sống của họ phải tỏa hương thơm của thế giới mai sau,
phải có khả năng nâng con người lên Ðấng Tuyệt Ðối.
***
Ðâu là đóng góp của người được sai hôm xưa?
Vừa chữa người đau yếu và trừ quỷ,
vừa loan báo về triều đại Thiên Chúa gần đến.
Việc làm chứng thực lời giảng, lời giảng soi sáng việc làm.
Cả hai đều đem lại niềm vui, bình an và hạnh phúc.
Thế giới hôm nay vẫn là một thế giới bệnh tật,
một thế giới thèm khát tự do, thèm được là mình.
Chúng ta sẽ rao giảng gì cho 97% dân Châu Á
mà phần đông đã tin vào một Ðấng Cứu Ðộ?
Ðức Giêsu đem đến cho nhân loại quà tặng đặc biệt nào?
Chúng ta phải tập trình bày sứ điệp Kitô giáo,
nên cũng phải học nhiều nơi các tôn giáo Á Châu.
***
Các giám mục Malaysia, Singapore và Brunei
đã liệt kê những gì có thể học được nơi họ.
Học cầu nguyện, ăn chay, bố thí nơi người Hồi giáo.
Học suy niệm và chiêm niệm nơi người Ấn giáo.
Học từ bỏ của cải và trọng sự sống nơi người Phật tử.
Học thái độ thảo hiếu, tôn lão kính trưởng nơi đạo Khổng.
Học sự đơn sơ, khiêm tốn nơi người theo đạo Lão.
Càng học, ta càng dễ giới thiệu Ðức Giêsu,
và càng thấy Ngài đang ẩn mình nơi những tôn giáo khác.
Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin sai chúng con lên đường
nhẹ nhàng và thanh thoát,
không chút cậy dựa vào khả năng bản thân
hay vào những phương tiện trần thế.
Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm:
rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ,
chữa lành những người ốm đau.
Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng
với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý,
biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.
Xin ban cho chúng con khả năng
đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.
Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ
của bao người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu,
thế giới thật bao la
mà vòng tay chúng con quá nhỏ.
Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau
mà tin tưởng lên đường,
nhẹ nhàng và thanh thoát.
(Trích trong ‘Manna’ – Lm. Nguyễn Cao Siêu)
25/01 Tông Đồ Phaolô Trở Lại
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Tông Đồ Phaolô Trở Lại.
Thứ Năm tuần 3 thường niên – THÁNH PHAOLÔ TÔNG ĐỒ TRỞ LẠI. Lễ kính.
Kết thúc tuần lễ cầu cho các Kitô hữu hợp nhất.
“Các con hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian”.
* Trên đường đi Đamát, ông Saolô quê thành Tácxô đã khám phá ra hai điều: Trước hết, Đức Giêsu Nadarét là Đấng đã phục sinh, cũng là Đấng được Thiên Chúa ban phúc lành; thứ đến, Đấng phục sinh với các Kitô hữu là các anh em người, chỉ là một.
Khám phá này là nguồn ánh sáng soi chiếu cả cuộc đời thánh nhân.
Lời Chúa: Mc 16, 15-18
Khi ấy, Chúa Giêsu (hiện ra với mười một môn đệ và) nói: ”Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt. Và đây là những dấu lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng lạ, cầm rắn trong tay, và nếu uống phải chất độc thì cũng không bị hại; họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân được lành mạnh”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Tông Đồ Phaolô Trở Lại
Người ta gọi Ngài một biệt danh như thế, nhưng Ngài không được hân hạnh như nhóm 12 các ông, đã được trông thấy Người, được nghe, được đi theo sau khi được Người chọn các ông. Đối với 12 vị, Đức Ki-tô không phải là người xa lạ, đó là người cùng làng xóm. Một người cùng chi họ. Còn Phaolô, ông không bao giờ trông thấy Đức Ki-tô. Nếu ông là kẻ bắt bớ các tông đồ và các môn đệ, không phải vì các ông này tuyên xưng danh Đức Ki-tô, nhưng các ông cũng như Đức Ki-tô, đã làm rối trật tự, Phaolô là người biệt phái, công dân Rôma, môn sinh của các thầy nổi tiếng thời đó. Ong không đấu tranh chống lại một bóng ma, nhưng chống lại những kẻ theo một giáo lý mới làm điên cuồng.
Một thế hệ mới...
Phaolô đã là một người thuộc thế hệ mới của các tông đồ. Công vụ tông đồ kể lại một cách tóm tắt cho chúng ta đoán được Phaolô chắc chắn đã tiêu hao nhiều năm đi bắt bớ các tín hữu, trước khi bị té ngựa trước ánh sáng Đức Ki-tô. Sứ điệp của Đức Ki-tô đã ban bố và được đón nhận khắp xứ Giuđa. Trước khi Phaolô xuất hiện. Phêrô đã làm cho nhiều người ngoài Do Thái trở lại rửa tội.
Phaolô, một người thuộc thế hệ mới, vì ông sống trong nền văn hóa Hy lạp, được giáo dục Rôma. Và cuộc trở lại của ông là nhờ ơn Chúa biến đổi ông tận gốc.
Cho tới ông, Tin Mừng còn hạn chế chỉ giảng cho người Do Thái, trừ Phêrô mới giảng một lần cho dân ngoại. Nhưng khi đến thời giảng Tin Mừng cho dân ngoại, thì Phaolô trở thành một Tarrê, một bổn đạo mới đã được trao trách nhiệm rao giảng Tin Mừng cho muôn dân.
Thánh Thần đổi mới.
Phải trông cậy vào Thánh Thần, Ngài đến canh tân mọi sự, Thánh Thần muôn đời tươi trẻ. Ngài không bảo chúng ta phải chiều theo những tính hay thay đổi của tuổi trẻ, bắt chước những tính đó là làm trò hề và ngu muội, Ngài bảo chúng ta phải biết lắng nghe những gì cao đẹp và tươi trẻ, và thi hành trọn vẹn những đòi hỏi của chân lý của chân thành, của ân huệ và hướng dẫn những tính tự nhiên đó sống theo Thánh Thần.
Ước mong những người đạo lâu đời trở nên những người đầu trong tình yêu và tái sinh thành trẻ trung và đổi mới theo Thánh Thần.
J.M
SUY NIỆM 2: Thánh Phaolô Trở lại
Hôm nay, Giáo Hội tưởng niệm biến cố trở lại của Thánh Phaolô.
Theo Sách Công Vụ các sứ đồ, quyển sử ký ghi lại trong giai đoạn tiên khởi của Giáo Hội, Saolê, tên gọi Do Thái của Phaolô, là một thanh niên phong thái và đầy nhiệt huyết đối với Ðạo. Vừa thụ huấn xong với một thầy Rabbi nổi tiếng trong nước, Saolê xung phong đi săn lùng những người môn đệ của Ðức Kitô mà anh cho là một bè phái đi ngược lại với Ðạo giáo.
Một hôm, đang trên đường đi Damascô để lùng bắt các môn đệ của Chúa Giêsu, anh đã bị một luồng Sáng đánh quật té xuống khỏi ngựa và từ trong ánh sáng ấy, anh đã nhận ra tiếng nói của Chúa Giêsu: "Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt hại".
Từ đó, sự hăng say bách hại các Kitô hữu đã biến thành lòng nhiệt thành phụng sự Giáo Hội của Ðức Kitô. Thiên Chúa đã sử dụng Phaolô làm khí cụ Truyền Giảng Tin Mừng cho Dân Ngoại, tức là các dân tộc ở ngoại Do Thái Giáo.
Cuộc trở lại của Thánh Phaolô đã đánh dấu một khúc quan trọng nhất trong lịch sử của Giáo Hội tiên khởi. Tin Mừng không chỉ giới hạn trong ranh giới của Do Thái cũng như lề luật Maisen, Tin Mừng còn là một nối dài của Do Thái Giáo, nhưng chính là một Tôn Giáo mới cho mọi dân tộc, mọi văn hóa.
Giáo Hội tưởng niệm biến cố trở lại của thánh Phaolô như cao điểm của tuần lễ cầu cho hiệp nhất. Nơi thánh Phaolô, con người đã dám vượt ra khỏi ranh giới của dân tộc, của Ðạo Giáo của mình, để tuyên bố: Hãy trở thành Hy Lạp với người Hy Lạp, La Mã với người La Mã, nô lệ với người nô lệ. Giáo Hội nhận ra kiểu mẫu đích thực của hiệp nhất. Sự hiệp nhất chỉ có thể thực hiện được, nếu mỗi người môn đệ của Chúa Giêsu có đủ can đảm ra khỏi chính mình. Phải chăng đó không là đòi hỏi đầu tiên của sự trở lại?
Theo từ điển tiếng Việt của Nhà Xuất bản Khoa Học Xã Hội, "trở lại" nghĩa là về nơi mình ra đi.
Nơi mình đã xuất phát, nơi mình đã ra đi đối với người Kitô chúng ta là gì nếu không phải là Thiên Chúa. Như vậy, trở lại chính là quay trở về với Thiên Chúa.
Sự quay trở lại ấy đòi hỏi một sự từ bỏ tận căn và một thái độ sẵn sàng tuyệt đối. Chúng ta phải đọc lại sự trở lại của Thánh Phaolô: Phaolô là một người thanh niên hăng say với lý tưởng. Lý tưởng của anh chính là phụng sự Chúa hết mình bằng cách tiêu diệt những kẻ mà anh cho là Tà Ðạo. Nhưng trong phút chốc, lần ngã ngựa đau điếng cả người hôm đó đã buộc anh phải xoay chiều hoàn toàn: Những gì anh cho là Tà Ðạo trước kia nay anh phải xem lại Chính Ðạo. Phaolô phải quay ngược đường trở lại. Từ bỏ tất cả những gì mình hằng ôm ấp từ trước đến nay, từ bỏ con đường mình đang đi, Phaolô đã trở thành một khí cụ mềm nhũn trong tay Chúa.
Ra khỏi chính mình, từ bỏ chính mình để trở thành khí cụ trong tay Chúa: đó là đặc điểm của sự trở lại trong Kitô giáo chúng ta.
Sự trở lại đó không chỉ là sự quay về với Chúa của những người không tín ngưỡng, của những người từ chối Giáo Hội khác, nhưng là đòi hỏi từng ngày của người Kitô. Mỗi lúc một đến gần với cùng đích của chúng ta là chính Chúa: đó là lý tưởng của người Kitô chúng ta.
Càng đến gần với Chúa càng sẵn sàng trở nên khí cụ của Chúa, chúng ta càng đến gần với tha nhân.
Xin Thánh Phaolô mà chúng ta tưởng niệm biến cố trở lại hôm nay, giúp chúng ta hiểu được sự trở lại đích thực mà người Kitô chúng ta phải theo đuổi mỗi ngày.
(Trích trong ‘Lẽ Sống’ – Radio Veritas Asia)
SUY NIỆM 3: Con phải làm gì?
Suy niệm :
Bài sách Công vụ Tông đồ hôm nay kể về một cuộc gặp gỡ lạ lùng
giữa Đức Giêsu Nadarét với anh Saun, kẻ đang bách hại các Kitô hữu.
Chính Ngài muốn gặp anh trên con đường anh đang đi.
Dưới mắt Saun, Kitô hữu là những kẻ bỏ đạo Do Thái chính thống,
để chạy theo một tà phái của ông Giêsu nào đó mà họ tin là đã phục sinh.
Trong tư cách là một người Pharisêu nhiệt thành và nghiêm túc (c. 3),
Sa-un thấy mình có bổn phận phải trừng trị những kẻ phản đạo,
bằng cách bắt bớ, xiềng xích, tống ngục, thậm chí thủ tiêu (cc. 4-5).
Chính lúc đang say sưa đến gần thành Đamát thì anh bị quật ngã.
Cuộc gặp gỡ bắt đầu, đời anh từ nay giở sang một trang mới.
Khi anh đang tự tin và hiên ngang tiến bước,
thì ánh sáng chói lòa từ trời làm anh ngã quỵ (c. 7).
Khi Saun nghĩ mình là người sáng mắt,
thì ngay giữa trưa, anh trở nên mù lòa (c. 11).
Khi anh định chỉ đạo cho những kẻ lầm đường lạc lối,
thì bây giờ anh lại cần một người cầm tay dắt đi (c. 11).
Cuộc đối thoại bắt đầu giữa anh với người mà anh chỉ nghe tiếng nói.
Ngài âu yếm gọi tên anh hai lần và tự giới thiệu:
“Saun, Saun, tại sao ngươi bắt bớ Ta?
Ta là Giêsu Nadarét mà ngươi đang bắt bớ” (c. 8).
Bắt bớ các Kitô hữu là bắt bớ chính Đức Giêsu.
Đức Giêsu và các Kitô hữu là một.
Bài học đầu tiên này Saun sẽ chẳng thể nào quên.
“Lạy Chúa, con phải làm gì?” (c. 10).
Lần đầu tiên Saun gọi người mà anh không hề tin là Chúa.
Khi tuyên xưng Đức Giêsu Nadarét là Chúa,
anh lập tức phó thác cho Ngài, để Ngài chỉ bảo điều mình phải làm.
Nhưng Chúa Giêsu phục sinh đã không nói gì.
Ngài trao anh cho ông Khanania, một người chưa phải là Kitô hữu.
Chính ông này cho mắt anh thấy lại và cho anh biết
anh được chọn để làm chứng nhân cho Ngài trước mặt mọi người.
Đamát là nơi Đức Giêsu tỏ mình cho Saun, cũng được gọi là Phaolô,
là nơi ông nghe tiếng gọi trở nên tông đồ cho dân Ngoại,
và cũng là nơi khởi đầu cho cuộc hoán cải tận căn của ông.
Chính mặc khải của Đấng phục sinh dẫn đến ơn gọi và hoán cải.
Từ nay cuộc đời của Phaolô đi sang một hướng mới.
Giêsu đã trở nên trung tâm của đời ông.
“Tôi coi tất cả như đồ bỏ, để chiếm được Đức Kitô” (Ph 3, 8).
Biến cố trên đường đi Đamát đã chia đời ông làm hai.
“Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua,
để lao mình về phía trước” (Ph 3, 13).
Chúng ta cũng có những kinh nghiệm như Phaolô:
ngã ngựa, mù lòa, nghe và gặp Đức Kitô, rồi hoán cải.
Như Phaolô, mong chúng ta để cho Đức Kitô Giêsu chiếm lấy mình,
và trở nên người tông đồ nhiệt thành cho thế giới.
Cầu nguyện :Xin hãy dẫn dắt con đi từ cõi chết đến sự sống,
từ lầm lạc đến chân lý.
Xin hãy dẫn dắt con đi từ thất vọng đến hy vọng, từ sợ hãi đến tín thác.
Xin hãy dẫn dắt con đi từ ghen ghét đến yêu thương,
từ chiến tranh đến hòa bình.
Xin hãy đổ đầy bình an trong trái tim chúng con, trong thế giới chúng con,
trong vũ trụ chúng con. Amen.
(Chân phước Têrêxa Calcutta)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
24/01 Dụ ngôn gieo hạt giống
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Dụ ngôn gieo hạt giống.
Thứ Tư tuần 3 thường niên – Thánh Phanxicô Salêsiô, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
"Người gieo hạt đi gieo hạt giống"
* Thánh nhân sinh tại Xavoa năm 1567. Sau khi làm linh mục, người tận tuỵ với công việc canh tân Hội Thánh công giáo tại quê hương. Được chọn làm giám mục Geneve, người tỏ ra là một mục tử lo lắng cho giáo sĩ và giáo dân. Người là vị sáng lập dòng các nữ tu thăm viếng cùng với chị Phanxica đờ Săngtan. Suốt cuộc đời, người trở nên mọi sự cho mọi người qua lời nói và chữ viết, cũng như khi tranh luận thần học với anh em Tin Lành, khi giúp cho giáo dân biết sống đời sống thiêng liêng, lo lắng chăm nom cả kẻ bé lẫn người lớn. Thánh nhân qua đời ở Lyon ngày 28 tháng 12 năm 1622.
LỜI CHÚA: Mc 4,1-20
Khi ấy, Chúa Giêsu bắt đầu giảng dạy ở bờ biển và có đám đông dân chúng tụ lại gần Người, nên Người xuống ngồi trong một chiếc thuyền trên mặt biển, tất cả đám đông thì ở trên đất theo dọc bờ biển.
Người dùng dụ ngôn mà dạy họ nhiều điều, và khi giảng, Người nói với họ rằng: "Các ngươi hãy nghe! Nầy người gieo hạt đi gieo hạt giống. Khi gieo, một phần hạt rơi xuống vệ đường và chim trời đến ăn hết. Phần khác rơi trên đất sỏi, nơi không có nhiều đất. Hạt giống đã mọc lên ngay, vì lớp đất không sâu. Nhưng khi mặt trời mọc lên, hạt giống bị nắng đốt và vì không rễ, nên bị chết khô. Một phần khác rơi vào bụi gai và gai mọc lên làm hạt giống chết mà không sinh hoa trái được. Phần hạt khác rơi vào đất tốt, mọc lên, nẩy nở và sinh quả, hạt thì sinh được ba mươi, hạt được sáu mươi, hạt được một trăm". Và Người phán rằng: "Ai có tai nghe thì hãy nghe".
Khi Người còn lại một mình, thì mười hai ông là những kẻ luôn ở với Người, hỏi Người về ý nghĩa dụ ngôn, Người liền bảo các ông: "Các con được ơn biết mầu nhiệm về nước Thiên Chúa, còn những người khác ở ngoài thì mọi sự được giảng dạy bằng dụ ngôn, vì chúng nhìn mà không thấy, nghe mà không hiểu, kẻo chúng trở lại mà được tha tội". Người nói với các ông: "Các con không hiểu dụ ngôn đó sao? Vậy thì hiểu sao được tất cả những dụ ngôn khác?
Người gieo hạt là gieo lời Chúa. Vệ đường mà lời Chúa được gieo vào, là những kẻ vừa nghe xong, thì Satan đến và cất lấy lời Chúa gieo trong tâm hồn họ. Và cũng thế, những hạt giống rơi trên đất sỏi, là những kẻ khi nghe lời Chúa thì đón nhận vui vẻ, nhưng chúng không đâm rễ bên trong và là những người hay thay đổi: sau đó gặp phải cơ cực hay bắt bớ vì lời Chúa, thì họ sa ngã liền. Lại có những hạt giống rơi trong bụi gai. Ðây là những kẻ nghe lời Chúa, nhưng những lo lắng trần tục, bóp nghẹt lời Chúa, khiến không thể sinh hoa trái được. Còn những hạt giống gieo trong đất tốt: đó là những người nghe lời Chúa, biết giữ lấy và làm sinh lợi, hạt ba mươi, hạt sáu mươi và hạt một trăm".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Hạt giống Lời Chúa
Phan Linh là một nhân vật nổi tiếng trong nhiều lãnh vực khoa học kỹ thuật và văn chương. Một hôm ông nhận được một món quà của một người bạn từ Ấn Ðộ, đó là một cái chổi rơm. Nhận thấy có những hạt lúa dính ở cọng rơm, ông nhặt lấy và đem đi gieo, sau đó ông cũng phân phát cho bà con cùng gieo, thu hoạch rất khả quan và dần dần lan ra cả nước. Ông là người đầu tiên nhập giống lúa mới và khai sinh kỹ nghệ làm chổi phục vụ cho cả nước.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn người gieo giống để giảng về Nước Trời. Việc gieo giống có lẽ rất quen thuộc với người Việt Nam, vì có đến 4/5 dân số sống bằng nghề nông nghiệp. Người gieo giống nào cũng muốn gieo hạt trên đất đã cày bừa cẩn thận; Thiên Chúa cũng muốn tâm hồn con người được trở nên như thửa đất để hạt giống Lời Ngài có thể mọc lên, phát triển và sinh nhiều hoa trái, làm ích cho mình và cho người khác nữa.
Nhìn lại cuộc đời của mình, có lẽ chúng ta phải thành thật nhận rằng từ trước tới nay chúng ta chưa đón nhận và sống Lời Chúa được bao nhiêu, bởi vì chúng ta vẫn để cho tâm hồn xao xuyến lo lắng, những đam mê sự đời, tham vọng địa vị và của cải làm chết ngạt Lời Chúa. Ðấy là chưa kể những biến cố xảy đến trong cuộc sống bản thân, gia đình, xã hội, đều là những tiếng Chúa nhắc nhở, mời gọi chúng ta, nhưng chúng ta vẫn chưa thoát khỏi những đam mê, ích kỷ trong đời sống. Lời Chúa vẫn chưa bén rễ sâu trong tâm hồn chúng ta.
Xin Chúa cho chúng ta biết mở rộng tâm hồn đón nhận hạt giống Lời Chúa. Xin làm cho những hạt giống ấy được bám rễ, mọc lên tươi tốt và trổ sinh được nhiều bông hạt, để mỗi ngày chúng ta được lớn lên trong tình yêu Chúa và góp phần xây dựng Giáo Hội Chúa ngày một lớn mạnh hơn.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Phải chăng lỗi tại Chúa?
“Các người nghe đây! Kìa người gieo giống đi ra gieo giống. Trong khi gieo, có hạt rơi xuống vệ đường. Chim chóc đến ăn mất. Có hạt rơi trên sỏi đá, chỗ không có nhiều đất; nó mọc ngay, vì đất không sâu; nhưng khi nắng lên, nó liền bị cháy, và vì thiếu rễ nên bị chết hô. Có hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm nó chết nghẹt và không sinh hoa kết quả: Có những hạt lại rơi nhằm đất tốt, nó mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả: hạt thì được ba mươi, hạt thì được sáu mươi, hạt thì được một trăm.” (Mc. 4. 3-8)
Dụ ngôn Người gieo giống theo thánh Maccô này mang dấu vết của một bài biên soạn chịu ảnh hưởng đời sống Giáo hội buổi ban đầu, trước hết là vấn đề giải thích sự thất bại trong việc rao giảng Tin mừng, sau là ý nghĩa của từ “Lời Chúa”
Thất bại trong việc rao giảng
Maccô quả quyết điều này: với những kẻ ở ngoài, thì cái gì cũng phải dùng dụ ngôn… để họ không hiểu, kẻo họ trở lại…
Thoạt nghe ta thấy khó hiểu. Phải chăng Chúa Giêsu muốn kết án người đời? Tại sao Chúa lại không cho mọi người một cơ hội đồng đều? Chính điểm này làm ta khó chịu, và cũng đúng thôi. Nếu khi đọc ta chỉ đặt bản văn này vào trong bối cảnh của thời Chúa Giêsu.
Nhưng khi đặt nó vào khung cảnh đời sống Giáo hội buổi ban đầu, những khó khăn kia không còn nữa. Bởi vì ta thấy rõ thánh Maccô chủ tâm giải thích cho biết hoàn cảnh lúc ấy đã coi thường Tin mừng của Đức Kitô. Bằng lối hành văn khéo léo, thánh Maccô giải thích sự việc ở hiện tại, tức là sự thất bại trong việc rao giảng Tin Mừng cho người Do thái, ngụ ý là điều đó Chúa Giêsu đã nhìn thấy và biết trước cả rồi.
Cuối cùng, Maccô nói thêm rằng để chương trình cứu độ nhiệm mầu của Chúa được thành công, người ta cần phải đọc và nhận được những dấu chỉ. Mạc khải không phải là một sứ điệp được che dấu và đem cất đi. Nhưng để đọc và hiểu sứ điệp, người ta cần phải có một tâm hồn sẵn sàng và cởi mở để hiểu điều Thiên Chúa muốn nói với ta qua lời của Người. Mà thường là tâm hồn người ta đã không được sửa sang và vun xới đủ.
Hiểu lời này của Chúa hôm nay
Trong Phúc âm có những cách viết, cách diễn tả khác nhau, nhưng điều quan trọng nhất vẫn là cách chúng ta đọc sứ điệp và có được một lựa chọn sống phù hợp với lời này của Chúa. Chúng ta đón nhận như thế nào lời nói và gương sáng cuộc đời của Đức Kitô? Chúng ta có để cho lòng mình ngổn ngang trăm mối, sống quá hời hợt, giống như những người trố mắt nhìn mà không thấy chăng?
Khi sáng suốt nhìn vào mình, căn cứ vào kinh nghiệm và lịch sử đời mình, ta có thể giải thích đưọc tại sao ta phải thất bại? Tại sao ta không luôn luôn hiểu dược Phúc âm? Có thật phải lỗi tại Chúa chăng?
Suy Niệm 3: ĐÓN NHẬN HAY KHƯỚC TỪ? (Mc 4, 1-20)
Thánh Âu Tinh nói: “Thiên Chúa sinh ra bạn, Ngài không cần hỏi ý kiến bạn, nhưng khi muốn cứu chuộc bạn, Người phải hỏi ý kiến bạn”.
Thật vậy, Thiên Chúa đã ban cho con người sự tự do, đây là gia sản quý giá mà Thiên Chúa không ngần ngại ban tặng cho một loài thụ tạo. Vì thế, con người hoàn toàn có trách nhiệm khi sử dụng tự do của mình trong cuộc sống.
Hôm nay, Đức Giêsu kể cho dân chúng và các môn đệ dụ ngôn người gieo giống. Người gieo cứ gieo. Gặp đâu gieo đấy. Nào là gieo cả trên sỏi đá, bụi gai, vệ đường, và đất tốt. Tuy nhiên, duy nhất nơi đất tốt mới sinh hoa kết quả. Như vậy, chỉ có ¼ có tác dụng, còn ¾ thì uổng công vô ích.
Thiên Chúa là như vậy! Ngài quảng đại trao ban hết tất cả cho con người, ngay cả Con Một yêu dấu Người cũng ban. Nhưng mấy ai hiểu được tình yêu của Người lớn lao như thế! Mà ngược lại, những nhà lãnh đạo Dothái còn tìm cách loại trừ ngay cả Đức Giêsu là món quà cao quý mà Chúa Cha đem tặng cho con người.
Họ như những hạt giống bị gieo bên vệ đường, sỏi đá và bụi gai. Những thứ ích kỷ, kiêu ngạo, tự phụ, tự ty làm cho tinh thần nên trai cứng và Lời Chúa bị bóp nghẹt trong lòng họ, nên không hề sinh ích lợi cho bản thân.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy ý thức trách nhiệm trong tự do để trở nên như thửa đất tốt, ngõ hầu Lời Chúa đâm dễ sâu, lớn mạnh và sinh hoa kết trái trong cuộc sống của chúng ta.
Có thế, chúng ta mới trở nên môn đệ đích thực của Đức Giêsu nhờ biết nghe và giữ Lời Chúa trong lòng, nhất là đem ra thực hành.
Lạy Chúa Giêsu, cuộc đời của chúng con sẽ khô cằn, sỏi đá và trơ trọi nếu không được Lời Chúa là nguồn sự sống dưỡng nuôi. Xin Chúa ban cho tâm hồn chúng con trở nên thửa đất tốt tươi, để Lời Chúa trở thành nguồn hoan lạc cho chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Hạt giống Lời Chúa
Suy niệm :
Chỉ cần một hạt giống lời Chúa rơi vào tâm hồn bạn,
như rơi vào thửa đất màu mỡ,
đời bạn có thể thay đổi hoàn toàn.
Têrêsa Hài Đồng đã để lòng mình đón lấy lời này:
“Ai không nên như trẻ thơ thì chẳng được vào Nước Trời.”
Chị đã nên thánh nhờ suốt đời sống phó thác như trẻ thơ.
Têrêsa Calcutta đã để lòng mình đón lấy lời này:
“Những gì ngươi làm cho một anh em nhỏ nhất, là làm cho chính Ta.”
Mẹ Têrêsa đã không bao giờ quên mình đang tiếp xúc với Giêsu
mỗi khi Mẹ gặp người nghèo khổ, bệnh tật.
Là Kitô hữu, chúng ta thường xuyên được nghe Lời Chúa,
nhưng một tiếp xúc thực sự với hạt giống Lời Chúa vẫn ít xảy ra.
Điều này đã là vấn đề của các Kitô hữu sơ khai rồi.
Tất cả bốn hạng người trong dụ ngôn Người gieo giống đều nghe.
Tuy nhiên kết quả lại rất khác nhau,
vì vấn đề không phải là nghe bằng tai, nhưng là nghe bằng cả tâm hồn.
Vẫn có thứ tâm hồn hời hợt như đất cứng ở vệ đường.
Hạt giống chưa bao giờ thâm nhập được vào đất,
mới chỉ nằm trơ vơ trên bề mặt.
Hạt giống này nhanh chóng làm mồi cho chim chóc, cho Xatan.
Vẫn có thứ tâm hồn chai đá, như mảnh đất chỉ có lớp đất mỏng bên trên.
Hạt giống mọc ngay, nhưng sau đó bị khựng lại,
không đâm rễ được vì đất nhiều sỏi đá.
Khi nắng lên, cây bị héo khô vì không có rễ hút nước.
Để cho Lời Chúa đâm rễ sâu trong đời mình và nuôi dưỡng mình,
đó là nỗ lực suốt đời của người Kitô hữu.
Vui vẻ đón nhận Lời ngay lập tức mà không chịu đào sâu, đâm rễ,
thì cũng sẽ bỏ cuộc ngay lập tức khi cơn bách hại đến từ bên ngoài.
Vẫn có thứ tâm hồn nặng nề, vì những lo lắng sự đời, đam mê giàu có.
Chính những lệch lạc từ bên trong như bụi gai đã bóp nghẹt hạt giống.
Lời Chúa đòi ta vượt lên trên những thèm muốn, khoái lạc và âu lo.
Để Lời Chúa sinh trái phải làm cỏ, dọn bụi gai cho sạch.
Nhưng vẫn có những tâm hồn mềm mại như mảnh đất tốt.
Hạt giống Lời Chúa thoải mái đâm rễ sâu, và sinh hoa trái gấp trăm.
Dù gặp bách hại vì Lời, dù bị danh lợi thế gian lôi kéo,
họ vẫn không đánh mất căn tính Kitô hữu của mình.
Tâm hồn chúng ta thuộc loại đất nào?
Đó là câu hỏi cho từng Kitô hữu xưa cũng như nay.
Thiên Chúa vẫn cứ kiên nhẫn và miệt mài gieo giống cho đến tận thế.
Ngài vẫn mời ta ra khỏi sự hời hợt, cứng cỏi, chai đá của lòng mình.
Nếu ta dám để cho Lời Chúa thực sự đi vào đời ta, dù chỉ một lần,
ta sẽ thấy được sức biến đổi kỳ diệu của Lời Chúa.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay.
Chúng con thường xây nhà trên cát,
vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy,
nhưng lại không dám đem ra thực hành.
Chính vì thế
Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con.
Xin cho chúng con
đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa,
đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.
Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình,
để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng truởng.
Ước gì ngôi nhà đời chúng con
được xây trên nền tảng vững chắc,
đó là Lời Chúa,
Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
23/01 Mẹ Chúa và anh em Chúa Giêsu
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Mẹ Chúa và anh em Chúa Giêsu.
Thứ Ba tuần 3 thường niên.
"Ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta".
LỜI CHÚA: Mc 3,31-35
Khi ấy, mẹ Chúa Giêsu và anh em Người đến và đứng ở ngoài sai người vào mời Chúa ra.
Bấy giờ có đám đông ngồi chung quanh Người và họ trình với Người rằng: "Kìa mẹ và anh em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy".
Người trả lời rằng: "Ai là mẹ Ta? Ai là anh em Ta?"
Rồi đưa mắt nhìn những người ngồi vòng quanh, Người nói: "Ðây là mẹ Ta và anh em Ta. Vì ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Ai là Mẹ Ta
Khổng Tử có một người cháu tên là Khổng Liệt và một người học trò tên là Bật Thứ Thiên, cả hai ra làm quan cùng một thời. Một hôm Khổng Tử hỏi người cháu:
- Từ khi ra làm quan đến giờ, ngươi đã được điều gì và mất điều gì?
Khổng Liệt trả lời:
- Từ khi làm quan, tôi chưa được điều gì, mà đã mất ba điều: không có giờ học tập vì thế trình độ vẫn thấp, lương bổng không đủ giúp người thân, công việc bề bộn nên không có giờ thăm viếng bạn bè.
Nghe thế, Khổng Tử rất buồn lòng.
Một ngày nọ, Khổng Tử cũng hỏi Bật Thứ Thiên cùng một câu như đã hỏi Khổng Liệt, Bật Thứ Thiên đáp:
- Từ khi ra làm quan, tôi chưa mất điều gì, mà đã được ba điều: Những điều đã học nay đem ra thực hành, vì thế việc học được rõ ràng thêm; lương bổng tuy ít nhưng cũng có thể giúp người thân phần nào, do đó mà thân thiện hơn; công việc tuy nhiều, những cũng bớt chút thời giờ thăm bạn bè khiến tình bạn càng thân thiết.
Câu trả lời của Bật Thứ Thiên được Khổng Tử khen là chí lý và thực là câu trả lời của người quân tử.
Câu trả lời của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay, thoạt nghe người ta dễ hiểu lầm là từ khi bắt đầu đời công khai, Chúa Giêsu đã đánh mất gia đình và người thân của mình. Thật vậy, khi Chúa đang ngồi giảng giữa một đám đông, có kẻ nói với Ngài: "Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang tìm Thầy". Chẳng những Chúa Giêsu không ra gặp mẹ, mà Ngài còn nói: "Ai là mẹ Ta, ai là anh em Ta? Chính những ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là mẹ Ta và là anh em Ta".
Thật ra, qua câu nói này, Chúa Giêsu gián tiếp khen ngợi Mẹ Ngài, bởi vì Mẹ là người hoàn toàn tuân theo ý Chúa. Mẹ đã hiểu rõ sứ mạng của Chúa Giêsu, con của Mẹ. Như thế câu nói của Chúa Giêsu cho thấy Ngài đặt quan hệ tình nghĩa trên nền tảng đức tin, thể hiện niềm tin của mình bằng việc thực thi thánh ý Chúa.
Chúa Giêsu là Con Một Thiên Chúa, đồng bản tính với Chúa Cha; còn chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa nhờ Chúa Giêsu trong Chúa Thánh Thần, và nhờ tình yêu Chúa, chúng ta được liên kết với nhau trong một quỹ đạo mới, một tình nghĩa mới, cao đẹp hơn tình nghĩa cha mẹ, anh chị em ruột thịt.
Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta luôn biết sống theo thánh ý Chúa, để chúng ta được nối kết trong tình nghĩa với Chúa, với Mẹ và với tất cả mọi người.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Ôi thân nhân!
Mẹ và anh em Đức Giêsu đến, đứng ở ngoài, cho gọi Người ra. Lúc ấy, đám đông đang ngồi chung quanh Người. Có kẻ nói với Người rằng: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em chị em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy!” Nhưng Người đáp lại: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” Rồi Người rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chung quanh và nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.” (Mc. 3, 31-35)
Mấy bữa trước đây, trong một trích đoạn Phúc âm, thánh Maccô đã cho ta biết thái độ của đám bà con thân thích của Chúa Giêsu: họ muốn cách ly Người, bởi cho rằng Người đã mất trí, ngộ đạo và họ bị phiền hà vì danh tiếng này. Vậy mà hình như họ đã thay đổi ý kiến, bởi lẽ hôm nay họ muốn xin được gặp Người, nhắc nhở cho Người quyền lợi gia dình, tình thân thương và lòng kính nể mà thông thường họ có quyền được hưởng. Giữ liên hệ tốt đẹp với bà con họ hàng chẳng phải là điều tự nhiên sao?
Chúa Giêsu có vẻ như không chia sẻ ý kiến này.
Một sự rạn nứt của tình bà con
Khi đọc bản văn này, ta rất mau mắn vin ngay vào những lời cuối cùng: “Người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi”. Chúng ta lấy làm vui sướng vì được kết nạp vào gia đình này. Nhưng chúng ta cũng vội làm mất đi ý nghĩa khác mà những lời đó gợi nên, tức là sự rạn nứt trong mối quan hệ tự nhiên của gia đình.
Nếu ta đem liên hệ thái độ này của Chúa Giêsu với lời Người phán trước đây: “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy, thì không đáng làm môn đệ Thầy”, ta càng ngạc nhiên. Chúa Giêsu chống lại gia đình và những mối liên hệ gia đình chăng? Phải chăng Người muốn ta hiểu biết điều căn bản gì?
Thực ra tin mừng của Chúa không có ý xếp những liên hệ gia đình vàò hàng cuối cùng, mà muốn dạy ta kính nể mọi người cũng như ta vẫn thường kính nể anh chị em cha mẹ ta vậy.
Xét cho cùng, con người từ rất lâu đã quen với những tập tục là phải dành những ưu đãi cho gia đình ruột thịt của mình, phải yêu mến và có trách nhiệm hơn đối với những người cùng chung máu mủ, thì Tin mừng của Chúa hôm nay là một điều mới mẻ: tin mừng đó đòi hỏi ta đối xử với mọi người như nhau và hỏi ta tại sao điều ta làm được cho cha mẹ ta, mà lại không làm cho “tha nhân” được.
Suy Niệm 3: THI HÀNH LỜI CHÚA LÀ THÂN NHÂN CỦA NGÀI (Mc 3, 31-35)
Không có bà mẹ nào mà lại không tương con, nhất là những đứa con bị khiếm khuyết cách này hay cách khác!
Hôm nay Tin Mừng thuật lại việc Đức Mẹ và người thân của Đức Giêsu đến tìm Ngài và khuyên Ngài từ bỏ con đường sứ vụ để trở về, vì có tin đồn đoán rằng Đức Giêsu bị điên!
Ôi một sự thật đau lòng! Vì yêu thương, Đức Giêsu làm tất cả mọi việc miễn làm sao để cho Thiên Chúa được vinh quang và con người được hạnh phúc, thế nhưng người Pharisêu lại phao tin Ngài bị điên! Họ muốn đánh vào uy tín của Đức Giêsu, và, đứt dây đương nhiên đụng đến rừng, tức là nếu Đức Giêsu bị điên thì mẹ của Ngài sẽ như thế nào khi sinh ra một đứa con điên? Anh em của Ngài sẽ còn uy tín gì nữa không khi trong dòng tộc của mình lại xuất hiện một kẻ khùng! Và, nhất là những lời giảng của Đức Giêsu từ nay không còn khả tin nữa, bởi vì không ai dại gì mà đi nghe theo lời của một người điên!
Đây là một đòn thâm hiểm mà những người Pharisêu đánh vào Đức Giêsu và thân nhân của Ngài.
Tuy nhiên, khi thấy Mẹ và anh em đến tìm mình, Đức Giêsu đã thốt lên và chỉ vào những người đang ngồi quanh Ngài mà nói rằng: ai là mẹ tôi, ai là anh chị em tôi? Thưa chính là những người thực hành ý muốn của Cha tôi, người đó là mẹ tôi và anh chị em tôi.
Một câu nói nhằm mặc khải cho mọi người biết một thực tại khác vượt lên trên suy nghĩ thuần túy của con người. Sự gắn bó với Thiên Chúa và thi hành Lời của Người là điều quan trọng, và chính trong mối liên hệ này mà chúng ta được trở nên nghĩa thiết, thân tình với nhau. Mặt khác, Đức Giêsu cũng ngầm giới thiệu cho mọi người xung quanh biết rằng: chính Đức Maria là người đã thi hành thánh ý Thiên Chúa, nên Mẹ xứng đáng trở thành mẫu gương cho chúng ta về việc thực thi Lời Chúa.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy chú tâm đến việc thực thi Lời Chúa hơn là những chuyện bề ngoài. Khi đã thực thi thánh ý Chúa, chúng ta không quan trọng chuyện người ta nói này hay nói kia để bêu dếu, làm mất thanh danh tiếng tốt của ta. Ngược lại, chỉ có một điều đáng làm cho chúng ta sợ, đó là khước từ Lời Chúa và chạy đua những thứ mau qua, chóng hết ở đời, làm cho chúng ta xa dời hạnh phúc đích thực là sự sống vĩnh cửu.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho mỗi người chúng con biết lắng nghe Lời Chúa; đồng thời biết đem Lời Chúa ra thực hành, dù có phải chịu khốn khổ vì Lời Chúa thì vẫn một mực trung thành. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Đây là mẹ tôi
Suy niệm :
Các thân nhân của Đức Giêsu nghĩ Ngài bị mất trí,
vì họ nghe tin Ngài và các môn đệ làm việc nhiều đến nỗi không có giờ ăn.
Các kinh sư từ Giêrusalem xuống
thì kết luận rằng Ngài đã thông đồng với tướng quỷ để trừ quỷ.
Còn đám đông dân chúng lại ngồi nghe Ngài giảng trong nhà.
Hơn ai hết, họ biết Đức Giêsu là ai.
Chính lúc ấy mẹ và anh em của Ngài đến và đứng ngoài.
Họ không vào được, có thể vì đám đông ngồi chật cứng.
Nhưng họ đã nhờ người nhắn với Đức Giêsu.
” Mẹ Thầy và anh em Thầy đang ở ngoài, tìm gặp Thầy đó.”
Rốt cuộc chắc ai cũng biết là Thầy có người thân đến thăm.
Người ta tưởng Ngài sẽ bỏ dở bài giảng để ra ngay gặp họ.
Nhưng Đức Giêsu lại muốn dùng cơ hội này
để nói với đám đông đang ngồi nghe một điều quan trọng.
Ngài đặt cho họ một câu hỏi tưởng như vô nghĩa:
” Ai là mẹ tôi và là anh em tôi?”
Dĩ nhiên là những người đang đứng ngoài kia rồi.
Nhưng không, Ngài đảo mắt nhìn những người đang ngồi,
và nói với họ: “Đây là mẹ tôi và anh em tôi.”
Với lời khẳng định này, Đức Giêsu loan báo về gia đình mới của Ngài.
Có những người thân yêu cùng máu mủ đứng ngoài kia.
Có một gia đình mới đang ngồi trong này.
Đức Giêsu không coi thường hay loại bỏ gia đình ruột thịt.
Nhưng Ngài cho thấy Ngài còn có một gia đình lớn hơn nhiều,
một gia đình gồm những người rất khác nhau về nhiều mặt,
nhưng lại có một mẫu số chung, một điểm giống nhau,
đó là cùng muốn thi hành ý Thiên Chúa trong cuộc sống.
Đức Giêsu đã rời bỏ gia đình để lên đường loan báo Tin Mừng.
Và Ngài cũng đã mời gọi các môn đệ của mình như thế.
Đức Giêsu để lại người mẹ, Phêrô để lại người vợ,
Gioan và Giacôbê để lại người cha.
Tương quan gia đình ruột thịt là điều cao quý thiêng liêng.
Nhưng nó lại không được trở nên một cản trở cho sứ vụ.
Đức Giêsu đã khai mở một đại gia đình mới cho mọi người:
” Bất cứ ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa
người ấy là mẹ tôi, là anh em và chị em tôi.”
Khi thực thi ý Thiên Chúa muốn, người ta trở nên có họ với Đức Giêsu.
Người kitô hữu chúng ta vui sướng được thuộc về gia đình này,
có người Mẹ là Đức Maria suốt đời tín trung sống ý Chúa,
có Đức Giêsu là Anh Trưởng, người Con luôn sống đẹp lòng Cha,
và có bao anh chị em khác đã dám đặt ý Chúa lên trên mạng sống.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
những hạt cải Chúa gieo vãi cách đây hai ngàn năm
nay đã trở thành cây cao
cho chim trời rủ nhau trú ngụ.
Nhúm men nhỏ bé được Chúa vùi vào khối bột,
đã làm bột dậy lên,
để trở nên tấm bánh thơm ngon cho thế giới.
Sau hai mươi thế kỷ,
các môn đệ Chúa không còn là nhóm Mười Hai bé nhỏ.
Hôm nay, các kitô hữu chiếm gần một phần ba,
người công giáo chiếm hơn một phần sáu dân số thế giới.
Chúng con được mời gọi xây dựng Nước Chúa trên trần gian,
cho đến khi tất cả mọi người nhận biết và tin yêu Chúa.
Xin cho chúng con đừng mặc cảm
vì người công giáo chỉ là thiểu số trên quê hương Việt Nam,
nhưng xin cho chúng con mạnh dạn làm chứng cho Chúa
trong việc xây dựng một xã hội công bằng và huynh đệ.
Hôm nay chúng con phải tiếp tục làm việc như Chúa,
gieo hạt giống để làm nên những cánh rừng,
trở nên chất xúc tác để biến đổi môi trường mình sống.
Và chúng con biết rằng sớm muộn cũng sẽ thành công
vì tin Chúa vẫn cần cù làm việc với chúng con. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
- 22/01 Ngoan cố, tội phạm đến Chúa Thánh Thần
- 21/01 Chúa gọi 4 cộng tác viên tin mừng
- 20/01 Thân nhân của Chúa
- 19/01 Chúa gọi Nhóm Mười Hai
- 18/01 Chúa Giêsu là ai?
- 17/01 Cần làm việc lành
- 16/01 Cốt lõi của Lề Luật
- 15/01 Cốt lõi của đạo chính là tình thương
- 14/01 Biến đổi khi gặp Chúa
- 13/01 Thày thuốc cho người đau yếu